Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
08/02 Chúa Giêsu và bà mẹ ngoại giáo
- Viết bởi Mc 7, 24-30
Chúa Giêsu và bà mẹ ngoại giáo.
Thứ Năm tuần 5 thường niên.
"Những con chó ở dưới gầm bàn cũng ăn những mụn bánh rơi của con cái"
Lời Chúa: Mc 7, 24-30
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt Tyrô và Siđon. Vào một nhà kia, Người không muốn ai biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được.
Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người. Bà đó là người dân ngoại, dòng giống Syrô-Phênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà.
Người nói: "Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó". Nhưng bà trả lời và thưa Người rằng: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái".
Người liền nói với bà: "Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi". Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Những mảnh vụn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Để có được cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với người phụ nữ,
hai bên đã phải vượt qua nhiều đường ranh, nhiều rào cản.
Đức Giêsu đã bỏ đất Ítraen để đến vùng Tia, vùng đất ô uế của dân ngoại.
Người đàn bà dân ngoại đã vượt qua sự ngăn cách với người đàn ông Do thái.
Qua câu đáp của bà, bà cũng vượt qua được sự lụy phục thường gặp nơi phụ nữ
sống trong một nền văn hóa do đàn ông làm chủ ở thế kỷ đầu.
Trong Tin Mừng Máccô, đây là phép lạ duy nhất nhắm đến dân ngoại.
Rõ ràng Đức Giêsu không có ý làm phép lạ trừ quỷ này,
Chúng ta ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu từ chối giúp bà ta, rồi lại đổi ý.
Nhiều người không tin đây là cách cư xử vốn có của Đức Giêsu
trước nỗi đau của trái tim người mẹ có đứa con bị quỷ ám.
Tuy nhiên, nên nhớ rằng sứ vụ của ngài không bao gồm dân ngoại.
Ngài chỉ được sai đến với dân Ítraen,
để rồi chính môn đệ ngài sẽ chịu trách nhiệm đến với dân ngoại.
Hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ.
Bà nài xin ngài đuổi quỷ ra khỏi con gái của bà,
nhưng bà đã phải nghe một câu trả lời rất khó chịu và có thể gây tổn thương.
“Hãy để con cái ăn trước,
vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con” (c. 27).
Đức Giêsu ví dân Do thái với những đứa con trong nhà,
còn dân ngoại là mẹ con bà, được ví với những chó con.
Con cái dĩ nhiên là có quyền ưu tiên rồi, được ăn bánh trước.
Bánh của con cái đương nhiên không nên ném xuống đất cho chó con.
Với người khác, câu trả lời gây sốc của Đức Giêsu có thể khép lại mọi hy vọng.
Nhưng đối với bà, chính câu này lại mở ra niềm hy vọng mới.
“Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn
cũng được ăn những mảnh vụn của lũ trẻ nhỏ” (c. 28).
Bà khiêm tốn nhận mình là chó con,
được nuôi trong nhà, nằm dưới gầm bàn lúc mọi người ăn uống,
nên thỉnh thoảng cũng được đám con cái cho ăn những mảnh bánh vụn.
Như thế những đứa con cũng chẳng giữ riêng tấm bánh cho mình.
Chúng cũng biết chia sẻ, thậm chí cho mấy chú chó con.
Hôm nay bà chẳng xin ngài cho tấm bánh trên bàn dành cho con cái,
Bà chỉ xin ngài cho vụn bánh dành cho chó con nằm dưới bàn.
Đức Giêsu hẳn hết sức bất ngờ với câu trả lời này,
vừa tin tưởng, hy vọng, vừa khiêm tốn, khôn ngoan.
Chính câu trả lời này đã chinh phục và làm cho Đức Giêsu đổi ý.
“Vì bà nói thế, bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” (c. 29).
Phép lạ này rất “lạ” vì Đức Giêsu đã đuổi quỷ từ xa,
và ngài cũng chẳng đưa ra một lời uy quyền nào để đuổi quỷ.
Khi người mẹ này về nhà, thì thấy con gái mình đã được bình an.
Chúng ta học được gì nơi cách cư xử của người phụ nữ?
Chúng ta học được gì nơi thái độ của Đức Giêsu?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
có những ngày con cảm thấy
đời sống thật nặng nề;
có những lúc con muốn buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa đẩy;
có những khoảng thời gian dài,
con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.
Xin cho con ánh sáng của Chúa
để con biết lối mà đi.
Xin cho con tấm bánh của Chúa
để con có sức mà dấn bước.
Xin cho con Lời của Chúa
để con vững một niềm tin.
Xin cho con sự sống của Chúa
để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,
niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu,
con thấy mình cần Chúa
trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp được sự hiện diện của Chúa. Amen.
Suy Niệm 2: An và loạn
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa tạo dựng tất cả vì con người và cho con người. Đặt mọi vật dưới chân con người. Cho con người đặt tên cho mọi sinh vật. Theo quan niệm Do thái, đặt tên trên ai là có quyền trên người đó. Thấy con người vẫn chưa vui, Thiên Chúa tạo dựng nên phụ nữ để làm bạn ngang hàng với người nam. Thuở ban sơ mọi thứ đều đẹp đẽ, ổn định trong trật tự: Thiên Chúa – con người – vạn vật. Mọi loài thanh thản an vui vì sống trong tự do, trong Thiên Chúa. Nam nữ không là đối tượng để chiếm đoạt hay thống trị. Nhìn nhau với tâm hồn thiên thần. Nên không hề xấu hổ (năm lẻ).
Nhưng ma quỉ đến phá vỡ tình trạng bình an trong tự do. Trật tự bị đảo lộn. Con người không còn vâng phục Thiên Chúa. Vạn vật nổi loạn muốn thống trị nhau. Nam nữ trở thành đối tượng chiếm đoạt. Nhìn nhau với ánh mắt thèm muốn. Vì thế trở thành ngẫu tượng. Sa-lo-mon khôn ngoan là thế mà cũng rơi vào lầm lạc khi để cho dục vọng chi phối. Để cho phụ nữ điều khiển. Vì thế rơi vào tôn thờ ngẫu tượng. Vì thế mất hết ơn nghĩa với Thiên Chúa. Mất hết quyền trên vạn vật. Đang là con cái trong nhà được ngồi trên bàn ăn bỗng nhiên trở thành chó con phải ngồi dưới gầm bàn. Đang tự do trở thành nô lệ. Đang giầu có bỗng mất tất cả (năm chẵn).
Muốn chuộc lại phải có đức tin mạnh mẽ. Như người phụ nữ Ca-na-an. Vượt qua hết mọi chướng ngại. Từ bỏ tất cả để trở về với Chúa. Tin nhận Chúa trên hết. Tất cả chỉ là phụ thuộc. Kể cả bản thân cũng chỉ là chó con dưới gầm bàn. Chúa là tất cả. Chúa là tuyệt đối. Nhờ đó thân phận được phục hồi. Từ chó con dưới gầm bàn trở thành con cái trong nhà. Được đồng bàn với Thiên Chúa. Được hưởng mọi ơn lành Chúa ban. Khi trật tự được vãn hồi, bình an trở lại. Ma quỉ phải ra đi. Bệnh tật chấm dứt. Và Thiên Chúa ngự trị.
Suy Niệm 3: Ơn cứu độ đại đồng
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong nhật ký của mình, Mahatma Gandhi cho biết khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất say mê đọc Kinh Thánh, nhất là Bài Giảng Trên Núi, đến nỗi ông xác tín rằng Kitô giáo chính là câu trả lời cho nạn kỳ thị giai cấp đã từng hành hạ dân Ấn suốt bao thế kỷ, thậm chí ông còn muốn trở thành Kitô hữu nữa. Thế nhưng, một ngày nọ, khi đến nhà thờ dự lễ, ông bị người giữ cửa chặn lại và bảo ông phải đi lễ ở nhà thờ dành cho người da đen, kể từ đó, ông không bao giờ quay trở lại nhà thờ nữa.
Chúa Giêsu không bao giờ tỏ ra kỳ thị con người như thế. Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng. Cũng như các tác giả Tin Mừng khác, thánh sử Marcô cho thấy phần lớn hoạt động và thời giờ của Chúa Giêsu được dành cho người Do thái; chỉ sau khi sống lại, Ngài mới chính thức sai các Tông đồ truyền giảng Tin Mừng cho mọi người, bất luận là Do thái hay không Do thái. Thật ra ngay những năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã hé mở cho thấy chiều kích phổ quát của giáo lý và của ơn cứu độ mà Ngài mang lại. Ngoài những giáo huấn về tình huynh đệ đại đồng và thái độ không bài ngoại của Chúa Giêsu, Tin Mừng còn thuật lại các chuyến đi của Ngài tới vùng đất ngoại giáo, tại đây, Ngài cũng đã làm nhiều phép lạ, như trừ quỷ cho một thanh niên ở Gêrasa, cho một người câm ở miền Thập tỉnh nói được, và lần này trừ quỷ cho con gái của một phụ nữ Hy lạp gốc Phênixi.
Dựa vào những yếu tố trên, câu nói của Chúa Giêsu: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con" không thể giải thích đó là dấu biểu thi sự khinh miệt của Ngài đối với người khác đạo và khác tổ quốc; đúng hơn, Chúa muốn mọi người đừng quên ưu thế của người Do thái trong việc thừa hưởng ơn cứu độ, bởi vì Thiên Chúa đã chọn cha ông họ và muốn tỏ lòng trung thành với cha ông họ. Người Do thái được ưu tiên, chứ không phải là những người duy nhất được hưởng ơn cứu độ; vì thế, dù quan tâm săn sóc người Do thái nhiều đến đâu, Chúa Giêsu cũng không để trở thành vật sở hữu độc quyền của họ, Ngài vẫn có tự do bày tỏ tình thương đối với người khác.
Chúng ta chấp nhận sự tự do của Thiên Chúa trong việc ban phát ơn huệ và tình thương của Ngài. Dù ý thức mình chẳng là gì, chúng ta hãy tin rằng mình luôn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa. Với một Ðấng vô biên như Thiên Chúa, thì bất cứ hành vi nào của Ngài cũng có chiều kích vô hạn và quà tặng của Ngài cũng tràn trề sung mãn. Xin cho chúng ta cảm nhận được rằng Chúa đang yêu thương chúng ta và như thế là đủ cho chúng ta.
Suy Niệm 4: Thế giới tha nhân
Thật vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người. Bà ta là người Hy-lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri-a. bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà. (Mc. 7, 25-26)
Để hiểu rõ câu chuyện gặp gỡ này, đừng quên rằng Chúa Giêsu là người Do thái. Theo tâm thức của người Do thái, chuyện gặp gỡ một người ngoại là điều không ổn, cũng giống như ta gặp một người nào đó không cùng chủng tộc với ta vậy.
Nhưng ở đây lòng khiêm tốn tháo gỡ tất cả, bởi lẽ lòng khiêm tốn là cánh cửa mở rộng. Trước tấm lòng cởi mở của người phụ nữ này, tâm hồn của Chúa Giêsu cũng mở rộng ra. Bà ta không phải là thành phần của dân giao ước, nhưng lòng tin của bà tiếp nối lòng tin của Áp-ra-ham. Bà ta đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đã làm thay đổi hoàn cảnh lịch sử lúc đó mà trở thành con cái của Chúa Cha. Nhờ Chúa Giêsu, Chúa Cha nhậm lời bà cầu xin. Thiên Chúa mở đường cho việc rao giảng tin mừng sau này.
Và để loan báo tin mừng này, chỉ cần yêu thương, trung thực cho đến cùng. Chỉ cần sống say mê nhiệt tình: khi người ta thực tâm thực tình để chỉ lo cho một chuyện, mọi chuyện khác đều thấy là tương đối thôi.
Qua bai Phúc âm hôm nay, Chúa muốn mở mắt mở lòng ta để hướng về thế giới những người ngoại. Họ là những con người biết thu lượm những mảnh vụn từ bàn ăn khi họ đòi hỏi ta phải tôn trọng sự thật, công bằng, khi họ lo lắng cho việc phục vụ những người nghèo, khi họ muốn dỡ đi những hàng rào ngăn cách do những đặc quyền đặc ân của ta đã dựng lên.
Cuộc sống của ta có loan báo điều mới lạ này không, một điều làm cho ta có được trái tim nhân lành, thực nhân lành, theo đúng nghĩa của lời “không có ai nhân lành cả trừ một mình Thiên Chúa”?
Suy Niệm 5: Niềm tin cần được tôi luyện qua thử thách
Trong đời sống đức tin của mỗi người, nhiều khi chúng ta phải mần mò đi trong đêm tối! Có những lúc tưởng chừng như Chúa đang bỏ rơi chúng ta! Có khi cuộc đời chúng ta đi vào ngõ cụt với biết bao thách đố mà chúng ta khó hòng vượt qua.
Tuy nhiên, khi chúng ta không còn biết cậy dựa vào ai, thì lúc đó Chúa có mặt và giải thoát chúng ta cách nhiệm mầu. Điều quan trọng là chúng ta có dám lỳ trong đức tin hay không mà thôi.
Tin Mừng hôm nay thuật lại gương sáng của người đàn bà dân ngoại. Một mẫu gương về niềm tin tuyệt đối vào Đức Giêsu. Bà thừa biết mình là người dân ngoại, nên không thể có lý do gì để xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà. Thế nhưng, niềm tin và sự hy vọng đã làm cho bà vượt qua hàng rào ngăn cách đó, nên bà đã mạnh dạn đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà.
Quả thật, Đức Giêsu đã không chữa ngay, mà ngược lại, Ngài đã nói một câu rất nặng để thử thách đức tin của bà, Ngài nói: “Phải để con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà mà nén cho lũ chó con” (Mc 7,27). Người phụ nữ này đã không nản lòng, nhưng qua câu nói đó, bà lại càng khiêm tốn và đức tin mỗi lúc lại mãnh liệt hơn, bà thưa với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”(Mc 7, 28).
Chính đức tin mãnh liệt như thế, nên phép lạ đã xảy ra. Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và cứu thoát con gái bà khỏi Quỷ ám.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên trì, trung thành và vững tin nơi Chúa. Bởi lẽ đức tin chỉ có thể trưởng thành khi chúng ta trải qua đau khổ và được tôi luyện bằng nghịch cảnh. Nhờ thế, chúng ta mới có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa, đồng thời xứng đáng trở nên chứng nhân về niềm hy vọng cho con người hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con vững tin vào quyền năng của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Kiên nhẫn, khiêm nhường trong đức tin vững mạnh
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là ông lấy hết sức lực, và la lớn: “Lạy Chúa”.
Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế”. “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất”. Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra”. Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!” (Trích “Món quà giáng sinh”).
Suy niệm
Người phụ nữ đau khổ vì hằng ngày chứng kiến cảnh quỷ dữ hành hạ con gái bà. Bà đã tìm thầy chạy thuốc khắp nơi rồi nhưng con bà vẫn không khỏi...
Chúa Giêsu đang ở vùng đất Tyrô và Siđon, rất xa quê hương bà. Thế nhưng bà đã tìm đến gặp Ngài. Tuy nhiên có sự ngăn cách giữa bà và Chúa Giêsu vì Người là người Do Thái mà người Do Thái lại không tiếp xúc với dân ngoại như bà, dòng giống Syrôphênixi. Tuy nhiên bà đến và phục lạy Ngài. Phục lạy là thái độ chỉ dành cho thần minh, như vậy có nghĩa là bà đã tôn vinh Ngài là vị thần.
Chúa Giêsu hiền lành, luôn chạnh lòng trước nỗi khổ của người dân (x. Mc 6,30-34) và sẵn sàng đáp trả… Thế nhưng Ngài có vẻ dửng dưng, thoái thác trước nỗi khổ tâm của người đàn bà đau khổ này. Thái độ của Chúa Giêsu đáp lại làm cho chúng ta bị “sốc”: “Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó” (Mc 7,27). Nhưng bà càng tỏ ra cương quyết và đặt trọn niềm phó thác vào tình thương cùng với quyền năng của Ðức Giêsu: “Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái” (Mc 7,28).
Với cách đối xử có vẻ phân biệt chủng tộc, giai cấp… và dường như dửng dưng khinh miệt, nhưng trước niềm tin mạnh của bà, Ngài vẫn ban cho bà điều mà bà kêu xin. Ngài muốn dạy cho bà và qua đó cũng dạy cho chúng ta sự kiên nhẫn và khiêm nhường trong một đức tin vững mạnh trải qua gian nan thử thách.
Xin Chúa cho chúng ta một đức tin kiên trung, đức cậy trông vững vàng, để không khó khăn thử thách nào có thể tách chúng ta ra khỏi đức tin vào Ngài.
Ý lực sống: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ” (Mt 24,13).
Suy Niệm 7: Chúa trừ quỉ ở miền Tyrô
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu chữa trừ quỉ cho người đàn bà xứ Phênixi. Qua phép lạ này chúng ta thấy người đàn bà ngoại giáo này được Chúa chữa bệnh cho con bà nhờ bà có những đặc tính này:
- Bà là một người ngoại, nên lẽ ra theo kế hoạch hành động của Chúa Giêsu, bà không được hưởng những ơn phúc của Chúa Giêsu, bởi vì theo kế hoạch ấy, Ngài đến ban ơn cho người Do thái trước. Vì thế, ban đầu Ngài đã từ chối bằng những lời rất nặng “Phải để cho con cái ăn no trước đã. Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”.
- Nhưng lòng tin kiên trì cùng với lòng khiêm nhường của bà đã biến bà thành “con cái trong nhà” nên Chúa Giêsu đã ban ơn theo lời bà xin.
2. Người đàn bà dân ngoại trong câu chuyện hôm nay có nhiều đức tính đáng chúng ta chú ý và bắt chước:
- Chúng ta thấy bà là người rất khiêm tốn, dám chịu nhận mình là “chó con: “Thưa Ngài đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những mảnh vụn trên bàn rơi xuống”.
- Bà có một đức tin kiên trì: dù bị khước từ ngay từ lúc đầu bằng những lời rất nặng nề nhưng bà vẫn không nản lòng. Lòng tin của bà không hề lay chuyển.
- Bà có một lòng phó thác mạnh mẽ nơi Chúa: Chúa Giêsu bảo bà “Cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” Mc 7,29). Dù chưa thấy hiệu quả trước mắt, nhưng vì tin lời Chúa nên bà ra về trong tin tưởng.
3. Trước sự cầu xin của người đàn bà ngoại giáo (không thuộc Do thái giáo), lời trả lời đầu tiên của Chúa Giêsu nghe có vẻ nặng nề và miệt thị, nhưng cũng qua đó cho thấy niềm tin của người đàn bà rất mạnh vượt lên trên mọi ngăn cách tôn giáo, sự kỳ thị và có thể cả sự khinh khi.
“Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”. Câu nói này có vẻ mang dáng dấp của một sự khinh miệt và xúc phạm danh dự, nhưng thật không ngờ người đàn bà không nao núng theo tính tự ái mà còn thân thưa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”. Trước đức tin cao độ như thế, Chúa Giêsu đành chào thua mà ban cho bà điều bà xin. Bà tin lòng thương xót của Chúa bao la, chắc chắn cũng vượt ra bên ngoài dân Do thái, nên bà có thể hưởng được những mảnh vụn của lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa thương yêu mọi người, muốn cứu rỗi mọi người. Lòng tin khiêm tốn bền vững của con người càng chiếm được tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa.
4. Tại sao một số người có đức tin mạnh mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém? Tại sao một số người thấy đức tin là điều dễ dàng đang khi số khác lại thấy đó là điều khó khăn? Người đàn bà ngoại giáo này biết mình là người ngoại, không hy vọng được Chúa đoái nghe vì người Do thái không ưa người Canaan, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm khó chịu và muốn xua đuổi của các Tông đồ đối với bà? Nhưng bà tin rằng thế nào Chúa cũng phải thương bà. Bà có lòng tin như một người ngoại khác là viên bách quan kia: “Thưa Thầy, tôi chẳng đáng Thầy vào nhà tôi, song xin Thầy chỉ phán một lời”(Mt 8,8). Nghe vậy, Chúa Giêsu bỡ ngỡ nói với các kẻ theo Ngài: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin như thế nơi một người nào trong Israel’(Mt 8,10).
5. Đọc Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu là người không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài chỉ muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào trong lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành hơn. ”Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết (Mc 7,24).
Chúa sống như vậy, còn chúng ta thì sao? Hãy tập cho mình biết sống âm thầm như Chúa.
Newton, một nhà vật lý học và thiên nhiên học trứ danh, sau những thành công hiển hách của sự tìm tòi, ông đã viết: “Không biết thế giới nghĩ về công việc của tôi như thế nào, nhưng tôi, trong tất cả các sự tìm tòi của tôi về khoa học, tôi chỉ như một đứa trẻ con chơi ngoài bãi biển. Có lẽ, đôi khi cũng đã tìm được những hạt sỏi tròn hơn, những vỏ hến đẹp hơn những cái bạn tôi tìm, nhưng biển mênh mông của chân lý, dưới con mắt tôi vẫn còn mầu nhiệm quá”.
Văn sĩ Walter Scott người Anh đã nói một cách rất nhũn nhặn, sau bao nhiêu năm làm việc chuyên cần: “Trong đời sống của tôi, cái dốt đã ngăn tôi lại và dày vò tôi. Người ta càng biết nhiều bao nhiêu thì lại phải khiêm nhường bấy nhiêu, người ta càng học nhiều thì lại càng thấy mình còn dốt”.
Truyện: Giữ vững lòng tin sắt đá.
Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị linh mục Hungari và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.
Khi cửa nhà khách được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị linh mục rằng: “Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các linh mục bầy ra để làm mê hoặc đám dân nghèo để giúp những người giầu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa”.
Vị linh mục cười và trả lời rằng: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật”.
“Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi”, vị sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào đầu linh mục và hăm dọa: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng”.
Vị linh mục điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa”.
Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuông sàn và chạy đến ôm vị linh mục. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi không thể tin rằng có những người dám chết vì Đức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được”.
Suy Niệm 8: Đức tin của bà mẹ người Phênixi
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu chữa con gái một phụ nữ Phênixi
- Bà là một người ngoại, nên lẽ ra theo kế hoạch hành động của Chúa Giêsu, bà không được hưởng những ơn phúc của Chúa Giêsu, bởi vì theo kế hoạch ấy, Ngài đến ban ơn cho người do thái trước. Vì thế, ban đầu Ngài đã từ chối bà bằng những lời rất nặng "Phải để cho con cái ăn no trước đã. Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con".
- Nhưng lòng tin kiên trì của bà đã biến bà thành "con cái trong nhà" nên Chúa Giêsu đã ban ơn theo lòng bà xin.
B.... nẩy mầm.
1. "Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết" Chúa Giêsu không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành.
Nhưng hình như môn đệ Chúa ngày nay không theo cùng một đường lối đó thích phô trương những sự "vĩ đại" của Giáo Hội, của nhà thờ, của tổ chức Giáo Hội, mà quên đi điều cốt yếu hơn là gieo niềm tin vào lòng người.
2. Đức tin của người phụ nữ Phênixi này là nguyên do khiến bà được ơn Chúa. Ta hãy nhìn lại đức tin của bà
- một đức tin khiêm tốn chịu nhận làm "chó con"
- một đức tin kiên trì dù bị từ khước ban đầu nhưng vẫn không nản lòng.
- một đức tin phó thác Chúa Giêsu bảo bà "cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi". Dù chưa thấy hiệu quả nhưng vì tin Lời Chúa, bà ra về.
3. Chính nhờ Chúa Giêsu đã thử thách đức tin của bà này bằng những lời rất nặng, nên Ngài mới biết được đức tin của bà rất mạnh.
Cũng vậy, đức tin của ta có được thử thách thì mới chứng tỏ là một đức tin thật.
Xin cho con kiên trì chịu đựng những thử thách về đức tin.
3. Một người da trắng và một người thổ dân cùng nghe giảng. Người thổ dân cảm động và xin nhập đạo ngay. Còn người da trắng cũng cảm động nhưng cả năm sau mới nhập đạo. Trong một buổi phụng vụ, người da trắng hỏi
- Tôi phải mất một thời gian mới có lòng tin, sao anh có lòng tin sớm thế? Người thổ dân đáp
- Này bạn, để tôi nói cho bạn nghe. Có vị hoàng tử hứa cho chúng ta chiếc áo mới. Bạn nhìn vào áo mình, tự nhủ áo mình còn đẹp, để mai sau hãy lấy. Còn tôi, tôi nhìn vào tấm chăn cũ kĩ của mình, thấy nó chẳng ra gì, nên vội vàng đến nhận áo mới. Bạn ạ, bạn đã có chút khôn ngoan, nên bạn còn muốn dùng chúng. Còn tôi, tôi không có, nên tôi mau mắn đón nhận sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. (Góp nhặt)
4. - Phải để con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con.
- Thưa Ngài đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con.
- Vì bà đã nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi (Mc 7,27-29)
Trong cuộc đối thoại thú vị ấy, người phụ nữ ngoại đạo đã dành phần thắng con gái chị được khỏi bệnh; và Chúa Giêsu cũng được lợi giúp một người thoát khỏi cảnh khốn cùng.
Đúng là một cuộc đối thoại thành công mà bí quyết thuộc về cả hai phía chị phụ nữ khiêm tốn với ý chí và đức tin mạnh mẽ; Chúa Giêsu thì hiền hòa, linh hoạt trong cách làm việc.
Tôi chợt nghĩ đến những cuộc đối thoại hôm nay giữa các vị nguyên thủ quốc gia, giữa tôi với Chúa, giữa tôi với anh em…
Lạy Chúa, xin cho loài người chúng con biết đối thoại để thế giới này hạnh phúc hơn. (Epphata)
Suy Niệm 9: Bà mẹ ngoại giáo vững tin
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chúa Giêsu chữa bệnh cho người con gái của một phụ nữ Phênisi:
Đọc trong Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu là người không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài chỉ muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào trong lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành hơn. “Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết” (Mc 7,24).
Chúa sống như vậy. Còn chúng ta thì sao?
Hãy tập cho mình biết sống âm thầm như Chúa.
Newton, một nhà vật lý học và thiên văn học trứ danh, sau những thành công hiển hách của sự tìm tòi, ông đã viết:
- Không biết thế giới nghĩ về công việc của tôi như thế nào, nhưng tôi, trong tất cả các sự tìm tòi của tôi về khoa học, tôi chỉ như một đứa trẻ con chơi ngoài bãi biển. Có lẽ, đôi khi cũng đã tìm được những hạt sỏi tròn hơn, những vỏ hến đẹp hơn những cái bạn tôi tìm, nhưng biển mênh mông của chân lý, dưới con mắt tôi vẫn còn mầu nhiệm quá.
Văn sĩ Walter Scott người Anh đã nói một cách rất nhũn nhặn, sau bao nhiêu năm làm việc chuyên cần:
-Trong đời sống của tôi, cái dốt đã ngăn tôi lại và dày vò tôi. Người ta càng biết nhiều bao nhiêu thì lại càng phải khiêm nhường bấy nhiêu, người ta càng học nhiều thì lại càng tự thấy mình còn dốt.
Socrate đã nói rất có lý:
- Bậc hiểu biết cao nhất của con người là biết được rằng mình chưa biết gì cả.
Và Sénèque cũng đã viết:
- Đừng tưởng mình là khôn ngoan, mới là khôn.
Ở Hungary có câu châm ngôn rất đúng:
- Nếu anh thông minh, anh đừng khoe khoang.
Người ta thường nói: gà cục tác nhiều thì đẻ trứng ít.
Một hôm, Alcibiade khoe với Socrate là thầy dạy mình về những lãnh thổ mênh mông của ông chung quanh vùng Athènes. Socrate liền mở bản đồ ra hỏi:
- Hãy chỉ cho tôi biết Á Đông ở đâu?
Alcibiade chỉ đúng cái lục địa rộng lớn ấy.
- Đúng! bây giờ chỉ cho tôi biết Hy Lạp ở đâu?
Alcibiade vẫn chỉ đúng.
- Đâu là Péloponèse, Socrate vẫn hỏi.
Alcibiade cố gắng mãi mới tìm thấy cái chấm nhỏ trong bản đồ.
-Vịnh Attique ở đâu?
Alcibiade thấy vịnh Attique là một cái chấm nhỏ quá gần như không trông thấy, Socrate kết luận: - Đó, bây giờ hãy cho tôi biết phần đất rộng lớn của anh chỗ nào!
Alcibiade nhận ra lãnh thổ của mình không đáng một phần nhỏ nào trong bản đồ.
Như vậy, chúng ta thấy cuộc sống của mỗi người đâu có gì đáng tự hào mà phải khoe khoang, phô trương.
2. Người đàn bà trong câu chuyện hôm nay là tấm gương cho chúng ta về vấn đề này. Đối với Chúa quả là bà ta chẳng là gì. Chúng ta hãy xem cách bà đối thoại với Chúa, chúng ta sẽ thấy điều đó:
Trước hết chúng ta thấy bà là một người rất khiêm tốn: chịu nhận làm “chó con”
Thứ đến bà có một đức tin kiên trì: dù bị khước ngay từ lúc đầu bằng những lời rất nặng nề nhưng bà vẫn không nản lòng, lòng tin của bà không hề lay chuyển.
Và cuối cùng, bà có một lòng phó thác mạnh mẽ nơi Chúa: Chúa Giêsu bảo bà “Cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi”(Mc 7,29). Dù chưa thấy hiệu quả trước mắt, nhưng vì tin Lời Chúa nên bà ra về.
Trong cuộc đối thoại thú vị này, người phụ nữ đã dành được phần thắng: con gái của bà đã được khỏi bệnh, và Chúa Giêsu cũng được lợi: vì đã giúp được một người thoát khỏi cảnh khốn cùng.
Đây quả là một cuộc đối thoại thành công mà bí quyết thuộc về cả hai phía: Người đàn bà thì khiêm tốn với ý chí và đức tin mạnh mẽ, không có một chút phô trương tự mãn nào nơi người bà, còn Chúa Giêsu thì hiền hòa, linh hoạt trong cách làm việc. Kết quả quá đẹp. Đẹp cả cho Chúa và đẹp cả cho người đàn bà.
Phần chúng ta không biết cho đến bao giờ chúng ta mới học được sự khiêm nhường của người đà bà này và không biết đến bao giờ chúng ta mới học được sự hiền hòa như Chúa Giêsu trong câu chuyện chúng ta vừa được nghe.
Thánh nữ Syncletica nói: “Bảo tàng sẽ mất giá trị khi bị phơi bày, nhân đức khi phô trương cũng tan biến như vậy; sáp tan chảy lúc để gần lửa thế nào, thì linh hồn cũng bị hư hoại vì lời ca tụng và mất hết mọi thành quả lao nhọc của mình như vậy”.
Xem ra có vẻ rất khó, nhưng nếu chúng ta biết cậy dựa vào ơn của Chúa, tôi tưởng chúng ta có thể làm được.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì
nhận lấy những thất bại trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của Thập Giá,
xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách
chúng con phải gánh chịu mỗi ngày,
thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến
và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng
chúng con không thể nên hoàn thiện
nếu như không biết từ bỏ chính mình
và những ước muốn ích kỷ.
Xin làm cho chúng con biết trở nên giống Chúa mỗi ngày. Amen.
Suy Niệm 10: Kiên trì trong lời khẩn cầu
(Lm. Gio-an Trần Văn Viện)
Trong bài phúc âm hôm nay, Thánh Mác-cô thuật lại cho chúng ta câu chuyện của một người đàn bà ngoại giáo đang khẩn xin Chúa Giê-su chữa cho con gái của bà đang bị quỷ ám. Đây là một lời khẩn cầu rất chính đáng của một người mẹ đang rất lo lắng, quan tâm đến người con gái nhỏ của mình. Nhưng câu trả lời của Chúa Giê-su có vẻ làm chúng ta ngạc nhiên. Chúa đã thẳng thắn từ chối lời kêu xin của bà với những lời nói cứng rắn, khó nghe: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”. Qua lời này, Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh sứ mạng của Người là đến cứu những con chiên lạc nhà Ít-ra-en (x. Mt 15, 24).
Chắc chắn người đàn bà kia hiểu được ẩn ý trong câu nói của Chúa vì bà biết rằng người Do Thái thường dùng hình ảnh “con chó” để nói về người ngoại giáo (x. 1 Sam 17, 43), còn họ luôn tự hào rằng mình là con cái Thiên Chúa. Trước những lời lẽ có chút “sỉ nhục” đó, bà vẫn hạ mình chấp nhận nhưng bà không từ bỏ để tiếp tục khẩn cầu lên Chúa và đòi chút quyền lợi cho đứa con gái: “chó con” có quyền ăn những miếng bánh vụn của đám trẻ nhỏ rớt xuống từ trên bàn. Chính sự kiên trì trong lời khẩn cầu tới Chúa mà bà đã được Người đáp lời. Chúa Giê-su đã trục xuất quỷ khỏi người con gái của bà. Niềm tin mạnh mẽ của bà nơi Chúa mặc cho Ngài thử thách đã giúp bà đạt được ước nguyện của mình (x. Mt 15, 28).
Mỗi chúng ta thử đặt mình vào vị trí của người đàn bà ngoại giáo này để xem phản ứng của chúng ta ra sao sau khi nghe lời từ chối chữa lành của Chúa Giê-su. Có thể nhiều người chúng ta sẽ bỏ đi vì cảm thấy mình bị Chúa coi thường, không để tâm đến. Cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta cũng sống xa Chúa như những người dân ngoại nhưng khi gặp những nghịch cảnh, đau khổ, bệnh tật hay một nhu cầu cần thiết… chúng ta thường chạy ngay đến Chúa để xin Người ban ơn, cứu giúp. Có thể Chúa vẫn thinh lặng, không nói lời nào và dường như Ngài chẳng đoái nhìn đến chúng ta. Nhưng chúng ta đừng từ bỏ mà hãy giữ vững niềm tin và tha thiết khẩn cầu lên Chúa. Chắc chắn Ngài sẽ rủ thương và đáp lại những ước nguyện của chúng ta.
Suy Niệm 11: Bà mẹ ngoại giáo với niềm tin
(Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc)
1. Người Mẹ
Bài Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta về một người mẹ. Vậy, trước hết chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã ban cho từng người chúng ta quà tặng tuyệt vời là mẹ của chúng ta, là tất cả các phụ nữ trong cuộc đời của chúng ta: những người thân yêu, những người yêu mến chúng ta, những người chúng ta yêu mến, và nhất là Đức Maria. Nhận ra người này là ơn huệ Thiên Chúa ban cho người kia, sẽ giúp chúng ta vượt qua khó khăn, xung khắc và cả sự dữ cùng với những gì thuộc về sự dữ nữa (quên ơn, nghi ngờ, ham muốn, ghen tị, bạo lực…), để sống yêu thương, bao dung, tha thứ và hiệp nhất, ngay trong những lúc khó khăn nhất, những khác biệt và những khi thử thách nhất.
Chúng ta được mời gọi hình dung ra nỗi khổ của người mẹ được bài Tin Mừng hôm nay kể lại: bà là người Hi-lạp, gốc Phê-ni-xi, thuộc xứ Xy-ri, có đứa con gái bị quỉ ám; nhưng chắc chắn, không chỉ có người mẹ đau khổ, nhưng là cả nhà và những người thân quen. Dường như thời xưa, ma quỉ không có nhiều phương tiện, chỗ ẩn nấp hay mặt nạ hóa thân, nên hay ám người ta cách trực tiếp. Nhưng ngày nay, lối sống của loài người chúng ta đang cung cấp cho ma quỉ quá nhiều phương tiện, chỗ ẩn nấp và mặt nạ hóa thân: trò chơi đủ loại, phim ảnh, khoái lạc, bạo lực, gian dối, tiền bạc, danh vọng, phương tiện hưởng thụ… Vì thế, hơn bao giờ hết, trong hoàn cảnh hiện nay, có rất nhiều cha mẹ đau khổ vì con cái, không phải vì bị ma quỉ ám, nhưng bị ám, thậm chí “giam cầm” trong tâm trí bởi những điều xấu, những năng động xấu thuộc về ma quỉ, đó là lối sống vô trách nhiệm, vô ơn, đam mê phương tiện và thú vui, hưởng thụ, bạo lực, tự do luyến ái, vô kỉ luật, không có lí tưởng cao quí, mất hướng đi, không thao thức đi tìm ý nghĩa cuộc sống….
Cách ma quỉ ám người ta như thế còn nghiêm trọng hơn, là khi dằn vặt thân xác ở bên ngoài, nghĩa là bị quỉ ám trực tiếp như một số trường hợp mà các Tin Mừng kể lại hay như chúng ta thỉnh thoảng vẫn còn nghe nói ngày nay. Chúng ta, những người con, có bao giờ chúng ta thật sự đặt mình vào những những âu lo, những nỗi khổ của cha mẹ chúng ta chưa? Chúng ta, những người trẻ đang được huấn luyện, chúng ta có bao giờ cảm thông với những trăn trở và bận tâm của những người huấn luyện và những người các trách nhiệm chưa?
2. Lòng tin của Người Mẹ
Trở lại với người mẹ đau khổ trong bài Tin Mừng, chúng ta chắc chắn rất ngạc nhiên, khi nghe lời đáp của Đức Giê-su, khi bà mẹ xin Ngài trừ quỉ cho con gái bà:
Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con. (c. 27)
Thái độ của Đức Giê-su làm cho chúng ta kinh ngạc, nhưng lòng tin mạnh mẽ và khôn ngoan của bà mẹ cũng phải làm cho chúng ta ngạc nhiên không kém:
Lòng tin mạnh mẽ, vì bà kiên trì kêu xin (x. Mt 15, 21-28).
Lòng tin khôn ngoan, vì bà dựa vào chính Lời Chúa để diễn tả lòng ước ao của mình: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”! (c. 28)
Trong lời nói tuyệt vời của người mẹ khiến Đức Giê-su phải động lòng này, chúng ta còn nhận thấy thái độ khiêm tốn không ghen tị: bà tự nhận mình là thân phận dân ngoại và không ghen tị với dân được chọn là Israel.
Khiêm tốn không ghen tị, đó chính là tâm tình sâu xa mà Chúa chờ đợi và Lời của Ngài muốn khơi dậy nơi bà, nơi mọi người chúng ta, khi trong lịch sử cứu độ, Chúa ưu tiên đi vào tương quan với một dân tộc, với một số người được tuyển chọn, để qua đó bày tỏ cho chúng hiểu, thế nào là tình yêu Thiên Chúa. Bởi lẽ tình yêu chỉ có thể được diễn tả và được hiểu trong tương quan đặc thù “một-một”. Và vì đó là tình yêu Thiên Chúa, nên mọi người được mời gọi “khiêm tốn không ghen tị”, mở lòng ra để đón nhận cũng một tình yêu thương xót như thế, được ban cho từng người, vốn là “những người ngoại”, như người phụ nữ có lòng tin mạnh mẽ. Kế hoạch yêu thương như thế của Thiên Chúa được hoàn tất nơi Đức Ki-tô, nơi Người, không còn phân biệt Do thái và dân ngoại, tự do và nô lệ, người nam và người nữ… Những gì Đức Giê-su thực hiện cho người mẹ đã loan báo sự hoàn tất này, sự hoàn tất mà chính Đức Giê-su sẽ thực hiện ngang qua mầu nhiệm Vượt Qua.
3. “Bà cứ về đi”
Cuối cùng, vẫn còn một điều phải làm cho chúng ta ngạc nhiên nữa: lòng tin của người mẹ cứu được người con. Đức tin của người này cứu được người kia; chính vì thế chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho nhau, cho người còn sống, cũng như cho người đã chết. Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta. Vì Chúa là tình yêu, Ngài cũng mến thương những người chúng ta thương mến trong Chúa.
Chân lí này được kể lại khắp nơi trong các Tin Mừng. Đó là trường hợp bà góa thành Na-in có đứa con nhỏ chết sớm: vì thương người Mẹ đau khổ, mà Chúa đã cứu người con; đó là trường hợp những người khiêng kẻ bại liệt từ trên mái nhà thả xuống trước mặt Chúa: nhìn thấy lòng tin của họ, Ngài đã cứu chữa người bệnh; và còn nhiều trường hợp khác nữa, như người cha có đứa con gái nhỏ bị bệnh nặng sắp chết, như người chủ có anh đầy tớ bệnh liệt giường; và ơn cứu độ được ban cho cả nhà, nhờ vào hành trình đến với Đức Giê-su và tin vào Ngài của một mình ông Gia-kêu: “ Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19, 9). Cùng một lúc và thật là quảng đại, Chúa ban ơn cứu độ cho cả nhà ông Gia-kêu.
Có thể nói, đây chính là một tin vui, là NIỀM VUI TIN MỪNG (Evangelii Gaudium). Và tin vui này đặc biệt có ý nghĩa đối với chúng ta và đem lại cho chúng ta niềm hi vọng khi chúng ta cầu nguyện cho nhau, nhất là cho những người thân yêu đã qua đời. Mỗi người chúng ta hãy khát khao và xin Chúa ban cho chúng ta ơn huệ lớn lao này, đó là xin Chúa cũng công bố rằng, ơn cứu độ đã đến cho gia đình và Gia Quyến của chúng ta, cho cả cộng đoàn, cho cả giáo xứ. Ơn cứu độ chính là ơn được giải thoát khỏi sự chết, để sống sự sống mới và sống sự sống mới này mãi mãi với Chúa và với nhau, nhất là với những người thân yêu của chúng ta, còn sống cũng như đã qua đời. Và Chúa đã làm cho ơn cứu độ đời đời trổ sinh hoa trái dồi dào ngay hôm nay.
07/02 Tinh sạch tinh thần
- Viết bởi Mc 7,14-23
Tinh sạch tinh thần.
Thứ Tư tuần 5 thường niên.
"Những gì từ con người ta xuất ra, đó là cái làm cho người ta ra ô uế".
Lời Chúa: Mc 7,14-23
Khi ấy, Chúa Giêsu lại gọi dân chúng mà bảo rằng: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".
Lúc Người lìa dân chúng mà về nhà, các môn đệ hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn ấy.
Người liền bảo các ông: "Các con cũng mê muội như thế ư? Các con không hiểu rằng tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra". Như vậy Người tuyên bố mọi của ăn đều sạch.
Người lại phán: "Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Từ trái tim con người
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Sách Lêvi chương 11 nói đến một số cấm kỵ về ăn uống dành cho người Do thái.
Chỉ được ăn những con vật vừa có móng chẻ hai, vừa nhai lại.
Bởi đó không được ăn thịt lạc đà, thỏ, heo (Lv 11, 3-8).
Chỉ được ăn những con vật ở dưới nước nếu chúng có vây và có vẩy.
Chỉ được ăn các côn trùng có cánh đi bằng bốn chân,
nếu chúng có thêm càng để nhảy trên đất.
Bởi đó được ăn dế, châu chấu, cào cào (Lv 11, 20-23).
Nếu ai ăn những thức ăn bị cấm, người đó sẽ trở nên ô uế,
không được tham dự những nghi lễ ở nơi thờ tự.
Chúng ta không quên chuyện bảy anh em bị vua Antiôkhô ép ăn thịt heo,
và họ đã chấp nhận cái chết hơn là vi phạm luật Chúa (2 Mcb 7).
Ngày nay chúng ta ngạc nhiên về chuyện cấm đoán này,
nhưng vấn đề ăn uống đã từng là chuyện nóng bỏng trong Giáo Hội sơ khai.
Một câu hỏi đã khiến Giáo Hội phải suy nghĩ:
Sau khi trở nên Kitô hữu, dân ngoại có phải giữ những cấm kỵ trên không?
Công đồng đầu tiên chỉ cấm họ không được ăn huyết và thú chết ngạt (Cv 15, 20).
Lập trường của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay rất khác thường.
Ngài nói một nguyên tắc có vẻ như đi ngược với sách Lêvi:
“Không có gì từ ngoài vào trong con người, lại có thể làm nó ra ô uế” (c.15),
“Mọi thứ từ bên ngoài vào trong con người không thể làm nó ra ô uế” (c. 18).
Đối với Đức Giêsu, chính cái xấu xa từ bên trong, từ trái tim con người,
cái ấy mới làm cho con người nên ô uế. (cc. 15, 20, 23).
Con người hôm nay dễ mắc bệnh tim mạch.
Trái tim, một cơ quan nhỏ bé nằm ở bên trái lồng ngực,
thường bị căng thẳng và quá tải, dẫn đến đột quỵ.
Đức Giêsu mời chúng ta đi vào trái tim mình (c.21),
khám phá ra thế giới tối tăm ẩn khuất của nó.
Chúng ta có thể ngỡ ngàng khi thấy ở đó không có tình yêu bác ái vị tha,
mà chỉ có những tình cảm hỗn độn của lòng vị kỷ (cc. 21-22).
Đức Giêsu mời chúng ta nhận ra
những cái ô uế từ ngoài đi vào bên trong trái tim (c. 19),
và những ý định ô uế từ trong trái tim xuất ra ngoài.
Những ý định này có thể biến thành hành động hết sức nguy hiểm.
Vấn đề không phải là khám tim định kỳ hay khi thấy đau ngực.
Vấn đề là thanh lọc trái tim khỏi những đam mê tội lỗi
đang làm nó bị hư hỏng từ bên trong.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin dẫn con vào nhà của con,
căn nhà của trái tim,
căn nhà vừa quen vừa lạ.
Xin hãy cho con thấy
những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co,
những mâu thuẫn và vô lý nơi con.
Xin hãy cho con thấy
những nhỏ mọn, ích kỷ,
những yếu đuối, khô khan,
những cứng cỏi và tự ái nơi con.
Xin cho con ý thức
những lo âu, sợ hãi
đang đè nặng làm con ngột ngạt,
những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui,
những vết thương không biết bao giờ lành,
những đổ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn,
hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người,
bằng trái tim bao dung của Chúa.
Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình,
trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn
để yêu mến mọi người. Amen.
Suy Niệm 2: Trong và ngoài
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Giáo huấn của Chúa thật sâu xa. Vừa theo luật tâm lý, giúp ta hiểu cặn kẽ con người, giúp đánh giá chính xác hành vi. Vừa đưa ra chuẩn mực về đời sống đạo đức. Chúa không nhìn bên ngoài nhưng nhìn vào đáy sâu tâm hồn. Chúa dạy ta sống không phải bằng hình thức bên ngoài nhưng bằng tâm tình phát xuất từ đáy lòng. Nên hôm nay Chúa đưa ra chỉ dẫn tuyệt đối: Mọi sự tốt xấu đều từ trái tim mà ra.
Thật vậy Chúa dựng nên mọi sự đều tốt đẹp. Xấu xa là từ lòng người. Mọi trái cây đều tốt. Nhưng vì bà E-và ăn với ý đồ đen tối: muốn trở nên bằng Chúa. Chính ý đồ đen tối đã tẩm nọc độc vào trái cây. Khiến gây nên đau khổ chết chóc cho loài người (năm lẻ).
Người làm sao chiêm bao làm vậy. Mọi sự đều nên tốt cho kẻ lành. Với kẻ có tâm hồn xấu xa thì mọi sự bên ngoài dù có tốt đẹp cũng trở thành xấu xa. Còn với người có tâm hồn tốt lành thì mọi sự bên ngoài dù có xấu xa cũng trở thành tốt đẹp. Ta hãy nhìn gương các thánh tử đạo. Vua chúa xấu xa bắt đạo. Các ngài bị hành hạ bằng những hình khổ đáng ghê tởm. Nhưng đối với các ngài tất cả là ơn phúc. Bị bắt bớ là dịp được gặp Chúa. Bị hành hình là được chia sẻ với đau khổ của Chúa. Chịu chết là được về với Chúa. Những gì xấu xa đã trở nên tốt lành. Vì tâm hồn các ngài tốt lành.
Trái tim quyết định tất cả. Sa-lo-mon khôn ngoan nhất trần đời vì ông nhìn thấu tâm can con người. Vì thế mà phân biệt được phải trái. Vì thế mà xét xử công minh (năm chẵn).
Trái tim quyết định tất cả. Người khôn ngoan sẽ lo thanh tẩy trái tim hơn rửa bên ngoài chén đĩa.
Trái tim quyết định tất cả. Sự xấu chỉ xâm nhập nếu tôi cho phép. Vì thế tôi kiên quyết không thỏa hiệp với cái xấu. Để mọi cử chỉ lời nói của tôi đều tốt lành.
Suy Niệm 3: Vấn đề sạch dơ
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Khi bàn về chế độ ăn uống của các dân tộc và của cá nhân, những nhà văn hóa xã hội phải thú nhận không thể đưa ra một tiêu chuẩn chung để qui định đâu là thức ăn ngon, đâu là thức ăn dở, đâu là thức ăn sạch sẽ bổ dưỡng, đâu là cái bẩn thỉu và độc hại. Bởi vì, đối với dân tộc này, món óc khỉ chẳng hạn là một món ăn bổ dưỡng và sang trọng, nhưng đối với dân tộc khác, đó là một thức ăn của người còn mang nặng thú tính, chưa có nhân tính thuần thục. Người Do thái ngày xưa cũng tự qui định cho mình một số thức ăn được phép và một số thức ăn không được phép. Còn thái độ của Chúa Giêsu đối với vấn đề này như thế nào?
Trước hết, phải nhìn nhận rằng cả Chúa Giêsu lẫn người Do thái đều không đứng trên bình diện sinh học để cứu xét thức ăn sạch hay dơ, tốt hay xấu, nhưng cả hai phê phán giá trị thức ăn theo quan điểm luân lý. Người Do thái qui định một số thức ăn không được phép dùng, ban đầu có thể là do yếu tố vệ sinh, y học, nhưng về sau họ đánh giá theo một góc độ khác. Chẳng hạn người Do thái không ăn máu và những thú vật bị chết ngạt, vì họ cho rằng máu tượng trưng cho sự sống, mà sự sống là độc quyền của Thiên Chúa, do đó con người không được phép đụng tới. Quan niệm này tiếp tục tồn tại trong Giáo Hội Kitô tiên khởi và các tín hữu gốc ngoại giáo được yêu cầu nhượng bộ các Kitô hữu gốc Do thái ở điểm này.
Thắc mắc của các môn đệ và giải đáp của Chúa Giêsu được tác giả Marcô ghi lại ở đây, có lẽ phản ánh bầu khí tranh luận của Giáo Hội tiên khởi lúc ấy và hướng giải quyết vấn đề mà Giáo Hội dần dần phải theo, đó là mọi thức ăn đều thanh sạch; điều quan trọng hơn chính là tâm hồn con người, bởi vì thức ăn sạch, chén đĩa sạch, tay chân sạch có ích gì cho việc mưu cầu ơn cứu độ, nếu con người còn có tâm hồn lừa dối Thiên Chúa và phỉnh gạt người khác.
Có một lần Phêrô đã phản ứng như mọi người Do thái. Trong một thị kiến, Phêrô được lệnh phải giết và ăn các thú vật nằm trên tấm khăn lớn từ trời buông xuống, nhưng Phêrô lập tức từ chối vì cho đó là thức ăn dơ. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã sửa sai quan niệm của ông: những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch, thì con người chớ gọi là ô uế. Thật ra, thị kiến này chỉ có ý nghĩa tượng trưng: Phêrô được lệnh phải tiếp đón lương dân vào Giáo Hội, những người mà Do thái giáo cho là nhơ uế. Như vậy, khi trả lời cho câu hỏi về vấn đề sạch, dơ ở đây, Chúa Giêsu muốn nói rằng người ta không thể đánh giá người khác dựa trên mầu da, chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ, giai cấp, vì tất cả những điều ấy chỉ là những hình thức phụ thuộc; mỗi người sẽ bị Thiên Chúa đánh giá dựa vào tâm địa tốt hay xấu của mình và những hành vi xuất tự tâm địa ấy.
Từ chỗ không kỳ thị về các sự vật, Kitô giáo tiến tới chỗ không kỳ thị về con người. Bằng chứng là trong giáo lý Công giáo hiện nay, không hề có dị ứng trước các thực tế của nhân loại, cũng không đặt bảng phân loại con người để tiếp nhận và Giáo Hội hay lập thang giá trị để đáng giá các phần tử trong Giáo Hội. Trái lại Kitô giáo mang tinh thần đại đồng và phổ quát, xứng đáng được gọi là đạo Công Giáo.
Xin cho chúng ta là những người mang danh hiệu Kitô, không bao giờ có óc kỳ thị đối với các thực tại cuộc sống cũng như đối với nhau.
Suy Niệm 4: Xấu bẩn tự lòng mình
Sau đó Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu rõ cho: không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ trong con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.” (Mc. 7, 14-15)
Cái gì là dơ bẩn, là cái xấu ở ngoài bản thân ta, ta dễ có một nhận định khách quan và vô tư. Tuy nhiên, nhận định “từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu”, có lẽ ta không dễ vô tư hơn chuyện đả kích những tạp chí, phim ảnh và quảng cáo xấu đâu.
Đâu là cái xấu ẩn ngay trong lòng ta? Bảng liệt kê những cái xấu được Phúc âm hôm nay kể ra không soi sáng chúng ta bao nhiêu. Nó cũng chỉ kê ra sự việc. Thật quá dễ dàng và nguy hiểm.
Lòng dơ bẩn không chỉ là cái chúng ta hiểu là sự dơ bẩn, sự không thanh sạch mà thôi.Tất cả những gì khiến ta đi ngược, chống lại tình yêu đều là dơ bẩn. Xấu bẩn tự lòng ta, có nghĩa là, tất cả những tâm tình đi ngược lại với tâm tình của Chúa, tiếng nói nào bảo ta đó là tám mối phúc mà chủ trương ngược lại, hạnh phúc nào ta đang theo đuổi mà lại ngược chiều với hạnh phúc Chúa ban, thì tất cả đều là dơ bẩn.
Con người Chúa hiền lành và khiêm tốn. Nơi Người không chất chứa điều nham hiểm, ghen tương hay độc ác. Tâm hồn Chúa là biển cả mênh mang ngập tràn an bình thanh thản. Là tinh yêu vô biên không ngừng trao ban và dâng hiến, có khả năng tái tạo lại con người của ta.
Còn trái tim tội nghiệp của ta, nếu có thể tích lũy những điều ghê tởm, chính bởi tại tim ta hằng miệt mài kiếm tìm hạnh phúc và sự thập toàn. Không người và vật nào có thể lấp đầy khát vọng của lòng ta: hoặc là tâm ta từ chối, hoặc là chính người hay sự vật ấy khước từ ta.Đó là một tâm hồn không bao giờ thỏa mãn, chẳng lấy chi làm đủ nên đam ra dồ dại. Con người thường có bệnh “đau tim” rất nặng, thế mà lại chẳng có ai ở gần. Không có ai ở bên, không có lấy cả một hành động dịu hiền. Mà chỉ có trơ trọi một mình.
Lạy Chúa, xin cho phép chúng con được chiêm ngắm trái tim Chúa, được nhận ra vực thẳm vô biên vốn làm chúng con xa cách Chúa, và nỗi khát vọng cháy bỏng mà chỉ minh Chúa mới làm cho chúng con được thỏa mãn mà thôi.
Suy Niệm 5: Sống đạo thật tâm
Ở đời người ta hay nói: “Thiện căn ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”; hay: “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho tường. Lòng người thăm thẳm mù khơi, không bờ không bến biết nơi nào dò”.
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu tuyên bố một sự thật, đó là: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế” (Mc 7, 15).
Thật vậy, chính tận sâu thẳm cõi lòng, người ta mới thấy được cội rễ của sự thiện hay ác!
Khi nói về điều xấu xa xuất phát từ cõi lòng, Kinh Thánh kể ra 12 thứ tội được coi là khởi đi từ trong tâm con người: dâm bôn, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, giảo quyệt, phóng đãng, ghen bì, gièm pha, kiêu hãnh, bất lương.
Thật vậy, tâm của những người Pharisêu chính là tâm ác gian tà, vì thế họ luôn đối đầu với Đức Giêsu. Sự đối đầu của họ với Ngài chính là cuộc đối đầu về: lòng đạo đức đích thực và thái độ giả hình; giữa lương tâm và vụ hình thức; giữa công bằng và bất công; giữa lòng bác ái và sự ích kỷ.
Đức Giêsu thì coi trọng tình huynh đệ, người Pharisêu thì coi trọng hình thức; Đức Giêsu thì nhấn mạnh và tập trung vào chiều sâu nội tâm, trong khi họ lại coi trọng bề ngoài không khác gì cái máy! Đức Giêsu thì coi trọng con người, đặt con người vào trung tâm sứ vụ, còn những người Pharisêu thì coi trọng luật lệ, hình thức, đến nỗi khiến họ trở thành nô lệ cho luật.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta biết xác định nguyên nhân gây nên điều xấu là cõi lòng, ý hướng từ bên trong; đồng thời biết tập trung vào việc cốt lõi của Đạo Thánh chính là tình yêu thương. Không có tình yêu thương chủ đạo, chúng ta không thể gặp được Thiên Chúa là tình yêu, và gặp được con người là trung tâm của Tin Mừng.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con một tâm hồn thánh thiện, đạo đức, để từ nơi đó phát xuất ra tình yêu thương chân thành. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Canh tân đời sống, cần canh tân tâm hồn
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Từ lòng người, phát xuất những ý định xấu. Và ý định xấu đưa đến hành động xấu. Muốn canh tân đời sống, phải bắt đầu từ việc canh tân tâm hồn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa đã thương xót cứu độ con. Con khâm phục công trình cứu độ của Chúa. Để chữa trị tận căn mọi sự xấu xa trên đời này, Chúa đã cho con hiểu rằng mọi sự xấu xa đều xuất phát từ trong tâm hồn mọi người chúng con. Chính vì vậy, Chúa đã rao giảng Tin Mừng để con ăn năn hối cải, thay đổi tâm hồn mà trở về với Chúa.
Lạy Chúa, Chúa trách người biệt phái giả hình vì họ lo sạch sẽ bề ngoài mà không chăm lo cho tâm hồn được trong sạch. Con cũng thật đáng Chúa trách vì con cũng thường lo cho nhà cửa, áo quần, xe cộ, được sạch sẽ tốt đẹp, mà chẳng chăm lo cho tâm hồn được trong sáng.
Xin Chúa giúp con nhận ra sào huyệt tội lỗi đang nằm trong chính lòng con. Xin Chúa chiếu soi ánh sáng vào nội tâm con để con nhận ra những tâm tình, tư tưởng và ý định xấu xa đang thúc đẩy con đi đến những hành động gian ác bất chính. Vì mầu nhiệm Chúa chịu chết trên thánh giá, xin Chúa thanh tẩy tâm hồn con, xin canh tân lòng trí con và ban cho con một quả tim mới, quả tim thanh sạch, khiêm tốn và biết yêu thương.
Đã nhiều lần con đến với Chúa nơi bí tích Giải Tội, nhưng cuộc đời con vẫn chưa thay đổi bao nhiêu, chỉ vì con chưa thành tâm thống hối sâu xa và chưa quyết tâm từ bỏ tội lỗi. Xin Chúa cho lòng con từ nay không còn vấn vương quyến luyến với tội lỗi. Xin Chúa giúp con mỗi ngày luôn biết hun đúc nhào nặn tâm hồn con theo tinh thần phúc âm, để con mang lấy những tâm tình, ý nghĩ, ước muốn thánh thiện như Chúa, và nhờ đó con có những hành động thánh thiện và một đời sống công chính. Amen.
Ghi nhớ: ”Những gì từ con ngùi ta xuất ra, đó là cái làm cho người ta ra ô uế”.
Suy Niệm 7: Thanh tẩy tâm hồn, rửa sạch trái tim
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Tại phòng triển lãm, có mặt một nghệ sĩ lớn. Ông được đề nghị làm một cái gì đó để giúp vui cho khán giả. Ông đồng ý và hỏi xem mọi người muốn ông làm gì. Sau vài giây thinh lặng, một giáo sĩ già đề nghị: “Thưa ngài, ngài có thể đọc Thánh Vịnh 23 chứ?”.
Nhà nghệ sĩ thoáng ngỡ ngàng. Rồi ông nói: “Tôi sẵn sàng chiều ý ngài, với một điều kiện là khi tôi đọc xong, ngài cũng phải làm như tôi”. Giáo sĩ đáp: “Tôi à? Tôi đâu phải nhà hùng biện? Nhưng nếu ngài muốn, tôi xin sẵn lòng”.
Nhà nghệ sĩ bắt đầu đọc. Giọng điệu tuyệt vời. Khán giả ngây ngất. Và khi kết thúc, một tràng pháo tay như sấm vang dội khắp phòng.
Rồi đến lượt vị giáo sĩ. Âm giọng bình thường, điệu bộ không có. Khi ngài đọc xong, chẳng ai vỗ tay, nhưng mọi cặp mắt đều ướt lệ. Nhiều người gục đầu. Nhà nghệ sĩ bước tới, đặt tay trên vai vị giáo sĩ nói: “Thưa quý vị, lời tôi chỉ đi tới đôi tai quý vị, còn lời vị này đi vào con tim quý vị”.
Suy niệm
Ðức Giêsu và các môn đệ bị người biệt phái trách móc vì không rửa tay trước khi ăn. Ngài đã so sánh để họ thấy rõ cái dơ, cái sạch đích thực: Giữ gìn cho tâm hồn đơn sơ, trong trắng để không thoát ra những hận thù, ghen ghét làm dơ bẩn cuộc đời, còn việc giữ gìn của ăn, thân xác cho sạch sẽ là thứ yếu.
Điều quan trọng là thanh tẩy tâm hồn, rửa sạch trái tim. Cái cốt lõi của Lề Luật vẫn là tình yêu và từ tình yêu thể hiện ra cách sống bên ngoài. Cho nên, nếu giữ những việc, những điều lệ, tập tục do con người lập ra mà quên cái cốt lõi Lề Luật là mến Chúa yêu người là giả tạo hình thức và vụ lợi. Thiên Chúa muốn con người đặt tinh thần là trên hết, đặt tình yêu Chúa vào chỗ thứ nhất khi tuân giữ giới răn của Người. Chúa muốn con người đặt Lề Luật vào đúng vị trí của nó.
Kinh Thánh nhắc nhở dân Chúa phải tuân giữ các giới răn, các Lề Luật, các huấn lệnh. Nhưng Ðạo Chúa không phải chỉ giữ các mệnh lệnh hình thức bên ngoài. Mọi hành động của người theo Ðạo Chúa phải phát xuất từ đáy lòng tình yêu. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,1-3).
Chúng ta luôn gồng mình sống với cái tôi, cái tôi được sơn phết lớp mặt nạ, lớp mặt nạ giả hình, dối trá, thiếu thành thật, là những điều chúng ta tự coi là đúng và đi lệch với Lề Luật của Thiên Chúa, theo lối suy nghĩ của con người. Cần trở về với trái tim qua lối sống tình yêu…
Như Lời Chúa kêu mời: “Hãy tạo cho mình một trái tim mới” (Ed 18,31), một trái tim được thanh tẩy theo luật tình yêu.
Ý lực sống: “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi.
Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới” (Ed 36,25).
Suy Niệm 8: Thanh sạch và ô uế
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi nói về tính cách vụ hình thức, bây giờ Chúa nói về sự thanh sạch và ô uế. Chúa Giêsu dạy cho dân chúng biết không có gì bên ngoài nhập vào mà làm cho người ta nhơ bẩn, nhưng chính cái bên trong con người mới làm cho họ ra nhơ bẩn. Các môn đệ không hiểu lời Chúa nói, nên khi về đến nhà, các ông xin Chúa giải thích điều đó. Người bảo: mọi vật bên ngoài nhập vào con người không thể làm cho họ nhơ bẩn, vì nó không vào trong lòng họ được chỉ vào trong bụng rồi tống ra ngoài. Chính lòng con người mới làm cho họ nhơ bẩn, vì từ đáy lòng họ phát xuất ra những ý tưởng xấu xa, như trộm cướp, gian dâm, độc ác...
2. Các luật sĩ và biệt phái nhấn mạnh đến sự thanh tẩy phần xác hơn là thanh sạch phần hồn; họ đặt nghi thức bên ngoài lên trên nhiệm vụ bác ái và công bằng xã hội.
Họ tỉ mỉ giữ luật rửa tay, lau chén trước khi ăn, vì cho rằng tay bẩn, chén bẩn làm cho người ta ra ô uế, trong khi lại coi nhẹ chính cõi lòng, nơi chất chứa bao tâm tình ghen tuông, thù ghét đối với tha nhân và đủ thứ toan tính phạm tội.
Chúa Giêsu đặt sự thanh sạch tâm hồn lên trên sự thanh sạch thân xác. Vì chính từ cõi lòng, con người xây dựng cuộc sống luân lý mình. Tâm hồn trong sạch hay không, không phải vì do những hoàn cảnh phụ thuộc bên ngoài, nhưng do những quyết định trong thâm tâm mình.
3. Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ về dụ ngôn những cái thanh sạch và những cái ô uế: không phải từ cái bên ngoài vào trong con người, nhưng cái từ trong con người mà ra, mới làm cho con người ra ô uế. Chúa dựa vào hình ảnh của việc ăn uống và tiêu hóa để diễn tả: mọi sự Chúa tạo dựng cho con người đều tốt đẹp, nhưng do những tư tưởng, ý định và tâm tình bất chính của con người, làm biến đổi thành những cái xấu.
Qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho các Tông đồ hiểu rằng khuôn khổ hẹp hòi của tôn giáo cũ không còn thích hợp với những đòi hỏi của một tôn giáo mới mà Người sẽ thiết lập. Bởi vì các ông sẽ được sai đi đến với mọi dân tộc, thuộc mọi nền văn hóa, rất khác biệt với môi trường Do thái. Khi đó các ông phải chú ý đến điều chính yếu, đừng lúng túng vì những cổ lệ là những cái làm cho người ngoại giáo thành tâm thiện chí, là những người không có tục lệ ăn uống giống như người Do thái, không thể nào gia nhập Giáo hội Chúa được.
4. Chúa Giêsu đã nói: không phải cái từ bên ngoài có thể làm cho người ta ra ô uế, mà chính là những cái phát xuất từ bên trong, từ lòng của con người như tham lam, tà dâm, giết người, trộm cắp, độc ác, xảo trá, ganh tị... Chính những cái đó mới làm cho người ta ra xấu xa ô uế.
Ngày xưa Đức Khổng Tử có dạy các môn đệ của mình, một câu rất vắn gọn nhưng rất xúc tích. Câu ấy như thế này: “Tư vô tà”: đừng nghĩ bậy.
Cổ nhân cũng thường hay nói đến chữ “Tâm”. Nếu con người có được cái tâm trong sáng thì cuộc sống ắt sẽ tốt đẹp, còn những kẻ “Tâm tà” thì dù cái mã bên ngoài có tốt đẹp đến đâu đi nữa sớm muộn rồi cũng bị lộ tẩy.
Người Tây phương cũng thường nói: “Tư tưởng của bạn thế nào thì hành động của bạn sẽ như vậy”.
5. Truyện: Lối hành xử của hai vị sư.
Truyện thiền kể: Một buổi chiều kia, sau trận mưa đầu mùa, cảnh vật tươi mát hẳn lên, thiên nhiên càng thêm hữu tình, hai nhà sư Tandan và Êkinô cùng xuống núi, thong dong tản bộ dọc theo con đường dẫn vào một ngôi đền ở làng quê.
Tới một khúc đường quẹo, hai người gặp một cô gái xinh đẹp trong bộ Kimônô sặc sỡ và chiếc khăn quàng bằng lụa óng ả. Cô gái đứng bên vệ đường dáng vẻ băn khoăn vì không thể băng qua khúc đường lầy lội với một trang phục như thế. Nhà sư Tandan liền bảo:
- Đi lối này cô bé!
Rồi không để cô gái kịp xoay xở, Tandan nhanh tay bồng cô bé lên, bế cô gái qua vũng lầy và đặt cô xuống phía bên kia. Cô gái cúi đầu tỏ dấu cảm ơn, còn sư thì mỉm cười đáp lễ rồi tiếp tục cuộc đi dạo.
Thế nhưng, kể từ lúc ấy thì Êkino đổi hẳn thái độ. Anh không thèm nói một lời nào với người bạn nữa. Mãi cho đến khi hai người dừng chân trước một ngôi đền, thì lúc ấy Êkinô mới hậm hực nói với Tandan:
- Chúng ta là những nhà sư, không được phép gần đàn bà, nhất là phụ nữ trẻ đẹp. Nguy hiểm lắm! Sao anh lại dám làm như thế?
Tandan mỉm cười và thản nhiên đáp:
- Tôi đã bỏ nàng ở chỗ vũng lội rồi. Còn anh, sao anh vẫn mang nàng tới tận nơi đây?
Đúng là những cái bên ngoài không làm cho người ta ra ô uế, mà chính là cái phát xuất từ bên trong.
Suy Niệm 9: Tâm hồn sạch và tâm hồn dơ
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Sau khi tranh luận với những người Pharisêu về vấn đề sạch và dơ (Đoạn hôn qua Mác Cô 7,1-13). Chúa Giêsu dạy thêm cho đám đông dân chúng, và sau đó còn giải thích kỹ cho các môn đệ mình:
Cái có thể làm cho người ta ra ô uế không phải là cái từ bên ngoài mà vào cho bằng những cái từ trong lòng mà ra.
Như vậy tự bản chất, mọi thứ đều sạch.
Những thứ từ bên trong ra và làm cho người ta ra ô uế là những tư tưởng xấu như “tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc các, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kêu ngạo, ngông cuồng,”.
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. ”Ngoài miệng thì niệm nam mô, trong lòng thì chứa bồ dao găm”, ca dao đã mỉa mai những ông “sư hổ mang” như thế. Thực ra, không chỉ những ông sư ấy, không chỉ những người biệt phái, mà tất cả mọi người đều phần nào như thế. Cái lòng mình tỏ ra bề ngoài luôn cách biệt với cái thực sự trong lòng mình. Vả lại, cố gắng tỏ ra tốt cũng là một điều cần cố gắng, vì không lẽ, mình cứ phô bày tất cả những cái xấu của mình để rồi sinh ra gương mù, gương xấu cho người khác sao?
Dù sao chúng ta không nên giả hình như những người Pharisêu:
Quen tỏ ra tốt riết rồi tưởng mình tốt thật và không còn cố gắng tu sửa bản thân.
Phê phán, chỉ trích, lên án những người khác.
2. Nếu cái “là” bên trong của mình được giống như cái “tỏ ra” bên ngoài thì thật lý tưởng. Đó chính là tình trạng “trong suốt” (transparent) rất đáng mơ ước. Để có thể “trong suốt”, ta phải thường xuyên đối chiếu hai cái “là” và “tỏ ra” ấy, để nhận thức sự cách biệt, rồi cố gắng xóa dần khoảng cách ấy.
3. Chúng ta hãy kiểm điểm theo bảng danh sách các thứ tội mà chính Chúa Giêsu đã liệt kê “tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc các, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kêu ngạo, ngông cuồng,”.
4. ”Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho người ta ra ô uế được, nhưng cái từ trong con người xuất ra làn cho người ta ra ô uế (Mác Cô 7,15)
Có hai vị thiền sư đi trên con đường lầy lội. Cơn mưa nặng hạt khiến một thiếu nữ xinh đẹp không thể băng qua ngã tư được. Lập tức một vị sư đến bồng lấy cô và đưa qua đường. Vị sư khác lấy làm khó chịu, thốt lên: “Là người tu hành, sao anh lại bồng đàn bà trên tay?” Vị sư kia bình thản trả lời: “Tôi đã bỏ cô ta tại chỗ rồi. Còn anh, sao anh cứ mang cô ta mãi đến đây?”
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho con một lương tâm trong sáng, để con có thể nhìn mọi vẻ đẹp trong sự thanh cao của chúng. (Epphata).
Suy Niệm 10: Lương tâm trong sáng và ô uế
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Nói đến cái bên ngoài và cái bên trong thì quả thực có rất nhiều vấn đề để nói.
1. Đúng như là Chúa nói: không phải cái từ bên ngoài có thể làm cho người ta ra ô uế, mà chính là những cái phát xuất từ bên trong, từ lòng của con người như tham lam, tà dâm, giết người, trộm cắp, độc ác, xảo trá, ganh tị... Chính những cái đó mới làm cho con người ra xấu xa ô uế.
Người Tây Phương thường nói: “Tư tưởng của bạn thế nào thì hành động của bạn như vậy”.
Một buổi chiều kia, sau trận mưa đầu mùa, cảnh vật tươi mát hẳn lên, thiên nhiên càng thêm hữu tình, hai nhà sư Tandan và Êkinô cùng xuống núi, thong dong tản bộ dọc theo con đường dẫn vào một ngôi đền ở làng quê.
Tới một khúc đường quẹo, hai người gặp một cô gái xinh đẹp trong bộ áo Kimônô sặc sỡ và chiếc khăn quàng bằng lụa óng ả. Cô gái đứng bên vệ đường, dáng vẻ băn khoăn vì không thể băng qua khúc đường lầy lội với một trang phục như thế. Nhà sư Tandan liền bảo:
- Đi lối này cô bé!
Rồi không để cô gái kịp xoay xở, Tandan nhanh tay bồng cô gái lên, bế cô gái qua vũng lầy và đặt cô xuống phía bên kia. Cô gái cúi đầu tỏ dấu cám ơn, còn nhà sư thì mỉm cười đáp lễ rồi tiếp tục cuộc đi dạo.
Thế nhưng, kể từ lúc ấy thì Êkinô đổi hẳn thái độ. Anh không thèm nói một lời nào với người bạn nữa. Mãi cho đến khi hai người dừng chân trước một ngôi đền, thì lúc ấy Êkinô mới hậm hực nói với Tandan:
- Chúng ta là những nhà sư, không được phép gần đàn bà, nhất là phụ nữ trẻ đẹp. Nguy hiểm lắm! Sao anh lại dám làm như thế?
Tandan mỉm cười và thản nhiên đáp:
- Tôi đã bỏ nàng ở chỗ vũng lội rồi. Còn anh, sao anh vẫn mang nàng tới tận nơi đây?
Đúng là những cái bên ngoài không làm cho người ta ra ô uế, mà chính là cái phát xuất từ bên trong.
Khổng Tử ngày xưa có dạy các đệ tử của mình một câu, một câu rất vắn gọn nhưng rất xúc tích. Câu ấy như thế này: ”Tư vô tà”. Cổ nhân ngày xưa cũng thường hay nói đến chữ tâm. Nếu con người có được cái tâm trong sáng thì cuộc sống ắt sẽ tốt đẹp. Còn những kẻ tâm tà thì dù cái mã bên ngoài có tốt đẹp đến đâu đi nữa thì sớm muộn gì rồi cũng bị lộ tẩy.
2. Ngược lại, nhiều khi chúng ta thấy những cái bên ngoài xem ra chẳng ra gì nhưng bên trong lại là một kho vàng vô giá.
Trong mẩu chuyện ngắn với tựa đề Đồng vọng ngược chiều được đăng trong tuyển tập bốn mươi chuyện rất ngắn do hội Nhà văn xuất bản, tác giả Lã Thế Khanh đã kể lại cuộc gặp gỡ cảm động giữa hai người mù: một bà lão ăn xin và một bé gái cũng ăn xin.
Bên một đống rác lớn, bà lão van vỉ xin khách qua đường giúp đỡ nhưng không có một hồi âm nào ngoài tiếng vo ve của mấy con nhặng xanh đang tranh ăn trên một chiếc lá bánh. Bà lão vẫn tiếp tục van vỉ điệp khúc cũ, nhưng càng về sau càng thống thiết, những câu nói rời rạc như rãi chảy ra từ khuôn miệng dúm dó, xệch xạc của bà.
Trong khi đó, tại một gốc cây sếu già, một bé gái ăn xin mù lòa đang thiu thiu ngủ. Nó gối đầu trên một cái túi khâu bằng nhiều loại vải cũ, một cái bát sắt hoen dỉ thủng đáy nằm lăn lóc bên cạnh. Từ sáng sớm đến giờ chưa có gì trong bụng, nên cô bé đói rũ người. Nó hy vọng giấc ngủ sẽ xua tan cái đói. Nhưng cô bé bỗng giật thót người: có một bàn chân nào đó dẫm lên người nó. Đang lúc đói mệt, cô bé gầm lên:
- Mù à, người ta nằm đó mà dẫm lên?
Bà lão ăn xin lại van vỉ:
- Bà mù, bà mù thật cháu à. Thôi bà đã trót, cho bà xin.
Lặng đi một lát, cô bé đưa hai tay sờ mặt mình, từ hai hốc mắt của nó những giọt nước mắt mặn chát chảy ra, nó ngập ngừng:
- Cháu... Cháu xin lỗi bà, cháu không biết bà như thế.
Bà lão ngúc ngoắc đầu như thể chấp nhận, rồi tiếp tục đi về phía có đông người. Ngẫm nghĩ điều gì đó, cô bé lấy trong túi áo ra tờ giấy bạc hai trăm đồng mất góc, và nói một cách lễ phép:
- Bà ơi! Cháu biếu bà này!
Một làn gió thổi mạnh. Những chiếc lá từ trên cây rụng xuống rơi vào nón, làm bà lão tưởng là cô gái lừa dối mình, còn cô gái thì chờ mãi mà vẫn không thấy bà lão nhận tiền.
Nếu xét về cái vẻ bên ngoài thì hai nhân vật trong câu chuyện này chẳng có gì đáng nói. Hay nếu có phải nói trắng ra thì bên ngoài... rất bẩn, rất dơ. Thế nhưng, bên trong như thế nào thì tôi tưởng mọi người chúng ta đều thấy. Không thấy được bằng con mắt thịt nhưng thấy được bằng cái tâm của con người.
06/02 Điều chính yếu của Tin Mừng
- Viết bởi Mc 7, 1-13
Điều chính yếu của Tin Mừng.
Thứ Ba tuần 5 thường niên. – Thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo. Lễ nhớ.
“Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân".
* Ngày 05 tháng 02 năm 1597, hai mươi sáu Kitô hữu đã bị đóng đinh thập giá ở Nagasaki (Nhật Bản). Trong số đó có những nhà truyền giáo từ châu Âu đến như các tu sĩ dòng Tên và dòng Phanxicô, nhưng còn có cả các tu sĩ Nhật Bản, như thánh Phaolô Miki (sinh khoảng năm 1564/1566) và mười bảy giáo dân gồm: các giáo lý viên, các người thông ngôn, hai bác sĩ, và cả các trẻ em nữa. Tất cả đều tươi cười, nhiều người còn ca hát khi chịu chết để làm chứng cho Chúa Kitô.
Lời Chúa: Mc 7, 1-13
Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng.
Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy".
Và Người bảo: "Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử". Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)", và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi huỷ bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lòng chúng thì xa Ta
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong Bài Tin Mừng hôm nay có năm từ truyền thống (cc. 3, 5, 8, 9, 13).
Đó là truyền thống của tiền nhân, truyền thống của người phàm,
truyền thống mà các ông Pharisêu nắm giữ và muốn người khác phải theo.
Sông song với truyền thống này là điều răn của Thiên Chúa (cc. 8, 9)
Đức Giêsu tố cáo người Pharisêu đã gạt bỏ, đã coi thường điều răn này
chỉ vì muốn khư khư giữ lấy truyền thống của họ (cc 8, 9, 13).
Đây là một điều đáng tiếc,
vì mục tiêu của người Pharisêu không phải là hủy bỏ lời của Thiên Chúa (c. 13).
Trái lại, họ muốn dân Do thái sống nghiêm túc hơn ơn gọi của mình,
sống như một dân tộc thánh thiện giữa một xã hội vàng thau thời Đức Giêsu.
Chính vì thế họ chẳng những muốn tuân giữ điều được viết trong Luật Môsê
mà còn muốn sống theo những truyền thống
dựa trên luật truyền khẩu được ban cho Môsê nữa.
Họ đòi cả dân chúng cũng phải sống theo các luật về thanh sạch của các tư tế.
Bởi vậy, họ than phiền chuyện vài môn đệ của Đức Giêsu
đã không rửa tay trước khi ăn.
Thật ra chẳng phải người Do thái nào cũng giữ luật rửa tay trước khi ăn.
Các sách Cựu Ước cũng không hề đòi hỏi chuyện này (x. Lêvi 11-15).
Đáng tiếc là khi tập trung vào chuyện sạch sẽ bên ngoài,
người Pharisêu có nguy cơ bỏ rơi hay lơ là chuyện trong sạch nơi trái tim.
Đây mới là điều quan trọng mà Đức Giê su muốn nhấn mạnh.
Theo truyền thống hội đường Do Thái, có cả thảy 613 điều răn,
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Cả một rừng điều răn này chi phối toàn bộ đời sống của người Do thái giáo.
Người Pharisêu cho rằng sự thánh thiện nằm ở chỗ chu toàn hết mọi luật này.
Còn Đức Giêsu coi sự thánh thiện nằm ở sâu nơi trái tim thuộc trọn về Chúa.
Ngài trích lời của ngôn sứ Isaia (29, 13):
“Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta.”
Làm thế nào để trái tim của chúng ta gần với Chúa?
Làm thế nào chúng ta khỏi trở thành những kẻ đạo đức giả?
Làm thế nào chúng ta giữ luật Chúa và Giáo Hội với sự mềm mại, tự do, vui tươi?
Ước gì từng hành vi giữ luật của ta được chi phối bởi trái tim đầy yêu mến.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.
Suy Niệm 2: Hình và bóng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình”. Thật trân trọng biết bao. Thật yêu thương biết bao. Nhưng cũng phải biết vị trí giới hạn. Dù được nâng lên hàng cao quí, con người cũng chỉ là bóng mãi mãi thuộc về hình. Hình có tồn tại thì bóng mới hiện hữu. Thiên Chúa như mặt trời tỏa ánh sáng. Con người chỉ như mặt trăng. Dù có đẹp đẽ sáng láng. Nhưng cũng chỉ sáng bằng ánh sáng mặt trời. Không có mặt trời mặt trăng chìm vào đêm tối (năm lẻ).
Nhưng con người không hiểu điều đó. Ngay từ khởi đầu bà Evà đã muốn thoát khỏi Thiên Chúa. Vì thế lâm vào khốn cùng. Các Pha-ri-sêu và Kinh sư cũng không hơn gì. Tuân giữ truyền thống của con người hơn tuân thủ Lời Chúa. Bóng muốn thoát khỏi hình sao được. Thế mà ở đây mặt trăng còn muốn lấn át mặt trời. Con người muốn lấn át Thiên Chúa khi đặt thói lệ của tiền nhân lên trên Lời Chúa dạy.
Thế giới hôm nay không khác gì. Người ta coi trọng con người hơn Thiên Chúa. Sợ hãi con người hơn Thiên Chúa. Chạy theo dư luận, lợi nhuận, chức quyền, danh vọng, và cả dục vọng. Nên phải chối từ Thiên Chúa. Con người muốn lấn át Thiên Chúa. Muốn tự mình trở thành mặt trời. Muốn điều hành cả vũ trụ lẫn Thiên Chúa. Vì thế lâm vào cảnh khốn cùng.
Hãy noi gương Sa-lo-môn, người khôn ngoan nhất trần đời. Khi xây xong ngôi đền thờ nguy nga tráng lệ, Sa-lo-mon đã nhận biết đền thờ chẳng xứng đáng với Thiên Chúa: “Này trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây”. Ngôi nhà không chứa đựng Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa ấp ủ ngôi nhà. Sa-lo-mon giầu sang tuyệt đỉnh, quyền uy ngập trời. Nhưng ông không dám trông nom Thiên Chúa. Trái lại ông cầu xin Thiên Chúa “xin Ngài để mắt nhìn đến ngôi nhà này đêm ngày”. Dù cao sang nhất trần đời nhưng ông không bao giờ dám ra lệnh cho Thiên Chúa. Trái lại ông luôn khiêm nhường cầu nguyện: “Xin Chúa đoái đến lời tôi tớ Chúa cầu xin khẩn nguyện, mà lắng nghe tiếng kêu cầu của tôi” (năm chẵn).
Con chỉ là bóng. Chính Chúa là hình. Xin cho con biết luôn đi theo Chúa, vâng nghe Lời Chúa, thực thi ý Chúa. Như bóng luôn đi theo hình. Có thế bóng mới tồn tại.
Suy Niệm 3: Tìm cái cốt yếu
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Nhiều tôn giáo lấy việc tẩy rửa làm một trong những nghi thức linh thiêng của Ðạo. Chẳng hạn người Ấn giáo tắm ở sông Hằng trước khi vào tế tự ở đền thờ, hoặc các thành viên Cộng đoàn Qumrân thời Chúa Giêsu lấy việc tắm rửa hằng ngày để diễn tả thái độ sẵn sàng của mình cho ngày Ðấng Mêsia đến; ngay cả Gioan Tẩy giả cũng coi việc dìm người xuống dòng sông Giođan rồi trồi lên khỏi nước như cử chỉ nói lên sự hoán cải tâm hồn, sẵn sàng gia nhập đoàn dân mới của Thiên Chúa khi Ngài ngự đến. Người Do thái còn đi xa hơn đến mức đưa nghi thức tẩy rửa ấy vào từng chi tiết đời sống thường ngày, như rửa tay trước khi ăn, rửa chén đĩa, bình lọ...
Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái về vấn đề tập tục của tiền nhân. Ðối với người Do thái, việc rửa tay, rửa chén đĩa, rửa thực phẩm, không chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm phòng bệnh, mà còn là một nghi thức tôn giáo nói lên ước nguyện trở nên thanh sạch để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Ðấng Thánh. Ðây là điều tốt, nhưng người Biệt phái đã quá vụ hình thức mà bỏ quên điều thiết yếu, họ phán đoán một người tốt hay xấu dựa trên những hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu đã trả lời cho thái độ vụ hình thức ấy như sau: "Các ông gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa qua một bên, mà duy trì truyền thống của người phàm". Chúa Giêsu muốn cho thấy các việc làm bên ngoài ấy, dù có tính cách tôn giáo đến đâu, cũng không thể thay thế cho một việc khác quan trọng hơn. Ðiều quan trọng là sự thanh sạch của tâm hồn, chứ không phải việc rửa tay, rửa vật dụng bên ngoài; đừng lẫn lộn tập tục của truyền thống phàm nhân với lề luật do chính Thiên Chúa ban bố.
Chúa Giêsu nhắc đến trường hợp những người Do thái nhân danh tập tục dâng cúng một số của cải vào Ðền thờ, gọi là copan, nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa, để rồi biện minh cho sự thiếu sót bổn phận đối với cha mẹ. Tập tục dâng cúng là do con người, thảo kính cha mẹ là lệnh truyền của Thiên Chúa, thế nhưng trong trường hợp vừa kể, vì tinh thần sống vụ hình thức, những người Biệt phái đã bỏ luật của Thiên Chúa để tuân giữ tập tục loài người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta trở về với điểm căn bản: hãy đặt Chúa vào chỗ thứ nhất và tuân giữ giới răn của Ngài. Chúa không chủ trương phá bỏ hình thức lễ nghi cơ cấu, nhưng chỉ muốn đặt chúng vào đúng vị trí. Xin cho chúng ta biết trân trọng và thực hiện điều chính yếu mà Chúa đang chờ đợi chúng ta, thay vì cứ loay hoay với những điều phụ thuộc do loài người đặt ra.
Suy Niệm 4: Sống đạo?
Vậy người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” Người trả lời họ: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng:
“Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,
còn lòng chúng thì lại xa Ta.” (Mc. 7, 5-6)
“Dân này tôn kính Ta bằng môi, bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta… Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của các ông”. Chúa Giêsu phản đối chính những tập tục và truyền thống của người Do thái, bởi vì những tập tục và truyền thống ấy đi tới chỗ che khuất đi tính đơn sơ mà Chúa đòi hỏi nơi con người.
Trong Kitô giáo phải chăng lời ăn tiếng nói và cách sống đạo của ta không làm mất đi vẻ đơn sơ trong sáng sao?
Đúng là chúng ta thường nói nhiều mà thực ra lại không sống thực điều răn của Chúa.
Chúa dạy ta trước tiên phải yêu mến Chúa Cha, yêu thương anh em và mọi người. Giáo hội tiên vàn là môi truờng thuận lợi nhất để Chúa dạy và ta thực hành điều răn này.
Nhân dịp này Chúa Giêsu cũng tra vấn ta về cách ta thực hành những việc đạo đức, đọc kinh, xem lễ… về tất cả những việc ta làm cốt để cho yên lương tâm. Có những ngày có lẽ Chúa muốn nói với ta rằng: “Hãy ngưng lại đi thôi, lòng ngươi xa Ta rồi.”
Tôi sẽ trả lời Chúa rằng nếu tôi không làm những việc đạo đức ấy, tôi sẽ còn xa cách Chúa hơn. Đừng bắt người khác làm điều gì khi chính mình lại không sống sâu xa điều ấy. Đó mới chính là điều quan trọng.
Hãy hiểu rằng Chúa Giêsu không đòi hỏi tôi phải giữ đạo theo kiểu duy tâm, không việc làm, không cử chỉ.Tôi cần phải có những biểu tượng, những nghi thức. Nhưng tôi không được nấp sau những nghi thức này để mà không thực hành lòng yêu mến anh em, không lắng nghe Lời Chúa.
Những thực hành đạo đức này có thể là phương thế giúp ta lượng giá mình xem đã tìm kiếm Chúa thế nào, đã trung tín với Tình yêu của Người đến đâu.
Lạy Chúa, xin ban cho con Thần Khí Chúa, để Phúc âm Chúa nâng dậy đời con.
Suy Niệm 5: Đừng vụ luật mà xa lạ với tin mừng
Tại đất nước Philippines hay tại Ấn Độ, người ta có thói quen ăn cơm bằng tay thay vì dùng muỗng nĩa như người Tây Phương hay đũa như người Việt Nam.
Khi dùng tay để ăn, họ buộc phải dùng tay phải để lấy cơm và thức ăn đưa vào miệng. Tay trái là điều cấm kỵ vì họ cho rằng tay trái là biểu tượng của sự dơ bẩn; hay tay trái là dấu chỉ của những người khó có thể được cứu độ! Chính vì vậy, mà những người thuận tay trái thường bị cho rằng sau này khó có thể được vào Nước Trời!
Tin Mừng thánh Máccô được trích đọc hôm nay ghi lại cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và những người Pharisêu về vấn đề rửa tay trước khi ăn.
Theo luật, buộc khách dự tiệc phải rửa tay trước khi ăn. Việc rửa tay trước khi ăn có ý nghĩa tôn giáo rất tốt lành, đó là ý muốn nói hay nhắc nhở mỗi người về sự trong sạch trong tâm hồn. Trước khi họ dâng lời chúc tụng, tạ ơn Chúa thì họ phải thanh tẩy tâm hồn cho xứng đáng. Còn về mặt xã giao, thì đây là biểu lộ sự kính trọng với người đồng bàn với mình.
Tuy nhiên, trải qua thời gian, khi người ta chỉ còn biết hình thức bên ngoài mà không hề khám phá hay sống ý nghĩa, giá trị bên trong, thì tập tục này trở nên thuần túy phô trương, hình thức. Chính vì lý do này mà khi thấy các môn đệ của Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn, nên những người Pharisêu đã thắc mắc!!! Nhân cơ hội này, Đức Giêsu nhắc lại lời ngôn sứ Isaia nói về sự giả hình nơi những người này, vì họ chỉ thờ Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, còn lòng họ thì không. Vì thế, họ như cái thùng rỗng. Những lời dạy của họ trở nên trò hề khi họ chỉ cậy dựa vào tập quán của phàm nhân.
Ngày nay, nơi nhiều cộng đoàn, vẫn còn đó những lối suy nghĩ như những người Pharisêu khi xưa, đó là: tập trú vào hình thức bên ngoài quá nhiều mà không để ý đến ý nghĩa, sứ điệp ngang qua những hoạt động tôn giáo.
Nhiều khi chỉ biết đọc kinh mà không hề biết ý nghĩa của lời kinh! Hoặc nhiều khi giữ đạo từ nhỏ, nhưng nói về tinh thần huynh đệ, bác ái thì xem ra quá xa vời, bởi bấy lâu nay ta sống theo kiểu: “Đèn ai nấy rạng”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta thấy rằng: lời nói phải đi đôi hành động. Việc bề ngoài chỉ có giá trị khi nó được toát ra từ bên trong. Đừng chỉ lo loay hoay hình thức mà đánh mất đi nét đẹp của tâm hồn. Mất đi ý nghĩa này, mọi sự trở nên giả dối, trống rỗng và vô ích.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa vì đã dạy cho chúng con bài học về việc giữ luật. Xin cho chúng con ngày càng gắn bó với Chúa mật thiết để được sống trong tình yêu và chiếu tỏa tình yêu ấy cho tha nhân cách chân thành. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Yêu mến tôn thờ Chúa chân thành tận đáy lòng
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu dạy ta yêu mến tôn thờ Thiên Chúa cách chân thành, tận đáy lòng. Đừng vì những thói quen tập tục của loài người mà coi thường những giới răn của Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, Chúa là Đấng cao cả trổi vượt vô cùng, nhưng đồng thời Chúa cũng ở trong lòng con, sâu thẳm trong con hơn chính con. Chúa thấu suốt mọi tư tưởng, mọi tâm tình, mọi ước muốn và việc làm của con. Con có thể giả dối với người đời nhưng không thể giả dối đối với Chúa. Tất cả cuộc đời con luôn xuất hiện rõ ràng trước Nhan Thánh Chúa, con chẳng thể che giấu Chúa điều gì.
Vậy lạy Chúa, xin Chúa tha thứ những điều giả dối hời hợt nơi con. Đã bao lần con tôn kính Chúa ngoài môi miệng mà lòng con lại xa Chúa. Khi đọc kinh, dự lễ, làm việc đạo đức và bác ái, con đã làm một cách miễn cưỡng, làm vì thói quen, làm vì sợ dư luận chứ không làm vì lòng mến Chúa. Bề ngoài có lẽ con không có gì đáng trách. Nhưng Chúa thấu tỏ lòng dạ con chưa chân thành hết tình với Chúa. Xin Chúa giúp con canh tân tâm hồn để từ nay con luôn dành cho Chúa một tình yêu chân thành nồng nàn.
Chúa đã ban cho con trái tim để yêu thương, yêu mến Chúa và yêu thương nhau, nhưng con lại bóp nghẹt con tim để làm cho đời con ra như cái xác không hồn. Dòng máu yêu thương trong con đã thành khô cạn và con chết cứng trong bệnh hình thức. Xin Chúa sưởi ấm trái tim con. Xin Chúa thúc đẩy con chạy đến với bí tích Thánh Thể để con được kín múc tình yêu từ nguồn mạch yêu thương của trái tim Con Chúa. Xin Chúa lôi kéo lòng con lại gần lòng Chúa, để từ lòng Chúa, con ra đi gieo rắc tình thương. Amen.
Ghi nhớ: ”Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân”.
Suy Niệm 7: Chúa khuyên đừng vụ hình thức
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái về vấn đề tập tục của tiền nhân. Đối với người Do Thái, việc rửa tay, rửa chén đĩa, không chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm phòng bệnh, mà còn là một nghi thức tôn giáo nói lên ước nguyện trở nên thanh sạch để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Đấng Thánh. Đây là điều tốt, nhưng người biệt phái đã quá vụ hình thức mà bỏ quên điều thiết yếu, họ phán đoán một người tốt hay xấu dựa trên những hình thức bên ngoài. Điều quan trọng là sự thanh sạch của tâm hồn, chứ không phải việc rửa tay, rửa vật dụng bên ngoài; đừng lẫn lộn tập tục của truyền thống với lề luật do chính Thiên Chúa ban bố.
2. Thực hành lề luật không có nghĩa là chỉ thi hành những nghi thức bên ngoài và coi đó là xong nhiệm vụ. Những hình thức bên ngoài là cần thiết, nhưng chúng chỉ là những yếu tố bổ sung và phụ thuộc, mà cái cần thiết nhất là tấm lòng. Hay nói cách khác, cần nhất là cái động lực thúc đẩy chúng ta làm: nếu động lực tốt thì việc làm sẽ tốt, nếu động lực xấu thì việc làm sẽ xấu. Nếu việc làm mà thiếu động lực tốt thì việc làm chỉ là giả tạo và người làm việc ấy chỉ là giả hình: “Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, mà lòng chúng thì xa Ta” (Is 29,13).
3. “Dân này kính Ta bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6).
Chẳng cần phải nói nhiều, chúng ta cũng thấy, ngày nay người ta sống giả dối với nhau rất nhiều. Cái gì ngày này người ta cũng có thể làm giả được. Nếu như trước đây chỉ mới có chân giả, da giả thì ngày nay có hàng loạt những thứ giả khác như tóc giả, lông mi giả, hoa giả trái cây giả, gạo giả... Gần đây chúng ta còn được nghe rất nhiều thứ giả khác: bẳng giả, chứng chỉ giả, tiến sĩ giả... Những thứ ấy còn đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mâm quả, hoa nến, nhang, đèn giả. Mức độ “giả” rất tinh vi nên nhiều khi cái giả xem ra còn đẹp hơn những cái thật, khó mà phân biệt được. Ở đây, Chúa Giêsu chỉ mới nói đến “Giả hình”. Ngày nay, còn một thứ giả tệ hơn. Đó là “Giả nhân giả nghĩa”. “Giả hình” mà còn đáng trách thì giả nhân giả nghĩa còn đáng trách hơn chừng nào.
4. Chúa Giêsu khiển trách những người biệt phái và luật sĩ thờ phượng Chúa trên đầu môi chót lưỡi, còn tấm lòng lại xa cách Người. Họ chăm chăm tuân giữ các truyền thống xa xưa, còn điều răn yêu thương là cốt lõi cũa Lời Chúa dạy thì họ lại không tuân giữ. Chúa Giêsu cũng đả kích các nhà thông luật Do thái vì họ quá tôn trọng hình thức bề ngoài, qua đó, Người mời gọi chúng ta hãy sống thật với lương tâm của mình. Để sống đạo tốt, chúng ta cần chu toàn các lề luật của Giáo hội, nhưng đồng thời còn phải sống tình mến với Chúa và mọi người.
5. Những người giả hình này đáng người ta tặng cho cái nhãn hiệu “Tốt mã dẻ cùi”. Chim dẻ cùi là một giống chim đẹp, mỏ đỏ, đuôi dài, lông mã, lông đuôi sặc sỡ ngũ sắc, coi giống chim phượng. Người ta đã gọi là phượng hoàng Nam (phượng hoàng của nước Nam) hay phượng hoàng đất. Nhưng chim dẻ cùi phải cái tật hay ăn cứt chó, cứt lợn. Người ta đã có câu:
Dẻ cùi tốt mã dài đuôi,
Hay ăn cứt chó, ai nuôi dẻ cùi.
Dẻ cùi tiếng hót lại không hay, vì vậy dẻ cùi tuy đẹp mã thật, nhưng người ta không quí mà lại khinh. Người ta thường dùng câu “Tốt mã dẻ cùi” để chế riễu người bề ngoài đẹp đẽ sáng sủa, ăn vận diêm dúa mà bụng dạ bẩn thỉu không tốt mà lại vô tài (Văn Hòe, Tục ngữ lược giải, 1957, tr 198).
6. Ngày nay thật đáng lo ngại là cho sự khủng hoảng đạo lý nơi nhiều gia đình. Có những người con chỉ dừng trên nghĩa vụ, bổn phận lo lắng cho cha mẹ của cải vật chất, mà quên đi cha mẹ còn phải được kính trọng và yêu mến. Vật chất chỉ là giá trị bề ngoài nhưng chính giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mới quan trọng cho đời sống cha mẹ. Giá trị đạo đức bị đảo lộn bởi có những đứa con coi vật chất là trên hết, đặt tiền tài trên nghĩa vụ làm con, sẵn sàng gửi cha mẹ vào các nhà dưỡng lão mà quên rằng bổn phận của con cái là nuôi dưỡng, thăm hỏi khi cha mẹ còn sống, và cầu nguyện xin lễ cho các ngài khi đã qua đời.
7. Truyện: Sư máy.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/08/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “sư máy”. Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi giơ lên, một tay thì gõ mõ, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật.
Sáng kiến này đưa ra nhằm đáp ứng cho ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ có một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
Suy Niệm 8: Kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Chúa Giêsu và nhóm biệt phái cùng kinh sư tranh luận với nhau về vấn đề sạch dơ.
Họ bám sát mặt chữ những quy của luật lệ về sự phân biệt cái gì là sạch cái gì là dơ và về những đòi buộc về rửa tay chân chén dĩa…
Chúa Giêsu nói đó mới chỉ là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn.
Ngài nhận xét đạo đức của họ chỉ là đạo đức giả: “Dân này kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta”.
Ngài còn kết án họ lấy tập tục của loài người mà thay thế lệnh truyền của Thiên Chúa. Ngài lấy tục lệ Corban ra làm thí dụ điển hình: Corban là của dâng cúng cho Thiên Chúa. Mặc dù Xh 20,12 buộc con cái phải phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng để khuyến khích người ta đóng góp cho đền thờ, biệt phái và kinh sư dạy rằng nếu ai khấn hứa đem những gì phải giúp cho cha mẹ để dâng cho Đền thờ thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Quả thật đây là một cách bóp méo Lời Chúa.
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Những sai lầm của biệt phái và kinh sư là những sai lầm mà chúng ta dễ mắc phải:
Dễ tưởng mình đã là người “công chính” rồi.
Từ đó dễ phê phán những người khác không được “công chính” như mình.
Thực ra, sống công chính là một mục tiêu phải phấn đấu suốt đời mà cũng chưa chắc đạt tới. Lời Chúa Giêsu khiển trách họ cũng là một lời khuyên chúng ta lo tu luyện bản thân hơn là để ý so sánh người khác.
+ Giữ hình thức bề ngoài dễ hơn sống tâm hồn bên trong. Rất tiếc nhiều người mới lo được vẻ bề ngoài thì đã vội tự mãn.
+ Corban là một cớ để người biệt phái dựa vào để tự chuẩn miễn những bổn phận quan trọng. Chúng ta cũng thường có những thứ Corban của chúng ta.
Nhiều khi chúng ta lấy cớ bận lo việc Chúa để trốn tránh bổn phận lo cho con người.
+ “Dân này kính Ta bằng môi miệng”.
Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng”
Bà cầu nguyện suốt ba ngày cũng vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra ngay sau bàn thờ: “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện. (Góp nhặt)
2. ”Dân này kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6)
Một trong những đặc trưng của kỹ thuật hiện đại là kỹ thuật làm đồ giả. Nếu như trước đây chỉ mới có chân giả, da giả … thì ngày nay có hàng loạt những thứ giả khác như tóc giả, lông mi giả, hoa giả, trái cây giả … Những thứ ấy đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như quả, hoa, nến, nhang, đèn giả… mức độ “giả” còn tinh vi nên lắm khi cái giả xem ra còn đẹp hơn cái thật, khó mà phân biệt được thực hư, tốt xấu: trông thật hóa “dỏm”; trông xịn hoá “xoàng”. Vì thế mới có kẻ dở khóc dở cưòi.
Nhưng tệ nhất vẫn là thứ “Giả nhân giả nghĩa”, thứ “giả hình” mà Chúa đã nặng lời khiển trách (x. Mát Thêu 23,13-29). Và thánh Gioan đã lật tẩy:
“Ai nói rằng mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Gioan 2,4);
“Ai bảo mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, ngưòi ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu ngưòi anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ trông thấy” (1 Gioan 4,20)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin giúp cho con biết thờ phượng Chúa trong thần khí và sự thật (x. Ga 4,23). (Epphata)
Suy Niệm 9: Thói giả hình và truyền thống của tiền nhân
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Có hai điều Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay
1. Về thói giả hình.
Ngày xưa Chúa đã phê phán: ”Dân này kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6).
Chẳng cần phải nói nhiều, chúng ta cũng thấy, ngày nay người ta sống giả dối với nhau rất nhiều. Cái gì ngày nay người ta cũng có thể làm giả được. Nếu như trước đây chỉ mới có chân giả, da giả thì ngày nay có hàng loạt những thứ giả khác như tóc giả, lông mi giả, hoa giả, trái cây giả. Gần đây chúng ta còn được nghe rất nhiều những thứ giả khác: Bằng giả, chứng chỉ giả, tiến sĩ giả... Những thứ ấy còn đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mâm quả, hoa, nến, nhang, đèn giả. Mức độ “giả” rất tinh vi nên nhiều khi cái giả xem ra còn đẹp hơn cả những cái thật, khó mà phân biệt được. Ở đây Chúa Giêsu mới chỉ nói đến “Giả hình”. Ngày nay còn một thứ giả tệ hơn. Đó là “Giả nhân giả nghĩa”.”Giả hình” mà còn đáng trách thì “giả nhân giả nghĩa” còn đáng trách hơn chừng nào.
Sách cổ học tinh hoa có chép một câu chuyện xảy ra tại Hàn Châu.
Có một người bán trái cây đã tìm ra được một bí quyết giữ cho cam lâu ngày mà vỏ cam vẫn luôn đỏ hồng. Ông bán với giá rất đắt, thế mà thiên hạ vẫn tranh nhau mua. Có người mua được một trái đem về bóc ra mới vỡ lẽ ra bên trong chỉ là một trái cam thối. Người đó bèn đem trả lại cho người bán và mắng nhiếc thậm tệ.
Người bán cam cũng chẳng có vừa. Ông ta cười nói:
- Tôi làm nghề này đã lâu, tôi bán và người ta mua, không ai than phiền, chỉ có ông mới kêu ca. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng riêng gì tôi, ông thật chẳng chịu nghĩ cho đến nơi đến chốn. Này thử xem có người đeo hộ phú, hùng dũng như một quan võ, kỳ thực không biết người đó có giỏi được như Tôn Tần, Ngô Khởi không? Có người đội mũ cao, đóng đai dài, trông giống như một quan văn, nhưng liệu họ có giỏi được như Y Doãn, Cao Dao không? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát không biết sửa đổi, ngồi không ăn lương mà không biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn cao lương mỹ vị, oai vệ hách dịch vô cùng. Đó bề ngoài chẳng như vàng như ngọc, còn bề trong chẳng như hỏng nát là gì? Tại sao ông không chịu đi xét những hạng người ấy, mà lại đi xét quả cam của tôi.
Chúa Giêsu cũng đã nghiêm trách những thành phần lãnh đạo thời đại của Ngài. Ngài so sánh họ với mồ mả tô vôi, bên ngoài thì sơn phết bóng bẩy, nhưng bên trong chỉ là những xác chết hôi thối.
Lạy Chúa, xin giúp con biết thờ phượng Chúa trong Thần Khí và sự thật (Ga 4,23). (Epphata)
2. Còn về vấn đề truyền thống của tiền nhân thì Chúa muốn ta phải hiểu thế nào?
Xin đan cử một thí dụ:
Một nhà quí phái kia mở một bữa tiệc để thết đãi khách. Trong số những thực khách được mời tham dự bữa tiệc này có một bác nông dân. Sở dĩ bác nông dân này được mời vì bác là người giàu có trong vùng, lại có lòng tốt. Chính bác đã tặng cho nông dân ở trong vùng một số tiền lớn để xây cất một nhà thương.
Hôm ấy, trên bàn ăn người ta dọn ra món đầu tiên là cua nướng. Ngoài dĩa cua nướng dọn cho mỗi người, người ta còn để ở bên cạnh một ly nước nóng và một lát chanh tươi.
Vì là một nông dân, tính tình chất phác, không lễ nghi khách sáo, đàng khác có lẽ bác nông dân kia cũng đã đói, vì thế sau khi khai mạc bữa tiệc, bác đã cắm đầu cắm cổ ăn một hơi hết món cua nướng.
Ăn cua xong, thấy bên cạnh đó có một ly nước nóng và một lát chanh tươi, tưởng là để cho khách uống, nên bác nông dân vắt chanh vào nước rồi uống một hơi hết sức tự nhiên. Thực ra đây là những thứ để rửa tay, sau khi ăn món cua nướng.
Thấy bác nông dân ăn uống như thế, mọi người chung quanh đều trố mắt nhìn nhau rồi tủm tỉm cười với một sự khinh bỉ. Nhưng riêng với ông chủ nhà, khi thấy bác nông dân kia đã uống như thế, thì ông đã xử sự một cách hết sức khôn khéo. Ông cũng vắt chanh vào ly nước của ông và đưa lên uống, để bác nông dân không bị mất mặt trước những thực khách được mời hôm đó.
Thế là mọi người trong bàn tiệc hôm đó, không ai bảo ai, tất cả đều vắt chanh vào ly nước của mình, rồi bưng lên uống.
Một tập tục đã được bỏ qua. Như vậy, tập tục chỉ có giá trị tương đối. Tất cả những nghi thức bên ngoài chỉ có giá trị đích thực khi chúng hướng về Thiên Chúa, thể hiện được xã hội tính và tinh thần tôn trọng con người. Không vì những mục đích đó thì mọi nghi thức, tập tục, cung cách, chỉ là những sinh hoạt giả dối trống rỗng.
05/02 Chúa Giêsu hoạt động
- Viết bởi Mc 6, 53-56
Chúa Giêsu hoạt động.
Thứ Hai tuần 5 thường niên. – Thánh Agata, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ.
"Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".
* Agata là một thiếu nữ quê ở Xi-xi-li-a. Chị đã chịu tử đạo ở Catana, vào thời hoàng đế Đêxiô bách hại đạo (năm 251). Đồng bào của chị vẫn tin tưởng kêu cầu chị, nhất là những lúc núi lửa Étna hoạt động. Rồi việc tôn kính chị được phổ biến rộng rãi trong toàn thể Hội Thánh, cả ở phương Đông lẫn phương Tây.
Lời Chúa: Mc 6, 53-56
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó.
Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chạm đến thì được khỏi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Tiếng Việt có nhiều động từ nói về xúc giác:
sờ, mó, đụng, chạm, rờ…
Xúc giác là một trong năm ngũ quan.
Nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, có khi vẫn chưa đủ.
Người ta còn muốn sờ thấy, xem đằng mặt, bắt đằng tay.
Sờ là một cách kiểm chứng đôi khi được coi là đáng tin hơn thấy.
Đức Giêsu phục sinh đã nói với các môn đệ:
“Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!
Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24, 39).
Thánh Tôma xem ra thích kiểm chứng bằng đụng chạm:
“…nếu tôi không đặt ngón tay tôi vào lỗ đinh,
không đặt bàn tay tôi vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).
Đức Giêsu phục sinh đã chiều Tôma (Ga 20, 27).
Thiên Chúa đã chiều nhân loại, khi cho Con Ngài làm người như ta,
nhờ đó chúng ta có thể đụng chạm đến Thiên Chúa theo nghĩa đen.
Thánh Gioan đã reo lên khi loan báo Tin Mừng này:
“Điều vẫn có ngay từ lúc đầu, điều chúng tôi đã nghe,
Điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng,
và bàn tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống” (1 Ga 1, 1).
Bài Tin Mừng hôm nay là một bản tóm lược dài về quyền năng của Đức Giêsu.
Quyền năng này được thi thố qua việc chữa bệnh.
“Người ở đâu thì người ta cáng bệnh nhân đến đó.
Người đi tới đâu…người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở chỗ công cộng” (cc. 55-56).
Dân chúng tin vào sức mạnh xuất phát từ chính con người Đức Giêsu.
Ở đây không phải là chuyện Ngài đụng chạm vào các bệnh nhân để chữa họ,
mà là các bệnh nhân xin “ít là được chạm đến tua áo choàng của Người;
và “bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi” (c. 56).
Cái chạm của bệnh nhân là cái chạm của lòng tin vào Đức Giêsu.
Nó giống với cái chạm của người phụ nữ bị băng huyết (Mc 5, 28).
Không phải chỉ là chạm bằng tay, mà bằng cả con người.
Nơi đáy lòng con người vẫn có khát khao được đụng chạm đến Thiên Chúa,
cả nơi những người không tin có Ngài hay bướng bỉnh như Tôma.
Truyền giáo là giúp người ta thực hiện ước mơ chính đáng: chạm đến Thiên Chúa.
Nhà truyền giáo phải là người đã có kinh nghiệm chạm đến Thiên Chúa.
Mong mỗi Kitô hữu trở nên một nhà truyền giáo
nhờ đụng chạm đến Lời Chúa và các Bí Tích mỗi ngày.
Cầu nguyện:
Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm an bình nơi Chúa. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
Suy Niệm 2: Quyền năng và yêu thương
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thuở tạo thiên lập địa, quyền năng Thiên Chúa trổi vượt và chiến thắng. Chiến thắng bóng tối để sáng tạo ánh sáng. Chiến thắng khối hỗn mang để tạo dựng vũ trụ nên hình dạng tốt xinh. Chiến thắng khoảng không vô định hình để làm nên trật tự lạ lùng. Chiến thắng lớn lao nhất là ban sự sống cho muôn loài. Sự sống là một chiến thắng kỳ diệu. Đó là món quà quí giá nhất. Thiên Chúa ban cho muôn loài được tham dự vào sự sống của Người (năm lẻ).
Thời Cựu ước, quyền năng của Người bày tỏ ra trong sự hiện diện uy nghiêm. Khói tỏa mịt mù trong lều hội ngộ. Sức mạnh phi thường của Hòm Bia khiến cả quân thù cũng phải khiếp sợ. Thực ra trong Hòm Bia không có gì. Chỉ có hai bia đá làm bằng chứng giao ước (năm chẵn).
Đến thời sau hết, loài người được diễm phúc chiêm ngưỡng Thiên Chúa bằng xương bằng thịt trong Chúa Giê-su Ki-tô. Đó là Thiên Chúa vẫn tràn đầy quyền năng phép tắc. Quyền năng phép tắc thậm chí còn mạnh mẽ hơn. Vì phải đối địch lại với ác thần. Cánh tay hùng mạnh của Ngài vẫn chiến thắng. Chiến thắng tội lỗi để tha thứ cho con người. Chiến thắng bệnh tật cho con người lành mạnh. Nhất là chiến thắng ác thần xua đuổi ma quỉ ra khỏi con người.
Nhưng còn hơn cả quyền năng phép tắc. Vì Thiên Chúa đến ở với con người, gần gũi con người. Con người có thể đụng chạm đến Người. Xưa kia Thiên Chúa uy nghi xa cách, con người chỉ “kính nhi viễn chi”. “Áo ngài mặc toàn oai phong lẫm liệt. Cẩm bào ngài khoác là muôn vàn ánh hào quang”. Nay thì con người có thể đụng đến gấu áo của Người. Và gấu áo tuy gần gũi nhưng vẫn có quyền năng chữa lành. Con người cảm thấy tình yêu thương của Chúa thật ấm áp. Chúa cảm thương. Chúa cầm tay người bệnh. Chúa vuốt ve vết thương của người bệnh phong. Chúa chúc lành trẻ em.
Xin cho con biết nối tiếp công trình của Chúa. Tiếp tục kiến tạo trần gian nên tốt đẹp. Tiếp tục bày tỏ quyền năng Chúa chống lại cái ác, cái xấu. Nhất là tiếp tục tình yêu thương của Chúa. Gần gũi những người đau yếu, bệnh tật, bị thần ô uế ám ảnh. Lạy Chúa, xin chiếu tỏa quyền năng của Chúa cho sự thiện hiển trị.
Suy Niệm 3: Chấp nhận bị quấy rầy
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Tin Mừng hôm nay là một bản khái quát những hoạt động của Chúa Giêsu làm cho con người, những hoạt động này vừa nhiều vừa đa dạng, đến mức làm cho người ta có cảm tưởng Chúa Giêsu là một lương y đa khoa.
Nhìn vào cách thức hành động của Chúa Giêsu, con người thời nay có thể cho rằng Ngài làm việc thiếu khoa học. Dường như Chúa Giêsu không lên kế hoạch làm việc cho từng ngày, ngày nào của Ngài cũng chỉ theo một chương trình duy nhất, là rao giảng Tin Mừng và làm cho Nước Trời hiện diện cụ thể trong đời sống con người. Ðối tượng phục vụ của Ngài là người nghèo đủ loại, và nhu cầu của người nghèo lại cấp bách đến độ không thể dời lui dời tới hoặc giới hạn vào một số giờ nhất định. Sống với người nghèo và cho người nghèo là chấp nhận bị quấy rầy: quấy rầy vì những vấn đề của họ thật cấp thiết nhưng lại không dễ giải quyết, quấy rầy vì họ luôn ở cạnh chúng ta mà chúng ta không được phép quên đi.
Giáo Hội hôm nay muốn chọn người nghèo làm đối tượng ưu tiên để phục vụ như Chúa Giêsu ngày xưa đã làm, thì Giáo Hội cũng không thể quên sự quấy rầy của người nghèo và các vấn đề liên quan đến người nghèo. Nếu Giáo Hội có phải phân nhiệm cho ủy ban này, ủy ban khi lo từng vấn đề, nếu Giáo Hội có phải lên thời khóa biểu hằng ngày, thì tất cả chỉ vì muốn phục vụ người nghèo cho có kết quả hơn, chứ không phải để giảm bớt hoặc thoái thác công việc.
Chúa đã không phục vụ con người theo kiểu trưởng giả, gián tiếp, nhưng đã dấn thân phục vụ tất cả mọi người bất cứ giờ phút nào. Xin cho Giáo Hội và mỗi người chúng ta đừng phục vụ người nghèo trên môi miệng, trên giấy tờ hoặc trong tư duy, nhưng là phục vụ trong hành động cụ thể và mau mắn.
Suy Niệm 4: Phép lạ xảy ra hằng ngày
Thầy trò vừa ra khỏi thuyền, thì lập tức người ta nhận ra Đức Giêsu. Họ rảo khắp vùng ấy và nghe tin Người ở đâu, thì bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó. (Mc. 6, 54-55)
Sách Sáng thế ký kể rằng lần đầu tiên ánh sáng chiếu dọi vào trái đất còn trống trải và mông lung. Ánh sáng là tốt đẹp, là phản ánh của Thiên Chúa. Ánh sáng cho sự sống, tô mầu cho vạn vật và con người, đem nguồn vui đến các tâm hồn.
Giờ đây Chúa Giêsu đang ở miền Ghê-nê-xa-rét, vùng dân ngoại mà người Do thái vẫn coi là chốn tối tăm, ở giũa những con người ốm đau tật nguyền. Người là ánh sáng trần gian và ánh sáng là sự sống.
Bệnh tật cho người ta kinh nghiệm về sự yếu đuối, sự bất lực của con người đối với người đau ốm. Những phù phép và mê tín dị đoan không làm cho người ta khỏi bệnh.Tình yêu thương mới có thể chữa lành khi người ta có khả năng tin tưởng vào tình yêu ấy. Chính vì thế mà Chúa Giêsu chỉ dùng lời nói và sự hiện diện thể lý của Người mà chữa bệnh cho người ta. Người cầm tay hay chạm đến kẻ chết, kẻ chết sống lại. Chỉ cần biết rằng Người đang ở đó. Ngay cả hôm nay, Đức Kitô phục sinh vẫn đang ở giữa chúng ta, Người vẫn là ánh sáng duy nhất, là sự sống vĩnh hằng.
Người quan tâm đến chúng ta, Người yêu thương chúng ta… Ta hãy đến với Người cùng với những tầm thường, yếu đuối thể xác và tâm hồn của ta, giống như một đứa trẻ nương tựa vào cha mình, quẳng đi mọi lo âu để chỉ biết rằng cha đang ở đó.
Nếu ta tiếc rẻ không được sống vào thời đó để có thể chạm đến tua áo choàng của Người hầu được khỏi bệnh, là bởi ta thiếu lòng tin. Trong mỗi Thánh lễ, chúng ta đọc lời, “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh.” Hoặc là chúng ta không biết mình mắc bệnh gì cần được chữa khỏi. Hoặc là chúng ta không tin vào sự hiện diện và quyền năng của Chúa Giêsu.
Dẫu sao, hôm nay cũng như trong những ngày còn rao giảng Phúc âm, Chúa Giêsu đều nói với chúng ta rằng Cha chúng ta vẫn chăm sóc ta trong mọi giây phút cuộc đời, rằng phép lạ vẫn xảy ra thường ngày để chữa lành những tật bệnh của ta nếu ta biết chú ý đến tình yêu của Người. Đó là tình yêu khiến ta được an bình thanh thản, mang lại cho ta ơn lành mạnh tâm hồn, hơn là sức khỏe phần xác.
Suy Niệm 5: Giáo Hội vì người nghèo
Mẹ Têrêxa Calcutta nổi tiếng trên khắp thế giới không phải ngài là một người giỏi giang, cũng không phải nơi mẹ có những điểm hấp dẫn về nhan sắc... Tuy nhiên, mẹ trở nên một người có thể làm đảo lộn thế giới chỉ vì tình yêu rất lớn của mẹ dành cho người nghèo và những người bện tật, đến nỗi có những ngày các nữ tu trong dòng của mẹ phải nấu thức ăn cho khoảng 7 ngàn người, và cả những người phải cung cấp lương thực, có lúc lên đến 9 ngàn người.
Chúng ta còn nhớ ngày mẹ lìa cõi trần, nhiều nguyên thủ quốc gia đã tuyên bố quốc tang, nhiều bài phát biểu bày tỏ sự ngưỡng mộ được phát đi với những lời lẽ hết sức xúc động như: “Từ nay, thế giới bớt tình thương hơn”; hay: “Hôm nay, người nghèo mất đi một người mẹ yêu thương, người bạn đồng hành...”.
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng thuật lại cho chúng ta khái quát về những hoạt động của Đức Giêsu. Ngài làm việc không biết mệt mỏi, đi đến đâu là thi ân giáng phúc tới đó.
Đối tượng mà Đức Giêsu nhắm đến để phục vụ chính là những người nghèo. Vì họ mà Ngài chấp nhận quên ăn, quên ngủ, bất chấp bị quấy rầy, bởi Ngài thấy được những vấn đề cấp thiết mà họ đang mong đợi.
Ngày nay, Giáo Hội của Đức Giêsu, không có con đường nào khác để loan báo về Đức Giêsu tốt hơn cho bằng lựa chọn người nghèo, người sống bên lề, vùng biên của xã hội.
Nếu Giáo Hội quên đi điểm căn cốt, bản lề này, thì Giáo Hội đánh mất đi bản chất và ý nghĩa của sự hiện diện.
Tuy nhiên, điều chúng ta đặt ra là: trong khi phục vụ, chúng ta có thái độ nào với họ? Phải chăng là trưởng giả, hay chỉ phục vụ gián tiếp? Không! Phục vụ như Chúa, đến để phục vụ chứ không phải được phục vụ. Tinh thần Kitô giáo không chấp nhận phục vụ hình thức, hay trên môi miệng, hoặc chỉ dừng lại nơi tư duy mà không đi đến hành động cụ thể!
Lạy Chúa Giêsu, xin thương ban cho chúng con mặc lấy tâm tư của Chúa. Sẵn sàng trở nên điểm tựa và niềm hy vọng cho những ai cần sự giúp đỡ của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã chữa lành tất cả các bệnh nhân đến gặp Chúa. Chúa đang đi qua cuộc đời ta, cần phải biết gặp Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thật diễm phúc cho con. Con là người phàm hèn đầy những giới hạn và tật nguyền nơi thân xác và trong linh hồn, nhưng con có Chúa là thầy thuốc tuyệt vời. Không ai đến với Chúa mà không được chữa lành. Đặc biệt tội lỗi đã làm cho con ra yếu đuối, tê bại, chết đuối trong bể khổ. Con muốn học ở nơi những người Ghen-nê-xa-rét mà mau mắn và tin tưởng đến cùng Chúa.
Trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và bí tích Giải Tội. Chúa hằng ban ơn sự sống đời đời cho con. Nhưng con lại dễ dàng chạy tìm an ủi và khoái lạc trần tục chóng qua. Trong khi ấy, chỉ mình Chúa mới ban cho con hồng ân được mạnh khỏe thiêng liêng và sống đời đời.
Con thành thật thưa cùng Chúa rằng: đức tin con còn quá yếu đuối. Con để cho tiếng nói của thế gian, xác thịt và ma quỷ lấn át mất tiếng Chúa. Vì quá yếu tin, nên con khó nghe được tiếng nói tình thương của Chúa. Con thấy chán ngán khi nghe Lời Chúa. Và con không thấy hấp dẫn đến cùng Chúa mỗi ngày.
Lạy Chúa, mọi người tật nguyền bệnh hoạn đã đến cùng Chúa và đã được chữa lành. Nay con đến với Chúa mang theo mọi tật nguyền của đời con. Xin Chúa cứu chữa con. Xin làm cho con nên mạnh mẽ nhất là về đàng thiêng liêng. Xin cho con cảm mến được sự thích thú khi dừng chân ngồi bên Chúa để nghe Chúa nói và để được chữa lành. Xin cho con hằng biết về bên Chúa để được Chúa gia tăng lòng mến Chúa mỗi ngày một nhiều hơn. Amen.
Ghi nhớ: ”Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh”.
Suy Niệm 7: Chữa bệnh của Chúa Giêsu, tại Giênêsarét
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Bác sĩ Longet người Pháp đã từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm (và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Dooley người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á). Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân trong bệnh viện mình, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm…
Mỗi sáng, khi đi dự lễ bệnh nhân lương giáo ai muốn đi, ông đều cho đi. Mỗi chiều Chúa nhật, ông lại cho các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này, nơi nọ. Và mỗi tối, ông lần chuỗi chung với bệnh nhân Công giáo. Vì là người Pháp, ông chỉ thuộc các kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng danh đủ để lần hạt chung với họ là những người khác quốc tịch.
Ít lâu sau, Longet trở về lại Pháp, vào chủng viện dâng mình làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ nhất ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.
Suy niệm
Tin Mừng hôm nay nói về việc chữa bệnh của Chúa Giêsu, tại Giênêsarét. Theo thánh sử Luca, sự việc xảy ra sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi đám đông dân chúng hơn 5000 người, và Ngài đã khống chế sự dữ trên biển cả khi thuyền của các tông đồ bị chao đảo, bị sóng dập vùi…
Chứng kiến phép lạ hóa bánh ra nhiều của Ngài, dân chúng tìm đến với Chúa Giêsu để xin được chữa lành những căn bệnh… Họ đặt những bệnh nhân nằm la liệt bên các vệ đường, nơi mà Ngài sẽ đi ngang qua, được Ngài đặt tay trên mình hoặc được đụng chạm đến tua áo Ngài là họ được chữa lành. Trong văn hóa Sêmít, y phục tượng trưng cho chính bản thân con người. Khi đụng đến áo của người nào là ta tiếp xúc đến chính bản thân người đó. Qua đó, tác giả muốn khẳng định từ thân thể Chúa toát ra một uy quyền thần linh cứu độ (x. Mc 6,56) và ân sủng này vượt quá những điều trị thể lý thông thường.
Chúa Giêsu theo một chương trình duy nhất, là rao giảng Tin Mừng và làm cho nước Trời hiện diện cụ thể trong đời sống con người. Ðối tượng phục vụ của Ngài là tất cả mọi người, ưu tiên cho người nghèo, người đau khổ và nhu cầu của họ. Ngài đã thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ một cách hoàn hảo: Loan báo Tin Mừng bằng cả lời nói và hành động cụ thể cho thấy sức mạnh Tin Mừng: Ngài chữa lành mọi bệnh tật, khai trừ tội lỗi và giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ là ma quỷ.
Xin vì tình thương và lòng trắc ẩn của Chúa đã chạnh lòng thương dân Do Thái năm xưa, xin Chúa cũng thương chữa lành những căn bệnh thể lý và tinh thần của chúng ta hôm nay.
Ý lực sống
“Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,50).
Suy Niệm 8: Chúa chữa lành các bệnh nhân
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Khi Chúa Giêsu vừa lên bờ đến miền dân ngoại là Ghenêxaret, người ta đã nô nức kéo nhau đến với Chúa. Khi người đi đến đâu thì người ta cũng khiêng những người bệnh tật đến đấy, xin cho chạm vào áo Người. Tất cả những ai được chạm vào áo Người đều được khỏi bệnh. Chúa Giêsu luôn tỏ ra yêu thương và quan tâm đến con người, nhất là những người đau khổ và yếu đuối. Không ai đến với Người mà phải thất vọng.
2. Sự hiện diện của Chúa Giêsu.
Chúng ta vẫn thường hát: “Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời, đâu có lòng từ bi, ở đấy có ân sủng Người...” Phải, nơi nào có Chúa, nơi đó có niềm vui, bình an, trông cậy và chữa lành. Cụ thể là như bài Tin Mừng hôm nay nói tới, Chúa Giêsu có mặt ở đâu, thì người ta chen nhau tới với Người để được ân sủng Người chữa lành. Sự hiện diện của Chúa Giêsu là sự hiện diện của tình yêu và lòng bác ái. Ngài gần gũi và quan tâm đến con người, đặc biệt những người đau khổ và yếu đuối.
Thế nên, Chúa Giêsu mời gọi mọi người chúng ta sống chiều kích hiện diện đầy yêu thương, đem đến bình an và thực thi đức bác ái, hầu xoa dịu sự đau khổ của kiếp người. Chính sự hiện diện đó làm cho mọi người cảm kích mà chạy đến với Chúa, tựa như bông hoa tỏa hương thu hút muôn loài đến với nó.
3. Lúc bệnh và đau khổ là lúc người ta dễ hướng về Chúa.
Người hấp hối than thở với Cha sở rằng chẳng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Cha sở lấy một chiếc ghế đặt bên cạnh, rồi bảo ông hãy nghĩ rằng Chúa Giêsu đang ngồi đó, hãy đặt tay mình trên tay Ngài trên thành ghế. Người đó làm theo và cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Mấy hôm sau, được tin ông qua đời, Cha sở đến thăm và thấy tay ông vẫn còn đặt trên bàn tay vô hình ở thành ghế (Góp nhặt).
4. ”Người ta cũng đặt kẻ đau ốm ở ngoài chợ và xin Chúa Giêsu cho họ được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì được khỏi” (Mc 6,56).
Ngày quốc tế bệnh nhân được thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II thiết lập liên kết với ngày lễ kính Đức Mẹ tại Lộ Đức, nơi khách hành hương tuôn đến xin chữa bệnh và chứng kiến những phép lạ chữa lành. Chính Ngài cũng chứng nhận về những ơn lạ Thiên Chúa ban cho trong những đau đớn thương tích của Ngài. Kinh nghiệm được chữa lành như thế cũng là kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa, bởi mọi sự chữa lành đều phát xuất từ lòng thương xót của Thiên Chúa.
Nói cách khác, lòng thương xót là phương dược Thiên Chúa chữa lành mọi cơn đau đớn bệnh tật của con người. Bất cứ ai chạm đến Chúa đều được khỏi. Niềm tin vững mạnh đó càng thôi thúc bệnh nhân mọi thời nài xin Mẹ khẩn cầu Chúa thương chữa lành những ai đang đau đớn thể xác, tinh thần và linh hồn, những người đang đối mặt với bệnh tật. Tình yêu của Chúa chữa lành bệnh nhân, tình yêu của Mẹ khẩn nài cho bệnh nhân (5 phút Lời Chúa).
5. Tất cả đều cảm thấy “cần đến Chúa” cho nên họ đã đích thân đến với Chúa và Chúa đã không phụ lòng mong ước của họ.
Một ngày kia, có một nhà lãnh đạo Trung hoa theo Kitô giáo đến thăm Hoa Kỳ. Sau khi nghe ông nói chuyện tại một buổi hội họp, một sinh viên hỏi: “Tại sao nước ông đã có Khổng Tử mà còn muốn có Kitô giáo nữa”?
Ông đáp: “Có ba lý do:
- Thứ nhất: Khổng Tử là một vị tôn sư, còn Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Chúng tôi cần Đấng Cứu Thế hơn là cần vị tôn sư.
- Thứ hai: Khổng Tử đã chết, Đức Kitô vẫn đang sống, chúng tôi cần một Đấng Cứu Thế đang sống chứ không cần một người đã chết.
- Thứ ba: Khổng Tử cũng có ngày chịu phán xét, chúng tôi cần biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế trước khi là vị thẩm phán”.
6. Truyện: Hãy đến với Chúa ngay đi.
June là một em bé 5 tuổi xinh đẹp và lanh lợi. Cha của em là một mục sư. Mẹ em mỗi khi đi đâu thường cho em theo. Ngày nọ, khi hai mẹ con vào bưu điện, một ông lão thấy em liền nói:
- Này bé, ai cho bé mái tóc đẹp thế?
- Chúa cho cháu đó!
Nói xong bé nhìn thẳng vào ông hỏi:
- Thế ông có được Chúa cho gì không? Có được Chúa cứu không?
Ông già kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ đó. Ông thẫn thờ đáp:
- Không, bé ạ!
- Thế thì ông phải đến với Chúa ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông thành một người thật đẹp đẽ!
Nói xong, bé vội chạy theo mẹ. Ít tuần sau, người ta thấy ông tìm đến nhà thờ và xin theo đạo. Ông cho biết lời của em bé luôn ám ảnh trong đầu và ông quyết định theo Chúa.
Suy Niệm 9: Sức thu hút mãnh liệt của Chúa Giêsu đối với dân chúng
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Trong bốn câu rất ngắn gọn, thánh Mác-cô đã mô tả sức thu hút mãnh liệt của Chúa Giêsu đối với dân chúng:
- ”Họ rảo qua khắp vùng ấy, và nghe tin Ngài ở đâu thì bắt đầu cáng bệnh nhân tới đó”
-”Ngài đi tới đâu…người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Ngài cho ít là được chạm đến tua áo cuả Ngài. Và bất cứ ai chạm đến là được khỏi.”
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Có thể tìm được hai lý do để giải thích sự thu hút này:
- Dân chúng có những nhu cầu Chúa Giêsu có khả năng đáp ứng những nhu cầu đó.
Diễn viên Lê Công Tuấn Anh có tất cả những thứ mà bất cứ người trẻ nào cũng mơ ước. Nhưng anh cũng có những nhu cầu và những đau khổ thâm sâu mà không ai giúp anh được. Anh chết vì không tìm được Đấng giúp anh.
2. ”Bất cứ ai chạm đến đều được khỏi”. Nếu tôi thực sự chạm đến Chúa, chắc chắn tôi cũng được khỏi những bệnh tật linh hồn tôi.
3. Lúc bệnh tật và đau khổ là lúc người ta dễ hướng về Chúa nhất.
4. Người hấp hối than thở với Cha sở rằng chẳng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Cha sở lấy một chiếc ghế đặt bên cạnh, rồi bảo ông hãy nghĩ rằng Chúa Giêsu đang ngồi đó, hãy đặt tay mình trên tay Ngài trên thành ghế. Người đó làm theo và cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Mấy hôm sau, được tin ông qua đời, Cha sở đến thăm và thấy tay ông vẫn còn đặt trên bàn tay vô hình ở thành ghế. (Góp nhặt)
5. Nghe tin Người ở đâu, họ bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó…và bấy cứ ai chạm đến Người thì đều được khoải” (Mác-cô 6,55-56)
Một cảnh tượng tuyệt đẹp và đầy xúc động, đẹp ở sự chủ động của đám đông, xúc động vì lòng tin vững vàng của họ. Họ đã không đòi hỏi gì hơn là được chạm đến tua áo người, và mong được chữa khỏi.
Sự kiện đó khiến tôi liên tưởng ngay đến câu chuyên về họa sỹ Holman Hunt. Ông đã vẽ một bức tranh trong đó Chúa Giêsu đang đứng gõ của một ngôi nhà. Nhưng điểm khác thường ở đây là cánh cửa đó không có tay cầm và cũng không có ổ khóa, và vì thế cánh cửa đó chỉ có thể mở bên trong.
Đám đông dân chúng nay đã tự mở cánh cửa lòng mình cho Đấng chữa lành, và vì thế họ đã được khỏi bệnh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, lòng con đầy dẫy những ích kỷ tự kiêu, đam mê….hay có khi mặc cảm, chống đối và than van. Xin cho con biết mở lòng để có thể chạm đến Chúa. (Epphata)
Suy Niệm 10: Chúa không phụ lòng mong ước của người cần đến
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Tin Mừng hôm nay chỉ có bốn câu rất ngắn gọn, vậy mà thánh Marcô đã mô tả cho chúng ta thấy được sức thu hút mãnh liệt của Chúa Giêsu đối với dân chúng:
- Họ rảo qua khắp vùng ấy, và nghe tin Ngài ở đâu thì bắt đầu cáng bệnh nhân tới đó (Mc 6,55).
- Ngài đi tới đâu người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Ngài cho ít là được chạm đến tua áo cuả Ngài. Và bất cứ ai chạm đến là được khỏi (Mc 6,56).
1. Có thể tìm được hai lý do để giải thích sự thu hút này:
* Dân chúng có những nhu cầu và Chúa Giêsu có khả năng đáp ứng lại những nhu cầu đó.
Trong Tin Mừng chúng ta thấy có rất nhiều trường hợp như thế:
Viên trưởng Hội đường với đứa con gái sắp chết đang nằm trên giường. Họ cần đến Chúa.
Người đàn bà bị mắc bệnh bại huyết 12 năm, chạy thầy chạy thuốc đến tán gia bại sản mà vẫn không khỏi.
Viên bách quan đội trưởng với tên đầy tớ bị đau không thể nào chữa khỏi.
Tất cả đều cảm thấy cần đến Chúa cho nên họ đã đích thân đến với Chúa và Chúa đã không phụ lòng mong ước của họ.
Một ngày kia có một nhà lãnh đạo Trung Hoa theo Kitô-giáo đến thăm Hoa Kỳ. Sau khi nghe ông nói chuyện tại một buổi hội họp, một sinh viên hỏi: “Tại sao nước ông đã có Khổng Tử mà còn muốn có Kitô-giáo nữa? “
Ông đáp: “Có ba lý do: Thứ nhất: Khổng Tử là một vị tôn sư, còn Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế. Chúng tôi cần Đấng Cứu Thế hơn là cần vị tôn sư. Thứ hai: Khổng Tử đã chết, Đức Kitô vẫn đang sống, chúng tôi cần một Đấng Cứu Thế đang sống chứ không cần một người đã chết. Thứ ba: Khổng Tử cũng có ngày chịu phán xét, chúng tôi cần biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế trước khi là vị thẩm phán.
2. “Nghe tin Người ở đâu, họ bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó và bất cứ ai chạm đến Người thì đều được khỏi” (Mc 6,55-56).
Một cảnh tượng tuyệt đẹp và đầy xúc động, đẹp ở sự chủ động của đám đông, xúc động vì lòng tin vững vàng của họ. Họ đã không đòi hỏi gì hơn là được chạm đến tua áo người, và mong được chữa khỏi.
Nếu đọc kỹ Tin Mừng chúng ta thấy chẳng một người nào tin tưởng tìm đến với Chúa mà lại phải về tay không. Rất nhiều người đã được những ơn ngoài sự mong ước của họ. Xin kể ra một vài thí dụ điển hình:
- Giakêu người thu thuế một con người chỉ mong được nhìn thấy Chúa thôi, thế mà Chúa đã đích thân đến tận nhà và Chúa bảo: ”Hôm nay nhà này được ơn cứu độ” (Lc 19,9). Thật là ngoài sự mong ước và tưởng tượng của ông.
- Bathôlômêo một người Pharisêu chính hiệu, đã lén lút tìm đến với Chúa ban đêm và chỉ sau một lần gặp gỡ, ông đã thay đổi hẳn. Trong cuộc xử án Chúa, đang lúc mọi người hăng say yêu cầu kết án thì một mình ông đứng ra bênh vực cho Chúa.
- Đẹp nhất là người trộm lành. Chỉ một lời van xin vậy mà anh đã chiếm được cả Nước Thiên Đàng.
Họa sỹ Holman Hunt đã vẽ một bức tranh rất lạ đời. Ông vẽ Chúa Giêsu đang đứng gõ của một ngôi nhà. Điểm khác thường ở đây là cánh cửa đó không có tay cầm và cũng không có ổ khóa, và vì thế cánh cửa đó chỉ có thể mở từ bên trong. Ngụ ý ông muốn nói rằng, cho dù người bên ngoài có muốn vào thì cũng chẳng làm sao mà vào được nếu người ở bên trong không mở cửa cho.
Đám đông dân chúng trong bài Tin Mừng hôm nay thì không như thế. Họ đã mở toang cánh cửa lòng họ cho Đấng chữa lành, và vì thế họ đã được khỏi bệnh.
June là một em bé 5 tuổi xinh đẹp và lanh lợi. Cha của em là một mục sư. Mẹ em mỗi khi đi đâu, thường cho em theo. Ngày nọ, khi hai mẹ con vào bưu điện, một ông lão thấy em liền hỏi:
- Này bé, ai cho bé mái tóc đẹp thế?
- Chúa cho cháu đó!
Nói xong bé nhìn thẳng vào ông hỏi:
- Thế ông có được Chúa cho gì không? Có được Chúa cứu không?
Ông già kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ đó. Ông thẫn thờ đáp:
- Không, bé ạ!
- Thế thì ông phải đến với Chúa ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông thành một người thật đẹp đẽ!
Nói xong, bé vội chạy theo mẹ. Ít tuần sau, người ta thấy ông tìm đến nhà thờ và xin theo đạo. Ông cho biết lời của em bé luôn ám ảnh trong đầu và ông quyết định theo Chúa.
Lạy Chúa,
Xin ở lại với con,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu đang gần đến.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
để được yêu Chúa nhiều hơn. Amen.
04/02 Chúa Giêsu chữa bệnh – rao giảng
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Chúa Giêsu chữa bệnh – rao giảng.
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN năm B.
"Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau".
Lời Chúa: Mc 1, 29-39
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài.
Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.
Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy".
Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: G 7,1-4.6-7; 1Cr 9,16-19.22-23; Mc 1,29-39
MỤC LỤC
1. Chiều và sáng--‘Manna’--Lm Nguyễn Cao Siêu SJ.
2. Bà phục vụ các ngài--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
3. Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J.
4. Đi gieo Tin Mừng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
5. Hành trình hạnh phúc--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
6. Giải phóng đau khổ--‘Xây Nhà Trên Đá--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
7. Tiếp xúc với Cha trên trời--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
8. Hãy siêng năng làm việc theo gương Chúa--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
9. Đức Giêsu: con người và hành động--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
10. Nhiệt tình chu toàn sứ vụ loan báo tin mừng--Lm. Đan Vinh
11. Hướng nhìn lên Giêsu--Lm. Xuân Hy Vọng
12. Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
13. Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
14. Tình thương cứu chữa--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
15. Hãy tìm kiếm Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
16. Đức Giêsu rao giảng và trừ quỉ--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
17. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau--Lm. Trầm Phúc
18. Ơn chữa lành--Lm. Vũ Đình Tường
19. Cầu nguyện trong đời thường--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
20. Đời sống thường nhật--An Phong, OP.
21. Con người trở nên vĩ đại nhờ cầu nguyện--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
22. Cầu nguyện, yêu thương và phục vụ--Alphonse Marie Trần Bình An
23. Cầu nguyện và đi gieo--Alphonse Marie Trần Bình An
24. Sống vì mọi người--Lm. Ignatiô Trần Ngà
25. Sống hết mình vì mọi người--Lm. Ignatiô Trần Ngà
26. Sống hết mình vì mọi người--Lm. Ignatiô Trần Ngà
27. Nỗi niềm phàm nhân--Trầm Thiên Thu
28. Kiếp khổ--Trầm Thiên Thu
29. "Xin cho con một tấm lòng như Chúa"--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
30. Phục vụ theo gương Thày Giêsu--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
31. Cúi xuống với người khổ đau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
32. Sống tình liên đới--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
33. Những hoạt động và cầu nguyện của Đức Giêsu--Lm. Nguyễn Hữu Thy
34. Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
35. Rao giảng và chữa lành--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
36. Con người luôn cần Thiên Chúa--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
37. Con người không chỉ là một cái xác--Lm. Giuse Lê Danh Tường
38. Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Vinh Sơn Nguyễn Tuấn Dương
39. Huyền nhiệm đau khổ--Phanxicô Xaviê
40. “Đức Giêsu, thày thuốc của tâm hồn”--Lm. Giuse Phạm Quốc Phong SDB
41. Một ngày sống--Lm. Phêrô Trịnh
42. Người còn rao giảng ở nơi khác--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
43. Cách thế Chúa chữa lành--Lm. Trần Bình Trọng
44. Xin ơn chữa lành bệnh tật hồn xác--Lm Trần Bình Trọng
45. Động lực của việc tông đồ--Radio Veritas Asia
46. Lương y từ mẫu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
47. Niềm vui vì được chữa lành--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
48. Làm việc cho vương quốc nước trời--John. W. Martens--Lm. GB. Văn Hào chuyển ngữ
49. Tránh, nhưng không trốn sự đau khổ--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
50. Bàn tay Thiên Chúa ở cùng những ai cần được săn sóc nhất--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
51. “Chúa Giêsu chữa lành và rao giảng”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
52. Đi ra vùng ngoại biên--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
53. Không có nghỉ ngơi cho việc tốt--‘Mở Ra Những Kho Tàng’
54. Cầu nguyện có sức biến đổi con người--Giuse Hoàng Hải Đăng, OP.
55. Mầu nhiệm đau khổ--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
56. Hãy sống tích cực--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
57. Suy niệm của JKN
58. Cầu nguyện trong đời thường--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
59. Kiếp sau xin chớ làm người--Lm. Anphong Trần Đức Phương
60. Con đã viếng thăm Ta--Athur Tonne
61. "Người đến gần, cầm tay nâng bà dậy"--Noel Quesson
62. Nghỉ ngơi và yên tĩnh--Lm. Mark Link
63. Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng tin mừng--Anmai, CSsR
64. Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Giuse Nguyễn Tường Vĩnh Lộc
65. Cái tình của Chúa Giêsu--Lm. Thu Băng
66. Một đời thương cảm—Lm. G. Nguyễn Cao Luật, OP.
67. Con đường nào Chúa đi--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
68. Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Nguyễn Văn Hiền
69. Từ thán phục đến đức tin--Lm. FX. Vũ Phan Long
70. Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Alfonso
71. Chúa Nhật 5 Thường Niên--Noel Quesson
72. Chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô--Jacques Hervieux
73. Từ cảm phục đến lòng tin--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
74. Chúa Nhật 5 Thường Niên--Fiches Dominicales
75. Ngôn ngữ của con tim--Jean Ralté
76. Một phép lạ tại tư gia--William Barclay
77. Chúa Giêsu, người công giáo đầu tiên--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
78. Chúa Giêsu là tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa--Hiếu Nguyễn sưu tầm--thanhlinh.net
79. Ngôn hành hợp nhất--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
80. Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Anthony Trung Thành
81. Ma quỷ
82. Xoa dịu nỗi đau khổ
83. Cứu vớt con người
84. Được chữa lành và phục vụ
85. Đức Giêsu mẫu gương tuyệt vời
86. Hoạt động và cầu nguyện trong đời sống của Đức Giêsu
87. Sống tâm tình biết ơn
88. Chúa Nhật 5 Thường Niên
89. Sống là chiến đấu
90. Đau khổ
91. Cách đáp ứng
92. Dành thì giờ
93. Chúa Nhật 5 Thường Niên
94. Nơi hoang vắng
95. Thăm viếng
96. Đau khổ
97. Chúa Giêsu, niềm hy vọng của loài người
98. Tình thương
99. Đến đem sự giải thoát
100. Đổi mới bản thân
101. Yêu bệnh nhân
102. Chúa Giêsu chũa lành các bệnh tật
103. Chúa Nhật 5 Thường Niên
104. Hối lộ quan toà
105. Phục vụ tha nhân
106. Hãy ra công làm việc như Chúa Giêsu--Huệ Minh
107. Gắn kết với Chúa trong đời sống cầu nguyện--Huệ Minh
1.Chiều và sáng--‘Manna’--Lm Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm
Sốt không phải là một bệnh nan y.
Nhưng người bị sốt cao không dậy nổi, chỉ nằm thôi.
Khi Đức Giêsu và các môn đệ đến thăm nhà ông Simon
thì bà mẹ vợ ông đang sốt, nằm trên giường.
Đức Giêsu đem niềm vui đến cho gia đình ông.
Ngài lại gần, nhẹ nhàng cầm lấy tay bà và nâng dậy.
Cơn sốt lui ngay khiến bà có thể đi lại phục vụ.
Một cơn bệnh đơn giản, một cách chữa bệnh đơn giản.
Đức Giêsu chẳng nói một lời, chỉ làm một cử chĩ thân ái.
Ngài cầm lấy tay bà và nâng dậy,
như sau này Ngài cầm tay đứa con ông trưởng hội đường,
một cô bé mười hai tuổi đã chết lại đứng dậy được (x. Mc 5,41),
như sau này Ngài cầm tay cậu bé bị động kinh nằm trên đất,
nâng cậu dậy và cho cậu đứng lên (x. Mc 9,27).
Cầm tay, nâng dậy, để một người nằm có thể đứng lên.
Sức sống nào truyền qua cử chỉ cầm tay ấy?
Quyền năng nào nâng con người chỗi dậy?
Chúng ta cũng cần được Chúa cầm tay khi không dậy nổi,
cần được Chúa đưa tay ra nắm lấy khi gần chìm như Phêrô.
Khi mặt trời lặn là lúc kết thúc ngày sabát.
Người ta đem đến cho Đức Giêsu bao người yếu đau đủ loại.
Căn nhà ông Simon hẹp quá khiến nhiều người phải đứng ngoài.
Không rõ bao nhiêu người được chữa lành chiều tối hôm đó.
Nhiều người đã có thể tự về nhà một mình...
Đức Giêsu đụng chạm đến biển khổ của nhân loại.
Ngài không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi,
chỉ mong cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa.
Thế giới hôm nay vẫn phải đối đầu với bệnh tật.
Những bệnh nan y như ung thư, tim mạch, sida (aids), siêu vi...
Cần có những người làm vơi nhẹ nỗi đau như Đức Giêsu.
Sau một ngày bận bịu và mệt mỏi,
Đức Giêsu đã thức dậy sớm, khi các môn đệ còn ngủ say.
Ngài tìm được một chỗ cầu nguyện khá kín đáo.
Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Đức Giêsu.
Ngài cần có thời gian rút lui, sống riêng tư một mình.
Ngài cần sống bên Cha, tâm sự về gánh nặng công việc,
về nỗi đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống Satan.
Đức Giêsu thấy mình cần được Cha cảm thông và nâng đỡ,
cần ánh sáng và nghị lực để làm tròn sứ mạng.
Ngài cần gặp Cha vì Ngài là Con,
và vì Ngài được Cha sai.
Ngài sống hết mình cho con người, cho đám đông,
nhưng Ngài cũng say sưa cầu nguyện và hoạt động.
Cầu nguyện đưa Ngài đến với con người,
hoạt động đưa Ngài đến với Cha.
Thành công ở Caphácnaum không làm Ngài dừng chân.
"Mọi người đang tìm Thầy", mọi người vẫn cần Thầy.
Nhưng Ngài biết còn nhiều chỗ khác cũng đang rất cần.
"Hãy đi nơi khác", Tin Mừng cần được gieo vãi ở mọi nơi.
Giữ được tính tự do và cơ động, Đức Giêsu lại lên đường.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, thế nào là một đời sống quân bình? Cần hội đủ những yếu tố nào để được coi là một đời sống Kitô hữu quân bình?
Mẹ Têrêxa Calcutta đã trở nên khuôn mặt rạng ngời của lòng bác ái, nhờ khả năng nhìn thấy Chúa Kitô nơi người nghèo khổ. Bạn thường làm gì để giúp đỡ những người cùng khốn ở gần nhà bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,
xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,
trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt,
biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân,
biết quay đi truớc những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,
để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,
để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,
để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,
tránh mọi lời nói gây đớn đau, đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,
để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,
để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ghen ghét,
để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên mọi sự. Amen.
(theo Mẹ Têrêxa Calcutta)
2.Bà phục vụ các ngài--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy niệm:
Sau khi chữa người bị quỷ ám tại hội đường Caphácnaum,
Đức Giêsu trở về một căn nhà của một gia đình quen biết,
gia đình của hai anh Simon và Anrê,
những người mới bỏ nhà để theo ngài.
Không may bà mẹ vợ của Simon lại đang lên cơn sốt.
Đức Giêsu đã lại gần giường bà nằm,
cầm lấy tay bà và nâng bà dậy.
Lập tức cơn sốt lui khỏi bà và bà phục vụ các ngài.
Đây là phép lạ chữa bệnh đầu tiên của Đức Giêsu
cho một phụ nữ, tại một ngôi nhà.
Sốt chẳng phải là một bệnh quá nặng và nguy hiểm,
nhưng cũng đủ để làm người bệnh không hoạt động được,
gây cản trở những sinh hoạt bình thường trong gia đình.
Đức Giêsu đến đem lại sự chữa lành, niềm vui và sức sống.
Khi người phụ nữ được khỏi bệnh, mọi sự như sống lại.
Bếp lại có lửa, bàn lại có thức ăn,
và người ta ngồi quanh cười nói rôm rả.
Hạnh phúc gia đình có khi chỉ tùy thuộc vào những điều be bé.
Hạnh phúc bị sứt mẻ lắm khi chỉ vì những chuyện không đâu.
Hãy nhìn cách Đức Giêsu chữa bệnh cho người phụ nữ này.
Thật gần gũi và thân tình, ngài chẳng nói lời nào để đuổi cơn sốt.
Khi nắm tay người bệnh nặng,
ngài chấp nhận nguy cơ bị nhiễm nhơ uế.
Nhưng Đức Giêsu chẳng hề bị nhiễm gì,
trái lại ngài đem đến bình an.
Ngài đã nâng bà dậy (êgeiren), có nghĩa là ngài làm bà phục sinh.
Sau khi được phục sinh thì bà đi phục vụ các vị khách.
Phục vụ hiểu theo nghĩa đơn sơ nhất là đi chuẩn bị bữa ăn.
Các thiên thần cũng đã phục vụ Đức Giêsu
sau khi ngài thắng các cơn cám dỗ (Mc 1, 13).
Tuy nhiên có thể hiểu phục vụ theo nghĩa rộng hơn nhiều.
Sau khi Đức Giêsu chết trên thập giá,
chỉ còn các phụ nữ ở lại đến cùng.
“Họ đã đi theo ngài và phục vụ ngài
từ hồi ngài còn ở Galilê và họ đã cùng ngài lên Giêrusalem” (Mc 15, 40-41).
Như vậy không phải chỉ các ông môn đệ mới là người phục vụ (Mc 10, 43).
Các bà cũng đã trung tín phục vụ đến cùng,
phục vụ như Thầy Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ” (Mc 10, 45).
Xin cho mọi người biết nhìn nhận
vai trò quý báu của người vợ, người mẹ trong nhà,
và vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội.
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
3.Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J.
Suy Niệm:
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp nối bài tuần trước,
cho ta thấy Đức Giêsu đã sống một ngày sabát như thế nào.
Ngài đã đến hội đường Caphácnaum, đọc Sách Thánh.
Bỗng nhiên có chuyện xảy ra (Mc 1,23-27).
Một người bị thần ô uế nhập, la to trong hội đường.
Đức Giêsu quát mắng nó và bắt nó phải xuất ra.
Nó vâng lời nhưng đã thét lên một tiếng lớn trước khi xuất.
Chuyện ồn ào náo động xảy ra ở đây là chuyện bất ngờ,
bất ngờ với mọi người, và cả với Đức Giêsu.
Khi việc phục vụ ở hội đường đã hoàn tất,
Đức Giêsu và bốn anh môn đệ ngư phủ về lại nhà của Simôn.
Có lẽ mọi người chờ một bữa cơm trưa.
Tiếc thay bà mẹ vợ của Simôn lại đang sốt, nằm trên giường.
Sau khi nghe về tình trạng sức khỏe của bà,
Đức Giêsu quyết định làm phép lạ chữa bệnh đầu tiên.
Ngài lại gần, chẳng nói gì, chỉ cầm lấy tay bà và nâng dậy.
Lạ thay, cơn sốt lui đi, bà khỏe lại và lo dọn bữa cho cả nhóm.
Chữa bệnh cho bà mẹ vợ ông Simôn cũng là chuyện bất ngờ,
nằm ngoài dự kiến của Thầy Giêsu.
Thầy có biết rằng khi ngày sabát đã kết thúc
thì có cả một đoàn người chờ đợi Thầy ngoài cửa không?
Họ đau đủ thứ bệnh tật, họ bị hành hạ bởi quỷ ô uế.
Họ cần một người chữa lành, cần một người trừ quỷ.
Họ từ nhiều nơi kéo đến vì đã nghe danh Thầy.
Thầy Giêsu hẳn đã phục vụ họ từ khi mặt trời lặn đến khuya.
Nhưng số người chờ đợi vẫn còn nhiều, mà sức thì có hạn.
Trước mắt Thầy là cả một thế giới khổ đau mênh mông
đến độ Thầy cảm thấy bất ngờ và quá tải.
Có ai nâng đỡ Thầy trong sứ vụ này không?
Đức Giêsu không chỉ bị bất ngờ bởi những chuyện xảy ra,
Ngài còn có thể vô tình hay cố ý tạo ra những bất ngờ.
Sau một giấc ngủ tương đối ngắn,
Ngài đã thức dậy sớm, ra khỏi nhà khi trời còn tối mịt.
Ở nơi vắng vẻ, Ngài gặp Đấng đã sai mình, để được nâng đỡ.
Các môn đệ thức dậy, không thấy Thầy, hốt hoảng đi kiếm.
Phải một thời gian sau họ mới tìm được nơi Thầy cầu nguyện.
Họ chỉ mong ép Thầy về nhà, để tiếp tục công việc tối qua.
Thầy Giêsu đã làm môn đệ bất ngờ khi từ chối trở về.
Lần đầu tiên, Thầy không chiều theo ý họ.
“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc xung quanh,
để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (Mc 1,38).
Thầy Giêsu kéo họ ra khỏi ngôi nhà ở Caphácnaum.
Có thể đây là ngôi nhà của Simôn và gia đình ông đang ở.
Thầy đòi họ ra đi, dù đám đông bệnh nhân vẫn đang chờ.
Sứ mạng Cha giao không cho phép Thầy dừng lại,
nên các môn đệ cũng phải đi theo Thầy.
Một ngày sa bát của Đức Giêsu ở Caphácnaum đã trôi qua.
Một ngày với những bất ngờ không tính trước được.
Nói cho cùng, ngày nào của Ngài cũng đầy bất ngờ.
Mỗi bất ngờ là một cuộc hẹn của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã bình an đón lấy những bất ngờ mỗi ngày.
Ngài không cứng nhắc trong chương trình do mình ấn định,
nhưng để Cha từ từ dẫn đi từng bước.
Chúng ta có chấp nhận những bất ngờ khó chịu,
những điều làm vỡ kế hoạch mỗi ngày của ta không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Mỗi ngày con gặp bao chuyện bực mình.
Có những chuyện xảy ra làm con không vừa ý,
khiến ngày sống của con vắng bóng niềm vui.
Làm sao con có thể đón nhận mọi sự
với nụ cười bao dung,
và coi những trắc trở
như chuyện bình thường của cuộc sống?
Làm sao con dám tin rằng
Chúa vẫn giúp con tìm thấy ý Chúa
qua những chuyện không vui,
đòi con từ bỏ cái tôi,
qua những chuyện không may,
làm con giật mình tỉnh ngộ?
Xin cho con bình an trước vấp váp của con,
và nhẹ nhàng trước vấp váp của người khác.
4.Đi gieo Tin Mừng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đoạn Tin Mừng hôm nay tóm tắt một ngày làm việc của Chúa Giêsu. Qua những hoạt động của một ngày làm việc, Chúa Giêsu đưa ra những chỉ dẫn khuôn mẫu cho người đi gieo Tin Mừng.
Chỉ dẫn thứ nhất: Tin Mừng phải được rao giảng. Ngày Sabbát, Chúa Giêsu vào Hội đường, đọc Sách Thánh và giải nghĩa. Việc đọc và diễn giải Lời Chúa là một phần quan trọng của đời sống người môn đệ. Vì Tin Mừng phải được rao giảng. Lời Chúa phải được công bố. Người môn đệ phải say mê rao truyền để cho Lời Chúa trở thành ánh sáng soi đường cho con người, hướng dẫn tư tưởng, lời nói, hoạt động của con người. Chính Lời Chúa hướng dẫn con người đi trên đường Sự Thật để đạt được Sự Sống.
Chỉ dẫn thứ hai: Tin Mừng phải chứng tỏ bằng yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục. Chúa Giêsu đã làm chứng về điều đó. Ra khỏi Hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon. Bà nhạc của ông đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà để chữa bà khỏi bệnh. Thực ra Chúa có quyền năng chỉ cần đứng ngoài cửa phán một lời cũng có thể chữa bệnh cho bà nhạc ông Simon. Hơn nữa ở vào thời phong kiến với quan niệm nam nữ thọ thọ bất thân, việc cầm tay phụ nữ có gây nên dị nghị. Nhưng Chúa Giêsu đã đến tận giường cầm tay bà. Điều này nói lên lòng yêu thương kính trọng. Chúa không chỉ chữa bệnh mà còn muốn bày tỏ tình người, sự quan tâm âu yếm đối với người bệnh và cả sự kính trọng đối với phụ nữ nữa.
Chỉ dẫn thứ ba: Tin Mừng phải đem đến tự do. Mà quỉ luôn muốn giam cầm con người trong vòng nô lệ. Bị ma quỉ trói buộc con người mất hết ý chí, không còn làm được việc lành, chỉ có thể làm theo mệnh lệnh ma quỉ. Tin Mừng của Chúa có sức giải phóng con người. Giải phóng khỏi sự trói buộc của ma quỉ. Giải phóng khỏi những mặc cảm. Giải phóng khỏi những thói tục hủ lậu, những mê tín cấm ky. Nhờ đó con người có thể vươn lên, sống xứng đáng với phẩm giá và có thể làm việc lành phục vụ Nước Chúa. Bà nhạc của Simon là một thí dụ điển hình. Khi được khỏi bệnh, bà liền đi đứng và làm việc phục vụ Chúa.
Chỉ dẫn thứ tư: Tin Mừng phải được kín múc từ cội nguồn Thiên Chúa. Sáng sớm, Chúa Giêsu đến nơi vắng vẻ cầu nguyện. Suốt ngày bận rộn với con người, Chúa Giêsu phải dành buổi sáng sớm để cầu ngyện. Điều đó cho thấy, đối với Chúa, việc cầu nguyện là quan trọng biết bao. Chúa Giêsu cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với Chúa Cha. Chúa Giêsu cầu nguyện để tìm thánh ý Chúa Cha, tìm sự hướng dẫn sáng suốt cho cuộc đời. Vì thế trước khi bắt tay vào làm việc, Chúa cầu nguyện với Đức Chúa Cha để múc lấy nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.
Người môn đệ muốn dẫn thân rao giảng Tin mừng, mở rộng Nước Chúa không thể đi ra ngoài những chỉ dẫn khuôn mẫu của Thày Chí Thánh. Phải biết múc lấy nguồn sức mạnh ở nơi Chúa Cha qua việc cầu nguyện. Coi việc cầu nguyện như cội nguồn của hoạt động, như điểm mấu chốt để đi đến thành công. Chuyên tâm học, đọc, suy gẫm Lời Chúa để có thể thấu hiểu và trình bày cho người khác. Nhất là phải làm chứng cho lời rao giảng bằng chính đời sống yêu thương bác ái. Sự yêu thương kính trọng sẽ đưa con người tới tự do, có thể lam những việc tốt đẹp, góp phần vào việc phục vụ Tin Mừng.
Lạy Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin hưỡng dẫn chúng con đi trên đường của Chúa Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý
1- Bạn hãy thử tóm tắt những việc Chúa Giêsu làm trong một ngày.
2- Bạn tha thiết với việc rao giảng Tin Mừng, bạn sẽ làm gì để cho việc rao giảng Tin Mừng có kết quả tốt đẹp?
3- Lời nói phải đi đôi với việc làm. Bạn áp dụng câu nói này thế nào trong đời sống đạo của bạn.
5.Hành trình hạnh phúc--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Một tác giả đã viết: “Hạnh phúc không phải là đích đến. Nó là một hành trình kết thành từ nhiều lựa chọn. Trên con đường đời, bạn có thể chậm rãi bước trên những lối đi êm mát với bao hoa cỏ xinh tươi quấn quýt bên mình; hoặc bạn có thể băng băng tiến về phía trước để đuổi theo những sắc mầu lấp lánh ở cuối chân trời, nơi bạn thấy hiển hiện ánh cầu vồng mê hoặc, nhưng thực ra chỉ là một khoảng không vô định. Tất cả tùy thuộc vào sự lựa chọn của bạn” (Tìm về sức mạnh vô biên, nxb Văn Hóa, tr. 7). Với những dòng trên, tác giả muốn nói với chúng ta: hạnh phúc chẳng phải ở đâu xa, mà ở bên cạnh và trong tầm tay của chúng ta. Nếu chúng ta chỉ coi hạnh phúc như một mục đích, chúng ta sẽ dồn hết sức lực để đi kiếm tìm, như thể mục đích đang ở xa xa phía chân trời. Nhưng tiếc thay, khi đi kiếm tìm hạnh phúc như vậy, chúng ta quên mất hạnh phúc đang ở xung quanh mình. Mặt trời vẫn luôn hiện hữu, nhưng những người khiếm thị lại không nhìn thấy mặt trời. Không ai dựa vào sự kiện những người khiếm thị để khẳng định mặt trời không tồn tại. Dù cuộc đời còn nhiều gian nan thử thách, những niềm vui và hạnh phúc ngọt ngào vẫn luôn hiện diện bên ta. Một cách cụ thể, trong cuộc sống, chúng ta có bao niềm vui nơi bạn bè, gia đình và môi trường xã hội. Hãy có cái nhìn lạc quan và trân trọng những giá trị đang hiện hữu xung quanh. Đối với người tin Chúa, mỗi giây mỗi phút trong đời đều là những cơ hội để chúng ta nhận ra tình thương bao la của Ngài. Mỗi hoàn cảnh đều có thể là cơ hội để ta thực thi lòng mến Chúa yêu người. Thời gian là một quà tặng vô giá của Thiên Chúa. Biết trân quý thời gian và sử dụng thời gian để làm những việc có ý nghĩa là nỗ lực đạt tới sự hoàn thiện.
Ông Gióp trong Cựu ước là một người đạo đức và sống đẹp lòng Chúa. Nhưng rồi, chỉ trong một thời gian ngắn, rất nhiều điều rủi ro xảy đến cho gia đình ông, làm ông mất hết con cái cũng như cơ nghiệp. Ông lâm vào cảnh bất hạnh chỉ trong vài ngày. Ngay người bạn đời của ông cũng xỉ vả và bỏ ông mà đi. Trong cơn đau khổ, ông đã suy nghĩ về sự vô nghĩa của cuộc đời: “Vừa nằm xuống tôi đã nhủ thầm: khi nào trời sáng; mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: bao giờ chiều buông. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng”.
Tâm trạng của ông Gióp cũng là tâm trạng của một số người trong cuộc sống của chúng ta hôm nay. Họ luôn cảm thấy cuộc đời này vô vị. Họ bất mãn và nhìn cuộc đời với lăng kính u buồn. Thay vì quan tâm đến người khác, họ chỉ muốn người khác quan tâm đến mình. Họ phàn nàn trách Chúa, trong khi Ngài ban cho họ biết bao cơ hội để cải thiện đời sống. Tuy vậy, nếu ông Gióp nhìn cuộc đời với cái nhìn bi quan, thì ông lại không bao giờ xúc phạm Chúa. Ông tin Ngài sẽ giải cứu ông và cuối cùng, Chúa đã phục hồi cho ông những gì đã mất, đem lại cho ông danh dự và niềm vui. Sau những tháng ngày gian truân, ông được bù đắp xứng đáng. Tài sản có được tăng gấp nhiều lần so với trước đó. Lòng kiên trì phó thác nơi Chúa đã giúp ông ta nhận được muôn hồng ân Chúa ban.
Như thế, mỗi người cần nhận ra những điều tốt đẹp Chúa ban, đồng thời chu toàn bổn phận của mình trong cuộc sống. Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô nói về chính mình: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công”. Dù bất kỳ hoàn cảnh nào, thánh nhân cũng không quên sứ mạng quan trọng là giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người. Ông luôn tận dụng thời gian tối đa để thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng, vì ông coi đó là một bổn phận Chúa trao. Kể cả trong lao tù, thánh Phaolô cũng không quên nhiệm vụ quan trọng này. Nhờ việc rao giảng Lời Chúa mà ông tìm được niềm vui và nghị lực, bởi ông thấy những hiệu quả của công việc ông đã làm, đó là những cộng đoàn Kitô hữu được thiết lập và phát triển (Bài đọc II).
Nếu chúng ta cảm thấy cuộc sống lặng lẽ trôi một cách vô nghĩa, là vì chúng ta chưa biết sử dụng thời gian một cách đúng đắn, nhằm để đem lại hạnh phúc cho mình và cho tha nhân. Thời gian vẫn lặng lẽ trôi, mặc chúng ta có để ý hay không. Dòng sông cuộc đời vẫn âm thầm chảy, dù con người thánh thiện hay tội lỗi. Nếu chúng ta biết trân trọng thời gian như một quà tặng của Thiên Chúa, thì thời gian sẽ mang lại biết bao điều tốt đẹp, và mỗi ngày sống đều đong đầy ý nghĩa. Thánh Máccô kể lại một ngày sống và làm việc của Chúa Giêsu. Những cụm từ chỉ thời gian cho chúng ta thấy đó là một ngày rất bận rộn. Buổi sáng, Chúa giảng dạy và chữa bà nhạc mẫu của ông Phêrô đang cảm sốt; buổi chiều cho đến khi mặt trời lặn, Chúa chữa rất nhiều bệnh nhân, kể cả người bị quỷ ám; sáng sớm tinh mơ, Chúa đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha. Phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cuộc sống của Chúa Giêsu luôn là một cuộc lên đường. Người không dừng lại ở một nơi, nhưng tiếp tục đi đến các làng mạc để loan báo Tin Mừng. Lộ trình của Chúa không có điểm kết thúc. Chúa Giêsu làm việc miệt mài, quên cả thời gian để đem niềm vui và hạnh phúc cho hết mọi người. Những việc làm của Chúa Giêsu tập trung ở ba khía cạnh: thứ nhất là rao giảng Tin Mừng; thứ hai là chữa lành các bệnh nhân đủ mọi tật nguyền; thứ ba là cầu nguyện. Ba khía cạnh này đã tạo nên sự quân bình trong đời sống. Đó cũng là mẫu mực cho đời sống Kitô hữu của chúng ta. Cần phải kết hợp khía cạnh “động” và khía cạnh “tĩnh” để tạo nên một thế quân bình. Những giây phút tĩnh lặng trong cầu nguyện sẽ giúp chúng ta nhìn lại công việc chúng ta đang làm. Những hoạt động hằng ngày là hoa trái của những suy tư và cầu nguyện trước nhan Chúa.
“Lương thực của Thày là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thày” (Ga 4, 3). Noi gương Chúa Giêsu, mỗi chúng ta hãy chuyên cần làm việc, tùy theo khả năng và địa vị của mình. Bí quyết của hạnh phúc là hãy sống vì người khác và đem cho họ niềm vui. Càng dấn thân phục vụ anh chị em, chúng ta càng thấy cuộc đời có ý nghĩa, và như thế, chúng ta càng cảm nghiệm được niềm vui. “Nhàn cư vi bất thiện”, cuộc sống quá nhàn rỗi sẽ làm chúng ta cảm thấy đơn điệu, lạc lõng và tìm đến những thú vui trần tục.
Chúng ta đang chuẩn bị đón xuân Tân Sửu. Thời điểm cuối năm nhắc chúng ta nhìn lại những việc đã làm. Cuối năm cũng là lúc nhìn lại chặng đường đã đi. Có những con đường lệch lạc được tô vẽ bằng những màu sắc hấp dẫn nhiều người muốn đi. Có những con đường ngay chính nhưng phải ngang qua cửa hẹp ít người muốn vào. Người tin Chúa cần phải cẩn trọng, vì có những ngã rẽ làm chúng ta đau khổ suốt đời.
Năm Canh Tý sắp qua có biết bao biến động, do thiên tai và nhất là do đại dịch Covid-19. Phải chăng đây là những dấu chỉ thời đại, nhắc nhở chúng ta suy tư về sự mỏng giòn của kiếp con người. Những dấu chỉ thời gian này cũng mời gọi chúng ta có trách nhiệm hơn đối với tha nhân, với môi trường và với thiên nhiên vũ trụ. Đừng đổ lỗi cho Chúa như một số người vô thần. Trái lại, hãy nhận ra quyền năng của Ngài xuyên qua những hiện tượng xảy đến trong cuộc sống.
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn tích cực về cuộc sống hôm nay. Bởi lẽ giữa những thử thách chông gai và bon chen tính toán, tình yêu Chúa vượt lên trên tất cả. Những nhỏ nhen sẽ qua đi và tình yêu tồn tại mãi. Đừng luôn than phiền vì những người xung quanh thiếu thiện cảm. Bạn hãy tự xét mình xem mình có tạo được thiện cảm với họ hay không. Đừng quá chú trọng đến những thất bại bạn gặp trên đường đời; nhưng hãy nhớ đến những thành công nho nhỏ bạn đã đạt được. Đừng bất mãn vì cuộc đời đen bạc; hãy vui mừng vì xung quanh ta có biết bao bạn thân. Người tin Chúa còn vui mừng vì luôn được Chúa chở che, dìu dắt thương yêu trên mọi nẻo đường đời.
Hãy yêu mến cuộc sống hiện tại và hãy chuyên tâm làm việc thiện, vì tất cả những gì tốt lành chúng ta làm ở đời này, sẽ theo chúng ta đến cõi trường sinh. Ước gì ngay ngày hôm nay, chúng ta biết quý trọng những người xung quanh, vì họ là những người Chúa gửi đến cho chúng ta để đồng hành cùng chúng ta trên đường về quê trời. Như thế, hạnh phúc chẳng ở đâu xa mà ở bên cạnh và xung quanh chúng ta. Hạnh phúc không phải là một đích điểm, mà là một hành trình.
6.Giải phóng đau khổ--‘Xây Nhà Trên Đá--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
1. Ông Gióp kêu rên thảm thiết: “Cuộc sống con người là một khổ dịch... Là chuỗi ngày làm thuê... Số phận tôi là những đêm đau khổ... ngay từ chiều tối, tôi trằn trọc đến hừng đông”.
Lời than thở đó diễn tả đủ loại đau khổ chồng chất trên đời người: Đau khổ thể chất thì ít, đau khổ tinh thần thì quá nhiều.
Cuộc sống thể chất là “một khổ dịch”. Khổ dịch vì bao nhiêu công việc nặng nhọc. Con người sống như nô lệ, không còn thời giờ hóng mát. Mệt mỏi về làm lụng, mệt mỏi về ăn uống, mệt mỏi về chơi bời giải trí! Còn biết bao nhiêu khổ dịch của bệnh tật, già cỗi, nghèo đói, loạn lạc, chiến tranh, thiên tai luôn vùi dập con người.
Đau khổ thể chất còn đổ lỗi cho trời đất. Những đau khổ tinh thần ghê sợ gấp bội, lại do chính con người gây ra. Đó là những đau khổ tâm lý, đau khổ đạo đức, đau khổ siêu hình (siêu nhiên).
Đau khổ tâm lý là những mặc cảm về “cuộc sống chỉ là chuỗi ngày làm thuê”, mặc cảm về thân phận hèn hạ tôi đòi, ở đậu. Không đâu là nhà, luôn luôn bị trôi dạt, bị chao đảo, bị o ép, nên dễ bất mãn, chống đối người khác, chống đối xã hội, chống đối Thiên Chúa, cuộc sống đầy những tâm trạng nổi loạn, ghen ghét, hận thù, phản bội, chứng tỏ một tâm lý ấu trĩ, tự ti mặc cảm, thiếu tự tin, tự chủ, cái đau khổ của Ađam Evà thân phận bùn đất nhưng lại muốn bằng Thiên Chúa, thân phận là con ếch dưới đáy giếng lại đòi bằng con bò để căng da phình bụng nổ tan bành mà chết, như trong ngụ ngôn của Lafontaine. Chừng nào ta thấy được vinh phúc Thiên Chúa đã ban cho mình từ bùn đất nên con người và từ con người nên con Thiên Chúa, ta mới được hạnh phúc thật.
Đau khổ đạo đức: “Ngay từ chiều tối, tôi trằn trọc đến hừng đông”. Con người bối rối âu lo, bị ray rứt về những dục vọng đen tối. Những đam mê sai trái, những dằn vặt ấy đã làm thánh Phaolô phải kêu lên: “Điều tôi không muốn, tôi lại làm!”. Bao nhiêu thiếu sót, bê trễ bổn phận cũng là những tác nhân gây ra đau khổ: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. “Nỗi ray rứt hàng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội thánh” (2Cr. 11, 28). Sau cùng, thứ đau khổ cùng cực nhất của con người là thấy “số phận của tôi là những đêm tối đau khổ”, đêm tối là số phận tôi, không ánh sáng, không tương lai, không hy vọng. Tất cả gia tài, sự nghiệp ky cóp, bon chen, giành giựt, chèn ép, chạy chọt như con thoi, đều tan ra như mây khói: “Đời con chỉ là một hơi thở”, một cái thở hắt ra là chấm dứt cuộc đời, con người câm lặng nhắm mắt lìa đời. Thật ghê sợ, rợn rùng “Mắt con sẽ không được thấy hạnh phúc bao giờ”. Đó là thứ đau khổ siêu hình, thứ đau khổ về hư vô. Thứ đau khổ mất niềm tin vào Thiên Chúa hằng sống, mất hy vọng vào Đấng Cứu Độ đời đời.
2. Ai ai có thể cứu chữa tôi thoát khỏi những thứ đau khổ này? Tất cả nhân loại đều bó tay, chỉ còn có Đức Giêsu thôi. Chính vì để giải phóng đau khổ này, Đức Giêsu đã đến trần gian. Người đến để chữa lành đau khổ thể xác và tinh thần. Cụ thể, hôm nay, Đức Giêsu đến nhà hai ông Simon và Anrê. Họ liền nói cho Người biết bà nhạc mẫu của ông Simon đang đau liệt. Đức Giêsu đến gần, cầm tay nâng bà dậy. Bà liền hết sốt. Một cử chỉ thân tình xoa dịu mọi lo âu thống khổ của gia đình. Người đến làm cho cảnh gia đình sầu khổ được sống lại hân hoan.
Cơm chiều đã dọn sẵn, chỉ vài món ăn thanh đạm, nhưng vị thượng khách chẳng kể chi. Cùng ngồi quây quần với mọi người, Người thanh thoát niềm nở kể chuyện. Câu chuyện trong sáng, giản dị. Mọi người đón nghe Tin mừng chan chứa niềm vui và hy vọng vào tương lai vinh phúc bất diệt của con người. Mọi xao xuyến, sầu khổ biến tan. Những nụ cười tươi nở, những ánh mắt sáng lên. Họ nhìn Người xiết bao trìu mến và đầy tin tưởng. Hoàng hôn buông xuống, chấm dứt ngày nghỉ lễ Sabbat, cả thành ùn ùn kéo đến nhà ông Simon. Ông mở rộng cửa, dọn dẹp sân vườn đón tiếp bà con xa gần. Simon mở cửa nhà càng rộng, Đức Giêsu càng giang rộng đôi cánh tay âu yếm, thương mến đón tiếp mọi hạng người: nghèo hèn, sang giàu, đau khổ, bệnh tật, đủ loại quỷ ám và tội lỗi. Nhà Simon thành đại gia đình tình thương của Chúa. Suốt tối hôm đó, Người chữa lành mọi vết thương tâm hồn và thể xác. Người luôn tay chúc phúc cho tất cả toàn dân. Trời về đêm cũng không cản nổi giòng thác người sầu khổ tuôn đến với Người. Người không biết mệt, tay vẫn giơ lên chạm đến từng người, miệng luôn đọc lời chúc lành bình an. Trái tim Người rung động cảm thương dân chúng vô biên, không gì có thể làm tê liệt được, như lời tiên tri Isaia đã loan báo: “Người coi bệnh hoạn của chúng ta như của riêng Người. Người mang hết mọi tai ương của chúng ta” (53, 4).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã gánh lấy mọi khổ dịch của loài người và đưa Tin mừng nước Trời cho khắp mọi nơi, từ thánh đường đến gia đình, từ thành phố đến mọi nẻo đường xã ấp. Xin cho muôn dân mau mau đến xum họp chung quanh Chúa đoàn tụ thành đại gia đình tình thương vinh phúc của Chúa. Amen.
7.Tiếp xúc với Cha trên trời--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Không tôn giáo nào mà không chú trọng đến sự cầu nguyện, tuy cách thức có khác nhau. Dân Do thái ngày xưa, mỗi khi đi chinh phạt các dân ngoại hay dân phản động chung quanh, thì ông Maisen phải lên đỉnh núi giang hai tay ra cầu nguyện. Lúc nào ông giang hai tay ra cầu nguyện thì lúc đó quân Do thái thắng, trái lại lúc nào ông hạ tay xuống thì dân Do thái thua. Nên dân Do thái phải cắt người đỡ hai tay để ông Maisen có thể giang tay cầu nguyện mãi mãi cho dân để đánh thắng các quân địch.
Đức Giêsu cũng làm gương cho chúng ta về sự cầu nguyện. Ngài đã tận dụng những giờ phút tĩnh lặng, những nơi thanh vắng, nhất là ban đêm để tiếp xúc với Cha Ngài. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng phải chuyên cần cầu nguyện, tiếp xúc với Chúa trong mọi hoàn cảnh. Hãy tập cho có thói quen biến những công việc thường ngày của chúng ta thành những lời kinh sống động dâng lên Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: G 7,11-.6-7.
Đoạn sách Gióp hôm nay cho ta thấy cái nhìn bi quan của người Do thái trước đau khổ: con người sẽ phải chết, mọi chân trời đều bị bít lại, tất cả đều ê chề, tuyệt vọng, vô nghĩa. Ông Gióp là một người thánh thiện, không thể hiểu được tại sao ông lại bị phạt trong khi ông không ý thức được rằng mình đã phạm tội. Tuy nhiên, ông không quay lưng lại với Chúa, ông âm thầm chịu đdựng và đợi trông...
Cái nhìn bi quan này sẽ được sửa sai bằng gương làm việc của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay,
+ Bài đọc 2: 1 Cr 9,16-19,22-23.
Thánh Phaolô tự nhận là mình có nhiệm vụ phải rao giảng Tin mừng:”Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Ngài cố gắng thi hành nhiệm vụ này một cách vô vị lợi, không tìm vinh danh cho mình nhưng chỉ dành cho Chúa. Chính vì thế, Ngài đã cố gắng trở nên mọi sự cho mọi người, chia sẻ những sự yếu đuối của anh em, sống cuộc sống của họ, tự đặt mình làm tôi tớ phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo hèn, và mục đích của Ngài là tranh thủ đem về cho Chúa Kitô nhiều linh hồn.
Thánh nhân cho biết Ngài rao giảng Tin mừng một cách tự nguyện chứ không phải do một động lực nào khác bó buộc Ngài.
+ Bài Tin mừng: Mc 1,29-39.
Thánh Marcô cho chúng ta biết một ngày làm việc tiêu biểu của Đức Giêsu ở thành phố Capharnaum, thành phố của Phêrô và Anrê. Ngài giảng dạy ở hội đường, chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon cho khỏi cơn sốt, chữa nhiều bệnh nhân và trừ qủi từ chiều cho đến tối. Sáng sớm tinh sương đi cầu nguyện nơi thanh vắng, và tiếp tục đi rao giảng ở những nơi khác. Tóm lại, Đức Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày và trừ qủi.
Những công việc bận rộn như vậy cũng không hề làm cho Ngài mất tiếp xúc với Cha của Ngài ở trên trời. Ngài sẽ dùng nhiều thời giờ nghỉ ban đêm để sống thân mật với Cha Ngài ở trền trời. Ngài sẽ dành nhiều thời giờ ban đêm để sống mật thiết với Cha Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Cầu nguyện và làm việc.
I. ĐỨC GIÊSU VỚI SỰ CẦU NGUYỆN.
1. Đức Giêsu làm việc và cầu nguyện.
Đức Giêsu là gương mẫu của sự cầu nguyện. Cách đây không lâu, Đức Giêsu đã lên rừng ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày. Thánh Marcô hé mở cho ta biết Đức Giêsu một mình sáng sớm lên nơi thanh vắng để cầu nguyện. Suốt ngày Ngài bận rộn với công việc rao giảng Tin Mừng: giảng dạy ở hội đường, chữa bệnh, trừ qủi, tiếp xúc với mọi người, trưa về nhà tiếp xúc với môn đệ. Trong khi mọi người còn ngon giấc thì Đức Giêsu đã lên núi cầu nguyện một mình. Đây không phải là lần cuối, mà luôn luôn như vậy. Ngài đã tỏ ra rất ham mộ cầu nguyện, nhất là trước những việc trọng đại.
Đọc Tin mừng, chúng ta thấy rất nhiều lần Đức Giêsu đã đi cầu nguyện và cầu nguyện nơi thanh vắng:
Vừa khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả, Chúa lắng sâu trong cầu nguyện và đồng thời cửa mở ra (Lc 3,21 ; Ga 1,32-34).
Năm đầu cuộc đời công khai, ngày sabat Chúa vào hội đường cầu nguyện (Lc 5,16).
Đêm áp ngày Chúa chọn 12 tông đồ, Chúa đã lên núi và cầu nguyện suốt đêm(Lc 6,12).
Trước khi Chúa hỏi các tông đồ về dư luận dân chúng về Ngài, Chúa đã tìm nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Lc 9,18).
Trước khi biến hình Chúa đã lên núi cầu nguyện (Lc 9,28) và trong khi cầu nguyện thì Ngài biến hình.
Lần kia, sau khi thấy Chúa rời các ông để cầu nguyện, các Tông đồ xin Chúa dạy các ông cầu nguyện như Gioan đã dạy các môn đệ của ông. Và Chúa đã dạy các ông kinh Lạy Cha (Lc 11,1-4).
Hơn nữa, nhất là trong giờ hấp hối trong vườn Cây Dầu, Chúa đã cầu nguyện thống thiết tới 3 lần (Lc 22,40-45).
Tại sao Đức Giêsu lại hối hả đi cầu nguyện như vậy? Trước hết là vì Ngài khao khát sống một mình với Cha Ngài, và lấy làm sung sướng khi ở riêng với Cha Ngài.
2. Đức Giêsu dạy ta cầu nguyện.
Đức Giêsu đã cầu nguyện và đã làm gương cho ta về sự cầu nguyện. Rất nhều lần Ngài đã khuyên các môn đệ cầu nguyện. Ta chỉ ghi ra đây một số trường hợp:
. Cầu nguyện trong thinh lặng: vào phòng đóng cửa lại và cầu nguyện với Cha nơi kín ẩn (Mt 6,6).
. Cầu nguyện với lòng tin: Thiên Chúa có thể ban mọi sự (Mc 11,23-24).
. Cầu nguyện với Cha chúng ta ở trên trời (Lc 11,13).
. Cầu nguyện không nhiều lời (Mt 6,7).
. Biết tha thứ cho người khác để Cha trên trời có thể tha thứ cho chúng ta (Mc 11,25).
. Với lòng khiêm tốn và thống hối như người thu thuế tội lỗi (Lc 18,9-14).
. Cầu nguyện không ngừng (Lc 19,1).
. Cầu nguyện chung với người khác (Mt 1118,119).
. Nhận biết ân huệ của Thiên Chúa (Ga 4,10).
. Xin những sự trên trời (Ga 6,27).
. Kinh Lạy Cha (Lc 11,2t ; Mt 6,9-13).
Đức Giêsu đã cảnh báo Phêrô về nguy cơ ma qủi làm cho ông bị sa ngã, phải luôn tỉnh thức và đề cao cảnh giác:”Phêrô, ma qủi nó sàng con như sàng gạo”. Sức riêng của loài người không thể chống lại được sức mạnh của ma qủi, nên phải cậy nhờ vào ơn Chúa, đừng cậy vào sức riêng mình.
Về điểm này, Đức Cha Tihamer Toth đã nói chuyện với thanh niên như sau:
”Bạn không muốn sao lãng những công việc bề bộn, thế thì, bạn ơi, hãy nghe tôi: Đây là chiếc tầu vượt đại dương bắt đầu mở máy giữa lúc giông tố nổi to, và một đoàn hải điểu theo bên như những tầu khác khởi hành. Chiếc tầu nọ mở hết tốc lực mà không vượt được những làn sóng dữ dội. Gió ngược mạnh vô cùng, chiếc tầu nghiêng ngả. Cả bộ máy rung chuyển, nhưng chiếc tầu chỉ tiến khó khăn được đôi chút. Một hành khách thương hại nói:”Khốn nạn đàn hải điểu. Mở máy tới hàng trăm, hàng ngàn mã lực thế mà chúng ta chỉ tiến được đôi chút thôi. Chim ơi, chim làm được gì với đôi cánh mong manh và bắp thịt yếu đuối”?
Nhưng người hành khách thương hại bỗng nói và cảm động vô ngần:”Đàn hải điểu nhẹ nhàng bay lượn với đôi cánh Đức Chúa Trời ban cho. Chúng gối lưng lên gió vật. Và trong khi chỉ còn một việc, chỉ trông cậy có máy móc, người ta tiến rất khó khăn, rất vất vả, thì đàn hải điểu vượt nhẹ nhàng lên trước chiếc tầu với đôi cánh khéo léo, bay lượn thay cho sức yếu đuối của mình”.
Bạn ơi, chiếc tầu đó là hình ảnh kẻ muốn thắng bằng sức riêng mình. Đôi cánh chim hải điểu là hai tay người ta giơ lên trong lúc cầu guyện. Bạn có còn cho rằng thời giờ bạn nguyện ngắm là thời giờ bỏ phí không? Bạn có còn nói rằng bạn không có thời giờ cầu nguyện không”? (Tihamer Toth, Chúa Cứu thế với Thanh niên, tr 209).
3. Giáo huấn của Giáo hội.
Việc cầu nguyện phát xuất do chức Linh mục vương giả:”Phần tín hữu nhờ chức Linh mục vương giả, cộng tác dâng Thánh lễ, và thi hành chức vụ đó trong việc lãnh nhận các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn. Bằng đời sống chứng tá thánh thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực” (Hiến chế về Giáo hối, số 10).
“Mọi người phải nhớ rằng nhờ phụng vụ và cầu nguyện, nhờ sám hối và tự ý chấp nhận công việc cũng như những khổ cực của cuộc đời làm cho nên giống Chúa Kitô đau khổ, họ mới có thể ảnh hưởng tới mọi người và đem ơn cứu độ cho toàn thế giới” (Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, số 16).
II. CHÚNG TA VỚI SỰ CẦU NGUYỆN.
1. Nói về sự cầu nguyện.
a) Cầu nguyện là gì?
Chúng ta không muốn định nghĩa sự cầu nguyện như các nhà tu đức học mà chỉ nói đơn sơ như thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nói:”Con đã ở như một đứa trẻ không biết chữ: con cứ đơn sơ thật thà than thở cùng Chúa những điều con ước muốn, bao giờ con cũng được Chúa hiểu thấu tình.
Với con, cầu nguyện chỉ là một cơn lòng sốt sắng, một liếc mắt nhìn lên trời, một tiếng kêu tri âm, một lời nói tình giữa lúc phải gian nan khốn cực, cũng như khi được bình an vui sướng. Và nữa, cầu nguyện là một cái gì cao thượng, siêu nhiên cởi mở lòng, phơi giãi linh hồn, trao đổi lại tâm tình, để được kết hợp cùng Chúa cách chí thiết” (Trích Một tâm hồn, Kim Thiếu dịch, tr 204).
Cầu nguyện có thể ví như tình yêu. Chúng ta không thể học yêu qua sách vở được. Phải có phần thực hành. Cầu nguyện ví như học bơi lội. Muốn biết bơi thì phải nhào xuống nước, không thể vừa khô ráo trên bờ vừa lại biết bơi. Cầu nguyện cũng như việc học gia chánh. Muốn thực tập làm các món ăn thì phải lăn vào bếp. Cầu nguyện cũng giống như việc chăm sóc mảnh vườn. Muốn có hoa đẹp thì phải trồng, phải phân bón, phải có nắng, phải tưới nước và phải chăm làm cỏ. Cầu nguyện không là một đề tài để bàn luận, nhưng là một thực tại để sống. Chúa Kitô là thầy dạy chúng ta, và tất cả chúng ta đều là học trò trong lớp “cầu nguyện”. Muốn có một đời sống sung mãn trong Chúa Kitô, chúng ta phải cầu nguyện (Thanh Thủy, Con đường tình yêu, tr 197).
b) Cấp độ của sự cầu nguyện.
Có nhiều cách cầu nguyện. Thường thường người ta cho rằng cầu nguyện là chuyện vãn với Chúa, là một cuộc đối thoại, mình phải nói với Chúa, nói cho nhiều cho Chúa nghe. Cũng có người có ý kiến cao hơn: cầu nguyện là lắng nghe tiếng Chúa, cầu nguyện chỉ là cơ hội để Chúa nói với ta. Tất cả đều đúng.
Nhưng cầu nguyện cao nhất là sự thinh lặng tuyệt đối, trong đó chẳng ai nói mà cũng chẳng ai nghe vì lúc đó giữa Chúa và ta có một sự kết hợp mật thiết rồi, một sự kết hợp cao độ đến nỗi không còn phân biệt giữa Chúa và ta nữa. Tư tưởng này đã được Cha Anthony de Mello diễn tả trong câu chuyện sau đây:
Truyện: Sự im lặng tuyệt đối.
Sau một ngày học hành mệt nhọc, người bạn trẻ thường có thói quen ghé ngang qua nhà thờ để viếng Chúa, và lần nào cũng bắt gặp một cụ già ngồi yên lặng trước Thánh Thể trong nhà tạm. Ngày kia, người bạn trẻ chờ cho cụ cầu nguyện xong, tiến đến gần và hỏi:
- Cụ ngồi lâu giờ như vậy, có nghe Chúa nói gì với cụ không?
Cụ già chậm rãi trả lời:
- Chúa không nói gì hết, Ngài chỉ nghe thôi.
- Vậy thì cụ nói những gì với Chúa?
- Lão cũng chẳng nói gì cả, chỉ nghe thôi.
Thấy người bạn trẻ có vẻ ngỡ ngàng, cụ nói tiếp:
- Lão thấy có 4 giai đoạn trong đời sống cầu nguyện. Thời gian đầu thì lão nói, Chúa nghe, sau đó thì Chúa nói, lão nghe. Giai đoạn kế tiếp thì không ai nói hết vì cả hai cùng nghe và có lẽ giai đoạn cuối là lúc không ai nói mà cũng không ai nghe. Tất cả chỉ là một sự thinh lặng tuyệt đối (Dựa theo truyện của Anthony de Mello, Taking Flight).
Một trong những yếu tố quan trọng trong việc cầu nguyện là sự thinh lặng. Chúng ta cần sự thinh lặng, vì chính trong sự thinh lặng này – một sự thinh lặng mà người “hướng ngoại” không thể nào chịu nổi – Chúa Cha sẽ nói với ta lời của Ngài, Chúa Kitô sẽ chia sẻ với chúng ta ý nghĩa của mầu nhiệm Chết và Phục sinh của Người, và Chúa Thánh Thần sẽ thôi thúc để chúng ta tìm ra đường hướng Chúa muốn chúng ta đi. Ngày nay, con người dường như rất sợ sự thinh lặng, do đó con người tạo ra trăm ngàn cớ để chạy trốn cái giây phút tĩnh lặng trước mặt Chúa, Đấng lột trần cho thấy sự hư vô tột cùng của kẻ từ chối chấp nhận mình nghèo khó và yếu đuối. (Thanh Thủy, op.cit. tr 203-204)
c) Cầu nguyện rất cần thiết.
Việc cầu nguyện có thể ví được như cách điều chỉnh radio và vô tuyến truyền hình. Chúa và ân sủng của Ngài lúc nào cũng sẵn sàng, bàng bạc khắp không gian như luồng điện. Con người nào không cầu nguyện cũng ví như máy thu thanh và vô tuyến truyền hình không bao giờ dùng tới. Muốn cho các máy đó bắt đúng luồng sóng, đúng tần số, ta cần điều chỉnh nhẹ nhàng, trong thinh lặng để các máy đó bắt đúng tần số; bằng không, vẫn chơ vơ một mình, đơn chiếc, lẻ bóng và chẳng ích lợi gì.
Hơn nữa, việc cầu nguyện còn có thể ví như “xạc” bình điện. Chúng ta ưa phóng ngoại, để chạy theo những cái hào nhoáng, những hấp dẫn bên ngoài, thích chạy trên chính mình chẳng khác gì bình điện xài luôn nên hết điện, hết năng lực. Thế nên cần phải có thời gian nghỉ ngơi, thinh lặng để “xạc” lại bình, để hấp thụ và để bắt liên lạc với chính nguồn điện lực.
Giờ cầu nguyện là lúc bồi dưỡng, chuyển hóa, thăng hoá chính bản thân mình như bắt lại với chính nguồn là Thiên Chúa, chính Thánh Thần là Tình Yêu, để ta được gọi Thiên Chúa là Cha (Rm 8,1-5 ; Gl 5,22-26). Nhờ đó con người được đổi mới (Cl 3,9-11) tìm lại được con người nội tâm (Rm 7,22) của chúng ta. Tìm gặp, biến thể và hoà đồng với chính Tình yêu.
Thật vậy, ta có thể nhận ra và cảm nghiệm được kết quả của việc cầu nguyện qua biến thể tâm hồn và đổi mới của thiếu phụ Samaria bên bờ giếng Giacóp; hoặc như hai môn đệ đi Emmau trong lúc lòng buồn và chán nản, xa rời tập thể, thế mà sau khi đã tâm sự với Chúa cải trang thành bộ hành, các ông đã nhận ra Chúa, tìm lại niềm tin vui và vội vã trở về với cộng đoàn (Lc 24,13-35) (Thái Hoà, Cải tiến Công giáo VN, số 7-8, tr 130-131).
Truyện: Luther bỏ cầu nguyện.
Tại bảo tàng viện ở Wittenberg (Đức) người ta còn lưu giữ một lá thư của một tu sĩ dòng Augustinô rất thời danh, mới 35 tuổi, đã làm tới chức Giám tỉnh. Bức thư như sau:”Tôi quá bận rộn, phải đi dạy học, giảng thuyết, viết sách, tôi làm quản lý, bắt cá ở hồ... nên không có giờ đọc kinh, không có giờ nguyện gẫm, không có giờ dọn mình dâng Thánh lễ, có lúc phải bỏ luôn cả lễ...” Vị cựu tu sĩ thời danh ấy là ai? Là Luther, người đã khởi xướng lên chủ thuyết Tin lành, ly khai khỏi Giáo hội, ra khỏi dòng, lập gia đình, lôi kéo nhiều người theo, đi vào con đường ly khai.
Tuy thế, có những người vẫn chưa công nhận sự cầu nguyện là cần thiết, mà còn bác bỏ và chê trách sự cầu nguyện. Thi sĩ Alfred de Vigny đã nói:”Thở than khóc lóc, cầu khẩn là hèn nhát”.
Phải phân biệt hai lối cầu nguyện: thụ động và chủ động. Cầu nguyện thụ động là thái độ của kẻ ươn hèn, muốn được điều lành mà không cố gắng, không làm gì cả: họ chỉ há miệng chờ sung rụng hay ôm gốc cây chờ thỏ. Trái lại cầu nguyện chủ động là tính cách của người vừa cầu nguyện vừa làm việc để đi tới mục đích mình cầu xin: Aide-toi, le Ciel t’aidera (Tục ngữ Pháp): (Anh hãy tự giúp mình rồi trời sẽ giúp anh).
Câu nói trên của Alfred de Vigny chỉ đúng cho những kẻ cầu nguyện thụ động. Còn chính nhà khoa học lừng danh Alexis Carrel đã nói:”Dẫu có vẻ lạ lùng, người ta vẫn phải nhận là đúng rằng kẻ nào cầu xin sẽ được và cửa sẽ mở cho kẻ gõ”. Một nhà khoa học đã từng được giải Nobel vào năm 1912 còn tin tưởng như vậy, thì sự cầu nguyện đã rõ ràng không phải là sự mơ hồ.
Văn hào Cronin đã than thở cho những kẻ mất lòng tin tường, những kẻ không cầu nguyện:”Địa ngục là khi lòng mất hy vọng”. Sống là hy vọng, mà mất hy vọng thì còn sống làm sao? Chính vỉ vậy, những kẻ tự tử là những kẻ không còn tin tưởng, những kẻ không biết có sự cầu nguyện.
d) Ích lợi của sự cầu nguyện.
Cầu nguyện đem lại cho con người rất nhiều lợi ích cho linh hồn. Điều đó chúng ta đã nói nhiều ở trên. Cầu nguyện cũng còn lợi ích nhiều cho đời sống tâm lý và thể lý nữa. Chính những nghiên cứu của các nhà khoa học thời danh đã chứng minh điều đó.
Môt hôm, một bệnh nhân trạc tuổi 40, đến gõ cửa phòng mạch bác sĩ. Người bệnh nói:
- Đã lâu rồi tôi mắc bệnh mất ngủ. Tôi đã uống nhiều loại thuốc an thần, thuốc ngủ. Ban đầu uống một viên, sau đó uống hai viên. Hiện giờ tôi uống những ba viên mà cũng chẳng tài nào ngủ được. Hết muốn sống.
Bác sĩ là một người Công giáo, liền cho một toa thuốc an thần, thật bất ngờ, lại không mất tiền mua:
- Từ nay ông đừng uống thuốc ngủ nữa. Thế vào đó, trước khi lên giường, ông hãy đọc một câu kinh sốt sắng, và dâng phú những lo lắng của ông vào lòng Thượng Đế.
Đã lâu lắm, bệnh nhân chẳng hề đọc kinh chiều. Tối hôm ấy, chàng áp dụng toa thuốc của bác sĩ đã cho một cách nghiêm chỉnh.
Một tuần lễ sau, thần kinh bớt căng thẳng, chàng được lành mạnh, ăn ngon ngủ ngon và làm việc như thường lệ.
Bác sĩ Carl Jung cho biết:”Trong 30 năm trời gần đây, có nhiều người từ các nước văn minh tới phòng mạch của tôi. Tôi nhận thấy rằng những bệnh nhân trên 35 tuổi, rút cuộc người nào cũng phải tìm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh. Họ đau vì mất quân bình, mất tin tưởng”.
Giải pháp ông nói đây rõ ràng là CẦU NGUYỆN.
(Viết theo Vũ minh Nghiễm, Sống sống, tr 44-45)
2. Thực hành cầu nguyện.
Đức Giêsu đã cầu nguyện rất nhiều trong công cuộc truyền giáo. Tuy rất bận rộn với công việc rao giảng, chữa bệnh, trừ qủi và tiếp xúc với mọi hạng người, nhưng Ngài không quên cầu nguyện, Ngài tranh thủ những lúc vắng vẻ, những đêm tĩnh lặng để tiếp xúc với Cha Ngài. Ngài đã làm gương cho chúng ta về sự cầu nguyện và còn thúc giục chúng ta cầu nguyện. Do đó, chúng ta không còn hoài nghi về sự cần thiết và ích lợi của sự cầu nguyện.
Hãy theo gương Đức Giêsu mà cầu nguyện trong đời sống hằng ngày, mặc dầu chúng ta rất bận rộn với công việc. Trong khi cầu nguyện chúng ta hãy lưu ý đến hai điểm này:
a) Cầu nguyện đơn sơ.
Chúa không đòi chúng ta phải cầu nguyện bằng những lời lẽ hoa mỹ hay bằng những hình thức gò bó, mất tự nhiên, nhưng hãy cầu nguyện đơn sơ như một em bé nói chuyện với cha mình, nói lên tất cả tâm tình của mình, nói lên những việc lớn cũng như việc nhỏ trong cuộc sống, cầu nguyện như thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã làm. Về điểm này Cha Charles khuyên:
“Khi bạn qùy gối trước nhan Chúa, bạn đừng xua đuổi những cái khác ra ngoài, nhưng hãy làm ngược lại. Khi bạn thưa chuyện với Chúa Giêsu Kitô, bạn đừng bỏ bớt ba phần tư từ ngữ quen dùng của bạn đi, bạn đừng dùng những từ ngữ ít gặp và đừng tránh không nói đến những chuyện tầm thường. Đừng giả vờ biến thành một người khác. Bạn hãy dám thưa với Chúa Giêsu rằng:”Bạn bị nhức đầu, bạn bị bực mình khó chịu, bạn làm bữa cho gia đình trễ quá rồi”. (Charles, La prière de toutes les heures, tr 10)
Cũng cần lưu ý thêm khi cầu nguyện trong những biến cố quan trọng:
“Dĩ nhiên rằng khi một biến cố quan trọng xẩy ra, nhất là một thử thách xẩy đến trong đời bạn, bạn đem ra thưa với Chúa trong kinh nguyện của bạn, nhưng đàng khác cũng có một nguy hiểm. Nguy hiểm ở chỗ không đưa vào kinh nguyện của bạn hàng ngàn chuyện lặt vặt xẩy ra hàng ngày, nhưng quan trọng đối với bạn và làm thành những đường chính yếu dệt nên đời sống độc điệu của bạn” (Gaston Dutil, Đạo trong đời bạn, tr 29).
b) Làm việc và cầu nguyện.
Thường người ta quan niệm rằng làm việc và cầu nguyện là hai việc khác nhau, có khi đối chọi nhau. Người ta tưởng rằng cầu nguyện là phải chu chu chăm chắm, nhắm mắt nhắm mũi lại mà cầu nguyện, chứ còn làm việc nữa thì làm sao mà gọi là cầu nguyện được? Thực ra, với lòng yêu mến, chúng ta có thể biến tất cả công việc làm của chúng ta thành kinh nguyện. Như thế, suốt ngày làm việc của chúng ta là một lời kinh nguyện dâng lên Chúa. Cần nhất ban sáng khi thức dậy, chúng ta đã dâng lên Chúa mọi công việc trong ngày, thì mọi việc trong một ngày có thể trở thành kinh nguyện liên miên.
Truyện: Cầu nguyện và làm việc.
Một ông cụ già dẫn một thanh niên xuống thuyền của mình. Thuyền này có hai mái chèo: một cái đề chữ “cầu nguyện”, một chiếc khác có đề hai chữ “làm việc”.
Người thanh niên nói kháy cụ già:
- Ông cụ ơi, chèo thế này chậm lắm. Người đã làm việc thì không cần cầu nguyện nữa (có ý nói: chỉ cần chèo một chiếc chèo có chữ “làm việc” thôi).
Ông cụ không nói gì, chỉ buông chiếc chèo có hai chữ “cầu nguyện” ra thôi, rồi cứ chèo chèo chiếc có hai chữ “làmviệc” kia.
Ông cụ cứ cố sức chèo nhưng thuyền không đi được bước nào, chỉ quay tròn đi thôi.
Thấy thế người thanh niên kia mới hiểu rằng, ngoài chiếc chèo làm việc ra, còn cần phải có chiếc chèo cầu nguyện nữa, thuyền mới đi được.
(GM Tihamer Toth, Dieu, La Providence, Sermons, tr 81)
Gaston Dutil nói một cách quả quyết:”Ngày nào mà bạn đem tất cả đời sống bạn vào lời cầu nguyện, thì bạn sẽ thấy ngày ấy bạn say mê cầu nguyện”.
8.Hãy siêng năng làm việc theo gương Chúa--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Làm việc không phải là gánh nặng mà là ý nghĩa của cuộc đời. Ngày xưa Thiên Chúa dựng nên các nguyên tổ rồi đặt họ trong vườn địa đàng để họ "canh tác và giữ vườn". Chính Đức Giêsu cũng làm việc bận rộn từ sáng tới tối.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta ý thức giá trị của việc làm, đồng thời giúp chúng ta siêng năng làm việc theo gương Chúa.
II. Gợi ý sám hối
- Xin Chúa tha thứ những lần chúng ta lười biếng không chịu làm việc.
- Xin Chúa tha thứ vì chúng ta không biết thánh hóa những công việc mình làm.
- Xin Chúa tha thứ cho những việc làm sai trái của chúng ta.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (G 7, 1-4. 6-7)
Đoạn sách Gióp này đưa ra một cái nhìn bi quan về công việc con người phải làm trong cuộc sống:
Làm việc là cực nhọc như "nô dịch"
Con người giống như một người làm công.
Và cuộc đời với những công việc như thế được coi là buồn thảm, bất hạnh.
Cái nhìn bi quan này sẽ được sửa sai bằng gương làm việc của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng.
2. Đáp ca (Tv 146)
Thánh vịnh này đặc biệt ca tụng một loại "công việc" đặc biệt của Thiên Chúa, đó là việc "cứu chữa": Ngài là Đấng "cứu chữa những kẻ dập nát tâm can".
3. Tin Mừng (Mc 1, 29-39)
Đoạn Tin Mừng này mô tả một ngày làm việc tiêu biểu của Đức Giêsu:
* Giảng dạy ở hội đường
* Giảng vừa xong thì đến nhà nhạc mẫu của Simon để chữa cho bà này khỏi bệnh sốt.
* Tiếp tục chữa bệnh và trừ quỷ từ chiều cho đến tối.
* Sáng tinh sương hôm sau, Ngài cầu nguyện ở một nơi thanh vắng.
* Người ta lại tìm đến với Ngài để được chữa bệnh. Nhưng Ngài đành phải ra đi, bởi vì còn phải rao giảng Tin Mừng ở những nơi khác nữa.
Tóm lại, Đức Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày. Việc làm của Ngài là rao giảng Tin Mừng, chữa bệnh và trừ quỷ.
4. Bài đọc II (1 Cr 9, 16-19. 22-23) (chủ đề phụ)
Thánh Phaolô trình bày quan niệm của ngài về việc rao giảng Tin Mừng:
* Đó là một nhu cầu: "Nếu tôi rao giảng Tin Mừng thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi"
* Đó là nguồn hạnh phúc: "Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng"
* Vì thế phải làm việc rao giảng Tin Mừng một cách tự ý tự nguyện chứ không phải do bị bó buộc.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Lao động là vinh quang
Ông Lafontaine có kể một câu chuyện như thế này: có một tiều phu vác củi từ trong rừng về nhà. Củi thì nặng mà sức thì yếu cho nên ông ta cứ than thở hoài. Sau hết vì quá chán nản, ông đã kêu thần chết đến đem mạng sống mình đi phứt cho rồi. Vừa kêu dứt tiếng thì thần chết bỗng hiện ra, mặt mày khủng khiếp, tay cầm sẵn lưỡi hái. Thần chết hỏi: "Mi gọi ta đến để làm gì?" Ông tiều phu mặc dù vừa mới đòi chết nhưng khi thấy thần chết thì hoảng sợ và không muốn chết nữa, bèn nói trớ: "Xin ông làm ơn đặt bó củi này lên vai hộ tôi". Thần chết bỏ lưỡi hái xuống và đem bó củi chất lên vai người tiều phu. Ông này vội vàng cám ơn và nhanh chân rảo bước, không còn thấy nặng nhọc gì nữa.
Câu chuyện ngụ ngôn trên có thể giúp ta hiểu được phần nào Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe. Tất cả 3 bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều bàn đến những việc lao động nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi dương thế. Cuộc sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm lụng từ sáng tới chiều, quần quật hết ngày này sang ngày khác, hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Kẻ thì lao động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải làm việc vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm-ăn, ăn-làm như một cái vòng lẩn quẩn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nỗi, ăn không vô thì cũng là lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Trước kiếp sống đó, những kẻ bi quan và những người lười biếng thì than thở như trong sách Gióp được trích đọc trong bài đọc thứ nhất: "Lao động nhọc nhằn là kiếp sống của con người trên mặt đất. Ngày của họ giống như ngày của một kẻ làm công, như một người nô lệ. Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối và mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc". Thái độ đó cũng giống như người tiều phu trong chuyện ngụ ngôn của Lafontaine, làm việc cực nhọc quá nên cứ đòi chết cho rồi. Khi người ta làm việc cực nhọc mà không hiểu được ý nghĩa và giá trị của việc mình làm thì người ta dễ có thái độ bi quan như thế.
Chính để giúp cho loài người thấy được ý nghĩa và giá trị của lao động nhọc nhằn mà Đức Giêsu Kitô đã sinh xuống trần gian, mang lấy thân phận làm người lao động vất vả. Bài Tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa: Chúa vừa giảng dạy trong Hội đường và cứu chữa một người bị quỷ ám xong, vừa mới đi ra thì hay tin bà Nhạc mẫu của Phêrô đang bị sốt nặng. Người liền đến nơi cầm tay nâng bà dậy, bà liền khỏi sốt. Liền sau đó có cả một đám đông tụ họp trước cửa nhà, đó là những người đau đớn vì đủ thứ bệnh tật, Chúa lại phải cứu giúp họ. Mãi tới chiều tối Chúa mới có chút ít giờ nghỉ ngơi. Người tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Vừa tảng sáng hôm sau thì các môn đệ lại đi tìm Người và cho hay dân chúng lại tấp nập tuôn đến xin Người cứu chữa. Nhưng Đức Giêsu đành phải từ chối và nói "Chúng ta còn phải đi đến những làng, những thành phố khác để rao giảng Tin Mừng nữa".
Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả từ sáng tới tối, hết ngày này sang ngày khác, không chỉ làm việc để lo cho bản thân Người mà làm việc để cứu giúp người khác, không phải chỉ lo phần xác người ta mà còn lo rao giảng để cứu giúp linh hồn người ta nữa. Qua tấm gương đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của việc lao động nhọc nhằn: lao động là bổn phận của mọi người, lao động giúp ích cho bản thân và cho người khác, lao động sinh ích lợi cả phần xác lẫn phần hồn.
Vì hiểu được như thế cho nên Thánh Phaolô đã hăng hái chu toàn những công việc nặng nhọc Chúa giao như chúng ta đã nghe trong bài trích thư gởi tín hữu Côrintô. Là một tông đồ, công việc chính của Ngài là rao giảng Tin mừng. Ngài đã hăng hái làm trọn công việc đó, thậm chí Ngài còn nói "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng". Ngài còn nói thêm: "Giả như tôi tự ý đảm nhận công việc ấy thì tôi mới có công. Còn nếu tôi làm vì bị ép buộc thì tôi còn mang phần thưởng ở đâu nữa! Tôi đã nên mọi sự cho tất cả mọi người để làm cho mọi người được cứu rỗi. Thánh Phaolô đã hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của việc mình làm nên đã tự nguyện hăng hái làm việc không ngơi nghỉ.
Những bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay thật ích lợi vì vạch cho ta thấy phương hướng sống trước những công việc bề bộn cực nhọc.
- Trước tiên chúng ta hãy dâng lên cho Chúa tất cả những công việc ấy.
- Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ thể xác và tinh thần để có thể đảm nhận những công việc ấy.
- Chúng ta hãy xin Ngài chúc lành cho việc làm của chúng ta sinh ra những kết quả tốt đẹp.
- Xin Chúa giúp chúng ta làm việc không phải chỉ cầu lợi ích cho bản thân mình, mà còn để giúp ích cho những người khác.
- Và đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta biết để ra một phần thời giờ, một phần sức lực để làm việc mở mang Nước Chúa nơi trần gian.
* 2. Vấn đề đau khổ
Bài Tin mừng cho thấy một ngày bận rộn của Đức Giêsu.
- Giảng xong trong hội đường thì đến chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô.
- Đến chiều còn cả đám đông bệnh nhân đủ loại.
- Đêm đến đi cầu nguyện còn được môn đệ mời về chữa bệnh.
- Và còn phải đi đến nhiều thành nhiều vùng khác nữa.
- Đức Giêsu như một chiếc phao giữa biển khổ cuộc đời mà vô số người bám. 20 thế kỷ qua rồi, nhưng ngày nay đau khổ nhân loại vẫn còn chồng chất: cả thể xác lẫn tinh thần. "Đời là bể khổ" câu giáo lý nhà Phật vẫn còn là một nhận xét thật đúng.
Nhưng từ nhận xét đó ta chớ vội kết luận.
- Hoặc theo kiểu bi quan như những người chán đời tự tử.
- Hoặc theo kiểu thả trôi ăn chơi kẻo hết đời "chơi xuân kẻo hết xuân đi". Mà hãy bình tỉnh nhận định về vấn đề đau khổ.
. Có những cái khổ tự mình gây ra: tham ăn đau bụng.
. Có những cái khổ do người khác xấu bụng gây ra cho mình: thằng ăn cắp làm cho người ta mất của.
. Có những cái khổ là do quy luật thiên nhiên như thế: trước khi sinh con thì phải mang nặng đẻ đau. Muốn được mùa thì phải cực nhọc cầy cấy.
- Trước cái khổ cũng có nhiều thái độ:
+ Có thứ khổ sinh buồn chán: nhậu nhẹt, tự tử.
+ Có thứ khổ làm cho con người trưởng thành: người lao động biết quý trọng đồng tiền, người lính chiến trở nên anh dũng.
+ Có thứ khổ người ta sung sướng chịu đựng: khổ vì yêu mà lo cho người yêu.
Sau khi phân tích như thế, ta thấy cái khổ mặc khải 3 vấn đề:
+ Trần thế không phải là nơi hoàn hảo.
+ Tội lỗi là một nguyên nhân lớn của khổ đau.
+ Khổ đau chứng minh cho tình yêu.
Lạy Chúa, xin cho con có một nhận định sáng suốt trước đau khổ.
+ Cho con đừng tự gây đau khổ cho con hay cho người khác do tính ích kỷ của con.
+ Cho con kiên trì đấu tranh làm giảm những đau khổ cho con và cho người khác.
+ Cho đau khổ đừng làm con gục ngã nhưng giúp con vươn lên cao hơn cõi đời này hướng về quê hương không đau khổ trên cao.
+ Cho con biết chịu khổ vì yêu.
* 3. Nan đề đau khổ
Vấn đề đau khổ của loài người, đặc biệt của người lành, là một nan đề. Gióp đã vật lộn với nan đề này mà không tìm được lời giải đáp thỏa đáng.
Ngày nay đau khổ cũng vẫn là một nan đề. Ngày nay có rất nhiều người cùng cảnh ngộ với ông Gióp ngày xưa. Đó là những người đau khổ vì nghèo, đói, bệnh, bất công, áp bức v. v. Thời Cựu Ước, người ta nghĩ rằng đau khổ là hình phạt của Chúa.
Phần Đức Giêsu, Ngài không chấp nhận quan niệm coi đau khổ là hình phạt của Chúa, bởi Chúa không làm điều xấu, mà đau khổ là điều xấu. Đức Giêsu không trả lời cho câu hỏi "Tại sao đau khổ" nhưng Ngài dạy phải làm gì trước đau khổ.
Trong bài Tin Mừng này, chúng ta thấy những người đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần bao quanh Đức Giêsu. Ngài không tránh xa, nhưng hòa mình với họ, xả thân để cứu chữa họ.
Gặp người đau khổ, Đức Giêsu không chỉ khuyên họ hãy nhẫn nhục chịu đựng như chúng ta quen khuyên. Ngài ra tay hành động, cứu người bệnh tật, xua trừ ma quỷ.
Vần đề đau khổ còn là cơ hội để Đức Giêsu tỏ cho người ta biết Thiên Chúa. Qua cách Ngài tận tuỵ cứu giúp người đau khổ, Đức Giêsu cho người ta thấy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những kẻ đau khổ.
Sự đau khổ của người khác cũng là cơ hội cho chúng ta. Tuy chúng ta không có khả năng cứu chữa nhưng chúng ta luôn có khả năng chăm sóc. Mà chăm sóc cũng là một cách cứu chữa. Chỉ cần ở bên người đau khổ thôi cũng là một điều gì đáng quý rồi. Nhưng ở bên người đau khổ mà với hai bàn tay không thì có thể làm gì được? Được chứ, vì với hai bàn tay, chúng ta có thể an ủi họ. Điều họ cần nơi chúng ta nhất là chúng ta đừng bỏ rơi họ. Khi chúng ta ở bên họ thì cũng giống như ngày xưa Đức Maria ở bên Thập giá Đức Giêsu.
Còn đối với những đau khổ của bản thân chúng ta, đó cũng là điều không thể tránh của thân phận làm người. Tuy nhiên thật là an ủi cho chúng ta vì chính Đức Giêsu cũng đi con đường đau khổ như chúng ta, và Ngài đi tới cùng. Và cũng thật vui mừng khi chúng ta biết rằng sau khi đi đến tận cùng đau khổ thì Đức Giêsu đã tới vinh quang. Như thế, đối với kitô hữu, đau khổ là cơ hội cho chúng ta chia xẻ cuộc chịu nạn của Đức Giêsu, trong hy vọng cũng sẽ được chia xẻ vinh quang phục sinh của Ngài (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Niềm vui được chữa lành
Đầu năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh có tên thật ngộ nghĩnh: Bệnh bò điên (Mad-Cow disease). Người những mắc bệnh này vì họ ăn nhằm những con bò điên. Khi mắc phải, bộ não người bệnh sẽ bị hư hoại dần dần, tay chân run rẩy và đi dần đến cái chết.
Lúc đầu người ta phát hiện có mười người mắc bệnh này ở Anh Quốc, tám người trong số đó đã chết. Ngày 21 tháng 3 năm 1996, Bộ trưởng Y tế của Anh là ông Stephen Dorell đã phải tuyên bố: "Có thể có sự liên quan giữa bệnh bò điên và bệnh Creutzfeldt - Jacob nơi con người"
Sau đó, Pháp là nước đầu tiên tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò của Anh Quốc. Các nước Âu Châu lần lượt làm theo Pháp. Cộng đồng Âu Châu còn khuyến cáo Anh quốc phải triệt hạ tất cả mọi con bò mắc bệnh. Việc này đã khiến Anh Quốc thiệt hại hàng tỷ đôla.
*
Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng, Người ta xóa sổ được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và dường như là bất trị. Có những bệnh tật tưởng chừng đã biến mất, nhưng nay lại quay trở về với con người.
Hôm nay Đức Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon - Phêrô. Bà đang bị cảm sốt liệt giường. Đức Giêsu cầm tay bà nâng dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi lại tiếp đãi các Ngài.
Người Do thái cho rằng cảm sốt là hình phạt của Thiên Chúa, cũng giống như bệnh dịch (x. Ds. 5, 3). Sau này người ta còn gán cho cảm sốt là do ma quỉ. Trong cái nhìn đó, bệnh tật được coi như bắt nguồn từ ma quỉ và việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng quỉ ma. Vì thế, việc Đức Giêsu chữa bệnh cảm sốt cho nhạc gia ông Simon biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi ách tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Đức Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người mang đến cho họ niềm vui và nụ cười. Người tín hữu Kitô cũng hãy đem niềm vui, niềm hạnh phúc đến cho tha nhân trong môi trường mình sinh sống. E. Lamy khẳng định: "Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng".
Sau khi được chữa lành, bà nhạc ông Simon đã đứng dậy đi phục vụ mọi người. Qua bí tích Rửa tội, chúng ta được xua trừ ma quỷ, được chữa lành bệnh tật, linh hồn, và được trở nên con cái Chúa, chúng ta cũng hãy ra đi phục vụ anh em đồng loại, nhất là những người cô thân cô thế, những kẻ bệnh hoạn tật nguyền. V. Ghika có viết: "Thiên Chúa cho kẻ biết cho, hiến thân cho kẻ hiến thân. Nếu bạn biết gánh lấy niềm đau kẻ khác, thì Thiên Chúa sẽ gánh lấy nỗi khổ của bạn và biến nó thành của Người".
Dường như gánh lấy nỗi đau của kẻ khác, chúng ta cảm thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Dường như hy sinh cho tha nhân bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Dường như sống yêu thương sẽ thấy lòng thanh thản, cuộc đời nhẹ thênh thang.
*
Lạy Chúa, thế giới ngày nay vẫn còn các tà thần ám ảnh: thần của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn còn các bệnh tật lan tràn: bệnh trong lối nghĩ, lối nhìn và lối sống. Xin Chúa thương chữa lành cho tất cả chúng con. Nhất là xin cho các tín hữu chúng con cũng biết xoa dịu, băng bó và chăm sóc những vết thương thể xác và tâm hồn của anh chị em xung quanh. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Cực nhọc
Ba bài đọc hôm nay đều nói về làm việc. Nhưng bài đọc Cựu Ước (trích sách Gióp) thì than rằng làm việc là một gánh nặng quá cực nhọc. Còn 2 bài đọc Tân Ước thì nêu gương Đức Giêsu và thánh Phaolô làm việc cách hăng say và vui vẻ.
Cũng là làm việc, nhưng người thì thấy nặng nhọc, kẻ thì thấy vui vẻ. Tại sao?
- Thánh Phaolô cho biết lý do thứ nhất: làm việc vì bó buộc hay làm vì tự nguyện: "Tôi mà tự ý làm việc thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công"
- Thánh Augustinô đưa ra lý do thứ hai: Ubi amatur, non laboratur (Khi nào người ta yêu thì người ta không cảm thấy nhọc mệt)
6. Phép lạ chữa lành như là dụ ngôn về sự sống lại.
"Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào lòng con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh".
Câu kinh đọc trước rước lễ có thể soi sáng một vài suy tư sau đây về phép lạ chữa bệnh.
Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ chữa bệnh, đó là điều rõ ràng ai cũng biết. Chúng có mặt hầu như ở từng trang Tin mừng. Đàng khác, nếu không chữa bệnh làm sao Đức Giêsu chứng tỏ mình là Đấng Mêssia được? Đó là điều đòi hỏi phải có vào thời của Người, mà người ta còn gặp thấy lại nơi mọi lãnh tụ tôn giáo thời nay.
Nhưng Đức Giêsu không chỉ là một người chuyên chữa bệnh. Chắc chắn không! Người không đến để chữa bệnh nhưng để cứu con người. Nếu có chữa bệnh đi nữa thì cũng là để cứu độ. Người không bảo: "Đức tin đã chữa lành con" nhưng: "Đức tin đã cứu con". Thế mà ơn cứu độ là gì nếu không phải là được sống nhờ sự sống của Đức Kitô, dù khi khỏe mạnh hay ốm đau, cả sau khi chết cũng như lúc còn sống. Phép lạ chữa bệnh chỉ là một thứ dụ ngôn về sự sống lại. Một nhà chú giải hiện nay đã có một nhận định, mà theo sự đánh giá của tôi, đã soi sáng cho tôi rất nhiều. Trong Phụng vụ, vị ấy nói, ngay từ ban đầu người ta chưa hề bao giờ đọc một bài tin mừng về phép lạ Đức Giêsu chữa bệnh để cầu cho bệnh nhân được lành (như thế chẳng khác nào đọc thần chú) nhưng chỉ để công bố sự Phục sinh của Chúa". (H. Denis, trong "100 mots pour dire", Desclée de Brouwer, trang 183. Trích dịch bởi Fiches dominicales, năm B).
7. "Ngài đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện"
Người kia có thói quen một mình đi vào một khu rừng hẻo lánh. Một hôm, người bạn của người đó tò mò đi theo. Khi thấy người này ngồi im trong rừng thì ngạc nhiên hỏi:
- Anh làm gì ở đây thế?
- Tôi cầu nguyện.
- Nhưng cần gì phải đến một nơi xa xôi hẻo lánh như thế này để cầu nguyện chứ?
- Vì ở đây tôi thấy mình gần Chúa hơn.
- Nhưng Chúa ở khắp mọi nơi kia mà. Ở đâu mà Chúa chẳng gần ta.
- Chúa thì như thế thật, nhưng tôi thì không như thế.
Đành rằng Chúa ở khắp mọi nơi nên ở đâu ta cũng có thể gặp Chúa, tuy nhiên nếu thỉnh thoảng ta lui vào một nơi yên tĩnh nào đó thì ta sẽ cảm thấy Chúa gần gũi hơn và thân thiết hơn. Ở những nơi yên tĩnh như thế, một mặt tất cả mọi sự đều nhắc chúng ta nhớ đến sự hiện diện của Chúa, từ một làm gió, một cánh hoa, một dòng nước, một tiếng chim hót cho đến cả sự im lặng; và mặt khác con người chúng ta thư thái hơn, bình lặng hơn nên dễ cởi mở tấm lòng ra với Ngài hơn. (Viết theo Flor Mc Carthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Lao động là nhọc nhằn, nhưng lao động cũng là nguồn vui, là tiền đề cho cuộc sống ấm no hạnh phúc, và nhất là lao động tạo dịp cho chúng ta góp phần vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây:
1. Ngày xưa Đức Giêsu đã bảo các môn đệ rằng "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành thị lân cận để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Ngày nay Hội Thánh tiếp tục làm theo lời dạy ấy của Chúa. Chúng ta hãy cầu xin cho công cuộc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh được nhiều thuận lợi và nhiều kết quả.
2. Đất nước chúng ta còn nghèo. Rất nhiều người chưa có công ăn việc làm xứng đáng và đủ nuôi sống gia đình mình. Chúng ta hãy cầu xin cho các vị lãnh đạo đất nước có những đường lối chính sách đem lại công ăn việc làm cho mọi công dân, để cuộc sống mọi người đều ấm no hạnh phúc.
3. Chúng ta hãy đặc biệt nhớ đến những người thất nghiệp và những người vì hoàn cảnh bó buộc phải làm những công việc không xứng với nhân phẩm và đạo đức. Xin Chúa giúp cho những anh chị em ấy sớm thoát khỏi tình trạng khốn khổ hiện tại.
4. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho mọi người trong cộng đồng giáo xứ chúng ta biết siêng năng làm việc, để vừa nuôi sống bản thân mình, vừa góp phần xây dựng xã hội và Giáo Hội.
CT: Lạy Chúa, Chúa đã nêu gương cần cù làm việc từ sáng đến tối; Chúa làm việc không phải vì bản thân Chúa mà còn để cứu giúp mọi người. Chúng con xin dâng lên Chúa những việc làm vất vả hằng ngày của chúng con. Xin Chúa thánh hóa những việc làm ấy và cho chúng sinh nhiều hoa quả tốt lành. Chúng con cầu xin nhờ công nghiệp Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy cầu xin với Thiên Chúa là Cha chúng ta, xin Ngài thêm sức cho chúng ta có thể chu toàn mọi công việc chúng ta phải làm trong cuộc sống, đồng thời cũng xin Ngài cứu chúng ta khỏi mọi bệnh tật và mọi sự dữ.
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin thêm sức cho chúng con gánh vác những lao nhọc hằng ngày, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an..."
VII. Giải tán
Với ý thức rằng làm việc là cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, và với sự trợ giúp của Ngài, chúng ta hãy hăng hái trở về với cuộc sống và tích cực chu toàn những công việc của chúng ta.
9.Đức Giêsu: con người và hành động--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Với Kitô hữu, Đức Giêsu là Đấng rất đặc biệt, Ngài là trung gian giữa con người và Thiên Chúa, Ngài là đường dẫn con người tới với Thiên Chúa, và Ngài cũng chính là sự sống. Trong cuộc sống bình thường của Ngài, hàm chứa sự sống vĩnh cửu mà mỗi Kitô hữu được mời gọi để nhận ra mầm sống vĩnh cửu nơi cuộc đời mình.
1) Đức Giêsu giảng dạy nơi hội đường Do Thái
Đức Giêsu giảng dạy ở bất cứ đâu: ở hội đường (Mc. 1, 21), tại tư gia (Mc. 2, 2), ngoài bờ biển (Mc.2, 13). Đức Giêsu rao giảng ở bất cứ chỗ nào Ngài có thể rao giảng được. Có thể nói, nghề của Đức Giêsu là rao giảng (Mc. 1, 38).
Đức Giêsu giảng gì? Đâu là nội dung điều Đức Giêsu rao giảng? Đức Giêsu rao giảng cho người ta biết Thiên Chúa là ai. Ngài là Đấng yêu thương mọi người, và mời gọi người ta tin tưởng phó thác cuộc đời họ cho Thiên Chúa tình yêu (Mt. 6, 25tt). Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nên mọi người hãy yêu thương nhau (Mt. 5, 43-48). Hãy trở nên trọn lành như Thiên Chúa là Đấng trọn lành (Mt. 5, 48).
Nếu chỉ căn cứ vào Tin Mừng, chúng ta thấy những điều Đức Giêsu rao giảng không nhiều lắm. Có thể vì các tông đồ không có tài nhớ, nên không kể lại được nhiều; nhưng cũng có thể chỉ vì nội dung Đức Giêsu rao giảng cũng đơn sơ, vì điều quan trọng thì không nhiều. Biết là điều rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn lại là sống điều mình biết. Một khi người ta biết Thiên Chúa là ai một cách chân thực, người ta sẽ sống trong an bình và hạnh phúc hơn.
2) Người ta tuôn tới với Đức Giêsu để được chữa lành
Tin Mừng hôm nay cho thấy dân chúng tuốn tới với Đức Giêsu để được Ngài chữa lành mọi thứ bệnh tật. Có lẽ với dân chúng, nghe rao giảng cũng là một điều quan trọng, nhưng quan trọng hơn là những gì thật cụ thể và liên hệ đến chính bản thân con người. Đức Giêsu cũng hành xử một cách rất “người”. Làm được gì, Ngài làm cho con người. Một cách cụ thể, Ngài thương cảm và chữa lành tật bệnh của những người tin vào Ngài, đến với Ngài.
Bệnh tật, là cái gì rất tự nhiên và tuân theo luật lệ thiên nhiên. Những gì thuộc vật chất hữu hình đều biến đổi với thời gian, có trẻ có già, có sinh có tử. Đây là ý định của Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu chữa lành bệnh tật, là Ngài diễn tả lòng thương cảm của Ngài đối với con người. Hơn nữa, khi chữa lành bệnh tật, Ngài mặc khải cho con người chân tướng của Ngài. Một thầy thuốc chữa lành người khác, là người biết vận dụng những dược chất nơi những cây cỏ để chữa trị bệnh tật; còn Đức Giêsu Ngài chỉ dùng lời, nghĩa là, Ngài dùng quyền năng được ban cho Ngài hoặc chính Ngài có.
Bệnh tật cũng là yếu tố giúp con người tới gần Thiên Chúa hơn; bệnh tật cũng là cơ hội để giúp con người nhận ra Thiên Chúa luôn quan tâm và săn sóc con người. Trong nhãn quan của những người thuộc về Thiên Chúa, bệnh tật hay sức khỏe không có giá trị tuyệt đối, nên mỗi người hãy bình tâm với bệnh tật. Điều quan trọng là, qua sức khỏe hay bệnh tật, con người vẫn nhận ra sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người.
3) Đức Giêsu cầu nguyện
Cuộc sống của Đức Giêsu dường như bị chi phối đặc biệt bởi tình yêu đối với con người. Vì lợi ích của con người, Ngài rao giảng về Thiên Chúa cho dân chúng. Đứng trước nỗi khổ của dân, Ngài chữa lành bệnh tật cho họ, như một dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương dân Người. Nhưng chỉ như vậy thôi chưa đủ, Ngài đi tới nơi hoang vắng cầu nguyện từ sáng sớm (Mc.1, 35).
Hội Thánh dạy Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể, là Thiên Chúa; thế nhưng, chúng ta phải hiểu đúng giáo huấn của Hội Thánh. Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu là một Đấng khác với Thiên Chúa qua việc Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa. Đức Giêsu là một với Thiên Chúa, nhưng lại là Đấng khác với Thiên Chúa. Cái khác ở đây các nhà thần học dùng từ ngữ “ngôi vị” để diễn tả. Đức Giêsu không bao giờ LÀ Chúa Cha. Đức Giêsu là Ngôi Hai, hay Ngôi Lời Thiên Chúa, nhưng ở đây chữ ngôi vị khác với chữ “ngôi vị, bản vị” (person) được dùng cho con người. Tôi và bạn, chúng ta là hai ngôi vị độc lập và tách biệt tuy dù chúng ta cùng một bản tính con người; nhưng điều này không đúng khi nói về Đức Giêsu- “ngôi hai” Thiên Chúa và Thiên Chúa Ngôi Cha. Nếu chúng ta hiểu Đức Giêsu và Chúa Cha là hai ngôi vị, tương tự như tôi và bạn là hai ngôi vị độc lập nhưng cùng một bản tính (một đàng là bản tính người, và một đàng là bản tính Thiên Chúa) thì lúc đó chúng ta hiểu Đức Giêsu và Chúa Cha là hai chúa khác nhau; điều này không đúng giáo huấn của Giáo Hội. Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha là hai ngôi vị, nhưng cả hai không chỉ là cùng bản tính Thiên Chúa mà Đức Giêsu còn tùy thuộc Thiên Chúa đến độ không thể nói là hai Chúa, mà phải nói là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, chỉ có một hiện hữu Thiên Chúa duy nhất. Điều này Giáo Hội diễn tả bằng từ ngữ “không có ngôi nào có trước ngôi nào tuy dù Chúa Cha sinh Chúa Con, không có ngôi nào hơn kém ngôi nào.” Đây là những từ ngữ để diễn tả về mầu nhiệm Giêsu, con người vô cùng đặc biệt mà dường như không từ ngữ nào diễn tả hoàn toàn được. Hội Thánh cũng cố gắng diễn tả hết sức mình, để các tín hữu hiểu hơn về Đức Giêsu Kitô thôi.
Đức Giêsu cần cầu nguyện, vì dường như cầu nguyện làm Ngài là Ngài hơn, giúp Ngài kết hợp với Thiên Chúa hơn, làm Ngài triển nở và trọn vẹn hơn. Cầu nguyện diễn tả Ngài là một với Thiên Chúa tuy dù lúc nào Ngài cũng kết hợp với Thiên Chúa. Cầu nguyện diễn tả Ngài tùy thuộc hoàn toàn Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa muốn gì Ngài sẽ thực hiện như vậy. Qua cầu nguyện, Ngài là Ngài, Ngài triển nở và hạnh phúc. Chính khi Đức Giêsu tùy thuộc Thiên Chúa hoàn toàn, cho thấy Ngài là một với Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta khi cầu nguyện, chúng ta được được nên giống Đức Giêsu hơn, làm một với Thiên Chúa hơn, trở nên con của Thiên Chúa hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, cầu nguyện có được lợi ích gì không? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa hoặc những lợi ích bạn được qua việc cầu nguyện.
2. Có điểm nào cuộc sống của bạn giống cuộc sống của Đức Giêsu? Đức Giêsu và bạn, giống nhau và khác nhau ở những điểm nào?
10.Nhiệt tình chu toàn sứ vụ loan báo tin mừng--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Mác-cô tường thuật một ngày làm việc tiêu biểu của Đức Giêsu ở thành Ca-phác-na-um: Người giảng dạy trong hội đường vào ngày Sa-bát (c. 21); Chữa một người bị thần ô uế nhập (c. 23-28); Đến thăm nhà hai anh em Si-mon và An-rê và chữa bệnh cảm sốt cho bà mẹ vợ của ông Si-mon (c. 29-32); Buổi chiều, Người tiếp tục chữa lành nhiều kẻ ốm đau và người bị quỉ ám (c. 32-34). Sáng sớm Người đã thức dậy và đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha (c.35). Người luôn ý thức chu toàn sứ mệnh được Cha trao phó là đi khắp miền Ga-li-lê giảng đạo và trừ quỉ (c. 39).
CHÚ THÍCH:
- C 29-30: + Nhà hai ông Si-mon và An-rê: Si-mon và An-rê quê ở Bét-sai-đa (x. Ga 1,44), nhưng cư trú tại nhà ở thành Ca-phác-na-um để hành nghề chài lưới. + Bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt nằm trên giường: Người Do Thái thường cho bệnh tật là do ma quỉ gây nên và là dấu chỉ Đức Chúa phạt tội nhân (x. Lv 26,16). Như thế, việc chữa lành bà mẹ vợ của Si-mon Phê-rô cho thấy thời đại Thiên Sai mà ngôn sứ I-sai-a loan báo đã khởi đầu (x. Is 29,18).
- C 31-32: + Cầm lấy tay bà mà đỡ dậy: Cầm tay là cử chỉ Đức Giêsu làm khi cho kẻ chết sống lại (x. Mc 5,41), kẻ bị quỉ ám được chữa lành (x. Mc 9,27). Nâng đỡ dậy là một hành động Đức Giêsu thường làm cho một người đau nặng. Người bị liệt giường tượng trưng cho sự chết, đã được Đức Giêsu nâng dậy, tượng trưng cho sự sống lại. + Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài: Phục vụ ở đây cụ thể là nấu nướng, dọn bữa để tiếp đãi Đức Giêsu và các môn đệ. Qua đó, ta có thể rút ra bài học: Con người vốn mỏng dòn yếu đuối. Nhưng nếu được ơn Chúa giúp sức nhờ siêng năng lãnh nhận các phép Bí Tích, thì sẽ trở nên mạnh khỏe hơn và sẵn sàng dấn thân phục vụ tha nhân hơn (x. Ga 13,14-15). + Chiều đến, khi mặt trời lặn: Tức khoảng 6 giờ chiều, hết thời gian hưu lễ của ngày Sa-bát, để bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần.
- C 33-34: + Người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỉ ám đến cho Người: Đây là kiểu nói phóng đại để nhấn mạnh đến tính phổ quát của ơn cứu độ. + Nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật: Đức Giêsu đến để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân: Người không những cứu chữa các bệnh tật về thể xác mà còn chữa cả những bệnh tinh thần như xua trừ ma quỉ ra khỏi người bị chúng nhập vào. + Không cho ma quỉ nói vì chúng biết Người là ai: Đức Giêsu cấm quỷ không được tiết lộ về sứ vụ Thiên Sai của Người.
- C 35-37: + Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện: Trong thời gian giảng đạo, Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu năng cầu nguyện với Chúa Cha. Nhất là trong những trường hợp quan trọng: Trong cuộc thần hiện sau khi chịu phép Rửa (x. Lc 3,21); Trước khi tuyển chọn 12 tông đồ (x. Lc 6,12); Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Mc 6,46); Trước khi Phê-rô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa (x. Lc 9,18); Khi biến hình trên núi (x. Lc 9,29); Trước giờ chịu khổ nạn (x. Mt 26,39)...
- C 38-39: + Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm Người: Đi tìm Chúa là thái độ biểu lộ sự hâm mộ của các tông đồ đối với Thầy Giêsu. + “Mọi người đang tìm Thầy đấy”: Dân chúng cũng hâm mộ và đi tìm gặp Đức Giêsu để nghe Người giảng dạy và được Người chữa lành bệnh tật. + “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”: Tin Mừng được rao giảng không phải cho một ít người hay chỉ dành cho dân Do thái... nhưng là cho hết mọi dân tộc trên thế giới (x. Mt 28,19; Cv 1,8).
HỎI ĐÁP:
HỎI 1: Tại sao Đức Giêsu lại cấm ma quỉ nói ra sự thật: Người là Đấng Thiên Sai?
ĐÁP:
Vì người Do Thái lúc đó đang trông chờ Đấng Thiên Sai đến để giải phóng họ thoát ách thống trị của đế quốc Rô-ma, giống như Môi-sê đã từng ra tay cứu con cháu Gia-cóp thoát ách nô lệ cho dân Ai Cập xưa. Nhưng sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giêsu theo Ý Chúa Cha lại không nhằm đáp ứng ước mong của người Do Thái. Sứ mệnh ấy đã được I-sai-a tuyên sấm là: rao giảng Tin Mừng cho người khiêm hạ nghèo khó, công bố cho người đang bị đau khổ vì bệnh tật, tù đày, áp bức bất công... một thời đại mới đầy niềm vui, hạnh phúc, ân sủng và bình an (x. Lc 4,18-19). Do đó, Đức Giêsu không muốn cho ma quỉ làm hỏng kế hoạch cứu thế mà Người đã lãnh nhận. Nếu để chúng tuyên xưng Người là Đấng Thiên Sai khi chưa kịp chuẩn bị cho dân chúng hiểu đúng sứ mệnh Thiên Sai ấy, thì họ sẽ bắt Người tôn lên làm Vua (x. Ga 6,15), và quân Rô-ma sẽ kéo đến phá hủy Đền Thờ và tiêu diệt toàn dân (x. Ga 11,47-48). Thực tế đã chứng minh sự e dè này là có cơ sở: Vào năm 70, khi dân Do Thái không chịu nổi sự áp bức, đã nổi dậy chống lại nhà cầm quyền Rô-ma. Lập tức quân Rô-ma đã kéo đến vây hãm thủ đô Giê-ru-sa-lem. Cuối cùng họ đã chiếm được thành này. Họ phóng lửa đốt cháy cả đền thờ, tàn sát quân lính còn sống và bắt mọi thành phần dân Do Thái phải rời bỏ quê hương, phân tán đi khắp nơi trên thế giới. Tai họa này đã được Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết và dùng nó như một hình ảnh để mặc khải về ngày tận thế. Người cũng dạy cho các môn đệ biết phải làm gì để có thể tồn tại trong những ngày ấy (x. Mt 24,15-21).
HỎI 2: Tại sao Đức Giêsu là Chúa Con ngang hàng với Chúa Cha, mà lại phải cầu xin với Chúa Cha?
ĐÁP:
Đức Giêsu chỉ có một Ngôi là Ngôi Con hay Ngôi Lời Thiên Chúa (x. Ga 1,14). Nhưng Người lại có hai bản tính: Một là Thiên Chúa, hai là loài người. Là “Con Thiên Chúa”, Đức Giêsu cầu nguyện để tâm sự với Chúa Cha, biểu lộ sự hiệp nhất mật thiết giữa Cha và Con (x. Ga 17,1.11.21). Là “Con Người”, Đức Giêsu đại diện cho nhân loại để cầu xin Chúa Cha tha tội và xin cho loài người giao hòa với Chúa Cha. Về vấn đề này, Thánh Phaolô đã dạy như sau: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như một người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quì. Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,8-11).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (36) Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm. (37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (38) Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa. Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. (39) Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ.
2. CÂU CHUYỆN:
1) Giá trị của cầu nguyện: Tiếng còi “Yên Lặng”
Một hôm, do sự mất cảnh giác của viên hoa tiêu, con tàu Victoria của Hải Quân Hoàng Gia Anh đã gặp phải sự cố nghiêm trọng: Tàu bị đụng phải một tảng băng ngầm trên vùng biển Bắc Băng Dương. Vỏ tàu bị bể một miếng lớn, nước từ chỗ bể tràn vào khoang tàu. Lúc ấy, các thủy thủ vừa ăn tối xong và đang dạo mát trên boong. Lúc đầu, khi con tàu vừa bị va chạm, mọi người đều nhớn nhác không biết điều gì mới xảy ra. Rồi khi nghe tin tàu bị va chạm vào tảng băng ngầm và sắp chìm, thì ai nấy đều bị rơi vào cơn hoảng loạn và không biết phải làm gì. Nhưng rồi một hiệu còi đặc biệt mang tên “Còi Yên Lặng” vang lên. Thủy thủ đã được thực tập nhiều lần và đã hiểu rõ ý nghĩa của hiệu còi ấy như sau: “Hãy ngưng tất cả những gì bạn đang làm, ngồi xuống và giữ yên lặng trong giây lát, bình tĩnh xem xét tình trạng bạn đang gặp, và chờ nghe lệnh của thuyền trưởng”. Nhờ tiếng còi, mọi thủy thủ đều làm theo yêu cầu và cuối cùng tai nạn cũng đã được xử lý kịp thời, và con tàu tránh được nguy cơ bị chìm đắm.
Trong đời sống thường nhật, chúng ta cũng thường bị rơi vào tình trạng khẩn cấp không biết phải làm gì. Chẳng hạn: khi đang đi đường tự nhiện bị người khác tông vào mình, hoặc khi tự nhiên bị một người thù ghét công khai khích bác... Bấy giờ điều tốt nhất nên làm là: Hãy giữ bình tĩnh và yên lặng, rồi thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Rồi sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa phán dạy trong tâm hồn. Chúa luôn muốn ta “Tìm làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”. Do đó, ta cần tránh làm những điều xấu khiến người đời khinh thường đạo thánh Chúa. Trái lại cần làm những điều tốt để anh em lương dân nhận biết “Thiên Chúa chính là Tình Yêu” để tôn thờ yêu mến Ngài. Cần làm những điều có lợi chung cho tập thể, và tránh những việc ích kỷ hại nhân. Cần làm những điều “tốt đạo đẹp đời” như làm cho mọi người đều có cơm ăn áo mặc, sống vui tươi hạnh phúc hơn và xứng đáng với nhân phẩm hơn...
2) Giá trị của cầu nguyện: lành bệnh nhờ có bình an trong tâm hồn:
Trong cuốn “Những biến cố trong cuộc đời một bác sĩ”, tác giả là bác sĩ Pôn Tô-mi-ê (Paul Toumier) đã thuật lại câu chuyện sau: “Kết quả cuộc xét nghiệm máu của một bệnh nhân cho thấy anh ta bị chứng thiếu máu trầm trọng. Vì thế tôi đã làm giấy để chuyển anh ta đến Văn Phòng Y Tế Quận để xin nơi đây cho anh được nghỉ việc một thời gian có ăn lương, đồng thời cũng xin Quĩ Bảo Trợ Công Nhân Viên cho phép anh được đi nghỉ 2 tuần để dưỡng bệnh. Nhưng sau đó ba hôm, bệnh nhân kia đã quay lại bệnh viện và đưa cho tôi lá thư của anh bác sĩ bạn tôi, đang làm việc tại Văn Phòng Y Tế. Nội dung lá thư ấy như sau: “Theo đề nghị của anh, tôi đã làm mọi thủ tục để bệnh nhân của anh được nghỉ việc và được đi dưỡng bệnh. Nhưng bệnh nhân lại khai là anh ta đã được khỏi bệnh rồi. Nhưng tôi không tin, và đã cho tái xét nghiệm máu, và quả thật tôi rất ngạc nhiên khi thấy kết quả lần xét nghiệm mới này lại không ăn khớp với kết luận trong bệnh án mà anh đã gửi cho tôi. Vậy đề nghị anh tiến hành xét nghiệm máu thêm một lần nữa trước khi kết luận chính xác về trường hợp đặc biệt này”.
Thật là ngoài sự tưởng tượng của tôi: Kết quả xét nghiệm máu cuối cùng này đúng như lời khai của bệnh nhân là anh ta đã hoàn toàn khỏi bệnh. Tôi hỏi bệnh nhân có uống thuốc hay sử dụng phương thức điều trị nào trong mấy ngày qua không? Anh ta quả quyết là không. Nhưng rồi anh ta cho biết trong mấy ngày vừa qua, mỗi ngày anh ta đã dành ra một tiếng đồng hồ để cầu nguyện với Chúa, và cũng nhờ bầu khí thinh lặng cầu nguyện mà anh ta đã bắt tay hòa giải được với một kẻ đã từng vu khống làm hại anh, khiến anh rất uất ức và quyết tâm trả thù. Giờ đây sau khi làm hoà, anh cảm thấy tâm hồn thanh thản và bình an. Rồi tác giả kết luận: Có nhiều chứng bệnh thể lý sẽ được chữa trị dễ dàng hơn một khi chứng bệnh trong tâm hồn được chữa lành trước.
3) Phải cải tạo thế giới bắt đầu từ bản thân mình:
Vào lúc sắp chết, một nhà hiền triết đã khiêm tốn thú nhận như sau: “Lúc thiếu thời, tôi là một người đầy nhiệt huyết và có ước vọng cao. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ, tôi đã xin Chúa cho mình có khả năng để cải tạo thế giới nên tốt, nghĩa là: không còn chiến tranh thù hận do những tranh chấp về quyền lợi giữa các quốc gia. Khi đã sống được nửa đời người, tôi tự xét và thấy mình vẫn chưa làm được điều gì đáng kể, chưa làm được gì để giúp cho thế giới được tốt hơn! Tôi đành đổi lại lời cầu nguyện cho phù hợp với thực tế như sau: “Lạy Chúa, con chỉ dám xin Chúa giúp con cải tạo những người thân và bạn bè chung quanh con nên tốt hơn mà thôi”. Nhưng rồi khi về già, thời gian sống chẳng còn được bao lâu, tôi tự xét và thấy mình đã quá ảo tưởng khi muốn cải tạo tha nhân. Vì trong suốt thời gian qua, tôi đã chẳng làm được gì giúp ích cho tha nhân, và cũng chẳng biến đổi được một ai nên tốt lành hơn! Và một lần nữa, tôi đành phải thay đổi lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin giúp con biến đổi chính bản thân con”. Giả như ngay từ tuổi thanh xuân tôi đã biết cầu nguyện khiêm tốn và quyết tâm tự cải tạo trước hết từ bản thân mình, thì có lẽ giờ đây tôi đã không phải hối tiếc vì đã sống cả một đời vô ích!
3. THẢO LUẬN: 1) Theo bạn thì nhà hiền triết trong câu chuyện trên quyết định rút bớt những điều quyết tâm là đúng hay sai? Câu: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” hiện nay còn có giá trị không? Tại sao? 2) Nếu bạn muốn góp phần vào việc cải thiện xã hội cho an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn... thì phải bắt đầu từ đâu và bằng cách nào?
4. SUY NIÊM:
Tin Mừng hôm nay tóm tắt một ngày làm việc vất vả của Đức Giêsu từ sáng sớm đến tối đêm. Qua đó, Đức Giêsu đã nêu ra những chỉ dẫn để thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng.
1) Cần phải chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng:
Ngày Sab-bát, Đức Giêsu đến Hội đường thành Ca-phác-na-um và được mời đọc Sách Thánh và giải nghĩa Kinh Thánh. Sứ vụ loan báo Tin Mừng là một phần quan trọng của đời sống người môn đệ Đức Giêsu. Những ai muốn làm môn đệ của Đức Giêsu phải hăng say rao giảng Lời Chúa cho mọi người, để nhờ lắng nghe và thực hành Lời Chúa, người ta mới biết sự thật về Thiên Chúa, biết được con đường mình phải đi. Bấy giờ Lời Chúa sẽ trở thành ánh sáng soi đường hướng dẫn tư tưởng, lời nói, hành động của người tín hữu giúp họ có Sự Sống đời đời. Mỗi người tín hữu cần ý thức sứ vụ của mình là loan báo Tin Mừng như thánh Phaolo đã nói trong bài đọc II hôm nay: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16)
2) Tin Mừng phải hướng đến việc giải thoát con người:
Ma quỉ luôn muốn giam cầm con người trong vòng nô lệ. Bị ma quỉ trói buộc con người sẽ bị mất hết ý chí, không thể tự làm điều lành, mà luôn phải làm theo lệnh truyền của ma quỉ. Tin Mừng của Đức Giêsu có sức mạnh giải thoát con người khỏi sự trói buộc của ma quỉ, khỏi những phong tục mê tín lạc hậu. Nhờ đó con người có thể vươn lên, sống xứng đáng với phẩm giá làm con Thiên Chúa. Bà nhạc của Si-mon là một bằng chứng: Khi được giải thoát khỏi bệnh sốt, bà liền trỗi dậy làm bữa ăn phục vụ Chúa va các tông đồ.
3) Tin Mừng phải được loan báo nhờ Chúa Thánh Thần trợ giúp:
Sáng sớm, Đức Giêsu đã ra nơi vắng vẻ để cầu nguyện với Chúa Cha. Người đã vất vả cả ngày để rao giảng chữa bệnh và trừ quỷ, nên Người đã dành riêng buổi sáng sớm để cầu nguyện với Chúa Cha. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của cầu nguyện. Đức Giêsu cầu nguyện vì muốn được kết hiệp mật thiết với Chúa Cha, để tìm thánh ý Chúa Cha và để có nguồn sức mạnh giúp cho các hoạt động loan báo Tin Mừng. Các tín hữu hôm nay muốn dấn thân thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng, mở mang Nước Trời cũng phải biết noi gương Đức Giêsu cầu nguyện để đón nhận được sức mạnh từ nơi Chúa Cha. Việc chăm chỉ học sống Lời Chúa rất cần để hiểu biết thánh ý Thiên Chúa và chia sẻ tình thương của Chúa cho tha nhân.
4) Quảng đại cho đi là phương thế loan Tin Mừng hữu hiệu nhất:
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu sau khi ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, đã chữa khỏi bệnh sốt cho bà mẹ vợ của ông Phê-rô, đã chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Chúng ta dù có đang bị đau khổ, thì cũng sẽ được vơi bớt nếu biết mở rộng lòng để cho đi, biết ra khỏi mình để đến với tha nhân. Sức nặng của thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng nếu chúng ta biết đến cầu nguyện với Chúa Giêsu và biết quên mình xoa dịu nỗi đau của tha nhân. Không ai quá nghèo đến độ không thể cho đi một điều gì đó: Một nụ cười cảm thông, một ánh mắt khích lệ động viên, một bàn tay nâng đỡ, một chén cơm manh áo cho người nghèo khó kèm theo tấm lòng yêu thương... Chính trong lúc cho đi là lúc chúng ta sẽ được nhận lại như lời Chúa Giêsu: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35) và như lời cầu trong kinh hoà bình của thánh Phan-xi-cô: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, Xin hãy dừng bước chân con, xin hãy dừng bước chân con! Xin cho thần kinh con đang suy nhược được mạnh mẽ, cho gân cốt con đang rệu rã được hồi phục, cho trái tim con đang lo buồn được an ủi, cho tâm hồn con đang xáo trộn được bình an... Xin dạy con biết dừng lại công việc đang làm trong vài ba phút ngắn ngủi để con trở về đối diện với lòng mình, lắng nghe lời Chúa và từ đó rút ra sự can đảm mới, sức mạnh mới và nguồn sống mới để đạt được kết quả tốt hơn. Lạy Chúa, xin hãy dừng bước chân con!
X. Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
11.Hướng nhìn lên Giêsu--Lm. Xuân Hy Vọng
Anh chị em rất thân mến, trong bốn cuốn sách Phúc Âm, chi tiết về gia đình của các Tông đồ ít khi nào được tường thuật, đề cập đến; nhưng đoạn Tin Mừng hôm nay (Mc 1, 29-39) đã thuật lại một trong những sự kiện hiếm hoi, và điều này không khỏi làm chúng ta thắc mắc, tự hỏi: liệu Thánh sử Mác-cô muốn nhắn gửi chúng ta điều gì khi thuật lại sự kiện Chúa Giê-su đến thăm bà nhạc phụ của Si-mon (Phê-rô)? Phải chăng, Ngài muốn chúng ta quan sát thật kỹ, hướng nhìn về những hành động của Chúa Giê-su khi Người đến thăm bệnh nhân, đặc biệt là mẹ vợ của Si-mon (Phê-rô)? Để rồi, chúng ta học hỏi nơi Người điều gì đó chăng?
Trong anh chị em, nhiều vị đã có kinh nghiệm trong việc thăm viếng bệnh nhân, thăm những người già nua, neo đơn, không người chăm sóc, v.v...Đó là điều tốt, phải đạo nên làm. Tuy nhiên, các bài đọc Phụng vụ hôm nay giúp chúng ta đào sâu công việc Tông đồ thăm viếng bệnh nhân hơn, qua gương sống của Chúa Giê-su khi Người viếng thăm bà nhạc phụ của Si-mon (Phê-rô) “...tiến lại gần, Người cầm tay, nâng đỡ dậy” (x. Mc 1,31).
Thứ nhất, “tiến lại gần”. Hành động này tuy đơn giản, nhưng khi áp dụng trên thực tế thì khó biết bao. Chợt nghĩ chỉ là đưa chân bước, tiến lại gần người anh chị em của mình thôi mà, đâu có khó gì!!! Đối với người khác, tiến tới gần người anh chị em mình thì chẳng gì phải lo!!! Thôi thì ‘nhắm mắt, đưa chân’ ắt sẽ tiến lại gần người anh chị em mình, có gì phải sợ nhỉ!!! Hành động ‘tiến lại gần’ của Chúa Giê-su không đơn thuần vì trách nhiệm, nghĩa vụ mà phải đến viếng thăm; nhưng thiết nghĩ: Ngài tiến gần bà nhạc phụ của Si-mon với cả con tim và con người của Ngài. Để làm được như vậy, chúng ta phải chiến thắng chính bản thân, phải bỏ mình, ra khỏi những toan tính, suy tưởng, lo lắng riêng tư, phải ra khỏi nơi ‘chăn ấm, nệm êm’ của lòng mình, dám mạo hiểm, chấp nhận những thách đố có thể xảy ra ngoài ý muốn. Vừa qua trong một cuộc tiếp kiến chung, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã đến chào một người đàn ông với khuôn mặt bị biến dạng. Khi trực diện với những gì ghê sợ, rùng rợn, con người chúng ta thường có khuynh hướng tháo lui, tránh né, chốn chạy..., nhưng Đức Thánh Cha đã tiến đến, ôm choàng lấy ông với tất cả tâm hồn của người Mục Tử, vị đại diện Chúa Ki-tô ở trần gian này. Đứng trước những người dị hình dị dạng, bệnh truyền nhiễm, những người mắc bệnh nguy cơ lây nhiễm cao, chúng ta có thể tiến lại gần họ với cả con tim mình chăng? Chúng ta có thể ra khỏi con người đầy suy tính của mình để đến với anh chị em mình, và biết chấp nhận họ không?
Thứ hai, “Người cầm tay”. Thật vậy, hành động này chỉ xảy ra khi cử chỉ “tiến lại gần” được thực hiện. Chúng ta không thể cầm tay ai đó ở tư thế đằng xa, hoặc cầm tay họ như một ‘nụ hôn gió’ hay ‘mi gió’ mà thường được ví von!!! Hơn nữa, cũng không thể nào nhờ ai đó ‘cầm tay’ người anh chị em giùm mình được! Hành động này đòi hỏi chúng ta phải trực diện với anh chị em. Thứ đến, tình trạng của bệnh nhân, những người được viếng thăm không hoàn toàn khoẻ mạnh, tráng kiện như ta, cho nên để ‘cầm lấy tay’ người anh chị em mình, chúng ta phải đặt mình vào trạng huống, hiện tình, tâm tư, lối suy nghĩ...của họ, và chỉ khi ấy, chúng ta mới có thể ‘chạm đến’ con tim, mới có thể cảm thông, lắng nghe những tâm sự, với cả ưu tư, lo lắng của họ. Về điểm này, trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô khuyên nhủ mỗi chúng ta như sau: “mặc dầu tôi tự do đối với tất cả mọi người, nhưng tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người...tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau,...tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi” (x. 1Cr 9,19.22). Theo Ngài, vì lợi ích của anh chị em, để mọi người được thông phần vào ơn cứu rỗi, Ngài đã ‘trở nên mọi sự đối với tất cả mọi người’ để Tin mừng được họ lắng nghe, đón nhận. Vì thế, đối với Ngài “rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (x. 1Cr 9,16)
Thứ ba, “nâng đỡ dậy”. Cử chỉ sau cùng này liên quan mật thiết với hai hành động trên. Tương tự, nếu chưa ‘tiến lại gần’ và ‘cầm tay’ anh chị em mình, thì ắt hẳn chúng ta không thể ‘nâng đỡ’ họ được. Chúa Giê-su đã ân cần tiến đến, cầm lấy tay và nâng đỡ bà nhạc phụ của Si-mon dậy với cả lòng mến của một vị Thiên Chúa xuống thế làm người. Người chữa lành bà với tất cả niềm cảm thông sâu xa của Con Người, và qua Người, mọi người được nhìn thấy, cảm nhận, tiếp xúc với chính vị Thiên Chúa gần gũi, trìu mến, lân tuất vô bờ. Một khi, chúng ta bỏ mình, đặt mình vào hoàn cảnh, đời sống của anh chị em, thì chỉ khi ấy, chúng ta mới có thể khuyến khích, nâng đỡ, cộng tác, động viên họ một cách hữu hiệu; và trong khoảnh khắc đó, chúng ta mới thực sự sống và rao giảng Tin Mừng mà thôi. Nào còn chần chờ gì nữa, nếu không thực hiện bây giờ thì đến khi nào chúng ta mới ra đi, sống chứng tá cho Thiên Chúa – một Thiên Chúa cao cả, nhưng lại thật gần gũi, yêu thương chúng ta liên lỉ, không chút than phiền. Hãy cùng tôi lên đường, sống Tin mừng, sống tươi vui, chia san từ ngay bây giờ vì “đời người chỉ là hơi thở” (x. G 7, 7), “vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu” (x. Tv 144, 4).
Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết mở lòng, bỏ mình, đến với anh chị em; biết quên đi lợi ích cá nhân, biết cảm thông, thấu hiếu anh chị em; biết dâng cho Chúa ưu tư, nguyện vọng cũng như lo lắng của bản thân, để chấp nhận, khuyến khích, cộng tác, nâng đỡ anh chị em qua mọi phương diện. Sau cùng, xin cho chúng con luôn hướng nhìn lên Chúa, để rồi luôn biết cậy trông vào Ngài.
Như Người “tiến lại gần”
Xin cho con ân cần.
“Người cầm tay” con người
Ban cho con nụ cười.
“Nâng đỡ dậy” anh (chị) em
Sống một đời trôi êm. Amen!
12.Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Tết đến Xuân về, ai ai trong chúng ta cũng đang nao nức, bôn ba ngược xuôi, lo toan - kỳ vọng nhiều thứ, đặc biệt hơn là với những bậc cha mẹ và những người có hữu trách, để mong làm sao gia đình và những người thân của mình có thể hưởng được những thứ tốt nhất như phúc lộc, tiền bạc, áo quần, đồ ăn - thức uống, trang trí-bày biện… Trong muôn vàn thứ bề bộn, lo toan ấy; vậy thưa anh chị em, đâu là mối quan tâm lớn nhất của chúng ta hiện nay? Tôi thiết nghĩ và tin rằng, mối quan tâm trọng yếu nhất đó chính là tình yêu thương mà bạn và tôi đang dành cho những người thân trong qua đình, những người mà mình yêu thương-phục vụ, để làm sao năm Tân Sửu này, ai cũng cảm nhận được nhiều niềm vui, bình an, hạnh phúc và ơn thánh của Chúa Xuân ban tặng.
Nhưng thưa ACE, giữa biết bao nhiêu thao thức, nỗ lực phấn đấu như vậy, hôm nay Lời Chúa như đang muốn nhắc nhở, hướng dẫn và soi sáng cho chúng ta hai điều này: Trước hết, dẫu phải lo toan nhiều thứ, nhưng sức của con người của chúng ta cũng có giới hạn, chúng ta không thể nào làm được gì tốt hay có điều gì quý báu để trao ban nếu chúng ta không nhận được từ Chúa. Như vậy, chúng ta cần có thời giờ để hồi tâm, nhận ra đâu là những việc tốt nhất mà Chúa muốn nơi chúng ta. Thứ đến, dẫu chúng ta cố gắng, nỗ lực để làm tốt công việc, nhưng Thiên Chúa là Đấng yêu thương, ban phát những ơn thánh, phúc lành của Ngài cho chúng ta, nên mọi sự cần phải quy hướng về Ngài.
Trong bài đọc một, chúng ta nhận thấy kinh nghiệm sống của ông Gióp, người đã nêu gương, soi dẫn cho chúng ta. Trong lời cầu nguyện của Gióp, ông nhận ra được những giới hạn của mình. Dẫu từ sáng sớm mở mắt thức dậy, cho đến chiều tà đi nghĩ, ông đã cố gắng hết sức để chu toàn bổn phận trong vai trò của một người cha, người trụ cột trong gia đình; nói đúng hơn, ông là người quá tuyệt vời, chẳng có một điều gì phải phàn nàn hay than trách về Gióp cả. Việc ông làm rất đẹp lòng Chúa, đã hài lòng mọi người, đến nỗi nhiều người phải thèm và ghen tức với ông. Thế nhưng, giữa những thành công tốt đẹp như vậy, bỗng chốc mọi thứ lại tan biến, vì những tai họa mà Chúa đã cho xảy đến với ông và gia đình. Trong đau khổ, thử thách như vậy, ông đã không hề oán trách Chúa, ông không mất niềm tin vào Chúa, ông vẫn cố gắng để đi tìm hạnh phúc vì “mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc” do mình tự tạo ra. Như vậy hạnh phúc đích thực đến từ đâu, hay ai là Đấng ban cho con người được hạnh phúc mà không phải là Thiên Chúa?
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa chữa lành cho nhiều người bệnh từ khắp nơi tuôn đến cùng Ngài. Chúa Giêsu cũng như các môn đệ cũng đã phải rất tất bật, vất vả để làm sao có thể ban ơn chữa lành cho nhiều người và giảng dạy cho dân chúng biết những giáo huấn yêu thương, cứu độ của Thiên Chúa. Ở đây, nơi sứ vụ của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra được bài học rất hữu ích này. Trước hết, chỉ nơi Thiên Chúa là Cha yêu thương và qua Đức Giêsu Kitô, chúng ta mới được đón nhận ơn phúc chữa lành, biến đổi và cứu sống. Hơn thế nữa, với Chúa Giêsu, nhờ sống kết hiệp với Chúa Cha, nên Ngài đã ý thức được rằng, tình yêu thương mà Thiên Chúa Cha đã ban tặng cho nhân loại cần phải thể hiện nơi sứ vụ của mình, cho nên dù phải làm việc vất vả, nhưng Chúa Giêsu luôn phải tận dụng thời giờ để gặp gỡ với Chúa Cha, để qua cầu nguyện và tâm sự với Chúa Cha, hay đúng hơn để tôn vinh chúc tụng Chúa Cha. Nhờ thời gian mật thiết vói Chúa Cha như vậy, Chúa Giêsu mới có sức mạnh, lửa nhiệt thành để luôn làm vinh danh Chúa Cha và đem lại ơn ích tốt nhất cho những người mà Chúa Cha đã ủy thác cho Ngài để yêu thương, phục vụ.
ACE rất thân mến, dẫu trong lúc này ai cũng phải lo lắng để vừa chuẩn bị đón Tết, vui Xuân, vừa phải lo lắng, đề phòng để bảo vệ sức khỏe trước dịch bệnh nguy hiểm. Nhưng điều chúng ta cần phải quan tâm chính là: “Khi tôi đã tranh thủ cả ngày lẫn đêm, đầu tắt mặt tối để lo lắng tất bật làm việc, nhưng rồi sau mọi sự, tôi sẽ được gì?” Tôi có dành chút thời giờ nào cho Chúa, hay tôi đã quên mất Chúa? Vì thực ra, dẫu cho cuộc sống của tôi đang còn nhiều thứ phải đương đầu và có biết bao nhiêu công việc, nhiệm vụ mà tôi cần phải chu toàn, nhưng nếu lòng trí tôi không có ngọn lửa của lòng mến Chúa thì chắc chắn tôi sẽ cảm thấy bất an, chán nản và thất vọng vì những điều tôi đang phải lo lắng và đang xảy đến cho tôi.
Lạy Chúa, xin cho chúng con trong những ngày này, dù làm bất cứ công việc gì hay gặp phải những hoàn cảnh nào đi nữa, tiên vàn hãy luôn tìm kiếm thánh ý Chúa, hãy làm với lòng tri ân cảm mến, hầu chúng con luôn sống đẹp lòng Chúa và đem lại lợi ích cho tha nhân, đặc biệt những người mà chúng con yêu thương phục vụ. Amen.
13.Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Trong Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Thường Niên Năm B, Bài Đọc I và Bài Đọc II đều gặp thấy âm vang trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
G 7: 1-4, 6-7
Ông Gióp là một người công chính phải chịu muôn vàn đau khổ. Trong đoạn trích hôm nay, ông than vãn với Thiên Chúa về những đau khổ mà mình phải chịu mà không hiểu tại sao.
1Cr 9: 16-19, 22-23
Theo thánh Phao-lô, lòng nhiệt thành hăng say truyền giáo là một bổn phận và trách nhiệm mà thánh nhân phải chu toàn.
Mc 1: 29-39
Đoạn Tin Mừng hôm nay như lời đáp trả cho Bài Đọc I và Bài Đọc II, trước hết, Đức Giê-su là Đấng đem lại ý nghĩa cho những đau khổ của con người; đồng thời Ngài cũng là mẫu gương đầu tiên về sứ mạng truyền giáo: “Vì Thầy đến cốt để làm việc đó”.
BÀI ĐỌC I (G 7: 1-4, 6-7)
Ông Gióp là nhân vật chính của sách chứ không là tác giả (giống như sách Giô-na, sách Tô-bi-a, sách Giu-đi-tha). Ông là người tôi trung “đức độ vẹn toàn” của Thiên Chúa, vui hưởng một cuộc sống hạnh phúc giàu sang phú quý. Nhưng rồi những tai họa bất ngờ ập xuống, ông mất tất cả: tài sản, con cái; đoạn, bị ung nhọt lở loét khắp người. Trong cơn cùng khốn, ông than thân trách phận nhưng không nổi loạn chống lại Thiên Chúa.
Tại sao người công chính phải chịu đau khổ trăm chiều? Vấn đề này được đề cập đến dưới nhiều khía cạnh khác nhau, được lý giải dưới nhiều gốc độ khác nhau trong cuộc tranh luận dài giữa ông và các bạn của ông. Văn thể chính yếu là đối thoại.
Bài học cốt yếu mà sách đưa ra, đó là nếu người công chính vẫn nhất mực trung thành với Thiên Chúa trong mọi gian nan thử thách, thì cuối cùng nhận được phần thưởng của mình: ông Gióp được tăng gấp bội những gì ông đã có trước kia: tài sản, con cái, cháu chắt.
1. Nguồn gốc của sách Gióp:
Đề tài được khai triển trong sách không mới. Vấn đề người công chính phải chịu đau khổ được nêu lên rất xa xưa trong những chuyện cổ tích dân gian của các dân tộc chung quanh dân Do thái, được truyền khẩu hay bằng văn bản thuộc thiên niên kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Trong những câu chuyện đó, văn thể đã là đối thoại rồi. Một bản văn Ba-by-lon thuộc thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên chứng nhận rằng miền Lưỡng Hà Địa cũng có một vị anh hùng công chính chịu đau khổ. Ai-cập cũng đã gẫm suy vấn đề nầy trong một bài thơ trữ tình: “Một nhân vật bất hạnh chán sống đối thoại với tâm hồn của mình”. Ở Hy lạp, đề tài nầy được gặp thấy ở nơi thi phẩm “Odyssée” nổi tiếng của thi hào Homère, trong đó nhân vật chính, Ulysse, là người công chính phải lang thang phiêu bạt. Ông đã mất tất cả: tổ quốc, gia đình, của cải, các bạn đồng hành cùng với con thuyền, một mình cô quạnh trong một hoang đảo. Cuối cùng, ông lấy lại tất cả những gì ông đã mất trước đó.
Những chuyện tích dân gian đều kết thúc có hậu: “ở hiền gặp lành”. Tác giả sách Gióp đã không ngại duy trì “đoạn kết có hậu” nầy, cho dù có nguy cơ làm yếu đi những viễn cảnh tinh thần trong thi phẩm của ông. Quả thật, trong sách Gióp, “lời mở” (ch. 1-2) và “lời kết” (42: 7-17) được viết bằng văn xuôi và rất có thể là chứng tích của một chuyện tích dân gian. Chắc chắn trên nền chuyện tích dân gian nầy, văn sĩ thánh đã xây dựng thành một ngụ ngôn mang chiều kích thần học và luân lý rất cao.
Tác giả đã viết ra những gẫm suy về những đau khổ này nhằm gởi đến cho ai? Những suy đoán về lịch sử và tâm lý khiến người ta nghĩ rằng sách Gióp được biên soạn trong thời kỳ lưu đày Ba-by-lon. Vì thế, ai đã mất tất cả, ai đã sống trong cảnh đời vô vọng, ai đã nêu lên cho Thiên Chúa những nghi vấn và không hiểu tại sao mình phải chịu một sự thử thách dài lâu đến như thế, nếu không phải là những người bị lưu đày ở Ba-by-lon? Ngoài ra, tác giả không phải là không biết sách “Ai Ca”, từ sách này ông đã đón nhận nguồn cảm hứng sáng tác của mình.
2. Người công chính phải chịu đau khổ.
Đoạn văn hôm nay được trích từ lời than vãn thứ hai trong số những lời than vãn dài của Gióp. Trong đoạn trích nầy, Gióp than vãn về những đau đớn đang hành hạ thân xác của ông. Bản văn được chọn để chuẩn bị cho chúng ta đọc đoạn Tin Mừng hôm nay. Suốt ngày ở Ca-phác-na-um, Chúa Giê-su đối mặt với những bệnh nhân mà người ta đem đến với Ngài. Động lòng thương, Ngài chữa lành tất cả. Quyền năng của Ngài chữa lành những bệnh hoạn thể xác là dấu chỉ loan báo quyền năng của Ngài chữa lành những bệnh hoạn tâm hồn.
Gióp sánh ví cuộc sống con người với khổ dịch, tiếp đó với chuỗi ngày của kẻ làm thuê và của người nô lệ, cả hai đều nôn nóng chờ đợi ngày kết thúc: người làm thuê đợi tiền công, kẻ nô lệ mong được giờ phút nghỉ ngơi. Sau cùng, Gióp bất hạnh phải trằn trọc suốt đêm thâu không chợp mắt vì cơn đau hành hạ. Tuy nhiên, trong khi trằn trọc đau đớn trên giường, Gióp hướng mắt về Thiên Chúa và nói lên những lời than vãn đến xé lòng của mình với Thiên Chúa:
“Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho,
cuộc đời con chỉ là hơi thở,
mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (7: 7).
Bất chấp tất cả, Gióp vẫn giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa, dù ông không hiểu được.
Đây chỉ là một đoạn trích ngắn của một trong số những cuốn sách bi thương nhất đã từng viết về nỗi đau khổ của nhân loại. Sách Gióp không đề xuất bất kỳ giải pháp nào (vào thời kỳ nầy những niềm hy vọng bên kia nấm mồ chưa được biết đến ở Ít-ra-en): vấn đề người công chính phải chịu đau khổ vẫn là một mầu nhiệm mà chỉ một Thiên Chúa mới có thể biết được.
BÀI ĐỌC II (1Cr 9: 16-19, 22-23)
Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô nầy có thể hiểu được chỉ khi đặt nó vào lại trong văn mạch, vì hai dữ kiện được đặt chồng lên nhau ở đây.
1. Một nghĩa vụ buộc phải chu toàn.
Dữ kiện đầu tiên mặc nhiên nhắc nhớ cuộc trở lại của thánh Phao-lô trên đường Đa-mát và nhiệm vụ mà Đức Ki-tô trực tiếp giao phó cho thánh nhân, khi thánh nhân xuất thần trong Đền Thờ: “Hãy đi, vì Thầy sẽ sai anh đến với các dân ngoại ở phương xa” (Cv 22: 21). Thánh Phao-lô nghĩ rằng mình chẳng có gì phải tự hào về sứ vụ loan báo Tin Mừng, bởi vì đó là một nghĩa vụ và trách nhiệm mà thánh nhân không thể thoái thác nhưng buộc phải chu toàn.
2. Tinh thần vô vị lợi.
Qua đó, thánh nhân bày tỏ không chỉ thái độ khiêm hạ trong việc phụng sự Chúa, nhưng còn tinh thần vô vị lợi trong việc loan báo Tin Mừng. Quả thật, đây là dữ kiện thứ hai tất yếu để hiểu đoạn trích nầy. Trong vài hàng trước đó, thánh nhân phát biểu: “Anh em không biết rằng người lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao? Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng” (9: 13-14). Dù thế, thánh nhân không muốn mình trở thành gánh nặng cho bất cứ ai: “Vậy đâu là công sá của tôi? Đó là đem Tin Mừng mà rao giảng không công, chẳng sử dụng quyền lợi Tin Mừng ban cho tôi”.
3. Nhà truyền giáo mẫu mực.
Thánh Phao-lô tự nguyện khước từ đặc quyền đặc lợi của mình, chia sẻ mọi hoàn cảnh của mọi người, làm đầy tớ mọi người để chinh phục được nhiều người “bằng bất cứ giá nào”. Phần thưởng mà thánh nhân mong ước đó là “cứu độ được một số người”. Như vậy, thánh Phao-lô chẳng những thiết lập mà còn chứng thực đức tính truyền giáo của Giáo Hội.
TIN MỪNG (Mc 1: 29-39)
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nối tiếp Tin Mừng Chúa Nhật trước đó thuật lại cho chúng ta một ngày hoạt động của Đức Giê-su tại thành Ca-phác-na-um: Sáng sớm, trong hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su giảng dạy cho dân chúng và trục xuất thần ô uế ra khỏi một người bị quỷ ám (Chúa Nhật trước: 1: 21-28); ban trưa, tại nhà ông Si-môn, Đức Giê-su chữa lành bà mẹ vợ ông Si-môn, và chiều tối, trước cửa nhà ông Si-môn, Đức Giê-su chữa lành mọi bệnh tật và trừ quỷ (Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay: 1: 29-39).
1. Đức Giê-su chữa lành bà mẹ vợ ông Si-môn (1: 29-31):
Ngay khi vừa rời hội đường, Đức Giê-su đến nhà của hai anh em Si-môn và An-rê. Khi người ta nói cho Ngài biết bệnh tình của bà mẹ vợ ông Si-môn, Đức Giê-su tiến đến bên giường bệnh nhân và theo đúng nguyên văn: “cơn sốt rời bỏ bà”. Đây là diễn ngữ rất mạnh. Cơn sốt vào thời đó không là một trong những chứng bệnh thông thường như chúng ta nghĩ hiện nay. Cơn sốt gây tác động rất mạnh trên những người xưa. Thiên Chúa ngăm đe những ai không thi hành các huấn lệnh của Ngài, là Ngài sẽ trút xuống những người ấy nỗi kinh hoàng, sự suy mòn, cơn nóng sốt, khiến mắt họ mờ đi và phải kiệt sức (Lv 26: 14-16). Cơn sốt là một trong những tai ương ngang bằng với sự chết mà chỉ một mình Thiên Chúa mới làm chủ được nó (Kb 3: 5).
Đức Giê-su “cầm lấy tay bà mà đỡ bà dậy”. Đó cũng là cử chỉ của Đức Giê-su khi Ngài cho con gái ông Gia-ia sống lại: “Người cầm lấy tay cô bé…và lập tức, cô bé chỗi dậy” (Mc 5: 41-42). Trong cả hai trường hợp, chúng ta lưu ý đến cử chỉ của Đức Giê-su: “Cầm lấy tay” nói lên mối quan tâm của Ngài đối với bệnh nhân và động từ “đỡ dậy” theo đúng nguyên ngữ là “chỗi dậy”, động từ này được Tân Ước dùng để chỉ cuộc Phục Sinh của chính Đức Giê-su. Như vậy, Đức Giê-su chuẩn bị cho các môn đệ cuộc Phục sinh sau này của Ngài.
Để đáp lại ân tình cứu chữa của Đức Giê-su, “bà phục vụ các ngài”. Chức năng chính yếu của chi tiết nầy chính là nhằm minh chứng rằng bà hoàn toàn bình phục ngay tức khắc; đó là bằng chứng cho thấy bản chất kỳ diệu của hành động chữa lành mà Đức Giê-su vừa mới thực hiện. Trong Lc 8: 1-3, khi đề cập đến nhóm phụ nữ cùng với nhóm Mười Hai cùng đi với Đức Giê-su trên mọi nẻo đường truyền giáo, thánh Lu-ca kể ra việc các bà được Đức Giê-su “trừ quỷ và chữa bệnh”. Để đáp lại ân tình của Ngài, “các bà đã lấy của cải mình mà phục vụ Đức Giê-su và các môn đệ”. Chúa Giê-su cứu giúp chúng ta để chúng ta cứu giúp người khác.
2. Đức Giê-su chữa lành mọi bệnh tật và trừ quỷ (1: 32-34):
“Chiều đến, khi mặt trời đã lặn”, tức là ngày sa-bát chính thức chấm dứt (người Do thái tính một ngày mới bắt đầu từ lúc mặt trời lặn như biểu thức được lập đi lập lại ở trang đầu của sách Sáng Thế: “vào một buổi chiều và một buổi sáng, ấy là ngày thứ…”), người ta có thể tự do đem các bệnh nhân đến trước cửa nhà ông Si-môn mà không vi phạm lệnh truyền giữ ngày sa-bát. Đức Giê-su chữa lành mọi bệnh tật và trừ quỷ.
Nhiều lần thánh Mác-cô kết hợp bệnh tật với trừ quỷ, vì theo quan niệm thời đó bệnh tật là do ma quỷ gây nên (1: 34; 3: 10-11; 6: 13). Trong Tân Ước, quỷ thường được nói đến dưới khía cạnh tác hại của chúng trên thế gian, nhưng công việc của Đức Giê-su chấm dứt ảnh hưởng tác hại ấy. Trong những lần Đức Giê-su chữa lành bệnh tật và trừ quỷ, chúng ta nên để ý đến hai điều: một là lời của Đức Giê-su rất giản dị, nhưng hiệu nghiệm, khác hoàn toàn với những câu thần chú và những điệu bộ ma thuật phức tạp của các thầy trừ quỷ thời ấy. Hai là phép lạ của Đức Giê-su là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa can thiệp một cách dứt khoát, con người không chỉ được khỏi bệnh tật, nhưng còn được cứu độ. Vì thế, việc chữa lành bệnh tật thể lý nhằm chuẩn bị một dấu chỉ khác mà Đức Giê-su không bao lâu sau sẽ thực hiện cũng trong chính thành Ca-phác-na-um này, khi Ngài nói với người bại liệt: “Nầy con, con đã được tha tội rồi” (Mc 2: 5). Đức Giê-su biết rằng dân chúng tin có một mối dây liên kết giữa bệnh tật và tội lỗi. Khi chữa lành đám đông khỏi mọi bệnh tật, Ngài loan báo ơn tha thứ tội lỗi.
Việc Đức Giê-su “không cho quỷ nói” thông thường được hiểu như “bí mật Thiên Sai” theo thần học Tin Mừng Mác-cô. Trong khi những đối thủ siêu phàm của Đức Giê-su biết Ngài là ai, thì phàm nhân (như các môn đệ) cần thời gian để có được một bức chân dung đầy đủ hơn về Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a chịu chết và sống lại. Vì thế, quỷ muốn công bố Ngài là Đấng Thiên Sai không nhằm mục đích tốt lành, nhưng cố ý để con người hiểu sai lạc chân tính Thiên Sai của Ngài. Người Do thái mong chờ một Đấng Thiên Sai toàn thắng về phương diện chính trị và quân sự, trong khi Đức Giê-su đến để thực hiện chương trình cứu độ của Chúa Cha theo hình ảnh của “người tôi trung chịu đau khổ”, tức là “dâng hiến mạng sống để đem lại ơn cứu độ cho muôn người”.
3. Đời sống nội tâm của Đức Giê-su (1: 35):
Điều đáng chú ý nhất của bản văn này là vén mở đời sống nội tâm của Đức Giê-su: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Đức Giê-su đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng mà cầu nguyện”. Thánh Mác-cô nhấn mạnh “nơi hoang vắng”. Diễn ngữ “nơi hoang vắng” rất giàu ý nghĩa. Chính là nơi mà các nhà chiêm niệm vĩ đại gặp gỡ Thiên Chúa như ông Mô-sê, ngôn sứ Ê-li-a, vân vân. Đó cũng là nơi mà Đức Giê-su cầu nguyện với Cha Ngài trong suốt bốn mươi đêm ngày trước khi khởi sự sứ vụ công khai của Ngài. Trong Tin Mừng hôm nay, đây cũng là nơi Ngài cầu nguyện trong khi các môn đệ ngủ… và điều nầy sẽ được tái diễn vào một đêm khác bi thảm hơn, đêm trước cuộc Tử Nạn của Ngài trong vườn Cây Dầu.
Thánh Mác-cô cho chúng ta biết ngay từ rất sớm “Người ra đi cầu nguyện”, mà không nói rõ ra Người cầu nguyện với ai và về vấn đề gì, nhưng mẫu đối thoại sau đó sẽ hé mở cho chúng ta thấy Đức Giê-su đối thoại với Chúa Cha về sứ mạng Ngài đang thực hiện. Cầu nguyện vào lúc sáng tinh mơ và vào lúc chiều hôm buông xuống trong những nơi thanh vắng sẽ là một nếp gấp trong cuộc đời thi hành sứ mạng của Đức Giê-su. Dù rất bận rộn, Chúa Giê-su vẫn dành thời giờ để cầu nguyện; dù bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giê-su vẫn tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện.
4. Đức Giê-su thi hành sứ vụ khắp miền Ga-li-lê (1: 36-39):
Việc “ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm Đức Giê-su” cho thấy một ngày hoạt động của Ngài ở Ca-phác-na-um rất thành công ngoài mong đợi; vì thế, ông Si-môn, một trong bốn môn đệ đầu tiên, nghĩ rằng Đức Giê-su nên nắm lấy cơ hội lớn lao này (x. 1: 37). Đức Giê-su biết rằng nhiệm vụ của Ngài là loan báo Triều Đại Thiên Chúa đã và đang hiện diện ở đây rồi qua sự hiện diện của Ngài không chỉ ở Ca-phác-na-um nhưng còn ở khắp nơi. Chính Đức Giê-su xác định mục đích sứ mạng của Ngài: “Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Do đó, Đức Giê-su không để cho bất kỳ ai hay một nơi nào cố định giữ chân Ngài lại.
Cuối cùng, bằng hai động từ: “rao giảng” và “trừ quỷ”, thánh Mác-cô tóm lược sứ mạng cứu độ của Đức Giê-su khắp miền Ga-li-lê: “Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ”.
Đoạn Tin Mừng hôm nay âm vang những gẫm suy về đau khổ của sách Gióp (Đức Giê-su là Đấng chữa lành đích thật, Ngài sẽ đem lại ý nghĩa cho những đau khổ mà con người phải chịu), đồng thời ca ngợi tinh thần truyền giáo mà thánh Phao-lô nêu gương (Đức Giê-su là mẫu gương đầu tiên).
14.Tình thương cứu chữa--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng dạy và làm phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc khải rõ ràng Ngài là ai, cho nên, trước con người của Ngài, nhiều người ngỡ ngàng, không biết xếp Ngài vào hạng người nào: Ngài có phải là một nhà chuyên môn làm phép lạ không? là một ngôn sứ, là Ê-li-a hay là một Mê-si-a, cứu tinh của dân tộc Do Thái? Trong khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, vì Ngài biết người Do Thái đang quan niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị dùng việc làm để minh chứng dần dần sứ mệnh của Ngài, một trong những việc làm đó được kể lại trong bài Tin Mừng: Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông Phê-rô và tất cả những bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những việc Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu trên các bệnh nhân.
Thiên Chúa tạo dựng con người và Ngài có quyền trên thân xác và linh hồn con người, có quyền trên thân xác tức là có quyền trên bệnh tật, Ngài có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật dễ dàng, giống như một kỹ sư chế tạo ra một cái máy, chắc chắn ông là người hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ dàng sửa chữa những trục trặc nơi con người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi con người.
Riêng phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của Phê-rô khỏi bệnh sốt rét có ý nghĩa gì? Chúng ta khó hiểu được ý Chúa muốn gì khi làm phép lạ này. Nếu hiểu rằng mỗi phép lạ Chúa làm thường là để tăng cường lòng tin, thì ở đây cũng thế, Chúa muốn tăng cường lòng tin của gia tộc Phê-rô và nhất là đối với Phê-rô. Đàng khác, nếu xét về quan niệm của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là hình phạt của Thiên Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ làm, thì Chúa Giêsu làm phép lạ này để minh chứng cho mọi người biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ I-sai-a đã loan báo, là Đấng đến để cứu gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ bởi tội lụy, bởi điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét tượng trưng cho nhân loại đã bị thần dữ làm kiệt quệ đến sống dở chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được. Hơn nữa, phép lạ này cũng diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào của Chúa cũng là tình yêu, nhưng ở đây thể hiện rõ hơn: nơi đâu Chúa Giêsu đến rao giảng thì ở đó những con người khổ đau đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu và được cứu chữa. Đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.
Phần đông chúng ta không thể mang lại sức khỏe thể xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn cho những anh em bệnh tật, điều đó đã có các bác sĩ, y tá, nhưng chúng ta có một cái gì sâu xa hơn, quý giá hơn để mến tặng những anh em ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta đem lại cho họ một niềm hy vọng, cống hiến cho họ một chân lý khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại cho họ sự an ủi chân thật.
Chẳng hạn như lời tự thuật của một người kia đã kể cho linh mục Sam-sông và linh mục này đã kể lại trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quì gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quì làm gì thế?”, chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi con người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Một thí dụ khác, bác sĩ Long-ghê là một người Pháp đã từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đu-lây, người Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương bệnh nhân như vậy? vì sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết? Ông trả lời: “Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh”. Mỗi sáng khi đi dự lễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Long-ghê trở về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.
Nếu chúng ta không bắt chước được bác sĩ Long-ghê, thì chúng ta có thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên, cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hãy đi thăm hỏi, an ủi những bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và giảm sút lòng tin…chúng ta hãy cảm thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng không hề bệnh tật gì, đã mang lấy bệnh tật của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi hay làm cho họ phải thất vọng, đau khổ, nhưng Chúa đã an ủi, thương yêu cứu chữa họ, vì thế, chúng ta hãy đến với các bệnh nhân, họ rất cần đến tình thương, chúng ta hãy đem tình thương đến cho họ.
15.Hãy tìm kiếm Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nếu như Chúa nhật thứ Bốn Mùa Thường niên, Chúa Giêsu đã thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình tại Capharnaum, thì bước vào Chúa nhật thứ Năm Mùa Thường niên, sứ vụ Thiên sai của Người được tiếp tục thi hành. Là Thiên Chúa quyền năng trong lời nói cũng như trong hành động. Chúa chữa lành những người bị quỉ ám, Danh tiếng Người nhanh chóng lan truyền khắp mọi nơi. Uy quyền của một Vì Thiên Chúa được tỏ lộ trong hành động, Chúa mở mắt cho người mù, làm cho kẻ què đi được, người điếc nghe được, nói chung là họ sung sướng vui mừng; mọi người đều...thán phục ; các thần ô uế phải vâng lệnh. Cụ thể hơn, Chúa Giêsu hiện diện ở đâu thì ở đó người ta ngỡ ngàng và thán phục. Họ hỏi nhau: Người này là ai vậy, mà ngay cả thần ô uế cũng phải tuân lệnh? Quyền năng của Chúa xác nhận thẩm quyền lời Người giảng. Người không chỉ nói mà còn làm. Công trình của Thiên Chúa được thể hiện cả bằng lời nói lẫn việc làm nơi Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu thực thi sứ mạng, bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa Cha qua việc rao giảng và các hành động quan tâm, giúp đỡ người đau bệnh, người nghèo đói, các trẻ em và người tội lỗi.
Hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đang ở Capharnaum, trung tâm thi hành sứ vụ của Chúa, đúng hơn là nhà ông Simon Phêrô: "Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê" (Mt 1,29). Ở đây, chúng ta khám phá ra một gia đình lắng nghe và thực hành Lời Chúa (Lc 8,21). Bà nhạc gia ông Phêrô bị cảm sốt đang nằm trên giường, Chúa Giêsu tiến lại gần, Người cầm tay bà, một cử chỉ vượt quá những gì mà sách Tin Mừng đã trình bày như: Chúa đưa tay ra và đụng lên người bệnh, tại nhà ông Simon Phêrô, Chúa cầm tay bà và nâng đỡ bà dậy.
Cử chỉ này khiến mọi người phải thốt lên: Thiên Chúa thật quá đỗi hạ mình xuống để tìm kiếm chúng ta, và vì thế mà phẩm giá con người được tìm kiếm được nâng lên!... "Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa để ý lưu tâm? " (G 7,17). Tôi muốn biết tại sao Thiên Chúa lại muốn đích thân đến với chúng ta và tại sao chúng ta không phải là những người đến với Thiên Chúa trước? Việc Chúa Giêsu làm trong Tin Mừng hôm nay, không phải là thói quen của người giàu đi đến người nghèo, ngay cả khi họ có ý tốt lành.
Phần chúng ta, chúng ta đến với Chúa Giêsu. Nhưng có một trở ngại ngăn cản chúng ta: mắt chúng ta bị mù lòa, không thể tiếp cận được Chúa là Áng Sáng; chúng tôi đã bị liệt trên giường bệnh, khiến chúng ta không thể đạt tới sự vĩ đại của Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao Đấng Cứu Độ chúng ta, một lương y tốt lành và là bác sĩ của tâm hồn chúng ta đã từ trời cao hạ mình xuống, đến với con người, làm cho đôi mắt ốm yếu của con người thấy được ánh vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu, hiện thân của Thiên Chúa Cha đã đến gần với người nghèo và những người đau khổ mà người ta đưa đến với Chúa để được chữa lành. Bằng cử chỉ đưa bàn tay, Chúa đụng chạm tới họ, nguồn mạch sự sống tuôn trào, họ được giải thoát và được cứu.
Hết thảy mọi người đều tìm kiếm Chúa Giêsu, chỉ có một số người bị buộc đưa đến, vì "lòng chúng ta còn khắc khoải cho tới bao giờ được nghỉ ngơi trong Chúa" (Thánh Augustinô).
Nhưng, cùng một cách thức chúng ta tìm kiếm Chúa vì chúng ta cần đến với Chúa để Người giải thoát chúng ta khỏi sự ác và Sự Xấu, Người đến với chúng ta và đến gần hơn để có thể làm điều mà chúng ta không thể làm được một mình. Người đã trở nên yếu đuối để cứu chuộc chúng ta là những người yếu đuối, "Tôi đã tự cứu mình bằng mọi giá" (1Cr 9,22).
Vẫn có một bàn tay đầy sức mạnh vô hình đang chìa về phía chúng ta, những người đang bị bủa vây bởi muôn điều xấu, chúng lôi kéo chúng ta và giữ chân chúng ta lại. Chúng ta có thể "vươn lên và bước tới" bằng lời cầu nguyện, cụ thể như Chúa: "Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó"(Mc 1,35).
Hơn nữa, mỗi Thánh lễ Chúa nhật là một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng đến đưa tay ra để nâng chúng ta khỏi giường tội lỗi và chán nản, làm cho chúng ta sống vui, sống hạnh phúc trong Chúa và với mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con kêu cầu Chúa, xin Chúa đưa tay ra nâng đỡ và lôi kéo chúng con lên. Amen.
16.Đức Giêsu rao giảng và trừ quỉ--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
1. Từ Hội Đường đến nhà ông Phêrô
Rời khỏi hội đường của người Do-thái, Đức Giêsu đi thẳng tới căn nhà của ông Simon Phêrô. Chúng ta hãy hình dung và chiêm ngắm hành trình mang đầy ý nghĩa này của Đức Giê-su:
* Đó là hành trình từ Cựu Ước sang Tân Ước; từ Israen sang Dân Mới của Đức Chúa, là Giáo Hội. Với hành trình hướng tới mầu nhiệm Vượt Qua và được hoàn tất bởi mầu nhiệm Vượt Qua này, Đức Giê-su làm cho lịch sử cứu độ được hoàn tất, nghĩa là đạt tới sự sống mới và sáng tạo mới, ngang qua và bất chấp bệnh tật, tai họa, những thăng trầm, tội lỗi, sự dữ và cuối cùng là chính sự chết.
* Ngoài ra, hành trình này của Đức Giê-su còn diễn tả hành trình từ nơi phượng tự sang ngôi nhà của đời sống bình thường, ở đó diễn ra mọi vấn đề của cuộc sống, của thân phận con người, sinh lão bệnh tử; và chính nơi ở đây, niềm tin và ơn gọi của mỗi người được thử thách và qua đó lớn lên, trở nên đích thực, trở nên kinh nghiệm thực sự.
Cũng giống như trong đời sống thánh hiến, từ nhà tập đến môi trường tông đồ và sứ mạng, từ lúc tuyên khấn đến đời sống ơn gọi cụ thể, với biết bao mới lạ và thách đố. Nhưng đó lại là môi trường làm cho lòng ước ao dâng hiến và phục vụ trở nên đích thực, và làm cho chúng ta lớn lên trong ơn gọi đi theo Đức Ki-tô trong đặc sủng của một của Hội Dòng.
Vì thế, chúng ta được mời gọi suy niệm và nhất là chiêm ngắm thật lâu những gì diễn ra trong nhà ông Simon: những gì diễn ra thật đơn sơ, nhưng mang nhiều ý nghĩa cho hành trình đi theo Đức Ki-tô của chúng ta hôm nay, trong đời sống thánh hiến cũng như trong ơn gọi và hoàn cảnh chúng ta đang sống.
2. Chữa lành và phục vụ
Trong nhà, có sự hiện diện của người mẹ, bà nằm đó và đang bị sốt nặng; và như bài Tin Mừng kể lại, ngay tối hôm đó, người ta lũ lượt kéo đến nhà: đó là những người bệnh, những người bị quỉ ám, những người đau khổ vì sự dữ đủ loại; và rốt cuộc cả làng kéo đến đứng trước cửa nhà.
Đó là một hình ảnh thật cụ thể diễn tả nhân loại chúng ta: nhân loại có quá nhiều người bệnh. Nhưng trong thực tế, còn có một thứ bệnh không phải thể lí, nhưng lại làm chúng ta tê liệt hơn là bệnh thể lí: chán nản, mất niềm tin, mất hướng đi, thấy cuộc sống vô nghĩa, bi quan về mình, về hoàn cảnh, về người khác, bị hiểu lầm, bỏ rơi, không được lắng nghe hay tin tưởng… Ngoài ra, và ở một mức độ hay một nghĩa nào đó, cũng có nhiều người bị “quỉ ám”, nghĩa là bị Sự Dữ chi phối và làm chủ.
Các môn đệ nói với Đức Giê-su về bà mẹ. Điều này nói lên sự quan tâm chúng ta dành cho nhau trong thực tế và trong lời nguyện, và đó chính là nét thiết yếu làm nên Dân Mới do Đức Giê-su qui tụ. Đức Giê-su đi đến bên bà, cầm tay bà và giúp bà ngồi dậy. Ở đây, chúng ta còn được mời gọi cảm nhận sự thân mật trìu mến. Ơn chữa lành đến từ cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Đức Giê-su và người bệnh. Hình ảnh này còn nói đến ơn phục sinh, nói đến tình yêu, lòng thương xót, lời hằng sống và chính Mình và Máu Ngài làm chúng ta đứng dậy tiếp tục đi, tìm lại hướng đi, ý nghĩa, lòng ước ao phục vụ, ơn gọi. Đó thực là sự sống mới, hình bóng của ơn tái sinh.
Cơn sốt biến mất và bà bắt đầu phục vụ họ, nghĩa là Đức Giê-su và cả nhà. Bà khỏi bệnh và lấy lại sức sống, không chỉ là sức sống thể lý, nhưng là sức sống mới, sự sống mới, vì sự sống này hướng tới việc phục vụ quên mình. Kinh nghiệm của bà cũng phải là kinh nghiệm của chúng ta, của mọi Kitô hữu.
3. Rao giảng và trừ quỉ
Hôm sau, khi mọi người đi tìm Đức Giê-su, Người nói với các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (c. 38). Chúng ta được mời gọi nhận ra sự tự do của Đức Giêsu đối với nhu cầu của chính mình và của con người. Người không muốn khơi ra nhu cầu và tìm cách đáp ứng (như nền kinh tế thị trường trong đó chúng ta đang sống); nhưng, Ngài chỉ khơi dậy lòng ước ao Thiên Chúa, có nơi sâu thẳm của con người, như chính Người sống điều này, khi: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (c. 35)
Vì thế, trong thực tế, Ngài đã không làm hết việc, Ngài chỉ chữa nhiều người nhưng không chữa hết mọi người. Do đó, vẫn còn nhiều người nữa đang tìm Ngài, họ còn nhờ các môn đệ đi tìm dùm! Nhưng Đức Giê-su rời nơi đó để đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, và khắp miền Galilê để rao giảng và trừ quỉ (lưu ý: hoạt động chữa bệnh không được nêu ra).
Về sự sống của loài người và của từng người chúng ta. Chúng ta thường bị ấn tượng và ưa thích những phép lạ chữa bệnh, vì bệnh tật làm cho con người khốn khổ. Tuy nhiên, bệnh tật lại thuộc về thân phận con người, đã là người thì phải trải qua, không tránh được: sinh lão bệnh tử; nhưng sự sống của con người còn bị quấy phá, bị chi phối bởi ma quỉ, bởi thần dữ, trong mức độ ma quỉ gieo vào lòng con người và vào tương quan giữa người với người sự nghi ngờ, loại trừ, bạo lực, ham muốn, ghen tị, dục vọng… Và ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, những sự dữ này còn phá hoại sự sống của chúng ta hơn cả bệnh tật. Chỉ có Lời Chúa, và tuyệt đỉnh là Lời Thập Giá (x. 1Cr 18, 1) mới có thể chữa lành, giải thoát chúng ta khỏi Sự Dữ và những gì thuộc về Sự Dữ.
Đức Giê-su dường như chỉ muốn đi lướt qua lịch sử con người, và chỉ dừng lại ở một số thân phận. Bởi vì Ngài chỉ muốn vạch ra cho chúng ta con đường phải đi, con đường dẫn đến ơn chữa lành triệt để và đích thực, đó là ơn chữa lành bởi Thập Giá, như thư Do Thái mặc khải cho chúng ta:
Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ.
(Dt 2, 14-15)
***
Ơn này sẽ dành cho mọi người thuộc mọi thời và mọi nơi. Và Ngài vẫn cần chúng ta nói cho con người hôm nay về Ngài, và ơn chữa lành triệt để của Ngài, và cách nào đó, chúng ta cũng cần nói cho Ngài về con người hôm nay, như các môn đệ đã làm trong “Nhà ông Phêrô”.
17.Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau--Lm. Trầm Phúc
Chúng ta hãy theo dõi Chúa Giêsu trong ngày sống của Ngài ở Capharnaum. Ngài đến nhà của Phêrô và chữa cho bà mẹ vợ của ông khi bà đang lên cơn sốt. Chiều đến, khi mặt trời lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những kẻ bị quỷ ám đến xin Ngài chữa cho họ.
Sáng hôm sau, Ngài thức dậy thật sớm, tìm một nơi thanh vắng và cầu nguyện. Các môn đệ đi tìm Ngài vì mọi người đến tìm Ngài. Nhưng Ngài không ở lại và đi đến các vùng khác để rao giảng và trừ quỷ.
Tường thuật của thánh Maccô cho chúng ta thấy gì? Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài bằng những việc chữa bệnh và trừ quỷ. Ngay trong chương đầu mà thôi, thánh sử đã kể cho chúng ta nhiều phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ, và hình như thánh sử chú trọng đến việc trừ quỷ. Đối với người Do Thái thời bấy giờ, bệnh tật cũng là do ma quỷ gây nên. Như thế, chúng ta thấy vẽ lên sứ mệnh chính yếu của Chúa Giêsu là diệt trừ ma quỷ và những ảnh hưởng của nó.
Ngài chữa cho bà mẹ vợ của Simon bằng một cử chỉ đơn thường: Ngài đỡ bà dậy và cơn sốt biến mất. Ngài không đòi hỏi im lặng, vì ngoài người nhà và các môn đệ, không có ai khác. Nhưng đây cũng chứng minh cho mọi người trong nhà thấy quyền năng độc đáo của Ngài và cũng cho thấy một nét của nhân cách Ngài. Ngài luôn giúp đỡ mọi người khi cần. Đi đến đâu, Ngài cũng ban bố ơn lành.
Cả ngày hôm ấy, Chúa Giêsu làm gì? Thánh Maccô không nói, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu rằng Ngài dùng cơ hội đó để dạy dỗ các môn đệ đầu tiên của Ngài. Trong khung cảnh ấm cúng đó, Thầy trò có thể dễ dàng bàn luận với nhau.
Chiều đến, cả làng tập trung trước nhà, họ mang đến cho Ngài nhiều thứ bệnh nhân, kể cả những người bị quỷ ám. Ngài chữa lành nhiều người, và trừ nhiều quỷ và cấm không cho quỷ nói vì chúng biết Ngài là ai. Ngài cấm quỷ nói vì Ngài không muốn người ta hiểu sai về sứ mệnh của Ngài. Tại sao người ta lại đem bệnh nhân đến cho Ngài? Phải chăng vì Ngài đã chữa bệnh và trừ quỷ trong Hội đường và danh tiếng Ngài đồn ra khắp miền đó. Ngài không muốn cho người ta nhìn Ngài như một thầy chữa bệnh hay một người có ý đồ chính trị. Đám đông là một thứ rơm dưới ánh nắng, dễ tin và thường phản ứng một cách đột xuất và mù quáng. Sứ mệnh của Ngài sâu xa hơn. Chữa bệnh hay trừ quỷ chỉ là một dấu hiệu ban đầu mà thôi. Ngài đến để khai mở Nước Trời, mang lại ơn cứu độ cho con người, giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Sáng sớm, Chúa Giêsu tìm một nơi thanh vắng và cầu nguyện. Điều này như một việc làm thường xuyên của Chúa. Có lúc Ngài cầu nguyện suốt đêm. Nhiều người tự hỏi, tại sao Ngài là Thiên Chúa lại cần phải cầu nguyện? Nhiều cách trả lời, nhưng đa số các nhà chú giải đều cho rằng, Ngài đã nhập thể và là người thật, Ngài mang lấy sự yếu đuối của con người, Ngài cũng cần sự thân mật với Chúa Cha như mãnh lực cần thiết để thi hành ý Cha Ngài. Trước những lúc phải quyết định một điều gì quan trọng, các thánh sử đều kể lại là Ngài luôn cầu nguyện. Ngài cũng muốn cho thấy rằng Ngài với Cha Ngài là một. Ngài không làm gì mà không theo ý Cha. Đó cũng là một gương sáng cho chúng ta, và chính Ngài cũng dạy chúng ta cầu nguyện không ngừng. Chúng ta có thích cầu nguyện như thế không? Chúng ta có cảm thấy cần cầu nguyện không? Hay chúng ta chỉ tin vào sự khôn khéo của mình mà không cần đến Chúa?
Mọi người đi tìm Ngài. Dân trong thành muốn giữ Ngài lại vì Ngài có thể giúp họ nhiều hơn nữa, còn biết bao bệnh nhân chưa được chữa lành. Thế nhưng Chúa Giêsu không dừng lại để tìm sự ủng hộ của dân chúng. Ngài còn một công việc lớn và quan trọng hơn là rao giảng Nước Trời cho mọi người. Còn biết bao nhiêu người cần đến ơn cứu độ: “Chúng ta hãy đi nơi khác… để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Chúng ta cũng thấy có một mối liên hệ giữa việc rao giảng và cầu nguyện. Ngài cầu nguyện rồi mới ra đi. Ngài cầu nguyện vì cuộc hành trình của Ngài còn dài, rất dài và cũng không kém gay go. Ngài cũng xác quyết rõ ràng, sứ mệnh của Ngài là rao giảng: “Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.
Việc đó chính là rao giảng Nước Trời, Nước tình yêu, nước sự sống. Con người tìm đâu ra sự sống? Con người có giới hạn và sự chết là giới hạn cuối cùng, không ai thoát được. Chỉ có một lối thoát duy nhất là Ngài, Ngài là sự sống và là sự sống vĩnh cửu. Ngài rao giảng để mọi người biết và tìm được sự sống qua cái chết. Ngài cũng qua cái chết để sống lại và đem lại sự sống vĩnh cửu cho con người.
Ngài đã đăng trình rao giảng Tin Mừng không mõi mệt, bận bịu với đám dân bơ vơ như đàn chiên không người chăn, đến nỗi Ngài và các môn đệ không có giờ dùng bữa. Những con đường nắng cháy của vùng Palestine đã quen thuộc với bước chân Ngài. Và bài giảng cuối cùng kết thúc trên đỉnh đồi Canvê thống khổ.
Theo vết chân Ngài, Phêrô và các Tông đồ, cũng như Phaolô đã không mỏi mệt rao giảng khắp cùng thế giới thời bấy giờ, và bài giảng cuối cùng cũng kết thúc bằng cái chết. Chết cho Tin Mừng họ rao giảng, như Thầy chí thánh của họ.
Thánh Phaolô dám nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” Không ai bó buộc Ngài cả, Ngài cũng nói: “Tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi trở thành nô lệ cho mọi người…” Tại sao? Chỉ vì tôi yêu mến Đấng đã yêu thương và đã liều mạng cho tôi, vì tôi không để ơn Chúa ra vô ích, vì tôi cũng muốn cho mọi người được hạnh phúc với Đấng đã chết để cứu vớt họ.
Và từ hơn hai mươi thế kỷ cho đến hôm nay, Tin Mừng vẫn được rao giảng qua những người đã đón nhận, giáo sĩ cũng như giáo dân. Và Giáo hội luôn kêu mời mọi tín hữu không trừ ai, tất cả những người đã đón nhận Tin Mừng phải công bố trên mọi mái nhà kho tàng Tình Yêu của Thiên Chúa.
Nhưng cho đến hôm nay, số người biết Chúa vẫn còn là thiểu số. Ở Việt Nam người Công giáo chỉ chiếm được ba phần trăm. Chỉ có ba con chiên ở trong chuồng và còn chín mươi bảy con chiên ở ngoài. Chúng ta nghĩ sao?
Theo vết chân của Chúa Giêsu, của các tông đồ và các thánh, chúng ta cũng ra đi, rao giảng Tin Mừng cho anh em chúng ta, những người chưa được phúc như chúng ta. Có lẽ chúng ta còn ngại ngùng, nhưng với ơn Chúa và thiện chí, chúng ta cố gắng hơn. Chúa đang chờ những tâm hồn thiện chí, những người dám ra đi, vì Chúa, vì anh em. Thánh Thần Chúa sẽ hỗ trợ, Ngài không để chúng ta một mình.
Có lẽ chúng ta chưa biết làm gì, hay làm thế nào, nhưng khi chúng ta dám bước ra, đi vào công việc, Chúa Thánh Thần sẽ soi dẫn chúng ta biết phải làm gì.
Nhưng trước hết phải cầu nguyện như Chúa Giêsu đã cầu nguyện. Phải cùng một ước muốn như Chúa, ước muốn cho danh Cha cả sáng, muốn mang lại hạnh phúc cho anh em. Và trên hết, hãy ăn lấy Chúa để được Ngài nuôi dưỡng bằng chính Thịt Máu Ngài, để cùng với Ngài ra đi. Chúng ta mới có can đảm loan báo Tin Mừng dù lúc thuận lúc nghịch, dù sẽ bị nhạo cười hay từ chối. “Tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta”. Chỉ có tình yêu Chúa mới giúp chúng ta dám nói lên những gì phải nói, không phải chỉ bằng lời mà bằng cả cuộc sống với những lao nhọc của nó.
“ Đừng sợ! Ơn Ta đủ cho ngươi”.
18.Ơn chữa lành--Lm. Vũ Đình Tường
Đức Kitô mang lại nhiều an ủi, hy vọng và tình thương lại cho những ai may mắn đón nhận lời Ngài mời gọi trong cuộc sống. Phúc Âm thánh Marcô thuật lại rất nhiều trường hợp Ngài gặp gỡ, an ủi và chữa lành họ. Một người trong số đó là bà nhạc gia của ông Phêrô mắc bệnh sốt rét, nằm trên giường.
Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài c.31
Tiếng đồn lan nhanh, ngay tối hôm đó người ta kéo đến đông đảo xin Người chữa bệnh.
Đức Kitô chữa nhiều kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỉ, nhưng không cho quỉ nói, vì chúng biết Người là ai c.34
Đức Kitô chữa lành không phải chỉ khỏi bệnh mà còn ban cho họ ơn đặc biệt, biết mình không những được bình phục và còn khoẻ hơn trước, tự tin hơn trước. Chương thứ hai Phúc Âm thánh Marcô ghi lại câu chuyện một người bị liệt giường nhiều năm, không thể di chuyển được phải nhờ bốn người bạn thương khiêng cả giường đến cho Đức Kitô chữa bệnh. Đến nơi người ta ngồi đông không thể chen vào được. Bốn người bàn nhau dỡ mái nhà thả chiếc giường có người bại liệt nằm trên đó. Đức Kitô chữa lành người bại liệt bằng cách ra lệnh cho anh đứng dậy vác chõng mà về. Ngay sau câu nói của Đức Kitô anh không cần thời gian hồi phục, lập tức đứng ngay dậy vác chõng ra về trước mặt mọi người chứng kiến. Anh không những được khỏi bệnh mà còn sạch tội trước mặt Chúa. Anh cảm thấy một sức mạnh nội tâm vươn lên như suối nguồn vô tận đến từ trong tâm hồn.
Không cần thời gian hồi phục đó cũng là kinh nhgiệm của bà nhạc gia ông Phêrô. Bà yếu liệt do sốt rét hành hạ, ngay sau khi được chữa khỏi bà đứng dậy phục vụ các ông, thực hành nhân đức bác ái. Bà là người phụ nữ đầu tiên trong Phúc Âm thánh Marcô thực hành nhiệm vụ tông đồ - phục vụ người khác. Có nhiều thứ bệnh không phải chỉ làm cho con người suy nhược mà có khi nguy hiểm đến tính mạng, làm mất tự tin, bế tắc sinh hoạt bình thường trong cuộc sống, tự mình không thể tiếp tực công việc kiếm sống, không tự lo cho mình mà phải nhờ đến người khác giúp đỡ. Bệnh tật cắt đứt mọi sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trong cộng đoàn. Đức Kitô chữa không những cho họ khỏi bệnh mà còn giúp họ nối kết lại với những gì trước đây bị gián đoạn, ngăn trở. Tiếp tục lại công việc, tự mình lo cho mình và lo cho tha nhân, nối lại sinh hoạt với cộng đoàn đức tin mà có thời họ tích cực sinh hoạt.
Đức Kitô có thói quen tốt lành là sau một ngày làm việc mệt mỏi sáng sớm hôm sau Ngài luôn tìm nơi vắng vẻ cầu nguyện. Ngài bắt đầu một ngày mới bằng việc cầu nguyện, liên kết với Chúa Cha, hội í với Chúa Cha về chương trình cứu độ nhân loại. Nhớ lại trước khi bắt đầu rao giảng công khai Đức Kitô cũng đã ở trong hoang địa một thời gian lâu. Thời gian trong hoang địa là thời gian cầu nguyện. Thời gian trong hoang địa để nhìn lại mối liên kết với Chúa Cha, nhìn lại bước đường đã qua và hoạch định cho bước đường kế tiếp, là thời gian chuẩn bị cho chương trình chữa lành và quan trọng hơn là chương trình cứu độ.
Khác với các thế lực trần thế, họ dựa vào sức mạnh của vũ khí, vũ khí càng tân tiến, sức công phá càng mạnh họ càng có lợi thế trong cuộc chiến. Đức Kitô không nhờ vào sức mạnh của vũ khí chiến tranh. Vũ khí của Ngài chính là tình yêu, cải hoá con tim người ta bằng tâm tình yêu mến, và thực thi bác ái với tha nhân. Ngài thắng con tim người ta và ban cho con tim đó một sức sống mới, sức sống phát xuất tự tâm, thay đổi lối suy nghĩ và tìm nguồn vui trong phục vụ.
19.Cầu nguyện trong đời thường--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mc 1: 29-39: Đoạn Tin Mừng hôm nay, cho thấy một ngày sinh hoạt của Chúa Giêsu: Ban ngày giảng dạy, chữa bệnh và “Sáng tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện”...
Mấy năm trước đây tạp chí Thế Giới Ngoài Trời (Outdoor World) có đăng một bài của Barry Lopez như sau: "Vào một buổi sáng mưa phùn, Barry thức dậy một mình đi dạo trong rừng trước buổi điểm tâm. Vừa rảo bước giữa những dãy thông và bá hương.
Barry vừa nhớ lại một buối sáng y hệt sáng hôm nay, khi còn là chú bé con, chàng đã được nhìn thấy ông nội một mình bước ra khỏi nhà đi dạo ngang qua chính những hàng cây này. Khi ông nội trở về chú bé Barry hỏi ông nội đã đi đâu và làm gì.
Ông nội mỉm cười, ôm choàng Barry rồi nói: "Nào chúng ta hãy cùng đi dùng điểm tâm, cháu nhé!"
Tiếp tục bước đi dưới cơn mưa phùn, Barry gặp một quãng rừng trống. Chàng liền quỳ xuống và đặt đôi tay lên mặt đất ẩm ướt. Điều này gây cho chàng cảm giác rằng chàng đang hiệp nhất với toàn thể vũ trụ.
Barry nhớ lại lời ông nội đã từng dạy bảo chàng: Khi nào cảm thấy cô đơn thì nên đi bách bộ vào rừng tìm yên tĩnh, đoạn làm bất cứ điều gì đang được thôi thúc trong lòng, chẳng hạn như quì gối xuống đặt tay lên mặt đất.
Nửa giờ sau, khi Barry trở về nhà, ông cảm thấy như được đổi mới, được hồi phục sức lực. Bấy giờ ông mới hiểu được lý do ông nội thường hay đi dạo trong rừng vào buổi sớm mai. Bà của Barry có lần nói cho ông hay đấy chính là cách thức ông nội cầu nguyện.
Ông ấy luôn luôn đi sang tận mé rừng bên kia, đứng trên bờ biển, tay thọc vào túi, lắng nghe đại dương reo.[1]
Đoạn Tin Mừng hôm nay, cho thấy một ngày sinh hoạt của Chúa Giêsu:
Ban ngày giảng dạy, chữa bệnh và “Sáng tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện”.
Lý do khiến Đức Giêsu làm điều này cũng chính là lý do Barry thường làm, đó là tự đổi mới chính mình, tự hồi phục lại năng lực cho chính mình.
Chúng ta có thể đánh mất chính mình trong khi làm việc. Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy chính mình trong công việc. Đây là lý do tại sao trong cuộc sống, chúng ta cần có một nơi yên tĩnh.
Chúng ta cần phải học nơi Đức Giêsu, về cách kết hợp giữa hoạt động và chiêm niệm.
Ra đi cầu nguyện không phải là cách thế trốn thoát, nhưng điều này đưa đến sự tái cam kết. Cần có thời gian để cống hiến, và cần có thời gian để tiếp nhận. Để có được một cuộc sống lành mạnh, chúng ta cần phải quan tâm đến cả hai lối sống trên.
Sau một ngày học hành mệt nhọc, người bạn trẻ thường có thói quen ghé ngang qua nhà thờ để viếng Chúa, và lần nào cũng bắt gặp một cụ già ngồi yên lặng trước Thánh Thể trong nhà tạm.
Ngày kia, một người bạn trẻ chờ cho cụ cầu nguyện xong, tiến đến gần và hỏi:
- Cụ ngồi lâu giờ như vậy, có nghe Chúa nói gì với cụ không?
- Cụ già chậm rãi trả lời:
- Chúa không nói gì hết, Ngài chỉ nghe thôi.
- Vậy thì cụ nói những gì với Chúa?
- Lão cũng chẳng nói gì cả, chỉ nghe thôi.
Thấy người bạn trẻ có vẻ ngỡ ngàng, cụ nói tiếp:
- Lão thấy có bốn giai đoạn trong đời sống cầu nguyện.
Thời gian đầu thì lão nói, Chúa nghe, sau đó thì Chúa nói, lão nghe.
Giai đoạn kế tiếp thì không ai nói hết vì cả hai cùng nghe
và giai đoạn cuối là lúc không ai nói mà cũng không ai nghe.
Tất cả chỉ là một sự thinh lặng tuyệt đối.
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,
- Xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài, trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
- Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi truớc những dịp tội gây xao xuyến.
- Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai, để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,
để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
- Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi, để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người, tránh mọi lời nói gây đớn đau, đổ vỡ.
- Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn, để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
- Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim, để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ghen ghét, để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên mọi sự. Amen.[2]
------------------
[1] Cha Mark Link, SJ, CN 5B TN
[2] Lời nguyện của Mẹ Têrêxa Calcutta
20.Đời sống thường nhật--An Phong, OP
Thánh Máccô trình bày một ngày làm việc của Chúa Giêsu, một ngày bận rộn với công việc chữa bệnh, rao giảng Tin mừng, nhưng vẫn dành thì giờ cho việc cầu nguyện; một ngày lo chuyện "gia đình" của những người thân thuộc, nhưng không quên ra đi "đến các làng xã chung quanh". Một bản văn tóm tắt như thế cho ta thấy những khía cạnh chính yếu của cuộc đời Đức Giêsu. Cuộc đời phong phú của Chúa Giêsu bao hàm nhiều khía cạnh: chiêm niệm và hoạt động, việc nhà và việc nước, với Chúa Cha và với con người... Đời sống đó trở nên nguồn mạch mẫu mực cho nhiều lối sống khác nhau, những ơn gọi khác nhau.
Ngày nay, trong Hội thánh, chúng ta thấy có nhiều ơn gọi khác nhau: ơn gọi gia đình, đơn gọi tu trì, ơn gọi giáo sĩ; chúng ta cũng thấy có nhiều linh đạo khác nhau, linh đạo chiêm niệm, linh đạo hoạt động, linh đạo bác ái, linh đạo rao giảng Tin mừng.... Tất cả những bậc sống và những linh đạo ấy đều bắt nguồn từ chính đời sống của Chúa Giêsu và đều phải lầy Chúa Giêsu làm mẫu mực cho mình. Như thế, nếu ta có nhận ra một ơn gọi, một tác vụ nào được Chúa kêu gọi và trao phó cho mình, thì đồng thời ta cũng phải hiểu rằng còn có nhiều ơn gọi và linh đạo khác trong Hội thánh của Chúa. Nhất là ta phải hiểu rằng những bậc sống ấy gắn bó chặt chẽ với nhau, những tác vụ khác nhau ấy tương tác lẫn nhau cách mật thiết. Do vậy, những con đường khác nhau ấy cần tìm thấy mối liên đới hữu ích và sung mãn trong sự hiệp thông của Hội thánh Chúa.
Hội thánh là Nhiệm Thể của Đức Kitô, chính Thánh Thần của Đức Kitô là nguyên lý sống của Hội thánh và Thánh Thần làm cho Nhiệm Thể cũng được liên kết, thống nhất với Đầu là Chúa Kitô, trong cách thức hiện hữu cũng như trong hoạt động. Như thế, có thể nói được rằng một bậc sống nào mà muốn loại trừ hoặc khinh thường bậc sống khác là không có Thánh Thần của Chúa; một linh đạo nào không thể chấp nhận hoặc không liên kết với một linh đạo khác thì chẳng thể xuất phát từ Thánh Thần của Chúa Kitô được.
Trong "một ngày sống" của Chúa Giêsu Kitô, có tất cả đời sống và hoạt động của Hội thánh Chúa; có tất cả mọi hoạt động và linh đạo của mỗi người và mỗi đoàn thể của Hội thánh hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã sống một cuộc đời phong phú
và hữu ích cho con người biết bao.
Ngày hôm nay, Chúa ngự vào lòng con,
Chúa ở với con và làm việc trong con,
xin cho con được cùng với Chúa
để sống, sống phong phú
và hữu ích cho anh chị em của con
như Chúa đã từng sống.
21.Con người trở nên vĩ đại nhờ cầu nguyện--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
Pascal là một nhà bác học nổi tiếng và cũng là một nhà triết gia lỗi lạc, ông đã có một câu nói thời danh để đời như sau: “Con người chỉ vĩ đại khi họ cầu nguyện”.
Thật vậy, con người là loài thụ tạo cao quý nhất mà Thiên Chúa dựng nên. Con người có giá trị trổi vượt trên các loài thụ tạo khác. Tuy nhiên, con người chỉ có thể trở nên vĩ đại nhờ có một mối tương quan mật thiết với Đấng là chủ tể của mình ngang qua đời sống cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện là chiếc cầu nối liền giữa Thiên Chúa và con người. Cầu nguyện làm cho con người tìm ra được nguồn cội, cùng đích của cuộc đời. Cầu nguyện cũng giúp cho con người biết mình phải làm gì và khước từ điều gì.
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu ngay từ sáng sớm, người lánh sang một nơi thanh vắng để cầu nguyện sau một ngày làm việc mệt nhọc với sứ vụ và tiếp tục với hành trình rao giảng Tin Mừng mới. Điều này cho thấy: cầu nguyện là việc vô cùng cao quý và quan trọng trong hành trình loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu cũng như người môn đệ.
1. Cầu nguyện không ngừng
Đã có lần, Đức Giêsu nghe các môn đệ của mình kể về thành tích mà các ông đạt được sau những ngày vất vả vì sứ vụ. Các ông trở về trong hân hoan và khoe với Ngài về thành tích đạt được, nào là: thành công trong việc chữa lành bệnh tật, nhiều người nghe lời các ông giảng và ngay cả ma quỷ cũng phải khuất phục (x. Mc 6, 30-31).
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không khen ngợi các ông, Ngài cũng chẳng đề nghị các ông tiếp tục thi hành. Và hoàn toàn không mở tiệc linh đình để tuyên dương kết quả! Nhưng Ngài nói với các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31). Nghỉ ngơi ở đây có nghĩa là trở về với Thiên Chúa và với bản thân trong sự thinh lặng nội tâm sâu xa.
Còn khi dạy các Tông đồ cầu nguyện, Ngài nói: “Phải cầu nguyện luôn mãi không ngừng nghỉ” (Lc 18,1); chỗ khác Ngài truyền lệnh: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc 14,38). Hơn nữa, khi nói về giới hạn của con người và tầm quan trọng của cầu nguyện, Ngài mặc khải: “Không có Thầy, chúng con không thể làm được gì” (Ga 15,5) Hay để khơi lên niềm tín thác vào Thiên Chúa là Đấng xót thương, Đức Giêsu khẳng định: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).
Như vậy, đời sống cầu nguyện là nền tảng để xây dựng đời sống Tông đồ nơi người môn đệ. Cầu nguyện chính là hồn sống, là thước đo để biết được người Tông đồ thi hành sứ vụ vì ai, cho ai và mục đích gì! Cầu nguyện còn để xác định rõ: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Nói cách khác, đời sống cầu nguyện được ví cá cần nước, cây cần ánh sáng, con người cần hơi thở.
2. Mẫu gương cầu nguyện nơi Đức Giêsu
Khi thấy được tầm quan trọng không thể thiếu của đời sống cầu nguyện, nên Đức Giêsu không chỉ dạy các môn đệ cầu nguyện, nhưng chính Ngài đã làm gương về đời sống cầu nguyện.
Thật vậy, Ngài luôn luôn cầu nguyện trước, trong và sau khi làm bất cứ việc gì. Ngài cầu nguyện trong sa mạc; nơi hội đường; trên triền núi; ngoài bãi biển....
Hôm nay, thánh Máccô một lần nữa cho ta thấy Đức Giêsu coi trọng và ưu tiên hàng đầu trong việc cầu nguyện, tác giả viết: "Sáng sớm lúc trời còn tối, Người đã dậy đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó" (Mc l,35).
Khung cảnh “sáng sớm” cho chúng ta thấy một đêm dài đã kết thúc và một ngày mới khởi đầu. Thái độ cầu nguyện ngay từ khi trời còn tối báo cho chúng ta biết, Đức Giêsu chắc chắn tạ ơn, chúc tụng quyền năng của Thiên Chúa qua những việc Ngài đã làm trong ngày hôm trước như: thăm viếng, chữa bệnh, trừ quỷ…. Mặt khác, trải qua một đêm có lẽ nhiều thao thức, trăn trở và lựa chọn để làm trong ngày mới, nên ngay từ sáng sớm, Ngài đã xin ý của Thiên Chúa qua việc cầu nguyện, để mọi việc được diễn ra trong thánh ý của Người. Chính vì điều này mà mọi hoạt động của Đức Giêsu đều quy hướng về Thiên Chúa và mang lại vinh quang cho Người.
Như vậy, giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa có một sự gắn kết mật thiết đến độ không thể tách rời đến nỗi đã có lần Đức Giêsu tuyên bố: “Ta và Cha ta là một”; hay "lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34 ).
3. Cầu nguyện là nền tảng cho mọi hoạt động
Ngày nay, chúng ta thấy có rất nhiều sự rạn nứt qua các mối tương quan như: rất nhiều cuộc hôn nhân đổ vỡ, vợ chồng không còn tin tưởng nhau, thiếu sự chung thủy. Nạn phá thai diễn ra như cơm bữa. Lương tâm, chân lý không còn được lưu tâm hay bị lệch lạc. Con cái vô cảm, bất hiếu và hỗn xược với đấng sinh thành. Anh chị em trong gia đình loại trừ nhau. Hàng xóm láng giềng không còn chuyện “tối lửa tắt đèn có nhau”! Thầy cô giáo và học trò ít quan tâm đến chuyện: “Tiên học lễ, Hậu Học văn”; vì thầy chẳng ra thầy, trò chẳng ra trò! Bạn bè với nhau không còn tính trung thực, mà thay vào đó là lợi dụng nhau, thanh toán nhau bằng nắm đấm, song sắt, lưỡi lê….
Nguyên nhân lớn nhất đó là thiếu hay coi thường hoặc không có đời sống cầu nguyện. Bởi vì, không cầu nguyện, con người sẽ không nhận ra Thiên Chúa là ai cũng như không biết coi trọng nhân phẩm của mình và của nhau. Không có đời sống cầu nguyện, người ta cũng không tìm ra lý tưởng và không thể trả lời được về mục đích của sự hiện hữu nơi mình trên trần gian. Đàng khác, khi đời sống cầu nguyện bị sao nhãng, người ta cũng chẳng cần quan tâm đến sự thật và lòng trung thành, từ đó, họ có thể làm bất cứ điều gì mà không sợ áy náy! Họ sẵn sàng “dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt”; hay cả phương tiện và mục đích đều xấu, nhưng lương tâm đã bị trai lỳ, vô cảm nên họ vẫn sẵn sàng làm cho kỳ được để thỏa mãn điều mong muốn một cách bất nhân.
Hơn nữa, nhiều người có cầu nguyện, nhưng sự hời hợt, qua lần chiếu lệ đã làm cho họ chẳng khác gì như hạt giống gieo nơi vệ đường, trên bụi gai và nơi đá sỏi. Hãy nhớ lại câu chuyện Tổ Tông sa ngã chỉ vì hiểu có một nửa sự thật!
Chính vì thiếu đời sống cầu nguyện sâu xa như thế, nên việc sống đạo của chúng ta bị nhàm chán, hờ hững và hình thức bên ngoài, khiến cho những công việc chúng ta làm bị phản tác dụng khi nó quy chiếu về bản thân mình chứ không hướng về Chúa.
Muốn khắc phục tình trạng trên, chúng ta cần chuẩn bị tinh thần thật minh mẫn, sốt sắng, vui tươi như thể mình đang chuẩn bị đi gặp “người yêu”. Phải thực sự có kinh nghiệm cá vị về Thiên Chúa. Mặt khác, chúng ta phải tin tưởng chắc chắn rằng, chúng ta đang ở bên Chúa, Chúa đang ở bên ta, vì thế, cần có thái độ của đức tin để phó thác, thái độ khiêm tốn để lắng nghe. Bởi vì: “Cầu nguyện là hô hấp của tâm hồn”.
Chỉ có thế, chúng ta mới có thể xóa đi cái “tôi” ích kỷ, hư ảo, kiêu ngạo, để thay vào đó là sự khiêm tốn, hiền lành và khiêm nhường như Chúa. Như vậy, nhờ đời sống cầu nguyện, chúng ta mới nhận ra: “Con người vĩ đại nhờ cầu nguyện”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đặt mình bên cạnh Chúa, được sống với Chúa, được nhìn ngắm Chúa, được lắng nghe tiếng Chúa, được gặp gỡ Chúa, và được chìm sâu trong Chúa, Đấng cứu độ chúng con ngang qua đời sống cầu nguyện. Amen.
22.Cầu nguyện, yêu thương và phục vụ--Alphonse Marie Trần Bình An
Tháng 8 năm 1995, Liên Hiệp Bệnh Viện Phong Quốc Tế (International Leprosy Union) của Ấn Độ bầu chọn Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn lãnh giải thưởng quốc Tế Ghandi. Bộ Trưởng Y Tế liền lệnh cho Bác Sĩ và các cơ quan nhanh chóng làm hồ sơ để kịp đi. Bác Sĩ Ngoạn trả lời trong một bức thư đề ngày 9 tháng 10 năm 1995: “Tôi công tác phục vụ bệnh nhân phong đã lâu, thấy người bệnh đang còn bao nỗi khổ mà bản thân mình vì nhiều lý do cũng chưa phục vụ họ được nhiều lắm. Từ nay đến cuối đời, tôi sẽ để tâm trí phục vụ họ nhiều hơn nữa. Khi nào thấy mình xứng đáng với giải thưởng lấy tên là Gandhi, lúc đó được Bộ cho phép làm hồ sơ nhận giải thưởng thì tôi vô cùng sung sướng và thanh thản.” Sau đó qua các cơ quan y tế và Vụ Hợp Tác Quốc Tế, Bác Sĩ Bộ Trưởng gởi kèm ít chữ sau đây cho Bác Sĩ Ngoạn: “Rất thông cảm với sự khiêm tốn của anh. Đề nghị anh làm hồ sơ để nhận vì vinh dự của đất nước, ngành và cá nhân. Sau này anh dùng số tiền đó cho cá nhân hoặc cho sự nghiệp đều có lợi cả. Nên làm sớm cho kịp.” Với bức thư này, Bác Sĩ đã rất ưu tư, tìm đến gặp tôi mong được soi sáng. Tôi chân thành góp ý nên đi, để nhiều bệnh nhân được nhờ. Bác Sĩ bèn nổi nóng, cho tôi biết: “Quỳnh Giao có biết Bộ Trưởng nói gì với tôi không? Anh nhận đi, một phần dành cho anh và phần còn lại cho Bộ.” (Giải thưởng là 30.000 USD). Tôi buộc phải trả lời: “Người đáng nhận giải thưởng này nhất, là các Nữ Tu Phan Sinh và các bệnh nhân của họ.” Và Bác Sĩ đã không làm hồ sơ nhận giải thưởng trên. Nhiều nhà báo sau đó đến phỏng vấn Bác Sĩ và muốn biết vì lý do gì mà Bác Sĩ không nhận. Bác Sĩ trả lời: “Nhiều năm sống và làm việc bên cạnh những người tu hành của dòng tu này mới biết họ có một lẽ sống đặc biệt. Họ chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, tự nguyện làm những việc thiện một cách âm thầm để phục vụ những người bất hạnh. Họ không muốn những lời ca tụng. Cuộc sống của họ tuân theo một nguyên tắc thật đơn giản: “bàn tay trái không được biết việc làm của bàn tay phải và ngược lại.” Nhiều tấm gương của dòng tu này đã được nhiều bệnh nhân truyền tụng. Họ kể về soeur Charles Antoine, nguyên là giám đốc trại, có lần đến thăm nơi ăn ở của bệnh nhân, thấy một hố xí bị tắc mà không ai dám dọn, Bà liền thọc tay xuống và moi từ dưới lên những mảnh giẻ mà họ đã vô ý vứt xuống. (Trần Thị Quỳnh Giao – FMM, Một con người, một bác sĩ, một tín hữu)
Trích đoạn trên thuật lại thời gian Bác sĩ Trần Hữu Ngoạn bỏ tương lai, bỏ phố xá, bỏ cả gia đình, vợ con, để chuyên tâm phục vụ trại phung xa xôi, hẻo lánh. Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Marcô tường thuật một ngày trong đời rao giảng của Đức Giêsu. Vừa chữa xong nhạc mẫu ông Phêrô khỏi cơn sốt rét, Người còn tiếp tục chữa nhiều bệnh nhân và trừ quỷ. Sáng sớm hôm sau, Người đã ra nơi thanh vắng cầu nguyện. Rồi mời gọi các môn đệ tiếp tục lên đường rao giảng Tin Mừng.
Cầu nguyện
Suốt cuộc đời Đức Giêsu luôn kết hiệp mật thiết, gặp gỡ Thiên Chúa Cha, luôn lắng nghe Thánh Ý qua những giờ cầu nguyện hằng ngày. Để chuẩn bị cho sứ mạng loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã vào hoang mạc trọn 40 ngày đêm chay tịnh và cầu nguyện (Mt 4, 2). Bước vào cuộc đời công khai rao giảng, Người cũng thường xuyên sớm tối cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.” (Mc 1, 35)
Người còn sốt sắng cầu nguyện nhiều đêm liền trước khi quyết định chọn các Tông Đồ: “Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông, gọi là Tông Đồ.” (Lc 6, 12-13)
Sau khi làm phép hóa năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người đàn ông no nê, “lập tức, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia, về phía thành Betsaiđa trước, trong lúc Người giải tán đám đông. Sau khi từ biệt các ông, Người lên núi cầu nguyện.” (Mt 6, 45-46) Vì thế, Người luôn làm đẹp lòng Chúa Cha: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Mc 1, 11) Đức Giêsu hiệp nhất với Chúa Cha đến nỗi Người đã phán: "Bất kỳ ai thấy Ta là thấy Cha Ta" (Ga14, 9).
“Con hãy cầu nguyện luôn, bất cứ ở đâu. Chúa Giêsu đã nói: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.” (Đường Hy Vọng, số 123)
Yêu thương & khiêm tốn phục vụ
Đức Giêsu không chỉ ân cần giảng dạy, mà còn thương yêu, gần gũi, chữa trị, phục vụ những ai đau yếu, bệnh hoạn tìm đến, hoặc chính Người tìm thấy: “Lập tức họ nói cho Người về tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.” (Mc 1, 30-31) Không cần lời van xin, không chần chừ e ngại đụng chạm, cứu nhân như cứu hỏa, Đức Giêsu hành động ngay, bằng một cử chỉ thân thương, gần gũi, nhân ái, giải thoát bà nhạc mẫu của ông Phêrô khỏi cơn sốt rét. Người cũng giải thoát mọi người khỏi ma quỷ ám hại, khỏi sự dữ, khỏi tội lỗi và sự chết: "Này con, con đã được tha tội rồi." Người đã phán khi chữa lành người bất toại ở Capharnaum. (Mc 2, 5)
Hoàn toàn xả kỷ, vị tha, hy sinh, hiến mình cho tha nhân, Người chẳng nề hà liên tục chữa bệnh, trừ quỷ cho tất cả bệnh nhân nào tìm đến cả suốt buổi chiều cho đến tận tối khuya: “Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.” (Mc 1, 31-34) Khiêm tốn ẩn mình đằng sau những phép lạ, Đức Giêsu tránh khoa trương tự mãn theo thói đời. Cũng như không muốn các môn đệ nhiễm thói kiêu căng, tự phụ, tự đắc, Người bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia, ngay sau phép lạ hóa bánh ra nhiều.
“Con đừng nghĩ dấn thân là lao mình vào những hoạt động hăng say náo nhiệt. Con hãy hiểu dấn thân sâu hơn: “Theo gương Chúa, yêu thương đến mức độ quên mình hoàn toàn vì người khác, hiến mình hoàn toàn, hiến mình nhưng không, để hiệp nhất với kẻ khác, hầu họ được phong phú và công việc Chúa nơi họ được thành công.” (Đường Hy Vọng, số 605)
Quảng đại đi gieo
Ơn cứu độ vốn phổ quát cho mọi người, Không dành riêng độc quyền cho ai hay nhóm nào, cộng đoàn nào, hoặc dân tộc nào, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ nhanh chóng tiếp tục lên đường đến các cánh đồng mới. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ. (Mc 1, 38-39)
Ơn gọi truyền giáo là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn thể Dân Chúa. Hồng ân nhận biết Chúa được lãnh nhận nhưng không, thì cũng phải cho đi nhưng không.“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,” (Mt 28, 19)
“Chúa bảo con: “Hãy đi rao giảng Phúc Âm.” Chúa không ra thời khóa biểu, không vạch kế hoạch, Chúa để con sáng kiến thực hiện, niễn là con mang Phúc Âm.” (Đường HY Vọng, số 74)
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chữa bệnh tật chúng con, xin giải thoát chúng con khỏi tội lỗi, xin dạy chúng con cầu nguyện liên lỷ và xin ban chúng con can đảm rao giảng Tin Mừng đến với mọi người, mọi nơi và mọi lúc.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu chúng con biết ăn năn, sám hối, canh tân cuộc đời. Xin Mẹ nhắc nhở chúng con siêng năng cầu nguyện, để luôn được sống bên Chúa, cũng như được trở nên ngọn đuốc giữa thế gian đen tối. Amen.
23.Cầu nguyện và đi gieo--Alphonse Marie Trần Bình An
Bài Tin Mừng hôm nay tuy vắn gọn, nhưng rất rành mạch và súc tích, để mô tả khái quát một ngày tất bật và vất vả trong sứ vụ của Chúa Giêsu. Những ai tình nguyện đi theo Người, thì không thể không tuân thủ theo thời khóa biểu khít khao và tận tụy đến như thế.
Việc đầu tiên: Cầu nguyện.
Ngay sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi thanh vắng và cầu nguyện ở đó. (Mc 1, 35) Khởi đầu cho môt ngày rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu lặng lẽ cầu nguyện, để kết hợp mật thiết với Chúa Cha., để tìm hiểu và đón nhận Thánh Ý nhiệm mầu, để bổ sung nguồn lực yêu thương, để bù đắp thêm sức mạnh Thánh Thần.
Khi siêng năng chạy đến cùng Chúa Cha mỗi sáng sớm tinh mơ, Người muốn nhắn nhủ và dạy bảo các môn đệ, giờ phút cầu nguyện quan trọng biết dường nào trong sứ vụ Đi Gieo. Không cầu nguyện thì tựa như đánh mất mối giao hảo thánh thiêng với Thiên Chúa, các môn đệ sẽ dần xa cách Chúa, sẽ dần xa rời nguồn lực nuôi dưỡng và bổ sung quan trọng cho Ơn Gọi.
Việc thứ nhì: Đi Gieo
Sau khi đã thỉnh Thánh Ý, gia tăng thần lực, Chúa Giêsu mới đến với con người, tận tâm rao giảng Tin Mừng. Người không chỉ dùng lời nói xuông, mà còn cả thái độ khiêm tốn và hành vi ân cần, để gần gũi chăm sóc đoàn chiên. Khi được biết bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường, Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. (Mc 1, 31)
Như thế, Đi Gieo còn có ý nghĩa là tri hành hợp nhất. Dùng ngay hành động để minh chứng cho lời nói. mới phù hợp với nhu cầu cấp bách hiện đại. Thời nay, người ta cần những chứng nhân hơn thầy dạy, hoặc nếu cần thầy dạy thì trước tiên người ấy phải là chứng nhân. (Đức Phao-lô đệ lục)
Việc thứ ba: Phục vụ
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, chẳng kịp nghỉ ngơi Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ. (Mc 1, 34) Chúa Giêsu luôn quên cả bản thân, luôn lắng nghe, luôn đáp ứng và phục vụ những nhu cầu của mọi người, để giúp đỡ, an ủi, chữa lành những vết thương thể xác lẫn tinh thần. Noi gương Người, thánh Phaolô sau này, đã chia sẻ với tín hữu Cô rin tô: Phải, tôi là người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ cho mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để được thông chia phần phúc của Tin Mừng. (1Cr 9, 19, 22-23)
Lạy Chúa Giêsu giàu lòng thương xót, xin giúp con luôn gần gũi với Chúa hằng ngày bằng lời cầu nguyện, để con được thêm sinh lực theo đuổi Ơn Gọi mà Chúa trao phó.
Lạy Mẹ chí ái, xin đốt lửa mến trong lòng con, để con siêng năng tâm tình với Chúa, cũng như ban cho con thêm đức ái, để luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân. Amen.
24.Sống vì mọi người--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Nhìn vào xã hội loài người, chúng ta nhận thấy có hai hạng người mang hai tính cách khác nhau rõ rệt: một là hạng người vị kỷ, hai là hạng người vị tha.
Người vị kỷ
Người vị kỷ là hạng người chỉ biết sống vì mình, đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống. Tất cả mọi hoạt động của họ đều quy về bản thân, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình mà không hề quan tâm giúp đỡ người khác, thậm chí còn làm hại người khác để kiếm lợi cho mình.
Người vị tha
Người vị tha là người quên mình để quan tâm chăm lo, phục vụ người khác. Chúa Giêsu là tiêu biểu cho hạng người nầy. Ngài chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của Ngài hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho sự phục vụ tận tuỵ của Ngài và Ngài làm tất cả những gì có thể, để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Ngài chỉ biết sống vì người khác, sống để cứu độ người khác đến độ hiến trao cả mạng sống mình.
Tin Mừng Mác-cô (1, 29-39) hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu, một người hoàn toàn vị tha, luôn cúi xuống trên những mảnh đời lầm than khốn khổ để giúp đỡ cứu vớt họ.
Hôm ấy, “Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Ngài. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ.”
Sáng hôm sau, “lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.”
Cầu nguyện chưa được bao lâu, “Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”
Chúa Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Ngài trong phạm vi nhỏ hẹp. Ngài muốn vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của Ngài cho một thiểu số, nhưng ban phát cho hết mọi người. Thế nên “Ngài bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Ngài đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ.”
Nói tóm lại, không một người đau khổ nào đến với Chúa Giêsu mà không được Chúa quan tâm chăm sóc. Không một kẻ bất hạnh nào gặp Chúa mà chẳng được Chúa dủ lòng thương. Chúa đến trần gian để sống cho mọi người, yêu thương hết mọi người và hiến thân phục vụ tất cả không trừ ai.
Sống vị tha theo gương Chúa Giêsu
Mỗi người là một tế bào, là một bộ phận trong một Thân Thể lớn lao là nhân loại. Mỗi cá nhân được tồn tại và tăng trưởng là nhờ xã hội và xã hội được phát triển cũng là nhờ vào từng cá nhân.
Vì thế, mỗi người không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Một cây cam được xem là đáng quý khi nó cống hiến nhiều quả ngon trái ngọt cho chủ vườn. Cũng thế, người nào có nhiều cống hiến tốt đẹp cho đời sẽ làm cho bản thân mình trở nên cao quý hơn.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa luôn vị tha và đã sống hết mình vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng ích kỷ chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho người khác.
Nếu hôm nay chúng con chỉ biết chăm lo phục vụ bản thân mình mà không dấn thân phục vụ người khác, thì vào lúc từ giã đời này, chúng con sẽ cùng chịu án phạt đời đời với lão phú hộ không biết thương xót La-da-rô khốn khổ (Lu-ca 16, 19-31), hoặc như những người bị Chúa lên án trong dụ ngôn “Phán xét cuối cùng” vì đã không yêu thương phục vụ tha nhân chung quanh mình. (Mt 25, 31-46).
25.Sống hết mình vì mọi người--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chúa Giêsu không sống vì mình hoặc sống cho mình, nhưng luôn luôn sống vì Chúa Cha và vì nhân loại.
Chúa Giêsu sống hết mình vì Chúa Cha
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa” nhưng vì yêu mến Chúa Cha và để cứu rỗi nhân loại, Người đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” (Philip 2, 6-7) sẵn sàng hoá thân làm người hèn mọn sống giữa nhân loại lầm than.
Người hiến thân trở thành một hiến lễ mới thay cho dê và bò, một hiến lễ rất đẹp lòng Chúa Cha để đền tội thay cho muôn người. Thư Do-Thái khẳng định điều đó:
“Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài.” (Do-Thái 10, 4-7)
Sở thích riêng, ước muốn riêng của mình, Chúa Giêsu sẵn sàng vứt bỏ, cốt để thực hiện ý Chúa Cha, sao cho đẹp lòng Chúa Cha:
“Ta từ trời xuống, không phải để làm theo ý Ta, mà là ý của Đấng đã sai Ta” ( Ga 6, 38)
Người coi việc thi hành ý Chúa Cha quan trọng và cần thiết như lương thực của Người. Người nói với các môn đệ: “Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta và chu toàn công việc của Người” (Ga 4, 34)
Người quý trọng ý muốn của Chúa Cha hơn cả mạng sống mình. Vì thế, Người chấp nhận hy sinh mạng sống mình để ý muốn của Chúa Cha được thực hiện. Trong vườn Dầu, Ngài đã cầu xin cùng Chúa Cha trong van lơn và nước mắt, trong khổ đau đến toát mồ hôi máu:
“Abba, lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén nầy xa con. Nhưng đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi.” (Mt 26, 39)
Chúa Giêsu sống hết mình vì mọi người
Không chỉ sống hết mình vì Thiên Chúa là Cha của Người, Chúa Giêsu còn sống hết mình vì nhân loại là anh em của Người.
Tin Mừng Mác cô hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu luôn cúi xuống trên những lầm than khốn khổ của kiếp người:
“Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.”
Và khi trời chưa kịp sáng, khi chưa có ai đến quầy rầy, Chúa Giêsu tranh thủ thời gian tĩnh lặng để gặp gỡ Chúa Cha.
“Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.”
Cầu nguyện chưa được bao lâu, “Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”
Chúa Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Người trong phạm vi nhỏ hẹp. Người muốn vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của Người cho một thiểu số, nhưng ban phát cho hết mọi người.
Thế nên “Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.”
***
Người đời thường đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống và tất cả mọi hoạt động của người ta đều quy về mình, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Trái lại, Chúa Giêsu chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của Người hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho cuộc đời phục vụ tận tuỵ của Người và Người làm tất cả những gì có thể để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Người chỉ biết sống vì người khác, sống cho phần rỗi của người khác đến độ hiến trao cả mạng sống mình.
***
Là một bộ phận trong cơ thể, quả tim không sống cho mình nhưng sống cho toàn thân, không ngừng bơm máu nuôi sống toàn thân. Phổi, gan, bao tử…cũng không sống cho mình, vì mình, nhưng là sống cho toàn thân, làm tròn chức năng được trao phó để phục vụ và nuôi sống toàn thể thân mình. Lẽ sống của mọi bộ phận trong cơ thể con người đều như thế cả.
Nếu một ngày nào đó, tim, gan, thận, phổi… không phục vụ cho toàn thân nữa mà chỉ quy hướng về mình, chỉ lo phục vụ riêng mình thì đó là ngày tận cùng của chúng.
Mỗi chúng ta cũng là những tế bào, những bộ phận của một Thân Thể lớn lao là nhân loại. Chúng ta không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải sống hết mình, phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống hết mình vì Chúa Cha và vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho họ, vì hạnh phúc chỉ thật sự đến với chúng con khi chúng con biết đem lại hạnh phúc cho nhiều người.
26.Sống hết mình vì mọi người--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chúa Giêsu không sống vì mình hoặc sống cho mình, nhưng luôn luôn sống vì Chúa Cha và vì nhân loại.
Chúa Giêsu sống hết mình vì Chúa Cha
"Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa" nhưng vì yêu mến Chúa Cha và để cứu rỗi nhân loại, Người đã "hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ" (Pl 2, 6-7) sẵn sàng hoá thân làm người hèn mọn sống giữa nhân loại lầm than.
Người hiến thân trở thành một hiến lễ mới thay cho dê và bò, một hiến lễ rất đẹp lòng Chúa Cha để đền tội thay cho muôn người. Thư Do-Thái khẳng định điều đó:
"Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài." (Dt 10, 4-7)
Sở thích riêng, ước muốn riêng của mình, Chúa Giêsu sẵn sàng vứt bỏ, cốt để thực hiện ý Chúa Cha, sao cho đẹp lòng Chúa Cha:
"Ta từ trời xuống, không phải để làm theo ý Ta, mà là ý của Đấng đã sai Ta" (Ga 6, 38)
Người coi việc thi hành ý Chúa Cha quan trọng và cần thiết như lương thực của Người. Người nói với các môn đệ: "Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta và chu toàn công việc của Người" (Ga 4, 34)
Người quý trọng ý muốn của Chúa Cha hơn cả mạng sống mình. Vì thế, Người chấp nhận hy sinh mạng sống mình để ý muốn của Chúa Cha được thực hiện. Trong vườn Dầu, Ngài đã cầu xin cùng Chúa Cha trong van lơn và nước mắt, trong khổ đau đến toát mồ hôi máu:
"Abba, lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén nầy xa con. Nhưng đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi." (Mt 26, 39)
Chúa Giêsu sống hết mình vì mọi người
Không chỉ sống hết mình vì Thiên Chúa là Cha của Người, Chúa Giêsu còn sống hết mình vì nhân loại là anh em của Người.
Tin Mừng Máccô hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu luôn cúi xuống trên những lầm than khốn khổ của kiếp người:
"Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai."
Và khi trời chưa kịp sáng, khi chưa có ai đến quầy rầy, Chúa Giêsu tranh thủ thời gian tĩnh lặng để gặp gỡ Chúa Cha.
"Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó."
Cầu nguyện chưa được bao lâu, "Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!"
Chúa Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Người trong phạm vi nhỏ hẹp. Người muốn vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của Người cho một thiểu số, nhưng ban phát cho hết mọi người.
Thế nên "Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó." Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ."
* * *
Người đời thường đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống và tất cả mọi hoạt động của người ta đều quy về mình, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Trái lại, Chúa Giêsu chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của Người hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho cuộc đời phục vụ tận tuỵ của Người và Người làm tất cả những gì có thể để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Người chỉ biết sống vì người khác, sống cho phần rỗi của người khác đến độ hiến trao cả mạng sống mình.
* * *
Là một bộ phận trong cơ thể, quả tim không sống cho mình nhưng sống cho toàn thân, không ngừng bơm máu nuôi sống toàn thân. Phổi, gan, bao tử#cũng không sống cho mình, vì mình, nhưng là sống cho toàn thân, làm tròn chức năng được trao phó để phục vụ và nuôi sống toàn thể thân mình. Lẽ sống của mọi bộ phận trong cơ thể con người đều như thế cả.
Nếu một ngày nào đó, tim, gan, thận, phổi# không phục vụ cho toàn thân nữa mà chỉ quy hướng về mình, chỉ lo phục vụ riêng mình thì đó là ngày tận cùng của chúng.
Mỗi chúng ta cũng là những tế bào, những bộ phận của một Thân Thể lớn lao là nhân loại. Chúng ta không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải sống hết mình, phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống hết mình vì Chúa Cha và vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho họ, vì hạnh phúc chỉ thật sự đến với chúng con khi chúng con biết đem lại hạnh phúc cho nhiều người.
27.Nỗi niềm phàm nhân--Trầm Thiên Thu
Không ai lại không có nỗi niềm. Đó là mối tâm sự riêng, đôi khi khó nói ra. Nỗi niềm còn gọi là “khúc nhôi” (*). Là phàm nhân, mỗi chúng ta có nhiều nỗi niềm lắm, bởi vì “đời là bể khổ” mà!
Đã đành người đời cảm thấy đời người đầy gian khổ, mà Kinh Thánh cũng công nhận như thế. Thật vậy, sách Huấn ca gọi kiếp phàm nhân là “kiếp khốn khổ”: “Kể từ khi từ lòng mẹ sinh ra cho đến lúc trở về lòng đất mẹ, mang thân phận con người, ai cũng canh cánh bên lòng một nỗi lo, là con cháu Ađam, nợ phong trần đương nhiên phải trả. Điều không ngừng ám ảnh khiến lòng người sợ hãi âu lo là cứ phải nghĩ rằng mình đang chờ chết. Từ bậc vua chúa trên ngai vinh hiển đến kẻ cùng đinh chân lấm tay bùn, từ người cân đai áo mão đến kẻ khố rách áo ôm, ai cũng đều giận dữ, ghen tương, băn khoăn, lo lắng, rồi sợ chết, rồi hận thù cãi cọ” (Hc 40:1-4).
Ôi chao, nghe sao mà “não lòng” quá! Tuy nhiên, “Chúa vẫn xót thương, thứ tha, không tiêu diệt, nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí. Người vẫn nhớ thân phận chúng bọt bèo mỏng mảnh, gió thoảng qua, không hẹn ngày về” (Tv 78:38-39). Thế thì lại không buồn, mà vẫn tín thác, mặc dù cuộc đời vẫn ngổn ngang bao nỗi niềm của kiếp phàm nhân.
KHÓ KHĂN KÈM KHỐN KHỔ
Có lẽ chẳng ai khốn khổ bằng ông Gióp. Ông đã lâm cảnh khó khăn đến tột cùng, và chịu khốn khổ quá đỗi, vì ngay cả người vợ cũng nguyền rủa ông. Là con người nên ông cũng cảm thấy buồn, nên ông đặt vấn đề: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?” (G 7:1), và đó cũng chính là câu trả lời. Rồi ông so sánh: “Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công. Gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề” (G 7:2-3). Đó là thực tế của kiếp người, vì ai sinh ra cũng tay trắng và khi chết ai cũng trắng tay, thế mà người ta vẫn tìm cách giành giật và kèn cựa nhau đủ cách – thậm chí có thể giết người để mình hưởng lợi!
Có thể ví giọt nước mắt là “biểu tượng” của kiếp người, bởi vì cuộc đời buồn nhiều hơn vui, và luôn bị giằng co dữ dội, như Thánh Phaolô đã từng thú thật: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:19). Trong ca khúc “Một Cõi Đi Về”, cố Ns Trịnh Công Sơn cũng trăn trở: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về”. Và rồi ông lại tự nhủ: “Tôi ơi, đừng tuyệt vọng!”. Hoặc như cố Ns Y Vân đã than thở: “Buồn như ly rượu đầy, không có ai cùng cạn. Buồn như ly rượu cạn, không còn rượu để say”. Còn thi sĩ Cao Bá Quát có cái nhìn khác: “Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy? Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”. Thi sĩ trào phúng có khác. Đúng là người có máu khôi hài có thể làm cho nỗi khổ bớt “cay nghiệt” hơn.
Giữa gọng kềm Khó Khăn và Khốn Khổ, giống như trên đe dưới búa, ông Gióp tiếp tục băn khoăn: “Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: ‘Khi nào trời sáng?’. Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ chiều buông?’. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng” (G 7:4). Tại sao vậy? Ông cho biết rằng “thịt tôi chai ra, dòi bọ lúc nhúc, da tôi nứt nẻ, máu mủ đầm đìa. Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng” (G 7:5-6). Dù thất vọng nhưng ông không tuyệt vọng, mà vẫn không ngừng tín thác và cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7:7). Thực sự tín thác vào Chúa thì mới khả dĩ an tâm mà sống, và khả dĩ cảm tạ Chúa trong mọi sự:
Cảm tạ Ngài đã để con sống nghèo thê thảm
Nhờ đó con mới cảm nhận đêm Chúa giáng trần
Cảm tạ Ngài đã để con bị hàm oan
Nhờ đó con mới cảm nhận lúc Ngài bị xét xử
Cảm tạ Ngài đã để con bị người ta ghét bỏ
Nhờ đó con mới thấy cảm thương những người cô đơn
Cảm tạ Ngài đã để con là người bình thường
Nhờ đó con mới cảm nhận thế nào là mơ ước
Cảm tạ Ngài đã để con bị thua thiệt
Nhờ đó con mới biết khao khát vươn lên
Cảm tạ Ngài đã để con không hiểu thấu những điều cao siêu hơn
Nhờ đó con mới không sa vào hố kiêu ngạo
Cảm tạ Ngài đã để con được là người Công giáo
Nhờ đó con mới cảm nhận mầu nhiệm Lòng Chúa Xót Thương
Cảm tạ Ngài đã để con tha phương
Nhờ đó con mới có thể hòa đồng với người xa, kẻ lạ
Cảm tạ Ngài đã để con con mồ côi cả Cha lẫn Mẹ
Nhờ đó con mới biết trân quý tình cảm gia đình
Cảm tạ Ngài đã để con “lạc loài” giữa cuộc đời loanh quanh
Nhờ đó con mới cảm nhận thế nào là bóc lột, áp bức
Đường đời không như tấm thảm nhung, chính Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua gian khổ mới tới vinh quang. Tất cả đều là hồng ân (Rm 4:16), luôn nhờ Lòng Chúa Xót Thương, nếu Chúa chấp tội thì chắc chắn chẳng có ai đứng vững (x. Tv 130:3). Bởi vì “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta” (Ep 2:4), thế nên “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136). Đó là mầu nhiệm của tình yêu thương, của Lòng Chúa Thương Xót.
Đã là mầu nhiệm thì chúng ta không thể hiểu thấu, chỉ hiểu được phần nào mà thôi. Do đó, “hãy ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào! Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy!” (Tv 147:1). Chính Chúa “chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, và băng bó cho lành những vết thương” (Tv 147:3). Chúa đã “ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một” (Tv 147:4). Chúa còn “nâng đỡ kẻ thấp hèn và hạ bọn gian ác xuống đất đen” (Tv 147:6).
TIN TƯỞNG TIẾP TẶNG THƯỞNG
Tin tưởng là điều cần thiết trong cuộc sống – tin người và tự tin. Về tâm linh, niềm tin còn cần thiết hơn, và đó chính là đức tin – một trong ba nhân đức đối thần. Với kinh nghiệm đầy mình, Thánh Phaolô nói: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Vì “tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công, còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” (1 Cr 9:17).
Đối với Thánh Phaolô, phần thưởng là “rao giảng Tin Mừng không công”, và chân thành chia sẻ: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23). Như vậy mới thực sự hành động vì sáng Danh Chúa, vì nếu không khéo thì chỉ sáng danh chúng ta mà thôi. Tôi tìm tiếng tăm thì tôi thật tồi tệ!
Có câu chuyện về Thánh Tôma Tiến sĩ (Thomas Aquinas, 1225-1274) thế này: Có tiếng nói từ Thập Giá: “Tôma, con đã viết hay về Ta. Con muốn phần thưởng gì cho công việc của con”. Thánh Tôma trả lời: “Lạy Chúa, con chỉ muốn chính Ngài”. Và đó mới thực sự là phần thưởng tuyệt vời nhất – cả đời này và đời sau.
Thánh sử Mác-cô cho biết rằng nhạc mẫu của ông Simôn đang lên cơn sốt và nằm trên giường. Chúa Giêsu lại gần, “cầm tay bà mà đỡ dậy”, thế là “cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài” (Mc 1:31). Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Chúa Giêsu chữa. Ngài đã chữa khỏi đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ. Ngài không cho quỷ nói, vì chúng biết Ngài là ai.
Chuỗi sinh – lão – bệnh – tử là quy trình tự nhiên của đời người. Thích Ca Mâu Ni là một hoàng tử sống sung sướng trong hoàng cung, nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi ra khỏi hoàng cung và nhìn thấy thực tế của cuộc đời trần gian, thế là ông có tứ diệu đế: Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, và tử là khổ. Thế đấy, khổ là… khổ. Mà khổ thật!
Tin Mừng cho biết rằng ngay từ sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã thức dậy, đi ra chỗ tĩnh mịch và cầu nguyện ở đó (Mc 1:35). Tĩnh lặng và cầu nguyện là hai điều cần thiết, nhất là khi thức dậy mỗi sáng, nếu thực sự muốn giao tiếp mật thiết với Thiên Chúa. Trước khi làm gì thì phải đắn đo suy nghĩ. Tương tự, trước khi hành động thì phải cầu nguyện. Không thấy Thầy nên các môn đệ kéo nhau đi tìm Ngài, nhưng Ngài bảo: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1:38). Và rồi Ngài đã đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường, chữa bệnh và trừ quỷ.
Mỗi chúng ta – không trừ ai – cũng có trách nhiệm rao giảng về Chúa mọi nơi và mọi lúc, tùy theo hoàn cảnh và cương vị của mình, chính cách sống của chúng ta sẽ “nói” nhiều và có tác dụng hữu hiệu nhất. Nói ít mà làm nhiều luôn tốt hơn nói nhiều mà làm ít. Thiên Chúa cũng rất muốn người ta phải thể hiện ngôn hành song song: “Hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em, nhưng bên trong họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai. Ở bụi gai làm gì có nho mà hái? Trên cây găng làm gì có vả mà bẻ? Hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu” (Mt 7:15-17; Lc 6:43-45). Sự phân tích và dẫn chứng rất cụ thể!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con không ngừng cố gắng vẽ bức-tranh-cuộc-đời-con bằng chính nét-cọ-số-phận của chính con theo Thánh Ý Ngài và vì Ngài, thực sự mong làm sáng danh Ngài, và có thể sinh hoa kết trái tốt. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
---------------------
(*) Khúc Nhôi hoặc Khúc Nôi là danh từ cổ, thường chỉ dùng trong văn chương, nghĩa là đầu đuôi của câu chuyện lòng, của nỗi lòng, của tâm sự thầm kín. Trong phần điệp khúc của bài thánh ca “Dâng Hồn Xác”, cố NS Hùng Lân có sử dụng từ này: “Con kính dâng Cha cùng bánh và rượu nho, Hồn con đây với xác con đây, Ðền vì bao tội lỗi xưa nay. Con dám trông mong thành áng trầm thơm tho, Bay tới trước dung nhan thánh Người, cảm mến Cha lành tự tình khúc nhôi”.
28.Kiếp khổ--Trầm Thiên Thu
Đời là bể khổ. Đó là câu nói “cửa miệng” khi người ta nói tới cuộc đời. Khi sinh ra, ai cũng cất tiếng khóc chào đời. Chào đời là vui mà không cười, sao lại khóc? Phải chăng “định mệnh” đã an bài? Chúa Giêsu cũng đã nói: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34). Ông Thích Ca Mâu Ni vốn là một hoàng tử, sống sung sướng an nhàn, nhưng sau khi tham quan bốn cửa thành, ông đã nhìn thấy dân chúng đau khổ, rồi “giác ngộ” và nhận định: “Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, và tử là khổ”. Phật giáo bốn chân lý cao cả làm nền tảng, đó là Tứ Diệu Đế (còn gọi là Tứ Thánh Đế): Khổ đế (chân lý về sự đau khổ), Tập đế (chân lý về sự phát sinh đau khổ), Diệt đế (chân lý về sự diệt khổ), và Đạo đế (chân lý về đường dẫn tới sự diệt khổ).
Quả thật, cái khổ bao vây tứ phía, mở mắt ra là thấy khổ, khổ suốt ngày cho tới khuya, đôi khi nằm ngủ cũng chưa yên. Vì thấy khổ quá nhiều, Chúa Giêsu đã luôn chạnh lòng thương khi người ta chịu sự kìm kẹp của đau khổ. Ở đâu cũng có đau khổ: Ở trên, ở dưới, ở trước, ở sau, ở bên phải, ở bên trái. Chẳng tránh đâu cho khỏi nắng. Càng tránh đau khổ thì càng đau khổ. Muốn tránh khổ, chỉ có cách “đi xuyên qua nó”, tức là coi nó như không có, chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23). Đau khổ là mầu nhiệm. Dù không tỳ vết tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu vẫn PHẢI chịu đau khổ (Mt 16:21; Mt 17:22; Mc 8:31; Lc 9:22; ; Lc 17:25). Ngài chịu đau khổ để cứu độ nhân loại.
Đau khổ như ma quỷ, nó cứ “ám” chúng ta suốt ngày đêm. William Arthur Ward (1921-1994, ký giả và thi sĩ Mỹ) rút ra kinh nghiệm: “Người khôn ngoan là người học được những sự thật này: Rắc rối là tạm thời, thời gian là thuốc bổ, đau khổ là ống nghiệm” (Wise are they who have learned these truths: Trouble is temporary, time is tonic, tribulation is a test tube). Dù sao thì cũng phải ráng thôi!
Đau khổ xuất hiện ở mọi nơi và mọi lúc, từ khi Nguyên Tổ nghe lời xúi dại của Con Rắn. Thiên Chúa thấy sự ác lan tràn mặt đất nên Ngài buồn rầu (St 6:5-6). Thiên Chúa không gây ra điều ác, vì Ngài tốt lành, từ bi và nhân hậu, chính dục vọng của con người gây ra tội lỗi, và tội lỗi sinh ra cái chết (x. Gc 1:13-15). Đó là quy trình của đau khổ trên thế gian này.
Trong dịp ĐGH Phanxicô tông du Phi Luật Tân hồi trung tuần tháng 1-2015, bé gái mồ côi Glyzelle đã khiến ngài và cả thế giới mủi lòng khi em hỏi trong niếng nấc nghẹn ngào: “Tại sao Thiên Chúa cho phép chuyện này xảy ra? Trẻ em không có lỗi chi. Tại sao chúng con chỉ được một số ít người giúp đỡ?”. Một câu hỏi hóc búa quá! ĐGH Phanxicô cũng không biết phải nói gì hơn là ôm chặt em trong vòng tay yêu thương và cảm thông.
Ông Gióp là hiện thân của đau khổ, dù ông sống tốt lành. Ông nhận xét: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công; cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: ‘Khi nào trời sáng?’. Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ chiều buông?’. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng!” (G 7:1-4). Cả cuộc đời hầu như phàm nhân không được ngơi nghỉ, lo rồi sợ, sợ rồi hoang mang. Cứ thế, kiếp người bị đày đọa trong kiếp khổ triền miên, cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng!
Thất vọng rồi hầu như tuyệt vọng. Ông Gióp tha thiết cầu xin: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7:6-7). Buồn quá! Não nề quá! Thế nhưng bị đau khổ có khi lại là cái may, vì sung sướng quá có thể hóa rồ dại, lúc đó còn nguy hại hơn là chịu đau khổ.
Cái mình bảo là hên nhưng lại có thể là xui, cái mình cho là xui lại có thể là hên, giống như chuyện Tái Ông mất ngựa vậy. Nhưng tất cả đều là Thánh Ý Chúa nhiệm mầu, chúng ta không thể hiểu thấu. Vậy thì chúng ta lại phải tạ ơn Ngài mà thôi, như tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào! Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy! Chúa là Đấng xây dựng lại Giêrusalem, quy tụ dân Ítraen tản lạc về” (Tv 147:1-2).
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài đã từng mủi lòng và bật khóc khi thấy người khác chịu mất mát, đau khổ (Lc 11:35). Kinh Thánh cho biết: “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành. Người ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một. Chúa chúng ta thật là cao cả, uy lực vô biên, trí tuệ khôn lường! Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy, bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen” (Tv 147:3-6). Thiên Chúa của chúng ta luôn trắc ẩn, đặc biệt là đối với những người hèn mọn. Chính người đời còn biết nhận xét: “Cánh cửa này khép lại, cánh cửa khác mở ra”. Chắc chắn không ai phải cùng đường hoặc không lối thoát giữa những nỗi đau khổ hằng ngày trên đường lữ hành trần gian.
Dù chịu bao gian khổ, nhưng Thánh Phaolô vẫn kiên trì và tự nhủ: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Không làm điều đó thì khốn, nhưng nếu làm điều đó thì phúc. Thánh Phaolô lý luận: “Tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1 Cr 9:15-19). Chấp nhận và tự nguyện làm nô lệ tức là chấp nhận và tự nguyện chịu đau khổ. Ngược đời thế đấy!
Thánh Phaolô nói và làm thật, không nói suông: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).
Sinh, lão, bệnh, tử là bốn “mũi nhọn” chĩa vào con người. Đánh vần chữ KHỔ là “ca hát ô khô hỏi Khổ”, “ca hát” thì vui, thế mà chả vui tí ti nào. Khổ thật! Có lẽ vì thế mà ngày nay người ta đánh vần là “khờ ô khô hỏi Khổ”, khổ quá nên “khờ” phải rồi! Và Tin Mừng hôm nay (Mc 1:29-39) nói về việc Chúa Giêsu diệt trừ một trong bốn cái khổ đó.
Một hôm, vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Đây là hai “cặp bài trùng” được Chúa Giêsu gọi làm các môn đệ đầu tiên. Lúc đó, nhạc mẫu của ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. Lạ thay, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Tin lành hoặc tin dữ luôn được người ta đồn rất nhanh. Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Ngài. Thánh sử Mác-cô cho biết rõ ràng: “Cả thành xúm lại trước cửa”. Thế thì đông lắm, đông như kiến, vì ai cũng muốn tận mắt chứng kiến “sự lạ” nhãn tiền. Hôm đó, Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Ngài là ai. Ngài không cho quỷ tiết lộ bí mật vì “giờ của Ngài chưa đến”.
Hôm sau, mới sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Hành động của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng cầu nguyện là điều vô cùng cần thiết, nhất là khi mới thức dậy. Không thấy Sư Phụ Giêsu đâu, ông Simôn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Cà phê cà pháo chi sớm rứa? Ăn sáng thì càng phải từ từ chứ!
Nghe mấy đệ tử nói vậy, Ngài lại bảo họ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Chúa Giêsu luôn quan tâm và chú trọng việc cầu nguyện và làm việc. Sau đó, Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ – tức là diệt khổ cho những người đang phải chịu đau khổ.
Sai lầm dẫn tới phạm tội, tội lỗi sinh ra đau khổ. Kinh Thánh cho biết: “Có sáu điều làm Đức Chúa gớm ghét, có bảy điều khiến Ngài ghê tởm: Mắt kiêu kỳ, lưỡi điêu ngoa, tay đổ máu người vô tội, lòng mưu tính những chuyện xấu xa, chân mau mắn chạy đi làm điều dữ, kẻ làm chứng gian thốt ra lời dối trá, người gieo xung khắc giữa anh em” (Cn 6:16-19). Tránh được những điều đó thì chúng ta khả dĩ tránh được sai lầm, tránh sai lầm thì tránh được tội lỗi, tránh tội lỗi thì tránh được đau khổ.
Đau khổ có giá trị đặc biệt. Chịu đau khổ là vác thập giá, chịu đau khổ để thông phần đau khổ với Đức Kitô, để đền tội của chính mình và đền tội thay cho người khác. Cuộc đời các thánh cho chúng ta thấy rằng các ngài đều đã từng đau khổ nhiều – đau khổ tinh thần, đau khổ thể lý, hoặc cả hai dạng. Như vậy, đau khổ là điều kỳ diệu. Đau khổ càng lớn thì hạnh phúc càng nhiều!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chân nhận giá trị của đau khổ mà không than thân trách phận. Chúng con không dám xin Ngài kéo chúng con ra khỏi đau khổ, nhưng xin Ngài đừng bỏ mặc chúng con trong đau khổ. Tất cả xin vì sáng danh Chúa và cứu các linh hồn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
29."Xin cho con một tấm lòng như Chúa"--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Văn hoá Việt Nam với bốn ngàn năm văn hiến, vẫn đề cao tình làng nghĩa xóm: "tối lửa tắt đèn có nhau". Sự liên đới yêu thương đùm bọc lẫn nhau tha thiết đến độ: "Một con ngựa đau cả tàu bỏ co". Sự liên đới đó không chỉ dừng lại ở thôn xóm, dòng tộc mà bao quát cả dân tộc trong tình thương giữa người với người như câu ca dao ngày nào vẫn phảng phất du dương: "Bầu ơi thương lấy bí cùng - Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn". Thế nhưng, truyền thống đó đang mất dần trong thế giới hôm nay. Một thế giới ích kỷ và hưởng thụ. Một thế giới theo chủ trương "Mackeno" đang làm tan rã tỉnh người. Người ta lo cho bản thân. Người ta sẵn sàng vì quyền lợi của mình mà chà đạp lên người khác, mà chồng chất nỗi đau lên tha nhân. Con người hôm nay chỉ nghĩ đến mình nên nhẫn tâm bỏ rơi đồng loại trong khổ đau và tuyệt vọng. Sống bên nhau, nhưng thương nhau thì ít mà đầy đoạ nhau thì nhiều. Sống với nhau nâng đỡ nhau thì ít mà loại trừ nhau thì nhiều. Đỉnh cao của sự tàn nhân, vô tâm trước khổ đau của đồng loại chính là thái độ thiếu trách nhiệm với nỗi khỗ của anh em.
Có một tai nạn xảy ra trên quốc lộ 1 A, một chiếc xe vận tải chở gỗ tràm đi theo hướng từ Bắc vào Nam, đã đâm trực diện một chiếc xe vận tải chở trái cây, chạy theo hướng từ Nam ra Bắc. Vụ tai nạn này đã khiến buồng lái của chiếc xe Bắc vào Nam bị bẹp dúm, còn chiếc xe từ Nam ra Bắc thì bị lật ngang, trái cây đổ tung tóe trên đường. Đáng lưu ý là trong khi cả hai tài xế và hai phụ xe của hai chiếc xe cùng bị trọng thương, cần cấp cứu thì dân chúng quanh đó lại đổ đến để... cướp trái cây. Mặc người bị nạn. Điều người ta quan tâm chính là hôi của, là ăn cắp hội đồng.
Xem ra cuộc sống hôm nay quá vô tâm! Có phải vì đói, vì thèm khát một quả trái cây mà hành động như vậy chăng? Chắc chắn là không. Chắc chắn là không ai nghèo đói đến độ không có một quả trái cây mà ăn. Có chăng là vì họ thiếu vắng tình người, sự liên đới và trách nhiệm với tha nhân! Không ai nghĩ rằng mình phải có trách nhiệm trước sự sống còn của tha nhân. Không ai bận tâm trước những rủi ro bất hạnh của anh em. Tình người xem như đang mất dần trong xã hội đề cao vật chất và hưởng thụ hôm nay.
Phải chăng cách hành xử thiếu tình người đó đang là vấn đề cần phải cải thiện của xã hội hôm nay? Phải chăng khi người ta đề cao vật chất thì tình người lại bị coi thường và chà đạp? Dường như là vậy. Nhiều người quá đau khổ vì không tìm được sự nâng đỡ cùa anh em trong những lúc gian nan. Nhiều người quá tuyệt vọng vì sự lạnh lùng, thờ ơ và bỏ rơi của gia đình và bạn bè.
Lời Chúa hôm nay mô tả một ngày làm việc thật bận rộn của Chúa Giêsu. Ngài giảng dạy trong Hội đường. Ngài cứu chữa một người bị quỷ ám. Ngài đến tận nhà nhạc mẫu Phê-rô để chữa lành cho bà. Ngài còn dành thời giờ đón tiếp rất đông khách thập phương đến để cầu cứu Ngài. Ngài đã đặt tay và chữa lành bệnh tật cho họ. Cả ngày dường như Ngài chẳng nghỉ ngơi. Ngài đã dùng cả thời giờ của một ngày để phục vụ cho lợi ích tha nhân.
Vâng, nếu cuộc đời hôm nay có nhiều tấm lòng vị tha như Chúa, thì dòng đời sẽ không còn những cái khổ triền miên như ông Gióp. Nếu cuộc đời ai cũng biết có trách nhiệm với nhau, sẽ không còn những nỗi đau của cô đơn và tuyệt vọng như ông Gióp. Ông Gióp khi đối diện với nghịch cảnh của dòng đời đã không tìm được sự nâng đỡ từ bạn bè và người thân, ông còn bị người đời chế giễu và vợ con bỏ rơi. Nỗi khổ đau và sự cô đơn đã khiến ông kêu lên trong u buồn, sầu thảm: "Số phận của tôi phải chăng là những đêm đau khổ ê chề?".
Vâng, số phận của ông Gióp và số phận của hàng vạn người quanh ta vẫn đang cô đơn và tuyệt vọng vì lối sống ích kỷ và thiếu trách nhiệm của chúng ta. Vẫn còn đó những người chồng, người vợ đang tuyệt vọng vì đời sống thiếu trách nhiệm của người bạn đời. Vẫn còn đó những người con mặc cảm, tủi hận vì cha mẹ bỏ rơi, thiếu quan tâm. Vẫn còn đó những giọt nước mắt buồn đau của phận người bị ngược đãi, bị xúc phạm, bị chà đạp lên danh dự và phẩm giá làm người. Vẫn còn đó tiếng khóc than cho phận số nghèo đói, bệnh tật, già nua đang bị anh em đồng loại bỏ rơi.
Ước gì mỗi người chúng ta có được trái tim như Chúa để có thể chạnh lòng thương xót những mảnh đời khổ đau của anh em. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm lòng như Chúa để sẵn lòng dấn thân quảng đại vì hạnh phúc tha nhân. Xin cho mỗi người chúng ta luôn có trách nhiệm với nhau, với cuộc đời. Xin đừng để ai đau khổ, thất vọng vì sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm của chúng ta. Amen.
30.Phục vụ theo gương Thày Giêsu--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Nhìn vào thực tế của nhiều đôi vợ chồng, người ta phải công nhận rằng cuộc sống lứa đôi không luôn luôn dễ dàng. Hạnh phúc gia đình luôn bị đe doạ bởi những áng mấy đen bất ngờ xông tới. Khiến cuộc sống chung luôn cảm thấy buồn nhiều hơn vui. Khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. Đến nỗi ca dao đã từng nói:
Chồng gì anh, vợ gì tôi?
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây!
Mỗi người một nợ cầm tay,
Đời xưa nợ vợ, đời nay nợ chồng.
Con đường tình yêu không êm xuôi nhưng luôn lên xuống gập ghềnh, suối thác. Vì, cuộc “trăm năm” nào cũng đầy những thử thách. Biềt bao cặp vợ chồng đang hạnh phúc rồi bỗng dưng cả hai cùng phàn nàn về nhau: không ngờ người ta đổi thay đến thế. Lúc đầu thì thế nào cũng được, miễn là yêu nhau. Nhưng rồi người ta thấy thế này là bất công, thế kia là khó chấp nhận: lẽ nào mình cứ phải quét nhà rửa bát mãi! Tại sao mình cứ phải nấu cơm đi chợ?
Rồi luôn nghĩ thiệt hơn và luôn tìm lợi cho mình mà chẳng ai chịu ai.
Khi mà không còn yêu nhau, người ta thường dễ tố cáo nhau là ích kỷ, là hẹp hòi, chẳng bao giờ làm cho mình được như ý. Quả đúng như lời nhà tâm lý Jacques Dyssord: “Tình yêu thường mở đầu bằng khoa hùng biện và rồi đổi dần ra khoa triết lý”. Từ chỗ nói cho hay trở thành cãi cho hăng. Từ chỗ chín bỏ làm mười đến chỗ kết án hờn ghen.
Thế là đời sống gia đình trở nên như một nhà tù. Có khi vì danh dự gia đình, hay để tránh không cho con cái biết, hai vợ chồng cố gắng đóng kịch, một bi kịch rất não nề thê thảm, thường tệ hại hơn cả những cuộc cãi vã lớn tiếng. Vì cãi vã xong còn nói chuyện được với nhau nhưng khi không còn gì để nói với nhau thì cuộc sống dài lê thể trong đau khổ.
Sở dĩ hôn nhân thất bại là vì họ hết còn hy sinh cho nhau, hết quan tâm chăm sóc nhau. Nhiều người khi chiếm được nhau thì họ không còn quan tâm người bạn đời, có khi còn hắt hủi, bỏ rơi nhau, khiến người bạn đời cô đơn trong chính mái ấm gia đình mình.
Đây là lúc người ky-tô hữu cần sống tinh thần phục vụ quên mình của Đức Giêsu. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng. Tình yêu Ngài không so đo tính toán. Ngài chỉ dồn hết tâm sức để mang lại niềm vui, bình an cho người mình yêu.
Lời Chúa hôm nay mô tả một ngày làm việc thật bận rộn của Chúa Giêsu. Ngài giảng dạy trong Hội đường. Ngài cứu chữa một người bị quỷ ám. Ngài đến tận nhà nhạc mẫu Phê-rô để chữa lành cho bà. Ngài còn dành thời giờ đón tiếp rất đông khách thập phương đến để cầu cứu Ngài. Ngài đã đặt tay và chữa lành bệnh tật cho họ. Cả ngày dường như Ngài chẳng nghỉ ngơi. Ngài đã dùng cả thời giờ của một ngày để phục vụ cho lợi ích tha nhân.
Vâng, nếu cuộc đời hôm nay có nhiều tấm lòng phục vụ như Chúa, thì gia đình sẽ hạnh phúc biết bao! Nếu cuộc đời ai cũng sống có trách nhiệm với nhau, sẽ không còn những nỗi đau của cô đơn và tuyệt vọng. Nếu vợ chồng biết hy sinh cái tôi của mình để hy sinh cho nhau thì hạnh phúc sẽ ngập tràn trong mái gia đình.
Thế nhưng, dòng đời vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn và tuyệt vọng vì lối sống ích kỷ và thiếu trách nhiệm của người bạn đời. Vẫn còn đó những người con mặc cảm, tủi hận vì cha mẹ bỏ rơi, thiếu quan tâm. Vẫn còn đó những giọt nước mắt buồn đau của phận người bị ngược đãi, bị xúc phạm, bị chà đạp lên danh dự và phẩm giá làm người. Vẫn còn đó tiếng khóc than cho phận số nghèo đói, bệnh tật, già nua đang bị anh em đồng loại bỏ rơi.
Ước gì mỗi người chúng ta có được trái tim như Chúa để có thể chạnh lòng thương xót những mảnh đời khổ đau của anh em. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm lòng như Chúa để sẵn lòng dấn thân quảng đại vì hạnh phúc tha nhân. Xin cho mỗi người chúng ta luôn có trách nhiệm với nhau, với cuộc đời. Xin đừng để ai đau khổ, thất vọng vì sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm của chúng ta. Amen.
31.Cúi xuống với người khổ đau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người xưa có câu: “ngước lên chẳng bằng ai nhưng cúi xuống vẫn còn hơn nhiều người”. Câu này không hàm ý để tự an ủi mình và xem thường người hèn yếu hơn mình. Câu này cha ông chỉ muốn nhắc nhở chúng ta được như vậy là tốt lắm rồi, hãy cúi xuống mà chia sẻ với những anh em nghèo khó hơn ta.
Trong hạnh các thánh ta thấy một con người đã sống như thế, đó là thánh Martino. Ngài sinh ra trong một hoàn cảnh chẳng bằng ai, một người da mầu trong một xã hội kỳ thị chủng tộc, một đứa con bị bỏ rơi, một hoàn cảnh gia đình khó khăn… thế nhưng thay vì nhìn lên để phẫn uất vì hoàn cảnh “đen đủi” của mình, Martino lại biết nhìn xuống những người nghèo khó hơn mình, và luôn thể hiện một tấm lòng bác ái, quảng đại. Nhiều lần được mẹ sai đi mua đồ lặt vặt hay đi chợ, cậu bé Martino đã giữ lại một ít tiền để bố thí cho những người nghèo khổ; cũng thế, khi là một người giúp việc trong nhà Dòng, một vị thế rốt bét nhất trong một tập thể, Martino lại vẫn biết nhìn xuống để khám phá thấy có nhiều người nghèo khổ cần giúp đỡ, nhiều người bệnh tật cần được chữa trị và chăm sóc…
Martin đã cúi xuống để khám phá ra sứ vụ của đời mình chính là chăm sóc cho những người nghèo khổ hơn. Chính vì thế mà cuộc đời của Martin trở thành cuộc đời của một người sống lòng bác ái, lòng bao dung với thái độ sẵn sàng giúp đỡ tha nhân.
Martino đã họa lại chân dung đầy yêu thương nơi Thầy Chí Thánh Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã luôn cúi xuống mọi phận người khổ đau. Ngài thấy và chạnh lòng thương xót. Ngài cúi xuống để xoa dịu nỗi đau cho họ. Phúc âm hôm nay tường thuật việc Ngài cúi xuống với người phong hủi với lòng thương cảm sâu xa. Ngài đưa tay chạm vào thân thể lở loét của anh. Một thân thể hôi hám và dơ bẩn mà người đời đã xa tránh. Hành động này không chỉ nhằm mục đích chữa bệnh cho anh mà còn xoa dịu nỗi đau trong lòng của anh. Anh bị người đời khinh chê. Anh bị xã hội loại trừ. Người đời xếp anh vào hàng tội nhân bị Thiên Chúa giáng hoạ. Khi chạm đến thân thể anh, Chúa Giêsu cũng chạm đến tâm hồn anh. Anh được chữa lành cả hồn lẫn xác. Thân xác anh khoẻ mạnh. Danh dự của anh cũng được phục hồi. Tâm hồn anh cũng bình an và tươi vui. Từ nay anh không bị người đời xa lánh, khinh chê. Từ nay anh không còn tủi hổ vì phận số bất hạnh của mình. Qua Chúa Giêsu, anh được cộng đồng đón nhận. Nhờ Chúa Giêsu, anh được xã hội nhìn nhận. Xã hội không còn lý do để khinh chê hay loại bỏ anh ra bên lề xã hội. Giờ đây anh có thể sống tươi vui như bao con người khác trong xã hội. Anh không còn mặc cảm về bệnh tật. Anh không còn mặc cảm bị khinh chê. Anh được quyền sống như bao con người khác, được tôn trọng và yêu thương.
Trong thời đại hôm nay người ta đang nói đến hiệu ứng cách sống của Đức Thánh Cha Phanxico. Nơi Đức Thánh Cha ta thấy dường như ngài không thích ngồi trên ngai tòa của mình mà lại thích cúi xuống, đến với những con người nghèo. Ngài không ngại tiếp xúc với những người khổ đau bởi bệnh tật, nghèo đói. Ngài cúi xuống ôm hôn từng phận người bất hạnh lầm than.
Chúa Giêsu năm xưa đã đưa tay chạm đến người bệnh để chữa lành cho anh. Ngài có thể phán một lời thì bệnh tật có thể tan biến. Thế nhưng, Chúa đã sử dụng đôi tay để trao ban tình yêu và sự quan tâm trìu mến dành cho anh. Ước gì từng người chúng ta hãy biết dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương, những lời nói dịu dàng, những hành vi bác ái và vị tha. Ước gì người ky-tô hữu luôn ân cần cúi xuống để xoa dịu mọi nỗi đau cho anh em qua việc phục vụ, bác ái dấn thân đến mọi hoàn cảnh cuộc sống, hầu xây dựng một thế giới tràn đầy tình yêu và hạnh phúc. Amen.
32.Sống tình liên đới--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống cần sự liên đới. Vạn vật cũng liên đới với nhau để tồn tại. Con người cũng phải liên đới với nhau để phát triển và đem lại hạnh phúc cho nhau. Đó là chân lý, là lẽ sống của muôn loài.
Đó cũng là điều mà nhà thơ Hữu Thỉnh đã nói:
Tôi hỏi đất:
– Đất sống với đất như thế nào?
– Chúng tôi tôn cao nhau.
Tôi hỏi nước:
– Nước sống với nước như thế nào?
– Chúng tôi làm đầy nhau.
Tôi hỏi cỏ:
– Cỏ sống với cỏ như thế nào?
– Chúng tôi đan vào nhau làm nên những chân trời.
Tôi hỏi người:
– Người sống với người như thế nào?
Thật khó để trả lời cho chân lý sống của con người. Con người dường như chẳng đi theo một quy luật nào. Đất sống với nhau luôn bồi đắp cho nhau để tạo thành những đồi núi trùng điệp thơ mộng. Những con nước luôn liên kết với nhau mới tạo thành những dòng chảy quanh xóm làng thanh bình. Từng nhánh cỏ đan xen với nhau mới làm nên một thảm cỏ xanh tươi bát ngát. Nhưng con người lại ích lỷ, thích sống cho bản thân hơn là liên đới tồn tại.
Dẫu biết rằng cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi con người biết sống bồi đắp cho nhau, biết sống làm đầy cho nhau những nghĩa cử yêu thương, và biết sống liên kết với nhau tạo nên một thế giới màu xanh của yêu thương và hòa bình. Cuộc đời sẽ bất hạnh nếu con người sống chia rẽ, hiềm khích và tranh giành nhau. Nhưng đáng tiếc con người sống với nhau chỉ toan tính lợi lộc cho bản thân hơn là chia sẻ nhường nhịn lẫn nhau. Vì thế, câu trả lời con người sống với nhau thế nào thật đa dạng.
- Người buôn bán thì bảo phải cạnh tranh để tồn tại, để kiếm lợi nhuận.
- Người làm chính trị thì bảo phải khôn ngoan để chiến thắng, để đẩy lui đối thủ.
- Những ca sĩ, những bác sĩ thì thích chê nhau nhiều hơn là khen nhau, thích loại trừ nhau nhiều hơn là liên đới với nhau.
Xem ra con người vẫn chưa liên đới đủ để tạo nên một sức sống hùng vĩ như đất đã tạo nên những dãy núi trùng điệp. Xem ra con người vẫn chưa xan xẻ với nhau đủ để tạo thành một dòng chảy tình yêu cho mát rượi lòng nhau. Xem ra con người vẫn con xa cách nhau khiến không thể gần nhau để cùng chung xây thế giới an bình thịnh vượng.
Thế giới sẽ đẹp biết bao nếu con người biết liên đới với nhau. Sự liên đới sẽ làm giầu có cho nhau. Sự liên đới sẽ mang lại no ấm cho nhau. Sẽ không còn tiếng khóc lẻ loi trong cô đơn tuyệt vọng. Sẽ không còn những tranh chấp thị phi nếu con người biết tôn cao nhau và cùng dìu nhau đi tới.
Chúa Giêsu đã sống một cuộc sống yêu thương như thế. Ngài rất bận rộn. Cái bận rộn không phải của công việc cho bản thân mà là bận rộn làm việc cho tha nhân. Ngài sống liên đới với mọi người. Ngài liên đới với tội nhân để thay họ dâng hy lễ đền tội với Chúa Cha. Ngài liên đới với những mảnh đời lao động vất vả khi chính Ngài đã sống ẩn dật tại mái nhà Nagiaret. Nơi đó, Ngài sống như người nghèo khi kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động. Ngài liên đới với mọi cảnh cơ hàn của con người khi Ngài dùng đôi tay để xoa dịu mọi nỗi đau của con người. Đôi chân trần của Ngài đã đến với mọi hạng người để nâng đỡ và ủi an họ.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy sống tình liên đới với nhau. Hãy ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình để đến với tha nhân. Con người sống là sống với ai đó để tồn tại thì hãy sống liên đới, xan xẻ và yêu thương nhau. Có như vậy chúng ta mới làm lên những kỳ công cho cuộc đời khi không còn những kẻ cơ hàn, đói rách bên cạnh chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta biết sống yêu thương như Chúa. Xin cho đôi chân của chúng ta luôn mau lẹ đến với tha nhân, và đôi tay luôn quảng để nâng đỡ, ủi an những ai đang mang gánh nặng nề vì cuộc sống lầm than. Amen.
33.Những hoạt động và cầu nguyện của Đức Giêsu--Lm. Nguyễn Hữu Thy
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay tường thuật cho chúng ta về những hoạt động và những giờ phút yên tĩnh của Đức Giêsu khi Người bắt đầu đời sống công khai ở Ga-li-lê-a. Suốt cả một ngày Người đã luôn năng nỗ và không bao giờ mỏi mệt chu toàn sứ mệnh mà Chúa Cha đã giao phó. Sứ mệnh chính yếu của Người là việc rao giảng Nước Thiên Chúa cho hết mọi người: “Chúng ta hãy đi sang các làng bên cạnh; Thầy cũng muốn rao giảng ở những chỗ đó nữa, bởi vì Thầy được sai đến là để làm chuyện đó”. Lời nói này của Đức Giêsu đã giúp chúng ta hiểu được chính xác hơn mục đích của những phép lạ Người đã làm: Tất cả đều nhắm phục vụ cho công cuộc thuyết giáo của Đức Giêsu về “Nước Trời sắp đến gần”. Mọi lời giảng dậy và mọi việc Người làm đều hoàn toàn nhắm tới sứ mệnh rao giảng Tin Mừng như mục đích duy nhất. Trước hết những lời nói và việc làm của Người là mạc khải cho những người có đức tin mầu nhiệm về Nước Thiên Chúa (x. Mc 2,10-12; 4,11). Như có lần thánh Augustinô đã viết: “Các phép lạ cũng có ngôn ngữ riêng, nếu như người ta hiểu được chúng: Chúng nói về Đức Kitô” (In Johann. Tr. 24,2)
Bởi vậy, Phúc Âm nhắc lại cho chúng ta về Đức Giêsu, Đấng đã chữa lành cho bà mẹ vợ của Simon, cho những bệnh nhân và những người bị quỉ ám mà vào cuối ngày người ta đã khiêng tới đặt trước cửa nhà Simon và Anrê để xin Người chữa cho. Nhưng việc quan trọng không phải là để mong được chữa lành bệnh, nhưng là để lắng nghe Đức Giêsu thuyết giáo về Nước Trời. Tiếp đến, ngày xưa cũng như hôm nay, điều người ta cần phải làm là dứt khoát đáp lại lời kêu mời của Đức Giêsu và sống như Người đã sống.
Tuy nhiên, một khi người ta đã không muốn tin và không đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu thì cũng không thể hiểu biết được lời giảng và việc làm của Người (x. Mc 8,11). Dù cho họ có chứng kiến hay nghe nói về các phép lạ Người đã làm bao nhiêu lần đi nữa, thì con mắt tâm hồn họ vẫn trong cảnh mù lòa (x. Mc 4,12).
Do đó Đức Giêsu đã dứt khoát và mạnh mẽ từ chối chứng nhân của ma quỉ. Người chỉ muốn thức tĩnh đức tin nơi mỗi người bằng chính lời nói và việc làm của mình. Do đó Người đã bỏ thành Ca-pha-na-um để đi sang các thôn xóm kế cận rao giảng. Đức Giêsu giảng thuyết cho dân chúng về Nước Thiên Chúa và trừ khử ma quỉ. Vì Người đến trong thế gian là để thực thi chuyện đo.
Những hoạt động hăng say cho Nước Trời như thế của Đức Giêsu chỉ bị gián đoạn bằng những giờ phút cầu nguyện hàn huyên với Chúa Cha trong nơi thanh vắng. Đó chính là những giờ phút nghĩ ngơi yên tĩnh của Người. Nơi Đức Giêsu: cuộc sống và sự cầu nguyện, cầu nguyện và cuộc sống hoàn toàn đan kết chặt chẽ với nhau: “Vào buổi sáng sớm, khi trời còn tối, Đức Giêsu đã chỗi dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó”. Đây là lần đầu tiên thánh sử Mác-cô tường thuật về sự cầu nguyện của Đức Giêsu. Trong những phần kế tiếp của bản Phúc Âm, thánh nhân còn trình bày chân dung Đức Giêsu như là gương mẫu trong sự cầu nguyện, và đồng thời thánh nhân cũng đã nhắc đến lời cảnh giác của Đức Giêsu là phải cầu nguyện thế nào cho đúng đắn.
Trong bốn thánh sử ghi chép Phúc Âm chỉ có thánh Mác-cô nhấn mạnh đến việc Đức Giêsu đã đi tới một nơi thanh vắng để Người cầu nguyện. Vâng, đoạn Phúc Âm ghi lại là sau khi làm phép lạ đầu tiên khiến bánh hóa nhiều để nuôi dân chúng, Đức Giêsu đã đi lên Núi một mình “để cầu nguyện” (6,46). Trong Phúc Âm thánh Mác-cô người ta còn đọc được lời cầu nguyện tha thiết của Đức Giêsu cùng Chúa Cha trong cơn sầu khổ tột độ: “Áp-ba, Cha ơi” (14,36). Kiểu nói “Áp-ba, Cha ơi” trong tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu là kiểu nói đầy trìu mến của một đứa trẻ nói với cha ruột của mình. Kiểu nói “Áp-ba, cha ơi” vào thời Đức Giêsu chưa một ai dám xử dụng để xưng hô với Thiên Chúa. Chỉ có Đức Giêsu là người đầu tiên duy nhất đã xử dụng kiểu nói đó. Đúng vậy, như một đứa bé lúc gặp phải nguy tử đã chạy đến ôm chặt vào cha mình, Đức Giêsu đã chạy đến cùng Chúa Cha và tin tưởng van nài: “Áp-ba, Cha ơi, đối với Cha tất cả mọi sự đều có thể. Xin Cha cho con khỏi uống chén đắng này. Tuy nhiên, xin Cha đừng làm theo ý con, nhưng hãy làm theo ý Cha” (14,36). Tình con thảo và lòng tin tưởng phó thác tuyệt đối của Đức Giêsu trong khi câu chuyện trao đổi với Chúa Cha trên đã giúp cho chúng ta hiểu rõ được lời cầu nguyện của Người trong lúc hấp hối trên thánh giá: “Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ rơi con?” (15,14). Đây không phải là lời kêu hốt hoảng vô ý thức hay một sự bộc lộ thất vọng cay đắng. Trái lại, trong cơn hấp hối đầy sợ hãi, Đức Giêsu đã xướng lên câu đấu của một thánh vịnh (Tv 22,2) như một lời nguyện thầm, mà kết cấu là sự phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa: “Chúa đã nhậm lời con xin” (Tv 22,22)
Đức Giêsu cầu nguyện luôn và người mời gọi chúng ta cũng hãy cầu nguyện không ngừng. Thánh sử Mác-cô đã ghi lại những lời nhắc nhở của Đức Giêsu về sự tĩnh thức cầu nguyện. Vâng, con người luôn phải siêng năng và tĩnh thức cầu nguyện, vì cuộc đời con người là một cuộc chiến đấu dằng co với đủ mọi thứ thù địch, trong đó gay cấn nhất là cuộc “nội chiến” trong chính mình: Con người phải chiến đấu chống trả những cám dỗ (14,38), những xu hướng và những đòi hỏi quá độ của thân xác. Tiếp đến, con người phải đề phòng những nghịch cảnh và những hoạn nạn sẽ xảy đến trong những ngày sau hết (13,18tt). Nhưng theo Phúc Âm Mác-cô, muốn cho lời cầu xin của mình được chấp nhận, con người cần phải thỏa mãn được hai điều kiện tiên quyết mà Đức Giêsu đã đặt ra, đó là sự tin tưởng phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa (11,22-24) và sự luôn sẵn sàng tha thứ, hòa giải với đồng loại (11,25; Mt 6,14-15).
Trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu, những giờ phút cầu nguyện yên tĩnh trong nơi thanh vắng thực sự là thời gian tĩnh dưỡng, là thời gian “lấy lại sức” để tăng cường cho các hoạt động thuyết giáo của Người. “Ora et labora” - Cầu nguyện và làm việc - đã được Đức Giêsu bắt đầu ở Na-da-ret trong suốt 30 năm trời và nay lại được tiếp tục trong cuộc sống công khai của Người. Điều đó đã đủ nói lên rằng: Cầu nguyện và hoạt động là hai điều kiện tất yếu cho cuộc sống của tất cả mọi Kitô hữu và nhất là của những ai dấn thân làm việc Tông đồ rao giảng Nước Thiên Chúa.
Một điểm khác đáng ghi nhận trong phần cuối bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay là thánh sử Mác-cô đã nhắc đến thánh Phêrô. Với tính bộc phát và hăng hái sẵn có của mình, Simon Phêrô đã dẫn các bạn đồng nghiệp đi lục soát tìm kiếm Đức Giêsu khắp nơi, và khi gặp được Người đang cầu nguyện trong một nơi hoang vắng liền thối thúc Người: “Thưa Thầy, ai nấy đều đi tìm Thầy đó”, chứ ông không hề nghĩ đến chuyện phải tôn trọng “giờ cầu nguyện” của Thầy. Chắc chắn rằng vào lúc bấy giờ Simon Phêrô chưa hiểu được việc cầu nguyện đối với Đức Giêsu quan trọng như thế nào! Ông cũng chưa biết đánh giá được sự yên tĩnh, sự lắng đọng của tâm hồn, hầu có thể nghe được tiếng Chúa, hầu có thể chìm sâu vào trong cầu nguyện!
Phải chăng trong cuộc sống hằng ngày đã có biết bao lần chúng ta cũng đã tư duy và hành động tương tự như Simon Phêrô xưa? Thật sự, đời sống đức tin, đời sống Kitô hữu của chúng ta đang phải đứng trước những mối đe dọa nguy hiểm trầm trọng, nếu chúng ta - vì bất cứ lý do gì - coi thường hay rút ngắn những giờ phút cầu nguyện yên tĩnh trong sự lắng đọng của tâm hồn, để lao mình vào đủ thứ công việc - công việc sinh nhai cũng như công việc tông đồ. Vì đời sống một người mà thiếu cầu nguyện, những hoạt động tông đồ mà không có sự cầu nguyện kèm theo thì chỉ là cái xác không hồn hay chỉ là những chiếc xe thiếu xăng dầu.
Vâng, bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay tường thuật về các hoạt động và cầu nguyện của Đức Giêsu, đã đặt ra cho lương tâm mỗi người Kitô hữu một vấn nạn thực tiễn: Liệu trong suốt chuỗi ngày sống, tôi còn dành cho mình có được giây phút nào đó để cầu nguyện nữa không? Ước gì gương sống của Đức Giêsu - Ora et labora - có được “tiếng dội” trong những ngày sống sắp tới của chúng ta.
34.Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.
Hằng ngày chúng ta đối diện trước những hình ảnh tàn khốc trên TV, nào là chiến tranh, nạn đói, nào là trẻ em đang hấp hối. Đứng trước những nỗi đau khổ khôn cùng như thế của nhân loại không lạ gì nhiều người đã đi đến chỗ kết luận rằng một là do hình phạt của Thiên Chúa, hai là không có Thiên Chúa nào hết. Không sao hiểu nổi những con người ăn ngay ở lành lại phải chịu đựng nhiều nỗi khổ đau và vác những thập giá nặng nề đến thế! Không gì đe dọa niềm tin cậy chúng ta vào một Thiên Chúa yêu thương quan phòng hơn là phải chứng kiến những cảnh khổ đau trên đời này.
Sách Gióp là một nỗ lực tiếp cận trực diện vơí vấn đề đau khổ của con người. Ông Gióp, một người đạo hạnh ăn ngay ở lành, bị Thiên Chúa đem ra thử thách. Ông bị mất tất cả vợ con và tất cả mọi tài sản, rồi sau cùng bị ngã quỵ vì đủ thứ bệnh tật. Ông bị buông xuôi bỏ cuộc đến nỗi cảm thấy rằng ngoài cái nỗi khốn cùng này ông không còn gì đáng sống nữa. Nghĩ tới nghĩ lui tại sao ông phải chịu đau khổ, hay tại sao Thiên Chúa giáng xuống quá nặng tay, ông Gióp không tìm thấy một câu trả lời thuyết phục nào có thể đem lại ý nghĩa cho nỗi tuyệt vọng hiện thời của ông. Sự thật là không dễ gì có ngay câu trả lời. Gióp không phải là người đầu tiên cũng chẳng phải là người cuối cùng bị dày vò và bế tắc trước vấn nạn đau khổ con người. Bệnh tật và cái chết có thể là những thời khắc quan trọng nhất và đòi nhiều nỗ lực nhất trong cuộc đời.
Chúng ta thường quên lãng hay chối từ Thiên Chúa cho tới khi chúng ta bị một cơn khủng hoảng nào đó đánh gục và ngã quỵ tới chỗ cảm thấy bất lực. Khi chúng ta chỗi dậy thoát khỏi cơn tuyệt vọng ấy, chúng ta tất tả tìm đến Ngài tìm ơn sủng chữa lành. Chúng ta được đưa đẩy đến chỗ hoàn toàn tín nhiệm vào Thiên Chúa, vì không có cách nào khác để đối diện với đau khổ hơn là nhận thức rằng đau khổ là một phần của chương trình Thiên Chúa. Bệnh tật có thể giúp thúc đẩy chúng ta gạt sang một bên những hoạt động sôi nổi cuồng nhiệt của cuộc sống thường nhật để thay vào đó tập trung tâm tư vào ngôi nhà vĩnh cửu mà Thiên Chúa Cha đã dọn sẵn cho chúng ta trên trời. Đây là những cơ hội đặc biệt đúng lúc để chúng ta giáp mặt với hy vọng và thất vọng của cuộc sống. Không cần gì mà nghĩ ngợi rằng chúng ta sẽ làm gì nếu hoàn cảnh của chúng ta có thay đổi khác đi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Chúa Giêsu đến với bà nhạc của ông Simon, giơ tay ra chữa lành cho bà ấy. Đức Kitô không trao cho chúng ta câu trả lời về vấn đề đau khổ cũng không giải thích tại sao con người phải chịu đau khổ nhưng Ngài cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc biến đau khổ thành niềm vui. Bằng cách đồng hóa mình với bệnh nhân hay người hấp hối Đức Chúa Giêsu khi hấp hối trên Thập Giá đã mặc khải cho chúng ta thấy rõ ràng đau khổ là một phần trong chương trình của Thiên Chúa. Tất cả đều tùy thuộc cách chúng ta vác thập giá của mình bởi lẽ một khi kết hợp những gian nan thử thách của chúng ta với những gian nan thử thách của Đức Kitô, chúng ta có thể vui hưởng chiến thắng của Ngài. Cho dù bất cứ điều gì xảy ra, đối với những ai yêu mến Thiên Chúa và sẵn sàng chung phần thương khó với Chúa Giêsu, tất cả mọi việc đều có ý nghĩa. Tin Mừng không bảo đảm cho chúng ta thoát khỏi những nỗi khổ đau nhưng đoan chắc với chúng ta rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta cho dù những nỗi khổ đau của chúng ta có lớn đến đâu đi chăng nữa.
35.Rao giảng và chữa lành--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Mới đọc đoạn Tin Mừng này tôi có ấn tượng Đức Giêsu coi việc chữa lành các người bệnh tật ốm đau chỉ là công tác phụ, trong khi sứ mệnh chính của Người là rao giảng. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Lý thuyết là như thế, nhưng đứng về phía đám quần chúng bình dân thì rõ ràng, phần đa họ tìm đến với Người trước hết để được chữa lành khỏi bệnh hoạn tật nguyền. “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” Và cũng chính vì được chứng kiến các việc chữa lành mà dân chúng tin vào lời Người giảng dạy; ‘Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền’ (c.22).
Hình như hơn ai hết chính Đức Giêsu đã ý thức rất rõ điều này: không lời giảng dạy nào về một Thiên Chúa nhân ái từ bi đối với một nhân loại đau khổ lại hữu hiệu và hùng hồn cho bằng khi nhân danh Người mà rộng tay chữa lành các thương đau phần xác cũng như phần hồn của con người cùng khốn. Ngay cả đối với các môn đệ mới chiêu mộ, Đức Giêsu cũng đã hoàn toàn chủ động trong việc này; do đó Người đã chữa bà mẹ vợ ông Si-mon khỏi cơn sốt, cho dù không ai yêu cầu. Phải chăng đó chính là để ‘các môn đệ tin vào Người’, theo cách nói của Gio-an sau phép lạ nước hóa thành rượu tại tiệc cưới Ca-na (Ga 1:8)? Khi dài dòng thuật lại rất nhiều phép lạ Đức Giêsu đã thực hiện, chắc hẳn tác giả Mác-cô muốn tô đậm nơi Người nét ông thầy thuốc tốt lành tới chữa lành bệnh nhân tật nguyền; Người ‘chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật’; và hình như đó cũng chính là hình ảnh mà Người sẽ dùng để tự giới thiệu mình: “Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mc 2:17).
Như vậy đối với Đức Giêsu, rao giảng và chữa bệnh không phải là hai công việc tách rời nhau. Bởi nếu nội dung cốt lõi của sứ điệp Tin Mừng chính là ‘Thiên Chúa nhân ái quan tâm đến số phận của con người yếu hèn trong cả lãnh vực thể lý lẫn tinh thần’ thì chắc chắn lời rao giảng hùng hồn và sắc bén nhất sẽ phải là ‘chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền’ và ‘sua trừ ma quỉ’. Đức Giêsu hẳn có ý nói điều này khi bảo các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa.” Mác-cô còn ghi nhận thêm: ‘Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ’ (nên lưu ý là người Do Thái thời Đức Giêsu cho rằng mọi bệnh tật đều do ma quỉ mà ra). Qua các việc chữa lành này Người chỉ muốn cho mọi người được biết: Thiên Chúa từ nhân đã đến với họ, đang thật sự ở giữa họ, đang đồng hành với họ, cảm thông nỗi thống khổ yếu đuối của họ, và tích cực can thiệp theo cách thức của riêng Người.
Suy niệm trên xem ra chẳng có gì là quan trọng cho lắm, tuy nhiên nó sẽ giúp ta tránh được điều mà nhiều tín hữu thường mắc phải khi cho rằng Tin Mừng hệ tại ở việc lãnh hội các tín điều cao siêu (điển hình các công thức tuyên tín phức tạp chứa đựng trong Kinh Tin Kính Ni-cê chẳng hạn…); và cho rằng làm bác ái chỉ là việc phụ, tiểu tiết tùy nghi theo khả năng mỗi người, có mục đích duy nhất làm gia tăng công nghiệp trước mặt Chúa hầu đảm bảo phần rỗi linh hồn; rồi khi đọc Phúc Âm sẽ cho rằng việc Đức Giêsu làm các phép lạ chẳng qua là để chứng tỏ quyền phép vượt trội hầu thúc ép dân chúng tin lời Người giảng dạy…; rằng những học thuyết cao siêu gồm các qui định luân lý và giới luật tân kỳ mới thật là điều Người xuống thế để dạy dỗ. Suy niệm trên hơn bao giờ hết giúp tôi nhận ra Lời Tin Mừng thật nhất quán, chặt chẽ và đầy thuyết phục: ‘Đức Giêsu - Lời’ đến trần gian để tuyên bố sứ điệp tình yêu của ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…’ và tình yêu đó cũng thật cụ thể: ‘Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ’ (Ga 3:16.17). Thế đấy, toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu chỉ là một ‘Lời tình yêu cứu độ’, Lời trong sứ điệp, Lời trong hành động, Lời trong các phép lạ, thậm chí Lời trong cái chết tự hiến trên thập giá và Lời trong sự Phục Sinh chứa chan niềm hy vọng. Tóm lại tôi nhận ra rất rõ nội dung duy nhất của sứ vụ Đức Giêsu trên trần gian chính là để quảng bá và thể hiện mọi nơi mọi chốn một ‘Thiên Chúa yêu mến thế gian’ bằng trọn cả con người Ngài.
Vì là một tu sĩ Sa-lê-diêng, tôi nhiều lần đã áp dụng cho Đức Giêsu câu nói mà chúng tôi vẫn thường dùng để nói về Don Bosco: “Người không đi một bước, không nói một lời, không bắt tay vào bất cứ việc gì, mà không phải vì…phần rỗi giới trẻ!” Ở đây phải là, trong Tin Mừng ‘Đức Giêsu đã không hề đi một bước, không nói một lời, không bắt tay vào bất cứ việc gì mà không phải vì… muốn chứng tỏ và thể hiện rằng Thiên Chúa yêu mến trần gian cách tuyệt đối tới độ…!’
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được chia sẻ khát vọng Chúa muốn cho Tin Mừng tình yêu nhân ái được thể hiện và nhận biết ‘ở các nơi khác… các làng xã chung quanh nữa’. Con, một linh mục của Chúa, ước mong rằng: mình sẽ không chỉ giảng dạy sứ điệp Tin Mừng này bằng lời nói suông, nhưng phải bằng cả thái độ sống và hành động. Xin cho con biết rao giảng Lời Chúa qua các dấn thận phục vụ quảng đại, mọi nơi và cho hết thảy mọi người. Amen.
36.Con người luôn cần Thiên Chúa--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý anh chị em,
Kinh nghiệm cuộc sống dạy con người ý thức thân phận mong manh, mỏng dòn, yếu đuối trong thế giới tạo thành.
Nhiều người ví cuộc đời chỉ như áng mây bay, như bông hoa sớm nở, chiều tàn, thế mà, trong khoảng khắc vắn vỏi ấy lại chất đầy gian lao khốn khổ. Ông Gióp gọi đời người là một khổ dịch.
Nếu đơn thân, độc mã, con người sẽ bị hư vô hóa tức thì trong một hơi thở.
Tạ ơn Chúa, con người vẫn tồn tại và phong nhiêu mạnh mẽ, đóng góp rất kỳ diệu tô điểm bộ mặt thế gian.
Bởi đâu con người được như vậy?
Chắc chắn là do ơn quan phòng, gìn giữ của Chúa, Đấng tạo thành trời/đất và cũng do tình liên đới hiệp thông giữa con người với nhau.
Đại dịch Covid-19 dạy chúng ta nhiều bài học quan trọng, bổ ích: bệnh tật, đau khổ là sự xấu toàn tập, nhưng giữa tâm dịch, tình liên đới hiệp thông chữa lành nảy nở hơn bao giờ hết: các y, bác sỹ trên tuyến đầu chống dịch, những người lao công âm thầm nơi các trung tâm bám trụ phục vụ, những cơ sở bác ái từ thiện, nấu cơm cho người đói mọc lên như nấm...
Như vậy, dịch bệnh gây ra thiệt hại, chết chóc, nhưng tình liên đới hiệp thông sẻ chia đã cứu sống nhân loại trong diện rộng, rõ ràng: “tình yêu mạnh hơn sự chết!”
Tình yêu mạnh hơn sự chết là sợi chỉ đỏ xuyên suốt phụng vụ Lời Chúa hôm nay.
Bài đọc I, trích sách Giảng Viên, là những sưu tầm lời dạy khôn ngoan của hiền nhân Israel.
Con người sống trong trời đất này chỉ là tạm bợ, mong manh. Mọi công trình họ tạo ra chỉ là bèo bọt, nay còn mai mất. Cuộc sống là chuỗi ngày dài nhàm chán chất đống bởi thất bại, bệnh tật và cuối cùng là phải chết. Tác giả kết luận: đời sống con người chỉ là một khổ dịch, kéo dài chỉ bằng một hơi thở.
Tuy nhiên, tác giả là người có đức tin vững vàng vào Thiên Chúa, nên không nổi loạn, than trách nguyền rủa Đấng tạo thành, một ký thác đường đời cho Chúa.
Sách Giảng Viên cho một cái kết có hậu: đừng bám víu vào những thực tại vô thường trên thế gian, phải hướng cuộc đời tới một mạc khải cao cả hơn, đó là: mua sắm cho mình những của cải không hư nát trên trời.
Sách Giảng Viên được xem như những món khai vị cho bài giảng trên núi về “Tám mối phúc thật” của Chúa Giê-su.
Bài Phúc Âm vừa tuyên đọc khẳng định một thực trạng về con người tự nhiên bị khuất phục bởi bệnh tật đủ loại, bị thao túng bởi ma quỷ. Sức riêng con người không thể thoát ra. Họ phải nhờ đến ơn Chúa.
Trong tình trạng bất lực hoàn toàn, con người mới thấy cần Thiên Chúa, mới khát khao ơn Người cứu độ.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, xuất hiện đúng lúc và đúng nơi: tại nhà nhạc gia Phê-rô, lúc bà đang lâm cơn sốt. Chúa cần tay, đỡ dậy và lập tức cơn sốt chấm dứt, bà đi lại phục vụ các ngài.
Chủ đích của Marcô muốn gởi gắm qua trình thuật, đó là: tất cả những gì Đức Kitô đụng đến đều được biến đổi theo hướng tích cực.
Ngoài việc cầm tay đỡ bà chỗi dậy, Marco còn nhắc tới nhiều trường hợp Chúa đụng tay trên người bệnh, trên người chết. Tất cả đều được chữa lành và người chết sống lại.
Sở dĩ đụng chạm vào Giê-su, con người được chữa lành, là vì: Giê-su chính là bí tích cứu rỗi của Thiên Chúa.
Đây cũng là ý nghĩa của việc cử hành và lãnh nhận các bí tích Tân Ước. Bí tích là dấu chỉ bề ngoài, sinh ơn thiêng liêng trong tâm hồn kẻ lãnh nhận.
Nhờ Đức Giê-su Thiên Chúa, con người vượt lên trên thân phận thụ tạo của mình, có khả năng tháp nhập vào thân mình mầu nhiệm, thân mình sự sống sung mãn của Chúa Giê-su.
Hồng ân tháp nhập làm người tín hữu nên giống Chúa trong mọi sự và sự sống của Chúa thông truyền, làm cho thân xác yếu đuối phải chết của chúng ta nên vững mạnh, đạt tầm vóc viên mãn của Đức Giê-su là sự sống đời đời.
Vì lẽ đó, thiên hạ chen lấn, cả thành tụ họp quanh Ngài. Chúa Giê-su chạnh lòng thương xót! Người chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ ma quỷ.
Cảnh tượng đó cho thấy: con người luôn cần Thiên Chúa và Chúa đến với con người cũng vì lý do đó.
Thưa anh chị em,
Thâm tín “con người luôn cần Thiên Chúa” mới hiểu được lời giáo huấn của Thánh Phao-lô trong thư gởi giáo đoàn Co-rin-tô vừa tuyên đọc.
Phao-lô coi việc loan báo Tin Mừng là một ân huệ, một bổn phận tự nguyện.
Vì sao? Vì tình yêu Đức Kitô thúc bách. Cuộc đời ngài tan chảy trong Đức Kitô, nghĩa là: đã nên đồng hình đồng dạng, đạt tới tầm vóc viên mãn Giê-su, đã có kinh nghiệm về sức mạnh của ơn Chúa và về thân phận con người, nên, vì đức ái, Phao-lô muốn mọi người được hạnh phúc, được cứu độ và được sống đời đời.
Cũng chỉ vì yêu Chúa và yêu người, Phao-lô sẵn sàng chấp nhận từ bỏ tất cả, hy sinh tất cả, tự làm tôi tớ, phục vụ mọi người, cốt để được thông chia phần phúc của Tin Mừng. Đó là sự thông hiệp với Đức Kitô và ơn cứu độ muôn đời.
Cuộc đời Phao-lô là bài học quý giá cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Sống niềm hy vọng đức tin như ngài sẽ giải phóng chúng ta khỏi u sầu buồn bã, nhàm chán. Quên hẳn quá khứ với những yếu đuối lỗi lầm, hướng tới tương lai để được ngụp lặn trong tình yêu và sự sống, nên mạnh mẽ trong đức tin, đức cậy, đức mến.
Noi gương ngài, chúng ta thâm tín rằng ơn và sức mạnh của Chúa sẽ gìn giữ chúng ta vẹn toàn trong khi mong chờ niềm hy vọng vinh quang chiếu tỏa.
Thưa anh chị em,
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay thúc dục chúng ta: Hãy mau trỗi dậy, nhờ tay Chúa đỡ nâng, phục vụ Tin Mừng tích cực như nhạc gia thánh Phê-rô sau khi được chữa lành. Phục vụ trong niềm vui tươi phấn khởi sẽ làm đẹp lòng Chúa và sinh ơn cứu độ cho trần gian. Cụ thể của phục vụ là chu toàn bổn phận thuộc đấng bậc mình. Đó là cách gắn kết với Chúa, với tha nhân, xứng đáng được Chúa chúc lành bây giờ và luôn mãi. Amen.
37.Con người không chỉ là một cái xác--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Trong Chúa Nhật trước chúng ta đã được thánh Marco cho thấy uy quyền trong lời giảng dạy của Đức Giêsu. Đức Giêsu đã đến để rao giảng cho người ta về mầu nhiệm Nước Trời. Ngài đã đến với sứ mạng để kéo con người lên, đưa con người trở về với Thiên Chúa trong vinh quang Nước Trời. Thế nhưng dân chúng đã hiểu lầm sứ mệnh của Đức Giêsu. Họ đã mong chờ một vị cứu tinh với nhãn quan trần tục và quẩn quanh trong thân xác ở đời này.
Sứ mệnh của Đức Giêsu
Bài Tin mừng Chúa nhật này nổi lên hình ảnh Đức Giêsu tận tụy xoa dịu những đau khổ của con người. Ngay sau khi chữa người bị thần ô uế ám nơi hội đường Capharnaum, Đức Giêsu đến nhà mẹ vợ của ông Phêrô để chữa bệnh cho bà. “Chiều đến, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người”. Đức Giêsu đã cúi xuống để xoa dịu tất cả các bệnh nhân. Cả một ngày, Đức Giêsu đã làm việc không biết mệt mỏi vì lòng yêu thương dân chúng.
Hôm sau dân chúng lại tiếp tục kéo đến. Thế nhưng người ta đã bắt gặp cách hành xử lạ lùng nơi Đức Giêsu. Đêm đó Ngài đã đi ra một nơi vắng vẻ để cầu nguyện với Chúa Cha. Sáng ra, khi ông Phêrô mời Ngài về để tiếp tục chữa bệnh thì Ngài đã từ chối và lên đường đi nơi khác. Ngài đã không tiếp tục chữa bệnh cho họ ở đó. Phải chăng Ngài không còn thương họ nữa?
Sự thường người ta dễ dàng dừng lại trong vinh quang hiện tại để tận hưởng. Đức Giêsu đang nổi danh và được nhiều người kéo tới với Ngài. Nhưng Ngài không dừng lại với những vinh quang chóng qua ấy. Sứ mạng mà Ngài đến trong thế gian là để nâng con người lên, kéo họ ra khỏi cảnh trầm luân, đưa họ vào trong đời sống mới trong vinh quang vĩnh cửu.
Ông Gióp trong bài đọc thứ nhất đã thốt lên với tất cả trải nghiệm của ông về cuộc đời này: “Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở!” (G 7,6-7). Nếu chỉ quẩn quanh ở đời này thì quả thực cuộc sống nó chẳng là gì. Nó vô nghĩa và trống trơn.
Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai cũng đã khẳng định với dân thành Corintô rằng “Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng” (Cr 1, 22-23). Ngài không tìm vinh quang ở đời này, nhưng là hướng về vinh quang bất diệt, hướng về những giá trị trường cửu.
Bệnh tật yếu đau của con người cần được chữa lành và xoa dịu. Nhưng Đức Giêsu muốn cứu giúp người ta thoát khỏi khổ đau ấy cách tận căn. Ngài muốn kéo người ta ra khỏi sự nô lệ của tử thần, ra khỏi u mê của tội lỗi, ra khỏi bàn tay thống trị của ma quỷ để được trở nên thanh sạch vui sống trong bình an hạnh phúc Nước Trời với Thiên Chúa, cả ở đời này và đời sau.
Sứ mệnh của Đức Giêsu là đưa mọi người trở về với Thiên Chúa trong vinh quang Nước Trời. Thế nhưng dân chúng lại mong chờ những thứ tạm bợ ở thế gian mà thôi.
Dân chúng hiểu lầm sứ mệnh của Đức Giêsu
Sống trong hoàn cảnh bị đô hộ bởi đế quốc Rôma, dân Do thái chỉ mong chờ vị cứu tinh đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của đế quốc. Họ mong chờ có ngày được độc lập, mong chờ một vị vua tài ba lỗi lạc để lãnh đạo dân. Tất cả những gì họ mong chờ chỉ đáp ứng cho đời sống hiện tại ở trần gian.
Họ đã lầm tưởng Đức Giêsu đến để đáp ứng cho họ những chuyện đó mà thôi. Khi thấy Đức Giêsu chữa lành mọi thứ bệnh tật, có uy quyền khiến ma quỷ cũng phải tùng phục, thì dân chúng đã mường tượng ra một vị vua mà họ đang mong chờ. Ngài sẽ cứu họ khỏi đế quốc Rôma, sẽ chữa trị mọi bệnh tật cho họ, sẽ làm vua của họ.
Nếu Đức Giêsu thuận theo dân chúng để rồi họ sẽ tung hô Ngài làm vua; Nếu Đức Giêsu không ở lại với Chúa Cha nơi thanh vắng để bám chặt vào sứ mệnh chính yếu của mình, thì cả thầy lẫn trò đã chìm đắm trong vinh quang trần thế.
Việc Đức Giêsu từ chối trở lại với dân chúng và yêu cầu các môn đệ lên đường đi đến nơi khác đã khiến dân chúng phải tự hỏi Đức Giêsu là ai? Thánh Marco muốn người ta khám phá Đức Giêsu từ từ từng bước, xuyên qua những thực tại trần thế, những việc làm cụ thể của Đức Giêsu để nhận ra khuôn mặt thực của Ngài, sứ mệnh thực của Ngài. Một Đức Giêsu Cứu Thế.
Đến với Đức Giêsu – vị Cứu Chúa
Không phải chỉ những người Do thái năm xưa mới hiểu lầm sứ mệnh của Đức Giêsu. Ngày hôm nay không ít người vẫn còn đang hiểu lầm về Ngài.
Người ta tìm đến với Đức Giêsu nhưng để học hỏi những điều hay lẽ phải nơi Ngài trong thân phận là con người mà thôi. Với họ, Ngài cũng chỉ giống những hiền giả vĩ đại trong lịch sử như đức Khổng Tử, đức Lão Tử, đức Phật Thích Ca hay như một triết gia vĩ đại nào đó bên trời Tây.
Có những người đến với Đức Giêsu chỉ vì Ngài đã từng làm phép lạ chữa lành bệnh tật ai đó hay giúp họ ăn nên làm ra. Họ đến với Giêsu để cầu mong sự an nhàn thịnh vượng nơi cuộc sống hiện tại mà thôi.
Thậm chí có những người còn nhìn Giêsu như là kẻ ru ngủ nhân loại. Họ tìm cách gạt bỏ Giêsu, gạt bỏ tất cả những ai theo Giêsu. Đối với họ, Ngài là hiểm hoạ cho nhân loại nên phải đóng đinh Ngài vào cây thập giá mà treo lên khỏi mặt đất, tách Ngài rời khỏi nhân loại.
Không! Đức Giêsu là vị Cứu Chúa của chúng ta. Ngài đã đến trong thế gian với tất cả lòng yêu mến con người. Tâm hồn Ngài luôn khát khao mòn mỏi mong cứu lấy chúng ta. Ngài chính là Thiên Chúa. Ngài đã sống thân phận con người để cảm thông nâng đỡ mỗi người chúng ta.
Chúa Giêsu không chỉ cứu giúp, không chỉ chữa lành thân xác chúng ta; không chỉ chữa lành những vết thương trong tâm hồn chúng ta ở đời này. Ngài muốn kéo chúng ta lên. Ngài muốn chúng ta mở to mắt và nhìn thấy thân phận cao quý của mình mà tiến lên; Ngài muốn con người thực sự trở lại là tác phẩm kỳ diệu của Tạo Hóa. Trên hết, Ngài đưa chúng ta ra khỏi bàn tay của tử thần và đưa tất cả chúng ta vào đời sống sung mãn, vượt lên trên những bình diện hạn hẹp của cuộc sống này.
Bạn hãy đến với Chúa Giêsu, hãy chiêm ngắm Ngài trong dung nhan là một con người và là Thiên Chúa nữa. Chính Ngài sẽ nâng đỡ bạn. Chính Ngài sẽ cứu vớt bạn khỏi mọi nỗi ô nhục. Chính Ngài sẽ là nguồn bình an và là niềm hy vọng vĩnh cửu cho cuộc đời bạn.
Lạy Chúa Giêsu, vị Cứu Chúa của đời con, xin Ngài cứu lấy con cho khỏi mọi sự dữ và dẫn dắt con tiến về Trời cao.
38.Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Vinh Sơn Nguyễn Tuấn Dương
Tin mừng Mc 1: 29-39: Đoạn Tin Mừng khá ngắn gọn mà chúng ta vừa nghe đã vẽ lên tất cả hoạt động của Chúa Giê su trong ngày sống của Ngài. Ngài làm việc một cách hăng say nhiệt tình. Ngài làm việc không quản thời gian nghỉ ngơi. Ngài làm tất cả mọi việc để chu toàn thánh ý Chúa cha và để mưu ích cho con người...
Kính thưa quý ông bà anh chị em!
Đoạn Tin Mừng khá ngắn gọn mà chúng ta vừa nghe đã vẽ lên tất cả hoạt động của Chúa Giê su trong ngày sống của Ngài. Ngài làm việc một cách hăng say nhiệt tình. Ngài làm việc không quản thời gian nghỉ ngơi. Ngài làm tất cả mọi việc để chu toàn thánh ý Chúa cha và để mưu ích cho con người.
Chúng ta đã thấy, Ngài giảng dậy không chỉ nơi hội đường mà còn tại tư gia. Ngài không chỉ giảng bằng lời mà còn chứng minh lời giảng bằng hành động yêu thương: trừ quỷ và chữu các bệnh nhân. Ngài làm việc miệt mài bất kể thời gian. Ngài làm việc chu đáo bằng chính con tim thổn thức yêu thương của mình. Đúng như lời Ngài đã nói: Cha ta làm việc liên lỉ, ta cũng làm việc liên lỉ.
Sở dĩ Chúa Giê su có thể làm việc liên lỉ không mệt mỏi như thế bởi vì: ngay từ sáng sớm lúc trời còn tối, Người đã dậy đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Cầu nguyện để gặp gỡ Chúa Cha. Cầu nguyện để đón nhận thánh ý Chúa Cha. Cầu nguyện để kín múc nguồn năng lực siêu nhên từ Chúa Cha làm sức mạnh cho cả ngày sống phục vụ của mình. Cầu nguyện để biết những việc phải làm và biết lối đường phải theo.
Đời sống của Chúa Giê su luôn là những nhịp đan xen giữa cầu nguyện và hành động. Cầu nguyện để biết cách hành động và hành động là sự kết tinh của cầu nguyện. Chúa Giê su đã làm như thế và trở thành mẫu gương cho đời Kitô hữu chúng ta.
Thưa quý ông bà anh chị em!
Là những người Kitô hữu, Chúng ta đã làm gi?
Về đời sống cầu nguyện, chúng ta đã sống thế nào? Cầu nguyện có trở thành hơi thở của đời sống chúng ta. Cầu nguyện có đi vào tưng ngõ ngách cuộc đời chúng ta. Hay chúng ta chỉ dừng cầu nguyện ở việc đi lễ chủ nhật, hoặc tốt hơn là việc đi lễ mỗi ngày và đọc một vài giờ kinh sáng tối. Rồi chúng ta bỏ Chúa lại nhà thờ và chúng ta lại tất bật với những công việc mưu sinh hằng ngày của mình mà lãng quên Chúa.
Không, Chúng ta phải mang Chúa vào trong cuộc đời của chúng ta, để Ngài đồng hành với chúng ta. Ngài hướng dẫn từng hành động của chúng ta và Ngài giúp đỡ chúng ta trong từng việc làm của mình. Chúa Giê su cũng vậy, Ngài không chỉ cầu nguyện vào sáng sớm ở nơi hoang vắng. mà nhiều chỗ khác trong tin mừng đã thuật lại Ngài cầu nguyện: đang khi rao giảng, trước lúc làm phép lạ, trong vườn cây dâu, kể cả trên thập giá…Vui thì dâng lời cảm tạ, buồn thì cất tiếng nỉ non, khi thành công ca khúc tạ ơn, lúc thất bại dâng niềm phó thác.
Cầu nguyện là như thế, là sống với Chúa trong từng giây phút cuộc đời.
Đối với đời sống hoạt động, Chúa Giê su đã làm việc miệt mài liên lỉ và làm tất cả mọi việc nhằm vinh danh Chúa Cha và để đem hạnh phúc cho con người. Còn chúng ta, dừng lại một chút để nhìn lại đời sống mình. Chúng ta đã làm việc vì Chúa vì anh em hay chỉ vì chính bản thân mình? Có lẽ cuộc sống quá bận rộn, lam lũ cuồng quay với công việc muu sinh làm chúng ta quên mất Chúa và anh em. Cũng có lẽ vì chủ nghĩa thực dụng, ích kỷ, hưởng thụ đã khiến ta gạt Chúa và anh em ra khỏi cuộc sống của mình. Những điều đó đã làm chúng ta nhiều lần lỗi hẹn với Chúa, khiến chúng ta cứ khất lần với Ngài và không biết đến khi nào chúng ta mới có thời gian đáp tiếng gọi của Chúa.
Lời Chúa và mẫu gương Chúa Giêsu hôm nay như một lời nhắc nhở mỗi người chúng ta. Hãy sống với Chúa trong từng giây phút cuộc đời. Hãy đặt Chúa làm trung tâm điểm cuộc đời của mình và hãy làm tất cả với Chúa, trong Chúa và vì Chúa. Được như thế, tâm hồn chúng ta sẽ bình an và chúng ta sẽ trở thành những khí cụ đem tình thương của Chúa đế cho mọi người. Amen.
39.Huyền nhiệm đau khổ--Phanxicô Xaviê
Mỗi người mỗi cảnh, đi tìm kế sinh nhai cách khác nhau, nhiều khi họ phải bán rẻ cả nhân phẩm của mình. Nhưng dù sao tất cả họ, vẫn là những người biết kiếm tiền dựa trên chính sức lao động của mình, không như một nhóm người bán nước cầu vinh, chỉ biết lợi dụng lòng nhân ái của người khác để kiếm tiền thông qua tham nhũng, ăn hối lộ, bớt xén của công hay buôn lậu....và làm nhục quốc thể như vụ một nhân viên ngoại giao buôn lậu sừng tê giác bị bắt quả tang, hay vụ công ty tư vấn Thái Bình Dương (PCI) hối lộ quan chức cộng sản, dẫn tới Nhật quyết định ngừng cung cấp viện trợ phát triển ODA cho Việt Nam. Cũng theo BBC, cho hay các cựu quan chức PCI nhận đã chuyển 820.000 đôla cho ông Huỳnh Ngọc Sỹ, nguyên phó giám đốc Sở Giao thông Công chính thành phố Hồ Chí Minh, để giành thầu trong các dự án hạ tầng có sử dụng vốn vay ODA tại đây. Phe công tố thì nói số tiền lên tới hai triệu đôla. (nguồn BBC)
Đường phố Sài gòn có vẻ tấp nập hơn vào những ngày cuối năm. Người qua kẻ lại, hối hả đi về mong cho kịp giờ đón giao thừa trong mái ấm gia đình, bên những người thân yêu. Nhưng khi bước qua những ngày đầu của năm mới, thì đường phố trở nên vắng vẻ lạ thường. Chỉ còn đây đó xuất hiện những con người lam lũ sống bằng nghề bán hàng rong hay bán vé số dạo, đa phần họ là những người nhập cư. Hỏi ra mới biết vì không có đủ tiền mua vé tàu xe về quê ăn tết, nên đành phải đón tết xa quê. Cũng trong số họ, có người vốn là dân thành phố, giàu có một thời, nhưng chỉ sau lần "đánh tư sản mại bản" của chế độ cộng sản vào những năm đầu mới giải phóng, đã trở thành một người vô gia cư. Đó là trường hợp của bà Ba bán vé số. Họ nhìn ngắm những gian hàng bánh mứt được trang trí cho đẹp mắt, mà chẳng dám mơ tưởng. Bởi cuộc sống của họ vốn đã eo hẹp, thì nay càng khó khăn hơn vào những ngày giáp tết Kỷ Sửu.
Cũng có ông lão nọ, tuổi đã ngoài bảy mươi, chẳng mấy bận tâm đến cái vẻ nhộn nhịp, hào nhoáng bên ngoài khi ngày tết đang đến gần. Ông dửng dưng trước cái tết, không phải là ông không biết ăn ngon mặc đẹp, nhưng vì "cái khó nó bó cái khôn", cái nghèo đã không cho phép ông nghĩ đến những chuyện xa xôi hơn cái việc kiếm cho mình một bữa cơm sống qua ngày. Ông chẳng hề quan tâm đến bộ quần áo cũ đang mặc, mà có lẽ đã lâu không được giặt. Thấy tội nghiệp, ngưòi ta cho tiền, nhưng ông từ chối, bởi vì ông sống bằng nghề bán vé số dạo. Mỗi khi bán cho ai được tờ vé số nào, ông đều dặn người ta: nếu có trúng giải đặc biệt, thì hãy giúp cho ông một chiếc xe đạp để ông làm phương tiện đi lại, vì tuổi cao, phải đi bộ nhiều nay ông đã mỏi chân. Trong khi đó, ngày càng có nhiều người tìm đến cái nghề mất ít vốn nhưng lại dễ kiếm tiền, nên ông muốn có chiếc xe đạp để đi bán ở những nơi khác xa hơn, lắm lúc bị người ta xua đi như đuổi tà, vì họ nghĩ người bán vé số dạo thường là những người nghèo kiết xác, nên họ khinh rẻ, dù đó là một người lớn tuổi.
Khi ánh đèn đường đã sáng rõ, cũng là lúc bắt đầu buổi làm việc của một nhóm nghề khác: buôn phấn bán hương. Họ là những cô gái trẻ, chỉ khoảng mười tám đôi mươi, ăn mặc sang trọng, mang dáng vẻ như những tiểu thư đài các. Từng nhóm hai ba người, có khi lên đến bốn hay năm người, chạy trên những chiếc xe tay ga đời mới, nghe nói họ thuê lại của một "má mì ", chạy từ hướng cầu Thị Nghè về phía mũi tàu, đến trước cổng Trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm II của hiệp hội người khuyết tật thành phố, thì quay đầu lại. Cứ như vậy, họ chạy đi chạy lại từ lúc 20h - 21h mỗi buổi tối, mong tìm được khách làng chơi. Có hôm họ còn chủ động chạy xe kè theo những người đi xe trên đường, trong số đó có không ít người đáng tuổi cha chú của họ. Và đương nhiên họ chỉ nhận được những cái lắc đầu bỏ đi.
Đau khổ vốn là một trong những vấn nạn nhân sinh, một huyền nhiệm không dễ gì giải thích thấu đáo. Tại sao con người phải chịu nhiều đau khổ? Sinh ra đã là khổ, khi mới sinh đứa bé nào mà chẳng phải khóc thét lên vì cái tát của bà mụ. Lớn lên càng khổ hơn vì phải đổ mồ hôi và nước mắt mới có được miếng ăn mong sống qua những ngày tháng dài tưởng chừng như vô vọng. Rồi còn phải chịu đựng ốm đau, bệnh tật, già yếu và cuối cùng phải chết. Thế nên, theo quan niệm của nhà Phật, thì đời là bể khổ. Và muốn thoát khỏi đau khổ, con người phải tự diệt duc, tức diệt lòng ham muốn nơi mình. Kinh Thánh chỉ rõ hơn: con người đau khổ là do hậu quả của tội lỗi, của sự ác và của ác thần. (x. St 3, 1-7; 3, 17-19)
Dưới ánh sáng của Tin Mừng, vấn đề càng được khai tỏ. Vì trước mọi đau khổ của cuộc đời, người Kitô hữu luôn được mời gọi hãy ứng xử theo gương Chúa Giêsu, là Đấng Thiên Sai mà tiên tri Isaia đã loan báo, Người đến để giải thoát con người khỏi đau khổ (Is 29, 18-19). Theo gương Chúa: không thất vọng, nhưng đón nhận và hoàn toàn phó thác trong bàn tay nhân từ của Chúa Cha.
Tin Mừng Mc 1, 29-39 ghi lại một ngày sống vất vả của Chúa Giêsu ở Caphacnaum. Người giảng dạy, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ cho mọi người từ sáng đến tối, nhưng vẫn dành thời gian sống với Chúa Cha bằng cầu nguyện. Một ngày làm việc của Chúa Giêsu với biết bao nhọc vhằn vì lòng thương người, muốn giải thoát con người khỏi đau khổ của bệnh tật, của ma quỷ. Chính vì vậy, chỉ có niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng giải thoát đau khổ mới có thể giúp con người nhận ra ý nghĩa đích thực của đau khổ và có sức mạnh để đón nhận nó. Chúa Giêsu đến không phải để tiêu diệt hết mọi đau khổ, nhưng Người đến để giúp con người chịu đụng đau khổ cách có ích.
Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của Chúa nhật V mùa thường niên này được mô tả là một người hết lòng vì người khác, tận tâm phục vụ hết thảy mọi người. Một ngày sống của Người trôi qua cách hữu ích cho tha nhân. Từ sáng đến tối lúc nào cũng tấp nập người bệnh, người bị quỷ ám đến xin cứu chữa. Người đã sử dụng thời gian thật hợp lý để gắn bó với Chúa Cha và để phục vụ tha nhân. Chính nhờ cầu nguyện với Chúa Cha mà Người đã luôn thực hiện đúng thánh ý Chúa Cha.
Hạnh phúc thật chỉ có nơi Thiên Chúa, bí quyết của hạnh phúc là khám phá và thực thi thánh ý Ngài. Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết noi theo gương Chúa, mà sử dụng thời gian sống của mình cách hữu ích cho bản thân qua việc gắn bó với Chúa bằng cầu nguyện, và sử dụng thời gian cách hữu ích cho tha nhân qua việc sống yêu thương, phục vụ và chu toàn bổn phận trần thế của mình.
40.“Đức Giêsu, thày thuốc của tâm hồn”--Lm. Giuse Phạm Quốc Phong SDB
Đoạn Tin Mừng theo Thánh Marcô giới thiệu cho chúng ta chân dung một vị Thầy thuốc tài ba và tốt lành. Chúa Giêsu chữa tất cả những người bệnh đến với Ngài. Chúng ta biết rằng, theo văn hóa của người Do Thái, bệnh tật được gắn liền với tội lỗi, nghĩa là người Do Thái quan niệm và tin rằng bệnh tật là một hình phạt từ Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi. Những người bệnh tật bị cộng đồng loại trừ và bị nhìn với con mắt khinh bỉ, miệt thị. Chính vì vậy, mỗi khi Chúa Giêsu chữa bệnh, Ngài hay nói với họ rằng “Tội của con đã được tha” hay “Đức tin của con đã cứu con”. Chúa Giêsu không chỉ là bác sĩ thể lý, mà quan trọng hơn, Ngài là một bác sĩ của tâm hồn, chữa hết những vết thương tâm hồn, đưa họ trở lại với nhân phẩm của con người, đưa họ trở lại với vai trò làm con của Thiên Chúa, và ban cho họ niềm vui - bình an - hi vọng để họ sống và sống dồi dào. Người được Chúa Giêsu chữa lành, có khả năng hoán cải, và trở thành nhân chứng cho Ngài.
Những ai mắc bệnh về thể lý, họ tìm đến bệnh viện để chữa bệnh với những cách thức và phương thuốc thích hợp và họ có cơ hội được chữa lành là rất lớn, vì y học hiện nay rất phát triển và hiện đại. Nhưng trong thời đại ngày nay, có những căn bệnh rất nguy hiểm, đó là bệnh về lương tâm đạo đức, bệnh về ý thức hệ, … là hậu quả của các chủ nghĩa sai lạc, của các lối sống thiên về hưởng thụ, ích kỷ, cá nhân … đang ảnh hưởng cách rộng rãi và sâu xa tới chúng ta, nhất là giới trẻ.
Ở đây, xin trưng dẫn một căn bệnh của giới trẻ, đó là tình trạng tự tử của giới trẻ trên thế giới. Theo ước tính của Tổ chức y tế thế giới (WHO), trên toàn thế giới mỗi giây có một người tự tử, mỗi năm con số này là 1 triệu người, số người có ý định tự tử nhiều gấp 10-20 lần. Mỗi năm tại Trung Quốc có tới 250.000 người tự tử + 2 triệu người có ý định tự tử; tại Nhật mỗi năm có khoảng trên 30.000 người tự tử, …
Một căn bệnh khác của giới trẻ đó là “sống không lý tưởng” hay lý tưởng sống quá thực dụng thiên về vật chất. Căn bệnh này kéo theo hàng loạt các căn bệnh khác, gây ra những cơn bão đánh sập hệ thống luân thường đạo lý của người việt, làm sản sinh ra các thế hệ giới trẻ sống thực dụng và ích kỷ, lấy vật chất làm nền tảng cho suy nghĩ và hành động.
Đây là những căn bệnh không đơn giản tí nào, không dễ gì để tìm ra thuốc ngừa và thuốc chữa…Trong tình trạng dường như bế tắc này của thế giới, Chúa Giêsu mời gọi tất cả chúng ta hãy chạy đến với Ngài để tìm ra phương cách chữa chị và phòng ngừa. Ngài chữa bệnh cho chúng ta không cần điều kiện, với cung cách của một người cha yêu thương: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay… ” (Mc 8,31). Ngài cũng đang chữa bệnh cho tất cả chúng ta, là những người ý thức mình đang mang bệnh, với ước muốn được sống và sống dồi dào.
Chúa Giêsu đã từng nói: “Ta đến thế gian để kêu gọi những người tội lỗi […] chỉ người bệnh mới cần thầy thuốc”. Mỗi người chúng ta cũng nên tự hỏi rằng: “Chúa Giêsu đến để kêu gọi và chữa bệnh cho tôi chăng?” hay “Tôi là một giáo lý viên gương mẫu và nhiệt tình, tôi là một tu sinh tốt lành, hay tôi là một linh mục mẫu mực, được nhiều người cảm mến và ngưỡng mộ” … rằng “Tôi rất là ok, cuộc sống của tôi rất bình an và hạnh phúc” có lẽ tôi chẳng có bệnh gì!!!
Chúa Giêsu thích “đến gần, cầm tay, nâng dậy” những ai ý thức mình tội lỗi, bị bệnh và cần đến Ngài. Và đây chính là cơ hội thúc đẩy chúng ta đến “gặp gỡ” Ngài. Ngược lại, những ai cảm thấy mình “tất cả đều ok”, thì cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu trở nên rất khó khăn: “Lạy Chúa con cảm ơn Chúa vì con là người công chính … không như cái thằng thu thuế bên kia”.
Chúng ta vui sướng cảm tạ Chúa mỗi ngày không phải vì chúng ta là những người thánh thiện, đáng được hưởng hồng ân bình an và ân sủng của Thiên Chúa, nhưng chúng ta vui sướng hân hoan vì chúng ta là “những tội nhân được tha thứ” một cách vô điều kiện. Chúng ta được thừa hưởng một cách “miễn phí” kho tàng Bình An - Hi Vọng, kho tàng Sự Sống – Ơn Cứu Độ từ Thiên Chúa, vì thế chúng ta cũng phải ra đi rao giảng kho tàng đó cho mọi người cách “miễn phí”, như thánh Phaolo đã nói trong bài đọc II: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16), bởi vì “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở” (Gp 7,7), con cần có Chúa, con ao ước được gặp gỡ Ngài mỗi ngày trong các Bí Tích và trong anh chị em con, vì Ngài là Bác Sỹ cho tâm hồn con, vì “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa” (Augustino, Tự thuật I, 1, 1).
41.Một ngày sống--Lm. Phêrô Trịnh
Nếp sống đơn điệu thường ngày với những bon chen cơm, áo, gạo, tiền, dễ làm cho con người rơi vào mệt mỏi, chán nản và không ít người đã đánh mất ý nghĩa của cuộc sống. Nhưng đối với người Kitô hữu, mỗi ngày sống lại là một quà tặng mà Thiên Chúa ban. Để nhận ra ân ban này và sống với tất cả niềm hạnh phúc, ta được mời gọi nhìn ngắm và noi theo một ngày sống của Chúa Giêsu.
1. Chúa Giêsu cầu nguyện
Khởi đầu ngày sống mới, Chúa Giêsu ưu tiên cho việc cầu nguyện. Tin mừng Marcô cho thấy Chúa Giêsu luôn cầu nguyện khi rao giảng, khi chữa lành các bệnh nhân, khi gặp gỡ đối thoại, khi bị chống đối... Cầu nguyện là một nhu cầu thật sự của Chúa Giêsu. Đó là phương thế hữu hiệu để Ngài kết hiệp mật thiết với Cha và tìm ý Cha. Chúa Giêsu cần thời gian thinh lặng để sống riêng tư bên Cha, tâm sự với Cha về gánh nặng của sứ vụ, về những khổ đau của con người, về những cuộc chiến chống lại sự dữ. Mang trong mình bản tính nhân oại, chắc hẳn Chúa Giêsu cũng cần được Cha nâng đỡ, cảm thông và sẻ chia. Cầu nguyện sẽ đưa Chúa Giêsu đến với con người để đồng cảm, chữa lành những khổ đau và hoạt động với con người lại đưa Chúa Giêsu đến gần Cha Người hơn.
2. Chúa Giêsu làm việc lành
Rời hội đường ở Capharnaum, Chúa Giêsu đến nhà Simon và Anrê. Nhạc mẫu của ông Simon đang bị cơn sốt hành hạ và nằm trên giường. Sốt không phải là loại bệnh nan y, khó chữa trị. Nhưng người Do Thái lại xem cảm sốt như là một hình phạt của Thiên Chúa, đi theo với chứng kiệt sức (Đnl 28, 22; Lv 26, 16) khiến người bệnh chỉ có thể nằm. Người ta gán cho căn bệnh này là do ma quỷ. Vậy mà cách Chúa Giêsu chữa lành cơn sốt cho bà mẹ vợ ông Simon thật đơn giản: Ngài cầm lấy tay bà và nâng bà dậy, lập tức cơn sốt biến mất và bà có thể đi lại để phục vụ mọi người. Chúa Giêsu đã nâng một con người dậy bằng quyền năng nào? Sức sống mãnh liệt nào đã truyền qua cử chỉ cầm tay này? Chắc hẳn đó là từ chính Thiên Chúa. Ngày nay, nhân loại cũng cần biết bao được Chúa nắm lấy tay và nâng dậy khi bị sức nặng của những khổ đau, những mải mê trần thế đang ghì kéo con người xuống.
Rồi chiều đến, người ta đem đến cho Đức Giêsu biết bao kẻ đau ốm và bị quỷ ám. Ngài đã chữa lành tất cả. Mọi bệnh tật đều do ma quỷ gây nên. Chữa lành là dấu chỉ chiến thắng ma quỷ. Chúa Giêsu đến cứu chữa và giải thoát con người khỏi sự thống trị của ma quỷ. Ngài mạc khải cách tiệm tiến cho dân chúng bằng cách cho họ thấy dấu chỉ chứng tỏ quyền lực của Ngài trên tội lỗi, ma quỷ và trên sự sống, để từ đó dẫn họ tới đức tin. Đức tin vào Chúa Giêsu chỉ thật sự có giá trị khi hiểu biết đầy đủ về sứ mạng và công việc của Chúa Giêsu, đặc biệt hiểu Ngài phải chết và sống lại để hoàn tất chương trình cứu độ.
Như vậy, Chúa Giêsu đến nhà Simon không chỉ để dùng bữa, nhưng điều quan trọng là để phục hồi sức sống nơi những con người đau khổ, bệnh tật. Chứng tỏ Ngài đến trần gian để tìm kiếm con người chứ không phải của cải của con người và Ngài muốn ban cho con người của cải cao quý từ trời cao là lòng thương xót và sự sống của Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu muốn những ân ban này được trao tặng cho mọi người.
3. Chúa Giêsu tiếp tục lên đường
Sau một ngày thành công tại Capharnaum với việc giảng dạy, c hữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ, Chúa Giêsu nhận được sự khen ngợi và kinh ngạc của dân thành. Người ta muốn giữ Chúa Giêsu lại cho họ. “Mọi người đều đi tìm Thầy”, chứng tỏ mọi người ở đây vẫn cần đến Đức Giêsu. Thế nhưng Ngài phải lên đường để tiếp tục sứ vụ theo ý Cha Ngài. “Hãy đi đến những làng, những thành lân cận”, Chúa Giêsu biết rằng nhiều nơi khác cũng đang rất cần sự hiện diện yêu thương của Ngài. Như thế, tình thương bao giờ cũng là sự thúc đẩy lên đường và biết mở rộng con tim cho hết mọi người mà không dừng lại ở những vinh quang ca tụng. Do đó, không ai được quyền chiếm hữu và giữ riêng Chúa Giêsu, nhưng có sứ mạng đem Chúa đến cho mọi người.
Đó là một ngày sống của Chúa Giêsu, đầy ắp những hoạt động vì con người, nhưng cũng không thiếu những phút giây sâu lắng bên cha. Hoạt động và cầu nguyện là những nhịp luôn đong đưa, hòa quyện, làm thành cuộc sống sung mãn của Chúa Giêsu nơi trần gian. Một ngày làm việc của Ngài với bao vất vả, nhọc nhằn nhưng lại làm vơi đi đau khổ và đem niềm vui đến cho nhiều người. Theo gương Chúa Giêsu, mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi hãy biết sử dụng thời gian sống của mình cách hữu ích cho bản thân qua việc gắn bó với Chúa, dành thời gian cầu nguyện với Chúa; đó là động lực để thúc đẩy ta dùng thời gian có ích cho tha nhân bằng việc sống yêu thương và phục vụ.
42.Người còn rao giảng ở nơi khác--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Cùng văn mạch với tin mừng tuần trước, đoạn 1,29-39 kể tiếp những công việc khác của Chúa Giêsu: chữa bệnh cho bà gia của Simôn (1,29-31), chữa các thứ bệnh người ta mang đến trước nhà Simôn vào ban chiều (1,32-34), và hôm sau, Người đi cầu nguyện và đi rao giảng ở các vùng khác của Galilê (1,35-39).
Một khía cạnh khác trong những hoạt động của Chúa Giêsu là chữa bệnh. Trong lần đầu tiên nầy, Người chữa lành một phụ nữ, trong khung cảnh và tương quan của một gia đình. Người còn chữa thêm những lần khác nữa, theo sự khẩn nài của cha mẹ xin cho con cái (5:21-43; 7:24-30; 9,14-27). Ở đây, con rể xin Chúa chữa cho bà gia. Trong mọi trường hợp, Chúa đều chữa lành hoàn toàn, đến nỗi người phụ nữ nầy có thể tiếp đãi Chúa Giêsu và các môn đệ tức thì.
Tiếng tăm của Chúa Giêsu lan ra rất nhanh, đến nỗi cả thành Capharnaum đều biết. Họ đã mang đến cho Người đủ mọi thứ bệnh nhân ngay chiều hôm đó (1,32-34). Dân chúng đặt hy vọng vào Người và Người đã giúp họ bằng quyền năng của Người. Tuy nhiên, Người không phải là bác sĩ chuyên nghiệp, mà là sứ giả của Thiên Chúa, đến để loan báo Nước Thiên Chúa đang đến (1,15). Vì thế, việc chữa bệnh là dấu hiệu quyền năng của Nước Thiên Chúa đang biểu hiện giữa con người. Quyền năng ấy sẽ biệu hiện cách viên mãn trong việc đánh bại sự chết - nguồn gốc mọi đau khổ, và trong việc phục sinh Chúa Giêsu. Hoán cải và tin vào Chúa Giêsu (1,15), thì sẽ được tham dự vào sự sống hoàn hảo của Người.
Sáng sớm, Chúa Giêsu bỏ thành Capharnaum ra đi cách âm thầm, để cầu nguyện và để đi nơi khác (1,35-38). Người là Con được yêu mến của Chúa Cha (1,10-11.24), nên luôn gắn bó mật thiết với Cha của Người. Người tìm mọi dịp để cầu nguyện trong thanh tịnh với Cha của Người (6,46), nhất là khi Người sắp làm một thay đổi lớn: khởi đầu, lúc mở rộng hoạt động (1,38), cuối cùng, lúc sắp sửa nộp mình chịu chết (14,32-42).
Chúa Giêsu nói rõ lý do tại sao Người ra đi nơi khác: “Vì điều nầy mà Thầy đã đi ra” (1,38). Không có một bổ ngữ nào để xác định Chúa Giêsu đã đi ra từ đâu. Tuy nhiên, có thể hiểu là Người đã đi ra từ Chúa Cha. Nói cách khác, “Vì điều nầy mà Cha đã sai Thầy đến”. Sứ mạng của Chúa Giêsu là đến và đi rao giảng Nước Thiên Chúa. Không bị giới hạn một nơi nào cả. Người đến để tiêu diệt quyền lực ma quỉ và bệnh tật (1,24), đến để kêu gọi người tội lỗi (2,17), và đển để phục vụ và hiến mạng sống để cứu chuộc mọi người (10,45).
Chúa Giêsu đã thiết lập cách hành động của Người: Sứ mạng rao giảng mà Thiên Chúa giao phó quyết định hành trình của Người.
43.Cách thế Chúa chữa lành--Lm. Trần Bình Trọng
Đa số loài người đều có lúc mang bệnh tật: bệnh thể lý, bệnh tâm lý, bệnh thiêng liêng.. Và mỗi người đều muốn được chữa lành. Vì thế ta có thể đồng hoá với dân chúng trong Phúc âm hôm nay, vây quanh Chúa để xin được chữa lành bệnh tật. Chúa đến không những để giải thoát con người khỏi tội lỗi, nhưng còn chữa họ khỏi bệnh tật, và giải thát họ khỏi quỉ thần ám ảnh, nghĩa là đem lại tự do cho con người. Chúa dùng loài người như là bác sĩ, nha sĩ, y tá với thuốc men để chữa trị bệnh tật. Tuy nhiên Chúa cũng chữa trị bệnh tật loài người cách trực tiếp mà không cần bác sĩ, nha sĩ và thuốc men. Cách thế chữa trị đó được gọi là phép lạ.
Có những trường hợp Chúa không chữa trị loài người khỏi bệnh ngay, nhưng Chúa chữa trị dần dần để thử đức tin và lòng kiên nhẫn của loài người. Lại có những trường hợp Chúa muốn loài người cộng tác với đường lối chữa trị tự nhiên, bằng cách soi sáng cho người ta biết cách săn sóc bản thân mình như ăn ngủ điều độ, tập thể thao dưỡng sức. Cái vấn nạn ở đây là sự thể đã không xẩy ra như vậy. Có những người đi bác sĩ thường xuyên, nằm nhà thương lâu ngày, cầu nguyện liên tục mà bệnh tật vẫn không thuyên giảm. Nhiều người phải mang bệnh tật suốt đời. Như vậy bệnh tật có phải là do hậu quả của tội lỗi gây ra không? Hình như Thánh kinh cựu ước có ám chỉ như vậy, nghĩa là những tai hoạ cho loài người được coi là hình phạt của Thiên Chúa. Tuy nhiên tội lỗi không cắt nghĩa được hết. Sách Gióp trong Thánh kinh đã chứng minh điều đó. Ông Gióp phàn nàn về những tai hoạ xẩy đến cho ông và gia đình ông như việc mất của cải, vợ con. Các bạn ông nghĩ rằng những bất hạnh đó là hình phạt cho tội lỗi của ông. Tuy nhiên ông Gióp không thể chấp nhận lối giải thích đó vì ông sống đời công chính và cảm thấy lương tâm không có gì trách móc. Vậy thì phải có lý do nào khác, điều mà ta không hiểu được. Bằng chứng là ta thấy trẻ em vô tội cũng phải mang bệnh tật.
Là người Công Giáo, ta phải tin rằng Chúa có thể giải thoát ta khỏi bệnh tật, nếu điều đó có ích lợi cho tâm hồn. Tuy nhiên đức tin của người công giáo không dựa trên việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác mà thôi. Xét về phương diện nào đó thì loài người, loài vật cũng như cỏ cây hoa lá được sinh ra, lớn lên, rồi chết. Việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác là một niềm vui, một ân huệ. Tuy nhiên đó không phải là điều quan trọng nhất trong cái ước muốn của người Kitô giáo.
Chúa Cứu Thế đến với mục đích chính là để chữa lành bệnh tật thiêng liêng của loài người, giải phóng con người khỏi tội lỗi, để phục hồi sự sống thiêng liêng bằng cách giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao khi ta cầu nguyện, xin ơn chữa lành bệnh tật phần xác mà Chúa lại ban ơn chữa lành bệnh tật phần hồn. Có những trường hợp mà việc mang bệnh tật phần xác có thể mang lại lợi ích cho đời sống thiêng liêng. Có những người nếu được chữa khỏi bệnh tật phần xác người ta có thể lầm tưởng rằng đời sống thiêng liêng của họ là tốt lành, không gì đáng trách. Nếu Chúa ban ơn ngay cho mỗi người, họ có thể chóng quên ơn Chúa, không đánh giá được tầm quan trọng của ơn chữa lành, khiến họ bớt tuỳ thuộc vào Chúa. Vì thế bệnh tật có thể là một đường lối Chúa dùng để đưa người ta xích lại gần Chúa, khiến người ta tuỳ thuộc vào Chúa nhiều hơn. Đó là lý do giải thích tại sao trong Phúc Âm hôm nay Chúa tách biệt khỏi đám đông dân chúng để đi cầu nguyện một mình, trong khi còn nhiều người đau yếu bệnh tật cần được chữa lành mà Chúa vẫn bỏ đi. Lý do là vì Chúa còn cái sứ mệnh quan trọng khác để thi hành là truyền bá tin mừng cứu độ, đem ơn chữa lành cho cả tâm hồn.
Để đi đến kết luận thực hành, thái độ người công giáo phải có là khi đau ốm bệnh tật, ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị, đồng thời ta cầu xin cho được ơn chữa lành. Tuy nhiên bao lâu ta còn mang bệnh tật, ta cần cầu xin để được ơn can đảm chịu đựng vì yêu mến Chúa. Người công giáo chấp nhận đau khổ bệnh tật không phải như một đường cùng không lối thoát. Người công giáo chấp nhận đau khổ bệnh tật vì tin yêu và phó thác để tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa. Chỉ bằng việc chấp nhận đó mới đem lại bình an và ơn phúc cho tâm hồn.
44.Xin ơn chữa lành bệnh tật hồn xác--Lm Trần Bình Trọng
Gần đến tuổi xế chiều thì cơ thể con người khó thích ứng được với một số đồ ăn, thức uống và những yếu tố ảnh hưởng bên ngoài. Do đó cơ thể phát ra những chứng bệnh tật, đau yếu khác nhau. Như vậy thì ta có thể đồng hoá với dân chúng trong Phúc âm hôm nay, gồm bà nhạc mẫu của thánh Phêrô, vây quanh Chúa để xin được chữa lành bệnh tật. Hôm nay Chúa đến chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỉ (Mc 1:34) nghĩa là đem lại tự do cho con người. Chúa dùng nhiều cách thế khác nhau để chữa trị bệnh tật loài người.
Chúa dùng loài người như là bác sĩ, nha sĩ, y tá cùng với thuốc men để chữa trị bệnh tật. Tuy nhiên Chúa cũng chữa trị bệnh tật loài người cách trực tiếp mà không cần sự cộng tác của loài người, cùng với thuốc men. Cách thế chữa trị đó được gọi là phép lạ. Có những trường hợp Chúa không chữa trị loài người khỏi bệnh ngay, nhưng Chúa chữa trị dần dần để thử lòng tin và lòng kiên nhẫn của họ. Lại có những trường hợp Chúa muốn loài người cộng tác với đường lối chữa trị tự nhiên, bằng cách soi sáng cho người ta biết cách giữ gìn sức khoẻ như ăn uống, ngủ nghỉ điều độ, tập thể thao dưỡng sức. Vấn nạn ở đây là sự thể đã không xẩy ra như vậy. Có người đi bác sĩ thường xuyên, nằm nhà thương lâu ngày, cầu nguyện liên tục mà bệnh tật vẫn không thuyên giảm. Nhiều người còn phải mang bệnh tật lâu dài. Như vậy bệnh tật có phải là do hậu quả của tội lỗi gây ra không?
Hình như Thánh kinh Cựu ước có ám chỉ như vậy, nghĩa là những tai hoạ xẩy ra cho loài người được coi là hình phạt của Thiên Chúa. Đạo lí nhà Phật thì cho là tại nghiệp chướng: kiếp trước làm bậy thì kiếp sau phải gánh chịu hậu quả tai hại. Đạo lí nghiệp chướng cũng giống ý nghĩa trong câu ngạn ngữ: Đời cha ăn mặn, đời con khát nước. Có điều khác biệt là trong thuyết nghiệp chướng thì cùng một cá nhân phải chịu hậu quả trong kiếp luân hồi; còn quan niệm cha ăn mặn, con khát nước là hai cá nhân khác nhau: cha có liên hệ huyết nhục với con, nhưng không phải là con.
Quan niệm trong câu ngạn ngữ Việt Nam trên đây còn giống quan niệm trong câu ngạn ngữ mà người ta truyền tụng trong dân Ít-ra-en (Do thái): Đời cha ăn nho xanh (chua), đời con phải ghê răng (Gr 31:29; Ed 18:2). Để sửa sai quan niệm đó, Thiên Chúa dùng miệng nhị vị ngôn sứ Giêrêmia và Êdêkien để trách dân Do thái sao cứ truyền tụng câu ngạn ngữ đó và dạy họ rằng mỗi thế hệ hay mỗi cá nhân chịu trách nhiệm về hành động của thế hệ đó hay cá nhân mình (Gr: 31:30; Ed 18:3). Quan niệm trong câu ngạn ngữ trên của dân dân Do thái chỉ đúng khi áp dụng vào một số bệnh di truyền nào đó dựa vào lí do sinh thể lí mà thôi.
Theo giáo lí Do thái giáo là đạo Cựu ước và giáo lí Kitô giáo là đạo Tân ước thì tội lỗi không cắt nghĩa được hết tại sao người ta phải mang tai họa. Sách Gióp đã chứng minh điều đó. Ông Gióp phàn nàn về những tai họa xẩy đến cho ông và gia đình ông như phải mất của cải, vợ con (G 7:1-4,6-7). Các bạn ông cho rằng những bất hạnh đó là hình phạt cho tội lỗi của ông. Tuy nhiên ông Gióp không thể chấp nhận lối giải thích đó vì ông sống đời ngay lành, công chính và cảm thấy lương tâm không bị trách móc. Vậy thì phải có lý do nào khác, điều mà người ta không hiểu được hay chưa hiểu được ở đời này. Người ta không hiểu được tại sao có những người hiền đức, ăn ngay ở lành mà phải chịu bệnh tật đau khổ? Người ta cũng không hiểu được tại sao một số trẻ em vô tội cũng phải mang bệnh hoạn tật nguyền?
Là người Kitô giáo, ta phải tin rằng Chúa có thể giải thoát loài người khỏi bệnh tật, nếu điều đó có ích lợi cho linh hồn. Tuy nhiên đức tin của người công giáo không dựa trên việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác mà thôi. Xét về phương diện nào đó thì loài người, cũng như loài vật, cỏ cây hoa lá, đều trải qua tiến trình của kiếp sống con người: sinh, lão, bệnh, tử. Việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác là một ân huệ và là niềm vui. Tuy nhiên đó không phải là điều quan trọng nhất trong ước muốn của người Kitô giáo.
Chúa Cứu Thế đến với mục đích chính là để chữa lành bệnh tật phần hồn của loài người, giải thoát con người khỏi tội lỗi, để phục hồi sự sống thiêng liêng bằng cách giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Đó là lí do tại sao khi ta cầu nguyện, xin ơn chữa lành bệnh tật phần xác mà Chúa lại ban ơn chữa lành bệnh tật phần hồn, mà ta không hay biết.. Có những trường hợp mà việc mang bệnh tật phần xác, có thể mang lại lợi ích cho đời sống thiêng liêng, khiến người ta tuỳ thuộc vào Chúa. Nếu được chữa khỏi bệnh tật phần xác, người ta có thể lầm tưởng rằng đời sống thiêng liêng của họ là tốt lành, không gì đáng trách. Vì lợi ích thiêng liêng cho loài người, Chúa cũng có thể trì hoãn việc chữa lành. Nếu Chúa ban ơn ngay cho mỗi người, họ có thể chóng quên ơn Chúa, không đánh giá được tầm quan trọng của ơn chữa lành, khiến họ bớt tuỳ thuộc vào Chúa.
Đó là lý do giải thích tại sao trong Phúc âm hôm nay Chúa tách biệt khỏi đám đông quần chúng để đi cầu nguyện, rao giảng trong các hội đường và trừ quỉ (Mc 1:35-39). Trong khi còn nhiều người đau yếu bệnh tật cần được chữa lành mà Chúa vẫn bỏ đi. Lý do là vì Chúa còn một sứ mệnh quan trọng hơn để thi hành là truyền bá tin mừng cứu độ, đem ơn chữa lành cho tâm hồn nữa. Chúa cũng không dùng quyền năng để tự cứu mình khỏi đau khổ và sự chết. Chúa tự ý chấp nhận đau khổ và sự chết vì Người ý thức được giá trị của đau khổ và sự chết vì yêu mến Chúa và tha nhân để mang lại ơn cứu độ cho loài người.
Để đi đến kết luận thực hành, thái độ người tín hữu phải có là khi đau ốm bệnh tật, người ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị, đồng thời phải cầu xin cho được ơn chữa lành. Tuy nhiên bao lâu người ta còn mang bệnh tật, người ta cần cầu xin để được ơn can đảm và nhẫn nại chịu đựng vì yêu mến Chúa. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật không phải như một đường cùng không lối thoát. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật vì tin yêu và phó thác để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa. Chỉ bằng việc chấp nhận như vậy mới đem lại bình an và ơn phúc cho tâm hồn khi phải mang bệnh tật đau khổ về phần xác. Để khỏi ngã lòng trông cậy Chúa và khỏi trở nên gánh nặng cho người săn sóc, có linh mục kia vẫn cầu nguyện xin Chúa đừng để mình phải nằm trên giường bệnh lâu dài.
Lời cầu nguyện xin cho được khỏi bệnh phần xác phần hồn:
Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến,
chữa lành bệnh tật hồn xác loài người.
Xin Chúa ban ơn chữa lành cho bệnh nhân
đau yếu, bệnh tật trong thời đại chúng con.
Xin Chúa soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia,
tìm ra thuốc men và phương pháp chữa trị bệnh tật.
Xin Chúa cũng chữa lành bệnh tật của chính con:
phần xác, phần hồn, phần tâm trí, phần tình cảm
để con có thể phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân
với hồn xác an vui và lành mạnh. Amen.
45.Động lực của việc tông đồ--Radio Veritas Asia
Tin Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những giây phút gặp gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương diện thiên tính, Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên Ngài luôn kết hiệp với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật thái độ sống của Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời cầu nguyện.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: "Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa Giêsu đã chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện". Mặc dù bận rộn với rất nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện. Nhưng đây không phải là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Ngài lấy hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tầm quan trọng của cầu nguyện: "Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì".
Chúng ta hãy noi gương Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại, chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như Ngài đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt tới việc cầu nguyện như thế, chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu mến Thiên Chúa như người con đối với người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Cầu nguyện là việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện. Hãy đến với Chúa như đứa con đến với cha mình".
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận lợi để bắt đầu một ngày sống tốt đẹp hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện, nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu hơn.
46.Lương y từ mẫu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Anh chị em thân mến,
Không ai trong chúng ta đã không ít là một một lần ngã bệnh hoặc có người thân đau ốm hay được thấy những bệnh nhân điều trị tại một bệnh viện, để thấy được bệnh tật quả là một nỗi khổ đau của con người… Mọi người đều phải chạm trán với đau khổ dưới muôn hình vạn trạng. Các triết gia đã suy nghĩ và bàn giải nhiều về đau khổ, nhưng không có một giải đáp nào thỏa đáng trước sự đau khổ của người hiền đức và của trẻ thơ vô tội.
Ông Gióp, nhân vật chính trong tác phẩm mang tên ông, là một người hiền đức nhưng gặp phải nhiều nỗi gian truân, đâm ra hoang mang và vô vọng: “Xin Chúa nhớ cho: đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ không được thấy lại hạnh phúc bao giờ”.
Thật vậy, “đời người là một khổ dịch, như cảnh nô lệ, tựa kiếp làm thuê”. Tuy thế, tuyệt đối ông không bao giờ coi đau khổ như là dấu chỉ hay hình phạt của tội lỗi. Bản thân ông Gióp không tài nào hiểu được: Tại sao người hiền đức lại phải đau khổ? Đối với ông, đau khổ thật là một huyền nhiệm khôn dò. Tốt hơn hết là tin chắc vào Chúa, hướng về Ngài và xin Ngài giải đáp cho.
Vậy thời Đức Giêsu nghĩ thế nào về đau khổ của con người?
Trước hết, Đức Giêsu không thuyết giảng về đau khổ nhưng Ngài quan tâm, lo lắng cho những người đau khổ, cảm thông và chữa lành kẻ ốm đau, tật nguyền, hoặc bị quỷ ám. Được biết bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nằm trên giường. “Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay bà và đỡ dậy…”. Với triết gia, đau khổ là một vấn đề. Còn với Đức Giêsu, cần chiến đấu và chiến thắng đau khổ: Trước người mù từ thuở mới sinh, mọi người tìm cách giải thích để kết án kẻ khác và chạy tội, để đổ trách nhiệm cho kẻ khác và phủi trách nhiệm cho mình. Nhưng theo Đức Giêsu, làm như thế có lợi gì, người đau khổ vẫn đau khổ. Tốt hơn là làm một cái gì đó, làm “cái phải làm” để biểu lộ công trình yêu thương của Chúa Cha.
Kế đến, khi cầm lấy tay bà mẹ vợ ông Simon đang nằm trên giường vì sốt mà cho bà “chỗi dậy”, Đức Giêsu như hướng chúng ta đến cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Chính nhờ mầu nhiệm Vượt Qua này mà đau khổ của con người có được một ý nghĩa tích cực: Đau khổ dứt khoát không phải là một hình phạt mà là một thay đổi, một nổ tung nảy sinh một sự sống mới, tương tự như hạt lúa phải thối đi để có mùa gặt, quả trứng phải nứt ra để có chú gà con, và con sâu phải lột xác để thành cánh bướm bay vào cõi trời bao la.
Như vậy, Đức Giêsu đến trong trần gian không phải để xóa đi mọi đau khổ nhưng để đem lại cho đau khổ một ý nghĩa cứu độ, cho người đau khổ một niềm vui giải thoát. Ngài đã giải thoát họ khỏi những chán chường thất vọng và đưa họ vào lại trong sự hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa cũng như với mọi người trong xã hội. Phải đợi đến sau khi Đức Giêsu Phục Sinh, người ta mới nhận ra rằng: còn hơn một Thầy Thuốc, Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh của cả nhân loại. Bởi vì Ngài đã không chữa lành những nỗi đau nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của tội lỗi đang tác động trong đau khổ, để đem đến cho con người một sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào trong vinh quang và sự sống. Đây mới thật là mối bận tâm sâu xa của Đức Giêsu: bận tâm rao giảng Tin Mừng hay mạc khải tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người. Nhờ đó, đau khổ thay vì là sự vắng mặt của Thiên Chúa, sẽ là sự hiện diện của một tình yêu. Dù đau khổ vẫn còn là một mầu nhiệm khôn dò, một vấn đề chưa có giải đáp trọn vẹn, nhưng đã có tình yêu, một mầu nhiệm vĩ đại hơn.
Thưa anh chị em,
Đức Giêsu đem Tin Mừng đến cho loài người bằng những thái độ cụ thể, rõ ràng: Ngài ra tay cứu chữa những ai đau ốm bệnh tật, cho họ được lành mạnh, thuyên giảm, hầu làm chứng một cách thỏa đáng tin rằng, quả thật Thiên Chúa yêu thương người ta, dùng con người cứu chữa con người, để ốm đau không thành đau khổ, tật nguyền không phải tất nhiên đau khổ. Khi con người được yêu thương chăm sóc thì dầu có mang bệnh tật cũng có thể cảm thấy vui tươi, hạnh phúc, nghĩa là không đau khổ, như một em bé mù –Trường Hy Vọng –Nguyễn Đình Chiểu, vẫn có thể đàn hát về cảnh bình minh của đời mình, vẫn sáng tác những vần thơ trong sáng, vì em được yêu thương, được chăm sóc tận tình.
Đức Giáo Hoàng Phaolô II trong Tông thư về “Ý Nghĩa Đau Khổ Của Con Người, theo Kitô giáo” (1984) đã nói: “Con người bước đi cách này hay cách khác, trên con đường đau khổ”, và tất cả chúng ta được đưa tới gặp gỡ con người trên con đường đó. Ngài trích dẫn dụ ngôn người Samari nhân hậu để cho thấy rằng mỗi người chúng ta phải có mối liên đới như thế nào đối với người đồng loại đang đau khổ. Chúng ta không được “dửng dưng” bỏ qua, nhưng phải “dừng lại” bên kẻ đau khổ. Người Samari nhân hậu là tất cả những ai dừng lại bên bất cứ đau khổ nào của người khác. Dừng lại không phải vì tò mò mà là để sẵn sàng giúp đỡ. Thái độ này là sự sẵn sàng nội tâm biết mở lòng và xót thương, thúc đẩy chúng ta ra tay hành động và trợ giúp những người đau khổ, dù thuộc loại nào” (x. số 28).
Trong suốt dòng lịch sử, Giáo Hội đã luôn quan tâm chăm sóc và cứu chữa các bệnh nhân, nhất là những người mắc bệnh hiểm nghèo và khó chữa, những kẻ tàn tật. Sự tận tụy của các tu sĩ, các đội ngũ bác sĩ, y tá Công giáo tại các trại phong cùi, các bệnh viện luôn được xã hội ghi nhận và đã là nguồn an ủi không nhỏ đối với những con người đau khổ. Nhiều giáo dân tại các họ đạo, các đoàn thể, có thói quen thăm viếng, chăm sóc những người già cả tại gia đình, tại các viện dưỡng lão… Như vậy, sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những con người đau khổ vì bệnh tật được tiếp tục trong xã hội hôm nay của chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Nhân ngày Thế Giới Bệnh Nhân sắp đến, ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức (11/2), nơi các bệnh nhân đã được Đức Mẹ chữa lành một cách lạ lùng, nhờ lòng tin tưởng, cậy trông và yêu mến Đức Mẹ.
Trước nỗi đau khổ của kẻ khác, nhiều khi chúng ta cảm thấy bất lực, không biết phải nói gì, không biết phải làm gì. Những lúc đó, trong giới hạn của mình và đầy tình thương, chúng ta vẫn có thể làm một cái gì đó để xoa dịu tinh thần cũng như trợ lực cho thể xác của họ. Rất có thể người ấy chỉ cần chúng ta im lặng và cảm thông với nỗi đau của họ, hoặc lắng nghe họ tâm sự. Cũng có thể họ chờ đợi được nghe một tin vui, chờ đón một nụ cười… Ngay cả khi không thể thực hiện các việc đó, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ. Bằng tất cả những việc yêu thương nhỏ bé của đời thường đó, chúng ta nói với họ về Chúa Giêsu của chúng ta. Đó cũng là cuốn Tin Mừng sống động viết bằng chính cuộc đời chúng ta vậy.
47.Niềm vui vì được chữa lành--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Đầu năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh có tên thật ngộ nghĩnh: bệnh bò điên (Mad-Cow discease). Những người mắc bệnh này vì họ ăn nhằm những con bò điên. Khi mắc phải, bộ não người bệnh sẽ bị hư hoại dần dần, tay chân run rẩy và đi dần đến cái chết.
Lúc đầu, người ta phát hiện có mười người mắc phải bệnh này ở Anh quốc, tám người trong số đó đã chết. Ngày 21 tháng 3 năm 1996, Bộ trưởng Y tế của Anh là ông Stephen Dorell đã phải tuyên bố: “Có thể có sự liên quan giữa bệnh bò điên và bệnh Creutzfeldt – Jacob nơi con người”.
Sau đó, Pháp là nước đầu tiên tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò của Anh Quốc. Các nước Âu Châu lần lượt làm theo nước Pháp. Cộng đồng Âu Châu còn khuyến cáo Anh Quốc phải triệt hạ tất cả mọi con bò mắc bệnh. Việc này đã khiến Anh Quốc thiệt hại hàng tỉ đô la.
***
Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Người ta xóa sổ được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và dường như là bất trị. Có những bệnh tật tưởng chừng đã biến mất, nhưng nay lại quay trở về với con người.
Hôm nay Đức Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon – Phêrô. Bà đang bị cảm sốt liệt giường. Đức Giêsu cầm tay bà nâng dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi lại tiếp đãi các Ngài.
Người Do thái cho rằng cảm sốt là hình phạt của Thiên Chúa, cũng giống như bệnh dịch (x.Ds 5,3). Sau này người ta còn gán cho cảm sốt là do ma quỉ. Trong cái nhìn đó, bệnh tật được coi như bắt nguồn từ ma quỉ và việc lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng quỉ ma. Vì thế, việc Đức Giêsu chữa bệnh cảm sốt cho nhạc gia ông Simon biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi ách tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Đức Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỉ đến đó. Người mang đến cho họ niềm vui và nụ cười. Người tín hữu Kitô cũng hãy đem niềm vui, niềm hạnh phúc đến cho tha nhân trong môi trường mình sinh sống. E. Lamy khẳng định: “chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng”.
Sau khi được chữa lành, bà nhạc ông Simon đã đứng dậy đi phục vụ mọi người. Qua Bí tích Rửa tội, chúng tôi được xua ma quỷ, được chữa lành bệnh tật linh hồn, và được trở nên con cái Chúa, chúng ta cũng hãy ra đi phục vụ anh em đồng loại, nhất là những người cô thân cô thế, những kẻ bệnh hoan tật nguyền. V. Ghika có viết: “Thiên Chúa cho kẻ biết cho, hiến thân cho kẻ hiến thân. Nếu bạn biết gánh lấy niềm đau của kẻ khác, thì Thiên Chúa sẽ gánh lấy nỗi khổ của bạn và biến nó thành của Người”.
Dường như gánh lấy nỗi đau của kẻ khác, chúng ta cảm thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Dường như hy sinh cho tha nhân bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Dường như sống yêu thương sẽ thấy lòng thanh thản, cuộc đời nhẹ thênh thang.
***
Lạy Chúa, thế giới ngày nay vẫn còn các tà thần ám ảnh: thần của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn còn các bệnh tật lan tràn: bệnh trong lối nghĩ, lối nhìn và lối sống. Xin chúa thương chữa lành cho tất cả chúng con. Nhất là xin cho các tín hữu chúng con cũng biết xoa dịu, băng bó và chăm sóc những vết thương thể xác và tâm hồn của anh chị em xung quanh. Amen.
48.Làm việc cho vương quốc nước trời--John. W. Martens--Lm. GB. Văn Hào chuyển ngữ
“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (Mc1,38)
Có nhiều thái độ khác nhau khi chúng ta thẩm định về những công việc thường ngày. Một người không có công ăn việc làm, cuộc sống sẽ bấp bênh, đời sống kinh tế sẽ không được bảo đảm. Rơi vào tình trạng thất nghiệp, người ta dễ chán nản và mất tự tin. Ngược lại, những ai có việc làm ổn định, sẽ an tâm khi về hưu trí. Cho dù, đôi lúc công việc làm ăn là cả một gánh nặng với bao vất vả, nhưng nó rất cần thiết để đảm bảo nhu cầu vật chất cho cuộc sống mỗi người. Giữa hai trạng huống, một đàng cần có việc làm, đàng khác, lại ước muốn thoát khỏi gánh nặng đó, là một thực tại vẫn luôn giằng co căng thẳng, ẩn sâu nơi cuộc sống hiện sinh của chúng ta ngày hôm nay.
Tác giả John Hughes đã viết “ Trải dài theo truyền thống Kitô giáo, người ta vẫn nhìn vào công việc với nhiều ý nghĩa khác nhau. Đôi khi người ta xem việc lao động như là một hình thái gắn kết chặt chẽ với bản tính nhân loại trong chính thiện ích của nó ngay từ thưở nguyên sơ. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phân định rằng đã có lúc, thân phận người lao động cùng khổ cũng gắn liền với kiếp nô lệ, và họ phải luôn đấu tranh mong thoát khỏi để sinh tồn --sách The end of Work)”
Gióp đã phản hồi với Chúa, khi ông gợi nhắc đến những công việc vất vả trong cuộc sống thường ngày của kiếp người “ Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày làm lụng vất vả có khác gì đời kẻ làm thuê?” (Gióp 7,1). Gióp đã than vãn cách bi quan khi nhìn vào những vất vả lao động như một gánh nặng, cho dù nhìn ở góc cạnh khác, công việc thường ngày của kiếp nhân sinh vẫn hàm ngậm một chiều kích tích cực hơn. Ngày Sabbat mà Kinh thánh nói tới, là ngày nghỉ ngơi, cho thấy công việc hằng ngày vẫn chỉ mang tính tương đối. Sự nghỉ ngơi đó, theo tác giả Hughes, hướng chúng ta đến một thực tại cao cả hơn, đó là sự an nghỉ cuối cùng trong Chúa. Cùng đích của cuộc nhân sinh chính là sự nghỉ ngơi an bình trong bàn tay của Thiên Chúa, nhưng cuộc sống con người trên trần gian ngày hôm nay vẫn đòi hỏi phải có công ăn việc làm để mưu sinh.
Chúng ta cần phân định giữa những công việc thường ngày để sinh nhai với công việc phục vụ Vương quốc Nước trời mà Tân ước hay nói đến. Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta nói rằng những công việc lao động trong thực tại trần thế này không quan trọng. Những công việc đời thường chúng ta làm, vẫn luôn hàm ngậm những sự tốt lành và thiện ích một cách nội tại. Nhưng chúng ta cần phải tránh hai thái cực: Một là, xem công việc như một thần tượng mà chúng ta cần phải tôn thờ, phải đeo bám bằng bất cứ giá nào, hai là chúng ta lại cố né tránh mọi việc làm để ở không một cách lười biếng.
Có lẽ, chúng ta sẽ nhận ra những thiện hảo nơi công việc chúng ta thực hiện hằng ngày, khi đọc lại các bản văn trong kinh thánh. Thánh Phaolô cũng đã từng làm việc để mưu sinh với nghề dệt lều (Cv 18,13). Nhưng công việc phục vụ cho Tin mừng vẫn ý nghĩa hơn, và quan trọng hơn đối với Ngài.
Dầu sao, Thánh Phaolô luôn từ chối mọi thù lao khi Ngài thực hiện sứ mạng tông đồ. Ngài viết “Đối với tôi, rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng. Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công. Còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa trao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin mừng, tôi rao giảng không công chẳng hưởng quyền lợi Tin mừng dành cho tôi (1 Cor 16-18). Công việc của Thánh Phaolô để phục vụ Vương quốc Nước Trời là một việc làm mang chiều kích linh thánh, và những ai thực thi sứ vụ này sẽ được vào hưởng sự nghỉ ngơi vĩnh hằng trong tay Chúa.
Chính Đức Giêsu cũng nhận thức được những thiện ích và sự cần thiết của công việc, cùng với sự nghỉ ngơi đi kèm theo. Đó không phải chỉ là sự nghỉ ngơi để chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như mục đích tối hậu của cuộc sống con người mà chúng ta vươn hướng tới. Đức Giêsu muốn đề cập đến sự nghỉ ngơi sau những lao nhọc vất vả của cuộc sống nhân sinh. Ngài đến trần gian để thực hiện sứ mạng xây dựng Nước Trời, và chúng ta cũng thấy Ngài thực hiện sứ mạng đó, rất quân bình giữa công việc và sự ngơi nghỉ. Sau khi Đức Giêsu chữa lành cho nhạc mẫu của Thánh Phêrô, như Tin mừng Marcô thuật lại, bà trỗi dậy ngay sau đó và phục vụ các ngài. Cũng vậy, sau khi Đức Giêsu vất vả chữa lành các bệnh nhân với nhiều chứng bệnh khác nhau, và trừ nhiều quỷ, Ngài cũng kiếm tìm một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, và Ngài cầu nguyện ở đó. Đức Giêsu cũng cần những phút giây tĩnh lặng để thư giãn sau những mệt nhọc vất vả với bao công việc bề bộn thường ngày.
Tuy nhiên, như Marcô trình thuật lại, Phêrô và các bạn đi tìm kiếm Đức Giêsu, lúc Ngài ẩn tránh, lui vào một nơi thanh vắng và ở đó một mình. Ngài không khiển trách các tông đồ cho dù có vẻ như họ đang quấy rầy, xen vào sự tĩnh dưỡng của Ngài. Đức Giêsu nói với họ “ Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt là để làm công việc này.” Đức Giêsu có những công việc cần phải làm và điều căn bản ở đây, là Ngài đã chu toàn những công việc ấy rất tốt đẹp để phục vụ cho Vương quốc Nước Trời. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có làm việc hay không? chúng ta đã và đang làm những công việc gì, làm cho ai, và làm như thế nào?
49.Tránh, nhưng không trốn sự đau khổ--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Ông Gióp than thở: "Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?...Gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề." (G 7,1-3). Vấn nạn đau khổ là vấn nạn muôn thuở của kiếp người. Không riêng gì các trang của sách Gióp, kho tàng văn chương của nhân loại từ cổ chí kim vẫn đầy dẫy các hình thái khổ đau của con người được trình bày, mô tả. Nói đến chuyện đau khổ, bàn đến chuyện đau khổ qua các trang sách hay phim ảnh thì như rất dễ thu hút lòng người. Có nhiều nguyên cớ nhưng cần chân nhận lý do chung này: người ta thấy có chút đồng cảm nào đó, vì chính họ cũng khổ đau. Đồng bệnh thì tương liên, chuyện đời là vậy.
Bài Tin Mừng Hội thánh cho trích đọc trong Chúa Nhật V TN B này tường thuật một ngày làm việc của Chúa Giêsu là chữa lành nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật về tinh thần lẫn thể xác. Sau khi chữa cho bà mẹ vợ ông Phêrô khỏi cơn sốt nặng thì "chiều đến, khi mặt trời đã lặn, ngưòi ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ." (Mc 1,32-34). Khó có thể chối cãi sự thật này là Chúa Giêsu tìm mọi cách xoa dịu khổ đau của con người. Thế nhưng tại sao khi người ta kéo nhau đến cùng Người thì Người lại đi nơi khác? Phải chăng Chúa Giêsu muốn "nhổ cỏ tận gốc", tức là tìm cách diệt trừ căn nguyên của sự đau khổ?
Vì sao có đau khổ? Một câu hỏi rất khó tìm được câu trả lời cách rõ ràng và có tính thuyết phục. Anh em Phật tử thì chủ trương rằng đau khổ có căn nguyên nơi cái "dục" của con người. Vì ước muốn mà không được toại nguyện nên phải chịu đau khổ. Chính vì thế con đường thoát khỏi khổ đau được đề ra là " diệt dục". Nếu nhìn cuộc đời con người với vòng đời "sinh - lão - bệnh - tử là bể khổ thì làm sao giải thích được việc một người được sinh ra là khổ, cho dù " thoặt sinh ra thì đà khóc choé". Người ta có thể muốn trẻ mãi không già, muốn mạnh khoẻ, không bệnh tật, muốn trường sinh bất tử, nhưng không một ai trên trần gian có thể tự mình "muốn" được hay không đựơc hoài thai trong dạ mẹ cũng như tự mình muốn được hay không được chào đời làm người.
Lão tử thì quan niệm đau khổ có ra là vì con người sống không hợp với Đạo, vói lẽ trời, với sự vận hành của giới tự nhiên. Khi con người không làm chủ ước vọng của mình, để cho tham muốn của mình đi thái quá cũng gây ra khổ đau. Chính vì thế để diệt khổ đau không gì hơn là tiết chế tham muốn của mình theo kiểu cách của thi nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Tri túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.
Và sống thuận theo lẽ trời tự nhiên như:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá.
Xưân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Các triết gia, các nhà đạo đức học phân biệt đau đớn với đau khổ. Các loài vật vì không có lý trí và ý chí tự do nên chỉ có đau đớn mà không có đau khổ. Đau khổ là một phạm trù thuộc lý trí. Biết được chuyện chẳng may, chẳng lành mà không tránh được thì mới có khổ đau. Người ta thường dí dỏm rằng người điên không hề có khổ đau, vì không biết. Tuy nhiên, ngoại trừ một vài nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh...thì người ta đều chân nhận rằng chính tội lỗi con người là nguyên nhân lớn gây ra đau khổ cho đồng loại. Và Kitô giáo ủng hộ lập trường này, mặc dù vẫn quan niệm đau khổ là một huyền nhiệm.
Để có cái nhìn tương đối khách quan về đau khổ, thiết tưởng chúng ta cần xem xét bản chất đau khổ là gì? Đau khổ là tâm trạng khó chịu khi gặp phải sự dữ hay khi thiếu một điều thiện hảo nào đó. Rất khó và dường như không thể xem xét đau khổ như là hiện tượng độc lập, tự thân nó. Đã nói đến đau khổ là nói đến một ai đó đau khổ. Như thế sự đau khổ luôn gắn liền với nhận thức và ước muốn của con người. Con người cảm thấy đau khổ khi các hiện tượng khách quan lẫn chủ quan như cưỡng lại ý muốn của mình.
Đến thế gian, Chúa Kitô không giải thích cặn kẻ về khổ đau cũng như các nguyên nhân của nó. Tuy nhiên qua các hành vi, lời nói và chính cuộc sống của Người, Người dẫn chúng ta đi trên con đường kinh qua đau khổ để sống yêu thương. Dù rằng vẫn cố gắng đến quên ăn, quên ngủ để làm dịu cơn khổ đau của nhân loại, nhưng Người đã biết rõ cuộc đời con người khó có thể thoát được mọi nổi khổ đau, cả về thể lý lẫn tinh thần. Người đã tự nguyện chọn con đường đối diện với với đau khổ bằng một tình yêu vị tha bao la. Không phải diệt dục là hết khổ đau, vì chính hành vi diệt dục cũng là một cách muốn, cho dù các bậc minh triết trong Phật giáo diệt dục bằng sự "tri kiến". Không phải cứ thuận theo lẽ tự nhiên là khổ đau biến mất vì sự vận hành của giới tự nhiên lắm khi quá nghiệt ngã. Biết dừng cái ham muốn của mình trong sự trung dung, vừa đủ thì hết khổ chăng? Cũng thật cam go vì biết thế nào là đủ, là vừa.
Trong niềm tin, với lời mạc khải, đặc biệt là qua con đường Chúa Kitô đã đi, chúng ta có thể quả quyết rằng chính khi hướng cái dục là lòng muốn đến tha nhân với các mục tiêu tốt đẹp kiểu "hãy thực hiện cho tha nhân những gì ta muốn tha nhân làm cho mình", thì sẽ có cơ may vượt qua đau khổ. Thánh Âugustinô đã từng chỉ dạy: Hãy yêu đi thì bạn sẽ vơi hết khổ đau. Nếu có đau khổ thì cái đau khổ ấy cũng đã được yêu rồi".
Cần phải diệt trừ tội lỗi là một nguyên nhân lớn gây ra đau khổ, đồng thời cần phải tránh các khổ đau cho bản thân cũng như cho tha nhân và tích cực xoa dịu khổ đau cho đồng loại hết khả năng có thể, vì đó là điều chính đáng và phải đạo. Tuy nhiên, nếu gặp phải sự đau khổ không như ý hay chẳng đặng đừng thì hãy can đảm đón nhận nó để sống yêu thương. Tình yêu vị tha mà kinh qua đau khổ là tình yêu thật đáng giá và đượm đầy tính vô cầu. Như thế không phải là tìm cách diệt dục hay hạn chế sự dục mà là hướng cái dục của chúng ta theo thánh ý Cha trên trời, Đấng tốt lành và nhân hậu. Là Kitô hữu, chúng ta tránh khổ đau, nhưng không lẫn trốn đau khổ.
50.Bàn tay Thiên Chúa ở cùng những ai cần được săn sóc nhất--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
Tin Mừng Chúa Nhật V Thường Niên hôm nay tập trung vào sứ vụ công khai của Chúa Giêsu như được diễn ra trong Tin Mừng Maccô. Bài Tin Mừng nêu bật sự quan tâm và khả năng chữa lành của Chúa Giêsu, đồng thời nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc chăm sóc, nhất là với những người đau bệnh và dễ bị tổn thương.
Sau khi kêu gọi các môn đệ đầu tiên và chữa lành một người bị thần ô uế ám, Chúa Giêsu tiếp tục chữa bệnh nơi riêng tư lẫn công khai. Cùng với bốn môn đệ, Chúa Giêsu đến thăm mẹ vợ của ông Simon đang bị cảm sốt. “Người cầm tay bà và nâng đỡ dậy, bà liền khỏi cảm sốt.” Hành động nắm tay người phụ nữ đau yếu cho thấy sự quan tâm dịu dàng. Chúa Giêsu lặp lại cử chỉ này khi chữa lành các trẻ nhỏ trong các đoạn Tin Mừng sau đó, hồi sinh một bé gái và bé trai bằng cách nắm lấy tay các em và nâng các em dậy (Mc 5,39-42; 9,25-27).
Trong Tin Mừng của thánh Maccô, Chúa Giêsu đã nhiều lần chữa bệnh, nhưng riêng trong ba trường hợp này Chúa giơ tay chạm đến người phụ nữ và hai trẻ em giúp họ được hồi phục. Các bài đọc là lời nhắc nhở về nhu cầu trao ban sự quan tâm nhân ái giữa con người với nhau. Đối với những người đang làm việc trong ngành y tế và hồi phục sức khỏe, bài Tin Mừng nhắc nhớ chúng ta rằng công việc thiết yếu chữa lành của họ là giúp người khác bình phục, và sự chăm sóc của họ mô phỏng lại Chúa Giêsu qua việc giúp người bệnh được chữa lành.
Sau khi Chúa Giêsu chạm tay vào thì bà mẹ vợ của ông Phêrô được chữa lành và có thể phục vụ Ngài cũng như các môn đệ như là dấu chỉ của lòng biết ơn và là bằng chứng cho sự bình phục của bà. Chúa Giêsu tiếp tục sứ vụ của mình qua việc chữa lành nhiều người mắc các loại bệnh tật, ốm đau. Ngày hôm sau, Chúa Giêsu chủ ý lánh riêng ra một nơi để cầu nguyện, là một ví dụ về việc Chúa Giêsu dành thời giờ riêng để nghỉ ngơi, hồi tâm và dâng lời tạ ơn vì quyền năng chữa lành của mình. Các môn đệ nói với Chúa là người ta đang tìm Ngài, như có vẻ mong có thêm người được chữa lành, và câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy cách thức Ngài quan niệm về sứ mạng của Ngài. “Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận để ta cũng rao giảng ở đó nữa.”
Ở giai đoạn đoạn đầu của Tin Mừng Maccô, chúng ta chưa nghe Chúa Giêsu rao giảng nhiều. Ngài giảng dạy với uy quyền trong hội đường (Mc 1,21-22), dù thánh Maccô không đề cập đến nội dung lời giảng dạy. Tuy nhiên, khi nói rằng Ngài còn nhiều điều phải rao giảng, ngay sau khi thực hiện nhiều việc chữa lành, Chúa Giêsu cho thấy quyền năng chữa lành là một phần không thể thiếu trong sứ điệp và sứ vụ của Ngài. Một cách thức nền tảng để Chúa Giêsu công bố sứ điệp Tin Mừng là thông qua hành động chữa lành.
Trong gần một năm qua, chúng ta đã phải gánh chịu đại dịch Covid- 19 và các tác động toàn cầu của nó. Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta tôn vinh, đề cao và tri ân rất các nhân viên y tế ở giữa chúng ta, họ đã tự đặt mình vào con đường nguy hiểm để nâng dậy những người bệnh. Thật không may, hơn một triệu người trên thế giới đã không chống chọi lại được với virus. Nhưng chúng ta cũng phải công nhận hàng chục triệu người đã khỏi bệnh mà một phần lớn nhờ vào sự nỗ lực không mệt mỏi của các chuyên viên y tế.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/01/21/fifth-sunday-ordinary-time-gospel-reflection-catholic-scripture-239713
51.“Chúa Giêsu chữa lành và rao giảng”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Tin mừng Chúa nhật 5 Thường niên ghi lại những hoạt động chữa lành và rao giảng của Đức Giêsu để nói lên sứ mạng Thiên Sai của Ngài như lời ngôn sứ Isaia đã loan báo:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19).
Sứ mạng Thiên Sai của Chúa Giêsu được trình bày qua 3 điểm chính trong bài tin mừng hôm nay:
- Chúa chữa bệnh cho bà nhạc gia của Simon và mọi bệnh tật khác nhau, trừ quỷ, để nói lên sứ mạng của Chúa là đến để cứu chuộc con người khỏi ách thống trị của tội lỗi. ma quỷ.
- Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện biểu lộ sứ mạng Thiên Sai phát xuất từ Thiên Chúa Cha, Ngài được Chúa Cha sai đến.
- Chúa Giêsu đi rao giảng ở các thành lân cận, loan báo Tin mừng cho mọi người. Điều này nói lên sứ mạng Thiên sai có tính phổ quát cho hết mọi người. Thiên Chúa muốn con người được cứu độ.
Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải là Thiên Chúa của tình yêu, Người là Đấng giải phóng chúng ta khỏi mọi sự dữ. Phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu là những dấu chỉ nói lên tình yêu đầy quyền năng của Thiên Chúa, dẫn chúng ta đến sứ điệp của Đức Kitô, hướng chúng ta về với Thiên Chúa và làm cho chúng ta hiểu rằng căn bệnh nặng nề nhất của con người hôm nay là sự thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng nguồn suối chân lý và tình yêu. Duy chỉ có sự hòa giải với Thiên Chúa mới có thể mang lại cho chúng ta sự chữa lành thật sự, sự sống thật sự, bởi vì một cuộc sống mà không có tình yêu và chân lý thì chẳng phải là cuộc sống… Do đó sự rao giảng và chữa lành bệnh tật của Đức Giêsu luôn liên hệ mật thiết với nhau, tạo nên một sứ điệp duy nhất về niềm hy vọng và ơn cứu độ (Trích bài giảng của ĐGH Benêđictô).
Tóm lại, bài Tin mừng hôm nay ghi lại một ngày làm việc bận rộn của Đức Giêsu: rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ, cầu nguyện. Việc rao giảng và chữa lành đã chiếm hầu hết thời gian của Chúa Giêsu:
“Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ… Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong khắp hội đường”.
Chúng ta thấy những người đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần bao quanh Đức Giêsu, Ngài hòa mình với họ, xả thân để cứu chữa họ. Ngài ra tay hành động cứu người bệnh tật, xua trừ ma quỷ… Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Theo quan điểm của người Do Thái, bệnh tật bắt nguồn từ ma quỷ, mọi sự dữ trên đời là do tội lỗi mà ra. Việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng ma quỷ, tội lỗi. Vì thế, việc chữa lành của Chúa Giêsu biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Đức Giêsu đi tới đâu, Ngài rao giảng Tin mừng cứu độ cho mọi người. Đó là sức mạnh chính yếu của Đức Giêsu mà Ngài đã xác định: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.
Loan báo Tin mừng cũng là sứ mạng của lọi người Kitô hữu hôm nay.
Thần học gia Maurice Zundel quả quyết: “Chúng ta không phải là Kitô hữu cho riêng mình, mà là cho Đức Kitô, cũng như chúng ta thuộc về Giáo hội và Đức Kitô, hầu mở đường cho tính công giáo của tình yêu Ngài được lan rộng và cho ơn cứu chuộc của Ngài trải ra trên khắp hoàn cầu. Đức Kitô còn dở dang và chưa thành toàn bao lâu toàn thể nhân loại chưa tháp nhập vào Ngài” (À L’éoute de Silence).
Đức Giêsu đi đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người mang niềm vui, nụ cười đến cho những người đau khổ, xoa dịu những vết thương đau của con người. Noi gương Đức Giêsu, người Kitô hữu cũng phải đem niềm vui, hạnh phúc cho tha nhân trong môi trường mình sống, đặc biệt cho những anh chị em đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ bằng sự an ủi, giúp đỡ, thăm viếng, chia sẻ vật chất cho anh em đang cần sự tiếp tay của chúng ta. E. Lamy đã nói: “Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng”.
52.Đi ra vùng ngoại biên--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tin mừng Mc 1: 29-39: Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện, rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Một ngày thật bận rộn với biết bao công việc...
1. Ngày làm việc của Chúa Giêsu
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện, rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Một ngày thật bận rộn với biết bao công việc: Giảng dạy trong hội đường rồi đến nhà chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô; Buổi chiều cho đến tối mịt, Chúa chữa lành dân chúng đủ loại bệnh hoạn tật nguyền; Sáng sớm tinh mơ, Chúa dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha.
Công việc bề bộn mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong nhịp sống thường ngày.
a) Cầu nguyện:
“Sáng sớm, Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện” (1,35). Suốt ngày lo toan với bao nhiêu là công việc, tiếp xúc đủ thứ hạng người, Chúa Giêsu dành buổi sáng tinh mơ để tâm sự trao đổi với Cha. Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Chúa Giêsu. Người cần có thời gian sống riêng tư một mình. Người cần sống bên Cha, tâm sự về gánh nặng công việc, về nổi đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống Satan. Người thấy mình cần được Cha cảm thông và nâng đỡ, cần ánh sáng và nghị lực để làm tròn sứ mạng.Người cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với Cha. Một ngày mới khởi đầu như thế để múc nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.
b) Rao giảng
Việc quan trọng thứ hai là rao giảng Tin mừng. “Ngày Sabát, Chúa Giêsu vào hội đường giảng dạy”(1,21). Người đọc Sách Thánh và giải nghĩa. “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền” (1,22). Cả phương pháp và bầu khí giảng dạy của Người đều như một sự mạc khải mới mẻ. Chúa giảng với một uy quyền vượt xa các luật sĩ kinh sư thời đó. Chúa giảng như Đấng có thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao. Chúa hoàn toàn độc lập khi giảng dạy. Người không trích dẫn, không dựa vào thế giá một chuyên viên nào. Vì thế, giáo lý của Chúa mới mẻ, người nghe đón nhận như luồng gió mát dịu từ thiên đàng thổi tới, lòng người cảm mến hân hoan, tâm hồn rộng mở hướng về trời cao với Chúa Cha.
Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô nói đến bổn phận rao giảng Phúc Âm mà ngài đã lãnh nhận. Thánh nhân đã chu toàn và để công cuộc rao giảng được kết quả, “tôi đã trở nên yếu đuối với người yếu đuối… trở nên mọi sự cho mọi người.”
c) Chữa lành thể xác tâm hồn.
Lời giảng dạy thể hiện bằng hành vi yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục. “Ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon… Bà nhạc của ông Simon đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà mà đỡ dậy;cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài” (1,29-31).Chúa Giêsu làm một cử chỉ thân ái là cầm lấy tay bà và nâng dậy, như sau này Người cầm tay đứa con gái ông trưởng hội đường, một cô bé mười hai tuổi đã chết lại đứng dậy được (Mc 5,41), như sau này Người cầm tay cậu bé bị động kinh nằm trên đất, nâng cậu dậy và cho cậu đứng lên (Mc 9,27).
“Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người” (1,32). Căn nhà ông Simon nhỏ hẹp, các bệnh nhân phải đứng thành nhiều vòng bên ngoài chờ đợi đến lượt mình. Tất cả đều được Chúa chữa lành.
Tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng có cùng một cảm nghiệm đó khi nói: “Chính Người chữa những kẻ dập nát tâm can, và băng bó vết thương tâm của họ”. Thánh Phêrô trong sách Công vụ Tông đồ cũng đã làm chứng: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10,38).
Bệnh tật đeo đuổi con người như hình với bóng. Người ta tìm ra phương cách chữa được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện. Càng ngày nhiều căn bệnh mới càng khó trị và bất trị cho dù y học hiện đại tiến bộ vượt bậc. Chúa Giêsu đụng chạm đến biển khổ của nhân loại. Người không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, chỉ mong cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa.
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu đầy ắp yêu thương trong mọi công việc phục vụ. Người có một trái tim rung động luôn “chạnh lòng thương”, có một tấm lòng bao dung vô bờ bến. Rao giảng Tin Mừng yêu thương, làm phép lạ chữa lành, mở rộng vòng tay đón nhận và tha thứ những kẻ tội lỗi. Chúa chữa lành bệnh tật thể xác và tâm hồn con người.
Gặp Chúa, những ai sống ích kỷ đều trở nên quãng đại, những ai ghen ghét hận thù đều trở thành yêu thương tha thứ. Gặp Chúa, con người tìm được mùa xuân cuộc đời.
Ngày làm việc bận rộn của Chúa Giêsu đều đầy ắp niềm vui cầu nguyện và hoạt động. Đó chính là khuôn mẫu cho mọi tín hữu.Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu nói đến đời sống cầu nguyện và hoạt động của mọi tín hữu: Muốn có một đời sống Kitô hữu đích thực, mọi người cần xác tín rằng: việc truyền giáo vừa là một hoạt động có chiêm niệm, vừa là một chiêm niệm có hoạt động (số 23). Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo xác định: “cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” (số 2725).
Một ngày sống khởi đầu với kinh nguyện, thánh lễ, chúng ta được gia tăng lòng Tin Cậy Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng danh Chúa.
2. Chúa Giêsu đi về vùng ngoại biên.
“Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: Mọi người đang tìm Thầy!”. Chúa Giêsu muốn đi đến nhiều nơi. Vì vậy “Người bảo các ông: Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó. Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ”.
Galilê là vùng ngoại biên xa trung tâm Giêrusalem. Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi các Tông đồ, tuyên bố Luật mới.
Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình làm nghề mộc, thuộc dạng nghèo. Như vậy, Người mang thân phận kẻ nghèo để chia sẻ với thế giới những người ngoại biên. Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người ưu tiên để ý đến những người nghèo, người người tội lỗi và những người cùng khổ. Người áp dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,17-20). Người cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13). Người muốn dạy cho mọi người thấy: Trước mặt Chúa không có vấn đề ưu đãi cho trung tâm và bỏ quên hoặc loại trừ những ngoại biên. Người nói rõ ràng với người phụ nữ ngoại giáo xứ Samaria: “Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem... Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,21-24). Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi những người ngoại biên, đến với họ chia sẻ những nỗi đau của họ. Chúa Giêsu cho họ thấy Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người.Người hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá, mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Người muốn các môn đệ hãy theo gương Người, đem Tin Mừng đến cho người nghèo khổ như vậy. Hiện nay, Mẹ thánh Têrêxa Calcutta đang được đề cao như một gương mẫu rao giảng Tin Mừng cho người ngoại biên. Mẹ không làm việc gì khác ngoài đi theo đường lối mà Chúa Giêsu đã đi trước. Điều đáng ngợi khen nhất nơi Mẹ là làm chứ không chỉ nói. (x.Tin Mừng cho người ngoại biên, ĐGM Bùi Tuần).
3. Giáo Hội đi ra vùng ngoại biên
Thời nay, nói theo ngôn ngữ của Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân, những biên cương mới mà Giáo Hội đang quan tâm không chỉ trên phương diện địa lý nhưng còn là những con người. Chúng không chỉ có nghĩa là mới, nhưng còn có nghĩa là bị lãng quên, bị bỏ rơi, chưa đụng chạm đến. Các biên cương cần quan tâm chính là sự cộng tác của mọi thành phần trong giáo xứ, là mục vụ hôn nhân gia đình, mục vụ sau khi kết hôn, chăm sóc và bảo vệ thai nhi, mục vụ bác ái truyền giáo, mục vụ truyền thông và mục vụ di dân.
Chúa đến với những biên cương mới dẫu cho khó khăn hay thập giá.Truyền giáo ngày nay trong thế giới nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng không nhắm trước tiên hay chủ yếu vào việc "chinh phục các linh hồn" cho Chúa càng nhiều càng tốt, (chúng ta không chạy theo số lượng) nhưng đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần vào con người và vào mọi thực tại nhân sinh. Vì thế, để thi hành sứ mạng cao cả đó, chúng ta không nhất thiết phải đi tới một vùng địa lý nào khác, mà lấy chính môi trường sống của mình làm "vùng đất ngoại bang", và noi gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chúng ta hãy coi các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là những vùng giáp ranh, những vùng biên giới mà Chúa sai chúng ta đến.
Cảm nghiệm sâu xa bước chân Chúa Giêsu đi về vùng ngoại biên, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Tôi thích một Giáo Hội bị bầm dập, bị thương tích và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, hơn là một Giáo Hội yếu nhược vì tự giam mình và bám víu vào sự an toàn riêng của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội quan tâm đến việc được ở vị thế trung tâm và rồi rốt cuộc bị vướng mắc vào một mạng lưới của những nỗi ám ảnh và thủ tục” (EG 49).
Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ các mục tử: Nếu một linh mục học nhiều về thần học và có nhiều bằng cấp, mà chưa học vác Thập giá Chúa Kitô, thì chưa phải là phục vụ. Người đó có thể là một học giả tốt, có thể là một giáo sư tốt, nhưng người ấy không phải là một linh mục. Các con thân mến, các con làm ơn đừng trở thành những “quý ông”, cũng đừng trở thành những “giáo sĩ kiểu công chức”; nhưng các con hãy trở thành người mục tử, những mục tử của Dân Chúa. (x. bài giảng phong chức linh mục cho 10 thầy Phó tế tại Đền Thờ Thánh Phêrô, ngày Chúa nhật Chúa Chiên Lành, 07 tháng 05 năm 2017).
“Đi Ra Vùng Ngoại Biên” đã trở thành câu nói quen thuộc của nhiều tín hữu kể từ khi Đức Thánh Cha Phanxicô đề cập trong Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng”. Ngài khuyến khích mọi người bước ra khỏi sự quen thuộc hằng ngày của mình để đi đến những nơi, với những người xa lạ ở vùng ven, vùng ngoại biên ...Đây không chỉ là một lối sống thích ứng tích cực trong khuynh hướng toàn cầu hóa hiện nay, nhưng còn là một phương thế, một giải pháp để Tin Mừng Chúa Kitô được rao giảng rộng rãi hữu hiệu hơn. Chính những chuyến “đi ra vùng ngoại biên” đã neo lại nơi tâm hồn người khác nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Ngày nay, nhiều người đã đi ra ngoài khu vực an toàn của mình để “đến vùng ngoại biên” và đã chạm đến những bất công, bất minh, bất chính của trần thế. Từ nơi đó, họ thắp lên ánh sáng của Tin Mừng, của lẽ phải và công lý cho những người “còn ngồi trong bóng tối sự chết” (Lc 1,70).
Chúa Giêsu đến thế gian với thân phận con người, làm con người, yêu thương con người và cứu độ con người. Người tận tụy phục vụ mọi người. Hãy cùng với Chúa “đi ra vùng ngoại biên”, ra khỏi những khung cảnh quen thuộc hằng ngày loan báo Niềm Vui Tin Mừng.
-------------------
Một ngày làm việc của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI
5:30 sáng: Khi công trường Thánh Phêrô còn đang yên tĩnh trong bầu khí buổi sáng sớm của thành Rôma và chờ đợi những đoàn du khách sẽ lần lượt kéo đến, trên tầng thứ ba của tòa nhà nơi Đức Giáo Hoàng cư ngụ và làm việc, người ta thấy ánh sáng đèn bắt đầu chiếu lên; đó là lúc Đức Giáo Hoàng thức dậy và bắt đầu một ngày mới với những giờ phút cầu nguyện và tĩnh tâm sáng.
7:00 sáng: Đức Giáo Hoàng dâng Thánh Lễ tại nhà nguyện riêng cùng với sự hiện diện của hai Đức Ông Goerg Gaenswein và Alfred Zuereb (hai vị Thư Ký của Đức Giáo Hoàng) và bốn người giúp việc. Thời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thì thường có thêm một số khách được vào cùng dâng lễ.
8:30 sáng: Đức Giáo Hoàng làm việc tại Văn phòng riêng. Nếu trời tốt, cửa sổ nhìn ra công trường Thánh Phêrô sẽ mở (chính từ cửa sổ này, vào mỗi trưa Chúa Nhật, Đức Giáo Hoàng nguyện kinh Truyền Tin cùng với các khách hành hương tụ tập tại công trường Thánh Phêrô phía dưới). Một trong hai Đức Ông Thư ký sẽ đem đến cho Đức Giáo Hoàng tập các văn kiện, bản tóm lược các tin tức quan trọng trên thế giới, chương trình làm việc trong ngày, những người Ngài sẽ gặp và những đề tài chính sẽ đề cập đến.
11:00 Trưa: Đức Giáo Hoàng xuống phòng tiếp tân ở tầng hai để tiếp các vị thủ lãnh các quốc gia, các vị Giám Mục, các nhân vật quan trọng… đã được sắp xếp theo chương trình. Sau đó Ngài tiếp các khách đến viếng thăm tại thư viện riêng.
1:30 Trưa: Đức Giáo Hoàng dùng bữa trưa đơn giản tại phòng ăn ở tầng ba với các viên chức hoặc đôi khi có khách được mời. Sau đó Đức Giáo Hoàng thường chơi Piano, đặc biệt những bản của Mozart, rồi đi dạo một chút trước khi nghỉ trưa.
3:30 Chiều: Đức Giáo Hoàng lại làm việc tại văn phòng để duyệt lại các văn kiện và các bài diển văn.
Vào Mùa Đông từ 4:00 đến 4:45 chiều (vào mùa Hè từ 6:45 đến 7:30), Ngài ra vườn để đi dạo với hai vị thư ký.
6:00 Chiều: Ngài gặp gỡ tại văn phòng riêng, các vị cố vấn thân cận, như các Đức Hồng Y, các Giám Mục Tổng Trưởng, Tổng Thư Ký các Bộ tại Tòa Thánh.
7:30 Tối: Đức Giáo Hoàng ăn bữa tối, xem tin tức trên truyền hình. Sau đó Ngài vào Nhà Nguyện để cầu nguyện trong yên lặng ban đêm.
Khi chuông Đại Thánh Đường Thánh Phêrô điểm 11 giờ đêm, đèn phòng ngủ của Đức Giáo Hoàng tắt và Ngài bắt đầu nghỉ đêm. (x.Vietcatholic, 19/06/2008, Lm Anphong Trần Đức Phương Phỏng theo Isabelle de Gaulmyn, “A day in the life of the Pope” trong Catholic Digest April 2008).
Ngày làm việc bận rộn của Chúa Giêsu, ngày làm việc của Đức Giáo Hoàng đều đầy ắp niềm vui cầu nguyện và hoạt động. Đó chính là khuôn mẫu cho mọi tín hữu.
Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia, 1999) nói đến đời sống cầu nguyện và hoạt động của mọi tín hữu: Muốn có một đời sống Kitô hữu đích thực, mọi người cần xác tín rằng: việc truyền giáo vừa là một hoạt động có chiêm niệm, vừa là một chiêm niệm có hoạt động (số 23).
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo xác định: “cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” (số 2725).
Một ngày sống khởi đầu với kinh nguyện, thánh lễ, chúng ta được gia tăng lòng Tin Cậy Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng danh Chúa.
53.Không có nghỉ ngơi cho việc tốt--‘Mở Ra Những Kho Tàng’
Mẹ vợ là đối tượng của nhiều chuyện vui cười, nhiều chuyện diễu cợt và một số châm biếm suốt một thời gian dài. Một nhà phê bình đã quan sát và nhận xét rằng: “Đằng sau mỗi người đàn ông thành công có một bà mẹ vợ đang ngạc nhiên”, có lẽ mẹ vợ của thánh Phêrô ngạc nhiên về sự chọn lựa của Chúa Giêsu khi chọn Phêrô làm đầu tông đồ, chúng ta thì không biết điều đó. Bà đã được chú ý chỉ một lần duy nhất trong toàn bộ Phúc Âm, nhưng điều đã được chú ý đó thì rất quan trọng đối với chúng ta. Và thánh Phêrô lúc đó vẫn còn được gọi là Simon, đã lo lắng cho người mẹ vợ của mình. Bà đã ngã bệnh bởi cơn sốt. Khi Simon nói với Chúa Giêsu về bà, Chúa Giêsu cầm tay bà thì cơn sốt liền rời khỏi bà. Hành động này của Chúa Giêsu không có gì phải ngạc nhiên. Nhưng sau đó thì và hoàn toàn ngạc nhiên, ngay lập tức bà ta dọn bữa phục vụ Chúa Giêsu và các môn đồ của Ngài. Các bạn nghĩ rằng đúng ra bà phải dành một ít thời gian để nghỉ ngơi, nhưng điều đó đã không phải là cách làm của người đàn bà này.
Một số những nhà hoài nghi đã vẽ bức tranh châm biếm người đàn bà được tiền định này, “phụ nữ trong vị trí xã hội thời bấy giờ” là để phục vụ người đàn ông. Sự thật bà đã là tấm gương của chính Chúa Giêsu. Bà đã suy nghĩ về sự quảng đại, về tinh thần bỏ mình trong sứ vụ của Chúa Giêsu.
Sau bữa ăn tối tại nhà của Phêrô, Chúa Giêsu không nghi ngờ gì là đã kiệt sức sau một ngày lao động vất vả, Người vẫn gây nên bất ngờ là chừa lành cho tất cả những người bệnh trong thành phố, những người đau bệnh và những người bị quỷ ám. Ngài đã đáp trả theo đặc tính riêng của Ngài. Sáng hôm sau, mặc dù rất mệt mỏi nhưng Ngài đã dậy rất sớm như mẹ vợ của ông Phêrô đã dậy sớm sau cơn ốm của mình. Chúa Giêsu tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện, nhưng đó không phải là tránh làm công việc tốt. Simon và những người khác đã tìm thấy Người, các ông biết rằng những khoảnh khắc an bình đó của Ngài không phải là tận cùng của một ngày sống. Sứ vụ của Ngài đang vẫy gọi Ngài và Ngài nhận biết rằng Cha đang kêu gọi Ngài, đưa những người cùng khổ thoát khỏi cảnh khổ của mình, điều mà ông Gióp đã cảm thấy khi ông tuyên bố: “Tôi sẽ không còn nhìn thấy hạnh phúc nữa”. Chúa Giêsu đã đi đến những làng mạc để tuyên bố và rao giảng Tin Mừng.
Thánh Phaolô đã làm viên mãn những ý thức quen thuộc của sự phục vụ. Để xác định sự dâng hiến của ngài trong việc rao giảng Phúc Âm mà ngài đã được kêu gọi, ngài viết: “Tôi đã bị thúc đẩy và không có một chọn lựa nào khác”. Đó là sự nhiệt tình để diễn tả tâm tình bổn phận sâu xa của ngài. Ngài không do dự làm nổi bật sự quảng đại khi ngài nhắc nhở Corintô: “Tôi hiến tặng Phúc Âm một cách nhưng không”. Trong sự so sánh ơn kêu gọi đáng khen ngợi của thánh Phaolô thì việc phục vụ đơn giản được dâng bởi mẹ vợ của thánh Phêrô cũng được xem không phải là vô nghĩa. Tuy nhiên, quan điểm của hai người phản ánh sự quảng đại tinh thần vô vị lợi trong việc phục vụ chính Chúa Giêsu, Phêrô có cách của ngài và mẹ vợ của Phêrô có cách của bà. Còn chúng ta, con đường của chúng ta là gì? Chúng ta có thể trở nên giống Chúa Giêsu trong việc chu toàn bổn phận ơn kêu gọi trong đời sống của chúng ta, những gì mà chúng ta có thể trở thành. Ngoài mẹ vợ của thánh Phêrô mà thánh Phaolô tông đồ đã trình bày cho chúng ta, có một sự xếp đặt rộng rãi trong việc phục vụ cho những môn đồ của Chúa Giêsu đã được kêu gọi. Chúng ta cần phải suy nghĩ về sự quảng đại và tinh thần vô vị lợi mà chúng ta thực hiện trong cuộc sống của chúng ta như là cha mẹ, vị hôn phu, thầy dạy, công nhân, những người tự nguyện, một sinh viên, một linh mục, một tu sĩ, những gì chúng ta được kêu gọi để trở thành.
Có sự nghỉ ngơi thì xấu khi chúng ta chỉ nghĩ về mình và những tiện nghi cho chính mình. Không có sự nghỉ ngơi cho công việc tốt, những người theo gương mẫu của Chúa Giêsu. Họ biết rằng hạnh phúc và sự viên mãn trong cuộc sống sẽ đến bằng việc bắt chước sự quảng đại và tinh thần vô vị lợi của Chúa Giêsu.
54.Cầu nguyện có sức biến đổi con người--Giuse Hoàng Hải Đăng, OP
Cộng đoàn thân mến!
Bỏ lại sau lưng một tuần lễ làm việc với bao vất vả và lao công khổ trí, với bao lo âu và căng thẳng. Giờ đây, trong bầu khí linh thiêng nơi đền thánh này, cộng đoàn chúng ta xum vầy bên nhau để cầu nguyện, hầu kín múc cho mình những nghị lực mới và những niềm hy vọng mới từ nguồn suối ân sủng bất tận của mầu nhiệm Thánh Thể.
Đây chính là cách thức hành động của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Sau một ngày bận rộn với công việc chữa bệnh và rao giảng Tin Mừng, Người tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha. Điều đó cho thấy đối với Chúa Giêsu, việc cầu nguyện là quan trọng, là điều không thể thiếu trong cuộc đời của Người. Vì thế, trước khi bắt tay vào làm việc, Chúa Giêsu thường cầu nguyện với Chúa Cha để kín múc lấy nguồn sức mạnh cho các hoạt động truyền giáo sau này. Và đỉnh điểm của nguồn sức mạnh linh thiêng này được Người biểu lộ trên Thánh giá khi Người cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”(Lc 23,34)
Cảm nhận sâu xa nguồn sức mạnh của cầu nguyện, Người không ngừng mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Bởi chỉ trong cầu nguyện, chúng ta mới kín múc được suối nguồn ân sủng của Thiên Chúa. Nguồn ân sủng dẫn đưa chúng ta đến chỗ trở nên một phần trong sứ vụ của Chúa Giêsu trong việc dẫn đưa mọi người vào trong sự mật thiết với tình yêu Thiên Chúa.
Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương cầu nguyện không biết mệt mỏi của thánh nữ Monica, mẫu thân của thánh Âutinh. Suốt hai mươi năm, thánh nữ đã khóc hết nước mắt và liên lỉ cầu xin Chúa hãy cứu vớt con trai mình. Cuối cùng, Thiên Chúa đã thương nhận lấy những giọt nước mắt và lời cầu nguyện của thánh nữ mà cho thánh Âutinh quay trở về với Thiên Chúa. Sau này, thánh Âutinh trở thành một vị thánh cả trong Giáo Hội.
Như vậy, chính sự cầu nguyện thẳm sâu đã nối kết tâm hồn thánh Monica với Thiên Chúa và đem lại cho thánh nữ sức sống vượt lên trên mọi thử thách, đau khổ. Nhờ đó mà thánh nữ không chỉ biến đổi chính mình mà còn làm biến đổi người con mà thánh nữ hằng nhớ đến trong những lời cầu nguyện.
Và để có được đời sống cầu nguyện thẳm sâu như thánh Monica, chúng ta hãy học ở nơi người sự tín thác vào Thiên Chúa. Nhờ tín thác vào Thiên Chúa mà chúng ta không chỉ gặp gỡ Người trong tiếng thì thầm và trong tiếng gió hìu hiu mà còn gặp gỡ Người giữa những cơ cực của trần thế, trong những nỗi khốn quẫn và hân hoan của đồng loại. Nhờ đó, chúng ta mang trong tâm hồn mọi đớn đau, sầu khổ; mọi sự đói, cô đơn và cùng khốn của con người.
Và cũng nhờ cầu nguyện, chúng ta để cho sự ấm cúng của tình yêu Thiên Chúa làm tan chảy băng giá của sự hận thù, để cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa mở ra một không gian nơi niềm vui khỏa lấp nỗi buồn; để cho sự hiền lành và ấu yếm của Chúa xua tan sự ghen ghét, sự hững hờ. Như thế, cầu nguyện chính là phương thế tốt nhất đưa dẫn mọi đau khổ tới nguồn mạch của mọi sự chữa lành.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Đôi khi vì thiếu lòng tin, chúng con đã không còn thấy nhu cầu để cầu nguyện. Vì những bận rộn, lo toan trong đời sống mà chúng con không còn muốn chạy đến với Thiên Chúa. Nhất là vì thấy những lời cầu xin của mình không được như ý nên chúng con cảm thấy chán nản, thất vọng và buông xuôi. Xin ban cho chúng con niềm tin mạnh mẽ để chúng con tin rằng những lời cầu nguyện của chúng con nhất định sẽ được Chúa nhậm lời. Để từ đó, chúng xác tín rằng cầu nguyện là lẽ sống, là hơi thở của đời con. Và một khi đã xác tín như thế, chúng con sẽ sẵn sàng dành trọn 30 phút mỗi ngày cho việc cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho con luôn biết phó thác cho tình yêu bao la và quan phòng của Thiên Chúa trong từng giây phút đời con để trong con không còn một khát vọng nào khác ngoài sự kết hiệp mật thiết với Chúa. Amen.
55.Mầu nhiệm đau khổ--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin mừng Mc 1: 29-39: Thánh Mc hôm nay giúp chúng ta sống với Chúa Giêsu trong mọt ngày làm việc của Người ở Capharnaum. Người rao giảng, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỉ nhưng vẫn dành thời gian sống với Chúa Cha bằng cầu nguyện.
Một trong những vấn nạn nhân sinh mà chúng ta đi tìm kiếm cách vô ích câu trả lời đó là vấn nạn đau khổ. Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây đau khổ luôn là một khắc khoải cho nhân loại qua mọi thời. Đối với Kitô hữu, đau khổ còn là một huyền nhiệm không chắc làm sáng tỏ được, thế nhưng, dưới ánh sáng của Tin Mừng vấn đề sẽ được khai tỏ. Thái độ của Kitô hữu trước đau khổ được mời gọi hãy ứng xử theo khuân mẫu của Đức Kitô: không phẫn uất, cũng không thất vọng nhưng nhẫn nhục đón nhận và phó thác hoàn toàn trong bàn tay của Chúa Cha. Làm cho việc chịu đựng đau khổ trở nên có ích.
I. Khám Phá Sứ Điệp Tin Mừng: Mc 1, 29-39
Bài tin Mừng này liên kết 3 bản văn khác nhau: trình thuật chữa lành mẹ vợ phêrô ( cc. 29-31); bản tóm tắt việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỉ và dân chúng tuân đến với Người ( cc. 32-34); Phần chuyển tiếp, Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, hoàn thành công việc tại Capharnaum để chuyển đến tiếp tục thi hành sứ mạng ở nơi khác ( cc. 35-39).
1. Chữa lành cho bà mẹ vợ Phêrô: Với người Do Thái, cảm sốt thường được xem như là một hình phạt của thiên Chúa, đi theo sự kiệt sức ( Đnl 28, 22, 32, 24; Lv 26, 16) hoăc là dịch bện. Về sau, người ta gán cảm sốt cho mọt con quỉ. Trong nhãn giới này, phép ;ạ chữa lành mẹ vợ ông Phêrô minh chứng Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai mà Isaia đã loan báo, Người đến giải thoát con người khỏi đau khổ, hậu quả của tội lỗi, của sự ác và của ác thần. ( Is 26,19; 29,18; 33,3; 35,5). Chúa Giêsu lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy: Mc dùng cùng một động từ để nói về việc Chúa Giêsu "đã chỗi dậy" (16,6). Dưới ánh sáng Phục sinh cử chỉ chữa lành này của Chúa Giêsu mang một ý nghĩa biểu tượng: Với cuộc phục sinh, Chúa Giêsu được suy tôn là " Đức Chúa và là Đấng Kitô" ( Cv 2, 36) nghĩa là Đấng qua từng ngày, từng thời vẫn tiếp tục cứu chữa loài người khỏi tội lỗi, tiết tục giải thoát con người khỏi sự chết. Sau khi được chữa lành bà mẹ vợ ông Phêrô chỗi dậy tiếp tục phục vụ mọi người. Chi tiết này mời gọi người Kitô hữu sau khi được thanh tẩy phải tiếp tục sứ vụ phục vụ mọi người. Đức Kitô không ngừng giải thoát các tín hữu khỏi mọi sự dữ để tất cả tiếp tục có sức mà phục vụ công trình cứu độ của Người qua việc phục vụ anh chị em mình.
2. Người chữa lành nhiều chứng bệnh khác nhau và xua trừ ma quỉ: Theo đề nghị của nhiều nhà chú giải Kinh thánh thì các phép lạ của Chúa Giêsu được phân thành hai loại 'phép lạ biểu lộ lòng thương xót' và 'phép lạ chiến đấu' ( E.Trocme, La Formation de L'Evangile de Marc, Paris, 1963, P. 123). Chữa bệnh được coi như là phép lạ biểu lộ lòng thương xót và trừ quỉ có thể coi như là phép lạ chiến đấu. Mc luôn nhấn mạnh điều này( 1, 23-29). Tuy nhiên, trong tư tưởng của Mc mọi việc chữa lành đều tượng trưng cho một cuộc chiến thắng ma quỉ ( tc. 1, 39; 3, 15; 6,7). Từ phép lạ chữa lành bà mẹ vợ ông Phêrô diễn ra trong nhà chỉ vài người chứng kiến cho đến chiều tối thì cả thành tụ họp lại trước cửa nhà, cho thấy, một sức thu hút kỳ lạ của Chúa Giêsu và cũng biểu lộ một nỗi khát khao của bao người mong được cứu chữa.
3. Đến những nơi khác để rao giảng: Sứ vụ của Chúa Giêsu không dừng lại một nơi. Các môn đệ và mọi người tiếp tục đến tìm Người, khẩn cầu Người, nhưng Người cho thấy còn phải đi các lành, các vùng khác. Người đi khắp vùng Galilê giảng dạy, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỉ. Vẫn chỉ là một công việc nhưng được thực hiện ở nhiều nơi. Giai đoạn mở đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu kết thúc, Người bắt đầu sứ mạng loan báo Tin Mừng của mình cho mọi người. Sau khi Phục Sinh, trước khi về trời, Người cũng trao phó chính công việc ấy cho các tông đồ với lệnh truyền sai đi khắp tứ phương thiên hạ ( 16, 15-18). Công trình cứu độ của Chúa phải được thực thi cho muôn dân nước, không chỉ dành riêng cho một dân tộc, một quốc gia hay một nhóm người nào.
II. Chiêm Ngắm Chúa Giêsu
Bản văn tin mừng theo Thánh Mc hôm nay giúp chúng ta sống với Chúa Giêsu trong mọt ngày làm việc của Người ở Capharnaum. Người rao giảng, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỉ nhưng vẫn dành thời gian sống với Chúa Cha bằng cầu nguyện. Một ngày làm việc của Người với biết bao vất vả nhọc nhằn nhưng lại xoá tan đau khổ cho người khác. Theo các nhà chú giải Kinh Thánh thì bài đọc I ( G 7, 1-4.6-7) là phần nhập đề cho việc chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỉ của Chúa Giêsu. "Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất". Bệnh tật, quỉ ám … là những hiện thân cụ thể của đau khổ. Chúa Giêsu đến giải thoát con người khỏi những đau khổ đó. Chúng ta cùng chiêm ngắm Người là Đấng Giải thoát con người khỏi đau khổ. Người giải thoát bằng chính nỗ lực đón nhận khổ đau của Người. Cao điểm của cuộc giải thoát này chính là cuộc thương khó tử nạn của Người.
III. Gợi Ý Bài giảng
1. Chúa Giêsu Đấng Giải Thoát khổ đau của nhân loại: Bản văn Tin Mừng hôm nay ghi lại một ngày sống vất vả của Chúa Giêsu dành cho mọi người: Người giảng dạy, chữa bệnh và xua trừ ma quỉ cho mọi người từ sáng tới tối. Người tất bật vất vả vì lòng thương người, vì muốn giải thoát con người khỏi đau khổ của bệnh tật của ma quỉ. Ẩn sâu dưới những công việc ấy là hình ảnh của một Đấng Cứu Thế đến để giải thoát nhân loại. Hình ảnh của câu chuyện Tin Mừng là dấu chỉ cho thấy thời đại cánh chung đã đến nơi con người Chúa Giêsu. Đau khổ là một vấn nạn, một huyền nhiệm không dễ gì giải thích thấu đáo; không dễ gì đón nhận. Chỉ có niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng giải thoát đau khổ mới có thể giúp cho con người nhận ra ý nghĩa đích thực của đau khổ trong cuộc sống và có sức mạnh để đón nhận nó. Chúa Giêsu đến không phải để tiêu diệt hết mọi đau khổ, nhưng Người đến mang lại cho đau khổ một ý nghĩa siêu nhiên đích thực: Người đến giải thoát con người không phải khỏi mọi đau khổ, nhưng là khỏi phải chịu đau khổ cách vô ích. Như Người đã đón nhận đau khổ, đến độ hy sinh đến chết để giải thoát con người để ban ơn cứu độ cho con người. Sự hy sinh của Người làm nên giá cứu đời.
2. Theo Chúa sử dụng thời gian cách có ích: Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng này, được mô tả là một con người hết lòng vì người khác, tận tâm phục vụ mọi người. Từ sáng đến tối lúc nào cũng tấp nập người bệnh, người bị quỉ ám đến xin cứu chữa. Một ngày sống của Người trôi qua thật hữu ích cho tha nhân. Người sử dụng thời gian thật hợp lý để gắn bó với Chúa Cha và để phục vụ tha nhân. Từ sáng sớm Người đã vào nơi thanh vắng để cầu nguyện, nghĩa là để đặc biệt kiến tạo sự thân mật với Chúa Cha. Những thành công, những đám đông người cần đến Người cứu giúp vẫn không làm Người sao lãng việc cầu nguyện, việc thực thi thánh ý Chúa Cha. Chính nhờ cầu nguyện với Chúa Cha mà Người đã luôn thực hiện đúng ý Chúa Cha. Gắn bó với Chúa Cha là sức mạnh để Người thực hiện thành công sứ vụ mà Chúa Cha trao phó, đành rằng với tư cách là Thiên Chúa Người có thể làm mọi sự. Theo gương Chúa Giêsu, mỗi người cũng hãy biết sử dụng thời gian sống của mình cách hữu ích cho bản thân qua việc gắn bó với Chúa, dành thời gian cầu nguyện với Chúa; hãy biết sử dụng thời gian cách hữu ích cho tha nhân qua việc biết sống yêu thương và phục vụ nhau, biết chu toàn trách nhiệm của mình.
IV. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến. Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến trần gian để cứu độ chúng ta. Trong tâm tình tri ân cảm mến, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. Giáo hội có sứ mạng tiếp nối Chúa Giêsu xoa dịu khổ đau của nhân loại. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các công trình của Giáo Hội luôn mang lại lợi ích thiết thực cho con người và thế giới hôm nay. Xin cho Giáo Hội luôn can đảm lên tiếng bênh vực người nghèo, bênh vực công lý và bênh vực sự sống.
2. Ngày nay biết bao người vẫn đang sống trong khổ đau nghèo đói cả tinh thần lẫn vật chất. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia và mọi người biết thành tâm thiện chí sống tình bác ái để cùng nhau xây dựng một nền hoà bình, thịnh vượng và cuộc sống ấm no cho dân nước.
3. Chúa Giêsu đi khắp miền Galilê rao giảng, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỉ. Ngày nay, Người sai mọi Kitô hữu tiếp nối Người đi vào mọi lãnh vực của cuộc sống để đưa tình thương cứu độ đến với mọi người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết sống yêu thương, quan tâm đến anh chị em nghèo khổ, bất hạnh chung quanh.
* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương giải thoát chúng con khỏi ách đau khổ của tội lỗi và sự chết, nhờ cuộc thương khó, tử nạn và Phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu con Chúa. Chúng con xin Chúa thương ban Thánh Thần an ủi, nâng đỡ chúng con trên đường đời đầy gian truân, thử thách để tất cả luôn vững vàng sống trung thành với niềm tin của mình. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
56.Hãy sống tích cực--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
Cuộc khủng hoảng do dịch bệnh Covid-19 gây ra đang khiến cho bao người, bao gia đình điêu đứng. Nhiều doanh nghiệp phá sản. Nhiều người mất việc làm. Không có việc làm, cuộc sống vốn khó khăn lại càng khó khăn hơn. Chắc hẳn những chuyên gia kinh tế thế giới đang cố gắng tìm một giải pháp tốt nhất để giải quyết khủng hoảng. Là những môn đệ của Chúa Kitô, chúng ta có thể làm gì để giải quyết cuộc khủng hoảng này?
Có một câu chuyện tôi đọc được trên báo kể về trường hợp của một chị phụ nữ khiến tôi cảm thấy thật xót xa. Chị lấy chồng được một người con thì chồng bỏ đi. Giờ với đồng lương quá thấp không đủ nuôi con, chị đã tìm đến với cái chết. Chị không những muốn kết thúc cuộc đời của chị mà cả đứa con nhỏ nữa. Chị đã cho nó uống thuộc độc để cả hai mẹ con cùng đi về thế giới bên kia của loài người. Cái chết như là giải pháp cuối cùng để chấm dứt khủng hoảng. Tôi hình dung ra nhiều người cũng đang rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng. Cũng giống như trường hợp của Gióp trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Ông nhìn vào cuộc đời và chỉ thấy một màu xám ngắt. Chẳng có chi hạnh phúc. Chẳng thấy một tia hy vọng. Chúng ta hãy nghe những lời lẽ của Gióp:
Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ (G 7, 6-7)
Con người khi đứng trước cuộc đời nhiều bất công và đau khổ thường hay có thái độ hoặc là muốn chấm dứt cuộc đời, hoặc là để mặc cuộc đời trôi dạt về đâu. Thế nhưng tất cả những thái độ đó đều không phù hợp với Tin Mừng của Chúa Kitô. Bài tin mừng hôm nay cho tôi một tia sáng để tìm ra một giải pháp cho cuộc khủng hoảng, một hướng đi cho cuộc đời.
Chiêm ngắm Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, tôi thấy dường như Chúa nói với tôi rằng hãy sống tích cực con ạ. Đừng ngồi đó mà than thân trách phận. Đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối. Đừng thất vọng đến mức tự hủy hoại đời mình. Làm như thế là hèn lắm. Sống mới khó còn chết thì dễ thôi con ạ. Hãy thắp lên một ngọn nến để soi tỏ đường con đi và cho người khác cùng đi. Ta hãy xem Chúa Giêsu làm gì trong một ngày sống. Một ngày của Chúa thật bận rộn. Người tới Hội đường giảng dạy. Giảng xong, Người tới chữa bệnh cho bà mẹ vợ của Simon Phêrô. Chiều tối, Người lại chữa đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền. Rồi sáng sớm tinh sương, Người đã thức dậy cầu nguyện. Và khi các môn đệ đi tìm Chúa, Người nói với họ tiếp tục lên đường để loan Tin Mừng cho những thành khác. Chúa dường như không có giờ để nghỉ ngơi, không có giờ để mà buồn chán. Người chữa lành những vết thương cả thể xác lẫn tâm hồn của con người. Người muốn đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc. Tất cả những ai gặp được Người đều được chữa lành. Chúa cũng bảo với tôi: con hãy đi và làm như vậy. Nhưng trước khi lên đường, Người bảo tôi hãy cầu nguyện. Hãy dành những giây phút đầu ngày và cuối ngày để ngước nhìn lên cao. Hãy thinh lặng để sức mạnh của Chúa đổ đầy vào trái tim ta. Tự sức ta sẽ chẳng làm được việc gì. Tôi tự hỏi tại sao những môn đệ của Chúa ngày hôm nay không đủ sức chữa lành, không đủ sức xoa dịu những nỗi đau của người xung quanh? Và câu trả lời đó là vì họ thiếu cầu nguyện.
Nhìn ra thế giới xung quanh, tôi cũng thấy tương tự như vậy. Con người chỉ lo đi tìm kiếm vật chất, còn linh hồn thì không được quan tâm đủ mức. Truyền thống của cha ông ta thật sâu sắc. Ngày tết có cả bánh chưng và bánh dày. Bánh chưng tượng trưng cho đất, còn bánh dầy tượng trưng cho Trời. Trời tròn đất vuông theo quan niệm dân gian. Cha ông ta muốn dạy chúng ta rằng con người đầu đội trời, chân đạp đất nên luôn phải có đủ hai yếu tố đó. Trong khi mưu sinh, phải lo tìm kiếm những gì thuộc cõi trời cao. Con người không chỉ là một mớ vật chất mà còn có một chiều sâu tâm linh thăm thẳm. Và để nuôi dưỡng cái chiều sâu ấy, ta chỉ có một con đường là chìm vào cõi lặng. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay mà học đòi bắt chước. Từ sáng sớm, Người đã chìm vào cõi lặng. Ở đó, ta gặp được chính nguồn mạch sự sống và bình an. Từ nguồn mạch ấy, ta sẽ có đủ sức mạnh để lên đường. Ta sẽ sống một cách tích cực và phong phú hơn. Ta sẽ có thể chữa lành những nỗi đau nơi tâm hồn và thể xác của tha nhân. Xung quanh ta, cuộc khủng hoảng đang bao trùm. Là môn đệ của Chúa, ta được mời gọi hãy làm một cái gì đó. Hãy làm một cái gì đó, nhỏ thôi, đi từ tình thương yêu con người. Hãy bắt đầu! Đừng chờ đợi bởi ta sẽ không biết phải đợi đến bao giờ.
Lạy Chúa, xin cho con có thái độ sống tích cực, để con có thể đem Tin Mừng tình yêu của Chúa đến cho mọi người bởi vì như Thánh Phaolô nói trong bài đọc 2 hôm nay: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,17).
57.Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Có phải Đức Giêsu đến trần gian để cứu chữa những người bệnh hoạn, tật nguyền, quỷ ám không? Sứ mạng của Ngài là gì? Tại sao Ngài làm những việc ấy?
2. Bạn có nghĩ rằng: nếu mình mà làm được phép lạ như Đức Giêsu, mình cũng sẽ chữa bệnh, trừ quỉ… và đi tới đâu cũng sẽ thi ân giáng phúc tới đó y như Ngài vậy? hiện nay mình chỉ kém Ngài vì không có bản tính Thiên Chúa thôi?
3. Theo bạn thì tình thương làm nên phép lạ, hay phép lạ làm nên tình thương? Nói cụ thể hơn, muốn giúp người, điều quan trọng nhất là có tình thương hay có tài năng? Tình thương làm nên tài năng, hay tài năng làm nên tình thương?
Suy tư gợi ý:
1. Dù quan tâm hàng đầu là loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu luôn cứu giúp mọi người theo sự thúc đẩy của tình thương
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu chữa các bệnh tật, các chứng quỷ ám. Trong cuộc đời công khai, Ngài đã từng chữa lành biết bao nhiêu con bệnh thuộc đủ mọi loại, biết bao người bị quỷ ám, và làm một số người chết sống lại, v.v... Điều đó khiến nhiều người có cảm tưởng rằng Ngài là một chuyên gia chữa bệnh, chữa quỷ ám. Thật ra không phải như vậy! Ngài đến thế gian chủ yếu không phải để làm những việc ấy, mà để cứu chuộc toàn nhân loại và loan báo Tin Mừng cho họ. Tuy nhiên, khi thực hiện sứ mạng ấy, Ngài đã phải đối diện với biết bao nhiêu cảnh đau thương của con người, về tinh thần cũng như thể chất. Tình thương chan chứa của Ngài đối với con người khiến Ngài biết bao lần “chạnh lòng thương” và ra tay cứu giúp (x. Mt 9,36; 14,14; 15,32; Mc 1,41; Lc 7,13). Sách Công vụ Tông đồ còn cho biết: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người “ (Cv 10,38).
Điều chúng ta cần noi gương Ngài không phải là việc chữa bệnh hay làm điều gì, mà chính là khả năng “chạnh lòng thương” trước những đau khổ của tha nhân. Khi đã biết “chạnh lòng thương”, thì tình thương sẽ thúc đẩy và dần dần tạo cho ta khả năng hành động phù hợp với sự đòi hỏi của tình thương. Thiết tưởng tất cả mọi Kitô hữu muốn thật sự là Kitô hữu đều phải biết “chạnh lòng thương”, biết nhạy cảm trước những đau khổ, trước những cảnh thương tâm đang xảy ra cho những người chung quanh, đồng thời quyết tâm ra tay hành động theo sự thúc đẩy của tình thương. Sự nhạy cảm do tình thương ấy chính là dấu hiệu chắc chắn cho biết Thiên Chúa đang thật sự ở với chúng ta, trong chúng ta. Ai không nhạy cảm như thế là dấu chứng tỏ họ không có Thiên Chúa - là Tình Thương - ở nơi mình: “Ai không yêu thương anh em mình thì không thuộc về Thiên Chúa” (1Ga 3,10; x. 3,17; 4,8).
2. Vì yêu thương và dấn thân hết mình mà Ngài làm nên những phép lạ
Có phải vì Ngài làm phép lạ dễ dàng, nên Ngài tỏ tình thương với mọi người cũng dễ dàng chăng?
Nếu ít hiểu biết về Đức Giêsu, chúng ta có thể nghĩ rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có quyền năng làm phép lạ, có khả năng chữa bệnh, đuổi quỷ, nên Ngài tha hồ mà “thi ân giáng phúc” ở bất cứ nơi nào Ngài đến. Đối với Ngài, việc “thi ân giáng phúc” quả là quá dễ dàng, Ngài có mất mát hay thiệt thòi gì đâu? Còn ta, hễ giúp đỡ ai, làm cho ai hạnh phúc hơn là ta phải mất mát, hy sinh, phải chịu thiệt thòi, phải chấp nhận đau khổ. Nếu Ngài cũng bị hạn chế như ta, làm sao Ngài có thể “thi ân giáng phúc” không cần tính toán như thế được? Nếu ta cũng làm được phép lạ như Ngài, ta cũng sẽ “thi ân giáng phúc” cho mọi người đâu kém gì Ngài!
Hay vì Ngài yêu thương tha nhân hết mình, nên Ngài mới có nhiều khả năng cứu giúp người khác như vậy?
Nghĩ như thế quả cũng có lý! Nhưng theo thiển ý tôi, người viết bài này, nghĩ ngược lại có thể có lý hơn. Nghĩa là: không phải vì Ngài có khả năng làm phép lạ nên Ngài tỏ tình yêu thương một cách dễ dàng; mà ngược lại, chính vì Ngài yêu thương hết mình, và cũng hết mình muốn ra tay cứu giúp người khác, nên Ngài mới làm được những phép lạ như thế. Cách nghĩ sau có vẻ hợp với Kinh Thánh hơn.
Đức Giêsu, Thiên Chúa Nhập Thể, có những giới hạn của Ngài
Rất nhiều người nghĩ: Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, mà đã là Thiên Chúa thì ắt Ngài phải biết hết, làm được hết, có đầy đủ mọi nhân đức, ở trong tình trạng hoàn hảo, chẳng cần tập tành khổ luyện gì hết. Nghĩ như thế không phải là không có lý. Nhưng rất có thể họ quên rằng Đức Giêsu là một “Thiên Chúa Nhập Thể”, nghĩa là một “Thiên-Chúa-làm-người”. Khi nhập thể thì Thiên Chúa vô hạn và tuyệt đối đã mặc lấy thân phận hữu hạn và tương đối của con người (x. Pl 2,6-9). Chẳng hạn, là Thiên Chúa vô hạn, Ngài có thể hiện diện cùng một lúc ở khắp nơi, nhưng cũng chính Thiên Chúa ấy, khi nhập thể, mặc lấy thân phận hữu hạn của con người, thì Ngài không thể ở khắp nơi cùng một lúc như thế. Thiên Chúa và Đức Giêsu chỉ là một Thiên Chúa duy nhất, nhưng Thiên Chúa ấy đã mặc lấy hai cách hiện hữu khác nhau: một đằng là thần linh, vô hạn, bất biến, tuyệt đối; một đằng là con người, hữu hạn, vô thường và tương đối... Nếu không như thế thì đâu còn là nhập thể nữa!
Kinh Thánh nói về Đức Giêsu
Thánh Phao-lô đã nói về sự giới hạn và yếu đuối của Đức Giêsu như sau: Ngài “mang thân phận yếu hèn” (2Cr 13,4; x. 1Tm 3,16); “Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện” (Dt 2,17); “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). Thiên Chúa đã “sai chính Con mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền tội chúng ta” (Rm 8,3b). Ngài phải chịu ma quỉ cám dỗ (x. Mt 4,1-11) và chắc chắn cũng phải chiến đấu để thắng nó. Trong việc Ngài cảm thấy sợ hãi đến đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến cuộc tử nạn sắp tới, ta thấy ngay thân phận yếu hèn của một con người ở nơi Ngài, và thấy Ngài cũng phải chiến đấu rất cam go mới thắng vượt được bản thân yếu đuối mà vâng theo thánh ý Chúa Cha (x. Lc 22,41-44).
Khi Ngài còn nhỏ, rất có thể Mẹ Maria cũng phải tập cho Ngài ăn, nói, đi đứng và dạy cho Ngài biết đọc, viết, tính toán như bao người mẹ khác tập cho con mình. Ngài cũng phải cố gắng vất vả khi phải học cho thuộc những bài học, khi làm những bài luyện tập... Ngài cũng phải học thánh Giu-se mới biết làm thợ mộc, và khi làm việc cũng cảm thấy mệt mỏi và vất vả. Những gì Ngài có được - như sự hiểu biết, các nhân đức, sự hoàn hảo - không phải sẵn có nơi Ngài do bản tính thần linh vô hạn của Ngài, mà theo thánh Phao-lô, Ngài cũng phải học, phải luyện tập với bao gian lao cực khổ không khác gì chúng ta: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8); “Thiên Chúa (...) đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2,10). Cũng thế, Ngài có được những giá trị cao quý ấy phần nào do quyết tâm thực hiện bằng ý chí yếu đuối của con người ở nơi Ngài.
Những phép lạ Ngài làm rất có thể là do tình thương cao độ của Ngài
Trong chiều hướng ấy, ta cũng có thể nghĩ rằng những phép lạ Ngài làm được để cứu giúp người khác một phần đến từ Thiên Chúa, nhưng một phần khác là do tình yêu cao độ và sự dấn thân hết mình của Ngài cho tha nhân. Điều này phù hợp với kinh nghiệm bình thường của con người: chẳng hạn biết bao người mẹ bất tài mà chỉ vì tình thương bao la đối với con mà làm được những chuyện phi thường; những người có tình thương bao la rộng rãi thường phát triển khả năng nhiều hơn những người khác.
3. Đừng sợ mình không có khả năng, hãy sợ mình không đủ tình thương
Vậy thấy Đức Giêsu cứu giúp biết bao người, chúng ta đừng vội cho rằng: nếu tôi có tài năng như Ngài, tôi cũng sẽ cứu giúp được nhiều người như Ngài. Nghĩ như thế hóa ra Ngài chẳng hơn gì chúng ta! hóa ra nếu có ai cứu giúp ai thì do người cứu giúp ấy có khả năng cứu giúp mà thôi! Nghĩ như thế, đời sống tâm linh và tình thương của chúng ta không bao giờ phát triển được! Muốn làm được những việc như Đức Giêsu, thiết tưởng điều quan trọng nhất là chúng ta phải có tình thương thật sự và cao độ như Ngài. Khi đã có tình thương rộng lớn, bao trùm, tình thương ấy sẽ thúc đẩy chúng ta hành động, thúc đẩy chúng ta luyện tập để có nhiều khả năng cứu giúp người khác. Tại sao ta có thể làm được biết bao chuyện cho cha mẹ, vợ con, anh em ta, mà lại không thể làm như vậy cho người khác? Chính vì ta có rất nhiều tình thương đối với người thân, nhưng lại không đủ tình thương đối với người khác. Vậy, đừng sợ mình không có khả năng cứu giúp người khác, hãy sợ rằng mình không có đủ tình thương đối với họ.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, con cảm thấy con chưa hữu ích lắm cho tha nhân chung quanh con không phải vì con không có tài năng cho bằng vì con chưa đủ tình thương đối với họ. Biết bao người ít tài năng hơn con, nhưng họ lại hữu ích cho tha nhân hơn con, chính vì họ đã yêu thương nhiều hơn con. Vì tình yêu có khả năng khiến người ta làm được tất cả. Điều con thiếu hơn cả chính là tình yêu, xin Cha hãy ban cho con.
58.Cầu nguyện trong đời thường--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mc 1: 29-39: Chúng ta có thể đánh mất chính mình trong khi làm việc. Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy chính mình trong công việc. Đây là lý do tại sao trong cuộc sống, chúng ta cần có một nơi yên tĩnh.
Mấy năm trước đây tạp chí Thế Giới Ngoài Trời (Outdoor World) có đăng một bài của Barry Lopez như sau: "Vào một buổi sáng mưa phùn, Barry thức dậy một mình đi dạo trong rừng trước buổi điểm tâm. Vừa rảo bước giữa những dãy thông và bá hương.
Barry vừa nhớ lại một buối sáng y hệt sáng hôm nay, khi còn là chú bé con, chàng đã được nhìn thấy ông nội một mình bước ra khỏi nhà đi dạo ngang qua chính những hàng cây này. Khi ông nội trở về chú bé Barry hỏi ông nội đã đi đâu và làm gì.
Ông nội mỉm cười, ôm choàng Barry rồi nói: "Nào chúng ta hãy cùng đi dùng điểm tâm, cháu nhé!"
Tiếp tục bước đi dưới cơn mưa phùn, Barry gặp một quãng rừng trống. Chàng liền quỳ xuống và đặt đôi tay lên mặt đất ẩm ướt. Điều này gây cho chàng cảm giác rằng chàng đang hiệp nhất với toàn thể vũ trụ.
Barry nhớ lại lời ông nội đã từng dạy bảo chàng: Khi nào cảm thấy cô đơn thì nên đi bách bộ vào rừng tìm yên tĩnh, đoạn làm bất cứ điều gì đang được thôi thúc trong lòng, chẳng hạn như quì gối xuống đặt tay lên mặt đất.
Nửa giờ sau, khi Barry trở về nhà, ông cảm thấy như được đổi mới, được hồi phục sức lực. Bấy giờ ông mới hiểu được lý do ông nội thường hay đi dạo trong rừng vào buổi sớm mai. Bà của Barry có lần nói cho ông hay đấy chính là cách thức ông nội cầu nguyện.
Ông ấy luôn luôn đi sang tận mé rừng bên kia, đứng trên bờ biển, tay thọc vào túi, lắng nghe đại dương reo.
Đoạn Tin Mừng hôm nay, cho thấy một ngày sinh hoạt của Chúa Giêsu:
Ban ngày giảng dạy, chữa bệnh và “Sáng tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện”.
Lý do khiến Đức Giêsu làm điều này cũng chính là lý do Barry thường làm, đó là tự đổi mới chính mình, tự hồi phục lại năng lực cho chính mình.
Chúng ta có thể đánh mất chính mình trong khi làm việc. Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy chính mình trong công việc. Đây là lý do tại sao trong cuộc sống, chúng ta cần có một nơi yên tĩnh.
Chúng ta cần phải học nơi Đức Giêsu, về cách kết hợp giữa hoạt động và chiêm niệm.
Ra đi cầu nguyện không phải là cách thế trốn thoát, nhưng điều này đưa đến sự tái cam kết. Cần có thời gian để cống hiến, và cần có thời gian để tiếp nhận. Để có được một cuộc sống lành mạnh, chúng ta cần phải quan tâm đến cả hai lối sống trên.
Sau một ngày học hành mệt nhọc, người bạn trẻ thường có thói quen ghé ngang qua nhà thờ để viếng Chúa, và lần nào cũng bắt gặp một cụ già ngồi yên lặng trước Thánh Thể trong nhà tạm.
Ngày kia, một người bạn trẻ chờ cho cụ cầu nguyện xong, tiến đến gần và hỏi:
- Cụ ngồi lâu giờ như vậy, có nghe Chúa nói gì với cụ không?
- Cụ già chậm rãi trả lời:
- Chúa không nói gì hết, Ngài chỉ nghe thôi.
- Vậy thì cụ nói những gì với Chúa?
- Lão cũng chẳng nói gì cả, chỉ nghe thôi.
Thấy người bạn trẻ có vẻ ngỡ ngàng, cụ nói tiếp:
- Lão thấy có bốn giai đoạn trong đời sống cầu nguyện.
Thời gian đầu thì lão nói, Chúa nghe, sau đó thì Chúa nói, lão nghe.
Giai đoạn kế tiếp thì không ai nói hết vì cả hai cùng nghe
và giai đoạn cuối là lúc không ai nói mà cũng không ai nghe.
Tất cả chỉ là một sự thinh lặng tuyệt đối.
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,
- Xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài, trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
- Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi truớc những dịp tội gây xao xuyến.
- Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai, để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,
để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
- Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi, để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người, tránh mọi lời nói gây đớn đau, đổ vỡ.
- Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn, để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
- Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim, để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ghen ghét, để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên mọi sự. Amen.
59.Kiếp sau xin chớ làm người--Lm. Anphong Trần Đức Phương
“LAO NHỌC LÀ CUỘC SỐNG CỦA CON NGƯỜI”
Khi gặp những khổ đau, vất vả, bội bạc… trong cuộc sống, cha ông chúng ta có câu:
“Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm con chim nhạn tung trời mà bay…”
Hoặc: “Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo…”
Khi gặp những khổ đau chồng chất, Ông Gióp cũng phải kêu lên: “Lao nhọc là kiếp sống của con người!” Đó là tư tưởng chúng ta đọc thấy trong Bài Đọc I, Chúa Nhật này (Giop 7, 1-4, 6-7). Trong Bài Phúc Âm (Mc. 1,29-39), Thánh Matcô ghi lại việc Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân, và họ kéo đến thật đông đảo để xin được chữa lành. Còn trong Bài Đọc II (1Cr. 9, 16-19, 22-23), Thánh Phaolô nói đến bổn phận rao giảng Phúc Âm Ngài đã lãnh nhận mà Ngài đã chu toàn, và để công cuộc rao giảng được kết quả, “Ngài đã trở nên yếu đuối với người yếu đuối… trở nên mọi sự cho mọi người.”
Cuộc sống của mỗi người đều phải trải qua những lúc khổ đau, bệnh hoạn; đó là kiếp người qua những giai đoạn “sinh, lão, bịnh, tử.” Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng chấp nhận kiếp sống như vậy để trở nên ‘giống con người chúng ta mọi đàng, chỉ trừ tội lỗi…” Mặc dầu công việc chính của Ngài trong thời gian sống công khai là rao giảng Tin Mừng cứu độ, nhưng Ngài cũng không quên chú ý an ủi và nâng đỡ những con người đau khổ, bịnh hoạn kéo đến với Ngài.
Noi gương Chúa Giêsu, ở mọi thời đại, Giáo Hội cũng luôn làm những gì có thể để giúp đỡ những con người nghèo khó, bệnh tật trên khắp thế giới. Đó là nhờ sự dấn thân hy sinh của các linh mục, tu sĩ và giáo dân. Ngoài việc lập các trường học, các xưởng dạy nghề để mở mang văn hóa và huấn nghệ, Giáo Hội cũng mở các trại phong cùi, các nhà thương, viện tế bần, viện dưỡng lão v.v… ở các vùng hẻo lánh bên Phi Châu, Á Châu, Nam Mỹ và ngay tại Việt Nam chúng ta trước đây, dù hiện nay thì gặp nhiều khó khăn và hạn chế hơn.
Chúng ta đã đọc nhiều sách, nghe nhiều bài chia sẻ về ý nghĩa của sự đau khổ. Chính Chúa Giêsu khi xuống thế làm người, ở giữa chúng ta, Ngài cũng dạy chúng ta giá trị của sự đau khổ trong công cuộc cứu chuộc nhân loại. Ngài đã chấp nhận mọi khổ đau trong cuộc sống, chịu đóng đinh, và chịu chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta, trước khi sống lại, lên trời vinh hiển. Hiểu được giá trị của đau khổ là để thanh luyện và đem lại ơn cứu rỗi, chúng ta sẽ không chán nản, bi quan, uất ức khi gặp đau khổ, bội bạc; trái lại, chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô: “Nhờ ơn Chúa toàn năng nâng đỡ, chúng tôi có thể vui mừng chấp nhận bất cứ điều gì xảy ra cho cuộc đời chúng tôi.” (Cl 1, 11). Khi các Thánh Tông Đồ bị bắt, bị sỉ nhục và đánh đòn, các Ngài ra về và “lòng rất vui mừng vì đã được coi là xứng đáng chịu xỉ nhục vì danh Chúa Giêsu (Cv. 5,40). Thánh Phêrô cũng căn dặn chúng ta “được chịu đựng mọi đau khổ vì Chúa Kitô, anh chị em hãy vui mừng...” (1Pr 4, 13). Ông Gióp cũng là một gương mẫu để cho mọi người hiểu được ý nghĩa của sự đau khổ và lòng can đảm của những người tin kính Chúa khi chịu đựng đau khổ.
Rồi mọi sự cũng qua đi mau chóng. Mọi khổ đau cũng tiêu tan. Rồi cuộc đời của mỗi người cũng qua đi.
Những người biết noi gương Chúa chấp nhận những biến cố đau thương của cuộc đời mới có thể “bỏ mình đi, vác Thánh Giá hàng ngày theo chân Chúa” (Mt. 16,24…) đi đến ngày sống lại và về trời vinh hiển. “Qua Thánh Giá mới có thể đến Ánh Sáng!”
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu nguyện cho những người đang phải chịu nhiều đau khổ ở khắp nơi trên thế giới: đau khổ tinh thần, đau khổ thể xác, đau khổ vì chiến tranh, vì thiên tai, vì già yếu, bệnh hoạn. Cũng xin Chúa cho chúng ta luôn biết nhìn lên Thánh Giá, suy gẫm cuộc tử nạn của Chúa, để chính chúng ta cũng biết chấp nhận mọi đau khổ hàng ngày, trong khi vẫn cố gắng để nâng đỡ những con người đau khổ chung quanh chúng ta.
60.Con đã viếng thăm Ta--Athur Tonne
Vị linh mục dừng lại nghé thăm một gia đình nghèo ở vùng núi Kentucky. Vừa khi linh mục chào bà mẹ. Bà ứa nước mắt kêu lên: "Ôi thưa cha, con vừa được biết cha đến thăm hôm nay. Con tin cha có thể giúp con." Bà dốc bầu tâm sự; bao lo âu, bao rắc rối. thỉnh thoảng vị linh mục chêm vào một vài lời khích lệ; nhưng ngài cảm thấy hoàn toàn bất lực trước khổ tâm của bà. Kể xong, bà ngừng một lát rồi kêu lên: "Ôi thưa cha, cha giúp con nhiều quá. Cha đã giải quyết cho con mọi vấn đề". Vị linh mục bối rối, ngài chẳng giải quyết vấn đề nào cả. Rồi ngài bắt đầu hiểu ra: Bà chỉ cần và mong được thông cảm.
Bài Tin Mừng hôm nay kể rằng; Chúa Giêsu chữa nhiều bệnh nhân, những chứng bệnh khác nhau. Người làm được vì Người là Thiên Chúa. Làm sao chúng ta có thể làm đuợc như Chúa? Chúng ta không thể làm phép lạ, không thể chữa bệnh đụng tới bệnh nhân, bằng lời nói hay bằng cử chỉ. Tuy nhiên, chúng ta có thể dự phần vào việc chữa bệnh của Đức Kitô.
Chúng ta có thể thăm người bệnh, như vị linh mục trong câu chuyện, chúng ta cảm thấy bất lực, đến ngớ ngẩn trước sự đau đớn, khổ tâm, thiếu thốn mà chúng ta không thể làm thuyên giảm hay chữa bệnh.
Đức Giêsu hứa Thiên đàng cho những ai viếng thăm người bệnh. "Ta đau các con đã viếng thăm… Hãy đến. " Ngay Cựu ước cũng thúc dục chúng ta: "Đừng chậm trễ thăm người bệnh vì nhờ thế con được quí mến." Thăm viếng người bệnh một cách thân tình, vui vẻ tại nhà hay trong bệnh viện; có thể xoa dịu tinh thần, trợ lực thể xác. Chúng ta có thể làm gì cho người bệnh; lắng nghe khi họ cần biểu lộ tâm sự. Thông cảm khi lắng nghe là một nghệ thuật cần trau dồi, phát triển, một người đến thăm biết thông cảm khi họ đem nổi đau của nạn nhân vào lòng mình. Họ biết chia sẻ niềm đau xót dẫu rằng họ đã nghe câu chuyện cả ngàn lần.
Chúng ta có thể đem đến một tin vui một sự kiện xây dựng hoặc nụ cười, một câu chuyện trên Tivi hay báo chí. Cắt một bài vắn trong báo hay tạp chí và đọc cho bệnh nhân nghe. Nhưng nhớ, bạn phải chuẩn bị trước, bạn sẽ nói gì và nói làm sao.
Bông, trái cây, các loại đồ ăn cũng giúp bệnh nhân mạnh tinh thần. Khi chọn quà bạn cần dùng óc tưởng tượng cố gắng để món quà thích hợp với tư cách, khung cảnh, nghề nghiệp và sở thích của bệnh nhân. Món quà đơn giản, không xa xỉ lại thường là quí giá.
Bạn đừng nói suông: "Tôi sẽ cầu nguyện cho." Tốt hơn nên nói; "Tôi sẽ cầu nguyện cho anh (chị) trong Thánh lễ hôm nay… "Sáng mai tôi sẽ cầu nguyện cho anh (chị)". Đừng nói dài dòng. Hãy giữ giờ thăm, nội qui của bệnh nhân. Hãy tế nhị, hãy biết quan tâm lo lắng cùng Chúa Kitô trong giới hạn của bạn, nhưng đầy tình thương.
Xin Chúa chúc lành cho bạn.
61."Người đến gần, cầm tay nâng bà dậy"--Noel Quesson
Bác sĩ Tissot người Thuỵ sĩ rất nổi tiếng. Ông theo đạo Tin Lành nhưng luôn tôn trọng nếp sống của người Công Giáo. Một hôm ông tới chữa bệnh cho một bà ngoại quốc, bà đang sốt nặng và tỏ ra hoảng hốt cáu kỉnh. Là người Công giáo, bà đòi gặp một linh mục trước rồi mới chịu để bác sĩ chích thuốc chữa bệnh. Sau khi được giải tội và xức dầu, bác sĩ Tissot thấy bệnh nhân bình tĩnh dịu dàng khác thường. Sáng hôm sau, bác sĩ Tissot trở lại, thấy bà giảm sốt và bắt đầu bình phục bác sĩ Tissot thường nói chân thành: "Nhiều bệnh nhân Công giáo đã lành bệnh nhờ bí tích xức dầu."
Tin Mừng hôm nay cho ta thấy Chúa đến giường bà mẹ vợ ông Simon đang sốt nặng, cầm tay đỡ bà dậy. Được khỏi ngay, bà chỗi dậy lo việc phục vụ Chúa và các môn đệ. Chúng ta có thể nghĩ tới Chúa Giêsu đã thực hiện bí tích xức dầu cho bà. Mọi bí tích đều do Chúa thiết lập và cử hành trước. Cử hành bí tích là làm lại cử chỉ của Chúa Giêsu. Kèm theo một lời của Chúa hay lời cầu nguyện của Giáo hội. Hai yếu tố ấy làm thành bí tích, đem lại ơn ích cho người lãnh nhận. Riêng bí tích xức dầu chủ yếu giúp người tín hữu trong cơn đau yếu, để họ trung thành với niềm tin không nao núng trong thử thách cả và thể xác lẫn tinh thần, vì xác hồn liên hệ mật thiết với nhau.
Khi thiết lập bí tích này, Chúa để ý tới những bệnh nhân, Chúa cảm thông nỗi đau buồn của họ. Chúa muốn chữa lành tâm hồn tội tình con người "bệnh" bằng bí tích Hoà giải, chữa lành và tăng sức con người đau yếu bằng bí tích xức dầu. Chỉ khi nào con người trải qua cái chết, đi vào vinh quang phục sinh, lúc đó mới hết những khuyết tật nơi thân xác và tinh thần. Chúa đã đến với những người đau khổ để nhắc cho họ nhớ chuyện đó.
Bà mẹ ông Simon được chữa lành bệnh. Bà chỗi dậy và phục vụ mọi người. Hậu quả của căn bệnh phần xác là nằm liệt, không làm việc được, không phục vụ được ai. Thế mà Chúa lại luôn đòi chúng ta phải phục vụ anh em, làm đầy tớ, hy sinh vì người khác. Để giúp chúng ta có lại khả năng phục vụ, Chúa đã ban cho ta bí tích Xức Dầu. Có những lúc thân xác ta không mang bệnh nạn, nhưng mất khả năng phục vụ, chính là lúc chúng ta thiếu tinh thần phục vụ, thiếu tinh thần bác ái, ta phải mau mắn chạy đến cầu xin Chúa chữa trị.
Tương đương với bệnh tật là những ám ảnh do tà thần được phép Chúa, thử thách lòng trung kiên của chúng ta với Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa xức dầu Thánh Thần cho chúng con, chữa lành tâm hồn và thân xác chúng con, cho chúng con luôn luôn có đủ khả năng và lòng nhiệt thành phục vụ anh chị em chúng con.
62.Nghỉ ngơi và yên tĩnh--Lm. Mark Link
Chủ đề: "Giữa những bận rộn của cuộc sống, Chúa Giêsu vẫn tìm thời gian nghỉ ngơi và cầu nguyện. Chúng ta cũng nên làm như thế"
Tạp chí Thế Giới Bên Ngoài (Outdoor World) có đăng một bài rất hay của Barry Lopez.
Vào một buổi sáng mưa phùn, Barry thức dậy một mình đi dạo trong rừng trước buổi điểm tâm. Vừa rảo bước giữa những dãy thông và bá hương. Barry vừa nhớ lại một buối sáng y hệt sáng hôm nay, khi còn là chú bé con, chàng đã được nhìn thấy ông nội một mình bước ra khỏi nhà đi dạo ngang qua chính những hàng cây này. Khi ông nội trở về chú bé Barry hỏi thăm nội đã đi đâu và đã làm gì. Ông nội mỉm cười, ôm choàng Barry rồi nói:
"Nào chúng ta hãy cùng đi dùng điểm tâm, cháu nhé!"
Tiếp tục bước đi dưới cơn mưa phùn, Barry gặp một quãng rừng trống. Chàng liền quỳ xuống và đặt đôi tay lên mặt đất ẩm ướt. Điều này gây cho chàng cảm giác rằng chàng đang hiệp nhất với toàn thể vũ trụ. Barry nhớ lại lời ông nội đã từng dạy bảo chàng: Khi nào cảm thấy cô đơn thì nên đi bách bộ vào rừng tìm yên tĩnh, đoạn làm bất cứ điều gì đang được thôi thúc trong lòng, chẳng hạn như quì gối xuống đặt tay lên mặt đất.
Nửa giờ sau, khi Barry trở về nhà, ông cảm thấy như được đổi mới, được hồi phục sức lực. Bấy giờ ông mới hiểu được lý do ông nội thường hay đi dạo trong rừng vào buổi sớm mai. Bà của Barry có lần nói cho ông hay đấy chính là cách thức ông nội cầu nguyện. Ông ấy luôn luôn đi sang tận mé rừng bên kia, đứng trên bờ biển, tay thọc vào túi, lắng nghe đại dương reo.
Bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy Đức Giêsu cũng thường một mình đi đến nơi vắng vẻ để cầu nguyện như vậy. Lý do khiến Đức Giêsu làm điều này cũng chính là lý do Barry thường làm điều ấy, là tự đổi mới chính mình, tự hồi phục lại năng lực cho chính mình.
Phúc Âm thánh Maccô thuật lại Đức Giêsu đã chữa bệnh cho dân chúng suốt ngày hôm trước khiến Ngài như kiệt lực về mặt tâm linh. Về sau trong Phúc Âm của mình, thánh Maccô giúp cho chúng ta có một cái nhìn về giá trị tâm linh mà Đức Giêsu phải trả để có thể chữa bệnh cho dân chúng. Một phụ nữ bệnh đã 12 năm xô lấn đám đông để chạm cho được Chúa Giêsu. Ngay khi đụng được vào Ngài, bà ta lập tức được chữa lành, tức thì, theo lời kể của thánh Maccô Chúa Giêsu biết được năng lực ấy đã xuất ra khỏi mình (Mc 5: 30)
Việc chữa lành bệnh đã làm cạn đi năng lực của Chúa Giêsu. Tương tự như thế, khi làm việc cho tha nhân, chúng ta cũng bị hao tổn sinh lực, thế nên chúng ta cần phải làm như Chúa Giêsu, tức là cần phải biết hồi phục sức lực cho mình về mặt tâm linh. Có thể chúng ta không thể làm được vịêc này bằng cách đi một mình vào rừng. Có thể chúng ta cũng thể kiếm được chỗ yên tĩnh để ở một mình ngay trong nhà chúng ta. Nhưng chúng ta vẫn có thể làm một điều gì đó; ít là thỉnh thoảng chúng ta dừng lại nghỉ ngơi khỏi dòng công việc để hồi tâm và lắng nghe tiếng Chúa trong tâm hồn chúng ta. Tôi xin chứng minh điều này quan trọng như thế nào.
Một con tàu của hải quân Anh bị tai nạn. Trong khi bị nạn, con tàu vang lên một tín hiệu được gọi là tín hiệu "Lặng Yên". Tín hiệu này có nghĩa là: "Hãy ngưng tất cả những gì bạn đang làm. Hãy nghỉ ngơi và xem xét lại tình hình của mình, và chuẩn bị làm những gì thật khôn ngoan".
Trước khi tín hiệu vang lên, ít có thuỷ thủ nào biết được điều nào là điều khôn ngoan để mà làm đây. Nhưng trong thời gian nghỉ ngơi, họ đã biết được điều gì cần làm. Tín hiệu "Lặng Yên" đã cứu được hàng ngàn mạng sống quân Anh và hàng triệu bảng Anh.
Trong đời sống thường nhật chúng ta thường bị rơi vào tình trạng khẩn cấp và chúng ta cũng chả biết làm gì ngay lúc đó. Thế rồi chúng ta la toáng lên; "chúng ta có thể làm gì đây?". Thực sự, điều tốt nhất chúng ta có thể làm là nghỉ ngơi và yên lặng. Sự nghỉ ngơi thường tạo nên điều kiện để ta thành công và tránh cho ta những thất bại.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm xem chúng ta có biết noi theo những gương Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta khi Ngài còn ở dương trần không? Chúng ta có biết thỉnh thoảng nghỉ ngơi để hồi tâm xét mình lại không? Thỉnh thoảng chúng ta có biết dừng lại để lắng nghe tiếng Chúa trong lòng chúng ta không?
Một hôm, nhạc sĩ André Kostelanetz đến thăm nghệ sĩ Pháp Henri Matisse. Khi Kostelanetz đến nhà Matisse, thần kinh ông bị suy nhược và ông gần như kiệt sức. Matisse nhận ra tình trạng sức khoẻ người bạn, ông vừa đùa vừa nói; "Này ông bạn, ông phải tìm ra những cây Áctisô cho đời sống của ông." Nói xong, ông ta nắm tay dẫn Kostelanetz ra khu vườn nhà ông. Khi cả hai đến gần một đám cây Áctisô, Matisse dừng lại. Ông nói với Kostelantz là mỗi buổi sáng sau khi làm việc một lúc ông thường đến với đám Astisô này để nghỉ ngơi yên tĩnh. Ông chỉ đứng đó ngắm nhìn đám Acstisô. Đoạn Matisse nói thêm: "Dầu tôi đã vẽ được trên 200 bức tranh tôi cũng vẫn luôn luôn nghiên cứu tổng hợp những màu sắc mới cũng như tìm những bức mẫu tân kỳ. Không ai được phép quấy rầy tôi khi tôi lặng yên đứng ngắm… điều này mang lại cho tôi nguồn hứng mới, một sự xả hơi cần thiết cũng như một triển vọng mới cho công việc của tôi".
Mỗi người chúng ta nên ghi vào lòng lời Matisse khuyên nhủ André Kostelanetz. Chúng ta phải tìm những đám Actisô cho đời chúng ta, hoặc nói cách khác chúng ta phải làm giống như Barry Lopez đã làm. Chúng ta cũng phải thỉnh thoảng một mình đi dạo vào rừng buổi sáng. Chúng ta nên làm điều các thủy thủ Anh Quốc đã làm trong những tình trạng khẩn cấp, nghĩa là phải nghỉ ngơi và yên lặng. Chúng ta nên làm điều Đức Giêsu đã thường làm. Thỉnh thoảng chúng ta phải dậy sớm dùng lời cầu nguyện để tăng cường sức mạnh cho mình.
Đó là sứ điệp của bài Phúc Âm hôm nay. Sứ điệp này thực là quan trọng. Chúng ta có thể tóm tắt như sau;
Dù bận rộn rất nhiều trong cuộc sống, Chúa Giêsu vẫn tìm thời giờ nghỉ ngơi và cầu nguyện. Chúng ta cũng nên làm như thế.
Chúng ta hãy kết thúc với lời khẩn nguyện:
Lạy Chúa,
Xin dừng bước chân con,
Xin dừng bước chân con;
Xin cho trái tim con trĩu nặng được thư thái,
Tâm trí xôn xao được lặng yên.
thần kinh rã rời được dịu lại
gân cốt mệt nhoài được giãn ra.
Xin dạy cho con nghệ thuật
Dùng những lúc nghỉ ngơi đôi ba phút,
trở lại tiếp xúc với lòng mình,
lắng nghe tiếng Chúa và từ đó rút ra
nguồn sáng mới, sức mạnh mới và lòng dũng cảm mới.
lạy Chúa,
xin hãy dừng bước chân con,
xin hãy dừng bước chân con.
63.Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng tin mừng--Anmai, CSsR
Thánh lễ hôm nay, bài đọc thứ nhất đưa ta về hình ảnh rất quen thuộc, rất dễ thương trong Cựu Ước đó là ông Giob. Nếu có giờ, chúng ta đọc lại toàn bộ tác phẩm của ông, chúng ta sẽ thấy ông thật dễ thương trước mặt Chúa. Tại sao gọi là dễ thương trước mặt Chúa? Là vì, dù cuộc đời ông "ba chìm - bảy nổi - chín lênh đênh nhưng ông đã tin tưởng vào Chúa một cách lạ lùng. Cảm xúc của ông Giob chắc có lẽ cũng là xúc cảm của mỗi người chúng ta.
Ông Giob giới thiệu về nhân thân của ông: "Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác.2 Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất trong số các con cái Phương Đông. Các con trai ông có thói quen luân phiên tới nhà nhau tiệc tùng và cho người đi mời ba cô em gái đến ăn uống với họ. Mỗi khi hết vòng tiệc tùng, ông Gióp cho gọi họ đến để thanh tẩy họ; rồi ông dậy thật sớm, dâng lễ toàn thiêu cho mỗi người trong họ, vì ông tự nhủ: "Biết đâu các con trai ta đã chẳng phạm tội và nguyền rủa Thiên Chúa trong lòng! " Lần nào ông Gióp cũng làm như thế. (G 1, 1-5)
Cuộc sống của ông là như thế nhưng có mãi được như thế đâu? Chúng ta chờ xem:
"Vậy một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh cả của họ, thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp: "Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: "Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người này còn đang nói thì một người khác về thưa: "Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người ấy còn đang nói, thì một người khác về thưa: "Con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè trên đám trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." (G 1, 13-19)
Cuộc đời nó không như người ta tưởng, người ta nghĩ. Mà cũng đúng, vì có những lúc lòng chúng ta cảm thấy trống rỗng và chán ngán. Thi thoảng chúng ta cũng thấy cuộc đời này nó vô nghĩa như ông Giob vậy. Nhất là mỗi khi chúng ta bị thiệt hại, bị mất mát về tiền của, về vật chất như ông Giob.
Buồn tủi, đau đớn nên ông Giob đã bộc bạch:
Cuộc sống con người nơi dương thế
chẳng phải là thời khổ dịch sao?
Và chuỗi ngày lao lung vất vả
đâu khác gì đời kẻ làm thuê?
Tựa người nô lệ mong bóng mát,
như kẻ làm thuê đợi tiền công,
cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng,
số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề.
Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: "Khi nào trời sáng? "
Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: "Bao giờ chiều buông? "
Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng.
Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa,
và chấm dứt, không một tia hy vọng.
Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài nhớ cho,
cuộc đời con chỉ là hơi thở,
mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ. (G 7, 1-4.6-7)
Nhìn lại sao mà chúng ta giống ông Giob quá. Thế nhưng ông Giob không chỉ bị tổn thương về vật chất nhưng còn tổn hại về tinh thần, về lòng tin nữa. Ông cam chịu mất mát, tưởng chừng người thân thương nhất của ông, người chung chia với ông những đau khổ của cuộc đời sẽ an ủi, sẽ nâng đỡ ông, nhưng nào ngờ vợ ông lại bảo ông nguyền rủa Thiên Chúa vì Thiên Chúa mà ông tin theo sao mà kỳ thế! Thiên Chúa đã để cho cuộc sống của ông ra nông nổi này. Kèm thêm bà vợ cay nghiệt còn có ba người "hàng xóm tốt bụng" khuyên ông hãy rời bỏ Thiên Chúa mà suốt cuộc đời ông đã theo. Thế nhưng, chúng ta thấy giữa biết bao nghịch cảnh của cuộc đời ông Giob vẫn một mực tin tưởng vào Thiên Chúa mà ông suốt cuộc đời đi theo.
Nhìn lại cuộc đời của ông Giob, quả là một bản trường ca về tin mừng. Cuộc đời ông đã cao rao về tình thương của một Thiên Chúa mà ông tin tưởng theo.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe, Thánh Máccô thuật lại cho chúng ta công việc của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó." (Mc 1, 38) Chúa Giêsu khẳng định cho các môn đệ cũng như chúng ta đó là Chúa đến để đi rao giảng Tin mừng của Nước Trời, Tin mừng của Thiên Chúa.
Thoáng nhìn cuộc đời của Chúa Giêsu, trong hành trình rao giảng Tin mừng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy thấp thoáng hình bóng của cây Thập Tự cứ đi theo cuộc đời của Chúa Giêsu. Và thực tế là như thế, cuộc đời của Chúa Giêsu buồn nhiều hơn vui. Thế nhưng tại sao Chúa Giêsu lại hăng say, mạnh mẽ lên đường loan báo Tin mừng như vậy? Bởi lẽ Chúa Giêsu, suốt cuộc đời đã tin tưởng, đã tín thác vào Thiên Chúa nên cho dù cuộc đời của Chúa thế nào đi chăng nữa Chúa vẫn loan báo Tin mừng.
Và rồi, qua thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô mà chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy Ngài khẳng định cho chúng ta lập trường của Ngài về Tin Mừng: "Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi."
"Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng." (1 Cr 9,16-19.22-23)
Nhìn lại một chút cuộc đời của Phaolô chúng ta cũng thấy na ná như ông Giob, như Chúa Giêsu vậy. Cuộc đời của ông cũng đã quá đau khổ, ông phải trả một giá quá đắt khi tin theo Chúa. Thoạt đầu, ông là người Pharisiêu "chính hiệu Con Nai Vàng" nên ông nào tin vào Chúa và thậm chí ông con bắt, còn bách hại những người theo Chúa nữa. Thế nhưng, chính khi ông "giác ngộ" ra Đấng mà xưa nay ông bắt bớ chính là Đấng Cứu Độ của ông cũng là lúc mà người ta khinh bỉ ông, người ta không tin tưởng ông nữa vì ông xoay hẳn 1 góc 180o. Từ người ghét, bách hại, bắt bớ nhưng nay lại trở thành người nhiệt thành rao giảng Tin mừng thì làm sao mà người ta có thể tin được. Thế nhưng, vì lòng tin son sắt vào Chúa, Phaolô vẫn miệt mài rao giảng Tin mừng, bất chấp mọi thành kiến, mọi dị nghị, mọi lời đàm tiếu của người đời.
Phaolô đã "ngộ" ra cuộc đời của ông từ cái ngày ngã ngựa trên đường Đa-mát rằng: có một Thiên Chúa yêu thương ông, quan phòng, chăm sóc ông nên cuộc đời của ông thay đổi từ đấy.
Chúng ta là những người luôn luôn mở miệng tin Chúa và đọc Kinh Tin Kính mỗi Thánh Lễ Chúa nhật, mỗi khi có dịp, nhưng lòng tin vào Chúa của chúng ta như thế nào? Chúng ta có can đảm rao giảng Tin mừng, rao giảng về một Thiên Chúa yêu thương cho những người xung quanh chúng ta hay không?
Thật sự, đây không phải là chuyện dễ vì lẽ cuộc đời của chúng ta có quá nhiều đau khổ như ông Giob, như Chúa Giêsu, như Thánh Phaolô vậy. Thế nhưng, chúng ta lại nhớ đến lời của Thánh Phaolô "chính khi tôi yếu là lúc tôi mạnh." Thánh Phaolô xác tín điều ấy vì chính khi cuộc đời của Ngài gặp phong ba bão táp, gặp khó khăn, yếu đuối, Ngài phó thác vào tay Chúa thì Chúa sẽ nâng Ngài dậy như Chúa đã từng nâng đỡ Ngài trên đường Đa-mát vậy.
Rơi vào hoàn cảnh bi đát của cuộc đời như ông Giob, như Chúa Giêsu, như thánh Phaolô đấy nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi ai cả. Chuyện quan trọng là chúng ta có tin để phó thác hay không mà thôi? Sau khi tin tưởng, phó thác Thiên Chúa đã ban cho ông Giob và thánh Phaolô không biết bao nhiêu ân huệ của Ngài và khi nhận ra ân huệ mà Thiên Chúa ban đấy, ông Giob và thánh Phaolô đã cao rao tình thương của Chúa.
Thật sự ra, trong cuộc đời chúng ta, chúng ta thấy Chúa ban cho chúng ta quá nhiều ơn lành như Chúa đã ban cho ông Giob và thánh Phaolô nhưng chúng ta không nhận ra để chúng ta cứ khư khư giữ ơn lành và thậm chí còn chôn kín ơn lành đó để cất giấu một mình chúng ta xài thôi. Xin Chúa mở lòng chúng ta để chúng ta nhìn thấy những ân huệ mà Thiên Chúa đã trao ban để rồi chúng ta cũng cao rao Tin mừng của Chúa cho anh chị em đồng loại như Phaolô, như ông Giob trong mọi hoàn cảnh của chúng ta.
64.Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Giuse Nguyễn Tường Vĩnh Lộc
Làm việc không phải là gánh nặng mà là ý nghĩa của cuộc đời. Ngày xưa Thiên Chúa dựng nên con người rồi đặt họ trong vườn địa đàng để họ canh tác và giữ vườn. Chính Đức Giêsu cũng làm việc bận rộn suốt ngày, từ sáng tới tối. Việc làm của Ngài là rao giảng tin mừng, chữa bệnh và trừ quỷ.
Suy Niệm
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ
Làm việc và tìm thấy ý nghĩa trong việc làm chính là chủ đề của các bài đọc lời chúa trong chúa nhật V thường niên hôm nay mà chúng ta vừa nghe. Tất cả 3 bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều bàn đến những việc lao động nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi dương thế. Cuộc sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm lụng từ sáng tới chiều, quần quật hết ngày này sang ngày khác, hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Người thì lao động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải làm việc vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm ăn, ăn làm như một cái vòng lẫn quẩn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nổi, ăn không vô thì cũng là lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Trước kiếp sống đó, những kẻ bi quan và những người lười biếng thì than thở, như ông gióp trong bài đọc thứ nhất: lao động nhọc nhằn là kiếp sống của con người trên măt đất. ngày của họ giống như ngày của một kẻ làm công, như một người nô lệ. Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối và mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc. Khi người ta làm việc cực nhọc mà không hiểu được ý nghĩa và giá trị của việc mình làm thì người ta dể có thái độ bi quan như thế.
Chính để giúp cho loài người thấy được ý nghĩa và giá trị của lao động mà đức Giêsu đã sinh xuống trần gian, mang lấy thân phận làm người lao động. Bài tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa: chúa vừa giảng dạy trong hội đường và cứu chữa một người bị quỷ ám xong, vừa mới đi ra thì hay tin bà nhạc mẫu của Phêro đang bị sốt nặng. Người liền đến nơi cầm tay nâng bà dậy, bà liền khỏi sốt. liền sau đó có cả một đám đông tụ họp trước cửa nhà, đó là những người đau đớn vì đủ thứ bệnh tật, chúa lại cứu giúp họ. Mãi tới chiều tối Chúa mới có chút ít giờ nghỉ ngơi. Người tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Vừa tảng sáng hôm sau thì các môn đệ đi tìm người và cho hay dân chúng lại tấp nập tuôn đến xin người cứu chữa. Nhưng chúa Giêsu đành phải từ chối mà nói: Chúng ta còn phải đi đến những làng, những thành phố khác để rao giảng tin mừng nửa.
Đức Giêsu là con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả từ sáng đến tối, hết ngày này sang ngày khác, không chỉ làm việc để lo cho bản thân người mà làm việc để cứu giúp người khác, không phải chỉ lo cho phần xác người ta mà còn lo rao giảng để cứu giúp linh hồn người ta nửa.
Qua tấm gương đó, đức Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của việc lao động: Lao động là bổn phận của mỗi người, lao động giúp ích cho bản thân và cho người khác, lao động sinh ích lợi cả phần xác lẫn phần hồn.
Vì hiểu được như thế cho nên Thánh Phaolo đã hăng hái chu toàn những công việc Chúa giao như chúng ta đã nghe trong bài đọc 2 trích thư gửi tín hữu côrinto. Là một tông đồ, công việc chính của Phalo là rao giảng tin mừng. Ngài đã hăng hái làm trọn công việc đó, thậm chí Phaolo còn nói: Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng tin mừng. Ngài còn nói thêm: Giả như tôi tự ý đảm nhận công việc ấy thì tôi mới có công. Còn nếu tôi làm vì đó là nhiệm vụ thì tôi còn mong phần thưởng ở đâu nửa. Tôi đã nên mọi sự cho tất cả mọi người để làm cho mọi người được cứu rỗi. Thánh Phaolo đã hiểu rỏ ý nghĩa và giá trị của việc mình làm nên đã tự nguyện hăng hái làm việc không ngơi nghỉ.
Anh chị em thân mến, làm việc không phải là gánh nặng mà là ý nghĩa của cuộc đời. Ngày xưa Thiên Chúa dựng nên con người rồi đặt họ trong vườn địa đàng để họ canh tác và giữ vườn. chính Đức Giêsu cũng làm việc bận rộn suốt ngày, từ sáng tới tối. Việc làm của Ngài là rao giảng tin mừng, chữa bệnh và trừ quỷ.
Trong thánh lễ này, chúng ta hãy xin chúa cho chúng ta ý thức giá trị của việc làm, và giúp chúng ta siêng năng làm việc theo gương Chúa. Xin chúa tha thứ những lần chúng ta lười biếng không chịu làm việc, không biết thánh hoá những việc mình làm, và tha thứ cho những việc làm sai trái của chúng ta.
Đồng thời chúng ta hãy dâng lên cho Chúa tất cả những công việc của mình, Xin chúa ban cho chúng ta sức khoẻ thể xác và tinh thần để có thể đảm nhận những công việc ấy, xin ngài chúc lành cho việc làm của chúng ta sinh ra nhiều kết qủa tốt đẹp để mưu cầu lợi ích cho bản thân và để giúp ích cho những người khác. Và đặt biệt xin Chúa giúp chúng ta biết giành ra một phần thời giờ, một phần sức lực để làm việc mở mang nước Chúa nơi trần gian.
Lao động là nhọc nhằn vất vả, nhưng lao động cũng là nguồn vui, là tiền đề cho cuộc sống ấm no hạnh phúc, và nhất là lao động tạo dịp cho chúng ta góp phần vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy bí quyết hoạt động của Chúa Giêsu. đó là lúc nào Ngài cũng hướng tâm hồn về thiên Chúa và sống kết hiệp với Ngài. Thánh Maccô ghi nhận: sáng sớm tinh sương, Chúa Giêsu đã dậy, đi ra một nơi thanh vắng và cầu nguyện ở đó. Ước gì đó cũng là bí quyết hoạt động của chúng ta: Cầu nguyện để được củng cố và chu toàn sức mệnh được trao phó là mở rộng nước Chúa khắp cùng trái đất.
Lạy Chúa, Chúa đã nêu gương cần cù làm việc từ sáng đến tối. Chúa làm việc không phải vì bản thân Chúa mà để cứu giúp mọi người. Chúng con xin dâng lên Chúa những việc làm vất vả hằng ngày của chúng con. Xin chúa thánh hoá những việc làm ấy và cho chúng sinh nhiều hoa quả tốt lành. Amen.
65.Cái tình của Chúa Giêsu--Lm. Thu Băng
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại những việc Chúa Giêsu đã làm cho người ta: như chữa cho bà mẹ vợ của ông Phêrô được khỏi cơn sốt. NgàI lại chữa lành nhiều bệnh nhân nào là kẻ què, kẻ mù, người điếc, người câm, kẻ xấu nết, và người chết được sống lại....
Tại sao người ta thích đến với Chúa Giêsu? Tại vì Chúa Giêsu người ta thấy có "cái tình", có niềm thương cảm đối với những người xấu số, sầu khổ. Có bài ca rằng: "Đẹp thay những bước chân tiến vào giữa lòng thế giới, đem tình thương (2) Chúa trời, đem niềm vui cứu đời cho mọi người và mọi nơi".
Trong con người Chúa Giêsu chất chứa đầy cái tình người. Ngài không ngồi yên được, mà phải đi đến với người ta để thi ân, để giúp đỡ. Ngài cũng còn truyền cho các môn đệ đi từng hai người một đến với họ để thi hành việc bác ái.
Ngày nay loài người còn cần đến tình thương không? Ai là người ban cái tình đó cho nhân loại? Phải chăng chỉ có các Linh Mục, Giám mục, Đức Thánh Cha? Phải chăng sứ mạng tông đồ rao truyền "cái tình của Chúa Giêsu" chỉ có giới tu sỹ? Các ngài đã và đang làm rồi.
Số báo Dân Chúa tháng 2 năm 1985, có đăng tin Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ Nhị đã thể hiện tình thương của Chúa qua các cuộc viếng thăm có vụ: Ngày 5 tháng 12 năm 1984 ngài tiếp ông Antôn Magalhaes Martin 72 tuổi, người Ba Tây bị cùi lở loét suốt 52 năm, từ khi ông được 25 tuổi. Và cha Mario Gerlin Tuyên úy người cùi 10 năm. Ông cảm động vì lời khuyên của Ngài. Ông nhân danh người cùi thế giới cám ơn Đức Thánh Cha. Cha Gerlin tuyên bố: "Việc Đức Thánh Cha tiếp ông Martin là một phấn khích lờ lao cho 350.000 người cùi Ba Tây, và 20 triệu người cùi thế giới. Nghĩa cử đó xoá bỏ thành kiến sợ người cùi của nhiều người".
Cha Vincent làng thượng đi thăm một gia đình nghèo: Bà khóc lóc kể lể sự cơ cực xơ xác, rách rưới của gia đình. Bà xin giúp đỡ. Bà nói luôn miệng, thỉnh thoảng cha mới xen vào được một câu an ủi. Cuối cùng bà nói: "Con cám ơn cha đã giúp con". Cha ngạc nhiên vì chưa giúp bà được cái gì. Nhưng bà nói ngay: "Con cám ơn cha nhiều nhất vì cha thông cảm được sự đau khổ của gia đình con. Đã an ủi con chịu khó theo Chúa, nên con thấy vui khi nghèo".
Sứ mệnh của chúng ta ra sao? Chúng ta không đủ khả năng để chữa bệnh phần xác nhưng chữa bệnh tâm hồn, bằng lời cầu nghuyện, bằng tâm tình quảng đại hướng về người nghèo khổ. Thăm nom là phần thưởng lớn đối với người nghèo khổ. Khích lệ bệnh nhân, một lời an ủi tại nhà, tại bệnh viện. Nhiều khi chỉ nghe người ta bày tỏ cũng là đủ an ủi rồi. Hoặc gọi điện thoại khích lệ cũng là một lời thăm hỏi rất tốt.
Câu chuyện cảm động về "Nụ cười khích lệ" tôi muốn kể cho anh chị em nghe:
Trong vùng có một quân nhân xấu ai thấy cũng chế diễu, bửu môi, đánh đập, không ai làm bạn với anh cả. Anh sống đời cô đơn uồn tủi. Khi anh chết, người ta thấy một tờ di chúc trong tay anh:"Xin trao số tiền 10,000 đồng của tôi cho cô bé Kitty, vì suốt cuộc sống của tôi không nhận được nụ cười nào của bất cứ ai, ngoại trừ nụ cười của bé Kitty trong một lần tôi gặp cô đi học về. Đó là niềm an ủi nhất đời tôi, khiến tôi can đảm sống trọn cuộc đời cô đơn".
Cũng một câu chuyện nữa về một "Lời nói thân tình".
Tại một góc hè phố, người hành khất bại tay, nằm co quắp mở miệng xin ăn. Người thì ném tiền vào nón của ông. Người thì cho cách khinh bỉ. Một người sang trọng đi qua, ông xỏ tay vào túi rồi chẳng tìm được gì, ông nói: "Này bác, rất tiếc tôi muốn giúp bác nhưng bất ngờ tôi không có đồng xu nào trong túi mình cả". Người ăn xin trả lời: "Cám ơn ông, ông đã cho tôi nhiều hơn cả mọi của bố thí. Ông đã gọi tôi bằng "Bác" thành thật chưa bao giờ trong đời tôi nhận được danh xưng đó trên môi miệng một người sang trọng bố thí cho tôi".
Thời đại nào, thế kỷ nào, ai ai cũng cần đến "Cái tình" của con người, cần đến sự nâng đỡ, khích lệ trong cuộc sống. Xin Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu được niềm thương cảm khổ đau và ân tình của Chúa, để chúng con biết "Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm".
66.Một đời thương cảm—Lm. G. Nguyễn Cao Luật, OP
Người ta vốn tóm gọn cuộc đời vào bốn chữ sinh, lão, bệnh, tử. Đã có ngày đem tiếng khóc chào đời thì cũng có ngày xuôi tay nhắm mắt từ giã cuộc đời. Đã có thời thanh xuân thì cũng có thời già lão. Đã có lúc khoẻ mạnh sung sức thì cũng có lúc bệnh tật, thập tử nhất sinh. Trước thân phận con người như thế, đã có những thái độ khác nhau, hoặc chấp nhận vì cuộc đời là như thế, hoặc phản kháng vì thấy cuộc đời như vậy là phi lý, là không thể chấp nhận được.
Tiếng kêu thương
Đoạn văn Cựu Ước Chúa nhật hôm nay kể được là một trong những đoạn văn bi ai nhất sách Gióp, một tác phẩm cỗ xưa đặt vấn đề về đau khổ của con người. Ông Gióp, một người công chính, lâm bệnh. Vợ con ông bêu rếu, phê bình, bạn bè không thông cảm, một mình đương đầu với bệnh tật và khổ đau không dứt... Nhưng thực ra, ông Gióp chỉ là điển hình cho bất cứ con người nào đang phải đương đầu với những khổ đau và nghiệt ngã của cuộc nhân sinh. Người ta vẫn cứ phải gánh chịu những tai hoạ khổ đau, oái oăm nhất là không phải người ta tự gây ra cho mình. Lại càng khó hiểu hơn nữa khi người ta không có gì đáng phải gánh chịu những khổ đau như thế: chiến tranh, tai hoạ trong thiên nhiên như bão lụt, động đất, những hậu quả do một thiểu số gây ra... tất cả vẫn đang tiếp tục nối dài dòng người đau khổ. Cũng như ông Gióp, rất nhiều khi người ta không thể lý giải được tại sao lại có đau khổ như thế. Nhưng lời than vãn của ông Gióp dầu không giải quyết được những đau khổ riêng của ông, cũng đã nói lên được niềm trông cậy: ông xin Thiên Chúa cứu giúp.
Vị Thượng Tế biết thương cảm
Cuối cùng, lời hứa của Thiên Chúa đã hoàn thành. Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, đã đến để cứu chữa những đau khổ nhân loại phải gánh chịu. Khi loan báo Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu đương đầu với quyền lực Ác Thần. Và tiếp theo sau đó, Người đã thuyên chữa bệnh tật cho nhiều người trong suốt một ngày. Tác giả Mác-cô trình bày một ngày trừ quỷ và chữa bệnh này như thể đó là ngày mẫu cho một đời thương cảm của Đức Giêsu. Một ngày chữa bệnh cho bà nhạc ông Phê-rô là một đời kiên trì và thương xót Hội Thánh, xua đuổi sức mạnh của Ác Thần ra khỏi Hội Thánh để Hội Thánh tiếp tục phục vụ. Một ngày chữa bệnh cho mọi người chen lấn đến xin sẽ là một đời đi khắp nơi chữa trị những khổ đau thể xác và mở mắt tâm hồn cho con người nhận ra ơn cứu thoát.
Nhưng cần đi xa hơn để thấy Đức Giêsu không phải là thầy lang chữa bách bệnh. Người đến cứu thế gian không phải bằng cách dứt khoát loại trừ mọi đau khổ ra khỏi trần gian, để từ nay trở đi không còn một khổ đau nào động đến con người nữa. Trái lại, Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta (Is 53,14; Mt 8,17) và dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục... (Dt 5,8). Người ta có lẽ chẳng bao giờ giải thích cặn kẽ được tại sao Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã đến cứu vũ trụ và con con người bằng cách dang hai tay ra trên thập giá. Tại sao Đấng cứu loài người khỏi khổ đau và chết chóc lại đón nhận một đau khổ nhục nhã nhất như thế?
Để thiết lập một cộng đoàn biết cảm thương
"Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45). Suốt đời dong duỗi đây đó, chữa lành những người bệnh tật đau khổ, nhưng cũng là một đời không ngừng in sâu hình ảnh phục vụ theo gương Người: hy sinh mạng sống vì người khác. Khi chữa lành bà nhạc của ông Phê-rô, Đức Giêsu chứng tỏ Người có quyền trên Ác Thần và nâng cộng đoàn những người tin dậy để có khả năng phục vụ theo gương Người.
Đức Giêsu muốn cộng đoàn những người tin tiếp tục công trình loan báo Tin Mừng Người đã thực hiện. Người muốn cộng đoàn ấy nối dài lòng thương cảm của Người cho các người khác. Thánh Phao-lô đã thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng như thế. Người đã trở thành nô lệ mọi người để phục vụ Tin Mừng. Mội tín hữu cũng được mời gọi như thế. Dẫu rằng ngày nay, ta không thể cầm tay một người bệnh và chữa lành người ấy ngay tức khắc như Đức Giêsu đã làm, nhưng ta không phải là không thể dùng lòng thương cảm, một lòng thương cảm mà Đức Giêsu đã kín mức từ nơi Chúa Cha, để làm cho một người bệnh cảm thấy được an ủi, một người sầu khổ cảm thấy vơi đi nỗi sầu, một người hèn kém cảm thấy mình được sống đúng giá trị của một con người. Những khi người ta làm được như vậy tức là ngày mẫu được thánh Mác-cô nói về Đức Giêsu lại được tiếp tục thực hiện, lòng thương cảm của Đức Giêsu lại tiếp tục tuôn chảy và cộng đoàn những người biết cảm thương như Đức Giêsu lại lan rộng để trở thành một cộng đoàn yêu thương như Thiên Chúa muốn.
Lời nguyện của người được sai đi
Lạy Chúa,
Việc loài người biết nhận ra Ngài khi Ngài tự trao ban trong nước của bí tích Thánh Tẩy, trong Thánh Thể, trong Thánh Kinh... điều đó cũng dễ quan niệm được thôi. Nhưng còn việc Ngài lại cũng muốn đi sâu vào cõi thâm cung của lòng người mà lại qua trung gian của con, thì quả là khó tưởng nghĩ được.
Làm sao con người có thể nhận ra Ngài nơi con, ít ra là làm sao họ lại có thể hiểu ra rằng con là người được Ngài sai đi, là sứ giả của Chân lý Ngài, là kẻ đem lại lòng thương xót của Ngài? Mỗi lần con tự đặt ra vấn nạn này cho mình, thì hình như sứ điệp hạnh phúc mà con thông chuyển lại cho anh em con đã biến thành một gánh nặng khủng khiếp đè trên chính con.
Thật thế, con biết rõ điều đó. Chính Ngài đã sai con đi. Con là sứ giả của Ngài, dù con khốn khổ và nghèo hèn. Con là sứ giả của Ngài, đã được Ngài chọn, bất chấp mọi sự. Con loan báo Chân lý Ngài thì đó không phải là điều làm chân lý Ngài ra suy suyển. Ân sủng của Ngài vẫn tinh tuyền cho dù đi qua đôi tay trần tục của con. Phúc Âm của Ngài vẫn thực sự là một Tin Mừng, cho dù sứ giả của Ngài không sao để lộ được vẻ hân hoan trong Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình. Lòng thương xót của Ngài vẫn bao la mặc dù được biểu lộ qua tấm lòng nhỏ bé của con. Ánh sáng của Ngài vẫn chiếu dọi, vẫn biến đỗi bóng đêm âm u của cõi chết thành ánh dương ngày cứu độ, cho dù ánh sáng ấy phải dọi qua những khung kính mờ đục của đời con, của tâm trí phàm trần khốn khổ....
Lạy Chúa, Con là người được sai đi, là sứ giả của Con Chí Ái Ngài, của Chúa chúng con. Không còn gì vĩ đại hơn, không còn danh hiệu nào vinh dự hơn....
Để đem lại Ánh sáng, để thông chia tình thương, con phải nhóm lên chất dầu của cuộc đời con....
Lạy Chúa,
Xin để cho con biết ngỡ ngàng khi thấy có những người nhận ra được lòng thương xót của Ngài, nhận ra Ngài đã sai con đi và đã đón nhận con với tư cách là sứ giả. Xin cho con cảm nhận được niềm vui chân thật và hết lòng biết ơn Ngài mỗi khi con đứng trước phép lạ ấy, mỗi khi anh em con sẵn sàng đón nhận con trong chốn thâm sâu tâm hổn họ, bất chấp sự bất xứng của con. (K. Rahner)
67.Con đường nào Chúa đi--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Hạnh phúc như gần mà như xa. Làm sao thực hiện được những lời cầu chúc đầu xuân giữa một nhân loại còn đầy những người nghèo khổ, bị áp bức và bị gạt ra ngoài lề xã hội? Làm sao hạnh phúc khi con người chưa được làm người vì bị đè bẹp dưới những cơ chế bất công và truyền thống lỗi thời?
THỰC TẾ CON NGƯỜI VÀ SỨC MẠNH THIÊN CHÚA
Ngoài Thiên Chúa, không ai có thể đem lại mùa xuân cho nhân loại. Đức Giêsu đã mạc khải cho mọi người thấy sức mạnh phá tan mọi đau khổ, đem lại hạnh phúc cho muôn người, phát xuất tự nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu chính là sức mạnh đó. Người biết rõ đau khổ xuất phát tự mối tương quan bị đổ vỡ giữa Thiên Chúa và con người. Nguyên nhân chính của sự đổ vỡ đó là ma quỉ. Nhưng ma quỉ cũng không làm gì được nếu con người không muốn. Cuối cùng chính vì lòng tham dục của con người, tội lỗi đã lọt vào trần gian và gây nên đau khổ, chết chóc. Như vậy, thực sự không có gì mâu thuẫn giữa quan điểm Phật giáo và Kitô giáo về đau khổ. Chỉ khác nhau một điểm, Kitô giáo phân biệt những dục vọng tốt và xấu. Dục vọng xấu xa nhất chính là tính kiêu ngạo đã đẩy con người lên cõi mơ ngang hàng với Thiên Chúa. Con người đã vỡ mộng. Do đó có đau khổ. Hạnh phúc trở thành giấc mơ.
Nhưng có những đau khổ không tùy thuộc vào dục vọng hay ý muốn con người. Có những nạn nhân vô tội chịu đựng những thiên tai khủng khiếp. Biết bao sinh linh đã bị chìm ngập trong dòng nước lũ tại miền Trung hay tại Venezuella. Chính ông Job đã kinh nghiệm sâu xa về nỗi oan ức đó. Ông không thể hiểu nổi chương trình quan phòng của Thiên Chúa. Cuộc đời như chìm trong sự nhàm chán, tuyệt vọng. Giữa đau khổ, ông đã thốt lên: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hi vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (Jb 7,6-7).
Đức Giêsu cũng là nạn nhân vô tội của một cơ chế bất công. Nhưng Người đã tìm thấy ý nghĩa và niềm hi vọng ngay trong những đau khổ. Người không thể chịu đựng nổi trước những đau khổ của con người. Bởi thế, Người đã ra tay hành động để trấn át ác thần đang hoành hành trong thân xác và tinh thần con người. Điển hình, Người đã chữa lành “bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường” (Mc 1,30). Khắp nơi “Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ” (c.34). Người đi ngang qua những khổ đau như giới hạn nhốt chặt thân phận con người. Chính vì thế, quyền năng Thiên Chúa đến như một sức mạnh giải thoát. Nếu đời là bể khổ, Đức Giêsu đã lặn ngụp xuống bể khổ đó và đẩy nhân loại lên bằng chính sức mạnh Tin Mừng. Người đã dùng chính những cay đắng của bể khổ đó để tẩy rửa những vết thương trần gian. Nhờ sức mạnh Thánh Linh, nước bể khổ đó cũng có sức mạnh thanh tẩy những bụi bặm và hôi hám thế tục. Nhờ đó, hình ảnh Thiên Chúa xuất hiện nguyên vẹn trong con người và cuộc đời Kitô hữu.
SỨ MỆNH GIẢI THOÁT
Đức Giêsu đã dùng quyền năng Thiên Chúa để đẩy mạnh công cuộc rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa. Tự bản chất, Tin Mừng là một sức mạnh giải thoát con người. Thế nên, Tin Mừng được rao giảng tới đâu, niềm vui dâng cao tới đó. Bằng chứng sau khi khó nhọc tìm Đức Giêsu, các môn đệ reo lên: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (c.37).
Nhưng chính lúc mọi người tìm Thầy, Thầy lại không muốn dừng lại để hưởng trọn lòng ngưỡng mộ đó. Thầy không bằng lòng với những gì đã làm. Thầy muốn đi xa hơn những thành công hôm qua. Còn nhiều nơi khác, nhiều người khốn cùng khác đang chờ đợi bước chân Thầy. Chính Thầy đánh thức các ông khỏi cơn mê ngủ với danh vọng của Thầy: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (c.38). Tin Mừng phải hướng tới những nơi đang phủ đầy bóng đêm tội lỗi. Cảnh nhân loại khổ đau đã thôi thúc Thầy tiến tới không ngừng:“Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ” (c.39).
Đó là cách Người thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Nói khác, “đối với thánh Marcô, Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Thiên Chúa bao gồm toàn thể biến cố, lời nói và hành động” (Dupuis 1995:279). Thật vậy, Người hành động khi làm phép lạ, tiếp xúc với quần chúng, dẹp yên những ảnh hưởng tà thần. Ngay những dụ ngôn cũng đầy dẫy những hình ảnh linh động. Ngang qua hành động, Tin Mừng đã được công bố cho muôn dân. “Phép lạ là Tin Mừng đang hành động” (Dupuis 1995:280). Cộng thêm với lời Đức Giêsu nói, các phép lạ thúc đẩy con người chấp nhận Nước Thiên Chúa. Nhất là khi trừ quỷ, Đức Giêsu càng tỏ rõ uy quyền Thiên Chúa vàsức mạnh Tin Mừng giải thoát. Lực lượng thần dữ đã đến ngày tàn. Đức Giêsu đã mở ra một chân trời mới, phóng tầm nhìn nhân loại tới Nước Trời, nơi chan chứa niềm vui và tự do. Từ nay con người sẽ không còn phải gò bó trong những đòi hỏi luân lý cứng ngắc, nhưng hoàn toàn sống tự do theo Tin Mừng vì Nước Trời đã đến nơi con người Đức Giêsu Kitô.
Tin Mừng Đức Giêsu đã đem lại nguồn an ủi và hi vọng lại cho bao người sầu khổ và thất vọng. Vì Đức Giêsu đã hoàn toàn đồng hóa với những người nghèo và Tin Mừng đã được rao giảng cho họ trước tiên. Tất cả những người nghèo khổ, bị áp bức và bị gạt ra ngoài xã hội đều góp phần xây dựng Nước Thiên Chúa. Vì chính họ sẽ được hưởng trọn niềm vui giải thoát nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Người không chấp nhận đối xử phân biệt với những người kém may mắn về vật chất. Người muốn chống lại những cơ cấu xã hội và tôn giáo bất công, nguyên nhân gây nên cảnh khốn cùng cho con người cả về vật chất lẫn tinh thần. Bởi vậy Tin Mừng có một chiều kích giải phóng toàn diện con người. “Người không phải là một nhà cách mạng chính trị, nhưng cuộc sống và cái chết của Người có một chiều kích chính trị, vì Người có những thái độ thách thức và đe dọa những nhà cầm quyền tôn giáo và chính trị” (Dupuis 1995:281).
Cũng thế, Giáo hội không phải là một tổ chức chính trị. Nhưng Giáo hội không thể im lặng trước những cảnh người nghèo bị đàn áp bất công. Vì “thúc đẩy thực hiện công lý và tham gia vào việc biến đổi thế giới là một “chiều kích cốt yếu” của sứ mệnh Phúc Âm hóa của Giáo hội.” (Dupuis 1995:282) Bao lâu còn người nghèo, bấy lâu sứ mệnh Giáo hội càng cấp thiết. Nhân loại hôm nay đang quằn quại dưới những cơ chế tôn giáo và xã hội bất công, người môn đệ Đức Kitô có nghe thấy những tiếng rên siết của bao người bất hạnh đó không? Rao giảng Tin Mừng là đang đem lại mùa xuân cho nhân loại. Mùa xuân đang đến trên quê hương, vì các môn đệ Đức Kitô đang xông pha đem Tin Mừng đến cho tất cả những ai nghèo khổ. Tôi có được kể vào số những môn đệ đó không? Tôi có sẵn sàng đối thoại với mọi người thiện chí và can đảm đối diện với những thách đố thời đại để đem lại hạnh phúc ấm no cho mọi người không?
68.Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Nguyễn Văn Hiền
Chúa Giêsu Kitô, "trọn một ngày đời" vì mọi người và cho mọi người.
"Hôm ấy", (chúng ta có thể khẳng định đó là ngày sabbat), các tín đồ Do Thái giáo tập trung đến hội đường để nghe giảng sách Luật. Đó là dịp để Chúa Giêsu thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Chúa Giêsu cũng đến hội đường để chu toàn bổn phận Do Thái giáo, và hơn thế nữa, để chính Thiên Chúa trực tiếp nói với loài người, Thiên Chúa trực tiếp giảng dạy loài người, dựa theo những gì Chúa đã nói trong Kinh Thánh. Như vậy từ sáng đến trưa, Chúa ở trong hội đường để giảng dạy kinh thánh, để giúp mọi người hiểu biết Kinh Thánh.
Chúa nhật, "hôm ấy" của Kitô giáo, mọi tín hữu đến nhà thờ tham dự thánh lễ, nghe giảng Lời Chúa. Xin cho chúng ta hiểu Lời Chúa, thực hành Lời Chúa và giúp anh chị em mình sống Lời Chúa.
Sứ vụ của Chúa Giêsu còn là cứu chuộc nhân loại: "Người lại gần, cầm tay bà mà đỡ dậy". Con người bị mất cuộc sống an nhàn, đời sống yêu thương và phục vụ (Bà mẹ vợ ông Phêrô lên cơn sốt, phải nằm giường). Chúa Giêsu đến gần ngay bên, cầm tay nâng đỡ dậy: Chúa có quyền năng khôi phục lại những gì thiện hảo mà loài người đã đánh mất. Chúa Giêsu có quyền năng Cứu chuộc. Bà lành bệnh và tiếp tục phục vụ anh chị em. Bà sống lại cuộc sống an nhàn, yêu thương và phục vụ.
Chúa cứu chuộc không chỉ một người, mà nhiều người và mọi người ở mọi thời. Thật vậy, "Chiều đến, khi trời đã lặn", người ta mới đem mọi kẻ đau ốm, mắc đủ thứ bệnh tật, kể cả bị quỷ ám... Chúa chữa lành tất cả.
Ước gì tất cả mọi người đã được Chúa Giêsu cứu chuộc, những người đến vào buổi chiều, tất cả chúng ta nữa, sau khi lành bệnh, sau khi được cứu chuộc, cũng biết sống lại cuộc sống an nhàn, yêu thương và phục vụ.
Chúa Giêsu đi đến nơi hoang vắng và cầu nguyện.
Chúa Giêsu rất quan tâm đến giờ cầu nguyện, ví như không thể thiếu trong đời sống của Chúa. Trước khi đi rao giảng: Chúa dùng 40 đêm ngày để cầu nguyện; trước khi chọn 12 Tông đồ: Chúa cầu nguyện thâu đêm; và ở đây, trước khi đi nơi khác: Chúa cũng cầu nguyện suốt đêm. Giờ cầu nguyện của Chúa, ví như việc tiếp thêm nhiều nhiên liệu cho chiếc xe khi phải đi xa, càng xa càng nhiều xăng dầu...
Xin cho chúng ta siêng năng và sốt sắng cầu nguyện: Trước sự việc càng khó, càng cầu nguyện nhiều; càng đương đầu với những tấn công của ma quỷ, chúng ta càng cầu nguyện nhiều hơn. Và trong đời thường cũng biết dành thời gian cầu nguyện: cầu nguyện như nguồn sức sống của chúng ta.
"Mọi người đang tìm Thầy!"
Các môn đệ bày tỏ cái nhu cầu của nhân loại: "Mọi người đang tìm Thầy". Nghe lời giảng dạy của Chúa, chứng kiến việc làm của Chúa, cùng sống chung với Chúa, các môn đệ nhận định: chỉ mình Chúa Giêsu, duy nhất chỉ có Thầy đây mới là Đấng Cứu chuộc nhân loại, không thể là ai khác. Và nếu mất Thầy, thiếu vắng Thầy, người ta không thể làm gì được.
Chúng ta cũng phải khám phá ra trong đời mình: Không thể thiếu vắng Chúa Giêsu. Xin cho mọi người đi tìm gặp Chúa Cứu Thế.
Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác"
Chúa Giêsu ý thức sứ vụ của mình "vì mọi người và cho mọi người". Chúa Cứu thế không phải chỉ cho những người môn đệ Chúa, ở Capharnaum,... Chúa còn phải đi đến những nơi khác, khắp nơi trên thế giới, ở mọi thời đại nữa. Chúa đi và dẫn các môn đệ cùng đi: "Chúng ta hãy đi nơi khác".
Chúng ta là Kitô-hữu, là môn đệ của Chúa, chính chúng ta phải là hiện thân của Chúa, phải nói những lời Chúa nói, phải làm những việc Chúa làm cho những người đang sống ở đây và trong ngày hôm nay.
69.Từ thán phục đến đức tin--Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Đoạn này có một phần thuộc về một toàn bộ gọi là “ngày ở Caphácnaum” (1,21-34; xin coi bài CN tuần trước). Nhưng “một ngày ở Caphácnaum” lại thuộc về toàn bộ rộng lớn hơn (1,14-39), trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra tại miền Galilê, đến bờ Biển Hồ, vào thành Caphácnaum, đi đến hội đường, ra khỏi đó, đến chiều thì ra cổng thành, sáng hôm sau thì rời thành để rảo khắp miền Galilê, và cứ thế, “rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ” (1,39). Nói cách khác, Người làm khắp nơi những gì Người đã làm tại hội đường Caphácnaum: giảng dạy và trừ quỷ.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Việc chữa lành mẹ vợ Simôn (1,29-31);
2) Một “bản tóm tắt” về các cuộc chữa bệnh (1,32-34);
3) Một bước đi tới nhằm thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu (1,35-39).
3.- Vài điểm chú giải
- Vừa ra khỏi… (euthys, “tức khắc”) (29): Trạng từ này chỉ có vai trò chuyển mạch, chứ không chỉ về thời gian chính xác, bởi vì từ phép lạ trừ quỷ đến việc chữa bệnh cho bà mẹ vợ Simôn, hẳn là đã có một khoảng thời gian khá dài thì “danh tiếng Người mới đồn ra khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (c. 28). Tác giả thường dùng trạng từ này mà không gán cho nó một ý nghĩa chính xác nào cả (chỉ trong ch. 1 đã có 11 lần: cc. 10.12.18.20.21.23.28.29.30.42 và 43). Ở đây Người đang tìm cách giới thiệu một ngày mẫu trong sứ vụ của Đức Giêsu: “Ngày ở Capharnaum”. Do đó, ta không nắm được thời điểm chính xác của các sự kiện. Nhưng ta có thể cho rằng chuỗi “chữa bà mẹ vợ Simôn – các cuộc chữa bệnh cbuổi chiều” đã có trước cả khi các TMNL được soạn ra, bởi vì chi tiết “chiều đến” đã có cả trong Mc và Mt. Lc đã bỏ trạng từ “tức khắc” (euthys) nhưng giữ lại chi tiết “(rời) hội đường”. Ngài sẽ triển khai chi tiết này thành một đề tài thần học quan trọng và sẽ lặp lại trong sách Cv: khi Đức Giêsu giảng dạy trong một thành phố hay làng mạc nào, Người luôn bắt đầu bằng giảng dạy tại hội đường. Phaolô cũng sẽ làm như thế.
- ra khỏi hội đường (29): Đức Giêsu ra khỏi hội đường không những vì đã đến giờ đóng cửa, nhưng còn vì những người nghe chưa hiểu gì. Họ còn đang hỏi: “Thế nghĩa là gì?” (c. 27), như các môn đệ sau này khi chứng kiến trận bão được dẹp yên: “Vậy người này là ai?” (4,41). Nhưng họ chưa có câu trả lời. Có lẽ đây là một biểu tượng: bao lâu người ta còn ở trong hội đường, người ta không thể trở thành môn đệ của Đức Giêsu được; phải ra khỏi đó như thể thực hiện một cuộc xuất hành mới. Ở c. 39, tác giả dùng một tính từ để phân biệt: “các hội đường của họ”. Ở xa hơn, ngài kể rằng sau khi Đức Giêsu đã làm phép lạ trong hội đường, nhóm Pharisêu bàn tính với nhóm Hêrôđê để tìm cách giết Người (3,1-6). Chính vì thế, Người lánh về phía Biển Hồ: Người đi ra và người ta lũ lượt đi theo Người (3,7). Trước khi xảy ra sự cố bánh hoá ra nhiều, Đức Giêsu cũng lánh riêng ra một nơi và người ta kéo đến với Người (6,32-33). Người còn ra khỏi Đền Thờ và thành Giêrusalem (11,11; 11,19; 13,1). Lc còn nói rõ hơn: lần đầu tiên giảng dạy tại hội đường Nadarét, Đức Giêsu đã phải tránh đi để khỏi bị giết (Lc 4,16-30).
- Đến nhà hai ông Simôn và Anrê (29): Phải chăng tác giả muốn đối lập hội đường với nhà Simôn, được coi như hình ảnh của Hội Thánh? Thật ra, Mc chưa nhắm đến tên “Phêrô” với sắc thái Hội Thánh như Mt và Lc: hai tác giả này chỉ còn nói đến Phêrô mà thôi (x. Mt 8,14; Lc 4,38), nên trong hai bản văn này, ý nghĩa “Hội Thánh” rõ ràng hơn.
- Có ông Giacôbê và Gioan (29): Bốn môn đệ đầu tiên, những người thân tín nhất, được chứng kiến phép lạ. Câu này hẳn là có giá trị như một ngoặc đơn, do chính Phêrô kể cho tác giả Mc.
- Bà lên cơn sốt (30): Pyressousa là phân từ nữ tính của động từ Hy Lạp pyressô, “bị sốt” (trong động từ này, có từ pyr, “lửa”. Trong bản văn song song, Mt 8,15 dùng danh từ hL pyretos, “sức nóng của lửa; sốt cao”). Đối với người xưa, “sốt” không phải là một triệu chứng mà là một bệnh. Sốt, đôi khi đưa đến tử vong, là một trong các hình phạt Đức Chúa (Yhwh) dành cho dân thất trung của Người (x. Lv 26,16). Cũng như cho các chứng bệnh khác, người ta thích gán cho “sốt” một nguồn gốc thuộc ma quỷ (so sánh Lc 4,39 và Mt 8,15 (= Mc 1,31), mà chỉ có việc cầu nguyện và một phép lạ mới thắng được (x. Ga 4,52; Cv 28,8).
Theo viễn tượng này, dân Caphácnaum hẳn là hiểu rằng phép lạ giới thiệu Đức Giêsu là vị sứ giả của Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia đã hứa; vị này sẽ cứu loài người khỏi những nỗi đau buồn, hậu quả của sự dữ luân lý (x. Is 26,19; 29,18t; 33,3; 35,5…). Vậy phép lạ này là dấu cho thấy đã đến thời cánh chung, thời thiên sai: Đức Giêsu đang hành động với chính quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng con người còn phải mất một thời gian mới khám phá ra và chấp nhận được ý nghĩa của dấu chỉ này.
- Người cầm lấy tay bà mà đỡ dậy (êgeiren) (31): Câu này dịch sát là: “Và lại gần, Người đỡ bà dậy sau khi đã cầm lấy tay bà”. Muốn diễn tả một cách thông thường, hẳn là nên viết: “Đức Giêsu cầm lấy tay bà và cơn sốt biến mất; bà trỗi dậy …”. Đấy là kiểu nói của hai tác giả Mt (Mt 8,15: “bà trỗi dậy”, êgerthê, aor. pass. của động từ HL egeirô) và Lc (Lc 4,39: “bà trỗi dậy”, anastasâ, aor 2 của động từ HL anistêmi). Động từ egeirô được Mc dùng ở dạng ngoại động (transitive) có nghĩa là “giúp trỗi dậy”, đã trở thành một từ ngữ chuyên môn để nói về sự sống lại.
- bà phục vụ các ngài (31): Trong bối cảnh của phép lạ hoặc đúng hơn trong bối cảnh của sự tiếp đón Đức Giêsu nhận được tại nhà Simôn, “phục vụ” (HL. diakoneô) trước tiên có nghĩa là chiêu đãi ăn uống (x. Mc 1,13; Lc 8,55). Nhưng ở đây, có thể tác giả Mc đang nghĩ đến chính lời Đức Giêsu nói: “Con Người đến không để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ (diakonêsai)” (10,45). “Phục vụ” không chỉ hệ tại việc phục dịch bàn ăn, nhưng nếu cần, còn hệ tại việc “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (c. 45). Đó là lý tưởng Đức Kitô đề nghị cho những ai Người đã cho sống lại từ cái chết do tội lỗi gây nên.
Riêng Mt lại viết ở dạng số đơn: “bà chỗi dậy phục vụ Người” (Mt 8,15). Câu này đã nới rộng ý nghĩa của động từ: “Phục vụ Đức Giêsu” chính là bước theo Người (x. Mt 25,44: phục vụ những kẻ nghèo hèn bé mọn chính là phục vụ Đức Kitô).
- người ta đem (32): Epheron là động từ Hy Lạp pherô ở thì vị-hoàn (frequentative imperfect), có nghĩa là “người ta vẫn cứ đem, tiếp tục đem”.
- mọi kẻ ốm (32): Rõ ràng không thể hiểu theo nghĩa đen những câu khẳng định tuyệt đối như thế (x. Mt 8,16; Lc 4,40). Chúng ta biết là Đức Giêsu không chữa tất cả mọi người đau ốm; Người đòi hỏi đức tin. Cũng vì thế mà Mc không đi xa hơn nữa, Người viết: “Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau” (c. 34). Tuy nhiên, theo não trạng Sê-mít, “nhiều” cũng có nghĩa là “tất cả”.
- Cả thành (33): Có lẽ đây cũng là một kiểu nói phóng đại, tổng quát hoá. Tuy nhiên cũng có một sự kiện thường xảy ra: truyền thống nhiều lần kể rằng người ta không thể đi qua cửa nhà bởi vì người quá đông, đành phải kéo người bệnh lên mái nhà mà thòng xuống (2,1-4) hoặc phải nhờ người báo tin vào trong (3,32).
- Quỷ (34): Từ daimôn xuất hiện 3 lần trong Mc 1,32-34 và thêm một lần nữa ở c. 39. Đây là mối bận tâm lớn của Mc. Đức Giêsu đã đến để đánh đuổi quỷ và giải thoát loài người khỏi quyền lực chúng. Ngay từ đầu, vị Tẩy Giả đã giới thiệu Đức Kitô như Đấng “mạnh hơn” (1,7). Người đã khởi đầu sứ vụ bằng một chiến thắng trực tiếp trên Satan (1,12-13). Ngay khi Người lên tiếng rao giảng, một kẻ bị quỷ ám đã tìm cách ngăn chận Người, nhưng quỷ đã bị trục xuất (1,23-27). Trong phần Kết (“Kết dài”), dấu chỉ đầu tiên thuộc về người môn đệ hệ tại việc “trừ quỷ” (16,17). Trong viễn tượng này, mọi bệnh tật đều do ma quỷ gây nên, mọi cuộc chữa lành bệnh tật đều là một chiến thắng trên quỷ. Chúng ta cũng ghi nhận là Mc không cung cấp một định nghĩa nào về ma quỷ, cũng không nói chúng là loại hữu thể nào; nhưng đọc các mô tả của ngài, ta ghi nhận ba nét tiêu biểu của ma quỷ: 1) chúng có thể chi phối loài người; 2) chúng biết chân tính của Đức Giêsu và biết Người là kẻ thù của chúng; 3) chúng vâng phục Satan (3,22-26) là kẻ ở trong sa mạc đã cám dỗ Đức Giêsu (1,13) và hành động chống lại hoạt động của Đức Giêsu (4,15).
- không cho quỷ nói (34): Tác giả Mc trở lại với lệnh giữ bí mật (thiên sai) như trở lại với một đề tài ưa chuộng. Quỷ tức khắc nhận ra đối thủ của chúng, nên chúng đã gầm thét lên có thể vì muốn chiếm thế “thượng phong”, nhưng chắc chắn vì sợ hãi, vì đã thấy trước thất bại, khi đứng trước Đấng Thiên Chúa sai phái đến (x. 3,22-27). Đối với dân chúng, Đức Giêsu tự mạc khải ra cho họ cách tiệm tiến bằng cách cho họ thấy những dấu chỉ chứng tỏ quyền lực của Người trên những chứng nan y (1,40-45), trên tội lỗi (2,5-12), trên ngày sa-bát (2,28), và cuối cùng trên sự sống (ch. 15–16). Tuy nhiên, người ta tiến rất chậm.
Như vậy, một hành vi đức tin đặt nơi Đức Giêsu chỉ thực sự có giá trị khi nó hàm chứa một hiểu biết đầy đủ về sứ mạng và công việc của Người, đặc biệt hiểu rằng Người phải chết và sống lại để hoàn tất công việc này.
- Người đi cầu nguyện (35): Tác giả Lc sẽ nói nhiều hơn về điểm này. Mc không cho biết đối tượng hoặc nội dung của lời cầu nguyện của Đức Giêsu, nhưng mẩu đối thoại sau đó hé cho chúng ta thấy được chiều hướng Đức Giêsu theo khi cầu nguyện: đối thoại với Cha Người về sứ mạng Người đang thực hiện.
- vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó (38): Phải chăng đây là ra đi khỏi Caphácnaum hay là rời cung lòng Chúa Cha mà đến trần gian (nghĩa Ga: Ga 16,28; x. Lc 4,43)? Chắc là Mc vẫn còn đang ở gần các sự kiện đã xảy ra: Đức Giêsu không muốn mình bị cuốn hút bởi thành công. Sau này cũng thế, sau khi nhân bánh ra nhiều, Người lại rút lui vào cô tịch để tránh dân chúng và để đặt mình vào trong kế hoạch của Chúa Cha (Mc 6,46; x. Mt 14,23; Ga 6,15b). Cơn hấp hối tại vườn Ghếtsêmani cho thấy rõ điều này. Các môn đệ, và đặc biệt Phêrô, tỏ ra ngỡ ngàng, vì các ông chưa hiểu sứ mạng của Thầy.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Việc chữa lành mẹ vợ Simôn (29-31)
Tại nhà Simôn, Đức Giêsu đã chữa mẹ vợ ông khỏi sốt cao. Như thế, Người cho thấy Người làm Chúa tể trên một thứ tai họa khác của loài người, đó là bệnh tật. Nhưng trong nhãn quan của TM II, bệnh tật cũng là do ma quỷ, nên chữa lành bệnh tật cũng là chiến thắng trên ma quỷ. Ở đây, chúng ta ghi nhận là lần đầu tiên Đức Giêsu chữa lành bệnh tật là cho một phụ nữ, trong khung cảnh đơn sơ và thân tình của một ngôi nhà và của một gia đình. Bằng chứng cho thấy bà này đã thực sự được lành bệnh là bà đã ân cần chu đáo phục vụ các khách quý. Cũng như Đức Kitô đã đỡ bà mẹ vợ Simôn trỗi dậy khi mà bà đang bị cơn sốt bắt nằm bất động như một người đã chết, Người cũng nâng chúng ta dậy, cho chúng ta sống lại, để chúng ta có thể phục vụ Người (x. thêm 9,27).
* Một “bản tóm tắt” về các cuộc chữa bệnh (32-34)
Hành vi đó của Đức Giêsu trong ngày đầu tiên hoạt động công khai đưa tới hậu quả là dân chúng hiểu là khi ở trong tình trạng quẫn bách, họ có thể trông mong được ai giúp đỡ. Khi chiều đến, họ đưa tất cả mọi bệnh nhân và những người bị quỷ ám đến với Người. Đức Giêsu như bị cả một đại dương đau thương và bần khốn vây quanh và tấn công; toàn thể niềm hy vọng được đặt để nơi Người. Người có thể đương đầu với tình trạng quẫn bách này. Người có khả năng giúp đỡ và trong thực tế Người đã giúp đỡ.
* Một bước đi tới nhằm thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu (35-39)
Vì Đức Giêsu đã đánh thức và củng cố lòng tin tưởng của dân chúng, không lạ gì khi chúng ta thấy họ muốn giữ Người lại và như thế chắc chắn là luôn luôn có sự trợ giúp của Người. Nhưng Đức Giêsu tránh khỏi tay họ: từ sáng sớm, Người đã vào nơi hoang vắng để cầu nguyện. Và Người không để cho người ta cầm giữ lại. Người biết rằng nhiệm vụ của Người không phải là trợ giúp thường xuyên dân Caphácnaum, nhưng là loan báo trong toàn miền Galilê rằng Triều Đại Thiên Chúa đã gần kề.
+ Kết luận
Tuy các nhà chuyên môn vẫn nhìn nhận TM Mc là một bản kêrygma hơn là một sách huấn giáo, điều này không có nghĩa là tác giả nói về đức tin cách hời hợt. Trái lại, ngài rất đòi hỏi. Chính vì thế, ngài đã có một khoa sư phạm đáng phục: giúp độc giả tiếp cận với mầu nhiệm Đức Giêsu tiệm tiến. Ngài hiểu rất rõ là đức tin sẽ đưa người ta đến sự đổi đời với những dấn thân quan trọng. Phải chăng Phêrô đã nhấn mạnh như thế, sau khi trải qua kinh nghiện đau thương? Nhưng cũng chắc chắn là bởi vì vào lúc TM II được soạn thảo, các hoàn cảnh trong đó các Kitô hữu đang sống là những hoàn cảnh rất khắc nghiệt, đòi hỏi người ta phải cương quyết gắn bó với Đức Kitô cho đến chết.
Đoạn Tin Mừng này cũng nhắc các Kitô hữu nhớ đến sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng, bên ngoài những lãnh thổ quen thuộc.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Cũng như ở Caphácnaum, Đức Giêsu đã tiếp nối lời giảng dạy uy quyền bằng việc trừ quỷ, Người tiếp tục nối tiếp lời loan báo bằng việc dùng uy quyền trục xuất các sức mạnh đang đối kháng lại Thiên Chúa và hành hạ loài người. Lời nói của Người được chứng thực bằng việc làm của Người.
2. Liên kết giữa loan báo và hành vi quyền lực nhằm chữa lành cũng là đặc điểm của hoạt động của các tông đồ (3,14t; 6,12t). Việc loan báo Triều Đại Thiên Chúa được củng cố bằng hành động hữu hiệu dựa trên sức mạnh vô song của Thiên Chúa.
3. Gương Đức Giêsu đi cầu nguyện khiến chúng ta phải xem lại cách chúng ta đánh giá ý nghĩa của việc cầu nguyện cũng như những tiêu chuẩn giúp chúng ta sử dụng thì giờ. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn dùng thì giờ mà làm cho mình được tự do để sống cho Thiên Chúa, các động lực đang nâng đỡ hoạt động của chúng ta rất có thể cần được xét lại. “Nếu Đấng không có tội mà còn cầu nguyện như thế, những lẻ tội lỗi còn phải cầu nguyện đến thế nào. Nếu Người đã thức qua đêm mà cầu nguyện liên lỉ, chúng ta phải cầu nguyện liên lỉ và cũng phải canh thức đến độ nào” (Thánh Xýprianô).
4. Cũng nên coi lại giá trị chúng ta gán cho sự thinh lặng, sự yên tĩnh, sự cô tịch. “Chính Đức Giêsu, với sức mạnh không cần được nâng đỡ trong một cuộc tĩnh tâm, cũng không bị ngáng trở bởi xã hội loài người, đã quan tâm để lại cho chúng ta một gương sáng. Trước khi thực hiện sứ vụ rao giảng và làm phép lạ, Người đã vào nơi cô tịch chịu thử thách cám dỗ và nhịn đói (Mt 4,1t). Kinh Thánh kể lại cho chúng ta rằng, Người đã bỏ lại đó đám đông môn đệ, mà leo lên núi để cầu nguyện (Mc 6,46). Rồi khi giờ Thương Khó đã đến gần, Người bỏ các môn đệ, và ra đi cầu nguyện một mình (Mt 26,36): gương sáng này giúp chúng ta hiểu sự cô tịch có lợi cho việc cầu nguyện đến thế nào, bởi vì Người không muốn cầu nguyện bên cạnh các bạn đường, ngay cả các tông đồ.
Không được bỏ qua một mầu nhiệm liên hệ đến tất cả chúng ta như thế. Là Đức Chúa, là Đấng Cứu Độ loài người, Người đã cung cấp nơi bản thân một gương sáng sống động. Một mình nơi hoang địa, Người chỉ lo cầu nguyện và tập tành đời sống nội tâm – ăn chay, canh thức và những hoa trái khác của việc sám hối – nhờ đó thắng vượt các cám dỗ của Đối Thủ bằng vũ khí của Thánh Thần.
Lạy Chúa Giêsu, con chấp nhận rằng ở bên ngoài, không có ai ở với con; nhưng là để cho ở bên trong, con ở với Chúa hơn nữa. Khốn cho con người ở một mình, nếu bạn không ở một mình với Người! Và có biết bao người ở trong đám đông mà lại thật sự cô độc, bởi vì họ không ở với Chúa. Con mong muốn rằng, không bao giờ cô độc, nhờ ở với Chúa. Vào lúc này, không có ai ở với con, thế nhưng con không cô độc: con là một đám đông với chính con” (Guigues le Chartreux, 1083-1136).
70.Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Alfonso
Tin mừng Mc 1: 29-39: Trong đoạn Tin mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã giúp chúng ta nhận ra vẻ đẹp của lao động. Đoạn Tin Mừng này mô tả một ngày làm việc tiêu biểu của Chúa Giêsu.
Suy Niệm
Từ nhỏ đến lớn, chúng ta hay nghe câu “Lao động là vinh quang”, nhưng nghe mãi chẳng hiểu vinh quang ở chỗ nào vì cứ nhắc đến khái niệm đi học đi làm là thấy mệt. Sao ngày nghỉ cuối tuần trôi nhanh quá, một năm làm lụng vất vả, Tết gì mà nghỉ có năm bảy ngày, không kịp đi chơi đâu, thậm chí người ta dùng từ “đi cày” nói lên sự nặng nhọc của việc làm. Nhưng rồi, nếu có lúc nào đó không phải làm gì cả, chẳng phải đi đâu chi cho mệt, chẳng phải tiếp khách hay bạn bè, đồ ăn đồ uống sẵn đó, chẳng phải đến trường hay vất vả dậy sớm đi làm chi cho cực nhọc, thử hỏi trong chúng ta ai sẽ chọn lựa sống như thế, và sẽ sống trong điều kiện đó được bao lâu, được 21 ngày, hay là ít ra 14 ngày? Nhìn ra điều tích cực trong mùa dịch này giúp chúng ta ý thức được giá trị của việc học việc làm là ơn Chúa ban cho, để chúng ta được siêng năng cộng tác với Chúa trong việc duy trì và làm cho thế giới này tốt thêm lên.
Đoạn sách Gióp trong bài đọc I vẽ nên một cái nhìn bi quan về công việc con người phải làm trong cuộc sống: Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất. Con người giống như một người làm công, tệ hơn nữa xem mình như nô lệ cuộc đời. Chẳng thế mà giáo lý nhà Phật có câu “Đời là bể khổ”. Cho nên cuộc đời với những công việc như thế được coi là buồn thảm, bất hạnh.
Nhưng làm việc không phải là gánh nặng mà nó đem lại ý nghĩa của cuộc đời. Ông bà mình lại có câu: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ” hay là “Nhàn cư, vi bất thiện”. Vâng, công việc đem lại sự an toàn, no đủ cho cuộc sống của mình cùng những thành viên trong gia đình. Nên con người cần trân trọng công việc và sẵn sàng hết mình mới công việc ấy.
Trong đoạn Tin mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã giúp chúng ta nhận ra vẻ đẹp của lao động. Đoạn Tin Mừng này mô tả một ngày làm việc tiêu biểu của Chúa Giêsu:
– Giảng dạy ở hội đường
– Đến nhà nhạc mẫu của Simon, chữa cho bà khỏi bệnh sốt.
– Cho đến chiều tối, chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ
– Sáng tinh sương hôm sau, tìm nơi thanh vắng cầu nguyện.
– Tiếp tục đi đến những làng, những thành lân cận, để rao giảng Tin Mừng.
Có thể thấy rằng Chúa Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày. Con Thiên Chúa nhập thể làm người để đụng chạm đến biển khổ của nhân loại. Người không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, người chia sẻ và ban cho những khổ cực của lao động một ý nghĩa. Ngay cả sau một ngày bận bịu và mệt mỏi, khi các môn đệ còn ngủ say thì Chúa Giêsu đã thức dậy sớm, Người tìm một chỗ cầu nguyện khá kín đáo tĩnh lặng vì Người ý thức cầu nguyện là nhu cầu thật sự. Người cần sống bên Cha, tâm sự về gánh nặng công việc, về nỗi đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống ma quỷ. Vậy chúng ta cũng được mời gọi bắt chước Chúa Giêsu. Trong học tập, lao động, làm ăn và nghiên cứu, chúng ta cũng cần dành thời giờ nhất định chạy đến với Chúa, nhất là qua giây phút cầu nguyện trước những căn bệnh thời đại đang theo đuổi con người như hình với bóng, thậm chí bệnh này bị khống chế trị liệu thì bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn.
Ông Fabrice 49 tuổi, quốc tịch Pháp, đến Việt Nam vào cuối năm 2019 để thực hiện lời hứa với bà ngoại và mẹ là người Việt Nam. Sau khoảng thời gian đi nhiều điểm du lịch tại Việt Nam, ông chuẩn bị về nước thì dịch Covid-19 bùng phát nên ông bị "kẹt" lại. Tháng 11 vừa qua, khi số tiền mang theo đã gần cạn kiệt, ông Fabrice cảm thấy lo lắng và cầu cứu người thân. Tổng chi phí mỗi tháng ông chi tiêu ở Việt Nam khoảng 7 triệu đồng. Được sự tư vấn của người bạn, ông quyết định dành dụm số tiền còn lại mua chiếc xe đẩy để ra vỉa hè bán chuối chiên. Ông cho biết đây là một trải nghiệm và một sự thách thức bản thân của chính mình. Ông chọn ngã tư Trần Đình Xu (quận 1, TPHCM) giao với Nguyễn Cư Trinh (quận 1, TPHCM) để đặt xe bán hàng vì khu vực này khá đông dân và khách du lịch.
Ông cho hay "Tôi thức dậy từ 4h sáng để chuẩn bị mọi nguyên liệu đến 5h30 thì tôi bắt đầu bán cho đến khi hết hết bột thì tôi dọn về". Điều đặc biệt là ông Tô bột được pha theo công thức riêng của ông Fabrice bao gồm: sữa tươi, bột, bơ,… Nhờ mùi thơm phảng phất cả góc phố khi dùng bơ để chiên, xe bánh chiên rất được nhiều người dân trong khu vực chú ý. Mỗi lần thấy người nghèo bán vé số hay đi xe lăn đều kêu họ lại chuẩn bị một phần bánh để gửi tặng cho họ dù hôm đó bán ế hay đắt hàng. Cử chỉ nhỏ nhưng ông Tây này ghi điểm với người dân xung quanh bằng tấm lòng tốt bụng sự thân thiện và vui vẻ.
Chính thánh Phaolô, xem việc rao giảng Tin Mừng là một nhu cầu, là nguồn hạnh phúc: “Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Vì thế mà mỗi người chúng ta trong vị thế của mình, cần rao giảng Tin Mừng một cách tự ý tự nguyện để làm vơi đi gánh nặng của cuộc đời. Vâng, trong niềm vui và sự thân thiện cùng những cử chỉ nhỏ thôi, chúng ta hãy tận dụng để có thể loan báo Tin mừng cho người anh chị em. Amen.
71.Chúa Nhật 5 Thường Niên--Noel Quesson
Hôm nay, chúng ta tiếp tục suy niệm về “Ngày hoạt động của Chúa tại Caphácnaum”. Đó là ngày đầu tiên trong đời sống công khai thi hành tác vụ của Đức Giêsu: ta thấy Người giảng dạy, giải thoát con người khỏi quỷ ám hại, chữa lành người bệnh và cầu nguyện. Đó cũng là bản tóm lược toàn thể hoạt động của Kitô hữu.
Vừa ra khỏi Hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê, có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo.
Sau khi đã giảng dạy và làm mọi người ngạc nhiên, sau khi đã giải phóng cho một người bị quỷ ám đáng thương, Đức Giêsu rời khỏi Hội đường, ndi họp mặt chung, để đi đến một tư gia, nhà hai anh em Simon và Anrê. Tôi hình dưng ra Đức Giêsu đang bước đi trên đường phố, cùng với bốn môn đệ đầu tiên của Người, vì hai ông Giacôbê và Gioan cũng có mặt ở đó, ngày nay cũng vậy, tác động của Thiên Chúa được thể hiện khắp nơi, trong mọi lãnh vực của cuộc sống: Tôn giáo cũng như trần thế, công cộng cũng như tư riêng. Lạy Chúa, Chúa ở với chúng con trong nhà thờ, Chúa hiện diện cùng chúng con ngoài đường phố, trên các quảng trường, và ngay trong nhà chúng con.
Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt, nằm trên giường.
Người ta lấy làm ngạc nhiên, vì trong Tin Mừng, có rất nhiều lần Đức Giêsu chữa lành người bệnh. Ngày xưa, bệnh tật mang một ý nghĩa tôn giáo và người chữa trị thuộc lãnh vực y khoa. Tuy nhiên, dù trước mọi tiến bộ về y học, bệnh tật và đau khổ vẫn đeo bám con người và tiếp tục đặt con người vào một tình trạng rất đáng sợ. Ngay giữa nền văn minh kỹ thuật của chúng ta, một "dấu hiệu” biểu lộ sự yếu đuối của thân phận con người vẫn còn luôn như trước: đó là con người có thể chịu những rủi ro xảy đến cách đột ngột bất ngờ. Trong thâm tâm, ai mà không sợ một số những chứng bệnh mà người ta không dám nhắc đến tên? Bệnh tật luôn mâu thuẫn với ý muốn sống yên ổn và bền vững trong tâm lý mọi người. Chỉ cần một cơn sốt nặng cũng đủ quật ngã con người mạnh nhất và buộc họ phải ngưng làm việc không còn trầm trọng hơn, khi mọi người chúng ta đều thừa biết rằng, một ngày nào đó ta sẽ gặp một bệnh mà không thầy thuốc nào chữa nổi.. Mọi bệnh tật đều mang "dấu” của tử thần: đó là biểu tượng của thân phận con người mỏng dòn và ta không thể tránh được.
Họ liền nói cho Người biết bà đang đau ốm. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy.
Thái độ cầu nguyện đầu tiên trước cảnh trên, đó là cần chiêm niệm, như thế chúng ta đang hiện diện tại đó. Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu bước vào nhà. Tôi lắng nghe những gì người ta đang trình bày với Người. Tôi hình dung ra Người đang tiến gần tới người bệnh, cầm tay bà ta. Đó là những cử chỉ đầy thân tình, nghĩa thiết và nhân ái. Thần học quả quyết với ta rằng, mỗi bí tích là một "cử chỉ của Đức Kitô". Một bài thánh ca thường ngợi khen bàn tay của Đức Giêsu đã "làm những việc kỳ diệu”. Đúng vậy, đặc tính hiện thực của việc nhập thể đã đi đến mức độ đó. Hôm nay, tôi thích chiêm ngắm bàn tày của Đức Giêsu đang nằm bàn tay nóng ran vì cơn sốt của người bệnh. Lạy Chúa, nơi một cách biểu tượng, Chúa- cũng đang nắm bàn tay con như thế, để chữa lành các "cơn sốt". Khi rước lễ, con cầm Chúa trong bàn tay con. Nhưng thính Chúa cũng đang nắm tay con.
Người đỡ bà dậy. Bà liền hết sốt và lo tiếp đãi các Người.
Khi đọc câu này trong bản văn Hí Lạp, cũng do Máccô trước tác, ta cần lưu ý Máccô đá sử dụng ở đây, từ "ègeire", có nghĩa là "làm cho sống lại". Ong cũng dùng một từ đó để diễn tả việc Chúa cho con gái ông Giarô sống lại: "Hãy chỗi dậy!" (Mc 5,41), và kể lại việc phục sinh của Đức Giêsu (Mc 12,26, 16,6). Do đó, đối với Mác-cô, việc chữa bệnh cách cụ thể trên là một “dấu chỉ" theo nghĩa mạnh, một thứ- biểu trung ngôn sứ báo trước nước Thiên Chúa vĩnh cửu. Khi sẽ chẳng còn "tang chế, kêu than, đau khổ, khi Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ và chiến thắng sự chết" (Kh 21,1-4) Ngay trong thời Người, tại Galilê, chắc chắn Đức Giêsu đã không chữa lành hết mọi bệnh nhân. Người chỉ chữa lành một số người tiêu biểu, như một thứ việc làm trước cho "Thời cánh chung": chỉ khi đó con người mới được "cứu độ" thực sự, nghĩa là không còn sự chữa lành tạm thời một cơn sốt thoáng qua, mà chính là sự sống lại. Việc chữa lành đích thực mà Đức Kitô muốn cống hiến, đó là đi từ tình trạng "không tin" đến tình trạng "tin": kẻ nào đón nhận đức tin nơi Đức Giêsu, thì đã biết rằng mình sẽ được cứu thoát khỏi sự chết rồi. Lúc đó, họ sẽ "chỗi dậy" để "phục vụ”.
Sự dữ mà Đức Giêsu nhắm theo đuổi còn thâm sâu hơn là bệnh tật tác hại trên thân xác. Đó là tâm hồn, đó là trung tâm" của người bị bệnh... khi họ không "phục vụ” anh em mình. Khi nói người bệnh chỗi dậy và bắt đầu "tiếp đãi” Máccô muốn nói với ta nhiều hơn là những cử chỉ bề ngoài ông diễn tả. Ong nhớ đến từ “phục vụ” mà ngày nào đó Đức Giêsu đã gán cho ý nghĩa là “thí ban mạng sống mình": "Con Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45). Lạy Chúa, xin Chúa dùng Mình Chúa chữa lành tâm hồn con người hôm nay. Xin cứu giúp con để con biết đặt Thiên Chúa lên trên hết, biết đặt "kẻ khác" lên hàng đầu, xin cứu giúp con để con biết "phục vụ', "hiến dâng mạng sống" và yêu thương!
Chiều tối, khi mặt trời đã lặn, dân chúng đem một kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người chữa. Cả thành xúm lại trước cửa nhà. Đức Giêsu chữa đủ thứ bệnh và trừ rất nhiều quỷ.
Có thể nói, cùng một tác động, Đức Giêsu vừa chữa bệnh, vừa biểu dương quyền năng của Người trên Sa-tan, hiện thân của sự dữ. Vâng, đối với Đức Giêsu, sự dữ chủ yếu là phải xa cách Thiên Chúa: do đó, chính tội lỗi mới là bệnh tật thật sự của chúng ta. Bệnh viện được trang bị đầy đủ nhất nhân viên y tế tài năng nhất, cũng không bao giờ thay thế được tình yêu, một yếu tố mà người bệnh còn cần hơn cả thuốc thang.
Ngày nay, cũng như thời Đức Giêsu, trong tâm hồn con người luôn có một điều gì đó cần phải được chữa trị, và trong công cuộc văn minh hóa người ta cần phải thực hiện một sự điều chỉnh đúng đắn.. Không có căn bệnh nào trầm trọng đối với việc phát triển "đô thành trần thế" (bệnh viện cũng như mọi công trình khác) hơn là thứ "chất độc" do tội lỗi đem vào thế gian. Điều đó không có nghĩa là phủ nhận tiến bộ, hay những kỹ thuật chữa bệnh! Nhưng chỉ muốn nói lên, cần phải cho chúng một tâm hồn: Đó là tình yêu. Và Đức Giêsu đã thể hiện điều này tại đó! Lạy Chúa, xin dùng Mình và Máu Chúa, chữa lành tâm hồn con người hôm nay.
Người trừ rất nhiều quỷ, nhưng lại cấm quỷ không được nói gì, vì chúng biết Người là ai.
Đề tài “Bí mật thiên sai" lại xuất hiện ở đây lần thứ hai trong cùng một ngày (Mc 1,25 và 1,33). Đức Giêsu không muốn người ta làm sai đi ý nghĩa sứ vụ của Người.
Người buộc mọi người phải giữ im lặng, không được nói quá sớm Người là "Con Thiên Chúa". Đã có quá nhiều ý kiến sai lầm về Đấng Mê-si-a, về Thiên Chúa đang được phổ biến. Người ta quá để ý kiếm tìm vẻ kỳ diệu bề ngoài.
Người ta chỉ chạy đến với Chúa, như với một "người chữa bệnh" đến thuần. Tuyên bố quá sớm Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a, là con Đấng Toàn năng, mà không biết chính Người sẽ phải chịu đau khổ và phải chết, thì kể như nói mà không biết điều mình phát biểu, và như thế có nguy cơ sẽ chối Đức Giêsu, khi chứng kiến thực tế của thập giá. Thiên Chúa không phải là "toàn năng" theo nghĩa chúng ta thường hiểu.. Vì yêu thương, Chúa đã tự trở thành “hoàn toàn yếu đuối" đối với chúng ta... bởi vì Người là "tình yêu toàn năng". Nếu ông là Con Thiên Chúa, ông hãy xuống khỏi thập giá đi... Chúng ta luôn nghĩ rằng, chắc hẳn Thiên Chúa phải chứng tỏ Người là "Ai" chứ! Đúng vậy Người đã minh chứng điều đó: Người là Tình yêu vô biên, tình yêu đi đến tận cùng của thái độ "phục vụ”... Tôi đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống! Trong khi chờ mọi giây phút Thiên Chúa tỏ mình ra trên thập giá, cần phải im hơi lặng tiếng.
Lạy Chúa, xin giúp con chấp nhận Chúa đúng như con người của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con hiểu rằng, Chúa không muốn "quyền năng" theo nghĩa trần gian... "bởi vì cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người, và cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người" (l Cr 1,25).
Sáng sớm hôm sau, lúc trời còn tối mịt, Đức Giêsu đã dậy, đi ra một nơi vắng vẻ mà cầu nguyện.
Ngay đêm đầu tiên mà Simon Phêrô trải qua bên cạnh Đức Giêsu, ông đã khám phá ra điều "cốt yếu” sau đây: đó là đối với Đức Giêsu, điều quan trọng là "Gặp gỡ Chúa Cha".
Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm Người...
Vào sáng sớm; khi bóng đêm còn mù tối, trước lúc rạng đông, Đức Giêsu đã ra khỏi căn nhà mà Người đã nghỉ đêm. Người rời thành Caphácnaum. Hãy ngắm nhìn Người bước đi trên cánh đồng, dưới bóng đêm. Người tìm bầu khí cô tịch, sự yên lặng người lánh mình, đi đến "một nơi hoang vắng". Người dừng chân. Người phủ phục. Người cầu nguyện. Đức Giêsu đang hiện diện ở đó, chính là nhân loại đang ở "bên cạnh Chúa Cha", chính là nhân loại đang ở “gặp gỡ Thiên Chúa". Chính trong khung cảnh đó các bạn hữu cần đến tìm kiếm Người.
Câu Tin Mừng trên đây không phải là một chi tiết bình thường. Đó là một bí quyết, một kết luận, một điểm nóng bỏng của "ngày sống đầu tiên trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Nhờ đó, Người đang "kêu gọi" ta, nhưng "trong yên lặng": ý nghĩa của đời sống bạn là ở nơi Thiên Chúa... Căn bệnh trầm trọng nhất của bạn, là bệnh tật làm bạn xa rời Thiên Chúa.
Kẻ nào biết "ẩn mình trong Thiên Chúa" nơi hoang địa là một người được cứu độ.
Lúc đó, mọi cơn sốt và ngay cả sự chết, cũng không thể tác hại được họ nữa.
Này bạn, người anh em đang mang bệnh của tôi...
Này bạn, người anh em đang gặp thử thách trong tâm hồn... bạn có biết nhận ra "tin vui" được chữa lành, ngay giữa cơn thử thách của bạn không?
Khi gặp Người, họ thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy"' Người bảo họ: “Thôi chúng ta đi nơi khác, đến các làng xã xung quanh, để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở những nơi đó nữa, vì Thầy đến cốt để làm việc đó.
Vâng, lạy Chúa Giêsu, xin hãy nói lại cho chúng con, xin hãy nói lại cho mọi người Tin Mừng của Chúa. Xin cứu giúp chúng con. Xin chữa lành chúng con. Và xin hãy làm cho chúng con, cùng với Chúa, trở nên những sứ giả, những người phục vụ cho công cuộc Phục sinh.
72.Chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô (1,29-31)--Jacques Hervieux
Hoạt động thứ hai này của Chúa Giêsu có thể được xem như một sự kiện “nho nhỏ” mà do tính cách vắn gọn Maccô đã lồng vào tiếp theo trình thuật đi trước. Quang cảnh này đã được Maccô tháp vào chuỗi trình thuật mang tựa đề “Cái ngày Chúa Giêsu rao giảng ở Caphanaum” khởi đầu nơi chương 1,21 và kết thúc ở chương 1,32-34. Câu chuyện xảy ra bên cạnh hội đường nơi Chúa Giêsu vừa tham dự nghi thức phụng vụ, đây là một ngày Sabbat. Theo quy định của luật, vào ngày này, người ta chỉ được phép di chuyển trong phạm vi luật cho phép. Chính tại căn nhà của Simon và Anrê, trong bầu khí thân mật gia đình của bốn người môn đệ đầu tiên, Chúa Giêsu sẽ thực hiện hành vi chữa trị của Ngài (1,16-20). Các tình huống được ghi lại thật gọn gàng: nhạc mẫu của Simon bị sốt đang nằm tại giường (c. 30a). Maccô không mô tả chính xác bà cụ sốt vì lý do gì. Tình trạng có lẽ xem ra không nặng, dầu vậy cũng gây phiền hà bởi vì rõ ràng không thể chờ đợi lâu hơn, “họ liền nói cho Ngài biết bà đang đau ốm” (c. 30b). Không thấy đề cập rõ đến người can thiệp cũng như cách thức can thiệp, tuy nhiên ở đây hàm ẩn tiến trình của đức tin: Chính vì biết Chúa Giêsu có quyền phép trị bệnh nên đám bạn hữu Ngài đã xin Ngài can thiệp. Chẳng nói một lời, Chúa Giêsu chỉ làm một cử chỉ đơn giản là nắm tay bà cụ giúp bà chỗi dậy (c. 31b). Thật khác xa với các trình thuật thời đó, các thầy trị bệnh ít nhiều thuộc dạng phù thủy, thường dùng sức mạnh của lời nói hoặc các công thức nghe rất kỳ quái. Ở đây, sự việc xảy ra hoàn toàn kín đáo, cơn bệnh tan biến ngay tức khắc (c.31c). Bà cụ lập tức hồi phục hoàn toàn, bởi vì Tin Mừng ghi nhận bà cụ có thể bắt đầu phục vụ Chúa Giêsu và các bạn Ngài.
Vì thiếu khía cạnh huyền diệu, trình thuật này xem ra khó hiểu đối với não trạng người thời nay. Để nắm rõ được đây là hành vi có liên quan đến sứ mệnh “Mêsia” của Chúa Giêsu, chúng ta phải biết rằng, theo tâm thức của người xưa, bệnh tật được quan niệm như là một dấu chứng của tội lỗi. Nói chính xác hơn, suốt lịch sử Cựu Ước, cơn sốt luôn được nga hình dung như những một trong những hình phạt Chúa đe sẽ gởi đến cho đám dân bất tín bất trung của Ngài: “Nếu các ngươi phế bỏ Lề Luật của Ta, nếu các ngươi đi ngược các tập tục Ta ban, không mang ra thực hành các huấn lệnh của Ta và như thế là cắt đứt Giao Ước với Ta thì này đây Ta sẽ giáng cho các ngươi sự kinh khủng, bệnh hoạn và sốt rét làm hư mòn con mắt và nhọc mệt tâm hồn” (Lv 25,15-16a, xem thêm Đnl 28,22).
Vào thời Chúa Giêsu, người ta dễ dàng gán cho cơn sốt tính cách quỷ nhập. Chính vì thế mà sử gia Luca đã tường thuật việc chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô giống như một cuộc trừ quỷ (Lc 4,39). Như thế, theo Maccô, chắc chắn cử chỉ Chúa Giêsu đối với bà cụ này minh họa quyền năng của Ngài trên các quyền lực Sự Dữ và Sự Chết. Đây chính là Đấng Mêsia mang đến các dấu chỉ về Vương Quốc của Thiên Chúa đang đến.
Tuy nhiên cần phải đi xa hơn. Nhằm mục đích ngỏ lời với cộng đoàn Kitô hữu của mình, Maccô đã đọc lại biến cố này dưới nah sáng của Chúa Giêsu Phục Sinh. Chính cách dùng một công thức diễn đạt của Maccô đã hé lộ cho thấy điều đó. Trong tiếng Hy Lạp, động từ trong câu Maccô sử dụng khi viết: “Ngài đỡ bà ấy dậy” (c.31b) cũng chính là động từ sau này Maccô sẽ dùng để nói về Chúa Giêsu: “Ngài đã chỗi dậy (sống lại) (16,6)”. Quả thế, phải đặt mình trong bối cảnh các Kitô hữu ấy, Chúa Giêsu không phải chỉ là một người chữa bệnh lừng danh khi Ngài mới bắt đầu sứ vụ. Qua việc Ngài sống lại, Ngài còn được nhìn nhận như “Đức Kitô và như vị Chúa Tể” (Cv 2,36) Đấng hằng ngày tiếp tục cứu vớt kẻ tội lỗi, lôi họ ra khỏi cõi chết. Ngài là Đấng Cứu Độ làm cho kẻ từng bị sự ác đè xuống được đứng dậy. Và khi cho thấy bà cụ được khỏi bệnh lập tức ấy liền bắt đầu phục vụ các vị khách của bà (x. c. 31c), chắc chắn Maccô nghĩ ngay đến việc các Kitô hữu được mời gọi “phục vụ” Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế không ngừng giải thoát các tín hữu Ngài khỏi sự dữ để sắp đặt họ vào công việc của Ngài.
Chúng ta được mời gọi thường xuyên đọc lại trang Tin Mừng này dưới hai cấp độ. Trước hết đây là hành vi có tính lịch sử của Chúa Giêsu. Người ta cảm nhận rõ ràng chiều kích lịch sử của biến cố được tường thuật. Tuy nhiên cấp độ thứ hai còn quan trọng hơn. Chúng ta phải đọc lại các hành vi cử chỉ của Chúa Giêsu được ghi chép cho cộng đoàn Kitô hữu, dưới ánh sáng Phục Sinh của Ngài, lúc bấy giờ, chúng ta sẽ luôn đặt niềm tin vào vị “Chúa Tể” hiện vẫn đang hoạt động nhằm cứu độ Giáo Hội cũng như trần gian.
Câu chuyện chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô đã gây thú vị rất nhiều cho những sử gia muốn tìm kiếm các chi tiết thấy nơi trình thuật trên một “kỷ niệm tận mắt” của nhân chứng Phêrô. Qua câu chuyện này người ta biết được vị thủ lãnh tương lai của nhóm Mười Hai (3,16) lúc ấy đã có vợ. Chẳng biết là hành động phục vụ Chúa Giêsu và các bạn Ngài của nhạc mẫu Phêrô lúc đó vắng mặt hay đã qua đời không? Chúng ta không thể biết được; và cũng không thể dựa vào chứng lý của Phaolô (trong 1Cr 9,5) là Phêrô có dẫn theo vợ Ngài trong khi thi hành sứ vụ, để giải đáp vấn nạn được nêu ra.
Một thành công rực rỡ (1,32-34)
Đoạn văn ngắn gọn này được ví như “bản tóm tắt” các hoạt động của Chúa Giêsu kể từ khi Ngài khởi đầu sứ vụ. Nó kết thúc một chuỗi sự kiện được Maccô chú ý ghi lại dưới tựa đề “Cái ngày tại Caphanaum” (bắt đầu với 1,21). Maccô muốn nhấn mạnh sự thành công rực rỡ trước đám đông của Chúa Giêsu với tư cách người chữa bệnh và trừ tà (c. 32-33). Hẳn người ta ngạc nhiên vì số lượng đông đúc người tuốn đến. Khi nói rằng “cả thành”, Maccô chắc chắn đã khuếch đại biến cố này để mang lại cho nó trọn vẹn mọi chiều kích. Thông qua các nguồn tài liệu liên quan đến dân Do Thái cũng như dân ngoại thời Chúa Giêsu, người ta được biết rõ là đám quần chúng bình dân rất háo hức xem phép lạ. Ngoài các loại thuốc thang thông thường rất đắt mà lại không hiệu quả cao (x. 5,26), dân chúng còn tìm đến đủ thứ thầy trị bệnh, thầy trừ tà, thầy pháp…
Nhờ khả năng điều trị phi thường nên Chúa Giêsu đã mau chóng được lừng danh (c.34a), chẳng một ai dám nghi ngờ Đức Giêsu Nadaret là một mẫu người đặc biệt có tài hấp dẫn, mê hoặc kẻ khác. Một truyền thống sau này của Do Thái có ghi nhận rằng sở dĩ Chúa Giêsu bị chết treo là vì “Ngài dùng trò ma thuật, quyến rũ và mê hoặc dân chúng”.
Tuy nhiên nếu Maccô ghi nhận rõ ràng Chúa Giêsu đã thực hiện vô số việc chữa bệnh và trừ ta thì ông vẫn cẩn thận cho thấy các hành vi cứu độ này được thực hiện ngay giữa sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu không phải là một tay chuyên làm phép lạ. Ngài chỉ trưng ra “các dấu chỉ” cho thấy Vương Quốc Thiên Chúa đã đến qua bản thân Ngài (1,15). Đàng khác, Maccô đã kết thúc bản tóm tắt hoạt động chữa bệnh của Chúa Giêsu bằng lệnh cấm các thần dữ không được phổ biến cho mọi người biết Ngài là ai (c.34b).
Đây là một lối diễn tả mới mẻ về “Bí mật Đấng Mêsi” từng được nhiều người lưu tâm. Chúa Giêsu rất muốn đáp lại lời kêu cầu đáng thương của đám đông, thế là Ngài mang đến ơn cứu độ cho họ.
Tuy nhiên Ngài buộc phải ngăn cấm ma quỷ không được tiết lộ quá sớm tư cách Mêsia của Ngài (1,24). Thực ra, ngay lúc này đây, tiết lộ điều đó là không hợp thời, là vô tình khiến dân chúng hiểu lầm rằng Chúa Giêsu đến tiêu hủy mọi sự dữ đang bủa vây họ bằng một cây đũa thần. Quả thực trong cơn nóng lòng chờ đợi “thời sau cùng”, đám người đương thời của Chúa Giêsu rất náo nức đón nhân “các dấu chỉ và phép lạ” được các tiên tri loan báo (x. 13,22). Tuy nhiên, Đấng Mêsia đặc biệt không muốn chiều theo những dụ dỗ của ma quỷ mà đám người hâm mộ Ngài đòi hỏi (x. Các cơn cám dỗ theo Matthêu 4,1-11). Các tước hiệu “Đức Kitô” và “Con Thiên Chúa” chỉ có thể được cắt nghĩa đúng đắn dưới ánh sáng cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài. Vì vậy trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của ông, Maccô đã tự gán cho mình bổn phận nhắc đi nhắc lại lệnh Chúa Giêsu truyền giữ kín về Ngài (1,44; 3,12; 5,43; 7,24b.36; 8,30; 9,9.33).
Như thế, Maccô mời gọi độc giả tự hỏi về thân thế và sứ vụ đích thực của Chúa Giêsu mà ông chưa đưa ra câu trả lời. Câu trả lời vẫn cứ lửng lơ đấy. Cho đến khi rõ ràng ai nấy đều biết là Đấng Mêsia đã chỉ cứu độ loài người qua con đường tử nạn (8,29-33). Từ đó, mới lộ ra quy tắc ngộ nghĩnh của Tin Mừng này –mọi “bí mật” về thân thế Chúa Giêsu chẳng qua là để lôi kéo độc giả chú ý đến câu hỏi nền tảng Maccô đặt ra cho họ: “Vậy Đức Giêsu Nadaret là ai?” và rồi người ta sẽ trả lời ngay: “Hãy đi theo người dẫn đường…”.
Cầu nguyện và thi hành sứ vụ (1,35-39)
Maccô có khuynh hướng đưa ra các tương phản sau khi trình bày hoạt động sôi nổi của Chúa Giêsu qua việc phục vụ đám đông (1,32-34), giờ đây Maccô đưa ra hình ảnh đối chọi về vị đạo sư thèm được sống trong cô tịch và kết hợp với Thiên Chúa (c.35). Chắc hẳn là sau bao mệt mỏi của ngày hôm trước, giờ đây phải khá can đảm Chúa Giêsu mới có thể dậy sớm lén các bạn bè đang còn say giấc nồng để tìm một chốn cô liêu cầu nguyện. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu sẽ còn được Maccô đề cập tới (6,46; 14;35-39) ở mỗi chặng đường quan trọng trong sứ vụ của Chú. Ở đây người ta dễ dàng nắm được nội dung bản văn: Chúa Giêsu không muốn để cho mình bị cuốn trôi bởi cơn sóng của đám quần chúng đang mê mẩn vì bao phép lạ Ngài đã làm. Ngài cần suy nghĩ về tính cách nghiêm trọng của sứ mệnh Ngài.
Rõ rànglà các môn đệ đi tìm kiếm Chúa Giêsu (c.36). Họ chẳng hề cảm thấy sự mơ hồ mà việc chữa trị thành công của Chúa Giêsu gây ra cho đám quần chúng (1,32-33). Sự kiện đám quần chúng đang mê mẩn chạy theo Chúa Giêsu đã mang một dạng thức khẩn trương đầy nguy hiểm. Vị đạo sư phải cảnh giác các bạn hữu mình chớ có đưa ra một cắt nghĩa lệch lạc nào về vai trò của Ngài (c. 38).
Nêu ra cho họ điểm trọng yếu là điều tối quan trọng. Chúa Giêsu nhắc họ những gì là then chốt trong sứ mệnh của Ngài. “Chúng ta hãy đi chỗ khác…” điều này có nghĩa là sứ vụ đòi hỏi phải “lên đường” đi đây đi đó. Mục đích của Ngài đâu phải là phô diễn phép lạ. Đó chẳng qua chỉ là dấu chỉ về quyền năng đi kèm, theo tin vui về Ơn Cứu Độ. Chính tin vui này mới là điều thiết yếu. Ngay từ khi khởi đầu sứ vụ rao giảng. Chúa Giêsu đã không hành động vì một lý do nào khác. Bổn phận của Ngài rất rõ ràng là bằng lời nói và việc làm, công bố cho mọi người “Nước Thiên Chúa đã kề bên họ”, phải nhờ đức tin mà đón nhận Tin Mừng (1,14-15). Lời xác nhận cho ý định ấy của Chúa Giêsu rất rõ ràng: “Vì Thầy đến cốt để làm việc đó” (c. 38d). Câu nói: “Vì Thầy đến” mang đầy ý nghĩa cao với. Trong Phúc âm Gioan, để diễn tả sứ mệnh bao quát của mình, Chúa Giêsu sau này sẽ nói rằng “Ngài đến từ Thiên Chúa”, đây là một lời xác nhận về thiên tính của Ngài (Ga 8,42; 13,3; 16,27-28).
Bản văn đã kết thúc bằng một hành vi mang đặc tính phổ quát (c.39). Người ta nhận ra Caphanaum chỉ là một điểm tựa trong hành trình thi hành sứ vụ. Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng “trong toàn xứ Galilê thuộc mạn bắc của Palestin, không có biên giới phân cách rõ rệt với các dân ngoại sống chung quanh. Đây là một mảnh đất tuyệt vời để thi hành một sứ vụ mở rộng cho tất cả mọi người. Ở đây, Chúa Giêsu rao giảng trước tiên trong các nguyện đường Do Thái là nơi dân chúng thường tập trung cầu nguyện và nghe giảng dạy Kinh Thánh (1,21). Ngài bổ sung lời rao giảng bằng các hành vi trừ quỷ để minh họa cho dân chúng quyền uy tối thượng của Ngài (1,27). Chương này rất quý báu vì nó xác nhận rằng vị Đạo Sư đã biết liên kết thật kỳ diệu mọi đòi hỏi liên quan đến việc trình bày cho mọi người sứ mệnh “Mêsia” của Ngài, nghĩa là Ngài biết liên kết việc cầu nguyện với việc loan báo Tin Mừng và với các “dấu chỉ” minh xác về thân thế Ngài.
73.Từ cảm phục đến lòng tin--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay liên kết ba bản văn khác nhau: trình thuật chữa lành mẹ vợ Phêrô (Mc 1,29-31), một bảng tóm tắt các phép lạ chữa lành (cc.32-34) và một bước tiến trong việc hoàn thành sứ mệnh (cc.35-39). Muốn phân tích ba bản văn, phải lưu tâm đến văn thể khác biệt của chúng.
Bài đọc thứ nhất (G 7,1-4.6.7) là phần nhập đề cho các cuộc chữa lành của Chúa Giêsu: ta đọc thấy trong ấy hình ảnh con người bị đau khổ vì thân phận trần thế, hay đúng hơn vì bệnh tật. Bà mẹ vợ Phêrô một cách nào đó hiện thân cho thân phận này, và những đám đông đi tìm Chúa Giêsu (cc.32.33.37) cụ thể hóa cái phản ứng đầu tiên của con người đứng trước kẻ có thể chữa lành họ. Con người thời đại hôm nay phải chăng đã được giải phóng khỏi thân phận nói trên nhờ và các khoa học và tiềm lực kinh tế? phải chăng họ đã vượt qua phản ứng của những người đồng thời với Chúa Kitô?
I. TỪ HỘI ĐƯỜNG ĐẾN NHÀ SIMON (c.29)
Trình thuật chữa lành một kẻ bị quỷ ám đã đặt chúng ta tại hội đường Capharnaum (1,23-28), vì thế Mc viết tiếp: "Và lập tức ra khỏi hội đường...". Thật vậy thánh sử hình như vẫn giả thiết một khoảng thời gian khá dài giữa lai phép lạ, bởi vì danh tiếng Chúa Giêsu đã có thời giờ lan xa khắp xứ Galilê. Hiển nhiên Mc đã giản lược. Ta biết ông thường dùng trạng từ “lập tức” nhưng chẳng gán ý nghĩa gì đích xác (11 lần nguyên trong chương một: Cc. 10, 12, 18, 20, 21,23,28, 29, 30, 42, 43). Vì ông không mấy quan tâm đểu tính cách liên tục hợp lý, mà chỉ muốn trình bày ở đây (cc.21-39) một ngày mới về sứ vụ Chúa Giêsu: “Ngày Capharnaum" theo thành ngữ cổ điển. [như Luca, nơi ch.24 đã cô đọng trong một ngày tất cả các sự kiện từ Sống lại đến Thăng thiên: "Vừa tang tảng bình minh (c.1):.. Đi thăm mộ về (c.9)... Cũng ngày hôm ấy (c.12)... Ngay giờ đó (c.33)... Họ còn đang trò chuyện (c.36)... Đoạn (c 44)..: Rồi (c.50)..."]. Mátthêô và Luca đã bỏ khung cảnh nói trên và để qua một bên tiếng "lập tức" giả tạo vừa nói. Chúng ta không biết thời biểu thật sự của các sự kiện ra làm sao. Tuy nhiên có thể quả quyết rằng cặp trình thuật chữa lành mẹ vợ Phêrô - chữa lành khi chiều đến" bắt nguồn từ một truyền thống có trước các Tin mừng Nhất lãm vì chi tiết "chiều đến" nằm trong Mc lẫn Mt. Nếu Lc đã bỏ qua trạng từ "lập tức" thì trái lại ông đã lưu giữ chi tiết "hội đường". Ông sẽ khai triển ý nghĩa chi tiết này đến độ làm thành một chủ đề thần học, sẽ nhắc tới nhắc lui trong sách Công vụ của ông: khi rao giảng trong một thành hay một thị trấn, thì Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Phaolô cũng sẽ làm như vậy.
Chúa Giêsu "ra khỏi hội đường" không chỉ vì đã đến giờ đóng cửa, nhưng vì các thính giả chưa hiểu được Người. Như các môn đồ khi chương kiến cơn bão dẹp yên, họ cũng đặt câu hỏi về bản thân Chúa Giêsu: "Cái gì vậy? (1,27), "ông này là ai thế? (4,41). Nhưng họ chưa trả lời được. Chắc hẳn phải coi đó là một hình ảnh biểu trưng: bao lâu còn ở trong hội đường, ta chưa thể trở nên môn đồ Chúa Giêsu; cần phải ra khỏi đó như một cuộc xuất hành mới. Nơi c.39, Mc sẽ viết với một đại danh từ độc hữu: "hội đường của họ". Xa hơn ông kể rằng sau một phép lạ làm trong hội đường do Chúa Giêsu các biệt phái mới họp với phe Hêrôdê để chống Người. Chính vì thế mà người rút lui về bờ "biển": Người đi ra và có nhiều kẻ đi theo (3,7). Chúa Giêsu cũng sẽ đi xa khi làm phép lạ hóa bánh và nhiều đám đông sẽ đến với Người (6,32-33). Người sẽ còn ra khỏi Đền thờ (11,11) và khỏi Giêrusalem nữa (11,19; 13,1). Về đề tài này, Luca lược đồ hóa rõ ràng hơn Mc: theo Lc Chúa Giêsu rao giảng lần đầu tiên tại hội đường Nadarét. Và ngay từ hội đương này, không những người đã chẳng được hiểu và bị bó buộc phải rời khỏi đó mà còn phải lẩn trốn để khỏi bị giết đi (Lc 4, 16-30).
Chắc Mc đã nghĩ đến chủ đề bất biến này trong Tân ước. Nhưng ta có nên đi xa hơn và xác quyết rằng ông đã muốn đối nghịch hội đường với nhà của Simon-Phêrô, hình ảnh Hội Thánh không? Chưa nên. Vì vẫn biết ngôi nhà này chiếm một chỗ quan trọng trong Tin mừng thứ hai (x. Assemtlées du Seigneur 38, tr.81 và 41, tr.40), nhưng ở đây Lc chưa nói đến Phêrô cách đặc biệt; ông chỉ bảo: "Người đến nhà của Simon và Anrê, cùng với Giacôbê và Gioan.
Bốn môn đồ đã được gọi đầu tiên (1,16-22) và vẫn luôn là những kẻ thân tín nhất này, là chứng nhân của phép lạ. Việc thiết lập nhóm Mười hai chỉ xảy đến về sau.
II. CHỮA LÀNH MẸ VỢ SIMON (cc.30-31)
1. Sự kiện:
Người ta đã đề nghị phân biệt các phép lạ của Chúa Giêsu thành hai: các phép lạ thương xót và các phép lạ chiến đấu (E.Trocmé, La formation đe Levangile de Marc, Paris, 1963, tr.123). Dù không tuyệt đối hoàn toàn, cách phân chia này vẫn giúp làm nổi bật hơn chiều hướng của các trình thuật. Những lần trừ quỷ có thể gọi là các phép lạ chiến đấu: Mc muốn nhân mạnh như vậy (1,23-28.29). Việc chữa lành mẹ vợ Phêrô có thể xem như một "phép lạ thương xót": người ta đã nài xin Chúa Giêsu chữa cho bà (c.30). Tuy nhiên trong tư tưởng Mc, mọi việc chữa lành đều cũng tượng trưng một cuộc chiến thắng ma quỷ; ở giữa việc trừ quỷ và chữa lành tật bệnh, chẳng có phân biệt rõ rệt nào (x. 1,39; 3,15; 6,7 và 13). Còn Lc thì rõ ràng trình bày chuyện chữa lành mẹ vợ Phêrô như một việc trừ quỷ: Chúa Giêsu "hăm dọa cơn sốt" (Lc 4,39)
Theo Mc thì bệnh nhân cảm sốt. Nhưng ta không thể xác định đó là bệnh gì và nặng nhẹ ra sao.
Trong trình thuật của Mc, người ta thường nhận ra được chứng từ của chính Phêrô, là chẳng nhân trực tiếp của quang cảnh. Hình như thánh sử chỉ lấy chữ "chúng tôi" của Phêrô bằng chữ "họ". Một vài lỗi ngữ pháp hoặc chi tiết văn thể chỉ giải thích được nếu cho rằng chính Phêrô đã kể lại các biến cố: chẳng hạn như chi tiết về Giacôbê và Gioan, vốn có vẻ như một câu ngoài đề.
Việc so sánh với bản văn song song của Mt giúp ta thấy được cách diễn tả phong phú của Mc: Mt không nói đến các môn đồ, họ có vẻ- như vắng mặt: Chúa Giêsu vào, thấy bệnh nhân, cầm tay và và bà cảm thấy "điều đó” (Mt 8,15). Sự đối diện này có lẽ làm cho bài giáo lý của Mt ra rõ ràng và sâu xa hơn, nhưng lại giảm đi tính cách có vẻ thực của trình thuật. Bản văn của Mc thì lại rất đơn giản. Người ta có thể viện dẫn tính cách đơn giản này để biện hộ cho xác thực tính của phép lạ, bởi vì các trình thuật chữa lành bệnh của lương dân thường rất phóng đại chi tiết.
2. Ý nghĩa của phép lạ theo Mc.
Các trình thuật Tin mừng về việc chữa lành. mẹ vợ Phêrô không giúp ta xác định đúng chủ ý của Chúa Giêsu. Khi Người làm hành vi đó, cũng như ý nghĩa đích thực mà các chứng nhân đầu tiên gán cho việc này. Tuy nhiên ta biết người Do thái đã thường xem cảm sốt như là một hình phạt của Thiên Chúa, đi theo với chứng kiệt sức (Đnl 28,22; 32,24; Lv 26,16) hay với bệnh dịch (Hb 3, 5). Về sau, người ta năng gán cảm sốt cho một con quỷ. Trong nhãn giới đó, phép lạ ở Capharnaum, đối với mọi người, hẳn muốn bảo rằng Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa sai mà Isaia đã loan báo là sẽ đến cứu con người khỏi đau khổ, hậu quả của sự ác luân lý (Is 26,19; 29,18t; 33 3; 35,5...). Mc đã lấy việc chữa lành mẹ vợ Phêrô làm một trong các yếu tố của “ngày Capharnaum” ngày mẫu của giai đoạn đầu sứ vụ Cứu Chúa; phép lạ minh giải, bằng một ví dụ, các bảng "toát yếu” về bao cuộc chữa lành mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Như thế phép lạ này là một dấu chỉ cho thấy thời đại cánh chung hay thiên sai đã đến trong bản thân Chúa Giêsu: Người hành động với chính quyền lực của Thiên Chúa. Nhưng đây vẫn còn là một đấu chỉ. Cần phải mất nhiều thời gian con người mới khám phá và chấp nhận ý nghĩa của dấu chỉ đó (x. Mt 11,4-6). Dẫu sao dự định riêng của Mc sẽ hiện ra rõ ràng hơn khi ta khảo sát kỹ lưỡng câu 31 và câu song song với nó trong Mt 8,15.
3. Chúa Giêsu nâng dậy con người.
Cách đặt câu 31 có một điểm dị thường, ta hãy thử giải thích. Theo nguyên tự, ta có: "Tiến lại, Chúa Giêsu cho bà chỗi dậy bằng cách nắm lấy tay bà, và cơn sốt đã biến khỏi bà". Bình thường lẽ ra phải viết: Chúa Giêsu cầm lấy tay bà và cơn sốt biến khỏi bà; bà chỗi dậy...”. Dĩ nhiên Mc trước tiên không lưu tâm đến tính cách thuận lý, nhưng một chi tiết khác tăng cường chú ý của ta: động từ ogeirô Mc sử dụng ở đây đã trở thành một hạn từ chuyên môn chỉ việc sống lại. Mấy chữ “Người cho bà chỗi dậy”, hình như đã được thánh sử chèn vào trong một câu đơn giản hơn của Phêrô khi kể lại biến cố, vì là chỉ có nơi ông (Mt và Lc chỉ nói: bà chỗi dậy) Thành thử có lẽ Mc đã đưa những chữ này vào với mục đích giáo lý, và việc chọn động từ ogeirô nói lên ý hướng biểu tượng của ông. Như đã làm cho mẹ vợ Phêrô chỗi dậy khi cơn sốt đã biến bà bất động như chết trên giường, thì Chúa Kitô cũng đến cho ta chỗi dậy, cho ta phục sinh, để ta có thể phục vụ người. Chữ ogeirô cũng còn gặp trong trình thuật chữa lành em bé kinh phong (Mc 9,26-27), nơi lối biểu trưng còn rõ ràng hơn nữa. Thành thử chẳng lạ gì khi Mátcô đã muốn ám chỉ biểu tượng đó ở đây (x. P.Lamrarche, La guérison de la bolle-mère de Pirre ét le gent'e littéraire des Evangiles, trong NRT (1965) tr.518-520).
4. Chỗi dậy dể phục vụ
Trong bối cảnh phép lạ, hay đúng hơn trong khung cảnh tiếp đón Chúa Giêsu tại nhà Phêrô, phục vụ trước tiên là cho ăn uống. Trong cùng ý nghĩa đó, sau những cuộc thử thách ở hoang địa, các thiên thần đã phục vụ Chúa Giêsu (Mc 1, 13), như Người cũng đã truyền cho con gái của Giairô ăn uống sau khi cho nó sống lại (Mc 5,43). Chúa Giêsu không bỏ qua thực tại trần thế giản đơn này, Người còn đi xa hơn nữa. Có lẽ ở đây Mc đã liên tưởng đến lời Chúa Giêsu: "Con người chẳng đến để được phục vụ nhưng là để phục vụ (diakonesai)" (Mc 10,45). Phục vụ không chỉ có nghĩa là hầu bàn, nhưng nếu cần, là "thí mạng làm giá chuộc nhiều người" (c45). Đó là lý tưởng mà Chúa Kitô đã đề ra cho những ai Người phục sinh từ cái chết của tội lỗi.
Trong bản văn ngắn gọn và đặc thù hơn của Mt, ta đã thấy Chúa Giêsu xuất hiện một mình. Số ít của phần cuối câu 15 (bà phục vụ Người) đã làm cho ý nghĩa của động từ được mở rộng. Không còn là vấn đề dọn bữa ăn cho Thầy và cho môn đồ đói mệt vì miệt mài với sứ vụ nữa, song là một chuyện tổng quát hơn. Tình trạng trước của bệnh nhân tượng trưng thân phận con người tội lỗi bao lâu chưa được Chúa Kitô cứu vớt và việc chữa lành thân xác biểu hiệu công trình thiêng liêng Chúa Giêsu hoàn thành. Tin mừng thứ 4 sẽ khai triển cùng lối biểu tượng này trong trình thuật người bất toại ở hồ tắm Bêthesđa (5, 1-18).
III. BẢNG "TOÁT YẾU" (cc.32-34)
a. Các đặc tính của văn thể “toát yếu": ý nghĩa và việc tổng quát hóa.
Hiển nhiên là ta không nên hiểu theo mặt chữ những lời xác quyết tuyệt đối như: "Người ta đã đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám" (c.32), nhất là câu của Mt: Mọi kẻ ốm đau, Người đều chữa lành" (Mt 8,16; x. Lc 4,40). Ta biết rằng Chúa Giêsu đã không chữa lành hết mọi bệnh nhân; Người đòi hỏi đức tin của họ. Vì thế Mc đã viết: “Chúa Giêsu đã chữa nhiều kẻ ốm đau” (c.34). Cũng có thể có một thái quá trong kiểu nói: Tất cả thành đều tụ tập trước cửa" (c.33): hình như đây là một sự tổng quát hóa, nhưng chắc chắn cũng là kỷ niệm về một sự kiện có thật đã hơn một lần xảy ra và đã đánh vào trí tưởng tượng của lắm người: truyền thống nhiều lần kể lại rằng người ta đã không thể qua cửa mà vào nhà được vì dân chúng quá đông: nên phải chuyền miệng vô lời nhắn gởi (3,32), hoặc đưa bệnh nhân lên mái nhà thòng xuống (2,1-4).
b. Lũ quỷ
Danh từ hay tĩnh từ quỷ được dùng ba lần trong Mc 1,32-34 và một lần nữa ở c.39. Ta thấy rõ đó là một trong những ưu tư lớn của Mc. Chúa Giêsu đến chiến đấu với ma quỷ và giải phóng con người khỏi quyền lực của nó. Ngay từ đầu, Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Kitô như là kẻ mạnh hơn" (1,7); Người khai mạc sứ vụ bằng một cuộc tấn công trực tiếp Satan và hắn bị bại trận (1,12-13). Ngay khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng thì một kẻ ma ám thử cản trở Người, nhưng quỷ đã bị trục xuất (1,23-27); và trong đoạn kết của Mc", dấu chỉ đặc trưng đầu tiên của người môn đồ là "xua trừ ma quỷ" (16,17) (x. G. Gaide, Les deux maisons, trong Assemblées du Seigneur 41, tr.41-45). Trong nhãn giới này, mọi bệnh tật đều bắt nguồn từ ma quỷ và mọi cuộc chữa lành nhờ trục xuất- ma quỷ đều là một chiến thắng trên quỷ ma.
c "Bí mật thiên sai (c.34b).
Kết luận của bản toát yếu này thường được xem như là do Mc biên soạn. Mc không để mất một cơ hội trở lại với lời căn dặn giữ bí mật thiên sai như với một chủ đề ưa thích (G. Minettè. de Tillesse, le secret messianique danh l'evangile de Marc, paris, 1968). Câu này sẽ dễ hiểu hơn nếu đặt sau việc trừ quỷ ở hội đường, vì lúc đó người bị quỷ ám kêu lên: “Chúng tôi với Ngài nào có việc gì?... Tôi biết Ngài là ai: Đấng Thánh của Thiên Chúa" (1,24). Để nhắc lại những lời này, Mc hẳn đã thêm một giải thích vào câu 34: "Bởi vì chúng (lũ quỷ) biết Người là ai". Lc muốn rõ hơn nên đã lặp lại những lời của quỷ (4,34-41).
Lũ quỷ này sáng suốt hơn con người đã tức khắc nhận ra được địch thủ của chúng và gào to lên (1,24; 5,7...). Dĩ nhiên tiếng la hét của chúng chẳng phải là những hành vi đức tin, nhưng là những dấu hiệu sợ hãi và thảm bại trước kẻ mà chúng nhận ra là người được Thiên Chúa sai đến, đầy quyền lực thần hình mà chúng không thể đương cự nổi (x. 3,22-27). Đối với con người, Chúa Giêsu tự mặc khải một cách tiên tiến bằng những dấu chỉ về quyền lực của Người trên các bệnh tật nổi tiếng là nan y.(1,40-45), trên tội lỗi mà chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha thứ (2,5-12), trên ngày của Chúa là ngày hưu lễ (2,28), và cuối cùng là trên sự sống (ch. 15-16).
Tự hỏi "Giêsu là ai?" tức là đã làm một bước đầu trên con đường đưa đến sự hiểu biết hoàn hảo về bản nhân Người, đưa đến đức tin. Vậy mà Mc muốn từng bước dẫn đưa độc giả (hay thính giả) đến chỗ khám phá Chúa Giêsu Kitô như thế.
Khi nhìn thấy những kỳ công đầu tiên Chúa Giêsu đã làm, trong đó có việc chữa lành mẹ vợ Phêrô, con người chỉ nghĩ đến những hồng ân vật chất tức thời mà họ có thể chờ đợi cho chính họ hay cho thân thuộc họ. Ví dụ như dân làng Nadarét theo Lc (4,23). Khi đó Chúa Giêsu liền lánh mặt.
Ta không cần nhắc lại ở đây những gì đã nói về bí mật thiên sai, chỉ cần nhấn mạnh đến một khía cạnh giáo dục của chủ đề nầy: một hành vi đức tin vào Chúa Giêsu sẽ chỉ thực sự có giá trị khi gói ghém một sự hiểu biết đầy đủ về sứ mệnh và công việc Người, đặc biệt về sự cần thiết phải chết và sống lại để hoàn thành công việc đó. Người thứ 4 diễn tả điều này như sau: "Có lắm kẻ đã tin vào danh Người bởi được chứng kiến các dấu lạ Người làm, nhưng Chúa Giêsu không tín nhiệm vào họ" (Ga 2,23-24).
Tuyên bố Chúa Giêsu là Đấng Messia mà chẳng tin rằng Người phải chết và sống lại, đó là nói mà không biết mình nói gì, và có thể liều mình chối Chúa Kitô một khi khám phá được thực tế.
IV. HƯỚNG CẢ VỀ XỨ GALILÊ (cc. 35-39).
Trình thuật nơi cc. 35-39 là một bản lề (trình thuật chuyển tiếp): cho đến bây giờ Chúa Giêsu xem ra giới hạn chân trời và hồng ân Người cho dân vùng Capharnaum; từ đây sứ vụ của Người sẽ lan rộng khắp miền Galilê hết thảy (c.39).
Trước lúc hừng đông, khi các môn đồ còn ngủ vì mỏi miệt sau một ngày truyền giáo, Chúa Giêsu đã thức dậy. Sự giao tiếp với con người và niềm vui chữa lành vài bệnh nhân chưa làm Người thỏa mãn. Người lui ra nơi thanh vắng để cầu nguyện, nghĩa là để đặc biệt tìm gặp sự thân mật với Cha Người. Lc sẽ nhấn mạnh điểm này xa hơn.
Simon còn chưa hiểu ý nghĩa sứ mệnh Chúa Giêsu: tựa như ông muốn khai thác thành công của Thầy. Ông chỉ thấy những phép lạ đã được thực hiện và tưởng rằng sẽ còn nhiều phép lạ khác, có lợi cho dân Capharnaum. Ông hy vọng đưa Chúa Giêsu lui về nhà. Đám dân đã tản mác đêm qua bây giờ trở lại, cũng với kỳ vọng thấy nhiều phép lạ mới: họ mong chờ những cuộc chữa bệnh, trong khi đối với Chúa Giêsu, loài ân huệ này chỉ là bước chuẩn bị cho việc đón nhận Tin mừng và mặc khải về mầu nhiệm bản thân Người thôi.
Mc không ghi lại đối tượng lẫn nội dung của lời Chúa Giêsu cầu nguyện nhưng mẩu đối thoại tiếp theo cho ta thoáng thấy được ý nghĩa của lời cầu nguyện đó. Đối với Chúa Giêsu, đấy không hẳn là xin ơn cho bằng là nói về sứ mệnh của người với Đấng đã sai Người đến. Trước đây lúc chịu phép rửa Chúa Giêsu đã nghe tiếng nói Cha Người (Mc 1,11; x Lc 3,21), đã nhận Thánh Thần là đã được Thánh Thần thúc dẩy tấn công ma quỷ (1,12-13).
Thành ngữ chính vì thế mà “Ta đã ra đi" có nghĩa là gì? Phải chăng là đi ra khỏi Capharnaum (nghĩa tự nhiên) hai đi ra khỏi Chúa Cha để đến trong trần thế (nghĩa của Gioan 16,28)? (x. A. Feuillet, Le Logion suy la rancon, trong Rev. Sc. Phil. Théo. (1967), tr.372). Luca đã hiểu câu nói Chúa Giêsu theo nghĩa thứ hai, vì ông đã viết lại: "chính vì thế mà Ta đã được sai đến" (4,43 hiểu là từ nơi Chúa Cha). Tuy vậy ta có thể nghĩ rằng đây là kết quả việc Lc suy ngắm về sứ mệnh Chúa Giêsu, và có chủ đích soi sáng sứ mệnh của Giáo Hội cùng của các môn đồ: qua từng giai đoạn, các môn đồ phải vượt ra khỏi mọi biên giới và đem Tin mừng đến tận cùng thế gian (Cv 1,8). Mc đã chẳng đẩy suy tư về sứ mệnh Giáo Hội xa như thế, ông gần với những sự kiện như đã xảy ra hơn: Chúa Giêsu không muốn bị kéo lôi bởi thành quả của Người. Về sau cũng vậy, sau khi làm phép lạ hóa bánh, Người lui ra nơi cô tịch để tránh sự cuồng nhiệt của đám đông và để đặt mình trong ý định của Thiên Chúa (Mc 6.46; Mt 14,23; Ga 6, 15b). Cơn hấp hối tại vườn Ghetsêmani có thể đem đối chiếu với hai giai thoại này. Trong cả ba trường hợp, Chúa Giêsu lui ra để cầu nguyện ban đêm; các môn đồ, đặc biệt là Phêrô, đều tỏ vẻ kinh ngạc, vì họ chưa hiểu sứ mạng của Thầy.
NHỮNG KẾT LUẬN CHO THỜI NAY
Cuối bài khảo cứu này, ta thấy bản văn Chúa Nhật hôm nay, có một tính cách thời sự đặc biệt, dĩ nhiên không phải ở điểm gán cho ma quỷ các chứng bệnh, nhưng vì giải tỏa được nhiều ưu tư của ta về phương pháp giáo dục đức tin và về nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội.
1. Sự dấn thân của đức tin.
Người ta đã có lý khi bảo Tin Mừng thứ hai là một lời rao giảng hơn là một bài giáo lý. Tuy nhiên điều ấy không có nghĩa là để theo Mc, chỉ cần một đức tin tối thiểu mà rồi sau đó sẽ đào sâu với giáo lý của Mátthêô, đoạn với thần học của Phaolô hay của Tin mừng thứ tư. Không! Mátcô rất đòi hỏi. Ông chẳng muốn một sự dấn thân khơi khơi bên ngoài. Chính vì thế mà ông không đặt ngay vấn đề dứt khoát. Ý nghĩa của mệnh lệnh giữ bí mật thiên sai là vậy, và đó là một phương pháp giáo dục tuyệt hảo: kẻ rao giảng Tin mừng luôn luôn nói về Chúa Kitô, nhưng cẩn thận mặc khải, bản thân và mầu nhiệm Người cách tiệm tiến, bằng nhiều "dấu chỉ nhiều lời ẩn bí (mashal). Thỉnh thoảng ông cũng kín đáo để lộ cái cốt yếu của mầu nhiệm nhưng lại che dấu ngay lệnh giữ bí mật), nhưng chính Chúa Giêsu khi Người trốn khỏi quần chúng hoặc khi chỉ tỏ lộ vinh quang trong chốc lát lúc biến hình. Vị thánh sử cũng là giáo lý viên có trách nhiệm về các tân tòng. Đã biết nhận ra thính giả của mình chưa sẵn sàng mấy còn cần phải tiến bước lâu dài và thong thả. Mầu nhiệm của Chúa Giêsu quá vĩ đại, khó mà khám phá trong một ngày, trừ phi được ơn đặc biệt như Phaolô.
Chính nhóm Mười hai cũng đã trải qua nhiều thời gian dài mới tin vào Chúa Giêsu thực sự, mới biết Người đúng như bản chất Người. Chắc hẳn họ đã gắn bó với Người rất sớm, nhưng chỉ đạt được đức tin sung mãn sau tiến cố Tử nạn, Phục sinh và Ngũ tuần thôi. Cho tới lúc đó, đức tin của họ vẫn còn bất toàn và mỏng manh, như ta thấy rõ vào giờ Chúa Giêsu bị bắt và bị xử án.
Tại sao có sự đòi hỏi, sự tiệm tiến nơi Mc như vậy. Chắc chắn là vì ông ctã hiểu đức tin lôi kéo sâu xa con người đến mức nào. Có lẽ Phêrô, được soi sáng bởi kinh nghiệm riêng của mình (những lần chối Chúa) đã nhấn mạnh đặc biệt về điểm này chăng? Rồi chắc cũng là vì lúc Tin Mừng Mc được biên soạn dứt khoát thì Giáo Hội Rôma đang sống trong những hoàn cảnh đòi buộc thái độ trên: trong trường hợp bị bách hại, người ta chỉ có thể nhận vào Giáo Hội những tân tòng đã được chuẩn bị kỹ càng và đã quyết tâm theo Chúa Kitô, dù phải mất mạng sống.
Ngày nay đòi hỏi này vẫn còn có giá trị, chứ không chỉ dành riêng cho thời hoặc miền đã bị bách hại mà thôi. Người ta đã không luôn luôn chú ý cho đủ giáo huấn của Mc về điểm này. May thay, thời nay, nhờ nhiều đường lối khác nhau, người ta đã khám phá nó lại.
2. Lời mời gọi truyền giáo.
Như mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu đã yêu quê hương làng nước của Người (Nadarét, Capharnaum). Người đã khởi đầu sứ vụ tại đó, nhưng Chúa Cha đã gọi Người đi xa hơn. Trong một đoạn ngắn ngủi, Lc cho thấy làm sao Chúa Giêsu đã bỏ Nadarét. Mc kể lại làm sao Người đã rời Capharnaum. Ngày hôm nay, người ta nhấn mạnh nhiều và không phải không có lý do đến nghĩa vụ truyền giáo ngay bên trong những vùng đất được gọi là Kitô giáo từ lâu đời, và cũng nói đến rất nhiều khó khăn mà những người đem Tin mừng đi xa gặp phải, khiến có nguy cơ làm giảm số lượng những nhà truyền giáo phương xa này. Nhưng như vậy là đã bỏ quên một khía cạnh quan yếu của sứ mệnh Hội Thánh. Bài Tin mừng hôm nay nhắc cho ta nhớ khía cạnh đó lại.
3. Đứng trước bệnh tật và những đau khổ trần gian khác.
Phản ứng của người dân Capharnaum vẫn tiếp tục bày tỏ. Biết bao nhiêu người, hôm nay vẫn còn, chỉ đến xin Chúa Kitô và Giáo Hội giúp đỡ vật chất và họ phê phán Chúa Kitô cùng Giáo Hội chỉ qua thái độ đáp ứng nỗi chờ mong đó. đây là phản ứng một phần bị thúc đẩy bởi khuynh hướng đã có từ lâu trong Giáo Hội là chỉ giới hạn trong sứ vụ thiêng liêng. Nhưng đàng khác cũng là phản ứng muôn thuở có thể khiến người ta đi từ cực đoan này đến cực đoan khác. Trước một sự chờ đợt như vậy, Chúa Giêsu lánh mình đi. Dĩ nhiên Người đã ngang qua thi ân giáng phúc và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ áp bức khống chế (Cv 10,38). Và Người cũng muốn các môn đồ làm như Người, một cách thích nghi hơn cho thời của họ. Nhưng Người không hề để nình bị giam hãm trong cái vòng đó Môn đồ và Giáo Hội Người cũng phải như vậy.
Gilles Gaide, Assemblées du Seigneur 36, tr.39-48.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Bài đọc1: Gióp hay là "đau khổ trong đức tin”. Gióp sống trong đức tin. Có hai điểm ông cho là cốt yếu và phải giữ vững: đó là có một sự đau khổ bất công và Thiên Chúa thì luôn luôn nhân ái và công bình. Ông không hiểu được làm sao có thể dung hòa hai xác quyết tương phản ấy nhưng vẫn giữ vững cả hai. Trước một đau khổ, mọi lối an ủi như: "Chúa nhân từ yêu bạn! Đời sau sẽ đẹp hơn! Bạn chuẩn bị Thiên đàng! Bạn đền thay cho tội nhân!" đôi khi có vẻ thừa thãi. Sự đau khổ không thể thỏa mãn với một lời giải thích giản đơn. Sự đau khổ, nhất là khi xảy đến cho những kẻ vô tội hoặc khi quá sức lớn lao, là một trong những mầu nhiệm lớn của con người. Trước đau khổ, thái độ đích thực chỉ có thể là một đức tin sâu xa. Thiên Chúa đã phán: tư tưởng các ngươi không phải là tư tương của Ta và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta" (Is 55,8).
2. Chúa Giêsu không đến trần gian để tiêu diệt hết mọi khổ đau, bệnh tật. Ngay lúc sinh tiền, Người chẳng chữa lành hết mọi bệnh nhân Người gặp, giải quyết hết mọi vấn đề sinh tồn của con người. Người chỉ ra tay cứu giúp một số ít, đặc biệt những ai có lòng tin để cho họ tin vào sứ điệp Người, thấy lòng nhân ái của Thiên Chúa và hy vọng một tương lai trong đó quyền năng của người sẽ dẹp tan mọi đau khổ. Đúng ra Người đến để mang lại cho đau khổ một ý nghĩa đích thực, một công dụng siêu nhiên. "Sự cao cả tuyệt vời của Kitô giáo là ở chỗ nó không tìm một phương dược siêu nhiên để chống lại đau khổ, nhưng là tìm ra một công dụng siêu nhiên cho đau khổ” (Simone Weii). "Từ khi Chúa Kitô đến, chúng ta được giải phóng không phải khỏi việc đau khổ, nhưng là khỏi việc chịu đau khổ cách vô ích" (P.Charles SJ).
3. Thiên Chúa không dẹp tan đau khổ cho con người đang sống trong thời gian bởi vì đau khổ cần cho con người. Đau khổ là giá của tự do, là trường rèn luyện nhân cách, là động lực tiến bộ xã hội, là dấu chứng minh tình yêu, là phương tiện để giúp ta từ bỏ hầu chọn lựa được Thiên Chúa. Xét một cách tiêu cực, còn đau khổ trong trần gian là vì con ngươi còn thiếu tình yêu đối với anh em, còn đau khổ trong bản thân là vì con người còn bám chặt lấy hay chưa dứt bỏ nổi cái không phải là hạnh phúc đích thực. "Ngàn lần chúc tụng sự đau khổ đã đưa tôi về với Thiên Chúa” (Francois Coppée). "phương pháp làm nhẹ đau khổ của mình là giảm bớt đau khổ của tha nhân" (P.Charles SJ).
4. Chúa Giêsu không chỉ loan báo Tin mừng, Người còn cụ thể hóa Tin mừng đó bằng các hành vi cho thấy Vương triều Thiên Chúa (mà Người là nhân chứng và là Messia) đang đến. Trong thế giới này, Kitô hữu chúng ta cũng phải là những người kế tục sứ mệnh Chúa Giêsu Kitô. Làm chứng cho Vương triều Thiên Chúa. Sứ mệnh đó sẽ không chỉ nằm trong lời nói, mà còn trong hành động: đức tin chúng ta phải thúc giục chúng ta cụ thể hóa lời rao giảng bằng một hành động tấn công mọi quyền lực của sự ác như Chúa Giêsu. Kitô hữu là người muốn minh chứng Nước Trời đang đến bằng việc tích cực chống lại những gì là xấu xa, bệnh tật, đàn áp, bóc lột, bất công, đau khổ, tội lỗi. Đó là cách duy nhất để làm cho Nước Trời mau đến. Đó cũng là cách duy nhất mà Giáo Hội - dấu chỉ bí tích của Nước Trời gây niềm tin cho thế gian. Phải làm những hành vi có ý nghĩa như Chúa Giêsu đã làm.
5. Thính giả của Chúa Giêsu rất khó chấp nhận giáo lý phổ quát, đại đồng của Người. Họ vấp phạm, họ thắc mắc khó chịu về tính cách phổ quát ấy. Luôn luôn họ vẫn nghĩ họ là dân riêng duy nhất được ưu đãi, chứ không còn nơi nào khác. Đồng ý là Thiên Chúa tự chọn: Giáo Hội Ngài, nhưng việc chọn lựa đó chỉ là điểm khởi hành để đi đến "nơi khác". Với Giáo Hội ngày nay, cả với tôi nữa, Chúa Giêsu vẫn còn nhắc: Chúng ta lên đường đi nơi khác". Lời đó có nghĩa gì cho tôi? Thưa nghĩa là tôi không được bo bo giữ kín Tin mừng để thỏa mãn cho tôi thôi, song phải làm sáng tỏa cho mọi người".
74.Chúa Nhật 5 Thường Niên--Fiches Dominicales
TỪ HỘI ĐƯỜNG CAPHÁCNAUM ĐẾN KHẮP MIỀN
GALILÊ. LỜI CẦU NGUYỆN CỦA CHÚA GIÊSU
NGAY GIỮA LÚC THI HÀNH SỨ VỤ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ âm thầm trong “nhà”
Ba câu chuyện nhỏ xảy ra liên tiếp trong bài Tin Mừng Chúa nhật thứ V hôm nay. Cả ba tương phản nhau như được tượng trưng qua những địa điểm chúng xảy ra: bắt đầu từ một chỗ âm thầm trong “nhà của ông Simon" (Phêrô); rồi đến "ngoài cửa”, nơi "cả thành xúm lại”, sau cùng là "một nơi hoang vắng” ở đó, trong lúc Chúa đang cầu nguyện, vang lên lời Người gọi mời phải mở rộng cánh đồng truyền giáo.
Đức Giêsu, có các môn đệ đầu tiên cùng đi theo, ra khỏi hội đường Caphácnaum, đến "nhà hai ông Simon và Anrê “. Luật Do Thái có qui định nghiêm ngặt trong ngày Sabát như ngày hôm đó, người ta được phép đi lại bao xa. Kết quả những công trình đào xới khảo cổ học gần đây cho thấy, quãng đường phải đi từ hội đường đến "căn nhà mà Đức Giêsu và các ông định đến, quả thực rất gần. Căn nhà này hình như là địa điểm họp mặt, đồng thời là cứ điểm truyền giáo của Đức Giêsu. Nó đóng một vị trí quan trọng trong Tin Mừng thứ hai này.
Máccô thuật tiếp: "Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt”. Để hiểu được ý nghĩa câu chuyện, cần phải nhớ rằng vào thời đó, bệnh sốt được xem như là một trong những hình phạt mà Thiên Chúa doạ sẽ giáng xuống trừng phạt dân tộc bất trung: "nếu các ngươi khinh thường các luật điều của Ta, và hồn các ngươi ớn ghét các phán quyết của Ta, không làm theo rất cả các lệnh truyền của Ta, đến thủ tiêu giao ước của Ta, thì chính Ta, Ta sẽ làm điều này cho các ngươi. Ta sẽ giáng xuống trên các ngươi kinh hoàng, tiêu hao, cảm sốt làm cho mắt đờ, hơi kiệt” (Lv 26, 15-16a).
J. Pótin chú thích thêm: "người bị bệnh sốt, là kẻ bị tình nghi phạm một tội nào đó, khiên tuỳ mức nặng nhẹ của cơn sốt mà không được tham dự, hoặc tất cả hoặc một phần; vào sinh hoạt chung tôn giáo và xã hội" ("Jésus, lhistoire vraie", Centurion, trang 162).
Câu chuyện được tiếp tục kể, giọng điệu mau lẹ, ngắn gọn, không thấy một lời nói nào.
Trước tiên là sự thỉnh cầu của các thân nhân người bệnh: "Lập tức họ nói cho Người biệt tình trạng của bà”.
Tiếp đó là cử chỉ chữa lành: "Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay mà đỡ dậy”.
Dưới ánh sáng Phục Sinh, cử chỉ này của Đức Giêsu mang một ý nghĩa biểu tượng đối với Máccô và cộng đoàn Kitô hữu của ông. J.Hervieux lưu ý chúng ta: “ Đó là điều được ám chỉ một cách kín đáo, qua việc sử dụng một kiểu nói đặc biệt. Tro ng tiếng Hy Lạp, động từ "đỡ dậy" cũng là động từ Máccô dùng để nói về Đức Giêsu: "Người đã chỗi dậy rồi" (16,6). Chúng ta cần phải đặt mình trong khung cảnh những Kitô hữu tiên khởi khi đọc trang Tin Mừng này. Đối với họ, Đức Giêsu không chỉ là Đấng có quyền phép chữa bệnh lạ lùng trong giai đoạn đầu của sứ vụ. Với cuộc Phục sinh, Người được suy tôn là "Đức Chúa và Đấng Kitô" (Cv 2,36), nghĩa là Đấng qua từng ngày vẫn tiếp tục cứu chữa loài người khỏi tội lỗi tiếp tục giải thoát họ khỏi sự chết" ("LEvangile de Marc", Centurion, trang 33).
Người bệnh bỗng phút chốc được lành bệnh, sức khoẻ được hồi phục hoàn toàn, bằng chứng là sau đó bà bắt đầu phục vụ Đức Giêsu và các người đi theo Chúa. Đó cũng là hình ảnh người Kitô hữu đã từng bị nằm liệt, do bị hành hạ bởi cơn sốt là tội lỗi Nhưng Đức ki tô đã đến "cầm lấy tay mà đỡ dậy”; nhờ đức tin và phép Rửa tội, để một khi đã được chữa lành, họ sẽ trở thành kẻ phục vụ Chúa và anh ern mình: "Cơn sốt dứt ngay, và bà phục vụ các ngài”. J. Hervieux tiếp tục: “Khi trình bày cho thấy, người đàn bà đã được chữa khỏi, bắt đầu phục vụ các vị khách của mình, Máccô chắc chắn nghĩ đến việc "phục vụ " Đức Kitô mà mỗi Kitô hữu được mời gọi phải làm Đấng Cứu Thế không ngừng giải thoát các tín hữu của người khỏi sự dữ để họ bắt tay vào công việc phục vụ đó " (Sđd).
2. Rồi đến “trước cửa” có “cả thành xúm lại”:
Khi mặt trời lặn, đối với người Do Thái, đó là lúc kết thúc ngày Sabát, và bắt đầu một ngày mới.
Hết bị ràng buộc bởi những khoản cấm đoán liên can đến ngày hưu lễ, mọi người từ lúc này ai nấy trở lại với sinh hoạt bình thường, và họ dẫn đến cho Đức Gtêsu "mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám”. Chẳng mấy chốc, theo lời của Máccô, "cả thành xúm lại trước cửa”. Phép lạ chữa lành bà mẹ vợ ông Phêrô diễn ra âm thầm giữa một nhóm vài ba người, nay đã bung ra cho niềm khát mong của bao kẻ bên ngoài: "Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ”.
- Người ra lệnh cho chúng không được nói gì cả lần này cũng nghiêm khắc không kém gì lúc ở trong hội đường (c.25): "Người không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai”.
M.E.Boismard đặt câu hỏi: "Tại sao lại có bệnh cấm đoán đó ở đây cũng như chỗ khác, trong ch. 1 câu 5, khi Đức Giêsu bị thần ô uế phải im tiếng mà xuất ra khỏi nạn nhân?…Vào thời đó cũng chính ông trả lời, đất nước Palestin đã bị mất chủ quyền, và rơi vào ách đô hộ của người La mã. Do vậy, dân tộc Do Thái ngày đêm mong mỏi một vi anh hùng giải phóng đến để "khôi phục lại vương quốc Israel" (Cv 1, 6; Lc 1, 58-73). Nhưng Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến không phải thực hiện công cuộc khôi phục có màu sắc chính trị đó. Chính Đức Kitô rồi đây sẽ giải thích thực chất vương quyền của Người là gì, khi triển khai giáo huấn của Người bằng những dụ ngôn (Mc 4, 1 và tiếp theo). Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn sự sai biệt giữa vi vua mà dân Do Thái mong đợi và vị vua mà Thiên Chúa gởi đến cho họ. Chính vì muôn tránh sự hàm hồ đó mà Đức Giêsu đă không cho phép quỷ xưng Người là ai, cũng như sau này Người chỉ thị cho những kẻ được chữa lành phải thinh lặng. Đó là lý do của cái quen gọi là "bí mật Mêsia" (“Jésus, un homme de Nazareth", Cerf, trang 46-47).
Danh hiệu "Đấng Kitô" và "Con Thiên Chúa" chỉ được giải nghĩa chính xác sau ngày dưới ánh sáng của Khổ Nạn và Phục Sinh. Phải giữ thinh lặng cho đến khi thật sự sáng tỏ rằng Đấng Messia chỉ đến cứu loài người qua con đường hy sinh chịu chết.
3… Và “những nơi khác" phải đến để rao giảng:
Các câu từ 35 đến 39 đóng vai trò chuyển tiếp giữa sứ vụ của Đức Giêsu được khai trương ở Caphácnaum và mở rộng ra khắp miền Galilê.
Trái ngược hoàn toàn với công việc bề bộn của Người để phục vụ đám đông ở Caphácnaum, giờ đây Đức Giêsu chỉ có một mình trong một nơi thanh vắng”.
- Chúng ta đang ở vào lúc sáng sớm, lúc trời còn tối mịt”, hôm sau ngày Sabát, ngày thứ nhất trong tuần, sau này sẽ là Chúa nhật của người Kitô hữu, "ngày của Chúa". Đức Giêsu cầu nguyện, như Người từng làm như thế vào mỗi khoảng khắc quan trọng của sứ vụ (x. Mc 6,46 và 14,35-39). Chắc chắn trước sự ồn ào nô nức của đám đông vây quanh mình, Người cảm thấy nhu cầu được đắm chìm lại trong sự thân mật với Chúa Cha, cũng như xác định lại vị trí của mình trên con đường sứ vụ. P.E. Boismard chú giải, "Trong nơi hoang vắng, tất cả đều im tiếng, chỉ có sự tĩnh lặng tràn ngập ánh sáng, chỉ có con người và Thiên Chúa. Bởi vì mọi sự đều lặng thinh nên con người mới nghe được tiếng Thiên Chúa" (Sđd, trang 49).
Các môn đệ thì chạy đi tìm Chúa, mong mời cho được Người trở về Caphácnaum, ở đó "mọi người đang tìm Thầy". Nhưng Đức Giêsu cương quyết nhắc cho họ biết cái cốt lõi trong sứ vụ của Người là: loan báo Tin Mừng. "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xă chung quang, Người trả lời họ, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.
Từ đó, "Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ”. Đoạn Tin Mừng chấm dứt ở giai đoạn mở màn của sứ mạng truyền giáo ấy.
Vài câu Tin Mừng ở trên có những nét đặc trưng của Máccô: Đức Giêsu ra đi trước, một mình, cầu nguyện. Lúc đó là đêm thứ bảy bước sang ngày Chúa nhật, quãng thời gian của sáng sớm ngày Phục Sinh (x. 16, 1-8). Các môn đệ ra đi sau, tìm Chúa để cố lôi kéo người lại. Thế nhưng trong Tin Mừng Máccô, không bao giờ có điểm dừng, người ta luôn luôn được gởi đi đến một nơi khác: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quang, vì Thầy ra đi cối để làm việc đó". Các phụ nữ đi viếng mộ Chúa sau này cũng được gởi đi lên một "nơi khác như thế ("Người không còn đây nữa. Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng người sẽ đến Galilê trước các ông). Bài tường thuật ngắn ngủi này có thể được dùng làm tấm gương soi cho cộng đoàn Kitô hữu đang họp nhau trong đêm thử bảy vọng sáng Chúa nhật, để cầu nguyện và tìm Chúa. Họ cũng sẽ được gởi đi đến một nơi các: "Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc" (13,10) ("L'evangile se lon saint Marc", Cerf, trang 37).
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. “ Cầu nguyện và truyền giáo"
(Mgl. L.Daloz, trong "Qui dong est-il?", Desclée de Brouwer, trang 17).
"Cuộc đời của Đức Giêsu luôn xáo động. Người thường không được ở yên. Thế nên Người phải ra đi để cầu nguyện, giữa đêm tối, ở một nơi hoang vắng. Simon và các bạn chạy đi tìm Chúa và quấy rầy Người: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Trong cuộc sống luôn bị xáo trộn như thế, Đức Giêsu tận dụng thời gian để cầu nguyện. Người cầu nguyện cách kín đáo, thường là một mình. Người lắng nghe Chúa Cha, trong thinh lặng, và nói với Chúa Cha. “ Thầy phải lo việc của Cha Thầy". Người là Người Con Chí ái, hằng yêu mến Cha, và luôn sống thân mật với Cha. Khi đi rao giảng cũng là lúc Người lo việc của Cha. Mọi người tìm Người, đợi Người. Nhưng Người đi nơi khác, "đến các làng xã chung quanh, theo tiếng gọi của sứ vụ truyền giáo của Người: "Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó". Mối tương quan thân mật giữa Đức Giêsu và Chúa Cha ảnh hưởng trực tiếp đến sứ vụ, lời rao giảng của Người. Người làm điều Cha muốn và tìm kiếm thời gian để ở với Cha. Đó cũng là điều kiện phải có của mọi sứ vụ. Nó đòi hỏi phải có sự gặp gỡ thân tình với Chúa Cha trong cầu nguyện, và lắng nghe ý Người".
2. “Một bài giáo huấn về vài khía cạnh trong Bàn Tiệc ngày Chúa nhật"
(F. Deleclos, trong: "Prends ét mang La Parole, "Centurion - Duculot, trang 137-138).
"Đoạn Tin Mừng kể về phép lạ chữa lành bà mẹ vợ của ông Phêrô không chỉ đơn giản là “chuyện nhỏ”, nó xứng đáng được xem như (một bài giáo huấn về vài khía cạnh trong Bàn Tiệc ngày Chúa- nhật”. Là những kẻ tội lỗi, chúng ta được qui tụ bởi đức tin, làm nên cộng đoàn Hội Thánh tìm kiếm Đức Kitô và kêu cầu Người. Giống như bà mẹ vợ của ông Phêrô, chúng ta bị nằm liệt giường và lên cơn sốt, chẳng được vui hưởng cuộc sống đích thực. Chúng ta bị hành hạ bởi bệnh sốt của những kẻ không chịu lắng nghe tiếng Chúa và chăm chú thực hành những điều răn của Người (Tl 28,15 và 22). Đức Giêsu đến làm cho chúng ta được bình phục, đủ sức khoẻ để phục vụ bàn tiệc thánh Thể và dấn thân vào cuộc chiến chống lại mọi hình thức của đau khổ".
3. "Phép lạ chữa lành như là dụ ngôn về sự sống lại"
(H. Denis, trong "100 mots pour dire Jésus", Desclée de Brouwer, trang 183).
"Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào lòng con. Nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh”.
Câu kinh đọc trước Rước lễ có thể soi sáng một vài suy tư sau đây về phép lạ chữa bệnh.
Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ chữa bệnh, đó là điều rõ ràng ai cũng biết. Chúng có mặt hầu như ở từng trang Tin Mừng. Đằng khác, nếu không chữa bệnh, làm sao Đức Giêsu chứng tỏ mình là Đấng Mêsia được? Đó là điều đòi hỏi phải có vào thời của Người, mà người ta còn gặp thấy lại nơi mọi lãnh tụ tôn giáo thời nay.
Nhưng Đức Giêsu không chỉ là một người chuyên chữa bệnh. Chắc chắn không! Người không, đến để chữa bệnh nhưng để cứu con người. Nếu có chữa bệnh đi nữa thì cũng là để cứu độ Người không bảo: "Đức Tin đã chữa lành con”, nhưng: "Đức Tin đã cứu con”. Thế mà ơn cứu độ là gì nếu không phải là được sống nhờ sự sống của Đức Kitô, dù khi khoẻ mạnh hay ốm đau, cả sau khi chết cũng như lúc còn sống. Phép lạ chữa bệnh chỉ là một thứ dụ ngôn về sụ sống lại. Một nhà chú giải hiện nay đã có một nhận định mà theo sự đánh giá của tôi, đã soi sáng cho tôi rất nhiều. Trong Phụng vụ, vị ấy nói, ngay từ ban đầu người ta chưa hề bao giờ đọc một bài Tin Mừng về phép lạ Đức Giêsu chữa bệnh để cầu cho bệnh nhân được lành (như thế chẳng khác nào đọc thần chú!), nhưng chỉ để công bố sự Phục sinh của Chúa".
75.Ngôn ngữ của con tim--Jean Ralté
Từ cuộc sống
Thật dễ nhận ra rằng càng ngày người ta càng đi tìm kiếm một cái gì đó, một lời gần gũi mình trong cuộc sống. Không ai còn thích nghe những diễn từ bóng bẩy, những lời hay ý đẹp cao siêu, như những đám mây. Chúng ta hết thảy đều tìm kiếm một lời nhanh chóng đưa đến hành động. Thế giới chúng ta khao khát những gì cụ thể. Đây là một thế giới đòi hỏi có những người biết làm chứng bằng chính cuộc đời mình trước khi làm chứng bằng lời nói.
Ngôn ngữ của con tim.
Cuộc sống của Chúa Giêsu đáp ứng sự mong chờ của loài người. Ngài không nói ngôn ngữ của những triết gia nay của những nhà thần học hoặc của các tư tế và ký lục ở thời đại của Ngài. Người con trai bác thợ mộc nói ngôn ngữ của con tim. Khi Ngài đến với con người, Ngài gặp họ trong toàn bộ con người của họ, thân xác và tinh thần. Ngài không tách rời giữa lời nói và hành động. Trước khi đến hội đường Caphanaum, Chúa Giêsu đã đến nhà ông Simon và Anrê. Ngài vừa mới đến thì người ta nói với Ngài về một người bệnh. Nhạc mẫu của ông Simon lên cơn sốt. Có lẽ nếu Chúa Giêsu chấp nhận nói chuyện với bà thì điều này sẽ an ủi bà chăng? Nhưng Chúa Giêsu còn làm nhiều hơn thế nữa: Ngài nói với bà bằng ngôn ngữ của con tim. Không một lời, Ngài đến bên cạnh bà, nắm tay và làm cho bà chỗi dậy. Ngài không cần lời nói. Cử chỉ của Ngài nói đủ rồi. Ngài chữa lành bà cả hồn lẫn xác.
Được khỏi sự dữ đã giam hãm bà, nhạc mẫu của ông Simon liền phục vụ những người khách của ông. Cử chỉ của bà làm chứng cho niềm tri ân đối với việc loan báo Tin Mừng vừa được thể hiện. Đến lượt bà, bà cũng nói ngôn ngữ của Chúa Giêsu, ngôn ngữ của con tim.
Như một vệt thuốc súng.
Và này đây, tin đồn lan khắp cả thành phố. Có một người đáp ứng được sự mong chờ của những con tim bị bệnh tật, bị tan vỡ, bị giam cầm. Lời của Thiên Chúa đã trở nên hành động trước mắt loài người. Vậy nên dân chúng tuôn đến, mỗi người tìm đến một luồng khí mới cho cuộc đời của mình. Và này đây, trong những phong trào của chúng ta, người ta khám phá ra hành động của Thiên Chúa và của Lời Ngài. Một nhóm được hình thành, rồi một nhóm khác nữa… Chúa hiện diện ở giữa chúng ta. Ngài hành động vì chúng ta. Sứ điệp loan đi như một vệt thuốc súng. Chúa ở nơi chúng ta, trong phong trào Thánh Linh, Chúa ở trong nhóm trẻ của chúng ta, v.v… Nhưng chúng ta lại nghĩ rằng để nhìn thấy Ngài, phải thuộc về nhóm chúng ta, thuộc về “thành phố” nơi Chúa đã tỏ mình ra.
Vì chúng ta hay vì thế giới?
Hôm nay, Chúa cũng tỏ mình ra giữa chúng ta. Nhưng chúng ta làm gì trước sự kiện này? Đôi khi chúng ta giống những người trong thành phố. Chúng ta tìm cách lợi dụng tối đa sự hiện diện của Chúa mà quên để cho Ngài được tự do hành động. Chúng ta nghĩ rằng Ngài chỉ là Chúa của chúng ta, Vua của chúng ta, Ngài thuộc về chúng ta. Còn những kẻ không thuộc về nhóm chúng ta không thể gặp Ngài. Chúng ta cũng tìm cách làm cho Ngài thành Vua của chúng ta, tìm cách giam hãm Ngài trong những cơ cấu của chúng ta, làm cho Ngài trở thành nô lệ của chúng ta, thành đồ vật của chúng ta. Nhưng không phải Chúa chỉ đến cho chúng ta mà thôi đâu.
Vì thế chúng ta cũng có thể hành động như nhạc mẫu ông Simon. Nếu Chúa tỏ hiện ở giữa chúng ta là để chúng ta giúp Ngài loan truyền sứ điệp của Ngài cho thế giới, bên ngoài thành phố của chúng ta. Lúc đó, Chúa không còn đến chỉ phục vụ chúng ta nữa. Chính chúng ta trở thành đầy tớ của Ngài. Lúc đó, các nhóm của chúng ta không còn là những nhóm khép kín, nhưng là những điểm chiếu tỏa, từ đó phát xuất đời sống đức tin để mang Tin Mừng đến những làng mạc lân cận.
Đối với chúng ta là những Kitô hữu, những tín hữu. Thiên Chúa giao cho nhiệm vụ loan báo cho loài người Tin Mừng mà Ngài đã để lại cho chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta làm việc này theo cách của Ngài, bằng lời nói và bằng hành động, nói ngôn ngữ của con tim chứ không phải ngôn ngữ của sự khôn ngoan con người. Chính với những anh em đang đau khổ của chúng ta mà Ngài sai chúng ta đến để nhân danh Ngài chúng ta cầm tay họ, giúp họ đứng lên. Bây giờ phận sự của chúng ta là trở thành tôi tớ mọi người để cứu được nhiều người. Amen.
76.Một phép lạ tại tư gia (Mc 1,29-31)--William Barclay
Chúa Giêsu đã giảng dạy và làm nhiều việc kiến mọi người phải kinh ngạc. Sau buổi họp tại hội đường, Ngài cùng các bạn đến nhà Phêrô. Theo thói quen Do Thái, bữa ăn chính trong ngày Sabát là sau buổi nhóm họp ở hội đường vào giờ thứ sáu, nghĩa là 12 giờ trưa (ngày của dân Do Thái bắt đầu vào 6 giờ sáng, các giờ cứ theo đó mà tính). Có thể Chúa Giêsu muốn được nghỉ ngơi sau những công việc căng thẳng và mệt nhọc trong buổi nhóm họp tại hội đường. Nhưng một lần nữa, có người đang cần đến quyền năng của Ngài, và Ngài lại dấn thân vì người khác. Phép lạ này nói với chúng ta vài điều về ba hạng người.
1/ Chúng ta biết Chúa Giêsu, Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng, Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng như giữa đám đông người trong hội đường. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không chịu cứu giúp. Nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của Ngài. Nhưng trên hết, tại đây cũng như trong hội đường, chúng ta lại thấy các phương pháp có một không hai của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa Giêsu có nhiều thầy trừ quỉ, họ hành nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái, những hình thức bùa chú, những tiếng kêu la hò hét với nhiều đồ nghề và ma thuật. Trong hội đường, Chúa Giêsu chỉ phán một câu đầy uy quyền và việc chữa bệnh được hoàn tất ngay. Ở đây cũng có một sự việc như thế xẩy ra. Bà mẹ vợ của Phêrô đang đau chứng bệnh mà kinh Talmud gọi là “một cơn sốt thiêu đốt”. Bệnh này từ xưa đến nay vẫn lan tràn tại vùng đất ấy của xứ Galilê. Kinh Talmud cũng có kể ra các phương pháp chữa trị chứng bệnh này. Người ta lấy một con dao bằng sắt đem cột vào một bụi gai bằng một lọn tóc. Suốt nhiều ngày liên tiếp, người ta đọc sách Xuất Hành 3, trước nhất là câu 2.3 rồi đến 4.5. Rồi có một công thức ma thuật đọc lên, như thế người ta xem phần chữa trị đã xong. Chúa Giêsu hoàn toàn bất chấp những câu thần chú theo ma thuật thông thường, chỉ bằng một dáng điệu và một tiếng duy nhất đầy quyền năng, Ngài đã chữa bệnh cho bà cụ. Từ Hy văn được dùng chỉ quền phép trong đoạn sách trên đây là exousia và exousia được định nghĩa là tri thức, cùng với quyền năng độc nhất vô nhị, đó chính là điều Chúa Giêsu vốn có và là việc Ngài sẵn sàng thi thố ngay trong một căn nhà tranh. Paul Tournier có viết “bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: Tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều tôi kể. Đó chẳng phải là kiên nhẫn, mà là sự quan tâm”. Với Chúa Giêsu việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín, giúp người không phải là một nhiệm vụ khó nhọc. Ngài chỉ giúp người một cách tự động, tự nhiên vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần Ngài giúp.
2/ Chúng ta biết về các môn đệ của Ngài. Họ chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng ngay trong giờ phút gặp gỡ ngắn ngủi này họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho Ngài. Bà mẹ vợ của ông Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, việc các môn đệ Ngài trình bày mọi việc cho Chúa Giêsu nghe là điều tự nhiên. Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một tu sĩ lớn tuổi và ông cũng chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Ông hết sức kinh ngạc về cách cầu nguyện vô cùng đơn giản của vị tu sĩ đó. Nó giống hệt phần tiếp tục câu chuyện thân mật mà vị tu sĩ lão thành ấy luôn luôn trò chuyện với Chúa Giêsu. Ông Paul Tournier nói tiếp: “về đến nhà tôi kể cho vợ tôi nghe chuyện ấy, và chúng tôi cùng cầu xin Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp thân mật với Chúa Giêsu như vị tu sĩ nọ vậy. Từ đó, Ngài đã trở thành trọng tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi đã làm và cũng quan tâm về những việc đó. Ngài là bạn thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời sống mình ra thảo luận. Ngài chia sẻ những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự với tôi, Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người ấy”. Mấy lời trên đây bao gồm bản chất của sinh hoạt Kitô hữu. Như lời một bài thánh ca: Hãy trình bày dâng mọi sự cho Chúa bằng lời cầu nguyện. “Thế là các môn đệ đã học được điều đã trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp mình”.
3/ Chúng ta biết vài điều về bà mẹ vợ ông Phêrô. Ngay sau khi được chữa lành, bà cụ liền bắt tay phục vụ. Bà cụ đã dùng sức khỏe được hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Có một gia đình danh tiếng tại Tô cách lan vẫn dùng khẩu hiệu này “được cứu để phục vụ”. Chúa Giêsu cứu giúp chúng ta là để chúng ta giúp đỡ người khác.
NHỮNG ĐÁM ĐÔNG BUỔI ĐẦU (Mc 1,32-34)
Những việc Chúa Giêsu đã làm tại Caphácnaum không thể nào giấu kín được. Một người mới xuất hiện, có uy quyền, có quyền năng là chuyện không tài nào dấu kín được. Cho nên ngay chiều đó, căn nhà của Phêrô bị một đám đông người mong được Chúa Giêsu chữa lành vậy chặt. Sở dĩ họ phải chờ đến lúc mặt trời lặn là vì luật cấm mang môt vật nặng đi trong thành phố vào ngày Sabát (Gr 17,24), mang một vật nặng như thế là làm việc mà làm việc thì bị cấm. Dĩ nhiên thời bấy giờ họ không có đồng hồ. Ngày Sabát kéo dài từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều và theo luật thì một ngày kết thúc khi có ba ngôi sao mọc trên trời. Cho nên người trong thành phải chờ đến khi mặt trời lặn, sao đã mọc, họ mới ra khỏi nhà và đưa người bệnh đến với Chúa Giêsu để Ngài chữa lành cho họ.
Chúng ta đã thấy Chúa Giêsu chữa bệnh cho người ta ba lần. Lần thứ nhất Ngài chữa bệnh trong hội đường, lần thứ hai trong nhà một bạn thân của Ngài và giờ đây, lần thứ ba, Ngài chữa bệnh ở ngoài đường phố. Chúa Giêsu nhận biết ngay nhu cầu của bất kỳ ai muốn khấn xin Ngài. Có người nói về tiến sĩ Johnson rằng, gặp bất hạnh là điều chắc chắn để được ông kết bạn và trợ giúp. Bất cứ ở đâu có rắc rối, hoạn nạn thì Chúa Giêsu sẵn sàng sử dụng quyền năng của Ngài, Ngài không hề kén chỗ hay kén người. Ngài nhận biết nhu cầu phổ quát mà mọi người cần đến.
Sở dĩ đông người kéo theo Chúa Giêsu vì họ nhận thấy Ngài là con người có thể làm nhiều việc lạ. Có nhiều người biết nói chuyện, giải thích, thuyết giảng. Nhưng đây là một người không chỉ nói suông mà còn giải quyết mọi sự bằng hành động. Có người bảo rằng “Nếu ai đó biết làm một chiếc bẫy chuột tốt hơn người láng giềng của mình, thì dù người ấy có sống giữa rừng, dân chúng cũng tìm được đường đến nhà người ấy”. Người mà dân chúng cần đến là người có hiệu năng. Chúa Giêsu đã và đang tạo nhiều kết quả.
Nhưng tấm thảm kịch cũng bắt đầu từ đây. Đám đông đã kéo đến, nhưng họ kéo nhau đến là vì họ muốn Chúa Giêsu làm một việc gì đó cho họ. Họ đã không đến vì yêu mến Ngài hoặc vì được thấy một mặc khải mới mẻ, nói cho cùng, họ muốn lợi dụng Ngài. Đó là điều mà hầu như tất cả mọi người đều muốn nơi Thiên Chúa và Con Ngài. Với một lời cầu nguyện được dâng lên cho Chúa trong những ngày thịnh vượng, thì có đến một ngàn lời cầu xin dâng lên trong những lúc gặp khó khăn. Nhiều người không hề cầu nguyện lúc mặt trời đang chiếu sáng, lại bắt đầu cầu nguyện khi có các luồng gió mạnh thổi đến. Có người bảo đã có quá đông người xem đạo giáo như “một đội cấp cứu chứ không phải như một tuyến lửa của cuộc đời”. Với họ thì gặp khủng hoảng, cùng cực lắm, họ mới chạy đến với đạo giáo, chỉ khi họ gặp bước đường cùng trong cuộc sống hoặc khi họ bị cuộc đời cho đo ván, họ mới bắt đầu nhớ đến Chúa. Điều vẫn luôn luôn đúng là tất cả chúng ta phải đến cùng Chúa Giêsu và chỉ một mình Ngài mới có thể cung ứng các nhu cầu của đời sống cho chúng ta. Nhưng nếu việc đi đến và các tặng phẩm đó không làm phát sinh một tình yêu, lòng biết ơn để đáp lại thì thật là một sai lầm thảm khốc. Thiên Chúa không phải là Đấng để chúng ta lợi dụng trong những ngày gặp bất hạnh. Ngài là Đấng phải được chúng ta yêu mến và mong nhớ mỗi ngày trong đời sống chúng ta.
GIỜ YÊN TỊNH VÀ HÀNH ĐỘNG THÔI THÚC (Mc 1,35-39)
Chỉ cần đọc qua các sự việc xảy ra tại Caphácnaum cũng đủ thấy Chúa Giêsu không còn chút thì giờ nào để ở riêng một mình. Nhưng Chúa Giêsu biết rất rõ: Ngài không thể sống không có Thiên Chúa. Nếu Ngài cứ phải luôn luôn ban phát thì ít nhất thỉnh thoảng Ngài cũng phải nhận vào. Nếu Ngài tự ban chính mình cho tha nhân thì Ngài cũng luôn luôn cần cầu xin để trợ giúp mình. Chúa Giêsu biết Ngài không thể sống mà không cầu nguyện. Trong một quyển sách nhỏ nhan đề “Cầu Nguyện Thực Hành”, tiến sĩ A.D. Belden đưa ra một trong những câu định nghĩa quan trọng về cầu nguyện “Cầu nguyện có thể được định nghĩa là tiếng kêu của linh hồn”. Không cầu nguyện là mắc phải một lỗi lầm điên rồ vĩ đại, đó là bỏ qua, không biết đưa Chúa vào số tài nguyên sẵn có của chúng ta. Trong cầu nguyện, chúng ta tạo cơ hội cho Chúa nuôi dưỡng các khả năng tinh thần của chúng ta. Chúa Giêsu biết việc đó, Ngài biết nếu phải gặp con người, trước tiên Ngài cần phải gặp Thiên Chúa. Nếu cầu nguyện cần thiết cho Chúa Giêsu đến thế, nó còn cần thiết cho chúng ta biết bao?
Nhưng ngay đến trong những giờ phút đó họ vẫn đi tìm Ngài. Chúa Giêsu không có cách gì để đóng cửa lại đối với họ. Nhà văn chuyên viết truyện ngắn là Rose Macaulay bảo rằng tất cả những gì bà đòi hỏi nơi đời sống là “một phòng riêng của mình”. Đó chính là điều Chúa Giêsu chẳng bao giờ có được. Một bác sĩ lừng danh nhận định nhiệm vụ của y học là “thỉnh thoảng chữa lành, thông thường trấn an và luôn luôn là an ủi, vỗ về”. Nhiệm vụ ấy luôn luôn đặt trên Chúa Giêsu. Có người bảo nhiệm vụ của một bác sĩ là “giúp người ta sống và chết”, mà con người thì bao giờ cũng vừa sống vừa chết. Bản tính con người là cố tạo nên những hàng rào để có thì giờ và bình an cho riêng mình, đó là điều Chúa Giêsu chẳng bao giờ làm. Tuy ý thức được sự mỏi mòn suy kiệt của chính mình, Ngài lại ý thức rõ hơn tiếng kêu cứu bất biến của nhu cầu con người. Cho nên khi họ đến với Ngài, thì Ngài đã từ chỗ đang quỳ gối phải đứng lên để đối diện với thách thức của nhiệm vụ. Cầu nguyện chẳng bao giờ lại thay thế việc này việc nọ của chúng ta, điều nó có thể làm là thêm sức để chúng ta có thể làm những việc chúng ta phải làm.
Vậy, Chúa Giêsu lại ra đi, thực hiện một vòng rao giảng trong các hội đường xứ Galilê. Trong sách Maccô, vòng đi này chỉ được thu gọn trong một câu, nhưng chắc nó phải kéo dài nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Trong chuyến đi này, Ngài vừa giảng dạy vừa trừ quỷ. Có vài sự việc vẫn gắn liền nhau mà Chúa Giêsu không bao giờ tách rời.
1/ Ngài không bao giờ tách rời lời nói với hành động. Ngài chẳng bao giờ nghĩ mình đã làm xong một việc khi công việc ấy đang bị đình chỉ. Ngài chẳng bao giờ nghĩ mình đã xong nhiệm vụ sau khi đã khuyên dạy người ta đến với Thiên Chúa và sống thánh thiện. Những vấn đề được trình bày, và lời khuyên bảo của Ngài luôn luôn biến thành hành động. Fosdick kể chuyện về một sinh viên thường tìm mua những sách hay nhất, những học cụ tốt nhất, sắm một chiếc ghế đặc biệt để ngồi, có giá để sách hầu học hỏi nghiên cứu cho thuận tiện, rồi anh ngồi vào chiếc ghế ấy mà… ngủ. Người chỉ nói giỏi mà không làm giống như thế.
2/ Ngài không bao giờ phân rẽ linh hồn với thân xác. Có ý kiến cho rằng thân xác dường như chẳng có gì quan trọng, nhưng con người là cả hồn lẫn xác. Nhiệm vụ của Kitô giáo là cứu chuộc con người toàn diện chứ không phải chỉ cứu một phần con người mà thôi. Dĩ nhiên có người dù sống thiếu thốn trong một căn nhà lụp xụp, gặp hoạn nạn, đau khổ, nhưng luôn cảm nhận được phúc lộc qua những ngày tháng ngọt ngào với Chúa, nhưng đó không phải là lý do để cứ bỏ mặc con người ấy như vậy. Các hội truyền giáo cho người bán khai không phải chỉ đem đến cho họ quyển Kinh Thánh mà thôi, nhưng đem giáo dục và thuốc men nữa, họ cũng đem đến trường học và bệnh viện. Thông điệp của Kitô giáo là thông điệp nhằm rao giảng và làm ích cho cả thân xác lẫn linh hồn người ta.
3/ Chúa Giêsu chẳng bao giờ tách rời đất với trời. Có những người quá bận tâm đến cõi trời đến nỗi quên hết mọi sự thuộc về đất, do đó trở thành những nhà duy tâm, chỉ mơ toàn chuyện lý tưởng không thực tế. Nhiều người khác lại quá bận tâm đến những điều thuộc về đất đến nỗi quên hết những điều thuộc về trời, để chỉ giới hạn cái hay, cái tốt vào cái hay, cái tốt vật chất mà thôi. Giấc mơ của Chúa Giêsu là thời kỳ mà ý Chúa sẽ thành tựu ở dưới đất cũng như ở trên trời (Mt 6,10). Giấc mơ của Chúa Giêsu là thời đại mà đất với trời chỉ là một.
77.Chúa Giêsu, người công giáo đầu tiên--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Thánh sử Marcô trình bày cùng chúng ta Chúa Giêsu đang thi hành chức vụ như: loan báo Nước Trời, chữa kẻ bệnh tật, trừ ma quỷ, cầu nguyện. Cảnh tượng được mô tả hôm nay nhấn mạnh cho ta thấy Chúa Giêsu lo lắng dấn thân vào cuộc đời bình thường của con người đến thế nào. Người mới giảng dạy ở Nhà Hội là nơi thường để hội họp xong Người lại mau mắn theo Phêrô và Anrê về nhà họ. Phêrô biết có chuyện không hay trong nhà mình, song điều đó cũng không ngăn cản Chúa cứ đến.Chúa chữa lành cho nhạc mẫu Phêrô. Chúa dùng bữa mà chính tay bà đã dọn. Vào buổi chiều, hẳn là vào lúc mà ngày Sa-ba chấm dứt, Người chữa lành cho nhiều bệnh nhân được mang tới. Người biểu dương quyền năng Người trên sự dữ bằng cách đẩy lui bệnh tật và xua đuổi tà thần. Người lưu lại nhà Phêrô và Anrê để qua đêm, nhưng sau khi đã chia sẻ những thực tế tầm thường ấy của đời sống nhân loại, Chúa đã thức dậy trước bình minh để hoàn toàn chìm đắm vào sự thân mật của Chúa Cha. Người trở về nguồn. Người không giây phút nào mất liên lạc với Cha Người. Người trở lại cùng với loài người, với những tư tưởng và ý muốn của Chúa Cha. Người không để bị lôi cuốn đến chỗ sa lầy, vào những kêu gọi tức thời và ích kỷ của những người ở Caphanaum. Người không hề rời khỏi tầm mắt những kích thước của sứ mạng mình. Ngoài Caphanaum, Người rảo qua khắp hết miền Galilê, trong lúc đợi chờ sai môn đệ đi khắp cùng thế giới. Chúng ta hãy lưu tâm đến hai câu nhỏ, song gợi ý trong bài này.
1) Tiến lại gần, Người cầm lấy tay bà. Thánh sử Marcô ghi rõ chi tiết này, khi nói đến việc Chúa Giêsu chữa lành nhạc mẫu của Phêrô. Qua cung cách xử sự ấy của Chúa Giêsu, người ta có thể nhận ra nỗi quan tâm của Chúa, muốn gần gũi với con người. Tự biết mình là Con Thiên Chúa, Người rất có thể, tự đàng xa, chữa mọi bệnh tật, tiêu diệt tội lỗi, thanh tẩy con người sạch mọi sự dữ. Vậy mà, Chúa đã làm gì? Chúa cầm lấy tay loài người. Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, không chỉ để cho các nguyên nhân siêu việt thi hành vai trò mà Người đã trang bị từ đầu. Cư xử với con người, con người trong nhân cách riêng và như phần tử của cộng đoàn nhân loại rộng lớn, Thiên Chúa đã nắm lấy tay con người; Chúa Giêsu là Con Người tuyệt hảo, là Con Người của Thiên Chúa Con nhập thể, đã đến để cứu chữa nhân loại bằng cách “cầm lấy tay” từng người, bất luận họ ở trình độ lương tâm và kiến thức nào. Không một con người nào, dầu là sơ khai đến mấy, mà không được chính Đức Kitô chú ý riêng. Con Thiên Chúa tự mặc lấy nhân tính để chiếm đoạt được nhân loại, Người tự cho mình đôi tay để cầm lấy từng người. Trong giây phút chúng ta đang lâm cơn bị cám dỗ, phạm tội, buồn phiền, thất vọng, chúng ta có nghĩ tới bàn tay nào đó, đang giơ ra để nâng đỡ không?
2) Chúng ta hãy đi đến khắp mọi nơi để Ta cũng rao giảng ở đó nữa, bởi chính vì mục đích đó mà Ta được sinh ra. Chúa Giêsu, từ Thiên Chúa mà ra, không để cho mình bị giam hãm trong thực thể này hay thực thể nọ. Chức vụ Người thi hành tại Caphanaum đã đem đến cho Người nhiều cảm tình nồng nhiệt. Người ta bao vây Người, người ta muốn chiếm đoạt Người. Nhưng Chúa Giêsu đã tự tháo gỡ. Tại sao vậy? Tại vì con người của Chúa bị hai chiều kích vô biên lôi cuốn. Trước hết là kích thước vô biên của Chúa Cha, sau là chiều kích vô biên sâu thẳm của nhân loại. Người kitô hữu đừng quá sở noi gương ấy của Chúa Giêsu một cách nghiêm túc. Chính đó là nguồn gốc tinh thần công giáo. Chúng ta là công giáo trong tư tưởng của mình, khi mà chúng ta từ chối không để cho trí óc của mình bị giam hãm trong một hệ thống tư tưởng nào, dầu cho đó là một nền thần học thật hấp dẫn. Vì trí óc con người thật hữu hạn, nó bị bó buộc suy tư trong lòng một hệ thống này hay hệ thống nọ, nhưng tinh thần công giáo ngăn cản nó khỏi bị giam cầm trong đó. Người ta được phổ quát trong hành động, khi nào người ta lo giữ mình luôn được tự do, nghĩa là luôn luôn sẵn sàng cho Thiên Chúa, ngay cả bên trong những cam kết của mình. Chúng ta là công giáo trong việc tông đồ này hay việc tông đồ nọ, khi người ta biết lo liên kết nó với “nơi khác”, tức là đời sống của toàn Giáo Hội. Nguồn gốc tinh thần công giáo là sự hướng lòng mình, vừa lên với Thiên Chúa vô tận lại vừa về với nhân loại vô biên, chính là đức ái thần linh vậy.
78.Chúa Giêsu là tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa--Hiếu Nguyễn sưu tầm--thanhlinh.net
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Bài giảng biết đi
Một chiều năm 1953, một số ký giả và nhân viên chính phủ Hoa Kỳ đến ga xe lửa Chicagô đón người được giải thưởng Noben Hoà bình năm 1952.
Người vừa xuống xe lửa là một người đàn ông cao lớn, vạm vỡ. Các máy ảnh chớp lia lịa, các nhân viên cao cấp của thành phố đưa tay cao đón chào vị thượng khách. Bỗng vị thượng khách đưa mắt nhìn về sân ga, rồi xin lỗi mọi người đi thẳng về hướng đó. Ai nấy tưởng là ông còn quên hành lý, nhưng ông băng qua đám đông, đến với một người đàn bà da đen đang khệ nệ hai chiếc va li nặng trên tay. Ông cầm lấy hai chiếc va li, mỉm cười nói với người đàn bà và đưa bà lên chiếc xe bus gần đó. Khi quay lại với những người đón rước, ông xin lỗi họ vì đã bắt họ chờ lâu.
Người được giải thưởng Noben Hòa bình đó không ai khác hơn là bác sĩ Ampere Soiyer, nhà truyền giáo nổi tiếng đã hy sinh trọn đời cho người nghèo Phi châu. Chứng kiến cử chỉ của ông, một người trong ban tổ chức đón tiếp ông nói với các ký giả: “Đây là lần đầu tiên tôi thấy một bài giảng biết đi…”
***
Cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu chính là lời tỏ tình trọn vẹn và sau cùng của Thiên Chúa đối với con người. Cái chết đó là lời loan báo Tin mừng sống động nhất.
Tình yêu luôn mời gọi đáp trả bằng tình yêu. Nhưng tình yêu đích thực không chỉ được nói lên bằng môi miệng mà còn phải được diễn tả bằng hành động cụ thể, bằng tất cả cuộc sống.
Cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa qua cái chết của Chúa Giêsu, người Kitô hữu chúng ta cũng được mời gọi loan truyền và san sẻ tình yêu ấy cho mọi người. Chúng ta không chỉ loan truyền bằng lời nói suông mà bằng cả cuộc sống yêu thương của chúng ta, như Chúa Giêsu qua cái chết của Người, qua các lần chữa bệnh trừ quỷ của Người mà Tin mừng hôm nay kể lại cho chúng ta biết; và như bác sĩ Ampere Soiyer qua cuộc đời hy sinh phục vụ người nghèo và kẻ yếu thế của ông.
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
2. Cầu nguyện
Frédéric Ozanam, một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin lúc còn là sinh viên đại học.
Một hôm, để tìm chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi nhà thờ cổ ở Paris. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện một cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Anh đứng lặng lẽ trong gốc nhà thờ theo dõi cử chỉ của người này. Và khi người đó vừa đứng lên để ra khỏi giáo đường, chàng sinh viên nhận ra người đó chính là nhà bác học vĩ đại Ampere. Lòng đầy thắc mắc, anh theo nhà bác học về đến phòng làm việc của ông. Thấy chàng sinh viên đứng trước cửa phòng với vẻ rụt rè, nhà bác học lên tiếng hỏi:
- Bạn đang cần gì? Tôi có thể giúp bạn giải một bài toán vật lý chăng?
Chàng sinh viên nhỏ nhẹ đáp:
- Thưa ông, tôi là sinh viên khoa văn, tôi dốt khoa học lắm. Xin ông cho tôi hỏi một số vấn đề có liên quan đến đức tin.
Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn:
- Đức tin là môn tôi yếu nhất. Nhưng nếu giúp anh được gì, tôi sẵn sàng.
- Thưa ông, có thể vừa là nhà bác học vĩ đại vừa là tín hữu nhiệt thành cầu nguyện không?
Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh. Nhưng ông cũng gượng gạo trả lời:
- Anh ơi! Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện thôi.
***
Nhà bác học kiêm triết gia nổi tiếng Pascal nói một câu thời danh: “Con người vĩ đại khi họ cầu nguyện”.
Cầu nguyện tức là đi vào tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Sự cầu nguyện làm cho con người vĩ đại vì nó thể hiện đúng đắn đạo làm người. Con người chỉ nhận ra phẩm giá cao cả của mình khi nó thấy được thân phận thụ tạo và mối dây liên kết nó với Đấng Tạo Hóa.
Được tạo dựng bởi và cho Thiên Chúa, con người chỉ nhìn thấy ơn gọi và định mệnh của mình trong Thiên Chúa. Biết mình bởi đâu mà ra, biết mình sống để làm gì, biết mình sẽ đi về đâu, đó chẳng phải là sự vĩ đại của con người sao?
Nhưng chỉ trong cầu nguyện nghĩa là trong sự kết hợp mật thiết thâm sâu với Thiên Chúa, con người mới có thể cảm nhận được ơn gọi và định mệnh ấy.
Trong Tin mừng hôm nay, chúng ta đọc thấy: “Sáng sớm lúc trời còn tối, Người đã dậy đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc.1,35). Đó là một trong những nét nổi bật trong cuộc đời Chúa Giêsu. Người đã không ngừng bày tỏ sự kết hợp Ngài với Thiên Chúa Cha. Đó chính là cách Ngài dạy cho con người sống thế nào cho phải đạo làm người. Sự cao cả của con người, sức mạnh vĩ đại của con người chính là sự cầu nguyện, nhất là cầu nguyện đi đôi với việc làm, như Chúa Giêsu vừa cầu nguyện vừa loan báo Tin mừng, vừa “chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ khử nhiều quỷ” (Mc.1,34). Nhờ cầu nguyện mà việc truyền đạo được kết quả phong phú hơn. Chính đời sống cầu nguyện của các nhà truyền giáo đã chứng minh điều đó. (Trích “Sám hối và canh tân”).
3. Tìm nơi thanh vắng cầu nguyện
Tiếng động và sự ồn ào ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Một giáo sư Hy lạp cố vấn tổ chức y tế thế giới quả quyết: “Tiếng ồn ào là một trong những tác nhân chính làm con người mắc bệnh thần kinh”. Các nhà nghiên cứu người Hòa Lan đã khám phá: “Những người sống trong các khu phố ồn ào thường bị áp huyết cao”. Không chỉ người già mới phàn nàn khó chịu về sự ồn ào mà ngay cả tuổi trẻ cũng không thoát khỏi anh hưởng của tiếng ồn. Một nghiên cứu của đại học Rhusdho bên Đức cho thấy học sinh học trong những trường ồn ào bị áp huyết cao hơn học sinh ở các trường trong nơi yên tịnh. Nhất là kinh nghiệm cho chúng ta biết chúng ta thường dễ cau có nóng giận khi sinh sống trong những vùng có nhiều tiếng động.
***
Sa mạc được xem là nơi ưu biệt của Kinh Thánh. Chính trong sa mạc mà lòng tin của dân Do thái được thanh luyện. Chính trong sa mạc mà các ngôn sứ thường nhận được sứ điệp của Thiên chúa. Chính trong sa mạc mà Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày để chuẩn bị cuộc đời công khai rao giảng Tin mừng. Và Tin mừng hôm nay thuật lại, sau khi Người trừ quỷ chữa bệnh cho nhiều người: “Sáng sớm trời còn tối, Người đã dậy đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc.1,35). Người thường lui tới nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Người cũng khuyên các môn đệ tìm nơi vắng vẻ nghỉ ngơi.
Sự cầu nguyện đòi hỏi sự thinh lặng. Thinh lặng của cõi lòng mới là điều quan trọng. Một cõi lòng thinh lặng cốt yếu là cõi lòng đầy tràn sự hiện diện của Chúa. Khi con người được Chúa ngự trong tâm hồn thì họ luôn cảm nghiệm được sự thinh lặng. Dù sống giữa chốn ồn ào náo nhiệt con người được Chúa hiện diện trong tâm hồn luôn cảm thấy an vui thanh thản. Như thế, qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện, cầu nguyện trong thinh lặng bằng cách tiếp xúc thân mật với Chúa, để Người hiện diện trong chúng ta. Người ban cho sống an bình hạnh phúc. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập II).
4. Niềm vui được chữa lành
Đầu năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh có tên ngộ nghĩnh: bệnh bò điên. Người mắc bệnh này vì ăn nhằm bò điên. Khi mắc phải bệnh, bộ não họ bị hư hoại dần, tay chân run rẩy và đi lần đến cái chết.
Lúc đầu người ta phát hiện có 10 người mắc bệnh tại Anh quốc, 8 người trong số đó đã chết…
Pháp là nước đầu tiên tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò của Anh quốc. Các nước Âu châu lần lượt làm theo nước Pháp. Cộng đồng Âu châu khuyến cáo Anh quốc phải triệt hạ tất cả các con bò mắc bệnh. Việc này đã làm cho Anh quốc thiệt hại cả tỷ đô la.
***
Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Xóa sổ được bệnh này thì bệnh khác xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và có những thứ bệnh hiện đang bất trị!...
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon-Phêrô. Bà bị cơn sốt liệt giường. Chúa cầm tay bà dậy, bà liền khỏi bệnh và đi tiếp đãi Chúa.
Theo quan niệm của Người Do thái, bệnh tật là hình phạt của Thiên Chúa đối với kẻ tội lỗi và do ma quỷ gây ra. Việc Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon-Phêrô và các bệnh nhân khác biểu lộ quyền năng Thiên Chúa trên ma quỷ và tội lỗi. Đó là sứ mạng Thiên sai của chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người đem đến cho họ niềm vui và hạnh phúc. Người tín hữu Kitô cũng hãy đem niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân trong môi trường sinh sống. E.Lamy khẳng định: “Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Vì niềm tin tự nó là một lời rao giảng” (Trích “Như Thầy đã yêu”).
5. Chúa chữa người quỷ ám
Ngày 29 tháng 08 năm 1999, người dân Don Timor đã đi bỏ phiến để quyết định về tương lai của xứ sở họ. Thế giới không những quan tâm đến số phận của 800.000 dân sống trên đảo này, mà còn đặc biệt chú ý đến vai trò của Giáo hội tại đây. Giáo hội tại Don Timor được xem là sức mạnh thống nhất giúp cho dân chúng ở đây.
Quả thực, trong 23 năm dưới quyền cai trị của Inđônêsia, Giáo hội đã lãnh đạo cuộc tranh đấu nhân quyền và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập hòa bình cho người dân. Ảnh hưởng của Giáo hội được nhìn nhận qua sự kiện hầu như người dân Don Timor nào cũng sinh ra trong bệnh viện do Giáo hội điều khiển, được giáo dục trong trường của Giáo hội, cưới hỏi trong nhà thờ, được chữa bệnh trong bệnh viện Công giáo, cuối cùng cũng được an nghỉ trong nghĩa trang của đạo. Nhất là mỗi khi gặp tai biến, người dân Don Timor không có nơi nào an toàn hơn là nhà thờ. Đối với 90% dân Don Timor. Hội thánh có uy tín hơn hết. Như thế, khi Hội thánh sống đúng với sứ mệnh của mình. Hội thánh là sức mạnh tinh thần vững chắc cho con người.
***
Tin mừng hôm nay ghi lại phản ứng của dân chúng khi Chúa chữa bệnh trừ quỷ cho họ. Họ thán phục Người, tìm kiếm Người, vì họ tin vào quyền năng và đức độ của Người. Người quyền năng và đức độ thì lời nói và việc làm thường đi đôi với nhau, sẽ thuyết phục và lôi cuốn người khác.
Chúa Giêsu chỉ giảng dạy những gì Người đã sống và sống những gì Người đã rao giảng. Lời nói của Người củng cố bằng việc làm của Người. Đây chính là sứ mạng Người đã lãnh nơi Chúa Cha và Người cũng trao sứ mạng đó lại cho Hội thánh là tất cả các Kitô hữu chúng ta. Chúng ta chỉ thực hiện được sứ mạng đó khi chúng ta sống và rao giảng những gì Người đã sống và rao giảng. Nói thể khác, chúng ta chỉ có thể chu toàn sứ mạng Chúa phú giao bằng cách hy sinh phục vụ mà thôi. Điều đó chính các Kitô hữu ở đảo Don Timor đã thực hiện và kết quả thật tốt đẹp. Phải chăng đó là gương mẫu cho chúng ta? (Theo “Lẽ sống”, tập 2).
79.Ngôn hành hợp nhất--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Kinh nghiệm của những lần đi thăm viếng bệnh nhân tại bệnh viện cho tôi thấy: Nhiều lúc, mình chỉ cần ngồi thinh lặng, lắng nghe họ kể những tâm sự buồn, từ chuyện gia đình đến chuyện con cái, từ chuyện buôn bán đến chuyện đau ốm thế là ta đã làm được điều mà người bệnh muốn và cần đó là sẻ chia, cảm thông và cầu nguyện. Bởi vì, để cho bệnh nhân nói hết là họ đã giải tỏa được những tâm sự buồn ấy, họ cảm thấy nhẹ nhõm và tìm lại được niềm vui sống vì còn có người đồng hành với họ.
Chúa Giêsu hôm nay đã làm được điều đó. Ra khỏi Hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon. Bà nhạc mẫu của ông đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay và chữa bà khỏi bệnh. Thực ra Chúa chỉ cần đứng ngoài cửa phán một lời cũng có thể chữa bệnh cho bà. Hơn nữa, vào thời phong kiến với quan niệm “nam nữ thọ thọ bất thân”, việc cầm tay phụ nữ có thể bị dị nghị. Nhưng Chúa Giêsu đã đến tận giường cầm tay bà. Điều này nói lên lòng yêu thương kính trọng. Chúa không chỉ chữa bệnh mà còn muốn bày tỏ tình người, sự quan tâm âu yếm, sự kính trọng đối với phụ nữ nhất là đồng hành với người bệnh những lúc bệnh tật gây ra những cơn đau xé lòng.
Người ta nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Quả thế, lời nói phải luôn đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục nhất. Các Sách Phúc âm cũng như bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu là con người nhất quán, vì việc làm của Chúa luôn song hành với lời Ngài rao giảng; Ngài chữa trị cho người bị quỷ ám giữa cử tọa đông đúc ở hội đường, cũng như chữa lành cho bà nhạc mẫu ông Simon trong căn nhà nhỏ bé, ban ngày đi rao giảng, chiều tối người chữa lành bệnh cho biết bao nhiêu kẻ ốm đau đến với người. Chúa Giêsu làm được như thế bởi vì Ngài chính là Thiên Chúa quyền năng và là Người đầy lòng nhân ái. Còn với chúng ta thì sao?
Dĩ nhiên chúng ta không thể làm phép lạ để cứu chữa lành bệnh cho bệnh và cho người khác. Tuy nhiên chúng ta có thể dự phần vào việc chữa lành của Chúa Giêsu, cũng như vào việc xoa dịu phần nào nỗi đớn đau của bệnh nhân bằng cách thăm viếng an ủi họ. Đây cũng là điều Chúa Giêsu hằng mong mỏi chúng ta thực hiện. Và nếu chúng ta thực hiện được, hẳn Ngài sẽ chúc phúc cho chúng ta. Chúng ta còn nhớ, Lời Chúa mô tả về ngày phán xét rằng đến ngày ấy, Ngài phán với những người bên hữu: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han" (Mt 25,34-26).
Trong kinh “Thương người có mười bốn mối, thương xác bảy mối”, chúng ta đọc: “Thứ bốn: viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc”. Đọc mãi kinh này, có bao giờ chúng ta đã viếng thăm một bệnh nhân nào đó chưa? Nếu có, chúng ta thăm bệnh nhân ấy vì cái gì? Vì trách nhiệm và bổn phận hay vì “hòn đất ném đi hòn chì ném lại”? Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu siêng năng thăm viếng, an ủi, trao bình an và tình yêu Tin Mừng của Chúa đến người bệnh nhân hầu chúng ta được chúc phúc ngay đời này và đời sau. Cho nên, Lời Chúa trong bài đọc hai, Thánh Phaolô quả quyết: “Khốn cho thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Đây quả là một nghệ thuật, bởi vì nó đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và chịu đựng, nhất là trước những câu chuyện chúng ta đã nghe đi nghe lại nhiều lần về bệnh tình, đau khổ và buồn khổ. Ngoài ra, chúng ta còn có thể đem đến cho họ một tin vui, một câu chuyện lượm lặt, một nụ cười cảm thông, một thái độ ân cần và chăm sóc. Bên cạnh đó, chúng ta còn có thể mang theo những quà tặng như trái cây và các loại đồ ăn thức uống cũng giúp bệnh nhân phần nào vơi đi cơn đau và nỗi sầu trong lúc chờ đợi bệnh bình phục. Thêm vào đó, một cú điện thoại, một bức thư, một tin nhắn thăm hỏi cũng sẽ giúp cho bệnh nhân cảm thấy phấn khởi và vui vẻ hơn nhiều.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay vào những ngày cuối năm, chúng ta thường lo sắm sửa đủ thứ cho gia đình mình thì cũng nhớ để dành chút thời gian thăm viếng, biếu quà nếu được cho người ông bà cha mẹ hay bà con của chúng ta đang trong tuổi già yếu đau. Và nếu được trong phạm vi và khả năng của mình, hãy quan tâm giúp đỡ ngay những người đau yếu khác như ngày xưa Chúa Giêsu đã làm. Anh chị em ơi, Đừng để: 1) “Khi tôi lầm lỡ, mới biết sớt chia với người lỡ lầm. Khi tôi nghèo đói, tôi sẽ hiểu nỗi đau người lầm than. Khi tôi gian nan mới biết sớt chia với người khốn cùng. Khi tôi đau khổ, đời tôi mới biết cảm thông”. Như vậy, khi tôi thánh thiện, tôi giàu, tôi sung sướng, tôi chưa làm được cho họ, tôi quá hỡ hờ với việc bác ái này. Anh chị em ơi, đừng để: 2) “Khi tôi buồn chán mới biết nỗi đau nơi người thất vọng. Khi tôi mù lòa tôi sẽ hiều bóng đêm bao sợ hãi. Khi tôi cô đơn mới biết xót xa với người cô hoạnh. Khi tôi thất vọng đời tôi hay nỗi chờ mong”. Như vậy, khi tôi vui, tôi sáng đôi mắt, tôi hạnh phúc, tôi chưa làm được cho họ, tôi quá hỡ hờ với việc bác ái này. Anh chị em ơi, đừng để: 3) “Khi tôi quỵ ngã mới biết đỡ nâng những người sa đọa. Khi tôi òa khóc tôi sẽ hiểu nước mắt sao buồn quá. Khi tôi lang thang mới biết đắng cay với người không nhà. Khi tôi đơn độc thì thương ai mất mẹ cha”. Như vậy, khi tôi đứng vững, khi tôi hạnh phúc và đầy đủ nhà cửa, tôi chưa làm được cho họ, tôi quá hỡ hờ với việc bác ái này
ĐK: Lạy Chúa ban yêu thương vào trái tim con, đã bao lần con đây hờ hững. Lạy Chúa dạy con yêu thương, dạy con yêu thương cho hòa binh sáng ngời muôn phương.
Lạy Chúa, xin mở trí con, mở miệng con, mở tim con, mở tay và đôi chân con để con đến với anh chị em yếu đau để họ nhận được sự tình thương Chúa và của chúng con bây giờ và mãi mãi. Amen.
80.Chúa Nhật 5 Thường Niên--Lm. Anthony Trung Thành
Nếu sắp xếp cho có thứ tự, chúng ta sẽ có một ngày sống của Đức Giêsu được Tin mừng Thánh Marcô hôm nay tường thuật lại. Từ một ngày sống của Đức Giêsu, chúng ta nhìn lại một ngày sống của chúng taphải như thế nào?
1. Một ngày sống của Đức Giêsu
Thứ nhất, Ngài cầu nguyện: Đức Giêsu bắt đầu ngày sống của mình bằng việc cầu nguyện. Tin mừng hôm nay cho biết: “Sáng sớm tinh sương, Ngài chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó.”(Mc 1,35).Ngài cầu nguyện để sống thân mật với Chúa Cha. Ngài cầu nguyện để lắng nghe và thực hiện ý Chúa Cha muốn. Việc Ngài cầu nguyện nói lên sứ mạng của Ngài phát xuất từ Thiên Chúa và luôn có Chúa Cha đồng hành. Đọc Tin mừng chúng ta thấy, đây không phải là lần duy nhất Đức Giêsu cầu nguyện, mà Ngài cầu nguyện luôn, cả sớm mai và chiều tối, có khi Ngài cầu nguyện suốt đêm. Cách riêng, Ngài cầu nguyện trước những biến cố quan trọng, như trước khi Ngài chọn các Tông đồ, trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá. Ngài cầu nguyện cho Ngài, cầu nguyện cho các môn đệ, cho những người nhờ Ngài mà tin và cho thế gian. Ngài không những cầu nguyện mà còn dạy cho các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha và Ngài khuyên bảo các Tông đồ và mọi người chúng ta hôm nay: Hãy cầu nguyện luôn kẻo phải sa chước cám dỗ; Cầu nguyện như vũ khí để xua trừ quỷ dữ: “Giống quỷ đó chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi.” (Mc 9,29).
Thứ hai, Ngài rao giảng Tin mừng: Tại Caphácnaum, vào ngày sabát, Ngài vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài, vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. (x. Mc 1,21-22). Tại Nazarét, là nơi Ngài sinh trưởng. Ngài vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày sabát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Sau đó, Ngài cắt nghĩa cho dân chúng về ý nghĩa của đoạn Kinh thánh mà họ vừa nghe (x. Lc 4,16-30). Ngài không chỉ rao giảng trong hội đường mà còn rao giảng nhiều nơi khác nữa: tại tư gia (x. Mc 2, 2), ngoài bờ biển (Mc2, 13), trên núi (x. Mt 5,1-12). Rồi Ngài đi giảng khắp mọi nơi vì Ngài đến là để làm công việc đó. Cho nên, khi các môn đệ đi tìm Ngài, Ngài nói với họ rằng: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.”(Mc 1,38).
Thứ ba, Ngài chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ: Tin mừng hôm nay cho biết, ra khỏi hội đường, Ngài cùng với ông Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê, Ngài chữa cho bànhạc gia của Simon khỏi bệnh cảm sốt (x. Mc 1,29-31). Không dừng lại ở đó, đọc Tin mừng chúng ta biết, Ngài dành nhiều thời gian để chữa bệnh và trừ quỷ. Ngài chữa lành hết tất cả các người bệnhđược đưa đến với Ngài: Bệnh phong cùi, bệnh bất toại, bệnh loạn huyết, bệnh mù, bệnh câm điếc, bệnh què quặt…Ngài dùng nhiều cách thế để chữa bệnh nói lên quyền phép của Ngài trên bệnh tật: chữa bệnh từ xa, phán một lời, Ngài lấy nước miếng trộn vào đất bôi lên mắt bệnh nhân được khỏi, người bệnh đụng đến Ngài, Ngài đụng đến người bệnh thì người bệnh được khỏi... Tin mừng hôm naylàm chứng cho chúng ta biết điều đó: “Lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến với Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.” (Mc 1,32-34).
Đức Giêsu không giới hạn việc chữa lành vào một số người bệnh hay một số vùng miền, nhưng đối tượng được Ngài cứu chữa là hết tất cả mọi người bệnh và các vùng miền. Như thế, chúng ta thấy một ngày sống của Đức Giêsu thật ý nghĩa: cầu nguyện, rao giảng, chữa lành. Còn một ngày sống của chúng ta thì sao?
2. Một ngày sống của chúng ta
Nếu một ngày sống của chúng ta giống như ngày sống của Đức Giêsu thì tốt biết mấy, nhưng có lẽ khó có ai thực hiện được như Ngài.Vậy, để ngày sống của chúng ta có ý nghĩa và phần nào họa lại ngày sống của Đức Giêsu, xin được gợi ý một số thực hành sau đây:
Thứ nhất, chúng ta hãy bắt đầu ngày sống bằng việc cầu nguyện: Tùy vào hoàn cảnh cho phép, sau khi thức dậy chúng ta có thể đi tham dự thánh lễ hoặc đọc kinh chung với cộng đoàn hay với các thành viên trong gia đình. Những hoàn cảnh đặc biệt khác, chũng ta có thể cầu nguyện, đọc kinh riêng hay đọc và suy gẫm Lời Chúa một mình. Nghĩa là phải cố gắng bắt đầu ngày sống bằng việc cầu nguyện. Cầu nguyện để xin ý Chúa. Cầu nguyện để kết hợp với Chúa trong công việc. Cầu nguyện để dâng tất cả các công việc trong ngày cho Chúa để Chúa lo liệu, nhờ đó, mọi công việc chúng ta làm trong ngày mang lại lợi ích hồn xác. Thực tế, trong cuộc sống hôm nay do công ăn việc làm và nhiều nguyên nhân khác nên rất nhiều kitô hữu đã không cầu nguyện đầu ngày, thậm chí bỏ cầu nguyện trong ngày. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta đừng quên cầu nguyện đầu ngày, thậm chí còn cần phải dành thời gian để cầu nguyện trong ngày và kết thúc ngày sống cũng phải bằng việc cầu nguyện.
Thứ hai, chúng ta làm việc trong ngày theo bổn phận trao phó với ý thức làm sáng danh Chúa: Có người làm việc đời, có người làm việc đạo; Có người làm việc tri thức, có người làm việc chân tay; Có người đi chợ bán hàng, có người đi chợ mua hàng; Thầy cô đi dạy, học sinh đi học; Có người đi cày, có người đi cấy; có người làm bác sỹ, có người là bệnh nhân; có người làm kỷ sư, có người làm công nhân…và biết bao nhiêu công việc khác. Nhưng dù làm bất cứ việc gì cũng không được gian dối, không được lỗi công bằng, không được lỗi bác ái yêu thương. Trái lại, hãy làm trọn phận vụ, hãy làm việc cho sáng danh Chúa. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời.” (Cl 3,23). Ngài còn khuyên: “dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31).
Thứ ba, chúng ta cần dành thời gian nhiều hơn để quan tâm chăm sóc các bệnh nhân: Hiểu theo nghĩa chặt thì bệnh nhân là những người mắc các chứng bệnh về phần xác nhưng hiểu theo nghĩa rộng thì bệnh nhân là những người đau khổ cả về phần xác lẫn tinh thần: đói, khát, trần truồng, tù đày... Đó là đối tượng chúng ta cần phải quan tâm. Vì trong ngày phán xét, Đức Giêsu sẽ phán xét và thưởng phạt chúng ta dựa vào việc chúng ta có quan tâm hay không đối với các đối tượng trên.
Bài Tin mừng cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã dành nhiều thời gian để chữa lành bệnh tật và vì thể Ngài đã đem đến niềm vui và niềm hy vọng cho họ. Ngược lại, Bài đọc I, kể lại câu chuyện ông Gióp. Mặc dầu, ông là người thánh thiện, nhưng khi ông bị bệnh tật, thiếu sự quan tâm của người thân, ông vẫn cảm thấy bi quan.
Ngày hôm nay, những trường hợp như ông Gióp hay như bà nhạc mẫu Simon cũng đầy dẫy trong xã hội chúng ta đang sống. Họ ở bên cạnh chúng ta, có thể họ là người thân của chúng ta. Họ đang cần sự quan tâm giúp đỡ của chúng ta. Nếu không giúp họ được khỏi bệnh thì chúng ta có thể góp phần làm xoa dịu họ bằng cách quan tâm giúp đỡ, thăm hỏi, động viên khích lệ, không được để người mắc bệnh phải cô đơn, thất vọng.
Nếu một ngày sống của chúng ta bắt đầu bằng việc cầu nguyện, sau đó làm tốt việc bổn phận với ý thức làm sáng danh Chúa, nhất là biết quan tâm giúp đỡ các bệnh nhân thì chúng ta đang họa lại ngày sống của Chúa Giêsu. Lạy Chúa Giêsu, xin cho ngày sống của chúng con giống như ngày sống của Chúa. Amen.
81.Ma quỷ
Nghĩ tới ma quỷ, chúng ta thường mường tượng ra một thằng người, vừa đen đủi lại vừa xấu xa, vừa có sừng lại vừa có đuôi. Nhưng đó chỉ là một hình ảnh ấu trĩ mà thôi. Trong bức thư gởi tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô đã vẽ về nó bằng một đường nét khác, ngài gọi nó là quyền lực của đêm tối, quyền lực của tội ác.
Đúng thế, nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy nó đang mở rộng ảnh hưởng, đang bành trướng thế lực trong mọi lãnh vực. Từ khoa học kỹ thuật, cho đến sách báo phim ảnh. Chúng ta hãy nghĩ đến sách báo phim ảnh khiêu dâm, trình bày những tình cảm bệnh hoạn cùng với những vụ giết chóc dã man. Chúng ta hãy nghĩ tới những cuộc chạy đua vũ trang. Chỉ nguyên chương trình phòng thủ không gian của Mỹ, cũng đã tốn tới hằng tỉ mỹ kim, trong khi đó trên thế giới biết bao nhiêu người túng đói, chén cơm không có mà ăn, manh áo không có mà mặc. Chúng ta làm được những gì để ngăn chặn làn sóng tội ác, hay là chúng ta để mặc cho quyền lực của đêm tối cứ mỗi ngày một lan rộng.
Tội ác đã có từ lâu, nhưng ngày hôm nay, nó được tăng lên với một vận tốc kinh khủng, khiến cho con người như không còn ý thức về nó nữa. Người ta huỷ bỏ án tử hình vì cho đó là một hình phạt quá nặng nề. Thế nhưng khi được hỏi về những vụ phá thai, thì họ lại bảo đó là chuyện khác. Rồi khi được hỏi về những vụ ngoại tình, và ly dị, thì họ lại bảo con người có quyền được sống hạnh phúc. Dường như là cái nền văn minh vật chất, chỉ đem lại cho chúng ta một cái bộ mặt bên ngoài hào nhoáng, nhưng lại đánh mấy cái ý nghĩa, cái nền tảng bên trong. Vậy thì phải chăng quyền lực của đêm tối cứ tiếp tục trải dài. Và ai sẽ chiến thắng được nó?
Tôi xin thưa, người duy nhất đã chiến thắng được nó là Đức Kitô. Còn chúng ta, muốn chia sẻ phần chiến thắng, thì chúng ta phải mang lấy vũ khí của Ngài. Vũ khí ấy là gì? Tôi xin thưa đó là đức tin. Không phải chỉ là một đức tin được thực hành ở trong nhà thờ, nhưng là một đức tin mạnh mẽ và sống động, một đức tin vô điều kiện có nghĩa là ở mọi nơi và trong mọi lúc, gặp bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn chấp nhận Thiên Chúa là Chủ tể tuyệt đối, đồng thời cố gắng biểu lộ đức tin ấy bằng những việc làm cụ thể.
Ma quỷ không thể tác động trên chúng ta nếu như chúng ta đã không giao nộp cho nó tâm hồn và thể xác. Đồng thời niềm tin vào Đức Kitô sẽ là sức mạnh duy nhất làm cho ma quỷ phải khiếp sợ và bỏ chạy. Nhờ đó mà chúng ta được giải thoát khỏi quyền lực của đêm tối, quyền lực của tội ác.
82.Xoa dịu nỗi đau khổ
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi nhận thấy cuộc đời của Chúa Giêsu là một sự dung hoà tốt đẹp giữa đạo và đời. Thực vậy Ngài không phải chỉ hăng say rao giảng Phúc Âm, cứu rỗi phần hồn của chúng ta mà hơn thế nữa, bằng những hành động bác ái yêu thương, Ngài còn xoa dịu những nỗi đớn đau và thống khổ của chúng ta. Ngài đã đẩy lui cơn sốt cho bà mẹ vợ của Phêrô, Ngài đã chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền và dân chúng tuốn đến với Ngài thật đông đảo. Phải chăng đây cũng là điều chúng ta cần noi gương bắt chước và thực hiện trong cuộc sống của chúng ta, để nhờ đó bản thân chúng ta trở nên những chứng nhân sống động của Chúa và mọi người cũng nhờ đó mà nhận biết tình thương của Ngài.
Tại một trung tâm y tế thuộc mạn đông nam bang Carolina bên Hoa Kỳ, hình ảnh đầu tiên mà các bệnh nhân ghi nhận được, đó là nụ cười của cụ bà Florence. Từ 6 giờ sáng, bà cụ lái xe khoảng 10 cây số đến bệnh viện và ở lại đó 8 giờ trong một ngày và 7 ngày trong một tuần. Bà cụ có mặt bên cách bệnh nhân để chăm sóc họ và an ủi những thân nhân của họ. Còn những lúc rảnh rỗi, bà cụ lại cặm cụi đan những đôi vớ cho các bệnh nhân. Năm vừa qua, bà cụ đã đan được 395 đôi. Bà cụ không phải là một người có trình độ văn hoá cao, bởi vì lúc còn nhỏ, thân phụ bà cụ không muốn cho các con gái của mình được học hỏi nhiều. Lập gia đình, bà cụ có 7 người con và làm việc trong một tiệm thuốc tây. Tháng 4 năm 1983, sau một cuộc giải phẫu, bà cụ bắt đầu xuất hiện trong bệnh viện với chiếc nạng gỗ nhưng vẫn vui vẻ giúp đỡ mọi bệnh nhân. Trong năm 1988, với 365 ngày bà đã có mặt tại bệnh viện 2920 giờ. Bà nói: Năm nay tôi đã 92 tuổi, nếu được khoẻ mạnh thì tôi vẫn còn đến đây với nụ cười trên môi.
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy nỗi đau khổ của bản thân sẽ được vơi nhẹ nếu chúng ta cố gắng xoa dịu nỗi khổ của người khác. Đúng thế, đau khổ không được chữa trị bằng sự chấp nhận đã đành, mà còn bằng những nghĩa cử chúng ta làm cho người khác. Bà cụ trong câu chuyện hẳn không phải là người không đau khổ. Tuổi già, bệnh tật, cô đơn, có ai mà lại thoát khỏi phần số đâu. Thế nhưng với nụ cười trên môi, với đôi chân khập khiễng bà cụ đã ra khỏi chính mình để đến với người khác. Ra khỏi chính mình đó là bước đầu tiên giúp chúng ta thắng vượt nỗi khổ đau riêng tư. Có ai sống mà lại không có khổ đau, không có thập giá, thế nhưng sức nặng của thập giá sẽ vơi nhẹ nếu như chúng ta biết ra khỏi chính mình để đến với tha nhân, giúp đỡ và xoa dịu nỗi khổ đau của người khác. Không ai quá nghèo để không thể cho đi. Một nụ cười cảm thông, một ánh mắt khích lệ, một bàn tay nâng đỡ, một chén cơm nhỏ bé được chia sẻ với tất cả tấm lòng yêu thương, phải chăng đó là những cái chúng ta có thể cho đi, phải chăng đó là những cái mà nhiều người đang mong đợi nơi chúng ta. Chính trong lúc cho đi như thế chúng ta cảm nghiệm được một niềm vui trong lành, vì cho đi thì vui sướng hơn là lãnh nhận và lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô còn vang vọng như một câu kết luận: Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
83.Cứu vớt con người
Quang cảnh náo nhiệt ngày hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc sống con người biết mấy. Thực vậy, Ngài vừa mới rao giảng ở hội đường xong, liền đi về nhà của Phêrô và Andrê. Không một hoàn cảnh đau thương nào mà không gởi lên nơi cõi lòng Ngài một nỗi cảm thông chia sẻ. Vì thế, Ngài đã tiến lại gần, cầm tay và chữa lành cho bà mẹ vợ của Phêrô đang lên cơn suốt. Rồi từ đó, mọi người trong thành đã tuốn đến với Ngài, xin Ngài cứu chữa đủ mọi chứng bệnh phần xác.
Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ dừng lại ở những ốm đau phần xác, mà hơn thế nữa, Ngài còn muốn cứu chữa những tật bệnh phần hồn. Đây mới là điểm quan trọng trong sứ mạng của Ngài. Chính vì thế mà Ngài đã phán với các môn đệ: Chúng ta hãy đi tới những nơi khác để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở đó nữa.
Trải qua dòng thời gian Giáo Hội đã noi gương bắt chước Chúa Giêsu, đẩy mạnh hai cố gắng, hai hoạt động, đó là xoa dịu những đớn đau cho những người bất hạnh và dẫn đưa họ trở về cùng Chúa. Để xoa dịu những đớn đau phần xác Giáo Hội đã lập nên biết bao nhiêu nhà thương; biết bao nhiêu viện dưỡng lão, biết bao viện cô nhi. Nhưng đồng thời Giáo Hội cũng ý thức bổn phận chính yếu của mình là đem Chúa đến cho mọi dân tộc. Vì thế, từ xa xưa cho đến ngày hôm nay, Giáo Hội không ngừng gởi các môn đệ, các thừa sai, các tông đồ của mình tới những vùng đất xa lạ để rao giảng Tin Mừng cho tất cả những ai chưa nhận biết Chúa. Chữa lành những tật bệnh phần xác đã là điều tốt, huống nữa là chữa lành những tật bệnh phần hồn, bởi vì chính linh hồn mới là một kho tàng quý giá, chúng ta có bổn phận phải gìn giữ, phải bảo toàn, phải cứu độ như lời Chúa Giêsu đã nói: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi gì?
Ringhoff là một thuỷ thủ người Đức. Trong dịp mừng thượng thọ 80 tuổi người ta tới tấp đến thăm viếng và gởi lời chúc mừng. Trong số những người gởi lời chúc mừng có Bộ trưởng Công Chánh. Trong bức thư, ông Bộ trưởng hết lời khen ngợi ông thuỷ thủ già, bởi vì trong suốt thời gian hành nghề, ông thuỷ thủ già đã vớt được tất cả 126 người khỏi chết đuối.
Câu chuyện này hẳn phải làm cho chúng ta suy nghĩ. Đúng thế, cứu vớt người khỏi chết về phần xác là một hành động cao cả và tốt đẹp. Vậy thì cứu vớt người khỏi chết về phần hồn lại càng cao cả và tốt đẹp hơn biết chừng nào? Và trong ngày sau hết chính Chúa sẽ gởi lời chúc mừng đến cho bản thân họ. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta làm được những gì để xoa dịu những đớn đau của người khác và hơn thế nữa, chúng ta đã làm được những gì để góp phần vào công việc truyền bá Phúc Âm, dẫn đưa người khác trở về cùng Chúa.
84.Được chữa lành và phục vụ
Để hiểu được ý nghĩa của việc Chúa Giêsu chữa cơn bệnh sốt của bà mẹ vợ ông Simon, ta cần phải biết rằng vào thời đó, bệnh sốt được coi như là một trong những hình phạt đối với những người mắc tội bất trung: "Nếu các ngươi gạt bỏ các quy tắc của Ta và chán ghét các quyết định của Ta, mà không đem ra thực hành các mệnh lệnh của Ta, lại huỷ bỏ giao ước của Ta, thì Ta cũng vậy, Ta sẽ làm cho các ngươi như thế này: Ta sẽ trút xuống các người nỗi kinh hoàng, sự suy mòn, cơn nóng sốt, khiến mắt các ngươi mờ đi và các ngươi mờ đi và các ngươi phải kiệt sức" (Lv 26,15-16a). Chúa Giêsu "lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy", người bệnh lập tức được chữa lành, sức khoẻ được hồi phục hoàn toàn và bà đi phục vụ Chúa Giêsu và những người đi theo Ngài. Dưới ánh sáng Phục Sinh, cử chỉ này mang một ý nghĩa biểu tượng: loài người đã từng bị nằm liệt do cơn sốt là tội lỗi. Nhờ Phép Rửa tội, Chúa Giêsu "lại gần, cầm lấy tay mà đỡ dậy" có nghĩa là Ngài đến giải thoát con người khỏi tội lỗi, chữa lành họ, giúp họ trở thành những kẻ phục vụ Chúa và Giáo Hội. Chính Chúa Giêsu đã làm cho việc được chữa lành và phục vụ đi đôi với nhau.
Chúng ta là những người đã được Chúa Giêsu chữa lành, nhưng để biết được mình lành mạnh ra sao là nhờ vào những việc phục vụ mà mình đang làm. Tuy nhiên, những công việc phục vụ hữu hiệu luôn đòi hỏi sự quan tâm, biết chia sẻ thời giờ, tiền bạc và của cải, lại là những việc mà chúng ta hay nghi ngại và không thích làm. Nhưng nếu chúng ta ích kỷ, chỉ biết sống cho bản thân mình, đóng khung trong gia đình mình hay nơi một vài người mà mình thương mến, mà thiếu tinh thần phục vụ Chúa, phục vụ Họ Đạo, phục vụ Giáo Hội, phục vụ tha nhân, thì linh hồn mình vẫn còn bệnh hoạn, tâm hồn mình còn đang suy yếu. Khi chúng ta sống đúng tinh thần phục vụ vô vị lợi của Chúa, của Giáo Hội, thì ngay lúc đó, tâm hồn chúng ta mới thực sự được chữa lành và đến ngày sau hết, chúng ta mới được "đỡ dậy", được Phục Sinh với Chúa Kitô.
85.Đức Giêsu mẫu gương tuyệt vời
Trong cuộc sống, con người luôn phải vất vả khó khăn chỉ nhằm mục đích đơn giản chính là đi tìm hạnh phúc. Nhiều khi hạnh phúc đó không tìm được mà lại bị đau khổ, vì "sinh - bệnh - lão - tử" không ai có thể thoát được trên cõi đời này. Đặc biệt là thời Đức Giêsu y học chưa được phát triển, mỗi căn bệnh có thể nói là một "cực hình" về thể xác lẫn tinh thần. Cực hình về thể xác làm cho họ đau khổ, không thuốc men, bị bệnh tật hành hạ. Nhưng so với đau khổ về tinh thần thì chưa thấm vào đâu. Vì quan niệm của người Do Thái cho rằng những người bị bệnh chính lò do họ tội lỗi, do bị phạt... cho nên bị cộng đoàn tránh xa và ruồng bỏ. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đã làm việc thật vất vả, chỉ nhằm cho con người được hạnh phúc, Ngài đã phá tan những bệnh tật ngăn cách con người với Thiên Chúa và với nhau. Ngài đã làm việc và cầu nguyện từ sáng sớm đến chiều hôm. Do đó, có thể nói Đức Giêsu là con người của công việc và cầu nguyện:
1. Con người làm việc.
Trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta dễ dàng nhận ra các mốc thời gian trong ngày mà Đức Giêsu sử dụng, Người không để một phút giây nào trôi qua mà không có ý nghĩa, không có ích lợi. Một điều hay là chính Đức Giêsu không phải sử dụng thời gian nhằm lợi ích cho mình nhưng Ngài đã sử dụng cho người khác. Ngài làm việc chỉ nhằm đem lại hạnh phúc cho con người, tiêu biểu chính là đem lại hạnh phúc cho bà mẹ vợ ông Simon "Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt, nằm trên giường". Chắc chắn bà sẽ rất đau khổ. Lúc khách đến nhà bà rất muốn để phục vụ nhưng không thể phục vụ, bà bị một lực cản bệnh hoạn không thể làm cho bà đến được với Chúa, để phục vụ Người. Đức Giêsu không những đã phá tan lực cản đó mà qua công việc làm của mình Ngài còn làm tăng thêm lòng tin và động lực cho bà mẹ vợ ông phêrô, để chính khi hết bệnh bà cũng đã biết làm việc như chính Đức Giêsu đã làm "Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài". Bà đã cộng tác với Chúa qua việc làm của bà để đem đến chút lợi ích nào đó cho người khác. Việc làm của đó nếu chỉ nhằm trả công cho Đức Giêsu thì nó thật không ý nghĩa. Điều mà Đức Giêsu muốn chính là phải biết phục vụ và làm trong tình yêu chứ không phải đặt trên bàn cân để so đo, để trả công, đó chỉ là những công việc tiêu cực chưa có ý nghĩa cao thượng. Vì trên trần gian này rất hiếm khi chúng ta gặp người nào lại tự ôm lấy vất vả, đón nhận vất vả, và làm bạn với vất vả. Cuộc đời người ấy từ lúc sinh ra đến khi nhắm mắt lìa đời được dệt bằng những vất vả triền miên. Đó là Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc nhân trần. Định mệnh của ngài là sinh ra và chịu vất vả như chính Ngài đã nói: "Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mc10,45)
Hơn nữa, ông bà ta thường hay dạy con cháu "Nhàn cư vi bất thiện", khi mà người ta ở không thì dễ nghĩ đến điều xấu, từ đó sẽ đưa đến hành động xấu. Chắc chắn điều này không phải hoàn toàn đúng, nhưng phần lớn ai cũng chấp nhận nó. và chính chúng ta những người Kitô hữu lại càng phải theo gương Đức Giêsu vì Người chính là mẫu gương tuyệt vời trong công việc. "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". Do đó, theo gương Chúa Giêsu. Vâng! Chỉ khi nào chúng ta biết nhìn lên Chúa Giêsu để bằng lòng với cuộc sống của mình, thánh hóa nó và cho nó một giá trị cứu độ, thì lúc đó con người mới nhận được giá trị và yêu mến những vất vả của mình. Và lạ lùng thay, chính khi con người biết nhận ra những vất vả của mình, thì cũng là lúc những vất vả ấy biến thành niềm vui và hạnh phúc. Vì nó đã được thánh hoá và ban cho một giá trị cứu độ nhờ vào những vất vả của Chúa Giêsu.
2. Con người cầu nguyện.
Khi còn rất nhỏ, tôi vẫn còn nhớ như in câu giáo lý trong sách "Bổn đồng ấu" dành cho các em chuẩn bị rước lễ:
Hỏi: Đức Giêsu cầu nguyện khi nào và ở đâu?
Thưa: Đức Giêsu cầu nguyện mọi lúc và mọi nơi.
Thú thật ngày đó tôi vẫn chưa hiểu gì về việc cầu nguyện, nhưng chính cái hiểu đơn sơ đó đã khắc ghi vào trong tâm trí tôi hình ảnh cầu nguyện của Đức Giêsu rất đẹp. Tôi biết Ngài cầu nguyện là nói chuyện luôn mãi với Chúa Cha, mà ngày nay tôi tôi nhận ra sự cầu nguyện liên lỉ của Ngài với Chúa Cha. Thánh Marcô đã tường thuật: "Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó". Đó là một nét nổi bật trong cuộc đời Chúa Giêsu. Người luôn luôn cầu nguyện với Thiên Chúa Cha. Người cầu nguyện để cho các việc làm của Người đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, trong việc loan báo Tin mừng, trong việc "chữa nhiều kẻ ốm đau bệnh tật, trong việc xua trừ ma quỷ". Vì vậy, mỗi người chúng ta cũng hãy biết cầu nguyện như Chúa Giêsu đã từng làm, Ngài cầu nguyện trước mỗi công việc xin Thiên Chúa ban ơn nâng đỡ, soi sáng. Trong công việc cầu nguyện xin Thiên Chúa ban sức mạnh, sự kiên trì. Và cuối cùng khi hoàn thành thì cầu nguyện tạ ơn. Đúng là một bài học cầu nguyện tuyệt vời mà không có nơi đâu chúng ta có thể học được.
Lạy Chúa, khi bước theo Chúa Giêsu chúng con nhận ra được mẫu gương làm việc và cầu nguyện, xin cho mỗi người chúng con nhận ra sự vất vả trong công việc chính là ơn Chúa ban, để từ đó chúng con luôn biết cầu nguyện và làm việc phục vụ Chúa và tha nhân. Amen.
86.Hoạt động và cầu nguyện trong đời sống của Đức Giêsu (Mc 1, 29-39)
Kính thưa Quý Bề trên và Chị em,
Chúng ta vừa trải qua những ngày đầu Xuân Nhâm Thìn 2012 với biết bao niềm vui. Trong những ngày đầu năm mới, mỗi người chúng ta đều nhận được rất nhiều lời chúc thật hay, thật ý nghĩa, nhưng có lẽ chỉ một lời Chúc chúng ta cần và mong đợi đó là mỗi ngày trong Năm Mới chúng ta được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Kitô. Chúng ta sẽ nên giống Đức Kitô như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một đáp án, đó là: hoạt động và cầu nguyện như Đức Kitô.
I. LỜI CHÚA: CHÚA NHẬT 5 TN B (Mc 1, 29-39)
(29) Vừa ra khỏi hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. (30) Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. (31) Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
(32) Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. (33) Cả thành xúm lại trước cửa. (34) Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.
(35) Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (36) Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. (37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (38) Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” (39) Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.
II. SUY NIỆM
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một ngày sinh hoạt của Đức Giêsu tại Caphanaum. Ngay sau khi chữa lành anh chàng bị thần ô uế ám trong hội đường (Mc 1, 23-28), Đức Giêsu tiếp tục thực hiện một chuỗi những phép lạ: chữa lành bà nhạc ông Simon Phêrô và nhiều bệnh nhân khác, đồng thời xua trừ ma quỷ ra khỏi nhiều người. Dù trải qua một ngày tất bật trong việc chữa bệnh và trừ quỷ, nhưng Đức Giêsu vẫn dành thời gian riêng để cầu nguyện với Chúa Cha. Thánh Marcô ghi rõ: Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, đi ra một nơi thanh vắng và cầu nguyện (c.35). Chính Đức Giêsu đã dùng phương thức sống “hoạt động và cầu nguyện” này để đi trọn hành trình cứu độ mà Chúa Cha đã ủy thác cho Ngài. Là môn đệ Đức Kitô, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Đức Giêsu đã đi qua việc hết mình phục vụ anh chị em, nhưng đồng thời vẫn giữ trọn mối tương giao thân tình với Thiên Chúa.
1. Hoạt động—Chúa chạnh lòng thương dân Ngài
Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô miêu tả thật sống động hình ảnh một Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đến để phục vụ, để chia sẻ và đem lại sự sống đích thực và sung mãn cho con người. Nơi Đức Giêsu, một “Thiên Chúa chạnh lòng thương” đang hiện diện giữa dân Người. Sách Công Vụ Tông Đồ cho biết: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10, 38).
Mở đầu cho đoạn Tin Mừng hôm nay là việc Giêsu chữa lành “bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường” (c.30). Ngài lại gần, nhẹ nhàng cầm lấy tay bà và nâng dậy. Cách Đức Giêsu chữa bệnh thật đơn giản, và thân tình. Với cử chỉ “cầm tay và nâng dậy,” Đức Giêsu đã truyền sức sống Thiên Chúa cho bà và Ngài đã dùng quyền năng Thiên Chúa mà nâng bà dậy. Ngài đã khôi phục lại nơi bà những gì mà “cơn sốt” lấy đi, để bà tiếp tục phục vụ Chúa và anh chị em trong công việc thường ngày.
Sự “chạnh lòng thương” của Đức Giêsu không dừng lại nơi “bà mẹ vợ ông Simon,” nhưng còn trải rộng đến tất cả những ai đang cần đến Ngài. Thật vậy, “chiều đến, khi mặt trời đã lặn,” người ta mới đem mọi kẻ đau ốm, mắc đủ thứ bệnh tật, kể cả bị quỷ ám… Chúa đón nhận hết, và chữa lành tất cả. Chính cuộc sống và hoạt động của Đức Giêsu đã minh chứng sứ mạng của Ngài, được công bố nơi Tin Mừng Thánh Gioan: “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Suy niệm đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đưa tay ra để Ngài “cầm và nâng” chúng ta dậy khi gặp thử thách trong đức tin, trong đời sống cộng đoàn, và trong khi đương đầu với những căn bệnh về thể lý. Chúng ta cũng cần được Chúa cầm tay khi không dậy nổi; cần được Chúa đưa tay ra nắm lấy khi gần chìm như Phêrô! Để khi được Chúa chữa lành, được Chúa nâng dậy, chúng ta sống cho đúng với căn tính và phẩm giá của mình là những người đã được Chúa phục hồi và chữa lành. Để sau khi được chữa lành, chúng ta biết trỗi dậy và hăng hái phục vụ anh chị em mình như mẹ vợ ông Simon. Được Chúa chữa lành, là được Chúa tăng sức để hội nhập lại với đời sống cộng đoàn, và cùng chung tay xây dựng để cộng đoàn chúng ta trở thành dấu chỉ của Nước Trời giữa trần gian.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng là một tiếng chuông gióng lên thức tỉnh người Kitô hữu và đặc biệt người tu sĩ, trước căn bệnh “vô cảm” của thời đại. Như chúng ta đã biết, thời gian gần đây các trang mạng đều đề cập đến một căn bệnh của thời đại, đó là bệnh vô cảm. Vào lúc 5 giờ 30 phút chiều ngày 13 tháng 10 vừa qua, tại huyện Phật Sơn thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc xảy ra một sự việc đau lòng khiến toàn thế giới nhìn vào đều rùng mình và phẫn nộ. Đó là sự vô cảm của 18 con người dửng dưng trước sự quằn quại trên vũng máu của bé Duyệt Duyệt (Yue Yue) 2 tuổi, bị 2 chiếc xe tải cán qua. Rồi tiếp đến ngày 3-11-2011, chàng thanh niên có nick name là kẹo mút chơi bời đã khoe “chiến tích” tông xe làm chết người của mình với những từ ngữ đùa cợt phản cảm mang “máu lạnh” trên mạng Facebook, đã làm dấy lên làn sóng giận dữ kết án của dân cư mạng. Và mới đây, hôm 23-11-2011, dân cư mạng lại xôn xao bàn tán về câu chuyện cô gái lái xe buýt bị hãm hiếp trước sự bàng quan của hầu hết những người khách trên xe, duy chỉ có một người lên tiếng chống đối hành vi đồi bại của ba tên yêu xanh… Trước những sự kiện đau lòng này, người tu sĩ chúng ta phải làm gỉ?
Ước mong Lời Chúa hôm nay giúp chữa lành căn bệnh “vô cảm” của chúng ta và của con người thời đại này. Xin Chúa giúp chúng ta biết “chạnh lòng thương,” biết nhạy cảm trước những đau khổ, trước những cảnh thương tâm đang xảy ra chung quanh chúng ta, đồng thời cho chúng ta sức mạnh để quyết tâm đứng lên hành động theo sự thúc đẩy của tình thương Thiên Chúa.
2. Cầu nguyện
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (c.35). Mặc dù bận rộn với việc chữa bệnh, trừ quỷ, giảng dạy… nhưng Đức Giêsu vẫn không quên dành giờ để cầu nguyện, để tâm sự với Chúa Cha. Dù không ai gần Chúa Cha, không ai biết Chúa Cha bằng Đức Giêsu, nhưng Ngài vẫn cần gặp Chúa Cha mỗi ngày, mỗi lúc.
Thật vậy, cầu nguyện được coi là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống của Đức Giêsu. Ngài cầu nguyện mọi nơi, mọi lúc: Trước khi khởi đầu sứ vụ rao giảng, Ngài đã dành 40 đêm ngày để cầu nguyện (Mc 1,12-13); trước khi chọn 12 Tông đồ, Ngài cầu nguyện thâu đêm (Lc 6,12); và ở đây, trước khi khởi sự một ngày mới, Ngài cũng tìm đến Chúa Cha để cầu nguyện. Ngài tìm Cha để tâm sự về gánh nặng công việc, về nỗi đau khổ của nhân loại, về cuộc chiến chống lại sự dữ–chống lại Satan. Trong thân phận con người, Đức Giêsu thấy mình cần được Chúa Cha nâng đỡ, cảm thông, và tăng lực để làm tròn sứ mạng. Chính cầu nguyện đã đưa Đức Giêsu kết hiệp với Cha, lãnh nhận sức sống, và quyền năng nơi Cha để phục vụ con người tốt hơn.
Như Đức Giêsu cần gặp Cha như thế nào, thì chúng ta—những môn đệ ngày nay cũng cần gặp Chúa Cha như vậy. Là người được Chúa Cha tuyển chọn để làm chứng nhân Tin Mừng, chúng ta được sai đi đến với mọi người, để chia sẻ cuộc sống, để phục vụ và đem bình an và niềm vui của Chúa đến cho họ. Nhưng việc loan báo Tin mừng, việc phục vụ anh chị em của chúng ta chỉ đem lại hoa trái đích thực và vĩnh cửu, khi chúng ta biết gắn kết với Chúa—Nguồn mạch Tình Yêu và Sự Sống, như Đức Giêsu dạy: “Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì” (Ga 15,5).
Như thế, đối với người môn đệ Đức Kitô, cầu nguyện chính là lẽ sống, là nguồn mạch, là sức mạnh cho lời rao giảng, cho sứ mạng tông đồ, vì chỉ có cầu nguyện mới làm cho ta trở nên môn đệ đích thực trước mặt Thiên Chúa. Trong ngày tĩnh tâm này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy rút lui khỏi ngững bận rộn thường ngày, để dành những giờ phút thật riêng tâm giao với Chúa. Chính đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện sẽ giúp chúng ta chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách tốt đẹp và hữu hiệu hơn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết học nơi Chúa để biết vừa dấn thân hết mình phục vụ nhu cầu của anh chị em, nhạy cảm trước những nỗi đau của họ, đồng thời luôn giữ trọn mối liên lạc thân tình với Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết trân quý những giây phút cầu nguyện, những thời khắc được dành riêng cho cuộc trao đổi thân tình giữa con và Chúa, để con có đủ sức mạnh phục vụ anh chị em con mỗi ngày tốt hơn. Amen.
III. CÂU HỎI THẢO LUẬN CỘNG ĐOÀN
Duyệt quyết tâm tháng 1.2012.
Noi gương Chúa Giêsu, chị và cộng đoàn của chị đã “chạnh lòng thương” trước những người đang cần sự giúp đỡ của chị và cộng đoàn như thế nào? Chị có cảm thấy thấy bị quấy rầy trước những nhu cầu cấp bách của chị em trong cộng đoàn và của những người chung quanh không? Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta phải làm gì để có quân bình trong đời sống cầu nguyện và hoạt động như Đức Giêsu mong ước?
Chọn quyết tâm tháng 2.2012.
87.Sống tâm tình biết ơn
Chúa Giêsu vừa mới từ nhà hội Caphácnaum, nơi Ngài đã phụng sự Chúa bằng cầu nguyện và rao gảng lời Ngài, lại phục vụ nhân loại qua việc chữa lành người bị quỷ ám. Và trên đường về nhà Phêrô Ngài đã chữa lành người đầy tớ của thầy đội (Mt 8,5-13). Khi Chúa Giêsu ở Ca-phác-na-um, Ngài không có nhà riêng, trụ sở Ngài đặt là nhà của Phêrô, nơi đây mẹ vợ của Phêrô đang bị sốt.
Có ba loại sốt thường thấy ở Paléttin. Một loại được gọi là malta có đặc điểm làm suy nhược, mất máu, thường kéo dài nhiều tháng và chết. Một loại khác là sốt cách nhật giống như sốt rét định kì. Nhưng nặng nhất là sốt rét da vàng. Nơi gần sông Giođan đổ vào biển hồ có nhiều vùng sình lầy là môi trường lý tưởng cho giống muỗi sinh sôi nảy nở. Cả Caphácnaum và Tibêria là điạ bàn hoạt động cho giống muỗi gây bệnh sốt rét. Chứng này thường kèm theo bủng da và nóng lạnh, gây khốn khổ cho bệnh nhân, chắc chắn đây là chứng mà mẹ vợ ông Phêrô mắc phải.
Chúa Giêsu vừa từ nơi công cộng về, mệt mỏi vì giảng dạy và chữa bệnh, chắc cũng muốn nghỉ ngơi. Tuy vậy, vừa vào đến nhà đã lại có lời cầu xin được giúp đỡ, và Ngài lại dấn thân vì người khác.
Phép lạ này nói cho chúng ta vài điều về ba hạng người:
1. Cho chúng ta biết về Chúa Giêsu.
Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng, Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng như giữa đám đông trong nhà hội. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không cứu giúp, nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của chính Ngài. Nhưng trên hết, tại đây cũng như trong nhà hội. Chúng ta thấy các phương pháp có một không hai của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa Giêsu có nhiều người thầy trừ quỷ, họ hành nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái công phu, những hình thức bùa chú, những tiếng kêu la, hò hét với nhiều đồ nghề ma thuật. Trong nhà hội Chúa Giêsu chỉ phán một câu đầy uy quyền và việc chữa bệnh được hoàn tất ngay. Ở đây cũng có một sự việc như thế xảy ra. Bà nhạc gia của Phêrô đang đau chứng bệnh mà kinh Talmud gọi là “một cơn sốt thiêu đốt”. Kinh Talmud cũng chỉ ra phương pháp chữa trị chứng bệnh này. Người ta lấy một con dao bằng sắt đen cột vào một bụi gai bằng một lọn tóc. Suốt nhiều ngày liên tiếp, người ta đọc sách Xuất Hành 3, trước nhất là câu 2,3 rồi đến câu 4,5. Rồi có một công thức ma thuật được đọc lên, như thế họ xem phần chữa trị đã xong. Chúa Giêsu hoàn toàn bất chấp những câu thần chú ma thuật thông thường, chỉ bằng một dáng điệu và một tiếng duy nhất đầy quyền năng, Ngài đã chữa lành cho bà cụ. Bác sỹ Paul Tournier có viết: “bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều tôi kể. Đó chẳng phải là sự kiên nhẫn, mà là sự quan tâm”. Với Chúa Giêsu, việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín, giúp người không phải là nhiệm vụ khó nhọc, Ngài chỉ giúp người một cách tự động, tự nhiên vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần đến sự cứu giúp của Ngài.
2. Cho chúng ta biết về môn đệ của Ngài.
Họ chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng ngay trong giờ phút gặp gỡ ngắn ngủi này, họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho Ngài. Bà nhạc gia của Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, việc các môn đệ Ngài trình mọi việc cho Chúa Giêsu nghe là điều tự nhiên nhất trên đời.
Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một vị mục sư lão thành và ông cụ chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Ông hết sức kinh ngạc vì cách cầu nguyện đơn sơ của vị mục sư nọ. Nó giống hệt phần tiếp tục câu chuyện thân mật mà vị thánh tông đồ lão thành ấy luôn trò chuyện với Chúa Giêsu. Bác sỹ Tournier “về đến nhà, tôi sẽ kể cho vợ tôi nghe chuyện ấy và chúng tôi cùng cầu xin Thiên Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cụ mục sư nọ vậy. Từ đó, Ngài trở thành trung tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi làm và cũng quan tâm về việc đó. Ngài là người bạn thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời tôi ra thảo luận. Ngài sẽ chia sẻ những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự với tôi. Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người ấy”. Mấy lời trên đây bao gồm yếu tính sinh hoạt của Kitô hữu. Thế là các môn đệ nguyên thủy đã học được điều trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp đỡ mình.
3. Cho chúng ta biết vài điều về bà nhạc gia của Phêrô.
Ngay sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục vụ. Bà cụ đã dùng phần sức khoẻ hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Ta đã xử dụng ơn Chúa ban như thế nào?
Nhà văn Oscar Wilde viết “chuyện hay nhất Thế Giới” trong đó ông kể: “Đấng Cứu Thế đi từ miền thôn quê tầm thường lên một thành phố muôn phần sặc sỡ. Khi đi qua một phố đầu tiên Ngài nghe có tiếng nói phiá trên đầu, nhìn lên thấy một thanh niên nằm vắt ngang thành cửa sổ. Chúa hỏi sao ngươi lại bỏ phí linh hồn trong say sưa? Hắn đáp: thưa Chúa, tôi là người phong đã được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn? Đi xa hơi một chút nữa, Ngài thấy một thanh niên đang lẽo đẽo theo sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: Tại sao ngươi bỏ phí cuộc đời của ngươi trong trác táng? Chàng đáp: Thưa Chúa, tôi là người mù được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn? Cuối cùng ở giữa thành phố, Ngài thấy một người già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi được Chúa hỏi ông đáp: Lạy Chúa tôi là người chết được Chúa cho sống lại, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn là khóc?
Đó là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã tàn nhẫn, vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Bà mẹ vợ của ông Phêrô đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là cách chúng ta sử dụng mọi hồng ân Chúa ban.
Không ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng rể như thế nào, để sau này, với tư cách là lãnh tụ Giáo hội, Phêrô đã viết thư khuyên giáo dân: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô”(1Pr 4,10-11).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, Chúa đã đụng chạm đến đời sống chúng con, mỗi người mỗi cách. Mỗi lần Chúa chạm đến đời con là mỗi lần con được đổi mới, được chữa lành. Xin Chúa tiếp tục chữa lành không chỉ thể xác con mà cả tinh thần của con, để con luôn biết diễn tả tâm tình biết ơn: Biết ơn Chúa và biết ơn mọi người qua đời sống hy sinh phục vụ như Chúa. Amen.
88.Chúa Nhật 5 Thường Niên
Chúa Giêsu đến trần gian đem tình thương cho nhân loại. Ngài chữa bệnh và giúp chúng ta thấy được ý nghĩa của đau khổ và bệnh tật.
Sống trong thế trần, con người phải trải qua nguyên lý là "sinh, lão, bệnh, tử". Nguyên lý ấy chi phối mạnh mẽ đến nỗi không ai có thể thoát khỏi nó. Một trong những đau khổ đeo bám con người là bệnh tật. Bệnh tật làm cho con người "đau" về thể xác và hơn thế nữa nó còn làm cho họ "khổ" về tinh thần. Hơn nữa vào thời Chúa Giêsu, người Do Thái cho rằng bệnh tật của con người là do tội lỗi của họ, bệnh tật là do bị Thiên Chúa phạt. Do đó, những người mắc bệnh thường bị cách ly, họ bị cộng đoàn tránh xa và ruồng bỏ. Họ đau về thể xác rồi nhưng còn phải khổ hơn về tinh thần vì phải đối diện với quan niệm này.
Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian nhằm mang đến hạnh phúc cho con người. Bên cạnh việc rao giảng Tin mừng, Ngài còn chữa bệnh và cứu sống cho con người. Ngài đã phá tan những bệnh tật ngăn cách con người với Thiên Chúa và với nhau giúp cho con người sống hạnh phúc. Hôm nay Phúc âm ghi lại việc Ngài trả lại sức khoẻ cho bà mẹ vợ ông Simon. Ngài đem lại hạnh phúc cho bà và cho những người chứng kiến. Bởi vì Ngài có quyền năng trên bệnh tật và sự chết. Ngài chính là nguồn vui, là niềm hạnh phúc của nhân loại. Thông qua việc chữa lành Ngài còn hướng chúng ta đến cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chính nhờ mầu nhiệm Vượt qua này mà đau khổ của con người có được ý nghĩa tích cực: đau khổ không phải là hình phạt. Ngài khai sáng cho người ta con đường mới: trong đau khổ người ta có thể kết hợp mật thiết với Chúa, gia tăng lòng tin và trông chờ vào Đấng có quyền năng giải thoát. Như thế, Chúa Giêsu còn hơn vị lương y. Ngài chính là vị cứu tinh của nhân loại. Bởi Ngài không những chữa lành những bệnh tật, đau khổ nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của tội lỗi đang tác động trên đau khổ, để đem đến cho con người một sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào sự sống đời đời, một niềm hạnh phúc bất tận. Nhờ đó, đau khổ sẽ là một sự hiện diện của tình yêu. Mặc dù đau khổ vẫn còn là một mầu nhiệm khôn dò, một vấn nạn chưa được giải quyết thoả đáng nhưng đã có tình yêu của Thiên Chúa, mầu nhiệm ấy trở nên ý nghĩa hơn.
Hôm nay chúng ta nhận ra ân huệ Chúa Giêsu đem đến cho con người. Ngài rao giảng Tin mừng và chữa lành. Ngài giúp chúng ta xác tín rằng dù con người có phải vất vả đối điện với đau khổ và bệnh tật nhưng con người vẫn có Thiên Chúa hằng quan tâm chăm sóc và chữa lành. Con người vẫn luôn có Thiên Chúa ở ngay bên để thông cảm, chia sẻ và nâng đỡ. Con người sẽ được khoẻ mạnh và sống bình an. Nhờ đó con người có thể sống vui tươi hơn, hạnh phúc hơn.
Nếu Chúa Giêsu là vị Bác sĩ tài giỏi và nhân từ thì chúng ta hãy chính là những người y tá bác ái, sẵn sàng cộng tác với Chúa Giêsu trong việc chữa lành bệnh nhân. Chúng ta hãy là những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu, có thể giúp đỡ tha nhân, chúng ta có thể xoa dịu phần nào nỗi khổ đau của nhân loại mang lại niềm vui cho mọi người. Ngoài ra, đứng trước nỗi đau khổ của kẻ khác, có khi chúng ta cảm thấy bất lực, không biết làm cách nào để giúp đỡ họ. Những lúc đó, có thể người ta cần chúng ta cảm thông, chia sẻ với họ bằng thái độ thinh lặng, lắng nghe họ tâm sự, ánh mắt cảm thông. Ngay cả khi chúng ta không thực hiện được điều đó, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ. Cùng tất cả tấm lòng yêu thương chân thành của chúng ta, chúng ta hãy hiện diện với họ cả con tim và đức tin của mình.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã đến trần gian loan báo Tin mừng và chữa bệnh cho con người. Ngài cho chúng con thấy tình thương của Thiên Chúa và giúp chúng con thấy được mặc dù chúng con gặp đau khổ và bệnh tật, Thiên Chúa vẫn ở bên chúng con và đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Xin cho chúng con luôn tin yêu và phó thác vào Thiên Chúa tình thương và xin cho mỗi người Công giáo chúng con cũng biết đem niềm vui và hạnh phúc cho những ai mà chúng con gặp gỡ trong môi trường mình đang sống. Amen.
89.Sống là chiến đấu
Trong chuyện ngụ ngôn của Lafontaine có kể một câu chuyện như thế này: có một tiều phu vác củi từ trong rừng về nhà. Củi thì nặng mà sức thì yếu cho nên ông ta cứ than thở hoài. Sau hết vì quá chán nản, ông đã kêu thần chết đến đem mạng sống mình đi phứt cho rồi. Vừa kêu dứt tiếng thì thần chết bỗng hiện ra, mặt mày khủng khiếp, tay cầm sẵn lưỡi hái. Thần chết hỏi: "Mi gọi ta đến để làm gì?" Ông tiều phu mặc dù vừa mới đòi chết nhưng khi thấy thần chết thì hoảng sợ và không muốn chết nữa, bèn nói trớ: "Xin ông làm ơn đặt bó củi này lên vai hộ tôi". Thần chết bỏ lưỡi hái xuống và đem bó củi chất lên vai người tiều phu. Ông này vội vàng cám ơn và nhanh chân rảo bước, không còn thấy nặng nhọc gì nữa.
Câu chuyện ngụ ngôn trên có thể giúp ta hiểu được phần nào Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe. Tất cả 3 bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều bàn đến những việc lao động nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi trần gian này. Cuộc sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm lụng từ sáng tới chiều, quần quật hết ngày này sang ngày khác, hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Kẻ thì lao động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải làm việc vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm-ăn, ăn-làm như một cái vòng lẩn quẩn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nỗi, ăn không vô thì cũng là lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Trước cảnh sống cơ cực đó, những kẻ bi quan thì than thở như trong bài đọc thứ nhất của sách ông Gióp: "Lao động nhọc nhằn là kiếp sống của tôi. Ngày của tôi giống như ngày của một kẻ làm công, như một người nô lệ. Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối và mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc". Thái độ đó cũng giống như người tiều phu trong chuyện ngụ ngôn Lafontaine, làm việc cực nhọc quá nên bác tiều phu cứ đòi chết cho rồi. Khi người ta làm việc cực nhọc mà không hiểu được ý nghĩa và giá trị của việc mình làm thì người ta dễ có thái độ bi quan như thế.
Bài Tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa: Chúa vừa giảng dạy trong Hội đường và cứu chữa một người bị quỷ ám xong, vừa mới đi ra thì hay tin bà Nhạc mẫu của Phêrô đang bị sốt nặng. Người liền đến nơi cầm tay nâng bà dậy, bà liền khỏi sốt. Liền sau đó có cả một đám đông tụ họp trước cửa nhà, đó là những người đau đớn vì đủ thứ bệnh tật, Chúa lại phải cứu giúp họ. Mãi tới chiều tối Chúa mới có chút ít giờ nghỉ ngơi. Người tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Vừa tảng sáng hôm sau thì các môn đệ lại đi tìm Người và cho hay dân chúng lại tấp nập tuôn đến xin Người cứu chữa.
Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả từ sáng tới tối, hết ngày này sang ngày khác, không chỉ làm việc để lo cho bản thân Người mà làm việc để cứu giúp người khác, không phải chỉ lo phần xác người ta mà còn lo rao giảng để cứu giúp linh hồn người ta nữa. Qua tấm gương đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của việc lao động: lao động là bổn phận của mọi người, lao động giúp ích cho bản thân và cho người khác, lao động sinh ích lợi cả phần xác lẫn phần hồn. Những bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay vạch cho ta thấy phương hướng sống trước những công việc bề bộn cực nhọc.
. Trước tiên chúng ta hãy dâng lên cho Chúa tất cả những công việc lao động của chúng ta.
. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ thể xác và tinh thần để có thể đảm nhận những công việc ấy.
. Chúng ta hãy xin Ngài chúc lành cho việc làm của chúng ta sinh ra những kết quả tốt đẹp.
. Xin Chúa giúp chúng ta làm việc không phải chỉ cầu lợi ích cho bản thân mình, mà còn để giúp ích cho những người khác.
. Và đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta biết để ra một phần thời giờ, một phần sức lực để làm việc mở mang Nước Chúa nơi trần gian...
Xin Chúa ban cho tất cả chúng con một khối óc biết sáng tạo, một đôi tay biết làm nên những bát cơm đầy để xoa dịu những cơn đau do đói khát đem lại, một đôi tay biết xây dựng một mái ấm gia đình nên tươi đẹp. Xin Chúa nâng đỡ những lao công vất vã của chúng con, và xin Chúa ban cho chúng con những ơn lành hồn xác. Amen.
90.Đau khổ
Cho đến ngày hôm nay, đau khổ vẫn mãi mãi là một vấn đề nan giải trong số kiếp của con người. Thực vậy, tại sao chúng ta lại đau khổ? Phải chăng đau khổ là một hình phạt do tội lỗi của chúng ta… Nếu vậy thì tại sao những người công chính cũng gặp phải nhiều khổ đau? Hay là Thiên Chúa đã bất công khi cư xử với chúng ta?
Từ câu chuyện của ông Gióp, chúng ta rút ra được một bài học đức tin, đó là trong những giờ phút khổ đau, chúng ta đừng vội kêu trách Thiên Chúa, bởi vì Ngài là nguồn sự sống, không bao giờ muốn cho con người phải khổ, phải đau. Rất nhiều khi khổ đau là do con người gây ra cho nhau, vì thiếu yêu thương, thiếu cảm thông, thiếu giúp đỡ.
Cùng với ông Gióp, là người tín hữu, chúng ta phải có thái độ đúng đắn đối với Thiên Chúa trong những giờ phút đen tối, cũng như phải sống Tin Mừng thế nào trong mối liên hệ với những người đau khổ.
Đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người, nhưng đồng thời lại là cơ hội để con người đến với nhau một cách đặc biệt hơn, bằng sự cảm thông, an ủi và giúp đỡ, bởi vì chúng ta tin rằng Chúa yêu thương mọi người, cho nên không thể nghĩ rằng đau khổ và bệnh tật là hình phạt của tội lỗi.
Một quan niệm sai lạc và méo mó về Chúa sẽ dẫn chúng ta tới một lối sống đạo đức một cách thụ động, bởi vì Chúa để cho những khổ đau xảy ra, cho nên chúng ta hãy kiên nhẫn đón nhận để đền tội và lập công. Cách thức suy nghĩ như thế sẽ khiến chúng ta coi nhẹ mối quan tâm cứu chữa những kẻ bất hạnh. Mọi thái độ cam chịu ở đời này để được Chúa thưởng ở đời sau.
Chúa Giêsu đem Tin Mừng đến cho nhân loại bằng một thái độ tôn giáo hoàn toàn trái ngược lại với sự cam phận. Thực vậy, thấy bà mẹ vợ của Phêrô lên cơn sốt, Ngài liền giúp cho bà được khỏi bệnh. Và dân chúng đưa những kẻ đau yếu đến với Ngài và Ngài đã chữa lành cho họ. Thái độ của Ngài thật là cụ thể, rõ ràng và đó là thái độ tôn giáo.
Vì tin vào Chúa của tình thương mà phải ra tay cứu chữa những kẻ đau yếu tật nguyền, cho họ được khỏe mạnh, hầu làm chứng một cách đáng tin rằng quả thật Chúa yêu thương con người và Ngài đã dùng con người để cứu chữa con người. Bởi vì khi con người được yêu thương và giúp đỡ, thì dù có bệnh tật và khổ đau, thì vẫn có thể cảm thấy được hạnh phúc.
Trước những khổ đau bất hạnh của người khác, chúng ta đã có thái độ như thế nào? Cảm thông và giúp đỡ hay đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ, cháy nhà hàng xóm bình chân như vại.
91.Cách đáp ứng
Vấn nạn về nỗi đau khổ của nhân loại, đặc biệt là nỗi đau khổ của người công chính, là một vấn nạn lớn trong Kinh Thánh qua các thời kỳ. Đây là một vấn nạn mà Gióp đã bị day dứt. Gióp là một người tốt, tuy nhiên, ông vẫn phải chịu đựng những thảm cảnh khủng khiếp. Hậu quả là ông có một cái nhìn ảm đạm về cuộc sống.
Nỗi đau khổ vẫn còn là một vấn nạn lớn. Ngày nay rất nhiều người có thể có cùng một quan điểm với Gióp. Bạn hãy nghĩ đến tất cả những người đau khổ vì cảnh nghèo nàn, đói khát, đau yếu, bất công, áp bức, thảm cảnh… Trong thời Cựu Ước, đau khổ bị coi như là một sự trừng phạt đến từ Thiên Chúa, vì tội lỗi của con người.
Câu trả lời của Đức Giêsu đối với vấn nạn về nỗi đau khổ là gì? Người không chấp nhận quan điểm rằng đau khổ là một sự trừng phạt đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa không làm điều ác. Thiên Chúa luôn muốn sự tốt lành. Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy khi Đức Giêsu phản ứng trước nỗi đau khổ thực sự, điều đó chẳng khác gì một câu trả lời đối với câu hỏi “tại sao có đau khổ?”.
Phản ứng đó rất thực tiễn – như chúng ta nhận thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Ở đây, chúng ta nhận thấy đám đông những người bị đau yếu về thể xác hoặc tâm trí đến vây quanh Đức Giêsu. Và Đức Giêsu đã tự hiến thân mình cho mỗi người, chữa lành cho từng người một. Người không tự cô lập khỏi đau khổ của nhân loại. Người đã tự mình trở nên hoàn toàn nhạy cảm, trước những người bị thương tích và đau yếu.
Nỗi đau khổ là một tình trạng cô độc. Đức Giêsu đã không ủy mị trước nỗi đau khổ. Người cũng không giảng dạy sự cam chịu như chúng ta thường làm. Người không thích nhìn thấy con người đau khổ. Đau khổ là một trong những sự dữ mà Người đến để kháng cự lại. Người có lòng thương xót đối với những kẻ đau khổ, và mang lại điều tốt lành cho họ. Người xua đuổi những sự dữ do tội lỗi, sợ hãi, xấu hổ, thất vọng… đã ràng buộc con người.
Vấn nạn đau khổ đã trở nên một cơ hội cho Đức Giêsu – một cơ hội để chứng tỏ về Thiên Chúa. Bằng cách tự hiến thân cho kẻ bị đau yếu, Người mặc khải cho chúng ta về lòng thương xót của Thiên Chúa, trước nỗi đau khổ của nhân loại.
Nỗi đau khổ của những người khác cũng là một cơ hội cho chúng ta nữa. Chúng ta không có khả năng chữa lành, nhưng chúng ta luôn có khả năng chăm sóc người khác. Và chăm sóc chính là một công việc có tác dụng chữa lành. Chỉ cần hiện diện bên cạnh người đau khổ, tự thân điều đó rất có giá trị rồi. Nhưng đây không phải là một việc dễ dàng, bởi vì điều đó có nghĩa thay vì giải tỏa được nỗi đau đớn của người đó, chúng ta phải chuẩn bị chia sẻ nỗi đau đó.
Chúng ta đến với những người đau khổ với đôi bàn tay trống rỗng. Chúng ta có thể làm được gì cho họ? Chúng ta có thể sử dụng đôi bàn tay trống rỗng đó, để an ủi họ. Những người đau khổ mong mỏi rằng chúng ta không bỏ rơi họ, rằng chúng ta giữ vững lập trường đứng dưới chân thánh giá, giống như Đức Maria đã làm tại Canvê. Đơn giản chỉ cần có mặt ở đó mà thôi – mà trong một số chừng mực nào đó, đã là gay go lắm rồi. Điều duy nhất mà người đau khổ khát khao, chính là thông truyền cho họ sức mạnh của sự ấm áp tình người. Một người vẫn có thể được lành mạnh, mặc dù không hề được chữa lành.
Còn đối với nỗi đau khổ của riêng chúng ta thì sao? Đau khổ là một yếu tố không tránh khỏi của tình trạng nhân loại, mặc dù con đường đau khổ là một con đường chật hẹp và tối tăm. Thật ra một niềm an ủi lớn lao cho chúng ta, khi biết rằng chính Đức Giêsu cũng đã đi trên con đường này, và Người đã đi cho đến tận cùng. Từ khi Đức Giêsu đi qua con đường đau khổ, thì nó không còn giống như trước nữa. Một ánh sáng rạng rỡ đã chiếu tỏa trên đó. Người chứng tỏ cho chúng ta rằng mặc dù con đường này dẫn tới đồi Canvê, nhưng nó không kết thúc ở đó, mà kết thúc ở sự Phục sinh. Do đó, đối với người Kitô hữu, nỗi đau khổ trở thành một cơ hội để chia sẻ cuộc thương khó của Đức Kitô, trong niềm hy vọng được chia sẻ trong vinh quang Phục sinh của Người.
92.Dành thì giờ
Lần kia, có một người đàn ông đang cưỡi một con ngựa. Khi con ngựa và người cưỡi ngựa ầm ầm phóng qua, một người nông dân già đang đứng ở cổng cất tiếng hỏi: “Anh đang đi đâu đấy?”
Người đàn ông la lớn trong khi phóng vụt qua “Đừng hỏi tôi, hãy hỏi con ngựa ấy”.
Người đàn ông cưỡi ngựa tiêu biểu cho người có cuộc sống với cách sinh hoạt hối hả không ngừng. Người đó không hề có tự do; anh bị nô lệ cho công việc của mình. Nhưng vấn đề của anh ta còn sâu xa hơn. Anh ta không kiểm soát được cuộc sống của mình. Dường như có một sức mạnh nào đó đã nhập vào anh ta, đang dẫn dắt anh đi. Đây không phải là một lối sống hay ho gì.
Người ta có thể quá muộn để bắt kịp công việc, đến nỗi họ không dành ra được lấy một phút nào cho bản thân mình. Hoạt động có thể trở thành một thứ bệnh tật. Đây là một tình trạng nguy hiểm. Có thể người ta phải chịu đựng sự hủy hoại và suy sụp. So với những kẻ ích kỷ, thì những người quảng đại dễ gặp rủi ro này hơn. Chúng ta phải biết chăm sóc bản thân mình. Đây không thể là cung cấp, và cũng không phải là thu nạp vào tất cả. Chỉ bằng cách chú tâm cẩn thận đến những nhu cầu thể lý, tình cảm, tâm trí, và tinh thần của bản thân, thì chúng ta vẫn có thể tiếp tục luôn là những người vui vẻ cống hiến.
Như chúng ta nhận thấy trong đoạn Tin Mừng hôm nay, ngay cả Đức Giêsu cũng cần dành thì giờ cho bản thân mình. Những kẻ đau yếu về thể xác và tâm trí luôn vây quanh Người. Tất cả mọi người đều đang kêu la với Đức Giêsu. Người đang có nguy cơ bị hao mòn. Tuy nhiên, giữa bối cảnh cuồng nhiệt đó, chúng ta vẫn đọc được rằng “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã thức dậy, đi ra một nơi hoang vắng, và cầu nguyện ở đó”. Đức Giêsu cầu nguyện không chỉ vì bổn phận, mà còn vì nhu cầu nữa.
Nơi hoang vắng làm được gì cho Người? Nơi đó tạo cho Người khả năng để phục hồi năng lực đã bị mất đi, giúp cho Người tiếp tục tập trung. Nhưng nhất là trong suốt những giây phút cô tịch này, Người duy trì và củng cố được một điều quan trọng nhất trong cuộc đời của Người – mối tương quan với Chúa Cha. Đây là bí quyết cho sự thành công trong sứ vụ của Người.
Lời cầu nguyện hữu ích nhất, chính là có được sự hiện diện của Thiên Chúa mà không cần phải nói hoặc làm bất cứ việc gì. Chỉ khi được ngồi với sự hiện diện của Thiên Chúa, là người ta có thể được ngồi bên cạnh lò lửa nồng ấm. Điều này nghe có vẻ dễ dàng, nhưng trong thực hành, quả thật rất khó khăn. Bởi vì ngay khi dừng chân lại, thì chúng ta liền cảm thấy trống rỗng, thậm chí có lẽ còn cho rằng đó là giây phút vô dụng nữa. Hầu hết người ta đều cho rằng bản thân mình có giá trị qua công việc. Họ cho rằng giá trị của con người tùy thuộc vào ích lợi của người đó. Họ không biết cách đương đầu với sự nhàn rỗi và tĩnh mịch. hậu quả là cuộc sống của họ có thể bị nông cạn và hời hợt. Mặt khác, khi nhận chìm mình vào sự thinh lặng và tĩnh mịch với sự hiện diện của Thiên Chúa, thì những kế hoạch của chúng ta mất đi sức mạnh nơi bản thân mình, và chúng ta cảm nhận được giá trị đích thực của mình, không hệ tại ở sự làm việc, mà ở sự hiện diện.
Cách thế quan trọng nhất để yêu mến Thiên Chúa, chỉ đơn giản là sống với sự hiện diện của Người, để chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà thôi. Rất nhiều người có khuynh hướng cho là lòng yêu mến Thiên Chúa ngang hàng với công tác xã hội. Tất nhiên, lời cầu nguyện có thể trở thành một điều ích kỷ, tránh né và trốn tránh. Nhưng lời cầu nguyện cũng có thể có tác dụng. Công việc có thể là một cách tránh né khỏi phải cầu nguyện, khỏi phải tìm kiếm Thiên Chúa. Và nếu không có lời cầu nguyện, thì người ta có thể dễ dàng trở thành người hoàn toàn qui hướng về bản thân mình, tự mình hành động, hơn là trông cậy vào Thiên Chúa.
Chúng ta có thể đánh mất chính mình trong khi làm việc. Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy chính mình trong công việc. Đây là lý do tại sao trong cuộc sống, chúng ta cần có một nơi yên tĩnh. Chúng ta cần phải học hỏi từ gương mẫu của Đức Giêsu, về cách kết hợp giữa hoạt động và chiêm niệm. Ra đi cầu nguyện không phải là cách thế trốn thoát, nhưng điều này đưa đến sự tái cam kết. Cần có thời gian để cống hiến, và cần có thời gian để tiếp nhận. Để có được một cuộc sống lành mạnh, chúng ta cần phải quan tâm đến cả hai lối sống trên.
93.Chúa Nhật 5 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Nhìn những công nhân trong ngành xây dựng: họ chịu khó, cực nhọc, đổ rất nhiều công sức vào các công trình. Họ làm nên những ngôi nhà thật đẹp. Họ dùng hết khả năng mình có để tạo nên những nét thẩm mỹ cho đời. Khi kết thúc một công trình, họ không ở lại đó để nhận những lời khen thưởng, họ cũng không lưu luyến nơi mình làm việc mà không thể rời xa được. Cũng không có người nào đòi ở lại hay muốn làm chủ công trình mà mình đã khó nhọc làm nên. Nhưng mọi người đều vui vẻ ra đi khi kết thúc công việc, để đi đến nơi khác và tiếp tục công việc của mình và cũng kết thúc rồi lại ra đi, tìm công việc mới. Đó là nghề của họ, công việc họ phải làm như thế. Họ không bao giờ đòi làm chủ công trình mà họ làm nên, vì họ biết mình chỉ là người thợ, công việc của họ chỉ là công việc của người thợ, họ chỉ có trách nhiệm là hoàn thành công việc của mình thật tốt.
Chúa Giêsu là một người thợ, không chỉ để xây dựng những ngôi nhà bình thường, nhưng để xây dựng những ngôi nhà tâm hồn cho Thiên Chúa. Ngài làm việc cả ngày lẫn đêm, Ngài đem niềm vui, đem sức mạnh đến cho nhiều người. Những ngôi nhà tâm hồn đã bị hư hoại, Ngài đến làm cho nó tốt hơn. Những ngôi nhà không đứng vững được, Ngài nâng đở dậy và làm cho nó hoạt động. Những ngôi nhà tưởng chừng như bỏ đi, có bàn tay của Ngài, nó trở nên hữu dụng. Những ngôi nhà mọi người đều muốn tránh xa vì sợ nguy hiểm, nhưng bàn tay của Ngài chạm tới, nó trở nên mỹ miều và đạt được mức độ nghệ thuật cần thiết. Khi mọi người tìm đến để ca tụng, yêu cầu Ngài ở lại thì Ngài lại ra đi. Ra đi để tiếp tục xây dựng, để làm đẹp cho đời. Ngài không chiếm hữu cũng không đòi hỏi một sự đáp trả nào. Ngài ra đi để tiếp tục công việc mình phải làm. "Ta phải ra đi và đến nơi khác để rao giảng, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó".
Một công việc hết sức bình thường của một người thợ, không có gì khác thường, công việc mà biết bao người của mọi thời đại đều làm như thế. Nhưng công việc bình thường như thế lại có những người không làm như thế. Chúng ta những người được mời gọi theo chân Chúa Giêsu, được mời gọi để làm người thợ như Ngài.
Những người thợ của thời đại mới có khi không rành nghề cho bằng thợ của ngày xưa, nhưng lại đòi hỏi yêu sách nhiều hơn: nào là phải có điều kiện thuận tiện, phải được phục vụ chu đáo theo ý riêng, phải được đáp ứng những nhu cầu cần thiết và phải làm sao cho mọi người biết đến nữa chứ. Nếu cứ âm thầm lặng lẻ mà làm việc thì những người thợ của ngày hôm nay không thể chấp nhận được.
Nhu cầu được đáp ứng, nhưng người thợ không thể hoàn thành được công việc của mình, mà làm cho mọi người phải thất vọng vì tay nghề quá kém mà lại thiếu chữ tín.
May thay cũng còn có những người thợ hoàn thành tốt công việc của mình. Nhưng khi mọi người vui mừng tán thưởng, vây quanh chúc tụng, thế là anh ta chiếm ngay công trình mà mình vừa hoàn thành làm của riêng, không muốn rời xa nó. Càng không muốn ra đi để tiếp tục công việc mà nghề nghiệp đòi buộc. Người thợ đã bỏ nghề nghiệp của mình, giờ đây anh chỉ còn biết sống trong mơ, xa rời thực tế, một ngày nào đó anh phải trả giá cho giấc mơ của mình.
Cũng có được những người thợ của Chúa Kitô trong thời đại mới nầy. Họ noi gương Ngài thật chính đáng, nhìn thấy công việc mình phải làm, chu toàn thật tốt, đem niềm vui cho người và cho đời. Nhưng điều quan trọng là họ biết ra đi, biết tiếp tục công việc cần thiết mà nhiều người đang chờ đợi họ.
Chúng ta là những người thợ của ngày hôm nay, hiện tại chúng ta đang làm việc như thế nào? Là những người khó khăn hay thắc mắc không chấp nhận được hoàn cảnh hiện tại, hay chúng ta đang sống trong giấc mơ của những thành công và không muốn từ bỏ những gì mình đang có. Nếu như thế chúng ta không phải là người thợ chân chính.
Nếu trong đời sống hằng ngày mà biết chu toàn trách nhiệm, chấp nhận hoàn cảnh sống, biết tìm mọi cách để đem niềm vui cho đời và cho người với tất cả những gì có thể làm được. Đó là chúng ta đang bước chân theo Chúa Giêsu, biết ra đi rao giảng Tin Mừng.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn can đảm, để mỗi người nhìn thấy được những việc cần phải làm và thi hành trọn vẹn.
94.Nơi hoang vắng
Một người đàn ông kia có thói quen tự mình ra đi, vào một khu rừng hẻo lánh. Ngày kia, vì tò mò muốn biết anh ta đi đâu, nên có người bạn đã đi theo anh vào rừng. Khi đuổi kịp anh ta, người bạn đó thấy anh đang ngồi yên lặng trên một khúc gỗ.
Người bạn đó hỏi: “Anh đang làm gì thế?”
Anh trả lời “Tôi đang cầu nguyện”.
“Nhưng tại sao anh phải đi đến nơi xa xôi này để cầu nguyện?”
“Bởi vì tôi cảm thấy là Thiên Chúa hiện diện ở đây”.
“Nhưng phải chăng chúng ta có thể tìm thấy Thiên Chúa ở tất cả mọi nơi, và phải chăng ở bất cứ nơi đâu cũng chỉ có một Thiên Chúa đó sao?”.
“Thiên Chúa vẫn thế, nhưng tôi thì không”.
Mặc dù chúng ta có thể tìm thấy Thiên Chúa, và cầu nguyện với Người ở bất cứ nơi nào và tất cả mọi nơi – trong nhà bếp, ngoài đường phố, trên xe hơi, tại nông trại, ở nơi làm việc – tuy nhiên, thật là một ý tưởng hay, khi có một nơi đặc biệt – bờ biển công viên, núi non, nhà thờ, hoặc ở bất cứ nơi đâu – mà tại đó, đôi khi chúng ta có thể rút lui khỏi những bận rộn của cuộc sống. Tại những nơi này, chúng ta cảm thấy rằng dường như Thiên Chúa gần gũi hơn và thân thiện hơn. Toàn thể bầu khí ở đó dường như tràn ngập sự hiện diện thần thánh của Người. Thiên Chúa nói với chúng ta qua làn gió thổi, qua âm thanh của giòng suối, qua tiếng chim hót, nơi nét đẹp của một bông hoa dại, trong chính sự thinh lặng.
Tại những nơi này, chúng ta cũng trở nên khác hẳn. Chúng ta trở nên trầm tĩnh hơn, yên lặng hơn, và do đó, chúng ta cởi mở hơn với những gì mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, trong tất cả mọi lúc và tất cả mọi nơi.
Quả thật là rất tốt, nếu chúng ta có được một nơi đặc biệt, một nhà nguyện nhỏ bé, một không gian của riêng mình, tách biệt khỏi tất cả mọi chuyện khác. Một nơi như vậy đặc biệt hữu ích trong việc yên lặng suy niệm, và nói chuyện với Thiên Chúa từ tận thẳm sâu tâm hồn mình, trong một tương quan giữa cá nhân với cá nhân. Ngay cả khi chỉ được ngồi trong một căn phòng đặc biệt cũng là một điều tốt đẹp. Tại nơi thần thánh này, bạn không chỉ tìm thấy Thiên Chúa, mà còn tìm thấy chính mình nữa. Khi quá bận rộn, quan hệ của chúng ta với bản thân mình trở nên lỏng lẻo. Người ta không thể nhìn thấy khuôn mặt của mình, khi soi mình xuống những giòng nước bị khuấy động.
Mặc dù người ta có nhận ra điều đó hay không, thì tất cả mọi người vẫn đều cần đến một không gian như vậy. Nếu muốn có một cuộc sống nội tâm, chúng ta tuyệt đối cần đến khoảng không gian đó. Khi càng đi vào nơi cô tịch, chúng ta càng được bình an, dù với bất cứ điều gì xảy ra. Điều tốt nhất chính là nơi đó giúp cho chúng ta tìm thấy, hoặc tạo ra được một không gian thánh thiêng, ngay bên trong con người của mình. Ngay cả trong khi duy trì tương quan với thế giới bên ngoài, thì chúng ta vẫn có thể sống từ trung tâm đó.
Để được thư giãn, chúng ta cần có một không gian – một không gian của riêng mình, một nơi cô tịch mà tại đó, chúng ta có thể thực sự có quan hệ với con người sâu xa nhất của mình. Nếu chúng ta không có được điều đó, nếu không gian của chúng ta bị tước đoạt hoặc xâm phạm, nếu chúng ta chịu sức ép, hoặc có quá nhiều việc phải làm, thì chúng ta có nguy cơ bị rơi vào sự hỗn loạn. Đây là điều mà Đức Giêsu đang làm, khi Người thức dậy sớm, và đi đến một nơi hoang vắng để cầu nguyện.
95.Thăm viếng
Kinh nghiệm của những lần đi thăm viếng bệnh nhân tại nhà thương hồi còn ở Đàlạt cho tôi thấy: Nhiều lúc, mình chỉ cần ngồi thinh lặng, lắng nghe họ kể những tâm sự buồn, từ chuyện gia đình đến chuyện con cái, từ chuyện buôn bán đến chuyện đau ốm. Giải tỏa được những tâm sự buồn ấy, họ cảm thấy nhẹ nhõm và tìm lại được niềm vui sống. Thì ra điều họ cần thiết đó là sự chia sẻ và cảm thông.
Từ kinh nghiệm kể trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Chúa Giêsu chữa lành nhiều bệnh nhân, với những chứng bệnh khác nhau. Sở dĩ Ngài làm được điều ấy vì Ngài chính là Thiên Chúa quyền năng. Còn với chúng ta thì sao?
Dĩ nhiên chúng ta không thể làm phép lạ, không thể cứu chữa họ. Tuy nhiên chúng ta có thể dự phần vào việc chữa lành của Chúa Giêsu, cũng như vào việc xoa dịu phần nào nỗi đớn đau của họ, bằng cách thăm viếng an ủi họ. Đây cũng là điều Chúa Giêsu hằng mong mỏi chúng ta thực hiện. Và nếu chúng ta thực hiện được, hẳn Ngài sẽ chúc phúc cho chúng ta.
Chúng ta còn nhớ, trong hoạt cảnh về ngày phán xét, Ngài phán với những người bên hữu:
- Hãy vào lãnh nhận phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thuở đời đời, vì khi Ta đói các ngươi đã cho ăn, khi Ta khát các ngươi đã cho uống, khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, khi ta đau yếu và bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm. Vì khi các ngươi làm những việc ấy cho một trong những kẻ hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Trong Cựu Ước chúng ta cũng thấy như thế:
- Đừng chậm trễ trong việc thăm viếng người bệnh, vì nhờ đó mà con được quý mến.
Tại gia đình hay tại bệnh viện, chúng ta đều có thể xoa dịu những đớn đau tinh thần, cũng như thể xác của họ. Vậy thì chúng ta làm phải những gì cho các bệnh nhân? Tôi xin thưa:
- Hãy lắng nghe họ tỏ lộ tâm sự với một thái độ chia sẻ và thông cảm.
Đây quả là một nghệ thuật, bởi vì nó đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và chịu đựng, nhất là trước những câu chuyện chúng ta đã nghe đi nghe lại nhiều lần. Ngoài ra, chúng ta còn có thể đem đến cho họ một tin vui, một câu chuyện lượm lặt, một nụ cười cảm thông, một thái độ ân cần và chăm sóc.
Tuy nhiên, chúng ta phải chuẩn bị trước để biết mình sẽ nói những gì và sẽ nói như thế nào? Ngoài ra chúng ta còn có thể mang theo những quà tặng như trái cây và các loại đồ ăn cũng giúp bệnh nhân phần nào trong việc bình phục. Tuy nhiên khi chọn quà tặng, chúng ta cũng cần phải tế nhị, chọn quà tặng nào phù hợp với sở thích hay nhu cầu của bệnh nhân. Những món quà đơn giản, không xa xỉ lại thường là những món quà quý giá. Ngoài ra, một cú điện thoại, một bức thư thăm hỏi cũng sẽ giúp cho bệnh nhân rất nhiều.
Trong phạm vi và khả năng của mình, hãy quan tâm giúp đỡ những người đau yếu như ngày xưa Chúa Giêsu đã làm.
96.Đau khổ
Sơ Maureen Cahill dòng Thánh Mân Côi, làm việc truyền giáo trong một bệnh viện ở phía bắc Transvaal, Nam Phi gửi cho tác giả cuốn “Story Power”, linh mục James A. Feehan một dụ ngôn Sơ đặt tên là “Dụ Ngôn Cây Viết Chì”.
Thực sự chúng ta không biết được ai là người đã làm nên cây bút chì. Nhưng sau khi phát minh ra cây viết chì rồi, người chủ đã ngỏ lời với sản phẩm của mình như sau: Tôi muốn các bạn nhớ đến bốn điểm:
1. Sự tốt lành hay phẩm giá đích thật nằm ở bên trong con người của bạn.
2. Bạn sẽ cần phải được vót cho nhọn, gọt dũa đi khi bạn sống trong cuộc đời.
3. Bạn sẽ được sử dụng trong tay một người nào đó, nếu không tự bạn, bạn sẽ chẳng làm nên cái tích sự gì cả!
4. Người ta sẽ yêu cầu bạn phải để lại ít nhất là một dấu vết gì đó.
Đời sống con người giống như cây viết chì. Mẹ Têrêsa Calcutta đã áp dụng trường hợp thứ ba cho Mẹ khi Mẹ nói: “Tôi là cây viết chì trong bàn tay của Thiên Chúa”. Còn tác giả cuốn sách “Story Power”, cha Feehan áp dụng dụ ngôn này trong thánh lễ trên đài phát thanh cho những người ốm đau. Cha đã áp dụng sự đau khổ của con người vào trường hợp thứ hai của cây viết chì, là phải được thanh tẩy, chuốt nhọn bởi những khổ đau trong cuộc sống. Cây viết chì mà không bị vót, chuốt, gọt, dũa thì không thể nào sinh lợi cho người khác được. Ngạn ngữ Pháp có lời khuyên như sau:
Con người là kẻ học nghề,
Mà thầy là nỗi ê chề đớn đau.
Không ai hiểu nổi mình đâu,
Nếu chưa từng bước nhịp sầu mênh mông.
Trong các bài đọc hôm nay có đau đớn và cũng có chữa lành. Có hai người chịu đau khổ vì ốm đau bệnh tật và cũng có hai người được chữa lành. Cả hai đều giống nhau. Một người là ông Gióp và người kia là bà nhạc mẫu của Phêrô. Cả hai đều gửi cho chúng ta một cái sứ điệp giống như sứ điệp trong dụ ngôn của cây viết chì. Nói về đau khổ và phục vụ. Họ tỏ cho chúng ta thấy rằng qua đau khổ họ thông cảm và hiểu biết tha nhân, rồi dẫn tới yêu thương và phục vụ tha nhân.
Bài đọc thứ nhất đưa ta vào những đau khổ của ông Gióp phải chịu đến độ hầu như tuyệt vọng: “Xin Ngài nhớ cho cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ”. Ông tuyệt vọng lắm rồi! Ông mất tất cả mọi sự. Tài sản, của cải, gia đình, uy tín và sức khoẻ. Bạn bè nói rằng ông bị thử thách vì ông đã phạm tội. Vợ ông xúi ông nguyền rủa Thiên Chúa mà chết cho rồi! Nhưng ông Gióp lại là một ứng viên tuyệt vời trong tuyệt vọng. Ông nhấn mạnh rằng ông đã không hề phạm tội, không hề xúc phạm tới Thiên Chúa. Nhưng ông không biết tại sao ông phải đau khổ. Đau khổ là một mầu nhiệm đối với ông. Ông trở thành con người của hy vọng. Ông vẫn tin tưởng nơi Thiên Chúa mặc dù đời ông có quá nhiều đau khổ: “Thiên Chúa ban cho, Ngài lại lấy đi, xin chúc tụng danh Ngài”. Ông không hiểu, nhưng vẫn tin tưởng, và sau cùng ông đã nhận ra tình yêu thương nhân hậu của Thiên Chúa.
Một mẩu chuyện xứ Phi Châu kể lại rằng một người Ả Rập sống ở sa mạc có thói quen nằm sát xuống đất, úp tai trên cát ở sa mạc. Một người bạn hỏi anh ta: “Bạn làm gì đó?” Anh trả lời: “Tôi nghe sa mạc khóc vì nó rất muốn được là một khu vườn”.
Không ai thích đau khổ, ngay cả sa mạc cũng mong muốn thoát khỏi khổ đau. Câu chuyện này làm tôi nghĩ đến cuốn “Đường Hy Vọng” của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận. Ngài viết cuốn sách nổi tiếng này vào năm 1975, ngay sau khi bị quản thúc, bắt đầu cho 13 năm tù, trong đó 9 năm bị biệt giam. Sau này ngài viết thêm “Đường Hy Vọng dưới Anh Sáng của Lời Chúa và Công Đồng Vatican II” (1979), “Những Người Lữ Hành trên đường Hy Vọng” (1980), cuốn “Chứng Từ Hy Vọng” đã được nhà xuất bản Pauline Books & Media ở Hoa Kỳ xuất bản. Ngài được thế giới biết đến như một “Chứng nhân Tình Yêu và Hy Vọng”. Trong dịp Đại hội Đệ Tam Thiên Niên Kỷ 2000, ngài kể lại với các linh mục, tu sĩ và giáo dân về những năm tù đày của ngài:
“Trong những năm khốn đốn bị biệt giam, những năm đau buồn nhất trong đời tôi, tôi chỉ nhìn thấy hai người lính canh và họ được lệnh không được nói với tôi một lời nào. Tôi cảm thấy bị mọi người bỏ quên, tôi thấu suốt nỗi đau khổ tuyệt đỉnh của Chúa Giêsu, cô đơn trên thánh giá. Tôi nghĩ đến những giáo dân, những tín hữu, đến các linh mục, tu sĩ, chủng sinh đang ở ngoài kia, họ cũng bị ruồng bỏ, bị đau khổ tù đày và bị bách hại. Trong sâu thẳm của yếu đuối, tinh thần lẫn thể xác, tôi nhận được ân sủng của Đức Mẹ Maria.
Tôi không được phép dâng thánh lễ, nhưng tôi đã đọc hàng trăm kinh Kính Mừng, và Đức Mẹ đã ban cho tôi sức mạnh kết hợp với Chúa Giêsu trên thánh giá. Tôi cảm thấy Chúa Giêsu đã cứu chuộc nhân loại khi Ngài cô đơn trên thánh giá, trong sự bất lực hoàn toàn.
Các người lính canh dần dần hiểu biết tôi. Chúng tôi trở thành bạn hữu. Họ đã giúp đỡ tôi. Họ cho phép tôi làm một cây thánh giá bằng gỗ. Tôi đã giấu trong một cục xà bông. Tôi dùng một đoạn dây điện để làm dây đeo và họ đã cho tôi mượn chiếc kềm nhỏ để làm và họ còn làm giúp với tôi nữa. Chiếc thánh giá mà tôi mang đây làm bằng gỗ và dây điện từ nhà tù. Chiếc thánh giá này luôn luôn nhắc nhở: Hãy yêu thương mãi! Hãy tha thứ mãi! Sống với hiện tại để truyền bá Tin Mừng! Mỗi giây phút sống là để yêu mến Thiên Chúa”.
Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, một nhân chứng của tình yêu và hy vọng trong đau khổ chính là hình ảnh của “Dụ Ngôn Cây Viết Chì”.
Bài Phúc âm đưa ta vào hoàn cảnh của gia đình Phêrô – một gia đình đang có việc lo buồn. Maccô cho ta biết, “Lúc ấy bà nhạc mẫu của Simon cảm sốt nằm trên giường”. Theo William Barclay, đối với người Do Thái thời đó, bệnh là do ma quỷ, và họ gọi bệnh cảm sốt này là “talmud”. Để chữa bệnh này, họ dùng một con dao bằng sắt, cột một nắm tóc vào con dao, rồi đưa vào bụi gai, đang khi đọc một câu bùa chú. Cách chữa này mang một ý nghĩa khác hơn là nhiệt độ của cơ thể nóng lên vì bệnh. Nó có nghĩa như trừ quỷ trừ ma. Do đó, bà nhạc mẫu của Simon bị bệnh, đồng nghĩa với sự hiện diện của sự dữ trong gia đình – sự hiện diện của ma quỷ nơi người đàn bà. Trong hoàn cảnh bi đát này, Chúa Giêsu ra tay cứu chữa: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài”.
Từ ngữ của đoạn Phúc âm này, đã được Máccô chọn lựa rất cẩn thận. Từ “egeiro” có nghĩa là “nâng lên” diễn tả việc Chúa Giêsu nâng bà lên giống như sự sống lại của Chúa Giêsu từ cõi chết, được nâng lên đưa về trời. Sau khi được nâng lên rồi, bà bắt đầu phục vụ các ngài. Từ “diekonei” có nghĩa là “phục vụ”, nguồn gốc của chức phó tế “diaconatus”, mà Tân ước dùng để diễn tả chức vụ phó tế.
Bà đã được Chúa Giêsu gọi cũng như Ngài đã gọi Phêrô, Anrê, Gioan... và các môn đệ khác. Chỉ trong một giây phút được chữa lành, bà đã tin tưởng và nhận biết Chúa, rồi bà bắt đầu làm việc phục vụ người khác ngay. Người bệnh được chữa lành, và được gọi trở nên thừa tác viên đi thoa dịu, an ủi khổ đau, cực nhọc của người khác. William Barclay đã trích dẫn một câu châm ngôn trong những gia đình người Scottish như sau: “Được cứu để phục vụ”. Chúa Giêsu đã cứu chữa chúng ta. Vậy chúng ta phải đi giúp đỡ người khác.
Chuyện cổ Trung Hoa kể câu chuyện về một người đàn bà có người con trai duy nhất đã chết. Trong đau thương buồn khổ, bà đến năn nỉ vị thánh hiền: “Xin ngài hãy dạy cho con biết những lời cầu khấn, hay những câu thần chú nào làm cho con trai của con được sống lại?” Thay vì lý luận dài dòng với bà, vị thánh hiền trả lời: “Bà hãy đi tìm cho tôi một hạt rau cải từ một gia đình chưa từng bao giờ biết buồn khổ là gì. Tôi sẽ dùng nó làm thuốc chữa cho con bà sống lại”.
Người đàn bà bắt đầu đi lang thang khắp nơi tìm kiếm hạt cải kỳ diệu đó. Trước hết, bà đến gõ cửa một lâu đài vô cùng sang trọng: “Tôi đang đi tìm kiếm một nhà chưa bao giờ biết buồn khổ là gì. Xin cho hỏi có phải nhà này không ạ? Chủ nhà trả lời: “Thưa bà chắc chắn là bà đã đi lộn nhà rồi! Chồng tôi đang hấp hối nằm trên giường bệnh. Con trai tôi bỏ nhà ra đi. Tôi sợ rằng tôi sẽ sống trong cô đơn góa bụa!”
Nghe xong bà nói: “Ai là người may mắn hơn tôi để có thể giúp đỡ cho những người bất hạnh đáng thương này, cho dù tôi cũng có những rủi ro của riêng mình?” Sau đó, bà ở lại để an ủi chủ nhà trước khi lên đường đi tìm cho ra một nhà chưa bao giờ biết buồn khổ là gì. Nhưng bất cứ nơi nào bà ghé vào, cho dù là lâu đài sang trọng, dinh thự giàu có đến đâu, bà cũng đều nghe kể về những chuyện buồn bã và bất hạnh. Cuối cùng, đi tới đâu bà cũng đều khuyên răn, an ủi và khích lệ người khác cho tới nỗi chính bà đã trở nên một thừa tác viên phục vụ cho những người buồn phiền đau khổ. Trong công tác mục vụ này bà đã quên việc đi tìm hạt cải kỳ diệu làm thuốc cứu chữa con bà. Bà quên đi nỗi buồn của chính bà.
Khi nào bạn đau khổ, chán nản, tuyệt vọng... hãy nhớ rằng Chúa Giêsu cùng hiện diện với bạn cũng như Thiên Chúa ở bên cạnh ông Gióp. Hãy nhớ rằng Chúa Giêsu sẽ không bao giờ bỏ rơi bạn. Hãy nhớ rằng bạn đang được yêu thương. Hãy tiếp tục tin tưởng, hy vọng, yêu thương và phục vụ.
Khi nào bạn đau ốm về thể xác, tinh thần hay tình cảm, hãy cởi mở tâm hồn ra đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ chữa lành bạn, nắm chặt lấy tay bạn và giúp bạn đứng dậy. Ngài sẽ chữa lành bạn như Ngài đã chữa bệnh cho bà nhạc mẫu của Phêrô. Hãy lắng nghe tiếng Ngài mời gọi, bước theo Ngài và phục vụ tha nhân, vì ơn sủng của Ngài sẽ ban xuống đầy đủ cho bạn.
97.Chúa Giêsu, niềm hy vọng của loài người
Ở một phòng thí nghiệm, người ta thử 10 con chuột cho lội trong hồ kiếng không chỗ bám. Lúc đầu cho năm con vào, khoảng 8 giờ sau thì chúng chìm. Họ cho một đợt 5 con kế tiếp vào, khoảng 7 giờ thì vớt ra cho nghỉ. Sau đó lại cho vào hồ tiếp. Ngạc nhiên thay, chúng lội suốt 20 giờ mới bắt đầu chìm. Lý do nào mà chúng có sức lội hơn gấp đôi đồng bạn? Các nhà khoa học nghiệm ra rằng: sở dĩ chúng lội được như vậy là vì chúng có niềm hy vọng nhờ vào kinh nghiệm được cứu thoát lần trước. Cuộc sống của chúng ta cũng vậy. Sở dĩ chúng ta vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống là nhờ biết hy vọng. Ai không có hy vọng thì sẽ bị đau khổ và thử thách của cuộc sống nhấn chìm.
Người kitô hữu của chúng ta có niềm hy vọng rất lớn lao: niềm hy vọng này không phải hảo huyền, tạm bợ, không phải hy vọng nơi vật chất mau qua chóng tàn nhưng là hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng rất yêu thương chúng ta và đã hy sinh mạng sống vì chúng ta. Cuộc sống trần thế này luôn có những khó nhọc, cam go theo từng giai đoạn, theo từng hoàn cảnh của con người. Chẳng hạn: trẻ phải tập đi vất vả, phải đến trường, lo học hành, lớn phải lao động cực khổ để có miếng cơm manh áo để lo cho gia đình và xã hội. Đó là chưa nói đến những khó khăn đột xuất khác.
Trong bài đọc I, chính thánh Gióp cũng phải chịu nhiều đau khổ, cuộc sống con người cũng chẳng phải là là thời khổ dịch sao, số phận ê chề, ngày đời thấm thoát như thoi đưa, cuộc đời con người chỉ là hơi thở chẳng thấy hạnh phúc. Niềm hạnh phúc thánh Gióp trông chờ chỉ có được nơi Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đem lại niềm hy vọng cho dân Israel. Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa hứa ban để cứu nhân loại. Cụ thể trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đi đến đâu là đem tin mừng và cứu chữa tới đó. Vừa mới giảng dạy và trừ quỷ ở hội đường Caphanaum, Chúa Giêsu đến nhà Phêrô để chữa cho bà mẹ vợ của ông đang lên cơn sốt. Ngày hôm đó, vì là ngày Sabat nên ngườI Do thái nghỉ ngơi theo luật định. Nhưng khi vừa hết ngày Sabat ngườI ta lạI tuôn đến với chúa giêsu, đem theo mọi kẻ ốm đau bệnh tật và những kẻ bị quỷ ám để Chúa Giêsu chữa lành và giải thoát họ.
Sáng sớm hôm sau, khi Đức Giêsu còn đang cầu nguyện thì người ta đã kéo đến tìm, nhưng Chúa Giêsu biết nhiệm vụ của mình là đem Tin mừng, đem niềm hy vọng, niềm hạnh phúc đến cho mọi người nên Ngài không ở lại một chỗ đó mà tiếp tục đi đến những hội đường khác ở những miền khác nữa.
Trong bài đọc II thánh Phaolô rao giảng Tin mừng, đem niềm hy vọng và sự sống cho thế giới. Niềm hy vọng và sự sống đó phát xuất từ Đức Kitô. Ngài không chỉ đem hạnh phúc cho con người ở đời này mà còn cho cả đời sau nữa. Vì Tin mừng đó mà thánh Phaolô sẵn sàng hy sinh tất cả để ngườI ngườI được hạnh phúc.
Chúng ta là người kitô hữu, chúng ta có đặt hết niềm hy vọng đời mình vào Chúa Giêsu hay chưa, hay chúng ta đặt hy vọng nơi của cải, danh vọng địa vị. Nếu chúng ta đặt hy vọng nơi Chúa rồi, chúng ta hãy tiến thêm bước nữa là hàng ngày xét mình xem chúng ta đã sống với niềm hy vọng đó như thế nào, có sống vì Chúa Giêsu như thánh Phaolô chưa, có luôn nhớ tới Chúa, sống cho Chúa và nói về Chúa cho những người mình gặp gỡ hay chỉ giữ luật cho khỏi bị phạt thôi! Mỗi người chúng ta hãy quyết tâm đi lễ thường xuyên và đối xử tốt với những người xung quanh để họ nhận ra niềm hy vọng và hạnh phúc thật mà người kitô hữu đang theo đuổi để họ cũng được niềm hy vọng ấy và cùng chúng ta thờ phượng một Thiên Chúa tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu là hy vọng của đời con, là niềm trông cậy, là nguồn hạnh phúc cuộc đời con. Xin Chúa ban ơn giúp con sống niềm hy vọng thật trọn hảo để mai sau được về cùng Chúa hưởng phước Thiên đàng. Amen.
98.Tình thương
Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng dạy và làm phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc khải rõ ràng Ngài là ai, cho nên, trước con người của Ngài, nhiều người ngỡ ngàng, không biết xếp Ngài vào hạng người nào: Ngài có phải là một nhà chuyên môn làm phép lạ không? Là một ngôn sứ, là Elia hay là một Mêsia, cứu tinh của dân tộc Do Thái? Trong khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, vì Ngài biết người Do Thái đang quan niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị dùng việc làm để minh chứng dần dần sứ mệnh của Ngài, một trong những việc làm đó được kể lại trong bài Tin Mừng: Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông Phêrô và tất cả những bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những việc Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu trên các bệnh nhân.
Thiên Chúa tạo dựng con người và Ngài có quyền trên thân xác và linh hồn con người, có quyền trên thân xác tức là có quyền trên bệnh tật, Ngài có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật dễ dàng, giống như một kỹ sư chế tạo ra một cái máy, chắc chắn ông là người hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ dàng sửa chữa những trục trặc nơi con người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi con người.
Riêng phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của Phêrô khỏi bệnh sốt rét có ý nghĩa gì? Chúng ta khó hiểu được ý Chúa muốn gì khi làm phép lạ này. Nếu hiểu rằng mỗi phép lạ Chúa làm thường là để tăng cường lòng tin, thì ở đây cũng thế, Chúa muốn tăng cường lòng tin của gia tộc Phêrô và nhất là đối với Phêrô. Đàng khác, nếu xét về quan niệm của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là hình phạt của Thiên Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ làm, thì Chúa Giêsu làm phép lạ này để minh chứng cho mọi người biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, là Đấng đến để cứu gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ bởi tội lụy, bởi điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét tượng trưng cho nhân loại đã bị thần dữ làm kiệt quệ đến sống dở chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được. Hơn nữa, phép lạ này cũng diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào của Chúa cũng là tình yêu, nhưng ở đây thể hiện rõ hơn: nơi đâu Chúa Giêsu đến rao giảng thì ở đó những con người khổ đau đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu và được cứu chữa. Đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.
Phần đông chúng ta không thể mang lại sức khoẻ thể xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn cho những anh em bệnh tật, điều đó đã có các bác sĩ, y tá, nhưng chúng ta có một cái gì sâu xa hơn, quý giá hơn để mến tặng những anh em ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta đem lại cho họ một niềm hy vọng, cống hiến cho họ một chân lý khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại cho họ sự an ủi chân thật.
Chẳng hạn như lời tự thuật của một người kia đã kể cho linh mục Samsông và linh mục này đã kể lại trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”, chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đồng hồ thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi con người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Một thí dụ khác, bác sĩ Longghê là một người Pháp đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đulây, người Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương bệnh nhân như vậy? Vì sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết? Ông trả lời: “Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh”. Mỗi sáng khi đi dưlễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Longghê trở về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.
Nếu chúng ta không bắt chước được bác sĩ Longghê, thì chúng ta có thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên, cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hãy đi thăm hỏi, an ủi những bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và giảm sút lòng tin... chúng ta hãy cảm thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng không hề bệnh tật gì, đã mang lấy bệnh tật của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi hay làm cho họ phải thất vọng, đau khổ, nhưng Chúa đã an ủi, thương yêu cứu chữa họ, vì thế, chúng ta hãy đến với các bệnh nhân, họ rất cần đến tình thương, chúng ta hãy đem tình thương đến cho họ.
99.Đến đem sự giải thoát
Một trong những sứ mạng quan trọng của Chúa Giêsu khi đến trần gian này là loan báo Tin mừng cho con người. Người không loan báo bằng lời nói suông nhưng bằng những việc làm đem lại sự giải thoát cho con người. Người giải thoát con người khỏi những bệnh hoạn tật nguyền phần xác. Hơn thế nữa, Người đem đến cho con người sự giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết.
Trong quá trình đi rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu không dừng lại ở bất cứ nơi nào. Vì Người luôn muốn cho tất cả mọi người đều được hưởng nhờ sự giải thoát ấy. Cho nên, sau khi đã đem sự giải thoát ấy cho những người ở thành Capharnaum mặc dù được các Tông đồ báo: "Mọi người đang tìm Thầy đấy" (Mc 1, 37) Chúa Giêsu đã trả lời với họ: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó" (Mc 1, 38)
Đoạn Tin mừng tuần trước chúng ta thấy dân chúng đã quá đỗi kinh ngạc về những lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Bởi lẽ, Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư (Mc 1, 22).Thẩm quyền của Chúa Giêsu không phải để cai trị hay để đàn áp con người nhưng hoàn toàn để phục vụ và hiến mạng sống vì và cho con người.
Cảm nhận được điều ấy nên Thánh Phaolô trong thư thứ hai gởi tín hữu Côrintô đã viết: "Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (2Cr 1, 16). Sau khi trở lại thánh nhân đã thấy rằng chính Chúa Giêsu đã giải thoát ông khỏi những điều không đúng. Do đó, suốt cả đời còn lại thánh nhân không ngại khó miễn sao cho Tin mừng của Chúa Giêsu được càng nhiều người biết đến càng tốt.
Mỗi người chúng ta không nhiều thì ít cũng đã và đang được đón nhận sự giải thoát cao quý của Chúa Giêsu. Ước gì qua cách sống đạo của chúng ta mỗi ngày được tiến bộ hơn. Sự tiến bộ nhờ biết gắn bó nhiều với Chúa Giêsu qua việc trung thành tham dự Thánh lễ Chúa nhật và các giờ Kinh sáng tối. Được như vậy là chúng ta đang cùng với Chúa Giêsu loan báo Tin mừng cho nhiều anh chị em xung quanh.
100.Đổi mới bản thân
Một triết gia bên Ấn độ, ngồi kiểm điểm lại cuộc đời, đã ghi lại như sau:
Thoạt tiên ở tuổi thanh xuân đầy nhiệt huyết, tôi đã sốt sắng kêu xin thượng đế cho tôi có đủ nghị lực và cơ hội để thay đổi cả thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi bỗng nhận ra nửa đời trôi qua, mà chẳng thay đổi được một ai, tôi liền điều chỉnh lời cầu của tôi với thượng đế.
Khi ấy tôi chỉ xin Ngài cho tôi đủ khả năng hoán cải những người tôi gặp thường ngày, khởi đi từ những người thân yêu trong gia đình cũng như những người bạn tôi hằng tiếp xúc.
Thế rồi đến nay, tôi thấy mình đầu tóc bạc phơ và mộng đẹp không còn nữa. Tôi chỉ xin với thượng đế:
- Lạy Chúa, ít nữa xin ban cho con ơn biến đổi chính mình con.
Tiếc rằng tôi đã không xin với thượng đế điều đó ngay từ tuổi thanh xuân, khiến tôi bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội để đạt được sự hoàn thiện nơi chính bản thân mình.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta nhận thấy: Chúa Giêsu là một nhân vật hết sức đặc biệt.
Trước hết trong phong cách giảng dạy.
Phúc âm đã ghi lại Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, chính vì thế mà Ngài đã lôi cuốn hấp dẫn được đông đảo quần chúng đến nghe Ngài.
Tiếp đến là những phép lạ Ngài làm.
Đoạn Phúc âm hôm nay cho hay: Bà mẹ vợ Phêrô đang sốt nặng, thế mà Ngài chỉ cần động tới là bà liền được khỏi, trỗi dậy tiếp đãi Ngài. Hơn thế nữa,Ngài còn chữa lành mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền, cũng như xua trừ ma quỉ.
Tất cả những phép lạ đều nói lên rằng: nơi Ngài có một uy quyền tuyệt đối và uy quyền tuyệt đối này thuộc về Thiên Chúa. Hay nói cách khác: Ngài chính là Thiên Chúa quyền năng.
Thế nhưng, nếu suy nghĩ một chút, chúng ta còn nhận thấy: Ngài không phải chỉ là một vị Thiên Chúa quyền năng mà còn là một người như chúng ta, một người như mọi người.
Trước hết, Ngài cũng đã gặp phải những cám dỗ, những thử thách.
Chẳng hạn tại hoang địa, sau khi đã ăn chay 40 đêm ngày, ma quỉ đã cám dỗ Ngài biến những hòn đá trở nên bánh để ăn, rồi Ngài còn bị cám dỗ thử thách Thiên Chúa, cũng như chiếm hữu những vinh quang phù phiếm. Thế nhưng Ngài đã chiến thắng tất cả để làm gương cho chúng ta.
Tiếp đến, Ngài còn là một người khiêm nhường.
Chính Ngài, mặc dù không hề vướng mắc một chút bùn nhơ tội lỗi nào cả, nhưng Ngài cũng đã đến để xin Gioan làm phép rửa để biểu lộ tâm tình sám hối.
Nhưng quan trọng hơn cả, Ngài còn có một trái tim biết rung động, một tấm lòng nhân hậu bao dung.
Chính vì thế, Ngài đã thực hiện những phép lạ để xoa dịu những đớn đau của những người mà Ngài có dịp tiếp xúc với. Cũng như đã mở rộng vòng tay đón nhận và tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Hãy cố gắng sửa đổi bản thân, để nhờ đó chúng ta trở thành những chứng nhân sống động cho tin mừng, đồng thời nhờ đó, lôi cuốn người khác trở về cùng Chúa.
101.Yêu bệnh nhân
Trong một giai thoại về Đức Thích Ca, người ta kể lại rằng: một hôm, ngài rơi vào tay một tên cướp khét tiếng. Sau khi hành hung ngài, tên cướp dọa sẽ giết ngài. Trước khi chết, ngài xin tên cướp một ân huệ. Hắn đồng ý. Ngài bảo hắn: “Ngươi hãy chém đứt một cành cây”. Thoáng một cái, tên cướp vung kiếm chém đứt một cành cây. Đức Thích Ca liền nói: “Nào, ngươi hãy tháp cành cây cho liền vào thân cây”. Tên cướp nói: “Ngươi quả là tên khùng nên mới nghĩ rằng ta có thể làm được điều đó”. Đức Thích Ca liền dạy cho tên cướp một bài học: “Ngươi mới là tên khùng khi ngươi nghĩ rằng sức mạnh của con người là gây thương tích và phá hủy. Người có sức mạnh thật sự là người chỉ biết sáng tạo và chữa lành”.
Lời nói trên đây của Đức Thích Ca quả thực đã ứng dụng cho chính Chúa Giêsu. Ngài đến trần gian để phục hồi lại những gì đã hư mất. Các sách Tin Mừng đã ghi lại rất nhiều phép lạ của Ngài. Thường thấy hơn cả là những phép lạ chữa lành bệnh tật. Chẳng hạn như bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng những phép lạ chữa lành bệnh tật Ngài thực hiện không chỉ nhằm chữa trị những đau thương nơi thân xác con người mà còn nói lên một thực tại cao siêu hơn. Đó là bày tỏ tình yêu thương của Thiên Chúa và mời gọi con người đón nhận và trao ban tình yêu thương ấy.
Quả thực, tất cả đều do lòng nhân từ thương yêu của Chúa. Chúa làm phép lạ không phải để tạo cho mình một uy thế trong xã hội, cũng không hẳn là để tỏ uy quyền Thiên Chúa của Ngài, nhưng là để chứng tỏ tình yêu thương của Ngài. Nói rõ hơn, với tư cách là Đấng Cứu Thế, Chúa đến trần gian để giải thoát con người khỏi mọi khốn khổ phần hồn cũng như phần xác. Vì thế, Chúa cảm thông với những đau yếu tật bệnh của con người. Thấy họ, Chúa không xa tránh nhưng đến gần họ và chữa cho họ.
Hơn nữa, Chúa Giêsu không chỉ chữa lành bệnh tật, Ngài còn chữa trị tâm hồn con người. Ngài muốn biến tâm hồn ích kỷ của con người thành tâm hồn quảng đại biết yêu thương. Đó là ý nghĩa sâu xa của những phép lạ Chúa Giêsu làm. Trong suốt thời gian Chúa rao giảng, các bệnh nhân và những kẻ tật nguyền luôn thu hút được sự chú ý và tình thương của Ngài. Khi làm những phép lạ để chữa lành họ, Chúa luôn có những cử chỉ, những lời nói an ủi, khuyến khích để gợi lên hay củng cố niềm tin của họ. Bài học “Hãy trao tặng những người bệnh tật và những kẻ xấu số những cử chỉ và những lời nói yêu thương chân tình” chúng ta có thể học nơi Chúa Giêsu.
Tại một trung tâm y tế ở miền nam tiểu bang Ca-rô-lai-na, Hoa Kỳ, hình ảnh đầu tiên mà các bệnh nhân có thể thấy được trong ngày, đó là nụ cười của cụ bà Phờ-lo-ren Hớt (Florence Hert). Từ 6 giờ sáng, cụ đến bệnh viện thăm hỏi các bệnh nhân và an ủi thân nhân của họ. Ngày nào cũng thế trong suốt nhiều năm trời. Cụ thường nói với các bệnh nhân: “Năm nay tôi đã 90 tuổi, nếu tôi còn có thể đến đây mỗi ngày với nụ cười trên môi, thì các bạn cũng thế, các bạn cũng có thể cười như tôi. Nào, các bạn hãy thử đi”.
Một trong những cách thế hữu hiệu nhất để xoa dịu nỗi đau khổ của chính mình, đó là ra khỏi chính mình để tìm cách làm cho người khác bớt đau khổ. Đau khổ được chữa trị bằng sự chấp nhận đã đành, nhưng còn được xoa dịu bởi những nghĩa cử mà chúng ta làm cho người khác. Cụ bà trong câu truyện trên, hẳn không phải là một người không đau khổ. Tuổi già, bệnh tật, cô đơn, đau khổ… có ai thoát khỏi phần số đâu. Thế nhưng với nụ cười luôn nở trên môi, với đôi chân dù phải bước đi khập khiễng, với tấm lòng chia sẻ chân thành… cụ đã biến ra khỏi chính mình để đến với tha nhân…
Ra khỏi chính mình, đó là bước đầu tiên giúp chúng ta thắng vượt được nỗi khổ đau riêng tư của mình. Có ai trong chúng ta thoát khỏi những dằn vặt, bất an của khổ đau? Mỗi người là một nỗi khổ. Mỗi ngày qua đi là một cơn đau. Ai trong chúng ta cũng có một thập giá để vác. Sức nặng của thập giá ấy sẽ vơi đi, sẽ nhẹ bớt đi, nếu chúng ta biết ra khỏi chính mình để đến với tha nhân, xoa dịu nỗi khổ đau của họ. Một cụ già 90 tuổi, chân đi khập khiễng, vẫn có thể ngày ngày mang nụ cười và niềm an ủi lại cho người khác. Anh chị em và tôi, chúng ta có thể hé mở, dù chỉ một nụ cười hay không?
Thế giới của chúng ta, xã hội của chúng ta, có lẽ đang cần đến những cái mỉm cười ấy hơn bất cứ một cuộc truyện trò tào lao nào. Sự giúp đỡ nhân đạo có thể sẽ không bao giờ đến với những người đang cần đến, hoặc nếu có đến cũng chỉ đến như một quà tặng vô danh. Điều thiết thực nhất đang ở trong tầm tay mỗi người chúng ta, và mọi người đều chờ đợi, có lẽ chỉ là một nụ cười, một lời an ủi, một mẩu bánh nhỏ… nhưng được trao ban với tất cả lòng yêu mến. Đó là những điều tất cả chúng ta ai cũng có thể làm được.
Giữa biết bao nhiêu con người đau khổ, xin cho sự hiện diện của người Kitô trở thành dấu chỉ của tình thương Thiên Chúa đối với con người. Xin cho mỗi người Kitô trở thành bàn tay đưa ra nối kết con người với tình thương Thiên Chúa.
102.Chúa Giêsu chũa lành các bệnh tật
"Kiên nhẫn như ông Gióp" là câu nói đầu lưỡi của thế giới công giáo, phổ thông nhất là ở ngôn ngữ các nước tây Âu. Nó ngụ ý tán thưởng những ai kiên cường chịu đựng nghịch cảnh lâu dài. Nhưng chắc chắn bài đọc một hôm nay không chứng minh được điều đó. Ngược lại, bài đọc cho thấy trong đau khổ, ông cũng phẫn uất như ai: "Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?" Hoá ra ông Gióp chẳng kiên nhẫn chút nào! Cứ như sự khôn ngoan bình dân thời đó thì khổ đau là hình phạt của những điều dữ người ta đã phạm. Nhưng xét trong lương tâm, ông có làm gì xấu đâu? Vậy tại sao ông phải gánh chịu số phận long đong thế này: Con cái chết hết, của cải tiêu tan, mình đầy ghẻ chốc, bạn bè xa lánh, cả đến người vợ thân yêu cũng không tiếc lời khiển trách: "Ông còn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi" (G 2,9). Ông Gióp đã không hiền lành chấp nhận số phận. Ông phản kháng và lý lẽ của ông có phần thuyết phục. Lời cầu khẩn đó xem ra khuyến khích những ai đang chịu đựng cuộc đời gian truân, túng quẫn được phép ta thán trước Thiên Chúa.
"Kiên nhẫn như ông Gióp" xem ra không còn mấy ý nghĩa. Vô số người dám gán cho Thượng đế là nguyên nhân gây nên những bất hạnh của mình, bởi mặc dầu đã cố gắng hết sức ăn ngay ở lành, đáng được Thiên Chúa thương gởi tới điều may mắn. Thì thực tế không phải vậy, toàn gian truân, khổ dịch. Lại có những người khác không dám mở miệng kêu ca, mà giữ im lặng khó hiểu với tâm can uất ức. Lâu dần họ trở nên lạnh lùng, thù địch cùng Thiên Chúa. Trong thánh kinh Cựu ước chúng ta cũng thấy vô số lời phàn nàn trước tôn nhan Thiên Chúa, nhất là trong các Thánh vịnh: "Ngày con kêu cứu không lời đáp ứng, đêm van nài mà cũng chẳng được yên" (Tv 22,3). Suy nghĩ kỹ, những lời than vãn như trên không phải để trách móc Thượng đế mà để bày tỏ cảm xúc chân thực của lòng mình. Chúng có khả năng làm tan biến thái độ đạo đức giả hình, dồn ép, sơ cứng. Càng trung thực bao nhiêu thì càng đạo đức bấy nhiêu. Chúng ta có quyền giải bày lòng mình trước Thượng đế, Đấng có thể thay đổi sự việc, bằng không, chúng ta là những kẻ thụ động nhu nhược.
Trong quá trình sống, nhiều lúc tình hình xem ra vượt khỏi tầm kiểm soát, có bàn tay nào đó điều khiển cuộc đời chứ không phải đương sự. Chúng ta tự hỏi: "Ai chịu trách nhiệm ở đây?" những khổ dịch, những sự dữ chúng ta kinh nghiệm chắc chắn không phải do bàn tay Thiên Chúa yêu thương. Ông Gióp cũng cảm nhận như vậy khi nói: "Chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?" Thuê mướn là công việc của người khác, làm sao chúng ta có quyền kiểm soát? Ngày của một người nô lệ là khổ dịch dưới sức nóng ghê gớm của ánh nắng mặt trời. Người nô lệ luôn khát khao bóng mát. Ấy cũng là tâm trạng của ông Gióp, của mỗi người chúng ta. Nhưng vấn đề là điều chi đã sui khiến nên như vậy? Ông Gióp đã phạm lỗi gì? Còn tội của mỗi người chúng ta thì đã rõ. Vì vậy những lời ta thán của tác giả sách Gióp cho độc giả biết tính mỏng dòn của thân phận con người. Chúng ta cảm thấy như đi trên mặt hồ đóng lớp băng mỏng, có thể chìm xuống nước lạnh bất cứ lúc nào! Trước tình thế như vậy, dù có sống tốt thì cũng không thể tránh khỏi hoạn nạn. Và khi nghe đọc bài sách thánh chúng ta có khuynh hướng bịt tai, la lớn như đứa trẻ khi nghe cha mẹ doạ nạt, hoặc nói về những điều chúng không ưa thích. Dĩ nhiên bây giờ chúng ta đã lớn, ý thức được những hành động mình làm. Nhưng chúng ta lại có những thái độ để khỏi phải nghe điều mình không ưa, như thay đổi đề tài, nói lảng sang chuyện khác. Chúng ta né tránh những điều mình không muốn nghe: bệnh tật, tuổi già, ly dị và các hậu quả tai hại v.v... chỉ thích nghe những điều lạc quan, như tuổi trẻ, sắc đẹp, thể thao, kỹ thuật mới v.v... Cho nên lời của ông Gióp trong Phụng vụ hôm nay khó mà lọt thủng tai. Dầu sao một ngày nào đó trong tương lai, mỗi người đều phải thốt lên: "Gia tài của tôi là những ngày tháng khốn cùng, số phận của tôi là những đêm khắc khoải ê chề."
Tôi đã cố gắng tìm ra khía cạnh lạc quan, ơn thánh trong đoạn văn này - nó kết thúc quá ư buồn thảm: "Tôi sẽ chẳng được trông thấy hạnh phúc nữa đâu!"- Khi trước ông Gióp đã là người giầu có, phát tài, của cải nhiều vô kể mà nay rơi vào cảnh khốn cùng, thì lời yếm thế của ông thức tỉnh tinh thần tôi, không thể cậy nhờ vào vật chất chóng qua mà phải trông mong vào một mình bàn tay Thiên Chúa mà thôi. Tôi phải rút ra từ cuộc đời ông Gióp một bài học quí giá, không chi so sánh nổi. Đó là vững tin vào lượng hải hà của Thiên Chúa. Ngài chẳng bao giờ nỡ bỏ quên chúng ta để chúng ta thất vọng trong vòng kiểm toả của tử thần. Trong lúc khốn cùng ông Gióp đã cố gắng khơi dậy niềm tin. Ông kêu lên: "Lạy Đức Chúa, xin nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở..." Ông không phải là nguồn gốc sự sống của mình, ông hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, Đấng đã dựng lên ông, ông như thể muốn nói với Thượng đế: "Lạy Ngài xin nhớ lại, Ngài đã dựng nên con bằng gì! Con hoàn toàn mỏng dòn, chỉ là hơi thở, một cơn gió thoảng cũng có khả năng làm nó tiêu tan. Xin nhớ lại con chẳng là chi cả, là hư vô, con hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài để được sống, được tồn tại!" Ông Gióp muốn gợi lại tương quan giữa Đấng tạo hoá và tạo vật. Hơi thở trong nguyên bản là "ruah". Nó có hai nghĩa, vừa là gió thổi, vừa là thần lực phát xuất từ Thiên Chúa thâm nhập vào các tạo vật để ban cho chúng sự sống. Cuộc sống con người đúng thực mỏng manh như gió thổi, như mây nổi, như chiêm bao, như bóng ngựa qua cửa sổ, nhất là trước những khổ đau và hoạn nạn. Nhưng cuộc sống con người cũng đến từ hơi thở của Thiên Chúa tức là từ nguồn mạch bền vững và đời đời. Thiên Chúa không thể nào bỏ quên hơi thở của mình. Do đó ông Gióp hy vọng vào sự cứu giúp của Thượng đế. Hy vọng của ông Gióp cũng là hy vọng của mỗi linh hồn tín hữu chúng ta.
Tin mừng hôm nay có cả thảy bốn nội dung. Hợp với Phúc âm tuần vừa rồi, chúng làm nên "một ngày hoạt động của Đức Giêsu". Có rất nhiều điều xảy ra trong ngày đó. Chúa Giêsu rất bận rộn, Ngài hoạt động liên tục. Thiên Chúa cũng rất bận rộn, tất bật. Đó là ngày thứ bảy- ngày nghỉ của con cháu loài người, và xúc vật. Nhưng Thiên Chúa lại liên tục thi ân, giáng phúc trên những tạo vật của Ngài. Sự việc xảy ra ở thành phố cảng Capharnaum (người ta gọi là thành phố của Chúa Giêsu), không phải ở Giêrusalem. Thời ấy Giêrusalem là nơi duy nhất có hy lễ hiến tế. Tín hữu bình thường hoạ hiếm mới được đến đấy. Thường thì họ đi thờ phượng ở các hội đường trong làng mạc hay thành thị. Họ đến để cầu nguyện và nghe giáo huấn.
Chúa Giêsu rời hội đường Capharnaum, nơi Ngài đuổi quỉ ô uế, chữa lành một người điên khùng và bước vào nhà hai anh em Anrê và Phêrô. Lập tức người ta nói cho Ngài hay về bệnh tình của bà mẹ vợ ông Simon Phêrô. Ngài tiến lại chỗ bà nằm "cầm lấy tay bà và đỡ dậy. Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài." Nghe như một câu chuyện bình thường, nhưng thực ra thánh Marcô đã dùng ngôn ngữ Tân ước để mô tả câu truyện khỏi bệnh. Chúa Giêsu nâng bà dậy. Đó là từ ngữ để diễn tả Chúa làm cho kẻ chết sống lại. Người được chữa lành có sức sống mới. Sự sống của kẻ Phục sinh. Chỉ một mình Chúa Giêsu có quyền ban cho, ngoài ra không ai làm được việc đó cả.
Sự sống mới đó thế nào? Kinh Thánh nói khi bà mẹ vợ ông Phêrô được chữa khỏi, bà liền đi phục vụ các ngài. Phục vụ trong gia đình là bổn phận của nữ giới. Nhưng thánh Marcô lại dùng từ "diakoneo" từ này chỉ công việc phục vụ trong Hội thánh. Tiếng Anh gọi là "deacon". Tiếng Việt nam mình gọi là phó tế. Rõ ràng ám chỉ phục vụ cộng đoàn. Khi người ta kinh nghiệm được Chúa Giêsu ban ơn phục sinh, họ lập tức bị thúc đầy phục vụ Giáo hội, phục vụ các linh hồn. Họ muốn chia sẻ những ơn đã lãnh nhận với người khác. Không muốn phục vụ hội thánh là dấu chỉ chắc chắn chưa nhận được ơn phục sinh của Chúa Giêsu. Một tư tưởng đáng sợ cho mọi tín hữu. Ngược lại những linh hồn hồ hởi làm việc tông đồ là những người đã được lãnh nhận ơn Chúa sống lại. Theo kinh nghiệm thì những tín hữu hăng say việc tông đồ thường nói rằng: Họ được lợi rất nhiều khi hết mình phục vụ Hội thánh. Không ca thán, không đòi hỏi. Họ đã được sung mãn trong cộng việc của mình. Họ còn cho biết rằng khi làm công việc ấy hình như Chúa Giêsu đang cầm lấy tay họ nâng đỡ dậy.
Tóm lại, chẳng có câu trả lời dễ dãi cho vấn đề người vô tội phải chịu đau khổ, kiểu như ông Gióp. Thực ra đau khổ là một mầu nhiệm, vượt quá sức hiểu biết của chúng ta. Nhưng ông Gióp chỉ là câu chuyện tưởng tượng, tác giả đặt ra để thử giải quyết vấn đề. Quyền năng của Chúa Giêsu chữa lành các đau khổ bệnh tật của nhân loại là điều có thực. Không ai chối cãi được. Chúa Giêsu, Đấng vô tội đã tự nguyện gánh tội loài người để giải phóng chúng ta, cho chúng ta đựơc tự do. Đó cũng vẫn là điều nhiệm mầu không thể hiểu thấu. Chúng ta cử hành và dấn thân vào mầu nhiệm đó. Điều mà Chúa làm cho bà mẹ vợ ông Phêrô ngày xưa, Ngài cũng còn thực hiện cho chúng ta hôm nay. Xin ý thức rõ ràng về điều này. Ngài giơ tay nâng chúng ta dậy khỏi tội lỗi, đau khổ và sự chết, ban cho chúng ta sức sống phục sinh để chúng ta trông thấy các nhu cầu của anh chị em đồng loại và đáp ứng những nhu cầu đó trong nghị lực và niềm vui. Amen.
103.Chúa Nhật 5 Thường Niên
Cả 3 bài đọc hôm nay đều nói đến việc lao động. Con người sinh ra trong trần gian này và chấp nhận qui luật của nó. Đó là phải lao động. Cuộc sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm việc quần quật từ sáng đến tối, làm cực khổ hết ngày này sang ngày khác, làm quần quật hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Người thì lao động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải lao động vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm - ăn, ăn - làm như một cái vòng lẫn quẫn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nổi, ăn không vô thì cũng là lúc con người sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một ngày làm việc vất vả của Chúa Giêsu: Người vừa giảng dạy trong Hội đường Do Thái và cứu chữa một người bị quỉ ám xong, Người vừa mới đi ra thì hay tin bà nhạc mẫu của Phêrô đang sốt nặng. Lập tức, Người liền đến nhà bà ấy và chữa lành cho bà. Rồi cũng liền sau đó có cả đám đông đang tụ họp trước cửa nhà, trong đó có nhiều người đau bệnh, cần tới Chúa Giêsu chữa trị. Mãi cho đến chiều tối Người mới có thời giờ nghỉ ngơi.
Chúng ta đã thấy đó, Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả từ sáng đến chiều tối. Người không phải làm việc để có lợi cho bản thân mình, nhưng Người làm việc để giúp đỡ cho người khác. Người không những chữa lành, là lo cho họ phần xác mà còn lo về phần thiêng liêng, là rao giảng, dạy dỗ cho họ, cứu giúp linh hồn người ta. Qua công việc đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của công việc lao động: lao động là cần thiết, lao động là bổn phận của mọi người, lao động chẳng những giúp ích cho bản thân mà còn giúp đỡ cho tha nhân, lao động sinh ích lợi cho cả phần xác lẫn phần hồn nữa.
Từ các bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay vạch ra cho chúng ta thấy phương hướng sống:
Trước các công việc làm, chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả những công việc lao động của chúng ta.
Chúng ta hãy xin Chúa chúc phúc cho công việc chúng ta làm. Khi làm việc chúng ta ý thức mình làm vì sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi tha nhân
Xin Chúa cho chúng ta có sức khỏe thể xác và tinh thần để ta hoàn thành công việc cách tốt đẹp
Xin Chúa cho chúng ta biết sống hết mình và làm việc hết mình vì lòng mến Chúa, để góp phần cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ. Và xin Chúa nâng đỡ những công lao vất vả của chúng ta. Amen.
CÂU CHUYỆN MINH HỌA VỀ VIỆC CẦU NGUYỆN
Vào cuối thế kỷ 19, nhà hoạt động nổi tiếng người pháp tên Frédéric Ozanam, đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin rất là nghiêm trọng. Một hôm,để tìm chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi nhà thờ ở Paris. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện một cách sốt sắng ở hàng ghế đầu. Anh đứng lặng lẽ trong góc Nhà Thờ theo dõi cử chỉ của người này. Và khi người này vừa đứng lên để ra khỏi Nhà Thờ, thì anh nhận ra ngay đó chính là nhà bác học Pascal. Lòng đầy thắc mắc, anh theo nhà bác học về đến phòng làm việc của ông. Thấy anh đứng trước cửa phòng với vẻ rụt rè, nhà bác học lên tiếng hỏi:
Bạn đang cần gì? Tôi có thể giúp bạn giải một bài toán vật lý phải không? Chàng ta đáp: Thưa ông, tôi là sinh viên khoa văn, tôi dốt khoa học lắm. nhưng xin ông cho tôi hỏi một vấn đề đến đức tin.
Nhà Bác học trả lời:Đức tin là môn tôi yếu nhất. Nhưng nếu giúp anh được việc gì tôi sẳn sàng. Thưa ông có thể vừa là bác học vĩ đại vừa là tín hữu nhiệt thành cầu nguyện không?
Nhà Bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh. Ông ta trả lời: Anh ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện thôi.
Nhà bác học kiêm triết gia nổi tiếng Pascal nói một câu rất thời danh: " con người chỉ vĩ đại khi họ cầu nguyện".
Vậy cầu nguyện tức là thiết lập mối tương quan mật thiết với Chúa. Sự cầu nguyện làm cho con người vĩ đại vì nó thể hiện đúng đắn đạo làm người. Sự cầu nguyện làm cho con người nhìn thấy những giá trị của chính mình, thấy những yếu đuối, bất toàn trong đời sống của mình. Biết mình bởi đâu mà có, biết mình sống để làm gì, biết mình sẽ đi về đâu và biết mình phải sống làm sao cho tốt đẹp!
104.Hối lộ quan toà
Đối với Chúa Giêsu, sáng hôm đó quả thật là một ngày thật vất vả. Ngài đã giảng dậy trong hội đường với một quyền bính làm cho mọi người phải kinh ngạc. Trong khi Ngài giảng dậy thì bị gián đoạn bởi tiếng kêu cầu do một người bị quỷ ám. Chúa Giêsu đã làm cho dân chúng kinh ngạc khi Ngài chữa lành cho người đàn ông bị quỷ ám đó. Khi Ngài rời khỏi hội đường đến nhà ông Simon và Anrê. Ở đó Chúa Giêsu chữa lành cho mẹ vợ của ông Simon khỏi bịnh. Khi trời tối, dân chúng trong làng tuôn đến với Ngài để xin chữa bệnh về tâm thần cũng như thể lý. Mọi người đều nhìn xem và kêu lên rằng: "Ngài đã chữa lành nhiều người mắc bịnh nan giải và trừ được nhiều người bị quỷ ám."
Trong bài Phúc Âm hôm nay, khi trời vừa hừng đông, Chúa Gisêu đã thức dậy thật sớm, tìm một nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Ngài biết rằng trong ngày hôm nay Ngài sẽ vất vả vì nhiều sự đòi hỏi của dân chúng nơi ngài như đám đông dân chúng sẽ chen lấn Ngài khi Ngài vào trong làng. Ngài cũng biết cho dù Ngài ở đâu đi nữa, dân chúng sẽ kêu tên Ngài và xin cứu chữa cho họ. Và chắc chắn trong đó sẽ có những người Luật Sĩ và Pharisiêu sẽ thách thức về quyền giảng dậy của Ngài, đặt những câu hỏi và tìm mọi cách để làm cho danh tiếng của Ngài bị ô danh. Dĩ nhiên Ngài cũng biết rằng các môn đệ sẽ hiểu lầm về Ngài và muốn Ngài làm vài điều theo ý của họ. Chính vì những sự đó nên Chúa Giêsu cần có những giây phút để cầu nguyện.
Một nhà thơ ẩn danh đã làm một bài thơ như sau:
Tôi thức thật sớm và chạy ngay đến chỗ ẩu đả.
Với quá nhiều việc cần phải làm, tôi không có giờ để cầu nguyện.
Những khó khăn vây quanh tôi và tôi thấy thật nặng nề trong mọi công việc.
Tôi tự hỏi Chúa ở đâu sao không giúp con? Chúa trả lời, "Con không kêu cầu Ta."
Tôi cố tìm lối thoát nhưng tất cả đều đen tối.
Tôi hỏi Chúa tại sao, Ngài trả lời, "Con không tìm kiếm nơi Ta."
"Xin thì sẽ được, tìm thì sẽ gặp," đó chính là lời Chúa Giêsu đã tuyên bố trong bài giảng trên núi (Mt 7:7). Nhưng chúng ta có thể sai lầm khi tưởng tượng rằng Chúa Giêsu đã tán dương những lời cầu nguyện thầm thĩ của chúng ta. Ngay khi vào đầu bài giảng, Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta cảm thấy mâu thuẫn: Thầy bảo các con biết chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình lấy gì mà ăn, hay lo cho thân xác mình lấy gì mà mặc. Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu lẫm. Ngay cả Salômôn trong tất cả vinh quang của ông, cũng không trang phục được bằng chúng. Nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn mai mất mà còn được Chúa gần gủi huống chi con người, Ngài còn yêu thương chúng ta biết mấy. Hỡi những kẻ kém lòng tin, đừng lo lắng quá, hãy tìm Nước Chúa trước còn những điều khác Chúa sẽ ban cho các ngươi (Mt 6:25,28-31,33).
Hãy tìm Nước Chúa trước! Hãy tìm ý muốn của Chúa trước! Cầu nguyện không phải là để kéo Chúa tới những cảnh huống khó khăn của chúng ta, vì Chúa biết mọi sự sẽ xẩy đến cho chúng ta. Cầu nguyện cũng không phải là việc chúng ta nói với Chúa về những điều chúng ta muốn cho chúng ta, vì Ngài đã biết chúng ta cần những gì. Cầu nguyện chính là chúng ta vui lòng để cho Chúa thực hiện điều Chúa muốn nơi chúng ta như trong Thánh Vịnh đã viết: "Hãy bình thản và biết rằng Ta là Chúa" (Tv 46:10). Cầu nguyện là việc chúng ta lắng nghe tiếng Chúa nói trong thẩm cung lòng của chúng ta. Đừng xin những gì Chúa có thể làm cho chúng ta. Hãy xin, những gì chúng ta có thể làm cho Chúa. Đừng xin những gì Chúa có thể ban cho chúng ta, nhưng hãy xin cho chúng ta có thể cho Chúa được gì.
Nhà khoa học nổi tiếng Isaac Newton là một con người cầu nguyện. Ông ta nói rằng: Tôi có thể dùng kính thiên văn để nhìn không gian xa hằng triệu triệu cây số được. Và tôi cũng có thể bỏ nó vào một góc nhà để tôi quỳ xuống và cầu nguyện với Thiên Chúa, Đấng gần gũi tôi hơn những vật chất trần gian.
Là con người, chúng ta thường hay cầu nguyện khi chúng ta gặp phải những gian nan khốn khó xảy đến như: chiến tranh, tranh chấp trong đời sống hôn nhân. Và những lời cầu đó thường là xin cho được hoà bình, xin cho được sống thân mật với vợ con. Nhưng chúng ta không để ý đến điều chúng ta cần phải làm gì để cho chóng chấm dứt chiến tranh, hay làm cách nào để có thể thương vợ thương con.
Một người đàn ông bị đưa ra toà để xét xử về tội giết người. Ông ta đến vị thẩm phán và nói rằng: nếu ông có thể xét cho tôi vô tội, tôi sẽ đưa cho ông một số tiền thật lớn; và ông ta trao cho vị quan toà một gói tiền. Khi vụ xử án xong, vị quan toà đã kết tội bị can là kẻ giết người. Sau đó, ở ngoài phòng tòa, bị can đã hỏi vị phẩm phán rằng: "Ông có thấy khó khăn trong việc đó không?" Ông ta trả lời: "Có! vì khi bắt đầu ai cũng cho là vô tội."
Khi cầu nguyện, chúng ta thường hay hối lộ với Chúa, "Lạy Chúa, nếu Chúa ban cho con điều con xin, con sẽ làm điều gì Chúa muốn. Cho dù có điều gì xảy ra, cũng đừng thay đổi, nhưng hãy làm theo ý con muốn." Nhưng thật ra Chúa không bao giờ nhận sự hối lộ của chúng ta, vì mục đích của Chúa không bao giờ bị chúng ta đánh đổ.
Nếu chúng ta cảm nghiệm được rằng chúng ta đang thăng tiến trong cuộc lữ hành trần gian để về quê trời, thì chắc chắn rằng cuộc sống Kitô hữu của chúng ta phải được nuôi sống bằng chính việc cầu nguyện. Khi chúng ta nhận thấy sự cầu nguyện ăn sâu vào trong tâm hồn chúng ta, lúc đó chúng ta mới biết được Chúa là Thiên Chúa. Chúng ta sẽ luôn vững tâm và nghe được tiếng nói của Ngài trong tâm hồn chúng ta. Chúa thường đến với chúng ta cách bất ngờ và chúng ta sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa trong tin tưởng, yêu thương và đầy hy vọng. "Hãy thi hành ý muốn Chúa muốn nơi chúng con. Không theo ý chúng ta, nhưng theo ý Ngài."
105.Phục vụ tha nhân
Chúa Giêsu vừa mới từ Hội Đường Caphácnaum, nơi Ngài đã phụng sự Chúa bằng cầu nguyện và rao gảng lời Ngài, lại phục vụ nhân loại qua việc chữa lành người bị quỷ ám. Và trên đường về nhà Phêrô Ngài đã chữa lành người đầy tớ của thầy đội (Mt 8, 5-13). Khi Chúa Giêsu ở Caphácnaum, Ngài không có nhà riêng, trụ sở Ngài đặt là nhà của Phêrô, nơi đây mẹ vợ của Phêrô đang bị sốt.
Có 3 loại sốt thường thấy ở Palestine. Một loại được gọi là Malta có đặc điểm làm suy nhược, mất máu, thường kéo dài nhiều tháng và chết. Một loại khác là sốt cách nhật giống như sốt rét định kỳ. Nhưng nặng nhất là sốt rét da vàng. Nơi gần sông Gio-đan đổ vào biển hồ có nhiều vùng sình lầy là môi trường lý tưởng cho giống muỗi sinh sôi nảy nở. Cả Caphácnaum và Tibêria là địa bàn hoạt động cho giống muỗi gây bệnh sốt rét. Chúng này thường kèm theo bủng da và nóng lạnh, gây khốn khổ cho bệnh nhân, chắc chắn đây là chứng mà mẹ vợ ông Phêrô mắc phải.
Chúa Giêsu vừa từ nơi công cộng về, mệt mỏi vì giảng dạy và chữa bệnh, chắc cũng muốn nghỉ ngơi. Tuy vậy, vừa vào đến nhà đã lại có lời cầu xin được giúp đỡ, và Ngài lại dấn thân vì người khác.
Phép lạ này nói cho chúng ta vài điều về 3 hạng người:
1. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VỀ CHÚA GIÊSU:
Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng, Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng như giữa đám đông trong Hội Đường. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không cứu giúp, nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của chính Ngài. nhưng trên hết, tại đây cũng như trong Hội Đường. Chúng ta thấy các phương pháp có một không hai của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa Giêsu có nhiều người thầy trừ quỷ, họ hành nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái công phu, những hình thức bùa chú, những tiếng kêu la, hò hét với nhiều đồ nghề ma thuật. Trong Hội Đường, Chúa Giêsu chỉ phán một câu đầy uy quyền và chữa bệnh được hoàn tất ngay.
Ở đây cũng có một sự việc như thế xảy ra. Bà nhạc gia của Phêrô đang đau chứng bệng mà Kinh Talmud của người Do-thái gọi là "một cơn sốt thiêu đốt". Kinh Talmud cũng chỉ ra phương pháp chữa trị chứng bệnh này. ngưới ta lấy một con dao bằng sắt đem cột vào một bụi gai bằng một lọn tóc. Suốt nhiều ngày liên tiếp, người ta đọc sách Xuất Hành 3, trước nhất là câu 2, 3 rồi đến câu 4, 5. Rồi có một công thức ma thuật được đọc lên, như thế người ta xem phần chữa trị đã xong.
Chúa Giêsu hoàn toàn bất chấp những câu thần chú ma thuật thông thường, chỉ bằng một dáng điệu và một tiếng duy nhất đầy quyền năng, Ngài đã chữa lành cho bà cụ. Bác sĩ Paul Tournier có viết: "Bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều tôi kể. Đó chẳng phải là sự kiên nhẫn, mà là sự quan tâm".
Với Chúa Giêsu, việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín, giúp người không phải là nhiệm vụ khó nhọc, Ngài chỉ giúp người một cách tự nguyện, tự nhiên, vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần đến sự cứu giúp của Ngài.
2. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VỀ MÔN ĐỆ CỦA NGÀI:
Họ chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng ngay trong giờ phút gặp gỡ ngắn ngủi này, họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho Ngài. Bà nhạc gia của Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, việc các môn đệ Ngài trình mọi việc cho Chúa Giêsu nghe là điều tự nhiên nhất trên đời.
Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một vị Mục Sư lão thành và ông cụ chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Ông hết sức kinh ngạc vì cách cầu nguyện đơn sơ của vị Mục Sư nọ. Nó giống hệt phần tiếp tục câu chuyện thân mật mà vị tông đồ lão thành ấy luôn trò chuyện với Chúa Giêsu.
Bác sĩ Tournier viết tiếp: "Về đến nhà tôi sẽ kể cho vợ tôi nghe chuyện ấy và chúng tôi cùng cầu xin Thiên Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cụ Mục Sư nọ vậy. Từ đó, Ngài trở thành trung tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi làm và cũng quan tâm về việc đó. Ngài là người bạn thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời tôi ra thảo luận. Ngài sẽ chia sẻ những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự với tôi. Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người ấy".
Mấy lời trên đây bao gồm yếu tính sinh hoạt của người Kitô hữu. Thế là các môn đệ nguyên thủy đã học được điều trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp đỡ mình.
3. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VÀI ĐIỀU VỀ BÀ NHẠC GIA CỦA PHÊRÔ:
Ngay sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục vụ. Bà cụ đã dùng phần sức khỏe hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Ta đã sử dụng ơn Chúa ban như thế nào?
Nhà văn Oscar Wilde viết tuyển tập "Chuyện Hay Nhất Thế Giới" trong đó, ông kể:
"Đấng Cứu Thế đi từ miền thôn quê tầm thường lên một thành phố muôn phân sặc sỡ. Khi đi qua một phố đầu tiên Ngài nghe có tiếng nói phía trên đầu, nhìn lên thấy một thanh niên nằm vắt ngang thành cửa sổ. Chúa hỏi: "Sao ngươi lại bỏ phí linh hồn trong say sưa?" Hắn đáp: "Thưa Chúa, tôi là người phong đã được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn"? Đi xa hơi một chút nữa, Ngài thấy một thanh niên đang lẽo đẽo theo sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: "Tai sao ngươi bỏ phí cuộc đời của ngươi trong trác táng?" Chàng đáp: "Thưa Chúa, tôi là người mù được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn?" Cuối cùng ở giữa thành phố, Ngài thấy một người già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi được Chúa hỏi, ông đáp: "Lạy Chúa, tôi là người chết được Chúa cho sống lại, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn là khóc?"
Đó là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã tàn nhẫn, vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Bà mẹ vợ của ông Phêrô đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là cách chúng ta sử dụng mọi Hồng Ân Chúa ban.
Không ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng rể như thế nào, để sau này, với tư cách là lãnh tụ Giáo Hội, Phêrô đã viết thư khuyên giáo dân: "Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô" (1Pr 4, 10-11).
106.Hãy ra công làm việc như Chúa Giêsu--Huệ Minh
Tâm trạng, cảm xúc của con người thật khó nói. Có những lúc lòng người cảm thấy hứng thú khi làm việc nhưng rồi có những lúc lòng cảm thấy buồn rười rượi bởi lẽ có khi thầy cuộc đời này chẳng là gì cả.
Jean-Paul Sartre - một triết gia, phê bình gia, tiểu thuyết gia và một kịch tác gia nắm một vị trí cao cả, ít ai có trong thế giới văn chương Pháp. Những tác phẩm của Sartre, đặc biệt La Nausée (Xb đầu tiên 1938) đã thu hút một số lượng khổng lồ về triết thuyết hiện sinh của Sartre như một tư tưởng mới và có một ý nghĩa quan trọng. La Nausée/Buồn Nôn là một tiểu thuyết mang tính hiện thực vừa đương đại vừa hiện thực cho một chủ nghĩa hiện sinh mà Sartre chủ xướng một cách trung thực và đầy sáng tạo giữa đời này.
Buồn Nôn là một câu chuyện hư cấu nhưng có thực và sống thực qua nhân vật Antoine Roquentin. Tác giả đã làm kinh ngạc người đọc về triết thuyết hiện sinh. Một tiểu thuyết đầy ấn tượng dưới một thể thức nhật ký mà ông đã diễn tả được cái sâu sắc nội tâm của con người, cái ray rứt, cái tàn nhẫn trong sự cảm nhận giữa thế giới với con người dường như xảy ra quanh đời ông. Tư tưởng của Sartre đạt tới cực điểm và lan tỏa, vượt qua được sức mạnh của cảm giác, tức nỗi đau khổ không cùng của con người đứng trước hiện hữu; tất cả được thể hiện rộng rãi từ dưới thể tính bầy nhầy, nhão quẹt (vicous) trộn lẫn với loãng chất (puddle) của cái thời đầy rẫy bóng tối vây quanh và lan trải như vết dầu loang; những hiện tượng đó là cơ hội dành cho Sartre phát triển chủ nghĩa hiện sinh, mà nhân tố hiện sinh chính là nhân bản, là yếu tố tâm lý và sinh lý giữa hiện thể và hiện vật xẩy ra cùng một lúc.
Buồn Nôn không còn là hư cấu, nó trở nên một luận cứ triết học của học thuyết hiện sinh mà Jean-Paul Sartre là kẻ đưa đường. Tác phẩm Buồn Nôn của ông đã để lại hậu thế những giá trị tuyệt đối, vượt thời gian qua những án văn chương bất hủ, một phạm trù triết học đầy nhân tính trong thuyết hiện sinh của ông. Jean-Paul Sartre là nhân vật thời thượng qua mọi thời đại của nền văn học sử hiện đại.
Tâm tình nhìn thấy cuộc đời này đầy chán nản ta cũng bắt gặp trong cuộc đời của một người rất thân quen trong Thánh Kinh đó là ông Giob. Ta vừa nghe ông Giob ai oán: "Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ giống như ngày của người làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như người làm công ước mong lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn rỗi, có những đêm người ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại nói: "Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối". Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc".
Sau khi nghe Giob ai oán như thế, ta cũng giật mình tỉnh giấc vì lẽ đôi khi cuộc đời ta cũng rơi vào cảm giác như thế. Bằng chứng rõ nét là ta vẫn thấy quanh ta có những cuộc tự vẫn, có những người tìm đến cái chết bởi vì họ cảm thấy cuộc đời này chán nản. Trong những người tìm đến cái chết đó cả những người có chức có quyền, các minh tinh màn bạc, ca sĩ... Cũng dễ hiểu vì lẽ những người đó đã không tìm được niềm vui trong cuộc sống.
Vậy, cuộc sống của ta, cuộc đời của mỗi người chúng ta vui khi nào? Khi chúng ta ra công làm việc và tất cả những việc lớn bé to nhỏ trong đời ta ta đều kết hiệp với Chúa và dâng hết cho Chúa.
Trang Tin Mừng theo Thánh Máccô hôm nay gợi cho ta một hình ảnh của một con người lao động. Con người ấy là ai? Thưa là chính Chúa Giêsu.
Thánh Máccô cho chúng ta biết một ngày làm việc tiêu biểu của Chúa Giêsu ở thành phố Capharnaum, thành phố của Phêrô và Anrê. Ngài giảng dạy ở hội đường, chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon cho khỏi cơn ssốt, chữa nhiều bệnh nhân và trừ qủi từ chiều cho đến tối. Sáng sớm tinh sương đi cầu nguyện nơi thanh vắng, và tiếp tục đi rao giảng ở những nơi khác.
Tóm lại, ta thấy Chúa Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày và trừ qủi.
Những công việc bận rộn như vậy cũng không hề làm cho Ngài mất tiếp xúc với Cha của Ngài ở trên trời. Ngài sẽ dùng nhiều thời giờ nghỉ ban đêm để sống thân mật với Cha Ngài ở trên trời. Ngài còn dành nhiều thời giờ ban đêm để sống mật thiết với Chúa Cha nữa như ở những nơi khác ta thấy Ngài thức suốt đêm để cầu nguyện.
Rõ ràng rằng đời sống làm việc của Chúa Giêsu được kết nối hay nói cách khác là đan xen trong lời cầu nguyện của Ngài. Lao động và cầu nguyện để ngày mỗi ngày càng gần Chúa hơn qua những công việc của Chúa Cha trao phó. Cha trao phó cho Chúa Giêsu công việc chính yếu nhất đó là loan báo Tin Mừng Nước Trời, loan báo niềm vui Tin Mừng.
Nếu như những người bình thường khác, Chúa Giêsu sẽ cảm thấy chán ngán vì ra sức làm việc mà chẳng được gì cả, thậm chí còn bị giới luật sĩ và biệt phái soi mói đủ thứ đủ điều. Thế nhưng, vì Tin Mừng, vì Cha và với Cha, Chúa Giêsu không bận tâm những lời ra tiếng vào nữa và vì làm việc nhiều quá mệt để rồi khi đặt lưng xuống là ngủ chứ không còn thời giờ để suy nghĩ vu vơ.
Ngày hôm nay, trong cuộc sống hiện tại, ta vẫn thấy có nhiều người vẫn còn đó những chán ngán của cuộc đời do họ suy nghĩ cuộc đời này vô nghĩa, cuộc đời này không đáng sống. Thật ra, cuộc đời này đáng sống lắm đấy bởi lẽ ai ai sinh ra cũng chỉ một lần và chết cũng có một lần mà thôi. Và vì thế, hãy ra công làm việc
Đâu đó ta vẫn nghe Chúa Giêsu nói: "Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu" (Ga 6, 27)
Trong hành trình làm người ở trần gian, cần lắm của ăn nuôi sống cái xác thịt 5,6, 7 chục ký này nhưng cần hơn nữa đó chính là của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời.
Chúa ban cho mỗi người một khả năng, một ơn gọi, một biệt tài nhưng có khi con người không nhận ra để rồi khi không nhận ra thì cuộc sống cảm thấy chán càng chán thêm.
Có một người đến tuổi trung niên. Bỗng nhiên anh bị tai biến và khả năng đi lại thật khó khăn. Lẽ ra trong cái buồn, trong cái hạn chế của bệnh tật và nhất cả của kiếp người, anh cũng có quyền ai oán nhưng bao người khác nhưng ngược lại, anh cảm thấy anh còn làm được gì thì anh cố làm. Thế là anh chuyên chăm vào chuyện suy gẫm là lắng nghe lời Chúa. Chỉ là một giáo dân bình thường như bao nhiêu người khác nhưng anh đã cố gắng loan báo Tin Mừng bằng suy nghĩ, bằng sẻ chia Lời Chúa hàng ngày của anh. Thật trân trọng tâm hồn và cách lao động làm việc của anh. Cách nào đó anh loan báo Tin Mừng thật tuyệt vời.
Một cô kia cũng đang ở cái tuổi gần 60. Gia đình tương đối đủ ăn đủ mặc và hàng xóm vài người trêu rằng sao không nghỉ ngơi đi mà cứ lo buôn bán. Vui miệng, cô trả lời: "Đủ ăn, đủ mặc rồi nhưng làm thêm để kiếm tiền rải đường đi lên thiên đàng!". Cô đùa vui thôi. Trong tâm tình, cô chia sẻ với tôi rằng: "Tôi còn sức còn làm và dư ra để tôi lại chia sẻ với người nghèo hơn tôi". Mà thật! Tôi vẫn thấy cô xuất hiện trong những chuyến từ thiện, những chuyến thăm viếng người nghèo, người tâm thần.
Phải chăng cô không làm việc để tích lũy làm giàu như người khác nhìn vào nhưng cô lao công để chia sẻ cho người khác. Đây là cách sống loan báo Tin Mừng bằng chính sự chia sẻ của cô, của gia đình cô.
Trong thư chúng ta vừa nghe Thánh Phaolô tự nhận là mình có nhiệm vụ phải rao giảng Tin mừng:”Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Ngài cố gắng thi hành nhiệm vụ này một cách vô vị lợi, không tìm vinh danh cho mình nhưng chỉ dành cho Chúa. Chính vì thế, Ngài đã cố gắng trở nên mọi sự cho mọi người, chia sẻ những sự yếu đuối của anh em, sống cuộc sống của họ, tự đặt mình làm tôi tớ phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo hèn, và mục đích của Ngài là tranh thủ đem về cho Chúa Kitô nhiều linh hồn.
Khi ta nghe xong lời ấy, ta có thể trách móc và "đấu" lại với Thánh Phaolô rằng con chẳng có gì để loan báo Tin Mừng cả! Thế nhưng, trong sâu lắng của cuộc đời, ta vẫn còn sống là ta vẫn còn loan báo Tin Mừng bằng đời sống lao động, cầu nguyện của ta đó.
Như Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, trong hoàn cảnh hiện tại, đời sống cầu nguyện của Ngài phải chăng là một đời sống lao động tuyệt vời. Không còn làm việc công khai, không còn lao nhọc công khai nữa nhưng Đức Tổng vẫn kết hiệp mật thiết đời mình với Chúa hơn qua lời cầu nguyện.
Có thể ta già nua tuổi tác, có thể ta bị tai biến như người trung niên đã nói ở trên và có khi ta nghèo nhưng ta vẫn lao động, vẫn cầu nguyện được trong hoàn cảnh của ta. Xin Chúa thêm ơn cho ta để ngày mỗi ngày ta biết lao động như Chúa đã từng lao động để rồi ta thấy cuộc đời ta có ích hơn, ý nghĩa hơn nhất là khi ta kết hợp mật thiết hơn với Chúa qua lời cầu nguyện của ta.
107.Gắn kết với Chúa trong đời sống cầu nguyện--Huệ Minh
Tin mừng Mc 1: 29-39: Và đặc biệt, chúng ta thấy Tin Mừng ghi lại: sáng sớm lúc trời tối mịt Người đã dậy, đi ra nơi hoang vắng và cầu nguyện...
Ngày hôm nay, chúng ta bắt gặp một ngày làm việc của Chúa Giêsu.
Tin Mừng vừa thuật lại cho chúng ta:
Vừa ra khỏi hội đường thì Chúa Giêsu đến nhà ông Simôn và Anrê. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simôn nằm sốt trên giường và Chúa Giêsu đã chữa cho bà dứt ngay cơn sốt. Rồi chiều đến, khi mặt trời lặn người ta đem đến cho Chúa Giêsu mọi kẻ ốm đau bệnh tật và rồi Chúa Giêsu cũng chữa lành, cũng như trừ khỏi ma quỷ.
Và đặc biệt, chúng ta thấy Tin Mừng ghi lại: sáng sớm lúc trời tối mịt Người đã dậy, đi ra nơi hoang vắng và cầu nguyện.
Và chúng ta bắt gặp được khuôn mặt, hình ảnh của Chúa Giêsu, một ngày làm việc. Ta có thể nói rằng là Chúa Giêsu quân bình, trong cái đời sống của Ngài. Ngài gần Chúa Cha và rồi Ngài gần con người.
Khi Ngài trong cô tịch, trong thanh vắng để mà cầu nguyện, để mà gắn bó cuộc đời của mình, để mà chìm đắm cuộc đời của mình với Chúa Cha, kết hợp với thánh ý của Chúa Cha, thì Chúa Giêsu lại gặp con người nơi những mảnh đời đau khổ bệnh tật, và tác giả đặt cho đoạn Tin Mừng hôm nay là: «Một ngày ở Ca-phac-na-um».
Và rồi chúng ta có cơ hội nhìn thấy một ngày làm việc của Chúa Giêsu cũng là biểu trưng cho cả cuộc đời của Chúa Giêsu.
Một ngày sống của Chúa Giêsu đã diễn tả một năm sống và cả cuộc đời của Chúa Giêsu là: gắn bó với Chúa Cha, và gắn bó đời mình với con người. Càng gắn bó với Chúa Cha bao nhiêu thì Chúa Giêsu lại càng gắn bó với con người bấy nhiêu.
Và ngày hôm nay cũng là những ngày khép lại một năm qua đi. Và rồi chúng ta cũng dừng lại để nhìn lại một năm qua của chúng ta. Chúng ta sống đời sống gắn bó của chúng ta với Chúa Giêsu, với Thiên Chúa như thế nào? Và chúng ta có gắn bó cuộc đời của chúng ta với anh chị em của chúng ta hay không?
Chúa Giêsu đi ra rao giảng, sau khi gắn bó cuộc đời của mình với Chúa Cha, Chúa Giêsu không khép kín lại với cái tương quan với Chúa Cha mà Chúa Giêsu lại mở ra cái tương quan với con người.
Từ sáng sớm tinh sương cho đến chiều một cái định vị của không gian cho ta thấy: Chúa Giêsu trong cái cảnh tỉnh mịch, CHÚA Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, gắn bó với Chúa Cha Và lòng Ngài kết hợp với Chúa Cha, để rồi Ngài lại gắn bó với con người bằng thái độ chạnh lòng thương với những người nghèo, với những người đau khổ, với những người bị quỷ ám.
Và khi đó chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu với khuôn mặt gắn bó với Chúa Cha thì Ngài lại gắn bó với con người. Nhưng mà đáng tiếc thay, người ta không nhìn ra một Chúa Giêsu sống với con người nghèo khổ, đồng hành với con người nghèo khổ.
Bởi vì, người ta nhìn vào Chúa Giêsu như khuôn mặt của một Đấng Mêsia đến, để mà giải thoát người ta khỏi kiếp sống nghèo, để cho đời sống kinh tế người ta cao lên và người ta hơn người khác chứ người ta không cảm nhận được một Đấng Mêsia đến để mà đồng hành, để mà đồng lao cạm khổ với con người trong cuộc sống. Và rồi, Chúa Giêsu mở ra một con đường bác ái với con người đồng loại. Và rồi chúng ta thấy: càng gắn bó với Chúa, thì cái công việc bác ái của Chúa Giêsu với con người nó càng mật thiết hơn. Khi mà Chúa Giêsu lắng nghe tiếng của Chúa Cha thì đồng thời Chúa Giêsu cũng lắng nghe tiếng của những con người nghèo khổ.
Và ngày hôm nay, chúng ta thấy sống giữa một cái xã hội Quá ồn ào náo nhiệt để rồi người ta không lắng đọng, người ta không cảm nhận được một tình thương của Chúa làm sao người ta có thể san sẻ được cho người khác.
Cách đây không lâu, khi đi lên Sài Gòn khám bệnh thì đi vào bệnh viện thấy có hai mẹ con đang loay hoay, bà mẹ mang xăng đan cho thằng bé. Gọi là thằng bé nhưng mà thực ra, nó cũng là 20 tuổi ngoài. Nhìn nó thấy thương, bà mẹ nó nói:
Hôm nay nó mới 20 tuổi. Cách đây mấy tháng nó bị tai biến đã nằm ở Bệnh viện Chợ Rẫy tốn mấy chục triệu rồi, mà bây giờ là như thế. Nhìn khuôn mặt tiều tụy của hai mẹ con, nhìn thằng bé thấy tội lắm! Mới có 20 tuổi đầu thôi bị tai biến thấy thương, chẳng làm được gì cho họ và nói: thôi, cầu mong cho bé nó gặp thầy, gặp thuốc để được mau bình.
Và rồi đến chiều đến gặp bác sĩ để mà chữa bệnh. Và đang khi chờ thì thấy hai vợ chồng đang bế đứa bé khoảng chừng 3 tuổi tới. Khi nó vừa vào phòng mạch thấy bác sĩ nó khóc thét lên đau lắm và rồi tí xíu nữa cha mẹ nó và bác sĩ dỗ nó và mẹ nó mới bế nó đi ra ngoài dụ nó cho nó qua cơn đau. Ba nó ở trong phòng để nghe Bác sĩ giải thích.
Thấy tội nghiệp, hình ảnh của hai vợ chồng bế đứa bé tội nghiệp lắm! Mình cũng chẳng làm gì được cả bởi vì mình cũng trong cái thân phận bệnh nhân đứa bé mới 3 tuổi thôi Nó đau đớn lắm!
Mình cũng thế mình cũng chẳng hơn gì nó, nhưng mình may mắn hơn mình vẫn còn có khả năng đi lại để mà mình chạy chữa cho mình.
Tạ ơn Chúa trong cái cơn bệnh để mình nhìn thấy mình hạnh phúc hơn người khác! Đôi khi cuộc đời của mình nó bằng phẳng quá! Mình không khám phá ra một Thiên Chúa thương mình, một Thiên Chúa yêu thương mình và mình cứ lăn tăn mình cứ loay hoay mình lại trách Chúa: Tại sao Chúa không cho mình điều này điều kia?
Bởi vì cái căn cốt nhất của cuộc đời đó là gắn bó mật thiết đời mình với Chúa Cha, để rồi mình: Mở lòng ra với người khác, và mình băng bó vết thương cuộc đời người khác, và mình chia sẻ niềm vui niềm hạnh phúc của mình cho người khác.
Nhưng mà chỉ vì ngày hôm nay người ta quá ồn ào người ta đã không còn giờ, người ta không còn dành cho Chúa nữa!
Chúng ta thấy, Chúa Giêsu một ngày tất bật làm việc, nhưng mà sáng sớm Ngài đã cầu nguyện. Chính cái đời sống cầu nguyện gắn bó mật thiết với Chúa Cha đó, Chúa Giêsu lại kín múc được tình thương từ Chúa Cha. Và Chúa Giêsu lại san sẻ cho những người nghèo khổ, người đau yếu, những người bệnh tật mà Chúa Giêsu gặp gỡ.
Khi chúng ta gắn kết đời chúng ta với Chúa Còn khi chúng ta không gắn kết với Chúa thì chúng ta không cảm nhận được.
Nhiều khi cuộc đời của chúng ta ồn ào quá! chúng ta loay hoay quá! Nhiều chuyện quá! như Chúa nói với Matta đó: “Matta ơi con lo nhiều chuyện quá và Maria đã chọn phần tốt nhất“
Mỗi người chúng ta không phải là cứ ngồi dưới chân Chúa như Maria, nhưng chúng ta cũng phải biết quân bình đời sống, cũng có những lúc chúng ta phải cầu nguyện gắn bó với Chúa. Và rồi chúng ta lại kín múc cái tình thương đó, và lại lên đường ra đi loan báo Tin Mừng tình thương cho anh chị em đồng loại.
Điều quan trọng là: ngày mỗi ngày, chúng ta có gắn bó với Chúa hay không?
Như Chúa Giêsu, chúng ta có tìm nơi hoang vắng và cầu nguyện hay không?
Cầu nguyện chính là cái chất, cái cốt lõi của đời sống chúng ta. Và rồi chúng ta thấy: cả một ngày làm việc như thế!
Chúa Giêsu lại bảo các môn đệ: Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã xung quanh để thầy còn rao giảng nữa! bởi vì, thầy ra đi cốt để làm những chuyện đó!
Và rồi, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi bước chân theo Chúa Giêsu để đi loan báo Tin Mừng.
Chúa Giêsu đã làm việc không nghỉ, Chúa Giêsu đã làm việc không có tính toán. Chúa Giêsu đã mang tình thương đến cho những người nghèo khổ. Và rồi chúng ta là người môn đệ của Chúa, chúng ta cũng được mời gọi bước chân theo Chúa đi lên trên cái con đường truyền giáo, bằng cái con đường bác ái yêu thương, bằng cái con đường chia sẻ với người khác.
Nhưng chuyện quan trọng rằng: chúng ta phải gắn kết đời của chúng ta với Chúa bằng đời sống cầu nguyện.
Nếu không, chúng ta sẽ đi làm việc bác ái đó: nhưng chúng ta lại đánh bóng tên tuổi chúng ta. Chúng ta chia sẽ cho người khác đó, nhưng chúng ta lại khắc tên chúng ta nơi món quà, nơi những đồ vật mà chúng ta dành tặng cho người khác. Và khi ấy chúng ta cho đi: chúng ta lại huênh hoang, chúng ta lại đánh bóng tên tuổi chúng ta, chúng ta lại muốn người khác biết chúng ta cho người khác cái gì, thì lúc đó chúng ta đã mất ơn rồi.
Xin Chúa cho chúng ta nhìn lên Chúa Giêsu, kết hợp mật thiết đời của chúng ta với Chúa Cha. Và càng kết hợp mật thiết với Chúa Cha, chúng ta càng chia sẻ, càng lên đường loan báo Tin Mừng loan báo tình thương cho người khác, trong cái trầm lắng, trong cái lặng lẽ, trong cái kín đáo:
Bởi vì khi bố thí, anh em hãy đừng làm tay trái biết việc tay phải làm, để rồi chúng ta được Chúa Cha ân thưởng cho chúng ta. Còn nếu như chúng ta huênh hoang, chúng ta khoe khoang thì đã được hưởng ơn rồi.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để ngày mỗi ngày chúng ta cũng lên đường để loan báo tình thương, chia sẻ tình thương cho người khác.
Nhưng, chuyện quan trọng rằng chúng ta phải tìm nơi hoang vắng để ở lại đó, cầu nguyện và gắn kết cuộc đời của chúng ta với Chúa. Khi và chỉ khi chúng ta có Chúa thì tất cả lời nói, việc làm và hành động của chúng ta mới mang một ý nghĩa đích thực, như Chúa Giêsu đã kết hợp với Chúa Cha và ra đi loan báo Tin Mừng cho anh chị em đồng loại. Amen.
03/02 Dung mạo yêu thương của Chúa Giêsu
- Viết bởi Mc 6, 30-34
Dung mạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 4 thường niên.
"Họ như đàn chiên không người chăn".
Lời Chúa: Mc 6, 30-34
Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy.
Người liền bảo các ông: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút". Vì lúc ấy dân chúng đến tấp nập đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài.
Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đến một nơi thanh vắng
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Các môn đệ trở về gặp lại Thầy Giêsu
sau cuộc hành trình tông đồ đầu tiên nhiều thú vị.
Họ cùng nhau tụ họp chung quanh Thầy
và thi nhau kể cho Thầy nghe tất cả những gì họ đã làm và đã dạy.
Thầy Giêsu thấy họ vui vì đã có thể đuổi được quỷ, chữa được bệnh.
Những ông đánh cá ít học, nói năng bỗ bã,
trở thành người rao giảng mạnh bạo Tin Mừng về Nước Trời.
Nhưng Thầy Giêsu cũng thấy nét mêt mỏi nơi khuôn mặt họ.
Các tông đồ không có giờ ăn uống vì bị đám đông bao vây.
“Anh em hãy lánh riêng ra,
đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (c.31).
Lời mời trên cho thấy mối quan tâm của Thầy đối với các môn đệ,
những người thợ cần được nghỉ ngơi cả thân xác lẫn tinh thần.
Họ cần tách mình ra khỏi đám đông, khỏi công việc,
để đến nơi hoang mạc mà tĩnh tâm.
Tĩnh tâm là nghỉ ngơi bên Thầy trong sự ấm áp của tình thầy trò,
không bị vướng bận bởi công việc phục vụ.
Tĩnh tâm là dành một thời gian để lòng mình lắng xuống,
đọc lại những biến cố đã xảy ra trong đời mình,
nhìn lại những kinh nghiệm mình đã trải qua bằng cái nhìn của Chúa,
cả những khó khăn và thất bại, những bất trung và vấp ngã…
Nhưng tĩnh tâm không phải chỉ để nhìn lui, mà còn để nhìn tới.
Các tông đồ cần vượt qua những hứng khởi nhất thời do thành công.
Họ cần trầm lắng để chuẩn bị cho những khó khăn sắp đến.
Lời mời của Thầy Giêsu vẫn đụng đến chúng ta hôm nay,
những con người tất bật, vội vã, lo âu và căng thẳng,
những con người kiệt sức vì đòi hỏi của công việc hay vì nghiện việc.
Lánh riêng, nghỉ ngơi ở nơi hoang vắng, tĩnh tâm,
đó không phải là những điều dành riêng cho giới tu sĩ.
Đó là nhịp bình thường của những người bỗng thấy mình đang bị cuốn đi,
trôi đi, mất hướng, mất chính mình, trở nên con rối ngờ nghệch.
Tuy nhiên, không dễ tìm được nơi hoang vắng, để cách ly mình khỏi công việc.
Khi Thầy và các môn đệ đến được nơi hoang vắng ưng ý,
thì chỗ đó chẳng còn vắng nữa, vì dân chúng đã đến trước rồi.
Chúng ta vẫn cứ phải tìm chỗ vắng riêng cho mình với Chúa suốt đời.
Cầu nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa. Amen.
Suy Niệm 2: Lời ban sự sống
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành. Mục tử ban sự sống cho đoàn chiên. Sự Sống đến từ Lời Chúa. Vì Lời Chúa là Ngôi Lời, là chính Thiên Chúa. Chính vì thế khi thấy đám đông tất tưởi bơ vơ thì Chúa dậy dỗ họ. Chính vì thế mà dân chúng say mê nghe Lời Chúa đến quên ăn quên ngủ, quên cả đường về.
Con người là một tổng thể phức tạp với những khát vọng vô biên. Những con người, phương tiện, lý thuyết, tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội của loài người chẳng thể nào thỏa mãn được khát khao của con người. Từ xa xưa biết bao người nghĩ tưởng có thể giải quyết được mọi vấn đề trên thế giới, đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Nhưng tất cả đều chỉ là ảo tưởng, có khi còn tha hóa, hạ nhục con người. Thế kỷ 20 chứng kiến sự sụp đổ của hai lý thuyết lớn là Phát xít và Cộng sản. Hai lý thuyết này khi mới xuất hiện từng đưa ra ảo tưởng xây dựng thiên đường nơi trần thế. Nhưng 1 thế kỷ trôi qua, họ đã xây dựng những địa ngục trần gian với tất cả sự chết chóc qua 2 cuộc thế chiến, qua các trại học tập cải tạo. Sự nghèo đói. Và khủng khiếp hơn, sự suy thoái đạo đức. Tất cả chỉ là bánh vẽ. Tệ hơn nữa là những trái cây bên ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong chứa thuốc độc chết người. Tất cả chỉ là những người chăn thuê bóc lột đoàn chiên cho lợi ích riêng tư.
Chỉ có Chúa là mục tử nhân lành. Chúa ban lương thực nuôi sống đoàn chiên. Lương thực đó không chỉ là vật chất. Nhưng còn là lương thực thiêng liêng. Dẫn con người đi trên đường ngay nẻo chính. Đến sự thật toàn vẹn. Đến sự sống muôn đời. Chính Chúa chịu chết để minh chứng điều đó. Thịt Máu Chúa trở thành lương thực nuôi đoàn chiên (năm lẻ). Đường Chúa đi trở thành con đường dẫn ta đến hạnh phúc thiên đàng. Chính vì thế Salomon không xin điều gì khác ngoài biết lắng nghe và biết theo Lời Chúa mà phân biệt phải trái. Vì thế ông trở thành người khôn ngoan nhất trong các kẻ khôn ngoan (năm chẵn).
Ta hãy noi gương dân chúng thời Chúa Giêsu. Hâm mộ tìm nghe Lời Chúa. Say mê Suy Niệm Lời Chúa. Và nhiệt thành thực hành Lời Chúa. Đó chính là Con Đường ngay thẳng. Đó chính là Sự Thật toàn vẹn. Đó chính là Sự Sống viên mãn. Sẽ lấp đầy mọi khát vọng thâm sâu của con người. Sẽ giải quyết mọi vấn đề của thế giới. Sẽ đem đến hạnh phúc cho nhân loại.
Suy Niệm 3: Dung mạo Chúa Giêsu
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Manio Flajano, văn sĩ, ký giả kiêm đạo diễn người Italia, qua đời năm 1972, đã để lại những trang nhật ký thật cảm động: năm 1942, đứa con gái 8 tuổi của ông bị bệnh sưng màng óc và kéo lê cuộc sống tàn tật đó cho đến năm 1992. Nhìn đứa con mà lòng đau xót, nhưng người cha vẫn đặt tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa. Trong một trang nhật ký, ông viết: "Một người đàn ông nọ dẫn đến cho Chúa Giêsu đứa con gái bệnh tật và nói với Ngài: "Con không muốn chữa lành nó, nhưng chỉ xin Chúa yêu thương nó mà thôi". Chúa Giêsu cúi xuống hôn đứa bé mà nói: "Ta nói thật, người đàn ông này đã xin điều mà có thể cho được". Nói xong, Chúa Giêsu biến đi trong ánh sáng chói ngời bỏ lại một đám đông tiếp tục bàn tán về các phép lạ, còn các nhà báo thì cố gắng mô tả các phép lạ".
Những dòng trên đây của Flajano đưa chúng ta vào trọng tâm của Tin Mừng. Thật thế, Tin Mừng không phải là một mớ lý thuyết hay giáo điều, Tin Mừng cũng không phải là một Thiên Chúa cao xa trừu tượng. Tin Mừng thiết yếu là một con người bằng xương bằng thịt, với một trái tim dễ rung động và biết yêu thương. Ðọc lại các sách Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không làm phép lạ như một phù thủy múa may cây đũa thần của mình, Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm lóe mắt thiên hạ. Phép lạ là dấu chỉ của ơn cứu độ, là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, một Thiên Chúa yêu thương đến độ hóa thân làm người và sống thiết thân với con người.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô như tóm tắt tất cả dung mạo của Chúa Giêsu trong câu nói: "Chúa Giêsu thấh đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương". Ðây là tất cả mạc khải về tình yêu Thiên Chúa đối với con người: thay cho một Thiên Chúa ở trên cao, thưởng phạt chí công, lạnh lùng nghiêm khắc, Chúa Giêsu đã bày tỏ cho chúng ta một Thiên Chúa đi vào lịch sử con người, một Thiên Chúa sinh ra như một em bé, một Thiên Chúa có trái tim cảm thông và tha thứ, một Thiên Chúa gần gũi với con người, có mặt trong từng nhịp thở của con người.
Chiêm ngắm một Thiên Chúa như thế qua con người Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng nhận ra được một chân lý về con người, bởi vì như Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến chế "Vui mừng và Hy vọng" đã nói: Chỉ trong ánh sáng của Ngôi Lời Nhập Thể, chân lý về con người mới được sáng tỏ. Con người bởi đâu mà đến? sẽ đi về đâu? chúng ta nhận ra điều đó trong Chúa Giêsu đã đành, mà trong Ngài, chúng ta còn phải biết sống thế nào cho phải đạo làm người. Qua cung cách của Ngài, chúng ta thấy phải đối xử thế nào với người đồng loại. Qua cuộc sống yêu thương và yêu thương đến chết trên Thập giá, chúng ta hiểu được rằng hiến thân cho tha nhân là ơn gọi của con người, chỉ có con người mới được mời gọi để sống cho tha nhân mà thôi.
Tin mừng của chúng ta là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không ngừng được mời gọi để sống kết hiệp với Ngài, để đón nhận sức sống của Ngài và sống theo lý tưởng của Ngài. Ước gì chúng ta luôn được củng cố trong niềm xác tín rằng Ngài đang hiện diện và đồng hành với chúng ta trong từng phút từng giây cuộc sống.
Suy Niệm 4: Hãy nghỉ ngơi đôi chút
Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi việc các ông đã dạy. Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông chẳng có thì giờ ăn uống nữa. (Mc. 6, 30-31)
Tuần làm việc đã kết thúc. Thế là ngày thứ bảy. Mặc dầu một số lớn các công nhân phải trực ca ở sở, sinh hoạt phố xá vẫn thay đổi nhịp độ kể từ năm giờ chiều thứ sáu đến tám giờ sáng thứ hai. Người ta muốn lấy hơi thở, dù rằng cứ thứ bảy và chủ nhật nào ai nấy lại thường không phải hết cả hơi, vì những công chuyện như: đi chợ mua thực phẩm, đi tiệm sắm đồ, công việc nội trợ, chơi thể thao, thăm viếng gia đình, bạn bè, họp mặt liên hoan…
Nhưng tất cả những hoạt động đầy ắp những ngày cuối tuần này thật ra có giúp ích gì cho việc nghỉ ngơi không? Phải chăng những hoạt động ấy chỉ là tiếp nối cuộc chạy đua với thời gian làm việc trong tuần? Những hoạt động này có tăng thêm sinh khí cho con người, trí tuệ và đời sống thiêng liêng của ta không? Chúng ta có thực sự đạt được việc dành cho mình những giây phút để trở về với lòng mình, mặt đối mặt với Thiên Chúa, hoặc để thưởng thức một công trình âm nhạc hay văn chương, nhờ đó ta tiến gần tới sự thật, sống có bề sâu, sống thánh thiện và mang vẻ đẹp của một con người luôn đổi mới và biết xây dựng mình? Chúng ta có biết bố trí thời giờ dành để tập thể dục giúp cho thân thể được khỏe mạnh để làm việc không?
Những việc kể lại trong Phúc âm hôm nay chứng tỏ rằng Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ của Người, sau khi đi truyền giáo về, cần nghỉ “ngày thứ bảy cuối tuần”, cần được nghỉ ngơi. Dầu rằng quanh các ông, dân chúng vẫn tấp nập, kẻ lui người tới, hỏi han thì Chúa vẫn dưa các ông lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và có thì giờ ăn uống.
Làm việc và nghỉ ngơi thay phiên nhau vẫn là luật căn bản của con người, ai coi thường người ấy làm việc kém năng xuất, nếu không sẽ ốm đau và suy giảm tinh thần. Quá mệt mỏi, lúc nào cũng tù túng trong cùng một bầu khí, hoặc thường xuyên bận bịu với cũng một công việc, con người phải sống trong cái vòng lẩn quẩn hoặc tệ hơn, ta đánh mất ý thức về việc làm của mình.
Vậy thì “Anh em hãy nghỉ ngơi đôi chút”.
Suy Niệm 5: Lánh sang nơi thanh vắng
Sự quan tâm của Đức Giêsu với các môn đệ hôm nay làm cho chúng ta thấy một hình ảnh đẹp tuyệt vời về thái độ liên đới và nghĩ đến môn sinh của mình nơi vị Thầy khả ái.
Sau khi sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng, hôm nay, các ông về hối hả kể cho Đức Giêsu nghe những thành tích của mình. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã khuyên các ông: “Anh em hãy lánh đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút".
Nghỉ ngơi đôi chút, đây là cách nói thể hiện sự quan tâm của Đức Giêsu đến sức khỏe thể xác, nhưng không dừng lại ở chỗ bề ngoài, mà nó còn đi sâu xa hơn để thấy được ý nghĩa, giá trị của sự nghỉ ngơi tâm linh.
Nếu người môn đệ của Đức Giêsu quá quan tâm đến những thành quả bên ngoài, đến những kết quả bằng con số, thì e rằng họ đang bám víu vào công việc của Chúa hơn là chính Chúa, tức là cậy dựa vào những điều phụ thuộc hơn là chính yếu.
Tuy nhiên, Kinh Thánh kể tiếp, Đức Giêsu và các môn đệ đi sang bờ bên kia, nhưng khi các Ngài tới thì dân chúng đã đến trước rồi, nên Đức Giêsu đã chạnh lòng thương họ như đàn chiên không người chăn dắt, vì thế Ngài đã dạy họ nhiều điều.
Sống trong một xã hội tân tiến như hiện nay, mọi sự trở nên gần gũi khi ngôi nhà thế giới được xích lại nhờ những phương tiện truyền thông. Người ta có thể ngồi trong một căn phòng chỉ mấy mét vuông, nhưng có thể nhìn ra cả thế giới bên ngoài. Nhưng lại chớ trêu thay, những điều đó tưởng chừng như làm cho người ta gần nhau, quan tâm đến nhau hơn thì lại làm cho người ta chỉ biết nghĩ đến mình trong khi biết bao người kêu gào tình yêu, đói khát sự liên đới!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta một mặt hãy tập trung vào đời sống thiêng liêng, coi đời sống thiêng liêng như là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống đạo. Mặt khác, luôn biết quan tâm đến những người xung quanh, để lời nói và hành động của chúng ta được thiết thực khi chúng đi đôi với nhau.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết sống tình liên đới với anh chị em, nhất là với người nghèo. Xin Chúa cũng ban cho chúng con biết coi trọng đời sống nội tâm để chúng con tìm thánh ý Chúa và thực thi điều Chúa muốn chúng con làm. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Mở rộng lòng đáp ứng nhu cầu của anh chị em
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tình yêu của Chúa Giêsu luôn phủ ngập trên bước đường truyền giáo. Trái tim Chúa đã mở ra đầy lòng xót thương. Chúa mời gọi chúng ta cũng hãy mở rộng lòng, để đáp ứng những nhu cầu của anh chị em đang cần đến.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con xin cảm tạ lòng tốt tuyệt vời của Chúa. Trái tim Chúa luôn rung động trước nỗi khổ của con người. Chúa có tâm hồn rất tinh tế, nhạy bén đến độ nhận thấy các nhu cầu của người khác.
Lạy Chúa, cảm thông với nỗi khổ đau của người khác, đó là bổn phận của con. Và đi vào tâm tình của họ để chia sẻ những lo lắng của họ, đó là ơn gọi của con. Con muốn đáp lại lời kêu mời của Chúa để sống đời bác ái yêu thương. Xin Chúa mở mắt để con nhìn thấy anh chị em chung quanh đang cần giúp đỡ. Xin Chúa giúp con biết dang rộng đôi tay đón nhận những ai đang tìm đến, và biết chia sẻ những trăn trở trong đời sống của họ. Xin Chúa thúc đẩy đôi chân con luôn tiến bước đi đến với anh chị em chung quanh, để cùng họ hướng về Thiên Chúa Toàn Năng. Xin Chúa mở rộng cõi lòng chật hẹp của con, để biết quảng đại yêu thương mọi người.
Lạy Chúa, con cần nhìn người khác không chỉ bằng đôi mắt, nhưng trước hết cần nhìn thấy những nhu cầu của anh em bằng trái tim biết rung động cảm thông. Con cần giúp đỡ người khác không chỉ bằng đôi tay rộng mở, nhưng còn bằng tấm lòng quảng đại yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, bắt đầu từ hơi ấm trái tim Chúa, qua trái tim con, xin cho hơi ấm tình người luôn lan rộng trên thế giới này. Xin cho con và mọi người luôn biết vây quanh Chúa như vị mục tử duy nhất, để được Chúa dạy bảo và yêu thương. Amen.
Ghi nhớ: “Họ như đàn chiên không người chăn”.
Suy Niệm 7: Sự cần thiết của sự nghỉ ngơi thánh
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Người ta đồn rằng thánh Gioan tông đồ thích chơi với chim sẻ nuôi trong nhà. Ngày kia, một thợ săn đến thăm và rất ngạc nhiên thấy một người nổi tiếng như vậy mà lại vui chơi. Ông nghĩ có thể dùng thời giờ đó làm một việc tốt lành và quan trọng. Nên ông hỏi: “Tại sao ngài lãng phí thì giờ vui chơi? Sao ngài lại dành thì giờ cho một chú chim sẻ vô dụng thế?”.
Thánh Gioan nhìn anh với vẻ ngạc nhiên. Tại sao ông ta không vui chơi? Vì thế, ngài hỏi ông: “Tại sao dây cung của ông không kéo căng ra?”.
“Nó không thể kéo căng, vì như thế dây cung sẽ mất độ đàn hồi và không thể bắn tên”.
Thánh Gioan bảo ông: “Này bạn, anh cần thả lỏng dây cung, nghĩa là anh cũng phải giải thoát sự căng thẳng trong anh và nghỉ ngơi. Nếu tôi không nghỉ ngơi và giải trí, tôi sẽ không có sức cho bất kỳ công việc hệ trọng nào. Tôi cũng sẽ không có sức làm những việc tôi phải làm và cần làm, đòi hỏi sự chú tâm hoàn toàn của tôi”.
Suy Niệm
Ngay từ thời tạo dựng trời đất, Thiên Chúa đã ấn định thời gian nghỉ ngơi bằng ngày thứ Bảy (x.St 2,2). Trong Giao ước với dân Chúa tuyển trọn, Ngài cũng truyền cho dân phải tôn trọng ngày nghỉ thứ Bảy (x.Xh 23,12).
Tin Mừng Mc 6,30-34 một lần nữa xác quyết cho chúng ta sự cần thiết của sự nghỉ ngơi thánh, các tông đồ sau những ngày làm việc trong bước rao giảng Tin Mừng quay về bên Chúa Giêsu, Ngài đã truyền lệnh cho các ông đi vào thời gian nghỉ ngơi: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi…” (Mc 6,31), Đức Kitô đã thấu hiểu nguyên tắc làm việc và nghỉ ngơi phải luôn đi đôi với nhau. Ngài xác lập một cách gián tiếp cho các tông đồ biết việc nghỉ ngơi là một giai đoạn quan trọng trong đời sống thường ngày sau những giây phút làm việc và trực tiếp hơn nữa, nghỉ ngơi tâm linh là một giai đoạn quan trọng trong công tác tông đồ và cuộc sống tâm linh.
Theo lời dạy của Đức Kitô, chúng ta đặt cuộc sống mình trong ánh sáng của Tin Mừng về làm việc và nghỉ ngơi:
Nơi đời sống thường ngày, để làm việc có hiệu quả và cuộc sống thêm phát triển trong công việc, tôi đã thu xếp cho mình một giấc nghỉ ngơi, giải trí thật hợp lý. Một khi có giấc ngủ sâu và những giây phút giải trí lành mạnh, bạn sẽ cảm nghiệm được hiệu quả của thời gian tĩnh dưỡng và thời gian giải trí đối với cuộc sống mỗi ngày. Xin hãy thử, rồi bạn sẽ thấy…
Về đời sống tâm linh, tôi đã làm việc tông đồ, đã tích cực tham gia những hoạt động mục vụ của cộng đoàn, Gx, đã đến nhà thờ để cầu kinh dâng thánh lễ, tất cả đều tốt cho đời sống tinh thần, đó là biểu hiện hoa trái của đời sống tôn giáo. Nhưng đời sống tâm linh tôi có để những giây phút tĩnh tâm, thinh lặng thánh để được nghỉ ngơi trong bàn tay của Thiên Chúa. Như sách Khôn Ngoan viết: “Trở về nhà, tôi nghỉ ngơi bên cạnh Đức Khôn Ngoan, vì làm bạn với Đức Khôn Ngoan, không bao giờ cay đắng, và chung sống với Đức Khôn Ngoan, chẳng khi nào đau khổ, mà luôn luôn thích thú, hân hoan” (Kn 8,16).
Nơi giây phút thinh lặng và nghỉ ngơi đó, tôi được tâm sự với Chúa về gia đình tôi, về những khó khăn nặng nhẹ của công ăn việc làm về tất cả những gì trong đời sống tôi. Trong những giờ phút nghỉ ngơi linh thiêng đó tôi có tha thiết:
“Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong,
hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa” (Tv 42,2).
Hãy dành những giây phút thinh lặng thánh trong đời sống, có thể đó là thời điểm của đầu ngày hay là những giây phút trước giấc ngủ, trong những giờ phút nghỉ ngơi này, chúng ta cùng nhau gặp gỡ tâm sự với Chúa. Chính Ngài bồi dưỡng thêm sức cho như Ngài đã khẳng định:
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề,
hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng…” (Mt 11,28).
Ý lực sống:
“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
hồn con mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2).
Suy Niệm 8: Hãy nghỉ ngơi một chút
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Thánh Marcô cho biết: sau khi vâng lệnh Chúa đi giảng đạo, các Tông đồ trở về bên Chúa, tường trình về các việc đã làm, các lời đã giảng dạy. Và vì Chúa thấy dân chúng kéo theo các ông đồng đảo quá, đến nỗi không có thời giờ ăn uống, nên Chúa bảo các ông tìm nơi vắng vẻ nghỉ ngơi một chút. Thế là thầy trò xuống thuyền đi... nhưng dân chúng đoán biết nơi Chúa và các Tông đồ định đi, nên kéo nhau đến đó trước.
Vì thế, khi vừa bước lên bờ Chúa đã thấy họ ở đó đợi rồi, nên Người cảm động và thương xót dạy dỗ họ lâu giờ, vì họ bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt giúp đỡ.
2. Chúa quan tâm đến các Tông đồ.
Trước hết, Chúa Giêsu cảm thông với nỗi vất vả của các Tông đồ khi làm việc truyền giáo nên cần có thời gian nghỉ ngơi để hồi phục sức khỏe cả về thể xác cũng như tâm hồn. Nghỉ ngơi để lấy lại sức, để nhìn lại những việc đã làm, để sống thân tình với Chúa và với nhau. Đây là nhu cầu chính đáng và rất bổ ích nhằm quân bình cuộc sống.
Lại nữa, Chúa Giêsu muốn các Tông đồ cần có sự quân bình giữa đời sống cầu nguyện và truyền giáo, giữa chiêm niệm và hoạt động, giữa việc đạo đức kết hợp với Chúa và công việc mục vụ. Đó cũng là một điều hết sức cần thiết cho các vị lo việc truyền giáo và mục vụ ngày nay. Có những vị “quá dấn thân” cho việc “mục vụ” và “xây dựng” đến nỗi không còn thời giờ để đọc kinh Phụng vụ, không còn những phút thinh lặng cầu nguyện và dần dần đời sống đạo đức èo uột, nói về Chúa mà không sống với Chúa và cuối cùng chỉ còn công việc mà không có Chúa đồng hành nữa.
3. Truyện: Nghỉ ngơi cần thiết và có lợi.
Trong một buổi thuyết trình về vấn đề thư giãn trong cuộc sống, người dẫn chương trình giơ cao một ly nước lên và hỏi khán giả:
- Quý vị thử đoán xem ly nước này nặng bao nhiêu?
- Điều đó còn tùy thuộc vào chuyện anh cầm nó trong bao lâu chứ? Một khán giả nói.
- Đúng vậy – Người dẫn chương trình trả lời – Nếu tôi cầm nó trong một phút thì không có gì đáng nói. Nhưng nếu tôi cầm nó trong một tiếng đồng hồ thì tay tôi sẽ mỏi. Còn nếu tôi cầm nó cả một ngày, quý vị sẽ phải gọi xe cấp cứu cho tôi. Cùng một khối lượng, nhưng mang nó càng lâu thì nó càng trở nên nặng hơn.
Trong cuộc sống cũng vậy. Nếu chúng ta cứ liên tục chịu đựng gánh nặng, nó sẽ càng ngày càng trở nên trầm trọng. Không sớm thì muộn chúng ta gục ngã. “Điều quý vị phải làm là đặt ly nước xuống nghỉ một lát, rồi lại tiếp tục cầm nó lên”.
Thỉnh thoảng, chúng ta phải biết đặt gánh nặng cuộc sống, nghỉ ngơi lấy sức để còn tiếp tục mang nó trong quãng đời tiếp theo. Mỗi ngày, chúng ta đều cần phải có giây phút nghỉ ngơi, không bận tâm đến bất kỳ một gánh nặng nào.
4. Chúa Giêsu quan tâm đến dân chúng.
Họ giống như đàn chiên đang bơ vơ không có mục tử chăn dắt. Đây là hình ảnh đáng thương của dân Isrsel thời bấy giờ. Không phải dân không có các vị lo việc phụng tự và dạy dỗ, bởi vì trong 12 chi tộc thì đã có cả một chi tộc Lêvi làm tư tế, trung bình 1/12. Họ còn có những tầng lớp lãnh đạo, các luật sĩ, biệt phái... Thế nhưng, những đầu mục, các tư tế và các luật sĩ chỉ lo tìm kiếm tư lợi hơn là dạy cho dân nghe Lời Chúa. Họ tìm cách chú giải những điều luật theo ý mình và có lợi cho mình hơn là Lời Chúa.
Chính vì thế mà sự xuất hiện của Tin Mừng mà Chúa Giêsu và các môn đệ rao giảng làm họ phấn khởi đi theo. Chính điều này đã đạt ra một sự cấp bách truyền giáo, mà Chúa Giêsu và các môn đệ phải xả thân đến nỗi không còn thời giờ để nghỉ ngơi vì sự khao khát của dân chúng.
5. Truyện: Tổng thống Abraham Lincoln.
Abraham Lincoln là vị tổng thống Hoa kỳ đã phải đương đầu với cuộc nội chiến tang thương nhất trong lịch sự đất nước. Ngày nọ, căng thẳng gần như điên cuồng, ông đã nhờ người về nơi sinh quán của mình là Kentusky để mời cho được người bạn già đến thủ đô Washington cho ông tham khảo ý kiến. Hai người bạn mừng mừng tủi tủi khi gặp nhau. Sau những giờ phút tâm tư, tổng thống Lincoln cảm thấy tươi vui hẳn lên.
Về sau có người hỏi ông đã làm gì để tổng thống phấn khởi lên như thế. Người bạn già của tổng thống cho biết: tổng thống không bàn hỏi với ông bất cứ điều gì có liên quan đến chiến tranh hay chuyện đất nước. Ông cũng cho biết là ông chỉ ngồi thinh lặng để lắng nghe tổng thống trút hết nỗi lòng của mình (Chờ đợi Chúa).
Suy Niệm 9: Làm việc và nghỉ ngơi
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu như một chiếc phao giữa biển mà nhiều người lênh đênh bám vào. Thánh Mác-cô viết "Lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập đến nỗi các tông đồ không có thời giờ ăn uống".
Trong hoàn cảnh bận rộn như vậy, Chúa Giêsu làm sao? Một mặt Ngài lo liệu cho các môn đệ Ngài được nghỉ ngơi: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút". Mặt khác, về phần mình, Ngài hy sinh thời giờ nghỉ ngơi của mình để tiếp tục phục vụ cho dân.
Động cơ của cách cư xử đầy lòng nhân hậu ấy là tình thương của Ngài "Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông thì động lòng thương".
B.... nẩy mầm.
1. Sau khi làm việc mệt nhọc, tôi có quyền nghỉ ngơi. Chính Chúa Giêsu cũng đã kêu các môn đệ tìm chỗ yên tĩnh để nghỉ ngơi.
Vì tôi có quyền nghỉ ngơi, nên lúc tôi đã mệt mà người ta vẫn đến "quấy rầy", tôi thường bực bội gắt gỏng. Hãy xem gương Chúa Giêsu Ngài không hề gắt gỏng, trái lại Ngài động lòng thương và tiếp tục phục vụ.
Nếu tôi chưa được như Chúa hy sinh cả thời giờ nghỉ ngơi, thì ít ra tôi đừng gắt gỏng với người ta. Tôi phải học biết "động lòng thương" họ.
2. Khi Chúa Giêsu động lòng thương dân chúng thì Ngài làm gì? Việc trước tiên Ngài làm không phải là chữa bệnh, mà là "dạy dỗ họ nhiều điều". Chúa thương người ta đau khổ, nhưng Chúa càng thương hơn vì người ta không biết Tin Mừng. Nói cho người ta một lời đem lại sức sống còn ích lợi hơn chữa cho người ta khỏi bệnh phần xác.
Tôi có sẵn những lời đó không? Nếu tôi gặp một người đang đau khổ, tôi sẽ nói gì để người đó thực sự được an ủi và lạc quan hơn chứ không có cảm tưởng nghe một lý thuyết suông?
3. Abraham Lincoln là vị Tổng thống Hoa kỳ đã phải đương đầu với cuộc nội chiến tang thương nhất trong lịch sử đất nước. Ngày nọ, căng thẳng gần như điên cuồng, ông đã nhờ người về nơi sinh quán của mình là Kentusky để mời cho được người bạn già đến thủ đô Washington cho ông tham khảo ý kiến. Hai người bạn mừng mừng tủi tủi khi gặp nhau. Sau những giờ phút tâm sự, tông thống Lincoln cảm thấy tươi vui hẳn lên.
Về sau có người hỏi ông đã làm gì để tổng thống phấn khởi lên như thế, người bạn già của tổng thống cho biết tổng thống không bàn hỏi với ông bất cứ điều gì có liên quan tới chiến tranh hay chuyện đất nước. Ông cũng cho biết là ông chỉ ngồi thinh lặng để lắng nghe tổng thống trút hết nỗi lòng của mình. (Chờ đợi Chúa)
4. "Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài" (Mc 6,33)
"Em thân mến! Giờ đây chị đã bình an. Chị không còn oán trách, giận hờn anh ấy và các bạn nữa. Trước đây, chị luôn nghĩ mình là người vững vàng, bản lãnh, là chỗ dựa của mọi người. Chị yêu anh ấy, nhưng lại cho rằng anh ấy thật yếu đuối. Chị đã làm tổn thương đến danh dự và lòng tự trọng của anh. Tình yêu tan vỡ, bạn bè xa lánh, chị rơi vào vực thẳm cô đơn, buồn thảm.
Trong hoàn cảnh tối tăm ấy, chị đã cầu nguyện thật nhiều. Và khi đối diện với Chúa, Đấng hiền lành và khiêm nhượng, chị nhận ra mình kiêu căng và tự mãn biết bao. Cảm ơn Người đã cho chị nhận biết sự thật về chính mình, dù là một sự thật đau lòng.
Em thân mến, khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn, em hãy lắng nghe Lời Chúa và khám phá ra thánh ý Người trong mọi biến cố của cuộc sống. Chị tin rằng mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp hơn và tâm hồn em sẽ được bình an.
Phúc cho chị vì chị đã chạy đến với Chúa và nhận ra ý Người. Còn em, có lẽ chỉ biết khóc và oán giận thôi; chẳng để ý đến sự hiện diện của Chúa và cũng chẳng tìm kiếm thánh ý Người."
Lạy Chúa, Chúa vẫn ở bên con và đỡ bước con đi. Xin mở mắt cho con được thấy tôn nhan Chúa và nhận ra thánh ý Người. (Epphata).
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu quan tâm đến các môn đệ và đám đông
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe cho chúng ta thấy Chúa Giêsu rất quan tâm đến những người khác.
a/. Trước hết, Chúa Giêsu quan tâm đến các môn đệ của Ngài.
b/. Thứ đến là Chúa Giêsu quan tâm đến đám đông.
“Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không người chăn dắt” (Mc 6,34).
1. Trước hết, Chúa Giêsu quan tâm đến các môn đệ của Ngài. Có thể nói: Môn đệ là ưu tiên số một đối với Chúa. Chính vì thế mà sau những ngày làm việc mệt nhọc, Chúa đã bảo các môn đệ hãy tìm một chỗ yên tĩnh để nghỉ ngơi.
Nghỉ ngơi để lấy lại sức, để có giờ trở lại với chính lòng mình, để kiểm điểm lại xem mình có đi đúng đường hay không.
Trong một buổi diễn thuyết về vấn đề thư giãn trong cuộc sống, người dẫn chương trình giơ cao một ly nước lên và hỏi khán giả:
- Quý vị thử đoán xem ly nước này nặng bao nhiêu ?
- Điều đó còn tuỳ thuộc vào chuyện anh cầm nó trong bao lâu chứ ? – Một khán giả nói.
- Đúng vậy – Người dẫn chương trình trả lời – Nếu tôi cầm nó trong một phút thì không có gì đáng nói. Nhưng nếu tôi cầm nó trong một tiếng đồng hồ thì tay tôi sẽ mỏi. Còn nếu tôi cầm nó cả một ngày, quý vị sẽ phải gọi xe cấp cứu cho tôi. Cùng một khối lượng, nhưng mang nó càng lâu thì nó càng trở nên nặng hơn. Trong cuộc sống cũng vậy. Nếu chúng ta cứ liên tục chịu đựng gánh nặng, nó sẽ càng ngày càng trở nên trầm trọng. Không sớm thì muộn chúng ta gục ngã. “Điều quý vị phải làm là đặt ly nước xuống nghỉ một lát rồi lại tiếp tục cầm nó lên”.
Thỉnh thoảng, chúng ta phải biết đặt gánh nặng cuộc sống xuống, nghỉ ngơi lấy sức để còn tiếp tục mang nó trong quãng đời tiếp theo. Mỗi ngày, chúng ta đều cần phải có giây phút nghỉ ngơi, không bận tâm đến bất kỳ một gánh nặng nào!
2. Thứ đến là Chúa Giêsu quan tâm đến đám đông
Chúng ta thử hỏi, thương dân Chúa làm gì ? Có nhiều việc nhưng việc trước tiên Ngài làm không phải là chữa bệnh, mà là “dạy dỗ cho họ nhiều điều”(Mc 6,34). Chúa thương những người đau khổ, nhưng Chúa càng thương hơn những người chưa biết Tin Mừng. Nói cho người ta một lời đem lại sức sống còn có ích hơn là chữa cho người ta khỏi các bệnh tật về phần xác. Chúng ta hãy bắt chước Chúa để cũng biết làm như vậy.
Cha Badinger Germain người Pháp kể lại rằng: “Một buổi sáng nọ tôi có hẹn với một thiếu nữ trong một quán cà phê vào lúc 6 giờ sáng. Cô ta thất vọng về cuộc đời. Tôi gắng hết sức để thuyết phục khuyên bảo cô, nhưng vô ích. Sau đó, đến 7 giờ 30 phút, cô phải đến sở làm. Đến 9 giờ cô điện thoại lại cho tôi. Giọng của cô thật vui tươi.
Ngạc nhiên, tôi hỏi lý do thì cô giải thích rằng:
- Chính người bán vé xe điện ngầm đã làm cô thay đổi. Và cô nói thêm: “Thực ra, lúc đầu con chỉ có ý gặp cha để than van chứ chẳng muốn nghe cha khuyên giải điều gì. Sau khi rời quán cà phê đi đến trạm xe điện ngầm, con đã gặp bà bán vé xe điện thật dễ thương. Bà đã cười thật tươi và nói:
- Chà, cô mặc áo đẹp quá. Màu thật là hợp với màu tóc của cô.
Ngạc nhiên, con hỏi lại:
- Tại sao bà lại khen tôi như thế ?
Bà ta giải thích:
- Cô coi, trong nghề của tôi, không có gì nhàm chán cho bằng cả ngày chỉ có một động tác đổi những vé xe điện ngầm này để lấy tiền. Vì thế, để tạo cho cuộc đời và công việc nhàm chán này một ý nghĩa, tôi cố gắng nhìn xem trong đám những khách hàng của tôi có điều gì để khuyến khích họ không, nhất là khi tôi thấy họ có vẻ buồn bực hoặc cáu kỉnh. Thí dụ, đối với ông nọ tôi nói: “Chà ông hai có cà vạt đẹp quá”. Ông ta bèn chỉnh lại cà vạt rồi mỉm cười.
Vừa rồi khi thấy cô bước đến, đôi mắt đỏ hoe, tôi nghĩ: “Cô này chắc có điều gì đau khổ đây, mình phải nói một câu gì đó dễ thương với cô. Cô thấy không, làm như thế là đem lại cho cuộc sống một ý nghĩa. Nếu tôi không làm như thế, thì trong nghề của tôi thực không có gì là thích thú”.
Đúng là người phụ nữ bán vé xe điện ngầm này đã biết quan tâm đến người khác và sự quan tâm ấy đã đem đến một niềm vui thanh thản cho chị.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con một tâm hồn
theo hình ảnh Tấm Bánh Thánh
Một tâm hồn biết quan tâm đến những người nghèo khó,
hơn là chỉ biết nghĩ đến mình
Một tâm hồn luôn biết hướng về tha nhân,
quan tâm đến những nhu cầu và ước muốn của họ.
Một tâm hồn luôn kết hiệp với Chúa,
và múc lấy nguồn sống từ nơi Chúa,
Để rồi đem nguồn sống đó chia sẻ cho mọi người
để tất cả được hưởng niềm vui của những người làm con cái Chúa. Amen.
02/02 Dâng con trẻ
- Viết bởi Lc 2, 22-40
Dâng con trẻ.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 4 thường niên – DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH (Lễ nến). Lễ kính.
"Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ".
* Dâng Chúa trong Đền Thánh, Chúa Kitô gặp gỡ dân thánh nơi con người cụ già Simêon, Đức Maria được thanh tẩy theo luật Môsê, lễ Nến, đó là những tên gọi khác nhau để chỉ ngày lễ hôm nay, bốn mươi ngày sau lễ Giáng Sinh, kết thúc những ngày lễ trọng mừng việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người nơi Ngôi Lời mặc xác phàm.
Lời Chúa: Lc 2, 22-40
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Tiến Dâng Cho Chúa—Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
2. Ánh sáng và vinh quang—Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
3. Dành riêng cho Chúa--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
4. Bảo vệ ánh sáng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
5. Dâng tiến Chúa Giêsu cho Thiên Chúa--TGM Giuse Nguyễn Năng
6. Lễ Ðức Mẹ Dâng Chúa Giêsu Trong Ðền Thánh--ĐGH Phanxicô
7. Dâng Chúa Giêsu vào Đền thánh--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
8. Dâng Chúa trong Đền thánh--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
9. Dâng Chúa Giêsu vào Đền thánh--Lm Giuse Đinh lập Liễm
10. Chúa Giêsu được dâng tiến lên Thiên Chúa--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
11. Dâng Chúa trong đền thánh--5 phút Lời Chúa—Lm. Giuse Đinh Tất Quý
12. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
13. Trinh nữ hiến dâng
14. Đức Giêsu hay Đức Maria: Lễ Dâng Con
15. Xin Mẹ Dâng Chúng Con Cho Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
16. Đức Giêsu, ánh sáng soi muôn dân--Ngọc Biển, SSP
17. Chúa Giêsu là Ánh Sáng (Lc 1, 21-28)--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
18. Cha mẹ hãy cho con tình thương--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
19. Tuân Hành Ý Chúa-- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
20. Ánh sáng soi đường cho dân ngoại, vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài--Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên
21. Dâng hiến chính mình cho Chúa, và sống theo ánh sáng của Chúa--tinvuixuanloc.vn
22. Tiến dâng Đức Giêsu cho Thiên Chúa--JKN
23. Thắp lên một ngọn nến
24. Mẫu gương của bậc cha mẹ--Lm. Gioan Trần Khả
25. Lễ Đức Mẹ dâng Con trong đền thờ
26. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
27. Dâng Chúa trong đền thờ
28. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh--Lm PX Vũ Phan Long
29. Dâng Con trong đền thờ--Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long
30. Các con là ánh sáng thế gian
31. Lễ Nến--Lm. Nguyễn Ngọc Long
32. Dâng con trẻ
1.Tiến Dâng Cho Chúa—Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Sống là chấp nhận thuộc về.
Mở mắt chào đời là thuộc về một gia đình, một đất nước.
Càng sống con người càng thấy mình thuộc về nhiều hơn.
Thuộc về một nhóm, một giáo xứ, một nơi làm việc...
Khi đôi bạn trẻ yêu nhau, họ muốn trái tim của họ thuộc về nhau.
Thuộc về nhau là nền tảng của sự chung thủy.
Đối với Do thái giáo, bé trai đầu lòng mới sinh ra
thì thuộc về Chúa, được thánh hiến dành riêng cho Chúa.
Cha mẹ cậu phải bỏ ra một món tiền tượng trưng
để chuộc cậu về cho mình (x. Ds 18,15-16; Xh 13,13)
Bài Tin Mừng hôm nay không nói đến chuyện chuộc con,
nhưng lại nói đến việc bà Maria và ông Giuse
tiến dâng con trai đầu lòng cho Chúa.
Đức Giêsu đã sống nghiêm túc sự tiến dâng này suốt đời.
Ngài thuộc về Thiên Chúa Cha một cách trọn vẹn.
Từ khi vào đời làm người, Ngài đã nói:
"Này tôi xin đến để thực thi ý Chúa." (Dt 10, 9)
Năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã cố ý ở lại Đền Thờ,
mà cậu gọi là nhà Cha của cậu (x. Lc 2, 49).
Khi chịu phép rửa ở sông Giođan,
Đức Giêsu ý thức rõ hơn mình là Con, thuộc về Cha,
được Cha sai vào giữa lòng nhân loại (x. Mc 1,11).
Có biết bao cám dỗ trong những năm rao giảng,
cám dỗ từ ma quỷ, từ đám đông, từ môn đệ.
Cám dỗ lôi kéo Ngài sống cho mình,
và không muốn thuộc về Cha, Đấng sai Ngài đi.
"Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra" (Ga 14,10).
"Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì
ngoại trừ điều Con thấy Chúa Cha làm" (Ga 5,19).
Đức Giêsu không tự mình nói, tự mình làm,
vì Ngài đã vượt qua được cái tôi,
và để cho Cha chiếm hữu toàn bộ cuộc sống.
Nếu chúng ta dám nói và làm theo ý Cha,
chúng ta sẽ giống Đức Giêsu: thuộc trọn về Thiên Chúa.
Thuộc về Thiên Chúa phải là nền tảng
chi phối mọi tương quan của ta với thụ tạo khác.
Cậu bé Giêsu được đưa lên Đền Thờ lần đầu tiên.
Chúng ta thấy một đôi vợ chồng nghèo với đứa con nhỏ,
đứng lẫn trong đám đông, chờ đến phiên mình.
Ai có mắt để thấy được sự lớn lao của mầu nhiệm?
Si-mê-on: một người công chính và mộ đạo,
một người đầy Thánh Thần và sống trong chờ đợi.
An-na: một góa phụ già nua phụng thờ Chúa đêm ngày,
trong ăn chay và cầu nguyện.
Để thấy Chúa trong cái đều đặn, bình thường, buồn tẻ,
cần có một đời sống đạo đức sâu xa.
Chúa có thể gặp ta như một sự tình cờ,
nhưng thật ra lại là kết quả của những năm dài chuẩn bị.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy chia sẻ cho biết hiện nay bạn đang thấy mình "thuộc về" những người nào hay những tập thể nào. Sự thuộc về mạnh nhất của bạn hiện nay đặt ở đâu? Bạn thấy có nguy hiểm gì không?
Thuộc về Thiên Chúa, thuộc về tha nhân: có khi nào bạn cảm nghiệm điều đó một cách mãnh liệt không? Xin chia sẻ.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
2.Ánh sáng và vinh quang—Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy niệm:
“Thứ bốn thì ngắm, Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh,
ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.”
Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa một cách nghiêm chỉnh.
Luật trong sách Lêvi (12, 2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai
phải lên đền thờ để được thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa.
Nếu không đủ khả năng dâng một con chiên và một bồ câu non
thì phải dâng một cặp bồ câu non hay một đôi chim gáy.
Ngày nay chúng ta không thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội
và phải được thanh tẩy sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại sao việc sinh nở lại bị coi là ô uế?
Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã vâng theo Luật dạy.
Hơn nữa, cùng với thánh Giuse, Mẹ đã dâng Con cho Chúa trong đền thờ.
Điều này Luật không buộc, nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng.
Thật ra để chuộc lại con trai đầu lòng,
chỉ cần trả cho tư tế gần 60 gam bạc (Ds 18, 15-16).
Mẹ sung sướng đem Con lên đền thờ dâng cho Thiên Chúa
vì hơn ai hết Mẹ biết rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình.
Dâng Con là nhìn nhận Con mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa,
ở với Chúa và làm việc cho Chúa suốt đời,
dù mình đã chuộc Con về bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy.
Bài Tin Mừng hôm nay có 4 lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39).
Về việc giữ Luật, Đức Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào.
Hãy nhìn ngắm Thánh Gia lên đền thờ.
Một đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ.
Ai có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân?
Đó là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa.
Hơn nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25),
người được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27).
Chính Thánh Thần làm cụ nhận ra điều mắt thường không thấy,
Và cụ sung sướng, mãn nguyện bồng Hài Nhi trên tay.
Cụ bà ngôn sứ Anna cũng nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình.
Cụ là người đạo đức, ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.
Cụ bà Anna đã công khai giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.
Để gặp được Chúa trong đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng,
cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)
3.Dành riêng cho Chúa 2023--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Sau khi sinh Hài Nhi Giêsu bốn mươi ngày,
Đức Maria phải chịu thanh tẩy để được phép tham dự các lễ nghi.
Bà mẹ mới sinh con phải vất vả đi đoạn đường xa để lên Đền Thờ.
Bà không đi một mình, nhưng đi với chồng và đứa con hơn tháng tuổi.
Đây là chuyến đi lên Đền Thờ đầu tiên của cả gia đình.
Đền Thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện trên trần gian.
Con Thiên Chúa lần đầu tiên đến Nhà Cha của Ngài.
Giây phút Thánh Gia có mặt ở khuôn viên Đền Thờ
là giây phút Thánh Thần mặc khải về Hài Nhi cho hai vị ngôn sứ.
Simêôn và Anna vui sướng vì gặp thấy Đấng mà mình chờ đợi.
Họ nhận ra Ngài là “vinh quang cho dân Ítraen”,
và là “ánh sáng và ơn cứu độ cho muôn dân tộc” (Lc 2,31-33).
Maria mang theo lễ vật cần cho việc thanh tẩy chính mình,
đó là hai con bồ câu non: một làm lễ toàn thiêu, một làm lễ tạ tội.
Thật ra lễ vật của đôi vợ chồng không phải chỉ là đôi bồ câu.
Họ mang theo một lễ vật quý hơn nhiều, đó là cậu con trai đầu lòng.
Họ biết tất cả các con đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa,
vì chính Ngài đã chỉ đánh phạt các con đầu lòng của Ai-cập
và tha cho các con đầu lòng của Ítraen (Ds 3,13).
Nhưng Hài Nhi Giêsu không phải là con đầu lòng bình thường.
Maria và Giuse biết người con mình đang bồng ẵm là ai.
Đây là Đấng Kitô của Đức Chúa (Lc 2,26),
Đấng mà Maria đã thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần (Lc 1,35).
Đây là quà tặng của Đức Chúa cho dân Ítraen, và cho Thánh Gia.
Khi lên Đền Thờ, Giuse và Maria muốn dâng lại cho Đức Chúa
quà tặng tuyệt vời này.
Ông bà không muốn giữ Người Con này cho riêng mình.
Người Con này thuộc về Đức Chúa và mãi mãi thuộc về Đức Chúa.
Tin Mừng Luca không nói rõ chuyện ông bà chuộc Giêsu
bằng một số bạc nhỏ, để giữ Giêsu làm con của mình (Ds 3,46-47),
nhưng lại nhấn mạnh chuyện ông bà dâng Con cho Đức Chúa.
Tuy dâng con trai đầu lòng không phải là một luật buộc,
nhưng ông bà muốn làm vì lòng kính mến Chúa,
và cả hai đã muốn sống lễ dâng này suốt đời mình.
Mẹ Maria đã không rút lại Người Con mình dâng cho Chúa.
Giêsu được tự do để sống như một lễ vật cho Cha.
Năm mười hai tuổi, Giêsu đã ở lại Đền Thờ, nhà Cha của Cậu.
Khi quá tuổi ba mươi, Đức Giêsu đã lên đường đi sứ vụ
Để lại người mẹ ở nhà, không ai chăm nom.
Khi Con bị đóng đinh trên thập giá, dâng mình như lễ vật lên Cha,
Mẹ cũng dâng lễ vật là chính Người Con đang hấp hối của mình.
Những gì cụ Simêôn nói hôm nay ở Đền Thờ,
rồi Mẹ sẽ thấy được ứng nghiệm trọn vẹn (Lc 2,34-35).
Con Mẹ sẽ bị người đời chống báng,
có nhiều người bị té ngã và nhiều người được đứng lên.
Dưới chân thánh giá, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Mẹ.
Nỗi đau của Con Mẹ, Mẹ mang tất cả vào mình.
Khi Đức Giêsu gục đầu, việc dâng Con của Mẹ mới được hoàn tất.
Trong lễ Thánh Tẩy, cha mẹ cần dâng con cho Chúa,
và mong con mình được thánh hiến để thuộc trọn về Chúa.
Cả cuộc đời làm cha mẹ, nhiều lần phải làm lại việc dâng hiến này,
lắm khi trong nước mắt, lắm khi trong bóng đêm,
nhưng luôn tín thác, dù không hiểu hết kế hoạch của Chúa.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa,
Xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ trí hiểu,
Và trọn cả ý muốn của con,
Cùng hết thảy những gì con có,
Và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
Lạy Chúa, nay con xin dâng lại Chúa.
Tất cả là của Chúa,
Xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng,
Được như thế, là đủ cho con.
(Kinh Dâng Hiến của Thánh Inhaxiô Loyola)
4.Bảo vệ ánh sáng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi dâng Đức Giêsu trong đền thờ, Đức Mẹ tự nhận mình không có quyền trên Đức Giêsu. Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa trao cho Đức Mẹ để Đức Mẹ săm sóc dưỡng nuôi. Đức Mẹ dâng Đức Giê-su trong đền thờ không chỉ nhằm chu toàn lề luật, nhưng là công nhận quyền của Thiên chúa và cũng là để cầu xin Chúa chúc phúc cho Hài Nhi Giê-su.
Lễ Đức Mẹ dâng Con cũng được gọi là lễ Nến. Việc làm phép nến nói lên Đức Giê-su là ánh sáng soi trần gian.
Cụ Si-mê-on đã nhận biết Đức Giêsu là ánh sáng. Nhưng ánh sáng khởi đầu còn non nớt. Mà chung quanh thì bóng đêm và cuồng phong đang thét gào, hằm hè huỷ diệt làn ánh sáng run rẩy yếu ớt vừa ló dạng.
Có bóng tối cám dỗ của loài ma quỉ thâm độc lúc nào cũng rình chờ phá hoại chương trình của Thiên chúa. Có bóng tối độc ác của Vua Hêrôđê ghen ghét vì sợ mất quyền hành. Có bóng tối chán nản do những thất bại trong công cuộc rao giảng. Có bóng tối u mê của đám đông không hiểu những mầu nhiệm Nước Trời. Có bóng tối nhút nhát của các môn đồ mau chóng bỏ cuộc. Có cuồng phong ganh ghét của các thượng tế, luật sĩ. Có bóng tối vô tình của quân lính hành hình. Có bóng tối của cái chết đau đớn tủi nhục.
Đức Mẹ đã là người che chở làn ánh sáng, chống lại mọi bóng tối vây bọc. Đức Mẹ đã ấp ủ làn ánh sáng chống lại bão gió cuồng phong. Vì thế Đức Mẹ đã bị một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn.
Hôm nay các bà mẹ trong xứ noi gương Đức Mẹ, đến nhà thờ dâng con cho Chúa. Khi dâng con các bà công nhận con cái là hồng ân Chúa ban tặng. Khi dâng con các bà cũng cầu mong Chúa chúc phúc cho tương lai của con cái.
Nhìn những đôi má, những bàn tay trắng hồng của các em nhỏ đang vây quanh bàn thờ, tôi tưởng như đang thấy những mầm cây non mơn mởn vừa mới lú lên khỏi mặt đất.
Nhìn những đôi mắt long lanh, trong sáng, tôi thấy hiển hiện những làn ánh sáng xinh tươi vừa hé.
Đó là ánh sáng đức tin mà các em đã lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội. Đó là ánh sáng trí tuệ trinh nguyên như một tờ giấy trắng. Đó là ánh sáng nhân đức của một linh hồn chưa vương tội lỗi.
Thế nhưng chung quanh các em có biết bao hiểm nguy rình rập. Những cơn nắng cháy khô hạn tình người rình chực thiêu rụi mầm cây vừa hé. Những lớp bóng tối vật chất đang tìm vây bủa ánh sáng đức tin. Những cơn gió lười biếng đang kéo màn mây ngu muội dập tắt ánh sáng trí tuệ. Những cơn cuồng phong sự dữ đang huy động lực lượng dập tắt ánh sáng nhân đức của linh hồn.
Các bà mẹ đang dâng con cho Chúa. Các bà hãy bảo vệ kho tàng quý giá Chúa trao cho các bà gìn giữ chắc chắn. Khi đương đầu với sự dữ để bảo vệ ánh sáng nơi con cái, các bà sẽ phải chịu những thương tích như Đức Mẹ. Hãy học nơi Đức Mẹ nghệ thuật nuôi dạy con cái, để các cháu bé hôm nay được Chúa chúc phúc sẽ "càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, càng được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến".
Lạy Đức Ki-tô là ánh sáng soi trần gian, xin chiếu ánh sáng ân sủng vào các em nhỏ đang chờ được Chúa chúc phúc, để làn ánh sáng đức tin, ánh sáng nhân đức và ánh sáng trí tuệ Chúa đã nhóm lên trong các em ngày càng vươn cao và lan rộng.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp các bà mẹ can đảm bảo vệ ánh sáng của con cái, để ánh sáng của chúng vẫn còn sáng mãi cho đến ngày ra đón rước Chúa.
5.Dâng tiến Chúa Giêsu cho Thiên Chúa--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Lễ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh còn được gọi là lễ NẾN, vì ông Simêon đã gọi Chúa Giêsu là ánh sáng các lương dân, và là vinh quang của It-ra-en, Dân Chúa. Người tín hữu có sứ mạng chiếu tỏa ánh sáng Chúa Kitô bằng đời sống thánh thiện.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, như bất cứ gia đình Do Thái nào, sau khi sinh 40 ngày, Đức Mẹ và thánh Giuse đã đem Chúa lên đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa, như luật Mô-sê dạy: mỗi con trai đầu lòng phải được hiến dâng cho Thiên Chúa, để ghi nhớ kỳ công Chúa đã thực hiện cho dân Do Thái, mỗi đứa con trai đầu lòng đều được Thiên Chúa cứu thoát trong biến cố xuất hành, nên phải dâng cho Chúa vì nó thuộc về Chúa.
Lạy Chúa, bản thân con cũng không khác gì đứa con trai đầu lòng của người Do Thái, nghĩa là hoàn toàn do ơn Chúa mà có. Vì thế, cuộc đời con hoàn toàn thuộc về Chúa. Con chỉ thuộc về Chúa khi đời sống con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Nhờ đó, con trở thành ngọn đèn cháy sáng giữa lòng thế giới hôm nay.
Lạy Chúa, xin cho con trở thành ánh sáng khi dám ra khỏi chính mình, dám ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan, để can đảm sống những đòi hỏi của Tin Mừng.
Xin cho con trở thành ánh sáng khi dám chấp nhận bóng tối cuộc đời, chấp nhận những thử thách của cuộc sống, chấp nhận những bước đường gồ ghề phải đi qua. Lạy Chúa, xin giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ”.
6.Lễ Ðức Mẹ Dâng Chúa Giêsu Trong Ðền Thánh 2017--ĐGH Phanxicô
Khi cha mẹ của Chúa Giêsu đưa Hài Nhi chu toàn những qui định của lề luật, thì cụ già Simeon, “được Thần Khí dẫn dắt” (Lc 2:27), đã ẵm Hài Nhi trong tay và đã thốt lên bài ca chúc lành và ngợi khen. “Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa” (Lc 2:30-32).
Cụ già Simeon không chỉ nhìn thấy, mà còn có được đặc quyền ẵm trong tay niềm hy vọng đã đợi chờ từ lâu, vốn lấp đầy ông bằng lời ca tụng. Tâm hồn ông vui vì Thiên Chúa đã đến ngự giữa dân Người; ông cảm thấy sự hiện diện của Ngài bằng xương bằng thịt.
Phụng vụ hôm nay nói cho chúng ta biết rằng trong nghi lễ ấy, Chúa, 40 ngày sau khi hạ sinh, “về bề ngoài đã chu toàn Lề Luật, nhưng trong thực tế Ngài đến để gặp gỡ người tin” (Sách Lễ Rôma, 02/02, Nghi Thức Nhập Cuộc Rước). Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa này với dân của Ngài mang lại niềm vui và canh tân niềm hy vọng.
Bài ca của cụ già Simeon là một bài ca của người có niềm tin, một người vào những ngày cuối đời vẫn có thể thốt lên: “Đúng thật là vậy, trông cậy vào Thiên Chúa sẽ không bao giờ làm thất vọng” (x. Rm 5:5). Thiên Chúa không bao giờ lừa dối chúng ta. Cụ già Simeon và Anna, trong tuổi già của họ, đã thấy một hoa trái mới, và họ làm chứng cho điều này trong bài ca của mình. Cuộc sống thật đáng sống trong niềm hy vọng, vì Thiên Chúa giữ lời hứa của Ngài. Chính Chúa Giêsu sau này giải thích lời hứa này trong hội đường tại Nazareth: người đau yếu, người tù đày, những người cô đơn, người nghèo, người già cả và các tội nhân, tất cả đều được mời gọi để cùng mang lấy cùng bài ca niềm hy vọng này. Chúa Giêsu ở cùng họ, Chúa Giêsu ở cùng chúng ta (x. Lc 4:18-19).
Chúng ta đã thừa hưởng bài ca đức cậy này từ những người lớn tuổi của chúng ta. Họ đã giúp cho chúng ta trở thành một phần của tiến trình này. Trên gương mặt của họ, trong cuộc sống của họ, trong sự hy sinh hằng ngày của họ chúng ta có thể thấy lời ca tụng này được thể hiện thế nào. Chúng ta là những người thừa hưởng đối với những giấc mơ của những người lớn của chúng ta, những người thừa hưởng đối với niềm hy vọng vố không làm thất vọng những cha mẹ tổ tiên của chúng ta, những anh chị em lớn tuổi hơn của chúng ta. Chúng ta là những người thừa hưởng đối với những người đã đi trước chúng ta và đã có can đảm mơ. Giống như các vị ấy, chúng ta cũng muốn hát, “Thiên Chúa không lừa dối; hy vọng vào Ngài sẽ không làm thất vọng”. Thiên Chúa đến để gặp gỡ dân của Người. Và chúng ta muốn hát bằng cách nhận lấy lời tiên tri của Giô-em và biến thành của riêng chúng ta: “Ta sẽ đổ thần khí của ta xuống trên mọi xác phàm; con trai và con gái ngươi sẽ nói tiên tri, người gìa của ngươi sẽ mơ những giấc mơ, và người trẻ của người sẽ nhìn thấy thị kiến” (2:28).
Thật tốt lành cho chúng ta khi biết mang lấy những giấc mơ của những người lớn, để chúng ta có thể tiên tri trong thời đại của chúng ta và một lần nữa gặp gỡ điều ngay từ đầu đã làm cho tâm hồn chúng ta bừng cháy. Những giấc mơ và những lời tiên tri là cùng nhau. Sự tưởng nhớ về cách mà những người lớn của chúng ta, cha mẹ của chúng ta, đã mơ, và có can đảm để thực thi những giấc mơ này một cách ngôn sứ.
Thái độ này sẽ giúp cho chúng ta sinh hoa trái. Quan trọng nhất, nó sẽ bảo vệ chúng ta khỏi cơn cám dỗ vốn có thể làm cho đời sống thánh hiến của chúng ta trở nên hiếm muộn: cơn cám dỗ về sự sinh tồn. Một sự dữ có thể dần dà bén rễ vào trong chúng ta và trong các cộng đoàn của chúng ta. Não trạng sinh tồn sẽ làm cho chúng ta trở thành những người chỉ biết phản ứng, sợ hãi, chậm chạp và âm thầm nhốt chính bản thân chúng ta trong các ngôi nhà của chúng ta và trong chính những sự hiểu mang tính định kiến của chúng ta. Nó làm cho chúng ta nhìn lại những ngày vinh quang – những ngày vốn là quá khứ - thay vì làm thắp lại sự sáng tạo mang tính ngôn sứ được sinh ra bởi những giấc mơ của các vị sáng lập của chúng ta, thì lại tìm kiếm những đường tắt để né tránh những thách đố đang gõ cửa nhà chúng ta ngày nay. Một não trạng sinh tồn sẽ lấy đi những đặc sủng của sức mạnh của chúng ta, vì nó dẫn chúng ta đến chỗ “nội địa hoá” chúng, làm cho chúng trở nên “thân thiện với người sử dụng”, lấy đi khỏi chúng sức mạnh sáng tạo gốc. Não trạng này làm cho chúng ta muốn bảo vệ những không gian, những toà nhà và những cấu trúc, hơn là khích lệ những sáng kiến mới. Cơn cám dỗ về sự sinh tồn làm cho chúng ta quên đi ân sủng; nó biến chúng ta thành những người chuyên nghề về sự thánh chứ không phải những người cha và người mẹ, những người anh chị em của niềm hy vọng ấy mà chúng ta được mời gọi để làm chứng mang tính ngôn sứ. Một môi trường của sự sinh tồn sẽ làm khô héo tâm hồn của những người lớn của chúng ta, lấy đi khả năng mơ của họ. Bằng cách này, nó làm khập khiễng tính ngôn sứ mà người trẻ của chúng ta được mời gọi để loan báo và làm việc để đạt tới. Tắt một lời, cơn cám dỗ sinh tồn sẽ biến điều mà Thiên Chúa trình bày như là một cơ hội truyền giáo thành một điều gì đó nguy hiểm, đe doạ, có tiềm năng phá hoại. Thái độ này không chỉ giới hạn đối với đời sống thánh hiến, mà chúng ta cách riêng cũng được mời gọi để không rơi vào thái độ này.
Chúng ta hãy trở lại với đoạn Tin Mừng và một lần nữa chiêm ngắm cảnh tượng ấy. Chắc chắn, bài ca của cụ già Simeon và bà Anna không phải là hoa trái của sự tự hấp thụ hay một sự phân tích và việc xem lại hoàn cảnh cá nhân của chúng ta. Điều ấy không có ý nghĩa vì họ sẽ bị mắc kẹt trong chính bản thân họ và bị lo lắng rằng một điều gì đó tồi tệ có thể xảy ra với họ. Bài ca của các cụ được sinh ra bởi niềm hy vọng, niềm hy vọng vốn nuôi dưỡng họ trong tuổi gìa của mình. Niềm hy vọng ấy được ân thưởng khi họ gặp gỡ Chúa Giêsu. Khi Mẹ Maria để cho cụ già Simeon ẵm lấy Người Con của Lời Hứa vào trong vòng tay của mình, thì cụ già bắt đầu hát lên giấc mơ của mình. Bất cứ khi nào Mẹ đặt Chúa Giêsu ở giữa dân của Người, thì họ gặp gỡ niềm vui. Vì chỉ điều này mà tôi mới đem lại niềm vui và niềm hy vọng, chỉ điều này mà tôi sẽ cứu chúng ta khỏi việc sống trong não trạng sinh tồn. Chỉ điều này mà thôi mới giúp cho đời sống của chúng ta sinh hoa trái và giúp cho tâm hồn chúng ta sống động: đặt Chúa Giêsu vào nơi mà Ngài thuộc về, giữa dân của Ngài.
Tất cả chúng ta đều ý thức về sự biến đổi mang tính đa văn hoá mà chúng ta đang kinh qua; không ai hoài nghi về điều này. Do đó, lại càng quan trọng hơn nữa đối với những người nam nữ sống đời thánh hiến phải trở nên một với Chúa Giêsu, trong đời sống của họ và giữa những thay đổi lớn lao này. Sứ mạng của chúng ta – theo từng đặc sủng cụ thể - nhắc nhớ chúng ta rằng chúng ta được mời gọi để trở thành một nắm men trong khối bột này. Có lẽ sẽ có những nhãn hiệu bột tốt hơn, nhưng Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta để trở thành nắm men ở đây và bây giờ, nhưng với đôi bàn tay của chúng ta trên chiếc cày, giúp cho lúa trổ sinh, ngay cả khi lúa thường xuyên được gieo giữa những cỏ lùng. Đặt Chúa Giêsu vào giữa dân của Người có nghĩa là có một tâm hồn chiêm niệm, một tâm hồn biết biện phân cách mà Thiên Chúa đang đi qua các ngả đường của các thành phố của chúng ta, các thị trấn của chúng ta và những khu dân cư của chúng ta. Đặt Chúa Giêsu vào giữa dân của Người có nghĩa là nhận lấy và mang lấy những thập giá của anh chị em của chúng ta. Điều đó có nghĩa là muốn chạm vào các vết thương của Chúa Giêsu nơi những vết thương của một thế giới đau thương, đang khao khát và kêu khóc sự chữa lành.
Đặt bản thân chúng ta với Chúa Giêsu vào giữa dân của Người! Không phải như “những nhà hoạt động” tôn giáo, mà như những người nam nữ hằng luôn được tha thứ, những người nam nữ đã được sức dầu trong phép rửa và được sai đi để chia sẻ dầu ấy và sự an ủi của Thiên Chúa với mọi người.
Đặt bản thân chúng ta với Chúa Giêsu vào giữa dân của Người. Vì lý do này, “chúng ta sẽ cảm thấy được sự thách đố của việc tìm kiếm và chia sẻ ‘mầu nhiệm’ của việc sống cùng nhau, của việc hoà trộn và gặp gỡ, của việc đón nhận và cỗ võ lẫn nhau, của việc bước vào cơn bão lớn này, dù hỗn tạp, thì vẫn có thể [với Thiên Chúa] trở thành một kinh nghiệm đúng đắn của tình huynh đệ, một lễ hội của tình liên đới, một cuộc hành hương thánh... Nếu chúng ta biết chọn lấy con đường này, thì sẽ thật là quá tốt lành, quá xoa dịu, quá giải thoát và đầy tràn niềm hy vọng! Hãy ra khỏi bản thân và hoà nhập vào với nhau” (Evangelii Gaudium, 87) không chỉ tốt cho chúng ta; mà nó còn biến đời sống và niềm hy vọng của chúng ta thành một bài ca ngợi khen. Nhưng chúng ta sẽ chỉ có thể làm được điều này nếu chúng ta mang lấy những giấc mơ của những người lớn của chúng ta và biến chúng thành lời ngôn sứ.
Chúng ta hãy đồng hành với Chúa Giêsu khi Ngài tiến bước để gặp gỡ dân của Ngài, để ở giữa dân của Ngài. Hãy tiến bước, không phải với sự phàn nàn hay lo lắng của những người đã lãng quên cách nói lời ngôn sứ vì họ đã thất bại trong việc mang lấy những giấc mơ của người lớn của họ, mà bằng sự bình an và bài ca ngợi khen. Không phải bằng sự hiểu mà bằng sự nhẫn nại của những người đã tin tưởng vào Thần Khí, Thiên Chúa của những giấc mơ và lời ngôn sứ. Bằng cách này, chúng ta hãy chia sẻ điều gì thực sự là của riêng chúng ta: bài ca được sinh ra từ niềm hy vọng.
Joseph C. Pham (Chuyển ngữ từ ZENIT)
7.Dâng Chúa Giêsu vào Đền thánh--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
* LịCH Sử
Thánh lễ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ V tại Giêrusalem và được “mừng một cách trọng thể như lễ Phục Sinh vậy” (tường trình của thánh nữ hành hương Aetheria). Mãi đến năm 650, thánh lễ này mới du nhập vào Roma. Nội dung thánh lễ được triển khai theo đoạn Phúc Âm thánh Lu-ca 2,22-40.
Giáo hội Phương Đông hiểu thánh lễ này như lễ gặp gỡ của Chúa: Đấng Mê-si bước vào Đền Thờ và gặp dân Thiên Chúa của Cựu Ước qua ông Si-mê-on và bà tiên tri An-na; Giáo Hội Tây Phương lại coi đây là thánh lễ mừng kính Đức Maria: thanh tẩy theo luật Do Thái (Lv 12).
Khi du nhập vào phụng vụ Rô-ma, Đức Thánh Cha Sét-gi-ô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến, vì thế từ thế kỷ VIII, thánh lễ được gọi là Lễ Nến. Trong cuộc rước nến này, Đức Thánh Cha và cả đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím, ám chỉ sự chưa thanh tẩy của Đức Maria khi lên Giêrusalem; khi đoàn đồng tế đến Đại thánh đường Đức Bà Cả, liền thay phẩm phục trắng, chỉ sự tinh tuyền đã được thanh tẩy của Đức Maria.
Từ cuộc canh tân Phụng Vụ năm 1960, ngay cả trong phụng vụ Rô-ma, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa, hơn là Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ.
Thánh lễ này chấm dứt chu kỳ Giáng Sinh. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Đoạn này gồm 3 chuyện:
1. Thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu lên Đền thờ Giêrusalem để chu toàn 2 bổn phận của lề luật: Thanh tẩy cho Đức Maria sau khi sinh con; dâng Chúa Giêsu là con trai đầu lòng cho Thiên Chúa Câu chuyện cho thấy Thánh gia tuân giữ lề luật rất chu đáo; đồng thời những lễ vật các Ngài dâng chứng tỏ Thánh gia nghèo.
2. Trong dịp này Thánh Gia đã gặp được cụ Simêon. Cụ được Thánh Thần soi sáng cho biết trẻ Giêsu chính là Đấng Messia cho nên toại nguyện vì gặp được Ngài. Cụ nói Chúa Giêsu là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại”
3. Trong dịp này các Ngài cũng gặp nữ ngôn sứ Anna và bà cũng nói tiên tri về tương lại Chúa Giêsu.
B.... nẩy mầm.
1. Gia đình Nadarét được gọi là Thánh Gia, là gương mẫu cho mọi gia đình tín hữu. Qua đoạn Tin Mừng này, ta có thể thấy những nét của một gia đình tín hữu tốt:
- Một gia đình tốt không chỉ co rút trong ngôi nhà của mình, nhưng còn thích cùng nhau lên Nhà Chúa: theo luật, việc dâng con cho Thiên Chúa có thể thực hiện tại nhà; cũng theo luật, việc thanh tẩy người mẹ không buộc người cha phải đi theo lên Đền thờ. Nhưng cả ba đã cùng nhau lên Đền thờ.
- Một gia đình tốt là gia đình tuân giữ luật Chúa: “Cha mẹ hài nhi đem con lên Đền thờ để chu toàn Lề luật...”.
- Một gia đình tốt là gia đình biết dâng cho Chúa nhũng gì tốt nhất của mình: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh dành cho Chúa”.
- Gia đình tốt có thể nghèo (lễ vật của Thánh Gia chứng tỏ các Ngài nghèo), và không tránh khỏi đau khổ (“Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”), nhưng vẫn hạnh phúc vì có Chúa Giêsu ở giữa, có Chúa Giêsu là thành viên.
2. Một thanh niên Scốt-len tìm được một chân làm vườn trong một gia đình giàu có. Nhưng chỉ hai tuần sau, anh xin thôi việc. Một người bạn hỏi:
- Có phải công việc quá cực nhọc không?
- Không, công việc rất nhàn.
- Có phải lương quá ít không?
- Không, lương khá lắm.
- Hay anh không thích đồ ăn ở đó?
- Cũng không phải. Đồ ăn rất ngon.
- Vậy tại sao anh thôi việc?
- Vì nhà đó không có mái che.
Đối với người Scốtlen, thành ngữ “nhà không có mái che” nghĩa là gia đình không biết cầu nguyện. (Tonne).
3. Một nhóm người thiện chí bàn nhau cách phổ biến Tin Mừng. Có người đề nghị quảng cáo trên TV, người khác đề nghị dùng báo chí. Một thiếu nữ Châu Phi chia xẻ: Ở xứ tôi, khi muốn loan Tin Mừng cho một vùng nào đó thì chúng tôi gởi đến đấy một gia đình công giáo tốt để gia đình này sống giữa những người khác trong vùng. (Barclay)
4. Trên tường một nhà thờ cổ ở Đức có một bức tranh được vẽ cách nay khoảng 500 năm, diễn cảnh trẻ Giêsu đang đi học. Họa sĩ vẽ Ngài là một cậu bé 6 tuổi đang một tay nắm tay bà ngoại Anna và tay kia cầm cặp.
Trẻ Giêsu cũng giống như những bé trai, bé gái cùng thời đến trường để thêm kinh nghiệm, như Thánh Kinh nói: “Con trẻ ngày càng khôn lớn”. (Góp nhặt).
5. Trong khi người Ấn độ được đánh giá là giỏi triết lý, người Trung hoa được đánh giá là giàu lễ nghĩa, thì người do thái được đánh giá là tinh thần tín ngưỡng cao. Nhờ đâu? Nhờ người cha do thái biết quan tâm đến việc đạo trong gia đình. Trong gia đình do thái, người cha chủ sự những buổi cầu nguyện, người cha lãnh trách nhiệm khai tâm tôn giáo cho con, người cha hãnh diện truyền lại cho con truyền thống đạo đức của ông bà tổ tiên.
6. “Vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân” (Lc 2,30-31)
Bước chân vào trại dưỡng lão, hình ảnh đập vào mắt tôi trước tiên là những cụ già lưng còng, ốm yếu hay liệt giường. Không khí ở đây thật khó chịu. Tôi phải lấy hết can đảm mới có thể đến gần thăm hỏi các cụ. Đến giờ ăn, chúng tôi chia nhau đút cơm cho các cụ. Một bà cụ nắm lấy tay tôi và nói: “Nhờ các cô mà chúng tôi mới được ăn no. Nhiều lúc muốn ăn cũng không được. Cám ơn các cô nhiều. Lần sau các cô nhớ đến nhé”. Nghe cụ nói, tôi cảm thấy hối hận vì những ý nghĩ và thái độ thoạt đầu khi mới đến.
Nếu như ngày xưa Đức Giêsu đã được Mẹ Maria và thánh Giuse đưa lên Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa theo luật Môsê, đồng thời bày tỏ vinh quang của Ngài cho muôn dân, thì ngày nay tôi cũng đã được cha mẹ đưa đến nhà thờ để tiến dâng cho Thiên Chúa, và nhờ bí tích Thanh Tẩy trở nên một kitô hữu. Là một kitô hữu, tôi sẽ làm gì để bày tỏ vinh quang Chúa nếu không phải là cảm thông và chia sẻ với những người nghèo khổ chung quanh, đặc biệt là những người già nua, bệnh hoạn, tật nguyền.
Xin cho con biết bày tỏ vinh quang Chúa bằng nỗ lực vun trồng sự sống, đón nhận và chia xẻ với những người nghèo khổ bất hạnh quanh con. (Epphata)
8.Dâng Chúa trong Đền thánh--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Đến ngày theo luật định, thánh Giuse và Đức Maria bồng Chúa Hài Nhi đến đền thờ Giêrusalem để dâng cho Đức Chúa Cha. Ở đó có ông Simêon là người công chính. Ông được Chúa Thánh Thần soi sáng nên nhận biết Chúa Giêsu và cất tiếng khen ngợi Chúa, vì Chúa đã thương cho Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc dân Người; đồng thời ông cũng cho Đức Maria biết: Mẹ phải chịu nhiều đau khổ vì Chúa Hài Nhi.
Mẹ Maria và thánh Giuse dâng Chúa Hài nhi trong đền thánh để tuân giữ luật thời đó. Và việc dâng hiến này báo trước Chúa Giêsu tự dâng hiến đời Người chịu chết trên khổ giá để cứu độ loài người.
Đức Giêsu là “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7), theo luật Maisen: “Mọi con trai đầu lòng phải được dâng hiến lên Thiên Chúa”, như chúng ta đọc thấy trong Cựu ước: “Đức Chúa phán với Maisen: “Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta” (Xh 13,1-2). Vì thế, Đức Mẹ và thánh Giuse dâng hiến Hài nhi Giêsu cho Thiên Chúa trong Đền thờ. Từ nay cuộc đời Hài nhi hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Ngài đã được dâng và cũng tự hiến dâng, để Thiên Chúa toàn quyền sử dụng trên Ngài trong sứ mạng nhập thể cứu độ: Dâng trọn vẹn trên đỉnh cao Thập tự.
Người Kitô hữu được dâng cho Thiên Chúa qua bí tích Rửa tội để trở thành con cái Thiên Chúa. Là Kitô hữu, chúng ta ý thức được diễm phúc làm con Thiên Chúa, để cảm tạ bằng cách thờ phượng Thiên Chúa hết mình, và sống xứng đáng với phẩm giá đó bằng cách thánh hóa bản thân mỗi ngày.
Chúng ta nhận thấy: hai ông bà đang được diễm phúc làm mẹ Thiên Chúa và làm cha nuôi Đức Giêsu, nhưng không tìm đặc ân riêng cho mình, vẫn khiêm nhường tuân giữ lề luật: thanh tẩy và dâng con vào Đền thờ. Noi gương hai Đấng: người Kitô hữu không nên tìm đặc ân gì, để miễn chước cho mình những bổn phận đối với xã hội, cộng đoàn, gia đình và tha nhân, nhưng phải khiêm nhường đơn sơ và nhiệt tình tuân giữ mọi lề luật chính đáng.
Đối với các bậc cha mẹ Kitô hữu, con cái là quà tặng của Thiên Chúa. Để bày tỏ lòng trân trọng quà tặng quý báu đó, các bậc cha mẹ tiến dâng con cái của mình cho Thiên Chúa. Tiến dâng bằng cách nuôi dạy con cái theo ý Chúa; giúp con cái đón nhận và nuôi dưỡng đức tin, giúp con cái hướng tình yêu về Thiên Chúa.
Cụ già Simêon nói với Đức Maria: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được trỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng” (Lc 2,34).
Cụ Simêon trong tư cách là tiên tri tiên báo rằng: con trẻ sẽ trở nên dấu cho người ta chống đối. Lời tiên tri được ngỏ cho Đức Maria để nói về sứ mạng cứu độ của Hài nhi trong tương lai và sự mật thiết hiệp nhất trong công cuộc cứu độ của người con trong vai trò cộng tác: “Phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” (Lc 2,35). Maria không hiểu lời cụ Simêon mang ý nghĩa gì, nhưng khắc ghi nghiền ngẫm trong lòng và xin Thiên Chúa ban cho được thêm can đảm, Maria cũng chịu đau khổ thương khó như Con Mẹ, nhất là tại Núi Sọ hiến tế con Mẹ trên Thập giá.
Đức Giêsu cũng đã đến để yêu thương, cứu giúp mọi người. Ngài vốn là Thiên Chúa cao sang nhưng đã trở nên thấp hèn để nâng đỡ con người lên. Nhưng cuối cùng Ngài đã bị con người đóng đinh thập giá, bỏ mặc trong cái chết đau đớn và tủi nhục.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta theo gương Mẹ tiếp bước theo Chúa trên con đường yêu thương, dẫu có bị người đời chống báng hay từ chối.
Truyện: Lời cầu xin tốt đẹp
Có người coi như mình bị thất bại, vì Chúa không nhận lời cầu xin của mình. Có vẻ nản lòng. Nhưng một ngày kia, đang khi cầu nguyện Chúa soi sáng cho người ấy hãy vững tin và đặt tất cả niềm tin phó thác vào Chúa. Họ đã sáng tác được lời cầu nguyện sau đây:
Lạy Chúa, con cầu xin ơn mạnh mẽ để thành đạt, thì Chúa làm cho con ra yếu ớt để biết vâng lời, khiêm hạ.
Con cầu xin có sức khỏe để thực hiện những công trình lớn lao, thì Chúa lại bắt con bị tàn tật và chỉ làm được những việc tốt nho nhỏ.
Con cầu xin được giàu sang để sống một cuộc đời sung sướng, thì Chúa lại bắt con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.
Con cầu xin có được uy quyền để mọi người phải kính nể, thì Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần đến Chúa.
Con cầu xin cho có được tất cả để tận hưởng cuộc đời, thì Chúa lại cho con cả một cuộc đời để được hưởng mọi sự.
Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn, nhưng những điều con đáng phải mơ ước mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin, thì Chúa lại đã ban cho con thật dư đầy từ lâu.
Lạy Chúa, hoá ra con lại là người có phúc hơn hết trên đời này, bởi con đã nhận được ơn phúc Chúa vô vàn.
9.Dâng Chúa Giêsu vào Đền thánh--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
I. LỊCH SỬ NGÀY LỄ.
Thánh lễ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ V tại Giêrusalem và được “mừng một cách trọng thể như lễ Phục Sinh vậy” (tường trình của thánh nữ hành hương Aetheria). Mãi đến năm 650, thánh lễ này mới du nhập vào Rôma. Nội dung Thánh lễ được triển khai theo đoạn Phúc âm thánh Luca 2,22-40.
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này như lễ gặp gỡ của Chúa: Đấng Mê-si-a bước vào Đền thờ và gặp dân Thiên Chúa của Cựu ước qua ông Simêon và bà tiên tri Anna; Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: thanh tẩy theo luật Do thái (Lv 12).
Khi du nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Thánh Cha Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến, vì thế, từ thế kỷ thứ VIII, thánh lễ được gọi là Lễ Nến. Trong cuộc rước nến này, Đức Thánh Cha và cả đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím, ám chỉ sự chưa thanh tẩy của Đức Maria khi lên Giêrusalem; khi đoàn đồng tế đến đại thánh đường Đức Bà Cả, liền thay phẩm phục trắng, chỉ sự tinh tuyền đã được thanh tẩy của Đức Maria.
Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, ngay cả trong phụng vụ Rôma, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Thánh lễ này chấm dứt chu kỳ Giáng Sinh. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh, tập 1, tr 68).
II. Ý NGHĨA NGÀY LỄ
1. Theo tập tục của luật Maisen.
Bài Tin mừng cho thấy Đức Maria và thánh Giuse đã chu toàn những tập tục của luật Maisen liên quan đến việc hạ sinh Đức Giêsu. Luật Maisen qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21).
Khi được một tháng tuổi, trẻ phải được đưa tới Đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con đầu lòng – dù là người hay là thú vật – đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì nó thuộc về Người, rồi phải chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh 13, 2.12-13; Ds 18,15-16).
Nếu sinh con trai thì khi nó được 40 ngày, hoặc nếu sinh con gái thì khi nó được 80 ngày, người mẹ phải làm lễ tẩy uế, và phải dâng lễ toàn thiêu bằng một con chiên, người nghèo có thể thay thế bằng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non như Đức Maria đã làm (x. Lv 5,7; 12,8).
Mặc dù biết Đức Giêsu con của mình, là Thiên Chúa, Đức Maria và thánh Giuse vẫn tuân thủ tất cả những gì luật đòi buộc. Đó là một gương mẫu cho chúng ta.
Sách Xuất hành qui định: “Giavê phán cùng Maisen rằng: Hãy hiến thánh cho Ta mọi con đầu lòng: vật gì bất cứ, khi thông dạ mẹ, thì thuộc về Ta”. Điều luật này tưởng nhớ sự kiện Thiên Chúa giải thoát dân Israel khỏi cảnh nô lệ Ai cập. Vì thế, mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa và phải dành riêng cho Người. Tuy nhiên, sau khi việc phụng tự được dành riêng cho chi tộc Lêvi, thì con trai đầu lòng thuộc các chi tộc khác không phải lo việc phụng tự nữa.
Nhưng để tỏ ra chúng vẫn thuộc sở hữu của Thiên Chúa, nên người ta thực hiện một nghi thức chuộc lại. Sách luật qui định con dân Israel phải hiến dâng một lễ vật tượng trưng để chuộc lại con trai.
2.Đức Maria dâng con theo lề luật.
Theo luật Maisen cũng là tục lệ của người Do thái, những người con trai được sinh ra, nhất là con đầu lòng, sau 40 ngày bà mẹ phải đưa đến Đền thờ, trước là dâng con cho Chúa, sau là chính mình làm lễ tẩy uế.
Vậy sau khi Chúa Giêsu sinh ra được 40 ngày, Đức Maria đem con lên Đền thờ dâng cho Thiên Chúa theo luật Do thái. Mẹ Ngài hoàn toàn thanh sạch, không cần phải giữ luật ấy, nhưng Mẹ cũng thi hành đầy đủ lễ nghi, trước là vâng theo ý Chúa, sau là để người ta khỏi sai lầm mắc phải.
Hôm ấy, ông già Simêon là người hằng mong đợi được trông thấy Đấng Cứu Thế, lên Đền thờ cũng là ngày cha mẹ dâng Hài Nhi Giêsu trong Đền thờ. Vừa trông thấy Hài Nhi, được ơn trên soi sáng chỉ dẫn, ông rất vui mừng, vội đưa tay ẵm kính Hài Nhi và chúc tụng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc 2,29-32).
Hai Ông Bà thấy và nghe như thế thì lấy làm lạ, chưa kịp hỏi han gì thì cụ già Simêon nhìn lên Đức Mẹ mà thưa: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người ta chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,34-35).
Đồng thời, nữ tiên tri Anna trông thấy Chúa Hài Nhi, bà cũng nói lên lời chúc tụng Thiên Chúa và nói lại cho người ta biết rằng chính Ngài là Vị Cứu Thế muôn dân đang chờ đợi.
Mặc dầu biết Đức Giêsu, con mình, là Con Thiên Chúa, Đức Maria và thánh Giuse vẫn tuân thủ tất cả những gì luật đòi buộc. Và sau cùng, để chuộc lại con mình, hai Ông Bà vì nghèo nàn chỉ dâng lên Thiên Chúa một đôi chim gáy với tất cả tấm lòng thành.
3. Lễ hôm nay cũng là Lễ Nến
Khi lễ này được du nhập vào phụng vụ Rôma, Đức Thánh Cha Sergiô I lại thêm vào nghi thức rước nến, vì vậy lễ dâng Chúa Giêsu vào Dền thờ hôm nay cũng được gọi là Lễ Nến, vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân.
Chính cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Thánh Xôprôniô, Giám mục Giêrusalem đã nói: “Đây là ý nghĩa của mầu nhiệm: chúng ta tiến bước, đèn sáng trong tay, chúng ta hăm hở đi tới, mang theo đèn sáng để nói lên rằng ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và ánh sáng đó sẽ làm cho chúng ta nên rạng ngời. Nào mau lên, tất cả chúng ta cùng nhau ra đón Chúa. Người là Ánh Sáng thật đã đến, Ánh Sáng chiếu soi mọi người sinh ra trên thế gian. Vậy, thưa anh em, mọi người chúng ta hãy đón nhận ánh sáng và hãy tỏa sáng” (Kinh Sách, các bài đọc ngày 02.02).
Cuộc rước trong phụng vụ hôm nay nói lên đời sống của mỗi tín hữu phải giãi chiếu ánh sáng cho người khác. Chúa Kitô là ánh sáng cho trần gian. “Ánh Sáng” là một từ thường được dùng để chỉ về sự sống và chân lý. Thiếu ánh sáng là cô đơn, nghi nan và lầm lạc. Chúa Kitô là Sự Sống cho thế gian và cho mọi người, Là Ánh Sáng chiếu soi, là Chân Lý giải thoát, Là tình Yêu viên mãn… Mỗi khi cầm nên đi trong đoàn kiệu, chúng ta thông phần vào ánh sáng của Chúa Kitô.
III. BƯỚC THEO MẸ MARIA.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết theo gương Mẹ để biết khiêm nhường phục vụ Chúa và tha nhân trong mọi công việc của cuộc sống.
Trước hết, Lễ này dạy chúng ta bài học khiêm nhường vâng giữ luật Chúa và Hội thánh. Thật ra luật Cựu ước không buộc Đức Maria và Chúa Giêsu, vì Đức Maria không thụ thai cách bình thường như người đời. Ngài mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, nên Ngài không bị ô uế theo luật Maisen và không buộc phải thanh tẩy.
Đức Giêsu cũng không buộc phải được hiến dâng cho Thiên Chúa theo luật dạy, vì rồi đây chính Ngài sẽ bị sát tế và dâng hiến lên Chúa Cha trên thánh giá để làm của lễ chuộc tội loài người. Việc hiến dâng các trẻ em Do thái theo luật Maisen chỉ là hình bóng việc tự hiến của Ngài mà thôi. Thế nhưng chỉ vì khiêm tốn vâng phục mà Đức Maria và thánh Giuse đã chu toàn luật Cựu ước cho Chúa Giêsu để nêu gương cho chúng ta.
Thứ đến, Đức Maria sẵn lòng dâng hiến Con mình cho Thiên Chúa. Qua đó, Mẹ lặp lại lời Fiat, và một lần nữa, trao phó trọn đời mình cho Thiên Chúa an bài sử dụng. Chúa Giêsu được hiến dâng lên Chúa Cha trên tay của Mẹ Maria. Đây là cuộc hiến dâng đặc biệt nhất tại Đền thờ, và không bao giờ được lặp lại. Hơn ba mươi năm sau, Chúa Giêsu đã dâng chính thân Người, nhưng ngoài thành, ở trên đồi Calvê.
Mẹ Maria đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời để Chúa sử dụng trong cuộc việc cứu chuộc loài người. Mẹ không từ chối Chúa một sự gì. Tiếng Fiat luôn chiếm hữu tâm trí Mẹ để mọi việc được diễn tiến theo thánh ý Chúa, cho dù thân xác Ngài phải bị hao mòn.
Truyện: Ngụ ngôn về cây bút chì.
Người thợ làm bút chì nâng niu sản phẩm của mình trước khi cho nó vào hộp. Ông nói với bút chì: “Có 5 điều mày cần phải nhớ trước khi tao để mày bước vào thế giới hỗn độn ngoài kia. Lúc nào mày cũng phải nhớ và không bao giờ được quên những điều ấy, khi đó, mày mới trở nên một cây bút chì đẹp nhất, hiểu không?
Thứ nhất, mày luôn có thể tạo ra những thứ rất vĩ đại, nhưng chỉ khi nào mày nằm trong tay một ai đó.
Thứ hai, mày phải liên tục chịu đựng những sự gọt giũa rất đau đớn, nhưng hãy nhớ, tất cả đau đớn ấy chẳng qua để làm cho mày đẹp hơn mà thôi.
Tiếp theo, mày phải nhớ lúc nào mày cũng có thể sửa chữa những lỗi mà mày ghi ra.
Và một điều nữa, hãy biết phần quan trọng nhất trên cơ thể của mày chính là phần ruột, phần bên trong chứ không phải là lớp vỏ ngoài.
Cuối cùng,, mày, bút chì, phải để lại vết chì của mày trên bất cứ bề mặt nào mà mày được sử dụng để viết, và phải liên tục viết, bất kể chuyện khó khăn gì, được không?
Cây bút chì hiểu rõ những lời người thợ nói và nó tự hứa sẽ nhớ tất cả những điều ấy, và rồi, nó vào nằm trong hộp để bước ra thế giới với những mục đích riêng mà nó đã định.
Qua câu truện ngụ nôn về cây bút chì, bạn hãy thử đặt chính bạn vào vị trí cây bút chì xem. Lúc nào bạn cũng phải nhớ và không bao giờ được quên những điều này, khi đó, bạn sẽ trở thành một con người vĩ đại cho mà xem.
Bạn hãy cố thực hành:
Thứ nhất, bạn có thể làm nên những chuyện vĩ đại, nhưng chỉ khi nào bạn biết đặt mình vào trong vòng tay của Thiên Chúa, hãy để cho mọi người được sử dụng những món quà mà Thiên Chúa ban cho bạn.
Thứ hai, bạn sẽ phải liên tục nếm trải những đau đớn và thất bại trong cuộc sống, nhưng có trải qua ngần ấy đau khổ, bạn mới có thể mạnh mẽ hơn được.
Cũng cần phải nhớ lúc nào bạn cũng có thể khắc phục những sai lầm trong quá khứ.
Tiếp theo đó, bạn phải biết phần quan trọng nhất của cơ thể bạn không phải là ngoại hình mà là tấm lòng bên trong của bạn
Còn điều cuối cùng, trên mọi nẻo đường mà bạn đi qua, bạn hãy để lại những dấu ấn riêng của bạn và trong bất cứ trường hợp nào, bạn cũng phải hoàn thành nhiệm vụ của minh.
Hãy làm theo ngụ ngôn về bút chì, nó sẽ giúp cho bạn cảm thấy bạn đúng là một con người đặc biệt và chỉ có bạn mới có thể hoàn thành được những trách nhiệm mà ngay từ khi sinh ra, bạn đã được giao phó.
Đừng bao giờ để mình bi quan và cũng đừng bao giờ cho rằng cuộc đời bạn thật tầm thường và rằng bạn không thể thay đổi bất cứ thứ già cả.
Trong Thánh Lễ hôm nay, cùng với lễ dâng trọn hảo là chính Chúa Giêsu, được Đức Maria và thánh Giuse tiến dâng trong Đền thờ, chúng ta cũng xin hiến dâng tuổi xuân và cả cuộc sống của chúng ta làm lễ dâng lên Thiên Chúa. Xin Ngài chúc phúc và hướng dẫn đường đời chúng ta trong thánh ý Ngài, hầu cả cuộc sống chúng ta trở nên lễ dâng tình yêu trong Tình Yêu Thiên Chúa.
10.Chúa Giêsu được dâng tiến lên Thiên Chúa--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Câu chuyện chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay là một trong những câu chuyện rất đẹp về cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu Kitô. Qua câu chuyện này, một lần nữa, chúng ta lại có dịp hiểu thêm về một vài khía cạnh đặc biệt trong cuộc đời của Ngài.
1. Qua câu chuyện hôm nay rõ ràng chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn được trở nên một con người hoàn toàn giống chúng ta. Trong thư gửi Tín hữu Do Thái, Thánh Phaolô đã viết rất hay về vấn đề này. Ngài viết như sau: “Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các Thiên Thần, nhưng là con cháu Apraham. Bởi thế Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa để đền tội cho dân” (Dt 2,1617).
Chúng ta khó có thể tìm thấy một diễn tả nào về Chúa Giêsu-làm-người hay hơn thế.
Như anh chị em đã biết Chúa đến với loài người chúng ta là để cứu chuộc con người chúng ta. Chúa đã không muốn thực hiện công việc cứu chuộc này từ xa. Để làm công việc này, Chúa đã làm người. Thánh Gioan đã viết: “Ngài đã hóa thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta”(Ga 1,14)
Một Thiên Chúa cao cả, linh thiêng, đã nhận lấy một thân xác như mọi người chúng ta. Nguyên việc này thôi thì tôi tưởng cũng đã là một việc kỳ diệu rồi. Thế nhưng Chúa chưa muốn dừng lại ở đó. Nhận lấy một thân xác để được ở giữa loài người như một người, Chúa Giêsu vẫn chưa lấy làm đủ. Người còn muốn đi xa hơn như lời Thánh Phaolô nói, Người muốn trở nên giống mọi người trong mọi sự... “chỉ trừ tội lỗi”
Bài Tin Mừng hôm nay nói Chúa Giêsu được dâng tiến lên Thiên Chúa theo luật của Môise. Thực ra thì việc này là bổn phận của Đức Maria và thánh Giuse. Theo nghĩa vụ thì Thánh Giuse và Đức Mẹ phải làm như thế. Theo luật Môise cũng là tục lệ của người Do thái, thì những người con trai được sinh ra, nhất là con đầu lòng, sau 40 ngày, phải đưa đến Đền thờ, trước là dâng con cho Chúa, sau là bà mẹ phải làm lễ tẩy uế: Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môisê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa (Lc 2,22). Dù Đức Maria và thánh Giuse biết rằng trẻ Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng các ngài cũng vẫn chu toàn mọi lề luật: Như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa” (Lc 2,23). Dâng con trong đền thờ là để thánh hiến người con cho Thiên Chúa và cha mẹ có thể chuộc lại bằng cách dâng cúng của lễ như luật định.
2. Bên cạnh đó bài Tin Mừng hôm nay còn cho chúng thấy những bài học khác cũng không kém quan trọng. Tôi muốn nói đến sự vâng phục và lòng khiêm nhường, đặc biệt của Đức Maria.
Sự vâng phục thánh ý Chúa là một trong nét đẹp trong đời sống của Đức Maria và Thánh Giuse. Các Ngài đã thể hiện sự vâng phục này ngay từ khi các ngài được Chúa trao cho trách nhiệm cộng tác với Thiên Chúa trong việc thực hiện công cuộc cứu chuộc loài người. Thánh Giuse đã vâng phục thế nào thì mọi người chúng ta đã biết.
Còn với Đức mẹ Maria thì chúng ta thấy: Mẹ Maria đẹp đẽ hơn mặt trời, trong sáng hơn mặt trăng và rực rỡ hơn rạng đông, nhưng Mẹ đã tuân hành giữ luật của Thiên Chúa một cách thật hoàn hảo. Mẹ giữ luật vì lòng yêu mến Thiên Chúa. Mẹ đã lên đền làm lễ dâng con và thanh tẩy. Thánh Phanxicô Salêsiô nói: “Rất Thánh Trinh Nữ tự ý tuân giữ luật thanh tẩy vì Mẹ yêu mến và kính trọng Thiên Chúa. Mẹ hay Con Mẹ không buộc phải vâng phục, nhưng vì tình mến làm cho Mẹ tuân giữ. Mẹ tuân giữ luật để làm gương cho những người khác”.
Thêm vào đó chúng ta còn thấy được nơi Đức Mẹ một tấm gương khác về lòng khiêm tốn
Chúng ta biết, dù được mọi đặc ân vượt mức trên mọi thụ tạo, Mẹ Maria vẫn hạ mình thẳm sâu dưới mọi tạo vật: Mẹ xao xuyến bối rối trước lời chào tán tụng của Thiên sứ Gabriel (Lc 1,29), và nhận mình là phận nữ tỳ thấp hèn của Chúa (Lc 1,48). Cả cuộc sống Mẹ Maria được dệt bằng đức khiêm tốn, nhất là từ ngày thiên sứ truyền tin qua ngày Mẹ thăm viếng thánh Elizabeth tới ngày Mẹ dâng Con trong đền thờ. Thánh Phanxicô Salesiô nói: “Cao sâu biết bao sự khiêm tốn mà Chúa chúng ta và Mẹ Maria đã thi hành khi lên đền thờ: Chúa đến đền thờ để được hiến dâng như tất cả các con trẻ của những người tội lỗi. Mẹ Maria đến để làm lễ thanh tẩy như tất cả các bà mẹ phàm trần. Cần gì mà Mẹ phải thanh tẩy, vì Mẹ đã không bị ô nhiễm do đặc ân tuyệt diệu từ lúc đầu thai mà các thần Cherubim và các Seraphim không tài nào sánh ví”. Vậy mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ vẫn làm như thế.
Mẹ đã làm thế bởi vì
Mẹ thực sự nhận biết được Thiên Chúa là Đấng cao cả và biết mình chỉ là một thụ tạo thấp hèn.
Chúng ta hãy tập sống khiêm tốn như Đức Mẹ để được luôn xứng đáng với tình thương của Chúa.
Đức cố Giáo Hoàng Gio-an 23 kể lại một kinh nghiệm độc đáo của đời mình như sau: “Lúc tôi mới được bầu làm Giáo Hoàng để lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng và sợ hãi trước một trách nhiệm quá lớn lao và nặng nề. Nhưng một đêm kia, trong giấc ngủ chập chờn không yên, tôi nghe có một tiếng nói phán bảo tôi: “Kìa Gio-an, đừng tự xem mình là quan trọng!”
Tôi choàng tỉnh dậy, ngẫm nghĩ thấm thía về ý nghĩa giấc chiêm bao. Và kể từ dạo ấy, tôi đã cố gắng áp dụng câu nói này trong đời tôi, trong mọi công việc của Giáo Hội mà tôi phải giải quyết mỗi ngày. Đừng tự xem mình là quan trọng! Và thật sự, tôi đã ăn ngon ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo Hoàng!
Khiêm nhường là một đức tính được Thiên Chúa yêu mến. Khác hẳn với tính tự cao, tự đại có thể được so sánh với những ngọn núi, triền đồi. Đức khiêm nhường giúp chúng ta đào sâu những trũng thấp, để đón nhận được những Hồng Ân của Thiên Chúa đã không dừng lại trên đỉnh núi hay triền đồi, những chảy tràn xuống và đọng lại chan chứa ở những nơi thấp nhất dưới chân đồi...
Có người hỏi Thánh Phanxicô thành Assisi (1182-1226) tại sao và bằng cách nào ngài làm được nhiều sự trọng đại, Ngài vui vẻ trả lời:
- Cũng dễ thôi, Chúa từ trời cao nhìn xuống và nói: “Ta kiếm đâu được một người yếu đuối nhất, bé mọn nhất, vô nghĩa nhất ở trần gian này!”
Ngài nhìn thấy tôi, Ngài nói:
- Đây là người Ta tìm được và Ta muốn hành động qua người này. Người ấy sẽ thấy rằng Ta dùng nó chỉ vì nó là con người hèn mọn nhất, khiêm hạ nhất.
Lạy Mẹ Maria đầy lòng khiêm nhu, xin uốn lòng mỗi người chúng con nên giống Mẹ. Amen.
11.Dâng Chúa trong đền thánh--5 phút Lời Chúa—Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Từ xa xưa, lễ dâng Chúa trong đền thánh đã được gọi là lễ nến, khi các tín hữu đem nến đến làm phép để biểu trưng và cũng để tiếp nối lời ông Si-mê-on đã gọi Chúa Giê-su là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.” Quả thật Chúa là ánh sáng ban sự sáng và sự sống cho nhân loại như Ngài đã nói: “Tôi là ánh sáng cho trần gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12).
Mời Bạn: Bạn được mời gọi “tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng” (x. Ga 12,36). Bạn hãy để ánh sáng của Chúa chiếu soi thấu tận mọi ngõ ngách sâu tối nhất trong tâm hồn, để Ngài thanh luyện, chữa lành, gia tăng sức sống và thánh hóa bạn, ngõ hầu bạn được biến đổi trở nên “ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5,9). Giống như ngọn nến bạn hiến dâng đời mình cho Chúa để thuộc trọn về Chúa và dám tiêu hao đời mình như ngọn nến, để phục vụ mọi người, tiếp tục trở nên “ánh sáng cho trần gian” chiếu sáng những nơi còn tăm tối và đưa họ về với nguồn ánh sáng thật là chính Chúa.
Sống Lời Chúa: Bạn suy niệm Lời Chúa hằng ngày để ánh sáng Chúa biến đổi bạn mỗi ngày nên giống Chúa hơn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con trở nên ngọn nến dám tiêu hao đời mình trong phục vụ âm thầm, hầu chiếu sáng Tình Yêu của Chúa cho nhiều người, để họ được giải phóng khỏi mọi bóng tối của tội lỗi và sự chết. Amen.
12.Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh. Theo luật Do Thái, mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa. Do đó, cha mẹ con trẻ phải chuộc lại đứa bé tùy theo khả năng của gia đình mình hoặc một con chiên tinh tuyền hoặc một cặp bồ câu. Những của lễ này được dùng dâng hiến cho Thiên Chúa thay thế các em.
MẸ MARIA VÂNG THEO LỀ LUẬT:
Như mọi người dân Do Thái, Mẹ Maria cũng hoàn toàn vâng theo lề luật. Vì thế, khi Chúa Giêsu đã đúng ngày luật định, Mẹ Maria và thánh cả Giuse đã đưa Chúa Giêsu lên đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa:”Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” (Lc 2,23). Theo tục lệ, của lễ dâng tiến cho Chúa thay thế con trẻ là một cặp chim gáy hay một cặp bồ câu non (Lc 2,24). Tuy nhiên, đối với Mẹ Maria, Mẹ ý thức rất rõ ràng dâng Chúa là vĩnh viễn vì đó là khởi đầu cho lễ hy sinh mà Chúa Giêsu sẽ hoàn tất trên núi Canvê để cứu chuộc nhân loại.
THÁNH LỄ HÔM NAY MANG HAI Ý NGHĨA:
Nhìn bề ngoài, chúng ta thấy Chúa vâng phục lề luật và cha mẹ của Người làm theo luật dậy, nhưng thực ra Chúa Giêsu đến gặp dân của Người. Vì thế, ngay tại Giêrusalem, cụ già Simêon, một người công chính và nữ ngôn sứ Anna, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, đã tới đền thánh và chính Simêon đã được linh hứng sẽ không chết trước ngày được gặp Đấng Cứu Thế. Do đó, khi thấy Chúa Giêsu, Thánh Thần soi sáng, các Ngài đã nhận ra con trẻ mà các Ngài đang ẵm trên tay, đang thấy ở trước mặt lại chính là Chúa của mình, đồng thời các Ngài rất vui sướng loan báo cho những người khác. Thánh lễ dâng Chúa vào đền thánh còn có một ý nghĩa khác nữa, Chúa được Chúa Thánh Thần công bố là vinh quang của Israen và là ánh sáng soi đường cho muôn dân, muôn nước trên mặt đất này. Chính vì thế, khi người Kitô hữu quy tụ trong nhà thờ do tác động của Chúa Thánh Thần, chắc chắn dân Chúa sẽ gặp Người, sẽ nhận ra Người lúc bẻ bánh, trong khi chờ đợi Người đến trong vinh quang. Qủa thực, Chúa Giêsu là quà tặng cao quí nhất Thiên Chúa Cha dành cho nhân loại.
Lạy Thiên chúa toàn năng hằng hữu, Con Một Chúa đã mang kiếp người phàm và hôm nay được tiến dâng trong đền thánh. Chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho tâm hồn chúng con cũng nên trong sạch hầu xứng đáng dâng mình trước thánh nhan (Lời nguyện nhập lễ, lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh).
13.Trinh nữ hiến dâng
Mừng kính biến cố Mẹ dâng Chúa vào đền thờ, chúng ta cùng nhau chia sẻ về tâm tình dâng hiến của Mẹ. Thực vậy, trong tông huấn “Marialis Cultus”, bàn về lòng tôn sùng kính mến Mẹ, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã gọi Mẹ là “Trinh nữ hiến dâng Virgo offerans”. Chỉ cần nhìn vào cuộc đời của Mẹ, chúng ta sẽ thấy ngay được sự dâng hiến ấy.
Trước hết, theo truyền thuyết thì năm lên ba, Mẹ đã theo cha mẹ lên đền thờ, rồi ở lại đó một thời gian. Trong thời gian này, Mẹ đã học hỏi Kinh thánh, tập luyện các nhân đức và khấn giữ mình đồng trinh, một nhân đức rất hiếm người Do thái hiểu và giữ lúc bấy giờ. Mẹ đã dâng hiến trọn vẹn tâm hồn và thể xác cho Thiên Chúa.
Tiếp đến trong hoạt cảnh truyền tin, Mẹ đã dâng hiến cõi lòng của Mẹ, làm thành như một chiếc nôi hồng cho Ngôi Lời giáng thế. Và hôm nay, Mẹ đã dâng hiến người con yêu dấu của Mẹ cho Thiên Chúa theo như lề luật qui định, để rồi sự dâng hiến này đạt tới cao điểm của nó trên đỉnh đồi Canvê, khi Mẹ đứng dưới chân cây thập giá nhìn Chúa chịu sát tế làm của lễ đền tội cho nhân loại.
Nhìn vào mẫu gương của Mẹ, chúng ta rút ra được một kết luận như sau:
Dâng hiến và đau khổ luôn đi liền với nhau.
Thực vậy, không một sự dâng hiến nào mà lại không có khổ đau. Và hơn thế nữa, chính những khổ đau này sẽ làm cho việc dâng hiến trở nên cao cả và có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Tại sao thế?
Tôi xin thưa vì dâng hiến là gì nếu không phải là lấy đi phần cao quí nhất để trao cho người mình thương mến. Mà đã cho đi thì phải mất mát. Mà mất mát thì phải tiếc xót. Chính vì thế, sự dâng hiến nào cũng đòi buộc phải chấp nhận hy sinh và khổ đau.
Nhìn vào Mẹ, chúng ta sẽ thấy được sự thật ấy. Một khi đã cúi đầu xin vâng, Mẹ cũng sẵn sàng chấp nhận mọi khổ đau sẽ xảy đến.
Chúng ta hãy nghĩ tới bàu khí ngột ngạt và căng thẳng trong gia đình, khi thánh Giuse nhận ra Mẹ đã mang thai không bởi hành động của mình. Mẹ đã âm thầm chịu đựng, mặc cho Thiên Chúa hành động và làm sáng tỏ vấn đề.
Chúng ta hãy nghĩ tới việc Mẹ lên đường trở về Bêlem để đăng ký hộ khẩu giữa lúc bụng mang dạ chửa, việc sinh Chúa trong cảnh nghèo túng của máng cỏ giữa nơi đồng vắng, việc trốn chạy giữa đêm khuya và những cực nhọc nơi đất khách quê người bên Ai Cập cũng như những lao động vất vả tại Nagiarét.
Rồi trong ngày hôm nay, Mẹ đã phải đón nhận lời tiên báo đầy cay đắng của ông già Simêon:
- Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà…
Lời tiên báo này đã được thực hiện qua từng biến cố cuộc đời và đã trở nên trọn vẹn trên đỉnh đồi Canvê. Tại đây, sự dâng hiến trở nên tuyệt hảo nhất, thì hy sinh và đau khổ cũng đáng cay và chua xót nhất. Mẹ đã kết hiệp với Đức Kitô trong máu và nước mắt, để dâng hiến cho Thiên Chúa một của lễ cao cả nhất.
Nhìn vào Chúa, chúng ta lại càng thấy rõ sự thật này hơn nữa.
Thực vậy, mục đích của việc xuống thế làm người là gì nếu không phải là để cứu chuộc nhân loại. Nhưng đâu là giây phút quan trọng nhất trong chương trình cứu độ, nếu không phải là giây phút Ngài hiến dâng trên bàn thờ thập giá. Tất cả cuộc đời của Ngài chỉ là một sự chuẩn bị cho giây phút trọng đại này. Mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của Ngài đều hướng tới đỉnh cao thập giá, chính tại đây Ngài đã chấp nhận những đớn đau và tủi nhục. Ngài đã sinh ra trong khó nghèo, lớn lên trong vất vả và chết đi trong nhục nhã. Thế nhưng, chính nhờ việc tự hạ này, mà Thiên Chúa đã nâng Ngài lên và tôn vinh Ngài.
Còn chúng ta thì sao?
Nếu muốn sống tâm tình dâng hiến như Chúa và Mẹ, chúng ta cũng phải chấp nhận hy sinh và khổ đau trong cuộc sống hằng ngày. Đúng thế, chúng ta vốn thường ngại hy sinh và chạy trốn đau khổ, nhưng làm sao có thể lẩn tránh vì chúng được chất đầy trong cuộc sống chúng ta, chi bằng hãy can đảm chấp nhận.
Hy sinh va khổ đau không phải là một cái gì làm cho chúng ta sợ hãi, những là một phần của đời sống chúng ta. Nếu biết đón nhận, nó sẽ thanh tẩy và làm cho chúng ta trở nên tinh ròng, như tục ngữ cũng đã nói: lửa thử vàng, gian nan thử đức.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, thì những hy sinh và khổ đau ấy sẽ trở nên công phúc cho chúng ta, bởi vì lòng yêu mến là như chiếc đũa thần biến những hy sinh và khổ đau trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời và làm cho cuộc đời chúng ta thực sự có giá trị trước mặt Thiên Chúa.
Chính vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Anh em hãy hiến dâng thân xác anh em làm của lễ đẹp lòng Thiên Chúa, bởi vì Ngài yêu thích những ai trao ban một cách vui vẻ.
14.Đức Giêsu hay Đức Maria: Lễ Dâng Con
Cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem để dâng Hài Nhi Giê-su trong đền thờ là tục lệ sau này, thời Abraham và Môisê chưa có đền thờ! nhưng lễ dâng con thực sự có từ thời cắt bì, đó là lúc dâng con trẻ và lễ hy sinh đền tội và lễ tạ ơn.
Của lễ Đức Ma-ri-a dâng hoàn toàn hợp luật Môisê. Đức Ma-ri-a dâng mình trong đền thờ, Ngài vào đền thánh xin tư tế dâng lễ hy sinh lên trước Giavê Thiên Chúa để đền tội và thanh tẩy.
Điều đó dạy tôi gì? tôi phải hiểu sứ điệp đó thế nào? vì luôn luôn Tin Mừng nói với tôi một sứ điệp qua những câu kinh thánh. Tôi phải suy niệm, mới giúp tôi hài lòng về những đợt sóng lời Chúa, xem ra bên ngoài có vẻ vô dụng, nhưng đó là những tiếng nói linh ứng cho ai biết tự cầu nguyện tự phát.
Sứ điệp đó là sứ điệp sống dịu hiền, vui mừng trung thành theo luật dạy một cách đơn sơ chân thành. Bài ca của cụ già Simêon rất đẹp, lời tiên tri của bà Anna gợi lên một hình ảnh huyền diệu tô điểm thêm cho ngày dâng con.
Hai chứng nhân này nói với chúng ta rằng những kẻ nhỏ bé, khiêm tốn, nghèo khó cầu nguyện Thánh Thần trong con tim của họ. Chúa Thánh Thần mặc khải rằng Thiên Chúa ở đó với họ, và khi Chúa tự tỏ mình ra, thì chẳng còn gì bên ngoài thế giới lay chuyển được họ. Vinh quang của Thiên Chúa tỏ ra trong sự thấp hèn và tối tăm như Hài Nhi tỏ vinh quang nơi hang lừa máng cỏ.
“Cháu còn là dấu hiệu gây chia rẽ...”. Lời tiên tri này là tiếng vang của lời Chúa sau này nghe như xé nát tâm can: Ai yêu mến cha mẹ mình... hơn tôi, không đáng làm môn đệ tôi”. “Ai không thuận với tôi, là chống lại tôi”. “Ai muốn theo tôi, phải tự bỏ mình, vác thập giá mình mà theo tôi”.
Môn đệ không trọng hơn Thầy. Không thể cứu mình khi còn nắm lấy những chuỗi xích khoái lạc và những tư tưởng riêng tư của mình.
Cần hoàn toàn đơn sơ chân thành yêu mến Đấng ban ơn hơn là xin ơn.
J.M
15.Xin Mẹ Dâng Chúng Con Cho Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ này còn được gọi là Lễ Nến. Ông Simêon, người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Kitô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi trên tay, ẵm trên tay và chào là “Ánh Sáng muôn dân” (Lc 2, 32).
Đức Maria dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, vì theo Luật Môisen (x. Xh 13, 11-13); “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” (Lc 2, 23) đó là lý do Hài Nhi Giêsu được dâng cho Thiên Chúa.
Đây cũng là Lễ Thanh Tẩy, kính nhớ việc Đức Maria được thanh tẩy theo luật Môsê, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu. Đức Trinh Nữ Maria đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lêvi: “Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái” (Lv 12, 6-8).
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và thanh tẩy Đức Trinh Nữ đã được Luca ghi lại (Lc 2,22-39). Sự kiện này nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu ước (Lv 12,8). Theo luật Môsê, phụ nữ sau khi sinh con thì bị coi là nhơ uế trong 40 ngày nếu sinh con trai và trong 80 này nếu sinh con gái.
Lễ này được du nhập vào Đế quốc Đông Phương dưới triều vua Justinianô (527-565). Đối với Hội thánh Tây phương, lễ này được nhắc đến trong sách bí tích của Giáo hoàng Gelasianô vào thế kỷ 7. Kể từ cuối thế kỷ IV, Giáo hội Giêrusalem đã mừng kính lễ này. Giáo hội Hy Lạp và Milanô kể lễ này vào một số lễ trọng kính Chúa, một nghi lễ chính trong năm. Giáo hội Rôma lại thường kể lễ này vào số các lễ Đức Trinh Nữ.
Trong thông điệp về lòng tôn sùng Maria, Giáo hoàng Phaolô VI viết: “Lễ mùng 2 tháng 2, được cải tên là lễ”dâng Chúa vào đền thánh", cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn phong phú lớn lao của ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô thực hiện mầu nhiệm cứu độ. Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một sứ mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của Dân Tân ước luôn luôn vị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy” (Lc 2,21-35) (Marialis Cultur, số 7b).
Trong ngày này, người ta làm phép nến để tưởng nhớ lời tiên tri Simêon gọi Đức Kitô là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại” (Lc 2,32) và tổ chức kiệu nến trong nhà thờ, tượng trưng cho việc Đức Giêsu tiến vào đền thờ Giêrusalem.
Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Trong ngày này, Giáo hội ca vang “Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Symêon, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người” (x. Phụng vụ Byzantine).
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Được Ðức Maria và thánh Giuse đem vào Ðền Thánh, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Symêon và Anna là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Marria và thánh Giuse và các người già là Symêon và Anna. Chúa Giêsu là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.
Lời của cụ già Symêon nói: “Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân” (Lc 2, 32). Hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Symêon bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giêsu là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.
Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng tên tay cụ già Symêon, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta…Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta là ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đồng Trinh, chúng con đặt cuộc đời chúng con vào trong vòng từ mẫu của Mẹ để Mẹ dâng lên Thiên Chúa như xưa Mẹ đã dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, tất cả chúng con thuộc về Mẹ. Amen.
16.Đức Giêsu, ánh sáng soi muôn dân--Ngọc Biển, SSP
(Ml 3, 1-4; Dt 2, 14-18; Lc 2, 22-40)
Có một câu chuyện kể về người nông dân: ông ta trồng trong vườn nhà mình nhiều loại trái cây. Hằng năm, mỗi khi mùa trái cây về, những hoa trái đầu tiên, ông ta nhất định phải hái để dâng kính tổ tiên. Khi được hỏi lý do, ông trả lời: “Sống trên đời phải có hiếu nghĩa với đấng sinh thành, hơn nữa, hôm nay, tôi được hưởng những hoa trái này cũng là do công khó của tiền nhân đi trước để lại. Vì thế, việc dâng tiến các cụ hoa trái đầu mùa là thể hiện sự hiếu kính, lòng biết ơn và chân nhận công khó của các ngài để lại”.
Hôm nay, Phụng Vụ Giáo Hội cũng làm toát lên ý nghĩa việc Đức Maria dâng lên Thiên Chúa hoa quả đầu mùa của Mẹ là chính Chúa Giêsu để bày tỏ sự hiếu kính, tôn thờ và vâng phục của Mẹ đối với Thiên Chúa.
1. Lịch sử ngày lễ
Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ được mừng kính ở thế kỷ V tại Giêrusalem. Vào ngày kết thúc mùa giáng sinh, tức là 40 ngày sau lễ giáng sinh, Giáo Hội tại Giêrusalem tổ chức rất long trọng biến cố này. Sau đó, vào năm 650 của thế kỷ VII, lễ này được mừng kính rộng rãi trong toàn thể Giáo Hội hoàn vũ.
Tuy nhiên, lối hiểu và cách thức diễn tả của Giáo Hội Đông phương thì nhấn mạnh đến việc gặp gỡ. Gặp gỡ giữa Thiên Chúa và dân của Người. Hình ảnh cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna chính là biểu trưng cho dân Chúa thời Cựu Ước mong chờ Đấng Cứu Thế, hôm nay, Đấng ấy đến, Ngài là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân. Còn đối với Giáo Hội Tây Phương thì tập trung vào ý nghĩa của việc Đức Maria Dâng con vào đền thờ và việc tẩy uế theo Luật nơi Mẹ Maria (x. Lv 12).
Trong những năm cuối thế kỷ thứ VII, đầu thế kỷ thứ VIII (678-701), Đức Giáo Hoàng Sét-gi-ô I đã quyết định thêm vào đó nghi thức rước nến trước thánh lễ. Cũng chính từ đây, lễ này còn được gọi là Lễ Nến, bởi vì trước thánh lễ có nghi thức làm phép nến ở tiền sảnh nhà thờ hay một nơi nào đó thuận tiện, và sau đó kiệu nến vào trong nhà thờ để cử hành thánh lễ. Điều này làm toát lên ý nghĩa Đức Giêsu chính là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân. Hôm nay Ngài đã đến và soi chiếu dân Người. Chính vì lý do này mà sau này, phụng vụ Giáo Hội tập trung và quy hướng về Đức Giêsu nhiều hơn về Đức Mẹ để làm toát lên vai trò là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân nơi Đấng Cứu Thế.
Trong phần khai mạc và cuộc rước nến, Đức Giáo Hoàng và đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím nói lên sự sám hối và ý hướng muốn được thanh tẩy. Điều này ngầm ám chỉ về Đức Maria chưa được thanh tẩy theo luật Do thái sau khi sinh con.
Khi đoàn rước tiến tới cửa đền thờ Đức Bà Cả, thì Chủ tế và đoàn đồng tế thay lễ phục màu trắng để diễn tả sự tinh tuyền, trong sạch của Đức Maria.
2. Ý nghĩa của ngày lễ
Hình ảnh nổi bật và ý nghĩa của ngày lễ chính là việc Dâng Đức Giêsu trong đền thờ. Việc Đức Giêsu được dâng lên cho Thiên Chúa trước sự vui mừng và hạnh phúc của cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna đã làm toát lên ý nghĩa của sự khao khát đợi trông của dân Itrael về Đấng Cứu Thế. Hôm nay, Ngài đến, Ngài đã trở thành Ánh Sáng chiếu soi nhân loại, trở thành trung tâm điểm của mọi tâm hồn.
Ngoài việc tập trung vào Chúa Giêsu như là Ánh Sáng soi chiếu muôn dân, Giáo Hội còn mời gọi con cái mình hướng về Mẹ Maria và thánh Giuse như là những mẫu gương công chính và thánh thiện.
Sự công chính và thánh thiện ấy được tìm thấy rõ nơi cung cách của thánh Giuse và Mẹ Maria. Các ngài đã trở thành nữ tỳ và tôi trung của Thiên Chúa, vì thế, sự khiêm nhường và vâng phục đã được tìm thấy nơi các ngài như là điểm son của đời sống thánh thiện.
Việc dâng Đức Giêsu, người Con Chí Ái và duy nhất lên cho Thiên Chúa đã thể hiện điều đó. Mặc dù các ngài thừa hiểu rằng: Người Con mà mình sắp dâng cho Thiên Chúa đây chính là Thiên Chúa làm người. Ngài là Chúa tể trời đất. Là Ánh Sáng cho muôn dân. Tuy nhiên, vì muốn trung thành với Luật và thể hiện lòng biết ơn Thiên Chúa, nên các ngài đã sẵn sàng tiến lên đền thờ để thi hành bổn phận như mọi người.
Thật vậy, theo truyền thống thì việc dâng con có thể thực hiện tại nhà. Còn việc tẩy uế nơi người mẹ thì cũng không nhất thiết phải cả chồng cùng đi. Tuy nhiên, vì yêu mến đền thờ, yêu mến nhà Thiên Chúa, nên các ngài đã vượt mọi khó khăn để lên đền thờ tiến dâng Đức Giêsu và thanh tẩy người Mẹ theo Luật định.
Như vậy, sự thánh thiện qua việc vâng lời đã làm cho thánh Giuse và Mẹ Maria xứng đáng được coi là những con người tốt lành và gương mẫu.
Dấu chỉ tiềm ẩn dành cho một gia đình tốt còn được biểu hiện qua việc sống nghèo và chịu nhiều đau khổ. Hình ảnh cặp bồ câu non chứng minh cho cái nghèo của gia đình Thánh Gia. Mặt khác, lời tiên tri của cụ già Simêon tiên báo về cuộc khổ nạn mà Đức Giêsu phải chịu và nỗi đau trong tâm Mẹ Maria như muốn tô đậm thêm điểm tốt của một gia đình trung thành với lề luật và Thiên Chúa để đón nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời.
Tuy nhiên, điều quyết định để thánh Giuse và Mẹ Maria thực sự trở nên một con người bình an, thánh thiện và tốt lành, đó là có sự hiện diện của Đức Giêsu trong gia đình và nhất là nơi tâm hồn.
3. Sống sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi mừng lễ Đức Mẹ dâng Chúa vào đền thờ, mỗi người chúng ta được mời gọi nhớ lại Bí tích Rửa Tội chúng ta đã lãnh nhận. Ngày đó, mỗi chúng ta được thuộc trọn về Chúa. Được trở nên con cái Thiên Chúa. Cũng chính từ đó, chúng ta được mời gọi đón nhận Ánh Sáng Chúa Kitô trong cuộc đời của mình, đồng thời có sứ mạng lan tỏa Ánh Sáng ấy cho người khác.
Khi đã thuộc về Chúa và đi theo Ánh Sáng là chính Ngài, chúng ta được mời gọi thực thi Lời Chúa cách yêu mến và trung thành như Mẹ Maria và thánh Giuse đã trung thành giữ luật trong lòng mến.
Mừng lễ dâng Chúa vào đền thờ hôm nay, chúng ta còn được mời gọi hãy tín thác và phó dâng cuộc đời, sự nghiệp, tương lai của chúng ta cho Chúa để được sống dưới sự hướng dẫn, dạy dỗ và soi dẫn của Người.
Lạy Chúa Giêsu là Ánh Sáng chiếu soi trần gian. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trung thành và yêu mến Luật Chúa như Mẹ Maria và thánh cả Giuse, để luôn được đi trong Ánh Sáng của Ngài. Amen.
17.Chúa Giêsu là Ánh Sáng (Lc 1, 21-28)--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Cách đây bốn mươi ngày, chúng ta đã hân hoan cử hành lễ Chúa Cứu Thế giáng sinh. Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Cứu Thế được Thân Mẫu và thánh Giuse dâng vào Đền Thánh, đưa chúng ta đi từ Mầu Nhiệm Nhập Thể đến Mầu Nhiệu Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế. Ngôi Lời, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, sinh ra và sống trong xã hội loài người, bị luật lệ loài người chi phối, theo Luật Môisen (x. Xh 13, 11-13); "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa" ( Lc 2, 23 ) đó là lý do Hài Nhi Giêsu được dâng cho Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lêvi: "Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái" (Lv 12, 6-8). Ông Simêon người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Kitô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi, ẵm Hài Nhi trên tay và chào là "Ánh Sáng muôn dân" (Lc 2, 32).
Trong ngày này, Giáo hội ca vang "Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Symêon, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người "(x. Phụng vụ Byzantine).
Tại sao Con Thiên Chúa lại phải dâng cho Thiên Chúa và Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền phải chịu thanh tẩy?
Theo thánh Dimitri de Rostov: "Mẹ Thiên Chúa tiến vào Đền Thánh vâng theo Luật Chúa, tay bồng ẵm chính Đấng là Lề Luật. Mẹ là Đấng vô tội, tinh tuyền không tì vết đến xin điều mà Mẹ không cần là thanh tẩy. Mẹ không nhận lãnh sự khoái lạc sung sướng của phu quân, đã sinh con mà không đau đớn, Mẹ được gìn giữ tinh tuyền không tì vết trước khi sinh và sau khi sinh Đấng là nguồn suối trong sạch, há Mẹ lại không tinh sạch sao? Đức Kitô đã sinh ra từ lòng Mẹ! Quả không bị hư hoại bởi cây, cây không bị nhơ bẩn bởi quả: Đức Trinh Nữ Rất Thánh vẫn trinh khiết vẹn tuyền sau khi sinh hạ Đức Kitô, Con lòng Mẹ. Mặt Trời công chính không làm tổn thương sự đồng trinh của Mẹ. Lẽ thường, máu không làm ô uế Cửa thiên đàng theo luật tự nhiên, Thiên Chúa ngập tràn ánh sáng thần linh đã vượt qua Cửa này, gìn giữ sự đồng trinh của Mẹ".
Thánh Phaolô nói: "Vậy bởi vì con cái có chung máu thịt với nhau, thì phần Ngài, giống y như vậy, các điều ấy Ngài cũng đã thông chia, để giải thoát những kẻ vì sợ chết mà suốt cả bình sinh sa vòng nô lệ" (Dt 2,14-15). Chúa đến với loài người là để cứu rỗi và giải thoát, chứ không phải để kết án luận phạt: "Vì thiết tưởng không phải Thiên Thần được Ngài bao bọc, nhưng Ngài bao bọc dòng giống Abraham... Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân" (Dt 2,16-17).
Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh Mẹ Thiên Chúa, cũng như Chúa Giêsu không buộc phải tuân theo nghi thức này, nhưng vì khiêm nhường và cũng để cho nhân loại noi theo mà tuân giữ luật Chúa, nhất là để cứu con người Chúa Giêsu đã làm điều đó, nên lễ này được gọi là Lễ Thanh Tẩy.
Hy Tế Cứu Chuộc
Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, mà chúng ta cử hành ngày 02 tháng 01 có một vị trí đặc biệt: vì lễ này loan báo Hy Tế Cứu Chuộc mang lại ơn cứu độ sau này. Đức Maria và thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, dù là Con Thiên Chúa, Đấng giầu sang phú quí để dâng vào Đền Thánh với của lễ đơn sơ là "cặp bồ câu non"! Đây là lần đầu tiên loan báo về Hy Tế Thánh. Chính Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người mạc khải cho chúng ta, việc dâng hiến này ám chỉ tương quan giữa nhân loại với Thiên Chúa Cha, qua trung gian cần thiết của Đức Trinh Nữ Maria đồng công cứu chuộc. Đây là Hy Tế đền tội hoàn hảo duy nhất cứu chuộc nhân loại. Lễ này là "bản lề" chuyển tiếp giữa hai mầu nhiệm Nhập Thể (Truyền tin) và Cứu Chuộc (Phục Sinh). Chúa Giêsu đến trần gian (Nhập thể), để Cứu chuộc chúng ta.
Sao lại làm phép nến và rước nến hay gọi là Lễ Nến?
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Được Ðức Maria và thánh Giuse đem vào Ðền Thánh, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Simêon và Anna là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Marria và thánh Giuse và các người già là Symêon và Anna. Chúa Giêsu là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.
Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: Thanh tẩy theo luật Do thái. Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Lời của cụ già Simêon nói: "Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân" (Lc 2, 32). Quả thật, hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Simêon bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giêsu là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.
Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng trên tay cụ già Simêon, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta... Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta phản chiếu ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người. Amen.
18.Cha mẹ hãy cho con tình thương--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong một lần dạy giáo lý hôn nhân tôi hỏi: Nếu như bạn phải tặng cho con cái điều quý giá nhất bạn sẽ chọn: dạy dỗ, làm gương, dành thời giờ ở bên con, miệt mài làm việc cho con tiền ăn học, vợ chồng yêu thương nhau thì các bạn sẽ chọn điều gì?
Xem ra yếu tố nào cũng quan trọng và cần thiết nhưng có một yếu tố quan trọng hơn theo tôi đó là vợ chồng yêu thương nhau.
Câu trả lời xem ra không thỏa mãn. Thế nhưng, thử hỏi nếu vợ chồng không thương yêu nhau thì mái nhà có giữ được không? Và nếu như vợ chồng không yêu thương nhau con cái sẽ ra sao? Mái nhà có là mái ấm hay là hỏa ngục trần gian?
Người ta thống kê số các tội phạm thanh thiếu niên hay những thanh thiếu niên hư hỏng đa phần là do cha mẹ chúng thiếu tình yêu thương nhau. Có thể họ đã ly dị nên con cái trả thù đời bằng việc lao vào các tệ nạn xã hội. Có thể do cha mẹ chúng hay bất hòa với nhau nên con cái không muốn ở nhà chỉ thích lêu lổng và phá phách. Có thể cha mẹ chúng thiếu hợp nhất nên con cái cũng mạnh đứa nào đứa nấy sống.
Thực vậy, điều quý nhất mà cha mẹ có thể tặng cho con cái mình là tình yêu thương của gia đình. Cha mẹ yêu thương nhau. Con cái hòa hợp với nhau. Ðó chính là một cái nôi hạnh phúc mà khi con người được sống trong cái nôi êm đềm ấy thì khó có thể hư hỏng được. Cha và mẹ cứ nên nhắn nhủ với con cái với sứ điệp rằng "mặc dù cha mẹ không phải là hoàn hảo, thỉnh thoảng cũng có cãi lẫy, giận hờn với nhau, nhưng ba mẹ lúc nào cũng ở bên cạnh nhau và bên cạnh các con". Cha và mẹ sống yêu thương nhau thì con cái sẽ học được bài học tình yêu từ chính trong nôi gia đình.
Các nhà xã hội học cho rằng trẻ em hôm nay đang sống trong một thế giới đầy bất an. Những nỗi lo sợ chồng chất từ gia đình đến xã hội là nguyên nhân gây nên những biến chứng trong cách cư xử của các em, bệnh trầm cảm và các rối loạn tinh thần. Một trong các mối lo sợ lớn nhất của các em ở lứa tuổi đi học là sợ cha mẹ chúng ly dị. Nhiều em thường xuyên phải nghe các tin đau lòng rằng cha mẹ của bạn mình trong lớp đang chia tay, hay thần tượng điện ảnh này của các em đang ra tòa xin ly dị, và các em cũng vô cùng hoang mang không biết chừng nào đến phiên cha mẹ mình sẽ chia ly. Nhiều em mắc phải sự lo âu thấp thỏm mỗi ngày, không biết chừng nào cái tin sét đánh này xảy đến cho cuộc đời của chúng nó.
Ðây cũng là điều gia đình thánh gia có thể vượt qua sóng gió khi họ yêu thương nhau. Họ bỏ qua những hồ nghi, những niềm vui riêng để gánh lấy trách nhiệm nuôi nấng Con Chúa Trời Chí Thánh. Các ngài luôn chứng minh cho mọi người rằng các ngài luôn sẵn sàng ở bên nhau và cùng dìu nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Các ngài luôn lấy tình yêu của lòng nhân hậu bao dung để đối xử với nhau. Nhất là các ngài luôn ở bên nhau vì tin vào Chúa nên dám đón nhận nhau trong yêu thương hợp nhất.
Hôm nay chúng ta quy tụ nhau nơi đây để cử hành nghi thức dâng con vào đền thờ. Hành vi dâng con vào đền thờ là hành vi thờ phượng để tạ ơn về ân ban Chúa ban là con cái được sinh ra. Dâng con vào đền thờ cũng xác định quyền và bổn phận giáo dục con cái của chúng ta. Chỉ có cha mẹ mới có quyền giáo dục con cái mình. Chỉ có cha mẹ mới có bổn phận giáo dục con cái của mình. Quyền và bổn phận vừa là vinh dự, vừa là trách nhiệm mà chúng ta phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa và xã hội.
Trước mặt xã hội cha mẹ phải lãnh lấy trách nhiệm nếu con cái hư hỏng trước tuổi thành niên. Trước mặt Thiên Chúa thì cha mẹ phải trả lẽ trước mặt Chúa trong chính lương tâm của mình suốt cuộc đời.
Ðứng trước một trách nhiệm lớn lao như vậy, đòi hỏi cha mẹ phải hy sinh để nuôi dậy con cái. Sự hy sinh đòi cha mẹ phải "một điều nhịn chín điều lành" để gìn giữ mái ấm gia đình ngập tràn yêu thương. Sự hy sinh không chì dừng lại sự lam lũ kiếm tiền cho con cái mà còn hy sinh để cho con cái thấy tình thương của cha mẹ dành cho nhau và cho con cái. Có như vậy chúng ta mới mang lại sự phát triển tâm sinh lý nơi con trẻ một cách hoàn hảo. Và chắc chắn con cái sẽ biết ơn cha mẹ vì được sống trong một cái nôi đầy ắp yêu thương.
Ước gì chúng ta luôn dành tình yêu cho gia đình chúng ta, cho vợ chồng, cho con cái. Trên hết mọi sự hãy lấy tình yêu mà đối xử với nhau để xây dựng mái ấm gia đình hạnh phúc và là chỗ dựa vững chắc cho con cái vào đời. Amen.
19.Tuân Hành Ý Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Lễ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ bao gồm hai sự kiện khác nhau: một là Đức Mẹ dâng con trai cho Thiên Chúa, và hai là Đức Mẹ 40 ngày sau khi sinh được thanh tẩy. Mỗi sự kiện đều có ý nghĩa riêng, nhưng từ thuở nào đến giờ, trong phụng vụ, cả hai đã được nối kết thành một. Đây là lễ “vừa tôn vinh Chúa vừa mừng kính Đức Maria”.
Sau khi sinh hạ Chúa Giêsu được 40 ngày, Mẹ Maria và Thánh Giuse đưa Hài Nhi lên đền thánh Giêrusalem và hiến dâng lên Thiên Chúa đúng theo Lề luật của Môisen. Mẹ Maria cũng được làm phép thanh tẩy như tập tục của người Do thái sau khi sinh con.
Lễ Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ cũng gọi là Lễ Nến, vì cây nến cháy tượng trưng Chúa Kitô là “Ánh Sáng muôn dân”. Cha chủ tế làm phép nến và cùng cộng đoàn rước nến vào Nhà thờ. Giáo dân dùng nến đã làm phép để thắp sáng trên bàn thờ gia đình và trong những trường hợp khó khăn hay bệnh tật.
Hôm nay chỉ đơn sơ chiêm ngưỡng như trong mầu nhiệm Mân Côi thứ bốn Mùa Vui “Đức Bà dâng Đức Chúa Giêsu trong đền thánh, ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy”. Trong lễ dâng đặc biệt này, ta gặp thấy những góc cạnh khác nhau của sự “tuân phục”.
1. Tuân giữ luật lệ
Biết rõ Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa làm người, nhưng hai ông bà xem trọng việc tuân giữ luật lệ, vốn được quy định trong truyền thống tôn giáo Do Thái. Hai ông bà chu toàn việc lên đền thờ như luật Môsê truyền dạy (Xh 13): dâng con trai đầu lòng lên Thiên Chúa để nhớ về ơn giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Chuyện dâng con chỉ có vậy, nhưng được liên kết với việc Đức Maria được thanh tẩy sau khi sinh, theo quy định từ sách Lêvi, khiến cho ngày lễ bừng lên ánh sáng mới. Nếu theo nhãn giới của Thánh Vịnh, người ta chỉ dám dâng của lễ thanh khiết với tay sạch lòng thanh, thì với Đức Maria, được nên tinh sạch sau việc sinh nở chính là việc cần làm trước khi có thể xuất hiện trước tôn nhan mà trình dâng người con của mình cũng là Con Thiên Chúa làm người. Thành thử, trong cùng một bước lên đền thờ, thánh Giuse và Mẹ Maria đã nêu cao tấm gương tuân giữ khít khao lề luật.
2. Tuân hành ý Chúa
Hai nhân vật lớn tuổi quen thuộc với đền thờ bỗng dưng được Thánh Thần thúc đẩy đến đúng lúc nghi thức được cử hành cho trẻ Giêsu. Niềm vui của bậc lão thành sau nhiều năm chờ đợi ơn cứu độ cho Israel, giờ đây đã mãn nguyện, không chỉ nghe kể lại như trong lịch sử, mà chính mắt trần đã mở rộng thấy tường, chính đôi tay đã bồng ẵm nâng niu, chính miệng lưỡi đã hát lên ca tụng và công bố cho mọi người biết trẻ Giêsu là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Người”. Và còn có niềm vui của chính thánh gia, dù âm thầm không thành lời nhưng thật đậm đà thẳm sâu, đầy vinh quang thánh thiện trong thái độ tuân hành.
Nhưng ơn Chúa thường đi kèm với ý Chúa. Giữa lưng chừng niềm vui đang độ tràn trề, cụ Simêon đã hướng đến Đức Maria bằng lời tiên đoán vận mệnh “một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Như sét đánh ngang tai. Nhưng Đức Maria đã hết dạ tuân hành, cho dẫu trái tim có phải rướm máu. Và đó cũng là bóng thập giá của ngày dâng Con trong đền thờ. Thế mới biết thánh ý cũng gần gũi với thánh giá, và tiến dâng cũng đồng nghĩa với hiến dâng, một lễ dâng sẽ còn phải lập lại dài dài trong đời của Đức Maria và của cả thánh gia.
3. Tuân theo nề nếp gia phong
Kết thúc lễ dâng, thánh gia trở lại quê nhà và trẻ Giêsu lớn lên cả về tinh thần và thể chất, trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Phúc Âm chỉ kế lại vắn gọn như thế, nhưng chừng đó thôi cũng đủ để hình dung hiệu quả tích cực nối dài của dịp lên đền. “Trẻ em như búp trên cành, biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”. Trẻ Giêsu cũng thế, phó thác đời mình trong tay cha mẹ, thể hiện từng ngày sự tuân phục, vừa theo định luật tăng trưởng tự nhiên, vừa theo nếp sống tôn giáo giữa mái ấm gia đình. Ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay.
Nếu khi được ẵm bồng trên tay, trong Thánh Thần, trẻ Giêsu đã được cụ Simêon ca tụng là “Thiên Chúa viếng thăm dân Người và trở nên Ánh sáng muôn dân”, thì cả quãng đời ẩn danh khiêm tốn, thánh gia đã là khuôn nôi hạnh phúc, thành điểm sáng cho mọi gia đình soi chung. Không có những phép lạ ngoạn mục kiểu Phúc Âm ngụy tác, như lấy đất nặn thành chim rồi thổi hơi vào là biến thành chim thật bay xa; nhưng chắc chắn luôn có những ơn lạ đậm đà bình an dành cho những ai sống tuân theo nề nếp gia phong và yêu thương vâng phục. Không có những công trình hoành tráng được thực hiện hay những việc vĩ đại người người biết đến, nhưng luôn có những việc không tên được làm với trái tim rộng mở cho tình yêu mỗi ngày mỗi thêm lớn mãi.
Ngày Mẹ dâng Con trong đền thánh cũng là ngày trẻ Giêsu trở thành người con hiếu thảo nơi mái ấm Nadaret, trở nên thành viên tốt nơi môi trường xã hội và rất đẹp lòng Thiên Chúa: “Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40).
Theo truyền thống Giáo hội, vào dịp lễ này, người mẹ đem con nhỏ đến Nhà thờ để dâng cho Chúa. Cha chủ tế đặt tay chúc lành và tặng quà cho các cháu nhỏ.
Trong tông huấn “Marialis Cultus”, bàn về lòng tôn sùng kính mến Mẹ, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã gọi Mẹ là “Trinh nữ hiến dâng”. Từ năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đặt ngày lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thờ làm ngày của Đời Sống Thánh Hiến. Chúa Giêsu được dâng hiến cho Chúa Cha nên trọn vẹn thuộc về Cha. Suốt đời, Ngài sống cho Cha, thi hành thánh ý Cha, vâng lời Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết thập giá. “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha“, đây là một hiến dâng trọn vẹn nhất. Những người sống đời thánh hiến muốn noi gương Chúa Giêsu, dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa.Theo lời khuyên của Phúc âm, các Tu sĩ tự nguyện sống đời trong sạch, nghèo khó và vâng lời.
Huấn thị “Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô” của ĐTC Gioan Phaolô II viết cho các Tu sĩ, được đúc kết lại trong ba chữ S: Say mê Đức Kitô, Sống hiệp thông và Sẵn sàng lên đường cho sứ vụ.
Tu sĩ là người cảm nhận tình yêu sâu xa của Thiên Chúa và muốn đáp trả lại. Đó là tình yêu hy sinh, quên mình, phục vụ, tình yêu thể hiện bằng việc làm, bằng chính bản thân. Tu sĩ dâng hiến cả cuộc đời mình cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Chính tình yêu đã khiến các Tu sĩ muốn nên giống Chúa Giêsu. Ba lời khấn chỉ có giá trị với tình yêu trọn vẹn. Ba lời khấn chính là ba khía cạnh biểu lộ một tình yêu. Thiếu tình yêu, những lời khấn trở thành hình thức, nặng nề, trói buộc.
Khi trung thành với lời khuyên của Phúc âm, các Tu sĩ trở nên ánh sáng của Thiên Chúa giữa trần gian. Ánh sáng siêu thoát trên của cải vật chất. Ánh sáng trao ban quảng đại. Ánh sáng tự chế ngự bản thân. Ánh sáng quên mình vì hạnh phúc của người khác. Ánh sáng lý tưởng, nâng tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Ánh sáng của một tình yêu dâng hiến.
Hiệp thông cầu nguyện đặc biệt cho các Tu Sĩ Nam Nữ luôn là người say mê Đức Kitô trong đời sống tâm linh, sống hiệp thông trong tình huynh đệ và luôn sẵn sàng lên đường thực thi sứ vụ để trở nên ánh sáng giữa cuộc đời hôm nay.
20.Ánh sáng soi đường cho dân ngoại, vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài--Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên
Nếu như trong lễ Hiển Linh chúng ta cử hành việc Đức Giêsu tỏ mình ra cho các Đạo sĩ, là Dân ngoại, thì hôm nay khi được dâng trong Đền Thờ, Ngài đã tỏ mình ra cho chính dân tộc của Ngài.
Lễ Nến được mừng vào ngày thứ 40 sau lễ Giáng Sinh, kết thúc những ngày lễ trọng mừng việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người nơi Ngôi Lời mặc lấy xác phàm. Lễ này còn có tên gọi là lễ Đức Maria được thanh tẩy theo Luật Môsê hay lễ Dâng Chúa trong Đền Thờ.
Sở dĩ có ngày lễ này là vì theo Luật Môsê quy định: Thứ nhất, các trẻ sơ sinh, trong thời gian Luật định, phải mang lên Đền Thờ dâng cho Thiên Chúa. Thứ hai, người phụ nữ sau khi sinh con (nếu là con trai) thì sau 40 ngày phải lên Đền Thờ để được thanh tẩy. Vì thời đó người ta cho rằng khi sinh con, người phụ nữ bị ô uế. Thứ ba, con đầu lòng là tài sản của Thiên Chúa. Vì thế có tục lệ dâng con và lễ vật cho Thiên Chúa để chuộc lại con.
Sau khi sinh Đức Giêsu được 40 ngày, Đức Maria và Thánh Giuse đã làm như Luật dạy. Thực ra, Đức Mẹ không cần phải làm nghi thức thanh tẩy, bởi vì Mẹ sinh con mà vẫn trọn đời trinh khiết, không một vết nhơ nào có thể chạm đến con người thánh thiện của Mẹ, nhưng Mẹ vẫn khiêm tốn thi hành những gì lề luật truyền dạy.
Tuy nhiên, sự xuất hiện của vị “sứ giả của giao ước” hôm nay có vẻ không giống như những gì mà ngôn sứ Malakhi đã loan báo. Bởi theo viễn tượng của vị ngôn sứ này, thì vị sứ giả của Thiên Chúa sẽ đến một cách bất ngờ để tái lập lại nền phụng tự của dân Thiên Chúa vốn đã trở nên lệch lạc bởi sự chểnh mảng của các tư tế cũng như sự thờ ơ của dân chúng: “Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, - ĐỨC CHÚA các đạo binh phán. Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt. Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc” (Ml 3,1-3).
Không riêng gì ngôn sứ Malakhi, mà ngay cả Gioan Tẩy Giả cũng loan báo về Đấng Messia với những lời lẽ tương tự: “Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi." (Mt 3,12).
Trái ngược hẳn với những hình ảnh đáng kinh sợ mà các ngôn sứ đã loan báo, hôm nay, Chúa Giêsu - vị sứ giả của giao ước - lại bước vào đền thờ một cách âm thầm dưới hình hài của một trẻ thơ. Có lẽ sẽ chẳng có ai nhận ra Ngài cho đến khi cụ già Simêon – người được Thánh Thần linh hứng – loan báo rằng: Hài Nhi Giêsu mà ông đang bồng ẵm trên tay chính là “Ơn cứu độ mà Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Là Ánh sáng soi đường cho nhân loại và là vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc 2,30-32)
Mừng lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thờ hôm nay, Giáo Hội muốn giới thiệu cho chúng ta: Chúa Giêsu là ÁNH SÁNG từ trời cao, được đưa vào đền thờ, để thắp sáng cho trần gian. Nhưng tiếc rằng, ánh sáng đó đã được chiếu soi vào nhân loại hơn 2000 năm qua mà vẫn chưa được nhiều người đón nhận.
Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta cũng được trao cho cây nến sáng với lời nhắc nhở rằng: Con hãy nhận lấy ánh sáng Chúa Kitô và hãy làm cho ánh sáng ấy cháy lên mãi… Vậy hôm nay, chúng ta hãy tự kiểm điểm lại xem, tôi và gia đình tôi đã làm gì để ánh sáng Chúa Kitô được thắp sáng nơi môi trường sống của mình?
Việc Chúa Giêsu được dâng trong đền thánh là hình bóng hiến lễ Ngài sẽ dâng chính mình trên đồi Canvê. Thư Do Thái dạy rằng: Đức Kitô vừa là của lễ hoàn hảo đền tội chúng ta, vừa là tư tế dâng chính mình Ngài như của lễ. Mừng lễ hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi hãy phó dâng bản thân cũng như mọi thành viên trong gia đình chúng ta cho Thiên Chúa để chính Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta đi. Đó cũng là ý nghĩa cao đẹp mà nhiều hội dòng lựa chọn ngày lễ này làm lễ khấn dòng của mình. Để qua việc công khai đáp trả lại ba lời khuyên Phúc Âm, các tu sĩ cũng muốn trở nên ánh sáng cho trần gian và hiến dâng cuộc đời mình làm của lễ sống động cho Thiên Chúa và cho anh chị em mình.
Sau cùng, mỗi tín hữu cũng được mời gọi noi theo các nhân đức của Đức Mẹ và thánh Giuse bằng việc yêu mến và thực thi nghiêm chỉnh những lề luật của Thiên Chúa, cho dù đó là điều nhỏ bé và tầm thường nhất, để nhờ đó, chương trình và ý định của Thiên Chúa được thể hiện trong cuộc đời này.
Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng đã đến trong trần gian. Như mặt trăng tiếp nhận ánh sáng từ mặt trời, xin cho chúng con cũng biết tiếp nhận ánh sáng từ nơi Chúa là mặt trời công chính, để trần gian luôn tràn ngập ánh sáng của tình yêu thương, sự cảm thông và tha thứ. Nhờ đó nơi gia đình, giáo họ, giáo xứ và cộng đoàn chúng con luôn được sống trong bình an và hạnh phúc. Amen.
21.Dâng hiến chính mình cho Chúa, và sống theo ánh sáng của Chúa--tinvuixuanloc.vn
Câu chuyện:
Anrê Corsinô, ngay từ khi mới sinh đã được cha mẹ giáo dục cách đặc biệt. Mẹ Anrê đã dâng con mình cho Đức Mẹ Maria cách riêng và hướng dẫn con trên đường đạo đức. Nhưng vừa khôn lớn, Anrê đã ảnh hưởng những trẻ em vô giáo dục mà trở nên chơi bời hư đốn. Cha mẹ cậu hết sức đau buồn, ngày đêm tha thiết cầu nguyện cho con mình được cải thiện đời sống.
Một hôm bà vừa khóc vừa bảo con:
"Anrê con ơi, con chính là con chó sói mà mẹ đã mơ thấy ngày xưa. Trước khi sinh con, mẹ nằm mơ thấy một con chó sói chạy vào nhà thờ Đức Mẹ ở Carmes, khi trở ra, nó đã trở nên hiền lành như con chiên. Cha mẹ đã hiến dâng con cho Đức Mẹ, nhưng cách sống của con rõ ràng đúng như giấc mộng mẹ đã thấy, ít là phần đầu. Mẹ sẽ sung sướng chừng nào, nếu trước khi nhắm mắt, mẹ được thấy phần thứ hai của giấc mơ".
Những lời nói tha thiết đó làn Anrê cảm động. Biết mình đã thành con riêng của Đức Mẹ, Anrê lo cải thiện đời sống, tránh xa dịp tội, thời gian sau, cậu từ bỏ trần đời, dâng mình trong tu viện tại Carmes, sau cùng cậu trở thành thánh Giám mục Anrê Corsino.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thánh. Chúng ta cùng theo Mẹ Maria và thánh Giuse lên đền thờ để được thanh tẩy và dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa và luôn sống theo ánh sáng của Chúa Kitô.
1.Ý nghĩa lịch sử:
Theo luật Do Thái, khi người mẹ sinh con trai, nhất là con đầu lòng, sau 40 ngày, cha mẹ phải đưa đến Đền thờ, trước là dâng con cho Chúa, sau là chính mình làm lễ tẩy uế (x.Lc 2, 22).
Mẹ Maria đã vâng theo lề luật Do Thái, Mẹ đã dâng Chúa Giêsu vào Đền thánh theo luật định: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa" (Lc 2, 23).
Dâng con trong đền thờ chính là để thánh hiến người con cho Thiên Chúa và cha mẹ có thể thế chân bằng cách dâng cúng của lễ như chim bồ câu hay chiên bò.
Thánh lễ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ V tại Giêrusalem. Mãi đến năm 650, thánh lễ này mới du nhập vào Rôma.
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này như lễ gặp gỡ của Chúa: Đấng Mesia tiến vào Đền thờ và gặp đại diện dân Chúa của Cựu ước qua ông già Simêon và bà tiên tri Anna. Còn Giáo hội Tây phương lại cử hành Thánh lễ này để mừng kính Đức Maria: Thanh tẩy theo luật Do thái.
Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào Nghi thức rước nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Vì thế, từ thế kỷ thứ VIII, thánh lễ được gọi là Lễ Nến. Nghi thức làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu.
Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, Giáo Hội cử hành thánh lễ này đã qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Lễ Nến, nhắc nhở các Kitô hữu đón nhận nguồn sáng linh thiêng từ Nến Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô để thắp sáng trong từng tâm hồn, từng gia đình và toàn thể xã hội loài người, vì Chúa Giêsu Kitô chính là ánh sáng cho trần gian.
2.Áp dụng vào đời sống:
1). Theo gương Mẹ Maria, mỗi người chúng ta cần phải thanh tẩy tâm hồn cho xứng đáng khỏi những tội lỗi, yếu đuối của bản thân. Bởi vì, chúng ta đang sống trong bóng tối của tội lỗi, có nghĩa là chúng ta đang sống trong bóng tối, nô lệ ma quỉ và chúng ta sẽ chết. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết nhận ra tội lỗi của mình. Biết sám hối, hoán cải và canh tân đổi mới đời sống, chúng ta sẽ sống trong trong ánh sáng cứu độ của Chúa Giêsu.
2). Giáo hội mời gọi chúng ta hãy luôn đón nhận ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô là nguồn sáng cho nhân loại. Ánh sáng chân lý của Chúa chính là Tin Mừng, là Lời Chúa mà chúng ta được nghe đọc hằng ngày. Chính Tin Mừng của Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta đi theo đường công chính của Ngài.
3). Như chính Đức Maria ngày xưa hiến dâng Chúa Giêsu vào đền Thờ, thì ngày nay chúng ta cũng hiến dâng linh hồn, thân xác và cả cuộc sống của chúng ta cho Thiên Chúa. Điều này thật ý nghĩa cho những ai đang sống trong đời sống tu trì. Đó là những Giám mục, linh mục, và tu sĩ nam nữ đã quảng đại hiến dâng chính mình để phụng sự Chúa, phục vụ Giáo Hội và loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các người trẻ hôm nay, cũng hãy can đảm bước theo con đường tu trì, sống đời hiến dâng và phục vụ.
4). Mẹ Maria và Thánh Giuse bồng ẵm Chúa Hài Đồng lên đền thờ và dâng cho Thiên Chúa là hình ảnh diễn tả một mẫu gương cho các gia đình Công Giáo hôm nay. Thiên Chúa đã ban cho mỗi gia đình trở thành cộng đoàn yêu thương, nâng đỡ nhau trong tình vợ chồng, và cha mẹ luôn lo lắng chăm sóc cho con cái được mạnh khỏe, ngoan ngoãn, đạo đức và thánh thiện. Điều này đòi hỏi qua các bậc cha mẹ phải luôn chu toàn bổn phận giáo dục con cái. Những người con như một quà tặng sự sống vô giá, chúng ta xin Chúa chúc lành cho tuổi thơ của các em được lớn lên trong tình thương của Chúa, của cha mẹ và mọi người một cách trọn vẹn. Bởi thế, Năm Mục vụ Gia đình, Giáo Hội đặc biệt chú trọng đến việc huấn luyện cho các người trẻ chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, để khi bước vào thực tế cuộc sống gia đình, họ sẽ trở thành những người cha, mẹ gương mẫu, nên gương sáng cho con cái, av2 chính gia đình của họ sẽ rất tốt lành.
Lạy Chúa, Chúa là ánh sáng của trần gian. Xin Chúa luôn chiếu tỏa ánh sáng chân lý soi bước đường từng người chúng con và cũng xin Chúa ban cho các bậc làm cha mẹ luôn là ánh sáng đích thực trong lời nói cũng như việc làm cho con cái của họ, để trong mọi trách nhiệm giáo dục con cái theo ý của Chúa và Giáo Hội mong muốn. Amen.
22.Tiến dâng Đức Giêsu cho Thiên Chúa--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Gia đình của Đức Giê-su tôn trọng lề luật như thế nào? Tại sao phải tôn trọng lề luật?
2. Các kinh sư Do Thái là những người giữ các luật tôn giáo một cách rất nhiệm nhặt. Họ có vì thế mà trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa không? Tại sao? Bạn rút ra được bài học gì cho việc giữ luật của bạn?
3. Tình yêu và lề luật, cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện? Cái nào làm cho bạn trở nên công chính, thánh thiện?
Suy tư gợi ý:
1) Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se tôn trọng lề luật
Bài Tin Mừng cho thấy Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se đã chu toàn những tập tục của luật Mô-sê liên quan đến việc hạ sinh Đức Giê-su. Luật Mô-sê qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21). Khi được 1 tháng tuổi, trẻ phải được đem tới đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con đầu lòng - dù là người hay là thú vật - đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì nó thuộc về Ngài, rồi phải chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh 13,2.12-13; Ds 18,15-16). Nếu sinh con trai thì khi nó được 40 ngày, hoặc nếu sinh con gái thì khi nó được 80 ngày, người mẹ phải làm lễ tẩy uế, và phải dâng lễ toàn thiêu bằng một con chiên con, người nghèo có thể thay thế bằng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non như Đức Ma-ri-a đã làm (x. Lv 5,7; 12,8). - Mặc dù biết Đức Giê-su, con của mình, là Con Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se vẫn tuân thủ tất cả những gì lề luật đòi buộc. Đó là một gương mẫu cho chúng ta.
2) Vấn đề: có nên giữ luật như các kinh sư Do Thái không?
Như vậy là chúng ta phải nghiêm chỉnh tuân giữ lề luật. Nhưng một vấn đề rất cụ thể và hết sức thiết thực đặt ra cho chúng ta là: các kinh sư Do Thái, những người Pha-ri-sêu, nổi tiếng là giữ luật một cách nhiệm nhặt, nhưng lại bị Đức Giê-su chê trách rằng họ chẳng hề tuân giữ lề luật. Thật vậy, Đức Giê-su đã từng tuyên bố với các kinh sư Do Thái rằng: « Ông Mô-sê đã chẳng ban Lề Luật cho các ông sao? Thế mà không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Ga 7,19). Stê-pha-nô cũng nói với các kinh sư Do Thái tương tự như thế trước khi bị họ ném đá chết: «Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ» (Cv 7,53). - Vậy phải giữ luật như thế nào mới được gọi là thật sự giữ luật? mới đẹp lòng Thiên Chúa? mới trở nên thánh thiện đích thực?
3) Cần phân biệt luật tổng quát và luật chi tiết
Trong tôn giáo, lề luật là những điều mà mọi tín đồ phải thực hiện hay tuân giữ để thực hiện tinh thần hay mục đích của tôn giáo: nên trọn lành, được cứu rỗi. Luật lệ gồm hai phần mà chúng ta cần phân biệt:
Phần tinh thần, mang tính tổng quát, phát xuất từ Thiên Chúa. Phần này - tương tự như hiến pháp trong một quốc gia - là những nguyên tắc mang tính tổng quát, nhưng hết sức quan trọng. Có thực hiện được những nguyên tắc tổng quát này thì mới đạt được mục đích của tôn giáo. Trong Ki-tô giáo, có hai nguyên tắc tổng quát nhất là: «Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình» (Lc 10,27); «Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy» (Mt 22,40).
Hai nguyên tắc này đã được thánh Phao-lô và Gia-cô-bê tổng hợp lại thành một nguyên tắc duy nhất: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật (...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8.10); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô» (Gl 6,2); «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gc 2,8). Chính Đức Giê-su cũng tuyên bố rất rõ ràng: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,35).
Phần cụ thể, mang tính chi tiết, thường do con người lập nên bằng cách suy diễn từ những điều luật tổng quát trên cách áp dụng cụ thể những điều luật ấy trong mọi tình huống của đời sống con người. Phần này - tương tự như luật pháp trong một quốc gia - gồm những điều luật cụ thể giúp thể hiện một cách chi tiết những điều luật tổng quát (trong quốc gia là hiến pháp). Ki-tô giáo có vô số điều luật - trong giáo luật cũng như trong từng lãnh vực của tôn giáo - nhằm cụ thể hóa và chi tiết hóa hai nguyên tắc tổng quát «mến Chúa, yêu người» nói trên. Mọi Ki-tô hữu đều phải cố gắng thực hiện những qui định mang tính chi tiết này, để nhờ đó thực hiện cách hoàn hảo hai nguyên tắc tổng quát trên.
4) Giá trị của hai thứ luật trên
Những điều luật căn bản, mang tính tổng quát thì có giá trị tuyệt đối, con người phải thực hiện trong bất kỳ tình huống nào, và không hề có luật trừ. Đó là luật phát xuất từ Thiên Chúa. Theo tinh thần của đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46 thì Thiên Chúa chỉ phán xét con người theo điều luật tổng quát này của Ngài mà thôi.
Những điều luật mang tính chi tiết đều phải nhằm giúp con người thực hiện điều luật tổng quát trên trong những tình huống cụ thể hơn. Do đó, chúng chỉ có giá trị khi nhằm mục đích thực hiện hoàn hảo những nguyên tắc tổng quát trên và khi phù hợp với mục đích ấy. Do đó, bất cứ điều luật chi tiết nào nếu đem áp dụng trong những hoàn cảnh cụ thể mà phản ảnh đúng hay phù hợp với những nguyên tắc tổng quát trên, thì người tín hữu buộc phải tuân giữ. Trái lại, nếu trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó, việc áp dụng những luật cụ thể này lại đi ngược với tinh thần của điều luật tổng quát trên, thì trong hoàn cảnh cụ thể ấy, người tín hữu không buộc phải tuân theo. Chính Đức Giê-su đã sẵn sàng lỗi luật ngày sa-bát khi mà nếu giữ luật chi tiết này trong những trường hợp cụ thể Ngài gặp thì hóa ra lại vi phạm một luật tổng quát hơn, là luật yêu thương (x. Mt 12,1-8; 9-14; Lc 13,10-17; 14,1-6; Ga 5,1-18; 9,1-41). Vì khi soạn ra những điều luật chi tiết này, không ai có thể nghĩ ra hết tất cả những trường hợp luật trừ, là những trường hợp mà tuân hành những luật này sẽ trở nên vi phạm những lề luật cao hơn hay tổng quát hơn.
Trong hiến pháp của một quốc gia thường có một khoản qui định rằng bất cứ một điều khoản nào trong luật pháp mà đi ngược lại tinh thần của bất kỳ một điều khoản nào trong hiến pháp, thì điều khoản trong luật pháp ấy trở thành vô giá trị, không phải tuân giữ. Hiến pháp mới là căn bản, luật pháp chỉ là công cụ hay phương tiện để thể hiện hay thực hiện hiến pháp mà thôi. Vậy chúng ta cần phải tập trung quan tâm vào việc thực hiện điều luật tổng quát của Ki-tô giáo là «mến Chúa, yêu người», mà tóm gọn hơn nữa là «yêu người», hơn là chú tâm thực hiện những chi tiết của lề luật thành văn. Nói thế không có nghĩa là không cần thực hiện những điều luật chi tiết, vì theo Đức Giê-su thì: «Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23b).
5) Một cám dỗ thường xảy ra đối với việc thực hiện lề luật
Người tín hữu không được giáo dục đức tin đầy đủ thường bị cám dỗ chỉ quan tâm thực hiện những điều luật chi tiết, cụ thể, thậm chí quan trọng hóa cả những chi tiết của luật lệ, mà không hề quan tâm tới tinh thần tổng quát của lề luật. Do đó, thường xảy ra tình trạng như sau: có những tín hữu giữ những luật lệ tôn giáo một cách hết sức chi tiết, tỉ mỉ, được mọi người coi là đạo đức, thánh thiện. Nhưng nếu những người ấy tự xét mình một cách nghiêm túc xem mình đã thật sự mến Chúa yêu người chưa, thì họ phải tự nhìn nhận là chưa, hoặc còn thiếu sót hơn cả những người bình thường khác.
Điều chúng ta phải lấy làm lạ và phải suy nghĩ thật nghiêm túc là: các kinh sư Do Thái giữ luật nhiệm nhặt như vậy, thế mà Đức Giê-su lại đánh giá rằng «không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Ga 7,19), tại sao? Vì tuy họ quan tâm giữ nhiệm nhặt nhiều điều khoản của tôn giáo, nhưng họ lại «bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành » (Mt 23,23). Và những khoản luật mà họ tuân giữ nhiệm nhặt ấy nghĩ cho cùng cũng «chỉ là giới luật của phàm nhân» (Mt 15,9). Nên việc giữ luật nhiệm nhặt ấy cuối cùng lại trở thành «sôi hỏng bỏng không», hay như «công dã tràng»!
Còn cách giữ Luật Chúa của chúng ta thì sao? Liệu Thiên Chúa có đánh giá chúng ta, những người đang tự hào là giữ luật một cách nghiêm nhặt, tương tự như thế không? Rất có thể, vì chúng ta chỉ chú ý tới cái «xác của lề luật», là những điều khoản thành văn, mà không chú ý tới cái «hồn của lề luật», tức tinh thần của lề luật. Xác mà không có hồn thì chỉ là xác chết, vô giá trị! Chắc chắn tới ngày phán xét, rất nhiều người đã giữ luật một cách nhiệm nhặt không kém gì các kinh sư Do Thái, nhưng lại đứng vào hàng ngũ «quân bị nguyền rủa » (Mt 25,41), chỉ vì "xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống, v.v...» (25,42tt). Tội nghiệp cho họ là những kẻ mà Luật Chúa thì không thèm giữ chỉ toàn lo giữ «luật của phàm nhân»!
Lạy Cha, xin cho con biết tôn trọng Luật Cha là luật yêu thương. Xin ban cho con tinh thần của thánh Âu-Tinh: «Cứ yêu đi, rồi làm gì thì làm!» Con nhận ra rằng con chỉ chu toàn được Luật của Cha khi con thật sự yêu thương mà thôi. Vì thế, xin Cha cho con biết yêu thương!
23.Thắp lên một ngọn nến
Thế giới hôm nay có những kẻ thù địch với Kitô giáo. Họ hăng say tuyên truyền cho tội ác và tìm mọi cách để thu hút, lôi cuốn đám đông đi theo đường hướng của họ.
Trước sự kiện này, một số các tín hữu nhiệt thành đã thiết lập phong trào thánh Christôphôrô. Những người gia nhập phong trào này không cần phải ghi tên hay đóng góp chi cả, miễn là cố gắng làm thế nào chứng minh cho kẻ khác biết được rằng: tất cả chúng ta đều được Chúa yêu thương và chăm sóc. Chính vì thế mà phải sống một cuộc sống chan hòa tình người, tôn trọng những quyền lợi của nhau, cũng như sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Điều mà phong trào này tâm niệm đó là:
- Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta ghi nhận điều này: Đức Kitô là ánh sáng muôn dân.
Thực vậy, hôm nay trước cửa đền thờ, ông già Simêon đã nói tiên tri về Hài nhi Giêsu như sau:
- Lạy Chúa, xin để tôi tớ này được ra đi bình an, vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ, Chúa dọn ra trước mặt nhân trần, làm ánh sáng rạng soi dân ngoại, còn Israen dân Chúa được vinh quang.
Rồi trong cuộc sống công khai, chính Đức Kitô cũng đã từng công bố:
- Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không còn ngồi trong đêm tối.
Hay như thánh Gioan đã xác quyết:
- Nơi Ngài có sự sống. Và sự sống là ánh sáng cho muôn dân. Anh sáng đã chiếu soi trong u tối.
Một khi Đức Kitô đã là ánh sáng, thì Mẹ Maria chính là chiếc đèn, bởi vì Mẹ mang trong mình ánh sáng và từ đó tỏa lan khắp nơi. Hôm nay nơi đền thờ Giêrusalem, Mẹ bồng ẵm trong vòng tay của mình Hài nhi Giêsu, ánh sáng muôn dân. Không phải Mẹ chỉ bồng ẵm Chúa trên đôi tay của mình, mà hơn thế nữa, tâm hồn Mẹ hoàn toàn được ánh sáng Chúa chiếu soi và biến đổi. Mẹ chính là tấm gương trung thực nhất phản ảnh mọi nhân đức của Chúa.
Trên trời cũng như dưới đất, không một tạo vật nào giống Chúa cho bằng Mẹ. Mẹ chính là người môn đệ đầu tiên đã đi trên dấu chân của Chúa, qua đau khổ và thập giá để tiến đến vinh quang. Mẹ hoàn toàn tin tưởng và phó thác để được trọn vẹn trung thành với thánh ý của Chúa.
Còn chúng ta thì sao?
Tôi xin thưa: - Chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng như Đức Kitô, chúng ta cũng phải trở nên đèn cháy như Mẹ. Thực vậy, thánh Phaolô đã khuyên nhủ:
- Trước kia anh em là tối tăm, nhưng hiện nay anh em là ánh sáng trong Đức Kitô.
Phải chăng đây cũng chính là điều Đức Kitô mong ước nơi mỗi người chúng ta, khi Ngài phán: - Các con là ánh sáng thế gian. Một thành xây trên núi, không thể giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới gậm giường, nhưng sẽ đặt trên giá, để nó chiếu sáng cho mọi người trong nhà.
Là người Kitô hữu, chúng ta phải mang Đức Kitô, hay nói cách khác, phải mang ánh sáng của Ngài trong tâm hồn, rồi từ đó chiếu tỏa ánh sáng ấy cho những người chung quanh.
Là người tín hữu, chúng ta phải trở thành ngọn đèn cháy sáng, để những người còn ngồi trong tối tăm lầm lạc, nhờ chúng ta, sẽ tìm thấy đường ngay nẻo chính. Muốn được như thế, thì tâm hồn và cuộc đời chúng ta phải trong suốt như pha lê, cho ánh sáng Chúa chiếu qua.
Thế nhưng có kẻ lại nghĩ rằng:
- Ánh sáng của tôi còn quá yếu ớt, làm sao có thể chọc thủng được đêm đen?
Trong một buổi thuyết trình, vị linh mục được mời nói chuyện, đã bắt đầu bằng cách tắt hết các bóng điện, khiến cho tăm tối phủ kín khắp phòng. Rồi ngài đánh một que diêm và thắp lên một ngọn nến. Ánh sáng của ngọn nến tuy yếu ớt, nhưng cũng đủ để họ nhìn thấy được khuôn mặt của người bên cạnh. Và nếu người nào cũng thắp lên một ngọn nến như thế, thì hẳn căn phòng sẽ rực rỡ, sẽ chan hòa ánh sáng.
Đừng nói rằng: - Mình chẳng làm gì được.
Trái lại, thay vì ngồi phê bình và chỉ trích, thở dài và bi quan, chúng ta hãy góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công cuộc đẩy lui ảnh hưởng của đêm tối, của tội ác.
Nếu hoạt động của đêm tối là âm mưu, là thù oán, là tham vọng bất chính, thì hoạt động của ánh sáng phải là nhân hậu, phải là tha thứ, phải là khiêm cung.
Nếu một con én không làm nổi mùa xuân thì ít nữa nó cũng góp phần báo tin mùa xuân đang đến.
Chúng ta cũng vậy, thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
24.Mẫu gương của bậc cha mẹ--Lm. Gioan Trần Khả
Tổng Thống George Washington một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con hiếu thảo đối với mẹ. Sau những trận chiến cam go nơi sa trường, sau những cuộc họp căng thẳng với các chính khách, sau những công việc bề bộn của một nguyên thủ quốc gia, ông vẫn dành cả tiếng đồng hồ để về nhà thăm người mẹ hiền và trò chuyện với bà nhiều giờ liền. Một hôm thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông:
"Tại sao con lại chịu khó và mất thời giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?"
Vị Tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời, "Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống" (Trích trong Thiên Phúc: Maria Mẹ Tuyệt Mỹ, Tr. 27-28).
Vai Trò Của Cha Mẹ
Làm cha mẹ, khi thấy con cái treo những bức hình của những ca sĩ, những tài tử, diễn viên kịch ảnh, những anh hùng thể thao... và khi thấy chúng lúc nào cũng mê man nghe nhạc, nghe khi vừa thức dậy, khi ăn, khi đi học, khi ngồi làm bài, khi làm việc vặt trong nhà, thì chúng ta e ngại là con cái chúng ta sẽ bị ảnh hưởng qúa nhiều bởi những mẫu người đó. Tuy nhiên, khảo cứu tâm lý cho chúng ta biết, khi tuổi trẻ truởng thành hơn thì chúng sẽ ít bị ảnh hưởng bởi những mô phạm nhất thời đó. Người có ảnh hưởng nhiều nhất nơi con cái là cha mẹ. Cha mẹ cần dạy và sống những gía trị đạo đức và luân lý để con cái noi theo khi chúng còn sống chung dưới mái ấm gia đình. Một bà mẹ nhận xét, "Cái quan trọng trong đời sống của gia đình không phải là những món ăn sang trọng, cái bếp sạch sẽ ngăn nắp, hay biết sắp xếp liệt kê những việc phải làm trong nhà. Không gì có thể thay thế việc cho con cái chúng ta nhìn thấy tình thương và sự tận tụy hy sinh của chúng ta đối với chúng. Đồ chơi, quần áo mới, dĩa nhạc, đồ trang sức sẽ không thể thay thế tấm lòng hy sinh và tình thương của cha mẹ tỏ ra đối với con cái."
Những Tấm Gương
Khi chúng ta mừng lễ kính Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh, phúc âm thánh Luca giới thiệu cho chúng ta hình ảnh những con nguời tôi trung của Thiên Chúa: Giuse, Maria, Simeon và Anna. Là bậc cha mẹ gương mẫu, là đôi vợ chồng đạo đức, đầy lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa. Khi vừa đủ ngày, Giuse và Maria đem con lên đền thờ để hiến dâng cho Thiên Chúa. Hành động Hiến Dâng của các ngài biểu lộ một đức tin sâu đậm, và lòng xác tín yêu mến lề luật của Chúa. Các ngài dâng Con không phải chỉ bằng môi miệng hay lời kinh suông, nhưng còn kèm với của lễ tuy đơn sơ nhưng gói gọn cả tấm lòng đối với Thiên Chúa trong khả năng của các ngài. Hơn nữa, cho dù được tiên báo là con mình sẽ như một Luỡi Gươm Đâm Thấu Tâm Hồn, các Ngài vẫn can đảm lãnh nhận và chu toàn trách nhiệm dậy dỗ con. Con trẻ lớn lên thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. Được như thế là do bởi cha mẹ Ngài là những nguời công chính và đạo hạnh.
Hầu hết những nguời làm cha mẹ đều có tình thương yêu đối với con cái. Tuy nhiên không phải ai cũng biết cách tỏ tình thưong yêu và phương cách dậy dỗ giáo dục con cái cho đúng. Việt Nam chúng ta có câu, "Cha mẹ sanh con, Trời sanh tánh." Câu này chỉ trúng một phần nhỏ. Để chu toàn trọng trách làm cha mẹ, bậc cha mẹ còn có bổn phận tìm hiểu và học hỏi đào sâu về đức tin, về tâm lý và luân lý để huấn luyện dậy dỗ con mình lớn lên trong đường lối của Thiên Chúa.
Nhận Ra Dấng Cứu Thế
Khi đến đền thờ, các ngài gặp hai Nhân Vật cao niên Simeon và Anna. Con trẻ Giêsu mới chỉ được có 40 ngày. Ông Simeon và bà Anna chưa hề gặp con trẻ và cha mẹ của con trẻ. Nhưng tại sao họ đã nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế? Sở dĩ họ nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế bởi vì Simeon là Người công chính biết kính sợ Thiên Chúa, cho nên lòng trí của ông luôn tỉnh thức. Ông đã nghe và nhận ra tiếng thúc đẩy của Thần Khí và ông đã nhận ra Đấng Cứu Thế. Khi ông đã được nhìn thấy Chúa Giêsu và ẵm bồng Ngài thì ông mãn nguyện sung sướng. Ông Simeon đã nhìn ra giá trị đích thực và không còn luyến tiếc sự đời. Do đó, ông xin bằng lòng xuôi thác, "Lạy chúa bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt tôi đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn cho muôn dân." Cũng thế, bà Anna, sau khi chồng chết, đã thủ tiết và dành cuộc đời của bà sống ăn chay cầu nguyện trong đền thờ trông chờ Đấng Cứu Thế. Vì có tấm lòng thành kính và sống trong tinh thần chuẩn bị và mong chờ Đấng Cứu Thế cho nên bà cũng đã được diễm phúc gặp Ngài và nhận ra Ngài để công bố và xác nhận cho những nguời khác về Đấng Cứu Thế.
Tuy nghèo túng nhưng Giuse và Maria vẫn có thể tìm được của lễ để dâng cho Thiên Chúa và chu toàn trách nhiệm làm cha làm mẹ. Phần chúng ta, chúng ta có thể liệu được những gì để dâng cho Thiên Chúa và làm những gì để nói lên tinh thần của bậc làm cha làm mẹ đối với con cái? Trong tuổi già lưng còng mắt kém, nhưng ông Simeon và và Anna vẫn có thể nhìn và nhận ra Đấng Cứu Thế. Phần chúng ta, chúng ta có nhận ra Chúa Giêsu trong hoàn cảnh sống hàng ngày không?
25.Lễ Đức Mẹ dâng Con trong đền thờ
Bài Tin Mừng anh chị em vừa nghe là một trong những bài Tin Mừng có những hình ảnh đẹp nhất trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu. Có thể nói cuộc gặp gỡ của những người được nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là cuộc gặp gỡ của những người đại diện cho dến ba thế hệ.
Tiên tri Simêon và Anna thuộc thế hệ cao niên. Đức Mẹ và thánh Giuse thuộc thế hệ đương thời và Chúa Giêsu thuộc thế hệ mai sau. Cả ba thế hệ hội tụ lại trong khung cảnh của đền để thực hiện cho Lễ Đức Mẹ Dâng Con
Những lưỡi gươm sầu khổ.
Đang khi thăm viếng bệnh viện, một cha sở dừng lại nhìn một giáo dân trẻ, có đứa con đầu lòng mới được 4 ngày. Mặc dầu vẻ bề ngoài thật dễ thương, nhưng người mẹ trẻ đó lại đầm đìa nước mắt. Cha sở hỏi: "Sao con lại khóc vậy hở Rosie?". Để đáp lại, Rosie chỉ ngước nhìn lên Đức Mẹ bồng ẵm Chúa Giêsu Hài Đồng mà mắt đẫm lệ. Đó là một bức họa của một phần bài Tin Mừng hôm nay: "Khi ông già Simeon được Chúa Thánh Thần linh hứng, đã nói với Đức Mẹ rằng: Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà". Rosie đã nhỏ lệ vì chị cảm thương Đức Mẹ, vì Mẹ biết rằng: Chúa Kitô Con Mẹ sẽ phải đau khổ, và cũng vì chị cảm thấy nỗi lo âu của người mẹ sợ rằng con nhỏ của mình sẽ phải đau khổ, cha sở giải thích cho chị rằng Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ sức mạnh phi thường để đón lấy lời báo tin đắng cay ấy, để nhận lấy lưỡi gươm sầu khổ ấy.
Các bà mẹ ngày nay cũng có thể nhìn thấy vô vàn những nguy hiểm đe dọa con mình. Những đe dọa thể xác: như bệnh tật đủ loại, tai nạn mất sự sống và tàn tật, những kẻ hung ác, ngược đãi trẻ nhỏ, những thứ ma túy hủy hoại thể xác và cả tâm hồn, ăn uống say sưa quá độ, lái xe ẩu. Và còn biết bao tệ hại làm tan nát thể xác giới trẻ. Rồi những nguy hiểm cho linh hồn đứa trẻ lại càng tệ hại: những bạn bè xấu làm mất cả đức tin, mất phán đoán về sự chân thực và sự sai lầm, những bạn bè say sưa, những bạn bè nghiện ngập, những phim ảnh và tạp chí khêu gợi dục vọng, những sách vở và thầy dạy làm sai lạc điều chân thật, và tinh thần của ma quỉ ngày nay gào thét lên rằng: mọi sư đều tốt, bao lâu bạn có thể chiếm được chúng.
Thực vậy, các bà mẹ có nhiều điều lo lắng, nhưng tình trạng vẫn còn hy vọng. Một người có ảnh hưởng giúp đỡ. Một người mẹ gương mẫu, hoàn toàn vô tội, rất mực tinh tuyền, biết chắc rằng: con trẻ bà bồng ẵm trong tay rồi một ngày kia sẽ được đặt lại vào tay bà. Mà lúc ấy con bà đã bị thương tích, đầy máu me và hết sống. Người mẹ trên trời này nóng lòng giúp đỡ người mẹ ngày nay.
Như Đức Maria, các bà mẹ có những niềm vui và nỗi sầu. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa về niềm vui, như Đức Maria đã làm. Sự lo sợ của Đức Mẹ về tương lai, thay vì làm cho Người lìa xa Thiên Chúa, hay là làm cho Người quên Thiên Chúa, thì lại làm cho Người hứơng mắt về Cha trên trời đầy thông suốt và quyền năng.
Như thánh Phaolô viết cho tín hữu Do thái: "Chúa Giêsu đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành Vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong mọi việc phụng thờ Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân (B. đ.2; Dt 2,17).
Hôm nay Thánh lễ này thể hiện điều đó cho chúng ta. Lễ hiến tế làm sống lại những biến cố vui buồn trong cuộc đời Đấng cứu thế, Ngài sinh lại; chết và lại phục sinh. Từ sự làm mới lại cuộc thương khó và tử nạn của Ngài, mọi bà mẹ, mọi Kitô hữu, có thể lấy lại được sức mạnh để mang lấy sự lo lắng về tương lai, và đón nhận đau khổ khi nó xảy đến.
26.Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
Ý nghĩa của ngày lễ
Bốn mươi ngày trước đây, chúng ta đã mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Theo luật Môsê, Sau khi sinh con trai đầu lòng được 40 ngày, người mẹ phải đến Đền Thờ Giêrusalem để làm lễ thanh tẩy cho mình và hiến dâng con trẻ cho Thiên Chúa, rồi chuộc lại bằng lễ vật một con chiên hay một cặp bồ câu: vì mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa. Ý nghĩa này nhắc cho dân Do Thái cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã tha không giết các con trai đầu lòng của họ, đang khi các con trai đầu lòng của dân Ai Cập đều bị giết chết, trong đêm Thiên Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập đưa về Đất Hứa (x. Xh 13,l-3a.11-16).
Đức Maria và thánh Giuse cũng tuân giữ diều luật này. Hai ông bà đem Hài nhi Giêsu lên đền Thờ hiến dâng cho Thiên Chúa và gặp ở đây hai vị tiên tri già lão: Simêon và Anna. Hai vị được Thánh Thần linh ứng dã nhận ra Chúa Cứu Thế. ông Simêon đã mãn nguyện vì được tận mắt chiêm ngưỡng Đấng muôn dân trông đợi. Ông đã lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa và nói tiên tri về Hài nhi Giêsu: Hài nhi này sẽ là ánh sáng của muôn dân nhưng lại là đối tượng cho người ta chống đối.
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ cho thấy Người là con đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Ông Simêon và bà Anna tượng trưng cho tất cả sự trông đợi của It-ra-en, họ đã tới gặp Cứu Chúa của mình. Đức Giêsu được nhìn nhặn là Đấng Mêsia người ta trông đợi từ lâu, là ánh sáng của muôn dân và là vinh quang của Ít-ra-en, nhưng Người cũng là dấu hiệu của sự chống đối. Thanh gươm của đau khổ được báo cho Mẹ Maria đã loan báo một sự hiến dâng toàn hảo và độc nhất của thập giá. Sự hiến dâng sẽ mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã chuẩn bị trước mặt tất cả mọi dân tộc
Lễ của ánh sáng
Lễ hôm nay còn được gọi là Lễ Nến, vì có cuộc rước nến vào Nhà thờ như cuộc đón rước Chúa GIÊSU là ánh sáng của muôn dân. Thánh Xốp-rô-ni-ô, Giám Mục Giêrusalem dã nói: "Đây là ý nghĩa của mầu nhiệm: chúng ta tiến bước, đèn sáng trong tay, chúng ta hăm hở đi tới, mang theo đèn sáng để nói lên rằng ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và ánh sáng đó sẽ làm cho chúng ta nên rạng ngời. Nào mau lên, tất cả chúng ta cùng nhau ra đón Chúa. Người là ánh sáng thật đã đến, ánh sáng chiếu soi mọi người sinh ra trên thế gian. Vậy, thưa anh em, mọi người chúng ta hãy đón nhận ánh sáng và hãy toả sáng" (x. Kinh Sách, các bài đọc ngày 2/2)..
Công đồng Vaticanô II đã lấy lại lời tiên tri của ông Simêon để mời gọi mọi người Ki tô hữu ý thức sứ mạng và ơn gọi của mình là phải làm cho mọi người được nhận biết Chúa Ki tô, phải đem ánh sáng Tin Mừng của Ngài chiếu soi hướng dẫn mọi người trên thế giới. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố. "Thầy là ánh sáng trần gian. Ai đi theo Thầy sẽ không bước đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống" (x.Ga 12, 34-50). Bao lâu con người chưa nhận biết Chúa Ki tô và ánh sáng Tin Mừng của Ngài, thì bấy lâu con người còn dò dẫm trong tăm tối và dễ bị lầm lạc.
Tuy nhiên, Chúa Ki tô đã trở nên đối tượng chống đối của con người. Có những người biết Chúa để sống theo Ngài. Có những người khác lại chống đối Ngài. Chúng ta lấy làm đau xót với thánh Giuse và Mẹ Maria khi nghe tiên tri Simêon tiên báo điều đó ngay trong ngày vui của Chúa Giêsu: "Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn chính Bà (Đức Ma ria) thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra". Lời tiên tri đó đã ứng nghiệm ngay từ lúc Chúa Giêsu mới sinh ra cho đến khi bắt dấu cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Cuộc chống dối đó ngày càng lan rộng và quyết liệt cho đến khi giết được Ngài treo lên Thập giá. Nhưng Ngài dã Phục Sinh và đã trở thành ánh sáng của muôn dán, nguồn sống cho nhân loại.
Hãy sống trong ánh sáng
Từ nay, ai đã tin Chúa Giêsu Ki tô và lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy đều đón nhận sự sống của Thiên Chúa và được ánh sáng của đức Ki tô chiếu soi, hướng dẫn cuộc sống. Thật vậy, nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được thánh hiến cho Thiên Chúa và được trở nên con của Ngài trong Đức Giesu Ki tô. Thiên Chúa đã thương gọi chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng huyền diệu của Ngài. Xưa kia, chúng ta là tối tăm, nhưng nay trong Chúa Ki tô, chúng ta là "con cái của sự sáng là ánh sáng của trần gian" (x. Ga 12,85-36). Do đó chúng ta phải sống như con cái của sự sáng, phải chiếu sáng trước mặt mọi người, để "người ta nhận thấy việc tốt chúng ta làm mà ngợi khen Cha chúng ta trên trời" (Mt 5.14-16).
Thánh Phao lô nhắn nhủ những người đã được thánh hiến cho Thiên Chúa qua Bí tích Thánh Tẩy: Hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa, Hãy vật bỏ những việc tối tăm, Hãy mang khí giới ánh sáng,Hãy hành động đàng hoàng như giữa ban ngày, để luôn được hiệp thông với Chúa Ki tô tà ánh sáng muôn dân" (x. Ep 6,8-14).
Chúa Giêsu hôm nay đang tiến vào Đền Thờ của Ngài. Chúng ta hãy tiếp dón Ngài vào tâm hồn, vào cuộc sống của ta, để ánh sáng của Ngài biến đổi chúng ta thành những ngọn nến chiếu sáng như những vì sao trong đêm tăm tối của trán gian, hầu dẫn đưa những ai còn ngồi nơi tăm tối đến gặp gỡ Đức Giêsu Ki tô, 'đấng Cứu Độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn trước mặt muôn dân" và dã bày tỏ cho mọi người.
27.Dâng Chúa trong đền thờ
Một bà lão gặp vị linh mục và nói: "Thưa cha, con đã cầu nguyện rất nhiều, con chỉ mong thấy Chúa một lần là đủ cho con, nhưng Chúa chưa nhận lời".
Ước mong đơn sơ của bà thật sự gói trọn niềm hy vọng của người Kitô hữu; bởi cùng đích của cuộc đời chúng ta là gặp gỡ và kết hợp trọn vẹn với Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc ông già Simêon được diễm phúc gặp Chúa Hài Đồng, được bồng ẵm Chúa khi Chúa được Mẹ Maria và Thánh Giuse dâng tiến trong đền thờ.
Việc Chúa Giêsu được dâng tiến trong đền thờ và thái độ của cụ già Simêon cho chúng ta nhiều bài học:
- Đức Giêsu được dâng tiến trong đền thờ: Nghi thức dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa là nghi thức Do thái nhắc nhở rằng mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Đức Giêsu -Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể- là Con Chúa Cha từ thuở đời đời. Tuy nhiên, đi vào lịch sử nhân loại trong văn hóa Dothái giáo, Ngài được cha mẹ dâng tiến cho Thiên Chúa theo như luật định. Qua đó, Ngài nêu gương cho chúng ta về việc tuân giữ lề luật và dâng mình cho Thiên Chúa.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta, từ khi còn tấm bé, đã được cha mẹ dâng cho Thiên Chúa trong ngày chịu phép rửa. Nhờ phép rửa, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha. Chúng ta hãy ý thức và sống xứng đáng với hồng ân này.
- Tiếp theo là thái độ của cụ Simêon: Sau cả một đời chờ mong, giờ đây, cụ sung sướng thỏa mãn; bởi vì cụ đã thấy, đã được bồng ẵm Đấng Cứu Thế trên tay mình.
Ông cụ Simêon mới được thấy Chúa, được ẵm Chúa trên tay mà đã sung sướng và tạ ơn Thiên Chúa như vậy, huống cho chúng ta được rước Chúa Giêsu vào tâm hồn mỗi ngày! Chúng ta có nhận ra hồng ân cao trọng này mà ca tụng Chúa hay không?
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, ông già Simeon -được Thánh Thần thúc đẩy- đã lên đền thờ và gặp được Chúa -Đấng Cứu độ- mà lâu nay ông hằng mong ước. Ước gì chúng con năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ mỗi ngày; để nhờ vậy, chúng con không chỉ gặp được Chúa mà còn được rước Chúa ngự trong tâm hồn. Amen.
28.Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh--Lm PX Vũ Phan Long
1- Ngữ cảnh
Chương 1-2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đanien 9-10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Malakhi 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài ca "Chúc tụng" (Benedictus) và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm "sự hoàn tất các ngày" (= đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo được viết theo ngôn ngữ Kinh thánh.
Lc 1,5-2,22 là một chuỗi các thời điểm. Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Đức Maria được báo tin: 30 ngày x 6 = 180 ngày
- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời: 30 ngày x 9 = 270 ngày
- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng: = 40 ngày
Tổng cộng: = 490 ngày = 70 tuần 7 ngày
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Tác giả Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc "Vinh quang" của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là "vinh quang của Israel") đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Ml (3,1).
2- Bố cục
Nên đọc bản văn này từ câu 21, để duy trì được sự song đối giữa Gioan và Đức Giêsu. Do đó, chúng tôi xác định bố cục có cả c. 21. Đoạn này gồm hai phần chính và một kết luận:
1) Hai khúc dạo đầu (2,21-24):
- cắt bì và đặt tên (c. 21),
- thanh tẩy Đức Maria và dâng Đức Giêsu (cc. 22-24).
2) Hai cuộc tỏ mình (2,25-38):
- tỏ mình cho cụ Simêôn (cc. 25-35),
- tỏ mình cho bà Anna (cc. 36-38).
3) Kết: Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (2,39-40).
3- Vài ghi chú về chú giải
- Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài (22): "Các ngài" là Đức Maria và Giuse? hay là Đức Maria và Đức Giêsu? Luật không buộc thanh tẩy người chồng hoặc đứa con trai sơ sinh. Tuy vậy, "các ngài" phải được hiểu là quy về Giuse và Đức Maria, bởi vì các ngài là chủ từ của động từ "đem [con] lên". Các nhà chú giải nhìn nhận rằng tác giả Lc, vì không phải là một Kitô hữu gốc Do Thái Paléttina, nên đã không được hiểu biết chính xác về tập tục thanh tẩy một phụ nữ sau khi sinh con. Và đây cũng là một dấu cho thấy rằng thông tin ngài có được không phát xuất từ những kỷ niệm hay ghi nhớ của Đức Maria.
- theo Luật Môsê(22): Theo Lêvi 12,2-8, một phụ nữ sinh một con trai bị coi là ô uế trong vòng 40 ngày: sau 7 ngày, đứa bé phải được cắt bì (vào ngày thứ tám), và người mẹ còn phải chờ ở nhà 33 ngày nữa, "cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của bà" (Lv 12,4), trước khi bà được đụng chạm vào bất cứ vật thánh nào hoặc đi vào các sân Đền Thờ. Sau ngày thứ bốn mươi (hoặc thứ tám mươi), bà phải đem đến cho vị tư tế phục dịch tuần ấy tại Lều Hội Ngộ hay Đền Thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu và một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. Nếu không thể dâng con chiên, bà phải dâng hai chim gáy hoặc hai bồ câu non.
- để tiến dâng cho Chúa (22): Chi tiết này mô phỏng truyện bà Anna dâng Samuen ở 1 Sm 1,22-24. Tuy vậy, đến câu sau, tác giả Lc nối kết việc dâng Đức Giêsu với luật về đứa con đầu lòng. Đức Giêsu được gọi là "con trai đầu lòng" ở 2,7, và việc chuộc lại Người là nhiệm vụ của cha mẹ Người. Trong Xh 13,1-2, chúng ta đọc: "Đức Chúa phán với ông Môsê: 'Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta". Sự thánh hiến này sẽ bảo đảm phúc lành cho những đứa con đến sau. Đứa con đầu lòng được chuộc lại bằng cách trả năm sê-ken (= mười lăm chỉ bạc), tính theo đơn vị đo lường của thánh điện (Ds 3,47-48; 18,15-16), nộp cho một thành viên của gia đình tư tế, khi đứa bé đã được một tháng. Tác giả Lc không nhắc gì đến việc trả số bạc; thay vào đó, ngài diễn tả việc chuộc con như là việc dâng con vào Đền Thờ Giêrusalem, một tập tục không có chỗ nào trong Cựu Ước hoặc sách Mishnah nói cả.
- để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền (24): Hy lễ không phải là cho việc chuộc con đầu lòng, nhưng là cho việc thanh tẩy bà mẹ.
- công chính và sùng đạo (25): Các chi tiết mô tả cụ Simêôn đã đặt ông cùng với Dacaria và Êlisabét, Giuse và Đức Maria, và bà Anna, vào số những đại diện của những người Do Thái trung thành đang sống tại Paléttina vào thời gian sát ngay trước khi Đức Giêsu chào đời.
- niềm an ủi của Ít-ra-en (25): Ta hiểu đây là niềm hy vọng hậu Lưu đày: dân trông chờ Thiên Chúa khôi phục lại chế độ thần quyền tại Israel (x. Is 40,1; 61,2).
- ra đi (29): Ông Simêôn dùng ngôn ngữ của người canh đêm, sau khi đã hoàn tất công việc, xin được nghỉ ngơi.
- một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà (35): Có những tác giả cho rằng "thanh gươm" đây là nỗi ngờ vực về chân tính sâu xa của Con mà Đức Maria sẽ cảm nghiệm khi nhìn Đức Giêsu bị đóng đinh (chẳng hạn Origiênê, Reuss, Bleek...). Cách giải thích này không tương ứng với TM Lc, và có vẻ là một cách giải thích theo tâm lý không có cơ sở. Cách giải thích truyền thống (kể từ Paulin de Nole và thánh Âutinh) đã coi "thanh gươm" này là nỗi đau đớn đồng cảm Đức Maria cảm nhận khi chứng kiến Con mình bị đóng đinh. Tuy nhiên, cách giải thích này cũng không phù hợp với TM Lc, bởi vì Đức Maria chỉ xuất hiện dưới chân thập giá trong TM Ga mà thôi (Ga 19,25-27) và cũng chỉ trong Ga, cạnh sườn của Đức Giêsu mới bị một ngọn giáo đâm thâu (Ga 19,34). TM Lc không bao giờ nói rằng Đức Maria ở trong số các phụ nữ đã đi theo Người từ Galilê (Lc 23,49.55; 24,10). Cách giải thích này lại cắt ngang chuyển động của bản văn và dường như đưa vào đó một ngoặc đơn (x. bản dịch Bible de Jérusalem, CGKPV) hơi lạ. Cách giải thích này cũng giới hạn quá đáng vào cá nhân Đức Maria, điều này dường như trái với cái nhìn của tác giả Lc: đối với ngài cũng như đối với tất cả các tác giả Tân Ước, tâm lý của các nhân vật không đáng kể bằng vai trò của họ trong Lịch sử cứu độ (ta thấy điều này trong các bản văn về Thời thơ ấu: Đức Maria chỉ luôn đóng một vai trò lệ thuộc vào vai trò của Đức Giêsu). Đã thế, lối giải thích này lại chỉ ưu tiên chú ý đến Núi Sọ. Cần phải tìm ý nghĩa của lời này của ông Simêôn trong nhãn quan của tác giả Lc về Đức Maria.
(1) Ở trong Cựu Ước, hình ảnh "thanh gươm" là biểu tượng của sự "chia rẽ" và "mâu thuẫn" (x. Ed 12; 14;...). Ở Is 49,2, Thiên Chúa đã làm cho miệng lưỡi Người Tôi Trung nên như một "lưỡi gươm sắc bén". Sách Khải huyền đã lấy lại hình ảnh này và áp dụng cho Đức Kitô (1,16; 2,12.16; 19,15.21). Khi ta thấy rằng viên Kỵ sĩ trong Kh được gọi là "Lời của Thiên Chúa" và "từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén" (Kh 19,13.15), đàng khác, ta lại nhận thấy rằng Is 49,2 chỉ đi trước Is 49,6 một chút, trong đó Người Tôi Trung được gọi là "ánh sáng muôn dân", tức khắc ta nghĩ rằng hai câu này hiện diện trong tâm trí tác giả Lc khi ngài viết cc. 32.35a, và thanh gươm phân rẽ giữa lòng Israel chính là Lời mạc khải của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, Lời mang lại ơn cứu độ, nhưng cũng là Lời sẽ phán xét (x. Dt 4,12). Thế mà dọc theo hai chương đầu, ta thấy tác giả Lc giới thiệu Đức Maria như là Thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel được nhân-cách-hóa (đọc Lc 1,28 dưới ánh sáng của Xp 3,14-15 và Dcr 2,14). Theo hướng này, ta hiểu tác giả đang vận dụng một kiểu nhân-cách-hóa tiên trưng để trình bày hoạt cảnh Dâng Con trong Đền Thờ, và như vậy, ngài đã đặt vào miệng ông Simêôn c. 35a để ngỏ lời với Đức Maria trong tư cách là Thiếu nữ Sion: nơi Mẹ, chính là Israel sẽ bị thanh gươm của Đức Chúa đâm thâu.
Cách giải thích này (được gợi ý bởi Sahlin, Black, Laurentin, Boismard, Benoýt...) có điểm thuận lợi là làm cho c. 35a ăn khớp hài hòa với ngữ cảnh. Thay vì đưa vào đó một ngoặc đơn, chi câu này trở thành một mắt xích của một phần triển khai, trong đó tư tưởng trước được nối tiếp và tư tưởng sau được chuẩn bị. Các câu 34 và 35a mô tả cuộc khủng hoảng gây ra nơi Israel bởi "dấu hiệu gây chống báng" được ngôn sứ Êdêkien coi như một thanh gươm của Thiên Chúa đâm thâu tâm hồn dân Chúa; còn c. 35b là kết luận: sự thử thách gây ra bởi việc Đức Giêsu đến, do việc đòi hỏi phải chọn lựa theo hay chống Người, sẽ đưa tới chỗ thâm tâm của người ta phải lộ ra.
Hiểu như thế, cc. 34-35 hoàn toàn di theo và minh họa cc. 30-32. Lời sấm của ông Simêôn được phân phối thành hai cánh của một bức tranh bộ đôi: một cánh thì cho thấy Dân Ngoại được ánh sáng soi đường và muôn dân được cứu độ, và đây phải là vinh quang cho Israel; cánh kia cho thấy khủng hoảng của chính Israel này, khiến nhiều con cái của Dân Chúa chọn phải vấp ngã. Vậy đây chính là toàn thể tấn bi kịch của Lịch sử cứu độ được ông Simêôn trình bày cô đọng, và sẽ được tác giả Luca tiếp tục trình bày trong Tin Mừng cũng như trong Công vụ.
(2) Có một cách giải thích khác cũng có thể chấp nhận như một tầng ý nghĩa khác của câu này, và như một cách chứng minh kiểu tiêu cực cho cách trên đây. Trong Ed 14,17 (Hy Lạp), có nối kết "thanh gươm" với "đâm thâu (= xuyên qua)". Theo hình ảnh này, thanh gươm phân biệt ra (chọn ra) một số người để bị tiêu diệt và một số người để được cứu độ (x. Ed 5,1-2; 6,8-9). Trong ngữ cảnh của Lc, hình ảnh này phát xuất từ ý tưởng nói rằng vai trò của Đức Giêsu là làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Đức Maria, là thành viên của Israel, cũng sẽ phải chịu ảnh hưởng. Trong Lc, chính Đức Giêsu sẽ được mô tả như một người gây chia rẽ trong các gia đình (12,51-53). Như vậy, với hình ảnh thanh gươm đâm thâu Đức Maria, ông Simêôn gợi đến khó khăn mà Mẹ sẽ gặp thì mới học ra rằng việc vâng phục Lời Thiên Chúa phải vượt lên trên cả những dây liên hệ gia đình (x. 8,21; 11,27-28).
4- Ý nghĩa bản văn
* Hai khúc dạo đầu (21-24)
Cũng như việc cắt bì và đặt tên cho Gioan là cơ hội để con trẻ tỏ mình ra và để Dacaria nói lên một lời sấm, ở đây cũng vậy, việc cắt bì và đạt tên cho Đức Giêsu là cơ hội để Người tỏ mình ra. Cũng như Gioan, Đức Giêsu được ghi dấu ấn là dấu chỉ của giao ước (St 17,11) và tháp nhập vào Israel (x. Gs 5,2-9). Ngài cũng được đặt tên là Giêsu, một tên được chính Thiên Chúa ban cho. Bản văn nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì.
Trong cc. 22-24, có hai biến cố được kể lại nhân dịp Đức Giêsu tỏ mình ra: (a) việc thanh tẩy Đức Maria, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu (cc. 22a.24); và (b) việc chuộc lại Đức Giêsu, một tháng sau khi sinh (cc. 22b.23). Dường như Luca đã mô phỏng truyện dâng Samuel (1 Sm 1,22-24) mà tả cảnh này. Bản văn nhấn mạnh trên sự trung thành của Đức Maria và ông Giuse, như là những người Do Thái đạo đức, khi thi hành những điều buộc của Luật Môsê. Trong các câu này, Luật được nhắc đến 3 lần (cc. 22a.23a.24a) và trong truyện tỏ mình ra cho ông Simêôn (c. 27) và trong phần kết (c. 39). Hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa đến với việc vâng phục Luật này.
* Hai cuộc tỏ mình (25-38)
Hình ảnh ông Simêôn gợi nhớ đến tư tế Êli trong 1 Sm 1-2 cũng như Dacaria trong truyện Gioan Tẩy Giả. Cũng như Dacaria đã tiên báo sự cao cả của Gioan Tẩy Giả trong bài ca "Chúc tụng", nay sự cao cả của Đức Giêsu được ông Simêôn ca tụng. Do có sự song đối như thế, đến đây ông Simêôn nói hai lời tuyên bố, một là bài thánh ca ở cc. 29-32 và một là lời sấm ở cc. 34-35. Bài thánh ca công bố hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa. Lời sấm được ngỏ với Đức Maria để nói về sứ mạng của Đức Giêsu và thân phận của Mẹ.
Tác giả luôn luôn viết một truyện về phái nam đi song song với một truyện về phái nữ, ở đây cũng vậy: bà Anna song đối với ông Simêôn. Sự cao cả của Gioan được Dacaria công bố trong bài ca của ông; nhưng sự cao cả của Đức Giêsu lại không chỉ được ông Simêôn công bố mà được cả bà Anna giới thiệu nữa. Tuy nhiên, bà Anna không nói một tuyên bố nào; vai trò của bà là phổ biến tin mừng về hài nhi mà ông Simêôn đã nhận biết.
* Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (39-40)
Hai câu kết làm vọng lại điệp khúc đã có trong bài tường thuật về Thời thơ ấu (1,80; 2,52). Câu này nhắc lại từng chữ bản mô tả Gioan (1,80). Toàn c. 40 gợi lại truyện Samuen, nhất là 1 Sm 2,21c.26.
+ Kết luận
Câu truyện này là một lễ mừng các cuộc gặp gỡ trong niềm vui. Truyện được kể cho chúng ta ở đây cho thấy nhiều tương quan khác nhau. Chúng ta thấy Đức Giêsu trong dây liên hệ có một không hai với Thiên Chúa. Chúng ta cũng thấy cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Simêôn, Đức Maria và bà Anna. Gặp gỡ Đức Giêsu đưa lại niềm vui vô biên, nhưng cũng tạo nên một quan hệ buộc người ta phải rảo qua trọn con đường với Người và phải luôn luôn ở gần kề với Người.
5- Bài học
1. Hôm nay, trong bản thân hài nhi Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại với thánh điện của Ngài lâu nay bị bỏ hoang. Cho dù tọi lỗi của Israel có thế nào, Thiên Chúa vẫn trung thành giữ những lời đã hứa. Vào dịp chúng ta chịu phép rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm con. Cho dù chúng ta có bất trung thế nào, Người vẫn không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù các tội lỗi của chúng ta đã xua đuổi Người ra khỏi thánh điện là trái tim chúng ta, Người vẫn tìm mọi cách để đưa chúng ta đến chỗ hoán cải. Hãy mở rộng thánh điện tâm hồn mà đón Đức Kitô.
2. Chúa Thánh Thần luôn luôn có mặt và làm việc. Chúng ta cũng có thể sống thường xuyên dưới tác động của Người nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa với Thiên Chúa và chăm chú đi theo những gợi ý của Người trong lòng. Khi đó, Chúa Thánh Thần có thể trở thành một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu niềm tin của chúng ta rõ hơn cũng như hiểu bổn phận của chúng ta chính xác hơn, một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời môn đệ của Đức Kitô, một nguồn gợi hứng trong khi chúng ta cầu nguyện cũng như sống nếp sống hằng ngày.
3. Ông Simêôn và bà Anna là gương mẫu cho chúng ta về cách sống hy vọng và trung thành. Sự trung thành của họ đã được ban thưởng. Mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta cũng được nhận ân huệ ấy. Do đó, cần chuẩn bị với thái độ chờ đợi trung thành và nhận Thánh Thể với những tâm tình biết ơn.
4. Tất cả cuộc sống của Đức Maria và ông Giuse tập trung vào Đức Giêsu, trong khi Người lớn lên bình thường như mọi trẻ em khác. Nhưng "ơn nghĩa của Thiên Chúa vẫn ở trên Đức Giêsu" (c. 40) đã tạo nên trong gia đình này một bầu khí hiệp nhất, êm đềm, yêu thương. Bí quyết của hạnh phúc đơn giản và siêu nhiên ấy, chính là sự hiện diện phong phú của Đức Giêsu. Đây là điển hình hoàn hảo cho mọi gia đình Kitô hữu. Nếu Đức Kitô thật là trung tâm của gia đình, thì mặc dù có những thử thách của cuộc đời, chúng ta vẫn sẽ cảm nhận được hạnh phúc lớn lao là được yêu thương người khác và được người khác yêu thương, dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
5. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đi vào Đền Thờ của Người. "Đó mãi mãi là cách Thiên Chúa đến viếng thăm...: sự thinh lặng, sự bất ngờ dưới mắt thế gian, mặc dù có những lời tiên báo mà mọi người đều biết... Không thể khác được. Các lưu ý của Thiên Chúa thì rõ ràng, nhưng thế giới vẫn tiếp tục dòng lưu chuyển của nó; khi đã dấn thân vào các hoạt động của họ, loài người không biết biện phân ra ý nghĩa của lịch sử. Họ coi các biến cố lớn là những sự kiện không quan trọng và do lường giá trị các thực tại theo một tầm nhìn hoàn toàn loài người... Thế giới vẫn mù lòa, nhưng sự Quan phòng ẩn tàng của Thiên Chúa thì tự thể hiện ngày qua ngày" (Hông Y John Henry Newman, 1801-1890).
29.Dâng Con trong đền thờ--Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Lần chuỗi kinh mân côi chục thứ bốn có lời ngắm nguyện: "Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh".
Tập tục đạo đức dâng con cho Thiên Chúa có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin?
Đức tin nói với chúng ta:
Con cái là hoa qủa phúc lộc Trời cao ban cho cha mẹ. Tuy cha mẹ là người sinh thành nuôi dưỡng con mình.
Con cái không là sản phẩm do cha mẹ chế biến tạo thành. Nhưng sự sống, tính tình cùng hình hài thân xác của con cái là do Thiên Chúa sáng tạo thành.
Con cái tuy là giọt máu tình yêu thương của cha mẹ. Nhưng mầm sự sống trong dòng máu tình yêu thương của cha mẹ lại là hình ảnh giọt máu tình yêu thương của Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống của con người.
Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse ngày xưa đã không nhìn Chúa Giêsu là con riêng do mình tạo ra. Nên đã đem con mình vào đền thờ khấn nguyện tạ ơn dâng cho Thiên Chúa. Cử chỉ đạo đức này của Đức Mẹ nói lên lòng tin tưởng phó thác vào bàn tay Thiên Chúa. Vì đã nhận được ân đức qùa tặng từ nơi Thiên Chúa, cùng coi làm việc đạo đức này là bổn phận tất yếu của người đã lãnh nhận được ân phúc.
Lần thứ nhất, Thiên Thần Gabriel hiện đến truyền tin cho Đức Mẹ: Chúa Giêsu xuống thế làm người trong cung lòng Đức Mẹ. Và nói cùng Đức Mẹ: người con trong cung lòng bà sinh ra là Đấng thánh cao cả.
Lúc đem con vào đền thờ dâng cho Thiên Chúa, Đức Mẹ lại nghe lời truyền tin thứ hai của Tiên Tri Simeon: Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel vấp ngã hay được vực dậy đứng lên. Cháu là dấu hiệu cho người đời chống báng. Còn chính bà một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà!
Lòng vui mừng vì người con đã chào đời. Nhưng cũng có nhiều lo âu bối rối, nhất là khi nghe những lời truyền tin thứ hai về con mình và về đời mình.
Tuy vậy Đức Mẹ qua tập tục đạo đức đem dâng con cho Thiên Chúa trong đền thờ, thầm nói lên tâm tình phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa không chỉ riêng cho đời con mình, mà cho cả chính mình nữa.
Là cha mẹ, người Công giáo chúng ta, ai cũng vui mừng khi hay tin có con. Và mừng rỡ hơn nữa khi người con mở mắt chào đời mạnh khoẻ. Nhưng ngay từ khi hay tin sự sống hình hài thân xác người con bắt đầu thành hình trong cung lòng mẹ cha, ai cũng đọc kinh khấn nguyện xin ơn phù hộ cho người con tương lai. Đến khi người con ra đời, cha mẹ nào cũng hằng dâng lời tạ ơn cùng kêu xin khấn nguyện cho con mình trong suốt cả đời sống.
Ngày xưa khi còn thơ bé, chúng ta đã được cha mẹ bồng ẵm vào thánh đường xin cho được nhận lãnh Bí tích rửa tội, ánh sáng đức tin vào Thiên Chúa là hướng đi cho đời sống.
Ngày nay lớn lên trưởng thành lập gia đình, cha mẹ trẻ có con, họ cũng làm việc nối lửa đức tin cho con mình như thế.
Nếp sống đức tin này gói ghém tâm tình tạ ơn cùng phó thác vào bàn tay quan phòng Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời sống gia đình.
Tâm tình tạ ơn dâng hiến hòa lẫn trong làn khói ánh nến lung linh và lời cầu xin thoát ra tự đáy tâm hồn niềm tin: "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử. Amen."
30.Các con là ánh sáng thế gian
Tối hôm thứ bảy 30.1.1993 là tối đánh dấu 65 năm ngày Hitler lên cầm quyền tại Đức, đã gây ra không biết bao nhiêu tang tóc đau thương cho cả nhân loại. Tại khắp nơi trên nước Đức đã có hàng trăm ngàn người xuống đường tuần hành, nhiều ánh sáng rực rỡ nhóm lên, nhiều nến cháy trên tay của mỗi người tham dự cuộc tuần hành. Ánh nến ấy là biểu trưng của một chút ánh sáng mà nhiều người dân Đức muốn thắp lên để xoá tan màn đêm dày đặc của hận thù, ích kỷ, bại hoại do những người theo tân Đức Quốc Xã.
Hôm nay, tại nhiều nhà thờ trên khắp thế giới, người tín hữu Kitô cũng cầm nến cháy sáng trong tay để tưởng niệm một biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. đó là việc Ngài được cha mẹ dâng vào đền thờ Giêrusalem. Cũng như mọi bé trai đầu lòng Do Thái khác, Chúa Giêsu cũng được cha mẹ mang đến đền thờ Giêrusalem để dâng hiến cho Thiên Chúa theo đúng quy định của luật Môisê. Nhưng theo chương trình của Thiên Chúa, đây không chỉ là một lề luật có sẵn, nhưng điều chính yếu là việc tỏ mình của Con Thiên Chúa như ánh sáng của muôn dân.
Thật thế, như chúng ta đã nghe trong bài Tin Mừng hôm nay, lời chúc tụng của cụ già Simêon là một kỷ niệm về lời tiên báo của tiên tri Isaia: "Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân để mở mắt những người mù loà, để đưa tù nhân ra khỏi lao tù, để đưa dân riêng ra khỏi bóng tối" (Is 42,6). Và chính Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: "Ta là ánh sáng thế gian".
Thật vậy, qua cuộc sống và cái chết cùng sự Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu đã chiếu giãi ánh sáng cho những bí ẩn của cuộc sống con người. Trong ánh sáng của Ngài, chúng ta biết được mình bởi đâu mà ra và mình sẽ đi về đâu. Đồng thời ánh sáng của Ngài cũng xoá tan mọi tăm tối tội lỗi của thế gian. Nơi đâu ánh sáng của Chúa Giêsu được chiếu toả, nơi đó bóng đêm của tội lỗi, của ích kỷ, của hận thù sẽ tan biến đi. Chúa Giêsu đã mang ánh sáng đến trên trần gian và Ngài muốn ánh sáng đó được chiếu toả trong mọi hang cùng ngõ hẻm của trần gian.
Nhiệm vụ mang ánh sáng của Ngài đi khắp nơi đã được Chúa Giêsu uỷ thác cho Giáo Hội, Ngài đã nói với các môn đệ: "Các con là ánh sáng thế gian". Giáo Hội và một cách cụ thể là mỗi người Kitô hữu đều là ánh sáng của Chúa Kitô được thắp lên để soi sáng cho trần gian.
Theo một truyền thống đã có từ lâu trong Giáo Hội, ngày hôm nay các tu sĩ cầm nến cháy trên tay để cùng với Chúa Kitô tự hiến cho Chúa Cha và cùng với Ngài trở thành ánh sáng cho mọi người. Nhưng ngày lễ nến hôm nay không chỉ là ngày lặp lại lời tuyên khấn của các tu sĩ, mà còn là lễ của mỗi người Kitô hữu.
Ngày hôm nay mỗi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi để đốt lên ngọn nến mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép Rửa tội. Họ được mời gọi để cùng với toàn thể Giáo Hội lặp lại những lời cam kết chống lại sức mạnh của tăm tối trong cuộc sống của họ. Những ngọn nến đã được đốt lên trên toàn nước Đức biểu hiện của một ý chí muốn xoá tan những bóng tối riêng tư của hận thù, ích kỷ, bạo động... và đồng thời khơi dậy nguồn ánh sáng của sự tha thứ, yêu thương, quảng đại và cảm thông.
Ngày hôm nay, những ngọn nến mà mỗi người Kitô hữu thắp sáng lên cũng nhắc nhở cho họ về sứ mệnh cao cả là trở thành ánh sáng cho mọi người. Trong đêm tối của một xã hội dầy đặc những hận thù, ích kỷ, lừa lọc... mỗi người tín hữu Kitô đều có thể nói: "Thà đốt lên một ánh nến còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối". Một cuộc sống tin tưởng, hân hoan, phó thác và yêu thương, phục vụ quên mình, đó là một chút ánh sáng mà mỗi người tín hữu Kitô đều có thể đốt lên để soi sáng cho một góc trời nào đó, để từ đó người khác có thể nhận ra ánh sáng đích thực của Chúa Kitô.
31.Lễ Nến--Lm. Nguyễn Ngọc Long
A. Lịch sử
Lịch sử Ngày này trong Hội thánh công giáo là ngày lễ mừng, vẫn quen gọi là lễ Nến hay lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ. Tại sao lại có lễ này và gọi như vậy? Theo luật Maisen trong kinh thánh cựu ước ( Xh 13,11-16; Lv 12,1-8; Is 88,14f;42,6) ghi chép:
1. Trẻ em sơ sinh trong thời han luật định phải mang đến đền thờ dâng hiến cho Thiên Chúa.
2. Một người phụ nữ sau khi sinh con được 40 ngày phải mang vào đền thờ Thiên Chúa lễ vật, để được thanh tẩy. Vì thời đó người ta hiểu là sau khi sinh con, người phụ nữ không còn được thanh sạch. Thanh sạch về thể xác hay tâm hồn? Trong sách luật không nói rõ.
3. Người con đầu lòng là tài sản của Thiên Chúa. Vì thế có tục lệ dâng con và lễ vật cho Thiên Chúa để chuộc.
Sau khi hạ sinh Chúa Giêsu được 40 ngày Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng làm theo luật đã ghi chép trong đạo thời đó. Nhưng lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh theo luật định lại trở nên cuộc gặp gỡ: Hai người đạo đức Ông gìa Simeon và Bà Hanna được hạnh phúc bồng bế haì nhi Giêsu trên tay mình. Qua cuộc gặp gỡ này họ đã nhận ra hài nhi Giêsu là "ánh sáng cho mọi dân tộc" ( Lc 2,22-40).
Bên Hội thánh Đông phương lễ này gọi là Lễ gặp Đấng Cứu Thế: Chúa Giêsu, vị Cứu thế vào đền thờ và gặp hai vị đại diện cho thời đạo cũ: Simeon và Hanna. Tục lệ này trở thành lễ mừng kính trong hội thánh bên Giêrusalem từ đầu thế kỷ thứ tư: 40 ngày sau khi Đức Mẹ hạ sinh Chúa Giêsu.
Bên Hội thánh tây phương lễ này là lễ kính Đức Mẹ: Đức Mẹ Maria cũng như bao người phụ nữ khác, sau khi sinh hạ con, mang lễ vật vào đền thờ, để được thanh tẩy như luật định. Bên Roma mừng kính ngày lễ này cũng vào thế kỷ thứ tư trong các thánh đường. Sau này, vào ngày lễ này nến được làm phép và mọi người rước nến cháy sáng trong nhà thờ. Vì thế lễ có tên là Lễ Nến.
Từ năm 1969 lễ ngày mùng Hai tháng Hai không còn thuần ý nghĩa lễ dành kính Đức Mẹ Maria, nhưng được đổi thành lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền thờ, 40 ngày sau khi Chúa mở mắt chào đời trong hang đá Belem. Nếu lễ Chúa giáng sinh được mừng kính ngày 25. 12., ngày lễ dâng Chúa vào đền thờ, sẽ là ngày 02 tháng hai. Nếu lễ giáng sinh được mừng kính vào ngày 06.01., ngày lễ dâng Chúa vào đền thờ sẽ vào ngày 14. tháng Hai.
B. Ý nghĩa ngày lễ mừng
Tục lệ đạo đức lễ Nến ăn sâu trong cuộc sống người tín hữu. Ỡ nhiều nơi, giáo dân tín hữu mang nến đến nhà thờ để được làm phép trong ngày này. Họ mang nến đã làm phép về thắp lên mỗi khi đọc kinh gia đình, khấn nguyện khi có người ốm đau hoặc trẩy đi xa, trong những dịp vui mừng cưới hỏi hay tang chế.
Lễ mừng này nói lên ý nghĩa cuộc gặp gỡ: Chúa Giêsu con Thiên Chúa được đưa vào đền thờ, một biểu hiêu trong công trình thiên nhiên. Ngài đi vào thiên nhiên gặp gỡ đời sống con người: tôn giáo và đời sông gặp gỡ nhau.
Vì thế, sau này trong bước đường rao giảng nước Thiên Chúa, Ngài hay dùng những thí dụ cụ thể trong đời sống để cắt nghĩa về nước đó: ơn kêu gọi là con Thiên Chúa và nước Thiên Chúa là quê hưong của mọi người.
Hai thế hệ con người gặp gỡ nhau. Gìa trẻ gặp gỡ nhau. Hai vị trưởng lão Simeon và Hanna gặp gỡ trẻ Giêsu. Cuộc gặp gỡ tình người này là cuộc trao đổi. Thế hệ lớn tuổi trao lại cho thế hệ trẻ kinh nghiệm sống đã thu lượm được, những gía trị đời sống, niềm hy vọng cùng lời chúc lành mong chờ trông đợi của mình. Thế hệ trẻ đón nhận những trối trăn của lớp trưởng thượng trao lại.
Thế hệ lớn tuổi qua lời ông Simeon: Giờ đây lạy Chúa, xin để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an. Vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu chuộc cho muôn dân, biểu lộ lối sống biết nhận lãnh và cũng sẵn sàng cho đi trối lại. Cung cách chuyển giao này gây niềm phấn khởi cho thế trẻ đang lên sẵn sàng nhận lãnh lời trối trăn như bảo vật làm nền tảng cho tương lai đời sống cùng niềm tin đạo giáo.
Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng từ trời cao, được đưa vào đền thờ như lời mời gọi mọi người cùng đến gặp gỡ nhau trong tình khoan dung tha thứ cho nhau và mang đến cho nhau niềm hy vọng.
Lễ dâng Chúa vào đền thờ ngày mùng hai tháng hai hằng năm như lời mời gọi mỗi người đón nhận Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng cho tâm hồn mình. Anh sáng Chúa Giêsu chiếu soi vào đền thờ tâm hồn con người và mang đến niềm vui cùng sự an ủi trong những giờ phút đen tối của cuộc đời.
32.Dâng con trẻ
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta mừng kính hai biến cố: đó là việc thanh tẩy của Đức Maria và việc dâng Chúa Giêsu nơi đền thờ.
Trước hết là việc thanh tẩy của Đức Maria.
Theo luật Maisen, người đàn bà sau khi sinh nở, thì bị coi là uế tạp... Suốt 40 ngày, người ấy không được lên đền thờ tham dự vào những nghi lễ đạo đức. Sau đó người ấy phải đến trình diện trước thầy cả để được thanh tẩy.
Trên nguyên tắc Mẹ Maria không cần phải giữ luật Maisen vì Mẹ là Đấng trong sạch tuyệt vời. Nhưng cũng như Đức Kitô, Mẹ muốn hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nên hôm nay Mẹ đã chịu thanh tẩy theo như đã quy định.
Tiếp đến là việc dâng Chúa nơi đền thờ.
Kể từ khi thiên thần đã giết các con đầu lòng của người Ai cập, còn dân Do Thái lên đường, ra khỏi đất nước này với kiêp sống nô lệ lầm than, thì những con đầu lòng của người Do Thái được coi như là thuộc về Thiên Chúa và có bổn phận lo việc phụng tự Ngài. Thế nhưng sau đó, công việc phụng tự này được trao lại cho chi họ Lêvi. Vì vậy, những người con trai đầu lòng phải được cha mẹ chuộc lại bằng một số tiền nhỏ.
Ngày hôm nay Mẹ Maria cũng tuân giữ điều luật này khi dâng hài nhi Giêsu nơi đền thờ.
Hiện giờ tại nhiều xứ đạo, người ta tổ chức nghi lễ dâng những người mẹ và những đứa con cho Đức Maria. Đây không phải là một nghi lễ thanh tẩy của người Do Thái, vì bí tích Hôn nhân là một cái gì thánh thiện, và khi sinh sản con cái, cha mẹ tham dự vào công việc sáng tạo của Thiên Chúa, nhưng nghi lễ này có mục đích tôn vinh người mẹ.
Cũng như Mẹ Maria không tới đền thờ một mình, nhưng tới với hài nhi Giêsu. Người mẹ hôm nay đến nhà thờ với những đứa con nhỏ của mình. Vị linh mục mặc áo các phép, tiến đến cửa nhà thờ để chào đón các bà. Ngài cầm cây nến, tượng trưng cho tình trạng ơn sủng mà mỗi người chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép Rửa tội. Rồi sau đó những người mẹ và những đứa con tiến vào nhà thờ trong tiếng hát tạ ơn của lời kinh Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa và thần trí tôi hoan hỉ trong Đấng cứu độ tôi”.
Vị linh mục dâng lên Thiên Chúa và Mẹ Maria lời cầu nguyện:
- Lạy Chúa, nhờ lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, xin cho những người mẹ và những đứa con này, sau cuộc sống trần gian, được đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Sau đó, ngài cầu xin Chúa Giêsu, Đấng đặt biệt yêu thương các trẻ nhỏ, chúc lành và gìn giữ những em nhỏ này khỏi mọi sự dữ, để các em được lớn lên trong sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa, hầu ngày sau cùng được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Linh mục rảy nước thánh và ban phép lành:
- Xin Thiên Chúa là Cha, và Con và Thánh Thần ban phúc lành cho anh chị em.
Nghi thức và những lời kinh thập đẹp. Ước chi mỗi bà mẹ cũng hãy cảm tạ Thiên Chúa vì thiên chức cao cả mà Ngài đã dành cho chúng ta. Đồng thời hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria dâng con mình cho Chúa để Chúa nâng đỡ và phù trợ chúng luôn mãi, hôm nay và sau này, trên vạn nẻo đường đời.
01/02 Chúa Giêsu sai đi mười hai tông đồ
- Viết bởi Mc 6, 7-13
Chúa Giêsu sai đi mười hai tông đồ.
Thứ Năm đầu tháng, tuần 4 thường niên.
"Người bắt đầu sai các ông đi".
Lời Chúa: Mc 6, 7-13
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế.
Và Người truyền các ông đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: "Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ".
Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Không được mang gì
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Đức Giêsu đã chọn nhóm Mười Hai
để họ ở với Ngài và để được Ngài sai đi rao giảng và trừ quỷ (Mc 3, 14-15).
Bây giờ, sau một thời gian sống gần gũi bên Thầy,
đã đến lúc họ được sai đi để làm những điều họ thấy Thầy làm:
kêu gọi người ta hoán cải, trừ quỷ, xức dầu chữa bệnh nhân (cc. 12-13).
Các môn đệ trở nên cánh tay nối dài của Thầy.
Họ được Thầy Giêsu tin tưởng cho chia sẻ cùng một sứ mạng.
Các môn đệ mang gì khi lên đường?
Một lệnh sai đi, một người bạn đồng hành, một quyền lực trên thần ô uế.
Đức Giêsu cho phép họ mang một cái gậy và đôi dép để đi đường xa.
Tất cả hành trang chỉ có thế!
Những thứ bị cấm mang khi đi đường
là những thứ vốn tạo ra sự bảo đảm hay dư thừa không cần thiết:
lương thực, bao bị, tiền giắt lưng, hai áo trong.
Như thế người được sai đi phải hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa lo liệu,
và phải hoàn toàn cậy dựa vào lòng tốt mỗi ngày của tha nhân.
Nhẹ nhàng, đơn sơ là thái độ của người luôn sẵn sàng ra đi.
Siêu thoát, vô vị lợi là thái độ của người không dính bén với vật chất.
Người tông đồ cũng không dính bén đến cơ sở hay tiện nghi.
Họ không tìm cách đổi chỗ ở để có chỗ tốt hơn (c. 10).
Hơn nữa họ chấp nhận sự thất bại, sự từ chối không muốn đón tiếp (c.11),
vì chính Thầy của họ cũng đã chịu cảnh ngộ tương tự ở quê nhà.
Nhóm Mười Hai đã ra đi theo lệnh Thầy Giêsu
và đã làm được những điều họ không dám mơ (cc. 12-13).
Họ đã học được kinh nghiệm về tin tưởng, khó nghèo, siêu thoát.
Họ đã thấy sức mạnh của Nước Trời đang thu hẹp lại mảnh đất của Satan.
Họ đã đem lại niềm vui cho bệnh nhân và người khao khát Tin Mừng.
Giáo Hội mọi thời vẫn được nhắc nhở từ đoạn Lời Chúa trên đây.
Chẳng ai giữ từng chữ của bản văn, nhưng tinh thần thì không được bỏ.
Sự nhẹ nhàng, cơ động của một Giáo Hội đến phục vụ con người,
luôn kéo chúng ta ra khỏi những nặng nề, trì trệ dễ vướng phải.
Hôm nay Chúa cho phép tôi được mang gì
và cấm tôi mang gì?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đuờng
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm đuợc những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm đuợc viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đuờng,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Suy Niệm 2: Vương quyền
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đa-vít là vị vua đạo đức. Chúa hứa cho dòng dõi ông trường tồn. Vương quyền thuộc về nhà ông mãi mãi. Nếu con cháu ông đi trong đường lối của Chúa. Ý thức điều đó nên trước khi lìa đời Đa-vít kỹ lưỡng dặn dò Sa-lô-môn: “Hãy tuân giữ các huấn lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của con, mà đi theo đường lối của Người, là giữ các giới răn, mệnh lệnh, luật pháp, và chỉ thị của Người, như đã ghi trong Luật Mô-sê. Như thế con sẽ thành công trong mọi việc con làm và trong mọi hướng con đi, và Đức Chúa sẽ thực hiện lời Người đã phán với cha rằng: “Nếu con cái ngươi sống cho phải đạo, là hết lòng hết dạ bước đi trung thực trước nhan Ta, thì ngươi sẽ không bao giờ thiếu người ngự trên ngai Ít-ra-en”“(năm chẵn).
Lời hứa đó đã ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Nhưng đã đổi mới. Chúa Giê-su thuộc dòng tộc Đa-vít. Nhưng khai mạc một vương quốc mới. Không phải vương quốc trần thế. Nhưng vương quốc trên trời. Không còn cai trị Ít-ra-en cũ với 12 chi tộc. Nhưng một dân mới đặt trên nền tảng 12 tông đồ. Không còn chiến đấu với các dân nước lân bang. Nhưng chiến đấu với thần ô uế, với quỉ dữ. Không còn giữ luật Mô-sê. Nhưng tuân giữ Lời Chúa. Không cậy dựa vào sức mạnh trần gian. Nhưng tin vào sức mạnh của Thiên Chúa. Không chỉ làm cho dân được an cư lạc nghiệp. Mà còn cho dân được an vui hạnh phúc. Nhưng để được làm dân trong vương quốc mới của Thiên Chúa, ta phải ăn năn sám hối. Từ bỏ lối sống cũ trong tội lỗi. Để sống đời sống mới trong ân sủng, thánh thiện. “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh”.
Vương quyền của Chúa Giê-su bền vững muôn đời. Vương quyền Người nhận được vì đã đổ máu ký kết giao ước mới: “Máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu A-ben”. Ta được trở thành công dân mới. Sống trong “thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giê-ru-sa-lem trên trời”. Nơi đó ta không còn bị tà thần ám ảnh. Vì ta sống “với muôn vàn thiên sứ”. Nơi đó ta “tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện”. Ta tới vương quốc hạnh phúc muôn đời: “Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời”.
Suy Niệm 3: Sứ mệnh tông đồ
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Một tôn giáo chỉ tồn tại, nếu mỗi ngày một phát triển và có thêm người gia nhập. Kitô giáo do Chúa Giêsu thiết lập cũng nằm trong diện đó. Dưới con mắt Chúa, mỗi linh hồn đều có giá trị như nhau và mỗi người đều được sai đi tìm những con chiên lạc và dẫn chúng về đồng cỏ xanh tươi. Ngài ý thức rằng Thiên Chúa đã tạo dựng con người, không phải để bị vất vào lò lửa đời đời, nhưng là để được thu vào kho lẫm. Do đó, mối bận tâm lớn nhất của Ngài khi đến thế gian chính là đem Tin Mừng cứu độ cho mọi người.
Từ trước tới giờ, Ngài vẫn làm việc đó một mình, nhưng nay vì tính cách khẩn thiết của việc tông đồ, Ngài cần có những con người cộng tác: Mùa gặt bề bộn, mà thợ gặt thì ít. Sứ mệnh tông đồ từ nay được trao cho họ. Sứ mệnh đó thật cao cả và cấp bách, vì thế Chúa đòi hỏi nơi họ sự thoát ly trọn vẹn, hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa quan phòng. Ra đi một cách thảnh thơi, không bồn chồn, không bối rối, không bận tâm đến bị, đến tiền. Không những thế, họ còn phải hy sinh tất cả cho sứ mệnh, đo lường mọi sự theo lợi ích của Nước Thiên Chúa. Họ chấp nhận giao tiếp với thế gian nếu đó là cơ hội để phổ biến sứ điệp, họ không mưu cầu tư lợi, nhưng dũ bỏ hết những gì không liên quan đến sứ mệnh, chỉ như thế, họ mới có thể đạt tới trình độ siêu thoát và dễ dàng chinh phục các linh hồn về cho Nước Chúa.
Mỗi người chúng ta cũng được kêu gọi vào sứ mệnh tông đồ, chúng ta có ý thức sứ mệnh cao cả ấy không? Các linh hồn được cứu rỗi hay bị luận phạt, một phần lớn tùy thuộc vào đời sống của chúng ta. Ðiều đó có thể làm chúng ta run sợ, nhưng nếu chúng ta nhiệt tâm mở rộng Nước Chúa nơi các tâm hồn, chúng ta sẽ được an tâm, không ai có thể trách chúng ta đã đùa giỡn với số phận đời đời của họ, và các linh hồn sẽ là triều thiên cho chúng ta trong ngày Chúa vinh quang ngự đến.
Chúng ta hãy sống kết hiệp với Chúa. Tất cả hoạt động của chúng ta sẽ chẳng có giá trị gì, nếu không bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa. Càng kết hiệp với Chúa, chúng ta càng có khả năng chu toàn bổn phận người tông đồ giữa dân Chúa, và như vậy chắc chắn chúng ta sẽ nhận được phần thưởng Chúa hứa cho người thợ tận tâm, nhiệt tình cho Nước Chúa trị đến.
Suy Niệm 4: Nếp sống nghèo cần thiết
Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng. (Mc. 6, 7-8)
Hôm nay các Tông đồ bắt đầu thực tập công việc truyền giáo. Các ông đã được thấy Chúa làm, nghe Chúa nói, thì giờ đây đến lượt các ông nói và làm. Tuy thời kỳ huấn luyện các ông còn chưa xong – chỉ đến ngày Lễ Hiện Xuống công việc này mới kết thúc – nhưng các ông đã có thể thử nghiệm cho biết cuộc đời truyền giáo là thế nào.
Khi sai đi truyền giáo, Đức Giêsu đã dặn dò, chỉ thị cho các Tông đò nhiều điều. Chúng ta sẽ lưu ý hai sự kiện có ý nghĩa này: dặn dò sống khó nghèo và làm cho xong công việc.
Đừng mang theo gì cả
Chúa Giêsu căn dặn các Tông đồ không được mang theo gì cả; các ông phải ra đi không cồng kềnh vướng vít, không mang theo ngay cả đồ ăn thức uống nữa.
Tôi nghĩ: xem ra đây là một điều kiện để người truyền giáo có được thảnh thơi. Ra đi không hành lý, chính là từ chối kéo theo mình những gì là riêng tư, là không khui và phô ra trước mặt người khác, tiền bạc, của cải, uy thế của mình… Ra đi không hành lý là muốn nói lên rằng chỉ có bản thân, tư cách con người truyền giáo mới là chiếc xe tốt cần thiết cho việc đi rao giảng Tin mừng. Làm chứng là nói bằng chính con người và đời sống của mình, chứ không phải bằng nhừng lời nói xuông mà thôi, nghĩa là sống sao thì dạy vậy, và dạy sao thì sống vậy.
Một khía cạnh khác nữa của nếp sống nghèo cần có đối với người truyền giáo là chấp nhận lòng hiếu khách của người ta, sẵn lòng khi được người ta mời. Người ta dễ đón nhận mình hơn khi ta không choán hết chỗ của họ!
Ta đến không mang theo đồ đạc lỉnh kỉnh, người ta sẵn lòng đón tiếp ta; hai việc này thường đi đôi với nhau. Ai cũng biết rõ rằng nếu ta tới nhà họ với đôi bàn tay trống – ngoại trừ chứng từ của đời sống ta - thì sự tiếp đón của họ mới thật trong sáng: người ta sẽ tỏ ra quan tâm đến chứng từ, chứ không phải vì món đồ nào đó được cất dấu trong những chiếc va-li của ta.
Làm cho xong công việc
Các Tông đồ đều là những người mới vào nghề; việc các ông làm chẳng phải là điều mắt thấy tai nghe: xức dầu cho vài người bệnh, săn sóc cho mấy bệnh nhân, úy lạo những người khốn khổ, thất vọng.
Có lẽ chúng ta quá tán dương việc các Tông đồ làm, nên đâm ra nhát sợ không có khả năng làm chứng như các ngài. Lần này, ta hãy cứ tạm biết rằng các ngài cũng đã chỉ làm những việc bình thường mà ta có thể làm được, và trước hết các ngài đã trở thành những bàn tay săn sóc, trước khi miệt mài với công việc rao giảng.
Lúc này đây, Chúa Giêsu đang bảo ta: “Nào con, ta đi làm việc thôi, và hãy làm với tinh thần đơn sơ mà can đảm!”.
Suy Niệm 5: Giảng gì? Giảng như thế nào?
Sau khi được Đức Giêsu gọi và chọn các môn đệ, các ông đã ở lại với Ngài một thời gian, nay Ngài sai họ đi để rao giảng Tin Mừng.
Đức Giêsu truyền cho họ đi rao giảng, và không những thế, Ngài còn dạy cho họ biết giảng điều gì, và giảng như thế nào!
Về nội dung lời giảng: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối”. Đây cũng chính là sự tiếp nối lời giảng dạy của Đức Giêsu và của Gioan Tiền Hô.
Về cách giảng:
- Trước tiên, để lời giảng của các ông có giá trị, họ phải là chứng nhân.
- Thứ đến, chữa lành thể xác bằng việc chữa bệnh.
- Cuối cùng, giải thoát con người khỏi xiềng xích trói buộc của Ma Quỷ.
Về thái độ, tác phong của người môn đệ: người thừa sai phải là người nghèo. Nghèo để thanh thoát; để liên đới; để tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi loan báo Lời Chúa cho mọi người, nhất là những người đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần.
Người đi theo Chúa phải là người luôn luôn xây dựng và cổ võ sự hiệp nhất, sống tình huynh đệ và yêu thương, trở nên chứng nhân cho Lời Chúa bằng hành động.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo. Nhưng trước tiên, xin cho chúng con biết sống nghèo, tin tưởng, phó thác nơi Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Được Chúa sai đi rao giảng
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tông đồ là người được Chúa sai đi, được giao nhiệm vụ rao giảng ơn cứu độ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên thế giới và dựng nên con. Con thật nhỏ bé giữa vũ trụ mênh mông rộng lớn này. Ai cũng có một mảnh đời riêng, một khoảng hẹp riêng cho đời mình. Dù không là gì so với vô tận không gian, con vẫn biết rằng Chúa không bỏ quên mỗi một người trong chúng con. Đàng khác, dù con có muốn lẩn trốn vào góc quên lãng, muốn cuộn mình vào trong lớp vỏ lặng câm, vì mặc cảm nhỏ nhoi hèn kém, thì con vẫn không thể tránh khỏi cái nhìn yêu thương của Chúa.
Chúa đã sai các tông đồ đến với chúng con, gọi chúng con bước ra khỏi vỏ bọc của mình, khiến trái tim khép kín phải mở cửa nhảy mừng, khiến môi miệng lặng câm phải cất vang lời hát, và khiến mọi khao khát được no thỏa niềm vui. Các mục tử chính là sự hiện diện sống động của Chúa giữa đàn chiên, là những người được Chúa sai đến tới mọi ngõ ngách của thế giới này. Qua các ngài, chính con cũng được sai đi để đến với anh em mình, nhìn vào mắt nhau để nói lời yêu thương, cầm tay nhau mà sánh bước về Nước Chúa. Như vậy, con sẽ chìm lặng trong sự hủy diệt nếu con quay mặt làm ngơ trước sự săn sóc của Chúa. Trái lại, khoảng hẹp đời con sẽ rộng mở thênh thang nếu con đón lấy ánh lửa yêu thương Chúa gửi đến với con.
Lạy Chúa, con mong sao được là ngọn lửa thắp lên từ lửa tình yêu của Chúa, và được sai đi để thắp sáng cuộc đời anh em, biến những khoảnh khắc thành vĩnh cửu, biến những vui buồn mau qua thành hạnh phúc đời đời. Xin Chúa chúc lành cho ý nguyện của con. Amen.
Ghi nhớ: ”Người bắt đầu sai các ông đi”.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai đi
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Cha Piô Ngô Phúc Hậu vị tông đồ truyền giáo vùng sông nước mênh mông, đất đai thẳng cánh cò bay hiu quạnh ở vùng cực nam của Tổ quốc, cha chia sẻ về một trong những kinh nghiệm truyền giáo: Mình xách môbylét đi một đường, vừa đi vừa liếc, lòng thầm cầu nguyện để Chúa chọn cho người truyền giáo một nơi dừng chân. Tự nhiên lòng mình thấy ấm hẳn lên khi nhác thấy một căn nhà lá có trồng cây lựu ở phía trước. Trái lựu to bằng nắm tay đang đánh đu theo gió. Như một phản xạ, mình lái môbylét vào tới hàng ba, làm bộ ngắm nghía cây lựu. Bà chủ nhà, nét mặt hiền từ, mái tóc muối tiêu, nghe tiếng xe nổ và tắt máy vội vàng chạy ra.
- Thầy kiếm ai đó?
- Chào bác. Cây lựu nhà bác dễ thương quá, cho tôi ngắm một tí.
- Thì vô trong nhà uống nước đã.
- Bác thứ mấy để tôi xưng hô cho dễ.
- Tôi thứ năm. Thứ của ông nhà tôi.
- Thế bác trai đi đâu rồi, bà Năm?
- Ông tôi mất từ lâu rồi.
- Bây giờ bà Năm ở với ai?
- Có hai bà cháu à. Thầy ở đâu mà vô đây?
- Tôi ở Ô Môn vô đây dạy giáo lý. Sáng vô, chiều về. Đi tới đi lui thấy bất tiện quá. Tôi muốn ở lại đây luôn, mà chưa kiếm được chỗ nào ở cho thuận lợi.
- Thì thầy ở đây với tôi. Nhà rộng rinh à. Thầy ở đây thì cũng như con cháu trong nhà chứ gì.
- Thế bà Năm theo đạo nào?
- Tôi chẳng theo đạo nào hết. Thờ ông bà vậy thôi.
- Cám ơn Chúa. Cám ơn bà Năm. Vậy ngày mai tôi vô ở luôn nhá.
- Ừa (Trích Nhật ký Truyền giáo, Bà Năm).
Suy Niệm
Người môn đệ được sai đi, hành trang duy nhất là sự nhiệt thành và lòng tin thác cậy trông. Mang tâm tình của Đức Kitô truyền cho các môn đệ: “Đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo”. Người lại bảo: “Đến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi”...
Thánh Gioan Kim Khẩu Suy Niệm lệnh truyền của Chúa trên các tông đồ: “Ngài phòng giữ cho các môn đệ khỏi mọi sự nghi ngờ của những ý niệm trần gian lưu tâm; Ngài cất đi nơi các ông khỏi mọi sự lo toan trần thế, để toàn tâm lo việc Lời Chúa, và Ngài làm cho các ông biết quyền năng và sự chăm sóc mà Ngài dành cho họ”. Thật thế, đêm hôm trước cuộc tử nạn, Ngài chất vấn các ông về sự quan tâm của chính Ngài: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?” (Lc 22,35)… Sau khi đã trang bị cho các ông những quyền lực cần thiết cho sứ vụ, Ngài ra lệnh cho các ông để lại tất cả những gì không cần thiết” (Theo Homélie XXXII sur l’évangile selon saint Matthieu, 4). Để lại những lo toan trần thế, không cần thiết để làm “nhẹ bớt”, sẵn sàng theo sự thúc đẩy của Thánh Thần như Đức Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận nhận định: “Hãy cắt đứt xích xiềng ràng buộc con, dù là xích vàng, để tiến tới. Cuối đường có Chúa đón chờ con” (ĐHV số 179).
Làm việc tông đồ một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Vì thế Chúa Giêsu nói đến hình ảnh sai hai người ra đi. Trong Công vụ sứ đồ, các thừa sai luôn luôn đồng hành với nhau: Phêrô và Gioan (x.Cv 3,1; 4,13); Phaolô và Barnabê (x.Cv 13,2); Giuđa và Sila (x.Cv 15,22b)…
Chúa gọi và sai người môn đệ. Người tín hữu qua bí tích Rửa Tội cũng được gọi sai đi. Mỗi ngày, hay ít là Chúa nhật, chúng ta tham dự thánh lễ, Missa – Messe, chữ Messe- Missa - thánh lễ có nghĩa là “sự sai đi” như lời truyền: “Anh hãy đi! Anh em được sai đi” “Ite, Missa est”. Chính Chúa đã thiết lập nhịp sống sai đi và trao cho mọi người chúng ta. Sai đi để sinh hoa kết quả tôn vinh Thiên Chúa như lời mời gọi: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15,8), đó là ơn gọi chung của mọi Kitô hữu như Chúa nói: “Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại”(Ga 15,16).
Thật thế, đời con là một sự ra đi, ra đi tiến vào đời vì được sai như lời ca được tấu lên tiễn bước con: “Ngài sai tôi đi vào đời, niềm tin vui gieo lòng người, Ngài sai tôi đi mọi nơi…”.
Suy Niệm 8: Chúa sai các Tông đồ đi truyền giáo
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau một thời gian huấn luyện, hôm nay Chúa Giêsu sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo. Chúa sai các ông đi từng hai người một, ban cho các ông có quyền chữa bệnh và khử trừ ma quỉ. Người không cho các ông mang theo gì, trừ ra cây gậy và đôi dép, để các ông hoàn toàn phó thác vào Người. Người dặn bảo các ông: đến nơi nào thì cứ kiên trì ở đó giảng và làm phúc cho họ. Nếu nơi nào người ta không chịu nghe lời thì hãy đi nơi khác, nhưng hãy cảnh cáo cho họ biết lỗi của họ.
2. Hôm nay các Tông đồ bắt đầu thực tập công việc truyền giáo. Trong thời gian qua, các ông đã được trong thấy việc Chúa làm, Chúa giảng dạy... thì giờ đây đến lượt các ông phải nói và làm. Tuy thời kỳ huấn luyện các ông còn chưa xong – chỉ đến ngày lễ Hiện Xuống việc này mới kết thúc – nhưng các ông có thể thử nghiệm cho biết cuộc đời truyền giáo là thế nào.
3. Chúa muốn các ông sống khó nghẻo và đơn sơ phó thác.
Chúa Giêsu căn dặn các tông đồ không được mang theo gì cả, các ông phải ra đi không cồng kềnh vướng vít, không mang theo ngay cả đồ ăn thức uống nữa.
Xem ra đây là một điều kiện để người truyền giáo có được thảnh thơi. Ra đi không hành lý, chính là từ chối kéo theo mình những gì là riêng tư, và phô ra trước mặt người khác, tiền bạc, của cải, uy thế của mình... Ra đi không hành lý là muốn nói lên rằng chỉ có bản thân, tư cách con người truyền giáo mới là chiếc xe tốt cần thiết cho việc đi rao giảng Tin Mừng. Làm chứng là nói bằng chính con người và đời sống của mình, chứ không phải bằng những lời nói xuông mà thôi, nghĩa là sống sao thì dạy vậy, và dạy sao thì sống vậy.
4. Một khía cạnh khác của nếp sống nghèo cần có đối với người truyền giáo là chấp nhận lòng hiếu khách của người ta, sẵn lòng khi được người ta mời. Người ta dễ nhận mình hơn khi ta không choán hết chỗ của họ. Ta đến không mang theo đồ đạc lỉnh kỉnh, người ta sẵn lòng đón tiếp ta; hai việc này thường đi đôi với nhau. Ai cũng biết rõ rằng nếu ta tới nhà họ với đôi bàn tay trống – ngoại trừ chứng từ của đời sống ta – thì sự tiếp đón của họ mới thật trong sáng: người ta sẽ tỏ ra quan tâm đến chứng từ, chứ không phải vì món đồ nào đó được cất giấu trong những chiếc Va-li của ta.
5. Chúa muốn các nhà truyền giáo làm chứng cho Người.
Mỗi người chúng ta có trách nhiệm phải thi hành sứ mạng tiên tri nghĩa là phải làm chứng cho Chúa Giêsu như lời Người dạy: “Các con là chứng nhân của Thầy”. Rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa không phải chỉ dùng lời nói suông nhưng phải dùng cả đời sống, cả con người của mình để làm chứng, vì con người chúng ta là phương tiện hữu hiệu để chỉ cho người ta biết Thiên Chúa. Vì vậy, mỗi người phải có đời sống gương mẫu để xứng đáng là “chứng nhân” của Chúa, ngược lại chỉ là những”phản chứng” thôi. Cho nên chúng ta có thể nói: cách giảng hữu hiệu nhất là làm chứng, và cách làm chứng hữu hiệu nhất là cuộc sống nghèo, không cần gì khác ngoài ơn Chúa.
Về phương diện này có người kể lại rằng: “Đã có lần Lénine nói về thánh Phanxicô Assisi: “Để có thể thay đổi bộ mặt thế giới, có lẽ chỉ cần 10 con người như vậy” (Trích Mỗi ngày một Tin vui”).
6. Chúa cũng muốn chúng ta phải làm chứng nhân cho Chúa.
Mỗi công việc đều có phương tiện để đạt tới mục đích. Trên thế giới này có biết bao nhiêu ngàng nghề, biết bao lãnh vực cho nên có vô vàn vô số những phương tiện thích hợp. Trong lãnh vực truyền giáo, Chúa cũng dùng đủ mọi phương tiện để nhờ đó người ta có thể nhận biết Chúa, nhưng phương tiện sống động và hữu hiệu nhất là chính con người chúng ta, chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa để người ta trông thấy chúng ta thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa.
Trong việc phong thánh cho linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ về đời sống của Ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: “Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.
7. Truyện: Thánh Phanxicô Assisi giảng đạo.
Ngày kia, thánh Phanxicô Assisi nói với thầy dòng: “Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo”. Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà”!
Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao”?
Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chứng tá của họ (Góp nhặt).
Suy Niệm 9: Để họ đi rao giảng
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Trước đây Chúa Giêsu đã chọn 12 tông đồ, mục đích là “để họ ở với Ngài và để Ngài sai họ đi rao giảng” (Mác Cô 13,14). Vậy sau khi họ đã “ở với Ngài” một thời gian, nay Ngài “sai họ đi rao giảng”. Đây Là những người còn non yếu, cho nên trước khi họ ra đi, Chúa chỉ dẫn họ những điều cần thiết.
Mục đích lần sai đi này là “để họ đi rao giảng”. Họ phải giảng điều gì và giảng thế nào?
- Về nội dung lời giảng, Thánh Marcô tóm lược trong công thức rất gọn “các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối”. Như thế, đây là nôi dung chính, tất cả những lời rao giảng khác đều qui về nội dung chính này. Hơn nữa, đây cũng chính là nội dung rao giảng của Chúa Giêsu (x. Mác Cô 1, 15) và của Gioan Tiền Hô (x. Mác Cô 1,14).
- Về cách giảng: họ không chỉ giảng bằng lời kêu gọi, mà còn bằng
a/ việc làm chứng (c7: họ đi từng nhóm hai người, đúng qui định của luật lệ Môisê và điều kiện để sự làm chứng có giá trị);
b/ việc giải thoát người ta khỏi xiềng xích của thế lực gian tà (“trừ Quỷ”);
c/ việc giải thoát người ta khỏi đau khổ thể xác (“chữa bệnh”).
- Những chỉ dẫn về tác phong người rao giảng có thể toám lại trong hai điều: nghèo và tin tưởng vào Chúa quan phòng.
B. Suy Niệm (...nẩy mầm)
1. Cách giảng hữu hiệu nhất là làm chứng, và cách làm chứng hữu hiệu nhất là một cuộc sống nghèo, không cần gì khác ngoài ơn Chúa.
Đã có lần Lênin nói với thánh Phanxicô Assisi “Để có thể làm thay đổi bộ mặt Thế giới, có lẽ chỉ cần 10 con người như vậy” (Trích “mỗi ngày một tin vui”)
2. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi “từng hai người một”. Việc truyền giáo là việc là của tập thể và phải làm trong tinh thần cộng tác với nhau.
Có những người làm việc Chúa những không theo tinh thần ấy: họ làm theo chủ nghĩa anh hùng cá nhân, không thích bị người khác kiểm soát, không muốn người khác chia sẽ thành công…
Ngày kia, Thánh Phanxicô Assisi nói với một thầy dòng: “nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo”. Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác và về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe Ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!”
Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồng của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?”
Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chính tá của họ. (Góp nhặt)
3. ”Nơi nài người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì ra khỏi nơi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ” (Mc 6,11)
Để tiện việc ôn thi đại học của đứa em, tôi phải thuê nhà trọ ở gần trường và ở chung với nó. rồi một buổi tối, trời mưa như trút nước, ba mẹ con hành khất đến xin chủ nhà cho ngủ trọ. Người chủ nhà từ chối và tìm cách đuổi khéo.
Nhìn bóng ba mẹ con hành khất khuất dần trong bóng tối, tôi cảm thấy sức nặng của Tin Mừng và những đòi hỏi quyết liệt của nó. Giả như các môn đệ của Chúa đến với tôi không bị, không bánh, không tiền, liệu tôi có thể tiếp nhận các Ngài không? Rất có thể một lần nữa, các Ngài sẽ bị xua đuổi hay khước từ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết nhận ra Chúa nơi tất cả mọi người nhất là những người cùng khổ, để luôn ân cần đón tiếp mọi người. (Epphata)
Suy Niệm 10: Nội dung, tác phong và cách rao giảng
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu đã chọn 12 tông đồ, mục đích là ”để họ ở với Ngài và để Ngài sai họ đi rao giảng”.
Họ phải giảng điều gì và giảng thế nào?
- Về nội dung lời giảng, Thánh Marcô tóm lược trong công thức rất gọn: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối” (Mc 6,12).
- Về cách giảng: họ không chỉ giảng bằng lời kêu gọi, mà còn bằng những việc làm cụ thể.
- Tác phong của người rao giảng: Biết sống nghèo và tin tưởng vào Chúa quan phòng.
Cách giảng hữu hiệu nhất là làm chứng, và cách làm chứng hữu hiệu nhất là một cuộc sống nghèo, không cần gì khác ngoài ơn Chúa.
Đức Thánh cha Phaolô VI: ”Con người thời đại chúng ta thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, hoặc nếu có nghe các bậc thầy thì vì những vị thầy này là những chứng nhân”.
Đã có lần Lênin nói về thánh Phanxicô Assisi như thế này: “Để có thể làm thay đổi bộ mặt thế giới, có lẽ chỉ cần 10 con người như vậy” (Trích “mỗi ngày một tin vui”).
Ngày kia, Thánh Phanxicô Assisi nói với một thầy dòng:
- Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo.
Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi:
- Con nghe cha nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!
Thánh Phanxicô đáp:
- Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế, chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?
Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chứng tá của họ. (Góp nhặt)
Người rao giảng Tin Mừng phải thực sự là người cảm nghiệm được một cách sâu xa niềm vui của một cuộc sống siêu thoát. Có như vậy, họ mới có thể thanh thản sống cuộc đời làm chứng cho Tin Mừng
Một ngày nọ, người cha giàu có dẫn con trai đến vùng quê để thằng bé thấy những người nghèo ở đây sống như thế nào. Họ tìm đến nông trại của một gia đình nghèo nhất nhì vùng.
Đây là một cách để dạy con biết quí trọng những người có cuộc sống cơ cực hơn mình – Người cha nghĩ đó là bài học thực tế tốt cho đứa con bé bỏng của mình.
Sau khi ở lại và tìm hiểu đời sống tại đây, họ lại trở về nhà. Trên đường về, người cha nhìn con trai mỉm cười:
- Chuyến đi như thế nào hả con?
- Thật tuyệt vời bố ạ!
- Con đã thấy người nghèo sống như thế nào rồi đấy!
- Ô, vâng rất tuyệt!
- Thế con rút ra được điều gì từ chuyến đi này?
Đứa bé không ngần ngại:
- Con thấy chúng ta có một con chó, họ có tới bốn con. Nhà mình có một hồ bơi dài đến giữa sân, còn họ thì có cả một con sông dài bất tận. Chúng ta phải đưa những chiếc đèn lồng vào trong vườn, còn họ thì có cả một bầu trời sao lấp lánh suốt đêm. Mái hiên nhà mình chỉ đến trước sân, còn họ thì nhà cửa rộng tít đến cả chân trời. Chúng ta có một miếng đất để sinh sống, còn họ thì có cả những cánh đồng trải dài. Chúng ta phải có người phục vụ, còn họ lại phục vụ người khác. Chúng ta phải mua thực phẩm, còn họ lại trồng ra những thứ ấy. Chúng ta có những bức tường bảo vệ xung quanh, còn họ có những người bạn láng giềng che chở nhau…
Đến đây người cha không nói gì cả.
- Bố ơi, con đã biết chúng ta nghèo như thế nào rồi. Cậu bé nói thêm.
Rất nhiều khi chúng ta đã quên mất những gì mình đang có và chỉ luôn đòi hỏi những gì mình chưa có hay không có. Có những thứ không giá trị với người này nhưng lại là mong mỏi của người khác, điều đó còn phụ thuộc vào cách nhìn và cách đánh giá của mỗi người. Xin Chúa cho chúng ta đừng quá lo lắng, chờ đợi vào những gì chúng ta không có hay sẽ có, mà bỏ quên những điều chúng ta đang có, dù chúng là những gì rất nhỏ nhoi. Có như thế chúng ta mới thấy cuộc đời có nhiều niềm vui và mới hăng say trong sứ mạng tông đồ.
W. Goethe nói: “Sự chiếm hữu có ý nghĩa gì đâu. Sự ưng thuận mới là tất cả”
Giữa một thế giới
chạy theo tiện nghi, hưởng thụ,
xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo,
xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp,
xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống,
xin cho con biết xây lại niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,
xin cho con nghe được lời mời của Chúa:
“Các con hãy cho họ ăn đi”.
Ước gì chúng con dám trao
tất cả những gì chúng con có cho Chúa,
để Chúa trao tất cả những gì Chúa có
cho chúng con và cho cả nhân loại. Amen.
31/01 Chúa Giêsu tại quê hương Nadarét
- Viết bởi Mc 6,1-6
Chúa Giêsu tại quê hương Nadarét.
Thứ Tư tuần 4 thường niên. – Thánh Gioan Boscô, linh mục. Lễ nhớ
"Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".
* Chào đời năm 1815 tại Cáttennôvô, giáo phận Tôrinô, Gioan đã trải qua thời thơ ấu trong hoàn cảnh khó khăn, vì thế, khi làm linh mục, người dấn thân lo việc giáo dục thanh thiếu niên. Người lập dòng các tu sĩ Salêdiêng và dòng Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu để huấn luyện thanh thiếu niên về nghề nghiệp và đời sống đạo. Người qua đời năm 1888.
Lời Chúa: Mc 6,1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabát, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sủng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" Và họ vấp phạm vì Người.
Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình". Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Quê quán của Người
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chẳng rõ Đức Giêsu đã xa gia đình, xa ngôi làng Nadarét bao lâu rồi.
Nhưng hôm nay, Ngài lại trở về với hội đường của làng vào ngày sabát.
Dù sao Ngài đã có danh tiếng trước đám đông, lại có môn đệ đi theo…
Trở về với hội đường thân quen, Ngài được mời đọc sách thánh và giảng dạy.
Nghe lời Ngài giảng, nhiều người sửng sốt ngỡ ngàng.
“Bởi đâu ông này được như thế?
Ông được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?
Ông làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì?” (c. 2).
Những câu hỏi cho thấy người dân Nadarét nhìn nhận
sự khôn ngoan trong lời giảng và quyền năng trong việc làm
mà họ bắt gặp nơi con người ông Giêsu, người cùng làng với họ.
Chỉ có điều là họ nghĩ không ra nguồn gốc của những chuyện đó.
Tại sao họ lại không coi Đức Giêsu là người của Thiên Chúa,
và coi Thiên Chúa là nguồn gốc mọi khả năng lạ lùng của Ngài?
Câu trả lời là vì người dân làng đã quá quen với ông Giêsu.
Họ tự hào biết rất rõ về nghề nghiệp của ông: một bác thợ.
Họ tự hào biết rất rõ về họ hàng ruột thịt: mẹ và anh chị em của ông,
những người họ có thể kể tên, những người đang là bà con lối xóm với họ.
Họ cũng biết rõ quãng đời thơ ấu và trưởng thành của ông Giêsu.
Chính cái biết này đã ngăn cản
khiến họ không thể tin ông Giêsu là một ngôn sứ.
Hay đúng hơn chính vì họ có một hình ảnh rất cao cả về một ngôn sứ
nên quá khứ bình thường của Đức Giêsu khiến họ không thể tin được.
Người dân Nadarét đã không ngờ mình có người làng cao trọng đến thế:
một ngôn sứ, một Đấng Kitô, một Thiên Chúa làm người, ở với họ.
Và họ cũng không ngờ sự cao trọng đó lại được gói trong lớp áo tầm thường,
không ngờ Đức Giêsu sẽ là người làm cho cả thế giới biết đến Nadarét.
Làm thế nào chúng ta tránh được sai lầm của người Nadarét xưa?
Cần tập nhận ra Chúa đến với mình trong cái bình thường của cuộc sống.
Cần thấy Chúa nơi những người tầm thường mà ta quen gặp mỗi ngày.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Suy Niệm 2: Bản tính khó dời
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người khó thay đổi. Khó thay đổi vì quá quen thuộc. Đã thành nếp. Nếp ăn. Nếp nghĩ. Người dân Na-da-rét quá quen với hình ảnh Chúa Giê-su thợ mộc. Cha Người làm thợ mộc. Người cũng làm thợ mộc. Không thể khác được. Khó thay đổi vì ngại ngùng. Tuy nghe tiếng Người ở Ca-phác-na-um đã làm những điều kỳ diệu. Tuy trực tiếp nghe những lời lẽ khôn ngoan Người nói. Họ ngạc nhiên vì sự thay đổi nơi Chúa Giê-su. “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” Nhưng chính họ không chịu thay đổi. Đã quen với ý niệm Giê-su thợ mộc, họ không thể đổi thành ý niệm Giê-su tiên tri được. “Và họ vấp ngã vì Người”.
Con người vốn yếu đuối và hay sai lầm. Vì thế cần thay đổi. Cần sám hối. Cần được chỉ dạy.
Thư Do thái khuyên nhủ ta hãy biết khiêm tốn nhận lời chỉ dạy của Chúa. Đó là tình yêu thương của Chúa. Yêu cho roi cho vọt. “Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy”. Chỉ khi khiêm tốn đón nhận, ta mới thay đổi để nên tốt hơn. “Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính” (năm lẻ).
Đa-vít trở nên thánh vương vì ngài biết khiêm nhường chấp nhận tội lỗi. “Con đã phạm tội nặng khi làm như thế. Giờ đây, lạy Đức Chúa, xin bỏ qua lỗi lầm của tôi tớ Ngài, vì con đã hành động rất ngu xuẩn”. Sám hối ngay khi được tiên tri Gát cảnh tỉnh. Và sẵn sàng đón nhận sự sửa dạy của Chúa. “Ngài coi, chính con đã phạm tội, chính con có lỗi; nhưng đàn chiên đó đã làm gì? Xin tay Ngài cứ đè trên con và nhà cha con!” Thay đổi như thế cần sự khiêm nhường. Biết mình. Phục thiện. HOàn toàn đón nhận thánh ý (năm chẵn). Đó là điều người dân Na-da-rét thiếu. Họ kiêu ngạo. Không biết mình. Và tệ nhất là không phục thiện để thay đổi.
Xin cho con biết khiêm nhường. Biết mình. Và mạnh dạn thay đổi. Theo lời Chúa dạy.
Suy Niệm 3: Cuộc sống âm thầm
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thánh Gioan Bosco, nhà giáo dục giới trẻ lừng danh nhất của thế kỷ 19 đã kể lại giấc mơ năm Ngài lên 9 tuổi như sau: Ngài mơ thấy mình ở giữa một đám trẻ đang chơi đùa, nghịch ngợm, cãi cọ và nói những lời thô tục. Muốn cho đám trẻ một bài học, cậu bé liền gọi một số em ra và dùng nắm tay để đe dọa. Nhưng chính lúc đó, Chúa Giêsu hiện ra gọi cậu bé lại và nói:
- Này Gioan, muốn biến những con chó sói này thành chiên con, thì con không nên dùng sức mạnh của đôi tay, mà hãy dùng lòng tốt.
Lúc đó, cậu bé thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, chắc con không làm được đâu.
Chúa Giêsu liền chỉ cho Gioan Bosco thấy gương mặt hiền hậu của một người mẹ đang đi bên cạnh và nói:
- Ðây là mẹ của con và cũng là mẹ của chúng nữa. Với mẹ, con có thể biến đổi giới trẻ cho Nước Chúa, cho một thế giới tốt đẹp hơn.
Quả thật, về sau, cả công cuộc giáo dục giới trẻ của Gioan Bosco đều được đặt dưới sự hướng dẫn và bảo trợ của Mẹ Maria. Nhưng để có thể đến với Mẹ Maria, Gioan Bosco đã tiếp nhận lời dạy bảo và gương sáng của chính người mẹ ruột của mình. Có lẽ ngài không bao giờ quên lời căn dặn của mẹ ngài: "Mẹ đã sinh ra trong cảnh nghèo, mẹ đã sống trong cảnh nghèo; nếu con muốn làm linh mục để nên giàu có, thì mẹ sẽ không bao giờ đến thăm con nữa".
Mẹ Maria có lẽ đã không bao giờ nói một lời như thế với Chúa Giêsu, khi Ngài đã sống bên cạnh Mẹ Maria tại Nazareth trong suốt 30 năm. Tin Mừng đã không ghi lại một lời nào của Mẹ trong giai đoạn này, nhưng chắc chắn, cũng như mọi đứa trẻ, Chúa Giêsu đã sống và lớn lên một cách bình thường, nghĩa là Ngài đã từng uống từng lời dạy dỗ của Mẹ. Sống kiếp người chỉ có 33 năm, thì 30 năm, Chúa Giêsu lại dành cho cuộc sống ẩn dật âm thầm tại Nazareth. Ðây chắc chắn không phải là một giai đoạn uổng phí trong cuộc đời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã không lập gia đình, nhưng đã sống phần lớn cuộc sống của Ngài trong gia đình, một cuộc sống âm thầm và bình thường, đến độ những người đồng hương của Ngài phải thốt lên với giọng gần như khinh bỉ: "Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?"
Phản ứng của những người đồng hương về những năm âm thầm của Chúa Giêsu tại Nazareth là một xác quyết rằng Chúa Giêsu đề cao đời sống gia đình. Ngài đã không sống như một siêu nhân, Ngài đã không làm bất cứ một việc phi thường nào, nhưng đã sống một cách bình dị trong cảnh nghèo như mọi người. Chính vì Con Thiên Chúa đã sống một cách bình dị những thực tại hàng ngày của cuộc sống gia đình, mà đời sống ấy mang một giá trị và có ý nghĩa đối với con người. Tất cả những biến cố trong cuộc sống của Con Thiên Chúa làm người đều đáng được chúng ta chiêm ngưỡng, và trong ánh sáng của những biến cố ấy, chúng ta được mời gọi để nhìn vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Nguyện xin Chúa thánh hóa cuộc sống mỗi ngày của chúng ta, để chúng ta sống một cách sung mãn từng giây phút và trở thành nhân chứng tình yêu Chúa trước mặt mọi người.
Suy Niệm 4: Quen quá hóa lờn
Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. Đến ngày sa bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc. 6, 1-2)
Hẳn một ngày nào đó bạn đã có một kinh nghiệm này về chụp ảnh: để lấy hình một đài kỷ niệm hoặc một tòa nhà, bạn phải lùi lại xa. Đứng gần quá bạn chỉ trông thấy được một khối khổng lồ, nặng nề như muốn đè bẹp ta. Khi lấy ảnh quá gần, ta chỉ thấy được những tiểu tiết, không có được cái nhìn khái quát.
Những tương quan xã hội, gia đình, bằng hữu của ta cũng chịu chung số phận như vậy. Gần nhau quá nhiều dễ làm ta mất ý thức về người khác, nên dễ lờn, dễ coi thường… có khi lại chỉ nhìn thấy một vài khuyết điểm nhỏ nhoi của họ, mà không nhận ra bao điểm tốt khác.
Những người làng Nadarét đã có một cái nhìn quá gần, quá thiển cận về Chúa Giêsu. Đúng là “Gần chùa gọi Bụt bằng anh!”.
Từ mệt mỏi đến chán nản
Làm sao giải thích hiện tượng này?
Chủ yếu là bởi tại ta chỉ là những con người phàm trần, những người lớn. Phải, ta mau chán, mau quen lờn khiến cho cái mới dễ trở nên cũ, không còn hấp dẫn, như ta vẫn thường nói “có mới nới cũ” là vậy đó. Thực ra chỉ có các trẻ em – và những ai giống như chúng – mới có thể giữ cho cái nhìn ngỡ ngàng và cảm phục của mình luôn mới mẻ. Tuổi trẻ thường ngưỡng mộ các anh hùng, hoặc tuổi trẻ tài cao, như ta vẫn nói. Thế rồi, sau một thời gian, ta lại vội vã thu mình vào khung cảnh thường nhật và nếp sống đã quen, hầu che dấu đi những nỗi chán nản thất vọng của ta. Ta không còn ngưỡng mộ ai khác, ngay cả chính bản thân mình nữa.
Từ lòng tin đến nhận biết
Thế nên câu Phúc âm sau đây tuy vắn vỏi nhưng thật có tầm quan trọng: “Người lấy làm lạ vì họ không tin!”…
Đức tin không những là cần thiết để đón nhận lời Chúa Giêsu quả quyết Người là Con Thiên Chúa và là Con Người. Đức tin là cần thiết cốt để hiểu biết rõ Đức Kitô, cũng như để nhận biết mọi con người vậy.
Ta chỉ biết rõ một người, nếu như ta có lòng tin vào họ. Con người dù là nam hay nữ đều là một huyền nhiệm. Phải tin vào huyền nhiệm đó, nghĩa là tin vào cái thực thể phong phú, không bao giờ nắm bắt hết được, tin vào cái chiều sâu khôn lường của một nhân vị. Đó chính là nền tảng của mọi nhận thức vậy.
Nhận biết một người là tin trưóc rằng người ấy là một con người.
Tiếp đó, chúng ta mới sẽ có thể tin bằng tất cả sự thật rằng nơi con người này là Đức Giêsu Kitô còn có một huyền nhiệm khác nữa – huyền nhiệm là Con Thiên Chúa.
Suy Niệm 5: Số phận tiên tri và quê hương
Trong cuộc sống đời thường, người ta vẫn hay nói: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”; hay: “Bụt chùa nhà không thiêng, thiêng Bụt chùa người”.
Hôm nay, Đức Giêsu bị chính đồng hương của mình khinh miệt. Chuyện kể rằng: sau một khoảng thời gian, Đức Giêsu công khai thi hành sứ vụ, hôm nay, Ngài trở về nơi chôn nhau cắt rốn để rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Mặc dù lời dạy của Ngài thật khôn ngoan và uy quyền, thế nhưng với những người đồng hương, họ sẵn có tính kỳ thị, và chính từ đó, lòng họ trở nên chai lỳ. Họ nói với nhau: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?".
Lối phản ứng trên đây cho thấy một sự lạnh nhạt, và không chấp nhận những giáo huấn của Đức Giêsu, mặc dù vẫn biết đấy là lời khôn ngoan!
Lối nói: "Con bà Maria" là lối nói kiểu khinh thường. Mẹ Maria cũng là người bình thường như ai, vậy thì một người vô danh tiểu tốt như thế không thể sinh ra một người con phi thường được, nên họ có đủ lý do để khước từ Đức Giêsu!
Trong cuộc sống của chúng ta, chắc cũng không thiếu những lối suy nghĩ như vậy! Một khi đã có sẵn trong lòng sự kỳ thị nào đó, thì nơi người ấy không có chút gì là tốt và chúng ta cũng không ngừng tìm mọi cách để làm cho họ không còn uy tín để làm việc...
Tại sao lại có những lối suy nghĩ xa lạ với Tin Mừng như thế? Thưa! Đơn giản là vì sự ích kỷ, đố kỵ, hẹp hòi và kiêu ngạo luôn luôn ngự trị trong lối nhìn và cách nghĩ của chúng ta, khiến ta không thể vượt ra xa và nhìn rộng để thấy tổng quát.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta không ngừng phấn đấu để vượt thắng những tham sân si đó, sống quảng đại và sẵn sàng đón nhận những giá trị tốt nơi người anh chị em chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con có cái nhìn của Chúa, để chúng con biết yêu thương không giới hạn và sẵn sàng đón nhận anh chị em mình như Chúa đã quảng đại đón nhận chúng con là con Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Vượt qua thành kiến
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Để sẵn sàng đón nhận ánh sáng tươi mát của đức tin, cần phải mạnh dạn vượt qua sự vây hãm của thành kiến và những lo toan thế trần.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian rao giảng ơn cứu độ cho các tội nhân, khơi dậy hy vọng giữa cõi đời tăm tối. Chính vì thế, những lời rao giảng của Chúa có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Nhưng một điều lạ lùng là chính những người đồng hương với Chúa lại chỉ nhận ra đó là những lời chói tai của con bác thợ mộc, chứ không nhận ra đó là lời loan báo tin vui của Con Thiên Chúa. Họ đã không giải mã được sứ điệp, vì họ không thể vượt qua được các thành kiến của mình. Họ đã từ chối ngước nhìn lên cao, đã cam chịu bám víu lấy trái đất, sợ phải xa rời những lực hút vốn đã quen, dù biết rằng sẽ có ngày đất nuốt họ đi. Con người đã chọn chính các giới hạn của mình làm nơi trú ẩn.
Lạy Chúa, chính con cũng đã sống như không có đời sau. Đức tin mà con đã lãnh nhận từ ngày được rửa tội vẫn chỉ là một đốm sáng hiu hắt giữa mịt mùng đêm tối. Nhiều khi con đã dừng lại, tự lừa dối mình rằng, bóng đêm là màn che an toàn nhất. Con lấp đầy khoảng trống trong đời con bằng những câu chuyện tiền nong cơm áo, bằng men rượu, bằng các giao du vô bổ. Con sống như người vô thần vì đã không nhận ra Con Thiên Chúa mang hình hài con bác thợ mộc, không nhận ra sứ điệp từ trời qua những tín hiệu trần gian.
Lạy Chúa, xin thương đánh thức con dậy và ban sức mạnh để con vượt qua chính bản thân mà đến với Chúa. Amen.
Ghi nhớ: ”Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương”.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Đại thi hào R. Tagore, thi sĩ nổi tiếng Ấn Độ, là người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu…
Một ngày kia ông làm được một bài thơ và đưa cho bố coi thử. Chẳng biết bố có đọc hết hay không, nhưng liền nhăn mũi mà bảo: “Dở ẹc”.
Ngày hôm sau, cậu lại sáng tác một bài thơ khác và cũng đưa cho bố coi thử. Lần này bố liền “kê tủ đứng vào mũi” cậu nhóc: “Đúng là bài thơ … con cóc”.
Bực quá, cậu nhóc bèn chơi trò láu cá, cậu nghĩ ra một cái mưu nho nhỏ, đó là đem bài thơ vừa mới làm xong, chép lại cẩn thận, rồi ghi thêm xuất xứ từ trong một tập thơ cổ.
Lần này thì bố cứ đọc đi đọc lại, rồi vỗ đùi đánh đét một phát và phán: “Tuyệt vời, tuyệt vời, còn trên cả tuyệt vời nữa”.
Sau đó, ông bố đem bài thơ khoe với anh con trai lớn, đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Cả hai bố con đều tấm tắc khen lấy khen để, rồi lại còn muốn đem trình làng cho bà con thiên hạ cùng thưởng thức. Và để cho ăn chắc, bèn bảo cậu nhóc đem cuốn thơ cổ ra để đối chiếu. Tới lúc đó thì mới vỡ lẽ ra: bài thơ ấy chính là của cậu nhóc. Ông bố giận sôi lên sùng sục, nhưng cũng cảm thấy thán phục cậu nhóc và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình (Theo trang mạng Dũng Lạc).
Suy Niệm
Dân làng Nadarét, quê hương của Đức Kitô không tin vào Ngài, Đấng được Thiên Chúa sai đến, dù rằng họ rất ngạc nhiên, sửng sốt khi nghe những lời giáo huấn từ Ngài, nhưng gốc gác, thân thế về gia đình Đức Giêsu khiến họ hoài nghi về sứ vụ Mêssia của Ngài: “Ông này chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?” (Mc 6,3).
Theo M.E. Boismard “Có thể là vì thời Đức Giêsu, người Do Thái vốn có một niềm tin khá phổ biến là Đấng Kitô phải có một nguồn gốc siêu phàm huyền nhiệm. Sau này trong buổi đối thoại với một người Do Thái là Tryphon, thánh Giustinô (khoảng năm 150) làm vang vọng lại niềm tin này khi kể lại ý niệm sau đây của những học giả Do Thái: “Nếu có người nói rằng Đấng Mêssia đã đến rồi, người ta đâu biết ai. Chỉ khi Ngài tỏ mình ra trong vinh quang, là người ta sẽ nhận ra ngay ngài là Đấng Mêssia” (Dial. 110,1).
Có lẽ vì thế với dân làng Nadarét nói riêng và dân Do Thái nói chung, khi biết thân phận khiêm tốn của Ngài “Họ đã vấp phạm vì Người” (Mc 6,3b), họ đã cố chấp cứng tin (x. Mc 6,6). Vì nguồn gốc khiêm tốn, vì quá quen biết về gia đình của Đức Giêsu, lòng ghen ghét đố kị đã khiến họ không tin vào Ngài cho nên thánh Gioan Kim Khẩu xác định: “Sự đố kị ghen ghét đi vào trong trái tim và đặt họ vào tình trạng chống đối với Đức Kitô” (Homélie XLIX sur l’évangile selon saint Matthieu).
Khi suy gẫm hành động cố chấp cứng tin của dân nói chung và của dân làng Nadarét nói riêng, chúng ta có cảm nghiệm đó cũng là một hiện tượng tiêu biểu của thế giới mọi thời, nơi những người cố chấp không tin.
Ngày hôm nay, trong phương diện tập thể, thế giới muốn tục hóa dù rằng mình được nuôi sống trong nền văn hóa Kitô giáo (như ở Âu châu và Bắc Mỹ) chối bỏ nguồn gốc niềm tin của mình. Trên phương diện cá thể, người có đức tin lại cảm thấy như muốn xa rời bằng cách sống niềm tin hời hợt, họ mang tâm trạng như dân gian có câu: “Bụt nhà không thiêng”. Hay họ vẫn còn niềm tin vào Thầy, vào Đức Kitô, vào Thiên Chúa nhưng cách thực hành niềm tin mang dấu ấn: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”, khi dồn sức tất cả cho giấc mơ tiền tài vật chất mà quên hoặc coi nhẹ cách thực thi đức tin theo lời giáo huấn của Thiên Chúa.
Thật thế, như Gioan thánh sử đã nói:
‘‘Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Hôm nay nhìn vào thái độ của dân làng Nadarét đối với Đức Kitô: Vấp phạm vì Ngài, cố chấp không tin, chúng ta cũng suy nghĩ về thái độ đức tin của chúng ta vào Ngài: Tin hay không tin trong đời sống hằng ngày. Rất có thể chúng ta đang có thái độ của dân làng Nadarét bằng cách cư xử, sống hững hờ với niềm tin chính mình, so đo thiệt hơn, ích kỷ với tính toán tiền bạc, cơm áo gạo tiền mà quên đi tin là chấp nhận sống trung thành lúc bình an hạnh phúc, đầy đủ nhưng cũng trung thành vượt khó với đức tin.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu bị khước từ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi đi rao giảng Tin Mừng một thời gian ngắn, hôm nay Chúa Giêsu trở về Nagiarét quê hương của Người. Người vào giảng dạy trong hội đường. Ai nấy đều cảm phục vì bao phép lạ Người làm, vì giáo lý của Người rất cao siêu và giảng dạy rất khôn ngoan. Nhưng vì họ cứ nghĩ Người là một anh thợ mộc tầm thường trong làng, mà không nhìn nhận Người là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, nên không chịu tin Lời Người. Họ có thành kiến lớn lao đối với Người. Thế nên Người không làm phép lạ nào để cứu giúp họ, mà chỉ chữa vài người bệnh, vì Người không muốn tỏ quyền năng của Người cho những kẻ đóng kín tâm hồn.
2. Theo ông Đào Duy Anh, ”Thành kiến” là ý kiến cố chấp không thể lay động được. Khi có ý kiến tốt hay xấu về một người hay một vật gì thì khó lòng có thể thay đổi được. Thành kiến thay đổi sự thật của sự vật, không còn như nó có nữa. Thành kiến đã bóp méo sự thật, giống như người đeo kính mầu xanh thì vật gì cũng xanh, đeo kính mầu đỏ thì vật gì cũng đỏ.
Người ta có thể nhìn sự vật với ba thái độ, đó là yêu, ghét hay dửng dưng. Nhưng thường thì chúng ta ít khi có thái độ dửng dưng, trung lập, mà thường là nghiêng về một phía yêu hay ghét. Chính thái độ yêu hay ghét này làm cho ta nhìn sự vật khác nhau: “Yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Khi yêu thì coi mọi sự đều đẹp đều tốt, khi ghét thì mọi cái là xấu: “Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét ca tông chi họ hàng”.
3. Qua kinh nghiệm hằng ngày, chúng ta phải công nhận rằng Thành kiến là một căn bệnh phổ quát chung cho mọi người. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bề ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm, mà do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên; do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở ẹc ra. Người có danh tiếng thì lời nói việc làm nào cũng được coi như vàng ngọc. Người vô danh tiểu tốt thì lời có đẹp như trăng sao, việc có hay như thần thánh, cũng bị thành kiến dìm xuống đến tận bùn đen. Vì thế, Chúa Giêsu đã nói: “Không tiên tri nào lại được trọng đãi nơi quê hương mình” (Ga 4,44).
4. Dân làng Nagiarét không thể chấp nhận một người mà họ đã quen biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn, họ hàng chẳng có danh giá gì. Biết rõ như thế thì làm sao người đó có thể là Vị Cứu Tinh, là Đấng giải thoát cho dân tộc mình được? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giầu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Đức Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Ngài làm phép lạ như đã làm những nơi khác.
Trước sự cứng lòng và khinh thường của dân làng Nazareth, Chúa Giêsu chẳng biết làm gì hơn ngoài việc đưa ra nhận xét chua cay: “Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4). Dân làng Nazareth không tin Chúa thì cũng vì họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo vào trong những định kiến hẹp hòi có sẵn của họ. Đấng Cứu Thế phải hiện nguyên hình như định kiến của họ, nghĩa là Đấng Cứu Thế phải có đầy quyền lực theo nghĩa thế gian, họ không thể tin nhận được một Đấng Cứu Thế như một con người đơn sơ khiêm hạ như họ thấy được.
5. Trên đường truyền giáo, Chúa Giêsu vẫn đem các môn đệ đi theo để huấn luyện các ông. Trong việc huấn luyện cũng cần thấy sự thất bại, chứ không phải chỉ nhìn thấy thành công. Sau này trên đường truyền giáo, sự thất bại không làm cho các ông nản lòng.
Các nhà rao giảng Tin Mừng hãy bắt chước Chúa Giêsu mà đón nhận thái độ ”Bụt nhà không thiêng” của những người được rao giảng. Họ có thể nghi kỵ, không ưa, hoặc chống đối chúng ta đi nữa, thì hãy vững tâm vì “chân lý sẽ thắng”. Ban đầu có thể gặp thất bại nhưng với thời gian người ta sẽ nhìn ra chân lý. Chúa Giêsu đã thất bại khi còn sống nhưng đã thành công vẻ vang sau khi sống lại. Người tông đồ cũng phải đi theo con đường ấy: phải kiên nhẫn chịu đựng, nhưng phải chịu đựng trong vui tươi với tình thương mến.
6. Truyện: Cậu bé R. Tagore.
R. Tagore là một thi sĩ nổi tiếng của Ấn Độ và cả Đông phương nữa. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu.
Một hôm, cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xem. Ông thân sinh lắc đầu chê:
- Thơ mày là thơ thẩn!
Tagore mới nghĩ ra một mưu: cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và chua xuất xứ là trích sao trong một cuốn thơ cổ. Cậu ta lại không quên đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận.
Lần này, ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen: “Tuyệt, tuyệt”. Rồi đem khoe tíu tít với đứa con trai lớn của ông, hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Ông nói:
- Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này.
Ông con trai chủ nhiệm đọc xong cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen là hay đáo để, và muốn trích đăng lên mặt tờ báo văn học của ông.
Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đem cuốn thơ cổ kia ra để đối chiếu chứng minh và cũng để dễ bề chua xuất xứ trong khi đăng.
Đến đây câu chuyện mới vỡ lở ra. Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore! Ông thân sinh giận sôi máu lên, nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình xưa nay.
Suy Niệm 9: Thái độ không tin của người đồng hương với Chúa Giêsu
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Thánh Marcô đã từng cho thấy thái độ không tin nơi những người bà con của Chúa Giêsu (x.Mác Cô 3,20-21: họ nói Ngài mất trí và muốn bắt người về quê; Mác Cô 3,31: Họ ngăn cản Ngài rao giảng). Trong đoạn này, Mác Cô ghi nhận thêm thái độ không tin cỉa những người cùng làng với Ngài.
Lý do không tin là thành kiến “Bụt nhà không thiêng”: “Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria, và anh em ông không phải là Giacôbê, Giosê và Simon sao? Chị em ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta hay sao?” (câu 3)
Hậu quả của thái độ không tin: “Ngài đã không làm được phép lạ nào tại đó; Ngài chỉ đặt tay trên vài bệnh nhân và chữa lành họ.” (câu 5)
B. Suy Niệm (...nẩy mầm)
1. Ta dễ ngưỡng mộ tài năng và đức độ của những “người dưng” và coi thường những “người nhà”. Thánh Gioan tiền hô nói với dân Do Thái “Có một vị giữa các ông mà các ông không biết” (Gioan 1,26). Trong nếp sống cộng đoàn thái độ này không có thái độ khuyến khích và tôn trọng lẫn nhau.
“Gần chùa gọi bụt bằng anh”. phải chăng vì Chúa quá gần và quá dễ dãi với chúng ta nên ta coi thường Chúa?
2. Tin vào một Chúa Giêsu đang làm những phép lạ hiển hách ở Cá-phác-na-um thì dễ hơn là tin vào một Chúa Giêsu là bác thợ mộc, là anh chị em ta. Bài Tin Mừng hôm nay khuyến khích chúng ta làm điều thứ hai, tức là tin vào Chúa Giêsu trong đời thường, trong công việc, trong anh chị em…
Một bề trên tu viện công giáo đến tìm một ẩn sỹ ấn giáo tại chân núi Hymãlạp sơn và trình bày về tình trạng bi đát của tu viện ông: Trước đây tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn nhận thêm người tu hàng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà tu viện bây giờ chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sỹ thì lèo tèo vài người, cuộc sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi tu sỹ ấn giáo cho biết nguyên nhân hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện đến tình trang trên đây. Tu sỹ ẩn giáo ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Và ông giải thích: “Chúa Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Ngài”.
Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ông tập họp mọi người lại và thông báo cho họ biết Chúa Cứu Thế đang cải trang thành một ngươì trong nhà. Các tu sỹ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Chúa Cứu Thế cải trang vậy? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ có thể là Chúa Cứu Thế.
Vậy từ đó mọi người đều đối xử với nhau như với Chúa Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm tin đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn. (Trích “Món quà Giáng Sinh”)
3. ”Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình hay giữa đám bà con thân thuộc trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4)
Ra trường với mảnh bằng sư phạm trong tay, tôi được cử dạy tại một ngôi trường gần nhà. Tôi rất sung sướng vì khỏi phải đi xa. Tôi dã cố gắng vận dụng mọi kiến thức và khả năng để giảng dậy cho các em, và điều đó làm cho tôi rất vui.
Một ngày kia, tình cờ tôi nghe thấy các em nói với nhau: “Ổng ở gần nhà tao đó. Mày có biết không, hồi nhỏ ổng dốt lắm, anh tao nói môn toán “xơi ngỗng” hoài!”.
Từ ngày đó, tôi phải chấp nhận những ánh mắt nghi ngờ, những dấu chấm hỏi làm nhức nhối con tim. Dù sao tôi vẫn không thể thoái nhiệm hay dễ dàng rời xa lý tưởng của mình.
Cầu nguyện: Xin giúp con theo Chúa đến cùng trên con đường yêu thương và phục vụ, dù có bị rẻ rúng giữa những người mà con đã hết lòng yêu thương và phục vụ. (Epphata)
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu bị người đồng hương chống đối
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Thông thường ta dễ ngưỡng mộ tài năng và đức độ của những “người dưng” và coi thường những “người nhà”. Thánh Gioan Tiền Hô nói với dân Do Thái ”Có một vị giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1,26).
“Gần chùa gọi bụt bằng anh”. Phải chăng vì Chúa quá gần và quá dễ dãi mà người ta đã coi thường Chúa?
Tin vào một Chúa Giêsu đang làm những phép lạ hiển hách ở Capharnaum thì dễ hơn là tin vào một Chúa Giêsu là con bác thợ mộc, là anh chị em với mình.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn nói với chúng ta, hãy biết tin vào Chúa Giêsu trong đời thường, trong công việc, trong anh chị em… hơn là tin vào một Chúa Giêsu ở ngoài cuộc sống của chúng ta.
2. Chúa Giêsu đã phải đau xót mà nhắc lại một câu ngạn ngữ ”Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình hay giữa đám bà con thân thuộc trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4).
Đi đâu Chúa Giêsu cũng được ca tụng tôn vinh, nhưng khi trở về quê hương mình thì lại bị coi thường.
Tại sao thế?
Con người thường có thói để cho những thành kiến chi phối mình.
Những người ở Nazareth đã làm cho Chúa Giêsu không làm được những phép lạ nào. Một sự thiệt thòi không đáng xảy ra nhưng nó đã xảy ra vì sự suy nghĩ hẹp hòi của họ.
Nếu chúng ta cũng như thế thì chúng ta sẽ làm mất đi rất nhiều niềm vui trong cuộc sống của chúng ta. Hãy biết đón nhận cuộc sống đang sống với tất cả lòng yêu thương và quảng đại. Lúc đó chúng ta sẽ thấy được cuộc sống quả là một hồng ân.
Trong kho tàng những câu chuyện cổ của người Đức, người ta đọc được câu chuyện này:
Có một nhà hiền triết nọ, chuyên cố vấn giúp đỡ những ai gặp buồn phiền, chán nản trong cuộc sống. Bất cứ ai đến xin chỉ bảo cũng đều nhận được từ ông những lời khuyên thiết thực…
Một hôm, có một người thợ may mặt mày thiểu não chạy đến xin ông giúp đỡ. Gia đình ông gồm có ông, vợ ông và 7 đứa con trai nhỏ. Tất cả chen chúc nhau trong một căn nhà gần như đổ nát. Người vợ phải la hét suốt ngày vì sự quấy phá của 7 đứa con. Xưởng may của ông lúc nào cũng lộn xộn, bẩn thỉu vì những nghịch ngợm của lũ trẻ. Thêm vào đó là những tiếng la hét, khóc nhè suốt ngày, khiến người thợ may không thể chú tâm làm việc được.
Nghe xong câu chuyện, nhà hiền triết mới đề nghị với người thợ may như sau:
- Anh hãy ra chợ mua cho kỳ được một con dê, rồi dắt nó về cột ngay trong xưởng may của anh.
Người đàn ông đáng thương không đoán được ẩn ý của nhà hiền triết, nhưng vẫn đặt tất cả tin tưởng vào ông, cho nên anh về thu góp hết tiền của trong nhà để ra chợ mua cho kỳ được con dê.
Chúng ta hãy thử tưởng tượng: sự hiện diện của con dê trong xưởng may sẽ giúp được gì cho anh ta? Con vật hôi hám ấy không những không giúp được gì mà còn phóng uế nhơ bẩn kêu la be be om xòm suốt ngày. Cái xưởng may của anh ta vốn đã ồn ào nay lại biến thành một chuồng súc vật bẩn thỉu không thể chịu được…
Người thợ may lại đến than phiền với nhà hiền triết vì sự hiện diện của con dê. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới bảo anh:
- Anh hãy tức khắc mang nó ra chợ và bán lại cho người khác.
Người đàn ông cảm thấy như nhẹ nhõm cả người. Anh dắt con vật ra chợ. Trong khi đó, ở nhà, vợ anh mang nước vào tẩy uế cái xưởng may. Bảy đứa nhóc con của anh bắt đầu trở lại xưởng may và hò hét trở lại. Khi về đến nhà, người đàn ông nhìn xuống sàn nhà của xưởng may rồi mỉm cười nhìn những đứa con trai của anh đang chạy nhảy la hét. Anh tự nhủ: dù sao, tiếng la hét của mấy đứa con của mình, so với tiếng kêu của con vật dơ bẩn, vẫn dễ chịu hơn nhiều. Anh nở một nụ cười thật tươi vì chưa bao giờ anh cảm thấy hạnh phúc bằng ngày hôm đó.
Theo tâm lý thông thường, thì chúng ta dễ có thái độ “đứng núi này nhìn núi nọ”. Những cái quen thuộc, những cái trước mặt, những cái thường ngày, những cái nhỏ bé thường dễ bị khinh thường…
Không ai trong chúng ta được chọn lựa cha mẹ để sinh ra làm người. Mỗi người chúng ta đều vào đời với một hành trang có sẵn. Chúa mời gọi chúng ta đón nhận cuộc đời như một hồng ân của Chúa. Ngài mời gọi chúng ta đón nhận từng phút giây của cuộc sống như một ân huệ…
Nói như thánh Phaolô “tất cả đều là ân sủng của Chúa”: tất cả đều phải được đón nhận với lòng biết ơn và tín thác. Có như thế, chúng ta mới có thể thấy niềm vui cho cuộc sống mình, bằng không thì suốt đời sẽ chỉ là những bất mãn, những chán nản, những thất vọng và cuộc đời như thế sẽ chẳng được chúc phúc như những người Nazareth trong bài Tin Mừng hôm nay.
30/01 Tin nơi Chúa Giêsu
- Viết bởi Mc 5, 21-43
Tin nơi Chúa Giêsu.
Thứ Ba tuần 4 thường niên.
"Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy".
Lời Chúa: Mc 5, 21-43
Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng:: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống". Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía.
Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: “Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành". Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi:: “Ai đã chạm đến áo Ta?" Các môn đệ thưa Người rằng:: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi: “Ai chạm đến Ta?" Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà:: “Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh".
Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng:: “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?" Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng:: “Ông đừng sợ, hãy cứ tin". Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê.
Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ:: “Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó". Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng:: “Talitha, Koumi!", nghĩa là:: “Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho em bé ăn.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đụng đến áo
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy niệm:
Giữa đám đông chen lấn chung quanh Ðức Giêsu,
có những người đụng vào áo Ngài.
Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý,
đụng lén như sợ bị bắt quả tang.
Ðó là cái đụng của một người phụ nữ,
mười hai năm mắc bệnh băng huyết,
mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi,
mười hai năm bị coi là ô nhơ:
không được đụng đến người khác,
không được tham dự nghi lễ ở Ðền thờ.
Người phụ nữ đụng vào áo Ðức Giêsu
bằng tay và bằng lòng tin,
một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ.
“Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.”
Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
Trong đời sống Kitô hữu,
chúng ta đã nhiều lần đụng vào Chúa.
Ðụng đến Lời Ngài, đụng đến Mình Máu Thánh Ngài.
Ðụng bằng tay, bằng miệng, bằng rung động của trái tim.
Có những lần đụng chạm hời hợt vì thói quen,
không để lại một âm vang nào,
không đem lại một biến đổi nào trong cuộc sống.
Nhưng cũng có lần, như người phụ nữ,
ta run rẩy đụng vào Ngài, dù biết mình ô nhơ tội lỗi.
Hay nói đúng hơn,
vì biết mình ô nhơ tội lỗi mà ta cả dám đụng vào Ngài.
Ðụng vào Ðấng Thánh để được nên trong sạch.
Chúng ta cần đụng đến Ðức Giêsu mỗi ngày
và chúng ta cũng cần được Ngài đụng đến.
Ông trưởng hội đường xin Ngài đặt tay trên con mình.
Ngài đã cầm tay cô bé để kéo cô ra khỏi cái chết.
Như con gái của ông trưởng hội đường,
chúng ta cần được Chúa cầm tay và bảo:: “Hãy trỗi dậy.”
Trỗi dậy khỏi bệnh tật và cái chết.
Trỗi dậy và đi lại, ăn uống như người bình thường.
Trỗi dậy và sống vui tươi, tự do như con cái Thiên Chúa.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.
Ðức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ:
“Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (c.34).
Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đảo của Giarô:
“Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (c.36).
Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu.
Cần nhạy cảm để nhận ra cái đụng nhẹ của Ngài.
Khi đụng vào Thân Mình Ngài nơi bí tích Thánh Thể,
ta được mời gọi đụng đến nỗi khổ của anh em,
là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài.
Khi đụng đến Lời Chúa nơi những trang Tin Mừng,
ta được mời gọi chạm đến Lời Chúa nơi mọi biến cố.
Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần thôi,
đời bạn sẽ hoàn toàn đổi mới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Suy Niệm 2: Sự ân cần
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bài Tin mừng cho thấy quyền năng phi phàm nhưng đồng thời cũng cho thấy sự ân cần của Chúa. Giữa những người chen lấn vẫn có sự quan tâm đến từng người. Giữa những người cao sang vẫn còn thì giờ quan tâm đến những người bé nhỏ. Quan tâm đến một phụ nữ vô danh. Đưa chị ra ánh sáng để ca ngợi đức tin mạnh mẽ của chị. Con người này cao quí vì có đức tin mạnh mẽ chứ không vì có địa vị trong xã hội. Quan tâm nên đến tận nhà một em bé. Thời xưa, trẻ con, nhất là trẻ gái, thường không được quan tâm. Huống hồ đây là một trẻ gái đã chết. Thái độ của Chúa thật ân cần. Chúa cầm tay và nói với em. Vừa yêu thương. Vừa trân trọng.. Và còn ân cần hơn nữa. Khi mọi người tíu tít mừng rỡ thì Chúa quan tâm lo cho em ăn uống.
Điều này khiến ta an tâm tin tưởng. Vì Chúa yêu thương và quan tâm đến từng người chúng ta. Dù chúng ta là những người bé nhỏ nghèo hèn, vô danh tiểu tốt. Còn hơn cả quan tâm, Chúa hi sinh vì chúng ta. Chúa gánh lấy mọi bệnh hoạn, đau khổ tật nguyền của chúng ta. Để chúng ta được lành mạnh. Người còn cam lòng chịu chết cho ta được sống. Như thư Do thái khẳng định:: “Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí”. Vì thế nếu ta gặp khó khăn thử thách, hãy vững lòng tin tưởng chiến đấu. Vì Chúa sẽ trợ giúp và giải thoát ta.: “Hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (năm lẻ).
Chúa bày tỏ tấm lòng của người cha yêu thương con. Nếu Đa-vít tiếc thương Áp-sa-lôm là đứa con phản bội. Thánh vương còn muốn chết thay cho con. Khi Áp-sa-lôm đã chết, nhà vua khóc thương:: “Áp-sa-lôm con ơi! Phải chi cha chết thay con”. Nhưng Chúa không chỉ muốn chết thay cho ta. Chúa thực sự đã chết cho ta (năm chẵn).
Vì thế dù tội lỗi đến đâu, ta hãy tin tưởng. Đứng dậy trở về. Vì Chúa quan tâm yêu thương từng người. Chúa đến tìm con chiên lạc. Chúa sẵn sàng chết cho ta được sống.
Suy Niệm 3: Nhận ra phép lạ mỗi ngày
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Ngày 17/9/1961, máy bay chở ông Ðavít Hamacon, Tổng thư ký Liên hiệp quốc, đã ngộ nạn trên không phận nước Congo, Phi Châu. Ông Hamacon không chỉ là người hoạt động cho hòa bình và là một nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là một nhà tu đức có chiều sâu. Sau khi ông qua đời, tại căn phòng của ông ở Nữu Ước, người ta đã tìm được tập tài liệu đánh máy, ghi lại những suy tư và cầu nguyện hằng ngày của ông. Trong tập tài liệu này người ta đọc thấy những dòng như sau:: “Thiên Chúa sẽ không chết, ngày mà chúng ta không còn tin ở thần linh nào nữa. Nhưng chính chúng ta sẽ chết, ngày nào cuộc sống của chúng ta không còn thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ không ngừng xảy ra, phép lạ mà lý trí chúng ta không biết từ đâu tới".
Cái chết mà ông Ðavít Hamacon nói trên đây chính là cái chết của tinh thần con người. Khi tinh thần con người không còn vượt qua khỏi chính mình để đi vào chiêm niệm, nghĩa là đi vào thế giới ở bên ngoài khả năng nắm bắt của lý trí, thì đó là lúc nó trở nên cằn cỗi và chết dần chết mòn.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới ấy, thế giới của những câu hỏi: “tại sao", mà lý trí con người không thể lý giải được. Phép lạ một người đàn bà bị băng huyết được chữa lành nhờ chỉ chạm đến áo của Chúa Giêsu, và phép lạ một em bé gái chết được Chúa Giêsu cho sống lại; cả hai phép lạ đều phát xuất từ lòng tin của con người. Ông trưởng hội đường đã biểu lộ lòng tin bằng cách lặn lội tìm đến với Chúa Giêsu xin Ngài tới đặt tay trên con gái của ông; người đàn bà băng huyết tin một cách mãnh liệt nơi sức mạnh phát xuất từ con người Chúa Giêsu. Nơi ông trưởng hội đường, lòng tin được tuyên xưng tỏ tường; nơi người đàn bà băng huyết, niềm tin rụt rè kín đáo. Nhưng dù tỏ tường hay kín đáo, chính lòng tin đã giúp cho phép lạ xảy ra, như Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà:: “Lòng tin của con đã cứu chữa con".
Niềm tin làm cho con người được sống, điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những thành công trong cuộc sống đều nhờ ở niềm tin, nhưng niềm tin tôn giáo thì quan trọng hơn, bởi vì chính sự sống tinh thần và tâm linh mới là điều cần thiết cho con người đạt được thành công. Có tất cả, nhưng thiếu đời sống tâm linh, con người vẫn như sống dở. Sống sung mãn, sống dồi dào, chính là sống nội tâm. Chỉ có một đời sống nội tâm sung mãn mới giúp con người thấy được, cảm nhận được những gì mà giác quan và lý trí không thể đạt được.
Cuộc sống vốn là một phép lạ, từng hơi thở con người là một phép lạ, mỗi ngày là một phép lạ, mỗi phút giây là một phép lạ. Chỉ có đôi mắt nội tâm mới cho con người cảm nhận được phép lạ triền miên ấy. Sống đích thực, sống dồi dào, là biết chiêm ngưỡng để đón nhận phép lạ từng ngày ấy.
Nguyện xin Chúa ban cho cuộc sống chúng ta luôn được thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ triền miên ấy.
Suy Niệm 4: Một y dược mới lạ
Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp xuống dưới chân Người, và khẩn khoản nài xin:: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” (Mc. 5, 21-23)
Tương truyền thánh Maccô là một y sĩ. Phúc âm của ngài đầy rẫy những chi tiết về thuốc men cùng những ngón nghề trị bệnh. Nhưng hình như ngài đã tự ý bỏ nghề làm thuốc sau khi đã so sánh những thành công về y khoa của mình với những thành công của Tin Mừng nơi Đức Giêsu Kitô. Thế nên, trong bài tường thuật này, Maccô muốn minh chứng sự đụng chạm đến Chúa Giêsu, dù là kín đáo, cũng tạo được một khả năng hữu hiệu là phục hồi sức khỏe hay phục sinh.
Đụng chạm đến Chúa Giêsu
Chúa Giêsu thực hiện một số phép lạ: “từ xa” hoặc bằng lời nói của Người. Trong trường hợp này, Maccô nhấn mạnh đến chi tiết này là phép lạ đã xảy ra nhờ tiếp xúc với Chúa:: “Ai đã sờ vào tôi?”,: “Người cầm lấy tay đứa bé”.
Chúng ta biết Chúa Giêsu có thể chữa bệnh từ xa, nhưng cũng phải biết rằng Người có thể tác động cách gần gũi, cảm thấy được. Các Bí tích là gì, nếu không phải là những cử chỉ và hành động của Đức Kitô – như trong Bí tích Thánh Thể – của chính Đức Kitô.
Nhưng chúng ta có giống như đám đông chen lấn Chúa, đụng chạm đến Người, mà chẳng sinh được hiệu quả gì chăng? Hay sẽ như người đàn bà nọ bị bệnh băng huyết tiến đến gần Người với lòng tin nên được khỏi bệnh chăng? Chúng ta đến lãnh nhận các Bí tích với tinh thần nào?
Dù là kín đáo không ai hay biết
Có nhiều phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện trước công chúng, mà mọi người được mắt thấy tai nghe. Trong trường hợp phép lạ ở đây, lại khác hẳn. Việc người phụ nữ bị bệnh loạn huyết được khỏi, chẳng có ai hay biết, còn số người chứng kiến việc con gái ông Giai-ia được phục sinh cũng chỉ có mấy người. Việc Chúa Giêsu hành động cách kín đáo, hoặc Người bảo người ta phải kín miệng cảnh báo chúng ta phải coi chừng những phép lạ hàng loạt, và những trường hợp lành bệnh có tính cách phô trương rùm beng. Mỗi người cần có niềm tin sâu xa tự đáy lòng mình, đó mới là điều cốt yếu.
Tiến tới một sự phục hồi toàn diện
Cuối cùng, sự tiếp xúc với chính Chúa Kitô và đụng chạm đến Người phải đưa đến một sự phục hồi toàn diện con người. Chúa Giêsu không ngừng làm cho ta đứng thẳng, trong tư thế của người đang làm việc; Người làm cho chúng ta trở thành người hữu ích, đảm đang. Và cứ như thế cho đến giai đoạn phục hồi chung cuộc, khi con người toàn diện của chúng ta, luôn tỉnh thức phục vụ, được phục sinh trong ngày Chúa ngự đến.
Suy Niệm 5: Tin sẽ được khỏi
Trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu gặp rất nhiều người đến xin Ngài chữa bệnh hoặc người ta tự ý đụng chạm đến Ngài để được khỏi bệnh. Trong mọi trường hợp, Ngài đều khơi gợi lên nơi họ một mối tương quan trực tiếp với Ngài. Mối liên hệ đó chính là đức tin. Có đức tin sẽ được lành. Không có đức tin thì không thể khỏi.
Hôm nay Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành một người đàn bà bị băng huyết và cho em bé 12 tuổi đã chết được sống lại.
Trường hợp người đàn bà băng huyết thì Đức Giêsu đòi hỏi bà ta phải có niềm tin trực tiếp vào Ngài. Còn với em bé được Ngài cho sống lại thì chính đức tin của cha em đã làm Đức Giêsu chạnh lòng thương và cứu sống em.
Trong cuộc sống đạo của chúng ta, nhiều khi chúng ta tin Chúa, nhưng tin nửa vời, tức là tin khi thành công, thuận lợi, nhưng khi đức tin bị thử thách, chúng ta sẵn sàng buông xuôi. Như vậy, nếu không có lợi thì tức khắc chúng ta chuyển niềm tin sang đối tượng khác! Chúa không còn là Đấng duy nhất chúng ta tin tưởng!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cộng tác với ơn Chúa để làm cho đức tin của mình được triển nở. Bởi vì đức tin mà không việc làm thì đức tin chết. Đức tin phải được thanh uyện bằng những thử thách. Có thế, chúng ta mới có kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của mình, và mình mới đủ can đảm để làm chứng cho Chúa ngay trong những lúc khó khăn, thử thách nhất.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chính nhờ đức tin của chúng con vào Chúa, chúng con được sự sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Sờ vào Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu mang nơi mình một thần lực sinh động và diệu kỳ. Bất cứ ai tiếp xúc với Người trong niềm tin sẽ được chữa lành và được ơn cứu độ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khung cảnh đám đông chen lấn xung quanh và đụng cả vào Chúa, thật là thường tình trong những ngày Chúa rao giảng Tin Mừng. Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, con ngắm nhìn một kẻ cố ý đụng vào Chúa, cố tình sờ vào áo của Chúa với vẻ rụt rè vì sợ bắt quả tang. Đó là thái độ của một phụ nữ đã mắc bệnh nhiều năm.
Lạy Chúa Giêsu, bà ấy sờ vào áo Chúa bằng tay và bằng lòng tin. Với lòng tin đơn sơ chân thành, bà ngẫm nghĩ: Tôi mà sờ vào áo choàng của Ngài thôi, tôi sẽ được khỏi bệnh. Điều ấy chính Chúa đã xác nhận: sự đụng chạm của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh, một chứng bệnh đã kéo dài suốt 12 năm.
Lạy Chúa, đã nhiều lần tay con sờ tới Lời Chúa, đôi mắt con đã dõi theo Lời Chúa, đôi tai con đã nghe Lời Chúa, nhưng dường như con vẫn còn xa lạ với Lời Chúa. Hơn nữa, môi miệng con đã đụng chạm tới Mình Máu Thánh Chúa, nhưng đó chỉ là thói quen thường ngày. Xin Chúa giúp con ý thức để biết cố ý đụng chạm tới Chúa với lòng tin và tình mến.
Lạy Chúa, với lòng chân thành phó thác, xin Chúa nắm lấy tay con và lôi con trở dậy, như Chúa đã làm với con gái ông Giai-rô lúc ấy, chắc chắn con sẽ được đổi mới. Amen.
Ghi nhớ: “Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy”.
Suy Niệm 7: Sờ vào áo Người, là sẽ được cứu
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một tác giả người Mỹ đã ghi lại một câu chuyện về niềm tin như sau: Tại một vùng bên Hoa Kỳ, những tháng ngày nắng hạn kéo dài đã làm cho những cánh đồng nứt nẻ vàng úa. Ngày nào người dân trong vùng cũng ngước mắt nhìn lên trên trời với niềm mong đợi sẽ có một tín hiệu tốt, nhưng đất vẫn khô cằn, mưa vẫn không chịu rơi.
Một ngày Chúa nhật nọ, tất cả các vị mục sư tại các nhà thờ trong vùng kêu gọi mọi người đến tham dự một buổi cầu nguyện chung tại quảng trường thành phố để xin trời đổ mưa. Mọi người được yêu cầu đừng mang theo bất cứ điều gì ngoài niềm tin của mình.
Vào giữa trưa một ngày thứ Bảy, tất cả mọi cư dân trong vùng tập trung tại quảng trường. Tất cả mọi người đều tin tưởng ở sức mạnh của lời cầu nguyện. Họ đến đó tràn trề hy vọng. Các vị mục sư rất cảm động khi nhìn thấy đám đông đã hưởng ứng lời kêu gọi của họ. Từng đám đông đứng sát bên nhau, nắm tay nhau liên kết với nhau trong cùng một niềm tin và hy vọng. Những bài thánh ca được cất lên một cách sốt sắng. Mọi người đều tin tưởng và chờ đợi phép lạ. Khi buổi cầu nguyện vừa kết thúc, như có một lệnh thần diệu nào đó, những giọt mưa nhỏ đã bắt đầu rơi, những tiếng reo hò cũng bắt đầu vang lên. Mọi người đều phấn khởi trước phép lạ tỏ tường. Cầm trong tay bất cứ đồ vật gì, người ta cũng giơ lên để biểu lộ niềm hân hoan. Nhưng từ xa nhìn về đám đông người ta chỉ thấy có một biểu tượng đáng chú ý, đó là hình ảnh một cậu bé trai chín tuổi cầm dù gương lên cao. Em là người duy nhất mang theo dù để chuẩn bị đón mưa (Theo Radio Véritas).
Suy niệm
Bà góa bị bệnh băng huyết, theo quan niệm của người Do Thái xưa, máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi bà mất dần đi, tiêu hao đi coi như bà là người đang đi vào cõi chết. Hơn thế nữa, theo Luật Môisê (x. Lv 15,25) bệnh xuất huyết là thứ bệnh dơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng: Bà có thể làm cho những người khác cũng bị nhơ vì tiếp xúc với bà. Cho nên, bà không chỉ đau đớn về bệnh tật hoành hành cả đời bà, niềm đau hơn nữa là bà bị loại ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội, khỏi cộng đoàn tôn giáo. Trong cơn thất vọng về tình trạng bệnh tật và tâm linh, bà tin Đức Kitô có thể chữa bà khỏi cơn bạo bệnh và qua đó còn đưa bà trở về với cuộc sống xã hội. Bà tin và chân thành xin một chút sức mạnh từ nơi Đấng Mêssia bằng cử chỉ đụng vào áo Ngài, lòng tin đơn sơ nhưng thật mạnh mẽ:: “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi” (Mc 5,28). Và bà: “chạm đến áo Người” trong lúc bà mang cơn bệnh là thái độ liều lĩnh vì đã xé rào Luật Lệ ngăn cấm, nhưng đó cũng là thái độ đức tin vững vàng của bà. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.Ông Giairô đã không hề ngại đến thân thế của mình là trưởng hội đường, ông khiêm tốn nài xin Chúa Giêsu đến thăm viếng để cứu chữa người con gái ông đang bị bệnh nặng:: “Xin Ngài đặt tay trên nó”(Mc 5,23). Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân là cử chỉ Chúa thường dùng khi cứu chữa bệnh nhân và họ được khỏi bệnh (x. Mc 6,5; 7,32; 8,23). Xin Chúa đặt tay tức là tin rằng: Ngài sẽ chữa khỏi được bệnh cho con ông. Ông xác tín cử chỉ đặt tay của Thầy - Đấng Mêssia mang đến cho con ông được cứu như ông tuyên tín:: “Để nó được khỏi và được sống” (Mc 5,23b), dù em bé bệnh rất nặng và đang hấp hối nguy ngập. Thái độ này của Giairô biểu lộ một đức tin vững vàng, xác tín vào quyền năng của Chúa Giêsu và con ông đã được sống dù nó đã chết như người nhà loan báo khi Chúa đến đầu ngõ nhà ông.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin mà Đức Giêsu xác nhận. Với người phụ nữ đau khổ góa bụa mắc bệnh băng huyết có lòng tin vững vàng:: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34) như mỗi lần chữa lành bệnh tật, Ngài thường khẳng định:: “Niềm tin của con đã cứu chữa con” (Mt 9,22; Lc 8,48; 17,19; 18,42…). Được lành bệnh, được phục hồi, người được chữa lành không chỉ tìm lại được sức khỏe thể lý mà còn có cuộc sống mới trong niềm tin và họ đã tuyên xưng. Còn ông Giairô, Ngài nâng đỡ ông hãy vững lòng tin:: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), khi ông muốn ngã quỵ vì nhận được tin dữ như sét đánh ngang tai:: “Con ông đã chết rồi: “ (Mc 5,35).
Sống đức tin là dám sẵn sàng ra khỏi chính mình để đi theo tiếng gọi của niềm tin, sẵn sàng đi ra khỏi tư tưởng áp đặt đám đông để sống thực cho những đòi hỏi của đức tin. Sống đức tin đích thực là sẵn sàng lội ngược dòng như bà góa vượt qua lề luật để gặp và sờ áo Chúa và ông Giairô vượt qua thân phận chủ hội đường mà đến với Đức Kitô.
Ngày hôm nay, mỗi chúng ta đều mang bệnh tật: Có thể về thể xác như mang các cơn bệnh, có thể là những thứ bệnh tâm lý như lo lắng, cô đơn, cay đắng, giận hờn, stress, có thể là những cơn bạo bệnh tâm linh khi sống mất phương hướng, hoang tàn trong cuộc đời, còn tệ hơn nữa là chết về tâm hồn... Chúng ta luôn cần được chữa lành như người phụ nữ mang bệnh tật đến với Đức Giêsu với niềm tin vào Ngài, như người cha Giairô xin Thầy đến bên con gái ông đang bị bệnh gần chết với niềm tin con ông được sống.
Mỗi giây phút cuộc đời, với tất cả tình trạng của mình, chúng ta hãy chạy đến với Thầy:: “Như trẻ thơ đặt hết niềm tin nơi Chúa” (Tv 131,2).
Suy Niệm 8: Chữa bệnh và cho sống lại
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay thánh Marcô thuật lạ cho chúng ta hai phép lạ. Khi Chúa Giêsu đang đứng trên bãi biển thì ông trưởng hội đường đến sấp mình van xin Người cứu chữa con gái ông sắp chết. Người liền đi với ông, và dân chúng kéo theo rất đông. Dọc đường, có người đàn bà mắc bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã tìm thầy chạy thuốc hết tiền hết của mà không hết bệnh. Khi nghe nói đến Chúa Giêsu, bà thầm nghĩ: nếu sờ được áo Người chắc khỏi bệnh, nên bà lẩn vào đám đông và sờ vào áo Chúa. Tức thì bà được lành bệnh.
Lúc ấy người nhà ông trưởng hội đường đến đưa tin con gái ông đã chết và khuyên đừng rước Chúa đi nữa. Nhưng Chúa bảo ông cứ vững tin. Rồi Người cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan đến nhà ông. Người cầm tay đứa bé và bảo: “Hỡi con, Ta truyền cho con chỗi dậy”. Tức thì đứa bé chỗi dậy, trước sự kinh ngạc của mọi người.
2. Muốn có phép lạ phải có đức tin đi trước.
Tất cả các phép lạ Chúa Giêsu làm đều có ý khơi dậy lòng tin cho người ta. Không ai có thể chối cãi đuợc những phép lạ Người đã làm như chữa bệnh, trừ quỉ, dẹp yên sóng gió, làm cho kẻ chết sống lại... Vì những phép lạ này làm công khai trước mặt mọi người và làm ngay tức khắc nên mọi người phải công nhận. Khi chữa bệnh xong, Chúa Giêsu hay nói với bệnh nhân: ”Đức tin của con đã chữa con”.
Người đàn bà bị băng huyết này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà, nhưng bà tự nhủ: “Tôi chỉ cần sờ vào gấu áo Người thì tôi sẽ được khỏi”. Nghĩ thế và bà đã dám làm, bất chấp luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe. Điều đó chứng tỏ bà đã có đức tin vững mạnh, và thúc đẩy Chúa làm phép lạ. Kết quả là bà đã được như ý khi Chúa nói với bà: “Đức tin của con đã chữa con”.
3. Phép lạ còn đòi phải có lòng khiêm nhường.
Ông trưởng hội đường Giairô hôm nay đã diễn tả lòng tin tưởng với khiêm nhường thẩm sâu. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Chúa Giêsu diễn tả niềm tin sâu sắc của ông, ông đã quỳ mọp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Như vậy ông này phải tin Đức Giêsu là ai, có quyền phép thế nào mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được toại nguyện.
4. Qua việc chữa lành cho người đàn bà bị xuất huyết và phục sinh cho con gái ông trưởng hội đường, Chúa Giêsu đã tỏ bầy lòng thông cảm và quan tâm đến những nỗi khổ của con người.
Trong cuộc sống hằng ngày mà ai ai cũng biết thông cảm và quan tâm đến nhau thì đau khổ sẽ bị chế ngự và hạnh phúc sẽ ngự trị nơi mỗi người và trong xã hội.
Mỗi người trong chúng ta có một vai diễn trên sân khấu của cuộc đời.
Mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm với mọi người xung quanh, nói với họ rằng chúng ta yêu mến họ.
Nếu bạn không quan tâm đến người khác, bạn sẽ không bị trừng phạt đâu, đơn giản bạn chỉ bị lãng quên, hững hờ y như bạn đã từng đối với người khác.
Vậy từ hôm nay, chúng ta hãy tập thói quen bày tỏ sự quan tâm đến người khác. Đâu mất gì khi chúng ta nở một nụ cười, siết chặt một bàn tay, thốt lên một lời khích lệ hoặc đơn giản nói rằng chúng ta muốn lắng nghe.
5. Truyện: Biết lưu tâm đến người khác.
Vào tháng hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức phổ thông.
Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối: “Chị tạp vụ ở trường tên là gì”? Tôi nghĩ đó chỉ là câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sậm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư bộ môn trả lời:
- Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.
Tôi đã không quên bài học đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên của chị tạp vụ trong trường. Chị tên là Mai Hương.
Vâng, chúng ta hãy học tập cho mình một thói quen biết cảm thông và chia sẻ. Một trái tim biết cảm thông và chia sẻ là trái tim của con người.
Các nhà đạo đức ngày nay đã nói nhiều về sự: “dửng dưng và vô cảm” của người thời đại. Hình như cuộc sống càng cao, càng sung túc thì con người lại càng ích kỷ thêm. Nhiều người đã biến trái tim của mình thành vô cảm trước những nỗi khổ đau của người khác, nhất là những người nghèo khó đau khổ.
Là những người con của Chúa, chúng ta đừng bao giờ làm như thế. Hãy nhớ: Niềm vui biết chia sẻ là niềm vui sẽ được nhân lên gấp bội và nỗi buồn được chia sẻ là nỗi buồn sẽ vơi đi một nửa.
Suy Niệm 9: Uy quyền của Chúa Giêsu trên sự sống và sự chết
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Phép lạ cuối cùng trong loạt 3 phép lạ mặc khải uy quyền của Chúa Giêsu trên sự sống và sự chết
- Nơi đứa con gái của ông Giairô sự sống đã mất hẳn vì nó đã chết, ai nấy cũng xác nhận cái chết ấy vì họ đã bắt đầu khóc than kêu la ầm ĩ, người ta còn cười nhạo khi Chúa Giêsu bảo nó chưa chết.
- Nơi người phụ nữ bị băng huyết sự sống đang mất dần (máu là biểu tượng của sự sống).
- Chúa Giêsu là chủ và là nguồn của sự sống a/ Người phụ nữ bị băng huyết chỉ cần sờ đến gấu áo Ngài thì sự sống được phục hồi; b/ Ngài gọi cô bé sống lại cách dễ dàng như đánh thức một người khỏi giấc ngủ.
B.... nẩy mầm.
1. "Đứa bé có chết đâu. Nó ngủ đấy thôi". Khi Ladarô chết, Chúa Giêsu cũng nói "Ladarô bạn của ta đang yên giấc. Thầy đi đánh thức anh ấy dậy" (Ga 11,11). Đối với Chúa, chết chỉ là một giấc ngủ, mở mắt thức dậy là một cuộc sống thật, vĩnh cửu.
2. Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng "Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng."
Bà cầu nguyện suốt ba ngày vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ "Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai."
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện. (Góp nhặt)
Ta chỉ tin suông vào sự sống thật mai sau. Thực chất là ta vẫn còn coi trọng sự sống đời này hơn.
3. Một ông lão ở Marocco đến gặp một nhà truyền giáo để tìm con đường cứu độ, vì ông biết mình chẳng sống bao lâu nữa. Để giúp ông, nhà truyền giáo dùng một cuốn sách, trong đó trang 1 màu đen tượng trưng cho tội lỗi, trang 2 màu đỏ tượng trưng máu Chúa Kitô, trang 3 màu trắng chỉ lương tâm trong sạch, trang 4 màu vàng chỉ vinh quang Nước Trời.
Sau khi nhập đạo ít lâu, người đó lâm cơn hấp hối. Bà vợ là người theo đạo Hồi khuyên ông kêu cầu đức Mahomet, nhưng ông không chịu, bảo Chúa của ông là Đức Kitô. Bà vợ nói "Vậy ông hãy lấy cuốn sách nhà truyền giáo cho, mở trang 3, hi vọng Chúa sẽ cho ông sạch tội mà vào thiên đàng." Ông đáp "Không, hãy mở trang 2 cho tôi." Và ông chết trong lúc tựa đầu vào trang sách tượng trưng máu Chúa Kitô. (Góp nhặt)
4. Một vị giám mục nổi tiếng hiền hoà, dễ mến. Khi được hỏi bí quyết, ngài đáp bí quyết đó là:
Thứ nhất, tôi nhìn lên trời để nhớ rằng đời tôi phải tới đó.
Thứ hai, tôi nhìn xuống đất để thấy phần mộ tôi sau này thật nhỏ hẹp.
Thứ ba, tôi nhìn chung quanh để thấy bao người nghèo khổ mà đáng kính trọng hơn tôi.
Thứ bốn, tôi học để biết hạnh phúc thật nằm ở đâu, mọi nổ lực của tôi sẽ chấm dứt thế nào và những than thở của tôi thật vô cớ biết bao! (Góp nhặt).
5. "Người phụ nữ lách qua đám đông tiến đến phía sau Chúa Giêsu và sờ vào áo của Người, vì bà tự nhủ Tôi mà sờ được vào áo Người thôi là sẽ được cứu. Tức khắc bà đã được khỏi bệnh" (Mc 5,27-29)
Băng huyết là bệnh nan y trong thời Chúa Giêsu. Người mắc bệnh này thường tuyệt vọng. Nhưng người phụ nữ trong câu chuyện Tin Mừng đã không giam mình trong nỗi thất vọng. Chị đã đến với Chúa và hết lòng tin tưởng vào Người, tin rằng Người có thể lấp đầy những khát vọng của mình.
Dù cách biểu lộ niềm tin của chị còn thô thiển là tìm cách sờ vào áo của Người, nhưng chỉ cần ngần ấy thôi cũng đủ để Chúa Giêsu nhận ra lòng tin mãnh liệt của chị, lòng tin mà, theo Người, đã cứu chữa chị và đem lại cho chị sự bình an.
Tôi chợt nghĩ đến căn bệnh của thời đại, đến những người đang thất vọng vì nhiễm HIV, và thầm nguyện cho họ được vững một niềm tin vào Chúa, Đấng duy nhất có thể thoả mãn những mong đợi mà Người đã đặt trong trái tim của mỗi người. Chính Người đã đến để loan báo cho ta niềm hy vọng tuyệt vời, vì Người là tác giả của sự sống.
Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa vì nhờ Người mà con đã khám phá ra khuôn mặt mới của Thiên Chúa một Thiên Chúa giàu lòng thương xót và yêu thương hết mọi người. (Epphata).
- 29/01 Người bị quỷ ám và đàn heo
- 28/01 Hoạt động của Chúa Giêsu
- 27/01 Chúa Giêsu quyền năng
- 26/01 Diễn Văn Truyền Giáo
- 25/01 Tông Đồ Phaolô Trở Lại
- 24/01 Dụ ngôn gieo hạt giống
- 23/01 Mẹ Chúa và anh em Chúa Giêsu
- 22/01 Ngoan cố, tội phạm đến Chúa Thánh Thần
- 21/01 Các môn đệ đầu tiên của Thày Giêsu.
- 20/01 Thân nhân của Chúa