Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
28/11 Tỉnh thức và cầu nguyện luôn.
- Viết bởi Lc 21, 25-28. 34-36
Tỉnh thức và cầu nguyện luôn.
CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG năm C.
"Giờ cứu rỗi các con đã gần đến".
Lời Chúa: Lc 21, 25-28. 34-36
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến.
Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất.
Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG C
Lời Chúa: Gr 33, 14-16; 1Tx 3,12–4,2; Lc 21, 25-28. 34-36
1. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Nhiều kitô hữu tưởng Phục Sinh là dấu chấm hết của Kitô giáo.
Thật ra Kitô giáo vẫn đang hy vọng
và chờ đợi một biến cố hết sức quan trọng:
biến cố Chúa trở lại trong vinh quang
để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Biến cố này hoàn tất lịch sử nhân loại
và hoàn tất công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu.
Bao lâu Chúa Kitô chưa trở lại người kitô hữu còn phải chờ.
Chờ đợi làm nên cuộc sống kitô hữu, cuộc sống Giáo Hội.
Những kitô hữu thời sơ khai đã nôn nao chờ đợi.
Họ ngỡ rằng chẳng bao lâu nữa Chúa sẽ trở lại.
Nhưng dần dần người ta nhận ra rằng
cần phải chờ đợi một cách tích cực,
cần phải chuẩn bị thế giới này đón tiếp Chúa khi Ngài đến,
để Ngày Chúa quang lâm thực sự
là ngày hội vui của cả địa cầu và cả vũ trụ.
Mà ngày Chúa đến vẫn là một bất ngờ như mọi lần.
Ngài đã chào đời bất ngờ như một trẻ thơ quấn tã.
Ngài đã sống bất ngờ như một bác thợ mộc vô danh.
Ngài đã chết bất ngờ như một kẻ bị đóng đinh vì gây rối.
Ngài đã sống lại bất ngờ, hiện ra với hai môn đệ về Emmau.
Ngài sẽ trở lại bất ngờ...
Tỉnh thức chờ đợi là thái độ sống của Mùa Vọng.
Tỉnh thức là sẵn sàng đón Chúa với đèn sáng trong tay.
Tỉnh thức là trung tín chu toàn cả những điều bé nhỏ.
Tỉnh thức là tích cực đầu tư những nén bạc Chúa trao.
Tỉnh thức đi đôi với cầu nguyện.
Thế giới hôm nay có nhiều thứ gây ngủ mê.
Cuộc sống quá khó khăn hay quá tiện nghi dễ dãi
đều làm chúng ta đánh mất thái độ tỉnh thức chờ đợi.
Chúa đã đến âm thầm, Chúa sẽ đến trong vinh quang.
Chúa đang đến nhẹ nhàng trong thế giới,
trong từng người, từng tập thể.
Cần tập nghe tiếng bước chân của Chúa...
Mùa vọng là thời gian ta chờ Chúa đến,
nhưng đừng quên chính Chúa mới là người chờ ta trước, từ lâu,
vì ta không nhận ra tiếng gõ cửa của Ngài.
Ước gì chúng ta dám can đảm và thành thật nài xin:
Marana tha! Lạy Chúa, xin hãy đến.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, con người hôm nay có dễ tỉnh thức không? Cái gì đang làm cho giới trẻ trở nên mê ngủ (ma túy, rượu chè, bạo lực, tình dục...?
Bạn dự tính sống mùa Vọng như thế nào? Bạn sẽ giúp gì cho những bạn khác sống mùa Vọng?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện,
không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài.
Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con.
Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu là con có thể tạo ra sa mạc.
Mỗi ngày có biết bao giây phút
có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất:
khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư,
chờ món hàng đang được gói;
Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm việc,
khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ.
Thay vì bực bội hay nóng ruột
con lại thấy mình sống an bình trong sự hiện diện của Chúa.
Lạy Chúa,
Những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày
giúp con tỉnh thức để nhạy cảm với ý Chúa.
Xin cho con yêu mến Chúa hơn
để tìm ra những sa mạc mới và vui vẻ bước vào.
2. Đứng thẳng và ngẩng đầu--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Cuộc sống con người đầy những bất ngờ.
Có những điều tôi nghĩ sẽ không bao giờ xảy ra,
thậm chí tin chắc sẽ không thể xảy ra được,
vậy mà thực tế chúng lại xảy ra.
Có những bất ngờ thú vị làm tôi ngất ngây.
Có những bất ngờ đớn đau làm tôi hụt hẫng.
Lắm người đi coi bói để biết trước tương lai,
hầu mong tránh được những bất ngờ bi thảm.
Người kitô hữu tin rằng vũ trụ sẽ có ngày cùng tận,
lịch sử sẽ kết thúc bằng biến cố Đức Kitô quang lâm.
Nhưng khi nào chuyện đó xảy ra, chẳng ai biết được.
Nó giống như tấm lưới bất thần
chụp xuống trên tất cả dân cư trên mặt đất.
Thiên Chúa có tàn nhẫn không khi cứ thích cái bất ngờ,
khi cứ để cho con người sống trong thấp thỏm?
Thật ra cái bất ngờ chỉ đáng sợ khi Ngài đến
mà đèn chúng ta đã cạn dầu,
và những nén bạc Ngài giao vẫn còn bị chôn giấu.
Nếu chúng ta luôn thanh thoát, sẵn sàng,
thì việc Ngài đến sẽ là một bất ngờ thú vị.
Chúng ta dễ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế.
Trái tim chúng ta dễ bị trì trệ, nặng nề,
vì ăn nhậu say sưa, vì nuông chiều thân xác,
hay vì quá lo lắng cho cuộc sống hiện tại.
Cả những lo lắng chính đáng cũng có thể kéo ta đi xa,
và làm ta đánh mất khả năng dừng lại.
Chúng ta bị chìm ngập trong những tính toán làm ăn,
lo toan cho cuộc sống mà quên tìm lẽ sống.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những điều kinh khủng
những xáo trộn sâu xa trong vũ trụ vào ngày Chúa đến.
Chúng ta không nên hiểu mọi hình ảnh ấy theo nghĩa đen.
Điều quan trọng hơn là những xáo trộn nơi lòng người:
lo lắng hoang mang sợ hãi đến hồn xiêu phác lạc...
khi Đức Giêsu ngự đến uy nghi như vị Thẩm Phán.
Nhiều người sẽ khiếp sợ rụng rời trước nhan Ngài,
nhưng đối với những ai đã tỉnh thức, cầu nguyện,
thì đây lại là giây phút được mong đợi từ lâu
Đấng họ chỉ thấy trong lòng tin, nay được diện đối diện.
Đây là cuộc hạnh ngộ giữa những người yêu nhau.
Chúa nhận ra tôi, tôi nhận ra Chúa,
và tôi hiểu rằng chẳng gì có thể chia lìa được chúng tôi.
Tư thế của người biết mình sắp được giải phóng là tư thế đứng,
đứng thẳng, đứng vững, đầu ngẩng cao,
lòng tràn ngập hy vọng và hân hoan vui sướng
trước chiến thắng dứt khoát và trọn vẹn của Vua Giêsu.
Mùa Vọng nhắc ta lần đến đầu tiên của Con Chúa,
và nhắc ta chuẩn bị lần đến cuối cùng của Ngài.
Giữa hai lần ấy, có biết bao lần Ngài bất ngờ đến.
Xin cho tôi luôn đứng thẳng, cao đầu ra đón Ngài,
chẳng chịu bỏ lỡ một lần cùng Ngài gặp gỡ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc sống được đan bằng những bất ngờ. Mỗi ngày là một bất ngờ, nên mỗi ngày có hương vị riêng. Bạn nghĩ gì về những người mê bói toán? Bạn có thích biết trước mọi chuyện tương lai của bạn không?
Nếu ngày mai tận thế thì hôm nay bạn sẽ làm những việc gì?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa
ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa hiện diện lặng lẽ như tấm bánh nơi nhà Tạm,
nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,
những người sống không ra người.
Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục
nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người gặp gỡ nhau
để chia sẻ lời Chúa.
Chúa hiện diện nơi Giáo hội
gồm những con người yếu đuối, bất toàn,
và Chúa cũng ở rất sâu trong lòng từng kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con thấy Chúa đang tạo dựng cả vũ trụ
và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.
Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người
vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Xin cho con khám phá ra Chúa đang hẹn gặp con
nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.
Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi,
thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa.
Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa
trên bước đường đời của con. Amen.
3. Tỉnh thức và cầu nguyện--- TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta không chắc gặp được Người. Vì Người đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa ta phải tỉnh thức.
Tỉnh thức có nghĩa là đừng mê ngủ. Chúa thường hay đến vào ban đêm, nghĩa là vào lúc ta không ngờ. Ðời sống có những bóng đêm ru ta ngủ say mê khiến ta không gặp được Người. Có những bóng đêm của tội lỗi giam cầm hồn ta trong giấc ngủ bạc nhược khiến ta không còn đủ sức thoát ra. Tội lỗi lôi kéo tội lỗi. Tội lỗi chồng chất giống như những tảng đá gìm ta xuống vực sâu vô tận. Có những bóng đêm của danh vọng ru hồn ta ngủ quên trên vinh quang chói lọi. Vinh quang giống như ngọn đèn đốt cháy biết bao đời thiêu thân. Có những bóng đêm của xác thịt cuốn hồn ta vào giấc mộng lạc thú. Lạc thú giống như chiếc lưới rất mềm mại, rất nhẹ nhàng, nhưng rất hiểm độc. Linh hồn đã sa vào khó có thể thoát ra. Có những bóng đêm của thói ích kỷ chỉ biết sống cho bản thân mình. Ích kỷ giống như một hang sâu, càng đi vào càng thấy tối tăm. Có những bóng đêm của tiền tài bao phủ ta trong giấc mộng giàu sang phú quí. Chìm đắm trong giấc mộng, ta sẽ chẳng nghe được bước chân của Chúa đi qua.
Tỉnh thức cũng có nghĩa là tỉnh táo phân định. Chúa đến rất âm thầm và rất bé nhỏ. Người không đến với cờ quạt trống phách tưng bừng, nhưng đến trong âm thầm lặng lẽ. Người không đến trong uy nghi lẫm liệt của những vị vương đế, nhưng Người đến trong hiền lành khiêm nhường như một người phục vụ. Người không mặc gấm vóc lụa là, nhưng đơn sơ trong y phục dân dã. Người không đến như vị quan toà nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương dễ mến. Người đang đến qua những con người hiền lành bé nhỏ quanh ta. Người đang đến trong những con người khốn khổ túng cùng. Người đang đến qua những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Người đang đến trong những tấm thân gầy guộc. Người lẫn vào giữa đám đông vô danh. Người chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài lề xã hội. Người ẩn mình giữa đám người ăn xin đang lê bước khắp các nẻo đường cát bụi. Người đang rét run với cặp mắt ngơ ngác thất thần ở giữa những nạn nhân bão lụt. Phải tỉnh táo lắm ta mới nhận ra Người. Phải tỉnh thức lắm ta mới gặp được Người.
Tỉnh thức không có nghĩa là cứ ngồi đó mà chờ đợi. Tỉnh thức là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng. Người cho ta được toàn quyền khi Người vắng nhà. Người giao trách nhiệm cho ta trông coi gia đình ta, giáo xứ ta, địa phương ta, đất nước ta và cả thế giới nơi ta đang sống. Ta được tự do hành động. Ta có trách nhiệm làm cho gia đình, xứ đạo, địa phương, đất nước, và cả thế giới được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy ý Chúa trong những trào lưu thời đại. Tỉnh thức là nhận biết Chúa hành động trong những tâm hồn thiện chí thuộc các niềm tin, mầu da, quan điểm khác nhau để biết cộng tác trong việc xây dựng xã hội. Tỉnh thức là dấn thân hy sinh phục vụ anh em trong quên mình.
Ngay từ đầu mùa Vọng, Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức. Hãy bước ra khỏi giấc ngủ miệt mài, lười biếng. Hãy đoạn tuyệt với những giấc mộng phù hoa. Hãy thôi đuổi theo những đam mê dục vọng. Hãy nói không với những đồng tiền bất chính.
Hãy tỉnh táo phân định để nhận ra dung mạo thực sự của Ðức Kitô. Ðừng chạy theo những khuôn mặt mang dáng vẻ cao sang quyền quý. Ðừng chạy theo những khuôn mặt nặng về quyền lực. Ðừng chạy theo những lời hứa hẹn giàu sang. Dung mạo đích thực của Ðức Kitô là nghèo hèn, là khiêm nhường, là bé nhỏ.
Hãy tỉnh thức để làm việc không ngừng, để quên mình, hy sinh phục vụ cho lợi ích của đồng loại.
Như thế, tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên ta phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Có ơn Chúa thúc đẩy, ta mới có thể dứt bỏ con đường tội lỗi xưa cũ. Có ơn Chúa soi sáng, ta mới đủ tỉnh táo nhận ra dung mạo đích thực của Ðức Giêsu. Có ơn Chúa trợ giúp, ta mới đủ hăng hái ra đi phục vụ trong quên mình.
Lạy Chúa, xin giữ hồn xác con luôn tỉnh thức để con nhận biết Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
4. Tỉnh thức đi vào thế giới mới---TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thật ngạc nhiên. Ta cứ tưởng trong mùa Vọng, phải có những bài sách Thánh báo tin Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra. Nhưng không ngờ những bài sách thánh và đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay lại báo tin Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Tại sao thế? Thưa vì Giáo Hội muốn cho ta hiểu ý nghĩa thần học của việc chờ mong Chúa đến. Hàng năm vào mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi ta chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến. Thực ra Chúa đã đến rồi khi sinh ra tại hang đá Bêlem cách nay hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên ta vẫn luôn chờ mong vì Chúa đến hằng ngày với ta. Và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Việc Chúa đến lần thứ hai đưa ra những hướng dẫn quan trọng cho cuộc đời chúng ta.
Hướng dẫn thứ nhất: Có hai thế giới. Thế giới hiện tại và thế giới tương lai. Thế giới hiện tại sẽ qua đi. Vạn vật có khởi đầu và có kết thúc. Con người có sinh có tử. Đó là định luật tự nhiên. Không chỉ những gì yếu đuối, bé nhỏ mới qua đi. Cả những gì lớn lao, mạnh mẽ, có vẻ bền vững nhất như mặt trời, mặt trăng cũng qua đi. Điều quan trọng nhất là chính ta cũng sẽ qua đi. Khi thế giới này qua đi, một thế giới mới sẽ bắt đầu: thế giới vĩnh cửu.
Hướng dẫn thứ hai: Chúa làm chủ lịch sử. Sở dĩ thế giới cũ tan biến đi vì Chúa đã định cho nó một thời hạn. Khi thế giới đến ngày cùng tháng tận Chúa sẽ đến. Quyền uy của Chúa thể hiện qua việc Chúa xét xử thế giới cũ và khai sinh thế giới mới. Sau cảnh tan vỡ kinh hoàng của thế giới cũ sẽ là một khởi đầu mới đem đến niềm hy vọng mới cho con người. Có thể nói thế giới không chấm dứt nhưng biến đổi. Từ một thế giới mong manh mau tàn đến một thế giới vững bền vĩnh cửu. Từ một thế giới tương đối đến một thế giới tuyệt đối.
Hướng dẫn thứ ba: Ta tự quyết định vận mệnh đời mình. Thế giới này sẽ qua đi. Thế giới mới sẽ xuất hiện. Ta sẽ bị hủy diệt cùng với thế giới cũ. Hay sẽ được hạnh phúc trong thế giới mới? Điều đó tùy thuộc bản thân ta. Chúa đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng. Thế giới cũ sẽ suy tàn. Nên ai quá gắn bó với nó sẽ khổ sở. Thế giới mới sẽ tới. Ai biết chuẩn bị chờ đón sẽ được hạnh phúc. Phải làm gì? Thưa phải tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, tức là không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, nghĩa là không quá mê say danh, lợi, thú, là những giá trị đời này. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Tỉnh thức tuy còn sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.
Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Nhất là cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát ra khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến cứu con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa đã đến rồi sao ta vẫn còn chờ mong Chúa đến?
2) Chúa làm chủ lịch sử. Bạn có cảm nghiệm về điều này trong đời sống không?
3) Ta phải làm gì để được niềm vui trong ngày Chúa đến?
4) Tỉnh thức nghĩa là gì?
5) Tại sao phải cầu nguyện?
5. Hướng về ngày Chúa đến---Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Phụng vụ Mùa Vọng luôn nhắc chúng ta nghĩ tới việc Chúa đến. Lý do là vì chúng ta đang sống giữa hai lần Chúa đến: lần thứ nhất Chúa đến tại Bêlem một cách khiêm tốn âm thầm trong những yếu đuối của thân phận làm người; lần thứ hai Ngài sẽ lại đến trong vinh quang uy quyền của một Vị Vua nắm quyền cả vũ trụ. Thánh Phaolô nói rằng trong thời gian giữa hai lần đó, cứ mỗi năm trôi qua thì "ơn cứu độ của chúng ta gần hơn khi chúng ta mới tin đạo".
Xin Chúa giúp chúng ta hiểu chúng ta cần Chúa như thế nào để chúng ta tích cực chuẩn bị đón Ngài đến với chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Hôm nay là bắt đầu một năm Phụng vụ mới. Nhìn lại năm cũ, chúng ta nhận thấy có rất nhiều thiếu sót lỗi lầm. Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp chúng ta làm lại cuộc đời trong năm mới này.
Chúa rất thường đến với chúng ta, phần chúng ta thì ít khi đến với Chúa.
Nhiều khi Chúa muốn đến với tâm hồn chúng ta nhưng Ngài không vào được vì lòng chúng ta đã dành hết chỗ cho những đam mê trần tục.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gr 33,14-16)
Giêrêmia là một ngôn sứ đã chứng kiến những trang lịch sử đau buồn nhất của đất nước: dân Chúa bất trung với Ngài; quân thù vây hãm Giêrusalem; mất nước; lưu đày. Là sứ giả của Lời Chúa trong bối cảnh như thế, Giêrêmia bó buộc phải gióng lên những lời nói chói tai để tố cáo tội lỗi của dân mình và tha thiết kêu gọi họ sám hối.
Thế nhưng khi dân đã bị lưu đày, Ngôn sứ đổi giọng. Trích đoạn này nằm trong phần "sứ điệp cứu độ" (các chương 26-35). Ông báo cho dân biết rằng cảnh lưu đày sẽ không kéo dài lâu, vì sẽ tới những ngày Thiên Chúa sẽ gởi đến Một Ðấng cứu thoát họ: "Trong những ngày ấy... Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Ðấng Công Chính... Giuđa sẽ được cứu thoát... Giêrusalem sẽ được an cư lạc nghiệp..."
Rõ ràng đây là lời hứa về lần đến thứ nhất của Ðấng Messia.
2. Ðáp ca (Tv 24)
Bài thơ này là lời cầu nguyện của kẻ đang đau khổ và tỏ bày tâm tình sám hối.
Từ chìa khóa trong trích đoạn được chọn đọc trong Thánh lễ hôm nay là "đường, lối": đường lối duy nhất để thoát khỏi cảnh khổ sầu và đến được ơn cứu thoát chính là đường lối của Chúa, đường chính trực, đường chân lý, đường yêu thương, đường giao ước...
3. Tin Mừng (Lc 21,25-27.34-36)
Ðoạn Tin Mừng này nằm trong Diễn từ chung luận trong đó Chúa Giêsu nói về những việc sẽ xảy ra vào những ngày cuối cùng của thế giới.
1. Các câu 25-28: nói về ngày tận thế và Quang lâm. Tất cả những thế lực mà xưa nay người ta dựa vào vì coi là vững chắc (mặt trời, mặt trăng, tinh tú, biển...) đều bị lay chuyển để nhường cho quyền lực của Con Người lên ngôi. Trước tình huống đó, "muôn dân" (tức là những kẻ không có đức tin) sẽ lo sợ đến hồn siêu phách lạc, vì chỗ dựa của họ đã bị lung lay, nhưng các môn đệ Chúa thì hãy vui mừng và ngẩng đầu lên chờ đợi Chúa ngự đến.
2. Các câu 34-36: nói về đến thái độ mà môn đệ Chúa Giêsu phải có.
Thái độ thứ nhất là chú ý tới việc quan trọng là đón Chúa đến: không nên để mình bị ảnh hưởng bởi những xáo trộn bên ngoài để rồi lo chè chén say sưa hoặc chỉ lo chuyện sống chết, chỉ lo chuyện thế gian... Nếu bất cứ lúc nào cũng nghĩ đến việc Chúa đến thì dù cho có thình lình, đột ngột, họ cũng không ngỡ ngàng.
Thái độ thứ hai là kiên trì trong việc cầu nguyện liên lĩ: cầu nguyện để xin Ngài mau đến, cầu nguyện để xin ơn đứng vững trước những xáo trộn bên ngoài.
4. Bài đọc II (1 Tx 3,12--4,2)
Thánh Phaolô viết bức thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônikê trong viễn cảnh Chúa sẽ đến lần thứ hai.
Vì nghĩ rằng Chúa sắp đến rồi, nên các tín hữu Thêxalônikê sống buông thả, lười biếng. Từ đó sinh ra nhiều tệ nạn khác. Thánh Phaolô cho rằng đó không phải là thái độ đúng đắn. Thái độ đúng đắn là phải bồi dưỡng tình thương: "Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết... Có như thế thì... anh em mới được bền tâm vững chí không có gì đáng chê trách... trong ngày Chúa Giêsu quang lâm"
IV. Gợi ý giảng
* 1. Suy nghĩ đầu năm phụng vụ mới
Hoa trên đồi có tàn đi thì cũng nở lại vào năm sau.
Tuổi xuân con người một khi tàn phai thì không bao giờ nở lại.
Mặt trời mọc lên buổi sáng, buổi chiều lặn đi, nhưng sáng hôm sau mọc lại.
Ðời người dần trôi về lúc hoàng hôn và không bao giờ có bình minh nào khác.
Tại sao mỗi người chỉ có một đời? Tại sao con người không có cơ hội khác?
Thôi đừng thắc mắc và cũng đừng thở than. Hãy ý thức rằng cuộc đời là một món quà tặng; vì nó chỉ có một nên nó vô cùng quý giá.
Xin Chúa cho chúng con biết tận dụng những cơ hội của đời này, bởi vì chỉ có thế chúng con mới đến được đời sau, một cõi đời không bao giờ tàn úa, một cõi đời mãi mãi sáng tươi.
* 2. Giữa tối tăm bừng lên một tia sáng
Trong bài đọc I, Ngôn sứ Giêrêmia mô tả cuộc sống trong một thời tăm tối bi quan: trong nội bộ dân Chúa thì bất trung tội lỗi; từ bên ngoài thì hiểm họa xâm lăng lúc nào cũng rình chờ. Thế mà Giêrêmia vẫn có thể thốt lên những lời dự đoán đầy lạc quan: "Trong những ngày đó, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ an cư lạc nghiệp". Từ trong tối tăm của hiện tại, Giêrêmia vẫn thấy trước tia sáng của tương lai, bởi vì Giêrêmia tin vào nguồn sáng là Thiên Chúa: "Ðức Chúa là sự công chính của chúng ta".
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Sẽ có những điềm lạ trên trời... Dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang... Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc..." Mặc dù vậy, Ngài vẫn bảo môn đệ mình "Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc".
Chúng ta đang ở ngưỡng cửa một năm Phụng vụ mới. Nhìn tới tương lai, ai mà không khỏi lo lắng hoang mang vì bao gian truân đang sẵn chờ. Nhưng Lời Chúa hôm nay vẫn bảo chúng ta hãy lạc quan. Vì tương lai chỉ tối tăm mờ mịt khi vắng bóng Thiên Chúa. Còn đối với những người để Thiên Chúa dẫn dắt đời mình thì tương lai sẽ ngày càng tươi đẹp.
* 3. Hướng đi của lịch sử
Theo quan niệm thông thường của người đời, lịch sử đi theo vòng tròn: Hết xuân tới hạ, rồi thu, rồi đông, và sau đó trở lại chu kỳ Xuân Hạ Thu Ðông. Theo quan niệm ấy, một năm trôi qua rồi sang năm khác với cũng những cảnh ấy, những việc ấy, những lao nhọc và khó khăn ấy.
Nhưng theo quan niệm Thánh Kinh, lịch sử đi theo đường thẳng và hướng đến một tương lai tốt đẹp do Chúa sắp sẵn cho những ai biết cùng Ngài hành trình trên con đường dương thế. Chính vì nghĩ thế nên Thánh Phaolô nói với tín hữu của Ngài rằng cứ mỗi năm trôi qua thì "ơn cứu độ của chúng ta gần hơn khi chúng ta mới tin đạo".
Hôm nay bắt đầu một năm Phụng vụ mới, chúng ta hãy quyết tâm sẽ đồng hành cùng Chúa trong suốt năm này, để mỗi ngày một tiến gần hơn tới ơn cứu độ.
* 4. Hướng lòng về Ngày Chúa đến
1/ Ý nghĩa mùa Vọng
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa Vọng. Vọng là hướng về, là chờ đợi. Mùa Vọng là thời gian để chúng ta hướng lòng về ngày Chúa đến, đồng thời chờ đợi Chúa đến. Chúa đến để khai mạc một thời đại mới, thời đại hết sức tốt đẹp hơn, tràn đầy hạnh phúc.
Chúa đến thế gian này hai lần, lần thứ nhất đã đến rồi, và lần thứ nhì chưa đến nhưng chắc chắn sẽ đến. Vì thế, mùa Vọng có hai ý nghĩa:
Thứ nhất: chuẩn bị đón mừng kỷ niệm biến cố Chúa đến lần thứ nhất cách đây 2000 năm.
Thứ hai: chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai. Lần này, chúng ta không biết sẽ xảy ra vào lúc nào. Có thể còn lâu, nhưng cũng có thể đến nơi rồi. Ngài nói Ngài sẽ đến bất ngờ như kẻ trộm.
Tuy nhiên, biến cố quan trọng này vẫn có thể biết trước, nhất là đối với những tâm hồn tỉnh thức, luôn luôn chuẩn bị đón chờ, vì có những điềm báo trước. Thánh Phaolô viết: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: "Bình an biết bao! Yên ổn biết bao!", thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống ( ) chẳng ai trốn thoát được. Nhưng thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày” (1 Tx 5,2-5).
2/ Chờ đợi “Trời mới đất mới”, một kỷ nguyên tốt đẹp sẽ đến
Mùa Vọng là thời gian thuận lợi để Giáo Hội nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị và sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Chúa đến để khai mở một kỷ nguyên mới: “Này đây, Ta sẽ sáng tạo trời mới đất mới” (Is 65,17a; xem 66,22), nghĩa là một kỷ nguyên thanh bình, hạnh phúc, được ngôn sứ Isaia diễn tả như sau: “Sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, và sự hiểu biết Ðức Chúa sẽ tràn ngập đất này cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Isaia 11,6-9). Kỷ nguyên này không còn chiến tranh, bất công, hận thù, không còn nước mắt, đau khổ. Mọi người đều thỏa mãn, an vui, hạnh phúc.
Vì thế, ngày Chúa đến là một ngày hết sức vui mừng cho những người sống tốt lành, khiêm nhường, yêu thương người khác. Ngày đó là ngày những người tốt lành hằng mong chờ, vì đó là ngày thiện vĩnh viễn thắng ác, là ngày Thiên Chúa toàn thắng ma quỉ cùng những thế lực xấu xa, là ngày ơn cứu chuộc được thể hiện tràn đầy, viên mãn. Ma quỉ cùng với sự ác, sự chết, đau khổ vĩnh viễn bị tiêu diệt khỏi thế giới người sống, và bị trừng trị đích đáng. Ðó là một ngày đáng vui mừng hơn bất kỳ ngày nào!
Nhưng ngày đó cũng là ngày hết sức khủng khiếp cho những kẻ không yêu thương người chung quanh, những kẻ lãnh đạm trước những đau khổ của người khác, những kẻ sống bất lương, kiêu căng, gây tội ác, tạo bất công. Ngày đó Thiên Chúa sẽ hết sức thịnh nộ và không còn khoan nhượng đối với những phường gian ác. Ngài phán với họ: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và những kẻ theo nó. Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp” (Mt 25,41.46).
3/ Ngày đó có thể sắp đến
Kinh Thánh cho biết những điềm sẽ xẩy ra báo trước ngày ấy: các ngôn sứ giả, chiến tranh, đói kém, động đất, lụt lội, các thứ dịch tễ, tai họa... (xem Mt 24,4-8), các tội ác, tình trạng đạo đức giảm sút, lòng người ra khô khan nguội lạnh, tôn giáo thì đa số vụ hình thức mà lơ là điều cốt lõi là mến Chúa yêu người đích thật... Những điềm báo trước đó ngày càng thể hiện rõ rệt trong thời đại chúng ta. Vì thế, ta biết ngày Chúa đến không còn xa lắm, nó có thể sắp đến, một cách bất chợt.
Ðức Kitô nói ngày ấy đến như kẻ trộm, điều đó không chỉ có ý nghĩa thời gian (tức vào thời điểm không ngờ được), mà có thể còn là hình thức (cách xảy đến cũng không ngờ được). Nghĩa là Chúa đến có thể theo một cách khác hẳn với cách mọi người thường nghĩ.
Ngày ấy là ngày Chúa phán xét, nên điều hết sức quan trọng là vào ngày ấy, chúng ta phải là người trong sạch, tốt lành, không có gì đáng chê trách trước mặt Chúa, nhất là về lòng yêu thương và cách xử sự đối với mọi người. Khi phán xét, Ngài phán xét ta chủ yếu về điều ấy.
4/ Hãy chuẩn bị sẵn sàng
Vì ta không biết ngày nào Ngài đến, nên khôn ngoan nhất là lúc nào ta cũng nên sẵn sàng. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Kitô cũng khuyên ta như vậy: “Anh em hãy đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất”. Chuẩn bị như thế nào? Ðức Kitô khuyên ta: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”.
- Tỉnh thức là luôn luôn tỉnh táo ý thức rằng ngày ấy có thể đến bất kỳ lúc nào, nên lúc nào cũng sẵn sàng như thể Chúa sẽ đến vào ngay ngày mai, hay chốc lát nữa. Thái độ sẵn sàng đó chắc chắn không làm ta thiệt hại, mà giúp ta sống khôn ngoan, hạnh phúc hơn. Hình ảnh hay nhất minh họa sự tỉnh thức là thái độ của người canh kẻ trộm, không dám ngủ thiếp đi một phút nào.
- Cầu nguyện không phải chỉ là đọc kinh, mà là tâm trạng luôn hướng về Chúa, sẵn sàng làm bất cứ điều gì Ngài muốn. Cầu nguyện là hợp nhất với Thiên Chúa trong tâm tình yêu thương, nhất là trong ý hướng và hành động. Hãy luôn luôn muốn và thực hiện những điều Chúa muốn.
Có như vậy, chúng ta mới “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người”.
***
Lạy Cha, hiện nay, đã có biết bao nhiêu điềm báo hiệu ngày quang lâm của Chúa Giêsu. Ngày ấy có thể đã gần tới. Vì thế, xin Cha giúp con biết chuẩn bị cho ngày ấy, và sẵn sàng để bất kỳ lúc nào Ngài đến, Ngài cũng có thể hài lòng về con, về cách sống của con, về tình thương của con đối với mọi người, và về cách đối xử tốt đẹp của con đối với những người chung quanh con. Xin giúp con luôn tỉnh thức trong tinh thần cầu nguyện, như Chúa Giêsu đã khuyên nhủ mọi người trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen (Nguyễn chính Kết)
* 5. "Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên"
Thời Ðức quốc xã thế chiến II. Một thanh niên 17 tuổi bị giam, vượt ngục, bị bắt lại và bị lên án tử, anh viết thư cho cha mình:
"Thưa ba, con cảm thấy rất khó khi viết bức thư này, nhưng con phải báo cho ba hay là tòa án quân sự đã tuyên cho con một bản án rất nặng. Xin Ba đọc thư này một mình rồi sau đó tìm cách khéo léo kể lại cho má biết... Chỉ vài ngày nữa thôi, lúc 5 giờ sáng thì sự việc sẽ xảy đến... và con sẽ về với Chúa...
Phải chăng đó là một chuyến đi khủng khiếp?.. Tuy nhiên giờ đây con thấy mình rất gần Chúa và con đang chuẩn bị chết... Con nghĩ điều đó thật là xấu đối với ba hơn là đối với con. Vì con biết, con đã xưng hết mọi tội của con rồi. Bây giờ con rất bình an..." (Mark Link kể)
* 6. Tỉnh thức và cầu nguyện
Trong cuộc chiến khốc liệt giữa Pháp và Ðức năm 1870, tại một bệnh viện Pháp, có một thương binh vốn là sĩ quan người Ðức đang bị bắt làm tù binh. Một hôm, bác sĩ cho biết anh sẽ không qua khỏi vì vết thương ngày càng trầm trọng. Viên sĩ quan tỏ ra bất cần một cách ngạo nghễ và can đảm chờ đợi cái chết.
Chị y tá nữ tu Dòng Nữ Tử Bác ái Vinh Sơn vốn chăm sóc anh từ lâu, ân cần ngỏ ý khuyên anh nên xin gặp một vị linh mục để dọn mình trước khi chết. Anh nhận mình là người Công giáo nhưng đã bỏ đạo từ lâu, nên một mực từ chối lời đề nghị chân thành này.
Chị nữ tu vẫn dịu dàng nói:
- Nếu vậy, tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông mau hồi tâm trở về với Chúa.
Viên sĩ quan mỉa mai:
- Chỉ cực nhọc vô ích mà thôi
Chị nữ tu vẫn kiên nhẫn thuyết phục:
- Thú thật với ông, đã "16 năm" nay, các chị em trong Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho một người trở về cùng Chúa.
Viên sĩ quan ngạc nhiên:
- 16 năm rồi cơ à? Thế người được các chị cầu nguyện chắc "phải là ân nhân của nhà Dòng?
Chị nữ tu trả lời:
- Cách đây rất lâu, mẹ tôi là người hầu cho một nữ Nam tước người Ðức. Trong một lần tôi tới thăm mẹ, bà Nam tước biết tôi là nữ tu nên đã xin cầu nguyện cho con trai bà. Anh đã mất đức tin, sống phóng túng, đam mê danh vọng và quyền lực. Ðã 16 năm qua, tôi và cả Nhà Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho anh.
Người sĩ quan gặng hỏi:
- Thế mẹ của chị có phải là bà Béate không?
Chị nữ tu vô càng ngạc nhiên:
- Nhưng tại sao ông lại biết tên mẹ tôi?
Ðến đây thì viên sĩ quan nghẹn ngào thú nhận:
- Thưa chị, tôi chính là Nam tước Charles, con trai của nữ Nam tước mà mẹ chị đã tận tuỵ hầu hạ bấy lâu. Chính tôi là người mà chị và Nhà Dòng đã cầu nguyện cho suốt 16 năm qua.
Có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Có nhiều người sống như thể thế giới sẽ vô tận. Có nhiều người sống như thế gian này đã là thiên đàng. Họ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Trái tim họ "ra nặng nề, vì chè chén say sưa".
Họ bị Chìm ngập trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống hiện tại, mà quên tìm lẽ sống thật.
Họ bị cuốn hút bởi đam mê danh vọng, quyền lực mà quên đi có những cái bất ngờ sẽ đến.
Viên sĩ quan trong câu chuyện trên đây là một điển hình.
Cuộc sống con người không thiếu những bất ngờ:
Có những bất ngờ thú vị làm cho chúng ta vui sướng khôn nguôi.
Có những bất ngờ bi thảm khiến chúng ta đau khổ tột cùng.
Mùa Vọng nhắc lại lần đến đầu tiên của Con Thiên Chúa, và kêu gọi chúng ta chuẩn bị lần đến cuối cùng của Người. Ngày đó khi nào xảy đến, chẳng ai biết được. Nó đến bất ngờ như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất" (Lc 21,35). Giữa hai lần ấy có biết bao lần Người bất ngờ đến. Ðó là ngày tận cùng của mỗi người chúng ta.
Mùa Vọng là mùa Tỉnh thức
Nếu chúng ta luôn "Tỉnh thức và cầu nguyện" (Lc 21,36), luôn sẵn sàng và thanh thoát, thì việc Người đến sẽ là một bất ngờ thú vị. Ngày đó, chúng ta sẽ không phải "lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét" (Lc 21,25), chúng ta sẽ không "sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc" (Lc 21,26), nhưng sẽ "đứng thẳng và ngẩng đầu lên" (Lc 21,28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ.
Lạy Ðức Kitô, ngày Chúa đến như vị Thẩm Phán, vũ trụ này sẽ xáo trộn sâu xa, nhưng xáo trộn kinh khủng nhất lại chính là xáo trộn trong cõi lòng.
Xin cho chúng con biết "tỉnh thức và cầu nguyện, để tâm hồn luôn sẵn sàng và thanh thoát. hầu khi Chúa đến sẽ là giây phút được mong đợi, và là một cuộc hạnh ngộ đầy hoan lạc và yêu thương. Amen (TP)
* 7. Những cây trường xuân
Trong quyển "The legend of the Bells", John Shea kể rằng sau khi tạo dựng các giống cây, Thiên Chúa muốn ban một món quà cho mỗi giống. Nhưng trước đó Ngài muốn làm một cuộc thử nghiệm để xem cây nào xứng đáng nhận món quà nào. Ngài bảo "Ta muốn các ngươi luôn tỉnh thức suốt 7 đêm".
Những cây trẻ rất nôn nao nhận quà nên thức suốt đêm chẳng có gì khó khăn. Tuy nhiên sang đêm thứ hai thì điều ấy không còn dễ nữa. Hoàng hôn vừa buông xuống là một số cây đã ngủ thiếp đi. Ðêm thứ ba, số cây ngủ tăng thêm. Và cứ thế. Qua khỏi đêm thứ bảy thì chỉ còn một số cây còn thức, đó là cây tuyết tùng, cây thông, cây vân sam, cây linh sam, cây nhựa ruồi và cây nguyệt quế.
Thiên Chúa rất vui lòng với những cây này. Ngài phán: "Các ngươi đã kiên trì một cách rất đáng khen. Ta ban cho các ngươi món quà đặc biệt là được xanh tươi mãi mãi. Các ngươi sẽ là những cây bảo vệ cho cả khu rừng. Ngay cả khi giá lạnh mùa đông làm cho những cây khác phải chết thì các ngươi và con cháu các ngươi vẫn sống và mãi mãi xanh tươi".
Từ đó trở đi, người ta gọi những cây ấy là những cây trường xuân.
Kitô hữu phải là những cây trường xuân giữa khu rừng nhân loại. Thế giới chung quanh có thể ngủ vùi hoặc dần dà khô héo, nhưng kitô hữu vẫn tỉnh táo, vẫn thức, vẫn mọc lên những chồi xanh tốt bằng cuộc sống chứng nhân của mình. Nói cách khác, kitô hữu vẫn yêu thương giữa một thế giới hận thù, vẫn sống hòa thuận giữa một thế giới đấu tranh, vẫn giữ vững tâm hồn chính trực giữa một thế giới dối gian, vẫn hy vọng giữa một thế giới tuyệt vọng, vẫn tỏa ánh sáng rạng ngời giữa một thế giới tối tăm.
Nói một cách khác nữa, họ là những người thợ, những giáo viên, những y sĩ, những cha mẹ, những con cái v.v. lúc nào cũng tận tuỵ chu toàn trách nhiệm của mình. Họ chính là những cây trường xuân. (FM)
* 8. Chuyện minh họa về sự sẵn sàng
Một vị đan tu tên là Mésique. Bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Ðột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đống hồ ấy. Ông xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời. Hàng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên phá cửa đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng trước khi ra đi: "Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội."
Nói thế rồi, ông tắt thở, để lại cho một người một ấn tượng sâu đậm. (Góp nhặt)
* 9. Bài giải thích của Thánh Bernard (+ 1153)
Các bạn đừng chỉ nghĩ tới lần Chúa ngự đến để "tìm và cứu những gì hư mất" (Lc 19,10); hãy nghĩ tới lần Ngài ngự đến để rước chúng ta đi theo Ngài nữa. Ước gì các bạn hãy suy gẫm sâu xa về hai lần ngự đến ấy, và nghiền ngẫm trong lòng về điều Ngài đã ban cho ta trong lần ngự đến thứ nhất, và điều Ngài hứa sẽ cho ta trong lần ngự đến thứ hai.
"Bởi lẽ thời phán xét đã đến, bắt đầu từ nhà của Thiên Chúa. Nếu việc đó bắt đầu từ chúng ta, thì cuối cùng số phận của những kẻ từ chối không chịu tin vào Tin Mừng của Thiên Chúa sẽ ra sao?" (1 Pr 4,17) Cuộc chung thẩm sẽ thế nào đối với những kẻ không đứng vững trong cuộc phán xét này? Tất cả những ai trốn tránh cuộc phán xét bây giờ, tức là cuộc phán xét làm cho thủ lãnh thế gian này bị ném ra ngoài, thì họ phải chờ đợi, hay nói đúng hơn là phải lo sợ cuộc phán xét sẽ làm cho họ cũng bị ném ra ngoài cùng với thủ lãnh của họ. Còn nếu chúng ta chịu phán xét đầy đủ bây giờ thì chúng ta hãy an tâm "mong đợi Chúa Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Ngài có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài" (Pl 3,20-21) "Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời trong Nước của Cha họ" (Mt 13,43)
Khi Chúa đến, Ngài sẽ biến đổi thân xác khốn khổ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Nhưng chỉ với điều kiện là trước đó tâm hồn chúng ta đã được biến đổi giống tâm hồn khiêm tốn của Ngài. Chính vì thế mà Ngài đã nói: "Hãy trở nên môn đệ Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm tốn trong lòng" (Mt 11,29).
Các bạn hãy khám phá trong đoạn Tin Mừng này hai loại khiêm tốn: một là khiêm tốn về nhận thức, hai là khiêm tốn về tình yêu tức là khiêm tốn trong lòng. Loại khiêm tốn thứ nhất dạy ta biết rằng ta chẳng là gì cả, chúng ta chỉ học biết do chính chúng ta và do sự yếu đuối của chúng ta mà thôi. Với sự khiêm tốn thứ hai, chúng ta chà đạp vinh quang của thế gian, và chúng ta được học biết từ chính Ðấng tự huỷ mình đi, mang phận tôi đòi; khi người ta muốn tôn Ngài lên ngôi thì Ngài lánh đi; còn khi được gọi chịu mọi thứ hành hạ và nhục hình trên thập giá thì Ngài đã vui lòng tự hiến.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, nỗ lực sống thánh thiện, lấy tình bác ái huynh đệ mà đối xử với nhau, đồng thời luôn luôn tỉnh thức và không ngừng cầu nguyện, là những việc làm không thể thiếu được trong việc chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng sinh. Với tâm tình thiết tha trông đợi ngày Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh có sứ mạng công bố cho toàn thể thế giới biết rằng / Chúa Giêsu Kitô là Ðấng cứu độ duy nhất của trần gian / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi nước mọi dân / biết chân thành đón nhận lời công bố của Hội thánh.
2. Trên thế giới ngày nay / nạn kỳ thị chủng tộc vẫn đang hoành hành ở nhiều nơi / đem đến vô vàn đau khổ cho những người bị kỳ thị / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi người / biết lấy tình bác ái mà đối xử với nhau.
3. Tửu sắc là nguyên nhân gây ra biết bao đổ vỡ trong đời sống hôn nhân và gia đình / biết bao tội ác trong đời sống xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang đắm chìm trong tửu sắc / biết mau mắn thức tỉnh / đổi mới đời sống / để đem lại hạnh phúc cho những người thân yêu / và nhất là để đón mừng ngày Ngôi Hai xuống thế làm người.
4. Thánh Phaolô khuyên các tín hữu luôn cố gắng sống thánh thiện / nhất là sống bác ái yêu thương trong khi chờ đợi ngày Ðức Kitô ngự đến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thành tâm lắng nghe / và tích cực thực hiện lời khuyên của vị tông đồ dân ngoại.
Chủ tế: Lạy Chúa là nguồn mọi ơn phúc, chúng con đang thao thức trông chờ ngày Chúa Giêsu Kitô, con Một Chúa hằng ưu ái, xuống thế làm người và ở cùng chúng con. Xin Chúa cho chúng con biết chuẩn bị thật tốt tâm hồn, để xứng đáng đón mừng đại lễ Giáng sinh sắp tới. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy hướng lòng về Cha trên trời và tha thiết cầu xin Ngài khấng cho Con của Ngài đến thăm viếng chúng ta.
Trước lúc Rước Lễ: Chúa Giêsu sắp đến với tâm hồn chúng ta bằng chính Mình và Máu Thánh Ngài. Chúng ta hãy dọn lòng sẵn sàng để đón rước Ngài.
VII. Giải tán
"Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc". Lời của Chúa trong ngày bắt đầu Mùa Vọng kêu gọi chúng ta cố gắng sống công chính và luôn hướng lòng lên Chúa trong suốt thời gian Mùa Vọng này. Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an.
6. Chúa sẽ đến giải thoát---Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng của năm Phụng vụ mới. Theo ý của Hội thánh: “Mùa Vọng có hai đặc tính: vừa là mùa chuẩn bị mừng lễ trọng Giáng sinh, là lễ kính nhớ Con Chúa đến lần thứ nhất với loài người, vừa là mùa mà qua cuộc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng mong đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Vì hai lý do này, Mùa Vọng được coi như mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi” (Những qui luật tổng quát về năm Phụng vụ và niên lịch, số 39).
Chúa nhật I Mùa Vọng mở đầu cho năm Phụng vụ mới. Mở đầu mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi, Lời Chúa hôm nay nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa là ban Đấng Công chính cho Israel. Bốn tuần lễ Mùa Vọng tượng trưng cho 4000 năm dân Do thái mong đợi Đấng Cứu thế. Lời hứa ấy đã được thực hiện trong lịch sử cách đây hơn 2000 năm, khi Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người và được Đức Maria sinh ra tại hang đá Be lem. Hằng năm chúng ta vẫn mừng biến cố vĩ đại này: Lễ Chúa giáng sinh.
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi người tín hữu hãy tỉnh thức và cầu nguyện, hãy tấn tới hơn nữa trong đời sống Đức ái đối với Chúa và tha nhân để đón chờ ngày Chúa Kitô “lại đến” trong vinh quang. Ước gì trong ngày Chúa đến, chúng ta “hãy đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên”, vì ơn cứu rỗi chúng ta đã đến.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Gr 33,14-18
Giêrêmia là một tiên tri chứng kiến cảnh tang thương của đất nước mình: vì dân bất trung với Chúa nên Ngài để cho quân thù đến vây hãm thành thánh, Giêrusalem bị phá hủy và dân chúng bị phân tán và đi lưu đầy.
Nhưng trong khi dân chúng đang sống trong tuyệt vọng trong cảnh lưu đầy thì Giêrêmia lại loan báo rằng Thiên Chúa không quên lời Ngài đã hứa. Ngài sẽ ban một “Đấng Công chính” để giải thoát dân Ngài: ”Trong những ngày ấy… Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công chính… Giuđa sẽ được cứu thoát… Giêrusalem sẽ được an cư lạc nghiệp”.
Rõ ràng đây là lời hứa về lần đến lần thứ nhất của Đấng Messia. Lời loan báo này làm cho dân Chúa xưa cũng như chúng ta hôm nay có thể chỗi dậy và tiến bước.
+ Bài đọc 2: 1Tx 3,12-4,2
Thánh Phaolô phải rời Thessalonica trước khi kịp dạy bảo những điều thiết yếu. Vì vậy Ngài lo lắng cho sự tăng trưởng về đức tin và đức ái trong cộng đoàn còn non trẻ này.
Ngài nhắc bảo họ hãy tin và chờ đợi Chúa sẽ trở lại trong vinh quang. Niềm tin này sẽ định hướng cuộc đời của mọi người. Trong khi chờ đợi Chúa sẽ đến trong vinh quang, mọi người phải thực hiện giới răn của Chúa là thi hành đức bác ái đối với nhau: ”Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đặm đà thắm thiết… Có như thế thì… anh em mới được bền tâm vững chí không có gì đáng trách… trong ngày Chúa Giêsu quang làm”.
+ Bài Tin mừng: Lc 21,25-27.34-36
Luca mô tả sự sụp đổ của Giêrusalem như một tai hoạ toàn cầu: trong thế giới tôn giáo của người tín hữu, thành Giêrusalem chiếm địa vị quan trọng đến nỗi khi tưởng tượng đến sự sụp đổ của thành thì không thể không nghĩ đến ngày tận thế.
Đoạn Tin mừng này nằm trong diễn từ chung luận, trong đó Đức Giêsu nói về những sự việc sẽ xẩy ra vào những ngày cuối cùng của thế giới. Vì thế, sống trong thế giới văn minh ngày nay, chúng ta đừng quên rằng cuộc sống của chúng ta không hoàn toàn thuộc về chúng ta, mà chúng ta còn phải trả lẽ với Đấng là chủ tể toàn năng về cuộc sống của mình. Chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện để luôn luôn ở trong tư thế sẵn sàng.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Đứng thẳng và ngẩng đầu lên.
I. Ý NGHĨA MÙA VỌNG
1. Mùa Vọng
Ngày xưa ta gọi mùa này là Mùa At, có lẽ do chữ Adventus của tiếng La tinh có nghĩa là việc Chúa đến. Ngày nay ta gọi mùa này là Mùa Vọng. Mùa vọng có nghĩa là thời gian trông mong, hướng về, chờ đợi Chúa đến.
* Cả Cựu ước là Mùa Vọng
Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, Thiên Chúa không nỡ bỏ rơi con người, Thiên Chúa không nỡ bỏ rơi con người dưới ách thống trị của tội lỗi và sự chết. Ngài đã hứa ban Đấng Cứu thế (St 2,15). Ai tin vào Thiên Chúa Tình yêu và sống trong tình yêu là sống trong Vương quốc của Ngài. Trong lịch sử dân Israel, Thiên Chúa đã nhiều lần lặp lại lời hứa này với các tổ phụ và tiên tri. Niềm hy vọng này đã nâng đỡ dân Chúa sống niềm tin tưởng phó thác qua giòng lịch sử.
* Cả cuộc sống Giáo hội là một Mùa Vọng
Lời hứa của Chúa đã được thực hiện, Ngôi Hai Thiên Chúa là Đức Giêsu đã giáng trần,
sống trong kiếp người, đã chịu chết và sống lại, về trời cùng Thiên Chúa Cha và loan báo sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Do đó, toàn thể đời sống của Giáo hội hướng về ngày Quang lâm của Đức Giêsu. Vì thế, Giáo hội thường xuyên kêu lên: Maranatha, Lạy Chúa Kitô, xin ngự đến.
* Cả cuộc sống từng người cũng là một Mùa Vọng
Chúng ta cùng Giáo hội đón chờ ngày Chúa đến lần thứ hai. Nhưng Chúa có thể đến riêng với chúng ta lần thứ hai trước ngày tận thế, nghĩa là đến gọi chúng ta ra đi trong ngày kết thúc cuộc đời mình. Chúng ta được mời gọi sống tinh thần Mùa Vọng trong mỗi giây phút của cuộc đời.
2. Mùa Vọng đối với chúng ta
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng. Mùa Vọng là thời gian để chúng ta hướng lòng về ngày Chúa đến. Chúa đến thế gian này hai lần: lần thứ nhất đã đến rồi, và lần thứ hai chưa đến, nhưng chắc chắn sẽ đến. Vì thế Mùa Vọng có 2 ý nghĩa:
- Nhìn về phía sau: chuẩn bị đón mừng kỷ niệm biến cố trọng đại lần thứ nhất cách đây 2000 năm, Ngày Chúa giáng trần.
- Nhìn về phía trước: chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai. Ta không biết khi nào Chúa đến, có thể là còn lâu, có thể là đến nơi rồi vì Ngài đã nói giờ đó đến bất ngờ như kẻ trộm, hoặc như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất (Lc 21,35). Giữa hai lần ấy, có biết bao lần Ngài bất ngờ đến. Đó là ngày tận cùng của mỗi người chúng ta.
II. CHUẨN BỊ ĐÓN CHÚA ĐẾN
1. Chúa đến lần thứ nhất
Thực sự, Chúa đã đến với nhân loại lần thứ nhất tại hang đá Be lem, nghĩa là Chúa nhập thể làm người cách đây 2000 năm. Lúc này đây chúng ta đang sống trong mầu nhiệm làm người của Đức Giêsu. Tất nhiên chúng ta không thể sống một tâm tình như thể Chúa chưa giáng trần. Nhưng chúng ta sống lại những tâm tình của dân Do thái mong đợi Chúa đến, để lúc này đây công cuộc nhập thể cứu chuộc của Chúa ăn sâu vào đời sống của ta, việc này đòi nhiều thời gian và ta sẽ phải làm suốt đời.
Trong suốt năm, chúng ta sẽ được sống trở lại toàn bộ những câu chuyện của Ngài. Nhưng chúng ta đã nghe kể về những câu chuyện đó nhiều lần. Do đó, có nguy cơ là chúng ta có thể xem những câu chuyện đó là cũ rích, nhàm chán. Hãy cố gắng và nhìn nhận rằng đó là những câu chuyện vẫn còn mới mẻ, hiện đang tồn tại và sống động. Điều này không giống như việc xem một cuốn băng video cũ. Việc cử hành mỗi ngày lễ mang từng sự kiện trở lại, trong sự sáng tỏ và sinh động của nó, không bao giờ chúng ta được mặc cho ngày lễ đó trở nên lạnh lẽo, mất sức sống, hoặc chìm vào quên lãng.
Ngoài ra, chúng ta không phải là khán giả, nhưng là những tác nhân trong toàn bộ ngày lễ này. Những mầu nhiệm về cuộc đời của Đức Kitô được trình bầy theo cách thế khiến chúng ta được lôi cuốn, và trở nên những nguời tham dự vào những mầu nhiệm đó. Điều này làm cho ngày lễ mang tính cách đòi hỏi hơn, nhưng cũng phong phú hơn và đem lại phấn khởi hơn. Thiên Chúa không phải chỉ là một Thiên Chúa của quá khứ, nhưng còn là của hiện tại và tương lai nữa
(Flor McCarthy).
2. Chúa đến lần thứ hai
Hôm nay các bài đọc đều tập trung vào ngày Đức Kitô đến lần thứ hai và là ngày tận thế. Các Kitô hữu tiên khởi tin rằng ngày Đức Kitô đến lần thứ hai đã gần kề, và sẽ được báo trước bằng những dấu hiệu về thiên văn. Chúng ta không biết chắc chắn về điều đó. Nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng, khi lịch sử kết thúc, Đức Giêsu sẽ đến trong vinh quang để đến phán xét kẻ sống và kẻ chết trong ngày chung thẩm.
Trước lời hứa trở lại của Chúa, người ta đem ra nhiều lý luận và suy đoán viển vông. Khi nào nó xẩy đến, xẩy đến như thế nào, chúng ta không đuợc biết. Nhưng một điều chân thật lớn lao sẽ phát xuất là lịch sử đang tiến tới một chỗ nào đó. Có một số người – các triết gia phái Khắc kỷ coi lịch sử là một vòng tròn. Họ tin rằng cứ mỗi 3000 năm hoặc khoảng như thế, vũ trụ lại một lần bị thiêu đốt, rồi sau đó bắt đầu lại, lịch sử lại tái diễn. Có nghĩa là lịch sử chẳng đi đến đâu cả và loài người cứ bước đi loanh quanh như một cối xay vĩnh cửu. Còn người Kitô hữu chúng ta tin rằng lịch sử có cùng đích và tại cùng đích đó Chúa Cứu Thế Giêsu sẽ làm chủ tể mọi sự mọi loài.
Đức Giêsu đã nói rõ ngày tận thế sẽ xẩy ra bất ngờ như “chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất”(Lc 21,35), như chiếc lưới chụp xuống đàn chim đang ăn mồi, như chiếc lưới chụp xuống đàn cá đang nhởn nhơ trên mặt hồ. Nhưng có những người lại dám tự mình cho mình biết rõ ngày tận thế, ấn định ngày tận thế và loan báo cho tín đồ của họ phải chuẩn bị cho ngày đó.
Truyện: Tận thế ở Đại hàn.
Hồi cuối tháng 10 năm 1992, hàng chục ngàn người Hàn quốc thuộc một giáo phái đã tụ tập tại hơn 150 nhà thờ ở nhiều nơi trong nước để chuẩn bị đón Chúa Kitô tái lâm và phán xét thế gian. Theo giới lãnh đạo của giáo phái này: ngày tận thế sẽ xẩy ra vào đúng nửa đêm 28.10.1992. Các tín đồ của giáo phái này trưng nhiều biểu ngữ với câu: ”Chúng ta sẽ gặp lại nhau trên trời”. Trong khi đó, hàng ngàn cảnh sát Hàn quốc được đặt trong tình trạng báo động trên toàn quốc để phòng ngừa một cuộc tự sát tập thể, nếu tận thế không xẩy ra. Một cuộc tự sát như thế có thể xẩy đến, bởi vì nhiều người đã bỏ tài sản, gia đình để chuẩn bị cho biến cố này. Thế nhưng, cuối cùng tận thế đã không xẩy ra, nên giáo phái này đã tự động giải tán (Phạm văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng C, tr 4).
3. Chúa đến giữa hai lần: giờ chết
Chúa lại đến để đưa lịch sử loài người đến cùng đích và tất cả loài người đều phải trình diện trước Thiên Chúa, nhưng cũng có thể mỗi người phải trình diện Thiên Chúa khi kết thúc cuộc đời lữ hành trên trần gian này.
a) Cuộc đời chóng qua
Cuộc đời con người rất bấp bênh giống như con tầu đi trên mặt biển. Tuy con tầu có vẻ to lớn và rất chắc chắn, không gì có thể làm cho nó chìm được, nhưng con tầu sánh đâu được với biển cả. Số phận con người cũng thế, thật mỏng manh: ”Đời sống con người giống như cây cỏ, như bông hoa nở trên cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích (đáp ca lễ an táng)..
Truyện: chiếc tầu Titanic.
Con tầu vĩ đại Titanic dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét, có 8 tầng lầu với đủ các tiện nghi, có phố chợ, hồ tắm, sân chơi, rạp hát, vườn bông, khách sạn. Con tầu chỉ chở những nhân vật tai to mặt lớn: những ông hoàng, bà chúa, những đại phú gia. Nó đi từ Southampton, hải cảng Anh quốc, vượt Đại tây dương để đến New York là thành phố lớn nhất, giầu nhất thế giới hồi đó. Họ tưởng đi trên con tầu đó sẽ an toàn vững chắc như trên mặt đất, nhưng nó vừa khởi hành được mấy ngày thì đụng vào băng sơn gẫy đôi chôn sống hơn 1500 người vào ngày 14.04.1912 (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, C, tr 6).
Cái chết thường đến đột ngột bất ngờ. Trong bài Tin mừng này, Đức Giêsu đã nói rõ điều ấy: ”Các con hãy tỉnh thức vì các con con không biết ngày nào giờ nào”. Đành rằng có nhiều người bệnh một thời gian khá lâu rồi mới chết, nhưng chẳng ai ngờ mình sẽ chết vào giờ này, ngày này. Tuy bất ngờ nhưng không phải hoàn toàn bất ngờ, vì Chúa thương chúng ta, Chúa luôn ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước trước cái chết để chúng ta kịp chuẩn bị. Ví dụ: mỗi khi chúng ta thấy một người khác chết, đó là một tín hiệu; mỗi khi chải đầu thấy mái tóc mình bạc hơn… Đó là những tín hiệu mà Chúa gửi trước cho chúng ta vì Chúa thương chúng ta. Vì thế chúng ta đừng giả mù, giả điếc trước những tín hiệu tình thương ấy. Tốt nhất là đón nhận chúng, nhận ra ý nghĩa của chúng và chuẩn bị.
b) Chuẩn bị cho tương lai
Sống ở trên đời, mỗi người phải đặt ra những thắc mắc, những ưu tư và phải tìm ra câu giải đáp. Ưu tư của chúng ta là khi rời bỏ thế gian này rồi sẽ ra sao? Chính vì vậy cổ nhân đã đưa ra cho chúng ta 3 câu hỏi và phải tìm ra câu giải đáp:
+ Nhân sinh hà tại: con người bởi đâu mà đến?
+ Tại thế hà như: đến để làm gì?
+ Hậu thế như hà: sau này sẽ ra sao?
- Con người bởi đâu mà đến? Thánh kinh viết: ”Ta hãy dựng nên loài người giống hình ảnh Ta”(St 1,26). Do đó chúng ta biết con người do Thiên Chúa mà đến.
- Đến để làm gì? Thánh kinh đáp: ”Con phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và thương yêu đồng loại như mình”. Do đó, chúng ta lại biết con nguời đến để phụng thờ Thiên Chúa và giúp đỡ lẫn nhau.
- Sau này sẽ đi đâu? Thánh kinh lại minh chứng: ”Ai nấy sẽ về nhà đời đời của mình”(Kn 12,5) và ở đó sẽ được thưởng theo công trạng mình đã lập được”(x. Mt 10,19; Lc 10,7).
c) Hãy học với thần chết
Có câu chuyện về một người tên Cataneda tìm thầy học đạo, chàng đến với đạo sư Don
Juan. Đạo sư chỉ cho anh một bí quyết: học với thần chết. Dĩ nhiên, chàng đệ tử không muốn nghĩ đến sự chết, anh chỉ muốn học hỏi những kiến thức kỳ lạ, những pháp thuật, nên đạo sư tỏ ra khó chịu, bèn bảo anh: ”Con chớ nên bắt chước mọi người cứ nghĩ rằng mình chẳng bao giờ chết mà đòi làm những việc vĩ đại, kinh thiên động địa, vá trời lấp biển mà nên ý thức rằng Thần Chết là vị khôn ngoan nhất mà con sẽ gặp.
Truyện: Kinh nghiệm về sự chết.
Một vị đan tu tên là Mésique. Bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đồng hồ ấy. Ông xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời. Hằng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng trước khi ra đi:
- Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội.
Nói thế rồi, ông tắt thở, để cho mọi người một ấn tượng sâu đậm. (Góp nhặt)
III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA
1. Hãy đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên
Ngày tận thế và ngày mỗi người phải ra đi khỏi trần thế này là một điều chắc chắn. Ngày đó là ngày đáng sợ cho mọi người, nhưng Chúa bảo chúng ta đừng sợ vì ơn cứu rỗi của chúng đã đến. Ngược lại, chúng ta còn phải phấn khởi và chờ đợi trong tư thế đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên.
* Hãy đứng thẳng là tư thế của con người can đảm. Đúng thế, đức tính can đảm là một điều kiện cần thiết để có sức mạnh mà đối phó với mọi nghịch cảnh, khó khăn và quyết liệt dứt khoát từ bỏ mọi quyến rũ bất chính. Thử hỏi một người hay lười biếng, nhát đảm, yếm thế cầu an thì làm sao lướt thắng được mọi khó khăn, chu toàn bổn phận và giữ vững luơng tri giữa bao thử thách cám dỗ!
* Hãy ngẩng đầu lên là tư thế của con người lạc quan, hy vọng. Bởi vì, ai biết sống lạc quan, hy vọng không những tăng thêm sức mạnh cho mình, mà còn giảm thiểu được những sai phạm. Và sống mà không có hy vọng lạc quan để nhắm tới mục đích thì không thể nào ra sức phấn đấu và cố gắng vươn tới được. Nhưng chúng ta hy vọng gì và hy vọng vào ai? Tất nhiên ngoài Chúa ra và hạnh phúc đời đời thì tất cả mọi hy vọng khác chỉ là tạm bợ mau qua hoặc hão huyền mây khói mà thôi.
Vậy khi sống trên cõi đời này đầy bất trắc và lắm thử thách, chỉ có những ai biết tin tưởng phó thác nơi Chúa, chắc chắn họ sẽ có đủ can đảm vượt thắng gian nan và hy vọng được hưởng hạnh phúc đời đời giúp họ bền đỗ đến cùng.
Truyện: Hãy đứng thẳng
Mới đây các nhà khảo cổ đã tìm ra một thành phố cổ xưa đã bị chôn vùi trong lòng đất hàng ngàn năm, do núi phun lửa làm cho nham thạch bất ngờ ập xuống thành phố. Rất nhiều người đã bị chôn vùi trong lớp nham thạch nóng bỏng và chết lập tức. Nhiều xác chết đã được đào thấy bị chết khi đang ở trong những tư thế khác nhau: có người chết khi đang ngủ trên giường, người khác chết đang khi ngồi bàn ăn uống. Đặc biệt người ta đào được xác của một người lính bị chết trong tư thế đang đứng gác và đang cầm một cây giáo dài trong tay.
2. Hãy giữ lòng kẻo ra nặng nề
Chúa dạy chúng ta: ”Các con hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề”. Chúa nhắc nhở ta phải canh chừng và đề phòng những lôi cuốn của thế gian nó làm cản trở tâm hồn bay lên. Ba điều cản trở được nhắc ở đây là: ăn uống thái quá, chè chén say sưa, lo lắng sự đời quá mức.
Truyện: Ham mê ăn uống.
Câu chuyện ngụ ngôn kể về một con chim ưng. Đang khi đói, nó bay qua một nông trại, nhìn xuống thấy biết bao nhiêu giun dế. Nó thèm lắm, nhưng lại sợ chết nên nó phải hạ cánh bay xuống sát mặt đất của nông trại để thương lượng với ông nông dân. Con chim ưng sẵn sàng đổi cho ông cứ mỗi cái lông lấy một con giun. Vì háu ăn, con chim đã ăn quá nhiều giun, và như thế nó cũng mất đi rất nhiều lông cánh tới độ nó không còn có thể bay lên cao được nữa. Dù nó nhận biết rằng thân phận của nó là phải bay trên bầu trời cao, nhưng những con giun đã làm cho nó mê muội rồi quên đi khung trời cao xanh ở trên, mà chỉ biết tới những con giun dưới đất.
3. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện
Chúng ta hãy tỉnh thúc và cầu nguyện để đón chờ Chúa đến. Chủ đề này được lặp đi lặp lại trong Tin mừng dưới nhiều cách thức. Chẳng hạn ở một đoạn Tin mừng khác, Đức Giêsu nói:”Hãy coi chừng! Hãy tỉnh táo! Các con không biết được ngày nào giờ nào Con Người sẽ đến, vào buổi tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay vào buổi sáng… Điều Ta nói với các con cũng là điều Ta muốn nhắn nhủ mọi người đó là “Hãy tỉnh thức”(Mc 13,33.35-36)
Nếu chúng ta luôn tỉnh thức và cầu nguyện (Lc 21,36), luôn sẵn sàng và thanh thoát, thì việc Ngài đến sẽ là một thú vị bất ngờ. Ngày đó chúng ta không phải “lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét”(Lc 21,25), chúng ta sẽ không “sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc”(Lc 21,26), nhưng sẽ “đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên”(Lc 21,28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ.
4. Hãy sống đúng tinh thần Mùa vọng
Sống mùa Vọng không những là hy vọng và chờ đợi Chúa đến; mà còn sẵn sàng nhận ra sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta, dù không trông thấy những dấu lạ lùng nơi mặt trời, mặt trăng và các tinh tú. Sống mùa vọng trong thế giới chúng ta là chuẩn bị ngẩng đầu lên mặc dù quyền uy và vinh quang của Con Người không hiện diện ở đó. Sống Mùa Vọng là hy vọng rằng Thiên Chúa luôn luôn được tỏ hiện trong đời chúng ta, không phải chỉ vào ngày tận thế, hoặc vào ngày phán xét cuối cùng, nhưng ngay hôm nay. Nhưng điều này đòi hỏi chúng ta phải biết đọc những dấu chỉ của Chúa và sự hiện diện của Ngài ngày hôm nay, nơi bản thân và chung quanh chúng ta. Điều này đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết Ngài và quan tâm đến Ngài hơn nữa.
Dấu lạ là cần thiết khi sự chú ý yếu đi. Nhưng chúng ta lại chẳng thấy trong đời mình những dấu lạ ấy, những biến cố làm chúng ta chú ý đó sao, và đôi khi chúng ta tránh vì sợ ý nghĩa và sự thách thức của những dấu lạ đó, hoặc tầm thường hóa chúng vì ta đã thấy nhiều quá rồi. Vậy nên ta phải cùng nhau nghe lại Lời Chúa trong Cựu ước và Tân ước, cùng nhau ý thức lại sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu là như thế nào đến nỗi Ngài đã hiến mạng sống mình để cho thế gian được sống (Jean-Guy-Nadeau).
Phúc cho những ai nói lên được lời này khi Chúa đến:”Lạy Chúa, sau bao năm trung thành với việc tỉnh thức và cầu nguyện, giờ đây con vui mừng được diện kiến Ngài”. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện đó chính là sứ điệp Giáo hội truyền dạy chúng ta trong Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng này. Vậy, chúng ta hãy lo tỉnh thức và cầu nguyện để khi Chúa đến, Ngài sẽ nói với chúng ta: ”Hãy đến, hỡi các con yêu dấu của Ta. Sau bao năm tháng xa cách, Ta thật hết sức vui mừng được gặp lại các con”.
Để kết thúc bài suy niệm hôm nay, chúng ta hãy đọc lời cầu nguyện của một tác giả vô danh thuộc một trường dành cho dân da đỏ là Red Cloud miền Pine Ridge tiểu bang South Dakota. Tư tưởng của lời cầu nguyện này có liên quan đến chủ đề phụng vụ hôm nay là Hãy tỉnh thức và cầu nguyện:
“Kính lạy Thần Trí cao vời, hơi thở Ngài đem đến nguồn sống cho thế gian, con đang nghe tiếng Ngài thì thầm trong gió thổi.
Xin hãy lắng nghe con là kẻ bé mọn yếu hèn đang khẩn cầu Ngài đây.
Xin cho con bước đi trên đường thiện mỹ, đôi mắt lúc nào cũng chiêm ngắm cảnh hoàng hôn mầu tím, cho đôi tay con biết kính trọng mọi tạo vật của Ngài, và đôi tai con luôn nhạy bén nghe lời Ngài nói.
Xin cho con ơn khôn ngoan để thấu hiểu những lời giáo huấn của Ngài; cho con biết khám phá ra bài học Ngài nhắn nhủ chúng con trong từng lá cây, viên đá.
Xin ban cho con sức mạnh không phải để con chế ngự anh chị em con, mà để con chế ngự kẻ thù hung hãn nhất là chính bản thân mình.
Xin cho con luôn sẵn sàng đến gặp Ngài với đôi tay thanh sạch và đôi mắt thẳng ngay, và khi cuộc đời xế tàn tựa bóng hoàng hôn lịm tắt, tâm hồn con không phải hổ thẹn khi đi diện kiến Ngài”. Amen. (Mark Link).
7. Chờ mong---Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Mùa vọng, mùa mong chờ. Không phải chỉ có con người mong chờ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa cũng mong chờ con người.
I. Con người mong chờ Thiên Chúa
Ngày xưa dân Do Thái mong chờ Thiên Chúa sai Đấng Thiên Sai để giải phóng họ khỏi ách người ngoại bang đô hộ. Thiên Chúa đã sai Môsê giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ bên Aicập bằng cách dẫn đưa họ vào đất hứa. Thiên Chúa đã sai các thẩm phán giải phóng họ khỏi cảnh đàn áp của những dân xung quanh. Thiên Chúa đã cho họ thoát cảnh lưu đày Babylon qua vị thiên sai ngoại đạo: vua Kyrô. Rồi thời gian đến, khi dân Do Thái đang mong chờ Ngài giải phóng họ khỏi cảnh người Roma đô hộ, thì Thiên Chúa đã sai Con Chí Ái của Ngài giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngày nay, Kitô hữu mong chờ Đức Giêsu đến trong vinh quang để giúp con người hạnh phúc trọn vẹn: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết và tuyên xưng Người đã sống lại, cho đến khi NGƯỜI LẠI ĐẾN”.
Con người như có thể làm tất cả mọi chuyện, vậy con người cần chờ mong gì nơi Thiên Chúa nữa không? Dường như con người ngày nay có thể độc lập với Thiên Chúa. Về phương diện y tế, con người tuy dù đối diện với bao bệnh nan y, nhưng vẫn liên tục tìm ra những phương thuốc để khắc phục các bệnh hiểm nghèo. Về giáo dục, người ta chờ mong nơi những thầy cô, những người làm công tác giáo dục để giúp các bậc cha mẹ làm trọn nghĩa vụ làm cha làm mẹ của mình; như vậy, dường như người ta chẳng còn cần gì nơi Thiên Chúa nữa!
Con người, tận thâm sâu lòng mình, đều cảm thấy mình bất lực để làm những điều tốt, cho cả mình và cho người khác. “Điều tốt tôi biết nhưng tôi lại không làm, tôi lại làm điều dở tôi thấy là không nên làm”. Khi chính mỗi người, người mà được người khác trông chờ, cảm thấy mình bất lực, cần Thiên Chúa trợ giúp để vượt thắng chính mình: “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, thì làm sao những người này có thể giúp người khác “trọn hảo” được. Việc giúp đỡ người khác, giúp họ triển nở và hoàn thiện chính mình, là điều Thiên Chúa đang làm qua trung gian những con người. Không có Thiên Chúa, con người không thể hoàn thiện chính mình và triển nở toàn diện được.
II. Thiên Chúa chờ mong
Không phải chỉ có con người chờ mong Thiên Chúa đến, nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng luôn chờ mong con người. Thiên Chúa tạo dựng con người để con người được sống hạnh phúc với Thiên Chúa, nhưng con người đã lạc xa điều Thiên Chúa mong ước cho con người: họ đi tìm mình, quy hướng tất cả về mình chứ không về Thiên Chúa. Thiên Chúa mong muốn con người sống triển nở toàn diện và hạnh phúc. Tôi có hạnh phúc thật sự không?
Dụ ngôn nén vàng (Mt.25, 14-30) gợi cho con người biết mỗi người đã được trao ban những nén vàng, và mỗi người đều được mời gọi để sinh lời. Những nén vàng Thiên Chúa ban cho tôi là gì? Tôi có làm phát triển những nén vàng tài năng Thiên Chúa ban cho tôi không? Thiên Chúa muốn tôi và mọi người sống triển nở và hạnh phúc. Thiên Chúa muốn tôi cộng tác với Ngài giúp người khác sống triển nở và hạnh phúc. Tôi có thực hiện điều Thiên Chúa muốn chưa?
Đức Giêsu, trong những giây phút cuối đời, đã để lại cho những người Ngài thương yêu một lời trối: “Hãy yêu mến nhau như thầy đã yêu thương anh em” (Ga.13, 34). Đây là một mệnh lệnh khó thực hiện, nhưng đó lại là mong ước của Thiên Chúa, vì điều này sẽ giúp con người được nên giống Thiên Chúa. Chính khi yêu thương, con người được triển nở và hạnh phúc. Có những người tưởng là yêu thương, tưởng là giúp người khác nhưng họ đang trói buộc người khác, họ làm những người này mất tự do bằng những giúp đỡ của họ, làm những người này lệ thuộc vào họ; những người này thật sự không phải là những người yêu thương kẻ khác, không phải là những kẻ giúp người khác thật sự, nhưng là những kẻ biến người khác thành nô lệ họ, bằng sợi dây tưởng rằng nhân nghĩa. Một tình yêu thực, là tình yêu làm con người tự do và phát triển, làm người được yêu cảm nghiệm tự do, triển nở và hạnh phúc.
III. Đức Maria đáp trả niềm chờ mong của Thiên Chúa
Đức Maria được Thiên Chúa chọn để thực hiện ý định cứu độ con người của Ngài. Ngài đã sai sứ thần tới hỏi ý kiến Đức Maria, xem Đức Maria có sẵn sàng để Thiên Chúa can thiệp vào đời Mẹ một cách vô điều kiện; cụ thể, Đức Maria có sẵn sàng chọn Thiên Chúa trên tất cả, có sẵn sàng chấp nhận một thai nhi trong dạ mình. Đức Maria được hỏi ý kiến, nghĩa là, Đức Maria có thể nói “không” với sứ thần truyền tin; nhưng Đức Maria đã quảng đại nhận lời, Mẹ đã thưa tiếng “xin vâng” bất chấp tất cả.
Đức Maria đã thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa không chỉ ở biến cố truyền tin, nhưng còn trong suốt đời Mẹ. Với biến cố phải trở về Bêlem để đăng ký nhân khẩu, Mẹ vẫn thưa xin vâng không một lời oán than. Với biến cố sinh con trong chuồng chiên cừu, Mẹ vẫn thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa khi chấp nhận biến cố này. Với biến cố Đức Giêsu ở lại đền thờ, Mẹ cũng không oán trách Thiên Chúa; và đặc biệt khi ở dưới chân thập giá, Mẹ vẫn thưa tiếng xin vâng dù chẳng hiểu làm sao Lời Thiên Chúa hứa với Mẹ qua sứ thần được thành sự.
Đức Maria, suốt cả cuộc đời, đã đáp trả tuyệt vời hy vọng của Thiên Chúa về con người. Mẹ đã làm chương trình của Thiên Chúa cho con người được hoàn tất. Thiên Chúa hài lòng về Mẹ. Mẹ không chỉ là người nữ tuyệt vời, nhưng còn là con người tuyệt vời nhất của mọi thời đại.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn mong chờ Thiên Chúa điều gì cách đặc biệt?
2. Theo bạn, Thiên Chúa chờ mong gì nơi bạn?
8. Mong đợi Chúa---Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Năm mới theo dương lịch, bắt đầu vào ngày 1 tháng Một mỗi năm. Năm mới theo âm lịch, bắt đầu vào ngày 1 thánh Giêng. Năm mới theo phụng vụ, bắt đầu vào ngày Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng. Mừng lễ Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng là chúng ta bước vào một năm phụng vụ mới.. Như vậy, Mùa Vọng là mùa xuân của năm phụng vụ, từ đó phát sinh hy vọng. Trong mùa xuân, cây cối trổ sinh lộc non lá mới, bắt đầu kết nụ đơm hoa chuẩn bị cho một mùa thu hoạch mới. Và như thế mùa xuân cũng là mùa hy vọng, đó là thời gian trông chờ, mong đợi.
Đối với niềm tin của chúng ta, Mùa Vọng thực sự là mùa trông chờ, mong đợi. Lòng trông đợi mỗi lúc một rộn ràng hơn khi càng gần lễ Giáng Sinh; đồng thời mang nhiều sắc thái và mức độ khác nhau tùy tâm trạng mỗi người: người ta đợi Nô-en như một dịp để ăn chơi, để giao thiệp; đợi Nô-en như một cơ hội "nhất cử lưỡng tiện": tiễn năm cũ và đón chờ năm mới may mắn, phát đạt hơn như phần đông tín hữu các nước theo dương lịch. Hoặc đợi Nô-en theo đúng tinh thần Tin mừng là đón Đấng Cứu Tinh nhân loại. Còn chúng ta, chúng ta mong đợi gì? Niềm trông đợi của chúng ta có ý nghĩa nào?
Chúng ta có thể trả lời: Chúng ta mong đợi Chúa đến. Ý nghĩa "Chúa đến" thường được hiểu ba cách: - Chúa đến trong lịch sử nhân loại - Chúa đến trong ngày thẩm phán chung hoặc riêng - Chúa đến trong tâm hồn mỗi người. Nhiều lúc chúng ta có khuynh hướng coi cả ba ý nghĩa này đều xa lạ với tư tưởng mong đợi. Thực vậy, trong lịch sử, Chúa đã đến từ hai ngàn năm và hiện giờ chúng ta đã kỷ niệm ngày sinh của Chúa từng mấy chục lần trong đời sống rồi. Còn trong ngày chung thẩm, trong cái chết của mỗi người thì sao? Dĩ nhiên Chúa đến, nhưng chẳng lẽ cứ ngồi mà lo sợ chờ chết ư? Cũng phải tạm quên cái chết để vật lộn với cuộc sống chứ? Còn Chúa đến trong cuộc sống mỗi người, thì ngày nào chúng ta chẳng đón Chúa trong kinh lễ, trong giờ cầu nguyện sớm tối? Thế thì chúng ta mong đợi cái gì nữa?
Giáo Hội dạy chúng ta vẫn phải mong đợi. Và hàng năm Giáo Hội tổ chức Mùa Vọng, không phải chỉ cốt để chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, không phải chỉ dạy chúng ta gây dựng tâm tình mong đợi trong mùa đó, nhưng Giáo Hội muốn nhân không khí Giáng Sinh dạy chúng ta phải có tâm tình mong đợi thường xuyên, phải mong đợi Chúa hàng ngày: Chúng ta mong đợi Chúa trong ngày chúng ta từ giã cuộc sống để về với Chúa. Đó cũng là một biến cố đích thực và có ý nghĩa.
Kinh Thánh và giáo lý dạy cho chúng ta biết: mỗi người có hai kiếp được sống và phải sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu; một đời sống hiện tại và một đời sống tương lai; một đời sống hành hương và một đời sống quê thật; một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, đó là lần bái yết Chúa đầu tiên và duy nhất. Đành rằng có một ít người được ơn lạ chết đi sống lại hai lần, như La-da-rô hay con trai bà góa thành Na-im hay một vài trường hợp nào đó, nhưng hầu hết nhân loại chỉ chết có một lần, vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra có một lần.
Sự chết xảy tới với mỗi người được Kinh Thánh gọi là Chúa đến. Và việc Chúa đến này thường xảy ra bất ngờ, bí mật. Thiên Chúa muốn giữ bí mật như vậy để chúng ta luôn luôn sẵn sàng, và do đó luôn cố gắng sống tốt lành thánh thiện. Chẳng hạn như trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô thuật lại dụ ngôn về đầy tớ phải canh thức đợi chủ về: "Anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến". Còn thánh Mát-thêu thì nói rõ: "Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến". Trong cả hai trường hợp, ý nghĩa đều rõ ràng là Chúa Giêsu nói về chính mình Ngài.
Chính vì yếu tố bất ngờ đó mà Chúa dạy chúng ta phải luôn canh thức và sẵn sàng. Bởi vì cuộc đời con người đem so sánh với thời gian đã là một cái gì tạm bợ. Nhưng nếu đem so sánh với sự sống vĩnh cửu, thì nó càng mong manh hơn biết bao. Người ta đã từng ví von: đời người như hơi nước dễ tan, như hơi thở qua mau, như cánh chim lưng trời mất hút, như bông hoa sớm nở chiều tàn. Cuộc đời không những phù du mà còn kèm theo tính cách bất ngờ nữa: không ai biết khi nào mình từ biệt cõi đời, như kinh nghiệm vẫn minh chứng và Kinh Thánh đã nói tới từ khi có con người.
Nhìn chung lại, đoạn Tin mừng này nêu chủ đề: Chúa sẽ đến, nhưng chúng ta không biết ngày nào, vậy phải canh thức để được sẵn sàng đón Ngài khi Ngài đến. Canh thức sẵn sàng như người đầy tớ hoàn thành nhiệm vụ được trao phó, như các trinh nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón chàng rể, như người được trao vốn đem kinh doanh sinh lời lãi, và cuối cùng bằng đời sống yêu thương phục vụ. Đó là cách thế chờ đợi Chúa đến.
Mùa Vọng là mùa trông đợi. Trông đợi Chúa đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Nhưng cũng là trông đợi giây phút cuối cùng của mỗi người khi ra đi gặp Chúa. Chúng ta đã chuẩn bị hành trang gì cho giây phút gặp gở ấy và có canh thức sẵn sàng chu toàn bổn phận mà Chúa trao cho hay không, để ngày Chúa đến là một niềm vui chứ không phải nỗi buồn, và chúng ta gặp Thiên Chúa tình yêu chứ không phải Thiên Chúa phán xét. Chúng ta canh thức mong chờ Chúa thế nào thì Chúa sẽ đến với chúng ta như vậy. Cho nên, chúng ta phải luôn sống trong tư thế sẵn sàng đón Chúa.
9. Sống tâm tình Mùa Vọng---Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Giáo Hội bắt đầu Năm Phụng vụ mới bằng Mùa Vọng. Mà Mùa Vọng thường rơi vào Mùa Đông. Vì thế có người thắc mắc rằng: Tại sao mở đầu cho một năm dân sự là Mùa Xuân, nhưng mở đầu cho một Năm Phụng vụ lại vào Mùa Đông? Tại sao lại không khởi đầu Năm Phụng vụ vào chính ngày Lễ Giáng Sinh như khởi đầu cho một cuộc đời là ngày người ấy cất tiếng khóc chào đời? Người Kitô hữu vẫn được dạy rằng Đức Kitô sinh vào ngày 25-12 và trước đó Giáo Hội dành 4 tuần cho Mùa Vọng, hàm ý “mùa trông đợi Chúa đến” từ ngàn xưa. Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này. Như vậy, ý nghĩa vô cùng khi khởi đầu cho một Năm Phụng vụ là Mùa Vọng.
Trong cuộc sống có nhiều thứ mùa vọng: có mùa vọng ngắn, có mùa vọng dài. Đối với một người mẹ thì mùa vọng là thời gian 9 tháng 10 ngày chờ đợi đứa con cất tiếng khóc chào đời. Đối với các sinh viên, mùa vọng là khoảng thời gian 4 năm hay 5 năm ngồi ở giảng đường đợi chờ ngày tốt nghiệp ra trường. Đối với người Dothái, mùa vọng là cả một hành trình dài trong lịch sử cứu độ, hành trình của hơn 1.000 năm chờ đợi Đấng Cứu Thế. Đối với người Kitô hữu, Mùa Vọng là khoảng thời gian 4 tuần lễ trước Giáng Sinh. Đây là thời gian trong Năm Phụng vụ mà Giáo Hội dành để con cái mình chuẩn bị tâm hồn mừng Con Thiên Chúa làm người. Xa hơn nữa, mùa vọng đối với đời người Kitô hữu còn là thời gian sống trên trần gian này. Nói cách khác, khi sống tâm tình Mùa Vọng của Năm Phụng vụ, người Kitô hữu được mời gọi sống tâm tình mùa vọng của cuộc đời, một mùa vọng kéo dài, mùa trông chờ Chúa đến trong vinh quang.
Tuy nhiên, điều mà người Kitô hữu chúng ta đang mong chờ, không phải là một biến cố, một món quà, một cuộc vui, hay là một ngày lễ nghỉ, mà trên hết là mong chờ một con người. Con người đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Tinh nhân loại. Nói khác đi, Mùa Vọng là một mùa không phải chỉ để chuẩn bị cho biến cố Giáng Sinh tưng bừng, nhưng là thời gian trông chờ và chuẩn bị đón mừng Ngôi Hai Thiên Chúa làm người và đón chờ Đức Giêsu Kitô là Hoàng Tử Vinh Quang sẽ đến trong ngày cánh chung, tức là ngày tận thế. Vậy phải chuẩn bị thế nào cho xứng đáng?
- Trước hết, hãy chuẩn bị bằng việc sửa soạn bên trong tâm hồn.
“Hãy tự hỏi Giáng sinh có ý nghĩa gì đối với cá nhân và gia đình mỗi chúng ta? Trang trí nhà cửa, bắt điện, treo đèn, hội tiệc… là cần thiết và phù hợp với mùa lễ hội, nhưng không thể thay thế được cho ý nghĩa thực sự mà đức tin đã dạy chúng ta về việc Con Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc sinh linh. Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria tại Bêlem. Chúng ta không thể bắt chước người đời nay chỉ trân quý Ông Già Noel. Chúng ta cũng không thể bị dẫn dụ bởi những kỹ thuật quảng cáo tinh xảo để bán sản phẩm của các công ty thương mại trong mùa này. Chúng ta cũng không thể bắt chước thói tục đời nay chỉ chúc mừng nhau trên môi miệng câu “chúc mừng ngày lễ”, bởi vì ngày sinh của Chúa không phải là ngày lễ thường mà ngày lễ rất trọng, ngày lễ mà mọi người Kitô hữu được kêu mời nghỉ trọn ngày để tôn vinh Thiên Chúa, ngày làm chúng ta được trở nên thánh thiện (A Holy Day), để chúng ta có thể chúc nhau câu “Mừng Sinh Nhật Chúa” (Merry Christmas). Nếu không có việc Chúa Giáng Sinh thì làm sao có ngày lễ để mà “happy holidays”? Do đó, khi gửi thiệp, tặng quà cho nhau, chúng ta hãy nhớ đến tặng ân từ Thiên Đàng mà Chúa Cha đã tặng ban cho nhân loại là Con Một Ngài là Chúa Giêsu Cứu Thế, và hãy tặng nhau một tấm lòng chân thật, biết ơn người khác” (Phó tế Phêrô Đặng Phi Hùng, “Trông đợi”).
- Sau nữa, hãy chuẩn bị bằng việc sống thái độ tỉnh thức.
Điệp khúc “hãy tỉnh thức” vẫn vang lên nhiều lần trong suốt Mùa Vọng. Tỉnh thức nghĩa là không mải mê, xao lãng với bổn phận, với nghĩa vụ làm người và làm Kitô hữu. Tỉnh thức là không ngủ say, ngủ vùi trong những đam mê và trong những thực tại trần thế mà quên đi những gì sẽ xảy đến bất ngờ cho con người. Tỉnh thức là thanh luyện tâm hồn mình khỏi mọi thói hư tật xấu, là tẩy trừ tâm hồn khỏi lòng tham sân si và mọi thứ dính bén trần tục, là nỗ lực thu nhỏ cái tôi của mình để cho Chúa được lớn lên, như tâm tình của Gioan.
Khi tỉnh thức, có người nhâm nhi cà phê, có người uống rượu... cho giờ mau qua, có người đánh bài để giết thời gian, có người hát hò, có người xem truyền hình, xem phim, lại có người nói chuyện tán dóc cho hết giờ. Bởi đó, nhiều lần ta nghe nói: người này chết (Chúa đến) khi họ đang ngủ, người kia chết (Chúa đến) khi họ đang làm việc; có người chết (Chúa đến) khi họ đang ăn uống, có người chết (Chúa đến) khi họ tỏ ra anh hùng trên xa lộ, hay đang chơi bời,...
Thời ông Noe, dân chúng mải mê ăn chơi thoải mái, trong khi gia đình ông Noe lại tất bật với việc đóng tàu. Dân chúng đi qua đó, thấy đó, nhưng họ lại chẳng lưu tâm gì với những điều Kinh Thánh đã loan báo. Có lẽ ông Noe cũng đã thông tin cho nhiều người chung quanh, khi họ hỏi ông đóng tàu làm gì, nhưng họ đâu có tin ông, vì họ đang mê mải ăn chơi, hưởng thụ. Chính thái độ thiếu tỉnh thức ấy đã khiến cho họ chết vùi, chết thảm trong trận hồng thuỷ thời bấy giờ.
Tỉnh thức là biết nỗ lực xây dựng một thế giới hiệp nhất, yêu thương, công bình và bác ái. Nếu chờ đợi trong tỉnh thức yêu thương, thì việc chờ Chúa đến sẽ không còn là sự bất ngờ đáng lo, đáng sợ nữa, nhưng lại là sự bất ngờ của niềm vui và hạnh phúc. Vì thế, Mùa Vọng là mùa của đợi chờ: đợi chờ chính Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, đợi chờ trong hy vọng, đợi chờ trong tin yêu. Chờ đợi như thế, chính là tỉnh thức, là sẵn sàng, là mở đường về Nước Trời. Amen.
10. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện---Lm. Đan Vinh
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý CHÍNH: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện (Lc 21,36).
Bài Tin Mừng hôm nay là một phần trong diễn từ cánh chung của Đức Giêsu (x. Lc 21,5-36). Khi trình bày đề tài cánh chung, Người đã dùng lối văn khải huyền.
Ta có thể chia bài Tin Mừng thành hai phần: Phần thứ nhất: Đức Giêsu cho biết sẽ có những điềm lạ trên trời và dưới đất tiên báo ngày Con Người sẽ đến trên đám mây, đầy quyền uy cao cả. Phần thứ hai: Người dạy các tín hữu phải có thái độ tỉnh thức và cầu nguyện luôn để chờ đón ngày ấy. Họ tránh sa đà vào các thói đam mê để khi Chúa đến bất ngờ, họ sẽ không lo sợ bị trừng phạt, và có thể đứng vững trước mặt Con Người.
2) CHÚ THÍCH:
+ Khi ấy Đức Giêsu phán cùng các môn đệ: Trong đoạn này, Đức Giêsu dùng lối văn khải huyền. Khải huyền là thể văn diễn tả các biến cố trong lịch sử và giải thích các biến cố ấy dưới cái nhìn cánh chung thế mạt, nhằm biểu lộ những điều ẩn giấu mà duy chỉ Thiên Chúa mới biết, để nhắc bảo người nghe phải có thái độ xứng hợp. Ở đây, Đức Giêsu vừa tiên báo về sự sụp đổ của thành Giêrusalem (x. Lc 21,20-22), như một hình ảnh để mặc khải về ngày tận thế, trước khi kêu gọi mọi người phải luôn tỉnh thức và sẳn sàng đón Chúa đến (x. Lc 21,23-24).
+ Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét: Người Do thái thời đó quan niệm không gian có ba tầng: trời, đất và biển. Qua câu này, Đức Giêsu muốn dùng những hình ảnh có tính cách khải huyền, để diễn tả sự can thiệp dứt khoát của Thiên chúa trên vũ trụ mà Ngài sắp giải thoát chúng khỏi sự dữ (x. Rm 8,19). Vì thế sự rung chuyển của ba tầng trời là dấu chỉ báo hiệu sự sụp đổ của chúng trong ngày tận thế. Vũ trụ hữu hình là trời cũ đất cũ cùng biển sẽ bị biến mất, nhường chỗ cho một trời mới đất mới xuất hiện và Thành thánh Giêrusalem mới sẽ từ trời mà xuống (x. Kh 21,1-8).
+ Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển: Những quyền lực trên trời là các tinh tú và sức mạnh của thiên giới. Lối nói này diễn tả tầm mức lớn lao và tính quyết liệt của việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử loài người lần cuối cùng. Các quyền lực trên trời ấy bị rung chuyển, sẽ kéo theo sự hỗn loạn của toàn thể vũ trụ, khiến cho người ta sợ hãi kinh hồn không biết tai họa gì sắp giáng xuống trên địa cầu.
+ Con Người đầy quyền năng và vinh quang: Đức Giêsu dùng tước hiệu Con Người làm tước hiệu riêng của mình, vì nó thể hiện đúng vai trò cứu thế của Người. Tước hiệu Con Người có hai ý nghĩa khác nhau nhưng lại bổ túc cho nhau: Một là “Người Tôi Tớ của Đức Giavê” chịu đau khổ để đền tội thay cho nhân loại (x. Mc 8,31) và ngày thứ ba sẽ từ trong kẻ chết trỗi dậy (x. Mt 17,9); Hai là “Chúa Con được đưa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (x. Tv 110,1), và sẽ quang lâm trên mây trời” trong ngày tận thế, để trở thành vị Thẩm phán tối cao phán xét thế gian và thiết lập một “Vương Quyền vĩnh cửu” (x. Đn 7,13-14).
+ Ngự trên đám mây: Mây được coi như xa giá của Thiên Chúa. Câu này cho biết Đức Kitô sẽ ngự đến trong uy quyền và vinh quang của Thiên Chúa.
+ Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên: Những dấu hiệu và biến cố Đức Giêsu tiên báo về ngày cánh chung thật đáng sợ. Nhưng các tín hữu của Chúa sẽ không phải lo sợ, vì những hiện tượng ấy chỉ biểu lộ quyền năng và sự chiến thắng của Thiên Chúa. Trong ngày đó, thái độ của các tín hữu sẽ là “đứng thẳng” và “ngẩng đầu lên” trong niềm hy vọng cậy trông và vui mừng hân hoan vì sắp được cứu chuộc.
+ Vì anh em sắp được cứu chuộc: Trong Cựu ước, Cứu Chuộc được dùng để diễn tả công việc Đức Chúa giải phóng dân Ítraen khỏi ách nô lệ Ai Cập (x.Xh 14,13), và ký một giao ước để công nhận họ làm dân riêng hay dân thánh, được hiến dâng cho Ngài (x. Xh 19,5; Is 62,11-12). Chính Giavê sẽ chuộc lại dân Ítraen khỏi mọi tì ố (x. Tv 130,7-8). Trong Tân ước, Cứu chuộc không những ám chỉ công cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô đã thực hiện trên núi Sọ (x. Rm 3,24-26), mà còn chỉ công trình Ngài sẽ hoàn tất vào cuối thời, khi Chúa Kitô quang lâm và xác loài người được phục sinh vinh hiển (x. Lc 21,28; Ep 1,14). Đức Giêsu đã đến để “hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc muôn người” (x. Mt 20,28).
+ Anh em phải đề phòng: Đức Giêsu nhắn nhủ các tín hữu phải cảnh giác vì tính cách bất ngờ của Ngày thế mạt.
+ Chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời: Đức Giêsu nêu ra những điều làm cho các tín hữu dễ bị lôi cuốn sa ngã là các đam mê như “chè chén say sưa” và quá “lo lắng việc đời”.
+ Kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em: Tính cách bất ngờ của giờ chết mỗi người hay ngày tận thế chung nhân loại được ví như chiếc lưới cá bất thần chụp xuống trên đầu mọi người, khiến không ai trên mặt đất có thể thoát khỏi.
+ Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn: Tỉnh thức là không mê ngủ, là luôn ở tư thế “thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn”, để chu toàn bổn phận đã được trao phó (x. Lc 12,35-48). Tỉnh thức còn là sự trung tín với Chúa nữa. Cầu nguyện luôn nghĩa là cầu nguyện không ngừng, không nhàm chán hay nản chí (x. Lc 18,1). Cầu nguyện luôn là cách biểu hiện một đức tin mạnh mẽ và sống động.
+ Đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người: Nếu biết tỉnh thức để luôn trung tín với Chúa và cầu nguyện không ngừng thì các tín hữu sẽ được cứu khỏi cơn gian nan thữ thách sắp xảy đến và sẽ tồn tại trước tòa phán xét sau này.
HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) LỜI CHÚA: “Chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời…” (Lc 21,34):
2) CÂU CHUYỆN 1: Con tàu Titanic.
Đêm 15.04.1912 các báo đài trên thế giới đồng loạt đăng tin về tai nạn đắm con tàu Titanic nổi tiếng. Khi nó đang chạy trên vùng Bắc Đại Tây Dương thì đụng phải một tảng băng ngầm khiến thành tàu bị lủng một miếng lớn, khiến nước ào vào khoang tàu. Sau mấy tiếng đồng hồ thì con tàu đã bị gãy làm đôi và chìm xuống lòng biển, mang theo phần lớn hành khách và toàn bộ thủy thủ đoàn. Titanic là một con tàu vĩ đại: dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét với 8 tầng đầy đủ tiện nghi. Trên tàu có phố chơi, hồ bơi, sân chơi thể thao, rạp hát, vườn bông, nhà hàng…và số hành khách có mặt trên tàu lúc gặp nạn khoảng 1500 người. Hầu hết họ là người có danh giá có địa vị xã hội như các ông hoàng bà chúa, chính khách, đại phú gia, nghệ sĩ và thương gia…Con tàu Titanic từ khi hạ thủy đã được đánh giá là an toàn tuyệt đối, có khả năng thách thức với mọi thời tiết. Nhưng thực tế mới khời hành được mấy ngày thì đã gặp nạn. Đây là một trong những tai nạn đường biển khủng khiếp nhất trong lịch sử hàng hải thế giới từ trước đến nay.
3) CÂU CHUYỆN 2: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”:
Một vị đan tu tên là Mê-síc (Mésique), đã một thời gian khá lâu sống ngược với ơn gọi nên thánh của một tu sĩ. Một ngày kia ông đột nhiên bị ngất đi suốt một ngày một đêm không biết gì. Khi tỉnh dậy, ông hầu như đã trở nên một người khác. Ong không hé môi cho ai biết về điều ông đã gặp trong khi bị ngất, và chỉ xin cha bề trên cho được sống riêng trong một phòng kín, không tiếp xúc với bất cứ ai để có thời giờ hồi tâm sám hối. Hằng ngày các bạn mang cho ông một chiếc bánh mì và một bình nước uống qua một cái cửa sổ nhỏ. Và ông đã sống trong căn phòng kín ấy suốt 12 năm trời. Một hôm, không thấy ông lấy đồ ăn xuống như mọi khi, các tu sĩ gọi mãi mà không thấy ông lên tiếng. Tưởng ông đã chết, nên họ phá cửa vào trong phòng, thì thấy ông đang nằm bất tỉnh dưới đất trong tình trạng hấp hối sắp chết. Khi tỉnh dậy và nhìn thấy các tu sĩ đang vây chung quanh, ông đã thều thào nói những lời cuối cùng trước khi nhắm mắt như sau: “Hỡi các anh em. Tôi chỉ khuyên anh em một bài học mà tôi đã cảm nghiệm và rút ra được sau 12 năm thinh lặng để sám hối trong căn phòng kín này là: Ai luôn ý thức về sự chết thì sẽ không còn cố tình phạm tội nữa”. Rồi ông gục đầu tắt thở, để lại cho mọi người một ấn tượng khó quên. Thật đúng như lời Chúa phán trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36).
4) SUY NIỆM:
+ Gần đây, trong dịp kỷ niệm biến cố đắm tàu Titanic, một tạp chí tôn giáo kia, sau khi nhắc lại thảm họa, đã nêu ra cho độc giả một câu hỏi để suy nghĩ như sau: “Giả như chúng ta cũng có mặt trên con tàu Titanic kia, khi con tàu đang bị chìm, thì chúng ta có tiếp tục vui chơi ăn uống và khiêu vũ…mà quên mình sắp bị chết chìm không?. Câu hỏi này phù hợp với câu nói của Đức Giêsu mà Giáo Hội muốn chúng ta suy nghĩ trong Mùa Vọng này như sau: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em” (Lc 21,34).
+ Cái chết thường bất ngờ!: Lời Chúa hôm nay cũng nói đến sự bất ngờ ấy như sau: “Anh em phải đề phòng, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”. Nơi khác Chúa phán: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến…Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,42.44).
+ Tuy bất ngờ, nhưng không phải hoàn toàn bất ngờ: Vì Chúa vẫn thương yêu chúng ta. Người luôn ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước về cái chết, để chúng ta kịp thời chuẩn bị. Mỗi khi thấy một người chết vì bệnh hay do tai nạn…là một tín hiệu Chúa gửi tới để nhắc ta về cái chết của mỗi người chúng ta. Khi ta thấy có những sợi tóc bạc xuất hiện trên đầu, một chiếc răng bị hư, đôi mắt ngày càng cận thị, tay chân bị thấp khớp sưng lên, khiến ta di chuyển khó khăn, một cơn bệnh nặng xuất hiện…là những tín hiệu cho thấy sự lão hóa, báo trước về giờ chết của ta chắc chắn sẽ đến! Chúng ta không nên bịt tai nhắm mắt trước những tín hiệu ấy, nhưng hãy thành tâm tìm hiểu ý nghĩa và sẵn sàng chờ đón giờ chết đến.
+ Phải canh thức và đề phòng: Đừng để cho những đam mê lạc thú bất chính, những tiện nghi vật chất, những nhu cầu thể xác như cơm, áo, gạo, tiền…chi phối chúng ta, làm cho chúng ta quên đi cùng đích cuộc đời là trở về Nhà Cha trên trời. Trong khi chờ đợi ngày ấy, ta cần phó thác cuộc sống của ta trong tay Chúa Quan Phòng và ưu tiên tìm kiếm Nước Trời như Lời Chúa dạy: “Vì thế, anh em đứng lo lắng tự hỏi: Ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? (Mt 6,31). Nhưng “trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người. Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
+ Phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn: Tỉnh thức nghĩa là luôn trung tín chu toàn việc bổn phận Chúa trao. Cầu nguyện là năng nhớ đến Chúa, dâng lên Người những lời nguyện vắn tắt, kèm theo những việc tốt phục vụ tha nhân. Cầu nguyện còn là siêng năng đi dự lễ và rước lễ mỗi ngày. Nhờ đó ta sẽ có nhựa sống là Ơn Thánh hóa của Chúa thông ban, giúp ta mỗi ngày trở nên hoàn thiện giống như Chúa Cha hơn (x. Mt 5,48).
5) SỐNG LỜI CHÚA
Khi vừa thức dậy, tôi quyết tâm dâng một ngày mới cho Chúa. Noi gương thánh nữ Têrêsa: “Làm những việc thường ngày bằng một cách thức phi thường”. Vậy từ ngày hôm nay tôi sẽ năng thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin dạy con yêu mến Chúa. Xin giúp con làm tốt việc con đang làm để biểu lộ lòng con yêu mến Chúa”.
11. Đứng thẳng và ngẩng đầu lên--Dã Quỳ
Hằng năm, Giáo Hội cử hành Mùa Vọng với hai đặc tính: Vừa là mùa chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh, kính nhớ biến cố Con Thiên Chúa đến với nhân loại lần thứ nhất; vừa là mùa mà qua việc kính nhớ này, chúng ta hướng lòng trông đợi Chúa Ki tô đến lần thứ hai trong ngày cánh chung. Vì thế, Lời Chúa trong phụng vụ Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng hôm nay không nói về Hài Nhi trong máng cỏ nhưng trình bày cho ta: “Thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến." (Lc 21,27) Và ta cần làm gì để có thể nghênh đón Người.
Với lễ Giáng Sinh, phần nhiều ta nhớ về một biến cố của quá khứ. Việc Chúa Ki tô đến giữa chúng ta đánh dấu sự chiến thắng của ánh sáng trên bóng tối và chiến thắng này vẫn được tiếp nối. Còn thời gian mùa vọng, ta không được hướng về quá khứ nhưng phải hướng về tương lai. Đấng đã đến trong khiêm hạ sẽ lại đến vào thời cuối với "đầy quyền năng và vinh quang". Như vậy, thời gian mùa vọng được ban tặng để cho chúng ta mở lòng ra và chuẩn bị đón Chúa đến. Thế nhưng, ngày Chúa đến trong vinh quang cũng đồng thời là ngày cùng tận của thế giới. Chúa cho ta biết thế giới này sẽ qua đi và trước ngày Chúa đến, sẽ có nhiều biến cố và sự dữ xảy ra. Nhưng Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy đứng vững, ngẩng đầu lên, hy vọng và tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, Người luôn làm chủ lịch sử và cứu rỗi chúng ta theo lòng nhân hậu và hay thương xót của Người.
Vậy để có thể đứng thẳng, ngẩng đầu lên, thoát khỏi mọi điều dữ và đứng vững trước mặt Con Người, Chúa Giêsu đã nhắc nhở, chỉ cho ta những phương cách đề phòng và thực hiện:
- Đừng để những bận tâm về cuộc sống đè nặng chúng ta: "Chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời." (Lc 21,34) Những bận tâm ấy phải chăng là lòng say mê danh vọng, tiền của... Lòng nặng nề này có thể là niềm đam mê những thú vui xấu, ăn uống say sưa... Và mối lo lắng kia có lẽ là những toan tính hơn thiệt, gian dối, ti tiện cho cuộc sống nơi trần gian này... Quá gắn bó với những danh lợi thú, chúng ta biết nó sẽ làm tê liệt con tim của ta! Khi chúng ta để cho mình quá lo lắng về cuộc sống trần gian bởi sự hưởng thụ, chúng ta sẽ quên "Ngày ấy"! Đừng để bị bất ngờ về những lúc Chúa Giêsu đến với ta trong nhiều cách thức qua các biến cố hằng ngày, qua giờ chết của mỗi người và nhất là ngày Chúa quang lâm. Hãy biết chuẩn bị cho mình một hành trang nhẹ nhàng là lòng thanh thoát với sự đời, sống thánh thiện trong cách ăn nết ở như lời thánh Phao lô khuyên ta "Trở nên thánh thiện, không có gì đáng trách trước nhan Thiên Chúa... Sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa... Hãy tấn tới nhiều hơn nữa." (1Tx 3,13.4,1) Và luôn sẵn sàng lên đường.
- Đừng bao giờ ngừng cầu nguyện: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn." (Lc 21,36) Tỉnh thức để cầu nguyện và cầu nguyện giúp ta tỉnh thức trước những cám dỗ của thế trần, của những ham mê danh lợi thú, của những lo lắng sự đời, của những gì ngăn cản Chúa không đến được với ta... Cầu nguyện giúp ta tỉnh thức hướng lòng về quê hương vĩnh cửu mà không bám víu trần gian. Chúa đã dặn các môn đệ "Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối." (Mc 14,38) Chính Người đã dạy ta cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha và cho ta gương mẫu cầu nguyện liên lỉ, kết hợp với Chúa Cha từ sáng sớm tới lúc chiều tà: "Sáng sớm Người đã dậy, đi ra nơi hoang vắng và cầu nguyện" (Mc 1,35) Thánh Phaolô cũng nhắc với các tín hữu: "Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta khi cầu nguyện cho anh em." Còn Thánh Tê rê sa Avila nói với ta "Ai không cầu nguyện, không cần ma quỉ lôi kéo, sẽ tự mình sa xuống hỏa ngục." Cầu nguyện như chiếc thang nối đất với trời. Cầu nguyện là chiếc chìa khóa mở trái tim của Thiên Chúa. Không ai mạnh bằng người cầu nguyện. Ngoài những lời kinh thường đọc thật tốt, nhất là Kinh Lạy Cha, ta hãy dùng thời giờ trong mọi nơi mọi lúc, dễ dàng để dâng lên Chúa những tâm tình chúc tụng, cảm tạ, xin lỗi và cầu xin ơn lành... Cầu nguyện phải là nghề của mỗi Kitô hữu, con cái Chúa.
Trong cầu nguyện, Chúa đến với ta và ta gặp Chúa, hiện diện với Chúa. Mỗi lần mà ta cử hành Thánh Thể, Chúa đến trong chúng ta một cách mầu nhiệm qua chính Mình bị nộp và Máu đổ ra. Chúa cũng đến với ta qua Lời của Người. Như vậy, qua cầu nguyện, chúng ta tập luyện đón Chúa mỗi ngày và vì đã ý thức đón Chúa, gặp gỡ Chúa rồi, ta sẽ không bất ngờ khi Người trở lại trong ngày chung cuộc. Nhờ cầu nguyện, Chúa ban cho chúng ta sức mạnh và lòng tin tưởng để có thể thoát khỏi những sự dữ và những biến cố trong ngày Chúa đến. Nhất là chỉ có tỉnh thức và cầu nguyện, ta mới có thể đứng thẳng, ngẩng đầu và đứng vững trước Chúa khi Người xuất hiện trong vinh quang như lời Người tiên báo "Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng." (Lc 22, 69) Và nếu chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta có thể hiện diện trước Chúa với một bảo đảm được cứu rỗi.
Vậy chúng ta cần nhắc lại những lời khuyên cấp thiết của Chúa Giêsu: Hãy hy vọng... tin tưởng... tiết độ... sẵn sàng... tỉnh thức... cầu nguyện. Và chúng ta hãy để Tin Mừng này vang lên trong lòng chúng ta. Ước gì tình yêu của chúng ta đối với Chúa và tha nhân được mãnh liệt hơn. Chúng ta hãy thực hiện Lời Chúa dạy, tìm thời gian cầu nguyện và suy gẫm tránh để lòng mình ra nặng nề...và hãy sống đẹp lòng Chúa. Chúng ta sẽ dành sự tiếp đón nào cho Đấng mà chúng ta chờ đợi? Lạy Chúa Giê su, xin hãy đến. Chúng con chờ đợi Ngài.
12. Đứng thẳng ngẩng đầu đón Chúa đến
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Mới nghe qua bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng hôm nay, chắc có nhiều người trong chúng ta sẽ nghĩ rằng: Tại sao ngày đầu Năm Phụng Vụ, Tin Mừng lại không nói đến chuyện vui tươi hy vọng mà lại nói đến những chuyện khủng khiếp ghê rợn như: biển gào sóng thét, trời đất rung chuyển, hồn xiêu phách lạc… Cũng có người nghĩ rằng trong ngày đầu năm chắc hẳn Hội Thánh muốn chỉ cho con cái mình thấy những hình ảnh nhuốm mằu sắc tận thế như là cùng đích mà mọi loài sẽ phải đến. Nhưng thực ra những hình ảnh khủng khiếp ấy báo hiệu cánh cửa thế gian này sẽ đóng lại để mở ra một cánh cửa dẫn vào thế giới vĩnh cửu, sự sống mới, sự sống đời đời.
Cho nên, bài đọc thứ nhất trích sách Giêrêmia khẳng định: Này đây sẽ đến những ngày Ta sẽ thực hiện điều tốt lành. Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính. Bài Tin Mừng xác nhận cái mầm non đó chính là Con Người sẽ ngự đến trong đám mây đầy quyền năng… vì vậy, chúng ta hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì chúng ta sắp được cứu chuộc.
Như vậy kính thưa quý ông bà và anh chị em trọng tâm của Lời Chúa hôm nay không phải là cái gì buồn bã hay chỉ nhắm mô tả ngày tận thế, nhưng là niềm vui mừng hy vọng vì chúng ta sắp được cứu thoát. Qủa thế, trước khi hạt giống nẩy mầm, nó bị vùi xuống bùn đất, thối đi, tan rã vỏ hạt, rồi mới hé nở mầm sống mới. Tương tự, khi một chú gà con, một chú bướm con ra đời là niềm vui thật sự cho người chăn nuôi gà vịt hay trồng dâu nuôi tằm sau những tháng ngày hồi họp lo âu chờ đợi. Cũng vậy, Lời Chúa mời gọi chúng ta vui mừng, vui mừng vì Chúa sẽ đến mỗi giờ, mỗi ngày trong cuộc đời chúng ta. Lúc đó như lời thánh Phaolô trong bài đọc II nói: Ngài sẽ làm cho chúng ta bền tâm vững chí, trở nên tinh tuyền thánh thiện, không có gì đáng trách trước nhan Thiên Chúa Cha là Chúa chúng ta, trong ngày Đức Giêsu quang lâm cùng với các thánh của Người.
Vậy, Chúa Giêsu dạy chúng ta bí quyết để được hạnh phúc nhất trong ngày ấy đó là tỉnh thức cầu nguyện, đừng để lòng mình ra nặng nề đến độ không thể nào đứng thẳng dậy và ngẩng đầu lên. Tại sao? Thứ nhất, vì lối sống hưởng thụ, chúng ta luôn tìm cách thoả mãn các đam mê lạc thú cách vô độ và ích kỷ khiến cho “lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa”. Thứ hai, tính thực dụng do mải mê lo lắng đủ chuyện ở đời: tính toán làm ăn, gia đình con cháu… mà quên mất điều duy nhất cần thiết là tìm lẽ sống và đạt tới ơn cứu độ. Thứ ba, với “nền văn minh vứt bỏ”, chúng ta thường vô cảm đối với thiên nhiên môi trường và với tha nhân và diễn nhiên dẫn đến việc tàn phá môi trường sống đồng thời tàn sát nhau không thương tiếc. Vì lẽ đó Lời Chúa Giêsu khi xưa vẫn còn là réo gọi chúng ta rằng: "Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người."
“Tỉnh thức và cầu nguyện” là việc làm không phải tùy hứng tùy thời mà chúng ta phải làm luôn luôn trong suốt cuộc đời: tỉnh thức có nghĩa là phải thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến. Cầu nguyện để xin Chúa dạy cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa. Tỉnh thức để đừng bị ngã quị trước những cám dỗ, những cạm bẫy làm ta xa lìa Chúa. Cầu nguyện để Chúa Giêsu trở thành người bạn mỗi ngày mỗi thân mật hơn, đến độ chúng ta không còn lo sợ trước ngày Chúa đến với chúng ta, dù là một cách bất ngờ.
Cho nên, đứng thẳng và ngẩng đầu là tư thế của Đấng Phục Sinh, nhưng không thể phục sinh nếu không chết đi, chết đi cho đam mê, cho tội lỗi mỗi ngày. Muốn hiền lành thì một nụ cười mĩa mai, một lời nói giận dữ phải chết đi. Muốn một sự lười biếng cầu nguyện chết đi thì một quyết tâm đọc kinh mỗi ngày. Muốn một hành động tội lỗi chết đi, cần phải có một sự sám hối chân tình. Cho nên, Tin Mừng hôm nay không nói đến những đổ nát để đe dọa cái chết kinh hoàng nhưng lại mời gọi chúng ta phải làm đổ nát con người cũ của mình. Vậy bây giờ chúng ta phải có những ngày tận thế cho những đam mê tật xấu nơi chúng ta để ngày Chúa đến chúng ta đứng vững trước mặt con Người.
Vậy, ngày khởi đầu Mùa Vọng là ngày định hướng và chi phối chúng ta không chỉ trong Mùa Vọng ma suốt Năm Thánh Lòng Thương Xót sắp mở ra để chúng ta luôn tỉnh thức, cầu nguyện, hy sinh phục vụ bác ái yêu thương để đón Thiên Chúa giàu lòng thương xót, là Chúa Giêsu đến với chúng ta. Amen.
13. Tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi bất ngờ
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Như chúng ta đã biết vụ cháy rừng lịch sử ở bang California, lớn nhất nước Mỹ từ trước đến nay vào mấy tháng vừa qua. Theo lực lượng cứu hỏa California, khoảng 110 đám cháy rừng lớn đã thiêu rụi khoảng 23.000 km2, đã cướp đi hàng trăm sinh mạng và hàng ngàn người mất tích và buộc cả hàng chục nghìn người phải sơ tán, sống trong màn trời chiếu đất trong một đất nước tân tiến, giàu nhất thế giới, 1 cảnh tượng không ngờ. Biển lửa đã thiêu rụi muôn loài muôn vật khi nó đi qua. Và các nhà khoa học, các kỹ thuật gia tân tiến, các lực lượng và vũ khí chữa lửa tối tân quá bất ngờ trước sức mạnh của ngọn lửa kinh khủng này. Đây là bất ngờ của sự vật, vật chất.
Trong cuộc sống còn có một sự bất ngờ khác, nó thường xuyên hơn và làm cho chúng ta lúng túng hơn. Một lần tôi đi xe từ Huế vào Đà nẵng, trên xe có một ông tây, bác tài nói nhỏ với thằng lơ rằng: thằng này nó người Mỹ, nó chẳng biết gì đâu mày cứ chém thẳng cánh cho tao, thay vì 50đ ngàn thì mày cứ cắt 100đ ngàn. Ông tây quay qua nói to rằng: sức mấy mà chém tôi được chỉ có 50đ thôi. Bất ngờ phải không anh chị em! Cái bất ngờ này đâu phải bất ngờ theo thời gian hay vật chất mà là bất ngờ ở tính cách, bất ngờ vì vượt ngoài dự đoán, suy nghĩ quen thuộc của chúng ta, cái bất ngờ này mới là đáng sợ, bất ngờ ở tính cách. Cho nên, Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người". Vì thế, Giáo Hội muốn cho chúng ta hiểu ý nghĩa thần học của việc chờ mong Chúa đến vì hàng năm vào mùa Vọng và Giáo Hội mời gọi ta chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến. Thực ra Chúa đã đến rồi khi sinh ra tại hang đá Bêlem cách nay hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên ta vẫn luôn chờ mong vì Chúa đến hằng ngày với ta trong tính cách của Ngài. Và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán xét cho nên việc chớ Chúa đến lần thứ hai rất quan trọng cho cuộc đời chúng ta.
Vậy, Chúa Giêsu dạy chúng ta bí quyết để được hạnh phúc, để bình an đứng trước mọi biến cố buồn vui, sung sướng hay đau khổ của cuộc đời: tỉnh thức cầu nguyện hầu giúp ta đề phòng sự bất ngờ trong tính cách từ tinh thần đến thể xác, để rồi đừng để mình nặng nề trong tội lỗi, thất vọng đến độ không thể đứng vững trước mặt Thiên Chúa và tha nhân. Tại sao đứng vững vì tội lỗi qúa, tuyệt vọng quá? Tại sao tội lỗi và tuyệt vọng như vậy, vì không tỉnh thức và cầu nguyện. Lý do thứ nhất không tỉnh thức và cầu nguyện là vì lối sống hưởng thụ này, chúng ta luôn tìm cách thoả mãn các đam mê lạc thú cách vô độ và ích kỷ khiến cho lòng mình ra nặng nề vì ngũ đổ tường: rượu chè, cờ bạc, gái gú, nghiện gậm ma túy, và ghiện game thế giới ảo. Lý do thứ hai, ta không tỉnh thức và cầu nguyện, vì tính thực dụng do mải mê lo lắng đủ chuyện cơm áo gạo tiền, nhân tình thế thái: tính toán làm ăn, gia đình con cháu, kinh tế, danh vọng, dục vọng… mà quên mất điều duy nhất cần thiết là tìm Nước Thiên Chúa và đạt tới ơn cứu độ. Lý do thứ ba, ta không tỉnh thức và cầu nguyện, vì với “nền văn minh vứt bỏ”, chúng ta thường vô cảm đối với thiên nhiên môi trường và với tha nhân cho nên con người tàn phá môi trường sống một cách tàn bạo đồng thời tàn sát nhau không thương tiếc. Vì lẽ đó Lời Chúa Giêsu vẫn còn là réo gọi chúng ta rằng anh chị em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để vừa đề phòng mình khỏi diệt vong vừa nên thánh và thiện trước mặt Thiên Chúa và mọi người.
“Tỉnh thức và cầu nguyện” là việc làm không phải tùy hứng tùy mùa mà chúng ta phải làm hằng ngày trong suốt cuộc đời: tỉnh thức có nghĩa là phải "Có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,12-14). Còn Cầu nguyện hướng tâm hồn lên Chúa để xin Chúa dạy cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa. Cầu nguyện để Chúa Giêsu và Lời Ngài trở thành người bạn mỗi ngày mỗi thân mật hơn, đến độ chúng ta không lo sợ mọi nguy nan trong cuộc sống hay ngày Chúa đến với chúng ta, dù là một cách bất ngờ. Tỉnh thức để đừng bị ngã quị trước những cám dỗ, những cạm bẫy làm ta xa lìa Chúa, mất Chúa và mất cả tha nhân. Cho nên, Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô dạy rằng: “Tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, anh em hãy bền tâm vững chí, hãy trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giê-su, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người”. Còn, trong cuộc sống người đời thường ca rằng: “(1). Này bạn thân ơi, số kiếp nhân sinh chỉ là cõi tàn trần gian. Dù anh và tôi ai sang giàu ai gian khó, mai sau kiếp con người/ về với cát bụi mờ thì cũng điều đôi tay trắng.
(2.) Đời là phù du, ta sống hôm nay không biết về ngày mai sau, hãy dành cho nhau bao nhiêu niềm vui đang có, không ganh ghét hận thù, chẳng gian dối lọc lừa vì kiếp người sẽ vội qua.
ĐK: Người ơi hãy nhớ ta là cát bụi, sẽ về cát bụi/ thì xin đừng toan tính thiệt hơn, đời như thoáng mơ, được mất ta đâu ngờ/ hỏi ai có bao giờ không trở về cát bụi đâu.
(3.) Cuộc đời là bao, hãy mến thương nhau với bằng tất cả con tim, để rồi một mai khi ta lìa xa nhân thế, không lo lắng ưu buồn chẳng nối tiết muộn phiền chuyện thế sự nơi trần ai”.
Đó, người đời chỉ biết hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi để một mai tôi trở về cát bụi hư vô, người đời chỉ sống hôm này không biết về ngày mai sau. Còn chúng ta thì biết chúng ta từ cát bụi không trở về cát bụi mà đi vào sự sống đời với Thiên Chúa, chúng ta sống hôm nay nhưng biết ngày sau Chúa sẽ đến đón chúng ta vào Nước hằng sống vì vậy, Mùa Vọng, mùa vui mừng và hy vọng, mùa tỉnh thức và cầu nguyện để chờ đợi Chúa đến, ước vì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho chúng con biết “tỉnh thức và cầu nguyện”, để tâm hồn luôn sẵn sàng thi hành Lời Chúa dạy hầu chúng ta luôn biết sống thánh và làm việc thiện, hy sinh phục vụ, yêu thương và đồng hành với những gia đình gặp khó khăn thứ thách trong cuộc sống đúng với chủ đề Hội đồng giám mục việt nam mới gọi chúng ta sống mùa vọng, mùa giáng sinh và suốt năm nay để tâm hồn chúng ta xứng đáng đón mừng Đại Lễ Giáng sinh sắp đến. Amen.
14. Hãy tỉnh thức và ngẩng cao đầu
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Lc 21:25-27.34-36: Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta hai điều: hãy tỉnh thức và ngẩng cao đầu.
Trong cuốn "Giai thoại về những cái chuông" (The legend of the Bells) John Shea có kể một câu chuyện như sau:
Khi Thiên Chúa dựng nên cây cối, Người ban cho mỗi loài cây một ân huệ. Nhưng ban đầu, khi Người đưa ra một cuộc tranh luận, để xác định xem ân huệ nào có lợi ích nhất. Người nói với chúng: “Ta muốn các ngươi phải thức tỉnh và tiếp tục coi sóc cả mặt đất trong vòng bảy đêm”.
Những thân cây còn non rất phấn khởi, vì được Người tin tưởng giao phó cho một công việc quan trọng như vậy, đến nỗi trong đêm đầu tiên, chúng nhận thấy việc canh thức không có gì là khó khăn cả. Tuy nhiên, trong đêm thứ hai, thì việc đó không còn dễ dàng nữa, và trước khi đến lúc rạng đông, một số cây đã lăn ra ngủ. Trong đêm thứ ba, các thân cây thì thầm nhắc nhở nhau cố gắng giữ mình, để khỏi bị cám dỗ của cơn ngủ. Mặc dù vậy, điều này chứng tỏ là quá sức đối với một số cây. Trong đêm thứ tư, lại có thêm vài cây ngã gục.
Đến đêm thứ bảy, những thân cây duy nhất còn tỉnh thức là cây tuyết tùng, cây thông, cây vân sam, cây linh sam, cây nhựa ruồi và cây nguyệt quế.
Thiên Chúa nói với chúng: “sức chịu đựng của các ngươi thật tuyệt vời! Các ngươi sẽ được ban cho một ân huệ là giữ được mầu xanh tươi mãi mãi. Các ngươi sẽ trở thành những kẻ canh gác khu rừng. Ngay cả trong mùa đông dường như mang lại cảnh chết chóc, thì các ngươi vẫn bảo vệ được sự sống trên những cành cây của các ngươi.” Kể từ đó, tất cả các cây cối và thực vật đều bị rụng lá và ngủ trong suốt mùa đông, trong khi đó các cây kể trên vẫn thường xanh tươi ngay cả trong mùa đông.
Kính thưa cộn đoàn phụng vụ,
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta hai điều: hãy tỉnh thức và ngẩng cao đầu.
1. Hãy tỉnh thức
Thế giới chung quanh có thể ngủ mê hoặc cằn cỗi, nhưng những thân cây xanh vẫn tiếp tục mang lại lời chứng. Chúng chỉ ra cho chúng ta thấy rằng, trong tư cách là người Kitô hữu là phải tỉnh thức giữa những kẻ ngủ mê, phải xanh tươi giữa những kẻ cằn cỗi.
Tỉnh thức trái với ngủ quên, trái với tình trạng mê mải, bị thu hút bởi một sự việc gì, khiến ta quên mất điều ta phải nhớ, điều chúng ta phải làm.
Chúng ta có thể trở nên «mê ngủ», mất tỉnh thức khi ta bị cuốn hút bởi danh, lợi, và thú vui trần tục. Nhiều người mê mải tìm kiếm tiền bạc, quyền lực… đến nỗi chẳng những quên đi bổn phận mình phải làm cho tha nhân mà có khi còn làm những điều bất lợi cho tha nhân.
Bất cứ điều gì có thể làm chúng ta say mê trong cuộc đời, thậm chí là những điều tốt như công việc, chuyện làm ăn...cũng có thể làm ta mất tỉnh thức. Ngay cả việc thờ phượng Chúa như dâng lễ, đọc kinh, cầu nguyện…cũng có thể ru ngủ ta, làm ta quên cả bổn phận mình phải làm cho tha nhân. Đáng lẽ việc thờ phượng Thiên Chúa đích thực phải giúp ta ý thức đến bổn phận của ta đối với tha nhân một cách hữu hiệu. Vậy, một cách cụ thể, tỉnh thức chính là luôn thờ phượng Thiên Chúa và đồng thời cũng phải quan tâm đến tha nhân, những người anh chị em của chúng ta.
2. Ngẩng cao đầu
Ngày tận thế và ngày mỗi người phải ra đi khỏi trần thế này là một điều chắc chắn. Ngày đó là ngày đáng sợ cho mọi người, nhưng Chúa bảo chúng ta đừng sợ vì ơn cứu rỗi đã đến gần. Chính vì thế chúng ta phải phấn khởi và chờ đợi trong tư thế đứng thẳng và ngẩng cao đầu.
Hãy đứng thẳng là tư thế của con người can đảm. Can đảm là một điều kiện cần thiết để có sức mạnh mà đối phó với mọi nghịch cảnh, khó khăn và quyết liệt dứt khoát từ bỏ mọi quyến rũ bất chính.
Chúa dạy chúng ta:”các con hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề”. Chúa nhắc nhở chúng ta phải canh chừng và đề phòng những lôi cuốn của thế gian làm cản trở tâm hồn bay lên cao. Ba điều cản trở được nhắc ở đây là: ăn uống thái quá, chè chén say sưa, lo lắng sự đời quá mức.
Hãy ngẩng đầu để nhìn lên chớ không cắm mặt xuống đất. Khi lòng trí đã ra nặng nề chỉ thấy những sự trên mặt đất thì làm sao chúng ta có thể thấy được những sự trên trời cao như câu chuyện ngụ ngôn kể về một con chim ưng: "đang khi đói bụng, nó bay qua một nông trại, nhìn xuống thấy biết bao nhiêu giun dế. Nó thèm lắm, nhưng lại sợ chết nên nó phải hạ cánh bay xuống sát mặt đất của nông trại để thương lượng với bác nông dân. Con chim ưng sẵn sàng đổi cho ông, cứ mỗi cái lông lấy một con giun. Vì háu ăn, con chim đã ăn quá nhiều giun, và như thế nó cũng mất đi rất nhiều lông cánh tới độ nó không còn có thể bay lên cao được nữa. Dù nó biết rằng thân phận của nó là phải bay trên bầu trời cao, nhưng những con giun đã làm cho nó mê muội rồi quên đi khung trời cao xanh, mà chỉ biết tới những con giun dưới đất."
Tỉnh thức theo bài Tin Mừng hôm nay là luôn ý thức được mục đích cuộc đời mình là sống xứng với phẩm giá cao cả của mình là hình ảnh của Thiên Chúa. Lạy Chúa, có rất nhiều điều có thể làm chúng con mê ngủ, không tỉnh thức. Xin cho chúng con biết tỉnh thức cũng như biết ngẩng đầu lên để nhìn lên trời cao, ở đó Thiên Chúa luôn mời gọi chúng con ý thức mình là những người con của Cha trên Trời và sống xứng đáng là những người con của Thiên Chúa. Amen.
15. Hãy ngẩng đầu lên
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trong chương đầu của cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” đã viết: Đừng sợ. Đó là lời Chúa mời gọi nhiều lần với những người Ngài đã tiếp xúc.
Thực vậy, thiên thấn đã nói với Mẹ Maria: Đừng sợ. Cũng như đã nói với thanh Giuse trong giấc mộng: Đừng sợ. Ngài cũng đã nói với các môn đệ, đặc biệt với Phêrô trong những trường hợp khác nhau, chẳng hạn như khi mặt biển dậy sóng: Đừng sợ. Hay khi Ngài đã sống lại: Đừng sợ. Sở dĩ Ngài phải lặp đi lặp lại như vậy là vì Ngài biết rằng các ông đã sợ.
Phải, các ông đã sợ khi Ngài bị bắt. Các ông đã sợ khi Ngài phục sinh. Các ông họp mặt mà cửa thì đóng kín. Lời nói ấy của Chúa Giêsu cũng đã được Giáo Hội và Đức Thánh Cha lặp lại. Thế nhưng, chúng ta đừng sợ cái gì?
Xin thưa: Chúng ta đừng sợ sự thật của chính mình. Thánh Phêrô đã sống cái kinh nghiệm bản thân của sự thật đó, khi ông nói cùng Chúa Giêsu: Lạy Thầy, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi. Không phải chỉ mình Phêrô mới ý thức được sự thật đó, mà mỗi người chúng ta đều biết rằng sau câu nói ấy của Phêrô, Chúa Giêsu đã bảo ông: Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chài lưới người ta.
Tuy nhiên, để đứng vững và ngẩng đầu lên, chúng ta cần phải hết lòng tin tưởng và hy vọng vào quyền năng của Chúa, đồng thời phải yêu mến Ngài hết tâm hồn, quy hướng mọi khả năng để phục vụ Ngài, bởi vì ơn cứu độ chỉ đến từ Thiên Chúa mà thôi. Không có niềm tin tưởng vững mạnh. Không có niềm hy vọng dạt dào. Không có lòng mến bao la thì chẳng ai có thể đứng vững được trước những hiểm nguy, gian nan và thử thách của cuộc đời. Bởi vì bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy nhiểm là trốn tránh, là ẩn núp, là nằm rạp xuống, là thu mình nhỏ lại, như muốn mình tan biến để những cơn nguy hiểm không đụng chạm đến. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại bảo chúng ta: Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên, vì Thiên Chúa đem đến cho chúng ta niềm vui mừng và hy vọng.
Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên, để những lo âu của cuộc sống không đè bẹp chúng ta và để cho chúng ta có thể niềm mở với hết mọi người, nhất là những người thân yêu trong gia đình, đồng thời để chúng ta có được một cái nhìn lạc quan trước mọi biến cố của cuộc đời, kể cả những biến cố đau thương nhất, bởi vì có Chúa nâng đỡ, chúng ta sẽ không còn sợ hãi chi. Với niềm tin yêu và phó thác, thì tất cả đều là hồng ân của Chúa.
16. Tai họa và hy vọng - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Bài Tin Mừng nói đến ngày Chúa quang lâm, vừa xảy ra những tai họa, vừa đem lại nguồn hy vọng bất diệt.
Thực vậy cuộc sống của con người trên trái đất giống như đoàn người trên con tàu vĩ đại Titanic dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét, có 8 tầng lầu với đủ các tiện nghi, có phố chợ, hồ tắm, sân chơi, rạp hát, vườn bông, khách sạn, con tàu chỉ chở những nhân vật tai to mặt lớn: những ông hoàng, bà chúa, những đại phú gia. Nó đi từ Southampton, hải cảng Anh quốc, vượt Đại Tây Dương để đến NewYork là thành phố lớn nhất, giàu nhất thế giới thời đó. Họ tưởng đi trên con tàu đó sẽ an toàn vững chắc như trên mặt đất, nhưng nó vừa khởi hành được mấy ngày thì đụng vào băng sơn gãy đôi, chôn sống hơn 1.500 người vào ngày 14-04-1912.
Trái đất này đối với vũ trụ bao la, nó còn nhỏ hơn con tàu Titanic đối với đại dương, nó trôi nổi bồng bềnh trong không gian như con tàu trên sóng nước, có ngày sẽ đụng vào tinh tú, băng thạch sẽ vỡ tan, chính trái đất cũng mang trong mình những bệnh tật như: núi lửa, động đất, bão tố, lụt lội rồi chết rữa giống như thân xác con người và muôn vật.
Lời Chúa hôm nay báo động cho chúng ta biết sẽ có những tai họa kinh khủng khắp nơi trong trời đất, cũng có những niềm hy vọng muôn thuở tuyệt vời cho những người đang mong chờ Chúa đến.
1/ Tai họa:
Những tai họa do chính Đức Giêsu loan báo: “Những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao, các tinh tú lay chuyển, dưới đất: biển gào sóng thét, ngày ấy những gì sắp giáng xuống địa cầu như chiếc lưới bất thần chụp xuống trên đầu anh em, ngày ấy sẽ ập tới mọi dân cư trên khắp mặt đất”.
Những kẻ không biết đề phòng, không sẵn sàng chuẩn bị, không biết ngẩng đầu lên nhận ra những dấu chỉ điềm trời, những kẻ không lo cầu nguyện, chăm sóc đời sống thánh thiện và vẹn toàn, không biết sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, không biết đối xử tình nghĩa với mọi người cho thắm thiết đậm đà, họ cứ buông thả theo lòng mình đắm say tửu sắc, đa mang sự đời, chai đá cứng lòng, khô khan nguội, lạnh lười biếng. Lúc đó thật tội nghiệp, thảm hại cho họ, họ phải lo lắng hoang mang buồn sầu, sợ hãi kinh hồn. Họ chẳng bao giờ được cứu thoát khỏi những tai họa khốn cực đó. Nhưng những người đang mong chờ Đức Kitô đến, thì ngày ấy là một ngày chan chứa hy vọng.
2/ Hy vọng:
Những người biết tỉnh thức đứng dậy khỏi những đam mê say sưa tửu sắc, khỏi những đa mang ham hố sự đời, khỏi những lôi kéo trần tục, biết ngẩng đầu lên trông cậy vào Chúa mà “kiên trì bền chí cầu nguyện sống đẹp lòng Chúa và sống thắm tình nghĩa thiết với mọi người” (Bài II) chắc chắn họ sẽ được phúc đón mừng con người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ gấp rút giải thoát họ khỏi mọi khốn cực vì họ biết rằng đây là ngày quang lâm của Chúa, đây là giờ cứu rỗi, giờ chiến thắng vinh quang của Chúa. Họ được vững tâm hân hoan đứng trước tôn nhan Thiên Chúa và được sống trong “Chúa là sự công chính của chúng ta” (Bài I).
Như vậy, Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng này trình bày cho chúng ta hai cảnh trái ngược nhau: một cảnh trời đất sẽ có ngày đổ vỡ tiêu tan mà người ta coi nó như những lâu đài đồ sộ tráng lệ, bao la vô tận, nơi họ đang trú ngụ kiên cố, bất diệt muôn thuở. Thế mà không thể tưởng tượng được có ngày nó bị phá hủy như thành Giêrusalem xưa không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Đức Giêsu loan báo như thế, không phải làm cho chúng ta buồn rầu lo lắng bi quan. Nhưng chính là để cho chúng ta vui mừng thấy ngày trời cũ đất cũ đầy đau khổ, bệnh tật, chết chóc, để tới một cảnh trời mới đất mới, nơi vinh hiển hạnh phúc bất diệt, nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta ngự đến mở màn thời quang lâm cùng với thần thánh của Người. Đó là nguồn hy vọng vô cùng cho chúng ta, nếu chúng ta biết dùng thời gian sống trên trái đất này như một mùa vọng chuẩn bị đón mừng Đức Giêsu ngự giá trên mây trời đến với chúng ta trong hân hoan muôn đời.
Thực ra, Đức Giêsu loan báo ngày tận thế chính là để loan báo ngày quang lâm vinh hiển của Người. Đó là một quy luật ngàn đời trong chương trình sáng tạo, cứu chuộc để đưa lại hạnh phúc của Thiên Chúa cho nhân loại. Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ vạn vật không phải để chúng sống rồi chết, có rồi ra hư vô, nhưng để chúng sinh ra, lớn lên phát triển tươi tốt và sinh hoa kết quả rực rỡ muôn hương, muôn sắc, muôn vị thơm ngon.
Người tin vào chương trình đầy tình thương vô biên của Thiên Chúa thì chan chứa niềm vui, đầy hy vọng lạc quan. Người Đông phương đã có cái nhìn đó như Kinh Dịch chủ trương: “Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh” muôn vật sinh ra, lớn lên, thành đạt rồi trở về nguồn gốc trinh nguyên của nó.
Những quan niệm nhìn cuộc đời chỉ là “Sinh thành, hủy diệt” gây ra những hậu quả bi quan, chán đời, buông thả, ăn chơi trác táng, hủy hoại cuộc sống tốt đẹp mà Thiên Chúa đã tạo dựng để đạt đến cùng đích vinh quang.
Đức Giêsu đã nhiều lần nhấn mạnh: “Con Người phải trải qua đau khổ… mới tới vinh quang”. Người đã sống lao động, rao giảng nước trời, trải qua cái chết đau thương và kết quả là sống lại vinh quang muôn thuở như hạt lúa gieo trong lòng đất, bị chôn vùi, biến đổi, lớn lên rồi sinh hoa kết quả gấp 30, 60 và trăm phần trăm, vũ trụ vạn vật đã được Thiên Chúa sáng tạo như thế, con người chúng ta cũng phải sống theo chương trình của Thiên Chúa như thế, chúng ta mới được đứng vững trước mặt Con Người ngự đến trong ngày quang lâm.
Lạy Chúa, xin cho chúng con vững lòng bền chí, tỉnh thức cầu nguyện và luôn luôn chuẩn bị đời sống đón mừng Đức Giêsu đến, chúng con được Chúa là Cha chúng con, nhìn nhận chúng con vào hàng ngũ các Thánh của Người. Amen.
17. Tỉnh thức và cầu nguyện - Thiên Phúc-- ‘Như Thầy Đã Yêu’
Trong cuộc chiến khốc liệt giữa Pháp và Ðức năm 1870, tại một bệnh viện Pháp, có một thương binh vốn là sĩ quan người Ðức đang bị bắt làm tù binh. Một hôm, bác sĩ cho biết anh sẽ không qua khỏi vì vết thương ngày càng trầm trọng. Viên sĩ quan tỏ ra bất cần một cách ngạo nghễ và can đảm chờ đợi cái chết.
Chị y tá nữ tu Dòng Nữ Tử Bác ái Vinh Sơn vốn chăm sóc anh từ lâu, ân cần ngỏ ý khuyên anh nên xin gặp một vị linh mục để dọn mình trước khi chết. Anh nhận mình là người Công giáo nhưng đã bỏ đạo từ lâu, nên một mực từ chối lời đề nghị chân thành này.
Chị nữ tu vẫn dịu dàng nói:
- Nếu vậy, tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông mau hồi tâm trở về với Chúa.
Viên sĩ quan mỉa mai:
- Chỉ cực nhọc vô ích mà thôi
Chị nữ tu vẫn kiên nhẫn thuyết phục:
- Thú thật với ông, đã "16 năm" nay, các chị em trong Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho một người trở về cùng Chúa.
Viên sĩ quan ngạc nhiên:
- 16 năm rồi cơ à? Thế người được các chị cầu nguyện chắc "phải là ân nhân của nhà Dòng?
Chị nữ tu trả lời:
- Cách đây rất lâu, mẹ tôi là người hầu cho một nữ Nam tước người Ðức. Trong một lần tôi tới thăm mẹ, bà Nam tước biết tôi là nữ tu nên đã xin cầu nguyện cho con trai bà. Anh đã mất đức tin, sống phóng túng, đam mê danh vọng và quyền lực. Ðã 16 năm qua, tôi và cả Nhà Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho anh.
Người sĩ quan gặng hỏi:
- Thế mẹ của chị có phải là bà Béate không?
Chị nữ tu vô càng ngạc nhiên:
- Nhưng tại sao ông lại biết tên mẹ tôi?
Ðến đây thì viên sĩ quan nghẹn ngào thú nhận:
- Thưa chị, tôi chính là Nam tước Charles, con trai của nữ Nam tước mà mẹ chị đã tận tuỵ hầu hạ bấy lâu. Chính tôi là người mà chị và Nhà Dòng đã cầu nguyện cho suốt 16 năm qua.
*****
Có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Có nhiều người sống như thể thế giới sẽ vô tận. Có nhiều người sống như thế gian này đã là thiên đàng. Họ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Trái tim họ "ra nặng nề, vì chè chén say sưa".
Họ bị chìm ngập trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống hiện tại, mà quên tìm lẽ sống thật.
Họ bị cuốn hút bởi đam mê danh vọng, quyền lực mà quên đi có những cái bất ngờ sẽ đến.
Viên sĩ quan trong câu chuyện trên đây là một điển hình.
Cuộc sống con người không thiếu những bất ngờ:
Có những bất ngờ thú vị làm cho chúng ta vui sướng khôn nguôi.
Có những bất ngờ bi thảm khiến chúng ta đau khổ tột cùng.
Mùa Vọng nhắc lại lần đến đầu tiên của Con Thiên Chúa, và kêu gọi chúng ta chuẩn bị lần đến cuối cùng của Người. Ngày đó khi nào xảy đến, chẳng ai biết được. Nó đến bất ngờ như “chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất" (Lc 21,35). Giữa hai lần ấy có biết bao lần Người bất ngờ đến. Ðó là ngày tận cùng của mỗi người chúng ta.
Mùa Vọng là mùa Tỉnh thức
Nếu chúng ta luôn "Tỉnh thức và cầu nguyện" (Lc 21,36), luôn sẵn sàng và thanh thoát, thì việc Người đến sẽ là một bất ngờ thú vị. Ngày đó, chúng ta sẽ không phải "lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét" (Lc 21,25), chúng ta sẽ không "sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc" (Lc 21,26), nhưng sẽ "đứng thẳng và ngẩng đầu lên" (Lc 21,28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ.
***
Lạy Ðức Kitô, ngày Chúa đến như vị Thẩm Phán, vũ trụ này sẽ xáo trộn sâu xa, nhưng xáo trộn kinh khủng nhất lại chính là xáo trộn trong cõi lòng.
Xin cho chúng con biết "tỉnh thức và cầu nguyện, để tâm hồn luôn sẵn sàng và thanh thoát. hầu khi Chúa đến sẽ là giây phút được mong đợi, và là một cuộc hạnh ngộ đầy hoan lạc và yêu thương. Amen.
18. Hãy ngẩng đầu lên.
Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy hiểm là trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống, thu hỏ lại để những nguy hiểm không động chạm đến mình. Thế nhưng, trong cơn nguy hiểm tột cùng của ngày tận thế, Chúa lại bảo chúng ta hãy đứng vững và ngẩng đầu lên. Tại sao thế?
Xin thưa sở dĩ chúng ta nằm rạp xuống là vì sợ và khi sợ, con người không còn đủ bình tĩnh để xác định vị trí của mình, không còn đủ sáng suốt để thấy rõ ý nghĩa của công việc và xác định xem đâu là việc tốt phải làm và đâu là việc xấu phải tránh. Nhất là không còn nhìn thấy tình thương của Chúa luôn ấp ủ, chở che chúng ta.
Bản tính tự nhiên của con người là sợ, không ai trách cứ chúng ta điều đó, nhưng hãy tin tưởng vì ơn Chúa đủ cho chúng ta. Vì thế, hãy đứng vững và ngẩng đầu lên. Trong Phúc Âm, các tông đồ đã có kinh nghiệm về sự sợ hãi, thế nhưng lần nào cũng vậy, Chúa Giêsu đều nhắc nhở các ông: Thầy đây, đừng sợ. Nổi bật nhất là Phêrô, ông có nhiều thứ sợ.
Trước tiên là sợ chết, sợ bị liên luỵ với Chúa, sợ bị làm khó dễ, sợ bị bách hại như Chúa, nên ông đã chối Chúa. Nhưng Tin Mừng kể lại: Chúa Giêsu nhìn Phêrô và ông ra ngoài ăn năn khóc lóc thảm thiết. Phêrô còn một nỗi sợ đặc biệt khác nữa, đó là sợ khi thấy mình yếu đuối tội lỗi trước Thiên Chúa chí thánh, nên có lần ông đã phủ phục dưới chân Chúa và thốt lên: Lạy Thầy, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi. Nhưng Chúa đã nhìn ông và nói: Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chài lưới người ta.
Với tình thương, Chúa đã làm được mọi việc ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Phêrô chối Chúa, nhưng Ngài không quở, không la, không phạt. Ngài chỉ nhìn và cái nhìn đó đã diễn tả tất cả lòng yêu thương tha thứ, nên mới xoáy sâu vào tâm hồn Phêrô, đến nỗi ông đã ăn năn khóc lóc thảm thiết. Trước mẻ cá lạ lùng, Phêrô muốn Chúa xa tránh vì ông cảm thấy không xứng đáng, nhưng Chúa chẳng những không tránh xa mà còn tiến lại gần bằng cách chọn Phêrô cộng tác với mình và trên Phêrô, Người đã xây dựng Hội Thánh.
Trong mọi cơn gian nan thử thách, Ngài muốn chúng ta đứng vững và ngẩng đầu lên vì Ngài chính là nguồn sức mạnh của chúng ta. Tuy nhiên, muốn đứng vững, muốn ngẩng đầu lên, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ, một niềm hy vọng bao la, bởi vì Chúa là người cha nhân từ, vừa đầy quyền năng lại vừa đầy lòng thương xót, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái của Ngài. Đồng thời ngay từ bây giờ chúng ta đã phải đứng vững và ngẩng đầu lên, bởi vì cây nghiêng bên nào sẽ đổ bên ấy.
Từ đó, Chúa đã dạy chúng ta: Hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề. Nặng nề vì bả vinh hoa trói buộc. Nặng nề vì tiền bạc và lợi lộc vật chất có thể làm mờ cặp mắt chúng ta, để rồi chúng ta không còn nhận ra ngày giờ Chúa viếng thăm.
19. Dọn dẹp bàn ghế.
Đêm 15.4.1912, chiếc tàu Titanic đang chạy trên vùng bắc Đại Tây Dương thì đụng phải một tảng băng sơn, khiến cho con tàu bị chìm và hơn 1500 người bị thiệt mạng. Đây là một trong những tai nạn đường biển khủng khiếp nhất của lịch sử từ trước đến nay.
Cách đây vài năm khi thuật lại thảm họa này trong một bài báo, tác giả đã đưa ra một câu hỏi có tính cách châm biến: Nếu chúng ta có mặt ở đó, lúc tàu Titanic đang chìm, thì liệu chúng ta có còn tiếp tục dọn dẹp bàn ghế trên tàu hay không?
Thoạt nghe câu hỏi này, chúng ta thấy nó khôi hài làm sao, bởi vì khi còi báo động vang lên, thì người còn chút tỉnh tảo, ai lại đi dọn dẹp bàn ghế giữa những tiếng kêu la kinh hoàng và khủng khiếp của những kẻ sắp chết đuối? Tuy nhiên, nếu đọc tiếp bài báo chúng ta sẽ hiểu được tại sao tác giả lại nêu lên cau hỏi kỳ quặc ấy, để rồi chính bản thân chúng ta cũng sẽ tự hỏi: Nếu bây giờ cuộc đời tôi, như con tàu, đang chìm dần vào cõi chết, biết đâu tôi lại còn đang mải mê lo dọp dẹp bàn ghế, nghĩa là tôi đang còn mải mê lo những chuyện vật chất đời này mà quên đi những việc đạo đức thiêng liêng của mình, hay là cứ miệt mài kiếm sống đến nỗi chẳng còn biết đến mục đích cuối cùng của đời mình là gì nữa, chẳng còn biết rằng cuộc sống hiện tại là một chuẩn bị cần thiết cho tương lai vĩnh cửu?
Bởi đó, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta: Các con đừng bê tha, chè chén say sưa hay quá lo lắng việc đời. Ngài khuyên chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện trông chờ Chúa đến vào lúc cuộc sống dương thế này được chấm dứt để chúng ta bước sang cuộc đời mai hậu. Chủ đề này được Chúa nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Phúc Âm: Hãy tỉnh thức vì Con Người sẽ đến vào ngày các con không ngờ, vào giờ các con không biết.
Và đây cũng chính là tâm tình Giáo Hội muốn chúng ta sống trong Mùa Vọng, không phải chỉ bốn tuần lễ trước Giáng sinh, mà còn trong suốt cả cuộc đời bởi vì cuộc đời chúng ta cũng chính là một Mùa Vọng.
Ước chi trong giây phút cuối cùng, chúng ta có thể bình thản thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, sau bao nhiêu trung thành với việc tỉnh thức và cầu nguyện, thì giờ đây con vui mừng được gặp Chúa. Và rồi Chúa sẽ nói với chúng ta: Hãy đến đây hỡi những người con yêu dấu của Ta, sau bao nhiêu năm tháng xa cách, Ta hết sức vui mừng được gặp lại các con. Hãy tỉnh thức như những cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể, để bất kỳ lúc nào Chúa đến, chúng ta cũng sẵn sàng thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.
20. Ngày Cánh Chung – AM. Trần Bình An
Trong khi một số nhà tiên tri loan báo ngày tận thế là ngày 21/12/2012, Đức Giáo hoàng Benedictô thứ 16 trong thánh lễ hôm 18/11/2012 tại Vatican, đã kêu gọi các tín đồ công giáo không nên dừng lại ở “sự tò mò về thời điểm và các lời dự báo về ngày tận thế.”
Từ cửa số bao lơn nhìn ra quảng trường Thánh Phêrô, Đức Giáo hoàng Benedictô 16 đã rao giảng bài Phúc âm trong ngày, trong đó Chúa Giêsu nói với các thánh tông đồ về ngày Ngài lại xuống thế gian vào lúc tận thế, khi “bầu trời trở nên âm u” và “các vì sao rơi rụng xuống từ trời”. Theo Đức Giáo hoàng, thì Chúa Giêsu không hành động như một “nhà tiên tri” mô tả “ngày tận thế”, mà ngược lại muốn giải thoát vĩnh viễn các môn đệ và dân chúng thoát khỏi các lời tiên đoán về thời điểm thế giới sẽ bị tận diệt
Đức Giáo hoàng Benedictô 16 giải thích, Chúa Giêsu “muốn mang lại cho các tín đồ chiếc chìa khóa cho sự suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng bản chất hơn, và nhất là chỉ ra con đường phải đi hôm nay và ngày mai để bước vào cuộc sống vĩnh hằng”. Ngài nói tiếp: “Tất cả rồi sẽ trôi qua, nhưng lời của Chúa không hề thay đổi.” (Thụy Mi, VietCatholic)
Bài Tin Mừng Thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu cảnh báo ngày cánh chung, “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.”
Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên!
Trước biến cố kinh thiên động địa, vô tiền khoáng hậu như vậy, mà Chúa Giêsu lại khuyên chúng ta “hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên.” Làm sao ngẩng đầu lên nổi, khi đang còn sa đọa, chìm đắm trong tội lỗi, quyến rũ thế gian. Làm sao dám đứng thẳng lên, khi đang nặng nề đội trên đầu chức tước, của cải, danh lợi phủ vân?
Biết thế, nên Chúa Giêsu biết rõ tim đen chúng ta, mới ân cần, cẩn thận khuyên răn: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề, vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới, bất thần chụp xuống đầu anh em.”
Vì chúng ta không thể nào biết giờ nào, ngày nào việc đó xảy đến. “Vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất.”
Ngày cánh chung của mỗi người
Thế giới này là tạo vật của Chúa, dĩ nhiên có thời hạn, nên đương nhiên có khởi sự và kết thúc. Ngày cánh chung là ngày tận thế của muôn loài thọ tạo. Còn đối với từng người, cái chết chính là ngày cánh chung cá nhân, ngày chịu Thiên Chúa xét xử công phúc và tội lỗi. Vì “ngày Chúa đến như kẻ trộm ban đêm.”(1 Tx 5, 2), mà chính Người cũng đã xác nhân: “Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào Con Người đến.” (Mt 25, 13)
Sinh ký tử quy, sống là ký gửi thác là quy về, có sinh ắt có tử. Sinh ra từ bụi đất, chết trở về cát bụi. Nhưng chẳng ai biết được ngày trở về với Chúa. Chỉ có Thiên Chúa làm chủ thời gian, mới biết ngày giờ sinh tồn của con người. Do vậy, Chúa Giêsu luôn nhắc nhở phải tỉnh thức và cầu nguyện, gắn bó mật thiết với Chúa luôn, để đón chờ ngày ấy. Luôn sẵn sàng như mười cô trinh nữ đem dầu theo đèn, tỉnh táo chờ đợi Chàng Rể đến.
Luôn tỉnh thức và cầu nguyện
Chúa Giêsu không muốn đe dọa chúng ta về ngày tận cùng của thế giới, mà Người chỉ muốn nhắc nhở như Đức Thánh Cha Benedictô 16 mới đây nhắc lại. Đề ứng phó ngày cánh chung chỉ có hai bửu bối duy nhất và quan trọng nhất, đó là tinh thần sẵn sàng đón nhận với tâm tình cầu nguyện.
“Con hãy sẵn sàng cầm đèn sáng, đợi chờ giờ Chúa trở lại, như Chúa muốn, nơi Chúa muốn, lúc Chúa muốn,.”(Đường Hy Vọng, 670)
Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt con ra, thoát khỏi những đam mê, những lo lắng trần tục, mà hướng tâm hồn về Chúa, để sẵn sàng xứng đáng ngẩng đầu lên đón chào Chúa đến.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con biết tránh xa những mưu mô ma quỷ, xin giúp con tỉnh táo nhận ra những cạm bẫy nguy hiểm, để có thể đứng thẳng, nghênh đón Chúa giáng lâm. Amen.
21. Sống tỉnh thức và cầu nguyện
Hôm nay, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới theo chu kỳ là Năm C. Khởi đầu năm phụng vụ là Mùa Vọng, trong mùa này chúng ta vừa mừng kỷ niệm việc Chúa Giáng Sinh; vừa là mùa giúp chúng ta hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày quang lâm. Vì thế, mùa vọng được coi như mùa trông đợi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta thấy một viễn cảnh tương lai. Ngày ấy, chính Ngài sẽ đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết "Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến". Tuy nhiên, không ai biết trước ngày đó xảy đến lúc nào chỉ có những dấu hiệu thấy trước được đề cập như: "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển." (Lc 21, 25 - 27). Do đó, Ngài mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đợi chờ và cầu nguyện để chờ Chúa đến.
Chúng ta thường nghe những lời khuyên tương tự hãy tỉnh thức như là "Hãy coi chừng, hãy cảnh giác, ngẩng đầu lên...". Tất cả nói lên thái độ sẵn sàng đối mặt với biến cố xảy đến. Đặc tính của mùa vọng là gì nếu không phải tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến? Nếu ngày xưa, dân Do Thái nhờ vào lời các tiên tri loan báo, đã sống tâm tình nhiều thế kỷ dài chờ đợi Chúa Cứu Thế đến, thì hôm nay chúng ta cũng phải tỉnh thức chờ đợi Chúa lại đến trong vinh quang. Vì thế, hai kiểu chờ đợi đó khác nhau. Khi xưa, dân Do Thái chờ đợi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Đó là lúc Ngài đến lần thứ nhất. Còn chúng ta ngày nay, dựa trên biến cố Chúa Cứu Thế đến lần thứ nhất này để vững tin và hy vọng vào việc Chúa sẽ lại đến trong ngày quang lâm. Như vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta không chỉ kỉ niệm quá khứ việc "chờ đợi" của dân Do Thái, mà chúng ta còn sống chính nỗi niềm "chờ đợi" của chúng ta.
Phần đầu của đoạn Tin mừng, Luca trình bày theo lối văn Khải Huyền. Đây là một cách diễn tả, xuất phát từ một cái nhìn từ vũ trụ và con người. Con người và vũ trụ liên kết với nhau rất chặt chẽ và có sự liên đới mật thiết. Trình thuật trong sách khởi nguyên cho chúng ta thấy buổi khởi đầu là hỗn độn, hoang vu. Nhưng nó được Thiên Chúa can thiệp. Ngài sắp xếp trời đất vào trật tự của nó. Ngài làm cho cảnh hỗn mang nguyên thủy biến thành vũ trụ diệu kỳ, và giao cho con người làm chủ, trông coi vũ trụ. Nhưng con người làm đảo lộn vũ trụ bằng sự gian ác của mình. Vì vậy vũ trụ dường như chìm trở lại trong cảnh hỗn mang nguyên thủy. Bây giờ Thiên Chúa quyết liệt can thiệp, để tái tạo trật tự, để làm cho xuất hiện một trật tự mới với "Trời mới, Đất mới". Vì thế, "các tầng trời rung chuyển" là để trở lại trong trật tự do Thiên Chúa sắp xếp. Ngày cánh chung có hai mặt: mặt tối là sự phán xét, hủy diệt một trật tự đã bị đảo lộn; còn mặt sáng là sự xuất hiện một trật tự mới, trong đó dân Chúa đạt được hạnh phúc. Ngày ấy, Con Người hiện đến trên đám mây tức là trong vinh quang, để xét xử muôn dân. Đó là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi, nhưng đó là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức, cầu nguyện và chuẩn bị sẵn sàng. Đó cũng là lời khuyên nhủ của Chúa Giêsu ở phần sau.
Việc chúng ta không cần tìm hiểu là ngày tận thế, là cách thay đổi của vũ trụ. Còn việc phải lo là ngày Chúa đến gặp riêng mỗi người trong chúng ta, vì ngày ấy rất bất ngờ, nên chúng ta cần phải luôn tỉnh thức để đón chờ. Phải chăng không ít những lần chúng ta trở nên nặng nề vì chén say sưa và lo lắng việc đời? Thái độ hưởng thụ làm cho chúng ta quên ý ngĩa cuộc đời, khiến chúng ta không sẵn sàng chờ Chúa đến. Chính thái độ ích kỷ, hẹp hòi,...làm cho chúng ta mất quân bình nội tâm, và ảnh hưởng đến tha nhân. Do đó việc cần làm là phải luôn cầu nguyện để tăng cường ơn Chúa và sức mạnh Thánh Thần giúp vượt thắng gian nan thử thách ngõ hầu kiên vững mà hiện diện trước mặt Con Người trong ngày tận thế.
Một thoáng nhìn về tương lai không phải để kinh hãi, khiếp sợ như các tín hữu ở Thessalonica thời thánh Phaolô hoặc chỉ hướng về trời như các người Galilê nhìn theo Chúa về trời (Cv 1, 11); nhưng cần phải liên kết không những giữa biến cố Quang Lâm của Chúa trong ngày Cánh Chung với việc Chúa đã đến lần thứ nhất một cách âm thầm, khiêm tốn, mà còn liên kết với sức sống của ân sủng nơi mỗi người chúng ta trong suốt khoảng thời gian giữa hai lần Chúa đến.
Để sống cho chân lý này, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cố gắng sống thánh thiện để có thể yên tâm và vui mừng chờ ngày Chúa đến. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra ánh sáng trước công lý, chúng ta không thể che giấu.
Lời cảnh tỉnh trong phần thứ hai của Tin Mừng hôm nay không những cần thiết cho mỗi người chúng ta để chuẩn bị sẵn sàng, không bị bất ngờ trong ngày Chúa đến lần hai, mà còn cần thiết ngay trong giây phút hiện tại. Đó là chuẩn bị tâm hồn để ân sủng của Chúa đến với chúng ta, đặc biệt là trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới. Đó là chuẩn bị bằng cách giữ mình, đừng để tâm hồn trĩu nặng, mờ ám vì lối sống buông thả, chè chén say sưa và vì những bận tâm quá đáng đến cuộc sống vật chất, trần trục: "phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người." Muốn được như vậy, mỗi người cần biết dành những giờ phút yên lặng, kiểm điểm lại lối sống, tức là biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, dùng những thời khắc trong ngày để đọc kinh, để xét mình và sám hối, đồng thời luôn hướng về Chúa để cảm tạ và xin cho chúng ta bền lòng vững chí sống theo ân sủng Thiên Chúa cho đến cùng, chờ đón Ngài xuất hiện trong vinh quang.
Mùa vọng là cơ hội tốt cho chúng ta. Nó cung cấp thời gian, không gian, bầu khí, lễ nghi để bày tỏ nỗi lòng mình trước tôn nhan Đấng Tối Cao. Kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng thế gian đầy dẫy sự dữ, những điều khiếm khuyết. Chúng ta mong muốn một thế giới tốt đẹp mà Thiên Chúa đã hoạch định cho con người. Hiện nay thì chưa được. Nhưng Đấng trở lại lần thứ hai sẽ biến đổi mọi sự cho nên tốt đẹp hơn. Chúng ta không có khả năng gây biến đổi và cũng không điều khiển tình thế khi Đấng Cứu Chuộc xuất hiện. Cho nên theo lời Ngài chỉ bảo, chúng ta hay luôn sống tỉnh thức và cầu nguyện, nhận ra những đường lối của Ngài. Hiện thời Ngài đang ở giữa chúng ta. Chúng ta hãy tẩy trừ những cản trở trong linh hồn mình, lắng nghe tiếng Ngài qua Kinh Thánh và biến cố trong cuộc sống mình. Giống như tuyển dân thời tiên tri Giêrêmia, chúng ta phải can đảm chịu đựng để trung thành với Thiên Chúa. Chúng ta mong đợi Đấng Cứu Thế ngự đến lần thứ hai trong tâm tình cảm tạ tri ân và xin cho mình được sống trung tín với ân sủng của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài hãy đến và viếng thăm chúng con. Xin cho chúng con biết nhận ra những dấu chỉ Chúa gởi đến hằng ngày để chúng con biết can đảm sống đức tin, sống tỉnh thức, cầu nguyện và trung thàn sống theo đường lối của Chúa. Amen.
22. Hãy nhìn đường.
Ít năm trước đây, có một bác tài xế xe buýt ở bên Mỹ, đã đạt kỷ lục xuất sắc. Suốt hai mươi ba năm trong nghề, bác đã đi được trên một triệu năm trăm cây số mà không gây nên một tai nạn nào. Khi được hỏi làm sao mà bác đạt được kỷ lục ấy, thì bác đã trả lời một cách đơn giản đó là hãy nhìn đường.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cũng đem lại cho chúng ta một lời khuyên tương tự: Hãy tỉnh thức luôn. Ý tưởng này được nhắc đi nhắc lại bằng những hình thức khác nhau: Hãy coi chừng, hãy chú ý, hãy ngẩng đầu lên.
Đó không phải chỉ là một lời khuyên có ích cho đời sống thiêng liêng, mà còn là một quy luật cho những sinh hoạt thường ngày của chúng ta. Đúng thế, chúng ta vốn thường nói: Hãy chú ý, hãy nhìn cho kỹ và hãy đề cao cảnh giác.
Để lái một chiếc xe, chúng ta phải nhìn đường. Một cầu thủ trên sân cỏ, phải lẹ mắt để sẵn sàng đối phó với những cảnh huống bất ngờ. Anh phải theo sát trái banh. Trong lớp, các em phải chăm chú lắng nghe những lời thày cô giảng dạy.
Qui luật này cũng được áp dụng trong những công việc bình thường nhất. Một bà mẹ, phải canh chừng đứa con nhỏ, kẻo nó té ngã xuống sông, xuống ao… Phải để ý tới cái nồi, cái chảo trên bếp, kẻo món ăn bị cháy khê cháy khét.
Cuộc sống giống như một chuyến xe mà chúng ta là người tài xế. Chúng ta không phải chỉ có một trách nhiệm đối với bản thân mà còn có cả trách nhiệm đối với người khác.
Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, chúng ta cần phải nhìn đường, cần phải chú ý để khám phá ra sự hiện diện của Chúa. Thực vậy, Chúa ở khắp mọi nơi, nhưng kẹt một nỗi, Ngài lại là Đấng thiêng liêng, nên con mắt phàm trần của chúng ta không thể nào nhìn thấy. Tuy nhiên với con mắt đức tin, chúng ta có thể khám phá ra Ngài.
Trước hết, Ngài ngự thật trong Bí tích Thánh Thể. Vì thế khi tham dự thánh lễ, chúng ta phải tỉnh thức phần xác, không ngủ gà ngủ gật đã đành, mà còn phải tỉnh thức cả phần hồn bằng cách kết hiệp tâm tình của chúng ta vào với những lời kinh, những tiếng hát, nhất là khi lên rước lễ, chúng ta sẽ được kết hiệp với Chúa, Đấng mà ngày xưa đã sinh ra trong máng cỏ Bêlem.
Với con mắt đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa hiện diện qua những sự kiện, qua những biến cố xảy đến và bằng một bàn tay uy quyền và yêu thương, Ngài đang hướng dẫn cả lịch sử của nhân loại, điều cần thiết là chúng ta phải tìm biết và thực thi thánh ý Ngài qua những biến cố, những sự kiện, những dấu chỉ của thời đại.
Và sau cùng, với con mắt đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm Giáng sinh, mà Ngài còn viếng thăm bản thân chúng ta khi chúng ta từ giã cuộc đời, cũng như Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết vào ngày tận cùng của trời và đất.
Thế nhưng, chúng ta có biết tỉnh thức và nhất là chúng ta có biết chuẩn bị cho ngày giờ Chúa viếng thăm bản thân chúng ta hay không?
23. Tỉnh thức – Lm. Vũ Đình Tường
Tỉnh thức khác với tỉnh ngủ. Tỉnh ngủ là người lúc ngủ, ngủ rất tỉnh, một tiếng động nhỏ đủ làm cho người đó thức giấc. Người tỉnh ngủ dường như khó ngủ. Dỗ được giấc ngủ rất khó nhưng khi ngủ lại rất tỉnh. Trong khi người dễ ngủ lại ngủ say, ngủ mệt. Động đâu mặc động tôi cứ ngủ ngon. Người tỉnh ngủ hiếm có giấc ngủ ngon. Những gì hiếm thường quí vì thế người ngủ tỉnh rất quí giấc ngủ ngon. Thiếu tỉnh thức xảy đến cho cả người tỉnh ngủ lẫn ngủ ngon. Ngủ tỉnh sát cánh với khó ngủ nên hại cho sức khoẻ nhưng không hại phần tâm linh. Trong khi thiếu tỉnh thức nguy hiểm vô cùng vì hại phần tâm linh. Ma quỉ đưa ra nhiều chước cám dỗ với hy vọng khi thiếu tỉnh thức con người sa vào cạm bẫy của chúng.
Tỉnh ngủ, ngủ không được nên có đêm đọc kinh dỗ giấc ngủ. Đây không phải là hình thức cầu nguyện tốt nhất nhưng không hại vì đó là việc làm đạo đức. Ngủ không được nên đọc kinh cầu nguyện. Cầu nguyện tốt nhất là cầu xin vì lòng yêu mến, ước ao được gặp Chúa. Vì ước ao như thế nên tâm hồn thường tỉnh thức để cầu nguyện. Cầu ơn tỉnh thức để tránh cơn cám dỗ. Tránh được cám dỗ là trung thành với Chúa. Như thế có thể hiểu thiếu tỉnh thức rất dễ sa chước cám dỗ. Nói ngược lại, sa chước cám dỗ xảy ra vào lúc người đó thiếu tỉnh thức.
Không biết có phải là lí luận luẩn quẩn không nhưng rõ ràng thiếu tỉnh thức gây nên bởi thiếu cầu nguyện. Thiếu cầu nguyện nên thiếu ơn Chúa. Thiếu ơn Chúa tâm hồn trở nên chai đá. Tâm hồn chai đá là tâm hồn đi lạc đường lối Chúa. Vì chai đá nên tâm hồn không còn biết kính sợ Chúa nữa. Không tôn thờ Chúa sẽ theo tà thần, một loại chúa nào khác. Loại Chúa do chính họ tạo ra. Có thể là ý riêng hay một tạo vật nào do Chúa dựng nên. Từ bỏ Thiên Chúa sáng tạo, yêu thương để tôn thờ một thần tượng khác chính là thờ ngẫu tượng, chúa hạng hai. Tâm hồn chai đá đó đòi bằng chứng của Thiên Chúa yêu thương, sáng tạo để tin. Tiên tri Isaiah dùng hình ảnh người thợ gốm và đồ gốm để giải thích đòi hỏi trên. Cục đất sét sẽ chẳng thể nào nhận biết người thợ nặn ra nó. Tay người thợ nặn nên có, tạo cho nó hình ảnh, nâng niu nó, nhưng nó không thể nào nhận diện ra người tạo dựng nên nó. Cùng cách hiểu đó, Thiên Chúa chúng ta tôn thờ chỉ có thể nhận diện Ngài qua những hồng ân Ngài ban trong đời. Nhận biết ta có mặt trên đời không phải do ngẫu nhiên mà do Chúa tạo thành. Dù ta có nhận Ngài, thờ phượng Ngài hay không thì Ngài cũng đã dựng nên ta.
Không tai nào nghe thấy không mắt nào nhìn thấy một chúa nào khác ngoài Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa. Is 64,4
Thiếu ơn Chúa sẽ khó chống lại cơn cám dỗ. Cơn cám dỗ đòi chứng minh Thiên Chúa hiện hữu. Sự hiện diện của ta trên đời chưa đủ sao. Trời đất biển khơi, sông ngòi cùng toàn thể vũ trụ đều theo luật tuần hoàn riêng của chúng. Ngoài ra còn bao ân huệ Chúa ban cho, như tài năng, trí nhớ, sức khoẻ, sắc đẹp. Tất cả đều có chung giải thích: do ngẫu nhiên mà có. Dựa vào ngẫu nhiên để giải thích quả là một luận cứ học đòi. Vì sao? Vì ngay từ ban đầu Thiên Chúa giáo đã giải thích Thiên Chúa tự nhiên mà có. Đây là giải thích thuyết tự nhiên nguyên thuỷ. Ngày nay với khoa học tiến bộ người ta cũng không đi xa gì hơn những gì Kinh Thánh cho biết nhiều ngàn năm trước. Người ta đồng chấp nhận vũ trụ do tự nhiên mà có nhưng khi nói đến Thiên Chúa tự nhiên mà có người ta lại đòi có bằng chứng cụ thể. Giải thích sao cho hợp lí khi người ta chối bỏ điều tự nhiên nguyên thuỷ (Thiên Chúa tự nhiên mà có) để rồi cùng chấp nhận tự nhiên thứ hai, thứ ba, (vũ trụ tự nhiên mà có).
Sa vào chước cám dỗ vì thiếu tỉnh thức. Cầu nguyện không phải chỉ đơn thuần giúp Kitô hữu liên kết với Chúa và còn là cách diễn tả tình yêu lòng mến dành cho Chúa. Cầu nguyện giúp Kitô hữu tỉnh thức, nhận thêm ơn Chúa để chống trả lại cơn cám dỗ. Chống được cơn cám dỗ giúp Kitô hữu đi đúng đường lối Chúa. Đi đúng đường lối Chúa là tâm hồn biết tôn thờ, kính sợ Chúa. Ai tôn kính Chúa sẽ được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Hưởng gia nghiệp Chúa vì người đó thực thi công lí, bác ái và yêu thương. Không tôn thờ Chúa là sống vô ơn vì không biết cảm tạ những ơn lành Người ban cho.
Ngày hôm nay Phúc âm kêu gọi Kitô hữu hãy tỉnh thức để bất cứ khi nào chủ về thì đã sẵn sàng vì không biết ngày nào, giờ nào chủ trở lại. Người sống tâm tình tạ ơn là người đã sẵn sàng vì lúc nào trong lòng họ cũng mang lòng biết ơn, cảm mến chân thành.
24. Tỉnh thức đợi chờ
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Lc 21:25-27.34-36: Chúa Giêsu dùng nhiều kiểu nói: "Hãy coi chừng", "Hãy chú ý", "Hãy cảnh giác", "Hãy ngẩng đầu lên", "Hãy nhìn cho kỹ". Tất cả là thái độ tỉnh thức. Tỉnh thức là nhận ra những điềm báo thời cứu độ đang đến và có thái độ thích hợp với tình thế đòi hỏi.
Ít năm trước đây, một tài xế xe buýt đạt kỷ lục tài xế xuất sắc. Trong 23 năm làm tài xế, anh lái xe buýt trên 1.500.000 km không gây một tai nạn nào. Khi được hỏi, làm sao anh đạt được kỷ lục ấy, anh trả lời đơn giản: "Hãy nhìn đường".
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta một lời khuyên tương tự: "Hãy tỉnh thức". Chúa Giêsu dùng nhiều kiểu nói: "Hãy coi chừng", "Hãy chú ý", "Hãy cảnh giác", "Hãy ngẩng đầu lên", "Hãy nhìn cho kỹ". Tất cả là thái độ tỉnh thức. Tỉnh thức là nhận ra những điềm báo thời cứu độ đang đến và có thái độ thích hợp với tình thế đòi hỏi.
Tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến: Nếu ngày xưa, dân Do Thái dựa vào lời các Tiên tri loan báo, đã sống những thế kỷ dài chờ đợi Chúa Cứu Thế, thì ngày nay, dựa vào chính lời của Chúa Cứu Thế, chúng ta cũng đã trải qua 20 thế kỷ chờ đợi Chúa lại đến trong vinh quang. Vì thế, hai cái chờ đợi đó khác nhau. Trong quá khứ, dân Do Thái chờ đợi Chúa Cứu Thế đến lần thứ nhất: Ngài Giáng Sinh làm người. Còn chúng ta ngày nay, dựa trên cơ sở của biến cố Chúa đến lần thứ nhất nầy để vững tin và hy vọng vào biến cố Chúa sẽ lại đến lần thứ hai. Như vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta không chỉ hồi tưởng hay kỷ niệm quá khứ chờ đợi của dân Do Thái, mà chúng ta còn sống chính cái nỗi niềm chờ đợi của chúng ta. Từ đó, chúng ta mới hiểu lý do tại sao vào đầu năm phụng vụ Giáo Hội lại cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng liên quan đến biến cố cuối cùng: Ngày Chúa quang lâm.
Đoạn Tin Mừng này gồm hai phần rõ rệt: Phần I là những hiện tượng lạ lùng trong vũ trụ. Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Liệu có thực sự xảy ra như vậy không? Đây là một lối diễn tả theo thể văn khải huyền. Khó mà giải thích cho được sáng tỏ, khó mà thông hiểu cho rõ ràng. Vũ trụ sẽ thay đổi thế nào, thay đổi lúc nào, xác định việc đó là công việc của khoa học. Còn đối với chúng ta, đây là một cách diễn tả, xuất phát từ một cái nhìn về vũ trụ và con người. Con người và vũ trụ liên kết với nhau rất chặt chẻ. Sự liên đới giữa vũ trụ và con người rất là mật thiết. Trước tiên là hỗn độn, hoang vu. Thiên Chúa can thiệp khi tạo dựng đất trời, sắp xếp đâu vào đấy: Thiên Chúa làm cho cảnh hỗn mang nguyên thủy biến thành vũ trụ diệu kỳ, và giao cho con người làm chủ vũ trụ. Nhưng con người làm đảo lộn vũ trụ bằng sự gian ác của mình. Vì vậy, vũ trụ dường như chìm trở lại trong cảnh hỗn mang nguyên thủy. Bây giờ Thiên Chúa quyết liệt can thiệp, để tái tạo trật tự, để làm cho xuất hiện một trật tự mới với "Trời mới, Đất mới". Vì thế, "các tầng trời rung chuyển" là để trở lại trong trật tự do Thiên Chúa sắp xếp. Ngày cánh chung có hai mặt: mặt tối là sự phán xét, hủy diệt một trật tự đã bị đảo lộn; còn mặt sáng là sự xuất hiện một trật tự mới, trong đó Dân Chúa được hạnh phúc.
Ngày ấy, Con Người hiện đến trên đám mây, tức là trong vinh quang, để xét xử muôn dân. Đó là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi, nhưng đó là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng. Đó là lời khuyên nhủ của Chúa Giêsu ở phần II.
Hãy tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng: chúng ta đã nghe quen thuộc về những lời khuyên nhủ này. Việc chúng ta không cần tìm hiểu là ngày tận thế, là cách thay đổi của vũ trụ. Còn việc phải lo là ngày Chúa đến gặp riêng mỗi một người trong chúng ta, vì ngày ấy rất bất ngờ, nên chúng ta cần phải luôn tỉnh thức đón chờ. Chúng ta có giữ mình, kẻo lòng chúng ta ra nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời không? Thái độ hưởng thụ làm chúng ta quên ý nghĩa cuộc đời, tất nhiên làm cho chúng ta không sẵn sàng chờ đón ngày Chúa đến. Còn thái độ lo lắng, ích kỷ, hẹp hòi, bon chen làm cho chúng ta hao mòn và tác hại cho xã hội. Tích cực hơn nữa, mỗi người phải luôn cầu nguyện để có sức mạnh vượt thắng gian nan thử thách ngõ hầu kiên vững mà hiện diện trước mặt Con Người để được thẩm định số phận của mình. Không ai biết được ngày đó đến lúc nào, nhưng qua những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ và hiện tại, ngày sau cùng đó chắc chắn sẽ đến.
Cách đây mấy năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám bệnh cho anh, ông bác sĩ riêng của ông đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử biết: "Tình trạng sức khỏe của anh bi đát lắm! Chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẩu kéo dài 36 tiếng đồng hồ mới may ra cứu sống anh được". Về sau, chàng tài tử ấy đã thực sự thú nhận: "trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được niềm vui mà trước đó tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến, tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám phá ra rằng nhờ những lần tâm sự, nói chuyện hằng ngày với Chúa Giêsu trước đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân".
Anh chị em thân mến,
Một thoáng nhìn về tương lai không phải chỉ để mà kinh hãi, khiếp sợ như các tín hữu ở Thessalônica thời Thánh Phaolô hoặc chỉ hướng về trời như các người Galilê nhìn theo Chúa về trời (Cv 1,11); nhưng càng phải liên kết biến cố Quang Lâm Chúa trong ngày Cánh Chung không những với việc Chúa đã đến lần thứ nhất một cách âm thầm, khiêm tốn, mà còn liên kết với sức sống của ân sủng nơi mỗi người chúng ta trong suốt khoảng thời gian giữa hai lần Chúa đến.
Để sống thực sự chân lý này, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cố gắng sống thánh thiện để có thể yên tâm và vui mừng chờ ngày Chúa đến. Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tùy cách sống hiện tại của chúng ta. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước anh sáng của công lý, chúng ta không thể che dấu một chi tiết nào.
Cụ thể hơn mà nói: lời cảnh tỉnh trong phần II của Tin Mừng hôm nay không những cần thiết cho mỗi người chúng ta để chuẩn bị sẵn sàng, không bị bắt chợt trong ngày Chúa đến lần thứ hai, mà còn cần thiết ngay trong giây phút hiện tại: chuẩn bị tâm hồn để ân sủng của Chúa đến với tâm hồn chúng ta, đặc biệt trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới. Chuẩn bị bằng cách giữ mình, đừng để tâm hồn chĩu nặng, mờ ám vì lối sống buông thả, chè chén say sưa và vì những bận tâm quá đáng đến cuộc sống vật chất, trần tục. Muốn được như vậy, mỗi người cần biết dành những giờ phút yên lặng, kiểm điểm lại lối sống, tức là biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, đồng thời luôn hướng về ngày Chúa xuất hiện vinh quang.
25. Mong chờ một cuộc gặp gỡ---Cố Lm. Hồng Phúc
Đây, Mùa Vọng lại đến. Mùa Vọng là mùa mong chờ một cuộc gặp gỡ. Người nông phu gieo hạt xuống đất mong chờ ngày hạt trổ bông. Người bộ hành mong chờ gặp gỡ nơi chỗ hẹn.
Nhà Tiên tri Giêrêmia loan báo, trong bài đọc I, “ngày Thiên Chúa làm nẩy sinh một chồi công chính” và trên bước đường lịch sử, nhân loại sẽ gặp Đấng Cứu Độ. Mùa Vọng là thời điểm Chúa Kitô, Đấng mà Đavit là tiền ảnh, Đấng đã được tiên báo đến trong thế gian và còn tiếp tục đến.
Phải, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục đến giữa chúng ta. Nhân loại càng ngày càng thay đổi thì Chúa Kitô, niềm hy vọng thế giới, vẫn tiếp tục đến để đem sự công chính, hoà bình và ơn cứu rỗi. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục đến trong mỗi người chúng ta. Là một con người, ai lại không mong muốn được biết đường đi, xa lánh sự dữ, được khỏi tiêu diệt và khỏi chết. Thì Chúa Kitô chính là Đường, là sự Sống, là sự Thật sẽ đến hướng dẫn chúng ta và cứu chuộc chúng ta.
Thánh Phaolô, trong thánh thư gửi giáo đoàn Thessalonica, dạy chúng ta phải sống tinh thần Mùa Vọng như thế nào. Người tín hữu là kẻ đã được Đức Tin hướng dẫn ngày chịu phép Rửa tội thì phải tiến lên không ngừng, “phải gia tăng và tràn đầy lòng thương yêu nhau”. Phaolô dạy giáo đoàn Thessalonica vẫn đã sốt sắng, phải sốt sắng, phải thánh thiện hơn. Bằng bốn lần, Phaolô khuyên họ và khuyên chúng ta phải kết hợp với Chúa Kitô mật thiết và thương yêu anh em hơn, như Ngài đã thương yêu chúng ta. Đó là chìa khóa sự thánh thiện. Đó là tinh thần Mùa Vọng chân chính, mùa mong đợi Chúa đến.
Vì thế, Giáo Hội thường khuyến cáo tổ chức những buổi tĩnh tâm cấm phòng trong mùa Vọng, không ngoài mục đích thăng tiến lòng đạo đức. Chúng ta hãy sốt sắng tham gia. “Hãy quên đi đoạn đường đã qua và chạy đến cùng đích” (Phi. 3, 14). Cùng đích ấy là Chúa Kitô.
Mùa Vọng là mùa mong đợi gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu chỉ đi vào lịch sử một lần khi Ngài giáng sinh trong hang lừa máng cỏ, cách đây 19 thế kỷ. Nhưng như vừa nói, Ngài sẽ đến lại với mỗi người chúng ta và nhất là Ngài sẽ đến lại trong vinh quang ngày tận thế.
Bài Phúc âm mở cho chúng ta một cái nhìn bao quát vĩ đại đó. Thời gian từ ngày Chúa đến lần thứ nhất trong lịch sử đến ngày Chúa lại đến trong vinh quang là thời gian của Giáo hội. Và Giáo hội cũng vọng về ngày Chúa đến trong uy quyền. Ngày đó bao giờ đến?
Ngài không nói ra bí mật của Thiên Chúa! Nhưng Ngài cho ta những điềm báo trước: những điềm lạ trên trời, những rung chuyển dưới đất. Những vụ nổ như vụ núi lửa Pinatubo ở Phi luật Tân phun lên đến cao độ 12 miles với sức mạnh của 10 quả bom nguyên tử, tháng 6, 1991, là một tiếng dội xa xôi của ngày Chúa giáng lâm. Những điềm báo đó phải là những điều thức tỉnh, những bài học cho chúng ta.
Ngày nay, có nhiều người sống và tổ chức cuộc sống như rằng thế giới sẽ vô tận, không có một cùng điểm. Có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Người tín hữu biết rằng Chúa đã đến và Chúa sẽ đến lại cho cả thế giới và với mỗi người chúng ta, nên phải chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ đó. “Chúng con hãy giữ mình, kẻo lòng chúng con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời mà ngày đó thình lình đến với chúng con như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất”.
Vậy chúng ta “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” trong Mùa Vọng này.
Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tôi.
26. Suy niệm của Lm. Alfonso
Tin mừng Lc 21:25-27.34-36: Chúa không muốn chúng ta chuẩn bị cho ngày Chúa đến bằng những vật chất tạm bợ như thế. Điều Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta là những kẻ chờ đợi Chúa đến với một tâm tình sẵn sàng, niềm hy vọng lạc quan.
Suy niệm:
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Và chúng ta được gợi lại hai lần đến của Chúa Giêsu: việc đến lần thứ nhất của Đấng Cứu Thế khi Chúa Giêsu sinh ra trong máng cỏ hơn hai ngàn năm trước. Và việc đến lần thứ hai của Chúa Giêsu, Vua Vũ Trụ, sẽ đến vào ngày cùng tận của thế giới này.
Hẳn là khi đi xem phim ở những rạp 3D, 4D có những hiệu ứng làm tăng thêm phần ly kỳ cho khán giả. Vậy nếu như đoạn Tin Mừng trên được đọc vào tuần trước, có lẽ chúng ta sẽ liên tưởng ngay với những diễn biến của cơn bão số 9 vừa quét qua Nha Trang, Vũng Tàu, Cần Giờ. Thậm chí Sài Gòn cũng bị ngập nặng khiến nhiều chủ xe bỏ của chạy lấy người. Đoạn Tin Mừng cho chúng ta biết sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng vì biển gầm sóng vỗ.
Giả sử ngày tận thế đến, liệu mỗi người chúng ta sẽ chuẩn bị gì? Có phải có người đi mua mì tôm, đèn nến vì nghe đồn tối ba ngày ba đêm; rồi dự trữ nhiều bình nước đóng chai và bao gạo trong nhà để hy vọng sống sót khi ngày ấy xảy đến? Nhiều người đã thực hiện điều này khi thế giới bước qua thiên niên kỷ thứ III với trận lụt năm 2000, hay khi người ta dự đoán ngày tận thế tính theo lịch Maya xảy ra trong vài năm trước. Nhưng chuyện không đơn giản vậy, liệu rằng những chuẩn bị vật chất như để cố thủ ấy sẽ giúp chúng ta thoát khỏi ngày tận thế sao?
Chúa không muốn chúng ta chuẩn bị cho ngày Chúa đến bằng những vật chất tạm bợ như thế. Điều Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta là những kẻ chờ đợi Chúa đến với một tâm tình sẵn sàng, niềm hy vọng lạc quan. Bằng những động thái đứng dậy và ngẩng cao đầu đón chờ Con Người ngự giá mây trời mà đến đầy uy nghi cao cả, chúng ta là những người đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng làm chủ cuộc đời chúng ta. Chính trong thời Cựu Ước, khi dân Do Thái bị chìm ngập trong cảnh hổn loạn, thì tiên tri Giêrêmia đã sống mãnh liệt, không ngừng hy vọng vào Thiên Chúa. Có những thế lực thù nghịch tàn phá nhưng đó không phải là tiếng nói cuối cùng, mà là chính chồi công chính, đấng Mêssia thuộc dòng dõi Đavid sẽ ngự đến.
“Chúa đến” và đã đến trong lịch sử nhân loại hơn hai ngàn năm trước; Chúa sẽ lại đến trong ngày Phán xét chung. Nhưng giữa hai lần đến ấy vẫn còn nhiều lần Chúa đến nữa. Chúa đến khi giờ lìa trần của mỗi người mà mình không biết ngày giờ nào. Chúa còn đến qua một người hành khất bên vệ đường, một người gõ cửa nhà ta xin chút nước, một người đang loay hoay không biết làm sao băng qua đường giữa dòng xe đông đúc, một người đang cần bàn tay chúng ta đưa ra giúp họ một tay… Chúa vẫn thường đến trong những điều không ngờ ấy.
Những điều mình nghĩ sẽ không bao giờ xảy ra, nhưng thực tế ai hay được chữ “ngờ”. Có những bất ngờ làm mình cảm thấy thú vị hồi hộp, nhưng cũng có những bất ngờ làm mình lo lắng và hụt hẫng. Thành thử có người mê tín dị đoan, rồi đi coi bói, xem tướng số, xin sâm xin quẻ để muốn biết được tương lai hậu vận của mình. Đó cũng là cám dỗ ngàn đời mà tổ tiên chúng ta là Ađam và Eva đã vấp phải khi có tham vọng muốn bằng Thiên Chúa, muốn tự hoạch định đời mình. Làm như thế là chúng ta từ chối sự quan phòng của Thiên Chúa, trong khi Chúa dạy rằng mọi sự xảy ra cho dù một sợi tóc trên đầu chúng ta rụng xuống thì cũng không nằm ngoài thánh ý Thiên Chúa mà. Vậy tại sao chúng ta không dâng lên Chúa mỗi giây phút đời mình?
Thực ra, chúng ta có thể đón chờ Chúa đến với một sự chuẩn bị hẳn hoi từ trong tâm hồn. Đó là đón Người đến hàng ngày nơi Bí tích chúng ta lãnh nhận. Chính khi sống tâm tình đạo đức qua việc cầu nguyện, Thánh lễ, cử hành các bí tích, tham dự các giờ kinh… chúng ta đang đón Chúa đến, như Người đã nói: “Nơi đâu có hai hay ba người hợp lại nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ”.
Như vậy, chúng ta không hề nao núng khi đón Chúa đến như thế. Và ngày cùng tận của mình dù có đến như chiếc lưới bẫy chim chụp xuống bất ngờ thì cũng không làm mình hoảng sợ. Vâng, sự bất ngờ và hụt hẫng thật ra chỉ đáng sợ khi chúng ta sống trác táng mặc kệ ngày mai, sống chỉ lo hưởng thụ vật chất, hay như người mải mê chè chén say sưa, nuông chiều thân xác mà không biết lo xa... Có khi cả những lý do chính đáng như kế sinh nhai, chuyện làm ăn, những dự án nghìn tỷ, những dự tính như thế gian này là vĩnh cửu cũng có thể làm chúng ta chệch hướng, chìm ngập trong những bộn bề của vòng xoáy cuộc đời.
Câu chuyện: Có một bác thợ xây đến tuổi nghỉ hưu, nói với người chủ những dự định của mình về cuộc sống nhàn nhã khi nghỉ hưu. Người chủ rất buồn khi người thợ giỏi của mình xin nghỉ, nhưng ông cũng đề nghị bác thợ xây giúp ông xây một căn nhà cuối cùng trước khi về nghỉ.B ác thợ xây đồng ý cách miễn cưỡng và nghĩ rằng “mình đã xin về hưu mà ông chủ còn muốn vét cạn sức lực của mình”. Bác làm việc cẩu thả, chọn những chất liệu kém chất lượng và chỉ muốn mau chóng làm cho xong việc để còn về hưu.
Căn nhà được xây lên cách vội vàng, bác thợ xây đến gặp ông chủ để bàn giao. Bác thợ xây gởi lại chìa khóa nhà cho ông chủ: "Thưa ông, đây là chìa khóa căn nhà ông yêu cầu tôi xây dựng". Nhưng ông chủ mỉm cười đôn hậu nói: "Đây là ngôi nhà của bác, tôi tặng bác để tỏ lòng biết ơn vì sự trung thành và tận tâm của bác cho công ty của tôi". Người thợ xây hết sức bất ngờ và cảm thấy hổ thẹn. Nếu như bác biết rằng mình đang xây ngôi nhà cho chính mình thì bác đã làm hoàn toàn khác. Còn bây giờ, bác phải sống trong ngôi nhà xấu xí mà bác vừa xây.
Lạy Chúa, cuộc sống của chúng ta hôm nay là kết quả của những gì chúng ta làm ngày hôm qua. Và cuộc sống ngày mai là kết quả những gì chúng ta sống ngày hôm nay.xin cho con biết sống tâm tình Mùa Vọng với một tâm hồn luôn sẵn sàng để hãnh diện ra đón Chúa như người người con hân hoan chờ mẹ đi chợ về, như gia đình đợi ba đi làm về để dùng bữa cơm, hay như một sự bất ngờ đầy phấn chấn của người được trao tặng món quà vào một ngày đặc biệt của mình. Xin cho chúng con biết chuẩn bị, không những bên ngoài, mà phải ưu tiên tâm tình nội tâm để cho Chúa chiếm chổ nhất trong cuộc đời chúng con, khi mọi suy nghĩ, hành động của chúng con đều luôn đặt Chúa làm trung tâm. Amen.
27. Thức tỉnh
Chúa Nhật đầu tiên của năm phụng vụ, là Chúa Nhật thứ I mùa vọng, nhưng các bài đọc sách thánh và bài Tin Mừng lại nói về ngày cánh chung. Thật ra Chúa đến trong thế giới hơn hai ngàn năm. Ngày hôm nay Giáo Hội lại muốn nhắc ta nhớ lại ngày Chúa đến, và ngày phán xét cũng là ngày mà mỗi người đang chờ đợi. Cho nên điều quan trọng trong thời gian Mùa Vọng này không phải là tưởng niệm ngày Chúa Giáng Sinh, hay xem dấu hiệu ngày tận thế, mà phải biết dọn mình thức tỉnh đón Chúa trong bất cứ lúc nào.
Trong Mùa Vọng Giáo Hội không muốn chúng ta đợi Chúa đến cách thụ động, mà muốn ta sống tâm tình đó cách năng động. Đặc biệt Giáo Hội muốn ta sống lại những tâm tình của bao thế hệ xưa đã mòn mỏi trông chờ Chúa. Nhất là muốn ta dùng Mùa vọng này để đón Chúa mùa Giáng Sinh, từ đó cũng đón nhận được những ơn mới Chúa ban trong dịp này để làm cho tâm hồn ta ngày càng được lớn lên trong tình yêu Chúa, giúp ta sống Mùa Vọng cách quyết liệt ngay từ Chúa Nhật thứ nhất này. Đồng thời với việc chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh Giáo Hội cũng nhắc ta chuẩn bị ngày Chúa đến sau hết trong ngày cánh chung.
Chúa đã đến với ta rất nhiều lần trong đời, nhưng đến ngày phán xét Chúa sẽ đến "như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em". Tuy rằng phúc âm có nói: "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét". Nhưng nếu con người không thức tỉnh chắc chắn sẽ bị chìm vào nơi tăm tối. Mặc dù Chúa nói: "anh em sắp được cứu chuộc". Nghĩa là không phải là tất cả mà chỉ là những người biết sống như năm cô khôn ngoan biết đem dầu và đèn. Ngược lại nếu chỉ sống như những cô khờ dại thì ngày đó thật khủng khiếp. Vì ngày đó còn gọi là ngày phán xét chung, nên mỗi người phải trả giá cho việc mình làm, trả lời cho Chúa về những ơn huệ mình đã lãnh nhận, và đã sinh lợi thế nào. Khi nói đến ngày phán xét thì người ta sẽ nghĩ đến hai hạng người: kẻ lành được lên thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời. Còn kẻ dữ phải sa hỏa ngục ở đó phải đau khổ, khóc lóc nghiến răng. Hình phạt của kẻ dữ là đời đời không được thấy Chúa. Nhất là không còn được ở trong tình yêu của Người nữa.
Chắc chắc trong chúng ta không ai muốn bị vào số của những kẻ dữ, muốn sa hỏa ngục. Để dừng bị như thế đòi hỏi chúng ta phải dọn mình để đón Chúa ngay trong giây phút này. Đặc biệt là trong mùa vọng mỗi người chúng ta hãy dọn mình để chuẩn bị kỷ niệm việc Chúa đến. Nhưng dọn mình bằng cách nào? Mỗi người hãy nhớ lại tâm tình của người tội lỗi; để được ơn tha thứ ta phải ăn năn và quyết tâm không bao giờ phạm nữa. Thì trong giây phút này đặc biệt là trong mùa chờ đợi Chúa đến, mỗi người hãy ăn năn chê ghét hãm mình đền tội. Nhất là biết chết đi con người cũ và sống lại với con người mới để đón Chúa đến trong một ngôi nhà không vết nhơ, nhưng lộng lẫy trong tâm hồn thánh thiện.
Mùa vọng không chỉ là thời gian để chúng ta dọn mình đón Chúa cách riêng tư. Vì Chúa đến mang ơn cứu độ cho mọi người. Do đó, Mùa vọng còn là mùa để mỗi người mang ơn cứu độ đến cho tha nhân bằng cả tâm hồn và lòng tha thiết. Mỗi hành động ta làm cho tha nhân là một hành động ta đang làm cho Chúa. Vì vậy ngày Chúa đến lần thứ hai Ngài sẽ phán xét ta về việc bổn phận với tha nhân, cách cư xử với anh em. Nếu chúng ta muốn được Chúa mang hạnh phúc cho mình trong Mùa Giáng Sinh này, thì trước tiên chúng ta hãy biết mang lại hạnh phúc cho anh em chúng ta trong mù vọng này.
Tóm lại Mùa vọng không chỉ là thời gian để chúng ta nhớ lại và sống tâm tình của người Do Thái trông chờ Đấng Cứu Thế. Nhưng mùa vọng là thời gian tưởng nhớ việc Đức Giêsu sẽ trở lại vào thời cuối cùng của lịch sử. Chính vì thế mà mỗi người phải biết dọn mình, để sẵn sàng đón Chúa cho dù Ngài đến bất cứ lúc nào cũng biết thức tỉnh để ra ngênh đón.
Lạy Chúa, Mùa vọng không chỉ là mùa chờ đọi mà còn là mùa sám hối, vì chỉ có sám hối ăn năn là cách chờ đợi Chúa tốt nhất và đẹp lòng Ngài nhất. Amen.
28. Hãy đừng sợ, cứ đứng vững và ngẩng đầu lên
Một năm phụng vụ nữa đang kết thúc. Hôm nay là Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, chúng ta lại bắt đầu một chu kỳ mới của ơn cứu độ. Tưởng cũng nên nhắc lại, là sống những tâm tình của từng mùa trong năm phụng vụ không phải chúng ta chỉ sống lại những kỷ niệm của một thời đại đã qua, nhưng là sống chính trong nguồn mạch ơn Chúa tươi mát và mới mẻ để nuôi dưỡng con người nơi Giáo Hội trần gian này, trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu. Điểm quan trọng trong Lời Chúa hôm nay là câu của chính Chúa Giêsu khuyên bảo: "Trong mọi biến chuyển kinh hoàng xảy đến đó, chúng con hãy đứng vững và ngẩng đầu lên".
"Đứng dậy, ngẩng đầu", đòi hỏi con người phải hết lòng tin tưởng, hy vọng vào Thiên Chúa toàn năng, yêu mến Người hết lòng, hướng mọi khả năng về Thiên Chúa vì ơn cứu độ chỉ đến từ Thiên Chúa mà thôi. Không có niềm tin vững mạnh, hy vọng bao la, yêu mến hết lòng, không ai có thể đứng vững được trong hiểm nguy gian nan thử thách. Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy hiểm là trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống thu mình nhỏ lại, muốn mình biến tan để những cơn nguy hiểm không động chạm đến mình. Nhưng Chúa Giêsu bảo: "Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên". Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì Thiên Chúa đem đến cho chúng ta niềm hy vọng.
Nơi bài đọc thứ nhất, qua miệng tiên tri Giêrêmia, Thiên Chúa bảo: "Đã đến ngày Ta thực hiện lời hứa Ta đã hứa cùng Israel và Giuđa. Ngày đó Giuđa sẽ được cứu thoát và Giêrusalem sẽ an lành". Tiên tri Giêrêmia báo cho dân chúng biết Thiên Chúa là Chúa trung thành, Người sẽ tạo lập một xã hội mới có một vị vua biết yêu thương dân và luôn thi hành công lý. Điểm thời gian mà lời tiên tri đó được thực hiện trong lịch sử chính là sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Người vừa là Vua vừa là Thượng Tế. Là Vua, chính Người lo cho Giuđa được cứu thoát. Là Thượng Tế, chính Người lo cho thành thánh Giêrusalem sống trong an bình. Thời gian đó là thời gian vui tươi, hy vọng, không còn sợ hãi, người người sẽ hớn hở gọi to tên của Đấng phải đến đó là: "Thiên Chúa Đấng công chính của chúng tôi". Như thế, bài đọc thứ nhất công bố một niềm hân hoan to lớn.
Sang bài đọc thứ hai, trong thư gởi tín hữu thành Thêsalônica, thánh Phaolô khuyến khích phải làm gì để đón nhận niềm vui trọng đại của ơn cứu thoát mà Thiên Chúa đã hứa? Thánh nhân đã đưa ra ba việc chính yếu phải làm:
Thứ nhất, là phải biết thương yêu nhau.
Thứ hai, là cố gắng sống không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Thứ ba, thánh Phaolô bảo: Người van nài là làm sao càng ngày mọi người càng tiến thêm lên trên con đường thánh thiện.
Qua ba điểm, thánh Phaolô mong muốn, chúng ta nhận thấy rõ ràng như đã nêu lên ở trên, những nhân đức nòng cốt mà phụng vụ Lời Chúa hôm nay mong muốn chúng ta phải sống, đó là một đức tin vững chắc, một niềm hy vọng sâu xa, một tình yêu chân thành và luôn biết hướng mọi khả năng Chúa ban cho mình để phụng sự Chúa là cùng đích tối cao và tối hậu của cuộc đời con người. Trong ba việc làm thánh Phaolô chỉ dạy, cần để ý đến lời khuyên: Cố gắng sống không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa, mà Thiên Chúa đó lại là Cha yêu thương chúng ta chớ không phải là quan xét xử, và Cha chúng ta thấu suốt tận tâm can của từng người con một. Tư tưởng, lời nói, việc làm của từng người con, Người đều thấy hiểu và yêu thương ban ơn nâng đỡ, hướng dẫn. Vậy chúng ta hãy tin tưởng, hy vọng, yêu mến và hướng về Chúa.
Trong bài Phúc Âm như chúng ta đã nói, câu đáng lưu ý là lời khuyên mạnh mẽ của Chúa Giêsu: "Chúng con đừng sợ, hãy đứng vững và ngẩng đầu lên". Với bài đọc thứ nhất, Giêrêmia chỉ rõ Thiên Chúa trung thành với lời hứa cứu rỗi. Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô trình bày Thiên Chúa Cha yêu thương, luôn mong điều tốt đẹp cho con cái. Bài Phúc Âm chỉ là lời kết luận: Dầu trời đất có rung chuyển, có sụp đổ, dầu Chúa có xuất hiện trong uy nghi cao cả, chúng ta cũng hãy đừng sợ, nhưng hãy vui mừng và hy vọng. "Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên". Dầu cho trật tự trần gian này qua đi, Chúa sẽ thiết lập một trật tự mới trong an bình. hãy đừng sợ! Đừng sợ cả khi nhận ra sự yếu đuối của mình, của con người chính mình.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ngay trong chương đầu của quyển "Bước qua ngưỡng cửa hy vọng" đã viết: "Hãy đừng sợ, là lời Chúa đã mời gọi nhiều lần với những con người Chúa tiếp xúc. Thiên Thần đã nói với Maria "Hãy đừng sợ", và cũng đã nói với Giuse "Hãy đừng sợ". Chúa Kitô đã nói với các tông đồ, đặc biệt với Phêrô nhiều lần trong nhiều trường hợp khác nhau, nhất là sau khi Người sống lại: "Hãy đừng sợ". Chúa phải lặp đi lặp lại như thế vì Người biết rằng các ông sợ. Các ông đã sợ khi Người bị bắt. Các ông cũng sợ khi Người phục sinh. Lời đó của Chúa Giêsu, Giáo Hội đã lặp đi lặp lại. Lời đó, Giáo Hoàng cũng đã lặp lại. Tôi đã nói những lời: "Hãy đừng sợ" đó trong bài giảng đầu tiên của tôi tại quảng trường thánh Phêrô.
Nhưng chúng ta đừng sợ cái gì? Chúng ta đừng sợ sự thật của chính chúng ta. Thánh Phêrô đã sống kinh nghiệm bản thân của sự thật đó khi người nói cùng Chúa Giêsu: "Lạy Thầy, xin hãy xa con vì con là người tội lỗi". Không phải chỉ Phêrô mới ý thức được sự thật đó, mà mỗi người chúng ta đều học biết và chúng ta biết rằng sau câu nói đó của Phêrô, Chúa Giêsu bảo: "Hãy đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chài lưới người ta".
Với lời khuyên của Chúa Giêsu và lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị đại diện của Ngài nơi trần gian, chúng ta hãy đừng sợ! Dầu cho con người chúng ta yếu đuối, hãy vững tin vào ơn Chúa, sống Mùa Vọng cho sốt sắng để trở thành con người mới, để cùng ca vang với trời đất, với thần thánh trên trời và loài người dưới thế.
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho loài người được Chúa yêu thương".
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi luôn nhớ lời: "Hãy đừng sợ, cứ đứng vững và ngẩng đầu lên" để những lo âu của cuộc sống này không đè bẹp được tôi; để tôi niềm nở tươi vui với tất cả mọi người nhất là những người đang chung sống với tôi cùng một mái nhà; để tôi có một cái nhìn lạc quan vào mọi biến cố của cuộc đời, kể cả những biến cố có vẻ đau thương nhất, vì Chúa dạy tôi: Hãy tin tưởng, hy vọng, yêu mến, và hứa dẫn tôi về với Người.
29. Sẵn sàng lên đường
Có cuộc hành trình nào mà người lữ khách không chuẩn bị hành lý?! Chuyến đi càng xa và càng quan trọng thì sự chuẩn bị càng phải chu đáo hơn và cẩn trọng hơn. Đời người được sánh ví như một chuyến đi, đi về quê hương thật của mình. Quê hương ấy chính là Nước trời. Trần gian được coi như cõi tạm mà con người là thân lữ khách phải đi qua. Chuyến đi này thật quan trọng và mang tính quyết định cho số phận đời đời của con người. Nhưng thử hỏi, có bao nhiêu người đã ý thức mình là thân lữ khách? Có mấy người đã chuẩn bị chu đáo cho chuyến đi này? Chúng ta đã chuẩn bị được gì và có sẵn sàng lên đường cho cuộc hành trình ấy chưa?
Phải chuẩn bị những gì?
1. Tâm hồn cho nhẹ nhàng, thanh thoát:
Chuyến đi định mệnh này đòi hỏi con người mang túi hành lý là chính tâm hồn mình, để sao cho nó thật nhẹ nhàng và thanh thoát. "Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời" (Lc21,34). Xã hội ngày nay có nhiều cuộc vui đã cuốn hút nhiều người đi vào trong đó và biến họ thành những con rối, những con thiêu thân. Họ quay cuồng theo tiếng nhạc kích động, buông mình theo những làn khói trắng và những chén rượu nồng, đến quên cả lối về...Chè chén say sưa là đi vào những cuộc vui không biên giới. có nhiều người thì lại quá bận tâm đến chuyện làm giàu, cũng cố địa vị và chỗ đúng cho mình đến độ không còn chỗ cho Chúa trong tâm hồn mình nữa. Thời gian của họ đã dành hết cho công việc làm ăn sinh sống và gia đình con cái nên không có thời gian để lo lắng cho linh hồn mình cũng như lo lắng cho việc thờ phượng Chúa. Chúng ta hãy nhớ đến biến cố Hồng Thuỷ trong thời Nôe xem thế nào? Mọi người vui chơi, cưới vợ gã chồng, bình an như không bao giờ phải chết! Noê bị coi như người làm chuyện nhảm nhí, điên khùng... Rồi hồng thuỷ xảy đến, cuốn trôi tất cả, ngoại trừ gia đình Nôe!
Việc sống đạo sốt sắn có thể bị coi như công việc làm dư thừa, chuyện của những con người non dạ, chuyện của trẻ con nếu không muốn nói là điên khùng! Nhưng chúng ta biết mình đang làm gì, cũng như Nôe biết công việc của ông làm vì ông tin vào lời Chúa phán với ông.
2. Đón ngày Chúa đến:
Mùa vọng là thời gian chúng ta hướng lòng về Chúa, mong đợi Chúa đến trong vinh quang và quyền năng: "Ngự giá mây trời mà đến". Ngày Chúa đến sẽ làm cho mọi sự biến đổi. Trời đất sẽ rung chuyển khiến cho những gì con người từng nghĩ rằng nó là biểu tượng của sự vững bền ở trần gian sẽ phải tan biến để nhường chỗ cho vinh quang của Đấng Cứu độ con người. Những ai không mang trong mình niềm hy vọng sống sẽ phải rung sợ và hoang man. Còn con cái của Chúa, những người sống trong niềm tin và hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa sẽ "ngẫng đầu lên, vì anh em sắp được cứu độ".
3. Thái độ sống: Tỉnh thức và cầu nguyện:
Đây là tâm thế cần thiết và xứng hợp của những con người sống niềm tin và hy vọng. Tỉnh thức để khỏi vướng vào những cám dỗ tinh vi của ma quỷ. Cầu nguyện để có sức mạnh chiến đấu và chiến thắng. Vũ khí chắc chắn nhất của con cái sự sáng là cầu nguyện. Cầu nguyện là mặc áo giáp. Xông vào cuộc chiến mà không có áo giáp sẽ dễ bị thương tích và ngã quỵ. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ lai bỏ đời sống cầu nguyện bất cứ trong hoàn cảnh nào và môi trường nào. Ngàu nào chúng ta bỏ cầu nguyện là dấu hiệu chúng ta đang có nguy cơ thua cuộc trong cuộc chiến chống lại ác thần. Hãy mặc lấy chiếc áo giáp cầu nguyện để chuẩn bị tư thế lên đường tiến về Nhà Cha, về quê hương đích thực của mình.
30. Chờ và đợi - Anmai, CSsR
Tâm trạng mong đợi, chờ mong, trông chờ nó diễn tả nỗi lòng của con người hồi hộp, nao nức mong điều gì đó quý báu, điều gì đó mang đến cho con người niềm vui, bình an, hạnh phúc. Chắc có lẽ ai ai trong chúng ta cũng mang trong mình ít nhiều sự mong đợi, lòng ngóng chờ niềm vui, niềm hạnh phúc đến với mình. Nhìn những đứa con, đứa cháu trông đợi cha mẹ chúng đi làm về hay nhất là đợi mẹ cháu đi chợ về chúng ta thấy hay làm sao đó!
Chúng biết rằng mẹ của chúng thương chúng nên hễ đi chợ về là không ít thì nhiều chúng cũng sẽ được bọc xôi, gói chè! Vì thế, hễ mẹ chúng đi chợ là y như rằng chúng cứ chờ, cứ đợi. Nhiều khi chúng ra tận ngoài ngõ để chờ niềm vui từ những gói chè tự tay mẹ chúng mang về cho chúng.
Tương tự thế, nhìn những đứa trẻ đi học mẫu giáo, dù là vui với các cô, các bạn. Ở với các cô, chơi chung với các bạn đồng lứa vui lắm chứ! Nào là được ăn chung, chơi chung, đùa chung nhưng hình như chúng vẫn chưa thoả mãn với tất cả những gì mà cô mà bạn mang lại. Vì sao? Vì tất cả những thứ ấy vẫn không mang lại cho chúng niềm vui, niềm bình an đích thực. Chúng biết rằng thời gian ở với cô, với bạn hay là chơi với cô với bạn chẳng hạnh phúc bằng được ở với cha với mẹ nên rằng cha mẹ chúng là nhất trên đời.
Ở nhà có các cháu nhỏ chúng ta sẽ thấy hình ảnh của chúng buồn cười lắm. Sáng thức dậy là ráng nằm nướng trên giường chưa muốn dậy. Phần lười biếng, phần buồn ngủ nhưng phần lớn chính là không muốn xa ba xa mẹ là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chúng. Chúng phải làm mình làm mẩy để được ở nhà với cha và với mẹ.
Rồi thử một buổi chiều nào đó, chúng ta đến các trường mầm non chúng ta nhìn hình ảnh những đứa trẻ đang đứng ngóng đợi cha mẹ chúng dễ thương làm sao đó. Dẫu chưa biết lúc nào ba mẹ đến nhưng mà cứ đến khi cô bảo mẫu bảo các con hãy thay đồ, rửa mặt là chúng không ai bảo ai đi thay đồ và làm vệ sinh thật là nhanh. Chẳng hiểu sao thật là thiêng liêng, thật là bí nhiệm khi nghe cô bảo mẫu nói như thế chúng làm nhanh thoăn thoắt. Thay đồ xong là chạy vụt ra sân để mà đợi mà chờ. Trong giờ học, các cô có thể bảo các cháu làm gì theo ý cô, theo bài học cô dạy nhưng đến giờ đó cô không thể nào điều khiển cháu được vì lẽ giờ đấy chỉ có một điều cần thôi là chờ ba mong mẹ.
Ngược lại với hình ảnh buổi sáng. Giờ làm sao cho nhanh để được nhìn thấy ba mẹ, để được ba mẹ đón về nên chúng không còn thiết tha với búp bê, với đồ hàng, với đồ chơi, với xe, với cộ nữa nhưng chỉ còn thiết tha sao cho mau gặp ba với mẹ mà thôi.
Nhìn lại lịch sử dân Israel ngày xưa chúng ta thấy rõ tâm trạng chờ đợi như những đứa trẻ vậy.
Do sự phản bội bất trung, họ đã bị bắt đưa đi làm nô lệ bên Babilon. Cuộc sống lưu đày không chỉ ràng buộc họ với những cảnh cùng cực, đói rét, gò bó, mà còn có cả những khe khắt trong cuộc sống tinh thần tôn giáo. Cuộc sống ấy sói mòn tinh thần và thể xác, khiến cho niềm tin vào Thiên Chúa không còn đứng vững, có khác nào như những cánh tay rời rã, bàn chân mỏi mòn.
Chờ Chúa đến nhưng thấy lâu quá để rồ họ đi tìm cho họ đủ thứ các loại thần để mà thờ để mà kính. Lịch sử viết lại cho chúng ta những dòng sử của dân Israel như là bài học lớn cho mỗi người chúng ta. Vì đi theo thần này, thần kia để rồi dân Israel cứ lầm lũi đi trong đêm tối.
Chính trong bối cảnh bi thảm đen tối, Giavê Thiên Chúa đã gửi tiên tri Giêrêmia đến loan báo về ngày giờ Thiên Chúa sẽ ra tay tế độ. Ngài còn mặc khải rõ hơn khi cho biết tin mừng ấy sẽ được khởi sự ngay qua một dòng tộc: Đó là dòng dõi vua Đavit: "Trong những ngày đó và trong thời gian đó, Ta sẽ làm nảy sinh cho Đavit một chồi Công Chính". Thế là một triều đại mới, một vận hội mới sẽ đem lại đổi thay cho kiếp đoạ đày đen tối của dân Israel. Từ đây, trật tự được tái lập, hạnh phúc sẽ nở ra và mọi người mọi nhà sống trong cảnh hoà bình thịnh vượng vì Đức Vua hiển trị sẽ xét xử chư dân trong sự khôn ngoan và công chính".
Lời hứa trên đã làm nao nức bao tâm hồn. Thiên Chúa, Đấng luôn trung thành với giao ước đã chẳng thể nuốt lời. Ngài đã cho Con Một Nhập thể làm người để thực hiện những gì đã hứa, nhưng không chỉ cho Israel mà còn cho các dân tộc. Ngài đã làm sống lại và khơi lên niềm tin tưởng khi loan báo cho họ biết rằng: Giờ cứu rỗi, ngày giải thoát đã gần đến rồi. Vì thế, Ngài kêu gọi mọi người hãy biết đọc qua những biến đổi của vũ trụ, qua những thay đổi của tâm hồn, dấu chỉ của ngày cứu độ. Những biến cố như động đất, mất màu, tai ương, ôn dịch, hạn hán cùng với những vật đổi sao dời làm cho lòng người khiếp run kinh hãi. Và còn có biết bao cái ta không mong đợi mà xảy đến: tai nạn, bệnh tật, chết chóc, hiểm hoạ... Tất cả đều có giá trị như là một dấu hiệu, một lời nhắc nhở để ta hướng về ngày giờ của Con Thiên Chúa đang đến.
Chúng ta, nhìn lại chúng ta ngày nay chúng ta thấy hình như chúng ta cũng chẳng khác Israel ngày xưa là mấy. Chúa yêu thương, nâng đỡ, bao bọc, chở che cuộc đời chúng ta như Israel ngày xưa vậy. Thế nhưng mà chúng ta vẫn chưa cảm thấy thoả mãn với tất cả những gì Chúa thương ban cho chúng ta để rồi chúng ta cũng loay hoay mãi trong bóng đêm như dân Israel vậy.
Tiếng kêu ai oán mong đợi Đấng Cứu Thế đến cứu muôn dân được ngôn sứ Isaia thốt lên trong bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe đấy: "Lạy Đức Chúa, Ngài mới là Cha, là Đấng cứu chuộc chúng con: đó là danh Ngài muôn thuở. Lạy Đức Chúa, tạ sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài? Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp Ngài, xin Ngài mau trở lại. Phải cho Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước thánh nhan". (Is 63, 16b-17.19b).
Vì lòng con người chai đá nên Isaia đã kêu lên với Đức Chúa. Ngày hôm nay, chúng ta cũng gào lên với Chúa là vì tình thương của Chúa, xin Chúa mau trở lại để cứu chúng ta.
Lòng chờ mong, lòng mong đợi ấy chúng ta cũng được nghe Thánh Phaolô nói đến trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô của Ngài: "Chúng ta mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mạc khải vinh quang của Người".
Và Trong khi chờ đợi, Ngài mời gọi chúng ta hãy sống trong sự tỉnh thức và cầu nguyện như Thánh Maccô thuật lại cho chúng ta trong Tin mừng của Ngài mà chúng ta vừa nghe. Chúa Giêsu, hơn lúc nào hết, Ngài cảnh báo với các môn đệ là phải tỉnh thức luôn luôn. Như những người lính tuần canh, chỉ được gọi là tỉnh thức khi biết luôn đứng với đôi mắt sáng rực nhìn về phía trước. Nói cách khác, như thánh Phaolô khuyên trong thư gửi cho giáo dân thành Thesalonica: Đó là không được để cho lòng trí ra nặng nề và tối tăm, bởi những tiệc chè chén, say sưa, bởi đam mê dục vọng, bởi ảo vọng vật chất. Thay vào đó là phải ra sức thực thi bác ái, yêu thương, mặc lấy một cuộc sống khiêm nhường vì đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa và làm cho người ta nên thánh thiện.
Chúng ta biết rằng cuộc đời của chúng ta nó mong manh, nó mỏng dòn, nó yếu đuối lắm nên cuộc đời muốn được đứng vững để đón nhận ân huệ của Chúa, tình thương và ơn cứu độ của Chúa không còn cách nào khác hơn là phải tỉnh thức, vẫn chờ mong Chúa đến như lính canh mong đợi hừng đông như suối mong đợi nước nguồn vậy.
Nhớ lại những đứa trẻ, những thú vui do các cô, các bạn mang lại vẫn không là niềm vui, niềm hạnh phúc đích thực của chúng được. Chúng ta cũng vậy, những lạc thú trần gian: tiền - tình - danh, những thứ ấy vẫn không thể nào bù đắp, không thể nào lấp đầy nỗi khát khao, niềm hạnh phúc đích thực của chúng ta được.
Mùa Vọng, mùa trông đợi lại về. Mùa Vọng như là thời gian, như là cơ hội thuận tiện để nhắc nhớ mỗi người chúng ta đâu là cùng đích, đâu là niềm vui đích thực của chúng ta. Nếu cùng đích của cuộc đời chúng ta là tiền - là danh - là dục thì chúng ta cứ tiếp tục cắm cúi đi tìm chúng. Còn nếu cùng đích, lẽ sống của cuộc đời chúng ta là Chúa thì còn thời gian, còn cơ hội, chúng ta hãy dùng thời gian, dùng cơ hội thuận tiện để biến đổi cuộc đời, để mà luôn tỉnh thức để đón chờ ánh sáng, đón chờ tình yêu vĩnh cửu đến với chúng ta.
Nguyện xin Emmanuel - Đấng Cứu Độ Duy Nhất đến và ở lại trong cuộc đời mỗi người chúng ta để tâm hồn, để cõi lòng cuộc đời chúng ta luôn bình an giữa biết bao nhiêu biến động, bao nhiêu xáo trộn của cuộc đời.
31. Mở rộng tâm hồn đón Chúa
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Bình An)
"Trời cao xin đổ sương xuống. Mây hãy mưa vị cứu tinh. Đất hãy nẩy sinh Đấng cứu đời và không trung biểu dương oai phong Chúa Trời" là nhưng tiếng ca hy vọng, nức nở và ai oán, diển đạt tâm trạng sa lầy của con người. Sa lầy trong cuộc đời khổ ải và gian truân. Sa lầy vì duyên nợ oan nghiệt và tình đời đắng cay. Sa lầy vì tâm cao hơn trời nhưng đam mê và dục vọng đóng khung và đầy đọa con người dưới đất. Sa lầy vì hạnh phúc vụt bay và tiền, tình, tài chỉ là tai họa. Sa lầy vì thân xác héo khô, mỏi mòn và tâm hồn sầu buồn, khắc khoải.
Con người hoàn toàn bất lực trong tiến trình tu thân tích đức. Con người không thể tự giải phóng bản thân khỏi những đam mê, dục vọng và yếu đuối. Con người không thể giải hóa nổi những đố kị, tranh chấp và tị hiềm. Con người vì thế ngước mắt lên trời cao, thét gào ơn cứu độ và xin mưa ơn công chính. Khát vọng nên công chính là nguyên nhân và ý nghĩa của mùa Vọng. Ơn công chính như nước tưới sa mạc khô cằn để cây cỏ xanh tươi và cuộc đời thêm ý nghĩa và đáng sống.
Ngày rước lễ vỡ lòng, bé Thanh xúng xính trong bộ đồng phục thiên thần. Bé vui nhận những món quả sau nghi thức thánh. Bé ôm chặt mẹ và ngây thơ tâm sự " < I>Mẹ ơi, con muốn chết bây giờ để lên thiên đàng. Con sợ sau này con lớn sẽ có nhiều tội và mất phúc thiên đàng ". Tâm tình đơn thành của em là của mỗi chúng ta. Có lúc chúng ta tươi trẻ và xinh đẹp như thiên thần. Có lúc chúng ta ngã sa và đáng trách như tên quỉ sứ. Lại có những lúc chúng ta hối hả gõ cửa trời và vùng vẫy kêu cứu. Đáng khen! vì đây là dấu hiệu của cuộc chỗi dậy.
Lúc ấy Chúa thân hành đến nâng dậy, vỗ về, thanh tẩy và ban lại niềm vui đã mất. Chúa hành động liên lỉ và mãnh liệt lôi chúng ta ra khỏi vòng kiểm toả của tối tăm. Chúa không vui gì khi nhân loại sống trong sa đọa. Chúa dùng mọi hình thức: dậy dỗ, trách phạt, ngăm đe, những mong cảnh tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi bến mê. Có thể khẳng định là Chúa đã dùng mọi phương tiện để ơn cứu độ tuôn tràn vào mỗi cá nhân. Tình trạng sa lầy và dậm chân tại chỗ là do chính chúng ta tạo mãi. Chúng ta xua đuổi và chối từ Chúa. Chúng ta trốn chạy và bịt tai trước những lời kêu mời thân thương và từ ái. Chúng ta đã bỏ lở cơ hội và quay lại tố là Chúa không thương, không giúp.
Trời vẫn ban mưa. CứuTinh vẫn đang mời mọc. Đất tiếp tục sinh hoa kết trái. Chỉ có lòng người khô cằn. Tiên tri Isaia cảnh cáo " đời ngươi tội lỗi. Chiếc áo dơ bẩn là công quả đời ngươi. Ngươi không cầu cũng không bám vào Chúa. Vậy ơn cứu độ bởi đâu đến?"
Chúng ta phải moi đá lên, thay đất tốt vào và nhận hạt giống tinh tuyền. Mưa rơi, hạt giống chuyển mình và phát triển. Lời Chúa văng giải quá dư. Tiếng Chúa vang dội khắp chốn. Hôm nay Chúa lại đến gõ cửa nhân loại. " Hãy tỉnh thức vì chủ đến vào lúc người không ngờ".
Mùa Vọng này chúng ta không mong trời đổ mưa, không cầu mây chuyển Đấng Cứu Độ, không trách đất chưa sinh hoa trái và không phủ nhận vinh quang Chúa nữa. Trái lại chúng ta cầu cho bản thân mình được đứng lên, rướn cao hơn nữa và can đảm bước tới. Vạn sự phải khởi đầu nơi con người yếu đuối và đang sa lầy này. Phản tỉnh là cơ hội và điều kiện để chúng ta kín múc ơn trời, và không lãng phí tình Chúa như những năm trước. Những năm chỉ biết kêu trách và nài xin Chúa bố thí phép lạ nhưng không tích cực cộng tác, thiếu thiện chí thay đổi, chưa can đảm bước tới và không mở lòng đón Chúa.
Chúa trên cao đang giang tay đón chờ. Cửa trời luôn rộng mở. Lời Chúa luôn vang dội. Ơn thánh đang tuôn trào. Bao giờ chúng ta mới tỉnh mộng và sống đúng ý nghĩa mùa Vọng?
32. Sống trọn vẹn Mùa Vọng
Với Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, chúng ta đang bước vào ngày đầu tiên của năm Phụng vụ mới. Vậy trước nhất mỗi người chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mình biết sống trọn năm phụng vụ này, biết tận dụng những ơn lành Chúa ban, từng bước, từng bước theo chân Chúa Giêsu để suy niệm và sống lịch sử cứu độ, lịch sử của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Kế đó, khi nghe Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay, có lẽ chúng ta đang hình dung ngày tận thế, ngày kinh hoàng và chúng ta sợ. Nhưng không sao, Chúa đã bảo: "Chúng con hãy đứng vững và hãy ngẩng đầu lên".
Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật nhất là các động vật, khi gặp hiểm nguy thì trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống, thu mình nhỏ lại, muốn mình biến tan đi để những cơn nguy hiểm không động chạm đến mình. Nhưng trong cơn nguy hiểm tột độ của ngày cánh chung đó, Chúa lại bảo: "Hãy đứng thẳng dậy, đừng khom lưng cúi mọp và hãy hiên ngang ngẩng đầu lên". Tại sao Chúa bảo một điều nghịch lại với bản tính tự nhiên: Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên trong nguy hiểm? Thưa cúi mọp và nằm rạp xuống là vì sợ và khi sợ con người không còn đủ bình tĩnh để xác định vị trí của mình. Không còn đủ sáng suốt để thấy rõ ý nghĩa của việc mình làm để nhận định đâu là phải thi hành và đâu là trái để lánh xa. Và nhất là không còn thấy được tình thương yêu che chở của Thiên Chúa.
Trong các phim nổi tiếng của Hoa Kỳ, "The wise of..." đã trở thành cổ điển và làm say mê khán giả nhỏ cũng như lớn trên 50 năm nay. Vào phần cuối, khi cô bé Dorothy muốn tìm đường về nhà và ba anh chàng người nộm, người sư tử và người kim loại muốn xin cho có khối óc, có quả tim, có sự can đảm, cả bốn đã vào một tòa lâu đài để xin lời chỉ bảo của thần minh. Đến trước bàn thờ thần minh, thấy khói lửa và những tiếng nói vang dội, cả bốn đều thất thanh cúi rạp người xuống và nghe theo, làm theo tiếng phán của thần minh đó. Trong khi đó, con chó Titô đi theo họ không sợ chi cả, bình tĩnh chạy vọng quanh. Và chính nó đã khám phá ra một nhà bác học tinh ma qủy quyệt đang núp bên trong, điều khiển tất cả bộ máy khổng lồ, dọa nạt những ai đến đó và sai khiến họ làm những chuyện "đội đá vá trời".
Bài học hơi mạnh, con chó không biết sợ mưu mô của người đời, đã tình cờ khám phá ra sự thật. Trong khi những con người vì thiếu khối óc, thiếu con tim, thiếu sự can đảm đã sợ run rẩy, khép nép, cúi rạp người, làm theo chỉ thị của phù thủy qủy quyệt, tinh ma. Đó là cái hại của sợ.
Như đã nói, bản tính tự nhiên của con người là sợ, không ai trách chúng ta điều đó. Nhưng hãy tin tưởng ơn Chúa đủ cho chúng ta: "Hãy đứng vững và hãy ngẩng đầu lên". Trong Tân Ước, các tông đồ của Chúa cũng đã có kinh nghiệm sợ hãi, nhưng mỗi lần Chúa đều thương giúp bằng cách nhắc đi nhắc lại với các ông: "Thầy đây, đừng sợ". Nỗi bật nhất là Phêrô, ông có đủ thứ sợ. Trước tiên là sợ chết, sợ liên can tới Chúa, sợ bị làm khó dễ, sợ bị bách hại như Chúa, nên ông đã chối Chúa. Nhưng theo thánh Luca kể: "Chúa Giêsu nhìn Phêrô và ông ra ngoài ăn năn khóc lóc thảm thiết". Phêrô còn có cái sợ đặc bệt nữa, đó là sợ khi thấy mình yếu lòng, Phêrô sợ hãi phủ phục dưới chân Chúa Giêsu và thưa: "Lạy Thầy, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi". Nhưng Chúa đã kéo Phêrô đứng dậy, nhìn vào mặt ông, chỉ thẳng vào ông và bảo: "Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ đánh lưới người". Với tình yêu thương, Chúa đã làm mọi việc ngoài sức tưởng tượng của con người.
Phêrô chối Chúa, Chúa không quở, không la, không phạt. Chỉ nhìn và cái nhìn đó đã diễn tả tất cả lòng yêu thương, tha thứ nên mới xói sâu vào tâm hồn Phêrô, đến nỗi ông ăn năn khó lóc thảm thiết suốt đời và sau đó liều chết vì Thầy. Trước mẻ cá lạ lùng, Phêrô bảo Chúa tránh xa vì ông không đáng ở trước mặt Chúa. Chúa chẳng những không tránh xa mà còn tiến lại gần, ngoài dự đoán của Phêrô, bằng cách chọn Phêrô cộng tác với Người đem con người về Nước Trời, và trên Phêrô, Người đã xây Giáo Hội của Người. Vậy trong mọi nguy hiểm, mọi kinh hoàng, Chúa muốn chúng ta đứng vững và hiên ngang ngẩng đầu lên, vì Chúa biết Người là sức mạnh của chúng ta.
Nhưng muốn đứng vững, muốn luôn ngẩng đầu lên phải có đức tin vững mạnh, phải có niềm hy vọng bao la, phải biết tỉnh thức và cầu nguyện. Tất cả những xác tín đó giúp chúng ta tin tưởng nơi Chúa. Vì dù cho các tầng trời có rung chuyển, biển có gầm sóng, dầu cho mọi người có sợ hãi kinh hồn, thì kìa, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả, Người là Đấng Cứu Thế, Người đến để cứu rỗi thế gian. Và muốn đứng vững trong ngày sau hết, chúng ta phải biết đứng vững ngay từ bây giờ, hiên ngang ngẩng đầu lên trong hiện tại, vì cây nghiêng bên nào thì sẽ ngã bên ấy. Chúa Giêsu đã biết và đã dạy: "Chúng con hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề". Nặng nề vì tiền của vật chất, giả trá, kéo ghì chúng ta xuống đất. Nặng nề vì một chút đặc quyền đặc lợi, cặn bã của thế gian có thể làm mờ mắt chúng ta, để không còn biết mình đang đứng vững hay đang khòm lưng cúi đầu.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta sống trọn vẹn Mùa Vọng này, như lời Thánh Phaolô nhắn nhủ trong bài đọc thứ hai: "Anh chị em thân mến! Xin Chúa gia tăng và ban cho anh chị em tràn đầy lòng thương yêu nhau và thương yêu tất cả mọi người, để lòng anh chị em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến".
33. Mùa hy vọng
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Hằng năm mỗi khi mùa Vọng đến thường cho ta cái cảm giác mong chờ. Bốn tuần lễ Mùa Vọng tượng trưng cho bốn ngàn năm dân chúng trong Cựu Ước mong đợi Đấng Cứu Thế. Vì thế mà lịch sử Cựu ước được gọi là câu chuyện đợi chờ.
Bài trích Sách Tiên Tri Isaia hôm nay được viết vào cái thời mà thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy. Để hiểu rõ cái liên hệ của Giê-ru-sa-lem đối với người Do Thái, ta có thể suy ra cái liên hệ giữa Đền Thánh La Mã đối với người Công giáo. Vào cái thời Giê-ru-sa-lem bị phá hủy thì dân chúng nghèo nàn, khổ cực thế nào! Vì thế, cái cơ hội xây dựng lại đất nước của họ thật là mỏng manh. Do đó hầu như họ để cho thất vọng đè bẹp và bao phủ.
Hôm nay Tiên Tri Isaia đã nhắc nhở cho dân chúng ghi nhớ lời Chúa hứa sai Đấng Cứu Thế và rồi dân chúng cũng nuôi dưỡng cái đời sống thiêng liêng của họ bằng niềm hi vọng đó. Trong khi họ mong đợi Đấng Cứu Thế đến, Tiên Tri Isaia cũng nhắc nhở cho họ là Chúa cũng trông đợi họ trở về bởi vì họ đã quên lãng Chúa và đi lạc đường lối.
Qua những bức Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô cho ta thấy giáo dân Cô-rin-tô đang trải qua cuộc khủng hoảng trầm trọng. Cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô thời đó bị phân tán bởi phe nhóm, và họ sống trong cảnh vô trật tự. Vì thế Thánh Phao-lô khuyên họ sống trung thành cho đến cùng và đặt niềm hi vọng vào ngày Chúa sẽ đến lần thứ hai. Còn giáo dân La Mã thời bấy giờ cũng đang trải qua cuộc bách đạo. Như vậy ta thấy dân Do Thái trong Cựu Ước mất niềm hi vọng trong việc xây dựng lại đền thờ. Giáo dân thành Cô-rin-tô thời Giáo Hội sơ khai bị chia thành năm bè bảy mối. Giáo dân La Mã thời khởi đầu Giáo Hội bị bách hại.
Còn giáo dân Việt nam hải ngoại sau 1975 đang gặp những khó khăn nào? Phải chăng người giáo dân Việt Nam cũng đang gặp những khó khăn về vật chất, về tinh thần, cũng như đời sống thiêng liêng? Có những người cảm thấy nhớ nhung cái cảnh thân mật dưới mái gia đình, và cái cảnh quen thuộc của khu xóm, làng mạc, phố chợ. Có người cảm thấy luyến tiếc khi thấy con cháu quên lịch sử, quên nói tiếng mẹ. Có người cảm thấy thua thiệt khi thấy khả năng ngôn ngữ của mình bị giới hạn. Có người cảm thấy tủi hổ khi thấy mình già cả, bị con cháu cho qua mặt, không còn được coi là thích hợp và hữu dụng. Có người cảm thấy ưu tư khi thấy những giá trị luân thường đạo lý cổ truyền đã bị quên lãng. Có người cảm thấy mất mát khi thấy gia đình đổ vỡ, nhưng liên hệ giữa ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt đã trở nên lỏng lẻo, xa cách, nếu không là đã bị cắt đứt. Có người cảm thấy lo âu khi thấy việc thực hành đức tin đã trở nên bê trễ.
Đứng trước những hoàn cảnh kó khăn, trắc trở, Tiên Tri Isaia nhắc nhở cho dân Do Thái đặt niềm hi vọng vào Đấng Cứu Thế sẽ đến. Thánh Phao-lô khuyên giáo dân Cô-rin-tô phải trung thành cho đến cùng. Còn Thánh sử Marcô kêu gọi giáo dân La mã phải tỉnh thức chờ đợi. Như vậy, theo lời Tiên Tri Isaia, lời Thánh Phao-lô, lời Thánh sử Marcô, ta cũng phải cố gắng vươn lên để vượt thắng trở ngại, vượt lên trên hoàn cảnh thay vì để cho hoàn cảnh trở ngại đè bẹp. Mỗi người phải đặt cho mình một niềm hi vọng nào đó: hi vọng có bằng cắp, nghề nghiệp, hi vọng co việc làm tốt, hi vọng đời sống cá nhân sẽ thay đổi, hi vọng những liên hệ gia đình cũng như liên hệ với Chúa sẽ trở nên tốt đẹp hơn, hi vọng con cháu sẽ được thành đạt và hạnh phúc.
Mùa Vọng mà Giáo Hội bắt đầu hôm nay là mùa hi vọng. Giáo Hội dùng phụng vụ để khơi dậy trong ta cái ước muốn, để hun đúc tư tưởng của mỗi người cho việc sửa soạn tâm hồn đón mừng Chúa Cứu Thể đến bằng ơn thánh. Hi vọng là lẽ sống của mỗi người. Đối với người công giáo, thì Chúa Giáng Sinh phải là nguồn hi vọng và là lẽ sống của mỗi người.
34. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn.---Lm. Ignatiô Trần Ngà
Theo kinh thánh, Sam-son là vị thủ lãnh có sức mạnh phi thường, trở thành nỗi kinh hoàng cho quân Phi-li-tinh.
Ngày nọ, với hai bàn tay không, Sam-son anh dũng chống cự với một con sư tử gấm và xé xác nó ra khi nó bất thần lao vào tấn công ông.
Có lần bị quân Phi-li-tinh vây chặt, trong tay không một tấc sắt, Sam-son chộp ngay một chiếc xương hàm của con lừa và dùng vật nầy như khí giới chống lại quân thù và quật chết rất nhiều đối thủ dám khiêu khích ông.
Sức mạnh của Sam-son làm cho quân Phi-li-tinh vô cùng khiếp sợ. Khi không thắng được Sam-son bằng sức mạnh, người Phi-li-tinh tìm cách diệt ông bằng mưu kế.
Một chiếc bẫy được giương ra: đó là nàng Đa-li-đa, một thiếu nữ người Phi-li-tinh xinh đẹp và lôi cuốn. Cô nàng đến với Sam-son và chiếm lấy trái tim anh. Đaliđa gạn hỏi Sam-son do đâu mà anh có sức mạnh kinh hồn. Được Sam-son tiết lộ cho biết sức mạnh của anh có liên hệ đến mái tóc, khi nào tóc bị cắt đi thì sức lực anh không còn.
Biết thế, Đa-li-đa lén cắt tóc Sam-son trong khi anh ngủ rồi báo tin cho các thủ lĩnh Phi-li-tinh. Quân Phi-li-tinh xông đến, quật ngã anh, xiềng anh lại bằng những sợi xích đồng, tàn nhẫn khoét luôn cả hai mắt anh và bắt anh ngày ngày kéo cối xay quay như một con trâu ngoan ngoãn.
Một Sam-son vạm vỡ với sức mạnh kinh hồn, một thủ lãnh bách chiến bách thắng từng làm cho quan quân Phi-li-tinh phải kinh hồn táng đởm giờ đây trở thành một tù nhân mù loà, thành một tên nô lệ ngày ngày cúi đầu làm thân trâu ngựa nhẫn nhục thay trâu bò kéo cối xay!
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu! Chỉ vì không sáng suốt tỉnh táo trước mưu độc của quân thù, vì thiếu tỉnh thức nên Sam-son đã sa vào cạm bẫy và lãnh lấy hậu quả vô cùng đau thương.
* * *
Có một thực tế đau lòng là so với các loài các vật khác, thì con người dễ bị hư hỏng suy sụp hơn nhiều. Một ngôi nhà xây dựng sơ sài cũng có thể đứng vững trước giông tố và tồn tại đến cả chục năm. Một con thuyền mong manh ọp ẹp cũng thách thức được với sóng gió suốt nhiều năm tháng dài. Một cái bàn, cái tủ được sử dụng cả năm chục năm chưa hư, mà có khi càng lâu năm thì càng lên nước, càng đẹp và càng đáng quý hơn. Trong khi đó, con người là tạo vật thượng đẳng mà sao lại mỏng dòn, dễ thối, dễ hư đến thế!
Cá thì dễ ươn, thây ma mau thối, con người dễ hư!
Bài học Sam-son tuy đã xưa nhưng cho đến hôm nay vẫn mang tính thời sự vì nó vẫn tiếp diễn trong cuộc đời con người dưới nhiều dạng thức khác nhau. Hằng ngày báo chí và truyền hình thuật lại vô số cảnh đời sa ngã dưới nhiều hình thức: người thì suy sụp vì ma tuý, người thì sa đoạ vì gian dâm, vì men rượu, vì lợi, vì tiền, vì nhiều hình thức truỵ lạc khác...
Mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ngay cả một số những cây cao bóng cả trong xã hội cũng như trong các tôn giáo vì thiếu tỉnh thức nên cũng bị sa ngã, bị lún sâu xuống bùn.
Thế nên người ta thường bảo: "khôn ba năm, dại một giờ", nhưng không những thế, có khi khôn đến năm mươi năm, bảy mươi năm rồi cũng hoá dại trong một giờ!
Cá thì dễ ươn, thây ma mau thối, con người dễ hư. Thật đáng sợ thay!
Lời Chúa hôm nay nhắc bảo chúng ta: "Anh em hãy tỉnh thức và hãy cầu nguyện luôn!... hãy đề phòng, đừng để cho lòng trí mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em". Còn thánh Phao-lô thì cảnh báo: "những ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã" trong nay mai. (I Cr 10,12)
Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Con người trở nên cao quý là do phẩm chất cao đẹp của mình. Một người dù nghèo xác nghèo xơ, nhưng có tâm hồn cao thượng, có nhiều phẩm chất cao đẹp... thì vẫn là người có giá trị cao, đáng được mọi người mộ mến. Chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể làm tiêu tan giá trị và phẩm chất cao đẹp của con người.
Mỗi người chúng ta quý giá hơn những viên kim cương đắt giá nhất trần gian, nhưng cũng có thể bị thoái hoá, biến chất, trở thành như một viên sỏi vô giá trị bất cứ lúc nào.
Vì lúc nào con người cũng mê muội và dễ chìm đắm, thế nên lời nhắn nhủ "hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn!... Hãy đề phòng chớ để lòng mình ra nặng nề u tối... là một tiếng chuông cảnh tỉnh luôn luôn cần.
Lạy Chúa, biết đến bao giờ lời Chúa mới cảnh tỉnh được con và lôi con ra khỏi vũng lầy êm ái?
35. Hãy tỉnh thức
"Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ" (Lc 21, 26). Đây là lời tiên báo của Chúa Giêsu về sự thật ngày cánh chung. Nhưng, hơn 20 thế kỷ đã trôi qua, nhân loại vẫn còn tồn tại. Những câu chuyện về ngày cánh chung của Chúa Giêsu trở thành những câu chuyện cổ tích xa xôi. Nhân loại đang an tâm trong giấc ngủ say của những tư tưởng cánh chung riêng mình. Bởi Thiên Chúa đã chết rồi còn đâu.
Giấc ngủ của người vô thần.
Một chế độ chính trị ổn định, một nền kinh tế phát triển, một hệ thống giáo dục vững mạnh, một gia đình hạnh phúc... là thành công. Đó là quan niệm chung của con người thế kỷ 21 này, hay nói rõ hơn là quan niệm của những người không tin vào thượng Đế. Thế nhưng, đó là sự thành công trong một giấc ngủ say. Một lý tưởng sống rất tầm thường, một thái độ đang chối bỏ sự thật. Người vô thần cho rằng tất cả những gì họ làm là cho con người. Họ cố gắng rất nhiều, nỗ lực rất nhiều. Lẽ ra họ phải được coi là những người tỉnh táo và sáng suốt hơn bất kỳ ai. Tại sao cho rằng họ đang ngủ say? Rõ ràng một người duy trì một chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, gia đình ổn định, là những người có năng lực. Tôi dám khẳng định họ có khả năng lên kế hoạch, dự phóng rất tốt về tương lai trong 5 năm hay 10 năm. Tôi biết rõ họ chuẩn bị cho những kế hoạch đó rất kỹ lưỡng, chu đáo. Tôi tin rằng họ sẽ thành công. Thế nhưng, một biến cố bất ngờ về sự ra đi ngày mai của họ. Một sự thật mà họ không tin, không muốn nghĩ đến. Và giả có nghĩ đến thì cũng không dự đoán được. Vậy đương nhiên là không có chuẩn bị gì cho ngày thế mạt đó. Đó phải chăng là một giấc ngủ say của cuộc đời?
Giấc ngủ của Kitô hữu.
Kitô hữu biết Chúa tử thuở nhỏ, tin Chúa từ khi lọt lòng mẹ qua niềm tin của Giáo Hội. Hiểu rõ về biến cố cánh cung có thật trong cuộc đời mình. Nên ta nghĩ rằng mình đang tỉnh thức trong cơn ngủ say của nhân loại. Ta đã lầm. Sự thật Kitô hữu cũng đang ngủ say. Ngủ trước sự quang lâm từng ngày của Thiên Chúa và ngủ bên những nhu cầu của tha nhân. Phụng vụ Kitô giáo kêu gọi tín hữu hướng về sự quang lâm của Chúa đặc biệt qua phụng vụ mùa vọng. Mừng Chúa đến lần thứ nhất và trông đợi Chúa đến lần thư hai. Chúng ta an vị trong những cử hành phụng vụ của Hội Thánh mà quên rằn Chúa đã quang lâm hằng ngày, từng giờ, từng phút trong cuộc đời ta. Chưa nhận ra Chúa Kitô đến trong cuộc đời mình thì mãi mãi ta sẽ sống trong thái độ mỏi mòn chờ Chúa. Nhận ra Đức Kitô đến với chúng ta từng ngày sẽ làm đôi mắt tỉnh ngủ với tha nhân. Ta sẽ có những thao thức của đức ái và hành động theo những đòi hỏi của con tim. Thái độ cơ bản của tỉnh thức là hướng đến việc nhận ra Đức Kitô đến từng giây phút trong đức tin và bản thân đến với tha nhân từng ngày trong đức ái.
Chúa nhật I mùa vọng Chúa Giêsu mời gọi ta tỉnnh thức. Ở đây Ngài không phân biệt đối tượng là vô thần hay hữu thần. Tất cả những ai trong trạng thái ngủ say đều được mời gọi: "Đừng chè chén say sưa". Những ai biết dừng lại, biết sửa say đều đón nhận được ơn cứu độ.
36. Ơn Cứu Độ đã đến gần
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Trong thời gian này, người ta nói đến ngày tận thế rất nhiều và các phương tiện truyền thông đưa đủ thứ tin tức về ngày thế mạc: nào là sẽ tối trời trong ba ngày ba đêm, nào là bí mật Fatima… làm cho nhiều người hoang mang lo lắng. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô 16, ngày 18/11/2012 đã lên tiếng kêu gọi mọi người đừng tin vào những lời đồn đại về ngày tận thế.
Chúng ta đang sống trong một thế giới bất ổn, đang bị đảo lộn và sợ sệt. Các nước trên thế giới đang tranh chấp với nhau gay gắt, và nguy cơ xảy ra thế chiến thứ ba là rất có thể và không biết lúc nào. Các nước vẫn tiếp tục mua bán vũ khí và sẵn sàng tham chiến.
Cuộc sống con người hôm nay bị đe dọa từ mọi phía: bệnh tật, bão tố, môi trường bị ô nhiễm trầm trọng và không có thuốc chữa… Khoa học tiến bộ, những phát minh tân kỳ không cứu được con người khỏi nỗi e sợ đang đè nặng trên thế giới.
Ai có thể đem lại bình an cho chúng ta?
Hôm nay, Giáo hội bắt đầu một năm Phụng vụ mới, mời gọi chúng ta chờ đón Chúa đến. Ngài vẫn đang đến trong mầu nhiệm Giáng Sinh làm người, và Ngài cũng đang đến trong vinh quang trong ngày tàn lụi của thế giới.
Chúng ta đang bước vào giai đoạn chờ đợi Chúa. Sự chờ đợi này mang hai chiều kích như đã nói ở trên. Dù việc chờ đợi của chúng ta mang hai chiều kích khác nhau nhưng quy tụ về một điểm duy nhất: Chúa vẫn đến gần chúng ta để mang lại hạnh phúc cho chúng ta. Hãy chờ đón Ngài.
Chờ đón Ngài không phải trong sợ sệt lo âu, mà trong một niềm hãnh diện hiên ngang: “anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên vì anh em sắp được cứu độ”. Đó chính là niềm mong đợi tha thiết của chúng ta, những người tin Chúa. Chúa đến không phải để trừng phạt mà để cứu vớt, để mang lại hạnh phúc, điều mà chúng ta đang chờ mong.
Ngài nói đến những hiện tượng đáng sợ trong trời đất. Đó không phải là những lời đe dọa mà là những lời báo trước những gì phải xảy đến, vì “bộ mặt thế gian này sẽ qua đi”. Và khi nó xảy đến, đó là lúc chúng ta biết Ngài đã gần: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến”. Ngài không còn là con người nhỏ bé như chúng ta mà là Vua đầy quyền năng, là Đấng xét xử mọi người, là Thiên Chúa toàn năng, nhưng cũng là Đấng ban cho mọi người phần thưởng chiếu theo công việc họ làm. Đó chính là Thiên Chúa tình yêu mà chúng ta tôn thờ yêu mến. Nếu chúng ta yêu mến Ngài thì những hiện tượng kinh khủng kia chỉ là dấu hiệu của một kết cuộc trong hy vọng.
Những người không có niềm tin sẽ không thể hiểu được những dấu hiệu đó. Họ sẽ hoang mang sợ hãi, phần chúng ta thì ngược lại, vì chúng ta biết ý nghĩa của chúng, chúng ta đã được cảnh báo trước. Có lẽ chúng ta cũng phải điêu đứng như mọi người khi những tai nạn xảy ra, nhưng chúng ta không bị khủng hoảng, vì chúng ta luôn được bảo đảm: “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta?…”(Thánh Phaolô).
Chúng ta đang chờ đợi vinh quang Chúa hứa cho chúng ta. Nhưng không phải chỉ ngồi không chờ đợi mà phải ra công làm việc, phải sống thế nào để khi Chúa đến, Chúa thấy chúng ta vẹn toàn trung thành, “không gì đáng trách trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta quang lâm…”
Chúa Giêsu cũng cảnh báo chúng ta một cách hết sức rõ ràng: “Anh em hãy đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa…”
Chúng ta có chờ đợi Chúa không? Hay chúng ta vẫn lo những việc vụn vặt ở đời? Cuộc sống chúng ta hôm nay như thế nào? Chúng ta đang mong đợi gì? Thiên đàng ư? Phải, chúng ta đang mong chờ hạnh phúc thiên đàng, nhưng chúng ta phải nhớ rằng thiên đàng không phải là một cõi phúc nào đó vu vơ, một thứ mơ mộng xa xôi, một thứ bù trừ cho những thất vọng ở đời.
Thiên đàng là hôm nay, là cuộc sống yêu thương tràn đầy, không nao núng, không sứt mẻ. Chúng ta đang sống trong hạnh phúc thiên đàng nếu chúng ta biết cho đi như Chúa Giêsu đã cho đi, nếu chúng ta biết chấp nhận mọi thử thách của cuộc sống mà vẫn yêu thương chân thành: yêu mến Chúa và yêu thương mọi người.
Cuộc sống hôm nay không dễ dàng. Cuộc đời vẫn không buông tha cho chúng ta. Chúng ta hằng ngày phải đối mặt với bao nhiêu khó khăn để có thể sống còn. Cám dỗ của vật chất vẫn là một cám dỗ đáng sợ và chúng ta mong manh. Hãy nhớ điều đó.
Chúng ta không yếm thế, vì chúng ta vẫn tin rằng Chúa vẫn không thể bỏ quên những kẻ tin cậy vào Ngài. Dù thế nào chăng nữa, chúng ta không thể quên rằng Thiên Chúa, Cha chúng ta, “không thể cho chúng ta hòn đá khi chúng ta xin bánh”. Nhưng Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”.
Chúng ta chưa đạt tới đích, chúng ta vẫn còn là lữ hành trên đường và con đường vẫn còn dài. Mỗi ngày là một bước tiến về với Chúa chứ không là một cuộc phiêu lưu về với vô định. Chúng ta vẫn tin rằng Chúa chúng ta là Đấng Cứu Độ, Ngài sẽ không thể trì hoãn. Muôn dân đang trông đợi Ngài từ bao thế kỷ. Và hôm nay, chúng ta đang mời gọi Ngài trong một khao khát triền miên. Khao khát được thấy Chúa trở thành Emmanuel, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, và khao khát được Ngài cho bước vào cõi vinh quang bất diệt của Ngài.
Nhưng chúng ta đã sẵn sàng chưa?
Chúng ta không chắc sẽ thấy những gì Chúa cảnh báo, không thấy những hiện tượng lạ lùng trên trời, nhưng một điều vẫn luôn rõ rệt là mỗi người sẽ đến ngày cùng tận của mình. Đó là ngày Chúa đến viếng thăm chúng ta, ngày tận thế của mỗi người chúng ta. “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”. Chắc chắn Chúa sẽ đến, nhưng đừng để Ngài đến khi chúng ta vẫn còn chè chén say sưa hay mê mải những việc trần thế.
Chúng ta còn có nhiệm vụ dọn đường cho Chúa đến trong trần gian. Chúng ta còn nhiều và rất nhiều việc phải làm. Công đồng Vatican II vẫn khuyến khích chúng ta tiếp tay với Giáo hội chuẩn bị cho ngày Nước Chúa được triển nở khắp nơi, đạt đến sự viên mãn cuối cùng. (Hiến chế Giáo hội số 5,6,9) Chúng ta khao khát Chúa đến trong vinh quang, nhưng không quên những bổn phận trần thế. (Hiến chế Giáo hội trong thế giới hôm nay số 21).
Hôm nay, cũng như hằng ngày, Chúa vẫn ở đây với chúng ta. Ngài rất gần nhưng chúng ta chưa gần Ngài. Ăn lấy Ngài mà vẫn chưa yêu mến đủ. Sống trong Ngài mà vẫn còn xa cách. “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”. Tỉnh thức là luôn có Ngài trong tư tưởng, vì tình yêu được đo bằng nhung nhớ triền miên.
37. Đối phó bất ngờ---Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người Việt Nam có câu "nước tới chân mới nhảy" thì quá trễ. Người Miền Trung và cao nguyên trung phần Việt Nam đã quá thấm thía câu nói này qua cơn lũ lịch sử vào ngày 11 tháng 10 vừa qua. Bất ngờ đột ngột giông bão và cơn lũ đổ về đã khiến cho hàng trăm người thiệt mạng, hàng ngàn ngôi nhà bị xóa sổ, thậm chí cả một xóm Trường ở Phú Yên bị xóa sổ hoàn toàn. Cuộc đời có qúa nhiều cái đột ngột bất ngờ đã lấy đi biết bao tính mạng của con người. Bất ngờ xảy ra đối với con người trong mọi hoàn cảnh như: tai nạn giao thông, tai nạn nghề nghiệp, tai nạn bởi thiên tai. Với biết bao cái chết đột ngột, bất ngờ khiến chúng ta cảm thấy cuộc đời thật mong manh, kiếp người sao quá mỏng dòn. Cuộc đời đến rồi đi dường như không theo tính toán của con người. Con người dường như bất lực trước định mệnh sống còn của cá nhân mình.
Người ta kể rằng: Có một tai nạn máy bay đã xảy ra và trong đám hành khách bị thiệt mạng, người ta tìm thấy một anh chàng văn sĩ. Anh chàng văn sĩ này, trước đó mấy tiếng đồng hồ, đã ba hoa hăng say nói với một người bạn tại phi trường Rôma về những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật. Anh chàng văn sĩ ấy nói: "Này bạn, bạn thấy trí óc con người tuyệt diệu đấy chứ... Sáng nay, tôi đã uống cà phê tại Bá Linh. Bây giờ là buổi trưa, tôi với bạn dùng cơm tại Rôma. Và tối nay, tôi sẽ đi nghe nhạc tại Paris". Nhưng sự thật đã xảy ra khác hẳn. Tối nay chàng văn sĩ ấy đã xuất hiện trước tòa án tối cao của Thiên Chúa, thay vì đi nghe nhạc tại một nhà hàng nổi tiếng của Paris.
Nhìn vào những gì đang diễn ra chúng ta thấy rằng: trên thế gian này chẳng có gì an toàn, chẳng có gì trường cửu. Tất cả đều mong manh, kể cả kiếp người cũng mong manh như loài hoa trước gió, đến độ "một cơn gió thoảng cũng làm nó biến đi. Nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích".
Hôm nay, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức đừng để "lòng mình ra nặng nề vi chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy đến như một chiếc lưỡi bất thần chụp xuống đầu anh em". Vì thế, sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức vì ngày cuối cùng đời người chúng ta sẽ đến. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình.
Ngày xưa có một ông cụ già tên là Lót, ông cố cứu kinh thành Sô-đô-ma khỏi bị Chúa tiêu diệt bằng cách mỗi ngày đi gặp người dân trong thành để cảnh cáo và kêu gọi mọi người tin Chúa, thờ Chúa cho khỏi bị tiêu diệt. Không ai chịu nghe lời ông cụ mà còn chế diễu là mê tín dị đoan nữa. Ông cụ vẫn bền chí đi hết nhà này sang nhà nọ để kêu gọi họ thống hối ăn năn. Thấy chuyện vô tích sự của cụ, nên có người hỏi:
- Tại sao cụ nói cho họ biết làm gì cho mệt. Họ có nghe cụ và thay đổi gì đâu? Nói với họ cũng như nước đổ đầu vịt!
Ông cụ bình tĩnh đáp:
- Có lẽ tôi không thuyết phục nổi ai, cũng không thay đổi được ai đâu. Nhưng làm như thế cũng là giúp tôi, đừng lao vào cuộc sống sa đoạ như họ.
Thái độ của ông Lót phải chăng cũng là thái độ cần có của người ky-tô hữu chúng ta. Bởi lẽ, trong thế giới ngày nay, tình trạng sa đoạ và trụy lạc ngày càng nhiều và lan rộng, đến độ người ta cho rằng phải sống đồi trụy mới là tiến bộ. Chẳng hạn như: quan hệ trước hôn nhân, đồng tính luyến ái, ngoại tình, phá thai và các sách báo, phim, băng hình đồi trụy mỗi ngày đều gia tăng, mặc dù cơn đại dịch Sida, Aid đã tiêu diệt hàng trăm ngàn người mỗi năm, thế nhưng nhiều người vẫn nhắm mắt làm ngơ, vẫn lao vào cuộc sống hưởng thụ, sa đoạ, bất chấp lề luật, bất chấp tai họa. Cuộc sống sa đoạ đến mức Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã than thở rằng: "cái đáng buồn của thế giới ngày này, đó chính là mất ý thức về tội, người ta không còn nghĩ đến tội phúc, và cũng chẳng cần nghĩ đến danh dự của phẩm giá con người, người ta chỉ cần thoả mãn nhu cầu dục vọng của mình đến độ bất chấp cả lề luật mà Thượng Đế đã an bài".
Là người tin Chúa sống trong xã hội băng hoại, ta cần cẩn thận. Phải nói về Chúa cho đồng bào mình vì nếu không, chính chúng ta sẽ thay đổi theo chiều đồi trụy. Đó chính là phương cách bảo vệ niềm tin Chúa và đưa người khác đến với Chúa. Nếu không làm như vậy, không mấy lúc mà ta sẽ thay đổi theo với xu hướng tục hoá của xã hội, chứ không phải xã hội chung quanh thay đổi vì ta.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.
38. “Không lo xa ắt buồn gần"---Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Cổ nhân có câu rằng “người không biết lo xa, ắt sẽ buồn gần”. Người xưa muốn khuyên răn nhau đừng quá dễ dãi, nông nổi, hời hợt, có con mắt thiển cận, thái độ ăn xổi ở thì; mà rất nên, rất cần có suy nghĩ chín chắn, biết nhìn xa trông rộng, ăn hôm nay phải nhớ đến ngày mai, làm việc gì cũng phải tính toán trước sau, đo lường sự thiệt hơn để mục đích cuối cùng là được nhiều hơn mất, góp phần làm cho tiếng cười vui nhiều hơn nước mắt, để cho làng trên xóm dưới nhiều niềm vui hơn là sự ta thán, phiền muộn.
Nhưng đáng tiếc nhiều người chỉ thấy lợi trước mắt mà không nghĩ tới hoạ liền sau. Họ tưởng rằng “một tay che được bầu trời” nhưng họ đã lầm to, những điều xấu sớm muộn cũng bị đưa ra ánh sáng.
Điển hình là các quan chức Việt Nam. Rất nhiều năm nay họ luôn nghĩ rằng Đảng bênh Đảng nên không xử lý họ. Các quan to nhỏ thi nhau tham nhũng làm nghèo đất nước. Họ đâu nghĩ rằng sẽ có ngày cuộc đời họ sẽ tàn trong những năm tháng tù tội thiếu thốn...
Theo Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng cho biết cơ quan chức năng đã kỷ luật hơn 840 tổ chức Đảng và 58.120 đảng viên vi phạm. Trong đó, hơn 2.700 đảng viên vi phạm về tham nhũng, cố ý làm trái, kiến nghị thu hồi trên 260.000 tỷ đồng.
"Điển hình là các vụ án: Dương Chí Dũng, Huỳnh Thị Huyền Như, Nguyễn Đức Kiên(Bầu Kiên), Châu Thị Thu Nga, Giang Kim Đạt, Trịnh Xuân Thanh, Đinh La Thăng, Phan Văn Anh Vũ (Vũ Nhôm), vụ án đánh bạc và tổ chức đánh bạc xảy ra tại Phú Thọ với 2 tướng Công an bảo kê là Phan Văn Vĩnh Và Nguyễn Thanh Hoá (ông Phan Đình Trạc ban PCTN đã nói).
Cuộc sống luôn thay đổi mà người ta hay nói rằngcuộc sống thì vô thường. Con người chẳng biết ngày mai sẽ ra sao. Sống hay chết đều không do mình quyết định. Cái chết đến thật bất ngờ. Bất ngờ như tên trộm đào ngạch vào nhà lấy đi đồ đạc lúc nào chẳng hay biết. Cái chết cũng chẳng định lứa tuổi hay giai cấp, vì có thể cùng một lứa tuổi, cùng một công việc nhưng kẻ thì được mang đi, người thì vẫn còn ở lại.
Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức bằng cả một đời sống theo thánh ý Chúa. Tỉnh thức không để lòng mình buông theo những cám dỗ thế gian, những ước muốn tầm thường. Tỉnh thức để sống ngay thẳng không theo đường lối gian tà.
Chúa Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đừng để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời mà hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Hãy sống công chính trước mặt Chúa. Sống trong ơn nghĩa của Ngài. Sống trung thành với giáo huấn của Ngài. Sống tự chủ bản thân mình đừng chiều theo tính xác thịt mà làm trái với luân thường đạo lý.
Đây cũng là thái độ của người khôn ngoan luôn tỉnh thức trước giờ Chúa đến. Tỉnh thức bằng việc cầm đèn cháy sáng như năm cô khôn ngoan có đủ dầu đèn. Dầu đèn ở đây chính là những việc lành bác ái, những ước vọng sống thánh thiện khước từ tội lỗi.
Mùa vọng là thời gian đợi chờ. Cuộc đợi chờ tân lang đến nhưng không hẹn rõ ngày giờ. Một cuộc đợi chờ luôn đòi hỏi chúng ta phải tỉnh thức. Tỉnh thức để xứng đáng dự tiệc vui muôn đời bên Chúa. Ước gì chúng ta hãy tận dụng mùa vọng để chuẩn bị cho mình hành trang cần thiết cho cuộc hội ngộ với Đức Lang Quân. Xin đừng vì những mải mê thế gian mà đánh mất cơ hội dự tiệc vui muôn đời. Amen.
39. Sống tỉnh thức---Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có ba xác chết đều có bộ mặt đang mỉm cười được đặt tại Trung tâm điều tra hình sự. Ông quản lý đang trả lời nhà báo về nguyên nhân của những cái chết.
- Đây là ông A. Ông ta chết ngay sau khi biết tin mình trúng xổ số 10 tờ độc đắc.
Ông ta bước đến xác thứ hai:
- Đây là Bo. Ông ta chết khi nghe tin toà án cho ly dị vợ mà không phải chia gia sản được hưởng toàn bộ.
Đến cái xác thứ ba:
- Đây là Tom. Ông ta chết vì bị sét đánh.
- Hai người trước thì có thể hiểu được nụ cười, còn ông này cười cái gì?
- Ồ, ông này say rượu, khi thấy tia sáng của sét đánh xuống mà ông ta cứ ngỡ mình đang được chụp hình nên vẫn cứ cười!
Chết có muôn ngàn kiểu. Vui quá cũng chết. Buồn quá cũng chết. Không hẳn già mới chết mà có khi mới sinh cũng chết. Không hẳn bệnh mới chết mà có khi đang khỏe mạnh cũng lăn ra chết. Chết cũng không quy định nơi chốn. Có người chết ở nhà và cũng có người chết đang đi đường. Có người đang nằm viện nhưng cũng có người đang trên công trường. Nơi chốn và cách thức chết xem ra chẳng có một quy định nào dành cho con người.
Thế nhưng, có một điều chung cho con người là ai cũng phải chết. Cái chết là quy luật tất yếu của đời người. Sinh – lão – bệnh – tử. Có người còn cho rằng con người sinh ra để tiến về cái chết. Mỗi một ngày sống là tiến về cái chết gần hơn.
Hôm nay, Chúa Giê-su còn nói đến ngày cánh chung của toàn thể nhân loại và vũ trụ. Vũ trụ có khởi đầu thì cũng có ngày kết thúc. Sự sống con người tồn tại trong vũ trụ cũng kết thúc cùng với ngày cánh chung của vũ trụ. Ngày ấy sẽ đến với những dấu chỉ kinh thiên động địa. Ngày ấy sẽ san bằng mọi công trình do con người làm ra. Ngày ấy sẽ san bằng mọi giai cấp, chủng tộc. Ngày ấy là sự kết thúc cuộc sống hữu hình để bước qua một trang sử mới trong sự sống siêu nhiên. Con người sẽ bước qua một cuộc sống thần linh. Sự sống của linh hồn bất diệt. Sự sống đời đời ấy với hai thái cực. Một là sống lại để hưởng hạnh phúc đời đời bên Chúa. Hai là sống lại để bị trầm luân hỏa ngục đời đời.
Song le, thưởng hay phạt đều tùy thuộc vào cách sống của chúng ta hôm nay. Chúng ta biết đi con đường hẹp, con đường hy sinh từ bỏ những niềm vui bất chính, những thú vui tội lỗi để sống có trách nhiệm với bổn phận thì đời sau sẽ là thiên đàng, là hạnh phúc viên mãn. Ngược lại, sẽ chịu hình phạt đời đời khi ta cố tình sống buông thả tội lỗi, sống thiếu trách nhiệm và gây đau khổ cho tha nhân.
Thế nên, hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đừng để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời mà hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Hãy sống công chính trước mặt Chúa. Sống trong ơn nghĩa của Ngài. Sống trung thành với giáo huấn của Ngài. Sống tự chủ bản thân mình đừng chiều theo tính xác thịt mà làm trái với luân thường đạo lý.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức thân phận mỏng dòn của mình để trông cậy vào ơn Chúa. Xin cho chúng ta đừng bao giờ sa ngã trong những đam mê tội lỗi nhưng luôn sống trong ơn nghĩa Chúa. Amen.
40. "Hãy canh thức kẻo phải thiệt thân"---Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người Việt Nam có câu "khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống". Câu này phải là lời cảnh tỉnh cho thái độ sống của chúng ta. "Hãy biết mình, biết người thì mới mong được sống". Thực vậy, giữa cuộc đời hôm nay đang cạn kiệt chân lý và sự thật thì làm sao dám tin người, tin đời? Thử hỏi, có gì đáng để chúng ta tin ở xã hội hôm nay? Niềm tin đã bị đánh mất bởi biết bao trò gian dối trong nhiều hoạt động từ truyền thông cho tới giáo dục đều đầy dãy trò lừa bịp, gian lận? Thử hỏi có gì đáng tin khi mà người ta đề cao đồng tiền đến mức độ đang tâm lại hại người khác như hàng loạt các đồ dùng giả và kém chất lượng đang bầy bán trên thị trường? Điển hình trong các vụ nổi cộm như: chuyện kem đánh răng giả, đồ chơi trẻ em có chất độc làm hại sức khoẻ trẻ em, chuyện bánh bao nhân làm bằng giấy cạc tông. Rồi đến chuyện kẹo trộn bột đá bán ra hàng tấn. Đáng ghê sợ là vụ sữa sữa Tam Lộc của Trung Quốc làm chết 3 trẻ em và bịnh 6.200 em khác ở Trung Quốc. Đó là một xì căn đan, một cú sốc toàn xã hội mà chúng ta đang phải gánh chịu. Theo dõi tình tiết nội vụ, người dễ tính nhứt cũng phải buộc miệng kêu lên. Mấy người sản xuất và buôn bán sao mà ác quá vậy, trẻ em có làm chi nên tội, sao nỡ vì tiền mà giết hại trẻ em!
Đó là những chuyện gián tiếp hại người, còn trực tiếp vẫn đầy dãy sự tráo trở, gian manh, mất tính người đang diễn ra hằng ngày trong cuộc sống chúng ta. Trớ trêu thay niềm tin đã bị đánh mất giữa người với người ngay tại gia đình, ngay giữa những người ruột thịt vẫn còn đó sự rạn nứt của lòng tin. Ngày 10.11.2008 đài truyền hình Việt Nam chiếu cảnh một người con tên Diệu đã đánh mẹ già 85 tuổi. Hình ảnh này đã gây sốc cho nhiều người xem tivi. Thử hỏi trên đời còn hành vi nào côn đồ cho bằng con đánh cha mẹ? Thế mà xã hội chúng ta vẫn đầy dãy những hành vi bất hiếu tương tự như thế! Cứ ngồi bình tâm kiểm chứng lại mà xem, bây giờ có mấy ai kính cẩn dạ thưa với cha mẹ? Hay lúc nào cũng xẵng giọng như người ngang hàng, thậm chí như kẻ bề trên? Cứ nhìn xung quanh mình mà xem, có mấy người biết thương yêu cha mẹ mình thật sự; thương yêu vô điều kiện, không phải vì bổn phận, như lời thiền sư Thích Nhất Hạnh từng nói: "Thương mẹ không phải là một bổn phận. Thương mẹ là một cái gì đó rất tự nhiên, như khát thì uống. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ".
Con đối xử với cha mẹ đã vậy, nhưng chúng ta cũng không thể không nói đến những hành vi dã man mất tính người mà các bậc cha mẹ giáng xuống trên con cái của mình. Cụ thể là việc phá thai. Ai cũng biết phá thai là trọng tội. Ai cũng biết "cọp không ăn thịt con". Thế nhưng, ở Việt Nam mỗi năm có đến gần 2 triệu bà mẹ đem con đến lò sát sinh. Rồi còn biết bao hành vi gian ác mà các bà mẹ đang đang tâm hành hạ những người con. Mới đây người ta không khỏi bùi ngùi khi người mẹ ở Pleiku ra giá bán con với giá 20 triệu đồng, trước đó bà đã đánh đập con bằng roi, bằng lưỡi lam cho bầm dập khắp thân mình.
Đó là một quang cảnh xã hội xem ra đang mất dần tính người để cho thú tính lộng hành. Làm sao chúng ta có thể có niềm tin nơi nhau khi mà xã hội đầy dãy sự lừa đảo, lưu manh, gian ác đang len lỏi vào từng gia đình, từng đoàn thể, và xã hội? Sống giữa xã hội hôm nay kẻ khôn ngoan phải tỉnh thức đề phòng kẻo thiệt thân mình, mà ân hận cả đời nếu quá tin người. Sống trong xã hội hôm nay chúng ta chớ có quá tin người kẻo thiệt vào thân. Hãy tỉnh thức để chúng ta không bị người khác lợi dụng, hãm hại. Hãy tỉnh thức để chính chúng ta đừng để cho thú tính nổi loạn khiến chúng ta không tự chủ bản thân, dẫn dến hành động đánh mất tính người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức trước thái độ sống của mình. Chúng ta phải trả lẽ trước mặt Chúa về hành vi của chúng ta, về sự liên đới trách nhiệm của chúng ta với tha nhân. Thiên Chúa như một ông chủ đi phương xa trao cho chúng ta quản lý cuộc đời nhưng không phải theo ý mình mà là theo ý Thiên Chúa. Thiên Chúa còn trao ban cho chúng ta quản lý ngôi nhà vũ trụ để làm sao cho mọi người trong ngôi nhà này đều có quyền hưởng an bình thịnh vượng. Vì thế, chúng ta không có quyền vì sự an nhàn của mình, vì mạng sống, vì danh dự, vì quyền lợi của mình để rồi đầy đoạ hay loại trừ người khác. Chúng ta không có quyền vì hạnh phúc bản thân mình mà hành động thiếu công bằng bác ái với tha nhân. Chúng ta càng không có quyền lỗi công bình, bác ái chỉ vỉ thói tham lam giả hình của mình. Chúa sẽ đòi lại công bình. Chúa sẽ đến để lập lại trật tự đã bị đảo lộn bởi tội lỗi, để hàn gắn lại những đổ vỡ do tội lỗi gây ra. Chúa bảo chúng ta đừng mê ngủ trong đam mê lầm lạc, trong ảo ảnh của trần gian. Hãy tỉnh thức để sống đúng với phẩm giá con người là "nhân chi sơ tính bản thiện". Hãy tỉnh thức để vượt ra ngoài những thói đời tội lỗi. Hãy tỉnh thức để sống theo luân thường đạo lý, theo đường ngay chính của chân, thiện, mỹ. Hãy tỉnh thức để chúng ta luôn hành động như con cái sự sáng để nhờ đó, giờ Chúa đến chúng ta tràn ngập hân hoan vì luôn trung thành sống cho Chúa.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để chúng ta sống nghiêm túc trong lời nói, việc làm của mình luôn đi theo lề luật của Chúa, hầu xứng đáng là người quản lý trung thành và tận tuỵ của Chúa.
41. Hãy tỉnh thức
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương - Kỷ niệm bảy năm, ngày chịu chức linh mục, Rôma 30.11.2008)
Với Chúa nhật này chúng ta bắt đầu Mùa Vọng, khởi đầu năm phụng mới, thời gian của lời mời gọi tâm linh, của niềm vui, hy vọng và sự chờ đợi thiêng liêng.
Dân Chúa sống lại một hoạt động kép của tinh thần: một đàng, hướng cái nhìn về mục đích tối hậu của cuộc lữ hành đời mình trong lịch sử, đó là sự trở lại vinh hiển của Chúa Kitô; đàng khác, tưởng nhớ với những cảm xúc thánh thiêng sự sinh ra của Người tại Bethlem, nơi Con Thiên Chúa đã sinh hạ từ Đức Trinh Nữ Maria (x. Gal 4,4).
Trong viễn cảnh đó, Lời Chúa tới sự Tĩnh Thức nhiều lần: "Anh Em nãy tĩnh thức bởi vì anh em không biết giờ nào" (Mc 13,23).
Vậy thì Tĩnh Thức có nghĩa là gì? Tĩnh thức để làm gì và Tĩnh thức cho ai?
Theo nghĩa đen, thì tĩnh thức có nghĩa là tĩnh táo, là không có ngủ. Theo nghĩa kinh thánh, thì từ tĩnh thức có một ý nghĩa rất sâu và mang tính biểu tượng (simbolico). Nó diễn tả một thái độ sống nền tảng, một cách sống của người Kitô hữu. Đó là thái độ nhạy bén, dễ bảo và sẵn sàng, như những tôi tớ trung thành luôn chờ đợi chủ trở về bất thình lình (cf. Mc 13,24). Đó là hướng tâm hồn mình về một điều gì, hơn thế nữa, với một Người: với Thiên Chúa và với anh em.
Trái với thái độ sống đó là sự ngu mê, nghĩa là, người tự cuốn mình trong cái tôi ích kỷ của mình, không còn cặp mắt để nhìn đời và đọc ra nhưng dấu chỉ của thời đại, của cuộc sống, không có khả năng đón nhận quà tặng của cuộc sống vốn là món quá qúi báu đến từ Thiên Chúa qua mỗi ngày sống của mình.
Người sống tĩnh thức là người nhạy bén (sensibile) với sự hiện diện của Thiên Chúa, với tiếng của Người và với các giá trị của Tin mừng. Người biết đọc cuộc sống, và nhận ra khôn mặt của Thiên Chúa với câu hỏi từ đáy lòng: Lạy Chúa, Ngài ở đâu? Con tìm Ngài. Đó là người có khă năng để học từ mọi nơi mọi lúc, từ bất cứ ai và hoàn cảnh nào, kể cả từ những khủng hoảng và thất bại của đời mình, để lớn lên, và trưởng thành không ngừng.
Người sống tĩnh là người rất "dễ bảo" (docile) và biết vâng lời Chúa Thánh Thần, Đấng ở trong chúng ta còn mật thiết hơn chúng ta và hướng dẫn chúng ta từ đáy con tim của lòng ta. Trong tiếng Latin gọi là "docibilitas", nghĩa là người biết nghe và vâng phục Thánh Thần, người để cho Chúa Thánh Thần biến đổi mình, làm cho mình được giàu có khi trở nên giống Đức Kitô (bài đọc II), trở thành Con Thiên Chúa, khi mặc lấy những tâm tư và tình cảm của Đức Giêsu Kitô đối với Chúa Cha và đối với Anh Em. Đó là thái độ của Đức Maria, người nữ đầy Thánh Thần. Chúng ta hãy học từ Mẹ, để cho Đức Kitô được "nhập thể" trong lòng và trong cuộc đời chúng ta nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chính vì thế, Mùa Vọng cũng được gọi là thời gian của Chúa Thánh Thần.
Cuối cùng, người sống tĩnh thức là người sẵn sàng (disponibile) với thánh ý Thiên Chúa và quảng đại giúp đỡ anh em mình trong mọi lúc và mọi hoàn cảnh mà không có đòi hỏi điều kiện. Người luôn biết sẵn sàng phục vụ người khác như người lính gác canh đêm (Mc 13,34), như những trinh nữ với đèn sáng trong tay, náo nức và hân hoan chờ chàng Rễ tới (Lc
Nhưng tắt một lời, ai yêu thì cũng biết sống tĩnh thức, ngay cả lúc còn đang ngủ! Điều này được diễn tả rất hình ảnh trong sách Diệu Ca: "Trên giường ngủ, suốt đêm trường, tôi đã tìm chàng, hỡi người yêu dấu của lòng tôi, tôi đã tìm chàng, nhưng tôi không gặp chàng" (Ct 3,1-2); hay như Thánh Thi nói: "Dầu mắt ngủ nhưng lòng vẫn thức, vẫn tin yêu một mực chân tình".
Như thế, Mùa vọng mà chúng ta bắt đầu hôm nay không chỉ là một thời gian của sự trở về cách thụ động, nhưng trở thành một thời gian quí báu mà trong đó, chúng ta khám phá lại vẽ đẹp làm người kitô hữu và tính xác thực của đức tin mình. Chúng ta hãy mỡ ra với sự mới mẽ và vẽ đẹp của Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng vừa mạc khải Thiên Chúa nhưng cũng vừa con người là ai (LG 22) và chúng ta đến với Người, bởi vì lý do đó mà Ngài đã nhập thể vì chúng ta. Amen.
42. Sống tỉnh thức và cầu nguyện
Hôm nay, cùng với Giáo Hội hoàn vũ, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới theo chu kỳ Năm C. Mùa Vọng có hai đặc tính: vừa là mùa chuẩn bị mừng lễ trọng giáng Sinh, trong lễ này, kính nhớ việc Con thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người; vừa là mùa mà qua việc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng trông đợi Chúa kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Vì hai lý do này, mùa vọng được coi như mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi (trích AC 39).
Mùa vọng là mùa trông đợi, ai đã từng trông đợi thì đều cảm nghiệm được sự bồn chồn lo lắng, hồi hộp pha lẫn niềm vui của đợi chờ: như em bé đợi mẹ đi chợ về, như học trò chờ đợi kết quả sau những ngày chăm chỉ học tập, như người công nhân trông đợi ngày cuối tháng để lảnh lương, như người nông dân chờ đợi mùa thu hoạch đến, như người yêu đợi người tình, như ruộng khô hạn trông mưa....tất cả đều chờ đợi một tương lai đổi mới với những điều tốt đẹp hơn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta thấy một viễn cảnh tương lai ngày Con Người đến trong vinh quang, Ngài mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và đợi chờ, trong lúc đợi chờ ngày trọng đại ấy đến thì sẽ có nhiều điềm thiêng dấu lạ xuất hiện trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao, nhân loại sẽ lo âu và sợ hãi ngày ấy đến.
1. Dấu hiệu của thời đại.
Dấu hiệu của thời đại ngày càng rõ rệt hơn, ứng nghiệm với lời cảnh báo của Chúa Giêu trong bài tin mừng hôm nay, dấu hiệu mà nhân loại có thể thấy được, sờ được, đó chính là chiến tranh, đói khát và ôn dịch, động đất, sóng thần, bệnh tật, HIV/AIDS, H5N1,H1N1,... với dấu hiệu ấy, người Kitô hữu chỉ có một thái độ duy nhất là ngẫng đầu lên vì ơn cứu độ đã đến. Nhưng thực ra, ơn cứu độ đã đến hơn hai ngàn năm nay rồi, và thời viên mãn của nó cũng đang đến gần khi những điềm thiêng dấu lạ mà Chúa Giêsu đã loan báo đã và đang xảy đến. Người Kitô hữu là những người nhạy bén nhất trước những hiện tượng xảy ra của thời đại, bởi vì hằng ngày họ đều được nghe và suy gẫm lời dạy của Chúa Giêsu, và vì thế họ từng giây từng phút tỉnh thức và chuẩn bị ngày quang lâm của Ngài.
2. Tỉnh thức và đề phòng
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện, tức là Ngài muốn chúng ta phải sẵn sàng luôn trong mọi hoàn cảnh và tình huống, bởi vì:
- Có những người tỉnh thức nhưng không đề phòng, đó là những người ăn thua đủ bên canh bạc thâu đêm.
- Có người tỉnh thức nhưng không đề phòng, đó là những người đang say đắm trong đam mê xác thịt, thân xác thì thức để chờ đợi cơn khát vọng của nhục dục, nhưng tâm hồn thì đã ngủ mê trong tội lỗi.
- Có người tỉnh thức nhưng không đề phòng cảnh giác, đó là những người kiêu ngạo, họ tỉnh thức trong kiến thức hạn hẹp của mình khi ai đó phê bình góp ý cho việc làm của mình, nhưng tâm hồn thì đã thoả mãn trong sự đắc thắng của mình...
Người Kitô hữu không thức tỉnh để ăn thua với canh bạc, vì đó là chuyện của con cái tối tăm; người Kitô hữu cũng không tỉnh thức để chờ đợi cuộc nhậu thâu đêm. Nhưng người Kitô hữu tỉnh thức để chờ đợi ngày sum họp với Chúa Giêsu, Đấng đã và đang đến trong cuộc sống của họ...
Thế nên, Mùa vọng không những giúp cho chúng ta biết thức tỉnh và chờ đợi ngày Chúa đến trong vinh quang để phán xét, mà còn thức tỉnh chờ đợi Chúa đến với mỗi người chúng ta, bởi vì dấu hiệu của thời đại trước hết không ở đâu xa, mà nó ở ngay trong con người của mình, chính là:
- Khi chúng ta sung sướng hưởng thụ vật chất là dấu hiệu của những ngày đói khổ của linh hồn,
- Khi chúng ta phê bình chỉ trích anh em là dấu hiệu ngày phán xét công thẳng và kinh khiếp đối với linh hồn và thân xác,
- Khi chúng ta kiêu căng với mọi người là dấu hiệu của người bị hạ xuống tận cùng vực sâu,
- Khi chúng ta vu oan giá hoạ cho người thì đó là dấu chỉ cơn thịnh nộ của Thiên Chúa lên án trong ngày chung thẩm...
Trong tâm tình chờ đợi Chúa đến, trong tuần thứ 1 mùa vọng này, Lời Chúa muốn nhắn nhủ với chúng ta là Chúa đến gần rồi đó, còn chúng ta, chúng ta hãy lo chuẩn bị sẳn sàng để đón Chúa. Chuẩn bị bằng thái độ tỉnh thức và cầu nguyện, bởi vì Chúa đến với chúng ta rất bất ngờ, bất ngờ ngay khi chúng ta lo cặm cụi làm các công việc thường ngày của mình, như nấu cơm, giặt giũ, may vá, đi ruộng, đi chợ, đi học, đi làm...Rồi chúng ta còn biết tỉnh thức để luôn luôn cảnh giác về những tình trạng lỗi phạm mà chúng ta thường gặp như lười biếng, như bỏ đọc kinh cầu nguyện, như làm thương tổn cho người khác, như làm mất lòng những anh chị em chung quanh chúng ta, sống thiếu lòng bác ái...
Chắc chắn Chúa Giêsu sẽ buồn lắm, nếu đến ngày Ngài viếng thăm mà Ngài vẫn thấy chúng ta còn đang hững hờ, vẫn còn chưa chuẩn bị gì hết, vẫn cặm cụi với trăm công ngàn việc, vẫn mãi mê với những tình hư tật xấu, vẫn chưa sẵn sàng, vẫn chưa đổi mới...Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta luôn luôn có được thái độ tỉnh thức và cầu nguyện, để chúng ta luôn tránh được những sai lầm đáng tiếc, tránh được những vấp ngã, tránh được những điều làm hại cho người khác, sống bác ái, yêu thương giúp đỡ chia cơm sẻ áo cho mọi người... để chúng ta đón nhận được chính Chúa Giêsu giáng sinh đang ngự đến hằng ngày trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài hãy đến và viếng thăm chúng con. Xin cho chúng con biết nhận ra những dấu chỉ Chúa gởi đến hằng ngày để chúng con biết sống tỉnh thức và cầu nguyện. Amen.
43. Chúa Nhật I Mùa Vọng
Anh chị em thân mến.
Nếu giờ nầy đây, có ai đó đến hỏi từng người trong chúng ta; đang mơ ước điều gì. Chúng ta sẽ trả lời ra sao?
Người thì mơ ước có được cuộc sống đúng như ý mình.
Người thì mơ ước được có cơ hội phát triển tài năng.
Người mơ ước học giỏi, mơ ước được nhiều người thương.
Người mơ ước có được nhiều tiền.
Người mơ ước có được chỗ đứng khá tốt trong cuộc sống...
Còn biết bao nhiêu mơ ước nữa. Với những mơ ước, con người cố gắng tìm mọi cách đạt cho được những gì mình mơ ước và hy vọng.
Mơ ước, hy vọng nghĩa là sống. Không mơ ước, không hy vọng, thì cuộc sống không còn ý nghĩa. Nhưng mơ ước, hy vọng chính đáng thì con người mới có giá trị, còn mơ ước hy vọng ngông cuồng, rồi dùng tất cả mọi cách để đạt mục đích, bất chấp tất cả. Đó là một điều đáng tiếc.
Chúa Giêsu vừa nhắc cho chúng ta về sự mơ ước, hy vọng của mỗi người. Nếu mơ ước, hy vọng không chính đáng, thì tất cả sẽ bị tàn phá và con người sẽ phải lâm vào tình trạng sợ hãi. Ngài kêu gọi mọi người đặt hy vọng vào ơn cứu rỗi mà Ngài mang đến. Khi đó con người sẽ đứng thẳng và ngẩn
đầu lên vì ơn cứu rỗi đã đến. Khi mơ ước điều gì, thì sẽ để hết tâm hồn vào điều đó, đem tất cả cuộc sống, dốc tất cả sức lực vào để đạt được mục đích. Nếu Chúa là mục đích của mơ ước, của hy vọng, khi đó chúng ta mới có thể đứng thẳng và ngẩn đầu lên để chờ đón Chúa đến.
Hiện tại, chúng ta đang mơ ước điều gì?
Có phải cũng như bao nhiêu người bình thường khác. Chúng ta chỉ biết mơ ước những điều chóng qua, mơ ước những điều không giá trị, để rồi nếu giờ nầy, ngay bây giờ đây, Chúa đến bên cạnh và hỏi từng người trong chúng ta với câu hỏi: đang mơ ước gì? Chúng ta sẽ trả lời ra sao? Hay chúng ta lại phải run sợ như đứng trước loạn lạc, chiến tranh. Chúng ta sợ mất mát đi những gì mình đang tìm kiếm nhưng chưa đạt được. Chúng ta cũng lo sợ mất đi những gì mình đang có trong tay. Chúng ta cũng lo sợ Ngài sẽ biết tất cả những gì mình đang toan tính. Còn biết bao nhiêu điều lo sợ khác nữa, vì những mơ ước của chúng ta không chính đáng.
Có bao giờ chúng ta mơ ước mình sống sao cho đẹp lòng Chúa, rồi với tất cả sức lực, với cả tâm trí, trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta sống tốt, làm tốt những công việc hằng ngày với tinh thần trách nhiệm. Chúng ta đối xử tốt với những người chúng ta gặp gỡ, biết giúp đỡ những người cần đến mình, biết dằn đi những cơn nóng giận, để bớt đi những lời nói chua cay, gắt gõng, bớt đi những hành động cọc cằn thô lỗ. Chúng ta nhìn thấy được Chúa Kitô trong người bạn thường ngày mà mình gặp gỡ, để bỏ đi một chút ích kỷ, mà sống quảng đại tha thứ. Được như thế, chúng ta không còn sợ hãi khi Chúa đến bất ngờ nhưng chúng ta dám đứng thẳng và ngẩng đầu lên vì ơn cứu rỗi đã gần đến.
Bước vào mùa vọng hôm nay, chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn cho mỗi người biết nhìn đúng hướng của cuộc đời, để chỉ biết mơ ước và hy vọng vào Chúa và luôn làm mọi việc theo Thánh Ý Chúa.
44. Tỉnh thức và cầu nguyện - Lm. G.B. Trần Văn Hào
Mọi người chúng ta đều đã từng kinh qua kinh nghiệm về sự chờ đợi. Một người vợ thức đêm trằn trọc đợi chồng đi xa trở về. Đôi tình nhân đợi chờ giây phút hẹn hò bên nhau với bao rạo rực xao xuyến. Những bạn công nhân tha phương vẫn ngong ngóng đợi chờ ngày tháng qua mau để mong ngày tết đến về quê xum họp, gặp lại anh em hay bạn bè xưa cũ. Có những cuộc chờ đợi với bao xốn xang rộn rã, ngược lại cũng có những phút giây đợi chờ trong tuyệt vọng và chán chường. Dầu sao, bất cứ sự đợi chờ nào cũng làm cho thời gian như chùng lại, từng giờ từng khắc qua đi tựa như cả một thế kỷ dài đằng đẵng. Tất cả đều lệ thuộc vào tâm trạng và thái độ của những kẻ đợi chờ.
Mùa vọng là mùa chờ đợi, điều này ai cũng biết. Nhưng chờ đợi ai, chờ đợi những gì và mong đợi như thế nào, không phải ai cũng biết và thực hành. Các bài đọc Lời Chúa khởi đầu mùa vọng hôm nay sẽ gợi mở để giúp chúng ta thấu triệt những điều ấy.
Chờ đợi Đấng sẽ đến
Hạn từ Adventus (mùa vọng) mang chở ý nghĩa này. Người tín hữu chúng ta đang mong chờ, nhưng không phải chờ đón một biến cố hay một sự kiện sẽ đến. Chúng ta chờ đợi một con người. Con người đó là chính Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người và cũng là Đấng Cứu thế. Ngài đã đến trần gian cách đây 2000 năm. Ngài cũng đang đến trong từng biến cố của cuộc sống đời thường chúng ta. Đồng thời Ngài sẽ đến, sẽ trở lại trong ngày chung thẩm để phán xử vũ trụ, khóa sổ trời cũ đất cũ và khai mở một trời mới và đất mới. Trong Tông huấn ‘Tiến về Thiên niên kỷ thứ ba’ (Tertio Milennio Adveniente), Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã diễn tả cuộc lữ hành đức tin của chúng ta như một mùa vọng lớn. Mỗi khi cử hành Thánh lễ, Giáo hội khơi dậy cảm thức đức tin và thắp lên niềm hy vọng khi mời gọi chúng ta tuyên tín: “ Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Đức Kitô là đối tượng của đức tin, cũng là điểm quy chiếu của đức cậy giúp chúng ta canh tân mỗi ngày niềm hy vọng của những lữ khách trên con đường tiến về quê hương. Chúng ta vẫn hằng ngày cầu xin Chúa ban bình an, gìn giữ chúng ta khỏi vương tội lỗi, được an toàn giữa những biến loạn, đang khi mong đợi niềm hy vọng hồng phúc, và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy Giáo hội lữ hành hôm nay đóng vai một tân nương chờ đón đức lang quân của mình. Trong suốt mùa vọng, Giáo hội mượn lời kết trong sách khải huyền để dạy chúng ta thưa lên với Chúa tâm tình cầu nguyện: “ Maranatha, lạy Chúa Giêsu xin hãy đến”.
Chờ đợi trong hi vọng
Trên thế giới ngày nay hiện có hai khối người đang sống cùng một niềm hy vọng chờ đợi, đó là tín hữu Do thái và các Kitô hữu. Người Do thái vẫn mong chờ Đấng Messia như lời các ngôn sứ đã loan báo đặc biệt dựa vào sách tiên tri Isaia, nhưng họ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu thế. Còn đối với Kitô hữu chúng ta, Đức Giêsu Kitô chính là Đấng đã đến trần gian để quy tập dân Irael tản mác từ khắp bốn phương và khai lập một vương quốc mới, vương quốc của thời thiên sai. Ngài đã đến thực hiện kế hoạch cứu độ, và ơn cứu độ này sẽ đạt đến viên mãn trong ngày Người trở lại lần thứ hai để khóa sổ vũ trụ. Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta tái hiện tâm thức hy vọng trong chờ đợi. Niềm hy vọng chính là chìa khóa then chốt để chúng ta sống tinh thần của mùa phụng vụ này.
Một triết gia đã nói: Một tôn giáo không đem lại cho ta niềm hy vọng, không phải là một tôn giáo đáng để chúng ta tin theo. Đúng như thế, không có hy vọng, chúng ta sẽ bị nhấn chìm trong bóng tối của sự chết và hủy diệt. Một con người có thể sống mà chưa có tình yêu, nhưng không ai có thể tồn tại nếu không hy vọng mình sẽ biết yêu và sẽ được yêu. Trong những năm tháng tù ngục, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết cuốn sách tựa đề ‘Con đường hy vọng’ để diễn tả cuộc hành trình đức tin trong những thời điểm đen tối nhất của cuộc đời Ngài. ‘Vui mừng và hy vọng’ cũng chính là khẩu hiệu Ngài chọn khi được tấn phong Giám mục. Niềm hy vọng Ngài nói đến không phải là một mơ ước hão huyền hay mông lung, nhưng đó là một trong ba nhân đức đối thần: Tin Cậy Mến, quy chiếu vào chính Đức Giêsu, Đấng đã đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Mỗi khi có dịp cử hành Thánh lễ một cách lén lút trong căn phòng chật chội và tối tăm của nhà tù, Ngài vẫn khơi lại nơi mình niềm hy vọng, đặc biệt khi cầm Mình Thánh Chúa trên đôi tay chai sạn với chiếc áo tù sờn cũ. Ánh sáng hy vọng đó là sức mạnh sâu xa, giúp Ngài vượt qua những ngày tháng đen tối nhất.
Cha Teilhard Chardin, một linh mục dòng Tên cũng đã viết: “ Ngóng đợi là nhiệm vụ hàng đầu của Kitô hữu, và là nét nổi bật nhất để hiển thị đức tin. Người Kitô hữu luôn phải sống trong sự đợi chờ với niềm tin và hy vọng”. Thái độ chờ đợi của người tín hữu không phải là sự mỏi mòn trong tuyệt vọng giống như một tên tử tội khiếp sợ đợi chờ giây phút bị đem đi hành quyết. Nhưng chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của một cô dâu chờ đón chú rể đến giữa đêm khuya để tiến vào phòng cưới, tham dự ‘Tiệc Cưới Chiên Con’ cùng với Đấng đã chiến thắng tử thần và khải hoàn trong vinh thắng.
Chờ đợi trong tỉnh thức và sẵn sàng
Đây là sứ điệp mà cả ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay nhắn gửi đến chúng ta. Trong phần kết luận của bài Tin mừng, sau khi tiên báo về ngày chung thẩm, Chúa Giêsu nhắc nhở: “ Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn hầu có thể đứng vững trước mặt Con Người”. Đồng thời Chúa cũng khuyến mời chúng ta đừng ngủ mê trên chè chén say sưa hay những lo toan trần thế. Lý do Chúa đưa ra, vì ‘anh em sắp được cứu chuộc’. Ơn cứu chuộc được dàn trải trên tất cả mọi người và Đức Giêsu đã tiến nhận cái chết để khai mở nguồn mạch cứu độ bất tận ấy. Nhưng hồng ân cứu độ chỉ thực sự hoàn tất khi Chúa đến lần thứ hai khai mở trời mới đất mới và thiết lập vương quốc vinh hiển của Ngài. Vì vậy không chỉ trong mùa vọng kéo dài bốn tuần lễ, nhưng trong suốt cả mùa vọng lớn là trọn cuộc hành trình lữ thứ trần thế, chúng ta luôn phải sống với thái độ thức tỉnh và sẵn sàng.
Cách đây hơn 20 năm, có một trận động đất dữ dội xảy ra tại California Hoa kỳ. Một cô gái trẻ bị vùi lấp trong đống đổ nát, và người ta lập tức chuyển ngay cô vào bệnh viện. Trước đây cô ta sống trong một gia đình khá đạo đức, nhưng từ khi lấy chồng, sự giầu có đã làm cô gái lạc mất định hướng cuộc đời mình. Cô ta sống phóng túng như một kẻ vô thần. Nằm trên giường cấp cứu, cô gái cố gắng thu gom hết tàn lực cuối cùng để hỏi bác sĩ: “Liệu tôi có qua khỏi hay tôi còn sống được bao nhiêu năm nữa?” Bác sĩ thành thật nói với cô ta rằng ông cố gắng lắm chỉ giúp cô sống thêm được vài tiếng đồng hồ nữa thôi. Nghe nói thế, cô gái ôm mặt khóc nức nở và đau đớn thốt lên: “ Ôi muộn quá rồi”. Có lẽ rất nhiều người trong chúng ta cũng sẽ phải thốt lên câu này khi đối diện trước cái chết. Thánh Gioan Bosco vẫn tổ chức tĩnh tâm hàng tháng cho các học sinh và Ngài gọi đó là ‘ngày dọn mình chết lành’. Đây không phải là một động thái mang tính tâm lý, nhưng là một việc thực hành trong đức tin. Chúa Giêsu đã nói “ Anh em không biết ngày nào giờ nào con Người sẽ đến.” (Mt 24, 24)
Chúng ta nhớ lại giai thoại về tướng quân Archais của Hy Lạp năm xưa. Ông là một vị tướng giỏi, đánh trận nào thắng trận đó. Sau một trận thắng lớn, ông khao quân lính một bữa tiệc thịnh soạn. Giữa cuộc vui, một sứ giả đem đến cho ông bức thư khẩn và báo tin là ông đang bị mưu sát để biết cách đề phòng. Thay vì mở thư ra đọc và cảnh giác, ông nhét thư vào túi, vẫn tiếp tục nhậu nhẹt và tự nhủ: “ Thôi để mai hãy tính”. Ngay đêm đó, ông bị giết chết. Câu chuyện gợi nhắc lời Chúa nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em” (Lc 21, 34). Những gì làm được hôm nay đừng để đến ngày mai.
Kết luận
Thánh Phanxico Salêsiô đã viết “ Thời để sống là lúc chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa. Thời để chết là lúc chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Thời vĩnh cửu là lúc chúng ta sẽ chiếm hữu Ngài cách trọn vẹn”. Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa vọng, một mùa vọng nhỏ trong một mùa vọng khác lớn hơn. Mùa vọng là thời gian chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa và mong đợi Ngài đến. Chúa sẽ đến để đem ta đi vào vĩnh cửu trong sự hiệp thông và gắn kết trọn vẹn với Ngài. Nhưng, ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay. Trời mới và đất mới của ngày mai đang bắt đầu với cuộc sống hiện sinh của chúng ta tại đây và ngay bây giờ. Chúng ta sống làm sao thì sẽ chết như thế. Chúng ta hãy sống theo lời dạy của thánh Phaolô trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay: “ Hãy sống thánh thiện, không gì đáng chê trách trước nhan Thiên Chúa là Chúa chúng ta trong ngày Đức Giêsu quang lâm cùng với các thánh của Người” (1Thes 3, 13).
45. Tỉnh thức & sẵn sàng
Chúa phán: "hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người". (Lc 21, 36)
Câu chuyện tôi sắp kể đây, vừa xảy cách đây không lâu (09.11.2006): một anh giáo lý viên có tuổi có đứa con đang đi đại học; đứa con bổng bị đâm chết và gia đình đang kêu hoảng, vừa lo ma chay.... Điều tôi muốn nói, có liên quan tới cái chết của chú thanh niên trẻ này là: cách đây vài tháng, người cha giáo lý viên trong họ đạo lớn, trong cuộc bầu cử lại vào hàng Ban Qưới chức mới, đã không được bầu, nên anh bất mãn; và vì giận hờn, cả gia đình anh cải theo đạo Tin Lành; anh còn tỏ ra thái độ thù hằn, bài xích công giáo nữa. Nguyên do anh không được bầu, vì anh có nhiều khuyết điểm, không gương mẫu, nhất là vì anh vừa cưới vợ cho đứa con đang đi đại học, không có phép hôn phối... Bên ngoài người ta xầm xì: Chúa phạt! Thực ra, người Công giáo chúng ta không kết án như thế; nhưng chắc chắn đó là dấu chỉ nhắc nhở mọi người còn sống: hãy đề phòng, hãy tỉnh thức, đừng để mọi chuyện xảy tới như chiếc lưới chụp xuống đầu mà mình không hay biết gì, vì đã không chuẩn bị trước. Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay sẽ soi sáng cho ta hiểu rõ câu chuyện trên. Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Bài Tin Mừng hôm nay, trích trong bài giảng về ngày tận thế. Chúa Giêsu dùng lối văn khải huyền như Cựu Ước để diển tả giáo huấn mà Chúa muốn nói. Chúa vì hiểu thấu sự yếu mềm và lầm lạc của con người, nên đã mạnh mẽ kêu gọi ta phải đề phòng. Nhưng làm cách nào để đề phòng? Hai phương thế đề phòng, đó là tỉnh thức và cầu nguyện.
Trước tiên, Tỉnh thức: tỉnh thức không phải là ngồi yên một chổ, mà là tích cực sống với tinh thần ý thức trách nhiệm, biết chọn lựa cái nào là thật và có giá trị cho mình, đồng thời sống trong mối tương quan tốt với Chúa và mọi người, thực sự bác ái, yêu thương, quảng đại, tha thứ, luôn trông cậy và sống theo Thánh Ý Chúa... Như thế thì khi chiếc lưới thình lình ụp xuống, ta đâu cần phải lo lắng điều gì nữa? Ngược lại nếu ta cứ tìm thú vui vật chất, lo lắng sụ đời, lười biếng, vụ lợi.... sống như thế thì khi chiếc lưới ụp xuống, cái gì sẽ nâng đỡ, sẽ cứu giúp cho ta?
Thứ hai: Cầu nguyện: theo sách GLCG, cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa để gặp gỡ và hiệp thông với Chúa trong tình yêu; nhưng phương thế hữu hiệu nhất để ta nâng tâm hồn lên với Chúa, chính là tham dự tích cực các nghi lễ phụng vụ, các bí tích, vì chính qua các bí tích, ta mới gặp gỡ Đức Kitô dễ dàng và hữu hiệu...
b.Gợi ý sống và chia sẻ:
* Hãy tỉnh thức: năm nào vào Mùa Vọng, ta cũng nghe câu nói này. Nếu năm nay, hay tháng này, Chúa gọi tôi về với Chúa, tôi sẽ phản ứng ra sao? Nhất là bao lâu nay, tôi đã chuẩn bị cho ngày đó thế nào đây?
* Mùa Vọng là mùa hi vọng, mùa chuẩn bị đón Chúa đến, đón Chúa đến dịp lễ Giáng sinh, nhất là đón Chúa đến trong cuộc đời của mình. Trông chờ Chúa đến, không phải ngồi đó mà chờ, nhưng phải biết sống tích cực, phải tỉnh thức và cầu nguyện như Chúa dạy, phải trung thành với bổn phận mình. Bao lâu nay ta đã chờ đợi Chúa như thế nào?
* Khi ta lãnh nhận Bí tích rữa tội, chính là lãnh nhận thẻ Công dân Nước Trời. Vậy khi nhìn nhận mình là Công dân Nước Trời, lúc còn sống ở trên đời này, ta có nhận mình là khách lữ hành đang tiến về Nước Trời không? Nều nhận mình là khách lữ hành, ta không được sống tiêu cực, hưởng thụ,... ngược lại phải sống xứng với địa vị là khách lữ hành, là công dân Nước Trời không?
46. Sống thánh hôm nay - Lm Phạm Quốc Hưng
Với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta cùng với Hội Thánh bước vào một năm Phụng Vụ mới, một năm mới trong hành trình đức tin, một giai đoạn mới trên đường hy vọng khi chúng ta cùng bước đi với Chúa Kitô để về với Chúa Cha. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến chung cánh của nhân loại và việc Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người. Đồng thời, Người đã ân cần nhắc nhở chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày chung cánh ấy. Những gì Chúa dạy chúng ta phải chuẩn bị cho ngày tận thế là chung cánh của vũ trụ và nhân loại, cũng là những gì chúng ta phải chuẩn bị cho ngày chung cánh của riêng mình: ngay chết của chúng ta, ngày chúng ta từ giã cõi đời này để bước vào cõi vĩnh hằng.
Chúa phán: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người trên trái đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:34-36). Ở đây, chúng ta thấy có hai điều Chúa dạy chúng ta phải thực hiện. Điều thứ nhất là chúng ta phải giữ mình để khỏi bị say mê cuốn hút vào các vui thú và các sinh hoạt trần thế; nghĩa là chúng ta phải biết đề phòng hai kẻ thù của linh hồn chúng ta là những đam mê xác thịt và những quyến rũ của thế gian. Điều thứ hai là chúng ta phải tỉnh thức và cầu nguyện để luôn được yêu mến kết hợp với Chúa và chiến thắng ma quỷ là kẻ hằng ghen ghét và tìm cách hãm hại chúng ta.
Như để giúp các tín hữu thực hiện lời dạy quý giá này của Chúa Giêsu, trong bài đọc hai trích thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônica, Thánh Phaolô Tông Đồ ân cần thiết tha nhắn nhủ họ phải ra sức sống thánh thiện để chuẩn bị đón Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang: “Anh em thân mến, xin Chúa gia tăng và ban cho anh em tràn đầy lòng thương yêu nhau, và thương yêu mọi người như chúng tôi đối với anh em, để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Kitô, Chúa chúng ta ngự đến cùng với tất cả các Thánh. Amen. Anh em thân mến, ngoài ra, tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này, là như anh em được chúng tôi bảo cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa. Vì anh em biết rõ huấn thị chúng tôi nhân danh Chúa Giêsu đã ban cho anh em ” (1Tx 3:12-4:2).
Như vậy, sống đẹp lòng Chúa hay sống thánh thiện phải là mối quan tâm hàng đầu của mọi tín hữu Chúa Kitô. Chính vì vậy, Thánh Trẻ Đaminh Saviô trong ngày Rước Lễ Lần Đầu đã đặt ra hai quyết tâm đơn sơ nhưng đủ khiến ngài nên thánh. Đó là: “Thà chết chẳng thà phạm tội và hai người tôi phải yêu mến nhất là Chúa Giêsu và Mẹ Maria”. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng viết cho một người bạn: “Hãy tin tôi, đừng đợi đến ngày mai mới khởi sự nên thánh…Thế nhưng chúng ta phải làm việc, không phải để trở thành những vị thánh nhưng để làm vui lòng Chúa…một việc nhỏ nhặt nhất cũng quý giá trước mắt Người”.
Năm Phụng Vụ chúng ta bắt đầu hôm nay trùng vào Năm Đức Tin do Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI công bố để đánh dấu 50 năm khai mạc Công Đồng Vaticanô II. Vì vậy, thật thích hợp và hữu ích cho đời sống tâm linh nếu chúng ta biết suy niệm và sống theo “Mười Điều Tâm Niệm cho Hôm Nay” sau đây của Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII-Đấng đã được ơn Chúa soi sáng để triệu tập Công Đồng.
1. Hôm nay, tôi sẽ gắng sống suốt ngày một cách tươi vui tích cực mà không ước ao phải giải quyết mọi vấn nạn của đời tôi một lúc.
2. Hôm nay, tôi sẽ hết sức để ý đến dung diện của mình: tôi sẽ ăn mặc đoan trang; tôi sẽ không lớn tiếng; tôi sẽ giữ thái độ lịch duyệt; tôi sẽ không phê phán ai; tôi sẽ không đòi cải thiện hay kỷ luật bất cứ ai trừ bản thân tôi.
3. Hôm nay, tôi sẽ sống hạnh phúc trong sự xác tín rằng tôi được dựng nên để hạnh phúc không phải chỉ trong đời sau nhưng ngay cả trong đời này.
4. Hôm nay, tôi sẽ thích ứng với các hoàn cảnh mà không đòi mọi hoàn cảnh phải thích hợp với các ước muốn của tôi.
5. Hôm nay, tôi sẽ dành ra 10 phút để đọc sách tốt, luôn nhớ rằng như đồ ăn cần cho sự sống thể xác, việc đọc sách tốt cũng cần cho đời sống linh hồn như vậy.
6. Hôm nay, tôi sẽ làm một việc tốt và sẽ không nói với bất cứ ai về việc ấy.
7. Hôm nay, tôi sẽ làm ít nhất một việc mà tôi không thích; và nếu tôi cảm thấy bị đau đớn điều gì, tôi sẽ cố không để ai nhận thấy.
8. Hôm nay, tôi sẽ xếp chương trình cho chính tôi. Có thể tôi sẽ không theo sát từng chữ, nhưng tôi vẫn phải có chương trình. Và tôi sẽ đề phòng hai điều tai hại: hấp tấp và không quyết định.
9. Hôm nay, tôi sẽ tin chắc rằng dù cuộc sống có thế nào, sự quan phòng tốt lành của Chúa vẫn săn sóc tôi như không có ai khác trên thế giới này.
10. Hôm nay, tôi sẽ không sợ chi. Đặc biệt, tôi sẽ không sợ thưởng thức những gì xinh đẹp và tin vào sự thiện.
Tóm lại, đây là một quyết tâm tổng quát: Tôi muốn ở nhân hậu với mọi người, hôm nay và luôn mãi.”
Ave Maria, xin Mẹ dạy con biết sống đẹp lòng Chúa.
47. Hy vọng
Khi còn nhỏ, mỗi lần tựa cửa đợi mẹ đi chợ về là mỗi lần trong tôi có những tình cảm mong nhớ, đợi chờ, hy vọng... Mong nhớ vì mẹ đi chợ chắc chắn mẹ sẽ về, hy vọng vì rất có thể tôi sẽ có được quà bánh...
Hôm nay Chúa Nhật thứ I Mùa vọng, bắt đầu một năm phụng vụ mới. Mùa vọng (Adventus) có ý nghĩa hướng tâm hồn người tín hữu về việc Chúa Kitô sẽ trở lại vào ngày quang lâm, cũng như hướng tâm hồn mừng kỷ niệm việc Chúa đã đến trong lịch sử. Giai đoạn đầu mùa vọng Giáo hội chuẩn bị chờ đón cuộc tái lâm của Đức Kitô. Cuộc tái lâm sẽ hoàn tất mọi sự, cuộc tái lâm mà mọi người mong ngóng lo âu. Chúng ta những người Kitô hữu chờ đợi ngày đó như thế nào? Sợ hãi hay hy vọng.
Tin Mừng Thánh Luca hôm nay cũng như nhiều đoạn khác trong Kinh Thánh(Mc 13,24-27; Mt 24,3tt; 1Tx2,19....) cho ta thấy ngày trở lại của Đức Kitô thật vĩ đại kinh hoàng: đất đá nổ tung, mặt trời không còn chiếu sáng... thế thì ai lại mong chờ ngày ấy, ngày Chúa quang lâm.
Với mớ giáo lý vế tứ chung mà tôi được học từ nhỏ, tôi thường xin Chúa đừng trở lại lúc tôi còn đang sống trên dương thế vì tôi nghĩ nó quá khinh khủng, hãi hùng. Nhưng thật sự ngày quang lâm của Đức Kitô có hãi hùng như thế không?
Thánh Kinh dùng nhiều kiểu nói khải huyền để nói về ngày quang lâm chỉ với mục đích là diễn tả quyền năng của Thiên Chúa trên hoàn vũ. Ngày Chúa quang lâm là lúc Chúa biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa trên vạn vật, còn những hình ảnh được nói tới trong Kinh Thánh chỉ là tùy phụ so với uy quyền của Thiên Chúa. Vậy có nên sợ ngày quang lâm? Ngày Chúa trở lại là ngày Chúa hoàn tất mọi sự, Chúa sẽ tách biệt người lành kẻ dữ....nên ngày đó cũng phải là một ngày hãi hùng. Nhưng nỗi sợ đó phải là một nỗi sợ trong tình yêu vì Chúa sẽ xét xử ta trong tình yêu. Thánh Matthêu ghi lại hình ảnh cuộc phán xét chung thật nhẹ nhàng nhưng dứt khoát (Mt 25, 31-46). Trong đoạn Tin Mừng ấy, Chúa Giêsu tự đồng hóa mình với những người hèn mọn nhất và phần thưởng của ta có được là do ta biết yêu mến những con người hèn mọn đó. Như thế nỗi sợ của ta đang khi mong chờ Chúa trở lại phải là một nỗi sợ thánh. Ta sợ vì ta chưa yêu Chúa thật lòng, chưa nhận ra Chúa nơi anh em, sợ mất lòng Chúa....và nỗi sợ này thúc giục ta thực thi lòng mến chứa chan và thiết thực hơn.
Ngày Chúa trở lại cũng phải là một ngày đầy hy vọng. Nếu không có quà cho tôi thì mẹ tôi cũng không bao giờ phạt hay đánh tôi khi tôi chờ mẹ. Đức Kitô chính là niềm hy vọng của chúng ta (Cl 1,27). Mầu nhiệm cứu độ đã được Đức Kitô thực hiện trong lịch sử cứu độ chẳng lẽ lại vô hiệu cho những ai hy vọng vào Người. Chính Chúa Giêsu đã mở lối cho ta dõi bước tiến vào đời sống vĩnh cửu. Ngày Chúa trở lại hẳn thật là một ngày đầy hạnh phúc vì ta sẽ được hưởng kiến nhan Chúa trọn vẹn, được thỏa mãn mọi mong ước...trong ngày chiến thắng của Đức Kitô. Và vì là thần dân của Người ta cũng được vinh hiển với Người.
Tóm lại, đang khi còn sống trên dương thế ta không thể biết được rõ ràng ngày Chúa trở lại như thế nào. Tuy nhiên, nhờ mạc khải ta biết được chắc chắn Chúa sẽ trở lại để hoàn tất mọi sự, ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang. Trong khi mong chờ ngày ấy, Giáo hội mời gọi ta tỉnh thức và hy vọng vào tình yêu Thiên Chúa, Ngài sẽ đưa mọi con cái trở về trong tình yêu của Ngài.
Chúng ta cũng hãy nhìn về Đức Mẹ Maria, Mẹ là hình ảnh cánh chung của Giáo hội (GLHTCG số 972). Mẹ đã tin rằng Con Mẹ sẽ phục sinh cho dù chưa ai tin như thế và phần thưởng tuyệt vời Thiên Chúa dành cho Mẹ là hồn xác lên trời. Xin Mẹ cũng dạy cho chúng con biết tin tưởng, phó thác và hy vọng vào tin yêu Thiên Chúa khi Người trở lại.
48. Tỉnh thức chờ đợi Chúa đến
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Mùa Vọng là mùa chờ đợi Chúa đến. Chờ đợi Chúa đến trong ngày lễ Giáng Sinh. Đây là ngày kỷ niệm, vì Chúa đã đến cách đây 2015 năm. Nhưng quan trọng hơn, Mùa Vọng mời gọi mỗi người kitô hữu chúng ta chờ đợi Chúa đến với từng người trong giờ chết và với toàn thể nhân loại trong ngày tận thế.
Thật vậy, chết là có thật. Ngày tận thế cũng có thật. Nhưng giờ chết và ngày tận thế sẽ đến một cách thình lình như chiếc lưới chụp xuống trên mặt đất (x. Lc 21,34-35). Ngày đó lại quyết định số phận đời đời của con người. Cho nên, con người muốn được hạnh phúc vĩnh cửu cần phải chờ đợi trong “Tỉnh thức”.
1. Tỉnh thức là biết sống yêu thương (x. 1Tx. 3,12):
Thánh Phaolô mời gọi: Mọi người phải thể hiện tình thương đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết (x. 1Tx 3,12). Thông thường khi biết mình sắp chết, con người sẽ nói những lời yêu thương đối với người thân của mình: Cám ơn, xin lỗi, yêu mến…Nhưng vì cái chết thường xảy đến quá đột ngột nên con người ít có cơ hội để thực hiện điều đó. Chính vì vậy, hãy thể hiện tình yêu thương nhau khi còn có thể. Vợ chồng hãy yêu thương nhau, cha mẹ hãy yêu thương con cái. Con cái hãy yêu mến cha mẹ. Mọi người hãy thể hiện tình yêu thương nhau. Hãy cám ơn, hãy bỏ qua những bất bình, hãy xin lỗi nhau“Chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26).
2. Tỉnh thức là giữ mình không chè chén say sưa (x. Lc. 21,34):
Các chất có men như bia, rượu tự nó không xấu. Xấu tốt là do con người sử dụng nó. Khi dùng bia rượu quá liều lượng sẽ gây ra biết bao hậu quả khôn lường. Do bia rượu nên gây ra tai nạn giao thông, chính mình chết, người khác thiệt mạng (Khoảng 15% người chết tai nạn giao thông là do bia rượu). Do bia rượu nên nhiều gia đình tan nát: Vợ chồng ly tán; Anh em từ nhau; Làng xóm mất lòng nhau. Do bia rượu người ta chém giét lẫn nhau và biết bao nhiêu tội lỗi khác. Chính vì vậy, tỉnh thức là không chè chén say sưa.
Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương vợ mình. Một hôm, một con quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội. Quỷ cho anh được quyền chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai là giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu. Bấy giờ chàng thanh niên liền suy nghĩ như sau: “Chửi mắng cha mẹ là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết người vợ thân ỵêu là bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là ta có thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải là điều quá xấu xa!” Thế là anh ta chọn uống rượu. Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một ly nhỏ, nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở thành thói quen, mỗi bữa anh ta phải tăng "đô" lên và uống gấp nhiều lần mới thấy "phê". Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu: lúc nào cũng say xỉn! Một hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập bể tất cả chén bát và vứt mọi thứ đồ đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản rầy la, anh ta liền to tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến cha mẹ. Cô vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can liền bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết. Thế là từ việc uống rượu tưởng chừng vô hại lúc đầu, về sau đã trở nên nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao là bất hiếu xúc phạm cha mẹ, và bất nghĩa giết người vợ thân yêu của mình.
3. Tỉnh thức là giữ mình, không lo lắng việc đời(x. Lc 21,34):
Dự tiệc Nước trời là công việc quan trọng hàng đầu, nhưng con người vẫn vịn lý do này khác để từ chối. Dụ ngôn khách được mời xin kiếu (x. Lc 14, 15,24) nói lên điều đó. Người thì bảo: "Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; cho tôi xin kiếu”. Người khác thì nói: "Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu”. Kẻ khác nữa lại vịn lý do: "Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được”. Ngày nay con người vẫn vịn vào những lý do đó và các lý do khác tương tự để từ chối việc giữ đạo, sống đạo. Chẳng hạn: Vì ngày Chúa nhật tôi phải đi làm, phải đi học nên không thể tham dự thánh lễ. Vì bận công việc tối ngày nên tôi không còn thời gian để đọc kinh, cầu nguyện. Vì để thăng quan tiến chức nên tôi phải kết nạp Đảng, phải chấp nhận “Xa Chúa” một thời gian, sau này sẽ tiếp tục trở lại đạo. Vì chuyện gia đình, vì chuyện nghề nghiệp, vì chuyện nọ kia nên chưa có thể xưng tội rước lễ được, khi nào giải quyết xong việc tôi sẽ đi xưng tội…Đó là những hạng người quá lo lắng việc đời.
Nhưng lời Chúa hôm nay lại mời gọi chúng ta “không lo lắng việc đời”. Vì “Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay?” (Mt 6,27). Nghĩa là đừng tìm bảo đảm nơi của cải vật chất mà phải tìm điều chính yếu của cuộc đời đã rồi mọi sự khác Ngài sẽ ban cho. “Trước tiên, hãy tìm kiếm nước Chúa, mọi thứ khác Ngài sẽ ban cho sau” (x. Mt 6, 33). Vậy, hãy chọn Chúa và những gì thuộc về Chúa, chọn sự sống đời đời hơn sự sống tạm bợ chóng qua, đừng quá lo lắng việc đời.
4. Tỉnh thức là luôn nghĩ về sự chết, sự phán xét (x. Gr. 33,15):
Ngày đó, “Chúa sẽ xét xử và thi hành công lý” (Gr. 33,15). Cho nên luôn nghĩ về sự chết, sự phán xét sẽ giúp con người biết tránh xa tội lỗi, chu toàn bổn phận và sống tỉnh thức hơn. Thánh Louis Gonzaga luôn “Nhìn mọi sự và đánh giá mọi sự dưới khía cạnh đời đời”. Cho nên, Ngài không hề sợ chết, cho dù giờ chết sắp đến.
Một hôm, ban giáo sư trường muốn trắc nghiệm các thiếu niên đang chơi ở sân, bèn đặt một câu hỏi: "Nếu anh được biết anh sắp chết trong một giờ nữa thì anh sẽ làm gì?
Có nhiều câu trả lời khác nhau:
- Tôi sẽ vào nhà thờ cầu nguyện.
- Tôi sẽ dọn mình xưng tội.
- Tôi sẽ tìm gặp cha mẹ và người thân lần cuối cùng.
- Còn tôi, nếu tôi biết tôi sắp chết, tôi vẫn tiếp tục chơi!.
Câu trả lời ấy của cậu Louis Gonzaga làm ban giáo sư vô cùng bỡ ngỡ.
- Tại sao trước giờ phút nghiêm trọng như vậy mà anh cả gan tiếp tục chơi?
- Vì Chúa dạy phải luôn luôn sẵn sàng, mà bổn phận hiện giờ của tôi là chơi nên tôi cứ tiếp tục chơi. Thánh ý Chúa trong giây phút hiện tại này đối với tôi là chơi, nên tôi chơi là làm đẹp lòng Ngài vậy!
5. Tỉnh thức là luôn cầu nguyện (x. Lc 21,36):
Chúa Giêsu đã khẳng định: “Không có Ta, các con không thể làm được gì” (Ga 15,5). Vì vậy, để sống tỉnh thức cần phải cầu nguyện. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Bao lâu con người không còn cầu nguyện thì giống như linh hồn đã chết. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy cầu nguyện không ngừng” (1 Tx 5,17. Lúc nào ta cũng có thể cầu nguyện: Cầu nguyện hôm sớm; Cầu nguyện trước và sau khi dùng cơm; Cầu nguyện trước khi đi ngủ và sau khi thức dậy; Cầu nguyện trong khi làm việc; Cầu nguyện khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như khi thất bại. Chúng ta có thể cầu nguyện khắp mọi nơi: Cầu nguyện ở nhà thờ; Cầu nguyện trong gia đình; Cầu nguyện trên đường đi làm việc. Chúng ta có thể biến tất cả mọi thời gian trong ngày thành thời gian cầu nguyện. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Dù ở ngoài chợ hay đang đi dạo một mình, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện và cầu nguyện sốt sắng. Ngồi trong tiệm của bạn, hoặc khi mua khi bán, cả khi làm bếp, bạn cũng có thể cầu nguyện”. Làm được như vậy, tức là chúng ta đang tỉnh thức trong cầu nguyện.
Để đón mừng Chúa Giáng Sinh sắp tới, để chờ đợi Chúa đến với chúng ta trong giờ chết và trong ngày tận thế, chúng ta phải luôn sống tỉnh thức: Tỉnh thức là biết sống yêu thương; Tỉnh thức là không chè chén say sưa; Tỉnh thức là không lo lắng việc đời; Tỉnh thức là luôn nghĩ về sự chết và phán xét; Tỉnh thức là luôn biết cầu nguyện. Làm được như vậy, chúng ta sẽ “Không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Ngài ngự đến viếng thăm” (1Tx 3, 13). Nhờ vậy, chúng ta sẽ được Ngài đón nhận vào hưởng hạnh phúc với Ngài trên Thiên đàng. Amen.
49. Niềm hy vọng mới
Đạo binh Rôma đã chiếm đóng xứ Pa-lét-tin khoảng 60 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh. Người Rôma lúc đó là ông chủ của thế giới, nắm gọn trong tay mọi nền văn hoá, tri thức, khoa học kỹ thuật và của cải. Theo đường lối chính trị khôn khéo, người Rôma cắt cử những người yếu nhược, ham danh vọng cá nhân để cai trị địa phương. Vua Hêrôđê là người thuộc bọn đó, ông được đặt làm vua xứ Giuđê khoảng năm 40 trước Chúa giáng sinh. Hêrôđê là con người độc ác và mê sắc dục, sẵn sàng thoả hiệp với người Rôma để bảo vệ quyền bính và tậu thêm của cải. Hêrôđê không phải là con người của đức tin, hoàn toàn chỉ là một bạo chúa dưới tay người Rôma.
Bị bóp nghẹt và bị hạ nhục bởi những quân ngoại giáo này, dân Do Thái chịu khuất phục, nhưng trong thâm tâm thì hậm hực, tự biết mình không đủ sức chống lại quyền lực hung mạnh kia. Một số người cố gắng sống sao cho có lợi nhất trong hoàn cảnh bất khả kháng này: họ chấp nhận sống yên phận, cố duy trì một chút tự do còn lại để thực thị lề luật Thiên Chúa.
Một số khác lợi dụng sự chiếm đóng của quân đội Rôma để thủ lợi làm giàu, họ thông đồng với người Rôma, chối bỏ đức tin cha ông. Đó là lựa chọn không những của bọn thu thuế và những thương gia, những gái điếm, mà còn có cả những triều thần vua Hêrôđê và đội vệ binh của ông. Nhiều người cố che đậy nỗi sợ hãi và khổ nhục bằng nhậu nhẹt và chơi bời phóng đãng, họ cố nuốt nỗi ô nhục và sự cắn rứt lương tâm.
Một số khác, nhân danh tôn giáo, tự hào về nền văn hoá và nòi giống, đã lập những nhóm cách mạng, chiến đấu giành tự do, khủng bố để trả thù. Họ dùng bạo lực để để chống đối, như ám sát những vị chỉ huy quân đội, những tay sai cho đế quốc mà họ cho là người tục hoá danh thánh Chúa.
Trong dân Do thái thời đó, chỉ có một nhóm nhỏ giàu có, còn phần đông dân chúng là nghéo nàn và khốn khổ. Nhiều người giàu, người có chức quyền coi khinh bọn hành khất, người phong cùi, tàn tật... họ cọi bọn này như bị Thiên Chúa phạt. Họ còn bị coi là ô uế, là nhơ nhớp, không được"tiếp xúc" với Thiên Chúa. Hô không có tiếng nói trong xã hội và không có chỗ đứng trong đền thờ. Họ không nhìn thấy chút hy vọng nào cho bản thân, mà chỉ thấy án phạt ở đời này và đời sau.
Chính trong lúc tình thế đang hỗn loạn và sôi sục tranh chấp nầy, trong lúc căm thù và tuyệt vọng âm ỉ trong lòng người, thì xuất hiện một người tên là Gioan. Gioan loan báo rằng "có một Đấng khác" đến sau ông. Đấng khác này là Đức Giêsu. Ngài không đến với các kinh sư và Pharisêu, không đến với người giàu có thống trị, nhưng đến với người nghèo hèn đau yếu, người bị áp bức khổ đau, đến với tất cả những ai thấp cổ bé miệng, với tất cả những ai bị loại trừ ra khỏi đền thờ Giêrusalem, những ai sống trong lo âu sợ hãi, những ai bị giam cầm trong tội lỗi. Ngài bảo họ đừng sợ hãi vì Thiên Chúa ở bên họ, Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, Thiên Chúa cảm thương họ. Ngài ăn uống với người thu thuế và tội lỗi. Ngài chạm đến người cùi để chữa lành họ. Ngài kêu gọi "hỡi những ai khó nhọc và mang gánh nặng nề hãy đến với Tôi".
Đức Giêsu là hy vọng của dân Do thái xưa thế nào thì Ngài cũng là hy vọng của chúng ta trong thế giới hôm nay. Chúng ta hãy mau chạy đến với Chúa Giêsu để Ngài khơi lên trong chúng ta niềm hy vọng mới trong Mùa vọng này. Đền lượt chúng ta cũng hãy ra đi gieo niềm hy vọng mới cho anh chị em chung quanh chúng ta. Hãy làm cho thế giới này thêm hy vọng, thêm niềm vui qua từng cử chỉ lời nói và cung cách sống của chúng ta.
50. Tỉnh thức.
Có một bà già nóng tính, đi trên một chuyến tàu lửa. Khi xe đang xuống dốc, bà liền hỏi bác tài công:
- Chúng ta có thể dừng lại được không?
Bác tài công trả lời ngay:
- Được chứ, chúng tôi có chiếc thắng điện mà.
Bà già chưa lấy làm thỏa mãn, nên hỏi tiếp:
- Nhưng nếu chiếc thắng điện không ăn, thì bác có thể dừng lại được không?
Bác tài công vui vẻ trả lời:
- Được chứ, chúng tôi còn chiếc thắng tay nữa.
Bà già liền nói:
- Lỡ chiếc thắng tay cũng không ăn thì sao?
Bác tài công vẫn không mất kiên nhẫn:
- Chúng tôi còn một chiếc thắng đặc biệt dành cho những trường hợp khẩn cấp.
Bà già vẫn không an tâm, nên hỏi:
- Nếu cả chiếc thắng đặc biệt này cũng không ăn, thì số phận chúng ta sẽ ra sao?
Bác tài công tỏ vẻ bực bội:
- Nếu chiếc thắng đặc biệt này mà không ăn, thì một số người trong chúng ta sẽ lên thiên đàng, còn một số người khác sẽ xuống hỏa ngục.
Thực vậy, qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ với mỗi người rằng: Mỗi ngày qua đi là một bước chúng ta tiến dần đến cái chết, để rồi tới một lúc nào đó, chúng ta sẽ phải ra trước tòa án tối cao mà tính sổ cuộc đời với Chúa. Liệu mỗi người chúng ta có sẵn sàng cho phiên tòa định mệnh này hay chưa?
Trong ngày trọng đại ấy, Chúa Kitô sẽ lại đến như một tia chớp lóe lên từ đông sang tây, hay như một kẻ trộm viếng thăm vào ngày chúng ta không ngờ, vào giớ chúng ta không biết. Liệu chúng ta có ở trong tư thế tỉnh thức và sẵn sàng hay không?
Nhiều người trong chúng ta vốn thường nghĩ:
- Tôi không có thời giờ để lo việc linh hồn, bởi vì tôi bận rộn quá nhiều công việc phải làm.
Nếu nghĩ và sống như vậy, họ sẽ có cả một khoảng thời gian đời đời để hối tiếc cho việc đã không làm này. Nhưng bấy giời thì đã quá muộn. Nước đến chân rồi mới nhảy, thì nhảy làm sao cho kịp.
Chúng ta không biết việc phán xét ấy xảy ra như thế nào, nhưng chúng ta có thể tưởng tượng:Lúc bấy giờ Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta xem có mang hình ảnh của Ngài trong tâm hồn hay không? Nếu linh hồn chúng ta ở trong tình trạng ơn thánh, thì hình ảnh của Ngài sẽ tỏa sáng, bằng không, Ngài sẽ nói:
- Ta không biết các ngươi từ đâu mà đến.
Có một câu chuyện kể lại như sau:
Một linh hồn kia tới trước của thiên đàng, vừa ngơ ngác, lại vừa sợ hãi, nhưng cũng đưa tay ra và gõ. Khi được hỏi là ai, linh hồn ấy đã trả lời:
- Lạy Chúa, con đấy ạ.
Bỗng một tiếp đáp lại: - Nếu ngươi là con, thì ngươi chưa sẵn sàng để vào thiên đàng.
Trở lại trần gian, linh hồn ấy lo ăn chay cầu nguyện, hãm mình phạt xác. Cũng trong thời gian này, linh hồn ấy học hỏi và biết được rằng trong ngày phán xét, Chúa sẽ hỏi: - Ngươi có mang hình ảnh Ta trong tâm hồn ngươi hay không?
Ngày kia, linh hồn ấy cũng lên tới của thiên đàng và khi nghe tiếng hỏi: - Ai đó?
Linh hồn ấy đã thưa lên: - Chúa đấy.
Lập tức có tiếng vọng lại: - Hỡi đầy tớ trung thành và khôn ngoan, hãy vào lãnh lấy phần thưởng của ngươi.
Mỗi người chúng ta đều phải chết. Đó là là sự thật thứ nhất. Rồi sau đó, mỗi người chúng ta đều bị phán xét. Đó là sự thật thứ hai. Trót cả cuộc đời, chúng ta phải hướng tới hai sự thật ấy.
Vậy chúng ta đã sẵn sàng cho cuộc phân xử định mệnh này hay chưa? Nếu như chúng ta chưa sẵn sàng, nếu như chúng ta còn vướng mắc quá nhiều những món nợ đối với Chúa và đối với anh em, nếu như chúng ta còn chồng chất tội lỗi, thì ngay từ hôm nay, chúng ta hay thanh toan cho xong bằng tâm tình sám hối của bí tích giải tội, để rồi chúng ta không còn phải lo lắng khi phải tính sổ cuộc đời với Chúa.
51. Bảo hiểm Nước Trời
Ngày nay, nhiều công ty bảo hiểm đưa ra nhiều loại bảo hiểm khác nhau cho người dân tham gia. Nào là bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp, bảo hiểm tai nạn giao thông, bảo hiểm nhà đất...Người tham gia sẽ được nhiều ưu đãi khi có sự cố. Như vậy, có thể nói hơn bao giờ hết bảo hiểm ngày nay thật phong phu và đa dạng.
Dường như cuộc sống càng văn minh bao nhiêu thì mức độ an toàn lại càng mong manh bấy nhiêu. Từ đó, con người mong được chút nào đó bảo đảm nơi các loại bảo hiểm trên. Ngoài ra, thiết nghĩ có một loại bảo hiểm mà ta ít để ý tới mà nó lại là vấn đề sinh tử. Loại ấy là bảo biểm Nước Trời.
Mùa vọng là mùa của hy vọng và trông chờ. Hy vọng và trông chờ ngày đại lễ Giáng sinh - ngày kỷ niệm Chúa Giêsu đến thế gian lần thứ nhất. Hy vọng và trông chờ ngày Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang vào ngày tận thế. Cách riêng, hy vọng và trông chờ ơn cứu độ của Thiên Chúa đến với từng người. Nói cách khác, người tín hữu hy vọng và trông chờ vào bảo hiểm Nước Trời. Loại bảo biểm này hoàn toàn miễn phí nên không có phân biệt thành phần tham gia.
Ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ đến cho những ai biết tỉnh thức và sẵn sàng. Xem ra Lời Chúa được Thánh Luca ghi lại trong đoạn Tin mừng hôm nay có vẻ ghê sợ. Từ cảnh "muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét" đến "người ta sẽ lo sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu....". Rồi "ngày ấy như chiếc lưới bất thần ập xuống...". Những hình ảnh đó muốn nói lên thế giới này rồi sẽ qua đi. Nó sẽ nhường lại cho thế giới mới tốt đẹp hơn.
Hơn nữa, thế giới mới này có đặc tính vĩnh cửu và không hư mất. Không có quyền lực nào có thể làm gì được với thế giới mới này. Đối với những ai đã được bảo hiểm Nước Trời lo thì bảo đảm và không có gì phải ghê sợ.
Tóm lại, những gì con người cho là vững chắc ở trần gian này như quyền lực, địa vị, tiền bạc, vợ đẹp con ngoan hay nhà cao cửa rộng.....Thậm chí mặt trời, ngôi sao, biển cả và hàng vạn tinh tú sẽ thay đổi hết. Lúc ấy chỉ còn tồn tại duy nhất loại bảo biểm Nước Trời. Cho nên, thái độ khôn ngoan của người ta là hãy trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa. Đồng thời, luôn biết chuẩn bị sẵn sàng bằng siêng năng cầu nguyện và tỉnh thức đừng để mình mê ngủ trong tội.
52. Trước ngày gặp gỡ---‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest
Đoạn Phúc Âm hôm nay liên quan trực tiếp đến sự quang lâm của Con Người, chấm dứt vòng thịnh suy của thời gian và thiết lập Ngày Quang Vinh của Chúa (Chúa Nhật là biểu tượng, đồng thời là tiền diễn Ngày đó). Chọn bản văn này cho thời kỳ chuẩn bị lễ Giáng Sinh, Giáo Hội muốn lưu ý chúng ta đến sự kiện Chúa Giáng Sinh mở màn cho một lịch sử sẽ kết thúc trong huy hoàng rực rỡ, như chúng ta có thể đoán trước. Sự Chúa sinh ra, thời thơ ấu của Chúa đưa đến kết quả là tôn vinh tính loài người trong Chúa. Tuy nhiên trong quá trình lịch sử ấy có xen lẫn những thảm kịch của tự do. Những kẻ được tham gia tôn vinh Đức Kitô là những kẻ đã cẩn mật canh thức, vì thế giữ vững được lòng trung thành. Họ chiến đấu chống sự dữ, vì sự dữ là thất bại của tự do.
Như vậy, Đức Kitô làm nổi bật khía cạnh cá nhân của một biến cố chung, là sự tận cùng thế giới chúng ta đang sống. Ngày nay, nhiều người muốn tổ chức thế giới như thể xem thế giới là bất diệt. Họ cũng cho rằng không cá nhân nào khỏi chết, tuy nhiên nhân loại gồm những cá nhân chìm biến trong đó thì bất diệt. Đức Giêsu nói: Thế giới trong hình thái hiện nay sẽ qua đi. Mỗi người tin, trong cuộc đời hiện tại, phải canh thức và cầu nguyện vì chính cá nhân mình chịu trách nhiệm về số phận vĩnh cửu của mình.
Đối với mỗi người, ngày giờ chết sẽ đến bất chợt, dù có dự đoán. Cũng vậy, đối với nhân loại, ngày tận thế sẽ đến vào lúc không ngờ. Chúng ta tự hỏi, mình có trong số những kẻ trông thấy ngày tận thế không? Chúng ta làm sao biết được? Dẫu thế nào đi nữa, chúng ta biết chắc chúng ta sẽ chết. Chúng ta phải chuẩn bị kỹ cuộc gặp gỡ riêng với Chúa, như thể ngày mai sẽ tận thế. Điều quan trọng là lúc gặp Chúa chúng ta có thể đứng thẳng trước Con Người, cách rất khiêm nhượng đơn sơ, hy vọng được Chúa đón nhận vì mình đã hết lòng ăn ở hiếu thảo, không bị Chúa xét phạt.
53. Suy niệm của McCarthy.
Suy Niệm 1. NÉT XANH TƯƠI NƠI NHỮNG KẺ THEO CHÚA
Có một câu chuyện (của John Shea, trong cuốn ‘Giai thoại về những cái chuông’) kể lại rằng khi Thiên Chúa dựng nên các cây cối, Người ban cho mỗi loài cây một ân huệ. Nhưng ban đầu, khi Người đưa ra một cuộc tranh luận, để xác định xem ân huệ nào sẽ có lợi ích nhất. Người nói với chúng: “Ta muốn rằng các ngươi phải thức tỉnh và tiếp tục coi sóc cả mặt đất trong vòng bảy đêm”.
Những thân cây còn non rất phấn khởi, vì được Người tin tưởng giao phó cho một công việc quan trọng như vậy, đến nỗi trong đêm đầu tiên, chúng nhận thấy việc canh thức không có gì là khó khăn cả. Tuy nhiên, trong đêm thứ hai, thì việc đó không còn quá dễ dàng nữa, và vừa trước khi đến lúc rạng đông, một số cây đã lăn ra ngủ. Trong đêm thứ ba, các thân cây thì thầm nhắc nhở nhau cố gắng giữ mình, để khỏi ngủ lăn ra. Mặc dù vậy, điều này chứng tỏ là quá sức đối với một số cây. Trong đêm thứ tư, lại có thêm vài thân cây nữa ngủ gục. Đến đêm thứ bảy, những thân cây duy nhất còn tỉnh thức chỉ là cây tuyết tùng, cây thông, cây vân sam, cây linh sam, cây nhựa ruồi và cây nguyệt quế mà thôi.
Thiên Chúa kêu lên: “Sức chịu đựng của các ngươi tuyệt vời thật! Các ngươi sẽ được ban cho một ân huệ là giữ được mầu sắc xanh tươi mãi mãi. Các ngươi sẽ trở thành những kẻ canh gác khu rừng. Ngay cả trong mùa đông dường như mang lại cảnh chết chóc, thì các cây cối anh chị em của các ngươi vẫn bảo vệ được sự sống trên những cành cây của các ngươi”.
Kể từ đó, tất cả các cây cối và thực vật đều bị rụng lá và ngủ trong suốt mùa đông, trong những khi cây thường xanh thì vẫn còn tỉnh thức. Câu chuyện này minh họa lại hai chủ đề chính của Mùa Vọng: Sự tỉnh thức giữa cảnh ngủ mê, và sự xanh tươi giữa nơi cằn cỗi.
Nơi những cây thường xanh, chúng ta ghi nhận được một sự thách đố mang tích cách lịch sử, nhưng kiên quyết. Thế giới chung quanh có thể ngủ mê hoặc cằn cỗi, nhưng những thân cây này vẫn tiếp tục mang lại lời chứng. Chúng vẫn kiên trì, không phải do sự xác quyết của bản thân chúng, mà nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng chỉ ra cho chúng ta thấy rằng, trong tư cách là người Kitô hữu, vai trò của chúng ta phải là gì. Đó là phải tỉnh thức giữa những kẻ ngủ mê, phải xanh tươi giữa những kẻ cằn cỗi. Để làm chứng cho Thiên Chúa, chúng ta phải yêu thương giữa cảnh hận thù, bình an giữa nơi xung đột, và sáng sủa giữa chốn tối tăm.
Trong xã hội của chúng ta, có những người đặc biệt cần phải tỉnh thức. Chúng ta nghĩ đến những người đang đảm nhận các công việc mang rất nhiều trách nhiệm, chẳng hạn như các phi công, tài xế (có biết bao tai nạn gây ra do những người ngủ gục trong khi đang cầm lái), các y tá trực đêm, các bậc cha mẹ đang có con cái đau yếu, những người làm công tác bảo vệ an toàn…
Nhưng tất cả chúng ta đều được kêu gọi phải tỉnh thức theo nghĩa rộng. Nói cách khác, chúng ta sẽ bị lỡ làng rất nhiều. Có nhiều người ngủ mê trong suốt cuộc sống của họ. Họ có tai, nhưng không biết lắng nghe, có mắt, nhưng không nhìn thấy. Tất cả chúng ta đều cần phải tỉnh thức, bởi vì cuộc sống thật quý giá. Nhưng cuộc sống của người Kitô hữu là đáng quý nhất. Chúng ta không chỉ được thúc giục phải “tỉnh thức”, mà còn phải cảnh giác nữa.
Chúa đòi hỏi chúng ta, những kẻ đi theo Người, phải luôn tỉnh thức, phải trở thành những môn đệ đầy cảnh giác, đầy tin tưởng, phải là những kẻ đi theo Người luôn xanh tươi mãi mãi. Chúng ta là những chứng nhân của Người trong thế giới này. Không phải là quá đáng, khi tuyên bố rằng chúng ta phải thận trọng quan sát khắp cả thế giới. Chúng ta phải làm chứng cho sự sống và niềm hy vọng giữa cảnh đổ vỡ, biến động và chết chóc.
Khi làm chứng cho chân lý, công bằng, yêu thương và an bình, là chúng ta đang làm chứng cho Đức Giêsu. Cách thế làm chứng cho chân lý phải là sống trọn vẹn cho chân lý. Cách thế làm chứng cho lẽ công bằng là phải hành động một cách công bằng. Cách thế làm chứng cho tình yêu thương là phải có những hành động đầy yêu thương. Và cách thế làm chứng cho hòa bình là phải sống trong sự bình an đối với người khác.
Nói tóm lại, cách thế có hiệu quả nhất để làm chứng cho Đức Giêsu là phải sống một đời sống Kitô hữu đích thực. Chúng ta cần có sức mạnh, để duy trì được sự kiên định và lòng tin. Thiên Chúa luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta, đặc biệt khi chúng ta cầu nguyện.
Suy Niệm 2. CHỜ ĐỢI CHÚA ĐẾN
Chúng ta đang sống trong một thời kỳ ở giữa hai ngày Đức Kitô đến. Ngày Người đến lần đầu tiên cách đây hơn 2000 năm tại Bêlem. Chúng ta tin tưởng rằng Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai trong vinh quang vào thời sau hết. Trong khi chờ đợi, chúng ta có thể tìm thấy Đức Kitô ở đâu?
Lần kia, có một sinh viên người Do Thái rất đứng đắn, anh có một ao ước cháy bỏng được nhìn thấy ngôn sứ Êlia, thế là anh khẩn khoản xin cha anh chỉ cho thấy ngài. Người cha trả lời: “Nếu con không ngừng hết lòng nghiên cứu kinh Tôra, cha hứa với con rằng con sẽ xứng đáng được nhìn thấy ngôn sứ Êlia”.
Trong vài tuần, người con trai nhiệt thành chuyên chú vào việc học hỏi của mình, bằng cách miệt mài vào những cuốn sách thánh cả ngày lẫn đêm. Thế rồi anh đến gặp cha và nói: “Con đã làm điều mà cha dặn bảo, nhưng ngôn sứ Êlia vẫn không tự bộc lộ bản thân ngài cho con”.
Người cha trả lời: “Con đừng nản lòng như vậy. Nếu con xứng đáng, thì chắc chắn ngài sẽ tự bộc lộ về chính ngài cho con”.
Một đêm kia, con trai ông đang ngồi tại bàn của mình, thì một người nghèo khổ đi tới. Người này lấm đầy bụi đường và quần áo rách tả tơi. Với gương mặt thô nhám, trên chiếc lưng còng mang một cái túi nặng nề, người đó sắp sửa đặt cái túi xuống, thì anh ta tức giận nói với ông “Đừng làm như vậy. Thế ông nghĩ chỗ này là một cái quán trọ à?”.
Người khách vãng lai khẩn khoản “Tôi quá mệt. Xin cho tôi nghỉ ở đây một lát, rồi tôi sẽ đi tìm chỗ trọ”.
“Không. Ông không thể ở lại đây được. Cha tôi không cho phép những kẻ lang thang được đến và ở lại đây, với cái túi lấm đầy bụi bặm của họ”.
Thế là kẻ xa lạ thở dài, đỡ cái túi lên vai của mình và ra đi. Khoảng một giờ sau, người cha đến. Ông hỏi “Vậy con đã nhìn thấy ngôn sứ Êlia chưa?”.
Anh con trai đáp “Dạ chưa, con chưa hề nhìn thấy ngài”.
Người cha hỏi “Thế hôm nay không có người nào đến đây à!”
Anh con trai đáp: “Dạ không ạ. Vừa mới đây, có một kẻ lang thang mang một cái túi nặng đi tới đây”.
“Vậy con có tiếp đón họ không?”
“Dạ không ạ!”
“Tại sao con không chịu đón tiếp người này? Con không biết rằng đó chính là ngôn sứ Êlia sao? Cha e rằng quá muộn mất rồi”.
Kể từ ngày hôm đó, anh con trai tự bắt buộc mình phải đón tiếp kẻ xa lạ, bất kể người đó trông như thế nào, hoặc tình trạng cuộc sống của họ ra sao. Và khi làm như vậy, anh tin tưởng rằng mình đang thực sự đón tiếp ngôn sứ Êlia.
Chúng ta có thể tìm thấy Đức Kitô và phục vụ Người trong người đồng loại của chúng ta, đặc biệt nơi những người nghèo khổ và thiếu thốn. Nhưng chúng ta còn có một công việc khác nữa, nghĩa là làm cho Đức Kitô trở nên “hữu hình” đối với những kẻ đang hoài nghi và không có niềm tin. Chúng ta là những chứng nhân của Đức Kitô trên thế giới.
Cách làm chứng lôi cuốn nhất đối với thế giới chính là sự quan tâm đến mọi người, và sống bác ái đối với người nghèo khổ, yếu đuối và đau khổ. Lòng quảng đại bên dưới thái độ này, và những hành động này chứng tỏ sự tương phản đối với thói ích kỷ. Chắc chắn điều đó đưa đến những câu hỏi dẫn đến Thiên Chúa và Tin Mừng. Lời cam kết đem lại hòa bình, công chính và quyền lợi cho con người chính là một cách làm chứng cho Tin Mừng.
Trong khi mỗi người đều có một phần đóng góp, thì điều quan trọng nhất chính là chứng tá của cộng đồng Kitô hữu. Với tư cách là một thân thể, các Kitô hữu phải làm chứng cho thế giới về Đức Kitô, qua tình yêu của họ đối với nhau, qua niềm hy vọng và niềm vui mà họ phản ánh ra.
54. Chờ Chúa đến
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Tươi)
Mùa vọng là mùa của chờ đợi và hy vọng. Đây là thời gian chuẩn bị đón mừng lễ Giáng sinh, mừng Con Thiên Chúa đến trong thế gian để mang lại sự hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc nhân loại. Trong mỗi chúng ta luôn khát khao được sống yêu thương, an lành và hạnh phúc, nhưng trong thực tế thì không phải ai cũng đạt được những điều mình mong ước trong cuộc sống. Thế thì, đâu là ý nghĩa của việc chờ đợi và hy vọng trong Mùa Vọng này?
Vào Mùa vọng năm 2008, tôi có dịp đi vào những vùng sâu, và viếng thăm những người nghèo. Tôi đến thăm một bé trai 9 tuổi bị bệnh ung thư máu, em đã nằm trên giường bệnh nhiều năm, thân hình tàn tạ chỉ còn da bọc xương, em đang chờ đợi cái chết sẽ xẩy đến trong một thời gian ngắn nữa thôi. Lúc ấy, tôi thầm nghĩ trong lòng, tôi sẽ giúp đỡ và đưa em đi bệnh viện để em có thể sống được lâu hơn, vì nhà em quá nghèo, đến nỗi gia đình không có tiền để mua một hộp sữa cho em uống. Tôi hỏi người mẹ có cho em ăn gì chưa? Chị ta trả lời: "Hôm nay, nhà em không còn gì để cho cháu ăn" Nghe lời chị ta nói, lòng tôi bị thắt lại. Ngôi nhà thì rách nát, tả tơi, ngay cả chỗ em nằm cũng không được bảo đảm chen nắng che mưa. Khi nhìn thấy hoàn cảnh đứa bé, tôi xúc động trước nỗi bất hạnh của em. Tôi đến cầm lấy tay và đỡ em ngồi dậy.Tôi nhìn đôi mắt của em, hai dòng nước mắt chảy xuống trên đôi má gầy gò da bọc xương, và lúc đó tôi cũng không thể cầm được nước mắt của mình. Và tôi cũng không thể nói được điều gì với em, nhưng tôi tin chắc rằng, em sẽ hiểu được tình cảm của tôi qua ánh mắt yêu thương dành cho em. Trước khi từ giã em ra về, tôi có hứa với em rằng, tôi sẽ trở lại để đưa đi bệnh viện. Đó là điều mong ước nhỏ nhoi của tôi. Thế nhưng, điều ước mơ đó, tôi chưa thực hiện được, thì em đã vĩnh viễn ra đi, lòng tôi đau khắc khi lời hứa tôi chưa thực hiện được trong đời mục vụ. Mỗi lần Mùa Vọng đến lại gợi lại trong tôi một kỷ niệm buồn, nhưng tôi tin rằng em đã về với Chúa trên thiêng đàng và mong rằng em sẽ hiểu cầu nguyện cho tôi.
Cậu bé đã từng có những hy vọng và chờ đợi. Hy vọng một tương lai tốt đẹp. Chờ đợi một phép lạ xẩy ra để em được sống, được khỏe mạnh nhưng tất cả đều vô vọng, và em đã kết thúc cuộc đời quá trẻ. Nhưng tôi luôn mang trong mình một nỗi khắc khoải về những gì mình chưa làm được với một lời hứa. Từ kinh nghiệm này giúp tôi liên tưởng đến ý nghĩa của sự chờ đợi và hy vọng một cách khôn ngoan. Chờ đợi không chỉ là mong đợi những điều tốt có thể sẽ xảy ra trong tương lai, mà là biết nhận ra những ân ban của Thiên Chúa ban cho ta và thực hành trong cuộc sống hiện tại này. Giá trị của cuộc sống hiện tại của con người là kết quả cho cuộc sống tương lai vĩnh cửu. Chờ đợi không chỉ đón nhận những điều tốt mà thôi, nhưng là còn phải chấp nhận những gì ngoài ý muốn của mình. Hơn nữa, chờ đợi không phải là ngồi đó để than van, trách móc, tủi hờn cho số phận, nhưng phải biết tìm kiếm và im lặng để lắng nghe được tiếng Chúa nói trong ta và thực hiện bằng việc làm trong cuộc sống.
Mùa vọng là cơ hội tốt để cho chúng ta nhìn lại thời gian qua, sống với giá trị hiện tại, và hướng tới tương lai vĩnh cửu. Lời Chúa nhắc bảo chúng ta là hãy sẵn sàng và tỉnh thức trong mỗi hoàn cảnh và thời khắc, vì chúng ta chẳng biết giờ Chúa đến với mỗi người chúng ta. "Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!" Và ngày đó, Thiên Chúa phán xét chúng ta về lòng bác ái và yêu thương.
Chân lý cuối cùng của cuộc đời là tình yêu: Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người.Vì yêu thương con người, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm Người, sống kiếp con người với chúng ta, và Ngài chết và sống lại để mang hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại, Chúa đang đồng hành cùng với những ai thất vọng, cô đơn, chán trường, những người già bệnh tật, ốm đau, những trẻ em mồ côi lang thang đang cần có tình thương.
Có những mãnh đời đã đi qua đời tôi, nhưng tôi vẫn vô tình, thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, vì cái tôi chật hẹp và ích kỷ. Hình ảnh cậu bé ngày xưa vẫn còn đọng lại trong tôi như là một lời nhắc nhớ. Chờ Chúa đến không phải chỉ là ước mong những điều tốt đẹp cho mình, nhưng là phải biết chia sẻ, cảm thông, yêu thương và thực hiện trong đời sống. Chờ Chúa đến không phải là lúc ta ngồi đó để than vãn, oán trách cho số phận mà là hãy sẵn sàng, tỉnh thức, cầu nguyện và bác ái trong Mùa Vọng này.
55. Mở cửa tâm hồn đón Chúa đến---Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Kính thưa cộng đoàn,
Chúng ta bước vào Mùa Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin là Adventus, (có nghĩa là đến, quang lâm). Thời thánh Giáo hoàng Grêgôriô I, thời gian chuẩn bị đón chờ Chúa đến trước lễ Giáng Sinh kéo dài bốn tuần được gọi là Mùa Vọng.
Hỏi: Chúa đã đến chưa? Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng: Chúa đã đến rồi. Vậy chúng ta còn mong chờ Chúa nào nữa?
Mùa Vọng Giáo hội đang sống là sống với hai chiều kích: một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của Đức Giêsu Con Thiên Chúa, sinh bởi Đức Maria Đồng Trinh; hai là chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để “phán xét kẻ sống và người chết”, như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do các từ “chờ đợi” được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với lời cầu xin tha thiết: “Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi”, và hơn thế nữa dân Do Thái kêu van: “Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống”.
Vì sống cả hai chiều kích, nên người kitô hữu phải mặc tâm tình của dân Cựu Ước và của chính mình ngày hôm nay.
Mùa Vọng trong Kinh Thánh
Phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Vọng làm chúng ta nhớ lại sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: “Từ gốc tổ Giêsê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non...” (x.Is 11, 1-10).
Lời thiên thần Gabriel cho biết Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu…” (x.Lc 1, 26-38)
Gioan Tẩy Giả, con trai của Êlisabét và là anh em họ với Chúa Giêsu, xuất hiện trước để loan báo việc Con Thiên Chúa đến, kêu gọi mọi người hoán cải và rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1, 1.8 và Ga 1, 19.28)
Như thế, những việc cử hành thánh trong Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta hoán cải nội tâm, canh tân niềm tin, vững tin vào tương lai và trở lên men giữa lòng thế giới.
Mùa Vọng
Trong lịch phụng vụ Công Giáo, Mùa Vọng kéo dài bốn tuần và mỗi tuần có tên gọi truyền thống đặc thù của nó, gồm những lời đầu tiên của bài thánh ca mở đầu:
- Chúa nhật I Mùa Vọng: Ad Te levavi... (= Con nâng tâm hồn con lên tới Chúa, lạy Chúa…)
- Chúa nhật II Mùa Vọng: Populus Sion... (Này hỡi Dân Sion…)
- Chúa nhật III Mùa Vọng: Gaudete... (= Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa…)
- Chủ nhật IV Mùa Vọng: Rorate... (= Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa Đấng Công Chính...)
Đức Giêsu dạy chúng ta sống Mùa Vọng
Đức Giêsu đã đến rồi, nên chiều kích thứ nhất của Mùa Vọng nhắc lại cho chúng ta việc Chúa đến lần thứ nhất, và tỉnh thức sẵn sàng đón Chúa tái lâm là chiều kích thứ hai: “Vì giờ cứu rỗi các con đã đến gần” (x. Lc 21, 25-28, 34-36).
“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến” (Lc 21, 25-28). Đó là những dấu hiệu báo trước ngày Chúa tái lâm.
Hơn bao giờ hết, con người thời nay hết sức đau buồn vì quân khủng bố IS tại Syria. Nếu như các kitô hữu tại Irắc và Syria kêu la thảm thiết trong những năm qua, thì bây giờ là Nga và Pháp quốc hết sức lo lắng. Biển gầm lên, đất rung chuyển tại Nhật Bản, Inđônêsia, Trung Quốc và nhiều nơi khác nữa thiêu hủy biết bao sinh mạng con người. Phải chăng giờ cữu rỗi đã gần đến?
Lời Chúa Giêsu khuyên chúng ta vẫn còn cấp bách: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!” (Lc 21, 34-36).
Năm Thánh Lòng Thương Xót
Chúng ta đang ở ngưỡng cửa của Năm Thánh Lòng Thương Xót với khẩu hiệu Thương Xót Như Chúa Cha (x. Lc 6,36) là lời mời gọi sống lòng thương xót theo gương Cha trên trời, dạy chúng ta đừng xét đoán và kết án, nhưng hãy tha thứ và yêu thương vô giới hạn (x. Lc 6,37-38).
Thế giới dường như đang cạn kiệt tình thương, nên loài người giết hại nhau, hủy hoại môi sinh, khiến thiên nhiên nổi nóng chống lại con người. Đức Phanxicô nói: Người Kitô hữu được khích lệ mở các cửa của mình để cùng Chúa Cứu Thế giáng sinh đi gặp gỡ những ai đang đi trên đường. Sách Khải Huyền viết: “Ta đứng ngoài cửa và gõ”. Chúa gõ cửa lòng chúng ta: “Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa chiều với người ấy và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Chúa đang chờ đợi chúng ta mở cửa để bước vào đem theo phúc lành cũng như tình bạn của Chúa đến cho chúng ta.
Chúa Giêsu là Hoàng Tử Hòa Bình, vì Người sinh ra hòa bình trong trái tim chúng ta. Người đến thế gian bằng lòng thương xót với tình nhân loại, và sự cảm thương dịu hiền của một Vì Thiên Chúa là Cha. Lợi dụng cơ hội này, để bước vào ngưỡng của lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta phải ý thức mình là người mang lòng từ bi thương xót, hòa giải và an bình, sẵn sàng trao ban và tha thứ cho nhau, liên đới trong tình thương xót, tử tế, giúp đỡ lẫn nhau, đồng tâm chia sẻ vui buồn, đau khổ với đồng loại.
Lạy Mẹ Maria, Thân Mẫu của Lòng Thương Xót, Thân Mẫu của Đấng Chịu Đóng Đinh và cũng là Thân Mẫu của Đấng Phục Sinh đã bước vào trong thánh địa Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, xin dẫn chúng con bước vào cửa lòng thương xót cả Thiên Chúa. Amen.
56. Thẳng đứng ngước cao - Đón chờ cứu độ
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Phụng Vụ là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, một Mầu Nhiệm được thực sự tái diễn và tiếp diễn một cách trọn vẹn qua Phụng Niên của Giáo Hội, một Năm Phụng Vụ được mở màn từ Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng như hôm nay đây. Thế nhưng, theo Dự Án Cứu Độ của Thiên Chúa cũng như theo lịch sử, Chúa Kitô thực sự đã được sinh ra rồi, hơn 2000 năm trước đây, thì Mùa Vọng chúng ta đang cùng Giáo Hội bước vào đây là gì, nếu không phải là việc Giáo Hội hướng về và mong đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai. Đó là lý do bài Phúc Âm Thánh Luca Năm C hôm nay ở đoạn 21 và câu 27 đề cập tới việc Chúa Kitô đến lần sau hết: “Loài người sẽ thấy Con Người đầy uy quyền và vinh quang đến trên mây trời”.
Nhưng vấn đề ở đây là, nếu Chúa Kitô đã thực sự đến rồi, thì Kitô hữu chúng ta đã cảm nghiệm được Người chưa, hay Người vẫn ở trong tình trạng, như Thánh Gioan Tiền Hô đã nói thẳng với dân Do Thái là thành phần cũng trông đợi Vị Cứu Tinh của họ đến, trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26 là: “có một Đấng ở giữa các người mà các người không biết”. Đó là lý do tại sao, để nhận ra Đấng Thiên Sai đã đến với Dân Do Thái, như lời Chúa hứa với họ qua tiên tri Giêrêmia trong bài đọc thứ nhất hôm nay, cũng là Đấng đã ở giữa loài người chúng ta, Chúa Giêsu đã nói với chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay, là chúng ta phải “đứng vững trước Con Người”. Thế nhưng, tại sao Kitô hữu chúng ta cần phải “đứng vững trước Con Người” và nhất là làm thế nào để có thể “đứng vững trước Con Người”? Nếu Kitô hữu chúng ta không ý thức được vấn đề “đứng vững trước Con Người” bằng đời sống của mình, thì chúng ta chưa thực sự Sống Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh trong Mùa Vọng của Giáo Hội, nghĩa là Chúa Kitô vẫn còn là một Đấng ở giữa chúng ta mà chúng ta không biết!
Đúng thế, Mùa Vọng tới, chẳng những Kitô hữu mà cả trần gian, bao gồm tất cả mọi tín đồ thuộc tất cả mọi tôn giáo khác, không nhiều thì ít, đang sửa soạn đón mừng Giáng Sinh, ít là bề ngoài với những cánh thiệp chúc mừng nhau hay mua bán quà tặng trao cho nhau. Tuy nhiên, nếu không ý tứ, chúng ta đang sửa soạn dọn mừng Lễ Giáng Sinh hơn là dọn lòng để gặp được chính Vị Chúa Giáng Sinh. Những mầu sắc tưng bừng vui nhộn bề ngoài bắt đầu xuất hiện ở các khu thương mại, hay ở trước nhà của một số gia đình, liên quan đến việc mua sắm, trưng bày và tặng quà cho nhau, có thể làm cho chúng ta bị chi phối và quên đi chính cái ý nghĩa linh thiêng cao cả của Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh. Từ đó, đối với không ít người, Lễ Giáng Sinh đã bị tục hóa, trở thành một dịp nghỉ ngơi vui chơi như tất cả mọi cuộc lễ khác.
Đó là lý do vấn đề tại sao Kitô hữu chúng ta cần phải “đứng vững trước Con Người” là vấn đề có liên quan hết sức mật thiết đến đức tin của Kitô hữu chúng ta. Thật vậy, tất cả Kitô hữu chúng ta đều đã được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, tức đã được trở nên con cái Thiên Chúa. Thế nhưng, biến cố chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa không phải chỉ là đặc ân Thiên Chúa ban cho chúng ta thôi, mà còn là việc chúng ta đáp ứng ân huệ Ngài ban nữa. Đúng thế, việc Con Thiên Chúa Làm Người là để loài người chúng ta được làm con Thiên Chúa, như Thánh Phaolô đã minh định trong Bức Thư gửi cho giáo đoàn Galata ở đoạn 3, câu 4 và 5 như sau: “Đến thời gian ấn định, Thiên Chúa đã sai Con Mình đến, sinh hạ bởi một người nữ, sinh ra theo lề luật để giải cứu những ai bị lụy thuộc lề luật, để chúng ta được hưởng địa vị làm thành phần dưỡng tử”. Tuy nhiên, một khi được Thiên Chúa kêu gọi làm dưỡng từ của Ngài trong Chúa Kitô, loài người chúng ta cũng cần phải xòe tay mở lòng đón nhận nữa, ở chỗ tỏ ra tin tưởng nhận biết Con Thiên Chúa được hạ sinh bỡi người nữ. Đó là lý do Phúc Âm Thánh Gioan, đoạn 1, từ câu 10 đến câu 12, đã xác nhận như sau: “Người đã ở trong thế gian, nhờ Người thế gian đã được tạo thành, song thế gian lại không nhận biết Người. Người đã đến với dân riêng của Người, song họ không chấp nhận Người. Bất cứ ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền trở nên con cái Thiên Chúa”.
Như thế, việc “đứng vững trước Con Người” đây chính là việc chúng ta tỏ ra hết sức trung thành với đức tin của mình, ở chỗ, không bao giờ chối bỏ hay dám chối bỏ Vị Thiên Chúa Làm Người, trái lại, hoàn toàn và liên lỉ tin tưởng chấp nhận Người, Đấng được Bức Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái ở đoạn 9 câu 28 xác định là “sẽ đến lần thứ hai không phải để xóa bỏ tội lỗi mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người”, tức cho thành phần “bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ”, như Chúa đã khẳng định trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 24, câu 13. Chi tiết vùa đề cập đến trên đây có thể se õ làm cho một số người trong chúng ta tự nhiên nhớ lại lời Chúa Kitô tiên báo trong Phúc Âm Thánh Luca ở đoạn 9 câu 27 tuần trước, đó là câu “trong những kẻ đang đứng đây có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa”. Chúa Giêsu ám chỉ về ai khi Người nói “có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa”?
Về lời Chúa Giêsu nói “có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa”, theo suy diễn của người chia sẻ đây thì đó là môn đệ Stêphanô và tông đồ Gioan. Trước hết, đó là Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Kitô Giáo, bởi vì, ngay trước khi chết, Sách Tông Vụ ở đoạn 7 câu 56 đã thuật lại rằng “Người kêu lên ‘Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đang đứng bên hữu Thiên Chúa’”, một thị kiến rất ăn khớp với lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm Thánh Mathêu, đoạn 16, câu 28: “có một số sẽ không nếm cái chết trước khi họ thấy Con Người đến trong vương quyền”. Sau nữa, trong số này còn có tông đồ Gioan, bởi vì, theo Phúc Âm Thánh Marcô đoạn 9 câu 1 ghi là “có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa được thiết lập trong quyền năng”, thì trong Tông Đồ đoàn chỉ có một mình Thánh Gioan cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá Chúa Kitô (xem Jn 19:25), để chứng kiến giây phút Nước Cha bắt đầu trị đến, giây phút vương quốc Satan bị tiêu diệt, cũng là giây phút thiên đàng mở ra cho tội nhân vào, mà người đầu tiên bước vào lại là người tử tội bị đóng đanh bên hữu Chúa Giêsu (xem Lk 23:43). Ngoài ra, cũng chỉ có một mình vị tông đồ Gioan này, trước khi chết, như ngài đã cho biết trong Sách Khải Huyền của ngài, ở đoạn 21, câu 2, thế này: “Tôi cũng thấy một tân Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống, diễm lệ như cô dâu sửa soạn nghênh đón lang quân của mình”, nghĩa là thánh nhân được thị kiến “thấy triều đại Thiên Chúa được thiết lập trong quyền năng”.
Vì vấn đề “đứng vững trước Con Người”, như đã diễn giải trên đây, mật thiết liên quan đến đức tin, do đó, để có thể “đứng vững trước Con Người”, Kitô hữu chúng ta cần phải giữ vững đức tin của mình, thế thôi, nói cách khác, giữ vững đức tin của mình là “đứng vững trước Con Người”, nhất là vào những lúc đêm tối đức tin, bị thử thách, chịu khổ đau, bị bách hại chống đối, đặc biệt vào những ngày cuối thời, những ngày khủng khiếp chưa từng thấy từ tạo thiên lập địa, như Chúa Giêsu báo trước trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 24, câu 21, thời điểm mà, trong bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, Chúa Kitô cũng căn dặn các môn đệ rằng: “Khi những điều này bắt đầu xẩy ra thì các con hãy thẳng đứng và ngước đầu lên, vì việc cứu chuộc các con gần đến rồi”.
Đúng vậy, cách duy nhất để chúng ta có thể “đứng vững trước Con Người”, tức để chúng ta tỏ lòng mình kiên trung với Chúa Kitô cho đến cùng, nhất là trong thời đại văn hóa sự chết của chúng ta ngày nay đây, đó là thái độ chúng ta “thẳng đứng và ngước đầu lên”. Thẳng đứng và ngước đầu lên như thế nào, Chúa Giêsu cũng đã cắt nghĩa rõ ràng trong bài Phúc Âm hôm nay ngay sau đó thế này, “các con hãy coi chừng kẻo tâm thần các con bị trì trệ bởi lạc thú, chè chén và lo toan thế gian”. Thẳng đứng và ngước đầu lên, về phương diện tiêu cực, chẳng những liên quan đến việc sống tu đức, mà còn, về phương diện tích cực, cho thấy cả cử chỉ cử hành Mầu Nhiệm Đức Tin nữa. Đó là cử chỉ Đức Tin của Mẹ Maria “thẳng đứng và ngước đầu lên” nhìn Con Mình treo trên thập giá trên đồi Canvê, một cử chỉ phụng vụ long trọng tế lễ Thiên Chúa. Đúng thế, nếu Chúa Kitô vẫn tiếp tục hiện diện và sống động với Giáo Hội cho đến tận thế, thì việc Giáo Hội cử hành Phụng Vụ “mà nhớ đến Thày” (Lk 22:19) chính là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, cử hành Mầu Nhiệm Đức Tin của mình. Để rồi, nhờ tham dự Phụng Vụ một cách ý thức, chủ động và tích cực, Kitô hữu chúng ta được sống Mầu Nhiệm Chúa Kitô, hay Chúa Kitô tỏ hiện nơi Đức Tin của chúng ta và tỏ mình cùng ban mình cho lòng khao khát và trông mong của chúng ta. Tóm lại, Mùa Vọng là thời điểm Kitô hữu chúng ta phải làm sao cảm nghiệm được Thiên Chúa Làm Người đang thực sự ở cùng mỗi người chúng ta.
Mùa Vọng chẳng những là thời điểm Giáo Hội hướng về Chúa Kitô đến lần thứ hai, mà còn là thời điểm rất thích hợp để Kitô hữu chúng ta trở về nguồn nữa, tức trở về với Lịch Sử Cứu Độ của Thiên Chúa, để có thể cảm nhận được Thiên Chúa là Thần Linh đã thực sự tỏ mình ra cho loài người chúng ta, cho đến khi “Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), để chúng ta “được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10).
Về thời điểm Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ lúc nào, chúng ta có thể căn cứ vào những yếu tố sau đây để có thể đi đến kết luận thế này. Trước hết, nếu “vì một người mà tội lỗi cùng với sự chết đã đột nhập thế gian”, như Thánh Phaolô xác nhận trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma, đoạn 5 câu 12, thì Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ Adong, từ lời Thiên Chúa hứa với ông ngay trong bản án nguyên tội, như được Sách Khởi Nguyên ghi lại ở đoạn 3 câu 15 như sau: “Ta sẽ gây mối thù giữa ngươi và người nữ, giữa giòng dõi ngươi và giòng dõi người nữ, người miêu duệ này sẽ đạp nát đầu ngươi”. Sau nữa, nếu việc Thiên Chúa cứu độ con người cần con người phải đáp ứng bằng đức tin, nghĩa là phải có đức tin con người mới được cứu độ, thì Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ Abraham là cha những kẻ tin (xem Rm 4:16-22; Gal 3:29), người đã bỏ quê cha đất tổ đi theo tiếng Chúa gọi đến nơi không biết mình sẽ đi về đâu (Gen 12:1-4; Heb 11:8), và nhất là đã không tiếc đứa con trai duy nhất của mình (Gen 22:16), một mầm mống theo lời Chúa hứa sẽ phát sinh một dân tộc đông như sao trời cát biển (Gen 15:1-6). Sau hết, nếu Dự Án Cứu Độ của Thiên Chúa được thực sự tỏ hiện trong lịch sử loài người, chứ không phải là một chuyện hoang đường và mộng tưởng, thì Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ Moisen, người được Thiên Chúa thực sự sai đến cứu dân Ngài cho khỏi cảnh làm tôi người Ai Cập mà đưa họ vào mảnh đất Ngài đã hứa với cha ông tổ phụ của họ (xem Ex 3:10).
Trong 4 tuần lễ Mùa Vọng tuần cuối bao giờ cũng đọc bài Phúc Âm trực tiếp liên quan đến biến cố Giáng Sinh của Chúa Kitô, hai tuần giữa liên quan đến vai trò Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong việc dọn đường cho Người đến. Và tuần đầu tiên với bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn để nhắc nhở con cái mình hãy tỉnh thức đón chờ Chúa Kitô tới. Riêng chu kỳ năm C, Phúc Âm Thánh Ký Luca ghi lại lời Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta và căn dặn chúng ta phải làm sao khi ơn cứu độ đến: Người bảo là phải tỉnh thức đừng chè chén say sưa với đam mê nhục dục và những vui thú trần thế, trái lại, phải đứng dậy và ngước đầu lên.
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa loài người chúng con bằng xương bằng thịt hơn hai ngàn năm trước đây. Nhưng Chúa vẫn hiện diện với Giáo Hội cho đến tận thế qua Thánh Thể và Quyền Linh Giáo Hội. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, xin cho chúng con được cảm nghiệm thần linh về sự hiện diện của Chúa là Đấng Emmanuel. Amen.
57. Tỉnh thức đợi chờ---‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Ít năm trước đây, một tài xế xe buýt đạt kỷ lục tài xế xuất sắc. Trong 23 năm làm tài xế, anh lại xe buýt trên 1.500.000km không gây tai nạn nào. Khi được hỏi, làm sao anh đạt được kỷ lục ấy, anh trả lời đơn giản: “Hãy nhìn đường”.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta một lời khuyên tương tự: “Hãy tỉnh thức”. Chúa Giêsu dùng nhiều kiểu nói: “Hãy coi chừng”, “Hãy chú ý”, “Hãy cảnh giác”, “Hãy ngẩng đầu lên”, “Hãy nhìn cho kỹ”. Tất cả là thái độ tỉnh thức. Tỉnh thức là nhận ra những điềm báo thời cứu độ đang đến và có thái độ thích hợp với tình thế đòi hỏi.
Tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến: Nếu ngày xưa dân Do Thái dựa vào lời các tiên tri loan báo, đã sống những thế kỷ dài chờ đợi Chúa Cứu Thế, thì ngày nay, dựa vào chính lời của Chúa Cứu Thế, chúng ta cũng đã trải qua 20 thế kỷ chờ đợi Chúa lại đến trong vinh quang. Vì thế, hai kiểu chờ đợi đó khác nhau. Trong quá khứ, dân Do Thái chờ đợi Chúa Cứu Thế đến lần thứ nhất: Ngài Giáng Sinh làm người. Còn chúng ta ngày nay, dựa trên cơ sở của biến cố Chúa đến lần thứ nhất nầy để vững tin và hy vọng vào biến cố Chúa sẽ lại đến lần thứ hai. Như vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta không chỉ hồi tưởng hay kỷ niệm quá khứ chờ đợi của dân Do Thái, mà chúng ta còn sống chính nỗi niềm chờ đợi của chúng ta. Từ đó, chúng ta mới hiểu lý do tại sao đầu năm phụng vụ Giáo Hội lại cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng liên quan đến biến cố cuối cùng: Ngày Chúa quang lâm.
Đoạn Tin Mừng này gồm hai phần rõ rệt: Phần thứ nhất là những hiện tượng lạ lùng trong vũ trụ. Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Liệu có thực sự xảy ra như vậy không? Đây là một lối diễn tả theo thể văn Khải huyền. Khó mà giải thích cho được sáng tỏ, khó mà thông hiểu cho rõ ràng. Vũ trụ sẽ thay đổi thế nào, thay đổi lúc nào, xác định việc đó là công việc của khoa học. Còn đối với chúng ta, đây là một cách diễn tả, xuất phát từ một cái nhìn về vũ trụ và con người. Con người và vũ trụ liên kết với nhau rất chặt chẽ. Sự liên đới giữa vũ trụ và con người rất mật thiết. Trước tiên là hỗn độn, hoang vu. Thiên Chúa can thiệp khi tạo dựng đất trời, sắp xếp đâu vào đấy: Thiên Chúa làm cho cảnh hỗn mang nguyên thuỷ biến thành vũ trụ diệu kỳ, và giao cho con người làm chủ vũ trụ. Nhưng con người làm đảo lộn vũ trụ bằng sự gian ác của mình. Vì vậy, vũ trụ dường như chìm trở lại trong cảnh hỗn mang nguyên thuỷ. Bây giờ Thiên Chúa quyết liệt can thiệp, để tái tạo trật tự, để làm cho xuất hiện một trật tự mới với “Trời mới, Đất mới”. Vì thế, “các tầng trời rung chuyển” là để trở lại trong trật tự tự do Thiên Chúa sắp xếp. Ngày cánh chung có hai mặt: mặt tối là sự phán xét, huỷ diệt một trật tự đã bị đảo lộn; còn mặt sáng là sự xuất hiện một trật tự mới, trong đó Dân Chúa được hạnh phúc.
Ngày ấy, Con Người hiện đến trên đám mây, tức là trong vinh quang, để xét xử muôn dân. Đó là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi, nhưng đó là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng. Đó là lời khuyên nhủ của Chúa Giêsu ở phần thứ hai.
Hãy tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng: chúng ta đã nghe quen thuộc những lời khuyên nhủ này. Việc chúng ta không cần tìm hiểu là ngày tận thế, là cách thay đổi của vũ trụ. Còn việc phải lo ngày Chúa đến gặp riêng mỗi một người trong chúng ta, vì ngày ấy rất bất ngờ, nên chúng ta cần phải luôn tỉnh thức đón chờ. Chúng ta giữ lòng mình như thế nào? Phải chăng không ít những lần lòng chúng ta trở nên nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời? Thái độ hưởng thụ làm chúng ta quên ý nghĩa cuộc đời, khiến chúng ta không sẵn sàng chờ đón ngày Chúa đến. Còn thái độ lo lắng, ích kỷ, hẹp hòi, bon chen làm cho chúng ta hao mòn và gây nhiều tác hại cho xã hội. Tích cực hơn nữa, mỗi người phải luôn cầu nguyện để tăng cường ơn Chúa và sức mạnh Thánh Thần giúp vượt thắng gian nan thử thách ngõ hầu kiên vững mà hiện diện trước mặt Con Người trong ngày thẩm định số phận của mình. Không ai biết được ngày đó đến lúc nào, nhưng qua những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ và hiện tại, ngày sau cùng đó chắc chắn sẽ đến.
Cách đây mấy năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám cho anh, bác sĩ riêng đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử biết: “Tình trạng sức khoẻ của anh bi đát lắm! Chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẫu kéo dài 36 tiếng đồng hồ mới may ra cứu sống anh được”. Về sau, chàng tài tử ấy thực sự thú nhận: “Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được niềm vui mà trước đó tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến, tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám phá ra rằng nhờ những lần tâm sự, nói chuyện hằng ngày với Chúa Giêsu truớc đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân”.
Anh chị em thân mến,
Một thoáng nhìn về tương lai không phải chỉ để kinh hãi, khiếp sợ như các tín hữu ở Thessalonica thời Thánh Phaolô hoặc chỉ hướng về trời như các người Galilê nhìn theo Chúa về trời (Cv 1,11); nhưng càng phải liên kết không những giữa biến cố Quang Lâm của Chúa trong ngày Cánh Chung với việc Chúa đã đến lần thứ nhất một cách âm thầm, khiêm tốn, mà còn liên kết với sức sống của ân sủng nơi mỗi người chúng ta trong suốt khoảng thời gian giữa hai lần Chúa đến.
Để sống thực sự chân lý này, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cố gắng sống thánh thiện để có thể yên tâm và vui mừng chờ ngày Chúa đến. Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tuỳ cách sống hiện tại của chúng ta. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, chúng ta không thể che dấu một chi tiết nào.
Cụ thể hơn mà nói: lời cảnh tỉnh trong phần thứ hai của Tin Mừng hôm nay không những cần thiết cho mỗi người chúng ta để chuẩn bị sẵn sàng, không bị bất ngờ trong ngày Chúa đến lần thứ hai, mà còn cần thiết ngay trong giây phút hiện tại: chuẩn bị tâm hồn để ân sủng của Chúa đến với tâm hồn chúng ta, đặc biệt trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới: chuẩn bị bằng cách giữ mình, đừng để tâm hồn trĩu nặng, mờ ám vì lối sống buông thả, chè chén say sưa và vì những bận tâm quá đáng đến cuộc sống vật chất, trần tục. Muốn được như vậy, mỗi người cần biết dành những giờ phút yên lặng, kiểm điểm lại lối sống, tức là biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, đồng thời luôn hướng về ngày Chúa xuất hiện vinh quang.
58. Ngày đại hoạ.
Ngày chung cuộc sẽ đến bất ngờ. Yếu tố bất ngờ là đặc điểm trong ngày tàn của Giêrusalem và ngày thế mạt.
1. Ngày tàn của Giêrusalem
Khi nào thành phố bị quân đội ngoại bang bao vây, bấy giờ người ta mới ý thức được cái nguy cơ suy vong và huỷ diệt. Có người sẽ lên núi lánh nạn và nếu ai đang ở ngoài đồng sẽ không vào thành vì sự tàn phá thật khủng khiếp. ‘Vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị bắt đi làm tôi’. Lúc này dân chúng cảm thấy rất là yên ổn, hãnh diện về thành trì và đền thờ, nhưng một mai họ sẽ thấy cả hai chỉ còn là phế tích và sẽ chứng kiến cảnh tượng quốc gia hấp hối. Ngày đó, thật haĩ hùng. Điềm đó phải là ám hiệu báo động cho con người. Sẽ có ngày vũ trụ cũng tiêu ma như số phận của Giêrusalem.
2. Ngày tàn của thế giới
Bất thần ngày tân diệt sẽ đến, tai ương hoành hành trên trời và lòng người đầy âu lo. Đất bằng rung chuyển, ba đào dồn dập, niềm sợ hãi xâm chiếm mọi người. Lúc đó Con Người sẽ xuất hiện trong ánh huy hoàng. Đó là ngày tận số của thế giới, của các kẻ thù nghịch với Đức Kitô, của những ai quá tin nơi mình và vênh vang về công trạng của mình. Giờ phút hãi hùng ư? Đúng thế. Nhưng hãi hùng đối với những kẻ thù nghịch. Còn đối với các Kitô hữu đang sống trong hy vọng mong chờ Chúa đến. Những người thiết tha mong mỏi và khẩn nài Người trở lại thì đó lại là phút giây giải thoát. ‘Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến’. Hãi hùng sẽ đổi thành hoan lạc cho các Kitô hữu. Họ ý thức rằng cánh chung chính là khởi đầu. Vì đó là sự biến đổi, là sự quy hồi của muôn vật. Đấng Kitô mà lúc này đây ở Giêrusalem, đang bị trao nộp vào tay các kẻ thù và bị họ lên án tử mai ngày sẽ đóng vai thẩm phán uy quyền tuyên án trừng trị kẻ thù. Chúng ta đừng để thế gian lung lạc và lướt thắng…Phải nhớ đến ngày cánh chung và sống sao cho xứng vơí viễn tượng đó… Như thế cánh chung sẽ không còn là biến cố hãi hùng nhưng là bình minh hoan lạc trong tin vui Chúa quang lâm.
3. Dấu chỉ.
Không có dấu gì báo trước hay có thể tính toán chính xác ngày thế mạt. Những dấu chỉ mà Đức Giêsu cho biết nói lên tai hoạ đã bắt đầu. Lúc đó mới chuẩn bị thì đã quá muộn. Đức Kitô đã quả quyết rất rõ: người ta không thể biết ngày giờ xảy ra. Nếu có điềm báo thì chúng chỉ làm vướng víu chứ không ích lợi gì vì người ta cứ lao mình vào cuộc sống cũ và chỉ đổi đời khi nguy cơ hiện ra rõ ràng. Như thế họ sống một cuộc đời bấp bênh trong khi đáng lý họ luôn phải ở trong thế sẵn sàng.
Tuy nhiên cũng còn một dấu chỉ, một dấu chỉ duy nhất mà Đức Kitô sẽ cho thấy. Đó không phải là một thời điểm nhưng là một hiệu lệnh báo động: sự tàn phá Giêrusalem hay nói một cách rộng rãi vận mệnh của dân tộc Israel. Trong lịch sử loài người, Do thái giáo là một điểm thắc mắc to lớn. Ngay cả sự kiện hiện hữu, tính đặc thù của lòng tin, các kinh thư, nền luân lý và nhất là những chặng đường lịch sử diệu kỳ của dân tộc này đều là những hiện tương không thể giải thích theo thường tình. Israel là một vấn đề cao siêu, và xét theo bản chất sâu xa, nó là một vấn đề tôn giáo. Đó là một dân tộc thuộc về Thiên Chúa qua các sự kiện tuyển chọn, khước từ và sau cùng là cứu chuộc. Sự từ bỏ một dân đã chọn là một dấu báo động to lớn. Giêrusalem bị tàn phá và đền thờ bị triệt hạ đối với mọi người và mọi dân tộc, là một dấu chỉ cảnh cáo những kẻ từ bỏ Đức Kitô. Dấu chỉ là ở chỗ đó. Đó là lý do khiến Đức Kitô nối kết hai biến cố tận diệt Giêrusalem và thế mạt lại đến độ trùng hợp với nhau. Đức Giêsu luôn luôn trình bày hai biến cố đó song song với nhau về mặt tôn giáo chứ không phải về thời gian. Với ý nghĩa đó, sự sụp đổ của Giêrusalem là lời cảnh tỉnh nghiêm khắc mà người ta không thể im im được. Có lẽ nó sẽ giúp cho thế giới tránh khỏi một cuộc tàn phá ghê sợ. Với ngôn ngữ và diễn từ đó, Đức Giêsu chẳng màng tranh chấp với ai nữa. Những ngày còn lại trong đời, người dành để giảng dạy dân chúng. Người không đả phá đối phương và họ cũng để cho Người yên ổn. Không còn tranh chấp nữa và tất cả đều án binh bất động. Thế nên, Thánh Luca khẳng định vắn tắt: ‘ban ngày Người giảng dạy trong đền thờ, còn ban đêm thì Người đi nghỉ trên núi Cây Dầu. Và từ sáng sớm, toàn dân đến nghe Người giảng dạy trong đền thờ’. Đồng thời Thánh Luca tiết lộ thêm một chi tiết: ‘các thượng tế và luật sĩ tìm cách giết Chúa Giêsu nhưng họ lại sợ dân chúng’.
59. Ngày tận thế.
Đoạn Tin mừng hôm nay mô tả về ngày tận thế. Sự mô tả này thường làm cho chúng ta lo âu và sợ hãi, để rồi chúng ta thầm mong:
- Ước chi chúng ta đừng sống cho tới ngày ấy.
Tuy nhiên, để thoát khỏi lý đoán công thẳng của ngày ấy, thì ngay từ bây giờ, chúng ta hãy suy gẫm và thực thi lời khuyên nhủ của thánh Phaolô, vì ngày mai rất có thể là đã muộn. Lời khuyên nhủ ấy như thế này:
- Giờ đã đến, hãy tỉnh thức, hãy chổi dạy để Đức Kitô soi chiếu.
Phải chăng là chúng ta đang ngủ mê? Đúng thế, đời sống đã được ổn định và chúng ta không muốn một ai đến quấy phá. Thế nhưng, Đức Kitô lại chính là Đấng đã đến để quấy phá chúng ta.
Thực vậy, chúng ta có những thói hư tật xấu, nhưng lại không muốn ai đá động tới. Chúng ta có những quan niệm, những ý tưởng sai quấy, nhưng lại không muốn ai phê bình chỉ trích. Vì thế mãi mãi chúng ta vẫn chỉ là những kẻ tầm thường, nếu không muốn nói là những kẻ xấu xa.
Tôi đọc thấy trong một cuốn sách lời kết án sau đây:
- Kitô hữu là những kẻ ngủ mê, những kẻ nọa lực. Họ ngại dấn thân, họ ngại đổi thay và không đủ sức hoán cải cuộc đời mình cũng như cuộc đời người khác.
Chính vì thế, chúng ta phải chổi dạy, phải lên đường, phải ra khỏi tình trạng nọa lực và bất toại ấy. Thời gian sẽ trôi qua mau hơn chúng ta tưởng, để rồi vào giây phút cuối cùng, chúng ta phải bẽ bàng nhận ra rằng:
- Đôi bàn tay chúng ta thì trống trơn, không một chút công nghiệp và cuộc đời chúng ta chẳng để lại một dấu vết gì cả.
Ngày hôm nay, lời kêu gọi khẩn cấp, lời báo động SOS được gửi đến chúng ta:
- Hãy từ bỏ những công việc của tăm tối và hãy mang lấy khí giới của ánh sáng.
Công việc của tăm tối, đó chính là rượu chè, cờ bạc, trai gái… nếu chúng ta chạy theo bóng đêm, sống buông thả cho những bê tha như thế, chúng ta sẽ trở thành những kẻ thù nghịch với Đức Kitô, vì như lời thánh Phaolô cũng đã nói:
- Ai thuộc về Đức Kitô thì đóng đinh thân xác mình vào thập giá.
Thế nhưng, có những người đạo đức và thiện chí đã nhủ thầm:
- Tôi không mắc phải thói hư này. Tôi không vướng vào tật xấu kia. Tôi yêu thích sự nghèo khó. Tôi mến chuộng đức trong sạch…
Nghĩ như vậy rồi họ cảm thấy thanh thản và không cần phải cố tắng thêm nữa. Tuy nhiên, nếu hồi tâm xét mình cho kỹ, chúng ta sẽ ghi nhận được biết bao nhiêu khuyết điểm vì con người chúng thì bất toàn, bản thân chúng ta thì yếu đuối. Thánh nhân còn sai lỗi mỗi ngày tới bảy lần, huống nữa là chúng ta. Nào là những sai lỗi về lời nói, về đức công bằng. Nào là những hành động bác ái mình đã không thực hiện và những bổn phận đã quên sót. Nào là những tư tưởng không mấy trong sạch mình đã chiều theo.
Chính vì thế, một lần nữa chúng ta hãy khắc ghi lời khuyên nhủ của thánh Phaolô:
- Hãy từ bỏ những công việc của tăm tối và hãy mang lấy khí giới của ánh sáng.
Thánh Gioan Chrysostome đã chú giải thêm:
- Với vũ khí của ánh sáng, chúng ta sẽ trở nên chói lòa hơn cả những tia nắng mặt trời.
Tuy nhiên, muốn được như vậy, chúng ta phải kiên trì chiến đấu, không mệt mỏi, không chán nản, không tuyệt vọng vì sống chính là bơi ngược dòng nước. Nếu không cố gắng bơi, thì lập tức sẽ bị dòng nước cuốn trôi.
Dưới sự điều động và hướng dẫn của Đức Kitô, chúng ta hãy can đảm chiến đấu, kiên trì loại trừ tội lỗi, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng.
60. Để được cứu độ – Lm Nguyễn Nguyên
Đối với thể xác của con người, giấc ngủ thật là cần thiết. Theo lời khuyên của các bác sĩ, thì con người phải ngủ mỗi ngày ít là 7 tiếng đồng hồ mới đảm bảo cho sức khoẻ. Tuy nhiên, nếu giấc ngủ cần thiết cho đời sống thể xác, thì đối với đời sống tâm linh, ngủ lại vô cùng bất lợi. Càng ngủ về mặt tâm linh nhiều bao nhiêu thì càng mau dẫn đến cái chết về mặt tâm linh bấy nhiêu. Hôm nay, chúng ta bắt đầu bước vào MùaVọng. Đây chính là thời điểm Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy ra sức chuẩn bị tâm hồn, đổi mới đời sống để đón nhận hồng ân cứu độ mà Chúa Giêsu Ngôi Lời Nhập Thể ban tặng cho chúng ta. Thế nhưng, chúng ta chỉ có thể có được niềm vui ơn cứu độ, nếu chúng ta biết làm theo điều Chúa chỉ dạy: là hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
Hãy Tỉnh Thức đừng để “lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy đến như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”. Hãy Tỉnh Thức vì ngày cuối cùng đời người chúng ta sẽ đến. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình.
Hãy Tỉnh Thức, vì chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều ảo tưởng, mà ảo tưởng lớn nhất và nguy hiểm nhất của con người là ảo tưởng cho rằng mình có rất nhiều thời giờ, để rồi lại bị chính thời gian bào mòn đi ý chí, bị chính những sản phẩm mình làm ra ru ngủ trong cái cảm giác mình là những vị thần toàn năng và bất tử.
Hãy Tỉnh Thức, vì con người ngày nay, đang bị gây mê, bị ru ngủ trong lối sống hưởng thụ, thực dụng để rồi cứ ngỡ thế giới mình đang sống là duy nhất, vĩnh hằng.
Cho nên, mùa Vọng nhắc chúng ta sống có trách nhiệm hơn, sống tỉnh táo hơn. Bởi Kytô hữu không chỉ là con của Đất, mà còn là con của Trời; người Công giáo không chỉ lo lắng ở đời này mà còn biết bận tâm cho đời sau. Và trên mỗi bước hành trình, Thiên Chúa vẫn có đó. Ngài vẫn đang đến, đơn sơ, dung dị. Không trống phách tưng bừng, nhưng âm thầm lặng lẽ. Không uy nghi lẫm liệt như những bậc quân vương, nhưng trong hiền lành khiêm nhường của một người phục vụ. Không như vị quan tòa nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương. Nếu bén nhạy, nếu biết mở lòng ra, chúng ta sẽ dễ dàng khám phá dung mạo của Thiên Chúa trong cuộc sống. Có thể Ngài đang đến qua những con người hiền lành, bé nhỏ quanh ta; có thể Ngài đang ở bên ta nơi những người anh em khốn khổ túng cùng, nơi những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Ngài có thể đang lẫn vào giữa đám đông vô danh, chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài xã hội, Ngài đang ẩn mình giữa đám người ăn xin lê bước trên đường, đang rét run với cặp mắt ngơ ngác giữa những nạn nhân của thiên tai, khủng bố. Vì thế, phải tỉnh táo lắm mới có thể nhận ra Ngài. Phải tỉnh thức lắm mới có thể gặp được Ngài.
Tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó mà chờ đợi, nhưng là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng, giao cho ta trách nhiệm trông coi gia đình, giáo xứ, quê hương và cả thế giới mình đang sống. Ta được tự do hành động, và có trách nhiệm làm cho môi trường mình đang sống được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức còn là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy Ý Chúa trong những trào lưu của thời đại, là nhận biết Chúa đang hành động trong những tâm hồn thiện chí. Để thay cho đối kháng, hay tranh giành ảnh hưởng, là cộng tác với nhau trong huynh đệ chân thành.
Như thế, mùa Vọng cũng gọi mời chúng ta bước vào cuộc hội ngộ lớn của hồng ân cứu độ, là mùa của dấn thân, nhập cuộc. Nếu ngủ mê vì quá bận rộn với những công việc vật chất, chúng ta sẽ ở bên lề biến cố trọng đại này, và có lẽ sẽ phải hối tiếc khôn nguôi. Cho nên, mùa Vọng mùa của tỉnh thức, và cũng là mùa của lên đường, ra khỏi cái vỏ ốc của ù lì, ươn lười để bước đi trong hân hoan và hy vọng.
Như thế, chúng ta sẽ không ngồi đó mà chờ đợi, hay an phận thủ thường, “ai sao tui vậy – ai làm bậy tui làm theo”. Nhưng sẽ bước vào mùa vọng này với một ngọn nến thật sáng trên tay. Ngọn nến của Bình An, Đổi Mới, ngọn nến của Yêu Thương, Hy Vọng. Để biết đâu, một lúc nào đó, chúng ta chợt nhận ra Chúa đang đến thật gần, chợt nhận ra Ngài đang hiện diện nơi một ai đó trong cộng đoàn giáo xứ, trong gia đình chúng ta?
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.
61. Tỉnh thức và cầu nguyện – R. Veritas---‘Mỗi ngày một tin vui’
Nhìn vào những biến cố đổi thay, những xung đột, những cuộc chiến đẫm máu, những tranh đấu đầy bạo lực xảy ra nơi này, nơi kia trên thế giới, mỗi người chúng ta có thể tự hỏi:Thế giới này đang tiến về đâu? Con người đamh mong muốn điều gì cho mình?
Có thể có nhiều câu trả lời khác nhau và tùy theo câu trả lời này mà mỗi người chúng ta quyết định cho cuộc sống của mình. Nếu bảo rằng, thế giới đang tiến tới sự giàu sang vật chất, càng nhiều càng tốt thì cuộc đời chúng ta phải chăng là để tìm kiếm tiền bạc bằng mọi phương tiện trong tầm tay và cả ngoài tầm tay bằng việc gian lận, hối lộ, mánh mung.
Nếu bảo rằng, thế giới này đang tiến về cùng Thiên Chúa và nước của Ngài, nước công bằng và tình thương, nước của hòa bình và tình liên đới thì mỗi người chúng ta phải cố gắng làm sao để canh tân đời sống của mình theo những lời dạy của Chúa. Mỗi người chúng ta trước sau gì cũng phải đặt ra cho mình câu hỏi và quyết định cuộc sống của mình dựa theo câu trả lời; câu hỏi đó là:Tôi có còn tin vào Thiên Chúa, Đấng ban ơn cứu độ và hướng dẫn đời tôi và lịch sử nhân loại đến chỗ thành toàn, tôi có còn tin hay không? Hay tôi tin vào một quyền năng, một thần tượng nào khác?
Trong lịch sử nhân loại đã có những bộ óc tài ba tin tưởng vào một điều gì khác ngoài Thiên Chúa, và bộ óc tài ba đó đã tạo ra những hệ thống tư tưởng, những ý thức hệ để xây dựng cuộc sống và xã hội con người, nhưng những ý thức hệ, những hệ thống này đã thất bại trước mặt chúng ta. Ngoài Thiên Chúa hay đối nghịch với Thiên Chúa, con người không thể xây dựng hạnh phúc cho cuộc đời mình và cũng không thể xây dựng một xã hội xứng đáng với phẩm giá của con người.
Cử hành thánh lễ Chúa nhật I Mùa vọng, chúng ta nói lên câu trả lời của mình, nói lên quyết định của mình. Câu trả lời của chúng ta là tin vào Thiên Chúa, vào Đấng cứu rỗi nhân loại. Ngài đã đến trong lịch sử nhân loại và đã mạc khải cho con người sự thật cứu rỗi qua việc Ngài đã thực hiện ơn cứu rỗi qua cái chết và sống lại của Ngài. Ngài đã đến, nhưng hằng ngày Ngài còn đang đến và sẽ đến trong vinh quang vào cuối cùng lịch sử của nhân loại. Ngài là khởi đầu và là cùng đích mọi sự, chúng ta đang hành trình tiến về Ngài. Đó là câu trả lời của niềm tin và niềm tin này cần được thực hiện trong đời sống chúng ta. Chúng ta cần quyết định trở về với Thiên Chúa, canh tân đời sống mình, sẵn sàng đón nhận Chúa đến bất cứ khi nào Ngài muốn.
Vào những giây phút đầu tiên của năm Phụng vụ mới, chúng ta được mời gọi nhìn đến đích điểm sau cùng của cuộc đời là Chúa Giêsu Kitô ở cuối chân trời lịch sử, ở điểm kết thúc cuộc đời chúng ta trên trần gian này. Chúng ta được mời gọi nhìn vào Ngài đang đến và chắc chắn sẽ đến vào lúc chúng ta không ngờ. Nhưng không phải chỉ nhìn vào Ngài rồi án binh bất động, thụ động cam lòng chờ mà thôi, nhưng vừa nhìn đến đích điểm là Chúa đang đến với chúng ta, vừa chuẩn bị xem xét lại cuộc sống hiện tại của mình, tương quan giữa ta và Chúa hiện đang như thế nào?
Chắc chắn chúng ta đã nghe biết và thực hành Lời Chúa dạy: “Tỉnh thức và cầu nguyện”. Nhưng việc chúng ta cầu nguyện đó đã có tác dụng như thế nào trong đời sống chúng ta? Chúng ta có trở nên gần gũi, thân thiện với Chúa Giêsu như người bạn thân yêu nhất của mình, đến độ chúng ta không còn lo sợ khi phải đối diện với Chúa và có thể nói:“Lạy Chúa, xin hãy đến, con vui mừng được gặp Chúa diện đối diện. Chúa là người bạn mà con từ lâu mong ước được gặp”. Chúng ta có thể nói như vậy hay chưa? Hay là chúng ta còn cần phải thực tập nhiều hơn nữa điều Chúa nhắc trong đoạn Tin Mừng hôm nay:“Tỉnh thức và cầu nguyện nhiều hơn nữa, thật lòng hơn nữa, đừng giam mình trong cảnh đời hưởng thụ vật chất đến độ quên Chúa”.
Chúng ta cần dốc lòng thực hiện điều mà thánh Phaolô đã nhắc nhở cho cộng đoàn tín hữu Thessalônica là bền vững trên con đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến:“Anh em thân mến! Tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này là anh em được chúng tôi dạy cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa”.
Chúng ta đang tỉnh thức và cầu nguyện, nhưng chưa đủ, còn phải gia tăng sự tỉnh thức để đừng bị ngã quị trước những cám dỗ, những cạm bẫy làm ta xa lìa Chúa. Chúng ta cần kiên trì và gia tăng đời sống cầu nguyện nhiều hơn nữa, để Chúa Giêsu trở thành người bạn mỗi ngày mỗi thân mật hơn, đến độ chúng ta không còn lo sợ trước ngày Chúa đến với chúng ta, dù là một cách bất ngờ.
Lạy Chúa Giêsu, người bạn thân thiết nhất của con. Xin hãy thương giúp con duy trì tình thân mỗi ngày một khắng khít hơn với Chúa, để lời cuối cùng, con có thể thưa cùng Chúa là: “Lạy Chúa, xin hãy đến. Con vui mừng được nhìn thấy Chúa, diện đối diện”. Chỉ như thế, ơn cứu rỗi mà Chúa đã đến để thực hiện cho mỗi người chúng con trên thập giá sẽ làm cho chúng con không uổng phí vô ích.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hướng dẫn chúng con canh tân đời sống đức tin, đức cậy và đức mến. Xin Ngài giúp chúng con được hiểu biết những sự thật Chúa Giêsu đã mạc khải mỗi ngày một trọn vẹn hơn, sâu xa hơn, để được trưởng thành trong tình yêu Chúa và trong đức tin.
62. Tỉnh thức & cầu nguyện
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Nếu hiểu ngày đầu năm là ngày tết, thì hôm nay là Tết của phụng vụ. Vì hôm nay là Chúa nhật I mùaVọng, Chúa nhật đầu tiên của năm phụng vụ mới. Nhưng không như tết bình thường mà chúng ta vẫn biết. Tết của phụng vụ không mang màu sắc của lễ hội, không ồn ào, không hình thức bên ngoài. Tết của năm phụng vụ vẫn có nội dung riêng của nó. Đó là ngày Tết của đức tin, vì thế cũng là ngày Tết của những ai sống đức tin. Vì chỉ có những ai sống đức tin mới cảm nhận trọn vẹn một cách riêng biệt sự thánh thiện, bình an, vui tươi sâu lắng mà ngày Tết rất riêng của phụng vụ mang lạ. Đó cũng chính là quà tặng dành cho những tâm hồn có Chúa.
Ý nghĩa niềm vui của ngày Tết như quà tặng dành cho người sống đức tin được Chúa Giêsu cho biết rất rõ trong bài Tin Mừng: Trong khi người ta kinh hồn bạc vía vì “những điềm lạ xuất hiện trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao”, làm cho “các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ”. Nó khiến “người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời rung chuyển”. Chính lúc ấy, chính lúc vũ trụ dao động dữ dội như thế, “Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả”.
Mặc dù người ta và cả vũ trụ nữa, sống trong tâm trạng đầy bất an đến mức Lời Chúa phải diễn tả bằng những cụm từ: “Buồn sầu lo lắng”, “Sợ hãi kinh hồn”, thì Chúa Giêsu lại bảo các môn đệ rằng, chính lúc đó, “Các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến”. Đó không phải là cách nói để diễn tả niềm vui mừng lớn lao dành cho những người thuộc về Chúa, những người sống đức tin đó sao!
Chỉ bằng một câu nói ngắn, Chúa Giêsu đã cho thấy vinh quang của những tâm hồn có Chúa: “Hãy đứng dậy”; “Hãy ngẩng đầu lên”; “Giờ cứu rỗi đã gần”. Cách riêng, những động từ: “đứng dậy”, “ngẩng đầu” là những động từ không chỉ nói lên niềm vui, nhưng còn là một niềm vui chiến thắng, một niềm vui chứa đựng vinh quang, niềm vui kiêu hãnh. Lý do của niềm vui lớn lao càng trở nên trọng đại vì đó là lúc “Con Người hiện đến”, đó là “giờ cứu rỗi đã gần”. Bởi có niềm vui nào dám sánh niềm vui ơn cứu rỗi. Và có tình yêu nào dám ví Tình Yêu của Đấng Cứu Rỗi đến cứu rỗi những ai thuộc về Người.
Vậy ai là người sống đức tin? Bởi đó, ai là người thuộc về Chúa?
Rất nhiều lần, Chúa Giêsu răn dạy: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”. Hôm nay, ngày Tết của phụng vụ, một lần nữa, qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu lại nói với ta: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”. Nhưng không chỉ có hôm nay, ngày Tết chỉ là một khởi đầu. Vì Hội Thánh sẽ tiếp tục dùng chính những lời này của Chúa như một điệp khúc nhắc nhở ta, nhắc đi, nhắc lại suốt mùa Vọng. Hội Thánh sẽ còn tiếp tục nhắc nhở, cách này cách khác suốt năm phụng vụ.
Vì điệp khúc “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” quan trọng như thế, cho nên bất cứ ai sống và ý thức để sống cách trọn vẹn mỗi ngày một gia tăng, người đó là người sống đức tin. Bởi đó, họ là người thuộc về Chúa.
Vậy làm sao để có thể “tỉnh thức và cầu nguyện”?
Cầu nguyện thì ai cũng có thể hiểu được. Chắc hẳn trong đời sống thường nhật, người Kitô hữu vẫn biết rằng cầu nguyện là việc tối quan trọng đối với đức tin của mình, một việc làm không thể bỏ qua. Nhưng tỉnh thức là như thế nào? Chắc chắn tỉnh thức không có nghĩa là không ngủ. Đối với đức tin của người Kitô hữu, tỉnh thức là cảnh giác, đề phòng. Cảnh giác những nguy hại, những chước cám dỗ, đề phòng để đừng rơi và cạm bẫy của tội lỗi, của sự dữ.
Một câu chuyện để có thể giúp chúng ta hiểu hơn ý nghĩa của tỉnh thức: Có một anh thanh niên, một hôm, gặp thần chết đến với mình. Anh sợ hãi, nài nỉ thần chết đừng hại nhưng hãy cho anh ta sống thêm một thời gian. Thần chết đồng ý. Nhưng không hiểu sao hôm ấy thần chết lại dễ tính quá. Sau khi để cho anh được sống, thần chết còn hứa, nếu sau này, khi nào thần chết đến gọi anh ra khỏi cuộc đời, thần chết sẽ báo trước để anh chuẩn bị. Anh mừng rỡ và cám ơn thần chết rối rít.
Thế là từ đó, biết rằng cái chết của mình sẽ được báo trước, anh thanh niên bắt đầu một cuộc sống rất thoải mái. Anh dung túng cho bản thân mình đến mức đêm ngày ngụp lặn trong tội lỗi, bất kể Thiên Chúa, bỏ mặc vợ con, mải miết đắm chìm trong những thú vui đồi bại. Không những thế, khi vợ con lên tiếng phản đối, anh còn tặng lại cho họ những trận đòn chí tử…
Rồi một ngày, anh bị một cơn bạo bệnh bất ngờ ập đến. Mọi người đều lo lắng cho anh. Ai cũng sợ anh phải chết. Riêng anh thanh niên vẫn thản nhiên vì mãi cho đến lúc này, lúc mà anh trở nên yếu sức vô cùng, anh vẫn chưa thấy thần chết nói gì. Và đúng như thế. Sau cơn bạo bệnh, anh nhanh chóng lấy lại sức khỏe như chưa hề có bệnh tật gì. Anh càng chắc mẫm rằng, ngày tận số của mình vẫn còn dài. Từ đó anh càng lao thân như điên như dại vào vũng bùng thối tha nhưng đối với anh, nó thật êm ái.
Lần khác, anh cùng vợ mình đang ngồi trên một toa xe lửa. Vì quá tủi buồn cho bản thân và cô đơn trong đời sống vợ chồng, vợ anh đã nhảy khỏi xe lửa trước mặt anh. Các bánh xe của đoàn tàu thản nhiên lăn trên thân thể của chị thật kinh hoàng. Bất giác làm anh rùng mình khiếp sợ. Nhưng giây phút chứng kiến cảnh tượng đó mau chóng biến tan. Không những anh vẫn thản nhiên sống, mà còn xem đó là cơ hội để thoát khỏi sự ràng buộc của vợ. Vợ anh chết, chứ thần chết có nói gì với anh đâu!
Một lần khác, anh lại bị một tai nạn khi đang đi đường. Anh ngất xỉu, máu me đầy người, nằm mê man, không hề biết gì. Đưa anh vào bệnh viện mà mọi người chẳng còn chút hy vọng nào cho sự sống của anh. Nhưng thần chết vẫn chưa đến, vẫn chưa báo trước điều gì. Và anh đã tỉnh lại. Lại thêm một lần, anh thầm cám ơn thần chết, vì ông đã không phản bội lời hứa của chính mình. Cuộc sống của anh lại bắt đầu và tiếp diễn.
Nhưng thật lạ lùng. Một hôm, khi anh vẫn đang là người khỏe mạnh, vẫn đang sống cuộc sống trác táng của mình, chính lúc ấy, anh lại gặp thần chết. Một lần nữa, thần chết viếng thăm anh. Anh lo sợ quá sức, bủn rủn tay chân. Dường như đất dưới chân anh đang quay cuồng. Tâm trí anh hoàn toàn sụp đổ. Thần chết mỗi lúc một đến gần hơn. Ông cho biết, hôm nay ông sẽ cất mạng sống của anh. Anh van lạy thần chết một cách tuyệt vọng và đớn đau. Anh trách móc thần chết đã quên lời hứa, đã không báo trước giờ chết của anh. Nhưng thần chết rất bình tỉnh, từ tốn nói với anh: “Ta đã báo cho ngươi biết trước giờ chết của ngươi, không phải một nhưng đã nhiều lần. Ngươi đâu có nghe ta, vì thế hôm nay người đừng van xin gì hết. Đã đến lúc ngươi phải theo ta”. Anh thanh niên vẫn tìm cách kéo dài sự sống: “Nhưng thưa thần chết, tôi đâu có bao giờ nghe thấy ông nói gì với tôi?”. “Ngươi đừng cố viện lý do. Qua những lần ngươi đau nặng, và qua chính cái chết tang thương của vợ ngươi, ta đã báo cho ngươi biết. Chính cuộc sống, sự đau khổ, bệnh tật, cái chết của bản thân và của mọi người xung quanh là bài học kinh nghiệm quý giá cho ngươi học lấy, đó chính là sự nhắc nhở của ta dành cho ngưoi. Nhưng ngươi vẫn không nghe, vẫn cứng đầu, vẫn cố tình ở lỳ trong tội của ngươi. Vì thế hôm nay ngươi phải đền tội”. Và thần chết tiến tới lôi anh đi trong khi lòng anh run sợ…
Như vậy: tỉnh thức là sự khôn ngoan, và tiên liệu trước giờ chết của mình ngay trong thực tại này, để giờ chết không bao giờ bất ngờ, nhưng luôn có trước một sự chuẩn bị sẵn sàng của bản thân ta.
Mùa Vọng là mùa của tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức để cảnh giác với mọi cám dỗ của tội lỗi. Cầu nguyện để tinh thần mạnh mẽ, để ơn Chúa ngày càng thấm đẫm và lớn lên không ngừng trong tâm hồn. Cầu nguyện để hỗ trợ cho sự tỉnh thức của bản thân, giúp ta có đủ nghị lực vượt qua và vượt lên trên những thói xấu, những đam mê, những toan tính và dính bén quá nhiều với trần thế, làm cho tâm hồn ta xa rời Thiên Chúa, xa rời lòng mong ước và ái mộ quê trời của mình.
“Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”, một điệp khúc dù rất quen thuộc, nhưng rất cần thiết để nhắc đi nhắc lại, không phải chỉ trong mùa vọng, mà trong cả cuộc đời của bạn và của tôi.
63. Ngày Chúa ngự đến – R. Veritas.
(Trích trong ‘Suy Niệm Và Giảng Lễ Mỗi Ngày’)
Vào năm 1987, người ta cho chiếu cuốn phim tựa đề: "After day" kể lại tình cảnh của ít người dân một thành phố lớn thuộc miền Bắc, Hoa Kỳ, còn sống sót sau một vụ nổ bom nguyên tử. Vụ nổ bom hạt nhân đã xảy ra vì cái điên loạn của con người quyết định dùng vũ khí hạt nhân để hủy diệt sự sống của mọi sinh vật thuộc nhiều đại lục trên thế giới. Ngày tận thế ấy kéo theo cảnh chết chóc hoang tàn và đổ nát, đau khổ và thất bại của những người đang chờ mình phải chết vì bị nhiễm chất phóng xạ, bị thương tích và bị thiếu thức ăn chất uống. Trong cảnh đổ nát hoang tàn và chết chóc ấy, những người sống sót của nhiều khu phố khác nhau đã tranh giành từng miếng bánh, từng chút bột, từng ngụm nước. Trong nháy mắt, thế giới văn minh của loài người biến khỏi mặt đất và con người đứng trước cảnh đổ nát với hai bàn tay trắng bất lực và tuyệt vọng.
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay cũng nói với chúng ta về ngày tận thế, nhưng không phải là thứ ngày tận thế của chết chóc, buồn thương, mà là ngày tận thế khởi đầu cho một cuộc sống mới, cuộc sống của tự do và của ơn cứu độ. Chương 33,14-16, sách Tiên tri Giêrêmia là một lời sấm và là văn bản tìm hiểu cho nền thần học cứu thế của Kinh Thánh Cựu Ước. Điểm nòng cốt của thần học cứu độ là sự chờ đợi ngày Đấng Thiên Sai, ngày Đấng Cứu Thế đến để thiết lập trời mới đất mới trong thế giới loài người. Trong "những ngày đó" hay "vào thời đó" là kiểu nói Kinh Thánh dùng để diễn tả tiến trình hiện thực của chương trình cứu độ mà Thiên Chúa có đối với nhân loại theo ý muốn và sự sắp xếp quan phòng của Ngài, đặc biệt dưới thời điểm và các biến cố của lịch sử mà Thiên Chúa có đối với nhân loại theo ý muốn và sự sắp xếp mà Thiên Chúa chọn. Trong bối cảnh của chương 34, ngày đó và thời đó có ý ám chỉ tình trạng sống lưu vong, ngày buồn thương của dân Do Thái, thảm cảnh phân rẽ của hai vương quốc Bắc Nam. Nhưng Thiên Chúa sẽ tụ tập dân chúng thuộc hai vương quốc lại với nhau và cho họ được thoát kiếp sống nô lệ, đày ải, để trở về quê cha đất tổ.
Tuy nhiên, lời sấm trên đây của Thiên Chúa vượt xa khỏi khung cảnh lịch sử của dân Do Thái. Bởi vì nó có thể được áp dụng vào cuộc sống của con người thuộc mọi thời đại, ở khắp nơi trên thế giới này. Một con người bị tội lỗi phân rẽ trong chính tâm lòng nó và sống kiếp đày ải xa rời Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Ngài cống hiến ơn cứu độ cho tất cả mọi người, trong các thời điểm khác nhau, liên tục trong dòng lịch sử. Do đó, vấn đề là chúng ta có nhận ra thời điểm cứu độ đó hay không?
"Mầm giống sự công chính" là tên thường Kinh Thánh dùng để gọi Đấng Cứu Thế. Trong sa mạc nóng bỏng khô cạn của loài người, trên thân cây khô héo khẳng khiu của dòng tộc Đavít, Thiên Chúa khiến cho chồi lộc của niềm hy vọng và của ơn cứu độ nảy mầm tươi tốt. Tên gọi "Mầm giống sự công chính" diễn tả khí thế hành động của Thiên Chúa. Nếu tâm tính loài người thích phô trương, khoe khoang và chọn lựa cái vĩ đại, to tát, thì Thiên Chúa ưa thích kiểu cách hành sự khiêm tốn, kín đáo nghèo hèn, bé nhỏ. Đó là hình ảnh Đấng Cứu Thế trẻ thơ được sinh ra từ lòng Trinh Nữ Maria. Chính Ngài là mầm giống của sự sống mới mà Thiên Chúa muốn cấy trồng vào giữa lòng lịch sử nhân loại.
Mặc dầu nhân loại tội lỗi, khô cằn và hấp hối, nhưng qua mầm giống sự công chính là Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa không ngừng cống hiến nhựa sống thiêng linh của Ngài cho con người. Đấng Cứu Thế sẽ tái lập công bằng và vương quốc tinh thần của Ngài, trong đó, Ngài sẽ được gọi là Thiên Chúa sự công chính của chúng ta.
Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, sự công chính đồng nghĩa với ơn cứu độ toàn vẹn mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Nó bao gồm mọi chiều kích cuộc sống con người từ chính trị, kinh tế, cho đến xã hội và tôn giáo. Con đường sự sống, con đường dẫn đến ơn cứu độ là con đường dẫn đến trời mới đất mới. Do đó, thời điểm của Thiên Chúa, ngày Thiên Chúa đến trong tâm lòng và cuộc sống cho con người, không phải là ngày tận diệt, mà là ngày giải phóng. Bởi vì nó khai mào cho một cuộc sống mới, cuộc sống theo tinh thần của con cái Thiên Chúa.
Qua văn bản các hình ảnh biểu tượng của nền văn chương Khải Huyền, chương 21 Phúc Âm thánh Luca ghi lại lời Chúa Giêsu kêu mời chúng ta biết tỉnh thức nhận ra các dấu chỉ của thời điểm cứu độ ấy trong đời mình. Để đường lối cuộc hẹn hò với Thiên Chúa, niềm tin vào ơn cứu độ và giải phóng giúp chúng ta hiên ngang ngẩng đầu lên sống tươi vui, tin tưởng ngay giữa những gian lao thử thách và khổ đau của cuộc đời. Vì thế cho nên, những biến động và tai ương cho dầu có kinh thiên động địa đến đâu đi nữa, cũng đều là các dấu chỉ kêu mời chúng ta hồi tâm suy nghĩ và hoán cải tâm lòng, chớ không được khiến cho chúng ta khiếp sợ, tê liệt, khép kín và chán nản thất vọng.
"Con Người" là tước hiệu Kinh Thánh dùng để diễn tả hoạt động của Chúa Giêsu cứu thế. Trong tư cách là vị quan án tối cao phán xử mọi loài, mọi vật trong thời cánh chung, Chúa Giêsu đã đến trong dòng lịch sử nhân loại và trong lịch sử Tin Mừng cứu độ, qua cuộc khổ nạn cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chúa Giêsu tiếp tục đến qua lời Ngài, qua tin vui cứu độ được Giáo Hội tiếp tục rao giảng và Chúa Giêsu sẽ trở lại trong ngày lịch sử cứu độ thanh toán bản án. Muốn nhận ra sự hiện diện và bước chân của Ngài, chúng ta phải biết tỉnh thức và cầu nguyện, nghĩa là sống và hành sự theo tinh thần Đức Kitô, luôn để cho ánh sáng Tin Mừng cứu độ chiếu soi đời mình. Đặc biệt trong những bước đi, trên những đoạn đường hầm đen tối của cuộc đời này. Chính thái độ tỉnh thức và cầu nguyện ấy sẽ giúp chúng ta không nặng nề ngủ quên trong cuộc sống của thế giới vật chất, tiêu thụ và hưởng thụ, và không để cho tâm lòng của chúng ta bị thế giới vật chất nặng nề cầm chân và nhận chìm cuộc sống thiêng linh mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Chúa Giêsu là một mầm giống cần được vun trồng, chăm bón, ấp ủ với hơi ấm của con tim và ánh sáng của niềm hy vọng.
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thêsalônica, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta thấy một bí quyết để vun trồng sự sống thiêng linh ấy cách hữu hiệu, đó là phải có thái độ căn bản muốn sống đẹp lòng người ta, dầu người ta ấy có là ai đi nữa. Nhưng phải làm gì để đẹp lòng Thiên Chúa đây? Phải lớn lên, phải trưởng thành, phải sung mãn trong tình yêu thương tha nhân. Thiên Chúa vui sướng hạnh phúc khi thấy chúng ta yêu thương với một tình yêu thương không so đo, tính toán hơn thiệt và không loại trừ chọn lựa, yêu thương hết mọi người và yêu thương tràn đầy chan chứa. Thiên Chúa vui sướng và hạnh phúc khi thấy chúng ta trưởng thành và lớn lên trong tình yêu thương ấy, tình yêu thương mà Ngài đã trao ban cho chúng ta qua chính con người của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế.
Ngoài ra, cần phải luôn luôn sẵn sàng đón chờ Chúa Giêsu đến trong tâm lòng và cuộc đời chúng ta bằng cách sống thánh thiện và kiên vững. Bởi vì nói cho cùng, sống thánh thiện tức là sống yêu thương trọn vẹn. Các thánh là những người biết noi gương Chúa Giêsu sống yêu thương trọn vẹn, yêu thương đến tận hiến chính mạng sống mình cho tha nhân. Càng biết yêu thương tha nhân, tình yêu vô vị lợi cụ thể và cao đẹp bao nhiêu, thì chúng ta lại càng giống Chúa Giêsu bấy nhiêu. Càng giống Chúa Giêsu bao nhiêu thì càng giống Thiên Chúa bấy nhiêu, và đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa và khiến cho Ngài sung sướng nhất, hạnh phúc nhất.
Thế giới và xã hội loài người khổ đau vì loài người không yêu thương nhau đủ, hay không thương yêu nhau theo tinh thần của Chúa và Tin Mừng của Ngài. Như vậy, cách thức đón chờ Chúa Giêsu hữu hiệu nhất là hãy bắt đầu yêu thương nhau. Bởi vì đó là bí quyết vun trồng mầm giống sự sống thiêng linh và xây dựng trời mới đất mới cụ thể và hữu hiệu.
64. Hướng về ngày Chúa đến
(Suy niệm của Lm. Tôma Nguyễn Văn Hiệp)
Hôm nay Giáo Hội bước vào chu kỳ Năm Phụng vụ mới bắt đầu với Mùa vọng. “Mùa vọng” là danh từ “Nôm”, “vọng” (望) là chữ mượn Hán, có nghĩa là: hướng đến, trông chờ, mong đợi. “Mùa vọng” tiếng La tinh là “Adventus”, có nghĩa là: đến, hiện diện hay hiển trị. Trong cử hành phụng vụ, Mùa vọng gồm 4 Chúa nhật và chia làm hai giai đoạn: giai đoạn một từ Chúa nhật I Mùa vọng đến hết ngày 16/12 là thời gian hướng tâm hồn người tín hữu đến ngày Quang lâm, ngày Chúa Kitô trở lại lần thứ hai trong vinh quang; giai đoạn hai từ ngày 17 – 24/12, là tuần lễ chuẩn bị trực tiếp mừng lễ Giáng sinh, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người.
Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn hướng về “Ngày Chúa đến”.
Bài đọc 1, tiên tri Giêrêmia tuyên sấm về một Đấng Công chính mà Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại để giải thoát muôn dân: “Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đa-vít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực.” (Gr 33,15). Đấng Công chính ấy là Đức Giêsu Kitô giáng trần để ban cho nhân loại Tin Mừng Tình yêu cứu độ.
Bài đọc 2, Thánh Phaolô mời gọi dân thành Thêxalônica hãy sống Tin Mừng tình yêu để xứng đáng đón Chúa đến lần thứ hai. "Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết… Có như thế thì… anh em mới được bền tâm vững chí không có gì đáng chê trách… trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.” (1Tx 3,12-13).
Bài Tin Mừng, thánh Luca mượn ngôn ngữ khải huyền của Cựu Ước để nói về lần thứ hai Chúa đến, đó là ngày quang lâm. “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 34-36).
Thời gian gần đây (cuối tháng 11/2012) trên mạng lại bắt đầu râm ran tin tức đã gây ồn ào một thuở trước đây là ngày 21/12/2012 sẽ là ngày tận thế theo lịch người Maya cổ đại. Người ta lại nhân danh cả cơ quan Hàng không và Vũ trụ NASA của Mỹ làm vỏ bọc cho sự chính xác, củng cố niềm tin của độc giả. Tin tức này đã được các tờ báo hay các trang mạng lật tẩy sự “nửa vời”, không chính xác và thiếu thành thật. Thế nhưng nó cũng tạo ra một hiệu ứng hoang mang lo lắng cho một số người thiếu sự suy nghĩ chín chắn.
Chính Đức Giáo Hoàng Benedicto 16 đã kêu gọi mọi người công giáo không nên dừng lại ở “sự tò mò về thời điểm và các lời dự báo” hôm 18/11/2012 tại Vatican. Từ bài Tin Mừng trong ngày Chúa nhật 33 Thường niên (Mc 13, 24-32), Chúa Giêsu tiên báo về “bầu trời trở nên âm u” và “các vì sao rơi rụng xuống từ trời”, ngài giải thích: Chúa Giêsu không hành động như một “nhà tiên tri” mô tả “ngày tận thế”, mà ngược lại muốn giải thoát vĩnh viễn các môn đệ khỏi các lời tiên đoán về thời điểm thế giới sẽ bị tận diệt; Chúa Giêsu “muốn mang lại cho các tín đồ chiếc chìa khóa cho sự suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng bản chất hơn, và nhất là chỉ ra con đường phải đi hôm nay và ngày mai để bước vào cuộc sống vĩnh hằng”. Cuối cùng Ngài khẳng định: “Tất cả rồi sẽ trôi qua, nhưng lời của Chúa không hề thay đổi”.
Giả như ngày tận thế có xảy ra thật vào ngày 21.12.2012 thì cũng chẳng có gì phải lo lắng nếu sống đúng lời dạy trong trang Tin Mừng hôm nay là “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, “tỉnh thức và cầu nguyện luôn”. “Đứng thẳng và ngẩng đầu lên” là sống bác ái, công bằng, thành thật theo Tin Mừng. “Tỉnh thức và cầu nguyện luôn” là luôn trong tư thế sẵn sàng, lòng qui hướng về Chúa, về đời sống mai sau mà vượt thắng mọi cám dỗ đam mê tội lỗi. Chúng ta chỉ hoang mang lo sợ ngày tận thế khi chúng ta đang ở trong tình trạng nặng nề, chìm đắm, buông thả, chạy theo những sự chóng qua của thế gian.
Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn để mỗi người chúng ta biết thức tỉnh, luôn ý thức mình là con cái Thiên Chúa có quê hương đích thực trên trời mà luôn quảng đại dấn thân sống yêu thương phục vụ theo khuôn mẫu của Chúa Giêsu và luôn kết hiệp với Người trong mọi phút giây của cuộc sống. Có như thế chúng ta là những tín hữu “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, “tỉnh thức và cầu nguyện luôn”; là những chiến sĩ trong tư thế sẵn sàng chờ đợi Chúa trong ngày quang lâm chung thẩm. Amen.
65. Chúa chờ tôi hay tôi đợi Chúa
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Từ trần gian con ngước trông lên Chúa ơi,
Cầu xin hãy mưa Đấng Thiên Sai, Chúa ơi, nghe lời van thiết tha!
Ngày và đêm con vẫn van xin Chúa thương
Người ban ơn cứu rỗi yêu đương bốn phương, cho đoàn con ngóng chờ.
Lời nguyện cầu thiết tha nhắc tôi một năm phụng vụ mới đã tới. Một mùa Vọng nữa lại về. Giữa cái se lạnh của ngày lập đông lại có những giây phút hân hoan đợi chờ. Ngày Lễ Giáng Sinh sắp đến. Không gian như hơi giao động giữa từng cơn gió, nhưng vẫn ấm biết bao khi nghe văng vẳng bài thánh ca mừng Chúa ra đời. Không hiểu sao trong tất cả các mùa phụng vụ, tôi thích nhất mùa Vọng.
Nhưng hình như vẫn còn một thứ trái nghịch nào đó với nỗi chờ đợi mà nay đã thành quen thuộc trong nếp sống đạo của mình: thay vì hướng đến một sự gì sẽ xảy ra trong tương lai, tôi lại chỉ ngóng về một biến cố đã qua. Thành ra vọng mà không phải chờ; sống mùa Vọng mà chỉ như một cuộc tưởng niệm quá khứ.
Thế nên Lời Chúa trong ngày đầu tiên của năm phụng vụ mới đã hướng tôi về với ý nghĩa căn bản của mùa Vọng: kỷ niệm ngày Chúa đã đến để hướng lòng về ngày Chúa lại đến.
Nhưng phải chăng Chúa sẽ đến trong hình hài đơn sơ của một trẻ thơ, được bọc trong khăn mỏng, nằm trong máng cỏ, có các thiên thần chầu chực và các mục tử bao quanh như cách đây hai ngàn năm? Chắc chắn không phải vậy. Trái lại, “Ngài sẽ đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả” với “Những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao. Dưới đất thì các dân buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Các tầng trời rung chuyển. Người ta kinh hồn khiếp đảm, chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ” (Lc 21:25-27).
Cách mô tả theo truyền thống Khải Huyền trên đây không hoàn toàn phải xảy ra như vậy. Nhưng đó chỉ là cách mượn lại những hình ảnh văn chương đã có trong các sách Daniel và Isaiah để diễn tả một điều: thời điểm cánh chung của thế giới, ngày Đấng Cứu Thế ngự đến để viên toàn chương trình cứu chuộc và thánh hoá con người. Và như thế người tín hữu được mời gọi vọng về ngày đó, chứ không phải vọng ngày Giáng Sinh.
Người ta thường rơi vào một trong hai thái độ chờ đợi: tích cực hay tiêu cực. Người chờ đợi tiêu cực luôn ở trong trạng thái thụ động. Như một người chờ đợi xe bus, chỉ biết đứng trông, chờ mong chiếc xe ghé trạm. Trong khi đó, người có thái độ chờ đợi tích cực sẽ như gia chủ, bận rộn sắp xếp, sửa sang phòng ốc, chuẩn bị đón tiếp quan khách ghé thăm.
Bước vào mùa Vọng với thái độ trông chờ tích cực chính là lối đường mà Hội Thánh mời gọi. Dù rằng đất trời rung chuyển, dù cho thiên hạ âu lo, người Kitô hữu vẫn hãy “đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi đã gần đến” (Lc 21:28). Người tin Chúa Giêsu Cứu Thế không thể nào lại sợ hãi Ngài trở lại trong vinh quang. Họ cũng không thể xếp xó công việc, ngồi đó ngóng trông mà lơ là bác ái.
Tín hữu thành Thessalônica đã một lần rơi vào cảnh ngộ đó. Họ cứ tưởng Chúa gần đến lắm rồi. Và hậu quả là ăn không ngồi rồi, chểnh mảng công việc, tội lỗi nảy sinh. Thánh Phaolô đã phải lên tiếng răn bảo: càng trông chờ Chúa anh em càng phải “tràn đầy lòng thương yêu nhau… để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu Kitô ngự đến cùng với tất cả các Thánh” (1 Tx 3:12-13).
Thế ra sống tinh thần trông đợi Đấng Cứu Thế không gì tích cực và ý nghĩa hơn việc tỏ bày đức ái.
Không có đợi chờ chân thành nào lại không hàm ẩn một cân lượng của yêu thương nhung nhớ. Vì có yêu mới nhớ, có thương mới chờ. Thế nên khi cất lên lời ca “Ngày và đêm con vẫn van xin Chúa thương. Người ban ơn cứu rỗi yêu đương bốn phương, cho đoàn con ngóng chờ” đã như một lời khẳng định chỉ có Thiên Chúa Tình Yêu mới lấp đầy mọi khát vọng yêu thương của con người. Lời khẩn cầu chờ mong Chúa đến và nỗ lực thương yêu đã như đan quyện vào nhau mà làm nên bản sắc độc đáo của mùa Vọng.
Tôi cứ lầm tưởng mình đang đợi Chúa đến, nhưng đúng hơn, Ngài đang chờ tôi về. Chúa đã đến cách đây 2000 năm. Bước chân Ngài vẫn trải khắp trong từng phút giây và nơi mọi ngóc ngách của đời tôi. Ngài chờ đợi tôi như người cha trông mong đứa con hoang trở về trong vòng tay thân ái.
Không ai sống mùa Vọng đúng nghĩa bằng Thiên Chúa. Tình yêu nơi Ngài đã làm nên nỗi nhớ. Nhớ day dứt người con xa vắng mù khơi. Càng nhớ lại càng mong. Và nỗi mong đã khiến Ngài không ngừng tìm đến với nhân loại.
Chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh phải là thời điểm nhắc tôi về một Tình Yêu đã đến, đang đến và sẽ đến. Tình yêu đó không ngớt mời gọi, chờ đợi ngày tôi trở về để “se nên chữ đồng” và để “kết nghĩa đất trời yêu thương.”
66. Cuộc sống tỉnh thức – André Sève.
Mở đầu mùa Vọng, chúng ta nghe những mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Hãy đứng dậy!” “Hãy ngẩng đầu lên!” “Hãy cảnh giác!” “Hãy tỉnh thức!” “Hãy cầu nguyện!”.
Chúng ta có thể nói đây là một sự giật mình tỉnh thức. Loại bỏ hình ảnh các Kitô hữu tiến bước uể oải hoặc sợ sệt trong cuộc sống. Họ bước đi đầu ngẩng cao, hướng về một thế giới kỳ diệu: “Các ngươi sẽ thấy Con Người đến trong quyền năng và vinh quang”.
Chắc chắn, đối với những Kitô hữu, cuộc sống cũng khó khăn như đối với những người khác, cũng vẫn có những trộn lẫn hy vọng và thất vọng, những lúc vui vẻ và những lúc chán chường. Sự khác biệt to lớn đó là chúng ta biết rằng tất cả những điều đó có một ý nghĩa toàn bộ mặc dầu trong chi tiết, những điều đó có vẻ đen tối. Chúng ta biết chúng ta đến từ đâu và chúng ta đi đâu: được sinh ra từ tình yêu, chúng ta sống dưới cái nhìn của tình yêu và chúng ta đi về tình yêu. Đôi khi người ta nói với chúng ta: “Đức tin của bạn có thay đổi được gì không?”. Tất cả! Như mặt trời vậy. Chúng ta sống cũng những điều như thế, nhưng trong ánh sáng. “Ai đi theo Ta, kẻ ấy không bước đi trong bóng tối”, Chúa Giêsu nói như thế.
Chúng ta bước đi trong ánh mặt trời của lần Chúa Kitô đến đầu tiên: Giáng Sinh. Và chúng ta tiến bước về ánh sáng của lần Ngài đến cuối cùng: Ngày Quang Lâm. Giữa hai lần này, chúng ta mở rộng cuộc sống và thế giới hết cỡ cho điều bí ẩn hơn, tiệm tiến hơn: đến được những ý tưởng của Chúa Kitô, sức mạnh yêu thương và niềm tin không lay chuyển vào Chúa Cha.
Cũng sống trong ánh sáng, đứng vững trong tình yêu và niềm tin, đó là sự tỉnh thức Kitô: “Hãy tỉnh thức!”. Gần đây, những kỹ thuật tỉnh thức của Đông phương lan truyền tại Tây phương: hít thở nhiều hơn, chú ý nhiều đến điều chúng ta đang làm, “hiện diện ở đó”, tự do, thư giãn, cởi mở, sẵn sàng để sống tối đa vào mọi giây phút. Tại sao không lấy đó làm một lời mời gọi người Kitô hữu tỉnh thức? Đây là ước muốn sống đức tin của chúng ta một cách triệt để.
Chúng ta có thể mô tả cuộc sống tỉnh thức này hay không? Mỗi buổi sáng là một sự gặp lại Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài. Qua việc đọc một đoạn ngắn, một kinh ngắn hoặc một kinh nguyện dài hơn, chúng ta lại quyết định chú ý đến Chúa, đến nhiệm vụ, đến những người mà chúng ta sắp sửa gặp. Nhưng sẽ phải không ngừng coi chừng sự “nặng nề chậm chạp của con tim chúng ta”. Chúa Giêsu nói thẳng: Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”.
Ngài cũng chỉ cho chúng ta biết phải lấy ý chí tỉnh thức ở đâu: “Hãy cầu nguyện!”. Những người xao lãng mệnh lệnh này ngày hôm nay phải để cho lời cảnh cáo nặng nề cuối cùng này lọt tai: “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”.
67. Đứng lên.
Cùng với Chúa nhật thứ I Mùa vọng, hôm nay chúng ta cử hành ngày đầu năm phụng vụ. Thánh lễ này mời gọi chúng ta lại hướng về Thiên Chúa như hướng về Đấng đang đến, tức là hy vọng, chờ mong và nhận ra Ngài đến ở chúng ta. Vì mùa vọng là những ngày mong đợi Ngài đến.
Để đánh dấu ngày đầu năm phụng vụ, có lẽ phải nhìn lại một chút chu kỳ phụng vụ, để rồi chúng ta lại quay về Đấng mà chúng ta dám hy vọng và khẳng định rằng Ngài đang đến. Nhưng việc Chúa đến và niềm hy vọng Chúa đến nằm trong một chuyển động liên tục, chuyển động của đức tin. Quả thật làm sao chúng ta có thể hy vọng hoặc nhận ra ai đó đang đến nếu chúng ta không tin nơi người ấy, nếu chúng ta không biết người ấy?
Để nhấn mạnh vị trí của mùa vọng trong chuyển động của đức tin, bản văn Tin Mừng hôm nay được chọn không phải ở đầu nhưng ở cuối Tin mừng thánh luca. Bởi vì chúng ta không chỉ đợi chờ ngày Giáng sinh của Đấng Cứu thế – đã xảy ra từ hơn 2000 năm nay, nhưng còn chờ đợi việc Ngài trở lại trong vinh quang, việc này cuối cùng sẽ cho chúng ta nhìn thấy thế giới trong ánh sáng hoàn toàn, “đứng lên trước mặt Con Người”. Vì vấn đề là chúng ta có thể đứng lên trước mặt Chúa Giêsu, vì chính Ngài sẽ đứng trước mặt chúng ta. Kỳ thực, như toàn bộ Tin mừng và đức tin Kitô khẳng định, Ngài đã đứng đó với chúng ta rồi.
Vậy sống mùa vọng không những là hy vọng và chờ đợi Chúa đến; mà còn sẵn sàng nhận ra sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta, dù không trông thấy những dấu lạ lùng nơi mặt trời, mặt trăng và các tinh tú. Sống mùa vọng trong thế giới chúng ta là chuẩn bị ngẩng đầu lên mặc dù quyền uy và vinh quang của Con Người không hiện diện ở đó. Sống mùa vọng là hy vọng rằng Thiên Chúa luôn luôn được tỏ hiện trong đời chúng ta, không phải chỉ vào ngày tận thế, hoặc vào ngày phán xét cuối cùng, nhưng ngay hôm nay. Nhưng điều này đòi hỏi chúng ta phải biết đọc những dấu chỉ của Chúa và sự hiện diện của Ngài ngày hôm nay, nơi bản thân và xung quanh chúng ta. Điều này đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết Ngài và quan tâm đến Ngài hơn nữa.
Dấu lạ là cần thiết khi sự chú ý yếu đi. Nhưng chúng ta lại chẳng thấy trong đời mình những dấu lạ ấy, những biến cố làm chúng ta chú ý đó sao, và đôi khi chúng ta tránh vì sợ ý nghĩa và sự tháchthức của những dấu lạ đó hoặc tầm thường hóa chúng ta vì ta đã thấy nhiều quá rồi. Vậy nên ta phải cùng nhau nghe lại Lời Chúa trong Cựu ước và Tân ước, cùng nhau ý thức lại sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu là như thế nào đến nỗi Ngài đã hiến dâng mạng sống mình để cho thế giới được sống.
Mặc dầu danh từ mùa vọng gần với “mạo hiểm” hơn là “chờ đợi” nhưng chúng ta thường đồng hóa mùa vọng với chờ đợi. Tôi nghĩ chúng ta cần phải sống mùa vọng như một cuộc mạo hiểm, cuộc mạo hiểm mà Thiên Chúa thực hiện giữa chúng ta, từ việc Chúa Giêsu ra đời vào ngày Giáng sinh, đến việc Giáo Hội sinh ra ngày lễ ngũ tuần. Cuộc mạo hiểm này, được Tin mừng và toàn bộ Thánh Kinh làm chứng, nhắc nhở chúng ta phải sống, chứ không chỉ chờ đợi mà thôi. Thí dụ chúng ta hãy nghĩ đến những gì đã xảy ra cho chúng ta khi chờ một cú điện thoại của người thân và chúng ta phải thất vọng vì nó không đến. Lúc đó chúng ta đâm ra chán nản vì sự trễ nải hoặc thờ ơ của người kia mà càng lúc chúng ta càng bị lệ thuộc.
Đôi khi chúng ta lại chẳng chờ mong Thiên Chúa như một kinh nghiệm lệ thuộc đó ư? Chỉ mong sao cho Đấng sẽ cứu chúng ta, sẽ phán xét và chỉnh đốn thế giới đến mau cho rồi! Nói cách khác, mong sao cho đấng sẽ sống thay chúng ta cuộc mạo hiểm của đời sống của chúng ta đến mau cho rồi, trong lúc cuộc mạo hiểm đó là của chúng ta dù được sống cùng với Thiên Chúa đi nữa! Tôi nghĩ rằng chúng ta phải cùng với Chúa sống mùa vọng, sống cuộc mạo hiểm hoặc việc Chúa đến phán xét và chỉnh đốn thế giới chúng ta. Đó cũng là việc hoán cải mà mùa vọng mời gọi chúng ta làm.
Lúc đó chúng ta có thể nhận ra vinh quang của đấng mà chúng ta tuyên xưng là Chúa của chúng ta. Lúc đó chúng ta có thể nói cùng với vị ngôn sứ:“Chúa là sự công chính của chúng ta”, và có thể đứng trước mặt Ngài. Bởi vì chúng ta đã sống tình yêu của Ngài… trong lúc chúng ta chờ mong Ngài. Bởi vì chúng ta đã sống cuộc mạo hiểm làm người của chúng ta dưới dấu hiệu tình yêu của Ngài, bất chấp mọi nguy hiểm và khó khăn.
68. Chớ chè chén say sưa
(Suy niệm của Lm Phaolô Nguyễn Quốc Hưng)
Với Chúa Nhật thứ nhất mùa Vọng, chúng ta khởi đầu một năm phụng vụ mới, cũng là khởi đầu thời kỳ chuẩn bị đại lễ Chúa Giáng Sinh, mừng Ngôi Hai Thiên Chúa làm người để cứu chuộc nhân loại. Đức Kitô đã đến, đang đến và sẽ đến, thế nên việc chuẩn bị kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh còn là dịp để nhắc nhở mỗi tín hữu biết chuẩn bị đón chờ Chúa đến cách thích đáng nhất.
Chuẩn bị để đón chờ Chúa sẽ giáng lâm vào ngày sau hết. Đó là biến cố chắc chắn sẽ xảy đến, như trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã báo trước với những hình ảnh lạ lùng của văn chương khải huyền: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả”.
Việc chuẩn bị đón chờ Chúa đến hằng năm trong dịp lễ Giáng Sinh cũng nhắc nhở chúng ta phải biết chuẩn bị đón chờ Chúa đến trong mỗi giây phút sống và nhất là chuẩn bị đón chờ Chúa đến trong giây phút quyết định từ giã cõi đời của mỗi người.
Là Kitô hữu, việc chuẩn bị chính đáng nhất, theo đúng ý Chúa nhất, là sự chuẩn bị thiêng liêng trong tâm hồn chứ không phải là sự chuẩn bị bên ngoài của dự định mua sắm, của kế hoạch vui chơi trong những ngày lễ. Mùa Vọng là cao điểm của năm phụng vụ trong đó mọi tín hữu được mời gọi sống sâu xa kinh nghiệm hoán cải của con tim và tâm trí, bằng cách nhìn lại cuộc sống của mình, xem có gì là chưa phải, là lầm đường lạc lối để sửa đổi, để điều chỉnh, để làm lại cho đúng.
Lời Chúa trong Chúa Nhật thứ nhất mùa Vọng hôm nay vang lên lời kêu mời: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!” Cần tỉnh thức và cầu nguyện luôn bởi Chúa đến thật bất ngờ. Bất ngờ “như chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu… mọi dân cư khắp mặt đất”.
Để khỏi bị bất ngờ, về mặt tích cực ấy là phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức trong tư thế phục vụ và cầu nguyện liên lỉ không ngừng. Ngoài ra, về mặt tiêu cực, Chúa dạy: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời”. Nghĩa là chớ chè chén say sưa, lo lắng sự đời thái quá đến nỗi lòng trí ra nặng nề không còn biết phân biệt đen trắng, thiện ác, đúng sai…
Trong Chúa Nhật thứ nhất mùa vọng này tôi chỉ xin đề cập đến một trong những điểm Chúa dạy ở trên. Nếu mùa vọng này chúng ta thực hành được một điều này thôi, thiết tưởng cũng đã đủ. Điều ấy là chớ chè chén say sưa.
Nhấn mạnh về điểm thực hành này bởi lẽ trong vài chục năm gần đây, chưa bao giờ trên đất nước Việt Nam còn nghèo của chúng ta, ngành kinh doanh ăn nhậu lại phát triển đến thế, người ta lại nhậu nhiều đến thế. Vui cũng nhậu, buồn cũng nhậu, không vui không buồn cũng nhậu. Nhậu tối ngày sáng đêm. Nhậu cuối tuần, nhậu đầu tuần và nhậu cả giữa tuần. Thật đáng buồn khi trường học, nhà thương, nhà máy thì ít mà nhà hàng, quán nhậu thì đâu đâu cũng có: từ ngoài phố đến trong hẻm, từ ngoài đường đến trong nhà, từ cao cấp đến bình dân, thượng vàng hạ cám đủ cả.
Thứ trưởng y tế Việt Nam cho biết, tình hình tiêu thụ rượu, bia tại Việt Nam rất đáng báo động: Việt Nam đứng thứ hai trong các nước Đông Nam Á, đứng thứ 10 châu Á và đứng thứ 29 trên toàn thế giới. Theo thống kê, tổng chi tiêu một năm cho rượu, bia của Việt Nam là 16.372 tỷ đồng. Thật là hoang phí vô độ khi Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo, với hơn 16.000 tỷ đồng hoang phí đó ta có thể mua 1.770.000 tấn gạo đủ để nuôi sống gần 21 triệu người/năm. 16.000 tỉ đồng, đó chỉ là cái giá vật chất trực tiếp chi cho rượu bia. Thế còn những cái giá phải trả do hậu quả của việc uống rượu là bệnh tật, là tai nạn giao thông, là tệ nạn trong xã hội, là những đổ vỡ trong gia đình… thì làm sao tính nổi?
Điều nguy hiểm nhất là nhậu trở thành chuẩn mực được đề cao, là phương cách để chứng tỏ bản lãnh. Cái thói tật tệ nhất ở bàn nhậu là người ta thách thức nhau uống, ép nhau uống cho kỳ được, với những lý lẽ mà nếu tỉnh táo suy nghĩ ta sẽ thấy là chẳng có lý lẽ gì. Nào là “Phải cạn ly thì mới cạn tình!”. Sao lại có thể gán ép tào lao như vậy! Bạn bè tình nghĩa với nhau là khi tắt lửa tối đèn có nhau, lúc hoạn nạn giúp đỡ nhau, là chân thật giúp nhau sống tốt hơn… chứ sao lại là phải cạn ly mới là cạn tình? Người ta đưa ra những lý lẽ vô lý như vậy để ép nhau uống, không muốn uống thì cũng phải uống…
Nào là “nam vô tửu như kỳ vô phong”, phải uống rượu tới bến mới chứng tỏ bản lãnh đàn ông. Kẻ uống được thì huênh hoang tự đắc, coi đó là cách chứng tỏ sức mạnh và bản lãnh đàn ông của mình, kiểu như: tôi đã từng hạ gục biết bao nhiêu người, chỉ một mình tôi còn đủ tỉnh táo, lên xe về nhà... tự hào như một kỳ tích, khoe khoang khắp chốn… Bản lãnh gì ở nơi bàn nhậu đó! Mặt đỏ, tay vung, nói như lãnh tụ… Bản lãnh của người đàn ông là biết chăm lo cho vợ con, biết lên tiếng cho công lý và hoà bình, biết chống lại những bất công, vô pháp xảy ra hằng ngày trong xã hội… Bản lãnh của đàn ông ở chỗ, tôi biết khả năng tôi uống tới đâu, và cương quyết từ chối không uống vượt quá giới hạn đó… Xin có lời khuyên cho các cô: đối với những thanh niên chỉ biết bày tỏ bản lãnh nơi bàn nhậu, các cô chớ có cưới vào, thà ở vậy còn đỡ bất hạnh hơn.
Có người lại ngụy biện rằng thời xưa Chúa Giêsu cũng ăn nhậu, lại còn hóa nước thành rượu ở tiệc cưới Cana cho người ta uống thả cửa nữa là! Có, Chúa có hóa nước thành rượu ở tiệc cưới Cana, nhưng là do yêu cầu của Mẹ Người, và là để chúc lành cho đôi tân hôn. Có, Chúa thường ăn nhậu với những người tội lỗi, nhưng không hề quá chén say xỉn…
Không, không cần phải biện luận dài dòng, chỉ cần lặp lại lời Chúa dạy: “đừng chè chén say sưa”, là đủ để bác mọi lý lẽ khác. Tiếp nối lời dạy đó, thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu Êphêsô: “Chớ say sưa rượu chè, vì rượu chè đưa tới truỵ lạc” (Ep 5,18).
Vậy có người sẽ nghĩ: tôi đâu có nhậu, mà dẫu có nhậu thì cũng đâu đến nỗi lè nhè say xỉn ; vậy bài giảng này chẳng liên quan gì đến tôi. Không! Kẻ ít người nhiều, đều liên quan hết! Bởi vì, thực ra, những điều nói trên chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, của những vấn đề xã hội rộng lớn hơn chìm sâu bên dưới.
Xã hội ăn nhậu chẳng phải là dấu hiệu của một xã hội khủng hoảng niềm tin, sống không có lý tưởng, của một xã hội với nền văn hóa tinh thần thiếu nền tảng, không có chiều sâu hay sao?
Vậy, chúng ta phải có trách nhiệm đóng góp phần mình thế nào để lành mạnh hóa xã hội, để mang lại ý nghĩa cuộc sống cho một xã hội xuống cấp và thiếu định hướng đạo đức như ngày hôm nay?
Đó là câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải hỏi, để sống tích cực trong mùa vọng này ngõ hầu khỏi bị bất ngờ khi Chúa đến. Chúa đến bất ngờ, nhưng thực ra chỉ là bất ngờ đối với những ai không tỉnh thức.
69. Mở Lòng Chờ Chúa Đến – Anmai
Có lẽ, hơn ai hết, dân Israel có kinh nghiệm chờ đợi Đấng Thiên Sai.
Thiên Chúa đã thiết lập giao ước tình yêu với dân, Thiên Chúa đã chọn Israel làm dân riêng thế nhưng mà dân đã không nhận ra tình yêu đó. Nói không nhận ra thì cũng không đúng. Nhận ra đó nhưng nhiều lúc cứng tin và nản lòng nản chí để rồi đi tìm cho mình một thần minh khác ngoài Thiên Chúa. Cứ tưởng là thần minh đó sẽ làm cho cuộc đời mình, làm cho dân tộc mình khá hơn dân tộc khác nhưng đâu có biết rằng dân cứ mãi bước đi trong lầm than.
Đã quá nhiều lần bỏ Chúa để đi thờ thần này, tượng kia. Ít là hơn một lần kinh nghiệm của việc dựng bò vàng lên để thờ hay chạy theo các thần của Baal. Lẽ ra chỉ thờ mình Thiên Chúa vì Thiên Chúa mới là Đấng Cứu Độ của đời mình nhưng không, đi tìm thần khác.
Thiên Chúa, Ngài cũng giận đó chứ nhưng Ngài vẫn yêu thương và hứa ban Đấng Cứu Độ dù dân của Ngài cứ phải lòng chai dạ đá với Ngài.
Bằng cách này cách khác, người này người kia, Thiên Chúa, nói to cũng có, nói nhỏ cũng có rằng sẽ có Đấng Cứu Độ đến để giải thoát dân và mang ơn cứu độ cho dân.
Hôm nay, qua lời ngôn sứ Giêrêmia, chúng ta nghe đây lời Chúa phán: Đã đến ngày Ta sẽ thực hiện tin mừng Ta loan báo về nhà Israel và nhà Giuđa. Trong những ngày đó và trong thời gian đó, Ta sẽ làm nảy sinh cho Đavít một chồi công chính, Ngài sẽ xét xử và thi hành công lý trong xứ sở. Trong những ngày đó, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ sống yên ổn. Và đây là tên người ta sẽ gọi Ngài: "Thiên Chúa, Đấng Công Chính của chúng tôi".
Thế đó, ngày Đấng Công Chính đến sẽ giải thoát cho dân và sẽ cho dân sống một cuộc sống yên ổn, bình an và hạnh phúc.
Và, sau đó một thời gian dài, Đấng Cứu Độ trần gian mà các ngôn sứ đã đến ở giữa trần gian, để loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho dân.
Trong hành trình loan báo Ơn Cứu Độ, loan báo Tin Mừng, nhiều và quá nhiều lần Chúa Giêsu nói cho mọi người biết về ngày mà Con Người đến trong vinh quang và quyền năng của Ngài.
Hôm nay, qua trang Tin mừng của Thánh Luca, chúng ta nghe Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến”.
Không chỉ thế, Chúa Giêsu còn dạy thêm cho các môn đệ rằng: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!"
Trong tâm tình đó, nhiều và nhiều lời được khuyên nhủ, được loan báo tư thế của những người đón chờ Đấng Cứu Độ trần gian, đón chờ Chúa đến.
Để đón chờ Chúa đến, chờ Đấng Cứu Độ đến, đời sống của chúng ta cũng phải sống trong tâm tình chờ đợi. Tâm tình chờ đợi đó được Thánh Phaolô tông đồ gửi thư cho giáo đoàn Thessalônica cũng như gửi cho mỗi người chúng ta: Anh em thân mến, xin Chúa gia tăng và ban cho anh em tràn đầy lòng thương yêu nhau, và thương yêu mọi người như chúng tôi đối với anh em, để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến cùng với tất cả các Thánh.
Anh em thân mến, ngoài ra, tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này, là như anh em được chúng tôi bảo cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa. Vì anh em biết rõ huấn thị chúng tôi nhân danh Chúa Giêsu đã ban cho anh em.
Vâng! Có lẽ lời mời gọi của thánh Phaolô là một lời mời gọi hết sức thiết thực, hết sức gần gũi với mỗi người chúng ta.
Hãy sống làm sao như ngày hôm nay là ngày cuối cùng của đời chúng ta thì chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, bình an và hạnh phúc. Tính đi tính lại, cuộc đời chúng ta thật vắn vỏi.
“Ngàn năm Chúa kể là gì,
tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,
khác nào một trống canh thôi!”(c. 4)
Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục,
Mạnh giỏi chăng là được tám mươi,
Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,
Cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi.
(Tv 89, 10)
“Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.” (c. 2).
Để rồi từ đó, ta mỗi ngày thức dậy ta nguyện xin:
“Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa,
để ngày ngày được hớn hở vui ca.” (c. 14).
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để ngày mỗi ngày ta luôn hướng về ngày cuối cùng của đời ta và ta luôn sống trong tâm tình chờ đợi Chúa đến với cuộc đời của mỗi người chúng ta.
70. Mùa tỉnh thức---Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng.
Từ Chúa Nhật I mùa vọng đến ngày 16.12, Phụng vụ nói lên niềm mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời gian. Tám ngày cuối cùng, trực tiếp nói đến ngày Giáng Sinh.
Mùa Vọng âm vang những lời loan báo mời gọi tỉnh thức và hy vọng.
1. Mùa Vọng - Mùa loan báo.
Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật.
Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.
Bài Phúc Âm: Chúa nhật I mùa vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức; Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa; Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
2. Mùa Vọng - Mùa chờ đợi
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Từ ngữ “Chúa đến” thường được hiểu bằng bốn cách:
- Chúa đến trong lịch sử nhân loại.
- Chúa đến trong ngày phán xét chung.
- Chúa đến trong giờ chết của mỗi người.
- Chúa đến trong ơn thánh hằng ngày.
Chúa đến lần thứ nhất: Chúa đã làm người trong nghèo hèn và đau khổ. Chúa được sinh hạ tại hang đá Belem. Chúa đến thế gian để trao ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Ngày nay nhân loại đợi chờ và hân hoan kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh.
Chúa đến lần thứ hai: Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai để hoàn tất công cuộc cứu độ, gọi là Tận Thế hoặc Cánh Chung. Lần này Chúa đến trong vinh quang với tư thế là Vua Thẩm phán để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Không ai biết được ngày đó sẽ xẩy ra khi nào. Chỉ biết chờ đợi trong hy vọng.
Một lần nữa nhiều người lại bàn cãi về ngày tận thế, lần này thì thời điểm sẽ là ngày 21 tháng 12 năm 2012…
Sự ồn ào về ngày tận thế đã không khỏi vang đến tai Đức Giáo Hoàng. Ngày 18/11 vừa qua, Ngài đã lên tiếng kêu gọi chúng ta nên dừng lại "sự tò mò về thời điểm và các lời dự báo" mà nên "suy ngẫm một cách sâu sắc hơn và đúng nghiã hơn".
Đề cập đến đoạn Phúc âm mô tả "bầu trời trở nên âm u" và "các vì sao rơi rụng từ trời xuống", Đức Giáo Hoàng cho biết Chúa Giêsu đã không mô tả "ngày tận thế" theo như cách chúng ta nghĩ là một "lời tiên tri", mà thực ra là Chúa muốn giải thoát vĩnh viễn các môn đệ khỏi những đồn đoán về thời điểm thế giới sẽ bị tận diệt. Chúa "muốn cho chúng ta một chiếc chìa khóa để suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng nghĩa hơn, và chỉ cho chúng ta con đường phải đi để bước vào cuộc sống vĩnh cửu". (x.Vietcatholic.org, ngày 11/23/2012).
Chúa đến giữa hai lần: Chúa đến với từng người. Đó là giờ chết. Không ai biết được Chúa gọi mình lúc nào và ở đâu. Không ai có thể chọn cho mình ngày giờ ra đi. Lần giữa này là lần thật quan trọng với từng người.
Chúa đến trong ơn thánh: Hàng ngày Chúa đến với ta trong ơn thánh qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể.
Mùa Vọng chính là mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi Chúa đến.
3. Mùa Vọng - Mùa tỉnh thức
Chúa Giêsu nói đến tư thế của người tỉnh thức là luôn: “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”. Chúa cũng nói đến thái độ sống của người tỉnh thức là không để “ lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”, không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ, không quá mê say danh lợi thú.
- Đứng thẳng: đây là động thái hiên ngang dũng cảm vượt trên mọi đam mê tội lỗi. Đứng thẳng mới khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời.
- Ngẩng đầu lên: đây là động thái hướng thượng, vươn mình lên tới những giá trị cao cả.
Chúng ta sống cuộc đời hiện tại trong tinh thần tỉnh thức. Tại các ngã ba ngã tư của đường phố đều có đèn đỏ đèn xanh rõ ràng, nhắc hướng cần đi vào và cấm vượt ranh giới. Trong lương tâm, chúng ta không thấy rõ hệ thống đèn đỏ đèn xanh. Mình phải tự phán đoán, chọn lựa. Không tỉnh thức là đôi khi mình tự cho phép mình vượt đèn đỏ vô hình, và cũng không đi theo hướng đèn xanh chỉ dẫn. Vài lần thấy quen. Rồi thấy xung quanh vô số người cũng làm như vậy. Thế là thành thói quen phạm lỗi trên hành trình cuộc đời.
Không bao giờ được quên ngày Chúa đến trong thời gian kết thúc của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta. Tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cữu của mình.
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Chúa đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa, chúng ta phải tỉnh thức.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức.
a. Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về:
Tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhẹn. Tỉnh thức để “đợi chủ về”. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế, người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.
b. Dụ ngôn người quản gia trung thành.
Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Cần phải trung thành trong nhiệm vụ được giao. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một tòa nhà tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi: “Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?”- “Khoảng 40 năm rồi” – “Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà?” – “Ông ta không ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi” – “Ông có thư từ gì với cụ không?” – “Không, ông ta bận lắm” – “Ông không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ?” – “Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này” – “Thế tội gì cụ phải chăm sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?” – “Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên”.
Người gia nhân trên đây thật đáng ca tụng. Ông làm việc không vì sợ nhưng vì yêu, làm việc với một tinh thần trách nhiệm. Ông coi việc của chủ như việc của mình nên làm việc hết tấm lòng. Ông thực là một gia nhân tốt, một quản lý trung thành.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Tỉnh thức là tâm trạng của một con người luôn bình an, thư thái. Thái độ sống này giúp người Kitô hữu luôn làm cho mọi công việc hàng ngày trở thành lời nguyện tạ ơn chân thành.
Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và nhiệt thành, biết thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng.
Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.
Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tùy cách sống hiện tại của mỗi người. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, không ai có thể che dấu một chi tiết nào.
Ngày Chúa đến trong vinh quang để xét xử muôn dân sẽ là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sẽ là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu bên Nhà Tạm, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.
71. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn
MINH HỌA LỜI CHÚA - Nguyễn Hiếu
1. Chúng ta làm gì?
Đêm 15 tháng tư năm 1912, chiếc tàu khổng lồ Titanic đang vung vút chạy trên cùng biển Bắc Đại Tây Dương… Mọi người vững dạ an tâm vì đang ở trong một chiếc tàu to lớn vĩ đại, nên tha hồ đàn hát, nhậu nhẹt, vui chơi…
Bỗng tàu đụng vào tảng băng vỡ tan chìm xuống đáy biển, hơn 1.500 người thiệt mạng!...
***
Nếu có mặt chúng ta trong tàu lúc chìm xuống biển, chúng ta làm gì? Đàn hát nhậu nhẹt chăng?.. Thật đúng như “chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu” chúng ta. Ngày chúa đến trong uy nghi vinh hiển cũng thế, liệu chúng ta có “đứng thẳng và ngẩng đầu lên vì được Chúa giải thoát, hay ngã quỵ và gục đầu xuống vì phải khốn khổ muôi đời. Thế nên chúa mới bảo chúng ta ngay từ hôm nay: “Hãy đề phòng, chớ để lòng mình đắm say lửa tửu sắc, đa mang sự đời”…
2. Hãy tỉnh thức cầu nguyện
Tại Hollywood có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám bệnh cho anh, bác sĩ nói: Tình trạng sức khỏe của anh rất nguy kịch, cần giải phẫu ngay mới hy vọng cứu được, và cuộc giải phẫu có thể kéo dài 36 tiếng đồng hồ.
Nghe bác sĩ nói thế, người nhà của tài tử đều lo buồn khiếp vía, nhưng riêng anh, anh vẫn bình thản đi vào phòng giải phẩu, làm cho mọi người ngạc nhiên.
Sau khi sức khỏe bình phục, người nhà mới hỏi: Lúc sắp giải phẩu sao anh không lo sợ gì hết vậy? Anh không sợ chết à? Anh thú thật:
- Trong 36 tiếng đồng hồ đó, tôi học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi. Tôi chẳng hề sợ chết, vì trước đó mỗi ngày tôi đều cầu nguyện với Chúa, để phòng khi gặp gian nan nguy hiểm, Chúa cứu giúp tôi…” (Theo cha M. Linnk).
***
Ước gì ngày Chúa đến trong vinh quang, Chúa cũng thấy chúng ta hành động như anh tài tử điện ảnh này.
3. Tận thế
Vào đầu tháng 10 năm 1992, hàng chục ngàn tín đồ ở Nam Hàn tập hợp về các nhà thờ để chờ đón chúa quang lâm và phán xét mọi người. Theo giới lãnh đạo của giáo phái này thì giờ tận thế sẽ xảy ra đúng nửa đêm 28 tháng 10. Trong khi chờ đợi, họ trương các biểu ngữ, đại để nói: “Chúng ta sẽ gặp nhau trên trời”.
Trong khi đó, hàng ngàn cảnh sát được đặt trong tình trạng báo đông, đề phòng một cuộc tàn sát tập thể, nếu ngày tận thế không xảy ra; vì mọi người đã bỏ cửa nhà tài sản để chuẩn bị biến cố này.
Cuối cùng, ngày tận thế đã không xảy ra… (Theo sách “Như lòng Chúa khoan dung”)
***
Chớ gì mọi người biết lìa bỏ tội lỗi, và tính nết xấu, để chuận bị cho ngày Chúa quang lâm như nhóm tín hữu mê tín trên đây đã bỏ hết tài sản đợi ngày cánh chung. Và vì Chúa đến bất ngờ nên việc chuẩn bị này phải thực hiện hằng ngày, chứ không phải vào ngày tháng nào như số tín đồ lầm lạc nầy.
4. Tỉnh thức đích thực
Trong truyện các thánh ẩn tu nơi sa mạc ở các thế kỷ đầu Kitô giáo, có câu chuyện sau:
Một ông vua vừa lên ngôi muốn vào sa mạc tìm gặp các vị ẩn tu để học hỏi nhân đức cai trị dân. Ông ăn mặc giả làm thường dân, đến trước lều của một vi ẩn sĩ. Vừa mở cửa, vị ẩn sĩ đã biết nhà vua, nhưng giả làm như không biết là ai, và đón tiếp như mọi người. Nhà vua thăm sức khỏe các tu sĩ và hỏi các vị đang làm gì? Vị ẩn sĩ trả lời:
- Tất cả chúng tôi luôn cầu nguyện cho anh và mọi người.
Nhà vua nhìn xung quanh túp lều không có gì, trừ cái giỏ đựng bánh mì khô. Và vị ẩn sĩ mời vua:
- Mời anh ăn.
Nói xong, ngài cầm lấy bánh mì khô nhúng nước lã trao cho nhà vua. Ăn xong, nhà vua hỏi:
- Ngài biết tôi là ai không?
Vị ẩn sĩ đáp không một chút do dự:
- Chỉ có Chúa mới biết thôi.
Nhà vua liền tiết lộ tông tích của mình. Lúc đó vị ẩn sĩ mới cúi chào. Nhưng nhà vua đỡ dậy và nói:
- Ngài thật có phước vì không phải lo lắng chuyện đời. Còn tôi phải lo đủ thứ việc cho dân.
***
Nhà vua lo đủ thứ việc cho dân. Mùa Vọng, Chúa chỉ bảo chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện để Chúa đến cứu chúng ta. Chúng ta có lo thực hành chưa? Người đang đến trong từng giây phút của cuộc sống mỗi người chúng ta. Tỉnh thức và cầu nguyện là sống sung mãn từng giây phút của cuộc sống. Nhà vua trong câu chuyện trên đây đã tìm thấy ý nghĩa của sự tỉnh thức và cầu nguyện với các ẩn sĩ đó.
5. Tinh thần cầu nguyện
Cha Anthony de Mello, giảng viên nổi tiếng người Ấn Độ kể:
Một hôm con trai của Giáo chủ đạo Bà hai bên Ấn Độ được mời vào một gia đình khá giả. Bà chủ nhà vốn có lòng hiếu khách, trổ tài nấu ăn cho vui lòng khách quý.
Tiếc thay khi dọn cơm lên, bà khiêm tốn xin lỗi khách, vì cái mùi khen khét của các món ăn. Bà phân trần:
- Vì muốn bữa cơm thật ngon nên trong khi nấu nướng, tôi lo cầu nguyện nên quên chú tâm vào việc nấu ăn.
Vị khách mỉm cười đáp:
- Việc cầu nguyện là điều rất cần và rất tốt. Nhưng lần sau khi làm bếp, bà hãy cầu nguyện với quyển sách dạy nấu ăn hơn là cuốn Kinh Thánh.
***
“Câu nói của vị khách diễn tả một sự thật rất thực tế. Cầu nguyện không phải bỏ trách nhiệm, cũng không ỷ lại vào quyền năng Thiên Chúa rồi khoanh tay lười biếng. Cầu nguyện giúp cúng ta đạt được những gì mà sức hạn hẹp của chúng ta không thể thành công được.
Mùa Vọng, Chúa kêu gọi chúng ta cầu nguyện để xin Chúa giúp chúng ta thấy thân phận hèn mọi tội lỗi của mình và hỗ trợ chúng ta sám hối canh tân, để được đứng vững trong ngày Chúa đến thẩm xét.
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày” tập I).
72. Chúa đến để khai mạc một kỷ nguyên mới: một trời mới, đất mới---JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu biết trong tuần tới kẻ trộm sẽ đến nhà bạn, không biết vào lúc nào, ngày hay đêm, bạn có làm gì khác lạ hơn bình thường không? Tại sao?
2. Tỉnh thức nghĩa là là gì? Cho một vài thí dụ khác nhau về tỉnh thức.
3. Để tỉnh thức theo tinh thần bài Tin Mừng hôm nay, một cách cụ thể thì phải làm những gì?
Suy tư gợi ý:
1. Nếu tôi biết tuần này kẻ trộm sẽ đến nhà tôi, thì …
Chúng ta thử xét một cách thật nghiêm túc xem: phản ứng, tư tưởng và thái độ của ta sẽ thế nào khi được báo tin chắc chắn một bọn trộm cướp đã dự định đến “thăm” nhà ta tuần này. Được tin ấy, thử hỏi ban đêm ta còn ngủ yên như mọi khi không? Nếu ta đoán kẻ trộm cũng có thể đến cả vào ban ngày nữa, thì ta có đề phòng cả ban ngày không? Ta có dám bỏ nhà đi đâu xa những ngày này, và giao phó nhà cửa cho đám con cái còn bé nhỏ chưa kinh nghiệm không? - Nếu đoán biết kẻ trộm sẽ đến, chắc chắn ta sẽ gia tăng đề phòng, không để cho chúng lấy đi của ta bất kỳ đồ vật gì. Muốn đề phòng hữu hiệu, ta phải canh thức liên tục, không ngừng nghỉ. Ngừng đề phòng lúc nào là kẻ trộm có thể đến lúc ấy, nhất là vào những lúc chúng biết ta mệt mỏi, lơ là. Nếu đề phòng liên tục, chắc chắn kẻ trộm sẽ thất bại.
Chỉ vì sợ mất của cải vật chất chóng qua mà ta lo canh phòng như vậy, lẽ nào mạng sống tâm linh của ta, của cải tâm linh của ta là cái quí hơn hàng trăm ngàn lần, ta lại không lo lắng canh giữ?
2. Cách sống hiện tại quyết định số phận vĩnh cửu
Số phận vĩnh cửu của ta tùy thuộc cách sống hiện tại của ta. Cuộc sống hiện tại trong thời gian là mầm cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Mầm tốt sẽ trở thành cây tốt, mầm xấu sẽ trở thành cây xấu. Cuộc sống vĩnh cửu đã bắt đầu ngay trong cuộc sống hiện tại, và định hình vĩnh viễn ngay khi ta chấm dứt cuộc sống này, nghĩa là ngay khi ta chết. Nhưng ta chết lúc nào? Không ai biết được! Những người chết trong hai tòa nhà cao tầng ở New York ngày 11-9-2001, hay trong tòa nhà 6 tầng các Trung Tâm Thương Mại tại Sàigòn ngày 29-10-2002 không ai ngờ được trước khi vào đó rằng hôm ấy là ngày tận số cuộc đời mình. Không ngờ được vì thấy rằng còn gì bảo đảm an toàn hơn khi ở trong những tòa nhà kiên cố ấy? Thế mới biết tai họa hay cái chết có thể đến bất kỳ lúc nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất kỳ nơi nào. Đối với cái chết, chẳng lúc nào, chẳng nơi nào, chẳng tình trạng sức khỏe nào là an toàn cả! Thật đúng như thánh Phao-lô nói: “Khi người ta nói: “Bình an biết bao, yên ổn biết bao!” thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống” (1Tx 5,3). Cái chết đến quả thật như kẻ trộm! không thể biết trước hay đoán trước được lúc nào, cách nào, và thế nào! Tuy nhiên, chết lúc nào, cách nào không phải là chuyện quan trọng. Vấn đề hết sức quan trọng chính là: số phận đời sau của mình thế nào?
Số phận của chúng ta đời sau chính là kết quả của cách sống đời này. Nếu đời này chúng ta sống vị tha, yêu thương mọi người đúng theo bản chất của mình là “hình ảnh của Thiên Chúa” cũng là “con cái Thiên Chúa”, thì đời sau chúng ta sẽ được sống trong một môi trường đầy yêu thương, được gần gũi với chính Thiên Chúa của Tình Thương. Trái lại, nếu đời này ta sống ích kỷ, ít tình thương, không tình nghĩa, thường lãnh đạm, nhạt nhẽo, ganh ghét, hận thù… với tha nhân, thì đời sau chúng ta sẽ phải sống trong một môi trường không có tình thương, đầy hận thù và xa cách Thiên Chúa. Điều đó xảy ra không khác gì một quy luật, luật nhân quả: “Cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu” (Mt 7,17). Tương tự như một người luôn yêu thương và vui vẻ với mọi người, dễ dàng hy sinh, sẵn sàng chịu thiệt thòi cho người khác, thì tự nhiên người ấy tạo ra chung quanh mình một bầu khí vui tươi, thoải mái, yêu thương, và những ai ở gần người ấy đều tự nhiên cảm thấy hạnh phúc và quí mến người ấy. Trái lại, một người ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, chẳng biết yêu thương hay hy sinh cho ai, chỉ mong người khác hy sinh, chịu thiệt cho mình, tự nhiên người ấy sẽ tạo ra chung quanh mình một bầu khí ảm đạm, căng thẳng, buồn tẻ, và chẳng mấy ai cảm thấy hứng thú gì khi ở với người ấy.
3. Ngày của Chúa
Đối với mỗi cá nhân, Ngày của Chúa - hay ngày Chúa đến - chính là ngày ta chấm dứt cuộc đời trần thế để đến trình diện trước mặt Chúa hầu được quyết định về số phận vĩnh cửu của mình. Đối với toàn thế giới, Ngày của Chúa chính là ngày tận thế, ngày mà tất cả mọi người đã từng sống trên trần gian đều phải trình diện trước mặt Chúa. Ngài sẽ phán xét Giáo Hội cũng như tất cả mọi thể chế trần gian, mọi tôn giáo, mọi chủ nghĩa, mọi ý thức hệ, mọi nền văn hóa, mọi chế độ, mọi quốc gia, mọi tầng lớp, mọi giai cấp, mọi tập thể… Lúc đó mọi dân mọi nước, mọi tôn giáo, mọi nền văn hóa sẽ biết rõ ràng và dứt khoát đâu là đúng đâu là sai. Lúc đó, tất cả mọi bí mật trên thế giới trong tất cả mọi lãnh vực đều được tỏ lộ, phanh phui cho tất cả mọi người thấy, không một che dấu nào mà không bị hiển lộ… Trước mọi sự được tỏ bày, ai nấy đều tự mình biết mình là công chính hay tội lỗi, và công chính hay tội lỗi ở mức độ nào. Mọi người sẽ tâm phục khẩu phục khi thấy số phận của mình, của mọi người và từng người được ấn định một cách hết sức công bằng, hợp lý và quang minh.
Ngày ấy sẽ là ngày vui mừng, vinh quang cho những người thật sự công chính, vì họ sẽ được giải oan, được mọi người nhìn nhận sự trong sạch, ngay thẳng, và tất cả những gì tốt đẹp của mình, đồng thời được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng ngày ấy sẽ là ngày u buồn, nhục nhã, xấu hổ cho những người giả công chính, giả đạo đức, những kẻ gian ác, vì mọi giả dối, xấu xa, gian ác của họ, dù được giấu diếm kỹ càng đến đâu cũng đều bị lột trần, phanh phui trước mọi người, và số phận của họ sẽ là đau khổ muôn đời.
4. Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng
Ngày của Chúa đến như kẻ trộm, không ai biết trước được, và là ngày qui định dứt khoát số phận đời đời của ta. Vì thế, thái độ khôn ngoan nhất của ta là luôn luôn tỉnh thức, lúc nào cũng ở trong tư thế sẵn sàng, để ngày ấy dù có bất ngờ tới đâu, cũng là ngày đem lại vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu cho ta. Như vậy, thái độ tỉnh thức là thái độ nào?
Tỉnh thức trái với ngủ quên, trái với tình trạng mê mải, bị thu hút bởi một sự việc gì, khiến ta quên mất điều ta phải nhớ, phải canh chừng. Một minh họa cụ thể: Nhiều khi người nhà tôi bận việc, yêu cầu tôi canh chừng ấm nước sôi. Tôi nhận lời với tất cả ý thức. Nhưng chờ lâu quá, để tiết kiệm thì giờ, tôi lại tiếp tục viết bài. Tới lúc chợt nhớ tới ấm nước thì đã quá muộn, ấm đã cạn sạch nước. Chậm một chút nữa là ấm sẽ bị cháy! Công việc đã thu hút tôi đến mức làm tôi quên canh chừng!
Tỉnh thức theo nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay là luôn luôn ý thức được mục đích cuộc đời mình là sống xứng với phẩm giá cao cả của mình là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa, nhờ đó đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Điều đó đòi hỏi tôi phải sống phù hợp với tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương, cụ thể nhất là yêu thương những người gần mình nhất. Điều tôi cần quan tâm không chỉ là tránh gây nên những bất lợi cho tha nhân, mà còn là làm những gì họ cần tôi làm cho họ. Trong đoạn Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng (Mt 25,31-46), ta thấy Thiên Chúa đặc biệt phán xét về những thiếu sót, những điều mà ta không làm cho tha nhân khi họ cần ta làm. Ta thường tưởng rằng mình không làm điều gì bất lợi cho tha nhân thì có nghĩa là mình vô tội, mình công chính. Nhưng thực ra khi mình không làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân, thì mình đã trở thành kẻ có tội và đáng bị kết án rồi. Cụ thể như khi đứng trước một bất công, giả như tôi lên tiếng thì bất công ấy đã không xảy ra, hoặc sự công bằng đã được trả lại cho người bị bất công, nhưng tôi đã không lên tiếng chỉ vì một sợ hãi mơ hồ nào đó. Điều đó chứng tỏ rằng tôi không có đủ tình thương. Chính những tội về thiếu sót ấy làm tôi không xứng đáng với hạnh phúc vĩnh cửu.
Chúng ta có thể trở nên “mê ngủ”, mất tỉnh thức khi ta bị thu hút bởi danh, lợi, quyền, thú vui trần tục. Nhiều người mê mải tìm kiếm tiền bạc, quyền lực… đến nỗi chẳng những quên đi bổn phận mình phải làm cho tha nhân (đói cho ăn, khát cho uống, lên tiếng trước bất công…), mà còn sẵn sàng làm những điều bất lợi cho tha nhân nữa (vu khống, gây bất công, thù oán, giết người…) Bất kỳ điều gì có thể làm chúng ta say mê trong cuộc đời, thậm chí là những điều tốt (công việc, chuyện làm ăn, sở thích…), cũng có thể làm ta mất tỉnh thức. Ngay cả việc thờ phượng Chúa (dâng lễ, đọc kinh, cầu nguyện…) cũng có thể ru ngủ ta, làm ta quên cả bổn phận mình phải làm cho tha nhân. Thờ phượng Chúa kiểu này chắc chắn không phải là kiểu đẹp lòng Thiên Chúa, Ngài rất nhờm tởm kiểu thờ phượng này (x. Is 1,11-19). Đáng lẽ việc thờ phượng Thiên Chúa đích thực phải giúp ta ý thức đến bổn phận của ta đối với tha nhân một cách hữu hiệu. Vậy, một cách cụ thể, tỉnh thức chính là luôn luôn ý thức, quan tâm làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân.
Cầu nguyện
Lạy Cha, thì ra có rất nhiều điều có thể làm con mê ngủ, không tỉnh thức. Điều làm con rất ngạc nhiên là ngay cả những đam mê tốt lành như đam mê đi lễ, đam mê cầu nguyện, đam mê làm tông đồ, đam mê làm ăn… có thể làm con quên đi bổn phận mà con phải làm đối với những người chung quanh con: cha mẹ, anh chị em, vợ con, bạn bè, hàng xóm… Con có bổn phận rất quan trọng là phải làm cho họ nên tốt lành và được hạnh phúc. Xin Cha đừng để những đam mê tốt lành ấy làm con mất tỉnh thức.
73. Hãy coi chừng!
Hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta phải đề phòng. Bắt đầu bài Phúc Âm, Chúa Giêsu phán: "Chúng con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện."
Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta phải đề phòng ngày tận thế hoặc là ngày cuối đời của chúng ta, bất cứ cái nào đến trước.
Ngài cảnh cáo chúng ta rằng khi Ngài đến thì có thể sẽ bắt gặp chúng ta đang hững hờ. Lúc Ngài đến có thể là lúc mà chúng ta không chuẩn bị.
Nói một cách khách quan hơn, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta bắt đầu cuộc sống mà chúng ta phải sống. Ngài kêu gọi chúng ta đừng trì hoãn và hãy bắt đầu sống như là tối hôm nay Ngài sẽ đến gặp chúng ta. Ngài nhắc chúng ta hãy đề phòng cuộc sống có thể đưa đẩy làm cho chúng ta không làm những gì mình phải làm.
Chúng ta lấy câu chuyện của Tom Anderson ở Bernardsville, NJ làm ví dụ. Tom mướn một căn phòng tại một bãi biển khi anh đi nghỉ hè. Khi anh lái chiếc xe ra biển với người vợ, anh đã tự làm một lời hứa trịnh trọng rằng trong hai tuần này, anh sẽ cố gắng để làm một người chồng tốt.
Trong hai tuần đó, anh đã không gọi điện thoại về hãng, hãm lại cái lưỡi của anh khi anh muốn nói những lời bực tức. Trong hai tuần đó, Tom là người suy nghĩ chín chắn, dễ thương, và biết quan tâm đến người khác.
Vợ của Tom nhận ra điều khác thường đó nên tối cuối của hai tuần nghỉ, chị nhìn thẳng vào anh một cách âu yếm và gương mặt đượm một nỗi lo âu. Thấy thế, anh hỏi chị: "Em ơi, chuyện gì vậy?"
Nước mắt từ từ trào ra trên má, chị đáp: "Có phải anh biết điều gì đó mà em không biết?"
"Em nói như vậy có nghĩa gì?" anh hỏi lại.
"Thì," chị trả lời, "tuần trước khi em đi gặp bác sĩ để khám tổng quát. Xin anh hãy nói sự thật cho em biết đi. Có phải ông bác sĩ đã nói với anh là em có chuyện gì phải không? Có phải ông đã nói là em sắp chết? Có phải vì lý do đó mà anh đã đối xử rất tử tế với em?"
Tom đã lăn ra cười. Đặt vòng tay vào lưng vợ, Tom trả lời: "Em ơi, em không chết đâu! Chỉ là vì bây giờ anh mới bắt đầu sống."
Câu truyện đó diễn tả một cách sống động sứ điệp mà Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay. Ngài khuyến khích chúng ta hãy bắt đầu sống. Ngài khuyến khích chúng ta đừng bỏ qua những điều mình phải làm. Ngài khuyến khích chúng ta hãy đề phòng đừng để cho cuộc sống này qua đi một cách vô ích.
Nói một cách trực tiếp hơn nữa là Ngài khuyến khích chúng ta hãy bắt đầu Mùa Vọng này giống như là Tom đã bắt đầu hai tuần nghỉ của anh.
Ngài khuyến khích chúng ta hãy lợi dụng Mùa Vọng này để bắt đầu sống cuộc sống mới. Ngài khuyến khích chúng ta hãy lợi dụng cơ hội này để yêu thương tha nhân như là chúng ta phải yêu.
Nói một cách tóm tắt, bài Phúc Âm hôm nay là một sự nhắc nhở của Chúa Giêsu rằng cuộc sống của chúng ta đang từ từ trôi qua mà chúng ta đã không làm điều mà chúng ta phải làm.
Chúng ta hãy kết thúc với những lời của Mẹ Têrêsa: "Mỗi người có một sứ mệnh để thi hành, sứ mệnh đó là yêu thương. Khi giờ chết đến, chúng ta sẽ đối diện với Thiên Chúa, chúng ta sẽ bị phán xét về lòng yêu thương; không phải chúng ta đã làm bao nhiêu, nhưng chúng ta đã biết bỏ bao nhiêu tình yêu vào những công việc của mình."
74. Suy niệm của nhóm Đồng Hành.
Phụng Vụ năm nay dùng Phúc Âm Luca và bắt đầu bằng bài giảng về những ngày sau hết. Bài giảng này gồm ba phần:
- Phần đầu, 21:10-11, diễn tả nhũng điềm lạ và cho ta biết sự gì sẽ xảy ra.
- Phần giữa, 21:20-23, tiên đoán việc thành Giêrusalem bị phá hủy.
- Phần cuối, 21:25-26, một lần nữa nói về những điềm lạ và cho ta biết những gì ta phải làm.
* Trong thời gian này Đức Giêsu giảng dạy nhiều trong đền thờ. Biết ngày chịu chết đã gần kề, Ngài đã nói về những điều quan trọng mà nhân loại cần biết, như những dặn dò quí báu trước khi Ngài từ giã cuộc đời trần thế.
* Trước ngày Ngài đến sẽ có những sự việc lạ xảy ra trong vũ trụ. Đây là điều Đức Giêsu báo trước về ngày Ngài trở lại để phán xét, có ý ám chỉ Ngài dã hoàn tất tước hiệu Con Người. Vậy ngày Chúa đến cũng là ngày trở lại của Con Người.
* Những điềm lạ về ngày sau hết sẽ xảy ra một cách toàn diện trên toàn thể vũ trụ. Điều này cho thấy nếu chỉ dựa vào những biến cố riêng rẽ để đoán ngày tận thế là việc làm sai lầm.
* (c.28) "Ngày cứu chuộc của các con đã gần kề": Đức Giêsu nhắn nhủ các môn đệ hãy vững tâm và hy vọng. Thay vì phản ứng như những người khiếp đảm, những môn đệ trung thành của Chúa sẽ đứng thẳng và ngước mặt, không hề cảm thấy sợ hãi và hổ thẹn, để nghênh đón Đấng cầm quyền xét xử là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
* (c.34) Vì khoảng 95 phần trăm dân Palestine thời đó là nông dân nghèo, lời cảnh cáo của Đức Giêsu có vẻ dành cho những kẻ giàu sang có điều kiện để chè chén say sưa và lo lắng sự đời.
Một Điểm Chính
Đức Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang. Điều đó không làm chúng ta sợ hãi nhưng đem lại niềm vui vì được cứu chuộc.
Suy Niệm
Tôi có những chuẩn bị gì cho ngày Con Người sẽ đến? Tôi phải làm gì để khi Ngài đến tôi sẽ có thể đứng thẳng và ngước mặt lên?
Đặt mình vào thời điểm khi những điềm lạ xuất hiện vào ngày sau hết, tôi sẽ có những hành động gì và cảm giác thế naò? Tôi có sẵn sàng chưa? Tôi có hoàn toàn phó thác mọi việc theo ý Chúa không?
Trong những lúc gặp gian nan thử thách trong cuộc sống, tôi đã có đặt trọn vẹn niềm tin nơi Chúa chưa?
75. Suy niệm của Lm Trần Khả.
Bài Đọc 1: Giêrêmia 33:14- 16
Giêrêmia loan báo đã đến ngày Thiên Chúa thực hiện lời hứa của Ngài đối với nhà Israel và nhà Giuđa. Ngài sẽ làm nẩy sinh cho Đavid một chồi công chính. Vị đó sẽ được gọi là "Thiên Chúa Đấng Công Chính của chúng tôi." Ngài sẽ xét xử và thi hành công lý. Giuđa sẽ được cứu và Giêrusalem sẽ yên ổn. Giáo Hội tin rằng Đấng Công Chính mà Giêrêmia nói đây chính là Đức Kitô. Ngài là Đấng Công Chính và Ngài dạy sự công chính. Ngài bị cám dỗ nhưng không phạm tội. Ngài là con chiên hiền lành không tỳ vết bị đem đi sát tế. Người lính gác gần chân thánh giá đã kêu lên, "Người này quả thật là công chính" (Lc 23:47).
• Người công chính là người sống như thế nào? Bạn làm gì để giúp mình trở nên người công chính?
• Công chính có phải là tiêu chuẩn quan trọng đối với bạn khi chọn lựa những người lãnh đạo trong đạo cũng như ngoài xã hội hay không? Tại sao?
Bài Đọc 2: 1 Thessalonica 3:12- 4:2
Thánh Phaolô cầu xin Thiên Chúa gia tăng và ban ơn cho các Kitô hữu Thessalonica để họ được tràn đầy lòng thương yêu nhau và thương yêu mọi người như Phaolo và các tông đồ thương yêu họ. Phaolô cũng khuyên họ sống thế nào để ngày Đức Giêsu Kitô đến lần thứ hai Ngài không thấy họ có điều gì đáng trách. Khi họ sống bền vững trên đường thánh thiện tức là họ đang sống đẹp lòng Chúa.
• Nếu thánh Phaolo viết thư cho bạn hôm nay thì ngài mong muốn và cầu xin cho bạn, cho gia đình và giáo xứ của bạn điều gì?
• Nếu hôm nay Đức Kitô đến thì Ngài sẽ khen thưởng hay khiển trách bạn?
Bài Tin Mừng: Luca 21:25-28, 34-36
Đức Giêsu miêu tả bối cảnh của thế giới vào lúc trước khi Ngài đến lần thứ hai, sẽ có những điềm lạ trên trời. Dưới đất, người ta sẽ buồn sầu lo lắng vì biển gầm sóng vỗ, và người ta sợ hãi chờ đợi những gì sẽ xẩy ra. Đức Giêsu căn dặn các môn đệ và chúng ta phải giữ mình kẻo lòng ra nặng nề. Điều chúng ta làm bây giờ sẽ có hiệu quả trong tương lai, do đó Ngài dặn chúng ta đừng chè chén say sưa, đừng quá mê man lo lắng việc đời kẻo khi ngày đó đến chúng ta không sẵn sàng. Điều phải làm là sống trong tỉnh thức và cầu nguyện để có thể đứng vững trước mặt Con Người khi Ngài đến.
• Thiên Chúa muốn bạn sống như thế nào trong lúc này? Đâu là dấu cho bạn biết rằng bạn đang sống đúng theo ý Chúa hay sống không đúng ý Chúa?
• Bạn có tin là có ngày tận thế không? Tại sao? Theo bạn thì sống thế nào là sống tỉnh thức và sẵn sàng?
Bài Giảng Gợi Ý
Lễ Giáng Sinh hầu như đã trở thành ngày lễ của quốc tế. Ngay ở những nước chủ trương vô thần cũng không thiếu vắng hương vị của ngày lễ này. Khi chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh chúng ta cần phân biệt hai thái độ. Thái độ thứ nhất là mừng giáng sinh theo trào lưu thương mại, và thứ hai là mừng Giáng sinh theo ý nghĩa tinh thần của ngày lễ. Ngày nay, đối với nhiều người, lễ giáng sinh được coi là ngày nghỉ việc. Bối cảnh chung quanh việc chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh đã bị tục hóa. Nhiều người chú tâm đến những việc sửa soạn bề ngoài như lo đi mua sắm, hoặc sắp đặt đi hè và nghỉ ngơi. Các công ty chuẩn bị tổ chức tiệc cuối năm cho nhân viên. Các đường phố, cửa hàng đều trang hoàng đèn điện, cây cảnh và đủ mọi mặt hàng nặng phần thương mại. Các phần tử trong gia đình bận tâm suy nghĩ xem phải mua cho nhau những món quà gì. Nhưng đối với Kitô hữu chúng ta lễ Giáng Sinh có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều.
Giáo Hội bắt đầu năm phụng vụ bằng Mùa vọng. Mùa vọng là thời gian chúng ta dọn lòng đón Đức Kitô. Chúng ta mừng kỷ niệm biến cố Ngài đã giáng sinh ở Bethlehem và đón chờ Ngài đến lần thứ hai. Để bắt đầu cuộc hành trình của năm phụng vụ, Giáo Hội muốn chúng ta hướng nhìn về cùng đích tương lai và luôn tâm niệm trong suốt cuộc hành trình bằng lời của Đức Giêsu đã loan báo trong bài Tin mừng hôm nay:
• Sẽ có ngày sau hết.
• Sẽ có những dấu chỉ báo cho biết ngày Ngài đến lần thứ hai.
• Chúng ta phải tỉnh thức và cầu nguyện.
Ngày Sau Hết
Giờ chót, tận số, kết thúc, kết liễu, hết hạn, chấm dứt, chết... là những từ ngữ quen thuộc đối với cảm nghiệm trong đời sống. Đời sống con người chúng ta có ngày sinh và có ngày tử. Thế giới có ngày khai sinh thì cũng có ngày kết liễu. Khi có người bị bệnh nặng đang hấp hối, chúng ta thường im lặng nhìn nhau lắc đầu và nói, "Chắc là không qua khỏi đâu." Hoặc, "Đến giờ lâm chung rồi!" Tất cả đều nói lên sự tận cùng sau hết. Bằng lòng hay không bằng lòng, việc đến phải đến. Một sự thật chúng ta không thể làm ngơ đó là tất cả mọi đường đi hay lối sống sẽ đều dẫn đưa chúng ta đến ngày sau hết. Ngày đó là ngày Đức Kitô đến lần thứ hai và tất cả mọi người chúng ta sẽ đối diện với Ngài. Ngày đó Ngài sẽ hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Tiên tri Giêrêmia nói rằng, "Ngày đó, Ngài sẽ xét xử và thi hành công lý trong xứ sở. Trong những ngày đó Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ sống yên ổn. Người ta gọi tên Ngài là Đấng Công Chính của chúng tôi."
Dấu Chỉ
Để giúp chúng ta nhận ra ngày tận thế, Đức Giêsu nói trong bài Tin mừng là "sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao. Dưới đất các dân tộc buồn sầu lo lắng và biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xẩy đến." Nhiều người đã cố gắng quan sát các điềm trời và giải nghĩa các biến cố xẩy ra trên mặt đất, nhưng vẫn chưa ai tiên đoán được khi nào ngày ấy xảy ra. Đã có nhiều trận giông bão, núi lửa và động đất. Nhiều người đã kinh hoàng khiếp sợ. Nhiều dân tộc đã buồn sầu lo lắng trong đói rách và chiến tranh, nhưng vẫn chưa phải là ngày tận thế. Theo như lời của Đức Giêsu thì dấu cho chúng ta biết chắn chắn khi ngày tận thế đến là,"Người ta sẽ thấy Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả." Ngày ấy không phải là ngày để chúng ta lo sợ, nhưng là ngày chúng ta đứng dạy và ngẩng đầu lên để đón chờ giờ cứu rỗi. Nhưng làm thế nào để chúng ta có thể đứng dạy và ngẩng đầu lên để đứng vững trước mặt Đức Kitô? Ngài căn dặn chúng ta là phải tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh Thức và Cầu Nguyện
"Chúng con hãy giữ mình, kẻo lòng chúng con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời mà ngày đó thình lình đến với chúng con như chiếc lưới chụp xuống. Vậy chúng con hãy tỉnh thực và cầu nguyện luôn."
Một người tâm sự rằng, "Khi tôi còn độc thân và còn trẻ tôi thường yêu thích đi giao du với nhiều người bạn gái. Bây giờ tôi đã bốn mươi tuổi và có một người vợ tuyệt vời với hai đứa con, nhưng tôi vẫn cứ tiếp tục có những cuộc ngoại tình. Tôi cảm thấy có tội và có lỗi nhưng tôi không biết phải làm sao. Có phải tôi bị mắc chứng "mê đắm tình dục" hay không? Tôi e sợ rằng tôi sẽ phá vỡ hạnh phúc gia đình của tôi."
Đời sống con người dường như thật phức tạp. Chúng ta có nhiều cái phải lo, nhiều việc phải làm, nhiều cám dỗ phải chiến đấu, nhiều thử thách phải vượt qua. Nhiều người trong chúng ta, vì quá bận rộn với việc đời và say sưa với đam mê đến nỗi đã không mấy quan tâm đến việc sống thế nào cho đẹp lòng Chúa. Thêm vào đó, hằng ngày các đài phát thanh, truyền hình và báo chí xoáy vào đầu óc chúng ta những lời quảng cáo. Những quảng cáo đó đã thu hút, lôi cuốn và ảnh hưởng đến việc lựa chọn, hành động và lối sống của chúng ta. Chúng ta sống và hành động theo dư luận và theo ảnh hưởng của quảng cáo. Thí dụ quảng cáo bảo chúng ta rằng nách có mồ hôi là điều không tốt; và do đó chúng ta phải đi mua thuốc hôi nách. Quảng cáo bảo chúng ta rằng miệng hôi không thể hôn nhau được; do đó chúng ta luôn phải dùng thuốc xúc miệng; quảng cáo bảo loại thuốc giặt hay xà bông chúng ta đang dùng không tốt bằng sản phẩm mới; do đó chúng ta đi mua cho bằng được loại thuốc giặt mới. Chiếc xe chúng ta đang chạy không đẹp bằng loại xe mốt mới; do đó chúng ta cần phải mua xe mới. Quảng cáo đã dùng những người mẫu thật đẹp để cho chúng ta có ảo tưởng là nếu chúng ta dùng sản phẩm của họ thì chúng ta cũng hấp dẫn và khêu gợi như những người đó. Quảng cáo và xã hội thương mại bảo chúng ta phải có đèn điện, cây Noel, thiệp giáng sinh, phải mua quà cho nhau; và do đó bằng mọi cách chúng ta phải lo sắm sửa những thứ ấy. Cứ như thế rồi chúng ta hành động và sống theo những chỉ dạy của quảng cáo, của dư luận và của xã hội. Vì những ảnh hưởng ngoại lai này mà nhiều người chúng ta đã trở nên xa lạ tinh thần của mùa vọng và lễ Giáng sinh; xa lạ với nội tâm của mình là nơi Thiên Chúa nói với chúng ta và dạy dỗ chúng ta.
Để sống đúng với tinh thần của mùa vọng chuẩn bị đón Đức Kitô đến lần thứ hai, Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai đã nêu lên cho chúng ta biết chúng ta cần gì và phải sống như thế nào. "Anh em thân mến, xin Chúa gia tăng và ban cho anh em tràn đầy lòng thương yêu nhau... để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện." Ngài khuyên các tín hữu Thessalonica và mọi người chúng ta sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa hầu không có điều gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến cùng với tất cả các thánh.
76. Tỉnh thức và cầu nguyện
(Suy niệm của Lm Louis Phạm Hữu Độ, CRM)
Nước Mỹ này có nhiều tờ báo nối tiếng nhưng bên cạnh cũng chẳng thiếu những tờ lá cải đăng tin giật gân để thỏa tính tò mò của độc giả. thí dụ một tờ báo Mỹ đã đăng cái tin sau đây: "Ngày 20 tháng 6 năm 1997 quân đội Mỹ khám phá ra 1 đĩa bay bị đâm nhào xuống vùng sa mạc New Mexico. Họ lôi ra 1 người hành tinh từ trong đĩa bay và bí mật đưa về Washington DC để thẩm vấn. Người hành tinh này rất thông minh, gấp 500 lần trí thông minh của con người. Hắn ta học tiếng Mỹ trong vòng 24 giờ là có thể nói lưu loát. Hắn ta sống trong một hành tinh rất xa trái đất. Dân tộc của hắn cũng là những thụ tạo Chúa dựng nên nhưng họ cũng ham thích giầu có, quyền lực và phạm tội xác thịt nên dù bị Chúa cảnh cáo nhưng dân tộc hắn vẫn cứ xúc phạm tới Chúa. Người hành tinh này nói Thiên Chúa nổi giận với các thụ tạo khắp mọi nơi chứ không riêng gì trái đất. Và Chúa đã hủy diệt 4,000 hành tinh rồi, trái đất này sẽ là kế tiếp. Tin cuối cùng người hành tnh này cho biết là ngày 11 tháng 1 năm 2000 trái đất này sẽ bùng cháy và bị phá hủy hoàn toàn".
Tin tạo ra quá giật gân nhưng 12 năm qua rồi chẳng thấy xẩy ra. Ai nói mình biết được ngày tận thế là nói dối vì chính Chúa Giêsu đã nói ngày giờ đó không ai biết được, cho dù các thiên thần. Tuy nhiên Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu nói ngày giờ đó không ai biết được, cho dù các thiên thần. Tuy nhiên Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu nói rõ trước khi tận thế thì sẽ có những biến cố vật lý thật khủng khiếp. Còn về tâm lý thì các dân tộc buồn sầu, lo lắng. Thế nhưng chung cuộc không phải là những cái ghê rợn đó, mà là Chúa Giêsu, nguyên thủy và cùng đích, của lịch sử, sẽ xuất hiện trong danh dự và quyền năng. Rồi Chúa mời gọi chúng ta hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì giờ cứu rỗi đã tới gần. Thiên Chúa không muốn nhân loại kết thúc ở trong tình trạng tiêu cực, sợ hãi, chán chường, nhưng ở trong một tâm tình trạng tiêu cực, sợ hãi, chán chường, nhưng ở trong một tâm tình hy vọng, can đảm, bình an vì Ơn Cứu Rỗi tới gần.
Cuối cùng Chúa kêu gọi chúng ta phải Tỉnh Thức và Cầu Nguyện nếu muốn hưởng ơn Cứu Độ.
- Tỉnh thức là một động từ Phúc âm nói lên sự sẵn sàng của một đầy tớ trung tín và khôn ngoan chờ đợi chủ về. Tỉnh thức: có nghĩa là đừng quá ham mê lạc thú đời này mà quên đi hạnh phúc đời sau; có nghĩa là đừng ngủ mê trong biệt thự êm ấm của cá nhân mình mà vô cảm trước căn lều rách nát của tha nhân; có nghĩa là đừng chỉ quan tâm tới chương trình bất toàn của con người mà hững hờ với chương trình khôn ngoan của Thiên Chúa; có nghĩa là đừng quảng đại phạm tội lỗi nhưng hà tiện làm việc lành; có nghĩa là đừng nuôn chiều thân xác mà bỏ bê linh hồn.
- Cầu nguyện giúp chúng ta thăng bằng cuộc đời. Có nghĩa là biết đặt mọi sự vào đúng vị trí của nó. Thí dụ Thiên Chúa thì hơn con người, con người thì hơn con vật, linh hồn thì hơn thân xác, đời sau thì hơn đời này, vĩnh cửu thì hơn thời gian, thiên đàng thì hơn trần thế... Nói tóm lại nhờ cầu nguyện mà chúng ta khôn ngoan hơn, bình an hơn, hạnh phúc hơn.
Trong mọi sự thì Ơn Cứu Độ quan trọng nhất, chính vì lý do n ày mà Chúa Giêsu xuống thế. (Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Kinh Tin Kính). Chúng ta được hơn ma quỷ chỗ này. Chúng là các thiên thần phản loạn, nhưng một lần sa ngã là muôn đời trầm luân, chúng ta sa đi ngã lại mà Chúa vẫn cứu. Thật hạnh phúc cho nhân loại biết bao.
"Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để có thể đứng vững trước mặt Con Người" đứng vững ở đây có nghĩa là chúng ta được hưởng Ơn Cứu Độ.
77. Tỉnh thức – Lm. Leo M. Nguyễn Kim Lân, CRM
Một cô gái đang đi trên vỉa hè đường Trần Hưng Đạo – Q. 5 Sài Gòn bất ngờ bị tên cướp từ sau lao tới giật giỏ ngã đập mặt xuống đường. (Hình ảnh do camera ghi lại ngày 23.11.2012). (Với cô gái là hoàn toàn bất ngờ).
Một cô bé chạy xe đạp trên đường đi học về, một chiếc xe tải chạy sau bất ngờ lao tới cán chết cô bé. Em chẳng bao giờ nghĩ: "Hôm nay là ngày cuối cùng của đời mình". Cha mẹ em cũng chẳng nghĩ: "Con mình hôm nay đi học là mãi mãi không trở về", vì quá bất ngờ. Cuộc đời đầy dẫy chuyện bất ngờ xẩy đến với mỗi người.
Lời Chúa trong Tin Mừng Luca hôm nay nói đến, "Ngày ấy bất thần chụp xuống anh em" (Lc 21,35). Ngày không được báo trước. Đó là ngày mà diễn từ của Chúa về ngày cánh chung: "Những điều xẩy ra trên trời - dưới đất", biển gào sóng thét, các tầng trời rung chuyển, những dấu lạ, quyền lực bị lay chuyển, tất cả ám chỉ những sự kiện báo hiệu một điều quan trọng sẽ xẩy ra. Nhờ đó người ta sẽ biết được sự xét xử đang đến. Những điều ấy không phải là để "đe dọa" con người. Nhưng chính là loan báo cho mọi người biết Đấng Cứu Độ đang đến. "Bấy giờ Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả" (Lc 21, 27). "Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì anh em sắp được cứu chuộc". Và để chuẩn bị cho ngày "Con Người đến". Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy " tỉnh thức".
Chắc hẳn đã ít nhiều lần chúng ta gặp hình ảnh người lính "Người bảo vệ" cầm súng đứng gác ở đồn bốt, hay ở cơ quan chính quyền. Người lính không thể ngủ nhưng tỉnh táo với mọi động tĩnh. Một sự trung thành tỉnh thức, dù đêm hay ngày, để gìn giữ an ninh. đó là hình ảnh của người lính chân chính. Là hình ảnh gợi lên suy tư về Lời Chúa mời gọi " Anh em hãy tỉnh thức & cầu nguyện" (Lc 21,36). Sự tỉnh thức được Chúa nói đến là phải đề phòng.
- Lối sống thứ nhất là chớ để lòng mình ra nặng nề bởi một cuộc sống hưởng thụ, vùi mình trong những đam mê "chè chén" chẳng màng đến tương lai, lẽ phải, chừng mực & coi việc "sống hưởng thụ" là tất cả.
- Lối sống thứ hai lại thái quá chạy theo những gì mau qua, kém giá trị "lo lắng sự đời" mà quên đi giá trị vĩnh cửu – đề cao vật chất mà bỏ qua giá trị tinh thần.
- Tỉnh thức với cuộc sống thiếu niềm tin, đề phòng chính bản thân mình vì "ham mê sự đời" mà đánh mất tương quan với Thiên Chúa, không thực hành lối sống của người Kitô hữu thì "ngày ấy" bất thần chụp xuống làm cho "thất điên bát đảo".
Sự "Tỉnh Thức" được biểu lộ như Lời Chúa là:
- Cầu nguyện luôn – là luôn hiệp thông trọn hảo với Chúa, là luôn sống trong ân nghĩa Chúa để có thể đứng thẳng & ngẩng đầu khi Chúa đến. Khi cầu nguyện người Kitô hữu thêm vững mạnh, Người sống niềm tin sẽ được thoát khỏi tất cả những điều sẽ xảy ra trên thế giới. Người sống niềm tin có thể đứng vững trước mặt Con Người, đứng vững vì mình đang sống vô tội và thuộc về Chúa.
- Là từ bỏ những gì "nặng nề tội lỗi", làm tâm hồn không thể vươn lên cùng Chúa.
Lạy Chúa! Trong cuộc sống đầy cạm bẫy & mê lầm, xin giúp con "tỉnh thức" vượt qua những cám dỗ "say sưa sự đời này" để tâm hồn được thuộc trọn về Chúa, để có thể ngẩng đầu khi Chúa đến.
78. Hãy tỉnh thức vì không ngờ - Jos. Vinc. Ngọc Biển
Ai cũng biết ngọn núi lửa Sainte Hélène ở tiểu bang Washington. Ngày Chúa nhật 18 tháng 5 năm 1980, có một nhà địa chất học còn trẻ tên là David Johnston, với 30 bạn tổ chức cắm trại cách quả núi 8 cây số. Lúc ấy là 8 giờ 31 phút sáng Chúa nhật, bỗng dưng một tiếng nổ vang trời động địa, mạnh bằng 500 quả bon nguyên tử nổ cùng một lúc. Các thành phố chung quanh bị chôn vùi dưới trận mưa tro. Johnston co giò chạy, nhưng một dòng sông lửa đã chận đường anh, chôn vùi anh và các bạn anh dưới nấm mồ tro hừng cháy (x. Lm Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm A, tr 4).
Hôm nay, chúng ta khởi đầu năm phụng vụ mới, chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Mùa Vọng, để chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng Sinh. Một đại lễ đánh dấu kỷ niệm Con Thiên Chúa xuống thế làm người lần thứ nhất cách đây hơn 2000 năm, tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đấy, mà Giáo Hội muốn chúng ta đi xa hơn nữa để đón chờ Chúa đến lần thứ hai trong ngày quang lâm, ngày tận cùng của cuộc đời ta. Đây là điểm trọng tâm của Mùa Vọng.
Trước tiên, Mùa Vọng là mùa đợi trông và hy vọng: không phải đợi trông trong lo âu sợ sệt, mà là đợi trông trong niềm vui, hy vọng và hân hoan: “Giờ phần rỗi của chúng ta gần đến… Đêm sắp tàn, ngày gần đến”; bởi vì: “Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực” (Gr 33,14-16). Chúng ta còn mong đợi Chúa đến như một người con mong mỏi cha mình đi xa về, và, như mục tử đến với đoàn chiên: Tôi đến “để cho người ta được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Thứ đến, Mùa Vọng còn là mùa chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang như kinh tiền tụng II đã tuyên xưng: Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến. Nhưng Chúa đến giờ nào, ngày nào, chúng ta không biết, vì thế, trông đợi chính là tỉnh thức: “Ngày của Chúa sẽ đến bất ngờ, như kẻ trộm lúc đêm khuya” (1Tx 5, 2); " Hãy tỉnh thức, vì Con Người sẽ đến phán xét chúng ta vào giờ chúng ta không ngờ" (Lc 12,40). Vì thế mà ngôn sứ Isaia đã phải thốt lên: “Lạy Chúa con như người thợ dệt, đang mải dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa, cắt đứt ngay hàng chỉ…” (Is 38,21b). Tính bất định của sự sống đã được Tin Mừng nêu rõ khi Chúa Giêsu lấy hình ảnh lụt hồng thủy để nói về sự bất ngờ này: thiên hạ cứ vui chơi nhảy múa, chè chén say sưa, dựng vợ, gả chồng, cho đến khi nước lụt nhận chìm tất cả, chỉ trừ gia đình ông Nôe được cứu thoát. Hay như hai người đàn ông đang đi làm, một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang xay bột, một người được đem đi, còn người kia bị để lại.
Hoặc như người phú hộ, ông có nhiều ruộng nương và hoa lợi, đến nỗi ông quyết định xây nhiều kho mới, lớn hơn. Sau đó, ông ăn chơi, tiêu xài cho đã, nhưng cuối cùng ở tận đỉnh cao của vinh hoa phú qúy, người giàu có ấy phải lìa bỏ đời này và phải để lại tất cả. Như vậy: “Mọi sự dầu hay, hay dở, đều không chắc chắn, chỉ sự chết là chắc chắn sẽ xảy đến.” Biết được điều đó để ta luôn sẵn sàng.
Tiếp theo, Mùa Vọng là mùa “chờ đợi” và hành động, vì “chờ đợi”, không phải là ngồi để mà đợi mà mong, nhưng chờ đợi ở đây là phải cầu nguyện. Lời Cầu nguyện được ví như dầu của đèn, đèn sáng được là nhờ có dầu bên trong. “Đèn tâm hồn chúng ta” phải là “đèn bừng sáng” vì có “dầu cầu nguyện”, tức là chúng ta phải luôn cầu nguyện và sẵn sàng chờ đón Chúa, để khi “chàng rể” đến, chúng ta đang trong tinh thần tỉnh thức và tư thế hân hoan đón Người.
Cuối cùng, sống tinh thần Mùa Vọng là sống theo tinh thần của thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay đã khuyên nhủ các tín hữu: anh em hãy ăn ở làm sao cho tốt, cho xứng đáng, hãy đối xử với nhau ngày càng thêm đậm đà thắm thiết. Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người (x. 1 Tx 3,12-13). Và, trên hết mọi sự, chúng ta hãy hân hoan đón chờ ngày ấy như một niềm hãnh diện, mặc cho mọi gian nan thử thách: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.” (Lc 21,28).
Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy tỉnh thức, cầu nguyện và mong chờ ngày Chúa quang lâm:
Không ăn chơi đàn điếm,
Nhưng cầu nguyện mong chờ.
Không lẳng lơ chè chén,
Nhưng chu toàn bổn phận.
Không danh vọng, dục tình,
Nhưng sớm lễ chiều kinh.
Lạy Chúa, trong Mùa Vọng này, xin Chúa cho chúng con luôn ở gần bên Chúa trong tinh thần cầu nguyện, để lắng nghe được tiếng Chúa vang vọng trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn sống đẹp lòng Chúa và sống chan hòa với anh chị em, ước gì ngày Chúa đến, chúng con luôn đứng thẳng và ngẩng cao đầu, đón mừng ơn cứu độ Chúa thương ban. Amen.
79. Ngẩng đầu hay gục đầu? - JM. Lam Thy ĐVD.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.I/MV-C – Lc 21, 25-28. 34-36) trình thuật về ngày tận thế. Thánh sử Lu-ca chỉ lấy lại những hình ảnh văn chương đã có sẵn theo truyền thống Khải huyền. miêu tả thời cánh chung của vũ trụ có nhiều điềm lạ (“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.” – Lc 21 25-26). Đó chỉ là quang cảnh làm hình nền cho việc tiên báo sự kiện Con Người quang lâm. Chính điều này mới là trọng tâm, và vì thế, tác giả rất chú trọng đến sự kiện cuối cùng này, và ngài đã mượn lại lời ngôn sứ Ða-ni-en trong một thị kiến (Đn 7, 1-14) để tường thuật: Thoạt tiên ngôn sứ thấy bốn con vật từ biển đi lên phá phách dữ tợn. Rồi ông thấy một Con Người hiện đến trong mây được trao quyền thống trị trời đất và các dân tộc (“Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến...”).
Những lời tiên tri này rất thích hợp để nói về ngày Chúa Ki-tô tái quang lâm. Người chẳng phải là Con Người đó sao? Cùng lúc Ðức Giê-su Ki-tô có 2 bản tính: bản tính nhân loại + bản tính thần linh. Hình ảnh một Con Người đến trong mây rất thích hợp để nói lên cả hai bản tính ấy nơi Người. Nhưng nếu chỉ viết “Con Người ngự giá mây trời mà đến” thì vẫn chưa đủ để diễn tả việc Người trở lại lần thứ hai, nên thánh Lu-ca phải thêm vào hình ảnh Con Người những lời chú thích cần thiết: “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến" (Lc 21, 27). Những lời chú thích này chỉ được dùng để nói về Ðức Giê-su Ki-tô sau ngày Phục Sinh. Và như vậy, tác giả muốn nói rằng: Khi Ðức Giê-su Ki-tô trở lại sẽ không như lần trước – lúc Người giáng sinh làm người trong thân thể một Hài Nhi bé bỏng và yếu ớt – mà Ngườii sẽ đến với uy quyền và vinh quang tuyệt đỉnh.
Thánh sử Lu-ca thừa biết rằng có nhiều suy nghĩ không cần thiết về ngày Chúa lại đến, nên ngài rất dè dặt trong việc trình thuật. Ngược lại, ngài chú trọng đến thái độ người tín hữu phải có cho ngày trọng đại ấy. Theo ngài, ngày ấy sẽ kinh khủng cho thiên hạ; nhưng đối với các tín hữu, đó là ngày cứu độ. Ngài nhắc nhở: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” (Lc 21, 28). Vâng, có lý nào những người tin thật Đấng Cứu Thế Giê-su Ki-tô, lại sợ hãi trước việc Người trở lại? Phải chăng chỉ có những kẻ không có hoặc đã đánh mất niềm tin, không còn sống theo niềm tin ấy? Do đó, tác giả mới khuyên ai nấy hãy sẵn sàng, đừng để ngày ấy đến chụp lấy mình như một cái lưới. Những kẻ chỉ lo chè chén say sưa và lo lắng sự đời, chắc chắn sẽ bị bất ngờ không kịp sửa soạn. Còn những ai vững niềm tin, luôn tỉnh thức và cầu nguyện thì chắc chắn “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”
Khi miêu tả sự tự tin của con người trước một biến cố nào đó, người ta thường dùng cụm từ “đứng thẳng và ngẩng cao đầu”. Ngẩng cao đầu không phải là thái độ kiêu ngạo coi thường sự việc, mà chính đó là một cách biểu lộ một niềm tin vào chủ định của bản thân. Nếu Ki-tô hữu đã vững tin vào Người Con đã vâng lời Thiên Chúa Cha xuống thế mặc xác phàm, chịu khổ hình chết treo trên thập giá và phục sinh vinh hiển, để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết đời đời; đồng thời tin vào những lời dạy bảo của Người về ngày Người sẽ quang lâm lần thứ hai, thì chắc chắn “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” vui hưởng hồng ân cứu độ. Ấy cũng bởi vì chính Con Người đã khẳng định: “Tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian” (Ga 12, 47).
Một cách cụ thể, muốn “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” khi Con Người quang lâm, thì đừng lo lắng sợ sệt thái quá để rồi “rút cổ, gục đầu” phó mặc cho số phận đẩy đưa. Chẳng có số phận nào cả, mà chỉ có những "Đồ-Ghê-Tởm-Khốc-Hại đứng ở nơi nó không được phép đứng” cùng với những “Ki-tô giả” doạ nạt, lừa đảo người ta (Mc 13, 14-23) mà thôi. Không sợ hãi lo lắng thái quá, nhưng cũng không lơ là mất cảnh giác để "Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất”; mà phải là “tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người." (Lc 21, 34-36).
Tỉnh thức không phải chỉ là thức suốt đêm này qua đêm khác như một người bị bệnh mất ngủ, mà là phải tỉnh táo, canh giữ, phòng vệ trong mọi trường hợp, mọi lúc, mọi nơi. Nói cách khác là phải cảnh giác trước những hiện tượng thiên nhiên và nhất là những trò lừa bịp của ma mị quỷ quái thông qua những “Ki-tô giả, ngôn sứ giả”, đồng thời phải tìm đến với Lời Chúa, lắng nghe Lời Chúa và kiên quyết sống theo Lời Chúa dạy. Vâng, nhất quyết "Phải như thế, vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng." (Rm 13, 11-14).
Nói thì đơn giản, nhưng thực hành được mới là thiên nan vạn nan, vì vào những ngày ấy từ hiện tượng thiên nhiên đến tâm trạng con người không lúc nào được bình lặng. Hơn thế nữa, còn biết bao nhiêu “Đồ Ghê-Tởm-Khốc-Hại” hay “Ki-tô giả, ngôn sứ giả” cũng chẳng để yên cho con người có đủ tỉnh táo mà phòng vệ. Chính vì thế, nên phải “tỉnh thức và cầu nguyện”, vì đó là hai chiều kích tất yếu nhắm tới mục tiêu duy nhất là “đứng vững trước mặt Con Người” trong ngày cánh chung. Cầu nguyện xin Chúa ban Thần Khí để Người soi sáng cho hiểu biết tận căn sự chân thật và điều giả dối, đâu là người công chính, đâu là kẻ giả hình, đồng thời Người ban cho đầy đủ can đảm và dũng khí đối diện với mọi nghịch cảnh, thử thách nghiệt ngã, để sẵn sàng đón Chúa trong ngày Người trở lại lần thứ hai.
Thật ra, giáo huấn của Hội Thánh về việc Chúa trở lại rất trong sáng và đơn giản. Hội Thánh khuyên nhủ mọi Ki-tô hữu phải tin và sẵn sàng, tức là phải trông đợi trong hy vọng. Mùa Vọng là mùa trông đợi, mong ngóng, chờ đón Tin Mừng Đấng Cứu Thế quang lâm lần thứ hai. Đã đành là Chúa đã đến, đang đến và luôn sẵn sàng ở lại trong cung lòng mỗi người hàng ngày hàng giờ, nhưng chỉ những người ngay lành, công chính mới thực sự được Chúa ở cùng "mọi ngày cho đến tận thế". Tuy rằng ngày Chúa quang lâm lần thứ hai chưa tới, nhưng nó có thể tới bất cứ lúc nào, tới vào lúc loài người bất ngờ nhất, và khi Người tới thì toàn thể nhân loại đều được diện kiến. Duy chỉ có điều – và là điều cần quan tâm nhất, cần lo lắng nhất – là vào ngày giờ ấy, ai sẽ được đứng ở bên phải và ai sẽ phải đứng ở bên trái Người.
Chính vì thế, xin hãy biến 4 tuần lễ Mùa Vọng đón chờ ngày Chúa giáng sinh trong năm Phụng vụ thành Mùa Vọng trong suốt cuộc đời trông đợi Chúa quang lâm vào ngày cánh chung vũ trụ. Ngay từ bây giờ, có thể anh vừa mới sinh ra, có thể chị đang ở tuổi thanh niên, trung niên, có thể ông bà đang ở vòng bóng xế, và cũng có thể các cụ đang thèm ăn đất hơn thèm ăn cơm, chân trên lỗ chân dưới lỗ, xin tất cả "Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ" (Lc 12, 35-37). Vâng, xin hãy thực sự sống cuộc đời trần thế cho Mùa Vọng Nước Trời mai hậu trong tư thế đứng thẳng và ngẩng cao đầu diện kiến Thiên nhan Đấng Cứu Tinh. Ước được như vậy. Amen.
80. Suy niệm của Lm. Mark Link
CHẾT ĐẾN NƠI MÀ VẪN LO DỌN DẸP SAO?
"Hãy tỉnh thức và cầu nguyện chờ Chúa đến với chúng ta"
Đêm 15.04.1912, tàu TITANIC đang chạy trên vùng Bắc Đại Tây Dương thì đụng vào một tảng băng, con tàu lâm nguy và bị đắm, hơn 1.500 người thiệt mạng. Đó là một trong những tai nạn đường biển khủng khiếp nhất trong lịch sử từ trước tới nay.
Cách đây vài năm, có một tạp chí đã nhắc lại thảm hoạ này và nêu ra cho độc giả một câu hỏi nghe lạ tai mang đầy tính châm biếm: "Lúc tàu TITANIC đang chìm, nếu chúng ta có mặt ở đó, liệu chúng ta có còn tiếp tục dọn dẹp bàn ghế trên tàu không?"
Thoạt tiên ai cũng tự nhủ: "Câu hỏi này mới khôi hài làm sao!", vì ngay lúc còi hụ báo tàu đang chìm thì người có tâm trí bình thường; ai mà lo đi thu xếp bàn ghế? Người có chút tỉnh táo thì ai lại có thể phớt lờ tiếng kêu la của đám người sắp chết đuối, để mải mê lo dọn dẹp bàn ghế!"
Tuy nhiên, cứ tiếp tục đọc bài báo đó, chúng ta sẽ hiểu được tại sao tác giả lại nêu lên câu hỏi kỳ quặc trên, để rồi đột nhiên chúng ta sẽ tự hỏi chính mình "Khi chiếc tàu đang chìm xuống như thế, biết đâu chừng mình lại tiếp tục dọn dẹp bàn ghế? Chẳng hạn như mình vẫn cứ mải mê lo những chuyện vật chất đời này đến nỗi bỏ bê cả những việc thiêng liêng đạo đức của mình? Hay mình cứ miệt mài kiếm sống đến nỗi chả còn đầu óc để chú ý đến cùng đích cuộc sống là gì nữa? Hay mình đã quá đắm mình trong cuộc sống đến nỗi quên mất lý do tại sao Chúa đã trao ban cuộc sống ấy cho mình?
"Khi chiếc tàu đang chìm, liệu chúng ta có mải mê lo thu xếp đồ đạc trên tàu mà quên mất mình sắp chết đến nơi chăng?" Câu hỏi đó trùng hợp một cách lạ lùng với câu hỏi mà Giáo Hội muốn nêu ra cho chúng ta trong Mùa Vọng này. Cả ba bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều kêu gọi chúng ta tự vấn "Liệu chúng ta có tiếp tục mải mê thu xếp đồ đạc mà quên mất nguy hiểm là chiếc tàu đang chìm không? Chúng ta có quá bận rộn với cuộc sống này đến nỗi quên rằng mục đích cuộc sống này là để chuẩn bị cho cuộc sống mai sau không?" Quả thế, trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta: "Các con đừng bê tha chè chén say sưa hay quá lo lắng sự đời", nghĩa là Ngài khuyên chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện chờ Chúa đến. Chủ đề này được lập đi lập lại trong Phúc âm dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn ở một đoạn Phúc âm khác, Chúa Giêsu nói: "Hãy coi chừng; hãy tỉnh táo: các con không biết được ngày giờ nào Con Người sẽ đến, vào giấc tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay vào buổi sáng… điều Ta nói với các con cũng là điều Ta muốn nhắn nhủ mọi người đó là Hãy tỉnh thức" (Mc. 33, 35-36).
Như vậy rõ ràng Mùa Vọng mời gọi chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện để chờ đón Chúa đến.
Tôi xin đưa ra một ví dụ cụ thể để minh hoạ điều Chúa Giêsu muốn nói khi Ngài bảo chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện để chờ đón Chúa đến.
Cách đây mấy năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám bệnh cho anh, ông bác sĩ riêng của anh đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử biết: "Tình trạng sức khoẻ của anh bi đát lắm: chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẫu kéo dài 36 tiếng đồng hồ, may ra mới có thể cứu sống anh được". Về sau, chàng tài tử ấy đã thực sự thú nhận: "Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám ra rằng nhờ những lời tâm sự, nói chuyện hàng ngày với Đức Giêsu trước đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân".
Phúc cho ai nói lên được lời này khi Chúa đến: "Lạy Chúa, sau bao năm trung thành với việc tỉnh thức cầu nguyện, giờ đây con vui mừng được diện kiến Ngài". Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, đó chính là sứ điệp Giáo hội truyền dạy chúng ta trong chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng này. Vậy, chúng ta hãy lo tỉnh thức cầu nguyện để khi Chúa Giêsu đến, Ngài sẽ nói với chúng ta:
"Hãy đến đây, hỡi các con yêu dấu của Ta. Sau bao năm tháng xa cách, Ta thật hết sức vui mừng được gặp lại các con".
Tôi xin kết thúc bài giảng hôm nay bằng lời cầu nguyện của một tác giả vô danh thuộc một trường dành cho dân da đỏ tên là Red Cloud (Hồng Vân) miền Pine Ridge tiểu bang South Dakota. Tư tưởng của lời cầu nguyện này có liên quan đến chủ đề phụng vụ hôm nay là Hãy Tỉnh Thức và Cầu Nguyện:
"Kính lạy Thần Trí cao vời, hơi thở Ngài đem đến nguồn sống cho thế gian, con đang nghe tiếng Ngài thì thầm trong gió thổi.
Xin hãy lắng nghe con là kẻ bé mọn yếu hèn đang khấn cầu Ngài đây.
Xin cho con bước đi trên đường thiện mỹ, đôi mắt lúc nào cũng chiêm ngắm cảnh hoàng hôn màu tím, cho đôi tay con biết kính trọng mọi tạo vật của Ngài, và đôi tai con luôn nhạy bén nghe lời Ngài nói
Xin cho con ơn khôn ngoan để hiểu thấu những lời giáo huấn của Ngài, mà để con chế ngự kẻ thù hung hãn nhất là chính bản thân mình.
Xin cho con luôn sẵn sàng đến gặp Ngài với đôi tay thanh sạch và đôi mắt thẳng ngay và khi cuộc đời xế tàn tựa bóng hoàng hôn lịm tắt, tâm hồn con không phải hổ thẹn khi diện kiến Ngài. Amen."
81. Hãy tỉnh thức – Lm. Mark Link SJ.
Một ngày trong tháng 12, cậu Gary Schneider 16 tuổi và hai người bạn lên đường để leo núi Mt.Hood dự tính trong vòng 4 ngày.
Lên được 9.000 bộ (tức gần 3 km), ba cậu bé bị một cơn bão tuyết có lẫn đá thổi tới và vùi lấp. Chẳng bao lâu tuyết đã ngập khỏi đầu các cậu. Các cậu bèn đào hầm chui vào đống tuyết để thoát khỏi những luồng gió lạnh buốt thổi tới và để chờ đợi cho qua trận bão tuyết.
Mười một ngày sau, trận bão tuyết vẫn còn tiếp tục thổi dữ tợn. Các túi dùng để chui vào ngủ của các cậu đã bị ướt và đông cứng lại. Thức ăn dự trù chỉ còn đủ cho mỗi người mỗi ngày được hai muỗng bột làm bánh. Nguồn an ủi duy nhất của các cậu bây giờ là cuốn Thánh kinh gọn nhỏ mà một cậu đã mang theo trong túi hành trang.
Các cậu mở sách Thánh Kinh và đọc mỗi ngày tám tiếng. Đúng là một cảnh tượng ngộ nghĩnh: trong một cái hầm đào trong tuyết rộng 5 bộ vuông (chưa đầy 1m2), có ba cậu bé mới mười mấy tuổi đầu đang ngồi chồm hổm trên những cái túi ngủ đọc sách. Chỉ có một chút ánh sáng mờ ảo phản chiếu từ cái lỗ hầm nho nhỏ ở phía trên.
Tại đó, ba cậu tụm lại với nhau hết giờ này tới giờ khác, ngày này qua ngày khác, cùng nhau lắng nghe Lời Chúa bất chấp tiếng gió hú bên trên.
Cuốn Thánh Vịnh dường như là cuốn nói hay nhất về tình trạng hiện tại của các cậu. Đavid có viết một vài bài khi ông bị lâm vào những tình trạng không khác gì các cậu; đói, cô đơn, không biết chuyện gì sắp xẩy đến, chỉ còn biết tin tưởng ở Chúa.
Nếu có ai cứu giúp, thì người đó chỉ có thể là Thiên Chúa. Chờ đợi như thế không phải chuyện dễ. Các cậu chỉ còn biết cầu nguyện, hy vọng cơn bão tuyết sẽ chấm dứt và sẽ có người tới cứu giúp.
Cuối cùng, vào ngày thứ 16, bầu trời trong sáng trở lại, các cậu bò ra khỏi hầm bằng tuyết của mình. Qua cơn ngặt nghèo ấy các cậu trở thành yếu đuối, và ra khỏi hầm các cậu chỉ có thể bước đi được một ài bước. Ngày hôm sau có một nhóm người cứu trợ bắt gặp các cậu trong tình trạng như thế. Cuối cùng cơn thử thách khiến các cậu phải chờ đợi lâu dài đó đã chấm dứt.
Câu chuyện của các cậu bé, phải tụm lại với nhau trong hầm bằng tuyết chờ đợi cơn bão chấm dứt, là một hình ảnh tuyệt hảo tượng trưng cho mùa vọng.
Mùa vọng nhắc lại thời gian chờ đợi lâu dài của dân Do Thái mong mỏi Đấng Cứu Thế đến. Họ không biết làm gì để cho Đấng Cứu Thế mau đến hơn họ chỉ biết chờ đợi và cầu nguyện y như các cậu bé kia đã làm trên ngọn núi Mt.Hood. Dân Do Thái chỉ còn biết tin tưởng và chờ đợi Thiên Chúa sẽ đến để giải cứu họ.
Một trong những bài Thánh vịnh mà ba cậu bé cứ đọc đi đọc lại để cầu nguyện trên ngọn núi Mt.Hood là thánh vịnh 130. Trong đó có một câu như sau: "Tôi mòn mỏi trông chờ Chúa cứu độ, và tôi tin tưởng ở lời Ngài. Tôi mòn mỏi trông chờ Chúa còn hơn ngừơi lính gác mong chờ hừng đông". Nếu không có Lời Chúa nâng đỡ tinh thần, thì các cậu dễ dàng thất vọng lắm. Dân Do Thái cũng như vậy khi họ mong chờ Đấng Cứu Thế. Nếu không có Lời Chúa ủi an họ, thì họ cũng sẽ thất vọng dễ dàng.
Nhưng Mùa vọng không hẳn là thời gian để chúng ta nhớ lại và sống lại việc người Do Thái trông chờ Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Mùa vọng còn có ý nghĩa hơn như thế nhiều.
Mùa vọng cũng là thời gian để chúng ta tưởng nhớ việc Đức Giêsu sẽ trở lại vào thời cuối cùng của lịch sử, lúc chúng ta ít mong đợi nhất. Chính vì thế mà Thánh sử Marcô nói với chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay như sau:
"Hãy coi chừng, hãy tỉnh thức...Đừng để khi Đức Giêsu bất ngờ đến mà Ngài lại thấy các bạn còn đang ngủ. Những gì tôi nói với các bạn, thì tôi cũng nói với tất cả mọi người: Hãy tỉnh thức".
Điều này dẫn chúng ta đến quan điểm thứ hai về Mùa vọng. Bạn và tôi, chúng ta đang sống trong khoảng thời gian quan trọng giữ hai thời điểm: lúc Đức Kitô đến lần thứ nhất và lúc Ngài đến lần thứ hai.
Công việc của chúng ta không phải là cứ ngồi chăm chú và thánh thiện nhìn lên bầu trời để tưởng nhớ việc Đức Kitô đến lần thứ nhất và trông chờ Ngài đến lần thứ hai. Bổn phận của chúng ta là hoàn tất công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm. Trước khi trở về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói với kẻ theo Ngài:
"Các con hãy đi khắp nơi, đến với mọi dân tộc, rao giảng cho họ về nước trời, rửa tội cho họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy cho các con. Và Thầy sẽ luôn luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt. 28, 19-20)
Mùa vọng là thời gian để chúng ta kiểm điểm lại xem chúng ta đã làm điều đó tốt đẹp thế nào. Mùa vọng là thời gian để chúng ta tự nhủ một cách đặc biệt rằng: khi Đức Giêsu trở lại, Ngài sẽ xér xử chúng ta xem chúng ta đã làm việc như thế nào để loan truyền nước Thiên Chúa ở trần gian này.
Đức Kitô đã chết. Đức Kitô đã phục sinh. Đức Kitô sẽ trở lại. Cho tới khi Ngài trở lại, chúng ta phải lưu tâm tới công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm.
Chúng ta phải cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới mặc, tiếp đón khách đến nhà, làm việc cho hoà bình, và yêu thương nhau như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.
Đây là sứ điệp mà những bài đọc hôm nay muốn nhắn nhủ chúng ta. Sứ điệp đó là: Chính Đức Giêsu, Đấng đã sống ở trần gian cách đây hơn hai ngàn năm, sẽ trở lại vào ngày tận thế đúng lúc chúng ta không ngờ tới. Khi Ngài trở lại, Ngài sẽ xét xử từng cá nhân mỗi người chúng ta về cách thức chúng ta hoàn thành công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm.
Chúng ta hãy hồi tâm lại để cầu nguyện, xin Đức Giêsu giúp chúng ta trung kiên trong công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta thực hiện.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban cho chúng con sức mạnh, vì đôi khi chúng con gặp phải những vấn đề khó khăn rắc rối khiến chúng con muốn bỏ cuộc.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tình yêu của Ngài, vì đôi khi chúng con bị người khác hất hủi khiến chúng con bị cám dỗ ghét bỏ họ.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban cho chúng con đôi mắt của Ngài, vì đôi khi cuộc đời trở thành đen tối khiến chúng con không còn biết đâu là đường chúng con phải đi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban chính Ngài cho chúng con. Tâm hồn chúng con đã được dựng nên để yêu Ngài, nên tâm hồn chúng con sẽ không bao giờ an nghỉ cho đến khi nào được nghỉ an trong Ngài.
82. Hãy nhìn đường - Gm. Arthur Tonne
Ít năm trước đây, một tài xế xe buýt thuộc bang Oklahoma đạt kỷ lục xuất sắc. Trong 23 năm, anh lái xe buýt trên 1.500.000 km không gây một tai nạn nào. Khi được hỏi làm sao anh đạt được kỷ lục ấy, anh trả lời đơn giản: "Hãy nhìn đường"
Bài Tin mừng hôm nay cho một lời khuyên tương tự "Hãy tỉnh thức luôn". Đức Giêsu dùng nhiều kiểu nói: "Hãy coi chừng". "Hãy để ý" "Hãy ngẩng đầu lên". Đó không phải chỉ là lời khuyên có ích cho đời sống thiêng liêng, mà còn là qui luật an toàn cho đời sống thường ngày nữa, chúng ta cũng thường nói: "Hãy chú ý", "Hãy cảnh giác", "Ngẩng đầu lên", "Nhìn cho kỹ".
Để lái một chiếc xe hay một chiếc xe buýt, chúng ta "phải nhìn đường", một lực sỹ thể thao cần phải lẹ mắt anh phải sẵn sàng đối phó với những cảnh huống bất ngờ, anh phải theo dõi trái banh.
Muốn đạt kết quả trong trường. Người học sinh phải nhìn thầy, cô giáo, các em phải chăm chú, lắng nghe, phải theo dõi những gì đang diễn tiến, phải lắng nghe những thầy cô giảng.
Qui luật này cũng áp dụng cho công việc thường ngày của chúng ta nữa; một bà mẹ canh chừng con nhỏ, để ý đến cái nồi, cái chảo trên bếp, bà cũng phải chăm chú và cảnh giác.
"Ngước đầu lên" được áp dụng đặc biệt trong phụng tự công chung của gia đình Thiên Chúa- nhất là trong Mùa vọng này. Chúng ta phải tỉnh thức trong thánh lễ, không phải chỉ tỉnh thân xác mà thôi, nhưng thức tỉnh cả tâm trí và linh hồn. "Hãy nhìn đường" có thể đổi là "Hãy nhìn bàn thờ". Hãy theo dõi những lời cầu nguyện và những câu đối đáp. Hãy mở miệng ca hát. Hãy cố gắng nắm lấy ý nghĩa những gì bạn đọc, bạn hát. Hiểu ý nghĩa của từng lời, từng chữ.
"Hãy ngẩng đầu lên". Hãy nhìn của Lễ Thánh, nhìn chén Máu Thánh châu báu. Chúng ta đang tiến đến cùng Chúa Kitô trong lúc này. Ít phút nữa chúng ta sẽ gặp Ngài trong Giáng sinh của thánh lễ. Ít tuần nữa chúng ta sẽ mừng Ngài trong giáng sinh của Belem. Ít năm nữa, chúng ta sẽ ở với Ngài trong giáng sinh vô tận trên thiên đàng. Hãy chuẩn bị cho cả ba lễ giáng sinh đó. Nhìn đường, nhìn bàn thờ.
Ý tưởng này lặp đi lặp lại trong bài đáp ca hôm nay: "Ôi lạy Chúa, xin chỉ cho con đường lối của Chúa"
Xin dạy bảo con lối bước của Chúa… xin hướng dẫn con trong chân lý của Chúa… Chúa chỉ cho con đường lối.. Chúa hướng dẫn người khiêm nhường.. Mọi nẻo đường của Chúa thì thiện hảo và vững bền.
Cuộc sống hàng ngày cũng giống như lái một chiếc xe, nhất là chiếc xe buýt, chúng ta có trách nhiệm thiêng liêng với tha nhân. Chúng ta cần một người chỉ đường và hướng dẫn.
Qua lời cầu nguyện và việc dâng Thánh Lễ, xin Chúa Giêsu giúp chúng ta tỉnh thức, xin Người giúp chúng ta tránh khỏi những gì làm chúng ta vấp ngã. Tránh khỏi những gì làm thiệt hại cho những người chúng ta chịu trách nhiệm. Xin Chúa Giêsu giúp chúng ta đón nhận Người đến trong Thánh Lễ, người đến trong Lễ Giáng Sinh và Người đến trong uy quyền và vinh quang trong phút cuối cuộc hành trình của chúng ta. Amen.
83. Hãy tỉnh thức
(Suy niệm của Lm Jude Siciliano OP - Chuyển ngữ: Anh em Học Viện Đaminh Gò Vấp)
"Đồng xu rơi" (thành ngữ này có nghĩa là chợt hiểu ra). Đó là cụm từ một phụ nữ ở Maine trong đợt tĩnh tâm của giáo xứ đã dùng để tóm kết bài Tin Mừng hôm nay. Tôi chưa nghe thành ngữ này bao giờ mà cũng chẳng biết nguồn gốc của nó xuất phát từ đâu. Dường như thành ngữ này đã có từ "xa xưa" khi những đồng xu được sử dụng trong những thiết bị như cái cân nơi công cộng. Những đồng xu có thể đã được sử dụng. Sau khi thả đồng xu vào máy, người ta phải chờ một chút cho đến khi "đồng xu rơi xuống" và rồi cái cân cho biết mình nặng bao nhiêu.
Vì thế, thuật ngữ trên ám chỉ việc nhận ra điều gì đó sau một một lúc băn khoăn và chờ đợi. Có một sự liên hệ trong tiểu thuyết của Nigel Balchin, trong đó nhân vật thủ vai chính nói rằng, "Tôi ngồi suy nghĩ một lúc sau đó mới chợt hiểu ra". Chúng ta hãy trở lại Mùa Vọng và bài Tin mừng hôm nay để xem "chợt hiểu" như thế nào.
Với năm phụng vụ mới này, chúng ta bắt đầu những bài đọc Chúa Nhật trong Tin Mừng của thánh Máccô. Đây có thể là sự khởi đầu của năm phụng vụ, nhưng Tin mừng Máccô bắt đầu từ đâu? Bài đọc hôm nay không bắt đầu năm phụng vụ của chúng ta với chương thứ nhất, câu một, nhưng đoạn văn hôm nay là phần kế cuối của Tin Mừng Máccô.
Bối cảnh của đoạn Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu vào Giêrusalem (11,1), nơi đó Người sắp kết thúc sứ vụ công khai của mình. Người khép lại cuộc sống phụng tự trong Đền thờ (11,15) và bước vào cuộc tranh luận với các thầy dạy truyền thống đức tin (12,12). Sau đó, từ trên núi Ôliu, Người tiên báo sự sụp đổ của thành Giêrusalem và ngày tận cùng của thế giới (13,1).
Bài Tin mừng được chọn đọc hôm nay kết thúc lời giảng dạy của Chúa Giêsu với các môn đệ. Vì vâng lời Chúa Cha và trao hiến chính mình trên thập giá, Chúa Giêsu sắp rời xa các môn đệ. Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu liên hệ sự ra đi của Ngài với "người trẩy đi phương xa". Ông chủ đang rời xa, nhưng chắc chắn ông sẽ trở lại; dù những người đầy tớ được trao trách nhiệm trông coi nhà cửa không biết khi nào ông chủ về. Có một điều chắc chắn là khi ông chủ trở về ông muốn thấy nhà mình ngăn nắp và đầy tớ của ông còn tỉnh thức. Họ phải luôn luôn tỉnh thức.
Mùa vọng đã bắt đầu và chúng ta cần được điều này nhắc nhở rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại, vì ai trong chúng ta đã không từng có lúc ngủ quên trong việc phục sự Chúa? Dụ ngôn này nhắc chúng ta ý thức đầy đủ về sự sẵn sàng của người môn đệ. Đồng xu sẽ rơi xuống và chúng ta cần phải tỉnh thức cho đến giây phút chắc chắn đó trong cuộc đời mình.
Có vẻ như thánh Máccô đang nói về một biến cố tương lai. Nhưng ngài lại không lưu tâm đến tương lai vì ngài đang muốn nói và nhấn mạnh với cộng đoàn của ngài về thái độ của một Kitô hữu đối với hiện tại. Thánh Máccô nhắc lại một dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể để giúp thính giả không những chuẩn bị cho sự trở lại của Chúa Giêsu; mà còn đáp lại sứ điệp của Người ngay lúc đó.
Nếu dụ ngôn chỉ đơn thuần muốn cảnh giác các Kitô hữu hãy tỉnh thức, thì hóa ra sự nhấn mạnh đó chỉ tập trung vào người giữ cửa, vì anh ta là người đón ông chủ vào. Vậy, mục đích và nhiệm vụ của những người đầy tớ khác là gì? Chẳng lẽ họ chỉ là những nhân vật phụ trong bối cảnh của câu chuyện này sao? Thánh Máccô có lẽ đang nghĩ đến cộng đoàn rộng lớn hơn của ngài - tất cả những người "đầy tớ" trong Giáo hội lãnh trách nhiệm của mình và họ phải được động viên để luôn cảnh giác. Vì thế, những hàng cuối của dụ ngôn là, "điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!" Những lời kết thúc của Chúa Giêsu như nói với tất cả những người tin sau này rằng hãy tỉnh thức.
Tin mừng của thánh Máccô dẫn đến trình thuật cuộc Khổ nạn. Sau khi ở Caesarea Philippi, chúng ta tiếp tục cuộc hành trình với Chúa Giêsu về Giêrusalem, nơi đó Người hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Với dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay, thánh Máccô tóm kết diễn từ khải huyền dành cho cộng đoàn của ngài. Bây giờ thánh sử sẵn sàng thuật lại những sự kiện dẫn đến Cuộc Khổ Nạn. Vì vậy, lời khuyên sau cùng của đoạn Tin mừng ngày hôm nay thật ý nghĩa đối với chúng ta. Chúng ta được cảnh báo "hãy tỉnh thức". Tất nhiên, đó là sự nhấn mạnh về việc tỉnh thức và sự chuẩn bị đón ông chủ trở về. Nhưng có lẽ thánh Máccô cũng đang nhấn mạnh ý nghĩa về những gì đang xảy ra. Ngài kêu gọi chúng ta "hãy tỉnh thức". Những sự kiện lớn lao diễn ra đều có ý nghĩa sâu sắc đối với mỗi người chúng ta. Hôm nay đã bắt đầu mùa Vọng, nhưng cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu được liên hệ với mùa này nhằm giữ chúng ta trong tư thế sẵn sàng và lưu tâm đến những gì mà Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ: sự tỉnh thức, lòng trung thành và phục vụ hy sinh vì danh Người.
Nhiều người mới hoán cải trong các giáo xứ sẵn sàng chia sẻ niềm phấn khởi của cuộc trở lại của mình. Nghi thức Khai tâm Kitô giáo cho người lớn là một tiến trình mà ở đó không chỉ dẫn họ vào trong Giáo hội mà còn thắp lên trong cuộc đời của họ một ngọn lửa niềm tin nồng ấm. Khi nghe các câu chuyện của những người mới trở lại, người ta hy vọng rằng niềm tin của họ sẽ giữ được niềm phấn khởi và sự sống động mãi như hiện nay. Nhưng họ và chúng ta dễ dàng bị cuốn vào nếp thường ngày và những phỏng đoán trong lời nguyện cũng như các thực hành đức tin.
Mùa Vọng bắt đầu với lời kêu gọi tỉnh thức, mời gọi và thôi thúc chúng ta tự vấn: "Tôi phải nhạy bén thế nào với Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày?" Chúng ta biết rằng mình đang mong chờ cuộc quang lâm của Thiên Chúa trong tương lai, trong khi đó, tôi tỉnh thức ra sao với sự hiện diện của Người ngay ở đây và lúc này trong cuộc đời tôi? Chúng ta tin Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện ở giữa chúng ta. Chính niềm tin đó hôm nay đã qui tụ chúng ta quanh bàn thờ để nghe lời của Người và lãnh nhận Mình và Máu của Người để giúp chúng ta luôn cảnh giác và thức tỉnh chúng ta nếu chúng ta đang ngủ quên. Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhở, "đồng xu sẽ rơi".
Một người khác trong đợt tĩnh tâm đó đã thuật lại về những gì mà người mẹ 85 tuổi của chị mới nói với chị: "Cuộc đời của mẹ qua đi quá nhanh!" Ngẫm nghĩ về câu nói của mẹ, chị chia sẻ rằng, "Một ngày nào đó tôi cũng sẽ nói như vậy, vì thế, bây giờ tôi cần làm những gì phải làm, vì tôi đang còn có thời gian." Đó là một quyết tâm Mùa Vọng mà tôi từng được nghe.
Trong ánh sáng của bài Tin mừng hôm nay, người phụ nữ mô tả sự "chờ đợi chủ động". Tựa như lau nhà khi tôi chuẩn bị đón khách đến. Điều đó khác với sự "chờ đợi thụ động", nghĩa là chỉ để cho thời gian trôi qua mà không tập trung và cũng chẳng tỉnh thức như Tin mừng đòi chúng ta. Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy ý thức trách nhiệm khi chúng ta sống trong "thời gian sẵn sàng và sắp tới". Người Dothái chờ đợi với lòng khao khát sự xuất hiện của Đấng Mêsia. Chúng ta tin rằng Người đã đến, nhưng bây giờ chúng ta đang chờ đợi tích cực, sự chờ đợi đó được duy trì bởi niềm tin và hy vọng của chúng ta rằng Chúa Giêsu, Người đã đến và sẽ lại đến. Hãy để ý cách Chúa Giêsu lặp lại yêu cầu "hãy tỉnh thức". Nếu chúng ta đang cố gắng sẵn sàng mọi lúc, chúng ta sẽ gặp được Đức Kitô khi Người đến mỗi ngày. Đó là vì giây phút hiện tại là cơ hội. Thời gian trong Kinh thánh có thể được diễn tả theo cách mà chúng ta thường nói đến. Chúng ta nhìn vào đồng hồ và nói, "11 giờ sáng". Đó là giờ "chronos" trong tiếng Hylạp, nó chỉ phút, giờ, ngày, v.v... Nhưng trong Kinh thánh còn có giờ "kairos" - một thời cơ đặc biệt; một khoảnh khắc mà một điều không mong đợi lại xảy ra và làm thay đổi những công việc hằng ngày của chúng ta, hoặc thời khắc đó đưa chúng ta đến một thời cơ. Tin mừng đang nói về thời gian "kairos" và khiến chúng ta ngẫm nghĩ: có phải tôi chỉ đang chỉ giờ, bận rộn chờ đợi thứ tương lai xa rời với hiện thực. Hoặc tôi có cảm giác rằng hiện tại có những thời cơ, và vì thế, tôi cứ đưa mắt nhìn để đáp lại những khả năng đó khi nó đến?
Trong thời gian giao mùa này tôi có thực sự đang đi tìm những phương thế để thức tỉnh và giữ cho mình biết ý thức để tôi có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu khi Người đi vào trong cuộc đời tôi - vào một khoảnh khắc kairos nào đó hay không? Những người trong đợt tĩnh tâm ở Maine đã nhận thấy tĩnh tâm là một cách để tự mình cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Kitô trong cuộc đời của họ. Những người khác lại dành thời gian cho việc đọc bài chia sẻ, suy niệm hoặc dành thời gian nghe giảng trong nhà thờ, thực hành một nghi thức sám hối mùa Vọng, hoặc tìm nơi ăn chốn ở và áo quần cho những người vô gia cư, hay dạy thêm cho những trẻ em trong thành phố và những khoảnh khắc khác với những khả năng thời cơ kairos. Một cách nào đó những người này đang tỉnh thức và sẵn sàng cho đến khi "đồng xu rơi".
84. Suy niệm của Fr. Jude Siciliano.
Mong Đợi Thiên Chúa Giải Thoát Toàn Diện (Lc 21, 25 – 36)
Chúng ta bắt đầu bước vào năm phụng vụ mới. Các bài đọc Tin mừng năm nay được trích theo thánh Luca. Tuy nhiên các bài đó không theo thứ tự trước sau như kiểu chúng ta đọc một cuốn sách hay một cuốn truyện, ngược lại được lựa chọn theo nhu cầu của từng mùa, từng Chúa nhật. Hôm nay là chương 21, gần cuối sách, (Luca có 34 chương). Chúa nhật IV mùa Vọng trở về câu chuyện Đức Mẹ thăm viếng bà chị họ Elizabét. Giáng sinh là truyện ở hang Bêlem ở đầu sách. Chỉ đến Chúa nhật thứ ba thường niên phụng vụ mới đọc theo thứ tự bình thường. Những ai ưa thích trật tự và bảo thủ trong cuộc sống hẳn lấy làm khó chịu. Họ chỉ được thỏa mãn khi phụng vụ làm theo não trạng của họ. Nhưng mãi sau này mới được, tức từ Chúa nhật thứ ba thường niên.
Còn lúc này thì chưa, Chúa nhật I mùa vọng mô tả cảnh hoang tàn đổ nát, song song với những chi chúng ta hiện thời cảm thấy trên thế giới; chiến tranh, chém giết, bom đạn,... tất cả đều là hỗn loạn ngoài sức tưởng tượng mỗi người: “Khi ấy, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: sẽ có những điềm thiêng dấu lạ trên trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sẽ sợ hãi đến hồn siêu phách lạc; chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu. Vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển”. Như vậy, mùa Vọng không khởi sự với bài ca ru em, ngọt ngào và thứ tự. Nó bắt đầu với tiếng khóc than và tranh chấp, kiểu mà cuộc sống hàng ngày thường tiến hành, ở bình diện khu phố hoặc rộng lớn thế giới. Thực vậy, càng gần Giáng sinh, các câu chuyện phúc âm càng trở nên gay go như thể báo trước tương lai của con trẻ thần linh giáng trần. Em sẽ bị nghiền nát dưới bánh xe quyền lực thế gian mặc dù quang cảnh lúc em sinh ra thật thơ mộng, êm đềm với các mục đồng, máng cỏ, thiên thần, chiên lừa và đạo sĩ phương đông. Xin đừng lãng quên nhân vật tàn bạo Hêrôđê cũng là thành phần của trình thuật thơ ấu, tức bàn tay của quỷ vương đã hiện diện ngay từ lúc khởi đầu.
Nhưng mặc dù vậy, các bài đọc cũng có chút an ủi và hy vọng. Tiên tri Giêrêmia ở bài đọc một cho chúng ta hay tại sao? Tại vì cùng với các ngôn sứ khác, ông tiên báo Thiên Chúa sẽ ra tay cứu vớt dân Ngài. Ong viết như vậy khi đang bị cầm tù (33,1) và binh đội Babylon sẽ bao vây thành Giêrusalem, chẳng bao lâu nữa họ sẽ triệt hạ thành. Cho nên những mô tả của chúa Giêsu không chỉ xảy ra ở thời cánh chung, nhưng thường xảy ra nhiều lần trong lịch sử dân Dothái. Nó xảy ra trong cuộc đời mỗi người, cho Giêrêmia, cho cư dân Giêrusalem hoặc cho bất cứ ai trên mặt hành tinh, nếu chúng ta không cảnh giác. Sự thực Giêrêmia chỉ nói điều mà các ngôn sứ khác vẫn nói, khi tuyển dân gặp cơn khốn khó. Ong nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa phục hồi dân tộc sau khi đã trừng phạt họ vì tội lỗi: “Trong những ngày ấy, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ an cư lạc nghiệp. Đây là tên người ta sẽ đặt cho thành: Đức Chúa là sự công chính của chúng ta!”. Tiên tri còn nhắc lại lời hứa ông đã tiên báo trước (23,5 -6): “Này sẽ tới những ngày, Ta sẽ làm nảy sinh cho nhà Đavít một chồi non chính trực”. Trong hoàn cảnh hiện tại, đổ vỡ đang xảy ra trước mặt, lời nói của vị tiên tri xem ra vô lý. Làm thế nào Thiên Chúa sẽ xây dựng lại một đất nước xem ra sắp bị phá tan tành? Làm thế nào thành Thánh sẽ xây dựng lại khi sắp bị đốt rụi? Làm thế nào dòng giống Đavít sẽ cai trị khi mà người Babylon xâm chiếm xứ sở và đưa các lãnh tụ đi đày?
Nhưng điều mà nhân loại không tưởng tượng nổi, thì Thiên Chúa làm được. Điều mà con người bất lực thì Thượng Đế thi hành dễ dàng như trở bàn tay. Giêrêmia cam kết Thiên Chúa sẽ vực dậy một chồi non Đavít. Và khác với cấp lãnh đạo Do Thái hư hỏng, chồi non ấy sẽ: “Trị nước theo lẽ công bình và chính trực”. Ong ta sẽ cứu vớt đất nước, xây lại thành thánh và trở nên lãnh tụ tài ba, đạo đức. Ong sẽ quy tụ tàn dân thành một cộng đoàn mà đặc tính là công lý, bình đẳng và thương yêu. Nếu chúng ta hỏi thử Giêrêmia hay bất cứ ngôn sứ nào khác: “Vậy thì sự cứu rỗi của dân tộc hệ tại cái chi?” Chắc chắn họ sẽ không nhấn mạnh vào việc “cứu vớt” cho bằng một cộng đồng biết kính sợ Thiên Chúa, quý trọng tương giao tốt đẹp với Ngài, được Ngài dẫn dắt và che chở, sống công bình và bác ái, thương yêu nhau. Và họ sẽ gọi tất cả những phẩm chất là “Shalom” Đó là sự cứu vớt mà các ngôn sứ đoan hứa nhân danh Chúa Trời. Nói một lời cho gọn,biến cố cộng đoàn, việc cứu vớt của Thiên Chúa đồng nghĩa với việc xây dựng một cộng đoàn công chính. Chúng ta nên suy nghĩ thêm về ý tưởng này. Nếu chúng ta ăn ở tốt lành, vun đắp một giáo xứ, tu vịên đạo đức thánh thiện, thì đó là ơn cứu độ của Chúa Trời. Ngoài ra là sự giả hiệu. Xưa nay chúng ta sống buông thả, đòi hỏi, ích kỷ, lười biếng, vô lề luật dưới danh nghĩa là văn minh hợp thời thì không hiểu có đáp ứng đúng tư tưởng của các tiên tri hay không? Các vị có hứa ơn cứu độ đó không? Ngay từ khởi đầu mùa vọng, Giêrêmia đã nhắc nhở chúng ta về điều mà các đồng nghiệp của ông thường tuyên bố về thánh ý Thiên Chúa, tức là “sự cứu rỗi”, mặc dù lúc ấy các tuyển dân đang trong vòng vây của đế quốc Babylon, sắp bị tàn phá lưu đày: “Này sẽ đến những ngày – sấm ngôn của Đức Chúa – Ta sẽ thực hiện điều tốt lành mà Ta đã phán về nhà Israel và Giuđa” Chúng ta nên chất vấn lương tâm xem thế nào? Nghe đúng thông điệp của đức Chúa hay đang làm ngơ giả điếc?
Luca không nói “ngày ấy” đến một cách dễ dàng nhưng rất nhiều sự kiện sẽ xãy ra trước đã: “sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng, và các vì sao. Dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước những cảnh biển gào sóng thét”. Ngay trước đoạn trích hôm nay, chúa Giêsu khuyên nhủ các môn đồ phải làm chứng nhân cho danh Ngài: “Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy” (21, 23). Vì họ sẽ bị vua chúa quan quyền bách hại (câu 12 đến câu 14) và Giêrusalem sẽ bị tàn phá (câu 20 đến câu 24). Cuối cùng thì “con người sẽ ngự đến”. Lúc ấy, họ mới được vui mừng. Như vậy chúng ta có thể rút ra vài bài học:
Được ơn Đức tin, không có nghĩa là thoát khỏi bách hại và gian nan thử thách. Ngược lại vì đức tin mà các kẻ theo Chúa phải gánh chịu những bất hạnh. Cho nên phải can đảm sẳn sàng đón nhận chúng như từ thánh ý đức Chúa Trời. Sau những cực khổ, Ngài sẽ trở lại và linh hồn vui sướng được xem thấy Ngài. Đoạn phúc âm hôm nay mở đầu với những tai họa, nhưng điểm chính là Thiên Chúa cứu vớt với sự xuất hiện của Chúa Giêsu, mặc dù các tín hữu sẽ bị “ngày ấy” tấn công: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề, chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống anh em” Thực ra thế gian này với những lôi cuốn của nó làm cho chúng ta nhiều khi mất cảnh giác. Cứ nhìn vào các hành xử của nhiều linh hồn nhắc rõ. Họ thu vén cho mình đủ mọi thứ sung sướng, và quên bẳng Lời Chúa trong nếp sống hằng ngày. Vậy chúng ta phải làm gì để ăn ở tỉnh thức? Xin thưa phải cầu nguyện.
Thánh Luca thường nhấn mạnh về điểm này. Người ta thường nói phúc âm của ông trĩu nặng bầu khí cầu nguyện. Có những lúc thánh nhân mô tả Chúa Giêsu bộc phát cầu nguyện. Thí dụ trong những biến cố quan trọng (5, 16;3, 21;6, 12;) Ngài cũng thúc giục các môn đệ bắt chước mình (6, 28;10, 2;20, 47,...). Bài tường thuật hôm nay dù đầy những lo lắng hãi hùng nhưng vẫn kết thúc bằng đặc tính Luca: “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy ra và đứng vững trước mặt Con Người”. Liệu tình hình thế giới với những xấu xa của nó, bạo lực, sa đoạ, dâm ô, tham nhũng, áp bức, bóc lột, sẽ qua đi chăng? Xem ra đó chỉ là ước mơ viễn vông của những người không còn tiếp xúc với thực tế. Xin cứ nhìn vào lối sống thành thị, thôn xóm sẽ hiểu ra vấn đề. Xem ra những sinh hoạt ấy có tính cố định bền vững, mãi mãi chẳng bao giờ thay đổi. Sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đấy, chẳng có hy vọng thay đổi tiến bộ. Nhưng như trời đất trăng sao vững bền gấp mấy; vậy mà Chúa nói sẽ có ngày tận cùng, chúng sẽ tan vỡ hoàn toàn. Các quyền lực đế quốc xem ra vững bền hơn đá tảng, núi đồi, vậy mà Chúa tiên báo sẽ có ngày tan tành như giấc chiêm bao của Đaniel. Cho nên Ngài thúc giục chúng ta cầu nguyện. Cầu nguyện nghiêm chỉnh để “ngày ấy” khỏi bất chợt ụp xuống mình như chiếc lưới bắt chim, chứ không phải chỉ như miếng bánh tráng miệng sau các lời giảng. Cầu nguyện phải là điều căn bản của ơn gọi làm môn đệ của Chúa để có thể tỉnh thức luôn, ngõ hầu chống lại các lôi cuốn của vật chất thế gian: say sưa, rượu chè, tiện nghi, ngoại tình, phóng đãng.
Về phương diện cá nhân, những người gánh chịu đau khổ lớn lao như mất mát người thân, vỡ nợ, tuổi già, tai nạn, thất nghiệp, khủng hoảng gia đình, bệnh tật, thuốc sái, thì hình ảnh Phúc Am hôm nay quả chính xác. Mặc dù ngôn ngữ Khải Huyền có phần mập mờ. Các biến cố miêu tả không mang tính xác thực, các hình ảnh tiên báo không nói rõ sự việc sẽ xảy ra như thế nào, để môn đệ Chúa có thể đứng thẳng và ngẩng đầu lên! Chỉ có niềm tin mới vững lòng trước sự dữ, dù đang hoành hành phá hoại nhân loại, sẽ có ngày kết thúc. Thiên Chúa sẽ lo liệu việc đó. Ngài đã hứa và Ngài sẽ hành động. Mọi sự sẽ thay đổi tận gốc. Vậy thì còn chi tồn tại? Chúng ta không thể đoán chắc chỉ trừ lời bảo đảm của Chúa Giêsu: “Ngày ấy” Ngài sẽ đến cứu thoát: “Anh em hãy đứng vững và ngẩng đầu lên. Vì anh em sắp được cứu chuộc”. Lúc này mọi sự xem ra bất khả, nhưng lời Ngài không thể sai. Điều kiện Ngài đưa ra là cầu xin để đức tin không rơi vào đổ vỡ, gây nên thất vọng. Có người lên vấn nạn là trong những khủng hoảng trầm trọng, cùng cực; con người ta không thể cầu nguyện và trong cộng đồng giáo xứ thiếu gì những linh hồn như vậy? Họ đang chịu những trăm bề đau khổ: vợ ốm, con đau, hết tiền, thất nghiệp. Giải pháp là mời họ đến cầu nguyện cùng với chúng ta. Họ không cần làm gì cả, chỉ cần hiện diện, chúng ta sẽ cầu xin cho họ cho đến khi họ tìm lại được sức khoẻ và khả năng để cầu nguyện. Sẽ có ngày họ sẽ lại cầu nguyện lại cho chính chúng ta, vì bất cứ ai, lúc này hay lúc khác kinh nghiệm tận thế về đời mình.
Tóm lại chúng ta không phải là những kẻ mơ mộng, để đầu mình nơi những đám mây trên trời cao. Chúa truyền chúng ta ăn ở thực tế, kiên trì phục vụ thế giới và đừng để bị đè bẹp dưới đống khổng lồ công việc. Đúng là luôn có những khó khăn và thời gian khủng hoảng. Nhưng bĩ cực thái lai luôn có điều chi mới đang chờ đợi đàng xa phía trước. Đêm đen mù mịt đang bao phủ hành tinh, nhưng cũng có nguồn sáng đang đến với nhân loại. Chúng ta chờ đợi sự giải thoát toàn diện mà Thiên Chúa đã hứa. Đó là mục tiêu mùa vọng. Viễn cảnh của loài người chỉ được giữ vững nhờ lời cầu nguyện. Cho nên hôm nay chúng ta đổi mới quyết tâm ăn ở tỉnh thức, cảnh giác với những âm mưu của satan, thế gian và xác thịt. Nhiệt tình phục vụ Chúa trong các người nghèo khổ. Đổi mới tinh thần mở rộng để ngóng trông Chúa đến. Phúc âm hôm nay đầy sợ hãi, nhưng điểm hội tụ là việc Chúa xuất hiện để cứu giúp. Thiên Chúa là trung tâm của câu chuyện. Chúng ta nên nhìn vào gương mặt đoan hứa của Chúa Giêsu và nhận ra Thiên Chúa đang điều hành mọi sự. Ngài chẳng bỏ mặc chúng ta cho đến khi Đấng Thiên Sai ngự đến. Amen.
85. Chú giải của Hugues Cousin.
Diễn từ về “Cuộc trường chinh của việc giải phóng”
Và sẽ có những điềm lạ trên mặt trời…
Lần này đó là những biến cố gắn liền với ngày quang lâm được nói đến (cc. 25-27). Điều đáng chú ý là liên từ “và”: Chúa Kitô đi từ thời của dân ngoại đối với thành Giêrusalem đến những biến động trong vũ trụ và không xác định chiều dài của thời gian giữa sự tàn phá thành vào năm 70 với thời Tận cùng. Như thế, ngài mặc cho sự giày xéo thành bởi các dân ngoại (c. 24) một màu sắc cánh chung. Đã hai nghìn năm rồi từ ngày xảy ra biến cố ấy!
Những điềm lạ nói đây nghiêm trọng hơn những điềm lạ ở câu 11: chúng sẽ đồng thời xảy ra trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao và sẽ gieo rắc lo âu sợ hãi cho toàn thể dân cư trên mặt đất. Trật tự vũ trụ sẽ chao đảo như thể trở về với cái hỗn mang nguyên thuỷ ghi dấu thời tận cùng của lịch sử. Các biến cố này đi liền trước ngày quang lâm của Con Người, ngày đó được nhắc đến một cách ngắn gọn chứ không được mô tả. Trong khi ngày đó là đích điểm của toàn thể lịch sử nhân loại, thì tầm quan trọng của nó lại quá nhỏ trong bài diễn từ mà trọng tâm lại nằm ở chỗ khác.
Lúc ấy, Chúa Giêsu mới đưa ra một lời diễn giải giúp khám phá ý nghĩa của diễn từ (cc. 28-32); Ngài nối kết các biến cố Ngài vừa nói ở trên với các câu hỏi ban đầu về ngày giờ và dấu chỉ (xc.7). Một ý tưởng trung tâm (c.28) được minh hoạ nhờ một dụ ngôn (cc.29-30) và nhờ lời giải thích dụ ngôn ấy (c.31).
Trước hết là dấu chỉ. Những sự vật sinh sản (cây đâm chồi nẩy lộc, trong dụ ngôn) cho phép các tín hữu suy diễn về sự gần kề của ngày giải thoát vĩnh viễn (mùa hè gần đến, trong dụ ngôn; và Triều Đại Thiên Chúa gần đến, trong lời giải thích). Nếu các sự việc này quy chiếu về các biến động trong vũ trụ xảy ra trước ngày quang lâm của Con Người, thì chỉ có thế hệ tín hữu cuối cùng mới bị liên hệ bởi sự gần kề của ơn cứu độ vĩnh viễn. Và nếu Chúa Giêsu chỉ đưa ra việc trời đất rung chuyển như là dấu chỉ và không đưa ra những điềm báo về sự sụp đổ của thần thánh, Ngài không mặc khải gì mà lại đã không được nói đến trong các bản văn Cựu Ước liên quan tới Ngày của Chúa (x. Is 13,10; Hg 2,6). Trong thực tế, dấu chỉ nằm nơi những biến cố lịch sử xảy ra trước ngày Giêrusalem bị tàn phá (xc.20). Về lệnh truyền “Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, đặc biệt thích hợp cho các kẻ bị bách hai (xc. 12tt); “Ngài không nói với các Kitô hữu vô danh sẽ còn sống vào lúc quang lâm cho bằng, một cách cụ thể hơn, với các người đương thời của tác giả Tin Mừng” (V.Fusco) và, qua họ, với tất cả các Kitô hữu sau này sẽ nghe hoặc sẽ đọc Tin Mừng thứ ba. Các thành viên trong Giáo Hội của Luca –rồi chúng ta hôm nay- phải sống trong sự xác tín rằng việc giải thoát họ thực sự đang tới, rằng nó đã gần rồi. Như lời Tông đồ Phaolô: “Hiện này, ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo… Ngày gần đến” (Rm 13,11-12).
Câu 32 trả lời một cách long trọng cho câu hỏi về ngày giờ: Mọi điều ấy sẽ xảy ra trong khi thế hệ này –đa số những người đương thời với Chúa Giêsu Nagiaret- vẫn còn sống. Từ ngữ “mọi điều” bao gồm toàn bô các biến cố tương lai đã được loan báo, kể và nhất là biến cố quan trọng nhất” (V.Fusco). việc quang lâm, nghĩa là những dấu chỉ là việc Con Người ngự đến, Luca không ngại ngần chi khi lấy lại lời truyền thống này mà không thêm bớt gì, ông cũng đã làm như thế ở 9,27 với lời liên hệ đến những kẻ sẽ không phải chết trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa, mạch văn cho phép quy chiếu về biến cố hiển dung, rồi về thời gian lý tưởng giữa biến cố Phục Sinh và Thăng Thiên. Câu 32 còn đi xa hơn: thế hệ đã chứng kiến biến cố Đền Thờ bị phá huỷ cũng phải biết đến ngày quang lâm. Việc quang lâm của Chúa Kitô vinh hiển bao trùm cuộc sống mọi tín hữu và không thể là biến cố thuộc về một tương lai xa xôi.
Để kết luận lời tiên tri của mình, Chúa Giêsu xác nhận thế giá và tính cách chắc chắn của lời hứa trước đây, cũng như của toàn bộ diễn từ cánh chung (c.33): chúng vững bền hơn vũ trụ (x.16). Nói thế rồi, Ngài đồng hoá lời của Ngài với lời Thiên Chúa mà Is 55,10-11 đã nhắc đến hiệu quả.
Diễn từ kết thúc bằng một lời huấn dụ tỉnh thức và cầu nguyện (cc. 34-35). Những chỉ thị đã được đưa ra cho các môn đệ rất rõ ràng: lời cảnh giác phải đề phòng khỏi các lo lắng, trong phần giải thích dụ ngôn hạt giống (8,14) và giáo huấn về thái độ thích hợp đối với của cải vật chất (12,22tt), cảnh cáo chống lại việc say sưa, trong dụ ngôn người quản lý trung thành (12,45-46). Về điểm này, tình trạng mà Giáo Hội của Luca phải đương đầu không khác gì tình trạng ở các cộng đoàn của Phaolô. Các chỉ thị được đưa ra ở 1Tx 5,4-8 –với cơ nguy, như ở đây, là ngày Phán xét đến bất thình lình đối với các tín hữu- và ở Rm 13,11-13 rất giống nhau. Sự ngủ mê đe doạ các cộng đoàn, bởi vì, trong Luca cũng như trong các thư của thánh Tông đồ, vang lên lời kêu gọi hãy tỉnh thức, hãy chỗi dậy.
Hai tảng đá ngầm đối nghịch nhau, nhưng lại phụ thuộc lẫn nhau, đang rình rập Giáo Hội: niềm hy vọng bồn chồn về ngày trở lại gần kề của Chúa Kitô (2Tx 2,1-3) và sự vỡ mộng, cơn cám dỗ buông trôi mọi hy vọng vào tương lai (x. 2Pr 3,4). “Càng nóng lòng trông đợi vào ngày quang lâm, càng đắng cay vì nỗi thất vọng” (Fusco); và các ảo tưởng là điều nguy hiểm cho đức tin. Rõ ràng đó là mối nguy thứ hai mà Luca sợ cho Giáo Hội của mình –cũng là mối nguy đe doạ các cộng đoàn Công giáo Tây phương chúng ta vào cuối thế kỷ XX này- và Luca phản ứng chống lại mối nguy ấy. Từ đó, ta thấy sự kiện Chúa Kitô nói tiên tri, tuy có phân biệt, nhưng không hoàn toàn tách rời việc Giêrusalem bị tàn phá khỏi ngày quang lâm. Cũng do đó, mà đã có những xác quyết: từ cuộc tàn phá này, sự giải thoát các tín hữu đang gần kề; mỗi tín hữu trong Giáo Hội của Luca –và mỗi người trong chúng ta- phải sống trong mọi lúc thế nào hầu có thể có sức mạnh… mà đứng vững trước Con Người.
86. Chú giải của Noel Quesson.
Hôm nay, bắt đầu năm Phụng vụ mới. Sau thánh Máccô, giờ đây thánh Luca trình bày cho ta Mầu nhiệm của Đức Giêsu.
Ngay từ Chúa nhật đầu tiên này, chúng ta được đặt vào một biến cố “sớm hơn”. Thời gian Mùa Vọng là thời gian gợi lại việc Đức Kitô “đến": Ngài đã đến tại Bêlem ngày Giáng sinh... Ngài đang đến trong mỗi biến cố, trong mỗi bí tích... Ngài sẽ đến vào Ngày cánh chung.
Đức Giêsu nói với các môn đệ biến cố Người quang lâm:
“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét....".
Ở đây chúng ta tiếp cận với lối văn “khải huyền". Loại văn chương này xuất hiện tại Israel, hai thế kỷ trước Đức Giêsu, và kéo dài sau đó một thế kỷ nữa. Lối văn Kinh thánh này tiếp theo thời kỳ ngôn sứ. Mọi hy vọng của các ngôn sứ đều đã đổ vỡ: dân Israel, thay vì được độc lập lại bị tháp nhập và chịu lệ thuộc các đế quốc ngoại giáo liên tiếp, khiến ta có cảm tưởng là lịch sử đã thoát khỏi bàn tay điều khiển của Thiên Chúa. Đó là một gai chướng, một thử thách cho đức tin. Do đó, trước hết, trào lưu khải huyền muốn phục hồi niềm hy vọng, bằng cách dù gặp thất bại, vẫn lớn tiếng hô lên sứ điệp của các ngôn sứ: Thiên Chúa là chủ tể lịch sử. Ngài sẽ chiến thắng: Chiến thắng trên sự dữ. Vì không ai biết chiến thắng sẽ được thực hiện như thế nào, nên người ta diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ, với những hình ảnh vũ trụ vĩ đại và lộng lẫy.
Theo kiểu nói truyền thống đó, ba khoảng không gian lớn đều bị rung chuyển: bầu trời, trái đất, biển cả. Sự lộn xộn ập xuống trên vũ trụ, để "tạo dựng” một thế giới mới. Ta có thể so sánh với Isaia (13,9-10.34, 3-4), trong sách đó tác giả cũng dùng những hình ảnh thảm lại để diễn tả sự sụp đổ của Babylon: đó là một bằng chứng nói lên, ta không được hiểu những hình ảnh đó theo mặt chữ. Các vì sao sẽ "từ trời rơi xuống", “mặt trời sẽ không còn chiếu sáng nữa", là cách nói nhằm diễn tả Thiên Chúa là chủ tể. Cũng đừng quên rằng, phần lớn các dân tôc phương Đông cổ đều thờ các tinh tú như những thần linh ngự trên cao, điều khiển thế giới và quyết định số phận con người. Và ta nghĩ đến khoa tử vi cùng chiêm tinh học hiện nay vẫn còn ăn khách. Nếu "chủ dân", các "goim", tôn thờ các tinh tú như các thần linh mới, thì Israel trong truyền thống khải huyền của mình đã tuyên bố rằng, sẽ có ngày những thần linh này bị tiêu tan một cách thê thảm: các vì sao, mặt trời sẽ rớt xuống... không có thần nào khác, ngoài Thiên Chúa!
Chính Luca cũng không ngần ngại sử dụng thứ ngôn ngữ khải huyền này, để ghi lại một cuộc nhật thực vào lúc Đức Giêsu tắt thở trên thập giá (Lc 23,44): đó là cách nhấn mạnh rằng, nhớ biến cố lịch sử tại đồi Golgotha, Thiên Chúa đã dứt khoát can thiệp vào lịch sử loài người: Đức Giêsu sẽ đến trên mây trời! Thế giới cổ xưa qua đi, một thế giới mới đã khai sinh! Thập giá, đó là cuộc chiến thắng, là vinh quang của Ngài, mà buổi sáng Phục sinh sẽ làm bừng dậy cách công khai trước một thái dương mới.
Muôn dân sẽ lo lắng hoang mang... Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.
Hơn thánh Máccô trong đoạn văn tương tự, mà cách đây mười lăm hôm ta đã được nghe, thánh Luca nhấn mạnh đến phản ứng của con người trước những biến cố như dấu chỉ: nghĩa là nhắm đến thảm kịch của con người hơn là một xáo trộn có tính vật chất. Con người thuộc mọi thời đại con người thời nay cũng như con người thời đó, thường có khuynh hướng xóa bỏ "thời gian”, coi thời gian như cái gì không an toàn. Chúng ta không thích "biến cố", nghĩa là sự kiện bất ngờ, điều không dự kiến được. "Điều gì sẽ xảy ra?". Những gì ta không biết trước luôn luôn đáng sợ.
Do đó, mới có những khuynh hướng bảo thủ, duy truyền thống, cố làm mọi cách để không gì "xảy đến", không gì “thay đổi” cả.
Vì thế, toàn bộ Kinh Thánh thường lặp lại cho chúng ta rằng, "biến cố" là cuộc "thần hiện" của Thiên Chúa: Người hiện đến, Người can thiệp qua các biến cố. Chẳng hạn, vì Đức Giêsu đã báo trước, nên việc phá hủy thành Giêrusalem và Đền Thánh, là một biến cố đáng sợ, dễ gây hoảng hốt... tuy nhiên, cũng là "dấu chỉ” báo hiệu Đức Giêsu sẽ "đến trên mây trời" ' Như thể ngày nay ta loan báo một cuộc cách mạng sẽ phá hủy Vatican và các vương cung thánh đường trong một cuộc thánh chiến! Hơn nữa, cũng không thiếu những ngôn sứ luôn tuyên sấm giáng họa, đưa tin về những tai ương tương tự hay còn tệ hại hơn: nào là hiểm họa nguyên tử, nào là nạn nhân mãn, ô nhiễm lan tràn... nhiều ý thức hệ hiện nay chỉ nhằm khai thác sự sợ hãi tự nhiên này của nhân loại. Phải chăng Đức Giêsu chỉ là một trong những "ngôn sứ tuyên sấm giáng họa" trên, khi lợi dụng sự sợ hãi để tranh thủ những kẻ ủng hộ mình?
Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy con người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.
Đức Giêsu không khai thác, nhưng giải gỡ cho ta sự sợ hãi đó. Những "biến cố" gây xáo trộn, không kết thúc mọi sự, không chỉ là khởi đầu cho một thế giới khác... chỉ báo trước một cuộc gặp gỡ. Ngược lại với sự sợ hãi của con người, ở đây xuất hiện hình ảnh rực rỡ của Con Người trong chính vinh quang của Thiên Chúa. Ta biết rằng, Đức Giêsu sử dụng "thị kiến của Đa-ni-en" (Đn 7,18-14)... nhưng thay đổi hoàn toàn. Triều đại của Thiên Chúa nhu Đa-ni-en mong đợi, phải chiến thắng các địch thù của Israel bằng một thứ can thiệp mãnh liệt và kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử. "Con người" tượng trưng cho "dân thánh của Đấng Tối Cao", sẽ đến "từ trên đám mây trời". Thế nên, Đức Giêsu tự đồng hóa với Con Người đó. Nhưng thoạt đầu, Ngài không xuất hiện như một hữu thể từ trời: Ngài là con của Đức Maria. Ta biết rõ xuất xứ của Ngài. Ngài không hiện diện "trong đám mây” Ngài hoàn toàn chia sẻ thân phận con người như mọi người trên trần gian. Và đúng ra, chỉ khi chết trên thập giá, Ngài mới thực sự bước vào trong Thế Giới Mới của Đấng Phục sinh đầy vinh quang và uy quyền… như Ngài đã tiên báo khi bị xét xử trước Thượng Hội Đồng Do Thái (Lc 22,69). Không xóa bỏ lịch sử, cái chết thảm hại của Đức Giêsu thực sự đã trở nên "điểm xuất phát" của một lịch sử mới. Mùa Vọng là thời gian của một cuộc khởi hành mới. Bản văn trên nhắc nhở chúng ta điều đó.
Khi những biến cố đó bắt đầu xảy ra anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên...
Vậy Khải Huyền (trong tiếng Hy Lạp, từ này có nghĩa là "mạc khải"), đúng là một sứ điệp hy vọng. Chúng ta ghi nhận hai thái độ tương phản. Trước những tai họa bên ngoài, là cuộc Quang lâm của Đức Giêsu. Trước sự hốt hoảng của dân ngoại, là thái độ "đứng thẳng" của các tín hữu. "Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc... thì anh em hãy ngẩng đầu lên". Sư tương phản này còn rõ nét hơn trong toàn bản văn, khi ta đọc tới dụ ngôn khá đặc sắc: "cây vả báo hiệu mùa tươi đẹp" (Lc 21,29-30).
Vì anh em sắp được cứu chuộc...
Đối với nhiều người, điều xuất hiện như một thứ hủy hoại sự kết thúc cuộc đời của Đức Giêsu trên thập giá, kết thúc thành Giêrusalem, kết thúc đời mỗi người qua cái chết, chấm dứt các nền văn minh, chấm dứt thế giới, nghĩa là mọi "biến cố" đều mang tính chết chóc, thì đối với Đức Giêsu và đối với các tín hữu là những kẻ tín thác vào lời Ngài, lại chính là khởi đầu cho công cuộc cứu độ. Đó là khẳng định trọng tâm của Đức tin: Mầu nhiệm Phục sinh... mầu nhiệm chết đi để được sống!
Từ "Cứu chuộc" rất thông dụng trong thư của Thánh Phaolô (1 Cr 1,30 - Rm 3,24-8,23 - Cl 1,14) nhưng trong các Tin Mừng, chỉ thấy dùng ở đây. Ta cũng biết, Luca là đệ tử của Phaolô mà! Từ "Cứu chuộc" được dịch từ "Redemptio" của Latinh. Nhưng nếu để ý đến từ gốc của tiếng Hy Lạp "apolutrosi”, người ta thường dịch là "giải thoát". Như thế, Mùa Vọng là thời giải thoát đã đến gần. “Anh em sắp được giải thoát! Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên!".
Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chèn chén say sưa, lo lắng sự đời kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em.
Sau những lời khuyên khơi dậy hy vọng và tin tưởng, bây giờ đến một lời khuyên giúp đề cao cảnh giác. Đừng để Đức Giêsu bất thần hiện đến, nhất là khi Ngài đến lần cuối cùng. Lòng chúng ta có nguy cơ trở nên nặng nề, vì những lo âu và vì đời sống quay cuồng, vì quá bận tâm đến thế trần và vật chất, Đức Giêsu nói như thế.
"Oi dân của Ta, ngươi đã ra nặng nề. Quá nhiều đồ ăn thức uống làm bụng ngươi trương lên. Quá nhiều đồ vật chi phối ngươi. Quá nhiều an toàn đang trói buộc ngươi. Quá nhiều hư ảo đang xâm chiếm ngươi. Quá nhiều ngu xuẩn đang chất đầy trên ngươi. Quá nhiều ảo ảnh đang làm ngươi bối rối. Ôi dân Ta, ngươi đã quá nặng nề. Hãy trở lên nhẹ nhàng hơn. Hãy sẵn lòng ra đi" (Ch. Singer).
Nên đề ra một chương trình tốt đẹp cho Mùa Vọng: đó là thời gian làm cho mình ra nhẹ! Đó là thời gian "cõi lòng nhẹ nhõm hơn". Bạn hãy giải thoát mình khỏi lo lắng thái quá về ăn uống! Những lời trên đây có thể được viết cho thời đại chúng ta, cho nền văn minh hưởng thụ chiếm hữu của ta.
Ngày ấy như một chiếc lưới, sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.
Tôi đừng để mình bị "chộp bắt" bất thần, như con thú sa lưới. Hãy "tỉnh thức", luôn sẵn sàng, luôn cảnh giác. Việc không biết ngày nào sẽ "xảy đến", không thể đặt ta nằm trong trạng thái thụ động biếng trễ, nhưng làm cho ta trở thành những con người "đứng thẳng" trong mọi lúc! Qua những lời trên, Đức Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta rằng, mỗi ngày đều có thể là ngày Chúa đến! Và cầu nguyện, trong viễn tượng đó, là một thứ "canh phòng", chứ không phải là một chạy trốn, một biếng trễ: Hỡi người canh gác, bạn nhìn thấy bình minh đến chưa? Bạn có nhận thấy Đức Kitô đến không? Bạn có rình chờ những "dấu chỉ" loan báo Ngài đến? Bạn đừng ngủ mê'! Mỗi khi cử hành Thánh Thể là một chuẩn bị trước cho ngày đó, "cho tới khi Chúa đến". Maranatha? Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Mùa Vọng là thời gian mong đợi.
87. Chú giải của Fiches Dominicales.
SỐNG TRONG MỘT THẾ GIỚI MAU QUA
HÃY TIN RẰNG MỘT THẾ GIỚI MỚI ĐANG ĐẾN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Qua lời lẽ kinh hoàng của lối văn Khải Huyền…
Bài Phúc Âm hôm nay giống như trích đoạn song hành trong Phúc Am Máccô mà ta đọc vào Chúa nhật 33 thường niên năm B. Trước vẻ đẹp hùng vĩ và tráng lệ của Đền Thờ Giêrusalem, các môn đệ không ngớt lời trầm trồ khen ngợi và muốn Thầy mình cùng chia sẻ lòng thán phục, thì Đức Giêsu lại nhân cơ hội này nói lên một bài dài về con đường dẫn đến cuộc giải thoát.
Lời lẽ của bài diễn từ có thể gây kinh hoàng cho con người thời nay, nhưng lại rất quen thuộc với những người sống cùng thời với Đức Giêsu. Đó là lối văn bàng bạc trong từng trang Kinh Thánh mà người ta thường sử dụng để củng cố lòng tin của các tín hữu trong những giờ phút gian truân khốn khó: lối văn “Khải Huyền” muốn “vén bức màn” (đó là nghĩa của từ “apocalypse” = mạc khải) để hé mở cho ta thấy rằng mặc dầu sự thể bên ngoài có trắc trở thế nào, thì Thiên Chúa vẫn đang âm thầm hoạt động ngay trong hoàn cảnh đó. Việc mô tả quá quen trong lối văn chương này – “mặt trời ra tối tăm”, “mặt trăng không còn chiếu sáng”, "các vì sao từ trời rơi xuống”, “các quyền lực trên trời bị lay chuyển”... chỉ là một cách loan báo cuộc chiến thắng cuối cùng của Chúa vào ngày tận cùng của lịch sử.
Thể văn của bài diễn từ và ngay cả từ “Khải Huyền” đều là điều kỳ bí đối với độc giả thời nay - Hugues Cousin nhìn nhận: từ “Khải Huyền” do từ Hy Lạp apocalypsis có nghĩa là “vén màn” cho thấy điều bí mật ẩn khuất bên trong. Tại sao “vén màn” những biến cố liên quan tới Cánh Chung, những biến cố đi theo liền sự sụp đổ của thế giới cũ - thế giới của chúng ta để hướng tới thế giới mới?
Câu trả lời có cơ sở, đó là một niềm xác tín sâu xa trong Kinh Thánh rằng lịch sử các dân tộc không phải vô nghĩa, bới lẽ Thiên Chúa dẫn dắt lịch sử ấy tới một cùng đích được sửa soạn chu đáo. "Người sẽ cư ngụ cùng mới họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,3-4). Đó chính là cuộc giải phóng chung cuộc vĩnh viễn của lịch sử nhân loại”
2.... là Tin Vui loan báo việc Chúa quang lâm.
Chính trong bối cảnh một vũ trụ đổi mới, không còn một chướng ngại nào mà Đức Giêsu trong Luca cũng như trong Máccô, loan báo Tin Vui xuất hiện Vương quốc hòa bình và công chính của Người vào lúc thời gian kết thúc. Ở đây Người coi mình như nhân vật kỳ bí của sách Đanien (bài đọc 1, Chúa nhật trước) là “Con Người” ngự giá mây trời mà đến cho đất trời cùng mở hội giao duyên.
Nhưng trong ngày ấy, kẻ sinh ra từ thế giới mới sẽ là người tuyệt vời, chính người ấy đang hình thành, “đang tiên đến gần”. Thế nên người có lòng tin phải "đứng thẳng và ngẩng đầu lên”. Lệnh Chúa mà thánh sử truyền lại không phải chỉ được gởi đến cho những Kitô hữu vô danh nào đó còn đang sống vào lúc Đức Giêsu trở lại; thánh sử cũng gởi đến cho các Kitô hữu thời ngài, đang là đối tượng của những cuộc đàn áp khủng khiếp đầu tiên, sau khi đã ngao ngán chứng kiến cảnh đổ nát của Đền thờ Giêrusalem; sau cùng, thông qua những tín hữu kia, "ngài gởi đến cho mọi kẻ có lòng tin mà sau này sẽ nghe hoặc sẽ đọc Tin Mừng thứ ba. Những giáo hữu của giáo đoàn thánh Luca - rồi (chúng ta hôm nay - đều phải sống với niềm tin chắc chắn rằng (công cuộc giải phóng họ thực sự dang tiến hành, đang gần kề" (H. Cousin, sđd, trg 282).
3. Đòi hỏi người tín hữu phải luôn tỉnh thức.
Được phấn khởi vì Tin vui về một Thế giới mới sẽ tỏ hiện vào lúc tận cùng thời gian và ngay từ lúc này không những hình thành trong giòng lịch sử của đời ta, người môn đệ Đức Kitô sẽ không được phép ngủ mê hay sống tiêu cực mà phải “tỉnh thức”, phải “cầu nguyện luôn” để có thể "đứng thẳng” (tâm tình kinh nguyện phụng vụ ngày Chúa nhật phục sinh) vào ngày Chúa trở lại trong vinh quang đem lại sự giải thoát dứt khoát và toàn vẹn.
H. Cousin kết luận: "Người ta sẽ có thể hiểu rằng chương 21 của Tin Mừng Luca không nhắm mô tả cho độc giả thấy trước diễn tiến của lịch sử cho bằng muốn thổi cho họ một luồng sinh khí đề họ sống hiên ngang giữa những cơn thử thách, nhắc nhở họ rằng giây phút hiện tại thực sự mang một giá trị tích cực: chính lúc này đây Chúa đang vẫy tay mời gọi ta đấy. Một bài diễn từ với ý nghĩa như thế vượt quá cả ý hướng của khải huyền vốn phủ nhận lịch sử, đem đến một niềm hy vọng mang tính cánh chung đòi hỏi người tín hữu phải sống tích cực với giây phút hiện tại “ở đây và lúc này". Bởi lẽ, chính ngay bây giờ, chính trong thực tại khiêm tốn của đời thường là mầu nhiệm gặp gỡ với Đấng sẽ đến, được thực hiện. Một niềm hy vọng như thế không làm suy giảm tầm quan trọng của những trách vụ trần thế, nhưng đúng hơn còn giúp kiện toàn nhờ vào những dộng cơ mới" (Vatican II, sđd. trg 278)
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Anh em hãy ngẩng đầu lên”
Phải có những biến cố hãi hùng, để ta tin rằng: Chúa đang có mặt ở đó chăng? Để cho con người quay trở về với Chúa, có phải cần đến những tai ương làm sớn tóc gáy mọi người chăng? Có những giáo phái thích chủ trương phải có những tai họa như thế để thuyết phục người ta tin rằng “Có Chúa”. Phải chăng cũng có những tín hữu muốn nghĩ rằng vì người ta sợ hãi nên mới tin, hoặc vì con người bỏ quên Chúa, nên người mới giáng xuống những tai họa để trừng phạt họ đấy sao?
Thế ra Thiên Chúa của Đức Kitô là một Thiên Chúa hay trả thù. Thế ra Người chỉ nhằm gây tai họa cốt để cho người ta khám phá ra Người sao?
Đức Giêsu mượn những hình ảnh ghê rợn kia trong một loại văn chương của thời đại Người là lối văn "Khải Huyền", không phải để loan báo sự tận cùng, sự chấm dứt mọi sự, nhưng là để loan báo cho mọi người biết một Tin Vui là Đấng Cứu độ đang đến. Đồng thời, để mời gọi mọi người đứng sẵn ở cửa, tỉnh thức và sẵn sàng đón tiếp Người. Còn Người thì lúc nào cũng vẫn đến. Khi mầm của hạt giống làm nứt vỏ hạt, người ta không nói là hạt chết, mà là sống. Khi những mảnh lá non hay những cánh hoa chọc thủng phần ngoài của nụ hay chồi, không ai nói đó là một sự xé rách, hay phá hoại, nhưng là vẻ đẹp.
Nào, vậy thì mời bạn hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên. Hãy nhìn đi, hãy chiêm ngưỡng đi? Chúa đang đến đây nè”.
2. “Tận thế sẽ là bó hoa kết dâng cuối cùng”
(G. Boucher, trong “Le ciel sur terre")
“Giờ phút kinh hoàng đã điểm. Người ta sẽ thấy núi phun lửa ầm ầm nhả ra những dung nham nóng chảy, trái đất nứt nẻ, biển cả gào thét, gió xoáy điên cuồng, nhà nhà sụp đổ. Người ta sẽ thấy đất trời rung chuyển, mặt trời ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống.. Tắt một lời đó là quang cảnh báo trước ngày tận thế. Và toàn thể nhân loại đều phải phập phồng lo sợ cho cái giờ phút hãi hùng ấy.
Tiếp theo những hiện tượng kinh khủng của trời đất, thì này đây bừng lên một cảnh tượng thật là thanh bình và hoành tráng khi con người xuất hiện. Giống như xưa giữa cơn phong ba bão táp, thì giờ đây một con người cũng đứng lên ra tay uy quyền dẹp yên sóng gió.
Cái bề ngoài từng là chết chóc, tai họa lại đang báo trước cảnh thanh bình và hoàn tất mỹ mãn.
Núp ẩn trong nhà ư? Độn thổ ư? Sống mà sợ hãi ư? Không đây sẽ là ngày để ta đứng thẳng dậy, tiến bước, mắt ngước lên, đầu ngẩng cao. Đây sẽ là khúc nhạo dạo đầu chào mừng một thế giới mới bước vào vô biên.
Đó sẽ là nơi “cư ngụ” vĩnh viễn, là nhân loại đã hoàn thành.
Như vỏ trứng tự nứt nẻ để gà con nở ra thế nào, thì trời đất đại dương cũng sẽ tự vỡ ra như vậy để cho Con Người xuất hiện, và nhân loại mới cũng cùng xuất hiện với Con Người.
Trong cảnh hỗn mang này, thực ra Chúa chỉ muốn đưa ra cho ta một lời mời gọi này mà thôi: hãy chế ngự nỗi sợ hãi để niềm tin được thảnh thơi. Hãy sống những thực tại của con người như là những giai đoạn dẫn đưa ta vào thời ân sủng và vinh quang. Hãy lấy đức khôn ngoan mà phân định điều gì xảy đến với con người, giữa các dân tộc, và ngay trung tâm các yếu tố của thế giới.
Và rồi hãy để cho đời sống và lịch sử của ta mở ra, hướng đến nguyện cầu. Nghĩa là hãy nhận ra và tìm gặp được, ngay trong những giây phứt quay cuồng của cuộc sống, sự hiện diện ân cần và thân thương của Chúa Cha, lời Chúa Con mời gọi ta hướng dẫn những biến cố theo chiều hướng đi lên và hoàn bị, sự nhạy bén đối với Chúa Thánh Thần, Đấng hằng khơi gợi lên từ muôn dân trên mặt đất, những con người luôn ấp ủ niềm hy vọng mà không sợ hãi.
Một khi Thiên Chúa làm cho lịch sử kết thúc như vậy rồi, thì một người sẽ xuất hiện trong quyền lực và vinh quang. Bấy giờ nhân loại sẽ đứng thẳng lên, ngỡ ngàng phát hiện ra rằng dẫu sao mình cũng đã dự phần làm cho thế giới nên hoàn bị.
3. Nhận ra sự hiện diện của Chúa.
Dáng vẻ bên ngoài có thể che khuất thực tại. Vẻ đẹp của đá hoa cương và tòa nhà có thể khiến khách tham quan chỉ chú ý đến vẻ lộng lẫy kia mà không nhận ra cái gì là quan trọng.
Đền đài hay Đấng ngự trong đền đài, cái nào quan trọng? Nếu việc loan báo sự kết liễu Đền thờ Giêrusalem có gợi được sự quan tâm, thì phải chăng cũng chỉ là để cho người ta chăm chú đến cái cốt lõi, sự Hiện diện? Cái kết thúc không được làm cho ta quên đi cái Hiện tại, cũng như cái hiện tại mau qua kia không được gây trở ngại cho việc chiêm ngưỡng Đấng chẳng hề qua đi. Hãy đón nhận những gì được ban cho ta lúc này, chứ đừng thả mồi bắt bóng. Vậy phải đợi xảy ra những biến cố kinh hoàng như chiến tranh, động đất, địch tễ và chết đói. Phải đón chờ sự sợ hãi và kẻ loan báo nỗi hãi hùng kia rồi mới lắng nghe tiếng đang nói đang mời gọi ta hôm nay chăng? Chính không phải cái giờ phút ấy, cũng chẳng phải những tiếng nói tiên báo tương lai kia mà ta phải chờ đợi. Điều quan trọng hơn cả vẫn chính là tiếng đang nói hôm nay, chỉ một tiếng nói đó mới nói thật rằng “Chính Ta đây” hoặc “Ta đây”. Chỉ ngày hôm nay, chứ không phải ngày mai, “giờ khắc ấy đã đến gần” rồi. Còn ai nữa đâu mà chờ đi theo?”.
88. Gợi ý suy niệm của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Bài Phúc Âm về Ngày Quang Lâm của Con Người thích hợp cách đặc biệt với Chúa nhật I mùa Vọng này. Phụng vụ mời gọi ta đi vào cuộc hành trình của dân Chúa tiến về cuộc giá lâm đầu tiên của Chúa Cứu thế: một hành trình chậm chạp, tối tăm và đau đớn, trong đó chúng ta phải luôn luôn tìm biết thế nào là niềm hy vọng của chúng ta, những thái độ cụ thể, những khó khăn, và sức mạnh vô địch của niềm hy vọng đó.
Nhưng Giáng sinh đã hoàn thành trong khó nghèo và mừng vui của Belem rồi. Chúa đã mang đến cho chúng ta tin mừng của Ngài và đã đưa chúng ta vào trong Giáo hội của Ngài. Nếu chúng ta nhắc lại cuộc giáng lâm khiêm tốn đầu tiên, đó là để hướng về cuộc quang lâm chung cục của Con Người trong quyền năng và vinh quang.
Cuộc giá lâm đầu tiên đã khiến mỗi người trong Israel tỏ thái độ theo hay chống Chúa Giêsu (Lc 2,34-35). Thì nay ở mỗi thế hệ cho đến tận cùng lịch sử, mỗi người đều được kêu mời chọn lựa như thế. Nhờ đức tin, chúng ta đã làm một cuộc quyết tuyển căn bản, tuy nhiên chúng ta vẫn biết rằng trong chúng ta còn ít nhiều khu vực bất tín. Phúc âm kêu mời ta tiêu trừ chúng: hãy quay về Chúa đang đến, hãy tỉnh thức, bấy giờ anh em sẽ sẵn sàng tiếp đón Ngài và đi vào trong nước Ngài.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Hôm nay bắt đầu Năm Phụng Vụ mới. Lời Chúa thúc đẩy chúng ta đi ngay tới trước. Thường khi chấm dứt một giai đoạn, người ta bị cám dỗ kiểm điểm thành quả trước khi bắt đầu giai đoạn kế tiếp; người ta ngó lại đằng sau, tổng kết hoạt động quá khứ và mừng vui nếu mọi sự êm đẹp.
Đối với Chúa, không bao giờ như vậy. Ngài không cho chúng ta thấy thành quả tốt đẹp nào, Ngài không vỗ về ta bằng bất cứ tiến bộ nào. Trái lại, Ngài đẩy ta tới trước, hướng về ngày Ngài đến với những tai ương bi thảm tiên báo. Cho dù những trình bày thảm khốc đó không muốn mô tả cách khoa học những sự kiên thực tế. Tuy nhiên, qua ngôn ngữ của tưởng tượng và thi phú, chúng cũng gợi lên được một cách mạnh mẽ việc quang lâm gần kề của Chúa Kitô. Và việc quang lâm đó sẽ tạo ra một sự đảo lộn sâu xa trong toàn thể lịch sử con người. Chính đó là điều mùa vọng này muốn nhắc nhở ta: khi khơi lại kỷ niệm của việc giáng lâm đầu tiên, nó tích cực chuẩn bị ta cho cuộc quang lâm ngày sau hết.
2. Mỗi người đều khao khát hạnh phúc và công lý; ai cũng hy vọng có kẻ mang chúng đến cho mình; thức dậy, người đời đã chẳng chạy đến những tiên tri giả hay những phương tiện khác nhau để tìm kiếm hạnh phúc đó sao? Họ đã chẳng xây dựng biết bao hệ thống, luôn canh tân chúng để mong thiết lập công bình đó sao? Nếu Chúa đến, đó là vì con người khẩn thiết mong ước những gì Ngài mang lại, ước mong có kẻ đưa đường, chỉ lối, sáng soi. Nếu Chúa đến, đó là vì tận thâm tâm, con người làm chỗi dậy Đấng Cứu Rỗi.
Nhưng một trật, Đấng phải đến lại mang danh hiệu “Con Người”. Như danh hiệu bí ẩn này, mượn ở tiên tri Đanien, gợi lên Đấng phải đến là một nhân vật mầu nhiệm, từ một thế giới khác. Vì thế, việc Chúa đến được coi như sự hòa hợp, sự gặp gỡ giữa khát vọng con người và công cuộc của Thiên Chúa.
3. Chúa Giêsu đã ẩn mình trong các dấu hiệu tiên báo. Những tai ương, thử thách có thể làm chúng ta thất vọng về Ngài cũng là những lời Ngài kín đáo kêu gọi tâm hồn ta. Những thử thách đó khiến ta đừng bám víu mãi mãi vào đời này. Chúng nhắc nhở rằng ta được tiền định cho một thành đô khác, Giêrusalem thiên quốc. Chúng giúp ta chuẩn bị đón chờ cuộc tái lâm vinh quang của Chúa Giêsu, nếu chúng ta biết đón nhận chúng bằng tinh thần đức tin.
4. Đối với thế hệ chúng ta, nước Thiên Chúa cũng đã gần và đang ở giữa chúng ta. Chúng ta tìm thấy nó trong Giáo hội. Vì nơi đó chúng ta gặp Chúa Kitô trong phụng vụ, trong Thánh Thể, trong anh em và trong tâm hồn ta. Chúng ta hãy biết đón nhận Chúa Kitô đang đến, đang đứng ở cửa lòng chúng ta và đang gõ (Kh 3,20). Thầy đứng đó và đang gọi ta (Ga 11,28).
89. Tỉnh thức và cầu nguyện luôn
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Lc 21:25-27.34-36: Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến chung cánh của nhân loại và việc Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người. Đồng thời, Người đã ân cần nhắc nhở chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày chung cánh ấy.
Mùa Vọng là mùa mong chờ một cuộc gặp gỡ. Người nông phu gieo hạt xuống đất mong chờ ngày hạt trổ bông. Người bộ hành mong chờ gặp gỡ nơi chỗ hẹn.
Mùa Vọng là mùa mong đợi gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu chỉ đi vào lịch sử một lần khi Ngài giáng sinh trong hang lừa máng cỏ, cách đây 19 thế kỷ. Nhưng như vừa nói, Ngài sẽ đến lại với mỗi người chúng ta và nhất là Ngài sẽ đến lại trong vinh quang ngày tận thế.
Ta bắt đầu bước vào Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng để rồi ta cùng với Hội Thánh bước vào một năm Phụng Vụ mới, một năm mới trong hành trình đức tin, một giai đoạn mới trên đường hy vọng khi chúng ta cùng bước đi với Chúa Kitô để về với Chúa Cha.
Mùa Vọng Giáo hội đang sống là sống với hai chiều kích: một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của Đức Giêsu Con Thiên Chúa, sinh bởi Đức Maria Đồng Trinh; hai là chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để "phán xét kẻ sống và người chết", như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do các từ "chờ đợi" được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với lời cầu xin tha thiết: "Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi", và hơn thế nữa dân Do Thái kêu van: "Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống".
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến chung cánh của nhân loại và việc Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người. Đồng thời, Người đã ân cần nhắc nhở chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày chung cánh ấy. Những gì Chúa dạy chúng ta phải chuẩn bị cho ngày tận thế là chung cánh của vũ trụ và nhân loại, cũng là những gì chúng ta phải chuẩn bị cho ngày chung cánh của riêng mình: ngay chết của chúng ta, ngày chúng ta từ giã cõi đời này để bước vào cõi vĩnh hằng.
Câu đáng lưu ý trong Tin Mừng là lời khuyên mạnh mẽ của Chúa Giêsu: "Chúng con đừng sợ, hãy đứng vững và ngẩng đầu lên". Với bài đọc thứ nhất, Giêrêmia chỉ rõ Thiên Chúa trung thành với lời hứa cứu rỗi. Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô trình bày Thiên Chúa Cha yêu thương, luôn mong điều tốt đẹp cho con cái. Bài Phúc Âm chỉ là lời kết luận: Dầu trời đất có rung chuyển, có sụp đổ, dầu Chúa có xuất hiện trong uy nghi cao cả, chúng ta cũng hãy đừng sợ, nhưng hãy vui mừng và hy vọng. "Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên". Dầu cho trật tự trần gian này qua đi, Chúa sẽ thiết lập một trật tự mới trong an bình. hãy đừng sợ! Đừng sợ cả khi nhận ra sự yếu đuối của mình, của con người chính mình.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ngay trong chương đầu của quyển "Bước qua ngưỡng cửa hy vọng" đã viết: "Hãy đừng sợ, là lời Chúa đã mời gọi nhiều lần với những con người Chúa tiếp xúc. Thiên Thần đã nói với Maria "Hãy đừng sợ", và cũng đã nói với Giuse "Hãy đừng sợ". Chúa Kitô đã nói với các tông đồ, đặc biệt với Phêrô nhiều lần trong nhiều trường hợp khác nhau, nhất là sau khi Người sống lại: "Hãy đừng sợ". Chúa phải lặp đi lặp lại như thế vì Người biết rằng các ông sợ. Các ông đã sợ khi Người bị bắt. Các ông cũng sợ khi Người phục sinh. Lời đó của Chúa Giêsu, Giáo Hội đã lặp đi lặp lại. Lời đó, Giáo Hoàng cũng đã lặp lại. Tôi đã nói những lời: "Hãy đừng sợ" đó trong bài giảng đầu tiên của tôi tại quảng trường thánh Phêrô.
Muốn luôn ngẩng đầu lên phải có đức tin vững mạnh, phải có niềm hy vọng bao la, phải biết tỉnh thức và cầu nguyện. Tất cả những xác tín đó giúp chúng ta tin tưởng nơi Chúa. Vì dù cho các tầng trời có rung chuyển, biển có gầm sóng, dầu cho mọi người có sợ hãi kinh hồn, thì kìa, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả, Người là Đấng Cứu Thế, Người đến để cứu rỗi thế gian.
Và muốn đứng vững trong ngày sau hết, chúng ta phải biết đứng vững ngay từ bây giờ, hiên ngang ngẩng đầu lên trong hiện tại, vì cây nghiêng bên nào thì sẽ ngã bên ấy. Chúa Giêsu đã biết và đã dạy: "Chúng con hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề". Nặng nề vì tiền của vật chất, giả trá, kéo ghì chúng ta xuống đất. Nặng nề vì một chút đặc quyền đặc lợi, cặn bã của thế gian có thể làm mờ mắt chúng ta, để không còn biết mình đang đứng vững hay đang khòm lưng cúi đầu.
Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Nhất là cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát ra khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Hãy Tỉnh Thức đừng để "lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy đến như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em". Hãy Tỉnh Thức vì ngày cuối cùng đời người chúng ta sẽ đến. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình.
Hãy Tỉnh Thức, vì chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều ảo tưởng, mà ảo tưởng lớn nhất và nguy hiểm nhất của con người là ảo tưởng cho rằng mình có rất nhiều thời giờ, để rồi lại bị chính thời gian bào mòn đi ý chí, bị chính những sản phẩm mình làm ra ru ngủ trong cái cảm giác mình là những vị thần toàn năng và bất tử.
Hãy Tỉnh Thức, vì con người ngày nay, đang bị gây mê, bị ru ngủ trong lối sống hưởng thụ, thực dụng để rồi cứ ngỡ thế giới mình đang sống là duy nhất, vĩnh hằng.
Ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta sống trọn vẹn Mùa Vọng này, như lời Thánh Phaolô nhắn nhủ trong bài đọc thứ hai: "Anh chị em thân mến! Xin Chúa gia tăng và ban cho anh chị em tràn đầy lòng thương yêu nhau và thương yêu tất cả mọi người, để lòng anh chị em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến".
Để đón mừng Chúa Giáng Sinh sắp tới, để chờ đợi Chúa đến với chúng ta trong giờ chết và trong ngày tận thế, chúng ta phải luôn sống tỉnh thức: Tỉnh thức là biết sống yêu thương; Tỉnh thức là không chè chén say sưa; Tỉnh thức là không lo lắng việc đời; Tỉnh thức là luôn nghĩ về sự chết và phán xét; Tỉnh thức là luôn biết cầu nguyện. Làm được như vậy, chúng ta sẽ "Không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Ngài ngự đến viếng thăm" (1Tx 3, 13). Nhờ vậy, chúng ta sẽ được Ngài đón nhận vào hưởng hạnh phúc với Ngài trên Thiên đàng.
90. Tỉnh thức và chờ đợi - Huệ Minh
Dù muốn dù không, hôm nay, ta cùng với Giáo Hội bước vào năm phụng vụ mới với Chúa nhật 1 Mùa Vọng. Mùa Vọng: Mùa của chờ đợi và hy vọng.
Mỗi lần mừng kỷ niệm việc Chúa đến lần thứ nhất ta lại được mời gọi hướng lòng đến sự xuất hiện lần thứ hai của Chúa. Ngày Chúa đến lại lần thứ hai đó cũng chính là ngày mà chúng ta, mỗi người chúng ta cũng dù muốn dù không cũng phải tính sổ với Chúa.
Và rồi, chưa nói đến ngày Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang thì ngày Chúa đến với mỗi người chúng ta là một ngày hết sức bất ngờ, ngày mà chẳng ai có thể ngờ đến được. Vào ngày nay, ta phải chiết tính và phải thanh toán cho Chúa tất cả những gì Chúa đã trao ban cho chúng ta từ ngày chúng ta cất tiếng khóc chào đời. Ngày ấy như thế nào, ngày ấy sẽ là ngày vui mừng hân hoan hay là ngày kinh hoàng, điều đó hoàn toàn tùy thuộc thái độ và cách sống của mỗi người ngay ngày hôm nay.
Đặt mình vào dân Do Thái xưa, ta thấy dân quá vất vả để chờ đợi Đấng Cứu Độ trần gian đến thế giang trong thời gian quá dài. Cũng chính vì sự chờ đợi này đã giúp họ có niềm tin, niềm hy vọng, niềm trông cậy để họ vượt qua những thử thách đổng thời giúp họ điều chỉnh lại thái độ sống của mình.
Sự chờ đợi đó được Isaia nói lên qua tâm tình của ông: Lạy Đức Chúa, Ngài là cha chúng con, là Đấng cứu chuộc chúng con, tại sao Ngài lại để chúng con xa đường lối Ngài, tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá chẳng còn biết kính sợ Ngài?
Chính trong sự chờ đợi dài đăng đẳng như thế này dân Israel ý thức được rằng chình vì tội lỗi của họ, vì sự ngỗ nghịch cứng lòng của họ, và cũng vì sự quay lưng lại của họ với Thiên Chúa khiến cho họ phài trăm ngàn đau khổ:
Tất cả chúng con đã trở nên như đồ nhiểm uế, các việc làm của chúng con chỉ như chiếc áo dơ bẩn, và tội ác chúng con đã phạm đã khiến Ngài ngoảnh mặt làm ngơ.
Chính khi họ mặc lấy tâm tình khiêm nhường như thế, họ đã tha thiết nài xin Thiên Chúa: Lạy Chúa, xin Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước thánh nhan và Chúa đã đến như lời họ nguyện xin.
Cũng vì tội lỗi từ nguyên tổ loài người đến tội lỗi của bao thế hệ con cháu, đã khiến cho cửa trời như bị đóng lại, mối dây liên hệ với Thiên chúa như bị cắt đứt, nay dân Chúa đang nài xin Chúa xé trời mà ngự xuống để giải thoát họ.
Thiên Chúa không dửng dưng, Thiên Chúa không mãi đứng xa xa để nhìn con người đau khổ trong tội lỗi. Chính vì thế khi đến thời viên mãn, Ngài đã cho Con của Ngài xuống thế để đồng hành, để yêu thương, để chữa lành và để cứu con người khỏi phải án chết và ban tặng cho con người sự sống mới của Thiên Chúa.
Đức Giêsu chính là Người Con ấy, Ngày đã đến để tìm kiếm và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát, băng bó những tâm hồn bị thương tích, công bố năm hồng ân và ngày cứu độ của Thiên Chúa. Tất cả những ai đón nhận Ngài và tin Mừng của Ngài cùng sống theo những điều Ngài hướng dẫn thì được cứu độ, được chia sẻ hạnh phúc làm con Thiên Chúa với Ngài.
Thánh Phaolô trong thư gửi cho cộng đoàn Corintô đã diển tả điều đó khi nói rằng: Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và xin Chuá Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an.
Thánh Phaolô đã mời gọi mọi người luôn ý thúc rằng mình đã được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc, được nghe Lời Chúa, được hiểu biết màu nhiệm Thiên Chúa, được ơn Chúa trợ giúp và làm cho nên phong phú sung mãn thì cần phải ăn ở cho xứng đáng cho đến ngày Chúa Kitô trở lại lần thứ hai, phải sống làm sao để không ai có thể trách cứ được anh em điều gì cho đến ngày vinh quang Chúa tỏ hiện.
Chúa sẽ trở lại lần thứ hai trong vinh quang với quyền năng của một vị thẩm phán, đó là điều Đức Giêsu đã khẳng định và là niềm tin của Giáo Hội và của mỗi người chúng ta. Trong Tin mừng đã nhiều lần Chúa nói đến ngày này, ngày Chúa sẽ là Đức vua phân biệt người lành và kẻ dữ như người mục tử phân biệt chiên ra khỏi dê, Ngày Người trở lại như ông chủ trở về đòi các đầy tớ tính sổ và nộp cả vốn lẫn lời. Chắc chắn Chúa sẽ trở lại, nhưng Ngài lại không hẹn giờ, vì thế, cuộc trở lại lần thứ hai là cuộc trở lại trong bất ngờ, và Ngài cảnh báo chúng ta: Anh em phải canh thức vì anh em không biết khi nào chủ nhà sẽ đến. Con người luôn để mình rơi vào tình trạng bất ngờ, mê ngủ hoạc là chè chén say sưa bỏ bê công việc, như câu chuyện Chúa kể hôm nay.
Người chủ kia trẩy đi phương xa và trao quyền lại cho đầy tớ mỗi người một việc và ra lệnh cho họ phải canh giữ và tỉnh thức. Mỗi người đều có công việc riêng của mình và hoàn cảnh riêng của mình, tất cả đều do ông chủ là Thiên Chúa trao cho, mà mỗi người phải hết mình và tận tâm để chu toàn.
Qua lời dặn dò, ông muốn những người đầy tớ này không chỉ giữ nguyên vẹn an toàn, mà còn phai làm việc để sinh lời những đồng vốn ông trao gửi. Ông sẽ trở về có thể là chập tối, lúc nửa đêm hay lúc gà gáy về sáng, ông không muốn thấy đầy tớ của ông mê man say ngủ, mà ông muốn họ phải tỉnh thức, thắp đèn chờ đón ông. Tinh thức, thắp đèn, chờ đón, đó là một thái độ chờ đợi trong sẳn sàng và chủ động làm việc chứ không phải là ủ rũ thụ động chờ đợi trong mòn mỏi.
Canh thức là điều chúng ta luôn được nhắc nhở và tự nhắc nhở vì lẽ đó là bổn phận, nhiệm vụ của mỗi người chúng ta. Nhung, d, song cũng lại là điều chúng ta dễ quên nhất. Biết chắc chắn rằng Chúa sẽ đến bất cứ lúc nào, song chúng ta vẫn bị bất ngờ. Chính sư lôi kéo của thế gian làm cho chúng ta quên ngày chúng ta phải trở về, nhiều người đã sống như thể mình sẽ không bao giờ phải chết hoặc là tránh né không dám nhắc đến ngày phải trở về, vì thế họ để cho công việc, tiền bạc, của cải chiếm hết thời gian và những lo toan của họ, khiến họ không còn giờ để lo cho Ngày Chúa đến với mình nữa.
Nhiều người đã quên mất thân phận của mình chỉ là một người đầy tớ, một người quản lý được Chúa trao cho tài sản để sinh lời cho Chúa, mà lại coi mình như là ông chủ bà chủ và ngủ mê trong trong công việc của mình, lo hưởng thụ và không lo làm lời những đồng vốn, những nén bạc Chúa trao hoặc lại đem đi chôn giấu.
Hôm nay, ta được Chúa lại đánh thức ta. Đơn giản vì ta có khi thức nhưng không tỉnh. Có khi ta lại sống trong trạng thái mơ mơ ảo ảo và ta không biết đâu là cùng đích cuộc đời. Sống nhưng ta không xác định được cái gì là bền vững, cái gì là mau qua, đâu là hạnh phúc thật và đâu là ảo ảnh.
Hạnh phúc thật của chúng ta là Thiên Chúa và Nước Trời, mọi sự ở trần gian: tiền bạc của cải danh vọng quyền lực rồi sẽ qua mau, chỉ có Thiên Chúa là bển vững và hạnh phúc ngài ban là vĩnh cửu. Những ai còn đang mê ngủ, hảy tỉnh dây để điều chỉnh cuộc sống của mình của gia đình mình đi cho đúng đường của Chúa thì mới có thể đạt được hạnh phúc thật.
Nhiều bậc làm cha làm mẹ vẫn đang mê ngủ trong sự lười biếng của mình, ngủ mê trong khối tài sản của mình, lấy lý do bận rộn để bỏ quên việc canh thức cho chính mình và cho gia đình mình. Là chủ của gia đình, ta ãy canh thức bằng cách sắp xếp và điều chỉnh lại nếp sống đạo đức của cả gia đình bằng việc giúp nhau lãnh nhận Bí tích, tham dự Thánh lễ, rước lể, bằng đọc kinh cầu nguyện và đọc Lời chúa mỗi ngày.
Ngày mỗi ngày, ta thắp lên ngọn lửa yêu thương trong gia đình, vì gia đình và con cái chính là tài sản quý giá nhất mà Thiên Chúa trao cho mỗi chúng ta, hãy làm cho gia đình trở nên phong phú và đầy tình yêu thương. Hãy canh thức đừng để cho sự nghi kỵ và ích kỷ tham lam nó làm đổ vỡ tình nghĩa gia đình giữa cha mẹ và con cái giữa anh em ruột thịt, đừng để cho đồng tiền nó cướp đi hạnh phúc và hơi ấm của gia đình, nó gây chia rẽ trong gia đình trong anh em, láng giềng.
Với người trẻ, Lời Chúa mời gọi các bạn canh thức, tức là canh chừng đừng để mình ngủ quên trong xã hội hưởng thụ hôm nay. Với tất cả công việc, tương lai của ta và cả danh vọng địa vị sẽ để làm gì nếu ngay đêm nay Chúa là ông chủ đòi ta tính sổ cuộc đời.
Hãy canh thức đừng để mình rơi vào tình trạng nghiện ngập bê tha, ăn chơi buông thả, đừng quên mình là người Công giáo, người con Chúa.
Ta đừng nghĩ rằng mình còn trẻ thì ngày ấy chưa đến, sẽ không phải chết, đừng sợ nghĩ đến cái chết, vì khi biết nghĩ đến ngày mai mình phải chết sẽ giúp cho mình biết sống tốt hơn và mỗi ngày sống hãy sống yêu thương cho đầy tràn, hãy sống cho có ý nghĩa và hãy sống có ích cho chính mình, cho đời, hãy sống như thể ngày mai mình sẽ phải chết, để mình khỏi mê ngủ và không uổng phí cuộc đời vào những chuyện mau qua.
91. Hãy tỉnh thức---Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Năm phụng vụ lại bắt đầu bằng một lời cảnh cáo: hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Mùa vọng lại tới, nhân loại không còn chờ đợi lễ Giáng Sinh như dân Do Thái xưa. Nhân loại và mỗi người đang chờ đợi Đức Kitô lại đến để hoàn tất công trình cứu độ nơi con người, nơi toàn thể thế giới, nơi mọi dân tộc, mọi nước, mọi người. Lời cảnh cáo của Chúa Giêsu trong Tin Mừng chúa nhật hôm nay không chỉ dành riêng cho các môn đệ nhưng là chung cho mọi người chúng ta ngày hôm nay.
Chúa Giêsu kêu mời nhân loại, gọi mời mỗi người hãy coi chừng, tỉnh thức. Lời kêu mời này không có ý làm cho con người phải chìm đắm trong sầu đau, thử thách, nhận chìm trong bóng tối, tội lỗi. Lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu mang một tầm vóc hết sức lạc quan. Chúa đã có mặt trong lịch sử nhân loại, Chúa đã hiện diện nơi mỗi người. Chúa đã giang tay ra để gánh lấy tội lỗi cho nhân loại. Tội lỗi đã bị đánh tan nhờ cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Chúa đã mang sự sống mới cho nhân loại. Hãy tỉnh thức để nhận ra tất cả những cái mới mẻ đó để nhập cuộc, để vui sống, để chia sẻ...Tuy nhiên, đọc Tin mừng, ta vẫn bắt gặp vô số những người đang mê ngủ, họ không biết tỉnh thức để nhận ra những cái tiến bộ, những cái mới mẻ của lịch sử, họ luôn suy nghĩ theo lề lối cũ, theo định kiến hẹp hòi.
Các người Biệt phái, các Thượng tế, Luật sĩ và Kỳ mục luôn mê ngủ trong sự tự mãn về sự thông hiểu của họ về Thánh Kinh. Dân thành Giêrusalem cũng tự ru ngủ trong thói quen, sợ dấn thân nhập cuộc, nên họ đã sống ngoài biến cố Con Thiên Chúa làm người. Chúa Giêsu như vị cứu tinh họ mong đợi nhưng họ lại không nhận ra Ngài, họ không muốn chấp nhận Ngài. Họ đã không nhận ra Chúa Giêsu, nhưng lại tìm cách giết Ngài. Họ không chấp nhận nghe tiếng Ngài, không chấp nhận lối sống, cách cư xử xem ra đi ngược với họ. Họ thực là những con người đang mê ngủ. Trong khi đó những con nngười nhỏ bé, những người thu thuế, những cô gái điếm lại có khả năng nhận ra tiếng hát các thiên thần, của ánh sao, của dấu lạ để cuối cùng họ nhận ra Đấng Cứu Thế nơi một Hài Nhi Giêsu đặt trong máng cỏ hay nơi một Chúa Giêsu bị treo trên thập giá. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân, đi vào lịch sử để nhận ra những cái mới, những biến chuyển lạ lùng nơi những con người đã được cứu chuộc, nơi những người là Con Thiên Chúa, là anh em với nhau.
Mùa vọng không chỉ có nghĩa là nhớ lại việc Chúa sinh ra như những người Do Thái đã sống. Mùa vọng là thời gian để chúng ta tưởng nhớ việc Đức Giêsu sẽ trở lại ngày cuối cùng để phán xét, thời gian chúng ta ít mong đợi nhất. Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta kiểm điểm xem cuộc sống của chúng ta làm sao. Mùa vọng là thời gian chúng ta hồi tưởng lại xem chúng ta đã sẵn sàng
đón tiếp Chúa đến phán xét chúng ta lúc chúng ta còn ở trần gian, chúng ta đã sống dấn thân và mở mang Nước Chúa như thế nào. Đây là sứ điệp các bài đọc Chúa nhật hôm nay muốn nhắc nhở: Chúa Giêsu Đấng đã tới trần gian các đây hơn 2000 năm, sẽ trở lại vào ngày cùng tận lúc chúng ta không ngờ. Khi Ngài trở lại, Ngài sẽ xét xử mỗi người tùy theo khả năng và tùy theo nén bạc Chúa đã trao phó cho sinh lợi.
Mỗi người chúng ta hãy tỉnh thức, cầu nguyện, xin Chúa giúp mỗi người chúng ta trung tín và kiên vững trong công việc Chúa trao phó:
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sức mạnh, xin ban cho chúng con tình yêu, xin ban cho chúng con đôi mắt tinh anh, xin ban cho chúng con chính mình Ngài để chúng con luôn sẵn sàng dấn thân nhập cuộc mà không hề thất vọng chán nản và không bao giờ an nghỉ cho tới khi được Chúa an nghỉ trong chúng con. Amen.
92. Phải canh thức---Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Cuộc đời con người là một sự đợi chờ liên lỉ. Ai mà chẳng đợi chờ. Có những việc đợi chờ làm con người sốt ruột, nôn nao, căng thẳng. Có những sự đợi chờ làm con người vui tươi, hạnh phúc như chờ đợi kết quả cuộc thi mà ta nắm chắc đậu một trăm phần trăm hay chờ đợi mẹ đi chợ về mua quà, mua đồ chơi cho ta. Tất cả đời người đều là một cuộc đợi chờ: đợi chờ trong hy vọng, đợi chờ trong niềm tin và đợi chờ trong thất vọng ê chề. Mùa vọng là mùa đợi chờ. Các Kitô hữu hướng về niềm vui gần mong đợi ngày giáng sinh, ngày Chúa đã đến để khai mở Nước Thiên Chúa và hướng về ngày cùng tận, ngày cánh chung, Chúa sẽ đến để phán xét kẻ lành kẻ dữ.
Tin Mừng thánh Marcô căn dặn: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến ". Chúa lay tỉnh con người, Chúa nói với con người phải tỉnh thức. Ở đây, tỉnh thức có nghĩa là mau mắn, sẵn sàng, không được thụ động ngủ vùi. Thái độ tỉnh thức phải là thái độ của năm cô trinh nữ khôn ngoan, đem dầu nhưng còn cẩn thận mang cả dầu nữa...Tỉnh thức như người đầy tớ thức trắng đêm vì ông chủ trở về bất ngờ. Tỉnh thức làm lợi như người được chủ giao 5 nén, 2 nén và 01 nén. Tỉnh thức như cụ già trong một câu chuyện: " Hằng ngày ông cụ cứ ngồi trên xích đu mà chờ Chúa đến ". Chúa đến đột xuất, bí mật, bất ngờ nên Kitô hữu luôn phải có thái độ sẵn sàng để đón chờ Chúa đến. Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaia cầu khẩn, van nài cùng Thiên Chúa: “Vì tình thương...xin Ngài mau trở lại. Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống ". Đây là ước mong, là khát vọng của mọi người. Con người, loài người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, nên con người mong chờ ơn cứu chuộc của Chúa. Bài đọc II, thánh Phaolô đã cảm tạ Chúa vì Chúa thương ban cho cộng đoàn Corintô dồi dào ơn Chúa trong khi mong chờ Chúa Kitô tái giáng lâm, và thánh Phaolô cũng khuyên nhủ họ tiếp tục sống tốt, tuân theo lời Chúa để khỏi bị Chúa khiển trách khi Chúa Kitô lại đến. Do đó, Tin Mừng hôm nay kêu mời con người phải có thái độ tích cực tỉnh thức, nghĩa là phải trở về với lòng mình, phải trở về với Chúa để gặp Ngài và luôn phải bám chặt lấy Ngài.
Chờ đợi Chúa không có nghĩa là cứ đọc dăm câu kinh hay đi nhà thờ cho có lệ là đủ rồi, là nắm chắc phần thắng Nước Trời thuộc về mình. Ngôn sứ Isaia kêu mời những con người tội lỗi hãy mạnh dạn quay về với Thiên Chúa bởi vì chính vị ngôn sứ đã níu chặt lấy Chúa, van nài Chúa tha thứ lỗi lầm cho dân. Tỉnh thức ở đây không có nghĩa là khi chủ về thì họ đã mệt mỏi, nên li bì ngủ tiếp. Tỉnh thức ở đây là người tín hữu phải dọn mình xứng đáng để chờ gặp Chúa. Quả thực, Chúa đã đến và Chúa đang ở giữa nhân loại, ở giữa chúng con, hằng giây hằng phút Chúa hằng mong muốn đến với chúng con và ở với chúng con kia mà. Vấn đề của chúng con, của người môn đệ Chúa có chuẩn bị đón tiếp Chúa, có sẵn sàng để Chúa ở với mình hay không? Chỉ có một cách chờ đợi tốt nhất là tỉnh thức và cầu nguyện. Điều làm người môn đệ xa Chúa là không ý thức, không chuẩn bị, ngủ mê trong những ích kỷ, ươn hèn, lười biếng của mình bởi vì người môn đệ, loài người quá yêu mình đến nỗi đã quên Chúa, đã mất ý thức về Chúa.
Để chờ đợi Chúa đến, các Kitô hữu phải có tâm tình thống hối thật sự, phải biết biến đổi nội tâm, tái Phúc Âm tâm hồn và biết làm những việc tốt đẹp theo con đường của Chúa. Người mộn đệ Chúa phải biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại, phải biết nhận diện Chúa trong từng phút giây của cuộc sống, nhận rõ Chúa vì chỉ có Chúa mới là nguồn sống, là thuẫn đỡ chở che, là gia nghiệp đời đời của con người. Nhận rõ Chúa cũng có nghĩa là từ bỏ con người xấu xa tội lỗi để mặc lấy Chúa Kitô và như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi ". Nhận ra Chúa là biết từ bỏ những dục vọng, những ham mê, những ham muốn bất chính, những tham lam mù quáng lôi kéo con người xa Chúa.
Nhiều Kitô hữu được rửa tội nhưng lại không hiểu biết giáo lý sâu xa, không hiểu thế nào là Đạo, thế nào là Chúa. Chính vì thế, họ thiếu tỉnh thức và cầu nguyện. Họ luôn chạy theo những trào lưu mới của thời đại, đặc biệt thế giới đang đi tới chỗ toàn cầu hóa, con người dễ chạy theo lợi nhuận, chạy theo tiền bạc, vật chất mà quên mất Chúa. Con người chỉ có thể gặp Chúa khi họ sẵn sàng tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan và như nguời khôn xây nhà trên đá.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết từ bỏ những gì là không đẹp lòng Chúa để chúng con càng ngày càng trở nên xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa ngự vào đền thờ tâm hồn chúng con. Amen.
93. Tỉnh thức chờ ngày Chúa trở lại
(Suy niệm của Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb)
Chúa Giêsu cùng các Tông đồ đang ở tại khuôn viên Đền thờ Giêrusalem. Có người chỉ Đền thờ và trầm trồ khen ngợi về kiến trúc của ngôi Thánh Đường. Chúa Giêsu nhân đó đã tiên báo cảnh sụp đổ của Đền thờ - xảy ra vào năm 70, do tướng Titus phá hủy. Kế đó các Tông đồ hỏi Chúa về các sự việc ấy xảy đến và vào thời chung cuộc thì có những điềm báo gì? Đáp lại, Chúa Giêsu tiên báo hàng loạt những việc bách hại sẽ xảy đến cho các Tông đồ cũng như cho những ai tin vào Thiên Chúa. Đồng thời Ngài cũng nhận rằng ngày đó là ngày nào thì không ai biết được, chỉ có Chúa Cha biết được mà thôi (x. Mc 13, 1-32). Và để kết luận, Chúa đã dạy cho các Tông đồ biết phải sẵn sàng để chờ đợi ngày đó như được nói đến trong Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng này.
Tin mừng hôm nay chỉ vắn gọn trong năm câu, nhưng có đến bốn lần Chúa Giêsu dùng từ "canh thức" và một lần dùng từ "tỉnh thức" cũng đủ nói lên tính khẩn trương của việc chuẩn bị chờ đón ngày Chúa đến. Các Tông đồ muốn biết ngày đó là ngày nào và sẽ xảy đến ra sao, bởi các ông cho rằng sẽ là hợp lý khi biết trước để tránh, biết trước để chuẩn bị vẫn tốt hơn ở thế bị động. Chúa Giêsu không thể khẳng quyết chính xác ngày đó là ngày nào bởi nó nằm trong sự quan phòng của Chúa Cha. Điều Người có thể khẳng quyết cách chắc chắn rằng ngày đó- không sớm thì muộn, nhất định sẽ xảy đến. Khi khẳng quyết như thế, Chúa Giêsu không làm gì khác hơn là khuyên nhủ các Tông đồ hãy thanh thản sống giây phút hiện tại một cách có ý nghĩa. Sống giây phút ấy trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, trong sự tỉnh thức thật nhậy bén cũng như dùng giây phút hiện tại để dấn thân cho Tin mừng Chúa Kytô cách trọn vẹn. Cũng giống dụ ngôn người kia trẩy đi phương xa, trao tất cả quyền hành cho đầy tớ, sắp đặt mỗi người một việc và dặn người gác cửa phải tỉnh thức. Khi sánh ví như thế, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến việc không biết trước ngày nào, giờ nào chủ sẽ về và việc chủ nhà đến bất thình lình cho thấy công việc và mục đích duy nhất của người đầy tớ là hãy sống giây phút hiện tại trong sự tỉnh thức.
Tính cách bất ngờ, không báo trước ngày ông chủ về đã được thánh sử Máccô ghi lại mang dụng ý thần học hơn là cách trình bày sự việc cách đơn thuần. Nếu người Phương đông chia đêm thành năm canh thì trái lại, người Rôma lại chia thành bốn canh. Chúa Giêsu cũng dùng cách chia này nhưng lồng vào đó một ý nghĩa có tính chất tiên báo về bốn giai đoạn của cuộc thương khó mà Người sẽ trải qua. Bốn giai đoạn đó tượng trưng cho sự phản bội (chập tối), dễ sa chước cám dỗ (nửa đêm), chối Chúa (lúc gà gáy) và trốn chạy (tảng sáng). Chúng ta nhận thấy là, trong bốn canh của đêm tối, không giờ nào lại không có sự sa ngã, không lúc nào lại không có sự hiện diện của thế lực thù địch với Thiên Chúa. Thế nên vũ khí để có thể thắng đựơc các thế lực thù địch ấy- theo Chúa Giêsu, chỉ có thể là tỉnh thức. Tỉnh thức ở đây không chỉ là việc chống lại với sự buồn ngủ của thể lý mà còn là việc sẵn sàng nghênh đón những biến cố xảy đến cách bất thình lình nữa. Tỉnh thức ở đây cũng không phải mang một tâm trạng nặng nề ủ dột hay thất vọng đến độ tiêu cực cho bằng một thái độ sống biết phó thác, tin tưởng và chờ đợi ngày Chúa sẽ trở lại trong vinh quang của Người. Như thế, tỉnh thức là biểu hiện của một trạng thái sẵn sàng, hiên ngang ngẩng cao đầu, sống một cách trọn vẹn cho giây phút hiện tại, và vì thế, việc ông chủ về bất cứ lúc nào dường như không còn quan trọng lắm đối với họ, bởi họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng, không thiếu sự gì để nghênh đón ông cách chu đáo.
Mùa Vọng nhắc nhớ chúng ta chuẩn bị tâm hồn, luôn luôn tỉnh thức để đón chờ ngày Chúa đến trong Vinh quang. Và bởi vì ngày Vinh quang của Chúa đến cách đột ngột, không báo trước, nên chúng ta cần phải ra sức chuẩn bị tâm hồn để khỏi hối hận về sự đã rồi. Ngày đó chắc chắn sẽ đến. Vấn đề ở chỗ chúng ta có tỉnh thức đủ để chuẩn bị tâm hồn, trở về với nẻo chính đường ngay, ngõ hầu lúc nào cũng sẵn sàng, sẵn sàng và sẵn sàng cho ngày đó hay không?.
27/11 Tỉnh thức cầu nguyện
- Viết bởi Lc 21, 34-36
Tỉnh thức cầu nguyện.
Thứ Bảy tuần 34 thường niên.
"Các con hãy tỉnh thức, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến".
Lời Chúa: Lc 21, 34-36
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất.
Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Phải đề phòng
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Tháng 9-2009, Tổng Thống Nga Medvedev
gọi nạn nghiện rượu là quốc nạn.
Mỗi năm tính bình quân mỗi người dân uống khoảng 18 lít,
gấp đôi lượng rượu được coi là nguy hiểm cho sức khỏe.
Nửa số người Nga chết giữa khoảng 15-54 tuổi là do hậu quả của rượu.
Trẻ em và phụ nữ cũng nghiện.
Tuổi thọ trung bình của đàn ông chỉ còn là 59.
Vì nhiều người chết nên dân số Nga sụt giảm mỗi năm.
Làm gì để cai nghiện cho hơn hai triệu người Nga,
đó là chuyện nhức đầu cho các nhà lãnh đạo.
Nhưng tại sao người ta lại bị nặng nề bởi rượu Vodka?
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta
về những thứ nặng nề đè trên trái tim người Kitô hữu.
Trong khi chờ đợi Chúa đến vào thời điểm không đoán trước được,
chúng ta có thể bị vướng vào những thú vui buông thả.
Sống bừa bãi, phóng túng, nhậu nhẹt, say sưa,
đó vẫn là cám dỗ muôn thuở của thân xác.
Chỉ cần đi một vòng thành phố hay các vùng quê vào ban đêm,
chúng ta thấy ngay cả một thế giới của ăn uống, hưởng thụ.
Nhưng trái tim con người còn có thể trở nên nặng nề
bởi những lo âu trần thế (x. Lc 8, 14).
Làm sao nhà cửa có thêm tiện nghi? làm sao thêm lương và lên chức?
Những nỗi lo toan về cuộc sống vật chất vắt kiệt con người,
khiến con người không còn khả năng mở ra trước Chúa và tha nhân.
Con người giàu lên, nhưng lại thấy mình bất hạnh và gia đình đổ vỡ.
Mỗi năm ba mươi ngàn người chết vì tự tử ở Nhật.
Trái tim nặng nề nên nhiều người mắc bệnh tim mạch.
Trái tim bị kéo xuống cái thực dụng tầm thường ở trên mặt đất,
nên con người bị còng xuống, không ngước lên được điều trên cao.
Ngày Chúa đến như một bất ngờ, như một cái bẫy sập xuống,
không phải chỉ trên người Do Thái,
nhưng trên mọi dân cư ở khắp mặt địa cầu (c. 35).
Cả thế giới phải chịu phán xét chẳng trừ ai.
Bởi đó thái độ cần có mỗi ngày của người môn đệ
là luôn luôn thức tỉnh và cầu nguyện,
để có sức mà thoát khỏi mọi điều sắp xảy ra (c. 36).
Để chuẩn bị cho cái chung cục, thì phải sống đều đặn cái hàng ngày.
Làm sao để khi Con Người là Đức Giêsu trở lại trên mây trời,
Ngài thấy chúng ta đang ở tư thế đứng thẳng,
không phải xấu hổ cúi đầu, không bị ràng buộc bởi đam mê,
nhưng vui sướng vì mình đã không uổng công chờ đợi.
Có những lo âu vẫn chi phối tôi làm tôi nặng lòng.
Có những mê đắm kéo ghì tôi xuống và bắt tôi làm nô lệ.
Mùa Vọng sắp đến mời tôi tỉnh thức và cầu nguyện, để đứng lên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại. Amen.
Suy niệm 2: Cuộc chiến cuối cùng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ma quỉ luôn chống phá chương trình của Thiên Chúa. Gây ra cuộc chiến giữa thiện và ác. Ma quỉ muốn bành trướng vương quốc sự dữ của nó. Cuộc chiến khởi đầu từ tạo thiên lập địa. Và sẽ kéo dài cho đến ngày tận thế.
Càng đến cuối thời gian cuộc chiến càng khốc liệt. Vì ma quỉ phải vận dụng hết năng lực tàn phá để giành lấy con người. Đa-ni-en đã thấy những con thú ngày càng hung dữ hơn. Tức là các vua chúa trần gian ngày càng hùng mạnh hơn. Đến vị vua cuối cùng thì quả thực vô đối. Ông tiêu diệt hết các vua trước. Và còn báng bổ cả Thiên Chúa. Vì ông nghiền nát cả vũ trụ dưới chân. Mọi người phải cúi đầu khuất phục trước thế lực hung hãn này. Nhưng cuối cùng thời hạn của thế gian chấm dứt. Thiên Chúa là chủ của lịch sử và vũ trụ sẽ ngự đến xét xử. Tước lấy quyền uy của vua chúa trần gian. Trao vào tay dân thánh của Chúa. Bấy giờ quyền uy mới là tối thượng. Và sẽ bền vững đến muôn đời (năm lẻ).
Chúa Giê-su diễn tả ngày của Chúa đến như chiếc lưới bất ngờ chụp xuống. Không ai và không gì trong vũ trụ thoát khỏi giờ xét xử kinh hoàng ấy. Chỉ duy những kẻ thuộc về Chúa mới được cứu rỗi. Muốn thuộc về Chúa, ta phải “đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”. Sự đời ngày càng hấp dẫn. Khiến người ta say mê. Càng say mê lòng trí càng nặng nề. Càng sống theo xác thịt ta càng xa Thần Khí. Càng thuộc về trần gian càng xa Nước Chúa. Vì thế Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức để phân định tốt – xấu, thiện – ác, Thiên Chúa – trần gian. Có những thứ men tinh vi của ma quỉ, xác thịt, thế gian nhiễm vào tâm hồn. Khiến ta lầm lạc lầm tưởng xấu là tốt. Vì thế phải rất tỉnh thức. Nhưng để dứt khoát chối từ ta cần phải can đảm. Trần gian có những giá trị quyến rũ khiến ta khó dứt lìa. Xác thịt yếu đuối lắm. Vì thế phải cầu nguyện ta mới có thể đứng vững trong ngày của Chúa.
Khi ta đã chiến thắng trong cuộc chiến cuối cùng, ta sẽ được đưa vào Nước Chúa. Ở đấy không còn chết chóc nữa. Chỉ có sự sống. Không còn bệnh tật. Chỉ có sức khoẻ. Không còn bóng tối nữa. Chỉ có ánh sáng. Không còn sự ác nữa. Chỉ còn sự thiện. Không còn chiến đấu nữa. Vì ma quỉ xác thịt thế gian đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Ta hoàn toàn thuộc về Chúa. Ta được chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa. Được hiển trị với Chúa. Đến muôn thuở muôn đời (năm chẵn).
Chỉ cần một điều. Trong suốt cuộc chiến trần gian, hãy “tuân giữ các sấm ngôn trong sách này”.
Suy niệm 3: Tỉnh thức cầu nguyện
Kết thúc diễn từ về ngày tận thế, Chúa Giêsu đưa ra hai thái độ sống cụ thể trong khi chờ ngày của Chúa. Thứ nhất là thái độ sống thanh thoát: "Các con phải đề phòng, chớ để lòng mình đắm say tửu sắc, đa mang sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu các con, vì ngày ấy sẽ ập tới mọi dân cư trên khắp mặt đất". Nói khác đi, Chúa muốn chúng ta sống sứ điệp và giá trị Tin Mừng, không để mình bị mê hoặc chạy theo các chủ trương duy vật, hưởng thụ, qua lo thu tích của cải như một bảo đảm an toàn cho cuộc sống mà lãng quên những nhu cầu tâm linh và các giá trị siêu việt của cuộc sống.
Ðể khỏi rơi vào tình trạng thiếu chuẩn bị trong ngày của Chúa, Chúa Giêsu nêu ra điều kiện tiên quyết, đó là tỉnh thức và cầu nguyện: "Các con phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có đủ sức thoát khỏi những điều sắp xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người". Cầu nguyện là nhìn nhận Chúa là tất cả, là đặt thánh ý Chúa trên hết. Ðồng thời, cầu nguyện là nhận biết mình yếu đuối và cậy trông vào ơn Chúa. Nhờ cầu nguyện, chúng ta sẽ có thái độ tỉnh thức trong đời sống thường ngày, sẽ nhạy bén với tiếng gọi của Chúa qua những biến cố cuộc sống để luôn tìm đẹp lòng Chúa.
Ngày mai chúng ta không biết sẽ ra sao, ngày cuối đời lại càng mù tịt. Xin Chúa cho chúng ta biết sống từng giây phút hiện tại, sao cho luôn được Chúa chúc lành và được tình thương Chúa che chở, để ngày Chúa đến sẽ là ngày hạnh phúc cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Nền văn hóa của sự chết
Hòa Lan đã dấn sâu hơn vào nền văn hóa của sự chết. Ngày 28/11/2000, quốc hội Hòa Lan đã chính thức thông qua luật mới cho phép các bác sĩ được trợ giúp những bệnh nhân nan y tự tử. Với luật này, Hòa Lan là nước đi tiên phong trong nền văn hóa của sự chết, tuy chưa chính thức ban hành luật cho phép các bác sĩ trợ giúp những bệnh nhân nan y tự tử.
Ngày nay, nhiều nước công nghiệp tiên tiến cũng đang ngày càng bị nhận chìm trong điều thường được gọi là văn hóa của sự chết. Trong khuôn khổ của ngày Năm Thánh dành cho các giáo dân tham gia truyền giáo diễn ra tại Vatican vào tháng 12/2000, một hội nghị về những khó khăn trong cuộc sống chứng nhân giữa đời đã được tổ chức. Nhân dịp này, bà Mêrian Clindon, giáo sư luật học tại đại học Harvard, Hoa Kỳ, và từng được cử làm trưởng đoàn Toà Thánh tham dự diễn đàn phụ nữ tại Bắc Kinh vào năm 1995, đã trình bày cho hội nghị về nền văn hóa chết chóc đang lan rộng trong xã hội Hoa Kỳ. Bà Clindon nói rằng một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất trong nền văn hóa sự chết là con người không còn màng đến các giá trị đạo đức nữa. Quan hệ gia đình ngày càng mong manh. Tình mẫu tử bị khinh miệt. Trẻ con dành ít giờ cho cha mẹ và anh chị em hơn là màn ảnh truyền hình. So với đám đông thầm lặng, nền văn hóa sự chết lại được thịnh hành hơn trong những thành phần ưu tú và lãnh đạo trong xã hội.
Ðặc trưng của nền văn hóa của sự chết ấy là sự phát triển tràn lan của chủ nghĩa duy vật, duy hưởng thụ, duy khoái lạc và tục hóa.
Tựu trung, luật cho phép các bác sĩ trợ giúp những bệnh nhân nan y tự tử là thể hiện cuối cùng của trào lưu khước từ sự sống, chối bỏ ý nghĩa của sự sống. Thật thế, sở dĩ con người có ý tìm đến cái chết là bởi vì họ không còn nhìn thấy giá trị và ý nghĩa của sự sống nữa. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ của Ngài hãy tỉnh thức để không chạy theo nền văn hoá của sự chết ấy. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu được đưa ra liền sau khi Ngài loan báo về ngày tận thế. Chúa Giêsu loan báo về ngày thế tận không phải để đe dọa con người, mà trái lại mời gọi con người mặc lấy thái độ tỉnh thức và tin tưởng phó thác. Ngày thế tận không phải là một biến cố khiến cho con người phải sợ hãi hay thất vọng, mà trái lại là điểm đến tất yếu của lịch sử. Ngày thế tận không phải là tận cùng của lịch sử. Trong ý nghĩa toàn bộ của lịch sử ấy, cuộc sống con người có ý nghĩa và mọi biến cố trong cuộc sống con người đều có ý nghĩa. Niềm vui, nỗi khổ, thành công, thất bại, giàu sang, nghèo hèn, sức khỏe, bệnh tật, tất cả đều có ý nghĩa và giá trị của nó. Nhận ra ý nghĩa của tất cả mọi sự trong cuộc sống, cũng có nghĩa là tuyên xưng rằng Chúa là Chúa tể của lịch sử, và như vậy, thái độ phù hợp nhất là sống mọi biến cố với tâm tình thương yêu và phó thác. Trong một xã hội chối bỏ mọi giá trị đạo đức, cuộc sống con người có niềm tin phải là một chứng tá về những giá trị vĩnh cửu. Trong một xã hội thiếu niềm tin, cuộc sống của người tín hữu phải là một ngọn đèn pha mang lại tia sáng của tin yêu và hy vọng. Trong một xã hội vắng bóng tình yêu, cuộc sống của người môn đệ Chúa Kitô phải chiếu ngời hân hoan và quảng đại. Ðó là thách đố đang được đặt ra cho chúng ta hôm nay.
Nguyện xin Chúa củng cố niềm hy vọng của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Tỉnh thức thật
“Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì ngày ấy ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc. 21, 34-36)
Ở câu 31 thánh Lu-ca đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tỉnh thức vì nước trời gần rồi, Ngài lấy lại đề tài này vì lý do ngày phán xét đến đột ngột, nên đừng để mình mê ngủ. Lời khuyên tỉnh thức, sẵn sàng là một khía cạnh cốt yếu trong sứ điệp của Đức Giêsu. Giáo hội thời đầu đã nắm bắt rất kỹ tầm quan trọng của lời cảnh giác này, câu sau đây của thánh Phao-lô có thể soi sáng cho tâm trí chúng ta hiểu rõ vấn đề này: “Theo Thần khí hướng dẫn, anh em hãy cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh và hãy tỉnh thức trong mọi lúc với mọi nhẫn nại chờ đợi” (Ep. 6, 18). Những cuộc canh thức đóng một vai trò lớn lao trong phụng vụ như thánh Phao-lô còn chứng tỏ: “Anh em hãy kiên trì cầu nguyện, hãy tỉnh thức cầu nguyện và tạ ơn” (Col. 4, 2). Chuẩn bị như vậy để theo Đức Kitô tiến lên mừng lễ Phục sinh.
Những cuộc canh thức đó diễn tả đúng tư tưởng của Đức Giêsu về chủ đề tỉnh thức, vì lúc đó vấn đề luôn luôn được chú trọng là cầu nguyện mỗi khi chiều đến, vì Tin mừng luôn luôn nhắc nhở: “Chiều đến Đức Giêsu vào nơi thanh vắng cầu nguyện”. Loại canh thức này của Đức Kitô không phải như thứ canh gác của người lính canh coi chừng kẻ phục kích, cũng không phải như võ sĩ luôn luôn sẵn sàng tránh những cú đấm bất ngờ, cũng không phải như con mèo rình bắt chuột. Sự canh thức của chúng ta cũng không phải thứ âm mưu quỷ quyệt của trận chiến giữa ta với Thiên Chúa. Nếu thế thì khốn cho chúng ta.
Từ ngữ tỉnh thức diễn tả chính xác phải theo tư tưởng của Đức Giêsu, tỉnh thức có nghĩa là chăm chú có ý tứ, có ý thức, như đầy tớ khôn ngoan và trung tín, chăm chú làm việc để khi chủ về bất cứ giờ nào trong đêm khuya, nó biết chuẩn bị trước những điều cần, những gì chủ muốn, nó không để thiếu thứ gì cho chủ, người mà nó yêu mến kính trọng. Tỉnh thức như thế cũng giống như bà mẹ rất quan tâm trông coi săn sóc nhà cửa với tâm tình yêu mến, để không một cái gì ở ngoài tầm tay âu yếm của bà. Gia đình sẽ không túng thiếu cái gì, dù có bất ngờ xảy đến.
Nước Thiên Chúa hiện diện trong mỗi biến cố của lịch sử cứu độ, nó không tỏ ra nơi những tiếng sụp đổ ầm ầm của những tai họa kinh hoàng, nó đi qua nhẹ nhàng vô cảm đối với những ai không lo đề phòng. Sau hết, ngôn ngữ thật của tỉnh thức mà Chúa đòi hỏi các môn đệ, đó không phải là thứ ngôn ngữ khá tinh tế sao?
RC
Suy niệm 6: Cầu nguyện và tỉnh thức
Nếu chúng ta chỉ còn có một ngày cuối cùng để sống, hẳn sẽ có nhiều điều trăng trối được nhắn gửi tới mọi người. Cũng vậy, nếu còn một ngày để làm việc, người ta sẽ làm nhiều chuyện tốt đẹp để lại cho đời và cho người.
Hôm nay, ngày cuối cùng của năm Phụng Vụ, Giáo Hội cũng muốn nhắn gửi chúng ta một thông điệp căn bản và quan trọng khi dùng đoạn Tin Mừng theo thánh Luca để nói về sự tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh thức và cầu nguyện là thái độ cần thiết cho ngày Chúa đến, ngày đó là ngày cuối cùng của cuộc đời con người và nhân loại.
Tỉnh thức và cầu nguyện để biết phải làm gì cho xứng hợp với Nước Trời.
Cầu nguyện và tỉnh thức để loại bỏ những thứ không cần thiết như chè chén, say sưa, mê theo khoái lạc...
Nếu còn ngày cuối cùng thì hẳn chúng ta đừng lo lắng điều gì trần thế, mà hãy chuẩn bị cho tâm hồn thật thanh thoát để được vào chung hưởng hạnh phúc Nước Trời: "Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức Công chính của Người, còn tất cả những cái khác, Người sẽ thêm cho" (Mt 6,33).
Chiếc lưới bất thần chụp xuống cho chúng ta thấy cái chết và số phận của mọi người: không ai thoát được nó. Tuy nhiên, sau đó được đem đi đâu mới là điều quan trọng. Vì thế, nó sẽ trở nên vui mừng cho những ai được đem vào nơi hạnh phúc và bình an. Ngược lại, sẽ là điều kinh hoàng và bất hạnh cho những ai bị loại ra ngoài.
Muốn được đem vào Nước Trời, thì hẳn phải tỉnh thức như chủ nhà canh trộm ban đêm; như đầy tớ mong ông chủ đi ăn cưới về; như năm cô trinh nữ khôn ngoan có đèn và dầu.
Khi cầu nguyện, chúng ta khỏi sa chước cám dỗ và có sức chiến đấu với ma quỷ; và cuối cùng, cầu nguyện để đón nhận được ơn thánh của Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy trung tín với sứ điệp Lời Chúa. Sống bác ái yêu thương. Không bị vướng bận quá nhiều vào của cải ở đời. Sống vô vị lợi, không đòi hưởng thụ. Không để mình bị ngủ mê trong tội hay chạy theo các chủ trương duy vật, hưởng thụ, mà lãng quên những nhu cầu tâm linh và các giá trị siêu việt của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, mỗi ngày chúng con phải đối diện với cái chết. Xin cho chúng con biết chuẩn bị ngày đó đến với chúng con bằng thái độ tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Kitô hữu cần luôn tỉnh thức và cầu nguyện
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Không ai có thể biết trước ngày tận cùng của cuộc đời. Vậy người Kitô hữu cần luôn tỉnh thức và cầu nguyện, luôn trong tư thế sẵn sàng đón nhận phút giây đó.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy con sẵn sàng đón nhận ngày cánh chung. Ngày cánh chung đến vào lúc chẳng ai ngờ, có thể là ngày mai, hay năm tới, cũng có thể là sau khi con đã nhắm mắt xuôi tay. Để chuẩn bị biến cố bất ngờ ấy, con chỉ còn cách là luôn sẵn sàng, luôn thức tỉnh và cầu nguyện.
Cuộc sống hôm nay dễ khiến con sa đà mê muội. Những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và các sản phẩm của nó đã tạo ra một lối sống xô bồ, chạy đua hưởng các tiện nghi. Người ta lo toan cho có được những lạc thú, dù có phải trả giá bằng sự cực nhọc vất vả, bằng sự bận rộn kéo dài. Giữa cảnh người người đôn đáo làm lụng sắm sửa, mấy ai đủ tỉnh thức để nghĩ tới ngày tận thế hoặc nghĩ tới nấm mồ của mình. Con mê muội cũng vì con ít cầu nguyện, ít vào nơi thanh vắng với Chúa. Mặc dù con không thể chạy một mạch thẳng tới nấm mồ của mình, nhưng cái chết lại có thể đến với con bất kể giờ phút nào. Phúc cho con nếu đó là lúc con đang tỉnh thức và cầu nguyện.
Lạy Chúa, con tha thiết xin Chúa gìn giữ con luôn ở trong tình yêu Chúa. Xin đừng để sóng đời lôi cuốn con đi, đừng để con lìa xa Chúa, quên cả ngày trở về với Chúa là nguồn cội của con. Xin Chúa thương cứu con trong giờ lâm tử. Amen.
Ghi nhớ: “Các con hãy tỉnh thức, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến”.
Suy niệm 8: Chu toàn bổn phận đã được trao phó
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vào ngày 11/9/2001, cả thế giới kinh hoàng nhìn tháp đôi tòa nhà thương mại thế giới ở New York sụp đổ do hai chiếc máy bay Boeing 767 mà các tên khủng bố đâm vào. Biến cố kinh hoàng này đã làm cho cả thế giới thức tỉnh trước nạn khủng bố trên hành tinh chúng ta. Khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ và Tây Âu, mọi người luôn được nghe những lời kêu gọi chú ý cảnh giác ở tất cả những nơi công cộng như sân bay, nhà ga, sân vận động, xe bus, mêtro... ngay cả thùng rác.
Suy niệm
Đức Giêsu mạc khải về những dấu hiệu kinh hoàng vào ngày Chúa đến, ngày tận thế: Sẽ có những sự việc lạ xảy ra trong vũ trụ một cách toàn diện. Điều này cho thấy nếu chỉ dựa vào những biến cố riêng lẻ như trong các thời đại nhìn các biến cố xảy ra để đoán ngày tận thế là việc hoàn toàn sai lầm. Ngày Đức Giêsu trở lại để phán xét như Ngài loan báo là ngày Ngài hoàn tất tước hiệu Con Người (x. Lc 21,25-26).
Trước những điềm lạ xảy ra, nếu sống thức tỉnh, chúng ta sẽ không phải “lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ” (Lc 21,25), và cũng không “sợ hãi kinh hồn chờ đợi” (Lc 21,26), nhưng sẽ “đứng dậy và ngẩng đầu lên” (Lc 21,28). Vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ như Đức Giêsu nhắn nhủ: “giờ cứu rỗi các con đã gần đến” (Lc 21,28). Cho nên, chúng ta hãy vững tâm và hy vọng, vì với người thức tỉnh, ngày đó sẽ là ngày “tạo dựng” một thế giới mới như Thiên Chúa loan báo trước qua ngôn sứ Isaia trong Cựu ước: “Trời mới Đất mới được tạo dựng sẽ tồn tại trước nhan Ta như thế nào, dòng dõi các con và tên các con cũng sẽ tồn tại như vậy!” (Is 65,17; 66,22). Thánh Gioan sau này đã được thị kiến nhìn thấy trời mới đất mới vào ngày tận cùng của thế giới, Ngài ghi chép lại: “Bây giờ tôi thấy một Trời mới và Đất mới; vì trời cũ và đất cũ đã qua đi. Sẽ không còn sự chết nữa; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa.”(Kh 21,1-4). Thánh Phêrô mời gọi chúng ta mong chờ Trời mới Đất mới mang tâm tình: “Hãy cố gắng hết sức để sống làm sao cho tinh tuyền, không vết nhơ tội lỗi và an bình trước mặt Chúa!” (2Pr 3,9). Sống hết sức là thể hiện sự trung tín đến cùng mà thánh Phaolô nói với chúng ta: “Chúng ta mong chờ Chúa Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra” và mong rằng: “Chúng ta bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Chúa Kitô, Chúa chúng ta ngự đến” (1Cr 1,6-9).
Mong đợi trong tỉnh thức, mà tỉnh thức là luôn ở tư thế “thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn”, là chu toàn bổn phận đã được trao phó (x. Lc 12,35-48). Tỉnh thức và cầu nguyện nghĩa là tâm tư nguyện cầu không ngừng, không nhàm chán hay nản chí (x. Lc 18,1).
Tỉnh thức như thánh Phaolô kêu mời: “Hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: Không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tuông. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm 13,14) như Chúa Giêsu đã luôn cảnh tỉnh: “Chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng việc đời…” (Lc 21,34). Cho nên, chúng ta thoát khỏi sự bám rễ của đam mê vào thế gian mà ra đi đón Chúa với tấm lòng chờ đợi, trong tâm hồn thức tỉnh như thánh Gioan Chrysostome nhấn mạnh: “Với vũ khí của ánh sáng, chúng ta sẽ trở nên chói lòa hơn cả những tia nắng mặt trời”. Mặt Trời Công Chính, Đức Kitô trong ngày Ngài đến.
Ý lực sống
“Đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng, hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày” (Rm 13,13-14).
Suy niệm 9: Phải tỉnh thức và cầu nguyện
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi đã trình bầy và xác quyết về việc Chúa đến, hôm nay Đức Giêsu trình bầy cho chúng ta thái độ phải có để chờ đợi Chúa đến: đó là tỉnh thức và cầu nguyện. Chúng ta còn phải hiểu rộng ra việc Chúa đến: đó là Chúa đến trong hiện tại bằng ơn thánh, trong giờ chết của mỗi người và trong ngày cánh chung của toàn thể nhân loại. Trong ngày đó , người khôn ngoan đích thực sẽ cho là một ngày an vui hạnh phúc. Còn người khờ dại thì coi ngày đó là ngày báo oán. Chúng ta khôn hay dại? Hãy dùng quyền tự do mà định đoạt ngay từ bây giờ.
2. Đức Giêsu báo trước một điều bất ngờ: Ngày Con Người quang lâm và mỗi người sẽ ra trình diện với Người. Ngày đó là ngày nào? Không ai biết được vì chỉ có Chúa Cha mới biết. Để chuẩn bị cẩn thận cho ngày phán xét, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn: phải thường xuyên canh phòng tâm hồn mình cho khỏi mọi chước cám dỗ; phải liên lỉ cầu xin Chúa giúp sức cho mình được trung thành bền đỗ làm tôi Chúa, sống đẹp lòng Chúa đến giây phút cuối cùng. Vì ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu thoát.
3. Vì lý do Chúa đến cách bất ngờ và việc phán xét có tính cách nghiêm minh, không ai có thể thoát được như chiếc lưới bất ngờ chụp xuống, nên Chúa truyền lệnh phải đề phòng bằng cách tiêu cực và tích cự: tỉnh thức và cầu nguyện.
* Cách tích cực: Phải sống thanh thoát: “Các con phải đề phòng, chớ để lòng mình đắm say tửu sắc, đa mang sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu các con”(Lc 21,34). Nói khác đi, Chúa muốn chúng ta sống sứ điệp và giá trị Tin Mừng, không để lòng mình bị mê hoặc chạy theo các chủ trương duy vật, hưởng thụ, quá lo thu tích của cải như một bảo đảm an toàn cho cuộc sống mà quên lãng những nhu cầu tâm linh và các giá trị siêu việt của cuộc sống.
* Cách tích cực: “Các con phải tỉnh thức và cầu nguyện, để có đủ sức thoát khỏi những điều sắp xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người”(Lc 21,36).
- Phải tỉnh thức: là ở trong tư thế tỉnh táo, cẩn thận để có thể đối phó kịp thời với mọi cảnh ngộ và sẵn sàng đón tiếp Chúa đến bất cứ lúc nào.
- Phải cầu nguyện: vì sức con người yếu đuối, và tự mình không làm được gì, nên cần phải cầu nguyện để cho được sức chống trả những cám dỗ, những thử thách, và bách hại để dễ dàng xứng đáng đón nhận Chúa: ”Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”.
4. Chúa bảo chúng ta phải đề phòng vì cái chết luôn luôn đến bất ngờ: “Chúng con hãy tỉnh thức vì chúng con không biết ngày nào giờ nào”. Đúng như vậy, tuy bất ngờ nhưng không hoàn toàn bất ngờ vì Chúa thương chúng ta, Chúa luôn ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước cái chết để chúng ta kịp thời chuẩn bị.
Mỗi khi chúng ta thấy một người khác chết, đó là một tín hiệu; mỗi khi chải đầu thấy mái tóc mình bạc hơn, đó cũng là một tín hiệu; mỗi chiếc răng bị hư, đôi mắt mờ xuống, tay chân yếu đi, một chứng bệnh xuất hiện... tất cả đều là những tín hiệu.
Và quan trọng hơn nữa, đó là những tín hiệu mà Chúa gửi trước cho chúng ta vì Chúa thương chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng giả mù giả điếc trước những tín hiệu tình thương ấy. Tốt nhất là đón nhận chúng, nhận ra ý nghĩa của chúng và chuẩn bị sẵn sàng.
5. Chúa đang đến trong từng biến cố cuộc sống, chứ không chỉ đến trong uy nghi của giáo đường; Ngài đến trong từng sinh hoạt hằng ngày của chúng ta, chứ không chỉ đến trong những phút cầu kinh, nguyện ngắm; Ngài nói qua những biến cố cuộc sống, Ngài hành động ngay cả khi chúng ta không tưởng nhớ đến Ngài. Ngài yêu thương dù chúng ta phản bội Ngài, Ngài tha thứ dù chúng ta quay mặt làm ngơ với Ngài. Ngài luôn có đó trong từng hơi thở của chúng ta. Xin Ngài cho chúng ta luôn tỉnh thức để nhận ra Ngài (Mỗi ngày một tin vui).
6. Truyện: Hãy nghĩ về sự chết.
Một vị đan sĩ tên là Mésique bất trung với ơn gọi, ông đang sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng, Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đồng hồ ấy. Ông xin người ta cho ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở trong đó suốt 12 năm trời. Hằng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng: “Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ dám phạm tội”.
Nói thế rồi, ông tắt thở, để lại cho mọi người một ấn tượng sâu đậm (Góp nhặt).
Suy niệm 10: Thái độ phải có của môn đệ Chúa Giêsu
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Đoạn Tin Mừng này là một phần của diễn từ chung luận, trong đó Chúa Giêsu nói tới những việc sẽ xảy ra vào những ngày cuối cùng. Chúa không dừng lâu ở việc mô tả các dấu chỉ, nhưng chú ý đến thái độ mà môn đệ Đức Giêsu phải có.
- Thái độ quan trọng thứ nhất là phải chú ý tới việc đón Chúa đến: không nên để mình bị ảnh hưởng bởi những xáo trộn bên ngoài, để rồi lo chè chén say sưa hoặc chỉ lo chuyện sống chết, hay chỉ lo chuyện thế gian mà quên lãng việc quan trọng này.
- Thái độ thứ hai phải có là luôn kiên trì trong việc cầu nguyện: cầu nguyện để xin Ngài mau đến, cầu nguyện để xin ơn đứng vững trước những xáo trộn bên ngoài.
Có một người đàn ông kia sống rất hạnh phúc và đầy đủ, tuy nhiên, ông vẫn cảm thấy lo sợ cho cuộc đời. Một hôm, ông nảy ra ý muốn, muốn đi tìm một ai đó chỉ cho ông biết, làm thế nào để cho ông chắc chắn là ông sẽ chiếm hữu được cuộc sống đời đời mai sau. Theo lời hướng dẫn, ông tìm ra được một tu sĩ có tiếng thánh thiện. Khi đến nơi, ông thưa với tu sĩ đó rằng:
- Thưa thầy, nếu biết rằng, chỉ còn sống có một ngày nữa thôi thì thầy sẽ làm gì?”
Đưa tay ra vuốt chùm râu bạc trắng, vị tu sĩ bình thản trả lời:
- Có gì đâu, sáng dậy đọc kinh, sau đó dùng chút trà rồi ra vườn tưới cây, đi thăm và dùng cơm với bạn bè rồi về ngủ.
- Đó là việc hằng ngày thầy vẫn làm mà. Con muốn hỏi ngày cuối đời kia mà?
- Đúng vậy! Ngày thường và ngày cuối đời có gì khác đâu.
2. Quả thực là chúng ta không biết ngày mai sẽ ra sao, và ngày cuối đời thì lại càng mù mịt hơn. Chính vì thế mà Chúa bảo chúng ta phải luôn tỉnh thức.
Một tài xế xe buýt ở Hoa Kỳ đã chiếm một kỷ lục hiếm có trong suốt hai mươi ba năm hành nghề. Trên một triệu cây số, ông chưa bao giờ gặp hay gây ra một tai nạn nhỏ nào. Được hỏi lý do, ông trả lời: “Hãy nhìn đường!”. Câu trả lời tuy đơn sơ, nhưng chứa đựng cả một triết lý sống.
“Hãy nhìn đường!”. Có lắm người đi đường hoặc lái xe mà không nhìn đường. Tai nạn xảy ra hầu hết đều do sự lơ đễnh của người lái xe. Người bộ hành gặp tai nạn rủi ro có khi cũng do đi đường mà không nhìn vào con đường mình đang đi.
Chú tâm vào công việc mình đang làm, chính là luật của thành công. Một vận động viên trên sân cỏ sẽ không ngừng chú ý đến quả banh, đến đối phương, đến bạn đồng đội. Một học sinh muốn học giỏi cũng phải chú tâm theo dõi và lắng nghe lời giảng dạy. Một người mẹ trong gia đình phải chú tâm vào ngân quĩ gia đình, vào công việc hàng ngày. Đó là thái độ tỉnh thức mà chúng ta phải luôn có để khỏi quá ngỡ ngàng trước ngày Chúa đến gọi chúng ta.
Cái chết thường đến một cách bất ngờ. Tuy bất ngờ nhưng không phải hoàn toàn bất ngờ, vì Chúa thương chúng ta, nên Chúa luôn ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước cái chết để chúng ta kịp chuẩn bị. Mỗi khi chúng ta thấy một người khác chết, đó là một tín hiệu; mỗi khi chải đầu thấy mái tóc mình bạc hơn, đó cũng là một tín hiệu; một chiếc răng bị hư, đôi mắt mờ xuống, tay chân yếu đi, một chứng bệnh xuất hiện… tất cả đều là những tín hiệu. Đó là những tín hiệu mà Chúa gởi trước cho chúng ta vì Chúa thương chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng giả mù giả điếc trước những tín hiệu tình thương ấy. Tốt nhất là đón nhận chúng, nhận ra ý nghĩa của chúng và chuẩn bị.
Một vị đan tu tên là Mésique bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đống hồ ấy. Ông xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời. Hàng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng, trước khi ra đi:
“Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội.”
Nói thế rồi, ông tắt thở, để lại cho một người mọi ấn tượng sâu đậm. (Góp nhặt).
Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện của Cha Piô, người được Chúa in năm dấu thánh:
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
Cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường. Amen.
Suy niệm 11: Nghĩ đến lúc cuối cùng của lịch sử và của đời mình
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Đoạn Tin mừng này là một phần của diễn từ chung luận trong đó Chúa Giêsu nói tới những việc sẽ xảy ra vào những ngày cuối cùng. Chúa không dừng lâu ở việc mô tả các dấu chỉ, nhưng chú ý đến thái độ mà môn đệ Đức Giêsu phải có.
- Thái độ thứ nhất là chú ý tới việc quan trọng là đón Chúa đến: không nên để mình bị ảnh hưởng bởi những xáo trộn bên ngoài để rồi lo chè chén say sưa hoặc chỉ lo chuyện sống chết, chỉ lo chuyện thế gian... và bất cứ lúc nào cũng nghĩ đến việc Chúa đến, dù cho có thình lình, đột ngột, họ cũng không ngỡ ngàng.
- Thái độ thứ hai là kiên trì trong việc cầu nguyện liên lĩ: cầu nguyện để xin Ngài mau đến, cầu nguyện để xin ơn đứng vững trước những xáo trộn bên ngoài.
B.... nẩy mầm.
1. Trong ngày cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội muốn chúng ta nghĩ đến lúc cuối cùng của lịch sử và của đời mình. Chúa dạy: để có thể bính an khi ngày cuối cùng ấy đến, chúng ta phải luôn nghĩ tới ngày đó và phải cầu nguyện luôn.
2. “Hãy giữ mình, kẻo lòng chúng con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo lắng việc đời”: những thú vui vật chất và những lo lắng sự đời làm cho lòng con người ra nặng nề và quên đi điểm cuối của cuộc hành trình đời mình.
3. Ngày mai chúng ta không biết sẽ ra sao, ngày cuối đời lại càng mù mịt. Xin Chúa cho chúng ta biết sống từng giây phút hiện tại, sao cho luôn được Chúa chúc lành và được tình thương Chúa che chở, để ngày Chúa đến sẽ là ngày hạnh phúc cho chúng ta.
4. Cái chết thường đến một cách bất ngờ. Trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu đã nói rõ điều ấy “Chúng con hãy tỉnh thức vì chúng con không biết ngày nào giờ nào”. Đành rằng có nhiều người bệnh một thời gian khá lâu rồi mới chết, nhưng chẳng ai ngờ mình sẽ chết vào ngày này, giờ này.
Tuy bất ngờ nhưng không phải hoàn toàn bất ngờ, vì Chúa thương chúng ta, Chúa luôn ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước cái chết để chúng ta kịp chuẩn bị. Mỗi khi chúng ta thấy một người khác chết, đó là một tín hiệu; mỗi khi chải đầu thấy mái tóc mình bạc hơn, đó cũng là một tín hiệu; một chiếc răng bị hư, đôi mắt mờ xuống, tay chân yếu đi, một chứng bệnh xuất hiện… tất cả đều là những tín hiệu. Và quan trọng hơn nữa, đó là những tín hiệu mà Chúa gởi trước cho chúng ta vì Chúa thương chúng ta. Vì thế chúng ta đừng giả mù giả điếc trước những tín hiệu tình thương ấy. Tốt nhất là đón nhận chúng, nhận ra ý nghĩa của chúng và chuẩn bị.
5. Một vị đan tu tên là Mésique. Bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đống hồ ấy.
Ông xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phóng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời. Hàng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng trước khi ra đi:
- Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội.
Nói thế rồi, ông tắt thở, để lại cho một người một ấn tượng sâu đậm. (Góp nhặt)
26/11 Nhận ra tiếng Chúa qua các biến cố
- Viết bởi Lc 21, 29-33
Nhận ra tiếng Chúa qua các biến cố.
Thứ Sáu tuần 34 thường niên.
"Khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến".
Lời Chúa: Lc 21, 29-33
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ thí dụ này rằng: "Các con hãy xem cây vả và mọi thứ cây cối. Khi chúng đâm chồi nảy lộc, thì các con biết rằng mùa hè đã gần đến.
Cũng thế, khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến. Thầy bảo thật các con, thế hệ này sẽ chẳng qua đi cho đến khi mọi sự ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi; nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Xem cây vả
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Cây vả là một cây rất thường thấy ở xứ Paléttin.
Khi nó đâm chồi, người ta biết ngay đã vào mùa hè.
Rồi thì nó sẽ ra hoa và kết trái.
Không phải chỉ có cây vả, mọi cây khác cũng vậy (c.29).
Cứ nhìn tình trạng hiện tại của cây, ta biết được điều gì sắp xảy đến.
Nước Thiên Chúa cũng vậy.
Trước khi Nước Thiên Chúa đến sẽ có những dấu hiệu
ở trên trời, dưới đất hay ngoài biển khơi.
Đức Giêsu đã nhắc cho ta về những dấu hiệu đó (Lc 21, 11. 25-26).
Khi bắt đầu đi rao giảng cách đây hai ngàn năm,
Đức Giêsu tuyên bố: Nước Thiên Chúa đã đến gần (Mc 1, 15).
Và Nước ấy đã được khai mạc với chính con người Đức Giêsu.
Lời nói và việc làm của Ngài đã mở ra Nước ấy trên mặt đất.
Như hạt giống, Nước ấy đã không ngừng lớn lên cả ngày lẫn đêm,
đã ảnh hưởng mạnh mẽ như nhúm men trong đống bột,
và đã phải chịu sự tấn công của kẻ thù gieo cỏ lùng vào giữa lúa.
Với sự phục sinh của Đức Giêsu, Nước ấy chắc chắn sẽ đến.
Chắc chắn Nước Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang,
dù chúng ta không biết rõ khi nào, tuy sẽ có những điềm báo trước.
Ngày Nước Thiên Chúa đến cách huy hoàng trên trái đất
sẽ là ngày tận thế, ngày Đức Giêsu trở lại để phán xét mọi người.
Kitô hữu là người tin vào lời Đức Giêsu.
“Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua” (c. 33).
Chúng ta chờ đợi, vì chúng ta tin Đức Giêsu sẽ trở lại.
Sau hai ngàn năm chờ đợi và nỗ lực dựng xây,
ngày Đức Giêsu quang lâm đã gần hơn nhiều.
Biết đâu câu nói sau của Đức Giêsu
lại chẳng ứng nghiệm cho chính thế hệ chúng ta:
“Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.” (c. 32).
Không được để mình nguội lạnh và mất đi thái độ chờ đợi.
Không được để chiến thắng tạm thời của sự dữ ở đâu đó
khiến chúng ta mất đi lòng tin,
và những bách hại khiến ta mất đi lòng kiên trì cần thiết (Lc 21, 19).
Nước Thiên Chúa vẫn đến gần hơn mỗi ngày.
Không thiếu dấu chỉ để nhận ra Nước Thiên Chúa đang đến.
Chúng ta phải thấy có biết bao dấu chỉ tích cực, đầy hy vọng,
ngay giữa những khi tưởng như Nước ấy bị xóa sổ, loại trừ.
Đừng để mình rơi vào thái độ bi quan, khoanh tay vì chán nản.
Phải làm sao để ngày tận thế không phải là một ngày buồn,
ngày của những đổ vỡ và mất mát chia ly.
Phải làm sao để ngày ấy là ngày lịch sử nhân loại mở sang trang mới.
Đức Giêsu xuất hiện như Điểm Ômêga, Điểm đến của cả vũ trụ.
Con người và cả vũ trụ đều được hưởng ơn cứu chuộc (Rm 8, 19-23),
và Thiên Chúa Cha được tôn vinh.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện. Amen.
Suy niệm 2: Trời mới đất mới
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Vũ trụ có một chủ nhân. Và có một lịch sử. Chính Thiên Chúa là chủ nhân của vũ trụ và của lịch sử. Chúa cho phép vũ trụ tồn tại trong một thời gian. Và cho con người tự do sử dụng. Đến thời hạn, vũ trụ chấm dứt. Lịch sử không còn. Nhưng con người sẽ bị xét xử về cách sử dụng vũ trụ. Mọi sự đều sẽ qua đi. Nhưng Lời Chúa luôn tồn tại. Có từ trước muôn đời. Tồn tại đến muôn muôn thuở. Trước khi lịch sử chấm dứt và vũ trụ tiêu tan, sẽ có những biến cố kinh thiên động địa. Dường như thế lực trần gian muốn vùng dậy cố nắm lấy những giây phút cuối cùng.
Từ xa xưa Đa-ni-en đã tiên báo sẽ có những vua chúa trần gian xuất hiện. Ngày càng hung dữ hơn. Bốn con thú lần lượt xuất hiện. Con sau dữ tợn hơn con trước. Con cuối cùng thật là ghê gớm. “Con thú thứ tư đáng kinh đáng sợ và mạnh mẽ vô song; răng của nó bừng sắt và rất to. Nó ăn, nó nghiền, rồi lấy chân chà đạp những gì còn sót lại”. Nhưng rồi thời gian của nó chấm dứt. Quyền thống trị thuộc về Con Người: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một, vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (năm lẻ).
Gio-an cho biết những con thú đó chính là hiện thân của con Mãng Xà xa xưa. Lần này nó bị tiêu diệt vĩnh viễn. Thế lực sự dữ hết thời hạn tồn tại. Tất cả những ai đã chết đều sống lại để chịu xét xử. “Các người chết được xét xử tuỳ theo việc họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách…Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh thì bị quăng vào hồ lửa”. Tuy nhiên trời cũ đất cũ qua đi. Quyền lực trần gian không còn nữa. Nhưng sẽ xuất hiện trời mới đất mới. Xinh đẹp vô cùng. Hạnh phúc vô song. Vững bền thiên thu. Chính Thiên Chúa làm chủ (năm chẵn).
Ai theo con Mãng Xà. Thuộc về thế gian. Sẽ hưởng lợi đời này. Sẽ hối tiếc khi vũ trụ đời này qua đi. Và phải kinh hoàng khi đến trước toà xét xử của Chúa. Ai theo Chúa sẽ chịu thiệt thòi ở đời này. Nhưng đến ngày đời này tiêu tan. Sẽ vô cùng phấn khởi. Vì được giải thoát. Vì được đi vào trời mới đất mới. Được vĩnh viễn hưởng hạnh phúc bên Chúa. Tôi chọn chóng qua hay vĩnh cửu. Đời này hay đời sau. Con Mãng Xà hay Thiên Chúa?
Suy niệm 3: Dấu Chỉ Thời Ðại
Người ta vẫn thường nói: có nguyên nhân mới phát sinh ra hậu quả. Trong thế giới vật chất này, chẳng có gì là ngẫu nhiên, có lửa thì có khói, các vật rắn chạm vào nhau sinh ra tiếng động.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhắc đến nguyên lý đó. Ngài dạy chúng ta phải biết nhìn vào các biến cố xẩy ra trong thời đại để nhận biết rằng Chúa đang đến: "Các con hãy xem cây vả cũng như các cây khác, khi cây đâm chồi, các con biết rằng mùa hè đã gần đến. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xẩy ra, các con hãy biết rằng Nước Thiên Chúa đã gần đến".
Theo Cha Lausade, Thiên Chúa nói với chúng ta bằng hai cách: hoặc bằng Lời Chúa trong Kinh Thánh, hoặc qua các biến cố xẩy đến trong đời sống thường ngày. Ðiều quan trọng là chúng ta phải quan tâm để nhận ra lời nhắn nhủ của Chúa. Tuy nhiên, chúng ta thường dễ nhận ra Kinh Thánh là Lời Chúa, là giáo huấn của Chúa, mà ít nhận ra các dấu chỉ thời đại cũng là Lời Chúa, là thánh ý Chúa, nói khác đi, chúng ta ít nghe được tiếng Chúa nói với chúng ta qua các tạo vật, qua niềm vui, nỗi buồn, qua cả những lầm lỗi của chúng ta.
Do đó, để có thể nhận ra tiếng Chúa qua các biến cố, chúng ta cần phải có thái độ lắng nghe và yêu mến. Có những người không bao giờ đặt vấn đề: Tại sao tôi sống? Sống để làm gì? Chết rồi đi đâu? Người Kitô hữu chúng ta biết rõ ý nghĩa của cuộc đời, nhưng cũng cần chăm chú lắng nghe để nhận ra ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống, vì đó là tiếng gọi của tình yêu mà chỉ những ai yêu mến Chúa mới nhận ra được.
Xin cho chúng ta nhận ra Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, để chúng ta luôn hân hoan tiến bước và chu toàn thánh ý Chúa mỗi ngày, cho đến ngày chúng ta hưởng nhan Chúa trên Nước Trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Cây vả không trái
Cây vả là một loại cây rất thường thấy khắp nơi tại Thánh Ðịa, là một loại cây có tàn che mát, sai trái và thường được trồng trong vườn nho hoặc cũng để mọc cả những nơi đất cát sỏi đá bên vệ đường. Trong Tân Ước, chúng ta thấy cây vả nhiều lần được Chúa Giêsu nhắc tới, như Chúa đã thấy Nathanael ngồi dưới gốc cây vả trước khi Philipphê dẫn đến gặp Ngài, hoặc ví dụ về cây vả trồng trong vườn nho đã ba năm mà không sinh trái. Thánh Mátthêu cũng ghi lại bài giảng trên núi có đoạn viết như sau: "Cứ xem quả thì biết cây, có ai hái được quả nho trong bụi gai hay trái vả trong khóm nho sao?"
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ trên đường đi về Giêrusalem, Ngài nhìn thấy cây vả bên vệ đường. Ngài lên tiếng nguyền rủa cây vả không có trái để nói về tác động linh nghiệm của đức tin. Nhưng điều đặc biệt nhất của cây vả là khi thu đông về thì lá vả rụng hết trơn, cành khô cứng trơ cọng trông như đã chết khô không còn chút sức sống nào, nhưng bắt đầu mùa xuân sang, cây vả lại trổ lá sớm và cành lá sum suê nhất, hơn nữa nó lại sai trái và trái nó ra rất sớm, đàn chim trời hợp lại líu lo trên cành mang lại sinh khí và vui tươi trong thôn xóm.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mượn một hình ảnh tiên báo mùa hè sắp tới khi thấy cây vả cùng các loại cây khác nẩy lộc. Cây vả và những cây khác đâm chồi nẩy lộc là chuyện thường đối với dân cư trong thôn làng, nhưng thật ra nó đã gói ghém một niềm vui tràn trề của một mùa mới sắp đến. Những biến động trong xã hội và thế giới là những dấu chỉ của Nước Chúa đổi mới mọi sự, như chúng ta đã Suy niệm trong bài Tin Mừng hôm qua. Nếu từng giây phút của một năm qua chúng ta đã nhớ lại dấu ấn của hồng ân và tình thương của Chúa, thì chúng ta sẽ thấy hồng ân và tình thương ấy lớn lao đến chừng nào.
Ngày cuối cùng của năm phụng vụ sắp kết thúc và chúng ta sắp bước vào mùa Vọng, mùa trông chờ Chúa đến với ta, với vũ trụ và với nhân loại, một trời mới đất mới sẽ đến. Nước Thiên Chúa đang đến gần, mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Chúa và tình thương của Ngài mới bền vững muôn đời.
Lạy Chúa,
Con biết lấy gì tri ân Chúa. Suốt một năm qua biết bao nhiêu biến động đến với con, trong thôn làng con bao người đã được về cùng Chúa trong ánh sáng bất diệt. Nước Chúa, Nước của tình thương, của ơn Chúa, của an bình mà mỗi giây phút đều chung tiếng hoan ca ca tụng Ngài. Xin cho mỗi người chúng con biết nhận ra dấu tích tình yêu của Chúa. Xin cho chúng con được kể là con dân trong Nước Thiên Chúa đời đời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Nước Trời lên ngôi
“Anh em cũng vậy, khi thấy những điều ấy xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Thầy bảo thật anh em: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.” (Lc. 21, 31-33)
Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo ngay bài mô tả cảnh sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu dùng lối văn khải huyền của Do thái tả cảnh tàn phá thành như những tai họa vũ trụ. Dùng thể văn này. Lu-ca không muốn nói với chúng ta về ngày tận thế. Ông muốn trình bày cho chúng ta về ngày sụp đổ của Giê-ru-sa-lem và thay thế Giê-ru-sa-lem là thời kỳ lên ngôi của nước trời. Sau khi đền thờ sụp đổ, thời đại Hội thánh bắt đầu, thời đại của nước trời bất diệt không bao giờ bị thay thế nữa, thời đại của giao ước mới và đời đời.
Mỗi khi có ngôn sứ đến loan báo tận thế, có lẽ vì chúng ta cần một sứ giả mới. Lúc đó mỗi người hoàn toàn phải tính toán “khi thấy cây cối đâm chồi”, mình phải xem “mùa hè đã đến gần” với mình chưa, vì không có ai khác tính toán thay cho mình được. Vả lại, mỗi người cư xử theo cách riêng của mình, chúng ta không có thể cư xử như họ. Chúng ta cũng không cần biết khi nào mặt trời và các tinh tú rơi xuống đầu chúng ta. Nhưng chúng ta biết chắc mỗi người là một vệ tinh, và dại dột thay, nếu tự mình lại làm cho mình bị nổ tung! Chúng ta còn có một sức mạnh tự động phá hủy khác vượt trên sức rung động của trái đất. Nhưng biết được khi nào những biến cố cuối cùng đó đến thì không quan trọng. Điều quan trọng là chắc chắn chúng sẽ xảy ra, và thế kỷ này chưa hết, thì đa số chúng ta đã qua đi theo với vòng quay của trái đất.
Điều cần thiết phải nhớ là chúng ta sẽ qua đi, nhưng lời Chúa nói không bao giờ qua đi. Nếu lời Chúa tồn tại đời đời, thì chúng ta phải cố gắng lắng nghe để được sống chứ đừng giả điếc làm ngơ kẻo chúng ta phải chết đời đời.
Nếu biết nhớ kỹ bài diễn văn này, một bàigiáo thuyết loan báo cho chúng ta biết tất cả mọi sự hiện tại sẽ có ngày chấm dứt. Vậy tốt nhất chúng ta hãy hết lòng trông cậy và đặt lời Chúa vào tận con tim của mình để sinh nhiều hoa trái trong khi đợi chủ về thu hoạch. Chủ sẽ thưởng công cho chúng ta: “Quả thật, quả thật, Tôi bảo thật các anh em, đến giờ và chính bây giờ những người chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai nghe thì sẽ được sống đời đời” (Ga. 5, 25)
RC
Suy niệm 6: Đứng thẳng và ngẩng cao đầu
Xem CN 33 TN B
Ở miền bắc nước ta, cứ vào độ tháng 1,2,3 âm lịch, các cây cối thường đâm trồi nẩy lộc sau một thời gian dài ngủ yên trong khí hậu mùa đông. Hình ảnh này báo hiệu cho biết mùa xuân ấm áp đã về để đẩy lui cái lạnh của mùa đông tiết giá.
Trong mùa xuân, người ta thường trồng cây cối. Bởi vì ở vào mùa này, khi trồng, cây không bị chột...
Hôm nay, Đức Giêsu dùng hình ảnh cây vả và các loài cây khác để diễn tả mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Cây vả là thứ cây quen thuộc trong Tin Mừng. Đức Giêsu đã nhắc đến nhiều lần về loại cây này, như: Chúa đã thấy Nathanaen ngồi dưới cây vả trước khi Philipphê dẫn đến gặp Ngài, hoặc thí dụ về cây vả trồng trong vườn nho đã ba năm mà không sinh trái. Thánh Matthêu cũng ghi lại bài giảng trên núi có đoạn như sau: “Cứ xem quả thì biết cây, có ai hái được quả nho trong bụi gai, hay trái vả trong khóm nho sao?”.
Hình ảnh cây vả được Đức Giêsu dùng trong bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến sự xuất hiện của Nước Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu là mùa xuân đến để loan báo lời Chân Lý của Thiên Chúa cho nhân loại. Những ai đón nhận Ngài cũng như Giáo Huấn của Ngài thì sẽ được đâm trồi nẩy lộc như cây cối mùa xuân.
Ai không tin, thì sẽ bị héo úa tàn phai. Nếu cây cối, nó luôn hướng về mặt trời như là sự khao khát cần tiếp nhận ánh sáng để quang hợp thế nào, thì mỗi chúng ta cũng cần phải đứng thẳng trong tư thế của người công chính, để nhạy bén tiếp nhận những lời Chân Lý của Chúa, ngõ hầu được sự sống đời đời như vậy.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đón nhận ơn Chúa trong cuộc sống. Nhạy bén với những dấu chỉ hiện tại. Hướng lòng về những chuyện tương lai. Hành động đón chờ phải là hành động của kẻ đứng thẳng và ngẩng cao đầu trong tư thế tỉnh thức và chờ đợi để đón nhận ơn Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được yêu mến Chúa. Xin cho con được sinh hoa kết quả nhờ được gắn liền với Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Dấu chỉ báo hiệu Chúa đang đến
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Các biến cố lớn nhỏ xảy ra trong thời đại là những dấu chỉ báo hiệu Chúa đang đến. Các dấu hiệu ấy chính là sứ điệp Chúa gửi đến chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dùng Lời Quyền Năng để sáng tạo vũ trụ. Lời Chúa có sức mạnh phi thường, là lời chân lý bền vững. Cho dù trời đất qua đi, nhưng Lời Chúa vẫn tồn tại. Hằng ngày, con nghe Lời Chúa, con khám phá sứ điệp Chúa gửi đến cho con. Nhưng nói đúng hơn: chính Chúa soi sáng và giúp con nhận ra tiếng Chúa kêu mời.
Nhưng lạy Chúa, Chúa nói với con không chỉ bằng Lời Chúa trong Thánh Kinh, nhưng cụ thể hơn, Chúa còn nhắn nhủ con qua các biến cố lịch sử và qua những sự việc xảy ra trong cuộc đời của riêng con. Con đã nhận ra những lời giáo huấn trong Thánh Kinh, nhưng ít khi nhận ra dấu chỉ thời đại.
Xin Chúa giúp con biết chăm chú lắng nghe tiếng Chúa nói qua các tạo vật. Từng biến cố xảy ra là từng sứ điệp Chúa gửi đến. Xin giúp con vui lòng đón nhận Lời Chúa qua niềm vui nỗi buồn của cuộc sống, vì Lời Chúa có sức mạnh giúp con vượt qua tất cả những trở ngại ấy. Và xin Chúa giúp con nhận ra tiếng Chúa qua những lỗi lầm vấp váp, như ánh sáng soi chiếu giúp con hiểu rõ thân phận yếu đuối mỏng dòn của mình, để mỗi ngày con càng tin vào Chúa hơn.
Lạy Chúa, con tin rằng tiếng Chúa tràn ngập yêu thương. Ước gì tiếng gọi tình yêu ấy thôi thúc con thực hiện điều Chúa muốn. Và ước gì vì yêu Chúa, con biết lắng nghe tiếng Chúa qua những người đại diện Chúa ở trần gian, như những ánh sáng cho cuộc sống hôm nay. Amen.
Ghi nhớ: “Khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến”.
Suy niệm 8: Dấu chỉ triều đại nước Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Ở Việt Nam, khi nghe tiếng chim ríu rít vang khắp thôn xóm, những cành mai thay lá đơm bông (ở miền Nam), những cây đào kết nụ mơn mởn (ở miền Bắc) như một lời hò hẹn gặp gỡ, các loại hoa ở khắp nơi trên quê hương mẹ khoe sắc như là tín hiệu báo mùa xuân đang về…
Dù không cần ai nói, nhưng mỗi người chúng ta đều cảm nghiệm được xuân đang đến theo lời mời gọi của thiên nhiên, của chu kỳ xoay vần đất trời.
Suy niệm
Tất cả mọi thứ Chúa dựng nên đều tuân theo một quy luật tự nhiên. Những tín hiệu của tiết trời báo cho chúng ta những khoảng thời gian cụ thể trong một năm: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Cây vả tới mùa đâm bông nảy lộc đó là dấu hiệu, biết mùa hè đã đến gần.
Sự hiện diện của Ðức Giêsu là dấu chỉ triều đại nước Thiên Chúa đã xuất hiện. Ðó là niềm vui cho những tâm hồn ngay chính. Hãy ngẩng đầu lên để đón mừng ngày vinh quang đã tới. Chúa Giêsu mượn hình ảnh cây vả và các cây khác đâm chồi nảy lộc để gói ghém niềm vui tràn trề của một mùa mới sắp đến: Thời kỳ đâm chồi nảy lộc để sinh hoa trái hầu được cứu độ trong ngày Chúa đến…
Thật thế, qua từng biến cố của cuộc đời, chúng ta hãy lắng nghe tiếng Chúa, để biết, nhận ra và thực thi ý Ngài. Nhờ đó chúng ta hiểu rõ ý nghĩa của cuộc đời: Sinh hoa trái. Cuộc đời mang những tín hiệu loan báo Đức Giêsu đang hiện diện.
Chính khi chúng ta nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc đời, chúng ta luôn hân hoan tiến bước và chu toàn thánh ý Chúa mỗi ngày: Như cây vả đâm chồi nảy lộc, chuẩn bị cho ngày Chúa quang lâm, ngày chúng ta hưởng nhan Chúa trên nước Trời.
Thật thế, nước Thiên Chúa đang đến gần...
Ý lực sống
“Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết,
thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống”. (Kh 2,10c)
Suy niệm 9: Dụ ngôn cây vả
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi giải thích cho các môn đệ về những điềm báo trước về việc Đền thờ và thành Giêrusalem bị sụp đổ, Đức Giêsu dùng dụ ngôn cây vả để chứng thực cho điều Ngài vừa dạy. Chúng ta biết mọi sự Chúa dựng nên đều tuân theo một quy luật tự nhiên của nó. Cũng vậy, cây vả đến mùa thì đâm bông nảy lộc, thì đồng thời cứ dấu hiệu đó, người ta biết mùa hè đã đến gần. Như vậy, khi thấy “những điều đó” (các thế lực gian tà lung lay) thì hãy biết triều đại Thiên Chúa sắp đến.
2. Đức Giêsu báo trước trong ngày tận thế, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Sẽ có những điềm lạ xẩy ra trên trời dưới đất làm mọi người kinh sợ. Dĩ nhiên các môn đệ muốn biết ngày nào viếc ấy xẩy ra, Nhưng Đức Giêsu không nói rõ mà chỉ đưa ra dụ ngôn về cây vả để báo trước ngày đó.
Những người ở ngoài Bắc chúng ta dễ hiểu điều Đức Giêsu nói đây. Cây cối cứ mùa đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái. Nhìn xem cây cối có thể biết thời tiết, hoặc nói đến hình thức cây cối người ta biết ở vào tháng nào, ví dụ:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa (Nguyễn Du, truyện Kiều)
Không cần phải có câu “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”, ai cũng biết ngay là đã cuối mùa xuân, sắp sang hạ.
3. Để diễn tả chân lý cho người nghe dễ hiểu, người ta thường dùng những ví dụ dựa vào những sự vật, biến cố, công việc trong đời sống thường nhật để giải thích. Ở đây, diễn tả biến cố Chúa đến trong ngày cánh chung, Đức Giêsu dựa vào hình ảnh cây vả cũng như cây khác, để làm nổi bật giáo huấn của Chúa về ngày cánh chung. Bên Thánh địa cứ vào tháng ba, cây vả nảy lộc bất luận trời nóng hay lạnh, hạn hán hay mưa lụt. Cứ thấy cây vả đâm chồi nảy lộc là biết gần đấn mùa hè.
Cũng một cách như cây vả là điềm báo mùa hè, thì khi thấy thiên tai xẩy ra cũng là điềm báo thành Giêrusalem bị sụp đổ, và do đó cũng là những điềm báo Nước Thiên Chúa đã gần đến, mà Matthêu (24,32-35) và Marcô (13,28-31) nói về biến cố cánh chung (Trần Hữu Thành).
4. Một lần nữa, Đức Giêsu khẳng định: “Còn về ngày hay giờ đó, thì dù các thiên sứ trên trời, hay cả Con Người đi nữa, cũng không ai biết được trừ một mình Chúa Cha mà thôi”(Mc 13,32). Đúng vậy, Đức Giêsu với tư cách là Thiên Chúa thì Ngài biết điều đó, nhưng với tư thế là con người nhân loại như chúng ta thì Ngài không biết.
Khi đượ hỏi bao giờ đến ngày tận thế? Thánh Augustinô đã trả lời dứt khoát: ”Việc này hoàn toàn nằm trong quyền hạn của Thiên Chúa”. Nơi khác, ngài còn nói: “Đức Giêsu không cho biết ngày của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người”.
Chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới nhưng chúng ta biết chắc chắn ngày ấy phải đến. Đó không phải là tai họa trong chương trình của Thiên Chúa, nhưng đó là ngày mà Thiên Chúa dọn sẵn cho chỗ ở mới, một thế giới mới cho nhân loại.
5. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tỉnh thức để đọc được ý nghĩa của từng biến cố cuộc sống. Mỗi biến cố xẩy đến là một dấu chỉ mời gọi chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa: mỗi biến cố xẩy đến đều ẩn chứa một tiếng gọi của Ngài. Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy biết đón nhận ơn Chúa trong cuộc sống. Nhạy bén với những dấu chỉ hiện tại. Hướng lòng về những chuyện tương lai. Hành động đón chờ phải là hành động của kẻ đứng thẳng và ngẩng cao đầu trong tư thế tỉnh thức chờ đợi để đón nhận ơn Chúa.
6. Truyện: Dấu chỉ thời đại.
Một nhà thám hiểm Tây phương lạc đường giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trong cát nóng. Thỉnh thoảng ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi.
Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông ta tự nghĩ rằng: “Đây chỉ là một ảo ảnh. Trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước chân tiếp tục đi.
Không bao lâu sau đó, có hai người du mục tình cờ đi qua lối đó. Họ bắt gặp một cái xác người. Một người trong họ đã thốt lên: “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này”?
Nhưng người bạn lắc đầu giải thích: “Ông ta là một người Tây phương. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng nên không nhận ra những dấu chỉ của Chúa”.
Suy niệm 10: Dấu chỉ của Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Kết thúc diễn từ về ngày tận thế, Chúa Giêsu nói thật rõ: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. (Lc 21,33)
1. Vâng, mọi sự rồi sẽ qua đi hết. Chỉ có Thiên Chúa mới đời đời.
Có một sự kiện mà ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy: Đó là ngày hôm nay, con người ít nhậy bén với những giá trị thiêng liêng.
Nhà giảng thuyết Payson nói: “Triệu chứng của sự suy thoái thiêng liêng cũng giống như sự suy thoái thân xác. Nó thường bắt đầu bằng việc không thích ăn và chê chán mọi thứ thực phẩm, như cầu nguyện, đọc Thánh Kinh và sách thiêng liêng. Khi nào có những triệu chứng đó, bạn hãy cẩn thận; sức khỏe thiêng liêng của bạn đang lâm nguy. Cần đến ngay vị Đại Y Sĩ là Thánh Linh để chữa trị”.
Một người giàu có nọ xây một toà nhà rất đầy đủ tiện nghi, có thể nói là ngoài sức tưởng tượng! Xây xong, ông mời bạn bè đến tham quan, và những người này đã không ngớt lời khen ngợi công trình tuyệt mỹ. Chính chủ nhà cũng tỏ ra không kém phần hứng khởi, và sau khi dọn đến ở trong ngôi nhà mới, ông đã bày ra mọi thứ trò tiêu khiển, đủ mọi lạc thú trên đời!
Ngày nọ, một người tôi tớ đáng kính của Thiên Chúa đến thăm và được ông chủ mời đi tham quan tòa nhà tráng lệ. Sau khi hướng dẫn vị khách đi xem xong, người chủ giàu có mới hỏi người của Thiên Chúa có ý kiến gì không. Vị này trả lời:
- Tòa nhà làm tôi rất hài lòng. Tuy nhiên, nó dư một cánh cửa! Ông cần bít cánh cửa này lại nếu ông muốn có một tòa nhà không chê vào đâu được và hạnh phúc lâu bền!
- Cánh cửa nào thế?
- Đó là cánh cửa mà có lẽ không bao lâu nữa đâu, người ta sẽ khiêng thi hài của ông đi qua. Ngày nào cánh cửa này còn mở, ngày đó hạnh phúc của ông trong lâu đài này sẽ không thể kéo dài, và cái gì không kéo dài được thì không có giá trị cao. Hãy biết rằng, thời gian đang qua đi này sẽ được tiếp nối bằng sự vĩnh cửu, cái sẽ không bao giờ qua đi!
Lời sách Khôn ngoan:
Tất cả sẽ qua đi như bóng câu vụt mất,
như mẩu tin khẩn cấp loan truyền.
Và cũng tựa con tàu đi trên sóng nước
ai còn thấy dấu vết khi nó đã băng qua?
Ai còn thấy lằn tàu trên sóng biển?
Như con chim bay lượn giữa bầu trời,
ai tìm được đường bay của nó?
Ðập đôi cánh trên làn khí nhẹ,
nó vỗ cánh lướt đi, vùn vụt băng ngang trời,
và rồi không còn một dấu vết đường bay.
Như khi mũi tên lao về đích,
trời xé ra, rồi lập tức khép lại
mà không ai biết nổi đường tên bay.
Cũng thế mà thôi, bọn chúng mình” (Kn 5,9-12).
2. Hãy biết khôn ngoan nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa.
Khi thấy cây vả đâm chồi thì người ta biết mùa hè sắp đến; cũng thế, khi thấy “những điều đó” (các thế lực gian tà lung lay) thì hãy biết triều đại Thiên Chúa sắp đến.
Khi nói điều này Chúa Giêsu muốn nói đến vai trò dấu chỉ trong đời sống của chúng ta.
Theo cha Lausade, Thiên Chúa nói với chúng ta bằng hai cách: hoặc bằng Lời Chúa trong Kinh Thánh, hoặc qua các biến cố xảy đến trong đời sống thường ngày. Điều quan trọng là chúng ta phải quan tâm để nhận ra lời nhắn nhủ của Chúa. Chúng ta thường dễ nhận ra Kinh Thánh là Lời Chúa, là giáo huấn của Chúa, mà ít nhận ra các dấu chỉ thời đại cũng là Lời Chúa, là thánh ý Chúa. Nói khác đi, chúng ta ít nghe được tiếng Chúa nói với chúng ta qua các tạo vật, qua niềm vui, nỗi buồn, qua cả những lỗi lầm của chúng ta.
Năm 1937, nữ tu Têrêsa được cử làm giám đốc của một trường trung học dành riêng cho các học sinh giàu tại Calcutta. Nữ tu vẫn còn nhớ mãi lời căn dặn của mẹ mình:
“Con hãy nhớ rằng: con được gởi đến Ấn Độ là để phục vụ người nghèo”. Trước cảnh đói khổ của dân chúng, trước cảnh cô đơn của các bệnh nhân, những người phong cùi và nhất là trước cảnh trẻ em và những người già cả lê lết ngoài đường phố, nữ tu Têrêsa cảm thấy không yên tâm để tiếp tục nghề thầy giáo của mình, nhất là thầy giáo cho học sinh giàu nữa.
Ngày 10.07.1946. trên một chuyến xe lửa chật chội, ngồi bên những người cùng khổ, nữ tu Têrêsa bỗng nghe như có tiếng thì thầm trong lòng:
“Con hãy ra khỏi nhà dòng để phục vụ người nghèo bằng cách đến ở với họ, sống giữa họ và như họ”.
Đây là lần thứ hai chị nghe tiếng gọi như thế. Xác tín rằng: đây là tiếng gọi của Chúa, chị đã trình bày ước nguyện lên bề trên và đúng một năm sau, chị đã được bề trên và Đức Giám Mục bản quyền địa phương cho phép ra khỏi dòng để sống với những người nghèo khổ.
Cởi bỏ chiếc áo dòng của các nữ tu, chị choàng vào chiếc áo Sari cổ truyền Ấn Độ, ăn mặc giống như người nghèo, nữ tu Têrêsa đã hoàn toàn trở thành một người nghèo giữa những người nghèo.
Suy niệm 11: Dấu chỉ triều đại Thiên Chúa sắp đến
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Khi thấy cây vả đâm chồi thì người ta biết mùa hè sắp đến; cũng thế, khi thấy “những điều đó” (các thế lực gian tà lung lay) thì hãy biết triều đại Thiên Chúa sắp đến.
B.... nẩy mầm.
1. “Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước... Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên: “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?”. Nhưng người bạn lắc đầu giải thích “Ông ta là một người phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.
Thảm trạng của con người thời đại: con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại.” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
2. Sự dẻo dai gan lì và lạc quan trong đời sống thiêng liêng: Giữa muôn vàn thử thách đau thương, người tín hữu không hẳn sẽ bị chết dí, nhưng có sức vươn dậy. Từ vài tín hiệu thật nhỏ nhoi, họ có khả năng nhìn ra những dấu chỉ tình thương cứu độ của Chúa đang đến gần.
3. Sự nhậy bén trong đời sống thiêng liêng: Có khả năng nhìn ra những tín hiệu loan báo tin vui. Nhìn ra ngay những chồi non và những con chim én loan báo mùa xuân: bắt được tín hiệu qua một nụ cười muốn làm hoà của người anh chị em vừa mới va chạm với ta. Nhìn ra thiện chí và sự đổi mới nơi những người ta thường ác cảm.
4. “Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì đủ biết là mùa hè đã đến gần. Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra thì hãy biết là triều đại Thiên Chúa đã đến gần” (Lc 21,30-31)
Phim truyện Tây Du Ký đã cho chúng ta thấy hình ảnh một bầy khỉ sống hạnh phúc trong động Hoa Quả. Trong lúc ăn uống no say thì có một con khỉ già ngã lăn ra chết. Cái chết của nó khiến cho bầy khỉ buồn bã và lo sợ không biết bao giờ mới đến phiên mình.
Vâng cuộc sống đầy đủ là dấu hiệu của hạnh phúc, nhưng cũng có thể là con đường dẫn đến đau thương, là mầm mống dẫn đến sa đoạ.
Tề Thiên, con khỉ đầu đàn đã phải lên đường tìm thuốc trường sanh. Con người cũng đang tìm cho mình sự sống vĩnh cửu. Theo quy luật của sự sống thì tôi phải chết. Khi tôi sinh ra là dấu hiệu tôi sẽ phải chết. Theo dòng thời gian, tôi lớn lên không thể tránh khỏi những bệnh tật. Đó là những dấu hiệu cảnh giác tôi. Về già, tôi cảm thấy yếu dần. Yếu dần là dấu hiệu tôi phải chết.
Nhưng với người kitô hữu, chết không phải là hết mà là cửa ngõ của sự sống, sự sống vĩnh cửu mà những dấu hiệu kia báo trước. Vậy tôi phải sẵn sàng, phải tỉnh thức để khỏi đánh mất sự sống đời đời.
Lạy Chúa, xin cho con biết nhận ra những dấu hiệu của sự sống vĩnh cửu trong đời con, để đừng sống như đã chết. (Hosanna)
25/11 Giờ cứu rỗi gần đến.
- Viết bởi Lc 21, 20-28
Giờ cứu rỗi gần đến.
Thứ Năm tuần 34 thường niên.
"Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho các dân ngoại chấm dứt".
Lời Chúa: Lc 21, 20-28
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây, các con hãy biết rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa, hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng quê, chớ có vào thành; vì những ngày ấy là những ngày báo oán, để ứng nghiệm mọi lời đã ghi chép.
"Khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt.
"Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn, chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Sắp được cứu chuộc
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Theo Josephus, một sử gia người Do Thái đáng tin cậy,
bốn quân đoàn của vị tướng Rôma là Titus
đã vây hãm thành phố Giêrusalem vào lễ Vượt Qua năm 70,
khiến người dân trong thành rơi vào cảnh đói khát cùng cực.
Ông kể chuyện một phụ nữ quê ở Pêrêa vì quá đói
đã túm lấy đứa con còn thơ dại, giết con và nướng để ăn.
Cũng theo sử gia này, quân Rôma đã dùng gươm
để giết hơn một triệu người ở Giêrusalem và Giuđê.
Những người Do Thái bị bắt làm tù binh là gần một trăm ngàn.
Ai có thể tưởng được điều khủng khiếp như vậy đã xảy ra
chỉ bốn mươi năm, sau khi Đức Giêsu nói những lời tiên báo.
Giêrusalem là thành trì vững chắc, nơi trú ẩn an toàn,
bây giờ lại là nơi nguy hiểm, cần phải tránh xa (c. 21).
Tai họa ập xuống trên phụ nữ mang thai và cho con bú (c. 23).
trên cả tội nhân lẫn trẻ thơ vô tội.
Thành đô đã bị bao vây, bị thiêu rụi, bị quân Rôma giày xéo.
Dân thành bị ngã gục, bị đi đày, phải tản mác khắp nơi.
Sự sụp đổ của thành đô đã là một biến cố trên đất Israel.
Nhưng trước khi Đức Giêsu ngự đến trên mây trời
như Con Người đầy quyền năng và vinh hiển (c. 27),
sẽ có những dấu lạ đáng sợ khác trên bầu trời và ngoài biển cả (c. 25).
Thánh Máccô nói đến hiện tượng mặt trời, mặt trăng mất sáng,
và các vì sao sa xuống từ trời (Mc 13, 24-25).
Thánh Luca nói đến cảnh biển gào, sóng thét.
Những điều đó làm muôn dân hoang mang, hồn xiêu phách lạc,
nhưng không làm các môn đệ hoảng hốt, âu lo.
Ngược lại họ mừng vui vì Đấng họ chờ đợi từ lâu nay đã đến.
“Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (c. 28).
Đứng thẳng để đón Đấng mà họ đã suốt đời thắp đèn chờ đợi.
Ngẩng đầu để mừng giây phút ơn cứu chuộc đã đến gần.
Chỉ khi Đức Giêsu phục sinh trở lại như Đấng xét xử quyền năng,
Ngài mới trọn vẹn hoàn thành Nước Thiên Chúa trên mặt đất.
Vào cuối năm phụng vụ, Lời Chúa nói với chúng ta về ngày tận thế.
Đó là ngày vừa đáng sợ, vừa chan chứa niềm vui,
ngày được gặp mặt Đấng chúng ta đã tin tưởng, mến yêu và hy vọng.
Người ta vẫn hay đoán già đoán non về ngày tận thế.
Nhiều người tưởng là năm 2000, gần đây có người lại nói là 2012.
Điều quan trọng là làm sao tôi có thể đứng thẳng, ngẩng đầu khi Ngài đến,
làm sao nhân loại trên trái đất này sẵn sàng ra nghênh đón Ngài
như đón Đấng Cứu Tinh mà họ nóng lòng chờ đợi.
Nếu ngày mai Ngài đến với cả thế giới hay đến với riêng mình tôi,
tôi có sẵn sàng chưa hay còn bị còng lưng, cúi đầu vì bao gánh nặng?
Mỗi người đều có ngày tận thế của mình.
Xin cho tôi được bình an khi ngày ấy đến mà không có điềm lạ nào báo trước.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
Suy niệm 2: Đứng thẳng và ngẩng đầu lên
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa cho biết sẽ đến ngày khốc hại. Dân ngoại nắm quyền sinh sát. Tàn phá thành thánh. Chà đạp đền thờ. Giết hại tín hữu. “Sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ sẽ giáng xuống dân này. Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo”. Lại còn thêm những điềm lạ trên trời, sóng biển gào thét. Khiến con người hồn xiêu phách lạc. Nhưng trong những tai ương kinh khiếp ấy, người con Chúa “hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”. Quả thật những ngày cuối cùng của vũ trụ sẽ là nỗi kinh hoàng của dân ngoại. Nhưng đối với con cái Chúa đó lại là niềm hi vọng. Vì đã đến ngày được ơn cứu độ.
Điều đó đã từng xảy ra thời vua Đa-ri-ô. Người Do thái bị bắt làm nô lệ. Bị buộc phải thờ lạy tượng vua. Phải ăn thịt heo. Đa-ni-en, vì trung thành với Chúa. Nên ông bị tố cáo. Và bị ném xuống hầm sư tử. Sư tử là nỗi khốn cùng của dân Ba-by-lon. Nhưng lại là dụng cụ Chúa dùng khiến Đa-ni-en được tôn vinh. Đa-ni-en đã đứng thẳng người hiên ngang ngẩng cao đầu. Vì “Thiên Chúa đã sai thiên sứ đến khoá hàm sư tử khiến chúng không hại được thần”. Trái lại, hang sư tử trở thành nỗi kinh hoàng của những kẻ ác độc, tố cáo gian cho Đa-ni-en. Vì thế xác họ còn chưa đến đáy hang thì sư tử đã chồm lên cắn xé họ. Qua đó Chúa được tôn vinh. Vua Đa-ri-ô viết sắc lệnh đi khắp đế quốc truyền phải kính sợ Thiên Chúa của Đa-ni-en (năm lẻ).
Sách Khải huyền cũng trình bày thời sau hết của thế gian. “Thành Ba-by-lon vĩ đại! Nó đã trở nên sào huyệt của ma quỷ, hang ổ của mọi thứ thần ô uế”. Nhưng rồi đến ngày Chúa ra tay. Ba-by-lon điêu tàn. Mọi người phải chết. “Bởi vì các con buôn của ngươi từng là kẻ quyền thế trên mặt đất, bởi vì ngươi đã dùng phù phép mà làm cho muôn nước mê hoặc”. Còn những người trung tín với Chúa. Đã chịu khổ cực ở trần gian. Đã bị giết chết. Nay được vinh quang. Ca tụng Thiên Cháu: “Thiên Chúa ta thờ là Đấng Cứu Độ, Đấng vinh hiển uy quyền… Vì Người đã xét xử Con Điếm khét tiếng …, và Người đã bắt nó phải đền nợ máu các tôi tớ của Người mà chính tay nó đã giết” (năm chẵn).
Hãy noi gương Đa-ni-en. Không bị Con Điếm cám dỗ. Không khuất phục trước bả vinh hoa của vua chúa trần gian. Chỉ trung tín với Chúa. Dù bị thiệt thòi. Hãy can đảm làm chứng cho Chúa. Rồi đến lúc mọi người chịu khuất phục. Ta sẽ đứng thẳng và ngẩng cao đầu. Vì Thiên Chúa đến cứu ta.
Suy niệm 3: Giờ Cứu Rỗi Gần Ðến
Từ năm 44 TCN đến năm 66 SCN, các quan toàn quyền Rôma cai trị xứ Giuđê một cách độc ác, dã man, đến nỗi dân Do thái đã nổi dậy, mặc dù họ biết sẽ bị nghiền nát dưới gót giầy của Ðế quốc xâm lăng. Năm 66, tướng Julianô chỉ huy ba đạo quân sang đánh dẹp những cuộc nổi dậy. Năm 70, Julianô lên ngôi Hoàng đế tại Rôma, ông sai con cả là Titô tiếp tục cuộc bình địa Giuđê. Nghe tin Titô kéo quân về Giêrusalem, 25.000 người Do thái thuộc các phe kháng chiến đang tranh giành ảnh hưởng đã hợp lực tổ chức chống cự. Tuy nhiên, lực lượng của Rôma quá hùng hậu: 80.000 quân với đầy đủ quân trang đã bao vây Giêrusalem suốt 6 tháng trời. Ðầu tháng 7 năm 70, Titô lập một tường thành chiến lược vây hãm Giêrusalem. Ngày 6/8 việc tế tự trong Ðền thờ bị đình chỉ. Ngày 28/8 quân Rôma đánh phá và đốt Ðền thờ.
Hai ngày sau, tức ngày 30/8 năm 70 thành Giêrusalem bị thất thủ và bị đốt phá bình địa. 90.000 người Do thái bị bắt làm nô lệ. Tất cả đã xảy ra đúng như lời tiên báo của Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, lời của Chúa không chỉ ứng nghiệm với thành thánh bị phá hủy vào năm 70, mà còn tiên báo về ngày tận cùng của thế giới. Khi Ngài đến trong vinh quang để xét xử, có các tai biến làm cho con người lo âu sợ hãi: "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh tượng biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các tinh tú bầu trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ Con Người sẽ xuất hiện uy nghi trên đám mây... Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi đã đến gần".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về ngày sau cùng của mỗi người chúng ta. Trước khi từ giã cõi đời, con người cũng thường bị vây hãm: bởi những lo âu run sợ trước cái chết, bởi những tiếc nuối cho những ngày đã qua, bởi những hành hạ của căn bệnh, bởi sức tấn công của lực lượng sự dữ. Trong những giây phút ấy, Lời của Chúa Giêsu sẽ là kim chỉ nam: "Bấy giờ ai ở miền Giuđê hãy trốn lên núi; ai ở trong thành hãy bỏ đi nơi khác; ai ở vùng quê thì chớ vào thành". Ðành rằng, bấy lâu nay thân xác đã cho con người có được niềm vui, sự hãnh diện, tình yêu thương; thế nhưng, giờ đây thân xác sắp bị hủy hoại, con người không còn lý do gì để cứ bám lấy thân xác, nhưng hãy biết thoát ly những ràng buộc của thân xác, để đi vào ơn cứu độ của Chúa.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết chuẩn bị cho mình một thái độ thích hợp trong ngày Chúa đến.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Chúc Tụng Ðấng Nhân Danh Chúa
Ðoạn Phúc Âm hôm nay gợi lên trong chúng ta hai ý tưởng chính: lời loan báo thành Giêrusalem bị quân địch bao vây và tàn phá, yếu tố thứ hai là những dấu chỉ báo trước biến cố Chúa Kitô trở lại trong vinh quang và đầy quyền năng. Ðây không phải là những dấu chỉ đáng làm cho chúng ta hoang mang lo sợ, mà ngược lại chúng làm cho chúng ta luôn thức tỉnh và hy vọng hướng đến tương lai huy hoàng được Thiên Chúa cứu rỗi.
Như là một biến cố lịch sử, thành Giêrusalem đã bị tàn phá hai lần, lần thứ nhất vào năm 70, do bởi đạo quân viễn chinh Rôma dưới quyền chỉ huy của tướng Titô, và lần thứ hai là vào năm 135, thời của hoàng đế Adriano. Ða số các nhà chú giải hiện nay cho rằng Phúc Âm theo thánh Luca phải được viết ra trong khoảng năm 80-90, vì thế khi viết những dòng Phúc Âm trên, tác giả Phúc Âm theo thánh Luca có biết những biến cố về thành Giêrusalem bị tàn phá năm 70, và tác giả nhìn vào biến cố này không phải một cách thuần túy như là một biến cố chính trị mà thôi, nhưng còn như là một biến cố có ý nghĩa tôn giáo nữa.
Việc thành bị tàn phá là do hậu quả của tội lỗi mà thành đã phạm, bởi vì thành đã từ chối lãnh nhận ơn cứu rỗi Thiên Chúa mang đến cho. Và như thế, ứng nghiệm lời than trách và lời tiên tri của Chúa Giêsu về thành Giêrusalem được tác giả Phúc Âm theo thánh Luca ghi lại trước đó nơi chương 13, câu 34-35 như sau: "Giêrusalem, Giêrusalem, ngươi giết các tiên tri và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi. Ðã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh mà ngươi không chịu, thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ mặc cho các ngươi, mà Ta nói cho các ngươi hay các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa cho đến thời các ngươi nói: chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Lời Chúa trách Giêrusalem phản bội, chối từ ơn cứu rỗi không kết thúc trong tuyệt vọng nhưng được hướng đến một viễn tượng hy vọng lớn, Chúa sẽ trở lại mang niềm vui và ơn cứu rỗi, và con người sẽ chấp nhận Ngài, sẽ hát lên bài ca "chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Nơi phần hai của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta đọc được những loan báo hãi hùng của Chúa Giêsu về thế giới, đó là chiến tranh, tàn phá, những biến chuyển đầy lo âu, những tai ương thiên nhiên. Nhưng chúng ta cần hiểu đây là những hình ảnh của một ngôn ngữ được gọi là ngôn ngữ khải huyền của truyền thống Kinh Thánh, để nhắc nhở cho người đồ đệ của Chúa biết rằng thế giới vũ trụ này không phải là một nơi cư ngụ vẹn toàn cho con người. Hơn nữa, những tội lỗi của con người làm cho thế giới vũ trụ không vẹn toàn này thay vì trở nên tốt hơn nhờ có sự cộng tác của con người với ơn Chúa ban, thì lại trở nên tồi tệ hơn và chắc chắn sẽ đi đến lúc tan biến. Trong cái nhìn của lịch sử cứu rỗi thì đây không phải là một sự tan biến vào hư vô mà là một sự biến đổi trong Chúa, nhờ quyền năng của Thiên Chúa mà trở thành trời mới đất mới khi Con Người đầy quyền năng và vinh quang từ trong đám mây mà đến. Cuối cùng, Thiên Chúa ngự đến. Ngài là khởi đầu và là cùng đích của mọi loài, mọi sự.
Trong dòng lịch sử đang diễn ra, chúng ta có thể nói và xác tín rằng Thiên Chúa phạt lỗi theo sự công bằng. Ngài cho phép sự dữ xảy ra, nhưng trong và qua mọi sự, mọi biến cố, Ngài luôn làm chủ và cứu rỗi theo lượng từ bi vô cùng của Ngài. Chính vì thế mà không bao giờ người Kitô được phép để mình rơi vào trong hoàn cảnh tuyệt vọng. Chúng ta cần nhìn lịch sử theo cái nhìn của Chúa, theo cái nhìn của lịch sử cứu rỗi để niềm hy vọng Kitô không bao giờ bị tắt mất đi trong tâm hồn người đồ đệ của Chúa. Chắc chắn sẽ đến lúc chúng ta vui mừng lên mà hát bài ca "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Lạy Chúa
Xin thương giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ. Xin chớ để chúng con sa vào chước cám dỗ phản bội Chúa. Xin đừng để chúng con sống trong tuyệt vọng nhưng luôn hy vọng vào Chúa và hát lên bài ca Chúc Tụng Chúa, Chúc Tụng Ðấng Nhân Danh Chúa Mà Ðến.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Người sẽ trở lại
“Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.” (21, 27-28)
Sau khi mô tả cảnh sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu nói với chúng ta về những điềm báo tận thế và sự trở lại của Người trong vinh quang.
Tận thế
Người ta thường suy tư về tính chất các tai họa và những xáo trộn của vũ trụ trước lúc trở lại của Đức Kitô. Luôn luôn thấy có người dựa vào điểm này điểm kia được loan báo trong bốn Tin mừng để dự đoán tận thế sắp đến. Tuy nhiên tận thế vẫn chưa đến.
Đức Giêsu hẳn đã không muốn cho phép người ta nhận định rõ được khi nào xảy ra tận thế. Người đã quả quyết nhiều lần: Trừ Chúa Cha ra, không ai biết được khi nào điều đó xảy đến. Chỉ có một điều chắc chắn: Sẽ xảy ra những đảo lộn quan trọng, rồi Đức Giêsu sẽ lại đến với loài người. Sự quan trọng và lớn lao của những cuộc đảo lộn làm nổi bật sự quan trọng và vinh quang của ngày Đức Kitô hiện đến gấp bội mọi mô tả theo kiểu khoa học về ngày tận thế.
Đức Kitô lại đến
Đức Kitô đã đến với loài người trong cảnh nghèo khó và khiêm hạ, thì có ngày Người lại đến với họ. Nhưng lần này, Người hiện đến “đầy quyền năng và vinh quang lạ lùng”. Chính là Đấng phục sinh sẽ tỏ mình ra lúc tận thế.
Những ai đã sống mong đợi Người lại đến sẽ không còn sợ hãi, vì đối với họ, đây là ngày cứu độ, ngày những người thiện chí mong đợi sẽ tràn đầy hân hoan.
Thiên Chúa không muốn một thế giới bị quay cuồng trong tai họa. Ngài đã không tạo dựng một loài người phó mặc cho hư vô. Ngài muốn một thế giới và một loài người được phục sinh trong ân sủng của Đức Kitô, và được phát triển dồi dào trước mặt Thiên Chúa.
Lo lắng mong chờ được lại thấy Đức Kitô và được sống trọn vẹn trong Người. Những người Kitô hữu đầu tiên nồng nhiệt hy vọng ngày tận thế. Còn chúng ta, chúng ta có là những người mong đợi như các ngài không?
Suy niệm 6: Sám hối để được cứu độ
Hôm nay, thánh Luca trình thuật việc Đức Giêsu tiên báo trước thành thánh Giêrusalem sẽ bị tàn phá nặng nề. Sự kiện bị phá hủy của đền thờ chính là hình ảnh tiên trưng cho ngày cánh chung của chúng ta. Khi ngày đó đến, hẳn sẽ có nhiều người vui mừng, nhưng cũng không thiếu người đau khổ và thất vọng. Ngày đó sẽ trở nên đáng sợ cho những ai không nhận ra dấu chỉ để sám hối, canh tân. Nhưng cũng ngày đó, nhiều người sẽ vui mừng và hãnh diện vì đã chuẩn bị sẵn sàng bằng việc tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng.
Như vậy, hạnh phúc hay đau khổ là do sự lựa chọn của chúng ta ngay trong giây phút hiện tại. Chỉ có sự chuẩn bị trong tỉnh thức thì mới tránh được đau khổ mà thôi. Bởi vì ngày đó không hẹn trước, nó đến với ta bất thình lình, chỉ có những dấu chỉ đi trước báo hiệu. Tuy nhiên, nếu nhạy bén với các dấu chỉ thời đại thì mới nhận ra những điềm báo trước đó, nếu không, chúng ta sẽ chịu những đau khổ, thiệt thòi như những phụ nữ đang mang thai và người đàn bà đang cho con bú. Nếu nằm trong hoàn cảnh này thì hẳn ngày tận thế xảy đến sẽ là ngày u ám cho cuộc đời của chúng ta vì sẽ phải lãnh nhận một bản án khắc nghiệt cho mình vì sự cứng đầu, cố chấp trong tội, và ngoan cố không sám hối để được ơn tha thứ.
Sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn xứng đáng bằng việc trung thành tuân giữ Lời Chúa và ra sức thi hành trong lòng mến. Cần nhận ra các dấu chỉ thời đại để hiểu được thánh ý của Chúa. Phải chuẩn bị cho hành trình tiến về với Chúa qua cái chết bằng những hành trang, như: bác ái, từ bi, nhân hậu, hiền hòa, bao dung, vị tha. Được như thế, thì cái chết đến với chúng ta là một niềm vui chứ không phải là hình phạt và đau khổ...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được luôn yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Biết chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu của mình bằng những việc thiện, để ngày Chúa đến với chúng con được trở nên niềm vui mừng. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Vững lòng trông chờ ngày cứu thoát
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá, khắp địa cầu sẽ ngập sâu trong cảnh khốn cùng. Thiên Chúa sẽ thi hành án xử công minh dành cho kẻ khước từ Đức Kitô. Người Kitô hữu phải vững lòng cậy tin trông chờ ngày cứu thoát.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con run sợ vì những gì đã xảy ra cho thành Giêrusalem cũng như sẽ ập đổ xuống trên khắp địa cầu trong ngày thế mạt. Lời Chúa không nhằm để hù dọa con, nhưng là để cảnh giác lối sống của con hôm nay. Con mường tượng ra cảnh khốn khổ mai ngày, nhưng con vẫn an tâm thực hiện Lời Chúa, vì Chúa muốn con tỉnh thức cầu nguyện, ngẩng cao đầu giữ vững niềm tin và đợi trông ơn cứu rỗi.
Lạy Chúa, thực tế cuộc sống con hôm nay sẽ xác định con chọn lựa hay khước từ Chúa. Thời giờ Chúa ban, con dành cho Chúa trọn vẹn hay chỉ để chiều theo những sở thích riêng mình? Tiền bạc, địa vị, chức quyền, cùng những may mắn con đang có là cơ hội giúp con hăng hái rao giảng Tin Mừng hay chỉ để sung sướng cho bản thân con? Con có vì Chúa mà quyết tâm chừa tội và đi đàng nhân đức chăng?
Lạy Chúa, Đấng quyền phép và công minh, xin giúp con mạnh mẽ quyết tâm sống một đời vững tin, trung kiên giữ luật Chúa, cương quyết xa đàng tội và chăm lo lãnh nhận các bí tích thần thiêng của Chúa, và cùng với anh chị em làm sáng Danh Chúa trước mặt mọi người. Xin giúp con luôn nhớ rằng ngày tận cùng của con đang được định đoạt từ hôm nay. Con trông cậy Chúa, xin cứu giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho các dân ngoại chấm dứt”.
Suy niệm 8: Đứng vững trước mặt Con Người
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Từ năm 44 trước Công nguyên đến năm 66 sau Công nguyên, các quan toàn quyền Rôma cai trị xứ Giuđê một cách độc ác, dã man, đến nỗi dân Do Thái đã nổi dậy, mặc dù họ biết sẽ bị nghiền nát dưới gót giày của đế quốc xâm lăng. Năm 66, tướng Julianô chỉ huy ba đạo quân sang đánh dẹp những cuộc nổi dậy. Năm 70, Julianô lên ngôi hoàng đế tại Rôma, ông sai con cả là Titô tiếp tục cuộc bình địa Giuđê.
Nghe tin Titô kéo quân về Giêrusalem, 25.000 người Do Thái thuộc các phe kháng chiến đang tranh giành ảnh hưởng đã hợp lực tổ chức chống cự. Tuy nhiên, lực lượng của Rôma quá hùng hậu: 80.000 quân với đầy đủ quân trang đã bao vây Giêrusalem suốt 6 tháng trời. Ðầu tháng 7 năm 70, Titô lập một tường thành chiến lược vây hãm Giêrusalem. Ngày 6/8 việc tế tự trong đền thờ bị đình chỉ. Ngày 28/8, quân Rôma đánh phá và đốt đền thờ. Hai ngày sau, tức ngày 30/8 năm 70, thành Giêrusalem bị thất thủ và bị đốt phá bình địa. 90.000 người Do Thái bị bắt làm nô lệ. Tất cả đã xảy ra đúng như lời tiên báo của Chúa Giêsu.
Suy niệm
Chúa Giêsu loan báo Giêrusalem sẽ bị sụp đổ, Giêrusalem sẽ bị dân ngoại thống trị. Từ lời tiên báo sụp đổ thành Giêrusalem, Ngài dẫn tới cuộc phán xét cuối cùng của Thiên Chúa, ngày mà tất cả những gì đã chép trong Kinh Thánh được ứng nghiệm. Và đó cũng là ngày mà sự can thiệp cuối cùng có tính cách quyết liệt của Thiên Chúa vào lịch sử ngày cánh chung.
Chúa Giêsu cũng nói về những tín hiệu sẽ xảy ra trong thời gian để nói về ngày Ngài sẽ trở lại: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn, chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến” (Lc 21,25-28). Giữa hiện tượng khủng khiếp ấy, Đấng ngự trên mây trời mà đến, Đấng ấy đến xét xử muôn dân. Đó như là tín hiệu báo trước về ngày quang lâm vĩnh cửu của Thiên Chúa để mọi người nhìn nhận và chuẩn bị đón Ngài.
Chính trong tâm tình luôn sẵn sàng cho ngày Chúa quang lâm, chúng ta nghe lời của thánh Phaolô khuyên: “Về ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta về với Người, tôi xin anh em điều này: Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mạc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ” (2Tx 2,1-2).
Luôn sống như thánh Giacôbê xác quyết: “Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới” (Gc 5,8). Bền tâm vững chí trong từng bước của cuộc đời như Chúa phán: “Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh 2,10c), như thánh Phaolô quả quyết: Vào ngày của Người, Thiên Chúa sẽ đội mũ công chính cho những kẻ đã yêu mến Người (x. 2Tm 4,7-8) .
Ý lực sống
“Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn,
để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến
và đứng vững trước mặt Con Người!”. (Lc 21,36)
Suy niệm 9: Giêrusalem bị tàn phá
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Thánh Luca trình bầy biến cố Giêrusalem bị sụp đổ, tượng trưng cho sự phán xét cuối cùng của Thiên Chúa, ngày mà tất cả những gì đã chép trong Kinh Thánh được ứng nghiệm. Trong ngày đó, tất cả những thế lực mà xưa nay người ta dựa vào vì coi đó là vững chắc (mặt trời, tinh tú, biển...) đều bị lay chuyển để nhường chỗ cho cho quyền lực của Con Người lên ngôi. Trước tình huống đó, “muôn dân” (tức là những kẻ không có đức tin) sẽ lo sợ đến hồn siêu phách lạc, vì chỗ dựa của họ đã bị lung lay, nhưng các môn đệ Chúa thì hãy vui mừng và ngẩng đầu lên chờ đợi Chúa ngự đến.
2. Có lần Đức Giêsu khóc thương thành Giêrusalem, vì Ngài thương dân thành này cách đặc biệt, nhưng họ không chịu nghe Ngài, họ lại còn phản nghịch chống lại Ngài. Hôm nay , qua bài Tin Mừng, Đức Giêsu cho biết: dân ngoại sẽ chiếm lĩnh và tàn phá thành, sẽ tàn sát dân chúng cách tàn nhẫn ghê gớm và bắt đi đầy khắp các nước. Đây cũng là hình ảnh báo trước ngày tận hthế.
3. Năm 70 sau công nguyên, tướng Titus của đế quốc Rôma đem quân lính vây hãm và phá bình địa Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem biểu trưng của niềm tin tôn giáo như lời tiên báo của Đức Giêsu đã “không còn hòn đá nào trên hòn đá nào”.
Tuy nhiên, nếu người Do thái thương khóc cho quê hương đổ nát thì các Kitô hữu lại hân hoan ra đi loan báo Tin Mừng cho các dân tộc khác: sự sụp đổ thành Giêrusalem đã giúp cho họ nhận ra tính công giáo của Kitô giáo. Nước Thiên Chúa đến bằng chính những gì mà con người cho là đổ nát, mất mát. Đó là cái nhìn Đức Giêsu muốn mời gọi các tín hữu tiên khởi phải có (Mỗi ngày một tin vui).
4. Ngay thời tiên tri Daniel, dân Do thái đã bàn tán về Ngày Nước Thiên Chúa đến và sự chờ dợi cuồng nhiệt lan tràn khắp nước Israel. Người ta khảo sát các điềm trời và các tai họa xẩy ra. Họ tính toán khá thông thái để tiên báo ngày giờ tận thế. Đức Giêsu loan báo Nước Thiên Chúa đã đến ngoài sức tính toán tự nhiên của con người, nên người Biệt phái muốn hỏi Đức Giêsu xem bao giờ triều đại Thiên Chúa đến.
Câu trả lời của Đức Giêsu làm sửng sốt: Nước Thiên Chúa đến không ai có thể quan sát được. Tất cả mọi dấu chỉ loan báo và tính toán đều vô giá trị. Nước ấy đã đến và người Biệt phái không nhận ra vì con tim và lỗ tai của họ bị đóng kín. Chính hành động của Đức Giêsu cho thấy và cho hiểu về Nước Thiên Chúa đã đến vì Ngài nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ... Thời cứu độ đã bắt đầu, nhưng ai không đón tiếp Đức Giêsu, không thể nhận ra được Nước Thiên Chúa.
5. Đức Giêsu cũng loan báo trước Ngài sẽ trở lại trong ngày quang lâm. Nhưng trước khi việc ấy xẩy ra, người ta còn phải chịu nhiều tai họa, đau khổ. Sau cùng, Ngài sẽ hiện đến trong vinh quang sáng chói hơn cả tia sáng bom nguyên tử và chiếu sáng khắp nơi không gì che lấp được. Con Người đến thình lình đột ngột như các tai họa đổ xuống trên loài người và luôn sẵn sàng đến bất cứ lúc nào.
Hình ảnh ngày tận thế rất đáng sợ. Ngày Chúa phán xét mọi người và riêng từng người chúng ta. Tuy nhiên, chỉ những ai không chịu nghe Lời Chúa mà ăn năn sám hối, cải thiện đời sống mới khiếp sợ, vì họ phại bị phạt khốn khổ đời đời. Còn ai biết lo làm lành lánh dữ, sốt sắng thờ phượng Chúa, giúp việc Chúa sẽ vui mừng phấn khởi, vì mình sẽ được cứu rỗi.
6. Đi xa hơn một chút, ta cũng có thể hiểu Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng suy nghĩ về ngày cuối cùng của mỗi người chúng ta. Trước khi từ giã cõi đời, con người cũng thường bị vây hãm bởi những lo âu run sợ trước khi chết, bởi những tiếc nuối cho những ngày đã qua, bởi những hành hạ của cơn bệnh, bởi sức tấn công của lực lượng sự dữ.
Ước gì mọi người chúng ta luôn biết chuẩn bị cho mình một thái độ thích hợp trong ngày Chúa đến.
Khi Quincy Adams 80 tuổi, một người bạn hỏi ông:
- Quincy Adams thế nào rồi?
- Quincy Adams vẫn khỏe, nhưng ngôi nhà mà linh hồn Adams cư ngụ đã bệ rạc, nó sắp sập đến nơi rồi. Đã đến lúc phải rời khỏi ngôi nhà đó rồi (The Gospel Herald).
7. Truyện: Khôn ngoan biết lo xa.
Một hôm, đang ngồi trong bàn giấy, vua Chalrles-Quint thấy một vị quan vốn trung thành, đệ đơn xin từ chức. Tưởng rằng vị quan này không được hài lòng vì lương bổng hay bất mãn với công danh. Nhà vua tha thiết nhìn ông và bảo cứ ở lại, nhà vua sẽ cho như ý. Hiểu ý vua, vị đó trả lời:
- Tôi xin rút lui để có thời giờ lo việc linh hồn.
Nghe câu trả lời bất ngờ đó, vua cảm động và khen ngợi là người khôn ngoan biết lo xa.
Chính vua Charles Quint sau cũng từ chức và vào nhà dòng dọn mình chết lành.
Như vậy, cuộc đời trần thế của chúng ta chỉ là thời gian lao tác: làm việc cho Chúa để làm vinh danh Ngài và làm việc cho tha nhân để đem hạnh phúc đến cho mọi người như lời Chúa dạy: ”Không phải bất cứ ai thưa với Thầy “lạy Chúa, lạy Chúa” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào thôi”(Mt 7,21).
Suy niệm 10: Ngày tận cùng của một đời người
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Chúng ta tiếp tục suy niệm qua bài diễn từ chung luận:
1. Chúa Giêsu lại nói về ngày thành Jêrusalem bị tàn phá. Những Lời Chúa nói đã được ứng nghiệm từng nét không bao lâu sau đó.
“Năm 70 sau công nguyên, tướng Titus của đế quốc Rôma đem quân bình địa Jêrusalem. Đền thờ Jêrusalem biểu trưng của niềm tin tôn giáo, như lời tiên báo của Chúa Giêsu đã “không còn hòn đá nào trên hòn đá nào”...
Qua câu chuyện về Jêrusalem, Chúa muốn nói về ngày tận cùng của thế giới, đồng thời Chúa cũng muốn ám chỉ về ngày tận cùng của một đời người.
Vâng! Chẳng có gì tồn tại mãi trên cõi dương gian này.
Khi Quincy Adams 80 tuổi, một người bạn hỏi ông:
- Quincy Adams thế nào rồi?
- Quincy Adams vẫn khỏe, nhưng ngôi nhà mà linh hồn Quincy Adams cư ngụ đã bệ rạc lắm rồi, nó sắp sập đến nơi. Đã đến lúc phải rời khỏi ngôi nhà đó rồi. (The Gospel Herald)
Phải! Rồi sẽ có ngày chúng ta sẽ phải rời bỏ cõi dương gian này.
“Khi tôi là một đứa trẻ, tôi cười và khóc, thì lúc đó thấy thời gian bò tới.
Khi tôi là một thanh niên, tôi táo bạo hơn, thì thấy thời gian đi bộ.
Khi tôi trưởng thành, tôi là một người chững chạc, thì thấy thời gian chạy.
Cuối cùng, khi tôi bước vào tuổi chín mùi, tuổi già, thì thấy thời gian bay.
Chẳng bao lâu nữa thì tôi chết, lúc đó thời gian đã đi mất.
2. Bởi vậy, những ai cậy dựa vào những thế lực vật chất và thế gian thì khi sắp chết, chắc chắn sẽ phải hoảng sợ vì những thế lực đó bị sụp đổ. Chỉ có những ai biết cậy dựa vào Chúa thì khi chết mới vui mừng, vì họ biết mình sắp được về với Ngài.
Trước một cử tọa gồm những nhà kinh doanh lớn, những minh tinh màn bạc, những nhà trí thức họp mặt tại câu lạc bộ nổi tiếng Philadelphia Phillies, Cordell Brown đã nói một cách rất duyên dáng như thế này: “Quí vị có thể thành công suốt cả cuộc đời, và lãnh cả triệu đô la mỗi năm, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của quí vị lại, thì quí vị sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc mà mọi người chúng ta đều y như nhau. Tôi không cần tới những gì các bạn đang có trong cuộc sống, nhưng tôi chắc chắn rằng, các bạn cần một điều mà tôi đang có, đó là Chúa Giêsu Kitô”.
Những lời của Cordell Brown mời chúng ta tự hỏi chính mình xem: cái gì thực sự là quan trọng đối với chúng ta? Nó mời chúng ta nhìn vào những cái chúng ta phải coi là ưu tiên trong cuộc đời mình. Nhất là nó đòi hỏi chúng ta xem, Chúa Giêsu Kitô có phải là ưu tiên số một trong cuộc đời chúng ta hay không.
Tại tu viện Westminter ở Luân Đôn, có một nhà nguyện nhỏ tên là “Nhà nguyện Thánh George”. Trong nhà nguyện này có bốn cuốn sách lớn, trong đó có ghi sáu ngàn tên các nạn nhân của cuộc không kích đó. Một cuốn mở ra và trên trang sách lấp lánh áng sáng có ghi một số tên nạn nhân. Mỗi ngày người ta giở một trang với một số tên mới. Khi bạn nhìn và đọc cột tên dài ấy, bạn không sao biết được người có tên mà bạn đọc nghèo hay giàu, da đen, da trắng hay da màu, là Kitô Hữu, là Do Thái giáo hay là vô thần, già hay trẻ, đẹp hay xấu.
Lúc đó, không còn có một khác biệt nào nữa. Lúc đó, tất cả những gì xảy ra đều tùy thuộc vào bản chất con người mà mỗi người tạo ra cho mình khi mình còn sống trên dương thế.
Vậy thì thái độ tốt nhất của mỗi người là biết sống phó thác cho Tình yêu của Thiên Chúa
Mẹ Têrêsa nói: “Chúng ta phải đặt niềm tin vào Ngài và thi hành những công việc mà Ngài đã mời gọi chúng ta cho đến hơi thở Cuối cùng. Thiên Ðàng là nhà của chúng ta. Mọi người đều có khả năng lên Thiên Ðàng. Dân chúng hỏi tôi về cái chết và tôi có trông đợi cái chết không và tôi trả lời, “Dĩ nhiên” vì tôi đang về nhà. Chết không phải là chấm dứt, nó chỉ là sự bắt đầu. Chết là sự tiếp nối đời sống. Ðây là ý nghĩa của sự sống vĩnh cửu; đó là nơi linh hồn chúng ta đến với Thiên Chúa, trong sự hiện diện của Thiên Chúa, để thấy Thiên Chúa, để nói với Thiên Chúa, để tiếp tục yêu thương Ngài với tình yêu lớn hơn, bởi vì trên Thiên Ðàng, chúng ta có thể yêu Ngài với trọn vẹn tâm hồn và linh hồn chúng ta. Chúng ta hãy phó thác thân xác chúng ta cho Chúa. Khi chết tâm hồn và linh hồn chúng ta sống đời đời”.
Xin được kết thúc bằng những lời cầu nguyện của Cha Piô, người được Chúa in năm dấu thánh:
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn.
Cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh của Chúa,
để khỏi ngừng lại dọc đường. Amen.
Suy niệm 11: Đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì sắp được cứu thoát
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Tiếp tục diễn từ chung luận:
- các câu 20-24: Chúa Giêsu lại nói về ngày thành Giêrusalem bị tàn phá.
- các câu 25-28: và lại chuyển sang ngày tận thế và Quang lâm. Tất cả những thế lực mà xưa nay người ta dựa vào vì coi là vững chắc (mặt trời, mặt trăng, tinh tú, biển...) đều bị lay chuyển để nhường cho quyền lực của Con Người lên ngôi. Trước tình huống đó, “muôn dân” (tức là những kẻ không có đức tin) sẽ lo sợ đến hồn siêu phách lạc, vì chỗ dựa của họ đã bị lung lay, nhưng các môn đệ Chúa thì hãy vui mừng và ngẩng đầu lên chờ đợi Chúa ngự đến.
B.... nẩy mầm.
1. “Năm 70 sau công nguyên, tướng Titus của đế quốc La mã đem quân bình địa Giêrusalem... Đền thờ Giêrusalem biểu trưng của niềm tin tôn giáo như lời tiên báo của Chúa Giêsu đã “không còn hòn đá nào trên hòn đá nào”... Tuy nhiên, nếu người do thái thương khóc cho một quê hương đổ nát, thì các kitô hữu lại hân hoan ra đi loan Tin Mừng cho các dân tộc khác; sự sụp đổ của thành Giêrusalem đã giúp cho họ nhận ra tính công giáo của Kitô giáo. Nước Thiên Chúa đến bằng chính những gì mà con người cho là đổ nát, mất mát. Đó là cái nhìn Chúa Giêsu muốn mời gọi các tín hữu tiên khởi phải có” (trích "Mỗi ngày một tin vui")
2. Ai dựa vào những thế lực vật chất và thế gian thì khi sắp chết sẽ hoảng sợ vì những thế lực đó bị sụp đổ; còn kẻ nào dựa vào Chúa thì khi chết sẽ vui mừng, vì họ biết mình sắp được về với Ngài.
3. Lời tâm sự của một người mẹ: Từ nhỏ tôi đã sợ chết, nhưng khi đứa con yêu dấu của tôi chết thì tôi không còn sợ nữa. Đó là nhờ câu chuyện ngụ ngôn vị Linh mục chủ sự lễ an táng đã giảng. Chuyện như thế này: người mục tử dẫn đàn chiên đến một dòng suối để sang cánh đồng cỏ bên kia. Suối không sâu nhưng nước chảy mạnh nên chẳng con chiên nào dám bước xuống. Người mục tử không la hét, không dùng roi để lùa đàn chiên qua suối. Ông chỉ nhẹ nhàng bồng một con chiên con rồi bước xuống, đi qua phía bên kia. Con chiên mẹ thấy con mình đã đi qua suối được nên an lòng bước theo. Sau đó cả đàn chiên bước qua suối nước, sang bờ bên kia, nơi có sẵn một đồng cỏ xanh rì.” (Sunday School Time).
4. Khi John Quincy Adams 80 tuổi, một người bạn hỏi ông:
- John Quincy Adams thế nào rồi?
- John Quincy Adams vẫn khỏe. Nhưng mà ngôi nhà mà linh hồn John Quincy Adams cư ngụ đã bệ rạc lắm rồi, nó sắp sập đến nơi. Đã đến lúc phải rời khỏi ngôi nhà đó. (The Gospel Herald)
53. Đoạn Tin Mừng thoảng mùi khói lửa, với tiếng vó ngựa, tiếng gươm đao, tiếng binh lính hò la chém giết … Còn dân Chúa thì trốn chui trốn nhủi.
- Qua đó ta nhìn ra đường lối Chúa thật lạ lùng: Chúa thấy trước những tai hoạ sắp đổ xuống dân mình với cả những người đáng thương đang mang thai hoặc cho con bú, nhưng Chúa không đẩy tai hoạ đi giùm. Chúa không giải phóng dân Người ngay lúc đó. Chúa dành ra “một thời của dân ngoại”’, mặc sức họ tung hoành.
- Trong nếp sống đạo đức của ta hình như cũng có thể có những lúc tương tự: Không biết có phải vì tội ta hay vì lý do nào khác nữa mà muôn thứ thử thách đổ dồn trên đầu ta làm ta tối tăm mắt mủi; mọi sự trên trời dưới đất, mọi biến cố hầu như đều chống lại ta.
- Từ đáy vực thẳm đen tối đó, có lẽ thái độ tốt nhất là ta nhìn ra được lời Chúa mời gọi ta sám hối trở về với Ngài. Và sau đó với lòng phó thác và biết ơn, chúng ta ‘“hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì chúng ta sắp được cứu chuộc”’.
24/11 Làm chứng cho Chúa Giêsu
- Viết bởi Mt 10, 17-22
Làm chứng cho Chúa Giêsu.
Thứ Tư tuần 34 thường niên. – CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.
Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam.
"Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết".
Lời Chúa: Mt 10, 17-22
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết.
Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì. Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì: vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.
Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Không thuộc về thế gian. -- ‘Manna’
Suy Niệm
"Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua,
lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước.
Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô."
Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình Hy
khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.
Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn,
cho phụ trách ngành dệt trong cả nước.
Nhưng ông cũng là một Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ.
Ông không thấy có gì xung khắc
giữa việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.
Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị bắt,
bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình.
Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách bình thản.
Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc,
hương vị cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm
trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh cửu.
Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy
soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.
Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ.
"Như Cha đã sai Con đến trong thế gian,
Con cũng sai họ đến trong thế gian" (Ga 17,18).
Thế gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến chết.
Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân...
Ngài đã yêu mến và sống tận tình cho thế gian đó.
Thế gian đã trở nên như máu thịt của người Kitô hữu
vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ,
và là nơi họ trở thành người Kitô hữu trọn vẹn.
"Họ không thuộc về thế gian,
cũng như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17,16).
Ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian,
nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.
Người Kitô hữu không coi thường mọi giá trị của xã hội,
nhưng họ có một thang giá trị riêng.
Họ biết đâu là những giá trị mà họ phải tôn trọng.
Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất chính mình
và chẳng đóng góp được gì cho bộ mặt thế giới.
Họ là nhúm men vùi trong đống bột.
Men không được tách khỏi bột,
và men cũng không được biến chất thành bột.
Trong cả hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.
Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong hai đầu dây.
Bỏ một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng chênh vênh,
thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.
Tử đạo là cách làm chứng tuyệt vời trong thời bách hại.
Trong thời kinh tế thị trường, cần có những cách làm chứng khác.
Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm mình
để mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái...
Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở ngay trong lòng ta.
Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt thòi, phiền hà, mất mát,
khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Kitô hữu vừa phải đồng hành với thế gian, vừa có lúc phải lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều đó có quá khó không? Làm sao thực hiện được lý tưởng đó?
Thời nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa cũng có cái khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho Chúa trong một xã hội chạy theo tiền bạc và hưởng thụ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
2. Để làm chứng cho vua quan – Mt 10, 17-22 -- ‘Manna’
Suy Niệm
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm
sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay:
bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan,
bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết.
Tất cả những gì các ngài phải chịu
đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi.
"Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em"
để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa
được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối.
Chết vì Đạo là một cách làm chứng.
Làm chứng cho một niềm tin kiên vững:
Vì tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ,
nên các ngài không bước qua thánh giá.
Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng:
"Không có tình yêu nào lớn hơn
tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu" (Ga 15,13)
Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt:
có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu,
cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng tôi yêu.
Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết.
Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống.
Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi,
vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.
Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh giá.
Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn.
Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt,
mất tất cả và mất chính mạng sống.
Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi.
Đã có người bước qua, và cũng có người không.
Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên,
như thánh Antôn Nguyễn Đích.
Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận.
Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân:
Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt.
Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha,
như thánh Micae Hồ Đình Hy,
nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn.
Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi?
Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.
Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng.
Quyết định không bước qua thánh giá
là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện,
của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo,
của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm,
của những Vườn Dầu trong ngục thất...
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá,
dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ.
Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá,
bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn, người Công Giáo Việt Nam phải sống thế nào để làm chứng về Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết Chúa?
Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào bạn có kinh nghiệm đó trong đời thường không?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài cho thấy
tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin
mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài
thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
3. Anh em làm chứng cho Thầy. -- ‘Manna’
Suy Niệm
Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988,
có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con.
Đó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo,
bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu.
"Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con.
Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý,
sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ."
Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.
Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn.
Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861,
quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của bà.
Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi.
Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo,
bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người.
Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam,
đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu,
bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng:
"Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy,
mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?"
Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình,
người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.
Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam
là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta.
Thiên Chúa đã làm điều phi thường
nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối.
Quan "Hùm Xám" tỉnh Nam Định cũng phải bó tay
trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ,
bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình.
Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án,
vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin,
dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu,
không đòi hy sinh mạng sống,
nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.
Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa,
trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình,
đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin.
Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo
gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp
mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin
được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo,
và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy
cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng cách hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước mở cửa, đâu là cách thức làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các chỗ giải trí vui chơi...)
Theo ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm với cách làm chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê nào để người ta dễ có cảm tình với Đức Giêsu?
Cầu Nguyện
Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,
các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên
bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
4. Sống vì đạo – TGM. Giuse Ngô quang Kiệt
Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng thụ, an nhàn là rất mạnh. Thế mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ mình, phải vác thập giá, phải hy sinh mạng sống. Phải chăng Chúa muốn ta tàn lụi đi? Hay Chúa muốn ta trở nên dại dột? Thưa không phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hãy biết từ bỏ mình vì lợi ích của ta.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị cao quý hơn. Trong đời sống, cơm áo gạo tiền là cần là quý. Nhưng còn những thứ cao quý hơn. Ví dụ như danh dự, tình yêu, lòng chung thủy. Mạng sống là quý. Nhưng có những giá trị còn cao quý hơn. Ví dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là quý. Nhưng linh hồn còn cao quý hơn. Vì thế, khi không thể chọn cả hai, ta phải biết chọn những giá trị cao quý hơn.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị bền vững hơn. Vật chất là quý. Nhưng giá trị của nó không lâu bền. Chết rồi ta chẳng mang theo được vật chất theo mình. Những giá trị tinh thần bền vững hơn. Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục ngữ có câu: "Cọp chết để da, người ta chết để tiếng". Cuộc sống đời này là quý. Nhưng cuộc sống đời này không kéo dài lâu. Cuộc sống đời sau mới trường tồn vĩnh cửu. Khi không thể chọn lựa mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những giá trị có tính cách vĩnh cửu.
Chúa chỉ cho ta đường đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Chọn Chúa mới là chọn những gì tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quý nhất. Chúa là giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa là hạnh phúc hoàn hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở nơi Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi Chúa cho ta đạt được mọi ước mơ của con người.
Chúa chỉ cho ta con đường đi theo Chúa. Khi dậy dỗ ta, Chúa Giêsu không nói suông. Chính Người đã thực hành. Người đã từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã liều mạng sống, chịu chết vì chúng ta. người đã từ bỏ tất cả những giá trị trần gian để vâng theo thánh ý Đức Chúa Cha. Cuối cùng Người lại được tất cả. Chết rồi được Phục Sinh. Tự hủy mình ra không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ bỏ tất cả, nay Đức Chúa Cha lại ban cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân Người.
Yêu mến Chúa là vâng theo Lời Chúa, các thánh Tử đạo Việt Nam đã đi theo con đường của Chúa. Để bảo vệ đức tin, các ngài đã chịu mất tất cả cuộc sống an vui, mất danh vọng chức quyền, mất nhà cửa của cải. Vì hiểu rằng đức tin là gia tài cao quý nhất. Hướng về sự sống đời sau, các ngài đã sẵn sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhà, chịu hành hạ đau đờn. Vì biết rằng những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh phúc đời sau mới vĩnh cửu. Để trung thành với Chúa, các ngài sẵn sàng chịu mất mạng sống. Vì biết rằng Chúa sẽ ban lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các ngài. Các ngài thật can đảm. Vì khi chọn lựa từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau đớn, khổ nhục. Đó là chọn lựa tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Đã biết từ bỏ cái tầm thường để lựa chọn điều cao quý. Đã biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh cửu. Đã biết từ bỏ những giá trị tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị tuyệt đối.
Cuộc sống hôm nay cũng đặt chúng ta trước nhiều lựa chọn. Để sống đúng lương tâm công giáo, ta phải chối từ những mối lợi bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối những hưởng thụ ngọt ngào. Để thực hành luật yêu thương tha thứ, ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để chọn Chúa, ta phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến lòng ta đau đớn như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt cuộc đời. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến ta rơi lệ. Những dòng lệ đau đớn xót xa. Đó thực là những cuộc tử đạo. Cuộc tử đạo không thấy máu. Vì máu chỉ rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử đạo không thấy lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ đau đớn nhức nhối lắm. Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế phải có ơn khôn ngoan của Chúa. Để lựa chọn như thế cần phải có ơn sức mạnh của Chúa. Nhưng có lựa chọn như thế ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là con cháu các thánh anh hùng tử đạo. Chính những lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống đích thực.
Chính những lựa chọn đó đưa ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao Chúa bảo ta phải từ bỏ mình? Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển?
2- Các thánh tử đạo đã theo Chúa cho đến cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng chịu khổ hình, vác thánh giá và chịu chết không?
3- Thời nay không còn cấm đạo, không còn giết người có đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống đạo dễ hơn xưa không?
5. Con đường hạt lúa – TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Ga 12, 20-32
Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ đức tin của mình.
Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.
Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.
Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều gì?
2- Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội Việt Nam.
3- Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?
6. Chứng nhân tình yêu -- TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt Nam.
Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.
Tình yêu Thiên Chúa.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam có lòng tin mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền tình yêu đó.
Tình yêu của các ngài là tình yêu hy sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đình. Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu Chúa.
Tình yêu của các ngài là tình yêu chung thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh Phao-lô: Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giêsu, Chúa chúng ta (Rm 8,35-39).
Tình yêu của các ngài là tình yêu cao quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).
Tình yêu cuộc sống.
Các ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hy sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng.
Tình yêu nhân loại.
Cái chết của các ngài minh chứng một tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình. Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất là không có vị nào thù ghét các lý hình.
Tình yêu của các ngài phát xuất từ tình yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).
Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta không có hy vọng được phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt Nam làm chứng cho đạo Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Có lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy sống vì đạo.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin chúc lành cho quê hương và Giáo Hội Việt Nam. Amen.
7. Sống chứng nhân tin mừng -- TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:
- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam, không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.
- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các Thánh Việt Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
- Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.
Là người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những giá trị, biến chất con người.
Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và Luật Chúa.
Quả thực xã hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
8. Làm chứng -- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn thể Các Thánh Tử Đạo Việt nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm. lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tực năm này qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ là tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt nam chúng ta, tuy nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày 19-6-1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người Công Giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin mừng giữa lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác dòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ "tử đạo" có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Người ta thường nói: "ăn quả nhớ kẻ trồng cây" hay "uống nước nhớ nguồn". Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của những giòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quý báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết của giòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quý để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta?
Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái gì cao quý vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp thụ tinh thần Nho giáo, các ngài đặt chữ "trung" lên trên hết. Không những trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua trên các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao...Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỷ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Ki-tô là đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của các ngài.
Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả. là Ki-tô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
9. Chứng nhân anh dũng -- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
I. LỄ KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.
Hôm nay toàn thể Giáo hội Công giáo Việt nam long trọng mừng kính các Thánh Tử đạo tại Việt nam, một ngày lễ đem lại niềm vui và một hào khí thúc đẩy người tín hữu Việt nam theo gương các thánh mà làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Theo sử liệu, hạt giống đức tin đã được gieo rắc trên quê hương đất nước chúng ta với sự hiện diện của một thừa sai là giáo sĩ Inikhu vào năm 1533. Công cuộc truyền giáo mới ở trong giai đoạn khởi đầu mà đã bị thử thách nặng nề với cái chết vì đạo của chân phước Anrê Phú yên vào năm 1544. Từ đây Giáo hội Việt nam phải trải qua nhiều thời kỳ chịu bách hại, có lúc đẫm máu, qua các thời đại các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đặc biệt với nhóm Văn Thân.
Nhà cầm quyền thời đó đã dùng mọi hình phạt dã man để khủng bố tinh thần các thánh Tử đạo Việt nam, nhưng các Ngài đã anh dũng chịu đựng vì Chúa. Không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của Chúa. Chúng ta hãy xem một số hình phạt man rợ và bất công đó:
- Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có một vị.
- Lăng trì: chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.
- Thiêu sinh: bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.
- Xử trảm: bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.
- Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.
- Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị.
Cũng nên biết qua về kế họach PHÂN SÁP của vua Tự Đức, một kế họach quá sâu độc!
Nhưng cũng để cho chúng ta biết rằng trong mọi biến cố lúc nào cũng có bàn tay quan phòng của Chúa, sự khôn ngoan của lòai người chỉ là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa.
Kế họach Phân Sáp được Vua Tự Đức cho thi hành vào năm 1851 và 1856.
Do sự thi hành kế họach Phân Sáp này mà gần 400.000 giáo dân phải bị đi phân sáp, trong đó có từ 50.000 đến 60.000 giáo dân phải chết nơi phân sáp, 100 làng công giáo bị tàn phá bình địa, 2000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 15 Linh mục Việt nam và 10 giáo sĩ ngọai quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác, 100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì Đạo.
Kế họach phân sáp gồm bốn mặt:
- Mặt thứ nhất, không cho người công giáo ở trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương.
- Mặt thứ hai, mỗi người công giáo phải bị năm người lương canh giữ cẩn mật.
- Mặt thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy, của cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người này sử dụng và nộp thuế lại cho Nhà Nước.
- Mặt thứ bốn, không cho người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người công gíao thì phải để cho gia đình người lương nuôi.
Đây là một kế họach rất sâu độc, nhằm tiêu diệt Giáo hội Việt nam tận gốc rễ. Nhưng bàn tay Chúa dẫn đưa lạ lùng: các triều đại nhà Nguyễn không còn nữa, mà Giáo hội Việt nam, hiện nay, vẫn còn lớn mạnh và phát triển không ngừng (Theo Internet).
Có nhiều lý do dẫn đến cảnh bách hại: vì ghen tương đố kỵ, hiểu lầm hay do những nguyên nhân chính trị. Trong vòng 300 năm, Hội thánh Việt nam đã dâng cho Chúa một số chứng nhân anh dũng, đã nhận lấy cái chết để làm chứng và tỏ lòng trung thành với Chúa Kitô. Con số thực sự của các tử đạo tại Việt nam cũng không có được thống kê chính xác, chỉ biết rằng con số này rất đông, từ 100.000 đến 130.000 người. Các tử đạo tại Việt nam cũng rất đa dạng, gồm đủ mọi thành phần trong dân Chúa và ngành nghề xã hội: các Giám mục, Linh mục, Linh mục thừa sai Pháp và Tây ban nha, bên cạnh các Linh mục là chủng sinh, thầy giảng và giáo dân, có những cụ già và thanh niên, binh lính, thầy thuốc, quan chức....
Giáo hội Việt nam tuy còn non nớt, còn đang trên đà truyền giáo, nhưng ngày 19.06.1988 Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh 117 chứng nhân anh dũng và đưa vào niên lịch chung để mừng kính trong toàn thể Giáo hội vào ngày 24 tháng 11 hằng năm , cũng là ngày kỷ niệm thành lập hàng giáo phẩm tại Việt nam vào năm 1960.
II. Ý NGHĨA VIỆC TỬ ĐẠO.
Xưa nay có lẽ chúng ta đã quen đi với cách thức phân biệt các thánh tử đạo với các thánh giáo phụ, hiển tu, đồng trinh vv... Nhưng chúng ta quên rằng thánh nào cũng là thánh, và thánh nhân Kitô giáo nào cũng trước tiên phải là chứng nhân của Tin mừng, hay nói cách khác, chứng nhân của Chúa Kitô, chỉ khác nhau cách thức làm chứng mà thôi.
Sự thực là buổi sơ khai của Giáo hội công giáo trước tiên những tín hữu chết vì đạo được tôn vinh là thánh và Giáo hội dùng một từ Hy lạp là Martus, Marturos (rồi La tinh Martyr, Martyris và từ Pháp là Martyr) để chỉ những tín hữu được tôn vinh này. Martus, Martyr có nghĩa là người chứng, người làm chứng. Vì vậy, đối với Giáo hội công giáo, thì từ Martyr này nguyên thủy được áp dụng cho tất cả các thánh, do đó mà sổ các thánh được gọi là Martyrologie.
Vậy thì vị tử đạo, trước tiên phải là chứng nhân của Chúa Kitô, như mọi chứng nhân khác, trên bình diện đời sống. Cái chết “vì đạo” của người tử đạo chỉ là một cách thức làm chứng mà thôi, chứ không phải làm thay đổi bản chất người chứng của Chúa Kitô.
(Lm Thiện Cẩm, Cg và Dt, Giáng sinh 1997, tr 310-311)
Nếu tử đạo do tiếng Martyr là nhân chứng thì ngay cộng đồng Do thái đã có những vị tử đạo, nhất là thời Maccabê. Sách Maccabê, đặc biệt bài đọc I hôm nay, đã kể lại nhiều vị anh hùng can trường làm chứng cho đức tin mặc dù phải chịu nhiều cực hình và có khi phải chết. Còn cách xử dụng thông thường của Cựu truyền Công giáo thì danh từ Tử đạo áp dụng cho nhân chứng nào đã lấy máu mình, đã hiến mạng sống mình để trung thành làm chứng cho sứ mạng, cho chân lý.
Theo nghĩa này thì Đức Kitô chính là một vị tử đạo đích thực. Và chỉ duy có Ngài mới xứng đáng danh hiệu đáng kính này. Trong cuộc sống của Ngài tại trần thế và nhất là trong cái chết đẫm máu của Ngài trên thập giá, Ngài đã làm chứng hùng hồn về lòng trung thành của Ngài đối với sứ mạng Cha Ngài giao phó. Ngài không những đã biết trước cái chết mà Ngài còn tự ý chấp nhận như một tác động tôn kính hoàn hảo nhất mà Ngài đã thực hiện để tôn kính Cha Ngài. Và khi Ngài bị kết án, Ngài đã tuyên bố: ”Ta đến trong trần gian này để làm chứng cho sự thật”. Như thế chúng ta đủ hiểu cuộc sống Ngài tại thế và cái chết của Ngài chính là những tác động mang ý nghĩa tử đạo: đó là hiến mạng sống để trung thành làm chứng cho sứ mạng Cha Ngài trao phó và làm chứng cho sự thật.
Kinh nghiệm cho biết Giáo hội của Chúa bao giờ cũng được khai sinh và phát triển bằng đau khổ và tử đạo. Thật vậy, chính Chúa Kitô là vị tử đạo đầu tiên, đã khai sinh Giáo hội bằng cái chết đau thương trên thập giá. Chúa phán: ”Khi nào Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự về với Ta”(Ga 12,22). Từ ngày đó, Giáo hội nhiệm thể Chúa Kitô cũng phải đổ máu làm chứng về Chúa để mọi người được ơn cứu chuộc. Giáo hội sơ khai đã có cuộc tử đạo của thánh Stêphanô. Giáo hội Roma với bao thánh tử đạo dưới thời hoàng đế Néron nay vẫn còn di tích lưu truyền.
Hoàng đế Julius, người ngược đãi Kitô giáo vào thế kỷ thứ 4, đã phải thốt lên: ”Các ngươi đắp xác của nhiều người mới chết lên một cái xác đã chết (Chúa Giêsu), các ngươi làm đầy thế giới này bằng quan tài và mồ mả”.
Cuối cùng, nhiều Giáo hội đã được dựng lên trên mồ của các thánh Tử đạo, đền thờ thánh Phêrô ở Vatican là một thí dụ, và các nghĩa địa đã biến thành các thành phố bởi vì “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu” (Tertullianô).
Tại sao người ta dám tử đạo, dám làm chứng cho Tin mừng, dám làm chứng cho Chúa? Thưa vì người ta qúi sự sống đời đời. Người ta cho phần rỗi linh hồn là quí hoá và không gì có thể đổi lấy được vì: ”Được lợi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì” (Mc 8,36).
Truyện: Xin mua được một linh hồn.
Thế kỷ 19, khi cơn cấm đạo nổi mạnh trên tỉnh Thanh hoá, một hôm, người ta dẫn đến trước mặt quan án một thiếu niên 17 tuổi – tên là MỚI – Thấy mặt mũi khôi ngô tuấn tú, quan động lòng thương.
- MỚI - quan nói – con cứ đạp thánh giá đi, rồi ta sẽ ban thưởng một nén bạc.
- Bẩm quan lớn, một nén bạc chưa là gì.
- Được, ta sẽ ban một nén vàng. Con hãy đạp Thánh giá đi.
- Ồ, bẩm quan lớn, một nén vàng cũng vẫn còn ít quá.
- Sao? quan sửng sốt, quát: Thế còn chưa đủ ư? Vậy mày muốn bao nhiêu?
- Bẩm, nếu quan lớn muốn tôi đạp Thánh giá, thì xin quan lớn hãy cho tôi cái gì có thể mua được một linh hồn khác đã...
Và người thiếu niên bình tĩnh bước vào pháp trường, vẻ anh dũng tươi cười.
III. VIỆC TỬ ĐẠO NGÀY NAY.
1. Theo công đồng Vatican II.
Trong hiến chế Lumen gentium, công đồng chỉ dùng chữ Tử đạo 6 lần và theo một ý nghĩa riêng biệt, với chiều kích rộng lớn phổ quát, tuy vẫn qui chiếu vào ý niệm tử đạo có từ trước. Theo công đồng, “Tử đạo là được đồng hoá với Thầy mình, sẵn sàng chết để cứu độ trần gian, và cũng như Thầy, đổ máu đào ra để làm chứng cho việc đó. Hội thánh coi tử đạo là ơn cao cả, là bằng chứng tột đỉnh về đức tin. Chẳng mấy ai được phúc này, nhưng ai ai cũng phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô trước mặt thế gian, và theo Người trên con đuờng thập giá, giữa những cơn bắt bớ thường xẩy ra cho Hột thánh” (LG. số 42).
Một số nhà thần học ngày nay cũng có những suy nghĩ và gợi ý như cha Karl Rahner trong cuốn Excursus sur le martyr:
”Tử đạo đơn thuần là cái chết của người Kitô hữu. Tử đạo là một phần cốt yếu của Hội thánh. Thật ra, Hội thánh không nguyên làm chứng cho Đức Kitô bị đóng đinh mà còn làm chứng cho Lời mình sống thành hiện thực nữa. Hội thánh sống cái chết của Chúa Kitô trong hết mọi người, mang thập giá của Đức Kitô ở giữa bóng tối của thế gian và mang dấu thánh của Đức Kitô, những dấu ấn bí ẩn trong đời thường mỗi ngày. Hội thánh phải là dấu hiệu thiêng thánh về thực tại thầm kín này, trong thế giới ngày nay. Hội thánh ở trong tình trạng tử đạo. Ở đây, Hội thánh tự tạo cho mình một hình thức rõ ràng nhất, trong sáng nhất, một mạc khải tồn tại cho đến cùng”.
Cha Urs von Balthasar, nhà thần học, cũng nói giống như vậy, khi nhấn mạnh rằng tình trạng bách hại là tình trạng thông thường của Hội thánh trong thế gian và tử đạo là trạng thái bình thường của lời chứng Kiyô giáo.
Etienne Barbarin cũng theo một dòng tư tưởng, khi trình bầy việc tử đạo là cách thế thực hiện hoàn hảo nhất lời chứng, vì cái chết tuy được chuẩn bị bằng cả đời sống, nhưng đã bắt đầu và thực hiện trong mỗi lựa chọn hằng ngày.
2. Tư tưởng chung thời nay.
Nếu như các nhà thần học nói: ”Hội thánh luôn ở trong tình trạng tử đạo”. Ta phải hiểu như thế nào? Phải chăng Hội thánh lúc nào cũng phải chịu bắt bớ, bị đoạ đầy? Chắc không phải thế. Cần phải hiểu chữ “Tử đạo” theo nghĩa rộng hơn.
Ta đặt câu hỏi: bậc đồng trinh và đời đan tu có thể thay thế cho tử đạo không?
Ngay từ xưa, người ta đã tìm những cách thế biểu hiện việc tử đạo. Những cách thế này xoay quanh những việc đời có thể diễn tả sự hy sinh chính mình, và đức tin hoàn hảo, do đấy có thể được coi như một sự sửa soạn chịu tử đạo hay có liên quan đến tử đạo. Vì thế bậc đồng trinh và đời đan tu vẫn được coi là những con đường gần nhất với tử đạo. Các trinh nữ và các đan nữ xuất hiện vào thời cấm đạo hồi xưa, dưới mắt mọi người, vẫn là những vị kế thừa các anh hùng tử đạo.
Từ đó nảy sinh ra ba mẫu tử đạo:
* Tử đạo đỏ: là đổ máu ra chịu chết vì Chúa.
* Tử đạo trắng: sống đời hãm mình trinh tiết.
* Tử đạo xanh: chịu đọa đầy, để làm chứng cho đạo ở một nơi không phải là quê hương xứ sở mình.
Chính thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã nói thẳng thắn rằng: ”Tôi cảm thấy tôi có ơn gọi làm chiến binh, tông đồ, tiến sĩ và tử đạo. Tử đạo là giấc mơ trong tuổi trẻ của tôi. Và giấc mơ ấy đã trở thành mãnh liệt, khi tôi ở trong bốn bức tường của Nhà Kín. Nhưng tôi cảm thấy rằng giấc mơ đó là một sự điên rồ và vì thế tôi đã hiểu tình yêu qui tụ mọi ơn gọi của tôi. Vâng, cuối cùng tôi đã khám phá ra ơn gọi của tôi: ơn gọi của tôi là yêu mến” (Tự thuật).
Mọi người đều qúi trọng sự sống, dù chỉ là cuộc sống vắn vỏi phù du. Các tử đạo không những coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, mà còn lấy cái chết như ngưỡng cửa phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh hằng. Các ngài cho ta cái cảm giác như là các ngài “chạm vào cõi vô hình”. Các ngài đã thể hiện và chứng minh câu nói của Chúa: ”Ai bám vào sự sống đời này, sẽ mất cuộc sống mai sau...”(x. Mc 8,35). Và như thánh Phaolô nói: ”Bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực luôn vui vẻ” (2Cr 6,9-10).
Truyện: chết theo lệnh vua.
Trên bước đường viễn chinh, đại đế Alexandre đã cho quân vây hãm kinh đô của một vương quốc vùng Tiểu Á. Thay vì cho quân tấn công hạ thành, đại đế Alexandre đã thúc ngựa đến ngay trước cổng thành và đòi gặp mặt vua đối phương.
Nhà vua leo lên lũy thành, nhìn xuống đòan quân đang vây hãm và hỏi Alexandre:
- Nhà ngươi muốn gì?
- Ta muốn nhà vua đầu hàng.
- Đầu hàng? Tường ta cao, hào ta sâu, quân ta đông hơn, tại sao ta lại phải đầu hàng nhà ngươi?
- Nhà ngươi hãy xem cho rõ.
Thế rồi Alexandre ra lệnh binh sĩ dàn trận. Thay vì tấn công hạ thành, ông ra lệnh cho họ tiến bước về hướng vực thẳm ngòai thành.
Tò mò, quân sĩ trong thành cũng leo cả lên tường thành để xem cuộc “diễn binh” của Alexandre.
Đòan quân của Alexandre cứ từ từ tiến bước đến bờ vực thẳm. Hiên ngang, anh dũng, họ tiến tới bờ vực thẳm. Một người bước vào khỏang không, rơi xuống vực thẳm, thịt nát xương tan. Người thứ hai vẫn can đảm tiếp bước, rơi xuống vực sâu, chết theo. Từng người, từng người theo nhau đi vào cái chết một cách bình thản, anh hùng. Sau cái chết anh hùng của binh sĩ thứ mười, Alexandre hạ lệnh dừng bước.
Sững sờ kinh ngạc trước tinh thần của binh sĩ Alexandre, lòng trung tín họ dành cho Alexandre, biết coi nhẹ cái chết tựa lông hồng, nhà vua và tòan quân trong thành mở cửa qui hàng.
Chúng ta cũng đang thừa hưởng chiến công của những người lính anh hùng như thế của Đức Kitô, Vua vũ trụ. Chính các thánh Tử đạo Việt nam đã góp phần xây dựng Giáo hội Việt nam bằng lòng trung tín các Ngài đã dành cho Chúa Kitô, bằng gương anh dũng xem nhẹ cái chết dâng hiến mạng sống mình cho Chúa? Và chúng ta sẽ phải sống thế nào để theo gương các ngài?
Là con cháu các Thánh Tử đạo Việt nam, chúng ta hôm nay cũng phải đương đầu với những khó khăn thử thách, có lẽ không đồng loại với những khó khăn thử thách của các Ngài, bởi vì ngày nay hầu như chẳng còn ai cấm đạo theo lối vua chúa quan quyền nước ta thời trước. Trong thế giới chúng ta ngày nay, không chỉ có Kitô giáo, mà hầu hết các tôn giáo khác, kể cả những người không tín ngưỡng cũng đang phải đối diện với một thứ “Tôn giáo kinh tế”, trong đó người ta thờ thần Mammon, Thần Tài. Nhiều người chỉ biết cắm đầu chạy theo tiền tài, không còn biết ý nghĩa của cuộc sống nữa. Họ chỉ biết vùi đầu trong những thú vui thấp hèn, chỉ biết sống để hưởng thụ, sống vội sống vàng để rồi ngày mai chết sẽ ra cõi tha ma.
Lễ kính các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay khiến chúng ta kính phục các thánh vì các Ngài đã mởi trí mở lòng cho ta để chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả.
Năm 1980 tại câu lạc bộ của những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một cuộc nói chuyện và người được mời nói chuyện là một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên ăn nói cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác.
Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giầu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu như sau: ”Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận: ”Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”.
Không biết cử toạ của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo: các Ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các Ngài thì dám bỏ tất cả những gì qúi nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
Giáo hội Việt nam là một gia sản quí báu mà cha ông đã để lại cho chúng ta bằng giá máu của các ngài, để ngày nay chúng ta có ba Giáo tỉnh gồm 25 giáo phận , với hàng giáo phẩm được thiết lập chính thức vào năm 1960 để coi sóc gần 7 triệu tín hữu. Chúng ta phải bảo vệ và xây dựng di sản ấy như các em thiếu nhi thường hát khi sinh họat:
Cái nhà là nhà của ta,
Ông cố ông cha lập ra
Cháu con ta gìn giữ lấy
Muôn năm với nước non nhà.
Nếu chúng ta biết bảo vệ và xây dựng Giáo hội Việt nam cho tốt thì chúng ta được các ngài khen là: ”Con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ”(Tục ngữ). Nếu chúng ta không cố gắng và làm phát huy ra vẻ đẹp mà cha ông chúng ta đã xây dựng bằng xương máu thì các ngài sẽ phải phàn nàn về thế hệ con cháu: ”Đời cha vo tròn, đời con bóp méo”(Tục ngữ)
Ngày lễ các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay thôi thúc chúng ta hãy theo gương các Ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày. Nếu ngày nay chúng ta không phải trải qua “tử đạo đỏ” thì chúng ta có thể chấp nhận “tử đạo trắng hoặc xanh”.
Hãy thực hiện lời Chúa dạy chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay: ”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”(Lc 9,23). Theo Chúa là phải từ bỏ mình, chấp nhận mọi gian nan khốn khó, vâng theo thánh ý Chúa, sống trọn cuộc sống Kitô hữu để làm chứng cho Chúa. Đó là chúng ta đang trải qua cuộc tử đạo tuy âm thầm nhưng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng trường kỳ. Nếu không phải đổ máu ra mà làm chứng cho Chúa thì chúng ta có thể làm chứng theo lời nói của thánh nữ Têrêsa Hài đồng: ”Ơn gọi tôi ở trong Giáo hội là yêu mến”.
10. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.
Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.
Các thánh tử đạo là những người dám chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng dòn.
Đời sống trong sáng đáng quý như châu ngọc
Bài đọc thứ nhất trong sách Maccabêô quyển thứ hai, thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành thịt mà luật cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ tương lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.
Thái độ sống của Êlêazarô rất trong sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình yêu và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là những người sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành; tuy vậy các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người và những người thân.
Cái chết của các ngài, làm rạng danh gia tộc, giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên người con ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài chết thì đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử đạo, lời dạy không bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành động hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.
Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
Bài đọc thứ hai trong thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?
Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến độ không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên Chúa giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản thân con người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây chính Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu Kitô”. Không ai, cho dù đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.
Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi, nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”. “Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù “kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì”. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.
Vác thập giá hằng ngày mà theo Ta
Đức Yêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: “ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo Đức Yêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.
“Được lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tại sao các vị tử đạo dám chết? Những người thân của họ được gì?
2. Có người nói: “sống tốt cuộc sống này, đã là tử đạo rồi”. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
3. Để giúp nhau hiểu thêm về lịch sử Giáo Hội Việt Nam và gương anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo Việt Nam!
11. Những Đấng Bậc Anh Hùng -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Không kể 117 vị tử đạo tại Việt Nam được phong thánh năm 1988 và Anrê Phú Yên được phong chân phước năm 1999, còn hơn một trăm ngàn vị đã anh dũng dâng hiến đời mình, chấp nhận cái chết để làm chứng lòng trung thành và gắn bó với Đức Yêsu, Đấng yêu thương con người dầu phải chết.
Họ là ai?
Họ là những người cha người mẹ, họ là những người con, họ là những người chồng người vợ, họ là thanh niên thanh nữ, là tráng niên, là bô lão, là chủng sinh, là binh sĩ, là quan là dân, là dì phước là linh mục. Họ là những bậc tiền bối của dân con Việt Nam hiện nay. Họ là những người “dường như” không sợ chết. Họ chấp nhận gông cùm tra tấn, chấp nhận đòn vọt, đói khát, nắng mưa, bệnh tật, và sẵn sàng chấp nhận cái chết.
Họ là ai? Phải chăng họ là những người điên nên không sợ chết? Phải chăng họ là những người không còn biết trách nhiệm làm chồng làm cha làm con làm mẹ làm vợ làm dâu? Phải chăng họ không biết trách nhiệm với vợ dại con thơ? Phải chăng họ không còn ý thức bổn phận làm con phải sống để báo hiếu cha mẹ già yếu cần nương nhờ nơi họ? Phải chăng họ không còn rung động trước tình cảm bao người thân dành cho họ, mà “ngoan cố” không chịu bỏ đạo để phải chết?
Không! Họ là những người cha người chồng người vợ, vô cùng thương con thương vợ thương chồng. Họ là những người con rất có hiếu và rất ao ước được sống để phụng dưỡng báo hiếu cha già mẹ yếu. Họ là những người thông minh có thể làm quan, là những “anh hùng” sẵn sàng hiến mạng cho quê hương tổ quốc. Họ là những người bình thường chứ không phải là những người điên, họ rất nặng “tình người” chứ không phải là những người “vô cảm”. Họ chết vì người ta muốn giết họ, chứ không phải tự họ muốn chết; tuy vậy họ sẵn sàng đón nhận cái chết chứ không thể chối bỏ Thiên Chúa.
Tại sao họ kiên cường và anh dũng như vậy?
Họ là những người rất bình thường, nhưng Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng manh.
Ai không sợ chết? Ai không sợ đòn vọt, tù đầy, gông cùm xiềng xích? Nhưng những bậc tử đạo “dường như” không sợ, vì có một giá trị nào đó cao hơn, một cái gì đó quý hơn mà cho dù tình yêu gia đình, cha mẹ, vợ con, và ngay cả mạng sống cũng không đánh đổi được. Với họ, Thiên Chúa là nhất, Thiên Chúa trên tất cả, trên tình yêu gia đình, trên tương quan ruột thịt, và trên cả mạng sống mình.
Qua các bậc anh hùng tử đạo, người ta đọc thấy không phải “con người” anh hùng, nhưng chính “Thiên Chúa” đang thực hiện những điều kỳ diệu nơi những con người đơn sơ mong manh chất phác, làm họ như những “bức tường bằng sắt, như những bức vách bằng đồng” và kiên vững không gì khuất phục được. Người ta có thể hủy diệt mạng sống các ngài, có thể giết các ngài, có thể nghiền nát xương thịt các ngài, nhưng không thể bắt các ngài làm theo ý họ. Thiên Chúa vô hình đang hiện diện qua thực tại hữu hình. Thiên Chúa hiện diện đó, rất rõ, dù người ta không nhìn thấy Ngài bằng mắt trần.
Sống cho đúng là con cháu của những bậc anh hùng
Chúng ta là con dân đất Việt, là con cháu của các đấng bậc anh hùng. Phải sống sao để “con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh”. Xin cho chúng ta có tình yêu đối với Thiên Chúa, đối với Đức Yêsu, và sẵn sàng hy sinh tất cả vì Thiên Chúa.
Ngày nay người ta không còn nhiều dịp để “tử đạo” như ngày xưa, nhưng ngày nay người ta vẫn còn phải chọn giữa Thiên Chúa và tiền bạc danh vọng chức quyền; người ta vẫn phải chọn ưu tiên tương quan với Chúa trên những tương quan khác v.v..Ngày xưa phải đổ máu để sống đúng, để làm chứng; ngày nay không còn dịp đổ máu thể lý, nhưng để sống đúng như những người con của Thiên Chúa, người ta vẫn phải đổ máu “vô hình”, vẫn phải hy sinh, phải chết “chính con người của mình” thì mới có thể sống trọn vẹn cho Thiên Chúa được.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
(Nên hát “Đây bài ca ngàn trùng” trước khi chia sẻ)
1. “Ngày nay tử đạo không đổ máu”, bạn hiểu sao về câu này?
2. Với bạn, đâu là khó khăn nhất của đời sống kitô-hữu (đòi bạn phải hy sinh)?
3. Bạn biết gì về các thánh hoặc chân phước tử đạo Việt Nam? (Kể tiểu sử một vị, hoặc điểm nào đó mà bạn thán phục của một trong các vị mà bạn biết).
12. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam – Lc. 9, 23-26 -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Tử đạo, là từ ngữ dịch của chữ , (martus, martureô), có nghĩa là chứng nhân, làm chứng. Các vị tử đạo là những chứng nhân, những người đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho điều mình tin, điều mình biết và nói. Trong cuộc sống, người ta có thể chỉ trời chỉ đất để thề điều người ta nói là sự thật; nhưng lời chứng đáng tin nhất là lời chứng của kẻ dám lấy chính mạng sống của mình làm bảo đảm.
I. Hiện hữu một Thiên Chúa tình yêu
Các vị tử đạo làm chứng cho điều gì? Các vị tử đạo Việt Nam là những người bị buộc phải bỏ đạo nếu không họ sẽ bị tra tấn và bị giết. Những người muốn các ngài bỏ đạo không có cùng niềm tin với các ngài; những người này không biết như các ngài đã biết. Không chắc rằng những người có quyền thế này không tin có một Đấng tối cao vượt trên tất cả mà tất cả mọi loài phải kính tôn thờ phượng. Có lẽ những người có quyền thế này hiểu lầm, cho rằng các ngài là những người không tốt, cho rằng các ngài bị mê hoặc để tin theo một tôn giáo dạy điều xằng bậy, hoặc một tổ chức gây phương hại đến sự tồn vong của đất nước.
Khi trung thành với chính mình, trung thành với đức tin, trung thành với Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ, các vị tử đạo cho tất cả mọi người, kể cả những người bắt bớ các ngài thấy rằng, có một điều gì quý trọng hơn cả mạng sống. Có một thực tại nào đó mà các ngài sẵn sàng chết vì thực tại đó, có một Đấng nào đó mà các ngài đã cảm nghiệm, đã biết một cách thâm sâu và có tương quan thân thiết; vì nếu không như vậy thì tại sao các ngài đã dám bỏ cả mạng sống mình, bỏ tất cả kể cả những người thân yêu vì Đấng đó!
Đành rằng có nhiều người chết vì ý thức hệ, nhưng những người chết vì đạo là những người chết cho tình yêu, không thù hận những người giết hại mình, ngược lại, các ngài là những kẻ cầu nguyện và muốn điều tốt lành cho mọi người, ngay cả những kẻ hãm hại mình. Chính tương quan với Đấng Siêu Việt đã làm các ngài có cách cư xử khác với những người chết vì ý thức hệ hay tham vọng trần gian. Các vị tử đạo làm chứng hiện hữu một Đấng Thiên Chúa yêu thương, và các ngài sẵn sàng đánh đổi tất cả để được chia sẻ sự sống với Người. Thiên Chúa đang mời gọi các ngài bước lên, chấp nhận tất cả vì tình yêu, vì sự thật, vì Thiên Chúa tình yêu.
II. Niềm vui và bình an của các chứng nhân anh dũng
Các chứng nhân đã dám hy sinh chính mạng sống để sống trung thực với chính mình, và qua đó cho con người của mọi thời đại thấy rằng, có một điều gì đó siêu vượt và đặc biệt, đã làm các ngài dám hiến chính mạng sống mình. Đã là người, ai không sợ đau đớn và gian khổ, ai không sợ chết, ai không muốn được sống gần những người thân yêu của mình, nhưng các ngài đã vượt lên trên những gì tự nhiên đó, các ngài đã chấp nhận bị hành hạ và ngay cả cái chết. Nơi các ngài, người ta còn nhận ra có một sự an bình nào đó mà những người ghét các ngài không thể làm mất được.
Đứng trước các ngài, những người quyền thế hành hạ các ngài vẫn như là những kẻ thua cuộc. Trước một phụ nữ chân yếu tay mềm như thánh Anê Lê Thị Thành, các quan quyền với những tra tấn vẫn không thể thắng được bà. Qua bà, người ta nhận thấy một sức mạnh siêu vời tiềm ẩn mà thế gian không thể thắng được. Người ta có thể lấy mạng sống của bà, nhưng người ta vẫn là kẻ thua. Những người bị giết chết lại là những người bất khả bại. Dưới một khía cạnh nào đó, tra tấn hành hạ và ngay cả giết người, là dấu chỉ bất lực của sự dữ và những người theo sự dữ.
Giữa những đau đớn của thân xác mà con người không thể tránh được, người ta vẫn nhận ra nơi các chứng nhân tử đạo một niềm tin niềm vui và một sức mạnh vô hình. Ngay lúc chết, các chứng nhân mục kích tường thuật, các ngài vẫn luôn kêu tên Yêsu, điều này cho thấy tình yêu của các ngài đối với một Đấng đặc biệt, Đấng mà vì Ngài mà các chứng nhân tử đạo đã dám hiến chính mạng sống, và sẵn sàng mất tất cả vì Ngài. Niềm vui, bình an và khao khát siêu nhiên đã làm các ngài chiến thắng tất cả. Ngay cả giữa những đau khổ thể xác, các ngài vẫn cho thấy có niềm tin niềm vui và hy vọng tràn ngập lòng các ngài.
III. Cuộc chiến vẫn tồn tại mỗi ngày nơi mỗi người
Ngày nay không còn nhiều những cơ hội thách đố tín hữu phải chết vì đức tin, nhưng con người của mọi thời đại đều phải đối diện với những cám dỗ hướng về những thực tại trần thế, khuynh chiều chỉ muốn sống riêng cho mình bằng cách thỏa mãn quyền lợi và ham muốn thể xác. Con người phải chọn lựa sống tốt lành hay vi phạm quyền lợi và nhân phẩm của người khác, chọn tôn trọng tha nhân hay thỏa mãn xu hướng ích kỷ của mình.
Ngày nay, thân xác và những khuynh chiều của thân xác vẫn luôn hiện diện với con người: bao nhiêu người đã chọn vật chất trần gian như tiền bạc danh vọng, bao nhiêu người đã chọn đề cao chính mình và những quyền lợi của họ cho dù chà đạp nhân phẩm. Ngày nay, con người vẫn được mời gọi để vươn lên từng ngày: con người được mời gọi tôn trọng phẩm giá của tha nhân cũng như của chính mình; con người được mời gọi tôn trọng quyền lợi của tha nhân được diễn tả qua việc tôn trọng công bình; con người được mời gọi sống ơn gọi làm người, ơn gọi yêu thương tha nhân như chính mình, và hơn nữa, yêu thương tha nhân như chính Đức Yêsu đã yêu thương.
Vượt qua chính mình với những khuynh chiều của thể xác, là một hành vi cao thượng. Con người phải chết mỗi ngày cho những khuynh chiều vật chất nơi mình. Làm như vậy, con người cũng trở thành chứng nhân “tử đạo”: làm chứng có một đời sống mai hậu, hiện hữu một Tuyệt Đối đằng sau những thực tại hữu hình mau qua này. Con người được mời gọi làm cho thế giới này tươi đẹp hơn bằng những hành vi yêu thương tha nhân đồng loại. Kitô hữu Việt Nam hôm nay được mời gọi sống sao cho xứng với các bậc cha anh, những người đã hiến thân làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tự hào vì là người Việt Nam không? Tại sao có? Tại sao không? (Một số người trẻ Việt Nam sinh tại ngoại quốc có mặc cảm tự ti vì là người Việt Nam. Chỉ có một số thôi, không phải tất cả!).
2. Bạn có tự hào về các bậc cha anh tử đạo không? Bạn tự hào vì điểm gì?
13. Dũng cảm làm chứng cho Chúa -- Lm. Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33).
2. CÂU CHUYỆN: Cuộc tử đạo của Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc
Trần An Dũng Lạc sinh năm 1795, gia đình ngoại giáo nghèo khó ở Bắc Ninh. Lớn lên, cậu theo cha mẹ đến xứ Kẻ Chợ sinh sống. Tại đây, cậu được một Thầy giảng nhận làm con nuôi và cho ăn học. Cậu được chịu phép rửa tội và nhận tên thánh là AN-RÊ. Sau đó cậu đáp lại ơn gọi dâng mình cho Chúa và theo học tại chủng viện Vĩnh Trị. Thầy AN-RÊ Dũng được thụ phong linh mục vào năm 1823 khi mới có 28 tuổi. Từ khi thụ phong linh mục, cha AN-RÊ được sai đi giúp xứ. Ở đâu cha cũng nêu gương sáng đạo đức qua cuộc sống khổ hạnh. Ngoài những ngày ăn chay theo luật định, Cha còn tự nguyện giữ chay thêm suốt cả Mùa Chay và các ngày thứ Sáu thứ Bảy hàng tuần. Nhờ đời sống đơn sơ khiêm hạ và khắc khổ như vậy, nên cha đã gây được thiện cảm của những người chung quanh và thành công trên bước đường tông đồ: Qua cha, nhiều tội nhân đã được ơn giao hòa với Chúa và nhiều người lương đã tin theo Chúa và xin gia nhập đạo Công giáo.
Trong thời gian đạo Công giáo bị bách hại gắt gao thời vua Minh Mạng, cha AN-RÊ Dũng đã phải trốn lánh nhiều nơi. Một lần kia ở Kẻ Roi, khi vừa dâng lễ xong thì bị quan quân vây bắt và được giáo dân chuộc về. Sau đó cha đã đổi tên Trần An Dũng thành Trần An Lạc. Lần thứ hai cha bị bắt ở xứ Kẻ Sông khi đang xưng tội với cha Phêrô Thi. Hai cha bị quan quân đòi tiền chuộc tới 200 quan tiền. Nhưng giáo dân chỉ quyên góp được một nửa số tiền nói trên, nên chỉ mình cha Lạc được thả. Rồi sau đó cha lại bị đám quân lính khác bắt mang về huyện giam chung với cha Phêrô Thi và cả hai được áp giải về Hà Nội.
Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường tra xét và bắt phải bước qua Thánh Giá để bày tỏ ý định bỏ đạo. Nhưng thay vì làm theo lệnh quan, hai cha lại cùng quì xuống hôn kính Thánh Giá và nói: “Không bao giờ chúng tôi chối Chúa và bỏ đạo cả. Chúng tôi đã suốt đời hy sinh vất vả đem Chúa đến cho người khác, thì lẽ nào bây giờ lại hèn nhát chối bỏ Chúa!”. Trước sự bất tuân của hai cha, quan tức giận sai lính đem nhốt các ngài vào ngục thất và làm thành án gửi về Kinh. Suốt thời gian ở trong tù, hai cha luôn cầu nguyện và ăn chay hãm mình, xin Chúa cho được ơn bền đỗ đến cùng. Tuy giáo dân được phép thăm nuôi hằng ngày, nhưng hai cha yêu cầu họ đừng đem đồ ăn ngon đến, và nếu bữa nào có thịt cá thì các ngài lại cho các bạn tù hoặc lính canh.
Ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai cha đã chính thức nghe án lệnh xử trảm của nhà vua. Rồi các ngài bị điệu ra pháp trường Cầu Giấy ở Hà Nội. Đến nơi, các ngài cầu nguyện ít phút, rồi cúi đầu cho lý hình dễ dàng thi hành phận sự. Đức Thánh Cha Lêô 13 đã tôn phong các ngài lên hàng Chân Phước tử đạo vào ngày 27 tháng 05 năm 1900. Và ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phaolô II đã suy tôn hai ngài lên bậc hiển thánh.
3. THẢO LUẬN:
1) Tại sao đạo Công giáo thường hay bị người đời thù ghét bách hại?
2) Tử đạo là sẵn sàng hy sinh chịu chết để làm chứng cho Chúa (x. Cv 1,8). Vậy các tín hữu chúng ta sẽ phải dũng cảm làm chứng cho Chúa thế nào trong xã hội Việt Nam hôm nay?
4. SUY NIỆM:
1) Số liệu các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam: Ngay từ thời Giáo Hội Sơ Khai, các tín hữu đã phải chịu chung số phận với Thầy Giê-su là bị cấm cách, bắt bớ và giết hại. Thời nào và nơi nào đạo được truyền tới cũng đều có các vị anh hùng tử đạo. Tại Việt Nam, theo sử liệu, đạo Chúa đã được truyền giảng từ thế kỷ thứ 16. Và suốt thời gian gần 300 năm sau đó, luôn bị đàn áp bách hại với những cảnh đầu rơi máu chảy! Sau Hội Thánh Rô-ma thì có lẽ Hội Thánh Việt Nam đã dâng cho Chúa được nhiều thánh tử đạo hơn cả! Người ta ước tính có tới hằng trăm ngàn người Công giáo đã bị giết hại vì đức tin dưới các triều đại nhà Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và bị các phong trào Cần Vương Văn Thân đàn áp bách hại. Trong số đó, 117 vị đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc hiển thánh và được mừng chung trong niên lịch toàn thể Hội Thánh. Trong số này có: 8 Giám mục, 50 Linh mục, 16 Thầy giảng, 1 Chủng sinh và 42 Giáo dân. Các ngài đã chịu nhiều cực hình như: 79 vị bị trảm quyết (chém đầu): 16 vị bị xử giảo (treo cổ); 8 vị bị chết rũ rù do đói khát bệnh tật khi bị giam trong ngục; 6 vị bị thiêu sinh (chết thiêu trong hỏa lò).
2) Lý do các ngài bị vua quan bách hại:
Các thánh Tử Đạo bị vua quan và dân chúng thời đó thù ghét đàn áp giết hại không phải vì các ngài là những kẻ xấu làm điều gian ác, nhưng chỉ vì các ngài đã tin vào danh Đức Giê-su và đã dũng cảm tuyên xưng đức tin ấy, thể hiện qua thái độ bất khuất, không chịu bước qua thập giá theo lệnh vua quan, hầu ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã tiên báo: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thóat” (Mt 10,22).
Đàng khác, vua quan và dân chúng thù ghét và ra tay bách hại các tín hữu là do hiểu lầm về giáo lý của đạo khi cho rằng theo đạo là vọng ngọai, là bất hiếu vì phải bỏ việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đang khi thực ra không phải như vậy: điều răn thứ tư trong mười điều răn của đạo Chúa đã truyền dạy: con cái phải “thảo kính cha mẹ” và người tín hữu vừa phải chu tòan bổn phận thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất lại vừa phải tôn kính và tưởng nhớ cầu nguyện và tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ khi các ngài còn sống cũng như khi đã qua đời.
Nhưng lý do chính yếu khiến vua quan và các phong trào Cần Vương Văn Thân thời đó thù ghét bách hại các tín hữu là do tự ái dân tộc và hiểu lầm về lòng yêu nước của các tín hữu: Họ sợ người theo đạo sẽ bị các thừa sai ngọai quốc xúi giục làm lọan, trong khi các vị thừa sai ngọai quốc đã dám bỏ quê hương và từ giã người thân đến vùng đất xa xôi và chấp nhận hy sinh ngay cả mạng sống là do đức tin và lòng mến Chúa thôi thúc. Các ngài chỉ muốn chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng của Đức Giê-su: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28,19-20); “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b). Và quả thật, lịch sử đã ghi nhận: các thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị vua quan kết án chỉ vì đức tin mà thôi chứ không do tội phản lọan theo giặc làm loạn chống phá triều đình.
3) Sống chứng nhân giữa đời thường:
Bí quyết khiến các anh hùng Tử Đạo vượt qua gian nan thử thách là do các ngài biết “sống sự sống của Chúa Giê-su trong thân xác yếu hèn của mình”. Đức Giê-su đã hứa sẽ ban Thánh Thần giúp các môn đệ phải nói gì và nói thế nào khi bị điệu ra trước quan quyền (x Mt 10,19-20). Để được như vậy, các ngải đã phải mỗi ngày “chết đi cho bản thân”, và sống trong ơn nghĩa của Đức Giê-su.
Ngày nay có lẽ chúng ta không có cơ hội làm chứng cho Chúa như các thánh Tử Đạo cha ông, nhưng chúng ta vẫn có thể trở thành chứng nhân của Chúa ngay giữa cuộc sống đời thường hằng ngày trong gia đình và ngoài xã hội:
- Để có thể sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đức tin khi cần, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải quyết tâm sống đức công bình bác ái trong các giao tiếp với hàng xóm và làm ăn buôn bán nơi phố chợ.
- Để có thể dũng cảm làm chứng cho Chúa trước mặt người đời khi có dịp, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải là những người chồng người vợ tốt lành, luôn chu tòan trách nhiệm lo cho gia đình, là những người con cháu có lòng hiếu thảo đối với các bậc tiền nhân ông bà;
- Để sau này có thể trở thành công dân của Nước Trời, thì ngay từ bây giờ chúng ta đã phải là những người công dân tốt, sẵn sàng chu tòan nghĩa vụ đối với quê hương và trở thành khí cụ bình an của Chúa bằng cách sống theo tinh thần của Kinh Hòa Bình… Nhờ đó chúng ta sẽ gây được thiện cảm đối với đồng bào lương dân cùng khu xóm với chúng ta.
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa, xưa Chúa đã dạy các môn đệ rằng: “Anh em sống giữa thế gian, nhưng không được theo thói thế gian”. Xin cho chúng con đừng bao giờ bỏ Chúa để chạy theo cám dỗ của thế gian, ma quỉ và chiều theo các đam mê xác thịt. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: “Con nhà tông không giống lông, cũng giống cánh”, để chúng con luôn xứng đáng là con cháu của các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam. Xin cho chúng con luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt người đời: Biết nở nụ cười khi tiếp xúc, sẵn sàng cởi mở đi bước trước để làm quen với những người mới gặp, mở miệng an ủi những ai đang gặp tai nạn rủi ro; biết khiêm hạ phục vụ tha nhân, đặc biệt phục vụ những người đau khổ bất hạnh đang cần được cảm thông trợ giúp.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
14. Tử Đạo giữa đời thường - Lc 9, 23-26
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà con người đề cao chủ nghĩa cá nhân, một thời đại mà người ta cạnh tranh nhau quyền cao chức trọng ở mọi lãnh vực, một xã hội mà quyền lợi cá nhân, hưởng thụ và sở hữu được ưa chuộng. Hôm nay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta "Từ bỏ chính mình, liều mất mạng sống..." để theo Chúa, điều này nghe ra thật phi lý và ngược đời! Thế nhưng, sẽ thật có lý và hợp với đời của một Kitô hữu vì đó là điều kiện tiên quyết để bước theo Chúa. Lời Chúa và mẫu gương của chính Chúa đã hy sinh mạng sống cho nhân loại, và của các Thánh Tử Đạo Việt Nam sẽ là một bảo đảm minh chứng cho chúng ta.
Đường Trần Gian - Đường Thập Giá.
Cuộc đời được ví như một hành trình. Hành trình này chẳng thẳng ngay và không hề nhẹ nhàng êm ái. Lớn hay nhỏ đang sống trong trần gian, chúng ta đều cảm nhận trần gian đầy đau khổ và nước mắt, chẳng thế mà nhạc sĩ nào đó đã viết "Đường nhân gian đày ải chông gai, ai chưa qua chưa phải là người!" Giàu cũng khổ mà nghèo thì khốn khổ hơn! Tiền bạc, chức vị cũng không làm cho người ta hạnh phúc và cũng không mua được bình an. Đau khổ như là một thập giá gắn liền với đời người dù người đó có là môn đệ Chúa Kitô hay không. Thập giá đến với mỗi người mỗi cách khác nhau. Thập giá ấy có thể là từ trong những bất toàn của bản thân, trong bệnh tật, trong khó khăn của cuộc sống. Thập giá cũng có thể là từ những nghịch cảnh thông thường của cuộc đời...
Với người Kitô hữu, chúng ta sẽ gặp thập giá trong cuộc đời khi sống trung thành với giáo huấn của Chúa và Hội Thánh. Thập giá đến khi ta sống ngay thẳng trong buôn bán, thật thà và công bằng trong kinh doanh hay trong giao tiếp. Người ta có thể cho là ta điên rồ, ngược đời hay ngu xuẩn thậm chí bị loại trừ. Thập giá đến với ta trong những chọn lựa từ bỏ mình để yêu thương đón nhận tha nhân ngay cả khi họ vu oan, ghen ghét, làm hại ta... Và thập giá cũng sẽ được ta đón nhận khi ta biết cố gắng sống theo Lời Chúa dạy, biết sửa mình, ăn năn sám hối về những tính hư, nết xấu và tội lỗi của ta để xứng đáng là con cái Chúa.
Đường Thập Giá - Đường Tử Đạo.
Khi thập giá đến, chắc hẳn chẳng ai trong chúng ta sẵn sàng đón nhận hay dễ dàng để ôm lấy. Đã là thập giá, thường ta luôn cảm thấy nặng nề, khó vác. Đôi khi ta không dám nghĩ tới và muốn tránh bởi không ai thích đau khổ, thất bại, bị loại trừ, nghịch cảnh, thất vọng chán nản... Và hơn thế nữa, Satan cũng tìm đủ cách lôi chúng ta xa thập giá, vì nó không muốn ta đi vào con đường của Chúa.
Lời Chúa tha thiết mời gọi ta: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo" (Lc 9,23). Từ bỏ chính mình, không đơn giản chút nào! Từ những cái rất nhỏ trong cuộc sống: người mắng ta một câu, ta muốn đáp lại hai, ba câu. Nhưng từ bỏ mình là bỏ qua, là chấp nhận lời nói không tốt đó và đáp lại bằng lời yêu thương, lời hòa giải. Khó lắm, nó đau ở trong lòng và như nuốt cục phèn vậy, nhưng nếu ta làm được, ta sẽ cảm nhận ngọt ngào trong tâm hồn. Từ bỏ mình trong những chọn lựa theo Tin Mừng, sống yêu thương, tha thứ sẽ như là những cuộc tử đạo âm ỉ từng ngày chứ không chỉ một lần. Trong cuộc sống với những bôn ba cho cơm áo gạo tiền, nhiều khi đặt ta trước những chọn lựa theo công bằng, bác ái đòi ta phải hy sinh mối lợi, mất miếng ăn để chu toàn luật Chúa. Ta sẽ đau lắm và dằn vặt nhưng với ơn Chúa, ta chọn lựa tử đạo khi mất lợi danh và có khi mất cả mạng sống. Tôi nghĩ đến một người đàn ông Công Giáo, đã làm việc thật tốt trong một công ty sản xuất. Thế rồi, vì sống ngay thật, không theo những mánh khóe gian dối với đồng nghiệp nên anh đã lãnh nhận hậu quả là bị hại chết ngay trong chuyến công tác xa, sau bữa ăn cùng nhóm đồng nghiệp ấy. Ta có thể đi vào đường tử đạo khi sống trung thành với Chúa Kitô để bảo vệ sự sống, như một chị y tá nọ sau nhiều năm học tập, chị được chọn vào làm trong một bệnh viện lớn. Thế nhưng, ngay ngày thứ hai đi làm, người ta yêu cầu chị tham gia vào ca phá thai. Chị từ chối, lập tức người ta sa thải chị. Chị mất việc mà chị đã tốn nhiều công sức tiền của để có được. Chị đã vác thập giá cùng với Chúa Kitô! Để chọn lựa vác thập giá hàng ngày, chọn lựa tử đạo suốt đời, ta không thể thực hiện với sức riêng nhưng phải cậy nhờ ơn Thánh và nếu ta tin tưởng cậy dựa vào Chúa, Ngài sẽ luôn giúp ta vì: "Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách" (1Cr 1,4).
Đường Tử Đạo - Đường Tới Vinh Quang.
Ngày nay, trên quê hương chúng ta ít có những cuộc cấm hay bách hại đạo như xưa cha ông ta đã trải qua. Nhưng lại xuất hiện nhiều hơn những dịp thử thách về đức tin tinh vi mà nếu không tỉnh thức, ý thức và có một tâm hồn bén nhạy thì ta sẽ dễ đi vào việc chối đạo, phản đạo và bỏ Chúa qua chính cách sống, lời nói và việc làm của ta. Các Thánh Tử đạo Cha ông chúng ta đã kiên trung thực thi Lời Chúa dạy: "Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Lc 9, 24). Các ngài yêu Chúa hơn yêu mạng sống mình như lời nói và máu đổ ra của Thánh Phaolo Khoan "Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa và Chúa Cả Trời đất, con xin dâng mạng sống cho Ngài". Có vị thánh đã từ bỏ chức quyền để giữ vững đức tin và linh hồn như thánh Hồ Đình Hy là quan lớn, thánh Phạm Trọng Tả là chánh tổng nhưng các Ngài chọn Chúa hơn là địa vị ở trần gian. Các ngài chọn gia nghiệp Nước Trời hơn là sản nghiệp trần thế nay còn mai mất "Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời" (Thánh Phêrô Truật). Các ngài không dẫm lên Thập giá Chúa Kitô nhưng anh dũng bước đi trên đường Thập giá vì các ngài xác tín chỉ qua Thập giá mới tới Vinh quang và cuối đường, chính Chúa Kitô đón các ngài vào hưởng vinh quang hạnh phúc với Người trong Nước Trời, như sách Khôn Ngoan nói: "Người đời nghĩ rằng họ bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chan chứa niềm hy vọng được trường sinh bất tử. Và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời" (Kn 3,4.8)
Trải qua suốt ba thế kỷ bách hại, đã có cả trăm ngàn anh em Kitô hữu chết vì đạo. Gương chứng nhân Đức Tin và lòng hy sinh mạng sống vì Chúa Kit-tô và vì Tin Mừng của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam cha ông ta, sẽ là mẫu gương và niềm hãnh diện lôi cuốn chúng ta can trường sống chứng nhân giữa đời thường và dám chọn sống, chết vì đạo. Từ dòng máu anh hùng của cha ông, từ những khổ đau, những đắng cay của các ngài, ta có được hạt giống đức tin hôm nay. Vậy thập giá là một phần quan trọng của đời Kitô hữu và chính Chúa Giê-su đã không khước từ thập giá vì đường thập giá-đường tử đạo mới là đường dẫn tới vinh phúc: "...Người vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người..." (Pl 2,6-11). Lao nhọc, đau khổ, nghịch cảnh, hy sinh, chiến đấu và tử đạo... cần thiết để trở thành một phần của đời người môn đệ Chúa Kitô. Ước gì khi sống giữa đời, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng tin tưởng thưa lên như thánh Phaolô "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy... Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta" (Rm 8,35-37). Để rồi chúng ta dám sống vì Chúa, chọn lựa theo Chúa, trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh và can trường chết vì Chúa trong những dịp tử đạo giữa đời thường. Vì "Ai liều mất mạng sống vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy." (Mc 8,35).
Nguyện xin Thần Khí Chúa ban ơn khôn ngoan và sức mạnh giúp chúng con biết chọn lựa sống vì Chúa, vì Tin Mừng. Và xin dạy chúng con biết yêu thập giá là dấu chỉ của chiến thắng, của vâng phục, của tình yêu và của con đường dẫn đến ơn cứu độ. Amen.
15. Sống đức tin kiên cường
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Hôm nay, toàn thể Hội Thánh Việt Nam cử hành thánh lễ kính trọng thể các thánh tử đạo Việt nam đồng thời đây cũng là dịp để tỏ lòng biết ơn các ngài, nhất là hun đúc đức tin và làm cho đức tin chúng ta càng kiên cường để vượt qua muôn ngàn gian khó của cuộc đời như các Thánh Tử Đạo xưa. Qủa thế, thánh Augustinô nói: “Việc tôn kính các Thánh tử đạo là để hun đúc tinh thần tử đạo nơi người tín hữu. Tử đạo là chứng tỏ cho lòng tin, tình yêu trung kiên đối với Thiên Chúa và cho đời sống vĩnh cửu”.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130.000 anh hùng Tử đạo, tuy nhiên trong số đó chỉ có 117 vị được phong hiển thánh và một vị chân phước là Anrê Phú Yên. Điều đáng nói ở đây là các vị tử đạo là những con người mang thân xác mỏng dòn như chúng ta, cũng biết rung cảm, biết ham sống sợ chết. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng hiến dâng sự sống mình cho Thiên Chúa, cho sự sống vĩnh cửu. Các ngài dám đem cái chết để minh chứng cho đức tin chân thật và duy nhất. Mỗi vị thánh tự đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả đều hiên ngang và can trường dùng lời nói và mạng sống để rao giảng Lời Chúa, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi ngõ hầu làm rạng danh Thiên Chúa và cứu vớt được nhiều linh hồn. Cho nên, thánh Tertulianô: “Nói máu các thánh tử đạo làm nẩy sinh các Kitô hữu”.
Bài đọc một mô tả bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và noi gương về lòng can đảm chịu đựng và hy sinh tất cả vì niềm tin và trông cậy vào Thiên Chúa. Đức tin của bà thật mạnh mẽ và kiên cường, mới có thể dạy các con mình về Thiên Chúa Thiên Chúa và sự sống vĩnh cửu một cách hùng hồn như thế để rồi các con của bà chấp nhận “chết vinh hơn sống tội”, tức là để vinh danh Chúa chứ không phạm tội; vì chưng, “Thiên Chúa, Đấng tạo hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, chính Người do lòng thương xót cũng sẽ trả lại các con thần khí và sự sống”. Cho nên, thánh Phaolô trong bài đọc 2 xác quyết rằng “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta”.
Các vị tử đạo Việt Nam có một đức tin mãnh liệt và kiên cường, sâu xa và trung thành với Thiên Chúa hằng sống. Đức tin của các ngài mạnh đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào tách các ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Cụ thể, Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh sinh 1768 tại Quảng Bình làm nghề thầy thuốc khá giả. Dù có giàu sang nhưng ông quỳnh hết sức thương người nghèo đến nỗi vợ con thấy vậy phiền trách móc vì lấy của gia đình cho họ. Thời bách hại vua Minh Mạng ông rời bỏ gia đình vợ con, đi với các cha vào hầm trú để che chở các cha. Năm 1838 ông bị lính bắt giải các cha và ông về Đồng Hới. Vua ra lệnh trảm quyết (chặt đầu) và xử giảo (xiết cổ) các cha còn ông trùm Quỳnh vị có tiếng nhân đức nên kéo dài thời gian kết án để ông nản lòng bỏ đạo nhưng dù trong suốt hai năm tù vô cùng cực khổ và đớn đau, nhục nhã ông vẫn can trường giữ vững đức tin. Cuối cùng nhà vua hạ lệnh xử giảo (xiết cổ) ông năm 1840.
Với đức tin mạnh mẽ và ý chí can trường các vị tử đạo sẵn sàng giữ Đạo Chúa cho trọn và tuyên xưng danh Chúa trước mặt thiên hạ dù bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man, ghê rợn, dầu phải đổ hết máu mình ra, các ngài vẫn cam chịu miễn sao bảo tồn đức tin nguyên vẹn để được Chúa và sự sống đời đời làm gia nghiệp. Qủa đúng như Lời Chúa Giêsu nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần”.
Làm sao chúng ta có thể sống đức tin kiên cường như các Thánh Tử Đạo trước những thách đố của cuộc sống hôm nay. Thách đố trước hết đối với Đức Tin là kinh tế tiền bạc. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Cho nên, nhiều người sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn dù biết đó là tội và tàn ác: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn bán ma túy, tham nhũng, hối lộ…để có tiền. Trong xã hội đó, nhiều người Công Giáo chúng ta cũng bị cuốn hút vào ma lực của đồng tiền, nên dễ đánh mất Niềm Tin, xa rời Giáo Hội. Thách đố thứ hai đó là xã hội đầy dẫy những bất công, lạm quyền và giả dối lan tràn, đạo đức suy thoái, lương tâm và nhân phẩm bị xúc phạm. Sống trong môi trường như thế, nhiều người lập luận: người ta gian dối mà mình trung thực là mình thua thiệt! Cho nên, chúng ta cũng phạm tội như một người chưa có đức tin. Và thách đố cuối cùng là lối sống hưởng thụ ích kỷ. Vì sống hưởng thụ cá nhân, cho nên người ta biến người khác thành một món hàng để chiếm đoạt và mua bán. Cho nên, trong Thông điệp “Laudato si”, Đức Giáo hoàng Phanxicô lên án mạnh mẽ nền văn “văn hóa vứt bỏ” ngày nay. Nền văn hóa vứt bỏ này đã khiến cho chúng ta trở thành vô cảm đối với cả mọi người và mọi tạo vật.
Mỗi khi cử hành phụng vụ là cử hành mầu nhiệm đức tin và làm đức tin của chúng ta bừng lên mãnh liệt nhờ mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng của Chúa Giêsu Kitô và của các Thánh tử Đạo. Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để học hỏi nơi cuộc đời chứng nhân của các ngài đồng thời được tiếp thêm sức mạnh đức tin để sống và giữ Đạo giữa biết bao thách đố của thời đại hôm nay. Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô, chúng ta được củng cố trong đức tin, được tràn đầy sức mạnh, như thế, chúng ta kiên cường tuyên xưng và sống đức tin trong mọi hoàn cảnh sống khi an vui, hạnh phúc và thành công, cũng như khi đau khổ, bệnh tật, thất bại hay khủng hoảng..
Ước gì mỗi người chúng ta qua thánh lễ này biết phát huy đời sống đức tin vững mạnh để tiếp tục ươm trồng và vun tưới cho Đạo Chúa tại Việt Nam ngày càng sáng tươi và rạng ngợi. Xin Chúa giúp đức tin của chúng con mạnh mẽ và can trường để sống làm chứng cho Tin Mừng của Chúa nơi xã hội chúng con đang sống. Amen.
16. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn
NOI GƯƠNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO - SỐNG ĐỨC TIN HÔM NAY
Hôm nay, Giáo Hội Việt Nam kết thúc năm Thánh năm Thánh tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam kỷ niệm 30 năm Các Ngài được tuyên Thánh. Qủa thế, cách đây 30 năm, 19-06-1988, Giáo Hội Công giáo Việt Nam vui mừng hãnh diện với Các Thánh Tử đạo Việt Nam, hãnh diện vì đức tin sáng ngời của các Ngài trước biết bao cuộc bách hại bạo tàn. Gông cùm, đòn roi và án tử đã trở nên con đường để các Ngài cùng Chúa Giêsu tiến lên đồi Canvê. Dòng máu tình yêu của các Ngài đã tưới gội cho hạt mầm đức tin của lớp lớp con cháu được lớn mạnh trên quê hương Việt Nam con rồng cháu tiên. Các Ngài đã hát bài ca tán dương Thiên Chúa bằng chính sự sống của mình, nhờ đó, các Ngài được phúc hiển vinh trong hàng ngũ các Thánh trên Trời.
Nhìn lại lịch sử suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130.000 anh hùng Tử đạo, trong số đó chỉ có 117 vị được phong hiển Thánh và một vị chân phước là Anrê Phú Yên. Điều đáng nói ở đây là các Vị Tử Đạo là những con người mang thân xác mỏng dòn như chúng ta, cũng biết rung cảm, biết ham sống sợ chết, nhưng giờ phút hy sinh đến, các Ngài sẵn sàng hiến dâng sự sống mình cho Thiên Chúa, minh chứng cho đức tin về sự sống vĩnh cửu, một đức tin chân thật và duy nhất. Các thánh Tử Đạo Việt Nam chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả đều hiên ngang và can trường dùng lời nói và mạng sống để rao giảng Lời Chúa, bênh vực chân lý, yêu thương tha thứ cho kẻ bách hại và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi một cách hào hùng ngõ hầu làm rạng danh Thiên Chúa và cứu vớt được nhiều linh hồn như lời thánh Tertulianô xác tín: “Máu các thánh Tử Đạo làm nẩy sinh các Kitô hữu”.
Bà mẹ trong bài đọc một đã can đảm chịu đựng và hy sinh tất cả vì niềm tin và trông cậy vào Thiên Chúa. Đức tin của bà thật mạnh mẽ và kiên cường lắm, mới có thể dạy các con mình về Thiên Chúa và sự sống vĩnh cửu một cách hùng hồn, để rồi các con của bà chấp nhận “chết vinh hơn sống tội”, tức là để vinh danh Chúa chứ không phạm tội; vì chưng, họ đã tin rằng: “Thiên Chúa, Đấng tạo hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, chính Người do lòng thương xót cũng sẽ trả lại các con thần khí và sự sống”. Cho nên, thánh Phaolô trong bài đọc 2 xác quyết rằng “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta”.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam có một đức tin mãnh liệt và kiên cường, sâu xa và trung thành với Thiên Chúa hằng sống cũng không kém. Đức tin của các Ngài mạnh đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào tách các Ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Cụ thể, Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh sinh 1768 tại Quảng Bình làm nghề thầy thuốc khá giả. Dù có giàu sang nhưng ông Quỳnh hết sức thương người nghèo đến nỗi vợ con trách móc ông vì lấy của gia đình cho họ. Thời bách hại vua Minh Mạng ông rời bỏ gia đình vợ con, đi với các cha vào hầm trú để che chở các cha. Năm 1838 ông bị lính bắt giải các cha và ông về Đồng Hới. Vua ra lệnh trảm quyết (chặt đầu) và xử giảo (xiết cổ) các cha, còn ông trùm Quỳnh vì có tiếng nhân đức nên kéo dài thời gian kết án để ông nản lòng bỏ đạo nhưng dù trong suốt hai năm tù vô cùng cực khổ, đớn đau và nhục nhã nhưng ông vẫn can trường giữ vững đức tin. Cuối cùng nhà vua hạ lệnh xử giảo (xiết cổ) ông năm 1840.
Với đức tin mạnh mẽ và ý chí can trường như thế cho nên các Thánh Tử Đạo đã sẵn sàng giữ Đạo Chúa cho trọn và tuyên xưng danh Chúa trước mặt thiên hạ dù bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man, ghê rợn, dầu phải đổ hết máu mình ra, các Ngài vẫn cam chịu miễn sao bảo tồn đức tin nguyên vẹn để được Chúa và sự sống đời đời làm gia nghiệp. Qủa đúng như Lời Chúa hôm nay Giêsu nói: “Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”.
Làm sao chúng ta có thể sống đức tin kiên cường như các Thánh Tử Đạo Việt Nam trước muôn vàn thử thách để sống đời làm chứng cho Chúa và Tin Mừng. Thách đố trước hết là kinh tế tiền bạc. Vì đồng tiền mà nhiều người sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn dù biết đó là tội và tàn ác nhưng vẫn làm để có tiền và nhiều người Công Giáo chúng ta cũng bị cuốn hút vào ma lực của đồng tiền, nên dễ đánh mất ĐứcTin, xa rời Giáo Hội. Thách đố thứ hai đó là xã hội đầy dẫy những bất công, lạm quyền và giả dối lan tràn, đạo đức suy thoái, lương tâm và nhân phẩm bị xúc phạm. Sống trong môi trường như thế, chúng ta bị cám dỗ và sa ngã phạm tội vì đức tin yếu kém. Và thách đố cuối cùng là lối sống hưởng thụ ích kỷ. Vì sống hưởng thụ cho nên người ta biến người khác thành một món hàng để chiếm đoạt, mua vui và vứt bỏ. Vì vậy, trong Thông điệp “Laudato si”, Đức Giáo hoàng Phanxicô lên án mạnh mẽ nền văn “văn hóa vứt bỏ” này, vì nó đã khiến cho chúng ta trở thành vô cảm đối với mọi người và mọi tạo vật.
Mỗi khi cử hành phụng vụ là cử hành mầu nhiệm Đức tin và làm cho đức tin của chúng ta bừng lên mãnh liệt nhờ mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng của Chúa Giêsu Kitô và của các Thánh tử Đạo. Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để học hỏi nơi cuộc đời chứng nhân của các Ngài đồng thời được tiếp thêm sức mạnh đức tin để sống và giữ Đạo giữa biết bao thách đố của thời đại. Vì vậy, khi chúng ta bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô, chúng ta được củng cố trong đức tin, được tràn đầy sức mạnh, như thế, chúng ta kiên cường tuyên xưng và sống đức tin trong mọi hoàn cảnh sống khi an vui, hạnh phúc và thành công, cũng như khi đau khổ, bệnh tật, thất bại hay khủng hoảng…
Ước gì qua Thánh lễ này, chúng ta là thế hệ con cháu của Các Thánh tử Đạo, cũng nguyện một lòng cùng với Chúa Giêsu gieo mình vào Đất Việt tình yêu Thiên Chúa và Tin Mừng của Chúa. Chính tình yêu Thiên Chúa và Tin Mừng đã làm cho trái tim chúng ta không bao giờ mục nát, cánh hoa cuộc đời chúng ta chưa một lần úa tàn, những ánh sao không bao giờ lịm tắt, những người con Chúa sống mãi không thôi. Đó là những tâm tình Á Thánh tiên khởi Anrê Phú Yên nhắn nhủ với hậu thế chúng ta. Vì vậy, dù kết thúc Năm Thánh Tôn Vinh Ngài, nhưng chúng ta hãy tiếp tục sống theo những lời hướng dẫn của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: Làm việc lành phúc đức; sống tinh thần Tử đạo: Các gia đình Công giáo hãy từ bỏ những ham muốn bất chính và tính toán ích kỷ, để làm chứng rằng Tin Mừng về hôn nhân Công giáo là nẻo đường hạnh phúc. Các anh chị em sống đời thánh hiến hãy từ bỏ những ham muốn tự nhiên để sống trọn vẹn theo các lời khuyên Phúc Âm, làm chứng cho Nước Trời là giá trị tuyệt đối và kho tàng vô giá; qua đó, chúng ta có thể góp phần “thức tỉnh thế giới” như Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi. Các linh mục hãy trung thành với lời thề hứa khi chịu chức, tận tụy thi hành bổn phận đã được trao phó trong khiêm tốn và cậy trông, làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử nhân lành, “hiến mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 10,15), và hăng say rao giảng Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh. Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin cầu cho chúng con. Amen.
17. Thiên Hùng Ca Việt Nam
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Quan Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh đích thân chỉ huy 500 lính đột xuất bao vây làng Phúc Nhạc, Ninh Bình, vào đúng sáng ngày lễ Phục Sinh (14.04.1841). Quan truyền tập trung giáo dân lại để quân lính lục soát từng nhà… Cha Lý được ông Trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha đường mương khô ở sau vườn cạnh một bụi tre: "Xin Cha ẩn dưới rãnh này, Đức Chúa Trời gìn giữ thì Cha thoát, bằng không Cha và con đều bị bắt." Nói xong bà cùng con gái Lucia Nụ, lấy rơm và cành khô che phủ lên, nhưng quân lính đã trông thấy Cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Lý và bà Đê, chủ nhà. Ông Trùm Cơ, bốn hương chức trong làng và hai nữ tu Mến Thánh Giá Anna Kiêm và Anê Thanh cũng bị bắt. Tất cả bị trói mang gông điệu ra đình làng. Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt, bà Đê rất sợ hãi, nhưng khi điệu bà ra đình làng thì gương mặt bà vui tươi và không có vẻ gì là sợ sệt nữa…
Quân lính áp giải các nạn nhân về Gia Định. Họ phải đi suốt đêm rất cực nhọc. Bà Đê sức yếu, không chịu nổi gông quá nặng, phải có người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành Nam bà bị giam chung với hai nữ tu. Sáu ngày sau ra trước công đường, quan tòa bắt bà chối đạo bà đáp: "Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời." Các quan truyền đánh đòn bà. Lúc đầu lính đánh bằng roi, sau dùng củi lớn quật vào chân bà. Bà không nản lòng, khi chồng bà đến thăm, bà giải thích vì sao bà kiên tâm như vậy: "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn." Đến lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba thấy bà Đê vẫn một long trung kiên, quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà qua Thánh Gía. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá." Lần tiếp theo ra trước tòa, quan cho túm tay áo lại rồi thả rắn độc vào trong áo, nhưng bà Đê vẫn giữ được bình tĩnh cách lạ lùng. Bà đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra. Các quan truyền đánh bà dữ hơn nữa rồi giam trong ngục. Nhưng bà đã kiệt sức, đi không nổi, phải có người dìu. Một nhân chứng tên Đang, về sau cho biết: "Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân mình đầy máu mủ. Tuy vậy bà vẫn vui vẻ, và còn muốn chịu khó hơn nữa.” Cô Lucia Nụ, đến thăm Mẹ trong ngục, thấy y phục thân mẫu loang lỗ máu, cô thương mẹ khóc nức nở, bà an ủi con bằng những lời tràn trề lạc quan: "Con đừng khóc nữa, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?" Bà còn khuyên: "Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”…
Sau ba tháng bị giam cầm hy sinh vì đức tin, ngày 12.07.1841, trong giờ hấp hối người ta thường nghe bà Anê Lê Thị Thành cầu nguyện: "Lạy Chúa, chúa đã chịu chết vì con, con hết lòng theo thánh ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con". ( Lm. Đào Trung Hiệu, OP, Thánh Anê Lê Thị Thành (bà thánh Đê, 1781-1841 )
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19. 6. 1988 tại Rôma, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, trong đó có thánh Anê Lê Thị Thành. Các vị gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. Đây là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại. Hôm nay Giáo Hội hoàn vũ chung niềm vui với Giáo Hội Việt Nam, cảm tạ, chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa đã ban tràn đầy hồng phúc cho dân Việt.
Chết đi bản thân
Các Thánh Tử Đạo đã đổ máu đào làm chứng cho Tin Mừng, cũng như trung thành thực hành Lời Chúa đến hơi thở cuối cùng. “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.” Trong gian truân bách hại, Đức Giêsu sẵn sàng đương đầu gánh chịu, các Thánh Tử Đạo cũng noi gương Người, đã không bỏ trốn, mà từ bỏ mình đi theo Chúa, hoàn toàn phó thác, tuân thủ Thánh Ý Chúa: “Đức Chúa Trời gìn giữ thì Cha thoát, bằng không Cha và con đều bị bắt." Bà Thánh Anê đã tuyên xưng đức tin sáng ngời, xứng đáng trở thành vị Thánh nữ tiên khởi của dân Việt.
Chết đi bản thân cũng có nghĩa là chẳng thiết tha những gì dính líu đến đời sống phàm tục, của cải, tiền bạc, danh phận, chức tước, bổng lộc. “Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết.” Khi mất đi của cải là lúc được Thiên Chúa bù đắp gấp trăm, gấp vạn lần, chính là Nước Trời. “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.”
Chết đi cái tôi có nghĩa là hy sinh thân xác, mặc bao đòn vọt, khổ nhục, để hiên ngang làm chứng nhân Tin Mừng. Một lòng chính chuyên phó thác và cậy trông ơn trên, cầu bầu Mẹ Maria cứu giúp. "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn." Bà Thánh Anê còn an ủi lại người chồng xót thương đến thăm.
Chết cho tha nhân
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, tuy không công khai tái diễn thảm họa bách hại đạo Chúa, nhưng khuynh hướng thực dụng và duy vật đang thách đố tín hữu Kitô sống đạo, sống trung thực Tin Mừng. Tiên quyết để theo Đức Giêsu là tuân theo lời dạy bỏ mình, vác thập giá mà theo Người. Vậy xả kỷ, vị tha cũng chính là chết cho tha nhân, dấn thân phục vụ, không quản khó khăn, trở ngại, chấp nhận những hiểm họa, nhục hình có thể xảy đến.
"Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”… Dù đang chịu xiềng xích, tù đầy, roi vọt, Thánh nữ Anê vẫn không hề nao núng hãi sợ, mà còn ân cần, lo lắng khuyên nhủ con cái sống đạo chu đáo, sốt sắng và sẵn sàng tuyên xưng đức tin. “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.”
Khiêm nhường, nhân ái, hy sinh, phục vụ, làm chứng nhân, chính là chết cho tha nhân được nảy chồi đâm lộc, sinh hoa kết trái. Như hạt lúa chịu mục nát, thối đi, chết đi mới có thể nảy mầm, đâm chồi, sinh hoa, kết hạt, bội thu gấp chục, gấp trăm. Những giọt máu đào của chư thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã trổ sinh cánh đồng Giáo Hội xanh tươi, bát ngát, được mùa như ngày hôm nay. “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.”
Chết cho Chúa
“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”. Phúc thứ tám là phần thưởng cho những ai chịu chết vì danh Chúa, vì Tin Mừng. Người tín hữu Kitô nào dám can đảm lội ngược dòng đời để sống Tin Mừng, làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa, cũng gian nan khốn khổ không kém phúc tử vì đạo. Không im lặng, đồng lõa, hùa theo, toa rập theo bầy đàn làm điều ôi ác, đê hèn, xấu xa, gian tham, háo danh, vụ lợi, không chấp nhận bất công, phân biệt, kỳ thị, không chiều theo khuynh hướng hưởng lạc, rượu chè, cờ bạc, dâm ô, khước từ văn minh sự chết, mà công khai sống theo Tin Mừng, thấm nhuần Bát Phúc, trở nên chứng nhân đích thực của Đức Giêsu, chính là chết cho Chúa.
Hôm nay, chứng nhân Tin Mừng không phải chịu đổ máu đào như xưa, nhưng vẫn quyết tâm tiếp tục chiến đấu mãnh liệt và liên tục giữa sự dữ của thế gian, ma quỷ và xác thịt, giữa một thế giới duy vật, hưởng thụ, thực dụng, sa đọa, vị kỷ, chối bỏ Thiên Chúa. Một cuộc tử vì đạo âm thầm, lặng lẽ, thách thức, dai dẳng trong suốt cuộc đời Kitô hữu, với niềm hy vọng sâu sắc, cháy bỏng, bền vững và bất tận: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” Còn lời hứa nào trọng đại và cao quý hơn?
“Con trung thành theo một vị lãnh đạo là Chúa Kitô và Đại Diện của Ngài: Đức Thánh Cha, các giám mục, kế vị các thánh Tông Đồ. Sống và chết vì Hội Thánh như Chúa Kitô. Đứng nghĩ chết vì Hội Thánh mới hy sinh. Sống vì Hội Thánh cũng đòi hỏi nhiều hy sinh.” (Đường Hy Vọng, số 987)
Lạy Chúa Giêsu, các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những vị tiền nhân, đã anh dũng hy sinh cả cuộc đời, trở nên những chứng nhân Tin Mừng cho toàn thể dân Chúa. Các ngài đã nêu tấm gương thật sáng ngời, bỏ tất cả mọi sự, kể cả sinh mạng, để trung kiên theo Chúa đến cùng. Xin Chúa ban ơn, giúp sức chúng con quyết tâm luôn noi gương các ngài làm chứng nhân Tin Mừng.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, an ủi, khích lệ chúng con luôn làm chứng nhân cho Chúa trong mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh, noi gương các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam. Amen.
18. Tri ân và mừng kính Các Thánh Tổ Tiên -- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hàng năm cứ đến ngày này, những người con dân Việt từ khắp muôn phương cùng với Giáo hội hoàn vũ hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Trong hân hoan vui sướng và hãnh diện, chúng ta tôn vinh, tri ân các ngài đồng thời hô vang: “Vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo anh hùng”.
Hôm nay chúng ta cùng nhau hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính các ngài. Nói là đặc biệt về các ngài, nên chúng ta tạm đặt ra mấy câu hỏi cho là cơ bản, để nhờ đó chúng ta lần lượt đưa ra những gì đã hiểu biết về các ngài, mặc dù đây chỉ là những điều nhiều người đã biết.
Trước hết chúng ta cần xác nhận:
Hỏi: Các ngài là ai vậy?
Thưa: Các ngài là Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, chết vì Đạo tại Việt Nam. Ở đây, từ ngữ Đạo được hiểu theo nghĩa chặt: Đạo Công Giáo Lamã, mà ai cũng biết rõ. Ngày nay thì Đạo Công Giáo Lamã hiện diện khắp nơi.
Hỏi: Các ngài là bao nhiêu?
Con số các ngài chính thức là 117 vị thánh và 1 á thánh. Đó là những vị đã được Tòa Thánh tuyên phong rõ ràng ngày 19.6.1988. Thế nhưng, đối với chúng ta hiểu, còn có biết bao nhiêu vị cũng đã “tử vì Đạo” tại Việt Nam mà chưa được tuyên phong. Dù vậy, các vị cũng phải được Giáo hội Việt Nam mừng kính. Thời gian bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888, có khoảng 400.000 người bị lưu đầy và phát lưu. 130.000 người đã chết vì đạo.
Hỏi: Các ngài thuộc những thành phần nào?
Các ngài đã là các Kitô hữu thuộc đủ mọi thành phần, cấp bậc trong Giáo hội Công Giáo. Có 8 vị Giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân (gồm 1 chủng sinh, 16 giáo lý viên, 10 vị dòng ba Đa Minh và 1 phụ nữ) … thuộc đủ mọi tuổi tác, hoàn cảnh sống: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. Trong số đó, bao gồm cả một số nhà truyền giáo (ngoại quốc) như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý… đã đến Việt Nam truyền Đạo và chết vì Đạo. Nói chung, cũng nhờ các vị truyền giáo này mà nhiều người Việt Nam biết Đạo, theo Đạo, sống Đạo và chết vì Đạo nữa, lại được nhập đoàn Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam mà chúng ta đang kính nhớ.
Nói tóm lại, đây là những chứng nhân của Thiên Chúa, đã anh dũng hy sinh cả mạng sống tại Việt Nam để thi hành sứ vụ Thiên Chúa trao.
Nói mạnh hơn: các ngài là những tổ tiên anh dũng của chúng ta. Dĩ nhiên phải quả quyết: chính nhờ các ngài mà có chúng ta và ngày nay chúng ta luôn rất hãnh diện tuyên nhận các ngài là tổ tiên trước mặt cả thế giới.
Hôm nay, Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các ngài như hướng về tổ tiên yêu quý. Ðọc lại tiểu sử các ngài, ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các ngài. Vì trung thành với Chúa, các ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì Đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất Đức tin. Vì Chúa, các ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Ðức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho Đức tin chân chính.
Hỏi: Tại sao các ngài chết vì đạo?
Thưa: Giết thì chết chứ còn sao nữa. Đây phải được coi là cơ bản của vấn đề. Kể ra, nếu nhìn bên ngoài thôi thì đã có câu trả lời rồi: chết vì Đạo mà! Lúc đó một số các vua chúa ghét Đạo và cấm Đạo nên họ giết những người có Đạo mà không chịu bỏ Đạo. Bị họ giết thì chết, dù là người Việt hay ngoại quốc…thế nhưng, nhận xét cho đàng hoàng thì vấn đề chết vì Đạo ở đây có ý nghĩa rất phong phú. Có thể nói tóm gọn bằng 2 từ Tin Yêu. Nhưng hai từ này bao gồm ý nghĩa rất cao siêu mà Kitô Giáo gọi là “Thần Đức”: Đức Tin kéo theo Đức Cậy và Đức Mến. Ba nhân đức siêu việt hơn các nhân đức khác mà ta phải quả quyết: chỉ “người có Đạo” mới có.
Hỏi: Các ngài đã chết tử Đạo như thế nào?
Về các hình khổ: Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như:
- Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói.
- Bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng v.v.
- Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu, bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống.
- Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì, tức là phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.
Theo loại hình phạt 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt đầu. Như vậy là con số bị trảm quyết nhiều nhất. 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị lăng trì - tức là phân thây ra từng mảnh. 1 bị tử thương và. 1 bị bá đao.
Là người Công Giáo Việt Nam, chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Kính lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, làm sao chúng con có thể có được cái chết cao đẹp như các ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm Đạo, bắt Đạo, giết người có Đạo như thời vua quan ngày xưa nữa, nên chúng con không còn hy vọng chết vì Đạo. Xin cho chúng con biết học đòi, bắt chước các ngài trung thành với Đức tin và sống đạo cho đến trọn đời. Amen.
19. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam - Ga 12,20-32
Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy ở mọi nơi và trong mọi lúc, người môn đệ của Chúa vẫn phải chịu chung một số phận với Thầy mình, nghĩa là bị bắt bớ và bị cấm cách, bị ghét bỏ và bị giết chết. Thời nào cũng có những vị tử đạo.
Hôm nay là ngày giỗ tổ, ngày Giáo Hội Việt Nam chúng ta long trọng mừng kính các Thánh Tử Đạo, những vị anh hùng đã bỏ mình vì Chúa, đã đổ máu đào để làm chứng cho đức tin, cũng như để xây dựng Giáo Hội.
Lịch sử cho biết: Ngày 19.3.1615, hai vị thừa sai đầu tiên đã lén lút chèo một chiếc thuyền vào cửa Bạng ngoài Thanh Hóa, để bắt đầu công việc giảng đạo. Hai đấng thấy trên một mỏm đá ở giữa giòng sông hình cây thánh giá, được vẽ bằng vôi. Các đấng ấy hiểu ra rằng: Đây là dấu Chúa cho hay sẽ có bắt bớ và cấm cách. Mà thực vậy, ba trăm năm rao giảng Tin Mừng cũng là ba trăm năm máu chảy đầu rơi. Sau Giáo Hội Rôma, thì có lẽ Giáo Hội Việt Nam đã dâng cho Thiên Chúa nhiều vị thánh tử đạo hơn cả. Trên một trăm ngàn người đã chết vì đức tin, trong đó có 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Vậy các ngài là những ai?
Có khi các ngài là những người giáo dân không tên tuổi, mà lịch sử chỉ ghi lại bằng những cử chỉ anh hùng. Có vị bị bắt, rồi bị lính lấy dùi nung đỏ khắc lên hai gò má bốn chữ “Giatô tả đạo”, rồi tống vào ngục. Trong ngục, ông đã tự thẹn cho rằng mình thiếu can đảm, không dám tỏ thái độ. Giatô đâu phải là tả đạo, mà là chánh đạo. Vì thế, ngay đêm hôm đó, ông đã xin bạn tù lấy dao rạch và bỏ đi hai chữ tả đạo, chỉ để lại hai chữ Giatô, thánh danh Đức Kitô mà thôi. Các chị em phụ nữ cũ không kém phần anh hùng. Có một thiếu phụ bị bắt và bị kết án voi giày. Gần tới ngày ra pháp trường, bà xin người nhà gửi vào cho bà một bộ áo cưới hợp thời trang nhất vì bà nghĩ rằng ngày bà chết là ngày bà được gặp gỡ Đức Kitô.
Phải. Các ngài là những người thuộc đủ mọi thành phần, mọi tuổi tác, mọi nghề nghiệp. Thế nhưng, các ngài đã làm gì? Các ngài là cha ông của chúng ta, đã sống trên đất nước mình, đã yêu mến quê hương mình, đã chia sẻ số phận với đồng bào của mình. Và cách riêng, các ngài đã chia sẻ niềm tin với chúng ta. Các ngài đã hiên ngang sống và làm chứng cho niềm tin, thà chết chứ chẳng thà chối bỏ Chúa: Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, thì Ta sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự ở trên trời.
Một ngày kia, các ngài đã phải chọn lựa: giữa mất và còn, giữa trung thành và phản bội, giữa sống và chết. Cuối cùng, các ngài đã chọn Đức Kitô và đã lấy máu đào làm chứng cho Tin Mừng của Ngài. Tử đạo chính là chọn Chúa và làm chứng cho Chúa. Tử đạo chính là sống đạo một cách tích cực và làm tông đồ một cách nhiệt thành. Tử đạo chính là trở nên men trong bột, muối trong đồ ăn và ánh sáng trong đêm tối.
Trong ngày giỗ tổ hôm nay, chúng ta hãy ôn cố tri tân, ôn lại chuyện cũ của các ngài, đề tìm lấy một cách sống mới, phụ hợp với tinh thần Phúc âm, để rồi chúng ta cũng sẽ trở nên là những chứng nhân cho Chúa giữa lòng cuộc đời.
20. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta tìm thấy nơi các ngài những mẫu gương nào?
Trước hết các ngài là những đấng đã làm chứng cho niềm tin của mình. Thực vậy, trải qua hơn 300 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương yêu dấu, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, từ thời hậu Lê đến thời nhà Nguyễn, Giáo Hội Việt Nam đã phải trải qua biết bao nhiêu cơn phong ba bão táp, đã phải cam chịu biết bao cuộc bắt bớ cấm cách. Biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ gia đình và sản nghiệp tổ tiên, trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc như giáo dân vùng Quảng Trị Lavang để bảo toàn đức tin của mình. Hàng trăm ngàn người đã bị bắt bớ, tra tấn, tù ngục và đã chết dưới những cực hình độc ác để tuyên xưng danh Chúa, trong đó 117 vị đã được tông phong lên hàng chân phước. Qua đó chúng ta thấy các ngài đã ý thức và dành cho Chúa một địa vị tuyệt đối, cũng như đã ý thức và dành cho đức tin một sự ưu tiên các ngài có thể nói lên rằng: Phải vâng lời Chúa hơn vâng lời thế gian, thà chết chứ chẳng thà phản bội Chúa. Bằng một lời nói, bằng một thái độ các ngài có thể giải thoát mình khỏi những cực hình dã man, nhưng các ngài không làm thế vì các ngài đã xác tín vào lời Chúa: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích chi.
Cùng với việc làm chứng niềm tin các ngài còn là những người làm chứng cho tình thương. Tiên vàn là tình thương đối với Chúa. Các ngài đã lấy chính cái chết để nói lên sự gắn bó mật thiết với Chúa. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu mặn nồng như lời Chúa đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống vì bạn hữu. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu thực mạnh mẽ, còn mạnh mẽ hơn cả tử thần nữa. Tiếp đến là tình thương đối với anh em, đặc biệt là những người đã gây nên đau khổ. Chúa Giêsu trên thập giá đã tha thứ: Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng làm chẳng hiểu việc chúng làm. Với các thánh tử đạo Việt Nam cũng vậy, mặc dù phải chịu nhiều đắng cay nhưng các ngài vẫn an ủi khích lệ lẫn nhau kiên vững trong đức tin và tha thứ cho những người đã làm cho mình phải đau khổ và chết chóc.
Sau cùng các thánh tử đạo Việt Nam là những người làm chứng cho niềm hân hoan Nước Trời. Chúa Giêsu đã phán: Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời thì Ta sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng bảo: Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính vì Nước Trời là của họ. Và lời Chúa đã như là một động cơ thúc đẩy các ngài cam chịu mọi đắng cay và lướt thắng mọi khó khăn, vì những đau khổ hiện thời không thể nào so sánh được với niềm hạnh phúc bất diệt mà Chúa sắm sẵn cho những kẻ yêu mến và trung thành với Ngài. Các ngài đã đau khổ một thời để rồi được hạnh phúc đời đời. Thân xác của các ngài tuy đã chết, nhưng linh hồn của các ngài lại được vui mừng trong vinh quang thiên quốc và nhất là tinh thần của các ngài luôn bừng cháy trong tâm hồn mọi người để rồi chúng ta cũng đi theo dấu chân của các ngài. Đúng thế, hãy làm chứng cho niềm tin và tình thương của mình để rồi chúng ta cũng sẽ được hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu như các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta.
21. Hạt lúa gieo vào lòng đất – Ga 12,24-26 -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp ngụp lặn dưới bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi các bạn thóc dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành, còn các anh lại phải chìm lĩm trong vũng bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường thì các anh chẳng thấy gì, chẳng biết gì... Cuộc đời chúng tôi đầy hào quang, còn cuộc đời các anh đang tàn tạ. Bất hạnh thay cho các anh!..."
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi. Sau đó, những bánh xe từ xa chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác nát tan. Những hạt lúa may mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành mồi ngon cho côn trùng và chim chóc!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh chìm lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên thành những mầm non đầy sức sống. Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển nở thành những bụi lúa sum suê. Không đầy ba tháng sau, từ một hạt lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong bùn, nó trở thành những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng.
* * *
Ai ngờ một hạt lúa bất hạnh chìm nghỉm trong bùn, tưởng chừng như đã hư thối mà nay lại chuyển hoá thành hàng trăm hạt vàng mẩy chắc ngon lành như thế! Thật là một điều kỳ diệu và là một bài học quý báu cho chúng ta. Bài học đó người đời không biết đến, nhưng Chúa Giêsu đem ra dạy chúng ta: "Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
Một bài học đơn sơ ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một chân lý tuyệt vời.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta biết chân lý rồi để đó. Người muốn chân lý nầy được đem ra áp dụng để đời sống chúng ta được dồi dào phong phú hơn. Thế nên Người dạy tiếp: "Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời"
Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn chúng ta tồn tại như một hạt lúa nằm trơ trọi trên vệ đường khô ráo. Người muốn chúng ta hãy chấp nhận thân phận của một hạt lúa bị vùi lấp trong bùn, để nhờ đó đặt tới hạnh phúc và thắng lợi.
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Người để cho người ta nghiền tán, vùi lấp Người, huỷ diệt Người. Người đời tưởng rằng họ đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu, tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ bị mục rã trong lòng đất... nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt Đức Giêsu, họ đã giúp Người đạt tới vinh quang và thắng lợi. Qua cái chết, Người tiến vào cõi sống; qua thập giá Người đi đến vinh quang và hiển trị đời đời!
Theo bước chân Chúa Giêsu, các thánh tử đạo đã vui lòng chấp nhận thân phận hạt lúa bị ném xuống bùn. Các ngài chấp nhận từ bỏ vinh hoa phú quý người đời hứa hẹn, từ bỏ nhà cửa ruộng vườn, xa lìa cha mẹ vợ con gia đình thân thuộc, chấp nhận xiềng xích, gông cùm, tù ngục, đòn vọt và sẵn sàng hy sinh mạng sống, sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Đức Ki-tô... Người đời tưởng rằng các ngài bị thua thiệt, bị mất mát, bị diệt vong... nhưng họ có ngờ đâu, các ngài đang khải hoàn chiến thắng và sống mãi trong hạnh phúc vinh quang. Nhờ dòng máu các ngài đổ ra, đời sống Đức tin ngày càng tiến triển, Giáo Hội được lan rộng đến khắp mọi miền đất trên thế giới. Đó là điều Chúa Giêsu đã tiên báo từ xưa: "nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
* * *
Hôm nay, một khi đã khám phá điều kỳ diệu của hạt lúa chìm trong bùn đất, chúng ta không sợ thua thiệt vì phải làm chứng cho Đức tin, không sợ đau khổ mất mát vì hiến thân cho lý tưởng tông đồ. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận thân phận hạt lúa bị gieo vào bùn đất như "hạt-lúa-Giêsu", như "hạt-lúa-các-thánh-tử-đạo", bằng lòng chấp nhận con đường thập giá, bằng sẵn sàng hiến mình để phục vụ Tin Mừng... Nhờ đó, mai đây, chúng ta sẽ đạt tới vinh quang và thắng lợi với Chúa Giêsu như lời Người phán: "Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy" để rồi "Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó."
22. Không đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu là bỏ đạo -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Khi nào ta bỏ đạo?
Một trong những thử thách mà vua quan ngày xưa thường bày ra để xử tội người có đạo là đặt một cây thánh giá dưới đất rồi truyền cho họ bước qua. Ai chấp nhận bước qua là tỏ dấu công khai từ bỏ đạo Chúa thì được tha về. Ai kiên quyết không bước qua thì được xem là người ngoan cố, không chịu từ bỏ đạo Chúa thì phải chịu tra tấn, tù ngục, chịu hành hình và chịu chết.
Có nhiều người kiên quyết không bước qua thánh giá, dù bị khiêng qua thì cũng co chân lại để khỏi dẫm đạp lên. Có người lỡ dại dột bước qua, nhưng về sau ân hận nên quay trở lại, khẳng định với quan quân mình không bỏ đạo nữa và xin được chịu chết vì Chúa.
Tất nhiên có nhiều người vì sợ ngục tù xiềng xích, gông cùm và tra tấn hoặc sợ chết nên đã bước qua thánh giá. Nhưng trái lại, cũng nhiều người dứt khoát không bước qua thánh giá, cho dù phải mất hết mọi sự và mất cả mạng sống mình.
Không đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu là bỏ đạo
Đạo là gì? Người Á đông quan niệm rằng đạo là đường, đường đưa về chân thiện mỹ. Thiên Chúa là Tình Yêu nên đạo của Ngài cũng là đạo Tình Yêu. Chúa Giêsu đến trần gian để lập nên đạo yêu thương như một con đường đưa nhân loại về cõi phúc.
Chỉ có những ai giữ tròn quy luật yêu thương mới thực sự là người người theo đạo Chúa. Chúa Giêsu khẳng định rằng: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13, 35).
Những ai theo đạo yêu thương, tức là giữ tròn giới luật yêu thương Chúa dạy, thì được liệt vào hàng ngũ người con cái Chúa. Ngày phán xét, Chúa Giêsu mở cửa đón nhận họ vào Vương Quốc của Ngài: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa"; ai không sống theo luật yêu thương, là người bỏ đạo Chúa, thì bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó" (Mt 24, 34. 41)
Ngày trước trong thời bách hại, hành động bước qua thập giá Chúa Giêsu là dấu chỉ cho biết ai là người bỏ đạo. Ngày nay, hành động chà đạp lên nhân phẩm, chà đạp tình người, là dấu hiệu chứng tỏ người thực hiện điều đó đã chối bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Nói cụ thể:
Trong đời sống chung giữa xã hội, ai nuôi lòng thù oán anh em mình, xúc phạm đến người khác, gây tổn thương thanh danh, phẩm giá người khác... là người đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Trong phạm vi gia đình, đạo yêu thương của Chúa dạy vợ chồng phải nên một với nhau, phải yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời. Thế nên khi vợ chồng không còn sống yêu thương hiệp nhất nữa mà sống phân li chia cắt, thì lúc đó, hai người đã lìa bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Đạo yêu thương Chúa dạy cha mẹ phải chăm lo, giáo dục con cái, rèn đúc con cái nên người tài đức. Nếu cha mẹ thờ ơ không làm tròn nhiệm vụ đó, là cha mẹ đã bỏ đạo Chúa.
Đạo yêu thương Chúa dạy con cái phải thờ cha kính mẹ, thảo hiếu với ông bà tổ tiên; nếu con cái không giữ tròn chữ hiếu với cha mẹ, với ông bà tổ tiên là họ đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa rồi.
Trái lại, khi chúng ta theo lời Chúa dạy mà tha thứ cho người khác khi họ xúc phạm đến mình, cứu giúp những người hoạn nạn, chia cơm sẻ áo cho người nghèo thiếu, quên mình phục vụ những người chung quanh... là chúng ta đang đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu cách triệt để nhất.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo đường lối Chúa Giêsu, theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt cũng vẫn không làm cho các ngài từ bỏ đạo Chúa. Chúng ta là con cháu các ngài, mang dòng máu bất khuất anh dũng của các ngài trong huyết quản mình, thì chúng ta cũng kiên quyết đi theo đạo yêu thương của Chúa như các ngài, để mai ngày đáng được hưởng triều thiên vinh hiển với các ngài trên thiên quốc.
Nguyện xin các thánh tử đạo Việt Nam là ông bà tổ tiên của chúng ta luôn phù giúp chúng ta vững bước đi theo đạo yêu thương của Chúa.
23. Làm chứng cho Tình yêu -- Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
Một lãnh tụ vô thần đã tuyên bố: “Chúng ta hãy triệt phá Giáo hội, nhưng đừng tạo ra những vị tử đạo”. Khi tuyên bố như thế, một cách mặc nhiên ông ta công nhận điều mà Thánh giáo phụ Tertulianô đã nói là đúng: “Máu các Thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các Kitô hữu”. Hôm nay, chúng ta mừng kính các Thánh Tử đạo tại Việt Nam. Máu các Ngài đã đổ ra năm xưa, dệt nên những trang sử oai hùng giữa lòng dân tộc. Chúng ta kính cẩn nghiêng mình tưởng nhớ cái chết của các bậc tiền bối cha ông và mở lòng đón nhận sứ điệp về ơn gọi tử đạo mà các Ngài chuyển giao cho con cháu là chúng ta ngày hôm nay.
Lược sử Giáo hội Việt Nam qua dòng thời gian
Hạt giống đức tin đã được gieo vào mảnh đất quê hương Việt Nam từ hơn 500 năm trước. Trong suốt chiều dài lịch sử, Giáo hội Việt Nam đã trải qua hơn 100 năm sống trong bách hại. Sắc dụ cấm đạo đầu tiên được ban hành năm 1625, kéo dài đến hết thời Văn Thân năm 1886. Hàng vạn con người đã ngã xuống do sự thù ghét. Thế gian ghét đạo, ghét Đức Giêsu và ghét luôn những môn đệ của Ngài. Đây chính là điều mà Chúa Giêsu đã cảnh báo từ 2000 năm trước (Mt 5, 11; 10, 22). Trong số các anh hùng Tử đạo, đã có 118 vị được ghi tên trong sổ bộ các thánh, gồm 117 Hiển thánh và một Chân phước. Có 97 vị là người Việt Nam, 11 vị Tây Ban Nha, và 10 vị người Pháp. Họ thuộc đủ các giai tầng xã hội, gồm 8 Giám mục, 50 linh mục, 15 thầy giảng, 1 chủng sinh và 44 giáo dân. Trong số giáo dân, có cả những vị làm quan trong triều đình, có vị làm nghề thu thuế, làm binh lính, y sĩ hoặc chỉ là nông dân quèn. Dù là người Việt Nam hay ngoại quốc, các Thánh Tử đạo đều nói lên một chứng từ duy nhất, đó là các Ngài làm chứng về Đức Giêsu chịu hiến tế, như Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “ Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh vào Thập giá”. Cái chết của các Ngài là bài giảng sống động nhất và thâm thúy nhất. Họ rao giảng không phải trên lý thuyết, nhưng bằng chứng tá cụ thể, những chứng tá sống động và rất sâu xa. Có 6 loại án được thực hiện để hành quyết các vị tử đạo: Bá đao (cắt thân thể thành trăm mảnh) có 1 vị; Lăng trì (chặt chân tay, mổ bụng và vất xuống sông) có 4 vị ; Thiêu sinh (đốt sống) có 6 vị; Xử giảo (xiết cổ bằng dây) có 2 vị ; Xử trảm (chém đầu) có 75 vị và chết rũ tù có 9 vị. Vị Tử đạo lớn tuổi nhất là linh mục Vũ Bá Loan 84 tuổi và trẻ nhất là chủng sinh Tôma Thiện 18 tuổi. Trong thời Trịnh Nguyễn từ năm 1745 đến năm 1774 có 4 vị. Thời vua Cảnh Thịnh (1788 - 1801 ) có 2 vị. Dưới thời Minh mạng (1820 – 1840) có 58 vị tử đạo. Trong thời Thiệu Trị từ năm 1841 đến 1847 có 3 vị và thời Tự Đức từ năm 1847 đến 1883 có 50 vị. Đó là phác lược tổng quát các mốc điểm thời gian và bối cảnh dẫn đến cái chết của các Thánh Tử đạo. Nhìn lại một cách thoáng chung lịch sử của Giáo hội Việt Nam, chúng ta tạ ơn Chúa vì gia sản đức tin mà cha ông đã để lại. Gia sản đó được đan dệt bằng máu và nước mắt, đúng như lời quả quyết của thánh Tertulianô: “ Máu các vị tử đạo là hạt giống nảy sinh các Kitô hữu.”(Sanguis Martyrorum semens Christianorum est)
Ý nghĩa của việc tử đạo
Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị có kể lại một giai thoại. Hồi còn rất nhỏ, ban đêm ông ngủ với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng bỗng có tiếng khóc ai oán vang lên nghe thật não nuột. Đứa bé sợ, ôm chầm lấy mẹ và hỏi: “ Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ?” Bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời thằng bé thế nào. Bà ngồi bật dậy mở Kinh thánh ra đọc. Trong Tin mừng Gioan, bà đọc thấy đoạn sau: “ Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng (Ga 13,1)”. Gấp sách lại, bà nói với đứa con: “Con ơi, chết là trở về với Chúa Cha và yêu thương đến cùng. Đây là hai chiều kích đặc thù nơi cái chết của Đức Giêsu, vị tử đạo đầu tiên, và cũng được lập lại nơi cái chết của các Thánh tử đạo tại Việt nam. Các Ngài đã chết để trở về nhà Cha và hoàn tất cuộc hành trình yêu thương của mình nơi trần thế. Họ ý thức Lời Chúa dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Nếu được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn, nào có ích gì?” (Mc 8, 35-36)”. Thánh Phaolô Đạm nói trước tòa án Nam Định: “ Nếu tôi có hai linh hồn, tôi sẽ bán một cái cho ma quỷ để cho các ông vui lòng, nhưng tiếc quá tôi chỉ có một linh hồn, nên tôi không thể bỏ mất”.
Nhưng trên hết, hành vi Tử đạo luôn hàm ngậm ý nghĩa của việc làm chứng. Hạn từ Marturion theo nguyên ngữ Hi Lạp cũng mang chở ý nghĩa này. Các Ngài chết để làm chứng, nhưng không phải làm chứng cho một chế độ, một chủ nghĩa, mà là làm chứng cho một con người. Con người đó chính là Đức Giêsu, một Thiên Chúa làm người đã can đảm đón nhận cái chết khủng khiếp giống một tên cướp, để khai mở cho chúng ta chân trời ơn cứu độ. Các Thánh Tử đạo đã dùng máu của mình để làm chứng cho Đấng mà các Ngài tin theo.
Sống ơn gọi tử đạo ngày hôm nay.
Trong đại hội tu sĩ trẻ thế giới tổ chức tại Rôma đầu tháng Chín năm 2015. Ban tổ chức đã dành một tiếng đồng hồ để các tu sĩ đặt câu hỏi và Đức Thánh Cha trực tiếp trả lời. Có một anh em tu sĩ dòng DonBosco đến từ Syria đứng lên phát biểu và hỏi Ngài vài điều. Đức Thánh Cha sau khi trả lời đã hỏi ngược lại: “Con từ đâu đến đây?”. Vị tu sĩ trẻ nói là Ngài đến từ Syria. Đức Thánh Cha mở to đôi mắt nhìn vị linh mục và nói với cử tọa: “Chúng con hãy cầu nguyện cho các vị tử đạo hiện nay tại Iraq và Syria”. Cả hội trường xúc động vì tình hình chiến sự đang xảy ra rất khốc liệt tại Trung Đông, khiến bao nhiêu Kitô hữu bị giết, nhiều gia đình ly tán, các nhà thờ bị đốt phá, cả trăm ngàn người dân vô tội phải trốn tránh hoặc đi tị nạn.
Như vậy, ngày hôm nay vẫn còn các vị tử đạo, những con người bị thù ghét vì lý tưởng và niềm tin của mình. Nhưng hiểu theo nghĩa rộng hơn, sống mầu nhiệm tử đạo không phải là chuyện viễn tưởng xa vời. Đó chính là bản chất ơn gọi gắn liền với căn tính Kitô hữu chúng ta. Chúa Giêsu đã nói “Ai muốn theo tôi phải bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo tôi” (Mc 8,34).
Hầu hết các quốc gia trên thế giới ngày nay đã bãi bỏ án tử hình, và cũng tôn trọng tự do tôn giáo, ít nhất là trên lý thuyết. Việc đàn áp tôn giáo với những màn tra tấn, tống ngục hay giết chết đang dần bị con người ngày hôm nay đào thải, vì nó đi ngược với khái niệm về nhân quyền mà xã hội luôn đề cao. Tuy nhiên lời mời gọi của Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy để sống ơn gọi tử đạo vẫn luôn mang tính thời sự cho tất cả mọi người thuộc mọi thời đại, vì nó là thuộc tính nơi cuộc sống của những học trò Đức Giêsu. Ơn gọi Kitô hữu luôn hàm ngậm cái chết. Cái chết trên Thập giá theo gương Đức Giêsu là đích điểm mà tất cả mọi người chúng ta phải vươn tới. Văn hào Goethe đã viết: “ Làm một việc hy sinh to lớn trong khoảnh khắc thì dễ, chỉ cần chút can đảm nhất thời, nhưng thể hiện những hy sinh nho nhỏ và liên tục trong suốt cuộc đời thì khó hơn nhiều”. Đó là cái chết tiệm tiến, từ từ trong cuộc sống đức tin để sao chép lại chính cái chết của Đức Giêsu. Mô thức ơn gọi tử đạo của tất cả chúng ta hôm nay là như thế. Chúng ta phải đi sâu vào cái chết không đổ máu, không xích xiềng hay tù ngục qua cuộc sống hằng ngày và một cuộc sống như vậy chính là để làm chứng cho tình yêu.
Kết luận
Để kết luận, xin trích mượn tư tưởng của thánh Charles de Faucauld. Ngài nói: “Ở đời này chúng ta chỉ có thể ôm lấy Chúa Giêsu bằng cách ôm trọn Thập giá của Ngài. Ta không thể yêu mến Thập giá mà lại không có Chúa Giêsu bị đóng đinh nằm ở trên. Đồng thời chúng ta cũng không thể ôm lấy Chúa Giêsu mà lại vắng bóng Thập giá”. Hoa hồng là biểu tượng của tình yêu. Cánh hoa hồng càng rực rỡ càng có nhiều gai nhọn ẩn sâu bên dưới. Cũng vậy tình yêu đến thật nhiều xuyên qua đau khổ. Con đường đau khổ dẫn đến Thập giá, chính là con đường của ơn gọi tử đạo, con đường của tình yêu. Cũng như thánh Têrêsa hài đồng Giêsu đã viết: “Sống bằng tình yêu không phải là định cư mãi với Chúa Giêsu trên đỉnh núi Tabor giữa những vinh quang sáng chói, nhưng là còn phải trèo lên đỉnh Calvê để ôm nhận Thập giá như một kho tàng”. Sống ơn gọi tử đạo là như thế.
24. Những Anh Hùng Đất Việt
Anh chị em thân mến.
Mang kiếp sống con người, được sinh ra trên trần gian thì cũng sẽ có ngày từ giã trần gian. Chúng ta từng chứng kiến nhiều cái chết: có những cái chết hết sức thương tâm, có những cái chết mà dường như người chết không hay biết gì, không có được một sự chuẩn bị nào hết. Có những cái chết mà đương sự lo sợ, cố tìm mọi cách để nó đừng đến nhưng không được, có những cái chết hết sức bình thản ung dung, cũng có những cái chết mang lợi ích cho biết bao nhiêu người, vì cái chết làm cho nhiều người sống xứng đáng hơn, mạnh mẽ hơn.
Ngày hôm nay, giáo hội Việt mừng những cái chết của những người đã từ giã trần gian nầy, mừng những cái chết hào hùng, đã để lại cho biết bao người tấm gương anh hùng trong đời sống, những người này dám dùng cái chết của mình để làm cho mình và nhiều người được sống, họ dám hiên ngang từ bỏ những gì không cần thiết nên giờ đây họ được sống mạnh mẽ cùng với hạnh phúc Thiên Đàng.
Họ là ai mà họ can đảm thế?
Họ là ai mà họ anh hùng thế?
Họ là ai mà họ được hưởng hạnh phúc như thế?
Thưa họ là những con người như bao nhiêu người khác. Họ cũng là những người Việt Nam, cũng có một mái ấm gia đình, cũng biết yêu thương và tràn đầy những ước mơ cho cuộc sống. Nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa: "Ai lo bảo vệ mạng sống mình thì sẽ mất", "ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo Ta".
Các ngài đã lắng nghe lời Chúa, không phải chỉ nghe mà thôi, nhưng nghe mà còn sống, còn hành động. Các ngài đã anh dũng sống lời Chúa, khi các ngài dám chọn con đường chết. Những ước mơ của các ngài không là gì khi các ngài nhìn thấy được hạnh phúc đời đời. Tình yêu thương nơi trần thế giờ đây không chỉ đơn thuần là của trần thế, nhưng đã được thăng hoa, được nâng lên để trở thành bất diệt. Mái ấm gia đình mà các ngài đang sống làm sao có thể so sánh được với gia đình vĩnh cửu mà các ngài đang sống trên Thiên Đàng, nên mạng sống của các ngài cũng đã hoà nhập vào sự sống bất diệt.
Các ngài dám bước di trên con đường thập giá, dám hy sinh mạng sống, các ngài đã để lại cho con cháu, cho chúng ta gương anh hùng, để lại con đường sống, con đường theo Chúa.
Chúng ta là con cháu các ngài, nhưng giờ này cuộc sống của chúng ta có là cuộc sống anh hùng mà các ngài đã nêu gương và để lại cho chúng ta, hay chúng ta vẫn sống bình thản, như không hay biết gì về sự hy sinh của các ngài. Lời Chúa mà các ngài đã thực hiện, chúng ta cũng đã nghe, đã biết, nhưng không thể thi hành được như các ngài. Chúng ta còn quá nhiều ước mơ chưa thực hiện được, nên đang tìm mọi cách để thực hiện cho được những gì là ước mơ, không cần biết nó có chính đáng hay không. Chúng ta sợ mất đi những gì mình có, nên cố gắng bảo vệ nó. Chúng ta bảo vệ những gì mà một ngày nào đó nó cũng sẽ phản bội và từ bỏ, khi chúng ta bước vào sự chết. Chúng ta đang cố lừa dối mình, không nói đến cái chết, để không chuẩn bị gì hết, cố bám lấy điều mà chúng ta gọi là sự sống và cố gắng một cách vô vọng. Như thế chúng ta đang run sợ trước cái chết vì không biết chuẩn bị, cũng không biết mình đi đâu. Chúng ta cũng đang bị bất ngờ trước cái chết vì đang tìm sự sống cho chính mình, sự sống của trần gian này.
Nếu chúng nhìn thấy được gương anh hùng mà các thánh tử đạo đã thực hiện, nếu chúng ta nhận ra được tình yêu thương mà các ngài đã cảm nhận và đã sống, nếu chúng ta nhận ra được con đường mà các ngài đã đi, để biết noi gương các ngài thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta can đảm chu toàn những gì mà mình phải làm trong trách nhiệm với tất cả ý thức, đó là một hình thức tử đạo, không phải một lần, nhưng từng giây từng phút của cuộc đời. Nếu trước những gian khó mà không lùi bước, sẵn sàng thực hiện thánh ý Chúa, để biết yêu thương giúp đở người khác khi cần thiết. Đó là chúng ta đang đi trên con đường can đảm mà các ngài đã đi.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa và xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cho chúng ta được ơn can đảm, biết chu toàn bổn phận trong đời sống hằng ngày và biết yêu thương giúp đỡ mọi người,để sống xứng đáng là con cháu của các Ngài.
25. Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình
Một bác tiều phu đi đốn củi. Đốn được một bó to sắp mang về thì bác bỗng chợt nghĩ thấy đời mình sao khổ quá, tuổi đời cứ tăng lên, sức khoẻ thì sút đi, mà gánh nặng gia đình vẫn không đổi thay, lại thấy nhiều người chẳng phải lo đến chuyện cơm áo gạo tiền. Bác mới kêu lớn lên: “Ước gì tôi được gặp Thần Chết!”
Bác vừa nói xong thì thấy Thần Chết đứng ngay trước mặt, tay cầm lưỡi hái, miệng hỏi: “Ông lão muốn điều gì?” Bác lập cập trả lời: “Bó củi to nặng quá! Nhờ ngài đưa giùm lên vai tôi”.
Thế đó, dù khổ đến đâu, sự sống vẫn luôn được yêu quý hơn mọi giá. Nhưng dù có quý trọng và giữ gìn đến đâu, cái chết vẫn là một sự thực không ai có thể phủ nhận được: “Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng phải đến ngày tận số?” (Tv 49,9-10)
Thoạt nhìn, sự chết là một thực tại cay đắng của phận người, nó đập tan mọi bảo đảm bền vững, mọi dự tính khôn ngoan của trần gian.
Nhưng phải cám ơn Thần Chết! Vì đó là người thổi tiếng kèn đánh thức con người khỏi mê ngủ bởi những quyến rũ hào nhoáng của thế gian, để đi tìm một ý nghĩa cao đẹp cho thân phận cát bụi, để nhận ra và sống tình yêu thương, đó là cánh cửa đưa chúng ta vào sự sống thực sự và vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã ban tặng khi dựng nên chúng ta theo hình ảnh Ngài. Sự chết cho chúng ta thấy tình yêu Chúa: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16)
Vâng, ai cũng kính phục một người sẵn lòng chết vì yêu, dù người đó có địa vị thấp hèn đến đâu đi nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Thế mà tình yêu đẹp nhất đã dành cho chúng ta: Trên cây thập tự, Chúa nâng chúng ta lên cao khi gọi chúng ta là bạn hữu, và yêu thương chịu chết cho tội của chúng ta.
Niềm tin Kitô là một nghịch lý trước mọi suy nghĩ, tính toán của thế gian, ngay từ lời mời gọi của Đức Kitô: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,23-24).
Nhưng ai đi theo Đức Kitô, bỏ mình vì yêu, người ấy nghiệm được nơi mình một kho báu vượt trên tất cả và không bao giờ bị mất.
Tình yêu Thiên Chúa hướng con người đến một giá trị không tàn phai theo thời gian, và làm cho mọi bóng tối trong cuộc đời khổ cực được tràn đầy ánh sáng phục sinh: “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, - vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1Pr 1,7-9)
Năm 1861, khoảng 2300 giáo dân Bà Rịa đang yên ổn sống đạo thì đến tháng 8 quan tuần vũ Biên Hoà ra chỉ thị cho phủ Bà Rịa lập danh sách người có đạo. Dân có đạo phải “khắc tự” hai bên má, một bên chữ Biên Hoà, một bên chữ tả đạo. Đến tháng 9, có khoảng 700 người Kitô hữu bị giam trong bốn nhà giam được thiết lập tại phủ Bà Rịa.
Lính gác nghiêm nhặt ngày đêm, không cho ai ra ngoài. Đại tiện, tiểu tiện đều tại chỗ, may lắm mới có được một đứa nhỏ ở ngoài được cho vào hốt đổ đi. Thời tiết mùa mưa ẩm thấp, phải nằm ngủ dưới nền đất, lại không phên bạt che nắng mưa nên nhiều người lâm bệnh chết rũ tù.
Dù vậy, chẳng có ai bỏ đạo. Có một ông bị nhốt trong ngục, vợ và con ở ngục khác trốn thoát được ra ngoài mới tìm chạy được 30 quan tiền định lo lót cho chồng được tha. Nhưng ông nhất định không chịu vì coi đó là việc không chính đáng, và sẵn sàng ở lại để chịu chết vì Chúa.
Cuối tháng 12, Biên Hoà thất thủ, quân nhà Nguyễn chạy đến Bà Rịa nhưng thấy không đủ sức địch lại quân Pháp nên phải rút đi. Trước khi rút, ngày 07/01/1862, họ phóng hoả đốt cả bốn nhà giam các tín hữu.
Người bị giam cố gắng thoát ra, có lính canh ở ngoài đâm chết, có lính thấy đàn bà trẻ con thì thương tình phá cửa cho họ chạy, một cai đội chặn họ lại cướp của. Số người tử vì đạo là 444 người.
Họ đã chết, nhưng chết trong niềm vui, chết trong hy vọng.
Được sinh ra, sống, chết và chịu đau khổ là những gì không ai tránh được. Nhưng mọi đau khổ trong cuộc sống sẽ nở hoa niềm vui và hy vọng khi chúng ta để tình-yêu-đến-bỏ-mình của Chúa dẫn đường và thúc đẩy: “Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương” (Tv 63,4)
Sống yêu thương có phải là chọn lựa của tôi?
26. Sống chứng nhân – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
"Tin đạo chứ không tin người có đạo". Câu nói này tôi đã nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải là những người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ là những người đã lâu năm không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ có đạo nhưng không sống đạo. Họ mang danh ky-tô hữu nhưng lại bảo rằng "đạo tại tâm" nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người ky-tô hữu. Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là vì chê ghét một ai đó trong đạo. Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ. Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không còn xưng tội rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ đòi người khác phải làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin mừng. Họ đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán. Họ đòi người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn bó với giáo xứ. Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng lúa Giáo hội Chúa Kitô. Họ chính là những người có đạo nhưng không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.
Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh ky-tô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một chút bổng lộc. Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp thánh An-rê Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang ngược. Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã không sửa đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.
Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế. Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày 28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.
Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình. Các ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Kitô. Các ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được sống lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà quan triều đình nói với ngài: "Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông". Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh trả lời: "Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng".
Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình huống. Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận hờn mà thù hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất niềm tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán đứng anh em để cầu vinh.
Ngày nay chúng ta không còn những bạo chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó những người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ lạc. Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương trong lời nói và việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã lao vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng đáng mang danh là ky-tô hữu.
Quả thực, ngày nay không cần những cuộc bắt đạo những vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian. Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống của mình. Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án "tin đạo chứ không tin người có đạo", vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.
Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam, là cha ông chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi lộc của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống thánh thiện, bác ái yêu thương. Amen.
27. Tử Đạo thời công nghệ 4.0 -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Đức Thánh Cha Phanxicô đã từng nói: “Một Giáo hội không có các vị tử đạo là một Giáo hội không có Chúa Giêsu”. Đức Thánh Cha cũng mời gọi cầu nguyện “cho các vị tử đạo của chúng ta đang đau khổ rất nhiều,” “cho các Giáo hội không được tự do để diễn tả chính mình”: “họ chính là niềm hy vọng của chúng ta.” Ngài nhắc lại lời của giáo phụ Tertullien xưa đã viết: “Máu của các vị tử đạo, là hạt giống của các Kitô hữu.” Thế nên, Đức thánh Cha cám ơn Chúa đã hiện diện với sức mạnh của Chúa Thánh Thần nơi các anh chị em đang chịu bách hại bằng nhiều cách...
Quả thực, ngày nay vẫn còn đó những cuộc bách hại bằng khủng bố đánh bom nhà thờ, và sát hại các linh mục tu sĩ, vẫn còn đó những cuộc cấm đoán biểu lộ niềm tin như giáo hội hầm trú Trung Quốc, hay tại các nước đang phát triển mà Đức Thánh Cha đãnói: “Tôi không thể quên chứng tá của Linh mục và nữ tu ở nhà thờ chánh tòa Tirana: năm này qua năm khác ở trong tù, bị lao động khổ sai, hạ nhục,”, đối với họ nhân quyền không tồn tại.
Ngày hôm nay còn có một hình thức bách hại mới mà Giáo hội Việt Nam cũng đang phải đối diện. Đó chính là sự bách hại bởi truyền thông xã hội. Chúng ta cũng thấy nhiều linh mục, Giám mục đã trở thành “các vị tử đạo” bởi truyền thông xã hội khi các ngài mạnh dạn lên tiếng nói cho sự thật và bảo vệ công lý. Có những linh mục giúp cho dân mình khởi kiện sự tàn phá môi trường của Formosa liền bị quy chụp bởi nhiều tội danh chẳng liên quan đến việc đòi lại công lý. Có những giám mục chỉ nói lên tiếng nói của sự thật liền bị truyền thông cắt xén, bóp méo và tìm cách loại trừ. Có những Giám mục bảo vệ công lý thì bị quy chụp là xem thường pháp luật, bị các thế lực thù địch xúi giục, bao che tội phạm… mà trong nhiều hệ thống báo chí, đài phát thanh và truyền hình đã từng đăng tải...
Cónhững linh mục còn bị những truyền thông giấu mặt mà người ta hay nói là đội quân DLV luôn chửi bẩn, nói bậy khi các linh mục này dám lên tiếng nói kêu gọi tôn trọng sự sống và phẩm giá con người. Đội quân DLV đa số là thành phần thất học, chỉ cần tiền nên không biết lý lẽ, phải trái... và sẵn sàng lao vào người ngay chính rủa xả và dừơng như họ luôn coi các lãnh đạo tôn giáo như kẻ thù và là mục tiêu của thách thức chế diễu, lăng mạ...
Thời nào cũng có những cuộc bách hại, nhưng Giáo hội lại càng cần những chứng nhân trong những cuộc bách hại như thế. Vì càng bị bách hại người tín hữu càng được tôi luyện mình nên tốt hơn, và là dịp thuận lợi để làm chứng cho niềm tin của mình.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà người ta sống ảo nhiều hơn sống thực. Thế giới ảo phải chăng chính là môi trường cần thiết để chứng tá tin mừng được ghi dấu nơi ấy? Thế giới ảo phải chăng là lời mời gọi cuộc cách mạng tin mừng hãy dùng chính thế giới ảo ấy lan truyền tin mừng của Chúa đến cho mọi người? Đây cũng là một thế giới công bằng và cộng đồng mạng là những người thực thi công lý. Bởi vì rất nhiều những án oan, nhưng bất công đã được cộng đồng mạng đồng tâm chia sẻ và đòi lại công bằng đã thành công.
Tại sao người Công giáo chúng ta còn ngần ngại tuyên xưng niềm tin bằng việc loan tải những sứ điệp đầy yêu thương của Chúa đến cho mọi người? Tại sao chúng ta không tận dụng truyền thông để đẩy lùi sự dữ ra khỏi xã hội loài người? Phải chăng còn rất ít người dám tuyên xưng niềm tin? Phải chăng chúng ta đã cố tình bịt mắt, bịt tai, bịt miệng để tìm an toàn cho bản thân?
Cha ông chúng ta dám đổ máu đào để bảo vệ đức tin và làm chứng cho tin mừng trong điều kiện đầy khó khăn và gian khổ. Máu của các ngài đã đổ ra để bảo vệ và truyền lại đức tin cho con cháu là chúng ta. Chắc chắn các thánh TĐVN cũng mong muốn con cháu mình phải tiếp tục bảo vệ đức tin trong thế giới hiện đại. Nhất là trong truyền thông giáo hội đang bị xuyên tạc và khủng bố, nên rất cần người tín hữu công khai bảo vệ niềm tin của mình. Như cuối năm 2017 người ta dựng nên một Đạo thánh Đức Chúa Trời với một phong trào rầm rộ cả nước Việt Nam, rõ ràng đây là một âm mưu nhằm xuyên tạc tín lý giáo hội Công giáo, và khủng bố niềm tin nơi giáo dân. Rồi người ta lăng mạ các linh mục tu sĩ trong hình dạng ma quái ghê sợ trong ngày halloween, người ta cho biểu diễn game show với hình nữ tu ăn mặc hở hang... Thế giới truyền thông cũng tiềm ẩn rất nhiều sự dữ nên cần người tín hữu phải mạnh dạn lên tiếng bênh vực công lý và đẩy lùi sự dữ cho dầu có chịu nhiều lăng nhục hay bách hại...
Chắc chắn khi chúng ta dám làm chứng cho sự thật, dầu ở môi trường nào cũng là đối kháng lại với thế gian nên sẽ gặp những chống đối, quy chụp, bách hại,... Chúng ta hãy mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của mình vì “phần thưởng chúng ta rất lớn trên quê trời, vì Chúa Giê-su đã từng nói: phàm ai tuyên “xưng Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8)
Nguyện xin các thánh TĐVN giúp sức để chúng ta can đảm tiếp nối các tiền nhân dám làm chứng cho tin mừng, cho công lý và sự thật giữa thế giới văn mình nhưng thiếu tình yêu hôm nay. Amen.
28. Con người thích thỏa hiệp -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống con người luôn đầy rẫy sự thỏa hiệp. Thỏa hiệp trong giao tế, trong chính trị, trong làm ăn. Thỏa hiệp đòi hỏi sự nhượng bộ, sự nhân nhượng, nhường bước. Sự thỏa hiệp đòi hỏi phải từ bỏ một phần quan điểm của mình để nhượng bộ cho đối phương. Cách riêng, trong đời sống luân lý thì không có sự thỏa hiệp. Con người không bao giờ được thỏa hiệp với sự dữ, nghĩa là không bao giờ thỏa hiệp với Satan và bộ hạ của nó. Thỏa hiệp với ma quỷ là con người tự làm cho mình ra nô lệ tội lội.
Adam – Eva đã tự tìm đến cái chết khi thỏa hiệp với ma quỷ. Thỏa hiệp luôn là thất bại trong cay đắng. Thỏa hiệp là tự tìm đến cái chết thay vì được sống trong tự do. Biết bao người đã thỏa hiệp để bắt tay làm ăn bất chính, để làm ngơ trước sự xấu hoành hành. Họ có tiền, có quyền nhưng không bao giờ có niềm vui tâm hồn bình an.
Tuy nhiên, cuộc đời vẫn còn đó những con người từ chối thỏa hiệp. Họ là những con người thà nghèo đói để được bình an tâm hồn hơn là kiếm tiền bằng việc phi nhân thất đức mà lòng chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian truân khốn khó. Họ chấp nhận đánh mất mùa xuân hạn hẹp trần gian để đổi lấy mùa xuân bất diệt thiên đàng.
Hôm nay chúng ta mừng kính 117 thánh tử đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền nhân đã chết trong các đợt cấm đạo tại Việt Nam. Họ đã chết không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian. Giữa sự sống và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó chính là cây thập giá. Bước qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước qua thì được trở về với vợ con, với xóm làng. Đôi khi còn được hưởng chức tước vua ban. Nhưng các thánh tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ đạo. Không vì ham sống sợ chết mà chà đạp lên thập giá. Các ngài cam lòng chịu đòn roi, chịu án tử hình như cơ hội để lãnh phúc triều thiên vinh quang. Như trường hợp ông đội Bường đã thẳng thắn trả lời với quan quân: "Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước thiên đàng vậy". Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ các đồng đạo rằng: “Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm chịu đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì hãy xin Ðức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng".
Là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã dám chết để minh chứng niềm tin. Đây là gương sáng mà các ngài để lại cho hậu thế. Hãy sống trung thành với Chúa, với Giáo hội. Hãy can đảm từ chối mọi thỏa hiệp bất chính. Nhưng xem ra cuộc đời vẫn còn đó những con người vì chút bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó những con người vì miếng cơm manh áo đã chẳng giữ đạo hay chỉ giữ một cách hời hợt. Họ giữ đạo hình thức đôi khi có cũng như không. Vẫn còn đó những con người vì tiền mà bán mình, bán con để kiếm đồng tiền bất chính. Họ thà rằng lỗi luật Chúa còn hơn là bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Vẫn còn đó những con người bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ Giáo Hội chứ không bỏ danh vọng trần gian.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức tin xin gìn giữ chúng con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi thú trần gian để nên chứng nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay.
29. Làm chứng nhân - Lc 21, 5-19
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ.
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19/6/1988 tại Rôma, tức là 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên bậc hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.
300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ.
Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công Giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững đức tin chân chính của mình.
Trong hơn 100.000 vị tử đạo, có 58 giám mục và linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Ý, 15 linh mục Việt Nam, 340 thầy giảng, 270 nữ tu Mến Thánh Giá và 99.182 Giáo dân.
Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã bị bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc dài lịch sử.
Các Thánh Tử Đạo đã chịu đủ mọi cực hình để làm chứng cho đức tin của mình:
- Bị xiềng xích, lao tù, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp, bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông, bị tống cổ ra khỏi nhà, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc. Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bệnh và bị dã thú ăn thịt…với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã man.
- Cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ.
Như vậy các thánh tử đạo Việt Nam đã làm chứng bằng việc chịu chết vì đức tin và máu của các ngài đã đem lại nhiều lợi ích cho Giáo Hội như Tertulianô đã nói: “máu của các vị tử đạo là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.
Ngày nay mỗi Kitô hữu có thể làm chứng cho Chúa bằng nhiều cách khác nhau và mỗi người có một cách làm chứng riêng của mình. Trên thế giới ngày nay có biết bao nhiêu ngành nghề, biết bao lãnh vực, cho nên có vô vàn vô số những phương cách thích hợp. Chính vì vậy mà Chúa đã nói với các tông đồ và cũng nói với mỗi người chúng ta rằng: “Các con là chứng nhân của Thầy” (Lc 24,48). Cách tốt nhất và hữu hiệu nhất là làm chứng nhân cho Chúa bằng chính cuộc sống của chúng ta như cha Vianney. Trong việc phong thánh cho linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ ngài về đời sống của ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: “Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.
Và đây, một bác tài xế xe taxi đã làm chứng nhân cho Chúa trong chính cuộc sống đời thường của mình:
Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách sống đời chứng nhân của một bác tài xế xe taxi như sau:
“Ngày nọ, tôi đón taxi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi thấy ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giêsu in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường... Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi tài xế:
- Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
- Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còn mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách do bác giới thiệu?
- Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe để kiếm tiền nuôi sống gia đình. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì đã có thể làm hai công việc một lúc: Vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không phải tốn thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc tuyệt vời!
Một số hội đoàn Công Giáo Tiến Hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe taxi ở Đài Bắc một tấm thẻ bọc nhựa treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang đồng hành với bạn”. Mặt sau là lời cầu của các tài xế như sau: “Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước quá giá, sẵn sàng trả lại đồ đạc cho khách hàng bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường, cho tay chân con được khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây ra tai nạn. Xin cho tâm trí con luôn được bình an và thần kinh con luôn ổn định. Xin đừng để con lái xe khi đã uống rượu say vì không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn "Thượng Lộ Bình An". Amen.
30. Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Lm. Anfonso)
“Có một điều nghịch lý căn bản trong Tin Mừng: muốn tìm thấy sự sống, phải bỏ mất nó; muốn sinh ra, thì phải chết; muốn được cứu độ, phải nhận lấy thập giá của mình!"
Suy niệm:
Lịch sử Giáo hội trải qua hơn 2000 năm không thiếu những gương chứng nhân đức tin giúp củng cố lòng đạo nơi các tín hữu. Và cũng như Tin mừng mới đến trên mảnh đất Việt Nam vào giữa thế kỷ XVI, do một linh mục thừa sai tên Inêkhu truyền giáo năm 1533, thế nhưng cũng đã đóng góp vào lòng Giáo hội hoàn vũ tới 130.000 tín hữu chịu tử đạo vì danh Chúa trên khắp cả nước, mà khởi đầu là Anrê Phú Yên hay còn gọi là Anrê Trung chịu tử đạo năm 1644, và kéo dài mãi đến năm 1885 khi phong trào Cần Vương phò vua đã quyết “Bình Tây diệt Tả”, tiêu diệt người ngoại quốc, diệt trừ Kitô giáo. Giai đoạn bách hại nặng nề nhất là vào thế kỷ XIX, trong các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Lý do bị bách hại là vì Kitô giáo bị coi là ngoại lai, do người Tây đem vào; hoặc vua được coi là thiên tử, phải thờ phượng nhà vua trên hết mà nay Kitô giáo lại tôn thờ Thiên Chúa trến hết; hay vì lý do người Kitô hữu sống một vợ một chồng, điều này đi trái lại ý vua muốn trai năm thê bảy thiếp để có thể sinh ra cho nhà vua một dân tộc lớn mạnh với số dân đông đảo để có người bảo vệ đất nước. Và thậm chí Kitô giáo bị hiểu lầm là những người bỏ việc thờ kính cha mẹ, đi ngược lại với truyền thống tổ tiên nên gọi là Tả đạo và quyết loại bỏ đạo sai trái này.
Vinh phúc tử đạo là phần phúc cao cả nhất dành cho người tin vào Chúa Kitô Giêsu vì được chung phần đau khổ với Người, được vác thập giá mình mà theo Người. Với đa dạng những bậc sống và hoàn cảnh khác nhau từ giáo sĩ tới giáo dân, từ quan lính tới thường dân, từ nhà giàu đến người nghèo bất kể nam phụ lão ấu đều can đảm dùng giá máu làm chứng cho giá trị Tin mừng. Gương sáng của các ngài đã được Giáo hội Hoàn vũ ghi nhận và vinh danh. Vào ngày 19 tháng 6 năm 1988 trở thành cột mốc trọng đại trong lịch sử Giáo hội Công Giáo Việt Nam. Tại quảng trường thánh Phêrô ở Rôma, Đức thánh cha Gioan Phaolô đệ II đã long trọng tuyên phong 117 vị Tử đạo tại Việt Nam lên hàng Hiển Thánh, đại diện cho muôn ngàn tín hữu khác cũng chịu phúc tử đạo.
Trong số 117 vị ấy, có 8 vị Giám mục đều là thừa sai ngoại quốc, 50 Linh mục thì có 13 vị người ngoại quốc và 37 vị người bản địa Việt Nam, 14 Thầy giảng; 1 Chủng sinh và 44 Giáo dân. Trong những cái chết anh dũng ấy, có 1 vị chịu bá đao (một trăm nhát dao), 4 vị chịu lăng trì (tùng xẻo: gõ tiếng trống thì lóc miếng thịt), 6 vị chịu thiêu sống, 75 vị chịu xử trảm, 22 vị bị xử giảo (siết cổ tới chết) và 9 vị chết rũ tù.
Giáo hội Công giáo Việt Nam tự hào và biết ơn cùng sự ngưỡng mộ đối với các bậc tiền bối anh dũng. Qua đó, cũng để nhắc lại gương sáng của các ngài cho hậu thế, Giáo hội Việt Nam sắp khép lại Năm Thánh tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 30 năm biến cố lịch sử trọng đại này, thế nhưng hào khí trở nên chứng nhân cho Chúa Kitô giữa lòng xã hội không hề giảm sút nơi lòng tín hữu con dân Việt Nam, đủ để thấy như lời văn sĩ Tertulianô đã nói: “Máu các vị thánh tử đạo là hạt giống trổ sinh các Kitô hữu”. Vậy chúng ta là những người hậu thế cố gắng trong mỗi ngày sống quyết luôn can đảm làm chứng cho Chúa ngay từ những việc nhỏ bé hằng ngày, từ việc làm dấu, dự lễ sốt sắng, từ đời sống chân thành, chịu đựng lẫn nhau, tận dụng những dịp đến với anh chị em là cơ hội cho mình trở nên chứng nhân cho Chúa với một đời sống tốt lành, như lời Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, ngài đã viết: “Có một điều nghịch lý căn bản trong Tin Mừng: muốn tìm thấy sự sống, phải bỏ mất nó; muốn sinh ra, thì phải chết; muốn được cứu độ, phải nhận lấy thập giá của mình! Amen".
31. Các thánh tử đạo Việt Nam - Ga 17, 11b-19
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay là một đoạn ngắn trong lời nguyện hiến tế của Chúa Giêsu sau bữa Tiệc Ly, trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn.
Đọc lại những lời này, chúng ta cảm nghiệm được mối liên hệ sâu xa giữa Chúa Giêsu với Cha Ngài. Chúng ta cũng cảm nghiệm được mối tình đầy ắp giữa Chúa Cha và Chúa Con, khi Ngài đang là người giữa chúng ta. Ngài đưa chúng ta vào giữa tình yêu của Ngài với Chúa Cha. Ngài cho thấy sự sống đầy yêu thương giữa Chúa Cha và Ngài. Tình yêu đã làm cho Ngài và Chúa Cha nên một, và Ngài muốn chúng ta nên một như thế.
Định luật tình yêu chân thật là như thế.
Ước nguyện của Ngài là chúng ta không những được nên một với nhau mà nên một với Chúa Cha. Vì thế, sống hay chết, chúng ta vẫn hiệp thông với Chúa Cha và với nhau.
Các thánh tử đạo là những người đã đạt tới đỉnh cao của tình yêu. Dù thử thách, gian nan hay nhục hình, các ngài vẫn trọn tình với Chúa.
Tử đạo là chết vì yêu, là nên một với Đấng mình yêu trọn vẹn. Các thánh tử đạo đã thực hiện trọn vẹn lời của thánh Phaolô: “Ai có thể tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu sự sống hay sự chết…bất cứ một thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).
Vì thế không có thánh tử đạo nào tỏ ra buồn bã hay chán nản, mà ngược lại, hiên ngang và vui tươi. Cái chết đối với các ngài không phải là một mất mát mà là vinh quang. Các ngài đã nên một với Chúa từ đời này, trong ngục tù, trong khổ nhục và họ chỉ mong được nên một với Chúa của họ trong vinh quang. Vì thế, cái chết chỉ là một cuộc vượt qua.
Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các môn đệ và Ngài đã gìn giữ họ trong tình yêu của Ngài, không để cho ai bị hư mất trừ người đã tự mình chọn lấy sự hư mất.
Cái chết đối với họ cũng là dấu chỉ của tình yêu. Họ sẵn sàng chấp nhận nó trong niềm vui. Đây là điều gây ngạc nhiên cho những người không tin. Tại sao đứng trước khổ hình và cái chết, họ luôn hiên ngang và vui tươi như thế? Họ đi vào cái chết như đi vào một tiệc vui. Làm sao hiểu được niềm vui trong lòng cô dâu và chú rể trong ngày thành hôn?
Phải yêu thực sự mới hiểu được niềm vui của các thánh tử đạo.
Chính Chúa Giêsu là niềm vui bất diệt của các ngài. Chính Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho họ: “Bây giờ Con đến cùng Cha và Con nói lên những điều này lúc Con còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của Con.” Chúng ta hiểu tại sao cái chết trở nên nhẹ nhàng như thế. Thế gian tưởng họ là những người điên khùng hay cuồng tín. Đối với thế gian, cái chết của họ thật vô lý. Thế gian đâu hiểu được rằng cuộc sống trong trần gian, nếu không có cuộc sống hạnh phúc mai sau, thì mới thực sự là vô nghĩa.
Hơn nữa, người Công giáo có một mối tình sâu đậm và quí báu đến nỗi không bao giờ họ đổi với một cái gì khác, và đối với họ “không có tình yêu nào cao đẹp cho bằng chết cho bạn hữu”. Và họ dám chết cho người yêu duy nhất của họ là Chúa Giêsu. Vì thế họ xem cái chết như một cử chỉ yêu thương tuyệt hảo, cũng như Ngài đã chết cho họ vì yêu thương. Qua khuôn mặt của các ngài, chúng ta nhìn thấy một khuôn mặt khác không thể tả là khuôn mặt của Đấng là Tình Yêu.
Tại sao thế gian khai trừ họ?
Chúa Giêsu nói: “Con đã truyền cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian…” Tại sao họ phải chết? Vì họ không thuộc về thế gian. Họ chính là một cái gai trước mặt thế gian, nếp sống của họ, Thiên Chúa của họ là một lời tố cáo thế gian. Họ sống trong thế gian, như mọi người, cũng lao động để kiếm sống như mọi người, nhưng họ không thuộc về thế gian. Vì họ không chỉ xây dựng một thế giới vật chất mà thôi. Họ sống cho một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa là tất cả. Đối với họ, thế gian chỉ là phương tiện để đạt đến một cuộc sống hạnh phúc vững bền chứ không tạm bợ. Cuộc sống đó chính là Thiên Chúa. Vì thế, họ đã chọn từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống: “Ai không bỏ mình vác thập giá mà theo Ta…”
Họ cũng là những con người yếu đuối, mong manh, cũng ham sống, cũng thích cuộc sống vật chất, nhưng khi cần, họ cũng dám liều mạng, vì họ muốn đáp lại tình yêu của Đấng đã chết và sống lại cho họ và ban cho họ cuộc sống mới mà thế gian không thể hiểu được. Tình yêu đó chính là sức mạnh khiến họ có đủ can đảm chấp nhận tù tội, nhục hình và cái chết đau đớn. Có lẽ giờ này trong vinh quang, các ngài nhìn lại, chắc các ngài cũng ngạc nhiên tại sao mình có thể chịu đựng được những hình khổ như vậy. Vì thật ra ai cũng biết đau đớn, biết buồn sầu lo lắng, nhưng trong lúc đau đớn như thế, có một sức mạnh nào đó đã yểm trợ họ, trong sự yếu đuối mỏng giòn của họ. Họ đã được thánh hiến trong đau khổ như Chúa Giêsu đã được thánh hiến. Thánh hiến tức là hoàn toàn thuộc về Chúa Cha, hoàn toàn phó thác trong tình yêu.
Trong cuộc sống hôm nay của mỗi người chúng ta, Chúa đang chờ đợi chúng ta tử đạo. Tử đạo hôm nay, ngay trong cuộc sống này, đó là yêu thương đến tận cùng. Yêu mến Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như Thầy đã yêu.
Cuộc sống không thương xót chúng ta đâu! Thế gian cũng không nương tay đối với chúng ta đâu! Phải can đảm dấn thân trong cuộc sống hằng ngày và can đảm vượt lên trên tất cả để trở thành những vị anh hùng tử đạo. Chúng ta được gọi trở nên anh hùng. Sống tốt giữa một thế giới đầy gian ác là một cuộc tử đạo đau đớn chứ không dễ dàng. Yêu thương giữa hận thù tranh chấp cũng là một nếp sống anh hùng. Chúa đang mong chờ những chiến sĩ can đảm như thế. Chúa đang chờ đợi những chứng nhân đáng tin cậy trong một thế giới mà Ngài trở thành cớ vấp phạm.
Chúa Giêsu không xin Cha đem chúng ta ra khỏi thế gian, nhưng chỉ xin cho chúng ta khỏi ác thần mà thôi. Phải, chúng ta luôn chiến đấu không phải với con người có xác như chúng ta mà là với thần linh, như thánh Phaolô đã nói. Chỉ xin cho chúng ta can đảm đến cùng, làm chứng nhân đến cùng mà thôi. Chúng ta được nuôi dưỡng bằng một thứ của ăn mà thế gian không bao giờ biết, đó là thịt máu Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta và đã đi trước chúng ta trong một cuộc tử đạo ghê gớm nhất. Nhưng Ngài vẫn bảo chúng ta: “Chúng con hãy vững tin, Thầy đã thắng thế gian”. Thắng thế gian bằng một thứ vũ khí mà thế gian cũng không thể hình dung được: đó là Tình yêu không sứt mẻ hao mòn, tình yêu luôn tự hiến. Chúng ta chỉ có thể thắng thế gian bằng thứ vũ khí đó mà thôi. Thắng thế gian bằng cái chết tin yêu.
32. Sống và sống dồi dào
Anh chị em thân mến,
Hồi còn nhỏ, lúc học Tiểu học, được đọc truyện các thánh, nhất là các Thánh Tử đạo, biết gương can đảm của các ngài, dám liều mình chịu chết, hi sinh cả mạng sống, tôi rất kính phục. Từ sự kính phục đó, nhìn lại con người của mình, cảm thấy mình hèn kém quá, tôi có ý nghĩ này: Các thánh đáng phục, đáng kính đó, nhưng rõ ràng họ cao cả quá, chắc chắn là mình không làm sao theo nổi, không làm sao bắt chước các ngài được. Vậy là người có đạo, người tin Chúa, mình phải sống làm sao đây? Tôi đã chọn giải pháp trung dung, thôi thì cũng ráng sống tốt, cũng ráng nên thánh, nhưng vừa vừa thôi, để được lên thiên đàng là đủ rồi. Chắc ăn lắm! Đó là nên thánh nửa vời. Mải đến chừng đi chủng viện, qua học thần học, tín lý, tôi mới hiểu câu nói của một vị thánh: không có tình trạng nên thánh nửa vời. Đọc qua lịch sử của các thánh Tử đạo VN, ta sẽ thấy rõ điều đó. Hôm nay mừng kính trọng thể các Thánh Tử đạo VN. Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Những nhà truyền giáo đặt chân lên đất nước VN, lối đầu thế kỷ 17 (1638). Vậy mà trong khoảng non 300 năm đầu, lịch sử của Hội thánh VN là một cuộc Tử đạo liên miên kéo dài. Đây là lịch sử của trên 100.000 anh hùng tử đạo, tuy chỉ được tôn phong vẻ vang trên bàn thờ có 117 vị. Đây cũng chính là lịch sử Giáo hội VN được ghi bằng những trang sử oai hùng, được tô điểm những nét vàng son, chói lọi về những cái chết anh hùng của bậc tiền nhân. Chính lời của Chúa Giêsu là sức sống, là niềm tin của họ, nhờ đó họ mới có thể vượt qua được cái chết thường tình: "anh em đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn..." Họ đã lãnh triều thiên tử đạo vì các lẽ như sau:
Cái chết của các vị tử đạo đã được nói trước: Chúa nói: "anh em sẽ bị nộp;bị đánh đập trong hội đường, vì danh Thầy anh em sẽ bị mọi người ghen ghét." (Mt 10,18.22). "Tôi tớ không hơn chủ; nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." (Gn 15, 20). Ở tại bến cảng Đà Nẵng có một cây thánh giá thật to, rất lâu đời. Không rõ thánh giá này đuợc dựng nên từ đời nào, nhưng rõ ràng nó chính là biểu tượng của người kitô hữu VN. Một vị thừa sai thời Pháp, nhìn cây thánh giá nói: "đất nước này rồi sẽ lắm đau thương." Đúng vậy! Hội thánh VN đã dựng tượng thánh giá, ở khắp mọi nơi, trước hết qua các thánh tử đạo, đã rải dài từ Bắc xuống Nam; nơi đâu có máu của các ngài đổ xuống là nơi đó thánh giá mọc lên; mọc lên hữu hình không chỉ trong các nhà thờ, tại tư gia, hay trên cổ trên áo, mà nhất là trong tâm hồn của mọi kitô hữu. Họ tôn thờ thánh giá không phải vì cuồng tín, mà vì chính Thầy của mình đã đi qua con đường đó và họ cũng phải đi qua như Thầy mình vậy. Vì thế cái chết của họ đã được báo trước; nhưng họ vẫn thanh thản vui lòng chấp nhận như Thầy mình.
Các ngài đã bền chí, trung kiên trong niềm tin, trong yêu mến: Đừng nói các thánh tử đạo muốn chết, mà không ham sống. Sự sống là quà tặng quí giá mà Thiên Chúa ban cho họ. Họ vẫn ý thức rằng: được sống là một hồng ân cao cả, vì họ cũng là người VN, da vàng máu đỏ như ta. Tuy nhiên, điều hệ trọng của họ chính là phải sống thế nào cho ra kiếp người: câu trả lời của họ, đó chính là sống trong tin yêu và trong tự do. Các ngài đã chọn lựa sống tự do, trong tình yêu chung thủy với Thiên Chúa và anh em; nhưng vua quan lại muốn tách họ ra khỏi Thiên Chúa bằng vũ lực, bằng hình khổ và cả mạng sống của họ nữa. Dù vậy, họ vẫn ý thức Lời Thầy mình nói: "Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có ích gì.." Họ liều mạng sống đời này, không phải vì cuồng tín, nhưng vì tin vào Chúa Thiên Chúa, Đấng luôn tín trung, không hề lừa dối ai bao giờ....
Bà thánh Inê Đê, thánh nữ tử đạo duy nhất được tôn phong của Hội thánh VN, vì giúp đở, che giấu các vị truyền giáo trong nhà mình tại Phúc Nhạc, mà bà bị bắt, bị tra tấn đánh đập nhiều lần; bà bị kiệt sức và chết trong tù ngày 12. 07. 1841. Lúc trong tù, con cái vào thăm mẹ; chúng thấy áo quần bà đầy vết máu, chúng òa khóc lên. Bà Inê Đê cười, nói: "các con đừng khóc, mẹ đang mặc áo hoa hồng đây". Nói được câu này, đủ minh chứng bà thánh Đê, đầy ơn Chúa, nên mới can đảm, trung kiên tới cùng như thế...
Lấy máu mình để làm chứng: Khi ta bị đứt tay, trặc chân, lỗ đầu, sứt trán, ta còn cảm thấy đau; chưa kịp uống thuốc giảm đau, ta đã la inh ỏi. Vậy màThánh Tử đạo Marchand Du, bị xử bá đao, nghĩa là bị lóc thịt đủ một trăm miếng. Đầu tiên họ lóc da đầu của ngài kéo ra phía trước để che mặt, rồi tiếp tục chổ khác. Vậy mà nghe nói thánh nhân không rên la; tuy nhiên lóc chưa đủ số, thì ngài đã chết rồi.
Ông bà mình nói: máu chảy ruột mềm, có nghĩa là lúc bị hoạn nạn tâm trạng con người dễ xiêu lòng, thay đổi. Các thánh tử đạo VN cũng là người như ta, cũng da vàng máu đỏ, nhưng sở dĩ các ngài chịu được những tra tấn, chặt đầu, lóc thịt chính vì để minh chứng cho Một Con người: đó là Đức Kitô. Chính vì các ngài tin vào thế giá của Đức Kitô, tin rằng Ngài không bao giờ dối gạt họ, tin vào tình yêu và lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa, tin rằng sau cái chết đời này còn một cuộc sống vĩnh cữu đáng quí hơn nhiều, đáng đổi lấy hơn sự sống đời này, tin rằng họ hoàn toàn không ảo tưởng, vì chính Đức Kitô cũng đã chết cho họ, để họ cũng được sống lại với Ngài. Rõ ràng họ không chết cho một lý tưởng, mà là chết cho một con người, đó là Đức Kitô, chết cho Hội thánh Chúa.
b/. Gợi ý sống và chia sẻ: Hôm nay chúng con xin dâng lên các thánh TĐ.VN hai nén hương: một nén là để ca tụng, thán phục các ngài, những tấm guơng sáng chói đời đời cho hậu thế soi chung. Một nén khác: để khẩn cầu các ngài phù trợ chúng con nhiều ơn Chúa, trên đường trần gian hôm nay, đầy cạm bẩy, đầy trắc trở, giúp chúng con vượt qua mọi thử thách trên đời, hầu như không thể vượt qua. Amen.
33. Sống chứng nhân.
Truyền thống Giáo Hội bao giờ cũng quý trọng cái chết tử đạo của con cái mình, coi cái chết đó như vừa nói lên lòng can đảm của người tử đạo, vừa nói lên chiến thắng của Tin Mừng. Vì thế, khi nâng 117 vị tử đạo Việt Nam lên bậc hiển thánh, Giáo Hội muốn đưa ra những mẫu gương cho chúng ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục, các ngài đã làm chứng cho Đức Kitô trong những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi gương cái ngài, chúng ta cũng hãy sống làm chứng cho Đức Kitô trong hoàn cảnh riêng của chúng ta. Vậy chúng ta phải sống làm chứng đức tin như thế nào? Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ làm cho gương mặt cha ông tử đạo của chúng ta thêm sáng chói, nếu chúng ta biết tích cực sống tử đạo giữa lòng dân tộc. Đây không phải chỉ là một công thức đẹp, một câu nói đưa duyên, nhưng là một lựa chọn của Giáo Hội, như thư chung HĐGMVN năm 1980 đã đề ra. Chính vì thế đối với chúng ta thì đó cũng là một mệnh lệnh. Chúng ta phải biến mệnh lệnh trên thành việc làm.
Hiện thời chúng ta đang sống trên đất nước Việt Nam, cùng với những người Việt Nam khác, xây dựng một xã hội Việt Nam tốt đẹp hơn. Đó là thánh ý nhiệm mầu, làm sao chúng ta dám cưỡng lại, làm sao chúng ta dám chối từ. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng đã không chạy trốn hoàn cảnh các ngài phải sống. Xã hội trong đó chúng ta đang sống. Môi trường trong đó chúng ta đang làm việc, những con người hằng ngày chúng ta gặp gỡ trên mọi nẻo đường, có những điều hay, những cái đẹp, thế nhưng cũng không thể tránh đi cho hết những cái chưa hay, những điều còn xấu. Chính vì thế, vai trò đức tin của chúng ta xuất hiện như một nhu cầu cần thiết và sứ mệnh làm chứng của chúng ta trở thành cấp bách. Chính chúng ta phải tự vạch ra cung cách sống đạo cho chúng ta trong từng thời điểm, trong từng hoàn cảnh.
Chẳng hạn nếu môi trường chúng ta sống chưa hoàn toàn tôn trọng sự thật, thì chúng ta phải sống sao cho đời thấy rằng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta như Tin Mừng đã dạy. Nếu tại những cơ quan chúng ta phục vụ chưa được chí công vô tư, đầy dãy chuyện móc ngoặc, tham nhũng hối lộ, thì chúng ta phải cố sống sao cho siêu thoát, chấp nhận sự đạm bạc, không màng chi đến việc làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác. Nếu những kẻ có quyền có thế lạm dụng chỗ đứng mà ức hiếp người dân, thì chúng ta phải biết tôn trọng và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo đói. Nếu chung quanh chúng ta đời sống lứa đôi bị coi thường, tình yêu vợ chồng bị hạ xuống hàng trò chơi tạm bợ, sự sống của con cái, như là kết quả của tình yêu, bị chối bỏ dễ dàng, thì đời sống gia đình của chúng ta phải thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, vợ chồng thương yêu nhường nhịn lẫn nhau, con cái được đón nhận như là hồng ân Chúa ban, sự sống được tôn trọng và yêu thương. Các khó khăn được giải quyết bằng niềm tin, bằng cầu nguyện chứ không phải bằng đấm đá, bằng đổ vỡ dễ dàng.
Hẳn nhiên không có cuộc sống làm chứng nào mà không phải thiệt thòi vào thân. Đó là điều làm cho chúng ta lo ngại nhất, nhưng đó cũng chính là thước đo mức độ lòng tin của chúng ta vào Giáo Hội. Để làm chứng cho chân lý, cho tình yêu, Đức Kitô đã phải trả giá bằng cái chết trên thập tự. Cho nên gặp phải khó khăn trong đời sống chứng nhân là chuyện bình thường, là quy luật của muôn đời. Bởi vì sống làm chứng là sống tận căn cái nghịch lý mất mạng để được mạng, là sống triệt để cái biện chứng hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để làm nẩy sinh nhiều bông hát. Đó là điều các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã làm và hơn nữa, đó là điều chính chúng ta cũng phải làm, nếu muốn trở nên chứng nhân cho Đức Kitô.
34. "Thà chết vinh còn hơn sống nhục" -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Từ ngày tổ tông loài người thoả hiệp với ma qủy quay lưng lại với Thiên Chúa, ma qủy thường dùng chiêu thức này để kiếm thêm đồng minh chống lại Thiên Chúa. Trong vườn địa đàng nó đã nói cùng Adam - Eva: "cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa". Ông bà đã ăn. Ông bà đã bắt tay cùng satan để chống lại Thiên Chúa. Con cháu Adam từ đời này đến đời nọ vẫn còn vô số người vì sự an nhàn bản thân, vì mong tìm kiếm lợi lộc, tìm hư danh trần thế, họ vẫn bằng lòng quay lưng lại với Thiên Chúa để làm tôi cho ma qủy, để tận hưởng khoái lạc mau qua trần gian.
Và cũng từ ngày Con Thiên Chúa từ chối thoả hiệp với sa tan, các môn đệ của Chúa trải qua bao thời đại vẫn còn đó những tấm gương quả cảm, anh dũng can trường từ chối thoả hiệp với sa tan. Họ thà nghèo đói để được bình an tâm hồn hơn là kiếm tiền bằng việc phi nhân thất đức mà lòng chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian truân khốn khó. Họ chấp nhận đánh mất mùa xuân hạn hẹp trần gian để đổi lấy mùa xuân bất diệt thiên đàng.
Hôm nay chúng ta mừng kính 117 thánh tử đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền nhân đã chết trong các đợt cấm đạo tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Họ đã chết không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian. Giữa sự sống và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó chính là cây thập giá. Bước qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước qua thì được trở về với vợ con, với xóm làng, với chức tước vua ban và bổng lột trần gian, nhưng các thánh tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ đạo. Không thể vì ham sống sợ chết mà phải chà đạp lên thập giá là bỏ cơ hội sống đời đời để đổi lấy cuộc sống lây lất tạm thời trần gian. Các ngài thà chịu đòn roi, thà chịu án tử hình để trung kiên theo Chúa, để lãnh phúc triều thiên vinh quang bất diệt trên quê trời còn hơn là làm tôi mọi cho ma qủy. Như trường hợp ông đội Bường đã thẳng thắn trả lời với quan quân: "Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước thiên đàng vậy". Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ các đồng đạo rằng: "Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm chịu đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì hãy xin #ức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng".
Đọc lại tiểu sử các thánh tử đạo Việt nam chúng ta thấy có vô số lời dụ dỗ thật ngọt ngào. Tại Hà Tĩnh, các quan cho gọi những người đứng đầu các họ đạo Công Giáo đến và vẽ hình chữ thập xuống đất rồi bảo họ: "Chúng tôi chẳng muốn bắt ép quí vị điều gì trái nghịch với đạo. Chúng tôi biết đây không phải là thánh giá mà quí vị tôn thờ. Vậy hãy bước qua để chúng tôi có thể trình lại với vua là chúng tôi đã thi hành lệnh, nếu không chúng tôi mắc lỗi trước mặt vua". Riêng tại Nghệ An, ông quan tỉnh đã nói với người công giáo: "Các ông thật dại dột để mình phải khổ sở. Làm sao chống lại được với lệnh vua? Đạo ở trong lòng chứ đâu có ở bên ngoài. Tạm chối đi, rồi hai ba tháng sau theo trở lại. Hãy xem thánh Phêrô đã chối đạo ba lần mà vẫn còn được cất nhắc lên cao".
Song le, có nhiều phản ứng khác nhau.Có kẻ giả vờ bước qua để sống an nhàn. Có kẻ đã thản nhiên bước qua vì gia đình và dòng họ còn cần đến mình. Nhưng vẫn còn đó nhiều người không chịu bước qua dù chỉ là giả vờ, dù chỉ là tạm thời bỏ đạo rồi khi sóng gió đi qua lại quay lại với Thiên Chúa. Họ đã vui lòng đón nhận mọi khốn khó để nói lên lòng trung thành với đức tin vào Chúa.
Riêng cha Anrê Dũng Lạc, dù rằng quan quân mở lối thoát bằng việc cho giáo dân đem tiền chuộc Ngài nhưng ngài vẫn cương quyết chối từ. Các giáo dân đã tới trại giam khuyên nhủ cha rằng: "Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại". Nhưng cha Lạc đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: "Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền chuộc tôi làm gì. Tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát khỏi, nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì xin anh em đừng chuộc tôi nữa".
Là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã quả cảm để sống niềm tin, nhưng liệu rằng chúng ta hôm nay còn mấy ai dám khước từ những thoả hiệp trần gian để trung kiên với đức tin của cha ông để lại? Vẫn còn đó những con người vì chút bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó những con người vì miếng cơm manh áo, vì tương lai của con cái đã chẳng giữ đạo hay theo đạo một cách hời hợt. Có cũng như không. Vẫn còn đó những con người vì tiền mà bán mình, bán con để kiếm đồng đola bất chính. Họ thà rằng lỗi luật Chúa còn hơn là bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Họ thà rằng mắt mặt với bà con xóm làng còn hơn là mất túi ba gang mà "quạ đen ban tặng". Vẫn còn đó những con người bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ giáo hội chứ không bỏ danh vọng trần gian.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức tin xin gìn giữ chúng con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi thú trần gian để nên chứng nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay.
35. Truyền đạo.
Người Công giáo Việt Nam thường coi mình là kẻ có đạo và được tiếng là những kẻ giữ đạo rất nhiệt thành và sốt sắng. Nhưng có lẽ phần đông chúng ta chưa xác tín rằng: cách giữ đạo tốt nhất là cho người khác cái đạo của mình, như Chúa Giêsu đã nói: Cố giữ thì mất, liều mất thì còn.
Các thánh Tử đạo Việt Nam là những người đã sống theo chân lý đó. Các ngài không phải chỉ là những người có đức tin, những người giữ vững đức tin đến cùng, mà còn là những người đã cho kẻ khác niềm tin của mình.
Không có việc trao tặng niềm tin ấy qua việc hy sinh mạng sống của các ngài thì có lẽ sẽ chẳng có Giáo Hội Việt Nam hôm nay. Tuy nhiên, có nhiều cách cho đi niềm tin và cách thông thường nhất là chia sẻ bằng lời rao giảng hay bằng những phương tiện truyền giáo.
Cũng có một cách khác, tuy âm thầm nhưng hiệu quả cũng không kém, đó là bằng cách sống niềm tin một cách chân thực. Nhưng cách cuối cùng mà các thánh Tử đạo Việt Nam đã thực hiện là cho chính sự sống của mình. Trong sự sống được trao tặng đó có hạt giống của đức tin, tựa hạt của một trái chín, hay như hạt thóc của một bông lúa đã được gặt hái. Đó là một cách cho trọn vẹn nhất, một cách cho tuyệt đối nhất, bởi vì không ai có thể đòi lại mạng sống của mình một khi đã dâng hiến.
Hơn thế nữa, trong những cách thế cho khác, người ta có thể tìm lại được mình trong chính sự dâng hiến. Thật vậy, kẻ rao giảng Tin mừng có thể gặt hái được thành quả công cuộc rao giảng và hưởng niềm vui về thành quả đó. Cũng vậy, một người sống đạo cách chân thực, gương mẫu, có thể được mọi người kính phục và yêu mến. Còn người cho niềm tin trong cái chết thì không còn để được hưởng những lời ca tụng tán dương.
Khi đọc truyện các thánh Tử đạo Việt Nam chúng ta thấy phần đông các ngài không phải lúc nào cũng muốn chết. Trái lại, nhiều vị đã tìm cách trốn tránh, không phải vì sợ chết, nhưng vì muốn tiếp tục sống vì người khác và cho người khác, hoặc cũng có khi vì lòng khiêm tốn, nghĩ mình không xứng đáng được phúc tử đạo. Các ngài đã chấp nhận dâng hiến đời mình, chứ không tự mình tìm đến cái chết.
Đối với chúng ta ngày nay, ngoài một vài trường hợp đặc biệt như ở Algérie hay tại một vài nước Hồi giáo cực đoan, nơi các tôn giáo ngoài Hồi giáo có thể bị bách hại, còn khắp nơi trên thế giới hầu như không còn có chế độ nào được coi như cấm đạo thực sự kiểu Nêrô hay Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Nhưng nếu hiểu đạo theo nghĩa rộng, thì vẫn còn có nhiều người tử đạo. Đó là những người dám chết cho công lý, cho hòa bình. Nói chung là chết vì chính đạo, chết cho con người, nhất là những người nghèo khổ hay bị áp bức. Đức Kitô cũng đã chết cho cái chính đạo ấy chứ không phải chết vì đạo của người Do Thái, lại càng không chết vì đạo của mấy ông tư tế và Biệt phái, bởi vì chính những người này đã chủ mưu giết Ngài vì thấy rằng Ngài là mối đe dọa cho tôn giáo của họ.
Ngày nay, khi Giáo Hội Công giáo chuẩn bị hồ sơ phong chân phước cho Savonarole, một linh mục dòng Đaminh ở Florence, thì điều đó chứng tỏ rằng cả những người trước đây bị giáo quyền kết án, cũng chính là những vị tử đạo, bởi vì họ đã sống theo chân lý và hy sinh tính mạng để bảo vệ cho chân lý, cho chính đạo.
Dân chúng Ấn Độ đã tặng cho ông Gandhi danh hiệu là thánh, không phải ông đã chết vì Ấn độ giáo hay bất kỳ tôn giáo nào, mà chết vì đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa giải giữa hai cộng đồng Ấn độ giáo và Hồi giáo. Và mục sư Martin Luther King cũng thật xứng đáng danh hiệu một vị thánh vì đã chết để bênh vực quyền tự do và bình đẳng của người da đen… trên đất nước được mệnh danh là dân chủ và tự do nhất thế giới, nhưng thực ra chỉ là tự do và dân chủ cho người da trắng mà thôi.
Đức Tổng giám mục Rômêrô bên El Salvador đã bị chính những người lính Công giáo bắn chết đang khi dâng thánh lễ, ngài bị giết không phải vì là người có đạo hay là vì giám mục, mà vì đã can đảm ủng hộ chính nghĩa của dân nghèo. Người ta hy vọng ngày gần đây, ngài sẽ được tôn phong lên hàng thánh tử đạo.
Như vậy, tử đạo là dám sống và dám chết cho một lý tưởng của Tin mừng. Thế nhưng liệu chúng ta có dám sống và dám chết như vậy hay không?
36. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì -Mt 10, 17-22
Qua những lời Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về những bách hại gặp phải và thái độ phải có khi đối diện với những bách hại này. "Đừng lo sợ phải nói gì và nói thế nào, vì Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì". Sự bách hại là số phận không thể tránh được của người đồ đệ, bởi vì nếp sống và sứ điệp của người đồ đệ của Chúa phơi bày những tật xấu của thế gian.
Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan viết rõ ra lý do của sự thù nghịch giữa thế gian và người đồ đệ như sau:
"Nếu thế gian ghét các con, các con nên nhận biết rằng thế gian đã ghét Thầy trước các con. Nếu các con thuộc về thế gian thì thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng vì các con không thuộc về thế gian và vì Thầy đã chọn các con và tách các con ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lời Thầy dạy bảo: "Tôi tớ không trọng hơn chủ". Nếu họ đã bắt bớ Thầy, chắc chắn họ sẽ bắt bớ các con".
Người đồ đệ được đồng hóa với Chúa Giêsu và chia sẻ số phận của Ngài, nhưng người đồ đệ cảm thấy mình như là yếu đuối, không sức mạnh để tự mình chống lại những bách hại. Sự yếu hèn của môn đệ là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì biết mình yếu đuối, người đồ đệ hết lòng tin tưởng vào Chúa, sống gắn bó với Người.
Phúc Âm theo thánh Mátthêu đã được viết ra sau cuộc bách hại đầu tiên mà cộng đoàn Giáo Hội đầu tiên đã trải qua, như cuộc bách hại và tử đạo của thầy Stephano tại Giêrusalem. Các tông đồ cũng đã từng bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản ứng tự nhiên của con người trước những khó khăn, những bách hại là lo sợ. Và Chúa Giêsu tiếp tục khuyên các tông đồ hãy can đảm làm chứng cho Ngài. Người đồ đệ của Chúa cần sẵn sàng cho mọi nghịch cảnh xảy ra.
Trong đoạn Phúc Âm chúng ta đọc trên đây, chúng ta có thể ghi nhận là Chúa Giêsu đã kêu gọi "đừng sợ" đến ba lần:
- "Các con đừng sợ những kẻ vu oan vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ, vì sự thật luôn là sự thật".
Trung thành với sự thật đôi khi làm ta phải trả một giá rất đắt và có khi phải trả cả bằng chính mạng sống mình.
- Lần thứ hai Chúa Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ và đừng sợ những kẻ có thể làm hại thân xác, làm thiệt thòi cho phần vật chất, nhưng không thể nào giết được linh hồn".
Lý do sâu xa của lòng can đảm Phúc Âm mà Chúa muốn cho các đồ đệ là quan niệm đích thực về con người, bao gồm thể xác và linh hồn. Thể xác, vật chất có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn, tinh thần của con người sẽ không hề hấn gì nếu người đó vững lòng tin tưởng vào Chúa.
- Lần thứ ba Chúa Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ vì lý do các con quí trọng hơn chim sẻ nhiều. Thiên Chúa quan phòng chăm sóc mọi sự, Ngài chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng thì huống hồ là con người cao trọng hơn mà không được Thiên Chúa chăm sóc cho hay sao".
Đó là ba lý do để đừng lo sợ và hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc, người đồ đệ sẽ nhất quyết dấn thân nhiều hơn, dấn thân làm chứng cho Chúa.
"Ai nhìn nhận Thầy trước mặt mọi người, thì Thầy cũng nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Thầy ở trên trời". Đó là những lời dạy của Chúa Giêsu cho những đồ đệ đầu tiên ngày xưa, những vẫn luôn còn giá trị cho những đồ đệ của Chúa ngày hôm nay. Đừng sợ gian nan thử thách để theo Chúa, đó là sự can đảm của người Kitô qua mọi thời đại.
Lạy Chúa,
Xin giúp con mở rộng mọi cửa nẻo tâm hồn để đón nhận Chúa đến sống với chúng con, để ban sức mạnh cho chúng con. Xin vì công nghiệp các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trở thành những chứng nhân trung thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
37. Can đảm nói không với tội lỗi – Lc 20, 27-38 -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại Việt Nam, một trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các kitô hữu bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói không trước những lời dụ dỗ và thúc ép
Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không từ bỏ niềm tin.
Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Nói không trước những cực hình dã man và khủng khiếp nhất
Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy hiếp các ngài: bắt mang gông cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu thiêu đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì (tức bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và khủng khiếp hơn cả là án bá đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi gan...
Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực, dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm doạ, đòn vọt hay án chết như các ngài.
Nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với những thách thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng ta đi trệch con đường của Chúa Giêsu, đi lạc ra khỏi đạo lý của Người.
Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu, với những lời quyến rũ của bạn bè xấu...
Muốn nâng lên được những tạ nặng, các lực sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài toán khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước. Những lực sĩ muốn nhảy thật cao thì trước tiên phải tập băng mình qua những mức thấp trước.
Tương tự như thế, để có thể nói không trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những cái ác, cái xấu lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các ngài, anh dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải chịu mất mát thua thiệt trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.
38. Tử đạo hay sống đạo?
Nếu như anh chị chúng ta là những người giàu có và thành công trên đường đời, hẳn chúng ta sẽ lấy làm hãnh diện. Nếu cha mẹ chúng ta là những người tốt lành và thánh thiện, hẳn chúng ta cũng sẽ rất lấy làm hãnh diện. Cũng thế, hôm nay khi mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta càng phải hãnh diện hơn nữa vì các ngài những bậc cha ông của chúng ta đã lấy mạng sống cùng với những giọt máu đào để làm chứng cho Chúa.
Thực vậy, Giáo Hội Việt Nam đã góp phần vào tiến trình chung của Hội Thánh Công giáo những trang sử hào hùng và dũng cảm.
Bên Âu Châu, thời kỳ đen tốt nhất Giáo Hội đã phải trải qua chính là thời kỳ Giáo Hội còn phôi thai, trải dài từ cuối thế kỷ thứ nhất đến đầu thế kỷ thứ tư, từ triều Nêron đến triều Maximinus. Suốt trong khoảng thời gian này, Giáo Hội đã bị bắt bớ và cấm cách. Biết bao nhiêu người đã chết hay đã ngã gục trên pháp trường. Những người muốn sống sót đều phải chui rúc dưới những hang, được gọi là hang toại đạo., hiện nay vẫn còn tìm thấy tại Roma. Các sử gia đã gọi đó là thời kỳ Giáo Hội sống dưới hầm. Nhưng sau cùng, Giáo Hội đã chiến thắng với biến cố hoàng đế Constantinô trở lại và ngọn cờ thập giá được tung bay trên toàn đế quốc La mã.
Nếu so sánh, chúng ta thấy Giáo Hội Việt Nam cũng có những điểm thật giống với Giáo Hội Rôma. Đó là ngay sau khi hạt giống Tin mừng được gieo vãi trên đất nước này, thì lập tức gông bão đã nổi lên. Từ thời vua Lê chúa Trịnh cho tới những triều đại nhà Nguyễn, trải dài gần ba trăm năm. Trong suốt thời gian này, biết bao nhiêu người đã bị nhà tan cửa nát, phải di tản vào những nơi rừng thiêng nước độc, như các giáo dân vùng La Vang, Quảng Trị. Biết bao nhiêu người đã phải chịu những cực hình khủng khiếp. Trong số đó, có 117 vị đã được nâng lên hàng hiểm thánh. Ai cũng tưởng rằng ngọn lửa Phúc âm sẽ bị dập tắt. Thế nhưng, máu các thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các tín hữu. Vì thế, Giáo Hội Việt Nam đã lớn lên và trưởng thành trên nền móng vững chắc ấy, xứng đáng được gọi là trưởng nữ của các Giáo Hội tại Á châu.
Tuy nhiên, hãnh diện mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải noi gương bắt chước các ngài, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Đừng vì một con sâu mà làm rầu nồi canh, đừng vì cuộc sống tội lỗi của chúng ta mà làm nhơ bẩn khuôn mặt Giáo Hội Việt Nam. Hãy sống thế nào để xứng đáng là con cháu của những bậc anh hùng tử đạo.
Hồi còn bé, tôi rất thích đọc hạnh các thánh tử đạo và thầm mong một ngày nào đó, tôi cũng đưa cổ cho lý hình chém một nhát và thế là nghiễm nhiên trở thành thánh tử đạo. Thế nhưng, lớn lên tôi mới nghiệm ra rằng: mơ ước như vậy chỉ là một sự hão huyền, bởi vì không phải thời buổi nào cũng có những cấm cách. Hơn thế nữa, hành động chịu chết vì đạo là một hành động cao cả và tuyệt vời nhất, như lời Chúa Giêsu đã xác quyết:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hành động cao cả và tuyệt vời này phải là kết quả của những tháng ngày sống niềm tin yêu và thấm nhuần đạo đức. Không phải một sớm một chiều mà một thằng quỷ có thể trở nên một vị thánh. Không phải hễ có bắt bớ là mọi người đều có thể tử đạo, bởi vì sống sao chết vậy, cây xiêu chiều nào sẽ đổ theo chiều ấy.
Kinh nghiệm cho hay mổi khi có những khó khăn xảy ra, thì rất nhiều kẻ đã trở cờ, chối bỏ Chúa. Họ chối bỏ Chúa chỉ vì chén cơm manh áo, họ chối bỏ Chúa chỉ vì một chút địa vị xã hội, họ chối bỏ Chúa chỉ vì muốn chạy theo những dục vọng thấp hèn. Thế nhưng, lý do chính yếu, là như phần chìm của tảng băng, đó là họ đã không thực sự sống đạo, đã không thực sự sống niềm tin của mình. Cũng giống như khi xây nhà, nếu không đổ nền đổ móng cho vững chắc, thì chẳng bao lâu căn nhà sẽ bị sụp đổ.
Vì thế, chúng ta nên hiểu tử đạo theo một nghĩa rộng, đó là làm chứng cho Chúa. Chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta. Đó chính là cái nền tảng vũng chắc để xây dựng tòa nhà đức tin. Chính trong ý nghĩa này mà Mẹ Maria đã được gọi là Nữ vương các thánh tử đạo, mặc dù Mẹ đã không đổ máu để làm chứng cho đức tin của mình.
Hãy tập sống tinh thần tử đạo bằng cách thực hiện những điều tốt lành, bởi vì mỗi khi hành động như vậy là chúng ta đã tuyên xưng niềm tin của chúng ta. Hơn thế nữa, mỗi hy sinh chúng ta chịu trong khi phục vụ và giúp đỡ người khác sẽ là như một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây và từng phút để làm chứng cho Chúa.
Hãy sống đạo, sống niềm tin của mình. Nếu cha ông chúng ta đã tuyên xưng niềm tin bằng cái chết anh hùng, thì khi sống đạo, chúng ta cũng tuyên xưng niềm tin của chúng ta bằng chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta.
39. Nhớ Ơn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Nguyễn Minh Triệu)
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam long trọng mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, những người anh hùng trong trái tim của mỗi tín hữu đất Việt.
Đây là một dịp để chúng ta cùng ôn lại truyền thống hào hùng của Giáo hội Việt Nam, và cũng là một cơ hội để chúng ta làm mới lại đức tin của mình ngang qua mẫu gương của các ngài. Có lẽ, chúng ta không bao giờ kín múc hết nguồn suối ân huệ mà các thánh tử đạo Việt nam để lại. Qua đời sống và cái chết của các ngài, Giáo hội Việt Nam lãnh nhận được một kho tàng vô giá.
Trước hết, đời sống và cái chết của các vị tử đạo là một lời chứng hùng hồn nhất cho đức tin của chúng ta. Trong bối cảnh xã hội mà chúng ta đang sống, một xã hội bị ảnh hưởng nặng nề bởi trào lưu tục hoá và chủ nghĩa vô thần, niềm tin của chúng ta không ngừng bị đặt lại, chúng ta phải minh chứng cho niềm tin của mình. Trong kho tàng của Giáo hội, chúng ta có nhiều chứng cớ để minh chứng cho niềm tin của mình. Tuy nhiên, ngang qua đời sống và cái chết của các vị tử đạo, chúng ta có một lời chứng không thể hùng hồn hơn. Vì khi đón nhận hồng phúc tử đạo, các ngài đã dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin. Mạng sống vốn là điều quý giá nhất của con người, vậy tại sao các vị lại chấp nhận từ bỏ nó? Ắt hẳn các vị ấy đã khám phá ra một kho tàng quý giá gấp bội, một kho tàng để các vị dám từ bỏ chính điều được xem là quý giá nhất nơi con người. Hơn nữa, các ngài đã đón nhận cái chết trong tự do, vui tươi và bình an. Các vị tử đạo của chúng ta có tự do để chọn lựa. Thay vì chọn lựa cái chết trong đau khổ, các ngài có thể chọn một cuộc sống yên ổn bên vợ con, gia đình.. Vâng, tử đạo tự bản chất có nghĩa là làm chứng. Khi các thánh tử đạo đón nhận cái chết vì Đức Giê-su, đức tin của chúng ta được minh chứng bởi một bảo chứng vô giá giúp chúng ta vững tin trong chọn lựa của mình và cũng là một câu trả lời minh bạch nhất cho mọi chất vấn của con người trong thời đại hôm nay.
Các Thánh tử đạo không chỉ làm chứng về đức tin, mà còn để lại cho chúng ta một mẫu gương sống động về đời sống đạo. Qua các ngài chúng ta học được mẫu gương yêu thương, yêu thương Thiên Chúa và yêu thương con người. Vì yêu thương Thiên Chúa nên các ngài đã chọn cái chết trong đau đớn thay vì được sống trong an nhàn. Các ngài không chỉ yêu thương những người thân yêu trong gia đình và bạn hữu mà còn yêu thương và tha thứ cho kẻ làm hại mình. Sở dĩ các ngài đã can đảm lãnh nhận cái chết vì các ngài hoàn toàn tự do đối với thế gian, với các thế lực chính trị, trước đau khổ và thậm chí là cái chết. Vâng, các ngài đã trở nên tự do hoàn toàn để đáp trả lại tiếng mời gọi của Chúa. Vì tử đạo vốn là một ân phúc, nhưng để đón nhận ân phúc này, đòi hỏi các ngài phải tự do hoàn toàn với mọi ràng buộc của thế gian. Tự do chính là yếu tố giúp các vị sống yêu thương, tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho con người.
Như hạt giống gieo vào lòng đất, chết đi và trổ sinh hoa trái, các vị anh hùng tử đạo đã chấp nhật chết đi, máu các ngài đã thấm vào lòng Đất Việt, chắc chắn sẽ trổ sinh hoa trái. Hoa trái phát sinh từ máu các anh hùng tử đạo chắn chắn không chỉ dừng lại ở chính các vị mà còn được lan toả tới chúng ta là con cháu các ngài. Là những hậu duệ chúng ta chắn chắn sẽ được hưởng ơn phúc của các ngài để lại. Nhờ máu các anh hùng tử đạo, Giáo Hội Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển dẫu phải chịu biết bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu bách hại. Dù nhiều nước Ki-tô giáo truyền thống đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự tục hoá và chủ nghĩa vô thần, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vẫn giữ được truyền thống đạo đức của mình. Các nhà thờ vẫn còn đầy ắp người, vẫn còn nhiều người muốn trở thành người công giáo. Hơn hết, Giáo Hội Việt Nam đang được một mùa bội thu về ơn gọi, nhiều thanh niên nam nữ muốn dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa. Những ân huệ này có được là nhờ vào máu của các anh hùng tử đạo đổ ra cho chúng ta. Chúng ta biết ơn các ngài, chính nhờ sự quảng đại của các ngài, chúng đã được lãnh nhận những ân huệ lớn lao như ngày hôm nay.
40. "Đây Bài Ca Ngàn Trùng" -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Hôm nay lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam. Một bầu khí đại lễ thật hào hùng. Phụng vụ trổi lên lời hoan ca chúc tụng: "Đây bài ca ngàn trùng. Dâng về Thiên Chúa. Bài ca thắm đượm máu hồng. Từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu".
Vâng, cuộc đời các thánh tử đạo là một bài ca dâng về Thiên Chúa. Các ngài ca ngợi Thiên Chúa khi bình an, khi gian nan, khi dòng đời êm trôi và cả khi sóng gió ba đào. Các ngài ca ngợi Chúa trong bổn phận thường ngày, khi đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn, nơi phố xá chợ thị. Các ngài còn ca ngợi Chúa khi đối đầu với sự bách hại vì tin mừng. Các ngài ca ngợi Chúa trong mọi nơi, trong mọi lúc. Đỉnh cao của lời ca ngợi là bài ca vinh thắng thắm đượm máu đào. Các ngài đã chiến thắng gian nan, cùm gông, tù đầy. Các ngài đã vượt lên trên sự sợ hãi của đe doạ đến cả tính mạng để tôn vinh Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Các ngài đã dùng cả cuộc đời để ca ngợi Chúa. Cho dù cuộc sống có nổi trôi, bất định, các ngài vẫn trung kiên tin thờ Thiên Chúa.
Cuộc đời các ngài là một bài ca, thế nên các ngài cũng đáng được ca ngợi. Ca ngợi hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vì chưng các ngài là những người có phúc vì dám sống triệt để trang tin mừng yêu thương của Chúa trong cuộc sống của mình.
Các ngài dám nói lời tha thứ ngay trong những xúc phạm mà người đời đang tuôn đổ lên các ngài.
Các ngài đã có thể nhìn thấy hoa hồng nở rộ ngay trong đau đớn của cực hình.
Các ngài dám đi ngược lại với thế gian, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta.
Nhìn vào cuộc đời các ngài, ta thấy, đó là một cuộc đời thật đẹp. Đẹp trong cuộc sống thường ngày luôn chu toan bổn phận của mình, luôn sống chan hoà tình bác ái với mọi người. Như bà thánh Đê là mẹ của sáu người con. Tất cả những người con, cô Nụ, cô Mận khi làm nhân chứng đều nói rằng: "Mẹ tôi rất đạo đức, luôn dạy con cái ăn ngay ở lành, tối sớm kinh nguyện...".
Đẹp trong cả những gian nan khi bị người đời ghét bỏ, các ngài vẫn thương yêu, vẫn thứ tha, vẫn ôn hoà để làm chứng cho lời tin mừng yêu thương, đế nỗi mà những người hành quyết các ngài vẫn cảm phục yêu mến đức hạnh các ngài. Như trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: "Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ".
Đẹp trong cả cái chết luôn một mực nói lời yêu thương. Như trường hợp ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: "Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình ". Với ông Năm Quỳnh thì bác ái rõ rệt là hoa quả của đức tin, ông từng nói với gia đình: "Bà và các con không đồng ý cho tôi lấy của nhà để giúp người nghèo, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê kiếm tiền giúp đỡ họ ". Vì ông nói: "Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng".
Như vậy, tử đạo không chỉ là đổ máu. Tử đạo là dám chết đi con người ích kỷ của mình, chết đi cho thói đời tham sân si mù quáng. Chết đi những đam mê nhục dục để hèn. Tử đạo là dám sống vì tin mừng mà chịu thua thiệt, chịu mất mát. Tử đạo là yêu cho đến cùng và sống trọn vẹn những đòi hỏi của luật yêu thương.
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, xin cho chúng ta là con cháu biết noi gương các ngài để tiếp tục là bài ca ca ngợi Thiên Chúa. Ca ngợi Ngài bằng cả cuộc sống thắm đượm tình Chúa tình người. Ca ngợi Ngài mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam dẫn dắt chúng ta luôn bước đi trong tình yêu Chúa. Amen.
41. Sống đạo và chết vì đạo
Theo truyện kể, thì thánh Giuse Xuyên Giám mục địa phận Trung Đàng ngoài, đã được phúc tử vì đạo ngày 28.10.1858, ngài đã bị xử án lăng trì, nghĩa là bị chặt chân chặt tay và bị cắt thịt ra từng mảnh. Tương truyền rằng khi thọ án ngài đã có những lời ta thán những kẻ hành hình ngài là độc ác. Nên vì câu nói ấy mà mãi tới ngày 29.04.1951 ngài mới được tôn lên bậc chân phước.
Truyền thuyết trên đây có thể không đúng với sự thật, nhưng dù sao nó cũng nhắc nhở chúng ta về điều này: Người tử đạo không phải là một anh hùng theo kiểu các anh hùng khác của nhân loại.
Thật vậy, các vị tử đạo không phải là những anh hùng ngã gục trên chiến trường với vũ khí trong tay, trong một cuộc chiến chống lại quân thù. Các ngài là những con người không biết thù ghét, mà cũng không được thù ghét bất cứ ai, trái lại luôn luôn tuân giữ mệnh lệnh Chúa Kitô truyền là “Yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình”. Nếu các ngài có phải chiến đấu, thì đó là chiến đấu chống lại sự hèn nhát, khiếp sợ của chính mình.
Vì thế, nếu có một người nào bị giết, tuy trên danh nghĩa vì đạo, nhưng lại căm thù những kẻ bách hại mình, hay kiêu hãnh tự phụ vì tính anh hùng của mình, thì người đó không thể nào là thánh được, mà cùng lắm chỉ có thể được coi như một anh hùng thôi. Cũng vì lý do đó mà Giáo Hội Công giáo không bao giờ chấp nhận các tín hữu của mình tự sát, ngay cả trong trường hợp gọi là để bảo vệ đức tin hay Giáo Hội.
Nói cách khác, người Kitô hữu được mời gọi trước hết để sống đạo, chứ không phải chết vì đạo, bởi vì Thiên Chúa là Chúa của sự sống, chứ không phải là Chúa của sự chết. Đàng khác, nếu chúng ta sống đạo đúng theo đòi hỏi của Tin Mừng, nghĩa là sống trọn tình bác ái đối với tất cả mọi người, thì cái chết chúng ta cũng có ý nghĩa là một cái chết vì đạo. Bởi lẽ chết vì đạo, trước hết phải là chết vì lòng yêu mến.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam xứng danh là những vị tử đạo theo cả hai nghĩa: Các ngài đã chết để tỏ lòng trung thành với Chúa, với Giáo Hội, nhưng các ngài cũng chết cũng chết vì tình yêu mến, yêu Chúa, yêu Giáo Hội, và yêu cả những người bắt bớ và làm khốn mình. Các ngài đã không thù ghét, không nguyền rủa, mà có khi còn tỏ lòng biết ơn vì vô tình họ đã trở thành những người Thiên Chúa dùng để ban phúc tử đạo cho các ngài.
Vua quan phong kiến có thể coi các ngài như những kẻ phản bội tổ quốc vì theo tả đạo, nhưng các ngài thực sự là những người yêu nước, yêu đồng bào, nên có vị tuy ước ao được phúc tử vì đạo, nhưng lại chấp nhận một cuộc sống chui nhủi, nay trốn chỗ này, mai trốn chỗ khác, đói khát, hiểm nguy không ngại, chỉ muốn tiếp tục được phục vụ anh em tín hữu của mình. Rồi một khi bị bắt, không một vị nào đã tìm cách chống cự, hay tỏ vẻ thù nghịch với vua quan lính tráng, trái lại vui vẻ chấp nhận cái chết như một cách tỏ lòng trung thành với Chúa và tổ quốc.
Thật vậy, nếu không vì muốn trung thành với tổ quốc, thì các ngài đã có thể phản đối hay chống cự, hoặc lên án những kẻ cầm quyền đã bách hại mình, nhưng các ngài đã cam tâm và bình thản chấp nhận cái chết mà không hề oán hận và hối tiếc. Trường hợp của thánh Phanxicô Trần văn Trung, cai đội, càng chứng tỏ là người Kitô hữu này chẳng hề muốn phản bội tổ quốc, vì ngài đã tình nguyện xin đi đánh giặc, nhưng vua quan từ chối, vì ngài không chịu bỏ đạo.
Noi gương ông cha mình, người Việt Nam Công giáo chúng ta hôm nay cũng phải gắn bó đời sống đức tin của mình với những đòi hỏi của đời sống con người trong xã hội, và trong cộng đồng dân tộc. Chẳng có gì mâu thuẫn giữa đức tin và lòng yêu nước. Nếu các vua chúa thời trước tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì nhiều vị tử đạo thay vì phải chết vì đạo, đã có thể sống đạo mà phục vụ tổ quốc và dân tộc một cách hữu hiệu và tốt đẹp biết bao.
42. Niềm tin
Một viên sĩ quan trẻ trong quân đội Nga xin được nói chuyện riêng với vị mục sư người Hungary. Khi hai người ở trong một căn phòng đã đóng kín cửa, viên sĩ quan hung hãn chỉ lên cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng:
- Ông biết không, cái đó là sự dối trá cho các ông bày đặt ra để làm mê hoặc dân chúng. Ở đây bây giờ chỉ có tôi và ông. Ông hãy thú nhận rằng: Ông không hề bao giờ tin rằng ông Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.
Vị mục sư cười và trả lời:
- Này anh bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.
Viên sĩ quan hét lên:
- Ông đừng có lừa dối tôi, đừng diễu cợt tôi.
Rồi anh rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm dọa:
- Nếu ông không nhận rằng đó là một sự dối trá thì tôi sẽ nổ súng.
Vị mục sư điềm tĩnh trả lời:
- Dù anh giết tôi, tôi cũng không thể nói điều anh muốn tôi nói. Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô thật sự là Con Thiên Chúa.
Cũng như vị mục sư kia, các thánh Tử Đạo đã kiên cường giữ vững đức tin trước mọi thử thách, mọi gian lao, mọi giông tố của cuộc đời. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Chúng ta có thể kể ra đây một vài khuôn mặt của những vị thánh giáo dân như những chứng từ cho điều chúng ta vừa nói:
- Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết khi bị bắt bước qua thánh giá: "Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ".
- Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: "Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của con".
- Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giầu có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng người luôn bình tĩnh vui tươi. Người nói: "Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm".
- Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả lời khi các quan bắt người bước qua thánh giá: "Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi".
- Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con mình rằng: "Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được vận hội may mắn".
- Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên ngang phát biểu: "Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu".
- Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: "Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô".
- Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 người con. Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng: "Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con: Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên đàng".
- Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: "Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Anh này quí giá hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé".
Chúng ta không thể kể ra đây hết những hình khổ các thánh Tử Đạo đã phải chịu. Chúng ta cũng không thể nói hết ở đây những lời di chúc quí báu của các ngài. Đối với các ngài, Thiên Chúa là trên hết. Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: "Thà chết chứ không thà bỏ đạo, bỏ Chúa". Có lẽ ngày hôm nay chúng ta không còn được diễm phúc đổ máu và hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa nữa. Nhưng nếu phải hy sinh một món lợi vật chất, nếu phải đánh đổi một chức vụ trong xã hội, nếu phải từ bỏ một thú vui tội lỗi vì Chúa, vì luật lệ, và vì Tin Mừng của Người, chúng ta có dám không, thưa quí ông bà và anh chị em? Phải chăng lập trường của chúng ta vẫn là: "Thà bỏ đạo, bỏ Chúa chứ không bỏ những thứ đó"?
43. Tử đạo, một chọn lựa của lòng tin
Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Đây là một ngày vui mừng chung của tất cả chúng ta, những kitô hữu mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu Tiên. Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giơ, đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam. Hạt giống Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ “S” thân yêu này. Cha ông chúng ta những con người có tâm hồn hiền hậu, chất phác đã đón nhận và sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.
Thật vậy, “Tử Đạo” theo nguyên ngữ là “Martyr” có nghĩa là “làm chứng”. Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, vợ con để chết đi làm chứng điều gì? Chắc chắn việc các ngài sẵn sàng chết không phải vì các ngài không muốn sống, nhưng là để làm chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt đối, và mọi vinh dự ở đời này không phải là vĩnh cửu. Với cái chết của mình, cha ông chúng ta đã cho thấy rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời sống vĩnh cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người dân Việt: “sống gởi, thác về”. Và chính dòng máu nóng của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã làm phát sinh một Giáo Hội Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
1. Chọn lựa của dân Do thái:
Tuy nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã phải làm một cuộc chọn lựa thật quyết liệt trong tâm hồn. Bởi vì, trong thực tế, hạnh phúc đời sau thì bây giờ chúng ta không thấy, còn tiền của, danh vọng cùng với những vinh hoa phú quý của nó, thì lại nằm ngay trước mắt. Chính dân Do Thái khi bước vào được Đất Hứa, sau cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cũng đã phải làm một cuộc chọn lựa cơ bản này. Ông Môisê đã nói với họ: “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là bị chết, bị tai hoạ”. Khi dân Do thái chọn lựa “yêu mến Đức Chúa,… và gắn bó với Người”, thì không phải vì trước mắt họ nhận được một cuộc sống sung sướng, dễ dãi. Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ vì họ tin tưởng vào tình yêu của Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ thoát ách nô lệ Ai Cập, kết ước với họ, để họ được làm dân của Ngài. Đồng thời, còn ban cho họ Đất Hứa làm gia nghiệp.
2. Chọn lựa của cha ông chúng ta:
“Trung thành với Thiên Chúa” cũng chính là chọn lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ những ngày đầu đón nhận Tin mừng đã quyết định. Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ đơn giản: đó là bước qua thập giá hay không bước qua. Bước qua thì có ngay tiền bạc, vinh hoa phú quý, còn như không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái chết. Đứng trước thập giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Augustin Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.”
Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của chính mình. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi, thuộc Hội Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát, khi trả lời cho viên quan bảo ngài bước qua Thánh giá: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”. Một chọn lựa có thể nói là đầy bấp bênh theo cái nhìn tự nhiên của con người. Chính vì bấp bênh như thế mà những chọn lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của lòng tin.
Vâng, mỗi người chúng ta chỉ nhờ có lòng tin chứ không phải nhờ bất cứ điều gì khác, mới có thể giúp mỗi người chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ. Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi tín hữu thành Côlôsê và cũng là lời nhắc nhở từng người chúng ta: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc kiên quyết, và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin mừng”. Đức tin này mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận khi chịu phép Rửa, nhưng như thế thì chưa đủ. Đức tin đó còn phải được minh chứng bằng chính cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Mt 6, 24), điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu chúng ta qua mọi thời đại.
3. Chọn lựa của chúng ta hôm nay:
Mừng lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm nay, lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của mình. Chọn lựa này không phải chỉ một lần là xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi ngày. Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ, cũng không kém phần gian khó. Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực, hay tôi sợ phiền hà rồi im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa nơi ngôi Thánh đường này, tôi chọn điều gì?
Chớ gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh Thể, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình. Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Đức Giêsu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. Amen.
44. Các thánh Tử Đạo Việt Nam
Lễ kính các thánh tử đạo là sự tuyên dương những con người đã dám chết.
Tại sao tuyên dương? Thưa vì người ta thường nghĩ “Không có gì quí hơn mạng sống”. Khi mạng sống bị đe dọa thì bằng bất cứ giá nào, người ta cũng tìm cách để thoát khỏi cái chết và bảo tồn mạng sống của mình. Thí dụ có người khi đói quá đã kiếm cỏ, kiếm vỏ cây để ăn, những thứ mà bình thường không bao giờ họ ăn; có người bình thường rất tự trọng nhưng khi quá đói đã phải ăn cắp thức ăn của người khác, đã dành ăn với người khác; thậm chí có người còn dám ăn thịt người trong lúc không còn gì ăn để giữ mạng sống. Thực ra những việc làm trên không có gì lạ, vì người ta đã làm theo bản năng, gọi là bản năng sinh tồn.
Tuy nhiên có những người đã không theo bản năng sinh tồn ấy. Những người này không nghĩ rằng mạng sống là giá trị cao quí nhất, mà còn có những giá trị không cao hơn nhiều. Thí dụ:
- Trong trận động đất ở nước Nga, một người mẹ bị kẹt trong đống gạch vụn cùng với đứa con của mình. Vì không có gì để ăn, hai mẹ con dần dần yếu. Người mẹ nghĩ rằng nếu tình hình cứ tiếp tục thì sau cùng cả hai mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn đầu ngón tay mình, lấy máu cho con uống. Bà dám chết để con bà được sống.
- Hay như các anh hùng liệt sĩ, những người đã can đảm hy sinh mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc quê hương. Họ đã coi quê hương đất nước trọng hơn mạng sống bản thân.
- Và các vị thánh Tử Đạo cũng vậy, các ngài coi đức tin trọng hơn mạng sống thể xác.
Tất cả những người vừa kể trên đều đã dám chết, tất cả đều đáng ta kính phục. Riêng các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta thấy kính phục đặc biệt vì các ngài có thể thoát chết cách dễ dàng thế mà các ngài vẫn can đảm chết: chỉ cần nói với quan một câu là “Tôi chịu bỏ đạo” thì lập tức được thả tự do, hay đơn giản hơn chỉ cần thưa “vâng” khi quan hỏi “có chịu bỏ đạo không?”, hay đơn giản hơn nữa, không cần nói một lời nào cả, chỉ một cái gật đầu hay chỉ để yên cho người ta khiêng mình ngang qua cây thập giá thôi. Thế nhưng các ngài đã không làm như vậy, các ngài dám chịu chết. Cái chết của các ngài gợi lên cho chúng ta nhiều điều suy nghĩ:
Điều thứ nhất cái chết ấy nói lên một quan niệm sống: sống không phải chỉ là tồn tại, tồn tại bằng bất cứ giá nào. Nhưng sống còn là sống theo một lý tưởng. Người không sống theo một lý tưởng thì chỉ sống như một sinh vật, chỉ lo ăn lo uống, lo sinh tồn. Còn người có lý tưởng và quí chuộng lý tưởng của mình thì không làm những gì nghịch với lý tưởng ấy; nếu bị buộc làm điều nghịch với lý tưởng, hay bị cấm cản không cho sống theo lý tưởng thì các ngài thà chết để trung thành với lý tưởng cao đẹp của mình.
Một trong những điều tệ hại hiện nay là nhiều người không còn lý tưởng sống, nhất là các thanh niên ở các nước giàu bên Âu Mỹ, cả đời họ không biết tìm gì khác hơn là kiếm tiền, rồi ăn nhậu, rồi mua sắm, rồi vui chơi. Nhưng cũng như người ta không thể ăn hoài được, khi đã no thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên ấy ăn uống mãi rồi cũng chán, vui chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ ra những cách hưởng thụ khác như xì ke ma túy, nghĩ đến những hình thức tình dục khác thường… kết quả là bị mắc bệnh Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống đó cũng du nhập vào xã hội chúng ta, bởi vậy nhắc lại gương sống của các thánh Tử Đạo là một điều hữu ích: sống không phải chỉ là tồn tại và hưởng thụ, mà còn phải là sống theo một lý tưởng cao đẹp.
Điều thứ hai chúng ta kính phục nơi các thánh Tử Đạo là sự trung thực của các ngài: Trung thực là sống đúng theo điều mình tin và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và nói rằng có Thiên Chúa, có linh hồn, có đời sau. Vậy khi các ngài dám chết là các ngài đã tỏ ra trung thực với niềm tin ấy, cái chết của các ngài cho người ta thấy rõ là các ngài thực sự tin rằng sau khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa, linh hồn các ngài vẫn còn sống trong cõi vinh quang hạnh phúc với Chúa. Thực tế ngày nay, nhiều người không còn trung thực nữa: họ nói rất hay nhưng họ không làm theo điều họ nói, có khi họ cũng muốn làm nhưng lại không dám làm vì sợ bị thiệt thòi…
Và điều thứ ba khiến chúng ta kính phục các thánh tử đạo là các ngài đã mở trí cho chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một buổi nói chuyện và người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên nói năng cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác. Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giàu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu như sau: “Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận “Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”. Không biết cử tọa của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo: các ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại hết khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các ngài thì dám bỏ tất cả những gì quí nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
45. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam vui mừng mừng kính các anh hùng Tử Đạo Việt Nam của chúng ta. Trong bầu khí linh thiêng và cảm động này tôi muốn chia sẻ với anh chị em một vài tâm tình của tôi.
1. Tâm tình thứ nhất là tâm tình tự hào.
Các thánh Tử đạo Việt Nam của chúng ta làm cho chúng ta tự hào.
Chúng ta phải tự hào vì chúng ta đã có được những vị tổ tiên anh hùng thật xứng đáng. Các Ngài đã được sinh ra, đã làm việc, đã cùng sống với những người Việt Nam chúng ta ngay trên mảnh đất quê hương thân yêu này. Các Ngài đã sống như biết bao nhiêu những con nguời khác đã sống, nhưng các Ngài đã sống hơn hẳn rất nhiều người khác ở chỗ các Ngài đã biết sống anh hùng, không để cho mình bị mua chuộc, không để cho mình bị khuất phục. Tiền bạc không làm cho các Ngài mù tối. Khổ đau không làm cho các ngài chùn bước, nhục hình không làm cho các ngài ngã qụy, và cả cái chết cũng không uốn cong được lòng trung tín của các Ngài.
Chúng ta hãy đọc lại sắc dụ cấm đạo được ban hành ngày 18-9-1855 để chúng ta thấy được một phần nào những hình khổ mà các Ngài phải chịu như thế nào: "Các quan theo đạo Giatô tại triều đình Huế hạn cho một tháng phải bỏ đạo. Các quan tỉnh thì ba tháng. Lính tráng và người dân thì sáu tháng, bằng không thì phải kể là trọng phạm.
Các người theo đạo Giatô không được thi cử, không được giữ chức tước gì. Ai đưa đường hay chứa chấp đạo trưởng thì bị xử tử. Đạo trưởng Tây phương thì chém đầu vất xác xuống sông. Các giáo đồ giúp các đạo trưởng thì phải chém đầu. Các cụ đạo bản quốc cũng phải chém đầu. Các giáo đồ theo các cụ đạo này thì phải thích chữ vào mặt và phát lưu. Phải đốt cho sạch các nhà thờ nhà xứ "
Lịch sử còn ghi lại những hình phạt mà người ta đã nghĩ ra và đã dùng để phạt những người theo đạo như sau:
- Nhẹ nhất là bị gông cùm. Bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.
- Nặng hơn một chút thì bị voi dầy, bị trói ném xuống sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng.
- Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (thắt cổ) và thiêu sống.
- Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh) hay bá đao (bị xẻo từng mảnh thịt cho tới chết)
Tôi xin trích ra đây một đoạn trong bản báo cáo về việc xử Cha cố Du tại Thợ Đức ngày 30-11-1835:
"Họ cột chân tay Ngài vào một cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Sau hồi chuông báo hiệu, tên lính cầm kìm đã được nung đỏ kẹp vào ngực kéo ra hai miếng thịt nơi vú liệng xuống đất. Tên khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông - rồi đến dùi thì chúng lấy kìm kéo thịt ra rồi dùng lưỡi dao xẻo đứt từng miếng. Cha ngất đi, đầu rũ xuống và Ngài tắt hơi về chầu Chúa lúc 17giờ.
Cha chết rồi, lính chặt đầu Ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi... đoạn họ cởi trói lật úp xác xuống, phân thây ra từng khúc bỏ vào thùng vôi. Tiếp theo họ lấy đầu đầu của ngài treo giữa chợ ba ngày... rồi lấy xuống nghiền nát ra bỏ vào thùng đựng xác rối vất tất cả xuống biển cho mất tích"
Vâng, kính thưa anh chị em,
Gian khổ có cao, hình phạt có nặng nhưng lòng thành của các Ngài còn cao hơn. Cái chết của các Ngài thật đáng làm cho chúng ta phải tự hào. Trong sắc phong chân phước cho 64 anh hùng tử đạo Việt Nam ngày 27-5-1900 Chính Đức Thánh Cha Léo XIII đã nói về các Ngài với tất cả lòng khâm phục như sau: "Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa vào những thế kỷ khai nguyênh của Giáo Hội Chúa Kitô".
2. Tâm tình thứ hai là lòng biết ơn.
Việc mừng lễ hôm nay làm tôi nhớ lại những lời rất cảm động sau đây của Chúa Giêsu: "Kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì chúng con không vất vả làm ra. Những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng công lao khó nhọc của họ" (Jn 4,36-37).
Sử gia Tertulianô ngày xưa khi nhìn lại những năm trời Giáo Hội bị bách hại và những cuộc trở lại đạo hàng loạt sau đó, ông đã phải viết lên những lởi rất rất đáng cho chúng ta suy nghĩ như thế này: "Những hạt máu của những vị tử đạo là những hạt giống làm nảy sinh ra những người Kitô hữu khác"
Hàng trăm ngàn các anh hùng Tử Đạo Việt Nam của chúng ta đã vất vả khó nhọc gieo vãi. Các Ngài đã gieo vãi không phải là những hạt giống thông thuờng nhưng bằng những giọt máu của các Ngài. Và chính nhờ những giọt máu này mà chúng ta mới được như ngày hôm nay.
Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta có được những con người anh hùng như thế. Đồng thời chúng ta cũng phải biết ơn các Ngài vì chính nhờ các Ngài mà hạt giống đức tin đã nảy mầm và lớn lên trong chúng ta.
3. Tâm tình thứ ba là bổn phận phải sống làm sao cho xứng đáng với danh nghĩa con cháu của những anh hùng.
Châm ngôn Việt Nam có câu rất hay: "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh" Phải sống xứng đáng để những thế hệ mai sau khi nhìn vào thế hệ này, họ cũng cảm thấy tự hào.
Năm 1934 khi nhắn nhủ một số các em nhỏ đến mừng sinh nhật của mình nhà bác học bổi danh nhất của thế kỷ thứ 20, Albert Einstein đã nói với các cháu những lời cảm động như sau: "Các cháu nên nhớ rằng những điều kỳ diệu các cháu được học ở trường là do công lao của biết bao thế hệ trên khắp thế giới đã hăng hái gắng sức và cặm cụi làm việc không ngừng rồi truyền lại cho các cháu như một di sản để cho các cháu tiếp nhận, tôn trọng, tăng gia thêm và một ngày nào đó các cháu sẽ lại trung thành truyền lại cho con cháu các cháu. Nhờ vậy mà chúng ta, những con người hữu sinh hữu tử mới thành bất tử trong những vật trường tồn mà chúng ta tạo chung với nhau"
Chúng ta đang thừa hưởng một di sản vô cùng quí giá do cha ông chúng ta để lại. Cách trả ơn tốt nhất đối với các Ngài là tiếp nhận và trung thành truyền lại cho các thế hệ mai sau.
Nhưng truyền lại bằng cách nào?
- Thưa bằng chính cuộc sống mà tổ tiên của chúng ta đã sống.
Văn hào Tagore khi bàn về cái chết của Thánh Gandhi, đã nói: "Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức Thích Ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn nhớ tới thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau"
a- Bài học đầu tiên mà mỗi người chúng ta phải noi gương bắt chước đó là phải trung thành với niềm tin.
Đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta. Hãy bảo vệ lấy, đừng để cho nó bị hao mòn đi.
Phaolô Mợi bị bắt, bị giải đến quan. Quan dụ:
- Anh đạp ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.
-..........................?
- Vậy một nén vàng!
- Bẩm quan chưa đủ.
- Vậy anh muốn bao nhiêu?
- Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khóa thì quan phải cho tôi đủ vàng để mua được một linh hồn khác.
Nguyễn văn Lựu: "Đạo đã nhập vào xương tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được."
b- Bài học thứ hai phải can đảm sống niềm tin đó.
Trong một bài diễn văn đọc cho binh lính trước khi họ lâm trạn. Hitler đã nói: "Thế giới này sẽ thuộc về những kẻ gan dạ" Victor Hugo: "Đồi Calvario ở đầu đường và hào quang cũng xuất hiện ở đó"
Chúa Giêsu: "Nước Trới phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy" Không có chiến thắng cho những kẻ chưa lâm trận đã đầu hàng. Không có vinh quang cho những kẻ hèn nhát. Phần thưởng càng lớn, vinh quang càng cao thì cái giá phải trả cho nó càng đắt.
Phải xử dụng sức mạnh mới chiếm hữu được Nước Trời.
Lời cuối cùng của tôi. Tôi xin mượn lời của Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Roma. Ngài gửi những lời này cho họ vào lúc cơn bắt bớ đạo giáo tại đó bắt đầu trở thành khốc liệt. Ngài muốn dùng những lời này để khích lệ họ, để họ can đảm, để họ tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng: "Ai có thế tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?
Ngài nói tiếp như một xác tín: "Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta" Và Ngài kết luận: "Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô Chúa chúng ta" (Rom 8,35-39). Amen.
46. Người chứng thứ nhất – Ga 12,24-26 -- ‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu. Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu danh thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu vật, còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết đây là một thánh nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh. (theo “Người chứng thứ nhất” của Phạm Đình Khiêm).
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần nói đến các Thánh Tử Đạo là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh ngục tù, gông cùm, gươm giáo, đầu rơi, máu đổ. Thế nhưng, ở thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21, những cảnh hành hình tàn bạo, dã man, cổ điển ngày xưa và việc bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được loại bỏ trong các bộ luật hình sự của các nước trên thế giới.
Ngày nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng rãi hơn. Người tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho quyền sống của con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, - thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” – vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám mục, linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (số 37).
Tại đất nước chúng ta, giai đoạn lịch sử của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai vị tử đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế và Matthêu Liciana Dậu, hai linh mục dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại Thăng Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng trước đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô, như thấy nơi cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm 1644 tại miền Trung. Vị Tử đạo cuối cùng trong số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh, miền Bắc. Cuối năm 1861 đầu năm 1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm dứt còn bùng lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị thiêu sống. Vậy trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta không những kính 117 vị đã được tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức tin cho chúng ta là con cháu.
Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta cần tỏ lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến với loài ngừoi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Người và Người Con Một ấy trước khi chết vì chúng ta đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ. Kế đến Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn nhủ các môn đệ. Ngài ví bản thân Ngài như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải chết đi để sinh được nhiều bông hạt lúa mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò các môn đệ về cái thế giới chẳng mấy thân thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét anh em vì họ đã ghét Thầy trước.
Chính tình yêu đến hy sinh mạng sống như Chúa Giêsu là cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Cái giá ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các Thánh Tử Đạo cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận biết Chúa Kitô để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã nói: “Máu các vị Tử Đạo chính là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.
Thưa anh chị em,
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường vị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta.
47. Tử đạo
"Tôi thấy một số đông người không thể đếm được thuộc đủ mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước tòa Thiên Chúa và trước Chiên Con, mình mặc áo trắng và trên tay cầm cành lá chiến thắng".
Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm tưởng đoàn người chiến thắng đứng trước Ngai Thiên Chúa trên trời mà thánh nhân được Chúa cho thị kiến. Tiếp theo thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền như sau:
"Những người mặc áo trắng ấy là ai và họ từ đâu tới? Chính vị trưởng lão cho biết, đó là những người đã qua cơn đại họa, đã giặt áo họ trong Máu Chiên Con và nay trở về. Vì thế họ được hân hạnh đứng trước tòa Thiên Chúa và phụng thờ Ngài ngày đêm trong đền thờ. Đấng ngự trên tòa sẽ chở che và phù trợ họ, họ sẽ không còn phải đói khát nữa, không còn bị mặt trời và nóng bức làm khổ nữa. Vì Chiên Con đứng ở giữa tòa sẽ chăn dắt họ, sẽ đưa họ đến suối nước thiêng và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt họ".
Qua ngày lễ kính các thánh Tử Đạo Việt Nam được toàn thể anh chị em Công giáo khắp Năm Châu mừng hôm nay, Giáo Hội muốn khẳng định cho chúng ta và toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Trong số đoàn người đông đảo đứng trước ngai Thiên Chúa có cả những người thuộc dân tộc Việt Nam, có cả con cháu dòng giống lạc hồng, các ngài đã trải qua những cơn thử thách gian truân, lấy mạng sống của mình để minh chứng cho niềm tin và nay được trở về với Thiên Chúa.
Các vị tử đạo Việt Nam là ai? Các ngài là những nhà truyền giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục người Pháp, Tây Ban Nha, nhưng đa số là những người Việt Nam gồm 37 linh mục, 16 thầy giảng, một chủng sinh và đặc biệt là rất nhiều giáo dân. Số đông đảo giáo dân Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin là điểm son thứ nhất tôi muốn nêu bật trong bài chia sẻ hôm nay.
Điểm son thứ hai tôi muốn lưu ý với anh chị em hôm nay, các thánh Tử Đạo là những công dân hiền hòa, sống đời gương mẫu, nêu gương lý tưởng trung kiên với Thượng đế, không phò vua bách hại, nhưng một lòng tùng phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù nhưng không một người nào có ý định cầm khí giới để phòng thân. Trái lại, họ chỉ cam chịu, chỉ cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho các quan đã ký sắc lệnh tử hình và thật lòng tha thứ cho những kẻ hành quyết mình. Cử chỉ này không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng nhân như câu: "Đấng thượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng mới hay".
Cuối cùng điểm son thứ ba tôi muốn nêu bật, là những thành tích vẻ vang để chứng tỏ niềm tin sắt đá các thánh Tử Đạo Việt Nam đã ghi vào những trang sử của Giáo Hội, là lòng tôn kính của các ngài đối với thập giá. Đối với các thánh Tử Đạo Việt Nam, chết tang thương, chết treo trên thập tự để minh chứng tình yêu tột đỉnh của mình đối với Thiên Chúa và đối với nhân loại, vì thế không một khổ hình nào có thể di chuyển đôi chân của các ngài tự ý bước qua thập giá. Không bước qua thập giá để không chối bỏ đạo dù phải đòn vọt, tra tấn, dù phải chịu tử hình, các vị Tử Đạo Việt Nam đã nêu gương yêu mến thập giá để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo trên ấy bằng chính mạng sống của các ngài.
Cùng với anh chị em Công giáo khắp năm châu mừng kính lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải một lần nữa ý thức rằng, cuộc sống và cái chết của các ngài có thể nói được là những dòng chữ đầu trong các trang sử của Giáo Hội Việt Nam mà mỗi người chúng ta được kêu mời và thách đố. Hãy noi gương các vị tiền nhân anh dũng để chúng ta cùng nhau viết lên thành tích của lòng trung thành và can đảm sống đạo, sống cuộc sống chứng nhân cho tình yêu qua những hành động cụ thể, để tha thứ, hòa giải và chung tay xây dựng đất nước cũng như chứng nhân cho ý nghĩa thập giá qua nếp sống hằng ngày của mình, mỗi người trong địa vị, mỗi người trong môi trường sống của mình.
Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam cầu bầu cho quê hương đất nước được quốc thái dân an, xin cầu bầu cho Giáo Hội Việt Nam được luôn trung thành với niềm tin, đức cậy và lòng mến trung thành.
48. Anh hùng tử đạo
Vào một ngày mùa hè năm 1839, vua Minh Mạng “vi hành” đi quan sát dân tình thế thái tại kinh đô Huế. Mọi sinh hoat nơi phố phường đều phải ngưng lại. Ai nấy đều phải tránh sang một bên để xa giá của nhà vua đi qua, rồi sau đó mới được phép tiếp tục công việc.
Nhưng rồi bỗng từ đâu xuất hiện hai quân nhân không thuộc đội cận vệ của nhà vua. Họ quì rạp xuống. Hai tay nên cao lên trán một tờ sớ viết bằng chữ Hán. Quan hầu cận nhận tờ sớ và trình lên nhà vua. Tờ sớ mang chữ ký của ba người, đó là Phan Viết Huy, Bùi Đức Thể và Đinh Đạt. Riêng ông Đạt, vì bận việc nên vắng mặt.
Nội dung tờ sớ ấy như sau:
- Cha ông chúng tôi theo đạo Gia Tô. Năm ngoái các quan tra tấn, ép buộc chúng tôi phải bước qua thánh giá. Chúng tôi đã miễn cưỡng làm theo, chứ thực tâm chẳng hề muốn một chút nào cả. Nay chúng tôi xin được tiếp tục giữ đạo để làm trọn chữ hiếu với cha ông chúng tôi.
Tờ sớ mang lại một kết quả, đó là các ngài đã được diễm phúc tử đạo. Thánh Augustinô Huy và thánh Nicola Thể thì bị chém đầu và thân xác bị ném xuống biển làm mồi cho cá ở cửa Thuận An ngày 13.6.1839. Còn thánh Đa Minh Đạt thì bị xử giảo tại pháp trường Bảy Mẫu thuộc tỉnh Nam Định ngày 18.7.1839.
Tờ sớ này có một nội dung giống như lời cha Phêrô Tự đã nói với quan tòa:
- Tôi kính Thiên Chúa, như thượng phụ, kính nhà vua như trung phụ và kính song thân như hạ phụ. Nếu tôi không thể nghe theo cha mẹ ruột mà làm hại đến nhà vua, thì tôi cũng không thể vì nhà vua mà phạm đến thượng phụ của tôi là Thiên Chúa.
Hai mẩu chuyện nói trên tiêu biểu cho niềm tin của 117 vị thánh Tử đạo Việt Nam. Các ngài đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II tôn lên bậc hiển thánh ngày 19.6.1988 tại Rôma. Và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã ấn định mừng kính các ngài cách trọng thể vào Chúa nhận thứ 33 thường niên, Chúa nhật trước lễ Đức Kitô Vua, kết thúc năm phụng vụ, đồng thời cũng để mừng kỹ niệm ngày thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam.
Trong số 117 vị, thì gồm có: 8 giám mục, 50 linh mục, 14 thầy giảng, 01 chủng sinh và 44 giáo dân. Những cực hình dã man các ngài đã phải chịu gồm nhiều loại khác nhau, chẳng hạn như bá đao nghĩa là bị cắt ra cho đủ 100 miếng, lăng trì nghĩa là bị chặt tay chân trước rồi mới chém đầu sau, xử trảm nghĩa là bị chém đầu, xử giảo nghĩa là bị treo cổ, thiêu sinh nghĩa là bị đốt sống và rũ tù nghĩa là bị chết trong tù.
Các chết anh dũng của các thánh Tử đạo Việt Nam một lần nữa cho chúng ta thấy được rằng sự thù ghét đối với niềm tin không phải chỉ là một hiện tượng thoáng qua, mà còn là một sự kiện thuộc về bản chất của người đời, của thế gian.
Thực vậy, kẻ đau mắt nhức nhối trước ánh sáng thế nào, thì người đời và thế gian cũng nhức nhối trước tinh thần của Đức Kitô như vậy. Tinh thần của thế gian đối nghịch với tinh thần của Đức Kitô như bóng tối và ánh sáng, như lửa và nước.
Nếu như ngày hôm nay, chúng ta vẫn còn bị thế gian ghét bõ, thì đó cũng chỉ là một chuyện thường tình mà thôi, bởi vì chính Đức Kitô, trong suốt quãng đời công khai cũng đã gặp phải rất nhiều những chống đối và thù ghét, để rồi cuối cùng, mặc dù chẳng có tội lỗi gì, thế mà Ngài cũng đã phải lãnh nhận cái chết tủi nhục trên thập giá, một hình phạt chỉ được dành cho hạng nô lệ và phản loạn mà thôi.
Tuy nhiên, điều cần thiết đó là chúng ta phải giữ vững niềm tin của mình giữa những phong ba bão táp và những gian nan thử thách trong cuộc đời, như các thánh Tử đạo Việt Nam, là những bậc cha ông chúng ta thuở trước, bởi vì ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát.
49. Chứng nhân
Trong những năm giảng dạy, có lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: "Các con sẽ làm chứng về Thầy". Và chứng ấy là "Người ta sẽ hành hạ và giết các con". Dù không thuộc lịch sử Giáo Hội cho lắm, chúng ta đều biết rằng: Trong ba thế kỷ đầu, Giáo Hội Công giáo đã bị bắt bớ, hành hạ ghê rợn, và không biết bao nhiêu người, từ Giáo hoàng trở xuống, đã đổ máu ra làm chứng đạo Chúa. Rồi lịch sử đạo Công giáo ở Việt Nam cũng thế, dù chúng ta không hiểu biết nhiều lắm, nhưng ai cũng biết rằng: Đây là những trang sử oai hùng, những trang sử mà không một trang nào lại không được tô điểm bằng những nét vàng son chói lọi, và những cái chết anh hùng của tiền nhân chúng ta dưới đủ mọi hình thức tàn bạo, ghê gớm.
Quả thực, có thể nói: Đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bu-giơ-mi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giờ. Vài chục năm sau, cuộc bắt đạo đầu tiên xảy ra thời chúa thượng Nguyễn Phúc, khiến hai thày Inhaxiô và Âu tinh chịu trảm quyết năm 1645 ở Huế. Kể từ năm 1665, việc cấm đạo xem ra liên tục hơn, lúc căng lúc dùng. Hầu hết các thánh đường bị triệt hạ, đất đai nhà chung bị tịch thu và hàng trăm người được phúc tử đạo vào thời Trịnh Cương và Trịnh Giang. Từ năm 1706 đến 1740. Cuộc bách hại kéo dài khốc liệt và đẫm máu hơn qua thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đến thời Văn Thân, khiến nhiều thừa sai ngoại quốc và không biết bao nhiêu linh mục và giáo dân Việt Nam đã phải đổ máu để gieo vãi hạt giống Tin Mừng.
Suốt ba thế kỷ cấm đạo, dưới sáu triều đại, khi thăng khi trầm, Giáo Hội Việt Nam có được khoảng 100.000 vị tử đạo. Trong số đó có 117 vị được phong thánh Tử Đạo vào ngày 19.6.1988 do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hiện nay cũng có mười vị được phong "đáng kính" và 1.000 vị được kể vào bậc "tôi tớ Chúa". Cái chết của các vị tử đạo nói lên điều gì và dạy chúng ta điều gì?
Chúng ta không những nhìn nhận mà còn xác tín rằng: Những người chết vì Chúa như thế được gọi là tử đạo, nghĩa là những chứng nhân của đạo Chúa. Tại sao vậy? Bởi vì khi ấy cũng như ngày nay, Giáo Hội dùng cái chết của các ngài để minh chứng đạo Công giáo là đạo của Chúa. Các ngài lấy máu mình để làm chứng, không phải là làm chứng cho một lý tưởng, nhưng là cho một việc. Chết cho một lý tưởng chưa phải là bằng chứng quyết định cho lý tưởng ấy, vì người ta có thể tưởng lầm rằng: Lý tưởng ấy là đúng, và chết cho một lý tưởng chỉ minh chứng mình có lòng ngay, mình thành thực. Nhưng khi người ta chết cho một việc thì khác, đó chính là cái chết của các vị tử đạo: Trước cái chết, các ngài tỏ ra can đảm, anh hùng, cương quyết, bình tĩnh, khiến cho mọi người phải thán phục.Trước cái chết, các ngài không sợ hãi, khuyến khích nhau, tha thứ, cầu nguyện cho kẻ bách hại mình, và vui vẻ tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó, cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: Các ngài là những chứng nhân cho đạo Chúa. Vì thế, danh từ "Tử Đạo" có nghĩa là làm chứng, và dùng đau khổ, cái chết để bảo đảm cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã nói: "Tôi sẵn sàng tin những truyện mà người thuật lại giơ cổ cho người khác chém để làm chứng".
Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: Tử Đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho một số người, nhưng bổn phận làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng, và chúng ta đều biết cách làm chứng tốt nhất là bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta. Chúng ta cần thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng chính đời sống tốt đẹp, dù chúng ta không nói hay chưa làm gì cả.
Người ta kể rằng: tại Trung Quốc trong những năm trước năm 1950, có nhiều giáo sĩ đã được gửi đến truyền giáo tại nước này. Người ta đã mở những lớp dạy tiếng Trung Hoa cho những giáo sĩ ngoại quốc để có thể tiếp xúc với dân chúng địa phương. tại một lớp nọ có khoảng 70 người theo học, trong buổi học đầu tiên, bà giám đốc của trường bước vào lớp học. Bà ta đi qua từng hàng ghế từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên, tươi cười nhìn các học viên, rồi cuối cùng đi ra khỏi lớp mà không nói một lời nào. Các học viên đều ngạc nhiên về việc làm của bà giám đốc. Một lát sau, bà ta trở lại lớp và hỏi: "Quí vị đã tiếp thu được điều gì hôm nay chưa?". Mọi người đều ngơ ngác vì bà đã dạy gì đâu? Có một người đứng lên nói: "Chúng tôi chưa nghe bà nói một lời nào. Nhưng chúng tôi chỉ để ý có một điều, khi bà đến lớp này, bà đã xức một loại nước hoa thơm quá".
Cả lớp phá lên cười. Lúc đó, bà giám đốc tươi cười nói: "Tôi cố ý xức nước hoa thật nhiều để quí vị chú ý đấy. Nếu quí vị đã nhận ra được điều ấy là hôm nay quí vị đã học được một bài rồi. Qua điều ấy tôi muốn nói với quí vị rằng: Quí vị sẽ sống khoảng hai năm ở nước này như những người câm vì quí vị không nói chuyện được với những người Trung Hoa. Tuy nhiên, quí vị vẫn có thể để lại cho những người chung quanh quí vị một mùi thơm đặc biệt qua nếp sống của quí vị, để dầu không nói một lời nào, nhưng người khác cũng vẫn nhận ra được hương thơm của Chúa qua quí vị".
Là con cái của Chúa, chúng ta có thể đem đến cho trần gian, cho những người chung quanh, hương thơm ngào ngạt của Chúa qua nếp sống hàng ngày của chúng ta mà không cần nói một lời nào. Xin các thánh Tử Đạo cầu bầu và trợ giúp để chúng ta luôn sống đúng và sống đầy đủ bổn phận làm chứng của chúng ta.
50. Chứng nhân.
Vào hồi 9 giờ sáng ngày 19 – 6 – 1988 tại Rôma, tức là lúc 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. Dĩ nhiên đây chỉ là con số tiêu biểu cho hơn 100.000 vị tử đạo trong gần 300 năm bị bách hại. 300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ. Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân chính của mình.
Trong số hơn một trăm ngàn ấy, có một số rất ít là giám mục, linh mục thừa sai nước ngoài, một số đông hơn là linh mục và tu sĩ nam nữ Việt Nam, nhưng đại đa số là giáo dân: những ông trùm họ, ông câu, ông chánh trương, bà quản, những binh lính và hàng ngàn thanh niên nam nữ và các trẻ em. Tất cả đã chịu tử hình cá nhân hay tập thể, sau khi đã chịu nhiều cực hình khác nhau.
Nói chung, các vị tử đạo đã bằng lòng chấp nhận chịu thử thách đau thương, không kêu ca, không oán hận những người làm khổ mình như một con sò chịu cho người ta cắt thân ra, đặt vào một hạt cát, để rồi sau một thời gian sẽ có một viên ngọc đắt giá. Nếu như con sò kia nhả hạt cát ra thì sẽ không bao giờ có được một viên ngọc sáng giá. Các vị tử đạo cũng vậy, các ngài ấp ủ, bọc kín đau khổ trong đời mình, vì biết rằng qua đó Giáo hội sẽ được lời lãi gấp bội. Các ngài luôn vui tươi trong mọi cảnh huống cuộc đời. Thật là khó hiểu đối với những người không có đức tin. Vui tươi trước những may lành, thành công thì ai cũng làm được, hãnh diện trong vinh quang giàu sang, sung sướng là bình thường, nhưng vui tươi trong gian nan, thử thách, đau khổ, chết chóc là một điều hết sức kỳ khôi, lạ lùng, khác thường, nhưng rất hợp tình hợp lý, vì nước trời ghi công, vì sẽ được hạnh phúc muôn đời, đó là phần thưởng vô giá mà không có gì ở trần gian có thể so sánh được. Tử đạo là như thế.
Nói rõ hơn, trong các tôn giáo khác cũng có những người đã can đảm nhận lấy cái chết do sự nhiệt cuồng mạnh mẽ nhưng nhất thời, còn các vị tử đạo Công giáo không phải là những người nhiệt cuồng. Trong một thời gian lâu dài trước, các ngài đã biết hễ ai theo đạo Công giáo là sẽ bị chết, các ngài luôn sống với ý tưởng: không sớm thì muộn mình sẽ phải chịu đau khổ và phải chết cho đức tin, sống như vậy thì đau khổ hơn chết. Mặc dù vậy các ngài vẫn nhẫn nại trung thành với những bổn phận hằng ngày, vẫn bình thản sống trong sự tinh tấn của lương tâm và đợi chết hằng ngày. Thái độ đó khác hẳn với thái độ nhiệt cuồng của những người cuồng tin, lúc đầu mặc dầu các ngài cũng tìm hết cách để tránh khỏi bị hại, nhưng khi giờ tử đạo đến, các ngài biết chết một cách bình tĩnh cũng như các ngài đã sống bình tĩnh. Chết cách ấy quả là một việc anh hùng và phải có một sức mạnh siêu nhiên nào đó, đúng, đó là bàn tay vô hình của Thiên Chúa nâng đỡ.
Như vậy, tử đạo là lấy máu mình, lấy mạng sống mình, dùng cái chết của mình để minh chứng cho đạo mình tin theo, minh chứng đạo Công giáo đạo của Chúa. Các vị tử đạo đã chết bằng những hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài. Vì thế, danh từ “tử đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng và dùng đau khổ tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã nói: “Tôi sẵn sàng tin những truyện mà người thuật lại giơ cổ ra cho người khác chém để làm chứng”.
Mừng kính trọng thể các thánh tử đạo, chúng ta nói lên lòng biết ơn sâu xa của chúng ta là những người ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn. Các ngài là cho ông tổ tiên của chúng ta, các ngài đã chết, nhưng công nghiệp của các ngài vẫn còn mãi. Cho nên, nhiệm vụ của chúng ta là ghi ơn, thừa hưởng và phát huy truyền thống cha ông ngàn đời vô giá. Truyền thống đó là: đức tin sắt đá, tinh thần đạo đức, chí hy sinh và gương anh dũng. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời của mình.
Chúng ta đều biết cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái, yêu thương, đây là cách tốt nhất để sống đạo và truyền đạo. Chung quanh chúng ta, những đồng bào không Công giáo cũng quan tâm rất nhiều đến bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người khác: những việc làm xóa đói giảm nghèo, những ngôi nhà tình nghĩa, những lớp học tình thương, những chia sẻ cho những anh em bị bão lụt, thiên tai, những người bệnh tật… chúng ta có quan tâm đến những việc đó hay những việc tương tự khác không? Chúng ta cũng nên tự hỏi: cách sống đạo của chúng ta có thực sự tuyên xưng Chúa, tuyên xưng đức tin không? Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng việc sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
Xin Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên Chúa ban ơn thêm sức cho chúng ta, đặc biệt là ban ơn bác ái yêu thương để chúng ta thêm tình mến Chúa yêu người một cách đơn sơ trung thành, một cách bền vững và một cách quảng đại. Chúng ta hãy nhớ: chỉ có tình yêu thương là cách sống đạo tốt nhất và làm chứng cho Chúa, cho đạo hữu hiệu nhất.
51. Chọn Đấng Chịu Đóng Đinh
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Hữu An)
Tin mừng Lc 21: 5-19: Các Thánh Tử Đạo có chung một chọn lựa dứt khoát: theo Đức Kitô hay theo vua quan? Theo Đức Kitô là vác thập giá, sống trong gông cùm và chết trong đau thương. Theo vua quan là thừa hưởng vinh hoa phú quý nơi trần gian. Các Ngài có chung một quyết định tối hậu là theo Đức Kitô.
Năm 1837, vua Minh Mạng triệu tổng đốc Nam Định Trịnh Quang Khanh về kinh và trao cho 40 cây Thánh Giá, rồi ra lệnh phải áp dụng gắt gao chiếu chỉ cấm đạo. Từ đó, tổng đốc Khanh trở thành “Hùm xám Nam định”.
40 cây Thánh Giá trở thành dụng cụ để thử thách niềm tin của người tín hữu. Người có đạo khi bị bắt, buộc phải “quá khoá” phải bước qua Thánh Giá. Nếu bước qua sẽ được sống, được trả lại tất cả những gì đã mất, và còn được tặng thêm phú qúi vinh hoa. Không bước qua phải bị tù đày, gông cùm đòn vọt và mất cả mạng sống.
Thánh Giá chính là cột mốc để phân định giữa sống và chết, giữa Thiên Chúa và thế gian. Khi đối diện với Đấng Chịu Đóng Đinh, người tín hữu luôn phải thực hiện một sự chọn lựa có tính quyết định.Chỉ cần một bước chân thôi là mọi sự thay đổi. Đã có người bước qua, và cũng có người không.
Có người bị khiêng qua thánh giá nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Đứng trước thập giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.Giây phút đứng trước thập giá là giây phút quan trọng.Quyết định không bước qua thập giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất...
Các Thánh Tử Đạo có chung một chọn lựa dứt khoát: theo Đức Kitô hay theo vua quan? Theo Đức Kitô là vác thập giá, sống trong gông cùm và chết trong đau thương. Theo vua quan là thừa hưởng vinh hoa phú quý nơi trần gian. Các Ngài có chung một quyết định tối hậu là theo Đức Kitô. Giây phút quyết định ấy chỉ có các Ngài với Thiên Chúa, chỉ có linh hồn với cõi phúc vô biên. Giây phút ấy không bị ảnh hưởng bởi gia đình, tổ quốc, nhân sinh. Người chết trong máu tử đạo đã coi nhẹ nghĩa phu thê, đã xem thường đường phụ tử. Họ khao khát một tình yêu vô biên mỹ lệ như giải ngân hà sao sa vời vợi, như vầng nhật nguyệt huy hoàng khôn tả. Các Ngài đã hoan hỉ chấp nhận chết để được sống một cuộc đời mà không mỹ từ nào diễn tả nổi, không bút hoạ nào vẽ thành và không hùng biện nào tuyên dương cho trọn. Người chết trong gông cùm mòn mỏi đã đặt tổ quốc đàng sau những giá trị vĩnh cửu. Ước vọng của họ không phải là được người đời tưởng niệm, được hậu thế tôn phong. Họ chết là vì đức tin thúc đẩy. Họ chỉ muốn thực hiện điều đã từng nghe biết: “Ai tuyên xưng danh Ta trước mặt trần gian, Ta sẽ tuyên danh nó trước mặt Cha Ta trên trời” (Mt 10,32). (x.Thiên Hùng Sử trang 4).
Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn 100 ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong đó, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân. Đó là chưa kể con số rất đông các tín hữu bị chết mất tích trong các đợt bắt Đạo vì lưu đày, vì phải trốn tránh vào những nơi hẻo lánh.Đó là chưa kể rất nhiều tín hữu phải chết do cuộc Phân Sáp 400 ngàn người Công Giáo dưới triều Vua Tự Đức.Đó còn là chưa kể con số hơn mười mấy vạn người Công Giáo bị chết khi có Phong trào Văn Thân nổi lên tàn sát người Công Giáo...Như thế, con số Tử Đạo phải tính lên đến 300 ngàn người trong vòng 300 năm. Nếu tính theo tỷ lệ, 100 năm thì có 100 ngàn Vị Tử Đạo. Và theo tỷ lệ này, cứ một năm, có một ngàn Vị Tử Đạo; và đổ đồng, cứ một ngày, có hơn hai Vị Tử Đạo!
Thánh Giá luôn là điểm hẹn tình yêu, là nơi gặp gỡ của những người sống cho tình yêu và chết cho tình yêu. Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng Chịu Đóng Đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Chúa Kitô đã dùng tình yêu biến đau khổ thành niềm vui. Tình yêu làm cho thập giá trở thành Thánh Giá.
Thánh Giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ giành chiến thắng cuối cùng trên sự Ác. Thánh Giá là cánh cổng dẫn vào sự sống, thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên mãn. Ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống. Ai can đảm chết cho Chúa Kitô sẽ được sống muôn đời. Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa, bởi lẽ “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Đức Cha Lambert de la Motte sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Đây là Hội Dòng chọn Đức Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của tình yêu của lòng trí. Không chọn cái gì nhẹ nhàng mà lại chọn Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá. Chọn con đường theo Chúa là đi vào con đường hẹp. Một chọn lựa khôn ngoan vì đã chọn chính Đấng Cứu Độ. Thánh Giá là đỉnh cao ơn cứu độ.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá. Bởi đó Thánh Thể và Thánh Giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh Giá, Thánh Thể không có ý nghĩa. Không có Thánh Thể, Thánh Giá chỉ là thất bại.Từ Thánh Giá đến Thánh Thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh Giá đến tình yêu Thánh Thể.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhờ sức mạnh của Thánh Thể nên đã chọn Thánh Giá cách tuyệt đối và quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Là con cháu của các Ngài, xin cho chúng con luôn khôn ngoan trong những chọn lựa của đời sống hàng ngày. Amen.
52. Sức mạnh của đức tin – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Nói đến sức mạnh, chúng ta tự nhiên sẽ nghĩ đến những chàng trai võ sĩ thân hình lực lưỡng, cân đối rắn chắc,với những bắp thịt vạm vỡ, với những quả đấm thôi sơn ngàn cân. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng nghĩ đến những trận cuồng phong, những cơn lũ lụt phá đổ cây cối nhà cửa làng mạc, đê điều, đường sá, cầu cống. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng thường nghĩ tới những đám cháy lớn thiêu rụi cả một khu rừng, thiêu huỷ các tầng lầu.
Nói đến sức mạnh, chúng ta nghĩ đến những trận động đất san bằng nhiều thành phố, giết hại hàng triệu người trong vài giây đồng hồ. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng liên tưởng đến những cuộc chiến tranh đã giết hại bao sinh mạng, tàn phá bình địa nhiều thành phố làng mạc nhà cửa dinh thự đền đài.
Nhưng còn có một sức mạnh vạn năng khác, mãnh liệt hơn cả, quyết thắng tất cả mà lại luôn luôn ở trong tầm tay con người. Đó chính là sức mạnh niềm tin tôn giáo.
Niềm tin tôn giáo không bao giờ bị bóp nghẹt do bất cứ quyền lực nào. Không có quyền lực nào có thể xoá bỏ được niềm tin tôn giáo. Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh xác tín đó.
1. Sức mạnh đức tin vượt thắng những thách đố.
Trong chuyến hành hương Rôma, tôi có dịp đi viếng những hang toại đạo. Đi trong hang như là tìm về cội nguồn đức tin. Nơi đây biểu lộ sức mạnh đức tin của bao thế hệ tiền nhân. Giáo hội giữ vững niềm tin trên nền tảng tử đạo của biết bao con người nằm dưới hang này trong 300 năm đầu bị bách hại. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang rất lạnh lẽo. Mùi tử khí vẫn còn thoang thoảng đâu đây. Đi trong hầm mộ lạnh lùng, hoang vắng, lối ngõ ngoằn ngoèo, tôi cảm nghiệm được ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Sự chết luôn luôn đe dọa rình rập cướp lấy mạng sống con người. Bước đi trong lòng tin và lòng cảm phục nên người hành hương lại cảm nhận sự ấm áp, thân tình gần gũi với các thế hệ tiền bối. Gia sản của Giáo Hội là đây.Tại nơi này, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong ba thế kỷ. Sức mạnh đức tin thật là kỳ diệu.
Suốt ba trăm năm bắt Đạo, trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn trăm ngàn Vị Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong số này, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân.
Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã chịu bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc dài lịch sử.
Các Thánh Tử Đạo đã chịu đủ mọi cực hình: bị xiềng xích, lao tù, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp, bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông, bị tống cổ ra khỏi nhà cửa, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc. Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bịnh và bị dã thú ăn thịt…Với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã man. Cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, voi giầy, trói ném xuống sông, đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, chặt đầu, thắt cổ, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ. Trong 117 Thánh Tử Đạo được tuyên phong, có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo (bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.
Người ta nghĩ ra mọi thứ hình phạt tàn ác để buộc các tín hữu chối bỏ đức tin.
- Thật kinh hoàng sởn tóc gáy khi nghe kể về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao: “Ngày 30.11.1835, họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử ngài.Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ. Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết. Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa. Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất, một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông, rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi lấy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30.11.1835. Cha Du chết rồi bọn lính còn chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích".
- Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lệnh quan án sát. Vừa nghe lệnh, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
- Cha Điểm và Cha Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.
Dù chịu mọi cực hình tàn bạo, bị hành hạ tra tấn khủng bố, các ngài vẫn không chối bỏ đức tin. Vua chúa, quan quyền, binh lính phải sững sờ kinh ngạc và kính phục lòng tin sắt son của các ngài.
Thánh Hồ Đình Hy làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm Trọng Khảm. Nhờ sức mạnh đức tin, các ngài chấp nhận mất chức quyền, mất danh vọng thế gian và sẵn sàng hiến dâng mạng sống.
Thánh Lê Thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhờ sức mạnh đức tin nên ngài đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Thánh Tôma Thiện, Phaolô Bột, đầu xanh tuổi trẻ, tương lai còn dài, nhiều hứa hẹn. Các ngài đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho Chúa nhờ sức mạnh đức tin.
Các Thánh Tử Đạo vui lòng đón chịu mọi cực hình đau đớn, chấp nhận mọi thua thiệt, vui lòng mất hết địa vị bổng bộc và hiên ngang tiến ra pháp trường đón nhận cái chết như một mối phúc, minh chứng lòng trung thành của mình đối với Đức Kitô. Cái chết của các ngài làm sáng lên sức mạnh đức tin.
2. Những thách đố Đức Tin thời nay.
Làm sao chúng ta có thể sống đức tin mạnh mẽ như các Thánh Tử Đạo. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời xưa.
Nhưng ngày nay có rất nhiều thách đố đức tin với tín hữu Việt Nam.
- Vô thần duy vật
Thách đố trước hết đối với Đức Tin chính là môi trường mà chúng ta đang sống và “hít thở”, đó là một xã hội vô thần duy vật. Đây một xã hội tự bản chất chối bỏ Thiên Chúa, đề cao vật chất và quyền lực. Sự chối bỏ Thiên Chúa sẽ là nguyên nhân đưa tới sự sa đọa của con người và xã hội. Khi một xã hội vắng bóng Thiên Chúa, người ta sẽ tạo ra những “thiên chúa khác” nơi một con người hoặc nơi vật chất như người Do Thái trong Cựu Ước đã đúc ‘bò vàng” để thờ như thờ Thiên Chúa. Xã hội chạy theo sức hấp dẫn của đồng tiền. Của cải và quyền lực lên ngôi. Thang giá trị đạo đức bị đảo lộn. Người ta tìm mọi cách kiếm tiền để có quyền. Khi có chức quyền thì càng kiếm được nhiều tiền. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền. Để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn bán ma túy, tham nhũng, hối lộ… Tiền bạc qủa là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những gía trị, biến chất con người. Trong xã hội đó, nhiều người Công Giáo cũng bị cuốn hút vào ma lực của đồng tiền, nên dễ đánh mất Niềm Tin, xa rời Giáo Hội.
- Gian dối và lừa lọc lên ngôi
Thách đố thứ hai của Đức Tin, đó là xã hội Việt Nam đang báo động bởi đầy dẫy những bất công, lạm quyền và giả dối lan tràn. Đạo đức suy thoái, lương tâm và nhân phẩm bị xúc phạm. Mấy câu thơ sau đây có thể tóm tắt thực trạng xã hội:
“Nhân phẩm ngày nay giảm giá rồi,
Chỉ còn thực phẩm tăng giá thôi,
Lương tâm bán rẻ hơn lương thực,
Chân lý chân giò một giá thôi.”
Sống trong môi trường như thế, nhiều người lập luận: người ta gian dối mà mình trung thực là mình thua thiệt! Có những người Công Giáo cũng hành xử như người không tin, cũng lừa lọc, gian lận đủ cách để làm sao mình có lợi.
- Sự đề cao hưởng thụ cá nhân
Chúng ta đang phải đối diện với một nền văn hóa bị thống trị bởi lối sống hưởng thụ ích kỷ. Trong đó, con người chạy theo lối sống hưởng thụ cá nhân, biến người khác thành một món hàng để chiếm đoạt và mua bán. Tương quan yêu thương và nhân bản bị xếp sau tương quan trao đổi và lợi ích kinh tế. Xã hội này đã sinh ra những đứa con “quái thai” trong cách sống: bằng mọi cách để kiếm tiền và hì hục hưởng thụ! Khi sống theo lối sống này, con người trở nên ích kỷ, quy ngã, hời hợt, và ít quan tâm đến người khác, thiếu khả năng liên vị, không biết tôn trọng và yêu thương người khác. Quan sát cách hành xử của người Việt Nam ở nơi công cộng và nhất là khi tham gia giao thông, sẽ thấy người ta tranh giành nhau, chụp giật và manh mún theo kiểu mạnh ai người ấy thắng, cá lớn nuốt cá bé. Cách sống nói lên não trạng và tâm tính con người. Đó là một tình trạng đáng buồn cho xã hội Việt Nam hôm nay!
- Chủ trương duy tương đối
Còn có một thách đố lớn hơn đối với Đức Tin mà Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI luôn cảnh báo, đó là chủ trương duy tương đối. Chủ trương này khiến cho con người hôm nay không còn muốn chấp nhận các chân lý tuyệt đối nữa, không quy chiếu và sống theo một chuẩn mực luân lý hay giá trị đạo đức khách quan nào nữa. Tất cả là tương đối và mỗi người có thể thay đổi các chân lý và sống theo những chọn lựa và chuẩn mực cá nhân. Đây là sai lầm căn bản dẫn đến những sai lầm khác của con người hôm nay. (x. Những thách đố đối với Đức Tin trong xã hội hôm nay; lamhong.org).
Những lối sống và não trạng trên đã và đang len lỏi vào các ngõ xóm, các xứ đạo của chúng ta.
3. Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô
Năm Đức Tin là thời gian và cơ hội quý báu giúp mọi Kitô hữu “tái khám phá hành trình Đức Tin để luôn làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say mới của việc gặp gỡ Đức Kitô” đồng thời, “khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng Đức Tin trong sự toàn vẹn và với niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng” (Tự sắc Porta Fidei, số 2 và 9).
Đức Giáo Hoàng Biển Đức dạy: “Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội thuận tiện để tăng cường việc cử hành Đức Tin”. Cử hành đức tin là tuyên xưng, sống và làm chứng cho Đức Tin. Tuyên xưng Đức Tin như Kinh Tin Kính dạy và như Hội Thánh công bố. Tuyên xưng Đức Tin trong mọi hoàn cảnh sống khi an vui, hạnh phúc và thành công, cũng như khi đau khổ, bệnh tật, thất bại hay khủng hoảng. Cử hành Đức Tin bằng việc nhiệt thành dấn thân thực hiện công cuộc truyền giáo với cách thức mới mẻ và hiệu năng hơn. Cử hành Đức Tin bằng sự chuyên cần cử hành và lãnh nhận các bí tích. Cử hành các bí tích là cử hành mầu nhiệm các đức tin, nhất là bí tích Thánh Thể và Hòa Giải.
Đức Tin là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa đã ban tặng. Đức Tin là “cửa” mở ra, đưa chúng ta đi vào đời sống kết hiệp thân tình với Thiên Chúa và bước vào Hội Thánh của Người. Đức Tin là bảo chứng mang lại ơn cứu độ đời đời cho chúng ta.
Đức Tin bừng lên mãnh liệt trong mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng. Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để học hỏi nơi cuộc đời chứng nhân của các ngài. Chúng ta được tiếp thêm sức mạnh Đức Tin để sống đạo giữa biết bao thách đố của thời đại hôm nay. “Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô và được củng cố trong đức tin” (Cl 2, 7), chúng ta sẽ được tràn đầy sức mạnh Đức Tin.
53. Tử đạo
Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ:
- Người ta sẽ ghét bỏ các con, sẽ bắt bớ và xua đuổi các con ra khỏi nhà hội. Sẽ đánh đập và nhốt các con vào ngục tù, và sau cùng họ giết các con vì môn đệ không trọng hơn thày.
Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã được thực hiện, trải qua dòng thời gian, hằng triệu các tín hữu đã đi vào dấu chân của các tông đồ, chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng Phúc âm.
Có thể nói được rằng Kitô giáo đã lớn lên trong máu và nước mắt. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, Giáo hội đều gặp phải những bắt bớ và cấm cách, từ những thế kỷ đầu khi Giáo hội còn phôi thai, cho đến tận ngày hôm nay khi Giáo hội đã có mặt ở tận cùng bờ cõi trái đất.
Nào là những cuộc bách hại đẫm máu ở Đại Hàn, Nhật Bản, Phi Châu và ngay cả trên đất nước Việt Nam thân yêu, suốt ba thế kỷ, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, biết bao nhiêu bắt bớ cũng đã xảy ra. Thực vậy, Tin mừng được chính thức loan truyền trên quê hương Việt Nam vào thời Hậu Lê thuộc thế kỷ 16. Thế nhưng, ngày từ lúc còn phôi thai Giáo hội Việt Nam đã gặp phải những cấm cách đúng như lời Chúa đã phán: Nếu họ đã bắt bớ Thày, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Cuộc bách hại khởi đầu từ thời Hậu Lê, qua nhà Tây sơn, rồi tới triều Nguyễn và đặc biệt trở nên gắt gao dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Suốt ba trăm năm, biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ làng mạc thân yêu trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc, cốt bảo toàn đức tin của mình. Hơn 130 ngàn người đã ngã gục dưới những cực hình dã man, để trờ thành những chứng nhân bất khuất cho Đức Kitô. Trong đó 117 vị đã vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh, gồn 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thày giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.
Thế gian thù ghét Chúa Giêsu và Giáo hội, Sự thù ghét ấy vẫn còn đó, cho dù con người hôm nay đã bước vào thời đại văn minh và tiến bộ. Thực vậy, Ngày hôm nay trên thế giới vẫn còn có biết bao nhiêu Giám mục, Linh mục và giáo dân bị tù tội, bị áp bức chỉ vì một lý do duy nhất đó là đã tin theo Đức Kitô.
Thế nhưng như người ta vẫn thường bảo:
- Cái đe làm cho chiếc búa bị hỏng.
Thế gian nhục mạ, bắt bớ Giáo hội và rồi họ đã chết, còn Giáo hội thì vẫn đứng vững, vẫn giữ được vẻ tươi trẻ và sức sống của mình. Chúng ta thử nhớ lại ảnh hưởng to lớn mà Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã tạo được trên thế giới và cái chết của ngài đã gây ra một sự mất mát đớn đau. Rồi những tình cảm nồng hậu người ta đã dành cho Đức Phaolô VI, cũng như Đức Gioan-Phaolô II trong những chuyến công du.
Từ đó chúng ta nhận thấy gian nguy và thử thách là một cái gì gắn liền với thân phận của Giáo hội, hay nói cách khác, là một phần của đời sống Giáo hội, bởi vì không một vị thánh nào mà không bị khổ đau, mà không bị đổ máu.
Thế nhưng chấp nhận cái chết trong phút chốc có thể là một việc dễ dàng. Nhưng từng giây từng phút, từ bỏ những ước muốn riêng tư để làm vui lòng Chúa, chu toàn mọi bổn phận nhỏ bé không tên, tha thứ mọi lỗi lầm, mọi vấp phạm, mọi va chạm, đó có thể là một việc khó, đòi phải có một đức tính kiên nhẫn và một lòng mến chân thành. Việc làm đó không hào quang, không rực rỡ, không một ai biết đến trừ ra chính Thiên Chúa.
Đôi lúc đau khổ và thử thách còn là một phần của đời sống người Kitô hữu: Nào cám dỗ, nào bệnh tật, nào khó khăn, nào chết chóc. Dĩ nhiên chúng ta phải làm việc, để tạo dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc và tiện nghi. Thế nhưng chúng ta phải nhớ rằng: Sống đạo và chạy theo vui thú là hai việc làm không thể đội trời chung với nhau. Bởi vì đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sự bành trướng của tinh thần thế gian. Hay như lời thánh Phaolô đã nói:
- Những người thuộc về Đức Kitô thì đóng đinh xác thịt mình cùng với mọi đam mê dục vọng vào thập giá.
Chính những đau khổ và thử thách sẽ giúp chúng ta vượt lên trên tinh thần thế tục, thanh tẩy chúng ta và đền bù tội lỗi chúng ta.
Bởi đó đừng nguyền rủa phẫn uất nhưng hãy biết đón nhận vì lòng yêu mến Chúa, để góp phần vào thập giá của Ngài. Trong những giờ phút đen tối, hãy ngước nhìn thập giá và sẽ tìm được niềm an ủi và khích lệ vì chính Chúa cũng đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Cuộc đời thì ngắn ngủi, đừng lãng phí và làm cho nó bị hư đi, vì sau cơn mưa trời lại sáng, sau thập giá là vinh quang phục sinh.
54. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)
Bạn thân mến!
Không biết các bạn có thấy ngộ ngộ bật cười không, mỗi khi mừng lễ các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam? Tại sao máu đổ mà lại cứ vui nhỉ? Nếu như thế, thì không biết có hợp thời và hợp lý không đấy, thưa các bạn?
Vâng, có lý do chính đáng và còn thật là phải đạo nữa đấy, các bạn ạ!
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh, cách riêng Giáo hội Việt Nam, chúng ta hân hoan vui sướng, có khi cả nhảy nhót nữa là khác, để reo mừng các bậc Cha Anh của chúng ta đã đoạt giải chiến thắng trong trận chiến oanh liệt giữ vững Đức Tin Kitô giáo. Chúng ta vui là phải thôi, vì chúng ta đang vui cái niềm vui của Thập giá Chúa Kitô, Ông tổ sáng lập đạo Công Giáo. Vì nhờ có thập giá Chúa Kitô, mà loài người chúng ta mới có niềm vui ơn cứu độ. Cũng thế, nhờ máu các Thánh Tử Đạo đổ ra mà mùa gặt truyền giáo của Giáo hội Việt Nam đã, đang, và sẽ tiếp tục còn nở rộ trong các thế hệ mai sau.
Vậy thì, mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải mừng thế nào cho đúng với ý của Giáo hội Mẹ?
Thưa, chúng ta cũng phải theo gương các Ngài để có cái nhìn tươi sáng trước mọi đau khổ thử thách trong ngoài hồn xác. Dù Tình yêu có đòi hỏi yêu sách chúng ta, chúng ta vẫn kiên trung theo Chúa đến cùng, và cho dẫu yêu sách có mang mặc nhiều hy sinh, nhiều từ bỏ, nhiều khước từ trong cuộc sống, ta vẫn cứ can đảm tiến lên theo lời hiệu triệu của Đấng đã nói: Cứ tin tưởng, Ta đã thắng thế gian rồi! Vì mừng lễ đổ máu mà! Vì có đau khổ mới có vinh quang mà! Và vì không đổ máu không có ơn cứu chuộc cho mình và cho người khác.
Các Thánh Tử Đạo đã hiểu rất sâu điều đó và đã làm gương rất chói sáng cho chúng ta trong việc đặt Chúa trên hết và trước hết. Với ánh nhìn đầy đức tin, các ngài đã coi các khổ hình chịu vì Chúa là một niềm vui, niềm hạnh phúc, nên các ngài hiên ngang, hiên ngang đến khó hiểu, giữa những khổ hình đủ loại do lòng độc ác con người có thể nghĩ ra. Thật đúng các ngài đã nói với con cháu là chúng ta hôm nay lời Thánh Phaolô: Không ai, không gì, không hình khổ nào có thể tách các ngài ra khỏi Tình yêu Thiên Chúa. Cái nhìn đức tin đã khiến các ngài coi khổ hình như là ân huệ của niềm vui Chúa trao tặng cho mình mà trường hợp của Thánh Nữ Anê Lê Thị Thành sau đây là một bằng chứng:
Trong 117 Thánh Tử Đạo, chỉ có một vị là Thánh Nữ, ngài là một người mẹ của sáu người con. Đó là Thánh Anê Lê Thị Thành, tục gọi là Bà Đê.
Thánh Anê Lê Thị Thành sinh năm 1781 tại Bái Điển, tỉnh Thanh Hóa. Lên 17 tuổi, bà kết hôn với ông Nguyễn Văn Nhất, sinh hạ được sáu người con. Suốt đời bà âm thầm kiên nhẫn xây dựng tổ ấm yêu thương gia đình và biến gia đình thành nguồn suối tình thương. Bà sống đạo đức gương mẫu, hy sinh giúp chồng con, đặc biệt nuôi dạy con chu đáo theo tình thần giáo dục công giáo. Dù khi con cái đã lớn khôn lập gia đình, bà vẫn luôn theo dõi lòng đạo của các con, thúc giục con cái năng tham dự Thánh Lễ và nhận lãnh các bí tích. Bản thân bà rất siêng năng xưng tội rước lễ.
Ông bà Đê có lòng bác ái hay thương giúp đỡ người khác, nhất là trọng kính và giúp đỡ các linh mục gặp khó khăn trong thời cấm đạo. Ông bà dành một khu nhà đặc biệt để các linh mục đến trú ẩn. Chính đức bác ái cùng lòng kính yêu các linh mục và tha thiết với việc truyền giáo ấy, đã đưa bà Thánh Đê đến phúc tử vì đạo.
Số là khi quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh kéo lính đến vây làng Phúc Nhạc vào sáng lễ Phục Sinh 14.4.1841, bà Đê cùng với ông trùm Cơ vội vàng đưa linh mục Lý trốn dưới một cái rãnh sau vườn nhà bà. Nhưng sau một hồi lục soát gắt gao từ trong nhà ra tới ngoài vườn, quân của Trịnh Quang Khanh bắt được Cha Lý. Bà Thành và ông trùm Cơ cũng bị bắt làm một với Cha.
Trong lao tù, Anê Lê Thị Thành bi đánh đập, tra khảo nhiều lần. Lần kia quan quyền đánh bà bằng roi, nhưng thấy bà vẫn gan dạ chịu đựng một cách vui vẻ, nên lại cho dùng thanh củi lớn mà quất vào chân bà, bà vẫn không thối chí. Khi chồng vào thăm trong tù, bà nói với chồng lời đầy đức tin như sau: “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông chưa chắc chịu nổi, nhưng tôi được ơn Đức Mẹ giúp sức, nên không cảm thấy đau đớn gì” Lần khác nữa, quan dùng trò dã man hơn, buộc hai ống quần của bà lại, rồi bỏ rắn độc vào bên trong. Bà hoảng sợ, nhưng bà cầu nguyện tha thiết khiến Chúa nhận lời ban cho bà sức mạnh phi thường để chịu đựng những thử thách vượt quá sức người của bà. Thế là bà vẫn giữ được bình tĩnh một cách lạ lùng. Bà đứng yên không nhúc nhích. Rắn không cắn bà và tìm cách chui ra ngoài. Quan thấy thế, điên tiết lên, càng ra lệnh đánh bà dữ dằn hơn trước.
Một nhân chứng tên là Đang về sau cho biết: “Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân hình bà đầy máu mủ. Vậy mà bà vẫn vui vẻ và còn muốn chịu khó hơn nữa”. Con cái đến thăm bà, thấy mẹ thương tích vì đòn vọt, khóc lóc thương mẹ, bà âu yếm vỗ về các con, khuyên chúng về kiên tâm cầu nguyện cho mẹ. Chẳng hạn cô Lucia Nụ, con gái út của bà đến thăm mẹ trong ngục, thấy áo quần mẹ loang lổ máu, đã òa lên khóc nức nở. Bà an ủi con: “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy con ạ! Mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc”. Bà còn nhắn nhủ cô Nụ: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá Chúa Giêsu cho đến cùng. Rồi chẳng bao lâu nữa, mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”. Chồng bà cũng đến khuyên giục bà nên nghĩ đến con cháu mà về với chúng. Bà trả lời: “Anh hãy về lo cho con, hãy trông cậy Chúa phù hộ cho anh đủ sức nuôi dưỡng chúng, còn phần tôi, tôi sẽ phó thác và theo Chúa đến cùng…”
Vì chịu quá nhiều cực hình, thân thể đầy máu mủ, lại do điều kiện vệ sinh trong tù quá tồi tệ và không đủ thuốc thang, bà Anê Đê Lê Thị Thành kiệt sức vì đòn vọt và bị bệnh kiết lỵ, nên đã chết trong tù ngày 12.7.1841 tại Nam Định, thọ 60 tuổi, sau khi dâng lời kinh cuối cùng: “Giêsu, Maria, Giuse, con xin phó thác linh hồn và xác con trong tay Chúa”.
Đức Piô X phong chân phước cho Bà ngày 2.5.1909. Và Đức Gioan Phaolô II suy tôn Bà lên bậc Hiển Thánh ngày 19.6.1988,cùng với 116 vị Thánh khác.
Các bạn ơi, các Thánh tử đạo là thế đó đấy, các bạn ạ. Các Ngài chấp nhận mọi hình khổ khác nhau, nhưng các Ngài cùng sống chết chung cho cùng một Niềm Tin, một Lý Tưởng Giêsu, với sự vui tươi hớn hở hiên ngang hãnh diện, khiến chúng ta vô cùng cảm phục và cả đến thèm khát số phận may mắn của các Ngài nữa.
Thật ra, nếu bạn và tôi để ý một chút thì sẽ nhận ra rằng: hoàn cảnh của tôi cũng như của bạn, Chúa vẫn đang cho có rất nhiều cơ hội để chúng ta thể hiện việc sống chết cho niềm tin vào Chúa Kitô Tử Nạn và Phục Sinh, có khi cũng chẳng kém anh hùng và hiển hách so với các bậc Cha Anh chúng ta xưa đâu, các bạn!
Xin phép đan cử một vài trong muôn ngàn, bạn nhé:
* Khi các bạn đi đường mà gặp một người hành khất đáng thương lắm, dù đang vội, các bạn cũng cố gắng dừng lại để chia sẻ một chút gọi là tấm lòng với người anh chị em con cùng Cha trên trời đó, nhưng lại rơi hoàn cảnh khó khăn, để ta có dịp thể hiện lòng bác ái, để từ trời Thiên Chúa nhìn xuống thấy: anh chị em chúng nó biết thương yêu, nâng đỡ, đùm bọc lấy nhau trong cuộc sống… Phải chăng đó cũng là một cuộc tử đạo nho nhỏ đấy, bạn nhỉ?
* Khi các bạn gặp một người mà bạn chẳng ưa, chẳng thích chút nào, nhất là họ mới xúc phạm đến mình, làm cho mình đau khổ nữa, tính tự nhiên bạn chỉ muốn quay mặt đi không nhìn, không tiếp, nhưng nghĩ tới họ cũng là anh chị em con cùng Cha Mẹ trên trời với mình, và bạn đã vì Chúa để làm ngược với tính tự nhiên đó, để sau bao nhiêu cám dỗ, giằng co, cuối cùng bạn đã chiến thắng được chính mình, để trao cho họ một nụ cười thân ái, cảm thông, tha thứ…, thì quả là bạn vừa mới thực trải qua một cuộc tử vì đạo không phải bằng gươm giáo, nhưng bằng dẹp bỏ tự ái, ý riêng để làm theo điều răn mới Chúa truyền dạy trước khi Ngài chịu chết.
* Khi đang mạnh khỏe, bỗng nhiên một cơn bệnh hiểm nghèo ập tới, và bạn đã hết sức tìm thầy chạy thuốc nhưng chẳng thuyên giảm; trái lại, bệnh càng nặng thêm. Lúc đó, nếu bạn cố gắng để dần dần vui vẻ vâng theo Thánh ý Chúa định hoàn toàn, thì bạn ơi, bạn đang là vị anh hùng tử đạo rồi đấy!
* Mỗi khi bạn cảm thấy chán ngại đi tham dự Thánh lễ Chủ nhật, rồi sau đó vì lòng mến Chúa, bạn lại tiếp tục đi; mỗi khi bạn cảm thấy khó chịu không muốn làm điều tốt lành cha mẹ dạy bảo mà mình không thích, sau đó vì lòng kính mến Chúa, vì đức Hiếu thảo, bạn lại ép mình để vâng lời; mỗi khi ai đó làm bạn khó chịu, tính tự nhiên chỉ muốn giận, muốn sùng lên la cho bõ ghét, nhưng nghĩ tới Chúa luôn xử nhân từ với mình là kẻ có tội, bạn dịu xuống và nhẹ nhàng bỏ qua; mỗi khi ai đó nói xấu vu khống cho bạn điều bạn chẳng có, lúc đấy chỉ muốn chơi lại cho họ bẽ mặt để trả thù, nhưng vì nghĩ tới thân phận con người, cả mình nữa, ai chả yếu đuối, nên vì mến Chúa yêu người như Chúa truyền dạy, bạn sẵn lòng tha thứ cho qua phà, thì phải nói thật với bạn là bạn đang tiến vào Thiên Đàng như các Thánh tử đạo Cha Ông chúng ta đấy! *Và nếu bạn được bác sĩ cho biết là bệnh của bạn các bác sĩ bó tay, bạn chỉ còn sống tối đa có sáu tháng nữa thôi. Lúc đầu thật buồn, nhưng sau bạn lấy lại bình tĩnh chấp nhận Thánh Ý Chúa để sẵn sàng vui vẻ ra đi, ai đến thăm bạn cũng thấy bạn tươi cười, thì bạn đang là vị thánh tử đạo vì Thánh ý Chúa rồi đấy!
Mừng các Thánh Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam trong khuôn khổ Năm Đức Tin của Giáo Hội hôm nay, Mẹ Giáo hội cũng đang thiết tha mời gọi mỗi người hãy là những chứng nhân sống động của Đức Tin trong đời sống hằng ngày hơn, bằng việc luôn sống và làm việc dưới ánh nhìn yêu thương Hiền Phụ của Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng tạo dựng trời đất muôn vật hữu hình và vô hình; đồng thời, can đảm mạnh bạo dấn thân hy sinh làm theo lời Chúa truyền dậy qua Giáo hội, qua các Bề trên, qua các biến cố to nhỏ trong ngoài hồn xác… Có như vậy, mới thật đúng là chúng ta đang bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa; có như vậy, chúng ta mới đang là những môn đệ đích danh của Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.
55. Các chứng nhân Kitô giáo
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Hằng năm cứ vào dịp đại lễ kính nhớ Tổ tiên ông bà Tử Đạo Việt Nam, đoàn tín hữu, con dân đất Việt lại thêm một lần được củng cố niềm tin. Ít ra, “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Để sống xứng danh là cháu con các anh hùng tử đạo, Kitô hữu Việt Nam cần hiên ngang, anh dũng một cách nào đó trong niềm tin, trong cách sống đạo của mình. Trong tâm tình ấy, xin phác họa đôi nét về chân dung các Thánh Tử đạo Việt Nam như là những chứng nhân Kitô giáo.
1. Chứng từ khả tín của các chứng nhân: Xin được gọi các Ngài bằng nghĩa gốc của từ “tử đạo” là “chứng nhân” (martyr).
Thiết tưởng cần trở về với nghĩa gốc là chứng nhân hơn là tử đạo, cho dù hai từ tử đạo đã quá phổ biến trong cách dùng. Bởi vì hai từ tử đạo có vẻ như đang bị méo mó ý nghĩa một cách nào đó khi mà vô tuyến truyền hình tường thuật những người ôm bom tự sát để giết hại nhiều người, trong đó có cả thường dân vô tội, và họ cũng tự cho là tử vì đạo. Hơn nữa một thánh tử đạo trong tôn giáo này chưa chắc được kính trọng bởi người của tôn giáo khác cho bằng các thánh hiển tu hay các thánh xả thân vì tình yêu đồng loại.
Nói đến chứng nhân là nói đến những người dùng chính cuộc sống của mình, dùng cả sự sống và sự chết của mình để làm chứng cho một lý tưởng cao đẹp như nền hòa bình của nhân loại hay sự độc lập tự do của dân tộc… hoặc cho một niềm tin tôn giáo. Khi có ai, có một tập thể nào hiến dâng cả cuộc sống, hiến dâng cả mạng sống để làm chứng về một chân lý nào đó thì chứng từ ấy có tính khả tín nghĩa là chân lý có tính thuyết phục và đáng tin theo. Tuy nhiên mức độ khả tín của các chứng từ còn tùy thuộc vào cách thế làm chứng của các chứng nhân.
Qua cuộc sống, nhất là sự hiến dâng mạng sống của các chứng nhân Kitô giáo, của cha ông anh hùng hy sinh vì đức tin, chúng ta nhận ra mức độ trỗi vượt của tính thuyết phục nơi cách làm chứng của các Ngài. Nếu xét về hình thức chịu cực hình cho đến chết như bị “rũ tù” (bị tra tấn và giam tù cho đến chết), “xữ giảo” (bị thắt cổ cho chết),”xữ trảm” (bị chém đầu), “lăng trì” (bị ném cho voi chà đạp, xé xác), hay “bá đao” (bị róc từng mãnh thịt cho đến chết), thì các bậc cha ông chúng ta tuy có bị khổ hình ghê rợn, thế nhưng các anh hùng dân tộc nhiều khi cũng đã can đảm đón nhận các cực hình tương tự không kém.
Nét trổi vượt và cũng là nét khác biệt nơi chứng từ của cha ông chúng ta đó là cách thế đón nhận khổ hình. Không một ai tự mình quyên sinh và nhất là khi bị khổ hình, không một ai căm phẩn, hận thù hay hô đả đảo những người bắt bớ, giết hại mình. Các Ngài khoan thai, an bình, có khi tỏ vẻ hân hoan và cầu nguyện cho cả người giết hại mình đến độ nhiều “đao phủ” đã phải thành khẩn xin tha thứ trước khi hành hình các Ngài. Một thái độ làm chứng nhân khó thấy, hiếm thấy và có thể nói là không thấy có nơi các anh hùng dân tộc khi chịu cực hình, chịu chết vì lý tưởng. Và đây chính là nét khả tín tuyệt vời của nhứng chứng nhân bỏ mình vì “danh Đức Kitô”.
2. Nội hàm chứng từ của các chứng nhân Kitô giáo: Nghĩa là các chứng nhân Kitô giáo, cách riêng tổ tiên anh hùng Việt Nam chúng ta đã hiến dâng cả cuộc sống, cả mạng sống để làm chứng về những điều gì? Xin thưa đó là về “chân lý đức tin” và “Tin Mừng cứu độ”.
- Chân lý đức tin: Chân lý đức tin Kitô giáo thì nhiều, nhưng có thể nói một chân lý nền tảng mà tổ tiên ta đã anh dũng làm chứng đó là: Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất, ta phải tôn thờ và yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ta, vì ngoài Người ra thì không có đấng nào khác (x.Dnl 6,4-7; Mc 12,28-34).
Tôn thờ một ai đó, một Đấng nào đó là nói lên sự thần phục, sự lệ thuộc của mình với Đấng ấy, với người ấy. Môt trong những hình thức biểu lộ sự thần phục hay thờ phượng đó là sự phủ phục. Ta phủ phục trước một Đấng nào đó là ta nhìn nhận những gì ta đang là, ta đang có đều do Đấng ấy ban tặng. Kitô hữu chỉ dâng tâm tình thần phục, phượng thờ này lên một mình Thiên Chúa mà thôi. Và dĩ nhiên tâm tình, thái độ ấy kéo theo hệ quả tất yếu là xem các loài khác như mặt trời, mặt trăng, sông núi…chỉ là loài thọ tạo do Chúa dựng nên. Ngay cả loài thọ tạo cao trọng nhất trong các loài hữu hình là loài người thì dù là kẻ quyền thế, nhiều tiền, cao đức, trọng vị…cũng chỉ là loài phàm hèn không hơn không kém. Có thể có người, có vị đáng trọng, đáng kính vì tài đức cao dầy, nhưng không phải là người để ta phải lệ thuộc hay thần phục, nghĩa là bày tỏ sự tôn thờ.
Sự thường một ai đó, khi đã ở ngôi cao, khi đã nắm trong tay quyền lớn thì rất dễ bị cám dỗ muốn tuyệt đối hóa uy quyền của mình. Và một trong những cách thế để tuyệt đối hóa quyền lực và danh phận của mình thì phải tự phong thần, phong thánh cho mình bằng cách này cách khác. Các vua chúa ngày xưa đã từng tự xưng là thiên tử (con trời) và thế là bắt mọi người thần phục mình cách tuyệt đối. Nếu sống và hành xử như “con của trời” thì vẫn tốt, đằng này họ lại hành xử như là những“ông trời con”. Xưa vua Nabunôcônôdo của đế quốc Ba Tư ngày xưa đã cho tạc tượng mình để bắt thần dân thờ lạy. Và nay vẫn có người, có tập thể muốn kẻ khác lệ thuộc mình bằng việc “thần thánh” hóa bản thân hay luật pháp hóa cái thể chế, cái tổ chức, cơ cấu của mình.
Ngày nay người ta khi đã có quyền, có thế cũng có thể bắt kẻ khác suy tôn mình, suy tôn tập thể của mình…là muôn năm, là bất diệt… Và thế là hễ có ai không chịu thần phục, không chịu lệ thuộc thì tức khắc sẽ bị bắt bớ, đàn áp, thậm chí là loại trừ. Vác thập giá là thân phận của Kitô hữu mọi thời, mọi nơi. Tuy nhiên đó là niềm vinh dự cho đoàn con cái Chúa, vì là cách thế tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất hùng hồn và rõ nét.
- Tin Mừng cứu độ: Đây cũng là một điều chính yếu nữa mà các anh hùng “tử đạo” đã làm chứng bằng giá máu của mình. Tin mừng cứu độ là tình yêu của Thiên Chúa đuợc thể hiện cách hoàn hảo, trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô. Đức Kitô chính là Tin Vui, Tin bình an cho nhân loại và cho mọi loại. Cuộc đời, các hoạt động và lời giảng dạy của Đức Kitô là Tin vui, tin an bình cho con người. “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Không phải chỉ yêu thương những người dễ yêu, yêu những người thân cận, người làm ơn làm phúc cho mình…mà còn yêu cả những người bé mọn, cô thế, cô thân, bất phân màu da, sắc tộc, ngôn ngữ hay chính kiến và yêu cả những người thù ghét mình, làm hại mình (x.Lc 6,27-35).
Tổ tiên ông bà “tử đạo” chúng ta đã mình chứng cho Tin vui cứu độ ấy bằng cuộc sống của mình cho dù phải bị hiểu lầm là bỏ ông, bỏ bà, bỏ tổ tiên, cho dù phải bị gán ghép là phản quốc, bán dân hại nước. Quả thật với một tình yêu không biên giới ấy, xưa kia Đức Giêsu đã từng bị nhiều người đồng hương Nagiarét căm phẩn tìm cách xô xuống vực thẳm (x.Lc 4,28-29). Người cũng đã từng bị nhiều người tự cho mình là công chính tố cáo là hay lui tới và cùng ăn uống với “quân thu thuế và phường tội lỗi” (x.Lc 15,1-2).
Trò không thể hơn thầy. Nếu người ta đã đối xử với Thầy Giêsu ra sao thì các môn đệ cũng sẽ chung số phận ấy nếu họ sống chứng nhân cho Chân lý đức tin và cho Tin Mừng tình thương (x.Ga 15,18-27). Chân dung các chứng nhân đã được một tác giả vô danh khoảng đầu thế kỷ thứ II mô tả cách sống động như sau:“ Họ sống trong xác thịt, nhưng không theo xác thịt. Họ sống ở trần gian, nhưng là công dân Nước Trời. Họ tuân hành luật pháp, nhưng cách sống của họ vượt lên trên những đòi hỏi của luật pháp. Họ yêu thương mọi người, nhưng mọi người lại ngược đãi họ. Họ không được nhìn nhận, nhưng lại còn bị kết án. Họ bị giết mà vẫn được sống. Họ là những người hành khất, nhưng lại làm cho nhiều người nên giàu. Họ thiếu thốn mọi sự, nhưng lạ dư dật mọi sự. Họ bị sỉ nhục, nhưng giữa những sỉ nhục họ lại được vinh quang. Danh thơm của họ bị chà đạp nhưng bằng chứng về đời sống công chính của họ lại được phô bày. Bị nguyền rủa, họ chúc lành; bị đối xử nhục nhã, họ tỏ lòng kính trọng. Khi làm điều thiên, họ lại bị trừng phạt như những kẻ bất lương. Khi bị trừng phạt, họ làm như được sống. Người Do Thái giao chiến với họ như những kẻ ngoại bang, còn dân ngoại thì ngược đãi họ, còn những kẻ ghét họ thì không thể nói lý do tại sao lại căm thù họ” (Trích thư gửi ông Điônhêtô – Bài đọc 2 – Kinh Sách Mùa Phục Sinh – Thứ Tư – Tuần V).
56. Các tôi trung kiên cường
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Từ ngữ "tử đạo" vốn dễ được mến mộ theo nguyên nghĩa của từ gốc. Tử đạo là làm chứng. Các Thánh Tử đạo là những vị đáng tôn kính cách đặc biệt. Trong Kitô giáo, các Ngài được xếp sau hàng các Thánh Tông đồ và một vài Đấng đặc biệt như Mẹ Maria, Thánh cả Giuse, Thánh Gioan Tẩy Giả. Thế nhưng, chúng ta cần chân nhận một thực tế đó là hàng Thánh Tử đạo thường mang tính cục bộ của từng tôn giáo. Một vị tử đạo trong tôn giáo này chưa hẳn được trân trọng bởi người tôn giáo khác so với các bậc Thánh hiển tu, nhất là những vi Thánh có đời sống nổi bật về đức ái. Hơn nữa hai từ tử đạo ngày nay xem ra đang bị lợi dụng và cả lạm dụng khiến người ta dễ nghi ngờ, khi mà đang có đó những người ôm bom tự sát làm thiệt hại mạng sống của nhiều người vô tội.
Nói rằng các Thánh Tử đạo là những người chịu chết vì đạo thật không sai. Tuy nhiên cái nhìn này còn hạn chế và mang dáng vẻ tiêu cực. Xin mạo muội gọi các Ngài là những vị "Thánh sống đạo bằng cả giá máu". Các Ngài sống đạo kính mến Chúa và yêu thương tha nhân bằng cả mạng sống mình.
"Chúa Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Lc 9, 23-24). Chúng ta đừng quên Chúa Giêsu ngõ những lời ấy với tất cả mọi người. Chính vì thế, đã là Kitô hữu thì chúng ta phải là những người sống đạo bằng cả giá máu. Dĩ nhiên là có người đổ máu ra cách hữu hình và có người đổ máu ra cách vô hình. Theo nội dung của bài Tin Mừng trong Thánh Lễ này, xin được gợi ý về một trong những cách thế sống đạo đến hy sinh bằng cả giá máu, đó là trung thành một cách hiên ngang với Chúa Kitô và Lời của Người. "Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy..." (Lc 9 26).
Trung thành một cách hiên ngang với Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế: Theo Chúa Giêsu là phải trung thành với công cuộc cứu thế, độ nhân, phải thực thi đức bác ái với hết mọi người, bất phân chủng tộc, màu da hay chính kiến, phải sống yêu thương trong mọi hoàn cảnh, lúc thuận lợi cũng như lúc gặp nghịch cảnh. Quả thật cái tâm lý tìm kiếm hiệu năng trước mắt, đã khiến chúng ta tính toán quá nhiều theo cách nghĩ suy nhân loại. Một đôi khi ta cần biết khôn ngoan "đừng quẳng ngọc trai trước mặt heo". Nhưng cũng đừng quên Thiên Chúa không ngần ngại gieo hạt giống trên các thửa đất, có khi rơi vãi trên cả vệ đường. Chỉ cần có hạt rơi vào đất tốt thì kết quả thu được sẽ lợi hơn nhiều so với phần xem như hoang phí. Hơn nữa, với ơn Chúa và sự cộng tác của con người thì dù là vệ đường, là đất cằn khô, đất gai góc đều có thể trở nên đất tốt. Khi trong tay đã đủ điều kiện vật chất lẫn tinh thần, khi điều kiện ngoại cảnh đang thuận lợi thì sẽ có đó nhiều người tuy khác niềm tin vẫn có thể thi hành việc độ thế cứu nhân. Khi điều kiện còn thiếu, hoàn cảnh còn khó khăn mà ta vẫn kiên trì trong đức ái thì đức ái của ta mới nên giống tình Chúa đã yêu thương ta. Vì khi ấy tình yêu ta dành cho tha nhân mới đậm nét vị tha.
Trung thành và hiên ngang với Lời cứu độ: Một trong những cơn cám dỗ tinh tế ma quỷ gieo vào lòng chúng ta đó là cải biến nội dung lời mạc khải cho phù hợp với hoàn cảnh bên ngoài. Dù rằng Hội Thánh dạy ta cần học hỏi, nghiên cứu để phân biệt đâu là ý tác giả Thánh Kinh muốn trình bày theo hình thức văn chương, theo nền văn hóa của từng thời kỳ và đâu là Thánh ý Chúa muốn dạy. Có thể có sự không trùng khớp giữa những gì các tác giả nhân loại trình bày với Ý Chúa muốn dạy. Điều này ta dễ nhận ra trong Cựu Ước và cả trong Tân Ước. Tuy nhiên luôn có đó những lời mà các nhà nghiên cứu đã đồng thuận đúng là những lời đích thị từ miệng Đấng Cứu Thế (ipsisima verba). Lời Chúa, cách riêng lời của của Giêsu như lưỡi gươm sắc bén, phân rẽ tâm hồn. Chính vì thế tính thách đố luôn có trong Lời Chúa. Chúng ta nhận ra điều này nơi miệng các sứ ngôn thời Cựu Ước và cách rõ nét nơi Lời của Đấng Cứu độ. Tin Mừng tường thuật rằng khi nghe những lời của Chúa Giêsu, nhiều Biệt Phái và luật sĩ đã phải tím bầm ruột gan.
Không một ai được phép tự tiện uốn nắn nội dung Lời Chúa vì bất cứ lý do gì. Hãy để cho Lời Chúa trực diện với lòng ta, với tha nhân, với môi trường xã hội, với mọi thể chế, luật lệ của con người. Xin đừng nhân danh hiệu năng mà cắt xén hay cải biên lời Chúa. Xin chớ nhân danh đức ái mà uốn ép lời Chúa cho "mềm mại" và "dễ nghe". Những điều "dễ nghe" và "mềm mại" thường là thiếu sự thật, ít trung thực và nếu có thì chỉ là phiếm diện. Ánh sáng thì chói chang. Sự thật thì mất lòng. Khi ta trung thành cách hiên với lời cứu độ thì thập giá luôn có đó.
Các tiên tổ anh hùng Tử đạo của chúng ta quả thực là những vị đã sống đạo yêu thương cho đến cùng. Martinô Thọ, Phanxicô Trung, Micae Hy, Emmanuel Triệu...không chỉ yêu thương vợ con, cha mẹ nhiệt tâm, nhiệt tình mà còn yêu thương bà con lối xóm, những người khốn khổ bất hạnh, yêu thương quê hương dân tộc, yêu cả vua quan, những người đang hành hạ mình. Và trên hết các Ngài yêu mến Đấng các Ngài tôn thờ, Thiên Chúa toàn năng, chí tôn, chí thiện. Các Ngài đã trung thành với Thầy Chí Thánh và lời của Người một cách dũng cảm, hiên ngang. "Tâu bệ hạ, đánh Tây thì hạ thần đánh hết mình, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ" (Thánh Phanxicô Trung) " Chúng tôi không phạm tội ác, không chống lệnh vua, không lỗi luật nước, chúng tôi chết chỉ vì là Kitô hữu" (thánh Phaolô Khoan). Dòng máu đào đổ ra chỉ là điểm đến của một cuộc đời sống đạo đến cùng mà thôi. Quả thật nếu như máu có đổ đến giọt cuối cùng mà không sống đạo yêu thương thì chỉ là tử nạn chứ không có tử đạo.
57. Làm chứng
Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm, lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tục năm này qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày 19.06.1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn lên bậc hiển thánh. Các ngài được suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin Mừng giữa lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác giòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ “Tử đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Người ta thường nói: “An quả nhớ kẻ trồng cây” hay “uống nước nhớ nguồn”. Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của những dòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quí báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết của dòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quí để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta?
Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái gì cao quí vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp thụ tinh thần nho giáo, các ngài đặt chữ “trung” lên trên hết. Không những trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua chúa trên các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thướng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao… Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Kitô là đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của các ngài.
Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả. Là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
58. Tham dự vào hy tế của Chúa Giêsu -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chúa Giêsu tiếp tục hiến tế cho đến ngày tận thế để đền tội cho muôn người.
Cách đây hơn 2.000 năm, Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, chịu vác thập giá và chịu chết đau thương trên thập giá để đền tội cho nhân loại.
Thế nhưng, trong những thế kỷ về sau và đặc biệt là trong thế kỷ 21 hiện nay, tội lỗi nhân loại tiếp tục gia tăng khắp nơi trên thế giới với mức độ ngày càng khủng khiếp nên sẽ mang lại những hậu quả đau thương và cái chết đời đời cho vô vàn người gây ra tội lỗi.
Thiên Chúa không nỡ để cho bao người phải hư mất đời đời vì tội lỗi họ gây ra, nên Chúa Giêsu vẫn còn phải tiếp tục chịu khổ nạn, chịu hiến tế để đền tội cho thế gian.
Như thế, cuộc khổ nạn hay nói khác đi là hy tế thập giá của Chúa Giêsu không chấm dứt sau khi Ngài tắt thở trên thập giá vào chiều thứ sáu trên đồi Can-vê cách đây 2.000 năm, mà còn được tiếp tục kéo dài cho đến tận thế để cứu độ muôn người qua suốt dòng lịch sử. Giáo lý công giáo số 1323 khẳng định điều nầy: “Hy Tế Thập Giá (của Chúa Giêsu) kéo dài qua các thời đại cho tới khi Ngài lại đến.”
Chúa Giêsu mời các thánh tử đạo tham dự vào hiến tế của Ngài.
Chính vì công cuộc khổ nạn và hy tế của Chúa Giêsu cần phải được tiếp tục cho đến tận thế để đền tội cho nhiều người tội lỗi trong suốt dòng lịch sử nhân loại nên Chúa Giêsu kêu gọi các tín hữu là những chi thể trong Thân Mình Ngài cùng vác thập giá, cùng chịu khổ nạn với Ngài. Ngài từng lên tiếng mời gọi: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16, 24)
Thế là hàng hàng lớp lớp ki-tô hữu chấp nhận đổ máu và hiến tế đời mình cùng với Chúa Giêsu, khởi đầu là máu của các hài nhi vô tội Bê-lem (Mát-thêu 2,16) của thánh Gia-cô-bê tông đồ và của phó tế Tê-pha-nô là những vị tử đạo tiên khởi, của các tín hữu tại đế quốc Rô-ma trong suốt 250 năm bách hại dưới triều các hoàng đế Rô-ma cho đến máu của các thánh tử đạo thuộc nhiều chủng tộc, nhiều quốc gia, nhiều dân nước trên khắp thế giới trong suốt hơn 2.000 năm qua.
Trên quê hương Việt Nam, nếu tính từ năm 1644 là thời điểm Thầy An-rê Phú Yên bị trảm quyết cho đến khi vua Tự Đức băng hà (1883), các tín hữu công giáo đã phải trải qua cơn bách hại ngót 240 năm. Hàng trăm ngàn tín hữu đã hiên ngang đáp lời mời gọi của Chúa cứu thế, chấp nhận vác thập giá và hiến tế đời mình với Chúa Giêsu, khốc liệt nhất là trong khoảng 65 năm dưới thời vua Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883) và đảng Văn Thân (1885-1886) để hồng ân cứu độ được tuôn ban dồi dào cho dân tộc Việt Nam chúng ta.
Chúa Giêsu mời chúng ta tham dự vào hiến tế của Ngài.
Từ ngày lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, các tín hữu được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu (giáo lý công giáo số 1267) và được thông dự vào chức tư tế (chức linh mục) của Ngài (sđd số 1268). Vì là “Thân Thể của Chúa Giêsu, chúng ta phải tham dự vào hiến tế của Chúa Giêsu là Đầu của toàn thân.” (sđd số 1368)
Thế nên mỗi ki-tô hữu, không trừ ai, đều có trách nhiệm và sứ mạng cao cả là tham dự vào hiến tế của Chúa Ki-tô là Đầu của mình, theo gương các thánh tử đạo Việt Nam là những bậc tổ tiên của chúng ta.
Hôm nay, chúng ta không còn phải gánh chịu những cực hình, những đau thương và mất mát lớn lao như các thánh tử đạo Việt Nam trước đây, nhưng chúng ta cũng được mời gọi tham dự vào hy tế thập giá của Chúa Giêsu bằng cách chấp nhận vác thập giá với Chúa Giêsu qua những việc bổn phận hằng ngày, cụ thể là hy sinh thời giờ, công sức, tiền bạc… để phục vụ những anh chị em chung quanh đang cần đến bàn tay, con tim và khối óc của chúng ta.
Có như thế, chúng ta mới xứng đáng là con cháu của các anh hùng tử đạo Việt Nam.
Có như thế, chúng ta mới thật sự là chi thể trong Thân Mình Chúa Ki-tô là Đấng tiếp tục hiến tế đời mình cho đến ngày tận thế để đền tội muôn dân.
59. Tỉnh thức trước cơn bách đạo mới -- PM. Cao Huy Hoàng
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta rất hãnh diện về Cha ông của chúng ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Không chỉ là 117 vị hiển thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh dũng làm chứng cho Thiên Chúa. Không chỉ có thời các vua Chúa cấm cách, mà ngay cả thời nay, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của Ngài là một tiêu biểu.
Vì niềm tin tuyệt đối và trung kiên vào Thiên Chúa, vì tình yêu mãnh liệt đáp lại tình yêu tạo dựng và cứu chuộc, vì bừng bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn và vĩnh cửu trong thế giới mới của Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông của chúng ta đã không ngần ngại từ chối sự sống hay hư nát của thân xác phàm trần để tuyên tín cho thiên hạ biết rằng có một đời sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị cấm cách, bức bách, bắt bớ, tù đày, lăng mạ, lăng nhục và cuối cùng chấp nhận chết cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm ngàn cực hình dã man, đau đớn. Sức mạnh để vượt qua và chiến thắng của họ là nhân đức cơ bản, là nguồn ơn cơ bản Tin Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi con người và ơn hiệp nhất ban cho cộng đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt đối không phải là sức mạnh của tập thể theo nghĩa phong trào, có tính hời hợt, nhất thời đấu tranh cho một quyền lợi thuộc phạm vi trần thế.
Họ đã không bắt chước nhau tử đạo vì danh vọng trần thế là để tiếng lại cho đời sau, nhưng là vì họ xác tín một cuộc sống mới được phục hồi sau cái chết quí giá và ý nghĩa ấy: cái chết làm chứng cho Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái chết để sống lại với Đức Kitô. Họ đã thực thi lời huấn thị của Tin Mừng: “từ bỏ chính mình”: vì xác tín sự sống mình có được là do Thiên Chúa, và thuộc về Thiên Chúa; “vác thập giá mình”: chấp nhận tất cả những thương khó trong đời theo Chúa Giêsu, để ý định cứu rỗi của Thiên Chúa Cha được thực hiện, cho mình và cho mọi người.
Đối với các Thánh Tử Đạo Việt Nam, bước qua thập giá là từ chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên Chúa. Vì thế, khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì niềm tin của họ càng được nung nấu, được tôi luyện thành sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng nàn và đức cậy trông mạnh mẽ.
Giáo hội Việt Nam thừa hưởng một di sản Đức tin quí báu, vì nhờ máu các Ngài đổ ra, mà cánh đồng truyền giáo trổ sinh muôn hạt vàng tín hữu.
Noi gương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các tín hữu Việt Nam đã kiên trung trong đời sống đức tin cá nhân và cộng đoàn thật đáng khâm phục. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử đất nước, qua bao nhiêu đổi thay của ý thức hệ… nhưng giáo lý Chúa Kitô và niềm tin vào Thiên Chúa vẫn ngời sáng trên quê hương không chỉ nghèo nàn lạc hậu mà còn chịu bao thảm họa của thiên tai, dịch nạn..
Tuy nhiên, khi mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cũng là lúc mà mỗi chúng ta phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình và của cộng đoàn.
Ở đấng bậc nào trong Giáo Hội, trong đời sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối diện, phải đặt mình trước thập giá, không phải để chúng ta bước qua, mà là để ôm lấy, yêu mến, hôn kính và nhất là vác đi trong cuộc đời.
Ngày xưa những khổ hình có thể nói là kinh khủng lắm, man rợ lắm dành cho ai không bằng lòng bước qua thập tự giá. Thời nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho tín hữu không thấy dữ tợn mà hiệu quả không kém kinh khủng hay có thể nói còn kinh khủng hơn: chiêu bài đổi hướng niềm tin và tình yêu.
Chúng ta không thấy mình đang bước qua thập giá, khi chúng ta yêu mến của cải tiền bạc, tiện nghi vật chất và những khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn nữa, chúng ta vẫn thấy mình rất xứng đáng vì những việc đạo đức, những việc tông đồ. Chúng ta không thấy mình bước qua thập giá, khi mình đang làm việc Chúa để tìm chút hư danh cho mình. Hướng đến của Tình yêu chúng ta là Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta là Thập giá Chúa Kitô, nhưng tài hoa của ma quỉ đã khéo léo chuyển hướng đến của tình yêu chúng ta là chính chúng ta.
Quả thật, chúng ta đang không làm chứng cho một Thiên Chúa, nhưng chúng ta đang làm chứng cho chính mình, khẳng định chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng ta đang bước qua thập giá mà không hề hay biết. Không tỉnh thức trước những âm mưu của ma quỉ, chúng ta có thể nằm gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của cuộc bách đạo mới.
Tỉnh thức trước cơn bách đạo thời nay
Mục tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn là cản trở, ngăn cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt đứt tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại gông cùm xiềng xích mới, một loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng khắp nơi trên thế giới.
Mục tiêu của cuộc bách đạo mới không chỉ đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho tự do nhân quyền, cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong cái vỏ ốc cầu an, trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem như là tạm đủ, trong cái túi chấp nhận một loại tự do ảo tưởng, trá hình mà thực ra đó là thứ tự do làm nô lệ.
Cũng vậy, việc đập phá một ngôi thánh đường, chưa bằng đập phá cả triệu cung điện của Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín hữu bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân, vô vọng tưởng một đời sau… để không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, không còn một định luật tôn giáo nào, không còn một nguyên tắc đạo đức nào, không còn niềm tin tôn giáo nào trong chính tâm hồn người công giáo.
Nhận lãnh bí tích rửa tội để có một danh xưng, hoặc hợp thức hóa một tình trạng. Và các bí tích Kitô giáo khác được lãnh nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện của Thiên Chúa là một bức họa không hơn.
- Việc đóng cửa nhà thờ, không cho các tín hữu hành đạo làm sao nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy việc đến nhà thờ không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và các tiêu khiển khác của một đất nước đang có đủ thứ món ăn chơi.
- Làm cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu tự đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để đón nhận những trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy hiểm vô cùng.
- Tâm hồn các trẻ thơ vừa có trí khôn, mới mở ra với cuộc đời, đã đón nhận bài học con người bởi khỉ mà ra, để sẽ sống như khỉ và chết như con khỉ – cuộc bức bách về giáo dục không Thiên Chúa.
- Mới ngày nào đây, lương tâm các đôi vợ chồng, nhất là các tín nữ còn đắn đo, do dự khi phải chọn cho mình một cách tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương quyết bảo vệ sự sống đến cùng thì hôm nay, lương tâm ấy đã chai đi và có thể chấp nhận bất kỳ một phương pháp nào để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế nữa, không những khước từ ơn tiếp tục cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, mà còn có thể hủy hoại quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào.
- Không cần thiết phải cấm các em học giáo lý, vì biết chắc những trang giáo lý khô khan kia sẽ không hấp dẫn bằng những trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở các dịch vụ internet, hoặc những trang web có sức gieo vào đầu các em một kiểu sống vô luân. Vì thế cuộc bách đạo hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt phim ảnh như những viên đạn đồng bắn nát đức tin và luân lý của cả một thế hệ.
- Còn một điểm nhắm quan trọng hơn cả của cuộc bách đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất giáo hội, mà phải là sự rạn nứt bắt đầu từ những vị thẩm quyền cao nhất, đến các thành phần ưu tú nhất, rồi đến những cộng sự thân cận, xuống đến các tín hữu. Tinh thần thế tục luồn lách vào trong mọi bất đồng gây nên những xáo trộn nội bộ không đáng có, dẫn đến những rẽ chia đáng tiếc.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam không chỉ là những cuộc rước kiệu linh đình, tôn vinh Cha Ông với niềm tự hào dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã gieo trồng Hội Thánh Chúa ở Việt Nam bằng những giọt máu, và tôn vinh Cha ông với niềm tự hào về sức mạnh toàn thắng của Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có niềm tin, cậy, mến vào Thiên Chúa và nhất là vào Thánh giá vô địch của Chúa Kitô, Cha ông chúng ta đã không thể lãnh nhận phúc tử đạo, làm chứng cho Thiên Chúa.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo còn là cơ hội cho mỗi người chúng ta nhìn lại cách sống chứng nhân của mình và phải luôn cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu mới, nhất là trong toàn cảnh xã hội Việt Nam. Có thể chúng ta đang nằm gọn trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua thập giá Đức Kitô lúc nào không hề hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận là những chứng nhân anh dũng giữa lòng quê hương dân tộc. Có thể chúng ta không những đã bước qua thập giá, không được diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức bách tiến đến mục tiêu tối hậu là tách rời tương quan với Thiên Chúa thật hoặc vẫn còn tương quan với một Thiên Chúa theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ chủ thuyết không Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ không hài lòng khi chúng ta từ chối Thập Giá Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu nói: “Kẻ nào hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang của Ngài và của Cha cùng các Thiên thần” (Lc 9,26)
Mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, thiết nghĩ mỗi người đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng vì con người xúc phạm đến Thiên Chúa và vì các tín hữu Chúa chưa can đảm để làm chứng cho Ngài. Và từ đó, mỗi người phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng thiên hình vạn trạng của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết “không bước qua Thập Giá” và càng không tiếp tay nối giáo cho giặc.
Lạy Chúa, Giáo Hội lữ hành, và đặc biệt Giáo Hội Việt Nam chúng con đang gặp những thách đố lớn lao vì những chủ trương không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi kéo các tín hữu buông bỏ tinh thần từ bỏ, bóp chết tinh thần tử đạo của Chúa Kitô. Xin Chúa ban cho mọi thành phần trong giáo hội ơn kiên trung làm chứng cho Chúa qua việc không hướng theo tinh thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi.
Lạy Chúa, trong đời sống gia đình, chúng con làm cha, làm mẹ một thiên chức Chúa ban gắn liền với ơn tử đạo, qua việc hiến dâng cả đời cho con cái với bao hy sinh đầy đắng cay và nước mắt. Xin Chúa ban cho chúng con, nồng nàn yêu mến và tín thác vào Chúa, để mỗi hy sinh của chúng con trong đời, xứng đáng là một giọt máu tử đạo rơi xuống, cho mầm đức tin mọc lên trong mỗi gia đình chúng con.
60. Lửa yêu - Trầm Thiên Thu
Lửa rất mềm mà cũng rất mạnh. Một đốm lửa có thể dập tắt bằng một hơi thổi nhẹ hoặc làn gió nhẹ, nhưng ngọn lửa lớn thì rất khó dập tắt. Lửa càng chia sẻ càng tăng thêm nhiều. Và “lửa yêu” cũng vậy!
Máu Thánh của Đức Kitô đã đổ ra vì thương xót và cứu độ nhân loại. Nhờ đó mà có nhiều người không “tham sanh, úy tử”, dám liều mạng sống vì Chúa. Đó là những nhân chứng đức tin, là các vị tử đạo. Chính máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống sinh các tín hữu. Việt Nam là quốc gia có hằng trăm ngàn nhân chứng đức tin đã xả thân vì đức tin Kitô giáo. Các ngài cũng là những người có cuộc sống bình thường như chúng ta, nhưng có cách sống khác thường, dù thời đó Việt Nam mới nhận biết đức tin Kitô giáo chưa được bao lâu.
Thánh Anrê Phú Yên (1625-1644) mới rửa tội được 4 năm, thế nhưng đức tin của ngài đã trưởng thành nên mới có thể thí mạng vì Đức Kitô khi mới 19 tuổi đời. Thánh Anê Lê Thị Thành (1781-1841), thường gọi bà Đê, là một bà mẹ Công giáo bình thường, nhưng lại có một đời sống đức tin khác thường, để rồi dám chết vì Đức Kitô. Biết tin vua Thiệu Trị ra lệnh xử trảm, Thánh Matthêu Lê Văn Gẫm (1813-1847) vẫn thản nhiên nói: “Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.
Và còn hằng trăm ngàn người Công giáo Việt Nam đã chết vì Đạo Chúa, điều mà Đức Kitô đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Và đó cũng là một trong Bát Phúc: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:10). Chúng ta quen đọc kinh Tám Mối Phúc Thật: “Phúc thay ai chịu khốn nạn vì đạo ngay ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được Nước Đức Chúa Trời làm của mình vậy”.
Với người đời, những cái chết đó là dại dột, là ngu xuẩn; nhưng với Thiên Chúa lại là sự khôn ngoan. Chúa Giêsu đã giải thích: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10:28). Thật vậy, tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa” (Kn 3:1). Đối với những người yêu Chúa thì đau khổ chẳng nghĩa lý gì.
Như kiểu nói của người Việt là “gậy ông đập lưng ông”, tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi; khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt, nhưng thực ra, họ đang hưởng an bình. Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử” (Kn 3:2-4). Tất cả xem chừng là những nghịch lý, nhưng lại là nghịch-lý-thuận. Mọi khổ hình dã man nhất của loài người đối với các nhân chứng đức tin cũng chỉ là cách “chịu sửa dạy đôi chút”, và rồi “họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao” (Kn 3:5). Đó mới là mục đích của họ!
Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Ngài: “Ngài đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (Kn 3:6-7). Rồi họ sẽ được quyền “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, chính “Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời” (Kn 3:8). Thiên Chúa giúp họ lật lại thế cờ, chuyển bại thành thắng, đúng như lời Chúa hứa: “Những ai trông cậy vào Ngài, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Ngài yêu thương và cho ở gần Ngài, vì Ngài ban ân phúc và xót thương những ai Ngài tuyển chọn” (Kn 3:9).
Tác giả Thánh vịnh vui mừng trong niềm tín thác: “Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn, là Đấng dạy tôi nên người thiện chiến, luyện thành tay võ nghệ cao cường” (Tv 144:1). Tại sao? Vì “Chúa là đồng minh, là đồn luỹ che chở, là thành trì bảo vệ, là Đấng giải thoát tôi. Chúa là khiên mộc cho tôi ẩn núp, Người bắt chư dân quy phục quyền tôi” (Tv 144:2). Chẳng có gì có thể làm cho người tôi trung phải khiếp sợ, họ vẫn thản nhiên tôn thờ Chúa và vững tin: “Lạy Chúa Trời, xin dâng Chúa một bài ca mới, thập huyền cầm, con gảy đôi cung. Chính Ngài cho các vua thắng trận, cứu mạng Đa-vít, kẻ trung thần, khỏi lưỡi gươm ác nghiệt” (Tv 144:9-10).
Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?. Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8:31-32). Thánh nhân tiếp tục chất vấn một loạt: “Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta? Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8:33-35). Chính những câu hỏi đó đã ngầm chuyển tải những câu trả lời.
Có lời chép: “Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh”. Nhưng trong mọi thử thách ấy, “chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8:37). Thánh Phaolô tin chắc: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39). Tất cả chỉ là “số không”, và chẳng gì cản bước hoặc ngăn cấm được người ta yêu mến Thiên Chúa. Lúc này “lửa yêu” đã bùng cháy, không gì có thể dập tắt!
Trong một lần rao giảng, Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23). Điều kiện “theo Chúa” vừa dễ, vừa khó. Lửa yêu của ai mạnh thì là dễ, nhưng lửa yêu của ai yếu thì là khó. Chính người đời cũng ví von: “Tình yêu trong cách xa như ngọn lửa trong gió: Gió thổi tắt ngọn lửa nhỏ, nhưng thổi bùng ngọn lửa lớn”.
Chúa Giêsu nói thêm: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9:24). Đặc biệt là cách đặt vấn đề của Ngài: “Người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?” (Lc 9:25). Cách nói “nghi vấn xác định” là cách xác định mạnh mẽ hơn.
Rồi Ngài kết luận: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần” (Lc 9:26). Rất rõ ràng. Rất mạch lạc. Rất dễ hiểu. Nhưng Ngài vẫn tôn trọng tự do của mỗi người, chứ Ngài không hề ép buộc bất kỳ ai.
Lạy Thiên Chúa, xin thêm đức tin-cậy-mến và lòng can đảm cho chúng con, và giúp chúng con biết noi gương sáng các nhân chứng đức tin là tiền nhân của chúng con. Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin nguyện giúp cầu thay chúng con hôm nay và mãi mãi, nhất là trong Năm Đức Tin này. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
61. Những tên lý hình thời đại – PM. Cao Huy Hoàng
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong Năm Đức Tin, chúng ta không chỉ tự hào về Đức Tin kiên cường của Cha ông chúng ta, không chỉ tự hào sống trong đất nước của các Thánh Tử Đạo, không chỉ hãnh diện vì được là con cháu của các Thánh Tử Đạo, không chỉ tri ân những giọt máu trổ sinh mầm sống mới Đức Tin nơi chúng ta, mà thiết thực hơn, chúng ta cần noi gương các Ngài: Sống Đức Tin là Tử Đạo hằng ngày.
Nếu cha ông ta đã sống trong một thời kỳ bách đạo cách tàn bạo, từ việc cấm cản, khủng bố đến việc bắt bớ, bỏ tù tra tấn dã man, cho đến những án tử hình ghê rợn nhất: xử giảo, lăng trì, bá đao, thiêu sống, xử trảm, rũ tù…thì thời chúng ta, “những tên lý hình thời đại” với cách bức bách Đức Tin của ta còn kinh khủng hơn nữa: làm cho con người không còn yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá của Ngài.
Những tên lý hình thời đại: Ngoài ta
Những người chủ trương không có Thiên Chúa đang cầm quyền sinh tử nơi đất nước của các Thánh Tử đạo, đưa Giáo Hội Việt Nam vào một thách đố mới, vào cuộc tử đạo mới: Truyền giáo cho người không tin có Thiên Chúa hay là để cho người không tin có Thiên Chúa truyền chủ thuyết của họ?
Tư tưởng “Tôn giáo là liều thuốc phiện” vẫn đã thấm trong máu thịt của họ và đã chỉ đạo cả cuộc đời họ, cả việc họ làm, đến nỗi khi con người gần đất xa trời, chờ phút “qui tiên”, họ cũng chẳng chấp nhận một cõi nào linh thánh. Một cuộc đời bồng bềnh theo năm tháng lơ lững không định hướng, vì chỉ tin được cái hiện hữu của thân xác mà không tin có linh hồn bất tử. Một cuộc đời không có chuẩn mực Chân, Thiện, Mỹ nào hơn là theo cái chuẩn mực mà mình tự đặt định. Đạo đức xã hội là làm sao đem lại lợi ích trần thế nhiều nhất cho xã hội mà chính mình là trước tiên!
Thời đại này, họ không đặt Thánh Giá trước mặt chúng ta và yêu cầu chúng ta bước qua để chứng minh cho họ là chúng ta chối bỏ Đức Tin, nhưng họ đã gieo vào lòng tín hữu bề bộn những chủ thuyết vật chất, và như thế là cuộc tử đạo mới, tử đạo hằng ngày, đã bắt đầu qua việc không đồng thuận với những chủ trương không Thiên Chúa:
- Các em học sinh ở nhà trường phải tử đạo khi không chấp nhận bài học nguồn gốc con người bởi khỉ, bài học không có Thiên Chúa nào. Không có Đấng Tạo Hóa tác sinh…như “Con chim hay nói, nó nói tào lao, không có đứa nào, dạy cho tao nói”.
- Các em thanh niên nam nữ vào đời phải tử đạo khi không theo cách sống thử tự nhiên được xã hội mặc nhiên cổ xúy, để giữ vững đức khiết tịnh vì biết rằng: sống thử – nhưng sinh con thật – giết người thật.
- Các gia đình công giáo phải tử đạo khi lao vào cuộc sống kinh tế. Biết rằng có thực mới vực được đạo, và để ổn định phát triển kinh tế, phải giảm sinh, nhưng cương quyết không giảm sinh theo kế hoạch không tự nhiên – vì chẳng khác nào giết con người từ trong trứng nước, và tự tẩy chay nhân phẩm quí giá của mình.
- Giá trị hôn nhân thời nay đặt trên căn bản là kinh tế, là của cải vật chất, là hưởng thụ…tạo điều kiện cho trào lưu ly thân ly dị cách dễ dàng, và tạo nên một sự hỗn độn về đời sống các gia đình không đáng có: chồng trước, vợ sau, con chung, con riêng, con bỏ, con nuôi… hỗn độn…. Biết như thế, vì bảo vệ Đức Tin Công Giáo, các gia đình công giáo phải tử đạo khi dứt khoát không bị cuốn vào trào lưu tục hóa giá trị hôn nhân.
- Khi có của ăn của để, thì việc hành đạo hầu như không cần thiết hơn việc giải trí tiêu khiển, và việc giữ lễ Chúa nhật có thể trở thành việc chiếu lệ, nhưng người công giáo đã tử đạo khi vẫn một lòng yêu mến Chúa Giêsu, khao khát kết hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể qua việc tham dự Thánh lễ và việc rước lễ hằng ngày.
- Người ta muốn giam các tín hữu trong trại giam mới là chính cái biệt thự sang trọng, hay ít là căn phòng đầy đủ tiện nghi vật chất thơm phức nệm êm chăn ấm máy lạnh máy nóng …để mà hưởng thụ cuộc đời nầy, mà quên đi cái đời sau ảo tưởng… nhưng không, họ đã lầm, khi các tín hữu Việt Nam vẫn quí mến một cuộc vượt qua, và sẵn sàng cho cuộc vượt qua của chính mình…
- Giữa những băng hoại, suy đồi có nguy cơ làm phai mờ Đức Tin Công Giáo, các tông đồ của Chúa không đành lòng bó tay, nhưng tích cực gia tăng đời sống đạo đức gương mẫu, đời sống cầu nguyện, có sáng kiến phong phú để khắc phục, chận đứng, những trào lưu suy đồi của những tên lý hình thời đại làm tha hóa các phần tử trong giáo hội. Họ thiết thực trở nên những con người hướng dẫn thời đại đi vào đúng đường lối của Chúa. Họ thực sự đang ôm lấy Thánh Giá Chúa Giêsu với lòng quí mến thiết tha nhất. Họ đang tử đạo trên đất nước của các Thánh Tử Đạo, cùng với Đoàn Chiên Tử Đạo khắp nơi trên đất nước.
Chúng ta tin rằng các Thánh Tử Đạo Việt nam vẫn luôn phù hộ, tiếp sức cho các tín hữu Việt Nam chiến đấu trong cuộc bức bách mới của những tên lý hình thời đại mới đầy mưu ma chước quỉ của Satan luôn chủ trương chống lại Thiên Chúa.
Tên lý hình thời đại: Trong ta
Truyện rất ngắn “Lòi Cái Tôi Ra” của tác giả Anh-em-của-mọi-người, viết:
- Thưa cha khi chủng viện xây xong, người ta chặt cây cho lòi nhà ra nên chủng sinh phải chịu nắng nóng mấy năm nay. Bây giờ giáo xứ xây xong nhà giáo lý, lại chặt cây cho nhà giáo lý lòi ra làm thiếu nhi phải chịu nắng nóng!
- Không phải lòi nhà ra đâu mà lòi cái tôi ra đấy! Để lòi cái tôi ra nguời ta dám chặt bất cứ thứ gì kể cả cây thập giá nữa chứ cây xanh, bóng mát cho giáo dân là cái gì?
“ … Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10)
Chiến đấu với những tên lý hình thời đại ngoài ta có thể không khó khăn lắm, nhưng chiến đấu và chiến thắng với tên lý hình trong ta, có vẻ không dễ dàng tí nào!
Phải khiêm tốn mà nhận ra rằng, có nhiều người, trong đó có thể có tôi, có bạn, đã không bước qua thập giá của những tên lý hình thời đại ngoài ta, nhưng ngược lại, vì cái tôi, mà ta đã chặt và quăng cây thánh giá đi rồi. Khi đã chặt và quăng đi, thì còn đâu mà bước qua! Khi đề cao cái tôi một cách quá đáng, người ta chối bỏ Đức Giêsu Kitô và khổ đau của Ngài một cách không thương tiếc, và cũng không hay biết!
Sự nhàn hạ, thanh thản, phương tiện tiện nghi, hưởng thụ… đã “lấn sân” tâm linh, tạo cho người ta cái hạnh phúc thật êm dịu, không còn cảm giác khổ đau của cây thập giá nữa. Và vì thế, khó mà chấp nhận sự khốn khó gian nan. Sướng quen rồi. Đây mới thực sự là trại giam mới, trại giam của của danh vọng, của quyền lực, của sự an thân, an vị, an nhàn, và … rồi an nghĩ trong trại giam ấy tới ngàn thu.
Bỗng dưng, chính ta, đã trở nên những tên lý hình thời đại. Ta xử trảm chính ta và xử trảm mọi người khi cách sống “không Kitô”, “không Thập Giá” trở thành gương xấu cứ lan nhanh lan nhanh đến nhiều người.
Vâng, không ai bắt ta làm nô lệ, chỉ vì ta bằng lòng để mất tự do. Không ai làm ta mất tự do, chỉ vì ta bằng lòng làm nô lệ! Nô lệ cho chính cái tôi của mình.
Yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá Chúa Giêsu
Thiết tưởng lòng yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá của Ngài, sẽ giúp tôi, giúp bạn vượt qua những cuộc bức bách ngoài ta, trong ta, sẽ giúp chúng ta vượt qua, giúp chúng ta được hồng phúc tử đạo hằng ngày, giúp chúng ta trung thành với Đức Tin Công Giáo.
Xin chia sẻ một phần câu chuyện về Thánh Tử Đạo Anrê Nguyễn Kim Thông (Anrê Năm Thuông) lý trưởng, thầy giảng; sanh 1790 tại Gò Thị, Bình Định; chết 15 tháng Bẩy, 1855, tại Mỹ Tho. Ngài chết rũ tù vì kiệt sức và đói khát trên đường di tán tại Mỹ-Tho.
“Bị điệu ra trước tòa quan tỉnh tra vấn về các điều tố cáo. Ông Trùm khiêm tốn, bình tĩnh ung dung trả lời bằng lời lẽ đanh thép: “Trong nhà tôi không có đạo trưởng. Còn việc tậu thuyền, mãi mã, sắm ghe, tích trữ lương thực, tôi chẳng hề có, xin quan cho đi khám xét. Tôi chỉ chuyên cần lo việc nông gia. Tôi không biết Tây Dương, không đem đường chỉ nẻo cho họ. Tôi cũng chẳng hề đi đâu mà mở đường sơn thủy, vận lương, chuyển binh cho giặc”. Không tìm ra chứng cớ về các điều cáo giác trên, bọn quan lại bèn truyền cho Ông Trùm “quá khóa”, tức là bước qua Thánh Giá, thì sẽ được tha về. Ông nhất quyết không tuân.
Quan bảo: “Kín đáo đạp lên thập giá đi, rồi về xưng tội”.
Ông Trùm đáp: “Thạch tín là thuốc độc, uống vô là chết, nhưng cũng có thuốc giải. Thế nhưng có ai liều mình uống thạch tín bao giờ? Việc xúc phạm Thánh Giá cũng vậy”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa Giêsu và yêu mến Thập Giá của Ngài, để được hồng phúc tử đạo với Chúa mỗi phút giây trong cuộc đời chúng con. Amen.
23/11 Gắn bó với Chúa từng giây phút
- Viết bởi Lc 21, 5-11
Gắn bó với Chúa từng giây phút.
Thứ Ba tuần 34 thường niên.
"Không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào".
Lời Chúa: Lc 21, 5-11
Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: "Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá". Bấy giờ các ông hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?" Người phán: "Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối: vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: "Chính ta đây và thời gian đã gần đến", các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ: vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu".
Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng: "Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Không còn hòn đá nào
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người Do thái yêu mến, gắn bó và hãnh diện về đền thờ Giê-ru-sa-lem. Lộng lẫy nguy nga chưa từng thấy. Uy nghi hoành tráng đến hớp hồn. Nhưng Chúa Giê-su cho biết “những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào”. Chẳng có gì vững bền trên đời. Dù những phiến đá lớn lao vững chãi. Cả thế giới còn bị tiêu huỷ ra tro. Huống hồ một công trình bé nhỏ trên trái đất. Thật đáng sợ ngày kinh hoàng ấy. “Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện”. Vì thế phải biết chuẩn bị. Đừng gắn bó với những vẻ đẹp và sức mạnh chóng qua. Càng gắn bó sẽ càng hối tiếc. Hãy chuẩn bị cho ngày kinh hoàng đó.
Sách Khải huyền diễn tả số phận thế giới giống như một vụ mùa. Thời gian Chúa cho phép vũ trụ tồn tại là thời gian gieo hạt, trồng cấy. Cho cây nho, cây lúa mọc lên. Phát triển. Thời gian chấm dứt là thời gian Chúa tiêu huỷ vũ trụ. Lúa và nho đã chín. Cần phải gặt về. Đổ vào bồn ép. Để chịu phán xét. Trong cơn lôi đình khủng khiếp. “Xin tra liềm của Ngài mà gặt, vì đã đến giờ gặt: mùa màng trên đất đã chín rồi”. Trái đất đã chín. Lịch sử đã chín. Con người đã chín. Thời hạn đã chấm dứt. Cẩn thận kẻo bị ép trong bồn ép thịnh nộ (năm chẵn).
Na-bu-cô-đô-nô-sô được ơn thấy thị kiến về vận mệnh của chính mình, của vương quốc và của thế giới. Mọi vương quốc hùng mạnh rồi cũng sẽ tiêu tan. Mọi cố gắng của loài người không vượt qua được số phận. Thời gian nhường chỗ cho đời đời. Hữu hạn nhường bước cho vô hạn. Nhân loại phải tuân phục Thiên Chúa. Sức mạnh của Thiên Chúa không ai có thể chống cưỡng được. Đó là điều Đa-ni-en giải nghĩa giấc mơ cho Vua: “Đức Chúa Trời sẽ lập một vương quốc không bao giờ bị tiêu diệt, vương quốc ấy không bị giao cho một dân khác, nhưng nó sẽ đập tan và tiêu diệt tất cả mọi vương quốc này, đến muôn đời nó sẽ đứng vững; cũng như ngài đã thấy tảng đá bị tách khỏi núi dù không có bàn tay nào đụng tới, tảng đá ấy đập tan của sắt, đồng, đất sét, bạc và vàng” (năm lẻ).
Mọi sự sẽ qua đi. Chỉ Thiên Chúa vĩnh cửu. Thật dại dột khi gắn bó với những gì mau qua. Tôi sẽ mất tất cả. Sẽ buồn phiền. Khôn ngoan là gắn bó với Thiên Chúa. Làm việc cho Nước Trời. Ở trần gian có thể bị thiệt thòi. Nhưng sẽ bền vững trong Chúa, trên trời.
Suy niệm 2: Thời gian chuyển tiếp
Ðối với người Do thái, Ðền thờ Giêrusalem là biểu tượng cho niềm vui và hãnh diện, và là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc, là nơi hằng năm muôn dân tuôn về đó để mừng lễ. Ðền thờ được xây bằng đá quí, sừng sững trên ngọn đồi này vẫn được xem là nơi nương tựa vững chắc có thể đương đầu với thời gian. Thế mà Chúa Giêsu lại tuyên bố sẽ có ngày nó bị tàn phá, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.
Về thời điểm các sự việc đó xảy ra, dưới ngòi bút của thánh Luca, câu trả lời của Chúa Giêsu không chỉ riêng cho Giêrusalem mà còn bao gồm cả chiều kích lịch sử cứu độ: cũng như Ðền thờ Giêrusalem, thế giới này dù có vững vàng đến đâu, thì một ngày nào đó cũng sẽ tàn lụi. Trong khoảng thời gian trước ngày Chúa trở lại sẽ có nhiều tai ương khốn khó. Hình ảnh các biến cố thiên nhiên, như động đất, hạn hán, mất mùa, ôn dịch; những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ trên trời, hay hình ảnh chiến tranh, loạn lạc, là những yếu tố trong lối hành văn được các Tiên tri sử dụng để báo trước về ngày chung thẩm của Thiên Chúa. Tuy nhiên, các biến cố đó không phải chỉ là những hình ảnh, mà là sự thật; chúng cũng tác dụng như một nhắc nhở con người ý thức bản chất thụ tạo yếu đuối và mỏng dòn của mình, đồng thời soi sáng cho con người biết chiều kích về ơn gọi siêu việt của mình là sống như con cái Thiên Chúa và trung thành thực hiện ơn gọi đó, trong khi chờ đợi ngày Chúa lại đến.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tin tưởng vào tình thương bao la của Chúa. Xin cho chúng ta hằng gắn bó với Chúa và sống hết tình con thảo từng giây phút đời sống chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 3: Ngôn ngữ khải huyền
Trong thời điểm tuần lễ cuối cùng của năm Phụng Vụ, Giáo Hội mời gọi con cái mình Suy niệm những đoạn Kinh Thánh trình bày chủ đề cánh chung trong một ngôn ngữ riêng biệt, gọi là ngôn ngữ Khải huyền. Ðoạn Phúc Âm hôm nay là đoạn mở đầu cho những lời dạy của Chúa Giêsu về cánh chung và về việc Chúa sẽ trở lại trong vinh quang. Những người nghe Chúa Giêsu giảng dạy về biến cố này thì xem ra như muốn biết rõ về thời gian, lúc biến cố xảy ra. Nhưng trong lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Ngài xem ra nhấn mạnh nhiều hơn đến thái độ sống của những đồ đệ của Chúa: phải sống thế nào để có thể đón Chúa ngự đến vào lúc kết thúc lịch sử nhân loại và vũ trụ.
Ngôn ngữ được Chúa Giêsu dùng ở đây là ngôn ngữ Khải huyền, một lối diễn tả đặc biệt thường được dùng trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước. Ngôn ngữ Hy Lạp và tiếng Việt dịch ra là Khải huyền, có nghĩa là mạc khải, mạc khải điều huyền nhiệm. Mọi chi tiết, mọi sự cố diễn ra và được mô tả trong ngôn ngữ Khải huyền đều không nên được chúng ta hiểu theo nghĩa đen, nhưng là một biểu tượng, một hình bóng cho một ý tưởng nào đó. Những biến cố, những tai ương được dùng trong ngôn ngữ Khải huyền muốn nói lên cho chúng ta biết vũ trụ, thế giới chúng ta đang sống không tồn tại đời đời mãi mãi, nhưng sẽ đi đến một lúc kết thúc và cuộc đời mỗi người chúng ta cũng như toàn thể nhân loại cũng sẽ đến lúc kết thúc, và giây phút kết thúc cuối cùng đó, là giây phút Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi cho con người, nhờ qua Chúa Giêsu Kitô. Mục tiêu của ngôn ngữ Khải huyền không phải là để làm cho người ta lo sợ, lo sợ tận thế, lo sợ cái chết, nhưng như là một lời kêu gọi, một lời thức tỉnh, thôi thúc người ta hãy sống tỉnh thức một cách tích cực để lãnh nhận ơn cứu rỗi của Chúa. Ðó là những lời của niềm hy vọng. Hy vọng một cuộc biến đổi hoàn toàn và đầy vinh quang của con người cũng như của thế giới. Một niềm hy vọng về trời mới và đất mới, nơi công bằng và hòa bình của Thiên Chúa ngự trị. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi giây phút Chúa ngự đến trong vinh quang, mỗi người đồ đệ Chúa cần sống giây phút hiện tại một cách can đảm, kiên trì giữa những thử thách xảy đến, và nhất là cần sống gắn bó mạnh mẽ, kết hiệp mật thiết với Chúa để vượt thắng được những cám dỗ chối bỏ Chúa mà chạy theo những vị tiên tri giả, những chúa kitô giả, những kẻ tự phụ muốn thay thế chỗ của Chúa nơi tâm hồn con người, những kẻ mạo danh Chúa để lường gạt và hưởng lợi. Mỗi người chúng ta cần trưởng thành mỗi ngày một hơn trong đức tin, đức cậy và đức mến, để có thể khám phá ra Chúa đang ngự đến hàng ngày trong mọi biến cố lớn nhỏ, để cứu rỗi chúng ta vì Ngày yêu thương chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con chúc tụng Chúa là chủ của vũ trụ và lịch sử, vì Chúa hiện diện trong chúng con và trong thế giới, trong những nỗi lo âu cũng như những nỗi vui mừng và hy vọng của chúng con. Xin thương giúp chúng con biết chăm chú, biết lắng nghe lời Chúa dạy và khám phá Chúa hiện vẫn đang ở với chúng con mỗi ngày mỗi lúc nơi người anh chị em đang cần được giúp đỡ, cần được yêu thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Đền thờ sụp đổ
Nhân có mấy người nói về đền thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giêsu bảo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” (Lc. 21, 5-6)
Đoạn Tin mừng này khá phức tạp: hai phần không liên hệ với nhau. Trong đoạn đầu, Đức Giêsu loan báo sự tàn phá đền thờ Giê-ru-sa-lem. Trong đoạn hai, người ta đặt câu hỏi mong Người trả lời: “Bao giờ xảy ra và có điềm gì báo trước?”. Nhưng Người không trả lời như họ mong muốn, Người lại nói đến những điềm báo về ngày tận thế. Chúng ta nhận xét vài điều liên hệ tới đền thờ sụp đổ.
Hai kiểu giải thích:
Tại sao đền thờ Giê-ru-sa-lem bị tàn phá? Tại sao Đức Giêsu nói tiên tri “sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” của lâu đài tráng lệ này được người Do thái tôn kính?
Đức Giêsu đã giải thích hai lần về vấn đề này. Trong Luca đoạn 19, 44 Người coi biến cố này là một hình phạt đổ xuống dân thành vì họ không nhận ra Đấng Thiên sai Cứu thế của Thiên Chúa. Lần thứ hai, trong Tin mừng theo thánh Gio-an đoạn 2, 19-22 giải thích sâu sắc hơn ẩn chứa một chút mầu nhiệm: “Hãy phá đền thờ này, và trong ba ngày, Tôi sẽ xây dựng lại”. Đức Giêsu muốn cho hiểu rằng: Đã đến thời Thiên Chúa ngự ở khắp mọi nơi và tỏ mình ra không chỉ ở đền thờ. Người quả quyết rằng đền thờ phải biến đi để Ngài hiện rõ ràng trước hết và trên hết trong chính Con Người của Con Thiên Chúa. Nói cách khác, Đức Giêsu phục sinh là đền thờ, đền thờ mới và duy nhất. Ngày phục sinh là ngày đền thờ Giê-ru-sa-lem suy tàn đi, biến đi.
Con người là đền thờ Thiên Chúa.
Thánh tông đồ Phao-lô đã bổ túc tư tưởng của Đức Giêsu khi giải thích: Mỗi Kitô hữu và toàn bộ mọi Kitô hữu hình thành Giáo hội, là đền thờ mới để Thiên Chúa ngự. Chúng ta có thể nói mà không nghịch lại với tư tưởng của thánh Phao-lô rằng: Thực sự chính trong con tim của bất cứ người nào đều là nơi Thiên Chúa ngự.
Nếu quả thật như vậy, chính trong con tim mỗi người phải đi tìm Thiên Chúa trước hết. Ai không gặp được Thiên Chúa ở với mọi người thì họ không gặp được Ngài bao giờ.
R.C
Suy niệm 5: Ngày phân biệt
Một công trình hoành tráng, nguy nga, hùng vĩ được xây dựng lên để thách đố với thời gian, khẳng định với thời đại, đó chính là thành thánh Giêrusalem. Quả thật, đây là công trình thế kỷ; là niềm tự hào, hãnh diện của người Dothái... Tuy nhiên, công trình này rồi cũng như hoa kia sớm nở tối tàn mà thôi. Dù nguy nga, đồ sộ cỡ nào thì trước mặt Chúa cũng chỉ là phù vân!
Quả thật, sự kiện năm 70 sau Chúa Giáng Sinh, quân đội Rôma đã phá đổ tan tành, không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào, và nó đã thành biển lửa và máu. Ngày nay, người ta chỉ còn biết đến nó như là một sự kiện của lịch sử hay như một kỷ niệm buồn tủi với nước mắt...
Hình ảnh thành thánh Giêrusalem bị tàn phá là tiền đề để giúp cho chúng ta cảm thấy trước sự kinh hoàng, ghê rợn trong ngày chung cuộc của con người và thế giới. Ngày đó đến với các điềm báo trước như: hạn hán, mất mùa, bệnh dịch, những điềm lạ xuất hiện trên trời như: kinh thiên, động địa, hay chiến tranh tàn phá và loạn lạc... Ngày đó là ngày phán xét, ngày phân biệt tốt và xấu; thiện và ác; chiên và dê; lúa và cỏ lùng; cá tốt và cá xấu...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hướng về Nước Trời như một điểm đến của chúng ta. Cần nhạy bén với các dấu chỉ thời đại, hầu thay đổi cuộc sống để trở nên tốt hơn. Cần tránh cho xa những điều bất chính và mặc lấy thái độ của những người sống trong ân sủng. Suy nghĩ, hành động tốt để ngày Chúa đến với chúng ta là một ngày tràn ngập vui mừng. Chớ dại mà bám víu vào những thứ tưởng chừng sẽ tồn tại trong cuộc sống như: vật chất, chức quyền, danh vọng; hay những thú ăn chơi, đàn điếm, cờ bạc mà quên đi mục đích tối hậu của mình.
Chỉ có Lời Chúa là tồn tại và là Lời Hằng Sống có sức biến đổi cũng như cứu vãn chúng ta khi chúng ta lắng nghe và thực hành mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tỉnh thức và sẵn sàng, vì không biết ngày nào, giờ nào Chúa đến. Xin ban ơn cứu độ cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 6: Sự sụp đổ của thành Giêrusalem
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi chỉ trích các luật sĩ và đề cao cử chỉ quảng đại của bà góa, Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi Đền thờ về phía núi Cây Dầu. Từ nơi này nhìn thấy Đền thờ Giêrusalem đồ sộ nguy nga và kiên cố, các môn đệ tấm tắc khen ngợi và có cảm nghĩ Đền thờ bền vững đến muôn đời, nhưng Đức Giêsu lại báo trước sự sụp đổ của thành Giêrusalem, viễn cảnh của ngày tận thế. Dân Israel không tin và không chấp nhận Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Họ dễ dàng nghe theo những lời giáo huấn của những kẻ giả hình, những kẻ mạo danh Ngài. Đức Giêsu dạy phải tỉnh thức chờ đợi Ngài. Đồng thời cũng báo trước sẽ có những biến cố lớn lao xẩy ra trước ngày tận thế.
2. Trọng tâm của bài Tin Mừng hôm nay là Đức Giêsu loan báo việc Đền thờ Giêrusalem sẽ bị tàn phá và liên kết với việc tàn phá Đền thờ, Đức Giêsu nói về ngày tận thế. Trong khi chờ đợi “Ngày của Chúa” tức là Chúa đến lần thứ hai, các tín hữu sẽ phải trải qua nhiều gian nan thử thách, phải qua một thời đại bị bách hại. Nhưng đừng sợ, hãy kiên trì vì sự bách hại sẽ là một cơ hội để làm chứng cho Tin Mừng. Chính Chúa sẽ làm cho các tín hữu chiến thắng trong thời kỳ sau cùng với điều kiện họ phải luôn bền đỗ.
3. Hình ảnh Đến thờ Giêrusalem được Hêrôđê Cả cho tái thiết lại trang hoàng lộng lẫy và lóng lánh ngọc thạch. Mọi người tự hào và trầm trồ khen ngợi. Nhưng đúng như những gì Tin Mừng loan báo, thành Giêrusalem đã bị tướng Titus của Rôma phóng hỏa và bình địa xóa sổ vào năm 70 và dân Do thái tản mác khắp nơi trên địa cầu. Với cách diễn tả của các tác giả Tin Mừng, các ngài thường liên tưởng đến biến cố Giêrusalem và biến cố cánh chung. Và rồi, bao nhiêu công trình mà con người tự hào và khen ngợi, từ công trình khoa học kỹ thuật đến các công trình kiến trúc... rồi sẽ trở thành tro bụi khi ngày tận thế đến (Mỗi ngày một tin vui).
4. Tin Mừng hôm nay thuật lại Đức Giêsu báo trước sự kiện Giêrusalem sẽ bị tàn phá; đồng thời cũng tiên báo về ngày cánh chung, về tận củng cũa vũ trụ này. Theo lẽ thường cái gì đã có thủy (điểm khởi đầu), thì cũng sẽ có chung (điểm cuối), “hữu hình hữu hoại”: cái gì xuất hiện hữu hình thì cũng có lúc hình thể đó bị hư hoại đi. Đó là một chân lý, một quy luật chứng nghiệm trong thực tế chứ không phải một cái nhìn bi quan. Nhận định ấy giúp ta tiếp cận thế giới vật chất này cách khôn ngoan, chừng mực hơn, không quá bám víu vào nó, vì mọi vật có ngày rồi sẽ tiêu tan, nay còn mai mất. Khi cảm nghiệm được sự bất tất, mau qua của vạn vật, ta mới thấy được cái giá trị của vĩnh cửu, là thực tại Thiên Chúa đã từng hé lộ cho ta khi Đức Giêsu rao giảng Nước Thiên Chúa: “Trời đất sẽ qua đi nhưng lời Ta sẽ tồn tại mãi”(x.Mt 5,18)(5 phút Lời Chúa).
5. Nói đến ngầy tận thế, xem ra là vấn đề mơ hồ và xa xôi, đưa đến bi quan, nhưng lại là điều có thật. Tuy nhiên, khi nói đến ngày kết thúc cuộc đời mình thì đó là điều chắc chắn và thiết thân. Mỗi người phải lo cho số phận mình, không ai có thể thay thế được. Một lúc nào đó, ngay cả con người chúng ta dù muốn hay không, cái chết cũng đến với chúng ta. Chúng ta sẽ ra đi như chúng ta đã vào đời. Từ trong bóng tối đi ra, chúng ta cũng trở về với bóng tối. Đã một thời không có chúng ta, và cũng sẽ đến thời không ai còn nhắc đến chúng ta nữa. Mỗi ngày có trên 200.000 người chết, mỗi giờ có 10.000 người chết. Hôm nay, ngày mai hay bất cứ lúc nào, tôi cũng sẽ được đếm trong số những người phải ra đi ấy .
6. Nhưng có nhiều người cứ sống như không bao giờ chết, họ sống không mục đích, họ sống cho qua ngày như trên tấm mộ bia của anh chàng Bopp có viết câu: “Đây là nơi yên nghỉ của một người không biết tại sao mình sống”. Các nhà văn muốn viết một quyển truyện hay thường nghĩ trước phần kết của câu truyện. Chúng ta muốn viết quyển truyện đời mình cho hay thì cũng phải nghĩ trước về ngày chết của mình, đừng như nhân vật trong truyện dưới đây: Nhà khoa học Huxley đang gấp vì sự đến trễ phiên họp trong đó ông phải đọc một bài tham luận. Ông nhảy lên một chiếc xe ngựa và bảo người đánh ngựa: “Hãy chạy hết tốc lực”. Xe chạy một quãng, ông mới giật mình nói: “Nhưng mà ta đang chạy đi đâu vậy”? Người đánh ngựa đáp: “Tôi cũng chẳng biết, chỉ biết là xe đang chạy hết tốc lực” (Clifton Gadiman).
7. Truyện: Sắm sẵn hành trang chưa?
Một quan lớn kia có nuôi một tên hề để hầu hạ. Quan trao cho nó một cây gậy, bảo nó cứ giữ cho đến khi có ai điên rồ hơn nó thì hãy cho.
Cách vài hôm sau, quan thọ bệnh nguy kịch. Hề ta vào thăm, hỏi rằng:
- Khi qua đời rồi, quan sẽ đi đâu?
- Ta đi xa lắm.
- Vậy bao giờ quan về? Một tháng nữa chăng?
- Không.
- Một năm à?
- Cũng không.
- Vậy thì bao giờ quan mới về?
- Chẳng bao giờ về được.
- Thế thì trong cuộc man du đó quan đã sắm sẵn hành trang gì chưa?
- Chưa sắm gì hết.
- Đi xa mà chẳng có hành trang gì, quan thật điên hơn tôi. Vậy xin nhận lấy cây gậy này.
(Ms Lê Văn Thái, Những tia sáng 2, tr 159).
Suy niệm 7: Vấn đề chung kết của lịch sử
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Đoạn này mở đầu một đơn vị văn chương được gọi là “diễn từ chung luận” (Lc 21,5-36), trong đó Chúa Giêsu bàn đến những vấn đề “chung kết” của lịch sử là: sự sụp đổ của thành Giêrusalem, ngày tận thế, và ngày Đức Kitô quang lâm. Diễn từ này khó hiểu, một phần vì được viết theo văn thể khải huyền, phần khác vì 3 biến cố trên được nhắc đến xen lẫn nhau khiến người đọc không biết rõ những câu nào nói đến biến cố nào.
- các câu 5-6: Chúa Giêsu tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá.
- câu 7: thính giả liên tưởng tới ngày tận thế nên hỏi Chúa Giêsu khi nào thì tận thế và có dấu nào báo trước không.
- câu 8-11: Chúa Giêsu không muốn cho biết những dấu chỉ rõ ràng về ngày tận thế. Bởi đó trước tiên Ngài khuyên người ta chớ tin vào những dấu chỉ mà người này người nọ đưa ra cho rằng sắp tận thế. Kế đó Ngài dùng những hình ảnh khải huyền khó hiểu để nói một cách úp úp mở mở rằng khi tận thế thì những gì xưa nay người ta cho là chắc chắn đều sẽ lung lay.
B.... nẩy mầm.
1. Mọi công trình con người xây dựng, dù cho kiên cố và quý giá đến đâu đi nữa, kể cả Đền thờ Giêrusalem... tất cả đều sẽ có ngày sụp đổ. Chẳng có gì bền vững ở thế giới này. “Trăm năm bia đá cũng mòn”; “Phù hoa nối tiếp phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa. Hoa nào không phai tàn? trăng nào không khuyết? ngày nào mà không có đêm? yến tiệc nào không có lúc tàn?”
2. Triết lý Á Đông: “sự vật hễ có hình thì có hoại”.
3. Trong tuần lễ cuối cùng của năm Phụng vụ, Lời Chúa nhắc chúng ta hãy suy nghĩ về những vấn đề cuối cùng của đời người: chết, phán xét, số phận đời đời...
4. Các nhà văn muốn viết một quyển truyện hay thường nghĩ trước phần kết của câu truyện. Chúng ta muốn viết quyển truyện đời mình cho hay thì cũng phải nghĩ trước về ngày chết của mình, đừng như nhân vật trong chuyện dưới đây:
“Nhà khoa học Huxley đang gấp vì sợ đến trễ phiên họp trong đó ông phải đọc một bài tham luận. Ông nhảy lên một chiếc xe ngựa và bảo người đánh ngựa “Hãy chạy hết tốc lực”. Xe chạy một quãng, ông mới giật mình hỏi “Nhưng mà ta đang chạy đi đâu vậy?”. Người đánh ngựa đáp: “Tôi cũng chẳng biết, chỉ biết là xe đang chạy hết tốc lực”. (Clifton Gadiman).
5. Cả cuộc sống êm ả lẫn cuộc sống bất ổn cũng đều tiềm tàng những thuận lợn và những hiểm nguy cho đời sống thiêng liêng. Vấn đề là làm sao luôn rút được ích lợi ngay giữa hai tình cảnh đối nghịch đó:
- Nếu được sống triền miên trong sự êm ả (vd: sống trong một xã hội sung túc đầy đủ, không bao giờ phải lo chiến tranh hoạn nạn…) người ta sẽ dễ an tâm sống đạo thờ phượng Chúa. - Nhưng cũng dễ rơi vào chỗ coi thường, bất cần đến đạo, bất cần đến Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, mỗi khi dân Chúa li bì trong cảnh thái bình mà đâm ra truỵ lạc, tự mãn, không coi Thiên Chúa ra gì, thì thường xuất hiện vị ngôn sứ loan báo tai hoạ để nhắc nhở dân (gọi là ngôn sứ báo hoạ).
- Ngược lại, nếu luôn phải sống trong phập phồng lo sợ, người ta dễ thấy mạng sống mình mong manh, thấy của cải vật chất không giúp bảo đảm gì nhiều cho mình. Khi đó người ta dễ chạy đến với Chúa. - Nhưng nếu cứ phải sống triền miên trong bất ổn, cuộc đời dễ mất ổn định và khó lòng đạt được những hoa trái của sự bình an. Suy niệm đời ông Gióp giúp ta hiểu rõ hơn.
6. “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21,6)
Ồ một chiếc bông hồng vừa hé nở đẹp quá! Thế mà chỉ vài ngày sau nó đã tàn úa, vì đó chỉ là những vẻ đẹp chóng qua.
Đền thờ Giêrusalem, một công trình mất đến 40 năm mới hoàn tất, vậy mà Chúa bảo rồi sẽ có ngày bị tàn phá. Giữa những vẻ đẹp nhân tạo, những vẻ đẹp của trần thế chóng qua, Chúa muốn tôi tìm kiếm vẻ đẹp không bao giờ tàn úa. Chỉ có vẻ đẹp của tâm hồn, chỉ có sự thánh thiện mới không có gì phá huỷ đ. Vẻ đẹp đó chỉ có thể tô điểm bằng yêu thương và phục vụ.
Lạy Chúa, xin cho con biết yêu thương và phục vụ, để giữ mãi vẻ đẹp của tâm hồn. (Hosanna)
22/11 Cho Ði Tất Cả
- Viết bởi Lc 21, 1-4
Cho Ði Tất Cả.
Thứ Hai tuần 34 thường niên. – Thánh Cêcilia, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ.
"Người thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ".
* Cuối thế kỷ V, câu chuyện về cuộc thương khó của các chứng nhân tử đạo Cêcilia, Valêrianô và Tibuốc đã ca ngợi đức đồng trinh của Kitô giáo, khiến cho tên tuổi của một thiếu nữ người Rôma tên là Cêcilia trở thành lừng lẫy. Chị đã chịu tử đạo và được mai táng ở nghĩa trang Calíttô.
Một thánh đường đã được xây dựng để kính thánh nữ và một đoản văn trong câu chuyện trên đã khiến cho các nhạc sĩ chọn chị làm bổn mạng.
Lời Chúa: Lc 21, 1-4
Khi ấy, Chúa Giêsu nhìn lên, thấy những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền. Người cũng thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ, nên bảo rằng: "Thầy bảo thật các con, bà goá nghèo khó này đã bỏ vào hòm tiền nhiều hơn mọi người.
Vì mọi người kia lấy của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa, còn bà này túng thiếu, bà đã dâng tất cả những gì bà có để nuôi sống mình".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Bỏ vào tất cả
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Thánh Luca là văn sĩ tuyệt vời viết về sự hiền dịu của Đức Kitô.
Nhưng thánh nhân cũng là người nhấn mạnh đến sự đòi hỏi.
Thầy Giêsu đòi ai muốn theo Ngài phải từ bỏ tất cả (Lc 14, 33).
Các môn đệ đầu tiên như Simon, Gioan, Giacôbê, Lêvi,
đều là những người đã bỏ tất cả để theo Thầy (Lc 5, 11. 28).
Bà góa nghèo trong bài Tin Mừng hôm nay (c.4)
cũng là người đã bỏ vào thùng tiền tất cả những gì bà có để sinh sống.
Tất cả và trọn vẹn, chính là điều Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người.
Yêu Ngài bằng tất cả trái tim và tất cả sức lực của mình,
đó là mệnh lệnh của Thiên Chúa dẫn đến sự sống vĩnh cửu (Lc 10, 27).
Có người tự hỏi nếu bà góa nghèo dâng cho Đền thờ
tất cả số tiền nhỏ nhoi còn lại thì ngày mai bà sống bằng gì.
Bà có phải là người bị đầu độc và bóc lột bởi các kinh sư không,
vì đã có những kinh sư nuốt chửng nhà của các bà góa (Lc 20, 47)?
Đức Giêsu có coi bà góa này như một tấm gương cho ta không?
Khi ngồi nhìn người ta dâng cúng tiền cho Đền thờ,
Đức Giêsu thấy người giàu bỏ tiền, có khi là những món tiền lớn.
Nhưng Ngài cũng thấy một bà góa nghèo bỏ tiền vào thùng.
Một món tiền rất nhỏ, bằng đơn vị tiền tệ nhỏ nhất.
Ngài nói cho các môn đệ nghe về cách đánh giá của Ngài,
cũng là cách đánh giá của Thiên Chúa.
Bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn những người giàu.
Vì các môn đệ có thể bị ngỡ ngàng, nên Ngài giải thích cho họ.
Người giàu bỏ vào từ sự dư thừa của họ.
Còn bà góa bỏ vào từ sự túng thiếu của bà (c. 4).
Trao đi một điều đụng chạm đến cuộc sống của mình
thì khó hơn gấp bội,
vì mình phải gánh chịu hậu quả ngay lập tức.
Bà góa ở Xarépta chắc chắn đã gặp khó khăn
khi ngôn sứ Êlia xin bà làm cho ông một cái bánh nhỏ trước đã,
rồi sau đó mới làm cho bà và con bà (1 V 17,13).
Bà đã dám vâng lời dù đang túng thiếu,
dù nhà chỉ còn một nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò.
Cái chết đang đến với mẹ con bà, vậy mà bà đã dám chia sẻ.
Chia sẻ của hai bà góa trên đây đều nằm trong những tình huống
tưởng như không thể chia sẻ được, vì chẳng có gì để chia sẻ.
Chia sẻ cho Chúa hay cho tha nhân lúc ấy, thật là quý biết bao,
vì nó đòi ta ném mình vào sự mất an toàn,
và đồng thời ném mình vào vòng tay quan phòng của Thiên Chúa.
Mọi tính toán kiểu con người biến mất,
để nhường chỗ cho lòng quảng đại vô bờ.
Chắc chắn Thiên Chúa chẳng để cho bà góa nghèo phải chết đói.
Hũ bột không cạn và bình dầu không vơi
vẫn là quà tặng Chúa ban cho bất cứ ai dám trao đi tất cả đời mình,
vì trao đi mà sau đó mình không thấy thiếu thì không thật là trao đi.
Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích,
biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
Suy niệm 2: Tấm lòng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa có cách đánh giá kỳ lạ. Khác người. Chúa nhìn bề trong chứ không nhìn bề ngoài. Đối với Chúa tâm hồn quan trọng hơn của cải. Tình yêu quan trọng hơn lễ vật. Trật tự của Chúa khác với trật tự trần gian. Ở trần gian ai cũng chú trọng tới những người quyền cao chức trọng, ăn mặc sang trọng, thân hình phương phi, và nhất là dâng cúng nhiều tiền của. Nhưng Chúa lại chú ý tới những người thấp hèn, ăn mặc nghèo nàn, thân hình bé nhỏ, và dâng cúng ít ỏi. Chúa đánh giá cao bà goá dâng hai đồng kẽm. Vì: “Những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, tuy thật túng thiếu, đã bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”. Như thế tuy bà có ít ỏi. Nhưng tấm lòng của bà thật lớn lao. Bài bị người đời khinh chế. Nhưng bà được đánh giá cao trước mặt Chúa. Bà từ người cuối hết trong trần gian. Trở thành người lớn nhất trong Nước Trời. Chúa không cần của lễ. Chúa cần tấm lòng. Đối với Chúa những tấm lòng quảng đại là cao quí nhất.
Đa-ni-en và ba người bạn có tấm lòng yêu mến Chúa. Các cậu chu toàn lề luật Chúa. Nên chối từ bổng lộc vua ban. Các cậu thà ăn rau cỏ. Không chịu ăn thịt luật đạo cấm. Tâm hồn cao quí đó hiện lên sắc mặt. Nên các cậu khôi ngô tuấn tú hơn những trẻ khác ăn uống theo chế độ vua ban. Còn hơn thế nữa. Chúa thưởng công cho các cậu được trí khôn ngoan, “được hiểu biết mọi thị kiến và điềm báo mộng”. Vua rất yêu thích cho các cậu được ở bên cạnh. “Thế là bốn cậu này được đứng chầu vua, và khi vua hỏi các cậu về bất cứ điều gì cần đến sự khôn ngoan và tài trí, thì đều thấy các cậu trổi vượt gấp mười lần hơn tất cả các thầy phù thuỷ và pháp sư trong toàn vương quốc”. Các cậu đã trở thành những người xuất sắc hàng đầu. Là hoa trái của quyền năng Chúa. Đó là Chúa thưởng công cho tấm lòng quảng đại của các cậu. Vì yêu mến Chúa mà chấp nhận thiệt thòi (năm lẻ).
Đó là những hình ảnh báo trước Nước Trời. Chịu thiệt thòi ở trần gian. Họ trở thành của lễ đầu mùa khiến Chúa hài lòng. Thánh Gio-an đã nhìn thấy những người được Chúa thưởng công, đi theo hầu cận Con Chiên. Và hát những bài ca mới chỉ có thiên thần mới hiểu được. “Không ai có thể học được bài ca này, ngoài một trăm bốn mươi bốn ngàn người đã được chuộc về từ mặt đất. Họ đã được chuộc về từ giữa loài người, làm của đầu mùa dâng lên Thiên Chúa và Con Chiên. Chẳng ai thấy miệng họ nói dối: không ai chê trách họ được” (năm chẵn). Đó là bài ca của tấm lòng. Chỉ có tấm lòng mới học được. Chỉ có tấm lòng mới hiểu được.
Tôi có tấm lòng không khi sống đạo? Có tấm lòng không đối với Chúa? Và đối với anh em?
Suy niệm 3: Cho Ði Tất Cả
Vào thời xưa cũng như thời này, có những giai tầng bị loại ra bên lề. Họ có thể là những người mắc bệnh không có thuốc chữa, họ có thể là những người nghèo không một xu dính túi. Trong số những người nghèo bị gạt ra bên lề xã hội, có các bà góa; nhất là trong hệ thống tổ chức xã hội xưa kia tại Israel, phụ nữ khi kết hôn phải cắt đứt giây liên hệ với gia đình ruột thịt, và từ lúc chồng chết cũng là lúc mọi tiếp tế vật chất từ nhà chồng bị đình chỉ.
Bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay có thể nói là một người nghèo tuyệt đối. Qua nghĩa cử đơn sơ của bà, Chúa Giêsu đã khám phá ra sự quảng đại cao cả và lòng cậy trông phó thác tuyệt đối của bà vào Thiên Chúa. Mặc dù chỉ đóng góp hai đồng tiền nhỏ có giá trị 1/4 xu, nhưng bà đã cho đi tất cả những gì mình có để nuôi sống; vì thế bà xứng đáng được Chúa Giêsu khen ngợi. Tuy nhiên sự kiện và lời khen ngợi này có thể nêu lên hai vấn nạn: thứ nhất, liệu chúng ta phải nghèo về vật chất để được thuộc về Nước Thiên Chúa chăng? thứ hai, liệu người nghèo phải cho đi tất cả, kể cả những nhu yếu phẩm nếu họ muốn được Chúa khen ngợi chăng?
Ðã hẳn trong Tin Mừng, người nghèo được chúc phúc, trong khi theo cách diễn tả của Chúa Giêsu người giầu có khó vào được Nước Trời. Thật ra, người nghèo được gọi là có phúc, không phải vì họ nghèo, cũng như Tin Mừng không bao giờ đề cao sự nghèo khổ, vì sự nghèo túng tự nó không làm cho ai nên thánh, có chăng chỉ những người nghèo biết chấp nhận thân phận của mình để chờ đợi từ người khác và cậy trông phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Nói khác đi, cái nghèo vật chất không phải tự nó biến sự túng thiếu thành nguồn ơn phúc, nhưng chính tinh thần nghèo khó, chính ý thức sự lệ thuộc của mình vào người khác, nhất là đặt trọn niềm tín thác vào Thiên Chúa, mới làm cho những người nghèo trở nên giầu tình người và đậm đà tình Chúa.
Bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay chỉ có hai đồng tiền nhỏ để sinh sống, nhưng bà đã dâng cúng trọn vẹn cho Chúa. Có lẽ bà có được hai đồng tiền đó là do lòng hảo tâm của người khác và bà muốn biểu lộ sự tín thác của mình vào sự quan phòng của Thiên Chúa qua việc cho đi tất cả. Vấn đề đáng suy nghĩ là liệu hành động của bà góa nghèo này có giá trị trong xã hội ngày nay, nếu không phải là tạo thêm sự nghi kỵ trong xã hội? Sống trong một xã hội cạnh tranh như hiện nay, còn có một mô thức của xã hội nơi bài giảng trên núi của Chúa Giêsu được đem ra thực hành, để không ai còn bị tiền tài, danh vọng, quyền lực chi phối, nhưng mọi người đều thực hành tình liên đới, yêu thương, chia sẻ. Với lời khen ngợi hành động của bà góa nghèo, Chúa Giêsu một lần nữa muốn đảo lộn trật tự xã hội, vì Ngài không những kêu gọi sự thay đổi của từng cá nhân, nhưng còn muốn đẩy mạnh tiến trình đổi mới xã hội, nơi mọi người đóng góp tất cả những gì mình có để xây dựng và phục vụ xã hội.
Ðể sống trọn Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi: Tôi có tinh thần nghèo khó để ý thức sự lệ thuộc của tôi vào người khác và vào Thiên Chúa không? Tôi đã và đang làm gì để góp phần xây dựng một xã hội mới. Ước gì mẫu gương của bà góa nghèo phản ánh tình yêu Thiên Chúa, Ðấng trao ban tất cả cho con người, giúp chúng ta mạnh tiến trên con đường xây dựng Nước Chúa giữa lòng xã hội.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Người Ðàn Bà Góa
Có rất nhiều câu chuyện về những người nghèo chia sẻ một cách hào phóng cho những người túng thiếu. Câu chuyện cảm động nhất hẳn phải là câu chuyện của bà góa thành Xêrepta thời tiên tri Êlia:
Toàn vùng phải trải qua một cơn hạn hán lâu dài, trong nhà người đàn bà chỉ còn lại một ít bột và một vài giọt dầu cuối cùng đủ để bà chuẩn bị một bữa ăn cuối cùng cho bà và đứa con trai nhỏ. Vừa gặp người đàn bà đang đi kiếm củi, tiên tri Êlia đã nói hầu như ra lệnh cho bà rằng: "Hãy chuẩn bị thức ăn cho ông!" Không một chút do dự hay chống chế, người đàn bà khốn khổ đã làm theo lời vị tiên tri và phép lạ từ lòng quảng đại của bà đã diễn ra: một vò dầu trong nhà bà không bao giờ cạn cho đến khi cơn hạn hán chấm dứt.
Người đàn bà góa mà Chúa Giêsu đã nhìn thấy cử chỉ quảng đại trong Tin Mừng hôm nay cũng chia sẻ một cách hào phóng chẳng khác nào người đàn bà góa thời tiên tri Êlia. Cùng với những người giầu có đang lũ lượt đi tới trước hòm tiền để dâng cúng, người đàn bà góa chỉ bỏ đúng có hai đồng xu nhỏ. Nhưng trong khi những người giàu có làm cử chỉ dâng cúng để cho người khác thấy, và có lẽ sự sang trọng cũng dễ gây sự chú ý của những người chung quanh, thì Chúa Giêsu, Ðấng thấu suốt mọi sự bí ẩn trong lòng người đã chỉ chú ý đến người đàn bà góa. Dưới ánh mắt của Ngài, người đàn bà góa nghèo này là người dâng cúng nhiều nhất. Bà cho nhiều nhất bởi vì trong khi những người giàu có chỉ cho của dư thừa, người đàn bà góa cho chính những gì mình có để độ nhật, và cho tất cả những gì bà có chứ không phải chi một vài xu lẻ.
Mẹ Têrêsa Calcuta cũng có lần kể lại một câu chuyện tương tự: "Một năm nọ, có một người phụ nữ nghèo đến gõ cửa xin giúp đỡ. Người đàn bà cho biết rằng bà có tám đứa con nhỏ và từ nhiều ngày qua, trong nhà không còn một hột gạo. Mẹ Têrêsa lấy gạo trao cho người đàn bà. Số gạo vừa đủ cho bà và các con bà. Nhưng trước sự ngạc nhiên của mẹ, người đàn bà xin một bao trống, chia số gạo làm hai rồi giải thích rằng bên cạnh nhà bà còn có một gia đình Hồi giáo cũng không còn gạo ăn từ nhiều ngày qua".
Người đàn bà nghèo muốn chia sẻ một nửa những gì mình đang có cho người láng giềng của mình. Chúng ta có thể học được nhiều bài học từ những câu chuyện trên đây. Những người đàn bà góa và người nghèo nói chung, có thể dạy chúng ta ý thức về sự lệ thuộc vào Chúa. Họ nói với chúng ta rằng sống qua ngày quả là một nỗi khốn khổ, nhưng có Chúa luôn lo liệu mọi nhu cầu cần thiết cho chúng ta. Họ nhắc nhở chúng ta rằng mỗi ngày qua đi không biết bao nhiêu ân phúc Chúa ban, nhưng không được chúng ta nhìn nhận và đáp trả với lòng biết ơn, và cho chúng ta thấy rằng của cải vật chất có thể là những xiềng xích đang trói buộc chúng ta, và càng có ít, con người càng có cơ may để sống hạnh phúc hơn. Nhưng quan trọng hơn cả, bài học mà chúng ta có thể học được nơi những người đàn bà góa trên đây, cũng như từ những người nghèo nói chung là càng trao ban, chúng ta càng hạnh phúc. Trao ban những gì mình có đã đành, nhưng trao ban chính bản thân mới đích thực là trao ban. Một quà tặng không bao hàm người tặng thì chỉ là một món quà chơi trội. Cho là cho chính bản thân. Ðó chính là cách cho của Chúa Giêsu. Ngài trao ban thịt máu Ngài cho chúng ta. Ðược Ngài nuôi dưỡng bằng thịt máu Ngài, ước gì các tín hữu Kitô chúng ta cũng trở thành những kẻ trao ban một cách quảng đại.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Ai quảng đại thật?
Ngước mắt lên nhìn, Đức Giêsu thấy những người giầu sang đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền. Người cũng thấy một bà góa túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. Người liền nói: “Thầy bảo thật anh em: Bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn ai hết.” (Lc. 21, 1-3)
Quảng đại thật:
Những vẻ bề ngoài thường làm ta lầm. Những người quảng đại nhất không hẳn là những người bỏ nhiều tiền nhất vào thùng dâng cúng. Lòng quảng đại thật cũng không đo của mà người ta cho. Muốn đánh giá đúng lòng quảng đại, phải xem họ cho cái họ thiếu thốn. Người ta cho nhiều tiền không phải là rất quảng đại. Người ta có thể cho ít mà vẫn quảng đại.
Sự thật đó hoàn toàn đơn giản. Đức Giêsu không phải nhắc nhở điều đó một cách vô ích đâu, vì chúng ta dễ lầm tưởng đánh giá theo bề ngoài. Đức Giêsu đánh giá tận đáy lòng người ta, nên Người nói: “Bà góa nghèo này bỏ vào nhiều hơn ai hết”. Người ta ngày nay có thể nói như thế về nhiều người nghèo, mặc dầu bề ngoài nghèo, nhưng lại tỏ ra quảng đại hơn nhiều người giàu.
Dư thừa của cải:
Có phải vô tình Tin mừng cho thấy bà góa này có lòng quảng đại hơn các ông bà giàu kia không? Có lẽ không.
Quả thật, người ta có thể thấy nhiều người giàu có lòng quảng đại thật, và cũng có nhiều người nghèo hà tiện ghê gớm. Nhưng thật ra có lẽ có nhiều người nghèo quảng đại hơn nhiều người giàu. Đó là điều Đức Giêsu muốn nói. Họ cho nhiều khi họ túng thiếu hơn là lúc họ dư thừa. Lòng quảng đại đáng giá thật khi cho lúc lâm cảnh túng quẫn.
Chúng ta biết rất nhiều người nghèo dâng cúng lúc họ đang túng thiếu. Còn nhiều người giàu dâng cúng được nhiều hơn không, nếu xét theo lòng quảng đại? Có bao nhiêu người giàu dâng cúng nhiều hơn cái dư thừa của họ?
Có lẽ phải nói rằng giàu sang quá làm ngăn trở để nên quảng đại thật.
R.C
Suy niệm 6: Cần có cái nhìn của Chúa
Xem lại CN 32 TNB và thứ Bảy tuần 9 TN
Sau khi Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ bằng việc đánh đuổi con buôn để trả lại cho đền thờ sự thánh thiêng đúng nghĩa. Hôm nay, Đức Giêsu tiến xa hơn khi nói đến tâm hồn của con người trong việc thực hành niềm tin tôn giáo. Vì thế, Ngài đã thay đổi quan niệm xưa khi cho rằng: một người được Thiên Chúa chúc phúc là một người đông con nhiều cháu, đoàn xúc vật và của cải nhiều... Đây là não trạng mang đậm truyền thống của tiền nhân nơi những người Dothái đương thời với Đức Giêsu. Lối suy nghĩ này còn bén rễ sâu vào khái niệm dâng cúng tiền bạc trong đền thờ. Họ cho rằng: ai dâng cúng nhiều thì dấu chỉ người đó được nhiều ơn..., bởi thế, ở gần hòm tiền, luôn có người phụ trách xướng lên lớn tiếng số lượng mỗi người dâng để cho mọi người biết.
Thấy thế, Đức Giêsu đã xóa bỏ quan niệm đó và mặc cho nó một ý nghĩa sâu xa được khởi đi từ tấm lòng chân thành chứ không phải là những vật phẩm bề ngoài.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay hiện lên hình ảnh của một bà góa nghèo. Bà được Đức Giêsu đề cao vì đã dâng tất cả những gì mình có. Thật vậy, bà không có nhiều tiền, nhưng bà có tấm lòng bao la. 2 đồng tiền nhỏ mà bà bỏ vào thùng không đáng gì so với những đồng tiền của giới nhà giàu dâng cúng. Tuy nhiên đây là cả gia sản hiện tại của bà. Thấy được nghĩa cử cao quý đó, Đức Giêsu đã lên tiếng khen ngợi: “Ta bảo thật anh em, bà goá nghèo khó này đã bỏ vào hòm nhiều hơn mọi người”.
Khi đề cao bà góa nghèo như vậy, Đức Giêsu đã không chú ý đến số lượng, mà Ngài đã đề cao phẩm chất. Sự ca ngợi của Đức Giêsu dành cho bà làm toát lên cái nhìn của Thiên Chúa. Ngài nhìn từ bên trong tâm hồn, trong khi con người thì lại nhìn từ những cái bên ngoài.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy: tấm lòng của con người mang tính quyết định chứ không phải những gì bên ngoài. Giá trị tâm linh thì quan trọng hơn lễ vật. Nếu dâng cúng nhiều mà không có tấm lòng yêu thương, bác ái thì chỉ là một cách phô trương mà thôi.
Mặt khác, với cái nhìn của Đức Giêsu cho chúng ta thấy: đừng vì bề ngoài mà xét đoán anh chị em mình tốt hay xấu. Cũng đừng vì tiền mà thay đổi thái độ trắng đen và phân biệt đối xử, hoặc đừng vì những thứ bề ngoài mà an tâm rằng ta được phúc hơn người!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương bà góa nghèo để đến với Chúa bằng tấm lòng chân thành trong sự yêu mến. Xin Chúa cũng ban cho chúng con có cái nhìn như Chúa để được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Thái độ khi ta làm việc lành
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Đối với Chúa, điều quan trọng không phải là số lượng, nhưng là thái độ khi ta làm việc lành. Những việc làm của ta, dù nhỏ bé, nếu được thực hiện với lòng yêu mến và tín thác nơi Chúa, Ngài sẽ vui nhận.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con vẫn hiểu rằng: khi cho đi là lúc lãnh nhận, khi quên mình là lúc gặp lại mình. Nhưng những lúc con cho đi, dù với danh nghĩa vì Chúa hay vì đồng loại, con vẫn thường cảm thấy nơi con có gì như đang mất mát, vì thế con tiếc nuối, sợ bị thiệt thòi.
Có lẽ vì thế, khi nhìn lại những tháng ngày đã qua, con thấy hầu như con đã chỉ cho người khác cái mà con dư thừa. Con cho đi bằng tay phải nhưng đã tìm cách lấy lại bằng tay trái. Con muốn quên mình, nhưng lại so đo tính toán hơn thiệt. Xét cho cùng, tình yêu của con còn quá nhỏ, lòng bác ái còn quá vụ lợi, sự dâng hiến còn quá miễn cưỡng, sự phục vụ còn quá nhỏ bé. Con chưa thật quảng đại và phó thác để dám quên mình cách triệt để, ngõ hầu tôn vinh danh Chúa và thăng tiến anh em. Do đó, đời sống đạo của con chưa thật sự đổi mới, xứ đạo và môi trường sống của con chưa phát triển tốt đẹp.
Lạy Chúa, chính Chúa nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hiến mạng sống vì người mình yêu”. Xin ban cho con tình yêu nồng nàn và lòng tín thác cao độ như bà góa dâng hết mọi đồng xu cho Chúa, để con dám vắt kiệt thời giờ, tiền của, sức lực và cả mạng sống của con vì Chúa, vì Giáo Hội, và vì anh chị em sống quanh con. Amen.
Ghi nhớ: “Người thấy một bà góa nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ”.
Suy niệm 8: Dâng cho Chúa tất cả tấm lòng
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một ngày nọ, Mẹ Têrêsa đi xuống phố, một người ăn mày chạy đến gặp mẹ và nói: “Thưa mẹ Têrêsa, mọi người đều cho mẹ tiền để giúp người bệnh tật”. Anh nói thêm với giọng hơi buồn: “Con cũng muốn cho mẹ tiền. Nhưng suốt cả ngày hôm nay, con chỉ có được ba mươi xu. Dù ít, nhưng con muốn cho mẹ số tiền ấy”. Mẹ Têrêsa suy nghĩ một lúc: “Nếu mình lấy ba mươi xu thì tối nay anh ta sẽ phải nhịn ăn; còn nếu không lấy, sẽ làm tình cảm anh ta tổn thương”. Vì thế, Mẹ đưa tay ra để lấy số tiền ấy và cám ơn anh.
Mẹ chia sẻ: “Tôi chưa bao giờ thấy được niềm vui như thế trên khuôn mặt của bất cứ ai như trên khuôn mặt của người ăn mày đó khi anh ta nghĩ rằng mình cũng đã cho tiền mẹ Têrêsa làm bác ái… Số tiền thật bé nhỏ đó trở nên gấp ngàn lần bởi vì nó đã được cho với bao yêu thương của anh”. Mẹ nhấn mạnh: “Thiên Chúa nhìn thấy không phải là sự to tát của công việc, mà vào tình yêu thương qua đó công việc được hoàn thành”.
Suy niệm
Bà góa bỏ vào đền thờ phần nhỏ bé, nhưng Chúa Giêsu khen ngợi và nhấn mạnh rằng bà đã dâng lên cho Thiên Chúa tất cả tấm lòng và nêu tấm gương cho các môn đệ… Bà góa đã dâng cúng với tất cả tấm lòng thành, bằng sự mến yêu nồng nàn đối với Chúa. Bà dâng cúng hai đồng tiền kẽm, tuy nhỏ nhất nhưng đó là tất cả những gì thiết yếu cho cuộc sống của bà, như thế bà đã dâng cả mạng sống. Nhìn cung cách dâng cúng của bà, Đức Giêsu đã khen: “Bà góa nghèo khó này đã bỏ vào hòm tiền nhiều hơn mọi người”.
Thiên Chúa là Đấng “dò thấu lòng dạ” (Xh 2,23; x. Tv 7,10; 17,10), Ngài không quan tâm bởi những dáng vẻ bề ngoài, như lời ngôn sứ khẳng định: “Người ta nhìn bề ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn tận đáy lòng mỗi người (1Sm 16,7). Sau này, thánh Phaolô cũng khẳng định: “Thiên Chúa, đấng thấu suốt tâm can” (Rm 8,27). Cho nên, dù chỉ dâng hai xu kẽm, nhưng xuất phát từ tâm can yêu mến của bà góa. Qua tấm gương bà góa, Chúa Giêsu dạy chúng ta sống với Chúa cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đại với anh em trọn tấm lòng. Cho dù một tấm lòng rất nát về vật chất nhưng giàu về sự chân thành và yêu thương như hai xu kẽm của bà góa dâng tiền cho Chúa.
Xin cho chúng con một tấm lòng thành mang trọn tình yêu với Chúa với anh em, biết ý thức về sự mỏng giòn, nhỏ bé, thiếu thốn của mình mà cậy dựa vào ân sủng của Thiên Chúa, và học biết trân trọng thiện chí chân thành của anh em. Dâng cho Chúa với cả tấm lòng, khiêm tốn, ẩn kín vì như Chúa Giêsu khẳng định: “Cha các con, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho các con”(Mt 6,8).
Ý lực sống
“Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà” (Mẹ Têrêsa Calcutta).
Suy niệm 9: Hai đồng tiền nhỏ của bà góa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu cùng với các môn đệ sau khi giảng dạy cho dân chúng trong Đền thờ, liền sau đó Thầy trò đi ra ngoài quan sát dân chúng dâng cúng để giúp cho Đền thờ; chính tại đây, Đức Giêsu đã giáo huấn các môn đệ về ý nghĩa và giá trị của việc dâng cúng. Khung cảnh của Tin Mừng hôm nay nằm rất gần kho bạc vốn được dùng để chứa các đồ dâng cúng (x.2V 12,10). Các thùng tiền dâng cúng được thiết kế theo hình dáng cái loa kèn và được đặt rất nhiều trong sân dành cho phụ nữ. Chính vì đặt trong địa thế như vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho giới quan sát là chính các luật sĩ và tay chân lân cận. Đức Giêsu cùng các môn đệ dễ dàng quan sát những thùng tiền cũng như những người bỏ tiền dâng cúng vào đó.
2. Trong dòng người tấp nập bỏ tiền dâng cúng Đền thờ, Đức Giêsu đặc biệt chú y đến người đàn bà góa nghèo nàn. Bà đã âm thầm bỏ vào 2 đồng tiền kẽm với giá trị chỉ bằng ¼ đồng bạc Rôma. Bởi dân Do thái thời Đức Giêsu đang bị đế quốc Rôma thống trị. Chính vì thế, người dân phải sử dụng đồng tiền Rôma trên đó có mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma. Đây là loại tiền bạc, một đồng cân nặng 3,8g và tương đương với 0,875 quan vàng. Thấy được như thế, chúng ta mới thấy rằng đồng tiền mà bà góa trong Tin Mừng dâng cúng vốn giá trị chẳng đáng là gì, nhưng đối với Đức Giêsu, Ngài đã khen :”Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”(Lc 21,3).
3. Thiên Chúa ít để ý đến giá trị của dâng bề ngoài cho bằng tấm lòng nhiệt thành quảng đại của người dâng :”Thèm lòng chứ ai thèm thịt” hoặc “Cách cho quí hơn của cho”. Ý tưởng này giúp chúng ta ý thức hơn về những công việc phục vụ tha nhân, cũng như những công việc từ thiện bác ái hay dâng cúng của cải vật chất.
Tấm lòng của bà góa dành cho Chúa quả là lớn lao vì nó đụng chạm đến sự sống của bà, bà đã dâng cho Chúa không phải của dư thừa nhưng là tất cả cái mà bà có để sống. Tinh thần bác ái đích thực là biết chia sẻ cho tha nhân một phần sự sống, tức là những sự hy sinh của mình. Cũng vậy, chúng ta tỏ lòng mến Chúa bằng cách tự nguyện dâng hiến cho Chúa điều mà chúng ta có quyền được hưởng : sự nghèo khó, lòng thanh khiết và đức vâng lời.
4. Ai cũng công nhận “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” nhưng người ta thường “xem mặt mà bắt hình dong”, dựa vào hình thức bên ngoài để đánh giá phẩm chất bên trong : Tuyển nhân viên mấy ai chọn tiêu chuẩn “xấu người đẹp nết” thay vì “ưu tiên có ngoại hình” ? Lắm khi người ta đánh giá sản phẩm chỉ dựa vào mẫu mã kiểu dáng bao bì bắt mắt. Người ta cũng dễ có xu hướng thẩm định giá trị của một người dựa vào của cải, địa vị, bằng cấp v.v... Đức Giêsu thì khác, Ngài thẩm định giá trị hành vi từ đáy lòng con người. Ngài cho biết : Dù chỉ bỏ hai đồng tiền vào thùng dâng cúng, bà góa nghèo đã bỏ nhiều hơn ai hết vì đó là tất cả gia tài của bà ! Bà đã dâng tất cả những gì bà có và dâng với cả tấm lòng (5 phút Lời Chúa).
5. Một Linh mục nọ có thói quen hằng ngày viết trong nhật ký số quà nhận được và số quà cho đi. Thỉnh thoảng ngồi kiểm lại, nếu thấy phần nhận nhiều hơn phần cho, vị Linh mục ấy điều chỉnh lại điều phần cho nhiều hơn phần nhận.
Qua câu chuyện bà góa dâng hai đồng tiền kẽm vào Đến thờ, Đức Giêsu muốn dạy chúng bài học về việc cho đi cách quảng đại, cho đi mà không tính toán hon thiệt, cho đi bằng cả tấm lòng. Khi chúng ta quảng đại cho đi cả những gì cần thiết để duy trì mạng sống mình, là lúc chúng ta đang cho đi chính bản thân. Xét cho cùng, lòng quảng đại chính là trao tặng chính bản thân mình, dâng hiến mạng sống mình cho tha nhân.
6. Truyện: Bà Oseola Mc Carthy.
Báo New York Times đưa tin bà Oseola Mc Carthy: Biểu tượng “Lòng từ thiện” của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 03/10/1999 ở tuổi 91.
Vào một ngày của tháng 7/95, ông hiệu trưởng trường đại học phía bắc Missisipi đã vô cùng ngạc nhiên, khi có một phụ nữ xa lạ tên là Oseola Mc Carthy xin được tặng 150.000 đôla làm quĩ học bổng cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn sửng sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.
Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carthy tặng tất cả tiền bạc mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói: ”Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla”.
Suy niệm 10: Biết cho đi
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trong Tin Mừng Luca, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn luôn khuyên người ta phải biết cho đi, để đổi lại gia tài trên trời.
Thánh Phanxicô còn cho chúng ta thấy một ý nghĩa cao cả hơn của việc biết cho đi khi Ngài viết: “Chính lúc hiến thân là khi lãnh nhận, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.
Ở bên Palestine có hai biển hồ. Biển hồ thứ nhất gọi là biển Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào có thể sống ở bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Chẳng ai muốn sống gần đó. Còn biển hồ thứ hai là Galilê. Đây là biển hồ thu hút nhiều du khách nhất. Nước ở biển hồ này lúc nào cũng trong xanh mát rượi, con người có thể uống được và cá cũng sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều. Vườn cây xung quanh rất tốt tươi nhờ nguồn nước này...
Nhưng điều kỳ lạ là cả hai biển hồ này đều nhận được nguồn nước từ những khe suối ở trong núi chảy ra, rồi qua sông Giodan chảy vào biển Chết. Biển Chết đón nhận và giữ lại riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát, nồng độ muối rất cao không sinh vật nào có thể chịu được. Biển hồ Galilê cũng đón nhận những nguồn nước như thế rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú và con người.
Một trong những định nghĩa về cuộc sống mà ai cũng đồng tình: một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa lan tỏa. Một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lời. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban thì tâm hồn mới tràn ngập vui sướng.
Thật bất hạnh cho ai cả cuộc đời chỉ biết giữ riêng cho mình. “Sự sống”, trong họ rồi cũng sẽ chết dần, chết mòn không làm nảy sinh được cái gì tốt giống như nước trong lòng biển Chết.
2. Thông thường mà nói thì khi có dư người ta mới cho: cho người nghèo và cho Giáo Hội cũng vậy. Sự cho đi như thế theo Chúa Giêsu chưa phải là sự cho đi tốt đẹp. Sự cho đi tốt đẹp theo Chúa là sự cho đi chính cái mình đang cần thiết. Sự cho đi như thế mới quý vì là sự cho đi chính bản thân mình.
Năm 1830, khi thánh Gioan Vianey sửa lại nhà thờ xứ Ars, có một bà già đem đến cho Ngài một đồng bạc, để dâng cúng vào việc tu bổ thánh đường. Thấy bà già quá nghèo nàn và vất vả, thánh Gioan không dám nhận. Ngài sợ bà phải hy sinh nhiều quá nên mới nói với bà:
- Cha cám ơn lòng tốt của bà, và chắc Chúa cũng đã nhìn thấy lòng rộng rãi và sốt sắng của bà rồi. Bà quá vất vả và thiếu thốn, nên xin bà hãy giữ lấy đồng bạc này để tiêu xài cho những thứ cần thiết.
Lúc ấy bà già đã thưa lại cách khiêm tốn rằng:
- Thưa cha, nếu Chúa cho con có của, con sẽ dâng cúng cho Chúa nhiều hơn, nhưng vì con nghèo, nên con chỉ có thế này để dâng cúng cho Chúa. Nhưng đây là tất cả tấm lòng yêu mến của con. Vậy xin cha hãy nhận lấy đồng bạc của con. Với đồng bạc này, nếu cha không mua được cái gì quí giá, thì xin cha hãy mua một viên gạch lát trong nhà thờ, để mỗi khi Chúa Giêsu ngự trong nhà tạm nhìn ra trông thấy viên gạch ấy, Chúa sẽ nhớ tới con.
Bà già trên đây chẳng khác gì bà goá ở trong bài Tin Mừng hôm nay. Bà đã biết sử dụng tiền của vào việc đạo đức, vào việc tu sửa nhà thờ của Chúa, mặc dầu tiền bạc của bà ít ỏi, chỉ có một đồng bạc. Đồng bạc này lại là cả gia nghiệp của bà. Vậy mà bà đã bỏ ra để giúp đỡ nhà thờ. Và như chúng ta thấy Chúa đánh giá thật cao việc dâng cúng của bà.
3. Việc làm của bà goá là một định nghĩa và cũng là một tấm gương về lòng quảng đại: quảng đại chính là cho đi mà không tính toán. Xét cho cùng, quảng đại chính là trao ban chính bản thân mình. (“Mỗi ngày một tin vui”)
Vào một mùa đông, tại một đất nước Châu Âu, một em bé 13 tuổi nghe nhà trường thông báo đợt lạc quyên tiền bạc và phẩm vật làm quà Giáng sinh cho các trẻ em nghèo trong vùng. Em đã dành dụm mọi chi tiêu vốn ít ỏi của em trong suốt 3 tháng. Khi đã được 15 đồng, em quyết định đón xe đò từ làng lên phố. Bất ngờ, một trận bão tuyết ập đến dữ dội làm tắc nghẽn mọi hoạt động giao thông. Không chịu bỏ cuộc, em xuống xe, co ro lội bộ băng qua cánh đồng ngập tuyết trắng xóa và gió lốc lạnh buốt.
Ông hiệu trưởng nghe báo có người muốn gặp ông đang đợi ở phòng khách. Ông thực sự kinh ngạc sửng sốt khi nhận món tiến chia sẻ từ tay em bé, bởi vì trước mặt ông chính là một trong số những em bé nghèo mà ông và nhà trường đã đưa vào danh sách tặng quà giáng sinh năm đó. (Góp nhặt)
Suy niệm 11: Bà góa nghèo cho đi chính bản thân mình
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Gương dâng cúng của một bà goá:
- “Bà góa”: Xã hội do thái không có những quy định bảo vệ quyền lợi các góa phụ cho nên họ rất bị thiệt thòi: tài sản của chồng thì họ không được hưởng (con cái họ hưởng), gia đình cha mẹ ruột của họ cũng không còn lo lắng cho họ bao nhiêu. Vì thế, trong Thánh Kinh, bà góa, trẻ mồ côi và ngoại kiều là những hạng người xấu số nhất và nghèo nhất (x. Đnl 24,17-22).
- Bà goá nghèo này đã dâng vào hòm tiền Đền thờ “Hai đồng tiền kẽm”: nguyên ngữ là đồng tiền Kodrantes tức là loại tiền nhỏ nhất trong các loại tiền thời đó.
- Tuy số tiền là ít nhưng được Chúa Giêsu đánh giá cao hơn số tiền của những người khác, “vì mọi người kia lấy của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa, còn bà này túng thiếu mà đã dâng tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”
B.... nẩy mầm.
1. Cho đi không phải của dư thừa mà là chính cái mình đang cần thiết. Sự cho đi như thế rất quý vì cũng là sự cho đi chính bản thân mình.
Thông thường khi có dư người ta mới cho: cho người nghèo và cho Giáo Hội.
2. Một Linh mục nọ có thói quen tốt là ghi kỹ trong nhật ký hằng ngày về những số quà nhận và số quà cho. Thỉnh thoảng kiểm lại, nếu thấy phần nhận nhiều hơn phần cho thì Linh mục ấy điều chỉnh lại để phần cho nhiều hơn.
Con người thường thích nhận hơn cho; có cho thì cũng để nhận lại.
3. Trong Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu luôn luôn khuyên người ta rằng: cách sử dụng tiền của tốt nhất là cho đi, để đổi lại gia tài trên trời.
4. Cử chỉ của bà goá là một định nghĩa của lòng quảng đại: quảng đại chính là cho mà không tính toán. Xét cho cùng, quảng đại chính là trao ban chính bản thân mình. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. Vào một mùa đông, tại một đất nước Châu Âu, một em bé 13 tuổi nghe nhà trường thông báo đợt lạc quyên tiền bạc và phẩm vật làm quà Giáng sinh cho các trẻ em nghèo trong vùng. Em đã dành dụm mọi chi tiêu vốn ít ỏi của em trong suốt 3 tháng. Khi đã được 15 đồng, em quyết định đón xe đò từ làng lên phố. Bất ngờ, một trận bão tuyết ập đến dữ dội làm tắt nghẽn mọi hoạt động giao thông. Không chịu bỏ cuộc, em xuống xe, co ro lội bộ băng qua cánh đồng đầy ngập tuyết trắng xóa và gió lốc lạnh buốt.
Ông hiệu trưởng nghe báo có người muốn đang đợi ở phòng khách. Ông thực sự kinh ngạc sửng sốt khi nhận món tiến chia sẻ từ tay em bé, bởi vì trước mặt ông chính là một trong số những em bé nghèo mà ông và nhà trường đã đưa vào danh sách tặng quà giáng sinh năm đó. (Góp nhặt)
21/11 Vua Giêsu
- Viết bởi Ga 18, 33b-37
Vua Giêsu.
CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN năm B. – ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ.
"Quan nói đúng: Tôi là Vua".
Lời Chúa: Ga 18, 33b-37
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
Chúa Giêsu đáp: "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?"
Philatô đáp: "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?"
Chúa Giêsu đáp: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này".
Philatô hỏi lại: "Vậy ông là Vua ư?"
Chúa Giêsu đáp: "Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm LỄ CHÚA KITÔ VUA – B
Lời Chúa: Đn. 7, 13-14; Kh. 1, 5-8; Ga. 18, 33b-37
1. Đứng về phía sự thật -- ‘Manna’
Từ sau vụ nổ big-bang, vũ trụ được thành hình,
và càng ngày càng bành trướng.
Trái đất chỉ là một hạt bụi nhỏ xíu trong vũ trụ,
nhưng nó lại lớn lao vô cùng,
vì là hành tinh được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc.
Con Thiên Chúa đã ghi dấu chân mình trên mặt đất,
đã sống trọn phận người bên cạnh nhân loại anh em.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ,
chúng ta được mời gọi ngắm nhìn trái đất tròn.
Đây là vũ trụ của hơn 6 tỉ người đang sống.
Vũ trụ này sẽ đi về đâu? Lịch sử này sẽ đi về đâu?
Tất cả sẽ được hội tụ và biến đổi nơi Đức Kitô,
để rồi Ngài sẽ dâng lại tất cả cho Thiên Chúa Cha.
Tuy Đức Giêsu không nói rõ mình là vua,
cũng không chịu để dân chúng tôn vương mình,
nhưng Ngài lại nói nhiều về Nước của Ngài.
Nước đó, Philatô chẳng có gì phải sợ.
Một nước không có quân đội để chiến đấu,
không có lãnh thổ trên bản đồ, không thuộc về thế gian.
Nhưng Nước đó lại có những công dân thực sự.
Bất cứ ai đứng về phiá sự thật thì thuộc về Nước này.
Họ bắt gặp sự thật nơi lời chứng của Đức Giêsu.
Họ đã nghe tiếng Ngài và theo Ngài tiến bước.
Có những người chưa biết Đức Giêsu, nhưng đã ở rất gần Ngài.
Nước của Vua Giêsu là Nước của sự thật.
Sống theo sự thật chẳng bao giờ dễ dàng.
Kẻ trung thực thường thua thiệt, lại bị coi là dại dột.
Sự dối trá nhiều khi được coi là khôn ngoan.
Người ta dối trá một cách trơn tru, không chút áy náy.
“Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Chúng ta không nghe được tiếng Chúa,
chỉ vì ta sợ sự thật, sợ nói thật, sợ sống thật,
như Philatô muốn giữ ghế ngồi hơn là cứu người vô tội.
Lương tâm bị băng hoại, lòng tin vào nhau bị đổ vỡ.
Cuối cùng chính chúng ta là nạn nhân của mình,
của một thế giới xây dựng trên những đồ giả.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ,
ta đặt mình trước một thế giới bề bộn bao vấn đề:
ô nhiễm môi trường, tăng dân số, aids, thất nghiệp,
ma tuý, mafia, tham nhũng, nghèo đói, lạc hậu, bất công...
Thế lực của sự dữ và tội ác có vẻ thắng thế,
ích kỷ, hận thù, bạo lực tung hoành khắp nơi.
Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Chúa mau đến,
mà còn đưa tinh thần Đức Kitô vào mọi cơ cấu trần gian:
chính trị, xã hội, nghệ thuật, giáo dục, thể thao, giải trí...
Càng làm cho sự thật và tình yêu thắng thế
thì Nước Chúa càng lớn dần lên
cho đến lúc thành tựu viên mãn vào ngày tận thế.
Xin Đức Giêsu làm vua cả vũ trụ loài người
nhờ làm vua tiểu vũ trụ là cõi lòng từng Kitô hữu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các bạn trẻ thường có một thần tượng để tôn sùng. Có người mê vua bóng đá Pelé hay vua nhạc rock Michael Jackson... Bạn có ai là thần tượng không? Bạn đã sống như thần tượng đó ra sao?
Vũ trụ vật chất là quà tặng của Thiên Chúa cho con người, bạn nghĩ gì về nạn ô nhiễm ngày càng gia tăng trên trái đất do chặt cây, đốt rừng, nước thải, bụi khói, tiếng ồn...?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
2. Vua Sự Thật – TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúa Giêsu thật là ngược đời. Khi làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều, dân chúng hân hoan phấn khởi, muốn tôn Ngài làm vua thì Ngài không muốn. Ngài phản đối bằng cách trốn đi. Cũng như hôm vinh quang vào thành Giêrusalem, dân chúng hân hoan, cởi áo lót đường, cầm cành lá phất phơ đón chào. Hôm ấy mà Chúa xưng vương thì quá thuận lợi. Thế mà Chúa phản đối bằng cách cỡi con lừa bé nhỏ, yếu ớt. Còn hôm nay, phận tội đồ đứng trước mặt quan án, bị dân chúng khinh khi chối bỏ, thân tàn ma dại, chẳng còn hình tượng con người nữa, thì Ngài lại hiên ngang xưng mình là vua. Chẳng phải vô tình, nhưng là cố ý. Hôm nay, đối diện với cái chết, đối diện với quyền lực và đối diện với sự hận thù, Chúa Giêsu muốn xưng vương trong hoàn cảnh này để làm chứng cho sự thật.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là có một vương quốc khác, vượt xa mọi vương quốc trần gian. Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu: Ngoài cuộc đời này còn có một cuộc đời khác. Ngoài thế giới này còn có một thế giới khác. Đó là vương quốc của Chúa. Đó là Nước Trời. Vương quốc ấy là vương quốc sự sống vì sẽ không còn bóng dáng cái chết. Khi còn ngày rộng tháng dài, Đức Giêsu không xưng vương. Nay cận kề cái chết Ngài mới xưng vương để dạy cho ta biết vương quốc của Ngài “không thuộc thế gian này”. Sự sống trần gian này chẳng đáng giá gì so với sự sống trong Nước Chúa. Vì thế muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là quyền năng của Chúa là trên hết. Khi một mình yếu đuối nhưng vẫn hiên ngang đối diện với Philatô tượng trưng cho quyền lực của đế quốc La mã bao trùm thiên hạ, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi quyền năng như Ngài đã trả lời Philatô: “Ông có quyền không bởi tự mình mà có, nhưng từ thành công ban cho”. Thánh nữ Xêxilia cũng nói: “Quyền uy ở đời giống như quả bong bóng. Nó không triển nở ở tự nó. Nó không tự mình tròn trịa được. Phải nhờ đến không khí. Nhưng chỉ một mũi kim cũng làm nó xẹp xuống”. Quyền uy trần gian mau tàn. Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới bền vững. Chính vì thế Đức Giêsu không xưng vương khi tràn đầy uy tín, khi được dân chúng ngưỡng mộ. Vì nếu Ngài xưng vương khi được dân chúng tung hô vạn tuế, khi làm những việc kỳ lạ lớn lao, khi tràn đầy uy tín, thì vương quyền ấy chẳng hơn gì vương quyền của vua chúa trần gian khác. Nhưng hôm nay, khi mất hết mọi uy tín, không còn ai tung hô ủng hộ, Đức Giêsu xưng vương để cho ta thấy Ngài siêu thoát mọi quyền lực và vinh quang theo thói thế gian. Ngài chỉ trông cậy vào quyền năng của Thiên Chúa. Vì thế những ai muốn vào vương quyền của Ngài phải biết coi thường mọi vinh quang quyền thế ở trần gian.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là tình thương chiến thắng thù hận. Khi một mình đối diện với những ghen ghét thù hận của đám đông, Đức Giêsu muốn dạy ta biết Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa trên trần gian. Vì yêu thương mà Ngài đã xuống trần gian. Ngài đã yêu thương cho đến chết vì yêu. Đó là tình yêu lớn lao nhất như lời Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu”. Dù những thù hận vây bọc, nhưng Đức Giêsu vẫn yêu thương. Hôm nay đơn thân độc mã trong vòng vây của hận thù, Đức Giêsu vẫn xưng vương để cho ta thấy: tình yêu thương đã chiến thắng. Hận thù đem lại chết chóc, chỉ có tình yêu thương mới cứu được thế giới.
Đức Giêsu đã chiến thắng. Ngài là Đấng đầu tiên từ trong kẻ chết sống lại. Với chiến thắng, Đức Giêsu mở cửa vương quốc của Ngài. Đó là vương quốc của Sự Thật. Chỉ những ai thuộc về sự thật mới được vào. Và những ai thuộc về sự thật phải biết chiến thắng sự giả trá. Sự giả trá đó là sự chết, đó là những vinh hoa phú quý trần gian và đó là lòng thù hận ghen ghét. Hiểu biết sự thật, đập tan sự dối trá, ta mới tiến vào Nước Sự Sống theo bước Đức Giêsu Kitô. Với chiến thắng Ngài thật sự là Đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống muôn đời.
Lạy Đức Giêsu là Vua của chúng con, xin cho chúng con được làm dân của Chúa, được thuộc về Nước Chúa, nước đầy tràn Sự Thật và Sự Sống, nước công chính và tình yêu muôn đời.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Chúa Giêsu cho biết gì về vương quốc của Chúa?
2- Chúa Giêsu cho biết gì về quyền năng của Chúa?
3- Chúa Giêsu cho biết gì về cuộc chiến giữa tình thương và thù hận?
4- Muốn sống trong vương quốc của Chúa, ta phải làm gì?
3. Làm Vua là làm chứng -- GM. Giuse Vũ Duy Thống – ‘VỚI CẢ TÂM TÌNH’
Không còn nữa hình ảnh của những vì vua oai phong lẫm liệt như trong chế độ quân chủ ngày nào, nhưng thay vào đó là một lớp những nhà vua mới lên ngôi thần tượng, không ngai vàng mà nhiều khi cũng đầy uy lực: vua dầu hoả, vua xe hơi, vua trò chơi, vua bóng đá. Mỗi thời có những kiểu đăng quang riêng, và mỗi lĩnh vực cũng có những nhà vua riêng của mình.
Thuật ngữ “Vua” xem ra đã có nhiều biến thể. Phổ cập hơn nhưng cũng mong manh hơn, thời sự hơn và cũng đời thường hơn. Trong bối cảnh đó, lễ Chúa Kitô Vua lại trở về, vừa khép lại năm Phụng Vụ cũ vừa mở sang năm Phụng Vụ mới. Phải chăng đây cũng chỉ là một lễ đăng quang tương tự như các nhà vua trần thế? Hay là một lễ của niềm tin yêu hy vọng vào Chúa Kitô – Đấng làm Vua bằng cách làm chứng, hiến thân đến cùng trong tình yêu để mở ra triều đại cứu độ?
1) Chúa Kitô không làm Vua như những vua trần thế.
Có lẽ khi tự ý cho treo tấm bảng “Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái” lên đầu Thập giá, Philatô đã không nghĩ đến điều gì khác ngoài lợi thế chính trị cho ông, bất kể phải chơi khăm những người Do thái, nhưng có một điều ông không bao giờ nghĩ tới, mà điều đó lại thật quan trọng trong lợi thế đức tin của người Công giáo, đó là tấm bảng kia trong ý định của Thiên Chúa lại là một tuyên xưng không thể xoá nhoà.
Chúa Kitô không chỉ làm Vua một thời, mà là Vua vĩnh cửu. Dù trong đời sống công khai, có lần Người đã nặng lời quở trách Phêrô khi ông này chỉ muốn thấy nơi Người hình ảnh của một Đấng Messia dễ dãi đồng nghĩa với vị vua phàm trần, và Người cũng đã từng trốn chạy khỏi đám đông cuồng nhiệt khi họ muốn bắt Người làm vua sau phép lạ hoá bánh nhiều. Nhưng, trước mặt Philatô, Người đã công khai tuyên bố mình là Vua, để rồi trên Thập giá, chính lúc tưởng rằng chết đi, Người cho thấy mình còn sống mãi, và chính khi tưởng rằng bị huỷ diệt, Người cho thấy mình vẫn muôn thuở tồn tại. Thời gian là đại lượng dành cho những vị vua trần thế, còn Người vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.
Chúa Kitô không chỉ làm Vua dân Do thái mà là Vua phổ quát. Với cái chết của Người trên Thập giá trong tư cách Đấng Cứu Thế, một dân mới đã được khai sinh không phải giới hạn trong một vùng lãnh thổ địa lý mà đã mang lấy tầm vóc của cả thế giới vũ hoàn. Trong máu của Người, giao ước mới phổ quát đã hình thành vượt trên giao ước cũ vốn giới hạn nơi dân Do thái. Và trong công cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, những gì cũ phải qua đi để nhường chỗ cho một triều đại mới vượt trên tất cả.
Người là Vua phổ quát vì Nước Người chẳng thuộc trật tự trần thế. Người là Vua vũ trụ bởi chính Người là Thủ Lãnh sẽ quy tụ mọi sự về một mối: “Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta”.
Và nếu theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất và thứ hai với hình ảnh của “Đấng đến giữa mây trời” thì vương quyền của Chúa Kitô đã khác xa một trời một vực so với các vương quyền trần thế khác. Vương quyền trần thế dẫu có lan tràn khắp mặt đất cũng vẫn có thể đo lường được, còn vương quyền của Chúa Kitô vì vượt trên tất cả nên cũng vô phương dò thấu. Người là Vua muôn Vua.
Không phải vô tình mà phiên toà lễ Vượt Qua đã đặt Chúa Giêsu đối diện với Philatô, mà chính trong tư thế đối diện cộng với những đối chất qua lại đã làm nổi bật lên cái nghịch lý mầu nhiệm của Giờ Tử Nạn. Vào chính lúc quyền bính thế gian xem ra thắng thế còn quyền bính trời cao dường như hạ bệ, thì Chúa Giêsu đã tuyên bố mình là Vua. Lời tuyên bố như thế lẽ ra đẩy Philatô vào thế đối thủ, nhưng – Chúa Giêsu đã nhanh chóng khẳng định Nước Người chẳng thuộc trật tự chính trị thế gian, nên Tổng trấn Rôma dầu quyền uy là thế vẫn chỉ là chiếc bóng mờ nhạt đứng đó trong vai trò của một đối chứng hơn là một đối thủ để làm nổi bật lên dung mạo của Chúa Giêsu – Vua muôn Vua. Hơn nữa, bởi Philatô là một người ngoại nên tầm vóc của lời tuyên bố kia đã vượt xa giới hạn đạo giáo để trở thành phổ quát cho cả muôn người. Và hệ luỵ là quyền bính Philatô bởi thuộc về thế gian nên cũng qua đi với thế gian, còn vương quyền Chúa Kitô vẫn tồn tại mãi bởi thuộc về trật tự tâm linh để không gì có thể đặt giới hạn cho Người. Người là Vua vĩnh cửu.
2) Chúa Kitô làm Vua bằng cách làm chứng.
Dẫu vào Giờ Tử Nạn, Chúa Giêsu mới tuyên bố mình là Vua để khởi đầu cho một triều đại mới trong “sự thật và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công chính, yêu thương và an bình” (Kinh Tiền Tụng), nhưng thực ra đó chỉ là đỉnh cao của một đời lựa chọn và là điểm đến của một quá trình thực thi sứ mệnh làm chứng cho sự thật: “Tôi sinh ra và đến thế gian là để làm chứng cho sự thật”. Nếu sự thật là chính Thiên Chúa, là thực tại thần linh, là “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình” như một kiểu nói của thánh Gioan hoặc là ơn cứu độ, thì trót cuộc đời của Chúa Giêsu là một công cuộc liên lỉ minh chứng.
Qua Nhập Thể, Người đã mang lấy bộ mặt đớn hèn của cả nhân loại. Qua Tử Nạn, Người đã nhận vào mình thân phận loài người tội lỗi. Qua Thập giá, Người đã sẵn sàng chấp nhận cái chết để cứu độ toàn thế giới. Và đỉnh cao Phục Sinh tôn vinh chỉ có được khi Người đã trải qua nẻo đường Thương Khó đến cùng trong số phận của “Người Tôi Tớ đau khổ”.
Rõ ràng là nơi Đức Kitô, làm Vua có nghĩa là làm chứng và làm chứng không chỉ bằng lời mà bằng chính cuộc đời của Người, trải dài từ Nhập Thể qua Tử Nạn cho đến Phục Sinh. Nói cách khác, làm chứng cho sự thật cũng là sống và chết cho sự thật ấy, và làm chứng cho hiện thân của Thiên Chúa ở giữa thế gian cũng chính là sống và chết để cho hiện thân tình thương được triển nở cách hiện thực sống động và viên thành.
Thảo nào vương quốc và vương quyền của Chúa Kitô thật khác lạ. Chẳng cần đến lực lượng để mà thiết lập, chẳng cần đến vũ lực để mà cai trị, cũng chẳng cần đến quân sự để mà bảo tồn. Như vậy, điều mà mọi vị vua trần thế mong ước là trải dài vương quốc trong không gian và thời gian, thì chỉ duy Chúa Kitô mới thực hiện được, không phải bằng vũ trang mà là bằng một tình thương không mệt mỏi hiến thân làm chứng cho sự thật. Và đó là phương thế duy nhất để thiết lập một Vương quốc phổ quát và vĩnh cửu.
Trong ý hướng ấy, bài đọc thứ hai là một tiến trình mạch lạc không thể đảo ngược: chỉ khi nào sống trọn vai trò chứng nhân trung thành, Đức Kitô mới nên Trưởng Tử kẻ chết và làm Vua muôn vua.
3) Ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô.
Đức Kitô, Người làm Vua như thế đó. Nên mục đích của Thánh lễ hôm nay đối với mọi kẻ tin là: “tôn vương” Chúa Kitô trong cuộc sống của mình.
Thực ra thì cử hành lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối năm Phụng Vụ cũng nói lên niềm tin vào vương quyền Chúa Kitô như tinh thần của Thông điệp Quas Primas mà Đức Piô XI đã ban hành ngày 11 tháng 12 năm 1925, nhưng niềm tin vốn là một sự sống, nên chỉ khi thể hiện niềm tin bằng cuộc sống, tín hữu mới có thể an lòng là thần dân trong Vương quốc của Đức Kitô.
Không thể nhận mình là dân của Vua Kitô trong khi cuộc sống cá nhân và gia đình lại nghiêng theo lối sống thế tục làm vẩn đục vũ trụ quan Kitô giáo, dần dà xa rời Giáo Hội và có nguy cơ chối bỏ vương quyền Chúa Kitô mà không hay biết.
Cũng không thể nhận mình ở trong Vương Quốc của Đức Kitô mà hằng ngày một cách nào đó mình vẫn dửng dưng với sự hiện diện của Người trong cuộc sống con người như coi thường nhân phẩm, khinh rẻ người nghèo… càng không thể nhận mình sống trong Vương Quốc Đức Kitô khi mà cuộc sống chung riêng vẫn gây ra những oán thù, ghen ghét, gian tham, bất công, gương xấu, tội lỗi…
Càng không thể nhận mình thuộc về vương quyền của Đức Kitô khi mình chưa thực sự hiến thân một cách nào đó để thể hiện tinh thần chứng nhân. Đức Kitô đã lấy cái chết để làm chứng, Kitô hữu cũng phải đi vào lối sống hy sinh mới có thể trở thành chứng nhân cho đức tin được. Đừng quên, chứng nhân có nghĩa là tử đạo và sống đạo một cách anh hùng cũng chính là chứng nhân.
Nhưng ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô và ai thuộc về Đức Kitô thì hãy để Người sống và lớn lên trong cuộc đời mình và chấp nhận để Người biến đổi toàn diện. Đồng thời, chính mình cũng cần nỗ lực “làm chứng” sao cho niềm tin luôn luôn vươn lên, mà cũng không quên nhiệt tình tông đồ là làm cho những người lân cận nhận biết và tin yêu Chúa Kitô nữa. Như thế là tin vào vương quyền Chúa Kitô, là “tôn vương” Chúa Kitô trong cuộc sống của mình và cũng là cùng với mọi người tích cực hoạt động cho công cuộc truyền giáo nhằm “quy tụ mọi sự trong Chúa Kitô”.
Ở Bãi Sau Vũng Tàu, có một tượng Chúa Kitô Vua thật lớn dựng trên triền núi quay mặt ra biển, đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân quanh đó kể lại rằng những khi ra khơi, họ vẫn căn cứ vào đó để mà định hướng đi về, và nhiều lần sóng gió họ cũng hướng về đó để mà cầu nguyện xin ơn bình an.
Giữa trùng dương cuộc sống, Kitô hữu biết rằng Chúa Kitô vẫn luôn hiện diện như một chuẩn đích để định hướng tin yêu hy vọng. Xin Người cũng làm Vua quy tụ mọi sự trong Vương Quốc vĩnh cửu của Người.
Lạy Chúa Kitô, cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng con lặp lại niềm tin của mình vào Vương Quyền của Chúa. Xin chúc lành cho những ước nguyện chúng con dâng lên, để khi quyết tâm xa lìa tội lỗi và sống thánh thiện, chúng con được trở nên chứng nhân cho Chúa giữa lòng xã hội. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
4. Lễ Đức Kitô Vua -- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Ðức Giêsu là vua
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Hôm nay là Chúa nhựt cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa vạch cho chúng ta thấy lúc tận cùng của thời gian Ðức Giêsu sẽ làm vua ngự trị trên toàn thể mọi sự và mọi người. Nhưng từ nay cho đến lúc đó, Chúa vẫn làm vua trong lòng những người tin cậy và yêu mến Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta nhận thức vị trí và vai trò làm vua của Chúa trên cuộc đời chúng ta, đồng thời xin Chúa cũng giúp chúng ta phụng thờ Ngài cho xứng đáng.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta đã tôn thờ những "vua" khác không phải là Chúa, như tiền bạc, danh vọng, lạc thú v.v.
Chúng ta không sống theo sự dẫn dắt của Chúa.
Chúng ta không sống theo luật của Nước Chúa là luật yêu thương.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Ðn 7,13-14)
Trong sách Ðaniên, có một nhân vật rất đặc biệt được gọi là Con Người. Con Người đã phải chịu rất nhiều đau khổ. Tuy nhiên trong thị kiến của đoạn này, Ðaniên thấy Ðấng Lão Thành (tức Thiên Chúa) trao cho Con Người quyền thống trị tất cả loài người.
Nhân vật Con Người ấy chính là hình ảnh tiên báo Ðấng Messia. Và Ðức Giêsu chính là Ðấng Messia hoàn thành lời tiên tri ấy.
2. Ðáp ca (Tv 92)
Thánh vịnh này thuộc loại Thánh vịnh vương giả: ca tụng Thiên Chúa là vua. Ngai vàng Người kiên cố tự ngàn xưa và triều đại Người tồn tại mãi qua muôn thế hệ.
3. Tin Mừng (Ga 18,33b-37)
Ðoạn Tin Mừng này là một phần cuộc đối thoại giữa Ðức Giêsu và Philatô. Philatô hỏi "Vậy ông là vua ư?". Ðức Giêsu vừa đáp vừa giải thích:
"Quan nói đúng, tôi là vua."
"Nhưng nước tôi không thuộc thế gian này.": Nước của Chúa không giống nước trần gian.
"Tôi sinh ra và đến trong thế gian này chỉ để làm chứng về Chân lý": Chúa làm vua cũng không giống cách làm vua của trần gian. Ngài làm vua để phục vụ chân lý.
"Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi": Công dân của Nước Chúa là những kẻ yêu chuộng chân lý.
4. Bài đọc II (Kn 1,5-8)
Ðoạn sách Khải huyền này cũng mô tả Ðức Giêsu là Vua: (1) Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã lấy máu mình rửa sạch mọi tội lỗi của chúng ta; (2) Sau khi chịu nạn chịu chết, Ngài được tôn lên làm Vua mọi loài; (3) Ngài làm cho chúng ta trở thành vương quốc của Ngài.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Ðức Kitô là Vua
Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan: "Homo homini lupus": con người là lang sói của con người. Lang sói là một loài thu dữ, bản tính thích tấn công, cắn xé và giết chóc. Thế mà loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn tấn công nhau, cấu xé và giết chóc nhau.
Bởi vậy một sử gia đã đưa ra một kết luận tương tự với nhận định bi quan của triết gia trên: lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau. Từ khi có loài người trên mặt đất này cho đến nay, có mấy khi mà loài người được hưởng thái bình? Hầu hết thời gian lịch sử của loài người đều là chiến tranh. Gần đây nhất là 2 cuộc thế giới đại chiến, cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, làm cho 8.700.000 người chết; cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, giết chết thêm 40 triệu sinh mạng nữa. Và hiện nay cả loài người đều phập phòng lo sợ sẽ xảy ra một cuộc đại chiến lần thứ 3 với những vũ khí hạt nhân. Lần này không phải chỉ có 8.700.000 người chết, hay 40 triệu người chết mà là tất cả mọi người, trái đất sẽ nổ tung, toàn thể loài người sẽ bị tiêu diệt.
Tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết suy nghĩ, một loài cao hơn tất cả mọi loài vật khác mà lại cư xử với nhau một cách ngu xuẩn như vậy? Tôi nghĩ rằng trong con người chúng ta vừa có tính thú vừa có tính người: tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ biết tính toán. Khi buông trôi theo tính thú thì loài người chiến tranh với nhau; và nếu con người lại dùng cái trí khôn ngoan của tính người để phục vụ cho cái tính thú kia thì con người lại càng dã man hung dữ làm hại nhau còn hơn loài sang sói đích thực nữa. Ðiều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sự quá khứ, con người đã buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau.
Cho nên trong bối cảnh giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới làm chết hàng mấy chục triệu sinh mạng con người như thế, ngày 11.12.1925, Ðức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu nguyện cho loài người thôi đừng buông theo tính thú mà cấu xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà chinh chiến với nhau; nhưng mọi người hãy suy phục vương quyền Chúa Kitô và xây dựng vương quốc của Ngài, ÐGH coi đó là chấm dứt chiến tranh
Vương quyền của Chúa Kitô không xây dựng trên sức mạnh, không củng cố bằng bạo lực theo kiểu các nước trần gian. Bởi thế Chúa Giêsu đã nói: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị bắt như thế này". Nói cách khác, Chúa Giêsu không thích chiến tranh, không muốn có phe phái, phe này chiến đấu chống lại phe kia. Vương quyền của Chúa xây dựng trên sự thật, như Lời Chúa nói "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật". Nhưng sự thật là gì? Là cái làm cho con người đúng là con người chứ không phải là lang sói. Con người phải phát huy cái tính người của mình và đồng thời dần dần loại bỏ đi cái tính thú trong mình. Con người cố gắng sống cho ra người, mọi người biết tôn trọng nhân phẩm nhân quyền của nhau, mọi người nhắc nhở nhau và giúp nhau làm những việc tốt mà lương tâm chân chính của con người dạy phải làm. Người nào sống như vậy thì là người sống trong vương quốc của Chúa; người nào, cố gắng làm cho nhiều người khác cũng sống như vậy thì là đang xây dựng vương quốc của Chúa.
Nhưng xin được nói thêm cho rõ kẻo có người hiểu lầm: để làm công dân của Nước Chúa, điều cốt yếu là cố gắng theo Lời Chúa dạy để sống cho đúng là một con người, sống theo tính người chứ không phải theo tính thú. Do đó, xây dựng Nước Chúa, hay mở mang Nước Chúa cũng là cố gắng làm cho có thêm nhiều người biết theo Lời Chúa dạy mà sống theo tính người như vậy. Không nhất thiết người ta phải rửa tội, phải theo đạo, phải gia nhập Giáo Hội. Ðiều cốt yếu là người ta phải theo những giá trị mà Tin Mừng Chúa đã đề ra: sống theo lương tâm ngay chính, sống hoà thuận, thương yêu, làm những việc lành... Càng có thêm nhiều người sống như thế thì Nước Chúa càng mở rộng; và khi nào tất cả loài người biết sống như thế thì là lúc Nước Chúa đã trị đến. Và khi đó là thời thái bình, hạnh phúc.
Sở dĩ loài người cứ luôn làm hại làm khổ lẫn nhau là vì loài người còn sống theo cái tính thú trong mình. Vậy nếu muốn cho loài người hoà thuận với nhau để cùng nhau chung hưởng thái bình thì loài người phải sống theo cái tính người, gồm có những đức tính mà Chúa đã dạy chúng ta trong Tin Mừng. Con người sống đúng là con người. Ðức Giêsu gọi đó là Sự Thật; còn ngôn ngữ phụng vụ hôm nay thì gọi đó là vương quyền, vương quốc của Chúa Kitô. Nước Chúa. Ai sống theo những giá trị Tin Mừng để thành người hơn thì người đó thuộc về Nước Chúa; ai giúp cho người khác sống theo những giá trị Tin Mừng ấy thì người đó đang mở mang Nước Chúa; và khi mọi người, dù có đạo hay không có đạo, đều sống theo những giá trị Tin Mừng ấy, thì đó là thời Nước Chúa đã trị đến.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Tuần sau là Mùa Vọng, bắt đầu một năm Phụng vụ khác rồi. Giáo hội đặt lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng này, cũng có ý nghĩa: đó là ước nguyện sao cho cuối cùng tất cả mọi người đều ở trong Nước Chúa, một nước chỉ có hoà thuận yêu thương, một nước thái bình hạnh phúc.
Phần mỗi người chúng ta, hãy cố gắng xứng đáng là một công dân Nước Chúa, nghĩa là biết sống đúng tính người, sống theo lương tâm, sống hoà thuận, yêu thương, làm việc lành theo lời dạy của Tin Mừng. Chúng ta cũng hãy cố gắng mở mang Nước Chúa bằng cách làm cho thêm nhiều người khác cũng biết sống hoà thuận yêu thương sống theo lương tâm và làm việc lành như vậy.
* 2. Một tước hiệu không xứng hợp
Trong số những tước hiệu mà ta có thể gọi Ðức Giêsu, có lẽ tước hiệu "vua" là không xứng hợp nhất.
Khi nói tới "vua" là ta nghĩ đến ngai vàng, vương miện, hoàng cung, quyền lực, kẻ hầu người hạ, quan quân, vũ khí v.v. Thế mà khi nhìn vào Ðức Giêsu ta chẳng thấy có gì cả. Ngược lại, ta chỉ thấy Ngài lang thang trên những nẻo đường bụi bậm xứ Palestine, với một nhúm môn đệ ít ỏi, vây quanh là những người nghèo nàn, tật bệnh, tội lỗi và những người bị xã hội loại trừ.
Tuy nhiên, nhìn trên bình diện siêu nhiên thì Ðức Giêsu đúng thật là vua. Ngài là vua và là Vua trên tất cả các vua, bởi vì Ngài là Thiên Chúa, Ðấng thống trị vũ trụ.
Ngay cả trên bình diện tự nhiên, Ðức Giêsu cũng xứng đáng là Vua, Vua của mọi người: Ngài là con người tuyệt vời nhất với đầy đủ những đức tính hoàn hảo nhất. Ngài đến với ai là vận mạng của người đó được thay đổi thành tốt hơn. Có những người tưởng rằng mình là người lớn bằng cách khiến cho mọi người cảm thấy nhỏ trước mặt mình. Nhưng người lớn đích thực là người làm cho ai nấy đều cảm thấy lớn lên. Theo nghĩa này, Ðức Giêsu đích thực là Vua.
Chúng ta nên phân biệt quyền lực và ảnh hưởng. Philatô có quyền lực trên dân, nhưng kẻ có ảnh hưởng trên dân chính là Ðức Giêsu. Ảnh hưởng của Ngài đem lại cho con người ơn tha thứ, sự phục hồi nhân phẩm, bình an, yêu thương, hạnh phúc. (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. Ðức Giêsu Kitô, vua vũ trụ
Ðại Hội Trẻ Thế giới tại Pháp, hàng trăm ngàn thanh niên nô nức, tiến về thủ đô Paris dự đại hội để gặp gỡ, lắng nghe, và hiệp thông với Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đấng thay mặt Ðức Kitô ở trần gian.
Hệ thống xe điện ngầm Métro nổi tiếng của Paris dường như lúc nào cũng chật ních người. Hôm ấy, một cụ già ăn xin mù loà cũng cố chen lên một toa xe nhờ chú chó dẫn đường. Cụ vừa đi, vừa chìa cái đĩa nhôm để kêu gọi lòng hảo tâm của giới trẻ. Tuy ồn ào nhưng người ta cũng nghe được những tiếng kêu loảng xoảng của những đồng cắc rơi vào đĩa.
Ði ngược chiều với cụ, một cô bé xanh xao gầy còm cũng ngửa nón xin mọi người giúp đỡ. Khi hai người bất hạnh gặp nhau, cô bé tránh qua một bên cho người hành khất mù loà tiến bước. Và đầy kinh ngạc, các bạn trẻ không thể tin vào mắt mình, cô bé đã dốc hết số tiền kiếm được của mình đổ tất cả vào cái đĩa nhôm kia.
***
Mừng lễ Ðức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn ngắm thế giới: gồm 6 tỷ người đang sống trên đó. Với bao cảnh thất nghiệp, nghèo đói, lạc hậu, bất công. Với bao tệ nạn tham nhũng, ma tuý, mafia, sida. Với bao nhiêu thiên tai lũ lụt, động đất, cháy rừng... Thế lực của sự dữ và tội lỗi đang tung hoành khắp nơi.
Mừng lễ Ðức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên Vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng treo trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền uy vũ lực, nhưng dựa trên tình yêu thương. Một vị vua không có lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người.
Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của Sự thật: "Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi" (Ga.18,37). Sống theo sự thật chẳng dễ dàng chút nào, vì người thành thật thường thua thiệt, và kẻ dối trá lại được coi là khôn ngoan. Nhưng chỉ có những ai dám nói sự thật, chấp nhận sự thật, và sống theo sự thật mới được sống trong vương quốc của Người.
Vương quốc của Vua Giêsu còn là vương quốc của Tình yêu: "Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ hiến mạng sống cho nhiều người" (Mc.10,45). Yêu mình, yêu thân nhân bạn bè thì dễ dàng; yêu người xa lạ, yêu kẻ thù, mới thật là khó. Nhưng Chúa chính là vua Tình yêu, nên chỉ những ai sống yêu thương mới đích thực là thần dân của Người.
Cô bé ăn xin trên xe điện ngầm trong câu chuyện trên đây, đã biết cho đi tất cả những gì mình có, những gì cần thiết nhất để sống mà không tính toán so đo. Ðó mới thật là công dân của Nước Trời, là thần dân đích thực của Giêsu, Vua Tình yêu.
Ðối với người tín hữu, công dân tương lai của Nước Trời, thì yêu thương là lẽ sống của mọi cá nhân, gia đình, và cộng đoàn. Dường như sống yêu thương sẽ thấy đời đơn giản, cuộc sống nhẹ nhàng thênh thang. "Ðâu có tình yêu thương ở đấy có Ðức Chúa Trời". Có Chúa trong tâm hồn họ luôn cảm thấy bình an, hạnh phúc. Còn mọi thứ khác chỉ là kiểu cách, rườm rà, câu nệ, phô trương, là thanh la, não bạt, là tiếng muỗi vo ve.
***
Lạy Chúa, chúng con là đôi tay và đôi chân của Chúa, là miệng lưỡi và trái tim yêu thương của Người.
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa, xây dựng một thế giới yêu thương và chân thật, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến trong vinh quang là một ngày vui trọn vẹn, một ngày hội lớn cho toàn thể nhân loại. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Vua tình yêu
Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa...
Lê Quang Ðộ (Ricardo Conelo) từ nhỏ vẫn được ba má yêu quí, đến trường tỏ ra là người học trò xuất sắc. Nhưng bầu khí nơi trường học không được lành mạnh. Ở tuổi lên 10, em Ðộ đã ghiền xì ke. Em nhớ không có lý do gì để ghiền cả ngoài tính tò mò.
Khởi sự em hút cần sa. Kế đến em nhập băng nhóm đi cướp giật. Lên 12 tuổi Ðộ đã được cảnh sát thành phố Sao Paolo của nước Braxin biết đến. Bố em tưởng có thể nhốt em trong phòng nhưng vô ích vì Ðộ luôn tìm ra cách thoát khỏi bàn tay của bố, với những gì có thể ăn cắp được nơi gia đình để tiếp tục hút. Chưa thất vọng, bố em dời gia đình đi nơi khác, nhưng Ðộ vẫn tìm cách nhập vào một băng nhóm ghiền Cocaine và những thứ nặng hơn nữa. Bố em hết chịu nỗi đành phải đuổi em đi để cứu nguy cho gia đình.
Không chỗ tựa, Ðộ càng sa lầy. Nhưng nếu người thiếu niên đáng thương này có cơ may làm lại cuộc đời thì nhờ sức mạnh nào? Ai là người cuối cùng sẽ hoán cải được em để em nên người hữu ích cho xã hội?
Bị đuổi khỏi gia đình, Ðộ trở nên mồi ngon cho tổ chức buôn ma tuý bất hợp pháp trong vùng. Tối đầu tiên đến với nhóm, Ðộ được mời tới dự bữa ăn, trong đó kẻ tố cáo bạn với cảnh sát đã bị bắn ngay nơi bàn ăn khiến Ðộ cũng bị bắn lây vào cẳng. Chàng liền chạy vào bệnh viện. Tưởng thoát khỏi sự truy lùng nhưng cảnh sát đã xuất hiện ngay bên giường. Họ chuyển Ðộ sang nhà tù dành cho thanh thiếu niên.
Chính ở đây Ðộ may mắn nhận sự giúp đỡ của Trung Tâm Hy Vọng, là tổ chức thiện nguyện giúp phục hồi niềm hy vọng nơi người ghiền ma tuý. Sau này Ðộ mới biết đó là tổ chức do linh mục Hoàng Tâm Phú (Haus Stapelp) là thân hữu của phong trào Focolare điều khiển. Ðộ được an ủi nhiều do bầu khí đón tiếp nồng hậu của Trung Tâm ngay tối hôm đầu tiên đến đó.
Ðộ sống chung với mười hai người trẻ khác, mà Ðộ là người trẻ nhất, nhưng lại là kẻ cứng đầu nhất, luôn gây chuyện và chơi khăm người khác, luôn hành động thiếu đắn đo.
Hãy còn có Chúa đón nhận con
Ba tháng sau người ta phải đưa Ðộ tới trung tâm dành cho thanh thiếu niên ghiền nặng hơn. Chính ở đây Ðộ khám phá những điều cơ bản nhất về bản thân. Lần đầu tiên Ðộ thốt lên lời than thở với Ðấng em gọi là Thiên Chúa nhưng thực ra chưa bao giờ em được học biết Ngài. Cha mẹ em chỉ là người Công Giáo theo danh xưng mà thôi vì chưa bao giờ họ đi nhà thờ. Vậy em đã xin Chúa cho em cơ hội để bỏ hút xì ke, đổi mới cuộc đời và nên giống những người trẻ mà Ðộ biết là đã thành công theo lý tưởng sống vì người khác.
Quả thật, em đã được ban cho cơ hội giúp người khác là Lâm Ðình Ái (Claudio). Ðó là một bạn trẻ mắc bệnh AIDS ngủ cùng phòng với Ðộ. Bệnh nhân chỉ còn chờ chết, không thể tự mình lo lấy mình nữa. Ngày kia Ðộ đã xin Chúa để được thấy dung mạo Chúa nơi dung mạo bệnh nhân trẻ này. Thế rồi em được giao việc tắm rửa, cạo râu và giúp người bệnh này ăn uống. Ðiều em không thể cắt nghĩa được là em nghiệm thấy sự sống mới đang lớn lên nơi tâm hồn em nhờ mối tương quan sống động giữa em và Thiên Chúa.
Từ từ em khám phá ra nơi bản thân một tấm lòng quảng đại như thuộc bản năng đang được triển nở. Những người chung quanh em khó lòng tin được rằng điều gì đó thực sự đang xảy ra khiến em trở nên con người khác trước kia. Chẳng hạn, buổi tối hôm ấy em muốn đưa lời Tin Mừng ra thực thi, lời Tin Mừng mà Trung Tâm này sử dụng để chữa trị bệnh nhân, là "Hãy làm cho người khác điều bạn muốn người khác làm cho bạn." Vậy tối hôm ấy em sắp bàn tử tế, đặc biệt để mừng sinh nhật một bạn trẻ ở Trung Tâm. Khi bạn ấy xuất hiện, em Ðộ đã niềm nở đưa bạn ấy ra ngoài và tặng chiếc áo mà chính Ðộ rất thích mặc để diện.
Người nhận được quà cảm động đến rơi lệ khiến Ðộ cũng rưng rưng hai hàng lệ. Ðó là những con người chưa bao giờ nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, nay khám phá ra điều đó qua cử chỉ cho và nhận quà.
Em Ðộ nghiệm thấy ơn bình an như được gia tăng mỗi khi em làm điều này điều kia cho người khác. Tự nhiên em sốt sắng tham dự thánh lễ mỗi ngày.
Khi ấy em lên 17 và được giao việc chăm sóc bệnh nhân mới được Trung Tâm tiếp nhận để chữa trị. Trong nhóm này có một người đã 40 tuổi mà ai cũng nhìn nhận là người khó tính. Thế mà Ðộ đã thành công trong việc chinh phục người ấy.
Nhiều lần Ðộ trở về thăm gia đình nhưng chưa ai tỏ ra chú ý tới sự kiện là em không còn như trước nữa, kể cả mẹ em là người đã quá khổ vì em. Nhưng lần kia người anh của Ðộ đã trách mắng Ðộ cách thậm tệ trước mặt mọi người trong một cuộc họp mừng của gia đình. Người anh ấy rất ngỡ ngàng thấy Ðộ điềm tĩnh khác thường. Hơn nữa, còn xảy ra là khi Ðộ dọn đồ mà người anh ấy tỏ dấu ưa thích thứ thuốc thơm thoa xức sau khi cạo râu, em liền tặng lọ thuốc đó cho anh ấy!
Cứ như vậy Ðộ tìm lại được tình thương của gia đình để không còn phải trở về với Trung Tâm nữa. Nhưng quan trọng hơn vẫn là ơn Chúa thúc đẩy lòng em khiến em được thanh lọc khỏi những đam mê hầu sống sự sống hoàn toàn mới của Tin Mừng, để trở nên người hữu ích cho xã hội. Hiện em sống bình thường trong nghề giáo viên.
Cuộc hoán cải của Lê Quang Ðộ làm nổi bật tình thương của Thiên Chúa và sự ưu ái của Ngài dành cho những kẻ bé mọn. Thiên Chúa không bỏ rơi một ai, ngược lại, kẻ càng bị người đời khinh chê và gạt sang bên lề, thì Ngài càng ưu ái tìm kiếm và đưa vào Vương Quốc của Ngài.
Cựu Ước không thiếu lời khẳng định về tình yêu trước sau như một của Thiên Chúa đối với thọ tạo. Thánh vịnh gia nói: "Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy còn có Chúa đón nhận con" (Tv 26,10). Tác giả sách Huấn Ca còn nói "Thiên Chúa nhân từ và biết vật Người nắn lên. Người không huỷ, không bỏ, nhưng dung tha" (17,21). Còn sách Khôn Ngoan dạy: "Quả thật những gì có trong vạn vật, Người đều yêu mến. Vì Người nắn nên gì Người không ghét bỏ. Vả lại có gì tồn tại được nếu Người không muốn? Làm sao nó được bảo tồn điều Người đã không gọi (đến tên)? Với mọi vật, Người xử khoan dung vì chúng là của Người, lạy Chúa Tể hiếu sinh!" (12,24-26).
Thực ra Nước của Thiên Chúa là Nước mang lại cảnh hoà bình cho trăm họ, nhưng sự công chính của Thiên Chúa chủ yếu không khởi đi từ việc phân phối của cải để ai nấy nhận được những gì thuộc về mình. Tất cả những gì mà con người có cũng đều do Thiên Chúa ban nhưng không, dù là ngang qua cha mẹ hay do chính mình làm nên, cuối cùng cũng do chính Chúa là cội nguồn. Vậy sự công chính của Thiên Chúa khởi đi từ lòng ưu ái của Người dành cho dân nghèo. Cho nên Thánh Vịnh gia khi nói tới việc xét xử dân theo công lý thì nói ngay tới việc bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn và ra tay cứu độ kẻ nghèo khó (x. Tv 71,1-4)
Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đoàn chiên
Với Ðức Giêsu trong Tân Ước, sự ưu ái của Thiên Chúa dành cho người nghèo càng khiến ta phải ngỡ ngàng. Một trăm con chiên chỉ có một con bị lạc, chủ chiên cũng tập trung hết sự chăm chú của mình vào chiên lạc đó cho tới khi tìm được; người đó sẽ vác nó lên vai đưa về và mở tiệc mừng. Mười đồng bạc mà một đồng bị mất thì người mất cũng thắp đèn tìm cho kỳ được; người đó còn mời bạn bè xóm ngõ tới mừng vì đã tìm thấy. Phương chi người cha có hai con mà một đứa đi bụi đời này về, nào người cha đó lại không mở tiệc ăn mừng con trở về hay sao? Ðó là ba dụ ngôn trong Tin Mừng Luca (15,1-32) về lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với tội nhân, là người nghèo cần Chúa thương xót. Tin Mừng Gioan cũng cho thấy lòng thương xót đó của Thiên Chúa, nhưng nhấn mạnh về cái giá Người sẵn sàng trả là chính mạng sống của Con Thiên Chúa làm người. Sau khi chữa người bại liệt, Ðức Giêsu bị người Do Thái tìm cách giết (x. Ga 5,18). Khi người mù từ tuổi mới sinh được Ðức Giêsu chữa lành, người đó liền bị cha mẹ bỏ rơi và giới lãnh đạo Do Thái giáo trục xuất (x. Ga 9,21 và 34) Nhưng Ðức Giêsu đã không bỏ rơi anh, Người đã tìm đến với anh và tự mạc khải bản thân Người cho anh (cc 35-38). Người còn tuyên bố "Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,11). Ðó chính là ý nghĩa mà Tin Mừng Gioan hiểu về lời tuyên bố của thượng tế Caipha khi nói "thà một người chết thay cho dân còn hơn toàn dân bị tiêu diệt" (Ga 11,50).
Bài Tin Mừng hôm nay với lời tuyên bố của Ðức Giêsu là "Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi." (c.37). Tin Mừng Gioan cho biết phản ứng của ông Philatô là nêu câu hỏi "Sự thật là gì?" (c.38). Nhưng ông đã không muốn nghe Ðức Giêsu trả lời. Ông đã ra ngoài để gặp người Do Thái nên ông đã không đứng về phía sự thật là chính Ðức Giêsu Vua Tình Yêu, hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với cả loài người. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay Hội thánh suy tôn Ðức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, vua hiền hậu, vua mà uy quyền là tình yêu tự hiến. Chúng ta cùng dâng lên Người lời cầu nguyện khiêm tốn sau đây:
1. Ðức Giêsu là Vua đến trần gian để làm chứng về sự thật, là chính Thiên Chúa / xin cho Hội thánh luôn tuân lệnh Người để làm chứng cho mọi người rằng Thiên Chúa là tình yêu.
2. Ðức Giêsu là Vua nhưng Nước Người không thuộc về thế gian này / Xin cho các nhà lãnh đạo các nước trần gian hiểu rằng: Nước Chúa không cạnh tranh với nước của họ / nhưng đem lại sự thật, công lý và hòa bình cho các nước trần gian.
3. Ðức Giêsu là Vua tự hiến để cứu độ mọi người / Xin cho những người đang bị áp bức, bóc lột, tù đày / và những người nghèo đói, dốt nát / sớm được Người giải thoát để sống như công dân trong Nước Chúa.
4. Ðức Giêsu là Vua tình yêu, Người cai trị bằng phục vụ / Xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta là công dân Nước Chúa / biết noi gương phục vụ của Người.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, chúng con đã được Chúa mời gọi vào Nước Chúa, làm công dân của Nước Chúa, Xin giúp chúng con luôn hăng say hoạt động để Nước Chúa mở rộng đến mọi tâm hồn. Chúa là Ðấng hằng sống...
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Trong ngày lễ kính Ðức Giêsu là Vua hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến trong cõi lòng mọi người.
Trước rước lễ: Vua Giêsu đã thương mời chúng ta đến dự tiệc của Ngài. Chúng ta hãy đến dự tiệc thánh trong tâm tình biết ơn và cảm mến. "Ðây Chiên Thiên Chúa..."
VII. Giải tán
Trong khi chờ đợi ngày Ðức Giêsu hoàn toàn làm Vua toàn thể nhân loại, mỗi người chúng ta hãy cố gắng làm một công dân xứng đáng của Nước Chúa, đó là hằng ngày thực hiện giới luật yêu thương.
5. Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua -- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng kết thúc năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ. Điều đó nói lên rằng, Đức Giêsu Kitô, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Chúa Cha trao phó, được Chúa Cha trao quyền cai trị muôn loài trên trời dưới đất và sẽ kết thúc lịch sử loài người trong vinh quang để mọi sự sẽ được “restaurare in Christo”.
Trong suốt quãng đường đi truyền giáo, Đức Giêsu chỉ đi rao giảng Tin mừng về Nước Thiên Chúa và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền cho người ta. Chưa bao giờ Đức Giêsu dám nhận mình là vua, mặc dầu dân chúng hồ hởi tôn vinh Ngài. Nhưng về cuối đời, trong cuộc thương khó, Ngài đã công khai xác nhận vương quyền của Ngài trước mặt quan Philatô:”Ngài nói đúng, Tôi là vua”(Ga 18,37), nhưng để tránh ngộ nhận, Ngài nói thêm:”Nhưng nước tôi không thuộc thế gian này”(Ga 18,36).
Vậy nếu Đức Giêsu không có lấy một tấc đất để cắm dùi thì nước của Ngài ở đâu? Thần dân của Ngài là ai? Vương quyền này được thiết lập và thực hiện bằng những phương tiện nào?
Nhờ Bí tích rửa tội, chúng ta đã được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô, chúng ta có nhiệm vụ phải bảo vệ và làm cho vương quyền của Ngài được mở rộng để tất cả mọi nguời nhận biết Đức Giêsu là vua vũ trụ và hết lòng tin theo Ngài.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Đn 7,13-14
Vào thế kỷ thứ 2, đức tin bị đe dọa trầm trọng. Tác giả Sách Thánh muốn khích lệ các người đồng hương của mình vững chí trong cơn thử thách, thì trong một thị kiến, Đaniel nhìn ngắm bốn Con Thú tượng trưng từ biển nhô lên và cập vào đất liền: chúng biểu thị những vương quốc đã liên tiếp nhau đe dọa Israel. Chính lúc đó xuất hiện một khuôn mặt bí ẩn, được mô tả như một Con Người. Lúc đó Đấng Lão thành (tức Thiên Chúa) cũng hiện ra và trao cho Con Người quyền thống trị tất cả loài nguời và thiết lập một vương quyền vĩnh cửu và phổ quát.
Nhân vật Con Người ấy chính là hình ảnh tiên báo Đấng Messia. Và Đức Giêsu chính là Đấng Messia hoàn thành lời tiên tri ấy.
+ Bài đọc 2: Kh 1,5-8
Đoạn sách Khải huyền này cũng mô tả Đức Giêsu là Vua. Ngài đã yêu thương chúng ta, đã lấy máu mình mà rửa sạch mọi tội lỗi của chúng ta. Được phục sinh vì đã làm chứng cho đến chết chương trình của Chúa Cha, Đức Kitô đã trở nên “Thủ lãnh các vương đế trần gian”, nhận đuợc mọi quyền năng để dẫn dắt lịch sử nhân loại. Ngài làm cho chúng ta trở thành vương quốc của Ngài. Vương quốc này chưa hoàn tất. Nhưng vào thời sau hết, Đức Kitô sẽ hiển trị trong uy quyền, thắng vượt sự dữ và lầm lạc. Ngài là vua hoàn vũ và vĩnh cửu.
+ Bài Tin mừng: Ga 18,33b-37
Từ truớc tới nay, Đức Giêsu chỉ đi rao giảng Tin nừng về Nước Thiên Chúa, chữa lành mọi tật nguyền cho người ta. Không bao giờ Ngài tự xưng là vua. Ngài còn trốn tránh khi dân chúng tung hô Ngài là vua. Không bao giờ Ngài làm điều gì tỏ ra cạnh tranh với nhà cầm quyền.
Bị người Do thái tố cáo trước nhà cầm quyền là Ngài muốn làm vua. Philatô hỏi Đức Giêsu:”Vậy ông là vua ư”? Nhân dịp này, Đức Giêsu vừa đáp vừa giải thích cho ông Philatô:
- Ngài là vua thật, đúng như lời ông nói.
- Nước Ngài không thuộc thế gian này.
- Nước Ngài không giống như nước trần gian, không cạnh tranh với quyền lực nào.
- Nước Ngài là vương quốc sự thật: sự thật về Thiên Chúa, sự thật về con người, sự thật về mọi loài thọ tạo.
- Ngài đến làm chứng cho sự thật. Ai yêu sự thật thì thuộc về vương quốc Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Tin theo Đức Kitô Vua
I. LỊCH SỬ LỄ CHÚA KITÔ VUA
Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan: “Homo homini lupus”: con người là lang sói của con ngươi. Con người đã trở nên một thú dữ hay tấn công, cắn xé và giết chóc. Lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp. Hai cuộc thế chiến thứ nhất và thứ hai đã cướp đi sinh mạng của gần 50 triệu người, không kể những người bị thương, mất tài sản và thiệt hại vật chất khôn lường.
Cho nên ngày 12.11.1927, Đức Giáo hoàng Piô XI đã thiết lập lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu cho loài người thôi đừng buông theo thú tính mà cắn xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà gây chiến với nhau.
Đàng khác, thế giới đang dần rời bỏ Chúa, muốn khai trừ Chúa ra khỏi các tâm hồn, các gia đình, các xã hội, thế giới muốn xây xã hội trên nền tảng thuần túy nhân loại. Trong trường hợp đó, Đức Giáo hoàng muốn công bố những quyền bất khả xâm phạm của Chúa Kitô: Ngài là vua vũ trụ, vua các thiên thần và loài người.
Ngoài ra, Đức Giáo hoàng cũng nghĩ rằng cần phải phản ứng lại mấy sự lệch lạc trong quan niệm đạo đức tân thời phát sinh ngay trong Công giáo tiến hành ở một số nơi. Người ta đang có khuynh hướng nhìn nơi Đức Giêsu chỉ là người Anh Cả, người bạn và đối xử với Chúa bằng vai,…là bạn đường, bạn làm việc… Lễ Chúa Kitô Vua nhắc cho người ta rằng: Đức Giêsu còn là Đấng Toàn Năng, Đấng vô cùng vô biên, Vua các vua. Ngài còn là Đấng Hữu, ta có là nhờ Ngài, và bổn phận chính yếu nhất là Thờ Lạy Ngài (Trần văn Khả).
II. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA
1. Đức Giêsu khẳng định
Trước toà án, Philatô hỏi Đức Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do thái không”? Đức Giêsu có thể trả lời là có hay không, tùy theo ý của người hỏi.
Nếu người Do thái hỏi Ngài câu ấy, thì câu ấy có nghĩa là: ông có phải là Đấng Messia không? Nhưng khi Philatô hỏi thì câu ấy có ý nghĩa là: ông có phải là kẻ cầm đầu xúi giục dân Do thái phản loạn không? Theo não trạng của người Do thái, thì Đấng Messia, vị cứu tinh của dân tộc ắt phải là một thủ lãnh của đoàn quân nổi loạn chống lại Rôma để giải phóng dân Do thái khỏi ách thống trị của đế quốc. Nếu Ngài là người nổi loạn chống lại Rôma, thì dân Do thái sẽ theo Ngài. Nhưng họ thấy Ngài không phải là người nổi loạn như ý muốn của họ, mà lại có những ý tưởng lạ đời đi ngược lại tư tưởng truyền thống của chính tôn giáo của họ, nên họ muốn tiêu diệt Ngài. Để làm điều ấy, họ chụp mũ Ngài là người phản loạn, chống lại Rôma.
Nhưng Philatô nhận ra ngay là: nếu Đức Giêsu là kẻ đứng về phía người Do thái để chống lại Rôma, thì họ đã chẳng nộp Ngài cho ông. Vì thế, câu ông hỏi Đức Giêsu chỉ hỏi cho có lệ, chứ ông đã biết Ngài vô tội, và chỉ vì ghen ghét mà dân chúng nộp Ngài cho ông. Nhưng cũng chính nhờ ông ta hỏi điều ấy mà chúng ta được mạc khải một chân lý quan trọng: Đức Giêsu chính là Vua như Ngài đã xác nhận: “Tôi được sinh ra là để làm vua”.
Tuy Đức Giêsu xác định Ngài là vua, nhưng với tước hiệu là vua mà Philatô đang muốn điều tra, ít nhất có ba cách làm “Vua”:
a) Vua theo nghĩa chính trị, theo kiểu Rôma: người ta thống trị kẻ khác bằng nô lệ hoá họ: “Một ngàn năm đô hộ giặc Tầu, một trăm năm đô hộ giặc Tây”(Trịnh công Sơn).
b) Vua theo nghĩa Thiên sai, theo kiểu mong đợi của người Do thái: một người thuộc dòng dõi vua Đavít chính thức lên ngôi, và chiến thắng kẻ thù của Israel, của Chúa bằng cách đè bẹp chúng.
c) Sau hết, Vua theo cách của Đức Giêsu: một vương quyền huyền bí, không ép buộc ai, không đè bẹp ai như “bạn có muốn theo tôi không”, “Các bạn cũng muốn bỏ đi sao”? Một vương quyền mà lại để “Vua” bị giao nộp cho kẻ thù mà không chống cự, một tổng thống mà không có “vệ binh” để bảo vệ mình, không cận vệ để bao bọc trước đám dông (Noel Quesson).
2. Vương quốc của Đức Giêsu
a) Nước Ngài không thuộc thế gian này
Khi Philatô hỏi Đức Giêsu:”Ông có phải là vua dân Do thái không”? Đức Giêsu trả lời:”Tôi là vua, nhưng không phải của nguời Do thái như ông hiểu vì nước tôi không thuộc thế gian này”(x. Ga 18,33-36).
Nếu Đức Giêsu không phải là một vua của một nước trần gian, thì nước của Ngài ở đâu? Ngài là vua của ai?
Làm vua có nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều đình… mới là vua. Người ta vẫn nói:”vua dầu lửa”, “vua xe hơi”, “vua bóng đá”,v.v… mặc dầu những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai. Đức Giêsu không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu theo nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ “vua”.
Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh viết:”Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành”(Ga 1,3; x. 1,10). Ngài là vua của thế giới, nên đến ngày chung thẩm, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị vua (Mt 25,34).
Thế gian này có nhiều nước, mỗi nuớc có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa.
Truyện: Nước Ta chỉ có trên thế gian này.
Ông SELMA LAGERLOP có viết một câu truyện như sau: Ở thành La mã, trong một đền thờ dâng kính Đức Mẹ, gần đồi Capitole, có một tượng Chúa Hài đồng rất đẹp. Chung quanh vòng hào quang có khắc câu Phúc âm rằng:”NƯỚC TA CHẲNG CÓ TRÊN THẾ GIAN NÀY”(GA 18,38).
Một hôm, một phụ nữ thượng lưu, người Anh, tới viếng đền thờ, và tượng Chúa Hài đồng đã lọt mắt bà. Bà liền nài nẵng chuộc cho kỳ được. Khổ thay! Không ai đồng ý cả. Bà ta mới thuê thợ gọt một tượng khác, giống y như tượng Chúa Hài đồng bà đã trông thấy. Rồi một hôm dùng thủ đoạn, đem đổi lấy tượng thật.
Nhưng không biết là vô tình hay hữu ý, thay vì viết vào vòng hào quang rằng “Nước Ta chẳng có trên thế gian này”, thì bác thợ kia lại viết: “Nước Ta chỉ có trên trần gian này”.
Ít lâu sau, không hiểu tại sao, tượng thật Chúa Hài đồng bỏ lâu đài của chủ mới, trở về đền thờ cũ lại như xưa.
Mưu mô bại lộ ra. Người coi đền thờ liền đem tượng giả ném xuống chân đồi Capitole. Người phụ nữ kia, buồn tiếc, đi tìm, gặp được và trở về nước với pho tượng giả, còn nguyên vẹn với vòng hào quang ngạo mạn kia.
Từ ấy, tượng giả cứ chuyền tay nhau, người này sang người khác, hết thành nọ đến thành kia…
Một hôm tượng ấy tới thành Paris. Quân Cách mạng mới đem đi biểu diễn qua các đại lộ, và hiệu triệu dân chúng rằng:”Nước Ta chỉ có trên thế gian này. Hãy mau mau phân chia tài sản cho nhau, để mọi người được bình đẳng vui sống. Nước Ta chỉ có trên thế gian này. Chết là sự đổ vỡ vô phương cứu vãn”!(Vũ minh Nghiễm, Vươn, 1966, tr 54-55).
b) Vương quốc của sự thật.
Philatô hỏi Ngài: “Thế thì ông là vua sao”? Ngài đáp ngay:”Đúng thế, chính vì thế mà tôi đã sinh ra và đến trong thế gian này, đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”(Ga 18,37).
Vương quốc sự thật chính là nước của Ngài. Nước đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của vua César. Nước của César chỉ cai trị thể xác của loài người, còn vương quốc của Ngài chiếm hữu những tấm lòng. Thế lực của César là binh đội, khí giới, thành trì, nhưng sức mạnh của vương quốc của Chúa là những nguyên tắc, tình cảm và tư tưởng. Công dân của đế quốc César chỉ được hưởng an toàn bên ngoài và bảo đảm tài sản vật chất, nhưng phước hạnh trong Nước Chúa là an lạc và vui mừng trong Thánh Thần”(x. Rm 14,17). Dù là rộng lớn, đế quốc Rôma cũng bị giới hạn, nhưng vương quốc của Chúa vô biên và được quyền thiết lập tại mọi nơi. Cũng như hầu hết các nước thuộc về đất, đế quốc Rôma rồi sẽ chấm dứt, còn vương quốc Sự Thật sẽ tồn tại muôn đời.
c) Vương quốc tình yêu.
Vương quốc của vua Giêsu là vương quốc của Tình yêu: “Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người”(Mc 10,45). Đức Kitô là vua, nhưng Ngài khác với những vua khác ở chỗ: để cai trị, các vua khác dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi nguời, mọi con dân của Ngài như một mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của con chiên (x. Ga 10,11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh trên thập giá một cách khổ nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền cai trị.
d) Vương quốc của phục vụ.
Mừng lề Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền lực, nhưng dựa trên tình yêu thương, phục vụ. Một vị vua không có lãnh thổ, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người. Một vị vua chỉ biết dấn thân phục vụ.
Truyện: Hoàng tử Alexis.
Truyện cổ Nga thuật lại rằng: Vào thời Trung cổ, hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa khác sống trong cung điện nguy nga tráng lệ, trong khi dân chúng chung quanh phải sống trong những khu xóm nghèo nàn tồi tệ. Thế nhưng, Alexis rất hiểu nỗi cơ cực của thần dân và cảm thương họ. Ông bỏ ra mỗi ngày một ít thời giờ để thăm họ. Nhưng, dù cố gắng đến đâu, Alexis vẫn không thu phục được lòng yêu mến của thần dân. Vì thế, sau mỗi lần thăm họ trở về, ông thấy lòng mình buồn rười rượi.
Ngày kia, có một người lạ mặt đi vào khu xóm, ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là Bác sĩ, anh săn sóc những người già cả, bệnh tật. Đặc biệt Bác sĩ không lấy tiền thù lao, và còn phát thuốc miễn phí cho thần dân.
Bác sĩ ấy trở thành người của xóm nghèo, được mọi nguời yêu mến kính phục. Ngày ngày, anh dàn xếp những cuộc cãi vã, tranh giành, hoà giải những thù oán, và giúp đỡ họ sống đúng với phẩm giá con nguời.
Bác sĩ trẻ đó chính là Hoàng tử Alexis, người đã bỏ cung điện giầu sang đến sống với thần dân nghèo khổ và trở nên bạn bè của họ, để yêu thương săn sóc và phục vụ họ.
Đức Kitô thực sự là một vị Vua đầy uy quyền. Ngài đã trở nên giống chúng ta, để yêu thương phục vụ chúng ta. Ngài đã phán:”Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc cho nhiều người”.
3. Chỉ có Đức Giêsu là Vua.
a) Tuy trước toà án Philatô, Đức Giêsu đã chính thức tuyên bố và xác nhận Ngài là vua, nhưng thực sự danh hiệu Vua ấy đã được tiên báo như tiên tri Daniel đã nhìn thấy “như là Con Người đến trong đám mây trời… quyền năng vĩnh cửu”(Dn 7,13; và Gioan, cụ già trên đảo Patmos đã được thị kiến: “Đấng là Alpha và Omêga là nguyên thủy, là cùng tận, Đấng đang có, đã có và sẽ đến, Đấng là Thiên Chúa”(Kh 1,8). Ngài làm cho chúng thành một vương quốc tư tế, để phụng sự Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa và là Cha của Ngài”.
b) Nhìn ra vua sự thật, vua tình thương, anh trộm lành đã nói: “Ông này có làm điều gì sai trái đâu”? Và anh đã cầu nguyện với Ngài:”Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Anh chỉ dám xin nhớ, không dám xin cứu, không dám được xin vào nước Ngài vì anh thấy mình quá bất xứng, quá tội lỗi. Nhưng Đức Giêsu thấy lòng thông cảm khiêm nhường của anh, Ngài đã dịu dàng nói với anh:”Tôi nói thật hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên nước thiên đàng”(Lc 23,41-42).
c) Cái lý do khiến Đức Giêsu làm vua đã được thánh Phaolô nói rất xác đáng trong đoạn văn gủi cho tín hữu Côlôssê:”
“Ngài là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử giữa mọi thụ sinh. Vì trong Ngài vạn vật đã được tạo thành, chốn trời cao và nơi dương thế, vật hữu hình, vật vô hình, dù là thiên toà, hay thiên chủ, dù là thiên phủ hay uy linh: mọi sự đã được tạo thành nhờ Ngài và cho Ngài! Và Ngài có ưu thắng trên mọi sự, và mọi sự đếu tồn tại trong Ngài. Và Ngài là đầu của thân mình, tức là Hội thánh, Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử giữa các vong nhân, ngõ hầu trong muôn sự Ngài là đệ nhất vô song! Vì chưng Thiên Chúa đã quyết ý cho tất cả Viên mãn đậu tại trong Ngài và đã giảng hoà cả vạn vật nhờ Ngài và cho Ngài, đã ban lại bình an nhờ bửu huyết đổ nơi thập giá của Ngài cho mọi vật dù ở dưới đất hay trên trời”(Cl 1,15-20).
Truyện: Chỉ có Chúa là Vua
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua đạo đức tên là Cannut III. Ông là vua của một cường quốc, nên chung quanh ông hay có những quan nịnh thần ton hót. Một hôm trong một buổi triều yết, các nịnh thần tâu:”Thánh Thượng” là vua trên hết các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và biển cả. Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, liền mời tất cả đi ra bờ biển. Đứng trước đại dương, ông tuyên bố:”Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được trở tới”. Nhưng nước vẫn dâng lên, sóng vẫn trở tới làm ướt hết áo cẩm bào của vua cũng như triều thần. Nhà vua đi vào trong một thánh đuờng đến trước tượng chuộc tội, lấy chiếc vương miện đội trên đầu Chúa và nói:”Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa”.
(Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa năm B, tr 169).
III. HÃY TIN THEO ĐỨC KITÔ VUA.
1. Không đuợc bắt cá hai tay.
Câu tục ngữ này có ý nói: hai tay đều thò xuống bắt cá, không phải là hai tay định bắt một mà mỗi tay bắt một con cá. Câu này thường để chỉ người mưu một lúc cả hai việc, hy vọng rằng hễ hỏng việc này thì còn việc kia. Vì thế người ta nói:
Thôi đừng bắt cá hai tay,
Cá thì xuống bể, chim bay về ngàn.
(Ca dao)
Trong việc tin theo Chúa, Đức Giêsu đã khẳng định”Không ai có thể làm tôi hai chủ vì hoặc ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc gắn bó chủ này mà khinh chủ nọ. Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa tiền tài” (Mt 6,24; Lc 16,13). Chúng ta phải dứt khoát trên đường theo Chúa, không thể trung lập được, hoặc chọn Thiên Chúa, hoặc chọn thần Mammon, nếu không thì sẽ mất cả chì lẫn chài. Người xưa đã nói: “Trung thần bất sự nhị quân”: tôi trung không thể thờ hai vua, vì trong thực tế, câu ngạn ngữ này lúc nào cũng đúng: “Thiên vô nhị nhật, dân vô nhị vương”.
Truyện: Đức Hồng y Deschamps
Hồng y Deschamps, Tổng giám mục Mailines, khi còn là thanh niên, đã có ý muốn học hành thật giỏi để đạt được một địa vị cao trong hàng ngũ các quan chức triều đình. Một hôm, Deschamps đã được chứng kiến lễ đăng quang lên ngôi vua cách long trọng của nhà vua Bỉ. Từ cửa sổ của một nhà cao tầng, Deschamps chăm chú theo dõi diễn tiến của buổi lễ từ đầu đến cuối. Có thể nói đấy là một buổi lễ hội vừa tưng bừng náo nhiệt với cờ xí và biểu ngữ rợp trời, và tiếng trống dồn dập và tiếng kèn đồng thổi lên inh ỏi với hàng vạn người đến tham dự.
Trọng tâm buổi lễ là nghi thức tấn phong hoàng thái tử lên ngai vàng kế vị vua cha mới băng hà, với việc đội vương miện và nhận phủ việt. Buổi lễ kết thúc bằng một cuộc diễn hành của hoàng gia cùng với đoàn tùy tùng. Đoàn rước đi theo hàng đôi kéo dài cả cây số. Sau khi cuộc lễ kết thúc, quảng trường trở lại bầu khí bình lặng như mọi khi. Deschamps tự nhủ mình rằng:”Thế là một ông vua đã qua đi”. Rồi được ơn Chúa kêu gọi. Deschamps đã suy nghĩ nhiều ngày sau đó và cuối cùng đã quyết định như sau: “Tôi không muốn phục vụ cho ông vua sẽ qua đi. Tôi muốn phục vụ ông vua tồn tại mãi mãi là Vua Giêsu”.
Deschamps đã dứt khoát từ bỏ giấc mơ danh vọng chức quyền thế gian như trước đây anh mơ tưởng, để xin gia nhập vào một dòng khổ tu và khoác vào mình chiếc áo tu sĩ. Sau một thời gian tu học, thầy Deschamps đã đuợc thụ phong Linh mục, rồi sau đó được tấn phong Giám mục và cuối cùng được phong tước vị Hồng y Giáo chủ, trở thành niên tưởng của hàng Giám mục Bỉ.
2. Làm gì để xây dựng Nước Chúa.
Nhờ Bí tích rửa tội, chúng ta đã được trở thành công dân Nước Trời, chúng ta được ở trong một Vương quốc: “Vương quốc vĩnh cửu và vô biên, vương quốc tràn đầy sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an”(Kinh Tiền tụng lễ Chúa Kitô Vua). Đức Kitô cai trị trên những ai chấp nhận chân lý Ngài mạc khải cho: tình yêu của Chúa Cha. Ngài làm người để chiếu toả tình yêu ấy, để con người có thể nhận ra và tiếp nhận, và như thế những ai nhận biết vương quốc và vương quyền của Đức Kitô thì thần phục Ngài là Vua vũ trụ muôn đời.
Khi chịu phép Rửa tội, các tín hữu đã được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô. Chúa Kitô không còn đi đó đây trên mặt đất để dạy dỗ và chữa lành dân chúng như Ngài đã từng làm nữa, Ngài chỉ có thể làm được điều đó thông qua thân thể mầu nhiệm của Ngài. Chúng ta là tay, là chân, là miệng lưỡi, là trái tim của Ngài. Nói khác đi, vương quốc Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã thiết lập khi Ngài còn ở duơng trần này sẽ phải được chính chúng ta bổ túc bằng cuộc sống trần gian của chúng ta. Điều cốt yếu là chúng ta phải theo những giá trị mà Tin mừng Chúa đã đề ra: sống theo lương tâm ngay chính, sống hoà thuận, thương yêu, làm những việc lành… Càng có thêm người sống như thế thì Nước Chúa càng mở rộng; và khi nào tất cả loài người biết sống như thế thì Nước Chúa đã trị đến. Và khi đó là thời thái bình, hạnh phúc.
Truyện: Pho tượng Chúa Giêsu Vua.
Trên đỉnh ngọn núi Corovado ở Nam Mỹ, người ta đã dựng một pho tượng Chúa Giêsu vua. Ở xa trông lại, du khách trông như pho tượng chạm trời, vì tượng cao hơn 30 mét. Đứng sừng sững, bao quát cả một vùng bát ngát mênh mông, pho tượng đã làm tăng thêm vẻ đẹp cho kinh thành Rio de Janeiro, thủ đô nước Brasil.
Bạn thử nghĩ biết bao công phu mới dựng được pho tượng ấy! Chuyên chở vật liệu từ chân lên đỉnh núi, sườn núi lởm chởm. Nhưng người ta chưa thỏa mãn. Trong không trung đã có tượng Chúa Giêsu Vua, người ta còn muốn dựng một pho tượng ở đáy biển để chứng tỏ vương quyền khắp nơi của Chúa Giêsu
Tạo hóa hình như cũng chiều lòng người đã dành cho họ một nơi đẹp đẽ để thực hiện ý tưởng cao qúi ấy. Ở biển Italia, không xa Napoli, làn nước trong xanh, lăn tăn gợn sóng, chính chỗ đáy biển ấy người ta đã chọn để dựng tượng Chúa Giêsu Vua. Biết bao công lao.
Có những tầu đánh cá nối đuôi nhau ra đó để tung hoa chào mừng Chúa. Còn những tầu ngầm cũng lượn quanh viếng thăm Chuá. Tuy nước trong đẹp nhưng rêu xanh thường rủ nhau đến bám tượng đá. Nên hằng năm người ta phải tổ chức một cuộc cạo rêu và tắm rửa cho tượng.
(Ngọc Miện, Phút chiều tà, 1957, tr 83)
6. Bất khả bại dù phải chết -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
Bị bắt và bị giết, liệu có thể là người chiến thắng không? Tuần trước mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta đã thấy các ngài là những người không bị khuất phục dù phải chết; tuần này chúng ta lại được chiêm ngưỡng Đức Yêsu như vị vua trổi trang trên tất cả cho dù bị giết.
Vua làm chứng cho sự thật
Đức Yêsu bị bắt vì những người lãnh đạo không chấp nhận Đức Yêsu hơn họ, vì Đức Yêsu đã nói sự thật về họ, vì họ tưởng Đức Yêsu tranh giành ảnh hưởng trên dân chúng, làm họ mất uy quyền. Đức Yêsu bị thù ghét đến chết.
Để giết được Đức Yêsu một cách “hợp pháp”, họ đã giải Đức Yêsu tới quan tổng trấn Roma là Philatô, với tội danh “muốn nổi loạn xưng vua”. Chính Đức Yêsu cũng không ngờ mình “được” mang tội danh này: “quan tự ý nói thế, hay người khác đã nói với ngài về tôi?” Với những người ái quốc, khi nước đang bị ngoại bang đô hộ, mà có ai nổi lên chống lại, thì phải cùng cộng tác với người đó mới phải, đằng này lại đi chống lại, đem bắt người đó để nộp cho ngoại bang. Chính vì lẽ này mà Philatô nhận ra Đức Yêsu bị oan, vì thù oán riêng tư mà những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái muốn nộp giết Đức Yêsu: “Ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy”.
“Chính ngài nói rằng tôi làm vua. Tôi sinh ra và đến thế gian để làm chứng cho sự thật, ai theo sự thật thì nghe tiếng tôi”. Thiên Chúa là sự thật. Sự thật là “Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng”, Thiên Chúa sẵn sàng làm tất cả cho con người, vì yêu thương con người, để con người được sống hạnh phúc với Thiên Chúa. Cả đời Đức Yêsu là miệt mài làm chứng cho sự thật, ngay cả phải chết.
Vua yêu thương
Vua là người giỏi nhất, chiến thắng những người khác để làm vua. Chẳng hạn ở Việt Nam, Đinh Bộ Lĩnh, Nguyễn Huệ, đều là những người chiến thắng tất cả rồi xưng vương. Trong các môn thể thao, những nhà vô địch và giỏi thường được gọi là vua, chẳng hạn như Pelé được gọi “vua bóng đá”. Đức Yêsu là vua, vì Ngài đã trổi vượt trong tình yêu, vì không ai yêu bằng Ngài.
Yêu đến độ tự hủy để sống với người mình yêu. Yêu đến độ, bị từ khước vẫn tha thứ vẫn yêu. Yêu đến độ dám chết cho người yêu, sẵn sàng làm tất cả để người yêu được sống và được sống hạnh phúc.
Thiên Chúa là Đấng yêu con người, nên Ngài tin vào con người. Thiên Chúa tin tôi hơn tất cả những ai tin tôi nhất, hơn cả chính tôi tin tôi. Chính vì vậy Ngài vẫn chờ vẫn đợi, vẫn mời gọi tôi trở lại với Ngài, vẫn mong tôi đáp trả tình Ngài dù rằng bây giờ có thể tôi vẫn còn đang từ chối.
Con vua lại được làm vua
“Con vua lại được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Chúng ta là con Chúa, chúng ta được mời gọi để sống yêu thương như Chúa “hãy yêu thương nhau như thầy yêu thương anh em” (Ga.13, 34).
“Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, trừ ra tình yêu mến” (Rm.13, 8). Ơn gọi của chúng ta, chính là yêu thương. Yêu như Chúa yêu. Hãy để cho người khác hơn chúng ta về tất cả, nhưng cố gắng để không thua họ trong yêu thương. Ai khiêm tốn hơn, ai sẵn sàng tự hủy để đi bước trước trong việc làm hòa, là những người “yêu” hơn, giống Thiên Chúa hơn.
Xin Chúa giúp chúng ta sống yêu thương theo gương Chúa yêu thương. Tự sức chúng ta, không thể sống yêu thương. Ý thức mình bất lực, xin Chúa giúp. Thiên Chúa có thể làm tất cả cho chúng ta vì Ngài yêu chúng ta vô cùng, Ngài sẽ làm chúng ta yêu Ngài và yêu nhau.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn trổi trang nhất về điều gì?
2. Có thể bạn không thể hơn người khác về nhiều điều, nhưng còn về yêu thương? Bạn có muốn không thua người khác về yêu thương không?
3. Liệu có thể tập yêu được không? Bằng cách nào?
7. Lễ Chúa Yêsu Kitô- Vua Vũ Trụ -- lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
Khi đứng trước tòa Philatô, Đức Yêsu đã nói: “Tôi sinh ra để làm Vua. Ai nghe sự thật thì nghe tôi” (Ga.18, 37). Đức Yêsu được sinh ra để làm vua, để thống trị trên tất cả. “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy” (Mt.28, 18).
Mỗi người đều được mời gọi để làm vua, để vượt lên chính con người mình như chính Đức Yêsu. Nơi vườn dầu, Ngài đã chiến đấu đến đổ máu (Dt.12, 4; 5, 7), Ngài đã khóc lóc rơi lệ… nhưng Ngài đã chiến thắng. Ngài đã chiến thắng chính mình, nên đã chiến thắng tất cả. Mỗi người sống trên đời này ai cũng gặp những cám dỗ; mỗi người đều được mời gọi để vươn lên, để sống cho ra người, để sống yêu thương như con cái Thiên Chúa.
Nơi các anh hùng tử đạo, những người đã bị giết vì các ngài đã kiên trung giữ vững đức tin, vì người ta không thể thắng các ngài, không thể dùng vũ lực bắt các ngài theo ý họ, nên họ đã giết các ngài. Các vị anh hùng tử đạo là những người bất bại; các ngài đã là vua theo một nghĩa nào đó. Đức Yêsu là thủ lãnh các anh hùng tử đạo: Ngài cũng đã bị giết vì làm chứng sự thật và vì tình yêu.
Đức Yêsu có nguồn gốc thần linh. Ngài nói với nhiều người: Ngài là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài và Cha là một. Ngài nói sự thật, nhưng người ta tưởng Ngài gian dối. Ngài vẫn nói sự thật ngay cả phải chết: “ai theo sự thật thì nghe tôi”. Ngài là Đấng trổi trang nhất trong việc nói lên sự thật. Ngài là chính sự thật.
Đức Yêsu là Vua Tình Yêu. Không ai yêu như Ngài: “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga.13, 34). Đức Yêsu đã yêu thương con người cho đến chết: “không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga.15, 13). Đức Yêsu yêu thương con người đến độ ban chính máu thịt Ngài làm của ăn của uống cho con người: “anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy; ăn em hãy cầm lấy mà uống, này là máu thầy” (Mc.14, 22-24). Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của Đức Yêsu đối với con người: “Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu anh em, hãy ở lại trong tình yêu Thầy” (Ga.15, 9).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có cảm phục Đức Yêsu về điều nào không? Xin chia sẻ.
2. Bạn có thần tượng không? Thần tượng của bạn phải có yếu tố nào? Đức Yêsu có hội đủ yếu tố làm thần tượng của bạn không?
8. Đức Giêsu Kitô Vua vũ trụ, vua sự thật -- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP
Chúa Giêsu có phải là vua thật không? Ngài là vua theo nghĩa nào? bài Tin Mừng trả lời cho chúng ta những câu hỏi đó trong phiên tòa Rô-ma xử án Chúa Giêsu. Người xét xử là tổng trấn Phi-la-tô, là ông quan của đế quốc Rô-ma đặt cai trị ở Do thái, vì lúc ấy dân Do thái đang ở dưới quyền đô hộ của người Rô-ma. Bị cáo là Chúa Giêsu, do người Do thái điệu Chúa đến đây để xin Phi-la-tô xét xử.
Phi-la-tô hỏi Chúa: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”. Để trả lời, Chúa hỏi lại: “Ngài tự ý hỏi điều ấy hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”. Hỏi như vậy là Chúa muốn vạch trần thâm ý của Phi-la-tô. nếu Phi-la-tô tự ý hỏi như vậy tức là Phi-la-tô muốn hỏi: “Anh có phải là tay lãnh tụ chính trị, dám chống lại chính quyền Rô-ma không?. Đối với Phi-la-tô, là vua Do thái chỉ có nghĩa như vậy. Mà nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “không”. Ngài không phải là vua theo nghĩa đó. Còn nếu câu Phi-la-tô hỏi là do các nhà lãnh đạo Do thái nhắc nhở cho, thì có nghĩa là Chúa Giêsu là vị cứu tinh của Do thái như Thiên Chúa đã hứa với dân tộc họ. Nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “có”. Ngài thực sự là vua. Nhưng không phải chỉ là vua của dân Do thái mà còn là vua của mọi người. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu là vua tâm linh, là vua lòng mọi người, chứ không phải là vua theo nghĩa thông thường trần gian. Nước của Chúa bao gồm những tâm hồn tin theo Chúa. Vì thế, vương quyền của Chúa có tính cách thiêng liêng chứ không có tính cách trần thế, không dùng phương tiện, sức mạnh, bạo lực của trần gian. Trái lại, phương tiện thực thi vương quyền của Chúa là nhập thể cứu chuộc và rao giảng sự thật. Chính Chúa đã khẳng định với Phi-la-tô: “Tôi là vua, nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Như vậy, chúng ta có thể quả quyết: Chúa Giêsu là vua. Ngài là vua sự thật. Sự thật là gì? Chính Phi-la-tô đã hỏi Chúa điều đó. Chúa không đáp lại bằng lời nói mà bằng chính việc Ngài đang thực hiện trước tổng trấn. Việc đó là thực hiện việc của tình yêu cứu độ. Ngài vô tội, nhưng vì yêu thương nhân loại, đã cam lòng chịu chết để đền tội cho nhân loại. Sự thật là như thế. Đó là tình yêu cứu độ. Đó là sự thật mà Chúa muốn làm chứng và muốn nói tới. Và giờ đây, nhìn chung quanh trong nhà thờ này: các ảnh tượng Chúa, chúng ta cũng thấy sự thật cứu độ là như vậy: Chúa Giêsu trên cây Thánh giá, Chúa Giêsu trong phép Mình Thánh, Chúa Giêsu trong chặng đường thánh giá...Tất cả đều nói lên tình yêu cứu độ.
Tình yêu ấy đã được ban cho con người, chỉ cần con người đón nhận tình yêu ấy bằng một tâm hồn khiêm tốn, khao khát tình yêu cứu độ. Và bằng tâm hồn mở rộng ra, yêu thương bác ái đối với những người chung quanh. Sự thật cứu độ như vậy, nói thì đơn sơ dễ dàng, nhưng thực hiện thật là phức tạp và khó khăn, đòi hỏi nhiều cố gắng của chúng ta. Bởi vì cuộc sống tất bật, chật vật, đầu tắt mặt tối, đầy lo toan khốn khổ, dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn độc địa, thô bỉ nữa. Như vậy, chúng ta chưa sống sự thật cứu độ, chưa rao giảng sự thật cứu độ, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ. Điều đó có đúng không?
Chúng ta tôn xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự thật ấy. Cuộc sống chúng ta có rất nhiều dịp, nhiều lúc phải quyết định chấp nhận hay từ khước, nói có hay không dứt khoát: có thì nói có, không thì nói không. Một khi chúng ta trả lời “có” cho một người, tức là chúng ta trả lời “không” cho người khác. Khi chúng ta trả lời “có” cho Thiên Chúa, là chúng ta trả lời “không” cho ma quỷ cám dỗ. Không thể có trung lập giữa không và có, giữa Chúa và ma quỷ, giữa ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là phải có một quyết định, một lập trường, một triết lý sống thực hành thánh thiện, ngay thẳng, trung thực, chứ đừng ăn không nói có, lật lọng, dối trá, thay trắng đổi đen.
Nói rõ hơn, chúng ta phải tôn trọng sự thật: phải giữ thành thật trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Không được làm chứng dối, thề gian, bỏ vạ, cáo gian, đổ tội cho người khác, vu khống người ta. Không được xét đoán vô căn cứ, kết tội khi chưa đủ bằng chứng, cả khi nói những lời gây thiệt hại danh dự của người khác...cũng đều lỗi phạm sự thật. Can đảm biện hộ cho sự thật khi cần đến và có sự thật buộc chúng ta phải giữ kín.
Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện...có lẽ sẽ bị đánh giá là một người không giống ai, là một người lội ngược dòng nước cuốn, Nhưng chính việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại chính là thánh giá mỗi người cần phải vác hằng ngày. Chúng ta phải trở nên muối đất, trở nên ánh sáng thế gian bằng cuộc sống chứng nhân trung thực cho Chúa Giêsu Kitô.
9. Để nên thành viên trong vương quốc vua Giêsu -- Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Trước tòa án của quan Tổng Trấn Phi-la-tô, Đức Giêsu đã cho ông biết về Vương Quốc của Người. Vương Quốc ấy thiêng liêng và không thuộc về thế gian, không có quân đội và không biên giới. Đức Giêsu cũng khẳng định Người là Vua, nhưng là vị Vua Thiên Sai, đến để làm chứng cho sự thật. Thần dân của Người là những ai sẵn sàng tin theo sự thật của Người.
CHÚ THÍCH:
- C 33-34: + Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu: Đức Giêsu đã bị dân quân Đền thờ bắt tại vườn Cây Dầu vào đêm thứ Năm sau bữa tiệc ly Vượt Qua mừng trước. Sau khi bị bắt Đức Giêsu đã bị tòa án tôn giáo xét xử và bị thượng tế Cai-pha kết án tử hình(x Ga 18,19-24). Tuy nhiên vì các đầu mục Do thái đã bị người Rô-ma truất quyền kết án tử hình (x. Ga 18,31), nên sáng hôm sau, họ đã giải Đức Giêsu đến dinh quan Phi-la-tô để yêu cầu ông này kết án tử hình Đức Giêsu. Họ đứng ngòai sân chứ không vào trong nhà để tránh bị ô uế theo Luật Mô-sê, mà ai vi phạm sẽ không được ăn mừng lễ Vượt Qua (x Ga 18,28b). Quan Phi-la-tô đã phải ra ngòai hành lang để gặp họ. Sau khi biết rõ ý họ muốn, Phi-la-tô đã vào trong phòng và thẩm vấn Đức Giêsu + “Ông có phải là Vua dân Do thái không?”: Người Do thái đã tố cáo Đức Giêsu tội phạm về chính trị là xưng mình là Vua dân Do thái, để yêu cầu quan Phi-la-tô qui tội phản loạn và kết án tử hình cho Người. Do đó Phi-la-tô đã tra vấn Người về việc này. + “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”: Đức Giêsu không trực tiếp trả lời câu hỏi của Phi-la-tô, nhưng Người gợi ý để ông tự xét lời tố cáo đó có cơ sở không hay chỉ là sự vu cáo bịa đặt?
- C 35: + Tôi là người Do thái sao?: Phi-la-tô cho biết ông không quan tâm đến những vấn đề tôn giáo, vì ông không phải là người Do thái! + Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. ông đã làm gì?: Phi-la-tô cho biết dân chúng và các đầu mục Do thái đã tố cáo như thế để đòi ông xét xử. Ông hỏi Đức Giêsu đã làm gì đến nỗi bị họ tố cáo như vậy?
- C 36: + “Nước tôi không thuộc về thế gian này”: Đức Giêsu không chối điều họ tố cáo, nhưng Người xác định mình không phải một ông vua trần tục. Vì Nước của Người không thuộc về thế gian này. + “Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho dân Do thái”: Lời này cho thấy sự khác biệt giữa vương quốc thế gian và Vương Quốc của Thiên Chúa. Khác về tinh thần cai trị (x. Mt 20,24-28), về hiến pháp (x. Mt 5,1-12), về điều kiện gia nhập (x. Mt 7,21), về sự vững bền (x. Mt 25,46), về tương quan giữa vua với dân (x Ga 13,12-15).
- C 37: + “Vậy ông là vua ư?”: Đặt câu hỏi này, Phi-la-tô chỉ tò mò muốn biết thêm về chức vị vua thiêng liêng trong Nước Trời của Đức Giêsu, chứ ông không nghĩ Người là một ông vua thế tục. Phi-la-tô biết rõ Đức Giêsu không làm loạn, vì Người không có quân đội để tự vệ khi bị người Do thái vây bắt. + “Chính ngài nói: tôi là vua”: Đức Giêsu xác nhận Người là Vua. nhưng là Vua Tình Yêu, Vua Mục Tử: Người hiểu biết từng con chiên (x. Ga 10,14), nuôi dưỡng đàn chiên (x. Ga 10,3), đi tìm chiên lạc (x. Ga 10,16), bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho đàn chiên (x. Ga 10,11.15). Tóm lại, Người đến “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10). + “Tôi đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật”: Sứ mệnh của Đức Giêsu là đến để làm chứng cho sự thật. ** làm chứng theo tiếng Hy Lạp nghĩa là tử đạo. Đức Giêsu làm chứng cho sự thật bằng việc đổ máu ra vì yêu nhân loại đến cùng ** Sự thật không có nghĩa là không gian dối, nhưng chính là Tin Mừng Nước Trời mà Người loan báo. Sự Thật ấy cũng là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, đã được biểu lộ qua cuộc đời, lời rao giảng và nhất là qua biến cố Tử nạn và Phục sinh của Người. + Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”: Đức Giêsu đến không những để cứu độ dân Do thái được Thiên Chúa ưu tuyển, mà Người còn đến cứu mọi dân nước tin vào Tin Mừng của Người và gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và cũng là Thiên Đàng mai sau.
CÂU HỎI:
1) Tại sao các đầu mục Do Thái lại giải Đức Giêsu đến tòa án của quan Phi-la-tô?
2) Tại sao người Do thái không vào trong nhà, khiến quan Phi-la-tô phải ra ngòai hành lang để tiếp họ đang đứng dưới sân?
3) Đức Giêsu cho Phi-la-tô biết Nước Trời do Người thiết lập có những đặc tính nào khác với nước thế gian?
4) Khi hỏi Đức Giêsu: “Ông là Vua ư?”, Phi-la-tô có tin những lời các đầu mục Do thái tố cáo Đức Giêsu không?
5) Đức Giêsu nhận mình là Vua nhưng chức vị này có những phẩm chất nào?
6) Đức Giêsu đến để “Làm chứng cho Sự Thật” là sự thật nào và làm chứng bằng cách nào?
7) Ngòai dân Do thái ra, Đức Giêsu còn đến cứu độ những ai?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Tôi là Vua” (Ga 18,37):
2. CÂU CHUYỆN:
1) Thẻ căn cước trong Vương Quốc Tình Yêu của Vua Giêsu:
Ngày 11/11/1951 trong một bài diễn từ, Đức Thánh Cha Pi-ô 12 đã kể lại một giai thoại. Có một phụ nữ kia rất đạo đức, nhưng sức khỏe quá yếu ớt. Cô ta bị chứng sưng màng phổi và rất khó thở. Lâu lâu căn bệnh tái phát làm cô rất đau đớn. Nhưng cuối cùng cô cũng lập gia đình, mang thai và chờ ngày sinh nở. Bất hạnh bất ngờ ập đến. Căn bệnh năm xưa tái phát trầm trọng. Các bác sĩ đề nghị phải hủy bỏ bào thai để cứu tính mạng cho bà mẹ. Người chồng cũng đồng ý như thế. Nhưng mẹ bào thai sau khi cầu nguyện nhiều ngày đã kiên quyết từ chối đề nghị của bác sĩ. Cô nói trong nước mắt: “Tôi không thể giết con tôi. Con tôi phải sống, cho dù tính mạng tôi có ra sao đi nữa”. Cô ta chấp nhận tình huống xấu nhất có thể xảy ra và phó thác hoàn toàn cho Chúa quan phòng. Cuối cùng cô đã sinh được một bé gái kháu khỉnh, nhưng sau đó sức khỏe của cô ngày càng suy kiệt. Hai tháng sau, người phụ nữ đã tắt thở, trên tay vẫn ôm chặt đứa con mới sinh mà cô rất thương mến.
Hơn hai mươi năm trôi qua, người ta thấy một nữ tu trẻ rất xinh đẹp đang ân cần chăm sóc cho các cháu bé mô côi trong một trại tế bần. Vòng tay thân thương và cặp mắt long lanh của vị nữ tu sáng rực lên nét yêu thương mà chị đã được di truyền từ chính người mẹ thân thương của mình. Đó là người mẹ trẻ năm xưa đã chấp nhận hy sinh tính mạng để cho con được sống. Người mẹ can đảm này đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc Chân Phước, bởi vì bà đã thực sự đi vào Vương quốc tình yêu tiếp bước theo chân Đức Giêsu. Chính Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô 2 đã nói: “Một đất nước nào, một chế độ nào cho phép con người sát hại lẫn nhau, thì đất nước đó, chế độ đó đang đi tới chỗ bị hủy diệt”. Đó là một đất nước đi ngược lại hiến pháp của Vương quốc Giêsu. Sống trong Vương quốc này, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải sống với một nền văn minh mới, đó là ‘nền văn minh của tình thương’. Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta cũng đã từng nói: “Một người mẹ nhẫn tâm giết chết con của mình, thì không còn một thứ tội ác nào mà họ không dám làm”. Biết bao tội ác nhan nhản đang xảy ra trong xã hội hôm nay vì người ta đang dần đánh mất đi thẻ ID (identity card) Nước Trời chứng minh mình là công dân Nước Trời.
2) Gương bác ái của Máctinô thành Tours công dân nước trời:
MÁC-TI-NÔ là một quân nhân Rô-mavà một Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người hành khất chặn ông lại xin bố thí, Mác-ti-nô không có tiền, nhưng khi thấy người hành khất xanh xao và đang run rẩy vì lạnh, ông cởi chiếc áo khoác đã sờn rách và dùng gươm xén một nửa chiếc áo khoác trao cho người hành khất. Tối hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ bao quanh Vua Giêsu và trên mình Người mặc phân nửa chiếc áo khoác của ông. Một thiên sứ hỏi Chúa Giêsu: “Tại sao Ngài mặc nửa chiếc áo bị sờn rách đó? Ai đã cho Ngài?” Chúa Giêsu trả lời: “Chính Mác-ti-nô, tôi tớ của Ta đã tặng cho Ta đó”.
Quả thật như bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã xác quyết: Ta bảo các ngươi: “những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Và Chúa nói tiếp: “Hãy đến, hỡi những kẻ cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo thành vũ trụ. Vì khi ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm, Ta bị tù đầy, các ngươi đã đến với ta”(Mt 25, 34-36).
Thật là hạnh phúc cho chúng ta, nếu được Chúa nói với chúng ta như vậy trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm Phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Amen.
3) Đức Giêsu là vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa:
Lịch sử nước Anh có câu chuyện về một ông vua có lòng khiêm nhường và đạo đức tên là KÊ-NẮT Đệ Tam (CANUT III). Là vua của một cường quốc, nên chung quanh ông ta lúc nào cũng có những nịnh thần tâng bốc. Một hôm, trong một buổi triều yết, các nịnh thần đã nịnh nhà vua như sau: “Muôn tâu thánh thượng! Thánh thượng là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa. Thánh thượng có toàn quyền cả trên đất liền cũng như ngòai biển cả bao la!”
Nghe vậy, nhà vua muốn dạy cho quần thần một bài học, nên đã mời tất cả quan chức triều đình cùng đi du lịch đến một bãi biển dành riêng cho hoàng gia. Khi mọi người đều theo sau nhà vua xuống bãi tắm sóng vỗ rì rào, nhà vua đứng trước biển liền tuyên bố: “Hỡi biển cả kia. Nhiều người nói ta là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa, có quyền trên đất liền và biển khơi. Vậy hỡi biển cả hãy nghe đây: Ta truyền cho sóng biển không được tràn tới nữa!”. Nhưng dù nhà vua đã ra lệnh, mà nước biển vẫn cứ từng đợt thi nhau đổ tới tấp lên bãi cát làm ướt cả áo cẩm bào của nhà vua cùng quần áo các quan chức triều đình! Sau đó nhà vua dẫn quần thần đến một nhà nguyện gần đó. Vua quì gối trước tượng Thánh giá Chúa Giêsu, lấy ra chiếc vương miện bằng vàng đội lên đầu Chúa và cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giêsu. Chỉ có Chúa mới là “Vua trên hết các vua”, là “Chúa trên hết các chúa”. Chỉ có Chúa mới “có quyền trên cả đất liền cùng biển khơi” Con chúc tụng ngợi khen Chúa. AL-LÊ-LU-IA!”.
3. THẢO LUẬN:
1) Mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì để Chúa Giêsu trở thành Vua của gia đình mình?
2) Chúng ta cần làm gì để có thẻ căn cước trong Vương Quốc Vua Giêsu?
4. SUY NIỆM:
Ngày nay quân chủ hầu như đã trở nên xa lạ đối với nhân loại. Trên thế giới hiện nay chỉ còn một ít nước Âu Á như: Anh quốc, Tây Ban Nha, Bỉ, Hòa Lan, Thụy Điển, Nhật Bản, Thái Lan, Cam-pu-chia… vẫn duy trì chiếc ghế của vua chúa hay nữ hoàng, nhưng chỉ mang tính tượng trưng theo truyền thống chứ không còn thực quyền. Thay vào đó, chế độ dân chủ đã được hầu hết các quốc gia áp dụng. Con người càng văn minh lại càng muốn được bình đẳng và không muốn kẻ khác đè đầu đè cổ mình. Như vậy Hội Thánh mừng lễ Chúa Ki-tô làm Vua liệu có gây ra dị ứng nơi tâm thức của con người ngày nay, đặc biệt nơi giới trẻ hay không? Đức Giêsu có thực sự là Vua của chúng ta không và phải làm gì để trở thành công dân Nước Trời của Vua Giêsu sau này?
1) Đức Giêsu thực sự là Vua Mục Tử:
Qua bài Tin mừng hôm nay, Phi-la-tô đã đặt ra nhiều câu hỏi về điều mà các đầu mục Do thái mới tố cáo, Phi-la-tô hỏi: “Ông có phải là Vua dân Do thái không?”. Người trả lời rằng: “Chính ông nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này là: làm chứng cho Sự Thật. Ai đứng về Sự Thật thì nghe tiếng tôi”. Qua đó, Đức Giêsu đã khẳng định Người chính là Vua, và Người được Chúa Cha sai đến thế gian nhằm thiết lập một Vương quốc Sự Thật. Phi-la-tô không hiểu lời Người nói nên hỏi lại: “Sự Thật là gì?”. Sở dĩ ông không hiểu sự thật vì ông không phải thần dân của vương quốc Sự Thật do Người thiết lập (x. Ga 18, 33-38).
2) Vương quốc của Vua Giêsu là “Vương Quốc Sự Thật”:
Tin mừng Gio-an, Chúa Giêsu đã nói khá nhiều về Vương quốc Sự Thật mà chính Người sẽ khai mở. Khi nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, Đức Giêsu đã vén mở một phần về Vương quốc sự thật ấy: “Thiên Chúa là Thần khí và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần khí và sự thật” (Ga 4, 24). Cũng vậy trong bữa tiệc ly để giã từ các môn đệ, Đức Giêsu đã khẳng định: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6). Người đến để chúng ta là thần dân của Người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Người cũng cho Phi-la-tô biết về nước Trời của Người: “Nước tôi không thuộc thế gian này”(c 36). Tuy nhiên, chính Phi-la-tô sau đó đã cho treo một tấm bảng gắn trên đầu cây Thập giá với hàng chữ: “Giêsu Na-gia-rét, vua dân Do thái”. Qua đó ông đã chính thức công bố sự thật này là: Đức Giêsu là Vua của dân Do Thái.
3) Điều kiện để được vào Nước Trời là sống giới răn yêu thương cụ thể:
- Vua Giêsu đã đảo lộn mọi bậc thang giá trị của con người khi cho biết trong Nước Trời: “Ai muốn làm lớn nhất thì phải trở nên người bé nhất” noi gương Người, Đấng “đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban sự sống cho nhiều người” (Mc 10,45).
- Vương quốc mà Chúa Giêsu thiết lập là Vương quốc của Tình Yêu, và chỉ những ai thực thi yêu thương mới đủ điều kiện gia nhập vào Nước ấy. Trong ngày phán xét Người sẽ nói với những kẻ sống bác ái chia sẻ: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm” (Mt 25,34-36). “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
- Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã cho biết tình yêu đích thực là sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình: “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15, 13). Tình yêu còn là thái độ khiêm hạ phục vụ tha nhân, noi gương Đức Giêsu sẵn sàng quì xuống rửa chân cho môn đồ và dạy họ rằng: “ Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Đức Giêsu cũng đề ra Hiến Pháp của Nước Trời là Bản Hiến chương Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật, trong đó, Người nêu ra điều kiện để gia nhập Nước Trời là: Phải sống khiêm hạ siêu thoát, ứng xử hiền hòa, chấp nhận đau khổ bệnh tật, ước ao nên trọn lành, có lòng thương xót, có tâm hồn thanh sạch, biết ăn ở thuận hòa, sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin...
4) Sứ vụ của các tín hữu là làm chứng cho Sự Thật và sống yêu thương:
Ki-tô hữu là những người chọn bước theo chân Đức Giêsu trên con đường của Ngài, là làm chứng cho sự thật. Vậy chúng ta phải làm chứng cho sự thật, nhất là trong bối cảnh hôm nay, khi sự giả dối ngày càng chiếm ưu thế trong xã hội bằng những cách như sau:
- Trước hết, phải sống đúng sự thật, theo sự mách bảo của Chúa Thánh Thần qua tiếng lương tâm. Vì có lẽ chưa bao giờ sự tha hóa trong cung cách làm ăn buôn bán của người Việt nam chúng ta lại bị xuống cấp như hôm nay. Chưa bao giờ vì mưu sinh, muốn làm giàu mau mà người ta đã dùng mọi thủ đoạn, bỏ qua tiếng lương tâm cáo trách, để buôn bán hàng gian hàng giả gây nguy hại cho sức khỏe của đồng bào mình: Ra đường thì dễ bị cán phải đinh do “đinh tặc” rải có thể bị té đến tử vong, đi vá xe lại bị “chặt chém”. Khi đổ xăng thì không chỉ bị gian lận về số lượng mà còn có thể mua phải xăng “dổm” gây cháy xe. Ra chợ thì dễ mua phải thực phẩm chứa thuốc độc hại: Nhiều người đã chết vì uống nhầm rượu “dỏm” hay mặc áo ngực phụ nữ có chứa chất độc hại gây ung thư da...
- Ngoài ra chúng ta phải biết dùng lời nói chân thật, khiêm tốn và khoan dung nhân hậu để đem lại sự an vui thuận hòa, để yêu thương và tha thứ, để bênh vực và che chở, để quan tâm nâng đỡ và khích lệ, đồng thời sẵn sàng chấp nhận cho người khác trổi vượt hơn mình, thì tâm hồn chúng ta mới thực sự an bình. Hãy năng hát bài Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô, rồi quyết tâm thực hành theo để nên chứng nhân Tình Thương của Chúa hôm nay.
5. NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giêsu: Xin giúp chúng con biết noi gương Chúa là Vua của Sự Thật. Xin cho chúng con biết yêu Sự Thật và luôn nói thật, nhưng biết khôn ngoan để không nói những sự thật gây thiệt hại cho người vô tội. Xin cho chúng con tránh những lời dối trá lừa đảo.
Trong giao tiếp xã hội, xin cho chúng con tránh thái độ đạo đức giả của các người Pha-ri-sêu và kinh sư đã bị Chúa nặng lời quở trách (x. Mt 23,13-36).
Trong quan hệ làm ăn buôn bán, xin giúp chúng con biết buôn ngay bán thật, không nói rước nói thách, không làm hàng gian hàng giả, không cư xử bất công lường gạt người nhẹ dạ dễ tin.
Xin Chúa giúp chúng con luôn trung thực trong lời nói việc làm, để xứng đáng là công dân Nước Trời của Vua Giêsu, Đấng “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Xin cho chúng con trở thành khí cụ bình an của Chúa để đưa nhiều người về làm con Chúa trong đại gia đình Hội Thánh.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
10. Vua của thế giới khác
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Phụng vụ Lễ Chúa Kitô Vua, Giáo Hội muốn trình bày cho ta biết ý nghĩa đích thực Vương Quyền của Chúa Giêsu, cách thế Người sống và thể hiện vương quyền. Đồng thời cho chúng ta cơ hội để xác tín và qui phục Chúa là Vua của ta.
Đứng trước tổng trấn Philatô, Chúa Giêsu đã tuyên bố “Tôi là Vua” (Ga 18,37), nhưng Người xác định rằng: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 18,36) Vương quốc của Chúa Giêsu là vương quốc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu là vua vì Người đã được Chúa Cha xức dầu tấn phong và trao cho Người vương quyền. Người sống trong sự kết hiệp thâm sâu với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cùng với Chúa Cha và Thánh Thần, Người là Thiên Chúa, Người tạo dựng trời và đất, Người là vua của tất cả những kẻ sống. Người là vua trong Nước Trời và cũng là vua vũ trụ này nhưng với một phương cách khác với vua chúa trần gian.
Vua trần gian cần binh lính bảo vệ, canh giữ lãnh thổ và vương quyền của họ. Với Chúa Giêsu thì không như thế. Người không bao giờ có lính tráng và cũng không muốn có. Người chỉ có môn đệ và gọi họ là bạn hữu. Mọi người là con cái của Người, là anh em với nhau
Những vua ở trần gian này thường giàu có về tài sản, vàng bạc để chứng minh uy thế và quyền lực của họ. Đối với Chúa Giêsu thì không có điều đó. Người không có gì cả. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8,20)
Những vua chúa và hoàng hậu của trần gian này luôn có đầy tớ hầu hạ xung quanh họ. Còn Chúa Giêsu thì không. Ngôi vua của Người đã dẫn Người đến phục vụ tất cả mọi người “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người.” (Mt 20,28)
Ngôi vua của Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu. Người tự hạ đến trần gian để rao giảng và để làm chứng cho tình yêu của Chúa Cha đối với nhân loại. Người đồng hóa với mọi người nhất là những người nghèo khổ. Đi đến đâu là Người thi ân giáng phúc, tìm kiếm, chữa lành những ai đau bệnh và tha thứ tội lỗi “Vì Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã mất.” (Lc 19,10) Người yêu thương ta đến cùng khi hy sinh cả mạng sống cho ta và tha thứ đến cùng khi Người cầu xin Cha tha cho những kẻ giết Người. Trên thập giá, Người đã diễn tả tình yêu tột đỉnh mà Người dành cho chúng ta. Chính qua cái chết và sự Phục sinh vinh hiển, Vua Giêsu đã chiến thắng và khải hoàn tiến vào Vương quốc của Người vì “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1Cr 15,25-26). Từ đó Người mở cửa vương quốc của Người cho chúng ta và triều đại Người vĩnh cửu trường tồn. Triều đại của sự sống và sự thật, của ân sủng và thánh thiện, của tình yêu và bình an.
Vương quốc của Vua Giêsu là nơi mà ở đó người ta yêu thương nhau vì là vương quốc tình yêu. Chỉ có luật yêu thương và Vua Tình Yêu cai trị. Vậy ta cần tập sống yêu thương, tha thứ như lời Chúa dạy và như mẫu gương Chúa yêu thương ta ngay từ bây giờ để rồi ta được trở thành công dân của Vua Tình Yêu và được hưởng hạnh phúc trong vương quốc của Người.
Vương quốc của Vua Giêsu không ở trần gian này vì trần gian chỉ là cõi tạm, sẽ có một ngày kết thúc. Vậy ta hãy biết sống thanh thoát với những ràng buộc của trần gian là danh lợi thú, để không bị quyền lực và vinh quang trần thế làm chủ thì ta mới có thể tự do tín thác vào quyền năng của Thiên Chúa. Tin nhận Chúa Giêsu là Chủ, là Vua, là Chúa của đời ta và hướng lòng về Vương quốc vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã yêu thương dành sẵn cho ta và đang chờ ta như Lời Chúa hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em... để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14,2-3)
Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin qui tụ tất cả chúng con dưới quyền thủ lãnh của Chúa. Xin hãy giải thoát chúng con khỏi vòng nô lệ tội lỗi, để chúng con biết phụng thờ và yêu mến Chúa là Vua của chúng con và ngày sau xin đón chúng con vào vương quốc của Chúa. Amen.
11. Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ -- Lm. Anthony Trung Thành
Khi đề cập đến danh xưng vua, chúng ta liên tưởng tới thời kỳ quân chủ. Nhưng thời kỳ quân chủ đã qua. Hiện nay chỉ còn một số rất ít nước còn có vua, nhưng vua chỉ là danh hiệu chứ không thực quyền. Mặc dầu không sống trong thời kỳ quân chủ, nhưng có lẽ ai trong chúng ta cũng hiểu được phần nào về vai trò của ông vua trong một đất nước hay lãnh thổ.
Vua đi liền với quyền. Có thể nói vua có toàn quyền trên thần dân, kể cả quyền trên mạng sống. Nhưng việc thi hành quyền như thế nào thì tuỳ thuộc từng vị. Đa số các vị vua dùng quyền để cai trị thần dân một cách độc ác, tàn nhẫn như vua Hêrôđê, vua Minh mạng, vua Thiệu trị...Nhưng cũng có những vị vua nhân hậu, hết mực yêu thương thần dân như vua Thánh Louis Nước Pháp(1214 – 1270).
Còn vua Kitô thì sao? Chắc chắn một điều rằng: Ngài là vua nhưng không phải như những ông vua trần thế. Ngài là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa. Ngài là Vua vũ trụ, “Nước Ngài không thuộc về thế gian này” (x Ga 18,36). Ngài là Vua chân lý, chính Ngài đã nói điều đó với Philatô: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”(Ga 18,37). Ngài là Vua yêu thương, vì “Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi”(x. Kh 1,5).
1. Chúa Kitô Là Vua Chân Lý
Thật vậy, Thiên Chúa là nguồn mạch mọi chân lý. Lời của Ngài là chân lý. Lề luật của Ngài là chân lý. Nơi Chúa Giêsu Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn. Chính Ngài là chân lý: “Tôi là đường là sự thật và là sự sống”(Ga 14,6). Suốt cuộc đời của Ngài đã làm chứng cho chân lý. Một vài lần dân chúng muốn Ngài làm vua: Lần thứ nhất, sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Lần thứ hai, khi Ngài bước vào thành thánh Giêsuzalem, dân chúng hoan hô, trải áo lên đường cho Ngài đi. Nếu Ngài xưng vương một trong hai lần đó thì rất thuận lợi. Nhưng Ngài đã từ chối. Vì, vị vua mà dân chúng quan niệm không đúng với tước hiệu vua của Ngài. Còn hôm nay, Ngài là một tử tội trước mặt quan toà Philatô, không có lợi thế gì, nhưng Ngài đã xưng mình là vua, vì đó là sự thật. Ngài xưng vua để làm chứng cho sự thật. Vương quốc của Ngài “Không khi nào bị phá huỷ” (x. Đn 7,14). “Quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất”(x. Đn 7,14).
Mỗi người Kitô hữu chúng ta là môn đệ của Vua Kitô, muốn bước theo Ngài cần phải sống theo chân lý, làm chứng cho chân lý, vì “Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Tôi”(X. Ga 18,37).
Sống theo chân lý là sống ngay thẳng, thật thà, chân thành, tránh sự giả hình, giả bộ. Bởi vì “Người ta không thể sống với nhau, nếu không có sự tin tưởng nhau, nghĩa là nói sự thật với nhau”. Theo lẽ công bằng, “Mỗi người phải thành thật bày tỏ sự thật cho người khác”(Thánh Tôma Aq.) Sống theo chân lý là chấp nhận sống trong sự đơn sơ của một cuộc sống phù hợp với gương mẫu của Chúa và đứng vững trong chân lý của Ngài:”Nếu chúng ta nói chúng ta hiệp thông với Ngài, mà chúng ta lại bước đi trong tối tăm, thì chúng ta nói dối, và chúng ta không hành động theo chân lý”(1Ga 1,6).
Làm chứng cho chân lý là phải tuyên xưng đức tin của mình một cách rõ ràng không úp mở, “Đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta” (x. 2Tm 1,8). Làm chứng cho chân lý đòi buộc phải chấp nhận hy sinh, có khi phải hy sinh cả tính mạng. Như trường hợp các Thánh Tử Đạo. Đó là sự làm chứng tối cao cho chân lý và cho đức tin. Làm chứng cho chân lý là phải loại bỏ những xúc phạm đến chân lý: Nghĩa là không được làm chứng gian và bội thề; Không được nói xấu và vu khống phá hoại thanh danh và danh dự của tha nhân; Không được khoe khoang, vì khoe khoang cũng là một lỗi nghịch với sự chân thật; Không được châm biếm, tìm cách hạ giá người khác bằng cách diễu cợt có ác ý một cử chỉ nào đó của tha nhân; Không được nói dối “Nói dối là nói điều không đúng, với ý định đánh lừa người ta”(Thánh Augustinô). “Có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5,37). Chúa Kitô đã tố cáo sự nói dối, coi đó là việc làm của ma quỷ (x.Ga 8,44). Làm chứng cho chân lý là biết tôn trọng sự thật. Mỗi người chúng ta có quyền nói lên sự thật, nhưng đây không phải là một quyền tuyệt đối, vô điều kiện. Vì không phải sự thật nào cũng được phép nói ra. Bí mật của bí tích Hoà giải thì bất khả xâm phạm. Các bí mật về nghề nghiệp cũng phải giữ kín. Những điều tâm sự có hại cho tha nhân cũng không được tiết lộ.
(x. GL GHCG số 2464 – 2513)
2. Chúa Kitô Là Vua Yêu Thương
Triết gia Soren Kierkegaard sống tại Đan Mạch cách đây khoảng 150 năm có kể câu chuyện sau: Có một vị vua nọ đắm say một cô thôn nữ nhưng không thể cưới nàng làm vợ, bởi vì vua chúa không bao giờ cưới nông dân. Sau khi đã lật đi lật lại nhiều giải pháp, cuối cùng vua đã đi đến quyết định từ bỏ ngôi báu để trở nên một nông dân hèn hạ và dâng hiến tình yêu mình cho người thôn nữ kia để giữa hai người có được một tình yêu đích thực.
Việc làm của vị vua trong câu chuyện trên giúp chúng ta liên tưởng tới hành vi tự hạ của Vua Kitô. Thật vậy, vì yêu thương nhân loại, Ngài đã tự hạ mình làm một con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Vì yêu thương, Ngài đã chấp nhận sinh ra trong hang đá lạnh lẽo, thiếu thốn đủ thứ. Vì tình yêu, Ngài đã chấp nhận sống ẩn dật, âm thầm, làm nghề thợ mộc giúp đỡ Đức Mẹ và Thánh Giuse trong suốt 30 năm. Vì yêu thương, Ngài đã lên đường rao giảng Tin mừng để chu toàn sứ mạng của mình trong suốt ba năm. Trong ba năm đó, Chúa đã gọi, chọn và huấn luyện các tông đồ, là những cán bộ nòng cốt của Giáo Hội thuở ban đầu. Tình thương của Ngài đã chạm đến biết bao nhiêu hạng người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống: Những người bị bệnh hoạn tật nguyền; những người tội lỗi; những người bị áp bức bóc lột; những người nghèo đói khổ đau. Và để dạy cho các môn đệ bài học về sự yêu thương, tối thứ năm tuần thánh, Ngài đã đích thân rửa chân cho các môn đệ và dặn họ rằng: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Vì yêu thương, Ngài đã chấp nhận sự chống đối, ghen ghét, làm hại mà đỉnh cao là cái chết nhục nhã trên thập giá. Cái chết của Ngài làm chứng cho tình yêu, vì”Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Vì yêu thương nhân loại, nên trước khi về trời, Ngài đã lập các bí tích, nhất là Bí tích Truyền Chức và Thánh Thể để ở lại với loài người cho đến tận thế.
Để thuộc về công dân nước trời, mỗi người kitô hữu chúng ta cần phải biết sống yêu thương. Trong bài Tin mừng Thánh Mathêu kể về sự phán xét chung (x. Mt 25, 31-46) cho chúng ta thấy, tiêu chuẩn duy nhất Chúa phán xét chúng ta là Tình Yêu. Vậy, hãy cố gắng thể hiện tình yêu thương trong cuộc sống. Đó chính là những công việc từ tâm, là những hành vi bác ái chúng ta làm để giúp đỡ người đồng loại trong những thiếu thốn vật chất và tinh thần. Dạy dỗ, khuyên răn, an ủi, khích lệ là những công cuộc từ tâm tinh thần, cũng như tha thứ và nhẫn nhục chịu đựng. Còn các việc từ thiện vật chất thường là: Nuôi dưỡng những người đói khổ, lo nơi trú ngụ cho người vô gia cư, lo áo mặc cho người rách rưới, thăm viếng các bệnh nhân và các tù nhân, lo mai táng người chết. Trong số các hành vi này, bố thí cho người nghèo là một trong những chứng từ chính yếu của đức bác ái huynh đệ, đó cũng là một hành vi công chính đẹp lòng Thiên Chúa (x. Gl GHCG số 2447).
Tóm lại, Chúa Kitô là Vua. Ngài là Vua Chân lý. Ngài là Vua Yêu thương. Mỗi người chúng ta muốn thuộc về thần dân của Ngài thì hãy sống theo Chân lý và làm chứng cho Chân lý. Hãy sống yêu thương, và thể hiện tình yêu thương đó đến với tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh. Amen.
12. Vua vương quốc yêu thương và an bình -- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội long trọng cử hành lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ với niềm vui khôn tả, đồng thời quả quyết rằng Người là Vua và là Chúa chúng ta.
Đã từ lâu, trong ngôn ngữ thông thường, người ta đã gán cho Chúa Giêsu Kitô tước hiệu Vua; Đúng, Người là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các Chúa, trổi vượt trên hết mọi loài, thống trị lòng người, Người hiển trị đến muôn đời. Chúa Giêsu là vua lòng người, với tình yêu và lòng trùi mến, Người lôi kéo mọi con tim đến với mình. Người là “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận thần tính và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang...” (Ca nhập lễ).
Lễ Chúa Kitô Vua tương đối mới, nhưng có nền tảng Thánh Kinh và thần học sâu xa. Từ tước hiệu vua, được áp dụng cho Chúa Giêsu thật quan trọng trong các Tin Mừng, chính Tin Mừng cung cấp cho chúng ta một bài đọc đầy đủ về dung mạo cũng như sứ vụ của Đấng Cứu Thế. Khởi đi từ “Vua người Do thái”, dẫn đến tước hiệu “Vua của thế giới”, “Chúa của vũ trụ và lịch sử”, vượt qua mọi kỳ vọng của dân Do thái.
Trọng tâm tiến trình mạc khải về vương quốc của Vua Giêsu, còn tiềm ẩn bí mật về cái chết và sự phục sinh của Người. Khi bị treo trên thập giá, các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão nhạo báng Người rằng: “Nếu ông là vua Do thái; thì hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta tin nào” (Mt 27, 42).
Trong thực tế, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã tự ý nộp mình chịu khổ hình và chịu chết trên cây Thánh Giá, một nghịch lý của Vua Giêsu thể hiện thánh ý Chúa Cha trên sự bất tuân của tội lỗi. Chính sự hiến mình làm của lễ đền tội này mà Chúa Giêsu đã trở thành Vua vũ trụ, như Người đã tuyên bố với các tông đồ sau khi sống lại, “Thầy đã được trao mọi quyền năng trên trời dưới đất” (Mt 28, 18).
Quyền bính của Chúa Kitô Vua ở đây là gì? Hẳn không phải là quyền bính của các vua trần thế và những kẻ có thế lực; nhưng là quyền năng thiêng liêng có thể ban sự sống thần linh để giải thoát chúng ta khỏi sự dữ, đánh bại sự thống trị của thần chết. Ðây là quyền năng yêu thương, một quyền năng có thể rút từ sự ác ra sự lành, làm cho tâm hồn chai đá ra mềm mỏng, mang lại hòa bình cho những cuộc xung đột, biến tăm tối thành hy vọng. Vương quốc của Chúa Kitô không hề áp đặt bất cứ điều gì và luôn tôn trọng tự do của con người. Khi Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” (Ga 18, 33) Bị hỏi, nhưng với tư cách là Vua, Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của Philatô, mà Chúa hỏi lại ông: “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” (Ga 18, 35)
Khi thi hành sứ mạng công khai, đã có lần đám đông dân chúng muốn tôn Chúa lên làm vua, nhưng Người lại chốn khỏi Vương quốc thế trần, đúng như Chúa nói với Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18, 36). Chúa là Vua không có quân đội, không khí giáp.
Cung điện Người ở đâu? Thưa, Người ngự trị trong lòng chúng ta. “Vua không có cung điện” nhưng toàn trái đất thuộc về Người. Nhờ Người mà thế giới này được tác tạo. Trước Philatô, kẻ có quyền ra án tử cho Chúa, Chúa khẳng định, “Tôi đến trần gian để làm chứng cho Chân Lý” (Ga 18, 37).
Vậy chúng ta theo ai: Thiên Chúa hay ma quỷ? Sự thật hay giả dối? Tùy chúng ta lựa chọn. Chọn theo Chúa Kitô không bảo đảm cho chúng ta sự thành công theo những tiêu chuẩn thế gian, nhưng bình an và niềm vui thì chỉ mình Người mới có thể mang lại cho chúng ta. Với Người, chúng ta có thể xây dựng yêu thương và an bình. Chúa là “Vua, của một vương quốc gồm những người tội lỗi!” Chúng ta phải thường xuyên lặp lại: Xin thương đến con là kẻ tội lỗi, để chúng ta nhìn anh em mình với lòng từ bi. Họ cũng là những tội nhân nghèo như chúng ta. Chúa là Vua của những người nghèo! Chúng ta biết tình yêu đầy ân sủng của Thiên Chúa là sự giàu có của chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ thiếu nó. Chúa là “Vua của một vương quốc huynh đệ!” Hãy là những người anh em yêu thương nhau! Trong mắt Chúa Giêsu, Bình an và Tình yêu lan tỏa. Vì vậy, Tin Mừng trình bày Chúa Giêsu, Vua vũ trụ bị kết án, Philatô là kẻ xét xử Người.
Khi nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Philatô hỏi lại: “Vậy ông là Vua ư?” Chúa Giêsu đáp: “Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi” (Ga 18, 36-37).
Chúng ta đang ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Chúng ta có bổn phận làm cho tình yêu, sự dịu dàng, hiền lành, vẻ đẹp trở lại vương quốc này. Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Người đã không đến để xét xử nhân loại, nhưng là để cứu. Người là Đấng công chính duy nhất, thế chỗ cho tội nhân.
Để phục vụ Đức Giêsu Vua, chúng ta phải chấp nhận làm việc mỗi ngày cho Triều Đại cánh chung đang đến... điều ấy không xảy ra mà không có chiến đấu: Vâng, Vua chúng ta yêu cầu chúng ta cầm sẵn vũ khí trong tay để chiến đấu, chống lại “các thế lực của bóng tối” (Cl 1, 13). Cùng với Người, chúng ta nắm chắc phền thắng (x. Ga 16, 33), nhưng với điều kiện là chúng ta cũng tham gia chiến đấu, chiến đấu hàng ngày với ba thù là ma quỉ, thế gian và xác thịt… vì “những ngày là xấu xa! “ (Ep 5, 16) và rằng “cả thế giới nằm dưới sự thống trị của ma quỷ” (1 Ga 5, 19).
Làm cho Chúa hiển trị, tiên vàn vẫn là làm cho Chúa hiển trị trong lòng chúng ta... khi tuyên xưng đức tin trong cuộc sống hàng ngày cách cá nhân hay cộng đoàn, chúng ta không xấu hổ! (LG §31). Lời Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói cùng dân chúng ngày 15 tháng 6 năm 1993 vẫn còn vang vọng: “Hãy đi đến các ngả đường, sống đức tin của chúng con với niềm vui vẻ, hãy mang đến cho mọi người Ơn cứu độ của Đức Kitô, ơn ấy phải thâm nhập vào trong gia đình, trường học, trong các nền văn hóa và đời sống chính trị!” Đừng sợ phải đi ngược dòng! Làm cho Đức Kitô hiển trị, là trở nên tông đồ lôi kéo nhiều linh hồn về với Chúa là Vua Vương Quốc Yêu Thương và An Bình.
13. Giêsu vua tình yêu
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Khi nói tới “vua” là chúng ta nghĩ ngay đến ngai vàng, hoàng cung, quyền lực, kẻ hầu người hạ, quan quân, vũ khí... Nhưng ngày nay người ta thường gán chức vua cho những ai thành công trong một lãnh vực nào đó. Chẳng hạn, Ông Henri Ford là vua xe hơi, cầu thủ bóng đá Maradona là vua sân cỏ, rồi có vua đầu bếp, vua mì tôm, vua ca nhạc… Còn Đức Kitô hôm nay chúng ta tuyên xưng Ngài là vua, thì Ngài là loại vua nào? Khi nghe những trang Tin Mừng và nhìn vào chính con người Chúa Giêsu ta chẳng thấy Ngài có gì vua cả. Ngược lại, ta chỉ thấy Ngài lang thang trên những nẻo đường bụi bậm xứ Palestine, với một vài đệ tử ít ỏi, còn xung quanh là những người nghèo nàn khố rách áo ôm, tật bệnh, tội lỗi….
Nhưng, thực tế, Chúa Giêsu là Vua, Vua của mọi người. Ngài là con người tuyệt vời nhất với đầy đủ những đức tính hoàn hảo nhất. Ngài còn là Vua trên tất cả các vua trần gian vì Ngài là Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên trời đất muôn vật muôn loài và thống trị vũ trụ này. Mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên Vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng treo trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền uy vũ lực, nhưng dựa trên tình yêu thương xót. Một vị vua không có lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người. Vương quốc của Ngài là vương quốc của chân lý và sự thật, cho nên Ngài quả quyết với ông Philatô và chúng ta hôm nay rằng: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37).
Sự thật là gì? Quan Philatô hỏi nhưng Chúa Giêsu không trả lời bằng lời nói mà bằng hành động của Ngài là yêu thương cứu độ hết mọi người. Sự thật cứu độ của Chúa Giêsu là yêu thương cứu độ hết mọi người. Qủa thế, trọn cuộc sống dương gian của Chúa Giêsu, từ lúc chào đời cho đến chết và phục sinh, được gồm tóm trong hai chữ “YÊU THƯƠNG”. Thứ nhất, vì yêu thương, “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Thứ hai, vì thương yêu, Chúa Giêsu đã mạc khải Chúa Cha (Ga 8,19) và căn tính của mình cho mọi người biết Ngài là Con Thiên Chúa (Ga 10,36), là Đấng Mêsia (Ga 1,36-41) được Chúa Cha sai đến (Ga 3,17a). Ngài còn mạc khải Nước Thiên Chúa để phàm ai tin vào Ngài sẽ được Nước ấy làm gia nghiệp (Ga 3,5) và được sống muôn đời (Ga 3,15). Thứ ba, vì yêu thương, Ngôi Hai Thiên Chúa đến thế gian như người tôi tớ phục vụ và cứu độ hết mọi người (Ga 5,20-27). Cuối cùng, vì yêu thương, Chúa Giêsu đã hiến thân mình trên cây thập giá để cho mọi người được hưởng tình yêu dạt dào của Thiên Chúa (Ga 14,1-3). Vì vậy, trong bài đọc 2 Thánh Gioan xác tín rằng: “Đức Giêsu Ki-tô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh em ân sủng và bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người” (Kh 1,5-6).
Vậy, vương quốc của Vua Giêsu còn là vương quốc của Tình yêu, Chúa Giêsu là vua Tình yêu, nên chỉ những ai sống yêu thương mới đích thực là thần dân của Người. Qủa thế, giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy khi lãnh nhận Bí Tích Rủa Tội, chúng ta tham dự vào chức tư tế, sứ mạng Ngôn Sứ và vương đế tình yêu của Chúa Giêsu. Vì thế, qua mỗi thánh lễ Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta khi ra về phải thi hành sứ mạng vương đế tình yêu trong cuộc sống. Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu chân tình, chung thủy, trung tín và tình yêu hy sinh cho người mình yêu. Cho nên, Chúa Giêsu dạy rằng không có tình yêu nào quý hơn tình yêu của người thí mạng vì mọi người mình yêu dù người ấy là kẻ thù của ta. Đây là nét đặc trưng nổi bậc nhất của đạo Công Giáo chúng ta.
Chúng ta được hạnh phúc trở thành con cái, anh em và là công dân của Nước Trời, là thần dân đích thực của Giêsu, Vua Tình yêu. Cho nên, yêu thương là lẽ sống của từng cá nhân, gia đình, và cộng đoàn. Vì “Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời”. Có Chúa trong tâm hồn chúng ta luôn cảm thấy bình an, hạnh phúc. Đồng thời Vua Giêsu sẽ thúc dục chúng ta học và sống với Ngài: lòng nhân hậu, thương xót người, hiền lành, khiêm nhường và phục vụ hết mọi người. Còn mọi thứ khác chỉ là kiểu cách, rườm rà, câu nệ, phô trương, là thanh la phèng phèng nghe đã lỗ tai rồi bay đi thôi. Vì vậy, Thánh Gioan tông đồ nói rằng: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào đó, chúng ta biết mình đứng về sự thật và sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1Ga 3,18-19). Đặc biệt hơn nữa, Năm Thánh Lòng Thương Xot sắp khai mạc, trong Tông Sắc “Dung Nhan Lòng Thươn Xót”, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta rằng: “Nếu chúng ta ngước mắt nhìn lên Chúa Giêsu và ngước mắt nhìn lên dung nhan nhân hậu của Ngài, chúng ta sẽ thấy được Tình Yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh. Tình Yêu này rõ ràng và trở nên cụ thể trong toàn bộ cuộc sống của Chúa Giêsu. Ngôi vị của Ngài không phải là bất cứ điều gì khác ngoài Tình Yêu, một Tình Yêu tự hiến(số 8§1). Tình Yêu nhân hậu của các Ki-tô hữu cũng phải nằm trên hành trình yêu thương của Chúa Giêsu Vua. Người yêu thương chúng ta thế nào thì con cái cũng phải yêu thương thể ấy. Nếu như Thiên Chúa là Đấng Thương Xót thì chúng ta cũng được kêu gọi để xót thương nhau” (số 9§4).
Lạy Chúa, chúng con là đôi tay và đôi chân của Chúa, là miệng lưỡi và trái tim yêu thương của Người. Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa, xây dựng một thế giới yêu thương và chân thật, vui tươi và hạnh phúc, để Nước Chúa hiển trị muôn đời. Amen.
14. Vị vua không giống ai
Mỗi năm, cứ đến Chúa nhật cuối cùng thì Phụng vụ lại mừng kính Đức Kitô là Vua. Thế nhưng, Ngài là vua theo ý nghĩa nào?
Khi Philatô chất vấn Chúa Giêsu: Ông có phải là vua không? Chúa Giêsu đã trả lời: Phải, tôi là vua. Cũng là một khái niệm làm vua, nhưng Philatô có kinh nghiệm khác, người Do Thái có kinh nghiệm khác, còn Chúa Giêsu thì cũng có kinh nghiệm khác.
Philatô thì coi làm vua là người ngự trị trong vinh quang, theo kiểu Caesar lúc bấy giờ đang trị vì tại Rôma. Người Do Thái thì coi làm vua là phải nổi lên để giải phóng dân tộc khỏi sự bóc lột và kìm kẹp của đế quốc Rôma, đem lại cho quê hương đất nước một thời đại hoàng kim. Còn Chúa Giêsu thì sao? Quan niệm của Ngài có mang nặng màu sắc chính trị và trần tục hay không?
Khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai, các Phúc Âm đều nói tới những cơn cám dỗ Ngài phải chịu trong hoang địa. Chủ đề của những cơn cám dỗ ấy xoay quanh và gắn liền với uy quyền, với khái niệm làm vua. Và chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đương đầu, đã khước từ sự cám dỗ ấy, không phải chỉ ở trong hoang địa, mà còn kéo dài trong suốt cả cuộc đời của Ngài. Sự cám dỗ ấy đến từ phía dân chúng, cũng như đến từ thẳm sâu cõi lòng của Ngài. Chẳng hạn sau khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, dân chúng muôn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã lẩn trôn họ. Đứng trước tòa án của Philatô cũng vậy. Sau khi xác quyết mình là vua, thì Ngài đã lập tức xác định ngay lập trường của mình: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì binh đội của tôi đã chiến đấu, để tôi không bị nộp cho người Do Thái.
Bởi đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu không từ chối tư cách làm vua của Ngài, nhưng kinh nghiệm làm vua ấy có một nét khác lạ và sâu xa. Chính vì thế, Ngài đã khước từ mọi kinh nghiệm trần gian của việc làm vua. Thái độ của Chúa Giêsu là luôn tránh né, để khỏi gây hiểu lầm về tính cách thiên sai của Ngài: Ngài đã tự coi mình là người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa mà tiên tri Isaia đã nói tới. Ngài đến để hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Như thế, chúng ta thấy có một sự đối chọi gay gắt giữa khái niệm làm vua để thống trị và quy hướng về mình, với hình ảnh người tôi tờ đau khổ, thinh lặng và chịu đựng mọi khinh bỉ, nhưng nhờ đó đã làm phát sinh ra sự sống ơn sủng, cũng như làm phát sinh ra sự giải thoát khỏi những trói buộc của tội lỗi. Hẳn thực Chúa Giêsu đã sống cho người khác, đã xử trí các tương quan bằng lòng yêu mến. Ngài đã lên ngôi khi bị treo trên thập giá. Giới luật Ngài dùng để cai trị, đó là giới luật yêu thương. Ngài đã làm gương cho chúng ta về tinh thần phục vụ bằng việc quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài là một vị vua không ngai vàng, không cung điện, không binh đội. Ngài là một vị vua không giống ai.
Vì thế mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem: Tôi phải làm gì? Tôi phải sống thế nào, để xứng đáng là thần dân trong vương quốc của Ngài.
15. Vua sự thật -- ‘Xây Nhà Trên Đá’ --Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Chúng ta mừng lễ Đức Giêsu làm vua. Đáng lẽ Tin mừng phải diễn tả quang cảnh tôn vinh Đức Giêsu như một ngày lễ phong vương long trọng theo phong cách lễ nghi tôn vương của các vua trần gian. Nhưng Tin mừng chỉ kể lại phiên tòa xét xử Đức Giêsu. Trên ngai, chánh án toàn quyền Philatô; dưới quảng trường nguyên cáo là các thượng tế và dân chúng; đứng trước vành móng ngựa, bị cáo là Đức Giêsu đầu đội triều thiên gai, hai tay bị trói.
Chánh án hỏi: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”. Bị cáo hỏi lại Chánh án: “Ông tự ý nói điều ấy hay có ai khác nói với ông về tôi?”. Chánh án đáp: “Tôi đâu có phải là người Do thái, dân ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi”.
Toàn quyền Philatô đại diện hoàng đế La mã, cai trị nước Do thái. Thời đó, đế quốc La mã thống trị 8 nước Âu châu (Ý, Pháp, Anh, Đức, Áo, Nam Tư, Romani, Hy Lạp) 5 nước Á châu (Thổ Nhĩ Kỳ, Syrie, Lyban, Palestine, Do thái) và 5 nước Phi châu (Ai cập, Lybie, Tunisi, Algêrie, Marốc). Chánh án Philatô hỏi bị cáo Giêsu, Đức Giêsu không trả lời, nhưng hỏi lại Philatô và Philatô đã phải trả lời: “Tôi đâu có phải là người Do thái, dân ông và các trưởng tế đã nộp ông cho tôi”.
Câu trả lời của Philatô đã cho thấy ông thú nhận ba điều:
Thứ nhất: Philatô là chánh án xét xử Đức Giêsu, nhưng Đức Giêsu không bị dồn vào thế bị động, không bị xét xử, Người đã chủ động, đứng ra xét xử Philatô. Rõ ràng Philatô đã phải thú nhận mình không biết gì về Đức Giêsu, ông chỉ nghe dân chúng và các thượng tế tố cáo Đức Giêsu nổi loạn làm vua. Toàn quyền Philatô là chánh án không biết bị cáo có tội gì, không biết sự thật mà dám xét xử thì làm sao có công lý.
Thứ hai: Toàn quyền Philatô nắm giữ quân đội La mã hùng mạnh để giữ gìn an ninh trật tự, để chiến đấu dẹp những kẻ nổi loạn chống lại hoàng đế; thế mà ông không hề phải dùng quân lính dẹp loạn, quân ông không phải chiến đấu với Đức Giêsu. Như vậy, Đức Giêsu có nổi loạn đâu! Sao ông dám kết án Đức Giêsu nổi dậy làm vua? Ông đã xét xử mù quáng.
Thứ ba: Philatô thay mặt hoàng đế cai trị dân Do thái, như vậy, ông cũng là vua nước nhỏ, vua dân Do thái. Vua phải biết thương dân. Ông chưa biết người dân có tội, đã bắt trói, cầm tù, đánh đập, đội mạo gai, ông thật là thứ vua tàn ác, dã man. Quả thực, mấy năm trước đó, Philatô đã đóng đinh hàng ngàn người thuộc phái Nhiệt thành cuồng tín (Zelotes) nổi loạn (Lc. 13, 1-3).
Sau khi Philatô thú nhận tội lỗi của mình, Đức Giêsu mới tuyên bố: “Nước Tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước Tôi thuộc về thế gian này, thì người của Tôi đã chiến đấu không để Tôi bị nộp cho người Do thái”.
Trước hết, Đức Giêsu đã phân biệt nước Người không thuộc về thế gian này. Nước thế gian như đế quốc La mã, vua có binh hùng tướng mạnh, đi xâm lăng thống trị các dân tộc yếu hơn, bắt họ làm nô lệ cho đế quốc. Vua tha hồ bóc lột đàn áp để giết người cướp của. Vua độc tài, độc tôn muốn làm gì thì làm, muốn giết ai thì giết, muốn phong ai thì phong, dù là kẻ bất tài, thất đức.
Thứ đến, nước Đức Giêsu cũng không phải nước dân Do thái mong đợi. Nước Do thái mong ước là nước con vua Đa vít: bách chiến bách thắng để giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, và còn thống trị muôn dân nữa. Vua Cứu thế sẽ khôn ngoan hơn Salomon để các vua chúa vương hầu khắp thiên hạ phải tôn vinh Ngài và “đổ về thủ đô Giêrusalem, nguồn phong phú biển cả, và của cải muôn dân đến cho ngươi. Lạc đà đàn đàn che rợp đất, tải vàng với hương trầm, hết thảy kéo lại cho ngươi” (Is. 60, 5-6). “Ngươi sẽ được gọi là Cố vấn kỳ diệu, thần Anh dũng, Cha muôn thuở, Vua thái bình, quyền bính vô tận trên ngai Đa vít” (Is. 9, 5-6).
Sau cùng, nước Đức Giêsu là nước không thuộc về thế gian này, không có quân tướng, vũ khí nên Người sẵn sàng nộp mình cho người Do thái. Nước Người là nước huyền nhiệm, nước trời muôn thuở, vô biên, không có lãnh thổ, không thuộc trần gian, nhưng có từ nguyên thủy đến tận cùng thế giới (Alpha và Ômêga), nước thuộc về Đấng đã có, đang có và sẽ đến.
Tiếp đến, Đức Giêsu nói: “Tôi sinh ra, đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật, ai đứng về phía sự thật đều nghe tiếng Tôi”. Sự thật đó là gì? Sự thật đó là đường cứu độ đưa con người đến sự sống muôn đời. “Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Nước Đức Giêsu khác hẳn nước thế gian. Nước thế gian chỉ đưa đến nô lệ, bất công, chiến tranh và chết chóc.
Đức Giêsu đã kêu gọi Philatô nghe tiếng Người đứng về phía sự thật. Nhưng bị đắm chìm trong quyền bính, danh vọng, Philatô đã đứng về phía gian ác của phường bất chính đổ vạ cáo gian nên đã trao Người cho lý hình đóng đinh và đâm thâu vào Thánh Tâm Người (Ga. 19, 34). Thánh Tâm đầy lòng thương xót đã rộng lòng khoan dung tha thứ:
“Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết”. Nhận ra vua sự thật, vua tình thương, anh trộm lành đã nói: “Ông này có làm điều gì sai trái đâu!”. Và anh đã cầu nguyện với Người: “Lạy Đức Giêsu, khi nào vào nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Anh chỉ dám xin nhớ, không dám xin cứu, không dám xin được vào nước Người vì anh thấy mình quá bất xứng, quá tội lỗi. Nhưng Đức Giêsu thấy lòng thông cảm khiêm tốn của anh, Người đã dịu dàng nói với anh: “Tôi nói thật, hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên nước thiên đàng” (Lc. 23, 41-42).
Nhận ra vua sự thật, vua tình thương, viên đại đội trưởng đã tuyên xưng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này quả thật là công chính”. Và tất cả đám người đã tụ tập đông đảo xem thấy cảnh tượng ấy, đều đấm ngực trở về nhà (Lc. 23, 47-48).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận biết Chúa là vua sự thật để chỉ đường chân thật cho chúng con đi, là vua nhân ái, đến hy sinh hiến mạng sống cho chúng con được sống muôn đời.
16. Kitô Vua
Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta ghi nhận một cuộc hỏi cung kỳ lạ trong đó bị cáo lại đặt vấn đề với quan toà và hướng dẫn cả cuộc tranh luận về tước hiệu Vua dân Do Thái.
Thực vậy, Chúa Giêsu biết rằng chính dân Do Thái đã tố cáo Người xưng mình là vua. Nếu không có lời tố cáo này, Philatô chẳng bao giờ có ý bắt và kết án Người. Và bây giờ, nếu ông có quan tâm thì cũng chỉ vì khía cạnh chính trị của lời tố cáo này mà thôi, bởi vì ông đại diện cho hoàng đế Rôma, cai trị đất nước Do Thái.
Nhưng Chúa Giêsu nói tiếp với quan tổng trấn rằng: Nước Người không thuộc về thế gian này. Đối với người Do Thái cũng như đối với Philatô, danh từ vua chỉ có một ý nghĩa duy nhất là một lãnh tụ chính trị, có vương quốc, có thần dân với bộ máy cai trị và quân đội, để bảo vệ chủ quyền và an ninh cho đất nước. Nếu Chúa là vua theo nghĩa này thì hẳn thần dân của Người đã không để cho Người rơi vào tay họ. Chính họ cũng biết điều đó. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Người đã từ chối ý định của họ là muốn tôn Người làm vua.
Chúa là Vua, nhưng Người không cạnh tranh với hoàng đế Rôma vì nước Người không thuộc về thế gian này. Vương quốc của Người được thiết lập ngay trong lễ Vượt qua, khi Người phó mình chịu chết để vâng phục thánh ý Chúa Cha: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta. Đức Kitô thi hành vương quyền của mình bằng cách kéo loài người khỏi sự chết để dẫn đưa họ vào nhà Chúa Cha.
Điều nghịch lý là ở chỗ ngay trong cuộc khổ nạn, Đức Kitô mới xưng mình là vua và ngay khi bị treo trên thập giá Người mới chứng tỏ mình thật sự là vua. Trong suốt cuộc xét xử, Philatô đã tỏ ra là một quan toà nghiêng ngửa và yếu đuối. Ông ta biết Chúa Giêsu không có tội gì và muốn tìm cách tha Người, nhưng ông lại sợ áp lực của người Do Thái: Nếu quan tha nó thì quan không phải là bạn hữu của hoàng đế.
Thế thì nguy rồi, chức vụ của mình, gia sản của mình và ngay cả mạng sống của mình cũng có thể tiêu ma. Thôi mặc kệ cho sự thật, mặc kệ cho bị cáo phải tử hình. Ta lo cho ta trước đã. Đó là một con người không trung thực và hèn nhát. Dù biết Chúa Giêsu không có tội muốn làm loạn, muốn xưng vương, nhưng Philatô vẫn cứ treo bản án: Giêsu Nadarét, vua dân Do Thái.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám đứng về phía của chân lý của sự thật hay không? Chúng ta có dám chấp nhận những hy sinh, những thiệt thòi để cho Nước Chúa được trị đến hay không?
17. Đức Giêsu Vua hoàn vũ
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Elvis Aron Presley (1935–1977) được gọi là Vua nhạc rock and roll, thường được tôn vinh Ông Vua nhạc rock, là một ca sĩ và diễn viên người Mỹ. Tạp chí Rolling Stone từng viết “Elvis chính là rock 'n roll” và phần lớn tác phẩm của Elvis là hoàn hảo. Trong suốt sự nghiệp ca hát của mình kéo dài đến 2 thập kỷ, Elvis Presley đã lập và phá vỡ những kỷ lục về lượng khán giả đến xem trình diễn, cũng như lượng đĩa nhạc được tiêu thụ.
Là một trong những tên tuổi nổi tiếng của làng nhạc, Presley sống một cuộc đời xa hoa, phú quý. Nhưng hiếm ai biết, tuổi thơ của anh rất thiếu thốn. Cậu bé Elvis sinh ngày 8/1/1935 trong một mái lều xiêu vẹo ở Tupelo, Mississippi. Dù nghèo khó, thường phải ăn chỉ có độc bánh mì, nhưng bù lại, gia đình chăm sóc Elvis Presley khá quy củ và cẩn thận. Cho đến tận năm 15 tuổi, bà mẹ vẫn phải đưa cậu đến trường, để ngăn không cho lũ trẻ chọc ghẹo con bà. Đến sinh nhật 11 tuổi, Elvis lần đầu tiên được tiếp xúc với nhạc cụ, đó là một cây guitare. Ban đầu, cậu tỏ vẻ hơi hậm hực vì cậu thèm được có một chiếc xe đạp mới, hay một khẩu súng, nhưng dần già, Presley bị cây đàn cuốn hút đến quên cả ăn ngủ.
Chỉ vài năm sau, trên các sân khấu bắt đầu xuất hiện một anh chàng khá điển trai, biểu diễn hết mình, với những cú lắc hông dữ dội, đầy gợi cảm. Lần đầu tiên được các thiếu nữ ở dưới khán đài reo hò, la hét, Elvis đã băn khoăn hỏi ông bầu: “Liệu tôi có làm gì sai không mà bị mọi người la dữ như vậy?” để rồi nhận được câu trả lời: “Dù anh có làm gì đi nữa, thì tốt hơn cả là trở lại sân khấu ngay lập tức và tua lại màn trình diễn đó đi!” Đến năm 20 tuổi, Elvis kiếm được hợp đồng ghi âm đầu tiên, trị giá chỉ có 30.000 USD, nhưng một năm sau, anh đã làm cả thế giới phải ngỡ ngàng, khi giành liên tiếp ngôi vị quán quân ở các bảng xếp hạng và nhanh chóng trở thành triệu phú.Trong thời gian ở Đức, Elvis làm quen với cô nàng Priscilla Beaulieu và sau 8 năm tìm hiểu, họ quyết định đi đến hôn nhân. Lấy vợ, anh trở nên “ngoan ngoãn” hơn hẳn, và sau một lần tuyên truyền về tác hại của ma tuý, Elvis đã được Tổng thống Mỹ Nixon trao tặng huân chương đặc biệt. Tuy nhiên, đang trong thời kỳ đỉnh cao sự nghiệp thì Elvis bị bắt đi lính, và chàng thanh niên này đã tỏ ra mình là một kẻ văn võ song toàn. Không chỉ giành tiếng vang trong lĩnh vực nghệ thuật, anh còn được các đồng đội vị nể khi đoạt được đai đen Karatê.
Sau khi đi quân dịch, Presley lại trở về ánh đèn sân khấu. Năm 1973, show hoà nhạc đặc biệt Elvis: Aloha From Hawaii, được phát sóng trực tiếp trên 40 quốc gia, đã thu hút trên 1 tỷ người xem, thậm chí còn nhiều hơn cả chương trình cuộc thám hiểm đầu tiên lên mặt trăng. Nhưng sau sự kiện này, sức khoẻ của Elvis tụt dốc không phanh. Cuộc hôn nhân tan vỡ càng làm ông Vua nhạc rock and roll lún sâu vào vũng lầy đen tối. Gần như không đêm nào mà anh không phải dùng đến thuốc ngủ. Đến ngày 16/8/1977, ngôi sao sáng đã tắt hẳn trên bầu trời âm nhạc, để lại bao nỗi thương tiếc cho fan hâm mộ. (Wikipedia)
Hôm nay Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Kitô Vua. Vị Minh Quân Giêsu vô cùng vĩ đại, cao sang và trường cửu, không ồn ào, hào nhoáng, phô trương, cũng chẳng phù phiếm như Vua Rock kia. Vì Người là Đức Vua Tình Yêu, Đức Vua Công Chính, Đức Vua Bình An. “Nhờ Người, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” (Ga 1, 3 - 4)
“Ông có phải là vua dân Do Thái không?” Quan Tổng trấn Philatô mỉa mai hỏi Đức Giêsu. Người không nhận cũng chẳng chối, mà hỏi lại điều đó do ai nói ra, rồi giải thích cặn kẽ. “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này.” Nước Chúa thật kỳ lạ, hoàn toàn trái ngược với thế gian, nhưng vẫn hiện diện và tồn tại.
Đức Vua Tình Yêu
“Thiên Chúa là Tình Yêu.” Thánh Gioan đã long trọng khẳng định trong Thư thứ nhất. (1Ga 4, 16) Bởi vì “Thiên Chúa yêu thế gian đến ban Con Một mình, để ai tin vào Con thì không phải chết song được sự sống đời đời.” (Ga 3, 16) Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, thể hiện công khai Tình Yêu qua cuộc đời rao giảng Tin Mừng. Vì yêu thương nhân loại, Người mặc lấy thân xác phàm nhân, nghèo khó, cơ hàn, tầm thường, để gần gũi, an ủi, vỗ về, dẫn dắt mọi người đến sự sống vĩnh cửu. Người chính là ánh sáng, soi chiếu vào chốn tăm tối, tội lỗi, để cứu thoát con người khỏi lầm lạc, chết chóc.”Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm.” (Ga 12, 46)
Nhân ái, khiêm nhu, hiền hậu, khoan dung, tha thứ, Đức Vua Giêsu luôn mãi yêu thương mọi người, nhất là những ai lạc bầy, lẻ đàn, như người thu thuế, phụ nữ hư hỏng, những kẻ bệnh tật, nghèo khổ, bị xã hội loại trừ phân biệt…”Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian.” (Ga 12, 47)
Đức Vua Giêsu đã hiến tế chính thân mình để minh chứng cho Tình Yêu vô biên của Người với nhân loại. “Không tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình.” (Ga 15, 13).
Đức Vua Công Chính
“Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích làm chứng cho sự thật.” (Ga 18, 36-37) Đức Giêsu khéo léo xác nhận chức vụ cao cả, vĩ đại của Người, là làm chứng cho sự thật, cho sự công chính giữa thế gian, đang bị chìm đắm, mê muội trong sự giả dối, gian tà, lưu manh, háo danh, háo lợi. Người đem Tin Mừng đến hạ bệ, giải thoát, xua đuổi, những ngẫu tượng, những tà thần ra khỏi tâm hồn con người. “Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái.” (Cl 1, 13) Tiếc thay, không phải ai cũng sẵn sàng mở lòng đón nhận Đức Vua Công Chính.”Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.”(Ga 1, 11)
Chỉ duy nhất Đức Vua Giêsu mới có thể dẫn dắt con người đến nguồn sống vĩnh cứu. Bởi vì Người chính là chánh đạo, là ánh sáng cứu độ: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14, 6)
Đức Vua Bình An
“Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28 - 30) Trong một thế giới ồn ào, xô bồ, thực dụng, chụp giựt cơ hội làm giàu, tranh nhau chức quyền, con người điên đảo, quay cuồng, chạy theo gía trị vật chất, phàm tục, làm sao có bình an trong tâm hồn? Phước thay, Đức Giêsu đã kịp thời đem lại bình an cho nhân loại. “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2, 14)
Sự bình an đích thực không thể bỗng dưng mà có, nếu không nhờ Đức Vua Giêsu chịu hy sinh, hiến tế trên đồi Golgotha. “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1, 20)
Đức Vua Bình An luôn thân thương mời gọi con người gia nhập vào Nước Chúa, sống theo đường lối của Người, theo chân lý của Người, tuân thủ theo Bát Phúc, thì mới được hưởng phúc an bình và niềm vui. “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14, 17)
“Con nắm vững một đường lối tông đồ: “Thí mạng vì anh em.” Vì không có tình yêu nào lớn lao hơn. Con hao mòn từng giây phút và sẵn sàng tiêu hao, để chinh phục anh em về với Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 981)
Lạy Chúa Giêsu, Vua trên hết các vua, nhưng không thống trị, mà yêu thương phục vụ, không chỉ thị ra lệnh, mà chỉ khuyên nhủ, ủi an, không gay gắt kết án, mà chỉ ra tay cứu giúp, không trừ khử, mà luôn đi tìm kẻ lạc đường trở về. Xin Người dạy cho chúng con sống trung thành với Tin Mừng, để xứng đáng làm công dân Nước Trời.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa mà vô cùng khiêm hạ, hiền hậu, từ bi, nhân ái, xin Mẹ giúp chúng con cải tà quy chánh, một lòng một dạ tuân giữ Hiến Chương Nước Trời, để được Đức Vua Giêsu thương yêu mãi. Amen.
18. Thiên Vương
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Nhu cầu quan trọng nhất của một quân vương là quyền lực. Vị quân vương phải theo các quy tắc thực tế để nắm giữ quyền lực này. Có hai cách duy trì quyền lực: luật pháp và sức mạnh. Cách thứ nhất thì tốt nhưng luôn luôn không đủ. Vị quân vương giỏi phải dùng cách thứ hai, cách của sức mạnh.
Quân vương phải biết học hỏi từ bản tính của dã thú, biết kết hợp sức mạnh của sư tử với sự tinh ranh của cáo. Sư tử không thể tự bảo vệ mình tránh các cạm bẫy, còn cáo thì lại không thể chống lại sói. Vì thế, cần phải là cáo để nhận ra những cạm bẫy và là sư tử để doạ sói.
Quân vương không cần giữ lời hứa, nếu có điều gì chạm vào quyền lợi của ông ta. Phần lớn con người thì bất lương, vô ơn, lường gạt, nói dối, sợ nguy hiểm và tham lợi, cho nên tại sao vị quân vương phải lương thiện với họ.
Một quân vương nên để cho người dân yêu mến hay sợ hãi? Có thể ông ta cần cả hai. Nhưng nếu phải chọn một trong hai, thì an toàn hơn là để cho người dân khiếp sợ. Tuy nhiên tôi cho rằng vị quân vương nên làm ra vẻ bác ái và trọng danh dự, vì dù sao phần lớn con người thường bị lường gạt bởi sự phô trương, và tôi đồng ý rằng một quân vương không kiểm soát được mình thì giống như một kẻ điên, và không còn điều nghi ngờ về một chính quyền được điều hành bằng luật pháp.(Niccolò Machiavelli, Le Prince)
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến vương quyền. Quan Philatô hỏi Chúa Giêsu:”Ông có phải là vua dân Do Thái không?” Thay vì trả lời, Chúa Giêsu lại đáp lại bằng một câu hỏi: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói về tôi?” Quan Philatô phủ nhận mình không là dân Do Thái, rồi lại hỏi câu khác: “Ông đã lảm gì?”Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi này, mà khẳng định môt điều hoàn toàn xa lạ với câu nghi vấn nêu ra.
Quan Philatô trở lại câu hỏi ban đầu: “Vậy ông là vua sao?” Chúa Giêsu lại khéo léo tránh né: “Chính ngài nói rằng tôi là vua.” Lần thứ hai Người tế nhị từ chối vương quyền trần thế.
Quân Vương
Quan Philatô đã cố ý gài bẫy Chúa Giêsu nhìn nhận vương quyền, nhằm hai mục đích, trước là ghép tội mưu phản, sau là bêu riếu, sỉ nhục Chúa Giêsu. Nhưng Người đã khôn ngoan đối đáp, lấy lại thế chủ động, cật vấn trở lại, khiến quan Philatô lúng túng, phải thanh minh, kẻo bị liên lụy, mang tiếng là a dua với dân Do Thái, cố tình phong vương cho Chúa Giêsu, có thể bị mang tội phản quốc, khiến ông phải vội đính chính ngay:”Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi.”
Nếu muốn làm vua, Chúa Giêsu đã có nhiều cơ hội được lên ngôi nhờ chính quần chúng tôn phong, như sau khi hai lần hóa bánh nuôi hàng ngàn người, như khi được chào đón trọng thể vào Đền Thánh Giêrusalem…Nếu thành quân vương, thì làm sao thoát được thói bá đạo để củng cố quyền lực, như Niccolo Machiavelli đã trình bày trong tác phẩm Quân Vương.
Nhân cơ hội thẩm vấn công khai, trước chính quyền đô hộ, Chúa Giêsu loan báo rộng rãi về Vương Quốc của Người, hoàn toàn thoát tục: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu, không để tôi bị nộp cho người Do Thái.”
Thiên Vương
Chúa Giêsu nhấn mạnh thêm một lần nữa: “Nhưng thật ra nước tôi không thuộc chốn này.” Như thế, Người muốn nói đến Nước Trời, Thiên Quốc, niềm hy vọng và cứu cánh của con người. Bởi vậy, Người khẳng định vai trò và nhiệm vụ khi đến thế gian: “Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: Làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” (Ga 18, 37).
Vương quyền của Chúa Giêsu đặt trên nền tảng sự thật, yêu thương và phục vụ, chứ không phải lừa dối, mỵ dân, thù hận và áp bức như quân vương thế gian. Người còn làm gương, sống đúng theo lề luật Nước Trời, khiêm hạ, nhịn nhục, chịu khinh rẻ, phỉ báng, chịu cáo gian, vu khống, mà vẫn yêu thương và phục vụ cho đến hơi thở cuối cùng. Còn thần dân trung tín của Người là những người nghe theo và thực thi Lời Người dạy.
Tuy nhiên, con người thường vẫn hay tôn thờ đồng tiền như là vua của mình. Tiền như tiên, như Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già…Hoặc công danh là tiên đế, thái thượng hoàng. Hoặc hưởng thụ, xác thịt, xa hoa là quân vương. Chạy theo “đồ giả,” “hàng giả” bóng bẩy, hào nhoáng, màu mè, hấp dẫn, mà bỏ qua “đồ thật”, “hàng thật” chân chất, tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Mải mê chạy theo các thờ lạy các hôn quân hỗn tạp, vô tình xa lánh Minh Quân duy nhất. Tuy nhiên, Đấng Thiên Vương cứ vẫn nhẫn nại, chờ đợi các con dê ham vui, sớm sám hối, ăn năn, trở thành chiên ngoan, sớm nhận ra vị Vua đang yêu thương mình quá bội.
Đấng Thiên Vương Giêsu lấy thịnh tình đối xử với con dân. Luôn săn sóc, luôn nâng đỡ, luôn an ủi và mời gọi những kẻ khốn cùng, những con chiên lạc, những đứa con hoang đàng, tả tơi, kiệt lực, kiệt sức, sám hối trở về. Vì Tình Yệu vô bờ bến, Thiên Vương Giêsu đã phải hạ mình, chịu khổ hình và chịu chết, đền thay nguyện giúp cho mọi tâm hồn tội lỗi, hầu cứu rỗi thoát khỏi án phạt muôn đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy luôn làm Vua tâm trí và cõi lòng của con, để con có thể thuộc về Người từng giây phút trong cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con luôn biết sống xứng đáng là con dân của Vua Kitô, Đấng hằng chăm sóc và ban muôn hồng ân, để con được sống muôn đời trên Nước Trời. Amen.
19. Kitô Vua
Trong lịch sử nhân loại, không thiếu gì những ông vua bị đem ra xét xử và bị đem ra hành quyết. Nhưng khi một ông vua bị đem đi hành quyết thì ông ta đã bị truất quyền hay bị cướp quyền. Đối với những kẻ hành quyết hay lên án ông, thì ông không còn được nhìn nhận là vua nữa. Đó là trường hợp vua Louis 16 của nước Pháp chẳng hạn. Vì thế, người ta không bao giờ nói xử tử vua Louis 16 mà xử tử một người với cái tên thật của người ấy chứ không phải là tên hiệu.
Trường hợp Chúa Giêsu thì khác hẳn. Trước khi bị điệu ra trước tòa án Philatô, Ngài chưa bao giờ thực sự là vua, theo kiểu các vua chúa trần gian, tuy rằng Ngài đã có cơ hội lên ngôi nếu như Ngài muốn. Trái lại chỉ khi bị bắt và bị giải ra trước tòa tổng trấn Philatô, Ngài mới dõng dạc tuyên bố công khai: Phải, tôi là vua, tôi đã sinh ra và đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật.
Thực ra thì Chúa Giêsu không bao giờ trực tiếp khẳng định Ngài là vua, nhưng Ngài nói với Philatô: Nước tôi không thuộc về thế gian này, nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng quả thật, nước tôi không thuộc về thế gian này.
Câu trả lời muốn nói lên rằng Chúa Giêsu có một vương quốc, thế nhưng vương quốc đó ở đâu? Ở trên trời hay ở một hành tinh nào khác? Hay là vương quốc ấy chỉ có ở đời sau? Chúa Giêsu không bảo rằng: Nước tôi không ở thế gian này, mà Ngài nói: Nước tôi không thuộc về thế gian này.
Cũng như các môn đệ tuy ở giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, chúng ta có thể nói: Nước Thiên Chúa ở ngay giữa thế gian này, nhưng lại không thuộc về thế gian này. Bởi vì như thánh Phaolô cũng đã xác quyết: Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.
Điều ấy có nghĩa Nước Thiên Chúa là một thực tại tâm linh đã bắt đầu hình thành ngay giữa lòng thế giới hiện đại, nhưng không thuộc về trật tự hay những lãnh vực trần gian, do đó người ta không thể nói rằng: Nước Thiên Chúa đây này hoặc kia kìa, mặc dầu nước ấy đang thực sự ở giữa chúng ta.
Vương quốc của Chúa Giêsu không phải là một lãnh thổ, mà trước hết là cộng đoàn những con người tin theo Chúa và sống tinh thần bác ái yêu thương đối với mọi người. Bởi đó, những ai sống theo chân lý của tình thương, nghĩa là xác tín rằng chỉ có tình thương mới thực sự đem lại công lý hòa bình và hoan lạc cho loài người. Một khi xác tín như vậy, chúng ta sẽ đem hết tài năng, sức lực và thời giờ vào công trình xây dựng một cộng đồng huynh đệ bác ái: tất cả những người ấy sẽ tạo nên nước Đức Kitô ngay hôm nay, ở trong thế giới này.
Thế nhưng, không một công trình xây dựng nào mà lại không đòi hỏi mồ hôi nước mắt và đôi khi cả xương máu nữa. Bởi vì để hạt giống có thể trở thành cây lúa đâm bông kết trái, thì hạt giống đó phải chết đi, đó chính là lý do khiến Đức Kitô đã lấy chính thân mình làm nền tảng, làm nguyên lý hay làm mầm phát sinh vương quốc Ngài muốn thiết lập.
Bởi thế, cây thập giá chính là ngai Ngài đã chọn để lên ngôi, mạo gai là vương miện Ngài chọn cho lễ đăng quang và trái tim Ngài bị đâm thâu và mở rộng là biểu tượng của vương quốc mở ra cho mọi người.
20. Ðức Giêsu Kitô, vua vũ trụ -- “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc
Ðại Hội Trẻ Thế giới tại Pháp, hàng trăm ngàn thanh niên nô nức, tiến về thủ đô Paris dự đại hội để gặp gỡ, lắng nghe, và hiệp thông với Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đấng thay mặt Ðức Kitô ở trần gian.
Hệ thống xe điện ngầm Métro nổi tiếng của Paris dường như lúc nào cũng chật ních người. Hôm ấy, một cụ già ăn xin mù loà cũng cố chen lên một toa xe nhờ chú chó dẫn đường. Cụ vừa đi, vừa chìa cái đĩa nhôm để kêu gọi lòng hảo tâm của giới trẻ. Tuy ồn ào nhưng người ta cũng nghe được những tiếng kêu loảng xoảng của những đồng cắc rơi vào đĩa.
Ði ngược chiều với cụ, một cô bé xanh xao gầy còm cũng ngửa nón xin mọi người giúp đỡ. Khi hai người bất hạnh gặp nhau, cô bé tránh qua một bên cho người hành khất mù loà tiến bước. Và đầy kinh ngạc, các bạn trẻ không thể tin vào mắt mình, cô bé đã dốc hết số tiền kiếm được của mình đổ tất cả vào cái đĩa nhôm kia.
****
Mừng lễ Ðức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn ngắm thế giới: gồm 6 tỷ người đang sống trên đó. Với bao cảnh thất nghiệp, nghèo đói, lạc hậu, bất công. Với bao tệ nạn tham nhũng, ma tuý, mafia, sida. Với bao nhiêu thiên tai lũ lụt, động đất, cháy rừng... Thế lực của sự dữ và tội lỗi đang tung hoành khắp nơi.
Mừng lễ Ðức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên Vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng treo trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền uy vũ lực, nhưng dựa trên tình yêu thương. Một vị vua không có lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người.
Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của Sự thật: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga.18,37). Sống theo sự thật chẳng dễ dàng chút nào, vì người thành thật thường thua thiệt, và kẻ dối trá lại được coi là khôn ngoan. Nhưng chỉ có những ai dám nói sự thật, chấp nhận sự thật, và sống theo sự thật mới được sống trong vương quốc của Người.
Vương quốc của Vua Giêsu còn là vương quốc của Tình yêu: “Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ hiến mạng sống cho nhiều người” (Mc.10,45). Yêu mình, yêu thân nhân bạn bè thì dễ dàng; yêu người xa lạ, yêu kẻ thù, mới thật là khó. Nhưng Chúa chính là vua Tình yêu, nên chỉ những ai sống yêu thương mới đích thực là thần dân của Người.
Cô bé ăn xin trên xe điện ngầm trong câu chuyện trên đây, đã biết cho đi tất cả những gì mình có, những gì cần thiết nhất để sống mà không tính toán so đo. Ðó mới thật là công dân của Nước Trời, là thần dân đích thực của Giêsu, Vua Tình yêu.
Ðối với người tín hữu, công dân tương lai của Nước Trời, thì yêu thương là lẽ sống của mọi cá nhân, gia đình, và cộng đoàn. Dường như sống yêu thương sẽ thấy đời đơn giản, cuộc sống nhẹ nhàng thênh thang. “Ðâu có tình yêu thương ở đấy có Ðức Chúa Trời”. Có Chúa trong tâm hồn họ luôn cảm thấy bình an, hạnh phúc. Còn mọi thứ khác chỉ là kiểu cách, rườm rà, câu nệ, phô trương, là thanh la, não bạt, là tiếng muỗi vo ve.
****
Lạy Chúa, chúng con là đôi tay và đôi chân của Chúa, là miệng lưỡi và trái tim yêu thương của Người.
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa, xây dựng một thế giới yêu thương và chân thật, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến trong vinh quang là một ngày vui trọn vẹn, một ngày hội lớn cho toàn thể nhân loại. Amen.
21. Vua tình yêu.
Ngày nay, người ta thường gán chức vua cho những ai thành công trong một lãnh vực nào đó, chẳng hạn như ông Honda là vua xe máy, vì ông rất thành công trong việc chế tạo các loại xe tự động vừa bền lại vừa đẹp. Ông Henri Ford là vua xe hơi. Cầu thủ bóng đá Maradona là vua sân cỏ. Còn Đức Kitô, khi chúng ta tuyên xưng Ngài là vua, thì Ngài là loại vua nào? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta có thể xác quyết mạnh mẽ mà không sợ lầm lẫn: Ngài là Vua, nhưng lại là Vua Tình Yêu, vì Ngài đứng đầu trong lãnh vực yêu thương phục vụ.
Thực vậy, không một ai đã yêu thương như Ngài. Vì yêu thương, Ngài đã chịu chết ngay cả khi chúng ta là kẻ tội lỗi. Cái chết của Ngài là một bằng chứng hùng hồn, là một đỉnh cao tuyệt vời của tình yêu như lời Ngài nói: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Vì yêu thương, Ngài đã tự xoá bỏ mình đi, hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài đã hiến thân như người mục tử hy sinh tính mạng để bảo vệ cho đoàn chiên.
Ngài cảm thông thân phận yếu đuối của chúng ta nên không nghiêm khắc kết án. Ngay cả người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài nhân từ dạy chúng ta: Hãy nghiêm khắc với bản thân và rộng rãi với người khác. Không bới lông tìm vết, không nguyền rủa chửi bới. Hãy yêu thương kẻ thù và tha thứ cho nhau mãi mãi. Ngài đề cao phục vụ và kêu gọi chúng ta phục vụ, vì thế Ngài nói: Ta không đến để được phục vụ, nhưng đến để phụv vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Ngài muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài, cũng sống tình bác ái yêu thương và phục vụ.
Và để cho việc yêu thương không chỉ là một lời khuyên tuỳ ý, nhưng là một mệnh lệnh có tính cách bắt buộc, Ngài đã ban bố giới luật yêu thương: Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Và tình yêu thương đã trở thành một giới răn quan trọng nhất như là lòng kính mến Thiên Chúa.
Tình yêu thương của Chúa Giêsu đã trở nên nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao nhiêu sáng kiến, bao nhiêu tổ chức, bao nhiêu phong trào, bao nhiêu dòng tu chuyên lo việc yêu thương phục vụ. Chúng ta thử thưởng tượng xem: Thế giới này sẽ ra sao, nếu đã không có những người, những phong trào, những tổ chức, những dòng tu như thế. Nhân vật hiện nay đang được cả thế giới ngưỡng mộ, tôn vinh đó là Mẹ Têrêsa Calcutta. Vì sao? Vì Mẹ đã noi gương Đức Kitô và thực hành lời Ngài dạy, đó là đem tình thương đến cho những người nghèo khổ và bất hạnh.
Quả thực, trong lịch sử nhân loại, không có một nhân vật nào giàu lòng nhân từ thương xót như Đức Kitô. Thật lạ lùng vì mặc dù là Đấng Tối Cao, Ngài vẫn tự nguyện làm người tôi tớ, phục vụ chúng ta. Và còn lạ lùng hơn nữa vì mặc dù Ngài không cần ai, song Ngài lại muốn cần đến chúng ta và tình yêu của chúng ta. Và sau hết, điều lạ lùng hơn cả vì mặc dù là Thiên Chúa, Ngài lại khao khát trở nên bạn hữu của chúng ta và chờ mong chúng ta tiếp nhận Ngài qua những kẻ khổ đau và bất hạnh.
22. Chúa Giêsu, Vua Tình Yêu - Lm Hồng Phúc
Hình ảnh Chúa Giêsu phác hoạ về ngày phán xét thế giới trong Tin Mừng hôm nay cho thấy tính nghiêm trọng trong ngày xử án của vị vua vũ trụ. Đó là ngày tách chiên ra khỏi dê, tách ánh sáng ra khỏi bóng tối, tách sự sống ra khỏi sự chết.
Quan trọng như thế mà tất cả cán cân công lý của ngày phán xét chỉ dựa trên có một điều luật duy nhất. Lạ lùng hơn nữa là chính cả chiên lẫn dê đều sửng sốt không biết mình đã thi hành hay không thi hành điều luật ấy khi nào. Đến nỗi vua vũ trụ phải giải thích “Điều gì các ngươi đã làm cho một người anh em nhỏ nhất của Ta đây, là đã làm cho chính Ta” (Mt 25, 40)
Điều luật đó chính là Đức Ái.
Nhưng tại sao vua vũ trụ lại chỉ sử dụng có một khuôn vàng thước ngọc duy nhất ấy? Là vì động lực thúc bách Thiên Chúa tạo dựng trời đất cũng xuất phát duy nhất bởi tình yêu. Đã xuất phát điểm bởi tình yêu thì chung cuộc cũng trở về duy nhất bởi tình yêu. Ta nhận ra dung mạo của vị vua vũ trụ trong một chân dung được khắc hoạ là vị vua tình yêu!
Không ai khác, đó chính là “Giêsu Nazareth - vua Do Thái.”
Danh hiệu này bằng chữ viết, dưới danh nghĩa một bản án do Philatô cho đóng phía trên đầu Đức Giêsu. Người Do Thái đã tẩy chay danh hiệu trên vì họ không chấp nhận một bản án tố cáo tội họ đóng đinh giết vua của mình. Họ đề nghị công thức: “Người này xưng mình...” nhưng Philatô đâu có tự ý, chính ông đã hỏi Chúa Giêsu “Ông là Vua ư?” và Đức Giêsu đã xác nhận “Ông nói đúng tôi là Vua” (Mt 27,11) thế nên Philatô đã đanh thép như chính Đức Giêsu đã xác nhận để khẳng khái trả lời cho người Do Thái rằng: “Điều ta đã viết là viết” (Ga 19,22)
Với những sự kiện trên, chứng tỏ người Do Thái đã bị tước bỏ mọi quyền chọn lựa. Không phải họ phủ nhận mà bản án không có giá trị, ngược lại dù họ đã từng muốn tôn vinh Chúa Giêsu lên làm vua vì lý do duy vật chất, sau khi được chứng kiến Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, thì Chúa cũng đã bỏ họ để lên núi một mình (x. Ga 6, 5-27)
Đặc quyền bị tước bỏ là do sự suy thoái của chính họ. Dân tộc Do Thái là một dân được chính Yavê Thiên Chúa tuyển chọn. Họ cũng chọn chính Yavê là Vua độc tôn duy nhất. Vậy mà sau những năm sống trong sa mạc hoang vắng, tâm hồn của họ cũng cằn cỗi dần theo. Sự kiện đòi thiết lập vua trên dân Israel đời tiên tri Samuel, là một biểu hiện khai mào cho tình trạng suy thoái xa rời tối thượng quyền của Thiên Chúa, sự suy thoái sẽ trượt dốc từ Saul qua các triều đại kế tiếp và cao trào suy thoái là vào chính thời Đức Giêsu, khi mà một Dân riêng được Thiên Chúa tuyển chọn lại không một chút nhục nhã lớn tiếng tuyên bố với Philatô, kẻ trị vì trên tự do của họ rằng, “Chúng tôi chỉ có một vua là vua Xêda mà thôi” (Ga 19, 15)
Khước từ vua tình yêu, họ chỉ còn vua chính trị. Cách tuyên bố của họ vì chính trị, để khai trừ Đức Giêsu Nazareth mà họ thù ghét hơn, nhưng chính vì thế mà bản án Philatô viết cũng chính trị và họ phải lãnh nhận hậu quả cũng chính trị!
Bản án trở thành bản tố cáo thái độ thù ghét của thế hệ Do Thái quá khích cực đoan nhưng diễn tả một tình yêu lớn nhất của người dám chết cho người mình yêu.
Mới đây, tôi đã giải thích ý nghĩa tượng Chúa Giêsu chịu khổ nạn cho một nhà văn quân đội khi ông về thăm Nhà thờ chính toà Phát Diệm: “Quan niệm Phật giáo muốn mưu cầu hạnh phúc chúng sinh phải tránh tham, sân, si và diệt dục. Còn Công giáo thì khác, Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, không tránh mà còn nhập thể vào thân xác tham, sân, si của con người. Sau tham, sân, si là cái chết của chính Ngài, sau cái chết của Ngài là tình yêu lớn nhất: chết cho người mình yêu.”
Mọi thách đố, chướng ngại không thể trở thành rào cản. Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật, ai hâm mộ sự thật thì nghe tôi” (Ga 18,37)
“Khi những người được mời không xứng đáng thì những kẻ qua đường được mời vào đầy phòng cưới dự tiệc” (x. Mt 22,2-10) Vua tình yêu vẫn mở tiệc cưới, phòng tiệc vẫn đầy người dự, nhưng là người mới, áo cưới mới.
Ý thức vua tình yêu trao ban ân huệ cách nhưng không, Dân mới của Thiên Chúa hiểu rằng chỉ có tình yêu đáp đền tình yêu, hàng ngày trong lời Kinh Lạy Cha - lời Kinh trọng nhất - Hội Thánh lớn tiếng xin cho Nước Cha trị đến trong tâm hồn và trong mỗi gia đình - Nước tình yêu, Nước công bình, Nước sự sống, Nước ơn phúc, Nước hoà bình.
23. Chúa Kitô vua vũ trụ.
Anh chị em thân mến.Trong thời gian nầy, đài truyền hình Vĩnh Long đang chiếu bộ phim Dương Gia Tướng. Bộ phim nói lên sự trung thành của một gia tộc. Trung thành trong mọi trường hợp. Có những lúc bị nịnh thần hảm hại, gia tộc họ Dương phải nhà tan cửa nát, nhưng vẫn một mực trung thành. Một sự trung thành dường như mù quáng. Trung thành với đất nước, trung thành với nhà vua. Nhưng nhà vua trong câu chuyện, có vẽ như quá hồ đồ và nông cạn, không đủ khôn ngoan sáng suốt để phân minh tỏ tường. Vậy mà Dương Gia vẫn trung thành. Đáng quý thay chữ trung thành không gì có thể thay đỗi được.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ. Nói đến danh từ Vua, chúng ta nghĩ ngay đến chế độ phong kiến mà chúng ta đã từng học biết, đã từng nghe, khiến không khỏi rùn mình khiếp sợ. Nhưng chúng ta cùng nhìn lại, cùng nghe lại vị Vua của mình: “Nước tôi không thuộc thế gian nầy”, “Tôi sinh ra, và đến trong thế gian để làm chứng cho chân lý, ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi”.
Đức Kitô là Vua của chân lý, nước Ngài không thuộc về thế gian nầy với những tranh chấp hận thù. Ngài đến để phục vụ, đem tình thương, đem bình an cho mọi người. Không tranh giành quyền lợi trần gian, nên Ngài không phải lo sợ mất đi ảnh hưởng, chính vì thế Ngài không cần phải nghe những lời nịnh hót dối trá. Mọi thần dân trong nước Ngài yên tâm với sự công minh chân chính, một tấm lòng nhân hậu bao dung. Ngài là Đường, là Chân Lý và là Sự Sống. Những thần dân của Ngài là những người thuộc về chân lý.
Mỗi người trong chúng ta có một quê hương, một đất nước mà chúng ta được tận hưởng của những bậc cha anh, là di sản quý báu mà mọi người có trách nhiệm gìn giữ và bảo vệ. Nhưng khi chúng ta rời xa cuộc sống trần gian này, chúng ta sẽ còn lại gì, vị vua nào đang ngự trị trong tâm hồn để gìn giữ, để bảo vệ con người yếu hèn của chúng ta.
Cuộc sống của một đời người, chúng ta tôn thờ ai, và ai đã làm vua ngự trị chiếm hữu cuộc đời của chúng ta? Cứ nhìn lại đời sống đã qua, chúng ta sẽ nhận ra được vị vua của cuộc sống mỗi người.
Có người chọn vị vua là danh vọng, tiền tài. Mục đích của họ chỉ là cuộc sống trần gian này, họ cố gắng vun bồi chỗ đứng, địa vị xã hội để làm sao tạo được uy tín hầu kiếm nhiều lợi nhuận, cho đời sống được thoải mái, an nhàn. Đó là mục đích sống của họ, nên họ bất chấp chân lý, bất chấp tất cả, họ dẩm bừa lên tất cả, miển sao đạt được mục đích là họ sẳn sàng hành động không ngần ngại điều gì hết. Nhưng họ đâu biết rằng, đó là một vị vua mù quáng, vì nhiều lúc họ bị đồng tiền phản bội, làm khổ họ đủ cách. Cũng nhiều lúc danh vọng, địa vị mà họ đạt được không luôn luôn mang lại hạnh phúc cho họ. Vì đó chỉ là một vị vua trần thế, giống như vị vua của Dương Gia trong phim Dương Gia Tướng.
Chúng ta có chọn cho mình vị vua của chân lý? Chúng ta có thuộc về chân lý, để nghe tiếng của vị vua công chính không? Ngài không sợ bị chiếm ngôi nên Ngài không cần phải nghe những nịnh thần. Ngài không sợ mất quyền lợi, vì Ngài luôn ban phát, nên Ngài không cần phải tranh giành. Ngài luôn yêu thương, kêu mời mọi người đến với Ngài, để cùng hưởng vinh quang mà Ngài đã chuẩn bị cho những người thuộc về chân lý. Chúng ta là thần dân của Ngài, trong những lúc chúng ta dám can đảm sống ngay chính, không sợ những lời nói bâng quơ chăm chọc. Cũng trong những lúc phải chọn lựa, chúng ta dám chọn lự sự thật, chọn lựa những điều đúng mà không sợ phải mất đi những gì mình đang có. Cũng có những lúc, chúng ta sẵn sàng hy sinh một chút sung sướng riêng tư, một chút thỏa mãn những dục vọng ích kỷ, để lắng nghe tiếng Ngài, hành động theo những gì Ngài chỉ dạy, cho dù phải vất vả khổ cực đôi chút. Đó là những lúc chúng ta sống xứng đáng là thần dân của Ngài. Nhưng xét trong đời sống đã qua, với những chuỗi ngày dài, được bao nhiêu ngày chúng ta là thần dân trung thành của Ngài, được bao nhiêu ngày, chúng ta biết chọn vị Vua của Chân Lý? Còn những ngày kế tiếp đây, chúng ta muốn chọn cho mình vị vua như thế nào?
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho chúng ta biết chọn Chúa làm vua thật trong suốt cả cuộc đời.
24. Chúa Giêsu, Vua Tình Yêu
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Ga 18, 33b-37: Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, là Vua mọi dân tộc, là Vua trên muôn vua, thế nhưng Chúa lại là một vị Vua bị đóng đinh, hoàn toàn bị tước lột khỏi những quyền lực trần thế. Chúa Giêsu đã lên ngôi bằng con đường của thập giá, con đường của tình yêu.
Quốc Vương Thái Lan đã đi vào huyền thoại như người dân kể lại: “nhà vua làm kênh rạch, nên có nước về ruộng đồng. Nguồn nước này đến từ đập Pa Sak Jolasid do chính vua Bhumibol trực tiếp thực hiện.
- Khi mới lên ngôi năm 1950, từ đó năm nào đức vua cũng tự tay lái xe jeep, với hoàng hậu Sikirit bên cạnh, đi tổng cộng 50.000 km, tới những nơi hẻo lánh, xa xôi để quan sát đời sống người dân còn khốn khó. Trong tâm trí của những người dân Thái, nhà vua là một người thân thiện, với cuốn sổ và chiếc bút trên tay, luôn lắng nghe những người nghèo khổ để thay đổi cuộc sống của họ.
Quốc vương lập ra dự án của hoàng gia, xúc tiến các kỹ thuật gieo hạt tân tiến. Năm 1971, nhà vua đưa ra các biện pháp giúp người dân giải hạn, đào kênh rạch để trữ nước và phân phối nước cho ruộng đồng.
- Đức vua đã biến cung điện Chitralada rộng lớn của mình thành tổ hợp trang trại, cánh đồng, nhà máy chế biến - nơi nhà vua có thể tiến hành nhiều thí nghiệm và thực hiện hàng loạt các đề án về nông nghiệp. Từ đây, hơn 2.000 đề án do chính nhà vua khởi xướng đã được triển khai trên toàn quốc, cải thiện điều kiện sống của dân nghèo ở nông thôn.
- Vào năm 1997, chính đức vua đã ký sắc lệnh sửa đổi Hiến Pháp, theo đó đức vua không còn là người bảo hộ đạo Phật là quốc giáo của Thái Lan. Bản thân đức vua là người Phật Tử nhưng lại bảo hộ cho tất cả các tôn giáo khác, kể cả cộng đồng Hồi Giáo là người thiểu số ở miền nam Thái Lan, nơi thường xảy ra các cuộc xung đột. Điều này đã giúp cho ngài không chỉ được tín đồ Phật Giáo ngưỡng mộ mà cả người đạo Hồi cũng phải kính nể và khâm phục.
Anh chị em thân mến,
Quốc vương Thái Lan, đã hy sinh cả cuộc đời để đem lại hạnh phúc ấm no cho người dân Thái, nhưng Chúa Giêsu còn hy sinh cả mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Tuy nhiên sứ mạng của Chúa Giêsu không giống như sứ mạng của quận vương Hêrôđê, quyền bính của Chúa không giống như quyền bính của hoàng đế Rôma hay như bất cứ một vị vua chúa nào trên trần gian. Chính vì thế sau khi làm phép lạ bánh hoá nhiều, dân chúng muốn tôn Chúa lên làm vua, nhưng Chúa đã lẩn trốn, nhưng khi Philatô hỏi: Ông có phải là vua dân Do Thái không? Chúa Giêsu không phủ nhận tước hiệu này, nhưng Chúa đã minh xác rằng: vương quốc của tôi không thuộc về thế gian này.
Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, là Vua mọi dân tộc, là Vua trên muôn vua, thế nhưng Chúa lại là một vị Vua bị đóng đinh, hoàn toàn bị tước lột khỏi những quyền lực trần thế. Chúa Giêsu đã lên ngôi bằng con đường của thập giá, con đường của tình yêu. Chính vì tình yêu cao cả này, Chúa Giêsu đã hiến thân hy sinh cho thần dân của mình. Như vậy, qua cuộc hiến tế, chúng ta nhận ra, Chúa Giêsu không chỉ là một vị vua hiền lành, nhân từ, nhưng còn là một vị vua hạ mình đến tận cùng, đến nỗi khi nhìn ngắm sự hạ mình của Chúa trong cuộc hiến tế thương đau, chúng ta chỉ còn biết lặng thinh, chiêm ngắm, thờ lạy, cảm tạ, chúc tụng, nguyện một lòng trung thành theo Chúa cho đến trọn đời.
Một sự kiện xảy ra cách đây không lâu: những người thợ lặn đã phát hiện ra một con tầu bị chìm cách đây 400 năm ngoài biển khơi vùng phía bắc Ireland. Một trong những kho tàng họ đã tìm thấy trên tầu là một chiếc nhẫn cưới. Khi đánh bóng, họ thấy trên mặt chiếc nhẫn khắc hình một bàn tay đang nắm giữ một trái tim. Phía dưới có khắc hàng chữ như sau: “anh không còn gì để cho em” (I have nothing more to give you).
Trong tất cả những kho tàng đã tìm thấy trên con tầu, không có sự gì làm cảm động những người thợ lặn cho bằng chiếc nhẫn và những lời cao đẹp đó.
– “Ta không còn gì để cho con” – có thể được đặt trên Thập Giá của Đức Giêsu, vì từ trên Thập Giá đó, Ngài đã cho chúng ta tất cả những gì Ngài có. Ngài cho chúng ta tình yêu và mạng sống. Ngài cho chúng ta tất cả những gì một người có thể trao ban cho người mình yêu: “không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13).
Lạy Đức Giêsu Kitô, là Vua của vũ trụ, là Vua của nhân loại, và là Vua của tâm hồn con. Con xin phó thác tất cả mọi sự trong tay Chúa: mạng sống, tình yêu, hạnh phúc, ý muốn, khát vọng, những người thân yêu của con, hiện tại cũng như tương lai. Con xin phó thác cho Chúa tất cả để Chúa quyết định mọi sự theo thánh ý Chúa. Xin hãy giúp con ngày càng tin vững vào tình yêu và quyền năng của Chúa vì Chúa là Vua của tâm hồn con. Amen.
25. Đức Kitô làm vua đời tôi - Lm. Nguyễn Hữu Thy
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng lễ Đức Kitô-Vua. Người là Đấng thống trị duy nhất toàn thể vũ trụ và thống trị đời chúng ta!
Nhưng mừng lễ Đức Kitô làm vua cuộc đời chúng ta có nghĩa là chúng ta tin nhận rằng chúng ta hết lòng khâm phục Người và để Người làm chủ trên chúng ta, trên trọn cuộc sống của chúng ta.
Tuy nhiên, trong thực tế ai làm chủ đời tôi, đời chúng ta? Chỉ một mình Đức Kitô hay còn vua nào khác nữa? Phải chăng ngoài Đức Kitô là Đấng duy nhất làm chủ trên cuộc sống hằng ngày của chúng ta, chứ không còn vua nào khác nữa?
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta còn có bao nhiêu vua chúa khác đang chờ đợi tranh dành ngôi vua với Đức Kitô: Nào là “vua thuốc lá”, “vua bia rượu”, “vua cờ bạc”, “vua thể thao”, “vua tivi, vua phim ảnh”, “vua tiền bạc”, v.v... Những ai thiếu khôn ngoan và liều mình để cho các ông vua này cai trị đời họ, thì thật là cả một tai họa khôn lường: Họ hoàn toàn mất hết tự do, trở nên nô lệ cho chúng, để chúng sai khiến, và họ sẽ vâng lời làm bất cứ điều gì chúng muốn, cả đến tư cách, lý trí và tình nghĩa gia đình bạn bè họ cũng sẵn sàng từ bỏ hết, vì để làm thỏa mãn chúng! Đúng vậy, đó là những ông vua độc tài và chỉ muốn nô lệ hóa những kẻ phục tùng chúng. Chúng đòi hỏi các thần dân của chúng những đóng góp rất to lớn về thời giờ và tiền bạc. Chúng hứa mang lại một cuộc sống đầy hoan lạc và vui thú, nhưng rốt cục thường chỉ để lại những cảm giác trống rỗng, chán chường và thất vọng.
Tôi đã từng gặp nhiều người đã dại dột để cho hầu hết những ông vua như thế lừa gạt và rơi vào tròng nô lệ của chúng. Kết cục, những người đó trở nên thân tàn ma dại, và chẳng những hoàn toàn vô dụng cho gia đình và xã hội mà còn là gánh nặng cho mọi người. Họ trở nên những kẻ sống đời tầm gửi trên mồ hôi, nước mắt và công lao của kẻ khác.
Các ông vua trần tục đó thường huyênh hoang và cao ngạo. Chúng chỉ luôn tìm cách nhấn sâu và chôn vùi những kẻ chạy theo chúng xuống tận bùn đen hôi thối của tội ác. Chúng ta thử đưa ra một vài thí dụ: chẳng hạn “vua thể thao”: Thể thao thực ra là một điều lành mạnh, nhưng nếu chúng ta mê man đến nỗi sao nhãng bổn phận đối với gia đình, đối với con cái và đối với Thiên Chúa, thì thể thao không còn là một môn tập luyện lành mạnh nữa, nhưng là một tên độc tài thống trị trên ta và biến ta thành nô lệ cho nó. Hay không ai chống đối việc thưởng thức một chén rượu hoặc một ly bia, nhưng nếu cuộc sống mà hoàn toàn lệ thuộc vào chén rượu hay ly bia, đến nỗi thiếu chúng thì mọi việc đều bị đình trệ, không thể tiến xa hơn được nữa, bấy giờ chén rượu và ly bia không còn là những phương tiện “làm vui lòng người”, mà là những ông vua độc tài biến chúng ta thành nô lệ cho chúng. Những kẻ say mê cờ bạc, rượu chè, v.v... sẽ đốt cháy nhân vị và tư cách của mình.
Làm thế nào để chúng ta có thể bảo vệ được sự tự do và độc lập, nhất là tư cách và nhân phẩm của mình trước những ông vua độc tài đó? Chỉ một cách duy nhất là chúng ta hãy dứt khoát xa tránh chúng. Những ông vua này tuy độc tài và luôn nô lệ hóa con người, nhưng chúng lại không có “khí giới” trong tay để bắt ép được ta làm nô lệ cho chúng. Việc sống cuộc đời tự do và có tư cách, hay làm nô lệ cho chúng là hoàn toàn tùy vào sự quyết định của chúng ta, hoàn toàn tùy vào ý chí của chúng ta.
Khi nói đến đây tôi lại liên tưởng đến một ông vua khác còn khó tính và độc tài hơn cả trong các ông vua vừa kể trên: đó chính là “cái tôi” của chúng ta. Cái khó để tự giải thoát khỏi sự cai trị của ông vua độc tài này là ở chỗ: Nó không điều khiển chúng ta từ bên ngoài vào, nhưng là ngự trị nội tại trong ta, chiếm giữ và lèo lái cả lý trí và ý muốn của ta. Cuối cùng, những lợi lộc mà ông vua “cái tôi” thu vén là cốt cho chúng ta, để phục vụ chính chúng ta. Chính cái khó nhất là ở chỗ đó: Làm thế nào chúng ta có thể khách quan nhận ra cái lệch lạc, cái sai trái của cái tôi - nghĩa là lòng ích kỷ - của chúng ta?
Con đường duy nhất là tìm về phục vụ Đức Giêsu Kitô-Vua, vị vua đích thực của vũ trụ và của đời sống chúng ta. Người đã hy sinh mạng sống vì chúng ta, Người chịu chết để chúng ta được sống. Người là vị vua nhân hậu, chấp nhận thân phận nghèo hèn và vâng lời chịu lụy cho đến chết, chết trên thập giá. Về Đức Kitô-Vua, Tinsley đã viết: “Người đã không bao giờ là Vua và là Đấng Cứu Thế, nếu không chết trên thập giá”. Đức Kitô là vua và nước của Người không thuộc về thế gian này, nhưng lại ở giữa thế gian. Người không hề dùng quyền bính để cai trị, nhưng là để phục vụ. “Phục vụ thay vì cai trị”, bênh vực quyền lợi của kẻ cô thế cô thân, chở che người nghèo đói, trả lại công bằng cho những người đã bị mất quyền sống, v.v... là chương sống và hành động của Kitô-Vua. Người thay thế sự tự hy sinh mình vào chỗ sự tự khẳng định mình. Người không đòi hỏi gì cho mình cả, người chỉ cho đi! Người không tẩy não hay rửa đầu ai hết, Người rửa chân cho mọi người. Những thủ lãnh thế gian bắt thần dân chết thay cho mình, còn Đức Kitô-Vua lại đã chết thay cho thần dân của Người: Đó chính là sự cao cả của Đức Kitô-Vua. Chính những kẻ nhạo báng Người đã nói lên sự thật về Vương Quyền của Người, khi họ mỉa mai: “Nó đã cứu được kẻ khác!” (x. Mt 27,42). Quả vậy, việc cứu giúp kẻ khác: là biểu tượng và là mục đích của Phẩm Hàm Vương Đế và của Vương Quyền Đức Giêsu. Vương Quyền của Đức Giêsu cần đến những con người không chỉ sống và chỉ nghĩ đến chính mình mà thôi, nhưng - cũng như Người - còn biết giúp đỡ và sống cho kẻ khác nữa. Thiên Chúa cần đến tất cả chúng ta!
Ai chấp nhận và tùng phục Vương quyền êm ái dịu hiền của Đức Giêsu, người đó hoàn toàn tự do trước tứ độ tường, trước mọi mê say tội lỗi. Dĩ nhiên, để phục quyền Đức Kitô-Vua, nghĩa là để bước đi trên con đường của Người, con đường của sự từ bỏ bản thân mình và nhờ thế được sống đời tự do, con người cần phải từ bỏ một đôi thứ - không chỉ những thứ xấu và tai hại, nhưng đôi khi cả những thứ tốt nữa - nếu chúng trở nên chướng ngại vật ngăn cản bước đường đó của chúng ta. Chính đó là con đường đưa dẫn chúng ta vào trong Vương Quốc vô biên giới, một con đường không chỉ hứa mang lại một cuộc sống sung mãn, nhưng còn ban tặng cho ta chính cuộc sống đó nữa. Ai phục vụ Đức Kitô-Vua, người đó tìm được ý nghĩa và mục đích chân thật đời mình!
26. Vương quốc của tình yêu
Nước Trời được diễn tả là vương quốc của tình yêu, nơi đó mọi người được vui hưởng tình yêu tràn đầy của Thiên Chúa. Trong vương quốc này, Đức Giêsu là vị Vua của tất cả mọi người như Lời Ngài đã nói: “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”.
Khi nghe nói đến tước hiệu vua, mọi người thường nghĩ đến một con người quyền lực, oai vệ trong bộ cẩm bào, nắm trong tay quyền sinh sát tùy ý mình khiến mọi người khiếp sợ... Thế giới đã từng biết đến một Tần Thuỷ Hoàng, một Napoleon, một Hitler...là những vị vua như thế. Nhưng Vua Giêsu thì hoàn toàn ngược lại. Ngài là vị Vua Hiền lành, Vua Hoà bình và Vua Tình yêu. Vua Giêsu có hoàng cung là cuộc sống rong rủi nay đây mai đó “Con Người không có nơi tựa đầu”, có vương miện là vòng gai đội đầu, có vương trượng là cây sậy yếu ớt, có vệ binh là 12 tông đồ không biết đến việc binh đao... Bởi lẽ, Nước của Ngài không thuộc về thế gian này. Hiến Pháp của Nước trời là giới luật Yêu thương: “Đây là giới răn của Thầy là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Yêu như Thầy là hy sinh mạng sống cho người mình yêu: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15,13).
Thế nhưng, đứng trước một vị vua như thế, thử hỏi có được mấy người yêu mến và qui phục Ngài? Hình như, con người ngày nay quá yêu thích quyền lực, giàu sang, thoải mái... nên họ cũng muốn xây dựng nơi mình hình ảnh của một vì vua theo ý và sở thích của riêng họ. Họ sẵn sàng bỏ ra hàng giờ ngồi phơi nắng dầm mưa để xem vua bóng đá Péle, Ronaldo trình diễn trên sân cỏ và cổ võ hết mình. Họ sẵn sàng thức trắng đêm để nghe vua nhạc Pop Michael Jackson hát... nhưng họ rất ngại đến với Vua Kitô để nghe Ngài chỉ dạy những con đường dẫn tới chân thiện mỹ và sự sống vĩnh cửu. Lý do là vì ta còn biết quá ít về Chúa Giêsu, chưa đi vào sự sống mật thiết với Ngài, chưa để cho tình yêu của Ngài dẫn dắt cuộc đời của ta và trên hết là chúng ta chưa có lòng ao ước sống trong Vương quốc tình yêu của Chúa.
Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa Chúa Giêsu và Philatô xung quanh vấn đề vương quyền của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu khẳng định với Philatô và cũng là với tất cả chúng ta rằng Ngài là Vua, nhưng Nước Ngài không thuộc về thế gian này. Điều đó cũng có nghĩa là Nước của Ngài thuộc về thượng giới hay chính là Nước trời.
Tôi có quen với một chị ở Việt Nam nhưng đã sang định cư ở bên Úc 5 năm rồi, dù chính quyền Úc chấp nhận cho chị nhập cư, nhưng chị chưa thể trở thành công dân của nước Úc được, và dĩ nhiên những quyền lợi của chị bị nhiều hạn chế. Chị nói với tôi là để được chấp nhận là một công dân của nước này thì phải có một số điều kiện như: phải ở lại Úc trong thời gian xuyên suốt ít là năm, rồi phải trải qua kì thi quốc tịch rất khó...
Còn chúng ta, kể từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội là chúng ta chính thức trở thành công dân của Nước trời, được đầy đủ quyền lợi của một người con cái Thiên Chúa với quyền thừa kế Nước trời, xem ra quá dễ dàng. Nhưng thử hỏi chúng ta đã lưu tâm đến quyền công dân này như thế nào? Chúng ta có quí trọng, có tha thiết với chuyện này không? Hay vì thấy Chúa ban ơn dễ dàng quá rồi chúng ta xem thường? Thậm chí có người còn chối bỏ quyền công dân này cách dễ dàng khi họ quyết đi theo tiếng gọi của quyền lực trần thế (Chẳng hạn: làm trưởng phòng này thì anh chị không thể là người Công giáo được! Thế là Chúa bị khai trừ. Chức trưởng phòng được đặt lên trên quyền Công dân Nước trời, đôi khi trên cả Chúa nữa! Chuyện này không phải là hiếm xảy ra đâu). Hoặc có người sẵn sàng chấp nhận tuyệt thông với Giáo hội chỉ vì muốn thoả mãn đi theo tiếng gọi của những mối tình vụn trộm nên dẫn đến việc ngoại tình, phá thai, kết hôn không phép đạo... Nhưng cũng có biết bao những tâm hồn thành tâm thiện chí, quyết bảo vệ quyền Công dân Nước trời của mình nên sẵn sàng hy sinh tất cả, vui lòng mất mát tất cả, ngay cả mạng sống của mình miễn sao đừng lạc mất Chúa. Đó là gương của các thánh tử đạo mà chúng ta mới vừa mừng kính hôm Chúa Nhật tuần trước. Khi hết lòng vì niềm tin mình đã lãnh nhận là khi chúng ta tin nhận Chúa Giêsu chính là Vua của chúng ta, Nước trời là gia nghiệp đời đời của chúng ta. Thử hỏi cón có ai khôn ngoan hơn nũa không? Chọn Chúa, chọn Nước Trời làm gia nghiệp là chọn lựa cao nhất và khôn ngoan nhất mà con người có thể làm được ngay tại thế gian này.
Nhưng làm sao chúng ta có thể chọn lựa được như thế nếu chúng ta không hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa của mình. Khi Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do thái không?” thì Chúa Giêsu hỏi lại: “quan tự ý nói thế hay có người khác nói với quan về tôi”. Chúa muốn kiểm định xem cái biết của Philatô ở mức độ nào: chỉ nghe nói về Chúa hay đã có cảm nhận riêng về Ngài? Rõ ràng Philatô đã biết cách rất mù mờ về Chúa Giêsu với những thông tin đầy thành kiến về Chúa do những kẻ chống đối Chúa cung cấp cho. Cách biết của Philatô về Chúa Giêsu như thế sẽ không thể làm cho ông đi vào sự thân mật với Chúa Giêsu. Và như thế thì Chúa Giêsu sẽ còn tiếp tục im lặng. Ngài sẽ im lặng trước câu hỏi của Philatô: “Sự thật là cái gì?”. Như thế, chắc chắn Philatô sẽ không được: “sự thật giải thoát” mà sự thật đó chính là Đức Giêsu như Ngài đã từng nói: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”.
Sống niềm tin và trở thành môn đệ của Chúa Giêsu là đi vào sự tiếp xúc riêng tư với Ngài, để chi tình yêu của Ngài tác động và lôi kéo ta vào thế giới riêng. Nơi đó, ta sẽ gặp được tình yêu, lòng thương xót và sự thật. Nơi đó, ta sẽ gặp được vị Vua thật của lòng ta và Ngài sẽ Vua cai trị tâm hồn ta. Khi đó, chúng ta sẽ biết cách hành động theo chân lý và sẽ được “Chân lý giải thoát” chúng ta.
27. Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ
(Suy niệm của Lm. Anfonso)
Suy niệm:
Trong cuộc sống, chúng ta đã từng nghe nói nhiều đến những vị vua và các triều đại. Vua là người làm bá chủ một vùng, một lãnh thổ, có quyền lực đứng nhất thiên hạ đến nỗi có một thời người ta quan niệm rằng “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Bên cạnh đó, cũng có những người “làm vua” theo kiểu đứng đầu về một ngành nghề, lãnh vực như vua dầu mỏ, vua bất động sản, vua thị trường chứng khoáng, vua bóng đá, vua tennis sân đất nện, ông hoàng nhạc pop…
Hôm nay, Giáo hội dành Chúa nhật cuối cùng của Năm Phụng vụ để mừng lễ Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ. Nhiều người đã hiểu lầm và gán ghép cho việc làm vua của Chúa Kitô theo kiểu tranh giành quyền lực trần thế để rồi kết án Người.
Trước tiên, người Do Thái một dân đang bị thống trị muốn có một người thuộc dòng dõi Vua Đavíd chính thức lên ngôi, làm vua để lãnh đạo dân kháng chiến và chiến thắng quân La Mã kẻ thù, đem lại tự do cho dân. Trong khi Chúa Giêsu lại khuyên họ sống khiêm tốn, yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình.
Thứ hai, vì Chúa Giêsu lên án việc sống giả hình của những nhà lãnh đạo dân Do Thái, và họ cũng từ chối, xem Người phạm thượng khi xưng mình là Con Thiên Chúa nên các thân hào và kỳ mục muốn mượn đao giết người một hợp pháp bằng việc gán ghép Chúa Giêsu muốn đảo chính. Họ nhờ chính quyền đô hộ kết án tử Chúa Giêsu.
Thế nhưng, việc làm vua của Chúa Giêsu không nhằm chiêu dụ bằng của cải vật chất. Cả khi người ta được Chúa cho ăn bánh no nê, họ muốn tôn Người lên làm vua nhưng Người lánh họ mà đi. Chúa Giêsu làm vua theo cách của Người: Vua tuyển mộ thần dân rằng “Ai muốn theo Tôi, hãy tự bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo Tôi”. Vị Vua không vệ binh, không quân đội nhưng thuyết phục bằng việc đánh động cái tâm “Cả anh em cũng muốn bỏ Thầy mà đi hay sao?” Một vị vua không dùng bạo lực, không kháng cự: “Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Một vị vua dùng tình thương và nêu gương bước trước: “Thầy rửa chân cho anh em thì anh em cũng hãy rửa chân cho nhau”. Một vị vua không “ăn cổ đi trước, lội nước theo sau” nhưng lại tự nguyện gánh tội lỗi của dân, để mình bị “giao nộp” cho kẻ thù, và Người đã đi bước trước noi gương: “không có tình yêu nào cao quý hơn tình thương của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”. Vâng, một vị vua không có biên cương lãnh thổ, cùng một tình thương không biên giới: đó chính là Vua Giêsu, Vua trên các vua, Chúa trên các chúa. Vương quyền của Chúa Giêsu quy tụ cả người cao sang quyền quý lẫn người thấp hèn, bé mọn, yếu đuối, tật nguyền, tội lỗi,… kể cả những kẻ bị xã hội gạt ra bên lề.
Thần dân của Nước Chúa được gọi là các “tín hữu” là những người tin vào Chúa. Đồng thời việc thờ phượng Chúa không phải ở hình thức, tổ chức những buổi lễ rình rang cờ xí trống kèn mà lòng thì trống rỗng. Trở nên thần dân của Người không chỉ là việc lãnh nhận Bí tích Rửa tội là đủ, nhưng cần liên hệ với thực tại nhân sinh, với cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp và xã hội. Thần dân ấy cần can đảm sống theo sự thật, như Chúa đã cho biết: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta là công dân nước Chúa, vậy chúng ta được mời gọi góp phần vào công việc xây dựng vương quốc của Chúa Kitô trên trần gian này trước tiên qua việc thờ phượng Chúa trên hết mọi sự, chính mình biết thánh hóa bản thân mỗi ngày bằng đời sống đạo đức, Thánh lễ, cầu nguyện. Đồng thời chúng ta cũng cần sống giới Răn “Yêu Thương” được thể hiện rõ nơi 8 mối Phúc. Thực thi luật Yêu Thương mới làm cho con người ta sống mãi vì tình yêu mạnh hơn sự chết. Nhờ thế mà con người ta trở nên vĩnh cửu trong Chúa Kitô là Vua vũ trụ.
28. Một giải pháp cho nền hòa bình thế giới -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử nầy lại thương yêu hoà hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng tên là Faroux, là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em là Faram.
Sau khi hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được.
Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về số phận của người kia.
* * *
Theo thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng.
Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất.
Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me, nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết!
Thế rồi đấu thủ cao người hơn lao tới như báo vồ mồi, vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt... rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt cóc.
Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người.
* * *
Hình ảnh hai anh em ruột thịt giao đấu với nhau một mất một còn trong câu chuyện trên đây là một minh hoạ cho tấn thảm kịch đau thương vẫn diễn ra hằng ngày giữa cộng đồng nhân loại. Ngay giờ đây, nhiều nơi trên thế giới cũng đang xảy ra những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn y như thế.
Chính ma quỷ thù nghịch với Thiên Chúa, cũng giống như ông vua Faroux độc ác kia, đã trùm lên con người lốt sư tử, lốt chó sói. “Người là chó sói của người - homo homini lupus”. Vì thế, con người không còn nhận ra nhau là anh em cùng loài; mà xem người khác như là kẻ thù cần tiêu diệt để dành lấy sự sống cho mình.
Đứng trước thảm cảnh đó, mọi cố gắng xây dựng hoà bình của con người, của các tổ chức quốc tế đều không thể dập tắt hận thù và chiến tranh.
Khi hai bên đã say máu chiến tranh, nếu có người tước súng đạn của họ đi, thì đôi bên sẽ chiến đấu với nhau bằng dao rựa, mã tấu... Nếu tịch thu dao rựa, mã tấu, thì đôi bên sẽ dùng gậy gộc gạch đá để huỷ diệt nhau; Có tịch thu hết gậy gộc gạch đá thì đôi bên có thể tấn công nhau bằng nắm đấm, dùng răng để cắn xé nhau...
Vậy phải làm thế nào để chấm dứt chiến tranh, tái lập hoà bình cho nhân loại?
Muốn làm cho đôi bên tự động ngưng chiến và làm hòa lại với nhau thì giải pháp tốt nhất không phải là tước bỏ khí giới mà là khai hoá cho đôi bên biết rằng: đối thủ của họ không là ai khác mà chính là người anh em ruột thịt con cùng một cha.
Chính Vua Giêsu đến thế gian để thực hiện điều đó. Ngài tuyên bố trước toà Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật”. Sự thật quan trọng nhất của Chúa Giêsu là soi sáng cho mọi người biết Thiên Chúa là Người Cha rất yêu thương và tất cả nhân loại là con cái của Ngài và là anh chị em ruột thịt với nhau. Với sự thật nầy, mặt nạ da thú đã bị tước bỏ đi, để lộ khuôn mặt rất thân thương của người anh em.
Mừng lễ Chúa Giêsu Vua, chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trên khắp thế giới được đón nhận sự thật cao đẹp do Chúa Giêsu mang đến. Chỉ có sự thật tuyệt vời nầy mới có thể giải thoát nhân loại khỏi hận thù chiến tranh, khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Chỉ có sự thật nầy mới là động cơ xây dựng thế giới trở thành một đại gia đình huynh đệ.
29. Suy niệm của Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách
CHÚA KITÔ VUA “CHÚA GIÊSU TRỌN VẸN,
NHÂN BẢN NHẤT VÀ CÒN SIÊU VIỆT”
ROMA- Bài giải thích của Cha Raniero Cantalamessa, giảng Phủ giáo Hoàng, về những bài đọc phụng vu Chúa nhật Chúa Kitô Vua:.
“Rồi các ông sẽ Con Người ngự bên hửu Đấng toàn năng, và ngự giá mây mà đến...”
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Pilatô hỏi Chúa Giêsu,” Ông có phải là Vua dân Dothái không?” và Chúa Giêsu trả lời,” Chính ngài nói tôi là Vua.” Trươc đó không lâu, Caipha đã hỏi Người cũng một câu hỏi đó trong cách khác: “Ông có phải là Con Thiên Chúa Đáng Chúc tụng không?” và Chúa Giêsu đã thẳng thắng trả lời lần này: “Chính tôi đây!”
Thật vậy, theoTin Mừng Thánh Marcô, Chúa Giêsu tăng cường câu trả lời này, trưng dẫn và áp dụng cho chính mình điều mà tiên tri trong Sách Daniel đã nói vể Con Người ngự giá trên mây trời mà đến và nhận lãnh vương quốc không bao giờ tàn (Bài đọc I). Một thị kiến vinh hiển trong đó Chúa kitô xuất hiện trong câu truyện và trên câu truyện, thế tục và đời đời
Bên hình ảnh vinh hiển này của Chúa Kitô chúng ta gặp, trong các bài đọc lễ trọng này, hình ảnh Chúa Giêsu khiêm tốn và đau khổ, quan tâm về việc làm cho các môn đệ nên vua hơn là cai trị họ. Trong đoạn trích từ sách Khải Huyền, Chúa Giêsu được diễn tả như là “Đấng yêu thương chúng ta và đã cứu chúng ta khởi tội bằng máu Người, Đấng đã đưa chúng ta vào một vương quốc, làm linh mục cho Thiên Chúa và Cha của Người.”
Điều được luôn luôn chứng tỏ khó làm là giữ chung hai đặc quyền này của Chúa Kitô-vẻ uy quyền và lòng khiêm tốn-phát sinh từ hai bản tính của Người, thần tính và nhân tính. Con ngươi thời nay không có vấn đề thấy trong Chúa Giêsu người bạn và người anh của mọi người, nhưng họ gặp là chuyện khó nếu cũng công bố Người là Chúa và công nhận vương quyền của Chúa Giêsu trên họ.
Nếu chúng ta xem cuốn phim chiếu Chúa Giêsu, thì rõ về sự khó nầy. Nói chung phim cinema đã chọn Chúa Giêsu làm người hiền, bị bắt bớ, bị hiểu lầm, rất gần gũi con người hầu chia sẻ thân phận con người, những sự nổi loạn con người, sự ước muốn của con người sống một đời sống bình thường. Trong đường hướng này được kết nối phim”Jesus Christ Superstar-Chúa Giêsu Siêu Sao” và “Sự Cám Dỗ Cuối Cùng của Chúa Kitô” thô lỗ và phạm thượng hơn của Martin Scorcese.
Pier Paolo Pasolini, trong “Vangelo secondo Matteo” (Tin Mừng theo thánh Matthêo), cũng cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là Người bạn các tông đồ và các con người, gần gũi với chúng ta, mặc dầu Người không thiếu một chiều kích nào đo của mầu nhiệm, được diễn tả với nhiều thi thơ, hơn hết qua những lúc sầu thảm thinh lặng.
Chỉ có Franco Zeffirelli, trong cốn phim “Chúa Giêsu thành Nadareth” của ông, đã cố gắng giữ cả hai là vẻ uy quyền và tính khiêm nhượng. Chúa Giêsu xuất hiện trong cuốn phim của Zeffirelli's như là một người giữa muôn người, niềm nở và gần gũi, nhưng, đồng thời, như một Đấng, với những phép lạ và sự phục sinh của Người, đặt chúng ta trước mầu nhiệm của bản thân Người, một con người vượt quá sự nhân bản đơn thuần.
Tôi không muốn ngăn chận những cố gắn tái đề nghị biến cố Giêsu trong những từ có thể hiểu được và bình dân. Trong thời gian của Người Chúa Giêsu không bị xúc phạm nếu “dân chúng” xem người như là một trong các vị tiên tri. Tuy nhiên, ngài hỏi các tông đồ, “Nhưng phần anh em, anh em nói Thầy là ai?” cho thấy rõ những câu trả lời về phía dân chúng thì không đủ.
Chúa Giêsu mà Giáo Hội trình bày cho chúng ta hôm nay trong ngày lễ trọng Kitô Vua, là Chúa Giêsu trọn vẹn, hầu như nhân bản mà còn siêu việt. Tại Paris thanh gỗ đã được sử dụng để thiết lập chiều dài của thước được giữ cẩn thận đến nỗi đơn vị đo lường này, do Cách Mạng Pháp đưa vào, không bị thay đổi với thời gian. Cũng vậy, trong cộng đồng tín hữu tức là Giáo Hội, hình ảnh thật sự của Chúa Giêsu thành Nadareth được bảo tồn. Hình ảnh này phải được sử dụng như là tiêu chuẩn để đo tính hợp pháp của mọi sự trình diễn về Người trong văn chương, cinéma và nghệ thuật.
Đó không phải là một hình ảnh cố định và trơ trơ, được giữ dưới tủ kính như cây thước, nhưng là một hình ảnh Chúa Kitô sống động, Đấng lớn lên trong sự hiểu biết của Giáo Hội, Đấng sẽ tiếp tục làm nẩy sinh những câu hỏi và những thách thức mới của nền văn hóa và phát triển nhân bản.
30. Bị can Giêsu Kitô-Vua
(Suy niệm của Lm. FX. Nguyễn Phạm Hoài Thương)
Trong Tin Mừng Gioan, cảnh Chúa Kitô trình diện trước Philatô diễn tiến theo một lược đồ được bố cục cách khéo léo. Ngay từ đầu trình thuật, thánh sử đã nói rõ: người Do thái không vào phủ Philatô để khỏi mắc uế hầu có thể cùng chiều hôm đó cử hành lễ Vượt qua (Ga 18,28); nhưng việc hỏi cung Chúa Kitô phải xảy ra bên trong phủ Philatô, do đấy có một lối dàn cảnh: Philatô phải đi ra để bàn cãi với người Do thái, rồi trở lại phủ để tra hỏi Chúa Giêsu. Vì vậy, trình thuật (Ga 18,28-19,16) chia ra làm bảy phân đoạn, theo các lần ra-vào của Philatô mà thánh sử đề cập rất tỉ mỉ. Bài Tin Mừng chúng ta nghe hôm nay nằm trong phân đoạn II (Ga 18,33-38), có rất nhiều chỉ dẫn thần học về ý nghĩa đích thực của vương quyền Chúa Kitô. Tuy nhiên để hiểu được nó ta phải đặt nó vào trong văn mạnh của cả trình thuật.
1. “Nộp” Chúa Giêsu
Nếu chỉ đọc lướt qua Tin mừng, ta có thể kết luận: chính Philatô đã nộp Chúa Giêsu, vì ông đã kết án tử và đã cho đóng đinh Người trên thập giá.
Tuy nhiên, đọc kỹ bản văn ta sẽ thấy: không phải Philatô, nhưng chính người Do thái, đại diện là các thượng tế và Biệt phái, đã muốn giết Chúa Giêsu. Trong Tin mừng, thánh Gioan không hề nói là Philatô đã kết án tử cho Chúa Giêsu mà còn nhấn mạnh: bởi xác tín Chúa Giêsu vô tội, nên Philatô đã muốn thả Người, và sở dĩ ông phó nộp Người để bị đem đi giết là chỉ vì ông sợ hãi trước áp lực của các thượng tế và Biệt phái mà thôi.
Ba lần Philatô xác quyết là chẳng tìm thấy một lý do nào để lên án tử (Ga 18,38b; 19,4; 19,6c); vì vậy, ông có ý định thả Chúa Giêsu (Ga 18,39; 19, 12). Tuy nhiên lòng yêu chuộng công lý nơi ông không mạnh đủ để đương đầu với các yêu sách của đám đông chuyên môn nổi loạn này. Để thắng những do dự cuối cùng của ông, người Do thái dọa tố cáo ông tại Rôma nếu ông tha bổng một tên đã tự xưng là “vua dân Do thái” (Ga 19,12.15c). Bấy giờ Philatô “phó nộp Người cho họ đóng đinh” (Ga 19,6).
Hơn nữa, một khuôn mặt khác, được chính Chúa Giêsu nhắc đến, nổi lên trên hậu cảnh của bi kịch: “... vì thế, kẻ nộp tôi cho ông đã mắc tội nặng hơn” (Ga 19,11b); Người có ý nói đến Giuđa, kẻ nhân danh Satan mà hành động (Ga 13,2.27). Và đây mới chính là kẻ nộp người: Satan, nhờ trung gian của Giuđa, đã nộp Chúa Giêsu cho Philatô.
Một câu hỏi được đặt ra: suốt thảm kịch này, Thiên Chúa, vị Thẩm phán tối cao đã làm chi? phải chăng Ngài đã không có thể ngăn chặn việc xử tử bất công đó? Chắc chắn là không phải vậy, vì Chúa Giêsu xác quyết trước Philatô: “ông chẳng có quyền gì trên tôi nếu từ trên không ban xuống cho ông” (Ga 19,11). Vậy, nếu Thiên Chúa đã chẳng can thiệp, là vì chính Ngài cũng đã muốn “nộp” Con Một Ngài cho thần chết (Rm 8,6-32).
Nhưng hành vi Chúa Cha “nộp” Con mình mang một nghĩa khác hẳn với hành vi của Satan, Giuđa hay người Do thái. Khi “nộp” Con mình, Chúa Cha tôn trọng tình yêu của Chúa Giêsu: chịu đau khổ vì nhân loại, cũng như tôn trọng sự tự do của con người: Giuđa, Biệt phái và các nhân vật khác trong cuộc Khổ nạn; nghĩa là: Ngài cho phép Chúa Giêsu bị bắt bớ được diễn ra. Như thế, xét trong nghĩa này, Chúa Cha “nộp” Chúa Giêsu, thể hiện một tình yêu vĩ đại. Chúa Giêsu đã tự do và tự nguyện chấp nhận để Chúa Cha và loài người phó nộp: “không ai cất mạng sống Ta được, nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta” (Ga 10,18). Về phía Chúa Giêsu, việc phó nộp Người là một việc tự phó nộp hoàn toàn thuận ý. Nhưng về phía con người, việc phó nộp Người là một sự phản bội. Không thể so sánh hai việc phó nộp này, vì chúng phát xuất từ những “căn do” khác nhau. Đối với Chúa Cha và Chúa Kitô, căn do này là tình yêu và vì thế các Ngài vô cùng đáng ca tụng. Đối với Giuđa, căn do này là lòng tham của; đối với người Do thái, là thói ghen tương; đối với Philatô, là nỗi sợ hoàng đế, và vì thế, họ đáng bị luận phạt.
2. Vương quyền của Chúa Giêsu Kitô được tỏ lộ
Việc Chúa Giêsu hầu tòa Philatô hoàn toàn bị vấn đề vương quyền của Chúa Giêsu chi phối: câu hỏi đầu tiên Philatô đặt ra cho Chúa Giêsu là: “ông là vua dân Do thái sao?” (Ga 18,33). Chúa Giêsu đáp: “Tự mình ông, ông nói thế hay có ai khác đã nói với ông về tôi?” (Ga 18,34); cách trả lời này cho thấy nguyên cớ của câu Philatô hỏi là những luận điệu tố cáo của người Do thái. Philalô không đời nào có ý tưởng bắt Chúa Giêsu và lên án Người chiếm đoạt vương quyền nếu người Do thái không tố cáo. Sở dĩ Philatô phó nộp Chúa Giêsu cho người Do thái, là vì người đã tự xưng là “Vua dân Do thái”.
Họ chế giễu vương quyền mạo nhận của Chúa Giêsu. Binh lính Rôma là những kẻ đầu tiên. Được Philatô ra lệnh, họ đã đánh đòn Người: “Đoạn lính tráng, lấy gai tết một triều thiên đặt trên đầu Người và khoác cho Người một áo choàng đỏ; rồi chúng tiến lại bên Người mà nói: Kính chào vua Do thái, và chúng tát vả Người” (Ga 19,2-3). Màu đỏ là màu của vua, và triều thiên chỉ đội trên đầu vua chúa. Vì Chúa Giêsu đã tự xưng là vua, nên người ta cải trang Người thành vua và nhạo báng Người.
Philatô cũng nhảy vào trò chơi và bổ túc cảnh chế giễu, nhưng ý ông là để nhạo báng người Do thái trong con người vị vua Giêsu. Ông truyền dẫn Chúa Giêsu “đến nơi gọi là Nền đá, tiếng Hipri là Gabbatha” (Ga 19,13). Philatô đặt Chúa Giêsu, mặc áo choàng đỏ và đội triều thiên gai, lên ngồi trên một chiếc ghế tượng trưng ngai tòa, và bảo người Do thái: “Đây là vua các ngươi” (Ga 19,14). Màn nhạo báng quả lên tới tột điểm.
Cuối cùng, sau khi đóng đinh, Philatô cho đặt một tấm biển trên đầu Chúa Giêsu, mang giòng chữ “Giêsu Nadarét, vua dân Do thái” (Ga 19,19). Vua đáng thương hại chừng nào! Là vật khinh khi và đồ phế bỏ của nhân loại, là con người đớn đau và khổ sở như kẻ mà ai thấy phải giấu mặt chẳng dám nhìn. Người đã bị khinh khi và không được đếm xỉa tới (Is 53,3).
Tuy nhiên, cảnh bên ngoài đó lại cho thấy: Chúa Giêsu vẫn chiếm hữu vương quốc của Người như Người quả quyết: “Vương quốc của Ta không thuộc về thế gian” (Ga 18,36). Thành ngữ này trước tiên có nghĩa là vương quyền của Chúa Kitô không thuộc về hạ giới; nó không đặt cơ sở trên sức mạnh hay bạo lực, không dựa trên một quyền lực trần thế nào, nhưng là “từ trên” xuống (Ga 19,11), từ Thiên Chúa mà thôi.
Thành ngữ này cũng có nghĩa là vương quốc của Chúa Kitô mang tính vĩnh cửu, không tồn tại nơi thế gian chóng qua này (1Ga 2,17). Thành ra để chiếm hữu vương quốc Người, Chúa Kitô cần phải từ giã thế gian hiện tại để đi vào cõi vĩnh hằng, phải “qua khỏi thế gian này để đến cùng Cha” (Ga 13,1), và như thế phải được “giương cao khỏi đất” (Ga 12,32). Chính khi chịu đóng đinh, Chúa Kitô chiếm hữu vương quốc Người.
Thánh Gioan mặc nhiên nhấn mạnh điều đó. Trước hết ông ghi nhận: địa điểm mà Philatô đặt Chúa Giêsu ngồi trên tòa, mặc cẩm bào lố lăng, được gọi là “Gabbatha” (Ga 19,13), tiếng Hipri có nghĩa là “nơi cao”. Dưới con mắt của thánh Gioan, hành động của Philatô không còn là một sự nhạo báng, nhưng đã mặc lấy một giá trị biểu tượng: Chúa Giêsu sẽ là vua nhờ việc “được giương cao”; sự kiện Người ngồi ở một nơi cao trên tòa, ăn vận như vua, tiên trưng việc Người được giương cao và ngồi bên hữu Thiên Chúa (Tv 109,1).
Tiếp đến, tấm biển mà Philatô cho đặt trên đầu Chúa Giêsu chịu đóng đinh: “Giêsu Nadarét, vua dân Do thái” (Ga 19,19) cũng có ý nghĩa tương tự. Chỉ khi được “giương cao” trên thập giá, Chúa Giêsu mới thật sự khai mạc vương quốc của Người; Người kéo lên với Người cả nhân loại, trong lúc Satan bị hạ xuống và sự thống trị của nó trên loài người chấm dứt (Ga 12,31-32).
Đấy là huống cảnh nghịch thường được nhấn mạnh qua các chi tiết mô tả cảnh Chúa Kitô hầu tòa Philatô và chịu đóng đinh thập giá: chính lúc mọi sự đều xem ra không thể cứu vãn theo quan điểm loài người, chính lúc Chúa Giêsu phải hiện ra như một vì vua giả tạo, thì đó là lúc Người bắt đầu thống trị nhờ được “giương cao” trên thập giá.
Chúa Giêsu là vua, đó là điều chắc chắn. Chính để làm vua mà Người đã sinh ra và đã đến trong thế gian. Vương quyền của Người mang lại ý nghĩa cho tất cả cuộc đời Người, cho việc đội mão gai, cho cái chết và cho Giờ mà vì đó Người đã đến (Ga 12,17).
3. Những ai thuộc về vương quyền Giêsu Kitô-vua?
Hôm trước ngày chịu nạn, Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin: “Lạy Cha, những kẻ Cha đã ban cho Con, thì Con muốn là Con ở đâu, thì chúng cũng ở đó với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thiên lập địa” (Ga 17,24). Khi qua khỏi thế gian này mà về cùng Cha, Chúa Giêsu như một Môisen mới, kéo theo trong một cuộc Xuất hành mới, tất cả những ai muốn tháp tùng Người (Ga 12,25; 13,1). Một khi “được giương cao khỏi đất”, Chúa Giêsu lôi kéo nhân loại lên với Người (Ga 12,32); Người tụ tập tất cả họ trong nhà Cha (Ga 14,2).
Chúa Kitô thực thi vương quyền qua lời ban sự sống: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy tôn vinh con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, và để nhờ quyền năng mà Cha đã ban cho Người trên mọi xác phàm, Người ban cho những kẻ Cha đã trao cho Người sự sống vĩnh cửu” (Ga 17,1-2). Qua chữ “xác phàm”, Chúa Giêsu muốn ám chỉ: loài người xét như là “tạo vật” và vì thế phải chịu hư nát trong mộ phần. Thiên Chúa ban họ cho Chúa Kitô, họ thuộc quyền Người, để Người thông ban cho họ sự sống vĩnh cửu, là cuộc chiến thắng trên sự chết, trong vinh quang cánh chung (Ga 17,24).
Thiên Chúa đã đặt mọi sự dưới quyền của Con Ngài để Con ban sự sống cho tất cả. Vương quyền của Chúa Kitô được thể hiện nhờ việc trao ban sự sống cánh chung cho loài người: “Cha yêu mến Con, và đã ban mọi sự trong tay Người. Kẻ nào tin Con sẽ được sự sống vĩnh cửu; còn kẻ từ chối tin Con thì sẽ không thấy sự sống” (Ga 3,35-36).
Phải chăng như vậy con người chỉ trở nên “thần dân” của Chúa Kitô-vua khi họ giã từ cuộc sống hạ giới, đi qua thế gian này để về với Cha? Không, giây phút này chỉ đánh dấu một sự hoàn thành, một sự viên mãn, chứ không phải là một khởi đầu.
Để có sự sống vĩnh cửu, thì ngay từ cuộc sống trần gian này, phải “nghe” tiếng Chúa Kitô, nghĩa là vâng phục Người: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta: Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta ban cho chúng sự sống vĩnh cửu; chúng sẽ chẳng bao giờ bị diệt vong và không ai giữ chúng khỏi tay Ta được” (Ga 10,27-28); chỉ những ai “giữ” lời của Chúa Kitô mới không bao giờ thấy sự chết (Ga 8,51-52). Thành thử Chúa Kitô thi thố vương quyền trên những kẻ sống trong thế gian phù hợp với thánh ý Người, thánh ý được biểu lộ trong giới răn duy nhất: “Các ngươi hãy yêu mến nhau như Ta đã yêu mến các ngươi” (Ga 13,34-35).
Như vậy, chúng ta đã lãnh nhận, ngay từ đời này, một mầm sự sống thần linh: lời Thiên Chúa (Lc 8,11; 1Pr 1,22-23; 1Ga 3,9), nghĩa là chính Chúa Kitô - Ngôi Lời (Ga 1,12-13). Cuộc sống vĩnh cửu đã bắt đầu cho chúng ta trên trái đất, và việc chúng ta vượt qua thế gian mà về cùng Cha chỉ là sự “biểu lộ” những gì đang được dấu ẩn trong bí mật thánh thiêng này (1Ga 3,1-2).
Vâng! Vương quyền của Chúa Kitô được thi thố qua việc ban sự sống cho loài người, Chúa Kitô-vua ngay từ bây giờ ngự trị trên chúng ta, nhờ sự sống Người đã ban cho chúng ta. Vương quốc của Chúa Kitô không “thuộc thế gian này” (Ga 18,36), vì là một vương quốc cánh chung, nhưng mầm sống của nó đã được gieo trong tâm hồn chúng ta, chờ ngày chúng ta vượt qua thế gian này mà về cùng Cha trên trời.
31. Sự thật là gì?
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Khi tổ chức, hay tiến hành một chương trình, một lễ hội, một cuộc thi đấu…thì ai cũng hiểu rằng “vạn sự khởi đầu nan”, nhưng cũng đã thấy cái bầu khí của “buổi ban đầu” thường khá long trọng và hoành tráng. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng điểm kết thúc mới có tính quyết định. Vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ, khi Giáo Hội suy tôn Chúa Kitô là Vua vũ trụ, thì cũng một cách nào đó muốn nhắn nhủ với con người cách chung và với đoàn con Kitô hữu cách riêng về ý nghĩa đời người. Tính quyết định của hạnh phúc con người có mối liên hệ tất yếu với nội hàm chân lý: Chúa Kitô là Vua vũ trụ.
Khi nghe Chúa Giêsu khẳng định rõ ràng: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”, Philatô đã hỏi lại: “Sự thật là gì?” (x.Ga 18,37-38). Tin mừng không tường thuật câu trả lời của Chúa Giêsu mà ngưng ở đó để rồi kể tiếp chuyện Philatô lại ra gặp người Do Thái.
Sự thật là gì? Mặc dù có nhiều cái nhìn, nhiều quan niệm khác nhau về sự thật nhưng vẫn có nét tương đồng căn bản. Sự thật là sự tương hợp hay sự đồng nhất giữa nội dung với hình thức, giữa cái bên trong và cái bên ngoài, chẳng hạn như chất lượng sản phẩm hàng hóa đúng với những gì ghi ngoài nhãn hiệu, bao bì…Trên bình diện hữu thể thì có người cho rằng sự thật là sự đồng nhất giữa thực tại với cái biểu hiện. Cũng có người quan niệm sự thật là sự duy nhất, bất biến và thường tồn của thực tại.
1. Sự thật về Đức Kitô:
Theo viễn kiến này thì duy chỉ có Thiên Chúa là sự thật đúng nghĩa. Người không chỉ là “Đấng có sao, có vậy” (x.Xh 3,14) mà người còn là Đấng là An-Pha và Omêga nghĩa là có từ nguyên thủy và tồn tại đến vạn đại thiên thu (x.Kh 1,8). Chính Chúa Kitô đã từng khẳng định Người là sự thật (x.Ga 14,6). Người là Đấng có sao, có vậy, là nguyên thủy và là cùng đích (x.Ga 8,24; 27; 57). Như thế khi nói với Philatô rằng mình đến thế gian là để làm chứng cho sự thật thì Chúa Kitô muốn minh chứng và khẳng định rằng chính Người là căn nguyên và cùng đích của mọi hiện hữu.
Cũng như vạn vật, con người tôi bởi đâu mà ra và rồi sẽ đi về đâu, một câu hỏi đã trở thành vấn nạn khó giải cho nhiều học giả, nhiều triết gia…mọi thời, nay đã có câu trả lời. Các hiện hữu ở đời này, sự hiện hữu của tôi trong cõi đời này có nguồn gốc và đích đến là chính Chúa Kitô. Trong thân phận một công dân, thì “quê hương mỗi người chỉ một, nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nỗi thành người” (Đỗ Trung Quân), thì cũng thế và hơn thế nữa, trong thân phận con người, tôi chỉ thực sự là tôi khi ở trong tương quan với Chúa Kitô. Đúng hơn, sự hiện hữu của tôi, sự sống còn của tôi, ý nghĩa cuộc đời của tôi lệ thuộc vào Đức Kitô. Đây chính là một nội hàm của chân lý Chúa Kitô là Vua vũ trụ mà Giáo Hội long trọng tuyên xưng vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ. Tuyên xưng Chúa Kitô là vua có nghĩa là tuyên xưng sự lệ thuộc, sự suy phục của mình vào Chúa Kitô. Vì tất cả mọi loài mọi vật “đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho Người” (Col 1,16).
2. Sự thật về con người:
Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (x.St 1,27), con người cũng là sự thật khi nên một với Chúa Kitô. Đấng là hình ảnh Thiên Chúa vô hình đã tự xưng là Con Người. Thánh Tông đồ dân ngoại đã mạnh mẽ khằng định chân lý này: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng duới đất hữu hình với vô hình” (Col 1,15). Vì là sự thật nên con người phải được yêu quý và tôn trọng cũng như bảo vệ. Dù là một bệnh nhân, dù là một người nghèo khổ, một người thấp cổ, bé phận, dù là một bào thai dị tật… tất thảy đều đáng phải được kính trọng, yêu mến và bảo vệ hơn tất cả những thể chế, luật lệ, nghi thức hay truyền thống… Chúa Kitô đã khẳng định chân lý này khi nhấn mạnh: “Ngày Sabat có ra là vì con người, chứ không phải con người có ra là vì ngày Sabat” (Mc 2,27).
Là loài thọ tạo có vẻ mỏng manh và đầy yếu đuối nhưng con người lại được Thiên Chúa đặt lên làm chủ tể mọi loài trên trời dưới đất (x.St 1,26). Con người là chi mà Chúa nhớ đến, loài người là gì mà Ngài phải bận tâm? (Tv 8,5). Tất cả chỉ vì Thiên Chúa đã đoái nhận loài người làm dưỡng tử trong Con Một dấu yêu của Người là Đức Giêsu Kitô (x.Eph 1,5). Mặc dù có điểm khởi đầu, có kinh qua cánh cửa sự chết, nhưng hiện hữu của con người là bất tận, vì “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là của kẻ sống” (Mt 22,32).
3. Sự thật về hạnh phúc:
Con người đã được dựng nên là tồn tại mãi mãi. Thế nhưng số phận đời đời của mỗi người là được hạnh phúc viên mãn hay phải trầm luân vĩnh viễn còn tùy thái độ sống của mỗi người khi còn tại thế. Con người chỉ có hạnh phúc đích thật khi là chính mình như thuở ban đầu cuộc sáng tạo đó là trở nên hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta là chính mình khi nên một với Đức Kitô, làm môn đệ của Người. Và Chúa Kitô đã khẳng định khi chúng ta yêu mến nhau như Người đã yêu mến chúng ta thì chúng ta sẽ ở trong tình yêu của Người và đích thực là môn đệ của Người (x.Ga 13,35; 14,9-11).
Chính con tim, tấm lòng của chúng ta dành cho tha nhân, nhất là cho nhũng người bé mọn sẽ quyết định về số phận đời đời của chúng ta (x.Mt 25,31-46). Thánh Gioan Tông Đồ đã nói: “Ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa vì Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,7-8).
Năm Phụng Vụ sắp kết thúc nhắc nhủ cho chúng ta sự thật này: cái chung cục mới thật quan trọng. Đảm nhận chức vụ này hay ở địa vị kia, sống bậc sống này hay bậc sống nọ, tất thảy đều hướng đến mục đích cuối cùng là được cứu độ, được hạnh phúc viên mãn. Để có hạnh phúc thật, chắc chắn phải đón nhận Sự Thật là Đức Kitô, vì không một ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Người (x.Ga 14,6). Và dưới gầm trời này chỉ có một Danh mang ơn cứu độ là Giêsu Kitô. Khi đã đón nhận sự thật là Chúa Kitô thì chúng ta cũng sẽ biết được sự thật về con người cũng như con đường để đạt được hạnh phúc muôn đời.
32. Đệ nhất Thiên Vương
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
VUA LÀ AI?
Thời quân chủ, người ta “quy ước” trật tự xã hội là Quân-Sư-Phụ, vua là nhất, sau đó là người dạy, rồi mới tới cha mẹ. Vua hoặc Hoàng đế là người có quyền lực cao nhất, kể cả quyền sinh sát: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Vua được mệnh danh là Thiên tử – con của Trời, thần dân phải phụng mệnh tối đa, vâng lệnh “tối mặt”. Vua bảo chết mà chết mới là trung thần (sic!).
Rồng là một trong mười hai con giáp, là con vật quý, thực ra chỉ do tưởng tượng, nhưng mọi thứ của vua đều được trân trọng là “rồng”: Long thể, long bào, long sàng,…
Thời phong kiến theo chế độ “tông pháp” (cha truyền con nối), vua trị vì tới mãn đời. Vua có “quyền” nên thỏa sức “hành” người ta, vì vậy thường thì vua nào cũng có có “máu ác”, thế mà vẫn được xã hội mặc nhiên như vậy, ít có những ông vua nhân đức như vua Nghiêu, vua Thuấn của Trung quốc, làm thiên hạ thái bình, hoặc như vua Trần Nhân Tôn và vua Lê Thánh Tôn của Việt Nam.
Minh quân thì hiếm, hôn quân (vua ác) thì nhiều. Trung quốc có Tần Thủy Hoàng, Vạn Lý Trường Thành của ông vua này đã hao tổn bao sinh mạng của dân lành; Việt Nam có vua Lê Long Đĩnh, có “biệt danh” là Ngọa Triều (“ngọa” là nằm, “triều” là triều chính, ông này ăn chơi sa đọa đến nỗi không ngồi được nên phải nằm mỗi khi ngự triều), ông có thú vui độc ác là “róc mía trên đầu nhà sư” và “mổ bụng các thai phụ để xem thai nhi thế nào”; vua Shah Jahan của Ấn Độ đã xây đền Taj Mahal bằng cẩm thạch (một trong những kỳ quan thế giới) để tưởng nhớ người vợ thứ ba là Mumtaz Mahal, nhưng khi đền này xây xong, ông ra lệnh chặt tay tất cả những người thợ để họ không thể xây ngôi đền khác như vậy.
Đế quốc La Mã xưa cũng đã từng “làm mưa, làm gió” một thời, biết bao tín hữu bị phanh thây, xẻ thịt! Người Công giáo Việt Nam cũng bị hành hạ suốt ba thời vua: Minh Mạng, Thiệu Trị, và Tự Đức.
Và còn nhiều ác vương khác trên thế giới. Thế nhưng thần dân vẫn phải tán tụng họ là “hoàng thượng anh minh”. Thậm chí khi muốn tấu trình thì phải “muôn tâu bệ hạ”, tức là tâu với cái bệ rồng của vua ngồi chứ không được tâu thẳng nhà vua, cũng không ai được nhìn mặt vua.
Ngày nay chỉ còn vài nước theo chính thể quân chủ, nhưng không “thuần túy” như xưa. Vua có khi chỉ là một thiếu niên, và sẽ làm vua cho đến chết. Người đứng đầu một quốc gia ngày nay gọi là Tổng thống, chỉ tại chức theo nhiệm kỳ vài năm. Ngày xưa vua tàn ác minh nhiên, dễ thấy; còn ngày nay, người đứng đầu một nước cũng vẫn có người tàn ác, nhưng bằng các động thái khác và khó phát hiện vì “tinh vi” hơn nhiều.
ĐỆ NHẤT THIÊN VƯƠNG
Ngôn sứ Đa-ni-en kể: “Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện” (Ðn 7:13). Đó là hình ảnh liên quan Ngày Cánh Chung, Ngày Tận Thế. Đó là lúc mọi người tỏ tường mọi thứ, là lúc yết kiến Thiên Vương, là lúc phải trình diện Vua Muôn Đời.
Khi đó, “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị”, còn “muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người” (Ðn 7:14a), thậm chí quỷ vương cũng phải tâm phục khẩu phục mà bái lạy Người là Vua các vua, là Chúa các chúa. Đó là quyền đặc biệt, độc nhất vô nhị: “Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Ðn 7:14b).
Con Người ngự giá mây trời mà ngôn sứ Đa-ni-en thị kiến là Đức Kitô, chính Ngài là Vua các Vua và Chúa các chúa, hoàn toàn khác thường về mọi thứ: “Chúa là Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào, Người lấy dũng lực làm cân đai. Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu không lay chuyển. Ngai vàng Chúa kiên cố tự ngàn xưa: Ngài hiện hữu tự muôn ngàn đời” (Tv 93:1-2). Vì thế, Ngài chính là Đệ nhất Thiên Vương mà chúng ta phải tôn thờ và tôn vinh: “Lạy Chúa, thánh chỉ Ngài thật là bền vững, nơi đền vàng rực lên toàn thánh thiện triền miên qua mọi thời” (Tv 93:5).
Đồng thời chúng ta cũng phải cầu nguyện: “Xin Đức Giêsu Kitô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh em ân sủng và bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men!” (Kh 1:5-6). Thánh sử Gioan cũng thị kiến “Người ngự đến giữa đám mây” (Kh 1:7a), điều đó cho thấy diễn tiến Ngày Tận Thế, ngày mà Đức Kitô đến xét xử thế gian. Và “ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế! A-men!” (Kh 1:7b). Kẻ lành và kẻ dữ đều diện kiến Ngài, nhưng có cuộc sống vĩnh hằng khác nhau: Người lành được làm công dân Nước Trời vĩnh hằng, còn kẻ ác làm đệ tử Luxiphe đời đời.
Đức Chúa là Thiên Chúa đã xác định: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng” (Kh 1:8). Và mãi mãi Ngài là thế, là Đấng tự hữu và hằng hữu!
VUA SỰ THẬT, VUA THƯƠNG XÓT
Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu tới và hỏi: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?” (Ga 18:33). Đức Giêsu không trả lời trực tiếp mà đáp lại bằng một câu hỏi: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” (Ga 18:34). Ông Philatô nói: “Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?” (Ga 18:35). Đức Giêsu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18:36).
Chúa Giêsu hai lần xác định: “Nước tôi không thuộc thế gian này”. Chắc hẳn tổng trấn Philatô không hiểu hết hoặc không thể hiểu ý Chúa, thế nên ông ta liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?”. Đức Giêsu không hề tự nhận là vua, và thản nhiên: “Chính ngài nói rằng tôi là vua” (Ga 18:37a). Rồi Ngài nói rõ: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37b). Ngài là Người-của-Sự-Thật, là Nhân-Chứng-Chân-Lý, Ngài không đấu tranh cho chính Ngài mà đấu tranh vì công lý và hòa bình của nhân dân, dù người đó sống tốt lành hay tội lỗi.
Nếu nói về Vương Quốc Chân Lý, Ngài là Vua Sự Thật. Tuy là Vua nhưng lại giàu lòng thương xót, như vậy Ngài cũng là Vua Thương Xót.
Có lần Chúa Giêsu nói về vua chúa thế gian và quyền hành trần tục: “Thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân” (Mt 20:25). Người có thế quyền và thế lực hành xử như vậy, bắt người khác quy phục, còn Chúa Giêsu không dùng uy quyền và thế lực để đàn áp người khác, không dùng uy tín và chức vụ để thị uy hoặc bóc lột người khác, mà ngược lại, Ngài phục vụ chứ không bắt người khác phục vụ (x. Mt 20:28; Mc 10:45). Như vậy Ngài cũng là Vua Khiêm Nhường.
Chắc hẳn chẳng có ông vua nào dám làm như vậy, thậm chí đối với những kẻ nhẫn tâm giết Ngài mà Ngài vẫn xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Ngài thật lòng thương xót và thật lòng tha thứ chứ không miễn cưỡng hoặc vì ở thế việt vị.
Chúa Giêsu là Vị Vua “ngược đời” nhất thế gian, vì Ngài là Vua Trời nhưng đã tự hạ mình xuống thế gian để hòa nhập với thần dân. Chúng ta cũng “ngược đời”, nhưng ngược đời trái chiều với Vua Trời, vì chúng ta chỉ là bụi tro nhơ nhớp và hèn mọn, thế mà chúng ta lại muốn ở “trên mây”, nghĩa là nâng mình lên càng cao càng tốt, là kiêu ngạo. Nếu vậy thì chúng ta hoàn toàn đi ngược chiều với Đấng mà chúng ta tôn vinh là Thiên Vương, là Chúa Tể Càn Khôn, là Vua Trời Đất, là Vua Vũ Trụ. Hai người chuyển động ngược chiều thì làm sao gặp nhau?
Vậy chúng ta học được chút gì ở Vua Giêsu về quyền hành, chức vụ, địa vị, cách phục vụ, sự tha thứ, tình yêu thương, lòng thương xót, cách nói, cách đối nhân xử thế,…? Nhưng nên nhớ rằng học là một chuyện, thuộc bài là một chuyện, còn thực hành bài học đó hay không lại là chuyện khác!
Lạy Thiên Vương Giêsu, Vua Khiêm Nhường, Vua Sự Thật, Vua Thương Xót, chúng con khiêm nhường phủ phục mà xin lỗi Ngài vì chúng con quá tồi tệ. Xin xót thương và tha thứ cho chúng con, và xin Ngài mãi mãi là Vua cai trị cuộc đời chúng con. Xin cậy nhờ công nghiệp của Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
33. Vua Chân Lý
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Danh nhân Mahatma Gandhi (1869-1948), chính khách chủ trương bất bạo động và nhà lãnh đạo tinh thần của dân Ấn Độ, nhận định: “Đức hạnh là nền tảng của mọi thứ và chân lý là bản chất của mọi đức hạnh”. Một câu nói rất thâm thúy, rất phù hợp với đạo làm người và cũng phù hợp với đạo giáo – đặc biệt là Công giáo.
Ông Gandhi còn xác định rạch ròi và chi tiết hơn: “Dù bạn có là thiểu số thì chân lý vẫn là chân lý. Công cuộc theo đuổi chân lý không cho phép bạo lực với đối phương. Sai lầm không trở thành chân lý vì lý lẽ của vô số cách tuyên truyền, chân lý cũng không trở thành sai lầm vì không ai thấy nó. Tôn giáo của tôi dựa trên chân lý và bất bạo động, chân lý là Chúa của tôi, bất bạo động là cách để nhận biết Người”. Cách sống của ông rất gần với giáo huấn yêu thương của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng ta.
Thế mà, khi xét xử Chúa Giêsu, ông Philatô đã hỏi Ngài: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38). Ông ta thực sự không biết hay là cố ý giả nai? Chúng ta có bao giờ “đặt vấn đề” như ông Philatô? Có đấy, nhưng với kiểu cách “tinh vi” hơn! Người Việt nói là “giả nai” hoặc “ngây thơ cụ”.
Theo chế độ quân chủ, vua là người có quyền tối thượng, cho sống thì được sống, bắt chết thì phải chết, thế mới là trung thần: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Mọi thần dân đều vui nhận mọi mệnh lệnh của nhà vua, vì được nhận chiếu chỉ của vua là niềm hãnh diện, và người ta còn gọi chiếu chỉ là “thánh chỉ”, tất nhiên không loại trừ mệnh lệnh bắt phải chết.
Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, tự hữu và hằng sinh, vua chúa trần gian chỉ là “hạt bụi” dưới chân Ngài mà thôi. Thế nhưng Ngài lại giàu lòng thương xót, thích tha thứ chứ không thích kết án ai. Thật lạ, khi Chúa Giêsu đứng trước Philatô, một người đầy uy lực, còn Chúa Giêsu khi đó chỉ như một tội đồ, thế mà Ngài vẫn thản nhiên nói thẳng với tổng trấn đó: “Ông không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ông” (Ga 19:11).
Trình thuật Ðn 7:13-14 cho biết một trong những thị kiến ban đêm của ngôn sứ Đa-ni-en: “Tôi mải nhìn thì kìa: có ai như Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong”.
Chỉ có hai câu, ngắn gọn nhưng súc tích nói rõ về Vua Chân Lý, cũng là Hoàng Tử Bình An, Vua Công Lý, Vua Tình Yêu, Chúa Tể Càn Khôn. Nhưng có điều đặc biệt, Vị Vua này là Hoàng-Đế-ba-không: KHÔNG đăng quang, KHÔNG ngai vàng, và KHÔNG được tiền hô hậu ủng. Chắc chắn không một vị vua chúa nào “độc đáo” như Ngài và cũng không có uy quyền như Ngài. Thật hạnh phúc khi chúng ta được nhận biết Ngài và tôn thờ Ngài!
Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh xác định: “Chúa là Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào, Người lấy dũng lực làm cân đai. Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu không lay chuyển. Ngai vàng Chúa kiên cố tự ngàn xưa: Ngài hiện hữu tự muôn ngàn đời” (Tv 93:1-2). Vâng, quả nhiên là chúng ta không thể không chia sẻ với người khác khi chúng ta có một Đức Chúa như vậy, ngay cả những vật vô tri cũng chợt nhận biết và rồi chúng không thể im lặng: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia” (Tv 19:2-3).
Thiên Chúa là Đấng siêu việt nên mọi thứ khác bởi Ngài cũng hoàn toàn siêu việt: “Lạy Chúa, thánh chỉ Ngài thật là bền vững, nơi đền vàng rực lên toàn thánh thiện triền miên qua mọi thời” (Tv 93:5). Đó là một sự thật minh nhiên, vĩnh hằng, không ai có thể chối cãi. Nếu có ai chối bỏ thì chỉ là tự lừa dối chính họ mà thôi.
Thiên Chúa quan tâm chăm sóc các thụ tạo của Ngài rất chu đáo, Ngài muốn chúng ta đồng hưởng vinh quang với Ngài đời đời. Tuy nhiên, trước đó thì chúng ta được “thanh luyện” trên thế gian với quyền tự do mà Ngài đã ban cho chúng ta. Vâng, chúng ta được hoàn toàn tự do chứ hề không bị ép buộc.
Thánh Gioan viết thư gửi bảy Hội Thánh Axia và đề cập việc làm chứng nhân của Đức Giêsu Kitô: “Xin Đấng hiện có, đã có và đang đến, xin bảy thần khí hiện diện trước ngai của Người, xin Đức Giêsu Kitô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh em ân sủng và bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy MÁU mình RỬA SẠCH tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. Amen!” (Kh 1:5-6). Thiên Vương Giêsu Kitô không “hét ra lửa” như các vua chúa trần gian, nhưng Ngài lại có uy tín hơn bất cứ ai. Ngài trị vì cả vũ trụ hữu hình và vô hình, nhưng Ngài lại làm gương là hy sinh vì tình yêu đến tận cùng, đến chết.
Lần thứ nhất Chúa Giêsu Kitô đến thế gian như “con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt” (Gr 11:19) và với tư cách là Vua Thương Xót, nhưng Ngài đến thế gian lần thứ hai như một Thẩm Phán Công Bình và với cương vị là Vua Công Lý. Ngày ấy đang đến rất gần rồi!
Thánh Gioan cho biết cách Thiên Vương Giêsu quang lâm: “Kìa, Người ngự đến giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế! Amen!” (Kh 1:7). Đấm ngực là biểu hiện lòng sám hối, nhưng nếu đấm ngực mà không ăn năn thì có đấm mạnh đến nỗi đau tức ngực cũng chỉ là vô ích. Biết chuẩn bị đón Ngài bằng cách “đấm ngực chân thành” ở mọi nơi và mọi lúc thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa khoan hồng, thậm chí là tha bổng, cho trắng án. Không ai xa lạ, chính “tướng cướp khét tiếng” Dismas đã nên thánh nhờ được diễm phúc đó (x. Lc 23:43), đúng như lời Chúa Giêsu đã hứa: “Ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài” (Ga 6:37).
Thiên Chúa là tất cả, mọi điều không thể sẽ hóa thành có thể, chỉ cần chúng ta thành tâm mà khiêm nhường sám hối, chứ Ngài không cần lễ vật chi cả (). Thật vậy, Ngài đã xác định rạch ròi: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng” (Kh 1:8). Nhưng đừng quên điều này: “Thiên Chúa không thiên vị ai (Gl 2:6; Cv 10:34) và cũng không vị nể ai (1 Pr 1:17a; Mt 22:16), cứ theo công việc mỗi người mà xét xử.
Trình thuật Ga 18:33b-37 cho thấy cảnh người ta phải công nhận Ngài là Vua, một Vị-Vua-ba-không.
Sau khi bọn thủ ác bắt Chúa Giêsu và điệu Ngài tới cho tổng trấn Philatô luận tội. Lúc ông ta trở vào dinh, cho gọi Chúa Giêsu và hỏi Ngài: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?”. Ngài không trả lời mà thản nhiên hỏi lại: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”. Ông Philatô nói rằng ông là người Do-thái, mà chính dân chúng và các thượng tế đã nộp Ngài cho ông ta. Rồi ông ta hỏi Chúa Giêsu: “Ông đã làm gì?”. Chúa Giêsu không trả lời thẳng mà trình bày lý luận: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này”.
Có lẽ ông Philatô gần giống như “vịt nghe sấm”, chưa hiểu hết ý của Chúa Giêsu nên ông ta phải hỏi lại: “Vậy ông là vua sao?”. Chúa Giêsu vẫn không xác nhận mà lại nói: “Chính ngài nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Ai cũng thích sự thật, nhưng không dễ “đứng về phía sự thật”. Tại sao? Vì SỰ THẬT luôn THẲNG THẮN. Thế nên người ta dễ a dua, vì không có lập trường, sợ bị “lẻ loi”, như người ta vẫn nói đùa mà thật: “Ai làm sao, tôi làm vậy; ai làm bậy, tôi làm theo!”. Phải thực sự can đảm mới có thể dám “đứng về phía sự thật”.
Sự thật vốn dĩ dễ khiến người ta mất lòng vì sự thật thường mang tính phũ phàng. Tuy nhiên, sự thật là chân lý, mà chân lý không thể bị bóp méo hoặc bị xuyên tạc, nhưng chân lý đó phải thực sự là sự thật – tức là chân-lý-thật, chứ không thể là sự thật giả tạo, được ngụy biện hoặc được dàn xếp. Chính chân-lý-thật mới có khả năng kỳ diệu, dạng sự thật mà Chúa Giêsu đã đề cập và xác định: “Sự thật sẽ giải phóng quý vị” (Ga 8:32).
Ước gì không một ai trong chúng ta “ngây thơ cụ” như ông Philatô đã hỏi Chúa Giêsu: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38).
Mừng kính lễ Thiên Vương Giêsu Kitô là dịp để chúng ta xét mình một cách nghiêm túc hơn, xem mình đã thực sự là tín dân của Ngài hay chưa. Và xin được kể vài chuyện có thật đã xảy ra với những kẻ vô thần, dám coi thường Thiên Chúa:
1. John Lennon, ca sĩ của ban nhạc nổi tiếng The Beatles của Anh quốc. Trong lúc được tạp chí American Magazine phỏng vấn, John Lennon nói: “Thiên Chúa Giáo sẽ không còn, sẽ biến mất. Tôi không có gì phải tranh cãi về điều đó. Tôi chăc chắn như thế. Ông Giêsu thì được, nhưng những kẻ theo Ông thì quá ngây ngô! (Ý muốn nói là bị Ông Giêsu lừa gạt). Ngày nay, chúng tôi, ban nhạc The Beatles nổi tiếng hơn Ông Giêsu” (1966). Sau khi John Lennon tuyên bố lời trên đây, hắn bị bắn sáu lần. Không biết sau đó hắn có ăn năn hay không, nhưng mọi người biết rõ là The Beatles đã “chết”.
2. Một nhà báo hỏi người thiết lập chiêc tàu Titanic về sự an toàn của chiếc tàu, hắn nói: “Ngay cả Thượng Đế cũng không thể đánh chìm được nó”. Kết quả ra sao, mọi người đã biết rõ: Vỡ đôi vì tảng băng ngầm vào sáng ngày 15-4-1912 tại Bắc Đại Tây Dương!
3. Marilyn Monroe, diễn viên điện ảnh. Trong một xuất trình diễn, cô được Billy Graham đến thăm. Bill Graham nói rằng Chúa Thánh Thần sai ông đến để nói với cô. Nghe xong, Marilyn Monroe nói: “Tôi không cần Giêsu của ông”. Một tuần sau, người ta thấy xác Marilyn chết cô đơn trong một chung cư.
4. Năm 1954, sau khi chiếm miền Bắc, một toán công an cộng sản vào nhà dòng kín Bùi Chu lục soát. Khi đến Nhà Nguyện, lúc các nữ tu đang chầu Mình Thánh, một tên cộng sản lớn tiếng la lối: “Chúa của các người ở đâu?”. Nữ tu chỉ Nhà Tạm trên bàn thờ, tên này lấy súng mang trên người nhắm Nhà Tạm. Hắn bắn vỡ chén thánh và Mình Thánh Chúa đổ ra vương vãi. Bắn xong, hắn vẫn đứng yên, chĩa súng vào Nhà Tạm như muốn bắn tiếp. Các nữ tu vô cùng đau lòng vì Mình Thánh Chúa bị xúc phạm, nên quỳ xuống, van xin anh đừng bắn nữa, nhưng khi chạm đến anh, các nữ tu mới biết linh hồn hắn đã lià khỏi xác từ lúc nào rồi: Hắn chết đứng!
5. Năm 1963, sau khi Tổng thống Ngô Ðình Diệm bị một số tướng tá phản bội lật đổ, một số người bên lương tràn vào Tòa tỉnh trưởng Thừa Thiên (Huế), đập phá “tàn tích gia đình trị”. Khi thấy bức tượng Thánh Gioan Tẩy Giả, quan thầy của Tổng thống Diệm, một thanh niên trèo lên vác búa đập vỡ mặt mũi bức tượng, nhưng hắn bị trật chân ngã xuống và chết ngay lập tức. Sự kiện này xảy ra trước mắt nhiều người chứng kiến.
6. Voltaire là kẻ chống Thiên Chúa và đánh phá Hội Thánh Công Giáo rất quyết liệt. Không một lời gian dối và vu oan nào mà ông tởm gớm. Ông chiêu tập một nhóm lấy tên là “Beelzebub” (Bê-en-dê-bun, tên của tướng quỷ). Năm 1753, ông đã lên án Thiên Chúa: “Hai mươi năm nữa Thiên Chúa về hưu, vì không còn ai phục vụ Ngài”. Đúng hai mươi năm sau, năm 1773, Voltaire tắt thở vì chết thê thảm. Ông đã thấy những hình ảnh làm ông run sợ và hét lên: “Một bàn tay đang kéo tôi xa Thiên Chúa... Qủy bắt tôi... Tôi trông thấy hỏa ngục”. Ông tru tréo như thú vật hung dữ. Ông lấy móng tay cấu xé thịt mình ra từng miếng. Một bà già thường giúp người hấp hối, sau khi chứng kiến cái chết của Voltaire, đã nói: “Khi ấy tôi ở gần giường của Voltaire đang hấp hối, tôi không muốn nhìn thấy một người vô đạo chết nữa”. Một người khác chứng kiến cái chết của Voltaire cũng nói: “Nếu quỷ có thể chết được, cũng không chết dữ như Voltaire”.
Lạy Thiên Chúa, xin thêm lòng Tin Cậy Mến cho con, vì con yếu đuối lắm. Xin đừng để sóng đời cuốn trôi con theo hướng vô định. Xin Thần Khí Chúa định hướng tâm linh để con tin nhận Đức Giêsu Kitô là Vua cai trị đời con mà vui nhận mọi mệnh lệnh của Ngài – Đấng cứu độ nhân loại, Đấng hằng sinh và hằng hữu, hiển trị cùng với Chúa Cha, và hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
34. Một vị vua khác thường – Guy Marin.
Vua chúa trần gian có một lãnh thổ mà họ thống trị và họ tìm cách mở rộng: Chúa Giêsu Kitô không có nơi gối đầu. Vua chúa trần gian cho phát hành tem và đồng tiền mang hình ảnh của họ, như thể họ muốn kiểm soát mọi thư từ và mọi việc buôn bán vậy; Chúa Giêsu không có như vậy. Những kẻ quyền thế ở đời có quân đội và cảnh sát, bom và súng đại bác, và sử dụng chúng khi cần, trong vườn Cây Dầu, Chúa Kitô chỉ có hai thanh gươm và cấm Phêrô sử dụng. Vua chúa và những người làm lớn ở đời này cai quản dân tộc của họ bằng sự khéo léo, mưu mô và những thủ đoạn, thậm chí đôi khi bằng dối trá, bất công và tội ác nữa; Chúa Giêsu Kitô không thể dùng phương tiện nào trong những phương tiện cấy, vì Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Nếu Chúa Giêsu Kitô không có chút gì trong những điều làm nên các vị vua, vậy có thể thực sự xưng Ngài là vua không? Kinh Tin Kính trả lời chúng ta… “vương quốc Ngài sẽ vô cùng tận”. Và tất cả Tin Mừng cũng nói như vậy: Thiên sứ Gabriel loan tin cho Đức Maria rằng con của bà sẽ lên ngôi Đavit; Ba vua thờ lạy Ngài như một vị vua; suốt ba năm Chúa Giêsu không ngớt nói về vương quốc.
Tuy nhiên, các sách Tin Mừng kể lại một sự kiện lạ lùng, đó là thái độ của Chúa Giêsu đối với quyền làm vua. Khi dân chúng hăng say muốn tôn Ngài lên làm Vua, Ngài đã từ chối. Trái lại trước mặt Philatô, trong lúc không ai đặt Ngài làm vua cả, Chúa Giêsu lại khẳng định vương quyền của Ngài. Ngài nhất thiết đòi cho được vương quyền, trong lúc không ai muốn trao cho Ngài cả. Khi người ta hiến dâng nó cho Ngài thì Ngài lại tránh né. Thái độ lạ lùng thật: khi có thể dễ dàng làm Vua, thì Ngài từ chối. Khi điều này không thể xẩy ra thì Ngài lại cố đòi cho được. Chúa Giêsu quả là một vị Vua lạ lùng.
Chứng nhân cho sự thật.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu khẳng định Ngài là Vua ở điểm nào: “Tôi đến để làm chứng cho sự thật”. Sự thật mà Ngài tuyên bố là độc nhất, đó là ý định cứu rỗi của Thiên Chúa: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài đến để cứu độ thế gian. Mỗi lần bằng lời nói và và việc làm, Chúa Giêsu biểu lộ ý định này, là mỗi lần Ngài thực thi quyền là vua của Ngài. Có thể nói rằng cuộc đời của Ngài là cuộc đời vương giả, vì nó hoàn toàn diễn tả ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân, mù, què, bất toại, phong cùi, nhưng hành động này đối với dân chúng là dấu hiệu cho thấy vương quốc đã đến gần, tức là Thiên Chúa đang can thiệp. Cũng vậy khi, bởi quyền năng của Thiên Chúa, Ngài trừ quỷ là Ngài minh chứng về sự hiện diện hữu hiệu của Thiên Chúa nơi dân Ngài. Khi Ngài lui tới với những người thu thuế, khi Ngài cứu người phụ nữ ngoại tình là Ngài biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa không muốn cho kẻ tội lỗi phải chết. Khi Ngài khóc thương Giêrusalem, Ladarô là Ngài biểu lộ lòng ưu ái của Chúa Cha đối với những nỗi khốn khó của loài người chúng ta.
Một hôm, Chúa Giêsu tuyên bố là có phúc những kẻ bất hạnh đủ loại: nghèo, đói, khát, buồn rầu, bị bách hại. Ngài không khôi hài đâu, nhưng Ngài loan báo cho họ rằng họ sẽ là những người đầu tiên được hưởng Nước Trời sắp đến. Đối với những kẻ bị trói buộc bởi những luật lệ tỉ mỉ, Ngài nói với một lời giải phóng: “Ngày sabat được đặt ra vì con người…”. Trong các dụ ngôn, như dụ ngôn về đứa con hoang đàng, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh của Thiên Chúa và những mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
Làm chứng cho sự thật bằng cuộc sống của mình, Ngài lại càng làm chứng hơn nữa bằng cái chết. Vì những giá trị mà Ngài đề cao chính là nguyên nhân của cái chết này. Vì làm chứng như vậy về Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu chống lại những tư tưởng quen thuộc, Ngài thay đổi những cách đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân. Ngài làm cho các chức trách tôn giáo căm thù. Tóm lại Ngài trở thành kẻ xách động. Người ta nói với một kinh sư rằng Đấng Mêsia đã đến. Ông chạy ra cửa sổ nhìn và trở về lắc đầu mà nói: “Không tôi không thấy gì thay đổi cả”. Kinh sư này có lý, Chúa Giêsu là Vua khi sự việc thay đổi nhân danh Tin Mừng. Và trước hết là lòng con người. Chúa Giêsu là Vua khi con người hoán cải theo các mối phúc thật và từ bỏ các giá trị theo tinh thần thế gian: Nghèo còn hơn là bóc lột, bị bách hại còn hơn là bách hại, hiền lành còn hơn là hung dữ, thà khóc còn hơn làm cho kẻ khác khóc, tha thứ hơn là được giải oan.
Khi con người biết Tin Mừng họ sẽ không thể dửng dưng đối với những gì thuộc lãnh vực chính trị. Họ không dửng dưng khi chính phủ kỳ thị chủng tộc, tạo nên bất bình đẳng, áp bức kẻ yếu hoặc bóc lột thế giới thứ ba. Nhân danh Tin Mừng người Kitô hữu có một cái nhìn phê phán trên tất cả những điều này. Chúa Giêsu đã từ chối quyền bính chính trị, nhưng Ngài đã để lại những nguyên tắc hướng dẫn lương tâm chính trị. Hôm nay chúng ta hãy nhớ rằng Ngài chỉ làm Vua theo mức độ chúng ta sống theo chân lý của Ngài mà thôi.
35. Làm chứng cho sự thật -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có 4 bà mẹ ngồi tán ngẫu với nhau. Các bà huyên thuyên nói về những đứa con của mình. Một bà khoe:
- Thằng Tí nhà tôi thế nào lớn lên cũng làm kỹ sư. Hễ nhà có món đồ nào mới mua về, thì nó cũng tìm cách tháo tung ra để coi máy móc bên trong chạy ra sao.
Bà thứ nhì nói:
- Thằng Tèo nhà tôi, đoán chắc sau này nó sẽ trở thành luật sư. Ai nói gì nó cũng cãi cho bằng được!
Bà thứ ba than:
- Thằng con tôi có lẽ cũng sẽ trở thành họa sĩ, vì tường nhà không có chỗ nào mà không có nốt vẽ của nó!
Bà cuối cũng góp chuyện, sau khi suy nghĩ:
- Thằng nhỏ nhà tôi số nó sẽ trở thành bác sĩ thôi. Chà! Hễ có việc gì kêu nó thì chả bao giờ nó tới ngay cho người ta nhờ!
Vâng, mong con thành đạt là ước mơ chung của cha mẹ. Người mẹ nào mà không mong cho con mình mau khôn mau lớn. Người cha nào mà không mong cho con mình mai sau công thành danh toại. Nhiều gia đình chấp nhận nghèo đói để có tiền cho con ăn học. Nhiều gia đình sẵn sàng bất chấp mọi phương tiện như: biếu xén, qùa cáp, chạy chọt cho con được một thứ hạng, một bằng cấp cho dù là ảo hay không thực lực với tài trí con mình. Xem ra con người ngày nay nhắm đầu tư vào trí hơn là đức. Câu khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” đã lỗi thời hay chỉ còn là một sáo ngữ không còn phù hợp với văn minh con người hôm nay.
Thiếu đầu tư vào giáo dục đức dục con người như đang vong thân, xa rời với xã hội và tự khép mình trong hoang đảo cô đơn và lạnh lùng. Phát triển trí tuệ nhưng nhân đức không được trau dồi cân xứng, người ta sẽ dễ dàng đối xử với nhau “có lý mà không có tình”. Mọi quan hệ giữa người với người đều phải hạch toán, lời mất, được thua. Con người hôm nay tính toán sòng phẳng với nhau hơn là sống tương thân tương ái, “tối lửa tắt đèn có nhau” mà chỉ là “đèn nhà ai - nhà ấy rạng” hay an phận thủ thường theo chủ nghĩa “mackeno” cho xong.
Một xã hội đang chuyển mình như thế, liệu người kytô hữu chúng ta có dám lội ngược dòng để sống theo đòi hỏi của Tin mừng hay không? Tin mừng đòi hỏi chúng ta hãy yêu tha nhân như chính mình và sẵn lòng phục vụ tha nhân. Chính Đức Giêsu Ngài đã đến không phải để được phục vụ mà là để cúi mình phục vụ tha nhân. Chính Ngài đã chấp nhận tan biến đời mình để nên nguồn sống cho nhân trần.
Hôm nay, lễ suy tôn Chúa làm Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta, là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng nước Chúa ở trần gian bằng sự hiệp nhất yêu thương nơi những người con của Chúa có chung một Cha trên trời. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội còn được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Điều đó còn mời gọi chúng ta phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng một nền công lý và sự thật giữa thế gian còn quá nhiều bất công và gian dối. Sự hiệp nhất yêu thương còn mời gọi chúng ta sống tương thân, tương ái với nhau, sống nâng đỡ và chia sẻ vui buồn với nhau trong tình nghĩa anh em một nhà.
Vâng, cuộc đời hôm nay có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau. Cuộc sống này sẽ bớt ưu sầu nếu người ta thôi nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Cho dù cuộc đời có thay trắng đổi đen. Con người có lấy ân báo oán, nhưng người kytô hữu không vì thế mà đánh mất bản tính của mình là sống thánh giữa đời để kiến tạo một nền công lý và hòa bình trên mặt địa cầu này. Vì chúng ta vẫn mong chờ một ngày kia Nước Chúa sẽ trị đến và Ngài sẽ ngự đến trên mây trời để ban thưởng hạnh phúc trường tồn cho những ai thành tâm thiện chí sống và thực thi giáo huấn của Ngài.
Vì thế, dù rằng chúng ta đang sống trong một thế giới thiếu vắng tình người, một thế giới đầy bóng tối của đam mê lầm lạc. Chúng ta phải can đảm thắp lên giữa dòng đời này. Ánh sáng của con người ngay thẳng, không gian tham, xảo quyệt. Ánh sáng của bác ái yêu thương để nhạy cảm trước cảnh khốn cùng của tha nhân. Ánh sáng của bao dung để cảm thông nâng đỡ nhau hầu xoá bỏ hận thù, chiến tranh. Ánh sáng ấy cần tỏ hiện trong từng gia đình. Nơi mà các thành viên cần phải là ánh sáng để dẫn dắt nhau. Nơi gia đình không thể mất ánh sáng niềm tin, tình yêu và tha thứ. Cần có ánh sáng niềm tin để mọi người tin tưởng nhau. Gia đình cũng cần có ánh sáng tình yêu, để mọi người biết phục vụ lẫn nhau và xây dựng hạnh phúc cho nhau. Gia đình cũng cần sự tha thứ để cảm thông và nâng đỡ nhau, hầu giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa.
Ước gì mỗi người tín hữu chúng ta biết xây dựng Nước Chúa ở trần gian bằng cuộc sống chứng nhân cho tình yêu, cho chân lý và công bình giữa thế giới hôm nay. Amen.
36. Sống Yêu Thương trong thế giới dối gian -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong một khảo sát được công bố mới đây của nhóm nghiên cứu do Giáo sư Trần Ngọc Thêm chủ trì cho thấy, bệnh giả dối đứng hàng đầu trong 34 tật xấu của người Việt, chiếm đến 81%.
Có thể thấy nói dối có mặt ở khắp nơi. Nói dối chằng chịt từ dưới lên trên, dọc ngang ngang dọc, trong gia đình, trong công sở, nơi kinh doanh, trong thực thipháp luật...
Điều lạ là ai cũng nói dối nhưng ai cũng tỏ ra mình thật thà. Ai cũng biết mười mươi đối phương đang nói dối nhưng ai cũng tỏ ra hoàn toàn tin cậy.
Ngay ở cấp độ Giáo hội nhiều giáo xứ, nhiều ban ngành cũng chấp nhận và sẵn sàng lừa dối nhau bằng những bản báo cáo mượt mà thành tích, số liệu… nhưng thực tế có phải vậy?
Một xã hội dối trá làm sao chúng ta có thể hy vọng xây dựng được một xã hội lành mạnh văn minh tình thương. Một xã hội dối trá sẽ cài cắm vào lương tâm con người từ thuở bé những hạt giống xấu của gian dối, lừa gạt...và chắc chắn sau này những mần non ấy lớn lên trở thành những lãnh đạo, họ sẽ gian dối bằng cách ăn bớt giờ làm, đục khoét người dân và báo cáo láo về thành tích, rồi nào là học giả bằng thật, học giả bằng giả, mua bằng cấp, và mua quan bán chức... để leo lên những chức vụ cao hơn.
Chẳng cần nói đến thế hệ sau mà chỉ cần nhìn vào hiện tại chúng ta có thể thấy sự dối trá đang hoành hành khắp nơi.
Biết bao kỹ sư đã rút ruột công trình hay thiết kế ẩu, thi công ẩu... miễn là có lợi cho mình gần đây nhất là đường cao tốc 34 ngàn tỉ một cơn mưa đã hư.
Với nghề lương y như từ mẫu là bác sỹ, có người sẵn sàng trục lợi trên tính mạng con người. Là công nhân, họ cũng sẽ có trăm phương ngàn kế để ăn cắp nguyên vật liệu hay thành phẩm của nhà máy.
Rồi trong kinh doanh, với kiểu làm ăn chụp giật...và lừa đảo đã khiến bao người tan gia bại sản.
Nếu được nhận định về xã hội hôm nay, chúng ta có thể nói đây làmột xã hội giả dối, con cái lừa dối cha mẹ, người nọ lừa dối người kia, nói một đằng nhưng việc làm lại một nẻo, nói mà không làm.
Hôm nay lễ Chúa Ky-tô Vua, chúng ta được nghe lại lời xác quyết của Chúa Giêsu đến trần gian là để làm chứng cho sự thật. Chính Ngài đã nói: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Sự thật mà Chúa Giêsu làm chứng chính là giới thiệu cho nhân loại một vương quốc đầy ánh sáng tình thương và chân thành. Một vương quốc không có bệnh thành tích mà chỉ có tinh thần phục vụ một cách vô vị lợi. Một vương quốc mà con người tìm được tiếng nói chung khi biết tôn trọng sự thật và đề cao chân lý.
Chính Chúa Giêsu đã sống điều đó. Ngài đã sống cuộc đời không tìm hư danh mà chỉ biết sống yêu thương phục vụ mọi phận người lầm than. Ngài cũng không làm để được báo cáo thành tích mà chỉ biết cho đi mà không hề so đo tính toán. Ngài đã sống và bảo vệ chân lý cho dù vì thế mà Ngài bị nhiều thế lực gian tà thù ghét và tìm cách loại trừ. Tuy nhiên, cuối cùng Ngài vẫn toàn thắng. Sự dữ đã bị đẩy lùi. Sự gian dối của ma quỷ đã bị phơi bày. Thiên Chúa đã làm chủ vạn vật và trái đất này.
Hôm nay, lễ suy tôn Chúa làm Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta, là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng nước Chúa ở trần gian bằng sự hiệp nhất yêu thương nơi những người con của Chúa có chung một Cha trên trời. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội còn được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Điều đó mời gọi chúng ta phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng một nền công lý và sự thật giữa thế gian còn quá nhiều bất công và gian dối.
Vâng, cuộc đời hôm nay có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau.Vợ chồng chân thành với nhau trong nghĩa tình thuỷ chung. Người trong một đoàn thể, một xứ đạo sống chân thành với nhau hầu loại trừ bệnh thành tích khoe trương. Nhất là trong cuộc sống hằng ngày cần lấy chữ tín làm đầu, luôn sống chân thành trong lời nói, việc làm luôn theo chân lý và sự thật.
Ước gì mỗi người tín hữu chúng ta biết xây dựng Nước Chúa ở trần gian bằng cuộc sống chứng nhân cho tình yêu, cho chân lý và công bình giữa thế giới hôm nay. Amen.
37. Chúa Giêsu là chân lý -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Con người ngày nay thường sai lầm khi “thả mồi bắt bóng”. Họ thiếu trân trọng những gì mình đang có để rồi chạy theo những cái ngoài tầm tay. Có người bỏ vợ con để chay theo những cuộc tình bất chính. Có người ngược đãi cha mẹ vợ con lại mất thì giờ lấy lòng người dưng...
Tôi từng thấy có một người đàn ông thích bồ bịch lăng nhăng. Anh ta cứ sống với hết phụ nữ này đến phụ nữ khác, nay đã xế chiều thì không ai chứa chấp và phải về sống với mẹ đẻ. Đứa con gái đã lớn, cũng sắp lập gia đình. Một lần cháu buột miệng bảo: "Mẹ ơi, bố mình thật khổ, có nhiều vợ mà cuối cùng chẳng có nhà để ở". Đấy là kết cục của những người nhẫn tâm chối bỏ vợ con mình, chỉ biết nghĩ đến dục vọng bản thân.
Có một người vợ trẻ nói với tôi chị đang quen với một người đàn ông đã có vợ. Anh ta rất tốt với chị đến nỗi chị chỉ muốn bỏ chồng theo anh ta. Tôi nói rằng: nếu chị đang sống yên ổn hạnh phúc với gia đình thì nên chấm dứt quan hệ với người ấy và đừng tự chuốc lấy phiền phức vào mình khi “thả mồi bắt bóng”. Đôi khi trong cuộc đời ai cũng có những lúc “đứng núi này trong núi kia” nhưng chưa chắc “cỏ ở đồi bên ấy xanh hơn”.
Quả thực con người ngày nay rất khó tìm giá trị thực của cuộc sống. Cuộc sống luôn thả những con mồi khiến ta cứ lao theo con mồi mà đâu biết rằng đó chỉ là ảo ảnh, là giả dối, là hạnh phúc mau qua. Có biết bao người như say máu chạy theo danh lợi thú trần gian nhưng rồi họ không bao giờ toại nguyện với những cái mình đang có. Có cả những người dùng thủ đoạn bất chính để bắt bóng phù hoa nhưng chỉ thấy những ngổn ngang đau khổ dằn vặt lương tâm.
Cuộc sống là đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc không ở những con mồi danh vọng, quyền lực, tiền tài, dục vọng. Hạnh phúc hệ tại ở chân lý, ở sự thật. Khi ta sống theo lẽ phải, theo sự thật lương tâm thì ta mới có niềm vui nội tại tâm hồn.
Hôm nay, Chúa Giêsu bảo con đường tìm hạnh phúc của Ngài là yêu thương phục vụ. Chính cuộc sống Ngài mới là Đường, là Chân Lý để chúng ta noi theo. Cuộc đời Ngài luôn sống vì tha nhân. Ngài luôn tìm kiếm niềm vui trong phục vụ. Ngài sống để trao ban. Trao ban đến giọt máu cuối cùng.
Cuộc sống của Ngài đã cho chúng ta hiểu hơn về giá trị cuộc sống. Con người chỉ có giá trị với xã hội và gia đình khi biết sống yêu thương và phục vụ. Càng phục vụ giá trị người phục vụ không mất đi mà xem ra lại càng tăng thêm. Chính Chúa Giêsu còn quả quyết: Ngài làm vua nhưng không ở trên ngai cho người khác phục vụ mà Ngài sẵn lòng cúi mình phục vụ hết mọi phận người.
Cuộc sống đã cho ta rất nhiều cơ hội để phục vụ. Phục vụ để mang lại niềm vui hạnh phúc cho gia đình. Phục vụ mang lại cho xứ đạo ngày một phát triển. Phục vụ cho dân tộc mỗi ngày một thịnh vượng hơn. Phục vụ chứ không đòi người khác phục vụ sẽ giúp ta không nhẫn tâm thiếu trách nhiệm với gia đình để đi tìm niềm vui cho bản thân. Phục vụ vô vị lợi sẽ giúp ta biết từ bỏ hạnh phúc của riêng mình để sống có trách nhiệm với tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta biết nâng cao giá trị cuộc sống bằng đời sống hy sinh phục vụ. Sống cho tha nhân hơn là đòi hỏi nơi tha nhân. Biết sống như ai đó nói rằng: bạn đừng nghĩ người khác đã làm gì cho bạn, nhưng bạn hãy nghĩ bạn đã làm gì cho tha nhân. Chính lối sống ấy sẽ giúp ta biết dấn thân một cách quảng đại để xây dựng hạnh phúc cho gia đình và xã hội.
Ước gì chúng ta cũng trở nên một nhân chứng cho chân lý khi biết sống hết mình vì tha nhân. Amen.
38. Phiên tòa bất công -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Sống giữa cuộc đời là sống giữa biển đời đầy sóng gió nguy nan. Sống giữa thế gian là sống giữa bao hiểm nguy, bất trắc khiến lòng người luôn phải đối phó với biết bao nghịch cảnh đẩy đưa. Giữa người với người vẫn còn những hố sâu ngăn cách bởi ích kỷ, ghen ghét và tham lam. Có thể vì một chút danh lợi thú mà người ta bán rẻ nhau và bán rẻ chính nhân phẩm của mình. Cuộc đời đầy thị phi đến nỗi Nguyễn Du đã từng thốt lên rằng: “Trải qua một cuộc bể dâu – Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Ngay những người thân cận nhất vẫn có thể trở thành kẻ thù của nhau. Cha mẹ từ chối con cái. Con cái ngược đãi cha mẹ. Vợ chồng nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Bạn bè dễ dàng quay lưng lại với nhau vì tiền tài, vì danh vọng và vì tình yêu. Một cuộc sống đầy vong ân bội nghĩa nên mấy ai còn niềm tin nơi nhau. Có mấy ai dám sống cho chân lý để rồi lại phải chịu thiệt thòi vào thân!
Hôm nay, Lời Chúa tường thuật lại một phiên tòa đầy bất công và thiếu khách quan của sự thật. Gọi là bất công vì sự ghen tỵ mà người ta đã kến án kẻ vô tội. Thiếu chân thực vì toàn bộ câu chuyện đã bị bóp méo hoàn toàn. Theo thánh Gioan kể lại: họ tố cáo Chúa Giêsu về ba điều: gây rối loạn trong dân chúng, cản trở việc nộp thuế cho hoàng đế, và tự xưng mình là vua. Thật ra, vì lòng ghen ghét, họ đã không ngần ngại bóp méo sự thật. Theo sự tra xét của họ thì Chúa Giêsu phạm tội lộng ngôn, nhưng họ biết rất rõ quan toàn quyền sẽ không chịu nghe một lời tố cáo như vậy, mà sẽ bảo đó là chuyện tranh chấp về tôn giáo và bảo họ phải tự dàn xếp. Thế nên, vì muốn loại trừ Chúa, họ đã không ngần ngại vu khống để bỏ vạ cáo gian. Nhưng Philatô lại không dám bảo vệ sự thật. Cho dù Chúa Giêsu đã cho ông hiểu rằng: Ngài là Vua và Nước của Ngài không thuộc về thế gian này, nhưng Philatô đã không quan tâm đến việc bảo vệ công lý cho bằng bảo vệ ngai tòa của mình. Ông rửa tay để làm ngơ trước sự bất công.
Và cũng từ phiên tòa này, Chúa Giêsu đã công khai nói lên sứ mạng của Ngài, Ngài đến trong thế gian này là thiết lập một vương quốc sự thật, một nền công lý và hòa bình từ chính trong tâm hồn con người. Và chính vì thế mà ngài đã sinh ra và đến trong thế gian này, đó là để làm chứng cho sự thật. Vương quốc sự thật chính là nước của Ngài. Ai đi theo đường công chính, biết ăn ở ngay lành, thực hành bác ái yêu thương chính là công dân trong Nước của Thiên Chúa. Nước của Ngài không hạn chế bởi địa dư, bởi mầu da sắc tộc mà mở rộng không gian tới tận cùng trái đất. Nơi nào có những người xây dựng hòa bình, công lý và tình thương, nơi đó Nước Chúa đang ngự trị.
Là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng sự hiệp nhất yêu thương. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội đều được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Nghĩa là phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng tình liên đới giữa con người với nhau trong yêu thương chân thật. Như lời Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “phải làm thế nào để tính thiện nơi con người được chiếu lộ ra, và giải phóng các sức mạnh của sự tiềm ẩn nơi con người, để sự thiện ấy được lớn mạnh hơn sự ác cả trong lĩnh vực luân lý lẫn xã hội”. Vâng, cuộc đời này có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau. Cuộc sống này sẽ bớt ưu sầu nếu người ta thôi nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Cho dù cuộc đời có thay trắng đổi đen. Con người có lấy ân báo oán, nhưng người kytô hữu không vì thế mà đánh mất bản tính của mình là sống thánh giữa đời để kiến tạo một nền công lý và hòa bình trên mặt địa cầu này. Vì chúng ta vẫn mong chờ một ngày kia Nước Chúa sẽ trị đến và Ngài sẽ ngự đến trên mây trời để ban thưởng hạnh phúc trường tồn cho những ai thành tâm thiện chí sống và thực thi giáo huấn của Ngài.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, giữa thế giới đầy sa đọa, con người ngày nay vẫn muốn loại trừ Thiên Chúa. Dường như vì ích kỷ đã làm cho họ mù loà đến nỗi không nhận ra sự bất hạnh của tha nhân để cảm thông, để nâng đỡ. Dường như vì tham lam mà con người muốn loại trừ đồng loại để bảo vệ tiền tài danh vọng cho chính mình. Đồng tiền và danh vọng đã làm mờ con mắt. Tự hủy diệt mình trong đam mê lạc thú và quyền lực thế gian.
Xin Chúa giúp chúng con dám sống cho sự thật và làm chứng cho sự thật. Ngõ hầu danh Chúa được cả sáng. Amen.
39. Nước Chúa không thuộc thế gian này
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Khi quan Philatô hỏi Ðức Giêsu xem Người có phải là vua dân Do thái không? (Ga 18:33), Chúa liền trả lời đó là ý tưởng của ông quan. Philatô đã phải hiểu câu trả lời của Chúa là lời chối từ. Tuy nhiên Philatô vẫn cố tình không muốn hiểu cho nên cứ cho khắc bảng chữ treo trên thập giá Chúa với lời: Giêsu Nagiarét, vua dân Do thái (Ga 19:19). Thực ra thì bảng chữ trên thập giá là một tính toán sai lầm của Philatô, bởi vì các thày cả thượng phẩm của người Do thái không chịu chấp nhận Đức Giêsu làm vua của họ. Và chính Chúa cũng không muốn tước hiệu là vua của người Do thái. Theo sau phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, dân chúng muốn tôn Người làm vua. Tuy nhiên Chúa không muốn can dự vào việc cai trị nước trần thế.
Rồi quan Philatô lại hỏi Chúa: Vậy ông là vua sao? (Ga 18:37). Chúa Giêsu mặc nhiên xác nhận câu hỏi của Philatô. Chúa chấp nhận tước hiệu là vua mà nhiều lời tiên tri đã ám chỉ. Vậy thì vương quốc của Chúa ở đâu? Ðây chính là câu trả lời của Chúa: Nước tôi không thuộc về thế gian này (Ga 18:36). Và đâu là những đặc tính của nước Chúa? Xa xưa trước cả khi Chúa cứu thế giáng sinh, các ngôn sứ như Isaia, Giêrêmia, Ðanien, Hôsê, Amốt đã loan báo cho dân chúng là Ðấng cứu thế sẽ đến thiết lập một vương quốc như trong kinh tiền tụng Chúa nhật lễ Chúa Kitô vua ghi lại: một vương quốc vĩnh cửu và vô biên, vương quốc tràn đầy sự thật và sự sống, vương quốc đầy tràn ân sủng và thánh thiện, vương quốc đầy tràn tình thương, công lí và bình an.
Trong bài trích sách ngôn sứ Ðanien hôm nay, vị tiên tri trong một thị kiến ban đêm đã nhìn thấy Con Người đến thiết lập một vương quốc vĩnh cửu, chẳng hề suy vong (Ðn 7:14). Ngôn sứ Ðanien tiên báo là Con Người sẽ nhận từ Ðấng Lão Thành là Thiên Chúa: quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người (Ðn 7:14). Còn thánh Gioan trong một thị kiến được ghi lại trong sách Khải huyền là Ðức Giêsu sẽ đến như vị Thủ lãnh mọi vương quốc trần gian (Kh 1:5). Khi loan báo cho trinh nữ Maria là con bà sẽ ngồi trên ngôi báu Ðavít, và sẽ làm vua thống trị nhà Giacóp đến muôn đời, sứ thần Gáp-ri-en cũng ám chỉ một vương quốc thiêng liêng (Lc 1:33).
Vậy nước Chúa được khởi sự như thế nào? Dụ ngôn hạt cải giúp ta hiểu sự lớn lên và bành trướng của nước Chúa, lúc đầu chỉ nhỏ bé như hạt cải, quá nhỏ đến nỗi khó có ai nhận ra. Việc khởi sự khiêm tốn của nước Chúa với việc chọn lựa có mười hai tông đồ là một cớ vấp phạm cho người Do thái. Thật là khó mà tin rằng các tông đồ, đa số làm nghề chài lưới và ít học lại có thể xây dựng được một vương quốc. Và đó là một trong những điểm khác biệt giữa nước Thiên Chúa và nước trần gian. Như vậy người ta thấy sự bành trướng của nước Chúa không tuỳ thuộc vào học vấn, tài năng và địa vị xã hội của loài người, nhưng là tuỳ thuộc vào quyền phép của Thiên Chúa và sự cộng tác của loài người.
Những giá trị của nước Thiên Chúa có thể được tìm thấy trong Thánh kinh và trong Phúc âm. Vậy những người thực thi công chính và yêu thương, những người tỏ lòng xót thương, những người tìm kiếm sự thật, những người kiến tạo hoà bình, những người sống đời thánh thiện là những người có được nước Chúa trong tâm hồn. Sự bành trướng của nước Chúa phải được bắt đầu từ trong tâm hồn và đời sống người tín hữu, rồi được lan rộng ra cho người hàng xóm, cho sở làm, cho xã hội.
Là người Kitô giáo, ta có hai quyền công dân: công dân của nước trần thế và công dân của nước trời. Là công dân của nước trời ta có thêm bổn phận vượt trên bổn phận của người công dân nước trần thế. Là công dân nước trời, ta có bổn phận công bố nước Chúa bằng việc thờ phượng và cầu nguyện, bằng việc rao giảng tin mừng cứu độ, bằng việc thiện hảo, bằng việc cổ võ công bình bác ái. Những bổn phận của người công dân nước trời có thể được tóm tắt trong hai giới răn là mến Chúa và yêu người.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn biết tìm kiếm những sự thuộc về nước Chúa:
Lạy Đức Giêsu Kitô vua!
Chúa là vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa.
Chúa đến thiết lập một vương quốc thiêng liêng và vĩnh cửu.
Xin dạy con biết tìm kiếm những sự thuộc về nước Chúa.
Nếu có lãnh vực vực nào trong đời sống con,
chưa được Chúa làm chủ: tư tưởng, lời nói, việc làm,
xin Chúa đến làm chủ tâm hồn và đời sống con. Amen.
40. Sự sống vương giả
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Chủ đề sự sống của Mùa Phục Sinh đã đạt tới tột đỉnh ở Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, Chúa Nhật Trọng Kính Chúa Giêsu Kitô Vua, thời điểm kết thúc cho bất cứ phụng niên nào, dù là chu kỳ A, B hay C.
Thật vậy, nếu Chúa Kitô "là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25), (lưu ý Chúa Kitô xưng Người là "sự sống lại" trước và là "sự sống" sau) thì quả thực Người "là sự sống lại" khi Người phục sinh vào ngày thứ ba từ trong kẻ chết. Bởi vì Người chính "là sự sống" bất tử không thể nào bị sự chết làm chủ và tiêu diệt.
Thế nhưng, cho dù Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô 2 ngàn năm trước đã hoàn toàn thắng được sự dữ nơi thân xác bị giết chết nhưng sống lại của Người, trong một thế giới càng ngày càng văn minh về khoa học và càng văn hóa về nhân bản nhân quyền chưa từng thấy, như giai đoạn lịch sử từ giữa thế kỷ 20 sang đầu hơn một thập kỷ của thiên kỷ thứ 3 hiện nay cho thấy, sự dữ lại càng gia tăng hơn bao giờ hết, như thể con rồng sau một ngàn năm bị xiềng lại, bởi sợi giây xích khổng lồ là quyền lực cứu độ của Thánh Giá Chúa Kitô tử nạn, đã được thả ra trong một thời gian ngắn, như Sách Khải Huyền đã tiết lộ (20:1-3).
Trong thời gian ngắn vớt vát còn lại này của mình, con rồng đã vận dụng tất cả quyền lực chết chóc độc hại nhất và dữ dội nhất của hắn và từ hắn, để tàn phá cho bằng được công ơn cứu chuộc vô giá của Chúa Giêsu Kitô nơi từng Kitô hữu cũng như nơi chung Giáo Hội, những đối thủ chính yếu của nó và là mục tiêu tấn công quyết liệt của nó, qua hai đạo quân hùng hậu gog và magog, (như ám chỉ trào lưu ồ ạt chủ nghĩa duy nhân bản và tương đối vô cùng lợi hại đang chi phối tâm thức và đời sống của loài người hiện nay), đông như cát biển "đã xâm chiếm toàn cõi xứ sở (ám chỉ thế giới) và công hãm thành đô yêu dấu là nơi dân Chúa cắm trại (ám chỉ Giáo Hội)", như Sách Khải Huyền ghi lại (20:8-9).
Phải chăng chiến dịch toàn cầu hóa về kinh tế theo chiều hướng chính trị để làm sao có thể dần dần đế quốc hóa tất cả mọi nền văn hóa của các dân nước, cũng như biến đổi hoàn toàn nền luân lý chân chính của lệ luật Thiên Chúa, thành những gì là tự nhiên lăng loàn của bản tính nhiễm lây nguyên tội trên thế giới hiện nay, hình như đang hiện thực hóa mưu đồ lịch sử (conspiracy of history) của hội kín thợ xây trật tự thế giới mới tam điểm, cho vương quốc của satan trị đến trong lòng người và lịch sử?!
Phải, cho tới khi con rồng đã tung ra tất cả quyền lực độc dữ nhất của nó thì cũng chính là lúc sự dữ hết thời, và hoàn toàn bị tận diệt bởi chính Đấng "được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18), khi Người "là sự sống" vĩnh hằng bất tận tái xuất hiện trong vinh quang với tư cách là Thẩm Phán Chí Tôn "để phán xét kẻ sống và kẻ chết", Đấng được Tiên Tri Đaniên trong Bài Đọc 1 hôm nay báo trước vương quyền thống trị bất diệt của Người:
"Trong một thị kiến ban đêm (theo người viết thời điểm "ban đêm" ở đây ám chỉ tình hình nhân gian và Giáo Hội trước khi Chúa Kitô tái giáng), tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão ("Vị Bô Lão" ở đây theo người viết có thể ám chỉ Chúa Cha), và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị nầy ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc: tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài; quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá hủy".
Thị kiến của Tiên Tri Đaniên về Con Người lãnh nhận vương quyền thống trị đến muôn đời tất cả loài người là loài tạo vật được Người cứu chuộc, đã được phụ họa và âm vang trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai; Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai.
2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, tự đời đời vẫn có Chúa.
3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở.
Đúng thế, sự kiện Chúa Kitô "là sự sống" bất diệt và bất tận xuất hiện lần thứ hai không phải chỉ để tận diệt sự dữ, mà trước hết và trên hết là để tỏ hết mình ra trên thế gian này, như thể tạo vật được Thiên Chúa dựng nên đã đến thời viên mãn của mình nơi Người, nhờ Người và với Người. Bấy giờ, khi Người tái xuất hiện, Người tỏ mình ta với tư cách là một Vị Con Thiên Chúa hằng sống bất diệt, qua nhân tính hiển linh cùng với thân xác phục sinh của Người, và như thế, Người như ánh sáng sự sống cuối cùng xua tan bóng tối sự dữ cho đến muôn đời, hoàn toàn không bao giờ còn sự dữ nữa, như Sách Khải Huyền tiên bào về một Tân Thành Thánh Giêrusalem "không còn đêm" (22:5), vì "trời trước và đất trước đã qua đi" (21:1).
Chiều hướng trên đây về lần đến cuối cùng đầy vinh quang rạng ngời vinh thắng của Chúa Kitô "Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16; Gioan 11:27), Đấng cuối cùng đã tỏ mình ra hoàn toàn đúng với phẩm chức thần linh và quyền năng tối cao của Người, được Sách Khải Huyền tiên báo nơi Bài Đọc 2 hôm nay như thế này:
"Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Ðấng đã yêu thương chúng ta, Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người. Nguyện chúc Người được vinh quang và quyền lực muôn đời. Amen. Kìa, Người đến trong đám mây, mọi con mắt đã nhìn thấy Người, và cả những kẻ đã đâm Người cũng nhìn thấy Người, các chủng tộc trên địa cầu sẽ than khóc Người. Thật như vậy. Amen. Chúa là Thiên Chúa, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, là Ðấng Toàn Năng phán: 'Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thuỷ và là cứu cánh'".
Trong cuộc khổ nạn của mình, Chúa Kitô sẽ Tái Giáng vinh quang, vào lúc ấy, trước hết, mới chỉ tỏ mình ra như là một con người bị lép vế trước quyền bính thế gian, bị quyền lực thế gian bắt giữ và bị hành hạ cùng sát hại như một tên đại tử tội hoàn toàn bất lực và vô cùng nhục nhã.
Thế nhưng, sự dữ và quyền lực sự dữ vẫn không làm gì được Người, Đấng "là sự sống", Đấng "tự ý bỏ mạng sống mình đi rồi có quyền lấy lại mạng sống của mình" (Gioan 10:18). Trái lại, Người đã thắng được sự dữ nơi sự chết bị Người tiêu diệt bởi "sự sống lại" của Người hay bởi Người "là sự sống lại". Thậm chí nhờ sự dữ Người phải chịu cả trong tâm hồn lẫn thể xác mà Người đã cứu được con người, trước hết và trên hết, khỏi sự dữ về luân lý là tội lỗi của họ, nhờ đó họ khỏi bị chết đời đời là sự dữ trên hết mọi sự dữ.
Người quả thực là vua cai trị mọi sự, dù trải qua cuộc khổ nạn và tử giá. Do đó, không phải tự nhiên mà viên tổng trấn dân ngoại tự nhiên có linh cảm Người là một nhân vật đặc biệt, mang phong cách oai nghi vương giả, chứ không phải là một nhân vật tầm thường mà ông đã từng gặp, qua câu hỏi "ngài từ đâu tới" (Gioan 19:9), dù theo nhân vật cầm quyền sinh tử của Người bấy giờ thì Người chỉ là "Vua Dân Do Thái" (Luca 23:38) chư hầu của đế quốc Rôma.
Tuy nhiên, theo Phúc Âm của Thánh ký Gioan được Giáo Hội chọn đọc thay cho Phúc Âm Thánh ký Marco Chu Kỳ Năm B này, Chúa Kitô đã tự đính chính bằng câu trả lời rất chính xác cho vấn đề được Viên Tổng Trấn Philato ấy đặt ra hỏi Người "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" rằng: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này". Nghĩa là vương quốc của Chúa Kitô là vương quốc của Thiên Chúa, vương quốc tối cao của lòng người, và bất diệt vượt trên mọi vương quốc hữu hạn trên trần gian này.
Thật ra, tự mình là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô đã là vua, nhưng nơi nhân tính của mình, Người cần phải chứng thực hay tỏ mình ra Người thực sự bẩm sinh là vua, (như khi mới sinh ra Người đã được 3 vương chiêm tinh gia đến bái thờ - Mathêu 2:1-12), một đức vua trên hết mọi vua chúa trên trần gian này, một đức vua muôn đời, đúng như Người đã trả lời cho câu chất vấn của Tổng Trấn Philatô: "Vậy ông là Vua ư?": "Chính quan là người đã nói tôi là vua - It is you who say I am a king. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi".
Trong câu khẳng định có tính cách gián tiếp này của Chúa Kitô Vua, Người không tự mình xưng là vua, và không bao giờ Người tự xưng mình như thế, vì đụng đến chính trị, tức đụng đến chính quyền đế quốc Rôma cũng như đến quận vương Hêrôđê ở Galilêa, cũng như Người đã không bao giờ tự xưng Người là Đấng Thiên Sai - Messiah, vì Người tránh đụng đến giáo quyền Do Thái, mà chỉ công nhận qua việc đáp ứng của Người mà thôi, như Người đã công nhận lời của phụ nữ Samaritanô ở Giếng Giacóp về tư cách của Người (xem Gioan 4:25-26), hay như Người đã công nhận lời truyền lệnh của giáo quyền Do Thái giáo hỏi Người xem Người có phải là Đấng Thiên Sai hay chăng (xem Mathêu 26:63-64): "Chính ngài là người nói thế... It is you who say it".
Cũng trong câu khẳng định gián tiếp với viên quan tổng trấn Philatô ấy, Chúa Kitô còn liên kết vai trò làm vua của Người với chân lý nữa: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi". Nếu Chúa Kitô chính "là chân lý" (Gioan 14:6) thì Người "sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về" chính bản thân Người "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), ai tin Người hay "chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12). Đó là lý do "Nước tôi không thuộc về thế gian này" mà một vương quốc của "sự sống", sự sống đời đời, vĩnh viễn tồn tại như chính "Chân Lý" bất biến.
Người quả thực là "một người quí tộc kia đi phương xa để được phong vương" như Người đã tiên báo cho các môn đệ và đám đông đi theo Người trong cuộc hành trình Giêrusalem của Người, như bài Phúc Âm của Thánh ký Luca Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên tuần trước (19:12). Theo bài Phúc Âm này, cho dù dân Do Thái của Người không chấp nhận Người là vua của họ (xem Luca 19:14, Gioan 19:15,20-22), nhưng họ chẳng những vẫn không làm gì được Người mà còn bất ngờ làm cho Người trở thành vua của toàn thể nhân loại nữa: "Người đã được phong vương trở về" (Luca 19:15), theo chiều hướng của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật cuối cùng của Phụng Niên trọng kính Chúa Kitô Vua.
Là Kitô hữu, chúng ta, qua Phép Rửa, đã được thông phần vào thiên chức vương đế, ngôn sứ và tư tế của Chúa Kitô và với Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta đã sống thế nào với thiên chức vương đế bởi chúng là là con Thiên Chúa này của mình: chúng ta có làm chủ mọi sự hay chăng với tư cách là những dưỡng tử của Thiên Chúa, hay vẫn sống đời nô lệ cho tội lỗi, cho thần dữ, cho thế gian, xác thịt?.
41. Lễ Chúa Kitô Vua
(Suy niệm của Lm Mido Duy CRM.)
Hôm nay chúng ta tôn vinh Vương Quyền của Chúa Kitô, Đấng đã được Chúa Cha sai đến trần gian để thực hiện chương trình Cứu Chuộc Nhân Loại. Để thực hiện chương trình này, Chúa Cha đã trao toàn quyền trên trời dưới đất cho Chúa Giêsu.
Vương quyền Chúa Kitô
Quyền này được xác định đầu tiên khi Đức Mẹ nhận tin báo của Tổng Thần Gabriel nói: “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài (Con của Mẹ) ngôi báu tổ phụ Ngài và Vương quyền Ngài sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,32-33). Chính Mẹ đã nghi nhớ lời tiên báo đó cách rõ ràng và xác tín. Nhưng khi Chúa bị treo trên thập giá, các quan chức và binh lính đã xỉ vả Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy tự xuống khỏi thập giá đi, bằng không, ông là kẻ Thiên Chúa chúc dữ” (Lc 23, 36) Trong con cái Eva, lúc này Đức Mẹ thấy nhục nhã nhất, thay vì lời chúc phúc ngày xưa, bây giờ Mẹ toàn nghe thấy đầy những lời chúc dữ và nhiếc mắng. Khi Mẹ hạ sinh Chúa Giêsu, Mẹ nghe thấy thiên thần ca hát vinh danh Thiên Chúa , thì bây giờ Mẹ không thấy bình an ở đâu mà toàn nghe thấy những bất bình, giết chóc mà con người dành cho Đức Kitô.
Chức vị Vua của Chúa Giêsu
Trong Kinh Thánh không nói trực tiếp về chức vị “Vua” của Chúa Giêsu theo nghĩa thế gian thường hiểu. Cựu Ước thì Đavid nói một vài lần hình ảnh vua có ý nói trước về Đấng Cứu Thế.
"Chính Ta đã đặt vị quân vương Ta tuyển chọn,
lên trị vì Xi-on, núi thánh của Ta."
Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của CHÚA,
Người phán bảo tôi rằng: "Con là con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra con”. (Tv 2, 6-7)
Tân ước qua những dụ ngôn cũng chỉ là mức độ “ám chỉ” về Ngài.
"Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?” (Ba nhà Phương Đông theo ánh sao) (Mt 2,2)
“Chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách”. (Mt 18, 23)
"Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương chúng tôi!"
(Mt 20, 31) người mù ở Giêricô.
Trước toà án Philatô Chúa Giêsu đã xác nhận “Tôi là Vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18, 36).
Binh lính và dân chúng cũng mỉa mai chức vua của ngài “nếu ông là vua thì tự xuống khỏi thập giá đi …”
Đối với người Roma, tước hiệu vua của Ngài càng có lý do để lên án Chúa.
Bởi vì sao? Vì Chúa không dùng quyền bính mà cai trị thần dân của Ngài, Ngài không dùng quân đội để củng cố ngai vàng của mình. Vị vua đó khác với quan niệm của nhân loại, cho nên Chúa Giêsu không phải là vị vua họ mong đợi.
Ngài không dùng quyền uy để cai trị mà dùng tình thương để chinh phục muôn tâm hồn.
Ngài không dùng quân đội để củng cố ngai vàng mà dùng các môn đệ, bằng ơn thánh từ máu đổ ra tắm gội cây thập giá. Cho nên ngai vàng của Ngài chính là cây thánh giá.
Tư tế, Vương đế và Ngôn sứ nơi tín hữu
Chúng ta là thần dân của Ngài, cũng được tham dự vào 3 quyền bính của Ngài: Tư tế, vương đế và ngôn sứ.
Đời sống của kitô hữu đích thực là tham dự vào việc tế lễ hằng ngày.
Sự cao cả của người Kitô hữu là con Vua trời, cai trị những đam mê và tội lỗi, sẽ chiến thắng trần gian.
Và sứ mạng quan trọng của chúng ta là loan báo tin mừng bằng lời nói hay bằng đời sống.
Vậy để kết luận, chúng ta đã sống với 3 sứ mệnh này như thế nào?
- Khi ta chấp nhận đời sống làm của lễ dâng lên Chúa đó là ta tham dự vào quyền tư tế của Chúa.
- Khi ta luôn quan tâm việc linh hồn hơn việc thể xác đó là ta đang tham dự vào quyền vương đế của Chúa.
- Khi ta làm gương sáng cho người xung quanh bằng việc bác ái, dấu chỉ đó nói lên chúng ta đang tham dự vào quyền ngôn sứ của Ngài.
42. Vị vua không giống ai!
(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM.)
Thưa bạn rất kính mến!
Thỉnh thoảng chúng ta cũng nên nhắc lại cho nhau về lòng ưu ái đặc biệt của Thiên Chúa dành cho loài người chúng ta, và theo một nghĩa nào đó, Ngài còn yêu chúng ta hơn cả các Thiên thần của Chúa nữa đấy, bạn ạ.
Vâng, chỉ nguyên việc chúng ta được rước Thánh Thể hằng ngày thôi, thì đã đủ minh chứng cho ta rõ điều đó. Bởi lẽ, trong thực tế, đâu có một Thiên thần nào, ngay cả trong các Tổng thần ưu việt nhất, cũng chẳng vị nào có lấy được một lần diễm phúc rước Chúa như loài người chúng ta.
Trong công trình sáng tạo nên vũ trụ hữu hình này, Thiên Chúa đã tỏ tình yêu thương, tin tưởng to lớn đối với con người khi trao cho con người làm bá chủ tất cả những vật hữu hình Chúa đã dựng nên. Kinh thánh bảo cho chúng ta biết thế đấy! Thiên Chúa trao công trình tay Ngài sáng tạo đó vào tay con người, không những để con người làm chủ, hưởng dùng, thưởng thức thoải mái, mà còn để con người có nhiệm vụ làm vua, làm quản lý trông coi và phát triển theo ý Thiên Chúa.
Quả thực, chính Chúa đã nói với chúng ta qua Thánh vương Đavít mà Thánh Phaolô còn nhắc lại trong thư gởi cho tín hữu Do thái: “Chúa tạo dựng con người kém Thiên thần một chút, nhưng Chúa trang sức cho con người bằng bảo ngọc với vinh quang, Chúa ban quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo, Chúa đặt muôn vật dưới chân con người”. Chúa muốn con người làm vua điều khiển cai trị cái vũ trụ này, để rồi đến lượt mình, con người lại thay cho vạn vật, thờ lạy, ngợi khen, tôn vinh, yêu mến Thiên Chúa Hằng Sống.
Có phải là Thiên Chúa quá ưu ái yêu thương bạn và tôi không?
Bạn mến!
Chúng ta đang hân hoan mừng Chúa Kitô Vua Trời Đất, Vua vũ trụ, Vua lòng người, vị Vua chẳng giống bất cứ vị vua nào trên trần thế.
Chúng ta trọng thể, vui sướng, tôn vinh Vua vũ trụ với cùng một nguyện ước khát bỏng là mong cho Chúa Giêsu sớm thật là Vua đối với tất cả mọi người, và mọi người đều là thần dân trung thành, ngoan ngùy, thảo mến thật dễ thương đối với Ngài. Thật ra, tự bản tính Chúa vốn là Vua; thế nhưng, điều tôi muốn cùng với bạn lưu tâm và vận động mong cầu đó là: mong cho hết tất cả mọi người đều tự do tình nguyện tôn vinh Chúa làm Vua ngay trong tâm hồn và đời sống mình từ sáng đến tối, từ tối cho đến sáng, và cứ ngày nào cũng thế, cho đến khi cùng nhau về trời để cùng tôn vinh, ngợi khen, yêu mến Vua muôn vua cho đến đời đời chẳng cùng amen.
Chính khi chúng ta chấp nhận để cho Chúa Kitô làm vua lòng ta, thì ta lại thực sự làm vua cùng với Ngài, làm vua cai trị ý riêng và các đam mê dục vọng phóng túng của ta, làm vua trong việc cai trị điều khiển ý riêng của ta cho phù hợp với Thánh ý khôn ngoan siêu vợi vô cùng từ bi nhân hậu khôn dò của Chúa…; nhất là làm vua trong việc yêu Thiên Chúa và yêu thương anh chị em đồng loại như Chúa yêu và đã làm gương rất chói sáng cho ta.
Bạn ơi!
Sách gương Chúa Giêsu đã nói: Làm tôi Thiên Chúa là cai trị!
Chúng ta đang đi theo và làm theo gương của một Vị Vua chẳng giống ai, mà đúng là một vị vua chẳng giống ai thật đấy!
- Vua Hòa Bình gì mà khi đến làm vua vũ trụ này, lại phải nằm rét rum như cầy sấy trong hang bò lừa tạm trú, tới nỗi khiến cho Ba Đạo Sĩ vô cùng ngạc nhiên khi thấy Ngài, sau những ngày đêm lần mò đầy nguy hiểm chống gai vất vả đi tìm để bái thờ .
- Vua gì mà không có lấy một thằng lính để bảo vệ hộ tống cho, còn thảm tới nỗi chỉ cần mấy thằng lính quèn của Hêrôđê đuổi thôi, cũng đã phải chạy tóe khói bán sống bán chết sang mãi tận bên Aicập để lánh nạn và tìm miếng ăn kiếm sống qua ngày.
- Vua gì mà bị trói và bị thẩm vấn trước mặt Philatô mà không một lời biện hộ và cũng chẳng cần một ai biện hộ cho. Vua gì mà suốt ba năm trời vất vả đi chiêu mộ được 12 tông đồ gọi là trung thành sống chết với mình, thế mà khi thấy Thầy bị bắt, thì ôi thôi, các môn sinh đã từng gắn bó nằm gai nếm mật, đã cao xa bay chạy mỗi người một phách, để Thầy mình muốn ra làm sao thì kệ mặc Thầy.
- Vua gì mà chẳng giống ai, lại còn tuyên bố: Tôi sinh ra để làm Vua, Tôi đến thế gian này cũng không ngoài mục đích đó.
Vâng, đúng rồi, chính nhờ Vua không giống ai này mà Ngài đã thực sự là Vua từng cõi lòng chúng ta và nhờ Chức Vua của Ngài đó mà chúng ta mới được cứu độ và được lên Thiên Đàng đấy, bạn và tôi ạ!
Ngài đã chẳng úp mở hoặc luồn cúi, nhưng thẳng thắn tuyên bố cho Philatô và thế gian biết, Nước của Ngài không thuộc về thế gian này. Nước Ngài là Nước của Tình Yêu Thương, và Ngài làm Vua cũng là Vua Tình Yêu , Vua dùng tình yêu thương để cai trị các thần dân của mình, và phải chăng, tất cả những ai muốn là thần dân chính cống của Ngài như chúng ta, cũng không có gì được khác hơn việc là, chỉ dùng tình yêu thương mà đối xử tốt, đối xử tử tế với nhau? Thánh Phaolô đã không bảo chúng ta:Yêu Thương là chu toàn lề luật trong Vương Quốc Tình Yêu này đó sao!
Nguyên nhìn vào quang cảnh vị vua ngự giá quang lâm xét xử trong ngày phán xét mà Thánh Matthêu đã miêu tả cho chúng ta trong chương 25 sách Tin Mừng ngài viết, cũng là câu trả lời rất ư tuyệt hảo cho chúng ta biết điều đó. Ngài xét xử tiêu chuẩn để vào Vương Quốc của Ngài cũng chỉ là ta có yêu mến Ngài cụ thể qua mỗi một tha nhân hay không?
Đặc biệt, mừng Lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ và Vua lòng mọi người, chúng ta được mời gọi để khước từ những dáng vẻ, những kiểu cách làm vua ăn trên ngồi trốc theo kiểu của thế gian; đồng thời, hăng say tích cực làm vua với Vua Kitô và làm vua giống kiểu Vua của Ngài hơn. Ngài đã nói: Ai muốn làm lớn(làm vua), phải là người làm tôi hầu hạ các con. Chính Ngài đã làm gương cho chúng ta kiểu làm vua của Ngài khi tuyên bố: Thầy ở giữa chúng con như người hầu hạ.
Thưa bạn,
Martin Caphu là người Bangla thuộc Cameroun Phi châu. Cha anh là quốc vương Bangla. Từ thiếu niên, anh đã quen với phong trào Tổ Ấm, một tổ chức Công giáo làm việc xã hội ở Phi châu. Thấy các thành viên Tổ Ấm xả thân giúp đỡ người đồng loại, anh Caphu rất cảm phục, và tới năm 1963, vào lúc mười bảy tuổi, anh xin trở lại Công giáo. Sau khi tốt nghiệp Trung học, anh được gia đình gởi về Rôma học nghành điện tử. Đậu tiến sĩ xong, anh Caphu gia nhập phòng trào Tổ Ấm.
Năm 1980, cha anh qua đời, và theo chúc thư, ông đã chọn Caphu kế vị ngai vàng. Caphu vội vã trở về Bangla, anh họp cả sắc tộc lại và xin mọi người đề cử người khác làm vua. Còn anh, anh muốn dành cả cuộc sống làm việc xã hội theo tinh thần Kitô giáo. Và mọi người đã đồng ý. Có phải đúng là anh Caphu đã rất hiểu và đã cam đảm sống tinh thần làm vua mà Chúa Kitô Vua không, thưa bạn? Và ngày hôm nay, từ giây phút này, Ngài cũng đang lên tiếng kêu mời bạn và tôi tiếp tục công trình làm vua bằng cách phục vụ người khác như một người đầy tớ đối với ông chủ là tha nhân đấy!
Các bạn rất kính mến!
Vậy, chúng ta hãy cùng nhau làm vua khắp thế gian, làm vua thiêng liêng trong tinh thần của con Thiên Chúa. Làm vua lòng mọi người bằng thương yêu tất cả, cầu nguyện cho tất cả, làm ơn cho tất cả, không yên trí, không thành kiến ai, không có ai là kẻ thù, mà giả như có ai là kẻ thù đi nữa, ta cũng sẽ tìm cách biến họ trở nên bạn, nên anh em với ta, vì tất cả đều có một mẫu số chung là con cùng một Cha trên trời với ta, đúng không, thưa bạn? Có như thế, chúng ta mới thực sự đang là những ông vua vượt muôn biên giới mà không gian, thời gian không thể trói buộc và giới hạn trái tim yêu thương của chúng ta.
Cuối cùng, sống cuộc sống ‘Kitô Vua’ là tất cả mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm và trong đời sống của chúng ta luôn có “chất Giêsu Vua” nếu chúng ta muốn là những môn sinh, đệ tử trung thành với Thầy Chí Thánh Kitô Vua.
Để kết thúc cho bài chia sẻ này, xin kể một câu chuyện có thật xảy ra tại chính quê hương Việt Nam.
Có hai gia đình ở cách nhau mấy căn thôi, dù không phải là họ hàng ruột thịt, nhưng lại hết sức thân thiết gắn bó với nhau, tới nỗi coi vui buồn sướng khổ của nhau như là của mình, của gia đình mình. Một ngày kia, hai đứa con nhỏ của hai gia đình đi học về xảy ra chuyện xích mích với nhau. Vậy mà, không ngờ chuyện nhỏ của hai đứa con hai gia đình thân thiết như ruột thịt, lại là chuyện rất lớn để rồi xa cách nhau tới hơn mười năm, mặc dù gần nhà, nhưng lại tỏ ra như người dưng nước lã với nhau, chẳng còn mặn mà như trước, là vì gia đình nào cũng bênh vực cho con của mình là đúng, và kiên quyết giữ vững lập trường, gia đình kia phải xin lỗi thì mới bỏ qua, mới tha.
Hơn mười năm xa cách, mất bằng an, cả hai gia đình có những lúc trộm tiếc xót xa, vì tình thân nghĩa đã bị mất đi một cách quá rẻ rúng, và đôi lúc trong tận đáy lòng cũng gióng lên một thiện chí muốn làm hòa để lấy lại tình thân nghĩa quí báu trước kia, nhưng không ai, không bên nào có đủ can đảm để hạ mình xuống đi bước thượng phong để xin lỗi bên kia làm cho tình trạng càng trở nên tồi tệ hơn.
May mắn thay, đúng là Chúa có mắt thấu suốt mọi tơ lòng của từng người. Vào một đêm kia trong một giấc mơ, ông A đã thấy Chúa Giêsu vác thánh giá tiến đến, thân mình Chúa đầy những vết thương, máu me đầm đìa, trông thảm thương không ai chịu nổi…! Thấy cảnh tượng như thế, ông A bèn hỏi Chúa:
Lạy Chúa, sao Chúa phải đau khổ quá như vậy?
Chúa Giêsu với nét mặt đầy âu yếm yêu thương, nhưng cũng nghiêm nghị trịnh trọng trả lời:
Tại tội của con đó!
Thưa Chúa, con có tội trọng đâu, con vẫn xưng tội rước lễ mà!
Chúa trả lời:
Tại con chưa tha thứ cho gia đình gần nhà con. Sau đó Chúa biến đi.
Sau khi Chúa biến đi, ông A chợt thức giấc luôn, không thể ngủ được nữa, vì ấn tượng quá mạnh mẽ của giấc mơ, nhất là lời Chúa nói Ta đau khổ thế này là do con đã không tha thứ cho gia đình ông B kia. Ông vội đánh thức vợ và các con dậy, đồng thời kể đầu đuôi câu chuyện, và cuối cùng tất cả mọi người đều nhất trí là đi xin lỗi gia đình nhà ông B để giải hòa, cho Chúa đỡ khổ và lấy lại sự bình an cho hai gia đình.
Thế là sáng sớm hôm sau, khi thấy bên nhà ông B bắt đầu mở cửa, cả gia đình ông A cất gót đi sang nhà ông B. Gia đình ông B trong nhà ngó ra sân trước, thấy cảnh tượng lạ quá, cứ tưởng là nó kéo đại binh sang hội đồng nhà mình đây. Nhưng khi bình tĩnh để ý kỹ, lại thấy nét mặt của nhà ông A rất dễ thương như có vẻ gì là tha thiết lắm, nên mở cửa cho dzô.
Khi mọi thành viên nhà A bước vào nhà B, thì chẳng ai bảo ai, tất cả đều quỳ xuống và ông chủ nhà A nói lời xin lỗi nhà B; ngay sau đó, quý vị biết không, ông chủ nhà B và mọi người trong nhà B cũng tự động quỳ xuống để xin lỗi gia đình nhà A, và mọi người ôm nhau òa lên khóc vì quá vui sướng. Thời gian sau, một lần kia tôi ra thăm và được họ chia sẻ: Thưa Cha, hơn chục năm nay, chưa bao giờ chúng con sung sướng hạnh phúc như thế.
Có phải là đang làm vua cùng với Đức Kitô đó không, thưa các bạn?
Sung sướng vì được làm vua cai trị, chứ không phải là làm nô lệ cho những tự ái, những giận hờn ghen ghét. Vâng, chỉ nhờ một chút cố gắng hãm dẹp cái tôi, bỏ tự ái; đồng thời, hạ mình khiêm tốn đi bước trước tí mà ông A và gia đình đã làm vua thành công(làm vua theo kiểu của Chúa Giêsu Kitô Vua) trong việc đem lại bình an hạnh phúc không những cho chính mình, gia đình mình, mà còn làm cho cả gia đình ông B tràn trề hạnh phúc, niềm bình an hạnh phúc sau suốt hơn mười năm vắng bóng chỉ vì một xích mích cỏn con của hai đứa nhỏ của hai gia đình.
Mừng Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, Mẹ Giáo Hội thiết tha mời gọi mỗi người chúng ta hãy can đảm hãy để cho Chúa Kitô thực sự làm vua nơi tâm hồn và thể xác chúng ta và qua chúng ta, Chúa sẽ làm vua khắp cả thế giới. Chúa muốn dùng chúng ta như khí cụ bình an của Ngài, để đem yêu thương, đem hòa bình đến cho người thế.
Ước chi, lời cầu nguyện sau đây cũng là tâm tình cầu nguyện của mỗi một chúng ta hôm nay, bạn nhé:
Lạy Chúa,
Lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau, để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó, chúng con hiểu rằng, cần phải buông tay nhau, để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng, và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa,chúng con biết rằng ,cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa, vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hóa.
Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên Thập giá, giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
Lạy Chúa Từ Nhân!Xin Cho Con Biết Mến Yêu và Phụng Sự Chúa Trong Mọi Người.
Hoan hô Vua Giêsu chiến thắng bây giờ và mãi mãi. Amen!
43. Ai là vua của bạn? – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở ra những kho tàng’)
Vào năm 1925 Đức Giáo Hoàng Piô XI thiết lập lễ tôn kính Đức Kitô Vua, lễ này được đặt vào ngày chúa nhật cuối tháng 10. Giáo Hội qua nhiều thế kỷ đã tôn kính Đức Kitô như là Vua trong cuộc rước vào ngày Lễ Lá nhưng Đức Giáo Hoàng thấy có nhu cầu thiết lập một lễ đặc biệt, để chống lại chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất của kỷ nguyên này. Trong xứ sở Hoa Kỳ, kỷ nguyên được gọi là tiếng gầm thứ hai mươi.
Đức Giáo Hoàng Piô XI đã đặt lễ vào Chúa nhật cuối tháng 10 và tiếp đó là lễ Các Thánh. Sự nhận biết của phụng vụ mừng các môn đệ đã bước vào trong vương quốc trên trời. Công đồng Vatican II đã đổi mới và chuyển lễ Kitô Vua vào chúa nhật cuối năm phụng vụ như đặt một biểu hiệu của vương quốc, mặc dầu đang hiện diện giữa chúng ta và vẫn còn đang đến: “Chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng vui mừng ngày Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta sẽ đến”. Đấng sẽ mang lại vương quốc của Ngài tới sự hoàn hảo khi Ngài trở lại trong vinh quang cho ngày Phục Sinh chung.
Theo sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô XI vào năm 1925 liên quan đến Đức Kitô Vua, Ngài muốn làm cho cả thế giới chú ý tới nhu cầu thiết lập những giá trị tinh thần như là những hướng dẫn cho đời sống. Những lời của Đức Giáo Hoàng hầu như không được mấy ai chú ý đến. Nước Mỹ đặc biệt vẫn tiếp tục tinh thần tham lam, nhấn mạnh là mọi người đều có thể trở nên giàu có, có thể có tài sản mà không cần làm việc. Người ta có nhiều cấp độ kinh tế khác nhau, “ngay cả những chàng trai đánh giày” cũng như một sử gia đã nói “cũng lao vào chợ hàng hóa”. Cuộc khủng hoảng vào năm 1929 đã đổ vỡ là một điều không thể tránh được.
Thất là đau buồn khi nhận biết rằng sắc lệnh đã được viết bởi Đức Giáo Hoàng vào năm 1925, có thể là bản chúc thư mà ngài đã sáng tác vào những tuần cuối đời Giáo Hoàng của ngài. Chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất đi đến sự thất bài trong cuộc khủng hoảng tài chính vào năm 1929, dẫn đến trong thời đại của chúng ta một hậu quả khôn lường, đó là khủng hoảng về tiết kiệm và những món nợ chồng chất trong những năm gần đây. Việc cử hành phụng vụ của chúng ta về Đức Kitô là Vua, thách đố chúng ta bất chấp những thất bại trong lãnh vực tài chính hoặc trong thái độ thiêng liêng của chúng ta, điều quan trọng nhất không phải sự tham lam đã dẫn tới sự sụp đổ tài chính nhưng chính việc loại bỏ những giáo huấn và gương mẫu của Đức Kitô Vua.
Chủ nghĩa thế tục nhấn mạnh rằng, đất nước giàu có thì ở trên mặt đất này. Nó loại bỏ mọi hình thức của đức tin tôn giáo và thờ phượng. Chủ nghĩa vật chất rao giảng giáo lý tìm sự an ủi, vui thú và giàu có như là những mục đích cao nhất của đời sống. Chúa của chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất thì không đụng móng chân đến thánh giá hy sinh nhưng là chìm vào trong ăn uống xa hoa và những ăn chơi dâm dật.
Trái lại, làm nhân chứng cho sự khôn ngoan của Phúc Âm Kitô giáo; họ là những công dân của Nước Trời. Họ trình bày cho chúng ta về tính vô vị lợi, là con đường hạnh phúc còn con đường tham lam là không, những thực tại thiêng liêng là thật sự và những tạm bợ của những chủ nghĩa thế tục là không, và tôn giáo là phần thưởng tuyệt đối còn chủ nghĩa vật chất là không.
Kinh Tiền Tụng ngày chúa nhật hôm nay tuyên bố rằng Đức Kitô Vua cai trị một vương quốc đời đời, một vương quốc của sự thật và sự sống, một vương quốc của sự thánh thiện và ân sủng, một vương quốc của sự công chính tình yêu và bình an. Đó là vương quốc ngự trị mãi mãi.
Một lời nài xin cho được trung thành với Đức Kitô Vua.
Ngày chúa nhật hôm nay là thời gian thích hợp để nài xin trung thành với Đức Kitô Vua. Theo hình thức đề nghị được rút ra từ kinh Tiền Tụng, kinh nguyện Thánh Thể trong lễ trọng này có thể dùng tại Thánh Lễ hoặc mọi người có thể lập lại những lời nài xin theo sau vị linh mục chủ tế của họ.
Chúng con nài xin sự trung thành với Đức Kitô Vua.
Chúng con trân trọng vương quốc đời đời và phổ quát của Người.
Chúng con nhận biết vương quốc của Ngài là vương quốc của chân lý và sự sống.
Của sự thánh thiện và ân sủng.
Chúng con ước mong làm những gì chúng con có thể làm trong cầu nguyện và hành động.
Để mang lại cho thế giới này vương quốc của Người. Một vương quốc của sự công chính và tình yêu bình an.
44. Dung mạo của vương quyền Đức Kitô --‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest
Đoạn Phúc Âm hôm nay cho chúng ta dự khán một hồi trong cuộc thương khó, Chúa sắp bị Philatô lên án tử hình. Để hiểu rõ bản văn, cần nhớ rằng Chúa và Philatô ở hai mức độ khác biệt. Khi Philatô nói lên tiếng ‘vua’, ông nghĩ đến một vương quyền chính trị. Khi Chúa tự nhận là Vua, Người nói đến vương quyền Cứu Thế của Người. Chúng ta diễn giải rõ hơn. Chúa xưng mình là Vua Cứu Thế với một ý nghĩ vô cùng rộng lớn so với quan niệm của cấp lãnh đạo Do Thái, Chúa đặt câu hỏi: Tự mình ông, ông nói thế, hay có ai khác đã nói với ông về tôi? Để cho Philatô biết rằng Người là Vua, nhưng không theo quan niệm của ông, cũng không theo dự tính của người Do Thái. Vì thế, sau câu đáp của Philatô, Chúa nói: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Thật là một xử án lạ đời. Người Do Thái muốn cho Chúa bị kết án vì Người tự nhận từ 1 thế giới khác mà đến, tức là được Thiên Chúa sai đến. Đối với Philatô, đó không phải là cớ để buộc tội Chúa. Vì vậy người Do Thái đưa ra một cớ khác, mà trớ trêu thay, cớ này lại chính là điều Chúa không muốn chút nào, là làm một ông vua đối lập với hoàng đế La mã. Chúa bị kết án theo hai thẩm quyền xét xử. Thẩm quyền pháp lý La-mã dựa theo một đế quyền thế gian, tuy nhiên Philatô nhận thấy Chúa bác khước quyền đó. Thẩm quyền pháp lý Do Thái buộc tội Chúa vì lẽ Người tự nhận là từ Thiên Chúa mà đến, mà chính vấn đề pháp lý này lại chẳng liên quan gì đến Philatô.
Minh định xong điểm rắc rối đó, chúng ta tự hỏi: Khi mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta tôn vinh điều gì?
1) Vương quyền của Chúa làm chứng về sự thật.
Chúa không phải là Vua của thế gian. Nhưng là vua trong thế gian và trong thế gian Người làm chứng cho một thực tại thần linh. Thật vậy, cần hiểu rõ nghĩa ‘sự thật’ ở đây. Trong Phúc Âm theo thánh Gio-an, sự thật không chỉ là sự hiểu biết của trí tuệ phù hợp với điều có thật. Sự thật là thực tại của Thiên Chúa đến trong con người. Con người do đó được thấm nhuần tất cả bản thể và tất cả đời mình. Tuy nhiên muốn được như vậy, phải nghênh đón thực tại của Thiên Chúa. Nghênh đón không chỉ bằng trí tuệ mà cả bằng tấm lòng, bằng ý chí, bằng tất cả bản thể mình. Chúa làm chứng cho sự thật, bởi vì trong tư thế một con người được thấm nhuần và biến hóa nhờ một cuộc thực nghiệm thần linh, Chúa đề nghị với tất cả mọi người hãy tiến tới một sự hiệp thông có hiệu năng thần hóa, đó là sự hiệp thông với Chúa, vì lẽ Người đích thật là Con Thiên Chúa. Chúa là Vua khi mà trong nhân loại, quá nhiều phen làm phản chống lại Thiên Chúa, cũng vẫn còn những kẻ nghênh đón ‘lời chứng’, nghĩa là dâng hiến Chúa niềm tin và tư hiến mình để được Chúa thần hóa.
2) Phàm ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi
Vậy ‘thuộc về sự thật’ là gì? Là có tâm hồn sẵn sàng đón nhận thực tại thần linh do Chúa đem đến cho loài ngừoi. Về thực tế, đối với chúng ta ngày nay, điều đó là sự ăn ở ngay thẳng đối với Lời Thiên Chúa, là theo chân Chúa Giêsu mà ta gặp trong Phúc Âm, trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong anh em đồng loại. Vương quyền Chúa chẳng giống chút nào một sự thống trị của loài người, tuy nhiên Vương quyền đó trở nên hữu hiệu khi nào con người, về mặt bản thân và về mặt xã hội, trong đời sống thật sự, đạt tới chỗ hiểu biết rằng mình từ Thiên Chúa mà đến và về với Thiên Chúa, để rồi trong hướng nghĩ đó biết cư xử và hành động làm cho nhân loại nhận biết sự thật với những nét đẹp nhất, đó là dung mạo tuyệt vời của Tình yêu.
45. Vị vua chấp nhận chết, để con dân được sống -- PM. Cao Huy Hoàng
Nói đến Vua, người ta nghĩ ngay đến quyền lực, đến sự thống trị. Có những người được tôn lên làm vua theo kiểu cha truyền con nối “Con vua lại được làm vua”. Cũng có người do công trạng, được dân tín nhiệm. Lại cũng có người tự xưng mình là vua. Nhưng trong lịch sử, cũng không thiếu những kẻ cướp ngôi vua dành quyền cai trị đất nước bằng cách bất chính hoặc bằng muôn hình vạn trạng quỷ kế trên trường chính trị. Có thể có những điểm khác biệt về cách làm vua, cách cai trị dân nước… nhưng có một điểm chung là không có triều đại nào, chế độ nào “muôn năm” cả.
Thử nhìn lại lịch sử thế giới, có thể thấy, ở nước nào cũng thế, hết triều đại này đến triều đại khác, hết chế độ nầy, đến chế độ khác, không có triều đại nào, không có chế độ nào bền vững- vì triều đại nào, chế độ nào, cũng đầy dẫy những bất toàn ngay ở giai đoạn đầu và có khi thối nát ở giai đoạn cuối. Ai cũng muốn cho triều đại, cho chế độ của mình “muôn năm”, nhưng đó chỉ là một ảo vọng! Hai từ muôn năm bỗng đồng nghĩa với vài chục năm trong khi cơn khát khao, nỗi thèm thuồng quyền lực vẫn còn cháy rực trong lòng. Vì thế, triều đại nào, chế độ nào cũng muốn củng cố quyền lực của mình bằng đủ mọi cách có thể, kể cả những cách vô luân thường, vô đạo lý, vô kỷ luật… không sợ mất lòng dân, chỉ sợ mất quyền cai trị, không sợ dân chết, chỉ sợ mình chết. Và khi đã đến lúc ngọn đèn sắp tắt, thì không ngại gì mà nó không phực lên để chứng tỏ cái sinh khí cuối cùng trong thân thể rệu rã của nó.
Khác với những vị vua ở trần thế, hôm nay, chúng ta Suy Tôn Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, “Người là vua trên hết các Vua, Người là Chúa trên hết các Chúa”, vì người thống trị cả vũ hoàn không phải chỉ dựa vào quyền lực toàn năng của Thiên Chúa Tạo Thành, nhưng còn nhờ Lòng Thương Xót vô cùng của Thiên Chúa Cứu Chuộc.
Ngài vâng lời Thiên Chúa Cha để đến trần gian cho trần gian được yêu thương, được cứu rỗi, được giải thoát khỏi sự chết muôn đời, được đoàn tụ trong vương quốc của Ngài đến muôn đời. Ngài được suy tôn là Vua, Ngài làm Vua, không giống cách làm vua của những vua chúa, hay những nhà cầm quyền thế gian, nhưng cách làm Vua của Ngài là “vâng lời cho đến chết” như Thánh Phaolô xác quyết: “Chúa Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết, và chết trên Thập Giá. Vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên muôn danh hiệu” (Phil 2, 8-9).
Câu chuyện Tin Mừng thánh Gioan hôm nay kể việc Chúa Giêsu có trát của Philato đòi. Chắc chắn có quân lính áp giải, có dùi cui, có súng ống gậy gộc, nhưng không thấy thánh Gioan nói đến việc Chúa Giêsu bị bịt miệng, nên Ngài đã đứng trước vành móng ngựa và khẳng khái xác nhận: “Vâng, quan nói đúng, Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là để làm chứng cho sự thật. Ai yêu chuộng sự thật thì nghe Tôi.” (Ga 18,37)
Vâng, đó là thân phận và trách nhiệm của Con Một Thiên Chúa đầy quyền năng và đầy lòng thương xót đến để khởi đầu một Triều Đại của Thiên Chúa giữa dân Ngài, triều đại của Chân Lý: Có Thiên Chúa uy quyền và đầy lòng xót thương. Con Thiên Chúa không đàn áp, bóc lộc dân Ngài, nhưng Ngài để dân đàn áp bóc lộc Ngài như cối chày giã nát những hạt thóc, rồi xay nghiền hạt gạo thành bột thành bánh thơm ngon. Ngài cũng không lừa đảo, cũng không quy hoạch chiếm đoạt đất đai tài sản, nhưng Ngài để dân Ngài chiếm đoạt Ngài làm gia sản muôn đời. Ngài nhường lầu vàng gác tía, biệt thự nguy nga có then cài cổng khóa cho dân Ngài, còn Ngài “không có nơi gối đầu qua đêm” (Lc 9,58). Ngài không bắt bớ bỏ tù dân Ngài, nhưng ngài chịu bắt bớ, chịu bỏ tù cho dân Ngài được tự do! Và cuối cùng, Ngài không muốn cho dân Ngài phải chết để Ngài được sống, nhưng Ngài đã chết cho dân Ngài được sống, và sống muôn đời. Ngài là vị vua yêu thương và phục vụ dân đến cùng. Ngài chết cho con dân của Ngài được sống.
Đã có biết bao thể chế cũng biết tận dụng đường lối yêu thương và phục vụ “chết cho dân được sống” của Chúa Giêsu vào đường lối cai trị của mình, bằng khẩu hiệu “đầy tớ của nhân dân”, nhưng đó là khẩu hiệu mỵ dân, vì họ nói mà không làm. Họ không sống trong tinh thần sự thật. Họ còn giả vờ không biết sự thật, vì sự thật không đem lại lợi ích phàm tục nào cho họ. Câu hỏi “sự thật là chi?” (Ga 18,38) , chẳng khác nghĩa với câu “sự thật có ích gì?”, “Thiên Chúa có ích gì?”.
Thiết tưởng, các Kitô Hữu Công Giáo Việt Nam, đặc biệt là những người đang sống trong GH tại địa phương, họ là những người được Thiên Chúa yêu thương cách riêng, như dân riêng của Chúa giữa lòng Châu Á, được sống trong một đất nước gần như là luôn luôn phải tử đạo, từ khi hạt giống đức tin được gieo trồng cho đến nay. Họ đã đọc những trang sử oai hùng của Giáo Hội thời các vua chúa quan quyền bức bách đạo, và họ cũng đang nghe tận tai những khẩu hiệu gian dối, phĩnh lừa, họ chứng kiến tận mắt thời đại của những người vô thần cai trị đất nước. Họ có đủ chứng từ đối chiếu cách làm vua và cách cai trị của Vua thế gian và Vua Giêsu Kitô để xác nhận được Vua nào là Vua Muôn Đời, chế độ nào là muôn năm. Vì thế, không có một thế lực nào có thể lay chuyển niềm tin của họ, nếu không phải là một thế lực “sống, học tập và làm việc theo gương Đức Giêsu Kitô, Vua vĩ đại”.
“Vâng, quan nói đúng, Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là để làm chứng cho sự thật. Ai yêu chuộng sự thật thì nghe Tôi.” (Ga 18,37)
Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội ngàn vàng để Dân Chúa, một lần nữa, sẽ khẳng định Vua Đích Thực, Vua Muôn Đời của chúng ta là ai. Chắc chắn và mãi mãi là Vua Giêsu Kitô, Người đã đến “là để làm chứng cho sự thật”. “Sự Thật” vô cùng cao quí ấy là sự thật “có Thiên Chúa”.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là tấm gương anh dũng soi chiếu cho dân Chúa tại Việt Nam về việc làm chứng cho sự thật. Vì nếu không tin nhận Thiên Chúa, không tin nhận Đức Giêsu là Vua Muôn Đời trong Nước Vinh Quang muôn đời của Ngài, thì đã chẳng có ai dám liều mình hy sinh mạng sống cách oan uổng. Hơn nữa, tình yêu Chúa Kitô thúc bách các Ngài cùng Chúa Kitô nói với những người không tin Thiên Chúa rằng “nước tôi không thuộc về thế gian này”.
Mừng lễ Chúa Kitô Vua, noi gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam Tôn Vinh Chúa Giêsu là Vua, mọi thành phần trong giáo hội sẽ làm chứng cho sự thật:
- dứt khoát nói không với cơn cám dỗ đàn áp bóc lộc lẫn nhau, nhưng bảo bọc che chở cho nhau trong tình huynh đệ, trong chân lý;
- dứt khoát nói không với chia rẽ, tỵ hiềm, bôi nhọ để yêu thương, chân thành, hiệp nhất;
- dứt khoát nói nói không với đồng lõa, nói không với thỏa hiệp cùng gian tà để quyết tâm sống ngay chính theo đường sự thật của Chúa Giêsu;
- dứt khoát nói không với tất cả những gì chống lại Thiên Chúa, chống lại công lý, sự thật, để quyết tâm sống đời sống của Thiên Chúa giữa một xã hội “không tin có Thiên Chúa” hay là chưa muốn tin một Đấng Thiêng Liêng hằng có đời đời.
Một vài nơi vẫn có lệ mời các cấp chính quyền tham dự lễ Đặt Viên Đá, lễ Giáng Sinh, lễ mở tay…. Ước gì họ được mời tham dự một thánh lễ Mừng Trọng Thể Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, để họ được biết cách làm vua, cách cai trị của một Vị Vua trên hết các Vua, một vị Vua Muôn Đời: “Vị vua chấp nhận chết để con dân được sống”.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ, Vua của lòng con, Chúa đã chấp nhận cái chết để con dân được sống. Chúng con suy tôn Chúa là Vua Muôn đời. Xin cho chúng con cũng biết chấp nhận hy sinh mỗi ngày để làm chứng cho Nước Thiên Chúa giữa trần gian, và nhất là trên quê hương thân yêu của chúng con. Amen.
46. Đức Giêsu Kitô là chân lý -- PM. Cao Huy Hoàng
Hình như đang có báo động đỏ về một trần gian đang suy thoái vì sự giả trá lan tràn. Sự giả trá từ trong tâm hồn mỗi người, trong gia đình, rồi lan ra đến cộng đồng, kể cả cộng đoàn Công Giáo.
Ảnh hưởng của tội nguyên tổ sao mà dai dẳng thế?!? Có phải vì con người đầu tiên đã chui vào bụi rậm trốn ánh nhìn của Thiên Chúa mà bây giờ tâm hồn con cháu loài người vẫn cứ thích hướng lòng về những ém nhẹm, những giấu kín, những che đậy, ẩn nấp đâu đó từ tư tưởng đến hành động. Cả tôi, cả bạn, nếu lắng lòng sâu thẳm và thành tâm xét mình, có lẽ một ngày đời của chúng mình không biết bao nhiêu lần gian dối, bao nhiêu ý định không ngay thẳng, bao nhiêu lời nói việc làm gian tà… Cứ tưởng như là không ai có thể biết được điều ta đã giấu kín.
Biết đâu là chân lý? Con cái đã không nhìn thấy cách sống chân thành nơi cha mẹ của chúng, lại còn chứng kiến hằng ngày những gian dối trong nhà. Ánh mắt nhìn của cha chưa hẳn là ánh mắt của thủy chung, bao dung, quảng đại. Nụ cười dịu dàng của mẹ ngày nay chưa hẳn là nụ cười của tình yêu trung tín, của hiến dâng trọn vẹn, của hy sinh ví tựa biển thái bình.
Biết đâu là chân lý? Con dân trong một đất nước cũng chẳng biết đâu là chân lý khi cả một khối lãnh đạo đất nước nói một đường làm một nẻo, hoặc mỗi ngày lại có thêm một bại lộ về những gian tà tham nhũng, phanh phui dần những trò nham hiểm thanh trừng lẫn nhau trên sân khấu chính trị…
Biết đâu là chân lý? Ở đâu cũng thấy bóng dáng của sự gian dối. Ở đâu người ta cũng không sống chân thành với nhau. Và khi không sống chân thành với nhau bằng tình thương của con người, thì ở đó, không có bóng dáng của Thiên Chúa. Hay nói cách khác, chính khi sống gian tà là lúc chúng ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Với các Kitô hữu cũng vậy, tuyên xưng “Tôi tin vào Thiên Chúa” mà vẫn cứ ẩn mình trong sự gian dối, thì lời tuyên xưng kia lại chính là sự nói dối lộ liễu của một con người quá thấp hèn trước Thiên Chúa uy quyền, cao cả, mà không hề sợ hãi phép công thẳng của Ngài.
Đức Giêsu Kitô đã đến và mạc khải cho trần gian biết những sự thật quan trọng: Có Thiên Chúa là Cha toàn năng, Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa ban Sự Sống vĩnh cửu cho con người.
Đức Giêsu Kitô đã làm chứng về những điều đã mạc khải bằng chính cuộc sống của Ngài: rao giảng Nước Thiên Chúa, loan truyền sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, và mời gọi mọi người biết yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu, như Con Thiên Chúa đã yêu: hiến mạng sống mình vì người mình yêu, để người mình yêu được sống và sống dồi dào ở đời này, phục sinh ở đời sau.
Trong khi nhân loại cứ vật vờ trong cách sống gian dối mà Satan dạy dỗ, hướng dẫn cho cách lẩn tránh Thiên Chúa, thì chính Đức Giêsu Kitô đã khai mở một con đường mới cho nhân loại: sống công chính trước mặt Thiên Chúa. Sự công chính ấy bắt nguồn từ việc: Tin vào Đức Giêsu Kitô và sống theo Lời Ngài. Câu hỏi “Biết đâu là chân lý?” đã được giải đáp thỏa đáng ngay tại tòa tổng trấn Philatô: “Ai thuộc về Chân Lý thì nghe tiếng Tôi”.
“Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi” hay nói cách khác, những người chọn Chúa Kitô làm thần tượng cho mình, chọn Lời Chúa Kitô làm kim chỉ nam cho đời mình, những người chấp nhận thuộc về Chúa Kitô, là những người đã biết được đâu là chân lý, sống trong chân lý, và làm chứng cho chân lý.
Trong cùng một Đức Giêsu Kitô, họ trở nên con dân trong Nước Thiên Chúa mà chính Người làm Vua của họ. Một đất nước của Chân Lý, quyền bính là Tình Thương, không thuộc về thế gian này:
“Quan nói đúng. Tôi là Vua!”
“Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng mà Nước tôi không thuộc chốn này”.
Sống trong Sự Thật là sống Niềm Tin có Thiên Chúa, và sống chân thành yêu thương trước mặt Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta được “Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Đấng đã yêu thương ban ơn bình an và ân sủng” khi Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người”.
Giáo Hội kết thúc Năm Phụng Vụ với Lễ suy tôn Chúa Giêsu Kitô là Vua, Vua vũ trụ, Vua muôn loài, và là Vua của những kẻ đã Tin vào Ngài và sống theo Lời Ngài dạy. Giáo Hội cũng muốn nhắc nhở mỗi chúng ta về việc mỗi tín hữu phải kết thúc hành trình đời người và hành trình Đức Tin trong Chúa Giêsu Kitô để xứng đáng hưởng phần gia nghiệp muôn đời mà Thiên Chúa đã sắm sẵn nhờ máu cứu độ của Con Ngài: Nước Thiên Chúa.
Khi kết thúc hành trình đời người, dẫu chỉ còn hai nắm tay không trước mặt Thiên Chúa, con người vẫn là một thụ tạo xinh đẹp, nếu thụ tạo ấy sống và làm chứng cho sự thật là Thiên Chúa và Tình Yêu. Và ngược lại, con người có xiêm y lụa là xinh đẹp trước mặt trần gian mà sống trong sự gian dối, bất tín thì đáng tiếc thay, họ không được niềm vui vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu Kitô Vua.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nghe lời Chúa Giêsu, biết sống tin yêu chân thành như Chúa Giêsu, để chúng con xứng đáng được kết thúc hành trình đời người trong Nước Thiên Chúa, dưới vương quyền Vua Giêsu Kitô mà suốt đời con đã kính tin, tôn thờ, yêu mến.
47. Đức Giêsu Kitô Vua: phục vụ là cai trị -- ‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Truyện cổ Nga thuật lại rằng: Vào thời Trung cổ, Hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa khác sống trong cung điện nguy nga tráng lệ, trong khi dân chúng chung quanh phải sống trong những khu xóm nghèo nàn tồi tệ. Thế nhưng Alexis rất hiểu nổi cơ cực của thần dân và cảm thương họ. Ông bỏ ra mỗi ngày một tí thời giờ để thăm họ. Nhưng dù cố gắng đến đâu, Alexis vẫn không thu phục được lòng yêu mến của thần dân. Vì thế, sau mỗi lần thăm họ trở về, ông thấy lòng mình buồn rười rượi.
Ngày kia, có một người lạ mặt đi vào khu xóm, ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là bác sĩ, anh săn sóc những người già cả, bệnh tật. Đặc biệt, bác sĩ không lấy tiền thù lao, và còn phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân.
Bác sĩ ấy trở thành người của xóm nghèo, được mọi người yêu mến kính phục. Ngày ngày, anh dàn xếp những cuộc cãi vã, tranh giành, hòa giải những thù oán, và giúp đỡ họ sống đúng với phẩm giá con người.
Bác sĩ trẻ ấy chính là Hoàng tử Alexis, người đã bỏ cung điện giàu sang đến sống với thần dân nghèo khổ và trở nên bạn bè của họ, để yêu thương săn sóc và phục vụ họ.
Anh chị em thân mến, Đức Kitô thực sự là một vị Vua đầy uy quyền. Nhưng Ngài đã trở nên giống như chúng ta, để có thể yêu thương và phục vụ chúng ta. Ngài đã tuyên bố: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Trong Tin Mừng hôm nay, khi bị Philatô tra hỏi: “Ông là Vua ư?” Chúa Giêsu không phủ nhận, Ngài chỉ nói: “Chính quan nói rằng tôi là vua”. Vua vẫn chỉ là một từ ngữ gây hiểu lầm mà Đức Giêsu muốn tránh. Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói đến Nước của Ngài. Ngài “sẽ đến trong vinh quang của Cha Ngài... trong Nước của Ngài” (Mt 16,27-28). Ngài đã khẳng định trước mặt Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36). Khi người trộm lành xin Ngài nhớ đến anh “khi Ngài đến trong Nước của Ngài”, Chúa Giêsu đã không từ chối: “Hôm nay anh sẽ ở trêm Thiên Đàng với tôi” (Lc 23,41-43). Vào ngày tận thế, Ngài sẽ đến phân xử người lành kẻ dữ trong tư cách một vị Vua (Mt 25,34-40).
Chúa Giêsu là Vua vũ trụ. Ngài đã được Chúa Cha ban cho mọi quyền năng trên trời dưới đất (Mt 28,18). Nhưng Ngài đã sống như một người tôi tớ phục vụ. Trong cuộc sống trần thế, Ngài vẫn luôn ý thức về vai trò quan trọng của mình trong việc cứu độ nhân loại. Ngài biết mình là Con Thiên Chúa. Thế nhưng cả cuộc đời Ngài là một sự phục vụ không ngừng. “Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị họ, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân... Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ hầu bàn, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ gì? Thế mà Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người hầu bàn” (Lc 22,25-27). Chúa Giêsu tự nhận mình là người phục vụ như một kẻ hầu bàn, chỉ mong cho thực khách được ngon miệng. Kiểu làm vua của Chúa Giêsu là phục vụ, chứ không phải là được người ta phục vụ. Ngài làm vua bằng cách cúi xuống để làm cử chỉ hầu hạ của người nô lệ: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Với Chúa Giêsu, cử chỉ đó là một việc làm bình thường gắn liền với quyền bính đích thực. Qua cung cách của Ngài, Chúa Giêsu đưa ra định nghĩa đúng đắn về quyền bính. Quyền bính đích thực đồng nghĩa với phục vụ và phục vụ cho đến hy sinh mạng sống.
Cử chỉ phục vụ cao cả nhất và khiêm hạ nhất của Chúa Giêsu là cái chết của Ngài trên thập giá. Cần chiêm ngưỡng vị vua bị đóng đinh thật lâu để hiểu được cách làm vua của Ngài. Trên đầu Ngài có gắn tấm bảng ghi dòng chữ: “Giêsu Nagiaret Vua dân Do Thái”, được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, La Tinh, Hy Lạp, để ai cũng đọc được. Một vị vua lạ lùng! Không ngai vàng, chỉ có thập giá. Không vương miện, chỉ có vòng gai. Không cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không quan quân đứng hầu, chỉ có người qua kẻ lại nhiếc móc, chế nhiễu, lăng mạ. Một vị vua không có chút quyền lực, cũng chẳng áp bức ai. Một vị vua của vâng phục và yêu thương tha thứ tất cả. Thập Giá vừa đưa Chúa Giêsu xuống vực thẳm, vừa nâng Người lên cao. Chúa Giêsu trở thành vua vũ trụ nhờ đi vào con đường thập giá, con đường tử bỏ mình để khiêm tốn phục vụ, con đường hẹp nhưng không phải là con đường cùng, mà là con đường dẫn đến vinh quang. “Khi nào Ta được đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,3). Vua Giêsu hôm nay vẫn tiếp tục thu hút cả vũ trụ nhân loại với Ngài. Nước của Ngài đã được khai mạc và nước ấy vẫn lan rộng không ngừng nhờ có những người dám “đứng về phía sự thật” và “nghe được tiếng Ngài mời gọi” (Ga 18,37).
Nước của Vua Giêsu không có trên bản đồ, bởi lẽ Nước ấy “ở trong thế gian này” nhưng “không thuộc về thế gian này”. “Ở trong thế gian”, nghĩa là không xa cách, nhưng hòa quyện với thế gian như men trong bột, như muối ướp thức ăn. Nhưng “không thuộc về thế gian này”, nghĩa là không chạy theo những thần tượng của thế gian: quyền lực, tiền của, khoái lạc... Thế gian sa đọa là thế gian chống lại Nước Chúa và cũng chống lại quyền lực của con người. Thế nên, xây dựng Nước Chúa cũng là xây dựng một xã hội công bằng, bác ái, tôn trọng con người. Chúng ta cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến”, được mọi người nhận biết. Nhưng Nước Cha chỉ thành tựu khi Chúa Giêsu Kitô được mọi người tuyên xưng là Chúa, là Đấng Cứu Độ là Vua cả hoàn vũ. Nước Cha và Nước Chúa Kitô là một. “Vào lúc tận thế, Chúa Kitô sẽ trao lại Nước cho Chúa Cha, sau khi Ngài đã hủy diệt và khuất phục quyền lực sự dữ, để cuối cùng, Thiên Chúa làm mọi sự cho mọi người” (x.1Cr 15,24-28).
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô, một vị vua dùng thập giá ngai vàng, mão gai làm triều thiên và muôn thuở cạnh sườn của Ngài bị đâm thủng, để nguồn suối tình yêu luôn tuôn tràn cho nhân loại đang khao khát tình yêu. Yêu là trao ban và trao ban đến cùng. Tình yêu, đó là món quà quí nhất của Thiên Chúa đã trao tặng con người. Từ nay, để sống đích thực là người, con người cần phải dốc cạn con tim mình để yêu thương và trao ban cho đồng loại. Chúa Giêsu đã lấy tình yêu thương và phục vụ làm quyền bính cai trị. Ngài đã trở nên gương mẫu đích thực cho các nhà lãnh đạo, cho các người cầm quyền. Ai biết yêu thương và phục vụ như Ngài thì mới được tham dự vào vương quyền của Ngài trong Nước của Ngài, vì “Phục vụ là cai trị” vậy.
48. Vua Chân Lý
Tôi còn nhớ rất rõ, khi còn bé, cừ đến ngày 13.10 hàng năm tôi lại được mẹ tôi dắt đi hành hương Fatima Đức Mẹ ở Vĩnh Long. Lần nào đi tôi cũng qua khu nhà của cá thầy dòng Kitô Vua cạnh đó để chiêm ngắm Đức Kitô đội mũ triều thiên đứng uy nghi trên đỉnh nhà. Lúc đó tôi vô cùng hãnh diện vì Chúa tôi là Vua. Nhưng tôi cũng lấy làm thắc mắc mọi vua khác tôi đọc trong truyện, có quân lính, có vệ sĩ bảo vệ, sao Vua Kitô lại không thấy. Rồi những hình tượng đó ngày một qua đi, đến hôm nay khi học biết về Kinh Thánh lại làm cho tôi càng vui mừng hơn gấp bội. Vì Chúa của tôi là Vua trên các vua chứ không phải ông vua trần gian với binh quyền thế mạnh, chỉ uy hiếp được người đời, rồi cuối cùng cũng sẽ đi vào diệt vong. Còn Vua Kitô đã xây dựng đất nước trong chân lý và tình yêu, nên đất nước vẫn tồn tại và phát triển. Hơn nữa, trong Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tự xưng mình là Vua trước Philatô khiến nhiều người trong chúng ta phải thay đổi hết mọi quan niệm thông thường khi nghĩ đến tước hiệu làm vua của Chúa Giêsu Kitô:
1. Vua tình yêu
Đức Giêsu đã trả lời Philatô “Nước Tôi không thuộc thế gian này”. Trong hoàn cảnh như thế nếu xét theo khía cạnh ngoại giao, thì đây là một câu trả lời vụng về thiếu khôn khéo. Nhưng vì Ngài là Vua của chân lý, của sự thật. Ngài phải nói lên sự thật, nhưng có nhiều người không hiểu vì họ bị mê muôi bởi vinh quang trần thế. Công việc của Ngài đến là để làm chứng cho chân lý. Ngài đến để chiến thắng tội lỗi, và Nước Ngài không phải ở trần gian, nếu Ngài muốn dấy loạn dựng cờ khởi nghĩa, kêu gọi người ta đứng lên chiến đấu thì chuyện không có gì là khó. Nhưng nếu vậy thì không phải là Vua của tình yêu nữa mà là một ông vua bạo lực của trần gian. Từ ban đầu, Ngài đã khẳng định mình là Vua, nhưng Nước Ngài không căn cứ trên bạo lực và vũ khí, mà là một vương quốc trong lòng người. Mục tiêu là chinh phục thế gian, nhưng là cuộc chinh phục bằng tình yêu và lòng bao dung.
2. Vua của đất nước không biên giới.
Nước của Vua Kitô Giêsu hoàn toàn khác với nước mà người Do Thái trông đợi. Họ chờ một Đức Kitô làm vua thật sự, nâng đỡ dân tộc rồi giải thoát họ khỏi ách thống trị của Rôma. Điều họ trách cứ Đức Kitô ở đây chẳng qua biểu lộ một niềm hy vọng sâu xa, đó là mơ ước sau bao bao năm bị đô hộ. Và khi thấy Đức Giêsu không hành động theo ý muốn, họ thất vọng, lên án tố cáo Ngài. Vì thế, Ngài biết rõ vị thế làm Vua của mình, biết rõ người Do Thái đang nuôi hy vọng hão huyền với những quan niệm lệch lạc. Vương quyền Ngài thật kỳ lạ không giống như họ tưởng. Đó là một vương quyền tuyệt đối, với mục đích quy tụ mọi dân trên toàn cầu, và tất cả mọi người thấp hèn, yếu đuối tật nguyền, cho đến cao sang quyền uy đều có thể trở thành công dân nếu biết tuân phục thánh ý Chúa.
3. Vua mọi vua.
Qua câu trả lời mạnh mẽ hiên ngang của Đức Giêsu trước quan Philatô đại diện cho quyền lực trần thế. Đức Giêsu đã thể hiện vượt trội vì Ngài là Vua các vua, vương quyền Ngài vượt hẳn sự trông đợi của người Do Thái, Ngài không để mất sự cao cả khi mang thân phận yếu hèn. Điều này cho họ thấy rằng nếu họ biết được uy quyền của Đức Giêsu nếu họ quan tâm đến chân lý, biết nỗ lực khám phá đường lối Chúa. Vì thế, câu trả lời của Đức Giêsu một đàng cho thấy Ngài như một vị Vua uy quyền, đàng khác lại mang chiều kích lớn lao đặc biệt về mặt tôn giáo. Bởi vì đó là câu trả lời đánh tan mọi ảo vọng của dân Do Thái. Và khẳng định rõ ràng vương quyền chân thật phải do Thiên Chúa thiết lập.
Tóm lại, Đức Giêsu Kitô thật sự là vị Vua đầy uy quyền, đất nước Ngài vô biên, thần dân là tất cả mọi người tín hữu. Còn luật lệ là tình yêu. Nó đã thể hiện qua việc Vị Vua đã trở nên giống phàm nhân, nhằm yêu thương phục vụ con người. Để diễn tả mầu nhiệm tình yêu này, trong thư gởi tín hữu Philipphê thánh Phaolô đã nói: “Ngài đã trở nên chúng ta như một con người... Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên địa vị cao trọng tuyệt vời, và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” (Pl 2, 5-6). Chúng ta là những thần dân đã được mời gọi gia nhập đật nước của Ngài qua Bí Tích Rửa Tội, thì mỗi người cũng được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô thủ lĩnh chúng ta qua chức vụ vương đế. Vì vậy đã là công dân nước Chúa thì mỗi người phải góp phần vào công việc xây dựng vương quốc nước Ngài trên trái đất này, qua việc thánh hóa bản thân mỗi ngày và phục vụ tha nhân bằng cả tình yêu như chính Đức Giêsu đã từng phục vụ và “hiến mạng sống để cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10,45).
49. Nước Cha trị đến - Gm. Arthur Tonne.
Thánh Gioan Cantio sinh tại Ba lan năm 1390. Khi còn là một cậu bé, ngài tỏ ra thông minh và tử tế. Khi làm linh mục, ngài dạy Kinh Thánh tại đại học Cracow và cũng làm cha sở mấy năm. Người ta nhớ sự thông thái và lòng nhiệt thành của ngài đối với người nghèo khó. Người đã đi bộ hành hương Roma đến bốn lần, đeo hành trang trên lưng. Một lần trong cuộc hành hương, bọn cướp lấy bóp của ngài, hỏi ngài còn tiền không. Vị thánh trả lời ngài chỉ có bấy nhiêu, bọn cướp cho ngài đi.
Đi được một quãng xa, ngài nhớ ra mấy miếng vàng giấu trong gấu áo. Ngài vội vàng trở lại, đưa vàng cho bọn cướp, năn nỉ xin họ tha thứ cho ngài vì ngài đã nói dối họ.
Bọn cướp ngỡ ngàng, lặng thinh và lấy làm thích thú, bọn chúng trả lại cho ngài tất cả tiền nong đã lấy của ngài.
Hôm nay chúng ta tôn thờ Đức Kitô là Vua của chúng ta. Chúng ta nghe Chúa Kitô nói với Philatô: “Vương quyền của tôi không thuộc về trần gian”. Chúa Giêsu nhận rằng Người là Vua nhưng không phải là Vua của các Vua.
Người không phải là một nhà lãnh đạo chính trị hay quân sự. Người không phải là một ông vua giàu có, danh vọng và quyền thế. Vậy Người là loại vua nào? Vương quốc Người ở đâu? Vương quốc Người là gì? Bài kinh Tiền Tụng trong Thánh Lễ hôm nay trả lời các câu hỏi ấy.
“Người hiến thân trên thập giá… Người đã hoàn thành mầu nhiệm cứu chuộc nhân loại… Người đã quy phục mọi loài dưới quyền bính mình và đặt dưới uy quyền vô hạn của Chúa. Một vương quốc sự thật và sự sống, một vương quốc thánh thiện và ân sủng, một vương quốc công bình, tình thương và hòa bình”.
Mỗi lần chúng ta hành động vì những điều quý giá này: Chân lý, sự sống, sự thánh thiện, ân sủng, sự công bình, tình thương và hòa bình, là chúng ta hành động cho Chúa Kitô, làm cho Chúa Kitô là Vua của chúng ta.
* Sự thật: Như Thánh Gioan Cantio, bạn hãy nói sự thật dù phải trả bằng mọi giá và bạn phục vụ Chúa Kitô –Vua sự thật.
* Sự sống: Chúa Kitô đến để chúng ta được sống, những kẻ theo Chúa phải phát triển sự sống. Thí dụ: Bạn hãy làm mọi cái có thể, để ngăn ngừa sát hại hàng triệu em bé vô tội vì phá thai.
* Thánh thiện và ân sủng: Mọi cái chúng ta làm đều gia tăng sự sống của Chúa trong chúng ta. Thí dụ: Tham dự Thánh Lễ này là một việc phục vụ Chúa Kitô, nguồn mạch sự thánh thiện.
* Công bình: Khi chúng ta cố gắng khiêm nhường đối với Chúa, với người lối xóm và với chúng ta. Chúng ta bỏ phiếu bầu Chúa Kitô là Vua, làm nhà lãnh đạo chúng ta.
* Tình yêu: Mỗi lần chúng ta cố gắng làm đẹp lòng Chúa, giúp đỡ anh em chúng ta minh chứng dấu chỉ đặc biệt việc phục tùng Chúa Kitô là Vua.
* Hòa bình: Bạn hãy cố gắng xây dựng hòa bình mọi nơi và bạn chứng tỏ rằng bạn thuộc về vương quốc hòa bình của Chúa Kitô. “Nước Cha trị đến” chúng ta cầu nguyện trong kinh Lạy Cha. Trong ngày lễ Chúa Kitô là Vua, chúng ta thề hứa phát triển trong đời sống cá nhân và cộng đoàn, đặc tính thâm sâu và thiêng liêng này để thực sự nhận Chúa Kitô là Vua.
Xin Chúa chúc lành bạn.
50. Tôi là Vua – Noel Quesson.
Đức Hồng Y Deschamps, Tổng Giám Mục Malines, khi còn trẻ đã chứng kiến cuộc đăng quang của vua Bỉ. Từ cửa sổ một cao ốc, Deschamps đứng xem, cuộc lễ diễn ra, rồi cuộc diễn hành trang trọng của hoàng gia và đoàn tùy tùng. Sau khi mọi việc đã hoàn tất, các nẻo đường phố trở lại bình thường như mọi ngày, chàng trai mỉm cười nói: Thế là một vị vua đã đi qua. Rồi nhờ ơn Chúa chàng suy nghĩ tiếp: Tôi không muốn phục vụ cho một vị vua sẽ qua đi. Tôi muốn một vị vua ở mãi với tôi. Và chàng nghĩ tới Đức Kitô, chàng từ bỏ địa vị đầy hứa hẹn và trở thành một tu sĩ, một linh mục và một niên trưởng Giáo Hội nước Bỉ.
Chúa Giêsu đã nhận mình là Vua, lời tuyên bố của Chúa được thốt lên ngay trong vụ án người ta đang xét xử Chúa. Chúa bị tố cáo vì xưng mình là Vua. Khi Philatô hỏi Chúa: Ông có phải là Vua không? Thì Chúa lại quả quyết Người thực là Vua. Danh hiệu Vua có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác biệt.
Trước hết, một vị Vua theo quan điểm chính trị giống như Hoàng đế La Mã. Ông tìm cách thống trị và đòi người ta làm nô lệ cho mình. Còn một vị Vua theo quan điểm Đấng Thiên Sai mà người Do Thái trông chờ, đó là người kế vị ngai tòa Đavid. Người sẽ chiến thắng quân thù và giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc.
Còn khi Chúa Giêsu nói với Philatô: Tôi là Vua, thì chức vị Vua ở đây lại hoàn toàn khác biệt. Chúa là Vua mà không hề bó buộc ai theo mình, một vị Vua để người ta bắt nộp mà không chống cự, không có quân đội, không có vũ khí. Một vương quốc như vậy làm ngạc nhiên các chính trị gia và các người chỉ huy quân sự.
Chúa Giêsu không phải một người yếu đuối, Chúa đã từng xua đuổi ma quỷ, đã triệt hạ khổ đau bệnh tật. Người đã lên tiếng nạt sóng gió và khiến bão tố im lặng. Người đã cải tổ Luật Do Thái với tư thế quyền uy. Tuy Người là Chúa và là Thày chúng ta mà vẫn để chúng ta hoàn toàn tự do.
Chúa Giêsu thực là Thiên Chúa: “Ai thấy Ta là thấy Cha”. Chúa đến để thiết lập một vương quốc nhưng đó là một vương quốc Thiên Chúa. Một vương quốc giấu ẩn như hạt cải nhỏ xíu nhưng rồi sẽ phát dậy men… như hạt lúa mì mục nát trong đất và đem lại mùa màng tốt đẹp. Chúa Giêsu là Vua, nhưng là Vua theo kiểu Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải một Thiên Chúa cai trị như Thánh Vịnh ca tụng (Tv 46,9; 54,20; 58,14; 92,1; 96,1). Chúa dạy ta cầu nguyện hàng ngày cho “Nước Chúa trị đến”. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ thù, không ép buộc con người tin theo. “Người cho mặt trời soi chiếu cho người công chính và kẻ bất lương, cho người vô thần cũng như cho các tín hữu” (Mt 5,43-48). Thiên Chúa yêu những kẻ không yêu mến Người. Và Chúa đòi ta cũng hành động theo lối Người.
Philatô hỏi: “Vậy ông là Vua sao?”. Sau khi đã xác định cung cách làm Vua của Chúa khác với quan niệm người trần, Chúa công bố với Philatô: “Ông nói đúng, tôi sinh ra để làm Vua, để làm chứng cho chân lý”. Chúa làm Vua theo lối khác, Chúa không nói khác biệt thế nào nhưng sự kiện đã chứng tỏ. Người ta giết Chúa, Chúa vẫn cai trị, vẫn chiến thắng. Chúa bị treo trên thập giá là lúc Chúa đăng quang, là lúc Người lên ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.
Vậy ai là thần dân của Chúa? Chúa bảo: “Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Tôi”. Chúa cai trị những người nghe tiếng Chúa, những người tin thác vào Lời Chúa, tin hoặc không tin. Như vậy, cả nhân loại là công dân của Nước Chúa, không một ai có thể thoát khỏi quyền cai trị của Chúa.
Tôn kính Đức Kitô Vua, không phải là dâng hương, là cử hành nghi lễ tung hô… Nhưng trước hết là nghe tiếng Chúa, và điều chỉnh cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp, xã hội theo Lời Chúa.
Lạy Chúa là Vua Vũ Trụ, xin làm cho mọi người nhận biết quyền năng và tình thương của Chúa, để tất cả được trở nên công dân trong Nước Chúa. Nước yêu thương, an bình bất diệt. Amen.
51. Đức Giêsu là Vua ư? - Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Chính vì lẽ này mà tôi đã đến trong thế gian: ấy là để làm chứng cho chân lý. Phàm ai thuộc về chân lý thì nghe được tiếng tôi” (Ga 18:37).
Không ít người khi mới tìm hiểu về Kitô giáo, hoặc có dịp đọc qua một vài trang sách Phúc Âm, đã vội đưa ra vài nhận xét về Đức Giêsu như sau: Ngài không phải là một chính trị gia xuất chúng và cũng chẳng phải là một thương gia đại tài. Bởi vì những lời Ngài nói, những điều Ngài hứa hẹn không giống với các chính khách hay các nhà buôn thời nay tí nào. Thay vì lôi kéo quần chúng bằng những lời mời gọi hấp dẫn, có tính chất quyến rũ thị hiếu của người ta, để họ sẵn sàng đi theo ủng hộ, thì Đức Giêsu lại nói, “Ai muốn theo Ta, hãy chối bỏ chính mình, hãy vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24). Đã vậy rồi khi có người đi theo, Ngài lại phán thêm những câu mà mới nghe qua đã muốn bất mãn. Chẳng hạn như, “Ai không từ bỏ cha mẹ, anh em, vợ con và ngay cả mạng sống mình thì không xứng đáng làm môn đệ của Ta” (Lc 14:26); hoặc “Ta không đến để đem bình an, nhưng là gươm giáo” (Mt 10:34).
Thật là khác lạ! Thay vì hứa hẹn một cuộc sống sung túc nhẹ nhàng thoải mái, êm ấm bình an, thay vì cứ hoá bánh ra thật nhiều và hoá thường xuyên để nuôi dân chúng, và như thế thì làm gì mà họ chẳng theo, thậm chí còn ủng hộ, bỏ phiếu bầu mình làm thủ lãnh, chứ đàng này Ngài lại dạy phải chịu đau khổ, phải từ bỏ chính mình, phải nhân nhượng kẻ thù, hay nói cách khác là phải chịu mất mát thiệt thòi. Thế thì làm sao mà lôi kéo dân chúng được!
Khi suy luận như thế, tất nhiên sẽ có không ít người tin tưởng mình sẽ nắm chắc phần thắng khi đánh cuộc nếu Đức Giêsu mà ra tranh cử, dù thời xưa hay thời nay, thế nào cũng bị loại ngay từ vòng đầu thôi. Nhất là khi họ thấy thân xác của Ngài bị đóng đinh thê thảm trên thập giá, kết thúc cuộc đời không một chút oai phong vinh quang, thì chẳng mấy ai dám khẳng định Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Vua dân Do thái, hay là Chúa của muôn dân. Có chăng chỉ là một sự nhạo báng!
Ấy thế mà kẻ bị đóng đinh ô nhục trên thập giá giữa những tên trộm cướp, người đã từng bị nhạo báng là vua, là Mêsia, lại thật sự là Đức Kitô, Vua của muôn muôn tỉ tâm hồn.
Sẽ có người ngạc nhiên nêu vấn đề: Tại sao nghịch lý thế? Do đâu mà một tử tội lại được người ta bước theo đông đảo như vậy? Phải chăng vì người đó chính là chân lý-phải chăng vì người đó đã đến để giải thoát nhân loại bằng chân lý, và nay lại dám hiến mình chịu chết cho chân lý?
Nhưng “chân lý là gì”? Câu hỏi không cần câu trả lời của Philatô lại là đề tài suy tư của nhiều thế hệ. Chân lý đó chính là Thiên Chúa yêu thương con người. Bất cứ ai tin nhận chân lý này sẽ tìm thấy cho mình một sức sống phong phú, một niềm vui linh thiêng tràn đầy, nhất là sẽ múc được hồng ân cứu thoát, dù rằng người đó có đang quằn quại trong nỗi đau của thân xác như người trộm lành bị đóng đinh bên cạnh Chúa Giêsu.
Trong nỗi đau đớn tột cùng trước những hình khổ do quân Roma bày ra, anh trộm lành đã nhận chân con người của Đức Giêsu. Anh Đã bênh vực cho Ngài khi lên tiếng: “Ông này đâu có làm điều gì sai trái” (Lc 23:41). Nói cách khác, anh đã thừa nhận Đức Giêsu đã làm điều đúng. Ngài chỉ làm theo sự thật, đã sống cho chân lý yêu thương con người, và nay ngài chết cũng vì chân lý yêu thương đó.
Từ chỗ tin nhận và bênh vực sự vô tội của Đức Kitô, anh trộm lành đã khám phá ra vương quyền và thiên tính của Ngài. Kết quả, anh đã lên tiếng khẩn cầu: “Khi nào về Nước, xin Ngài nhớ đến tôi” (Lc 23:42).
Lạ quá! Làm sao trước một thân xác rã rời với đinh sắt, máu me thế kia mà anh ta có thể cất lên được lời kêu nài như thế là lời thỉnh cầu trước một quốc vương? Làm sao trước hình hài của một kẻ đang chịu đau khổ chẳng thua kém gì anh ta thế kia mà anh lại đem lòng thần phục như đối với một vị vua uy quyền như vậy? Câu trả lời sẽ là: Chân Lý đã gặp gỡ anh và anh đã tin nhận Chân Lý. Đức Kitô gặp anh và anh đã tin phục Ngài. Chính sự tin phục cùng tin nhận này mà ơn cứu độ, phần thưởng của sự sống linh thiêng được trao ban cho anh ngay trong ngày đó.
Đã có rất nhiều người gặp Đức Giêsu, nhưng không phải tất cả đều nhận ra Ngài là Chân Lý, là Vua của tâm hồn, là Chúa của yêu thương. Philatô đã gặp Đức Giêsu đấy chứ, nhưng lòng ham mê quyền hành đã che khuất chân lý; những người luật sĩ biệt phái đã thấy Đức Giêsu đấy chứ, nhưng những ghen tương đố kị, những mưu cầu ảnh hưởng cá nhân đã làm lu mờ khuôn mặt của chân lý; rất nhiều người trong đám đông dân chúng Do thái về dự lễ Vượt qua ngày xưa đã thấy Đức Giêsu đấy chứ, nhưng chỉ vì thích hùa theo tính bạo động của đám đông, bất chấp chuyện đúng sai, bất chấp kẻ vô tội là Giêsu hay là Baraba. Thế nên, cuối cùng Chân Lý đã bị họ đóng đinh.
Trong tuần cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội muốn đặc biệt nhắc nhở với mọi người tín hữu về gương mặt của Chúa Giêsu Vua, gương mặt của chân lý yêu thương con người-chân lý duy nhất mang lại hạnh phúc và niềm vui tâm hồn. Thử hỏi chân lý yêu thương đó có ngự trị tâm hồn của tôi chưa? Tôi đã dám bước trên những gì là quyền hành, dù đó là quyền hành của một người cha, người chồng, hay người chủ, tôi có dám vượt thoát những gì là ghen tương đố kị, lợi ích riêng tư, tôi có can đảm chế ngự những bạo động của dục tình hay nóng giận để làm cho hình ảnh của chân lý yêu thương là Vua Giêsu được bừng sáng hơn trong gia đình và cộng đoàn tôi không?
Xét lại chính mình nhân ngày cuối năm phụng vụ để xác định thái độ tin phục và suy tôn cần có đối với Vua Giêsu, hầu sự bình an và niềm hạnh phúc thiên đàng mà Ngài đã tặng ban cho người trộm lành xưa, cũng chiếm ngự tâm hồn, gia đình, và cộng đoàn chúng ta.
52. Thuộc về Chúa.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã xác quyết: Phải, Ta là vua, nhưng Nước Ta không thuộc về thế gian này. Đúng thế, nhìn vào xã hội ngày hôm nay, chúng ta sẽ thấy Nước Chúa không có một thế lực chính trị, không có một sức mạnh quân sự nào cả. Nước Chúa không có xe tăng và đại pháo, mà chỉ có các linh hồn. Nước Ngài là nước thiêng liêng triển nở trong cõi lòng chúng ta. Và như vậy, Ngài là vua của tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên một khi đã tuyên xưng Ngài là vua, thì điều quan trọng, đó là chúng ta phải thuộc về Ngài. Thế nhưng, chúng ta phải thuộc về Ngài như thế nào?
Chúng ta không thuộc về Chúa bằng cách chỉ có tên trong sổ Rửa tội, bằng cách chỉ mang danh hiệu là người Kitô hữu, nhưng chúng ta phải thuộc về Ngài bằng chính đời sống kitô hữu của chúng ta. Đây quả thực là một điều cay đắng và chua xót, bởi vì: xét theo tên gọi, thì nhiều người Kitô hữu đã thuộc về Ngài, nhưng xét theo đời sống, thì họ lại chối bỏ Ngài. Họ tới nhà thờ ba lần trong đời. Lần thứ nhất đễ lạnh nhận bí tích Rửa Tội, lần thứ hai để cử hành bí tích Hôn Phối và lần thứ ba để ra đi đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Mặc dù tin Chúa, nhưng họ lại chẳng bao giờ sống niềm tin của mình. Họ chấp nhận Đức Kitô là vua, nhưng lại chẳng bao giờ tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, khiến anh em lương dân đã phải thốt lên: Đi đạo thì tin đạo, chứ đừng tin kẻ có đạo. Họ chỉ là một thứ Kitô hữu “dổm”, hữu danh vô thực mà thôi. Họ giống như mồ mả bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, hay ốp lát cẩm thạch hay đá quí, nhưng bên trong thì lại chất chứa đủ mọi thứ giòi bọ và xú khí. Đức tin của họ chỉ là như một bộ quần áo đẹp, mặc vào để tới nhà thờ, rồi sau đó thì cởi ra và treo và tủ. Họ chỉ giữ đạo ở trong nhà thờ mà chẳng sống đạo giữ lòng cuộc đời. Tại nhà thờ họ là những con chiên ngoan, nhưng bước xuống cuộc đời họ bỗng hóa kiếp thành một loài lang sói, cũng gian tham, cũng độc ác… Với chúng ta thì khác. Giữa một xã hội chối bỏ Thiên Chúa để chạy theo vật chất và hưởng thụ, thì những người Kitô hữu, bằng một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, phải trở nên chứng nhân cho Tin mừng tình yêu của Đức Kitô, phải trở nên nắm men làm cho cả đấu bột xã hội dậy men đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, phải trở nên muối mặn ướp cho một môi trường khỏi ươn thối, phải trở nên ánh sáng chiếu trong một thế giới bị phủ đầy bóng tối. Tất cả những điều ấy muốn nói lên rằng mỗi người chúng ta cần phải có một đức tin sống động, thì mới có thể cẳm hóa được thế giới ngày nay, một thế giới đang xa lìa khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống này, không thiếu gì những người vỗ ngực tự xưng là đạo gốc, là đạo dòng, nhưng lại thiếu mất một đức tin sống động. Họ nói: Nếu tôi không có đức tin, thì tôi chẳng cần phải ăn ngay ở lành, chẳng cần phải để ý tới linh hồn làm chi? Với chúng ta thì khác, nếu chúng ta có một đức tin sống động, thì liệu chúng ta có thể bỏ bê linh hồn, trốn tránh việc đi xưng tội và lười biếng việc rước lễ được hay không? Chắc chắn là không.
Nếu kiểm điểm lại đời sống và tự vấn lương tâm, có lẽ chúng ta phải đấm ngực mình mà rằng: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng… Bởi vì chúng ta mới chỉ là những người Kitô hữu trong sổ sách, những người Kitô hữu trên môi trên miệng, chứ chưa thực sự là những người Kitô hữu trong việc làm, trong cuộc sống với một đức tin mạnh mẽ và nhiệt thành.Với lời nói, chúng ta là những người Kitô hữu, nhưng với việc làm chúng ta lại là những kẻ ngoại đạo. Với miệng lưỡi, chúng ta là những người có đạo, nhưng với đời sống, chúng ta lại là những kẻ vô đạo. Với ngôn ngữ, chúng ta là những người tin Chúa, nhưng với tư cách chứng nhân, chúng ta lại là những kẻ chối bỏ Chúa, đúng như tục ngữ đã diễn tả: Khẩu Phật tâm xà. Miệng Na mô, bụng bồ dao găm. Đức Kitô là vua cõi lòng chúng ta. Vì thế, chúng ta phải nói, phải làm và phải sống thế nào để trói cả cuộc đời chúng ta là một lời tuyên xưng vương quyền của Ngài và bản thân chúng ta xứng đáng mang danh hiệu là công dân Nước Trời.
53. Vua vĩnh cửu.
Trong một ngày lễ Chúa Kitô Vua, chúng tôi đã mời gọi dân chúng ở Tagalog tôn vinh Chúa Giêsu bằng những tiếng chúc tụng và ca khen “Chúa Kitô muôn năm”. Khi tung hô ai như vậy, chúng ta muốn nói rằng tôi ước ao cho ngài được trường thọ. Đó vừa là lời chúc mừng vừa là lời hoan hô đầy phấn khích, là một lời kêu cầu và cũng là một cử hành tôn vinh chính sự sống.
Khi chúng ta nói: “Chúa Kitô muôn năm”, chúng ta dùng câu đó như một lời khẩn cầu, một lời kính tôn đối với Đức Vua nhân từ của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng diễn tả trong câu đó một lời tán dương đối với Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng diễn tả một nỗi khát vọng, mong ước Chúa đến và sống mãi mãi trong tâm hồn chúng ta cũng như trong tâm hồn mọi người tin vào Chúa.
Thầy Brian Morton có kể lại câu chuyện sau đây:
“Một nữ tu trẻ khởi sự ngày đầu tiên làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sơ rất lo lắng. Sơ thấy những người hấp hối nằm trên các giường bệnh. Sơ thấy các sơ khác đang đi từ giường này sang giường khác, rót nước ở chỗ này, phát thuốc ở chỗ kia.
Bất thình lình Mẹ Têrêxa đến bên sơ, mỉm cười và nói: “Này chị, đến với tôi. Tôi muốn chị gặp một người”. Nữ tu trẻ đi theo Mẹ Têrêxa. Chẳng mấy chốc họ đến bên một cái giường nằm ở góc xa nhất của khu nhà. Nằm trên giường là một ông lão gầy giơ xương. Đôi mắt của ông sâu hoắm. Đầu ông cao trọc. Ông chỉ còn một cái răng duy nhất trong miệng.
Mẹ Têrêxa ôm khuôn mặt của ông lão trong đôi bàn tay của mình và quì xuống bên giường. Mẹ gọi người nữ tu trẻ tuổi: “Chị Anna, tôi muốn chị gặp Chúa Giêsu”.
Chúng ta cần mời gọi Chúa Kitô đến cư ngụ trong chúng ta để những qui tắc, lối sống của Người trở thành qui tắc vào lối sống của chúng ta. Chúng ta cần Người đến sống trong và với chúng ta để chúng ta hành động, ứng xử như Người. Chúa Kitô đang sống trong mỗi người chúng ta. Và chúng ta phải để cho Chúa hướng dẫn chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong những người chung quanh chúng ta.
Chúa Kitô muôn năm! Xin Chúa sống mãi mãi trong tâm hồn chúng con.
54. Vạn tuế Vua Giêsu.
Cách đây hai ngàn năm, nước Do Thái, một tiểu quốc bên bờ Địa Trung Hải, đã ngậm đắng nuốt cay, sống dưới chế độ hà khắc của đế quốc Rôma. Tại Galilê, miền bắc Do Thái, những người đế quốc đã đặt Hêrôđê, một con người vô lương tâm làm vua, để tận diệt vương tộc Đavid, còn ở Giuđê, miền nam Do Thái, Rôma trực tiếp đô hộ, dưới sự thống trị của tổng trấn Philatô và quân đội của ông. Cũng như trong các nước bị chiếm đóng, đô hộ, người Do Thái thời bấy giờ chia ra nhiều phe đảng chống đối nhau và kình địch nhau, cụ thể là hai đảng Sađốc và Pharisêu. Đảng Sađốc thì cộng tác với quân đội chiếm đóng, ngược lại, đảng Pharisêu tha thiết với nền độc lập quốc gia, họ sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ tổ quốc và đẩy lui đế quốc, họ luôn nhắc nhở cho dân chúng niềm hy vọng ngày giải phóng mà Thiên Chúa đã hứa.
Trong khi đất nước đang bị phân hóa như vậy thì Chúa Giêsu xuất hiện với những quyền lực vô song, Ngài đã làm những việc mà không ai có thể làm được. Trước những sự kiện đó, người Do Thái hồ hởi phấn khởi tin chắc Ngài là vị cứu tinh Thiên Chúa gửi đến và ngày giải phóng đã gần. Vì thế, ngày lễ lá, dân chúng rầm rộ đón rước Chúa vào thành đô như một vị đại tướng thắng trận trở về lên ngôi. Họ lũ lượt kéo nhau đi như biểu tình, miệng ca hát: “Vạn tuế con vua Đavid”. Như vậy, dân chúng đã nhận ra Ngài là vị vua Thiên Sai khiêm tốn, ngồi trên lưng lừa, đúng như ngôn sứ Dacaria đã loan báo năm thế kỷ trước. Họ reo vang hô lớn: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, Người chính là vua”. Hôm ấy Chúa Giêsu không cải chính, cứ để họ tiếp tục tung hô như vậy. Nhưng dân Do Thái đã thất vọng, vì Chúa Giêsu từ chối vương quyền họ trao cho Ngài, từ chối việc giải phóng dân Do Thái khỏi ách đô hộ của Rôma. Ngài tuyên bố Ngài là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, là vị cứu tinh, là Vua Do Thái, nhưng không như người Do Thái quan niệm. Thời giờ đã điểm, Ngài không còn giấu diếm như trước nữa, Ngài công khai chấp nhận và tuyên bố Ngài là Đấng Cứu Thế. Thế là việc gì phải đến đã đến: ngày thứ Năm, cũng trong tuần lễ đó, chính những người đã reo mừng tung hô Ngài trước đây, bây giờ lại xuống đường biểu tình, điệu Ngài đến nhà cầm quyền để tố cáo giết Ngài. Họ điệu Ngài đến tổng trấn Philatô, Philatô ra gặp họ, Chúa Giêsu và Philatô đối diện nhau. Philatô quay về phía đám đông đang gào thét và hỏi họ: “Các ngươi tố cáo người này về tội gì?”. Nếu họ tố cáo Chúa là đã nói xúc phạm vì tự xưng là Thiên Chúa, thì Philatô chỉ mỉm cười bỏ qua, nhưng lời tố cáo của họ là “Chúa đã xúi giục dân nổi loạn, cấm nộp thuế cho Xêda, và tự xưng mình là vua”. Nghe vậy, Philatô hỏi Chúa: “Ông là vua à?”. Chúa trả lời: “Ông nói đúng, tôi là vua”. Nhưng Ngài nói thêm ngay: “Vương quyền của tôi không đến từ thế gian này”, vương quyền ấy chủ yếu hệ tại ở việc “làm chứng cho sự thật”. Đây là điều Philatô không thể nào hiểu được.
Đúng vậy, Chúa Giêsu không phải là vua Do Thái theo nghĩa chính trị để tranh giành quyền thế với hoàng đế Xêda, Ngài là vua theo nghĩa Ngài là Đấng chăn chiên dẫn người ta vào sự thật của Thiên Chúa, Ngài đến làm chứng cho sự thật, ai thuộc về Ngài thì nghe tiếng Ngài, Ngài là vua thật, vì Ngài dẫn người ta đến sự sống thật. Nói khác đi, Chúa Giêsu đến trần gian không phải với sứ mạng giải phóng dân Do Thái và nhân loại khỏi ách nô lệ của đế quốc, Ngài cũng không đến để giải thoát chúng ta khỏi đói khát và chiến tranh. Tất cả sứ mạng của Ngài là giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi. Vì thế, Chúa Giêsu đã đi vào tận đáy thân phận con người để bộc lộ vương quyền thật của Ngài, Ngài chỉ muốn cai trị tâm hồn người ta. Do đó, tất cả những ai muốn được giải thoát khỏi tội lỗi, tin theo Ngài và sống theo những lời Ngài dạy, họ sẽ là thần dân của Ngài và được hội nhập vào nước của Ngài.
Trong thời đại này, chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là vua vẫn là một điều hợp thời, hợp tình, hợp lý. Vấn đề là chúng ta hiểu đúng nội dung và bản chất vương quyền của Chúa. Ngài đến trần gian để làm chứng cho sự thật và đưa chúng ta vào sự thật. Sự thật đây là ơn cứu rỗi và hạnh phúc. Như vậy, tất cả chúng ta hãy cùng nhau vung tay lên hô lớn: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua” như người đàn bà trong câu truyện sau: Đức giám mục thành Pam-lo-ra kể lại rằng: người ta mới mang về đây thi thể của một chiến sĩ đã chết vì Chúa và vì tổ quốc. Một quả lựu đạn nổ tung làm cho xác người chiến sĩ đó nát bấy, các bạn bè nhận ra xác đó nên đem về chôn cất tử tế, trước khi chôn, bà mẹ của người chiến sĩ đó xin mở quan tài ra, bà ta có một người con đầu lòng cũng chết như vậy, khi mở quan tài ra, bà chỉ thấy có một đống thịt nát và một cánh tay còn nguyên, bà cầm cánh tay đó đưa lên cao và nói: “Anh con trước khi chết đã kêu lên: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua”, nếu con chết mà chưa kịp kêu lên như vậy, thì bây giờ con hãy kêu lên với mẹ”. Nói xong, bà giơ cánh tay con mình lên và hô ba lần: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua”.
Xin Chúa cho chúng ta, dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn luôn xác tín Chúa Kitô là vua, Ngài luôn quan tâm đến chúng ta là những thần dân yêu quý của Ngài, Ngài sẽ trợ giúp chúng ta luôn đi trong sự thật và sống trong sự thật của Ngài, với điều kiện chúng ta phải luôn tin Ngài và đặt Ngài làm vua tâm hồn và cuộc đời chúng ta.
Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự thật ấy. Có lẽ chúng ta phải thú nhận: chúng ta chưa sống, chưa rao giảng, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ. Bởi vì cuộc sống đầu tắt mặt tối, đầy lo toan, vất vả, bon chen dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn độc địa, thô bỉ nữa… Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện… có lẽ sẽ bị đánh giá là không giống ai, là người lội ngược dòng nước, nhưng chính việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại là cách làm chứng cho Chúa, làm chứng cho sự thật có ý nghĩa và giá trị nhất.
55. Vương quyền tình yêu – Lm. Hồng Phúc.
“Ta là Vua...”
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua đạo đức tên là Canut III. Ông là vua của một cường quốc, nên xung quanh ông hay có những quan nịnh thần ton hót. Một hôm trong một buổi triều yết, các nịnh thần tâu: “Thánh Thượng” là vua trên hết các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và trên biển cả. Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, liền mời tất cả đi ra ngoài biển. Đứng trước đại dương, ông tuyên bố: Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được trờ tới. Nhưng nước vẫn dâng lên, sóng vẫn trờ tới làm ướt áo cẩm bào của vua cũng như triều thần. Nhà vua đi vào trong một thánh đường đến trước tượng chuộc tội, lấy chiếc vương miện đội lên đầu Chúa và nói: “Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các Vua, là Chúa trên hết các Chúa”.
Hôm nay, Giáo hội kêu mời chúng ta tôn vinh và nhìn nhận Chúa là Vua, Vua cá nhân, gia đình và xã hội. Giáo hội chọn ngày Chúa nhật sau hết của năm Phụng vụ, để tôn vinh Chúa, như chóp đỉnh của vũ trụ. Trong cả năm, chúng ta mừng các mầu nhiệm về Chúa, mừng sự toàn thắng của các thánh. Nhưng khi chúng ta ca ngợi sự toàn thắng của các Thánh là chúng ta ca ngợi sự toàn thắng của Chúa nơi các Thánh. Nên để kết thúc năm Phụng vụ, Giáo hội mời chúng ta hướng về Chúa Giêsu là trung tâm của vũ trụ, là Đấng Thánh, Đấng qui tụ vạn vật để trao lại cho Đức Chúa Cha: “Mọi sự đã nhờ Ngài mà có và không Ngài thì không gì đã thành sự” (Ga 1,3). Ngài là Vua vũ trụ.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã xác định: “Ta là Vua”. Ngài là Vua vì Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng tạo thành vạn vật. Ngài là Vua vì đã chiến thắng tội lỗi và ma quỉ, nhờ sự chết và sự sống lại vinh quang. Nhưng Ngài tuyên bố rõ ràng: Nước Ngài không phải ở trần gian này. Vương quyền của Ngài không dựa trên vũ khí thế lực. Vương quyền của Ngài dựa trên tình yêu. Bao nhiêu vua chúa, bao nhiêu triều đại vang bóng một thời, rồi đi vào quên lãng và điêu tàn sụp đổ. Còn Ngài, Ngài vẫn chiến thắng, vẫn hiển trị trên các tâm hồn. Không ai đòi hỏi như Ngài dám đòi hỏi, nhưng cũng không ai được yêu mến như Ngài được yêu mến. Chúa là Vua các Thánh Đồng Trinh, là Vua các Thánh Tử Đạo, là Vua mọi tâm hồn.
Đấng là Vua vinh hiển ấy, tiên tri Danien đã nhìn thấy “như Con Người đến trong đám mây trời... quyền năng vĩnh cửu” (Dan 7,13), và Gioan, cụ già trên đảo Patmos đã được thị kiến: “Đấng là Alpha và Ômêga là nguyên thủy, là cùng tận, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Đấng là Thiên Chúa” (Kh 1,8). “Ngài làm cho chúng ta thành một vương quốc tư tế, để phụng sự Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa và Cha của Ngài”.
Christus Vincit: Chúa Kitô toàn thắng.
Christus Regnat: Chúa Kitô cai quản.
Christus Imperat: Chúa Kitô thống trị muôn đời. Amen.
56. Hoàng tử và người nghèo.
Mark Twain viết trong cuốn “The Prince and the pauper, Hoàng tử và người nghèo” về hai người con trai sinh ra tại Anh quốc. Người con trai thứ nhất thì được sinh ra trong hoàng gia và trở nên Hoàng Tử Wales. Sự chào đời của Hoàng Tử được diễn tả: “Anh quốc đã chờ đợi, hy vọng, và cầu nguyện cho ông ấy, và bây giờ thì ông ấy đã chào đời. Tất cả mọi người đều vui mừng... Mọi người giàu cũng như nghèo đều nghỉ lễ ca hát tưng bừng.”
Cùng ngày đó, một cậu bé trai khác tên là Tom Canty đã chào đời trong một gia đình nghèo túng và lụp xụp tại London: “Nó là một đứa bé mà không ai muốn.” Không một ai trông đợi sự ra đời của nó. Không một ai hy vọng hoặc cầu nguyện cho nó. Khi nó chào đời thì không ai ca hát hoặc mừng rỡ cho nó.
Cả hai đều lớn lên trong hai hoàn cảnh khác nhau. Cả hai đều lớn lên với cái nhìn khác nhau về thế giới. Tuy nhiên, điều giống nhau giữa hai đứa bé đó là chúng đều lớn lên trong vui tươi, rạng rỡ, và hăng hái mà chúng ta có thể nhìn thấy ở nơi những đứa con trai khác.
Một ngày nọ, Tom Canty đứng ngoài cửa cung điện. Nó rất ngạc nhiên do sự huy hoàng của cung điện. Khi nó tiến đến gần cánh cửa để có thể nhìn cho rõ hơn thì bất chợt nó bị hai tên lính bắt nó và quăng xuống đất.
Cùng một lúc đó, vị hoàng tử trong cung nhìn thấy thảm cảnh của Tom liền chạy đến bênh đỡ. Sau đó, các tên lính canh rất ngạc nhiên khi họ nhìn thấy hoàng tử đã mời Tom vào trong cung điện để thăm quan.
Sau đó, hoàng tử nảy ra một ý kiến là tráo đổi cuộc sống của nhau. Hoàng tử thì mặc quần áo rách rưới của Tom, và đi thang lang qua các ngõ hẻm nghèo nàn với những người nghèo khổ. Còn Tom thì mang bộ đồ hoàng gia và vàng ròng.
Sau một thời gian, khi hoàng tử trở về hoàng cung thì bị lính chận lại. Khi hoàng tử cố gắng kể về thân phận thật sự của mình họ không tin và đã tóm cổ hoàng tử giam trong nhà tù.
Để rút ngắn câu truyện, khúc kết của câu truyện đó là mọi sự đều được sáng tỏ. Tuy nhiên, trong tiến trình đó, một điều quan trọng đã xảy ra. Sau cái lần đi vào những nơi nghèo khổ, hoàng tử đã học được bài học đầu tiên thế nào là sống nghèo khổ, thế nào là bị chà đạp, thế nào là bị đối xử bất công. Sau đó, hoàng tử đã được trở thành một ông vua. Một ông vua nhân từ và được nhiều người mến chuộng nhất trong suốt thời kỳ hoàng tộc nước Anh.
Câu truyện Hoàng Tử và Người Nghèo thì cũng giống như câu truyện về Chúa Giêsu và mỗi người chúng ta. Chúng ta những đứa trẻ nghèo khổ, còn Chúa Giêsu là hoàng tử, được tiền định là Vua của tất cả tạo vật.
Chúa Giêsu đã thay đổi chỗ của mình với chúng ta. Ngài thay đổi quần áo hoàng tộc thiên tính của mình để đổi lấy những áo quần rách rưới của thân phận con người chúng ta.
Giống như hoàng tử trong câu truyện của Mark Twain, Chúa Giêsu đã học được bài học thế nào là kiếp sống con người nghèo nàn và bị chà đạp.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu khác với hoàng tử là Ngài đã chịu chết trong tay loài người, sống lại từ cõi chết, và trở nên Vua các vua trên khắp vũ trụ.
Đây là một mầu nhiệm cao cả mà chúng ta mừng kính Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay. Chúng ta mừng kính Chúa Giêsu, Vua của toàn thể vũ trụ, thông hiểu được hoàn cảnh của chúng ta bởi vì Ngài đã trở thành một người trong chúng ta và cảm nghiệm được những gì mà chúng ta cảm nghiệm.
Lạy Chúa, chúng con suy tôn Chúa là Vua Vũ Trụ, Vua gia đình chúng con, Vua lòng chúng con.
57. Một giải pháp cho nền hòa bình thế giới -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử nầy lại thương yêu hoà hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng tên là Faroux, là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em là Faram.
Sau khi hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được.
Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về số phận của người kia.
* * *
Theo thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng.
Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất.
Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me, nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết!
Thế rồi đấu thủ cao người hơn lao tới như báo vồ mồi, vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt... rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt cóc.
Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người.
* * *
Hình ảnh hai anh em ruột thịt giao đấu với nhau một mất một còn trong câu chuyện trên đây là một minh hoạ cho tấn thảm kịch đau thương vẫn diễn ra hằng ngày giữa cộng đồng nhân loại. Ngay giờ đây, nhiều nơi trên thế giới cũng đang xảy ra những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn y như thế.
Chính ma quỷ thù nghịch với Thiên Chúa, cũng giống như ông vua Faroux độc ác kia, đã trùm lên con người lốt sư tử, lốt chó sói. “Người là chó sói của người - homo homini lupus”. Vì thế, con người không còn nhận ra nhau là anh em cùng loài; mà xem người khác như là kẻ thù cần tiêu diệt để dành lấy sự sống cho mình.
Đứng trước thảm cảnh đó, mọi cố gắng xây dựng hoà bình của con người, của các tổ chức quốc tế đều không thể dập tắt hận thù và chiến tranh.
Khi hai bên đã say máu chiến tranh, nếu có người tước súng đạn của họ đi, thì đôi bên sẽ chiến đấu với nhau bằng dao rựa, mã tấu... Nếu tịch thu dao rựa, mã tấu, thì đôi bên sẽ dùng gậy gộc gạch đá để huỷ diệt nhau; Có tịch thu hết gậy gộc gạch đá thì đôi bên có thể tấn công nhau bằng nắm đấm, dùng răng để cắn xé nhau...
Vậy phải làm thế nào để chấm dứt chiến tranh, tái lập hoà bình cho nhân loại?
Muốn làm cho đôi bên tự động ngưng chiến và làm hòa lại với nhau thì giải pháp tốt nhất không phải là tước bỏ khí giới mà là khai hoá cho đôi bên biết rằng: đối thủ của họ không là ai khác mà chính là người anh em ruột thịt con cùng một cha.
Chính Vua Giêsu đến thế gian để thực hiện điều đó. Ngài tuyên bố trước toà Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật”. Sự thật quan trọng nhất của Chúa Giêsu là soi sáng cho mọi người biết Thiên Chúa là Người Cha rất yêu thương và tất cả nhân loại là con cái của Ngài và là anh chị em ruột thịt với nhau. Với sự thật nầy, mặt nạ da thú đã bị tước bỏ đi, để lộ khuôn mặt rất thân thương của người anh em.
Mừng lễ Chúa Giêsu Vua, chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trên khắp thế giới được đón nhận sự thật cao đẹp do Chúa Giêsu mang đến. Chỉ có sự thật tuyệt vời nầy mới có thể giải thoát nhân loại khỏi hận thù chiến tranh, khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Chỉ có sự thật nầy mới là động cơ xây dựng thế giới trở thành một đại gia đình huynh đệ.
58. Vua lòng tin - Lm. Đam. Nguyễn Ngọc Long
Khi nói đến một vị vua chúa nào dù đã chết hay còn đang tại vị, chúng ta nghĩ ngay đến quyền lực, đến giầu sang, đền đài, nghi lễ sang trọng, đền đời sống vương giả... Chúng ta thường chỉ nghĩ đến như thế thôi. Vì đã được nghe qua, hoặc đọc trong sách báo hay xem truyền hình về đời sống của họ. Nào mấy người có được cơ hội trải qua cuộc sống thực sự trong cung điện vua chúa. Và đời sống của vua chúa thường đồng nghĩa với đời sống xa dân. Thần dân có bổn phận kính trọng và nghe lời họ. Họ có quyền hành gần như tuyệt đối cai trị người dân.
Hình ảnh này về vua chúa không những chỉ đúng cho ngày xưa - cách đây chừng trên dưới nữa thế kỷ thôi như Nhật Hoàng, Nga Hoàng, vua xứ Brunei, vua xứ Thái Lan, vua xứ Chùa Tháp Campuchia... - nhưng phần nào cũng còn đúng cho các vị vua chúa trong xã hội cộng hòa dân chủ ngày hôm nay.
Người công giáo tuyên xưng: Chúng tôi cũng có một Vua, nhưng Vua của chúng tôi là Vua-lòng-tin! Vậy Vua-lòng-tin của chúng ta thì thế nào? Chúng ta có thể biết được chút nào về đời sống Vua-lòng-tin không? Vua-lòng-tin của chúng ta sống gần con người hay cũng xa dân như các bậc vua chúa khác?
Chúng ta hát ca ngợi Vua-lòng-tin như thế này: “Ôi Giêsu, Chúa Giêsu là Vua. Chúa muôn thuở là Chúa. Nhưng lòng Chúa không bến bờ, tự hiến thân nơi bàn thờ!”
Như thế danh xưng Vua-lòng-tin của chúng ta là Giêsu. Vương quốc lâu đài của Vua-lòng-tin là tâm hồn con người. Vương quốc này không có biên giới bờ cõi và cũng không bị giới hạn vào một thời điểm nào. Nó trải rộng khắp nơi vào mọi thời gian. Nơi nào có người tuyên xưng niềm tin vào ngài là Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian khỏi vòng tội lỗi, nơi đó là vương quốc của ngài.
Còn cách thế cai trị của Vua-lòng-tin không dựa trên sức mạnh quyền lực, nhưng lấy tình yêu làm nền tảng. Chính vị vua này từng khẳng định: Thầy truyền cho chúng con giới luật mới, là các con thương yêu nhau (Gioan 13,34).
Và ngày sau cùng khi mọi người ra trước Vua để trả lời về đời sống việc làm của mình, ông không căn cứ vào thành tích đã đạt được, nhưng căn cứ vào tình yêu mà phân xử: Khi các con cứu giúp một người bé nhỏ lâm cảnh khốn cùng, đói rách, chính là các con làm cho ta. (Mátthêu 25,31-46)
Vị Vua này tự nhận: “Ta là người mục đồng tốt lành” (Gioan 10,11). Lời xác quyết này muốn nói lên: “Tôi quan tâm đến đời sống tâm hồn con người. Nỗi băn khoăn lo âu đè nặng tâm hồn họ, là băn khoăn của tôi. Tôi muốn giúp họ thoát khỏi gánh nặng này.”
Hình ảnh vị Vua mục đồng này nói lên lối sống của ông với thần dân: sống gần dân, cho dân và vì dân, như người mục đồng luôn đi sát đoàn vật chăm sóc chúng.
Ngai vàng của Ông là thánh giá gỗ, nơi ngài bị đóng đinh xử tử. Vương miện của ngài là vòng gai người ta chụp lên đầu khi bị điệu ra pháp trường.
Vua-lòng-tin của người công giáo đã bị xử tử đóng đinh trên thập giá, bị chôn vùi sâu dưới lòng đất, nhưng ông đã được Thiên Chúa cho sống lại. Ông sống trong trong tâm hồn những người tin theo ông. Ông hiện diện nơi bàn thờ, khi những người tin theo Ông cử hành thánh lễ, cử hành các bí tích, khi họ họp nhau đọc kinh ca hát cầu nguyện nhân danh Ông.
Vua-lòng-tin của người tín hữu công giáo là Vua tình yêu.
59. Phục vụ.
Thế nào là một ông vua?
Dưới chế độ quân chủ thì nhà vua là người nắm giữ mọi quyền hành trong một nước. Với quyền hành lớn lao như thế, nhà vua dễ trở thành độc tài, bắt thần dân phải cung phụng cho mình với nếp sống xa xỉ và phóng túng.
Ngày nay, mặc dù chế độ quân chủ đã cáo chung tại hầu hết các nước, thế nhưng người ta vẫn tiếp tục dùng danh từ vua để chỉ một người thành công vượt bực trong một phạm vi nào đó, chẳng hạn như vua bóng đá, vua dầu lửa, vua xe hơi, vua leo núi…
Những ông vua thần tượng này thường được quần chúng ngưỡng mộ vì tài năng, vì giàu có, nhưng lắm khi đời sống luân lý của họ lại khiến chúng ta phải vỡ mộng.
Đành rằng trong lịch sử có những bậc minh quân, thương dân như thương con. Thế nhưng, có nên gọi Đức Kitô là vua khi nhân loại đã bước qua thiên niên kỷ thứ ba hay không?
Lần kia, sau phép lạ bánh hóa nhiều, dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, để Ngài phất cờ giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc La mã, nhưng Ngài đã trốn lên núi một mình.
Còn đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, khi bị Philatô tra hỏi: - Vậy ông là vua ư?
Đức Kitô đã không từ chối và cũng chẳng xác nhận. Ngài chỉ bảo: - Chính quan nói rằng tôi là vua.
Thế nhưng rất nhiều lần Ngài đã đề cập đến nước Ngài. Nếu như chúng ta có gọi Ngài là vua, thì chắc chắn Ngài sẽ là một vị vua rất đặc biệt, không giống với bất kỳ vua chúa trần gian nào.
Thực vậy, sinh ra nơi máng cỏ Bêlem, hoạt động thì nay đây mai đó, không có lấy được một hòn đá tựa đầu và sau cùng chết đi trên thập giá. Và như thế Ngài là một vị vua không ngai vàng, không cung điện, không binh đội, không vương trượng. Quả thực Ngài là một vị vua không giống ai.
Nét đặc sắc của vương quyền nơi Ngài chính là tinh thần phục vụ:
- Con Người đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Nơi khác Ngài cũng xác quyết:
- Thày sống giữa anh em như kẻ hầu bàn.
Ngài làm vua bằng cách cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ. Và hành động phục vụ cao cả nhất chính là cái chết trên thập giá. Nhưng cũng chính nhờ cái chết này mà Ngài được tôn vinh:
- Ngày nào Thày bị treo lên khỏi đất, Thày sẽ kéo mọi sự lên cùng Thày.
Và thánh Phaolô đã xác quyết:
- Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài lên, tặng ban một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Với chúng ta thì sao? Một khi tuyên xưng Đức Kitô là vua, chúng ta cũng phải thực thi tinh thần phục vụ của Ngài. Đây cũng chính là điều Ngài mong muốn:
- Nếu các con gọi Ta là Thày và là Chúa mà Ta còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Nơi khác Ngài cũng xác quyết:
- Vua chúa trần gian thì lấy quyền hành mà thống trị họ. Còn các con thì không như thế, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho mọi người.
Chính nhờ tinh thần phục vụ này mà chúng ta trở nên ánh sáng, trở nên muối mặn, trở nên men bột, hầu góp phần làm cho nước Chúa được trị đến.
60. Chân Lý – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Đaniel đã ngắm nhìn thị kiến về vương quốc vĩnh cửu. Vị Bô Lão ban cho Con Người quyền năng, vinh dự và vương quốc. Mọi dân tộc sẽ qui tụ về để phụng sự Ngài. Đây là thị kiến về ngày cánh chung. Không ai biết được ngày giờ kết cùng của thế giới. Khi chúng ta có mặt ở đời, mọi sự đã có đó và luôn chuyển động. Con người được thông dự sự sống với muôn loài và muôn vật. Con người là loài cao quí được Thiên Chúa ban cho có hồn có xác. Xác hồn kết hợp để hoàn thành sứ mệnh được trao ban.Chúng ta hiện hữu trên trần gian một khoảnh khắc thời gian rồi lại trở về cát bụi. Tuy cuộc đời của chúng ta ngắn ngủi phù du, thân xác sẽ tan biến nhưng linh hồn sẽ hiện hữu đến muôn đời. Mọi sinh hoạt trong cuộc lữ hành trần thế sẽ dẫn bước chúng ta về chung hưởng hạnh phúc bên Đấng quyền năng trong vương quốc của Ngài.
Sách Khải Huyền của thánh Gioan cũng diễn tả về hình ảnh của ngày cánh chung. Chúa Giêsu Kitô là thủ lãnh của các vua, Vua các vua và là Đấng yêu thương đã hiến mình rửa sạch tội lỗi của chúng ta. Ngài là trưởng tử những kẻ đã an giấc, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha: Ngài là Thiên Chúa, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Chúng ta đặt niềm tin vào những lời mạc khải của Con Thiên Chúa. Con người chúng ta bị giới hạn mọi mặt và tâm trí không hiểu thấu những sự cao siêu. Ngay trong vũ trụ vật chất hiện hữu chung quanh, con người cũng chỉ mới khám phá một chút ven bìa giới hạn của một số nhỏ hành tinh. Tâm trí và giác quan của con người đắm chìm thưởng ngắm vũ trụ bao la để nhận ra sự cao siêu vô lường của Tạo Hóa. Chúng ta chẳng biết đâu là bến bờ. Thánh Gioan đã diễn tả về sự vô thủy vô chung của vũ trụ qua Đấng Toàn Năng phán: Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thủy và cứu cánh (Kh 1, 8).
Kinh Thánh mạc khải giúp chúng ta hiểu được nguồn gốc của vũ trụ và sự sống. Với những suy tư tìm tòi của con người qua mọi thời đại, nhân loại vẫn còn lần mò trong đêm tối của vô minh. Những suy tư triết học, thần học và khoa học chỉ trả lời một cách rất khiêm tốn về sự hiện hữu của vũ trụ và muôn loài. Có nhiều giả thuyết tìm cách giải thích sự có mặt của vũ trụ theo thuyết Tiến hóa, Ngẫu nhiên hoặc Tự nhiên hình thành. Các khoa học không thể giải đáp một cách thỏa đáng cho những khao khát của tri thức con người muốn tìm hiểu về cội nguồn. Trí khôn của con người không vượt qua được biên giới của sự hiện hữu và chung cục. Kinh Thánh mạc khải cho chúng ta về nguồn gốc và cứu cánh của vũ trụ và con người. Đây là một chân lý cao siêu mà Chúa Giêsu đã làm chứng.
Đứng trước tòa án của Philatô, Chúa Giêsu đã phát biểu một cách công khai: Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là chỉ để làm chứng cho Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tôi (Ga 18, 37). Lời của Chúa Giêsu là thần trí và là sự sống. Ngài đến thế gian để làm chứng cho chân lý. Chân lý là sự thật. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Sự thật nằm trong tâm thiện. Lời sự thật là không quanh co, giả dối, lừa lọc, dối trá hay gian manh. Đôi khi nói sự thật thì mất lòng nhưng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc bất công. Chúa Giêsu nói rằng ai thuộc về chân lý thì nghe lời Ngài dạy. Chúng ta đã nhận lãnh Bí tích Rửa Tội để trở nên chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta thuộc về Chúa, như thế chúng ta cũng thuộc về chân lý. Thuộc về chân lý thì phải suy nghĩ sự thật, phát biểu sự thật và hành động trong sự thật.
Chúa Giêsu nhìn sự thật trong tận đáy tâm hồn mỗi người. Con người thì thích phô trương và xuất hiện bên ngoài để kéo chú ý của người khác. Giống như các mặt hàng cần quảng cáo ra thị trường, các tiếp viên đã tô điểm bên ngoài, làm đẹp, chào hàng hấp dẫn để kéo lôi khách hàng. Cũng giống như các chính trị gia đã không ngại dùng mọi thủ đọan để hứa hẹn, tô bóng và khuyến dụ các cử tri dồn phiếu. Giữa sự xuất hiện bên ngoài và sự thật có một khoảng cách xa. Có những người rất khôn khéo trong lời nói và thuyết phục đã kéo lôi được nhiều thành viên. Sự dối trá ẩn nấp trong tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống. Chúng ta cần sống trung thực qua ý tưởng, lời nói và việc làm: Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ (Mt 5, 37). Nhớ điều răn thứ 8 là chớ làm chứng dối.
Có một số cụm từ tiếng Anh mà người nói dối hay dùng: Never, khi bị ai bắt gặp đang nhìn một cái gì không tốt và bị chất vấn, người đó liền chối ngay là không bao giờ. That man/woman’, dùng chữ đó để diễn tả một sự xa cách với người đó. ‘I would never do something like that’ tôi không bao giờ làm những việc như thế. Yes, ma’ma, nếu một người nào không có lý do, tự dưng nói mama với bạn, hãy cẩn thận. By the way, người nói dối dùng chữ này để người khác chú ý hơn tới điều họ sẽ nói sau. ‘I know you think I’m lying, but…Tôi biết bạn nghĩ rằng tôi đang nói dối, nhưng…Why would I do that?’What kind of person do you think I am? Tự bào chữa bằng cách hỏi tại sao tôi làm thế? Bạn nghĩ tôi là loại người nào? Người nói dối quanh qua, quẩn lại cũng chỉ là tránh né vấn đề nói sự thật.
Mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm về cách đối xử trong thế thái nhân tình. Người đời nói: Một sự bất tín vạn sự không tin. Trong dụ ngôn những yến bạc rút ra cho chúng ta một bài học về sự tín trung và chân thật: Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh (Mt 25, 23). Sự chân thành là một đức tính tốt cần tu luyện mỗi ngày. Người ta nói rằng khôn ba năm dại một giờ, đôi khi vì sự sa ngã bất trung dại dột trong chốc lát mà mất cả chì lẫn chài. Đặc biệt trong đời sống gia đình, vợ chồng cần trung tín và thành thật với nhau trong mối tương giao. Chúng ta biết rằng mọi việc làm dối trá trong bóng tối rồi cũng sẽ có ngày được phơi bày ra ánh sáng.
Mang danh là Kitô hữu, chúng ta là nhân chứng cho sự thật. Sự thật bắt nguồn từ Thiên Chúa. Ngôi Ba Thiên Chúa là Thần Chân Lý. Chúa Giêsu đã hứa cùng các môn đệ: Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14, 26). Sự thật thì rất đơn sơ, rõ ràng, trong sáng và có tính thuyết phục. Sự thật không cần đối chất. Ai ở trong Chúa thì yêu mến sự thật. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi những phiền muộn và lo lắng. Sống sự thật là sống trong an lạc và hạnh phúc. Chúng ta có thể tìm kiếm chân lý qua cuộc đời và lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô: Ai thuộc về Chân lý thì nghe tôi. Đáp lời hỏi của Philatô: Ông Philatô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao? “ Đức Giêsu đáp: “Quan nói đúng: Tôi là Vua (Ga 18, 37). Chúa Giêsu chính là Vua vũ trụ, Vua muôn vua.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến để khai mở tâm trí chúng con, để chúng con biết suy tưởng sự thật, loan truyền sự thật và sống sự thật. Xin cho chúng con tìm đến sự thật tuyệt đối nơi thập giá Chúa Kitô. Từ thánh giá Chúa, chúng con sẽ được múc tận nguồn ơn tha thứ và lòng thương xót.
61. Vua sự thật.
Chúa Giêsu có phải là vua thật không? Ngài là vua theo nghĩa nào? Bài Tin Mừng trả lời cho chúng ta những câu hỏi đó trong phiên tòa Rôma xử án Chúa Giêsu. Người xét xử là tổng trấn Philatô, là ông quan của đế quốc Rôma đặt cai trị ở Do thái, vì lúc ấy dân Do thái đang ở dưới quyền đô hộ của người Rôma. Bị cáo là Chúa Giêsu, do người Do thái điệu Chúa đến đây để xin Philatô xét xử.
Philatô hỏi Chúa: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”. Để trả lời, Chúa hỏi lại: “Ngài tự ý nói điều ấy hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” Hỏi như vậy là Chúa muốn vạch trần thâm ý của Philatô. Nếu Philatô tự ý hỏi như vậy tức là Philatô muốn hỏi: “Anh có phải là tay lãnh tụ chính trị, dám chống lại chính quyền Rôma không?”. Đối với Philatô, là vua Do thái chỉ có nghĩa như vậy. Mà nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “không”. Ngài không phải là vua theo nghĩa đó. Còn nếu câu Philato hỏi là do các nhà lãnh đạo Do thái nhắc nhở cho, thì có nghĩa là Chúa Giêsu là vị cứu tinh của Do thái như Thiên Chúa đã hứa với dân tộc họ. Nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “có”. Ngài thực sự là vua. Nhưng không phải chỉ là vua của dân Do thái mà còn là vua của mọi người. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu là vua tâm linh, là vua lòng mọi người, chứ không phải là vua theo nghĩa thông thường trần gian. Vì thế, vương quyền của Chúa có tính cách thiêng liêng chứ không có tính cách trần thế, không dùng phương tiện, sức mạnh, bạo lực của trần gian. Trái lại, phương tiện thực thi vương quyền của Chúa là nhập thể cứu chuộc và rao giảng sự thật. Chính chúa đã khẳng định với Philatô: “Tôi là vua, nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Như vậy, chúng ta có thể quả quyết: Chúa Giêsu là vua. Ngài là vua sự thật. Sự thật là gì? Chính Philatô đã hỏi Chúa Giêsu điều đó. Chúa không đáp lại bằng lời nói mà bằng chính việc Ngài đang thực hiện trước tổng trấn. Việc đó là thực hiện việc của tình yêu cứu độ. Ngài vô tội, nhưng vì yêu thương nhân loại, đã cam lòng chịu chết để đền tội cho nhân loại. Sự thật là như thế. Đó là tình yêu cứu độ. Đó là sự thật mà Chúa muốn làm chứng và muốn nói tới. Và giờ đây, nhìn chung quanh trong nhà thờ này: các ảnh tượng Chúa, chúng ta cũng thấy sự thật cứu độ là như vậy: Chúa Giêsu trên cây thánh giá, Chúa Giêsu trong phép Mình Thánh, Chúa Giêsu trong chặng đường thánh giá… Tất cả đều nói lên tình yêu cứu độ.
Tình yêu ấy đã được ban cho con người, chỉ cần con người đón nhận tình yêu ấy bằng một tâm hồn khiêm tốn, khao khát tình yêu cứu độ. Và bằng tâm hồn mở rộng ra, yêu thương bác ái đối với những người chung quanh. Sự thật cứu độ như vậy, nói thì đơn sơ dễ dàng, nhưng thực hiện thật là phức tạp và khó khăn, đòi hỏi nhiều cố gắng của chúng ta. Bởi vì cuộc sống tất bật, chật vật, đầu tắt mặt tối, đầy lo toan khốn khổ, dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn độc địa, thô bỉ nữa. Như vậy, chúng ta chưa sống sự thật cứu độ, chưa rao giảng sự thật cứu độ, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ. Điều đó có đúng không?
Chúng ta tôn xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự thật ấy. Cuộc sống chúng ta có rất nhiều dịp, nhiều lúc phải quyết định chấp nhận hay từ khước, nói có hay không dứt khoát: có thì nói có, không thì nói không. Một khi chúng ta trả lời “có” cho một người, tức là chúng ta trả lời “không” cho người khác. Khi chúng ta trả lời “có” cho Thiên Chúa, là chúng ta trả lời “không” cho ma quỉ cám dỗ. Không thể có trung lập giữa không và có, giữa Chúa và ma quỉ, giữa ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là phải có một quyết định, một lập trường, một triết lý sống thực hành thánh thiện, ngay thẳng, trung thực, chứ đừng ăn không nói có, lật lọng, dối trá, thay trắng đổi đen.
Nói rõ hơn, chúng ta phải tôn trọng sự thật: phải giữ thành thật trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Không được làm chứng dối, thề gian, bỏ vạ, cáo gian, đổ tội cho người khác, vu khống người ta. Không được xét đoán vô căn cứ, kết tội khi chưa đủ bằng chứng, cả khi nói những lời gây thiệt hại danh dự của người khác… cũng đều lỗi phạm sự thật. Can đảm biện hộ cho sự thật khi cần đến và có sự thật buộc chúng ta phải giữ kín.
Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện… có lẽ sẽ bị đánh giá là một người không giống ai, là một người lội ngược dòng nước cuốn. Nhưng chính việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại chính là thánh giá mà mỗi người cần phải vác hàng ngày. Chúng ta phải trở nên muối đất, trở nên ánh sáng thế gian bằng cuộc sống chứng nhân trung thực cho Chúa Giêsu Kitô.
62. Vương Quốc Tình Yêu -- Nguyễn Minh Triệu SJ.
Hôm nay Giáo hội mừng kính Đức Giêsu là Vua vũ trụ. Đức Kitô quả thật là Vua Vũ Trụ vì Ngài chính là Thiên Chúa, Đấng đã sáng tạo nên vũ trụ xinh đẹp này. Tuy nhiên, không giống các vị vua ở trần gian, dùng sức mạnh và vũ lực để cai trị, trong vương quốc của Đức Giêsu không còn chỗ cho bạo lực, chiến tranh,... mà chỉ có chỗ cho tình yêu. Vì yêu thương nên Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người trở nên công dân của vương quốc này, và tình yêu cũng chính là căn tính của mọi công dân.
Trên thế giới của chúng ta đang sống, mọi người thường hay nói về giấc mơ Mỹ. Có rất nhiều người muốn trở thành công dân của đất nước nước giàu có này. Vì thế, chính phủ Mỹ rất hạn chế trong việc chấp nhận cho công dân một nước khác trở thành công dân Mỹ. Vương quốc của Giêsu thì khác, tất cả mọi người đều được mời gọi gia nhập vương quốc của Ngài. Lời mời gọi yêu thương được Thiên Chúa dành cho mỗi người và từng người, không phân biệt tuổi tác, địa vị, sang giàu. Mọi người được mời gọi để tự do gia nhập vương quốc này. Ai cũng được mời gọi gia nhập, nhưng ai cũng có quyền khước từ. Tự do của con người lớn đến nỗi thánh Âutinh đã nói: Khi Thiên Chúa tạo dựng nên con Ngài không cần hỏi ý kiến con, nhưng khi cứu chuộc con, Ngài cần sự hợp tác của con.
Vì là một vương quốc của tình yêu, nên Ngài không cần phải có một bộ luật cứng rắn hay một quân đội hùng mạnh để điều hành. Tất cả chỉ dựa trên tình yêu. Chính Đức Giêsu xuống trần gian để làm chứng cho tình yêu. Ngài rao giảng, thi ân và trao ban sự tha thứ. Ngài chạnh lòng thương trước những mãnh đời bất hạnh. Trái tim Ngài thổn thức trước những nghịch cảnh của con người. Đi đến đâu ngài thi ân giáng phúc tới đó.
Tình yêu của Ngài lên cực điểm trong những giây phút cuối đời, khi Ngài quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, khi Ngài tha thứ cho kẻ phản bội mình, khi Ngài an ủi người môn đệ thân tín chối bỏ mình. Hơn hết, tình yêu đó vượt qua mọi giới hạn, vượt qua hận thù và sự dữ khi Ngài đã tha thứ cho kẻ giết mình. Thánh giá diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha và cho con người.
Vì Thiên Chúa là Tình Yêu và vương quốc Ngài là vương quốc tình yêu, nên Ngài cũng muốn tình yêu chính là căn tính của mọi công dân trong vương quốc của Ngài. Chúa Giêsu đã trở thành một mẫu gương sống động cho tất cả con dân của mình. Chính Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ rằng "Anh em hãy yêu tha nhân như chính Thầy đã yêu anh em" (Ga 15,12). Mỗi người con dân của vương quốc Chúa Giêsu sẽ nhận được một thẻ căn cước khi sống điều răn duy nhất này. Vì “ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35). Vâng, tình yêu chính là căn tính của người môn đệ, của những ai xưng mình là Kitô hữu.
Mừng lễ Chúa Ki-tô là vua vũ trụ hôm nay, chúng ta nhận ra rằng trong thế giới ngày hôm nay vẫn còn rất nhiều người khước từ lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa, từ chối gia nhập vương quốc tình yêu của Ngài. Dưới sự ảnh hưởng và sự lan tràn của chủ nghĩa tục hoá và chủ nghĩa vô thần, con người ngày nay vẫn đang tự giam mình trong bóng tối sự chết và bịt tai trước lời mời gọi yêu thương của Chúa. Tuy nhiên, những nỗ lực của Giáo hội trong công cuộc Tân Phúc Âm Hoá cho ta thấy được phần nào sự kiên nhẫn và lòng thương xót Chúa vẫn luôn lớn hơn sự bất trung và dửng dưng của con người. Dù con người có bưng tai bịt mắt, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn trung tín với lời mời gọi của mình. Lời Ngài vẫn luôn cất lên. Ngài vẫn luôn kiên nhẫn chờ đợi.
Mừng lễ Chúa Kitô là Vua hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi để xét lại đời sống của mỗi người chúng ta. Chúng ta đã thực sự đặt Chúa là tâm điểm của cuộc đời mình chưa? Chúa có thực sự là vua của chúng ta trong mỗi lựa chọn của chúng ta trong đời sống thương ngày chưa? Chúng ta đã sống chiều kích tình yêu của vương quốc Đức Giêsu chưa? Chắc chắn rằng, chúng ta chưa sống trọn hảo chiều kích này, vì vẫn còn đó rất nhiều người không nhận ra lời chứng của chúng ta trong đời sống thường ngày của mình.
Lạy Chúa Giêsu
Tạ ơn Chúa vì đã đón nhận chúng con vào vương quốc của Ngài
Xin cho chúng con sống xứng đáng với tình yêu của Chúa
ngang qua việc làm chứng cho Tình Yêu.
Trong một thế giới đang bị tàn phá bởi chiến tranh và hận thù,
xin cho chúng con biết quảng đại đại và tha thứ,
trong một thế giới đầy chia rẽ,
xin cho chúng con trở thành dấu chỉ của sự hiệp nhất
trong một thế giới chạy theo tiền bạc
xin cho chúng con dám làm chứng cho Tình Yêu.
63. Trung tín.
Chúng ta hẳn đã nghĩ rằng chỉ có các dân tộc sơ khai và trong quá khứ xa xôi mới tôn thờ ngẫu tượng. Sự thật không phải như thế. Con người hiện đại cũng có các ngẫu tượng của họ. Và họ tôn thờ các ngẫu tượng ấy như thế nào. Tiền bạc là ngẫu tượng phổ biến nhất hôm nay. Nhưng cũng có những ngẫu tượng khác: tài sản, lạc thú, thành công, danh vọng, quyền lực… Sự tôn thờ thần tượng khá nhất là dẫn người ta đến một đời sống phù phiếm, còn tệ nhất là một đời sống mất phẩm cách, đê tiện. Nhưng tai hại to lớn nhất mà sự tôn thờ ngẫu tượng gây ra là nó làm cho người ta quên đi Thiên Chúa chân thật.
Người ta có thể lấy mình làm ngẫu tượng. Các lãnh tụ Cộng sản lấy chính mình làm ngẫu tượng. Một trong những đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản là “tôn thờ lãnh tụ”. Các lãnh tụ đặt chính mình lên bệ thờ. Bạn quay về hướng nào, cũng thấy những hình ảnh, tranh tượng của họ (Chúng ta thấy điều này ở I-rắc với Sadam Hussein). Khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ nhiều bức tượng như thế đã bị giật sập và đập vỡ. Những quái vật ấy, những thần tượng ấy đồng nghĩa với sự đàn áp và khủng bố.
Trong lúc mà những bức tượng bị đổ nhào, tạp chí Time phát hành một bức ảnh nhỏ làm xúc động. Bức ảnh được chụp ở Ukraina, cho thấy một nhóm dân thường tụ họp cầu nguyện xung quanh một bàn thờ đơn sơ ở một nơi công cộng. Trên bàn thờ, người ta đặt một tượng bán thân của Đức Kitô. Bức ảnh này nói lên tất cả. Sau khi các thần tượng bị lật nhào, Đức Kitô được đặt vào đúng vị trí của Người. Thật tương phản biết bao giữa qui luật của Người và qui luật của những thần tượng. Các thần tượng chỉ huy; Đức Kitô mời gọi. Các thần tượng chỉ huy thông qua sợ hãi, Đức Kitô chỉ huy thông qua tình yêu. Các thần tượng đem đến áp bức và chết chóc; Đức Kitô đem đến tự do và sự sống. Không có gì đáng kinh ngạc khi chúng ta giữ lòng trung tín, trung kiên với Người, điều mà chúng ta không làm đối với một người khác hoặc một cơ chế trên trần gian.
Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đứng đơn độc và không vũ khí trước Philatô. Làm tổng trấn một tỉnh thuộc Lamã, Philatô là một con người đầy quyền lực. Ông có hàng ngàn binh lính dưới quyền ông. Và kia là Đức Giêsu – không có lấy một người lính để bảo vệ. Tuy nhiên, Đức Giêsu là người cao cả hơn không ai sánh bằng. Và mặc dù Người có thể bị tổn thương. Người là Đấng duy nhất chỉ huy làm chủ.
Quyền lực chính trị là khả năng ép buộc những người khác làm theo ý muốn của người ta. Khả năng này chủ yếu là do một địa vị như vua hoặc tổng thống. Nó không ở người chiếm giữ địa vị ấy. Quyền lực chính trị không liên quan đến lòng tốt hoặc sự khôn ngoan. Nhiều người ngu ngốc và xấu xa đã thực hành quyền lực ấy.
Mặt khác, quyền bính tinh thần hoàn toàn thuộc về cá nhân và không liên quan đến khả năng ép buộc những người khác. Người có sức mạnh tinh thần cao cả có thể giàu sang và đôi khi chiếm những vị trí lãnh đạo, nhưng thông thường họ nghèo khó và không có quyền lực chính trị.
Chúng ta phải phân biệt giữa quyền bính và ảnh hưởng, và đàng khác là quyền lực và sự chỉ huy người khác. Một số người với quyền bính tinh thần cao cả nhưng hoàn toàn không có quyền lực và phần lớn người có ảnh hưởng không cần kiểm tra những người mà họ có ảnh hưởng. Đức Giêsu làm cho người ta cảm nhận sự hiện diện của Người một cách đơn giản bởi tính cách của Người. Có một quyền bính thầm lặng trong mọi việc Người nói và làm.
Đức Kitô là niềm tin hy vọng của loài người. Người cho chúng ta thấy Thiên Chúa là ai và làm cách nào để giữ Thiên Chúa ở trung tâm đời sống chúng ta. Thiên Chúa không phải là một khuôn mặt xa lạ và thờ ơ. Thiên Chúa là Cha của chúng ta ở trên trời, Đấng gần gũi với chúng ta, và chúng ta quan trọng và quí giá đối với Người.
Đức Kitô không đến để thiết lập một quyền tối thượng chính trị nhưng để làm chứng cho chân lý về quyền tối thượng của Thiên Chúa vĩnh cửu và trên toàn thể vũ trụ.
64. Tôn thờ Vua Giêsu
(Suy niệm của Lm. Vinc. Đỗ Minh Thăng)
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua rất đạo đức tên là Canut III. Vì là vua của một cường quốc nên xung quanh vua thương có những quan nịnh thần xu nịnh, ton hót.
Một hôm trong một buổi triều yết, các quan nịnh thần tâu rằng: “Thánh Thượng” là vua trên hết các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và trên biển cả.
Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, nên vua liền mời tất cả đi ra ngoài biển. Đứng trước đại dương, vua tuyên bố: Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được tới đây. Nhưng nhà vua nói xong, nước vẫn dâng lên, sóng vẫn ập tới làm ướt áo cẩm bào của vua cũng như triều thần.
Sau đó, nhà vua đi vào trong một nhà thờ đến trước tượng Chúa Giêsu chịu nạn, nhà vua lấy chiếc vương miện của mình đội lên đầu Chúa Giêsu và nói: “Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các Vua, là Chúa trên hết các Chúa”.
Anh chị em thân mến,
Nhà vua trong câu chuyện trên đã khiêm tốn nhìn nhận thân phận hèn kém của mình và tôn vinh chỉ có Chúa mới là Vua trên hết các Vua, là Chúa trên hết các Chúa.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta tôn vinh Chúa là vua vũ trụ. Ngài là Đấng thống trị duy nhất toàn thể vũ trụ và thống trị đời chúng ta!
Tôn vinh Chúa Kitô làm vua vũ trụ, có nghĩa là chúng ta tôn kính, tin nhận và để cho Chúa làm chủ trên cuộc đời chúng ta, trên trọn cả cuộc sống của chúng ta và trên cả vũ trụ này, đồng thời quyết tâm sống xứng đáng là công dân trong Nước của Ngài.
Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta có để cho Chúa làm chủ cuộc đời chúng ta hay không?
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường tôn phong nhiều vị vua: Nào là “vua thuốc lá”, “vua bia rượu”, “vua cờ bạc”, “vua tiền bạc”, “vua lạc thú” v.v… nhiều khi chúng ta đặt các vua này trên cả vua Giêsu. Chúng ta thường dễ dàng quỳ gối, cúi đầu trước sức mạnh của các thứ vua vật chất này mà bỏ qua giới răn lề luật của Vua Giêsu.
Năm phụng vụ chấm dứt với Chúa nhật hôm nay. Đây là dịp để chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời mình. Chúng ta là con dân Nước Chúa, vậy thì chúng ta có tin nhận và để cho Chúa làm vua và làm chủ cuộc đời của chúng ta không?
Chúng ta có nỗ lực sống theo luật yêu thương của Vương Quốc Tình yêu bằng cách bác ái, sống chan hòa tình Chúa và chan chứa tình người không?
Lạy Chúa Giêsu là Vua vũ trụ và là vua cõi lòng chúng con, xin Chúa mãi ngự trị trong vũ trụ này, thế giới này và trong cõi lòng mỗi người chúng con để thống trị, hướng dẫn và làm chủ chúng con. Xin giúp chúng con sống xứng đáng là con dân nước Chúa. Amen.
65. Danh hiệu.
Trong mọi danh hiệu mà chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu thì danh hiệu “Vua” xem ra không thích hợp nhất. Nó có vẻ như một loại danh hiệu mà Người bác bỏ. Khi chúng ta nghĩ đến một ông vua, chúng ta nghĩ ngay đến một ngai vàng, một vương miện, một cung điện, sự giàu sang, quyền lực, vinh dự, một đoàn tùy tùng các tôi tớ, và dĩ nhiên một quân đội.
Khi chúng ta nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta thấy gì? Không có ngai vàng, vương miện, cung điện, quân đội. Chúng ta thấy Người đi bộ trên những con đường bụi bặm xứ Palestien với một nhóm môn đệ. Chen chúc xung quanh Người là những người nghèo và người bệnh, những người tội lỗi và những người bị gạt ra bên lề. Tóm lại, đó là những loại người mà ở trong vương quốc trần gian phải đứng ngoài hoàng cung để ngó vào, còn hoàng cung thì khép lại trước mắt họ.
Tuy vậy, danh hiệu “Vua” vẫn thích hợp và có một ý nghĩa đúng đắn và chân thật với Đức Giêsu. Trên hết, nó có nghĩa là thần tính của Người. Thiên Chúa là Chúa của mọi loài, Vua của vũ trụ, Đấng mà mọi loài phải giữ lòng trung tín, Đấng cai quản và phán xét mọi sự.
Nhưng ngay cả trên bình diện con người, danh hiệu ấy cũng có ý nghĩa. Người là suối nguồn cao cả nhất của điều thiện hảo, là ánh sáng và hy vọng trong một thế giới tối tăm. Đức Giêsu có một quyền bính đạo đức và tinh thần vô tận bởi bản chất cao cả của Người. Sự hiện diện của Người có thể thay đổi những người ở xung quanh Người vượt qua sự nhận biết của họ. Thái độ của Người đối với những tội nhân là lòng nhân hậu và sự thuyết phục hơn là lên án. Có những vĩ nhân làm mọi người cảm thấy họ nhỏ bé. Nhưng một vĩ nhân thật sự làm cho mọi người cảm thấy họ cao cả. Trong ý nghĩa đó, Đức Giêsu quả thật là Vua.
Một mặt chúng ta phải phân biệt giữa quyền bính và ảnh hưởng, với quyền lực và sự chỉ huy ở mặt kia. Có người có quyền bính tinh thần lớn nhất lại hoàn toàn không có quyền lực, và người có ảnh hưởng lớn nhất thì không cần phải chỉ huy những người chịu ảnh hưởng của họ. Điều này đúng với Đức Giêsu. Philatô có quyền lực trên dân; Đức Giêsu có ảnh hưởng trên dân. Đức Giêsu làm cho người ta cảm thấy sự hiện diện của Người một cách đơn sơ bởi tính cách của Người. Người có một quyền bính thầm lặng trong mọi việc Người nói và làm.
Và Người đã nói về một Nước Trời – một Vương quốc trên thiên đàng. Vương quốc của Người thể hiện mọi điều mà thế gian này không thay thế được nhưng ngày một mờ nhạt. Đó là tất cả những gì đúng và chân thật, đẹp đẽ, công bằng và thiện hảo. Vương quốc Người sẽ đến khi ý định của Thiên Chúa đối với chúng ta và mọi tạo vật được thành tựu.
Mặc dù Vua Kitô không cần hoặc không muốn có binh lính và xe tăng, Người lại cần có những chiến sĩ – những người sẵn sàng “chiến đấu” cho công lý, sự thật, hòa bình. Có một cuộc chiến đã tiến hành giữa vua bóng tối với vua ánh sáng, vua dối trá với vua chân thật, vua xấu xa với vua nhân lành. Chúng ta ở về phía nào?
66. Xét xử.
Chính trong Chúa nhật sau cùng của năm phụng vụ, chúng ta tự nhiên nghĩ về sự phán xét – Sự phán xét sau cùng và sự phán xét mỗi người chúng ta sau cái chết. Tin Mừng hôm nay làm chúng ta hết sức ngạc nhiên, bởi vì ở đây người bị xét xử là chính Đức Giêsu, Đấng mà chúng ta gọi là Vua của chúng ta.
Đôi khi trong một phiên tòa, xảy ra trường hợp bị cáo là chính quan tòa. Quả thật, đôi khi chính khái niệm công lý bị xét xử.
Hãy lấy trường hợp của Louise Woodward, một người Anh 19 tuổi mà ban bồi thẩm ở Massachusetts tin rằng năm 1998 cô đã giết chết một em bé tám tháng tuổi, Matthen Eappen được giao cho cô chăm sóc. Nhưng nhiều người theo dõi vụ án đã tin rằng công lý đã mắc sai lầm. Người ta cho rằng cô đã giết em bé vì lầm thuốc. Nhưng đây chỉ là sự nghi ngờ hợp lý và ban bồi thẩm khó có thể tìm ra bằng chứng giết người – Đoàn luật sư được kêu gọi chống lại bản án cho cô.
Lúc đầu vụ án, Louise là một bị cáo. Nhưng giờ đây mọi tập trung đều hướng về quan tòa Hiller Zobel, ông đã xem lại bản án. Trong lúc chờ đợi quyết định của ông, nhiều câu hỏi được đặt ra về tính cách của ông. Người ta nói rằng ông là người có tư tưởng độc lập. Một người không bị dư luận làm dao động hoặc nhượng bộ một áp lực. Bản án ông đang đi đến sẽ cho biết những nhận xét ấy về ông có đúng hay không. Giờ đây, chính quan tòa Zobel đang được xét xử.
Sau khi cân nhắc cẩn thận Zobel thay đổi bản án của ban bồi thẩm là giết người mức độ hai thành tội ngộ sát. Vâng một em bé đã chết và Louise đã bị khiển trách về cái chết ấy. Nhưng cô không phải là kẻ sát nhân. Và khi cô đã phục vụ mười bảy tháng trong nhà tù. Cô được trả tự do. Trong con mắt của những quan sát viên trung lập, bản án của ông là đúng đắn. Từ vụ đó, danh tiếng của quan tòa Zobel được nâng cao. Ông đã chứng tỏ là một người quan tâm đến công lý với tất cả sự nhiệt thành.
Hình ảnh của cảnh tượng trong Tin Mừng hôm nay. Đơn độc và không vũ khí, Đức Giêsu đứng trước Philatô trong vụ xử liên quan đến mạng sống của Người. Người đã bị những người Do thái kết án gây ra xáo trộn trong dân, và nói với họ đóng thuế cho xê-da là sai lầm.
Tuy nhiên, Philatô đã sớm thấy rằng Đức Giêsu vô tội. Ông còn tuyên bố. Người vô tội trước nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng các nhà lãnh đạo tôn giáo bắt đầu gây áp lực chính trị trên ông. Họ đe dọa sẽ báo cáo lên Rôma việc ông trả tự do cho một người mà họ xác nhận là kẻ thù của xa-dê.
Giờ đây sự chú ý chuyển từ Đức Giêsu qua Philatô. Giờ đây Philatô là người bị xét xử. Ông có thấy rằng công lý phải được thực hiện không? Đức Giêsu làm cho điều đó trở nên dễ dàng đối với ông bằng cách bảo đảm rằng Vương quốc của Người không đe dọa Xê-da. Philatô đã đấu tranh với điều đó. Nhưng rồi ông bắt đầu thỏa hiệp. Ông cố làm nguôi những kẻ kết án Đức Giêsu. Trước hết bằng cách cho đánh Đức Giêsu bằng roi và rồi cho thả Baraba. Khi điều này không làm họ thỏa mãn, ông nhượng bộ áp lực và trao Đức Giêsu cho họ.
Philatô biết điều ông đã làm. Ông sai đem nước để rửa tay với hy vọng vô ích được tẩy sạch khỏi những vết nhơ vì máu vô tội. Sau cùng ông là người bị lên án. Chỉ cần một cái búng tay, ông có thể trả tự do cho Đức Giêsu. Tuy nhiên vì sợ cho địa vị của mình, ông đã để cho một người vô tội nhất bước đi trên mặt đất này để đến cái chết. Sự hèn nhát của Philatô tương phản với sự can đảm thinh lặng của Đức Giêsu.
Ngày nay các nhà lãnh đạo chính trị thường bị những áp lực tương tự. Các nhóm áp lực chi phối họ, đe dọa sẽ bãi nhiệm họ nếu họ không theo đường lối của các nhóm đó. Cũng có lúc, tất cả chúng ta sẽ bị áp lực. Tất cả chúng ta thấy mình bị xét xử.
Bởi cách chúng ta sống, đặc biệt bởi thái độ của chúng ta đối với sự thật và công lý, chúng ta tuyên bố mình đứng về phía Đức Kitô và vương quốc của Người, hoặc chúng ta giống như Philatô, đi theo con đường trốn tránh và hèn nhát. Không thể có thái độ trung lập.
Ai xét xử Philatô? Ông là người xét xử chính mình. Chúng ta cũng xét xử chính mình. Đừng chờ đến ngày phán xét cuối cùng. Phán xét xảy ra ngay bây giờ. Nó diễn ra mỗi ngày, trong những điều nhỏ. Trước khi kết thúc, người ta đã phán xét mình. Bằng trăm, ngàn cách họ đã chọn theo hoặc chống chính mình hay anh chị em của mình, theo hoặc chống sự thật. Sự phán xét của Thiên Chúa sẽ không hoàn thành một điều gì mới. Nó sẽ đưa ra hầu như những việc đã làm.
Tuy nhiên chúng ta đừng bao giờ quên rằng tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha ở trung tâm Vương quốc. Đức Giêsu không nói để chúng ta sợ hãi ngày cuối cùng đó, mà chỉ để chúng ta sẵn sàng cho ngày đó.
Vui biết bao khi thuộc về Đức Kitô và vương quốc của Người. Hãy để đời sống chúng ta được thần khí Người cai trị và bằng những phương thế nhỏ bé hãy làm việc để mở rộng nước của Người – một vương quốc của chân lý và sự sống, sự thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và hòa bình.
67. Danh thánh
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Danh thánh Kitô Vua mang nhiều ý nghĩa quan trọng cho người tín hữu. Đức Kitô là Thiên Chúa, là Đấng Tạo dựng vũ trụ và có quyền trên hết mọi loài thụ tạo. Tất cả được Ngài tạo dựng và do Ngài mà thành như lời xưng thú trong phần mở đầu của phúc âm Thánh Gioan.
Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa... nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành... Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
Ý nghĩa thứ hai danh Thánh Kitô vua nói về ơn cứu độ Ngài ban cho nhân loại. Ngài cứu chuộc nhân loại bằng chính máu mình đổ ra trên thập giá và những ai tin vào Ngài sẽ trở thành kẻ thừa tự trong nước Ngài.
Chính Thầy là sự sống và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Jn 11, 25-26.
Danh thánh cũng nói lên vương quyền lãnh đạo trong nước Chúa. Ngài là đầu Giáo Hội và mỗi chúng ta là phần tử trong thân thể Vua Kitô.
Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người Eph 5,23... Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống.
Người ta có thể bắt chước cách tổ chức, phương pháp điều hành của một quốc gia nhưng dường như người ta không thể bắt chước tình thương, phong cách và ơn khôn ngoan của người lãnh đạo. Con dân trong nước hưởng thái bình, thịnh trị hay suy thoái vất vả lầm than đều do tình thương vua nước đó ban cho. Chính tình thương và ơn khôn ngoan, chứ không phải cách tổ chức, làm cho quốc gia hưng thịnh, thái bình. Vua Kitô cai trị vương quốc Ngài bằng giầu tình thương và hay tha thứ. Tình thương Ngài không phải chỉ dành riêng cho con dân trong nước mà lan toả cho các vua chúa trần gian khác. Vua Kitô ban tình thương của Ngài cho tất cả những ai thành tâm đón nhận. Vương quốc Ngài không có ranh giới trên mặt địa cầu, không bị giới hạn về thời gian và không chịu ảnh hưởng hay lệ thuộc về tình trạng khủng hoảng kinh tế thế giới vì vương quốc Ngài không đặt căn bản trên vật chất trần thế. vương quốc Ngài đặt căn bản trên tình thương và lòng mến. Chính Vua Kitô xác định điều này khi quan tổng trấn Philatô chất vấn Ngài trong phiên xử:
Nước Tôi không thuộc thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra nước tôi không thuộc chốn này. Gn 18,36
Vương quốc Kitô không ảnh hưởng hay lệ thuộc vào xã hội vật chất nên vương quốc đó tồn tại vĩnh cửu, muôn đời tồn tại. Điều này không phải ngày nay người ta mới nhận biết là tự ngàn xưa các tổ phụ đã nhận biết điều này khi các ngài ghi lại trong thánh vịnh là những lời ca chúc tụng Thiên Chúa. Các ngài nhận ra vì những gì không thể hư tất thì tất nhiên tồn tại. Căn bản vương quốc Kitô là tình thương, lòng mến mà tình thương lòng mến không bao giờ hư nát nên vương quốc đó tất nhiên là vĩnh cửu.
Hàng năm Giáo Hội mừng kính lễ Kitô vua Ngài đáng lãnh nhận mọi chúc tụng, vinh quanh, danh dự dành cho Vua vũ trụ. Dù Ngài là vua vũ trụ nhưng Ngài không hề bỏ sót, quên sót ai bao giờ vì Ngài quan tâm đến từng người trong chúng ta, chăm sóc lo lắng cho từng người trong chúng ta và tên ta được khắc trong lòng bàn tay Người. Tình thương Người dành cho vô bờ bến, vượt khỏi trí tưởng của ta. Tình thương đó trải dài trên thập tự.
68. Vương miện
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Philatô ngồi toà xử và các câu hỏi của ông xoay quanh vấn đề Đức Kitô tự nhận mình là vua hay do đám đông ca tụng Ngài là vua. Sau khi biết rõ Đức Kitô không có í định làm hại đến ngai vàng của ông cũng không chủ trương lật đổ chính phủ bảo hộ Roma do Caesar lãnh đạo, Philatô tuyên bố Đức Kitô vô tội và tha Ngài. Thầy cả thượng phẩm Do Thái không hài lòng về quyết định của Philatô nên họ gây áp lực buộc Philatô kết án người vô tội và bản án đó phải là bản án tử hình. Philatô miễn cưỡng trước áp lực đó nên ông rửa tay tuyên bố vô tội trong việc đổ máu người vô tội.
Vua quan trần thế coi vương quyền là quyền ăn trên, ngồi cao. Hoàng tộc được ăn, được nói, đứng trên luật lệ vì luật lệ phải phục vụ họ. Hoàng gia ưu tiên hưởng mọi quyền lợi và thần dân có nhiệm vụ hầu hạ, phục tùng hoàng gia. Mọi con dân đều có trách nhiệm tôi tớ cho hoàng gia và coi đó là đặc ân riêng cho hoàng gia. Vua quan trần thế đều mong được như thế. Đức Kitô đưa ra cách nhìn mới về vương quyền. Cách nhìn mới của Ngài, mọi vua quan trần thế lớn nhỏ đều cố tránh. Theo Đức Kitô vương quyền chính đáng là đến để phục vụ. Quan trọng hơn vương quyền không phải chỉ phục vụ mà còn đi chung với hiến dâng mạng sống mình vì mọi người. Đây chính là điều thánh Gioan Tẩy Giả tiên tri khi thánh nhân nói về Đức Kitô:
Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng đến xoá tội trần gian Jn 1,28.
Chính Đức Kitô sau này khi nói về vương quyền của Ngài cũng nói thập giá là dấu chỉ của đoàn kết:
Khi Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta 12:32.
Không phải sức mạnh của gươm giáo hay vũ khí tân kì mà chính là sức mạnh tình yêu thập giá nối kết con người. Đức Kitô coi sóc nhân loại bằng tình yêu, ban cho họ an bình nội tâm và hướng dẫn họ sống trong sự thật. Điều Đức Kitô trao ban thế gian không thể có để ban tặng
Thầy để lại bình anh cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy Jn 14,27
Khi trả lời Philatô:
Vậy Ông là vua sao c.37? Đức Kitô đáp: Chính Ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian với mục đích này: Làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi c.38
Xác nhận trước mặt Philatô, Đức Kitô tuyên bố Ngài là vua sự thật. Những kẻ tin theo Ngài phải sống trong sự thật, làm chứng cho sự thật. Sự thật là Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa, xuống thế gian công bố tình yêu Chúa Cha ban cho nhân loại và ai tin vào Ngài sẽ nhận được ơn cứu rỗi. Trong vương quốc của Ngài con người đối xử với nhau bằng tình yêu, chân lí và sự thật. Công lí được coi trọng bởi công lí đó nhằm mục đích bảo vệ mạng sống con người từ lúc thụ thai cho đến khi sống lại về cùng Thiên Chúa. Mọi người đều mang hình ảnh Chúa và là anh chị em với nhau. Để có thể sống trong tình yêu, chân lí và sự thật người đó phải được tái sinh trong nước Thanh Tẩy và chịu sự hướng dẫn của Thánh Thần Jn 3,3-7.
Nước Thiên Chúa bắt đầu khi Đức Kitô đội triều thiên mạo gai và treo trên thập tự phía trên đầu cho viết chữ 'Vua Dân Do Thái'. Các Thầy Cả Thượng Phẩm Do Thái cực lực phản đối nhưng Philatô cương quyết giữ điều ông phán quyết.
Đức Kitô là Vua vũ trụ bởi một mình Ngài đã chiến thắng tội lỗi, ma quỷ và thần chết, chính chúng đại diện cho nước của bóng tối.
69. Đức Giêsu, Vua vũ trụ, cũng là vua mọi tâm hồn, thống trị bằng tình yêu -- JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Giáo Hội lại tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Vua của vũ trụ? Ngài có quyền hành gì trên vũ trụ vạn vật?
2. Ngài là vua, nhưng có gì khác biệt với những vị vua bình thường? Ngài cai trị bằng gì?
3. Ngài là vua của vũ trụ, nhưng điều ấy ích lợi gì cho tôi, nếu Ngài không phải là vua tâm hồn tôi? Vậy tôi phải làm gì để Ngài trở nên vua của tâm hồn tôi?
Suy tư gợi ý:
1. Chú giải đoạn Tin Mừng
Philatô hỏi Đức Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Nếu người Do Thái hỏi Ngài câu ấy, thì câu ấy nghĩa là: ông có phải là Đấng Mêsia không? Nhưng khi Philatô hỏi, thì câu ấy có nghĩa là: ông có phải là kẻ cầm đầu xui giục dân Do Thái phản loạn không? Theo não trạng của dân Do Thái, thì đấng Mêsia tức vị Cứu Tinh của dân tộc ắt phải là một thủ lãnh của đoàn quân nổi loạn chống lại Rôma để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc. Nếu Ngài là người nổi loạn chống lại Rôma, thì dân Do Thái sẽ theo Ngài. Nhưng họ thấy Ngài không phải là người nổi loạn như ý muốn của họ, mà lại có những ý tưởng lạ đời đi ngược lại tư tưởng truyền thống của chính tôn giáo của họ, nên họ muốn tiêu diệt Ngài. Nhưng họ không dám ra tay giết Ngài, mà muốn dùng bàn tay của người Rôma để giết Ngài. Để làm điều ấy, họ chụp mũ Ngài là người phản loạn, chống lại Rôma.
Nhưng Philatô nhận ra ngay là: nếu Đức Giêsu là kẻ đứng về phía người Do Thái để chống lại Rôma, thì họ đã chẳng nộp Ngài cho ông. Vì thế, câu ông hỏi Chúa Giêsu chỉ hỏi cho có lệ, chứ ông ta đã biết Ngài vô tội, và chỉ vì ghen ghét mà dân chúng nộp Ngài cho ông. Nhưng cũng chính nhờ ông ta hỏi điều ấy mà chúng ta được mạc khải một chân lý quan trọng: Đức Giêsu chính là vua. Nhưng Ngài không phải là vua của một nước trần gian. Chính Ngài xác nhận: “Tôi được sinh ra để làm vua”. Thật vậy, có những dấu hiệu báo trước điều ấy: chẳng hạn, khi Đức Giêsu vừa sinh ra, đã có ngôi sao lạ ở phương Đông báo tin cho các vị đạo sĩ đến chiêm bái Ngài như một vị vua mới sinh (x. Mt 2,2). Ngài đã được tung hô như một vị vua khi vào thành Giêrusalem (x. Mt 21,4.9).
2. Đức Giêsu là vua
Nếu Đức Giêsu không phải là vua của một nước trần gian, thì nước của Ngài ở đâu? Ngài là vua của ai?
Làm vua có thể có nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều đình… mới là vua. Người ta vẫn nói: “vua dầu lửa”, “vua xe hơi”, “vua bóng đá”, v. v… mặc dù những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai. Đức Giêsu không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu theo nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ “vua”.
Trước hết, Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh viết: “Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,3; xem 1,10). Ngài là vua của thế giới, nên đến ngày chung cuộc, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị vua (Mt 25,34).
Thế gian này có nhiều nước, mỗi nước có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Vua của muôn vua.
3. Ngài thống trị bằng tình yêu
Đức Kitô là vua. Nhưng Ngài khác với các vua khác ở chỗ: để cai trị, các vua khác dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi người, mọi con dân của Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên (xem Ga 10,11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh chết trên thập giá một cách khổ nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền cai trị.
4. Đức Giêsu là vua các tâm hồn
Đức Giêsu không chỉ là vua vũ trụ, vua của cả trần gian, mà Ngài còn là vua của tâm hồn mỗi người. Vì yêu thương, vị vua ấy ngự ngay trong thâm cung tâm hồn của mỗi người để sẵn sàng thi ân giáng phúc, ban sức mạnh, thánh hóa, làm cho họ ngày càng tốt đẹp, mạnh mẽ và hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, Ngài có làm được điều đó hay không còn tùy thuộc vào sự tự do chấp nhận và sự tự nguyện cộng tác của chúng ta. Ngài sẽ không làm được gì cho chúng ta nếu chúng ta không muốn Ngài làm, hoặc nếu chúng ta hoàn toàn thụ động không cộng tác gì vào công việc mà Ngài muốn làm cho ta.
Để Ngài có thể hành động biến đổi con ta nên tốt đẹp, mạnh mẽ, thánh thiện hơn, ta cần tôn Ngài làm vua tâm hồn mình, bằng cách:
– Trước tiên, phải thường xuyên ý thức về sự hiện diện của Ngài ở trong ta.
– Kế đến là ý thức rằng Ngài là tình thương, Ngài yêu thương ta hơn tất cả mọi người, và sẵn sàng làm tất cả những gì ta cần cho sự phát triển và hạnh phúc của ta.
– Đồng thời ý thức Ngài là sức mạnh toàn năng, có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi ta.
– Vì thế, ta nhường quyền làm chủ bản thân ta cho Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân ta. Ta không còn hành động theo ý riêng ta nữa, mà hoàn toàn hành xử theo ý của Ngài.
– Vì Ngài yêu thương ta, sáng suốt và khôn ngoan hơn ta rất nhiều, lại có khả năng làm tất cả những gì Ngài muốn, nên ta hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta cho Ngài.
– Và cuối cùng là luôn luôn sống trong bình an, hạnh phúc của một người được Đức Kitô yêu thương và phù trợ. Hãy hưởng niềm hạnh phúc của một người được Vua của cả trần gian này yêu thương và quan tâm săn sóc. Hãy tin tưởng và luôn luôn an tâm rằng nhờ quyền năng của Ngài, tất cả những gì xảy đến cho ta đều hết sức có lợi, đều trở nên vô cùng tốt đẹp cho ta, cho dù hiện nay ta chưa hiểu rõ: “Thiên Chúa làm cho mọi sự phối hợp lại thành ích lợi cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28).
Nắm vững điều đó, ta sẽ thấy có Đức Kitô ngự trong tâm hồn mình là như có được một “cây đèn thần” trong tay, một “bùa hộ mạng” an toàn, một “vị thần bảo trợ” hữu hiệu, một “người tình chung thủy” luôn luôn ở với ta suốt cuộc đời. Lúc đó ta sẽ sung sướng cảm nghiệm được như thánh Phaolô: “Tôi làm được tất cả mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13).
CẦU NGUYỆN
Lạy Đức Kitô, Chúa là Vua của vũ trụ, của nhân loại, và nhất là của tâm hồn con. Con xin phó thác tất cả mọi sự của con trong tay Chúa: mạng sống, tình yêu, hạnh phúc, ý muốn, khát vọng, những người thân yêu của con, hiện tại cũng như tương lai của con, v. v… Con xin phó thác cho Chúa tất cả, và hoàn toàn để Chúa quyết định mọi sự theo ý muốn của Chúa. Xin hãy giúp con ngày càng tin vững vào tình yêu và quyền năng của Chúa hơn. Amen.
70. Đức Giêsu, vua niềm tin – Lm. Nguyễn Hữu An.
Nói đến sức mạnh, chúng ta tự nhiên sẽ nghĩ đến những chàng trai võ sĩ thân hình lực lưỡng, cân đối rắn chắc, với những bắp thịt vạm vỡ, với những quả đấm thôi sơn ngàn cân.
Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng nghĩ đến những trận bão táp, những cơn lũ lụt phá đổ cây cối nhà cửa làng mạc, đê điều, đường sá, cầu cống.
Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng thường nghĩ tới những đám cháy lớn thiêu rụi cả một khu rừng, thiêu huỷ các tầng lầu, hoặc động đất san bằng nhiều thành phố, giết hại hàng triệu người trong vài giây đồng hồ.
Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng liên tưởng đến những cuộc chiến tranh hoặc chiến tranh thế giới giết hại bao sinh mạng, tàn phá bình địa nhiều thành phố làng mạc nhà cửa dinh thự đền đài.
Nhưng có lẽ nhiều người trong chúng ta quên rằng, còn có một sức mạnh vạn năng khác, mãnh liệt hơn cả, quyết thắng tất cả nhưng lại luôn luôn ở trong tầm tay của mình. Đó chính là sức mạnh niềm tin tôn giáo. Niềm tin tôn giáo không thể nào bị bóp nghẹt do bất cứ quyền lực nào. Không có quyền lực nào, không có luật pháp nào có thể xoá được những gì đã ăn rễ sâu trong lòng người, là niềm tin tôn giáo. (Lm Trần quý Thiện)
Trước toà án Philatô, Đức Giêsu đã biểu lộ sức mạnh niềm tin ấy “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho Ngài” (Ga 18, 11). Niềm tin vào Sự Thật, mà “Sự thật sẽ giải thoát các con” cho nên Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”(Ga 18, 37). Bởi vì “Ta là đường, là sự thật và là sự sống”.
Kết thúc năm phụng vụ, tận cùng của thời gian, Giáo hội cho chúng ta suy tôn Đức Giêsu - vua vũ trụ - vua niềm tin. Đức Giêsu là vua không phải theo kiểu trần thế, cũng không theo nghĩa chính trị. Đức Giêsu là vua niềm tin, vua tình yêu. Vương quốc của vua Giêsu là vương quốc của sự thật “Ai đứng về phái sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Nhiều lần Đức Giêsu đã khước từ làm vua theo kiểu trần thế. Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân Do thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài trốn lên núi. Khi trả lời cho những kẻ gài bẫy: chúng tôi có phải nộp thuế cho Xêza không? Đức Giêsu đáp: của Xêza hãy trả cho Xêza, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đặc biệt trong phiên toà xét xứ, Philatô hỏi Đức Giêsu: Ông có phải là vua dân Do thái không? Đức Giêsu minh xác: Nước tôi không thuộc về thế gian này (Ga 18, 36). Vậy thì vương quốc Đức Giêsu là vương quốc sự thật thuộc thế giới niềm tin, thế giới tâm linh trong tâm hồn con người. Vương quốc đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của Xêza hay bất cứ đế quốc nào, chủ nghĩa nào. Nuớc của Xêza chỉ cai trị thể xác loài người, còn vương quốc Đức Giêsu chiếm trọn tấm lòng người. Thê lực của Xêza là quân đội, khí giới, khí giới, nhà tù. Sức mạnh vương quốc Đức Giêsu là niềm tin, là yêu thương, tha thứ. Dù rộng lớn, đế quốc Xêza cũng bị giới hạn, còn vương quốc Đức Giêsu vô biên, được thiết lập mọi nơi. Các triều đại phong kiến, các thể chế chính trị cũng chấm dứt trong dòng thời gian như đế quốc của Xêza, chỉ còn vương quốc sự thật, niềm tin tồn tại muôn đời.
Chính niềm tin tôn giáo dạy chúng ta rằng: mục đích tối thượng của các tôn giáo là hướng con người đến chân thiện mỹ. Qua không gian thời gian, trải qua bể dâu của lịch sử với những thao thức băn khoăn của kiếp người, con người luôn luôn tìm đến niềm tin tôn giáo. Con người tiếp nhận sự sống từ chính nguốn sống là Thiên Chúa như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không có sự sống trên trái đất. Cúng thế, không có Thiên Chúa thì không thể có sự sống. Thiên Chúa thông ban sự sống cho con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa yêu thương mọi người ngay cả những ai chối bỏ và thủ ghét Ngài. Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi người đều là hình ảnh Thiên Chúa. Chỉ xuyên qua niềm tin và tình thương con người mới đến được vớiThiên Chúa. Với sức mạnh niềm tin chúng ta khẳng định rằng: trên vạn nẻo đường của cuộc đời mỗi người, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu Thiên Chúa luôn có mặt để hướng dẫn nâng đỡ chúng ta.
Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội hôm nay phải chăng là khủng hoảng về niềm tin và ý nghĩa của cuộc sống?. Con người sinh ra trên cõi đời này để làm gì và để đi về đâu?. Đó là câu hỏi lớn mà ngàn đời con người không ngừng đặt ra cho mình khi đứng trước những mâu thuẫn bất trắc của cuộc sống. Nghĩ cho cùng, mỗi người chỉ tìm thấy giải đáp cho câu hỏi ấy nhờ ánh sáng sức mạnh niềm tin tôn giáo. Aùnh sáng niềm tin ấy hướng dẫn chúng ta đến yêu thương và phục vụ tha nhân. Khi con người biết sống cho người khác thì con người sẽ tìm thấy chính mình, thấy lý tưởng, thấy ý nghĩa cuộc sống. Sống cho hạnh phúc của tha nhân, đó là sự thật mà mỗi thần dân sống trong vương quốc Vua Giêsu được mời gọi thể hiện mỗi ngày.
Mừng lễ Chúa Giêsu vua vũ trụ, vua niềm tin, chúng ta hãy để cho Chúa chiếm trọn tất cả con người mình, tư tưởng, lời nói, việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối, của tội lỗi, nhưng thuộc về vương quyền của Chúa Giêsu là vương quyền của sự sống, của sự thật, vương quyền của niềm tin, của ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện, của công lý, tình yêu hoà bình.
71. Nước của Sự Thật -- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tôn vinh Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội công bố bài Tin Mừng Gioan: Vua Giêsu đang bị trói, bị điệu đến trước mặt quan Philatô và bị đối xử như một tội phạm. Philatô hỏi: Ông là vua sao? Sao lạ vậy? Vua Hêrôđê còn sống sờ sờ đó mà. Vua gì mà chẳng có quân có tướng hộ vệ? Vua gì mà chẳng có vương miện cẩm bào? Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu mang chiếc áo loang lỗ máu đào, tả tơi. Phải chăng Philatô nhận ra Chúa có một tác phong uy quyền cao cả một một vị đế vương. Và trong chiều sâu tâm hồn, Philatô thán phục đánh giá cao vị vua này!
Chúa Giêsu đáp: Chính ngài nói rằng tôi là vua. Rồi Chúa giải thích thêm: Tôi sinh ra và đến thế gian để làm chứng cho sự thật, ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi. “Nước tôi không thuộc về thế gian này”. Như vậy, Chúa xác nhận Ngài là Vua, vì có một nước để Ngài thống trị. Đó là nước của sự thật: Ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Chúa; đó là nước của tình yêu: “Người ta sẽ căn cứ vào dấu hiệu này để nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em thương mến nhau.” (Ga 13,35); đó là nước của sự sống: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời” (Ga 5,24).
1. Nước của Sự Thật.
Nước của Vua Giêsu là nước của sự thật và “ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Nhiều lần Đức Giêsu đã khước từ làm vua theo kiểu trần thế. Nước trần gian do con người thiết lập bằng sức mạnh, thường đem lại sự giàu sang và vinh quang. Đức Giêsu từ chối loại nước huy hoàng do Satan đề nghị: Nếu ông quỳ gối thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông mọi nước làm sản nghiệp. Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân Do thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài trốn lên núi. Khi trả lời cho những kẻ gài bẫy: chúng tôi có phải nộp thuế cho Xêza không? Đức Giêsu đáp: của Xêza hãy trả cho Xêza, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Nước của Vua Giêsu là nước của sự thật thuộc thế giới niềm tin, thế giới tâm linh trong tâm hồn con người. Nước đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của Xêza hay bất cứ đế quốc nào, chủ nghĩa nào. Nuớc của Xêza chỉ cai trị thể xác loài người, còn nước của Đức Giêsu chiếm trọn lòng người.Thế lực của Xêza là quân đội khí giới nhà tù. Sức mạnh nước của Đức Giêsu là niềm tin yêu thương tha thứ. Dù rộng lớn, đế quốc Xêza cũng bị giới hạn, còn nước của Đức Giêsu vô biên, được thiết lập mọi nơi. Các triều đại phong kiến, các thể chế chính trị cũng đã và đang chấm dứt trong dòng thời gian như đế quốc của Xêza, chỉ còn nước sự thật và niềm tin là tồn tại muôn đời.
Chúa Giêsu là vị vua của Sự Thật và sứ mạng của Ngài là làm chứng cho sự thật. Là vua sự thật, Chúa đến thế gian để chỉ cho con người về sự thật và dạy cho con người sống sự thật. Vua Giêsu đã chỉ cho con người thấy Thiên Chúa là chân lý và là sự thật. Vua Giêsu còn chỉ cho con người thấy bộ mặt thật gian dối của thế gian, sự xảo trá của ma quỷ và thế lực của bóng tối. Nó đang tìm cách tách con người ra khỏi sự thật và gieo sự gian dối vào trong tâm hồn con người.
Kitô hữu là thần dân của nước sự thật nên dám nói lên sự thật, dám can đảm sống theo sự thật, dám chết cho sự thật.
2. Nước của Tình Yêu
Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu. Chính tình yêu là sức mạnh của nước Ngài thiết lập. Đức Kitô là vua, nhưng lại rất khác với các vua trần thế ở chỗ: để cai trị, các vua thế gian dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Ngài yêu thương mọi người, mọi con dân của Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên (Ga 10,11-16). Luật pháp trong nước của Ngài là sống trong Tình Yêu. Một Tình Yêu trọn vẹn trong chiều dọc, đối với Đấng dựng nên mình là Thiên Chúa. Một Tình Yêu chan hòa trong chiều ngang đối với đồng loại của mình.
“Khi một mình đối diện với những ghen ghét thù hận của đám đông, Đức Giêsu muốn dạy ta biết Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa trên trần gian. Vì yêu thương mà Ngài đã xuống trần gian. Ngài đã yêu thương cho đến chết vì yêu. Đó là tình yêu lớn lao nhất như lời Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu”. Dù những thù hận vây bọc, nhưng Đức Giêsu vẫn yêu thương. Hôm nay đơn thân độc mã trong vòng vây của hận thù, Đức Giêsu vẫn xưng vương để cho ta thấy: tình yêu thương đã chiến thắng. Hận thù đem lại chết chóc, chỉ có tình yêu thương mới cứu được thế giới. Đức Giêsu đã chiến thắng. Ngài là Đấng đầu tiên từ trong kẻ chết sống lại. Với chiến thắng, Đức Giêsu mở cửa nước của Ngài. Đó là nước của Sự Thật. Chỉ những ai thuộc về sự thật mới được vào. Và những ai thuộc về sự thật phải biết chiến thắng sự giả trá. Sự giả trá đó là sự chết, đó là những vinh hoa phú quý trần gian và đó là lòng thù hận ghen ghét. Hiểu biết sự thật, đập tan sự dối trá, ta mới tiến vào Nước Sự Sống theo bước Đức Giêsu Kitô. Với chiến thắng Ngài thật sự là Đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống muôn đời”. (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt).
“Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Vua Giêsu đã thi hành vương quyền bằng cách yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính lúc loài người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài.
Tình yêu chi phối mọi sinh hoạt cuộc đời. Con người đau khổ vì không có tình yêu. Chúa là tình yêu. Chỉ những ai biết tìm đến với Ngài, được Ngài thông truyền cho tình yêu, họ mới biết mở mắt để nhận ra được mọi người anh em, như thế mới có thể yêu thương. Bản tính của tình yêu là cho đi điều tốt lành. Ai sống yêu thương thì thuộc về Chúa, là thần dân của Ngài. Nước của Chúa Kitô Vua là nước của tình yêu. Muốn vào nước ấy, phải là người có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật sự.
3. Nước của Sự Sống
“Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ” (Ga 11, 25-26). Thật là đại tin mừng: “Nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng” (Ga 1,4-5).
Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống nên nước của Ngài không còn bóng dáng cái chết. Khi còn ngày rộng tháng dài, Đức Giêsu không xưng vương. Nay cận kề cái chết Ngài mới xưng vương để dạy cho ta biết nước của Ngài “không thuộc thế gian này”. Sự sống trần gian này chẳng đáng giá gì so với sự sống trong Nước Chúa. Vì thế muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.
Chúng ta lãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa, chỉ mình Thiên Chúa mới có thể trao ban sự sống ấy. Chúa Cha đã trao cho Chúa Con quyền này, và đặt vào tay Chúa Con, nên Chúa Con là Vua Sự Sống.
Con người tiếp nhận sự sống từ chính nguồn sống là Thiên Chúa như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời.Thiếu ánh sáng mặt trời thì không có sự sống trên trái đất. Cũng thế, không có Thiên Chúa thì không thể có sự sống.Thiên Chúa thông ban sự sống cho con người vì Thiên Chúa yêu thương con người.Thiên Chúa yêu thương mọi người ngay cả những ai chối bỏ và thù ghét Ngài.Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa.Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi con người đều là hình ảnh Thiên Chúa. Chỉ xuyên qua niềm tin và tình thương con người mới đến được với Thiên Chúa. Sống cho hạnh phúc của tha nhân, đó là sự thật mà mỗi thần dân sống trong nước Vua Giêsu được mời gọi thể hiện mỗi ngày.
Nhưng ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô và ai thuộc về Đức Kitô thì hãy để Người sống và lớn lên trong cuộc đời mình và chấp nhận để Người biến đổi toàn diện. Đồng thời, chính mình cũng cần nổ lực “làm chứng” sao cho niềm tin luôn luôn vươn lên, mà cũng không quên nhiệt tình tông đồ là làm cho những người lân cận nhận biết và tin yêu Chúa Kitô nữa.
Ở Bãi Sau Vũng Tàu, có một tượng Chúa Kitô Vua thật lớn dựng trên triền núi quay mặt ra biển, đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân quanh đó kể lại rằng những khi ra khơi, họ vẫn căn cứ vào đó để mà định hướng đi về, và nhiều lần sóng gió họ cũng hướng về đó để mà cầu nguyện xin ơn bình an.
Giữa trùng dương cuộc sống, Kitô hữu biết rằng Chúa Kitô vẫn luôn hiện diện như một chuẩn đích để định hướng tin yêu hy vọng. Xin Người cũng làm Vua quy tụ mọi sự trong Nước vĩnh cửu của Người.
Mừng lễ Chúa Giêsu - Vua Vũ Trụ - Vua Sự Thật -Vua Tình Yêu - Vua Sự Sống, chúng ta hãy để cho Vua Giêsu chiếm trọn tất cả con người mình, từ tư tưởng lời nói cho đến việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền của sự sống và sự thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện công lý và tình yêu hoà bình (Kinh Tiền Tụng).
Giêsu, lạy Chúa từ nhân,
Tâu Vua vinh hiển, thần dân kính mừng!
Duy Ngài là lẽ cậy trông,
Là trung tâm điểm của dòng thời gian.
Quyền uy thống trị vũ hoàn,
Chúng con tình nguyện làm dân con Ngài.
(Thánh Thi Kinh sáng lễ Chúa Kitô vua).
72. Đức Kitô – Vua Niềm Tin -- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể, tiếp nối qua hành trình rao giảng Tin mừng rồi cuộc Tử nạn, Phục sinh và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Như vậy, năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Đức Kitô và cuối cùng trở về với Ngài. Đức Kitô chính là khởi đầu và là cùng đích của vũ trụ và lịch sử nhân loại.
Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ của lịch sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.
Phải hiểu tước hiệu Vua Kitô như thế nào? Việc tuyên xưng Đức Kitô là vua mang lại ý nghĩa gì cho cuộc sống người Kitô hữu?
1. Vua Trong Lịch Sử
Sau thế giới đại chiến lần thứ I, chế độ Quân chủ (Vua cai trị) không còn nữa. Chỉ còn mấy ông vua bà hoàng “làm kiểng” như ở Thái Lan, Anh Quốc, Nhật Bản... không có thực quyền.
Trong lịch sử loài người, có một số vị vua có tài, giỏi đánh giặc và trị nước, nhưng hầu hết các vị vua đều độc tài độc đoán (vì cha truyền con nối), không có khả năng trị quốc an dân, chỉ biết hưởng thụ ích kỷ, chẳng quan tâm đến bá tánh. Các vị vua bên Tàu còn tự xưng mình là Thiên tử (con Trời) nên làm trời con, bắt ai chết thì người đó phải chết, cho ai sống thì người đó được sống (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung). Các vua La mã tự xưng mình là Thần, ngang với Thượng đế.
Nhìn chung, các vua trần gian thì tham lam, ích kỷ, dâm ô. Khi đã chiếm được ngai vàng, họ coi thần dân như bầy tôi, giang sơn đất nước là tài sản riêng của họ: “Thần dân của trẫm. Giang sơn của trẫm”. Nghi ngờ kẻ nào có ý phản loạn thì giết ngay tức khắc và còn tru di cả tam tộc cửu tộc nữa.
Nếu muốn đổi triều đại, phải chiến tranh giành giật đẫm máu. Đọc lịch sử Việt Nam, mỗi thay đổi triều vua từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê... toàn là máu và nước mắt. Đến đời Nguyễn Ánh tự xưng là Gia Long hoàng đế, làm vua từ năm 1802, cha truyền con nối kéo dài hơn 100 năm. Năm 1945, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại thoái vị.
2. Vua Trong Kinh Thánh
Vào khoảng thế kỷ thứ 11 trước công nguyên, dân Israel có vua cai trị giống như các dân khác.
Ba vị vua đầu tiên của Israel là Saul, Đavit và Salômôn.
Giavê Thiên Chúa, qua ngôn sứ Samuel đã cảnh cáo dân rằng:
- “Ta hối tiếc vì đã đặt Saul làm vua, nó đã quay lưng lại Ta.” (1S 15, 10).
- “Chính Ta đã xức dầu tấn phong ngươi làm vua Israel... Tại sao ngươi dám khinh màng lời Đức Giavê... ngươi đã lấy gươm đâm Uria, người xứ Hitit và đoạt lấy vợ nó làm vợ ngươi.” (2S 12, 9).
- Còn Salômôn, vị vua có 700 vợ và 300 hầu thiếp (1V 11, 3). Ông đã bỏ Đức Chúa Giavê để thờ tà thần của các bà vợ. Giavê phán với Salômôn: “Bởi ngươi đã nên thể ấy nơi ngươi... Ta sẽ giựt lấy vương quyền của ngươi.” (1V 11, 11).
Trong Tân Ước cũng nhắc đến một ông vua rất tàn ác, đó là Hêrôđê: “Bấy giờ Hêrôđê tức cuồng lên, sai quân giết hết cả trẻ em ở vùng Belem, từ hai tuổi trở xuống. (Mt 12, 6).
3. Đức Giêsu Kitô, Vua Niềm Tin
Giáo Hội suy tôn Đức Giêsu là Vua vũ trụ. Ngài không làm vua theo kiểu vua chúa trần gian. Ngài cũng không làm vua một lãnh vực kinh tế nào. Đức Giêsu là Vua Niềm Tin. Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của sự thật. “Tôi đến để làm chứng cho sự thật”. Sự thật mà Ngài tuyên bố, đó là ý định cứu rỗi của Chúa Cha: Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài đến để cứu độ thế gian.
Đức Giêsu thiết lập một Vương quốc phổ quát và vĩnh cửu bằng niềm tin và tình yêu trong sự thật.
Nhiều lần Đức Giêsu đã khước từ làm vua theo kiểu trần thế. Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân Do thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài trốn lên núi. Khi trả lời cho những kẻ gài bẫy: “Chúng tôi có phải nộp thuế cho Xêza không?” Đức Giêsu đáp: “Của Xêza hãy trả cho Xêza, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.
Đặc biệt trong phiên toà xét xứ, Philatô hỏi Đức Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”. Người đã trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Nước Chúa không thuộc về thế gian. Nước Chúa ở trong các tâm hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, đón nhận sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Đức Giêsu đem đến cho nhân loại.
Vương quốc Đức Giêsu là vương quốc sự thật thuộc thế giới niềm tin, thế giới tâm linh trong tâm hồn con người. Vương quốc đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của Xêza hay bất cứ đế quốc nào, chủ nghĩa nào. Nuớc của Xêza chỉ cai trị thể xác loài người, còn vương quốc Đức Giêsu chiếm trọn tấm lòng người. Thế lực của Xêza là quân đội, khí giới, nhà tù. Sức mạnh vương quốc Đức Giêsu là niềm tin, là yêu thương, tha thứ. Dù rộng lớn, đế quốc Xêza cũng bị giới hạn. Vương quốc của Vua Giêsu vô biên, được thiết lập mọi nơi. Các triều đại phong kiến, các thể chế chính trị cũng chấm dứt trong dòng thời gian như đế quốc của Xêza. Vương quốc sự thật, niềm tin tồn tại muôn đời.
Trong vương quốc niềm tin, con người tiếp nhận sự sống từ chính nguốn sống là Thiên Chúa như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không có sự sống trên trái đất.Thiên Chúa thông ban sự sống cho con người vì Ngài yêu thương con người. Thiên Chúa yêu thương mọi người ngay cả những ai chối bỏ và thù ghét Ngài. Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi người đều là hình ảnh Thiên Chúa.
Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội hôm nay phải chăng là khủng hoảng về niềm tin và ý nghĩa của cuộc sống?
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhận định: “Chúng ta đang phải đối diện với một cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa, một sự mất ý thức tôn giáo là điều tiêu biểu cho một trong những thách thức lớn nhất đối với Giáo Hội ngày nay” (Phát biểu tại Assisi nhân ngày cầu nguyện cho hòa bình 27-10-2011). Theo Đức Thánh Cha, nguyên nhân sâu xa của những thách thức đối với Giáo Hội ngày nay là khủng hoảng Đức Tin. Hơn bao giờ hết, con người cần có Thiên Chúa; nếu không có Thiên Chúa, trần gian sẽ biến thành hỏa ngục. Có lẽ đây là một trong những lý do chính mà Ngài quyết định mở Năm Đức Tin cho toàn thể Giáo Hội hoàn vũ.
Trong buổi tiếp kiến chung ngày 14-11-2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tiếp tục loạt bài giáo lý về Năm Đức Tin. Thế kỷ trước, chúng ta đã chứng kiến sự lớn mạnh và phát triển của chủ nghĩa tục hóa, nhân danh con người có quyền tự chủ tuyệt đối, coi tục hóa là một giải pháp và sự sáng tạo đối với hiện thực. Ngày nay, đức tin đang phải đối diện với những khó khăn, đó là “ít hiểu biết về đức tin, đức tin bị thử thách và chối từ đức tin”. Chủ nghĩa vô thần 'thực dụng' là một hiện tượng nguy hại cho đức tin.
Đức Thánh Cha mô tả về ba con đường nhận biết Thiên Chúa: thế giới, con người và đức tin.
- 'thế giới': liên quan đến việc “giúp con người ngày nay phục hồi khả năng chiêm ngưỡng vẻ đẹp và cấu trúc của công trình sáng thế. Thế giới này không phải là một khối hỗn mang không có hình dạng, nhưng càng tìm hiểu, càng khám phá cơ chế lý thú của nó, càng ngắm kỹ một mẫu hình, chúng ta càng thấy đó là cả một trí tuệ sáng tạo”.
- 'con người'. Thánh Augustinô từng nói: “Chân lý cư ngụ trong trái tim con người”. Theo ĐTC, “đây là một khía cạnh khác, ngày nay trong một thế giới ồn ào, làm chúng ta bị phân tâm, chúng ta có nguy cơ đánh mất khả năng dừng lại và nhìn sâu vào nội tâm mình”.
- 'đức tin': đây không chỉ đơn giản là một “hệ thống những giá trị, những lựa chọn và hành động”, nhưng “là sự gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng đang nói và hành động trong lịch sử, Đấng biến đổi cuộc sống hằng ngày của chúng ta, biến đổi suy nghĩ, các giá trị, những lựa chọn và hành động của chúng ta”. Ngài kết luận: “Đức tin không phải ảo tưởng, là trốn chạy cuộc sống, là nơi tạm trú đủ tiện nghi, là cảm xúc; nhưng là sự dấn thân vào mọi khía cạnh của cuộc sống và loan báo Tin Mừng, Tin Vui đem lại giải thoát mọi điều thuộc về con người”.(Theo Alessandro Speciale, Vatican Insider, 14-11-2012; WHĐ).
Con người sinh ra trên cõi đời này để làm gì và để đi về đâu?. Đó là câu hỏi lớn mà ngàn đời con người không ngừng đặt ra cho mình khi đứng trước những mâu thuẫn bất trắc của cuộc sống. Nghĩ cho cùng, mỗi người chỉ tìm thấy giải đáp cho câu hỏi ấy nhờ ánh sáng đức tin.
Đức tin là một sự sống. Khi thể hiện niềm tin bằng cuộc sống, tín hữu mới có thể an lòng là thần dân trong Vương quốc của Đức Kitô.Ánh sáng đức tin hướng dẫn nhân loại đến yêu thương và phục vụ. Khi con người biết sống cho người khác họ sẽ tìm thấy chính mình, thấy lý tưởng, thấy ý nghĩa cuộc sống. Sống cho hạnh phúc của tha nhân, đó là sự thật mà mỗi thần dân sống trong vương quốc Vua Giêsu được mời gọi thể hiện mỗi ngày.
Ở Vũng Tàu, có tượng Chúa Kitô Vua thật lớn đứng trên núi cao nhìn về biển đông, đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân ra khơi, nhìn lên tượng Chúa để xác định phương hướng. Khi gặp sóng gió, họ cũng hướng về tượng Chúa để cầu nguyện xin ơn.
Mừng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Vua niềm tin, chúng ta trọn một niềm xác tín, Chúa Kitô là trung tâm lịch sử cứu độ là chuẩn đích cho chúng ta định hướng với tin yêu và hy vọng. Hãy để cho Chúa chiếm trọn tất cả con người mình, tư tưởng, lời nói, việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền của sự sống và sự thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện, công lý, tình yêu và hoà bình (Kinh Tiền Tụng).
73. Vua Tình Yêu
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn)
Các bạn thân mến!
Các bạn đang nghĩ gì các thần tượng của các bạn.! Một diễn viên xinh đẹp, một ca sĩ tài năng, một minh tinh màn bạc giàu có, hay một cầu thủ bóng đá đa tình.v.v. Họ là ai? Họ sống như thế nào? Họ là người tốt hay xấu, đôi khi chúng ta cũng không biết. Ấy thế, chúng ta lại tôn sùng họ, coi họ như là ánh sao dẫn đường cho cuộc đời của mình. Vậy ai cho bạn sự sống trên cõi đời cha mẹ các bạn đúng không? Nếu bạn dành một chút thời gian lắng động để suy niệm và lắng nghe được tiếng Chúa trong lòng các bạn, thì bạn sẽ có câu trả lời đúng, và bạn sẽ có sự chọn lựa và hướng đi tốt cho cuộc đời bạn. Vậy, có bao giờ các bạn chọn Giêsu là thần tượng, là Đấng bạn tôn thờ và yêu mến hết lòng không.?
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Kitô là Vua. Một cái tên rất cao sang, uy quyền, vinh quang và thống trị theo cách nhìn của người đời. Điều này có thể làm cho chúng ta nghĩ đến các vua, các quan tham đầy quyền lực, thống trị, và bóc lột dân chúng. Trái lại, Đức Giêsu là vị Vua của Tình Yêu, Vua trên các vua. Vị Vua bị người đời chà đạp, bắt bớ, đánh đạp và sỉ nhục, đóng đinh và giết chết, mà chúng ta được nghe trong Tin Mừng hôm nay được diễn ra trong một quan tòa xét xử. Quan tòa Phi-la-tô hỏi Chúa Giêsu: "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" Đức Giêsu trả lời: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?". Ngài không phủ nhận điều Phi-la-tô gọi Ngài là Vua. Nhưng Chúa Giêsu đáp lại rằng: "Nước tôi không thuộc về thế gian này... Tôi sinh ra và đến trong thế gian là làm chứng cho sự thật. Ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi". Quan lại hỏi, sự thật đó là gì?.
Thưa các bạn! Để trả lời cho câu hỏi này, mỗi người chúng ta cần có câu trả lời cho chính mình. Tôi đang sống theo sự thật hay gian dối! Tôi đang sống trong tình thương hay hận thù! Nơi Chúa Giêsu, Ngài chứng minh cho sự thật, chính là chết trên cây thập giá, được người ta khắc cho với dòng chữ: “Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái”. Đây là lời nhạo báng và khinh bỉ của những kẻ bất lương dành cho Ngài. Sự thật, Ngài là Vua. Vị Vua không có vương miện trên đầu, nhưng thay vào đó là đội mão gai. Vị Vua không sống trong tòa lâu đài nghi nga tráng lệ mà là sinh ra nơi chuồng bò hôi tanh, lạnh lẽo, và sống ẩn dật nơi một làng quê nghèo hèn. Vị Vua không có thẩm phục, tước vị uy quyền mà là Người quỳ xuống để rửa chân cho các môn đệ. Vị Vua đi với người tội lỗi và sống với người nghèo khổ, chăm sóc người già nua, bệnh tật và ốm đau. Tất cả những điều đó không chứng minh đủ cho chúng ta rằng, Ngài là Vua Tình Yêu sao! Có vị vua nào ở trần gian này chết thay cho chúng ta không? Có thần tượng nào dám hy sinh và cho chúng ta sự sống không.? Chỉ có tình yêu Giêsu. Ngài đã làm chứng cho sự thật về tình yêu của Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại. Sự thật đó không dừng lại qua cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá mà là dẫn đến vinh quang Phục Sinh của Đức Kitô. Trong ngày quang lâm chúng ta sẽ được chứng kiến vinh quang Nước Trời. Vì Ngài đã nói: "Nước Tôi không thuộc về thế gian này." Trong sách Khải huyền viết: "Đức Giêsu là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số người từ cõi chết trỗi dậy... Ngài yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta" (Kh 1,5-8). Ai tin sẽ được cứu rỗi. Vậy chúng ta còn nghi ngờ gì nữa mà không dám sống cho sự thật, Chúa Giêsu đã nói và chứng minh cho chúng ta bằng cái chết và phục sinh của Ngài.
Các bạn thân mến! Các bạn cùng tôi hãy sống cho chân lý và sự thật nơi thế gian, hãy bỏ đi những thứ vô thần đang lôi kéo chúng ta ra khỏi Thiên Chúa và Giáo Hội. Hãy thức tỉnh và lắng nghe Lời Chúa mời gọi, các bạn sẽ bước đi trong niềm vui, hân hoan, vui sướng và hạnh phúc, vì có Chúa ở cùng các bạn, Ngài sẽ cho chúng ta niềm hạnh phúc và sự sống bất diệt hôm nay và mai sau. Tin vào tình yêu Giêsu, chúng ta sẽ không bị thất vọng.
Lạy Vua Giêsu, Ngài là Vua của Tình Yêu, là Đấng con tôn thờ, là Đấng yêu thương hết mọi người, và ban bình an cho chúng con, vì không có vị vua nào trên trần gian có thể chết cho con, mang lại sự sống cho chúng con, nhưng chỉ có nơi Ngài, con có nguồn vui, sự sống và hạnh phúc đich thực. Amen.
74. Chú giải của Noel Quesson.
Đây là Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ. Sau diễn từ cuối cùng quan trọng trước công chúng trong đó Đức Giêsu loan báo rằng, giữa “thời tai họa”, Người sẽ đến quy tụ toàn thể loài người để hưởng “một mùa hè tươi đẹp” Đức Giêsu đề cập đến cái chết của người và Người bước vào cuộc thương khó: Đó là phần kết và là đỉnh cao của “Tin Mừng” theo Thánh Máccô, mà chúng ta đã đọc suốt năm nay.
Chúa nhật cuối cùng này, chúng ta thay đổi thánh sử. Đây là một trang Tin Mừng của Thánh Gioan, nhưng đúng ra chúng ta vẫn ở trong cùng một mạch văn cũ, là trong cùng một kết luận. Thánh Gioan chỉ đưa ra tước hiệu là Vua trong cuộc thương khó, vừa đau khổ vừa vinh quang. Bỗng nhiên, liên tiếp ông nói về “Vua”, “Vương quyền” (Ga 18,33.36.37.39; 19,3.12.14.15.19.21) nhưng đó là một ông Vua bị đóng đinh mà vương miện của Người là những gai nhọn. Vậy thì rõ ràng là “Vương quyền” của Đức Giêsu ở trên một bình diện hoàn toàn khác với bình diện chính trị.
Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: “Ông có phải là vua dân Do thái không?
Đức Giêsu bị buộc tội. Người bị ra tòa. Phiên xử này là phiên xử danh tiếng nhất trong mọi thời đại!
Thẩm phán là ông Philatô, lãnh tụ của đạo quân La Mã đang chiếm đóng. Ông là viên toàn quyền của một đế quốc đã từng đô hộ và để dấu ấn trên thế giới. La Mã lúc bấy giờ ngự trị nước Ý, Pháp, Tây Ban ba, Anh và một phần nước Đức, Ao, Nam Tư, Rumani, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Xyri, Libăng, Palextin, Ai Cập, Li bi, Tuynidi, Angiêri, Ma -Rốc. Hoàng đế lúc bấy giờ là Tibêriô, thừa kế của Augustô. Philatô là quan toàn quyền có nhiệm vụ chận đứng những vụ nổi loạn thướng chớm nở trong dân Do Thái. Người ta treo lên thập giá người Dêlôtê ngoài cổng thành. Hàng ngàn người đã bị treo lên thập giá, để áp đặt quyền lực của La Mã.
Bị cáo hôm đó; đối với Philatô là một “ông Giêsu nào đó” Mà cách đây ba năm chỉ là một anh thợ mộc giản dị và âm thầm tại Nagiarét, một thôn làng nhỏ, chính quyền cũng không biết tới họa chăng mới có một đội tuần tiễu đi qua.
Tôi nhìn ngắm hai người đối diện; Philatô và Chúa Giêsu, quan tòa và bị cáo.
Đức Giêsu hỏi lại ông ấy.
Thật là một điều quá đáng? Bị cáo bây giờ lại “hạch hỏi quan tòa”. Có phải vai trò bị đảo ngược không? Táo bạo thật, người bị cáo đáng thương! Người ấy là ai vậy?
Đức Giêsu đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?
Đức Giêsu thật tuyệt vời. Người biết rằng quan tòa này là toàn quyền. Tuy nhiên, Chúa muốn ông có một tương quan cá nhân, cố dẫn ông ra khỏi một cuộc tranh luận pháp lý, để bày tỏ một lập trường của riêng ông, “này, ông Philatô, có phải chính ông nói rằng tôi là Vua không?”. Phần lớn các vấn đề của thế giới kỹ thuật, hệ thống hóa, hành chánh hóa của chúng ta có lẽ đang nằm ở trong thái độ trên đây của Đức Giêsu, một con người đang- cố thoát khỏi mối liên hệ “quan tòa - bị cáo” để bước sang tương quan “người và người”. Chúng ta không ngừng đóng những vai trò” và ưa đeo mặt nạ: Chủ - thợ, y sĩ - bệnh nhân, thông gia - khách hàng, trợ lý xã hội với người được trợ giúp linh mục - con chiên, cha mẹ - con cái, thầy dạy - học trò, Giáo Hội giáo huấn và Giáo Hội thụ huấn. Này Philatô, hãy bỏ mặt nạ ra! Hãy nhìn thẳng vào mặt Ta. Ông hãy nói, ông nghĩ gì về Ta? ông đừng trả lời những bài đã học ở kẻ khác. Chính ông phải có lập trường. Chính ông phải “tuyên xưng Đức tin”.
Ông Philatô trả lời: “Tôi là người Do thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?
Ta cảm thấy quan tòa hơi bực mình. Ông ta có ý tiến công. Ông ta khước từ không muốn bị kêu gọi bước vào lương tâm mình. ông quyết định trở lại với vai trò, với “mặt nạ” của mình. Tôi không phải ngồi đây để nói tôi nghĩ gì mà là để xử vụ án. “Ông đã làm gì?” Đức Giêsu đã cố gặp “một người”. Nhưng Philatô đóng vai trò “một nhân vật” Dù sao thì Philatô cũng đang “thống trị “, chính ông mới có uy quyền. Người thợ ở làng Nagiarét không thể có lý trước mặt César. Ai có thể nói hôm đó rằng, không phải là César, với gót giày của đạo quân bách chiến bách thắng, sẽ trở nên khuôn mẫu cho thế giới mai sau... nhưng lại là anh thợ mộc thấp bé, bị khinh khi. Từ người thợ mộc này sẽ phát sinh một nhân loại mới cho nhiều ngàn năm.
Đức Giêsu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này
Đức Giêsu không trả lời câu hỏi của quan tòa “ông đã làm gì?”. Chính Đức Giêsu không có ý thắng người đối thoại nhưng chỉ hướng cuộc đối thoại theo đề tài mà Người muốn bàn cãi.
Đức Giêsu giải tỏa mọi sự hiểu lầm về tước hiệu “Vua” mà Philatô đang tìm cách điều tra ít nhất có ba cách làm “Vua”. 1. Vua theo nghĩa chính trị, theo kiểu La Mã: Người ta thống trị kẻ khác bằng cách nô lệ hóa họ.
2. Vua theo nghĩa Thiên sai, theo kiểu mong đợi của dân Do Thái: Một người thuộc dòng dõi Vua Đa-vít chính thức lên ngôi, và chiến thắng kẻ thù của Israel, của Chúa bằng cách đè bẹp chúng.
3. Sau hết, Vua theo cách của Đức Giêsu: Một vương quyền huyền bí, không ép buộc ai, không đè bẹp ai “bạn có muốn theo tôi không?” “Các bạn cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Một vương quyền mà lại để “Vua” bị “Giao nộp” cho kẻ thù mà không kháng cự một tổng thống mà không có “vê binh” để bảo vệ mình, không có cận vệ để bao bọc trước đám đông. Một vương quốc không quân đội, không thiết giáp không hỏa tiễn.
(Một lãnh tụ Xô Viết trước kia đã hỏi một cách ngây ngô xem Đức Giáo Hoàng có được bao nhiêu sư đoàn thiết giáp!)
Đức Giêsu luôn hành động như Đấng có “Toàn quyền”: Người đã đuổi quỷ ra khỏi con người, đã đánh bại sự dữ, đã chế ngự biển khơii đang xung động, đã đổi mới cách giảng dạy Luật Do Thái với một uy quyền không ai sánh được. Nhưng trong khi làm như vậy, Người đã không bao giờ cưỡng bức ai.
Chúa là vị Thầy đã để cho chúng ta được hoàn toàn tự do, mà còn tự “Giao nộp” để cho chúng ta tấn công Người. (Tôi suy niệm về từ “Giao nộp” mà chính Chúa đã dùng ở đây). Đức Giêsu là chính dung mạo của Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (2 Cr 4,4). “Kẻ nào thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,8-11; Cl 1,15). Không ai đã thấy được Thiên Chúa, nhưng Con Một đã mạc khải Người cho chúng ta” (Ga 1,18). Trong nội dung rao giảng của Người được ghi lại trong ba Tin Mừng. Nhất lãm, Đức Giêsu đã không ngừng nói về “Nước Trời”, “Nước của Thiên Chúa”, nhưng đó không phải là một vương quốc như những vương quốc trần thế.
Đó là một vương quốc ẩn dật như một hạt cải nhỏ bé sẽ trở nên một cây lớn, như một nhúm men, người đàn bà trộn vào bột, như hạt lúa mì chết đi trong lòng đất để mang lại bông hạt. Đức Giêsu là “Vua”, vâng, nhưng theo cách của Thiên Chúa. Và rõ ràng Thiên Chúa không phải như chúng ta tưởng tượng Thiên Chúa “trị vì”, Thánh Vịnh đã hát lên như thế (Tv 46,9; 54,20; 58,14; 92,1; 96,1; 98,14; 145,10) và Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha “Xin cho Nước Cha trị đến”. Thiên Chúa không đè bẹp kẻ thù của Người. Thiên Chúa không bắt buộc con Người phải tin nơi Người. Người cho mặt trời mọc lên trên cả người công chính lẫn người bất lương, trên kẻ ác cũng như người lành, trên người vô thần cũng như trên các tín hữu (Mt 5,43-48). Thiên Chúa yêu thương những người không yêu thương mình mà Người yêu cầu chúng ta cũng làm như vậy. Người không phải là “Vua”! Không, tuyệt đối không phải là “Vua”! Người không giống bất cứ một ông Vua nào của trần gian.
Nhưng không! Nước Tôi không thuộc về thế gian này.
Sau khi đã phân biệt rõ ràng vương quyền của Người với tất cả vương quyền khác, bây giờ Đức Giêsu có thể tuyên bố Người là Vua..., bởi vì từ bây giờ trở đi không ai có thể hiểu lầm về ý nghĩa của vương quyền nữa. Vương quyền này không dính líu gì với những quyền lực dưới thế gian này.
Người quả quyết, Vương quyền này từ “nơi khác” đến. Người cảm thấy không cần nói rõ “nơi khác” mà từ đó Người đến. Người ta có thể giết Chúa, nhưng Chúa vẫn thắng, vẫn hiển trị. Cái nghịch lý của “nơi khác” thần thiêng này là Vinh quang của Người không thể bị suy giảm bởi những thử thách hay thất bại trên thế gian. Vương quyền (thần thiêng!) của Người không tránh cho Người phải chết về mặt thể xác. Vinh quang của Người là vinh quang được “nâng lên khỏi mặt đất” trên thập giá, và lên ngự bên phải của Chúa Cha.
Ông Philatô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?
Trên môi miệng của Philatô, đại danh từ “ông” được đặt sau động từ, trong bản văn Hy Lạp rất có ý nghĩa: “Vua ông”.
Sao? ông, người mạo danh, ông, mà người ta sắp xóa bỏ bằng một nét bút. Ông là người; mà tôi, sắp cho tiêu diệt ông, là người tù đáng thương không thể tự vệ được:
Đức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật.
“Đã đến”. Người đã nói “Tôi đã đến”, từ một ‘nơi khác’, đã đến thế gian.
Trong bài đọc 2 được đọc trong Chúa nhật này, chúng ta đã nghe Gioan định nghĩa Đức Giêsu như là “nhân chứng trung thực”. Chữ “Chứng nhân” này dịch từ chữ Hy Lạp “Martyr” do đó có chữ Pháp là “Martyr” có nghĩa tử đạo.
Người đã trả giá cho vương quyền của Người! cho việc làm chứng của Người!
Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi
Vậy thì vương quyền của Chúa Kitô Vua hệ tại điều gì? Đó là quy tụ lại để cùng lắng nghe “một giọng nói” tất cả những ai thuộc về sự thật”. Người “trị vì” nhờ Đức tin mà chúng ta dâng cho Người, nhờ thái độ tín thác mà chúng ta đặt vào Lời của Người, nhờ nếp sống hằng ngày của chúng ta luôn phù hợp với “Tiếng nói của Người. Không ai có thể thoát khỏi “Vương quyền” này.
Là con người, chúng phải chọn lựa thái độ theo hay chống lại “Sự thật”. Làm vinh danh Chúa Kitô Vua, không phải là đốt hương trầm cho Người, không phải là tổ chức những lễ long trọng mừng Người, giống như những danh vọng hư ảo của các Vua Chúa trần gian. Nhưng chính là lắng nghe tiếng nói của Người, và làm sao cho cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp và xã hội hoàn toàn phù hợp với “Tiếng nói đó”
75. Vương quyền của Đức Kitô -- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đức Giêsu Vua, nhưng khác với vua trần thế.
Ta đang tham dự vụ án xử Đức Giêsu trước toàn án Rôma, Giêrusalem trong dinh tổng trấn Philatô ông làm tổng trấn xứ Giuđê từ năm 26 đến 36.
Ngay lúc đầu cuộc thẩm vấn do Philatô đứng xét hỏi, phía nghịch đã nêu lên cáo trạng chống lại Đức Giêsu, tìm cách chuyển vụ án sang lãnh vực chính trị để đạt được mục đích của là lên án tử hình cho Đức Giêsu. Vậy quan tổng trấn hỏi: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”.
X. Léon-Dufour giải thích: “Cần lưu ý rằng, dưới thời đế quốc Roma cai trị, dân Do Thái thường xen lẫn ý nghĩ chờ đợi Đấng Mêsia với lòng mong mỏi độc lập cho quốc gia, do Đấng Mêsia thiết lập (Cv 1,6) và khởi đầu một thời đại mới. Trong Tin Mừng thứ bốn, ta thấy hai giai thoại phản ánh bầu khí này. Đó là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông dân chúng Galilê đã muốn lấy “vị Ngôn sứ” để tôn lên làm vua; bấy giờ Đức Giêsu phải lên núi mới thoát khỏi (Ga 6,14-15). Rồi sau khi Chúa cải tử hoàn sinh cho Ladarô, niềm phấn khởi của quần chúng đối với Giêsu biểu lộ bằng việc từng đoàn lũ cầm cành vạn tuế, biểu hiệu của thắng trận, đi đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, tung hô Ngài là “Vua Israel”, vì họ coi Ngài như vị cứu tinh giải phóng quốc gia. Bấy giờ Chúa đã tỏ rõ sự bất đồng tình của Người và tố giác sự ngộ nhận của cuộc đón rước bằng cách chọn một con lừa nhỏ để cỡi.” (“Lecture de l'evangile selon Jean”, tập IV, Seuil. 1996, tr. 82). Một lần nữa Đức Giêsu gạt phăng mọi hiểu lầm.
Trước hết, Chúa dùng một câu hỏi, truy tìm nguồn gốc của lời tố cáo này: “Ngài tự ý nói điều đó, hay những người khác đã nói với Ngài về tôi?”. Philatô nhìn nhận đó là cuộc tranh luận nội bộ của người Do Thái, nên trả lời: “Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?”.
- Sau đó, Chúa đã dùng câu trả lời phủ quyết. Nếu Ngài là vua, thì không theo kiểu cách của trần gian này, không theo kiểu cách các vua Amônê, là những người trị vì Israel trước khi đế quốc Rôma xâm chiếm. Nếu Ngài là vua, thì Ngài không phải là địch thủ của Xêda, và vương quyền của Ngài không có màu sắc chính trị; nó không thuộc thế trần: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”.
A. Marchadour quảng giải: “Nước Chúa vừa không phải như dân Do Thái trông đợi, cũng không như Philatô hình dung, cũng không như nước của loại người thống trị nhờ sức mạnh quân đội và nhờ cuộc chinh chiến mở rộng biên cương. Nước của Người đến từ nơi khác, đến từ “xứ sở” nơi Đức Giêsu “sinh ra”, và từ đó Người “đã đến thế gian”, vì Người đã hiện hữu từ muôn thuở. Nước ấy được thiết lập không nhờ sức mạnh, nhưng nhờ trình bày lời mặc khải. Những ai đến nhận Lời thì trở nên công dân của Vương quốc, không chỉ ở cuối đời, mà ngay lúc này” (“L'evangile de Jean”, Centurion, trang 227).
2. Đức Giêsu là vua, nhưng để làm chứng cho chân lý.
Bởi vì Philatô gạn hỏi: “Vậy ông là vua ư?”, Đức Giêsu phá tan mọi hiểu lầm bằng một câu xác quyết long trọng. Sứ mạng của Người nơi trần gian là “làm chứng cho chân lý” (từ “làrn chứng” trong tiếng Hy lạp là “martyr”: tử đạo). Chân lý này chính điều đã được nói đến trong chương Nhập đề của Tin Mừng thứ bốn (“Người Con duy nhất đầy ân sủng và chân lý”): Chân lý về Thiên Chúa, Chân lý cho biết Thiên Chúa là ai: Thiên Chúa là tình thương, Thiên Chúa cứu độ, mà Đức Giêsu là Người mạc khải, Người đã đến trần gian để đề nghị cho con người ơn thông hiệp vào đời sống thần linh. Người làm chứng bằng hành động, đến mức đổ máu để đóng ấn cho việc làm chứng. Đức Giêsu không chỉ đến cứu dân tuyển chọn mà thôi, nhưng để cứu “bất cứ ai thuộc về chân lý”.
Sứ mạng của Người, và có thể nói vương quốc của Người, đang thuộc về thế gian này, nhưng nó hoạt động ở thế gian này, trên thế giới này: nó mặc khải cho bất cứ người nào Chân lý về Thiên Chúa. Người làm việc đó ở đâu, bao giờ? Khi mà Người được nâng lên khỏi đất, được ngự trên tòa thập giá. Mọi người rồi phải tỏ rõ lập trường: “ Hễ ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi” Nếu Đức Giêsu thi hành quyền bính, thì chỉ bằng cách từ trên trời cao,thập giá Người lôi kéo người ta đến bằng đức tin và lòng yêu mến. Người không cai trị, nhưng chỉ mời gọi người ta tự nguyện đi theo người. Ta không thể lẩn trốn như Philatô, bằng cách đặt câu hỏi: Chân lý là gì?” (“Célébrer” tạp chí của Trung tâm phụng vụ toàn quốc, số 243, trang 42).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Đức Giêsu, một vị vua đảo ngược mọi điều người ta suy diễn.
(x. Léon-Dufour, trong “Lecture de l'evangile selon St Jean”, cuốn 4, Seuil, trang 21).
Phụng vụ tung hô Đức Kitô là “Vua Vũ Trụ”, một danh xưng xứng hợp, đoạn văn của Gioan là “một cuộc hiển linh của vi vua” Nhưng Đức Giêsu là vua theo nghĩa nào, đó là điều mà Gioan đã minh định bằng nhiều cách. Vị vua của dân Do Thái đến theo truyền thống của vua Mêsia mà Giao ước thứ nhất đã trông đợi, nhưng đã chu toàn việc chờ đợi này trên một bình diện khác. Suốt cuộc đời công khai của Người, vương quốc mà Đức Giêsu loan báo, thì thuộc về một trật tự khác. Lúc này, đối diện với quan tổng trấn Rôma, Đức Giêsu cả quyết rằng vương quốc của Người không đến từ thế gian, và nó chủ yếu là để làm chứng cho chân lý. Vị vua là “người”vừa bị đánh đòn, bị khoác áo đỏ và đội vòng gai làm triều thiên. Vị vua bị trưng bày như vua hề này ngày nay có còn cho phép người ta khoác lên vai tấm vải lừa dối, ảo tưởng nữa không? Vị vua này bị treo lên thập giá, bị mọi người ruồng rẫy. Vương quốc của Người được tước bỏ mọi giới hạn địa lý hoặc dân tộc: bởi vì “chân lý” mà Người công bố, liên quan đến mọi người. Gioan đồng quan điểm với Matthêu, tác giả trong dụ ngôn về cuộc phán xét cuối cùng chỉ rõ, người ta có thể gặp vị vua “ ấy ở đâu: Vua vinh quang phán: “Điều gì anh em làm cho một người nhỏ nhất trong các người thân của Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40): để có thể tìm thấy “vua”, tôi cần phải tìm nơi người nghèo mà tôi gặp. Giêsu, người Nagiarét, vua dân Do Thái: bản án treo trên đầu thập giá mang tầm vóc toàn cầu. Trong câu 4,22 Đức Giêsu đã cả quyết với người phụ nữ Samari rằng, ơn cứu độ đến từ dân Do Thái. Trưng bày danh hiệu “vua dân Do Thái” phản ánh theo cách thế của Chúa sự tin tưởng của Người. Như vậy là đã công bố cho toàn cầu rằng lời hứa về “vị vua” đã được thực hiện: nó thành hiện thực nơi Đức Giêsu, người Nagiarét: ở nơi Người, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với loài người đã được đóng ấn.
2. Đức Giêsu, phản vua (L'antiroi)
“Nước tôi không thuộc về thế gian này”, Đức Giêsu còn nhắc lại cho những người lính binh thánh giá và những. kẻ ham hố của mọi thời đại. Nước tôi không thiết lập do việc trưng cầu dân ý, cũng không do đi chinh phục. Nó không theo lề thói trần thế cũng không tuân theo luật lệ thế gian. Nó không tuân theo bắt cứ tiêu chuẩn tự phụ nào. Nó chỉ tuân theo chân lý, nó luôn là nó.
Philatô đã không hiểu gì. Những thượng tế cũng vậy, còn các môn đệ, những người đã tranh cãi để chiếm địa vị cao vì mơ tưởng ngày vinh quang, thì cũng không hiểu bao nhiêu.
Ngày nay cũng vậy, chúng ta còn cảm thấy khó hiểu được thái độ của Đức Giêsu, và còn thấy khó hơn để chấp nhận. Đức Kitô một phản vua, giống như người ta nói về phản-anh-hùng (antithéros) hoặc phản-siêu-sao (antivedettes). Người rất gần gũi, đơn giản và thân thiện.
Lòng tôn kính đối với Người không phải là tôn kính bằng sự vật và lời nói, cũng không chỉ là những định ước lễ nghi. Nó phải là tự trái tim. Quyền lực của Người là quyền lực của tình thương là sức mạnh là sức mạnh của tha thứ. Chinh phục của Người là mời gọi, và các môn đệ trung thành nhất của Người là những ai làm chứng cho chân lý... giống như Người.
Thành công của Người, cũng như những thành công của các bạn hữu Người, thường mang bộ mặt thất bại thảm thương. thập giá và máu, bạo hành và gông cùm. Tin Mừng bị nghi ngờ, phúc thật bị từ khước, canh tân và sám hối bị chê bỏ. Đức Kitô, là đầu của thân thể, không phải là cái đầu đột mão triều thiên, và Hội Thánh là thân thể của Người cũng không thoát khỏi bị bầm dập và chê cười. Cái thân thể này, nếu muốn là thân thể, chỉ cần làm một dấu lạ, như một mặt nạ gây phá sản che giấu sự trống rỗng và mời gọi người ta tôn thờ vẻ bề ngoài - chân lý bị lừa gạt.
Vương quyền của Đức Kitô nẩy mầm ở trong tâm trí và trong tâm hồn. Những cột cái nâng đỡ vương quốc là những người lính vô danh, những người trộm cướp bị treo thập giá, và những đại đội trưởng ngoại giáo. Cuộc sắc phong diễn ra tại Golgotha.
76. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Nước tôi không thuộc chốn này”: Chữ “chốn này” (enteuthen) tương đương với thế gian này tiếng mà Gioan tránh lặp lại lần thứ ba. Nhóm chữ “thế gian này” gần giống nhóm chữ “bởi đất” (3,31), “có tính cách trần thế” và tương đương với “phàm tục”, “có đặc tính của thế gian”; nên người ta cũng dịch được: “Vương quốc tôi không có tính cách trần thế”. Xin nhớ tiếng Aram rất ít tĩnh từ.
“Để làm chứng cho sự thật”: Tư tưởng Thánh Kinh đã nhận ra mối tương quan giữa khôn ngoan và vương quyền (x. 2 Sm 14,17-20). Vương quyền cánh chung mà Chúa Giêsu khai mạc trong thế gian, ngay lúc này, sẽ không dùng đến bạo lực; theo thánh ý của Cha, Đấng đã giao phó sứ mệnh cho Người. Vương quyền đó sẽ được thể hiện nhờ việc tiếp đón sự thật của Thiên Chúa biểu lộ trong Người, lời nhập thể (x. 14, 6; 3, 11.32; 8, 13-14.46).
“Ai thuộc về sự thật”: So sánh với 7, 17; 1 0, 26 và nhất là với 8, 47 (“Ai bởi Thiên Chúa thì nghe lời Thiên Chúa”), câu mà chữ bởi Thiên Chúa” đối ứng với chữ “thuộc về sự thật” của chung ta: ai thuộc về sự thật là bạn hữu của sự thật.
KẾT LUẬN
Vương quyền mà Chúa Kitô gián tiếp đòi hỏi khác biệt cách sâu xa với vương quyền mà các mục tiêu và phương tiện đều thuộc phạm vi thế gian; vương quyền Người không cần đến sức mạnh và phương pháp thông thường của hoạt động chính trị. Vương quyền Người, Người nhận từ Thiên Chúa.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Trong bản văn này, chúng ta chứng kiến giai thoại sẽ đưa đến việc Philatô kết án tử hình cho Chúa Giêsu. Để quán triệt bản văn, cần nhắc lại rằng Philatô và Chúa Giêsu không đứng trên cùng một bình diện. Khi thốt lên tiếng “vua”, Philatô nghĩ đến một vương quyền chính trị trần thế. Còn lúc tự xưng là vua, Chúa Giêsu nói đến vương quyền thiên sai của Người. Phải xác định rằng Người tự xưng là Vua Messia theo một nghĩa vô cùng rộng lớn hơn ý nghĩa được quan niệm bởi các thủ lãnh dân Do thái, những kẻ chỉ thấy trong Đấng Messia tương lai một vì vua trần tục. Qua câu hỏi “Tự mình ông, ông nói thế hay có ai khác đã nói với ông về tôi?” Chúa Giêsu muốn cho Philatô biết Người chẳng phải là vua theo cách ông ta tưởng nghĩ, và càng không phải là vua theo cách người Do thái quan niệm. Vì thế, sau câu đáp của Philatô. Chúa Giêsu nói: “Vương quyền không thuộc thế gian này”. Thế rồi ta đi đến diễn tiến kỳ lạ sau đây: người Do thái muốn làm cho Philatô kết án Chúa Giêsu, bởi vì Người tự xưng là đến từ một thế giới khác, nghĩa là từ Thiên Chúa. Vì đó không phải là nguyên do kết án đối với Philatô, nên họ đưa ra một cớ khác, là Người đã tự xưng là một vua trần thế chống lại hoàng đế Rôma, điều mà Chúa Giêsu tuyên bố là không phải. Chúa Giêsu bị kết án do quyền tài phán Rôma dưới danh nghĩa một vương quốc trần thế, trong lúc Philalô biết Người từ chối vương quyền này.
2. Vương quyền của Chúa Giêsu là một việc làm chứng cho sự thật. Chúa Giêsu không phải là vua thuộc thế gian này nhưng là vua trong thế gian này, và trong thế gian này người làm chứng cho một thực tại thần linh. Quả thế, ở đây cần phải nắm vững ý nghĩa chữ “sự thật”. Sự thật, theo Tin mừng Gioan, không phải là một tri thức thuần lý phù hợp với thực tại đâu. Nó là thực tại của Thiên Chúa đến trong con người. Con người cảm thấy nó xâm nhập vào trong tất cả hữu thể mình và trong toàn cuộc sống. Nhưng con người cũng còn phải tiếp nhận. Việc tiếp nhận này không chỉ bằng lý trí: nhưng còn bằng tâm hồn, ý chí, toàn thể con người ta. Chúa Giêsu làm chứng cho sự thật vì, xét như là kẻ được xâm nhập và biến đổi bởi kinh nghiệm về thần linh, người đề nghị tất cả hãy đi vào sự thông hiệp có sức thần hóa với Người, Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu là vua khi, trong một nhân loại rất thường chống nghịch Thiên Chúa, con người đón tiếp “chứng” của Người, nghĩa là tin Người và hết lòng để cho Người thần hóa.
3. “Ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Ta...”. Thuộc sự thật là gì? Đó là sẵn sàng đón tiếp thực tại thần linh mà Chúa Giêsu đem đến cho con người. Trong thực tế chúng ta hôm nay, điều này hệ tại thành thật đối với Thiên Chúa Đấng phán bảo qua Thánh Kinh và Giáo Hội, sống phù hợp với những gì Thiên Chúa mặc khải cho và theo Chúa Giêsu mà ta gặp thấy trong Tin Mừng, trong Giáo Hội, trong các nhiệm tích, trong anh chị em.Vương quyền của Chúa Giêsu không giống chút nào với cách thống trị của nhân thế, nhưng nó trở nên hữu hiệu khi con người cá nhân và tập thể, trong cuộc sống thực sự hiểu rằng mình đến từ Thiên Chúa và đi về cùng Thiên Chúa, cho nên hết. sức ra công để nhân loại nhận biết sự thật nhờ những nét đẹp nhất của khuôn mặt nó, là những nét của Tình Yêu.
4. Chúa Giêsu là hiện thân của sự thật vốn tự mặc khải, sự thật của lòng trung thành và thương xót của Thiên Chúa; Chúa Giêsu bị vu cáo, đánh đòn, đội mão gai và bị lưỡi đòng của thế gian này đâm thủng là hiện thân của sự thật, của thực tại Thiên Chúa, của sự thật chấp nhận số phận đớn đau, của sư thật tự mặc khải cách vinh thắng oai hùng khi cam lòng chịu sự chế diễu của thế gian dối trá. Chúng ta chớ bao giờ quên rằng Vua của chúng ta là một vị vua chỉ có vòng gai làm vương miện, chớ bao giờ quên rằng chúng ta là thần dân của một vương quốc không thuộc về thế gian. Nếu chúng ta có can đảm làm chứng nhân cho một vị vua và một vương quốc như thế trong trần gian này, thì những kẻ “thuộc sự thật” sẽ nghe lời chứng của chúng ta, và Chúa Kitô, Đấng đã bị treo lên trên thập giá, sẽ kéo họ đến cùng Người, và triều đại thanh bình vui tươi của Người sẽ được thiết lập trong tâm hồn chúng ta và trong tâm hồn anh em mãi mãi.
20/11 Chúa Giêsu xác định rõ ràng về sự sống lại
- Viết bởi Lc 20, 27-40
Chúa Giêsu xác định rõ ràng về sự sống lại.
Thứ Bảy tuần 33 thường niên.
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống".
Lời Chúa: Lc 20, 27-40
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ?"
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa".
Bấy giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa Người rằng: "Lạy thầy, Thầy dậy đúng lắm". Và họ không dám hỏi Người điều gì nữa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Đời này, đời sau
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Cuộc đời con người có vẻ như chấm dứt bằng cái chết.
Một triết gia Ðức bảo con người sinh ra để chết.
Cái chết là số phận của mỗi người,
nhưng nói chung ai cũng muốn sống.
Kitô giáo cho rằng con người sinh ra là để sống mãi.
Cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi vĩnh hằng.
Một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp.
Kitô giáo chỉ nhận có một cuộc đời ta đang sống.
Chính cuộc đời duy nhất này
định đoạt số phận vĩnh cửu của ta.
Không có một cơ hội thứ hai để làm lại.
Chính vì thế phải sống hết mình cho đời này
để đáng hưởng hạnh phúc đời sau.
Ðời sau mãi mãi là một mầu nhiệm.
Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục.
Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe.
Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau.
Cả những tín hữu cũng bị cuốn hút bởi vật chất,
và sống như thể chỉ có đời này.
Ðời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ.
Người thuộc phái Xađốc tin rằng sau cái chết
linh hồn con người vất vưởng như cái bóng nơi âm phủ.
Âm phủ là nơi tối tăm, buồn chán, thiếu sự sống.
Người Pharisêu lạc quan hơn, cho rằng
đời sau là sự kéo dài của đời này.
Người ta sống như trước, nhưng tràn trề hạnh phúc.
Ðức Giêsu vén mở cho ta phần nào bức màn đời sau.
Ðời sau khác hẳn đời này.
Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi,
nhưng sống như các thiên thần,
nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa.
Ðời sau là nơi không còn bóng dáng của thần chết.
Người ta thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh.
Toàn bộ con người được sống lại: cả hồn lẫn xác.
Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian,
nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu
để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn.
Trong tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời,
chúng ta nghĩ đến cái chết và đời sau.
Cái chết dạy tôi biết cách sống.
Ðời sau kéo tôi ra khỏi những hạnh phúc giả tạo,
và những nỗi khổ đau do mê lầm.
Tôi đang đi về đời sau
để gặp Ðấng mà tôi đã tin yêu suốt đời.
Tất cả cuộc hành trình đều phải hướng về nguồn cội.
Chúng ta đã được dựng nên cho Thiên Chúa,
và chúng ta còn khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi ra thăm nghĩa địa,
khi vào viếng phòng hài cốt,
con hiểu rằng mình phải có lòng tin lớn lao
mới dám nghĩ một ngày nào đó
những thân xác hư hoại này sẽ sống lại.
Con người trở về bụi tro,
nhưng bụi tro sẽ trở lại làm người,
vì con người sinh ra là để bất tử như Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
trần gian này quá đẹp
khiến con mải mê, quên mình là lữ khách;
thiên đàng lại xa xôi, chẳng có chỗ trong con.
Con loay hoay vun vén cho đời sống cá nhân,
như thể con sẽ sống mãi trên mặt đất.
Xin khơi dậy nơi con
niềm khát khao những điều cao cả.
Xin đừng để con
mãn nguyện với những cái tầm thường.
Ước gì Chúa cho con nếm chút vị ngọt ngào của trời cao,
khi con quên mình
để sống cho anh em trên mặt đất. Amen.
Suy niệm 2: Đời này – đời sau – đời đời
Con người thật hạn hẹp. Chỉ biết nơi mình ở. Trong một thời gian và một không gian giới hạn. Ngay điều ta biết cũng không trọn vẹn. Ngay trong bản thân vẫn còn nhiều điều ta chưa hiểu. Ví dụ ruột thừa để làm gì. Vì thế nói về đời sau lại càng nông cạn. Phái Xa-đốc đưa ra vấn nạn tưởng là ghê gớm. Nhưng họ chỉ là những kẻ ếch ngồi đáy giếng. Hôm nay Chúa mở ra cho họ một chân trời mênh mông của đời sau. Của Nước Trời. Đời sau là đời đời. Nước Trời là vĩnh cửu. Thiên Chúa là vô thuỷ vô chung. Và con người có đời sống khác đời sống thân xác chóng qua đời này. “Những người sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”.
Nếu hiểu được đời sau. Nếu biết giới hạn của đời này. Người ta sẽ sống khác. Như vua An-ti-ô-khô. Một đời tung hoành ngang dọc. Tự tung tự tác. Giết người không gớm tay. Xúc phạm cả Thiên Chúa. Coi mình là Thiên Chúa. Bắt mọi người thờ lạy. Chiếm đoạt đồ thờ phượng để sử dụng riêng tư. Nhưng đến cuối đời. Sức lực tàn tạ. Thất bại ê chề. Vua mới hối hận. Biết đời sống có hạn. Biết thế giới này mau qua. Mơ hồ nhìn thấy một chút phán xét đời sau. Bấy giờ vua mới hoảng sợ. Ân hận thì đã muộn: “Tôi tự nhủ: Tại sao giờ đây tôi phải điêu đứng khổ sở như thế này? Trước kia, khi đang cầm quyền, tôi hạnh phúc và được yêu mến biết bao!...Hồi tưởng lại những hành vi tàn bạo đó, tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến, và giờ đây sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn” (năm lẻ).
Hiểu biết chân lý về cuộc đời, những người tôi tớ của Chúa chuyên tâm sống theo luật Chúa. Và mạnh dạn làm chứng cho Chúa. Như Mô-sê và Ê-li-a. Thế lực trần gian có vẻ thắng thế. Các ngài bị tiêu diệt. Chịu nhục nhã. “Thi hài của các ngài sẽ nằm ở quảng trường của thành phố vĩ đại; thành phố ấy mang tên tượng trưng là Xơ-đôm và Ai –cập, ở chính nơi Chúa của các ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá”. Nhưng chỉ một thời gian sau. Ngày cùng tận của thế giới này. Sẽ khởi đầu thế giới khác. Các ngài sẽ sống lại. Sẽ được Chúa thưởng công vinh quang trên trời. “Rồi các ngài nghe một tiếng lớn từ trời bảo: ‘Hãy lên đây!’ Và các ngài lên trời trong đám mây, trước mắt thù địch của các ngài”(năm chẵn).
Đời này chóng qua. Rồi sẽ tới đời sau. Ở đời sau phúc hay hoạ sẽ là đời đời. Xin cho con hiểu chân lý này. Để biết chuẩn bị cho đời sau. Để được sống đời đời. Và biết rao truyền chân lý này. Đó chính là góp phần xây dựng thế giới.
Suy niệm 3: Có sự sống lại
Sự sống, thân xác và tất cả những gì con người có được, đều là những món quà Thiên Chúa ban tặng, do đó, phải được bảo toàn và trân trọng. Chính cung cách sống và hành xử của con người trong cuộc sống hiện tại định đoạt số phận tương lai của họ: được cứu độ hay bị trầm luân đời đời. Bởi vì cuộc sống của con người không kết thúc với cái chết của thân xác trên trần gian này; sau khi chết, thân xác và linh hồn con người mới bắt đầu cuộc sống tràn đầy hạnh phúc, một cuộc sống phục sinh, một cuộc sống hoàn toàn biến đổi.
Ðó cũng là sự thật Chúa Giêsu khẳng định khi trả lời cho một số người thuộc nhóm Sađốc, như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay.
Vào thời Chúa Giêsu, giới lãnh đạo Do thái chia thành nhiều nhóm khác nhau. Liên quan đến sự sống lại, số người thuộc nhóm Biệt phái thì tin rằng cuộc sống sau khi chết cũng giống như cuộc sống trước đó trên trần gian này, nghĩa là con người cũng ăn uống, buôn bán, sống đời vợ chồng, nhưng chỉ có sung sướng mà thôi; tuy nhiên, một số khác thì tin rằng cuộc sống sau cái chết là cuộc sống hoàn toàn biến đổi. Còn nhóm Sađốc thì không tin vào cuộc sống đời sau: đối với họ, chết là hết; họ dựa trên luật Do thái buộc người em phải lấy chị dâu để đảm bảo cho anh mình có con nối dõi tông đường, nếu người anh chết mà chưa có con. Họ đặt ra trường hợp bảy anh em nhà kia cùng lấy một người đàn bà và hỏi Chúa Giêsu: khi sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai? Chúa Giêsu khẳng định cuộc sống phục sinh hoàn toàn được biến đổi và không giống cuộc sống trên trần gian này như một số người Biệt phái tưởng nghĩ; do đó, mọi tương quan giữa con người với nhau cũng sẽ được biến đổi và tan hòa trong tương quan tình yêu thương của Thiên Chúa, cũng như mang sắc thái và chiều kích của tình yêu ấy, vì thế, mọi cách diễn tả và biểu lộ trong các liên hệ cuộc sống trần gian khi đó không còn ý nghĩa nữa.
Chúa Giêsu quả quyết có sự sống lại, nhưng Ngài không giải thích sự việc sẽ xẩy ra thế nào và khi nào sẽ xẩy ra biến cố sống lại, vì điều đó không quan trọng cho ơn cứu rỗi. Chẳng những có lời quả quyết của Chúa, chúng ta còn có một sự kiện cụ thể khác, đó là sự phục sinh của Chúa Kitô, đó là câu trả lời duy nhất cho thắc mắc của con người về sự chết, về sự sống lại và sự sống đời đời.
Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm tin vào sự sống lại và kiên trì hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Chân lý của đời sống đức tin
Vào cuối kinh Tin Kính, những đồ đệ của Chúa Giêsu tuyên xưng: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen".
Sự sống lại và sự sống đời đời là chân lý quan trọng cho đời sống đức tin. Nếu không có sự sống lại và sự sống đời đời thì đức tin của chúng ta còn có ý nghĩa gì nữa, và công việc nhập thể cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, không còn ý nghĩa nữa. Ðây là chân lý quan trọng nhưng khó tin và có thể có trường hợp xảy ra như đã xảy ra vào thời Chúa Giêsu, và cả những kẻ có niềm tin cũng bị vấp phạm không tin vào sự thật này nữa bởi vì nó không thể nào giải thích cặn kẽ được. Bởi lý trí con người lập luận theo đường lối tự nhiên, con người có thể chất vấn Thiên Chúa như những người Sađốc ngày xưa đã chất vấn Chúa Giêsu.
Có thể nói chúng ta cám ơn những người Sađốc vì nhờ vào vấn nạn của họ, mà chúng ta có được lời xác định rõ ràng của Chúa Giêsu về sự sống lại. Những người theo phái Sađốc là những kẻ thuộc hàng quí tộc và tư tế. Danh gọi Sađốc phát sinh từ tên riêng của vị thượng tế trong đền thờ thời vua Salômôn. Bộ luật duy nhất mà những người thuộc phái Sađốc chấp nhận là bộ Tora của Môisen, được ghi lại trong năm cuốn sách đầu tiên của Kinh Thánh mà thôi. Trong bộ Ngũ Thư thời Môisen, sự thật về sự sống lại và về sự sống đời đời chưa được mạc khải rõ ràng. Mãi về sau, tức là vào thời của Maccabê và tiên tri Daniel, tức khoảng thứ kỷ thứ 2 trước Chúa giáng sinh, thì sự thật về sự sống lại mới được quả quyết rõ ràng. Một đàng thì chưa được mạc khải rõ ràng, và đàng khác lại có luật nối dòng của Môisen cho trường hợp cưới vợ của anh khi anh mình chết đi mà không có con, nên chúng ta không lạ gì khi thấy các nhà thông luật, trưởng giả và tư tế không tin có sự sống lại, đã dùng luật Môisen chống lại sự sống lại. Trong dòng lịch sử cũng không thiếu những người chối bỏ chân lý về sự sống lại. Vào thời đại của chúng ta hiện nay cũng vậy, cũng có những triết gia và đôi khi tệ hơn nữa, những thần học gia lại tuyên bố không tin hay ít ra là nghi ngờ sự thật về sự sống lại.
Trên bình diện này, mọi lý luận chỉ dựa trên công sức trí khôn con người, thì không thể nào dẫn dắt đến sự nhìn nhận niềm tin vào sự sống lại. Chúa Giêsu đã quả quyết mạnh mẽ về sự thật có sự sống lại, nhưng Ngài không giải thích cho biết sự việc sẽ xảy ra như thế nào và cũng không nói về thời gian khi nào sẽ xảy ra biến cố sống lại. Có thể là hai câu hỏi: như thế nào và vào lúc nào, là hai điều không quan trọng cho ơn cứu rỗi, nên Chúa Giêsu đã không giải thích, không mạc khải gì thêm. Không phải chỉ có lời quả quyết suông của Chúa Giêsu mà thôi, nhưng chúng ta còn có sự kiện cụ thể khác nữa, đó là chính sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Chúa Kitô Phúc sinh là câu trả lời duy nhất cho thắc mắc của con người về cái chết, về sự sống lại và sự sống đời đời.
Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm tin này.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Kiếm cớ gây chuyện
Đức Giêsu đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa vì là con cái sự sống lại.” (Lc. 20, 34-36)
Những thượng tế, luật sĩ và các thủ lãnh dân chúng tìm cách tiêu diệt Đức Giêsu. Trước tiên, họ phải làm Người mất tín nhiệm trước mặt dân chúng. Vì Đức Giêsu hay dậy dỗ trong đền thờ, đây là dịp thuận tiện để họ đặt hàng chuỗi câu hỏi nóng bỏng để Người trả lời đưa đến chỗ gây chia rẽ thính giả và làm Người mất tín nhiệm.
Câu hỏi cạm bẫy
Phái Sa-đu-sê đại diện giai cấp quý tộc và chính trị, họ xa cách dân chúng và chỉ dựa vào Ngũ kinh. Họ không tin sự sống lại do sách Đa-ni-en đề xướng ra. Cuộc tranh luận về vấn đề này khá gay gắt. Ba mươi năm sau Đức Giêsu, thánh Phao-lô đã dùng vấn đề sống lại làm tấm bình phong gây hỏa mù giữa biệt phái và Sa-đu-sê.
Đức Giêsu dạy về nước trời và sự khẩn thiết phải ăn năn trở về để được sống đời đời. Giáo huấn này mất giá trị nếu người ta chết là hết. Sa-đu-sê đặt vấn nạn có ý chế nhạo kẻ tin vào sự sống lại và họ hy vọng đánh bại giáo huấn của Đức Giêsu.
Đó chỉ là trái pháo tịt ngòi
Đức Giêsu luôn luôn từ chối lối trả lời theo khôn ngoan thế gian, nhưng Người đứng trên bình diện khác để trả lời. Câu chuyện của Sa-đu-sê đặt ra là giả tưởng, không có thật. Sự sống đời sau khi sống lại không như nhiều người Do thái tưởng là sự nối tiếp sự sống đời này. Nhưng, “những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ gả chồng, quả thật họ không thể chết nữa, vì họ được giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa”.
Đức Giêsu còn trưng dẫn sách Ngũ kinh như ông Mô-sê đã gọi: “Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-sa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp, Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Ngài, tất cả đều đang sống”. Thiên Chúa là sự sống, Ngài ban và duy trì sự sống, ngay cả sau khi chết.
Kết luận thật rõ ràng để xác nhận có sự sống lại, vì ngay từ đầu cuộc sống công khai, Đức Giêsu đã lập đi lập lại: “Hãy trở về với Thiên Chúa và hãy ăn năn sám hối để Ngài ban cho anh em sự sống đời đời”.
RC
Suy niệm 6: Sống trinh khiết
Xem lại CN 25 TN C
Trong Tin Mừng, chúng ta thường thấy nhắc đến một số nhóm luôn đứng lên để chống đối Đức Giêsu, trong đó có nhóm Sađốc.
Hôm nay, chính nhóm Sađốc này đã đứng lên để bàn mưu tính kế nhằm hãm hại Đức Giêsu. Cái bẫy mà họ đưa ra chính là câu chuyện liên quan đến sự sống lại.
Vấn nạn mà họ đặt ra cho Đức Giêsu và yêu cầu Ngài trả lời là: theo luật Môsê, nếu người anh lấy vợ, khi chết đi mà chưa có con, thì người em phải lấy vợ của anh mình để có con nối dòng.
Vậy cả 7 anh em một nhà kia lấy vợ, nhưng khi chưa có con thì họ đã chết, sau cùng người đàn bà kia cũng chết.
Vấn đề đặt ra là: khi sống lại, người đàn bà kia sẽ là vợ của người nào trong 7 anh em đó?
Một câu hỏi xem ra hóc búa, hòng hy vọng Đức Giêsu sẽ bị mắc hợm. Tuy nhiên, Ngài đã trả lời rất thâm thúy rằng: “Con cái đời này thì dựng vợ gả chồng, còn những ai được xét là xứng đáng dự phần vào đời sau và được sống lại từ cõi chết thì sẽ không còn dựng vợ gả chồng nữa”.
Qua câu trả lời này, Đức Giêsu không những đã phá vỡ mưu đồ ác nhân của nhóm Sađốc, mà còn mặc khải cho họ một sứ điệp quan trọng trong cuộc sống mai hậu nữa, đó là: khi còn sống trên trần gian, thì chuyện lấy vợ gả chồng có mục đích lưu truyền nòi giống theo lệnh truyền của Chúa: “Hãy sinh sản đầy mặt đất”. Duy trì nòi giống là vì con người sẽ phải chết, nên cần phải có con nối dõi tông đường.
Nhưng cuộc sống trên Thiên Quốc mai hậu thì hoàn toàn khác, họ sẽ tồn tại mãi mãi trong sự sống muôn đời. Họ không cần phải đặt vấn đề duy trì nòi giống nữa, vì thế, họ không cần phải lấy vợ, gả chồng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức rằng: cuộc sống trên trần gian này chỉ là tạm bợ mà thôi. Cuộc sống trên Thiên Quốc mai ngày mới là vĩnh viễn. Vì thế, trong cuộc hiện nay, hãy chu toàn bổn phận của mình cách chính đáng. Tuy nhiên, cần phải hướng lòng về quê thật chính là Thiên Đàng, nơi đó là nơi tràn đấy ánh sáng và bình an.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con ý thức rằng: quê hương chúng con ở trên trời. Vì thế, chúng con cần phải biết sống xứng đáng là con cái Chúa, để sau này được chung hưởng hạnh phúc Thiên Quốc với các thánh trên trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Kẻ chết sống lại
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Nhóm luật sĩ và biệt phái tin có sự sống lại, còn nhóm Sađốc thì không. Mặc dầu nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về cuộc sống ấy: ở đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng sinh con và hưởng thụ tất cả những lạc thú như ở đời này. Nhưng Đức Giêsu đã mạc khải cho họ có sự sống lại và cách thức sống cuộc sống đời sau. Ngài cho thấy cuộc sống ấy không còn giống như ở đời này, không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian. Trái lại, cuộc sống của người công chính khi phục sinh sẽ được thần thiêng hóa như đời sống của các thiên thần.
2. Hôm nay, nhóm Sađốc đã đứng lên để bàn mưu tính kế nhằm hại Đức Giêsu. Cái bẫy mà họ đưa ra chính là câu chuyện liên quan đến sự sống lại. Vấn nạn mà họ đặt ra cho Đức Giêsu và yêu cầu Ngài trả lời: theo luật Maisen, nếu người anh lấy vợ, khi chết đi mà chưa có con, thì người em phải lấy vợ của anh mình để có con nối dõi. Vậy cả 7 anh em nhà kia lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết, sau cùng người đàn bà kia cũng chết. Vấn đề đặt ra là: khi sống lại, người đàn bà kia sẽ là vợ của người nào trong 7 anh em đó?
3. Để trả lời cho họ, Đức Giêsu trưng dẫn sách Ngũ Kinh như ông Maisen đã gọi: “Đức Chúa là Thên Chúa của tổ phụ Abraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaác và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Ngài, tất cả đều đang sống”. Thiên Chúa là sự sống. Ngài ban và duy trì sự sống ngay cả sau khi chết.
Đức Giêsu luôn luôn từ chối trả lời theo khôn ngoan thế gian, nhưng người đứng trên phương diện khác để trả lời. Câu chuyện của Sađốc đặt ra là giả tưởng, không có thật. Sự sống đời sau khi sống lại không như nhiều người Do thái tưởng là sự nối tiếp sự sống đời này. Nhưng, “những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau” và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ gả chồng, quả thật họ không thể chết nữa, vì họ được sống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa.
4. Đức Giêsu còn trả lời thêm cho biết trật tự, cách tổ chức, cách thế hiện hữu của cuộc sống mai hậu không giống như cuộc sống đời này. Không thể lấy kinh nghiệm hiện hữu của cuộc sống này để áp dụng vào việc suy đoán cách hiện hữu của cuộc sống mai hậu. Đời này có lấy vợ gả chồng chỉ là chuyện sinh, lão, bệnh, tử, nên cần phải có người giúp đỡ, phục vụ và nối dõi. Khi con người đã trở thành bất tử, họ không còn sống phụ thuộc vào không gian và thời gian nữa, vì thế, họ cũng không cần phải cưới vợ gả chồng. Họ sẽ bước vào cuộc sống thần thiêng như các thiên thần, cuộc sống của họ lúc này là trường sinh bất tử, sung mãn, trọn vẹn và tồn tại muôn đời với Đấng Hằng Hữu. Công việc của họ chính là ca ngợi Chúa trong vinh quang Nước Trời như các thiên thần, được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa (Hiền Lâm).
5. Nói chung, trên mọi bình diện, mọi lý luận chỉ dựa trên công sức trí khôn con người, thì không thể nào dẫn dắt đến sự nhìn nhận niềm tin vào sự sống lại. Đức Giêsu đã quả quyết mạnh mẽ vì sự thật có sự sống lại, nhưng Chúa không giải thích cho biết sự việc sẽ xẩy ra như thế nào và cũng không nói về thời gian khi nào sẽ xẩy ra biến cố sống lại. Có thể là hai câu hỏi như thế nào và vào lúc nào là hai điều không quan trong cho ơn cứu rỗi, nên Đức Giêsu đã không giải thích, không mạc khải gì thêm. Không phải chỉ có lời quả quyết suông của Chúa mà thôi, nhưng chúng ta còn có sự kiện cụ thể khác nữa, đó là chính sự sống lại của Đức Giêsu Kitô. Đức Kitô Phục sinh là câu trả lời duy nhất cho thắc mắc của con người về cái chết, về sự sống lại và sự sống đời đời (R. Veritas).
6. Tất cả cuộc sống chúng ta đều xây dựng trên niềm tin vào sự sống lại của Đức Giêsu và sự sống mai hậu. Tất cả những nỗ lực xây dựng công bằng bác ái của chúng ta chỉ có ý nghĩa là bởi vì chúng ta tin vào cuộc sống vĩnh cửu và sự sống lại.
7. Truyện: Kinh nghiệm cận tử.
Mấy năm gần đây, một số bác sĩ Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
- Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).
Suy niệm 8: Tin vào cuộc sống đời sau
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Mặc dù nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về cuộc sống ấy: ở đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng sinh con và hưởng thụ tất cả những lạc thú như đời này.
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu vừa xác nhận có cuộc sống đời sau, vừa cho biết ý nghĩa của cuộc sống ấy:
- Đời sau người ta sẽ bất tử, do đó không cần lưu truyền nói giống, cho nên cũng không cần cưới vợ lấy chồng.
- Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Chúa, như các thiên thần vậy.
B.... nẩy mầm.
1. Linh mục, Tu sĩ là dấu chỉ và chứng nhân cho cuộc sống đời sau, một cuộc sống “như các thiên thần” không bận tâm chi đến việc vợ chồng, chỉ chuyên tâm phụng sự Chúa.
2. Trở nên chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa qua nếp sống vợ chồng (như cha mẹ chúng ta) không phải là chuyện dễ. Nhưng muốn là dấu chỉ và chứng nhân cho cuộc sống đời sau, sống “như các thiên thần”, cũng rất khó khăn; rất cần ân huệ của Chúa. - Muốn đi đến nếp sống yêu thương với một con tim trọn vẹn không chia sẻ dành cho Chúa, ta cần được chuẩn bị để đạt được sự trưởng thành tâm cảm (maturité affective). Dần dần tập làm chủ được 4 trình độ của tâm cảm: - cảm xúc - tình cảm - tình yêu - đam mê.
3. Ta đọc lại lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II:
- Trong thông điệp Redemptor Hominis số 10: ‘ Con người không thể sống khi thiếu vắng tình yêu. Họ sẽ không thể hiểu họ là gì, và sẽ cảm thấy cuộc đời họ là vô nghĩa: nếu họ không đón nhận mặc khải tình yêu, không gặp gỡ tình yêu, không cảm nghiệm tình yêu, không đồng hoá với tình yêu, không mạnh dạn tham dự vào tình yêu.’
- Trong Tông Huấn Pastores Dabo vobis (Đào tạo Lm) số 44: “Tình yêu ở đây là tình yêu bao quát toàn diện cá vị con người với mọi chiều kích và mọi thành phần: vật lý, tâm lý và tinh thần; một tình yêu được diễn đạt nơi “ý nghĩa hôn nhân” của thân thể con người, nhờ đó mà con người tự hiến cho kẻ khác và đón nhận họ. Việc giáo dục giới tính đúng nghĩa cần phải hướng đến nhận thức và thực hiện chân lý đó về tình yêu nơi con người.”
4. Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
- Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).
5. “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Ngài tất cả đều đang sống” (Lc 20,38)
Trong một lần trao đổi với chị bạn cùng lớp, chị cho rằng tuy không có đạo song cũng không hoàn toàn phủ nhận Thiên Chúa. Nhưng có điều, nhìn vào cuộc chiến tàn khốc ở Ruanđa giữa bộ tộc Hutu và Tutsi, đều là những người công giáo với nhau mà giết nhau cách dễ dàng, hoặc như gia đình hàng xóm nhà chị, lễ lạy kinh hạt mỗi ngày nhưng hết “nội chiến” đến “ngoại chiến”. Chị không khỏi tự hỏi: niềm tin kitô giáo có còn khả năng thăng tiến con người như những gì giáo lý dạy không?
Như thế, dẫu tôi tin có Thiên Chúa nhưng lại không sống yêu thương thì cũng có nghĩa là tôi đang “khai tử” cho Thiên Chúa rồi.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, xin ban cho con sự sống của Ngài, sống vì yêu và sống cho tình yêu. (Hosanna)
19/11 Ðền thờ, nơi gặp gỡ Chúa
- Viết bởi Lc 19, 45-48
Ðền thờ, nơi gặp gỡ Chúa.
Thứ Sáu tuần 33 thường niên.
"Các ngươi đã biến đền thờ Thiên Chúa thành sào huyệt trộm cướp".
Lời Chúa: Lc 19, 45-48
Khi ấy, Chúa Giêsu vào đền thờ, Người liền xua đuổi các người buôn bán tại đó và phán bảo họ rằng: "Có lời chép rằng: Nhà Ta là nhà cầu nguyện, các ngươi đã biến thành sào huyệt trộm cướp". Và hằng ngày Người giảng dạy trong Ðền thờ. Các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão trong dân tìm cách hại Người, nhưng họ không biết phải làm cách nào, vì dân chúng hết thảy đều chăm chú nghe Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Nhà cầu nguyện
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
“Đức Giêsu vào Đền thờ” (c. 45),
ngay sau khi Ngài vẻ vang tiến vào thành phố Giêrusalem.
Ngài vào Nhà của Cha Ngài, nơi Ngài đã được tiến dâng (Lc 2, 22),
nơi Ngài đã muốn ở lại năm mười hai tuổi (Lc 2, 49).
Ngài đã lên Đền thờ nhiều lần trong đời, nhưng đây là lần cuối.
Lên Đền thờ lần cuối là một quyết định sinh tử (Lc 9, 51),
vì Ngài biết những gì đang chờ đợi mình ở đây (Lc 13, 33).
“Ngài bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán ở đó.”
Người ta bán những con vật, để người mua dâng cúng cho Đền thờ.
Nơi buôn bán này ở chung quanh Đền thờ,
tuy vẫn nằm trong khu vực Đền thờ, nơi Dân Ngoại được phép lui tới.
Dĩ nhiên việc buôn bán ở đây là có phép của ban an ninh Đền thờ,
nên chúng ta không hiểu tại sao Đức Giêsu lại muốn đuổi họ.
Hiếm khi chúng ta thấy Đức Giêsu nổi giận hay dùng sức mạnh.
Còn ở đây Ngài mạnh mẽ cả trong hành động lẫn lời nói.
“Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện,
thế mà các ngươi đã biến nó thành hang trộm cướp” (c. 46).
Đức Giêsu đã vào thành Giêrusalem như một vị vua khiêm hạ.
Còn bây giờ Ngài đuổi những người buôn bán như một ngôn sứ.
Vị ngôn sứ giận dữ vì thấy nhà cầu nguyện trở thành nơi kinh doanh.
Đức Giêsu đã muốn làm cho Đền thờ được sạch khỏi chuyện bán buôn,
dù chuyện này cũng nhắm phục vụ cho việc tế tự.
Sau khi thanh tẩy Đền thờ, Ngài đã chọn nơi thánh này
làm nơi Ngài tập trung dạy dỗ từng ngày cho đến lễ Vượt Qua (c. 47).
Ngài đã sống những ngày cuối đời như một vị Thầy dạy.
Lời giáo huấn của Đức Giêsu đã gây ra những phản ứng ngược nhau.
Dân chúng thì say sưa với những lời Ngài dạy (c. 48),
còn giới lãnh đạo tôn giáo ở Đền thờ lại tìm cách giết Ngài (c. 47).
Phải chăng họ khó chịu với việc Đức Giêsu được dân chúng tung hô,
hay bực bội về việc Ngài như có quyền đuổi những người buôn bán,
hay ghen tương với việc dân chúng mê mải nghe Ngài?
Đời người Kitô hữu gắn liền với nhiều đền thờ.
Có những đền thờ, nhà thờ bằng gỗ đá, được cung hiến.
Có những đền thờ thiêng liêng như Hội Thánh, như các tín hữu.
Chính bản thân tôi, thân xác tôi, tâm hồn tôi cũng là đền thờ.
Nơi nào có Chúa hiện diện, nơi ấy là đền thờ.
Cần bỏ dép ở ngoài trước khi bước vào ngôi đền thờ là trái tim tha nhân.
Cần năng thanh tẩy lại đền thờ tâm hồn mình bằng bí tích Hòa Giải.
Chúng ta thường thiếu sự giận dữ của Đức Giêsu
khi đứng trước những đền thờ là tâm hồn của những người trẻ bị ô uế.
Chúng ta dửng dưng khi Chúa bị trục xuất ra khỏi đền thờ lòng mình,
để thay vào đó là những thần tượng vô hồn, rẻ tiền và câm lặng.
Xin Chúa Giêsu giúp ta quét dọn cái rác rưởi nơi đền thờ của trí tuệ,
để lời Chúa làm chúng ta say mê lắng nghe và thực hành.
Cầu nguyện:
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục,
xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc,
xin dạy con biết trân trọng thân xác.
Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục,
xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.
Xin nâng con lên cao
vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt,
để biết tự hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí sức lực
vào những chuyện tình cảm chóng qua,
nhưng giúp con tự rèn luyện mình
để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ thân xác con thanh khiết. Amen.
Suy niệm 2: Thanh tẩy đền thờ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đối với dân Do thái đền thờ là trái tim của vương quốc, của đạo giáo và của từng người. Đền thờ đã được xây dựng thật huy hoàng tráng lệ. Xứng đáng với niềm tự hào của đất nước và của tấm lòng con dân. Đền thờ bị xúc phạm khi quân vô đạo vào chà đạp lên nơi thánh. Khi tượng thần chễm chệ trên bàn thờ. Khi các đồ dùng thờ phượng bị đem ra làm trò tiêu khiển. Đau đớn biết bao. Nhục nhã biết bao. Nên khi chiếm lại được đền thờ, Giu-đa Ma-ca-bê đã tổ chức thanh tẩy đến thờ. Và cung hiến thật long trọng để đền bù lại thời gian đau khổ nhục nhã tội lỗi đã qua. Ông trang hoàng đền thờ bằng những gì quý giá nhất. Cử hành những lễ nghi long trọng nhất. Kéo dài thời gian trong tám ngày. Tuy nhiên tất cả vẫn còn là bề ngoài. Bị ô uế từ bên ngoài. Thanh tẩy bên ngoài (năm lẻ).
Chúa Giê-su cũng làm một cuộc thanh tẩy đền thờ. Nhưng với một tâm tình khác. Vì đền thờ không bị ngoại bang làm ô uế. Mà bị chính các tư tế làm ô uế. Sự ô uế này khó thấy. Vì nó xuất phát từ tâm tình bên trong. Thói thực dụng. Và thói ham tiền. Và nhất là thói lợi dụng tôn giáo. Nhân danh Chúa để thủ lợi riêng. Đó là thói tục hoá trầm trọng nhất. Tôn thờ chính mình. Biến Thiên Chúa thành phương tiện. Tôn giáo thành dụng cụ. Nên Chúa Giê-su giận dữ như chưa bao giờ thấy. Và để sửa chữa, Chúa giảng dậy nhiều ngày trong đền thờ. Để ta biết tôn giáo đích thực là hiểu biết thánh ý Chúa. Thực hành Lời Chúa. Là tôn thờ Chúa trong tinh thần và chân lý. Chứ không phải những lễ vật hương khói nghi ngút. Để thi hành thánh ý Thiên Chúa. Người ta phải từ bỏ ý riêng. Từ bỏ thú tính. Đó là điều Tin mừng Gio-an đề cập khi Chúa nói đền thờ là thân thể Người. Và Người trải qua cuộc thanh tẩy bằng cái chết theo ý Chúa Cha.
Cuộc thanh tẩy tiếp diễn trong suốt cuộc đời. Vì con người nhơ nhuốc luôn cần thanh tẩy. Để biết làm theo ý Chúa. Từ bỏ ý riêng. Vì thế Gio-an đã được ban quyển sách Lời Chúa. Ông phải nuốt vào. Phải lắng nghe. Phải nhập tâm. Phải thực hành. Thực hành ý Chúa đòi từ bỏ ý riêng. Vì thế Lời Chúa gây nên cay đắng trong lòng. Từ bỏ ý riêng là một cuộc chiến đấu. Nhưng khi đã hoàn toàn thuận theo ý Chúa. Lời Chúa trở thành ngọt ngào không gì so sánh được. Trở thành niềm vui. Trở thành hi vọng. Trở thành lẽ sống. Đó là điều cần phải loan truyền cho muôn dân được biết (năm chẵn).
Suy niệm 3: Nơi gặp gỡ Chúa
Ðền thờ Giêrusalem luôn được gắn liền với những thăng trầm của lịch sử dân Do thái. Ngay từ lúc được vua Salomon xây cất khoảng năm 950 (Trước Công Nguyên), đền thờ Giêrusalem đối với người Do thái luôn đóng vai trò quan trọng vừa chính trị, vừa tôn giáo, đây là nơi biểu trưng cho sự thống nhất quốc gia và là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của Israel. Chính vì thế, sau khi tiến vào Giêrusalem, Chúa Giêsu vào Ðền Thờ và theo trình thuật Tin Mừng hôm nay, Ngài thực hiện việc thanh tẩy Ðền thờ, xua đuổi những người lạm dụng Ðền thờ, rồi bắt đầu giảng dạy ở đó.
Ðền thờ là nơi cầu nguyện, nhưng đã bị trần tục hóa, bị con người biến thành hang trộm cướp, nơi lường gạt nhau; đây là một sự xuống dốc tinh thần không thể nào chấp nhận được. Trong biến cố đuổi con buôn ra khỏi Ðền thờ, tác giả Luca xem ra nhấn mạnh đến khía cạnh Chúa Giêsu hằng ngày đến giảng dạy tại Ðền thờ và có nhiều người chăm chú lắng nghe Ngài. Như thế, Luca nhấn mạnh đến dung mạo trung tâm của Chúa Giêsu tại Ðền thờ thay thế các luật sĩ và tư tế; giai đoạn mới đã đến, đó là giai đoạn mà theo trình thuật Gioan, Chúa Giêsu đã loan báo cho người phụ nữ Samari nơi bờ giếng Giacob: "Ðã đến lúc những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những kẻ thờ phượng Người như thế". Sự thật đó được mạc khải nơi Chúa Giêsu, và thần khí đó là thần khí của Chúa Giêsu được ban xuống tràn đầy cho các môn đệ.
Qua cử chỉ thanh tầy Ðền thờ khỏi sự lạm dụng của những người Do thái thời đó và hằng ngày giảng dạy tại Ðền thờ, Chúa Giêsu nói lên cho mọi người biết giai đoạn mới đã bắt đầu: Ðền thờ xét như một tòa nhà, bàn thờ, những lễ vật có giá trị, nhưng tự chúng chưa đủ, cần phải có một yếu tố quan trọng khác nữa để hoàn thành việc thờ phượng Thiên Chúa hằng sống, đó là đức tin cá nhân của người đến Ðền thờ dâng lễ vật và đức tin của cộng đoàn cùng nhau tôn thờ Thiên Chúa. Nếu đến Ðền thờ mà không có đức tin và không sẵn lòng lắng nghe Lời Chúa, thì con người sẽ dễ lạm dụng và bị lôi kéo theo sự lạm dụng của người khác.
Những gì xẩy ra cho dân Do thái ngày xưa cũng có thể xẩy đến cho các môn đệ của Chúa trong hoàn cảnh hiện tại. Chúng ta có thể tự vấn: Ðền thờ có là nơi cầu nguyện, nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và củng cố đức tin, hay đã bị lôi cuốn vào cám dỗ của tinh thần thế tục?
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Ðền thờ của Chúa
Chúng ta thường thấy Chúa Giêsu là người ôn hòa và tế nhị. Ngài luôn có thái độ khiêm tốn và kính trọng trong cách đối xử với mọi người. Nhưng trong đoạn Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Ngài đã không hành động như thường lệ nữa, Ngài đã nổi giận và xua đuổi những kẻ buôn bán trong đền thờ. Riêng trong Phúc Âm theo thánh Máccô và thánh Mátthêu còn diễn tả một cách chi tiết hơn hình ảnh Chúa Giêsu lật đổ quầy bàn đổi tiền và xô ngã ghế của những người buôn bán trong đền thờ và la mắng họ: "Ðã có lời chép rằng: nhà Ta là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp". Khi hành động như thế, Chúa Giêsu đã có ý sửa chữa những thói hư tật xấu của những kẻ gian manh lạm dụng người khác để làm giàu cho chính mình như những kẻ đổi chác tiền bạc trong đền thờ chẳng hạn. Họ làm giàu bằng cách bóc lột những người lương thiện phải trả tiền nhiều hơn so với giá phải chăng. Khi hành động bất lương như thế họ cũng đã xúc phạm luôn cả Thiên Chúa nữa.
Lời khiển trách của Chúa nhấn mạnh đến tính cách thiêng liêng của đền thờ vì đó chính là nhà Chúa, là nhà cầu nguyện, nơi Chúa thực sự hiện diện và lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta. Chúa trách cứ vì lòng yêu mến con cái Người, vì muốn chúng ta sửa đổi để trở nên trong sạch, thánh thiện hơn trong sự thờ phượng Người. Chúa giảng dạy trong đền thờ mỗi ngày và dân chúng say mê lắng nghe lời Người. Họ lắng nghe Lời Chúa với trái tim rộng mở và đơn sơ, và tiếp nhận từ nơi Người tất cả sự ngọt ngào, bình an và ánh sáng đức tin đến độ không muốn rời bỏ Người. Lời Chúa mang đến cho người nghe sự bình an và hân hoan sâu xa trong tâm hồn chúng ta như bài thánh vịnh hôm nay:
"Tuân theo thánh ý Chúa,
Con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể
Con sẽ ngẫm suy huấn lệnh Chúa truyền
Ðưa mắt nhìn theo đường lối Chúa
Con vui thú với thánh chỉ Ngài
Chẳng quên lời Người phán dạy."
Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong đền thờ đem lại cho nhà Chúa một sự sống động và sức mạnh thiêng liêng. Thiên Chúa đã ngự xuống giữa trần gian, Người không xa cách hay mơ hồ nhưng gần gũi với con người. Nhà Chúa không phải chỉ là một công trình kiến trúc vô tri vô giác, nhưng là nơi mà Thần Khí của Chúa ngự trị tuy vô hình nhưng có khả năng truyền đạt sức sống, tình yêu và hy vọng cho những tâm hồn khao khát tìm đến với Người. Ðền thờ của Chúa không phải chỉ ở Giêrusalem mà thôi nhưng còn là xã hội con người hay ở mỗi cá nhân, theo đó phải được giải thoát khỏi mọi sự xấu xa để có thể phụng thờ Chúa bằng một tâm hồn trong sạch và thánh thiện hơn. Chúa Giêsu uốn nắn và sửa đổi chúng ta trong tình yêu thương của Người để đưa chúng ta từ con đường sai trái đến chân lý và sự toàn thiện. Người răn dạy chúng ta vì mục đích tốt lành để chúng ta cùng thông phần vào sự thánh thiện của Người.
Lạy Chúa,
Xin giúp chúng con biết thờ lạy Người với tình yêu mến và lòng biết ơn về những hồng ân mà Người đã rộng lòng ban phát cho chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến Lời Chúa và thực hành thánh ý của Chúa bằng với lòng tin và sự vâng phục.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Đuổi con buôn trong đền thờ
Đức Giêsu vào đền thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán và nói với họ: “Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp.” (Lc. 19, 45-46)
Sắp đến hồi kết thúc cuộc đời, Đức Giêsu không thể tránh được cuộc đối đầu giữa lời mời gọi trở về với tình yêu Thiên Chúa, với lối giải thích khắt khe về lề luật. Đức Giêsu muốn làm sáng tỏ: giữa án phạt đời đời với sự sống đời đời.
Cách dùng bất chính
Đức Giêsu long trọng vào Giê-ru-sa-lem và đi thẳng vào đền thờ, chính là nhà Người, nhà Cha của Người. Ngôn sứ Ma-la-ki-a đã tiên báo: “Bất thần, Ngài vào đền thờ của Ngài, Người Chủ mà họ tìm kiếm, thiên sứ của giao ước mà họ ước mong”. Và Người vào để thanh tẩy đền thờ, đuổi những kẻ buôn bán súc vật để dâng hy tế hay để đổi tiền La mã lấy tiền đền thờ: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt trộm cướp”.
Theo ngôn sứ I-sai-a, Chúa nói: Đền thờ của Ngài là nhà cầu nguyện cho muôn dân. Thiên Chúa không thay đổi quan niệm về cách dùng nơi Ngài ngự, người ta đến đền thờ để thờ phượng Ngài, ngợi khen và lắng nghe Ngài. Đó là nơi mọi người đàm đạo với Thiên Chúa, không chỉ dành riêng cho người Do thái.
Nhưng, theo Giê-rê-mi-a, đền thờ đã bị tục hóa bởi những kẻ phạm những điều ghê tởm và lại dám ra trước mặt Thiên Chúa tuyên dương rằng: “Chúng tôi được cứu thoát”. Cũng thế, những kẻ lợi dụng đền thờ để kiếm lợi, họ bỏ cách thờ phượng chân chính lên Thiên Chúa bằng tôn thờ tiền bạc.
Đức Giêsu phục hưng đền thờ làm nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Người đuổi con buôn để vào dạy dỗ lời Chúa trong đền thờ. Lời Người chính là Thiên Chúa tự mặc khải cho dân Người. Người không chỉ đến để dâng lễ hy sinh, mà còn để nuôi mình bằng lời ban sự sống đời đời.
Những kẻ lợi dụng buôn bán trong đền thờ không nhìn Người bằng con mắt thiện cảm vì Người đang cất mất mối lợi của họ. Họ hiểu sự thách thức của Đức Giêsu. Nhưng họ biết dân chúng dễ thay đổi. Nếu lúc này dân theo Đức Giêsu, lúc khác họ có thể làm cho dân phản bội lại Đức Giêsu. Đó là lý do tại sao những ngày kế tiếp, họ làm cho dân nghi ngờ quyền thế của Đức Giêsu và giương bẫy bắt Người.
RC
Suy niệm 6: Thanh tẩy đền thờ cho xứng đáng
Xem thêm CN 25 TN C
Mỗi khi nhìn thấy hay nhắc tới nhà thờ, trong cảm thức, chúng ta luôn hiểu rằng: nhà thờ là biểu tượng của Giáo Hội. Nơi nhà thờ, chúng ta sẽ dễ dàng gặp Chúa và gặp nhau. Nhà thờ là điểm hội tụ mọi thành phần dân Chúa để tôn thờ Thiên Chúa và chia sẻ bác ái với nhau.
Tuy nhiên, dù nhà thờ vật chất có to lớn, tráng lệ thế nào đi chăng nữa, nếu nó không được xử dụng đúng mục đích là tôn thờ Thiên Chúa và xây dựng tình huynh đệ giữa con người với nhau... thì nhà thờ ấy vô nghĩa!
Hôm nay, Tin Mừng cho thấy, Đức Giêsu đã nổi nóng và đánh đuổi con buôn ra khỏi đền thờ, vì họ đã xử dụng sai mục đích của nơi thờ phượng. Vì thế, Đức Giêsu đã nói: "Nhà Ta là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn trộm cắp".
Khi đánh đuổi con buôn ra khỏi đền thờ, Đức Giêsu đã thánh hiến đền thờ và trả lại cho nó ý nghĩa nguyên tuyền là nơi để thờ phượng Thiên Chúa chứ không phải là chốn trục lợi, kinh doanh, trao đổi, buôn bán...
Từ hình ảnh cao quý của đền thờ vật chất, chúng ta khám phá ra ý nghĩa cao trọng của đền thờ tâm hồn. Mỗi người đều là đền thờ tâm hồn cho Thiên Chúa ngự. Đền thờ ấy, không được để cho tính tự kiêu, tự phụ, ích kỷ, bất nhân, dửng dưng, vô cảm ngự trị, vì chúng không thuộc về đặc tính của Thiên Chúa và không phải lựa chọn của chúng ta. Đền thờ tâm hồn chúng ta sẽ có giá trị và xứng đáng để được Chúa ngự vào khi chúng ta tin Chúa tuyệt đối, sống yêu thương, bác ái với người nghèo, cư xử thắm đượm tình huynh đệ với anh chị em... Nếu chúng ta đi ngược lại những điều trên, hẳn ta sẽ dễ rơi vào tình trạng tôn kính Thiên Chúa trên môi trên miệng, còn tâm hồn thì xa Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, ngày chúng con lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, mỗi người chúng con chính là đền thờ cho Thiên Chúa ngự. Tuy nhiên, nhiều khi chúng con đã biến đền thờ tâm hồn chúng con trở nên nhơ bẩn, ô uế do những ích kỷ, hình thức bên ngoài. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết quý trọng và yêu mến đền thờ tâm hồn, để xứng đáng làm nơi Chúa ngự. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Cần thanh tẩy tâm hồn-đền thờ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tâm hồn là Đền Thờ Thiên Chúa ngự, nên phải giữ gìn thật trong sáng, không bị hoen ố bởi dục vọng xấu xa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa vào đền thờ Giêrusalem và chứng kiến cảnh hỗn độn buôn bán ồn ào. Chúa đã không để nhà Chúa biến thành sào huyệt của bọn cướp, là các tay buôn và giới lãnh đạo đương thời. Chúa quả quyết: “Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện”, và Chúa đuổi tất cả những kẻ buôn bán khỏi đền thờ. Việc Chúa làm cho con hiểu rằng những gì dành cho Thiên Chúa phải xứng đáng với Thiên Chúa.
Hôm nay, Chúa đến với tâm hồn con như một ngôi đền thánh trọn vẹn đầy vẻ tôn nghiêm và thánh thiện. Con hiểu đó là điều Chúa mong muốn và chờ đợi. Nhưng lạy Chúa, con đã làm được gì trước lòng mong đợi của Chúa? Xin ban cho con lòng yêu mến tôn thờ để con dành phần tốt nhất trong cõi lòng dâng lên Chúa. Chúa biết con hơn chính bản thân con, nhưng xin Chúa nhân từ thứ tha khi con muốn mà không làm được. Xin giúp con sửa lại cõi lòng khi con cầu nguyện tôn vinh Chúa. Xin đừng để con tính toán cầu lợi và mặc cả với Chúa trong những lời cầu xin. Và xin hâm nóng tấm linh hồn bé bỏng những khi con nguội lạnh, chán chường. Ước mong tâm hồn con được sống động và dạt dào tình yêu trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa, mỗi ngày giờ, từng phút giây đang có biết bao tâm hồn vươn cao hướng về Chúa. Con hợp lời xin chúc tụng Chúa. Nhưng cũng có bao kẻ thờ ơ, lãnh đạm hoặc bôi bác, lợi dụng với lời cầu xin. Xin Chúa thanh luyện để chúng con giữ được đền thánh phúc vinh trong tâm hồn. Con xin dâng tâm hồn con trong tay Chúa, xin thánh hoá con. Amen.
Ghi nhớ: “Các ngươi đã biến đền thờ Thiên Chúa thành sào huyệt trộm cướp”.
Suy niệm 8: Thanh tẩy đền thờ
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Trong Cựu ước, đền thờ được dành riêng đặc biệt cho Thiên Chúa. Thiên Chúa thường áp dụng những hình phạt rất nặng đối với những ai phạm đến đền thờ. Hai đứa con trai của thầy cả Hêli, vì không chịu sống nghiêm trang xứng đáng trong đền thờ, đã bị Chúa phạt nặng.
Trong Tân ước, ngày kia vào đền thờ, Chúa Giêsu nổi giận vì thấy một số người tổ chức buôn bán và đổi tiền. Ngài thịnh nộ, đuổi họ ra hết, và tuyên bố nhà Chúa là nhà cầu nguyện, chứ không phải là hang trộm cướp.
Suy niệm
Đức Giêsu nhìn thấy đền thờ, nhà Cha, nơi cầu nguyện trở nên địa điểm phường của buôn bán, Ngài bừng bừng nổi giận. Sự kiện thanh tẩy đền thờ, được cả bốn Tin Mừng ghi nhận (x. Mc 11,15-19; Mt 21,12-17; Lc 19,45-48; Ga 2,13-25).
Dân chúng buôn bán, lạm dụng đền thờ của Thiên Chúa nên đã làm ô uế đền thờ như ngôn sứ Giêrêmia đã nhìn thấy trước và tư vấn: “Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ và thực hiện lời loan báo của ngôn sứ Dacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21), khi “Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Đền Thờ, nhà Chúa Cha phải được thanh tẩy xứng đáng để trả lại đúng vẻ nguyên tuyền của đền thờ. Ngài đưa về sự thánh thiện đạo thật, đền thờ thật như Chúa phán qua ngôn sứ Isaia: “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7).
Thật thế, như Chúa Giêsu dạy đường đi của đạo là yêu thương, đền thờ là nơi đón tiếp anh chị em tín hữu, không phân biệt màu da chủng tộc.
Xin Chúa tiếp tục thanh tẩy các ngôi thánh đường - nhà Chúa, nhà chung, thành nhà yêu thương đùm bọc lẫn nhau và xứng đáng để dâng lễ tế: Đền thờ Thiên Chúa sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền bằng tình yêu thương như Chúa đã phán qua lời ngôn sứ Hôsê: “Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ” (Hs 6,6).
Ý lực sống
“Làm sao đền thờ Thiên Chúa lại đi đôi với tà thần được? Vì chính chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống, như lời Người phán: Ta sẽ đến cư ngụ và đi đi lại lại giữa họ. Ta sẽ là Thiên Chúa của họ, và họ sẽ là dân riêng của Ta” (2Cr 6,16).
Suy niệm 9: Đức Giêsu thanh tẩy Đền thờ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Đức Giêsu được sai đến để chu toàn sứ mạng: phụng sự Thiên Chúa Cha và dạy cho người ta cũng tôn thờ Thiên Chúa cách xứng đáng. Việc đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền thờ cho thấy Chúa muốn người ta phải thay đổi thái độ thờ phượng và phải tôn trọng Đền thờ. Hành động của Đức Giêsu gồm có hai khía cạnh:
a) Loại khỏi Đền thờ những gì đi lệch khỏi mục đích của nó. Việc buôn bán trong Đền thờ đã biến “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện” trở thành “sào huyệt của bọn cướp”, cho nên Đức Giêsu đã đánh đuổi những người buôn bán trong đó.
b) Trả lại cho Đền thờ ý nghĩa đích thực của nó “Hằng ngày Ngài giảng dạy trong Đền thờ”.
Đền thờ Giêrusalem luôn được gắn liền với những thăng trầm của lịch sử dân Do thái. Ngay lúc được vua Salômôn xây cất khoảng năm 950 (trước Công nguyên), đền thờ Giêrusalem đối với người Do thái luôn đóng vai trò quan trọng vừa chính trị, vừa tôn giáo, đây là nơi biểu trưng cho sự thống nhất quốc gia và là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của Israel. Chính vì thế, sau khi tiến vào Giêrusalem, Đức Giêsu vào Đền thờ, xua đuổi những người lạm dụng Đền thờ, rồi bắt đầu giảng dạy ở đó.
Hôm nay Tin mừng cho thấy: Đức Giêsu nổi nóng và đánh đuổi con buôn ra khỏi Đền thờ, vì họ đã sử dụng sai mục đích của nơi thờ phượng. Vì thế. Đức Giêsu nói: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn trộm cắp”. Khi đánh đuổi con buôn ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thánh hiến Đền thờ và trả lại cho nó ý nghĩa nguyên tuyền là nơi thờ phượng Thiên Chúa, chứ không phải là chốn trục lợi, kinh doanh, trao đổi, buôn bán...
Lời khiển trách của Đức Giêsu nhấn mạnh đến tính cách thiêng liêng của Đền thờ vì đó chính là nhà Chúa, là nhà cầu nguyện nơi Chúa thực sự hiện diện và lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta. Chúa trách cứ vì lòng yêu mến con cái Người, vì muốn chúng ta sửa đổi để trở nên trong sạch, thánh thiện hơn trong sự thờ phượng Người. Chúa giảng dạy trong Đền thờ mỗi ngày và dân chúng say mê lắng nghe lời Người với trái tim rộng mở và đơn sơ, và tiếp nhận từ nơi Người tất cả sự ngọt ngào, bình an và ánh sáng đức tin đến độ không muốn rời bỏ Người (Mỗi ngày một tin vui).
Hitler được kể tên trong số những nhà hùng biện hàng đầu của nhân loại, lời nói của ông có một uy lực huyền bí có sức thu hút quần chúng tin theo đường lối của ông; thế nhưng ông đã dùng năng lực đó để xô đẩy cả thế giới vào một cuộc chiến tranh huỷ diệt tàn khốc chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Thật trái ngược hẳn với Đức Giêsu; Ngài giảng dạy như một Đấng có uy quyền, nhưng Ngài không rao giảng sự thù hận giết chóc; sứ điệp của Ngài là tình thương. Lời Ngài tiễu trừ ma quỷ, tha thứ tội lỗi, khơi dậy hy vọng cho người thất vọng. Lời Ngài làm cho “người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin mừng”(Lc 7,22). Lời Ngài thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu sắc, đánh động tâm hồn, thúc bách người ta hoán cải. Vì thế “toàn dân say mê nghe lời Người” (5 phút Lời Chúa).
Đền thờ là nơi Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau cách đặc biệt qua các cử hành phụng vụ, và là không gian thích hợp nhất cho việc cầu nguyện và lắng nghe tiếng Chúa. Đức Giêsu đã từng nói: “Cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây lại”. Nghĩa là Ngài muốn ám chỉ về thân xác của Ngài bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ phục sinh. Và cũng từ những chứng từ này, thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho giáo đoàn Côrintô đã nói: “Nào anh em chẳng biết rằng: anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ Đền thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền thờ ấy chính là anh em”. Như vậy, chính chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự, và hằng ngày khi làm dấu Thánh giá, chúng ta vẫn tuyên xưng điều đó (Hiền Lâm).
Truyện: Nhà thờ để làm gì?
Hay tin một linh mục mới vừa được đổi đến để thay cho cha xứ cũ về hưu, lại được biết linh mục mới này giảng rất hay, người ta đến nhà thờ dự lễ rất đông. Nhưng lần đầu tiên xuất hiện trước giáo dân trong xứ, vị linh mục mới cố tình ra mắt họ với bộ mặt rất xấu xí. Bởi đó, khi vừa thấy mặt cha, một số người đã thất vọng lui ra cửa. Vị Linh mục bình thản giơ tay làm dấu bảo im lặng, rồi tuyên bố: “Hôm nay ai đến đây để nhìn mặt Cha xứ mới và để nghe cha xứ mới giảng thì có thể về nhà; còn ai đến đây để thờ phượng Chúa thì hãy ở lại” (Chritian Beacon).
Suy niệm 10: Chúa thanh tẩy Đền thờ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa thanh tẩy Đền thờ.
Đền thờ có một chỗ đứng đặc biệt trong lòng mọi người. Truyền thuyết kể lại rằng:
Để tìm một khu đất xây đền thờ dâng kính Thiên Chúa, vua Salômôn đã phải suy nghĩ về vấn đề này rất lâu nhưng tìm không ra. Thế rồi vào một đêm kia vua bèn mặc quần áo như thường dân, không đem theo quân hầu, đi vi hành trong thành phố Jêrusalem, sau đó ra ngoại thành, đến chỗ núi Môria. Gọi là núi, nhưng thực ra không cao gì lắm, phần lớn núi là đất. Sườn núi hầu hết trồng lúa, và lúc này nhằm mùa gặt. Lúa đã gặt xong, còn chất ở ngoài ruộng, chờ ngày đem về nhà.
Salômôn ngồi dựa lưng vào một cây ôlive, nhắm mắt lẩm nhẩm ôn lại những địa điểm xinh đẹp trong xứ. Đồi này, núi nọ, thung lũng kia, so sánh coi nơi nào đẹp hơn nơi nào.
Đang suy nghĩ như thế thì Salômôn chợt nghe có tiếng chân bước, mở mắt ra thì thấy một người đi ngang chỗ mình ngồi. Vì trời tối, người này không thấy Salômôn. Tay y ôm một bó lúa. Salômôn thầm nghĩ: “A! Thằng này đi ăn trộm” và toan ra bắt, nhưng nghĩ lại, để chờ coi cho biết tên trộm làm những gì. Tên trộm này nhanh nhẹn lắm, đem bó lúa từ ruộng này qua đặt nơi ruộng kế bên, tất cả là 50 bó. Xong rồi nhìn quanh quẩn thấy không có ai, xoa tay và đi khỏi. Salômôn thầm nghĩ: “Sáng mai chủ ruộng này hẳn sẽ ngạc nhiên không hiểu vì sao mất đi 50 bó lúa”.
Salômôn còn đang suy nghĩ ngày mai sẽ phạt tên trộm này cách nào, thì lại nghe tiếng chân bước. Người mới tới đi vòng quanh hai thửa ruộng, ngó quanh thấy không có ai, liền mang một bó lúa từ ruộng này qua ruộng kia, y làm đúng như tên trộm trước đây, tuy không nhanh nhẹn bằng. Và y làm ngược lại, tức là y lấy lại 50 bó, sau đó y lại còn lấy thêm 50 bó nữa, tổng số là 100 bó. Xong rồi y cũng rút êm.
Salômôn nghĩ thầm: “Hai tên ăn trộm này có ruộng ở kề bên nhau và đều mưu toan ăn trộm của nhau. Thoạt đầu tưởng là có một anh ăn trộm, dè đâu kẻ trộm bị người ta ăn trộm lại”.
Sáng hôm sau, Salômôn cho đòi hai chủ ruộng tới thẩm vấn riêng từng người, bắt đầu từ người trẻ tuổi hơn:
- Tại sao anh dám trộm lúa của ruộng bên cạnh?
Người trẻ tuổi nghe hỏi, nhìn Salômôn cách sững sờ.
- Tâu bệ hạ! Thật tình tôi không có trộm của ai khác, mà là trộm của tôi. Bó lúa tôi lấy đi là lúa của ruộng tôi, tôi đem đặt nơi ruộng của anh tôi. Tôi không muốn ai biết chuyện, nhưng vua đã thấy thì tôi nói thiệt. Cha tôi chết đi, chia ruộng thành hai mảnh đều nhau cho tôi và anh tôi. Tôi thì còn độc thân, mà anh tôi thì có vợ và 3 con, hẳn là cần lúa nhiều hơn tôi. Tôi đem cho thì anh tôi không chịu nhận, thành ra tôi phải cho lén. Tôi chỉ có một mình, in ít đủ rồi.
Salômôn lại hỏi riêng người lớn tuổi. Người này đáp:
- Tâu bệ hạ! Có Thượng Đế biết là tôi không ăn trộm của ai. Và sự thật là trái lại. Cha tôi chết đi, chia đều ruộng cho tôi và em tôi. Khi em tôi trồng lúa, nó phải tốn tiền nhiều lắm, vì nó còn độc thân, phải mướn người làm cỏ, phải mướn thợ gặt, còn tôi đã có vợ con tiếp tay nên chẳng tốn gì. Tôi muốn giúp nó mà nó không chịu, thành ra phải giúp lén, tội nghiệp nó không đủ!
Salômôn kêu người trẻ tuổi tới, ôm hai người trong tay và cảm động nói rằng:
- Ta đã gặp nhiều chuyện ly kỳ trong đời, nhưng chưa hề thấy ai lo lắng cho nhau như hai anh em này. Bấy lâu nay, hai ngươi đã thầm kín lo lắng cho nhau, thật là đáng khen. Ta xin lỗi vì đã nghi ngờ hai ngươi là ăn trộm, và bây giờ ta yêu cầu hai ngươi bán ruộng cho ta, để ta dùng làm nơi dựng Đền thờ cho Thượng Đế, vì hai thửa ruộng này chan chứa tình thương, rất xứng đáng để xây dựng Đền thờ cho Thượng Đế, không nơi nào xứng đáng hơn!
Salômôn đền bù lại cho hai người được ruộng rộng hơn, tốt hơn, và loan báo cho khắp xứ Do Thái biết là đã chọn được địa điểm dựng Đền thờ.
Đền thờ quí giá thánh thiêng như vậy nên phải trả lại cho Đền thờ ý nghĩa đích thực của nó:
Đây là lời cầu nguyện của vua Salomon sau khi Đền thờ được xây dựng xong: “Lạy Chúa, Chúa đã phán rằng: Chúa sẽ ngự trong chốn chan chứa tình thương, nay con đã kiến thiết Đền thờ kính dâng Chúa, ngõ hầu Chúa ngự nơi đây đời đời. Kìa trời và các tầng trời còn chẳng đáng tiếp rước Chúa, huống chi ngôi Đền thờ con vừa xây cất. Dầu vậy, lạy Chúa là Chúa trời con, xin đoái thương đến lời tôi tớ khẩn cầu, hãy nhận lời tôi tớ Chúa van lơn trước tôn nhan. Dám mong con mắt Chúa đêm ngày ngó đến Đền thờ này, vì nơi đây, theo Lời Chúa phán hứa, người ta phải tới mà cầu khấn danh Chúa” (II Sử ký 7,1).
Suy niệm 11: Trả lại cho Đền thờ ý nghĩa đích thực
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Ý nghĩa của hành động Chúa Giêsu là thanh tẩy Đền thờ, gồm 2 khía cạnh:
1. Loại khỏi Đền thờ những gì đi lệch khỏi mục đích của nó. Việc buôn bán trong Đền thờ đã biến “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện” trở thành “sào huyệt của bọn cướp”, cho nên Chúa Giêsu đã đánh đuổi những người buôn bán.
2. Trả lại cho Đền thờ ý nghĩa đích thực của nó: “Hàng ngày Ngài giảng dạy trong Đền thờ”.
B.... nẩy mầm.
1. Mua bán những lễ vật để đem vào dâng trong đền thờ không phải là thờ phượng đích thực. Nghĩ rằng dâng lễ vật tức là thờ phượng Chúa thì càng sai hơn nữa. Bởi đó Chúa Giêsu đã đánh đuổi những người mua bán lễ vật. Thờ phượng đích thực là lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Bởi đó sau khi đánh đuổi những người mua bán, Chúa Giêsu “hằng ngày giảng dạy trong Đền thờ” và “toàn dân say mê nghe Ngài”.
2. Việc phượng tự của chúng ta dễ bị biến chất, mất đi ý nghĩa cao đẹp ban đầu. Xin Chúa Giêsu giúp ta biết thường xuyên rà lại nếp sống thờ phượng của ta. - Chúa Giêsu đến canh tân việc phượng tự: từ nay không còn là chiên bò, chim câu… mà chính thân xác Ngài là lễ vật tuyệt hảo dâng lên Thiên Chúa Cha. - Chúa Giêsu là đền thờ mới sau khi “bị phá đổ trong 3 ngày”. Từ nay muôn dân quy tụ nơi đền thờ này để dâng lễ vật.
3. Ta nhớ lại lời thánh Phaolô: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa xót thương chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người.” (Rm 12,1). - Cả cuộc đời tôi là của lễ. Lạy Chúa, xin thương nhận ‘của lễ hiến tế đời con’.
4. Hay tin một Linh mục mới vừa được đổi đến để thay cho Cha xứ cũ về hưu, lại được biết Linh mục mới này giảng rất hay, người ta đến nhà thờ dự lễ rất đông. Nhưng lần đầu tiên xuất hiện trước giáo dân trong xứ, vị Linh mục mới cố tình ra mắt họ với một bộ mặt rất xấu xí. Bởi đó, khi vừa thấy mặt cha, một số người đã thất vọng lui ra cửa. Vị Linh mục bình thản giơ tay làm dấu bảo im lặng, rồi tuyên bố: “Hôm nay ai đến đây để nhìn mặt Cha xứ mới và để nghe cha xứ mới giảng thì có thể về nhà; còn ai đến đây để thờ phượng Chúa thì hãy ở lại.” (Christian Beacon).
5. “Chúa Giêsu nói với họ: ‘Đã có lời chép rằng Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Lc 19,46)
Có những lúc con tự hỏi: Chúa sẽ như thế nào khi Ngài đến nơi cung lòng con ? Và đường như con nghe Lời Ngài khiển trách, vì đã có những lần con đến gặp Ngài nơi bàn tiệc thánh nhưng tâm trí con lại để ở đâu. Con mãi lo suy tính: chiều nay con sẽ đi shop mua giày, sáng mai con dậy sớm để giải một bài toán. Có khi cả buổi lễ con toàn nhớ đến “người ấy”. Hay hết bài giảng của Linh mục chủ tế là con lập được dàn ý của bài luận văn…
Giêsu ơi, xin cho con mỗi lần đến với Ngài, tâm hồn thanh thản, và gặp Chúa trong tình thân. (Hosanna)
- 18/11 Chúa Giêsu thương tiếc cho Giêrusalem
- 17/11 Nén bạc sinh lời
- 16/11Thể hiện hoán cải cách cụ thể
- 15/11 Người mù thành Giêricô
- 14/11 Làm chứng cho Chúa Giêsu
- 13/11 Cầu nguyện là sức mạnh
- 12/11 Sống trong ngày của Chúa
- 11/11 Sống giây phút hiện tại
- 10/11 Biết Tạ Ơn Thiên Chúa.
- 09/11 Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ