Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
17/03 Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt
- Viết bởi Ga 12, 20-33
Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt.
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY năm B.
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt".
Lời Chúa: Ga 12, 20-33
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, trong số những người lên dự lễ, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa, và nói với ông rằng: "Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức Giêsu". Philipphê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu.
10/03 Con Người phải bị treo lên
- Viết bởi Ga 3, 14-21
Con Người phải bị treo lên.
CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY năm B.
"Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ".
Lời Chúa: Ga 3, 14-21
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời.
Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ.
Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa.
Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY B
Lời Chúa: 2Sb 36,14-16.19-23; Ep 2,4-10; Ga 3,14-21
MỤC LỤC
1. Chuộng tối hơn sáng--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
2. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
3. Nhìn lên ánh sáng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người--TGM Giuse Nguyễn Năng
5. Đấng giải phóng--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
6. Người thợ săn trên trời--GM. Arthur Tone
7. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
8. Tin thì sống--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
9. Lòng Chúa thương xót chúng ta--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
10. Người thợ săn trên trời--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
11. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
12. Muốn được Chúa cứu, ta phải làm gì?--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
13. Nhìn lên Thập Giá--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
14. Thiên Chúa yêu thế gian--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
15. Ai tin Chúa sẽ được cứu chữa để sống muôn đời--Lm. Đan Vinh
16. Ánh sáng và bóng tối--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
17. Tình yêu lớn nhất--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
18. Thế gian được cứu độ nhờ Người--Lm. Trầm Phúc
19. Tin thì được sống--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P
20. Giương cao con rắn--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
21. Nào ta hãy mừng vui--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
22. Nhìn lên Thánh Giá--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
23. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
24. Hãy đến cùng ánh sáng--Lm. Ignatiô Trần Ngà
25. Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Ignatiô Trần Ngà
26. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
27. Yêu đến quên mình--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
28. Lời xin lỗi--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
29. Như hoa hướng dương--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
30. Phận người yếu đuối và tội lỗi--John W. Martens--Văn Chính, SDB chuyển ngữ
31. Chuyện thưởng phạt--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
32. Tin Chúa--Lm. Vũ Đình Tường
33. Cho là cõi phúc--Lm. Vũ Đình Tường
34. Đón nhận ánh sáng--Peter Feldmeier--Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
35. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
36. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
37. Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người--Lm. Anthony Đinh Minh Tiên
38. Tình Chúa thương con--Lm. Minh Vận, CMC
39. Niềm tin và hành động--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
40. Ánh sáng thật--Lm. Bar. Lê An Phong, SDB
41. Yêu cho roi cho vọt--Lm Trần Bình Trọng
42. Truyện con rắn đồng--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
43. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
44. Cơ hội sống tốt hơn--Lm. Xuân Hy Vọng
45. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
46. Tin vào Con Thiên Chúa--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
47. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Alfonso
48. Ánh sáng và bóng tối--Lm Nguyễn Khoa Toàn
49. Dĩ độc trị độc--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
50. Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa--Lm. Nguyễn Minh Hùng
51. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Bùi Thượng Lưu
52. Đức Giêsu nói chuyện với ông Nicôđêmô--JNK
53. Nội dung mặc khải của Chúa Giêsu (c.14-17)--Alain Marchabour
54. Một tình yêu không thể tin được--Lm. Phanxicô X. Vũ Phan Long
55. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu--Noel Quesson
56. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Chú giải của Noel Quesson
57. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Fiches Dominicales
58. Đàm thoại với Nicôđêmô (Ga 3,14-21)--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
59. Con Người phải được giương cao (Ga 3,14-15)--William Barclay
60. Đức tin hôm nay của tôi cứu tôi--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
61. Nhìn lên Thánh giá Chúa Giêsu--Lm John Nguyễn Tươi
62. Khước từ tình yêu Chúa là tự kết án mình--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang-- Joshepus Quang Nguyễn
63. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
64. Tình thương của Thiên Chúa
65. Cựu Ước và Tân Ước
66. Từ bóng tối tới ánh sáng
67. Nô lệ tự nguyện
68. Tuyệt vọng trong hy vọng
69. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
70. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
71. Thiên Chúa yêu thương
72. Yêu thương tha thứ
73. Sự thật đổi mới chúng ta
74. Lòng tin
75. Người thợ săn
76. Thích gì
77. Yêu Chúa
78. Con rắn
79. Thiên Chúa yêu
80. Tiến vào ánh sáng
81. Nhìn lên Thập giá
82. Đón nhận Thập Giá Chúa Kitô
83. Rắn đồng cứu độ
84. Nicôđêmô
85. Tình yêu của Thiên Chúa
1.Chuộng tối hơn sáng--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Cúp điện bất ngờ là điều gây khó chịu.
Trong bóng tối, người ta đi tìm hộp quẹt,
tìm ánh sáng để thắp lên một ngọn nến, một cái đèn dầu.
Nói chung chẳng ai thích bóng tối,
vì bóng tối là dấu hiệu của lạc hậu, thiếu văn minh.
Ấy thế mà cũng có những người mê bóng tối.
Bóng tối của quán bia ôm, của Karaokê, của sàn nhảy...
Phải bỏ tiền ra để mua được bóng tối.
Bóng tối đồng lõa, che đậy, lấp liếm, làm mặt nạ.
Bóng tối trong tâm hồn cần có bóng tối ở ngoài.
Nó sợ ánh sáng làm lộ chân tướng.
"Ánh sáng đã đến thế gian,
nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng,
vì các việc họ làm đều xấu xa."
Ghét ánh sáng, chuộng bóng tối:
đó là thảm kịch nơi lòng con người,
bởi lẽ con người được sinh ra để sống cho ánh sáng.
Lắm khi người ta từ chối tin vào Đức Kitô,
từ chối đến với ánh sáng và sự thật,
chỉ vì đời họ chìm trong bóng tối và giả trá.
Những lý do biện minh cho sự từ chối này
thường đến sau khi đã chọn lựa.
Cần thay đổi cuộc sống để tin hơn vào Thiên Chúa,
nhưng cũng cần can đảm đến với ánh sáng
dù biết mình đang chìm trong bóng tối;
hay đúng hơn, vì biết mình nô lệ cho bóng tối
mà ta khao khát vươn tới ánh sáng.
Đừng trốn chạy ánh sáng như Ađam, Evà.
Hãy để cho ánh sáng vén mở chính mình,
bắt ta đối diện với sự thật trần trụi về mình,
để rồi ta được rực rỡ trong niềm vui.
Chỉ có một cách ra khỏi bóng tối đó
là trở lại với ánh sáng, bằng cách ngước nhìn lên...
Dân Do Thái xưa trong sa mạc đã được chữa lành
nhờ tin tưởng nhìn lên con rắn đồng treo trên cây gỗ.
Ngày nay, chúng ta được cứu độ, được sự sống đời đời
nhờ tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên thập giá.
Thập giá là tột cùng của nhục nhã đớn đau,
nhưng cũng là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu.
Kitô hữu không phải là người tôn thờ đau khổ,
nhưng là người say mê tình yêu:
tình yêu của Cha khi trao ban người Con yêu dấu,
tình yêu của Con khi hiến tặng mạng sống mình.
Nhiều nơi đã đặt tượng Chúa phục sinh trên thập giá,
nhờ đó bầu khí nhà thờ tươi vui hơn.
Nhưng ta vẫn không được quên nhìn lên
thân xác bầm tím nát tan của Đức Giêsu trên Núi Sọ.
Ước gì tôi biết nhìn lên tình yêu bị treo và trở lại với ánh sáng
để ánh sáng đưa tôi vào sâu hơn trong tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong tôi có ánh sáng và bóng tối; ngoài ra còn có nhiều bóng mờ, nơi khôn g sáng hẳn hay tối hẳn. Bóng mờ dễ chuyển thành bóng tối. Bạn có thấy một số bóng mờ trong đời bạn không? Chúng nguy hiểm đến mức nào?
Thế giới hôm nay tràn ngập ánh sáng của đèn điện. Nhưng vẫn có nhiều bóng tối đang rình rập các bạn trẻ. Bạn có gặp bóng tối nào không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng,
và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.
Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng
đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công,
của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,
và biết vâng theo những soi sáng của Chúa
qua từng giây phút của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối
vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,
nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,
để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
2.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan,
Đức Giêsu nhiều lần nhận mình là ánh sáng (Ga 8,12; 9,5; 12,46).
Ngài là ánh sáng đã đến trong thế gian (Ga 1,9).
Tiếc thay, thế gian lại yêu bóng tối và ghét ánh sáng.
Bóng tối dễ làm người ta bị vấp, vì không thấy đường đi.
Nhưng nhiều người vẫn thích bóng tối hơn,
vì bóng tối che giấu những âm mưu của họ.
Sau khi được Thầy Giêsu đãi miếng bánh trong bữa ăn,
Giuđa liền đi ra, lúc đó trời đã tối (Ga 13,30).
Sau khi Đức Giêsu bị bắt vào buổi tối ở Vườn Dầu,
Ngài đã bị các thượng tế vội vã đem ra xét xử suốt đêm đó.
Mãi đến sáng họ mới chuyển Ngài cho Philatô (Ga 18,28).
Trong cuộc Khổ Nạn, có vẻ bóng tối thắng thế.
Thật ra thì bóng tối không thắng được ánh sáng (Ga 1,5).
“Tên thủ lãnh thế gian không làm gì được Thầy” (Ga 14.30).
Sự phục sinh của Đức Giêsu là chiến thắng của ánh sáng.
Không phải chỉ từ khi làm người, Ngôi Lời mới là ánh sáng.
Ngài là ánh sáng từ vĩnh cửu, chiếu soi cả nhân loại (Ga 1,4.9).
Khi đối diện với Đức Giêsu, con người đứng trước một lựa chọn:
tin hay không tin, đón nhận hay từ chối ánh sáng.
Có những người không tin Đức Giêsu
không phải vì đức tin nghịch với lý trí, nhưng vì lối sống của họ.
Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng,
vì họ sợ điều ác của họ bị phơi bày (Ga 3,20).
Ai làm theo sự thật thì đến cùng ánh sáng,
vì họ muốn việc họ làm được thấy là đúng ý Chúa (Ga 3,21).
Đến với Giêsu là đến với ánh sáng.
Ai có cuộc sống càng gần với sự thật, sự thiện,
thì càng dễ đón nhận ánh sáng và tin vào Giêsu.
Mặt khác, ai càng tin vào và bước theo Giêsu,
thì càng không ở lại, không đi trong bóng tối (Ga 8,12; 12,46).
Như thế để được sự sống đời đời, cần tin vào Đức Giêsu.
Nhưng đó không phải là một đức tin trên lý thuyết suông,
mà là một đức tin luôn làm cho đời mình được tỏa sáng.
Tin vào Đấng là ánh sáng đòi chúng ta phải từ khước bóng tối,
bóng tối sự dữ, bóng tối dối trá, bóng tối của ý định gian tà.
Vào ngày tận thế, người chết sẽ ra khỏi mồ.
“Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống,
ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,29).
Mặt khác, muốn làm cho nhiều người tin Đức Giêsu,
chúng ta phải xây dựng một thế giới tốt lành, huynh đệ.
Một thế giới càng ít điều xấu xa, đen tối, ám muội,
thì càng dễ đón nhận và tin vào Giêsu.
Lời Chúa hôm nay mời chúng ta đến với ánh sáng,
dứt khoát từ bỏ bóng tối, dù bóng tối cho ta sự an toàn.
Hơn nữa, Lời Chúa còn mời chúng ta ngước nhìn lên.
Người Do-thái xưa đã ngước nhìn lên con rắn đồng treo ở cột,
để được chữa lành khỏi cái chết vì rắn cắn.
Ngày nay, chúng ta được mời ngước nhìn lên Người Con Một
đang được giương cao trên thập giá.
Chẳng ai yêu Người Con ấy bằng Thiên Chúa Cha.
Nhưng Cha lại tặng chính Người Con mình yêu dấu
cho thế gian tội lỗi, đang thù nghịch và chống đối mình.
Phải yêu thế gian này biết chừng nào, Cha mới làm như vậy.
Đơn giản là Cha muốn cứu loài người khỏi họa diệt vong.
Người Con Một là bàn tay Cha đưa ra cho nhân loại.
Ai nắm lấy bàn tay ấy với lòng tin thì được sống.
Mùa Chay đã gần hết, lời mời trở nên khẩn trương hơn.
Chỉ mong chúng ta được sức sống hơn nhờ nhìn lên…
và được ngời sáng hơn nhờ đến cùng ánh sáng.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giê su,
ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt,
còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn.
Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối
nhưng khi nhìn thật sâu vào lòng mình,
con vẫn thấy có nhiều bóng mờ tác động.
Con an tâm ở lại trong bóng mờ,
vì thấy đó chưa phải là một tội.
Nhưng con cũng áy náy,
vì biết rằng bóng mờ là nơi
ánh sáng Chúa chưa thấm nhập trọn vẹn.
Con không muốn bóng mờ thành ánh sáng,
vì con vẫn muốn giữ lại
một điều gì đó rất quý đối với con.
Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc
để con được tự do yêu mến và phụng sự Chúa hơn.
Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con
để con được thuộc trọn về Chúa.
Xin kéo con ra khỏi thái độ lấp lửng nước đôi,
để dứt khoát đặt Chúa trên mọi sự.
Ước gì con có đủ can đảm để dám nhìn thẳng vào
những bóng mờ trong đời con.
Và ước gì con được trở nên trong suốt
nhờ để cho ánh sáng Chúa
tràn ngập mọi vùng mờ tối nơi con. Amen.
3.Nhìn lên ánh sáng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong sa mạc, dân Israel kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn họ, khiến nhiều người phải chết. Dân chúng xin ông Môsê khẩn cầu Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền cho ông làm một con rắn bằng đồng và treo lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống (Ds 21, 4b-9).
Hôm nay, khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi ta cũng hãy biết nhìn lên Thánh giá để được sống. Việc nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thánh giá mở ra cho ta những nhận thức sau:
1) Nhận thức về tội lỗi của ta. Dân Do thái phản nghịch với Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Chính tội lỗi làm người ta phải đau khổ. Chính tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Chính tội lỗi đã gây ra chết chóc. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi. Cũng vậy, vì tội lỗi của ta mà Đức Giêsu đã chịu treo trên Thánh giá. Người nào có tội tình gì mà phải chết đau đớn, tủi nhục như thế. Không một mảnh vải che thân. Chết lúc tuổi thanh xuân. Chết như một tội nhân. Chết như một người nô lệ. Trước khi chết đã bị sỉ nhục, bị hành hạ đến tan nát hình hài, đến chẳng còn hình tượng con người. Tất cả chỉ vì tội lỗi của ta. Tội lỗi đã làm ta phải chết. Tội lỗi làm linh hồn ta bị biến dạng, méo mó, xấu xa. Tội lỗi khiến ta tủi nhục chẳng dám ngẩng mặt nhìn lên. Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của ta. Người chịu nhục nhã cho ta được vinh quang. Người chịu thương tích để chữa lành vết thương của ta. Người chịu chết như nô lệ để ta được tự do. Người chịu chết cho ta được sống. Người chịu treo lên để kéo ta khỏi vũng bùn nhơ tội lỗi. Nhìn ngắm Người chính là nhìn ngắm tội lỗi của ta. Hiểu được cái chết đau đớn tủi nhục của Người là ý thức được tội lỗi nặng nề của ta.
2) Nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Nhận thức về tội lỗi đưa ta đến nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Ta tội lỗi đáng phải chết. Nhưng Chúa thương yêu không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách cứu ta. Tình yêu Chúa dành cho ta thật bao la tha thiết. Tình yêu đã khiến Chúa ra như điên dại. Còn ai điên dại hơn người dám hy sinh con một mình để cứu người khác. Thế mà Chúa Cha đã “yêu ta đến nỗi đã ban Con Một” của Người cho ta. Còn ai điên dại hơn kẻ dám liều mạng chết vì người yêu. Thế mà Đức Giêsu đã tự nguyện chết cho ta. Người đã dậy ta: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã hy sinh mạng sống để làm chứng tình yêu Người dành cho ta. Ta có xứng đáng gì đâu? Ta chỉ là một hạt bụi. Ta ngập trong yếu đuối tội lỗi. Thế mà Người yêu thương đến điên dại, đến chết vì ta. Càng nhìn lên Thánh giá, ta càng thấy mình tội lỗi. Càng thấy mình tội lỗi, ta lại càng thấy tình yêu thương của Chúa dành cho ta thật là bao la, tha thiết, mênh mông khôn tả.
3) Nhận thức về ơn cứu độ của Chúa. Trong sa mạc họ chẳng tìm ra người có thể cứu chữa họ. Chẳng có thuốc nào cứu họ khỏi chết. Chỉ mình Thiên Chúa có thể cứu họ. Thế nên họ phải nhìn lên con rắn đồng để được Chúa cứu. Ta cũng thế. Biết thân phận mình tội lỗi yếu hèn, ta càng cảm nghiệm được ơn cứu độ của Chúa. Ta ngập chìm trong tội lỗi, chẳng thể nào vươn lên được nếu không có ơn cứu độ của Chúa. Ta yếu đuối, chẳng thể nào tự sức mình đứng lên nếu không có ơn Chúa nâng đỡ. Ta bị giam cầm trong ngục tù sự chết, chỉ có Chúa mới có thể tháo bỏ xiềng xích, đưa ta tới miền sự sống. Linh hồn ta ngập ngụa nhơ uế, chỉ có Chúa mới có thể rửa sạch tội tình. Linh hồn ta bị bóng tối tội lỗi phủ vây, chỉ có ánh sáng của Chúa mới soi chiếu cho ta biết đường ngay lẽ phải.
Nhìn lên Thánh giá chính là từ nơi tối tăm nhìn lên ánh sáng. Ánh sáng tình yêu thương từ Thánh giá chiếu toả sẽ giúp ta an tâm trở về với Chúa là Cha, người Cha nhân hiền lúc nào cũng chờ đón đứa con hoang đàng trở về, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho ta. Ánh sáng cứu độ từ Thánh giá chiếu toả sẽ giải thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi, đưa ta trở về làm con cái Thiên Chúa Sự Sáng. Ánh sáng tình yêu và ánh sáng cứu độ sẽ nâng ta lên, để từ nay ta vượt thoát lên khỏi bóng tối tội lỗi, sống thanh sạch công chính, luôn mơ ước những điều cao thượng, xứng đáng là con cái sự sáng. Trong mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh, ta hãy năng chiêm ngắm Thánh giá, để Chúa nâng tâm hồn ta lên với Chúa.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo hồn con lên với Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có cảm thấy mình được Chúa yêu thương không? Hãy kể lại một kinh nghiệm trong đó bạn cảm nhận được tình yêu thương của Chúa.
2) Bạn có thấy mình yếu đuối, cần ơn Chúa cứu độ không?
3) Bạn đã chiêm ngắm Thánh giá lâu giờ chưa? Bạn có muốn chiêm ngắm Thánh giá trong mùa Chay này không?
4.Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người--TGM Giuse Nguyễn Năng
Suy niệm: Bài Tin mừng hôm nay mạc khải cho chúng ta tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Tình yêu ấy sẽ không bao giờ phai nhạt dù cho cuộc đời có đổi thay. Tình yêu của Thiên Chúa vẫn như mưa tưới gội trên mọi người: cả người lành cũng như kẻ ác. Ngài không áp đặt con người phải theo Ngài. Trái lại, Ngài cho họ được quyền tự do lựa chọn hạnh phúc cho chính mình. Vì thế, kẻ tin theo Chúa, đặt tin tưởng vào Chúa thì đã được cứu. Còn kẻ không tin, thì tự họ, họ đã tìm đến cõi diệt vong.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, từ muôn thuở Chúa đã yêu thương và muốn cứu chuộc chúng con. Nhưng Chúa không thể cứu được con nếu chúng con không muốn. Xin cho chúng con biết dùng tự do của mình để chọn con đường dẫn đến phúc trường sinh. Con đường đó chính là Ðức Giêsu. Tin vào Ðức Giêsu chắc chắn chúng con sẽ được hạnh phúc muôn đời. Amen.
Ghi nhớ: “Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ”.
5.Đấng giải phóng--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Sống ở đời, chúng ta bị ràng buộc tư bề. Con người bị ràng buộc do lối sống ích kỷ, do những thành kiến mặc cảm, và cũng có thể do những tham vọng đam mê và nhất là do tội lỗi. Vì những ràng buộc này, con người trở thành nô lệ của chính mình, và họ luôn giãy giụa tìm cách để thoát ra khỏi vòng nô lệ ấy. Phụng vụ Chúa nhật IV Mùa Chay muốn khẳng định với chúng ta: Thiên Chúa là Đấng giải phóng và làm cho con người được tự do.
Dân Do Thái đang chán nản đau buồn trong cảnh lưu đày ở Babylon. Họ phải sống trong cảnh tủi nhục nơi đất khách. Không còn đền thờ, chẳng còn tư tế, vắng bóng các sinh hoạt truyền thống và các nghi thức tế tự. Lòng người Do Thái quặn đau nơi lưu đày. Họ không thể gượng vui mà hát xướng trước thái độ ngạo mạn của người bản địa. Những người đạo đức luôn hoài niệm về quá khứ. Họ hướng về Giêrusalem với đôi mắt đẫm lệ. Trong bối cảnh ấy, Chúa dùng vua Cyrus, vua Ba Tư, cứu dân khỏi ách lưu đày và quyết định cho họ trở về quê cha đất tổ. Khỏi phải nói, niềm vui của dân lưu đày vỡ oà. Họ nhận ra Cyrus là vị cứu tinh. Họ coi ông là người của Thiên Chúa đến để giải phóng dân riêng của Ngài và đưa về bến bờ tự do.
Nếu Thiên Chúa đã dùng ông Cyrus để cứu dân tộc Do Thái khỏi ách lưu đày ở Babylon, thì qua Đức Giêsu, Thiên Chúa muốn cứu độ cả thế gian, mọi nơi, mọi thời. Ngài không cứu thế gian khỏi ách nô lệ của một chế độ, nhưng là ách nô lệ của tội lỗi, của quyền lực tối tăm. Bài Tin Mừng ghi lại cuộc đàm đạo vào ban đêm giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Ông này là thành viên Công nghị Do Thái, tạm coi như thành viên của quốc hội. Ông cảm phục giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng còn nhiều điều băn khoăn nên đến gặp Người để khai thông trí tuệ. Chúa Giêsu đã nói với ông về tình thương của Thiên Chúa Cha. Tình thương ấy được chứng minh qua Ngôi Lời nhập thể, chính là người đang đàm đạo với ông về những thực tại thiêng liêng. Đức Giêsu cũng khẳng định với ông Nicôđêmô: Thiên Chúa sai con của Ngài đến để giải phóng nhân loại. Ai tin vào Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời. Những ai tin vào Chúa Giêsu sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và quyền lực tối tăm. Tình thương của Thiên Chúa được chứng minh qua mầu nhiệm thập giá. Đức Giêsu đã nhắc tới con rắn đồng được treo trong sa mạc thời ông Môisen (x. Dân số 21,3-9) như hình ảnh báo trước cây thập giá. Đương nhiên, Tin Mừng được viết sau biến cố thập giá và phục sinh, nên tác giả muốn diễn tả qua hình ảnh con rắn đồng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Cũng như con rắn mang lại sức chữa lành cho dân Do Thái – những người bị rắn cắn – cái chết của Chúa Giêsu và sự phục sinh của Người cũng chữa lành những vết thương của con người do tội lỗi gây ra.
Chúa Giêsu khẳng định: một trong những điều kiện căn bản để được cứu độ hay được ơn giải thoát, đó là Đức tin vào quyền năng Thiên Chúa. Tin là tự do chọn lựa Chúa và dấn thân sống hết mình vì chọn lựa đó. Nếu bạn tin vào Chúa, bạn sẽ tìm được sự sống, sẽ được cứu độ trong ngày xét xử, sẽ được ánh sáng chiếu soi. Một khi tin vào Chúa thì những hành động của bạn sẽ là những việc thiện lương. Bởi lẽ bạn không thể tin vào Chúa mà lại có một lối sống ngược lại với điều bạn tuyên xưng.
Một cách cụ thể, tin vào Chúa là tin vào Đức Giêsu Kitô. Tin vào Chúa không chỉ có nghĩa là tin Ngài đang hiện diện, mà còn là thiện chí thực hiện những điều Chúa Giêsu dạy. “Ai khước từ Thày là khước từ Đấng đã sai Thày” (Lc 10-16). Đức Tin giải thoát chúng ta khỏi sự chết và đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu. Đón nhận và thực hiện lời Chúa Giêsu là tuyên xưng Đức Tin vào Thiên Chúa cách hữu hiệu nhất. Nhờ việc tuân giữ giáo huấn của Người, chúng ta trở nên những tác phẩm của Thiên Chúa, được canh tân trong Chúa Giêsu, nên con người hoàn thiện, và như thế, chúng ta làm cho ánh vinh quang của Ngài tỏa rạng qua cuộc đời của chúng ta (x. Bài đọc II).
Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu vào ban đêm đã làm cho ông Nicôđêmô thay đổi cuộc đời. Từ một người còn nghi ngờ, dè dặt, ông đã trở nên môn đệ của Chúa. Ông không còn sợ hãi nữa, trái lại, ông đã công khai biện hộ cho Chúa Giêsu nơi những người biệt phái (x. Ga7,51) và đã cộng tác trong việc an táng Chúa Giêsu (x. Ga 19,39). Một điều đáng chú ý là khi Chúa chịu chết đau thương trên thập giá, cũng chính là lúc ông Nicôđêmô sẵn sàng từ bỏ công danh sự nghiệp để công khai nhận mình là môn đệ của Chúa Giêsu. Thông thường ở đời, người ta đi theo và tôn vinh một người chiến thắng, không mấy ai chấp nhận đi theo một người bị lên án tử hình, như trường hợp ông Nicôđêmô.
Mùa Chay là thời điểm sống Đức tin một cách mãnh liệt hơn. Phụng vụ khẳng định: nếu thành tâm tin vào Chúa, chúng ta sẽ tìm được niềm vui ở đời này và hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng ta lựa chọn đứng về phía ánh sáng hay bóng tối? Chúng ta đang làm việc thiện hay việc ác? Chúng ta đang bảo vệ sự sống hay cổ võ sự chết? Tất cả những vấn nạn này cần được trả lời bằng cuộc sống cụ thể của mỗi người.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Hãy nhìn lên cây thập giá để tôn vinh Chúa là Đấng giải phóng, để biết Chúa yêu chúng ta đến dường nào. Từ cây thập giá, chúng ta học được những bài học cần thiết trong mối tương quan với Chúa và cách ứng xử với anh chị em.
6.Người thợ săn trên trời--GM. Arthur Tone
Một trong những bài thơ tôn giáo nổi tiếng nhất bằng Anh ngữ tựa đề: “Người Thợ Săn Trên Trời”, sáng tác của Francis Thompson, ông cố chạy trốn Chúa. Ông so sánh Chúa với một thợ săn, vâng một con chó săn theo đuổi linh hồn. Đây là câu chuyện đời tư của Thompson.
Khi còn là cậu con trai, ông có ý định làm linh mục. Nhưng vì ông lười biếng. Cha ông phải ghi tên gởi ông vào trường thuốc. Ông làm quen với thói hút ma túy, nó hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông đi ăn xin, chui rúc trong xóm ổ chuột, kiếm sống qua ngày bằng đánh giày, bán quạt và giữ ngựa. Nhờ lòng tốt của cô gái nghèo, Thompson gặp ông bà Wilfred Meynell. Họ thấy ông có tài, có lòng tốt thầm kín, họ giúp ông bắt gặp tình thương của Chúa.
Bằng chứng hiển nhiên của tình thương Chúa cho chúng ta được diễn tả trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi ban tặng Người Con Một, để những ai tin vào Ngài sẽ không bị diệt vong, nhưng được sống đời đời”. Cha trên trời chứng tỏ tình thương cho mỗi người chúng ta bằng cách sai Người Con yêu quý của Người để đổi lại chúng ta. Như ông Thompson linh hồn chạy trốn Chúa. Như người thợ săn rượt theo con thỏ. Thiên Chúa tìm kiếm từng linh hồn. Khác với người thợ săn, Chúa muốn cứu linh hồn đó chứ không hủy bỏ.
Làm sao chúng ta có thể có một quan niệm về mức độ vô biên của người thợ săn trên trời thương chúng ta? Trong bức thơ gởi cho Giáo đoàn Êphêsô, Thánh Phaolô gợi ý chúng ta nghĩ đến “Chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu Chúa” đối với chúng ta.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì rộng rãi: nó trải rộng tới mọi người; tới dân ngoại, tới người tội lỗi, tới cả những người chống đối Người. Thiên Chúa muốn mọi người được chia sẻ sự tốt lành của Người.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì dài: “Ta yêu ngươi bằng tình yêu vĩnh cửu (Jer 21.3)”. Trước khi có thế giới, Thiên Chúa đã yêu bạn. Tình yêu Thiên Chúa trải qua đời này tới đời kia.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì cao: Nó từ ngai tòa Đấng Tối cao trên trời cao thẳm mà tới. Chiều cao của tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ trong tặng vật của Người cho chúng ta. Có gì cao siêu hơn được chia sẻ chính sự sống của Chúa qua các bí tích. Tình yêu nào cao hơn việc ban Người Con tốt lành, thánh thiện của Người cho chúng ta khi rước lễ.
Tình yêu Thiên Chúa thì thẳm sâu: Thiên Chúa tự hạ mình từ Thiên đàng cao vời xuống chuồng bò thấp hèn ở Bethlem, tới căn nhà tồi tàn và rừng hoang, tới con người rất hèn, tới sự xỉ nhục của thập giá và chiều sâu của nấm mồ.
Một lần nữa, như Francis Thompson, như các vị thánh, chúng ta nhận thấy rằng: Thiên Chúa săn tìm linh hồn chúng ta cùng khắp thế giới. Vậy chúng ta hãy trở về với tình yêu đó. Chúng ta hãy cố gắng “tiến triển trong tình yêu” như chúng ta cầu nguyện trong kinh nguyện Thánh Thể II.
Trong mùa chay, chúng ta hãy nhớ Đấng Tình Thương đã ban cho chúng ta sự sống. Ước chi người thợ săn trên trời bắt được mỗi chúng ta.
Xin Chúa chúc lành bạn.
7.“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
1) Con Rắn trên cây cột và Đức Ki-tô Chịu Đóng Đinh
2) “Ông Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột” (Ds 21, 9)
Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (x. St 3, 1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho bà Evà và ông Adam nghi ngờ Thiên Chúa: Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: “chẳng chết chóc gì đâu !” Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối ! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình ; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: “Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chếhắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2, 17). Mười một chương đầu của sách Sáng Thế cho thấy rõ, Lời Chúa là chân thật.
Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến (x. Ds 21, 4-9) và trong bài Tin Mừng Đức Giê-su so sánh mầu nhiệm Thập Giá của Người với chính con rắn này, chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa: kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa, đó là để cho mình bị rắn cắn, đó là mang nọc độc vào người.
Chắc chắc chúng ta cũng có kinh nghiệm nghi ngờ Thiên Chúa, nghi ngờ ý định tốt lành của Thiên Chúa, khi cho chúng ta được làm người và sống trong một ơn gọi: Tại sao Chúa lại sinh ra con như thế này: thiếu đủ thứ, kém cỏi đủ thứ, thua thiệt đủ thứ? Sao con không như anh kia, chị nọ? Tại sao con lại ra nông nỗi này, rơi vào tình cảnh khổ sở như thế này, Chúa dẫn vào đây để làm gì? Những lúc khủng khoảng như thế, chúng ta cũng kinh nghiệm được những hậu qủa tại hại của thái độ nghi ngờ. Trong khi đó, mỗi người chúng ta, theo Tv 139, là một tuyệt tác, mà nhiều khi chúng ta lại mù quáng không nhận ra: “Chúa dựng nên con cách lạ lùng”.
1. “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”
Đức Giê-su, ngay từ những lời nói đầu tiên trong đời sống công khai, trong Tin Mừng theo thánh Gio-an (3, 14), đã đặt mầu nhiệm Thập Giá mà Người sẽ sống trong tương quan rất trực tiếp với hình ảnh “con rắn”, biểu tượng của Tội và Sự Dữ:
Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy,
để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
Theo lời này của chính Đức Ki-tô, chúng ta nên hình dung ra, hay tốt hơn là vẽ ra, một bên là “Con Rắn” bị giương cao trên cây gỗ, một bên là Đức Ki-tô được giương cao trên cây thập giá, thay vì là Sự Dữ, là Sa-tan, bởi vì theo luật, chỗ trên cây thập giá phải là chỗ của tử tội, của chính Tội. Như thế, Đức Kitô trong Cuộc Thương Khó, sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn. Thực vậy, thánh Phaolô nói, Ngài lại tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3) ; và Ngài “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21 và Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô: “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7, 13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người chúng ta hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giê-su dạy, chứ không phải báo trước, các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (x. Mc 8, 31). Vì, thế, chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Ki-tô chịu đóng đinh, để nhìn thấy:
* Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo, lên án vô cớ, của vụ án gian dối.
* Đầu đội mạo gai của Người, tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị.
* Chân tay của Người bị đanh đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính, và hành động theo thú tính.
* Và cạnh sườn của Người bị đâm thủng, thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực; và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng, là hủy diệt (x. Dụ ngôn “Những tá điền sát nhân”). Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống nữa, của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!
Theo lời của Đức Chúa, Mô-sê khi đó đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên nguyên nhân gây ra cái chết được phô bày ra đó, thì đã được chữa lành. Nếu hình phạt bị rắn độc cắn là nặng nề, để cho thấy rằng, thái độ nghi ngờ và kêu trách tự nó mang nọc độc giết người, thì ơn chữa lành thật nhẹ nhàng và nhưng không: “Ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống”. Cũng giống như khi người ta chữa bệnh: trước tiên phải tìm ra nguyên nhân gây bệnh; và khi tìm được, thì hoặc dùng thuốc hóa giải nó đi, hoặc phải cắt bỏ ra khỏi cơ thể.
2. “Ai Tin vào người thì được sống muôn đời”
Như Dân Chúa trong sa mạc nhìn lên con rắn đồng, chúng ta được mời gọi ngước nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37). Nhưng thay vì bị lên án, loài người chúng ta được mời gọi nhìn lên Đấng Chịu Đinh với lòng tin để đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.
Ơn tha thứ. Thập Giá, chính là lời diễn tả tình yêu thương xót nhưng không và vô biên của Thiên Chúa. Vì thế, khi nhìn lên Thập Giá Đức Kitô, chúng ta được mời gọi nghiệm ra tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu có thể chịu đựng mọi tội lỗi của con người đến như thế.
Ơn chữa lành. Đúng là Thánh Gía mặc khải cho con người bản chất của Tội, nhưng không phải là để lên án con người, mà là để cứu sống con người. Thiên Chúa không thể tha thứ cho con người mà không đồng thời chữa lành, bằng cách làm cho con người nhìn ra hình ảnh thật sự của tội. Nghi ngờ Thiên Chúa là căn bệnh nan y, nhưng được chữa lành tận căn bằng Thập Giá: Tình yêu đi đến mức “điên rồ” đến như thế; chúng ta cũng được mời gọi yêu Chúa “điền rồ” như thế.
Chữa lành khỏi hình ảnh sai lầm về Thiên Chúa. Và Thập Giá con mặc khải cho chúng ta rằng thân phận con người không phải là một hành trình dẫn đến chỗ chết (St 3 và Ds 21). Con người muốn vươn lên bằng Thiên Chúa, nhưng Con Thiên Chúa làm người và làm người đến tận cùng (Ph 2, 5-11), để nói với chúng ta rằng, Thiên Chúa tạo dựng nên con người không phải để đầy đọa, thử thách và lên án, và thân phân con người, dù có như thế nào, là con đường dẫn đến Thiên Chúa, nguồn Sự Sống.
3. Tình yêu Thiên Chúa
Dưới ánh sáng của mầu nhiệm Thập Giá, được hiểu khởi đi từ con rắn đồng trong sa mạc và cả con rắn trong Vườn Eden nữa, chúng ta mới có thể hiều sâu sa và con tim của chúng ta có thể bừng cháy khi nghe lời này của Đức Giê-su:
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một,
để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời. (c. 16)
Lời này của Đức Giêsu thật dịu dàng, an ủi vỗ về chúng ta, và nhất là làm cho chúng ta có can đảm trở về với Thiên Chúa như người con hoang đàng. Đây là một trong những lời của Đức Giêsu, nói cho chúng ta rõ nhất về khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, về con tim của Thiên Chúa, về cõi lòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thế gian, nghĩa là yêu tất cả nhân loại và yêu từng người trong nhân loại, dù con người là ai và đang ở tình trạng nào; Thiên Chúa yêu nhân loại, đơn giản là vì Ngài sinh ra nhân loại. Giống như cha mẹ sinh con, con nó nên người thì vui, nó hư đốn thì buồn, nhưng luôn luôn yêu con, dù nó như thế nào.
Và Thiên Chúa không yêu sơ sơ hay yêu tạm thời, nhưng Ngài yêu trọn vẹn và mãi mãi, bởi vì Ngài yêu loài người đến nỗi ban chính Con Một của mình; Thiên Chúa ban cho chúng ta Con Một cũng là Con Duy Nhất của Ngài. Cho đi Người Con Duy Nhất chính là cho đi chính mình, bởi vì Cha và Con là một. Cuộc Thương Khó của Đức Kitô mà chúng ta sẽ tưởng niệm cách trọng thể vào Tuần Thánh, bí tích rửa tội, bí tích hòa giải và nhất là bí tích Thánh Thể, tỏ bày cho chúng ta tình yêu cho đi chính Con Một, chính bản thân mình của Thiên Chúa.
Vấn đế là chúng ta có chịu tin hay không? Đức Giê-su hay nói: “Lòng tin của con đã cứu con” (x. Lc 7, 50). Như thế, lòng tin có sức mạnh cứu độ: lòng tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện nơi ngôi vị và Thập Giá của Đức Giê-su nói, giải thoát chúng ta khỏi mặc cảm tội lỗi, khỏi sự nghi ngờ chết chóc đối với tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Và đó chính là sức mạnh cứu độ của lòng tin, được chính Đức Giê-su nói công bố, chứ không phải là bất cứ điều gì khác, hay điều kiện nào khác.
Hơn nữa, tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa còn mời gọi chúng ta đón nhận “Hiện Thân” của tình yêu Thiên Chúa, là Đức Giêsu Con Thiên Chúa (Rm 8, 39) vào cuộc đời mình với những may rủi, với những thuận lợi cũng như khó khăn, với những biến cố vui buồn, những thành công và thất bại; tin vào Con Thiên Chúa, là đón nhận ánh sáng của Ngài vào ơn gọi của mình, ơn gọi hôn nhân hay tu trì, vào hướng đi của mình, vào cách sống của mình; tin vào Con Thiên Chúa là để cho Lời của Ngài hướng dẫn những lựa chọn lớn trong cuộc đời của chúng ta, cũng như những lựa chọn nho nhỏ hằng ngày. Tin vào Con Thiên Chúa như thế, chúng ta sẽ sống sung mãn, sống bình an, sống hạnh phúc thực sự, không phải ở đời sau, nhưng ngay hôm nay.
Vì thế, chúng ta cần ghi lòng tạc dạ lời này của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (c. 16). Chúng ta đừng bao giờ nghi hoặc, hay đừng để cho bất cứ ai, bất cứ lời nói hoặc lời dạy nào làm cho chúng ta nghi hoặc tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, bày tỏ ra cho chúng ta nơi Đức Kitô, và nhất là Đức Kitô chịu đóng đinh.
***
Khi chúng ta nghi ngờ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, đó là lúc chúng ta bị rắn độc cắn. Bị rắn độc cắn, thì đương nhiên là chết, không cần phải ai bắt mình ra xét xử, lên án và thi hành án phạt. Như chính Đức Giêsu nói:
Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án;
nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi,
vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. (c. 17-18)
8.Tin thì sống--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Giữa đêm thanh gió mát, ông Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do thái, đến gặp Đức Giêsu. Người đàm đạo với ông về sự sống muôn đời. Sự sống muôn đời là sự sống trong nước Thiên Chúa. Ai tin vào Con Người, Đấng từ trời xuống, thì được sống muôn đời. Tin vào Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian được sống. Tin vào Con Một đến cứu độ thế gian. Tin vào Con Một là ánh sáng thế gian để thiên hạ thấy rõ những chuyện trên trời mà sống theo sự thật để mọi việc họ làm đều hợp ý Thiên Chúa. Như vậy, họ sẽ khỏi phải chết, nhưng được sống muôn thuở.
Đức Giêsu dẫn chứng lịch sử thời Môisen đã treo con rắn đồng lên cây cờ, để ai bị rắn lửa cắn mà tin nhìn lên rắn đồng thì được sống (Ds. 21, 19). Sự kiện đó và bao nhiêu việc lạ lùng khác yêu thương dân Người, cứu họ khỏi chết, cho họ được sống. Giờ đây Thiên Chúa không phải chỉ sai sứ giả phàm nhân như Môisen, để treo rắn đồng mà sai chính Con Một Thiên Chúa xuống thế gian chịu treo mình để không chỉ cứu một dân tộc, mà cứu cả thiên hạ được sống, không phải chỉ sống dưới đất, mà còn được sống trong vinh quang nước trời.
Thánh Phaolô cũng nói với giáo đoàn Êphêsô phải tin vào “Thiên Chúa giàu lòng nhân hậu và rất mực yêu thương chúng ta, tin vào Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa”. Tác phẩm của loài người chỉ là chữ chết hay đá gỗ mà còn mất bao nhiêu kỳ công. Huống chi chúng ta là tác phẩm sống động của Thiên Chúa, được sáng tạo trong trái tim Đức Giêsu để thực hiện những công trình tốt đẹp của Thiên Chúa, thì kiệt tác biết chừng nào!
Hơn nữa chúng ta còn là tác phẩm do công trình cứu độ của Thiên Chúa, còn tốt đẹp gấp bội hơn nữa: “Dầu chúng ta đã chết vì phạm tội, Người vẫn cho chúng ta được sống với Đức Giêsu Kitô, được sống lại, được ngự trị với Đức Kitô trên cõi trời, thế mới rõ tình thương và ân huệ của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô dồi dào phong phú vô cùng”.
Tin thì được sống tuyệt vời như thế! Kẻ không tin thì khốn cùng, tận diệt như thế nào? Họ chuộng bóng tối, làm điều xấu xa, mỗi ngày thêm bất trung bất nghĩa, học đòi các thói tục ghê tởm, làm nhơ nhuốc đền thờ, khinh dể nhạo báng, chê cười các ngôn sứ, khiến Chúa nổi cơn thịnh nộ để cho quân thù tiêu hủy triệt hạ, châm lửa đốt tất cả bọn chúng. Còn sót lại những ai không bị gươm giết, thì bị đày làm nô lệ (Bài đọc I).
Thực ra những hình phạt hữu hình ấy bây giờ ít xảy ra. Nhưng những đau khổ ngấm sâu tận đáy lòng kẻ không tin thì rất nhiều.
Vị cứu tinh vĩ đại của Ấn độ, thánh Grandhi đã nói: “Không nhờ cầu nguyện thì tôi điên từ lâu rồi. Chúng ta cần nhiều nhà thờ để bồi dưỡng sức mạnh tinh thần cho nhân dân”. Cầu nguyện và nhà thờ là biểu lộ lòng tin. Lòng tin đã cứu ông khỏi điên. Không tin, ông đã bị điên vì đau khổ rồi.
Giáo sư William James, người cha của khoa học tâm lý thực nghiệm, đã viết: “Phương pháp thần diệu nhất để diệt ưu tư là đức tin tôn giáo, vì đức tin là năng lực giúp loài người sống mạnh”. Không có đức tin, con người là mồi ngon của ưu tư và nhu nhược.
Bác sĩ Jung, ông tổ khoa chữa bệnh tâm thần kể: “Trong ba mươi năm gần đây, có những người thuộc đủ các nước văn minh trên thế giới, xin tôi chữa bệnh. Tôi chữa được mấy trăm người. Họ đau vì mất thăng bằng. Phải kiếm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh, mà tôn giáo thời nào cũng đem lại cho tín đồ hai kho tàng quý báu: kiên nhẫn và cậy trông”. Không có tôn giáo, thế giới văn minh sẽ mất thăng bằng, bệnh hoạn, rối loạn và tuyệt vọng.
Bà Carnegie, bậc thầy về sách học làm người, đã kể: “Ba má tôi làm việc cực nhọc lắm, từ 4 giờ sáng đến 8-9 giờ tối, liên lỉ 16 giờ một ngày mà vẫn bị nợ nần quấy rầy. Trên ba mươi năm đầu tắt mặt tối, ba tôi chỉ chuốc thêm nợ nần nhục nhã. Ba tôi mất ăn mất ngủ, sức lực hao mòn. Bác sĩ nói: Ông không thể sống được quá sáu tháng nữa đâu. Lo lắng chán nản quá, lúc lên đò qua sông lớn, ba tôi tính lao đầu xuống sông tự tử. Nhờ thoáng nghĩ đến lời mẹ tôi khuyên: Nếu ta kính mến Chúa và giữ lời Người, mọi sự sẽ được như ý. Một sức mạnh tin tưởng đổ dồn vào tim ông. Ông đã phấn đấu với cảnh nghèo khổ và sống thêm 42 năm nữa. Ông thọ được 89 tuổi” (Nguyễn hiến Lê dịch “Quẳng gánh lo đi và vui sống” của Carnegie. Tr. 206).
Nhờ đức tin Grandhi đã không bị điên, còn trở nên thánh nhân và vĩ nhân thế giới.
Nhờ đức tin tôn giáo, bao nhiêu bệnh nhân tâm thần đã được khỏi, sống mạnh mẽ và yêu đời.
Niềm tin tôn giáo còn tránh cho xã hội bao nhiêu thảm họa khác nữa. Dostoievsky, một văn hào bậc nhất Liên Xô nói: “Không còn Thiên Chúa, người ta muốn làm gì thì làm, bất chấp xấu xa, tàn ác”.
Ai tin vào Thiên Chúa và vào Đức Giêsu Kitô thì chẳng những sống lành mạnh ở đời này mà còn được sống vinh phúc muôn đời. Ai không tin vào Con Người thì phải chết muôn thuở.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã bao nhiêu lần nói: “Lòng tin của con đã cứu con” (Mt. 9, 22). Xin thêm đức tin cho chúng con để chúng con được sống dồi dào và được sống đời đời.
9.Lòng Chúa thương xót chúng ta--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Chúa nhật 4 mùa chay có thể được gọi là Chúa nhật mầu hồng vì Giáo hội hé mở cho chúng ta những lý do khiến chúng ta vui mừng. Phụng vụ mời gọi chúng ta hãy vui lên: ”Anh em hãy vui lên với thành Giêrusalem, anh chị em là những người đang mang tang chế”. Phụng vụ khuyến khích chúng ta hãy vui lên, chúng ta muốn vui lắm, nhưng nhiều khi không vui được vì còn gặp nhiều nỗi buồn phiền lo lắng, kể cả thất vọng nữa. Thực ra chẳng bao giờ chúng ta hết lo, hết khổ dưới hình thức này hay hình thức khác. Nhưng làm sao vui lên được?
Thì đây, thánh Gioan đã đưa ra lý do căn bản về niềm vui: Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta tới mức độ sai Con Một Ngài xuống thế cứu vớt nhân loại. Vậy muốn tham dự ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, còn cần phải tin vào Ngài! Đức tin thật cần thiết vì: ”Ai tin thì sẽ được sống đời đời”(Ga 3,16).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 2 Sb 36,14-16. 19-23.
Tác giả sách Biên niên điểm lại những giai đoạn lịch sử dân Israel trước, trong và cuối thời lưu đầy. Nếu Thiên Chúa ngoảnh mặt đi mà cho quân đội Babylon đến phá hủy đền thờ Giêrusalem và bắt dân ưu tuyển đi lưu đầy, chính là dân đã phản bội, đã bỏ Ngài trước. Dân Israel bị phạt vì tội bất trung, nhưng lại được tha thứ vì biết sám hối. Qua các biến cố trong lịch sử của họ, tác giả luôn tìm được những lý do để trông cậy, mà một trong những lý do quan trọng là Chúa trung thành bởi vì chính Ngài là Tình Thương.
+ Bài đọc 2: Ep 2,4-10.
Thánh Phaolô nhắc lại cho tín hữu Êphêsô biết là mọi người được cứu độ nhờ ân sủng khi Ngài nói:”Chính là bởi ân sủng mà chúng ta đượcï cứu độ nhờ đức tin”. Chúng ta được cứu độ nhờ ân sủng miễn là có lòng tin. Đó là giáo thuyết thánh Phaolô dạy chúng ta về ơn cứu độ “nhưng không” màThiên Chúa ban cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Ơn cứu độ được ban “nhưng không” chứ không do một điều gì trong con người chúng ta có quyền đòi hỏi. Vì thế, thánh Phaolô xác quyết rằng:”Tất cả là hồng ân”.
+ Bài Tin mừng: Ga 3,14-21.
Ông Nicôđêmô là một người biệt phái đến gặp Đức Giêsu ban đêm. Đây là đoạn nối tiếp câu chuyện giữa Đức Giêsu và ông. Trong buổi nói chuyện này, ông được hiểu thêm về ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho loài người qua Đức Giêsu Kitô. Qua đó, ông biết được rằng tin vào Đức Kitô, chính là nhận biết Ngài là Đấng Chúa Cha sai đến, là người Con đã được Chúa Cha ban cho thế gian vì yêu thương, ngõ hầu thế gian được cứu độ.
Nói khác đi , là nhìn nhận ơn cứu độ con người đến từ trời cao, do mối liên hệ cha con, tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Nhưng ta chỉ biết một sự thật như vậy khi “sống sự thật “ ấy, khi thực sự dấn buớc vào một cuộc sống được soi sáng không ngừng bởi phận làm con.
Theo ý nghĩa đó, không tin vào Đức Kitô, đó là tự kết án chính mình, vì tự tách rời khỏi nguồn sống và tất nhiên đi vào con đường những việc làm xấu xa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lòng Chúa yêu thương tha thứ
I. THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG VÀ THA THỨ.
1. Tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại.
Con người được Thiên Chúa yêu thương. Đây là một chân lý mà không ai chối cãi được. Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo hội rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế gian đau khổ bệnh tật qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin mừng. Không có đoạn văn nào trong Kinh thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời”(Ga 3,15).
Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đó, ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.
2. Nhưng dân Chúa lại phản bội.
Bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết dân Do thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc đối với tình yêu Thiên Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ hoang tàn của đền thờ và thành thánh. Chúa đâu có muốn trách phạt họ, Ngài muốn cho họ sống trung thành với Ngài như con cái đối với người cha, nhưng họ cứ đi sâu vào đàng tội, bỏ Chúa mà đi theo tà thần dân ngoại, bất đắc dĩ Ngài phải phạt để cho họ tỉnh ngộ. Cho đến lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Ngài liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Babylon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá hủy thành thánh, đốt phá đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
3. Các tiên tri nhắc nhở dân chúng.
Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì các tiên tri của Chúa liền xuống giọng. Các tiên tri bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Nhiều tiên tri đã lên tiếng kêu gọi thống hối và sửa đổi cách sống, nhưng đã hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết, ngay trong những giây phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa.
Lịch sử dân Do thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta hay biết những gì sẽ xẩy ra mỗi khi chúng ta phũ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy cũng đem lại cho chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta phải đối diện với sự lựa chọn: đón nhận hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta đã tự đặt mình vào một tình thế nguy hiểm là sống xa lìa với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kính trọng tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép uổng tình yêu của Ngài, đi ngược với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể từ chối lòng thương yêu cũng như quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể quay lưng lại với tình yêu của Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.
4. Dân hối cải, Chúa thứ tha.
Tuy vậy, Chúa không nỡ bỏ rơi dân Ngài. Chúa dùng vua của dân ngoại là Cyrô, vua Ba tư, để cứu thoát dân Ngài và đưa họ trở về quê cha đất tổ. Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, trách phạt, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tùy thuộc vào Chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay có nhắc đến chuyện con rắn đồng. Sau khi xuất Ai cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Maisen hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên một cái sào để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được khỏi. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.
II. TÌNH YÊU THIÊN CHÚA NƠI ĐỨC KITÔ.
1. Sự sóng đôi giữa Cựu ước và Tân ước.
Thiên Chúa yêu thương con người, nhưng con người không nhìn ra. Chính vì thế Thiên Chúa đã biểu lộ một cách cụ thể tình yêu của Ngài cho nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô, Con yêu của Ngài, như lời thánh Gioan đã nói:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban chính Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Con Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời”(Ga 3,16). và Ngài còn nói tiếp:”Thiên Chúa đã không sai Con Ngài đến để luận phạt mà là để cứu độ”(Ga 3,17).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại qua Đức Kitô đã được ám chỉ trong Cựu ước. Ta có thể nói Cựu ước là hình ảnh của Tân ước. Cựu ước là hình ảnh, Tân ước là thực tại. Chính vì thế, ta thấy có sự sóng đôi giữa Cựu ước và Tân ước. Những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Cựu ước đều là hình bóng của những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Tân ước.
Chẳng hạn , họ chứng tỏ cho thấy Isaac, con trai tổ phụ Abraham là hình bóng của Đức Giêsu như thế nào:
. Isaac con trai độc nhất, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac được cha mình rất mực yêu dấu, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac bị dâng làm hy lễ, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac bị hiến tế trên một ngọn đồi, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac vác củi dùng vào việc hy tế, Đức Giêsu cũng thế.
Thánh Phaolô cũng so sánh tương tự như thế giữa Cựu ước và Tân ước. Chẳng hạn, trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Ngài đã so sánh giữa Adong và Đức Giêsu. Ngài viết:”Con
người đầu tiên là Adong, đã được dựng nên là một người sống động, nhưng Adong sau cùng (Đức Giêsu) là Thánh Linh ban sự sống... Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, từ đất mà sinh ra, còn Adong thứ hai (Đức Giêsu) từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những người thuộc về đất cũng thể ấy. Người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy. Như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh của người thuộc về trời”(1 Cr 15,45-49) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 88).
2. Thập giá, dấu tích của tình yêu.
Chính khi nhìn vào thập giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên thập giá, thấm đẫm bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới bắt đầu nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả mọi độc ác hận thù ghen ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá, sừng sững giữa trời và đất, trên ngọn đồi Calvê. Một trong những chi tiết đầy ngỡ ngàng nhất về cuộc thương khó và tử nạn của Đức Giêsu chính là Thập giá nay trở nên bằng chứng tột cùng cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới. Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống, cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.
3. Truyện con rắn đồng.
Con rắn đồng là biểu trưng cho Đức Giêsu bị treo trên thánh giá. Sách Dân số 21,4-9 kể rằng: Dân Do thái đi từ núi Horeb về phía Biển đỏ đi vòng quanh xứ Eđom. Quãng đường dài này đã làm cho dân chúng kêu trách Đức Chúa và ông Maisen:”Tại sao đem chúng tôi ra khỏi Ai cập để rồi cho chúng tôi chết trong rừng? Không có bánh, không có nước, chúng tôi đã chán món ăn khốn nạn này lắm rồi”. Bấy giờ Đức Chúa cho một thứ rắn lửa từ trong rừng bò ra cắn dân chúng, nhiều người phải chết.
Dân chúng chạy đến ông Maisen, thưa với ông:”Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi đi”. Ông Maisen cầu cho dân. Chúa bảo Maisen:”Hãy làm một con rắn và treo trên ngọn sào, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn vào đó thì được sống”. Maisen làm một con rắn đồng và treo lên ngọn sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn vào rắn đó đều được khỏi.
Rắn lửa nói đây không phải nó đỏ như lửa, nhưng vết thương nó gây ra cho người ta rát như bỏng lửa. Tại miền nam xứ Palestine có rất nhiều thứ rắn và rắn có nọc.
Không phải tự con rắn treo lên có sức chữa người ta , nhưng cái sức chữa đó do Đấng truyền lệnh đã ban cho.
Sau này, những con rắn đồng đã trở thành vật dị đoan cho dân Do thái: Họ đốt hương trước rắn đồng. Vì thế, trong cuộc cách mạng tôn giáo Ezechias truyền đập nát con rắn đồng
(4 Sb 18,4).
Việc treo rắn đồng là tượng trưng cho việc Chúa chịu treo sau này. Ai tin vào Chúa chịu treo trên Thánh giá sẽ được cứu rỗi (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật, năm B, tr270).
III. HÃY TIN NHẬN ĐỨC GIÊSU LÀ CỨU CHÚA.
1. Ngài đã cứu chuộc bằng máu Ngài.
Thiên Chúa có thể cứu chuộc nhân loại bằng bất cứ cách nào nhưng Ngài lại muốn Con của Ngài phải đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc. Máu ấy có thể rửa sạch mọi tội lỗi của nhân loại, làm linh hồn con người được trở nên trong trắng, xứng đáng được làm con Chúa và làm đền thờ của Ngài. Chúng ta không thể hiểu được việc này vì đây là một mầu nhiệm lớn, mầu nhiệm “Ngôi hai cứu chuộc”. Vì thế, suy niệm về ơn cứu độ này, thánh Phaolôâ trong thư gửi cho tín hữu Do thái đã khẳng định:”Không có đổ máu ra thì không có ơn tha thứ”(Dt 9,22).
Truyện: máu của Telmachus.
Ngày đại hội năm 444 sau kỷ nguyên, làn sóng người từ khắp nơi kéo về Rôma. Rôma tưng bừng với vẻ của một ngày hội.
Hoàng đế Honorius cho tổ chức các trận giác đấu mừng ngày giải phóng dân Goths. Giữa đám đông lũ lượt đi đi lại lại, một ông già trong bộ y phục đơn giản của một vị tu trì Đông phương trầm lặng bước đi. Tên ông là Telmachus. Nhà tu trì này chỉ chăm lo chuyên khảo Thánh kinh và cầu nguyện. Cái trò chơi đẫm máu bỉ ổi này đã chấm dứt ở miền Đông nơi phát xuất ra ông. Nhưng nó vẫn còn đang tiếp diễn ở Rôma, đất nghìn năm muôn thuở, mặc dầu đã có ba vị hoàng đế tìm cách chấm dứt. Telmachus đăm chiêu, vì ông đang suy nghĩ phải làm gì để chấm dứt trò chơi này.
Những tay giác đấu gồm đủ mọi hạng người: có khi là những phạm nhân đã bị án tử, có khi là Kitô hữu, thường hơn là tù binh, đôi khi có người vì tham tiền, ham danh tình nguyện...
Trận đấu đầu tiên ghi lại trong lịch sử diễn ra năm 264 trước kỷ nguyên với 3 cặp đấu. Con số mỗi ngày một tăng. Quốc hội phải hạn chế chỉ cho Julius Cesar được có 320 cặp để chiến đấu trong một trận. Dưới triều Augustô, có lúc tới 10.000 tham dự trận đấu.
Hôm nay ngày tổ chức giác đấu, 85.000 chỗ ngồi trong đại thao trường Colosseum chật ních không còn chỗ trống.
Cái ung nhọt này không còn cơ cứu chữa. Nhân vật duy nhất đã dám lên tiếng chỉ trích là nhà hiền triết Sénèque. Ngoài ra còn có 3 vị hoàng đế chống lại trò chơi này, nhưng không dám thi hành vì sợ sự phản ứng mạnh phía quần chúng.
Đến giờ, những tay giác đấu xếp thành hàng dài chậm chạp diễn quanh đấu trường. Tới chân khán đài danh dự, chỗ vua ngồi, họ la to: kẻ hạ thần là những người sắp chết xin kính chào bệ hạ.
Khán giả quanh đấu trường chọn tay giác đấu nào họ ưa thích rồi la hét kích thích họ xung trận.
Khi hai tay giác đấu đang sát phạt đến hồi gây cấn nhất, bỗng một người ăn mặc đơn giản xông vào giữa hai đấu thủ gạt họ ra. Đám đông khán giả giận dữ la hét vang dội. Một số bực tức quá chạy ra tận đấu trường xé ông ra hàng trăm mảnh vì làm cho họ cụt hứng. Con người đó chính là Telmachus.
Kinh hoàng trước sự việc xẩy ra, Honorius chính thức tuyên bố bãi bỏ trò chơi bỉ ổi đã giết hại không biết bao nhiêu sinh linh ở Rôma cũng như ở các nơi khác.
Kể từ đó lịch sử không còn nói những trận đấu gươm tại Rôma nữa.
Không đổ máu không có ơn cứu rỗi.
Nhờ dòng máu Telmachus làm tắt dòng máu nhiều kẻ khác (Op, cit, tr 271-273).
2. Ai tin thì sẽ được sống.
Thánh Gioan nói:”Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”(Ga 3, 20 ). Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin còn là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha.
Người tin bước vào một cuộc sống mới. Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Messia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma qủi. Phải, chính trong đêm tối của tối tăm mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại:”Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu”(Ga 3,19). Hãy tin vào Đức Giêsu thì sẽ được tha thứ và được hưởng nhờ ơn cứu độ,
Truyện: Tượng Thánh giá ban phép lành.
Tại một nhà thờ bên Tây ban nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe:”Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.
Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát:”Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình:”Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi:”Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”.
Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Con yêu dấu Ngài là Đức Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Ngài:”Như Maisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy”.
10.Người thợ săn trên trời--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Một trong bài thơ nổi tiếng nhất bằng Anh ngữ tựa đề: “Người Thợ Săn trên trời”, sáng tác của Francis Thonpson, ông cố chạy trốn Chúa. Ong so sánh Chúa với một thợ săn, vâng một con chó săn theo đuổi một linh hồn. Đây là câu chuyện đời tư của Thompson. Khi còn là cậu con trai, ông có ý định làm linh mục. Nhưng vì ông lười biếng. Cha ông ghi tên gởi ông vào trường thuốc. Ông làm quen với thói hút ma túy, nó hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông đi ăn xin, chui rúc trong một xóm ổ chuột, kiếm sống qua ngày bằng đánh giày, bán quẹt và giữ ngựa. Nhờ lòng tốt của cô gái nghèo, Thopson gặp ông bà Wilfred Meynell. Họ thấy ông có tài, có lòng tốt thầm kín, họ giúp ông bắt gặp tình thương của Chúa. Ong cố gắng chạy trốn Chúa làm sao, Chúa săn đuổi ông thế nào, làm sao Thiên Chúa đã chộp bắt được ông. Đó là chủ đề của bài thơ gây cấn đó.
Bằng chứng hiển nhiên của tình thương Chúa cho chúng ta được diễn tả trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban tặng Người Con Một, để những ai tin vào Ngài sẽ không bị diệt vong, nhưng được sống đời đời”. Cha trên trời chứng tỏ tình thương cho mỗi người chúng ta bằng cách sai Người con yêu quí của Người để đổi lại chúng ta.
Như ông Thopson linh hồn chạy trốn Chúa. Như người thợ săn rượt đuổi theo con thỏ. Thiên Chúa tìm kiếm từng linh hồn. Khác với người thợ săn, Chúa muốn cứu linh hồn đó chứ không hủy bỏ. Làm sao chúng ta có thể có một quan niệm về mức độ vô biên của người thợ săn trên trời thương chúng ta ?
Trong bức thơ gởi cho giaó đoàn Ephesô, thánh Phaolô gợi ý chúng ta suy nghĩ đến “Chiều rộng, chiều dài, chiều cao, và chiều sâu của tình yêu Chúa” đối với chúng ta. Tình yêu thương chúng ta thì rộng rãi, nó trải rộng tới mọi người; tới dân ngoại, tới người tội lỗi, tới cả những người chống đối Người, Thiên Chúa muốn mọi người chia sẻ sự tốt lành của Người. Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì dài “Ta yêu Người bằng tình yêu vĩnh cửu (Jer 21,3)” Trước khi có thế giới, Thiên Chúa đã yêu bạn. tình yêu Thiên Chúa trải qua đời này tới đời kia. Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì cao: nó từ ngai tòa Đấng tối cao trên trời cao thẳm mà tới.
Chiều cao của tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ trong tặng vật của Người cho chúng ta. Có gì cao siêu hơn được chia sẻ chính sự sống của Chúa qua các bí tích. Tình yêu nào cao hơn việc ban Người Con tốt lành, thánh thiện của Người cho chúng ta khi rước lễ. Tình yêu Thiên Chúa thì thẳm sâu: Thiên Chúa tự hạ mình từ thiên đàng cao vời xuống chuồng bò thấp hèn ở Bet-lem, tới căn nhà tồi tàn và rừng hoang, tới con người rốt hèn, tới những sỉ nhục của thập giá và chiều sâu của nấm mồ.
Một lần nữa, như Francis Thopson, như các vị thánh, chúng ta nhận thấy rằng: Thiên Chúa săn tìm linh hồn chúng ta khắp thế giới, vậy chúng ta hãy trở về với tình yêu đó. Chúng ta hãy cố gắng “tiến triển trong tình yêu” như chúng ta cầu nguyện trong kinh nguyện Thánh Thể II . Trong mùa chay, chúng ta hãy nhớ Đấng tình thương đã ban cho chúng ta sự sống. Ước chi người thợ săn trên trời bắt được mỗi chúng ta. Xin Chúa chúc lành bạn.
11.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Khuyến khích sám hối để được cứu. "Như Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc..."
(Ga 3,14)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Trong cuộc hành trình Mùa Chay, chúng ta đã đi được nửa đường. Bây giờ là lúc chúng ta phải sám hối và đổi mới cuộc sống. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta xứng đáng bị phạt. Nhưng nếu chúng ta sám hối thì Thiên Chúa sẵn sàng thứ tha ngay.
II. Gợi ý sám hối
Tội lỗi khiến chúng ta xa cách Thiên Chúa.
Tội lỗi khiến chúng ta xa cách anh chị em.
Tội lỗi làm mất bình an ngay trong bản thân chúng ta.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: 2 Sb 36,14-16.19-23
Tác giả điểm lại những giai đoạn lịch sử trước, trong và cuối thời lưu đày: vì dân Do Thái bất trung với Thiên Chúa nên Ngài để cho họ bị mất nước và phải bị lưu đày. Nhưng dù sao Thiên Chúa vẫn còn thương họ nên Ngài đã soi sáng lòng vua Kyrô nước Ba Tư ra chiếu chỉ cho phép họ hồi hương.
2. Đáp ca: Tv 136
Đây là bài ca của những người đang sống cảnh lưu đày: buồn nhớ quê hương và đền thờ Giêrusalem, buồn đến nỗi không muốn đàn hát gì nữa, chỉ mong được trở về quê hương yêu dấu.
3. Tin Mừng: Ga 3,14-21
Một phần trong cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với ông Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời xuất hành. Từ đó Ngài mặc khải về tình thương của Thiên Chúa "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời". Khi đề cập đến tội lỗi của loài người, Đức Giêsu còn khẳng định: "Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian không phải để phạt loài người nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ".
4. Bài đọc II: Êp 2,4-10
Thánh Phaolô nói "Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót". Do lòng thương xót ấy, khi con người vì phạm tội mà phải chết, thì Ngài đã cho họ được sống lại nhờ Đức Giêsu Kitô.
IV. Gợi ý giảng
* 1. "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi..."
Để giúp Nicôđêmô hiểu tình yêu Thiên Chúa, Đức Giêsu đã nhắc lại câu nguyện ngày xưa về con rắn đồng.
Ngày xưa, trong thời xuất hành, Thiên Chúa đã hết lần này tới lần khác tỏ cho dân Do Thái thấy tình yêu của Ngài:
Vì yêu thương, Ngài đã cứu họ khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai cập, dẫn họ xuất hành về Đất hứa.
Họ đã chẳng nhớ ơn Ngài, lại còn đòi quay lại Ai cập để có hành tỏi thịt thà. Thiên Chúa ban cho họ manna.
Ăn manna một thời gian, họ lại đòi ăn thịt. Thiên Chúa ban cho họ chim cút từ trời rơi xuống.
Họ lại đòi nước. Ngài cho nước từ tảng đá vọt ra.
Họ lại nổi loạn đòi giết chết cả ông Môsê. Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết một số người trong họ. Khi đó họ mới biết sợ và năn nỉ Môsê xin Chúa cứu họ. Chúa dạy ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Ai nhìn lên con rắn đồng mà sám hối thì sẽ được cứu khỏi chết.
Con rắn đồng ở sẵn đó như một con tim yêu thương và tha thứ luôn mở rộng. Dù con người hết cứ lần này đến lần khác xúc phạm đến Chúa, nhưng chỉ cần họ sám hối và nhìn lên đó thì lại được tha.
Sau khi kể chuyện con rắn đồng, Đức Giêsu kết luận: "Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, được cứu độ". Nghĩa là Thiên Chúa chỉ biết thương, chỉ muốn cứu, chứ không bao giờ muốn lên án hay trừng phạt ai cả. Chỉ có con người tự lên án và tự trừng phạt mình, Do Thái độ ngoan cố của họ. Như ngày xưa chỉ có những ai quá sức ngoan cố không chịu nhìn lên con rắn đồng thì mới phải chết.
Thiên Chúa luôn chờ đợi. Chỉ cần con người sám hối và nhìn lên Ngài.
* 2. Giận mà thương
Nếu ta đã thực sự yêu thương ai thì dẫu khi người đó làm gì sai quấy khiến ta giận nhưng ta vẫn thương, như lời của một bài hát "giận thì giận mà thương thì thương". Điều này càng đúng với Thiên Chúa.
Việc nguyên tổ phạm tội đã khiến Thiên Chúa rất "giận" (có thể tạm nói vậy, theo kiểu diễn tả "của con người"). Ngài đã tuyên án cho các nguyên tổ. Dù vậy, liền ngay sau đó Ngài đã hứa sẽ ban Đấng Cứu thế sinh bởi người nữ (St 3,15). Và, như sách Sáng thế diễn tả, khi Thiên Chúa thấy hai ông bà xấu hổ lấy lá che thân thì Ngài thương lấy da thú may áo cho họ mặc (St 3,21).
Cain đã giết chết em ruột của mình, Thiên Chúa cũng rất "giận" nên phạt hắn phải lang thang vất vưỡng. Nhưng vì thương hắn, Thiên Chúa đã "ghi dấu trên Cain, để bất cứ ai gặp anh khỏi giết anh" (St 4,15).
Loài người dù đã bao lần chứng kiến tình thương của Thiên Chúa nhưng vẫn phạm tội và phạm tội ngày càng nhiều hơn, đến nỗi Thiên Chúa phải cho cơn Hồng thuỷ huỷ diệt họ. Dù vậy, Thiên Chúa đã cứu sống gia đình ông Noê. Ngài dạy ông đóng tàu. Khi gia đình ông đã vào tàu hết, chính Thiên Chúa tự tay đóng cửa tàu lại (St 7,16).
Thiên Chúa luôn luôn là như vậy: luôn luôn yêu thương, dù giận nhưng vẫn thương. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời"; "Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian không phải để phạt loài người nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ".
* 3. Lên án hay cứu độ
Bài Tin Mừng hôm nay có một câu rất đáng chú ý: "Thiên Chúa sai Con của Người xuống thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ"
Từ trước tới nay chúng ta cứ bị ám ảnh bởi nỗi sợ "bị Chúa phạt". Cho nên đọc câu này, chúng ta không còn sợ như thế nữa.
Nhưng để vững lòng hơn, chúng ta hãy kiểm chứng qua những cách đối xử của Đức Giêsu trong các sách Tin Mừng. Chúng ta thấy có nhiều người rất đáng bị lên án, và quả thực họ đã bị người Do Thái lên án, nhưng phần Đức Giêsu thì không bao giờ lên án họ, như: người phụ nữ tội lỗi trong bữa tiệc tại nhà một người biệt phái (xem Lc 7,36-50 "Tội của chị đã được tha rồi"), ông Dakêu (x. Lc 19,1-10), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8,1-11), tên gian phi bị đóng đinh bên cạnh Ngài (x. Lc 23,43) v.v.
Đức Giêsu đến chỉ để cứu chúng ta. Ngài ban cho chúng ta rất nhiều cơ hội để được cứu. Ngài không phạt ai cả, chỉ những ai không chịu cho Ngài cứu là tự phạt mình mà thôi.
4. Nicôđêmô
Trong Tin Mừng Gioan, Nicôđêmô xuất hiện 3 lần:
Lần thứ nhất là trong bài tường thuật Tin Mừng hôm nay. Ông đến với Đức Giêsu "ban đêm" để thảo luận với Ngài về tình yêu Thiên Chúa và ơn cứu độ. Sau đó ông ra đi.
Lần thứ hai là khi các thủ lãnh tôn giáo Do Thái muốn giết Đức Giêsu. Là thành viên của Thượng Hội đồng Do thái giáo, Nicôđêmô phản đối quyết định ấy. Ông nói: "Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?" (Ga 7,51)
Lần thứ ba là lúc táng xác Đức Giêsu. Nicôđêmô đến để tẩn liệm thi hài Đức Giêsu một cách sang trọng như người ta tẩn liệm một vị vua. Thánh Gioan thuật: "Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người do thái" (Ga 19,39-40)
Lần thứ nhất Nicôđêmô đến với Đức Giêsu để thưa chuyện với Ngài, lần thứ hai ông lên tiếng bênh vực Ngài, và lần thứ ba ông tôn kính thi hài của Ngài.
Nicôđêmô là hình ảnh minh họa cho hành trình của người tìm đến với ánh sáng như Tin Mừng hôm nay viết: "Ai sống theo sự thật thì đến với ánh sáng"
5. Nỗi buồn thánh
"Bên bờ sông Babylon, ta ngồi ta khóc ta nhớ Sion". Một bài ca buồn, diễn tả tâm tình chung của suốt Mùa Chay này.
Nhưng có nhiều thứ buồn khác nhau, phát xuất từ nhiều nguyên nhân khác nhau, dẫn đến nhiều kết quả khác nhau:
Buồn bực là thứ buồn do tức giận, dẫn tới ý muốn đập phá. Như Cain buồn vì tức giận ganh ghét Abilê rồi lập mưu giết chết em mình.
Buồn chán là thứ buồn do thất vọng, khiến người ta buông xuôi. Như Giuđa buông xuôi đến nỗi tự tử.
Buồn nhớ là buồn vì xa cách một điều gì hay một người nào mình thương. Thứ buồn này thôi thúc mình tìm về với điều hoặc người thương mà mình phải xa cách đó. Như dân Do Thái ngồi buồn trên bờ sông Babylon mà lòng nhớ về Sion yêu quý.
Buồn thương là thứ buồn phát xuất từ tình thương, buồn vì tình thương đang bị đổ vỡ, buồn vì người mình thương đang phải khổ sầu. Thứ buồn này thúc đẩy người ta hàn gắn lại đổ vỡ, xây đắp cho tình thương thêm mặn nồng. Như Phêrô buồn sau khi chối Chúa. Ông đã khóc lóc ăn năn và tìm cách quay về với Ngài.
Cái buồn của Mùa Chay là thứ buồn nào? Nó xuất phát từ nhận thức Chúa rất thương yêu mình, thế mà mình đã không xứng đáng với tình thương đó. Nó khiến mình tỉnh ngộ dừng chân suy nghĩ về cách sống hiện tại. Nó thôi thúc mình tìm về với Chúa, sửa chữa những lỗi lầm đã qua và tìm cách làm cho lòng mình thương Chúa càng nồng nàn thắm thiết hơn.
Đó không phải là buồn bực, buồn chán, mà là buồn nhớ, buồn thương. Đó là thứ buồn rất nên buồn, vì là nỗi buồn thánh.
6. Ánh sáng và bóng tối
Báo Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason, một người đánh giày ở bãi đậu xe như sau:
Sam Eason là một người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày.. mà còn giúp bạn cảm thấy thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông có thể khiến những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên hăng hái vui tươi.
Quản lý các hệ thống văn phòng Timothy Matthews nói: "Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam là một người bạn tốt của mọi người". Giám đốc công ty sản xuất máy Photocopy Phil Canon thêm: "Không có gì giả tạo nơi Sam".
Trước sự giao tế niềm nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi đi xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi mát tâm hồn.
Người đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như thế nào...
Sĩ quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói: "Bây giờ đến lượt hào quang của Sam được đánh bóng".
*
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với Nicôđêmô: "Ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa" (Ga.3,21). Chắc chắn tâm hồn của người đánh giày ngập tràn ánh sáng, nên ông luôn lan tỏa niềm vui chân thật và nét đơn sơ trong sáng.
Cuộc đời mãi mãi là một thách đố. Chúng ta chọn ánh sáng bên này hay bóng tối bên kia. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa liên lỉ giữa ánh sáng và bóng tối. Lựa chọn của người đời lại khác với lựa chọn của người con Chúa. "Sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sống, vì hành động của họ xấu xa" (Ga.3,19). Người đời trốn chạy ánh sáng vì sợ hành động xấu xa của họ bị lộ tẩy.
Ghét ánh sáng và thích bóng tối là thảm kịch của người đời, vì con người sinh ra là để sống cho ánh sáng. Thiên Chúa không đào hỏa ngục, không xây ngục tối, nhưng chính tù nhân đã tự nhốt mình và nội tâm tăm tối. Ai từ chối ánh sáng của Chúa sẽ héo tàn trong bóng tối của chính mình.
Có cách nào để ra khỏi bóng tối? Có lối nào để trở về với ánh sáng? Đức Giêsu đã chỉ ra một con đường duy nhất: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời" (Ga.3,16). Nếu ngày xưa dân Do thái đã tin tưởng nhìn lên con rắn đồng để được chữa lành thì ngày nay tất cả những ai tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu trên thập giá đều được ơn Cứu độ.
Thập giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng cũng là minh chứng tuyệt vời của một tình yêu: Tình yêu của Cha đã trao ban Con Một, tình yêu của Con đã hiến dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu như thế sẽ chữa lành những vết thương cuộc đời. Đức Giêsu đã từng nói: "Đức tin của con đã chữa con" (Mc.10,52).
Đức tin là thành phố trên đồi, là ngọn đèn trên cao. Thành phố trên đồi không bị khuất tầm nhìn. Ngọn đèn trên cao soi sáng cả nhà. Đức tin trong sáng luôn sống động không nằm chết trong lòng, nhưng luôn tỏa sáng.
Đức tin trong sáng luôn mang lại nụ cười, an bình, và hạnh phúc.
Đức tin như những vì sao, lấp lánh lao xao, trên trời cao thăm thẳm.
Đức tin như những vì sao, ngời sáng như kim cương trên ngực người tín hữu.
*
Lạy Chúa, sống là phải chọn lựa không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối. Xin cho chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn nến sáng, để cả thế giới ngập tràn ánh sáng của Chúa. Amen (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Mùa Chay là thời gian giúp chúng ta khám phá lại tình thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Người để tất cả những ai tin vào Con Người thì được sống hạnh phúc. Với tâm tình biết ơn, chúng ta dâng lời nguyện xin:
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các vị chủ chăn cũng như đàn chiên là Hội thánh Chúa / luôn trở nên dấu chỉ của niềm vui và niềm hy vọng / để có thể loan báo cho muôn dân biết tình thương của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / có dịp khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua công trình cứu độ của Chúa / để họ tin tưởng và cộng tác với Chúa trong việc cứu độ thế giới.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người nghèo khổ, bệnh tật, thất nghiệp, bị tù đầy và biệt xứ / có dịp khám phá ra tình thương cứu độ của Đức Giêsu qua những hoạt động bác bái của các Kitô hữu.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi người trong họ đạo chúng ta / đều cảm nhận được tình thương cứu độ của Chúa / để quyết tâm chết đi cho tội lỗi và sống lại trong tình thương và ân sủng của Người.
Chủ tế: Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con biết dùng thời gian thuận lợi của Mùa Chay này, để nhìn nhận hồng ân cứu độ mà Đức Giêsu đã mang đến cho tất cả mọi người / và tin tưởng vào Người để được sống đời đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là cha giàu lòng thương xót. Dù chúng ta phạm tội nhưng Ngài vẫn thương chúng ta. Vậy chút nữa đây khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt lấy hết tâm tình nói với Ngài câu "Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Trước lúc rước lễ: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban chính Con Một của Ngài làm lương thực cho chúng ta.
VII. Giải tán
Hôm nay chúng ta được biết một điều rất an ủi là Thiên Chúa không muốn phạt ai cả mà chỉ muốn cứu mọi người. Bất cứ ai tội lỗi sám hối quay về với tình thương của Chúa thì đều được tha thứ. Chúng ta đều có tội, vậy chúng ta hãy sám hối quay về với Chúa, đón nhận sự tha thứ của Ngài.
12.Muốn được Chúa cứu, ta phải làm gì?--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Phụng vụ hôm nay chủ ý nhằm đề cập đến một sự kiện có liên hệ đến cây Thánh Giá Chúa sắp nằm trên đó để thực hiện việc cứu độ loài người. Câu chuyện có liên hệ đến một sự việc đã xảy ra và được kể trong sách Dân số (21,4-9).
Hồi ấy, sau khi ra khỏi Ai Cập để tiến về đất hứa, dân Do Thái đã phải ngày đêm băng qua sa mạc. Ngày thì nóng như thiêu. Đêm thì lạnh như cắt. Hơn nữa đời sống trong sa mạc đâu có phải là đời sống bình thường. Sa mạc là một nơi thiếu thốn đủ mọi thứ. Có lúc dân Do Thái bị đói, có lúc họ bị khát. Chúa đã phải làm phép lạ cho họ có của ăn thức uống, nhưng rồi vì phải đi quá lâu trong sa mạc, sức chịu đựng của họ cũng có giới hạn, họ đã kêu trách Thiên Chúa và ông Môisen. Họ kêu trách không tiếc lời. Sự việc đó đã khiến Chúa phải dùng đến hình phạt. Chúa đã cho những con rắn lửa bò ra gieo chết chóc và tang thương cho dân. Sau đó dân hối hận và Chúa lại thương, Người truyền cho ông Môisen đúc một con rắn đồng rồi treo lên một cây cột cao để như Lời Chúa nói với Môisen: “Ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống” (Ds 21,8) Và quả đúng như thế, tất cả những ai bị rắn lửa cắn mà nhìn lên con rắn đồng đó thì đều được sống.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nhắc lại câu chuyện xưa. Chúa biết Nicôđêmô là một bậc thầy về Kinh Thánh. Chúa dùng một biến cố mà Nicôđêmô biết tường tận để giúp ông hiểu một việc Chúa sắp làm trong tương lai. Chúa Giêsu nói với ông: “Như ông Môisen đã giương cao con rắn trong hoang địa, Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để ai tin vào Ngài thì được sống đời đời” (Ga 3,14). Chúa muốn bảo với Nicôđêmô rằng: Con rắn đồng trong sa mạc chỉ là hình bóng xa xa nhắc cho con người biết việc Chúa sẽ chịu chết trên Thánh Giá để ban ơn cứu độ cho con người, tức là làm cho con người được hưởng sự sống đời đời.
Nhưng muốn được Chúa cứu, chúng ta phải làm gì ?
Thưa, phải tin tưởng vào lòng yêu thương nhân từ vô biên của Thiên Chúa. Qua lịch sử, Thiên Chúa từ từ mạc khải cho dân Do Thái thấy Ngài không phải là Thiên Chúa hay phạt, nhưng là Chúa nhân từ hay tha thứ. Mỗi khi dân bỏ Chúa đi thờ các thần khác, hoặc vi phạm giao ước đã ký kết, thì Ngài phạt họ rất nặng nề, như câu chuyện rắn đồng chẳng hạn. Nhưng nếu họ biết hối hận ăn năn quay trở về thì Chúa lại yêu thương và tha thứ. Dần dần họ nhận ra Chúa là Đấng nhân hậu và từ bi đúng như Ngài nói: “Ta lấy mạng sống Ta mà thề: Ta đâu có muốn kẻ dữ phải chết, nhưng là muốn nó bỏ đường tà để được sống!” (Ez 33,11).
Vâng! Chúa Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa mà vì yêu thương, Ngài đã ban cho thế gian để ai tin vào Con của Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời.
Nhưng tin vào Chúa thì phải làm gì ? Là phải nhận ra tội lỗi mình, sám hối và quyết tâm sửa lại.
Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về vấn đề sám hối.
Vậy thế nào là sám hối ?
Một cách thật đơn sơ chúng ta có thể trả lời như sau: Sám hối là hối hận về tội lỗi của mình.
Như vậy, muốn có được lòng sám hối thì điều kiện đầu tiên không thể thiếu đó là phải thấy được tội lỗi, lỗi lầm của mình. Nói một cách đơn giản hơn là thấy được mình là người tội lỗi.
1. Làm sao để biết mình là người có tội ?
* Ngày trước người Do Thái cho rằng, muốn biết ai là người có tội, thì cứ căn cứ vào những dấu chỉ bên ngoài, thí dụ như bị tai nạn, bị trừng phạt v.v…
Tin Mừng hôm nay nói đến hai sự kiện: Một là việc Philatô giết một số người Galilê - những người Galilê nói ở đây là những người đến Jêrusalem dâng lễ tế, chắc họ đã gây ra một vài hỗn loạn nào đó trong khuôn viên Đền thờ, do đó đội binh Rôma ở trong đồn Antônia đã ra tay can thiệp và tàn sát tại chỗ không nương tay và sự kiện thứ hai là việc tháp Siloe đổ xuống làm chết 18 người trước đó.
Phải những người đó có tội nên bị giết và bị chết như thế ?
Đối với người Do Thái thì quả là như vậy.
Nhưng thử hỏi đối với Chúa thì Ngài nghĩ làm sao ?
Chúa không khẳng định cũng như không phủ định nhưng Chúa muốn coi đó như một cơ hội để cho người ta cảnh tỉnh mà rà lại cuộc sống của mình. Đây, ta hãy nghe lời của Chúa: “Không phải đâu nhưng nếu các ngươi không sám hối thì các ngươi cũng phải chết như vậy” (Lc 13,5)
2. Trước mặt Chúa, mọi người chúng ta đều có tội. Chẳng có ai hoàn toàn trong trắng vô tội trước mặt Chúa.
Một mục sư giảng về chiếc thang Giacóp. Cậu con trai ông ấy cảm động. Mấy ngày sau, cậu nói với cha là mình vừa mơ về câu chuyện đó.
- Sao, con mơ thấy gì ?
- Con mơ thấy một chiếc thang bắc lên tới tầng mây. Ở dưới chân thang có rất nhiều phấn và mỗi người phải lấy phấn viết hết các tội mình đã phạm lên chiếc thang đó thì mới lên được.
- Hay thật! Rồi con thấy gi nữa ?
- Con thấy con leo lên, nhưng chưa được bao xa thì con thấy có người leo xuống.
- Ai vậy ?
- Ba chứ ai.
- Ba ?
- Thế ba leo xuống để làm gì ?
- Ba lấy thêm phấn!
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được khiêm nhường trước mặt Chúa. Tưởng cũng nên nhắc lại đây lời của Thánh Phaolô: “Những ai đang đứng vững hãy coi chừng kẻo té” (1Cr 10,12).
3. Như vậy, vấn đề còn lại là mỗi người phải thấy được tội lỗi của mình và can đảm sửa lại. Chúa ghét tội, nhưng luôn yêu thương tội nhân và sẵn lòng đổ tràn ơn tha thứ trên họ.
Có hai hành khách ngồi chung trong một chuyến xe lửa từ Tôrinô tới Paris.
Vào một ngày mùa đông, bầu trời xanh xám không một tia sáng mặt trời, xe lửa chạy tới biên giới nước Pháp thì tuyết bắt đầu rơi, bên ngoài trời giá lạnh, nhưng trong xe hơi ấm của lò sưởi rất dễ chịu, thêm vào đó là tiếng máy đều đặn như tiếng nhạc ru ngủ cho cuộc hành trình thêm thoải mái. Một trong hai người khách tỏ vẻ băn khoăn lo lắng lạ thường, mỗi lần tới một nhà ga người ấy lại giựt mình đứng phắt lên, đến gần cửa nhìn nhà ga đọc lớn tên ga rồi ông trở về chiếc ghế ngồi và thở dài một cách thảm não. Sau nhiều trạm như thế, người bạn bên cạnh lên tiếng hỏi với tất cả sự quan tâm và tế nhị.
- Có điều gì làm ông khó chịu hoặc ông bị đau chăng ? Ông ta thở dài một cách thảm não và nói:
- Tôi không đau ốm gì cả, chỉ có điều là tôi đã lấy chuyến xe đang chạy ngược chiều với hướng của tôi định đi. Lẽ ra tôi phải xuống xe từ những trạm trước kia rồi để đổi sang chuyến xe khác, nhưng tôi không có can đảm bước xuống giữa làn mưa tuyết trắng. Ngồi trong xe với hơi ấm thế này dễ chịu hơn.
Biết mình đang là người tiến trên con đường tội lỗi, phải quay về con đường thiện. Nếu không đủ can đảm cởi bỏ những thói quen cũ và những tiện nghi vui sướng tạm bợ của đời sống đang sống thì chắc chắc đích điểm mà mình muốn nhắm tới sẽ càng ngày càng bỏ xa mình. Than vãn thở dài nào có ích lợi gì đâu.
Thống hối cải tà quy chánh là phải can đảm đôi khi phải trả giá rất cao. Qua miệng các ngôn sứ, chúng ta biết Thiên Chúa rất nhân từ và đầy lòng thương xót luôn chờ đợi các tội nhân ăn năn thống hối trở về với ngài.
Lạy Chúa, xin ban cho con cánh cửa tình thương để con biết can đảm trở về với Chúa.
Xin ban cho con lòng khiêm nhượng để con biết nhìn nhận tội lỗi của con.
Xin ban cho sức mạnh để con biết mau mắn chỗi dậy sau khi sa ngã.
Xin hãy thay đổi sự cứng cỏi lòng chai dạ đá, để con chỉ biết ước muốn và thi hành những gì Chúa yêu thích nơi con mà thôi. Amen.
13.Nhìn lên Thập Giá--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Bất cứ ai đã đọc sách Xuất Hành trong Cựu Ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu truyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Mô-sê. Chúa liền cho rắn bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Mô-sê cứu giúp. Ông Mô-sê cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời".
Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đít-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta chửa bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái lại, tên trộm Đít-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi". Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng".
Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm". Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Ba-ra-ba, vì Ba-ra-ba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?
Kể từ khi thập hình của người Rô ma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành Thánh giá và bóng Thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của Thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.
Thánh giá không chỉ được dựng lên trên nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục Sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.
Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu Thế. Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.
14.Thiên Chúa yêu thế gian--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Thiên Chúa yêu con người ngay lúc con người đang còn trong tình trạng tội, nghĩa là, Ngài yêu con người ngay cả khi họ còn đang chống cưỡng Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho Lời Ngài nhập thể làm người, Ngài đã ban Thánh Thần thúc đẩy và mời gọi con người trở lại với Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu con người vô cùng.
I. Thiên Chúa vẫn yêu thương dân Do Thái cho dù họ phản loạn bất trung
Dân Do Thái là một gương điển hình cho thấy tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tuyển chọn Abraham, đã mời ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho; Ngài hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, sẽ ban cho ông có đất sở hữu, sẽ làm cho ông trở thành mối chúc lành. Abraham đã quảng đại đáp trả lời mời của Thiên Chúa, và trở thành ông tổ của dân tộc Do Thái.
Dân Do Thái đã được Thiên Chúa thương yêu đặc biệt. Ngài đã dùng Môsê để giải phóng dân khỏi ách nô lệ bên Aicập, ban cho họ đất Canaan, cho họ những vị thẩm phán, các vua, và các tiên tri để hướng dẫn chăm sóc dân nhân danh Ngài. Thế nhưng theo sách Ký Sự (Sử Biên Niên), mọi tầng lớp dân đều phạm tội chống đối Thiên Chúa, kể cả các đầu mục, tư tế, và các tầng lớp lãnh đạo. Thiên Chúa đã sai các tiên tri như những sứ giả đặc biệt đến với dân, nhưng họ cũng chẳng nghe, nên Chúa đã để họ phải lưu đày ở Babylon.
Tuy để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng Thiên Chúa vẫn thương dân Ngài; Ngài đã dùng vua nước Ba-Tư là Kyrô cho dân Do Thái lưu đày được trở về quê cha đất tổ của mình. Những tai họa hay đau khổ xảy đến giúp dân Do Thái nhận ra những sai trái trong hành vi tư tưởng của mình, để rồi họ trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng đã để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng cũng là Đấng dẫn dân trở về quê hương.
II. Thiên Chúa yêu ta ngay khi ta còn là tội nhân
Thường người ta chỉ yêu người đẹp, chỉ mến người tốt. Nếu ai làm điều dữ mà bị nạn, người ta nói “đáng đời nó;” hơn nữa, người ta còn đòi Thiên Chúa trả oán khi bị oan nghiệt. Tuy nhiên, tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng và suy nghĩ của loài người. Thiên Chúa là Đấng giầu lòng từ bi; Ngài yêu thương con người vô cùng nên ngay khi con người còn là tội nhân, thì Ngài vẫn yêu thương và tìm cách cứu độ con người. Thiên Chúa luôn tìm cách giúp ta trở lại với Ngài, để ta thành người đẹp và dễ thương thật sự. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng, và cũng là Đấng giúp ta nên đẹp và tuyệt hơn.
Thực vậy, từ khi Thiên Chúa dẫn dân ra khỏi Aicập qua Môsê, dân Do Thái nhiều lần không tin tưởng, bất tuân, và làm trái ý Thiên Chúa; chẳng hạn họ đòi nước và muốn ném đá Môsê, đòi ăn thịt giữa nơi hoang địa, thờ bò vàng khi Môsê đang cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa trên núi, v.v.; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương tha thứ cho dân. Mỗi người chúng ta cũng đã phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa, không chỉ một lần nhưng nhiều lần; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương, Ngài vẫn mời gọi chúng ta trở lại với Ngài, Ngài ban cho chúng ta bao nhiêu dịp để nhận ra tình yêu vô bờ bến, để chúng ta ăn năn hối lỗi trở về với Ngài.
Thiên Chúa không chấp nhất chúng ta xúc phạm đến Ngài bao nhiêu lần, và nặng nhẹ thế nào. Điều quan trọng là chúng ta trở về với Thiên Chúa. Như người Cha trong dụ ngôn người con hoang trở về, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta đã mất. Thiên Chúa hạnh phúc khi chúng ta trở lại với Ngài. Cả trời đất đều hân hoan khi một người tội lỗi ăn năm sám hối (Lc.15, 10.7).
III. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi…
Tình yêu Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng. Không gì có thể sánh với tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Qua những thụ tạo hữu hình, con người nhận ra tình yêu của Thiên Chúa; nhưng với biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, con người nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa một cách đặc biệt và có sức thuyết phục hơn.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga.3, 16). Đức Yêsu là bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Có thể nói, không bao giờ Thiên Chúa kết án con người. Thiên Chúa tạo dựng con người vì tình yêu, để con người được chia sẻ sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngài muốn con người trở lại với Ngài và được sống. Ngài không muốn con người phải trầm luân vĩnh cửu.
Thiên Chúa yêu con người, Thiên Chúa đã đang và sẽ làm tất cả để được con người. Nói theo ngôn ngữ nhân loại, Thiên Chúa đang cố gắng làm “hết sức và hết khả năng” để con người yêu Ngài. Trong tình yêu không có võ lực, không có áp bức. Chỉ có tình yêu chân thực khi sống trong sự thật và tự do. Võ lực, áp bức, gian dối không đi chung với tình yêu. Tình yêu đòi tự do và sự thật. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, và chắc chắn con người sẽ rung động trước tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Ai đáp trả tình yêu, thì sống và hạnh phúc trong tình yêu. Ai từ chối tình yêu, thì không hạnh phúc và không có sự sống đích thực. Chính hành vi từ chối tình yêu, làm người ta bất hạnh. Hành vi làm điều dữ, làm người đó đau khổ, và làm người khác bị ảnh hưởng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, đâu là hành vi xấu thật sự? Khi nào người ta phạm tội?
2. Bạn có nghĩ rằng đau khổ là hậu quả của tội không? Tại sao?
3. Tại sao Đức Yêsu lại là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người?
15.Ai tin Chúa sẽ được cứu chữa để sống muôn đời--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đã mặc khải về tình thương cứu độ của Thiên Chúa như sau:
Để cứu chuộc thế gian đang sống trong bóng tối sự chết, Thiên Chúa đã sai Con Một giáng trần làm Đấng Thiên Sai. Nhờ chấp nhận cái chết đau thương trên thập giá để đền tội thay và giao hòa loài người với Thiên Chúa.
Từ đây, những ai muốn được ơn cứu độ phải có mấy điều kiện sau: Một là phải được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần. Hai là phải tin Đức Giê-su, Đấng đã chịu chết trên thập giá để đền tội thay, mà con rắn đồng thời Mô-sê là hình bóng. Ba là phải vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người.
Nhờ cùng chết với Đấng Thiên Sai, họ cũng sẽ được ánh sáng của Người chiếu soi để được tham phần vào sự sống lại vinh quang của Người và được hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng đời sau.
CHÚ THÍCH:
- C 14-15: + Ni-cô-đê-mô: Một người vị vọng trong dân Do Thái, là thành viên của Công Nghị tại Giê-ru-sa-lem. Ông muốn tìm hiểu về con người và giáo lý của Đức Giê-su, nhưng vẫn trong tâm trạng dè dặt. Sau này ông đã can đảm bênh vực Đức Giê-su trong Công Nghị (x. Ga 7,50-52; 12,32). Và khi an táng Người, ông đã can đảm gia nhập vào hàng ngũ các môn đệ của Đức Giê-su (x. Ga19,39). + Mô-sê giương cao con rắn trong sa mạc: Khi được cứu thoát khỏi cảnh nô lệ người Ai Cập, dân Do Thái thay vì biết ơn Chúa và Mô-sê, họ lại kêu ca trách móc khi phải chịu kham khổ. Họ thà quay lại làm nô lệ cho dân Ai-Cập, miễn là hằng ngày được ngồi bên nồi thịt và được ăn uống no nê, còn hơn là được tự do mà bị đói khát thiếu thốn giữa nơi sa mạc hoang vu. Chúa đã trừng phạt họ về tội vô ơn bạc nghĩa ấy. Họ đã bị rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Bấy giờ họ mới hồi tâm sám hối và cầu xin Mô-sê để chuyển cầu xin Đức Chúa tha tội. Đức Chúa đã tha và truyền đúc tượng một con rắn bằng đồng, treo lên cây cột để ai bị rắn cắn mà tin cậy vào tình thương tha thứ của Đức Chúa qua việc nhìn lên con rắn đồng này, thì sẽ được cứu sống (x. Ds 21,8-9). + Con Người: là một hình ảnh được ngôn sứ Đa-ni-en nhìn thấy trong giấc chiêm bao. Con Người nói đây là một nhân vật được Đức Chúa tuyển chọn và trao cho sứ mệnh cai trị muôn dân trong sự công minh chính trực (x. Đn 7,13-14). Đức Giê-su nhiều lần đã tự xưng là Con Người theo nghĩa này (x. Mt 8,20; 12,32). + Cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời: Đức Giê-su đã tiên báo Người sẽ được nâng lên khỏi mặt đất, hay bị treo trên cây thập giá, giống như con rắn đồng thời Mô-sê xưa, để giao hòa tội nhân với Đức Chúa và nên dấu chỉ ơn cứu độ cho loài người. Người cũng được nâng lên trong vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là được tôn vinh trong Thiên Chúa (x. Ga 3,13; 6,62), để kéo mọi tín hữu lên trời hưởng hạnh phúc với Người (x. Ga 8,28; 12,32-34).
- C 16-18: + Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một: Thánh Gio-an đã khẳng định nhiều lần: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Người thể hiện tình yêu qua việc ban Con Một yêu dấu cho thế gian. Thế gian chính là mọi loài thụ tạo, đặc biệt là loài người. Sự ban tặng này, gợi lên hình ảnh tổ phụ Áp-ra-ham xưa đã vâng lời Đức Chúa, đem hiến dâng con trai độc nhất là I-sa-ác để làm của lễ toàn thiêu tiến dâng Đức Chúa (St 22,2-13). + Để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời: Điều kiện để được ơn cứu độ là phải tin vào Đức Giê-su - Con Một Thiên Chúa, là Đấng ban ơn cứu độ cho loài người. Ơn cứu độ là ơn tha thứ mọi tội lỗi, xóa bỏ hình phạt đáng chịu vì tội, và saư này được sống lại trong ngày tận thế để được hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Trời với Chúa. + Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án: Tin ở đây là chấp nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Tin cũng là vâng nghe lời Người mời gọi, là từ bỏ mọi sự mà vác thập giá bước theo chân Người. Tin đòi ta phải kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su để sống tình yêu thương đối với tha nhân, giống như cành nho chỉ phát sinh hoa trái nếu được tháp nhập vào thân cây nho và hút được nhựa sống từ thân cây chuyển sang cho (x. Ga 15,4). NÓI CÁCH KHÁC: Tin là sống trong ơn nghĩa với Thiên Chúa. Những ai đặt trọn niềm tin vào Đức Giê-su như vậy thì không bị kết án nữa vì họ đã được Người chịu chết đền tội thay cho rồi. + Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi vì không tin vào Danh Con Một Thiên Chúa: Không tin là từ chối Chúa, là không sống trong ơn nghĩa với Chúa. Đây là những kẻ thù ghét Đức Giê-su và chống lại Hội Thánh của Người. Vì kẻ không tin không được dự phần vào ơn cứu độ của Đức Giê-su, nên tội và án phạt của họ vẫn còn đó. Vì không tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, nên họ sẽ không được cứu độ nhờ Danh Người (x. Pl 2,9-11). Như vậy, những kẻ không tin đã tự loại mình ra khỏi Ơn Cứu Độ của Đức Giê-su.
- C 19-21: + Ánh sáng đã đến thế gian: Đức Giê-su là “Vầng Đông soi sáng” (x. Lc 1,78-79; 2,32) là “ánh sáng đích thực” đã đến thế gian và chiếu soi mọi người (x Ga1,9). Người đã tự ví mình là “Ánh Sáng thế gian” để ai theo Người thì sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống đời đời (x. 9,5). Những ai tin vào Danh Người thì không phải chết và không bao giờ bị hư mất (Ga 12,46). + Người ta thích bóng tối hơn ánh sáng vì các việc họ làm đều xấu xa: Thánh Phao-lô giải thích lý do người ta thích bóng tối hơn ánh sáng là do tội bất phục tùng của nguyên tổ A-đam nên tội lỗi đã nhập vào thế gian, và tội là nguyên nhân dẫn đến sự chết (x. Rm 5,12). Tội nguyên tổ làm cho con người dễ chiều theo bóng tối hơn ánh sáng. Thánh Phao-lô cũng thú nhận như sau: “Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19). + Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách: Bóng tối và ánh sáng luôn xung khắc nhau. Ánh sáng đi đến đâu thì sẽ xua tan bóng tối. Người đời thường ưa thích bóng tối là các đam mê tội lỗi hơn là ánh sáng của sự khiêm hạ phục vụ tha nhân. Họ không chấp nhận ánh sáng là Đức Giê-su và còn xuyên tạc các việc tốt Người làm (x. Mt 9,33-34). Họ rình để bắt lỗi từng lời nói việc làm của Người để tố cáo Người (x. Mc 3,2). Cụ thể là phái Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê, đã liên minh với nhau để tìm cách triệt hạ Người (x. Mc 3,6). + Kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa: Những người ăn ở lương thiện và công minh chính trực, thì dễ dàng tìm thấy chân lý và sẵn sàng đi theo ánh sáng soi đường là Đức Giê-su. Nhờ đó họ sẽ làm được nhiều việc tốt theo thánh ý Thiên Chúa.
CÂU HỎI: 1) Hãy cho biết đức tin vào Đức Giê-su của ông Ni-cô-đê-mô diễn tiến thế nào? 2) Con rắn trong sa mạc thời kỳ Xuất Hành của Cựu Ước, liên quan thế nào với việc Đức Giê-su chịu chết trên thánh giá thời Tân Ước sau này? 3) Ngày nay muốn được hưởng ơn cứu độ do Đức Giê-su thiết lập, các tín hữu cần những điều kiện nào? 4) Tin vào Con Thiên Chúa cụ thể đòi chúng ta phải làm gì? Tin như vậy ta sẽ được lợi ích nào? 5) Hình phạt dành cho những kẻ cố chấp không tin vào Đức Giê-su sẽ như thế nào? 6) Đức Giê-su đã nói câu gì để mặc khải Người là ánh sáng? Tại sao người đời lại thích bóng tối hơn ánh sáng do Đức Giê-su đem lại? 7) Ai đi theo ánh sáng của Đức Giê-su thì sẽ được những ơn ích nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,15)
2. CÂU CHUYỆN: Rắn đồng trong sa mạc
Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô vào lúc đêm tối, Đức Giê-su đã đề cập đến con rắn đồng đã được Mô-sê treo trên cây cột, như một biểu hiệu tình thương của Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của dân Ít-ra-en. Tình thương ấy sẽ còn được biểu lộ qua việc Đức Giê-su bị giương cao trên cây thập giá, để những ai tin nơi Người, nhìn lên cây thập giá là biểu hiệu tình yêu tột đỉnh của Người, thì sẽ không phải chết trong tội nữa, nhưng sẽ được Người cứu độ và được tham phần sự sống muôn đời của Người (Ga 3,14-15). Thánh Gio-an đã tóm kết như sau: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
3. SUY NIỆM:
1) Thiên Chúa yêu thế gian nên đã sai Con Một xuống cứu độ thế gian:
Đã từ lâu, hình ảnh một con rắn cuộn tròn quanh một cây gậy cũng được ngành y dược thế giới chọn làm biểu tượng của khoa chữa bệnh cho con người. Hình ảnh ấy xem ra cũng rất phù hợp với ý nghĩa của con rắn đồng thời Mô-sê, được treo trên cây cột để chữa lành những ai phạm tội nà bị rắn cắn được khỏi chết. Tuy nhiên chỉ có Đức Giê-su, Đấng đã hiến thân chịu treo trên thập giá, mới thật là linh dược chữa lành mọi bệnh hoạn thể xác và linh hồn của chúng ta.
Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đã mặc khải về tình thương cứu độ của Thiên Chúa như sau: Để cứu chuộc thế gian đang sống trong bóng tối sự chết, Thiên Chúa đã sai Con Một giáng trần làm Đấng Thiên Sai. Nhờ vâng theo ý Chúa Cha đi con đường “qua đau khổ vào vinh quang”, Đức Giê-su đã chịu khổ hình thập giá để đền tội thay loài người và trở thành Đấng trung gian hòa giải loài người với Thiên Chúa.?2) Điều kiện để nhận được ơn cứu độ của Chúa Giê-su:
Những ai muốn được hưởng ơn cứu độ phải hội đủ mấy điều kiện sau: Một là khiêm tốn nhận mình là tội nhân để ăn năn sám hối và chịu phép rửa tội tái sinh làm con Thiên Chúa nhờ Nước và Thánh Thần. Hai là phải tin Chúa Giê-su, Đấng đã chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho loài người mà con rắn đồng thời Mô-sê là hình bóng. Ba là phải sẵn sàng “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà đi con đường hẹp leo dốc của Chúa Giê-su”.
Nhờ cùng chết với Chúa Giê-su, họ cũng sẽ được ánh sáng của Người chiếu soi để được tham phần vào sự sống lại vinh quang của Người là được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời.?3) Tin và đi theo con đường thánh giá của Chúa Giê-su:
Cũng như khi bị mắc bệnh nan y, nếu muốn được khỏi bệnh, ta phải đến xin thầy thuốc khám bệnh để tìm nguyên nhân và cho thuốc điều trị. Bệnh nhân chỉ được khỏi bệnh nếu tin vào khả năng của thầy thuốc khám bệnh, nhận toa thuốc và uống thuốc đúng như liều lượng. Cuối cùng còn phải nghe theo lời khuyên của bác sĩ để tránh nguyên nhân gây bệnh về sau. Cũng vậy, khi chúng ta phạm tội mà muốn khỏi bị chết về tâm linh, ta cần tin vào Chúa Giê-su, đi theo đường thánh giá, năng nhìn lên Chúa bị treo trên thánh giá để cầu xin ơn tha tội noi gương người trộm lành xưa (x. Lc 23,40-43). Chắc chắn chúng ta sẽ được ơn Chúa cứu độ và được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau.?4) Phải làm gì để được ơn tha tội và chừa bỏ thói hư?:
Mùa chay mời gọi chúng ta nhìn lại để biết mình đang sống trong ánh sáng hay đang ở trong bóng tối sự chết? Chúng ta hãy đến bệnh viện của Chúa là Hội Thánh để kiểm tra sức khỏe tâm hồn, để được Chúa Giê-su chữa lành bênh tật thói xấu là mối tội đầu. Một tác giả vô danh đã kể về cuộc kiểm tra sức khỏe tâm linh của ông ta nơi bệnh viện của Chúa và đã được ơn Chúa chữa lành như sau:?- Đầu tiên khi đo huyết áp cho tôi, bác sĩ Giê-su cho biết tôi bị bệnh thiếu máu Đức Tin và Lòng Bác Ái. Và khi cặp độ, nhiệt kế báo hiệu tôi đang bị sốt cao Ích Kỷ lên tới 40 độ cần phải cấp thời được điều trị.
- Điện tâm đồ chỉ ra rằng trái tim của tôi thiếu những rung động Tình Thương, chứng huyết áp cao do mạch máu bị tắc nghẽn vì lớp cholesterone Ganh Ghét và có nguy cơ bị đột quỵ bất cứ lúc nào.
- Tới khoa xương khớp, tôi đã tìm ra nguyên nhân tại sao chân tay của tôi lại hay bị đau nhức khiến đi đứng khó khăn, là do Mỡ Tự Mãn trong máu lên khá cao và chất đạm axit uric do ăn uống thiếu điều độ cũng tăng gấp đôi mức an toàn, nên bị cục Gút ở khuỷu tay rất khó cử động bình thường. Cũng vì thế mà tôi không thể “Đi Bước Trước” để mỉm cười bắt tay người mới gặp hay cố gắng bắt chuyện làm hòa với bà chị dâu khó tính luôn nói hành nói xấu tôi.
- Chứng cận thị Tham Lam làm mờ mắt khiến tôi đánh giá tha nhân dựa trên dáng vẻ bề ngoài như nhà cửa, xe cộ, quần áo… thay vì nhìn vào bản chất và động cơ ẩn giấu trong tâm hồn họ.
- Do quen nghe những tiếng ồn ào của quán nhạc Ka-ra-ô-kê nên một bên tai tôi đã bị Điếc Nặng, không còn nghe được hay muốn nghe những lời tâm sự của những người bất hạnh.
Tôi đã được bác sĩ Giê-su tận tình khám bệnh miễn phí do Lòng Thương Xót. Người đã cho tôi một toa thuốc gồm hai loại thuốc đặc trị là Lời Chúa và Thánh Thể, đồng thời khuyên tôi thực hành vật lý trị liệu là Thao Luyện Tâm Linh và làm Công Tác Bác Ái thăm viếng tha nhân.
Tôi quyết tâm trong Mùa Chay này sẽ chữa bệnh theo toa thuốc của Chúa như sau:
Mỗi sáng khi vừa thức dậy, tôi sẽ dùng ngay một ly nước Tạ Ơn Chúa. Trong bữa điểm tâm, tôi uống thêm một thìa súp Nụ Cười Thân Thiện và Chào Hỏi những người tiếp xúc.
Ở cơ quan làm việc, lợi dụng các giờ nghỉ giữa giờ, tôi làm các động tác vật lý trị liệu là Nghĩ Đến Người Khác và Đáp Ứng Nhu Cầu của họ. Trong bữa trưa, tôi không quên uống thêm viên thuốc Nhẫn Nại Chịu Đựng. Buổi tối về nhà, tôi không quên vận động tay chân bằng cách giúp người thân làm các việc nhà biểu lộ Tình Thương Cụ Thể. Rồi trước khi đi ngủ, tôi uống thêm thuốc Sám Hối Tạ Ơn và Cậy Trông Phó Thác trong tay Chúa quan phòng.
4. THẢO LUẬN: 1) Khi nào ta phạm tội với Thiên Chúa và tha nhânvà phân biệt Tội nặng nhẹ về giống tội, về mức độ phạm và về hình phạt? 2) Có khi nào người ta chỉ phạm tội bằng lời nói mà vẫn có tội nặng hay không? Nêu ví dụ tội nặng về lời nói, việc làm hay bỏ việc phải làm. 3) Khi ý thức mình đã phạm tội, chúng ta cần làm gì noi gương người phụ nữ tội lỗi (x Lc 7,47) hay ông Phê-rô (x Lc 22,61-62), để sớm được giao hòa với Chúa?
5) NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊSU. Chúa đã yêu thương chúng con đến cùng, nên đã ban Lời Chúa cho chúng con và dạy chúng con biết cách ăn ở thế nào để nên con thảo của Chúa Cha, và anh chị em của mọi người. Chúa cũng ban bí tích Thánh Thể làm lương thực nuôi dưỡng đức tin trong cuộc hành trình về Nhà Cha trên trời. Chúa còn ban chính mạng sống mình, chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho chúng con. Để mỗi lần lỡ sa ngã phạm tội, chúng con biết tin thác vào tình thương của Chúa và nhìn lên Thánh giá, để xin ơn tha thứ. Trong những ngày Mùa Chay này, xin Chúa giúp chúng con năng suy niệm chặng đàng Thánh giá, chăm chỉ đến nhà thờ suy ngắm mười lăm sự thương khó, tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay để cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương và quyết tâm chừa cải các thói hư. Nhờ đó, hy vọng chúng con sẽ được biến đổi nên người mới, thành con yêu dấu của Chúa Cha, môn đệ thực sự của Chúa và nhiệt tình làm việc tông đồ là làm chứng cho tình thương của Chúa với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
16.Ánh sáng và bóng tối--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
Báo Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason, một người đánh giày ở bãi đậu xe như sau:
Sam Eason là một người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày.. mà còn giúp bạn cảm thấy thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông có thể khiến những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên hăng hái vui tươi.
Quản lý các hệ thống văn phòng Timothy Matthews nói: "Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam là một người bạn tốt của mọi người". Giám đốc công ty sản xuất máy Photocopy Phil Canon thêm: "Không có gì giả tạo nơi Sam".
Trước sự giao tế niềm nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi đi xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi mát tâm hồn.
Người đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như thế nào...
Sĩ quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói: "Bây giờ đến lượt hào quang của Sam được đánh bóng".
***
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với Nicôđêmô: "Ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa" (Ga.3,21). Chắc chắn tâm hồn của người đánh giày ngập tràn ánh sáng, nên ông luôn lan tỏa niềm vui chân thật và nét đơn sơ trong sáng.
Cuộc đời mãi mãi là một thách đố. Chúng ta chọn ánh sáng bên này hay bóng tối bên kia. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa liên lỉ giữa ánh sáng và bóng tối. Lựa chọn của người đời lại khác với lựa chọn của người con Chúa. "Sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sống, vì hành động của họ xấu xa" (Ga.3,19). Người đời trốn chạy ánh sáng vì sợ hành động xấu xa của họ bị lộ tẩy.
Ghét ánh sáng và thích bóng tối là thảm kịch của người đời, vì con người sinh ra là để sống cho ánh sáng. Thiên Chúa không đào hỏa ngục, không xây ngục tối, nhưng chính tù nhân đã tự nhốt mình và nội tâm tăm tối. Ai từ chối ánh sáng của Chúa sẽ héo tàn trong bóng tối của chính mình.
Có cách nào để ra khỏi bóng tối? Có lối nào để trở về với ánh sáng? Đức Giêsu đã chỉ ra một con đường duy nhất: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời" (Ga.3,16). Nếu ngày xưa dân Do thái đã tin tưởng nhìn lên con rắn đồng để được chữa lành thì ngày nay tất cả những ai tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu trên thập giá đều được ơn Cứu độ.
Thập giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng cũng là minh chứng tuyệt vời của một tình yêu: Tình yêu của Cha đã trao ban Con Một, tình yêu của Con đã hiến dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu như thế sẽ chữa lành những vết thương cuộc đời. Đức Giêsu đã từng nói: "Đức tin của con đã chữa con" (Mc.10,52).
Đức tin là thành phố trên đồi, là ngọn đèn trên cao. Thành phố trên đồi không bị khuất tầm nhìn. Ngọn đèn trên cao soi sáng cả nhà. Đức tin trong sáng luôn sống động không nằm chết trong lòng, nhưng luôn tỏa sáng.
Đức tin trong sáng luôn mang lại nụ cười, an bình, và hạnh phúc.
Đức tin như những vì sao, lấp lánh lao xao, trên trời cao thăm thẳm.
Đức tin như những vì sao, ngời sáng như kim cương trên ngực người tín hữu.
***
Lạy Chúa, sống là phải chọn lựa không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối. Xin cho chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn nến sáng, để cả thế giới ngập tràn ánh sáng của Chúa. Amen.
17.Tình yêu lớn nhất--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Có rất nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa… Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa lên phía trước trong tư thế ban phép lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội thật nặng cũng như ngăm đe nhiều điều. Tội nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật nấy, không bao lâu, người đó lại sa ngã. Lần này, sau khi tội nhân xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe doạ: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho anh!”
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài lên giọng: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho anh nữa!”. Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân sám hối, thì Ngài bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này chứ không phải ngươi”.
Từ đó, bàn tay của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ban phép lành, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ. Du khách đến viếng, nhìn lên thánh giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe như có tiếng thì thầm: “Ta không hề kết án con”.
Anh chị em thân mến, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của Đức Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Ngài luôn tha thứ chứ không kết án. “Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường tội lỗi, quay trở lại để được sống” (Ed 33,11). “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. “Cũng như Môsê treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Ngài sẽkhông phải chết, nhưng được sống đời đời”. Thập giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài, tương tự như con rắn đồng đã được Môsê giương cao trong sa mạc thuở xưa, để những ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng ấy đều được cứu sống.
Thánh Gioan còn nói tiếp: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Thiên Chúa một lần nữa lại biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu của Ngài không ở trên mây trên gió, nhưng được thể hiện qua hành vi “trao ban”. Điều quí nhất của Người Cha là Người Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho nhân loại chính Con Một dâú yêu của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu chính là quà tặng lớn nhất Thiên Chúa Cha đã trao ban cho nhân loại. Việc trao ban này trước tiên được biểu lộ qua việc Ngài sai Con Người và cuối cùng qua việc nộp Con Một cho loài người treo lên thập giá. Đó là lúc Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài cho loài người một cách trọn vẹn nhất, dứt khoát nhất. Bởi vậy, chính lúc đó là lúc Thiên Chúa đã đặt Con của Ngài làm Đấng ban sự sống cho loài người,đểai tin vào Người Con ấy thì được sống đời đời. Vì con của Ngài đến không phải để kết án luận phạt, nhưng để cứu loài người khỏi chết và cho thông phần vào cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.
Thưa anh chị em, đứng trước thập giá Đức Kitô, chúng ta phải có thái độ nào? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ tình yêu của Ngài? Chính thái độ đó sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Vì thế, tin hay không tin là một chọn lựa sống chết. Mỗi người có đủ tự do tiếp nhận hay từ chối ánh sáng. Ai tin là đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối ánh sáng và tự đầy đọa mình trong tăm tối, trong cõi chết. Thiên Chúa không cần kết án luận phạt nữa.
“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”, đó là chân lý cơ bản nhất của Kitô giáo. Tất cả cuộc đời cuả Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá, là ngôn ngữ Chúa muốn sử dụng để nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Ngươì Con Một yêu quí của Ngài chết thay cho chúng ta.
Hãy nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Phải, bên kia sự ác độc của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, trái lại để cảm nghiệm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để cảm nghiệm được ơn tha thứ của Ngài, để chúng ta cũng biết cảm thông và tha thứ cho anh em chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương ta.
Một lần nữa, hãy ngước nhìn lên thập giá Chúa Kitô:
Hãy xem đó thì biết phép công thẳng của Chúa là thế nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là chừng nào! Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào! (Đàng Thánh Giá, chặng 13).
18.Thế gian được cứu độ nhờ Người--Lm. Trầm Phúc
Có những lời chúng ta không thể quên, nó xoáy vào trong quả tim thịt máu của chúng ta làm chúng ta sững sờ vừa vui sướng. Có những câu nói mang lại niềm vui bất tận. Hôm nay, chúng ta cũng nghe được một lời như thế: “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi ban người Con Một cho trần gian”. Có lời nào êm đềm hơn không? Chúng ta có cảm thấy hương vị ngọt ngào đó thấm sâu vào tim ta không? Thật huyền diệu! Nếu chúng ta không cảm thấy gì, hãy đọc lại từng chữ, nhiều lần, chúng ta mới cảm thấy cả một vùng trời yêu thương mở rộng trước mắt chúng ta, chúng ta sẽ nghe thấy cả một điệp khúc yêu thương trào tràn trong tim.
Không thể tưởng tượng được! Chúng ta được yêu thương đến mức độ như thế! Chúng ta làm sao cảm tạ ơn Cha trên trời cho xứng được! Chúng ta đo được tình yêu của Cha trên trời đối với chúng ta không?
Thế nhưng chúng ta đã làm gì cho người Con Một yêu quí đó? Chúng ta đã giương cao Ngài lên cây thập giá như xưa, trong sa mạc, Môsê đã giương cao con rắn bằng đồng để nhờ đó những người bị rắn lửa cắn được chữa lành. Chúa Giêsu nhắc đến câu chuyện này để nói cho chúng ta biết, Ngài như con rắn đồng xưa kia trong sa mạc. Sách Dân số kể lại: Dân Do Thái mệt mõi vì nắng nóng và thiếu nước uống, dân đã kêu trách Thiên Chúa, và Chúa đã cho một bầy rắn từ núi bò ra cắn chết một số người. Dân đến kêu cứu với ông Môsê, xin ông cầu nguyện để Chúa cất tai họa đi. Môsê cầu khẩn Chúa và Chúa bảo làm một con rắn bằng đồng treo trên một cây gỗ và khi ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn thì sẽ được khỏi. Chúa Giêsu nói: “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. Con rắn đồng xưa được nhắc lại như một hình ảnh báo trước cây thập giá: “Con Người cũng phải được giương cao như vậy”.
Người Con Một của Chúa Cha được trao ban cho chúng ta như một món quà tặng của tình yêu, chúng ta mang đóng đinh Ngài vào thập giá! Thật là điên rồ về phía chúng ta, nhưng cũng là sự điên rồ của Thiên Chúa. Điên rồ vì tại sao lại ban người Con Một yêu dấu cho một lũ tội nhân để họ đóng đinh Ngài, giương cao Ngài lên?
Một luồn thần học cổ điển xưa cho rằng Chúa Cha trong sự công thẳng của Ngài, đòi hỏi phải có một sự đền bù cân xứng vì tội nguyên tổ, vì thế Chúa Cha phải cho Chúa Con đến đền tội cho loài người mới xứng hợp với sự phản bội của Ađam. Không thể nói là sai nhưng như thế làm như Chúa Cha là một quan toà hơn là một người cha. Nhiều nhà thần học khác không nghĩ như thế mà ngược lại nghĩ rằng, Chúa Cha là tình yêu vô biên, Ngài thương nhân loại đến mức độ Ngài phải cùng đau khổ với con người bằng cách ban cho con người đứa Con Một yêu dấu của Ngài, vì thế Ngài cũng đau cùng với Chúa Con và cho con người. Như thế, chúng ta thấy câu nói của Chúa Giêsu diễn tả tình yêu của Chúa Cha và của cả Chúa Con.
Nếu hiểu như thế, chúng ta mới thấy thấm thía, chúng ta mới hiểu được hạnh phúc của chúng ta vì được yêu thương đến như thế. Tình yêu của Chúa vượt hẳn tất cả những tư tưởng của con người, vì thế thánh Phaolô dám nói: “Chúng tôi rao giảng một Chúa Kitô chịu đóng đinh, một vấp phạm đối với người Do Thái và sự điên rồ đối với người ngoại đạo”. Người tử tội mang tấm bảng viết bằng ba thứ tiếng: Giêsu Nadaret, Vua Do Thái, với cạnh sườn mở toạt ra, là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua một con người bằng xương bằng thịt. Chỉ có tình yêu của Ngài đạt tới đỉnh cao đó mới cho thấy chiều sâu rộng của tình yêu Thiên Chúa là Cha nhân từ. Nhân từ đến mức độ không tiếc gì với loài người.
Cái chết nhục nhã của Chúa chúng ta không chấm dứt mọi sự như cái chết của chúng ta mà là một cuộc khởi đầu cho một cuộc sống vĩnh hằng. Như con rắn xưa trong sa mạc được giương cao, chữa lành vết thương do rắn cắn, thì hôm nay, Chúa Giêsu được giương cao để chữa lành vết thương tâm hồn chúng ta, cũng do con rắn là ma quỷ, nhưng với điều kiện là tin vào Ngài.
Người Con Một của Chúa Cha được ban cho chúng ta, Chúa Cha đã giương cao Ngài lên trên thập giá và nhờ đó hễ ai tin vào Ngài thì sẽ khỏi chết và được sống muôn đời. Người Con Một được ban cho chúng ta là để nhờ Ngài, chúng ta được sự sống mới trong tình yêu của Chúa Cha.
Từ giương cao được nhìn từ hai khía cạnh. Giương cao lên thập giá tức là Chúa Con phải chịu khổ hình và chịu chết cho con người. Cái chết đau thương đó chính là nguồn mạch sự sống, vì nơi Ngài chúng ta được hưởng ơn tha thứ nhờ lòng tin. Thánh Phaolô, trong các thư Galat, Êphêsô, Rôma đều nói đến lòng tin. Chúng ta được cứu thoát khỏi tội và được trở thành con Thiên Chúa là nhờ lòng tin: “Chính nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ”.
Vấn đề quan trọng là tin hay không tin. Sự sống muôn đời là do niềm tin. Nếu chúng ta tin, chúng ta sẽ được sống và không bị lên án. Dân Do Thái đã không tin nên đã mất đi tất cả và đã trở thành nô lệ cho ngoại bang. Chúa Giêsu đến giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, mang lại nguồn sống mới, nhờ Ngài được giương cao trên thập giá. Tin vào Ngài, chính là đặt nền tảng cuộc sống chúng ta không phải trên sự tài giỏi hay công nghiệp riêng mà đặt trên tình yêu của Ngài.
Giương cao đứng trên bình diện khác, là được phục sinh và lên trời vinh hiển. Chúa Giêsu chịu chết đau thương nhục nhã, không là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài đã sống lại vinh hiển, đã toàn thắng sự chết và tội lỗi và chiến thắng đó chính là chiến thắng của chúng ta, vì Ngài chết cho chúng ta, sống lại cho chúng ta. Chúng ta thuộc về Ngài. Từ nay chúng ta không còn sống cho chính mình nữa mà sống cho Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta… Chúng ta trở thành tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống và thực hiện công trình tốt đẹp của Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta. Như thế, chúng ta trở thành con cái của ánh sáng. Những việc chúng ta làm sẽ được tỏ bày trong ánh sáng. Thánh Gioan luôn nói đến ánh sáng và bóng tối. Đối với ngài, Chúa Giêsu là Ánh sáng thật chiếu soi vào bóng tối trần gian. Nhưng bóng tối đã không tiếp nhận ánh sáng, thế gian đã yêu bóng tối hơn ánh sáng, vì những việc của thế gian đều xấu xa.
Dù Chúa Giêsu đã mang lại ánh sáng cho chúng ta, nhưng chúng ta có thành ánh sáng như Ngài mong ước chưa? Những việc chúng ta làm có thực sự là ánh sáng chưa? Chúng ta có thực sự sống cho Chúa chưa?
Mùa Chay là lúc thuận tiện để chúng ta có dịp đối thoại với Chúa sâu xa hơn và tìm lại nguồn ánh sáng chúng ta đang cần, để tâm hồn và đời sống chúng ta tươi sáng hơn, xứng đáng với tình yêu Chúa hơn. Chúng ta chỉ là lữ hành trên trần gian, những bước đi nhọc mệt của chúng ta hôm nay sẽ dẫn chúng ta về miền ánh sáng của Chúa, dù quanh ta, bóng tối đang dầy đặc, đôi khi cũng làm chậm bước chân, nhưng tin tưởng, chúng ta không nản lòng. Chúng ta sở hữu Người Con Một thì không có gì có thể làm chúng ta nao núng. Chúng ta đang đi trong tình yêu của Cha chúng ta. Khó khăn nhọc mệt chỉ là giai đoạn, vì Chúa chúng ta là Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ xin cho chúng ta dám tin Ngài đến cùng.
Trên con đường lữ khách, chúng ta vẫn được Chúa chăn nuôi giữ gìn và chính Ngài lại ban cho chúng ta một thứ lương thực hằng sống là Mình thánh Ngài. Thật tuyệt diệu! Hãy đến với Ngài với tất cả niềm tin, ăn lấy của ăn thần linh đó, chúng ta có thể bước đi mãi mà không sợ sệt cho đến ngày chúng ta chỉ còn là một trong tình yêu vô biên của Ngài.
19.Tin thì được sống--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
Biểu tượng của nghành y chính là con rắn quấn quanh cây gậy. Hình ảnh này được bắt nguồn từ thần thoại Hy Lạp và truyền thuyết "Con giun". Bên cạnh đó, biểu tượng này còn có nguồn gốc từ một câu chuyện được kể trong Kinh Thánh Cựu Ước khi dân Dothái trên đường trở về Đất Hứa (x. Ds 21, 4b-9).
Hôm nay, kết thúc phần hội thoại với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu đã nhắc tới sự kiện này như tiền đề cho một chủ đề lớn, đó là cái chết và ơn cứu chuộc do Ngài mang lại ngang qua thập giá, để qua đó, những ai ngước nhìn và tin thì sẽ được cứu độ.
1. Sự liên hệ giữa con rắn đồng và Đức Giêsu
Khởi đi từ việc Đức Giêsu đem chuyện con rắn đồng trong Cựu Ước, nơi sa mạc để so sánh với chính Ngài: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” (x. Ds 21,4-9).
Để hiểu được ý nghĩa của việc Đức Giêsu so sánh trên, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về câu chuyện con rắn đồng trong Cựu Ước, để làm toát lên hình ảnh tiên trưng về Đức Giêsu sau này.
Câu chuyện về con rắn được tác giả sách Dân Số trình thuật rằng: vì yêu thương, Thiên Chúa đã nghe được tiếng ai oán của dân bên đất Aicập kêu than do nỗi thống khổ của họ phải chịu bởi những tên cai của nhà vua Aicập hành hạ…!
Trước cảnh tượng đó, qua Môsê, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ, để dẫn họ về Đất Hứa. Tuy nhiên, trên đường, họ đã nổi loạn, kêu trách nặng lời với Thiên Chúa và Môsê nhiều lần. Vì thế, Thiên Chúa đã không cho họ được đi trên con đường thẳng để tiến vào Đất Hứa (x. Ds 14,25. 33). Người cũng không cho bất kỳ một ai trong đám dân này được đặt chân vào đó! Hơn thế, Người đã cho rắn độc trong sa mạc tiến ra và cắn chết nhiều người!
Thấy vậy, dân chúng đã van nài Môsê kêu cầu lên Thiên Chúa để xin tha thứ vì sự phản bội, vô ơn mà họ đã chót phạm, đồng thời, xin Người ra tay cứu sống cho những người bị rắn cắn. Môsê đã thay mặt cho toàn dân để chuyển cầu lên với Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã nhận lời Môsê và truyền cho ông làm con rắn treo lên cây cột, nếu ai bị rắn cắn mà nhìn lên thì liền được sống. Ông Môsê đã làm như vậy và nhiều người đã được sống nhờ nhìn lên con rắn này.
Con rắn đồng chính là biểu tượng về lòng thương xót của Thiên Chúa, và cụ thể là hình ảnh báo trước về chính Đức Giêsu bị treo trên thập giá sau này!
Qua câu chuyện trên, Thiên Chúa muốn dạy cho dân một bài học nhớ đời, đó là: vô ơn, bội nghĩa và đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa thì sẽ phải chết. Ngược lại, nếu tin tưởng tuyệt đối vào Người, thì sẽ được sống.
Khi nhắc lại biến cố này trong câu chuyện với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu muốn cho ông hiểu rằng: cần phải có một bước tiến cụ thể, rõ ràng, xác quyết với niềm tin, chứ không phải khơi khơi bề ngoài hay phụ thuộc vào kiến thức mà mình có. Những thứ đó chỉ làm cho ông thỏa mãn sự hiếu tri mà thôi. Vì thế, nó không thể đem lại cho ông ơn cứu chuộc. Ơn cứu chuộc chỉ đến với ông khi ông nhận thức về tội lỗi của mình; cảm nghiệm và tin tưởng tuyệt đối vào tình thương của Thiên Chúa và ơn cứu chuộc ngang qua chính Người Con của Người qua mầu nhiềm thập giá (x. Ga 3,15).
2. Ý nghĩa Lời Chúa với đời sống đức tin của chúng ta
Qua câu chuyện và những mặc khải của Đức Giêsu cho ông Nicôđêmô, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy quan tâm đến đời sống đức tin của mình ngang qua những cảm nghiệm sau:
Trước hết là ý thức về thân phận yếu đuối của mình:
Cuộc sống của chúng ta không thiếu gì những bất toàn. Chính vì những yếu đuối do bản tính của con người, nên chúng ta dễ hướng chiều và làm theo sự tội. Vì thế, tội lỗi đã làm cho con người đau khổ, thất vọng, nhất là nó nhấn chìm và làm cho chúng ta mất ơn cứu chuộc.
Lời mời gọi nhìn lên con rắn đồng là hình ảnh và cũng là lời mời gọi chúng ta hướng nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô, để ý thức mình tội lỗi và cần được cứu chuộc.
Thật vậy, mỗi khi chúng ta nhìn lên Chúa chịu đóng đinh, hẳn ai cũng cảm thấy thật xấu hổ, bởi vì do tội lỗi của chính mình mà Con Thiên Chúa quyền năng lại phải chịu treo trần trụi trên Thánh Giá như một kẻ tử tội…!
Khi nhìn lên Thánh Giá Chúa, chúng ta hiểu được ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu và chúng ta sẽ không thể không sám hối ăn năn, bởi vì nơi ấy, Đức Giêsu đã gánh lấy hết tội lỗi của nhân loại để cho con người được sống và sống dồi dào.
Thứ đến, là cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa:
Mỗi khi nhìn lên Thánh Giá Đức Giêsu, chúng ta nhớ lại lời Kinh Thánh đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Thật vậy, tội lỗi của con người rất nặng nề, khiến chúng ta chắc chắn phải chết, nhưng Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu tuyệt đối và trọn vẹn khi trao ban chính con của Người đến để yêu và yêu đến cùng. Tình yêu ấy được chứng minh bằng cái chết trên thập giá. Qua đó, Đấng chịu treo trên thập giá mặc khải cho chúng ta hiểu rằng: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13
Như vậy, mỗi khi chúng ta nhìn lên Thánh Giá Đức Giêsu, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu nơi cái chết của Ngài thật lớn lao vô kể….
Cuối cùng, nhìn lên Thánh Giá Chúa để chúng ta được cứu chuộc:
Khi đã phạm tội, con người không thể tự thân cứu chuộc được mình. Cũng như những người Dothái xưa, khi đã phạm tội và bị rắn cắn, họ không còn có thể tự cứu được mình khỏi chết, mà chỉ còn cách, đó là: nhìn lên rắn đồng thì mới được cứu sống.
Chúng ta cũng cùng chung số phận, nên khi phạm tội, con người không thể nào đụng chạm được ơn giải thoát nếu không có lòng thương xót của Thiên Chúa!
Như vây, mỗi khi nhìn lên Thánh Giá với Đấng chịu treo trên đó, chúng ta sẽ nhớ lại những tội lỗi do yếu đuối của mình đã xúc phạm đến Chúa, đồng thời, biết cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa, luôn ăn năn, tin tưởng vào hiệu quả của Đấng chết thay cho nhân loại được cứu chuộc.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu, vì Ngài là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng gánh tội và cứu chuộc trần gian.
Khi tin vào Đức Giêsu tuyệt đối, chúng ta được mời gọi đi trên con đường mà Ngài đã đi để được cứu chuộc. Con đường ấy là: tự hủy, yêu thương và vâng phục. Bên cạnh đó, chúng ta được mời gọi thuộc về Đức Giêsu là Ánh Sáng, khi sống những giá trị Tin Mừng trong cuộc sống và khước từ những thứ thuộc về bóng đêm của tội lỗi như: ích kỷ, kiêu ngạo, khoe khoang, bất hòa, chia rẽ….
Tuy nhiên, muốn được tiếp bước trên con đường của Đức Giêsu và thuộc về Ngài là Ánh Sáng, chúng ta phải sống Lời Chúa mời gọi cụ thể trong Mùa Chay này, đó là: hãy sám hối, ăn năn và canh tân đời sống….
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo chúng con lên với Chúa để được Chúa yêu thương và cứu chuộc. Amen.
20.Giương cao con rắn--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Thiên Chúa có bộ mặt nào? – Thánh thiện, quyền phép, thông minh hay công thẳng…? Ai mà biết được khuôn mặt thật của Người nếu như Người không đích thân mặc khải cho biết!
Người Do Thái tin rằng họ biết rất rõ bộ mặt thật của Đức Chúa; họ gọi Ngài là Gia-vê (theo ký tự YHWH), một tên vừa nói lên bản chất tự hữu mang tính triết học, lại vừa diễn tả quyền phép vô song của một đấng tạo dựng muôn loài, mang tính lịch sử. Khuôn mặt hiển hách đó, theo họ, đã lộ rõ qua các dấu lạ điềm thiêng mà Mô-sê nhân danh Ngài thực hiện trong cuộc Xuất Hành giải phóng kiêu hùng, sau khi đã hoàn toàn khuất phục quyền lực thần thánh của Pha-ra-ô được coi là vô địch thời bấy giờ. Thế nhưng Đức Giê-su lại khảng định rằng, khuôn mặt đó chưa hoàn toàn chính xác! Lý do thật đơn giản: đó vẫn chỉ dựa trên suy đoán của loài người, vì thật sự đã có ai từng sống với Thiên Chúa để biết rõ Ngài thế nào đâu; “không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11:27)
Vấn đề ở đây là: diện mạo Thiên Chúa mà ‘Con Người muốn mạc khải cho’ là thứ diện mạo nào? Trước hết Đức Giê-su đưa ra một hình ảnh có sẵn trong Cựu Ước, nhưng rất ít được người Do Thái thời đó quan tâm: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc”. Quả vậy câu truyện được kể trong chương 21 sách Dân Số đã không được các luật sĩ và biệt phái thời đó quan tâm giải thích. Họ cho rằng đó chỉ là một giai thoại mang tính sự kiện lịch sử; dân phạm tội kêu trách Mô-sê, và thế là Đức Chúa đã báo oán qua việc cho rắn độc bò ra cắn hại dân khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. Rồi Mô-sê chủ động khẩn cầu cho dân, và Đức Chúa truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống!” (Ds 21:6-9) Câu chuyện không nhằm vẽ lên khuôn mặt Đức Chúa từ nhân và xót thương; có vẻ ngược lại là đàng khác, Ngài lộ rõ diện mạo nghiêm khắc, trừng phạt; ‘Dân kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê… và Đức Chúa cho rắn độc bò ra cắn chết họ’. Nếu dân có được cứu thì chẳng qua là do lời khẩn cầu của Mô-sê, tôi trung của Ngài. Còn tại sao lại giương cao con rắn là biểu tượng của hình phạt, để ‘hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó’ thì được cứu sống, thì không ai giải thích nổi, vì… đơn giản Đức Chúa muốn như thế! Khi Đức Giê-su dùng chính hình ảnh này để công bố mạc khải vĩ đại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” thì xem ra lại càng rối mù hơn. Ni-cô-đê-mô, hay bất cứ người Do Thái nào cũng vậy thôi, sẽ cho điều đó là hoàn toàn vô lý, không thể chấp nhận, nhất là sau dẫn chứng sự kiện hình phạt rắn độc cắn: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”.
Riêng đối với Ki-tô hữu chúng ta, tất cả đều biết một điều căn bản: Tin Mừng chính yếu hệ tại ở điều này, đó là Thiên Chúa yêu thương thế gian, là Thiên Chúa không lên án, là Thiên Chúa không đánh phạt, một khi Đức Ki-tô đã được giương cao trên thập giá. Đó là diện mạo đích thực của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô đã thân hành vẽ lên bằng chính thập giá của Người. Chỉ cần ‘tin vào Con của Người’, chỉ cần ngước nhìn lên Thập Giá cứu độ với lòng khiêm tốn và cậy trông, chỉ cần ‘sống theo sự thật và đến cùng ánh sáng’, thì cũng đã đủ để bất cứ ai, cho dầu tội lỗi tới mấy, cũng sẽ không bị lên án chết. Và ‘sự thật’ của Tin Mừng đơn giản chỉ là, căn cứ lời quả quyết của môn đệ Gio-an - người được coi là hiểu biết Thiên Chúa tình yêu rõ hơn ai hết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1:8-10). Và thật lạ lùng, bản án nếu có bị tuyên, sẽ không căn cứ vào tội lỗi đã phạm, mà chỉ dựa trên một điều duy nhất xem ra chẳng mấy nhằm nhò gì: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng…” ‘Bóng tối’ và ‘ánh sáng’ Gio-an đề cập tới sẽ không mang nội dung luân lý của tội lỗi hay nhân đức, mà chỉ là từ khước hoặc tin nhận Tin Mừng về một ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian tới nỗi…’. Nói cách khác, bóng tối là vẫn nhắm mắt tin vào một Thiên Chúa công thẳng và luận phạt, một Thiên Chúa chỉ biết lên án và trừng trị. Ai cứ cố chấp ở lì trong bóng tối đó, chắc chắn sẽ bị lên án thôi. Lý do là vì mọi việc người ấy làm, cho dầu trong cái nhìn của con người có là tốt lành thánh thiện tới mấy đi nữa, thì cũng vẫn chưa phải là được thực hiện trong Thiên Chúa tình yêu xót thương và cứu độ. Còn ánh sáng đơn giản sẽ là nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, để mở lòng đón nhận ơn cứu độ đầy từ tâm của Thiên Chúa.
Trong tư cách Ki-tô hữu, nhất định mỗi người chúng ta phải sống theo sự thật, và chân thành đi trong ánh sáng của ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian…’ thôi, đặc biệt trong thời khắc cuối của mùa chay thánh, để trong niềm tin vào Đức Ki-tô thập giá cứu độ, chúng ta không còn chút sỡ hãi nào bị lên án nữa.
Lạy Chúa Giêsu được giương cao trên thập giá, xin cho con biết không ngừng chiêm ngắm Thánh Giá để thấu hiểu, ‘Thiên Chúa đã yêu con tới nỗi đã phó nộp…’, và để nhờ nhận biết trong tin yêu điều này, con sẽ ‘không bị lên án’, cho dẫu có tội lỗi và bất toàn tới mấy. Xin cho con cùng với Phao-lô, biết tập trung trọn đời mình vào duy nhất một mình Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh mà thôi. Amen.
21.Nào ta hãy mừng vui--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay (Laetare), Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh, nghỉ để nhìn lại những gì đã làm trong ba tuần đầu của Mùa Chay, lấy thêm can đảm bước tiếp những chặng đường tới.
"Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan." (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh vịnh gia: "Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…... ".
Những lời trên diễn tả niềm vui ngập tràn và thiêng thánh. Giáo hội chúc mừng con cái mình đã hăng hái đi được nửa hành trình của Mùa Chay. Làm sao không thể vui mừng được. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ vì coi thường lời Chúa, bất trung, tội lỗi và nhạo báng các tiên tri nên mất nước, lâm vào cảnh nhà tan cửa nát phải đi lưu đầy, nay được trở về tái thiết quê hương. Mừng vui lên vì Chúa dừng cơn thịnh nộ đổ xuống trên dân nay được thay bằng lòng từ bi và tha thứ, " Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: Đây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên " (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23).
Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng?
Vì tội lỗi của dân mà đền thờ Chúa bị quân thù đốt cháy, tường thành Giêrusalem bị phá huỷ, các lâu đài và mọi đồ vật quý giá bị hỏa thiêu. Nay họ "được kêu gọi tái thiết đền thờ Giêrusalem, được mời gọi đón nhận lại Thiên Chúa đến ở giữa họ, đón nhận sức mạnh của tình yêu và tha thứ" (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23). Đoạn Tin Mừng Gioan ghi lại hôm nay cho chúng ta câu trả lời cụ thể: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài... để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ" (Ga 3,16-17).
Thiên Chúa đã dựng nên con người, ban bố những giới răn, không phải như những ách trói buộc, nhưng là như nguồn tự do, để con người cư xử khôn ngoan, sống theo công lý và hoà bình, biết đặt tin tưởng nơi tha nhân và cùng nhau thực hành các việc công chính dựa theo ý của Chúa để được hạnh phúc.
Vui vì được yêu thương và được cứu
Chúng ta đang ở tuần thứ IV trên hành trình tiến về lễ Phục Sinh, hành trình cùng với Chúa Giêsu bước trong "hoang địa". Đây là quãng thời gian chúng ta lắng nghe tiếng Chúa và cũng là để vạch trần mặt nạ của những cám dỗ trong lòng chúng ta. Ở phía chân trời của hoang địa này chúng ta thấy nổi lên cây thập giá. Thập giá Chúa Kitô là đỉnh điểm của tình yêu đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu khẳng định: "Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (Ga 3,14-15). Lời trên nhắc lại cuộc xuất hành của người Do thái từ đất Ai Cập. Trong hành trình, một số người bị rắn độc cắn và bị chết. Khi ấy, Thiên Chúa ra lệnh cho ông Môisê làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây sào: ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được chữa lành (x. Ds 21,4-9). Ám chỉ Đức Giêsu sẽ được giương cao trên thập giá để bất cứ ai đang ở trong hiểm nguy của tội lỗi, nhìn lên Người với lòng tin thì sẽ được cứu độ, đúng như Gioan nói: "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ " (Ga 3,17).
Theo thánh Âugustinô thì: "Người thầy thuốc là người đến để chữa bệnh. Nếu người bệnh không tuân theo đơn thuốc và chỉ dẫn của thầy thuốc, anh ta tự làm hại mình. Đấng Cứu Thế đến thế gian...nếu anh không muốn được Ngài cứu chuộc, anh tự phán xét chính mình" (Sul Vangelo di Giovanni, 12,12: PL 35, 1190). Tình yêu Thiên Chúa là vô biên và Người đã ban Con Một để chuộc tội cho con người. Phần chúng ta, mỗi người cũng phải chịu trách nhiệm về mình. Thực vậy, mỗi người phải nhận biết tình trạng bệnh tật của mình để được cứu chữa; từng người phải nhìn nhận chính tội của mình để ơn tha thứ của Thiên Chúa, đã thể hiện trên Thập giá, hiện thực trong tâm hồn và cuộc sống mỗi người. Thánh Âugustinô viết tiếp: "Thiên Chúa lên án tội lỗi và nếu anh cũng làm tương tự, anh được hiệp thông với Thiên Chúa. Khi anh bắt đầu tách mình khỏi những gì đã làm, khi đó anh khởi sự nhưng việc tốt lành bởi đã từ bỏ những việc bất chính. Nên hoàn thiện bắt đầu từ việc nhận ra những sai sót của mình."
Chúa Giêsu là sự sáng thế gian
Ánh Sáng đã đến thế gian, nhưng nhiều người ưa thích đêm tối hơn là ánh sáng. Có biết bao nhiêu đen tối ở trên thế giới hiện nay, những đám mây của sự dữ vẫn còn bao phủ trên mặt đất này. Những vụ thảm sát tàn bạo tại Irắc và Siria, những cuộc tranh chấp giữa các bộ lạc, lòng tham lam làm hoen ố con tim, đưa đến cảnh bóc lột người nghèo, lòng tham vơ vét khai thác các tài nguyện không nghĩ gì đến các thế hệ tương lai; bên cạnh đó là tính ích kỷ khiến con người khép kín, trở nên vô cảm đối với Thiên Chúa và tha nhân, thay vì những lý tưởng cao thượng của quảng đại và từ bỏ, thì người ta đi tìm khoái lạc, hưởng thụ, tìm hạnh phúc qua xì ke, dâm đãng, đưa đến cảnh huỷ hoại gia đình, tàn sát các bào thai, gạt bỏ người già và em nhỏ.
Để chống lại não trạng trên, Sứ điệp Mùa Chay năm nay có chủ đề là xóa bỏ sự "thờ ơ toàn cầu hóa". Đức Thánh Cha Phanxicô mong ước: " Nơi nào có sự hiện diện của Giáo hội, đặc biệt là nơi những giáo xứ và cộng đoàn, sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót giữa biển cả thờ ơ" (Sứ điệp MC 2015). Dửng dưng với Thiên Chúa và đồng loại là điều cần phải loại bỏ trong xã hội hiện đại hôm nay. Chúng ta cần tạo ra một não trạng mới coi tha nhân như là anh chị em đáng được yêu thương tôn trọng và giúp đỡ trên cuộc hành trình tiến đến tự do, sự sống và hy vọng.
Thánh Phaolô nói: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Đây là thời gian thuận tiện để mỗi người quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại giúp đỡ tha nhân.
Mùa Chay là lúc thuận tiện để khích lệ mọi thành phần Dân Chúa gia tăng sức lực thực hiện công việc bác ái nhiều hơn nữa. Giữa biển cả thờ ơ của xã hội hôm nay, mỗi người, mỗi giáo xứ và cộng đoàn thực thi đức ái, nhất định Giáo hội sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót.
22.Nhìn lên Thánh Giá--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh giá chính là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ.
Hình ảnh con rắn xuất hiện ngay từ những trang đầu của sách Sáng thế (x. St 3) và được nhắc lại trên 40 lần. Kinh Thánh trình bày về rắn với cả hai ý nghĩa tốt và xấu. Phần nhiều rắn mang ý nghĩa xấu, rắn được đồng hóa với chính Satan, thủ lãnh của ma quỉ đã dụ dỗ nguyên tổ phạm tội (x. St 3, 1-15). Đôi khi, rắn được trình bày với ý nghĩa tốt như là biểu tượng của sự khôn ngoan: " Hãy khôn ngoan như con rắn!" (Mt 10,16), rắn đồng cứu người trong sa mạc (Ds 21, 4-9).
Trong truyền thuyết Hy Lạp, Thần Chữa Bệnh có tên là Asklepios được biểu tượng bằng con rắn. Ngày nay, hình con rắn quấn quanh cây cột được dùng làm biểu tượng cho ngành Dược và ngành Y. Hai ngành khoa học nghiên cứu và chữa trị bệnh tật cho con người.
Biểu tượng của ngành Y Dược cũng còn bắt nguồn từ một biến cố trong Kinh Thánh "con rắn đồng được giương cao" với ý nghĩa: Thiên Chúa cứu độ con người.
Ý nghĩa cứu độ bắt đầu bằng những biến cố trên đường về miền đất hứa. Trong sa mạc, người Do thái đã phạm tội thờ thần ngoại và đúc bò vàng để thờ lạy, họ hay phàn nàn kêu trách Chúa. Họ bị phạt nặng. Đức Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Họ sợ hãi xin ông Môsê cứu chữa. Ông Môsê khẩn cầu cho dân. Đức Chúa nói với ông: "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống". Ông Môsê "làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống" (Ds 21, 4b-9).
Rắn đồng được giương lên cao, người bị rắn cắn nhìn vào được chữa lành. Đó là cái nhìn của lòng tin. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): "Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt, cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người" (Kn 1, 6-7). Nhìn lên con rắn đồng là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát xuất ra bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Thiên Chúa yêu thương tha thứ và ban ơn. Ngài cứu sống dân dù họ đã từng bất trung, oán trách, nổi loạn chống đối.
Và đó là ý nghĩa của lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô trong Tin Mừng hôm nay: "Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi". Chúa ý ám chỉ Người sẽ chết cách nào, sẽ bị treo lên thập giá đau thương. Ở đây, sự so sánh nằm ở từ "treo lên"; Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ "sống". Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tin và tìm kiếm sự sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu. Người ban sự sống. Không phải sự sống nhân tính, mà "sự sống vĩnh cửu". Ân huệ vô biên đó là do: "Thiên Chúa yêu thương".
Khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Thập giá để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Thập giá là tột cùng của đau khổ và ô nhục, nhưng Thập giá lại là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu cao cả. Nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thập giá để con người nhận biết thân phận tội lỗi và từ đó tin vào tình thương của Thiên Chúa.
1. Nhận biết thân phận tội lỗi con người.
Dân Do thái được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập. Hành trình gian truân trong sa mạc, họ nổi loạn chống lại Thiên Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi.
Đức Giêsu chịu treo trên Thập giá là vì tội lỗi nhân loại. Thánh Phêrô viết những lời thật sâu xa: "Tất cả tội lỗi của chúng ta, Đức Giêsu đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. " (2Pr 2,24a). Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của con người. Người chịu chết cho con người được sống "Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành" (2 Pr 2,24b). Nhìn ngắm Đức Giêsu trên thập giá, chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi của mình.
2. Tin vào tình thương của Chúa.
Con người phạm tội đáng phải chết. Thiên Chúa thương yêu tìm mọi cách để cứu sống. Thiên Chúa "yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời". Thiên Chúa biểu lộ tất cả tình thương đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.Tình yêu của Ngài được thể hiện qua hành vi "trao ban". Điều quí nhất của Người Cha là Người Con.Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại chính Con Một dấu yêu của Ngài. Đức Giêsu đến trần gian để phục vụ: "Con Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người". Người đã tự nguyện chết cho con người được sống: "Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh mạng sống cho bạn hữu"; "Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội". Nhìn lên Đấng chịu đóng đinh trên Thập giá, chúng ta cảm nhận tình thương của Chúa thật bao la và diệu kỳ.
3. Chiêm ngắm Thánh giá tình yêu
Người Kitô hữu mỗi ngày nhìn thấy thập giá, nghe nói về thập giá. Thập giá trên tháp chuông, thập giá trên bàn thờ, thập giá bày bán trong tiệm, thập giá treo trên tường, thập giá cắm trong nghĩa trang, thập giá trong nghệ thuật, thập giá trong thi ca.
Có những người đã nhìn vào thập giá như một đơn vị kinh tế để xác định giàu nghèo: thập giá vàng thì quí hơn thập giá gỗ. Thập giá cũng tùy theo loại to nhỏ mà có giá trị khác nhau. Người có tiền thì mua thập giá bằng vàng. Người không có tiền thì cố gắng bằng mọi cách để có được thập giá vàng để khoe mình đã đạt được mức độ giàu có nào đó. Có những người khác dùng thập giá để xuống đường. Họ vác thập giá không phải để chịu đóng đinh như Chúa Giêsu, nhưng để biểu tình và đòi đóng đinh kẻ khác.
Nhiều người đã trần tục hóa thập giá Chúa Giêsu. Thập giá để khoe khoang trang điểm. Thập giá là đơn vị kinh tế phân biệt giàu nghèo. Thập giá là phương tiện tranh đấu. Thập giá là duyên cớ lòng tham. Vậy đâu là ý nghĩa thật của thập giá?
Không biết tự bao giờ, Thập giá đã được ngành tư pháp Rôma chọn làm án tử cho kẻ tội đồ và trở thành biểu tượng cho cái chết nhục nhã. Nhưng kể từ ngày thứ sáu Tuần Thánh, khi Chúa Giêsu bị treo lên, Thập giá trở thành Thánh giá và mang lấy ý nghĩa mới. Thánh giá là ơn cứu độ Thiên Chúa đem đến trần gian. Thánh giá là dấu chứng tình yêu khơi nguồn sự sống. "Khi nào Ta bị treo lên, ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta". Với tình yêu cứu độ, Thánh giá đem lại sự sống đời đời. Từ Thập giá đau thương, Chúa Giêsu đã đưa tình yêu tự hiến, tình yêu tận hiến và dâng hiến vào Thánh giá cứu độ.
Thánh giá, tình yêu tự hiến
Thánh giá với Chúa Giêsu chịu đóng đinh chính là đỉnh cao tình yêu tự hiến. Thánh Phaolô diễn tả quá trình tự hiến khởi đi từ mầu nhiệm Nhập Thể và kết thúc nơi mầu nhiệm Cứu Độ. Chúa Giêsu vốn phận là Thiên Chúa, nhưng lại hủy mình ra không mà nhận lấy phận tôi đòi. Đó là tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Nhập Thể. Người lại còn tự hạ vâng lời Chúa Cha cho đến chết, không nhẹ nhàng trên gối ấm nệm êm mà đau thương trên cây Thập giá, để giải thoát muôn người. Đó là tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh. Tình yêu tự nguyện hiến mình cho vinh quang Chúa Cha và mưu ích cho phần rỗi thế gian. (x.Pl 2,6-11).
Thánh giá, tình yêu tận hiến
Với Chúa Giêsu, Thánh giá là dấu chứng tình yêu tự hiến. Với Thiên Chúa, Thánh giá còn là một dấu chứng của một tình yêu bao la và bao dung sẵn sàng hiến ban tất cả những gì cao quý nhất và cao giá nhất cho hạnh phúc của mọi tâm hồn: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một" (Ga 3, 16). Trong mầu nhiệm của Đấng chịu đóng đinh trên Thánh gía, chúng ta nhận ra độ cao, sâu, rộng, dài của một tình yêu cho đi đến cùng. Chúa Cha đã hiến ban Con Một của mình trên Thánh giá. Thiên Chúa yêu thương đã hiến ban tất cả cho nhân trần.
Thánh giá, tình yêu dâng hiến
"Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta". Khi Chúa Giêsu bị treo lên, Thánh giá phát huy sức mạnh cứu rỗi. Dân chúng được thanh tẩy tội lụy vì được bao bọc bởi tình yêu bao dung tha thứ: "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". Anh trộm lành đựơc vào Thiên đàng vì được đặt vào tình yêu thánh hóa gieo hy vọng:"Hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên đàng với Ta". Những người chứng kiến cuộc Thương khó về đấm ngực ăn năn và người đội trưởng thốt lên: "Qủa thật người này là Con Thiên Chúa", vì họ được soi sáng trong tình yêu kiếm tìm sự thật. Tất cả đã gặp nơi Thánh giá Chúa Giêsu một sức mạnh thánh hiến.
Trong Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy siêng năng chiêm ngắm Thánh giá. Đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ. Hãy nhìn lên Thánh giá với tâm tình sám hối và tin yêu, nhờ đó chúng ta được Chúa thứ tha và được múc nguồn sự sống dồi dào.
23.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
TẠI SAO “CON NGƯỜI CŨNG SẼ PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO NHƯ VẬY”?
Sách Dân Số (21, 4b-9) kể chuyện, dân Do thái đi trong sa mạc, họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê rằng: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? …”. Vì thế, Thiên Chúa đã cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Sau đó dân hối lỗi chạy đến với Môsê và ông đã cầu khẩn cùng Chúa. Thiên Chúa thương xót, đã truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên giữa sa mạc, và bất cứ ai, hễ bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được chữa lành.
Bài Tin Mừng, trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu khẳng định: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt lịch sử cứu độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc (Ds 21,6), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống (St 3), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Kitô (Ga 3,14) và vươn xa tới tận thời cánh chung (Kh 12,7-10).
Con rắn cám dỗ Eva và bà đã sa ngã thua cuộc, để lại cho nhân loại tội tổ tông truyền. Con rắn đồng ông Môsê treo lên trong sa mạc giúp cứu sống người bị rắn độc cắn. Bà Eva nhìn lên và nghe theo lời con rắn “phán”. Dân Do thái nhìn lên con rắn đồng và nghe theo Lời Chúa truyền. Chúng ta nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô sẽ được sự sống và ân sủng chứa chan.
Dịp hành hương Thánh Địa, chúng tôi có lên núi Nebo bên đất nước Jordanie. Chiêm ngắm tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn, biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê dựng nên, nhìn về Thánh địa và dâng lễ tại nhà nguyện trên núi.
1- Núi Nebo
Núi Nebo là một dãy núi ở Vương quốc Jordanie, cao khoảng 817m. Cựu ước đã đề cập đến nơi này. Trên núi Nebo, Thiên Chúa đã cho Môsê nhìn về Đất Hứa. Từ đỉnh núi nhìn bao quát bức tranh toàn cảnh về Thánh Địa và thành phố bờ Tây sông Giođan là Giêricô, thậm chí vào một ngày rất đẹp trời người ta có thể nhìn thấy cổ thành Giêrusalem.
Theo chương 34 của sách Đệ Nhị Luật, Môsê đã đi lên núi Nebo từ đồng bằng Môáp đến đỉnh Pisgah đối diện với Giêricô để nhìn về Đất Hứa.Giavê phán với Môsê: Đó là đất Ta đã thề với Abraham, ysaac và Giacop rằng: Ta sẽ ban nó cho dòng giống ngươi! Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không qua đó!. Và Môsê đã chết trong xứ Môab. Người ta đã chôn cất ông trong thung lũng, ở xứ Môab, trước mặt Bet-pơor, nhưng không biết được mộ ông cho đến ngày nay.(Đnl 34,4-6).
Theo truyền thống Kitô giáo, Môsê đã được chôn cất trên núi này, tuy nhiên người ta vẫn không xác định được nơi chôn cất ông. Một vài truyền thống Hồi giáo cũng khẳng định điều tương tự, nhưng ngôi mộ của Môsê thì họ cho là ở Maqam El- Nabi Musa nằm về phía nam cách Giêricô 11 km và về phía đông cách Giêrusalem khoảng 20km trong hoang địa Giuđêa. Các học giả tiếp tục tranh luận xem ngọn núi hiện nay được gọi là là Nebo có phải là ngọn núi ngày xưa được đề cập trong bộ Ngũ kinh của Cựu ước không.
Theo sách Maccabê (2 Mcb, 2,4-7): Tiên tri Giêrêmia đã giấu Nhà tạm và Hòm Bia Giao Ước trong một cái hang trên núi Môsê đã lên và được chiêm ngắm cơ nghiệp của Thiên Chúa.
Ngày 20/03/2000, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến núi Nebo trong cuộc hành hương Thánh địa. Ngài đã trồng một cây ô liu bên cạnh nhà thờ theo phong cách Byzantine như là một biểu tượng cho hòa bình.
Ngày 9/5/2009, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã đến thăm địa danh này, đọc bài diễn văn ở đây và ngài nhìn về thành Giêrusalem từ đỉnh núi Nebo.
Nghệ sĩ người Ý, Giovanni Fantoni đã thực hiện tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn. Đây là biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê làm theo lệnh của Chúa để cứu sống người bị rắn cắn (Ds 21,4-9) và là thánh giá trên đó Chúa Giêsu bị đóng đinh (Ga 3,14).
Trên đỉnh cao nhất của ngọn núi mang tên Syagha, người ta khám phá ra di tích ngôi nhà thờ và một tu viện vào năm 1933. Ngôi Nhà thờ được xây dựng lần đầu vào nửa bán thế kỷ thứ IV để kỷ niệm nơi Môsê qua đời. Thiết kế nhà thờ theo phong cách một Vương cung Thánh đường. Nó được mở rộng vào cuối bán thế kỷ thứ V và được xây dựng lại năm 597. Ngôi Nhà thờ đầu tiên được nhắc đến trong bản báo cáo về một cuộc hành hương của một người phụ nữ tên Aetheria vào năm 394. Người ta đã tìm thấy 6 ngôi mộ trống rỗng từ những phiến đá tự nhiên nằm dưới sàn khảm đá của nhà thờ.
Trong ngôi nhà nguyện hiện đại được xây dựng để bảo địa danh này và cung cấp nơi thờ phượng, người ta có thể nhìn thấy thấy những di tích của những sàn nhà khảm đá từ nhiều thời kỳ khác nhau. Một trong những bức tranh khảm đá lâu đời nhất là một tấm ghép với những hình chữ thập có viền hiện nay được đặt ở phía đầu Đông của bức tường phía Nam.
2. Tại sao lại treo con rắn?
Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (St 3,1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho Evà và Adam nghi ngờ Thiên Chúa: Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: chẳng chết chóc gì đâu! Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chết (St 2,17).
Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa: kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa đó là để cho mình bị rắn cắn, là mang nọc độc vào người.
3. Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”?
Trong Vương cung Thánh đường Thánh Ambrôsiô ở Milan, có 2 cột đá thật ấn tượng và giàu ý nghĩa; "cột rắn": một con rắn bằng đồng thời Byzantine vào thế kỷ thứ X được đặt trên đỉnh một cột ngắn, đối diện bên kia có “cột thập giá”.
Sách Dân Số (21,9) là một lời tiên báo rất huyền nhiệm về Đấng Cứu Thế, về mầu nhiệm Thâp giá, nơi Đức Kitô là Con Người được “giương cao”. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh, tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt “đến nỗi Chúa Cha đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa
Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, một hy lễ dâng lên Chúa Cha và cũng là sự tự hiến cho loài người, trở nên lương thực nuôi sống chúng ta. Chúa Giêsu “chết để cho chúng ta được sống”.
Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu ngay từ những lời nói đầu tiên đã đặt mầu nhiệm Thập Giá trong tương quan trực tiếp với hình ảnh con rắn biểu tượng của Tội và Sự Dữ: Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
Một bên là con rắn bị giương cao. Một bên là Đức Kitô được giương cao trên cây thập giá.Trong Cuộc Thương Khó, Đức Kitô sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn.Theo Thánh Phaolô: Đức Giêsu tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3) và Người “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21; Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô: “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7,13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Máccô, Đức Giêsu dạy, (chứ không phải báo trước) cho các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (Mc 8, 31).
Chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thánh Giá để nhìn thấy:
Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo lên án vô cớ, của vụ án gian dối.
Đầu đội mạo gai của Người tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị; chân tay của Người bị đinh nhọn đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính và hành động theo thú tính; cạnh sườn của Người bị đâm thủng thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng là hủy diệt. Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!
4. Tại sao “nhìn lên” có khả năng chữa lành?
Theo lời của Đức Chúa, Môsê đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên thì được chữa lành. Hình phạt bị rắn độc cắn là rất nặng nề, còn ơn chữa lành thật nhẹ nhàng: nhìn lên thì được sống.
Nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37) với lòng tin chúng ta đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.
Thánh Giá Đức Kitô chịu đóng đinh được các giáo phụ gọi là Cây Sự Sống vì đã mang đến cho nhân loại Sự Sống của Thiên Chúa.
Thánh Giá mang lại cho nhân loại Ơn Tha Thứ của Thiên Chúa. Sự bất tuân của Ađam đã mang đến án phạt và sự chết cho toàn thể nhân loại. Giờ đây sự vâng phục của Chúa Giêsu mang lại Ơn Tha Tội của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại. Vì sự vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã tha hết mọi tội lỗi cho nhân loại. Ơn tha thứ đã được ban một cách tràn đầy và cho mọi người, không trừ một ai. Ơn Tha Thứ ấy phát xuất từ Tình Yêu của Chúa Cha. Tình Yêu lớn hơn tội lỗi. Tình Yêu khỏa lấp muôn vàn tội lỗi. Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết trên Thánh Giá biểu lộ Gương Mặt đích thực của Chúa Cha giàu lòng thương xót.
Thánh Giá mạc khải Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và đối với nhân loại chúng ta. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến nỗi sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa Cha, dâng hiến sự sống mình lên Chúa Cha. Thánh Giá cũng biểu lộ Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì những người mình yêu.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Nhìn lên Thánh Giá, chúng ta yêu mến và tôn thờ Chúa Cứu Thế. Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Đức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Trong Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy năng nhìn lên Thánh Giá, đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ. Nhìn lên Thánh Giá với niềm tin vào tình yêu tha thứ, tình yêu vô bờ bến của Đấng Chịu Đóng Đinh, chúng ta được dồi dào ân sủng và được sự sống đời đời.
24.Hãy đến cùng ánh sáng--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy, Chúa Giêsu ngỏ lời với Nicôđêmô:
“Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."
Bóng tối che chở, yểm trợ cho kẻ bất lương
Nhờ bóng tối, phường đạo tặc có cơ hội làm ăn. Trời càng tối trộm cướp càng vui thích vì càng dễ tung hoành.
Nhờ bóng tối, nhờ đèn mờ, nhiều tay ăn chơi có thêm cơ hội làm điều tội lỗi trong các rạp chiếu phim, trong các phòng karaoke mờ ám.
Nhờ bóng tối ở các góc phố, các đoạn đường vắng, các tay cướp của giết người mới có thời cơ hành động.
Đêm đen và bóng tối là bạn đồng minh của phường trộm cướp, là chốn nương tựa của kẻ bất lương, của những tay chơi bời truỵ lạc.
Thế nên Chúa Giêsu nói: "Người đời (người ác) chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3,19-20)
Trong khi bóng tối bao bọc che chở kẻ bất lương, đồng loã với phường tội lỗi, thì ánh sáng lại có khả năng bảo vệ, che chở cho những kẻ ngay lành.
Ánh sáng bảo vệ người ngay lành
Trong đêm tối giữa rừng sâu, người ta cần đốt lên một đống lửa thật to. Anh lửa bừng lên giữa đêm đen sẽ xua đi những ác thú lăm le vồ xé con người.
Trên những con đường tối tăm thường có trộm cướp rình rập, người ta thắp thêm nhiều ngọn đèn đường. Ánh đèn sáng có khả năng bảo vệ khách bộ hành trong đêm tối.
Chung quanh các cơ quan trọng yếu, những kho chứa hàng quan trọng, người ta bố trí nhiều đèn điện toả sáng suốt đêm để phòng quân gian đột nhập.
Ánh sáng soi đường cho người công chính
Người Việt chúng ta thường nói: "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng." Khi phải ở gần "mực", tức ở trong môi trường thiếu văn hoá, thiếu đạo đức thì sớm muộn người ta cũng bị tiêm nhiễm những thói xấu tật hư.
Trái lại, nếu được ở gần "đèn", tức ở trong môi trường lành mạnh, môi trường đạo đức, người ta sẽ được thấm nhuần điều hay lẽ phải và được cảm hoá nên xứng danh con người.
Giai thoại về cuộc đời Thầy Mạnh Tử (372-289 trước Công Nguyên) cho thấy rõ hơn nội dung nầy.
Lúc còn nhỏ, Mạnh Tử ở gần nghĩa trang. Ngày ngày thấy người ta chôn cất người chết với những lời than khóc ai oán thì cậu bé cũng bắt chước chôn các con vật chết, cũng giả vờ kêu than khóc lóc.
Thân mẫu của Mạnh Tử không muốn con mình bị tiêm nhiễm lối sống buồn thảm ở bãi tha ma, nên mới dời nhà đến gần phố chợ. Sống nơi đây, tuy nhộn nhịp vui vẻ hơn, nhưng Mạnh Tử lại học theo thói côn đồ của một số trẻ ranh ma đầu đường xó chợ, ưa trộm cắp, chửi tục và đấm đá nhau. Người mẹ một lần nữa quyết định phải dời nhà đến gần trường để xa tránh môi trường xấu.
Từ ngày sống cạnh nhà trường, ngày ngày thấy bạn bè cùng trang lứa cắp sách đến trường, Mạnh Tử cũng xin mẹ cho đi học.
Học tập chưa được bao lâu, cậu lại bị bạn xấu rủ rê bỏ học đi chơi.
Hôm nọ, khi người mẹ đang dệt vải nửa chừng chợt thấy Mạnh Tử cắp sách về nhà không muốn học nữa, bà lặng lẽ cầm kéo cắt nát tấm lụa đang còn dở dang trên khung cửi.
Quá tiếc xót tấm lụa quý, Mạnh Tử hỏi lý do, người mẹ trả lời: "Con đang đi học mà bỏ nửa chừng thì có khác chi mẹ dệt tấm lụa chưa xong mà cắt bỏ đi vậy."
Thế là từ đó, Mạnh Tử giác ngộ, ngày đêm miệt mài đèn sách và sau nầy trở thành bậc thánh hiền của người Trung Quốc.
* * *
Qua Tin Mừng Gioan được trích đọc hôm nay, Chúa Giêsu tỏ ra buồn phiền vì người đời yêu chuộng tối tăm và xa lìa ánh sáng: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3,19)
Và Người mời gọi mọi người xa lánh "bóng tối" để đến cùng "ánh sáng."
Xa lánh bóng tối là giã từ môi trường xấu, bạn bè xấu, xa lánh những cơ hội và hoàn cảnh khiến chúng ta phạm tội và đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đến cùng ánh sáng là đến cùng Đức Kitô, đón nhận giáo huấn của Người, để cho Lời Chúa trở thành ngọn đèn dọi bước ta đi; giúp chúng ta nhận ra và tẩy xoá những vết đen trong cuộc đời và giúp ta sống quang minh chính đại.
Lạy Chúa Giêsu, dù chúng con rất ước ao đến cùng ánh sáng nhưng xác thịt yếu hèn vẫn lôi kéo chúng con về với bóng tối.
Xin cho chúng con có đủ bản lãnh và quyết tâm để lìa xa "mực" và sống gần "đèn".
25.Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Xưa kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng bạc châu báu cho tất cả những ai làm đẹp lòng vua. Thế là nịnh thần mọc lên như nấm khắp triều đình.
Các hoàng tử thì xu nịnh để được vua cha ban cho ngai vàng. Các quan trong triều đình thì xu nịnh để được thăng quan tiến chức. Ai cũng huênh hoang cho rằng mình hết lòng trung nghĩa với vua, sẵn sàng hiến mạng mình để bảo vệ nhà vua, để chết thay cho vua.
Nhà vua rất đơn sơ nên dễ tin vào những lời nịnh hót của họ và ban phát cho họ ân lộc dư dầy khiến ngân khố của triều đình cạn kiệt.
Cả triều đình chỉ có quan ngự y là người trung thành. Ông đã nhiều lần can gián vua, thuyết phục vua đừng tin bè lũ xu nịnh, nhưng vua chẳng chịu nghe.
Ngày nọ, vua lâm trọng bệnh thập tử nhất sinh, tính mạng nhà vua chỉ còn được đếm từng giờ. Quan ngự y trình với vua là bệnh vua chỉ có thể chữa lành nếu một vị hoàng tử nào đó hiến tặng trái tim mình làm thuốc cho vua.
Nghe tin nầy loan ra, các hoàng tử trong cung trốn biệt!
Khi không thể tìm được trái tim của hoàng tử làm thuốc, nhà vua hỏi quan ngự y xem có thể sử dụng tim của một người khác làm thuốc được không. Quan ngự y trả lời nếu không có trái tim của hoàng tử thì ít ra phải dùng trái tim của các vị quan lớn trong triều.
Nghe tin đó, các quan lớn rồi các quan nhỏ trong triều đều trốn biệt tăm.
Túng quá, thôi thì dùng tạm trái tim của lính hầu, của công chúa cũng được. Nghe tin đó, cả công chúa, cả lính hầu, cả hàng trăm thê thiếp cũng không còn ai lai vãng trong cung điện nữa. Cung điện thường ngày huyên náo, giờ nầy vắng lặng như bãi tha ma!
Bấy giờ vua chỗi dậy, tỉnh ngộ rồi cười ra nước mắt cho nhân tình thế thái.
Duyên do là quan ngự y và cũng là người trung nghĩa với vua, đã khéo dựng lên kịch bản nầy, đề nghị với vua giả vờ đau nặng, bỏ cơm bỏ cháo, để thử thách lòng người!
* * *
Cuộc đời là thế! Ai có đủ yêu thương để dám hy sinh tính mạng, dám chết thay cho người thân thiết của mình, nói chi đến việc chết thay cho kẻ thù nghịch?
Vậy mà có một Đấng đã hy sinh tính mạng cho kẻ phản bội mình. Để hiểu Đấng ấy đã hy sinh như thế nào, chúng ta hãy trở lại với câu chuyện rắn đồng thời Mô-sê.
Thời ấy, trong hành trình bốn mươi năm trong hoang địa, có lần dân Do-Thái phải lâm cảnh đói khát dày vò nên kêu trách Thiên Chúa và Mô-sê. Thế rồi dân chúng bị rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Người ta lại chạy đến kêu cứu Mô-sê. Bấy giờ Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê đúc con rắn đồng, treo lên trụ cờ cao, để làm phương thuốc chữa rắn cắn. Ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được cứu sống.
Ngày nay, để cứu nhân loại tội lỗi lâm cảnh điêu linh và phải chết, Thiên Chúa không thể dùng rắn đồng làm phương trị liệu mà phải dùng đến một phương thuốc khác, đó là bằng chính Thân Thể Chúa Giêsu chết treo trên thập giá.
"Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời."
Thiên Chúa Cha đã lấy mạng đổi mạng. Lấy sinh mạng vô cùng cao quý của Người Con Một yêu quý để đổi lấy sinh mạng khốn hèn của loài người tội lỗi. Thật là điều không thể tưởng tượng được.
Nhưng tình yêu của Thiên Chúa chưa dừng lại ở đó. Tình yêu cứu độ của Ngài còn vươn lên cao hơn. Không những chỉ trao ban Con Một chết thay cho chúng ta mà thôi, không những chỉ ban cho chúng ta được cùng sống lại với Chúa Giêsu mà thôi, Thiên Chúa Cha còn thương cho chúng ta được cùng lên trời, cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời. Bài đọc thứ hai, bài thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay nhắc chúng ta điều đó: "Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời." (Ep 2, 4-6)
Thế là từ thân phận của tên tử tội đáng phải chết đời đời vì tội lỗi của mình, chúng ta được Chúa Giêsu lấy mạng Ngài đổi mạng cho chúng ta, thứ tha cho chúng ta muôn vàn tội lỗi, ban cho chúng ta được sống lại trong đời sống mới, rồi lại được đưa lên trời để "cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời".
Thật là một tình yêu không còn biên giới.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta cảm nhận thật sâu sắc tình yêu cao vời và sâu thẳm của Thiên Chúa, để sống xứng đáng hơn với tình yêu đó và đừng để công trình cứu chuộc của Ngài hoá ra vô hiệu nơi chúng ta.
26.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.
Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo Hội hằng rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín vững chắc rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế giới đau khổ bệnh tật này qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin Mừng. Không có đoạn văn nào trong Kinh thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức Chúa Giêsu nói với ông cụ Nicôđêmô: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sự sống vinh cửu."
Tình yêu chúng ta đối với tha nhân không phát xuất từ đâu khác hơn là tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta. Tình yêu Thiên Chúa dành cho thế gian này bao la bát ngát đến nỗi Ngài hiến tặng mạng sống mình cho tất cả, chẳng loại trừ ai... Thiên Chúa yêu thương từng người trong chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đi đó ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.
Chính khi nhìn vào thập tự giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên thập giá, thấm đẫm bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới bắt đầu nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả mọi độc ác hận thù ghen ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá, sừng sững giữa trời và đất, trên ngọn đồi Canvê. Một trong những chi tiết đầy ngỡ ngàng nhất về cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu chính là Thập giá nay trở nên bằng chứng tột cùng cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới. Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống, cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.
Bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết dân Do Thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc tình yêu của Thiên Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ hoang tàn của đền thờ và thành thánh. Nhiều ngôn sứ đã lên tiếng kêu gọi thống hối và sửa đổi cách sống, nhưng vẫn hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết, ngay trong những giờ phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa. Lịch sử dân Do thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta hay biết những gì sẽ xảy ra mỗi khi chúng ta phủ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy cũng đem lại cho chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta cũng phải đối diện với việc chọn lựa đón nhận hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta đã tự đặt mình vào một tình thế nguy hiểm là sống chia lìa với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kính trọng tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép uổng tình yêu của Ngài, đi ngược với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể từ chối lòng thương yêu cũng như quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể quay lưng với tình yêu của Thiên Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.
Hôm nay chúng ta đã đi được nửa con đường mùa Chay. Đây là lúc chúng ta duyệt xét lại những dốc lòng hồi đầu mùa Chay, và tự hỏi cuộc sống chúng ta đã hân hoan đáp lại tình yêu Thiên Chúa chưa? Tình yêu của Ngài có tìm được cách diễn tả qua nếp sống chúng ta chưa? Chúng ta đang làm gì để mang tình yêu của Ngài vào cuộc đời của bạn bè chúng ta? Mùa Chay là một lời mời gọi chúng ta bước ra khỏi nơi tối tăm của tội lỗi mà bước vào ánh sáng kỳ diệu của Đức Kitô.
27.Yêu đến quên mình--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Khi yêu, người ta thường đòi hỏi quá cao nơi người mình yêu. Họ đòi người yêu phải chung thủy, phải hy sinh, phải quan tâm. Đôi khi còn đòi hỏi người mình yêu phải đánh đổi cả tính mạng vì yêu.
Có một anh chàng nói với cô gái:
- Nếu mình chia tay em có buồn không?
- Đương nhiên là có
- Buồn đến mức độ nào?
- Đương nhiên là không đến mức độ có thể chết
- Vậy mình chia tay đi“!
Hóa ra tình yêu luôn phải có tính bất tử. Nếu yêu nhau mà không đạt đến mức độ sẽ chết vì thiếu người mình yêu thì chưa phải là tình yêu chân thành. Đó cũng là tình yêu mà Xuân Diệu bảo rằng: “Người đi một nửa hồn tôi chết – Một nửa hồn kia bỗng dại khờ”.
Thế nhưng, có người bảo rằng: “Không phải cứ là tình yêu thì phải vĩnh cửu, phải sống chết ở bên nhau, người ta yêu nhau là để được hạnh phúc bên nhau, chứ không phải để chết bên nhau, nếu chết vì yêu thì không những kẻ đó thật bất hạnh mà còn là kẻ ngu ngốc nhất trên đời”.
Thực ra cái chết ở đây không phải là cái chết chung, cũng không phải là liều mạng chết, mà là một tình yêu dâng hiến để vì người mình yêu có thể làm mọi sự, kể cả hy sinh tính mạng mình.
Một học sinh đã tuyên bố với bạn bè: Cuối cùng rồi cũng có người con gái dám liều mình vì tao. Cả phòng nhao nhao:
- Ai vậy mày, nhỏ nào nói nghe coi?
- Nhỏ Hồng bên lớp sử chứ ai!
- Nhỏ nói gì với mày?
- Nhỏ nói “Yêu ông ư? Tui thà nhảy lầu còn hơn”.
Cái chết nhảy lầu này không phải là cái chết vì yêu mà là cái chết chốn chạy tình yêu. Một cái chết không phải vì tình mà là sợ tình. Họ chạy chốn tình yêu chứ không tự nguyện đến với tình yêu. Chỉ có trong tình yêu người ta mới dám sống chết cho nhau. Có yêu nhau người ta mới hiến dâng mạng sống để mang lại hạnh phúc cho người mình yêu. Có yêu nhau người ta mới chẳng quản ngại khó khăn đến mức độ: “Yêu nhau mấy núi cũng trèo – Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.
Đây chính là tình yêu cao vời của Đức Ky-tô dành cho nhân loại. Ngài không trốn chạy khi gặp gian truân. Ngài không lùi bước khi đối đầu với hiểm nguy. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng, cho dù phải trả giá bằng cái chết đau thương. Chính Ngài đã đề cao tình yêu tự hiến này khi Ngài nói: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu dám thí mạng vì bạn hữu”. Ngài đã dốc cạn đến giọt máu cuối cùng cho người mình yêu khi lưỡi đòng đâm thấu trái tim Ngài, “nước và máu chảy ra”. Ngài đã hoàn tất một đời người khi dâng hiến chính thân mình làm giá chuộc cho người mình yêu.
Thiên Chúa vẫn yêu bạn, yêu tôi. Ngài vẫn tiếp tục thi thố tình yêu của mình trên từng cuộc đời chúng ta. Giá máu cứu chuộc Ngài vẫn đổ ra để mang đến ơn giao hòa cho chúng ta. Thánh giá Ngài vẫn mang lấy tội lỗi nhân loại khi Ngài tiếp tục hiến tế chính mình trên bàn thờ để sinh ơn cứu rỗi cho loài người chúng ta.
Xem ra chúng ta đều là những con nợ ân tình của Chúa. Chúng ta nợ Chúa vì nhiều lần Chúa đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta, nhiều lần Chúa chịu đóng đinh vì tội lỗi chúng ta. Xin cho chúng ta biết trả lại món nợ cho Chúa khi chính mình cũng chịu hiến tế hy sinh cho anh em. Xin loại bỏ nơi chúng ta tính hưởng thụ, thói ích kỷ để sống một đời yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen.
28.Lời xin lỗi--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có câu chuyện kể rằng: vào buổi tối có hai mẹ con đang ăn tối trong nhà hàng. Thình lình có bà cụ bán vé số tới mời mua, người mẹ nhẹ nhàng mỉm cười và mua cho bà 2 tờ. Bà thấy thằng nhóc kế bên bà nựng nó tí. Thế là nó la lên và hất bà cụ ra tỏ vẻ sợ hãi đứng dậy. Bà mẹ thấy thế xin lỗi bà cụ rối rít. Bà cụ gật đầu và lủi thủi đi trong sự im lặng. Có 1 điều làm tôi khá bất ngờ, nếu đứng ở khía cạnh khác, người mẹ đã la đứa con hay tỏ vẻ khó chịu. Nhưng không, bà mẹ nói với con trai: "Nếu sau này mẹ già mẹ ra ngoài đường bán vé số, bị người ta làm như vậy con sẽ làm gì?". Cậu con trai bối rối im lặng và thủ thỉ xin lỗi mẹ, mai mốt con không làm như vậy nữa. Hai mẹ con mỉm cười và tiếp tục ăn tiếp.
Cách giáo dục của bà mẹ này rất hay, không la con, nói từ tốn nhẹ nhàng nhưng làm cho cậu nhóc đau, và hiểu được những gì mình đã gây ra là không tốt. Người Việt Nam hôm nay rất ngại nói lời xin lỗi. Có thể vì kiêu căng không dám cúi mình nhận lỗi. Có thể là thiếu giáo dục nên không nhận ra cái sai để nói lời xin lỗi.
Nhiều gia đình đang đánh mất hạnh phúc khi vợ sai vẫn cố gào to tiếng để lấn át chồng. To còi là thắng mà! Nhiều người chồng sai vẫn cố dùng thói vũ phu để đè bẹp người khác. Thói gia trưởng mà! Nhiều đứa con sai vẫn cố tình ngang bướng xem thường bố mẹ chẳng bằng tui! Mình giỏi hơn ông bả mà!
Cuộc sống sẽ hóa giải mọi hiềm khích nếu những người sống bên nhau biết nói lời xin lỗi. Đừng để khi đứng trước quan tài người thân mới nghẹn lời nói trong nước mắt. “Con nợ mẹ cha một lời xin lỗi” như bao bạn trẻ mà tôi đã thường gặp...
Thánh Phaolo nói anh em đừng mắc nợ nhau điều gì ngoại trừ tình yêu. Nếu xét về tình yêu ta thấy mình còn nợ nhiều. Nợ ai đó một bổn phận, một công việc. Nợ ai đó một trách nhiệm mình chưa hoàn thành. Nợ ai đó một lời xin lỗi vì mình quá thờ ơ. Nợ ai đó một lần phản bội, phụ bạc với người hết mình yêu ta.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một của Ngài cho thế gian. Nhưng xem ra chúng ta còn nợ Ngài rất nhiều lời “xin lỗi Chúa” vì những lần xúc phạm đến Ngài, vì những lần không chu toàn bổn phận với Ngài và vì những lần ta phản bội để chạy theo thú vui trần thế.
Thiên Chúa ngàn đời vẫn thế, vẫn yêu là yêu cho đến cùng. Ngài vẫn tiếp tục thi thố tình yêu của mình trên từng cuộc đời chúng ta. Giá máu cứu chuộc Ngài vẫn đổ ra để mang đến ơn giao hòa cho chúng ta. Thánh giá Ngài vẫn mang lấy tội lỗi nhân loại khi Ngài tiếp tục hiến tế chính mình trên bàn thờ để sinh ơn cứu rỗi cho loài người chúng ta.
Xin cho chúng ta biết trả lại món nợ cho Chúa khi chính mình cũng chịu hiến tế hy sinh cho anh em. Xin loại bỏ nơi chúng ta tính hưởng thụ, thói ích kỷ để sống một đời yêu thương và phục vụ tha nhân. Đồng hãy hãy biết noi gương Ngài là sống yêu thương, sống phục vụ với hết khả năng và trách nhiệm để khi đi đến cuối cuộc đời có thể nói như thánh Phaolo tông đồ: “Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha” (2Tm 4,1). Xin cho mùa chay thánh này giúp chúng ta sửa đổi và canh tân theo như lòng Chúa mong ước. Amen.
29.Như hoa hướng dương--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một thời người ta đề nghị loại bỏ bài hát "Tình yêu Thiên Chúa" của nhạc sĩ Thể Thông ra khỏi danh mục những bài được phép hát trong phụng vụ. Họ cho rằng: không thể ví tình yêu Thiên Chúa như tình yêu của đôi nam nữ hẹn hò nhau giữa đêm trăng sao được. Tình yêu trăng sao là tình yêu mờ ảo, là những quan hệ không rõ ràng và bất chính. Một tình yêu đích thực phải quang minh chính đại, phải rõ như ban ngày mới đích thực là tình yêu. Bao lâu tình yêu đang còn che dấu, chưa công khai hoá tình yêu, bấy lâu vẫn còn là những quan hệ bất chính và tội lỗi.
Thường tình là thế! Ai cũng mong có được những tình yêu trong sáng, đơn sơ, chân thành. Ai cũng mong cuộc đời không còn mảng tối cần che đậy hay lấp liếm. Ai cũng muốn đến với nhau trong tình bạn trong sáng, trong tình người chân thành. Thế nhưng, "lực bất tòng tâm". Con người đến với nhau vẫn còn đó bóng tối của lợi dụng, của ích kỷ. Tình yêu con người sao vẫn còn đó những mảng tối của giả dối, thiếu chân thành. Vẫn còn đó những người thích đi đêm với nhau trong những cuộc tình vụng trộm, trong những phi vụ làm ăn bất chính. Một người con gái bình thường không thể đón nhận lời tỏ tình đại loại như: "anh yêu em, nhưng đừng cho ai biết". Thế nhưng, thực tế vẫn còn đó những cô gái tham tiền nên chấp nhận sống trong bóng tối làm vợ nhỏ, vợ bé của các đại gia. Ở đời vẫn còn đó những mối tình vụng trộm của "chồng chung vợ chạ", của vô luân thất đức. Xem ra thế lực của bóng tối quá mạnh đến nỗi đã bao trùm khắp mọi nơi và phủ kín nhiều tâm hồn con người. Nhiều người đã mất ý thức về tội. Nhiều người đã chai lỳ trước tiếng nói lương tâm. Bóng tối đã làm cho con người mất đi sự trong sáng, đơn sơ và chân thật của tâm hồn
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: "ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng". Đó là những tâm hồn đang chết dần, chết mòn vì thiếu ánh sáng, thiếu sức sống của chân thiện mỹ. Họ tự nguyện đi vào bóng tối cũng đồng nghĩa với việc khước từ sự sống để đi vào cõi chết. Adam - Eva đã rời áng sáng để lẩn trốn trong bóng tối khiến họ mất bình an, tìm lá che thân, và bản án đau khổ và sự chết đã lận vào kiếp người.
Muôn loài luôn hướng tìm về ánh sáng. Quy hướng về ánh sáng vạn vật sẽ xanh tươi. Sống dưới ánh sáng vạn vật sẽ phát triển đúng theo chủng loại của chúng. Con người được tạo dựng để trở thành ánh sáng cho trần gian, nhưng con người lại tìm về bóng tối sẽ trở thành vong thân. Con người sẽ đánh mất tính bổn thiện của thuở ban đầu tạo dựng. Con người tự nguyện nghiêng chiều và chạy theo bóng tối tội lỗi để thoả mãn dục vọng đê hèn, thoả mãn tính xác thịt yếu đuối, con người đang đánh mất dần căn tính của mình.
Mùa chay mời gọi chúng ta nhìn lại mình đang ở trong ánh sáng hay trong bóng tối u mê? Tâm hồn tôi có thực sự được mở rộng cho ánh sáng của Chúa chan hoà khắp tâm hồn, hay đang bị che kín bởi những thói hư tật xấu?
Chúng ta hãy thử đến bệnh viện của Chúa, để kiểm điểm lại mình, để được Chúa chữa lành và sửa đổi cho tốt hơn. Chúng ta có mang những bệnh tật tâm hồn cần sửa đổi trong mùa chay thánh này hay không? Như một tác giả vô danh đã kể lại một lần đến bệnh viện của Chúa để kiểm tra sức khỏe và phát hiện rằng mình đang bị bệnh. Ông kể rằng:
Khi đo huyết áp cho tôi, Chúa cho biết tôi đang thiếu Lòng Nhân Ái. Và khi lấy nhiệt độ, nhiệt kế đã nhảy vọt đến 400 độ Ích Kỷ.
Điện tâm đồ cho biết trái tim thiếu những rung động Yêu Thương, một số mạch máu bị tắc nghẽn, vì lớp cholesterone Ghen Ghét.
Tới khoa chỉnh hình, tôi khám phá mình đi lại khó khăn.
Tôi không thể tiến lại ôm người anh em vì lòng Kiêu Hãnh cản ngăn, cánh tay của tôi bại xuội.
Chứng Cận Thị làm mắt tôi không thể nhìn xa hơn cái vẻ bên ngoài của người khác.
Quen những tiếng ồn ào thường ngày, tai tôi bị Điếc Đặc, không còn nhạy bén với những tiếng thì thầm yêu thương.
Con xin cảm ơn Ngài, Bác Sĩ Giêsu, vị Lương Y nhân hậu! Chúa đã chữa trị cho con miễn phí hoàn toàn vì lòng thương xót.
Con cam kết khi xuất viện sẽ tiếp tục dùng toa thuốc của Chúa, một cách trung thành và đều đặn, nhờ những dược liệu tự nhiên, Chúa hướng dẫn cho con, trong sách thuốc Tin Mừng của Chúa.
Mỗi buổi sáng, khi thức dậy, con sẽ dùng ngay một chén trà Tạ Ơn. Trước khi làm việc, con sẽ nhớ uống một thìa súp Nụ Cười Thân Ái!
Và mỗi giờ, con sẽ uống thêm một viên Nhẫn Nại, với một ly nước Nhân Bản, và lạy Chúa, khi về lại nhà, con sẽ chích một mũi thuốc Tình Thương trợ lực, rồi trước khi đi ngủ, con sẽ uống thêm 2 viên Lương Tâm Bình An.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy để cho ánh sáng của Chúa chan hoà trong tâm hồn để đẩy lùi, xua tan những ký sinh trùng đang làm băng hoại tâm hồn chúng ta. Nguyện xin Chúa là Đấng đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài luôn gìn giữ, che chở chúng ta trong ân thánh của Ngài. Amen.
30.Phận người yếu đuối và tội lỗi--John W. Martens--Văn Chính, SDB chuyển ngữ
“Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3,17).
Một trong những thời điểm đen tối nhất trong lịch sử dân Do thái chính là việc thành phố Giê-ru-sa-lem và Đền thờ bị những đội quân của đế quốc Babylon phá hủy, rồi tiếp sau đó là cuộc lưu đày sang Babylon. Theo người ghi chép biên niên sử, biến cố này chẳng phải là chuyện mà Thiên Chúa muốn, “nhưng là vì dân chúng cứ tiếp tục nhạo báng các sứ giả của Thiên Chúa, coi thường Lời của Người, nhạo báng các tiên tri, cho tới khi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đổ lên dân của Người, và vô phương cứu chữa.” Chỉ khi đó, quân đội Babylon mới đến tấn công họ.
Quân Babylon ngạo mạn đến đánh chiếm đất Ít-ra-en. Trẻ già đều bị họ giết mà “chẳng chút xót thương, bất kể là phụ nữ, người già hay kẻ yếu đuối”. Tài sản và của cải bị cướp được chuyển hết về Babylon; Đền thờ bị thiêu hủy bình địa, các bức tường của thành Giê-ru-sa-lem bị triệt hạ; còn những ai không bị giết thì bị bắt đi lưu đày ở Babylon và trở thành những nô lệ.
Thế rồi bên bờ sông Babylon, họ ngồi than khóc tội lỗi của mình, và Thiên Chúa lại đến với dân Do thái bị lưu đày, và yên ủi họ rằng sẽ đến một ngày họ sẽ được trở về quê hương của mình. Sau khi vua Cyrus của Ba Tư cùng quân đội của nhà vua chiến thắng đế quốc Babylon, dân Do thái được phép quay trở về quê hương của mình để xây dựng lại, và điều này đã “hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa đã nói qua miệng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a”. Thế là dân Do thái đã bước từ nơi tăm tối sang miền ánh sáng.
Chuyện Thiên Chúa đến cứu độ dân của Người như vậy chẳng phải do dân Do thái giờ đây đã biết sống công chính, nhưng vì Thiên Chúa dủ lòng thương xót dân của Người. Qua Ét-ra, Nê-hê-mia và Hắc-gai, chúng ta biết dân Do thái cần phải quay trở về và tuân giữ những lề luật của Thiên Chúa mà đã họ lãng quên, canh tân đổi mới cuộc sống và tái xây dựng lại Đền thờ đã bị phá hủy. Thiên Chúa không chờ đợi cho đến khi họ phải đạt tới một cuộc sống công chính trước đã, nhưng chỉ cần hội đủ những điều kiện để sự công chính có thể nở hoa.
Đây chính là điều mà tác giả thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô đã nói tới. Thánh Phao-lô đã nói về việc Thiên Chúa đến với con người “ngay cả khi chúng ta phải chết vì tội lỗi của mình”. Thiên Chúa đến để ban thưởng cho chúng ta, không phải vì chúng ta đã đạt tới một mức độ công chính cần thiết nào đó, nhưng vì Thiên Chúa xót thương và Người muốn đặt chúng ta “đồng ngự trị trên nước trời với Đức Ki-tô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô”. Tất cả những chuyện này đã xảy ra như vậy là do sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô viết rằng: “Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Điều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa”. Ơn cứu rỗi là một quà tặng, là một ân ban. Vì thế, chúng ta được dạy rằng tất cả chúng ta được cứu độ là “nhờ đức tin” (pistis) vốn tự nó là một quà tặng. Ơn cứu rỗi không thể là chuyện do chúng ta đạt được, do mua bán hay mặc cả được, nhưng đức tin là sự đáp trả thiết yếu về phía con người. Đức tin là “quà tặng nhưng không” của Thiên Chúa, cho phép chúng ta sống đúng theo hình ảnh của Thiên Chúa, vì chúng ta “được tạo dựng trong Đức Giê-su Ki-tô để làm các việc lành (ergois agathois) mà Thiên Chúa đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra thực hành”.
Trong Tin mừng theo Thánh Gio-an, Đức Giê-su nói với chúng ta rằng “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”. Hạn từ “tin” trong Ga 3,16 ở đây là động từ của “pistis”, cùng một hạn từ được dịch ra là “đức tin” ở trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô. Tất cả những ai tin (pisteuôn) vào Người Con của Thiên Chúa, thì đang làm cho mình trở thành hình ảnh của Thiên Chúa để được thông dự vào sự sống vĩnh cửu, hay theo lối nói của thư Ê-phê-xô, là “đồng ngự trị trên nước trời” với Đức Ki-tô.
Chính Đức tin này cho phép chúng ta (dẫu chúng ta còn sống trong tình trạng tội lỗi) vẫn có thể nhìn ra rằng “sự sáng đã đến trong thế gian” và “những ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động (erga) của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa". Thư gửi tín hữu Ê-phê-xô thì nói rằng chúng ta được tạo dựng để làm “các việc lành”, trong khi Tin mừng Gio-an lại nói những ai sống trong “sự sáng” thì thực thi “những việc làm” của họ trong Thiên Chúa. Cũng một hạn từ Hy lạp (ergon) được dùng cho “các việc lành” trong thư gửi Ê-phê-xô và “những hành động” trong Tin mừng Gio-an.
Ơn cứu rỗi của Thiên Chúa là ơn mà chúng ta không xứng đáng, lại được khởi sự với đức tin. Nhưng sự đáp trả của chúng ta trước ân ban của Thiên Chúa sẽ được thể hiện qua các việc lành, “để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa.” Những việc làm này tất nhiên không phải để chúng ta xứng đáng được ơn cứu rỗi, nhưng là sự đáp trả trong niềm vui trước ân ban cứu độ do lòng thương xót của Thiên Chúa.
Suy tư: Bạn hãy suy nghĩ xem cách nào để ân ban nhưng không của Thiên Chúa này sẽ giúp bạn thực hiện được những việc lành.
31.Chuyện thưởng phạt--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Chúa hạ con xuống rồi Người lại nâng con lên. Chúa dìm con xuống hố sâu và Người lại nhấc con lên…Bàng bạc đâu đó cái ý tưởng này trong các lời ca, trong nhiều cái nhìn tu đức và cả trong một vài kiểu cách diển tả của Thánh Kinh, đặc biệt là Cưụ Ước. Khi dân được tuyển chọn bất trung, phản bội, Thiên Chúa trừng phạt dân, thông thường bằng cách đày ải dân vào kiếp nô lệ ngoại bang để bày tỏ cơn thịnh nộ. Nhưng rồi sau đó Người lại giải thoát dân để bày tỏ lòng thương xót.
Lời mạc khải là Lời của Thiên Chúa, nhưng lại được trình bày bằng ngôn ngữ nhân loại, qua những con người cụ thể của một thời gian, không gian, nền văn hoá nhất định. Chắc chắn khó có thể tránh khỏi chuyện gán cho Thiên Chúa những tâm tình, ý nghĩ, đường lối, cung cách hành xử mang đậm nét con người. Vì thế chuyện “suy bụng ta ra bụng người” một cách nào đó vẫn bàng bạc ít nhiều trong các trang Kinh Thánh.
Thiên Chúa đày ải và lại giải phóng dân để dân không chỉ để cho dân nhận ra quyền năng và tình yêu của Người mà còn để dân phải gắn bó, trung thành với Người ư? Không lẽ chuyện vừa đấm vừa xoa, chuyện kế sách “cây gậy và củ cà rốt”, chuyện dìm người ta xuống nước cho gần chết ngạt rồi sau đó thả tay ra cho người ta hít thở để người ta rối rít cám ơn mình… cũng là “chuyện tình” giữa Thiên Chúa với nhân loại ư? Chắc chắn tuyệt đối không phải thế. Nếu giả như Thiên Chúa cũng hành xử với con người theo kiểu cách mà nhiều nhà cầm quyền khôn ranh, hay nhiều thể chế độc tài gian ác đã hành xử thì Người chỉ đáng cho chúng ta kính sợ hay kinh sợ mà không bao giờ đáng được kính mến.
Để có cái nhìn tương đối khá chính xác và “gần” chân lý hơn, thiết tưởng không gì hơn hãy lắng nghe những lời do miệng Con Thiên Chúa làm người phán: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3,15).
1. Thiên Chúa không phải là tác giả của sự dữ. Là Đấng toàn thiện, nên sự dữ không thể và không bao giờ do Thiên Chúa gây ra. Thế mà con người rất nhiều khi gặp phải sự dữ thì lại gán ghép cho Thiên Chúa. Xưa kia, khi đi trong hoang địa, dân Chúa đã phản loạn và khi rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người thì người ta cho rằng Thiên Chúa trừng phạt họ bằng cách “cho” rắn bò ra cắn chết họ. Cái ý nghĩ về chuyện “trời phạt” đã từng có trong tâm thức của con người xưa nay. Nhờ lời mạc khải, đặc biệt là lời hoàn hảo của Đấng Cứu độ, chúng ta mới biết rằng Thiên Chúa không phải là ông thần thích báo thù hay trừng phạt. Tuy nhiên, có nhiều lúc Người lại “để” cho sự dữ xảy ra mà không ra tay ngăn cản để cảnh tỉnh con ngưòi về tình trạng tội lỗi của họ hoặc để thanh luyện tình yêu của họ đối với Người, giúp họ ngày càng yêu mến Người cách vô vị lợi và chân thành hơn.
Không kể những sự dữ mang tính mầu nhiệm mà ta không thể suy thấu, thì có thể nói hầu hết các sự dữ xảy ra là do hậu quả của tội lỗi của con người gây ra cho nhau hay cho chính bản thân mình. Con người ta, khi “chẹt chân thì dễ há miệng” và “hữu sự thì dễ vái tứ phương”. Như thế, những sự dữ vẫn có đó ý nghĩa của nó với kiếp người chúng ta. Những sự khốn khó ở đời này vẫn còn đó vai trò của người thầy dạy giỏi. Cho dù đôi khi cái khó bó cái khôn, nhưng sự thường thì “gian nan rèn nhân đức”. Dưới khía cạnh nhân bản thì gian khổ là cơ hội giúp ta rèn luyện sự nhẫn nại, sự bền chí…còn dưới chiều kích đức tin, thì gian khổ giúp ta biết khiêm nhu và tín thác vào tình yêu và của Thiên Chúa. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.” (Ep 2,8-9)
2. Thiên Chúa là Đấng đầy lòng xót thương. Có thể nói đây là ý chính của phần Phụng Vụ lời Chúa mà Hội Thánh dọn cho chúng ta trong Chúa nhật IV Mùa Chay B này. Trong cảnh tha hương lưu đày, dân Chúa xưa luôn hướng về Đền thánh Giêrusalem. Khi bày tỏ nổi lòng của dân: “Giêrusalem, lòng này nếu quên người thì lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm” (Tv 136), tác giả Thánh Vịnh mời gọi dân suy đến tấm lòng của Thiên Chúa. Các sứ ngôn sau khi cảnh báo dân về tội phản nghịch của họ cùng với các hình phạt sẽ phải hứng chịu thì liền sau đó thường bày tỏ lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa. “ Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình, vì cơn giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi chúng” (Hs 14,5). Cố nhạc sĩ họ Trịnh đã từng ca thán: “Chúa đã bỏ loài người. Phật đã bỏ loài người”. Thế nhưng Kinh Thánh khẳng định rằng dù cho có người mẹ nào nhẫn tâm bỏ con mình đi nữa thì Thiên Chúa sẽ chẳng bao giờ bỏ loài người. Thánh Phaolô nói với tín hữu Ephêsô: “Thưa anh em, Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” (Ep 2,4).
Thiên Chúa không thể bỏ con người. Một lời khẳng định xem ra khá hàm hồ, nhưng thật chính xác vì “Thiên Chúa không thể chối bỏ chính Người, vì Người là Tình Yêu (x.1Ga 4,8). Dù trời cao hay đất thấp, dù thiên thần hay thiên phủ…không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu (x.Rm 8,39). Như thế, nếu chúng ta vẫn chìm trong bóng tối thì chính chúng ta phải chịu trách nhiệm vì đã khước từ ánh sáng.
Thiên Chúa là Đấng ân thưởng. Và chính chúng ta là những người luận phạt. Nếu chúng ta chọn ánh sáng tức là tin vào Chúa Giêsu và sống theo lời của Người thì chúng ta được Thiên Chúa ân thưởng. Trái lại nếu chúng ta chối từ Chúa Kitô thì chúng ta, chứ không ai khác, là người kết án, luận phạt chính bản thân mình.
32.Tin Chúa--Lm. Vũ Đình Tường
Cuộc sống có niềm tin là cuộc sống hạnh phúc. Không phải hạnh phúc lúc nào cũng giống nhau. Có lúc ta vui nhiều, lại có lúc ít vui. Có niềm vui dạt dào lại có niềm vui nhè nhẹ, thoang thoảng. Vui dù ít, dù nhiều đều là hạnh phúc, kết quả của niềm tin. Niềm tin nơi mỗi người lại khác nhau. Có người đặt niềm tin trên thành công, kẻ khác trên vật chất, kẻ khác nữa trên danh vọng, kẻ khác dựa vào tôn giáo. Bởi đặt niềm tin khác nhau nên niềm vui cũng đến rồi đi khác nhau. Niềm vui qua mau bởi chính nguồn gốc của niềm tin không vững chắc. Gốc không vững, chắc chắn ảnh hưởng đến ngọn, hoa lá cành. Như thế cần đi tìm một nguồn gốc vững chắc cho niềm tin vì niềm tin bảo vệ hạnh phúc. Niềm tin vạch đường, vẽ ra viễn tượng cho cuộc sống tương lai. Người ta sống thực hiện, mong đạt được giấc mơ của niềm tin. Đạt được ước mơ của niềm tin mang lại hạnh phúc, nguồn vui. Hạnh phúc bền lâu nếu gốc của niềm tin vững chắc. Hạnh phúc mau tàn, chóng qua nếu gốc của niềm tin biến chuyển ảnh hưởng bởi điều kiện xã hội.
Niềm tin vững chắc là niềm tin tôn giáo bởi niềm tin này cao hơn vật chất nên vật chất dù biến đổi cũng tác hại rất ít đến niềm tin tôn giáo. Có nhiều tôn giáo khác nhau. Về phương diện đạo đức tôn giáo thường có những điểm giống nhau nhưng niềm tin tôn giáo không giống nhau. Căn bản là niềm tin mà niềm tin khác nhau tạo thành tôn giáo khác nhau. Bởi khác biệt về niềm tin nên mới có tôn giáo này, tôn giáo kia. Chính vì khác biệt mà cần chọn lựa, không phải chọn lựa tôn giáo thích hợp cho mình mà chọn lựa tôn giáo có nguồn gốc vĩnh cửu bởi ai cũng đi tìm hạnh phúc vĩnh cửu.
Nicodemus sanh ra trong gia đình quí tộc, giầu có, thành công trên đời. Ông chan chứa danh vọng, đầy quyền chức thuộc hàng lãnh đạo. Bao kẻ ước mơ mong sống thử một ngày như ông nhưng không được trong khi đó Micodemusvui với những gì mình có nhưng vẫn thấy thiếu hạnh phúc vĩnh cửu. Cuộc sống đạo đức không thoả mãn ước mơ tâm hồn. Có lẽ ông có cảm tình với Đức Kitô khi Ngài thanh tẩy đền thờ, dùng giây thừng đuổi kẻ buôn bán.
Ba lần ông đến gặp Đức Kitô mong tìm nơi Ngài điều đang thiếu. Lần đầu có lẽ vì sợ tai tiếng, giữa đêm ông gõ cửa xin gặp Đức Kitô. Trong cuộc đối thoại ông không hiểu làm sao người lớn lại có thể tái sanh trong nước hằng sống. Đức Kitô đã mở trí ông. Có thể nói ông được thanh tẩy không phải bằng nước mà chính Lời Chúa soi sáng tâm hồn. Lần thứ hai trước toà ông công khai lên tiếng phản đối cách phán xét, xử án bất công với Đức Kitô. Kêu gọi họ phải tuân thủ luật lệ hiện hành. Lần thứ ba là kinh nghiệm đau đớn nhất. Ông cùng với bạn mình hiện diện tháo đinh Đức Kitô.
Nicodemus hy vọng gì nơi người bị đóng đinh, chết trên thập giá?
Qua cái chết của Đức Kitô mắt ông nhìn thấy ánh sáng chân lí và bắt gặp niềm vui bất diệt nơi Ngài. Tình thương Đức Kitô dành cho những phụ nữ đứng bên đường than khóc làm mềm tim ông. Lòng nhân ái Đức Kitô dành cho kẻ trộm biết thống hối tăng thêm đức tin cho ông. Lòng mến Đức Kitô dành cho bà Veronica trao khăn cho Chúa lau mặt thôi thúc tâm hồn ông tin Chúa. Chính ông rủ người bạn quí tộc Joseph of Arimathia đến chôn cất Đức Kitô. Người bạn này dành phần mộ riêng mình cho Đức Kitô. Nocodemus tặng Đức Kitô đủ số lượng mộc dược cho việc an táng.
Nicodemus có được niềm tin không phải lúc Đức Kitô đang lừng danh nhưng lúc Đức Kitô chết đau thương trên thập giá. Chính đau khổ của thập giá mở mắt đức tin ông.
33.Cho là cõi phúc--Lm. Vũ Đình Tường
Cuộc đời chúng ta vừa học cho vừa học nhận. Nhận để làm giầu và đồng thời cũng là nhận để cho. Nếu chỉ cho mà không nhận hẳn nguồn cho sẽ cạn dần, cuối cùng không còn bao nhiêu để cho. Vì thế cần phải vừa cho vừa nhận. Nói về của cải vật chất trần thế là thế. Tuy nhiên lí luận hợp lí này không đúng với tình yêu, tình thương và lòng mến con người dành cho nhau. Tình yêu, lòng mến, tình người, con người dành cho nhau không bao giờ cạn. Trái ngược hẳn với của cải vật chất trần thế. Trong tình yêu càng cho đi nhiều chừng nào thì nguồn tình yêu càng triển nở chừng đó. Nguồn tình yêu sung mãn đến độ không bao giờ cạn. Nguồn tình yêu khô cạn, héo hắt là nguồn tình yêu tích trữ. Càng tích trữ nguồn tình yêu càng khô cạn. Tựa như giếng nước trong. Một khi không múc nước, nước giếng vẫn không dâng cao hơn, vẫn không tràn đầy trái lại nước giếng trở nên hôi, bẩn, chứa nhiều vi khuẩn trở thành nước giếng tù hãm, ô nhiễm, độc hại. Trái lại nước giếng trong sáng nhờ có người múc nước hàng ngày. Múc cạn hôm sau nước lại tràn đầy. Cứ thế nước giếng đủ nước cung cấp cho cả làng. Mọi người được tươi mát nhờ nước giếng được múc cạn mỗi ngày.
Tình yêu tích trữ chính là tình yêu tù hãm, loại tình yêu ô nhiễm này độc hại vì nó chỉ biết yêu những gì thuộc về nó mà loại bỏ tình yêu không thuộc về nó. Loại bỏ tình yêu khác chỉ là bước đầu. Bước tiếp theo của loại bỏ chính là tàn phá, giết chết các tình yêu không thuộc về nó. Nguồn gốc của độc tài phát sinh, thúc đẩy bởi loại tình yêu loại bỏ. Những gì không thuộc về nó thì không thể tồn tại. Nếu tồn tại nó không sống yên ổn nên cần loại trừ, triệt tiêu. Nói cách khác tình yêu tích trữ là tình yêu ích kỉ. Bản tính ích kỉ là luôn lo thu quén, gom góp cho chính nó và yêu quí những gì thuộc về nó. Yêu chính nó trên hết mọi sự nên nguồn tình yêu nào không thoả mãn tính ích kỉ đều bị loại trừ.
Trong tình yêu, cho đi chính là làm cho tình yêu triển nở, làm giầu tình yêu bằng cách cho đi. Đây không phải là phí phạm mà chính là tạo cơ hội thuận tiện cho tình yêu nở hoa, kết trái. Hoa trái của tình yêu không thành tựu nơi người cho hay nguồn tình yêu xuất phát. Hoa trái tình yêu thành tựu nơi người lãnh nhận, nơi nguồn tình yêu được trao đến. Dâng hiến, cho đi làm giầu cho tình yêu, tạo cơ hội cho tình yêu đơm hoa, kết trái.Theo nghĩa này trao tặng tình yêu chính là cho sự sống, đổi mới, làm cho tốt hơn. Đây chính là ý nghĩa câu Kinh Thánh,
Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban cho Con Một Ngài, để những ai tin vào Người Con sẽ không phải chết nhưng nhận được sự sống trường sinh. Gioan 3,16.
Cho đi những gì dư thừa, không thích, dù vẫn còn tốt, vẫn mang lại lợi ích cho người nhưng có khác chi nhờ người dọn rác dùm. Cho như thế không phải là cho một cách chân thành. Cho đi điều mình yêu quí, ưa thích, ấp ủ thật lòng như thế mới thật sự là cho đi. Ngoài ra đều không phải là chân thành. Dâng hiến tình yêu một cách tự nguyện, không điều kiện ràng buộc, không mong đền đáp chính là mối tình Thiên Chúa trao tặng nhân loại. Vì trao tặng nên không ép buộc phải đón nhận. Ai đón nhận thì được hưởng hoa trái tình yêu Chúa ban, đó là sự sống mới, sự sống trường sinh. Ai từ chối đồng nghĩa với từ chối sự sống trường sinh. Bởi vì từ chối sự sống trường sinh đời sau nên người ta tranh nhau tìm kiếm sự sống tạm bợ đời này. Để được sống an nhàn người ta bắt người khác phục vụ họ. Để được sống hoan lạc người ta đi tìm lạc thú qua mọi thú vui trần thế. Để được phục vụ cần có người phục vụ và tất nhiên cần tiền chi tiêu cho người cung cấp dịch vụ. Tranh nhau vì tiền từ đó mà ra. Nguồn gốc chính là từ chối sự sống đời sau, sự sống trường sinh Chúa ban. Vì thế Kinh thánh ghi tiếp những ai từ chối đón nhận Con Một Thiên Chúa là tự mình chọn sự sống đời này để rồi chết trong tuyệt vọng. Nói cách khác là tự chọn cuộc sống ngắn ngủi đời này. Chọn sống trong sợ hãi, u sầu vì sợ thần chết đến bất tử.
Chọn tin Con Một Thiên Chúa hay chọn từ chối không tin cùng sống trong một xã hội, một thế giới nhưng có sự khác biệt. Kitô hữu tin vào Thiên Chúa nên học từ Thiên Chúa là cho đi để được nhận lãnh. Hành động bác ái, yêu thương chính là cho đi để tình yêu được đong đầy.
34.Đón nhận ánh sáng--Peter Feldmeier--Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
“Thiên Chúa yêu trần gian đến độ trao ban chính con một yêu dấu của Ngài” (Ga 3,16)
Có một đội bóng rổ khá nổi tiếng ở Denver Hoa Kỳ đã chọn câu Kinh thánh Ga 3,16 để quảng bá thương hiệu cho mình. Cầu thủ Tim Tebow còn cho xăm câu Kinh thánh đó trên khuôn mặt, sát dưới đôi mắt của anh ta. Đây là câu Kinh thánh được trích dẫn trong bài Tin mừng hôm nay: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban con một, để ai tin vào con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Đó là lời huấn dụ Đức Giêsu ngỏ trao cho Nicôđêmô, khi Ngài khải thị về ánh sáng: “Ánh sáng đã đến trong thế gian” (3,19).
Ngài còn chỉ dẫn cho ông biết, là người ta phải được sinh ra từ trên cao. Nicôđêmô lắc đầu không hiểu. Ngài hướng dẫn tiếp, là con người phải được tái sinh bởi nước và Thần khí. Lại một lần nữa, Nicôđêmô ngơ ngác chẳng hiểu tý nào.
Làm sao Nicôđêmô, và ngay cả chúng ta, có thể hiểu và thoát ra khỏi bóng tối? Trong đáp án cuối cùng, Đức Giêsu đã nói cho Nicôđêmô: “ Như Môsê đã giương cao con rắn đồng trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải bị treo thân như vậy, để những ai tin vào Ngài sẽ có được sự sống đời đời”. Sau này, như được nhắc đến trong Tin mừng Gioan, Đức Giêsu tiếp tục giải trình: “Khi các ông treo Con Người lên, các ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu (8,28)”, và Ngài tiếp tục vén mở sứ mạng cứu thế của Ngài: “ Khi tôi được giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12,32). Ở đây, Đức Giêsu nói về Thập giá của Ngài như là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa và là biểu tượng ơn cứu rỗi cho mọi người.
Nhưng điều gì khiến Thập giá minh thị sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa và lôi cuốn chúng ta? Nguyên do nào để khi chúng ta nhìn lên Thập giá, chúng ta được cứu chữa? Đối với Đức Giêsu, Thập giá chính là “Giờ” và “Vinh quang” của Ngài” (Ga 13,23; 17,1). Thập giá là sự diễn bày sâu sa nhất tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. “Thiên Chúa yêu thế gian đến độ trao ban chính con một của Ngài”. Đức Giêsu đã tự hiến thân, đã dâng trao cho chúng ta trọn vẹn, và trên Thập giá Ngài biểu tỏ ánh sáng của tình yêu linh thánh Thiên Chúa ban trao cho con người. Ánh sáng và vinh quang ở đây chính là hành vi tự hiến, tự biến mình ra hư không. Ngài trở nên quà tặng vô giá để ban trao cho ta. Đấng Cứu thế trên Thập giá đã bày tỏtình yêu thâm sâu tuyệt vời nhất, và lôi kéo chúng ta đến với Ngài. Nhưng chúng ta phải làm gì để đáp lại tình yêu đó?
Tin mừng hôm nay vạch dẫn cho chúng ta một phương thức: Đó là Tin vào Ngài. Tin vào Thiên Chúa và Tin vào tình yêu của Thiên Chúa là câu trả lời duy nhất. Nhưng tin ở đây không phải là một hành động suy lý. Những lý lẽ thần học khiến đầu óc chúng ta dễ chấp nhận và khẳng quyết “Đức Giêsu là Chúa”. Nhưng đây không phải là thái độ của Đức tin. Ngay cả ma quỷ cũng chấp nhận sự thật về uy quyền của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và chúng run sợ trước uy quyền đó (Giacôbê 2,19). Đức tin mà Chúa Giêsu mời gọi, thách đố chúng ta một cách thẳng thắn, đó là “Tin Vào” (Pisteu) Ngài. Đây là một tư thế nội tâm, một hành trình tiến sâu vào trong qũy đạo tình yêu của Thiên Chúa và phó thác trọn vẹn cho Ngài: “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ thầy cũng sẽ ở đó (Ga 12,26)”.
Trong Tin mừng Gioan, Thánh sử nêu bật hai chủ đề chính “Tin” và “ Yêu”. Hai phạm trù này không thể tách rời nhau. “Tin” là đi vào quỹ đạo của Đức Giêsu, đón nhận quà tặng vô giá nơi Ngài, hiểu biết Ngài và sống sung mãn tình yêu trong Ngài. “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy(15,9)”. Ngài còn dặn dò các môn sinh: “ Như Thầy yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau (13,34)”.
Bạn đã từng trao tặng ai một món quà gì hay chưa, không phải chỉ là món quà vật chất, nhưng quý giá hơn, là chính món quà tinh thần? Ví dụ, có ai xúc pham đến bạn, bạn tha thứ cho họ, tha thứ vô điều kiện và tha thứ hoàn toàn,tận sâu từ trong đáy lòng? Có bao giờ bạn đã cho đi, cho đi chính con người của bạn, đến độ quên đi chính mình? Có bao giờ bạn để cho tình yêu linh thánh chiếm ngự tâm hồn,khiến bạn không còn nghĩ gì tới mình nữa, và hoàn toàn để tình yêu ấy chiếm đoạt? Bạn đã từng làm như thế chưa? Khi bạn đã trải nghiệm việc thực hành như vậy, thì quả thật, bạn đang chạm đến mầu nhiệm Thập giá.
Thập giá là biểu tượng tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa. Ai nhìn lên Thập giá và tin vào Ngài sẽ có sự sống đời đời. Chúng ta hãy học nơi thái độ đức tin của Nicôđêmô. Sau khi được Chúa khải thị về vinh quang Thập giá, ông đã tin. Từ một người biệt phái, ông đã trở nên môn đệ, và ông đã liều lĩnh giang rộng vòng tay để ôm đón xác Chúa từ trên cao Thập giá, đem đi chôn cất. Dưới chân Thập giá, Nicôđêmô đã diễn bày đức tin của mình.
35.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Trong cái rủi lại có cái may. Từ một thực tại xấu, Thiên Chúa có thể rút ra một thực tại tốt. Từ cuộc đổ vỡ trong công cuộc tạo dựng nhân loại, Thiên Chúa lại tái tạo nó đẹp đẽ hơn theo hình ảnh Con Một Người là Chúa Kitô. Tái tạo hay phục hồi là một đề tài lớn của Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay và Phục Sinh. Nhưng động lực tình yêu khiến Thiên Chúa thực hiện việc tái tạo này mới là cao điểm suy niệm. Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua biến cố lịch sử Người giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ, nhưng đó chỉ là hình bóng tiên báo tuyệt đỉnh tình yêu qua hành động Thiên Chúa “sai Con của Người đến thế gian, để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).
1. Lịch sử Israel: yêu cho roi cho vọt (bài đọc Cựu Ước – 2 Sb 36:14-16.19-23)
Một đoạn sách Sử biên niên tiêu biểu như bài đọc Cựu Ước hôm nay cũng đủ để phác họa tất cả lịch sử dân Chúa với ba nét chính: Israel bất trung với Thiên Chúa và không chịu hối cải – Thiên Chúa trừng phạt họ, thường là họ bị phát lưu hoặc bị lân bang đánh phá – Thiên Chúa thương xót tha thứ và tái thiết Israel. Lịch sử dân Chúa không chủ yếu xây dựng trên những cột mốc năm tháng, nhưng trên mối quan hệ yêu thương thăng trầm và đổi thay giữa Thiên Chúa và dân Israel. Lịch sử khởi đầu bằng một sự tuyển chọn từ phía Thiên Chúa. Người đã kêu gọi Áp-ra-ham làm tổ phụ của một dân riêng với hy vọng dân này sẽ luôn luôn nhìn nhận Người là Đức Chúa của họ và phụng thờ Người, đồng thời tuân giữ luật pháp Người ban cho họ là Mười điều răn. Mà đã tuyển chọn và kêu gọi thì cần phải có sự đáp lại của Israel. Do đó, mỗi khi dân Chúa quay mặt về phía các tà thần và không đáp lời gọi sống theo luật Chúa là họ đã lỗi phạm sự trung thành đối với Người. Với thân phận làm Cha, Thiên Chúa muốn con cái Người luôn luôn ngoan ngoãn nên mới sửa dạy, sửa dạy bằng những hình phạt nhằm đánh thức lương tâm và giúp họ sống theo đường lối của Người. Việc sửa dạy này đòi hỏi kiên nhẫn và đầy lòng bao dung khoan thứ. Ta có cảm tưởng Thiên Chúa chạy đua với lỗi phạm của loài người. Tội lỗi loài người càng nhiều thì lòng nhân từ thứ tha của Chúa càng tăng gấp bội. Điều này thánh Phao-lô đã phát biểu trong thư gửi tín hữu Rô-ma: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (5:20).
Tuy nhiên ta cũng đọc thấy trong lịch sử dân Chúa không biết bao lần Người đã trừng phạt Israel. Phải chăng Thiên Chúa ghét bỏ Israel? Không bao giờ. Trái lại những trừng phạt ấy luôn luôn nhằm hai mục đích. Về phía Thiên Chúa, chúng là dấu chỉ biểu lộ lòng thương xót của người Cha nhân từ không bao giờ nỡ hủy diệt hay loại bỏ những gì Người đã tuyển chọn. Về phía loài người, trừng phạt của Chúa nhắm mục đích nhắc nhở kêu gọi họ hãy bỏ đường tà mà trở về sống theo luật pháp Chúa. Cha mẹ nuông chiều con cái, chúng sẽ dễ hư mất. Trái lại, răn bảo, la mắng hoặc đôi khi đánh đòn sẽ là những phương tiện nhắc nhở chúng sống cho đúng theo ý tốt của cha mẹ. Cũng vậy, những lần dân Chúa bị ngoại bang xâm chiếm và bắt đi làm nô lệ là những lần giúp họ nhìn lại lỗi lầm bất trung của họ và lối sống đi ngược với Lề Luật. Những khổ đau nhục nhằn của kiếp sống lưu đày là những ngọn roi tuy làm cho người ta đau đớn nhưng lại đầy yêu thương và nhân từ của vòng tay người Cha hoang đàng về tình thương yêu con cái.
Để hiểu rõ hơn mục đích của những trừng phạt này, ta cứ đọc kỹ ba đoạn Kinh Thánh trong bài đọc Cựu Ước hôm nay. Đoạn thứ nhất (2 Sb 36:14-16) cho thấy lỗi lầm to lớn của dân Israel làm cho Thiên Chúa “bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa”. Đoạn tiếp theo (2 Sb 36:19-21) cho thấy mức độ vô phương cứu chữa. Làm sao có thể tái thiết Giê-ru-sa-lem và nhất là thoát ách nô lệ của vương quốc Ba-tư! Đoạn thứ ba (2 Sb 36:22-23) ghi lại sự kỳ diệu của việc Thiên Chúa can thiệp. Ai có thể ngờ được Thiên Chúa dùng chính bàn tay của kẻ thù Israel để tạo điều kiện và hô hào dân Israel xây dựng Nhà Chúa tại Giê-ru-sa-lem? Nhất là lời động viên dân Chúa trong sắc chỉ của vua Ky-rô càng khiến ta suy nghĩ: “Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên…!” Rõ ràng là Thiên Chúa không “quá giận mất khôn” như ta nghĩ. Nhưng Đấng thấu suốt lòng dạ con người biết con cái mình sẽ hối lỗi ở mức độ nào của sự trừng phạt. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã nói đến cái biết này của Thiên Chúa: “Cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn” (2 Sb 36:21). Đất có được nghỉ một thời gian thì sau đó mới có thể trồng trọt phì nhiêu. Cũng vậy, những năm tháng lưu đày sẽ là thời gian để Israel tăng triển lòng tin và trung thành với Thiên Chúa. Đó cũng chính là điều thường xảy ra trong cuộc đời tín hữu. Gian nan cuộc đời thường là những nhắc nhở hoặc chuẩn bị ta thêm lòng tín thác nơi tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
2. Thiên Chúa định nghĩa tình yêu là gì (bài Tin Mừng – Ga 3:14-21)
Con người tốn bao nhiêu giấy mực để định nghĩa tình yêu mà cũng chẳng nói hết được ý nghĩa của nó. Còn Thiên Chúa có lối định nghĩa tình yêu hoàn toàn khác, nhưng lại vô cùng sâu sắc và thực tế. Tình yêu chỉ có thể định nghĩa đầy đủ bằng hành động, chứ không thể diễn tả bằng lời nói suông. Cho nên đối với Thiên Chúa, yêu là ban tặng. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
Thiên Chúa yêu thương Israel nên đã cứu họ thoát khỏi cái chết đời này, cái chết trong nô lệ cho ngoại bang, như bài đọc I hôm nay đã nhắc tới. Đó là hình bóng nói đến tình yêu của Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại đang bị kiềm tỏa do cái chết đời đời bởi tội lỗi. Thiên Chúa yêu nhân loại nên tìm đủ mọi cách để cứu vớt nhân loại khỏi cái chết đời đời ấy. Với dân Israel, Người dùng vị thủ lãnh của nước Ba-tư để giải phóng dân Người và tái thiết Giê-ru-sa-lem. Còn với toàn thể nhân loại, Thiên Chúa đã trao nộp Con Một là Chúa Kitô cho họ, để Ngài phải hy sinh mạng sống mà cứu họ khỏi cái chết vĩnh cửu. Trên thế gian, người ta yêu thương và tặng quà, có thể là những món quà thật đắt tiền, nhưng chẳng ai dám lấy mạng sống con ruột mình để làm quà tặng cả. Vậy mà Thiên Chúa đã làm như thế. Với Người, Con Một thật đáng quý giá chừng nào, nhưng Người lại đánh đổi để lấy lại nhân loại, như thế đủ biết Người yêu thương nhân loại đến mức ta không thể lấy gì mà đo lường được. Món quà càng trân quý đối với người tặng bao nhiêu thì tình yêu của người tặng dành cho người được tặng càng lớn lao bấy nhiêu.
“Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã phục hồi mọi sự”, đó là một luận đề chính trong giáo lý của thánh Phao-lô. Không những Chúa Kitô đã khởi đầu công cuộc phục hồi cho ta danh nghĩa làm con Thiên Chúa nhờ cuộc Thương khó và Phục sinh của Người, Người còn trở nên gương mẫu và nguyên lý phục hồi quyền dưỡng tử của ta. Nói khác đi, chẳng những ta được làm con Thiên Chúa nhờ Bí tích Rửa tội, mà ta còn được cùng đồng hành với Chúa Kitô để sống tình con cái với Thiên Chúa là Cha của Chúa Kitô và của ta nữa. Chúa Kitô là sự thật và ánh sáng. Sự thật ấy cho ta biết Thiên Chúa yêu thương ta đến độ hy sinh Con Một vì ta. Ánh sáng ấy là gương mẫu và dẫn dắt ta sống như con cái Thiên Chúa. Do đó để kết thúc cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa Giê-su đã khẳng định: “Kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:21). Nghĩa là nếu ta muốn sống đúng với Sự Thật là Thiên Chúa yêu thương ta, thì ta hãy đến với Ánh Sáng là Chúa Giê-su, để tất cả đời ta, lời nói, việc làm, tư tưởng đều được diễn tiến trong Thiên Chúa.
3. Qua Chúa Kitô, Thiên Chúa biểu lộ tình yêu của Người dành cho ta (bài đọc Tân Ước – Ep 2:4-10)
Thánh Gio-an diễn tả tình yêu của Thiên Chúa là việc trao ban Con Một, còn thánh Phao-lô lại muốn nói cách thức Thiên Chúa yêu thương ta qua cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Kitô. Hai nhà thần học tiên khởi của Kitô giáo cùng nhìn một vấn đề, nhưng dưới khía cạnh khác nhau. Nhưng cả hai đều muốn nói lên một điểm chung: Thiên Chúa rất mực yêu thương và giàu lòng thương xót. Tuy nhiên thánh Phao-lô muốn khai triển về phía con người được lãnh nhận tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa đã cho ta là những kẻ đã chết vì sa ngã của tổ tông lại “được cùng sống với Đức Kitô”. Đây chính là điều ta cần phải suy nghĩ để biết cách đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Vì yêu ta nên Thiên Chúa mới tạo điều kiện cho ta “được cùng sống với Đức Kitô”, nghĩa là cùng với Chúa Kitô làm một cuộc biến đổi, một cuộc sống mới. Chúa Kitô đã khai mào cho một cuộc Tạo dựng Mới. Trong cuộc Tạo dựng Mới này, “chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:10). Như vậy là thánh Phao-lô đã cho ta thấy rõ ra phải làm gì rồi, nghĩa là ta phải “sống mà thực hiện công trình tốt đẹp” của Thiên Chúa, tức công trình cứu độ của Người. Mỗi ngày sống của ta là một ngày ta thực hiện một chút công trình cứu độ của Chúa nơi ta. Cứ thế, sau khi ta đi hết những ngày trên trần gian này, ta sẽ đạt tới đích là “được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giê-su trên cõi trời” (Ep 2:6).
4. Sống Lời Chúa
Càng gần lễ Phục Sinh, Phụng vụ Lời Chúa càng cho ta thấy rõ hơn vai trò cứu độ của Chúa Giê-su Kitô. Người đã lấy tất cả cuộc đời Người để nói cho ta biết Thiên Chúa yêu mến và muốn cứu độ ta. Người mời gọi ta đến với Người để bắt đầu một hành trình sức sống mới, sống như “tác phẩm Thiên Chúa đã dựng nên trong Đức Kitô”. Mời gọi này quả thực là một thách đố cho ta nếu ta muốn thành tâm đáp lại. Tuy nhiên ta cũng phải ý thức rằng được mời gọi làm cuộc hành trình sức sống mới này còn là một “ân sủng” Thiên Chúa ban cho ta vì Người yêu thương ta. Ân sủng là do Thiên Chúa, nhưng lòng tin là đáp lại từ phía chúng ta vậy.
Suy nghĩ: Chúa Giê-su lập đi lập lại nhiều lần: “Ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. Điều này có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi đã sống niềm tin này như thế nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã sai Con Một giáng trần để thực hiện công trình kỳ diệu là cho loài người được hòa giải với Chúa. Xin ban cho toàn thể dân Chúa khắp hoàn cầu được lòng tin sống động, để hăm hở đón mừng lễ Vượt Qua sắp tới. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật IV mùa Chay).
36.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Thiên Chúa yêu thương đến độ, ban Con Một Người vì tất cả chúng ta.
Kính thưa quý anh chị em,
Ban tặng là cách cụ thể biểu lộ tình yêu của người này đối với người kia. Nó là ngôn ngữ biểu tượng chứng thực người đó đã bước ra khỏi mình để gắn kết với người kia.
Quà tặng luôn là tình yêu, là hiện thân của người yêu, nên thật vô giá, thật đáng trân trọng. Định giá quà tặng tình yêu dựa trên giá trị vật chất, thương mại là sỉ nhục và xúc phạm đến người yêu thương mình.
Tuy nhiên, một người yêu thương thật lòng, sẽ dành phần tốt nhất, giá trị nhất, dành cả bản thân làm quà tặng cho người họ yêu thương. Yêu là dám hy sinh tất cả, dám chết cho người mình yêu:
“Vì thương con, Chúa chết ô nhục trên thánh giá, trái tim mở ra những giọt máu cuối cùng, là bằng chứng Chúa đã yêu hết mình” (Vì thương con, Kim Long).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay loan báo một Thiên Chúa yêu thương bằng việc làm, nghĩa là, không viển vông, trìu tượng, rất cụ thể và hiệu quả. Người trở nên “quà tặng tình yêu” cho cả thế gian, để nhờ Ngài, nhân loại được sống và sống dồi dào.
Thiên Chúa tình yêu là quà tặng duy nhất, nhưng thể hiện theo cách thức riêng của mỗi Ngôi trong mầu nhiệm cứu độ: Chúa Cha là Đấng ban tặng, Chúa Con gởi quà cứu chuộc, Chúa Thánh Thần ban quà thần hóa.
Bài đọc I, trích sách Sử Ký, ghi lại những mốc lịch sử và giải thích lý do tại sao sảy ra biến cố đó. Bài sách thánh, vừa là bản cáo trạng tội ác của dân, là nguyên cớ cho việc họ bị trừng phạt, vừa là lời tuyên xưng Thiên Chúa, Đấng từ bi nhân hậu, không hành xử theo điều gian ác của dân, nhưng tạo nhiều cơ hội, sai nhiều sứ giả, giúp dân nhận ra tội lỗi của mình, mà hoán cải canh tân, để được hưởng ơn chúc lành và được sống.
Mục đích của trích đoạn sách thánh là nhấn mạnh quyền năng yêu thương của Thiên Chúa trên thế gian tội lỗi. Khi yêu thương và tha thứ, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách lạ lùng hơn cả.
Bài đọc I cho cái kết có hậu, đó là, ngay trên đất lưu đày, Chúa dùng Ky-rô, vua dân ngoại, trả tự do, an ủi, khuyến khích, dân Chúa hồi hương, sống an cư lạc nghiệp và tái thiết đền thờ.
Con người và hành động của Ky-rô được xem như món quà Chúa Cha ban tặng Israel, vì Người yêu thương họ rất nhiều.
Thật, Cha yêu thương chúng con vô cùng, đã chuẩn bị quà tặng tình yêu từ đời đời và hôm nay, chọn Ky-rô làm hình ảnh tiền trưng của Đấng cứu thế, để khi tới thời viên mãn, Cha sai Con Một làm Đấng cứu thế.
Bài Tin Mừng là một mạc khải lớn về Cha, Đấng giầu lòng xót thương, đi đến mút cùng tình yêu nhân hậu, muốn cho con người tham dự vào sự sống thần linh, nên bằng muôn vàn cách thế chuẩn bị họ đón nhận mầu nhiệm lớn lao: sai Con Một giáng trần vì tất cả chúng ta.
Khi ban Người Con ấy, Cha muốn Người sống trọn thân phận con người như chúng con, ngoại trừ tội lỗi. Cái chết vâng phục của Giê-su là con đường mở vào sự sống thật: “Cha cho chúng con được cùng sống với Đức Kitô trên trời” (Ep 2, 5 – 6).
Hình ảnh con rắn đồng được treo cao trên hoang địa là dấu chỉ sự chữa lành trong Thiên Chúa. Hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được chữa lành.
Khi đặt rắn đồng cạnh thập giá Đức Kitô, mới thấy cái chết của Giê-su là tuyệt đối cần thiết: Ai nhìn lên thập giá mà tin, thì được sống muôn đời (cf. Jn 3, 14 – 15).
Rắn đồng trong hoang địa chỉ giữ vai trò “gợi” lên niềm tin, còn thập giá ban tặng đức tin là bảo chứng vững bền của ơn cứu độ. Máu và nước tuôn trào từ trái tim Giê-su phát sinh các bí tích, nhằm lôi kéo mọi người đến cùng trái tim rộng mở của Đấng cứu thế, thì muôn đời kín múc tận nguồn ơn cứu độ.
Theo cách thức riêng, Giê-su gởi quà tặng cứu độ trong hành động tự hiến: Vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Máu ấy làm thành giao ước vĩnh cửu, có sức tẩy rửa lương tâm chúng khỏi sự chết, mà phụng thờ thiên Chúa hằng sống. Hy tế thập giá là bằng chứng Chúa đã yêu hết mình.
Quà tặng của Thánh Thần là gì ?
Thưa: là thực hiện ý muốn cứu độ của Cha trong Đức Kitô. Nhờ quyền năng sáng tạo, Ngài đã làm cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết, tháp nhập kẻ tin vào mầu nhiệm tử nạn và Phục Sinh như một ấn tín đợi ngày thân xác được sống lại hiển vinh. Và đang khi chờ đợi niềm hy vọng hồng phúc, ngày trở lại của Chúa Giê-su, Thánh Thần cho chúng ta được hưởng trước lương thực bởi trời, là Lời và Mình Máu Thánh Chúa.
Cha ban tặng Con Một, không phải để lên án, luận phạt, nhưng để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ.
Vậy, chỉ cần tin và hành động theo đức tin thì được sống muôn đời !
Thưa anh chị em,
Niềm hy vọng được sống đời, không miễn chuẩn người môn đệ quên lãng bổn phận trần thế, trái lại, thúc dục họ chu toàn một cách có trách nhiệm và hoàn hảo hơn những bổn phận thuộc đấng bậc mình.
Chu toàn bổn phận, không vì miễn cưỡng, nhưng vui tươi cần mẫn dưới cái nhìn và sự hiện diện của Chúa, mới làm đẹp lòng Chúa, cụ thể:
Cha mẹ nên thánh trong đời sống gia đình, tạo môi trường sống chan hòa yêu thương cho mỗi thành viên. Gia đình anh chị em phải trở nên tổ ấm yêu thương, đùm bọc lẫn nhau trong tình hiệp thông liên đới: con cái thảo hiếu, vợ chồng thương yêu nhau.
Sống với những người xung quanh, kitô hữu phải chứng tỏ khả năng yêu thương và sống thuận hòa. Nhất thiết, họ phải trở nên men, nên muối, nên ánh sáng cho những người xung quanh: “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau” (Jn 13, 35).
Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần tình yêu, dạy chúng con học biết yêu thương, nhất là sống yêu thương như Chúa đòi hỏi, góp phần làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho chúng con. Amen!
37.Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người--Lm. Anthony Đinh Minh Tiên
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.
Con người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại sao một Thiên Chúa tốt lành lại để con người phải chịu những hậu quả thảm khốc như thế?” Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào Thiên Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không có lòng thương xót.
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn tiến trình giáo dục con người của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách cuối cùng để con người nhận ra lầm lỗi của mình và để ngăn ngừa con người khỏi hư mất đời đời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô xác quyết Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua biến cố Đức Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để chúng ta có thể đạt được Ơn Cứu Độ là sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình. Mục đích của Ngài không là để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con mà được Ơn Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiến trình giáo dục của Thiên Chúa.
1.1/ Ngài dạy dỗ và cảnh cáo con người:
- Con người phạm nhiều tội và nhiều lần. Sách Sử Biên Niên chỉ nói cách tổng quát các tội: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Jerusalem ra ô uế.”
- Sai nhiều ngôn sứ đến cảnh cáo: Con người đã được Thiên Chúa dạy dỗ qua Lề Luật, họ đã biết những gì họ phải làm và hậu quả họ phải chịu nếu không giữ cẩn thận các Lề Luật. Tuy nhiên, vì tình thương, “Thiên Chúa vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người.”
1.2/ Ngài sửa phạt dân như lời Ngài đã cảnh cáo:
- Sau khi Thiên Chúa kiên nhẫn dạy dỗ dân qua Lề Luật và các Ngôn-sứ, và họ cố chấp không chịu nghe lời, Thiên Chúa dùng Vua Canđê như chiếc roi để sửa phạt dân: “Đức Chúa để cho vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào tay vua Canđê. Quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba-tư ngự trị.”
- Mục đích của việc sửa phạt là để cho dân nhận ra tội lỗi và hậu quả của nó, chứ không phải để thỏa mãn tính nóng giận mà để cho chết. Nếu Thiên Chúa không sửa phạt, dân chúng sẽ chết hết trong tội của họ. Khi Thiên Chúa sửa phạt, một số sẽ nhận ra tội lỗi, và bắt đầu cuộc hành trình trở lại với Ngài, để được Ngài xót thương. Như vậy, hình phạt cần thiết để tạo nên sự thống hối ăn năn, và để ngăn ngừa dân khỏi các hình phạt nặng nề hơn, nhất là cái chết.
1.3/ Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương:
- Thiên Chúa xót thương vì Ngài là Cha: Khi dân biết nhận ra tội của họ và thực lòng ăn năn thống hối, Thiên Chúa tha thứ và cứu dân khỏi hình phạt họ đang chịu. Ngài xót thương vì Ngài là Cha, và không một người cha nào muốn con mình phải hư mất. Ngài hoàn lại tất cả những gì con cái Israel đã mất: quê hương, Đền Thờ, và Lời Hứa với các Tổ-phụ.
- Thiên Chúa có toàn quyền trên tất cả quyền lực của thế gian: Điều này chứng tỏ qua các sự kiện: Ngài dùng Vua Babylon như chiếc roi để sửa phạt dân; khi dùng xong, Ngài bẻ gãy chiếc roi bằng việc trao đế quốc Babylon vào tay Cyrus, Vua Ba-tư. Chính Vua này lại trở thành khí cụ Chúa dùng để phóng thích dân Do-thái, cho về để tái thiết lại quốc gia và Đền Thờ. Điều này đã được Thiên Chúa báo trước qua lời ngôn sứ Jeremiah; để khi xảy ra, dân chúng biết đó không phải là chuyện tình cờ, nhưng đã được xếp đặt trước bởi Thiên Chúa, để họ tin vào Ngài.
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu.
2.1/ Thiên Chúa tỏ tình yêu cho con người qua Đức Kitô:
- Đức Kitô đến để lấp đầy khỏang cách xa lạ giữa con người và Thiên Chúa: Tội lỗi làm con người mặc cảm và xa lánh Thiên Chúa; Đức Kitô đến để mời gọi con người quay về với tình yêu Thiên Chúa.
- Ngài nâng cao địa vị và phẩm giá con người: “Họ là con Thiên Chúa và Ngài yêu thương họ.” Tội lỗi làm mất đi các đặc quyền con người được hưởng như một người con của Thiên Chúa. Đức Kitô đến để phục hồi cho con người quyền làm con. Dụ ngôn Người Cha nhân hậu dẫn chứng rõ ràng điều này.
- Ngài hướng lòng con người lên những điều tốt lành thánh thiện và giải thóat con người khỏi xiềng xích của tội, Ngài cho con người cảm nghiệm được tình thương Thiên Chúa.
- Ngài cứu con người khỏi chết và cho con người được cùng sống lại với Đức Kitô. Chính do Đức Kitô mà con người đạt được đích điểm Thiên Chúa đã phác họa cho con người.
2.2/ Chúng ta được cứu độ là do bởi ân sủng của Thiên Chúa:
- Hoàn toàn là do bởi ân sủng của Thiên Chúa: Con người không thể làm gì để đạt Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội, và như một hậu quả, tất cả đều đáng phải chết. Nhưng tại sao con người không phải chết là hoàn toàn do lòng thương xót của Thiên Chúa: Ngài cho Người Con Một của mình để chết thay cho nhân lọai. Điều Thiên Chúa mong muốn là con người hãy tin vào Người Con; và qua niềm tin này, con người sẽ nhận được Ơn Cứu Độ: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.”
- Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa: “Chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” Như nguyện ước của các cha mẹ khi sinh con ra đời, họ muốn con nên người và đạt được mọi kỳ vọng họ đặt nơi con. Để giúp con đạt được những kỳ vọng này, họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Thiên Chúa cũng thế, Ngài cho con người ra đời là muốn tất cả đạt tới Ơn Cứu Độ. Để giúp con người đạt đích, Ngài sẵn sàng hy sinh tất cả, ngay cả việc cho đi chính Ngài qua Mầu Nhiệm Thập Giá.
3/ Phúc Âm: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người.
3.1/ Nhờ Đức Kitô chịu khổ hình, con người được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa Giêsu dùng biến cố “rắn lửa cắn dân chết” trong Sách Dân Số, để loan báo trước về Cuộc Khổ Nạn của Người:
- Như nọc độc của rắn làm dân phải chết, nọc độc của tội cũng làm dân phải chết (Num 21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để cứu chuộc con người.
- Điều kiện để được chữa khỏi nọc độc của rắn là phải nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc; điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên Cây Thập Giá và phải tin vào Đức Kitô. Khi nhìn lên Thập Giá, con người phải hiểu được tình thương Thiên Chúa dành cho con người; khi Ngài cho Người Con Một là Ngài cho chính Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
3.2/ Thiên Chúa không kết án thế gian, con người lên án chính mình:
- Tình thương không có chỗ cho buộc tội, kết án: Mục đích của việc Chúa Cha sai Người Con tới là để gánh tội và chết cho con người: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”
- Con người kết án chính mình khi từ chối tình yêu Thiên Chúa, và không tin vào Đức Kitô: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.”
3.3/ Bản án của con người: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.”
- Ánh sáng và bóng tối: Ánh sáng là chính Đức Kitô, là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Khi Đức Kitô đến, Ngài buộc con người phải làm quyết định: tin hay không tin vào Ngài. Bóng tối là tội lỗi, là những cám dỗ bất chính của Satan.
- Con người có tự do lựa chọn: Họ có thể chọn ra ngòai ánh sáng hay ở trong bóng tối, chọn Thiên Chúa hay chọn ma quỉ. Khi con người chọn đàng nào, con người phải chấp nhận hậu quả của nó. Chọn ánh sáng sẽ dẫn con người tới Ơn Cứu Độ; chọn bóng tối sẽ làm cho con người phải chết muôn đời. Con người lên án chính mình bằng ngoan cố ở trong bóng tối.
- Theo Gioan, Thiên Chúa chẳng cần phán xét con người, họ phán xét chính mình. Con người cũng chẳng cần phải đợi Ngày Phán Xét; chính lúc con người lựa chọn ở trong bóng tối là con người tuyên án cho chính mình (Realized eschatology, “phán xét ngay hiện tại” là thế). Phán xét tương lại hoàn toàn tùy thuộc vào phán xét hiện tại.
- Kẻ làm điều gian ác thích ở trong bóng tối, vì sợ nếu ra ngòai ánh sáng, các tội lỗi của mình sẽ bị lật tẩy. Điều này chúng ta dễ nhận ra vì đa số các tội ác xảy ra ban đêm và những chỗ vắng vẻ không người, như lời Tin Mừng hôm nay: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.”
- Ngược lại, người làm điều chân thật lại thích ở trong ánh sáng để tránh mọi nguy hiểm do bóng tối mang lại: “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tiến trình giáo dục của con người giúp chúng ta nhận ra tiến trình giáo dục của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách thế sau cùng Thiên Chúa dùng trong tiến trình giáo dục.
- Ngay cả khi xử dụng hình phạt, tình thương của Thiên Chúa vẫn chiếu sáng. Nếu không có hình phạt, con người sẽ không nhận ra lỗi lầm của mình.
- Cần nhìn toàn thể Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trước khi con người có thể phê bình cách thức của Ngài dùng. Nếu chỉ nhìn vào một biến cố, con người dễ mất niềm tin nơi Ngài.
38.Tình Chúa thương con--Lm. Minh Vận, CMC
Một trong những bài thơ Công Giáo nổi tiếng nhất viết bằng Anh Ngữ là bài "Sự săn đuổi của Thiên Đàng". Tác giả bài thơ đó là Francis Thompson, người đã cố xa tránh Thiên Chúa. Ông so sánh Thiên Chúa như một người thợ săn, săn bắt các linh hồn. Bài thơ đó cũng là câu truyện về cuộc đời của Thompson. Khi còn là một cậu bé, ông có ý định đi tu làm Linh Mục, nhưng vì ông lười biếng, nên cha ông đã ghi tên cho ông học trường thuốc. Sau này ông nghiện thuốc phiện và tật nghiện này đã tàn phá tinh thần lẫn thể xác ông. Ông trở thành kẻ ăn mày la cà các ngõ hẻm, đánh giầy, bán hộp quẹt và giữ ngựa cho người ta để sinh sống. Nhờ một cô bé gái nghèo khó môi giới, Thompson gặp được ông bà Wilfred Meynell. Ông bà Meynell nhận ra Thompson là người có tài và có chí hướng. Họ giúp đỡ ông quay về với Tình Yêu Thiên Chúa.
Ông đã cố tránh né Thiên Chúa ra sao, Ngài đã săn tìm ông thế nào và Tình Yêu Chúa đã bắt được ông làm sao. Đó là tất cả ý nghĩa của bài thơ.
I. TÌNH YÊU CHÚA ĐƯỢC MẶC KHẢI
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc hội kiến giữa Chúa Kitô và Nicodemô trong lúc đêm khuya. Chỉ duy có Thánh Sử Gioan nói về Nicodemô trong 3 trường hợp: Nicôdêmô đến gặp Chúa ban đêm (Jn 3:1-2), bênh vực Chúa khi những người Pharisiêu kết án (Jn 7:50), đem thuốc thơm đến xức xác Chúa (Jn19:39). Ông thuộc phái Pharisieu, là một nhân viên của Hội Đồng Cộng Tọa, bậc Thầy trong dân, Nicodemô cảm phục giáo lý của Chúa và những việc Chúa thực hiện. Nhưng vì sợ đồng bạn, không dám công khai gặp Chúa, ông kín đáo đến cùng Chúa ban đêm và được Chúa mạc khải cho biết, muốn được cứu độ phải tin vào Ngài, phải chịu Phép Rửa, tức là phải được tái sinh bằng Nước và Thánh Linh: "Ai không sinh lại bởi Nước và Thánh Linh sẽ không được vào Nước Thiên Chúa" (Jn 3:5). Đồng thời, Chúa mặc khải cho ông biết về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, luôn theo rõi con người trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Chúa Giêsu đã tự xưng mình là Con Một Thiên Chúa khi nói với Nicodemô: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để tất cả những ai tin Con của Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời" (Jn 3:16). Tình Chúa say yêu mỗi người chúng ta còn được tỏ ra qua lời tiên tri Jeremia và Osê: "Cha yêu thương con bằng một tình yêu vĩnh cửu; nên Cha dủ tình thương mà lôi kéo con lại với Cha" (Jer 31:3). Con người đã bất tuân, cố xa lìa Chúa, đã chống lại Ngài, đã phản bội Ngài; nhưng Chúa vẫn không từ bỏ và để chứng tỏ lòng Ngài thương yêu, Ngài đã sai Con Một Yêu Dấu của Ngài xuống trần gian, chịu chết đền bồi tội lỗi, để cứu chuộc loài người đã hư mất.
Như Thompson, những linh hồn xa tránh Chúa đều bị Chúa săn đuổi để cứu vớt, vì Ngài yêu thương họ. Mỗi người chúng ta đều được Chúa yêu thương, săn đuổi, tìm kiếm trong mọi ngả đường của cuộc sống. Đã bao lần chúng ta phạm đến Ngài, lìa xa Ngài, trốn tránh Ngài, nhưng Ngài vốn theo rõi tìm kiếm, cứu vớt và tha thứ. Chúa Kitô đã dùng nhiều dụ ngôn như Tin Mừng đã tường thuật, để bày tỏ cho chúng ta thấy tình Ngài yêu thương mỗi người chúng ta. Nào dụ ngôn người con phung phá ăn chơi hoang đàng tội lỗi, khi trở về được cha yêu thương tha thứ và mở tiệc mừng. Nào dụ ngôn con chiên lạc, được người mục tử để 99 con lại trên núi, để đi tìm con chiên lạc, khi tìm được, ông vác lên vai vui mừng trở về nhà. Nào dụ ngôn đồng bạc bị mất, người đàn bà thắp đèn tìm kiếm, khi tìm thấy rồi, gọi bạn bè xóm ngõ đến chung vui, vì đã tìm được đồng bạc đã mất.
II. HẬU QUẢ CỦA TỘI PHẠM ĐẾN CHÚA
Adam Evà, nguyên tổ chúng ta phản bội Chúa, xúc phạm đến tình thương của Người, đã chuốc lấy án phạt, tự đẩy mình xa cách Chúa trong kiếp sống lầm than vất vả, mất hết các đặc ân ngoại nhiên và siêu nhiên Chúa ban, linh hồn ra tối tăm u mê, thân xác ra nặng nề, lòng thú lấn thắng lòng thần, thân xác phản bội linh hồn... Ác quả tội lỗi lưu truyền lại cho cả dòng giống.
Cũng như Thompson, cố tình xa tránh Chúa, ông đã phải sống kiếp sống nghèo nàn, vất vả để tìm của độ thân; đam mê nghiện ngập hút xái đã tàn phá cả tinh thần lẫn thể xác, đã hủy hoại cả tài ba, sức lực và chí hướng cao thượng đã được Thiên Chúa phú bẩm. Con người cố chấp trong tội lỗi cũng thế, họ cố tình chống lại Chúa, xa lìa Ngài, bội phản Ngài, khinh dể Ngài, họ cũng tự chuốc lấy án phạt mình bằng một lương tâm cắn rứt, một tâm hồn mặc cảm, một tâm tư nặng trĩu và trở nên nô lệ cho quyền lực tội lỗi và gông cùm hỏa ngục.
III. ĐÁP LẠI TÌNH CHÚA YÊU THƯƠNG
Với lòng thống hối khiêm nhu, ai trong chúng ta cũng đã tự cảm thấy, nhiều lần chúng ta đã phản bội lại tình Chúa yêu thương chúng ta, bằng những tội lỗi xúc phạm đến Người, hoặc những thiếu sót lỗi lầm.
Hay ít ra, chúng ta cũng phải phàn nàn, vì chúng ta chưa sống xứng với những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta, ơn phần hồn cũng như ơn phần xác. Chúng ta chưa sống xứng với Ơn Gọi cao cả chúng ta được làm con Chúa, được nhiều may mắn hơn người khác, được Chúa thương yêu cưng chiều hơn.
Không tội nhân nào không cảm thấy sung sướng, được Chúa tha thứ mọi lỗi lầm, được xóa bỏ mọi vết tích tội khiên, được quên đi những điều phản bội, được giải hòa và được trở lại trong tình thương mến của Chúa.
Không con cái nào lại không cảm thấy hạnh phúc được cha mẹ thương yêu, cưng chiều, săn sóc, gìn giữ, bao bọc, tha thứ mọi lỗi lầm sơ sót làm phiền lòng các ngài.
Đối với Chúa, chúng ta cũng là những tội nhân đã bao lần xúc phạm đến Người, nhưng Chúa vẫn tha thứ, kiếm tìm và đem trở về hưởng tình yêu thương của Người. Chúng ta là những người con đã bao lần làm cho Chúa phải đau buồn vì những lỗi lầm, hay ít ra chưa sống đúng những ơn huệ Chúa ban, chưa đáp lại cân xứng lòng Chúa yêu thương và muôn ơn phúc Chúa hằng tuôn trào xuống trên chúng ta.
Thì Mùa Chay là cơ hội thuận tiện, chúng ta hãy trở về với tình Chúa yêu thương, làm hòa với Chúa để được lãnh ơn tha thứ. Canh tân cuộc sống, sống đẹp lòng Chúa hơn, xứng với tình Người yêu thương chúng ta.
Kết Luận
Để đáp lại tình Chúa yêu thương, chúng ta hãy sống xứng với Ơn Gọi cao cả làm con Chúa, bằng cách luôn sống trong ơn nghĩa Người, bằng tấm lòng người con ngoan thảo luôn làm hài lòng Cha Hiền.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta hiểu biết giá trị cao quí của Ơn Gọi làm con Chúa và luôn trung thành với hồng ân Chúa ban.
39.Niềm tin và hành động--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
Tôi không nhớ đã nghe ở đâu đó câu chuyện kể rằng. Có một người đàn ông lên Thiên đàng gặp Thánh Phêrô và hỏi: Vợ con đã có ở trên này chưa? Thánh Phêrô trả lời là vợ con đã ở trên này rồi. Thế là anh ta nói với Thánh Phêrô: Thế thì con không vào đâu vì con đã sống bao nhiêu năm với nó trên trần gian và chịu muôn vàn tủi nhục vì nó. Giờ lên đây lại gặp nó nữa thì đời con tiêu hẳn rồi. Còn một người đàn ông khác lên Thiên đàng và cũng hỏi Thánh Phêrô câu hỏi tương tự và nhận được câu trả lời là vợ con chưa có trên Thiên đàng. Anh ta nói với Thánh Phêrô rằng nếu vợ con chưa có ở đây thì con cũng không vào đâu vì con không thể sống thiếu vợ con được. Cô ấy và con đã có một cuộc hôn nhân tuyệt vời. Giờ cô ấy ở đâu con sẽ đi tới đó.
Câu chuyện giả tưởng trên đây muốn diễn tả một chân lý tuyệt hảo rằng Thiên đàng hay hỏa ngục chẳng phải là một thực tại xa xăm nào. Thiên đàng hay hỏa ngục là ở đây và bây giờ. Chính chúng ta tự tạo ra Thiên đàng và cũng chính chúng ta tự tạo ra Hỏa ngục. Thiên đàng và Hỏa ngục nếu có thì cũng phải bắt đầu từ ngày hôm nay. Đây cũng là điều mà tôi cảm nghiệm được khi đọc Tin Mừng Chúa nhật IV Mùa Chay năm B. Thánh Gioan nói với chúng ta Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi ban Con Một mình để những ai tin Con Ngài thì không bị hư mất nhưng được sống đời đời. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi. Không cần phải đợi tới ngày cánh chung chúng ta mới bị xét xử mà ngay hôm nay, chúng ta đã bị xét xử rồi. Chúng ta đứng trước lựa chọn hoặc tin vào Thiên Chúa hoặc khước từ Ngài. Tin vào Thiên Chúa chính là tin vào tình yêu và hành động theo tình yêu. Làm như thế, chúng ta sẽ không bị hư mất. Còn nếu không làm như thế, chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Theo Thánh Gioan thì phần nhiều trong chúng ta sẽ khước từ Ngài. Lý do là bởi vì chúng ta chuộng bóng tối hơn ánh sáng. Chúng ta sợ ánh sáng vì những việc làm của chúng ta xấu xa. Chúng ta sợ bị phơi bày sự thật trước Thiên Chúa là ánh sáng vĩnh cửu.
Nhìn vào thực tế cuộc sống, tôi thấy giữa niềm tin và cuộc sống thực luôn có một khoảng cách quá xa vời. Người ta có thể vẫn đi dự lễ, vẫn tham gia các Hội đoàn, nhưng trong cách hành xử với đồng loại thì luôn không ổn tí nào. Chúng ta cũng dễ dàng coi trọng những điều chúng ta cho là linh thiêng nhưng lại bỏ quên thực tại là những con người cụ thể chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Hồi mới ra trường, tôi vào Sài gòn và mua 1000 cây thánh giá gỗ nhỏ để tặng cho các bạn trẻ. Tôi đến Fatima Bình triệu và gặp một Sơ bán hàng ở đó. Số lượng Thánh giá lớn quá nên Sơ đó hẹn tôi đến chiều quay lại. Buổi chiều hôm đó tôi có việc nên 18h00 mới tới được. Sơ đó bảo giờ đó thì con không thể tiếp Cha được vì con phải chầu Mình Thánh Chúa với cộng đoàn. Tôi không hiểu ngày đó làm sao tôi lại có thể nói được một câu mà đến giờ tôi cũng bất ngờ. Tôi bảo Sơ đó rằng liệu Sơ có thể để lại một Giêsu trong Nhà Chầu để gặp một Giêsu giữa đời được không? Sau một chút ngần ngại, Sơ đó bảo tôi rằng thôi được Cha cứ đến. Bất cứ giờ nào con cũng sẵn sàng tiếp Cha.
Đó là một kinh nghiệm gây ngạc nhiên cho chính bản thân tôi. Nhiều khi chính tôi cũng lấy lý do này lý do nọ để từ chối tha nhân. Có những linh mục đã xua đuổi chính con chiên của mình chỉ vì họ đến không đúng ngày tiếp khách, ngày làm việc của ngài. Có những linh mục không kìm hãm được cơn giận dữ của mình nên sẵn sàng lên Tòa giảng để thóa mạ giáo dân. Thật xót xa khi chứng kiến những cảnh tượng như vậy. Làm sao chúng ta rao giảng một Thiên Chúa giàu lòng thương xót khi chính chúng ta lại thể hiện một bộ mặt đầy trái ngược? Làm sao nói về Cứu Độ, nói về Nước Trời, nói về Thiên đàng khi mà những cái nhỏ nhặt nhất chúng ta chưa làm được?
Lạy Chúa, Chúa nhật IV Mùa chay là Chúa nhật của màu hồng, Chúa nhật của niềm vui. Cũng như dân Do Thái xưa vui mừng vì được Hoàng đế Ba Tư là Cyrus cho hồi hương tái thiết Đền Thờ sau bao ngày lưu lạc tha hương, xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm vui vì được Chúa yêu thương mỗi ngày. Nhưng niềm vui ấy chỉ thực sự trọn vẹn khi chúng con thực tâm trở về sống tình huynh đệ chan hòa yêu thương với những người chúng con gặp gỡ trên đường đời. Xin giúp chúng con thực hiện được điều đó hôm nay. Amen.
40.Ánh sáng thật--Lm. Bar. Lê An Phong, SDB
Tin mừng tuần thứ IV Mùa Chay này nằm trong phần mà Thánh sử Gioan nói cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Trưởng lão Nicodemo. Cuộc chuyện trò của Chúa với Nicodemo (Ga 3, 1-13) đề cập đến sự tái sinh trong Chúa Thánh thần như là việc cần thiết để có sự sống mới hay “được vào Nước Trời”. Ở hồi kết (Ga 3, 14-21), câu chuyện đã khép lại với lời mời gọi “nhận biết ơn cứu độ” nơi Con Thiên Chúa, và “tin vào Người” để được sống, như chuyện đã xảy ra thời ông Mose với con rắn đồng được treo cao trong hoang địa.
Thông điệp mà Lời Chúa (Ga 3,14-21) gởi đến cho chúng ta là một lời tỏ bày về chính Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Người qua Đức Giêsu. Đó là mạc khải về một Thiên Chúa Tình yêu. Người yêu “thế gian”, yêu nhân loại, yêu đến nỗi đến trần gian để gặp gỡ họ. Cách thức mà Thiên Chúa thực hiện cuộc gặp gỡ này là việc việc Ngôi Lời nhập thể.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
“Con Thiên Chúa đã làm người”, đã đến trần gian để thực hiện một “cuộc trao đổi diệu kỳ giữa trời và đất”, đã mang đến cho trần gian đang ngập trong bóng tối của sự dữ và tội lỗi một tia hy vọng. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”(Ga 3, 17). Đó cũng là một kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa đã định trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô mà thực hiện, để con người được hưởng nhờ hồng ân cứu độ (x. Ep 1,9). Ai từ chối kế hoạch này, hay là không tin nhận Thiên Chúa tình yêu, không chấp nhận Đức Kitô - Con Thiên Chúa, sẽ lìa xa tình yêu Thiên Chúa và tự nhận lấy “án phạt” đời đời, là sống kiếp kiếp trong “bóng tối” và “sự dữ” (x. Ga 3, 18-19).
Lời Chúa Giêsu nói với ông Nicodemo là một cảnh báo đối với chúng ta trong Mùa Chay: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì họ vẫn tiếp tục làm các việc xấu xa. Một dấu hiệu khác cho ta thấy rằng ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách; còn ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, “để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa (x Ga 3, 19-21).
Chúng ta đang sống trong tình trạng nào: của ánh sáng hay bóng tối, của sự tỏ hiện như những chứng nhân hay là ẩn nấp trong tội tình và sợ sệt vì tâm hồn bất an và vì hành vi bất minh của một kẻ tội phạm?
Dù sao đi nữa, vẫn còn có đó cho chúng ta nhiều “cơ hội” để “làm lại cuộc đời”, vì chính Chúa Giêsu cũng đã nói với Nicodemo: Con Thiên Chúa không đến để luận phạt thế gian nhưng là để giải thoát, đến để mang Tin vui của Yêu thương và Tha thứ. Chúng ta còn có thời gian để ăn năm, sám hối và hoán cải lòng mình.
Lời Chúa kêu gọi chúng ta bỏ đi sự cố chấp, sự ẩn khuất, việc né tránh tiếng gọi lương tâm và bỏ quên luật sống theo Tin mừng. Mến Chúa và yêu thương anh em mình vẫn luôn là con đường chúng ta cần tiến bước để sống ơn gọi làm kitô hữu mọi thời và mọi nơi.
Lời Chúa tiếp tục kêu mời chúng ta bỏ đi con đường sai trái, hòa nhập với Ánh sáng Chân lý là Đức Kitô, tin và sống theo lời Ngài. “Ai sống trong Sự thật thì đến cùng Ánh sáng”. Chúng ta vẫn còn có cơ hội để khám phá Sự thật của Thiên Chúa và sự thật về con người, để sống thật với chính mình, sống thật với anh chị em và với Chúa trong đời thường, giữa bao khó nguy ngập tràn, thử thách, cám dỗ. Trong ánh sáng của Đức tin và hy vọng mà Chúa Kitô đã rọi vào lòng ta, chắc chắn chúng ta có thể làm mọi việc hợp với thánh ý Chúa Cha. Và hy vọng đây cũng chính là niềm vui mà chúng ta có thể cảm nhận được trong hành trình sám hối của Mùa Chay năm nay.
41.Yêu cho roi cho vọt--Lm Trần Bình Trọng
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa có vẻ dữ tợn và hay trách phạt. Chẳng hạn khi dân chúng trở mặt chống lại Người, Chúa cho nước lụt tràn ngập đất đai, ruộng vườn của họ. Khi họ khô! ng tuân giữ giới răn Chúa, Người cho hạn hán tiêu hủy mùa gặt, và những sản phẩm ruộng vườn của họ. Khi dân Chúa bất trung phản nghịch cùng Người, Chúa gửi dịch tả đến miền đất của họ. Khi họ toan bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại lai, Chúa ra tay sát phạt họ, và dùng dân ngoại thi hành hình phạt của Chúa.
Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì hàng ngôn sứ của Chúa liền xuống giọng. Các ngôn sứ bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Vừa khi dân chúng thay đổi cách sống và ăn năn hối tội, thì họ lại được tha thứ và đưa về đất hứa. Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa là một thực tại được thể hiện bằng những việc Người làm trong Thánh kinh. Bài trích sách Biên Niên quyển hai hôm nay là một ví dụ điển hình về lòng xót thương của Chúa. Bài Sách này được viết vào khoảng ba trăm năm trước Chúa giáng sinh, khi tác giả đã có thể nhìn về lịch sử quá vãng, mà dân chúng chồng chất bất trung này lên bất trung khác. Từ lần nọ qua lần kia, họ mần ngơ trước sự hiện diện của các sứ giả của Chúa. Và họ còn bách hại các ngôn sứ và các tổ phụ của Người.
Cho tới lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Người liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Ba-by-lon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá huỷ thành phố, thiêu đốt Đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
Tuy vậy Chúa không nỡ bỏ rơi dân Người. Chúa dùng ông vua ngoại đạo là Ky-rô, vua xứ Ba Tư, để cứu thoát dân Người và đưa họ trở về đất hứa. Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tuỳ thuộc vào Chúa.
Phúc âm hôm nay nhắc nhở cho ta về một tai hoạ xẩy ra cho dân Người trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân riêng của Chúa chối bỏ Người, đi thờ thần ngoại lai và còn đúc bò vàng để thờ, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến giữa họ. Rồi với lòng thương xót, Chúa truyền cho Môsê làm con rắn đồng, treo trên cây gậy để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên con rắn đồng, với niềm tin vào Chúa, thì được chữa khỏi. Đức Giêsu coi việc treo con rắn đồng lên cây gậy như là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời (Ga 3:16). Thánh Phaolô, người am hiểu lịch sử ơn cứu độ trong Thánh kinh Cựu ước đã thốt lên trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay: Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô (Ep 2:4-5).
Người ta có thể nói Thánh kinh Cựu ước gắn liền với lịch sử của dân Do thái. Nói cách khác, cổ sử của họ là Thánh kinh và họ luôn ghi nhớ lời Thánh kinh. Đi tản mát khắp thế giới sau khi Đền thờ bị phá hủy mà họ vẫn ghi nhớ lịch sử của họ, nhất là nhớ ngày lễ Vượt qua. Những chi họ bị thất lạc cả hai ngàn năm bên xứ Ê-thi-óp cận đại (xứ Cút cổ xưa) hay bên Ấn độ mà vẫn nhớ cội rễ của họ, mặc dầu có những người da ngăm ngăm đen mà họ vẫn nhận có máu Do thái và có những người vẫn muốn trở về đất hứa. Vào thập niên cuối cùng của thế kỉ 20, chính phủ Do thái giàn xếp với chính phủ của quốc gia mà họ đang sinh sống, gửi những chuyến bay bí mật chở họ về tái định cư tại Do thái.
Tại sao bị sát phạt như vậy mà họ vẫn tưởng nhớ đến Chúa? Một ví dụ trong đời sống hằng ngày có thể giúp ta hiểu phần nào tại sao bị phạt mà người ta vẫn nhớ đến người ra hình phạt mà không uẫn ức. Có những học sinh đã trải qua chương trình giáo dục nghiêm khắc. Họ vẫn nhắc lại những mẩu chuyện như xưa bị thầy giáo nọ dùng thước kẻ đánh vào bàn tay, bà sơ kia bắt quì mà họ vẫn có thể cười được vì bây giờ họ thành công trên đường đời, có địa vị trong xã hội, có việc làm tốt, có thể kiếm được việc mới và tái tạo cuộc sống mới ở nơi khác.
Không phải chỉ có dân Chúa trong Cựu ước mới phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa. Lịch sử dân Chúa thời Tân ước cũng không hơn gì, có khi còn tệ hơn nữa. Dân mới được chọn cũng chồng chất từ tội này đến tội khác, lại còn phạm thêm những tội mới như tội phá thai, hoặc những tội mà người ta phạm qua phương tiện truyền thông như phim ảnh, báo chí, truyền hình và ngay cả mạng tin. Có những tội mà người ta còn công khai phạm, không còn phải giấu giếm vì người ta coi là một lối sống của thời đại. Còn cá nhân mỗi người tín hữu, chính ta cũng có tội: tội phạm đến Chúa, tội phạm đến tha nhân, tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Thiên Chúa là Đấng nhân từ hay thương xót, nhưng ta phải nhìn nhận tội lỗi mình, thành tâm sám hối và quyết tâm dốc lòng chừa, rồi xin Chúa xót thương tha thứ thì ơn cứu độ mới đến với ta được. Không nhận tội là tội, người ta sẽ không tìm đến thầy thuốc thiêng liêng và như vậy sẽ hết thuốc chữa.
Lời cầu nguyện xin cho được biết chấp nhận việc sửa lỗi:
Lạy Thiên Chúa, Đấng công minh và khoan hậu.
Chúa trách phạt không phải vì muốn trả thù báo oán
nhưng vì yêu thương với mục đích giáo huấn
hầu cho loài được sống.
Xin cho con biết nhìn nhận tội lỗi mình
chấp nhận việc sửa lỗi và làm việc đền tội
với quyết tâm cải thiện đời sống
hầu trở về sống trong ơn nghĩa với Chúa. Amen.
42.Truyện con rắn đồng--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin Mừng Ga 3:14-21: Thập giá là tất cả những gì xảy đến với chúng ta mà chúng ta không muốn chấp nhận. Chỉ khi nào chấp nhận chúng ta mới có thể đi vào vinh quang với Ngài.
Con rắn đồng là biểu trưng cho Đức Giêsu bị treo trên Thánh Giá. Sách Dân số 21,4-9 kể rằng: Dân Do Thái đi từ núi Horeb về phía Biển Đỏ đi vòng quanh xứ Eđôm. Quãng đường dài này đã làm cho dân chúng kêu trách Đức Chúa và ông Môsê: "tại sao đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập để rồi chúng tôi phải chết trong hoang địa? Không có bánh, không có nước, chúng tôi đã chán món ăn khốn nạn này lắm rồi".
Bấy giờ Đức Chúa cho những con rắn lửa từ trong rừng bò ra cắn dân chúng, nhiều người phải chết. Dân chúng chạy đến ông Môsê, thưa với ông: "chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi".
Ông Môsê cầu cho dân. Chúa bảo Môsê: "hãy làm một con rắn và treo trên ngọn sào, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn vào đó thì được sống". Môsê làm một con rắn đồng và treo lên ngọn sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn vào rắn đó đều được khỏi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan đã ghi lại: "như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời."
Gioan dùng câu chuyện này như một loại dụ ngôn để chỉ về Chúa Giêsu. Ông nói: "Con rắn bị treo lên, người ta nhìn nó hướng về Chúa, do quyền phép của Chúa, Đấng họ tin cậy thì họ được lành bệnh. Chúa Giêsu cũng phải bị treo lên như thế, để khi loài người hướng về Ngài thì sẽ được sự sống đời đời".
Một điểm gợi ý rất lạ ở đây. Động từ treo lên là hupsoun. Từ này được dùng cho Chúa Giêsu theo hai nghĩa. Một là việc Chúa bị treo lên thập giá, và hai là việc Chúa được cất lên để vào vinh hiển lúc Ngài về trời. Nó được dùng chỉ thập giá trong Ga 8,28; 12,32, và được dùng chỉ Chúa Giêsu lên trời vinh quang trong Công Vụ 2,33; 5,31; P1 2,9. Có hai lần Ngài được đưa lên, lần bị đưa lên thập giá và lần được đưa lên vào cõi vinh quang; cả hai liên hệ với nhau bất khả phân ly. Điều này không thể xảy ra mà không có điều kia. Với Chúa Giêsu, thập giá là con đường tiến đến vinh quang. Nếu Ngài khước từ thập giá, tránh né, tìm cách để thoát khỏi đó - là việc Ngài đã có thể làm thật dễ dàng nếu muốn - thì Ngài đã không thể bước vào cõi vinh quang.
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể chọn con đường dễ đi, có thể khước từ thập giá mà mỗi Kitô hữu phải vác, nếu thế, chúng ta sẽ mất phần vinh hiển. Đó là một trong những định luật bất di bất dịch của đời sống: không có thập giá thì không có triều thiên.
Anh chị em thân mến, đứng trước thập giá Đức Kitô, chúng ta phải có thái độ nào? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ tình yêu của Ngài? Chính thái độ của chúng ta sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Vì thế, tin hay không tin là một chọn lựa sống chết. Mỗi người có đủ tự do tiếp nhận hay từ chối ánh sáng. Ai tin là đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối ánh sáng và tự đầy đọa mình trong tăm tối, trong cõi chết. Thiên Chúa không cần kết án luận phạt nữa.
- Hãy nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Phải, bên kia sự ác độc của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của con người.
- Hãy nhìn lên thập giá: đó là một sự ô nhục, nhưng chính sự ô nhục này lại mang lại vinh quang cho chúng ta.
- Hãy nhìn lên thập giá; đó là một sự chết chóc, tủi nhục và thương đau, nhưng chính sự chết chóc này lại mang sự sống cho chúng ta.
Đó là thập giá của Chúa Kitô, còn thập giá giá của chúng ta như thế nào?
- Đó chính là khi chúng ta bị chống đối và hiểu lầm,
- Đó chính là khi chúng ta bị bỏ rơi và phản bội,
- Đó chính là khi chúng ta bị thất bại và oan ức,
- Đó chính là khi chúng ta bị nhục nhã và cô đơn.
Thập giá là tất cả những gì chúng ta ước mong mà không đạt được. Thập giá là tất cả những gì chúng ta không mong muốn mà nó cứ lù lù xông vào cuộc đời chúng ta. Tóm lại, thập giá là tất cả những gì xảy đến với chúng ta mà chúng ta không muốn chấp nhận. Chỉ khi nào chấp nhận chúng ta mới có thể đi vào vinh quang với Ngài.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để cảm nghiệm được ơn tha thứ của Ngài. Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để chúng ta cũng biết cảm thông và tha thứ cho anh em chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương ta. Amen.
43.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay năm B xoay quanh kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng, vì yêu thương, muốn cứu độ nhân loại, đưa nhân loại ra khỏi vòng tội lỗi và dẫn họ đến với Ngài.
2Sb 36: 14-16, 19-23
Bài Đọc I cho chúng ta thấy Thiên Chúa dẫn dắt mọi biến cố và theo đuổi ý định của Ngài qua những thăng trầm lịch sử.
Ep 2: 4-10
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa rất mực yêu yêu thương chúng ta, nên đã hoạch định chương trình cứu độ chúng ta nhờ và trong Đức Ki-tô.
Ga 3: 14-21
Trong đoạn trích Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khẳng định rằng: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
BÀI ĐỌC I (2Sb 36: 14-16, 19-23)
Hai sách Sử Biên vạch lại lịch sử dân Ít-ra-en từ những giai đoạn khởi sự cho đến khi vương quốc Giu-đa sụp đổ (587 trước Công Nguyên). Bài Đọc I trích từ phần cuối của sách Sử Biên quyển hai. Đoạn trích nầy nhắc cho chúng ta nhớ những nguyên nhân sâu xa của tấn thảm kịch mà Giê-ru-sa-lem đã trải qua vào năm 587 trước Công Nguyên: Đền Thờ và thành thánh Giê-ru-sa-lem bị phá hủy, dân thành bị thảm sát hay bị lưu đày, lãnh thổ bị tàn phá, đất nước mất chủ quyền.
1. Tội của dân Ngài:
Tác giả ghi lại những biến cố nầy vào thời gian rất lâu sau nầy, cuối thế kỷ thứ tư hay vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, nhưng ông đọc lại Lịch Sử Thánh trong ánh sáng của những viễn cảnh thần học. Đối với ông, những thăng trầm mà dân Ít-ra-en đã kinh qua gặp thấy lời giải thích ở nơi việc dân Ít-ra-en trung thành hay bất tín với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân.
Tác giả ghi nhận tình trạng đất nước vào thời đó: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày mỗi thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế” (36: 14). Vì thế, việc dân bi trừng phạt là điều không sao tránh khỏi. Nhưng tác giả cho thấy rằng trước khi trừng phạt họ, Thiên Chúa “vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người” (36: 15).
Dù ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Ê-dê-ki-en không được nêu tên nhưng được ám chỉ rất rõ ở nơi những lời này: “Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người” (36: 16). Quả thật, vua Giơ-hô-gia-kim đã xé và bỏ vào lò sưởi cuốn sách ghi lại những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, còn các chức sắc tôn giáo đã nhục mạ ông, tống giam ông, vân vân. Thiên Chúa đã cảnh báo ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta” (Ed 2: 3). Vì thế, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống trên dân.
2. Thiên Chúa tha thứ:
Nhưng cơn thịnh nộ nầy chỉ hạn định trong một thời gian: Thiên Chúa tha thứ cho dân Ngài sau bảy mươi năm thử thách, như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo. Vì lịch sử ở trong tay Thiên Chúa, Ngài muốn cứu độ dân Ngài và không hủy bỏ lời hứa mà xưa kia Ngài đã hứa với vua Đa-vít. Đây là một trong những ý tưởng chủ đạo của tác giả hai sách Sử Biên nầy. Sách Sử Biên quyển hai kết thúc trên viễn cảnh của bảy mươi năm tang thương. Sách Ét-ra tiếp nối khi tường thuật cuộc tái thiết Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ. Quả thật, phần cuối của đoạn trích nầy (2Sb 36: 22-23) là phần đầu của sách Ét-ra (Er 1: 1-3). Qua phần cuối này, tác giả đóng lại sách Sử Biên quyển hai với điểm nhấn chứa chan hy vọng.
3. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem:
Chúng ta lưu ý rằng tác giả tập trung mọi chú ý của mình vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Tội ác tột cùng của dân bất trung bất nghĩa là “làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế” (36: 14). Nếu Thiên Chúa sai phái sứ giả của Ngài đến cảnh cáo họ, chính vì Ngài “hằng thương xót thánh điện của Người” (36: 15). Hành động của đạo quân Ba-by-lon xâm lăng là “đốt Nhà Thiên Chúa” (36: 19). Cuối cùng, khi sự thử thách chấm dứt, vua Ba-tư là Ky-rô tuyên bố: “Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa” (36: 23).
Đền Thờ là trọng tâm của hai sách Sử Biên. Vào thời đại của tác giả, Đền Thờ là nguồn nâng đỡ lớn lao của dân trong khi đất nước mất chủ quyền. Dân Ít-ra-en đã được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của mình, bên cạnh Đền Thờ duy nhất của Thiên Chúa duy nhất. Trước tiên, dân là một cộng đồng tôn giáo, cộng đoàn ấy phải là một cộng đồng thánh thiện và trung tín. Đây là một bài học lớn lao mà tác giả hai sách Sử Biên, vừa sử gia vừa thần học gia, muốn nhắc nhở cho những người đương thời của ông.
BÀI ĐỌC II (Ep 2: 4-10)
Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Ê-phê-xô từ Rô-ma trong hoàn cảnh thánh nhân bị giam cầm vào những năm 61-63. Thật ra, thánh nhân viết thư nầy không chỉ cho cộng đoàn Ê-phê-xô nhưng nhất là muốn bức thư của mình được luân lưu đến các cộng đoàn miền Tiểu Á.
Thư gởi tín hữu Ê-phê-xô biểu thị một trong những đỉnh cao tư tưởng của thánh Phao-lô. Thư này là một tổng đề tích luỹ những vấn đề chính yếu mà thánh nhân đã gợi lên ở nơi những thư khác rồi, nhưng ở đây được bàn đến một cách sâu rộng.
Chủ đề chính yếu của đoạn trích hôm nay chính là ý định của Thiên Chúa liên quan đến ơn cứu độ của nhân loại đã được thực hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô. Dù đoạn trích nầy rất ngắn, chúng ta gặp lại ở đây vài chủ đề lớn của thánh Phao-lô.
1. Quyền Tối Thượng của Chúa Cha.
Thánh Phao-lô luôn quy chiếu công trình cứu độ và tâm tình cảm tạ tri ân vào Chúa Cha. Đây là nét đặc trưng của đoạn trích thư nầy, trong đó Chúa Cha là chủ từ của một loạt các động từ. Chính Chúa Cha là Đấng “giàu lòng xót thương” và rất mực “yêu thương” chúng ta, đã “biểu lộ tình yêu” của Ngài đối với chúng ta trong Đức Ki-tô, đã cho chúng ta được cùng “sống lại” và cùng “ngự trị” với Đức Ki-tô trên cõi trời, đã “tỏ cho chúng ta thấy” ân huệ dồi dào phong phú của Ngài…
2. Chúa Cha giàu lòng xót thương.
Diễn ngữ: “giàu lòng xót thương” đã là chủ đề, đồng thời cũng là nhan đề cho Tông Huấn “Đức Chúa Cha giàu lòng xót thương” của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Đức Thánh Cha nhắc nhớ rằng diễn ngữ “lòng xót thương” muốn nói “quyền năng đặc thù của tình yêu, quyền năng này còn mạnh hơn tội lỗi”. Chính lòng thương xót này là từ then chốt nói lên ý định cứu độ của Ngài, bởi vì tội lỗi của con người là chướng ngại phải vượt thắng. Ân ban tuyệt vời của lòng xót thương chính là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Ngài con người đã “chết vì phạm tội” cũng được sống lại với Ngài. Trong vài hàng, thánh Phao-lô diễn tả chính xác thành quả ơn Cứu Độ: con người có thể gặp lại cuộc sống siêu nhiên nhờ và trong Đức Ki-tô.
3. Cuộc sống tương lai:
Đoạn trích này thật sự là một bài suy niệm. Ở đây, cuộc sống tương lai được gợi lên rất rõ nét. Thánh nhân diễn tả niềm hy vọng tương lai của các Ki-tô hữu, thậm chí tương lai này được diễn tả ở thì hiện tại: Thiên Chúa cho chúng ta “cùng được sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su trên cõi trời”. “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người”, nghĩa là một sự liên tục, bất tận, không hề gián đoạn.
Phải chăng đây là tư tưởng suy niệm sâu xa nhất của thánh nhân trong những ngày tháng bị giam cầm? Phải chăng đây là kỷ niệm của người đã được chiêm ngưỡng trong một cuộc xuất thần “cho đến tầng trời thứ bảy”? Phải chăng kẻ tử tù nghĩ đến cái chết của mình sắp đến gần? Hay đơn giản hơn, phải chăng đây là niềm xác tín thần học của vị Tông Đồ, niềm xác tín này đã đem lại cho thánh nhân những quả quyết dạn dĩ nầy? Đối với thánh Phao-lô, cuộc sống ân sủng là bước khởi đầu của cõi đời đời rồi.
4. Đức tin, việc làm và ân sủng.
Chúng ta gặp lại giáo thuyết về ơn cứu độ nhờ đức tin mà thánh Phao-lô phác họa ở đây. Việc làm của chúng ta tự nó không thể nào tương xứng với ơn cứu độ nầy. Chúng ta được cứu độ là do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh một cách tinh tế rằng việc làm của chúng ta có tác sinh hiệu quả hay không chính là nhờ công nghiệp của Đức Ki-tô; chính qua trung gian của Đức Giê-su mà việc làm của chúng ta mới thực sự là tốt lành và phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Như vậy, nhờ lòng nhận hậu vô lượng hải hà của Ngài, Thiên Chúa đã sắp đặt mọi sự để cứu độ chúng ta và nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Trung Gian duy nhất, chúng ta mới có thể có giá trị và được sống đời đời. Đó chính là ý nghĩa của đoạn trích hôm nay.
TIN MỪNG (Ga 3: 14-21)
Đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay được trích từ phần cuối cuộc đàm đạo của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh thuộc nhóm Biệt Phái đến gặp Ngài vào ban đêm. Trong đoạn trích nầy, chúng ta không còn gặp thấy cặp đối thoại giữa “tôi và ông” như trước, nhưng là “chúng tôi và các ông” (3: 11). Qua ông Ni-cô-đê-mô, một người Phê-ri-sêu thiện cảm với Ngài, Đức Giê-su mời gọi tất cả những ai phải chọn lựa: “tin hay không tin”, đứng về phía ánh sáng hay bước đi trong bóng tối.
1. Thập Giá vinh quang (3: 14-15)
Trong cuộc lữ hành băng qua hoang địa, vì thiếu bánh ăn nước uống dân Ít-ra-en đã than trách Thiên Chúa và ông Mô-sê. Thiên Chúa cho rắn lửa cắn họ chết. Họ ăn năn, xin ông Mô-sê cầu bầu cho họ. Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê đúc một con rắn đồng và treo trên một cây sào để “Tất cả những ai nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21: 4-9). Khi so sánh việc Ngài được giương cao trên thập giá với chuyện tích con rắn đồng được giương cao trong hoang địa, Đức Giê-su muốn nói rằng những ai hiện ở trong thế gian như xưa kia trong hoang địa, bị sự Dữ tấn công, thì sẽ được cứu, nếu đặt trọn niềm tin tưởng vào Đấng chịu đóng đinh.
Ba lần trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su loan báo Thập Giá vinh quang bằng cách quy chiếu đến dấu chỉ của con rắn đồng: “Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3: 14); “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (8: 28); “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12: 32). Qua đó, Tin Mừng Gioan trình bày thần học về Thập Giá, nơi vinh quang của Chúa Con đồng nhất với vinh quang của Chúa Cha trong ý định cứu độ nhân loại.
2. Ơn cứu độ Chúa Con đem đến cho muôn người (3: 16-18)
Thánh Gioan là thánh ký duy nhất gọi Chúa Giê-su bằng tước hiệu: “Con Một”, có thể để quy chiếu đến chuyện tích tổ phụ Áp-ra-ham dâng I-sa-ác, đứa con một yêu dấu của mình, làm lễ tế (St 22: 2), nhưng nhất là để nói rằng tất cả tình yêu của Chúa Cha đều gói trọn ở nơi quà tặng duy nhất này: chính ở nơi Người Con duy nhất này mà Thiên Chúa thực hiện ý định của mình là cứu độ hết mọi người, chứ không chỉ riêng dân Ít-ra-en. “Mọi người” đều được sống đời đời, nếu “tin vào Con Một của Thiên Chúa”.
Thánh Gioan thường hằng khẳng định chiều kích phổ quát của ơn cứu độ. Đức Giê-su đến với tư cách là Đấng Cứu Độ chứ không là một quan tòa. Thiên Chúa không kết án bất cứ ai, nhưng mỗi người tự kết án chính mình nếu khước từ ánh sáng, nghĩa là từ chối nhận biết Đức Giê-su là Con Một của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ duy nhất.
Đoạn Tin Mừng này gợi lên rất rõ nét một tình yêu duy nhất của Chúa Cha và Chúa Con. Ở nơi tình yêu duy nhất của Chúa Cha và Chúa Con, Giáo Hội đã nhận ra một cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần, “Đấng nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con”, Đấng thông truyền và khuếch trương sự sống thần linh. Vì thế, bản văn này cũng được chọn để cử hành lễ “Chúa Ba Ngôi”.
3. Tấn thảm kịch của sự chọn lựa (3: 19-21)
Ơn cứu độ, tức là tha thứ tội lỗi và tái sinh nhân loại nhờ dự phần vào sự sống của chính Thiên Chúa. Sự sống này được dâng hiến cho hết mọi người, nhưng tùy thuộc vào lời đáp trả của mỗi người. Đó là tấn thảm kịch của sự chọn lựa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa đón nhận và từ chối “tin vào Con Một của Thiên Chúa”. Đoạn cuối nầy cô đọng thần học về sự phán xét của thánh Gioan.
Trong hậu cảnh, ẩn hiện thái độ của Do thái giáo không nhận biết Đức Ki-tô: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng”. Nhưng sự chọn này cũng được đặt ra cho hết mọi người; ấy vậy, đức tin không phải là một điều dễ dàng, thái độ ngần ngại của ông Ni-cô-đê-mô là một bằng chứng.
Trong những viễn cảnh phổ quát Tin Mừng Gioan, có một khía cạnh lạc quan đầy khích lệ: lối ngõ đến cùng ánh sáng qua việc chọn sống theo sự thật: “Những ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng”. Sau này, trong một cuộc đối thoại với người Do thái, Chúa Giê-su nói rõ: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông là thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (8: 31-32).
44.Cơ hội sống tốt hơn--Lm. Xuân Hy Vọng
Con người chúng ta dù tốt lành đến mấy, cũng chỉ cho người khác cơ hội ‘làm lại cuộc đời’ không hơn không kém ‘quá tam ba bận’ mà thôi!!! Tệ hơn, trong chúng ta có khi còn khắt khe, đóng hết mọi cánh cửa ‘sửa đổi’ hay ‘cải thiện’ hoặc ‘lấy công chuộc tội’ của anh chị em mình nữa!
Quả thật, nếu Chúa cũng cư xử như vậy với chúng ta, có lẽ ‘chẳng ai đứng vững trước thiên nhan Chúa’ được! Dĩ nhiên, Ngài là Thiên Chúa bao dung, chậm bất bình và rất mực khoan nhân, nên Ngài luôn luôn ban cho chúng ta nhiều cơ hội đổi mới, canh tân, hoán cải, quay về với Ngài.
Các bài đọc hôm nay cho chúng ta nghiệm thấy rõ lòng từ bi Chúa trước thói bất trung, thất tín của dân Ngài: “Trong những ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giê-ru-sa-lem” (2Sb 36, 14). Dù rất thịnh nộ, nhưng lòng nhân hậu và thương xót Ngài vượt trên ‘sự khinh thường, nhạo báng của dân Is-ra-el, giết hại các sứ giả, ngôn sứ của Chúa’ (x. 2Sb 36, 15-16). Tuy dân Is-ra-el phải lãnh hậu quả đi đày do hành vi bất xứng của họ như lời tiên tri Giê-rê-mi-a: “…họ sẽ không giữ được ngày Sa-bát trọn bảy mươi năm trường” (Sb 36, 21; x. Gr 25, 1; 29, 10). Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ, nhưng Ngài chẳng nỡ bỏ rơi dân Ngài. Lòng nhân hậu của Chúa được bày tỏ cách lạ lùng qua sự lưu đày và giải thoát dân Is-ra-el dưới triều đại Sy-rô, vua xứ Ba-tư: “Chúa là Thiên Chúa trời đấy đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Ngài đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Ngài một đền thờ ở Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đê-a. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên” (2Sb 36, 23). Thiên Chúa hằng trung tín, và luôn ban cơ hội cho dân Ngài được hoán cải quay về, được cứu thoát khỏi khổ đau cơ hàn.
Hơn thế, cảm nghiệm này càng được tỏ hiện rõ nét hơn qua lời của Thánh Phao-lô trong thư gửi cho giáo đoàn Ê-phê-sô: “…vì lòng yêu thương cao cả mà Ngài đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Ngài làm cho chúng ta sống lại trong Đức Ki-tô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi” (Ep 2, 4-6). Thiên Chúa không chỉ ban cho chúng ta cơ hội ‘đổi đời’, mà còn cứu rỗi chúng ta, mang chúng ta ra khỏi vũng nhơ nhớp của tội lỗi, và giúp chúng ta bước ra khỏi bóng đêm của sự lầm đường lạc lối, “vì chưng, bởi ơn Chúa, anh (chị) em được cứu rỗi nhờ đức tin. Điều đó không phải do anh (chị) em, vì đó là ân huệ của Chúa” (x. Ep 2, 8-9). Tại sao, chúng ta được ơn phúc lớn lao nhường vậy? Chẳng phải bởi vì công trạng, tài năng, thành đạt, thành tựu, thành công, hay kể cả công ơn đạo đức của chúng ta, mà chúng ta được lãnh nhận ân huệ cao quý từ Thiên Chúa đâu! Nhưng trên hết, nhờ lòng từ bi lân tuất của Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki-tô, mà chúng ta có phúc, được hưởng ơn đổi mới, canh tân, và được cứu chuộc. Hơn nữa, do lòng thương xót không bờ bến của Chúa, mà “chúng ta cùng được sống lại, đồng ngự trị trên nước trời trong Đức Giê-su Ki-tô” (x. Ep 2, 7). Ôi diễm phúc, cao quý khôn cùng! Con nào biết cảm tạ thế nào cho cân, Chúa ơi!
Tình yêu của Chúa dành cho chúng ta không dừng ở đó, mà Ngài còn “ban chính Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Vì muốn ban cho chúng ta cơ hội được ăn năn, hoán cải, sống tốt hơn, và được cứu rỗi, Thiên Chúa chẳng tiếc gì, ngay cả ban chính Người Con duy nhất cho chúng ta, “không phải để luật phạt thế gian, nhưng nhờ Con Ngài mà thế gian được cứu độ” (x. Ga 3, 17). Tình yêu này càng đến mức tận cùng qua việc Ngôi Lời nhập thể, sinh hạ trong thế gian, mặc lấy xác phàm, ngoại trừ tội lỗi, chịu khổ hình, chịu tử nạn trên Thánh giá, rồi Phục sinh. Ngài hằng trao ban sự sống thần linh, hiến thân mạng sống mình cho chúng ta qua hy tế tình yêu, Bí tích Thánh Thể, trong mỗi Thánh lễ. Còn gì bằng lòng mến tự hiến mà Thiên Chúa bao dung trao ban cho chúng ta thế này! Ước gì chúng ta năng chạy đến Bí tích Tình yêu, năng lãnh nhận Bí tích giao hoà, đón nhận thời gian ân sủng, thời cơ thuận tiện này, hầu trở về nương tựa mãi nơi suối nguồn xót thương! Ước gì chúng ta hành động trong sự thật, làm việc nơi sự sáng, và sống trong Thiên Chúa luôn!
Giờ đây, chúng ta dành ít phút thinh lặng trước Chúa, thầm thỉ dâng lời nguyện xin:
Tình Chúa hằng ấp ủ con
Dù đời con nhiều nỉ non khôn xiết.
Ngài vẫn bên con mải miết
Tuôn đổ hồng ân tha thiết chan hoà.
Chờ con tiến bước trở về
Trong niềm hoan lạc tràn trề thánh ân. Amen!
45.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Trong cuộc sống, điều gì sẽ giúp mang lại sự hòa giải, hiệp nhất, bình an và hạnh phúc cho con người chúng ta? Có phải chăng những điều này sẽ đạt được nhờ tiền bạc-của cải, vũ khí-súng đạn, hay chiến tranh? Tất cả sẽ không. Vậy thì, điều gì mà con người đang nỗ lực tìm kiếm và khao khát để đạt được? Từ ngày 3 đến ngày 8 tháng 3 vừa qua, với ơn Chúa và sự cộng tác của biết bao người, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nỗ lực hết sức để đến thăm Irak, mặc dầu đối diện với biết bao khó khăn và giới hạn của chuyến tông du này; từ tuổi cao sức yếu, từ dịch bệnh hoành hành, từ hỗn loạn-nguy hiểm của chiến tranh…Thật vậy, khi chứng kiến, mọi người đều rất xúc động, chỉ biết dâng lời cảm tạ và cầu nguyện cho Ngài. Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô mang tới cho Irak cũng như cho toàn thế giới chính là những gì mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay soi sáng, hướng dẫn; đây cũng chính là những gì mà chúng ta đang khao khát, tìm kiếm để đạt tới đích điểm trong cuộc sống của chúng ta trong tương quan với Chúa và với tha nhân trong Mùa Chay này.
Trong bài đọc một, Thiên Chúa đã tỏ ra rất mực kiên nhẫn, khoan dung và nhẫn nại trước những yếu đuối bất xứng và tội lỗi phản nghịch của con người. Dẫu rằng, Thiên Chúa đã không biết bao lần, qua muôn vàn cách thế để uốn nắn, răn dạy và sửa lỗi; thế nhưng, con người vẫn không biết ơn, vẫn thất tín, bội bạc, tệ hại hơn họ lại còn chê bai, nhạo báng và tỏ ra những thái độ, hành động bất kính với Thiên Chúa và các Sứ Giả của Chúa. Chính vì lẽ đó mà Chúa đã không còn che chở họ, khi họ bị lâm vào cảnh lưu đày. Trước tội lỗi và những nỗi đau khổ, cực hình mà con người tự chuốc lấy, Thiên Chúa lại không nỡ để thấy họ phải chịu, nên lòng thương xót của Chúa lại biểu lộ qua việc Chúa giúp cho họ được ơn giải thoát. “Cơn thịnh nộ và lòng từ bi của Chúa được tỏ bày qua sự lưu đày và giải phóng của dân tộc”.
Vậy thì, câu hỏi được đặt ra: Trong cơn thịnh nộ, Chúa có phạt chúng ta không? Trong Cựu ước, mỗi lần dân chúng bất tuân mà phạm tội, thì Chúa đã phạt họ. Thế nhưng, trong Tân ước, từ bài đọc hai, Thánh Phaolo cho chúng ta biết, chính vì tội lỗi của chúng ta, chúng ta tự chuốc lấy án phạt hay hình phạt do chính tội mình gây ra, chứ Chúa không thịnh nộ và trừng phạt. Nhưng trong thánh ý nhiệm mầu, Chúa lại cho những điều đó xảy ra, để qua đó, ân sủng, tình thương và lòng thương xót Chúa được biểu lộ. Thật vậy, tình thương và ơn thánh Chúa ban cho chúng ta dẫu yếu đuối và tội lỗi. Ơn sủng mà Đức Kitô trao ban thì dành cho tất cả mọi người, thế nhưng, với những ai tin vào Ngài, chấp nhận và sống như Ngài thì sẽ đón nhận được bình an và ơn thánh.
Tin mừng hôm nay đã soi sáng, tỏ rõ hơn cho chúng ta thấy để phần nào cảm nếm tình thương và lòng thương xót mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta ngay cả khi chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi. Điều này đã được minh chứng qua sứ vụ của Chúa Giêsu khi Ngài vâng theo thánh ý Chúa Cha, đến nỗi đã chấp nhận chết nhục nhã trên thập giá để cứu chúng ta. Qua Tin mừng của Gioan, khi Chúa Giêsu nhắc lại biến cố con rắn đồng ở trong sa mạc năm xưa đã cứu sống những ai biết ăn năn sám hối, biết quay đầu để nhìn lên nó thì được Chúa tha thứ và cứu sống, dẫu cho họ đã biết bao lần bất tuân, phản nghịch, chối bỏ và tỏ lòng bất kính với Thiên Chúa. Thì Đức Kitô Giêsu hôm nay trên thập tự giá cũng chính là nguồn ơn cứu sống cho tất cả chúng ta những ai vì yếu đuối mà phạm tội, những ai đã chối bỏ và khước từ Chúa, giờ đây có cơ hội để sám hối ăn năn và tin vào Đấng đã chịu đóng đinh. Trong cuộc sống, chúng ta không biết bao nhiêu lần cũng đã như dân Do Thái xưa, đã không tin vào Chúa, không tin vào Sứ Giả Chúa sai đến nên đã phạm tội. Thế nhưng, Thiên Chúa qua Giáo hội và qua các bí tích ban ơn tha thứ, thánh hóa, đặc biệt là bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Ơn thánh Chúa ban, không hệ tại nơi công trạng hay việc làm của chúng ta, nhưng nhờ vào chính công nghiệp từ cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô; đồng thời, Chúa cũng thương cho chúng ta được cộng tác với Ngài qua thái độ khiêm tốn và lòng tin.
Sứ điệp cũng như chứng tá mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã mang đến Irak đang mời gọi tất cả nhân loại là: Hãy tin vào Thiên Chúa, hãy tin như Apraham, hãy khiêm tốn và hành động theo lòng tin của chúng ta vào Chúa. Qua Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết xác tín hơn vào tình thương, lòng khoan dung và ơn thánh của Chúa dành cho chúng ta qua chính công cuộc của Đức Giêsu Kitô, để nhờ đó, chúng ta cũng luôn sống đáp trả với lòng tin vào Chúa và lòng mến cho tha nhân. Amen.
46.Tin vào Con Thiên Chúa--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Trong bối cảnh của chương 3, đoạn 3,14-21 là một độc thoại được xem là lời của Chúa Giêsu. Người nói về Thiên Chúa, chính mình và con người ở ngôi thứ ba. Đoạn độc thoại nầy có thể được nối tiếp bởi đoạn 3,31-36 như là bổ sung và tóm kết những ý tưởng chính. Trong khi, cuộc đối thoại của Nicôđêmô với Chúa Giêsu được trình bày song song với cuộc đối thoại giữa Gioan và các môn đệ của ông (3,1-12 // 3,22-30). Cả hai đều bàn đến phép rửa và liên kết với hai cuộc độc thoại bằng chủ đề nầy.
Những từ vựng dùng để trình bày về Chúa Giêsu như: tin, Người Con duy nhất, sư sống, ánh sáng, bóng tối trong 3,14-21 đã gặp trong 1,1-21 rồi. Tuy nhiên, điểm khác biệt là đoạn 1,1-12 bàn đến sự nhập thể, còn đoạn nầy đề cập đến sự cứu độ của Người (3,14). Nếu như đã đón nhận Chúa Giêsu từ lúc Người xuống thế làm người, thì cũng đã tin vào công trình cứu độ của Người; và ngược lại. Đoạn 3,14-21 chia thành hai phần mô tả hai thái độ và hành động khác nhau liên quan đến Chúa Giêsu: 3,14-18 và 3,19-21.
Trong đoạn 3,14-18, Thiên Chúa là vai chính và Chúa Giêsu được gọi là Con, Con Một, Con Một của Thiên Chúa. Công việc của Thiên Chúa là yêu mến và muốn thế gian được cứu độ, nên đã ban/gởi Con Một đến. Công việc nầy của Chúa Cha sẽ được Chúa Giêsu nói rõ hơn sau nầy: phần Người là cứu chuộc nhân loại (4,34; 17,4); phần con người là tin vào đấng Chúa Cha sai đến (6,29; 10,38). Vậy thái độ căn bản của con người là tin vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh để được sự sống muôn đời (3,15.16.17).
Ngược lại công việc của Thiên Chúa là công việc của con người nói chung được trình bày trong đoạn 3,19-21. Chúa Giêsu được gọi là ánh sáng (3,19.20[2x]), đối nghịch với bóng tối. Thái độ của những người thuộc hạng nầy: yêu mến bóng tối hơn ánh sáng, nghĩa là ghét ánh sáng (15,24), và kéo theo hậu quả là không đến với ánh sáng. Công việc của họ là xấu, nên họ không muốn bị tỏ lộ (3,19-20; 7,7). Việc gì của họ gọi là xấu? Việc của họ trước tiên là không tin vào những sự thật Chúa Giêsu nói cho biết, nhất là sự thật Người là Con Thiên Chúa (cf. 8,46-47; 14,6). Tiếp đến, như là hậu quả của việc không tin, họ tìm giết Sự Thật (8,40.44.46; 10,32). Công việc sát nhân nầy cha ông của những người ấy cũng đã từng làm (cf. 8,41).
Hành động ngược lại là làm theo sự thật (3,21), nghĩa là làm công việc của Thiên Chúa: “Công việc của Thiên Chúa là anh em hãy tin vào Đấng Người đã sai đến” (6,28-29). Không thể tin vào Chúa Giêsu là sự thật và làm theo sự thật của những điều Người dạy nếu không có Thần Khí Sự Thật dẫn đường (cf. 16,13). Muốn thế, con người cần được tái sinh bởi Người (cf. 3,1-12).
47.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Alfonso
Tin mừng Ga 3:14-21: Thánh giá được treo cao nơi bàn thờ tư gia của Kitô hữu, vút cao nơi chóp tháp của thánh đường để nhắc nhớ mọi người về Người can đảm vác lấy thập giá để tỏ bày tình thương và sự cứu chuộc của Thiên Chúa dành cho các tội nhân quay về với Chúa.
Suy Niệm:
Địa danh vương quốc Ba Tư có lẽ ngày xưa là quốc gia rộng lớn, chiếm phần lớn các nước Tây á, bao gồm Iran và Iraq ngày nay... Những người thuộc thế hệ trước đã quen địa danh với cuốn truyện Nghìn Lẻ Một Đêm, còn những bạn trẻ sau này cũng được biết về Ba Tư qua truyện Đôrêmon – Chú mèo máy thông minh. Ngày xưa, dân Do Thái vì bất trung với Thiên Chúa nên Ngài để cho họ bị mất nước và phải bị lưu đày sang Ba Tư. Nhưng sơ đồ thường thấy trong Kinh Thánh “Tội – phạt; hối – cứu” được thể hiện để tỏ bày quyền năng Thiên Chúa. Nghĩa là vì phạm tội nên con người bị phạt – nhưng nếu biết sám hối thì được Thiên Chúa ra tay cứu vớt. Vì lòng thành tín và yêu thương nên Ngài đã soi sáng cho vua Kyrô nước Ba Tư ra chiếu chỉ cho phép dân Do Thái hồi hương, gầy dựng lại đền thờ.
Chúa Giêsu nhắc lại quy luật của Thiên Chúa “Tội phạt; hối cứu” qua câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc: “Như Môisen đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời”. Nếu như con rắn là biểu trưng cho cái độc, sự chết để trừng phạt những người phản nghịch và tội lỗi, thì với các tội nhân khi nghe theo Môisen giảng dạy và tin vào lời Chúa hứa cứu dân khi bất cứ ai bị rắn cắn mà hướng nhìn lên con rắn đồng Môisen treo trên cây gỗ, người ấy đã nắm lấy cánh tay cứu chữa của Thiên Chúa. Từ đây, hình ảnh chữa lành của của ngành Y là con rắn quấn quanh cây gậy, còn ngành Dược là con rắn quấn quanh cái ly biểu tượng của sự bào chế.
Cũng vậy, thập giá là hình thức mà những người Do Thái dành cho những kẻ có tội mang án tử, thì qua Người Con Một, Thiên Chúa mặc khải về tình thương của Ngài dành cho thế gian, Người đã biến thập giá như án tử cho kẻ tử tội thành Thánh giá để cứu chữa các tội nhân. Việc Chúa Giêsu chịu giương cao trên thập giá nói lên sự vinh thắng của Người. Người nhận lấy muôn vàn tội dữ đáng chết của con người và bến cây gỗ sự chết thành cây sự sống để cứu vớt những kẻ hư mất. Chúa Giêsu không khước từ thập giá Cha trao, không chạy trốn việc vác thập giá nặng nề vì tội lỗi của loài người. Và cũng từ ấy, Thánh giá không trở nên một sự đau thương mà là biểu tượng của niềm hy vọng. Thánh giá được treo cao nơi bàn thờ tư gia của Kitô hữu, vút cao nơi chóp tháp của thánh đường để nhắc nhớ mọi người về Người can đảm vác lấy thập giá để tỏ bày tình thương và sự cứu chuộc của Thiên Chúa dành cho các tội nhân quay về với Chúa.
Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng, một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Người này có quá nhiều tội nặng, mặc cho cha xứ rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, người đó vẫn không chừa tội và lại tiếp tục sa ngã. Bực quá, cuối cùng cha xứ quát lên: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha cho anh tội này đâu!”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị cha xứ cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu rời khỏi lổ đinh và đưa ra ban phép lành tha tội cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”.
Lạy Chúa, Chúa không bao giờ quay lưng với người có tội trở về với Chúa. Xin cho Chúa nhật Hồng này đánh dấu chặng đường nửa mùa Chay thánh con bước đi, để còn những lầm lỗi nào, con quyết từ nay quay về với Chúa. Amen.
48.Ánh sáng và bóng tối--Lm Nguyễn Khoa Toàn
Những ngày này quanh quẩn bên người mẹ đang thoi thóp thở những làn hơi cuối ở quê nhà, thỉnh thoảng mẹ lại thều thào nói đang đến được một vùng tràn đầy ánh sáng có rất nhiều thiên thần bay lượn vây quanh. Rồi khi cắn chặt răng quằn quại với cơn đau điến người thịt xác, mẹ mê sảng la lên qủy ma đang chực chờ ẩn hiện đưa mẹ đến một nơi xa thật xa vô cùng tăm tối.
Tìm đọc một vài tin tức địa phương để 'thư giản' vãn thời gian, điều đầu tiên đập ngay vào mắt là chuyện dài... cúp điện! Người dân ở đây cơ hồ như quen với lúc tối lúc sáng lúc có lúc không đã từ lâu nên chẳng mấy ai thở than. Mà giả như có muốn thì cũng chẳng biết nơi đâu mà trút tiếng thở dài!!!
Có ai đó nói rằng bất hạnh của người này là hạnh phúc của người kia. Điều này thật vô cùng đúng mỗi khi điện cúp vì đây là cơ hội bằng vàng cho những tay đạo chích. Thời tiết oi bức khó chịu nên sau một ngày dài làm việc khi vừa bước vào nhà mà điện đóm lại không có, việc đầu tiên là mở tung mọi cửa sổ rồi tắm một cái cho đã đời. Bọn trộm chuyên nghiệp chỉ chờ có thế! Dùng những cần dài với móc câu trét đầy 'keo dính chuột' cực mạnh, chúng câu bất cứ cái gì mà khổ chủ vô ý bỏ quên!
Đau đớn hơn, họ còn là nạn nhân của những tên trộm ngày thời đại -những cái gọi là 'đầy tớ nhân dân': đám quan lại tham ô hủ hóa dùng đủ mọi thủ đoạn tinh vi đến man rợ rợn người đục khoét công qủy nhởn nhơ vênh vang sống ung thối trên mồ hôi nước mắt của chính đồng bào máu thịt -những người dân tội nghiệp ba miền hiền lành khốn khổ ngụp lặn miệt mài lây lất sống cháo buổi mai khoai buổi chiều. Ngày cũng như đêm! Bóng tối đương nhiên đồng nghĩa với xấu xa nhưng ngay cả ánh sáng cũng đã chưa dọi chiếu hết bình minh công chính cho phần đất quá cơ khổ này. Lo toan đè nén ban ngày rồi trăn trở sợ sệt lo âu khi hoàng hôn vừa buông xuống. Thương ôi! "Người chết hai lần..."
Khi xã hội chỉ biết đắm chìm vào việc phát triển kinh tế và con người chỉ mãi lặn lội giữa những sóng đời vật chất, tình nhân loại và nghĩa đồng bào đã không còn nữa. Và khi mọi trọng tâm chỉ chuyên chú vào chỉ tiêu báo cáo, khi giá trị con người chỉ được nhìn qua lăng kính thành tích thi công, tôn giáo và luân lý khó có thể nẩy hạt gieo mầm. Như Dorothy Thompson viết: "Khi Thiên Chúa ra đi, tất cả sẽ ra đi." Hoặc như George Washington phát biểu trong bài diễn văn từ biệt: "Luân lý sẽ chẳng có thể trường tồn nếu không có đức tin và tôn giáo."
Thiên Chúa không thể ra đi khi mỗi chúng ta luôn tin vào Con Một Chúa. Nhưng tin vào Con Một Chúa không phải giản đơn chỉ tin những gì đã xảy ra bên này và bên kia bờ sông Babylon hơn hai ngàn năm trước rồi lãng quên hoặc sống cùng sống với thực tế chung quanh. Tin vào Con Một Chúa là phải sống như Con Một Chúa.
Sống như Con Một Chúa là phải luôn "yêu sự sáng" và "đến cùng sự sáng" bằng "hành động trong sự thật". Ở đây, sự thật đã thật khó tìm mỗi khi hoàng hôn xuống. Và cũng chẳng dễ tìm khi bình minh vừa ửng hiện chân trời. Tự dưng muốn ngồi bên một bờ sông vắng, treo cây đàn, khóc thương về một chốn củ nơi xưa!
49.Dĩ độc trị độc--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Con rắn đã bò vào lịch sử nhân loại, để lại những dấu vết không đẹp. Nhưng có một con rắn tượng trưng cho uy quyền cứu độ, chứ không đẩy xô con người xuống hố diệt vong. Đó là con rắn đồng trong sa mạc. “Ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc,” (Ga 3:14) để “tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” (Ds 21:9) Con rắn đã mang một bộ mặt mới kể từ ngày Thiên Chúa tìm cách cứu con người khỏi hố diệt vong.
TÌNH YÊU BA CHIỀU
Trên cây thập giá, Đức Giêsu đã thiết lập được một tương quan ba chiều với Chúa Cha, con người và vũ trụ. Người đã phải trả một giá rất đắt. Nếu Thiên Chúa đã không thương yêu thế gian tột độ, không bao giờ có cuộc hi sinh lớn lao đó. Đức Giêsu xứng đáng là một vị thẩm phán tối cao, có quyền xét xử muôn dân. Nhưng Người đã không đến với tư cách đó. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ.” (Ga 3:17) Sự công chính đã mang bộ mặt tình yêu. Chính vì tình yêu đó, Đức Giêsu đã phải hi sinh tới giọt máu cuối cùng trên thập giá. Đó là giá rất đắt. Con Thiên Chúa đã phải trả cho chúng ta.
“Như ông Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:15). Như vậy cuộc hi sinh lớn lao đó nhằm lập tương quan thân ái với nhân loại và vạch ra con đường đi tới hạnh phúc vĩnh cửu. Con đường đó là tin vào tình yêu Thiên Chúa nơi Con Người chịu treo trên thập giá. Đó là con đường dẫn ta thoát vòng tử thần, tới nguồn sống thật. Chính Đức Giêsu quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3:16)
Thập giá trở thành trung tâm trong chương trình giải thoát của Thiên Chúa (Faley 1994: 262). Ngước mắt nhìn lên thập giá, chính là hướng về nguồn ơn cứu độ. Bởi vì chính trên cây thập giá Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về bản tính mình. “Khi các ông giương Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8:28). Đức Giêsu chính là Đức Chúa và nguồn sống cho vạn vật và con người. Không tin vào chân lý đó tức là tự lên án chính mình. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3:17) Chính cây thập giá sẽ phân nhân loại làm hai hạng người tin và không tin. Thập giá không phải là dấu chỉ của án phạt. Nhưng không tin cái chết của Đức Giêsu có sức mạnh cứu độ mới dẫn tới hư vong. “Đức Giêsu là cơ hội chứ không phải là nguyên nhân” (Fahey 1994:263) của việc phán xét. Cây thập giá là một biểu tượng cho mọi người thấy tình yêu Thiên Chúa mãnh liệt tới mức nào.
Như vậy cây thập giá đã chứng tỏ tình yêu riêng của Đức Giêsu (Ga 13:1) và cả tình yêu Thiên Chúa Cha đối với nhân loại. Tình yêu là động lực chi phối toàn bộ sứ mạng Đức Giêsu dưới thế. Tình yêu trở thành hồng ân vĩ đại, vượt quá tầm hiểu biết. Quả thực, “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ” (Ep 2:4-5). Trong nguồn ân sủng đó, chúng ta trở thành “con cái ánh sáng” (Ep 5:8). Bởi vì chính Đức Giêsu là “ánh sáng đã đến thế gian.” (Ga 3:19) Không phải ai cũng đón nhận được hồng ân cao cả đó. Thực tế, “người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.” (Ga 3:19) Chính việc làm đã tạo thành một bản án đeo vào cổ họ. Số phận thật tang thương! Định mệnh thật khốc liệt!
Nhưng trong quá khứ, ngay lúc bi tuyệt vọng nhất, dân Chúa đã thực hiện trọn vẹn giấc mơ. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tạo nổi lịch sử! Thực vậy, “để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba tư” (Sb 36:22), để vua “ra lệnh phục hồi Giuđa, hồi hương dân cư và tái thiết đền thờ” (Fahey 1994:261). Bởi đó tin vào Thiên Chúa không bao giờ tuyệt vọng. Thiên Chúa luôn có sẵn những giải pháp tốt đẹp nhất.
TRỜI BỪNG SÁNG
Thiên Chúa chính là nguồn hi vọng cho những ai tin tưởng tuyệt đối nơi Người. Nói khác, niềm tin và hi vọng luôn đi song đôi. Tin là con đường dẫn tới sự sống. Đức Giêsu đã củng cố tinh thần những ai run sợ trước thần chết: “Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Đức tin vô cùng quan yếu cho con người. Theo Martin Luther, “đức tin là một thực tại sống và bởi thế gồm những nhân đức thương yêu và hi vọng, kinh nghiệm sống hiệp nhất với Thiên Chúa, và khát vọng sống kết hiệp với Chúa tới muôn đời” (Cook 1995:512). Chính vì thế, không tin, cuộc sống trở thành trống rỗng và vô vị.
Khi tin, con người sẽ thấy mình vươn tới đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa. Vì chính Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta không những khỏi ách nô lệ tội lỗi, nhưng còn khiến chúng ta tự do yêu thương nhau và bởi đó đem ánh sáng Thiên Chúa chiếu soi trần gian (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:19). Từ tình yêu tới tình yêu. Từ ánh sáng tới ánh sáng. Sống trong tình yêu là đi trong ánh sáng. Đức Giêsu muốn chúng ta là “ánh sáng cho trần gian” (Mt 5:14). Nguồn cung cấp ánh sáng chính là tình yêu, một tình yêu phải được sự thật giải thoát. Đó là lý do tại sao Chúa nói “kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng” (Ga 3:21). Đi trong tăm tối trần gian hay sống dựa trên sự lừa đảo, gian dối, không thể tìm được nguồn sống và nguồn sáng đích thực. Do đó cuộc đời mãi mãi là nô lệ.
Muốn thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than đó, phải “tin tưởng và xác tín rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cứu chúng ta. Tin là phó thác những chương trình hiện tại và vận mệnh đời đời nơi Đức Kitô. Tin là vừa xác tín lời Chúa có thể thực hiện và cậy dựa vào quyền năng biến đổi của Người” (Life Application Study Bible 1991:1878). Một khi xác tín như thế, chúng ta sẽ thay đổi toàn bộ, từ não trạng đến cái nhìn và nếp sống. Từ nay không còn gì xảy ra ngoài chương trình đầy tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Đức tin giúp ta “bắt đầu lượng định tất cả sự việc xảy ra theo nhãn quan vĩnh cửu” (Life Application Study Bible 1991:1878).
Hơn nữa, tin tưởng còn có nghĩa là “làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa toàn thắng trên quyền lực sự dữ trong chúng ta và trên thế giới” (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:19). Niềm tin không bao giờ bất động hay tiêu cực, nhưng luôn thúc đẩy con người đi tới tha nhân và hi sinh bản thân để lôi kéo mọi người vào cuộc sống hạnh phúc và đầy yêu thương của Thiên Chúa. Không có niềm tin ấy, người ta chỉ tìm cách hi sinh tha nhân cho những mục tiêu trần tục. Đó là điều những người vô thần đã làm. Đứng trước đài kỉ niệm Holocaust ở Giêrusalem, tưởng nhớ hằng triệu nạn nhân vô tội của chũ nghĩa Nazis, ĐGH Gioan Phaolô II nói: “Chỉ có chủ thuyết không có Thiên Chúa (vô thần) mới có thể tính kế và thực thi sự tiêu diệt toàn bộ khối người như vậy” (VietCatholic 23/3/2000). Những hành động cuồng điên đó không những phát xuất từ niềm tin vô thần, nhưng còn là kết quả của những thất vọng lớn lao. Từ thất vọng đến tuyệt vọng.
Nhưng “ngay trong những giờ tuyệt vọng, không phải mọi ánh sáng đều đã tắt hết đâu” (Gioan Phaolô II, VietCatholic 23/3/2000). Lý do vì ngay lúc khốn cùng và nguy hiểm nhất, người tín hữu vẫn có thể thưa với Chúa: “Con đây vẫn tin tưởng nơi Ngài, lạy Chúa, con dám thưa rằng: Ngài là Thượng Đế của con.” (Tv 30:15) Nói lên được điều đó thật là can đảm. Ngày nay vẫn còn rất nhiều tâm hồn can đảm như thế nơi những Kitô hữu trên quê hương Việt Nam.
50.Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa--Lm. Nguyễn Minh Hùng
Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng, một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: "Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh. Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: "Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha!". Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lổ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: "Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con".
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: "Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ".
Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa lớn lắm, mạnh lắm. Có lẽ, nếu có so sánh với trời cao biển rộng vẫn cứ còn khập khiễng. Lòng tha thứ của Thiên Chúa lớn cho đến mức, tội lỗi đã quá sức chịu đựng của lòng người, Thiên Chúa vẫn một lòng tha thứ. Dẫu cho mọi người rất kinh nghiệm về nỗi yếu đuối của bản thân mình, nhưng vẫn khó tha thứ cho anh chị em, thì Thiên Chúa không mảy may vướng một lỗi lầm nào, lại rất dễ dàng thứ tha.
Đọc bài Tin Mừng Chúa nhật thứ IV mùa Chay, ngay câu đầu tiên, câu nói của Chúa Giêsu: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy", tôi bỗng nhớ tới câu chuyện cảm động bên trên, để càng cảm nhận rất nhiều lần rằng: Thiên Chúa là Chúa của tình yêu. Tha thứ là gương mặt chói ngời của tình yêu Thiên Chúa. Bởi tôi nhận ra trong câu nói của Chúa Giêsu bộc lộ cả một nỗi lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa.
Vậy câu nói của Chúa Giêsu: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy", có liên quan thế nào với tình yêu tha thứ của Thiên Chúa?
Chắc anh chị em còn nhớ câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc? Sau khi xuất Ai Cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Môsê hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được cứu. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.
Hình ảnh con rắn đồng đó, là biểu trưng của Đấng Cứu Chuộc. Cũng như con rắn đồng được giương cao, Chúa Kitô sẽ giương cao như vậy. Nếu con rắn đồng nói lên lòng tha thứ, thì Chúa Kitô được giương cao, chính là lòng tha thứ của Thiên Chúa đạt đến tuyệt đối, chiếu sáng ngời ngời và lan tỏa đến bất cứ người nào đã từng được sinh làm người trong cuộc trần. Chúa giương cao, nghĩa là lòng tha thứ của Thiên Chúa được gương cao cho cả nhân loại nhìn vào mà học lấy, mà tha thứ cho nhau.
Lòng tha thứ của Thiên Chúa mạnh lắm, mạnh đến nỗi, Thiên Chúa như ném chính Người Con duy nhất và yêu quí nhất của mình cho trần gian để thực hiện hiện lòng tha thứ đối với chính trần gian vô vàn lần xúc phạm Thiên Chúa.
Trong mạch văn của bài Tin Mừng, thánh Gioan còn ghi thêm chính lời Chúa Giêsu: "Thiên Chúa không sai Con của Ngài đến luận phạt trần gian, nhưng để trần gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ". Thiên Chúa luôn ở về phía chúng ta để ra tay cứu chứ không phải phạt.
Mùa Chay là mùa của lòng yêu thương tha thứ. Bởi thế, việc ăn chay trong mùa Chay, trước hết phải là xóa bỏ hận thù và tha thứ. Nhưng để có tha thứ, cần đến sự hòa giải. Anh chị em mất lòng nhau, anh chị em có hố sâu ngăn cách bởi hận thù, tinh thần chay tịnh đòi anh chị em phải lấy lại lòng nhau, phải lấp đầy những ngăn cách để những gì thuộc về thù hận bị chôn xuống, những gì là trao ban, là yêu thương sẽ bùng lên, vương mạnh. Anh chị em và tôi hãy nhớ rõ một điều: Làm sao có thể tha thứ nếu không bao giờ muốn hòa giải; làm sao có thể nhận được ơn tha thứ nếu không biết tha thứ.
Không biết câu chuyện về cánh tay Chúa Giêsu trên thánh giá ban phép lành để tuôn đổ ơn tha thứ cho tội nhân, thực hư thế nào, nhưng lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa đời đời vẫn thế: bền vững và cao ngất. Câu chuyện có thể không có thật, nhưng lòng tha thứ của Thiên Chúa mãi mãi vẫn thật. Vì thế dẫu cho không có thật, nó vẫn đáng quí, vì nó phản ánh một sự thật rất thật: Lòng Thiên Chúa yêu thương tha thứ. Câu chuyện càng đáng quí khi nó giúp ta ghi lòng để học lấy lòng tha thứ của Thiên Chúa mà tha thứ cho anh chị em.
Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Chúa Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Người: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy".
51.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Bùi Thượng Lưu
Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời
Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do-thái và cũng là “bậc thầy trong dân Israel” đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Các nhà chú giải Kinh Thánh giải thích rằng hoặc ông là người vị vọng trong dân Do Thái, lại là tiến sĩ luật, phái Pharisêu, sợ dư luận, nên đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm, để tránh những cặp mắt dòm ngó, những lời đàm tiếu. Hoặc ông là môn đệ đầu tiên bắt đầu tin theo Chúa một cách kín đáo, chưa dám công khai. Một cuộc gặp gỡ kỳ lạ đã đưa Nicôđêmô, một người khát khao chân lý và ánh sáng được gặp thấy chính Đấng đã phán: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14-16). Trong đêm tối của tội lỗi, trong những thao thức băn khoăn đi tìm chân lý, Đức Giêsu đã mạc khải “vén bức màn” bí mật của chương trình cứu độ của Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của nhân loại.
Trong Tin Mừng của thánh Gioan, Nicôđêmô còn xuất hiện hai lần nữa. Một lần trong cuộc tranh luận về nguồn gốc của Đức Kitô: “Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, trước đây đã đến gặp Chúa Giêsu, ông nói với họ: Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?” (Ga 7, 50). Lần sau cùng vào buổi chiều ngày thứ sáu chịu nạn, Ni-cô-đê-mô cũng dự cuộc liệm xác của Đức Kitô: “Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược, trộn với trầm hương” (Ga 19-39).
Trong cuộc gặp gỡ với Nicôđêmô trong Tin Mừng Chúa Nhật 4 Mùa Chay năm phụng vụ B hôm nay, sứ điệp quan trọng nhất mà Thiên Chúa muốn mặc khải cho tất cả những tâm hồn đang khao khát sự thật và ánh sáng chính là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16)
Vì yêu thương con người đến tột cùng, Chúa Cha đã trao ban Chúa Con cho trần gian, để trần gian được cứu độ (3,16.35) và được sống (5,24-27; 6,39). Sứ mạng của Chúa Con là hoàn tất công trình cứu chuộc của Chúa Cha, đưa con người vào sự hiệp thông hoàn hảo giữa Chúa Cha và Chúa Con. Lịch sử nhân loại, lịch sử dân Do Thái, lịch sử Hội Thánh hay xác thực hơn, lịch sử của mọi người tín hữu chúng ta đều là Lịch Sử Ơn Cứu Rỗi.
“Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3, 17-18). Như vậy:
1. Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha (xem 3,16-18; 14,1.10; 17, 21-25; 20,31), là đến với Đức Giêsu và gặp Người (6,35-37), là biết Người và cùng với Người biết Chúa Cha (10,38; 11,40; 14,7.20). Đức tin còn là một hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha (6,37.44.65).
2. Tin là nhìn lên Con Người (1,51) được giương cao (12,32) và đặt trọn niềm tin vào ĐẤNG BỊ TREO LÊN trên Thập giá, Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi... Chúa Giêsu nhắc đến câu chuyện ghi trong sách Dân Số (chương 21, 4-9): trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ítraen mất kiên nhẫn đã kêu trách Chúa, nên bị nạn rắn cắn. Chúa đã truyền cho Môsê: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21,8). Con rắn đồng đã trở lên dấu chỉ của sự cứu sống. Chúa Giêsu ám chỉ đến cái chết của Người bị hành hạ và bị treo trên thập tự giá. Tất cả những ai nhìn lên và tin vào Ngài, sẽ không bị con rắn xưa là ma quỷ ám hại. Ngày nay, người ta đã dùng dấu hiệu con rắn treo trên các nhà bán thuốc tây hay dùng trong y học như biểu tượng của sự cứu chữa bệnh tật.
3. Người tin (3,12) bước vào một cuộc sống mới (4,14; 6,27; 17,3). Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Mêsia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma quỷ (Ba lời thề hứa trong khi lãnh nhận Phép Rửa). Phải, chính trong đêm tối của tội lỗi mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc họ làm đều xấu”. (Ga 3-19).
Tin là bước đi trong ánh sáng, sống trong chân lý và hành động ngay chính: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Ga 3, 19-21)
Kế hoạch Thiên Chúa là mỗi người được kêu mời lãnh nhận ơn cứu độ. Đó là một mầu nhiệm, Vì, tất cả chúng ta đều đã phạm tội, nhưng nhờ ân thánh, chúng ta được sống lại, được cải tử hoàn sinh với Đức Kitô và trong Đức Kitô. Cứ nhìn qua nếp sống hưởng thụ ăn chơi đàng điếm của những đô thị lớn trên khắp thế giới, kiểm điểm lại sự sa sút lòng đạo đức cũng như luân lý trong các gia đình di cư, chúng ta sẽ nhận định rõ tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa trong thế giới hiện nay.
Mùa chay thánh, mùa ăn năn đền tội sám hối giúp mọi cá nhân tỉnh giấc ngủ say, ý thức thân phận tội lỗi của mình, sự yếu hèn của bản tính con người, để khiêm nhượng hơn, để tin tưởng hơn và mở lòng đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa, lãnh nhận chính tình yêu lớn lao của Ngài.
52.Đức Giêsu nói chuyện với ông Nicôđêmô--JNK
Câu hỏi gợi ý:
1. Con người tội lỗi và rất yếu đuối, nhưng Thiên Chúa có hy vọng biến đổi con người trở nên tốt, nên thánh thiện hơn không? Ngài kết án hay tìm cách giáo hóa con người? Ngài đã làm gì để giáo hóa?
2. Những nỗ lực của các nhà giáo dục có khả năng hữu hiệu biến người thụ giáo nên tốt lành thánh thiện không? Các nhà giáo dục có ban được sức mạnh cho những người thụ giáo với mình không? Còn Đức Giêsu, Ngài có làm được điều đó không? Với điều kiện gì về phía ta?
3. Chúng ta vẫn tự hào rằng mình tin vào Đức Giêsu, nhưng tại sao chúng ta xem ra vẫn còn rất là yếu đuối trước tội lỗi? Có điều gì không ổn trong đức tin của ta không?
Chia sẻ
1. Con người có thể thay đổi: người xấu thành người tốt
Sống trên đời, ta thấy ở bất cứ môi trường nào (đạo, đời), trong bất kỳ lãnh vực nào (chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội), trong bất kỳ cấp độ địa vị nào (cao, thấp), tuổi tác nào (già, trẻ)... cũng đều có người tốt kẻ xấu, người nhiều thiện chí kẻ lắm ác ý, người trung kẻ nịnh, v.v... Tình trạng khác biệt đó không luôn luôn cố định mà có thể biến đổi: người tốt có thể biến thành người xấu, hay ngược lại. Thật vậy, có người rất ác rất xấu, nhưng sau một biến cố nào đó, gặp một ai đó, đọc một cuốn sách nào đó, hoặc sống trong một môi trường mới nào đó, người đó thay đổi hoàn toàn, trở thành một người rất hiền rất tốt. Chẳng hạn, trong Kinh Thánh có những người như Maria Mađalêna (x. Mt 26,6-13), người trộm lành (Lc 23,39-43); trong lịch sử Giáo Hội có những người như Augustinô...
2. Vai trò của giáo dục
Chúng ta cần phải nắm lấy chân lý này: con người có thể biến đổi, từ xấu thành tốt, cũng như từ tốt thành xấu. Chính vì thế, vấn đề giáo dục rất quan trọng và cần thiết, nó đem lại hy vọng cho Giáo Hội và xã hội. Con người - mà tự do đã bị tội lỗi làm tổn thương - nếu không được giáo dục, sẽ rất yếu đuối, dễ bị lôi cuốn vào vòng tội lỗi: điều thiện mình muốn làm thì lại không làm, mà điều ác mình không muốn làm thì lại cứ làm (x. Rm 7,15-20). Được giáo dục, con người có thêm sức mạnh để làm điều thiện và tránh điều ác hơn. Tuy nhiên, khả năng này rất giới hạn.
Chính dựa trên khả năng thay đổi này mà có những nỗ lực giáo dục, chuyển hóa con người: nhiều nỗ lực đã thành công vẻ vang, nhưng cũng có nhiều nỗ lực không đi đến kết quả. Để giáo hóa, các nhà giáo dục thường dùng những phương tiện tự nhiên của con người: dạy lý thuyết, khích lệ, dỗ dành, đe dọa, thưởng phạt...
3. Đức Giêsu đến để cải hóa, cứu độ con người bằng đức tin
Thiên Chúa cũng quan niệm con người có thể thay đổi và nhờ đó được cứu rỗi. Khi thế gian bị tội lỗi làm hư hỏng, Thiên Chúa đã không lên án và hủy diệt thế gian, nhưng đã “sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”. Thiên Chúa vẫn hy vọng và chờ đợi con người thay đổi. Vì cho dù tự do của con người đã bị tội lỗi hủy hoại phần nào, khiến con người sẵn sàng làm nô lệ cho điều ác, nhưng con người vẫn còn phần nào tự do. Con người vẫn có thể chọn lựa giữa điều thiện và điều ác, giữa Thiên Chúa và những gì khác với Ngài. Ngài đã đi bước trước để làm cho hy vọng biến đổi con người thành hiện thực, bằng cách sai Đức Giêsu, Con của Ngài, đến trần gian. Sứ mạng của Đức Giêsu cũng là giáo hóa con người: Ngài đến để cải hóa người tội lỗi (x. Mt 9,13; Lc 5,32), biến họ nên thánh thiện (x. Rm 6,22), và hơn thế nữa, giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi (x. Mt 1,21; Mc 2,17; Rm 6,6.18; Dt 9,26b; 1Ga 1,7b). Ngài còn có quyền tha tội (Mt 9,5-6; Mt 26,28; Cv 10,43; Cl 1,14), và ban ơn cứu rỗi (x. Lc 19,9; Ga 4,42; Cv 4,12; 13,23). Nhưng Ngài cải hóa và cứu độ con người bằng đức tin: “Ai tin thì sẽ được cứu độ” (Mc 16,16; x. Cv 16,31).
Đức Giêsu đến không phải để đem đến một lý thuyết giáo dục, một triết lý mới để con người theo. Ngài đến để cứu con người khỏi xiềng xích của tội lỗi, khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết, là những thứ khiến con người đâm ra bạc nhược, ý chí yếu đuối. Ngài đến để đem lại sức mạnh cho con người, nhờ đó con người có thể đủ sức mạnh để thực hiện những điều thiện mình muốn làm, và nói “không” với những điều ác mình không muốn làm (x. Rm 7,15-20). Để có được sức mạnh đó, con người không cần phải học hỏi lý này thuyết nọ. Điều duy nhất và hết sức quan trọng con người phải làm để có được sức mạnh ấy là hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, như bài Tin Mừng hôm nay xác quyết: “Ai tin vào Người thì được sống muôn đời”, “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”. Như vậy, sức mạnh đến từ đức tin, tin vào Đức Giêsu Kitô.
4. Giới hạn của giáo dục
Bất kỳ nhà giáo dục nào trên thế giới cũng đều nhận thấy khả năng giáo hóa của giáo dục rất giới hạn. Giáo dục có thể rất thành công trong việc dạy cho con người biết tất cả điều nào tốt, điều nào xấu, điều nào phải làm, điều nào nên tránh. Nhưng có thể một người biết rất rõ những điều ấy, và thành thật mong muốn làm theo sự hiểu biết ấy, vẫn cảm thấy không đủ năng lực để thực hiện. Người ấy vẫn cảm thấy có một lực nào đó ở ngay bên trong mình khiến mình làm ngược lại. Nghĩa là lực ấy cản trở mình làm điều tốt, và thúc đẩy mình làm điều xấu. Khốn thay, cái lực xấu ác ấy nhiều khi lại thắng và làm tê liệt được sức mạnh của ý chí. Đó chính là điều mà thánh Phaolô cảm nghiệm rất rõ nơi bản thân ông, và ông gọi cái lực xấu ác ấy là “tội”: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì (...) không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. (...) Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi” (Rm 7,15-20). Đây chính là nguyên nhân của mọi bi thảm trên trái đất: kẻ tội lỗi nhất thế giới vẫn luôn luôn phân biệt điều tốt điều xấu, vẫn luôn ao ước làm điều tốt, vẫn mong trở nên trở nên người tốt, nhưng không làm nổi. Vì lực xấu ác kia quá mạnh, đã lôi kéo, thúc đẩy người ấy làm những điều hắn không muốn. Lực ấy mạnh đến nỗi hắn dường như chỉ biết tuân theo, ý chí yếu đuối của hắn không cưỡng lại được.
5. Sức mạnh và sự cứu rỗi đến từ đức tin vào Đức Giêsu
Trước tình trạng bi thảm ấy, thánh Phaolô đã phải kêu cứu: “Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?” (Rm 7,24). Và may mắn thay, ông đã nhận ra người có khả năng cứu ông: “Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (7,25). Điều này đã được Đức Giêsu xác định với Nicôđêmô trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời”, “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”. Trong bài đọc hai, thánh Phaolô cũng xác nhận điều ấy: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa”. Như vậy, muốn được cứu khỏi tình trạng yếu đuối, nô lệ tội lỗi, điều quan trọng là tin vào Đức Giêsu Kitô.
Đức tin tạo nên sức mạnh: “Mọi sự đều có thể đối với người tin” (Mc 9,23), vì “nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17,6). Khả năng làm được tất cả mọi sự ấy không phải là khả năng của bản thân ta, vì như Đức Giêsu nói: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5), mà là quyền năng của Thiên Chúa, “vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,27). Vì thế, khi tin thật sự vào Đức Giêsu, Đấng ban sức mạnh, ta có thể nói như thánh Phaolô: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể làm được tất cả mọi sự” (Pl 4,13).
Tin vững vàng vào Đức Giêsu, ta sẽ thật sự trở nên mạnh mẽ. Nhưng hãy xem, biết bao người mang danh là tin Đức Giêsu, vẫn cảm thấy mình còn yếu đuối, còn nô lệ cho tội lỗi. Vậy, vấn đề mà ta cần phải nghiêm túc đặt lại, là ta đã thật sự tin vào Đức Giêsu chưa, hay ta chỉ mang danh là tin Ngài thôi? Đức tin của ta vào Ngài là thứ đức tin nào: đức tin rẻ tiền (tin hờ, tin ngoài miệng) hay đức tin đắt giá (tin thật, bằng hành động, bằng đời sống dấn thân thật sự)? Rất nhiều Kitô hữu cảm thấy an tâm vì tưởng rằng khi tuyên xưng ngoài miệng rằng mình tin thì có nghĩa là mình đã tin. Thật ra, tin là một việc quan trọng, nhưng tin thế nào còn quan trọng hơn rất nhiều. Tin mà vẫn nghi nan trong lòng thì chẳng có tác dụng. Hãy xem gương của Phêrô, khi thấy Đức Giêsu đi trên mặt nước đến với thuyền của mình, nhờ tin vững chắc vào Thầy mình, ông đi được trên mặt nước đến với Ngài. Nhưng khi thấy gió thổi, ông đâm sợ và nghi nan trong lòng. Lập tức ông bị chìm xuống (x. Mt 14,25-31).
Cầu Nguyện
Lạy Cha, con đã mang danh là tin vào Cha, vào Đức Giêsu biết bao nhiêu năm nay. Nhưng thử hỏi đức tin của con đã biến đổi con thế nào? Con đã thật sự tốt hơn, mạnh mẽ hơn những người không tin chưa? Đáng lẽ có đức tin, con phải vượt hơn họ xa lắm! Phải chăng, con mới chỉ mang danh là tin, chứ chưa thật sự tin? Xin Cha hãy ban cho con đức tin đích thật, một đức tin được minh chứng bằng hành động thật sự.
53.Nội dung mặc khải của Chúa Giêsu (c.14-17)--Alain Marchabour
Để tạo uy tín cho lời nói của mình, trước hết Chúa Giêsu đặt nó vào trong lịch sử Israel. Sự mới mẻ mà Người mang đến, cần phải là sự hoàn tất mọi điều Kinh Thánh. Con rắn được giương cao trong sa mạc, theo sách Dân số 21,4-9, đã giải thoát các người Do Thái bất trung khỏi phải chết. Từ giai thoại bí nhiệm này, chúng ta nên lưu ý những điểm có thể làm sáng tỏ điều mặc khải tiếp theo sau:
a) Con rắn được giương cao, giống như con người sẽ được treo lên thập giá. Có sự giống nhau từng chữ.
b) Sự chết đe dọa dân tộc là do sự cứng lòng tin. Dân Do Thái được cứu độ không phải bằng một nghi thức phù phép, mà bằng một nghi thức đầy ý nghĩa tượng trưng, đó là đức tin vào Thiên Chúa. Tác giả sách Khôn ngoan đã hiểu rất rõ điều đó: “Ai nhìn lên (con rắn) sẽ được thoát, không phải nhờ xem điềm lạ đó mà được khỏi, nhưng tại nhờ vào Ngài là Cứu Chúa muôn loài” (16,7). Quả thật, ơn cứu độ do Thiên Chúa mà có.
c) Hiểu rộng hơn, việc tham chiếu với đoạn nói về con rắn bằng đồng kết nối sự giáng thế của Chúa Giêsu với những biến cố Xuất hành. Chúa Giêsu là một Môsê mới, và chắc chắn đối với Thánh sử Người còn hơn thế nữa.
Con Người
sẽ phải được giương cao
để ai tin vào Người
thì được sống muôn đời
Quả thật Thiên Chúa
yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một
để ai tin vào Con của Người
thì khỏi phải chết
nhưng được sống muôn đời.
Câu này tóm gọn mặc khải: ở đây chúng ta đang đứng trước những “chuyện trên trời” được nói đến ở câu 12. Nên lưu ý đến kết cấu Do Thái song song: cách phân chia câu cú có thể giúp nhận ra những thành phần của câu tương ứng với nhau: “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”: hoàn cảnh và các tác nhân cụ thể gây nên cái chết của Chúa Giêsu không được phơi bày ở đây. Thánh sử chỉ giữ lại sự “nhất thiết” (phải) ăn rễ sâu trong ý định của Thiên Chúa. Việc dùng thụ động tiếp sau đó có thể là một cách hành văn để tránh phải dùng đến từ “Thiên Chúa”. Kết cấu bản văn chứng tỏ sự song song giữa Thiên Chúa yêu thương và Người được giương cao. Từ câu này chúng ta nhận ra bản tóm lược sự mặc khải, chúng ta thử dẫn ra những điểm sau đây:
a) Trong Tin Mừng Gioan, sự nâng lên tương ứng với việc treo lên thập giá (x 2,28’ 12,31-34). Tại sao việc bị treo lên thập giá, “điều ô nhục đối với người Do Thái, sự điên rồ đối với dân ngoại” (1Cl 1,23) lại là tuyệt đỉnh mặc khải nơi Gioan (x. 19,31-37)?
b) Điều đó bởi vì thập giá là nơi phơi bày tình yêu của Thiên Chúa. Từ này xuất hiện ở đây lần đầu tiên trong Tin Mừng Gioan. Đặc biệt nó sẽ được lặp lại trong phần thứ hai của Tin Mừng. “Thiên Chúa đã yêu đến nỗi đã ban Con mình”: cả hai động từ đều được dùng ở thì quá khứ vô định, một sắc thái của thì động từ không dùng trong tiếng Pháp, chỉ định một thời điểm rõ ràng và chính xác (hội nhập vào bước đường lịch sử của Chúa Giêsu và kết thúc trên thập giá). Chính nhờ ân huệ này của Thiên Chúa mà Gioan có thể nói đến tình yêu. Đó là tình yêu hiển thị (1Ga 4,10). Việc nhập thể chính là sự biểu lộ tình yêu mà đỉnh cao là thập giá.
c) Thập giá không phải là nguồn ơn cứu độ ở khía cạnh một của lễ đền tội đẫm máu. Chính bởi vì nó là cách diễn tả cao cả nhất của tình yêu Thiên Chúa, cho nên nó là nguồn sự sống cho các tín hữu. Chúng ta không nên nhìn thập giá như nơi Thiên Chúa trút cơn thịnh nộ, nơi Chúa Con bị Chúa Cha từ bỏ để cứu độ chuộc tội lỗi loài người. Nơi đây Chúa Con và Chúa Cha thông hiệp cùng một tình yêu dành cho nhân loại. Prométhée chịu hình phạt của chúa tể trên chính tảng đá mà chúa tể đã sử phạt mình vì đã mang lừa cho loài người. Và ca đoàn lý giải các nguyên do hình phạt bằng những lời lẽ này: “Đó là kẻ thù của Zeus, kẻ đã chấp nhận sự căm hờn của mọi thần linh vì đã quá yêu loài người”. Trong Tin Mừng Gioan, tình yêu loài người được Thiên Chúa Cha và Con cùng chia sẻ.
d) Cho dù ông Nicôđêmô đã biến mất cách lạ lùng, thì cũng một chủ đề đó kết nối phần thứ hai của bài trần thuật với phần bài mà ông có mặt: ông này, ngờ vực, đã không muốn tin rằng một người già có thể sinh ra lần thứ hai. Ở đây chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa trên thập giá có năng lực làm cho những ai tin vào Người được sống muôn đời.
TIN VÀ KHÔNG TIN (cc. 18-21)
Nếu tình yêu của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu là vô điều kiện, thì nó mời gọi lời đáp trả của con người. Sự hiện diện của Chúa Giêsu đòi hỏi mỗi người bây giờ phải lựa chọn: chính bây giờ mà việc xét xử được thực hiện. Tính cách quyết liệt và lập tức của việc xét xử là hiệu quả sự hiện diện của Đấng mặc khải: Người hiện diện, con người bắt buộc phải lựa chọn và từ sự lựa chọn này phát sinh ngay từ bây giờ hoặc ơn cứu độ hoặc án phạt. Sự đối nghịch bóng tối/ánh sáng nhắc đến những đoạn văn rất quen thuộc với cộng đoàn Cumran. Thế nhưng Gioan tránh né khía cạnh định mệnh những người Etxênô: chính sự tự do của mỗi người kéo theo sự chia cách và từ đó sự xét xử. Đoạn kết phần thứ nhất của Tin Mừng (12,46-48) lặp lại những chủ đề đó cùng với một loại từ ngữ, đến nỗi có vài nhà chú giải đã nghĩ rằng Ga 3,16-19 và 12, 46-50 có thể là hai bản dịch của cùng một bài giảng của cộng đoàn Gioan. Giả thuyết này (không thể xác định được) có cái lợi là chứng tỏ thánh sử đã soạn thảo Tin Mừng như thế nào: ông có sẵn nhiều nguồn và ông đã lựa chọn. Một vài mảng văn đã có thể được thêm vào trong những lần in ấn khác nhau. Chỉ có tác giả là người hoàn tất việc soạn thảo Tin Mừng, chịu trách nhiệm toàn tập.
Cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô và sự mặc khải tiếp theo, tạo thành một đỉnh cao về Chúa Kitô trong Tin Mừng Gioan. Cộng đoàn, đối mặt với Do Thái giáo, được mời gọi xác định căn tính của Chúa Giêsu và tách mình ra khỏi trào lưu Do Thái, cho dù nó có gần gũi với cộng đoàn (như trường hợp ông Nicôđêmô), bởi vì những người Do Thái đã không sẵn sàng tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng mặc khải của Thiên Chúa, là Chúa Con nhờ người Thiên Chúa nói lời cuối cùng với nhân loại.
54.Một tình yêu không thể tin được--Lm. Phanxicô X. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh và Bố cục
Sách các Dấu lạ của TM IV (2,1–12,50) nói về các dấu lạ lồng vào một cái khung thời gian nhằm giới thiệu chân tính của Đức Giêsu, là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với Nicôđêmô (3,1-21) nằm trong phần đầu (2,1–4,54), phần này có bố cục như sau:
A (2,1-11.12): Khởi đầu các dấu lạ tại Cana miền Galilê: biến nước thành rượu (c. 12 là câu chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian]sang đoạn sau).
B (2,13-22.23-25 +): Thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem và đối thoại với người Do-thái về Đền Thờ mới (cc. 23-25 là những câu “làm cầu” nối 2,13-22 với 3,1-21).
C (2,23-25; 3,1-21): Đối thoại với Nicôđêmô về việc sinh bởi trên cao và diễn từ về việc có sự sống vĩnh cửu.
C’(3,22-36; 4,1-3 +): Đối thoại của Gioan Tẩy Giả với các môn đệ ông về chú rể đến từ trên cao và diễn từ về sự sống (Đoạn 3,22-24 là dẫn nhập chuyển tiếp. Đoạn 4,1-3 là những câu “làm cầu” nối [vì kết] 3,22-36 với [vì chuẩn bị cho] 4,4-42; đoạn này minh nhiên quy chiếu về 3,22-23 và hướng tới 4,43-45).
B’(4,1-3.4-42): Đối thoại với người phụ nữ Samari về việc có nước hằng sống và việc phụng tự đích thật.
A’(4,43-45.46-54): Dấu lạ thứ hai tại Cana miền Galilê: chữa con trai một quan chức nhà vua (cc. 43-45 là đoạn chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian] từ 4,4-42 sang 4,46-54).
Chúng ta thử xác định cấu trúc của phân đoạn 3,1-21 (nhờ đó, có thể biết vị trí của cc. 14-21). Về hình thức bản văn, chúng ta ghi nhận rằng Nicôđêmô có nói ba lần ở cc. 2, 4 và 9. Đáp lại ba câu nói của ông, Đức Giêsu trả lời bằng công thức long trọng, “Thật, tôi bảo thật ông” (cc. 3, 5 và 11; đi trước c. 11 là một nhận xét đối-thủ-luận [ad hominem]). Ba câu trả lời của Đức Giêsu cứ mỗi lần mỗi dài hơn. Về phương diện tư tưởng, có những liên hệ đến Ba Ngôi: các lời Đức Giêsu nói ở cc. 3-8 liên hệ đến vai trò của Thần Khí; những lời ở cc. 11-15 liên hệ đến Con Người; những lời ở cc. 16-21 liên hệ đến Thiên Chúa Cha. Nếu tổng hợp hai phương diện hình thức và tư tưởng, chúng ta có thể xác định bố cục của 3,1-21 như sau:
* Câu 3,1: Dẫn nhập cho toàn bài (nối 2,23-25 với ch. 3).
1. Phân đoạn 1 (cc. 2-8): Sinh ra bởi trên cao nhờ bởi Thần Khí là điều cần thiết để được đi vào trong Nước Thiên Chúa; sinh ra bởi tự nhiên thì không đủ.
(a) cc. 2-3: Câu hỏi và câu trả lời đầu tiên: sự kiện sinh ra bởi trên cao.
(b) cc. 4-8: Câu hỏi và câu trả lời thứ hai: cách thức sinh ra – nhờ bởi Thần Khí.
2. Phân đoạn 2 (cc. 9-21): Tất cả những điều này chỉ có thể có được khi Con đã lên cùng Cha, và điều này chỉ được ban cho những ai tin vào Đức Giêsu.
- cc. 9-10: Câu hỏi và câu trả lời thứ ba dẫn nhập vào toàn phân đoạn.
(a) cc. 11-15: Con phải lên cùng Cha (để ban Thần Khí).
(b) cc. 16-21: Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết để được hưởng nhờ ân huệ này.
Theo R.E. Brown, tác giả TM IV đã để lại một vài dấu chỉ giúp khám phá ra lược đồ ngài theo để tổ chức bản văn.
Phân đoạn 1 bắt đầu với lời khẳng định của Nicôđêmô: “Chúng tôi biết Thầy là một vị tôn sư” (c. 2); câu này được đặt trong thế cân bằng với mở đầu của Phân đoạn 2 với lời Đức Giêsu, “Ông là bậc thầy (tôn sư) trong dân Israel, … chúng tôi nói những điều chúng tôi biết” (cc. 10-11).
Ngoài cách bố cục thành hai phân đoạn, dường như toàn bài được viết theo kỹ thuật đóng khung (bằng các ý tưởng cùng một trường ngữ nghĩa):
(a) Bản văn bắt đầu với việc Nicôđêmô đến với Đức Giêsu ban đêm; bản văn kết thúc với đề tài người ta phải bỏ bóng tối để đến với ánh sáng.
(b) Nicôđêmô mở đầu cuộc đối thoại bằng cách chào Đức Giêsu là vị tôn sư từ Thiên Chúa mà đến; phần cuối của bản văn cho thấy rằng Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa (c. 16) mà Thiên Chúa đã sai đi vào trong thế gian (c. 17) như là ánh sáng cho thế gian (c. 19).
(c) Nếu chúng ta coi 2,23-25 như là phần mở đưa vào “xen” Nicôđêmô, chúng ta lại có một bản văn đóng khung khác: ở 2,23, chúng ta đã nghe nói đến những người “đã tin vào danh Người”, nhưng niềm tin của họ không thỏa đáng vì họ không đến để thấy Người là ai; ở 3,18, chúng ta thấy lời Đức Giêsu nhấn mạnh rằng ơn cứu độ chỉ được ban cho những ai “tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”.
2.- Vài điểm chú giải
- Như ông Môsê đã giương cao con rắn (14): Câu này nhắc đến Ds 21,9tt.
- ai tin vào Người thì được sống muôn đời (15): Câu này tương ứng với Ds 21,8: “Ai nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”.
- Thiên Chúa yêu thế gian (16): Động từ agapaô ở thì quá khứ aorist (êgapêsen) nhắm diễn tả hành vi yêu thương tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Có thể nói ở đây chúng ta có một ví dụ tuyệt hảo về động từ agapaô được diễn tả ra thành hành động, bởi vì c. 16 nói đến tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ ra trong cuộc Nhập Thể và cái chết của Chúa Con.
- đã ban (16): Đông từ didomi không chỉ nhắm đến cuộc Nhập thể (Thiên Chúa gửi Con vào trần gian; c. 17), nhưng nhắm đến cả cuộc đóng đinh (trao nộp cho chết: “giương cao” trong cc. 14-15). Như thế, động từ này tương tự với paradidomi, “trao nộp”, ở Rm 8,32; Gl 2,20; và didomi ở Gl 1,4.
- Thiên Chúa sai Con (17): Động từ apostellô này song song với “ban” (didomi) ở c. 16. Khi nói về Đấng Bảo Trợ, cũng có cặp động từ này, “sai” và “ban” ở 14,16.26. Gioan dùng hai động từ có nghĩa là “sai phái” có vẻ không phân biệt: pempô (26 lần) và apostelô (18 lần).
- Con (17): Từ “Con” ở dạng tuyệt đối (không có túc từ đi theo) trong Ga thì hầu như song song với cụm từ “Con Người” theo truyền thống Nhất Lãm.
- không phải để lên án thế gian (17): Câu này xác định mục tiêu của sứ mạng Chúa Con đảm nhận khi được gửi vào trần gian: không phải để lên án, nhưng để cứu độ (x. Ga 4,42; 1 Ga 4,14). Thế nhưng ở 9,39, Đức Giêsu lại khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử”. Điều duy nhất Thiên Chúa muốn, đó là cứu độ thế gian; nhưng biến cố Con của Ngài đến cũng nhất thiết đưa loài người đến chỗ phải lấy quyết định; quyết định trọng yếu nhất của đời người, là gắn bó với Con Một Thiên Chúa (c. 18) bằng đức tin, hoặc ngược lại, từ chối tin vào Người.
- được cứu độ (17): So sánh với c. 16, ta hiểu “được cứu độ” ở đây có nghĩa là “được sống muôn đời” (x. 1 Ga 4,14; Ga 12,47).
- vì đã không tin (18): Mê pepisteuken ở thì hoàn thành (perfect) có nghĩa là “đã và vẫn không tin”, một thái độ cứng lòng tin kéo dài.
- tin vào danh (18): “Danh” chính là bản thân Đức Giêsu.
- làm điều ác (20): Kiểu dùng động từ “làm” với “điều tốt”, “sự thật”, hoặc “điều xấu” (xem cc. 20.21) là một kiểu nói Sê-mít.
3.- Ý nghĩa của bản văn
* Con phải lên cùng Cha (11-15)
Qua những lời đối thoại giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, ta biết rằng để được tham dự vào Nước Thiên Chúa, phải có một khởi đầu hoàn toàn mới, do Thiên Chúa ban trong bí tích Rửa Tội, nhờ quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa. Ở trong khởi đầu mới này, chúng ta không được thụ động, trái lại phải tin vào Con Thiên Chúa (x. 1 Ga 5,1). Thế nhưng đức tin chẳng phải là chuyện của con người. Đức Giêsu cho thấy rằng đức tin phải dựa trên bằng chứng tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khi sai phái Con của Ngài đến. Cuộc tái sinh bởi Thiên Chúa và lòng tin vào Con Thiên Chúa đưa chúng ta đạt tới ý nghĩa và sự viên mãn của cuộc sống chúng ta, đưa đến sự sống đích thực không qua đi. Không có hai điều này, chúng ta sẽ sai lầm về ý nghĩa của chính bản thân chúng ta.
Làm thế nào để tránh khỏi cái chết thảm thương và bảo đảm cho cuộc sống chúng ta? Israel đã đứng trước những câu hỏi này khi mà trên đường băng qua sa mạc, họ bị rắn độc đe dọa (x. Ds 21,4-9). Thiên Chúa đã ra tay cứu trợ Dân Ngài. Ngài đã bảo Môsê đúc một con rắn đồng và treo vào cán cờ; ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được sống. Thiên Chúa vẫn trợ giúp chúng ta. Khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã đặt định rằng Đấng Chịu Đóng Đinh là biểu tượng của ơn cứu độ, là nguồn mạch đưa tới sự sống. Đàng sau Đấng Chịu Đóng Đinh là chính Thiên Chúa. Ngài đã ban và sai Con của Ngài đến vì yêu thương toàn thể nhân loại, để họ được cứu độ. Tình yêu của Thiên Chúa có một cường độ và một chiều kích to lớn đến nỗi, nếu có thể, hẳn ta phải nói: Thiên Chúa yêu thương thế gian, yêu thương chúng ta, hơn chính Con của Ngài. Ngài không bỏ mặc thế gian, mà lại còn ban cho chúng ta món quà là Người Con vẫn sống trong một tương quan duy nhất với Ngài.
* Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết (16-21)
Thiên Chúa bày tỏ một sự ân cần lạ lùng đối với loài người chúng ta, Ngài quan tâm giúp chúng ta thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ở trong tình trạng bấp bênh: Thiên Chúa không cung cấp ơn cứu độ không cần chúng ta, hoặc là ngược lại với ý muốn của chúng ta. Chúng ta phải mở ra với sự ân cần của Thiên Chúa, phải trân trọng tình yêu lạ lùng ấy, phải tin vào Con Thiên Chúa chịu đóng đinh. Chỉ khi chúng ta xác tín rằng Đấng chịu đóng đinh là Con Một, Con yêu dấu của Thiên Chúa, thì quyền năng của tình yêu này của Thiên Chúa mới có thể thực sự đến với chúng ta và chúng ta mới có thể hoàn toàn mở ra với ánh sáng và sức nóng của Người. Đời sống chúng ta tùy thuộc đức tin của chúng ta.
Điều cần thiết này có vẻ hiển nhiên. Tuy thế, có một hiện tượng lạ lùng, đó là loài người lại ưa thích bóng tối hơn ánh sáng (c. 19). Có những lý do để trốn tránh ánh sáng và tìm lá chắn là bóng tối; những lý do này nằm nơi lối sống của con người. Ai làm điều ác thì tự nhiên tránh ánh sáng; ai làm điều thiện thì mới dám ra trước ánh sáng, người ấy không có gì phải che giấu. Chúng ta không thể coi nhẹ tầm quan trọng của hành động để bày tỏ đức tin. “Điều thiện”, đó là những gì chúng ta làm theo ý Thiên Chúa (c. 21), bằng cách lắng nghe Ngài, chân thành tìm cách thi hành ý muốn của Ngài. “Điều ác” là những gì chúng ta làm không theo các tiêu chí đó, khi chúng ta không tìm Thiên Chúa, nhưng ích kỷ tìm cách thực hiện các chương trình và ý muốn của riêng mình, thậm chí ngược lại với ý Thiên Chúa. Ai chỉ tìm chính mình, thì khép lại với Thiên Chúa và gặp nguy cơ là cũng cứ khép lại không nhận được mạc khải xán lạn về tình yêu của Ngài. Không nghiêm túc quan tâm đến ý muốn của Thiên Chúa, làm sao có thể tin vào tình yêu của Ngài? Chính tình yêu ấy lại càng đưa người ấy xa rời khuynh hướng ích kỷ và làm cho người ấy càng cảm nhận rằng mình hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa! Ai luôn duy trì một dây liên kết với Thiên Chúa, thì mở ra với ánh sáng của tình yêu Ngài.
+ Kết luận
Chỉ trong mấy câu Ga 3,14-21, tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người được khẳng định với sự tha thiết lạ lùng và điều kiện phải theo để được hưởng nhờ tình yêu đó cũng được xác nhận hết sức rõ ràng. Đứng trước mạc khải vĩ đại và trực tiếp này về Thiên Chúa, chúng ta không còn có thể tránh né mà nói rằng Thiên Chúa chỉ là một sức mạnh mơ hồ và xa cách với chúng ta. Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, cũng không phải chỉ là một tư tưởng hay một lý thuyết, một giả thuyết hoặc một chuyện hão huyền trên mây trên gió, mà là một thực tại lịch sử đích thực. Do đó, tình yêu của Thiên Chúa rất thực hữu!
4.- Gợi ý suy niệm
1. Nói đến tình yêu là nói đến sự quan tâm, sự thông dự, sự ân cần, chăm sóc, nỗ lực, vận dụng mọi sự. Tình yêu muốn điều hay điều tốt cho người mình thương. Người ấy không dửng dưng với con đường và định mệnh của người yêu, nhưng ra sức làm cho người kia được sống trong niềm vui và sự viên mãn. Đối với Thiên Chúa thì sao? Phải chăng Ngài đã tạo thành thế giới rồi bỏ mặc nó? Ngài có quan tâm đến chúng ta và đến định mệnh chúng ta không, Ngài có để ý xem chúng ta thế nào và chúng ta đi đến đâu không? Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta, đã quan tâm đến số phận của chúng ta, đã ban Người Con Một để chúng ta được sống viên mãn ngay từ bây giờ. Chúng ta có giá đối với Thiên Chúa đến mức Ngài sẵn sàng hy sinh Con vì chúng ta (x. Rm 8,32).
2. Sau cuộc tạo dựng, sau Lề Luật, các Ngôn sứ và tất cả những hình thái ân cần săn sóc khác, Chúa Con là tiếng nói cuối cùng và ân huệ có giá trị tối cao được Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người Con sẽ quan tâm đến chúng ta riêng tư từng người, sẽ chỉ cho từng người biết con đường đưa tới ơn cứu độ, sẽ đưa ta đến chỗ hiệp thông với Người và đi đến cuộc sống muôn đời. Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, không phải là một tư tưởng hay là một lý thuyết, một giả thuyết hay một chuyện tưởng tượng, nhưng là một thực tại lịch sử đích thực. Từ đó, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa cũng hết sức hiện thực.
3. Thiên Chúa, “một” (độc thần) mà cũng là “ba” (ngôi), là một mầu nhiệm rất lớn lao, mà chúng ta chẳng bao giờ ngờ tới, nếu chính Thiên Chúa không mạc khải cho chúng ta nhờ trung gian Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng các dữ kiện của mầu nhiệm này, và tiếp cận bằng những bước rất giới hạn và phiến diện, đồng thời tin tưởng tuyệt đối vào giáo huấn của Đức Giêsu Kitô.
4. Bản văn không nói trực tiếp đến Chúa Thánh Thần, nhưng chúng ta đã được mạc khải rằng Thiên Chúa và Đức Giêsu cứu độ chúng ta bằng cách ban Thánh Thần cho chúng ta (Ga 7,37-39; x. Gl 4,4-7). Dù sao mẩu đối thoại với Nicôđêmô cũng đã cho thấy những cái mốc: não trạng thiêng liêng do Thánh Thần ban cho. Thánh Thần đối nghịch lại với xác thịt (Ga 3,6), với những cái nhìn trần tục (3,12). Thiên Chúa Cha gửi Con Một của Ngài đến với chúng ta, để Người Con cứu chúng ta bằng cách thông ban Thần Khí. Và chính Thần Khí giúp ta đi lên với Chúa Cha nhờ trung gian Đức Kitô (x. Gl 4,4-7; Rm 8,15-17).
55.Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu--Noel Quesson
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một”
Huyền thoại của một nước vùng Ấn Độ có câu chuyện này: Thời xưa, đất nước còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa. Thỏ Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không từ chối bao giờ. Một hôm có một cụ già lom khom chống gậy đi tới và nói:
- Già đói lắm, suốt mùa nước lũ già không có gì ăn. Chắc già sắp chết rồi, giờ đây già chỉ thèm một miếng thịt thỏ, Pôlixa có cho già được không?
Thỏ Pôlixa nhìn ông già hom hem yếu đuối, tội nghiệp quá. Thỏ Pôlixa bảo ông:
- Được rồi, ông chờ một lát.
Pôlixa đi kiếm củi xếp thành đống rồi nổi lửa, và nói:
- Ông chờ thịt cháu chín, ông lấy mà ăn.
Rồi thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa tắt, ông già biến mất. Thì ra đó là một vị thần được Thượng đế cho phép tới thử lòng thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng đế đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi bên mặt trăng.
Đó chỉ là một chuyện huyền thoại, nhưng có ý nói tới điểm cao nhất của lòng bác ái, là sẵn sàng chết vì người khác. Đó cũng chính là ý tưởng của Đức Giêsu mà thánh Gioan đã ghi lại: “Không có tình yêu nào lớn bằng chết vì bạn hữu”.
Chúa Giêsu đã nói và Ngài đã thực hiện như thế. Chúa chết trên thập giá vì yêu ta. Chính cái chết của Chúa, hay nói khác đi, chính Tình yêu của Chúa đã đem sự sống tới cho chúng ta. Thiên Chúa yêu thương trần gian đến mức trao ban Con Một của Người. Người Con Một đó chính là Tình yêu của Thiên Chúa, đã dùng cái chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh đối với gian trần. Và Tình yêu đó đã đem đến cho trần gian nguồn sống.
Nhiều người thời nay tỏ ra rất bi quan: “Thế trần hư hỏng, vô phương cứu chữa…” thiếu gì lý do để buồn rầu chán nản. Một lương tâm tương đối sáng suốt nào cũng thấy vô số tệ đoan đang diễn ra khắp nơi khắp chốn: bạo lực, bất công, ích kỷ tập thể hay cá nhân, đê tiện đủ thứ, sa đọa, mất lương tâm nghề nghiệp… Người ta lợi dụng nhau, hành hạ nhau, dối trá công khai trên diễn đàn, trong ý thức hệ v,v… Chắc chắn Thiên Chúa thấy rõ những điều này. Tuy nhiên Người vẫn yêu thương trần gian. Người không chịu nổi sự tồi tệ của trần gian. Người muốn cứu vớt trần gian. Thiên Chúa tới chung sống với nhân trần. Người vẫn thấy những gì Người dựng nên là tốt đẹp.
Thiên Chúa muốn con người được sống vĩnh cửu… đó là cuộc sống từ trên ban xuống (Ga 3,3). Thiên Chúa không kết tội trần gian. Nếu trần gian bị kết tội là do tự mình mà ra. Thiên Chúa muốn giải thoát nhân loại, muốn mọi người được cứu rỗi (1Tm 2,4).
Khi con người cương quyết chối từ Thiên Chúa, họ vẫn bó buộc phải sống gần kề Thiên Chúa mà họ chối từ, đó chính là “hỏa ngục”. Và Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. “Thiên Chúa sai Con Người giáng trần không phải để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được Cứu độ. Ai tin vào Ngài thì không bị luận phạt. Còn ai không tin thì đã bị luận phạt rồi”. (Ga 3,17-19).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thêm lòng yêu mến Chúa bằng cách thương mến phục vụ mọi người như Chúa đã yêu thương phục vụ và hy sinh Cứu chuộc chúng con.
56.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Chú giải của Noel Quesson
Như ông Môsê đã gương cao con rắn trong sa mạc
Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng một lời mời gọi ta “nhìn ngắm", "đưa mắt" hướng lên một hình ảnh. Thánh Gioan sử dụng một hồi tưởng Kinh thánh trong suốt "bốn mươi" năm hành trình trong sa mạc, ngời Do Thái đã bị một kẻ thù đáng sợ tấn công, đó là loài rắn lửa (Ds 21,6-9). Môsê đã phải làm "một dấu hiệu chữa trị", một con rắn đồng cứu chữa được treo lên một cây gậy. Đó là hình ảnh có tính thần thoại mà các y sĩ ngày nay vẫn tiếp tục sử dụng như là biểu tượng. Kẻ nào quay lại nhìn thì được cứu không phải nhờ điều nó thấy nương nhờ Người, là Đấng cứu chữa mọi người" (Kn 16,7).
Qua sự giải thích trên của sách khôn ngoan, ta đã có thể ghi nhận rằng, đó không phải là một cử chỉ ma thuật, có tính tụ động. Cái "nhìn" tự nó không chữa. lành được ai, như một thứ bùa hộ mạng, một vật mang lại may mắn, một cử chỉ dị đoan. Nhưng đó là dấu chỉ "Đức tin", nghĩa là nhờ một cử chỉ bên ngoài, nó cho ta thấy rõ rằng, con người đang "quay về" với Thiên Chúa.
Con người cũng sẽ phải được gương cao như vậy để ai tin vào Người, thì được sống muôn đời.
Vâng, thánh Gioan đang mời gọi ta nhìn lên thập giá.
Cần phải dám ngắm nhìn "Đấng chịu đóng đinh" đó, Đấng được "giương cao" trước mắt chúng ta, Gioan đã sử dụng từ được giường cao" ("upsothènai" trong tiếng Hy Lạp) để nói lên, Đức Giêsu vừa được "giương cao) trên thập giá, vừa được "đưa lên" ngự bên hữu Chúa Cha nhờ cuộc phục sinh và lên trời (Ga 3,14; 8,28; 12,32-34).
Vâng, thánh Gioan không bao giờ có thể quên được ngày đó, cũng như cảnh tượng đó, mà chúng ta như đã quá quen thuộc. Vả lại, Gioan là người duy nhất trong số mười hai Tông đồ đã hiện diện tại đó, vào chiều thứ sáu, dưới chân thập giá. Kể từ lúc đó, trong suốt hơn 70 năm, ông đã suy gẫm "hình ảnh” này, và đây là kết quả của cuộc suy tư lâu dài và sâu sắc mà ông cống hiến cho ta. Đối với Gioan, "Thập giá" và "Phục sinh" thuộc cùng một mầu nhiệm mà ông đã diễn tả bằng một từ mang hai ý nghĩa: "Đức Giêsu được đưa lên cao khỏi đất". Bị đóng kinh: Cũng có nghĩa là được tôn dương. Đối với Gioan, Thăng thiên đã bắt đầu ngay từ ngày thứ sáu tuần thánh. Còn chúng ta, chúng ta vẫn tiếp tục mong chờ Thiên Chúa biểu lộ "vinh quang" của Người cho ta trong cử chỉ hiển thắng rạng ngời nào đó. Còn Gioan, ông đã chứng kiến cảnh tượng, thì thập giá chính là Vinh quang Thiên Chúa
Ngay khi Giu-đa vừa ra khỏi phòng tiệc ly, Đức Giêsu đã nói: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh" (Ga 13,31). Bốn ngày trước đó, vào buổi chiều ngày dân chúng rước lá tôn vinh Người, Đức Giêsu đã nói: "'Đã đến giờ Con Người được tôn vinh... Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác... phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12,23-32).
Vậy khi đến lượt mình, chúng ta cũng phải nhìn lên Đấng đã được "gương cao" giữa trời và đất, để cầu nguyện. Cái chết tự nguyện này sẽ mãi mãi là "đỉnh cao của tình yêu”: Đỉnh cao của tình yêu Người Con đối với Người Cha và đỉnh cao của tình yêu của Người Anh hoàn vũ đối với những đứa em tội lỗi. Cây thập giá to lớn bằng gỗ đó, đang đeo mang một thân xác con người bị tra tấn đến ứa máu, chính là một "chóp đỉnh của đau đớn" và chết chóc", nhưng cũng là một đỉnh cao của mạc khải Thiên Chúa. Về chưng diện thể lý, ta cần phải mở to đôi mắt để chiêm ngắm hình ảnh này. Nhưng cũng cần phải nhắm mắt lại để "thấy" những gì chưa có thể thấy được, mà cảnh tượng trên mới chỉ là "dấu chỉ": Tình yêu tuyệt đối đang thiêu đốt tâm hồn con người đó, Đức Giêsu "không ai có tình thương lên hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho hạn hữu (Ga 15,13). Nhưng tình yêu tuyệt đối đã thiêu đốt con người Giêsu, cũng chính là "dấu chỉ” của một tình yêu tuyệt đối khác, tình yêu của Chúa Cha: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người" (Ga 3,16).
Vì thế, các nghệ sĩ thường muốn trình bày Đức Giêsu trên thập giá với một thứ "vinh quang" nào đó. Hai cánh tay và thân xác của Người, thay vì bị co quắp trong đau đớn khổ hình, lại được trình bày trong tư thế hết sức mềm mại và thoải mái: Tư thế của người cầu nguyện, tư thế của linh mục cầu nguyện và dâng lễ vật nới bàn thờ, tư thế của đôi bàn tay nâng lên để đọc kinh "Lạy Cha".
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình.
Thời đại chúng ta, nhiều người bị thử thách trước một nhận xét đầy bi quan: ‘Thế gian thật là thối nát, không thể làm gì để cứu vãn được’ chúng ta cũng dễ hiểu sự chán nản, vẻ khó chịu của những người thức thời đứng trước bao cảnh trớ trêu: Bạo lực, bắt cóc các con tin, ích kỷ có tính tập thể và cá nhân, đê tiện đủ loại, cảnh người bóc lột người, sa đọa luân lý, mất lương tâm nghề nghiệp, lạm đụng việc dối trá trong việc phổ biến ý thức hệ hay quảng cáo, đàn áp dư luận quần chúng, tình trạng vỡ mộng... Chính Thiên Chúa cũng biết tất cả những sự việc đó? Tuy thế, Người vẫn yêu mến thế gian này. Người không chịu để sự xấu ác của nó lộng hành. Người muốn cứu độ nó. Thiên Chúa thương đi ngược lại chúng ta. Đối với chúng ta, thế gian này xem ra rất tồi tệ và xấu ác, thế mà Thiên Chúa vẫn yêu thương nó. Thiên Chúa như say mê trước công cuộc tạo dựng chưa hoàn tất của mình, mà Người đang hướng đến nó sự hoàn hảo. Thế gian không thể phi lý. Nếu chúng ta chấp nhận cách nhìn của Thiên Chúa, một ‘cái nhìn yêu thương’, thì lúc đó, thay vì tiếp tục rên rỉ kêu than, chúng ta sẽ hiến mạng sống cho anh em.
Người đã ban cho Con Một mình
Hai động từ diễn tả thái độ của Thiên Chúa: "Yêu và cho"! Ta hãy cầu nguyện dựa vào những tác động mà hai từ đó gợi lên.
Ta cũng nên lưu ý tĩnh từ được áp dụng cho Đức Giêsu: “Một" hay "độc nhất" (tiếng Hy Lạp là ‘Monogénes’). Từ này chỉ có thánh Gioan sử dụng. Nó được đưa vào trong kinh Tin kính: "Tôi tin Chúa Giêsu Kitô, con một Thiên Chúa". Tiếng này làm cho chúng ta vượt qua khỏi những vẻ bề ngoài tràng giang, tiến sâu vào các thế giới bên kia: Đức Giêsu là đối tượng tử hệ tuyệt đối độc nhất của Thiên Chúa. Đàng khác, tiếng này cũng nhắc lại một hồi tưởng Kinh thánh. Trong ký ức của Israel người ta luôn nhớ đến một người con độc nhất khác, được cha hết sức yêu quý thế mà người cha đầy tình yêu thương này lại chấp nhận một cách kỳ diệu ‘hy sinh’, ‘ban tặng’ đứa con đó: thánh Gioan nhớ rất rõ câu chuyện Abraham và đứa con trai của ông Isaac (St 22,2-16).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian, khiến Người ban tặng "Con Một" Người, Gioan sẽ diễn tả tình yêu đó bằng năm kiểu nói, để không ai còn có thể nghĩ ngược lại được: “Thiên Chúa không muốn con người phải hư mất", Người đã tạo dựng mọi sự để tất cả được tồn tại (Kn 1,13).
- Thiên Chúa muốn cho con người được sống đời đời: đó là một "sự sống từ trời" được ban tặng (Ga 3,3).
- Thiên Chúa không muốn kết án thế gian: nghĩa là toàn thể nhân loại.
- Thiên Chúa muốn cứu độ thế gian; thánh ý của Thiên Chúa là mọi người đều được cứu độ.
- Công trình của Con Người cũng là "công trình của Thiên Chúa" (1Tm 2,4).
Ai tin vào con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Thiên Chúa là "Đấng hằng sống" tuyệt vời, sự sống là của quý giá nhất mà con người có thể chiếm hữu. Thiên Chúa đã quyết định thông truyền sự sống của Người, cho người con sự sống thần thiêng và vĩnh cửu ý định "cứu độ phổ quát" của Thiên Chúa thật rõ ràng: Nhưng để công cuộc cứu độ được thành tựu, con người còn phải chấp nhận "ân huệ" đó. Hiển nhiên không thể tương tượng được rằng, một người nhất định khước từ Thiên Chúa, lại bị cưỡng chế và áp lực phải sống bên cạnh Người, bất chấp ý muốn của họ. Làm như thế, thì thật sự là tạo một thứ "hỏa ngục". Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người: Kẻ nào không muốn "sự sống" mà Thiên Chúa tặng ban cho mọi người, kẻ đó sẽ ở trong sự chết? Liệu có một người nào đó khăng khăng chối từ như thế? Đó là bí mật đáng sợ của cái chết, vào giây phút mà con người được giải thoát khỏi cảnh u tối trần gian, thực sự "đối diện với Thiên Chúa".
Vì Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian. Nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.
Trích đoạn trên làm cho chúng ta khá choáng váng.
Đoạn văn quả quyết hai điều:
- Một là: Thiên Chúa không lên án ai. Người muốn cứu độ tất cả vì Người yêu thương hết mọi người.
- Hai là: Chính con người tự xét xử và lên án mình, khi nó cố chấp khước từ Thiên Chúa.
Như thế, việc "lên án" không phải là một hành vi ở bên ngoài con người. Nhưng trớ trêu thay, nó lại là sự việc của chính con người đó, khi họ có thái độ khước từ tình yêu Thiên Chúa, được biểu lộ trong việc "Con Một của Người hiến thân" cho đến hy sinh thập giá. Chính Thiên Chúa làm mọi sự. Người đã đi đến cùng sự cứu độ. Mọi sự diễn tiến như thể việc "lên án" không thuộc về thế giới Thiên Chúa, nhưng đó là một thực tại ở bên ngoài Vương Quốc: Những kẻ khước từ ánh sáng "diện kiến" tự kết án mình trở thành một thế giới "ở bên ngoài" Thiên Chúa; một thế giới chết chóc, một thế giới không có sự sống đời đời.
Chúng ta cần ghi nhận rằng, "bi kịch của thái độ vô tín" không chỉ là một vấn đề hiện tại. Nó xuất hiện ngay giữa Tin Mừng. Nếu ta muốn kéo dài sứ vụ của Đức Giêsu, thì chúng ta không được phép lên án ai, mà phải ước muốn cứu giúp mọi anh em mình, phải làm tất cả để đạt được điều đó. Ai xét xử anh em mình, thì làm điều trái ngược Thiên Chúa; kẻ đó tự đặt mình ra ngoài thế giới của Thiên Chúa "Đấng không đến để xét xử".
Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: "Mọi việc họ làm đều hợp ý Thiên Chúa"
Sau hết, niềm vui của tín hữu là hưởng trước những gì sẽ là niềm vui vĩnh cửu được diện kiến với Thiên Chúa. Đối với họ, sự sống đời đời đã khởi sự. Họ đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người. Họ sống tình yêu đó mỗi ngày. Họ không ngừng tạ ơn tình yêu đó và ‘sự sống vĩnh cửu’ này đã khởi sự, đó là một sự sống đầy sinh động. Các Kitô hữu từ lâu đã thường nói đến sự sống vĩnh cửu nhờ một thứ ngôn ngữ và những hình ảnh gần với Niết bàn (nirvầna) của Phật giáo hơn là quan niệm của thánh Gioan: Đó là một ’sự nghỉ ngơi đời đời’. Đối với Tin Mừng thứ tư, đó là một ‘sự sống vĩnh cửu’, tràn đầy sinh động và niềm vui, chớ không phải là một sự nghỉ ngơi tẻ nhạt. Ở đấy, theo văn bản Hy Lạp, Gioan đã nói: "Kẻ nào hành động theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng". Sống là “hành động"! Đó là những "hành động", những "việc làm"; những "công trình". Và đây là điều làm ta ngỡ ngàng: lúc đó, những "việc làm của con người" cũng được công nhận như những "việc làm của Thiên Chúa”. Đó là cuộc sống vĩnh cửu.
57.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Fiches Dominicales
THIÊN CHÚA ĐÃ YÊU THẾ GIAN ĐẾN NỖI ĐÃ BAN CON MỘT, ĐỂ AI TIN VÀO CON CỦA NGƯỜI…
(Ga 3,14-21)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Tình yêu nhưng không của Thiên Chúa
Trong khi bầu khí căng thẳng do việc Chúa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ gây ra chưa lắng dịu, thì ông Nicôđêmô, một kỳ mục trong dân tìm gặp Đức Giêsu. Ông đến vào lúc đêm tối, nhằm giữ kín sự việc, nhưng dưới ngòi bút của Gioan nó mang một ý nghĩa tượng trưng: phải chăng Nicôđêmô đang ở trong bóng tối tìm đến ánh sáng?
Cuộc đối thoại mở đầu với đề tài phải tái sinh. Đức Giêsu tuyên bố: "Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bới nước và Thần Khí" (3, 5).
Rồi từ câu 11 trở đi, cuộc đối thoại biến thành độc thoại. Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy bằng cách kể lại những biến cố trong lịch sử dân Israel. Người nhắc đến biến cố bí ẩn trong sách Xuất Hành: con rắn đồng được treo lên làm dấu hiệu, chẳng những được hoàn tất, mà còn bị vượt lên trên trong biến cố khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa của Người.
+ Ngày xưa, thời xuất hành trong hoang địa, con cái Israel vì kêu trách và thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa, nên đã bị rắn độc tràn ra cắn chết nhiều người. Sách Dân Số thuật lại (21,4-9): bấy giờ ông Môsê treo một con rắn đồng lên cao; hễ ai nhìn lên con rắn đồng với lòng tin thi được thoát chết. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): "Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người" (Kn 1, 6-7).
+ Dấu chỉ giờ đây nhường chỗ cho thực tại mà nó ám chỉ, đó là sự hiện diện của Đức Giêsu, Môsê mới, là Lời hằng sống, ban sự sống của Thiên Chúa. “Bị treo lên", Đức Giêsu cũng sẽ bị treo lên bởi những kẻ đóng đinh Người vào thập giá; Người sẽ được nâng lên bởi Chúa Cha, Đấng đón nhận Người vào hưởng vinh quang với Thiên Chúa (8,28-30). Và cũng như xưa, hễ ai nhìn lên con rắn đồng thì được sống, ngày nay hễ ai nhìn lên "Con Người bị đóng đinh và phục sinh” thì được Người ban cho sự sống đời đời.
+ Nguồn gốc của hành vi cứu độ này không cần tìm đâu xa, nó ở ngay trong tình thương điên dại của Thiên Chúa, của Đức Giêsu Kitô đối với thế gian. X. Léon-Dufour diễn tả: “Ở trọng tâm của tất cả mọi sự và đặc biệt của vai trò Con Người và của con đường đi đến thập giá, ta thấy Thiên Chúa yêu thương thế gian. Lời xác quyết nêu bật Thiên Chúa và tình thương của Người như thực tại tuyệt đối. Tình thương đi trước mọi sự, cũng như trong Lời Mở Đầu, ánh sáng thần linh của Ngôi Lời soi chiếu mọi người trong bóng tối. Thiên Chúa thương yêu chỉ có một ý định là ban ơn cứu độ và sự sống (Lecture de L'evangile selon Jean, cuốn 1, Seuil, trang 305-306).
Như thế, ở đây, thập giá được trình bày như địa điểm mạc khải tình thương của Thiên Chúa, một biểu lộ tối hậu là nguồn mạch sự sống.
2. Mời gọi ta đáp trả
Đến đây coi như Nicôđêmô biến mất. Đức Giêsu xem như đối thoại với một nhóm thính giả, chính là chúng ta ngày nay:
Tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa tỏ bày qua Đức Giêsu Con Ngài, luôn kêu mời sự đáp lại của con người có tự do. Và nó đòi một lời đáp ngay lúc này, đối diện với Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến, Đấng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa Cha. Bởi vì ngay bây giờ, cuộc xét xử đang được thực hiện:
Hoặc từ khước Thiên Chúa, đóng cửa không đón tiếp, mù quáng không muốn nhận ánh sáng, chìm đắm trong tối tăm và bị luận phạt. Hoặc cởi mở đón nhận ánh sáng, đón nhận sự cứu độ của Thiên Chúa, và như thế tất cả đều thay đổi, vì mọi hoạt động của ta sẽ được nhìn nhận như những hoạt động của Thiên Chúa, và trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Người.
X. Léon-Dufour giải thích thêm: "trong những câu chúng ta vừa đọc, thái độ lựa chọn hay từ chối đều thể hiện trong lời đáp trả của con người trước Đấng Thiên Chúa sai đến. Một đặc điểm quan trọng khác là: sự sống vĩnh cửu và luận phạt đời đời không chỉ được thi hành vào ngày thế mạt, nó được thực hiện ngay trong giây phút hiện tại, ngay khi gặp gỡ Đức Giêsu. Tin vào Đức Giêsu, lập tức được sống, trái lại, từ khước tin Chúa, con người tự ý chọn lựa cái chết (vĩnh viễn), mà Thánh Kinh thường ám chỉ bằng câu "bị xét xử”. (Sđd, trang 308-309).
BÀI ĐỌC THÊM
1) "Cái nhìn cứu sống"
(G.Bessière, trong "Dieu si proche" năm B, DDB, trang 42-43).
Đem câu chuyện con rắn đồng so sánh với Đức Giêsu, kể cũng hơi lạ thường! Câu chuyện lạ thường này có ý nghĩa gì đây? Truyền thống Thánh Kinh có thuật rằng, trong cuộc Xuất hành, khi dân Do thái bị đói, bị khát đã kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Họ đã phải chịu hình phạt: những con rắn lửa bò ra gieo chết chóc cho dân. Nhưng rồi Thiên Chúa đã xót thương, Người truyền cho ông Môsê treo con rắn bằng đồng lên cột cao: "Ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống" (Ds 21, 8)
Ở đây sự so sánh nằm ở từ "treo lên”, Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ "sống”. Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tìm kiến sự sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu, nếu kẻ ấy "tin". Đức Giêsu ban sự sống, và Ngài ban cách sung mãn. Không phải sự sống nhân tính, mà “sự sống vĩnh cửu”. Bởi đâu có ân huệ vô biên thoả mãn mọi ước muốn như vậy? - "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi Người đã ban chính Con duy nhất của Người”. Nguồn gốc không thể diễn tả đó, chính là tình thương phát xuất từ mầu nhiệm cao siêu mãnh liệt đối với muôn loài muôn vật.
Viễn tượng thật hết sức lạc quan. Có người chủ trương rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến tiêu diệt những kẻ ô nhơ, tội lỗi. Đức Giêsu lại bày tỏ thái độ chống lại chủ trương tàn bạo này. Thiên Chúa không sai Con của Người đến để phán xét, nhưng "để nhờ Người mà thế gian được cứu sống".
Nếu có ai cố tình giam hãm mình trong sự dữ, hay trong bóng tối, thì không phải Chúa luận phạt, mà chính họ đã chọn bóng tối cho mình.
Phải chăng, như vậy là nói rằng những người ngoài Kitô giáo, nghĩa là không gắn bó với Đức Giêsu, đều bị mất phần rỗi? Thánh Gioan nhìn nhận rằng sự gặp gỡ Thiên Chúa còn sâu xa hơn; nó được thể hiện trong sự thành tâm, trong giá trị của các hành động và trong sự mở rộng tâm hồn ra với người khác. Thánh sử đề cập cuộc tranh luận này khi viết: "Phàm ai thực thi chân lý, thì đến với ánh sáng...”
2) Một cuộc sống được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện
(Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Pháp "Thư gởi những người công giáo Pháp", Cerf, trang 55-56).
Sau hết, tin vào ơn cứu độ của Thiên Chúa làm thay đổi cách thế hoạch định cả cuộc sống trần thế, và khiến ta hiểu khác đi lịch sử của ta trong thế giới này, và cả cách hoàn tất lịch sử đó nữa. Bởi vì "cho dầu sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8,38-39).
Mặc dầu chúng ta chia sẻ những ưu tư của thế giới này, chúng ta vẫn tin rằng cuộc sống con người như được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện, mà không gì làm thay đổi được và rằng ân sủng của Thiên Chúa hằng theo dõi và sẽ còn theo dõi trong mọi hoàn cảnh của lịch sử chúng ta. Và chúng ta cũng hy vọng rằng cái chết, đôi khi là cái chết tàn bạo, không chấm dứt số phận chúng ta, bởi vì Chúa hứa cho ta sống lại và sống vĩnh cửu.
Đứng trước những nỗi sợ hãi của thời đại chúng ta, chúng ta không thể im lặng về kết cục của số phận con người, dưới ánh sáng của Tình Thương. Giao ước của Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong thế giới mới, thế giới đã được biến đổi, mà chúng ta mong đợi. Niềm hy vọng này luôn nâng đỡ những người (nam cũng như nữ) đang đấu tranh chống lại sự chết và những quyền lực của sự chết, những người dám hiến dâng sự sống mình vì tình yêu Đức Giêsu Kitô.
58.Đàm thoại với Nicôđêmô (Ga 3,14-21)--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Thánh Gioan viết cuốn Tin mừng của ông khoảng 60 năm sau khi Chúa Giêsu về trời. Trí nhớ của tuổi già, thường rất chính xác khi gợi lại những kỷ niệm thời thanh xuân, đã giúp ông nhớ lại một vài cảnh đặc sắc trong đời Chúa Giêsu và nhiều giáo huấn đặc biệt của Thầy. Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp tục câu chuyện Nicôđêmô đến đàm thoại với Chúa Giêsu về đề tài đức tin và sự tái sinh thiêng liêng. Sau khi tường thuật, vị thánh sử gộp lại trong suy tư riêng một lô giáo huấn Chúa Giêsu đã ban hay đã gợi ý mà ông đã thâu thập và đào sâu. Ông trình bày chúng dưới ánh sáng của Chúa Giêsu phục sinh cùng trong lối văn riêng của mình, là nhớ thế đã cho chúng ta một vài phản ảnh sống động về một đức tin được trực tiếp nuôi dưỡng tận nguồn (Gioan dã biết Chúa Giêsu) cùng được suy niệm cách sâu xa (Gioan đã sống đức tin với tư cách môn đồ hết mực trung tín).
2. Ở đây thánh Gioan đưa ra ánh sáng điều mà thánh Phaolô vẫn luôn gói trong các thư của ông là "mầu nhiệm" cứu rỗi do Thiên Chúa đem đến để ta tin: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa xuống trần để cứu rỗi thế gian. Những ai được hưởng ơn rỗi là kẻ, khi gặp Chúa Kitô, đã tin vào Người.
3. Từ ngữ "Con Người" xuất phát từ ngôn sứ Đanien (7,13). Một cách chung chung, tước hiệu được Tin mừng Gioan áp dụng cho Chúa Giêsu để biểu thị vai trò cứu thế của Người qua việc Nhập thể, Tử nạn và Phục sinh, nên có thể hiểu như là "Con Thiên Chúa làm người". Như vậy ta thấy Chúa Giêsu là Đấng thể hiện được kiểu mẫu hoàn hảo của con người tự hoàn thành lấy mình vì đã tự vượt thắng mình trong Thiên Chúa. Thánh Gioan còn ghi lại: "Con Người đã bị giương cao". Đây là việc treo lên thập giá. Lời này ám chỉ đến câu chuyện Môsê treo con rắn đồng được sách Dân số kể lại (Ds 21,6-8) Sách kể rằng: khi đang ở trong một vùng nầy rắn rít lúc đi qua sa mạc, người Hy bá đã được kháng nhiễm một cách lạ lùng khỏl nọc độc của chúng bằng cách nhìn lên một con rắn đồng Môsê treo lên nơi cao. Câu chuyện này được thánh sử gợi lại như biểu tượng cho thực tại thiêng liêng của ơn cứu độ được ban cho hết những ai nhìn về thập giá Chúa Kitô vui lòng tin.
4. "Ai tin vào Người thì không bị án xử, kẻ không tin vào Người thì đã bị án xử rồi". Cách nói này cho thấy niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô bao hàm sự dấn thân dứt khoát và sau cùng sẽ đem lại công hiệu. Nghĩa là đức tin của tôi hôm nay (mà tôi luôn giữ vững) sẽ cứu tôi trong ngày tôi chết và trong ngày cánh chung. Giữa cái hôm nay và ngày sau hết của đời tôi, có thể xảy ra nhiều thăng trầm. Nhưng đức tin hiện tại của tôi đã đặt tôi vào vị thế khỏi bị kết án, nghĩa là đặt tôi trong ơn tha thứ của Thiên Chúa, trong sự tiếp đón và trong tình bằng hữu của Ngài. Điều này giải thích cho thấy sự nồng nhiệt của đức tin tôi hôm nay có một tầm quan trọng rất lên đối với cuộc gặp gỡ sau cùng của tôi với Thiên Chúa; mỗi ngày hiện tại chuẩn bị ngày cuối cùng đời tôi. Song nhờ niềm tin vào Chúa Giêsu, hồng ân lạ lùng là tình bằng hữu của Thiên Chúa cũng đến ngay bây giờ trong tôi và biến đổi tôi rồi. Niềm tin này lôi kéo tôi sống trong ánh sáng, nghĩa là trong sự thẳng thắn trung thành với Tin mừng. "Ai hành động trong sự thật thì đến cùng ánh sáng".
5. Sự tự do hành động mà Nicôđêmô được hướng cũng là một dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, Đấng để con người bước đi theo ý họ, ngay cả trên đường nẻo gian tà, thù hận và chết chóc. Thiên Chúa chỉ muốn làm một điều là ban Con Một, sai Người đến giữa nhân loại để chịu đau khổ và chết chóc hầu cứu rỗi họ. Cả Chúa Cha lẫn chúa Con đều không muốn ép con người yêu, nhưng chỉ kêu mời họ yêu từ đỉnh thập giá. Hai Đấng cũng tránh không phán xét hay kết án con người ngay ở đời này. Chính con người và chỉ mình họ tự làm quan tòa cho mình, tùy như họ cởi mở đón nhận hay từ chối ánh sáng.
6. Như thế con người của Chúa Kitô, qua hành động và lời nói, tỏ hiện ra như là nơi gặp gỡ hay chia rẽ của nhân loại. Theo Tin mừng Gioan, mọi người đều phải đối chất với Chúa Kitô, dù chỉ là một cách mặc nhiên, khi họ thông đồng với sự ác, hay khi họ khát vọng chân lý, sự thiện. Từ khi Ađam ẩn núp khỏi mặt Thiên Chúa, con người luôn luôn có khuynh hướng trốn tránh Thiên Chúa, tha nhân và chính mình, để khỏi lộ tẩy các hành vi xấu xa của mình, nhất là những hành vi bên ngoài có vẻ tốt hảo. Ai cố ý quay lưng lại với chân lý dầu chân lý ra sao - thì liều mình chết trong sự mù quáng tội lỗi. Ngược lại, ai tỏ ra trung thành trong thực tế với chân tý mà mình đã thoáng thấy - dầu chân lý đó hạn hẹp mặc lòng – thì cũng được Chúa Kitô hứa cho sống và dược thông hiệp với Thiên Chúa Cha.
59.Con Người phải được giương cao (Ga 3,14-15)--William Barclay
Đến đây, Gioan quay về với câu chuyện lạ lùng của Cựu Ước đã được kể lại trong Dân Số 21,4-9. Trên hành trình qua hoang địa, dân Israel lẩm bẩm than phiền và tiếc rẻ việc bỏ xứ Ai Cập ra đi. Để trừng phạt, Chúa cho tai họa rắn độc đến cắn họ chết. Dân chúng ăn năn và kêu xin Đức Chúa thương xót, nên Ngài dạy Môsê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cao, hễ ai nhìn lên con rắn ấy thì được chữa lành và thoát chết. Câu chuyện đã gây ấn tượng sâu đậm trong dân Israel. Họ kể lại rằng về sau con rắn bằng đồng đó đã trở thành thần tượng. Dưới thời Khitkigia, đã phải hủy vì dân chúng thờ lạy nó (2V 18,4). Dân Do Thái có phần bối rối về biến cố ấy, vì họ bị cấm tuyệt đối trong việc làm các tượng. Pharisêu giải thích như sau: “Không phải con rắn đã ban sự sống. Khi Môsê treo con rắn lên thì người Israel nhìn và tin Đấng đã truyền lệnh cho Môsê làm như thế. Chính Chúa đã chữa lành cho họ”. Quyền phép chữa lành không ở trong con rắn. Con rắn chỉ là một dấu hiệu, một biểu tượng, chỉ cho người ta hướng tư tưởng mình về Chúa, và khi họ nghĩ đến Ngài thì được chữa lành.
Gioan dùng câu chuyện này như môt loại dụ ngôn về Chúa Giêsu. Ông nói: “Con rắn bị treo lên, người ta nhìn nó, tư tưởng họ hướng về Chúa, do quyền phép của Chúa, Đấng họ tin cậy thì họ được lành bệnh. Chúa Giêsu cũng phải bị treo lên như thế, để khi loài người hướng tư tưởng về Ngài, tin Ngài, thì cũng được sự sống đời đời”.
Một điểm gợi ý rất lạ ở đây. Động từ treo lên là hupsoun. Từ này được dùng cho Chúa Giêsu theo hai nghĩa. Nó được dùng cho việc Chúa bị treo trên thập giá; và nó cũng được dùng cho việc Chúa được cất lên đểvào vinh hiển lúc Ngài về trời. Nó được dùng chỉ thập giá trong Ga 8,28; 12,32, và được dùng chỉ Chúa Giêsu lên trời vinh quang trong Công Vụ 2,33; 5,31; Pl 2,9. Có hai lần Ngài được đưa lên vào cõi vinh quang; cả hai liên hệ với nhau bất khả phân ly. Điều này không thể xảy ra mà không có điều kia. Với Chúa Giêsu, thập giá là con đường tiến đến vinh quang. Nếu Ngài khước từ thập giá, tránh né, tìm cách để thoát khỏi đó –là việc Ngài có thể làm thật dễ dàng nếu muốn- thì Ngài đã không thể bước vào cõi vinh quang. Với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể chọn con đường dễ đi, có thể khước từ thập giá mà mỗi Kitô hữu được gọi phải vác, nếu thế, chúng ta sẽ mất phần vinh hiển. Đó là một trong những định luật bất biến của đời sống: không có thập giá thì không có triều thiên.
Trong câu 15 chúng ta gặp lại hai thành ngữ mà không thể rút tỉa hết ý nghĩa trong đó, vì cả hai vượt xa những gì chúng ta có thể khám phá được. Nhưng chúng ta phải cố gắng lãnh hội ít nhất là một phần trong ý nghĩa của chúng.
1) Thứ nhất là tin Chúa Giêsu. Mệnh đề này có ít nhất ba nghĩa:
a) Hết lòng tin Thiên Chúa vốn đúng như điều Chúa Giêsu tuyên bố. Chúa yêu thương chúng ta, lo lắng chăm sóc mỗi người, Ngài chẳng mong gì hơn là tha tội cho chúng ta. Chúa là tình yêu. Không phải dễ cho người Do Thái tin như vậy. Họ nhìn vào Chúa của luật, áp đặt các luật lệ Ngài trên dân chúng để trừng phạt khi họ vi phạm. Nên dân Do Thái nhìn Chúa như một vị Thẩm Phán, và loài người là tội nhân trước tòa án của Ngài. Họ nhìn Chúa như một Chúa hay đòi hỏi sinh tế và của lễ. Muốn ra mắt Chúa, loài người phải trả giá mà Chúa đã định. Thật khó cho họ nghĩ là Chúa không phải là một quan tòa chuyên tìm cách trừng phạt. Một ông cai chỉ chờ tìm cách vồ lấy công nhân, mà Ngài là người Cha tha thiết trông chờ đứa con đi hoang trở về nhà. Chúa Giêsu đã phải trả giá bằng đời sống và sự chết của Ngài để công bố cho loài người biết điều đó. Và chúng ta không thể trở thành Kitô hữu nếu chưa hết lòng tin như vậy.
b) Làm thế nào chúng ta biết chắc Chúa Giêsu hiểu rất rõ những gì Ngài nói? Có gì bảo đảm Phúc Âm kỳ diệu ấy là thật? Đến đây chúng ta đụng đến tín điều thứ hai. Chúng ta phải tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là tâm trí của Thiên Chúa, biết rất rõ Chúa Cha, thân cận mật thiết với Chúa Cha, vốn là một với Chúa Cha, đến mức Ngài có thể nói cho chúng ta biết chân lý tuyệt đối về Chúa Cha. Chúng ta phải tin chắc Chúa Giêsu biết rõ những gì Ngài nói, Ngài đã nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha, vì tâm trí của Chúa Cha vốn ở trong Ngài.
c) Nhưng lòng tin còn một yếu tố thứ ba nữa. Chúng ta tin Chúa là Cha yêu thương, vì chúng ta tin Chúa Giêsu là con của Chúa Cha, vì thế những gì Ngài nói về Chúa Cha đều đúng thật. Đến yếu tố thứ ba, chúng ta phải đặt mọi sự trên cơ sở những gì Chúa Giêsu nói là đúng thật. Chúng ta phải làm theo tất cả những gì Ngài chỉ dạy. Khi Ngài dạy, chúng ta phải đặt mình, không chút do dự, vào lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì chúng ta làm theo như vậy. Chúng ta phải tin lời của Ngài. Mỗi hành vi, cử chỉ nhỏ nhất trong đời sống đều phải được thực hiện trong sự vâng lời Ngài không chút nghi ngờ.
Như vậy, niềm tin có ba yếu tố: tin Chúa là Cha yêu thương của chúng ta; Chúa Giêsu là Con Chúa Cha, do đó Ngài cũng nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha và đời sống; và vâng phục Chúa Giêsu cách vững vàng không chút nghi ngờ.
2) Mệnh đề quan trọng thứ hai là sự sống đời đời. Chúng ta đã học biết sự sống đời đời là chính sự sống của Chúa, hãy đặt vấn đề: “Nếu được sự sống đời đời, cụ thể là chúng ta được gì?”. Được sự sống đời đời thì đời sống sẽ như thế nào? Khi hưởng sự sống đời đời thì mọi mối liên hệ trong đời sống đều được bao phủ bằng sự bình an.
a) Sự sống đời đời cho chúng ta sự bình an với Chúa, chúng ta không còn sợ sệt như trước mặt một vị vua độc tài, hay tìm cách lẩn tránh một quan tòa nghiêm khắc, nhưng chúng ta được ở trong nhà với Cha mình.
b) Sự sống đời đời là an hòa với mọi người. Nếu chúng ta được tha thứ, chúng ta phải biết tha thứ, nó khiến ta có thể nhìn người khác như Chúa nhìn họ, có thể hòa hợp với mọi người thành một đại gia đình sống trong thương yêu.
c) Sự sống đời đời cho chúng ta sự an hòa với đời sống. Nếu Chúa là Cha, thì Ngài điều hành mọi sự để tất cả trở thành tốt lành. Lessing thường nói, nếu được hỏi con Nhân sư (Sphin, con vật đầu người mình sư tử, theo truyền thuyết Ai Cập, thông suốt mọi sự) một câu thì ông sẽ hỏi nó, “Vũ trụ này có phải là một vũ trụ thiên thần không?” Khi chúng ta tin Chúa là Cha, thì phải tin bàn tay của người cha chẳng bao giờ làm con cái mình nhỏ lệ cách không cần thiết. Chúng ta có thể không hiểu rõ về cuộc đời, nhưng chúng ta sẽ không còn oán tránh nó nữa.
d) Sự sống đời đời khiến chúng ta an hòa với chính mình. Nói cho cùng, con người sợ chính mình hơn bất cứ gì khác. Ta biết sự yếu đuối của mình, biết sức mạnh của những cơn cám dỗ, biết các công việc và những đòi hỏi của đời sống mình. Ta biết mình vẫn đương đầu với mọi điều đó nhưng có Chúa ở cùng. Không phải là ta sống nữa, nhưng là Chúa Cứu Thế sống trong ta, trong đời mình có sự bình an được thiết lập bằng sức mạnh.
e) Sự sống đời đời khiến ta biết chắc sự bình an sâu xa nhất của thế gian chỉ là cái bóng của sự bình an tuyệt vời sắp đến. Nó cho ta một hy vọng, một mục đích để tiến tới đời sống kỳ diệu quang vinh trên đất này, và đồng thời một đời sống tốt đẹp vô cùng ở tương lai.
TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA (Ga 3,16)
Tất cả các vĩ nhân đều có những đoạn văn riêng mình ưa thích. Đoạn văn trên đây là “Bản Văn Của Mọi Người”. Đây chính là Phúc Âm cho tất cả những tấm lòng đơn sơ. Bản văn này nói với chúng ta một số điều quan trọng.
1) Nguồn gốc và khởi đầu của cứu rỗi là từ Thiên Chúa. Đôi khi Kitô giáo đã được trình bày như là chúng ta phải đến thuyết phục Chúa để xin Chúa chấp thuận hòa giải với chúng ta, như là Chúa phải được thuyết phục mới bằng lòng tha tội cho chúng ta. Có khi người ta vẽ ra một bức tranh về Thiên Chúa nghiêm khắc, giận dữ, không dung thứ và khư khư nắm chặt lề luật. Nhiều khi người ta trình bày thông điệp Kitô giáo như là Chúa Giêsu đã làm một điều gì đó thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với loài người, từ xử phạt ra tha thứ. Nhưng câu Kinh Thánh trên cho chúng ta biết rằng mọi sự là do Chúa khởi đầu. Chính Chúa đã sai Con Ngài đến thế gian vì Ngài yêu thương nhân loại. Đằng sau mọi sự đó là tình thương của Chúa.
2) Nguồn mạch chính của bản chất Chúa là tình yêu. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang nhìn vào nhân loại vô tâm, không vâng lời, phản loạn, và phán rằng: “Ta sẽ đánh gục chúng, kỷ luật chúng, trừng trị, xử phạt và giáng tai họa cho đến chừng nào chúng chịu hồi tâm”. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang tìm cách đàn áp loài người để thỏa mãn quyền hành của Ngài, để hoàn toàn chế phục vũ trụ. Nhưng bản văn phi thường này cho chúng ta thấy Thiên Chúa đang hành động, không phải vì chính Ngài, mà vì chúng ta. Ngài không hành động để thỏa mãn ước muốn cầm quyền của Ngài, để giầy đạp vũ trụ dưới gót chân, nhưng là nhằm thỏa mãn tình yêu của Ngài. Ngài không phải là vị bạo chúa độc tài, đối xử với mọi người như thần dân, bắt phải tuân phục vô điều kiện. Ngài là người Cha không thể vui, cho đến khi những đứa con hoang đàng của mình trở về. Ngài không đàn áp loài người khiến họ phải đầu phục, Ngài trông mong và dịu dàng kêu gọi họ trở lại với tình thương của Ngài.
3) Chiều rộng của tình yêu Chúa là cả thế gian. Ở đây không phải là một quốc gia, không phải chỉ những người tốt lành, thánh thiện, không phải chỉ những người biết yêu mến Ngài, nhưng toàn thể nhân loại. Toàn thể những người khó yêu và chẳng có gì đáng yêu, người cô đơn chẳng được ai yêu, người yêu mến Chúa lẫn người chối bỏ tình yêu của Ngài, người chẳng bao giờ suy nghĩ đến Ngài cùng người yên nghỉ trong tình yêu của Ngài, tất cả đều được bao gồm trong tình yêu bao la, bao hàm tất cả của Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã nói: “Chúa yêu mỗi người chúng ta dường như chỉ có một mình ta để Ngài yêu mà thôi”.
TÌNH YÊU VÀ XÉT XỬ (Ga 3,17-21)
Đến đây chúng ta lại đối diện với một trong những điểm dường như nghịch lý trong Phúc Âm Gioan –nghịch lý giữa yêu thương và xét xử. Chúng ta vừa suy nghĩ về tình yêu của Chúa và bây giờ thình lình phải đối đầu với sự xét xử, buộc tội và kết án. Gioan vừa mới tuyên bố Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài cho thế gian; rồi ông tiếp tục cho chúng ta thấy Chúa Giêsu nói: “Ta đã đến thế gian để xét xử” (Ga 9,39). Làm sao cả hai điều trên đây đều đúng được?
Chúng ta có thể tạo cho một người kinh nghiệm chỉ có tình yêu mà thôi, nhưng chính kinh nghiệm đó lại trở thành hình phạt cho người ấy. Chúng ta có thể cung ứng cho một người một kinh nghiệm vui sướng hạnh phúc, nhưng kinh nghiệm đó lại là một hình phạt cho người ấy. Giả như chúng ta rất thích nhạc đại hòa tấu, dường như chúng ta cảm thấy rất gần gũi với Chúa trong tiếng vang rền của âm điệu hơn bất cứ nơi nào khác. Giả như chúng ta có một người bạn không biết gì về âm nhạc, chúng ta muốn giới thiệu với người bạn ấy cái kinh nghiệm tuyệt diệu của mình, để chia sẻ cho họ và tạo dịp tiện để họ được tiếp cận với vẻ đẹp vô hình của âm nhạc mà chúng ta thích thú. Chúng ta không có mục đích gì khác ngoài ra làm cho bạn mình thấy hạnh phúc trong một kinh nghiệm mới mẻ tuyệt vời. Chúng ta đưa người bạn ấy đến buổi hòa nhạc giao hưởng; chỉ trong chốc lát, người ấy thấy uể oải, chán ngán và dáo dác nhìn chung quanh hội trường. Người bạn ấy đã chịu hình phạt chính mình vì chẳng có chút âm nhạc nào trong tâm hồn cả. Cái kinh nghiệm nhằm đưa anh ta đến với niềm vui lại trở thành hình phạt cho anh.
Điều này cũng thường xảy ra cho con người khi đứng trước một nhân vật vĩ đại, cao trọng. Chúng ta có thể đưa người ấy đi xem các tác phẩm nghệ thuật bậc thầy, nghe một nhà truyền đạo lừng danh giảng thuyết, ngắm một cảnh đẹp nào đó, hoặc một cuốn sách hay để đọc. Nhưng phản ứng của họ lại trở thành một lời phán xét, một hình phạt cho chính họ. Nếu họ không thấy chút gì là đẹp, không có chút rung động nào, thì chắc hẳn đã có một điểm mù trong tâm hồn họ rồi. Người ta kể rằng có một du khách được đi xem triển lãm nghệ thuật. Trong phòng triển lãm có những tác phẩm vô giá, những kiệt tác vượt thời gian và không gian của những bậc thiên tài thực sự. Sau khi đi hết một vòng, người du khách nói: “Tôi không thấy mấy bức tranh cũ này của ông có giá trị gì”. Người hướng dẫn phòng triển lãm nói: “Thưa ông, tôi xin nhắc để ông nhớ các họa phẩm này không còn bị đem ra xử, nhưng chính chúng xử những người đến xem chúng”. Phản ứng của người này cho thấy ông ta là kẻ đui mù về nghệ thuật cách đáng thương hại.
Với Chúa Giêsu cũng vậy. Khi một người gặp Chúa với tâm hồn rung động trước sự kỳ diệu và vẻ đẹp của Ngài, thì người ấy đang ở trên con đường cứu rỗi. Nhưng nếu đã gặp Chúa và vẫn không thấy Ngài có gì đáng yêu cả, thì người ấy đã bị phán xét. Chính phản ứng của người kết án người. Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến trong tình yêu để cứu rỗi người ấy, nhưng Chúa Giêsu đã trở thành một lời buộc tội người ấy. Chúa không buộc tội người Ngài yêu thương, nhưng chính người ấy đã tự kết án mình.
Người thù nghịch Chúa Giêsu là người đã yêu mến sự tối tăm hơn sự sáng. Điều khủng khiếp đối với một người thất sự tốt lành thánh thiện, là luôn luôn có một yếu tố vô thức nào đó trong lòng vẫn lên án mình. Chính lúc so mình với Chúa, chúng ta mới thấy mình là thể nào. Alcibiades, một thanh niên tài ba, nhưng hư hỏng, của thành phố Athène, bạn của Socrates, thỉnh thoảng thét lên: “Socrates ơi, tôi ghét anh, vì mỗi lần gặp anh thì anh cho tôi thấy tôi là gì”. Một người làm ác chẳng bao giờ muốn sự sáng soi rọi điều ác mình. Nhưng một người làm lành chẳng bao giờ sợ ánh sáng.
Người ta kể rằng, có lần một kiến trúc sư đến với Plato đề nghị đưa cho ông ta một số tiền, ông sẽ xây cho Plato một ngôi nhà nhiều phòng mà ở ngoài nhìn vào không thể nào thấy người trong phòng. Plato đáp: “Tôi sẽ tặng ông số tiền gấp đôi để ông xây một ngôi nhà mà ở trong phòng nào người ta cũng thấy được”. Chỉ kẻ làm ác mới không muốn nhìn thấy chính mình, cũng không muốn người khác nhìn thấy mình. Người như thế chắc chắn sẽ thù ghét Chúa Giêsu, vì Ngài sẽ chỉ cho người ấy thấy rõ chính mình, đó là điều cuối cùng mà người ấy muốn thấy. Người ấy yêu thích bóng tối che dấu, và không muốn ánh sáng soi tỏ, phơi bày ra.
Phản ứng của một người đối với Chúa Giêsu bày tỏ con người thật của người ấy. Qua phản ứng đối với Chúa Cứu Thế, tâm hồn con người được phơi bày trần trụi. Nếu người ấy nhìn Chúa Cứu Thế với tình yêu, dù chỉ là mơ ước, người ấy vẫn còn hy vọng. Nhưng nếu người ấy chẳng nhìn thấy có gì đáng yêu trong Chúa Cứu Thế, thì người ấy đã tự kết án chính mình. Đấng đã được phái đến trong tình yêu đã trở thành sự phán xét buộc tội người ấy.
60.Đức tin hôm nay của tôi cứu tôi--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Thánh sử Gioan viết cuốn Phúc âm của Người vào quãng 60 năm sau khi Chúa về trời. Trí nhớ của bậc cao niên nhiều khi rất chính xác để gợi lên những kỷ niệm lúc thiếu thời, đã làm cho Người nhớ lại cảnh tượng ngoạn mục trong cuộc đời Chúa Giêsu những giáo huấn đặc biệt mà Thày Chí Thánh đã ban bố. Đoạn Phúc Âm đọc hôm nay tiếp nối vào câu chuyện ông Nicôđêmô đến đàm đạo cùng Chúa Giêsu ban đêm. Cuộc đàm đạo nhắm chủ đề đức tin và sự tái sinh trong Chúa Thánh Thần. Sau khi thuật lại câu chuyện trên, thánh sử quy tụ vào sự suy tư cá nhân, một tổng hợp các giáo huấn mà Chúa Giêsu đã ban bố hoặc gợi ý. Sau khi đã nhận lấy và nghiền ngẫm các giáo huấn đó, thánh Gioan trao nó lại cho chúng ta dưới ánh sáng của “Chúa Giêsu đã về trời”, trong một văn thể mà sự suy gẫm riêng tư của Người đã mang lại. Điều này xứng đáng dành cho chúng ta nhiều phản ảnh tuyệt vời của một đức tin được trực tiếp cấp dưỡng từ nguồn gốc vì chưng thánh Gioan đã từng được biết Đức Giêsu phản ảnh của một đức tin sâu xa nghiền ngẫm bởi chưng thánh Gioan đã sống Phúc Âm đó như một môn đệ say sưa trung thành.
Ở đây, thánh Gioan đưa ra ánh sáng điều mà thánh Phaolô đã không ngừng nhắc nhở trong các thơ của Người, đó là “mầu nhiệm” ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho đức tin của chúng ta: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian để cứu chuộc loài người. Được thừa hưởng ơn cứu độ ấy là những kẻ khi gặp Chúa Kitô, nhờ ân sủng đã tin vào Người.
1) Kiểu nói “Con của Người” xuất phát từ tiên tri Đanien (Đn 7,13). Cách tổng quát, Phúc Âm đã áp dụng danh hiệu đó cho Chúa Giêsu để định nghĩa cho nhiệm vụ Cứu thế qua việc nhập thể, cuộc Khổ nạn và sự Phục Sinh của Người. Chúng ta được phép hiểu câu “Con Thiên Chúa làm người”. Từ đó, chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu thực hiện mẫu người trọn hảo đã hoàn thành, bởi vì Người vượt mình trong Thiên Chúa. Thánh sử Gioan kể lại: “Con Người phải được nâng lên cao”. Đây là ý nói đến việc Chúa bị treo lên thập giá. Sự liên tưởng đến con rắn đồng treo lên cao của ông Môsê, xuất xứ từ một đoạn trích trong sách Dân số (Ds 21,6-9). Đoạn sách ấy thuật lại rằng: Khi dân Do Thái đi qua sa mạc, trong một miền đầy rắn, khi bị rắn cắn, họ được cứu nguy cách kỳ diệu là hễ nhìn lên con rắn đồng –một thứ đồ mã- mà Môsê đã dựng lên cho dân thấy thì dầu có bị rắn cắn cũng không sao. Giai thoại ấy được thánh sử gợi lại ở đây để tiêu biểu cho một thực tại siêu nhiên là ơn Cứu độ dành cho hết thảy những ai nhìn lên Thánh giá Đức Kitô với lòng tin.
2) Ai tin vào Người không bị kết án. Ai không tin vào Người, thì bị luận phạt rồi. Kiểu nói trên đây báo hiệu là đức tin vào Chúa Giêsu Kitô bao gồm sự dấn thân dứt khoát, có hiệu lực chung quyết. Đức tin hôm nay của tôi (dĩ nhiên với điều kiện là tôi không chối bỏ đức tin ấy) đã cứu tôi, ngày tôi từ giã cõi đời và cũng là ngày tận thế. Từ nay cho đến ngày cuối hết đó, dĩ nhiên còn có thể xảy đến biết bao thăng trầm. Nhưng đức tin hiện tại của tôi đã đặt tôi về phía đối nghịch của sự kết án, nghĩa là trong lượng thứ tha của Thiên Chúa, trong sự tiếp đón, và tình nghĩa thiết của Người. Điều này biện giải tại sao đức tin nồng nhiệt của tôi hôm nay có tầm mức rất quan trọng đến cuộc hội ngộ mai ngày của tôi cùng Thiên Chúa. Mỗi ngày hiện tại chuẩn bị trong tôi ngày sau hết của tôi, nhưng nhờ đức tin của tôi nơi Chúa Giêsu, ơn nghĩa phi thường của Thiên Chúa không phải là chuyện sẽ tới nhưng thực sự ơn nghĩa ấy đã hiện hữu nơi tôi và đang biến đổi tôi. Đức tin đó đòi hỏi tôi dấn thân sống trong ánh sáng, nghĩa là trong sự thẳng thắn thực tiễn của lòng trung thành với Phúc Âm. Ai hành động trong chân lý tức là đến cùng Ánh sáng.
61.Nhìn lên Thánh giá Chúa Giêsu--Lm John Nguyễn Tươi
"Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ." (Ga 3,14)
Trong Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay, ngài thuật lại việc Chúa Giê-su nói với ông Ni-cô-đi-mô rằng: "Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn đồng trong sa mạc, thì Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời." Hình ảnh con rắn là biểu tượng của loài sảo huyệt trong sách Sáng thế thuật lại, nó dụ dỗ Adam và Eva sa ngã phạm tội, chống lại Thiên Chúa. Thế nhưng, Tin Mừng hôm nay lại nói, ai nhìn lên con rắn đồng thì lại được sống. Chúng ta sẽ đặt ra đặt câu hỏi, con rắn đồng của Mô-sê có ý nghĩa gì? Đây là vấn đề cho chúng ta tìm ra ý nghĩa ánh sáng Lời Chúa.
Thánh Kinh thuật chuyện dân Do Thái khi họ trên đường tiến vào vùng đất hứa đã xúc phạm đến Thiên Chúa. Họ nặng lời với Môi-se, ngài có sứ mạng dẫn dân Chúa đến vùng đất hứa, họ nói rằng: "Vì sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập, khiến chúng tôi phải chết trong sa mạc này? Chúng tôi chẳng có nước uống, cũng chẳng có gì ăn ngoài loại bánh đạm bạc mà chúng tôi đã chán ngấy!" Thiên Chúa đã sai rắn đến và cắn nhiều người chết. Người ta chạy đến với Môi-se kêu lên rằng: "Chúng tôi có tội, vì đã nói xúc phạm đến Chúa và ông. Xin ông cầu với Chúa để Ngài đuổi rắn đi." Môi-se tha thiết khẩn cầu thay cho dân. Thiên Chúa đã đáp lời, Ngài phán cùng Môi-se rằng: "Con làm một con rắn đồng, treo trên cây. Người nào bị rắn cắn chỉ cần nhìn nó là được sống." Vậy Môi-se làm một con rắn bằng đồng, treo trên một cây sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn lên con rắn đồng, liền được thoát chết. (Dân Số 21:6-9)
Đoạn Tin Mừng này, thánh Gioan nhắc lại sự kiện lịch sử thời của Môi-sê dẫn dắt dân chúng thoát khỏi lưu đày. Nhưng ai bị rắn cắn và nhìn lên con rắn bằng đồng thì sẽ được cứu sống. Con rắn bằng đồng là hình ảnh của Chúa Giê-su bị treo lên cây thập giá. Ngài chịu đau khổ, bị sỉ nhục, đóng đinh và chết trên cây thập giá, để chuộc tội cho nhân loại, hễ ai nhìn lên Thánh giá Chúa và tin vào Ngài, thì dù bị nọc độc tội lỗi tàn hại cũng được chữa lành, mỗi hành vi sám hối của chúng ta đều được Ngài tha thứ. Các phòng mạch bác sĩ ngày nay cũng dùng hình ảnh con rắn để nói đến sự chữa lành. Qua hình ảnh con rắn bằng đồng trong Cựu Ước, chúng ta thấy rằng: nhiều người đã bị rắn độc cắn chết, không có thứ thuốc nào chữa được, nhưng nhìn lên con rắn thì được cứu chữa.
Cũng vậy, nhân loại ngày nay không có phương cách nào để tự giải trừ tội lỗi, giải cứu linh hồn mình ra khỏi lửa địa ngục: "Vì mọi người đều phạm tội, không còn phản chiếu vinh quang Thiên Chúa" và "tiền công của tội lỗi là sự chết" (Rm 3:23). Cho dù, ngày nay khoa học có tiến bộ hơn, nhưng khi con người không biết kính sợ Thiên Chúa- Đấng Tạo Hóa, thì con người vẫn đi trong tăm tối, vô vọng, và trở nên tàn ác hơn. Tội lỗi gian ác là nọc độc phá hoại tâm trí và linh hồn con người bởi nọc độc của quỷ vương từ khi tổ phụ loài người phạm tội, và nọc độc tội lỗi ấy lan truyền cho con người hôm nay. Nhưng, Chúa Giê-su đã đến trần gian để đã nhận chịu nọc độc của tội lỗi thay cho chúng ta. Chỉ cần chúng ta đến với Chúa Giê-su thì tất cả nọc độc của tội lỗi trong chúng ta đều tan biến, mắt chúng ta nhìn biết Đấng Tạo Hóa mình, tai chúng ta nghe được tiếng êm dịu đầy tình yêu của Ngài, để chúng ta kịp thời ăn năn, thống hối và được ơn tha thứ của Thiên Chúa, đó là ân phúc Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại qua Người Con Chí Thánh của Ngài, chúng ta được sự sống đời đời.
Lạy Chúa, Xin cho chúng con nhận ra ơn huệ lớn lao này, nhờ đó chúng ta được chữa lành vết thương và nọc độc đang phá hoại tâm hồn và thể xác con. Căn bệnh của sự kiêu ngạo, ích kỷ, tham lam, dục vọng đang bám lấy tâm hồn con, thì xin cho con biết nhìn lên Thánh Giá Chúa Giê-su mỗi ngày để được chữa lành tâm hồn và thể xác con. Amen.
62.Khước từ tình yêu Chúa là tự kết án mình--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang-- Joshepus Quang Nguyễn
Bài đọc 1, Sách Biên Niên Sử hôm nay mô tả dân Israel bị lưu đầy ở bên Babilon. Khi vua nước Batư đã đánh hạ ngục Babilon, ông ta ra chiếu chỉ giải phóng dân Israel, một cuộc xuất hành mới và cho phép họ tái thiết lại đền thờ. Ông vua này không có đạo, không biết Thiên Chúa là ai? Ông giải phóng dân Israel là hành động mang tính chính trị. Ông muốn lấy lòng dân tộc để việc cai trị ông được vững vàng hoặc lý do kinh tế xã hội nào đó. Trái lại, dân Israel nhìn sự giải phóng bằng một đức tin là do Chúa thúc dục lòng nhà vua để hành động. Một cái nhìn của đức tin như vậy không phải là Chúa xa lạ mà là sự thật trong những bước đi của lịch sử khi Ngài gởi Con Một của Ngài. Thiên Chúa Kitô giáo không ở trong lý luận, Thiên Chúa hiện hữu trong đời người tất cả mọi người. Chúa đóng ấn tình yêu của Ngài khi Ngài ban tặng Con Một của Ngài. Giờ đây, Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử bằng tình thương, đó chính là Chúa Giêsu, Con của Thiên Chúa “đến thế gian, không phải để lên án thế gian. Nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.”
Quả thế, Thiên Chúa không lên án ai. Người muốn cứu độ tất cả vì Người yêu thương hết mọi người. Chính con người tự xét xử và lên án mình, khi nó cố chấp khước từ tình của Thiên Chúa, là Chúa Giêsu và Lời Người. Như thế, việc "lên án" không phải là một hành vi ở bên ngoài con người. Nhưng trớ trêu thay, nó lại là sự việc của chính con người đó, khi họ có thái độ khước từ tình yêu Thiên Chúa, được biểu lộ trong việc "Con Một của Người hiến thân" cho đến hy sinh thập giá. Như vậy, Thánh giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài và hễ “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa.
Điều này có nghĩa rằng tin vào Chúa Giêsu Kitô bao gồm sự dấn thân dứt khoát, từ bỏ tội lỗi, thi hành ý Chúa và thực thi Lời Người dạy ngay trong cuộc sống. Đức tin mà chúng ta lãnh nhận khi chịu phép Thanh Tẩy và giữ mãi cho đến hôm nay thực sự nó đã cứu tôi, có nghĩa rằng tôi nắm chắc sự sống lại mà Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh ban cho tôi. Nhưng từ khi Rửa Tội cho đến ngày cuối hết đó, đức tin của tôi như thế nào? Hành vi đạo đức của tôi trong cuộc sống như thế nào? Nói cách khác, tôi sống và thi hành Lời Chúa ở mức độ nào? Vì vậy, đức tin của chúng ta hôm nay có tầm mức rất quan trọng đến cuộc hội ngộ mai ngày của chúng ta cùng Thiên Chúa, vì chưng Thánh Phaolô nói trong bài đọc 2 rằng: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa” (Ep 2,8). Vì vậy, mỗi ngày thực thi Lời Chúa của chúng ta là công trạng trong ngày sau hết của chúng ta. Lời Chúa đòi hỏi chúng ta dấn thân sống trong ánh sáng, nghĩa là trong sự thẳng thắn, trung thành và hành động theo gương yêu thương Chúa Giêsu, hy sinh cho người mình yêu.
Đứng trước thập giá Đức Kitô, hôm nay chúng ta phải có thái độ nào? Nếu ta tin vào tình yêu Thiên Chúa thì được ân sủng, được Chúa và cả tha nhân, còn nếu ta chối từ tình yêu của Ngài? Ta tự kết án mình, xa lìa Thiên Chúa và trở thành người vô cảm.
Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hãy đón lấy thập giá Chúa Kitô để thấy được tình yêu bao la của Chúa, đồng thời thấy ta tội lỗi vô ngần. Tình yêu Chúa luôn chịu đựng, phục vụ, hiền hòa, khiêm nhường, nhịn nhục và không ngừng tha thứ, và hy sinh chết cho ta. Còn tình yêu của ta dành cho Chúa và tha nhân như thế nào? Có thờ phượng Ngài trên hết mọi sự không? Hay có còn thờ thần đôla, thần danh vọng hay dục vọng mà bỏ Chúa ra bên lề, thích thì đọc kinh dâng lễ không thích thì thôi. Còn đối với nhân thì sao? Ta có yêu ngươi như Chúa yêu ta không? Có tha thứ cho tha nhân như Chúa không hay kết án anh chị em, cha mẹ mình mãi, “sống để bụng, chết mang theo”. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? Hãy nhớ Lời Chúa dạy: “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Vậy, nhìn lên thập giá Chúa Kitô thì biết phép công thẳng của Chúa là thế nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là chừng nào! Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào! (Đàng Thánh Giá, chặng 13). Cho nên, trong Sứ Điệp Mùa Chay năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi đừng vô cảm với tha nhân vì “Tình yêu của Thiên Chúa phá vỡ sự vô cảm ấy, một thái độ khép kín tai hại. Giáo hội trao tặng chúng ta tình yêu này qua giáo huấn, và nhất là qua chứng tá của mình. Nhưng chúng ta chỉ có thể làm chứng về điều mà chính chúng ta đã cảm nghiệm. Kitô hữu là người để Thiên Chúa mặc cho mình lòng nhân từ và thương xót của Ngài, mặc lấy Chúa Kitô, để giống như Chúa Kitô, trở nên tôi tớ của Thiên Chúa và của người khác. Chúng ta thấy rõ điều này trong Phụng vụ Thứ Năm Tuần Thánh qua nghi thức rửa chân. Phêrô không muốn Chúa Giêsu rửa chân cho ông, nhưng ông đã hiểu ra rằng Chúa Giêsu không muốn chỉ nêu gương về cách thức chúng ta phải rửa chân cho nhau. Chỉ những ai để cho Chúa Giêsu rửa chân mình trước thì người ấy mới có thể phục vụ người khác như thế. Chỉ người nào được “dự phần” với Ngài (Ga 13,8) thì mới có thể phục vụ người khác” (số 1).
Thư Mục Vụ Năm 2015 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam viết rằng: “Giáo xứ là gia đình của những người con cái Thiên Chúa, trong đó tất cả là anh chị em với nhau. Gia đình giáo xứ cần được Phúc-Âm-hóa, nghĩa là thấm đẫm tinh thần Phúc Âm và làm chiếu tỏa ánh sáng Phúc Âm ra chung quanh, đến với muôn dân”. Ước gì, trong mùa Chay thánh này, mỗi người chúng ta thấm đẫm tinh thần Phúc Âm hôm nay là sống và trao ban tình yêu Chúa đã dành cho mọi người trong giáo xứ và mọi người trong môi trường sống chúng ta ngõ hầu đức tin của chúng ta thật sự sống động và đem lại ân phúc thay vì luận phạt. Vì chưng, “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2,10). Amen.
63.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
Lịch sử cứu độ là lịch sử Tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đó là tình yêu tạo dựng, tình yêu quan phòng và tình yêu cứu chuộc. Thật vậy, vì yêu nên Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người.
Vì yêu nên Ngài đã tạo dựng mọi sự để cho con người cai quản và sử dụng. Vì yêu nên Ngài đã không chấp tội con người, trái lại đã ban chính Con Một của mình để cứu chuộc nhân loại. Tin mừng hôm nay khẳng định: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời” (Ga 3,15). Trong bài đọc II, Thánh Phaolô cũng cho biết: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.” (Ep 2,4-6). Ngài còn cho biết thêm: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa.” (Ep 2,8). Cũng vì yêu nên khi xuống trần gian, Đức Giêsu đã chọn các Tông đồ để lập nên Giáo hội, thiết lập các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể để ở lại với loài người cho đến Tận thế. Điều đặc biệt hơn nữa là Thiên Chúa không những yêu thế gian chung chung mà Ngài yêu thương chăm sóc chu đáo từng người một trong chúng ta giống như người cha yêu thương từng người con trong gia đình vậy.
Nhưng con người hay phản bội, đi ngược lại với tình yêu của Thiên Chúa. Lịch sử dân Do Thái là một lịch sử Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, nhưng đồng thời cũng là một lịch sử nói lên sự phản bội của con người đối với Thiên Chúa. Đoạn sách Sử Biên Niên quyển thứ II được trích đọc trong bài đọc I hôm nay cho chúng ta thấy điều đó. Thật vậy, dân Do thái đã sống bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giê-ru-sa-lem. Họ phụ bạc với tình yêu của Thiên Chúa, bất tuân lề luật, phá vỡ giao ước đã ký kết với Thiên Chúa (x. 2Sb 36,14). Hậu quả là đền thờ và thành thánh của họ bị sụp đỗ tan tành. Dân chúng bị tàn sát vô số, những người sống sót còn lại bị đưa đi lưu đầy (x. 2Sb 36, 19-20).
Tuy nhiên, cho dù Thiên Chúa có giận, có ra án phạt nhưng không phải vì ghét, vì oán thù mà nhằm mục đích để thanh luyện, thanh tẩy và chữa trị họ. Bằng chứng là khi dân sai phạm, Ngài đã sai các sứ giả đến để nhắc nhở họ nhiều lần: “Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, đã luôn luôn đêm ngày sai sứ giả đến với họ, vì Người thương xót dân Người và đền thờ của Người.” (2Sb 36,15). Không những thế, Ngài còn thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư để nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: “Ðây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên.” (2Sb 36, 22-23).
Hình ảnh con rắn đồng được nhắc tới trong đoạn Tin mừng hôm nay cũng là biểu tượng của Tình yêu Thiên Chúa. Thật vậy, sau khi ra khỏi đất Ai cập, dân Do Thái phải sống ròng rã suốt 40 năm trong sa mạc, gặp mọi thử thách gian nan. Họ phàn nàn kêu trách Chúa vì đã để họ phải chịu cảnh lầm than khốn khổ. Thiên Chúa đã nổi cơn thịnh nộ và để cho rắn lửa cắn chết nhiều người. Họ khiếp sợ và thống hối tội lỗi của mình. Họ đến với Môsê và xin ông cầu nguyện cùng Thiên Chúa cứu giúp họ: “Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi đi” (Ds 21,7). Thiên Chúa đoái thương bảo Môsê đúc một con rắn đồng treo lên và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được cứu thoát (x. Ds 21,8).
Con rắn đồng là biểu tượng của Đức Giêsu bị treo lên thập giá và ai tin vào Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá sẽ được cứu rỗi. Thánh Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”(Ga 3,20). Cho nên, Thánh giá cũng là biểu tượng của tình yêu. Vì yêu thương nên Đức Giêsu đã chấp nhận bước vào con đường đau khổ, con đường thập giá. Khi suy niệm về những hình khổ Đức Giêsu đã chịu: đánh đòn, đội mạo gai, vác thập giá, đóng đinh vào thập giá…chắc chắn không ai không nghĩ đến tình yêu mà Đức Giêsu dành cho nhân loại. Đó là tình yêu cao quý trên mọi tình yêu. Chính Đức Giêsu đã nói: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).
Thánh giá cũng là biểu tượng của sự tha thứ. Đức Giêsu đã chịu chết trên thập giá để cứu độ loài người, tha thứ tội lỗi cho loài người. Chính trên thập giá Ngài đã tha thứ cho kẻ đóng đinh Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Cũng trên thập giá, Ngài đã tha thứ cho kẻ trộm lành cùng đóng đinh với Ngài và hứa ban phúc Thiên đàng cho anh ta ngay ngày hôm đó.
Và nhờ công ơn cứu chuộc của Ngài, Ngài muốn Giáo hội tiếp tục sự tha thứ như thế mãi cho đến tận thế. Câu chuyện sau đây nói lên tinh thần đó. Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: “Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.
Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”. (Sưu tầm)
Lạy Thiên Chúa là nguồn tình yêu. Xin cho mỗi người chúng con luôn cảm nhận được tình yêu của Chúa để chúng con biết yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
64.Tình thương của Thiên Chúa
Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
Sau khi đã tốn nhiều sức lực tinh thần cũng như những cực nhọc thể xác, để cùng với những người cộng tác sáng chế ra bóng đèn điện đầu tiên. Thomas Edison trao bóng đèn điện ấy cho một người bạn trẻ tuổi nhất trong hóm leo lên các bậc thang gắn bóng vào chuôi mà thử nghiệm. Nhưng rủi thay, vì quá xúc động, người bạn trẻ ấy khi vừa leo lên tới bậc thang cuối cùng đã đánh rơi chiếc bóng đèn xuống đất khiến nó bể vỡ tan tành. Thế là cả nhóm lại phải cố gắng không ngừng làm việc suốt 24 tiếng đồng hồ nữa để tạo ra chiếc bóng đèn thứ hai cho kịp với chương trình thử nghiệm. Sau khi hoàn tất xong chiếc bóng đèn thứ hai này, trước sự ngạc nhiên của mọi người, Edison lại trao chiếc bóng đèn ấy cho người bạn trẻ đã từng làm vỡ chiếc bóng đầu tiên, để người bạn trẻ này lại leo lên gắn bóng vào chuôi như lần trước.
Cử chỉ cao đẹp này đã làm thay đổi hẳn cuộc đời của người bạn trẻ đó. Hành động tha thứ và tin tưởng của Edison đối với người bạn trẻ đã một lần sơ sót làm bể chiếc bóng đèn đầu tiên, đã làm cho nhiều người phải kính phục và có lẽ cũng đang thôi thúc mỗi người chúng ta bắt chước Edison, thực hiện những cử chỉ tha thứ và tin tưởng như vậy đối với những người chung quanh chúng ta trong cuộc sống thường ngày. Đồng thời hành động này còn nhắc nhở mỗi người chúng ta nhớ đến tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Ngài luôn luôn tha thứ và tin tưởng con người mặc dù con người hay lầm lỗi, sa ngã, vấp phạm và làm hư hỏng chương trình của Ngài.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã xác quyết: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời. Ngài sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ. Hay như thánh Phaolô cũng đã viết: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta còn ngồi trong tội lỗi. Chính sự tha thứ và tin tưởng của Thiên Chúa đã khơi dậy trong lịch sử nhân loại không biết bao nhiêu tâm hồn hối cải, làm lại cuộc đời và bắt đầu sống một cuộc sống mới, cao đẹp hơn, lợi ích hơn. Thiên Chúa luôn tha thứ cho con người để khởi dậy những điều tốt đẹp, vậy thì tại sao mỗi người chúng ta lại không thể dễ dàng tha thứ cho nhau, tin tưởng lẫn nhau để xây dựng xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn lên.
65.Cựu Ước và Tân Ước
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta thấy Cựu Ước và Tân Ước có một sợi dây liên hệ mật thiết với nhau. Thực vậy, nếu Cựu Ước là lời hứa, là hình ảnh, là biểu tượng, thì Tân Ước chính là sự thật được chính Thiên Chúa thực hiện.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể, chẳng hạn như Adong là một hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô. Thực vậy, chính thánh Phaolô đã diễn tả trong bức thư thứ nhất gởi giáo dân Côrintô như sau: Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, còn Adong thứ hai là Đức Kitô thì từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những kẻ thuộc về đất cũng thể ấy. Còn người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy... Bởi một người mà nhân loại phải chết, thì nay bởi một người mà nhân loại được sống.
Tiếp đến, Isaác, cũng là một biểu tượng cho Đức Kitô, bởi vì giữa Isaác và Đức Kitô có nhiều điểm rất tương đồng. Nếu Isaác được cha mình là Abraham rất mực yêu thương, thì Đức Kitô cũng được Cha mình là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Nếu Isaác được dâng làm hy lễ, thì Đức Kitô cũng được dâng làm hy lễ. Nếu Isaác vác củi lên núi để dùng vào việc hy tế, thì Đức Kitô cũng đã vác thập giá lên đỉnh Canvê, để rồi hiến dâng mình cho Thiên Chúa.
Và hơn thế nữa, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh để so sánh, đó là hình ảnh con rắn đồng trong hoang địa. Ngài nói: Maisen đã treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin vào Ngài thì sẽ được sống.
Chắc hẳn khi gợi lên hình ảnh này, Chúa Giêsu đã nhớ tới một biến cố đã xảy ra trong Cựu Ước được sách Dân Số ghi lại như sau: Bấy giờ dân Do Thái kêu trách Thiên Chúa và Maisen về những khó khăn gặp phải trên đường tìm về miền đất hứa. Thiên Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Trước thảm hoạ này, họ đã ăn năn hối lỗi và nói với Maisen: Chúng tôi đã phạm tội phản nghịch với Chúa và với ngài. Xin ngài hãy cầu Chúa xua đuổi lũ rắn nay đi. Và Maisen đã cầu nguyện cho dân chúng. Chúa truyền Maisen đúc một con rắn bằng đồng, treo nó lên một chiếc cột, để bất cứ ai bị rắn độc cắn, chỉ việc nhìn lên con rắn ấy là được chữa lành. Chúa Giêsu đã so sánh việc con rắn đồng bị treo lên với việc Ngài bị đóng đinh trên thập giá.
Và cũng như dân Do Thái, bất kỳ ai trong chúng ta, nếu biết nhìn lên thập giá, với niềm tin tưởng và sám hối, sẽ được chữa lành mọi vết thương do tội lỗi gây ra, sẽ được tẩy trừ nọc độc của tội lỗi. Bởi đó hãy ngước nhìn thập giá và hãy suy nghĩ đến tình thương mà Ngài đã dành cho chúng ta qua mầu nhiệm cứu độ mà chúng ta sắp sửa mừng kính.
66.Từ bóng tối tới ánh sáng
Mỗi khi đọc Kinh thánh, nếu chịu khó để ý một chút, chúng ta sẽ thấy tên tuổi của nhân vật Nicôđêmô được kinh Thánh nói tới ba lần, vào ba hoàn cảnh và ba thời điểm khác nhau:
Lần thứ nhất: ông ta chủ động đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm. Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay sẽ nói với chúng ta về cuộc gặp gỡ này.
Lần thứ hai: khi các thủ lĩnh tôn giáo Do Thái đang bàn tính để tìm cách giết Chúa Giêsu. Nicôđêmô vốn là thành viên của Thượng Hội đồng Do Thái Giáo, ông đã phản đối quyết định đó với ý kiến rằng: "Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?" (Ga 7, 15)
Lần thứ ba: lúc táng xác Chúa Giêsu. Ông cũng đến để tẩn liệm thi hài Chúa Giêsu bằng cách thức sang trọng như tẩn liệm một vị vua. Thánh Gioan kể: " Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Chúa Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn theo tục lệ chôn cất của người Do Thái." (Ga 19, 39-40). Sở dĩ tôi liệt kê ba lần như thế vì tôi muốn làm nổi bật lên khuôn mặt của Nicôđêmô và con người của ông. Con người ấy đã đi qua một hành trình mà tôi tạm gọi là hành trình từ bóng tối tới ánh sáng, mà ba lần ở trên là ba cột mốc quan trọng trọng trong hành trình đó.
Ở lần thứ nhất , xét về phương diện thời điểm thì đây là giai đoạn mang một bầu khí căng thẳng do Chúa vừa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ.(x. Ga 2, 13-25). Sự căng thẳng này chưa kịp lắng dịu thì Nicôđêmô đã lén lút đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm. Ông ta gặp Chúa lúc đêm tối nhằm giữ kín sự việc và để tránh dòm ngó, soi mói của người khác, đặc biệt là của giới lãnh đạo Do Thái Giáo, đồng nghiệp của ông. Chi tiết ban đêm mà Thánh Gioan mô tả sẽ nói cho chúng ta biết điều đó. Và còn hơn thế nữa, hàm chứa trong chi tiết ấy tôi còn khám phá thêm điều này của Nicôđêmô: Ông đang ở trong đêm tối. Và từ trong đêm tối đó, ông đang dò dẫm, âm thầm tìm đến nguồn sáng. Nicôđêmô là ai?Kinh thánh bảo rằng ông là một thủ lãnh của người Do thái(x. Ga 3,1).
Tức là môt người có địa vị trong xã hội. Và gắn liền với địa vị đó, chắn chắn ông là người có nhiều kiến thức và là một người có trình độ, chính những cái đó sẽ cho ông có khả năng là một người Giàu có.
Tóm lại, cuộc sống ông đầy đủ, bảo đảm, và an ninh. Vậy ông còn thiếu cái gì? Bên ngoài xem ra ông đầy đủ. Ông có tất cả.nhưng những cái mà ông đang có đó không thể làm cho ông được sống thoả mãn. Vì thế, tự trong thâm tâm của ông vẫn luôn nói với ông rằng ông vẫn còn thiếu một cái gì đó. Cái đó là cái gì nếu không phải là sự sống đời đời. Nên ông vẫn phải đi tìm. Và ông hy vọng rằng nơi Chúa Giêsu, ông sẽ khám phá và có được sự sống ấy. Và thế là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và anh tân tòng Nicôđêmô bắt đầu. Chắc chắn cuộc nói chuyện này rất dài và rất lâu. Tôi không muốn đi sâu vào cuộc đối thoại này vì sợ làm mất nhiều thì giờ của anh chị em.
Nhưng thay vào đó là điều tôi muốn nhấn mạnh trong bài chia sẻ này là: Chúng ta có thể khám phá ra điều gì về Nicôđêmô qua ba lần được Thánh kinh mô tả? Là gì, nếu không phải đấy là ba giai đoạn của một hành trình hoán cải mà Nicôđêmô đã đi qua.
Lần xuất hiện đầu tiên cho thấy ông là người cởi mở, nhiều thiện chí và là một người thật sự muốn tìm kiếm chân lý.
Lần xuất hiện thứ hai chứng tỏ ông là một người công chính, một mực khăng khăng rằng không được kết án Chúa Giêsu trước khi đưa ra xét xử công khai. Và lần xuất hiện thứ ba cho thấy rằng ông là một người giàu có nhưng quảng đại và có lòng thương xót nữa. Dám bỏ tiền ra mua số lượng lớn là một trăm cân mộc dược và trầm hương, là những thứ quý hiếm. Chúng ta đang sống trong bầu không khí của mùa chay. Ai trong chúng ta cũng biết mùa chay là mùa hoán cải. Vì thế để gọi là hoán cải, chúng ta cần làm lại hành trình của Nicôđêmô. Hành trình đó được khởi đi từ một khao khát được sống. Khao khát đó sẽ giúp cho ta:
1. Ra khỏi chính mình để đi tìm, để tiếp cận, để gặp gỡ Chúa Giêsu là Đấng ban sự sống và là Sự Sống.
2. Một khi đã khám phá Sự sống đó, sẽ dẫn chúng ta tới sự can đảm để bảo vệ cho sự sống ấy.
3. Cuối cùng là lòng quảng đại để sống cho, sống vì và sống với Sự Sống đó.
- Đó là những Giá trị của Tin Mừng.
- Đó là hành trình của Mùa chay.
- Đó là hành trình của hoán cải.
- Đó là hành trình của bóng tối đến ánh sáng, hành trình đi từ bống tối của sự chết đến ánh sáng của Sự sống. Amen.
67.Nô lệ tự nguyện
Ngày nay, có lẽ con người khao khát, tìm kiếm tự do hơn bao giờ hết. Đây thật là một nhu cầu cần thiết và không thể thiếu. Người ta dị ứng hoặc không thích nghe đến từ " luật" vì nó làm cho ta cảm thấy bị bó buộc. Nhưng có những thứ tự do sẽ dẫn chúng ta đến nô lệ. Và có thứ nô lệ làm cho người ta được tự do, được cứu độ. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết thế nào là tự do đích thực.
Bài đọc I cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về tự do. Khi dân Do thái muốn sống và làm theo sở thích, theo bản năng, đi trong tội lỗi, họ nghĩ như vậy mới tự do nhưng kết quả họ phải chịu sống trong cảnh nô lệ tủi nhục nơi đất khách Babilon.
Đức Kitô là ánh sáng tình yêu mà Thiên Chúa đã tặng ban cho nhân loại. Ngài đến trần gian để cứu độ chúng ta không phải bằng khả năng của ta nhưng bằng tình thương của Ngài. Đứng trước tình yêu bao la đó, chúng ta có hai thái độ: Tin hay không tin. Nếu tin vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa, chúng ta sẽ được sống. Trái lại, nếu từ chối, chúng ta sẽ bị luận phạt.
Người thời đại không muốn bị trói buộc hay uốn mình trong một khuôn khổ. Nghĩa là người ta chỉ thích làm theo những gì mình muốn: Muốn ăn, muốn nói, muốn chơi, muốn làm gì tuỳ theo sở thích. Nhưng tự do đó sẽ biến chúng ta thành nô lệ sống buông thả theo bản năng, và trở thành một con người vô kỹ luật, vô ý thức. Chính những thứ đó sẽ làm mất nhân cách và phẩm giá của chúng ta.
Nhưng, có thứ nô lệ sẽ mang lại cho chúng ta tự do và hạnh phúc. Đó là nô lệ cho Thiên Chúa và lề luật của Ngài. Kỳ thực, khi đó người ta không cảm thấy mình nô lệ, trái lại cảm thấy tự do, hạnh phúc: "Chúng tasống dưới chế độ Lề luật nhưng thật sự chúng ta là con cái của tự do.". Lề luật Chúa không làm cho chúng ta trở thành tên nô lệ nhưng nhằm mang lại hạnh phúc. Vì nô lệ tội lỗi, thì phải chết; còn nô lệ phục vụ Thiên Chúa thì sẽ được nên công chính, thánh thiện và sự sống đời đời. Khi có niềm vui và hạnh phúc, chúng ta không thể là nô lệ.
Là người chắc chắn không ai muốn sống trong bóng tối, nhưng sống theo ánh sáng thì ai cũng ngại. Chấp nhận Đức Kitô thì dễ, nhưng sống theo giáo huấn của Ngài thì không mấy ai thích: " Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy". Và điều này sẽ làm cho chúng ta mất tự do. Nhưng tự do là gì, nếu không phải đi trong đường lối của Thiên Chúa, khi đó chúng ta sễ được tự do vì:" Sự Thật sẽ giải phóng các con." Ga 8, 32. Lề luật giúp cho con người sử dụng tự do một cách có ý thức và trách nhiệm. Sống nuông chìu theo sở thích bản năng, vô kỹ luật thì cũng giống như ngựa không dây cương, hay thuyền không bánh láy, chúng ta không thể điều khiển cuộc đời mình, cuối cùng trở thành nô lệ cho tội lỗi. Cũng như Krisnamuti nói: "Chỉ có chân lý mới đem lại sự tự do cho chúng ta, chứ không phải ước vọng của chúng ta muốn được tự do."
Lạy Chúa Giêsu! Xin cho chúng con nhận ra Chúa là Chân Lý, và xin ánh sáng Chân lý Chúa luôn chỉ đường dẫn lối để chúng con xua tan bóng đêm tội lỗi nơi tâm hồn chúng con. Amen.
68.Tuyệt vọng trong hy vọng
"... ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16).
Phật giáo có câu: "đời là bể khổ" nghĩa là con người từ lúc sinh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời chỉ gặp toàn là đau khổ, tội lỗi, chết chốc... Đây là một trong những ưu tư mà con người phải mang lấy. Đặc biệt hơn khi đối diện với cái chết, con người dù tài giỏi đến đâu cũng đành bó tay và cúi đầu im lặng. Không khéo sẽ dẫn con người đến chổ tuyệt vọng. Nhưng là con người thì ai cũng mong cho mình một cuộc sống an vui, một gia đình ấm no và hạnh phúc. Nhưng đó chỉ là mộng ước, còn thực tế thử hỏi có mấy ai được như vậy?
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn tích cực, mang đầy ý nghĩa và niềm hy vọng từ những đau khổ, tội lỗi và chết chốc trong cuộc sống. Như thánh Phaolô dạy, "Niềm hy vọng của tôi là Thập giá Đức Kitô" (Gl 6,14). Với tôi, sống là chiến đấu; chết là chiến thắng. Tôi hoàn toàn tin tưởng ký thác vào lòng từ bi nhân hậu cho tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, Đức Kitô đã chiến thắng sự chết và phục sinh vinh hiển ngay trong trần gian này. Đây là đích điểm mà tôi tin tưởng khi phải trực diện với biết bao nghiệt ngã của đau thương, biết bao sóng gió vùi dập lên cuộc đời, và nhất là mai đây phải ngậm ngùi trong tuyệt vọng của cái chết. Và lời hứa của Ngài là chìa khoá mở ra một chân trời hy vọng: "...ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời"(Ga 3,16). Chìa khoá này, giúp tôi xác tín một cách chắc chắn rằng: không có sự chết và càng không có sự chết trong khi chỉ có những người đang sống trên thế giới này và thế giới bên kia. Mặc dầu sự chết là một thực tại, nhưng chết chỉ trong chốc lát, một khoảnh khắc, một giây phút, một bước đi. Bước đi từ tạm thời sang vĩnh cửu. Bước đi từ hữu hạn sang vô hạn.
Và cũng chính lời hứa ấy đã âm thầm len lỏi và lấn sâu vào lòng của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, đến nỗi Ngài phải thốt lên trên giường hấp hối: "Tôi không chết, tôi đang bước vào sự sống". Hơn thế nữa Thánh Phanxicô đã xác tín niềm tin về cái chết của mình rằng: "Sự sống này chỉ thay đổi mà không mất đi, lúc con người nằm yên giấc ngủ, mắt nhắm lại rồi là thấy tương lai". Quả thế, với những người không có niềm tin thì chết là tuyệt vọng. Ngược lại, với tôi chết là chiến thắng là khởi điểm cho một cuộc sống mới: sống với Chúa, sống bên Chúa, sống trong Chúa và sống như Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Vua tình yêu, Ngài đã chiến thắng sự chết trong đau khổ, trong thất vọng trên giường thập giá. Xin cho con ý thức rằng: Chấp nhận mọi nghịch cảnh đau thương trong cuộc đời mà trên giường hấp hối, trước khi chết con chưa làm được. Nói lời yêu thương mà trong cơn nguy tử con không thể nói được. Hiến thân cho anh em khi còn sống mà trong nấm mồ con đang bất lực. Xin cho con tin tưởng vững vàng trong giay phút hiện tại, để rồi mai đây con không tuyệt vọng mà mãi mãi ra đi trong hy vọng và trong vinh quang bất diệt.
69.Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Lịch phụng vụ của Giáo hội vẫn quen gọi Chúa nhật thứ tư này là Chúa nhật màu hồng, màu của niềm vui và hạnh phúc. Sở dĩ gọi làChúa nhật màu hồng là bởi vì trong ngày hôm nay, đồng thời với phẩm phục của chủ tế được thay đổi từ màu tím u buồn sang màu hồng trong sáng, thì những bài Thánh Kinh được chọn để đọc trong thánh lễ cũng loan báo một tin mừng trọng đại cho tất cả mọi người: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính con một mình, để tất cả những ai tin vào con Ngài thì được sống đời đời.
Bởi vì Thiên Chúa không sai con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ con Ngài mà được cứu độ". Tin vui trọng đại này mặc dù được chính Đức Kitô làm cho trở nên hiện thực, nhưng nó đã được chuẩn bị từ thời Cựu ước, mà chúng ta đã có dịp nghe nhắc lại một cách sơ lược trong những ngày Chúa nhật vừa qua. Đúng vậy! Từ thời xa xưa trong Cựu ước, Thiên Chúa đã dùng nhiều phương cách, nhiều trung gian để loan báo ơn cứu độ mà Người sẽ thực hiện một cách rỏ ràng và dứt khoát nơi con một của mình là Đức Giêsu Kitô. Tin mừng ấy được bảo đảm bằng một giao ước long trọng với gia tộc Noe, một gia đình nhân loại mới được tái sinh, là sẽ không bao giờ có hình phạt Đại Hồng thủy như vậy nữa; Một sự kiện mà chúng ta đã nghe nhắc lại trong ngày Chúa nhật thứ nhất mùa chay.
Lợi dụng sự trung thành của Thiên Chúa, dân tộc mới này dần dần biến giao ước đó trở thành pháo đài của sự chống đối Người, mà tháp Ba-ben là một biểu tượng hữu hình. Thế nhưng không vì sự phản bội đó mà thiên Chúa hủy bỏ kế hoạch yêu thương của mình. Lời Chúa trong ngày chúa nhật thứ hai đã cho thấy rằng: Để bày tỏ sự trung thành của mình, Thiên Chúa đã nhẫn nại chọn trong đám nhận loại hư hỏng đó một người thật sự là biết trung thành và tin tưởng nơi Người, để hình thành một dân riêng của Chúa, đó là ông Ab-ra-ham.
Bước vào chúa nhật thứ ba, chúng ta tiếp tục nhìn thấy một sự quan tâm đặc biệt mà Thiên Chúa đã dành cho dân này: Người ân cần ban bố những huấn lệnh, những lời chỉ dạy tốt lành nhất, để cho họ thật sự trở thành một dân tộc được Chúa chúc phúc. Thế nhưng một lần nữa, tình thương của Thiên Chúa bị con người lợi dụng.
Bài đọc một của ngày hôm nay cho thấy rằng: Không phải chỉ có dân chúng, mà còn cả hàng tư tế, cũng tỏ ra gàng bướng bất trung. Bao nhiêu thói hư tật xấu, bao nhiêu tội ác khủng khiếp mà dân ngoại đã làm, thì bây giờ nó lại xảy ra trong chính đền thờ; làm cho đền thờ trở nên dơ bẩn hổn tạp, mở đường cho ngoại bang xăm chiếm. Và rồi cũng thêm một lần nữa, chúng ta nhìn thấy được lòng trung thành yêu thương của Thiên Chúa: Người đã dùng triều đại Vua Cyrô để xây dựng lại đền thờ và khôi phục vương quốc Israel.
Đúng như tác giả của bức thư gửi tín hữu Do Thái đã viết: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng đến thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử". Noe, Abraham hay Cyrô đều là hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu mang ơn cứu rỗi đến cho nhân loại. Và để chứng tỏ rằng: "thời kỳ đã mãn"; nghĩa là ơn cứu rỗi do Đức Giêsu mang đến là vĩnh viễn và dứt khoát, thì trong bài phúc âm hôm nay, khi trả lời với Nicôđêmô, Người quả quyết rằng: "Như Môisen đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời".
Quả thật, lịch sữ dân tộc Do thái sẽ không bao giờ quên được câu chuyện rắn đồng trong sa mạc. Lúc đó họ nổi loạn đòi giết chết cả ông Môisen. Lập tức Chúa để cho rắn lửa bò ra khắp nơi và cắn chết nhiều người. Khi ấy họ hoãng sợ tìm đến cầu cứu Môisen, và Chúa bảo Môisen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Bất cứ người nào bị rắn cắn mà biết nhìn lên con rắn đồng ấy thì sẽ được cứu thoát. Nếu như năm xưa con rắn đồng được treo lên cao đó như là một dấu chỉ của lòng yêu thương tha thứ, để rồi cho dù con người có năm lần bảy lượt xúc phạm đến Chúa, nhưng nếu biết tỏ lòng hối cải và nhìn lên đó thì sẽ được cứu thoát; thì hôm nay cũng vậy, việc Đức Giêsu chấp nhận bị treo trên cây thập giá, cũng chính là một sáng kiến nói lên lòng tha thứ, để rồi bất cứ một ai nhìn lên đó và tin vào Người thì sẽ được cứu thoát.
Chính vì thế mà liền sau đó Đức Giêsu khẳng định rằng: "Thiên Chúa sai con một của Ngài đến thế gian không phải là để kết án luận phạt, nhưng là để thế gian nhờ con Ngài mà được cứu độ".
Tất cả những gì mà Đức Giêsu đã làm ở trần gian này, thì Người chỉ làm có một lần duy nhất, nhưng hiệu quả thì kéo dài đến mọi nơi mọi thời. Chúng ta không có mặt cùng thời với Chúa Giêsu, nhưng phần rỗi của chúng ta, những con người tội lỗi và bất toàn vẫn được Lời Chúa bảo đảm: "Ai tin thì sẽ không bị lên án, còn ai không tin sẽ bị kết án." Những người không tin không phải là bị kết án bởi Thiên Chúa, mà là tự kết án chính mình bằng thái độ ngoan cố của mình, giống như ngày xưa chỉ có những ai nhất định cúi mặt xuống đất mà không chịu nhìn lên con rắn đồng, thì kẻ ấy mới chết.
Nhưng rồi chúng ta phải thể hiện lòng tin của mình như thế nào? Thánh Giacôbê tông đồ quả quyết rằng: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết." Nghĩa là một đức tin đúng nghĩa phải là một đức tin được hòa quyện giữa lý trí và việc làm. Dĩ nhiên là có nhiều phương cách thể hiện lòng tin của mình. Thế nhưng chủ đề chung mà các bài đọc Thánh kinh của ngày hôm nay muốn thể hiện đã gợi lên cho chúng ta một bài học lớn.
Một bài học mà suốt cuộc đời này, chúng ta chỉ có vừa đủ thời gian để thực hiện nó; đó là mang tình thương của Chúa đến cho anh chị em mình bằng chính cuộc sống hàng ngày, qua những cung cách ứng xử thắm đượm lòng bác ái của chúng ta. Khi kết thúc cuộc sống đời này, Chúa sẽ không hỏi về số quần áo mà chúng ta đang có trong tủ của mình, nhưng sẽ hỏi rằng chúng ta đã giúp cho bao nhiêu người có quần áo để mặc?
Chúa sẽ không hỏi mức lương cao nhất của chúng ta là bao nhiêu, nhưng sẽ hỏi là chúng ta có làm tổn thương nhân cách của mình để đạt được nó không? Chúa sẽ không hỏi chúng ta là đã nhận được bao nhiêu lời động viên khuyến khích, mà sẽ hỏi rằng chúng ta đã sẵn lòng khích lệ người khác như thế nào? Chúa sẽ không hỏi là chúng ta đã làm gì để lo cho bản thân, mà sẽ hỏi là chúng ta đã làm gì để giúp đỡ anh chi em của mình? Chúa cũng sẽ không hỏi chúng ta đã sống bên cạnh những ai, mà sẽ hỏi rằng chúng ta đã đối xử như thế nào với những người láng giềng của mình? Và nếu như ngay bây giờ, từng người trong chúng ta đang vui mừng hãnh diện với lòng mình về những điều đó khi mà chúng ta phải trả lời trước mặt Chúa, là chúng ta đang thể hiện niềm tin của mình vào Chúa cách đúng đắn.
Còn ngược lại, nếu chúng ta cảm thấy âu lo ngại ngùng trước những câu hỏi ấy, thì nhất định chúng ta hãy mau mắn sửa chữa, đặc biệt là trong mùa chay thánh này; đó chính là lý do mà ngay trong ngày khai mạc, Thánh Phaolô đã tuyên bố: "Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ".
Chúng ta nên nhớ rằng: không có một sự sửa chữa hay một sự đổi mới nào gọi là quá trể cả. Xin Chúa qua lời cầu bàu của Thánh cả Giuse, Người Công Chính, ban cho mỗi người chúng ta có được sự Công chính của Chúa để sống cuộc đời kitô hữu của mình. Nhờ đó mà mỗi ngày chúng ta được trở nên tốt hơn, xứng đáng hơn với tình thương và ơn cứu độ của Chúa dành cho chúng ta.
70.Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Một câu thơ mà ai trong chúng ta cũng đều biết:
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Tương truyền rằng: Có đôi vợ chồng nọ rất thương nhau. Người chồng vì nghĩa vụ non sông phải ra đi, để lại quê nhà người vợ thân yêu và đứa con nhỏ dạy. Ngày tháng cứ dần trôi... Một hôm người chồng trở về, vì không báo trước nên không có vợ ở nhà, chỉ có đứa con nhỏ giờ đây đã nói được những tiếng nói đầu tiên. Nhìn thấy đứa con nhỏ, anh ta rất vui mừng, gọi con đến và xưng là cha của nó. Nhưng ngở ngàng thay, đứa nhỏ không chịu, còn nói rằng: cha nó không bao giờ về vào lúc ban ngày, cha nó chỉ về vào ban đêm.
Người chồng nghi ngờ vợ, niềm uất hận dâng lên. Bỗng đâu người vợ thân yêu từ ngoài đi vào, nhìn thấy chồng, rất vui mừng. Nhưng sự vồn vã yêu thương đâu chẳng thấy, mà trái lại, chị còn phải nhận thái độ lạnh nhạt và những lời cay đắng. Không thể biện minh được cho sự trong trắng của mình, chị mới tìm cái chết để giải thích cho nỗi oan tình. Chiều đến khi mọi vật đã chìm vào bóng đêm đứa nhỏ cứ đòi mẹ, nhưng chẳng thấy.
Nó lại bảo là cha nó sắp về. Nó mới dẫn người chồng vào trong và chỉ lên vách. Cái bóng đen do ánh đèn tạo nên, đứa nhỏ gọi đó là cha của nó. Người chồng ngỡ ngàng hiểu ra mọi chuyện thì đã muộn. Anh đi tìm vợ, nhưng chẵng thấy. Ngôi miếu được dựng lên để giải oan, để xin lỗi người vợ và để nói lên mối tình chung thủy của vợ chàng Trương.
Người chồng đã đứng kề bên hạnh phúc, đối mặt với sự thật. Nhưng anh ta chưa nhận ra được sự thật, vì anh ta quá tự hào về những hiểu biết của chính mình, mà không cần nghe những lời giải thích cặn kẻ. Thế cho nên suốt cuộc đời anh ta sẽ chẵng bao giờ nhìn thấy và tìm được nguồn hạnh phúc nơi người vợ chung thủy của mình nữa.
Chúng ta cũng vừa chứng kiến cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Ông nầy là ai? Ong là thủ lãnh những người biệt phái, là một nhà thông thái, hiểu biết nhiều, có địa vị trong xã hội. Ông ta cũng nhìn thấy Chúa Giêsu, hiểu biết những việc làm của Ngài. Nhưng ông ta chưa dám đến với Ngài thật sự, vì những gì là của riêng ông ta, đã làm nặng nề bước chân tìm chân lý, đã che khuất đi ánh mắt đi tìm ánh sáng.
Những cái đó cũng làm mất đi sự can đảm cần thiết để có hành động nói lên sự thật. Chính vì thế ông ta mới tìm Chúa Giêsu vào lúc đêm về. Qua cuộc đối thoại không mang lại kết quả bao nhiêu, vì ông ta chưa ra khỏi chính mình được. Đến khi Chúa Giêsu chịu treo trên Thập giá, khi đó ông mới được mở mắt ra, khi đó tất cả những gì là của ông, chẵng có giá trị gì. Mặc dù hiện tại, ông đang đứng trước chân lý, đang đứng trước nguồn hạnh phúc đích thực mà ông chẵng hay biết.
Sánh về địa vị, chắc chúng ta không bằng ông thủ lãnh người Do Thái kia đâu. Về sự hiểu biết, chắc cũng không ai dám tự hào là hơn ông. Về địa vị, chúng ta cứ nhìn lại chính mình xem. Vậy mà chúng ta có biết tìm đến Chúa chưa? Tìm đến để nghe Ngài nói, Ngài chỉ dạy. Chúng ta chê trách ông Nicôđêmô hơi thiếu can đảm. Nhưng vì ông đã có sự khởi đầu nên ông cũng đã có được kết quả tốt đẹp. Ông đã dám xuất hiện giữa ban ngày vào lúc cần thiết nhất, lúc mà các Tông đồ đã trốn chạy hết. Ông lo tất cả mọi việc thật chu đáo.
Thiên Chúa luôn chờ đợi và Ngài cũng tạo điều kiện cho ta, nhưng chúng ta có rời được chỗ ở, rời được con người của chính mình để đến với Ngài không. Hay chúng ta vẫn còn nặng nề với bao nhiêu vấn đề của cuộc sống. Công việc không thể; Vì chúng ta còn sợ; Hay là tôi đã hiểu biết nhiều, nên tôi không cần phải nghe ai chỉ dạy. Vậy thì làm sao chúng ta có thể gặp được Chúa. Thiên Chúa không hiện ra trực tiếp với chúng ta. Ngài nói, nếu cần thiết, có thể qua người con nhỏ trong gia đình để đánh động tâm hồn chúng ta. Ngài cũng muốn nói với chúng ta, qua những cử chỉ đơn sơ của những ngưới thấp hèn hơn chúng ta, đôi khi qua những người hành khất để đánh động lương tâm chúng ta.
Đôi khi cứng rắng hơn, Ngài nói qua những người có uy quyền với lời lẽ có khi làm chạm tự ái chúng ta để đánh động tâm hồn. Nhìn lại cách sống của chính mình, mỗi người sẽ nhận thấy mình đã tìm gặp được Chúa hay chưa. Nếu giờ nầy chúng ta đã can đãm hơn, biết chu toàn trách nhiệm hơn, siêng năng đến với Chúa hơn , biết làm gương tốt cho những người chung quanh. Đó là chúng ta đã gặp được Chúa, đã nhìn thấy ánh sáng. Đó là chúng ta không còn đi trong đêm tối nữa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn soi sáng cho mỗi người chúng ta biết siêng năng đến với Chúa, để nhận ra chân lý và luôn sống trong ánh sáng chân lý của Ngài.
71.Thiên Chúa yêu thương
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau chia sẻ về tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại. Các du khách có dịp viếng thăm nhà thờ chính tòa Gengiba bên Phi Châu, sẽ nhìn thấy lời chào đón này được viết ngay trên tường ngôi thánh đường: Bạn đang đứng trong nhà thờ của Đức Kitô.
Ngôi nhà thờ này đã được xây dựng ngay trên phần đất trước kia được dùng để tập trung buôn bán, trao đổi những nô lệ da đen như những súc vật. Đặc biệt là bàn thờ được đặt trên một tảng đá nơi những nô lệ bị đánh đòn. Lý do bị đánh đòn trước khi đem bán là để kiểm tra sức khỏe của họ.
Cây thánh giá bằng vàng được treo trên một chiếc cột trụ có khắc tên bác sĩ Livdy Stone, một người Anh đã từng mạnh mẽ và can đảm lên tiếng chống lại tệ nạn buôn bán nô lệ. Cột trụ này là nơi bác sĩ vẫn thường đứng để thuyết trình, để hô hào cổ vũ cho việc giải phóng nô lệ. Mãi đến ngày 16.6.1873 việc buôn bán nô lệ tại Phi châu mới bị ngăn cấm bởi một đạo luật được ban hành. Kể từ đó, phẩm giá đích thực của người da đen mới được nhìn nhận.
Chiếc cột trụ đã trở nên như một dấu chỉ, gợi nhớ đến những hy sinh gian khổ và ngay cả cái chết để giải phóng cho những nô lệ da đen và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đối lại với thù hận là yêu thương chân thật, đối lại với bóc lột là tự do và công bằng, đối lại với chiến tranh là hòa giải và tha thứ.
Câu chuyện trên gợi lên cho chúng ta những ý nghĩ về tình thương của Thiên Chúa. Thực vậy, trong Cựu ước, Thiên Chúa đã truyền cho Maisen đúc một con rắn đồng, treo lên nơi hoang địa, để những ai bị rắn độc cắn cứ việc nhìn lên con rắn đồng ấy là được chữa lành. Và như thế, dân Do Thái đã được cứu khỏi hiểm họa rắn độc trong cuộc xuất hành tìm về miền đất hứa. Sự việc trên cũng chỉ là một biểu tượng, một hình ảnh tượng trưng cho những gì Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc chúng ta.
Đúng thế, để cứu chuộc chúng ta, Ngài chỉ cần phán một lời, nhưng Ngài đã không làm thế, trái lại, Ngài đã đi cho tới tận cùng những nỗi khổ đau của thân phận con người. Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh, mọi đắng cay và sau cùng đã chấp nhận chính cái chết ê chề trên thập giá, để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi, để cứu chúng ta khỏi nọc độc của thế gian.
Đây là điều mà Chúa Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Phúc âm. Chẳng hạn qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã nói với Nicôđêmô: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban chính Con Một của mình để những ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết nhưng sẽ được sống muôn đời. Nơi khác Ngài bảo: Con Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Trong bữa Tiệc Ly, Ngài phán với các môn đệ: Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Rồi thì Ngài cũng đã xác quyết: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta…
Tất cả phải chăng để chứng tỏ một tình yêu bao la mà Ngài đã dành cho chúng ta, bởi vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bởi đó, trong Mùa Chay này chúng ta hãy dành lấy một vài phút để suy nghĩ và cảm tạ tình thương của Chúa, đồng thời chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem, chúng ta đã làm được những gì để đáp trả tình yêu thương ấy.
72.Yêu thương tha thứ
1. Tặng quà là một trong những phương cách biểu hiện lòng yêu quý nhau. Món quà càng có giá trị, càng được chuẩn bị kỹ lưỡng, có thể nói lên tâm tình của người tặng dành cho người nhận. Nhìn lại Lịch Sử Cứu Độ, Thiên Chúa luôn yêu thương dân Người, thời Cựu Ước, Thiên Chúa nhờ các ổ phụ, các ngôn sứ để dạy dỗ, mạc khải... tình yêu của Thiên Chúa cho dân riêng của Người. Thời Tân Ước, sau một thời gian lâu dài chuẩn bị, Thiên Chúa ban tặng chính Con Một là Đức Giêsu cho loài người, đây là món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đức Giêsu đến thế gian không phải để luận phạt, mà đem ơn cứu độ, đem lòng yêu thương, tha thứ cho loài người.
2. Bài Tin Mừng hôm là một phần trong cuộc đối thoại với Ông Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời Xuất hành. Hình ảnh con rắn đồng, đó là tìền trưng của Đức Giêsu, Đấng Cứu Chuộc: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy".
Hẳn chúng ta còn nhớ, sau khi rời khỏi Ai Cập để tiến về đất Chúa hứa. Suốt bốn mươi năm trong hoang địa, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương chăm sóc dân Do thái, cho cột mây, cột lửa dẫn đường; đói có mana, có chim cút; khát có nước chảy ra từ tảng đá, thế nhưng họ vẫn chưa thoả mãn, vẫn kêu trách Thiên Chúa. Một lần cơn thịnh nộ của THIÊN CHÚA đã giáng xuống đám dân này, đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Họ đã nhận ra lỗi lầm của họ và chạy đến cầu cứu với Môsê, Thiên Chúa dạy Môsê đúc con rắn bằng đồng treo lên cao, để ai bị rắn độc cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng này sẽ được cứu. Thật ra, Không phải chỉ lần này, mà nhiều lần dân Do thái đã sa ngã, nhưng Thiên Chúa đều rộng lòng tha thứ. Điều này cho ta thấy Thiên Chúa , Đấng giàu lòng tha thứ và hay thương xót.
Nếu con rắn đồng là biểu tượng nói lên lòng yêu thương, tha thứ của Thiên Chúa , thì Đừc Kitô, Con Một của Người, được giương cao trên cây Thánh giá, chính là lòng tha thứ của Thiên Chúa dành cho loài người đạt đến đỉnh cao tuyệt đối: "Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Người mà được cứu độ".
Đọc Tin Mừng, chúng ta dễ thấy, lòng tha thứ của Đức Giêsu dành cho tất cả mọi người, nhất là những người được xem là tội lỗi như thu thuế, đàng điếm; ngay trên cây Thánh giá, Chúa đã tha cho người trộm lành, cho những kẻ bắt bớ sỉ nhục Ngài. Ngày hôm nay việc tha thứ vẫn được tiếp diễn, qua Bí tích Hòa giải, dù tội chúng ta nặng nề như thế nào, nếu thành tâm quay về cùng Chúa, Ngài sẽ tha thứ tất cả.
3. Mùa Chay là mùa của lòng yêu thương tha thứ. Bởi thế, cùng với việc cầu nguyện, ăn chay, thì sống bác ái đối với nhau là một việc làm rất cần thiết, hữu ích. Một trong những việc làm bác ái cụ thể mà Đức Kitô mời gọi chúng ta sống theo tinh thần, gương của Ngài đó là tha thứ cho nhau, quên đi những lỗi lầm của nhau. Thật vậy, trong đời sống chung làm sao tránh được những điều mất lòng nhau, nhiều khi vô tình hoặc do cố ý.
Hãy sống bác ái, bằng việc tha thứ, từ những người gần gũi. Hãy thực hiện việc tha thứ từ trong gia đình, cộng đoàn: vợ chồng đối với nhau, con cái đối với cha mẹ, cha mẹ đối với con cái, anh chị em đối với nhau, những người chung sống... Từ việc yêu thương tha thứ với những người trong gia đình, cộng đoàn, chúng ta sẽ đi xa hơn trong việc tha thứ đối với người khác: chòm xóm, những người cùng làm ăn buôn bán, nơi làm việc.
4. Muốn tha thứ cần phải có làm hòa. Có thể chúng ta muốn tha thức cho anh chị em chúng ta, nhưng do tự ái, tự cao, chúng ta đặt điều kiện người anh chị em đó phải đi bước trước đến với tôi thì tôi mới tha. Hãy nhìn vào Đức Giêsu, Ngài đã đi bước trước, bỏ trời cao để đến với con người tội lỗi. Bỏ ra món quà để tặng nhau, bỏ ra tiền bạc của cải đễ giúp nhau xem ra dễ hơn rất nhiều bỏ cái "tôi". Cái "tôi" tự ái, cái "tôi" tự cao, cái "tôi" bướng bỉnh. Vì thế có thể nói tha thứ là món quà quý giá mà chúng ta trao cho nhau. Bởi muốn tha thứ phải bỏ những cái "tô" hẹp nòi như đã nêu trên.
Muốn tha thứ cần phải quên đi những lầm lỗi của người khác, thường thì chúng ta dễ quên điều tốt mà lại nhớ lâu lỗi của người khác. Chính vì vậy khó tha thứ cho anh chị em của minh! Chúng ta nên noi gương Thiên Chúa giàu lòng vị tha: Người không nhắc dân Do thái đã lỗi với Người bao nhiêu lần. Thiên Chúa cũng không nhớ quá khứ tội lỗi của chúng ta, thì chúng ta cũng đừng để lòng về thiếu sót của tha nhân, đó là điều kiện để chúng ta thực hiện việc tha thứ tốt hơn.
5. Người Kitô hữu không những được hưởng hồng ân Cứu Độ từ Thập giá của Đức Giêsu mà Chúa cũng mời gọi mỗi người chúng ta thông phần vào việc chia sẻ niềm vui Thập giá của Ngài. Vì thế hãy tiếp tục đem tình yêu, sự tha thứ của Chúa đến với tha nhân. Hãy góp phần phân phát món quà quý giá này, đặc biệt là trong mùa Chay thánh, bằng cách sống yêu thương, tha thứ.
73.Sự thật đổi mới chúng ta
Trong cái tranh tối tranh sáng của cuộc đời. Thiên Chúa đổi mới chúng ta. Ngài ban Con Một Ngài cho chúng ta để mặc khải chân lý cho chúng ta và mở đường cho chúng ta đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Bài Tin Mừng hôm nay khó hiểu. Nó không kể lại một giai đoạn trong đời Chúa Giêsu hoặc một dụ ngôn. Đây là một suy tư về đời sống vĩnh cửu và về việc Thiên Chúa sai Con Một Ngài đến với chúng ta để cứu độ chúng ta, để đổi mới chúng ta.
Ánh sáng về con người của chúng ta.
Thật khó nói về đời sống vĩnh cửu: Chúng ta biết rất ít về cuộc sống này. Tuy nhiên một số kinh nghiệm trong cuộc đời trần gian có thể giúp chúng ta tưởng tượng ra cuộc sống ấy như thế nào.
Có những lúc trong đời chúng ta có cảm giác như đã khám phá ra một điều gì quan trọng làm cho mọi sự được sáng tỏ trước mắt chúng ta. “Đúng rồi, tôi là như vậy, và tôi muốn trở thành như vậy đó”. Lúc ấy chúng ta có cảm tưởng đã tìm thấy được sự thật về con người của mình như các triết gia hoặc như các nhà tâm lý học nói. Có lẽ đây là một kinh nghiệm hiếm có, nên khi điều này xảy ra, khi chúng ta được nối kết vào con người sâu thẳm của chúng ta, chúng ta có cảm tưởng như tìm được con đường mà ta phải đi. Lúc đó ta dễ hoạt động hơn bởi vì ta đã khám phá được mình là ai. Lúc đó ta có thể hành động theo sự thật mà ta có về mình. Nếu điều này xảy ra, và thường là trong một giai đoạn u tối của cuộc đời khi chúng ta không còn biết “bám víu” vào đâu nữa, hoặc chúng ta không còn biết cuộc đời mình có giá trị gì, thì chúng ta lại được cứu. “Mà thật, đúng thế, trước đây tôi đã không thấy điều này. Ô, nhưng mà nó làm thay đổi mọi sự!”. Lúc đó ta cảm thấy mình được đổi mới, đầy sức lực, đầy những khả năng mới, sẵn sàng sống theo sự thật mà ta vừa khám phá ra.
Cũng gần giống như vậy về sự sống vĩnh cửu là ánh sáng và sự thật. Sự sống ấy đến với chúng ta như một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng muốn chúng ta sống thực sự. Nhưng chúng ta biết rằng sự thật đôi khi quấy rầy những thói quen sống của chúng ta và chúng ta từ chối ánh sáng và những thách thức của nó. Vì thế mà Tin Mừng khắt khe với những kẻ từ chối Chúa Giêsu Kitô. Cũng như những sự thật mà đôi khi chúng ta phát hiện được trong cuộc đời chúng ta, sự sống vĩnh cửu không tự áp đặt cho ai cả. Nó chỉ tự giới thiệu mình để chúng ta lựa chọn mà thôi. Đây vừa là một lời mời gọi vừa là một hồng ân.
Một lời mời gọi sống.
Vậy Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con Một Ngài để giúp chúng ta sống sự thật nơi con người chúng ta và chính vì thế mà Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta sự thật về con người chúng ta và về mối quan hệ giữa chúng ta với tha nhân và với Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu là tin vào đời sống vĩnh cửu và mời gọi chúng ta sống theo sự thật này: Thiên Chúa là Cha, và chúng ta là anh em với nhau.
Có lẽ thường thường chúng ta sống trong sự mập mờ của cuộc đời và những kinh nghiệm của chúng ta về sự thật sâu xa vẫn là điều hiếm có. Nhưng kẻ đã tìm được sự thật của Chúa Giêsu Kitô, kẻ tin vào Chúa Giêsu vì đã thực sự khám phá ra Ngài vào một ngày nào đó trong đời mình, người ấy đã tìm thấy được ánh sáng trong thâm cung của lòng mình. Ánh sáng này đôi khi có thể leo lét, nhưng kỷ niệm về việc tìm thấy nó vẫn tiếp tục soi sáng cuộc đời của họ, cho cuộc đời ấy một ý nghĩa, và dẫn đưa họ đến với tha nhân để sống theo sự thật.
Tin Mừng nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến không phải để kết án nhưng để cứu độ chúng ta, để cho cuộc đời chúng ta được đổi mới nhờ sự thật. Và chúng ta được đổi mới khi chúng ta nhìn thấy rõ hơn, khi chúng ta cảm thấy mình sống động hơn, khi những năng lực mới giúp chúng ta vạch ra những dự án mới hoặc cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục những gì mình đã bắt đầu. Chính nhờ thế, mà cuộc sống vĩnh cửu đã mở ra cho chúng ta: một con đường mới để sống với bản thân, với Thiên Chúa và với tha nhân, nhờ ánh sáng mà Chúa Giêsu mang đến cho thế giới và cho cuộc đời chúng ta.
Sống vĩnh cửu là chiêm ngắm mầu nhiệm lớn lao nơi thâm tâm chúng ta và trong lòng kẻ khác, chiêm ngắm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã đến mặc khải cho chúng ta. Sống vĩnh cửu là hành động theo sự thật. Vậy nên như Tin Mừng nói, công việc của chúng ta “sẽ được nhìn nhận như là công việc của Thiên Chúa”, công việc của những con người được tháp vào sự thật và không sợ ánh sáng bởi vì họ biết rằng ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô nhằm cứu độ mọi người chúng ta và cả thế giới.
74.Lòng tin
Đang khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh "con rắn đồng" trong sa mạc. Đây là câu chuyện xảy ra trên đường từ Aicập về đất hứa. Ong Môisen theo lệnh Chúa dẫn "đám dân nô lệ" ra khỏi Aicập về Đất Hứa, trên đường đi Chúa ban Manna để nuôi dân chúng, nhưng ăn riết một thứ họ cũng chán, chẳng còn thấy ngon chút nào, chán đến phát ớn! Họ nhớ lại những củ hành của tỏi ở đất Aicập, vì dù là nô lệ họ vẫn được ăn nhiều thứ.
Càng nghĩ họ càng thèm những món ăn truớc đây họ đã được ăn, thèm nhỏ dãi luôn, không chịu được họ nỗi loạn chống lại ông Môisen, họ muốn quay về để được ăn dù phải làm nô lệ, làm tôi mọi, chẳng đáng một con người. Họ cố chịu đấm để được ăn xôi, cho dù là xôi có hẩm, xôi hẩm cũng vẫn là xôi mà. Để uống nắn và lòng dân, Chúa cho có những con rắn lửa xuất hiện và chúng đã cắn chết rất nhiều người. Họ hoang mang sợ hãi kêu cầu Chúa tha thứ và cứu chữa họ.
Chúa bảo ông Môisen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để ai bị rắn lửa cắn thì nhìn lên con rắn đồng ấy, thì sẽ được Chúa cứu khỏi chết. "Cũng như ông Môisen giương cao con rắn trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời ". Chúa Giêsu nói đến cái chết của Ngài sẽ phải chịu. Vâng! Ngài sẽ phải bị treo lên cây thập giá, để những ai tin vào danh của Ngài và thực hành những Lời Ngài dạy bảo thì sẽ được cứu sống.
Xưa dân Do thái nổi loạn chống lại ông Môisen, nghĩa là không tin vào Thiên Chúa nữa. Khi họ bị rắn lửa cắn họ đã nghe theo lời ông Môisen dạy, nhìn lên con rắn đồng thì sẽ được cứu sống. Không phải con rắn đồng có khả năng ấy, nhưng vì họ đã vâng nghe theo lời ông Môisen, nghĩa là tin vào Thiên Chúa, bởi ông là Ngôn sứ của Chúa. Chúa đã ra tay cứu chữa họ, dù họ đã bất trung chống lại Ngài. Xưa con rắn đồng cứu sống họ nhưng rồi họ vẫn phải chết, còn Chúa Giêsu sẽ cho những ai tin và thực hành Lời Ngài sự sống cả đời này và đời sau nữa.
Anh chị em, trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, có lẻ đã nhiều lần, nhiều lúc, ở đâu đó, chúng ta cũng bất trung, cũng phản bội lại ơn làm con Chúa khi chúng ta phạm tội hay chúng ta đồng loã với tội lỗi. Hãy mau quay về với Chúa, hãy ngước nhìn lên thánh giá Chúa với tâm tình hoán cải thực sự, hầu được ơn tha thứ. Hãy tin rằng Chúa sẽ tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Ân sủng và tình thương của Chúa lớn hơn tội lỗi và sự bất trung của chúng ta.
Tâm tình mà chúng ta cần phải có hôm nay là cám ơn Chúa vì tình thương Chúa lớn hơn tội của chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng học nơi Chúa bài học tha thứ, tha thứ luôn luôn cho anh chị em của mình.
Bản thân chúng ta là những con người tội lỗi yếu đuối, dễ phạm tội, dễ sa ngã, chúng ta cần được Chúa tha thứ thì chúng ta cũng phải biết không ngừng tha thứ cho những sai phạm của anh chị em chung quanh mình.
75.Người thợ săn.
Có một thi sĩ, khi còn là một cậu con trai, đã ước mơ làm linh mục, nhưng rồi vì lười biếng, ước mơ ấy đã không bao giờ trở thành sự thật. Lớn lên, ông làm quen với ma túy, và chính ma túy đã hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông kiếm sống bằng nghề đánh giày, bán diêm quẹt và giữ ngựa. Sau cùng đã phải ngửa tay đi xin ăn và chui rúc ở gầm cầu xó chợ.
Giữa lúc ấy, nhờ lòng tốt của một cô gái nghèo, ông gặp được ông bà chủ. Họ thấy ông có tài, nên giúp ông gặp được tình thương của Chúa. Và ông đã diễn tả kinh nghiệm đời mình trong một bài thơ mang tựa đề là “Người thợ săn trên trời”.
Ông cho biết ông đã trốn chạy Chúa thế nào và Chúa đã chộp bắt được ông ra làm sao? Ông so sánh mình là như một con thỏ nhỏ, còn Chúa là như người thợ săn. Khác với người thợ săn, Chúa chộp bắt từng linh hồn, không phải để giết chết, mà là để cứu sống.
Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, trong đó thánh Gioan đã xác quyết:
- Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban tặng Con Một Ngài, để những ai tin vào Ngài thì sẽ không bị tiêu diệt, nhưng sẽ được sống đời đời.
Làm sao chúng ta hiểu được tình thương bao la mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Thánh Phaolô đã gợi ý cho chúng ta nghĩ đến chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu ấy trong bức thư gửi tín hữu Rôma.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì bao la như đại dương không bờ không bến. Thực vậy, tình yêu ấy đã được trải rộng trên mọi người, không kỳ thị, không phân biệt màu da và tiếng nói. Tình yêu ấy cũng trải rộng trên cả những kẻ tội lỗi và phản bội Ngài, bởi vì Thiên Chúa muốn chia sẻ sự tốt lành của Ngài cho tất cả chúng ta.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì dài lâu như chính bản tính của Ngài, bởi vì Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vĩnh cửu. Thực vậy, trước khi có thế gian, Ngài đã yêu thương chúng ta và Ngài sẽ còn yêu thương chúng ta mãi mãi, từ đời này sang đời kia.
Hơn nữa, tình yêu Thiên Chúa dánh cho chúng ta còn thật cao vời. Đặc tính cao vời này được biểu lộ qua những tặng vật mà Ngài đã trao ban cho chúng ta. Còn gì cao vời hơn khi được chia sẻ chính sự sống của Ngài qua các bí tích. Còn gì tuyệt diệu hơn cho bằng việc Ngài ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, để cứu độ chúng ta và ngày nay việc trao ban ấy vẫn còn được tiếp nối qua việc chúng ta lên rước lễ.
Và sau cùng tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thật là thẳm sâu, bởi vì là một Thiên Chúa quyền năng, Ngài đã hạ mình xuống mang thân phận con người. Sinh ra là một hài nhi bé bỏng nơi máng cỏ Bêlem. Chết đi như một tội nhân bị bêu xấu trên thập giá.
Từ tình yêu ấy chúng ta thấy được rằng: Thiên Chúa luôn săn đuổi chúng ta để rồi dẫn chúng ta vào trong tình yêu của Ngài. Bổn phận của chúng ta trong Mùa Chay này đó là hãy đáp trả tiếng gọi của tình yêu bằng cách chổi dậy, lên đường và trở về với Ngài.
76.Thích gì.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói rất rõ ràng về bản chất của tội lỗi. Tội chính là chọn lựa bóng tối thay vì chọn ánh sáng là đời sống của Chúa Giêsu. Đây là một sự thật rất kinh khủng về tội. Tội là một cớ vấp phạm, không một suy tư nào có thể biện minh cho tội lỗi. Vì Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những hành vi tội lỗi đều là sự dữ.
Điều chúng ta nên làm là thường xuyên phản tỉnh về những chọn lựa mà chúng ta đang làm, và phân biệt đó là sự chọn lựa bóng tối của tội lỗi hay chọn lựa ánh sáng sự thật của Chúa Giêsu Kitô.
Khi phản tỉnh về những điều sai trái của tôi, tôi cảm thấy bị vỡ mộng và khó chịu về sự bất lực không làm được những chọn lựa đúng của tôi. Cuộc sống của tôi dường như phản ánh cuộc chiến đấu của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma đoạn 7. Trong đoạn này, thánh nhân nói điều mà mình biết là cần phải làm thì lại không làm được.
Trong thực tế, Giáo Hội khuyến khích chúng ta thực hành việc xét mình hàng ngày, vào ban tối trước khi đi ngủ. Vào lúc xét mình, chúng ta nhớ lại các sự việc đã xảy ra trong ngày và tạ ơn Chúa vì những phúc lành mà Người đã ban cho chúng ta. Chúng ta cũng nhớ lại các tội đã phạm và những điều chúng ta cần phải làm mà đã không làm và ăn năn thống hối tất cả các tội lỗi đã phạm. Nhờ ơn Chúa, qua việc xét mình này, chúng ta thấy rõ tâm hồn của mình, nhận biết các tội đã phạm, giúp chúng ta tỉnh thức hơn để canh phòng tâm trí của mình và sẵn sàng đón nhận những ơn soi sáng của Chúa.
Chúng ta cần nhận thức cuộc sống của chúng ta là một chiến trường giữa hai lực lượng thiện và ác. Tin Mừng cho chúng ta biết Chúa Giêsu Kitô đã chiến thắng trong cuộc chiến đấu vì chúng ta. Chúng ta chỉ chiến thắng khi khắc phục được tội lỗi và các cơn cám dỗ. Thiên Chúa sẽ không bao giờ để chúng ta chịu thử thách quá sức chịu đựng của chúng ta. Nhưng chúng ta phải cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa, để nhờ đó, chúng ta luôn sống như con cái của ánh sáng và không trượt ngã vào trong vương quốc của tối tăm và tội lỗi.
Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh và can đảm để con chiến đấu với các đam mê tội lỗi và nết xấu của con.
77.Yêu Chúa.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh con rắn đồng để ám chỉ về cái chết cứu chuộc của Ngài. Con rắn đồng là gì? Đây là một câu chuyện thời xưa được Chúa nhắc lại, khi dân Do Thái lang thang trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, họ đã nhiều lần kêu trách Chúa, họ nói rằng: tại sao lại đưa họ vào sa mạc để họ phải khổ như thế này? Số người Do Thái lúc đầu ra khỏi Ai Cập khoảng hơn hai triệu người, con số không phải nhỏ bé, họ được Chúa ban manna ăn mỗi ngày, nhưng rồi họ cũng chán ngán, họ phàn nàn: chẳng có gì vui, chẳng có gì ngon, chỉ có mỗi manna chán ngắt. Khi họ kêu trách Chúa như vậy tức là họ bày tỏ một tấm lòng hết tin tưởng, họ muốn quay trở về với kiếp nô lệ để được ăn củ hành củ tỏi, họ đã mất niềm tin vào Chúa. Có lần Chúa đã cho rắn lửa xuất hiện khắp nơi và cắn chết nhiều người, khi đó họ mới nhớ ra tội mình bội tín, bất trung với Chúa, họ ăn năn và cầu cứu với ông Môsê xin Chúa tha thứ. Chúa động lòng thương bảo ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cây cao, để bất cứ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng này thì được cứu sống.
Thật ra con rắn đồng kia chỉ là một thứ kim loại vô tri vô giác, tự nó không có khả năng hay quyền hành gì để cứu giúp người ta lúc ấy, yếu tố cứu giúp người ta chính là đức tin. Việc nhìn vào con rắn đồng kia là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát ra bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Và đó là ý nghĩa của câu Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô: “Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi”. Nói vậy là Chúa có ý ám chỉ cái chết của Ngài, Ngài sẽ chết cách nào, Ngài sẽ bị treo lên thập giá để chuộc tội cho nhân loại.
Nói rõ hơn, ngày xưa, dân Do Thái muốn được khỏi bệnh rắn cắn thì nhìn lên rắn đồng, còn ngày nay, chúng ta muốn khỏi bị trầm luân, hư mất đời đời thì chúng ta cần tin vào Chúa Giêsu, nhận cái chết chuộc tội của Ngài, để Ngài đem hạnh phúc trường sinh cho. Nói như vậy là để chúng ta ý thức tình trạng tội lỗi của mình, nếu chúng ta không biết mình là người có tội, là người phải cần tới Chúa, thì cái chết của Chúa cũng giống như bao nhiêu cái chết khác, không liên quan gì đến mình, hay cùng lắm chúng ta coi cái chết của Ngài cũng như cái chết của một vị anh hùng, nếu như vậy thì cái chết của Chúa sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến chúng ta, thái độ đó cũng chẳng khác gì thái độ của những người Do Thái xưa kia nhìn lên rắn đồng với cặp mắt nghệ thuật, nên vẫn bị chết. Chúng ta phải ý thức rằng tất cả chúng ta đều là những tội nhân, bị rớt xuống vực thẳm, không thể tự cứu nổi mình, chứ đừng nói cứu người khác, vậy cần phải có một người ở trên, ở ngoài cứu vớt chúng ta, đó là Chúa Giêsu, Chúa cứu chúng ta bằng cách chết thay cho chúng ta, nếu chúng ta tin nhận như thế là chúng ta đã bắt đầu đi vào con đường cứu độ của Chúa.
Như vậy bài học Chúa Giêsu dạy đã quá rõ ràng, đó là chúng ta phải tin vào Chúa thì mới được cứu rỗi. Nói tới niềm tin chúng ta thấy sống trên trần gian này bất cứ ai cũng có niềm tin, lòng tin hay đức tin. Con người ta sống không thể nào thiếu vắng điều này, chúng ta không tin điều này thì tin điều khác, không tin người này thì tin người khác, chúng ta tin nhau, cha mẹ tin con cái, con cái tin cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, trường học, trao đổi xã hội… đều lấy lòng tin làm căn bản. Từ một em bé đến trường, em có tin cô giáo dạy học được, em mới đi học, cuộc sống chúng ta trao đổi hàng quà, đồng tiền, công thợ… đều đặt vào lòng tin tưởng nhau, nếu không tin tưởng nhau chúng ta không thể nào gặp gỡ và nói chuyện với nhau được. Nói khác đi, chúng ta có gần gũi nhau hay không, thương yêu nhau hay không, điều đó cũng tùy thuộc vào lòng tin, chính lòng tin tạo nên hy vọng, tình yêu, một gia đình cùng một lòng tin “tát bể đông cũng cạn”. Như vậy, tin là chuyện bình thường trong cuộc sống, từ đó chúng ta dễ hiểu lòng tin trong lãnh vực tôn giáo, đối với chúng ta, đó là đức tin.
Cũng thế và hơn thế, Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta phải có một đức tin sắt son vào Ngài, có bấy nhiêu thôi, nếu chúng ta không tin Ngài thì tin ai? Tin vào mình chăng? Tin vào tài trí, hy vọng vào chính mình, vào đời mình chăng? Làm như vậy là gánh vàng đem đổ sông Ngô, là xây nhà trên cát. Chúng ta tin Chúa, chắc chắn rồi, chúng ta tin lời Chúa, cũng chắc chắn rồi, nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải tin Chúa thương yêu chúng ta. Chúng ta tin Chúa là Cha rất gần gũi con cái, đùm bọc, che chở, quan phòng, rất toàn năng, đó là bấy nhiêu của lòng tin. Từ lòng tin đó chúng ta bắt đầu yêu Chúa. Chúng ta tin nên chúng ta yêu, hay yêu rồi tin cũng thế, chỉ biết rằng lòng tin nâng đỡ tình yêu, và tình yêu nâng đỡ lòng tin, có tin mới yêu, cũng như có yêu mới tin.
Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, chúng ta đã đi được một nửa đường của Mùa Chay. Mùa Chay kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, sửa đổi đời sống. Chúng ta là những người tội lỗi, chúng ta tin Chúa yêu chúng ta hơn những người trần gian yêu chúng ta nhất, nên chắc chắn Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta khi chúng ta xin lỗi Ngài. Vậy để biểu lộ lòng chúng ta tin yêu Chúa, chúng ta hãy ăn năn sám hối.
78.Con rắn
Khi đi ngang qua các tiệm thuốc tây hay nhà thương, chúng ta thấy vẽ hình một con rắn, quấn quanh cây cột. Đó là biểu tượng của ngành y, một nghề cứu nhân độ thế. Biểu tượng này bắt nguồn từ một biến cố xảy ra cho dân Do thái trên đường về miền đất hứa.
Bấy giờ họ phàn nàn kêu trách Chúa và Môsê vì đã không cho họ bánh ăn và nước uống như hồi ở bên Ai Cập. Họ đã quá chán ngán thứ manna này rồi. Và thế là Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người.
Tuy nhiên, khi họ biết ăn năn hối cải, Ngài đã ra lệnh cho Maisen đúc một con rắn đồng, treo nó lên một cây cột và hễ ai bị rắn độc cắn, chỉ cần nhìn lên rắn đồng là được bảo đảm an toàn tính mạng.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhìn thấy nơi con rắn đồng một hình ảnh về bản thân mình.
Thực vậy, như con rắn ngày xưa, Ngài cũng bị treo lên để những ai nhìn lên Ngài với ánh mắt tin tưởng và sám hối, thì sẽ được tha thứ và được sống đời đời.
Trong Phúc Âm, thánh Gioan đã nói đến ba lần việc Con Người phải được giương cao, ám chỉ cái chết của Ngài trên thập giá, nhưng đồng thời cũng mang ý nghĩa về sự Phục sinh và lên trời của Ngài.
Trong cái nhìn của thánh Gioan, thập giá chính là đỉnh cao trong tiến trình trở về với Chúa Cha. Đây là một tiến trình đi lên, trái ngược với tiến trình đi xuống của Ngôi Lời lúc nhập thể:
- Khi nào các ngươi giương cao Con Người lên, các ngươi sẽ biết rằng Ta là ai… Khi nào Ta được giương cao lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta.
Đức Kitô, Đấng đã chịu treo trên thập giá, đã được Phục sinh và lên trời. Chính Ngài không ngừng cuốn hút vũ trụ này về với Ngài, để dâng lại cho Chúa Cha.
Chúng ta đang ở trong Mùa chay, đây là thời gian thích hợp để chúng ta nhìn lên Đức Kitô trên thập giá.
Những người bị rắn độc cắn nơi hoang địa đã nhìn lên rắn đồng như biểu tượng của lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa. Họ nhìn lên với thái độ tin tưởng và đã được thoát chết.
Chúa Giêsu không cứu chúng ta khỏi cái chết phần xác, nhưng Ngài còn làm một điều lớn lao hơn nhiều, đó là cho cả hồn lẫn xác của chúng ta được sống đời đời.
Chúng ta quen hiểu sự sống đời đời là sự sống vĩnh cửu vào ngày tận thế. Tuy nhiên, theo thánh Gioan thì sự sống đời đời đã được bắt đầu ngay từ bây giờ, ngay từ lúc chúng ta còn sống trên trần gian.
Chỉ cần tin vào Đức Kitô là nguồn mạch ơn cứu độ, là quà tặng cao cả nhất của Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy sự sống của Ngài tràn vào cuộc đời chúng ta.
Chỉ cần nhìn lên những dấu đinh và trái tim bị đâm thâu qua của Ngài là chúng ta sẽ nhận ra dấu chỉ của một tình yêu và chúng ta được mời gọi để sống một cuộc đời hoàn toàn khác, như thánh Phaolô đã viết:
- Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Tôi sống cuộc sống hiện tại của tôi trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Hãy nhìn lên thập giá với tâm tình sám hối, để nhờ đó chúng ta được Chúa tha thứ và được chữa lành khỏi nọc độc của tội lỗi.
79.Thiên Chúa yêu.
Thiên Chúa quá yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Người, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Chúng ta được nghe những lời tuyệt vời này trong bài Phúc âm hôm nay. Đây là một bản tóm tắt thật hay của Tin Mừng.
Điều đầu tiên chúng ta cần ghi nhận, đó là chính Thiên Chúa đi bước đầu trong việc cứu độ.
Đôi khi, chúng ta có cảm giác rằng: trước hết Thiên Chúa phải nguôi cơn giận, sau đó Ngài mới tha thứ cho chúng ta. Chúng ta đã mường tượng ra hình ảnh Thiên Chúa như là một Đấng nghiêm khắc, nóng giận, và không biết tha thứ.
Nhưng trái lại, Đức Giêsu lại giới thiệu Thiên Chúa như là một Đấng đầy khoan dung, giàu lòng và luôn tha thứ. Nhờ sự chết của mình, Đức Giêsu đã thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Nhưng Tin Mừng hôm nay còn cho thấy chính Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến với chúng ta. Chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước.
Thiên Chúa chọn phương pháp của tình yêu, chứ không phải của sức mạnh. Thiên Chúa hành động không vì mục đích của riêng Người, nhưng vì chúng ta. Thiên Chúa không phải là nhà độc tài tuyệt đối, một người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi bắt buộc các tạo vật của Người phải vâng phục một cách hèn hạ. Nói đúng hơn, Thiên Chúa là một người Cha, Người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi tất cả những con cái đang tản mác của Người được trở về.
Đoạn này cũng cho thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa bao hàm tất cả như thế nào. Tình yêu của Người không chỉ hướng đến một quốc gia duy nhất, mà cũng không chỉ dành riêng cho người tốt. Tình yêu của Người hướng đến tất cả các quốc gia, dành cho những con cái của ánh sáng, và cả những con cái của bóng tối nữa.
Nhưng đoạn này cũng nói về sự phán xét và kết án. Nếu Thiên Chúa chọn phương pháp đầy yêu thương, thì làm thế nào mà phương pháp đó lại có thể bao hàm cả việc phán xét và kết án? Làm thế nào mà việc kết án lại có thể hòa giải với tình yêu được? Hành động của Thiên Chúa không lôi kéo theo sự kết án ai cả. Con người đã tự kết án chính mình, bằng cách sống theo thái độ tiêu cực. Thiên Chúa đã gửi cho chúng ta một nguồn sáng. Nếu con người bị hư mất, chính bởi vì họ đã không chấp nhận ánh sáng. Lỗi không phải do Thiên Chúa, nhưng là lỗi của chúng ta.
Lần kia, một khách tham quan được hướng dẫn đi khắp chung quanh một phòng trưng bày nghệ thuật. Phòng trưng bày đó chứa đựng một số bức tranh đẹp, đã được thừa nhận là những kiệt tác thế giới. Sau khi tham quan một vòng, người du khách nói “Tôi không cho là những bức tranh cũ kỹ này có nhiều giá trị”. Hướng dẫn viên trả lời “Thưa ông, không cần phải xem xét về những bức tranh này nữa. Nhưng cần phải xét lại về những người nhìn vào chúng”.
Phản ứng của người đàn ông không phải là một lời phê phán đối với bức tranh, mà là cách đánh giá thấp kém của ông ta về nghệ thuật. Tương tự như vậy, những ai ưa thích bóng tối hơn là ánh sáng, thì đã tự kết án chính mình.
Những người xấu ghét ánh sáng bộc lộ cho họ nhìn thấy bản thân họ. Họ ghét lòng tốt, bởi vì lòng tốt bộc lộ tâm địa xấu xa của họ. Họ sẽ phá hủy ánh sáng, lòng tốt, tình yêu, để tránh bị nỗi đau của sự tự phát hiện ra bản thân mình.
Thật khủng khiếp khi người ta khước từ ánh sáng, khước từ sự ban tặng tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng thật ngọt ngào khi được bước đi trong ánh sáng tình yêu của Người. Trong quá trình cứu độ, phần đóng góp của chúng ta chính là biết chấp nhận quà tặng của Thiên Chúa, trong tất cả bản tính nhân loại của mình, và cố gắng đáp trả lại bằng sự tận tụy. Chúng ta có khả năng yêu mến Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước.
80.Tiến vào ánh sáng
Thánh Phaolô nói “Bất cứ ai làm những điều đúng đắn (tốt đẹp), đều tiến vào ánh sáng”. Đến với ánh sáng là điều kiện để làm theo lẽ phải. Không phải người nào suy xét về chân lý mới đến được với ánh sáng, mà là những người làm theo lẽ phải. Hành trình ngắn nhất để đến được với ánh sáng là làm việc thiện. Nhưng trong thực hành, không phải lúc nào chúng ta cũng hành động như vậy.
Thông thường, điều mà chúng ta phải làm, đó là cố gắng được trạng thái an bình nội tâm, và rồi sau đó, mới tiến đến làm những hành động đem lại sư an bình. Chúng ta phải cố gắng đạt được trạng thái vui vẻ và biết ơn, và rồi sau đó mới đến làm những việc mang tính cách vui vẻ và biết ơn. Nhưng chúng ta thường làm ngược lại. Chúng ta thực hiện một hành vi đem lại sự an bình, để đạt được sự an bình nội tâm. Chúng ta làm những việc mang tính cách vui vẻ và biết ơn, để cảm nghiệm được niềm vui và sự biết ơn trong tâm hồn. Cũng theo cách đó, nếu chúng ta đang sống trong tối tăm, và làm những hành động tốt đẹp, thì rồi ánh sáng sẽ chiếu tỏa trên chúng ta. Câu chuyện có thật sau đây minh họa điều này thật rõ ràng.
Trong thành phố Látvi của Kovno, có một giáo sư sống tại đó. Mặc dù trong suốt cả cuộc đời, ông đều sống theo học thuyết bất khả tri, nhưng vị giáo sư này càng ngày càng bắt đầu cảm thấy bất an hơn, vì tình trạng bị bỏ bê, u buồn của nghĩa trang dành cho người Do thái trong thành phố. Bởi vì những người theo chủ nghĩa Phátxít đã hủy diệt người Do thái, và những người Xô-viết gây phiền hà cho họ, nên không một ai quan tâm chăm sóc các nấm mộ của họ. Vì thế, phát xuất từ tấm lòng tốt của mình, vị giáo sư này đã quyết định làm công việc đó.
Chúng ta không biết ông có ý thức rằng việc chăm sóc các ngôi mộ là một mitzvah, nghĩa là một nghĩa cử tốt đẹp hay không. Dù sao đi nữa, người đàn ông tốt bụng này cũng kiếm cho bằng được một cái xẻng, một cái liềm, và một cái kéo lớn, rồi bắt đầu công việc làm cho nghĩa trang xứng đáng với những người chôn cất tại đó. Lúc đầu, ông làm một mình, nhưng sau vài tuần, có những người Do thái khác tham gia vào công việc này với ông. Hầu hết những người này đều đã từng là người Do thái rất tuân thủ theo nguyên tắc, nhưng rồi họ trở thành những người sống theo học thuyết bất khả tri, giống như vị giáo sư đó. Cuối cùng, họ có đến 200 người, tất cả đều đang làm một công việc đúng đắn. Trong quá trình họ làm việc, một sự kiện đẹp đẽ đã xảy ra. Niềm tin Do thái của họ soi sáng trong tâm hồn họ. Về mặt thực hành, một lần nữa, tất cả những người này đều đã trở thành những người Do thái tuân thủ theo nguyên tắc đạo đức.
Bất cứ kẻ nào làm điều sai trái, thì đều căm ghét và tránh né ánh sáng. Nhưng những ai làm điều đúng đắn, thì yêu mến và đến với ánh sáng. Có bao nhiêu hành động của chúng ta được thực hiện trong ánh sáng? Có bao nhiêu hành động của chúng ta bộc lộ sự quan sát kỹ lưỡng đối với ánh sáng?
Chúng ta phải chấp nhận rằng có cảnh tối tăm trong cuộc sống và thế giới của chúng ta. Chúng ta phải nhận ra cảnh tối tăm đó, và học hỏi được cách sống trong tương quan với nó.Thật vô ích khi chúng ta chờ đợi cho cảnh tối tăm đó biến mất. Chúng ta vẫn mong muốn điều đó. Nhưng chúng ta phải chấp nhận rằng nó đang tồn tại ở đây, và sẽ luôn luôn ở đây.
Chúng ta không được gọi bóng tối là ánh sáng. Khi làm như vậy, chúng ta sẽ bị bóng tối đánh bẫy. Nhưng khi gọi nó là bóng tối, chúng ta có thể học hỏi được cách sống sao cho bóng tối không chế ngự được chúng ta. khi chấp nhận tất cả mọi sự, thì chúng ta sẽ không thể phân biệt được giữa ánh sáng và bóng tối.
Người nào nhận biết niềm vui và tình yêu của Thiên Chúa, thì không từ chối bóng tối, nhưng họ chọn lựa không sống trong bóng tối. Họ tin tưởng vào ánh sáng chiếu tỏa trong bóng tối, và nhận biết rằng chỉ một tia sáng nhỏ nhoi thôi, cũng đủ xua tan nhiều bóng tối. Và ánh sáng của Đức Kitô quá đỗi mạnh mẽ, đến nỗi không một bóng tối nào có thể áp đảo được. Nếu chúng ta làm việc thiện, thì ánh sáng sẽ chiếu tỏa trên chúng ta.
81.Nhìn lên Thập giá
Bất cứ ai đã đọc sách Xuất hành trong Cựu ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu chuyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Môsê. Chúa liền cho rắn lửa bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Môsê cứu giúp. Ông Môsê cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”.
Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đích-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta chửi bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái lại, tên trộm Đích-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đáng chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”. Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Baraba, vì Baraba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?
Kể từ khi thập hình của người Rôma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành thánh giá và bóng thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.
Thánh giá không chỉ được dựng lên trước nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.
Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu thế. Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.
Trong Mùa chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.
82.Đón nhận Thập Giá Chúa Kitô
Thánh giá không chỉ được dựng lên trước nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người Công Giáo mà còn phải được tôn vinh ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã bị treo lên để cho mọi người nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho nhân loại. Ngài đã thể hiện tình yêu tột đỉnh.
Nói về tình thương tha thứ của Thiên Chúa, người ta thường kể lại cho nhau nghe về câu chuyện ở một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt. Đó là Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Người ta kể rằng, một lần kia, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: "Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh". Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: "Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha!". Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lổ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: "Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con". Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, thể hiện sự tha thứ của Thiên Chúa đối với hối nhân.
Bước vào Chúa Nhật 4 Mùa Chay, hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá Chúa Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Ngài luôn tha thứ. "Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường tội lỗi, quay trở lại để được sống" (Ez 33, 11). Quả vậy Thiên Chúa sai con một của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian nhưng để thế gian nhờ con của Ngài mà được cứu độ. (Ga 3, 17). Cũng như Môisen treo con rắn đồng trong Samạc thế nào, thì con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Ngài sẽ không phải chết nhưng được sống đời đời (Ga 3, 14). Thập giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ và Đấng bị treo trên thập giá đã trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin Ngài.
Thánh Gioan đã nói: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban con Một, để ai tin con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời" (Ga 3, 16). Thiên Chúa một lần nữa đã biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu của Ngài được thể hiện cụ thể qua sự trao ban. Điều quý giá nhất của Người Cha chính là Người Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho nhân loại chính con một dấu yêu của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu chính là quà tặng lớn nhất mà Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại. Việc trao ban này trước tiên được biểu lộ qua việc Ngài sai Con Một yêu dấu đến trong trần gian, mang lấy thân phận con người và cuối cùng qua việc trao nộp Con Một cho loài người treo trên thập giá. Chúa Giêsu trên thập giá chính là lúc Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài làm Đấng ban sự sống cho loài người một cách trọn vẹn nhất, dứt khoát nhất. Bởi vậy lúc đó chính là lúc Thiên Chúa đặt con của Ngài làm Đấng ban sự sống đời đời. Vì con của Ngài đến không phải kết án thế gian nhưng để cứu thoát loài người khỏi chết và ban cho họ thông phần vào cuộc phục sinh vinh quang của Ngài.
Như thế, đứng trước thập giá Chúa Kitô chúng ta tin hay không? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ. Chính thái độ đó sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói: "ai đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối và tự mình đoạ đày mình trong cảnh tăm tối trong cõi chết". Thiên Chúa không cần luận phạt nữa.
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban con Một của Ngài. Đó là chân lý cơ bản của chúng ta. Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu là dấu chỉ mà Chúa muốn nói với chúng ta là Chúa yêu thương chúng ta. Yêu thương con người đến nỗi sẵn sàng để ngưiơì con Một yêu quý của Ngài chết thay cho chúng ta.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương Thiên Chúa dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Ngài đã chết cho nhân loại để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta hãy nhìn lên thập giá để thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa. Một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán và mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô không phải để chúng ta thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi nhưng trái lại để cảm nhận được hồng ân bao la của Chúa để cho tâm hồn được phấn khởi tin yêu hơn.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để chúng ta cảm nhận được ơn tha thứ của Ngài để chúng ta biết cảm thông và tha thứ cho tha nhân. Càng cảm nhận được tình yêu tha thứ của Thiên Chúa chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Hãy tha thứ để được Chúa thứ tha. Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương. Một lần nữa hãy nhìn lên thập giá Chúa Kitô. Hãy xem đó thì biết phép công thẳng của Chúa là dường nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là ngần nào. Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trân trọng tình thương mà Chúa dành cho chúng con. Xin cho chúng con luôn coi thập giá Chúa Kitô là hy vọng sự sống đời đời của chúng con. Đồng thời xin cho chúng con biết yêu thương và tha thứ cho anh chị em chúng con như Chúa đã yêu thương mà tha thứ. Amen.
83.Rắn đồng cứu độ
Trong cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay đều nói đến hai nhịp: bất trung và trừng phạt, triệt hạ và tái thiết, lưu đày và hồi hương; lên án và cứu độ, chết và sống. Các tình huống thăng trầm này thường xảy ra trong lịch sử dân Do thái. Chúng tiêu biểu cho nhịp sống tôn giáo của một dân tộc và cũng là của mỗi chúng ta, khi bất trung khi nhiệt thành. “Tư tế và dân chúng bất trung bất nghĩa … khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa” (x. Bài Đọc 1. 2Sb 36,14-16.19-23).
Một kinh nghiệm khác, trong hành trình sa mạc tiến về đất Hứa, có lúc người Do thái đã thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa nên than trách, thay vì tri ân thì ca thán Môsê đã đưa họ vào sa mạc; hình phạt được dựng nên tức khắc để trừng trị kẻ vô ơn: rắn độc tràn ra cắn chết những kẻ than van. Không có thuốc chữa, họ ngước nhìn Thiên Chúa và kêu cầu Người; Môsê được lệnh đúc tượng rắn bằng đồng rồi giương cao nơi hoang địa để những ai bị rắn độc cắn, nhìn lên rắn đồng, tức thì được cứu sống (x. Ds 21,4-9). Phương thuốc chữa trị này không phải là ma thuật bùa chú gì cả, nhưng là hành vi cứu độ do đức tin đem lại, quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện nơi lòng tin. Một phương thế cứu độ nhất thời của Thiên Chúa đối với dân của Người, tỏ cho dân biết Thiên Chúa quyền năng đáng kính sợ, Người cứ độ và thưởng phạt theo tội phúc mỗi người.
Hình ảnh rắn đồng được giương cao trong hoang địa được chính Đức Giêsu lấy làm biểu tượng và áp dụng cho chính mình: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn đồng trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (x. Bài Tin Mừng. Ga 3, 14-21). Con Người được giương cao trên thập giá, hình ảnh con rắn đồng được thay thế bằng thực tại xảy ra, Đức Giêsu được ví như Môsê Mới giương cao mình trên đồi Canvê vào Thứ Sáu Thánh để mang lại ơn cứu độ cho muôn dân, như một phương pháp dĩ độc trị độc. Con đường từ cõi chết bước sang sự sống vươn cao trong mầu nhiệm Vượt qua nơi bản thân Đức Giêsu thành Nadarét, đó là mầu nhiệm tử nạn và phục sinh mà Giáo Hội cử hành hằng ngày trên bàn thờ: “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho đến khi Chúa lại đến”. Mỗi Chúa nhật, Lời Chúa và Thánh Thể làm cho chúng ta sống một cách bí tích hai nhịp “chết đi và sống lại” này, làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô. “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô trên trời” (x. Bài Đọc 2. Ep 2,4-10).
Kinh thánh ghi lại những bất trung, phản trắc của dân Do thái, những tai ương đi kèm theo họ mỗi khi họ vấp ngã phản bội, như để sửa trị và gíao dục họ, nhưng mục đích chính là cốt để làm nổi bật lên lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân Người. Thật vậy lòng yêu thương của Thiên Chúa luôn dẫy tràn trên họ đến nỗi Tin Mừng thánh Gioan ca tụng tình yêu đó: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (c.16). Thật là tội hồng phúc (felix culpa), tội đáng ca tụng vì đã mang lại cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc, như bài Hoan Ca Phục Sinh (exultet) được cất lên trong đêm Chúa sống lại. Thật tuyệt vời! Thiên Chúa không ngừng sai những sứ giả của Người đến giữa dân Người để kêu gọi họ trở về với Thiên Chúa. Nếu như dân đã bất trung với Giao Ước nên đã bị lưu đày, Thiên Chúa đã nhờ bàn tay ngọai giáo vua Ky-rô xứ Ba Tư để mở cho họ con đường trở về. Trong mọi hoàn cảnh cho dù bế tắc đến đâu Thiên Chúa cũng có cách hành xử hợp lý, Người luôn tỏ ra là Ông chủ lịch sử. Thật kỳ diệu, lòng Chúa xót thương! Thánh Phaolô dâng lời ca tụng: “Thưa anh em , Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dẫu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng cho chúng ta được cùng sống lại với Đức Kitô” (c. 2. Bài Đọc 2). Tin tưởng và tín thác vào tình yêu Thiên Chúa, người Ki-tô hữu không có chỗ cho tuyệt vọng, họ không có bất cứ lý do nào để đánh mất niềm hy vọng được Thiên Chúa cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng sự chết và sống lại của Chúa để cứu độ con, con tri ân cảm tạ và cung kính thờ lạy Chúa. Xin cho con biết trở nên dấu chỉ tình thương của Chúa đối với anh em con. Amen.
84.Nicôđêmô
Nicôđêmô là nhân vật trung tâm trong bài Tin Mừng hôm nay. Mặc dù ông chỉ xuất hiện ba lần trong sách Tin Mừng (cả ba lần đều xuất hiện trong sách Tin Mừng theo thánh Gioan), nhưng tính cách của ông rất hay. Ông là một người Pharisêu, và là một thành viên của Sanhedrim – tòa án tối cao Do thái.
Lần đầu tiên Nicôđêmô xuất hiện là trong bài Tin Mừng mà chúng ta đọc hôm nay. Chúng ta được nghe kể lại rằng những lời giảng dạy và việc làm của Đức Giêsu đã gây ấn tượng nơi ông. Đối với ông, rõ ràng là trong những lời nói và hành động đó có bàn tay của Thiên Chúa. Do đó, ông đến với Đức Giêsu, nhưng đến một cách âm thầm, bởi vì ông không muốn bị người khác phát hiện ra. Nhưng chúng ta không nên quá khắt khe đối với ông trong cách tính toán này. Với sự kiện ông là một người Pharisêu, thật là một điều đáng ngạc nhiên, khi ông đến với Đức Giêsu. Vì thế, Đức Giêsu đã cho ông vinh dự được có một cuộc phỏng vấn dài với Người.
Khi Nicôđêmô xuất hiện lần thứ hai, ông đã dày dạn, khi dám đặt vấn đề với những kẻ chống đối Đức Giêsu. Lúc bấy giờ, những người Pharisêu đã có ý định giết Đức Giêsu, và sẵn sàng giết Người, mà thậm chí không cần đưa Người ra xét xử. Nhưng Nicôđêmô đã can thiệp, ông tuyên bố rằng ít nhất phải nghe Đức Giêsu nói một cách công bình, theo như lề luật đòi hỏi. Đây là lần ông công khai dính líu vào Đức Giêsu. Chính ông đã cung cấp một khối lượng lớn những thứ thuốc thơm đắt tiền để chôn cất người. Chúng ta có thể suy luận được điều gì về Nicôđêmô, qua ba lần xuất hiện ngắn ngủi này? Lần xuất hiện đầu tiên cho thấy ông là một người cởi mở, và là một người thực sự muốn tìm kiếm chân lý. Lần xuất hiện lần thứ hai chứng tỏ ông là một người công chính, khi cứ khăng khăng rằng không được kết án Đức Giêsu, mà không đưa Người ra xét xử. Và lần xuất hiện thứ ba cho thấy rằng ông là một người giàu có, nhưng cũng là người quảng đại và có lòng thương xót nữa. Với tất cả những phẩm chất này, chúng ta có thể khen ngợi và bắt chước những tính cách hữu ích của ông. Nhưng điều mà dường như Nicôđêmô không có khả năng thực hiện, đó là thẳng tiến và có một hành động chứng tỏ lòng tin nơi Đức Giêsu một cách trọn vẹn và công khai. Dường như ông không có khả năng can đảm để bước ra khỏi bóng tối, và dứt khoát quyết định đến với ánh sáng. Chúng ta có được hình ảnh một con người tốt, có thể trở thành một người vĩ đại. Một con người tầm thường là người không phải là đại thánh, mà cũng không phải là người tội lỗi. Khi suy nghĩ về Nicôđêmô, có thể chúng ta bước ra khỏi bóng tối, vì không e ngại hoặc xấu hổ công khai tuyên xưng lòng tin của chúng ta nơi Đức Giêsu, và nếu cần, chúng ta sẵn sàng trả bất cứ giá nào khi làm điều đó. Những ai tin tưởng sẽ không bị hư mất, nhưng sẽ được sự sống đời đời. Tuy nhiên, điều đó không đơn giản chỉ là vấn đề tin tưởng, mà còn là sống sao cho phù hợp với lòng tin đó.
85.Tình yêu của Thiên Chúa
Trong sinh hoạt thường ngày, chúng ta thường phân chia thành hai lãnh vực, đạo và đời. Thiêng liêng và trần tục. Phàm những gì thuộc về thế gian, thuộc về trần tục, nếu chưa phải là tội lỗi, thì tự bản chất vốn dĩ đã là thấp kém. Từ đó chúng ta dễ đi tới một quan niệm đồng hoá thế gian với tất cả những gì là xấu xa và tội lỗi. Cuối cùng thì thế gian bị coi là một trong ba kẻ thù chính của con người. Trong ba kẻ thù ấy, thì ma quỷ đứng hàng đầu, nhưng có lẽ không trực diện bằng chính kẻ nội thù là xác thịt của chúng ta và kẻ thù gần cận nữa là thế gian.
Với một quan niệm như thế, hẳn người ta sẽ ngạc nhiên nếu không phải là lúng túng trước lời khẳng định của Chúa Giêsu: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống đời đời. Phúc âm không nói: Thiên Chúa yêu thương dân Ngài, yêu thương Hội Thánh của Ngài hay yêu thương những người Ngài đã tuyển chọn, nhưng lại nói: Ngài yêu thương thế gian. Tại sao lại như thế?
Tôi xin thưa: Sở dĩ Thiên Chúa yêu thương thế gian là bởi vì chính Ngài đã tạo dựng nên nó chứ không phải là một ai khác. Thực ra nếu có cái thế gian nào tội lỗi thì phải hiểu đó là một giới nào đó, một người nào đó, một loại người nào đó sống trong thế giới loài người hay trong chính Giáo Hội mà thôi. Ngôn ngữ thông thường vốn chia xã hội thành những giới khác nhau, chẳng hạn giới thanh niên, giới nghệ sĩ, giới tu sĩ. Đồng thời người ta cũng nói đến những giới bê bối như giới xì ke, giới đầu trộm đuôi cướp. Nhưng ngay cả những giới tội lỗi này cũng chưa hẳn đã bị kết án hay bị loại trừ bởi vì Đức Kitô đã đến chỉ vì họ và cho họ: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống thế gian không phải để kết án, nhưng để nhờ Ngài mà thế gian được cứu độ.
Như vậy thì xét cho cùng chỉ có ma quỷ mới thực sự và vĩnh viễn bị lên án là kẻ thù, còn tất cả vẫn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa và có được niềm hy vọng cứu độ. Đức Kitô là ánh sáng và ánh sáng thì không bao giờ kỳ thị, phân biệt người lành kẻ dữ, chỗ cao ráo sạch sẽ, ánh sáng soi vào và làm cho vẻ cao đẹp thêm rực rỡ hơn. Nhưng ánh sáng cũng rọi vào chỗ sình lầy nhơ bẩn ấy để mà dọn dẹp, để mà tẩy uế. Chỉ có những ai từ chối ánh sáng, khép kín lòng mình, trốn tránh ánh sáng, che đậy sự thật mới không được cứu độ.
Noi gương Chúa Giêsu chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng cho trần gian, hay nói một cách khác, chúng ta cũng phải yêu mến thế gian bằng một tình thương cứu độ, nghĩa là yêu thương và sẵn sàng dâng hiến đời mình để làm cho thế gian được sáng hơn, được đẹp hơn, nhờ đó mà được tham dự vào vinh quang phục sinh của Đức Kitô.
09/03 Cầu nguyện trong sám hối
- Viết bởi Lc 18, 9-14
Cầu nguyện trong sám hối.
Thứ Bảy tuần 3 Mùa Chay.
"Người thu thuế ra về được khỏi tội".
Lời Chúa: Lc 18, 9-14
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác:
"Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi".
Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội".
Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tự hào và khinh người
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Tự hào về sự đạo đức của mình và khinh người khác,
Đó chẳng phải chuyện của các ông Pharisêu ngày xưa.
Đó là chuyện của con người mọi thời, của chính các môn đệ hôm nay.
Chúng ta nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn này cho mình trong Mùa Chay thánh.
Hai nhân vật đối lập nhau, được đặt bên nhau trong dụ ngôn.
Họ ở trong cùng một đền thờ, cùng đứng cầu nguyện trước nhan Chúa.
Họ là một ông Pharisêu thánh thiện và một người thu thuế tội lỗi.
Nghe lời cầu nguyện của họ, chúng ta biết được lòng họ.
Người Pharisêu không xin gì cho mình, ông chỉ tạ ơn Thiên Chúa.
Ông kể ra những điều xấu mà ông không làm như bao kẻ khác,
hay như tên thu thuế mà ông thoáng thấy đứng cuối đền thờ (c. 11).
Ông còn kể những việc đạo đức tự nguyện về ăn chay và dâng cúng
mà ông đã làm vượt quá những gì Luật đòi buộc.
Lời cầu nguyện của ông khiến nhiều người Do Thái tử tế phải thèm.
Còn người thu thuế thì đứng xa, cúi đầu, đấm ngực, cầu xin cách đơn sơ:
“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (c. 13).
Anh thấy mình bất xứng, bất lực, chỉ biết cậy dựa vào tình thương tha thứ.
Kết luận của Đức Giêsu hẳn đã làm nhiều người chưng hửng.
Người thu thuế được Thiên Chúa làm cho nên công chính,
còn người Pharisêu thì không (c. 14).
Thiên Chúa có bất công không? Chúng ta có cần sống tử tế nữa không?
Thật ra, ông Pharisêu không được gì vì ông đã không xin gì.
Ông không xin vì ông thấy mình quá ư giàu có về mặt đạo đức.
Ông ra trước Thiên Chúa với một kho công trạng của mình.
Có bao nhiêu chữ con đầy tự hào trong lời nguyện của ông.
Chúng ta tưởng ông mở ra khi nói “con tạ ơn Thiên Chúa”
nhưng thực tế ông đã khép lại, quay vào mình, ngắm nghía vẻ đẹp của mình.
Rốt cuộc Thiên Chúa là người thừa, cùng lắm chỉ là người ông đến đòi nợ.
Ngược lại, anh thu thuế tuy có nhiều tiền, nhưng thấy mình tay trắng, lỗi tội.
Chính điều đó khiến anh hết sức cần đến Thiên Chúa.
Ngài đã nghe tiếng kêu của anh từ xa, từ cuối đền thờ.
Không cần Thiên Chúa và coi thường tha nhân, vẫn là cám dỗ muôn thuở.
Nên thánh không phải là chuyện “tôi làm”
mà là chuyện để Thiên Chúa tự do làm nơi đời tôi.
Chỉ ai nhìn nhận sự yếu đuối của mình,
lời cầu nguyện của người đó mới đánh động được trái tim Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Suy Niệm 2: Được nên công chính
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nhìn bề ngoài thì ai cũng thấy người Pha-ri-sêu được đánh giá cao hơn. Ông thuộc tầng lớp đạo đức, được mọi người kính trọng. Làm nhiều việc lành hơn cả luật đòi hỏi.
Người thu thuế bị mọi người khinh miệt. Bị coi là người tội lỗi công khai. Bị coi là người phản quốc, vì tiếp tay với ngoại bang để hà hiếp dân chúng. Bị coi là gian dối, vì thu thuế đồng nghĩa với tham nhũng hối lộ.
Thái độ trong nhà thờ khi cầu nguyện tiếp nối cách sống ở ngoài đời. Người Pha-ri-sêu đứng thẳng người trên cung thánh và lớn tiếng cầu nguyện. Còn người thu thuế quì sụp xuống đất ở cuối nhà thờ, chỉ nài xin Chúa tha tội. Nhưng kết quả trái ngược hẳn với những gì ta thấy bên ngồi. Tại sao?
Người Pha-ri-sêu kiêu ngạo. Thực ra ông không cầu nguyện, ông chỉ khoe khoang và tự đánh giá mình cao hơn người thu thuế. Còn người thu thuế khiêm nhường. Ông cầu nguyện thầm thĩ, đấm ngực ăn năn, và xin tha thứ.
Người thu thuế được nên công chính, người Pha-ri-sêu thì không. Có 3 lý do:
Chúa kết luận: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Chẳng ai có quyền tự hào. Tất cả là của Chúa. Tất cả phải trả về cho Chúa. Đó là điều phải làm. Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng mà thôi.
“Ta muốn tình yêu chứ không cần hi lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu”. Thiên Chúa là tình yêu và giầu có vô cùng. Người chỉ cần tình yêu chứ không muốn gì khác. Người thu thuế đến với Chúa bằng tấm lòng yêu mến và nghèo công phúc. Nên được công chính.
Thư Rôma 3, 27: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy”. Người Biệt phái làm điều luật dạy, nên tự hào. Người thu thuế chẳng dám tự hào, chỉ tin vào lòng thương xót của Chúa. Nên ông được công chính.
Mùa Chay là lúc ta nhận biết mình tội lỗi, yếu hèn và không thể tự mình đạt được ơn cứu độ. Ta hãy noi gương người thu thuế nhận thức tội lỗi của mình. Nài xin ơn tha thứ. Cậy trông vào lòng thương xót của Chúa, để ta được công chính, được ơn cứu độ.
Suy Niệm 3: Chìa Khoá Của Tự Do
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Người Hồi giáo nói về sự cầu nguyện bằng câu chuyện sau:
Có một người thợ kim hoàn nghèo nhưng thanh liêm bị giam tù vì một tội ông không bao giờ phạm. Vài tháng sau khi người chồng bị giam giữ, người vợ đến gặp ban giám đốc và xin cho chồng một ân huệ. Bà nói chồng bà là một tín hữu trung thành với các buổi cầu nguyện, bà xin được gửi cho chồng một tấm thảm nhỏ để quì cầu nguyện năm lần một ngày theo qui định của Hồi giáo. Lời thỉnh cầu được chấp nhận dễ dàng… Ngày nọ, người thợ kim hoàn đến trình bày với các quản giáo: “Tôi là thợ kim hoàn, nếu các người cho tôi một ít kim loại, tôi có thể vừa qua được thời giờ nhàn rỗi, vừa làm được cho các người những nữ trang có thể dùng được”. Các quản giáo không thấy trở ngại nào về điều đó. Một ngày nọ, các canh tù bỗng phát giác ra cánh cửa nhà tù bị mở toang và người thợ kim hoàn đã tẩu thoát. Cùng lúc đó người ta cũng bắt giữ được thủ phạm đích thực mà họ đã qui lầm cho người thợ kim hoàn. Bấy giờ người thợ kim hoàn mới ra mặt và tiết lộ việc trốn thoát cuả ông. Sau khi ông bị bắt oan, vợ ông liên lạc với kiến trúc sư đã vẽ hoạ đồ nhà tù. Ông này cho phép bà in nguyên hoạ đồ chi tiết cuả nhà tù lên tấm thảm. Mỗi ngày năm lần dù phủ phục trên tấm thảm để cầu nguyện, người thợ đã thuộc lòng đường ra lối vào của nhà tù, thêm vào đó nhờ những mảnh kim loại các quản giáo cung cấp, người thợ đã có thể mài dũa những chìa khoá để mở các cánh cửa nhà tù, đó là bí quyết đã giúp ông trốn được khỏi nhà tù.
Cầu nguyện là chìa khoá của tự do. Một tâm hồn khao khát tự do đích thực là một tâm hồn biết cầu nguyện. Chúa Giêsu như muốn minh hoạ cho chân lý ấy qua dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện: một người Biệt phái lên giữa đền thờ đứng thẳng người để kể về những thành tích của mình, trong khi đó người thu thuế tội lỗi đứng trong góc đền thờ, không dám ngước mặt lên, nhưng cúi mình đấm ngực nói lên nỗi khốn cùng tội lỗi của mình. Chúa Giêsu tuyên bố người thu thuế ra về được tha tội, còn người Biệt phái vẫn tiếp tục ù lì trong sự tự phụ của mình. Phải chăng Chúa Giêsu không muốn nói với chúng ta rằng câu chuyện đích thực chính là nỗi khao khát được thoát khỏi những thứ nô lệ đang trói buộc tâm hồn con người.
Mùa Chay là trường dạy cầu nguyện. Giáo hội mời gọi chúng ta gia tăng cầu nguyện, điều đó có nghĩa là chẳng những dành nhiều thời giờ cho cầu nguyện, mà nhất là thanh luyện thái độ chúng ta trong khi cầu nguyện, lời cầu nguyện đích thực trong mùa chay phải là thái độ sám hối. Khởi đầu của cầu nguyện ấy là mọi nhận thức sâu xa về thân phận, tội lỗi của chúng ta và từ đó nói lên tất cả tín thác của chúng ta vào tình yêu tha thứ của Chúa. Lòng tín thác ấy sẽ xoá tan mọi tội lỗi và mang lại cho chúng ta tự do đích thực của con cái Chúa.
Như người con hoang đàng mong được trở về với cha, như người thu thuế nép mình nơi lòng tha thứ của Chúa, xin cho chúng ta luôn được sống trong tâm tình sám hối thực sự và cảm nhận được tình thương khoan dung vô bờ của Chúa.
Suy Niệm 4: Hoán cải và cậy trông
(Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày – R. Veritas)
Vào thời Chúa Giêsu, các kinh sư và những người pharisiêu thường bị Chúa quở trách nặng lời về tính tự cao tự đại của họ.
Trong dụ ngôn vừa đọc lại trên đây, Chúa Giêsu dùng hình ảnh một người pharisiêu khoe khoang công trạng mình trước mặt Thiên Chúa. Ông đáng trách không phải vì những việc tốt ông đã làm, như việc ăn chay mỗi tuần hai lần và đóng thuế thập phân cho đền thờ. Nhưng ông đáng trách vì đã xem những công việc đạo đức này như là một chiếc vé để mang lại sự công chính cho ông. Qua lời cầu nguyện của ông, chúng ta thấy rõ ông làm những việc này cốt để tự biến mình trở nên người công chính chứ không phải để thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ anh chị em. Ông giữ mình khỏi vướng mắc vào các thói hư tật xấu cốt để cho người khác thấy ông đạo đức tốt lành, chứ không như những người hư đốn đồi bại khác. Mỗi khi ra đường, chắc hẳn ông đã kiêu hãnh ngẩng đầu lên với khuôn mặt nghiêm trang, dáng đi chững chạc uy nghi, các hộp kinh thật lớn thắt trên người, các tua áo thật dài thả tung bay, ông nhìn thấy mình thật xứng đáng để cho thiên hạ kính nể. Bước vào đền thờ, ông đứng riêng ra, chọn cho mình một chỗ xứng đáng và ông bắt đầu khoe với Chúa những công trạng của mình. Nhìn thấy người thu thuế đang cúi đầu khẩn nguyện, ông thưa với Chúa cách tự phụ: "Ðấy, Chúa thấy người thu thuế tội lỗi kia không, con đâu như hắn ta, con tốt hơn hắn nhiều, hắn tham lam tiền bạc, gian lận thuế má, chèn ép lận lường. Con cám ơn Chúa vì con đâu giống như hắn". Nhưng ông pharisiêu đâu biết rằng Thiên Chúa chẳng cần đếm xỉa gì đến những lời khoe khoang tự cao tự đại của ông, Người cần tấm lòng chứ không cần hy lễ, Người cần con tim yêu thương chứ không cần trí óc tự phụ. Tâm hồn khiêm cung tự hối của người thu thuế mà ông coi chẳng ra gì kia lại làm đẹp lòng Chúa còn hơn là ông nghĩ đến.
Thử hỏi, chúng ta nhìn thấy mình trong hình ảnh người nào trong dụ ngôn trên đây: người pharisiêu hay là người thu thuế? Nếu đã lỡ là người pharisiêu, chúng ta đừng ngã lòng nhưng hãy thành thật hoán cải và cậy trông vào tình thương của Thiên Chúa, Người có thể biến sự dữ trong chúng ta nên sự lành. Nếu chúng ta thành tâm thiện chí, Thiên Chúa sẽ đập tan tính kiêu hãnh của chúng ta và thay vào đó một tâm tình mới, Người sẽ dạy chúng ta biết sống sao cho đẹp lòng Chúa. Còn nếu chúng ta đã là người thu thuế, thì chúng ta cũng hãy cương quyết làm lại cuộc đời, Thiên Chúa đã yêu thương tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, Người đã đón nhận tấm lòng tan nát khiêm cung của chúng ta, chúng ta hãy tin tưởng làm lại từ đầu.
Với ân sủng của Thiên Chúa, không có sự gì là không thể thực hiện được, chỉ cần chúng ta vững tin và phó thác vào Người rồi Người sẽ dẫn dắt chúng ta bước đi trên đường ngay nẻo chính. Mùa Chay là mùa thuận tiện để canh tân đời sống. Chúng ta hãy cộng tác với ơn Chúa để đổi mới tâm hồn mình nên công chính như Chúa vẫn mong chờ.
Lạy Chúa, xin gìn giữ con, đừng để con rơi vào thái độ tự phụ kiêu ngạo. Xin cho con biết sống khiêm nhường tự hạ trước tôn nhan Thiên Chúa và trước mặt anh chị em. Và xin giúp con được canh tân đời sống trở về với Chúa, đừng bao giờ thất vọng vì những tội lỗi của con đã phạm, nhưng luôn trông cậy vào tình thương tha thứ của Chúa.
Suy Niệm 5: Đừng bắn người biệt phái
Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia là người thu thuế…” (Lc. 18, 9-10)
Người biệt phái này không đến nỗi xấu, ông ăn chay hai ngày một tuần, ông dâng cúng một phần mười hoa lợi kiếm được … Thật là một viên ngọc quý mà chẳng có ai trong giáo xứ có thể làm được như vậy. Đừng khiển trách ông đứng cầu nguyện, đó là thói quen của người Do thái. Ông khoe khoang không ai bằng, đáng nực cười. Ông chẳng có chút gì là nhân đức, ông cảm ơn Chúa đã sống như thế.
Đến lượt người thu thuế, ông không dám bốc thơm mình. Đáng lẽ ra, ông vừa đứng xa xa sấp mình xuống đất run rẩy cầu nguyện, ông vừa lo trả tiền của lại cho những người nghèo đã bị ông bóc lột thì tốt hơn. Nhưng người thu thuế đã mang tiếng là hạng làm giàu bằng cách lạm thu.
Chúng ta cũng hèn nhát chê người biệt phái: “Tôi không giả hình như hạng cuồng tín đó. Tôi có nhiều lỗi, tôi khô khan cứng cỏi với người khác, tôi lười biếng … Nhưng tôi không mắc nợ ai”. Đó cũng là cách nói như hạng biệt phái, chẳng có gì tốt cả. Bài học lịch sử này không phải là so sánh hai hạng người, làm thế là đáng ghét, nhưng chính là để nhắc nhở chúng ta đến lời thánh Phao-lô dạy chúng ta: “Chính nhờ đức tin làm cho chúng ta nên công chính, không có đức tin, chúng ta không đáng gì trước mặt Thiên Chúa”.
Đặc biệt, trường hợp người thu thuế làm sáng lên trong chúng ta một niềm hy vọng tuyệt vời, là những kẻ tội lỗi đừng bao giờ thất vọng và phải luôn hy vọng vào lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Đức Giêsu luôn ban ơn cho những người thấy mình vô tài bất lực, thấy mình chẳng đáng công gì, chẳng có thể đền bù được tội lỗi mình, vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi đến không phải cứu chữa những người khỏe mạnh, nhưng cứu chữa những người bệnh tật”. Đừng bao giờ thấy mình hơn người khác, kẻo đi vào vết chân biệt phái.
J.G
Suy Niệm 6: Khiêm tốn thật thì mới được tha thứ
Có một câu chuyện kể rằng: một ông giáo dân nọ nổi tiếng là đạo đức với những câu chuyện về lòng quảng đại, giúp đỡ của ông cho người nghèo. Ông được nhiều người ca tụng là người tốt lành, thánh thiện, nhất là khiêm tốn khi quảng đại giúp đỡ người cùng khốn mà không cần đến danh vọng...
Chính bản thân ông cũng nghĩ mình như thế! Tuy nhiên, đến lúc về già, ông đến gặp cha xứ và tâm tình với ngài rằng: “Cả cuộc đời con đã hy sinh cho Chúa, Giáo Hội và mọi người, con không hề tính toán thiệt hơn, bởi xác tín rằng: mọi sự con có là bởi Chúa”. Nhưng ngay sau đó, ông xin cha xứ một đặc ân, đó là: khi ông chết, cho ông được chôn ở gầm bàn thờ!
Câu chuyện mang tính ngụ ngôn, nhưng thực tế, trong cuộc sống hôm nay, vẫn còn đó rất nhiều người có tư tưởng khiêm tốn như ông lão trong câu chuyện trên. Thiết nghĩ, một lần khiêm tốn kiểu đó phải chăng bằng bốn lần kiêu ngạo! Nó thật giống với người Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Dụ ngôn kể về việc hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một Pharisêu và một thu thuế. Hai người này là điển hình của hai thành phần cực đoan, thái quá trong dân Dothái thời bấy giờ.
Với nhóm Pharisêu thì bảo thủ, kiêu ngạo, tự coi mình là người thành toàn, nắm toàn bộ lề luật và trở thành kiểu mẫu cho mọi người. Điều này được chứng minh qua lời cầu nguyện của ông với Thiên Chúa. Ông kể lể: “Con không gian tham, không bất công, không ngoại tình, không như người thu thuế đằng sau”; “một tuần ăn chay hai lần và dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.
Còn người thứ hai, bác thu thuế. Người thu thuế thì ai cũng biết, biết về tội ác của ông là phản bội và cấu kết với đế quốc La mã để hà hiếp, bóc lột, vơ vét của cải nhân dân. Vì thế, họ bị dân chúng khinh bỉ vì tội công khai của họ. Chính vì lý do đó, nên chúng ta dễ hiểu là tại sao ông thu thuế này lại đứng đằng xa, không dám ngẩng đầu lên, vừa đấm ngực vừa cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Kết cục, hai người ra về và người thu thuế thì được Chúa nhận lời, còn người Pharisêu thì không những không được Chúa nhận lời mà lại còn phạm thêm tội vì coi khinh người khác ngay khi cầu nguyện.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: đừng bao giờ coi khinh người khác khi cầu nguyện. Không được phán xét anh chị em của ta, trong khi mình cũng là kẻ có tội. Cầu nguyện là hướng tâm hồn lên với Chúa chứ không phải quy về mình.
Hãy khiêm tốn thật lòng như người thu thuế, Chúa cần những tâm hồn trung thực và thật tâm như vậy, bởi vì tình thương của Thiên Chúa lớn lao hơn tội lỗi của con người, chỉ cần con người thống hối ăn năn thì dù tội có đỏ như son thì Chúa cũng làm cho trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều, Chúa cũng làm cho trắng như bông.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết “xé lòng chứ đừng xé áo” để đáng được Chúa tha thứ mọi tội lỗi. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Khiêm tốn, cậy trông lòng thương xót bao la của Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tất cả mọi nỗ lực cố gắng, tất cả mọi thành tích công trạng của con người đều không xứng đáng được Chúa ban ơn. Trước mặt Thiên Chúa, con người chỉ là số không. Khiêm tốn nhìn nhận đúng thân phận của mình ta sẽ được Chúa ban ơn lành.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, bắt đầu phút cầu nguyện, trước hết con dâng lên Chúa tâm tình khiêm tốn. Trước mặt Chúa Toàn Năng, con chẳng đáng là gì. Lời cầu nguyện khiêm tốn của con không phải chỉ để xin ơn, nhưng là để nhận biết những ơn lành Chúa ban, để dâng lời cảm tạ Chúa, lời cầu nguyện khiêm hạ không làm con trở nên yếu đuối, nhưng thúc đẩy con trở nên can đảm chấp nhận mọi sự thật về mình. Con nhận biết khuyết điểm hạn chế của con để sẵn sàng đón nhận ân sủng Chúa ban.
Chúa đã tuyên dương thái độ của người thu thuế, vì ông khiêm tốn thống hối ăn năn và chờ đợi ân sủng cứu độ từ lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa cho con đừng chỉ dừng lại nơi việc thống hối bên ngoài, nhưng biết đi sâu vào nội tâm và thể hiện trong cuộc sống: biết đến với Chúa trong tâm tình tin tưởng phó thác và biết đối xử với anh em trong tình huynh đệ cảm thông.
Lạy Chúa Giêsu, hình ảnh tuyệt đẹp trong cuộc sống là lúc Chúa liên kết với Chúa Cha trong lời cầu nguyện. Xin Chúa dẫn đưa con đến với Cha trong tâm tình yêu mến.
Lạy Chúa, hằng ngày con vẫn cầu nguyện trong giờ kinh lễ, và ngay lúc này con đang cầu nguyện với Chúa. Xin Chúa giúp con khiêm tốn, không tự mãn, nhưng biết mở lòng hướng nhìn về Chúa và cậy trông vào lòng thương xót bao la của Chúa. Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô dụng, con chỉ làm công việc con phải làm. Amen.
Ghi nhớ: “Người thu thuế ra về được khỏi tội”.
Suy Niệm 8: Hãy nghe Người
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Khi nghe thiên hạ kháo láo và gọi mình là thánh, thì thánh Phanxicô Salê nói rằng: “Thiên hạ gọi tôi là thánh, vì họ thấy tôi làm việc thánh; nhưng chắc cha linh hướng của tôi không nghĩ như họ đâu”.
Phanxicô nghe nói ông De Belley phê bình và bảo ngài thiếu trí phán đoán. Khi gặp ông, ngài liền ôm lấy, và tỏ vẻ vui sướng và biết ơn.
Suy Niệm
Người biệt phái: Tuân giữ luật Môisê một cách nghiêm ngặt và người thu thuế, bị dân chúng khinh miệt và xa lánh như tránh xa người phong hủi, người tội lỗi. Người biệt phái với bước đi hãnh diện tiến vào đền thờ trước những con mắt ngưỡng mộ. Người thu thuế, vào đền thờ với bước đi nhẹ nhàng như kẻ trộm trốn tránh cái nhìn của người đời…
Người biệt phái bên cung thánh cất lời vang vang “con không như kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc, như tên thu thuế kia”(Lc 18,11). Lời cầu nguyện đầy hãnh diện. Anh khoe sự đạo đức cho mọi người thấy mình thánh thiện và đấm ngực người thu thuế quân tội lỗi. Đạo đức là một điều tốt, nhưng tự hào về đạo đức của mình lại là một nguy cơ: Vì cho rằng sự thánh thiện của mình làm nên sự công chính. Coi sự cố gắng của mình trên cả ân sủng. Chính sự thánh thiện của mình che lấp sự thánh tuôn trào hồng ân của Thiên Chúa. Anh tự hào, cái tự hào tự mãn làm anh cảm thấy không cần nhu cầu ơn thánh và tình thương của Thiên Chúa, không cần cậy dựa vào Ngài. Tin tưởng tự mình có thể công chính hóa cho mình. Chính lúc tự hào, đóng kín với ân sủng, người biệt phái đã mất ơn Chúa và không còn công chính nữa. Hơn nữa sai lầm lớn nhất khi anh dám so sánh mình “thánh” với “tội” của người khác, Chúa Giêsu đã nói: “Sao ngươi dòm thấy cái rác trong mắt anh em ngươi, mà chẳng thấy cái đà trong mắt mình?” (Mt 7,3). Là con người bất toàn, ai cũng có lỗi, nhưng anh chỉ thấy cái thánh thiện để khỏa lấp bao che cho chính tội lỗi của mình. Qua hình ảnh của người biệt phái, hôm nay chúng ta nghiệm thấy tinh thần của Chúa Giêsu muốn giáo huấn chúng ta: Bản thân con người không thể làm cho mình nên thánh thiện, nếu chỉ nhờ thi hành những việc đạo đức, nhưng luôn cần ân sủng và nương nhờ vào tình thương vô biên của Thiên Chúa.
Người thu thuế thì không dám ngẩng đầu, không tiến về cung thánh nhưng ẩn khuất cuối đền thánh, anh cúi đầu thú tội: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Anh ý thức mình là một tội nhân, kẻ ngang hàng với bọn đĩ điếm (x. Mt 21,31-32). Anh đấm ngực xin Thiên Chúa thứ tha, tẩy rửa tâm hồn. Anh làm thức dậy tâm tình sách Khôn ngoan: “Lời cầu nguyện khiêm nhu xuyên qua những đám mây, nó không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt được mục đích”.
Thật thế, Thiên Chúa đã cúi xuống với người thu thuế và đáp lại lời nài xin của anh, vì anh chỉ biết dựa vào lòng thương xót đầy tình yêu của Ngài. Sự trở lại và canh tân của anh trong ân sủng. Hình ảnh đó làm chúng ta cảm nghiệm lời chia sẻ của thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi giáo đoàn Rôma: “Ở đâu tội lỗi ngập tràn, thì ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20).
Chúng ta mang tâm tình khiêm cung trước Thiên Chúa, đấm ngực sám hối và mở lòng xin Ngài tiếp tục làm điều kỳ diệu trong chính mình: Tâm hồn luôn đổi mới ngập tràn tình yêu.
Chúa thứ tha, Chúa ban ơn
Từ nay con sống tâm tình an vui.
Ý lực sống: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
Suy Niệm 9: Thái độ khi cầu nguyện
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca đưa ra hình ảnh hai người lên Đền thờ cầu nguyện. Người biệt phái đứng riêng một mình, tách khỏi người thu thuế mà ông khinh chê. Thật sự ông đã chu toàn các phận sự mà luật buộc và ông cho rằng đó là những điều bảo đảm cho ông được công chính. Ông không cần điều gì nơi Thiên Chúa. Nhưng thật ra, sự công chính cũng là một ân huệ Chúa ban. Chính vì tự kiêu, nên lời cầu nguyện của ông không được Thiên Chúa chấp nhận.
Còn ngươi thu thuế cũng đứng đàng xa, cũng tách khỏi cộng đoàn. Vì thấy mình bất xứng, tội lỗi, ông chẳng dám ngước mắt lên trời. Nhờ sự khiêm tốn mà ông đến được với Thiên Chúa và được ân sủng của Người.
2. Đối với xã hội Do thái, có hai hạng người đối nghịch nhau, đó là những luật sĩ, biệt phái và người thu thuế. Người biệt phái thì tuân giữ luật Maisen cách nghiệm ngặt, họ là mẫu gương cho mọi người và được mọi người kính trọng; còn người thu thuế bị dân chúng khinh miệt và xa lánh như tránh xa những người phung hủi, tội lỗi. Người biệt phái với bước đi hãnh diện tiến vào Đền thờ trước những con mắt ngưỡng mộ. Người thu thuế, vào Đền thờ với bước đi nhẹ nhàng như kẻ trộm lành trốn tránh cái nhìn của người đời.
3. Người biệt phái cầu nguyện: Ông bước vào cung thánh đứng thẳng người, cất tiếng ca vang: “Con không như kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc như tên thu thuế kia”. Lời cầu nguyện của ông đầy hãnh diện. Anh khoe sự đạo đức cho mọi người thấy mình thánh thiện và đấm ngực người thu thuế quân tội lỗi.
Đạo đức là một điều tốt, nhưng tự hào về đạo đức của mình lại là một nguy cơ. Vì cho rằng sự thánh thiện của mình làm nên sự công chính. Coi sự cố gắng của mình trên cả ân sủng. Chính sự thánh thiện của mình che lấp sự thánh tuôn trào hồng ân của Thiên Chúa. Ông tự hào, cái tự hào tự mãn làm cho ông cảm thấy không cần nhu cầu ân thánh và tình thương của Thiên Chúa, không cần cậy dựa vào Ngài. Tin tưởng tự mình có thể công chính hóa cho mình. Chính lúc tự hào, đóng kín với ân sủng, ông biệt phái đã mất ơn Chúa và không còn công chính nữa.
4. Người thu thuế cầu nguyện: anh này không dám ngẩng đầu lên, không tiến về cung thánh nhưng ẩn khuất cuối Đền thờ, anh cúi đầu thú tội: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Anh ý thức mình là một tội nhân, kẻ ngang hàng với bọn đĩ điếm. Anh đấm ngực xin Thiên Chúa thứ tha, tẩy rửa tâm hồn. Anh làm thức dậy tâm tình sách Khôn ngoan: “Lời cầu nguyện khiêm nhu xuyên qua những đám mây, nó không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt tới mục đích”. Thật thế, Thiên Chúa đã cúi xuống với người thu thuế và đáp lại lời nài xin của anh, vì anh chỉ biết dựa vào lòng thương xót đầy tình yêu của Ngài.
5. “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống...”
Sinh vào đời ai cũng có một cái tôi thật đơn sơ và dễ thương. Thế nhưng nó dễ bị biến tướng trở thành cái tôi đáng ghét như Blaise Pascal đã nói: “Le moi est haissable”: cái tôi đáng ghét.
Cha Lê Quang Uy đã “đánh vần” cái tôi biến tướng đó thành một bài hát dí dỏm và thật ý nghĩa:
Khi kiêu căng tôi sắc sảo,
tôi thành tôi sắc tối.
Huênh hoang tôi huyền hoặc.
tôi thành tôi huyền tồi.
Tự ái tôi nặng nề,
tôi thành tôi nặng tội.
Khiêm tốn tôi thật thà,
Tôi thành tơ-ôi-tôi.
Cũng vậy, ông biệt phái đã huênh hoang, tự cao tự đại, “khoe” thành tích cái tôi của ông với Chúa. Do đó, những việc ông làm – dù rằng rất tốt – thay vì trở nên công phúc thì lại biến thành bọt bèo cái tôi tồi tệ và tội lỗi của ông. Ngược lại, với lòng khiêm hạ, người thu thuế nhìn thấy sự yếu đuối của mình và cần đến lòng thương xót của Chúa. Chính vì vậy, ông hoán cải và được Chúa kể là người công chính (5 phút Lời Chúa)
6. Truyện: Quỉ không khiêm nhường sám hối.
Một hôm có một tên quỉ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng:
- Tôi thấy Chúa xử không công minh chút nào!
Chúa liền hỏi nó rằng:
- Tại sao ngươi dám bảo Ta đối xử không công bằng?
Bấy giờ tên quỉ mới đáp:
- Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều tội to lớn, và mỗi tội chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và còn ban hạnh phúc Thiên đàng đời đời cho chúng nữa. Còn chúng tôi chỉ phạm tội có một lần duy nhât, thế mà Chúa không khi nào tha thứ, mà còn phạt chúng tôi phải xuống hỏa ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đối xử thiên vị và bất công lắm hay sao?
Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói:
- Loài người có phạm tội với Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã phạm đi phạm lại nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều biết hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội. Còn các ngươi, có sám hối và xin Ta tha tội cho chưa?
Nghe thấy sám hối và xin tha tội, tên quỉ liền thét lên rằng:
- Ma quỉ chúng tôi không đời nào chấp nhận thái độ hèn hạ là sám hối và xin ai tha tội cho cả.
Nói thế rồi quỉ liền cong đuôi chạy mất.
Suy Niệm 10: Tình yêu và lòng sám hối chân thật
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc 1: Ngôn sứ Hôsê đã để lại cho hậu thế một câu nói lừng danh: “Ta muốn tình yêu chứ không muốn hy lễ”.
2. Bài Phúc Âm: Hai người lên đền thờ cầu nguyện là hai hình ảnh minh họa cho câu nói trên của Hôsê:
‑ Người biệt phái: anh có rất nhiều lễ vật dâng lên Chúa nhưng thiếu tình yêu. Thứ nhất là anh không yêu người khác (“tôi không như các người khác, hay là như tên thu thuế kia”); thứ hai là anh cũng không yêu Chúa: anh giữ luật và làm nhiều việc lành chỉ để chứng tỏ cho Chúa biết anh là người đàng hoàng và do đó Chúa phải yêu thương anh, ban thưởng anh.
- Người thu thuế: anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Tình yêu của anh không nồng nàn thắm thiết mà chỉ là một tình yêu muộn màng của đứa con tội lỗi quay về với một tấm lòng tan nát, một trái tim đang kêu gọi tình thương xót của Chúa (“Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội”)
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
Lời Chúa hôm nay rất dịu dàng, kêu gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, kêu mời chúng ta dâng lên Ngài những tội lỗi và yếu đuối của chúng ta:
1. Một đêm giáng sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để Suy Niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người thì bỗng Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:
- Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không?
- Lạy Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.
- Được lắm, nhưng còn gì khác nữa không?
- Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.
- Con còn điều gì khác nữa không?
- Con có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu. Thánh nhân khẩn khoản thưa.
Chúa Hài Đồng bảo:
- Này Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.
- Ô lạy Chúa, Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được?
- Được chứ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.
Nghe thế, thánh nhân bật khóc vì sung sướng. (Trích “Món quà giáng sinh”)
2. Người Hồi giáo có chuyện sau đây: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm nang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn”.
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chìu theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu. (Trích “Món quà Giáng sinh”)
Suy Niệm 11: tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Lời Chúa hôm nay rất dịu dàng, kêu gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, kêu mời chúng ta dâng lên Ngài những tội lỗi và yếu đuối của chúng ta:
Đây là lời của một bản thánh ca: con chẳng có gì dâng Chúa hôm nay.
Một đêm Giáng Sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để Suy Niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, thì bỗng Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:
- Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không?
- Lạy Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.
- Được lắm, nhưng còn gì khác nữa không?
- Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.
- Con còn điều gì khác nữa không?
- Nào con còn có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu! Thánh nhân khẩn khoản thưa.
Chúa Hài Đồng bảo:
- Này Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.
- Ôi lạy Chúa, thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được?
- Được chứ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.
Nghe thế, thánh nhân bật khóc vì sung sướng. (Trích “Món quà giáng sinh”)
2. Lời Chúa hôm nay cũng muốn nhắc nhớ chúng ta về sự cầu nguyện. Qua dụ ngôn này, chúng ta thấy được một số gợi ý cho chúng ta:
a. Người kiêu ngạo không thể cầu nguyện. Cửa lên trời rất thấp nên chỉ ai biết quì gối xuống mới vào được. Có một bài cầu nguyện của một Rabbit Do Thái mà người ta ghi lại được. Bài cầu nguyện đó như sau:
“Lạy Giavê là Thiên Chúa của tôi, tôi cảm tạ Ngài vì Ngài đã đặt tôi dự phần với những viện sĩ trong Hàn lâm viện chứ không phải ngồi chung với những kẻ đầu đường xó chợ. Vì tôi dậy sớm thì chúng cũng dậy sớm, tôi dậy sớm để học luật pháp Chúa, còn chúng dậy sớm vì những sự hư không. Tôi làm việc, chúng cũng làm việc. Tôi làm việc và lãnh phần thưởng, còn chúng làm việc và không được lãnh phần thưởng. Tôi chạy và chúng cũng chạy, tôi chạy tới sự sống của đời sau, còn chúng chạy tới hố diệt vong”.
Người ta nói, Rabbit Simon ben Gacai đã có lần nói: “Nếu chỉ có hai người công chính trên thế gian thì đó là tôi và con trai tôi; nếu chỉ có một người công chính thì người đó là tôi”. Người Pharisêu này thực ra không đến Đền thờ để cầu nguyện. Ông ta đến để nói cho Thiên Chúa biết ông ta tốt như thế nào.
b. Người nào khinh dể anh em mình cũng không có thể cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện, chúng ta không được nâng mình lên trên kẻ khác. Cần nhớ rằng, chúng tôi là một phần nhân loại đang phạm tội, đang đau khổ, đang âu sầu, tất cả đang quì gối trước ngai xót thương của Thiên Chúa.
c. Chỉ có sự cầu nguyện thật khi chúng ta biết đặt đời sống mình bên cạnh sự sống của Thiên Chúa. Chúng ta không hồ nghi điều mà người Pharisêu trong Tin Mừng hôm nay đã nói. Tất cả đều đúng. Ông ta đã ăn chay và đã kỹ lưỡng dâng 1/10, ông ta đã không giống người khác, lại càng không giống người thâu thuế bên cạnh ông. Nhưng vấn đề không phải là “Tôi có tốt như kẻ khác chăng?” nhưng là “Tôi có tốt như Chúa không?”
Trong cuốn “Tâm Hồn Nhật Ký”, Đức Gioan XXIII đã ghi lại tất cả cuộc sống thiêng liêng của ngài, trong đó phần quan trọng nhất là phần ghi lại những lần tĩnh tâm từ lúc còn ở chủng viện (1898) cho đến những năm trên ngôi Giáo Hoàng (1963). Đối với ngài, mỗi lần tĩnh tâm là mỗi lần kiểm điểm lại cuộc đời và có quyết định mới. Đặc biệt là lúc đã ngoài 80 tuổi, gần từ giã dương thế, mặc dù ở trên ngôi Giáo Hoàng bận rộn muôn vàn công việc đại sự, ngài vẫn thường xuyên tự kiểm điểm. Ngài luôn quyết tâm sống xứng đáng là một tâm hồn cao cả, muốn sửa đổi mình liên lỉ để sống đẹp lòng Chúa cho đến giây phút cuối cùng, sống thế nào đó cho được giống như Người.
Như vậy, tất cả là tùy ở chỗ chúng ta so sánh mình với đối tượng nào. Khi chúng ta đặt đời sống mình bên cạnh đời sống kỳ diệu của Chúa Giêsu, bên cạnh sự thánh thiện của Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ có thể nói “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi khốn nạn”.
Mẹ Têrêsa phụ hoạ thêm:
Cầu nguyện sẽ mở rộng hơn tấm lòng của bạn, mãi tới mức lòng bạn lớn đủ, để chứa cả món quà tặng là chính Thiên Chúa.
Cầu nguyện không đòi chúng ta bỏ dở công việc nhưng đòi chúng ta tiếp tục làm việc vì làm việc cũng là cầu nguyện.
Cầu nguyện dẫn tới đức tin, đức tin dẫn tới tình yêu, tình yêu đưa tới phục vụ vì lợi ích người nghèo.
Lạy Chúa, xin làm con nên dụng cụ phục vụ mọi người trên thế giới với tình yêu thương như Chúa. Amen.
08/03 Giới Răn Trọng Nhất
- Viết bởi Mc 12, 28b-34
Giới Răn Trọng Nhất.
Thứ Sáu tuần 3 Mùa Chay.
"Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy kính mến Người".
Lời Chúa: Mc 12, 28b-34
Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: "Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi". Còn đây là giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó".
Luật sĩ thưa Ngài: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh".
Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Điều răn đứng đầu
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Giữa một rừng 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm dựa theo Luật,
các rabbi thường tranh luận với nhau xem điều răn nào đứng đầu.
Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi của vị kinh sư bằng lời mở đầu của kinh Shema,
kinh này được người Do thái đọc sáng chiều mỗi ngày:
“Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.
Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả trái tim ngươi,
tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí tuệ ngươi, tất cả sức lực ngươi” (Đnl 6, 4).
Đó là điều răn đứng đầu, điều răn thứ nhất trong mọi điều răn (c. 29).
Tuy nhiên, Đức Giêsu còn muốn thêm một điều răn thứ hai nữa.
“Ngươi phải yêu mến người thân cận với ngươi như chính mình ngươi” (Lv 19,18).
Và Ngài kết luận: “Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn nhũng điều răn đó” (c.31).
Đức Giêsu tóm gọn mọi luật lệ trong hai điều răn, bằng hai câu trích trong sách thánh.
Cả hai đều bị chi phối bởi một động từ duy nhất: yêu mến.
Yêu mến Thiên Chúa, yêu mến tha nhân:
đó là câu trả lời của Đức Giê su cho ông kinh sư Do thái cách đây hai ngàn năm.
Đó cũng là câu trả lời của Ngài cho các Kitô hữu hôm nay.
Ngài mời ta hãy để lòng yêu mến thấm vào mọi lãnh vực của cuộc sống.
Điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa, yêu Ngài với tất cả con người mình (c.30).
yêu Ngài một cách tuyệt đối, và đặt Ngài lên trên mọi người, mọi sự khác,
vì chỉ mình Ngài là Tạo Hóa, tất cả mọi sự khác chỉ là thụ tạo.
Chúng ta yêu mến Thiên Chúa để đáp lại tình Ngài yêu mến chúng ta trước.
Ăn ngay ở lành không đủ.
Theo đạo không phải chỉ là chuyện ăn ngay ở lành.
Tình yêu đối với tha nhân không thay thế được tình yêu đối với Thiên Chúa.
Nhưng tình yêu đối với Thiên Chúa lại đòi hỏi tình yêu đối với tha nhân.
Thương người như thể thương thân.
Nhưng đối với tôi thương thân là gì? Tôi cần gì trong cuộc sống?
Cảm thông, khoan dung, trung tín, tôn trọng, khích lệ, nâng đỡ, hiền từ…
Tôi biết người khác cũng cần những điều ấy như tôi, và tôi muốn trao cho họ.
Có một cuộc đối thoại thực sự và thân tình giữa ông kinh sư với Đức Giêsu.
Ông hỏi, nhưng không có ý thử Ngài.
Câu trả lời của Đức Giêsu khiến ông hoàn toàn nhất trí.
Ông thấy lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân lớn hơn mọi lễ vật trong Đền thờ,
dù ông không coi thường việc dâng lễ vật cho Thiên Chúa.
Phụng vụ phải đi kèm với cuộc sống mến yêu.
Mùa Chay là thời gian trở lại với trái tim của mình
để xem Thiên Chúa có chỗ nào trong trái tim đó.
Chỉ khi tim tôi bị tình yêu Thiên Chúa chinh phục và chiếm trọn,
nó mới có thể mở ra đến vô cùng trước tha nhân.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.
Suy Niệm 2: Yêu thương là lẽ sống
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người Do thái có một rừng luật. Và họ bị lạc lối trong rừng. Không biết điều luật nào là chính. Hôm nay Chúa cho họ biết những điều cơ bản nhất trong luật. Biết nguyên tắc cơ bản, nội dung thiết yếu và cách thế để tuân giữ lề luật.
Nguyên tắc cơ bản là luật để sống chứ không phải để giữ. Khi sống người ta làm chủ lể luật. Khi giữ người ta làm nô lệ cho lề luật. Biết luật để sống ta sẽ đi tìm luật như đi tìm không khí để thở, nước để uống.
Vì luật để sống, nên yêu mến Chúa hết lòng hết sức lực hết trí khôn là điều tự nhiên và cần thiết. Vì Thiên Chúa sinh thành ra ta. Người ban sự sống cho ta. Tất cả những gì ta có, ta là, đều bởi Chúa. Vì thế mến Chúa là điều luật quan trọng nhất. Ta giữ điều đó là vì chính ta chứ không phải vì Chúa.
Nhưng yêu mến Chúa chỉ được chứng tỏ bằng yêu mến tha nhân. Khi hiểu rằng Thiên Chúa và tha nhân thực sự cần thiết cho đời sống, cho hạnh phúc của ta, ta sẽ giữ hai điều răn này một cách dễ dàng. Cũng như ta tự nhiên tha thiết giữ gìn sức khỏe, giữ gìn tính mạng của mình vậy.
Nếu hiểu luật chính là để sống ta sẽ càng yêu mến Thiên Chúa. Càng yêu mến Thiên Chúa sự sống càng tràn đầy sung mãn nơi ta. Chính vì muốn ta đạt đến sự sống sung mãn nên Chúa Giêsu mời gọi ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức hết tâm hồn và hết trí khôn.
Hiểu biết Thiên Chúa là lẽ sống, là nguồn mạch hạnh phúc, ta sẽ chẳng còn vương vấn thế gian. Biết Thiên Chúa là nguồn sức mạnh, ta sẽ chẳng còn cậy dựa vo thế lực trần gian, như Ít-ra-en đã từng cậy dựa vào thế lực của Át-sua
Không vương vấn thế gian, nhưng ta sẽ yêu mến thế gian, yêu mến tha nhân vì Chúa. Đó không còn là tình yêu thế gian, nhưng ta yêu thế gian, yêu tha nhân bằng tình yêu của Chúa. Như thánh Phao-lô nói: Từ nay tôi không còn biết người nào, điều gì theo xác thịt, nhưng là trong Đức Giê-su Ki-tô Phục sinh.
Suy Niệm 3: Giới Răn Trọng Nhất
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Sau thế chiến thứ nhất 1914-1918 và thế chiến thứ hai 1939-1945, nhân loại đã rất lo sợ chiến tranh, và mong ước có một thế giới hoà bình, yêu thương. Người ta đã lập ra những hội khác nhau, như Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, để kiểm soát và ngăn ngừa thế chiến thứ ba, vì nếu thế chiến thứ ba xảy ra, thì với những vũ khí tối tân, qui mô chắc chắn nhân loại sẽ bị huỷ diệt. Người ta kêu gọi hoà bình khắp nơi trên thế giới. Tôn giáo cũng đóng góp một vai trò quan trọng trong việc xây dựng hoà bình.
Trong Tin mừng hôm nay, một luật sĩ đã hỏi Chúa Giêsu trong các giới răn, điều nào trọng hơn cả. Chúa Giêsu đã trả lời: “Giới răn trọng nhất là ngươi hãy yêu mến Chúa hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn”. Thiên Chúa là Đấng duy nhất làm chúa tể vũ trụ, cho nên không được tôn thờ một Chúa nào khác. Ngài là Chúa hay ghen, nghĩa là không chấp nhận chia sẻ tình cảm cho bất cứ một ai khác. “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì họ sẽ yêu chủ này mà ghét chủ kia” và ngược lại. Ngài đòi hỏi một sự trung thành trong tình yêu đối với Ngài.
Giới răn thứ hai, đó là “ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”. Chúng ta tin Chúa ngự trong tâm hồn và chúng ta tuân giữ giới răn thứ nhất là yêu mến Ngài trên hết mọi sự, thì cũng phải giữ giới răn thứ hai vì có Chúa ở trong mọi người. Kinh thánh đã xác định với ta: nếu ai nói mình mến Chúa mà không yêu anh em, thì đó là kẻ nói dối.
Tất cả chúng ta đều thuộc mười giới răn Thiên Chúa được gồm tóm trong hai điều này là mến Chúa và yêu người. Mười giới răn Thiên Chúa ban cho con người qua Môsê trên núi Sinai tóm trong hai ý đó, và hôm nay được Chúa Giêsu lặp lại qua câu đáp trả cho người luật sĩ.
Chúng ta hãy cố gắng mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn, mỗi ngày trở thành anh em với nhau, con cùng một Cha trên trời hơn. Ở đây tác giả tập sách Đường Hy vọng nhắn nhủ như sau:
“Bác ái là sinh ngữ số một mà thánh Phaolô cho là cao trọng hơn tiếng nói của loài người và của thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất sẽ tồn tại trên thiên đàng. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta gặp những phiền phức, những thách thức đòi buộc lòng bác ái của chúng ta phải mở rộng ra. Bác ái không có biên giới, nếu có biên giới thì không còn là bác ái nữa. Chúng ta cần một con tim rộng mở như Chúa để có thể yêu thương như Ngài và với Ngài”.
Suy Niệm 4: Một câu hỏi, hai câu đáp
“Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó”. (Mc. 12, 28b-31)
“Một luật sĩ hỏi Đức Giêsu: Giới răn nào trọng nhất? Người đáp: Anh phải yêu mến Thiên Chúa, là Chúa anh và yêu mến người lân cận anh, không còn giới răn nào lớn hơn hai điều đó”.
Chúng ta thấy đây là toàn thể mầu nhiệm nhập thể: Con Thiên Chúa làm người để làm vinh quang Thiên Chúa bằng cứu độ nhân loại. Chính khi giải thoát con người khỏi vòng nô lệ mà chúng ta làm sáng danh Chúa. Anh em của chúng ta là mọi người, đó là con đường độc nhất nối kết chúng ta với Chúa Cha. Lý do này đủ giúp ta yêu người với hết trái tim ta. Câu đáp này của Đức Giêsu là một lời giải phóng cho người luật sĩ và cả cho chúng ta nữa. Nơi dân Do thái, tôn giáo được phát triển ngày càng theo chiều chủ nghĩa thuyết duy luật lệ, nghĩa là cứ giữ luật lệ nhiều là được cứu rỗi. Luật Tôra có 613 điều. Người ta không thể làm sao tóm tắt lại cả được, cũng không biết đâu là bến bờ, không biết đi về đâu nữa.
Nếu Đức Giêsu mạnh mẽ chống đối biệt phái, chỉ vì thái độ tôn thờ pháp luật đã trói buộc con người. Tình yêu của Thiên Chúa đã bị hóa thành vong thân làm hủy hoại con người.
Ngôi lời Thiên Chúa đã hóa thành xác thân. Tình yêu của con người không đòi buộc phải thoát xác. Mỗi khi Giáo hội tập họp mọi người để cử hành Thánh lễ trước sự hiện diện của Thiên Chúa và mọi người là để nói lên rằng chỉ có những con người đoàn kết trong tình yêu mới thực sự làm sáng danh Thiên Chúa.
Có người nói: “Phúc cho tôi có Thiên Chúa như lòng tôi mong, cho tôi biết chịu đựng thân phận làm người”. Đúng lý hơn cho ai nói rằng: “Hạnh phúc biết bao khi Thiên Chúa cho tôi có nhiều người anh em, nhờ đó, tôi có thể yêu mến Thiên Chúa biết chừng nào”.
J.G
Suy Niệm 5: Yêu mến bằng cả tâm hồn
“Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức hết trí khôn”; và: “Phải yêu người thân cận như chính mình”. Đây là một mệnh lệnh của Trời.
Tin Mừng hôm nay trình thuật câu chuyện đối thoại giữa Đức Giêsu và một Kinh Sư. Khởi đi bằng một câu hỏi của ông này về việc: điều nào là quan trọng trong toàn bộ luật. Thấy vậy, Đức Giêsu đã tóm cho ông toàn bộ nội dung và mục đích của luật trong câu: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức hết trí khôn”; và: “Phải yêu người thân cận như chính mình”.
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng là làm sao? Thưa: là thờ lạy, quy phục, là giữ và thực thi Lời Chúa, sẵn sàng từ bỏ mọi sự để tin và theo Chúa, dù có phải khổ đau, hoạn nạn, thử thách và cuối cùng sẵn sàng chết cho Thiên Chúa là Đấng chúng ta tôn thờ, yêu mến.
Còn yêu người như chính mình thì như thế nào? Thưa: là yêu hết mọi người, không phân biệt bạn hay thù, thánh thiện hay tội lỗi, giàu hay nghèo, quý tộc hay thường dân, người già hay trẻ nhỏ, phụ nữ hay đàn ông, màu da hay chủng tộc...
Yêu như thế là chúng ta đi vào tình yêu của chính Thiên Chúa, bởi vì bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, mà tình yêu của Ngài là hướng tha, là thực tế, không trừu tượng.
Muốn yêu được như thế, chúng ta phải chấp nhận cho đi, thiệt thòi, chịu liên lụy và đôi khi đành mất chính mình.
Chúa không bao giờ chấp nhận chúng ta cho đi theo kiểu: “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”; hay “bỏ con tép, bắt con tôm”; hoặc “ông bỏ nắm xôi, bà thò nậm rượu...”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi theo Chúa trên con đường tình yêu ấy bằng cả lòng mến chân thành được hiện tại hóa nơi hành động của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống và giữ Giới Luật của Chúa bằng cả con tim, khối óc và linh hồn, để chúng con được sự sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Hai mối tương quan: yêu mến Chúa và yêu thương nhau
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tình yêu là điều quan trọng nhất. Ơn gọi của con người là sống trọn vẹn hai mối tương quan: yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nhiều lúc con tưởng mình chẳng có tội, tưởng mình đạo đức thánh thiện. Con vẫn siêng năng đi lễ, đọc kinh ca hát, làm việc bác ái, tham gia việc tông đồ giáo dân tích cực. Và có thể con đã được nêu làm gương mẫu cho kẻ khác.
Nhưng hôm nay. Chúa cho con thấy tất cả những điều ấy không phải là quan trọng nhất. Điều Chúa mong chờ nơi con là tình yêu mến chân thành đối với Chúa và với nhau. Có tình yêu là có tất cả. Thiếu tình yêu là thiếu tất cả. Con nhớ lại lời Chúa cảnh giác con đừng giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Vâng, con đã giật mình vì quả thực vẻ bề ngoài của con tốt đẹp, nhưng lòng con lại chất chứa ghen ghét, ganh tỵ, lỗi phạm công bằng bác ái. Con đã dửng dưng trước nỗi đau khổ của tha nhân để được an thân. Ngay cả việc thờ phượng và việc tông đồ, nhiều lúc con thực hiện chỉ vì thói quen, hay vì một động lực riêng tư ích kỷ được che đậy cách khéo léo.
Lạy Chúa, xin ban tình yêu cho con. Xin Chúa Thánh Thần tràn ngập hồn con để lòng con trở thành ngọn lửa bùng cháy mến yêu. Thế giới này giá lạnh vì thiếu tình yêu nhau, cằn cỗi sắp chết vì thiếu lòng mến Chúa. Xin Chúa giúp con trong mùa chay này trở về với tình yêu và ngụp lặn trong tình yêu.
Lạy Chúa, xin giúp con sống tình yêu cách chân thành: biết yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể đối với tha nhân, để cuộc sống của con luôn đậm tình Chúa và thắm tình người. Amen.
Ghi nhớ: “Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy kính mến Người”.
Suy Niệm 7: Mến Chúa – yêu người
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Thánh Martinô có lòng mến Chúa và luôn đi đôi với lòng yêu người. Martinô coi lòng mến Chúa như động lực thúc đẩy ngài thực hiện việc yêu người. Martinô yêu tất cả mọi người dù già hay trẻ, nam hay nữ, da trắng hay da màu, quý tộc hay bình dân, bản xứ hay kiều cư, tự do hay nô lệ… Nhưng cách đặc biệt ngài dành tình yêu nhiều hơn cho những người xấu số phải sống trong những hoàn cảnh hẩm hiu về cả vật chất lẫn tinh thần, nhất là đối với những người nghèo khó. Martinô hằng đem lòng bác ái rất đặc biệt mà đối xử với anh em; lòng bác ái đó phát xuất từ một đức tin toàn vẹn và một tâm hồn khiêm nhu.
Trong bài giảng của lễ phong thánh cho chân phúc Martinô Porres, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã nhận định: “Qua gương sáng đời sống của mình, thầy Martinô cho thấy: Chúng ta có thể được cứu độ nhờ và nên thánh bằng con đường Đức Giêsu Kitô đã vạch ra, nghĩa là nếu trước hết chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn chúng ta, rồi sau đó nếu chúng ta yêu người thân cận như chính mình”.
Suy Niệm
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn, rồi yêu người thân cận như chính mình. Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho một kinh sư đến hỏi Đức Giêsu: “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?”. Người Do Thái có 613 khoản luật. Giữa một rừng luật như vậy, Đức Giêsu đã trả lời bằng cách nối kết từ sách Đệ nhị luật 6,5 với sách Lê vi 19,18, khi khẳng định bổn phận đầu tiên và quan trọng nhất, đó là yêu mến Thiên Chúa hết sức lực có được. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa…” (Mc 12,30): Đức Giêsu đã trích Đnl 6,4-5, là một trong ba bản văn được những người Do Thái mộ đạo đọc mỗi ngày hai lần (x. Đnl 6, 4-9; 11,13-21; Ds 15, 37-41). Yêu mến Chúa hết lòng, linh hồn, trí khôn, sức lực (Mc 12,30): Đnl 6,5 nói đến lòng/tim, linh hồn sức lực (LXX: kardia, psychê, dynamis). Maccô nêu ra bốn từ lòng/tim (kardia) là khả năng ý chí, linh hồn (psychê) là khả năng trí thức, trí khôn (dianoia = sức mạnh của trí tuệ; thay vì dynamis) và sức lực (ischys = tất cả sức mạnh của tâm hồn). Như thế, nhấn mạnh rằng toàn thể con người phải yêu mến Thiên Chúa với mọi tài nguyên có thể có được. Yêu mến Thiên Chúa duy nhất với tất cả sức mạnh và khả năng ban cho con người là tổng hợp tối hậu về ý muốn của Thiên Chúa.
Dù chỉ trả lời cho điều răn thứ nhất, nhưng Đức Giêsu nói đến một điều răn thứ hai: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” rất gần với câu tục ngữ Việt Nam: “Thương người như thể thương thân”. Tình yêu chúng ta có cho chính mình được đề ra như tiêu chuẩn để đánh giá tình yêu phải có đối với người thân cận. Yêu thương chính mình là chấp nhận bản thân, theo ý muốn của Thiên Chúa. Tình yêu đối với người thân cận cũng phải có cùng một bản chất với tình yêu đối với chính bản thân mình.
Điều răn thứ hai bắt nguồn từ điều răn thứ nhất: Yêu người thân cận như chính mình. Người thân cận là mọi người chẳng trừ ai. Chỉ trong Chúa tôi mới có thể yêu thương họ đến vô cùng. Hai điều răn được liên kết với nhau bởi động từ “yêu” (agapêsais). Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người thân cận như một giải thích cô đọng trên hai bia đá mười điều răn mà Thiên Chúa đã truyền cho Môisê trên núi Sinai. Chính vì thế trong kinh Mười điều răn, phán kết ghi nhận: Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự sau lại yêu người như mình ta vậy.
Thật thế, tình yêu Chúa là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như thánh Gioan tông đồ khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu”(1 Ga 4,8). Chỉ có tình yêu Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha nhân bền chặt lâu dài, thánh Gioan nhấn mạnh: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em” (1Ga 4,20).
Yêu thương anh em là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như thánh Gioan nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em” (1Ga 3,16). “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4,11).
Ý lực sống: “Lệnh truyền chúng ta đã lãnh nhận nơi Chúa Kitô là: Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em mình” (1Ga 4,20-21).
Suy Niệm 8: Giới răn trọng nhất
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay một luật sĩ đến hỏi thử Đức Giêsu xem giới răn nào trọng nhất, Ngài khẳng định một giáo lý mới mẻ: “Mến Chúa – yêu người” là hai giới răn quan trọng nhất. Hai điều này liên kết chặt chẽ với nhau vì cùng xuất phát từ một tình yêu. Mến Chúa một cách tuyệt đối: hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Tình thương đối với tha nhân cũng phải tới mức độ cao nhất: như yêu thương chính mình. Vì tự nhiên ai cũng quí trọng và yêu mến bản thân mình hơn hết.
2. Tại sao ông luật sĩ lại đến hỏi thử Đức Giêsu về điều này? Thưa, vì bộ luật của người Do thái lúc đó có 613 khoản, gồm có 248 việc phải làm, và 365 việc không được làm. Người ta khó lòng chọn được khoản luật nào cao trọng nhất. Có người thì cho là luật nghỉ ngày sabat, người cho là luật cắt bì, người cho là luật dâng của lễ, rửa tay trước khi ăn... thật khó mà chọn luật nào quan trọng nhất. Những luật sĩ và biệt phải tưởng rằng Đức Giêsu sẽ lúng túng không trả lời được.
Nhưng Đức Giêsu điềm nhiên trả lời: “Điều luật trọng nhất là: “Ngươi hãy yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”. Rồi Chúa nói tiếp: “Điều luật thứ hai cũng trọng không kém là “Ngươi hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi”. Đó là hai luật rất quan trọng. Nhưng hai luật ấy đã bị biết bao nhiêu điều cấm đoán hay bó buộc khác lấn át làm cho nhiều người quên lãng hay không để ý tới sự quan trọng của chúng.
3. Tình yêu mà Phụng vụ đề cập đến hôm nay là một tình yêu hoàn hảo, tinh luyện, cao thượng, phổ quát và phong phú nhất. Tình yêu trong phụng vụ chính là “Bác ái Công giáo” (Caritas). Bác ái là yêu thương một cách rộng rãi như thánh Augustinô đã nói: “Giới hạn tình yêu là không có giới hạn nào”. Đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Hai tình yêu này khác nhau chăng? Thưa không. Chẳng những hai tình yêu này không tách rời nhau mà còn quyện lấy nhau: chỉ có một. Chính tình yêu này giúp chúng ta yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân.
Theo Đức cha Arthur Tonne thì yêu mến Chúa là “ao ước làm vui lòng Chúa” và yêu tha nhân là “làm điều thiện hảo cho họ”. Tình yêu đối với Chúa cũng như đối vói tha nhân luôn phải kèm theo những đặc tính là hy sinh, phục vụ và dâng hiến. Bất cứ làm việc gì cũng phải được thực hiện trong tình yêu thì mới có giá trị: “Ama et fac quod vis” (Thánh Augustinô): yêu mến đi rồi làm gì thì làm.
4. Điều răn thứ hai bắt nguồn từ điều răn thứ nhất. Yêu người thân cận như chính mình: “Yêu người như thể thương thân”. Người thân cận là hết mọi người chẳng trừ ai. Chỉ trong Chúa ta mới có thể yêu thương họ đến tột cùng. Hai điều răn được liên kết với nhau bởi động từ “yêu” (agapêsais). Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người thân cận như một giải thích cô đọng trên hai bia đá mười điều răn mà Thiên Chúa đã truyền cho ông Maisen trên núi Sinai. Chính vì thế trong kinh Mười điều răn chúng ta đọc trong các ngày Chúa nhật, phần kết ghi nhận: Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen.
5. Thật thế, tình yêu Chúa là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như thánh Gioan tông đồ khẳng định: “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,7). Chỉ có tình yêu Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha nhân bền chặt lâu dài, thánh Gioan còn nhấn mạnh: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em” (1Ga 4,20).
Yêu thương anh em là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như thánh Gioan nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em” (1Ga 3,16). “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”(1Ga 4,11).
6. Truyện: Chị nữ tu phục vụ.
Mẹ Têrêsa Calcutta kể: “Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình mẩy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mắt vui tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi và nói: “Thưa mẹ, khi con đến đây với đầy lòng căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không khi nào có được nghị lực để yêu tha nhân được”.
Suy Niệm 9: Trở về với Chúa là trở về với tình yêu
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc 1: Ngôn sứ Hôsê kêu gọi hãy trở về với Chúa và đi theo đường lối của Ngài.
2. Bài trích Phúc Âm: Chúa Giêsu chỉ cho một luật sĩ thấy điều luật quan trọng nhất là yêu mến Chúa; điều thứ hai yêu mến tha nhân.
3. Như thế, trở về với Chúa là trở về với tình yêu. Sống tình yêu đối với Chúa và tha nhân là một cuộc sống tốt đẹp và làm hài lòng Chúa nhất, “hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ hy sinh”.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Tội là xa rời tình yêu.
- Tuân giữ mọi giới luật nhưng không yêu thương thì cũng là đi lạc.
- Dâng nhiều lễ vật mà không có tình yêu thì cũng là đi lạc.
- Huống chi trong lòng đang chất chứa giận ghét thù hằn.
2. Trở về với Chúa là trở về với tình yêu. Sự trở về đúng mức phải là:
- Yêu Chúa tới mức độ “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực”.
- Yêu tha nhân tới mức độ “như chính mình”.
3. Lạy Chúa, không nhiều thì ít con đã đi lạc xa tình yêu. Hôm nay con muốn quay về với tình yêu, yêu Chúa và yêu người.
4. “Bác ái là sinh ngữ số một mà thánh Phaolô cho là cao trọng hơn tiếng nói của loài người và của thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất sẽ tồn tại trên thiên đàng”. (Đường hy vọng)
Suy Niệm 10: Đối với Chúa, ĐẠO là yêu Chúa yêu người
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trong Do Thái giáo, chúng ta thấy có hai khuynh hướng liên quan đến luật pháp luôn đi song hành với nhau. Một khuynh hướng muốn mở rộng tới vô hạn định, thành hàng trăm, hàng ngàn điều luật và qui tắc khác nhau. Khuynh hướng thứ hai thì cố gắng hết sức tóm tắt luật pháp lại càng gọn càng tốt, nếu cần thì chỉ trong một câu cũng đủ.
Có lần một người mới gia nhập Do Thái giáo yêu cầu thầy Hillel hãy dạy cho ông ta toàn thể luật pháp trong thời gian ông ta có thể đứng trên một chân. Câu trả lời của Hillel là:
- Điều gì ngươi ghét thì đừng làm cho người khác. Đó là trọn vẹn luật pháp, phần còn lại là nhằm giải thích.
Thầy Akiba đã nói:
- Hãy thương yêu người lân cận như chính bản thân mình, đó là nguyên tắc tổng quát và quan trọng nhất.
Thầy Simon, biệt danh là người công chính, có nói:
- Thế giới này đứng trên ba điều: luật pháp, sự thờ phụng và hành động yêu thương.
Còn Chúa Giêsu khi trả lời câu hỏi người ta đặt ra cho Ngài, Ngài đã nhập chung hai điều quan trọng lại với nhau.
Đây là điều mới lạ. Trước đó, chưa hề có một Rabbit nào làm vậy. Như vậy, đạo đối với Chúa là yêu Chúa yêu người và Chúa cũng ngụ ý dạy rằng, phương pháp duy nhất để người ta chứng minh được mình yêu mến Chúa là yêu thương người khác.
2. Vâng! Nói thì đơn sơ như vậy, nhưng đem vào cuộc sống thì là cả một vấn đề.
Thánh Gioan Tông đồ viết: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,7-8)
Không có tình yêu, cuộc sống sẽ không còn ý nghĩa nhưng sống yêu thương đó mới là điều tốt đẹp làm sao!
Đây là một câu chuyện ngụ ngôn của Nga:
Một hôm, có một người đàn bà khó tính qua đời. Bà ta nổi tiếng là keo kiệt, cằn cỗi, cả đời không làm điều gì tốt, cũng chẳng yêu thương ai. Những người hàng xóm biết rất rõ về tính hận thù và hay ghen ghét của bà. Khi thấy bà hấp hối lũ quỷ cảm thấy vô cùng sung sướng. Chẳng cần phải đợi kết quả của sự phán xét ra sao, chúng đã hung hăng kéo luôn bà xuống hồ lửa đang cháy hừng hực bởi vì chúng tin rằng, một cuộc sống chẳng có một chút tình thương nào như thế thì chẳng cần phải phán xét cũng biết được kết quả như thế nào rồi.
Ma quỉ thì như thế, nhưng vị thiên thần bản mệnh của bà thì không chịu như vậy. Thiên thần nhất định không chịu thua. Ngài lăng xăng chạy ngược chạy xuôi để tìm kiếm từ trong dĩ vãng của bà xem có thể có một chứng cứ nào có thể cứu bà khỏi hình phạt khổ hình được không. Tìm tới tìm lui, loay hoay sổ này sổ nọ mà vẫn không thấy. Không thất vọng, thiên thần còn đi vào cả dĩ vãng của cha mẹ bà để xem có phải vì hoàn cảnh nào đó mà bà trở nên một con người như vậy chăng!
Nhưng rồi cuộc tìm kiếm chỉ để lại thất vọng. Rất may, đúng phút đó, thì thiên thần nhớ lại được một cử chỉ bác ái rất nhỏ của bà: Có một lần bà đã cho người nghèo kia một cọng hành. Thế là thiên thần vội vàng đến trình diện trước tòa Chúa. Thiên thần đưa ra chứng cớ, xin Chúa cứu xét trường hợp của bà. Chúa nhân lành ưng ngay, và ra lệnh cho thiên thần hãy kiểm tra lại cái cọng hành kia. Vâng! Quả là may mắn cho bà. Cộng hành vẫn còn được lưu giữ trong kho công nghiệp.
Sau khi được phép, thiên thần dùng cọng hành biến thành dây, để kéo người đàn bà đó ra khỏi hồ lửa. Vớ được cọng hành, bà nắm thật chặt và được từ từ kéo lên.
Thiên thần kéo cọng hành một cách hết sức thận trọng. Mọi sự diễn tiến rất tốt đẹp. Người đàn bà kia hớn hở mừng rỡ, tin rằng, giờ cứu thoát đã gần đến.
Thế nhưng, trước khi được hoàn toàn giải thoát, đang lâng lâng lướt nhẹ, thì bà chợt cảm thấy như bị níu kéo lại bởi nhiều bàn tay. Bà cảm thấy mình bị đụng chạm từ nhiều chỗ: nào là gấu áo, nào là chân, nào là tay và cả lưng áo nữa. Bà vội nhìn xuống lại thì thấy nhiều linh hồn khác đang “canh-me” bám vào bà với hy vọng mình cũng được cứu. Dĩ nhiên là bà không bằng lòng chút nào. Rồi với quyết tâm không cho những con người đó bám vào mình, bà lấy hết sức mình hất tất cả những bàn tay ấy ra. Rủi thay, chính hành động đó đã làm cộng hành bị đứt ra làm hai. Thế là bà và những người khác, tất cả lại rơi thẳng xuống đáy lò lửa.
Vâng, sống yêu thương thật khó. Mọi người chúng ta đều có kinh nghiệm về vấn đề này. Nhưng khó không có nghĩa là không thể. Nếu biết cậy dựa vào ơn của Chúa. Vì đối với Thiên Chúa thì không có gì là không thể làm được. (Lc 1,37).
07/03 Nhận ra sự hiện diện và tác động của Chúa
- Viết bởi Lc 11, 14-23
Nhận ra sự hiện diện và tác động của Chúa.
Thứ Năm đầu tháng, tuần 3 mùa Chay. – Thánh nữ Perpêtua và thánh nữ Fêlicita, tử đạo.
“Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta”.
* Khi bị bắt, chị Perpêtua còn là một dự tòng. Chị có một cháu bé, lúc chị hai mươi hai tuổi. Còn chị Fêlicita thì mang thai và sinh con gái trong tù.
Nhưng cả hai không hề tỏ ra yếu đuối khi tiến vào hí trường Carthagô ngày 7 tháng 3 năm 303. Tay nắm tay, hai chị tiến về phía con bò cái hung dữ sắp sửa sát tế hai chị.
Lời Chúa: Lc 11, 14-23
Khi ấy, Chúa Giêsu trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được và dân chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ nói rằng: “Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ”. Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán:
“Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
“Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Người mạnh hơn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Đức Giêsu vừa mới trục xuất được một quỷ câm.
Khi quỷ xuất ra thì người câm nói ngay được (c. 14).
Cùng với sự ngạc nhiên thích thú của đám đông,
còn có sự vu khống xuyên tạc của một số người khác.
Họ cho rằng chẳng qua Đức Giêsu chỉ là kẻ dựa dẫm Bêendêbun.
Bêendêbun là tên của một vị thần ở vùng Canaan.
Người Do thái vẫn coi các thần dân ngoại là ma quỷ (1Cr 10, 19-20).
Ở đây, Bêendêbun chính là quỷ vương, là Xatan (c. 18).
Như thế Đức Giêsu bị tố cáo là người cùng phe với quỷ,
dùng tay tướng quỷ để trừ các quỷ nhỏ.
Đức Giêsu cho thấy sự sai lầm của lập luận này.
Ngài nhắc đến nước của Xatan, một nước hiện vẫn còn đứng vững (c. 18).
Nước ấy chưa sụp đổ vì không có sự chia rẽ giữa các quỷ với nhau,
nên không thể bảo là Ngài dùng quỷ vương để trừ quỷ nhỏ.
Vả lại, có những người Do thái khác cũng trừ quỷ như Ngài.
Có ai dám bảo là họ thông đồng với quỷ vương không? (c. 19).
Đức Giêsu vén mở cho thấy ý nghĩa của việc Ngài trừ quỷ.
“Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ,
thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (c. 20).
Nước Thiên Chúa đến qua việc Đức Giêsu giải phóng.
Ngài giải phóng con người khỏi bệnh tật thân xác.
Ngài trả lại cho con người khả năng nghe, nói, nhìn.
Ngài kéo người bất toại đứng lên, đi được, đưa tay ra.
Ngài trả người phong về với cộng đoàn, đưa người chết ra khỏi mộ.
Trên hết, Ngài giải phóng con người khỏi sự chật hẹp của lòng mình.
Ngài mở con người ra trước nỗi đau và cô đơn của anh em.
Ngài nâng con người lên tới tầm cao của trái tim Thiên Chúa.
Như thế là con người được thật sự tự do.
Chỗ nào có tự do thật sự, chỗ đó có Nước Thiên Chúa.
Chỗ nào có Nước Thiên Chúa, chỗ đó nước của Xatan phải lui đi.
Cuộc chiến giữa Nước Thiên Chúa và nước Xatan vẫn tiếp diễn,
nhưng Nước Thiên Chúa đã đến rồi, ngón tay Thiên Chúa ở đây.
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trừ quỷ và mời chúng ta cộng tác.
Làm sao để con người hôm nay không còn bị ám bởi bất cứ thụ tạo nào,
không sụp lạy trước bao ngẫu tượng mới của thời đại?
Quỷ vẫn là kẻ mạnh, được vũ trang đầy đủ, đứng canh nhà của nó (c. 21).
Nhưng Thiên Chúa và Chúa Giêsu lại là người mạnh hơn (c. 22).
Người mạnh hơn tấn công, tước vũ khí và phân chia chiến lợi phẩm.
Trong cuộc chiến này, chúng ta không có quyền mập mờ, hàng hai.
Mùa Chay mời chúng ta đứng hẳn về phía Giêsu,
vì ai không ở với Giêsu là chống lại Ngài,
ai không thu góp với Giêsu là phân tán (c. 23).
Hãy quyết định dứt khoát để cùng với Giêsu chiến đấu cho Nước Cha.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao. Amen.
Suy Niệm 2: Nghe và nói
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người là một sinh vật xã hội. Không thể sống một mình. Xã hội tính phát triển nhờ thông giao. Thông giao biểu hiện bằng nghe và nói. Nghe để tiếp nhận. Nói để thông tri. Nghe để hiều về người khác. Nói để người khác hiểu về mình. Nghe để cảm thông chia sẻ. Nói cũng để cảm thông chia sẻ. Như thế thông giao làm phong phú con người. Vì thế câm điếc là khuyết tật. Mất khả năng thông giao khiến con người không phát triển. Thông thường câm là do điếc. Vì không nghe nên không nói được.
Người Do thái cho khuyết tật đó là do ma quỉ. Ma quỉ trói buộc con người trong ích kỷ cá nhân. Để tàn lụi. Chúa Giêsu chữa lành người câm điếc khi trục xuất quỉ câm. Nhưng Chúa lại không thể chữa người mắc bệnh câm điếc thiêng liêng. Người câm điếc thiêng liêng là người tự ý không nghe không nói.
Giê-rê-mi-a cho biết những người Do thái thời ông là những người câm điếc. Vì họ không chịu nghe lời Thiên Chúa. Chỉ cần mở lòng ra nghe lời Thiên Chúa họ sẽ trở thành Dân Thiên Chúa, sẽ được hạnh phúc. Nhưng gọi không trả lời. Nói không nghe. Vì thế họ không phát triển. Chúa nói họ đi thụt lùi. Và còn tệ hơn nữa khi cố tình giả điếc thì họ không có sự thật: “sự chân thật đã tiêu tan và biến khỏi miệng nó”.
Đó chính là tình trạng của những người chống đối Chúa hôm nay. Khép kín tâm hồn nên không nghe được Thiên Chúa. Dù phép lạ rành rành không thể chối cãi. Vì không nghe nên miệng họ nói lời gian dối. Bóp méo sự thật. Xuyên tạc cho rằng Chúa dùng quyền tướng quỷ mà trừ quỷ. Đó chính là tác động của ma quỉ. Thứ quỉ ám này còn nặng hơn quỉ gây nên câm điếc thể lý.
Thế giới đang hỗn loạn vì người ta không lắng nghe. Không nghe Chúa. Không nghe nhau. Không nghe lịch sử. Không nghe vũ trụ. Không nghe thiên nhiên. Và vì thế người ta nói theo ý riêng. Nói sai sự thật.
Mùa Chay Chúa mời gọi ta trở về sự thánh thiện nguyên thủy. Biết mở lòng, mở tai lòng lắng nghe. Biết mở miệng nói lời chân lý, lời xây dựng, lời yêu thương. Biết tái lập khả năng thông giao. Ta sẽ trở nên phong phú. Thế giới sẽ sống trong hòa bình.
Suy Niệm 3: Nhận ra sự hiện diện và tác động của Chúa
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Một nhà truyền giáo nọ kể lại sự kiện sau: một hôm tôi đang giảng dạy cho một nhóm người tại Nagasaki. Sau bài giảng một người đứng lên hỏi tôi ba điều: “Tôi có tin Đức Mẹ đồng trinh không? Tôi có vâng lời và hiệp thông với Đức thánh cha không? Tôi có giữ mình trinh khiết và sống độc thân không?”. - Tôi xác nhận cả ba điều trên và hỏi lại: “Tại sao ông lại đặt ra ba câu hỏi vừa rồi?”
Người đó trả lời: “Vì ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ chúng con rằng sau này có ai đến giảng đạo, chúng con phải lấy ba tiêu chuẩn ấy để đánh giá xem đó có phải là vị thừa sai chân chính không. Nay chúng con vui mừng vì cha đích thực là người được Hội thánh sai đến, chúng con sẽ nghe lời cha và giữ vững đức tin tổ tiên chúng con truyền lại”.
Những giáo dân Nhật Bản đã dùng ba tiêu chuẩn để thẩm định đâu là nhà truyền giáo đích thực. Ngược dòng thời gian trở về thời Chúa Giêsu, chúng ta cũng được chứng kiến một biến cố tương tự. Các tiên tri đã báo trước cho Dân Chúa là khi Đấng Cứu Thế đến, Ngài sẽ thực hiện những dấu lạ: cho kẻ câm được nói, kẻ què được đi, người bị quỉ ám được chữa lành. Chúa Giêsu đã thực hiện lời tiên tri đó trước mặt nhiều thành phần trong dân để chứng minh Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng muôn dân mong đợi. Tuy nhiên có những người không nhìn nhận sự hiện diện và tác động của Chúa, họ cố tình giải thích sự lệch lạc để khỏi phải tin và làm cho người khác đừng tin, như được trình thuật trong Tin mừng hôm nay.
Quả thật, đứng trước Chúa Giêsu, con người phải có thái độ hoặc tin nhận hoặc chối từ. Đó cũng là thái độ mà người Kitô hữu chúng ta phải có đối với Chúa Giêsu. Ngài đến với con người qua Giáo Hội, qua những sứ giả được tuyển chọn và sai đi làm chứng cho Ngài nhưng liệu chúng ta có thành tâm và can đảm cộng tác với ơn soi sáng của Thánh Thần để tin nhận Ngài không? Tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ kinh nghiệm như sau:
“Chúa hiện diện không phải là lý thuyết. Ngài là Cha ở bên con với tất cả quyền năng và tình thương. Ngài là tất cả của con, là cùng đích trong ý hướng, là lý do các quyết định, là động lực các tình cảm, là gương mẫu các hành động của con. Hãy sống bên Chúa, con sẽ nên thánh. Thiên đàng không gì khác hơn là Thiên Chúa hiện diện”.
Suy Niệm 4: Đuổi quỷ
Rồi Đức Giê-su trừ một tên quỉ, và nó là quỉ câm. Khi quỉ xuất rồi, thì người câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên. Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: “Ông ấy dựa thế quỉ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỉ.” (Lc. 11, 14-15)
Theo một số ý kiến chú giải thời nay thì những người quỷ ám trong Tin mừng là bệnh nhân của cảm cúm. Sự đuổi quỷ của Đức Giê-su được giải thích khéo léo hóa thành vô nghĩa. Những người bị quỷ ám, hầu hết được họ giải thích là những người mắc bệnh động kinh, bệnh thần kinh hay bị ám ảnh bởi hình ảnh quỷ ma trong họ, người bị quỷ câm trong Tin mừng hôm nay đơn giản chỉ là bệnh câm thôi, không bị quỷ ám nào hết.
Theo ý kiến số đông thời đại đó, một nửa bị quỷ thần ám hại cần phải cải cách và Tin mừng đã đến thanh tẩy những thần thoại chồng chất trong đời sống dân Ít-ra-en.
Cách giải thích đó có thật hữu ích không? Tin mừng có thanh tẩy phong tục tin tưởng vào quỷ thần không?
Thứ nhất, giải thích của một số người quá ngang ngược với cách trừ quỷ rõ ràng của Chúa, biến Chúa thành nạn nhân của hạng trí thức dổm. Thực ra, thời đại của Đức Giê-su đã có nhiều người khá thông minh để nhận định về thế giới quỷ thần.
Thứ đến, họ muốn kéo nhân loại ra khỏi những sức mạnh siêu nhiên để khỏi nỗi lo sợ bị phán xét về tội con người.
Theo ý số đông trên mặt đất này, có đầy những sự xấu xa, nếu chỉ gán tội cho loài người thôi thì thật bất công, phải tin rằng còn có ma quỷ ném đá dấu tay đã gây ra tội lỗi nữa. Sự hỗn độn của nhân loại được chia thành nhiều loại: loại người ăn nhậu nhồi nhét quá lẽ một bên, loại đói ăn túng cực một bên. Đó không phải do Thiên Chúa Cha dựng nên, cũng không phải hoàn toàn do con người tổ chức thiết kế những thứ ô nhục đó. Cần phải nhìn nhận rằng có hàng triệu người thiện chí hoạt động, tổ chức lấy lại quân bình phân chia của cải vũ trụ, tuy có vô ích.
Thật bất công tin rằng tính dã man do lòng dạ con người bình thường sinh ra, khi thấy nhiều người sống trên hành tinh này ném hàng tấn bom lân tinh xuống dân lành mà lương tâm lầm lạc của họ vẫn bình an. Nhận có tội lỗi, chính là tin có một Thiên Chúa có thể giải thoát chúng ta khỏi thế lực quỷ dữ mà con người không thể tự giải thoát được. Đức tin đòi chúng ta liên tục cầu nguyện xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tay quỷ dữ. Không có Thiên Chúa, chúng ta liều mình bị quỷ dữ ám hại đời đời.
J.G
Suy Niệm 5: Đừng “chụp mũ” nhau như thế
Có một tu sĩ đảm trách công việc mục vụ bệnh nhân Sida. Tuy nhiên, do sơ xuất, ngài đã bị nhiễm căn bệnh thế kỷ này qua người bệnh trong khi chăm sóc họ. Nhưng thật trớ trêu, thay vì được mọi người nâng nỡ, khích lệ, thì họ lại bàn tán, gán ghép những chuyện không mấy tốt đẹp cho vị tu sĩ nhiệt tình vì sứ vụ này!
Đây cũng chính là căn bệnh truyền kiếp ở mọi thời, đó là, người ta không thích ai, hay ai đó uy tín hơn mình, thì họ sẵn sàng dùng đến biện pháp nói hành, hay chụp mũ để hạ gục đối phương!
Hôm nay, Đức Giêsu cũng rơi vào tình trạng trên khi bị dân chúng chụp cho Ngài thứ mũ hết sức đê hèn như:
Ngài trừ được quỷ là do liên minh với quỷ khi nhân danh tướng quỷ để trừ quỷ!
Tại sao họ lại vu khống và nói hành Đức Giêsu như vậy?
Thưa chỉ vì một chuyện rất đơn giản, ấy là: Đức Giêsu ngày càng uy tín trước mặt dân chúng vì những việc tốt đẹp và lời dạy khôn ngoan của Ngài, khiến dân chúng tôn vinh Ngài là một tiên tri vĩ đại. Vì thế, những Luật Sĩ và Phairisêu bối rối, hoang mang và sinh lòng ghen tuông, tức tối đối với Ngài.
Họ đã dùng đến trò thâm hiểm nhất để bêu rếu và mục đích nhằm hạ gục Đức Giêsu khi nói là Ngài “nhờ tướng quỷ để mà trừ quỷ”.
Khi gán cho Đức Giêsu như thế, họ muốn nói với dân rằng: Đức Giêsu là người thuộc về thế giới của ma quỷ. Khi Ngài đã thuộc về ma quỷ, thì lẽ đương nhiên không nên tin vào con người này cũng như những lời dạy dỗ của Đức Giêsu.
Đây là một phương pháp triệt hạ đối phương bằng cách đánh vào uy tín.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đặt ngược lại vấn nạn với hai câu hỏi để lật tẩy trò đê hèn của chúng, Ngài hỏi: “Nếu Xatan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?”; và: “Nếu tôi dựa thế Bêendêbun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ?”!
Khi hỏi như thế, Đức Giêsu một mặt cho thấy lý chứng của những Luật Sĩ và Pharisêu tự mâu thuẫn, khập khiễng, không ăn khớp với nhau, bởi vì cứ theo lập luận của họ, thì phải chăng một nước mạnh lại dùng chính kẻ mạnh để tiêu diệt kẻ yếu cùng đồng minh với mình hay sao? Hay nếu Quỷ Vương cho mượn quyền lực của hắn để tiêu diệt tay chân của hắn thì nước đó đã đến thời mạt vận?
Trong đời sống của chúng ta hôm nay nhiều khi rơi vào tình trạng của những Luật Sĩ và Pharisêu khi sử dụng những chiêu thức bỉ ổi là nói hành, nói xấu để bôi nhọ thanh danh tiếng tốt của anh chị em mình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đứng về phía sự thật để trả lại cho anh chị em mình những giá trị đích thực, khi họ vì lòng yêu mến Chúa mà thi hành những bổn phận của họ để loan báo tình thương của Thiên Chúa cho mọi người. Đồng thời chúng ta biết cộng tác với nhau để làm cho triều đại của Thiên Chúa mau đến.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con trong Mùa Chay thánh này, luôn biết yêu thương, nâng đỡ nhau để cùng nhau loan truyền và làm chứng cho Chúa bằng đời sống bác ái, yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Hãy nhìn nhau bằng đôi mắt của Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Để nhận ra triều đại của Thiên Chúa, phải thành tâm và có ý ngay lành. Hãy nhìn nhau bằng đôi mắt của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đã trở thành nạn nhân của lòng đố kỵ. Trước phép lạ trừ quỷ câm, Chúa được dân chúng ngưỡng mộ. Nhưng khi thấy Chúa thành công, một số người tỏ ra bực tức ghen tị. Sự ghen tị làm lòng người ra hẹp hòi, trí óc ra mù quáng và họ giải thích cách ngu xuẩn: “Ông ấy dựa vào quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ”.
Ngày hôm nay, nhân loại chúng con đang thoái hóa về tinh thần vì không biết nhìn nhau bằng tinh thần của Chúa. Tình thân ái nơi loài người đang đổ vỡ vì chúng con nhìn nhau bằng cặp mắt của Xa-tan, con mắt ích kỷ tị hiềm.
Xin Chúa dạy con biết cảm thông với anh chị em con: biết vui với người vui và nhất là biết buồn với người buồn. Xin đừng để con vui khi thấy anh chị em khổ, đừng để con mừng khi thấy anh chị em khốn khó. Đừng để con khó chịu khi thấy anh chị em thành công. Ngược lại, xin Chúa dạy con biết coi nỗi khổ của anh chị em là nỗi khổ của chính mình để con mau mắn giúp đỡ gỡ khó cho họ.
Lạy Chúa, xin dạy con biết nhìn nhau bằng ánh mắt của Chúa: luôn tôn trọng người khác, không khinh thị bất cứ ai, kể cả những người tội lỗi. Cái nhìn của Chúa đã biến đổi ông Giakêu thành người thực thi công bình bác ái. Cái nhìn của Chúa biến đổi Thánh Matthêu thành tông đồ cho Chúa. Cái nhìn của Chúa cũng biến đổi Thánh Phêrô từ kẻ chối Chúa thành người nâng đỡ đức tin cho anh em. Xin dạy con lối nhìn của Chúa để con biết nâng dậy những anh em vì hoàn cảnh đã đi xa đường lối Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta”.
Suy Niệm 7: Đức Giêsu trừ quỷ câm
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Việc Đức Giêsu trừ quỷ câm là nguyên cớ sinh ra cuộc tranh luận giữa phe chống đối gồm các luật sĩ, biệt phái với Đức Giêsu. Qua phép lạ trừ quỉ, Đức Giêsu chứng tỏ Ngài là Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân khỏi ách thống trị của Satan. Từ sự kiện này, đáng lẽ người Do thái nhận ra ánh sáng của Thiên Chúa, nhận ra uy quyền nơi Đức Giêsu, nhưng họ lại cắt nghĩa phép lạ theo một ý lệch lạc. Họ nói Đức Giêsu dùng quỉ vương mà trừ quỉ con, chỉ vì ghen tương và cố chấp. Họ không nhận ra vương quyền của Đức Giêsu. Chính do thái độ cố chấp ấy, họ sẽ phải chịu trách nhiệm và chịu xét xử.
2. Đức Giêsu đã rao giảng và đã thực hiện những dấu lạ khắp nẻo đường Palestin: Ngài đã chữa người bại liệt để chứng minh Ngài có quyền tha tội. Hôm nay Đức Giêsu lại chữa người bị câm do quỉ ám... Tất cả chứng tỏ quyền năng thánh linh của Ngài. Nhưng một số người đã nghe Chúa giảng, đã thấy phép lạ tỏ tường không tin nhận Chúa lại còn cho rằng Ngài dùng quyền năng của tướng quỉ mà trừ quỉ con. Nhưng Đức Giêsu đã khẳng định: Ngài lấy quyền từ Thiên Chúa. Ngài mạc khải rõ sứ mạng của Ngài khi Ngài dùng quyền năng Thiên Chúa mà trừ quỉ, bảo vệ bênh vực con người, cứu chúng ta khỏi ách thống trị của ma quỉ và tội lỗi.
3. Thật vậy, Đức Giêsu là Thiên Chúa, Ngài đã dùng quyền năng mà trừ quỉ câm, dân chúng thấy vậy thì hết sức khâm phục Ngài; còn những kẻ cứng lòng tin lại cho rằng Ngài lấy quyền đầu mục quỉ mà trừ quỉ, họ không hiểu rằng nếu quỉ mà trừ quỉ thì chúng đã chia rẽ nhau và như thế sẽ phải tiêu vong, bởi vì “chia rẽ là chết”. Như vậy, nếu Đức Giêsu dùng quyền năng cao cả của mình để khử trừ ma quỉ, thì tức là Ngài mạnh hơn quỉ, chiến thắng ma quỉ, do đó ai tin theo Ngài sẽ được cứu thoát khỏi mọi sự dữ; ai tin theo Ngài sẽ cùng Ngài cộng tác để tiêu diệt các mưu mô độc hại của ma quỉ, của thế gian, của xác thịt, và đem nhiều linh hồn về cho Nước Chúa. Còn ai không tin theo Ngài tức là chống đối Ngài, là tự phân tán và như thế dẫn tới cái chết.
4. Tội ngoan cố là thế nào?
Tội ngoan cố là khi thấy rõ con đường Chúa chỉ dạy nhưng vẫn cố tình không đi theo, tuy thấy rõ sai lầm của mình nhưng vẫn cố tình không chịu sửa. Người ngoan cố kể như “hết thuốc chữa”.
Bởi vậy Đức Giêsu nói đó là tội chống Chúa Thánh Thần và là tội duy nhất Thiên Chúa không tha. Chúa sẵn sàng tha nếu ta yếu đuối, Chúa sẵn sàng tha nếu ta sai lầm. Nhưng Chúa không tha nếu ta ngoan cố.
4. “Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta”.
Đứng trước Đức Giêsu, con người phải có thái độ hoặc tin nhận hoặc từ chối. Đó cũng là thái độ mà người Kitô hữu chúng ta phải có đối với Đức Giêsu.
Đây là một sự lựa chọn dứt khoát cho chúng ta, là Kitô hữu, chúng ta không thể cứ sống cách nửa vời. Việc sống đức tin là có hoặc không? Chọn Chúa hay theo Satan; sống theo giáo lý và lề luật đạo, hay thỏa hiệp với thế gian xác thịt..? Chứ không thể bắt cá hai tay, đạo nào cũng muốn mà đời cũng muốn.
- Không thiếu những người, đạo cũng muốn giữ mà cứ để mình sống trong tình trạng hôn nhân bất hợp pháp.
- Làm người tu cũng muốn mà tình lứa đôi cũng không dứt bỏ dứt khát, khấn nghèo khó mà lại sống trưởng giả.
- Có những người đạo cũng muốn giữ mà vẫn thề thốt để được “kết nạp” và giữ được những cái nọ cái kia...
5. Bài Tin Mừng hôm nay thúc giục chúng ta vững tin vào uy quyền của Thiên Chúa. Thế lực của ma quỉ tuy mạnh mẽ nhưng quyền năng của Thiên Chúa còn mạnh mẽ hơn. Đức Kitô đã dùng cái chết và sự sống lại của Ngài để chiến thắng Satan, Ngài đã trở thành lá cờ đầu để chúng ta đi theo. Hãy gia nhập vào cộng đoàn những kẻ theo Ngài, và hãy vững tin rằng nếu chúng ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài.
6. Truyện: Mưu mô ma quỉ.
Ngày xưa có một con qủi hiện về báo cho người đàn ông biết là gã sắp chết. Nhưng nó lại bảo gã rằng nó có thể cứu gã nếu gã chịu làm một trong ba điều sau: một là giết tên đầy tớ của gã, hai là gã đánh đập vợ, ba là gã hãy uống rượu.
Gã kia nghĩ: Ta không thể giết tên đầy tớ trung thành, đánh vợ thì vô lý quá, vậy ta uống rượu. Rồi gã lấy rượu uống. Đến chừng say quá, gã đánh vợ, tên đầy tớ nhào vô can bị gã cho một dao chết tươi (Trích “Phúc”).
Suy Niệm 8: Ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước nói đến sự cứng đầu cứng cổ của dân Israel: Thiên Chúa dẫn đường chỉ lối cho dân để họ được hạnh phúc. Thế nhưng họ đã chẳng nghe theo. Thiên Chúa lại sai các ngôn sứ đến nhắc nhở họ. Nhưng họ vẫn không nghe.
2. Thời Chúa Giêsu, thái độ ngoan cố ấy vẫn tiếp tục: khi Chúa Giêsu làm phép lạ trục xuất quỷ câm khỏi người bị nó ám, lẽ ra người ta phải hiểu đó là dấu chỉ rằng Nước Thiên Chúa đã đến. Nhưng những người biệt phái lại không muốn hiểu như vậy, họ còn cố tình xuyên tạc rằng Ngài đã dùng thế lực của quỷ vương để trừ quỷ nhỏ. Tin Mừng Mát-thêu (Mt 12, 22-32) coi đây là tội chống Thánh Thần và là tội duy nhất không được tha. Bởi vì nếu do yếu đuối hay sai lầm mà phạm tội thì dù tội có nặng hay nhiều đến đâu đi nữa Thiên Chúa vẫn rộng lượng tha thứ. Còn kẻ ngoan cố đã thấy sự thật nhưng cố tình không nhìn nhận, lại còn xuyên tạc cho nên họ không được tha. Nói đúng ra, họ không được tha vì họ không muốn được tha.
B. Suy Niệm (...nẩy mầm)
1. Tội ngoan cố là tuy thấy rõ con đường Chúa chỉ dạy nhưng vẫn cố tình không đi theo, tuy thấy rõ sai lầm của mình nhưng vẫn cố tình không chịu sửa. Người ngoan cố kể như “hết thuốc chữa”. Bởi vậy Chúa Giêsu nói đó là tội chống Thánh Thần và là tội duy nhất Thiên Chúa không tha. Chúa sẵn sàng tha nếu ta yếu duối, Chúa sẵn sàng tha nếu ta sai lầm. Nhưng Chúa không tha nếu ta ngoan cố.
2. Ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần rất hữu ích và quan trọng. Nhưng có lẽ quan trọng hơn nữa là con người có nghe theo ơn soi sáng đó hay không. Hằng ngày, Chúa Thánh Thần ban cho ta biết bao ơn soi sáng, nhưng ta nghe theo được mấy lần?
3. Nguỵ biện là thấy rõ sự thật nhưng cố ý giải thích sai đi cho hợp với sở thích. Người nguỵ biện tưởng rằng nhờ ngụy biện mình sẽ được sống thoải mái, nhưng thực ra họ tự hại chính mình. Chúa Giêsu đã nói “Sự thật mới giải thoát”.
4. Một cô gái biện hộ cho việc mình đến những nơi giải trí khả nghi: “Tôi nghĩ một người công giáo có thể đi bất cứ đâu”. Bạn cô đáp: “Tất nhiên, nhưng lời bạn làm tôi nhớ một chuyện: lần đó, tôi và một số người đến thăm một mỏ than. Một cô gái mặc bộ đồ trắng đẹp. Cô hỏi người hướng dẫn: - Tôi có thể mặc đồ trắng xuống hầm mỏ không? - Được, không có gì ngăn cản cô mặc áo trắng xuống đó, nhưng điều đáng ngại là khi trở lại, áo cô không còn trắng nữa (Góp nhặt).
Suy Niệm 9: Kitô-hữu đích thực phải giống Chúa Giêsu
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Qua bài Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy sự cố chấp của những người luật sĩ và Pharisêu đã lên tới mức độ thật cao. Trước một sự thật ai cũng thấy: Chúa vừa chữa lành một người bị quỉ câm ám hại, mọi người đều thấy phấn khởi…, vậy mà những người luật sĩ và Pharisêu lại cố tình muốn bẻ cong sự thật… Đây là tội ngoan cố. Tội ngoan cố là tội tuy thấy rõ con đường Chúa chỉ dạy nhưng vẫn cố tình không đi theo, tuy thấy rõ sai lầm của mình nhưng vẫn cố tình không chịu sửa. Tội ngoan cố là tội kể như “hết thuốc chữa”. Bởi vậy, đã có lần Chúa gọi tội đây là tội chống lại Chúa Thánh Thần và là tội duy nhất Thiên Chúa không tha. Chúa sẵn sàng tha nếu ta yếu đuối, Chúa sẵn sàng tha nếu ta sai lầm. Nhưng Chúa không thể tha nếu ta ngoan cố.
Thánh Macariô tu hành ở Ai-Cập, lần kia gặp một chiếc đầu lâu của người chết, ngài mới hỏi:
- Cái sọ này của ai ?
Cái sọ trả lời: - Thưa cha, cái sọ này là của một ngoại giáo.
Thánh Macariô hỏi thêm: - Linh hồn mày hiện giờ ở đâu ?
Cái sọ trả lời:
- Thưa cha, linh hồn tôi ở dưới hỏa ngục, vì khi còn sống, thấy giữ đạo phải hy sinh nhiều quá, nên tôi không chịu trở lại.
Thánh Macariô lại hỏi:
- Hỏa ngục có sâu lắm không ?
Cái sọ trả lời: - Thưa cha, hỏa ngục sâu lắm, sâu bằng khoảng cách giữa trời và đất.
Thánh Macariô hỏi tiếp:
- Dưới hỏa ngục, có ai khổ hơn mày nữa không ?
Cái sọ trả lời: - Có các người Do Thái, đã cố chấp không chịu tin Chúa mặc dầu đã xem thấy bao nhiêu phép lạ Chúa làm.
Thánh Macariô lại hỏi thêm:
- Dưới hỏa ngục, còn ai khổ hơn người Do Thái không ?
Cái sọ trả lời:
- Có những người Công giáo xấu, đã giày đạp lên lòng thương xót Chúa đã đổ máu ra cứu chuộc họ. Rồi cái sọ nói thêm: “Còn phần cha, cha hãy lợi dụng lòng thương xót Chúa nghĩa là hãy sử dụng ơn Chúa cũng như hãy lợi dụng thời giờ Chúa ban mà lập công phúc, để khỏi phải khổ cực dưới hỏa ngục, nhưng được vinh hiển trên Trời”
Vâng, chúng ta hãy biết lợi dụng lòng thương xót của Chúa để lập thêm công phước, phải lợi dụng lòng thương xót của Chúa để xin ơn tha thứ như vậy.
2. Chúa nói: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (Lc 11, 23).
Đi với Chúa là chọn Chúa, là đứng về phía của Chúa. Nhưng làm cách nào biết rằng, chúng ta đã thực sự chọn Chúa và đứng về phía Chúa.
Chúng ta hãy nghe lời giải thích của Mirjana, cô gái được chính Đức Mẹ hiện ra dạy bảo tại Mễ Du. Khi người ta hỏi cô:
- Bằng cách nào chúng ta chọn Chúa Giêsu ?
Cô trả lời:
- Đức Mẹ nói rằng: muốn chọn Chúa Giêsu, ta phải nên giống Chúa. Nhiều người cho mình là tín hữu nhưng lại sống như người ngoại đạo. Kitô hữu chân chính phải là người được Kitô-hóa. Một người Kitô-hữu đích thực phải giống Chúa Giêsu.
Và khi được hỏi:
- Nên giống Chúa Giêsu như thế nào ?
Cô nhắc lại lời Đức Mẹ dạy:
- Chúa Giêsu là đường đi, là sự thật và là ánh sáng cho cuộc sống chúng ta. Đường đi thì đã được vạch rõ trong Kinh Thánh. Còn sự thật thì nằm ở cả trong Kinh Thánh và trong Giáo Hội. Ánh sáng thì từ Thiên Chúa mà đến cho những ai trung tín.
Mẹ luôn xin các con cái của Mẹ hãy đọc Sách Thánh, có như vậy ta mới biết về Thiên Chúa. Vì thế, Đức Mẹ xin những ai nói mình là tín hữu hãy sống cuộc sống của Chúa Giêsu như khi Chúa sống ở trần gian. Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường về Thiên Đàng. Cuộc đời của Ngài là mẫu mực cho các tín hữu noi theo. Nếu tín hữu sống theo mẫu mực đó, họ sẽ là những môn đệ trung thành của Tin Mừng. Đời sống của họ sẽ nêu gương cho thấy có một vị Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chăm sóc dưỡng nuôi ta, đỡ nâng ta trong hết mọi sự. Nhưng Mẹ cũng không quên nhắc: “ngày nay, có nhiều người đã quên, nhiều người đã chọn lựa những điều phù phiếm mau qua, nhiều kẻ không hề quan tâm tới chân lý, chỉ biết say mê những lạc thú trần gian, trí khôn đâm mù tối và sống co rút lại trong ích kỷ”.
Cha Gioan Maria Vianney nói: “Chẳng có gì làm cho chúng ta nên giống Chúa bằng cách vác lấy Thánh Giá của Người. Đẹp thay bao linh hồn biết kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu qua việc yêu mến Thánh Giá của Ngài! Cha thật không tài nào hiểu được một Kitô-hữu mà không yêu mến và chạy trốn Thánh Giá! Như vậy, chẳng phải chúng ta đang chạy trốn Chúa Giêsu, Đấng đã hạ mình xuống ôm chặt lấy Thánh Giá, và chịu chết cho chúng ta sao ?
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Ước gì khi sống như thế, con giống Chúa hơn. Amen.
06/03 Chu toàn lề luật
- Viết bởi Mt 5, 17-19
Chu toàn lề luật.
Thứ Tư tuần 3 Mùa Chay.
“Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.
Lời Chúa: Mt 5, 17-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng tưởng Ta đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành.
Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Kiện toàn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Vào thời Tin Mừng Mátthêu được viết, các người Do thái thuộc Hội Đường
thường chỉ trích các người Do thái đã tin vào Đức Giêsu Kitô,
coi họ như những người đã bỏ Luật Môsê, bỏ cái cốt lõi của Do thái giáo.
Đức Giêsu của Mátthêu đã bác bỏ lối hiểu sai này.
“Thầy không đến để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn” (c. 17).
Kiện toàn là đưa Luật Môsê đến chỗ thành tựu, hoàn hảo,
bởi lẽ nó có những hạn chế, bất toàn,
do Thiên Chúa phải nương theo trình độ lúc đó của Dân Ngài.
Kiện toàn là giải thích lại Luật Môsê theo đúng ý Thiên Chúa.
Chẳng ai biết Ý Thiên Chúa Cha bằng Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Hơn ai hết, Đức Giêsu có quyền nói lên ý nghĩa mới mẻ của Lề Luật.
Có một dòng chảy liên tục trong khoa sư phạm của Thiên Chúa.
Ngài huấn luyện Dân Ngài qua Môsê và các ngôn sứ trong lịch sử.
Đỉnh cao nhất là Đức Giêsu, Đấng vén mở trọn vẹn ý định của Thiên Chúa.
Đức Giêsu không phá những công trình đi trước, ngài kiện toàn.
Lời giáo huấn của Ngài vừa liên tục với,
vừa vượt qua Giao Ước thứ nhất còn khiếm khuyết.
Vượt qua về chiều rộng,
khi Ngài mời ta đi xa hơn chuyện không được giết người,
mà còn không được có hành vi, lời nói giận ghét anh em (Mt 5, 22).
Vượt qua về chiều sâu,
khi Ngài đòi ta không được giữ Luật kiểu giả hình bên ngoài,
nhưng phải khởi đi từ trái tim, từ cái tâm bên trong (cc. 27-28),
khi Ngài đưa ra những đòi hỏi tận căn trước đây chưa hề có
về việc chẳng những không được trả thù mà còn yêu kẻ thù (cc. 38-48).
Mọi lề luật đều qui về điều răn chính yếu là yêu thương.
Phải yêu như Cha trên trời mới trở thành con cái Cha (c. 45).
Đức Giêsu mời chúng ta nghiêm túc giữ Luật Môsê đã được Ngài kiện toàn.
Luật ấy là lời giáo huấn của Ngài mà các môn đệ đã nghe.
Con người thời nay thích tự do nên dị ứng với luật lệ.
Nhưng giữ luật không phải là chuyện của nô lệ hay trẻ con.
Khi tránh được thói nệ luật, cứng nhắc bám vào mặt chữ,
ta có thể giữ luật như cách biểu lộ hồn nhiên tình yêu với Chúa và tha nhân.
Trung tín với những đòi hỏi nhỏ bé của các điều răn chỉ vì yêu,
và “dạy người ta mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 20),
đó là con đường dẫn đến hạnh phúc mai sau cho người môn đệ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao. Amen.
Suy Niệm 2: Hoàn thiện lề luật
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu cư xử như một người tự do, phóng khoáng với lề luật. Người ta nghĩ rằng Chúa Giêsu đến phá hủy lề luật. Nhưng Người tuyên bố rõ ràng: “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” lề luật.
Người kiện toàn bằng xác định thứ tự cho lề luật. Luật Do thái nhiều vô kể. Nhưng điều răn lớn nhất là mến Chúa và yêu người. “Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 28-31).
Một trật tự khác: Luật Thiên Chúa phải trọng hơn luật của loài người. (x. Matthêu 15, 1-9). Không được “dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa”.
Người kiện toàn bằng đưa lề luật vào nội tâm. Phải rửa bên trong để bên ngoài cũng được sạch (Mt 23, 25-26). Ăn chay cầu nguyện và bố thí phải làm cách kín đáo (x. Mt 6, 1-6.16-18). Ý hướng là quan trọng. Vì thế, chưa giết người, nhưng giận ghét đã là có tội; chưa ngoại tình, nhưng trong lòng ham muốn thì đã là phạm tội (x.Mt 5, 21-30).
Người kiện toàn lề luật bằng đề cao con người. Điển hình là luật nghỉ ngày Sabat. Chúa đã đưa ra định hướng cho luật này: “Ngày Sabat vì con người chứ không phải con người vì ngày sabat” (Mc 2, 27). Vì thế, ngày sabat để cứu sống con người, để giải thoát con người, để làm điều tốt cho con người. (Mc 3, 1-6)
Người kiện toàn bằng hướng lề luật đến tình yêu. Người Do thái giữ luật vì sợ bị phạt. Chúa Giêsu dạy ta hãy giữ luật vì tình yêu mến. Và tóm tắt mọi luật lệ vào luật mới là yêu thương: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Tình bác ái quan trọng vì Chúa hóa thân làm người nghèo. Và trong ngày tận thế chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu.
Kiện toàn lề luật, Chúa Giêsu đổi mới cách sống đạo. Sống đạo không còn là hình thức, nhưng là tâm tình bên trong. Tâm tình đó hướng về Thiên Chúa trong tình yêu mến. Vì yêu mến nên giữ lề luật. Và cũng vì yêu mến Thiên Chúa, nên yêu mến con người. Việc giữ đạo như thế trở nên nhẹ nhàng, tự do, tự nguyện, nhưng lại đưa việc giữ lề luật đến mức hoàn hảo.
Suy Niệm 3: Chu toàn lề luật
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Vào một ngày thứ sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá, nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh gọi những món cá mà anh biết chủ quán sẽ trả lời là không có. Rồi anh tự nhủ: “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có, thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy”. Cầu nguyện xong, anh thi hành liền. Anh đã tự tạo ra những lý do, những hoàn cảnh để có thể khỏi lỗi luật Chúa.
Nếu không có lòng yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ dễ tạo ra những cách để tự an ủi và chuẩn miễn khỏi phải tuân giữ luật Chúa, hoặc giải thích lời Chúa theo sở thích riêng.
Bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta về việc tuân giữ luật Chúa. Những lãnh đạo tôn giáo Do thái thời Chúa Giêsu hơn ai hết là những người bảo tồn luật Chúa trong lời dạy của Môsê và các tiên tri. Nhưng những đổi thay lịch sử đặt ra những vấn nạn mới và thôi thúc họ giải thích và áp dụng luật Chúa vào hoàn cảnh mới. Tinh thần vụ hình thức đã làm cho họ lạc đường đến nỗi đã bị Chúa Giêsu trách là giả hình.
Chúa Giêsu đến không phải để huỷ bỏ nhưng để kiện toàn lề luật và các tiên tri. Ngài kêu gọi các môn đệ tuân giữ luật Chúa với một tinh thần mới, với một dấn thân để sống trọn vẹn sứ điệp của Ngài. Tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã nhắn nhủ:
“Ngôi Lời đã nhập thể và Chúa Cha đã phán: “Đây là Con Ta yêu dấu và đẹp lòng Ta, hãy nghe lời Ngài”. Ngài là sự sống, con chỉ sống bằng tinh thần của Ngài. Ngài là sự thật, con chỉ tin lời dạy của Ngài. Ngài là Đường, con chỉ theo bước chân Ngài. Có thứ Công giáo vụ lợi, có thứ Công giáo lý lịch, có thứ Công giáo xu thời, có thứ Công giáo giải nhiệt, Chúa chỉ chấp nhận hạng Công giáo 100% đã bỏ mọi sự mà theo Ngài. Hội thánh có nhiều khuyết điểm và gương xấu, nhưng Hội thánh có lời hứa của Chúa. Hội thánh là một phép lạ liên lỉ. Nhưng đừng vì thế mà phơi bày khuyết điểm và gương xấu cho mọi người. Hãy làm thế nào để tư tưởng lời nói hành động của con khiến người ta phản ứng: con người này đã say mê cuốn sách Phúc âm, đã bị lôi cuốn bởi lý tưởng cuộc đời Chúa Giêsu.”
Trong những ngày canh tân đời sống này, xin Chúa cho chúng ta một ý chí mạnh mẽ, một xác tín sâu xa, nhất là thật nhiều ơn Chúa để trung thành với ơn gọi của mình.
Suy Niệm 4: Trung tín giữ điều nhỏ nhất
“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. (Mt. 5, 17-18)
Ý Thiên Chúa và sách thánh đã viết ra đều phải được kiện toàn. Cho nên Đức Giê-su nói: “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn”. Điều mới Đức Giê-su thực hiện, không hoàn toàn khác biệt, mà là kiện toàn luật đã có. Lề luật và lời các tiên tri viết về mặc khải của Thiên Chúa, không phải đã hoàn tất. Ý Thiên Chúa tỏ ra qua lề luật và lời tiên tri được bày tỏ dần dần cho đến thời Đức Giê-su ngự đến.
Lề luật và lời các tiên tri có một ý nghĩa mới nhờ mặc khải của Đức Giê-su Ki-tô. Chính Đức Giê-su đã tuyên bố chắc chắn về những mặc khải cuối cùng của Thiên Chúa, Người đã kiện toàn mặc khải cho chúng ta từ nay cho tới mãi mãi. Sự kiện toàn này của Đức Giê-su không cho phép quay lại quá khứ do loài người đặt ra như Mô-sê cho phép rẫy vợ, như cấm chữa bệnh trong ngày Sa-bát. Sự kiện toàn này của Đức Giê-su không cho phép chỉ làm những điều luật đã viết trước đó.
Luật tiếp tục tồn tại, nhưng được kiện toàn những gì luật còn thiếu sót cho đến khi Đức Giê-su kiện toàn lần chót. Sự kiện toàn bắt đầu mặc khải từ khi Chúa Giê-su giảng dạy vì Người là lời Thiên Chúa. Đức Giê-su không phải chỉ kiện toàn lề luật bằng lời dạy, mà còn bằng chính bản thân Người, bằng chính đời sống Người, bằng chính sự nhập thể và cuộc đời tại thế của Người.
Chúng ta phải giữ những điều răn nhỏ mọn nhất với quyết tâm cam kết toàn diện con người chúng ta, với tình yêu mến hảo hạng. Như vậy mới giải thoát chúng ta khỏi mọi kiêu căng của lòng trí, khỏi thứ trí thức tôn giáo hay khỏi cái lối thuần túy giữ “đạo tại tâm”, bỏ lơ, trễ nải với lối sống giữ đạo khiêm tốn hiện tại thường ngày.
Chúng ta biết quan tâm giữ cặn kẽ những điều nhỏ mọn, thì chúng ta được đánh giá để xếp hạng trong nước trời, không phải chúng ta được đánh giá theo ý tưởng, hay theo khuynh hướng bản thân, theo tính tình mỗi người … mà theo toàn bộ, toàn bộ trao phó cho chúng ta tất cả những điều nhỏ nhất, tất cả đều quan trọng đối với nước trời.
J.M
Suy Niệm 5: “Ta đến không phải để phá hủy, nhưng để kiện toàn
Thánh Gioan Bosco nói với các môn sinh của ngài rằng: “Hãy trung thành giữ luật, luật sẽ gìn giữ con”.
Thật vậy, lề luật nó như cái bản lề để giúp cho cánh cửa cuộc đời được đứng vững.
Chính Đức Giêsu đã trung thành giữ luật cách yêu mến và trung thành. Chỉ khi nào luật không làm cho con người ta tốt hơn, mà ngược lại, nó đè bẹp con người, thì lúc đó Ngài lên tiếng chống đối.
Hai lối hiểu và hai cách giữ luật khác nhau, nên những nhà lãnh đạo Dothái và Đức Giêsu có sự đối kháng kích liệt. Họ cho rằng Đức Giêsu đến để bãi bỏ lề luật, còn Đức Giêsu thì khẳng định: “Các người đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ các lề luật hay các tiên tri. Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn”.
Nói cách khác, Đức Giêsu vẫn rất tôn trọng luật Cựu Ước, mà cụ thể là trong Ngũ Kinh, vì ở đó chứa đựng ý muốn và lệnh truyền của chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều lúc, vì họ đã giữ luật theo kiểu mặt chữ, nên không còn tình thương, lòng mến, và luật đã trở thành phương tiện cho người ta hà hiếp, bóc lột và kết án nhau.
Khi phản đối lối gán ghép tội của các Luật Sĩ và Pharisêu gây ra cho mình, Đức Giêsu khẳng định không những không phá bỏ, mà còn kiện toàn và làm cho luật trở nên nhân nghĩa hơn.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: hãy biết giữ luật trong lòng mến. Trung thành yêu mến luật vì nơi đó Thiên Chúa tỏ bày thánh ý của Ngài. Tuy nhiên, giữa việc giữ luật và đời sống phải đi đôi với nhau. Không thể sống theo kiểu “ngôn hành bất nhất” như Luật Sĩ và Pharisêu, vì họ dùng luật của Chúa để triệt hạ nhau khi luật của Chúa đã bị bóp méo.
Lạy Chúa Giêsu, luật của Chúa là luật vì con người và hạnh phúc của nhân loại. Xin Chúa ban cho chúng con biết yêu mến và thi hành luật ấy cách trung thành trong lòng mến Chúa và yêu người. Xin cho chúng con đừng vì luật mà cứng ngắc với anh chị em mình khi chúng con rơi vào tình trạng giả hình, chỉ câu nệ vào những hình thức bên ngoài mà quên đi những cái chính yếu bên trong. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Tuân hành Thánh Ý Thiên Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thánh Ý Thiên Chúa là điều quan trọng, không gì nhỏ bé tầm thường. Chúa Giêsu đến chính là để được thực hiện Thánh Ý Thiên Chúa và các lời Thiên Chúa hứa trong Cựu ước. Ta cũng cần coi trọng và tuân hành Thánh Ý Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, đôi lúc con có cảm tưởng Chúa thường phản ứng chống lại lề luật. Chúa phê bình việc giải thích và cách giữ luật của người biệt phái. Chúa lên án lối sống hình thức của họ. Nhưng càng nhìn ngắm Chúa và suy gẫm Phúc âm, con càng thấy rõ Chúa không chống đối lề luật, không bãi bỏ lề luật, mà Chúa đến để chu toàn lề luật và làm cho lề luật được kiện toàn, vì luật của Môi-sê cũng chính là luật của Thiên Chúa. Chúa phục tùng luật Môi-sê vì Chúa muốn phục tùng Ý Chúa Cha.
Lạy Chúa, xin cho con biết noi gương Chúa mà tôn trọng luật Thiên Chúa và luật Giáo Hội. Qua lề luật, xin cho con biết nhận ra ý Chúa muốn con làm gì. Đời sống của Chúa là cuộc đời thánh thiện vì Chúa luôn chu toàn ý muốn của Chúa Cha. Xin Chúa cũng giúp con nên thánh bằng cách hy sinh ý riêng để tuân theo Ý Chúa, trung thành vâng giữ luật Chúa.
Lạy Chúa, vì xu hướng tự nhiên, con vẫn thích phá bỏ lề luật để sống tự do buông thả. Nhưng trong đức tin, con cảm tạ Chúa đã ban lề luật cho con, vì nếu không có lề luật như những tấm bảng chỉ đường, chắc chắn con sẽ lạc hướng và rơi xuống vực sâu. Xin Chúa thương gìn giữ con.
Con cũng xin Chúa giúp con biết tín nhiệm vào Chúa đang dẫn dắt Hội Thánh, để con khiêm tốn vâng theo sự chỉ dạy của Hội Thánh. Có những điều con không hiểu, có những điều con thấy lỗi thời, bảo thủ, khe khắt, nhưng xin Chúa giúp con biết đón nhận trong đức tin, ngay cả trong những điều nhỏ bé nhất. Và xin Chúa giúp tất cả chúng con động viên nhắc bảo nhau trung thành với luật Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.
Suy Niệm 7: Hãy nghe Người
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Ngay từ thời xa xưa Thiên Chúa đã ban cho con người luật pháp. Nó phát triển và hoàn thiện dần trong lịch sử cứu độ. Công trình hoàn thiện luật theo một tiến trình phát triển được Chúa mạc khải sơ khởi phông nền với các tổ phụ, đặc biệt là Môisê qua 10 điều răn, được các ngôn sứ phát triển và chính Con Thiên Chúa - Đức Giêsu hoàn thiện bằng luật Kitô giáo: Tân ước. Tân ước là một chồi non làm sinh hoa kết trái nhưng được nuôi từ gốc và bằng nhựa của cây ô liu cũ tức “Cựu ước”, để làm cho cây sinh ra nhiều quả (x. Rm 11,17-24). Chính Đức Giêsu đã được loan báo và chuẩn bị cả ngàn năm mong đợi của dân Do Thái khi chờ đón Đấng Cứu Thế, Đấng đến cứu họ được tự do và để kiện toàn luật và lời các ngôn sứ đã loan báo trước làm hoàn thành toàn bộ Kinh Thánh với hai phần rõ rệt: Tân ước và Cựu ước.
Luật cũ cho ta ý niệm là dân được tuyển chọn phải sống qua mười điều răn, là những hướng dẫn con người cách thức mến Chúa và yêu Người bằng cách chỉ rõ thánh ý Chúa đối với thái độ và hành động trong đời sống thường nhật. Các kinh sư và biệt phái giữ luật rất đúng, nhưng giữ “luật vì luật” và kiên định tới mức trở thành câu nệ hình thức cứng nhắc, khắt khe: Luật là cứu cánh. Cách sống của họ trong tư cách bậc thầy và mô phạm làm cho mọi người nghĩ rằng đức công chính chỉ gói gọn trong việc chu toàn Lề Luật: Tất cả vì luật. Chúa Giêsu lên án cách giữ luật hình thức, vì thế biệt phái và luật sĩ đã liệt Ngài vào hạng tội lỗi, khi cho rằng Ngài có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh, cụ thể trong việc giữ ngày Sabát (x. Lc 6,8-11; 13,14; 14,1-6; 6,1-2…), và các nghi thức thanh tẩy trước khi ăn (x. Lc 11,38). Họ cho rằng: Ngài muốn phá bỏ Lề Luật, nhưng Chúa Giêsu tuyên bố: “…đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môisê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).
Chúa Giêsu kiện toàn thái độ và áp dụng tinh thần của luật là dẫn đến tình thương, cho nên luật của Đức Kitô hoàn thiện và “trội hơn” luật cũ. Khi Đức Giêsu đề nghị không chỉ sống theo luật mà còn sống theo luật với ân sủng và tình yêu cho nên luật vì con người. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta không dừng ở những việc làm vụ hình thức mà phải “công chính hơn” tới mức hoàn thiện: “Như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48): Luật pháp mà vượt qua luật, đi tới Tin Mừng (Phúc Âm) đem hạnh phúc tình thương cho con người. Bài giảng bát phúc trình bày tính vĩnh cửu của luật pháp mà Ngài hoàn thiện.
Xin Chúa thổi tình yêu vào cuộc sống chúng ta, để khi tuân giữ mọi giới răn đạo Chúa, mọi giáo huấn của Giáo hội, chúng ta giữ luật không chỉ vì sợ và tỏ lòng kính tôn, mà còn thực thi với tinh thần của Tình yêu.
Ý lực sống: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10).
Suy Niệm 8: Chúa đến kiện toàn Lề luật
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu chính là Đấng Kitô phải đến mà dân Israel đang mong chờ. Ngài đến để hoàn tất mọi lời Thiên Chúa hứa, và để kiện toàn Lề Luật. Ngài đến để đưa Lề Luật tới ý nghĩa trọn hảo. Kiểu nói: “Một chấm, một phết trong Luật cũng không thể qua đi” diễn tả tầm quan trong của Luật: đó là ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã muốn dùng Lề Luật để giáo dục con người thì không có Luật gì là nhỏ bé tầm thường. Vì vậy, chúng ta chỉ đạt được sự sống đời đời khi trung thành tuân giữ luật Chúa và Lời Chúa. Chúng ta giữ luật không vì sợ tội, nhưng vì tình yêu. Trong tình yêu, càng cần sự tế nhị từ những điều nhỏ mọn.
2. Bất cứ quốc gia hay tổ chức lớn nhỏ nào trong xã hội loài người đề cần có luật, để giữ kỷ cương phép tắc, giữ trật tự an ninh và đảm bảo sự công bằng xã hội.
Ngay từ thời xa xưa, Thiên Chúa đã ban cho con người luật pháp. Nó phát triển và hoàn thiện dần trong lịch sử cứu độ. Luật cũ cho ta ý niệm là dân được tuyển chọn phải sống qua mười điều răn, lời các tiên tri, là những hướng dẫn con người cách thức mến Chúa và yêu người bằng cách chỉ rõ thánh ý Chúa đối với thái độ và hành động trong đời sống thường nhật.
Các luật sĩ và biệt phái giữ luật rất đúng, nhưng giữ “luật vì luật” và kiên định tới mức trở thành câu nệ hình thức cứng nhắc, khắt khe: Luật là cứu cánh. Cách sống của họ trong tư cách bậc thầy và mô phạm làm cho mọi người nghĩ rằng đức công chính chỉ gói gọn trong việc chu toàn lề luật: Tất cả vì luật.
Đức Giêsu lên án cách giữ luật hình thức, vì thế biệt phái và luật sĩ đã liệt Ngài vào hàng tội lỗi, khi cho rằng Ngài có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh...
3. Thầy đến không phải là để bãi bỏ...”
Những lời Đức Giêsu nói về luật Cựu ước thực sự gây sốc nhất là đối với những người thượng tôn Lề Luật Maisen... Quả thật những lời Đức Giêsu dạy xem ra khó nghe và có vẻ như trái nghịch với luật cũ khiến một số người phản đối; nhưng xét cho cùng, đó không phải là Ngài phá đổ hay phế bỏ Lề Luật mà là Ngài kiện toàn nó.
Ngài đào sâu tận nguyên lý của Lề Luật và áp dụng vào hoàn cảnh mới của Tân Ước để thực hành đúng tinh thần của Lề Luật chứ không chỉ theo hình thức bên ngoài. Ta có thể dẫn chứng trường hợp ăn chay chẳng hạn: nhịn đói ít hôm, cúng dường... rồi sau đó bóc lột, ức hiếp ngươi nghèo khổ, thì hành vi ấy còn có nghĩa gì, nó lố bịch và chuốc thêm tội vào mình thôi... Như thế, Đức Giêsu chính là Maisen mới vì Ngài đến kiện toàn Luật Maisen và lời các tiên tri (5 phút Lời Chúa).
4. Việc kiện toàn ít nhất mang hai ý nghĩa.
Đức Giêsu đã đến kiện toàn Lề Lật và lời các tiên tri. Như vậy:
- Đối với Do thái, lề luật và tiên tri liên kết với nhau, nên việc kiện toàn của Đức Giêsu có nghĩa là Ngài thực hiện và đưa đến mức độ viên mãn những gì Thiên Chúa đã hứa trong Sách Thánh. Ngài là điểm đến và ứng nghiệm những gì chép trong Cựu Ước. Luật không bị mất hiệu lực một chấm một phẩy nào, nhưng đạt tới sự viên mãn nơi Đức Kitô và nhờ Đức Kitô.
- Từ nay trong Đức Giêsu, luật được tuân giữ với tinh thần tự do và yêu mến Chúa, chứ không phải là một sự bó buộc phải làm hay phải giữ. Từ nay luật mang lấy một diện mạo mới là luật vì sự sống con người chứ không phải kềm hãm con người theo mặt chữ.
Tóm lại, kiện toàn lề luật mà Đức Giêsu dạy chúng ta là không bãi bỏ luật nhưng mặc cho luật một tinh thần mới, nghĩa là vượt qua sự giữ luật cách tiêu cực để thi hành cách tích cực trong Đức Kitô: giữ luật không vì sự bó buộc phải làm mà là với cả sự tự do muốn làm vì lòng mến Chúa và tha nhân, biến luật từ việc kìm hãm bản thân thành sự thanh thoát thánh hóa bản thân, giữ luật không dừng lại ở sự thể hiện ở ngoài mà là cả một tâm hồn ngay thẳng và trong sạch.
5. Lề luật giúp cho con người nên thánh và trung thành với Chúa.
Lề luật giống như đường rầy giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc sống và làm trong khung khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa, ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô chia sẻ một kinh nghiệm quí giá: “Ubi amatur, non laboratur: khi ta yêu thì ta không cảm thấy nhọc nhằn.
6. Truyện vui: Giữ luật hình thức.
Vào ngày thứ sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá, nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh ta gọi những món cá mà anh ta biết chắc chắn chủ quán sẽ trả lời là không có.
Rồi anh tự nhủ: “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có, thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy”.
Cầu nguyện xong, anh thi hành liền. Anh đã tự tạo ra những lý do, những hoàn cảnh để có thể khỏi bị lỗi luật Chúa.
Suy Niệm 9: Tuân giữ lề luật theo tinh thần mới của Phúc Âm
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước: Trước khi dân Israel vào Đất hứa, Môsê đọc cho dân nghe các lề luật Chúa. Ông căn dặn dân phải nhớ tuân giữ những điều luật ấy “để được sống và được vào chiếm hữu phần đất (mà Thiên Chúa đã hứa ban)”.
2. Bài trích Phúc Âm: Mặc dù Chúa Giêsu đến để thiết lập Luật mới, nhưng Ngài không huỷ bỏ luật cũ: “Ta không đến để huỷ bỏ (luật Môsê), mà để kiện toàn”.
3. Như thế, sứ điệp Lời Chúa hôm nay là bảo chúng ta hãy tuân giữ lề luật, theo tinh thần mới của Phúc Âm.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Lề luật giống như đường rầy giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc phải sống và làm trong khuôn khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô chia sẻ một kinh nghiệm quý giá “Ubi amatur, non laboratur” (khi ta yêu thì ta không cảm thấy nhọc nhằn).
2. Một điều nữa cần làm ngay trong mùa Chay là xét lại cách mình giữ luật: luật Chúa, luật Hội Thánh, luật của cộng đoàn v.v...
3. Về việc giữ luật, ta cũng có thể liên tưởng tới một lời dạy khác của Chúa Giêsu “Ai trung tín trong việc nhỏ thì sẽ trung tín trong việc lớn”. (Lc 161,10)
4. “Vào một ngày thứ Sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh gọi những món cá mà anh biết chủ quán sẽ trả lời là không có. Rồi anh tự nhủ “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có. Thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy”... Nếu không có lòng yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ dễ tạo ra những cách để tự an ủi và chuẩn miễn khỏi phải tuân giữ luật Chúa, hoặc giải thích Lời Chúa theo sở thích riêng”. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu mặc cho lề luật một tinh thần mới
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay bảo chúng ta hãy tuân giữ lề luật theo tinh thần mới của Tin Mừng.
1. Lề luật giống như đường ray giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc phải sống và làm trong khuôn khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô chia sẻ một kinh nghiệm quý giá “Ubi amatur, non laboratur” (khi ta yêu thì ta không cảm thấy nhọc nhằn).
Cách đây ít lâu, có một báo cáo về một trường hợp một thủy thủ thuộc hải quân hoàng gia Anh, bị phạt rất nặng vì vi phạm kỷ luật. Hình phạt nặng đến độ dư luận bên ngành dân chính cho rằng, quá khắt khe.
Nhưng một người từng phục vụ nhiều năm trong hải quân đã trả lời rằng, theo quan điểm ông ta, đó không phải là hình phạt quá nặng. Ông cho rằng, kỷ luật là một biện pháp tối cần thiết, vì mục đích của kỷ luật là khiến con người tự động vâng lệnh không thắc mắc và sự sống tùy thuộc vào sự vâng lệnh này.
Ông kể lại một kinh nghiệm riêng, trong một hải vụ, tàu của ông phải cẩu một chiếc tàu rất nặng đang khi biển động. Chiếc tàu hư được cột vào chiếc tàu ông bằng một sợi cáp. Thình lình, giữa cơn gió bão có lệnh của thuyền trưởng: “Xuống!”, tức khắc toàn thể thủy thủ phóng xuống hầm tàu. Ngay lúc đó, sợi dây cáp cột tàu bị đứt, quất xuống như một con rắn thép điên cuồng, trúng người nào thì người đó chắc chết ngay tại chỗ. Nhưng vì thủy thủ đoàn đã tuân lệnh, nên tất cả đều được thoát hiểm và an toàn. Nếu có ai dừng lại để tranh luận hay hỏi lý do, chắc người ấy đã chết. Sự vâng lời cứu mạng người. (WB).
Chúa Giêsu không hề chủ trương vô kỷ cương. Ngài đã từng tuyên bố: “Ta đến không phải để huỷ bỏ lề luật và các lời tiên tri, nhưng Ta đến để kiện toàn lề luật” (Mt 5,17). Ngài tuân giữ lề luật của Do Thái giáo. Nhưng, trong khi các luật sĩ, Pharisêu chỉ biết bám vào hình thức, thì Chúa Giêsu mặc cho lề luật một tinh thần mới. Ngài giữ chay và kêu gọi con người xé lòng chứ đừng xé áo. Ngài giữ ngày hưu lễ và kêu gọi con người thực thi bác ái. Ngài cảnh cáo những Pharisêu và luật sĩ khi họ cố tình bóp nghẹt tinh thần của lề luật. Ngài không ngần ngại lên án thái độ giả hình bên ngoài của họ bằng những lời rất nặng. Ngài ví họ như những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng bẩy nhưng bên trong thì thối tha.
2. Về việc giữ luật, ta cũng có thể liên tưởng tới một lời dạy khác của Chúa Giêsu: “Ai trung tín trong việc nhỏ thì sẽ trung tín trong việc lớn” (Lc 16,10).
Vào một ngày thứ sáu tuần thánh buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh gọi những món cá mà anh biết chủ quán sẽ trả lời là không có. Rồi anh tự nhủ: “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có. Thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy..”.
Nếu không có lòng yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ dễ tạo ra muôn ngàn cách để tự an ủi và miễn thứ cho mình khỏi phải tuân giữ luật Chúa, hoặc giải thích Lời Chúa theo sở thích riêng. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
Chúng ta hãy nhìn lại một ít bài học trong Đạo để thấy rằng, có những con người rất can đảm. Họ thà chết còn hơn là lỗi luật Chúa.
* Xưa kia, Giuse con Giacob “thà chết” còn hơn là nghe theo lời đường mật, rồi sau đó là những lời đe dọa mà ngả vào vòng tay của người đàn bà xấu nết, là vợ quan Putipha.
* Bà Suzanna, cũng thà chết còn hơn là phạm luật Chúa trước những lời hăm dọa của hai lão mê dâm.
* Ông lão Aliazarô thà bỏ mạng sống còn hơn là nghe theo lệnh truyền của hoàng đế Antiocô mà ăn thịt trái luật Chúa.
* Ba thánh trẻ kia, sẵn sàng chịu thiêu trong đống củi chứ không chịu sấp mình trước tượng Nabucodonosor.
* Đaniel cũng thà chết còn hơn là bỏ việc thờ phượng Chúa dù việc đó làm cho Đaniel bị bỏ vào hang sư tử.
* Bảy anh em tử vì đạo đời Antiôcô cũng vì sợ mất lòng Chúa nên thà chết chẳng thà bỏ đạo.
* Tại Việt Nam ta ngày trước, nhiều tín hữu bị nhốt vào tù. Quan dạy đi ra hai cửa: sinh môn và tử môn. Ai qua “sinh môn” thì phải đạp ảnh. Những người bị giam đều qua “tử môn” có quân lính trực sẵn, hễ ai bước qua thì chém đầu.
* Trên đồi Dã Viên, đời cấm đạo, giáo hữu phải giam trong cũi, nhịn khát mấy ngày bên bờ sông Hương. Ai đạp ảnh mới được uống nước. Các đấng thà chết khát...
Người Công giáo thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa, bỏ nghĩa vụ.
05/03 Tha thứ bắt chước Thiên Chúa Cha
- Viết bởi Mt 18, 21-35
Tha thứ bắt chước Thiên Chúa Cha.
Thứ Ba tuần 3 Mùa Chay.
“Nếu mỗi người trong chúng con không tha thứ cho anh em, thì Chúa Cha cũng không tha thứ cho chúng con”.
Lời Chúa: Mt 18, 21-35
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?”
Chúa Giêsu đáp: “Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ.
Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả”. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc. Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: “Hãy trả nợ cho ta”. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh”. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện.
Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hết lòng tha thứ
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
“Tôi viết cho anh, người bạn vào giây phút cuối của đời tôi…
Vâng, tôi cũng xin nói với bạn tiếng Cám ơn và lời Vĩnh biệt này…
Ước gì chúng ta, những người trộm lành hạnh phúc,
được thấy nhau trên Thiên đàng, nếu Thiên Chúa muốn,
Người là Cha của hai chúng ta.”
Đây là những câu cuối trong di chúc của cha Christian de Chergé,
tu viện trưởng của một đan viện khổ tu ở Tibhirine, nước Algérie, châu Phi.
Cha viết những câu này vào cuối năm 1993 cho một người nào đó sẽ giết mình.
Ngày 21-5-1996, cha đã bị nhóm Hồi giáo vũ trang chặt đầu
cùng với sáu tu sĩ khác trong đan viện.
Cha Christian gọi kẻ sẽ giết mình là bạn, chứ không phải là kẻ thù hay sát nhân.
Cha coi mình cũng là tên trộm lành chẳng khác gì anh ta, cũng cần được tha thứ.
Cha chỉ mong gặp lại anh ta trên Thiên đàng,
vì cả hai đều là con, cùng được tha vì được yêu bởi Thiên Chúa.
Dụ ngôn hôm nay hẳn đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của cha Christian.
Có hai người mắc nợ, cả hai đều là đầy tớ của cùng một ông chủ.
Một người mắc nợ ông chủ một món nợ cực lớn, mười ngàn yến vàng.
Một người mắc nợ đồng bạn mình một món nợ nhỏ, một trăm quan tiền,
mà người đồng bạn ấy lại chính là người đang mắc nợ ông chủ.
Cả hai đều không trả nổi và năn nỉ xin hoãn.
Ông chủ chạnh lòng thương tha luôn món nợ cho người thứ nhất.
Nhưng người này lại dứt khoát không chịu hoãn lại cho người thứ hai.
Anh ta đã tống bạn mình vào ngục.
“Đến lượt ngươi, ngươi lại không phải thương xót người đầy tớ đồng bạn
như chính ta đã thương xót ngươi sao?” (c. 33).
Lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa như dòng suối chảy vào đời tôi.
Thương xót tha thứ chính là để cho dòng suối ấy chảy đi,
chảy đến với người xúc phạm đến tôi nhiều lần trong ngày.
Tôi tha bằng chính sự tha thứ mà tôi đã nhận được từ Thiên Chúa.
Không tha là giữ dòng suối đó lại, và biến nó thành ao tù.
Không tha là đánh mất cả những gì mình đã nhận được.
Người mắc nợ ông chủ nhiều, đã được tha một cách quảng đại bất ngờ,
nhưng sự tha thứ đó đã bị rút lại.
Chỉ ai biết cho đi sự tha thứ mới giữ lại được nó cho mình.
Chúng ta đều là người mắc nợ và đều là đầy tớ của Thiên Chúa.
Tôi nợ Chúa nhiều hơn anh em tôi nợ tôi gấp bội.
Sống với nhau tránh sao khỏi có lúc thấy mình bị xúc phạm.
Chỉ tha thứ mới làm cho tôi đi vào được trái tim của Thiên Chúa nhân hậu.
Chỉ tha thứ mới làm tôi được nhẹ lòng, và người kia được giải thoát.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.
R. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)
Suy Niệm 2: Tha thứ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người vốn yếu hèn. Lầm lỗi là con người. Biết sống là biết tha thứ.
Tha thứ là biết Chúa. Thiên Chúa nhân hậu, nhẫn nại, giầu lòng xót thương và luôn tha thứ. Ta tội lỗi ngập tràn. Nhưng Chúa luôn tha thứ. Dụ ngôn hôm nay cho thấy sự tha thứ của Chúa là không giới hạn. Nợ 10 ngàn yến vàng là nợ quá lớn không ai có thể trả nổi. Vậy mà chỉ cần một lời van xin, Thiên Chúa tha ngay. Người tha thứ dễ dàng, tức khắc, không điều kiện, và vĩnh viễn. Nhận biết Thiên Chúa rộng lượng, giầu lòng thương xót, luôn luôn tha thứ sẽ dẫn ta đến biết mình.
Tha thứ là biết mình. Khi biết mình yếu đuối, ta dễ thông cảm với người khác. Nếu người khác chấp nhất tội lỗi của ta, ta sẽ không sống nổi. Vì ta cũng đã lỗi phạm đến người khác nhiều lần. Biết mình cần được tha thứ, ta sẽ dễ tha thứ cho người khác. Nhưng trên hết khi tha thứ ta nhận được ơn tha thứ của Chúa. Chúa tha thứ cho ta nhưng với điều kiện ta cũng phải tha thứ cho anh em. Cho người khác 100 quan tiền để nhận được 10 ngàn yến vàng. Ta được lợi lớn.
Tha thứ như thế là biết sống. Đời sống thành công là đời sống an vui hạnh phúc. Ta an vui khi mọi người chung quanh cùng an vui. An vui chỉ có được với những tâm hồn quảng đại, tha thứ. Chúa là yêu thương, là tha thứ. Không yêu thương tha thứ, ta không thể phù hợp với Thiên Chúa, không thể lãnh nhận được hạnh phúc. Con người là bất toàn. Muốn sống chung cần tha thứ và được tha thứ. Đó là biết sống, tạo hạnh phúc cho chính mình.
Tóm lại, tha thứ là biết yêu. Xét cho cùng tha thứ chính là tình yêu. Đây là cốt lõi của vấn đề. Tha thứ chỉ có được khi có tình yêu. Chúa tha thứ cho ta vì yêu thương ta. Và Chúa dạy ta phải tha thứ cho tha nhân. Vì tha nhân không phải người xa lạ, mà là anh em ta. Phê-rô nhận điều này khi hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần?” Người khác là anh em ta trong gia đình Thiên Chúa. Anh em phải có tình yêu thương. Đó chính là giới răn của Chúa. Tình yêu là không giới hạn nên phải tha thứ mãi mãi. Còn tha thứ là còn yêu thương. Còn yêu thương là còn thuộc về Chúa, còn là con cái trong nhà Cha, còn là công dân Nước Trời. Hết tha thứ là hết yêu thương, không còn là con Cha yêu thương, không còn là công dân trong Vương quốc tình yêu.
Suy Niệm 3: Tha thứ
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Tha thứ đến 7 lần, đó là tha thứ theo đúng công bằng của lề luật, của lý luận con người. Nhưng Chúa Giêsu còn đi xa hơn bằng cách nói: tha thứ cho đến 70 lần bẩy.
Trong dụ ngôn người đầy tớ mắc nợ, người này xin chủ chờ thêm thời gian nữa anh sẽ trả hết, nhưng chủ đã tha luôn cả số nợ. Thế mà anh đã không hành xử như vậy đối với người bạn chỉ mắc nợ anh một trăm bạc. Chúa Giêsu đã đưa ra bài học từ dụ ngôn này: “Cha Ta trên trời sẽ xử với các người như thế nếu mỗi người trong các ngươi thật lòng tha thứ cho anh em mình”.
Chúng ta hãy kiểm điểm xem chúng ta đã sống thế nào về điều chúng ta thường cầu nguyện: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Về vấn đề này tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ như sau:
“Tính phê bình chỉ trích là một trở ngại lớn cho đời sống siêu nhiên. Chỉ tiêu cực phàn nàn kẻ khác, con quấy rầy họ, và muôn đắng cay trong lòng con. Va chạm người khác là sự thường. Sống trong một xã hội không va chạm nhau chỉ có thể là Thiên đàng. Một hòn đá nhờ va chạm mà bóng láng hơn, sạch đẹp hơn. Phàn nàn là bệnh dịch hay lây, triệu chứng là bi quan, mất bình an, nghi ngờ, mất nhuệ khí kết hiệp với Chúa. Bác ái không chỉ có yêu thương và tha thứ. Bác ái là cả một hành động để tạo bầu khí mới giữa cộng đồng xã hội, quốc gia và quốc tế, biến thế giới của thú vật nên thế giới của con người, biến thế giới của con người nên thế giới của con Chúa. Chỉ giây phút hiện tại là quan trọng. Đừng nhớ ngày hôm qua của anh em để chỉ trích. Đừng nhớ ngày hôm nay của con để khóc lóc, nó đã vào dĩ vãng. Đừng nhìn ngày mai của con để bi quan, nó còn trong tương lai. Giao quá khứ cho lòng nhân từ của Thiên Chúa, giao tương lai cho sự quan phòng của Ngài và giao tất cả cho tình yêu Chúa”.
Xin Chúa hướng dẫn chúng ta trên con đường canh tân cuộc sống đức tin và đức ái. Xin Chúa ban cho chúng ta mỗi ngày được nên giống Chúa hơn để xây dựng hoà bình và hoà hợp trong môi trường chúng ta sống.
Suy Niệm 4: Tha thứ vô bờ
Bấy giờ ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Đức Giê-su đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.” (Mt. 18, 21-22)
Khi Phê-rô hỏi: “Nếu anh em cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ mấy lần? Có phải bảy lần không”. Thế là ông tốt lắm rồi. Ông đã vượt mức luật cũ: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Còn chúng ta, có ai đã tha thứ đến bảy lần chưa?
Những trường phái Rabbi đã định mức tha thứ thế nào? Tha cho vợ mấy lần, cho con cái, cho anh chị em mấy lần? Họ cãi nhau xem phải ấn định mấy lần, phải tha thứ, luật của trường phái nào mới đúng?
Nhưng Đức Giê-su không đứng đầu trường phái nào, với Người, không có mức nào hết, vì Người không tự đóng khuôn vào khu vực số lượng nhiều hay ít. Chúng ta muốn được Thiên Chúa tha thứ vô cùng thì chúng ta phải biết tha thứ không tính toán.
Khi bạn tha thứ, bạn đừng nhìn vào sức nặng của xúc phạm, nhưng hãy nhìn vào Thiên Chúa và nhìn lại cuốn sổ ghi lỗi của bạn. Chỉ có kẻ vô tội mới được phép luận tội và tha thứ thôi. Tất cả chúng ta đều là kẻ có tội và được thương xót tha thứ, cho nên chúng ta đo lòng thương xót của mình đối với kẻ có nợ chúng ta là tự phụ. Chúng ta cần nhớ bài học này: Theo đức tin, trước nhất chúng ta phải luôn luôn nhìn lên Chúa trước khi xét đoán anh em mình, và lúc đó chúng ta sẽ được đầy lòng nhân hậu khoan dung êm ái và yêu thương.
Lời của Đức Giê-su ban đầu có vẻ kỳ dị, nhưng nhìn kỹ, thì thấy khôn ngoan biết bao … Trong thế giới pháp chế trói buộc nặng nề này, không còn quan tâm đến con tim, thì tốt lành biết bao khi được nghe những bài diễn văn về lòng thương yêu tha thứ.
J.G
Suy Niệm 5: Hãy biết “yêu” như Chúa
Có một anh bạn hỏi một người Công Giáo rằng: “Nếu để nói một câu ngắn gọn nhất nhằm tóm gọn toàn bộ giáo lý về đạo Công Giáo thì bạn sẽ nói câu nào?”; bạn trẻ Công Giáo trả lời, đó là chữ: “Yêu”.
Thật vậy, chữ “yêu” là chữ cốt lõi của đạo Công Giáo. Vì yêu, Thiên Chúa dựng nên trời đất và con người. Vì yêu, Ngài đã cứu thoát họ khỏi Ai Cập, đưa về Đất Hứa. Vì yêu Thiên Chúa đã gửi các ngôn sứ đến để dạy dỗ dân. Vì yêu, Thiên Chúa đã ban Con Một của mình đến để cứu chuộc nhân loại. Đấng ấy là Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã dạy dỗ, yêu thương, tha thứ cho kẻ thù và cuối cùng, vì yêu nên Đức Giêsu đã chết cho người mình yêu.
Hôm nay, Tin Mừng một lần nữa xác định căn cốt đó khi trình thuật cuộc nói chuyện giữa Đức Giêsu và Phêrô. Khởi đi từ câu hỏi của Phêrô: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy".
Tha như thế là tha mãi, tha không giới hạn, không điểm dừng, không so đo tính toán thiệt hơn. Tha như thế là đi vào mối tương quan với Thiên Chúa là tình yêu, và làm toát lên đạo mới, “đạo yêu thương”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tha thứ và tha thứ không ngừng nghỉ!
Tha thứ như thế thì mới được Thiên Chúa tha thứ cho mình.
Tha thứ là một điều rất khó, nhưng nó là tuyệt đỉnh và cao quí nhất mà Đức Giêsu đã cống hiến cho con người.
Tha thứ còn là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa nhất, bởi vì nhờ tha thứ, con người trở nên giống Thiên Chúa vì Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho loài người là Thiên Chúa của tha thứ không ngừng. Vì thế, chỉ có một mình Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy, mới có thể đòi hỏi con người: “Ta không bảo con phải tha đền bẩy lần, nhưng là đến bẩy mươi lần bẩy”, tức là tha không ngừng.
Nếu có khó khăn trong việc tha thứ, ấy là chúng ta vẫn nhìn vào sức nặng của sự xúc phạm mà đối phương đã gây ra cho ta, trong khi đó, lẽ ra chúng ta phải nhìn vào tình thương của Thiên Chúa đối với mình khi Ngài tha thứ tội lỗi cho ta.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa dạy chúng con hôm nay thật tuyệt vời, vì nếu chúng con không tha thứ thì làm sao chúng con được Chúa thứ tha trong khi chúng con là kẻ có tội? Xin Chúa ban cho chúng con có lòng nhân hậu như Chúa là Đấng Nhân Hậu. Biết yêu tha thiết để sẵn sàng tha thứ không ngừng nghỉ như Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Tha thứ cho nhau, vì được Chúa tha thứ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Hãy tha thứ cho nhau, vì ta đã được Thiên Chúa tha thứ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa thật quảng đại vô cùng. Không những Chúa đã tác tạo nên con, ban ơn để con được sống, mà ngay cả khi con xúc phạm đến Chúa, Chúa cũng tha thứ cho con. Cuộc đời con là những chuỗi ngày tội lỗi và phản bội tình yêu của Chúa. Nhưng Chúa đã tha thứ cho con từ khi con chưa có mặt trên đời này. Từ ngày con chưa sinh ra, tình yêu của Chúa đã lấp đầy trên con. Rồi từng ngày trong cuộc sống, tình yêu Chúa hằng ấp ủ con. Tấm lòng Chúa thật bao la vô bờ bến.
Hôm nay đây, khi đứng trước tấm lòng bao la ấy, đứng trước một tình yêu ngất trời như vậy, con chợt thấy lòng mình hẹp hòi nhỏ nhoi làm sao! Con hẹp hòi nhỏ nhoi với Chúa và với anh em con. Chúa đã tha thứ cho con tất cả. Vậy mà chúng con vẫn chưa biết tha thứ cho nhau, vẫn chấp nhất nhau trong từng lời nói, và từng việc làm nhỏ bé. Bao nhiêu cuộc chiến tranh khốc liệt, bao nhiêu sự đổ vỡ không hàn gắn được, tất cả đều xuất phát từ tấm lòng nhỏ nhen ích kỷ của chúng con. Xin Chúa tha thứ cho chúng con và giúp chúng con biết tha thứ cho nhau.
Chúa dạy con làm việc bác ái, con có thể làm được. Nhưng Chúa dạy con tha thứ cho anh em thì lạy Chúa, con thấy thật khó. Bởi vì khi cho đi tiền bạc của cải, con cho những cái ở ngoài con. Còn khi cho đi sự tha thứ, con phải lấy chính lòng con để trao tặng cho người khác. Có nghĩa là con chấp nhận để người khác cào cấu vào tim con. Xin Chúa ban ơn giúp sức để con biết tha thứ cho anh em con. Con tha thứ không những để được Chúa tha thứ, mà con muốn tha thứ, vì trước hết chính Chúa đã tha thứ cho con hết rồi. Xin cho con biết sống xứng đáng với lòng quảng đại của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu mỗi người trong chúng con không tha thứ cho anh em, thì Chúa Cha cũng không tha thứ cho chúng con”.
Suy Niệm 7: Tha đến đến bảy mươi lần bảy
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Văn hào Ernest Hemingway đã kể câu chuyện về một người cha và cậu con trai đang ở lứa tuổi thiếu niên. Mối quan hệ cha con của họ không được tốt đẹp và luôn căng thẳng. Cuối cùng, sau một trận cãi vã kịch liệt, cậu bé đùng đùng bỏ nhà ra đi.
Tuy giận dữ và đau lòng, nhưng người cha biết rằng con mình rất cần sự uốn nắn và dạy dỗ để trưởng thành. Vậy nên, ông đã bôn ba khắp nơi để tìm kiếm đứa con nổi loạn. Cuối cùng, khi tới Madrid, trong nỗ lực cuối cùng của mình, ông cho đăng một thông cáo trên báo: “Paco thương yêu, hãy đến gặp cha chiều mai trước cửa tòa soạn. Mọi tội lỗi đều được tha thứ. Cha yêu con. Cha của con”.
Chiều hôm đó, người cha đến tòa soạn thật sớm vì ông không muốn trễ giây phút nào để gặp đứa con thân yêu của mình. Và điều bất ngờ là, tới đó, ông đã gặp… 800 cậu bé tên Paco. Cả 800 cậu bé này đều đã bỏ nhà ra đi và đều đang mong đợi sẽ gặp được người cha rộng lượng của mình ở đó với vòng tay dang rộng yêu thương.
Suy Niệm
Sự khoan dung tha thứ là đỉnh cao của đức ái Kitô giáo mà Kinh Thánh đã dạy: Yêu thương tha thứ trước lỗi lầm của anh em: Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?”. Chúa Giêsu đáp: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Không phải một màlà bảy mươi lần bảy (x. Mt 18,21-22; Lc 23,34), nghĩa là luôn tha thứ. Chính Chúa Giêsu đã làm gương sống động của lòng thứ tha khi trên thập giá Ngài tha thứ cho những kẻ giết hại mình (x. Lc 23,34).
Trước lỗi lầm của anh em mà họ đã chân thành nhận lỗi. Như Chúa Giêsu dạy người môn đệ phải có lòng vị tha, tha thứ không chỉ quên đi những điều không phải nhưng sẵn sàng tái lập lại sự giao hảo giữa hai người.
Hơn nữa, sống tha thứ con giải thoát chính chúng ta khỏi những xiềng xích của cảm xúc giận hờn đè nặng, làm cho cuộc sống được thư thái tự do, sức khỏe, thăng tiến. Thiếu tha thứ, đời sống con người bị ảnh hưởng từ cá nhân đến đời sống cộng đồng. Vị tha để sự bình an tâm hồn và thân xác mỗi cá nhân được đơm hoa kết trái và chính hoa trái đó làm nên hạt giống gieo hòa bình cho quốc gia và thế giới.
Trong bình diện tâm linh, tương quan ơn cứu độ, sách Huấn Ca dạy: “Ngươi hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha” (Hc 28,2). Chúa Giêsu qua kinh Lạy Cha cũng dạy: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12; Lc 11,4). Tha nợ do đòi hỏi bó buộc của Thiên Chúa, Ngài tha nợ cho chúng ta như chúng ta biết đã tha thứ cho anh em. Đây không chỉ là một điều kiện mà còn là một thái độ chuẩn bị: Khi tha thứ cho anh em, chúng ta cũng ao ước được Chúa tha thứ rộng rãi cho mình. Người có tha thứ mới thật lòng muốn được tha thứ và mới đáng nhận được ơn tha thứ.
Lạy Chúa, con khẩn thiết xin ơn tha thứ, hãy cho con có sức mạnh, can đảm để con tha thứ cho anh em và chính con cũng được ơn thứ tha.
Ý lực sống: “Vì nhân ái nên lòng khoan dung độ lượng thứ tha là của bậc quân tử. Quân tử không tưởng, không nhớ lỗi lầm của người khác, mà chú trọng giáo hóa người lầm lỗi biết hối cải và nên người - quân tử vị tiểu nhân tức là người lầm lỗi là “quân tử chưa thành và sẽ thành” (Khổng Tử).
Suy Niệm 8: Hãy tha thứ cho nhau
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay Đức Gêsu dạy ta về sự tha thứ. Dụ ngôn về sự tha thứ nhắm tới đời sống cộng đoàn. Quả vậy, trong đời sống chúng ta, vì tính tình xung khắc, nên đã gây ra nhiều điều phiền toái, chia rẽ, đố kỵ, thù oán... Nhưng nhờ sự tha thứ, đời sống chung lấy lại được hòa khí, bình an và hiệp nhất. Nhưng Đức Giêsu lưu ý chúng ta vài khía cạnh quan trọng:
-Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho chúng ta cho dù tội chúng ta xúc phạm đến Ngài rất nhiều. Ta không thể đền tội cho đủ nhưng Chúa vẫn tha vì Ngài “động lòng thương”.
- Nhưng chúng ta củng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài đối với chúng ta.
- Ngoài ra hãy khôn ngoan tha lỗi nhỏ cho anh em để Chúa sẽ tha thứ những lỗi lầm lớn của chúng ta đối với Chúa.
2. Tha thứ xem ra không phải là điều tự nhiên đối với con người. Phải trải qua một thời gian lâu dài, nhân loại mới nhận ra được ý nghĩa và sự cần thiết của tha thứ. Xã hội nguyên thủy không dung tha cho tội phạm của cá nhân.
Sách Khởi nguyên nói đến sự trừng phạt mạnh hơn 70 lần 7 lỗi phạm của con người. Sang đến sách Xuất hành, người ta thấy có một tiến bộ quan trọng khi luật Maisen đã ra luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, ít ra ở đây hình phạt cũng tương xứng với lỗi phạm. Sách Lêvi đi xa hơn, tuy không bắt buộc phải tha thứ, nhưng sách này nói đến tình liên đới giữa anh em với nhau và cấm không được nại đến việc tố tụng để giải quyết những tranh chấp giữa anh em với nhau. Như vậy, ít ra sự tha thứ cũng đã manh nha trong quan hệ ruột thịt (Mỗi ngày một tin vui).
3. Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại. Cốt lõi giáo huấn của Ngài là tình yêu, mà cao điểm là sự tha thứ. Chính Ngài đã tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Vậy tha thứ bao nhiêu lần là tối đa, hay tha thứ bao nhiêu lần là không thể tha thứ được nữa? Xưa kia ông Phêrô cũng đã băn khoăn như thế và ông cho rằng chỉ tha thứ đến 7 lần là tối đa, vì như thế là đã vượt quá sự khuyến cáo của các luật sĩ đến bốn lần rồi: “Quá tam ba bận”. Nhưng Đức Giêsu bảo ông: Tha thứ thì không có giới hạn, không phải ba lần, bảy lần mà là bảy mươi lần bảy. Chúa không có ý bảo là 490 lần mà có nghĩa là phải tha thứ luôn luôn, phải tha thứ mãi mãi, bao lâu người ta còn xúc phạm đến mình thì còn phải tha thứ.
4. Chính Đức Giêsu đã làm gương sống động của lòng tha thứ khi trên Thập giá Ngài tha thứ cho nhưng kẻ giết hại mình. Vì vậy Đức Giêsu dạy môn đệ phải có lòng vị tha, tha thứ không chỉ quên đi những điều không phải nhưng sẵn sàng tái lập sự giao hòa giữ hai người.
Hơn nữa, sống tha thứ còn giải thoát chính chúng ta khỏi những xiềng xích của cảm xúc giận hờn đè nặng, làm cho cuộc sống được thư thái tự do, sức khỏe thăng tiến. Thiếu tha thứ, đời sống con người bị ảnh hưởng từ cá nhân đến đời sống cộng đồng. Vị tha để sự bình an tâm hồn và thân xác mỗi cá nhân được đơm hoa kết trái và chính hoa trái đó làm nên hạt giống gieo hòa bình cho quốc gia và thế giới.
5. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết: Nợ nần của chúng ta đối với Chúa hết sức lớn lao, đó là tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Chúa rất kinh khủng, và tự sức mình chúng ta không thể nào thanh toán nổi. Trong khi đó món nợ của anh em mắc với chúng ta chỉ là những lỗi lầm không đáng kể, thế mà chúng ta lại khắt khe với anh em: xin không tha, trả không nhận, rồi bực tức ngày đêm, để lòng hờn giận, tìm dịp báo thù, thật là quá tệ. Kết quả là chúng ta chẳng được Thiên Chúa tha thứ, vì chính chúng ta đã tự lên án mình, khi chúng ta không tha thứ cho người khác. Chúa cũng chẳng tha cho chúng ta.
6. Truyện: Gương Bà Coritanbun tha thứ.
Liền sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình Bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng vào một Chúa nhật nọ, sau khi kêu gọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài Bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc. Đó là dung mạo của người lính đã hành hạ Bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí Bà.
Lúc đó người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa Bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của Bà kêu gọi sự tha thứ. Xin Bà tha thứ cho tôi”. Bà Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây Bà đã cầu nguyện và quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng im lặng, tay không thể nào bắt tay người đến xin Bà tha thứ.
Sau này vào năm 1971 khi kể lại biến cố ấy trong tập sách “Nơi ẩn trốn”, Bà đã cho biết “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó Bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thư cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Chúa. (Món quà ngày Giáng Sinh).
Suy Niệm 9: Sự tha thứ của Thiên Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước trích lời cầu xin của Adaria. Khi đó dân Do Thái đang bị lưu đày bên Babylon. Họ biết họ đang khổ sở là vì tội họ đã phạm trước kia. Adaria xin Chúa tha tội cho dân. Nhưng hiện nay trong hoàn cảnh bị lưu đày, dân chẳng có lễ vật dâng lên Chúa để đền tội như luật định, cho nên Adaria chỉ biết kêu xin đến tình thương của Chúa: “Lạy Chúa, vì lòng từ bi sung mãn của Chúa, xin làm những việc lạ lùng mà cứu thoát chúng tôi”.
2. Dụ ngôn trong bài trích Phúc Âm cũng nói đến sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng lưu ý vài khía cạnh quan trọng:
- Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ chúng ta cho dù tội chúng ta xúc phạm đến Ngài rất nhiều (như ông quan thiếu nợ ông vua một ngàn nén bạc). Ta không thể nào đền tội cho đủ (ông quan không có gì để trả chỉ biết nài xin. Và ông vua tha chỉ vì “động lòng thương”).
- Nhưng chúng ta cũng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài đối với chúng ta.
- Dụ ngôn còn khuyên ta chớ ngu dại vì không chịu tha cho anh chị em một trăm đồng bạc để không được Chúa tha cho ta mười ngàn nén bạc và còn phải “trao cho lý hình hành hạ cho đến khi trả hết nợ”.
B. Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Muốn tha thứ thì chỉ nên nghĩ đến tình chứ không nghĩ đến lý, cũng không tính theo lẽ công bằng. Để cầu xin ơn tha thứ cho dân, Adaria không dám kể đến những lễ vật dâng cho Chúa, mà chỉ dám nói ”Xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa”. Ông vua trong dụ ngôn mà bài trích Phúc Âm hôm nay nói đến, tha thứ cũng chỉ vì ”động lòng thương”.
2. Sau khi nói đến ông vua phạt người đầy tớ không chịu tha cho bạn mình, Chúa Giêsu kết luận ”Cha trên trời cũng sẽ đối xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Ta đừng coi đây chỉ là một lời hăm dọa suông, mà hãy coi đây là một sự thật.
3. Một trong những việc cần làm ngay trong Mùa Chay là hãy duyệt lại những mối tương giao của mình với người khác. Nếu thấy có bất hoà, xung khắc hoặc nghịch với ai thì phải lo giải quyết cho xong.
4. Liền sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình Bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng vào một Chúa Nhật nọ, sau khi kêu gọi mọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài Bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc. Đó là dung mạo của người lính đã hành hạ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí Bà.
Lúc đó người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa Bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của Bà kêu gọi sự tha thứ. Xin Bà tha thứ cho tôi”. Bà Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây bà đã cầu nguyện và quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng lặng im, tay không thể nào bắt tay người đến xin bà tha thứ.
Sau này vào năm 1971 khi kể lại biến cố ấy trong tập sách “Nơi ẩn trốn”, bà đã cho biết “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó Bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Thiên Chúa. (Trích “Món quà giáng sinh”)
Suy Niệm 10: Chúa tha thứ, và chúng ta tha thứ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Các bản văn Phụng vụ hôm nay nói đến sự tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ miễn là chúng ta cũng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài.
Vâng, muốn tha thứ thì chỉ nên nghĩ đến tình chứ không nên nghĩ đến lý, cũng không được tính theo lẽ công bằng. Để cầu xin ơn tha thứ cho dân, Adaria không dám kể đến những lễ vật dâng cho Chúa, mà chỉ dám nói: “Xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa”. Ông vua trong dụ ngôn Tin Mừng tha thứ cũng chỉ vì “động lòng thương”.
Sau khi nói đến việc ông vua phạt người đầy tớ không chịu tha cho bạn mình, Chúa Giêsu kết luận: “Cha trên trời cũng sẽ đối xử với các con đúng như thế nếu các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35). Ta đừng coi đây chỉ là một lời hăm dọa suông, mà hãy coi đây là một sự thật.
Như vậy, một trong những việc cần làm ngay trong Mùa Chay là hãy duyệt lại những mối tương giao của mình với người khác. Nếu thấy có bất hoà, xung khắc hoặc nghịch với ai thì phải lo giải quyết cho xong.
Đây là chứng từ của một tù nhân Đức Quốc Xã trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Tác giả của câu chuyện tên là bà Anne Furish, người Tiệp Khắc. Vì bà đã lén lút săn sóc các thương binh, nên đã bị quân Đức Quốc Xã bắt giữ. Đây là chứng từ bà kể lại:
“Mỗi ngày, những người lính canh chỉ cho chúng tôi một mẩu bánh mì nhỏ có dính cả mạt cưa, cho nên nhiều người trong chúng tôi ăn vào đã mắc bệnh. Những khi nhận được bánh mì đã khô cứng không còn ăn được, thì chúng tôi vò lại để làm thành những hạt chuỗi. Ở đó, có một tên quản giáo đặc biệt hung ác. Nếu mỗi tuần hắn không giết được hai tù nhân thì hắn ta không ăn ngủ được. Tôi đã bị hắn đánh đập nhiều lần. Nhưng tôi vẫn hằng cầu xin Chúa cho tôi biết tha thứ cho hắn, bởi vì tôi biết rằng, nếu tôi không tha thứ, thì thù oán có thể đục khoét và trở thành độc dược phá hủy tâm hồn tôi. Tôi cầu xin Chúa cho tôi có thể nói với hắn thế này: “Tôi tha thứ cho anh và tôi thương yêu anh, bởi vì Đức Kitô đã chết cho tôi và anh trên cây Thập Giá”. Lần cuối cùng, khi hắn đánh đập tôi, tôi tưởng mình chết đến nơi, thế nhưng, Chúa đã dùng trận đòn ấy để nhận lời tôi.
Sau trận đòn, tên quản giáo đưa tôi về trại giam. Và lạ lùng thay, từ đó, hắn đến thăm tôi mỗi ngày. Hắn còn mang cả sữa tới và nhờ các tù binh khác dùng muỗng đút cho tôi uống nữa. Tôi bị hôn mê nhiều ngày và khi tỉnh dậy, tôi đã ngạc nhiên hết sức khi thấy tên quản giáo đang ngồi bên cạnh tôi. Lính tráng như họ vì sợ lây bệnh cho nên ít có khi nào họ đến trại giam. Hắn nói với tôi:
- Cô hãy nói cho tôi biết ai là bạn trai của cô?
Tôi hỏi lại hắn:
- Ông muốn nói gì?
Hắn giải thích:
- Người bạn trai tên là Giêsu của cô đó! Tôi muốn được nghe cô nói cho tôi biết về người đó!
Tôi hiểu rằng, Chúa đã cho tâm hồn sắt đá này trở nên dịu dàng. Tôi bắt đầu khóc vì sung sướng. Và từ lúc đó, tên quản giáo không bao giờ đánh đập tôi nữa. Mỗi ngày hắn đến thăm tôi và nghe tôi nói về Đức Giêsu, từ lúc Ngài sinh ra cho đến khi Ngài chết trên cây Thập Giá.
Một ngày nọ, tên quản giáo lại hỏi tôi:
- Cô có nghĩ rằng, Chúa của cô cũng yêu thương cả tôi nữa không? Cô có nghĩ rằng, Chúa đã tha thứ cho những gì tôi đã làm không?
Tôi nói với hắn ta:
- Dĩ nhiên Chúa yêu thương anh, cũng như chính Ngài đã ban ơn để anh đến hỏi tôi về điều đó.
Năm 1946, vào một đêm kia, người quản giáo ấy đến đánh thức tôi dậy. Ông ra hiệu cho tôi thinh lặng và đưa tôi lên một chiếc xe tải đậu gần đấy. Sau này tôi mới được biết là đúng lý ra, một người đàn bà khác đã được chọn để di chuyển trong chuyến xe đó, nhưng rồi bà ta lại qua đời trong chính đêm ấy, nên người quản giáo đã tráo tên tôi vào tên của người quá cố. Tôi đã được cứu sống trên chuyến đi này. Và cũng kể từ đó, tôi đã không gặp lại người quản giáo ấy nữa. Qua sự tha thứ, tôi cảm thấy mình được tự do để yêu mến người khác. Thêm vào đó, tôi còn cảm thấy mình dễ dàng thông cảm với thân phận con người hơn! Phải, nhờ sự tha thứ mà tôi đã trưởng thành hơn nhiều!
Biết đâu trong chúng ta đã có lần cưu mang trong mình những kỷ niệm oán thù. Xin Chúa tha thứ và ban cho chúng ta được tham dự vào sự sống Thần Linh, sự sống tuôn trào niềm yêu thương và sự cảm thông tha thứ của Ngài.
04/03 Đời sống đức tin thật.
- Viết bởi Lc 4, 24-30
Đời sống đức tin thật.
Thứ Hai tuần 3 Mùa Chay.
“Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu”.
Lời Chúa: Lc 4, 24-30
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng): “Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria”.
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Băng qua giữa họ mà đi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe
về kết cục khá bất ngờ và đau đớn của Đức Giêsu
khi Ngài trở về với hội đường của làng Nazareth thân quen.
Nơi đây Ngài gặp lại những người đồng hương.
Họ ngỡ ngàng trước những lời Ngài giảng.
Họ muốn Ngài làm những điều Ngài đã làm ở Caphácnaum (Lc 4, 23).
Nhưng Đức Giêsu đã đáp lại bằng câu tục ngữ:
“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê nhà của mình” (c. 24).
Đức Giêsu tự nhận mình là một ngôn sứ.
Như những ngôn sứ khác trong lịch sử Israel,
Ngài cũng không được đón nhận và tin tưởng bởi những người cùng quê.
Họ nghĩ mình đã quá biết Ngài, biết gia tộc, biết nghề nghiệp,
biết quá khứ từ ấu thơ đến lúc trưởng thành.
Chính cái biết ấy, đúng nhưng không đủ,
lại trở thành một chướng ngại cho việc họ nhận ra Ngài thật sự là ai.
“Ông này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4, 22).
Đúng Ngài là con ông Giuse, một người thợ mộc.
Đúng ngài là ông thợ mộc độc thân người làng Nazareth.
Giêsu Nazareth là tên được ghi trên thập tự,
Nazareth sẽ mãi mãi đi với tên Ngài để phân biệt ngài với những Giêsu khác.
Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường Nazareth, quê nhà của mình.
Ngài quen biết những khuôn mặt trong hội đường này và yêu mến họ.
Nhưng sứ mạng của Ngài trải rộng hơn Nazareth nhiều.
Ngài cho thấy mình không bị trói buộc bởi mối dây làng xã,
cũng không bị giữ chân bởi những người đồng bào cùng tôn giáo.
Để biện minh cho thái độ rộng mở của mình,
Đức Giêsu đã nhắc đến hành động của hai vị ngôn sứ thời Cựu Ước.
Êlia, vị ngôn sứ đầy quyền năng, được Thiên Chúa sai đến với một bà góa.
Bà này là một người dân ngoại sống ở Siđôn vùng dân ngoại.
Êlisa, vị ngôn sứ học trò của Êlia, đã chữa bệnh phong cho Naaman.
Ông này là người dân ngoại, chỉ huy đạo quân của Syria.
Như thế các vị ngôn sứ nổi tiếng đã không bị bó hẹp trong dân Do thái.
Họ đã mở ra với dân ngoại.
Đức Giêsu cũng chẳng bị giới hạn bởi bất cứ biên cương nào.
Ngài chẳng dành cho quê nhà Nazareth một ưu tiên nào.
Phải chăng vì thế mà Ngài làm họ phẫn nộ đến độ muốn xô Ngài xuống vực?
Nỗi đe dọa lại đến từ chính những người đồng hương.
Làm sao chúng ta nhận ra và chấp nhận những ngôn sứ bề ngoài rất bình thường
đang sống trong cộng đoàn chúng ta hôm nay?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
Suy Niệm 2: Đức tin trong đời thường
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đức tin là ánh sáng giúp ta nhìn thấy những gì mắt thường không thấy hay khó thấy.
Mắt thường chỉ nhìn những gì lớn lao. Mắt đức tin nhìn những gì bé nhỏ. Chúa Giêsu dạy ta hãy biết nhìn những gì bé nhỏ. Như cánh chim sẻ trên bầu trời. Như bông hoa huệ ngoài đồng. Bé nhỏ nhưng lại tuyệt vời nói lên sự quan phong của Chúa Cha.
Mắt thường chỉ nhìn những gì may mắn. Mắt đức tin mới biết nhìn những gì thiệt thòi. Bá góa Sa-rép-ta đã tin nên dám chấp nhận thiệt thòi. Vì tin tiên tri Ê-li-a nên bà đã dám làm bánh cho vị tiên tri ăn trước. Đây là việc làm nhỏ nhoi nhưng đức tin thật lớn. Dám đánh cuộc cả mạng sống mình.
Mắt thường chỉ nhìn những gì lạ lùng. Mắt đức tin biết nhìn những gì quen thuộc bình thường trong đời sống. Người ta dễ thần tượng những người xa lạ. Người có đức tin thật sẽ biết thấy Chúa trong những gì quen thuộc bình thường trong đời sống hằng ngày. Dân làng Na-za-reth không tin Chúa Giê-su vì biết rõ gốc gác tầm thường của Người.
Tướng Na-a-man đã có đức tin. Dám tin người giúp việc cho mình. Đức tin hành động cụ thể. Nên ông không ngại đường xa, mang theo cả lễ vật lớn lao để ra mắt vị tiên tri. Và nhất là ông đã chấp nhận những việc tầm thường. Đó là tắm dưới sông 7 lần.
Mắt thường không thấy Chúa đâu. Mắt đức tin thấy Chúa trong mọi sự. Ga-ga-rin, khi lên mặt trăng, đã tuyên bố: “Tôi không thấy Thiên Chúa đâu cả”. Trái lại Amstrong, người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng, đã đọc kinh Lạy Cha để cảm tạ Chúa. Newton, nhà thiên văn học lừng lẫy, khi quan sát bầu trời đầy sao đã thốt lên: Tôi thấy Chúa đi qua viễn vọng kính của tôi.
Có lẽ chúng ta từng kỳ vọng được có đức tin lớn lao như dám chịu tử đạo, đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi… Nhưng hôm nay Lời Chúa mời gọi tôi hãy có đức tin trong đời thường để nhìn thấy Chúa trong mọi sự và trong mọi người, trong những sự bé nhỏ, những con người tầm thường, trong những khó khăn thử thách ta gặp phải, những thất bại cay chua, những thiệt thòi đau xót. Đó mới là đức tin thật.
Suy Niệm 3: Đời sống đức tin thật.
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn có kể câu chuyện sau:
Một thanh niên đang lim dim đôi mắt tận hưởng ánh nắng tuyệt vời vào một ngày đẹp trời. Nhưng bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do tiếng ồn ào của đám trẻ, tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại. Mỗi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều trở thành cực hình. Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức tường ngăn cách âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây. Cứ như thế bức tường lớn cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động, thì bức tường cũng che mất ánh nắng tuyệt vời, bức tường trở thành chiếc mộ khổng lồ giam hãm anh trong đó.
Dân Do Thái cũng đã được tắm gội ánh sáng. Đó là niềm tin được trao ban từ Tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Không chịu mở lòng đón nhận khiến niềm tin của họ trở nên khô cằn mất sức sống. Xây lên bức tường để bảo vệ mình hoá ra lại tự hại chính mình.
Chúa Giêsu đã chỉ trích thái độ đó trong bài Tin mừng hôm nay. Người Do Thái trong Hội đường Nazaret đã tìm cách hãm hại Chúa Giêsu khi Ngài lên tiếng chê trách niềm tin của họ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng bất bình về việc làm của nhóm người này, nhưng kỳ thực nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã sao chép nguyên bản việc làm ấy. Tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin nhưng niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất nhựa sống chờ ngày gẫy đổ. Đó là thứ niềm tin mà tác giả cuốn sách “Đường Hy Vọng” đã nhắc nhở: “Nhiều người nói tôi có đức tin, tôi còn đức tin, có lẽ đức tin của giấy khai sinh, không phải đức tin của đời sống. Ít người sống theo đức tin. Đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin lý thuyết, hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thực, thiết ái, trung thành”.
Tự mãn với chính mình mà không chịu mở lòng đón nhận khiến người Do Thái đã mất đi Chúa Giêsu –nền tảng của niềm tin. Cũng vậy, nếu Kitô hữu chỉ đóng khung trong một nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì họ cũng xa cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoà không lưu chuyển, hệ thần kinh không vận động. Đời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em.
Đối với người Kitô hữu, tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương, Chúa không phải là Đấng bắt con người ta phải kính mến, nói đúng hơn Thiên Chúa là Đấng mà con người phải để cho Ngài yêu thương vô hạn. Tin là chấp nhận Đức Kitô và quyết tâm sống chết cho Ngài.
Trong Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết trở về, trở về trước hết trên căn bản của một đức tin không co cụm trong lý thuyết, trong nghi lễ, nhưng là biết mở rộng lòng đón nhận để tìm được ý nghĩa đích thực của đời sống đức tin.
Suy Niệm 4: Không một tiên tri nào
Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. (Lc. 4, 24)
Lại thêm một lần đòi dấu lạ. Con người nổi dậy chống Thiên Chúa, họ đòi Ngài phải chứng tỏ sứ vụ tiên tri của Ngài bằng cách làm hài lòng và thỏa mãn họ. Nhưng Thiên Chúa phải cúi phục trước con người sao? Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng Ngài chỉ ban cho kẻ tin kính vâng lời Ngài, cho kẻ trông chờ trong kiên nhẫn âm thầm. Ngài đòi có đức tin, vâng lời nhận lãnh biết ơn đối với tất cả tâm tình của họ.
Dân làng Na-gia-rét không nhận biết Đức Giê-su, vì họ phán đoán hoàn toàn theo sở thích loài người. Đức Giê-su là ngôn sứ, Người hành động theo sứ mạng Thiên Chúa.
Không phải những đòi hỏi của người trần ấn định cho hành động của các ngôn sứ, của Đức Ki-tô, các ngài không hành động vì lợi riêng cho mình. Các ngài chỉ hành động theo ý Thiên Chúa. Ngôn sứ không được hành động theo quyết định bản thân mình, nhưng luôn luôn theo quyết định của Thiên Chúa, Đấng đã sai mình.
Thiên Chúa quyết định cho hai ngôn sứ: Ê-li-a và Ê-li-sê đến làm phép lạ cứu giúp những người lương dân, chứ không cứu người đồng hương. Đức Giê-su không hoàn toàn đến thực hiện ơn cứu độ cao cả cho quê hương mình, Người phải đi cứu độ những người dân xa lạ. Thiên Chúa dành cho mình có quyền tự do phân phát ơn cứu độ.
Không ai có thể đòi quyền được ơn cứu độ. Quả thật như vậy, không ai được phép đòi có quyền đó, phải tin ơn cứu độ mình được là nhưng không. Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su rao giảng và thực hiện ơn cứu độ cho những người Thiên Chúa yêu thương. Ơn cứu độ là một ân huệ chứ không do công lao mình làm. Nhưng đó là ân huệ chúng ta được quyền hưởng vì Đức Giê-su đã chết cho chúng ta, và chúng ta phải sống hoàn toàn theo ý Cha của Người, đó là điều kiện căn bản, còn chúng ta vẫn có tự do đón nhận hay từ chối ơn cứu độ.
Nhờ Đức Giê-su, Thiên Chúa đến viếng thăm dân Ngài và ban các ân huệ dồi dào, xưa kia Ngài cũng ban cho dân như vậy qua các ngôn sứ, số phận các ngôn sứ thế nào thì số phận Đức Giê-su cũng vậy.
J.M
Suy Niệm 5: Không chừng sẽ mất ơn cứu độ vì kiêu ngạo
Quê hương đã trở nên máu thịt cho mỗi người. Nó chẳng khác gì tâm tư của nhà thơ Chế Lan Viên: “Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở, khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.
Với nhà thơ Đỗ Trung Quân thì: “Quê hương là chùm khế ngọt, nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”. Vì thế, trong dân gian, người ta không ngớt khen ngợi quê hương và tự hào: “Không nơi đâu đẹp bằng quê hương mình”; hay để nói về tình nghĩa quê hương, người ta cũng thường nhắc nhở nhau: “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
Những tâm tình ấy cho chúng ta thấy một điều là: nơi mà mình đã từng chôn nhau cắt rốn sẽ theo ta suốt cuộc đời, và dù có đi muôn phương ngàn lối, nhưng ai cũng chỉ có một chốn để về, đó là quê hương.
Có lẽ mang trong mình tâm tình ấy, nên Đức Giêsu cũng đã trở về quê hương của Ngài, nhưng điều oái oăm thay, dân làng đã không đón nhận Ngài, ngược lại, họ tìm cách để hãm hại Ngài. Vì thế, Đức Giêsu đã nói một câu bất hủ mang tính tiên tri: “Không tiên tri nào được sùng mộ nơi quê hương”.
Thật thế, người đương thời với Đức Giêsu, họ không thể chấp nhận một con người bình dân học vụ như thế mà lại là Đấng Cứu Thế! Dưới mắt họ, Ngài chỉ là con của ông thợ mộc Giuse và bà Maria, bản thân Ngài không hơn không kém một thanh niên như mọi thanh niên khác trong làng.
Chính sự coi thường, khinh khi, nên lòng họ ra chai cứng, không còn khiêm nhường, nhạy bén để nhận ra Đấng Uy Quyền, là Chúa Tể trời đất đang ở giữa họ, vì thế, họ đã khước từ chân tính đích thực của Đức Giêsu. Thấy vậy, Đức Giêsu mặc khải cho họ biết: họ sẽ không được bằng dân ngoại, và ơn cứu độ lẽ ra đến với họ trước tiên và phong phú, nhưng khi đã từ chối thì ơn đó sẽ đến với dân ngoại.
Xuyên suốt câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy, người Dothái "thích sự thật khi sự thật tán tụng họ, nhưng họ căm ghét sự thật khi sự thật lên án họ" (thánh Augutstinô).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến ơn cứu độ. Cần tránh thói hư là: “Gần Chùa gọi Bụt bằng anh”; hay “bụt nhà không thiêng”. Hãy biết tôn trọng anh chị em mình trong sự thật, đừng vì ghen ghét, hiềm khích hay sợ người anh em trổi trang hơn mình mà ra tay làm hại hay nói năng những lời nguy hại đến thanh danh tiếng tốt của họ! Làm như thế, ấy là chúng ta đang đi vào vết xe đổ của những người đồng hương với Đức Giêsu, và như một lẽ tất yếu, chúng ta sẽ mất ơn cứu độ vì không thuộc về Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết tôn trọng và yêu mến mọi người. Nhất là những người cùng sống và làm việc trên quê hương với chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Đồng hương Nadarét không đón nhận Chúa Giêsu
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã gặp chống đối ngay tại quê hương, nơi những người thân không chấp nhận đường lối và cách thức Chúa thể hiện sứ mạng cứu độ. Chúng ta đừng bao giờ khước từ hoặc chống lại Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chỉ người nào có đức tin mới hiểu được đường lối của Chúa. Và chỉ kẻ nào có lòng yêu mến mới đón nhận được tình thương của Chúa. Chúa ơi, chắc chắn Chúa rất đau lòng khi đứng trước thái độ của người đồng hương. Họ không đón nhận, không nghe những lời Chúa giảng dạy, không muốn sự có mặt của Chúa. Họ đã đuổi Chúa ra khỏi hội đường, ra khỏi thành, nhẫn tâm đưa Chúa lên triền núi để xô xuống vực thẳm.
Lạy Chúa, con thấy hình ảnh đó vẫn diễn ra hằng ngày trong bối cảnh thế giới hôm nay, trong tầng lớp Kitô hữu là những người thân thuộc của Chúa. Chúa đang bị từ chối nơi biết bao người nghèo hèn, nơi những kẻ bị bỏ rơi, nơi những quốc gia đang bị kỳ thị chủng tộc, phân biệt giàu nghèo, hận thù dai dẳng.
Chính con cũng bao lần từ chối Chúa khi con từ chối giúp đỡ anh em. Con đã đẩy Chúa ra khỏi tâm hồn khi con ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, khi con không chịu hồi tâm, không chịu ăn năn sám hối để trở về với Chúa. Con cũng đã không đón nhận Chúa khi con không chấp nhận Ý Chúa mà chỉ muốn Chúa đáp ứng lời con cầu nguyện theo ý con.
Lạy Chúa, xin tha thứ những lỗi lầm của con và xin cho con luôn mở rộng tâm hồn để đón tiếp Chúa. Xin ban cho con một trái tim yêu thương biết đón nhận Chúa nơi anh em, để trong từng giây từng phút của ngày sống, trong từng công việc dù nhỏ bé, mọn hèn, con đều có Chúa hiện diện bên con. Amen.
Ghi nhớ: “Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu”.
Suy Niệm 7: Vượt thẳng định kiến, để sống yêu thương
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một du khách mới đi Trung Hoa về báo cáo rằng giới trí thức Trung Hoa tuyên bố: “Không, việc truyền giáo của quý vị không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quý vị mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố đạo của chúng tôi là sai lạc”. Và một người Á đông khác cũng nói: “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và chấp nhận những gì mà các ông tin”. Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà còn hơn.
Suy Niệm
Dân làng Nadarét đã nghe về những điều Chúa Giêsu đã giảng và làm cho toàn dân, nay trực tiếp nghe những lời giảng dạy của Ngài, dân làng Nadarét ngưỡng mộ nhưng lòng mang nặng định kiến trong ghen tị như thánh Giêrônimô nhận định: “Sự đố kỵ ghen tỵ là phổ biến giữa các cư dân cùng một quê hương. Họ nhớ lại thời thơ ấu của Người mà họ xử sự ngay cả khi họ không có kinh nghiệm cho chính họ khi bằng tuổi này”.
Dân làng Nadarét, theo cắt nghĩa của thánh Phêrô Kim Khẩu: “Ngưỡng mộ trí tuệ sự khôn ngoan, những việc làm và lời gỉảng dạy của Đức Giêsu, nhưng họ biết cha mẹ của Ngài, và sự gần gũi này ngăn cản họ nhìn nhận thiên tính của Ngài. Một đám mây dày trước mặt trời, đêm đen không mang lại nhiều đêm tối trên bầu trời bằng sự đố kị ghen ghét trong tâm hồn”.
Chúa Giêsu đã trả lời thái độ của họ: “Không có ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê hương mình” Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ nhân thường không thể nhận biết được sự vĩ đại của vĩ nhân vì “quen quá hóa lờn” như thành ngữ có câu: “ Bụt nhà không thiêng”.
Chúa Giêsu qua hai sự kiện trong Cựu ước nói đến thái độ không tin cố chấp của người đồng hương. Họ biết rõ về Ngài hơn hết, vì định kiến ganh ghét nên họ không tin vào Ngài, cho nên chính họ không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi dành cho tất cả những người tin và đón nhận dù là người ngoại bang. Ngài tự so sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp bà góa Sarépta thuộc xứ Siđôn dân ngoại (1V 17,10-15), vì bà đã tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu và chống đối ông. Rồi Naaman người Syria vì tin, đến với tiên tri Êlisê và được chữa lành khỏi bệnh cùi (2V 5,1-19), còn những người đồng quê với tiên tri lại cứng lòng tin.
Dân làng Nadarét dù đã được cảnh báo, nhưng tâm trí của họ vẫn không thức tỉnh, không thoát khỏi định kiến “đồng hương” mà trái lại cao trào định kiến bằng giận dữ dẫn tới toan tính loại trừ Ngài khi đưa Ngài lên núi cao mà xô xuống vực thẳm. Và cuộc sống của mọi người chúng ta cũng đã từng ít nhiều mang định kiến dẫn đến sự loại trừ nhau... mang con tim hận thù.
Giải phóng mọi định kiến trong ghen ghét để được tự do trong suy nghĩ và phán đoán, để thoát khỏi bị những hành động loại trừ nhau như một thứ nô lệ hiện hữu trong tim. Hình ảnh Chúa Giêsu băng qua giữa họ mà đi (x. Lc 4,30), là hình ảnh gợi trong tâm trí của chúng ta cố gắng vượt thẳng mọi định kiến, loại bỏ mọi sự loại trừ để đi trong yêu thương.
Ý lực sống: “Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu”... (1Cr 13,4-5).
Suy Niệm 8: Chúa bị quê hương từ chối
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu trở về quê hương, vào hội đường Nagarét ngày thứ bảy. Người ta trao cho Ngài sách tiên tri, để Ngài đọc và giải thích. Lúc đầu họ cảm phục tài hùng biện và dáng vẻ thuyết phục của Ngài. Nhưng sau, họ bực tức, vì thấy Ngài ưa thích Capharnaum, nơi dân ngoại nhiều hơn quê mình. Trước thái độ đó, Đức Giêsu tỏ bày cho dân làng biết sứ vụ thiên sai của Ngài.
Đồng thời Chúa cũng cho họ biết rằng Ngài không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng nhận ơn Ngài.
2. “Tôi bảo thật các ông...”
Đức Giêsu dựa vào câu ngạn ngữ này để diễn tả thân phận của Ngài tại quê hương:
- Gần chùa gọi bụt bằng anh.
- Bụt nhà không thiêng
- Quen quá hoa nhàm.
Thật vậy, những người đồng hương trong làng Nagiarét tưởng rằng, họ đã biết rõ Ngài: gốc gác, lý lịch; người đã từng chung sống, đọc kinh cầu nguyện chung từ tấm bé. Nên họ chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài, mà không thấy được Thiên tính của Ngài để tin vào Ngài.
3. “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay...”
Để dẫn chứng cho ý nghĩa cho câu ngạn ngữ trên đây, Đức Giêsu đã trưng ra hai sự kiện có tính lịch sử, để hiểu:
- Tiên tri Êlia đã không được sai đến để cứu đói cho bà góa nào trong dân Israel, ngược lại, cứu đói cho bà góa thành Sarepta miền Siđon là dân ngoại.
- Tiên tri Êlisê cũng không được sai đến chữa lành bệnh phong cho người nào trong dân Israel, nhưng lại được sai đến chữa trị cho Naaman, người Syria, cũng là dân ngoại.
Hai sự kiện trên muốn nêu lên rằng: các tiên tri tuy thuộc dân Israel, nhưng không được dân mình thiện cảm, lại được thiện cảm nơi dân ngoại, vì thế, dân ngoại được hưởng nhờ. Cũng vậy, Đức Giêsu không được thiện cảm nơi người đồng hương, vì họ đòi hỏi hơn là đón nhận Người. Còn dân ngoại ở Capharnaum tin nhận Ngài, nên được hưởng nhờ ân sủng qua các phép lạ Ngài làm.
4. “Ơn cứu độ được dành cho mọi người”.
Qua sự kiện của tiên tri Êlia và Êlisê, chúng ta nhận ra rằng: Điều kiện để được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa, là đức tin và ý hướng tốt lành. Vì vậy, dù là Israel hay dân ngoại, nếu biết tin nhận vào Đức Giêsu, và có ý hướng tốt lành thì đều được hưởng ơn cứu độ.
Qua hai sự kiện trong Cựu ước, Đức Giêsu nói đến thái độ không tin cố chấp của người đồng hương. Họ biết rõ về Ngài hơn hết, vì định kiến ganh ghét nên họ không tin vào Ngài, cho nên chính họ không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi dành cho tất cả những người tin và đón nhận dù là người ngoại bang. Ngài tự so sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp bà góa Sarépta thuộc xứ Siđon dân ngoại, vì bà tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu và chống đối ông. Rồi Naaman người Syria vì tin, đến với tiên tri Êlisê và được chữa lành khỏi bệnh cùi, còn những người đồng quê với tiên tri lại càng cứng lóng tin.
5. Hãy tránh thành kiến cố hữu.
Dân làng Nazareth dù đã được cảnh báo, nhưng tâm trí của họ vẫn không thức tỉnh, không thoát khỏi định kiến “đồng hương” và trái lại cao trào định kiến bằng giận dữ dẫn tới toan tính loại trừ Ngài khi đưa Ngài lên núi cao mà xô vào vực thẳm. Và cuộc sống của mọi người chúng ta cũng đã từng ít nhiều mang định kiến dẫn đến sự loại trừ nhau... mang con tim hận thù.
Như chúng ta đã biết, Thành kiến hay định kiến là ý kiến đã có lâu không thể thay đổi được. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người không ai thoát khỏi: “Bụt nhà không thiêng”. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm do người này thì có giá trị, do người kia thì lại vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở vô cùng.
6. Truyện: Sư huynh hỗn xược.
Ở Canađa, trong tỉnh Québec, một sư huynh dòng Thiện giáo (Frères de l’Enseignement chrétien) giáo viên trường trung học Alma, vừa xuất bản một cuốn sách bàn về đường lối giáo dục, nhan đề “Những sự hỗn xược của một sư huynh” (Les Insolences du Frère Un Tel). Tác giả đã khéo áp dụng một lối văn châm biếm, trào phúng nhí nhảnh, làm cho quyển sách được đệ nhất ăn khách trong năm. Chỉ trong vòng một tháng trời thôi, sách đã bán ra được một số kỷ lục là 30.000 cuốn.
Một hôm trường đại học Công giáo Montréal bỗng nhộn nhịp hẳn lên như đàn ong vỡ tổ: Sư huynh Pierre Jérome, tác giả cuốn sách “Những sự hỗn xược” nói trên, sắp đến viếng trường. Toàn thể nhà trường náo động lên. Từ viện trưởng, các giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cổng, đều hăng say phấn khởi tổ chức cuộc tiếp rước.
Đức thượng khách đã từ từ tiến vào khung cảnh văn vật của trường đại học, giữa một cuộc khải hoàn trọng thể vĩ đại. Sau đó, Sư huynh đã lộng lẫy ung dung bước lên diễn đàn ngỏ lời cùng 650 giáo sư và sinh viên.
Diễn giả đã thao thao bất tuyệt một thôi, lả lướt như rồng bay phượng múa, như hoa nở suối reo. Những tràng pháo tay nổ vang lên liên tiếp, liên tiếp, chứng tỏ các thính giả được kích thích đến tột độ. Cả trường đại học Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lịch sử trường đã bao giờ có sự phấn khởi nô nức như lần này chưa? Tác giả “Những sự hỗn xược” sao mà huy hoàng trác tuyệt đến thế?
... Nhưng sáng ngày hôm sau, họ đã phải một phen hú vía, tưởng chừng hồn lìa khỏi xác. Có người đến tiết lộ rằng sư huynh Pierre Jérome hôm qua chỉ là một sư huynh... thứ giả! Chàng là một sinh viên quèn của trường Kịch nghệ, cải trang trong bộ áo dòng và cổ trắng của các Sư huynh... để thực tập một phen!
Cả trường uất lên, tưởng ai nấy hộc máu chết tươi tại chỗ trước “sự hỗn xược của một Sư huynh” chưa từng thấy này.
Thế mới hay sức ám thị của những người có tên tuổi mảnh liệt đến chừng nào (Vũ Minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 337-339).
Suy Niệm 9: Chúa không thiên vị nhưng yêu thương tất cả mọi người
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc I kể chuyện ngôn sứ Êlisê chữa bệnh cùi cho Naaman một người ngoại đạo.
2. Bài Tin Mừng cũng nhắc lại câu chuyện trên và còn nhắc thêm chuyện ngôn sứ Êlia giúp cho một bà góa - cũng ngoại đạo- ở xứ Sarépta khỏi đói trong thời kỳ hạn hán.
3. Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng Chúa không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.
B. Suy Niệm (...nẩy mầm)
1. Vì kiêu căng, ban đầu, tướng Naaman không chịu đến với một ngôn sứ xứ Israel nhỏ bé. Cũng vì kiêu căng, ông không chịu đi tắm ở sông Giođan nhỏ bé. Nhưng sau đó, nhờ khiêm tốn nghe theo lời khuyên của những người đầy tớ nên ông đã chịu đến với Êlisê và đã được khỏi bệnh cùi. Câu chuyện này cho thấy nét tương phản rõ rệt và hậu quả khác nhau giữa kiêu căng và khiêm tốn.
2. Đối với những người đồng hương ở Nadarét, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa chọn Nadarét làm nơi Ngài công bố chương trình cứu độ của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: nếu họ không tin thì Ngài không làm phép lạ cho họ.
3. Có lẽ mãi đến thời nay nhiều người vẫn còn nghĩ cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay vẫn có những người như bà góa xứ Sarépta và tướng quân Naaman được Chúa thương đến. Còn những người có đạo cũng có thể giống như dân làng Nadarét, bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi”.
4. Kết thúc không đẹp của câu chuyện Tin Mừng hôm nay là do những người làng Nadarét có thái độ chỉ muốn thu vào mà không biết mở ra. Nói rõ hơn: họ chỉ chờ được ban ơn, không biết mở rộng cõi lòng để tin Chúa Giêsu, cũng không nghĩ đến dân ngoại đàng cần ơn cứu độ.
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Bài đọc I kể chuyện tiên tri Êlisê chữa bệnh cùi cho ông Naaman, một người ngoại đạo.
Bài Tin Mừng cũng nhắc lại câu chuyện trên và còn nhắc thêm chuyện tiên tri Êlia giúp cho một bà góa - cũng ngoại đạo - ở xứ Sarepta khỏi đói trong thời kỳ hạn hán.
Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng, Chúa không thiên vị ai. Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù là người ngoại nhưng nếu họ tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng lại không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.
Chúng ta thấy ban đầu vì kiêu căng, tướng Naaman đã không chịu đến với một tiên tri xứ Israel nhỏ bé. Cũng vì kiêu căng, ông đã không chịu đi tắm ở sông Giodan mà ông cho là quá nhỏ và thua kém xa những con sông trong nước của ông. Thế nhưng, sau đó, nhờ khiêm tốn nghe theo lời khuyên của những người đầy tớ nên ông đã chịu đến với Êlisê, làm theo lời chỉ dạy của Êlisê mà ông đã được khỏi bệnh cùi. Câu chuyện này cho thấy những nét tương phản rõ rệt và hậu quả khác nhau giữa kiêu căng và khiêm tốn.
Đối với những người đồng hương ở Nazareth, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa đã chọn Nazareth làm nơi Ngài công bố chương trình cứu độ của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là ơn đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: vì họ không tin nên Ngài không làm phép lạ cho họ.
2. Có lẽ ngày nay nhiều người cũng vẫn còn nghĩ một cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại đạo” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra, Thiên Chúa là Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay, chẳng thiếu gì những người như bà góa xứ Sarepta và tướng quân Naaman được Chúa thương. Còn những người có đạo tự hào mình là người có đạo, coi chừng lại bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi” (Lc 4,30) giống như ở làng Nazareth thuở xưa.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay kết thúc không có hậu, không phải vì Chúa muốn như thế, nhưng là do thái độ của những người làng Nazareth chỉ muốn thu vào mà không biết mở ra. Nói rõ hơn: họ chỉ muốn được ban ơn, mà không biết mở rộng cõi lòng ra để tin Chúa Giêsu, cũng không nghĩ đến dân ngoại đang cần ơn cứu độ bên cạnh mình.
Trong một cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn, có diễn lại câu chuyện sau: một thanh niên đang lim dim đôi mắt để tận hưởng những ánh nắng tuyệt vời vào một ngày đẹp trời. Bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do những tiếng ồn ào của đám trẻ. Tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại, mỗi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều trở thành cực hình. Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức tường cách âm để ngăn chặn các âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây. Cứ như thế bức tường lớn dần, cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động lúc đó anh mới bằng lòng. Thế nhưng, anh có ngờ đâu rằng, khi ngăn chặn được hết các âm thanh thì lúc đó bức tường cũng che mất hết ánh nắng tuyệt vời. Bức tường đã trở thành chiếc mộ khổng lồ giam hãm anh trong đó.
Dân Do Thái cũng đã được tắm gội trong ánh sáng. Đó là niềm tin được trao ban từ tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Họ tưởng đã xây lên được bức tường để bảo vệ niềm tin của mình nhưng hóa ra lại tự hại chính mình.
Nhiều khi chúng ta tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin, nhưng rồi với một mớ lễ nghi hình thức, niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất hết nhựa sống chờ ngày gãy đổ. Đó là thứ niềm tin được chứng minh bằng tấm giấy rửa tội, chứ không phải đức tin của đời sống.
Nếu chỉ đóng khung trong một số nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ xa rời cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoàn không lưu chuyển, hệ thần kinh không vận động. Đời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em như vậy.
Trong Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết trở về, trở về trước hết trên căn bản của một đức tin không co cụm trong lý thuyết, trong nghi lễ, nhưng là biết mở rộng lòng để đón nhận được ý nghĩa đích thực của đời sống đức tin.
Lạy Chúa,
Xin cho con một quả tim quảng đại như Chúa
vượt lên mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con một quả tim đủ lớn
để yêu những người con không ưa.
và đôi tay rộng mở
để có thể ôm cả những kẻ thù. Amen.
03/03 Đền thờ tâm hồn
- Viết bởi Ga 2, 13-25
Đền thờ tâm hồn.
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY năm B.
"Các ngươi cứ phá huỷ đền thờ này, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại".
Lời Chúa: Ga 2, 13-25
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ.
Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán". Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".
Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy".
Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người.
Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói. Trong thời gian Người ở lại Giêrusalem mừng lễ Vượt qua, nhiều kẻ tin danh Người, vì mục kích những phép lạ Người làm. Nhưng chính Chúa Giêsu không tin tưởng họ, vì Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY B
Lời Chúa: Xh 20,1-17; 1Cr 1,22-25; Ga 2,13-25
MỤC LỤC
1. Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây--‘Manna’
2. Thanh tẩy Đền Thờ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
3. Canh tân cách thực hành Đức Tin--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
4. Nhà của Cha Tôi--GM. Arthur Tone
5. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
6. Đền thờ của Thiên Chúa--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
7. Đền thờ là Nhà Cha Ta--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
8. Đức Yêsu là chuẩn mực--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
9. Với Đức Giêsu: Thiên Chúa trên hết--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
10. Thanh tẩy đền thờ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
11. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Đan Vinh
12. Nhà Chúa Cha và nơi buôn bán--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
13. Nôi ba ngày Tôi sẽ xây dựng lại --Lm. Trầm Phúc
14. Hãy thanh tẩy đền thờ Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
15. Nơi chốn và phương thức phụng thờ đích thực--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
16. Hãy xem lại lối sống đạo của chúng ta--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P
17. Thanh tẩy đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
18. Làm mới đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
19. Thân xác chúng ta là đền thờ cần được thanh tẩy--Lm. Ignatiô Trần Ngà
20. Sự lạm dụng thân xác--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
21. Thế giới tục hóa--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
22. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
23. Nhà Cha là nhà cầu nguyện--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
24. Điên rồ cho Thiên Chúa--Peter Feldmeier--Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
25. Uy quyền Đấng Thiên Sai--Lm. Hồng Phúc
26. Cơn Giận Thánh--AM Trần Bình An
27. Điện Thờ Thân Thể của Người--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
28. Chúa Giêsu, Đấng kiện toàn lề luật --Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
29. Đền Thờ Thiên Chúa--Lm. Minh Vận, CRM
30. Cứ phá hủy Đền Thờ này đi …--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
31. Thánh Đường, điểm hẹn--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
32. Giao ước mới--Lm. Đỗ Vân Lực
33. Thiên Chúa thanh tẩy người tình--Lm. Giuse Lê Danh Tường
34. Thanh tẩy tâm hồn--Lm. Giuse Lê Danh Tường
35. Tẩy rửa--Lm. Vũ Đình Tường
36. Chăm lo đền thờ Giáo Xứ, tu bổ đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
37. Đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
38. Đền Thờ sống động--Lm. Vũ Thái Hoà
39. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
40. Luật vĩnh hằng--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
41. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
42. Luật Chúa truyền và luật trần gian--Lm. Xuân Hy Vọng
43. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
44. Thánh luật--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
45. Chúa Giêsu đánh đuổi con buôn trong hành lang đền thờ--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
46. Nhà Ta là nhà cầu nguyện--Lm. Trần Bình Trọng
47. Nhà Ta là nhà cầu nguyện--Lm Trần Bình Trọng
48. Đức Giêsu tại Samari--JKN
49. Đền thờ Thiên Chúa--Lm Anphong Trần Đức Phương
50. Chúa nhật 3 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
51. Thanh tẩy “Nhà Thờ”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
52. Phải bị thiệt thân--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
53. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
54. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Alfonso
55. Đức Giêsu tẩy uế đền thờ--Lm Vũ Phan Long
56. Bắt đầu lại trong sự thật--Jean-Yves Garneau
57. Đền thờ đích thật của sự thờ phượng và tập hợp--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
58. Dấu lạ của việc thanh tẩy đền thờ (2,13-22)--Alain Marchabour
59. Giữ trong sạch nhà Cha--Noel Quesson
60. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Noel Quesson
61. Tẩy uế đền thờ--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
62. Đức Giêsu xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ--Fiches Dominicales
63. Cơn giận của Chúa Giêsu (2,12-16)--William Barclay
64. Thanh tẩy đền thờ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang - Joshepus Quang Nguyễn
65. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
66. Ánh sáng Phục Sinh
67. Yếu tố con người
68. Đền thờ
69. Xây dựng đền thờ Chúa ngự
70. Đức Giêsu là chuẩn mực
71. Chúa Nhật 3 Mùa Chay
72. Đền thờ vật chất, đền thờ tâm hồn
73. Đền thờ
74. Chúa Nhật 3 Mùa Chay
75. Đền thờ đích thực
76. Con người và Đền Thờ
77. Đền thờ
78. Thanh tẩy
79. Đền thờ
80. Đền thờ tâm hồn
81. Thanh tẩy Đền Thờ
82. Cơn tức giận
83. Thanh tẩy đền thờ
84. Chúa Nhật 3 Mùa Chay
85. Giữ các giới răn
86. Người bị kết án tử hình
87. Mười điều răn mới
88. Tẩy uế đền thờ
89. Đền thờ di động--Huệ Minh
1.Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây--‘Manna’
Suy Niệm
Trong sách Tin Mừng, hiếm khi ta thấy Đức Giêsu nổi giận.
Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa.
Ngài lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội.
Chính Ngài đã mời ta học nơi Ngài
bài học hiền lành và khiêm nhượng.
Vậy mà ở đây ta lại thấy Đức Giêsu dùng roi
để đuổi những người buôn bán bồ câu, chiên bò,
Ngài còn lật nhào bàn ghế của những người đổi bạc!
Dù rằng những chuyện buôn bán này
chỉ diễn ra ở ngoài phạm vi Đền Thờ, nơi tiền đình dành cho dân ngoại,
nhằm phục vụ cho nhu cầu tế tự
của những người đi hành hương vào dịp lễ Vượt qua,
nhưng Đức Giêsu vẫn thấy đó là một điều bất kính,
vì chúng tạo ra một bầu khí ồn ào, hỗn độn.
Đức Giêsu vốn qúy trọng Đền Thờ Giêrusalem.
Ngài gọi đó là nhà Cha của tôi, nhà cầu nguyện.
Ngài không muốn nơi Thánh này trở thành cái chợ.
Ngài không chấp nhận nhà của Cha Ngài bị xúc phạm.
Chính tình yêu đã khiến Đức Giêsu nổi giận.
Ngài thấy cần phải thanh tẩy Đền Thờ,
dù điều đó sẽ đưa Ngài đến chỗ thiệt thân.
"Cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại."
Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Đền thờ ở đây là chính thân thể Đức Giêsu.
Thân thể được phục sinh của Ngài sẽ là Đền Thờ mới,
nơi nhân loại thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem.
Ngài cũng muốn thanh tẩy các nhà thờ của chúng ta.
Ngài muốn chúng thực sự là nơi thờ phượng,
nơi lắng đọng để con người gặp gỡ Thiên Chúa.
Có khi thánh lễ của chúng ta trở nên máy móc, buồn tẻ.
Có khi lại ồn ào, nặng tính trình diễn.
Dù sao thánh lễ vẫn cần một cái hồn,
một sức sống lan tỏa từ Chúa Giêsu phục sinh.
Để tâm đến việc sửa nhà thờ là cần, nhưng không đủ.
Mỗi Kitô hữu cần để tâm xây dựng con người mình,
bởi lẽ đó là đền thờ của Cha và Con (x. Ga 14,23).
Chính thân xác ta cũng là đền thở của Thánh Thần (x. 1Cr 6,19).
Có những đền thờ thánh thiêng đã trở nên phàm tục.
Đam mê vô độ của thân xác đã trục xuất Thánh Thần.
"Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây!"
Chúa Giêsu hôm nay cũng giận dữ như thế
khi thấy con người của chúng ta bị vấy bẩn,
đền thờ của Ba Ngôi bị nhơ nhớp.
Tha nhân quanh ta cũng là những đền thờ.
Có nhiều đền thờ bị xuống cấp, tước đoạt và sụp đổ...
Mùa chay là mùa tu sửa các đền thờ,
để mọi đền thờ đều dẫn đến Đền Thờ Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về bầu khí nơi nhà thờ của bạn? Bạn nghĩ gì về bầu khí của Thánh Lễ? Bầu khí đó có giúp bạn lắng đọng để gặp mình và gặp Chúa không?
Trong mùa Chay này, bạn thấy có đền thờ nào cần sửa gấp không? Đền thờ lòng bạn có gì cần phải loại bỏ để có chỗ cho Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh
bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
2.Thanh tẩy Đền Thờ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Một trong những vấn đề lớn của thế giới hiện nay là nạn ô nhiễm môi sinh. Các giòng sông đang bị ô nhiễm vì biết bao chất thải dơ bẩn, độc hại. Không khí ta hít thở đang bị đe dọa vì bụi bặm, vì khói xe, khói nhà máy. Nước biển bị ô nhiễm vì nạn dầu nhớt rò rỉ, vì chất thải của những lò phản ứng nguyên tử. Tầng khí quyển bị những chất khí độc chọc thủng đang làm thay đổi khí hậu và gây ra những căn bệnh nguy hiểm. Để con người có thể sống và phát triển được, thế giới cần phải được thanh tẩy khỏi các nguồn ô nhiễm.
Sự ô nhiễm không chỉ trong môi trường vật lý. Nhiều môi trường khác như môi trường văn hóa, môi trường đạo đức cũng đang bị ô nhiễm trầm trọng. Tôn giáo không tránh khỏi nạn ô nhiễm. Muốn cho bầu khí đạo đức được trong sạch, muốn cho đời sống tâm linh tồn tại và phát triển, tôn giáo cũng cần được thanh tẩy. Hôm nay Đức Giêsu vào Đền thờ và đã thanh tẩy Đền thờ. Người đã làm 3 cuộc thanh tẩy
1) Người đã thanh tẩy Đền thờ khỏi ô nhiễm vì súc vật. Trong nghi lễ của đạo Do Thái, cần có súc vật để dâng cho Thiên Chúa. Khi dâng lễ hy sinh, người ta mổ một con thú, đặt trên bàn thờ rồi đốt lửa thiêu con vật. Mùi mỡ cháy quyện khói xông lên nghi ngút. Người giầu thì dâng một con bò hay một con chiên. Người nghèo có thể dâng một cặp chim bồ câu hoặc một đôi chim gáy. Để đáp ứng nhu cầu của tín đồ,dịch vụ cung cấp lễ vật mau chóng thành hình ngay trong khuôn viên Đền thờ. Ta hãy tưởng tượng một chợ trâu bò ngay trong Đền thờ. Thật là dơ bẩn, ồn ào và chướng tai gai mắt. Nhưng nhu cầu đã biện minh cho sự ô nhiễm. Và dân Do Thái mặc nhiên chấp nhận để cho súc vật nghễu nghện ngự trị ngay trong khuôn viên Đền thờ rất nguy nga, rất lộng lẫy, rất cao sang mà họ từng ca tụng là “đền vàng”, là “nơi thánh”. Thấy nhà Chúa bị xúc phạm, Đức Giêsu không kiềm chế được cơn giận, đã lấy roi xua đuổi hết súc vật và cả đám con buôn ra khỏi Đền thờ.
2) Khi xua đuổi các con buôn ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng. Theo Đức Giêsu, ngẫu tượng nguy hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon”. Đã có lần Người lên tiếng cảnh báo: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của”, và “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào nước Thiên đàng”. Những con buôn đưa súc vật vào Đền thờ không do lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng vì lợi nhuận. Đưa súc vật vào nơi tôn nghiêm, họ đã coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Để cho súc vật làm ô uế Đền thờ cao trọng, họ đã dùng Đền thờ làm phương tiện phục vụ túi tiền của họ. Các tư tế coi sóc Đền thờ có lẽ cũng được chia phần nên đã cho phép con buôn được tự do họp chợ trong Đền thờ. Họ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng: thờ tiền bạc, dùng Chúa và Đền thờ để phục vụ tư lợi.
3) Khi đuổi súc vật ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu muốn thanh tẩy cung cách thờ phượng của ta. Trước kia người ta dâng súc vật làm của lễ. Lòng đạo đức được đo lường bằng sức nặng của con vật. Dâng con vật to sẽ được nhiều ơn phúc. Nay, Đức Giêsu cho thấy Chúa đã chán thịt bò, mỡ dê. Chúa đã ghê sợ mùi khói mùi khét lẹt, mùi máu tanh tưởi (cf. Is 1,11). Thánh vương Đavít đã hiểu: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). Chúa muốn ta đến với Người bằng chính bản thân ta. Lễ dâng đẹp lòng Chúa là thái độ khiêm nhường thống hối như lời Thánh vịnh: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn thống hối. Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Lễ dâng đẹp lòng Chúa là phó thác trót cả tâm hồn thân xác trong tay Chúa như Đức Giêsu đã làm trên Thánh giá: “Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha”. Lễ dâng được Chúa vui lòng chấp nhận là sát tế chính bản thân mình để làm theo ý Chúa: “Máu chiên bò Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu Chúa không nhận. Thì này con đến để làm theo ý Chúa (Tv). Ta sát tế chính bản thân mỗi khi ta từ bỏ ý riêng, chiến đấu chống lại những cơn cám dỗ của dục vọng, tiền bạc, thói gian tham, tính tự ái kiêu căng, sự chia rẽ bất hòa.
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ. Người muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người. Giữ gìn cho nhà thờ luôn sạch đẹp, có bầu khí tôn nghiêm là điều cần thiết. Nhưng cần hơn vẫn là giữ gìn ngôi Đền thờ thiêng liêng là chính bản thân ta. Tâm hồn chính là cung thánh nơi Chúa ngự. Ta phải luôn luôn thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng với Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói tôn thờ tiền bạc, coi trọng tiền bạc hơn Chúa. hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi những dục vọng đam mê làm ô uế cung thánh của Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói gian tham, bất công. Hãy thanh tẩy tâm hồn ta khỏi những kiêu căng đố kỵ. Thân xác ta là Đền thờ của Chúa. Hãy kính trọng thân xác của mình và của người khác. Hãy tu bổ những Đền thờ thân xác đã xuống cấp, suy tàn, bị xúc phạm, bị bán rẻ. Hãy sửa chữa những Đền thờ thân xác đang bị bào mòn vì bệnh tật, vì đói khát, vì thương tích. Hãy kính trọng thân xác của người khác vì đó là Đền thờ của Chúa.
Trong mùa Chay này, ta hãy cố gắng thanh tẩy bản thân, để tâm hồn và thân xác ta trở thành một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Khi tham dự thánh lễ, bạn có giữ cho nhà thờ có bầu khí trang nghiêm, lắng đọng không?
2) Đền thờ tâm hồn và thân xác bạn có những gì cần phải thanh tẩy không?
3) Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để trở nên một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự?
3.Canh tân cách thực hành Đức Tin--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Cứ mỗi độ xuân về, người dân Việt chúng ta, sau khi đón xuân mới, là khởi đầu chiến dịch đi lễ hội đầu năm. Từ một hai thập kỷ trở lại đây, nhờ đời sống kinh tế được cải thiện, những lễ hội truyền thống sau một giấc ngủ dài trong thời bao cấp, được khôi phục khắp nơi, đua nhau nở rộ như nấm mọc sau mưa. Nhìn chung, những lễ hội này diễn tả truyền thống văn hoá phong phú của người Việt, và đều góp phần tích cực giúp con người hướng thiện. Tuy vậy, khá nhiều lễ hội bị nhuốm màu thương mại và mê tín dị đoan, mang theo những hệ lụy không đẹp do cách hành xử thiếu văn hóa, như cướp giật, đánh nhau đến đổ máu. Lễ hội đang bị lạm dụng nghiêm trọng và làm mất đi ý nghĩa linh thiêng.
Vào thời Chúa Giêsu, Đền thờ Giêrusalem là nơi thiêng thánh cũng bị lạm dụng. Người ta buôn bán chiên bò, chim câu và đổi tiền. Tất cả những dịch vụ này cũng núp dưới danh nghĩa phục vụ khách hành hương, nhất là vào dịp lễ trọng của người Do Thái là lễ Vượt qua. Chúa Giêsu đã chứng kiến cảnh này. Người đã nghiêm khắc xua đuổi họ ra khỏi Đền Thờ. Cả bốn thánh sử đều ghi lại sự kiện này, nhưng Thánh Gioan là người diễn tả hành động của Chúa Giêsu một cách mạnh mẽ quyết liệt nhất: “Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò, ra khỏi Đền Thờ”. Tuy vậy, nếu ba tác giả của Tin Mừng nhất lãm đều nói đến việc Đức Giêsu “đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ”, thì thánh Gioan lại cho biết, Chúa chỉ yêu cầu mang các loại hàng hóa trần tục xâm nhập Đền Thờ và làm cho nơi thánh trở thành chốn thương mại. Phải chăng Thánh Gioan muốn nói với chúng ta: Chúa Giêsu không xua đuổi con người tội nhân, nhưng xua đuổi những hành động tội lỗi, và như thế, Người mời gọi chúng ta hãy canh tân cách thực hành Đức Tin.
Từ đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã mời gọi chúng ta canh tân đổi mới cuộc đời. Canh tân để làm cho trái tim, tâm hồn và cuộc đời của chúng ta được đổi mới. Chúa nhật thứ Ba của Mùa Chay, Phụng vụ dạy chúng ta hãy xem xét lại cách tôn thờ Chúa của mình. Nói cách khác, mỗi chúng ta là người tin vào Chúa. Đức tin ấy phải được thể hiện qua tâm tình thờ phượng Chúa. Có nhiều người tin Chúa mà không thực hành các bổn phận của đức thờ phượng. Thờ phượng Chúa là nhận ra quyền năng vô biên và tình yêu của Ngài đối với chúng ta, đồng thời dâng lời tạ ơn, ca tụng và cầu nguyện với Ngài. Đối với một số tín hữu, đức tin của họ mang tính vụ lợi, tức là chỉ chạy đến nài van Chúa khi gặp hoạn nạn gian nan, còn những lúc khác thì không cần biết Chúa là ai. Nhiều người khác coi Chúa như Bà Chúa Kho, đến để xin lộc và vay tiền lúc đầu năm với hy vọng năm mới phát tài.
Hành động của Chúa Giêsu khi xua đuổi chiên bò ra khỏi Đền thờ được gọi là “thanh tẩy Đền thờ”. Quả thật, Chúa muốn khôi phục tinh thần thờ phượng đích thực, không nhuốm màu thương mại và cạnh tranh vật chất. Mùa Chay cũng giúp ta thanh tẩy đời sống đức tin và tâm tình thờ phượng Chúa. Những thực hành đạo đức của cộng đoàn cũng như cá nhân phải dẫn đưa người tín hữu đến gặp gỡ Đức Giêsu, Đấng đang sống và đang hiện diện giữa chúng ta. Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết trong Tông huấn Đức Kitô đang sống như sau: “Chúng ta có nguy cơ coi Chúa Giêsu Kitô chỉ như một mẫu gương trong quá khứ, như một kỷ niệm, như một Đấng đã cứu chúng ta cách nay hai ngàn năm. Điều này không ích gì cho chúng ta, vì nó sẽ để chúng ta cũ kỹ y như trước, nó sẽ không giải thoát chúng ta. Đấng đổ đầy ân sủng của Người trên chúng ta, Đấng giải thoát chúng ta, Đấng biến đổi chúng ta, Đấng chữa lành và an ủi chúng ta đang sống. Người là Đức Kitô phục sinh, tràn đầy sức sống siêu nhiên, mặc lấy ánh sáng vô hạn” (số 124). Những lời trên đây của Đức Thánh Cha giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống hiện tại. Nhiều người tín hữu chỉ coi Người như một vĩ nhân đã lùi vào dĩ vãng. Không phải như vậy. Người đang sống và hiện diện giữa chúng ta. Nếu ý thức được điều ấy, lời nói, cử chỉ và cách sống của chúng ta sẽ thận trọng hơn. Lời cầu nguyện và việc thờ phượng Chúa sẽ thấm đượm tâm tình mến yêu hơn. Xác tín điều đó, người tín hữu cảm thấy như được chạm tới Chúa, được Người hướng dẫn và soi sáng đường đi nước bước trong cuộc đời.
Gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng đang sống, sẽ giúp chúng ta sống tốt hơn trong cuộc sống hằng ngày. Bài sách thánh trích sách Xuất hành ghi lại luật Giao ước Thiên Chúa ban cho dân Israel qua ông Môisen mà chúng ta vẫn gọi là Mười điều răn. Có thể nói Mười điều răn trong sách Xuất hành là bộ luật đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Vì dân tộc Do Thái là một dân được tuyển chọn, nên phải có một bộ luật làm tiêu chuẩn và để duy trì trật tự trong việc điều hành cai quản, làm chuẩn mực chung cho mọi nền văn hoá và mọi dân tộc. Rất tiếc, nhiều Kitô hữu, nhất là những bạn trẻ, không thuộc kinh Mười Điều Răn, vì vậy, họ không định hướng được cuộc đời của mình. Họ nói tin vào Chúa mà không biết Chúa là ai và phải làm gì để thực hành Đức Tin.
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem. Người cũng dùng máu Người đổ ra trên thập giá để thanh tẩy tội lỗi của nhân loại. Hai ngàn năm nay, Giáo Hội không ngừng rao giảng mầu nhiệm thập giá, “điều mà người Do Thái coi là ô nhục và dân ngoại cho là điên rồ” (Bài đọc II). Trái lại với sự xét đoán của thế gian, Đức Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Có những lúc, người tin vào Chúa bị coi như những người điên rồ hoặc những người đi ngược dòng. Tuy vậy, cũng như sự điên rồ của thập giá đã cứu vớt nhân loại, những ai theo Chúa Giêsu, dù có thể bị coi là ngu dại, chắc chắn sẽ tìm được sự thanh thản trong tâm hồn và niềm vui của Đấng phục sinh. Mùa Chay cũng là mùa suy niệm cuộc thương khó của Đức Giêsu. Thập giá là một huyền nhiệm của tình thương Thiên Chúa. Thập giá không phải là câu chuyện của quá khứ, nhưng là câu chuyện của hiện tại. Thập giá đang đi ngang qua những mâu thuẫn gia đình, những khó khăn về tài chính tiền bạc, những xung khắc trong mối tương quan với người xung quanh, những thất bại trong học vấn, những bế tắc trong nghề nghiệp. Đó là những thập giá mà chúng ta đang phải vác đi. Vác thập giá không phải là cam chịu, nhưng là đón nhận và hoá giải những thất bại và khúc mắc thành kinh nghiệm, để rồi nhờ ơn Chúa, chúng ta sẽ vượt lên những khó khăn, biến gian khổ thành niềm vui và biến nước mắt thành nụ cười. Quả vậy, khi có lòng bao dung, sự kiên nhẫn và nhất là tình yêu quảng đại, chúng ta sẽ có thể hoá giải mọi thương đau trong cuộc đời.
Đức tin của người Công giáo không phụ thuộc vào mùa lễ hội và những cạnh tranh. Lòng yêu mến Chúa và tâm tình thờ lạy tôn vinh Ngài như hơi thở, như cơm ăn nước uống đối với người tín hữu. Con người cần có Chúa để hiện hữu, để hoạt động và để nên trọn lành. Ý thức được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, dâng lên Chúa tâm tình yêu mến và cầu xin Ngài trợ lực để vượt lên mọi khó khăn thử thách, những điều này làm cho đức tin của chúng ta nên vững mạnh.
Mùa Chay là mùa canh tân đổi mới. Canh tân cách thực hành Đức Tin là điều kiện thiết yếu để chúng ta đổi mới cuộc đời. Bởi lẽ, nhờ Đức Tin tinh tuyền, chúng ta mới có thể sống Đạo chân thành trước mặt Chúa và trước mặt mọi người.
4.Nhà của Cha Tôi--GM. Arthur Tone
Người mẹ có 4 người con. Bà khổ tâm biểu chúng dọn dẹp đồ chơi, nhất là vào lúc cha của chúng đi làm sắp về. Dọa nạt, dụ ngọt đều vô ích. Đồ chơi ngổn ngang như thể cơn lốc vừa thổi qua.
Một bữa nọ, bà tìm ra một ý tưởng hiệu nghiệm, ít ra trong gia đình của các con bà: Bà chỉ nói đơn giản: “Chúng con thử xem hết bao lâu để dọn nhà sạch sẽ để đón cha chúng con về”. Không đầy năm phút mọi đồ chơi được cất trong hộp.
Người mẹ này gợi cho chúng ta cách thực hành ít nhất một ý tưởng được nêu ra trong bài Tin Mừng hôm nay: Đức Giêsu nói về “Nhà Cha Tôi”. Đức Giêsu yêu mến Đền thờ, nhà của Cha Người trên trần gian. Thỉnh thoảng, đôi khi mỗi ngày, Người ở trong Đền thờ. Người khích lệ những gì làm cho Đền thờ trở nên nơi cầu nguyện và phụng thờ. Người lên án những gì làm cho nhà Cha Người mất vẻ thánh thiện. Đó là lý do Chúa đuổi những người đổi tiền ra khỏi Đền thờ.
Cùng với Đức Giêsu, Người anh cả, mỗi người chúng ta có thể nói: “Đây là nhà Cha tôi”. Ngôi nhà thờ này, nhà thờ của chúng ta, dù nhỏ bé, nó rất thanh lịch. Nó thật là nhà của Cha chúng ta.
Như Chúa chúng ta, như các em nhỏ trong câu chuyện. Chúng ta muốn làm hết sức cho nhà của Cha chúng ta xứng đáng, đẹp và thánh thiện.
Khi chúng ta dâng cúng để bảo quản nhà thờ, chúng ta phải coi đó như món quà dâng cho Cha chúng ta, không có gì là quá đáng.
Quan trọng hơn bảo quản phương tiện vật chất, là bảo quản giá trị và vẻ đẹp thiêng liêng: Ngôi nhà của Chúa. Nơi đây, nhờ Bí tích Rửa Tội, chúng ta được nhận vào gia đình Chúa. Nơi đây với việc Rước Lễ, chúng ta đoàn tụ quanh bàn tiệc của Cha chúng ta. Nơi đây, nhờ Bí tích Thêm Sức, chúng ta được can đảm và sức mạnh để làm vui lòng Người. Nơi đây, trong Bí tích Hôn Phối, Chúa đóng ấn sự kết hợp vợ chồng. Chúng ta tới đây để hầu chuyện với Người và lắng nghe lời Người. Chúng ta đến đây để xin Người trợ giúp và lời chỉ bảo.
Chúng ta tới đây để thổ lộ với Người niềm vui, nỗi buồn của chúng ta, sự thành công, thất bại của chúng ta.
Chúng ta tới đây để làm lại điều mà Đức Kitô đã làm trong bữa tối sau hết. Chúng ta sẽ làm điều đó trong chính giờ này.
Hãy đến nhà Cha của bạn, chắc chắn Người yêu bạn, bất kể mọi chuyện, hơn những người cha tuyệt hảo ở trên trời. Chúa sẵn sàng tha thứ, phù giúp, an ủi và khích lệ. Bạn hãy nhớ trong kinh nguyện Thánh Thể, chúng ta thường gọi Người là Cha. Bạn hãy biết tại sao chúng ta gọi Người là Cha trong kinh Lạy Cha. Bạn chú ý tới những lời trong kinh Tiền xướng rước lễ hôm nay: “Ngay cả con chim se sẻ còn tìm được cái nhà. Con chim nhạn tìm ra tổ ấm để ấp con. Cạnh bàn thờ Chúa, lạy Chúa các đạo binh. Vua của con, Chúa của con – Hạnh phúc thay những ai cư ngụ trong nhà Chúa”.
Bạn tự nhiên trong nhà của Cha bạn. Như người mẹ trong câu chuyện. Mẹ Giáo Hội bảo chúng ta: “Chúng ta cố gắng hết sức làm cho nhà của Cha chúng ta đẹp và ấm cúng.
Xin Chúa chúc lành bạn.
5.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Vì thương, Thiên Chúa dạy chúng ta một cách sống khôn ngoan. (Ga 2,17)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Thế nào là khôn ngoan? Phải chăng là khéo léo để được hơn người, để làm ăn thành đạt, để được người đời khen ngợi? Thế nhưng "lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì?" Sự khôn ngoan của thế gian chỉ là ngu dại trước mắt Thiên Chúa. Hôm nay Lời Chúa sẽ dạy chúng ta một cách sống khôn ngoan thực sự sẽ mang hạnh phúc đến cho ta chẳng những ở đời này mà còn cả đời sau. Xin Chúa thương ban cho chúng ta sự khôn ngoan ấy.
II. Gợi ý sám hối
Người khôn ngoan là người sống theo luật Chúa. Thế nhưng rất nhiều lần chúng ta đã vi phạm luật Ngài.
Thập giá Ðức Giêsu là sự điên rồ đối với thế gian, nhưng là sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Nhưng nhiều khi chúng ta trốn tránh thập giá, vất bỏ những thập giá Chúa gởi đến cho chúng ta.
Thân xác và tâm hồn chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta đã để đền thờ ấy ra dơ bẩn. Xin Chúa thương thanh tẩy.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Xh 20,1-17
Sau khi dân Israel được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập, họ xuất hành qua sa mạc. Khi đến núi Sinai, Thiên Chúa gọi Môsê lên với Ngài và Ngài ban cho dân 10 điều luật.
Thực ra khi mới ra khỏi Ai cập, họ chỉ là một đám đông chưa biết cách sống chung với nhau, chưa có tinh thần tập thể, cũng như chưa có một đức tin chung. Nhờ những điều luật này, họ biết sống với nhau bằng tình thương (phần thứ hai của thập giới: yêu người) và biết sống với Thiên Chúa bằng lòng kính mến (phần đầu của thập giới: mến Chúa).
2. Ðáp ca: Tv 18
Thánh vịnh này ca ngợi luật pháp của Chúa: a/ đó là luật toàn thiện; b/ rất hữu ích cho cuộc sống; c/ vì thế nó đáng quý chuộng hơn mọi thứ quý giá nhất ở đời.
3. Tin Mừng: Ga 2,13-25
Tường thuật việc Ðức Giêsu đánh đuổi những người buôn bán trong sân Ðền thờ Giêrusalem. Ðối với Thánh Gioan, điều đáng chú ý nhất là sự nguy hiểm của việc làm này: nó sẽ dẫn Ðức Giêsu tới chỗ chết (c 20: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi. Nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại". c 21 "Ðền thờ Ðức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài"). Nhưng vì nhiệt thành với Thiên Chúa nên Ðức Giêsu dám chấp nhận mọi nguy hiểm (c 17 "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân").
4. Bài đọc II: 1 Cr 2,13-25
Thánh Phaolô so sánh sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của thế gian. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa thể hiện rõ nhất nơi thập giá. Nhưng thập giá là cớ vấp phạm đối với người Do Thái và là sự điên rồ đối với người Hy Lạp. Tuy nhiên sự khôn ngoan Thiên Chúa trổi vượt mọi khôn ngoan của con người.
Vì thế Thánh Phaolô tự hào về sự khôn ngoan của thập giá. Ngài hăng hái rao giảng sự khôn ngoan ấy và kêu gọi tín hữu hãy tìm kiếm sự khôn ngoan ấy.
IV. Gợi ý giảng
* 1. "Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh"
Người thời nay dị ứng với từ "luật" vì cho rằng luật gò bó tự do. Họ ghét chủ trương "vị luật".
Chính Ðức Giêsu cũng đả phá chủ trương vị luật. Ngài kịch liệt công kích những người Pharisêu vì họ chủ trương như thế.
Thế nhưng Chúa không phá bỏ lề luật: "Ta đến không phải để huỷ bỏ lề luật mà để kiện toàn" (Mt 5,17).
Ngài kiện toàn luật thế nào? Bằng cách chỉ cho thấy "trái tim" của lề luật là thương yêu. Ngài tóm lược tất cả mọi lề luật vào 2 khoản là mến Chúa và yêu người. Thánh Augustinô đã hiểu như thế nên đã nói: Ama et fac quod vis, Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm.
Chính Ðức Giêsu nêu gương giữ luật với tất cả tấm lòng yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài nổi giận khi thấy người ta làm hại đến sự thánh thiện của Ðền thờ. Vì yêu mến lề luật và nhiệt thành với Thiên Chúa, Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, một việc làm sẽ dẫn Ngài tới cái chết. "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân".
* 2. Sự khôn ngoan của Thập giá
Một vài ý tưởng của Nino Salvaneschi (trong quyển Savoir souffrir):
Không có tình yêu, ta không thể sống
Không có đau khổ, ta không thể yêu
Phải học yêu để sống tốt hơn
Và phải học chịu khổ để yêu nhiều hơn.
Tình yêu là nhung nhớ về cõi trời; đau khổ là giải thoát khỏi cõi đất. Vì thế trong mọi đau khổ luôn có một cái gì đó của trời, và trong mọi tình yêu luôn có một cái gì đó của đất.
Vui sướng làm cho tâm hồn mềm yếu, đau khổ làm cho tâm hồn cứng cáp. Vui sướng làm thỏa mãn cho riêng mình, đau khổ đi tìm một trái tim khác. Vui sướng làm hư (déformer), đau khổ huấn luyện (former) nhân cách.
Tình yêu đến và đi, đôi khi nó đem lại cho ta một cái gì đó, nhưng đôi khi nó cướp đi tất cả. Tình yêu chỉ cất tiếng hát trong một mùa. Trái lại đau khổ đến thăm ta vào mọi lứa tuổi. Nó đến thì biến đổi đời ta, và trước lúc ra đi nó luôn để lại một cái gì đó.
Dĩ nhiên bạn có thể chấp nhận hoặc từ chối đau khổ. Nhưng nếu chấp nhận thì bạn sẽ bình an. Còn nếu từ chối thì bạn vẫn còn phải chiến đấu mãi với chính mình.
Chịu đựng là dấu chỉ kẻ bại trận. Chấp nhận là dấu chỉ của người đang cầm vũ khí để chiến đấu.
* 3. Bài học khôn ngoan
Một thiếu niên đi xem đấu bóng với cha sở, nói với cha rằng anh không thích vâng phục. Anh nói: "Thưa cha, con rất ghét ai bảo phải thế này, thế nọ. Không có tự do trong việc này".
Cha sở không nói một lời. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường chỉ hướng đi tới sân chơi. Cha sở làm như không thấy. Cậu bé la lên: "Chúng ta đi sai đường! Thưa cha, cha không thấy dấu đằng kia à!".
Cha sở bình tĩnh trả lời: "Cha thấy chứ, nhưng cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và cha ghét bị chỉ bảo đi đường này đường kia bởi một biển chỉ đường cũ kỹ. Nó không cho cha tự do hành động".
Cậu bé nhận ra bài học, và họ vòng trở lại đi vào hướng sân chơi.
* 4. Tuân giữ lề luật
Một người Do Thái nọ muốn sống thánh thiện nên đến tham khảo ý kiến của một vị Rabbi. Vị Rabbi hỏi:
- Từ trước tới nay anh sống thế nào?
- Rất tốt, thưa ngài.
- Anh nói "rất tốt" nghĩa là sao?
- Nghĩa là tôi không vi phạm giới luật nào cả. Tôi không kêu tên Chúa vô cớ, tôi không tục hóa ngày sabát, tôi không bất kính với cha mẹ, tôi không giết người, tôi không bất trung với vợ tôi, tôi không trộm cắp, tôi không làm chứng dối, tôi không tham muốn của cải và vợ người khác.
Vị Rabbi nói:
- Tôi hiểu. Anh đã không vị phạm giới luật nào cả.
- Ðúng vậy, thưa ngài.
Nhưng vị Rabbi hỏi tiếp:
- Nhưng anh có tuân giữ các giới luật không?
- Ngài hỏi vậy nghĩa là sao ạ?
- Nghĩa là: anh có tôn kính tên Chúa không? Anh có thánh hóa ngày sabát không? Anh có hiếu kính cha mẹ không? Anh có tôn trọng và bảo vệ mạng sống của người khác không? Lần gần đây nhất anh nói với vợ rằng anh yêu nàng là khi nào? Anh có chia sẻ của cải cho người nghèo không? Anh có bảo vệ danh dự và tiếng tốt cho ai chưa? Anh có thường giúp đỡ người khác không?
Người Do Thái ra đi và suy nghĩ miên man. Từ trước tới nay anh chỉ nhìn các giới luật theo khía cạnh tiêu cực nên mọi cố gắng của anh chỉ là làm sao khỏi vi phạm luật. Nhưng nay vị Rabbi vừa chỉ cho anh một cách nhìn mới hẳn: không chỉ cố tránh vi phạm luật, mà còn phải làm những việc tốt mà luật chỉ dạy.
Kitô hữu ngày nay cũng cần lưu ý:
Chúng ta tuân giữ lề luật không phải vì sợ Chúa phạt, mà vì yêu mến Chúa.
Chúng ta giữ luật không phải để được Chúa yêu, mà chúng ta giữ luật bởi vì Chúa đã yêu ta.
* 5. Sự điên rồ khôn ngoan
Ðức Giêsu quả là điên rồ khi dám đụng tới Ðền Thánh Giêrusalem, vì đó chính là kết tinh của tình cảm, đức tin và niềm kiêu hãnh của toàn dân do thái. Việc Ngài thanh tẩy Ðền thờ mang tính cách trầm trọng chẳng khác gì ai đó dám xé cờ tổ quốc hoặc đập nát tượng lãnh tụ một nước. Cho nên cái giá mà Ðức Giêsu phải trả cho việc này là Ngài sẽ bị giết chết. Bài Tin Mừng hiểu được cái giá đó, nên có câu "Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân".
Còn ông Phaolô thì nói với các tín hữu Côrintô: "Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Ðức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ". Phaolô có đầy đủ mọi điều kiện để làm một Rabbi đáng kính đối với người do thái, hoặc làm một triết gia đáng nể đối với người hy lạp. Thế mà ông bỏ tất cả để đi làm một việc điên rồ là rao giảng về thập giá.
Có nhiều điều trong cách sống của kitô hữu cũng bị người không kitô coi là điên rồ. Do người ta coi thế nên tôi không dám làm? hay dù người ta coi thế, tôi vẫn can đảm làm, theo gương Ðức Giêsu và Thánh Phaolô?
6. Thanh tẩy đền thờ
Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn Ðộ, trong nhật ký tự thuật của mình, ông kể rằng khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất thích đọc Kinh Thánh, đặc biệt là "Bài giảng trên núi". Ông xác tín rằng Kitô giáo chính là giải đáp cho hệ thống đẳng cấp đã gây thương tổn cho đất nước Ấn Ðộ của ông từ bao thế kỷ. Ông thực sự nuôi ý định trở thành Kitô hữu.
Ngày kia, ông vào một nhà thờ để dự lễ và nghe giảng. Người ta chặn ông lại ở cửa nhà thờ và nhẹ nhàng cho ông hay rằng nếu ông muốn dự lễ, xin mời ông đến một nhà thờ dành riêng cho người da đen.
Ông ra đi và không bao giờ trở lại.
***
Tin mừng hôm nay thuật lại Ðức Giêsu xua đuổi những người bán chiên bò, chim câu và những người đổi tiền ra khỏi Ðền Thờ. Chắc chắn Người không hề xua đuổi những con người thành tâm thiện chí. Nhà thờ là nơi tôn nghiêm, qui tụ các tín hữu, cử hành phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, mọi người chung một niềm tin, một lời cầu tôn vinh Thiên Chúa. Nhà thờ chính là Hội thánh thu nhỏ, không phải là ngôi nhà kín rào luỹ cấm, trái lại phải mở rộng để đón tiếp mọi người.
Hôm nay Ðức Giêsu phải xua đuổi người ta ra khỏi Ðền Thờ, vì Người không muốn nơi thánh thiêng trở thành cái chợ. Người không muốn nhà Cha Người bị xúc phạm. Người thấy cần phải thanh tẩy Ðền Thờ. Thái độ quyết liệt của Ðức Giêsu đòi chúng ta phải xét lại chính mình.
Dường như không khí chợ búa vẫn vương vấn đầu đây: Người ta hẹn hò vào các giờ lễ, họ đi nhà thờ nhưng mắt trước mắt sau, họ lo trình diễn áo quần kiểu tóc.
Có kẻ đến nhà thờ để thắp sáng hào quang cho chính mình hơn là cho Chúa.
Có những đám cưới yêu cầu bật sáng mọi bóng đèn trong thánh đường.
Có những đám ma nhà thờ phải treo cờ tang phướn rũ như một biển tím, một rừng tang. Ðồng tiền đã che mờ nét tôn nghiêm nhà Chúa.
"Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây" (Ga.216). Lời bất bình đó của Ðức Giêsu vẫn như còn đang nói với chúng ta hôm nay. Người muốn các nhà thờ phải là nơi thờ phượng, nơi tĩnh lặng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Không cần ồn ào, nặng phần trình diễn, cũng không nên máy móc, buồn tẻ khi cử hành các nghi thức phụng vụ.
Nếu mỗi thánh lễ là tái diễn Hy lễ thập giá của Ðức Giêsu, Ðấng đã yêu cho đến cùng, thì mỗi thánh lễ cũng mang một sức sống mới của Ðấng Phục sinh. Người chính là Ðền Thờ mới, nơi nhân loại sẽ thờ phượng Thiên Chúa Cha cách đích thực.
***
Lạy Cha, Mùa chay là mùa thanh tẩy các đền thờ: đền thờ vật chất là những thánh đường và đền thờ thiêng liêng là mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con biết thanh tẩy những nhơ nhớp trong tâm hồn, hầu xứng đáng đến thờ phượng Cha trong Ðền Thờ mới là Ðức Giêsu, Con Cha. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
7. Nhà của Chúa
Lời nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ:
Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em,
nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hòa.
Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ phẳng để những bước chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã.
Xin làm cho nhà này là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa.
(Viết theo Flor McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu là Ðền thờ, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng là Ðền thờ sống động của Thiên Chúa. Ðền thờ này cũng cần được thanh tẩy cho xứng đáng hơn. Trong mùa Chay này, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta:
1. Hội thánh là Ðền thờ của Thiên Chúa nơi mọi người hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với nhau /. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi thành phần trong Hội thánh / biết loại bỏ những thái độ giả hình, kiêu căng, chia rẽ, kỳ thị / làm cản trở cho sự hiệp thông đó.
2. Thế giới và các quốc gia là đại gia đình của nhân loại, nhưng luôn trở thành chiến trường về kinh tế và chính trị / Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền / biết loại trừ tất cả mọi hình thức xâm lăng và bóc lột nhau / để các nước tôn trọng và giúp đỡ nhau phát triển.
3. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa / nhưng nhiều người đã khiến nó trở thành hình ảnh dễ sợ của ma quỉ /Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho họ ý thức sự ghê tởm đó / để bắt tay vào việc sám hối và thanh tẩy.
4. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đã trở thành đền thờ sống động của Thiên Chúa / Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng con / không ngừng thanh tẩy mình khỏi mọi tội lỗi nhất là các tội nặng.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, vì nhiệt tâm phục vụ Chúa Cha mà Chúa đã thanh tẩy đền thờ, xin ban cho chúng con thêm nhiệt tâm yêu mến Chúa, để luôn thanh tẩy tâm hồn hầu xứng đáng đón nhận dồi dào hồng ân cứu độ của Chúa. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là cha chúng ta. Vì thương yêu, Ngài đã chỉ dạy cho chúng ta một con đường khôn ngoan mà những kẻ thông thái nhất của thế gian cũng không thể nghĩ ra. Trong tâm tình hiếu thảo, chúng ta hãy thân thưa với Ngài.
- Trước lúc rước lễ: Thân xác chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng đền thờ này đã bị dơ bẩn vì tội lỗi. Chúng ta hãy thành tâm sám hối, xin Chúa thanh tẩy để xứng đáng cho Chúa ngự vào. "Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian..."
VII. Giải tán
Chúa đã dạy cho chúng ta biết rằng lề luật Chúa chính là con đường dẫn đến sự khôn ngoan và hạnh phúc đích thực. Anh chị em hãy ra về và sống theo luật Chúa. Chúc anh chị em được bình an.
6.Đền thờ của Thiên Chúa--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nói về lề luật của Chúa và đền thờ của Ngài. Ngài ban bố lề luật qua ông Maisen và dùng Con Ngài là Đức Giêsu Kitô để nói về đền thờ. Luật của Chúa là đường lối dẫn con người đến hạnh phúc, còn đền thờ của Ngài là nơi chúng ta đến gặp gỡ, tiếp xúc với Ngài, hầu chúng ta tìm được niềm tin và sức mạnh cho tâm hồn.
Mỗi người có nhiều đền thờ vật chất nhưng chỉ có một đền thờ thiêng liêng là thân xác mình theo lời thánh Phaolô dạy: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao”?(1Cr 3,16). Chúng ta có nhiệm vụ phải tôn trọng và bảo vệ cả hai loại đền thờ đó bằng bất cứ giá nào dựa vào Thánh kinh: “Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa làm hao tổn thân tôi” (Tv 68.10). Hãy tôn trọng thân xác mình và đừng biến nó thành hang trộm cướp. Đừng để cho của cải vật chất chi phối tâm hồn mình. Hãy biến thần Mammon thành đầy tớ trung thành phục vụ ta, và hãy cố gắng biến thân xác và linh hồn mình thành”Ngôi Thánh Đường” của Thiên Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Xh 20,1-17
Thiên Chúa đã dùng ông Maisen giải phóng dân Israel ra khỏi ách nộ lệ của Ai cập. Khi đến núi Sinai, Thiên Chúa ban bố lề luật cho Maisen và ông đã truyền lại cho dân chúng. Luật ấy được gọi là “Thập giới” hay “Mười điều răn”. Đối với họ “mười điều răn” là cách đọc được ý muốn của chính Thiên Chúa ngõ hầu sống hiệp thông với Ngài. Đó chính là điểm cốt lõi, cho dầu phần lớn các điều răn còn được thấy ở những nơi khác ngoài Israel.
Thập giới không phải là xiềng xích nặng nề, kìm hãm tự do con người, nhưng là luật chỉ đạo của Thiên Chúa để hướng dẫn và bảo đảm bước đường tiến tới tự do và hạnh phúc. Thiên Chúa đòi Israel phải tuyệt đối trung thành và tuân giữ các điều răn của Ngài. Có như vậy, Ngài mới là Chúa của Israel và Israel là dân riêng của Ngài. Ngày nay, chúng ta là dân riêng của Ngài. Điều mà Ngài đòi hỏi Israel cũng là điều Ngài đòi hỏi chúng ta ngày nay.
+ Bài đọc 2: 1Cr 1,22-25
Thánh Phaolô rao giảng Đức Kitô bị đóng đinh. Theo Ngài, nhờ thập giá Đức Kitô, chúng ta đến được với Chúa Cha, nhưng thập giá lại là điều ô nhục đối với người Do thái và là sự điên rồ đối với người Hy lạp. Người Do thái mong đợi Đấng Cứu thế quyền năng chứ không hèn yếu; người Hy lạp trông một sự can thiệp của Thiên Chúa phù hợp với sự khôn ngoan của họ, và đối với Đấng ấy, cái chết không được phép chạm đến.
Nhưng thánh Phaolô lại quả quyết rằng sự khôn ngoan của Thiên Chúa thể hiện rõ nhất nơi thập giá và sự khôn ngoan của Thiên Chúa trổi vượt hơn sự khôn ngoan của con người. Do đó, Ngài tự hào về sự khôn ngoan của thập giá bởi vì sức mạnh của Ngài tỏ lộ trong sự yếu đuối: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”.
+ Bài Tin mừng: Ga 2,13-25
Thánh Gioan thuật lại việc Đức Giêsu xua đuổi những kẻ buôn bán ở sân đền thở Giêrusalem. Đền thờ là nơi dân Chúa thập phương tụ họp lại để tỏ lòng tôn thờ và dâng tiến lễ vật cho Thiên Chúa. Đền thờ phải là nơi trang nghiêm dành cho việc thờ phượng. Nhưng người ta vì ham lợi lộc đã biến Đền thờ thành nơi buôn bán, ồn ào nhộn nhịp. Đức Giêsu vì nhiệt thành với Thiên Chúa đã dám chấp nhận nguy hiểm dẫn đến cái chết khi nghĩ đến câu Thánh vịnh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 68,10).
Để trả lời cho những thách thức của họ, Đức Giêsu nói: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi. Nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,21). Đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài. Và “Nhà Cha” thực sự từ nay sẽ là “đền thờ thân thể Ngài”, và Ngài sẽ là vị tư tế duy nhất muôn đời. Nhưng nhân tính của Ngài sẽ chỉ giữ vai trò trên sau khi bị phá hủy và trỗi dậy (Ga 2,20).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Thanh tẩy đền thờ Thiên Chúa
I. ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA
Đền thờ là nơi qui tụ mọi người thành cộng đồng tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý là ngợi khen, cảm tạ, cầu nguyện với tinh thần đức tin, đức cậy và đức mến sâu sắc như Đức Maria đã thể hiện trong lời kinh Magnificat (Sách Giáo lý số 2906-2907).
1. Đền thờ Giêrusalem
Đền thờ Giêrusalem là một đền thờ nguy nga tráng lệ đã được vua Hêrôđê Cả ra lệnh trùng tu đại qui mô từ năm 19 trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Đức Giêsu xua đuổi kẻ buôn bán xẩy ra vào năm 27-28 sau Chúa Giêsu thì việc trùng tu đó kéo dài 46 năm. Điều này rất phù hợp với thánh Luca 3,2 nói về ngày Chúa chịu phép rửa năm 15 đời hoàng đế Tiberiô. Đây là một nêu mốc khá chắc chắn để tính niên lịch của Chúa. Công việc trùng tu đền thờ đòi hỏi rất nhiều nhân công. Flavius Joseph nói rằng khi xong việc người ta phải thải về 18.000 thợ. Như thế mới thấy rằng Đền thờ Giêrusalem lớn lao và đẹp đẽ đến chừng nào.
2. Đức Giêsu xua đuổi người buôn bán
Vào dịp lễ Vượt qua của người Do thái, Đức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền, mua bán súc vật làm ô uế Đền thờ, Ngài lấy làm khó chịu xua đuổi họ ra khỏi đền thờ: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Cũng nên biết là những người ở xa đến khó có thể đem theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong Đền thờ là cần thiết hay ít ra được dung thứ. Vậy nếu việc mua bán súc vật là tiện lợi cho người từ xa tới, thì sao Đức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật quanh Đền thờ? Thưa chúng ta thấy có một số lý do:
a) Những khách hành hương
Lễ Vượt qua của người Do thái được tổ chức rất long trọng ở Giêsrusalem. Theo luật pháp, mọi người nam Do thái sống cách xa Giêrusalem trong vòng 25 cây số bắt buộc phải đi dự lễ. Trong các lễ của người Do thái, lễ Vượt qua là lễ trọng nhất. Không phải chỉ có người Do thái trong xứ Palestine đến dự lễ mà các người Do thái ở khắp nơi cũng hướng về quê hương và mong được mừng lễ Vượt qua tại Giêrusalem ít nhất một lần trong đời, giống như người Hồi giáo muốn hành hương về thánh địa La Mecque. Chuyện nghe thật đáng kinh ngạc, nhưng dường như cũng đã có đến 2. 200.000 người Do thái đã tập họp về Xứ thánh dự lễ Vượt qua,
b) Việc dâng của lễ
Theo thói quen, mỗi khi hành hương lên Giêrusalem mừng lễ người ta thường dâng của lễ bằng con vật sống. Trong sân đền thờ có chỗ bán con vật sống là việc bình thường. Nhưng cái không bình thường là sự lạm dụng. Luật qui định là bất cứ con vật nào dùng làm lễ tế đều phải lành lặn, không tỳ vết. Các chức sắc quản trị đền thờ bổ dụng những người kiểm tra để khám xét con vật, mỗi lần khám xét đều phải trả lệ phí một phần mười hai siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua một con vật ngoài đến thờ, chắc chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét. Ngoài ra, mỗi con vật mua trong đền thờ có khi phải trả đắt gấp 15 lần so với giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
c) Việc đổi tiền
Luật buộc mỗi người Do thái phải nộp thuế cho đền thờ từ 19 tuổi trở lên. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, bằng hai ngày lương công nhật. Trong việc giao dịch bình thường, có đủ mọi thứ tiền ở Palestine, nhưng thuế nộp cho đền thờ là một thứ tiền riêng của người Do thái, khách hành hương phải đổi lấy thứ tiền này. Người ta lấy lý do là các thứ tiền khác bị xem là ô uế không thể dùng để trả nợ cho Thiên Chúa.
Việc đổi tiền bạc có ăn lời đôi chút là chuyện thường. Kinh Talmud qui định:”Mỗi người cần có đồng nửa siếc-lơ, người ấy phải chi cho người đổi bạc chút ít tiền lời”. Nhưng đàng này khách hành hương phải chịu những tệ nạn bọn đổi bạc với giá cắt cổ. Nhìn thấy những sự bóc lột quá đáng như thế, Đức Giêsu bừng bừng nổi giận. Thánh Gioan cho biết là Chúa đã lấy dây bện thành một ngọn roi xua đuổi bọn họ và đạp đổ tung thùng tiền.
3. Đức Giêsu bảo vệ đền thờ
Đức Giêsu đã cảnh cáo bọn họ: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Đây cũng là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng lõa trong việc trần tục hóa và thương mại hóa Đền thờ. Tin Mừng thánh Matthêu (21,14), Marcô (11,17),và Luca (19,36) còn trích sách ngôn sứ Isaia để cảnh giác họ: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Is 56,7).
Khi xua đuổi những người buôn bán trong Đền thờ, Đức Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn kính của Ngài đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về cung cách tôn kính những nơi thờ phượng như những thánh địa dành riêng cho việc cầu nguyện mà thôi.
II. ĐỀN THỜ CỦA CHÚNG TA
1. Hai loại đền thờ
Khi Đức Giêsu nói với người Do thái: “Hãy phá hủy Đền thờ này đi. Nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Nếu hiểu chữ “Đền thờ” theo nghĩa vật chất thì làm sao xây dựng lại được vì Đền thờ này lớn lao phải dựng lại mất 46 năm mới hoàn thành? Người Do thái không thể hiểu câu nói của Đức Giêsu và cho đó là câu nói hồ đồ và có tính cách phạm thượng. Nhưng ý Đức Giêsu muốn nói: Đền thờ ấy chính là thân thể Ngài.
a) Đền thờ vật chất
Đền thờ vật chất đây là những nhà thờ mà chúng ta xây dựng. Bất cứ một giáo xứ nào, họ giáo nào cũng có một nhà thờ nhà nguyện để giáo dân qui tụ lại tôn vinh Thiên Chúa, nghe lời Chúa và dâng Thánh lễ. Nhà thờ có thể to hay nhỏ, tráng lệ hay bình thường, trang trí bằng mọi hình dạng nhưng luôn phải có vẻ trang nghiên đạo đức. Ngày nay các nhà thờ đang mọc lên rất nhiều, đó là một điều tốt nhưng rồi người ta lại lơ là với nhà Chúa, không chịu đi dự Thánh lễ, cầu nguyện, làm các việc đạo đức khiến nhà thờ trở nên... hoang vắng như nhiều nhà thờ ở bên Tây phương !
b) Đền thờ thiêng liêng
Đền thờ thiêng liêng ở đây được hiểu là thân xác chúng ta, con người chúng ta hay là Hội thánh. Chúng ta không ngại tốn công, tốn của để sửa sang hay xây cất nhà thờ. Dù phải hy sinh đến mấy, miễn là làm được nhà thờ là chúng ta không quản ngại. Nhưng còn một đền thờ khác nữa, mà có khi chúng ta chưa lo sửa sang cho đủ, đó là con người chúng ta, thân xác chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa, nơi Thánh Thần ngự trị”. Vì vậy, song song với việc lo xây cất nhà thờ ở bên ngoài là xây cất nhà thờ nội tâm với một nền móng vững chắc là đức tin và những sự hiểu biết cần thiết về đạo và những đồ trang trí là những đức tính của một Kitô hữu trưởng thành như khoan dung, quảng đại, thông cảm và tha thứ.
2. Tôn trọng đền thờ chúng ta
a) Nhiệt thành với đền thờ
Thánh kinh hôm nay nhắc nhở ta: “Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi” (Tv 68.10). Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho chúng ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, biết giữ sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy dỗ cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy cho con cháu biết tôn trọng nhà thờ, nơi thờ phượng thì phải giữ nghiêm trang, không la hét, trò chuyện, xả rác... Ta cũng nên xét theo phương diện tích cực xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ gìn và bảo vệ nhà Chúa.
Nhìn ra các tôn giáo bạn, ta thấy người Hồi giáo khi vào nhà thờ của họ, phải để giầy ngoài sân. Ta có thể tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giầy, tức là hai ngàn chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giầy nào là của mình trong hai ngàn chiếc giầy thì sẽ lộn xộn và khó khăn như thế nào. Tuy nhiên, để tỏ ra tôn kính nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay.
b) Bênh vực nhà Chúa
Nói tới việc bênh vực nhà Chúa theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng cần phân biệt hai loại đền thờ, đó là đền thờ vật chất mà mọi người qui tụ về đó để tôn vinh Thiên Chúa. Và còn một đền thờ nữa là con người chúng ta, thân xác chúng ta.
* Bênh vực đền thờ vật chất
Chúng ta đã có nhà thờ dùng để thờ phượng Chúa, để tổ chức những sinh hoạt phụng vụ hay làm các việc đạo đức. Ai cũng yêu mến nhà thờ của mình. Ai cũng bênh vực, không để cho người khác phạm đến nhà thờ. Có khi chúng ta chịu đổ máu để bênh vực nhà thờ của chúng ta. Nhưng chúng ta phải lưu ý: nhà thờ là nhà của muôn dân, nơi dành cho mọi người đến cầu nguyện, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, mầu da, chủng tộc. Nhiều khi vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta cũng có lần thành chướng ngại vật ngăn cản anh em tìm đến gặp Chúa: chỉ cần một lời nói cứng cỏi và thiếu tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay một cử chỉ khinh thường tha nhân... là chúng ta đã có thể xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và sau này họ khó có cơ hội khác để trở lại.
Truyện: Mahatma Gandhi vào nhà thờ
Khi còn là một sinh viên, Gandhi được du học tại Nam Phi, một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Gandhi có dịp đọc Kinh thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là kinh Tám mối phúc thật trong Bài Giảng trên núi. Ông rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do thái hay lương dân... Gandhi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn độ quê hương của ông. Gandhi nghĩ mình nên tìm hiểu và sẽ gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Gandhi có ý định đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Công giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau:”Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da mầu mà xin”! Gandhi rất tức giận và bỏ về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau:”Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài ! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo có hơn gì Ấn giáo có phân biệt giai cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ”!
* Bênh vực đền thờ thiêng liêng
Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa và trở thành đền thờ của Chúa như thánh Phaolô đã nói (x. 1Cr 3,16). Trong nghi thức rửa tội cho trẻ em, Linh mục đọc lời nguyện trừ tà xua đuổi ác thần ra khỏi em bé để em được trở nên đền thờ của Chúa:”Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã sai Con Chúa xuống thế gian, để trục xuất quyền lực của ác thần Satan ra khỏi chúng con, giải thoát và đem con người được giải thoát khỏi tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của Nước Chúa. Chúng con nài xin Chúa làm cho những em này, sau khi khỏi tội nguyên tổ, được trở thành đền thờ của Chúa uy linh, và xin Chúa cũng cho Thánh Thần ngự trong các em”.
Khi đã trở thành đền thờ thiêng liêng của Chúa chúng ta có nhiệm vụ bảo vệ cho xứng đáng, đừng bao giờ để cho thần Mammon trở vào chiếm giữ, vì như Chúa nói: “Kho tàng của con ở đâu thì lòng con ở đấy” (Mt 6,21). Tiền của là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống vì “Đồng tiền liền khúc ruột”, nhưng đừng để cho tiền của lấn át linh hồn. Chúng ta phải khôn ngoan biến tiền của thành đứa đầy tớ trung thành phục vụ mình, đừng bao giờ để cho nó trở thành ông chủ khắc nghiệt chế ngự ta.
Truyện: Tiếng chim hót trong bụi mận gai.
Thỉnh thoảng đài truyền hình Việt nam lại cho chiếu bộ phim “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” mà tác giả là một nữ văn sĩ người Úc theo đạo Tin lành. Khi viết cuốn tiểu thuyết này, bà đã đứng trong quan điểm của đạo Tin lành để phê phán luật độc thân của hàng giáo sĩ Công giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng là cơ hội để chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng tiền ảnh hưởng thế nào trong cuộc sống cá nhân và cộng đoàn Giáo hội.
Câu chuyện về một Linh mục là cha Ralph. Ralph là một linh mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng đầy tham vọng. Vị linh mục này có nhiều ưu điểm, có sức cuốn hút nhiều người đến với mình. Nhưng đồng thời ông ta cũng muốn được nổi danh và ham mê tiền bạc. Trong số các người mến mộ cha Ralph, có một bà già qúi phái giầu có. Bà qúi mến cha cách đặc biệt nhưng không được đáp lại, nên tình yêu đã biến thành hận thù. Thay vì trả thù theo kiểu thường tình, thì người đàn bà này có sáng kiến gài bẫy để bôi đen cuộc đời vị linh mục trẻ: Trước khi chết, bà đã làm tờ di chúc dâng cúng toàn bộ tài sản kếch sù của bà cho Giáo hội Công giáo, với điều kiện duy nhất là Giáo hội phải cử cha Ralph quản lý số tài sản đó. Cách trả thù của bà quí phái giầu có đã thành công: Cha Ralph dần dần được cất nhắc lên địa vị khá cao trong Giáo hội. Nhưng đồng thời chính đồng tiền mà Cha quản lý đã làm cho đời sống tinh thần của Cha ngày một xuống cấp và cuối cùng Cha đã sa ngã vào các đam mê tội lỗi, trái với sự tình nguyện “sống độc thân vì Nước Trời” mà Cha đà khấn hứa (Theo Lm Đan Vinh).
3. Hãy biến cuộc đời mình thành đền thờ
Chúng ta là những Kitô hữu, cuộc sống chúng ta đã được dâng hiến cho Thiên Chúa và đã trờ thành đền thờ cho Chúa ngự. Nỗ lực của chúng ta là phải làm sao sống xứng đáng là đền thờ của Chúa, đừng bao giờ đuổi Chúa ra khỏi đền thờ này. Vì thế, chúng ta hãy cố gắng biến cuộc đời của chúng ta thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi.
Charles Singer có một bài thơ ngụ ngôn nói về đề tài nay: hãy biến cuộc đời thành “Ngôi Thánh Đường”. Xin trich một đôi câu trong bài thơ này:
Lạy Chúa, cuộc đời con là một ngôi Thánh đường,
Từ tro bụi, bao năm trường xây đắp,
Con tự hào với tất cả niềm tin,
Bằng đôi tay, bằng mối tình nghệ sĩ,
Để vươn lên thật cao qúi tôn nghiêm...
Lạy Chúa,
Ngôi thánh đường của đời con,
Không thể xong trong một sớm một chiều,
Nhưng vun đắp trải qua nhiều năm tháng...
Lạy Chúa, con chỉ là người thợ cả,
Chính Ngài, con không quá lời đâu:
Là Thiên Chúa, là Khởi Đầu, Chung Cuộc,
Chính Ngài, Nhà Kiến Trúc của đời con.
(Lm Trương đình Hiền)
Và để kết thúc, ta hãy đọc lời nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ:
Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em.
nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hoà.
Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ phẳng để buớc chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã.
Xin làm cho nhà này là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa.
(Theo Flor McCarthy)
7.Đền thờ là Nhà Cha Ta--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Đền thờ có mục đích quy tụ mọi người thành cộng đồng tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Tôn thờ Thiên Chúa trong chân lý là nhận biết những điều chân thật để kính mến và tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa. Những điều chân thật đó là: Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và cứu độ, là Chúa và Chủ tể duy nhất hằng hữu, là tình yêu vô biên và hằng thương xót: “Ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa là Chúa ngươi và chỉ một mình Ngài” (Mt. 4, 10). Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần là ngợi khen, cảm tạ, cầu nguyện với tinh thần đức tin, đức cậy, đức mến sâu sắc như Đức Maria đã thể hiện trong lời kinh “Magnificat - Linh hồn tôi ngợi khen Chúa …” (Giáo lý c. 6. 1992, số 2096-2097).
So sánh với trường học là nơi đào tạo học sinh thâu thái những kiến thức khoa học và những luật lệ xã hội để trở thành công dân hữu ích, mục đích tốt của trường học đạt tới thành nhân. Đền thờ đào tạo tín hữu thành thánh nhân, thành công dân nước trời bây giờ và vĩnh viễn muôn đời. So sánh với gia đình, nơi con người được sống trong tình thương ấm cúng, được nuôi dưỡng, săn sóc tới khôn lớn, được chia vui sẻ buồn, an ủi khuyến khích lẫn nhau, che chở, đùm bọc, hy sinh cho nhau. Đền thờ nơi tín hữu sống trong tình thương bao la của Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng của ăn thịt máu Con Thiên Chúa, được ấp ủ soi sáng bằng ân sủng Thánh Thần, được chia sẻ lời hằng sống. Và cùng cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa những hy sinh đau khổ, hiệp thông Thánh giá cứu độ của Đức Kitô, cùng với các thánh chung hưởng vinh phúc bất tận của Đấng Cứu Thế phục sinh.
Đền thờ đối với dân Do thái là lẽ sống của dân tộc. Đền thờ còn thì dân tộc còn. Đền thờ tan thì đất nước mất. Đền thờ bị xúc phạm thì toàn dân bị ô nhục. Thời vua Sêđêkia, đền thờ bị quân Babylon thiêu hủy, dân bị lưu đầy. Đền thờ được xây dựng lại, dân được trở về nước (2Ks. 36, 17). Thời Đức Giêsu khi toàn quyền Philatô treo ảnh hoàng đế Caesar (Sêda) ở khuôn viên đền thờ, lập tức dân nổi dậy mạnh mẽ chống đối quân La mã, dù phải chết, phải chịu đóng đinh vào thập giá.
Công vụ Tông đồ cũng kể trường hợp thánh Phaolô dẫn bốn người dân ngoại đã được tẩy uế trước khi dẫn vào đền thờ, thế mà Phaolô vẫn bị người Do thái xách động đám đông bắt ông và đang tìm cách giết Phaolô. May nhờ binh sĩ Rôma đã đến kịp thời, xiềng còng ông lại dẫn về đồn (Cvtd. 21, 26-32).
Đền thờ được tôn trọng như thế, nhưng chính họ lại biến đền thờ thành chợ búa, như hang trộm cướp, không còn là nhà Thiên Chúa, nhà Cha chung để cầu nguyện, tôn thờ Thiên Chúa, nơi quy tụ mọi người trong tình thương mến anh em nữa.
Phải chăng, chỉ còn một mình Đức Giêsu “vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà sẵn sàng thiệt thân, sẵn sàng bị giết đi, sẵn sàng chịu phá hủy, nhưng Người sẽ xây lại đền thờ chỉ trong ba ngày”. Để cứu nguy dân tộc, giải thoát muôn dân, một đền thờ mới sống động bất diệt là “chính mình Người” (Ga. 2, 17. 19-21).
Chính mình Người mới đích thực là đền thờ, là nhà cầu nguyện: “Toàn thể được xây dựng trên tảng đá góc tường là chính Đức Giêsu Kitô để thành ngôi đền thờ. Trong Người cả anh em nữa, cùng với những người khác cũng được xây thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí (Eph. 2, 20-22).
Trong đền thánh cực trọng này, Người dâng lên Chúa Cha tâm tình trìu mến con thảo: “Này con xin đến, để làm theo thánh ý Cha”. Trong đền thánh này, Người cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đã đến! xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha … Lạy Cha, tất cả những gì Cha ban cho Con đều do bởi Cha. Con đã ban lời Cha cho họ … Lời Cha là sự thật, xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ … Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho tất cả những ai nhờ họ mà tin vào Con …” (Ga. 17, 1. 7-8. 17-20).
Trong đền thánh này, Đức Giêsu còn dâng lên Cha bao nhiêu những người đói nghèo, bệnh hoạn, tật nguyền mà Người cứu chữa hàng ngày; bao nhiêu những lao công vất vả gồng gánh nặng nề mà Người đến bổ sức cho họ; bao nhiêu những tội nhân, quỷ ám, mà Người xin Cha cho họ vì họ lầm chẳng biết; bao nhiêu những người bị đả thương nửa sống nửa chết, bao nhiêu những người đau khổ, nhục nhã oan khiên, tù đày, tử đạo thập giá như Người.
Trong đền thờ này, “chính Người là thượng tế đến muôn đời … Một vị thượng tế thánh thiện vẹn toàn, vô tội … cao cả vượt các tầng trời … Người dâng chính mình, và chỉ dâng một lần là đủ … và chỉ mình Đức Kitô dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại” (Pt. 7, 11.26. 28 và 10, 12).
Mỗi người chúng ta đang được dự phần vào đền thờ Đức Giêsu muôn thuở. Mỗi người là một viên gạch nhỏ, một đền thờ nhỏ trong một đền thờ vĩ đại bao trùm cả trời đất. Nhưng mỗi người chúng ta tự hỏi mình là đền thơ, là “nhà Cha Ta”, là “nhà cầu nguyện” hay đã tự biến thành chợ búa, hang trộm cướp.
Thực ra, mỗi người chúng ta đã được là đền thờ Ba Ngôi Thiên Chúa ngay khi chúng ta được rửa bằng nước và Thánh Thần. Thánh Thần đã xức dầu thánh hiến chúng ta thành đền thờ Chúa. Muốn cho đền thờ chúng ta mãi mãi là nhà Cha Ta, là nhà cầu nguyện, chúng ta không được treo một tà thần nào, một thần tượng nào của vùng trời, vùng đất, vùng biển trong đền thờ mình, dù là tiên giáng trần, hay thần tài, thần quyền, chỉ được treo hình ảnh Thiên Chúa mà thôi, vì “Ta là Đức Chúa, Chúa của ngươi … Những ai yêu mến Ta và giữ giới răn của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa với họ đến ngàn đời”. (Xh. 20, 1-17).
Lạy Cha, trong mùa Chay thánh này, xin cho chúng con biết khuyến khích nhau kéo nhau: “nào ta lên đền thánh Cha” để cầu nguyện, dâng lời cảm tạ Cha với tấm lòng sám hối, tan nát, khiêm cung và dâng lên Cha những của lễ hy sinh bác ái, cùng với của lễ duy nhất là Mình Máu thánh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
8.Đức Yêsu là chuẩn mực--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
I. Đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán
Không được biến đền thờ thành nơi buôn bán. Đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa. Không tôn trọng nơi tôn nghiêm, là không tôn trọng những người đang hiện diện hoặc đến đây thờ phượng Thiên Chúa.
Người ta có thể lý luận "những người buôn bán này đang làm một việc bác ái", họ tạo điều kiện thuận tiện cho những người dâng lễ có của lễ để dâng kính Thiên Chúa. Thực ra khi làm như vậy, họ đã đặt cái lợi về vật chất trên Thiên Chúa và coi thường Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta là đền thờ sống động của Thiên Chúa. Đừng biến thân xác mình, con người mình thành nơi buôn bán, thành đối tượng buôn bán. Thân xác chúng ta là thánh vì thuộc về Thiên Chúa. Chính Đức Yêsu cũng coi thân mình Ngài là đền thờ: "Cứ hủy đền thờ này và trong ba ngày Ta sẽ xây lại"!
Nếu chúng ta để đam mê thống trị mình, nếu chúng ta còn mê say tiền bạc, danh vọng, địa vị chức quyền, thì Thiên Chúa không có chỗ nhất nơi chúng ta. Bài Tin Mừng còn giúp chúng ta nhìn lại xem đâu là thái độ của tôi đối với thân xác, với sức khỏe, với con người toàn diện của tôi?
Với Đức Yêsu, Thiên Chúa là nhất đối với Ngài. Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán khỏi đền thờ, dù bị những người có quyền hành không đồng ý và tra hỏi: "ông lấy quyền gì mà làm như vậy?" . Hôm nay Đức Yêsu đuổi họ ra khỏi đền thờ, nhưng ngày mai thì sao? những người này có tiếp tục tôn trọng đền thờ không, hay mai họ vẫn làm như cũ? Đức Yêsu vẫn làm điều phải làm. Ngài vẫn làm cho dầu bị người ta ghét bỏ, cho dù người ta không vâng theo ngay trong ngày mai. Đức Yêsu sống giây phút hiện tại cách trọn vẹn, bất chấp tất cả.
II. Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá
Cho dù người Hy Lạp coi trọng và tìm kiếm khôn ngoan, cho dù người Do Thái sính phép lạ, thì Phaolô vẫn "rao giảng Đức Yêsu Kitô chịu đóng đinh".
Cứ sự thường nếu không đáp ứng mong ước, không thỏa mãn thị hiếu của người ta, thì sẽ thất bại! Ấy vậy Phaolô vẫn rao giảng "Đức Yêsu Kitô chịu đóng đinh" cho dù không đáp ứng mong ước của người đương thời. Sở dĩ vậy vì rao giảng "Đức Yêsu chịu đóng đinh" là điều tuyệt đối cần thiết. Đức Yêsu chịu đóng đinh thập giá là một giá trị, và là giá trị tuyệt đối.
"Đức Yêsu chịu đóng đinh", đòi người ta xét lại cách sống của mình. Đức Yêsu đã chọn điều gì? Tại sao Ngài bị đóng đinh? Tôi có cùng cách sống và chọn lựa với Đức Yêsu không?
Rao giảng Đức Yêsu chịu đóng đinh, là rao giảng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Nếu không yêu, tại sao Thiên Chúa lại để Con của Ngài bị khốn khổ như vậy? Nếu không yêu, tại sao Đức Yêsu phải chịu đau đớn khổ cực và ô nhục dường ấy?
Đức Yêsu chịu đóng đinh, là niềm vinh dự, mối tự hào của mọi kitô-hữu. Đức Yêsu chịu đóng đinh, biểu tượng và bằng chứng cho biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.
III. Ta là Thiên Chúa, ngươi không được...
Nội dung của thập giới là gì? Hãy tôn thờ Thiên Chúa, thảo kính cha mẹ và yêu thương con người! Đừng xúc phạm con người, đừng chà đạp nhân phẩm!
Tại sao tôi không được làm điều này điều kia? Thập giới cho thấy khi tôi vi phạm lệnh cấm của thập giới, là tôi xúc phạm con người và Thiên Chúa. Thập giới có là để bảo vệ con người. Ngày sabbat được lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabbat.
Luật Cựu Ước lấy con người là chuẩn, còn luật Tân Ước lấy Đức Yêsu làm chuẩn. Luật Cựu Ước dạy "hãy yêu thương tha nhân như chính mình", còn luật Tân Ước dạy: "hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga.13, 34-35).
Luật Cựu Ước cho thấy: nếu xúc phạm con người sẽ bị xử, còn luật Tân Ước cho thấy: nếu không yêu thương, sẽ bị xét xử (Mt.25, 31tt).
Chính Đức Yêsu là Đấng làm cho lề luật nên trọn "Ta đến không phải để phá hủy, nhưng để làm nên trọn".
Xin cho chúng ta trở nên giống Đức Yêsu trong mọi sự.
9.Với Đức Giêsu: Thiên Chúa trên hết--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu Nadarét là một sự kiện rất đặc biệt. Những người đồng hương nhận ra Ngài là một người như bao người; tuy nhiên, sau khi Ngài chết và sống lại, người ta nhận ra Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Ngài là Đấng sống ơn gọi làm người cách trọn vẹn, là Người sống theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha dù phải chết. Thiên Chúa là tất cả đối với Đức Giêsu.
I. Thập Giới diễn tả Ý Muốn Thiên Chúa
Thiên Chúa khi sai Môsê đi giải phóng dân Israel khỏi Aicập, đã nói: “khi ngươi đưa dân ra khỏi Aicập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này” (Ex.3, 12). Môsê đã dẫn dân đến núi này, và Thiên Chúa đã “thần hiển” với Môsê và dân (Ex.19). Thập giới là điều khoản Thiên Chúa giao kết với Israel, nghĩa là, nếu dân Israel giữ các điều khoản này, Thiên Chúa sẽ là Thiên Chúa của dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ dân.
Điều khoản giao ước không thêm gì cho Thiên Chúa, nhưng giúp dân Israel triển nở và hạnh phúc. Một khi người ta giữ giao ước, những người được hưởng nhờ đầu tiên là gia đình và những người thân yêu, sau đó là những người lân cận, rồi tới những người trong đất nước. Khi giữ giao ước, con người sẽ sống an bình với chính mình, và sau đó với người khác. Giao ước Thiên Chúa ban cho con người, không nhằm lợi cho Thiên Chúa nhưng cho con người. Tuy vậy, khi con người tuân giữ không vi phạm thập giới, thì Thiên Chúa được con người. Vinh quang Thiên Chúa được tỏ lộ hơn khi con người triển nở và sống hạnh phúc hơn.
Vi phạm thập giới là dấu chỉ cho con người biết họ đã vi phạm quyền lợi của ngôi vị, dù ngôi vị đó là Thiên Chúa hay tha nhân. Thiên Chúa tạo dựng con người, nên theo lẽ công bình, con người phải tôn kính Ngài. Thờ phượng là từ ngữ dùng để chỉ lòng và thái độ kính trọng đặc biệt dành cho Thiên Chúa. Cha mẹ sinh ra mình, mình cũng phải có thái độ hiếu thảo. Không tôn kính Đấng tạo dựng, không tôn kính cha mẹ, là bất công đối với Thiên Chúa và với cha mẹ mình. Vi phạm những điều khác của thập giới, là xúc phạm đến quyền lợi của người khác, chẳng hạn như giết người, cướp của người ta. Khi vi phạm thập giới, người ta biểu lộ có điều gì đó trục trặc, gây xáo trộn nơi chính tâm hồn mình, và gây xáo trộn bất an trong tương quan với người khác, ngay cả đối với những người thân và những người xung quanh.
II. Đừng biến Nhà Cha Ta thành cái chợ
Sau khi chịu phép rửa ở sông Yordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã trải qua thời gian dài tĩnh tâm cầu nguyện, Ngài ý thức hơn sứ mạng của Ngài, và Ngài đã khởi đầu sứ mạng rao giảng. “Nước Thiên Chúa đang tới gần, hãy thống hối và tin vào Tin Mừng.” Hôm nay khi lên đền thờ dự lễ Vượt Qua, một lễ lớn nhất đối với người Do Thái, kỷ niệm Thiên Chúa giải phóng dân khỏi Aicập, Ngài đã thấy một việc trái tai gai mắt: người ta buôn bán ngay trong đền thờ. Để có thể phục vụ những người từ xa tới có của lễ dâng cho Thiên Chúa, thì người ta đã đem cả súc vật đến bán; cũng có bàn đổi tiền cho những khách phương xa tới. Đức Giêsu đã phản đối. Ngài lấy dây làm thành roi đánh đuổi những người buôn bán chiên cừu trong đền thờ, lật đổ bàn của những kể đổi tiền, nói với những người bán bồ câu: “đem những thứ này ra khỏi đây, đừng biến Nhà Cha Ta thành cái chợ.”
Đức Giêsu đã bị phản ứng: “ông lấy quyền gì mà làm như vậy?” Theo luật, chỉ những người trách nhiệm mới có quyền cho phép hay không cho phép người ta buôn bán trong đền thờ. Đức Giêsu lấy quyền gì mà đánh đuổi người ta? Cứ theo “phép đời,” Đức Giêsu làm trái vì Ngài làm như thể Ngài có quyền mà thực Ngài không có; thế nhưng Đức Giêsu nói với họ: “cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày ta sẽ dựng lại.” Câu trả lời của Đức Giêsu là câu trả lời “như không trả lời” Ai dám làm điều đó, ai dám tin vào lời Đức Giêsu mà dám phá đền thờ này. Tác giả Tin Mừng “giải thích” Ngài nói về đền thờ của Ngài, nghĩa là Ngài sẽ sống lại sau ba ngày. Nhưng chuyện giải thích này chỉ có thể làm sau khi Ngài chết và sống lại, chứ lúc đó, ai mà hiểu như vậy.
Đức Giêsu có quyền làm điều đó. Ngài ý thức điều đó và Ngài đã làm cho dù đối với người khác Ngài không có quyền làm như vậy. Ngài coi đền thờ là Nhà Cha Ngài. Ngài có quyền từ Thiên Chúa là Cha Ngài. Qua những hành vi “bất bình thường” như thế này, giúp các tông đồ và các tín hữu sau này hiểu rõ chân tướng của Ngài hơn. Ngài và Thiên Chúa có một mối tương quan đặc biệt, mà Ngài dám gọi Thiên Chúa là Cha Ngài. Ngài đến từ Thiên Chúa, Ngài là hình ảnh và biểu tượng giúp người ta hiểu biết hơn về Thiên Chúa. Ngài liên kết với Thiên Chúa và phản ánh Thiên Chúa tuyệt đến độ người ta nhận ra Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
III. Chúng tôi rao giảng Đức Giêsu bị đóng đinh
Người Do Thái tìm phép lạ để biết điều gì đó có đến từ Thiên Chúa hay không; người Hylạp tìm kiếm những điều khôn ngoan vì đối với họ: chỉ có khôn ngoan mới là giá trị thật; tuy nhiên, với thánh Phaolô, Đức Giêsu chịu đóng đinh là một giá trị, và là giá trị tuyệt đối. Kể từ khi biết Đức Giêsu, Phaolô coi những điều khác như phân bón, rác rưởi. Biết Đức Giêsu là mối lợi tuyệt vời đối với Phaolô (Pl.3).
Với cái nhìn tổng hợp và không loại trừ, ta có thể nói Đức Giêsu chịu đóng đinh là một “phép lạ” cả thể và là sự khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa ban cho con người. Qua cách sống kết hiệp với Thiên Chúa trong cầu nguyện, qua những hành vi dứt khoát chọn Thiên Chúa trên hết như việc đánh đuổi những người buôn bán khỏi đền thờ, qua việc vâng phục thánh Ý Cha trên tất cả như trong vườn dầu và trên thập giá, Đức Giêsu dạy con người biết sống sao cho đúng trên đời này. Đức Giêsu là mẫu gương sống.
Thiên Chúa là trên hết đối với Đức Giêsu, và cũng phải như vậy đối với những ai muốn là môn đệ của Ngài. Tất cả đời sống và hành vi của Đức Giêsu chuyển động và quy hướng về Thiên Chúa. Đức Giêsu đã vâng phục Thiên Chúa cho đến bằng lòng chấp nhận chết trên thập giá. Đức Giêsu chịu đóng đinh, là mẫu gương sống của Phaolô và của tất cả các Kitô hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, đâu là tiêu chuẩn sống của Đức Giêsu? Tại sao bạn nghĩ như vậy?
2. Con người là đền thờ của Thiên Chúa, bạn có được Thiên Chúa mời gọi thanh tẩy tâm hồn dịp Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ không? Bằng cách nào?
10.Thanh tẩy đền thờ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do thái vẫn có những hội đường để mỗi ngày sa-bát, ngày thứ bảy, họ đến đây để nghe lời Chúa và cầu nguyện. Đây không phải là nhà thờ hay đền thờ như chúng ta ngày nay. Họ chỉ có một đền thờ duy nhất tại Giê-ru-sa-lem để tế lễ Thiên Chúa, là một nơi linh thiêng thánh thiện. Vậy tại sao lại có chuyện buôn bán, đổi chác tiền bạc ở đền thờ, đến nỗi Chúa Giêsu phải nổi giận, xua đuổi?
Trước hết, về việc buôn bán ở đền thờ. Mỗi năm, vào những dịp đại lễ, như lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần...theo tập tục và thói quen đã trở thành như một luật lệ, bắt buộc các tín hữu khi đến đền thờ dự lễ đều phải dâng vào đền thờ một lễ vật nào đó làm của lễ dâng Thiên Chúa. Người giàu có thì dâng chiên bò, người nghèo thì dâng bánh rượu, dầu hương, chim câu...Nhưng vì gần đền thờ không có chợ, nên các tư tế đã lợi dụng cơ hội để làm ăn: hoặc là chính họ hoặc họ cho phép các con buôn đã nộp thuế cho họ, được buôn bán các thứ lễ vật đó cho những người đến dự lễ. Và đã là chuyện buôn bán thì có người mua kẻ bán, người trả người thách, lại với số đông người, không thể không ồn ào, om xòm, lộn xộn... làm cho khu vực đền thờ có vẻ là một chợ phiên hơn là nơi yên tĩnh để cầu nguyện và tế lễ.
Về chuyện đổi chác tiền bạc. Theo luật buộc: mỗi năm mỗi người trưởng thành phải nộp ½ đồng Xê-ken, tức là một nửa đồng tiền Do thái. Đây là một thứ thuế nghĩa vụ, ai cũng phải nộp và chỉ được nộp tiền Do thái, chứ không nộp thứ tiền nào khác, mặc dầu thời ấy tiền Rô-ma và tiền Hy lạp rất thông dụng, vì những thứ tiền ấy in hình vua ngoại đạo, nên cấm lưu hành trong khu vực đền thờ. Vì thế, để có tiền Do thái nộp thuế cho đền thờ, những người đến dự lễ phải đổi tiền. Đó là lý do sinh ra cái nạn đổi tiền và có những quầy đổi tiền trong đền thờ.
Trước sự bất kính đối với đền thờ như thế, Chúa Giêsu đau xót và nổi giận. Ngài xua đuổi họ. Việc này làm cho các tín hữu hài lòng, duy có nhóm tư tế bực mình, hạch hỏi Chúa: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?". Chúa bảo họ: "Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại".
Hành động của Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần là xua đuổi các con buôn, là đụng chạm đến quyền lực và lợi nhuận của hàng tư tế, nhưng sâu xa hơn, đó là cử chỉ tượng trưng, nhằm phủ nhận một cung cách thờ phượng đã bị làm cho biến chất. Và không những phủ nhận nghi thức phụng tự, Chúa Giêsu còn phủ nhận luôn đền thờ bằng gỗ đá, một đền thờ lộng lẫy, huy hoàng, tráng lệ đã được vua Hê-rô-đê cả ra lệnh xây dựng từ năm 19 trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Tin Mừng kể lại hôm nay xảy ra vào năm 28 sau công nguyên. Như vậy đã ròng rã 46 năm trời xây cất vẫn chưa xong.
Khi phủ nhận các nghi thức phụng vụ cũ, phủ nhận cả đền thờ gỗ đá, Chúa Giêsu giới thiệu một đền thờ mới, đền thờ đích thực, đó là thân xác Phục Sinh của Ngài, khi Chúa nói: "Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại", Chúa có ý nói đến thân xác của Ngài. Ngài sẽ bị giết chết, nhưng trong ba ngày Ngài sẽ sống lại.
Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, đoạn Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín hữu đươi coi là một đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng hiện giờ đền thờ ấy có xứng đáng để Thiên Chúa ngư hay không hay là một cái chợ trưng bày đủ thứ, nhất là những thứ cấm kỵ: tham vọng, ích kỷ, hận thù, bất trung, ghen ghét, gian dối...? Không nhiều thì ít, có lẽ đền thờ nơi chúng ta còn đang bất xứng, chúng ta cần thanh tẩy, sửa chữa.
Thứ hai, gia đình Ki-tô hữu cũng được mời gọi trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Liệu trong ngôi đền thờ ấy, các thành viên có biết lấy yêu thương, sự khoan dung tha thứ mà đối xử với nhau, hay ngôi đền thờ đã trở thành quán trọ mạnh ai nấy sống? Liệu trong ngôi đền thờ ấy có Thiên Chúa ngự trị hay đang bị đủ thứ ngẫu tượng chi phối, những ngẫu tượng có tên là tiền bạc, tham vọng, ích kỷ, hận thù, gian dối?
Tóm lại, mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực...đã chiếm chỗ của Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những cái đó để trả lại chỗ cho Thiên Chúa bằng sự ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.
Xin Chúa cho Mùa Chay thánh này là mùa hồng ân cho chúng ta: cho mỗi người chúng ta trở thành một đền thờ xứng đáng, và cho gia đình chúng ta cũng là một đền thờ tốt đẹp để Thiên Chúa ngự trị, chúc lành và ban ơn cho chúng ta.
11.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Đan Vinh
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý chính: Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ.
Với lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chấp nhận được cảnh tượng bát nháo diễn ra nơi Đền Thờ của Chúa Cha. Người đã biểu lộ uy quyền của Con Thiên Chúa bằng việc dùng roi xua đuổi bọn con buôn với tiền bạc, chiên bò, chim câu... ra khỏi Đền Thờ. Người tẩy uế Đền Thờ của Chúa Cha và khẳng định rằng: Từ nay việc thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa sẽ phải được cử hành trong Đền Thờ Mới là thân xác Phục Sinh của Người và sẽ tồn tại mãi mãi, thay cho sự thờ phượng tại Đền Thờ Giêrusalem bằng gỗ đá chỉ có tính tạm thời và sẽ bị phá hủy sau này.
2) Chú thích:
* Gần đến Lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò r a khỏi Đền Thờ. Còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ (Ga 2, 13-15):
+ Lễ Vượt Qua của dân Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem: Vào thời Đức Giêsu, lễ Vượt Qua là một trong ba đại lễ, buộc người Do Thái ở khắp nơi phải hành hương về đền thánh Giêrusalem để sát tế và ăn bữa tiệc chiên vượt qua, kỷ niệm biến cố Xuất Hành, trong đó Đức Chúa dùng Môsê, giải phóng con cháu Giacóp là dân Do Thái khỏi ách làm nô lệ cho dân Ai cập.
+ Người thấy trong Đền Thờ: Đền Thờ là dấu chỉ Đức Chúa hiện diện giữa dân Người.
Câu hỏi: Theo lịch sử dân Ítraen thì đã có bao nhiêu Đền Thờ được xây dựng tại Giêrusalem và cấu trúc của các Đền Thờ ấy thế nào?
Đáp: Không kể đền thờ tạm là Nhà Lều trong thời gian 40 năm dân Do Thái đi qua sa mạc, còn có ba Đền Thờ được xây dựng tại Giêrusalem là Đền Thờ Salômon, Đền Thờ Sau Lưu Đầy và Đền Thờ Hêrôđê như sau:
Đền thờ Salômon: Dưới triều vua Đavít, tuy Hòm Bia đã được đem về Giêrusalem, nhưng vẫn còn được để giữa Mái Lều Vải Nhà Tạm (x.2 Sm 6,17). Vua Đavít muốn xây một Đền Thờ để kính Đức Chúa. Nhưng ngôn sứ Nathan tuyên sấm lời Đức Chúa là sẽ dành việc xây dựng ấy cho con của ông (x.2 Sm 7,2.13). Sau đó, vua Salômon đã thực hiện ý định của vua cha Đavít vào năm 970 và Đền Thờ đã được hoàn tất sau 7 năm thi công (1 V 6,37-38). Đền Thờ này nằm giữa một khu đất rộng là Sân Trước. Tại đây có Bàn Thờ Toàn Thiêu bằng đồng (x. 1 V 8,64). Đền Thờ có chiều dài ba mươi thước, chiều rộng mười thước và chiều cao mười lăm thước, gồm Gian Tiền Đình, Gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh. Tại Gian Cung Thánh có Bàn Thờ Hương, Bàn Bánh Tiến và Mười Chân Đèn bằng vàng (x. 1 V 6,20-21; 7,48-49). Nơi Cực Thánh nằm giữa Đền Thờ có một Bàn Thờ bằng gỗ bá hương và được dát bằng vàng ròng (x.1 V 6,2. 16-22). Tại Nơi Cực Thánh, Hòm Bia Giao Ước được đặt ngay dưới đôi cánh của hai bức tượng Thần sứ Kêrubim. Vào năm 586 trước Công Nguyên, quân Babylon xăm lăng tàn phá thành Giêrusalem và Đền Thờ Salômon này cũng bị phá hủy. Các báu vật trong Đền Thờ đã bị chiếm đoạt mang về Babylon.
Đền thờ sau lưu đày: Được xây trên nền của Đền Thờ cũ và kích thước cũng như trước. Đền Thờ này kém bề thế hơn và Nơi Cực Thánh để trống không. Trong Gian Cung Thánh có đặt một Chân Đèn 7 Ngọn thay cho 10 ngọn đèn như trong Đền Thờ Salômon trước đó. Dân hồi cư trước hết đã tái lập Đền Thờ Toàn Thiêu. Việc xây dựng Đền Thờ Kéo dài trong 5 năm và được thánh hiến vào năm 515 trước Công Nguyên. Năm 169 Đền Thờ này lại bị vua Antiôcô IV chiếm đoạt và xúc phạm. Đến năm 164, Giuđa Máccabê đã thanh tẩy Đền Thờ, lập một Bàn Thờ Toàn Thiêu mới và trang hoàng lại Gian Cung Thánh.
Đền thờ Hêrôđê: Để tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng, Hêrôđê đã mở rộng chu vi và trang trí lại bên trong Đền Thờ. Công việc trùng tu Đền Thờ bắt đầu từ năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công Nguyên mới tạm xong và được tổ chức khánh thành các công trình chính (x.Ga 2,20). Sau đó việc trùng tu Đền Thờ lại tiếp tục đến năm 63 sau Công Nguyên mới chấm dứt. Về mặt cấu trúc: Đền Thờ có bốn hàng cột nằm ở ba mặt của Đền Thờ: Về phía Đông có hành lang Salômon (x. Cv 3,11; 5,12); Phía Tây Bắc có pháo đài Antônia thông ra sân ngoài. Nơi đây thường xuyên có một tiểu đoàn quân lính Rôma trú đóng, mục đích giữ gìn an ninh trật tự trong các dịp lễ lớn của dân Do Thái và sẵn sàng trấn áp bạo loạn (x. Cv 21,31-37). Đền Thờ có bốn cổng lớn. Một bức tường bằng đá được dùng làm ranh giới cấm lương dân vượt qua. Nội vi Đền Thờ có nhiều sân: Bên ngoài bức tường đá là sân lương dân, là nơi các luật sĩ thường lui tới bàn luận với nhau (x. Cv 3,11). Sân nữ giới nằm giữa nơi có dân chúng ra vào và ăn thông với Cửa Đẹp (x. Cv 3,2). Tiếp theo là sân Ítraen dành cho nam giới. Cuối cùng là sân Tư Tế. Tại đây có đặt một Bàn Thờ Toàn Thiêu. Cách đó 10 thước, toàn bộ thánh điện được thiết kế giống như Đền Thờ ngày xưa gồm Tiền đường, Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh. Về số phận của Đền Thờ Hêrôđê: Đức Giêsu đã tiên báo sự sụp đổ của Đền Thờ này (x. Lc 21, 5-7). Người cũng báo cho các tín hữu biết trước về ngày thành Giêrusalem bị quân thù kéo đến bao vây và sẽ bị tiêu diệt. Sự kiện này được coi như hình bóng của Ngày Tận Thế (x. Lc 21,20-28). Quả thật, lời tiên báo của Đức Giêsu đã trở thành hiện thực: Dân Do Thái đã nổi loạn và quân Rôma do tướng Titô chỉ huy đã đến bao vây Giêrusalem. Đến ngày mùng 06 tháng 8 năm 70, thành đã bị thất thủ. Trong lúc hỗn loạn, một tên lính Rôma đã ném một bó đuốc vào trong Đền Thờ, lửa bốc cháy tấm màn che giữa Gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh và toàn bộ Đền Thờ đã bị thiêu hủy. Chỉ một ít đồ thánh như chân đèn 7 ngọn và Bàn Thờ Dâng Bánh còn sót lại và được mang về Rôma như chiến lợi phẩm (x. Dcr 14,1).
+ Có những kẻ bán chiên bò bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền: Tại sân lương dân, các Tư Tế cho một số người bán chiên, bò và chim câu... để dân chúng mua mà dâng làm lễ vật cúng tế trong Đền Thờ (x. Ga 2,14; Lc 2,24). Cũng có cả những người ngồi đổi tiền từ đồng tiền của Rôma lưu hành ngoài xã hội, trên đồng tiền có hình và ký hiệu của hoàng đế Xêda (x. Lc 20,24-25), nên bị cấm lưu hành trong Đền Thờ. Dân Do Thái muốn đóng thuế Đền Thờ hay góp tiền trùng tu Đền Thờ (x. Lc 21,1-2) thì trước hết phải đổi từ tiền của Rôma thành tiền của Đền Thờ tại bàn đổi tiền rồi mới được đóng góp (x. Ga 2,14).
+ Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ: Sự bất kính do bọn con buôn gây ra như thế khiến Đức Giêsu rất đau lòng. Người nổi cơn thịnh nộ và đã dùng giây thừng cột thú vật được ném bừa bãi ở nơi đó, chấp lại thành roi rồi dùng roi ấy đánh đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ.
* Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán". Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân". Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" Đức Giêsu đáp: "Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại" (Ga 2,16-19):
+ "Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán": Nói câu này, Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên Chúa. "Nơi buôn bán" hay "hang trộm cướp" là kiểu nói diễn tả tình trạng bất kính ở trong Đền Thờ, một nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa! Thế là ứng nghiệm lời các ngôn sứ đã tuyên sấm quở trách dân Do Thái xưa (x. Gr 7,11).
+ "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân": "Sẽ phải thiệt thân" nghĩa là "sẽ phải chết". Như vậy ý nghĩa lời Thánh Vịnh 69,10 như sau: lòng nhiệt thành với Đền Thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x.Ga 15,5).
+ Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?": "Người Do Thái" trong câu này ám chỉ các chức sắc Đền Thờ như các Tư Tế và Lêvi. Họ bực tức khi thấy Đức Giêsu đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ. Do đó họ hạch hỏi Đức Giêsu dựavào dấu lạ nào để chứng minh mình được Thiên Chúa sai đến thực sự và có quyền xua đuổi con buôn như thế. Trước đây họ cũng nhiều lần đòi Đức Giêsu chứng minh Người được Thiên Chúa sai đến, bằng cách phải làm phép cho họ thấy mà tin Người (x. Mt 12,38; Mc 8,11; Lc 11,16).
+ "Các ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại": Ở đây, Đức Giêsu cho họ một phép lạ làm chứng Người được Thiên Chúa sai đến, là phép lạ Người sẽ sống lại nội trong ba ngày. Tuy nhiên Đức Giêsu xử dụng kiểu nói dụ ngôn mà các ngôn sứ hay dùng là đã gọi thân thể của mình là Đền Thờ. Câu này có nghĩa là: Dù họ có giết chết Người thì cũng chỉ trong ba ngày Người sẽ sống lại.
* Người Do Thái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?" Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết chổi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói (Ga 2,20-22):
+ Phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong: Các đầu mục Do Thái đã hiểu sai ý của Đức Giêsu. Họ hiểu lời Người theo nghĩa đen nên mới nói về thời gian xây dựng Đền Thờ mất 46 năm (Khởi công năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công Nguyên mới tạm hoàn thành những công trình chính), đang khi ý Đức Giêsu ám chỉ Đền Thờ là Thân Thể của Người. Sau này khi Thượng Hội Đồng Do Thái xét xử Đức Giêsu do Caipha chủ tọa có hai kẻ đứng ra cáo gian rằng: "Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại" (Mt 26,61). Họ cũng nhắc lại điều tố cáo này khi lăng nhục Người trên thập gía (x. Mt 27,40).
+ Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người: Thân Thể Đức Giêsu phục sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình ra cho loài người (x. Ga 1,14). Thân Thể ấy là Đền Thờ Mới, là nơi thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật (x. Ga 4,23-24).
+ Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó: Chỉ dưới ánh sáng Phục Sinh và được ơn Thánh Thần tác động, các môn đệ mới hiểu chính xác về lời nói và việc làm của Đức Giêsu (x. Ga 12,16; 14,26).
+ Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói: Lời Thiên Chúa trong Kinh Thánh và Lời Đức Giêsu tiên báo đều đã được ứng nghiệm (x. Ga 18,9.32). Do đó cả hai đều được các môn đệ tôn trọng.
* Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. Nhưng chính Đức Giêsu không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người (Ga 2,23-25):
+ Nhiều kẻ tin vào danh Người. Nhưng chính Đức Giêsu lại không tin họ: Phép lạ chỉ kích thích trí tò mò làm cho người ta đến xem để biết thực hư ra sao. Nhưng đức Tin là bởi nghe (x. Rm 10,17) chứ không bởi thấy, như lời Đức Giêsu Phục Sinh nói với Tôma: "Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"(Ga 20,29). Một số khá đông dân chúng tin Đức Giêsu vì đã thấy các phép lạ Người làm (x. Ga 12,17-18). Nhưng đức tin dựa trên mắt thấy như vậy là đức tin bất toàn và không bền vững. Do đó Đức Giêsu không mấy tin các tín hữu này. Thực vậy, khi bị xét xử trước tòa quan Philatô, trong số đám đông dân chúng đòi kết án tử hình thập gía cho Đức Giêsu, chắc không thiếu những kẻ đã từng tin và hoan hô Người là "Con Vua Đavít", "Đấng nhân Danh Chúa mà đến!" lúc Người khải hoàn vào thành Giêrusalem (x. Lc 19,37-38; Ga 12,12-15). Đàng khác, không phải cứ trông thấy phép lạ là người ta sẽ tin. Các kẻ thù của Đức Giêsu đã từng chứng kiến bao phép lạ người làm, thế mà họ đâu có tin. Ngược lại còn quyết tâm tiêu diệt Người nữa (x. Ga 11,45-53). Họ xuyên tạc để lôi kéo dân chúng đừng tin theo Người, như nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ" (Mc 3,22).
+ Người biết họ hết thảy: Thánh gioan đã ghi lại nhận xét này khi thấy dân chúng nô nức đi theo Đức Giêsu. Người biết rõ ý của họ và đã nói thẳng với họ rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông: Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê!" (Ga 6,26). Trong phép lạ chữa bệnh nhân bại liệt, Mátthêu cũng viết: "Đức Giêsu biết ý nghĩa của họ liền nói: Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy?..." (Mt 9,4).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây. Đừng biến Nhà Cha tôi thành nơi buôn bán" (Ga 2,16):
Câu chuyện: Tiếng chim hót trong bụi mận gai.
Thỉnh thoảng đài truyền hình VN lại cho chiếu bộ phim "Tiếng chim hót trong bụi mận gai" mà tác gỉa là một nữ văn sĩ người Úc theo đạo Tin Lành. Khi viết cuốn tiểu thuyết này, bà đã đứng trên quang điểm của đạo Tin Lành để phê phán luật độc thân của hàng giáo sĩ Công Giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng là cơ hội để chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng tiền ảnh hưởng thế nào trong cuộc sống cá nhân và cộng đoàn Giáo Hội.
Câu chuyện về một linh mục là Cha Ráp (Ralph). Ráp là một linh mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng đầy tham vọng. Vị linh mục này có khá nhiều ưu điểm, có sức cuốn hút nhiều người đến với mình. Nhưng đồng thời ông ta cũng muốn được nổi danh và ham mê tiền bạc. Trong số các người mến mộ Cha Ráp, có một bà già quí phái giàu có. Bà quí mến Cha cách đặc biệt nhưng không được đáp lại, nên tình yêu đã biến thành thù hận. Thay vì trả thù theo kiểu thường tình, thì người đàn bà này có sáng kiến gài bẫy để bôi đen cuộc đời vị linh mục trẻ: Trước khi chết, bà đã làm tờ di chúc dâng cúng toàn bộ tài sản kếch sù của bà cho Giáo Hội Công Giáo, với điều kiện duy nhất là Giáo Hội phải cử Cha Ráp làm quản lý số tài sản đó. Cách trả thù của bà quí phái giàu có đã thành công: Cha Ráp dần dần được cất nhắc lên địa vị khá cao trong Giáo Hội. Nhưng đồng thời chính đồng tiền mà Cha quản lý đã làm cho đời sống tinh thần của Cha ngày một xuống cấp và cuối cùng Cha đã sa ngã vào các đam mê tội lỗi, trái với sự tình nguyện "sống độc thân vì Nước Trời" mà Cha đã khấn hứa.
Suy nghĩ và thảo luận:
+ Suy nghĩ: Câu chuyện trên dầu sao cũng nói lên một thực tại: Hễ là người thì dù ở trong bất cứ hoàn cảnh hay bậc sống nào, nếu không biết khôn ngoan phòng tránh, thì đều có nguy cơ bị ngã gục trước sức mạnh của đồng tiền! Thực ra: Tiền của là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống: "Đồng tiền liền khúc ruột!", hay như lời Chúa dạy: "Kho tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó" (Mt 6,21). Tiền bạc giúp người ta sống xứng với nhân phẩm: "Phú quí sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc!". Tiền bạc cần để duy trì các hoạt động của mọi tổ chức từ trên xuống dưới, mà còn làm được rất nhiều việc hữu ích về phụng vụ, truyền giáo, bác ái xã hội, phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật và bất hạnh... Tuy nhiên, "Tiền của sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu". Bao lâu ta coi đồng tiền là phương tiện thì nó giúp ta làm được rất nhiều việc tốt đẹp hữu ích cho Chúa và tha nhân. Vì "có tiền mua tiên cũng được!". Nhưng nếu ta quá coi trọng đồng tiền, biến nó trở thành mục đích cuộc đời mình. Nếu lúc nào ta cũng lo kiếm tiền bằng bất cứ giá nào, thì bấy giờ đồng tiền sẽ trở thành ông chủ và sẽ sai khiến ta ăn ở bất công với người dưới, bất nhân độc ác khi cố tình làm ngơ trước nỗi đau của đồng loại, hoặc khi tranh chấp quyền lợi với đối phương, gian dối và lừa đảo trong các quan hệ kinh doanh làm ăn, vô lương tâm và không còn nghĩ tới tội phúc, thưởng phạt đời sau...
+ Thảo luận: Theo bạn thì việc thờ phượng Thiên Chúa tại nhà thờ và làm chứng cho Đức Kitô ngoài xã hội, Giáo Hội có cần tiền bạc không và cần tiền làm gì? Bạn sẽ làm gì để giúp Giáo Hội có tiền bạc để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân cách tốt đẹp hơn? Giả như Đức Giêsu sắp đến viếng thăm bạn, vậy cần phải cấp thời thanh tẩy những gì trong tâm hồn của bạn để tránh bị Người nổi giận?
2) Tránh trở nên chướng ngại vật cản trở tha nhân tìm đến với Chúa:
Câu chuyện: Niềm tin của Thánh Găngđi nước Ấn độ:
Khi còn là một sinh viên, Găngđi (Mahatma Gandhi) được du học tại Nam Phi một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Găngđi có dịp đọc Kinh Thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là kinh Tám Mối Phúc thật trong phần Bài Giảng Trên Núi. Ong rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do Thái hay lương dân...Găngđi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo chính là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội An Độ quê hương của ông. Găngđi nghĩ mình nên tìm hiểu và sớm gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Găngđi có ý định đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Công Giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau: "Đây là Nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến Nhà thờ khác dành riêng cho dân da màu mà xin!". Găngđi rất tức giận và bỏ về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau: "Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Người. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Người! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo đâu có hơn gì Ấn Giáo có phân biệt giai cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn Giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ!".
Suy niệm: Vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta chắc cũng có lần trở thành một chướng ngại vật, ngăn cản anh chị em lương dân tìm đến gặp Chúa. Chỉ cần một lời nói sẵng giọng và thiếu tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay một cử chỉ khinh dễ coi thường tha nhân, một hành động hẹp hòi ích kỷ trái với tinh thần quảng đại vị tha của Tin Mừng hoặc một gương mù gương xấu nơi vị chủ chăn...là có thể chúng ta đã xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và sau này họ khó còn cơ hội nào khác để trở lại.
3) Cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại (Ga 2,19):
Câu chuyện: Tiền vào nhà, Chúa đi ra:
Ở bên Pháp, có đôi vợ chồng bác nông dân kia làm tá điền cho một ông bá tước giàu có. Đội vợ chồng này tuy nghèo nhưng lại có lòng đạo đức. Mỗi buổi sáng, khi vừa nghe tiếng chuông nhà thờ là hai vợ chồng đã lập tức thức dậy và mau mắn đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng. Sau lễ, họ trở về nhà, vội ăn sáng rồi vác cuốc ra đồng làm việc và mãi đến chiều tối mới trở về nhà. Ngày nào hai vợ chồng cũng đều đọc kinh tối chung với nhau trước khi ngủ. Họ luôn sốngvui vẻ hòa thuận và chưa hề nghe họ cãi vã to tiếng với nhau bao giờ. Họ được mọi người trong làng khen ngợi bình chọn là một gia đình đạo đức tiêu biểu và họ trở thành gương sáng cho các đôi vợ chồng khác học tập noi theo. Ông chủ đất này muốn thử xem lòng đạo đức của đôi vợ chồng tá điền kia có thật hay không. Một hôm, ông sai gia nhân mang một túi đựng 100 đồng tiền vàng đến bí mật để ngay trước cửa nhà của đôi vợ chồng bác tá điền. Sáng hôm ấy, khi mở cửa đi lễ như thường lệ thì phát hiện ra một túi tiền vàng được ai đó để trước cửa nhà. Thế là đôi vợ chồng thôi không đi lễ nữa và vội đóng cửa lại để đếm tiền. Đếm đi đếm lại mãi, đến nỗi họ chẳng thiết gì đến ăn uống và không ra đồng làm việc. Sau khi đã nắm vững số tiền đang giữ, hai vợ chồng bàn định tìm chỗ để cất giấu cho an toàn. Mỗi người một ý không ai chịu ai cả, và lần đầu tiên họ đã cãi vã nhau. Cuối cùng họ nhất trí sẽ để túi tiền ngay dưới gối và nằm đè lên cho chắc ăn. Tuy vậy, họ vẫn khống yên tâm, nên cả hai đều không dám rời xa chiếc giường. Thực đúng như lời Chúa đã phán: "Kho tàng của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó" (Mt 6,21). Lúc nào tâm trí họ cũng nghĩ tới số tiền kia đến dộo ăn uống ngủ nghĩ thất thường. Cũng từ hôm ấy, hai vợ chồng chẳng còn tha thiết cùng đi dâng lễ mỗi sáng và đọc kinh tối chung với nhau nữa! Lòng họ lúc nào cũng lo sợ sẽ có ngày chủ nhân túi tiền đến đòi lại số tiền ấy. Sau một tuần căng thẳng, cả hai vợ chồng đều suy nhược và bị cảm ho đau nhức phải nằm liệt giường. Khi biết rõ tình trạng của đôi vợ chồng này, một hôm ông bá tước đã đến thăm hỏi. Trong cuộc nói chuyện, ông đã ôn tồn giải thích cho đôi vợ chồng biết nguyên nhân gây ra bệnh của họ. Ông cũng tường thuật cặn kẽ các việc ông đã làm cách đó một tuần để chứng minh lời Đức Giêsu nói: "Không ai có thể làm tôi hai chủ!...Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được" (Mt 6,24), và lời thánh Phaolô: "Lòng yêu mến tiền của là căn nguyên của mọi sự dữ" (1 Tm 6,10). Ông bá tước đã thuyết phục được đôi vợ chồng tá điền sẵn lòng trả lại túi vàng cho ông không thiếu đồng nào. Cũng từ lúc đó, đôi vợ chồng tá điền đã tìm lại được sự bình an trong tâm hồn. Họ lại vui tươi yêu đời, sớm hôm đọc kinh dự lễ để thờ phượng Chúa, phó thác cuộc sống trong tay Chúa Quan Phòng, và thực thi giới răn yêu thương như Đức Giêsu đã dạy.
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ ra uy nghiêm và quyết liệt khi dùng roi xua đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ, không ngại bị họ thù ghét làm hại. Nếu Chúa sống trong thời đại của chúng con hôm nay, chắn hẳn Chúa đã phải mạnh tay hơn để tẩy uế, khi nhiều ngôi Thánh Đường đã bị coi thường. Một số nhà thờ vì không có khuôn viên và chung quanh là đường đi, nên bị một số nười thiếu ý thức đem rác đến đổ bừa bãi, biến sân nhà thờ thành một bãi rác lộ thiên. Rồi chó mèo tự do phóng uế làm mất vệ sinh chung sân Nhà Chúa. Rồi cả những phần tử bất hảo cũng kéo đến tổ chức ăn nhậu, bài bạc, hút chích và đàng điếm... gây cảnh ồn ào náo loạn làm mất sự trang nghiêm trật tự lẽ ra phải có ở nơi dành riêng cho việc thờ phượng.
Lạy Chúa, nhất là thân xác của chúng con là Đền Thờ Chúa Thánh Thần, thế mà nhiều lần đã trở nên nhơ uế khi chúng con suy nghĩ, nói năng và hành động theo thói thế gian, chiều theo tính xác thịt của mình thay vì theo ý Chúa, khi chúng con chiều theo các đam mê lạc thú bất chính mà phạm tội mất lòng Chúa. Trong những ngày Mùa Chay này, xin Chúa giúp chúng con thanh tẩy tâm hồn và thể xác nhờ siêng năng đến nhà thờ cầu nguyện dâng lễ, tích cực tham dự các buổi tĩnh tâm, làm các việc hãm mình để biểu lộ tâm tình sám hối, quyết tâm đổi mới đời sống để mỗi ngày trở nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, và sống hòa thuận yêu thương để trở thành anh chị em thực sự của mọi người.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Thánh Mẫu Maria, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã trả lời cho các đầu mục Do Thái về dấu lạ chứng minh Người có quyền xua đuổi con buôn ra khỏi Đền Thờ. Đó là: " Cứ phá hủy Đền Thờ do tay người phàm xây dựng, và chỉ trong ba ngày tôi sẽ xây dựng một Đền Thờ khác không phải do tay người phàm!" (Mc 14,58; Ga 2,19).
Lạy Mẹ, chúng con hiểu rằng Chúa muốn dạy chúng con: cần phải phá hủy con người cũ với những đam mê tội lỗi, để từ đó phát sinh ra một con người mới thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa. Những việc thờ phượng có tính hẹp hòi, nặng hình thức phải được thay bằng một tâm tình yêu mến tha thiết. Cần phải thờ phượng Chúa trong thần khí và sự thật (x. Ga 4,23). Vậy trong những ngày Mùa Chay này, xin Mẹ giúp chúng con thanh luyện và đổi mới cách thờ phượng theo thánh ý Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
12.Nhà Chúa Cha và nơi buôn bán--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
1. Lề Luật và Đền Thờ
Bài đọc I của Thánh Lễ Chúa Nhật II Mùa Chay trích sách Xuất Hành, kể lại biến cố trọng đại: qua trung gian ông Mô-sê, Đức Chúa công bố cho dân Mười Điều Răn, vốn sau này sẽ trở thành trung tâm của toàn bộ Lề Luật[1]. Và trình thuật Tin Mừng theo thánh Gioan cũng kể lại một biến cố trọng đại không kém: Đức Giê-su “sắp xếp” lại Đền Thờ, vốn là trung tâm của đời sống Dân Chúa. Có thế nói, Người “sắp xếp” lại khởi đi từ tình trạng “hỗn mang” của Đền Thờ. Vì thế, hành động “sắp xếp” của Người có ý nghĩa “sáng tạo”; bởi lẽ, sáng tạo theo trình thuật “Sáng Tạo Bảy Ngày” (St 1), không chỉ là tạo ra sự vật, nhưng còn là sắp xếp những sự vật đã hiện hữu. Nhưng đâu là tương quan giữa hai biến cố trọng đại này?
* Cả hai biến cố đều có bối cảnh Xuất Hành: “Ta là Đức Chúa… đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai cập” (Xh 20, 2); “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái…” (Ga 2, 13). Như thế Lề Luật và Đền Thờ đều đặt nền tảng trên ơn huệ Thiên Chúa ban và có mục đích vừa tưởng nhớ ơn huệ Thiên Chúa ban và vừa bày tò lòng biết ơn bằng việc phụng tự và bằng cuộc sống. Điều này cũng phải là như thế đối với chúng ta, trong việc giữ luật và việc cử hành phụng vụ, nhất là cử hành phụng vụ Thánh Thể.
* Tuy cả hai là đều là “trung tâm”, như chúng vừa nói, nhưng cả hai đều có “vấn đề”: Đền Thờ, Nhà của Thiên Chúa, nhưng bị Sự Dữ, ngang qua những con người cụ thể, biến thành nơi buôn bán. Và tương tự như thế, Luật là tốt và thánh, nhưng trong thực tế đã để cho Tội, nghĩa là Sự Dữ, lợi dụng để mang lại bầu khí chết chóc và gây ra cái chết cho con người (St 3, 1-7 và Rm 7, 7-13).
* Vì thế, cả hai, Lề Luật và Đền Thờ, cần được Đức Giê-su “sắp xếp” lại. Và điều lạ lùng là Ngài thực hiện bằng chính cái chết của Ngài, nghĩa là bằng mầu nhiệm Vượt Qua, vì Lề Luật và vì Đền Thờ. Vì Lề Luật: “Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết” (Ga 19, 7)[2]. Vì Đền Thờ: người ta sẽ dựa vào hành động “sắp xếp” lại Đền Thờ để chất vấn (x. Ga 2, 18) và kết án Đức Giê-su (x. Mt 26, 61), như lời Thánh Vịnh loan báo: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân” (Tv 69, 10); hơn nữa, Đức Giê-su muốn thay thể Đền Thờ bằng chính thân thể của Người (x. Ga 2, 19 và 21).
Chết vì Lề Luật và vì Đền Thờ, phải chăng công trình “sắp xếp” của Đức Giê-su bị thất bại? Để mình bị lên án và bị giết chết, đó là sỉ nhục và điên rồ đối với con người, như thánh Phao-lô nói trong bài đọc II: “; nhưng đối với TC, đó lại là sức mạnh và khôn ngoan, là con đường ĐGS hoàn tất công trình “sắp xếp” hai vấn đề “trung tâm” nhất của đời sống con người, Lề Luật và Đền Thờ.
Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. (1Cr 1, 22-24)
Đó là chính là “công trình kì diệu của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Mt 21, 42 và Tv 118, 23), mà chúng ta được mời gọi chiêm ngắm trong mầu nhiệm Vượt Qua.
2. Nhà Chúa Cha và nơi buôn bán
Hình ảnh Đức Giê-su bừng bừng nổi giận đánh đuổi những người buôn bán trong Đền Thờ, có thể làm chúng ta kinh ngạc. Tương tự như sự kinh ngạc được gây ra bởi những lời nguyền rủa chống lại kẻ dữ trong các Thánh Vịnh (chẳng hạn Tv 69; Tv 139, 19-22; Tv 141, 10).
Về biến cố này, trong ba Tin Mừng nhất lãm, Tin Mừng theo thánh Luca kể nhẹ nhàng nhất: “Đức Giê-su vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán” (Lc 19, 45); hai Tin Mừng còn lại kể lại cùng một biến cố với nhiều chi tiết hơn: kẻ mua người bán, các bàn đổi tiền, các sạp bán bồ câu… (x. Mt 21, 12 -14; Mc 11, 15 -19). Nhưng thánh sử Gioan, trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ Chúa nhật hôm nay, tường thuật biến cố này cách đặc biệt nhất:
* Đức Giê-su đi Giê-ru-sa-lem và vào Đền Thờ ngay từ đầu thời gian rao giảng Tin Mừng. Chính vì thế, biến cố này có liên quan và hướng đến mầu nhiệm Vượt Qua. Tương tự như ngay từ đầu, Người đã so sánh con rắn đồng với mầu nhiệm Thập Giá, khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô (x. Ga 3, 14).
* Và hành động của Ngài rất mạnh mẽ: Ngài tự bện cho mình cái roi đánh đuổi mọi người và hất tung tất cả ra khỏi Đền Thờ: súc vật, tiền bạc, bàn ghế, những người buôn bán.
Các môn đệ chứng kiến cảnh tượng, liền trích Tv 69, 10: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân” !
***
Tuy nhiên, lời của Đức Giêsu sẽ giúp chúng ta hiểu và nhất là cảm nếm hành vi mạnh mẽ của Ngài:
Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,
đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán. (c. 18)
Bởi vì có một tương phản rất lớn, nếu không muốn nói là tuyệt đối, giữa Nhà Chúa Cha và nơi buôn bán. Tin Mừng Luca nói cho chúng ta biết yếu tính của từng nhà, nhà Chúa Cha và nơi buôn bán:
Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi biến thành sào huyệt của bọn cướp. (Lc 19, 46)
Thật là lạ lùng, khi Đức Giêsu nhìn ra “sào huyệt của bọn cướp” ở nơi người ta buôn bán ! Tuy nhiên, kinh nghiệm sống của chúng ta cho thấy, trong cách người ta buôn bán ngày nay, nhất là trong cách người ta buôn bán ngày nay, thường hay có sự gian dối, lọc lừa, thậm chí hành vi nguy hại cho sự sống, chỉ vì ham lợi trước mắt. Một đàng, nhà của Thiên Chúa là nhà cầu nguyện, nghĩa là nơi Dân Chúa diễn tả và sống tương quan Giao Ước với Thiên Chúa của mình, là nơi Thiên Chúa hiện diện và nói với dân của Ngài; đàng khác, là “sào huyệt của bọn cướp”. Hai thực tại quá khác biệt, quá tương phản, quá đối lập, và có thể nói, trái ngược nhau tuyệt đối:
* Nơi chốn của nhưng không, hiệp thông, của sự thật, của ý nghĩa, của ánh sáng, của hiền lành, của sự sống.
* Nhưng trong thực tế, nơi này đã trở thành nơi của loại trừ, nơi của gian dối, của vô nghĩa, nơi của bóng tối, nơi của bạo lực, nơi của sự chết. Sào huyệt của bọn cướp chính xác là như vậy.
Chứng kiến cảnh tượng Đền Thờ như thế và hiểu ở mức độ tuyệt đối như Đức Giê-su đã hiểu, làm sao Ngài không nổi giận cho được? Tuy nhiên, sự nổi giận của Ngài mang tính giải phóng, chứ không phải loại bỏ: giống như những lời nguyền rủa của các Thánh Vịnh, Đức Giêsu làm bật sự dữ khỏi chỗ ẩn nấp của nó, để chúng ta nhìn thấy, và khi nhìn thấy, chúng ta không thể chấp nhận được, vì nó không tương hợp với hình ảnh Thiên Chúa có nơi chúng ta. Đó chính là cách Người chữa lành và giải thoát chúng ta khỏi sự dữ trong cuộc Thương Khó và mầu nhiệm Thập Giá.
Chúng ta được mời gọi đọc tình trạng của Đền thờ như biểu tượng diễn tả, nhưng chính xác hơn phải nói là mặc khải, sự thật sâu xa và rất đau lòng về thế giới của chúng ta, về xã hội, về Giáo Hội, về cộng đoàn, về chính con người của chúng ta, nhất là nội tâm của chúng ta, bởi vì đó cũng là những “nơi tôn nghiêm” như đền thờ, nhưng đã bị biến dạng, trở thành “nơi buôn bán” !
Hiểu ra như vậy, chúng ta được mời gọi tự nguyện xin Chúa nổi giận và làm như Ngài đã làm xưa kia nơi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, với con người của chúng ta, với nội tâm của chúng ta, để tái tạo con người chúng ta như ơn gọi ban đầu: nghĩa là để cho Lời của Ngài vang vọng mỗi ngày trong nội tâm và trong ngày sống của chúng ta, như xưa Ngài đã đến giảng dạy trong Đền Thờ hằng ngày.
3. Thanh tẩy Đền Thờ và mầu nhiệm Vượt Qua
Qua hành động “thanh tẩy”, Đức Giê-su không chỉ phá đổ cái trật tự đang có của Đền Thờ, nhưng còn đụng đến “quyền lợi” của các thượng tế và kì mục. Hơn nữa, Ngài còn gọi cái “trật tự” đang có của Đền Thờ là cái hang trộm cướp! Chính vì thế, chúng ta không lạ gì khi các thượng tế và kì mục đến chất vấn Người về quyền hạn:
Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế? (c. 18)
Tất cả các thánh sử đều kể lại lời chất vấn này (x. Mt 21, 23; Lc 20, 2; Mc 11, 28), bởi vì câu hỏi này là một câu hỏi liên quan đến căn tính của Đức Giê-su, đến tương quan duy nhất của Ngài với Thiên Chúa Cha: quyền của Ngài đến từ Chúa Cha, bởi vì Ngài đến từ Chúa Cha, Ngài là Con Duy Nhất của Chúa Cha. Chính vì thế, Người trả lời bằng cách nói về mầu nhiệm Vượt Qua, là mầu nhiệm qua đó, Người mặc khải cho người Do Thái và cả loài người chúng ta, Người là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống:
“Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”… Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. (c. 19 và 21)
Hành động và lời nói của Đức Giê-su về Đền Thờ loan báo cuộc Thương Khó của Người. Chính vì thế, theo lời kể của thánh sử Mác-cô, các thượng tế, kinh sư và kì mục đã có ý định giết Đức Giê-su khi chứng kiến Ngài đánh đuổi tất cả những người mua bán, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu, và khi nghe Ngài nói: “Nào đã chẳng có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc sao? Thế mà các người đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!” (Mc 11, 17).
Các thượng tế và kinh sư nghe thấy vậy,
thì tìm cách giết Đức Giê-su. (Mc 11, 18)
Một cung cách đã khơi dậy nơi người chứng kiến ý định loại trừ, thì hẳn phải là một cung cách có tầm mức rất lớn, tầm mức lịch sử cứu độ, bởi vì đó là ý định loại trừ Đức Giê-su, Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa. Nhưng, đó lại là con đường Thiên Chúa chọn để xây dựng Đền Thờ mới, để hoàn tất lịch sử cứu độ.
Như thế, với mầu nhiệm Vượt Qua, Đức Giê-su sẽ thay thế Đền Thờ và cơ chế lễ tế của Đền Thờ bằng Lời của Ngài, bằng sự hiện diện của Ngài và bằng chính thân mình Ngài, làm của lễ hoàn thiện dâng lên Chúa Cha, vì loài người chúng ta. Đó là chính là Thánh Lễ Tạ ơn mà chúng ta cử hành mỗi ngày.
***
Sự Dữ, ngang qua những con người cụ thể, đã “phá hủy” Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, khi biến Đền Thờ thành “hang trộm cướp”. Sự phá hủy này loan báo Sự Dữ sẽ “phá hủy” Đức Giê-su trong cuộc Thương Khó. Nhưng Thiên Chúa đã dùng chính sự phá hủy này để xây dựng Đền Thờ Mới, là Đức Ki-tô Phục Sinh chiến thắng Sự Dữ và sự chết.
Chúng ta vốn là “đền thờ của Thiên Chúa”, nhưng đã bị Sự Dữ phá hủy. Xin cho chúng ta biết mở lòng ra để đón nhận Đền Thờ mới là chính Đức Ki-tô.
--------------------
[1] Mười Điều Răn (MĐR) là trung tâm của toàn bộ Lề Luật, bởi vì MĐR qui định hai mối tương quan cản bản: tương quan với Thiên Chúa và tương quan với người khác. Vì thế, những luật khác không phải là những khoản thêm vào MĐR, nhưng là một giải thích hay chi tiết hóa MĐR. Mười Điều Răn chi phối tất cả các lề luật khác như ngọn núi vượt trên đồng bằng, hay đúng hơn, chứa đựng tất cả những lề luật này; chúng xuất phát từ Mười Điều Răn và trở về với Mười Điều Răn. Ngày nay, Mười Điều Răn vẫn còn hiện diện như bộ luật căn bản của Giáo Hội.
[2] Và trước đó, đã biết bao lần, họ nhân danh luật Sa-bát, trung tâm của Mười Điều Răn (Xh 20, 8-11), họ rình rập, lên án và lập mưu giết Đức Giê-su (x. Mc 3, 1-6).
13.Nôi ba ngày Tôi sẽ xây dựng lại --Lm. Trầm Phúc
“Các ngươi cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Một câu nói táo bạo không thể tưởng được. Theo luật Do Thái, ai nói phạm đến Đền thờ là bị ném đá. Ông Navót thời vua Akháp, đã bị ném đá vì hoàng hậu Ysaven đã vu cáo cho ông nói phạm đến Đền thờ. Chúa Giêsu không bị ném đá vì nhờ hậu thuẫn của dân chúng. Câu nói của Chúa Giêsu là một vấn đề chúng ta cần suy nghĩ. Chúa muốn gì khi tuyên bố một câu kinh khủng như thế?
Đền thờ là trung tâm thờ phượng của người Do Thái từ khi vua Salômôn đã xây dựng. Trước đó, từ thời Môsê, khi dân Do Thái lưu lạc trong hoang địa, Thiên Chúa chỉ ngự giữa dân Người trong Lều tạm gọi là Lều Chứng Tri, trong đó có Hòm Bia. Đi đến đâu, dân vẫn mang theo Lều đó và Môsê, khi cần mới vào xin ý kiến của Chúa.
Sau khi định cư, Hòm Bia được đặt vào trong một Đền thờ nhỏ để dân đến đó cầu nguyện như thời tiên tri Samuen, Hòm Bia được đặt ở Silô. Vua Đavít đã kiệu Hòm Bia về Giêrusalem, đặt Hòm Bia vào trong một Đền Thờ nhỏ nhưng cũng được làm bằng gỗ quí. Vua cũng định xây một Đền Thờ xứng đáng cho Chúa như lòng vua ước nguyện, nhưng Chúa không để cho vua Đavít xây mà chọn vua Salômôn làm việc đó.
Từ khi Đền Thờ nguy nga được xây dựng tại Giêrusalem, việc phụng thờ Chúa được thực hiện tại đó, xem như trung tâm thờ phượng của toàn dân và cũng là nơi Chúa ngự trị giữa dân Người. Đền thờ là nơi thánh, dành riêng cho việc thờ phượng và ai phạm đến Đền thờ sẽ bị ném đá. Thế nhưng hôm nay, chúng ta nghe Chúa Giêsu phán một lời không thể chấp nhận được đối với người Do Thái. Tại sao thế?
Tuy có Đền thờ nguy nga, việc thờ phượng của người Do Thái dần dần đã trở thành những lễ nghi không hồn. Lòng đạo đã bị xói mòn vì thói quen, vì thế Chúa phán qua các tiên tri: “Dân này thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng nó xa Ta muôn trùng”. Và một ngày nào đó tiên tri Êdêkien đã được thấy thị kiến là Vinh quang của Chúa rời bỏ Đền thờ…Và sau cùng vua Nabukôđônôso sẽ phá hủy Đền thờ và dân Do Thái bị lưu đày sang Babilon, và khóc dài suốt bảy mươi năm nơi đất khách: “Lễ toàn thiêu, lễ hy sinh đã hết, lễ tiến lễ hương cũng chẳng còn. Chẳng còn nơi để dâng của lễ đầu mùa lên Chúa để chúng con được Chúa xót thương”.
Đây cũng là kinh nghiệm quí báu cho dân thấy rằng, việc thờ phượng không chỉ là những của lễ mà là tâm hồn chân thật.
Sau cuộc lưu đày, Đền thờ được xây lại và việc thờ phượng được nội tâm hơn.
Chúa Giêsu tôn trọng Đền thờ và xem đó như nhà của Cha Ngài, là nhà cầu nguyện. Nhưng hôm nay, khi bước vào Đền thờ, Ngài thấy cảnh buôn bán tấp nập, không còn gì là nơi thờ phượng: “Các ngươi hãy phá Đền thờ này đi!” Một lời phán như một lời tuyên án. Vì nếu các ngươi đã biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán thì để Đền thờ này làm gì? Đâu còn là nhà cầu nguyện nữa, đâu còn là nơi cực thánh nơi Chúa ngự nữa.
Thờ phượng Chúa không thể đi đôi với trục lợi. Thiên Chúa không cần của lễ chiên bò, Ngài chỉ muốn những tâm hồn thống hối và tinh thần khiêm nhượng của chúng con thay của lễ chiên bò…”.
“Các ngươi hãy phá Đền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Một lời xem ra như một thách thức. Những ông Pharisêu xem như một lời nói ngoa vì phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong. Không ai biết Ngài muốn nói gì và xem đó như một lời phạm thượng. Thánh Gioan giải thích: “Nhưng Đền thờ Người muốn nói đây là chính thân thể Người”. Các môn đệ cũng không hiểu ngay lúc đó mà sau này, khi Chúa từ cõi chết sống lại, các ông mới hiểu. Hôm nay, chúng ta được hiểu vì mọi sự đã hiển nhiên. Nhưng chúng ta có hiểu thực sự không? Chúng ta có biết rằng Đền thờ của chúng ta hôm nay không chỉ là những ngôi nhà bằng gỗ đá mà bằng chính Đấng đã từ trời xuống, xây dựng cho chúng ta một Đền thờ bằng cái chết và phục sinh của Ngài không? Ngài chính là Đền thờ duy nhất, xứng đáng để chúng ta thờ phượng Chúa trong tinh thần và chân lý. Chỉ có sự thờ phượng đó mới thực sự đẹp lòng Đấng đã trao phó Con Một Người cho chúng ta. Chỉ có Người Con Một đó thay cho chúng ta để dâng lễ tạ ơn liên lỉ, Người Con Một đầy ân sủng và chân lý. Từ nay, mọi hy sinh, mọi lời cầu, mọi của lễ của chúng ta đều quy tụ vào Đền thờ duy nhất đó, vì thế Giáo hội luôn cầu xin “nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta”. Ngài là bàn thờ và là của lễ, sách Khải Huyền đã viết như thế, nhưng hơn thế nữa, Ngài là Vị Thượng tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là Vị Thượng Tế duy nhất, nhưng Ngài cũng muốn chúng ta trở thành một dân thánh, một dân tư tế như thánh Phêrô đã nói: “Hãy để cho Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô”. Đó là ơn gọi của Kitô hữu. Chúng ta là một dân tư tế thánh. Chúng ta là những kẻ được tuyển chọn để thành một dân tư tế. Như thế Giáo hội chính là Đền thờ mới của Thiên Chúa. “Hãy phá Đền thờ này đi”. Đền thờ Giêrusalem giờ này chỉ còn là kỷ niệm, là hình bóng của Đền thờ mới xây là thân thể Chúa Kitô.
Tiến xa hơn, thánh Phaolô, trong thư gởi giáo đoàn Côrintô cũng dạy rằng: “Anh em là Đền thờ của Thiên Chúa” “Thân xác anh em là Đền thờ của Chúa Thánh Thần”. Vinh dự cho chúng ta biết bao! Nhưng mấy người đã hiểu được hồng ân cao quí này? Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta được nâng lên đến một địa vị cao quí mà chúng ta không hay biết.
Thánh Phaolô còn nói: “Ai phá hủy đền thờ của Thiên Chúa (là thân xác), Thiên Chúa sẽ hủy diệt người ấy”. Không có lời nào mạnh mẽ hơn! Vì thế, sống là sống cho Thiên Chúa và chết là chết cho Thiên Chúa.“Hãy dâng thân xác anh em làm của lễ đẹp lòng Thiên Chúa”. Chúng ta thuộc trọn về Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã tẩy sạch Đền thờ Giêrusalem để cho chúng ta thấy rằng chúng ta cần tẩy sạch đền thờ của chúng ta để xứng đáng làm tư tế để thờ phượng Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng đã rất mực yêu thương chúng ta và đã thánh hiến chúng ta bằng phép rửa tội, đổ tràn tình yêu Thánh Thần vào lòng chúng ta bằng phép Thêm sức, để chúng ta thành con yêu dấu của Người. Xưa kia Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái và dạy họ: “Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh”. Thì hôm nay, hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải thánh thiện hơn để xứng đáng với tình yêu vô biên của Người.
Mùa Chay chính là lúc chúng ta lắng nghe lời Chúa chăm chú hơn, đi theo đường nẻo của Người, giữ lời của Người như Chúa Giêsu đã giữ lời của Chúa Cha, sống hoàn toàn theo ý Cha. Như thế, cuộc sống trần gian của chúng ta sẽ thành của lễ đẹp lòng Cha. Chúng ta còn yếu đuối lỡ lầm, nhưng lòng thương xót của Cha trên trời còn rộng hơn sự yếu hèn của chúng ta. Hãy tin tưởng bước tới trong Chúa Giêsu, vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Hãy tìm về Ngài như nguồn tình thương vô biên dành sẵn cho chúng ta. Đừng ngại ngùng cầm lấy dây thừng, đánh đuổi những kẻ buôn bán làm nhơ nhớp Đền thờ của chúng ta. Chúa Giêsu đã gánh chịu tất cả vì chúng ta, chúng ta hãy đi vào con đường hẹp là con đường hoán cải để có thể cùng Ngài cứu vớt chính mình và anh em chúng ta, những người đang cần ơn cứu độ. Chúa Giêsu mong mỏi biết bao thấy chúng ta dám cùng Ngài vác thập giá để cùng sống lại với Ngài trong vinh quang!
Vác thập giá với Ngài chúng ta cần được can đảm. Thánh Thể chính là của ăn Chúa ban cho chúng ta nhờ đó chúng ta mạnh đủ để bước theo Ngài trên con đường hẹp Ngài đã đi. Hãy ăn lấy Chúa chúng ta vì Ngài đã trao ban chính mình Ngài cho chúng ta. Ăn lấy Ngài để như tiên tri Êlia xưa ăn bánh trong sa mạc và đã đi suốt bốn mươi đêm ngày đến điểm hẹn.
Cuộc sống chúng ta vẫn không dễ dàng, nhiều cam go thử thách đang chờ chúng ta trên mọi nẻo đường, hãy ăn lấy lương thực hằng sống để đi đến điểm hẹn muôn đời. Vinh quang Chúa sẽ là phần thưởng cho những ai dám theo Ngài đến cùng. Hãy tô điểm cho đền thờ tâm hồn chúng ta bằng những bông hoa bác ái, khiêm nhu để đón chào tân lang của chúng ta mỗi ngày. Có thể chúng ta còn ngại ngùng, e sợ, hãy nghe tiếng mời gọi của tình yêu và tin tưởng. Chúa chúng ta là Thiên Chúa nhẫn nại nhẹ nhàng, Ngài sẵn sàng tiếp đón chúng ta dù chúng ta không xứng. Hãy dành cho Ngài tất cả để Ngài biến đổi tất cả thành tình yêu vì Ngài chính là Tình Yêu nhập thể.
14.Hãy thanh tẩy đền thờ Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Vượt qua của người Do thái thường diễn ra tại Đền thờ. Vào dịp này, Chúa Giêsu lên dự lễ, Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi Đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Chứng kiến cảnh tượng Chúa làm, các môn đệ khám phá ra lòng nhiệt thành với nhà Cha nơi tâm hôn Chúa Giêsu, họ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi” (Tv 69,10).
Thật là tệ! Đền thờ, nhà của Thiên Chúa đã bị biến thành nơi chợ búa. Mục đồng thì mang cừu đến bán, kẻ bán chim câu mong kiếm được vài đồng, kẻ giữ Đền thờ cũng vậy...
Đền thờ Giêrusalem
Luật Do thái cấm mua bán nơi Ðền thờ. Tuy nhiên hàng tư tế quản trị Ðền thờ lại dung túng cho dịch vụ này để nhằm chuộc lợi. Kẻ đổi tiền ăn bớt phần trăm, người bán coi đó như là cách thế làm tiền, khiến người mua thì phải mua đồ lễ một cách bất đắc dĩ cho việc dâng hiến, với giá cắt cổ thay vì mua ở ngoài theo giá thị trường. Các tư tế cho đấu thầu hai dịch vụ này cũng có món tiền bỏ túi riêng. Thay vì nhắm đến việc giúp những người từ xa đến khó có thể mang theo lễ vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong khu vực Ðền thờ là tiện lợi. Tiện lợi chứ không hẳn là cần thiết, vì việc mua bán vẫn có thể thực hiện bên ngoài Ðền thờ. Nếu tiện lợi, sao Ðức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật và đổi tiền quanh Ðền thờ? Chúa đuổi họ, vì họ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Chúa lên tiếng cảnh giác họ: “Ðừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Ðó là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng lõa trong việc thương mại hoá và phàm tục hoá Ðền thờ.
Chúa Giêsu là Đền Thờ
Thật ra, cơn giận của Chúa Giêsu không nhằm chống lại những người buôn bán cho bằng chống lại chính việc thờ phượng bị thương mại hóa theo kiểu ấy. Khi lật nhào các quày buôn bán, Ngài lật đổ chính tôn giáo và phá hủy đền thờ. Hành động đó gây phẩn nộ cho tất cả mọi người, nhất là khi biết rằng đền thờ Giêrusalem có một vị trí trong tâm hồn mọi người Do thái. Họ hỏi Ðức Giêsu: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (Mc 2,18) Và Ngài đáp: “Các ông cứ phá hủy Ðền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Mc 2,19).
Thánh Gioan tường thuật chi tiết chính xác quan trọng ấy. Đền thờ Chúa Giêsu nói đây chính là Thân thể Người, hiện thân của Chúa Cha. Khi sánh ví Người là Đền Thờ, Chúa Giêsu khẳng định chính mình là Đền Thờ Thiên Chúa Cha ngự trị. Chúa Giêsu chính là sự tôn vinh Thiên Chúa. Theo thánh sử Gioan, chúng ta được tiên báo về cái chết và sự sống lại của Ðức Kitô: thân thể của Người, vốn bị bạo lực của tội lỗi hủy hoại trên thập giá, Thiên Chúa gặp gỡ con người qua sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Vì thế, nhân tính của Người chính là Ðền Thờ đích thực, là nơi Thiên Chúa mặc khải chính mình, để phán bảo và gặp gỡ con người; và những ai thờ phượng Thiên Chúa đích thực không phải là những kẻ giữ cửa của Ðền thờ vật chất, cũng chẳng phải những người nắm giữ quyền lực hay có kiến thức về tôn giáo, nhưng là những ai thờ phượng Thiên Chúa trong “Thần Khí và sự thật” (Ga 4, 23).
Chúng ta là Đền thờ
Thánh Phaolô nói: “Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa sao?.. Đền thờ của Thiên Chúa là thánh thiêng, anh chị em cũng vậy” (1 Cr 3,16-17). Như thế, chân lý và phẩm giá Thiên Chúa được liên kết với sự thật và phẩm giá con người. Thánh Phaolô cảnh cáo: “Anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và ai xúc phạm Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy” (1Cr 3, 17).
Người ta xúc phạm đến Đền Thờ của Thiên Chúa bằng nhiều cách. Nếu người Do thái xưa kia đã biến Đền Thờ thành nơi buôn bán. Và Chúa Giêsu đã nổi giận đến nỗi thắt dây thừng thành roi để đánh đuổi họ và lật đổ bàn ghế của họ. Ngày nay, có nhiều nơi dùng Thánh Đường để buôn thần bán thánh, nhưng cách xúc phạm thông thường nhất là phạm đến Đền thờ trong tâm hồn và thân xác của mỗi người và của tha nhân.
Phá thai là một hình thức xúc phạm nặng nề đến Đền thờ Thiên Chúa. Không những xúc phạm, mà còn phá hủy những Đền thờ nhỏ bé của Thiên Chúa, tước quyền Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên các thai nhi ấy theo hình ảnh của Ngài.
Linh hồn cũng là Đền thờ Thiên Chúa. Chúng ta xúc phạm đến Đền thờ này bằng cách xúi dục người khác phạm tội, làm dịp cho người khác phạm tội, làm gương mù cho người khác, nhất là trẻ em (x. Mc 9:42), hay làm lơ không nhắc nhở khi mình có trách nhiệm. Có nhiều người nghĩ rằng mình không làm hại ai là đủ rồi. Thật ra những người có trách nhiệm giáo dục và hướng dẫn người khác, mà lơ là bổn phận của mình, cũng là xúc phạm đến Đền Thờ của Thiên Chúa vì mình không chu toàn bổn phận bảo trì và xây dựng những ngôi Đền Thờ mà Thiên Chúa đã trao cho.
Khi đuổi súc vật ra khỏi đền thờ, Chúa Giêsu muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người là gìn giữ đền thờ bản thân chúng ta. Tâm hồn chúng ta là cung thánh Chúa ngự. Chúa biết rõ những khao khát nồng nhiệt nhất của chúng ta: đó là được Ngài cư ngụ trong cõi lòng mình, chỉ một mình Chúa thôi. Chúng ta hãy để cho Ngài bước vào cuộc đời, gia đình, và cả cõi lòng của chúng ta nữa. Để được như thế Ta phải luôn luôn thanh tẩy tâm hồn hầu xứng đáng với Chúa.
Lạy Mẹ Maria, nơi cư trú đặc biệt của Con Thiên Chúa, xin đồng hành với chúng con và xin nâng đỡ chúng con trong hành trình Mùa Chay này, để chúng con có thể tái khám phá ra vẻ đẹp của cuộc gặp gỡ với Ðức Kitô, Ðấng sẽ giải thoát và cứu độ chúng con.
15.Nơi chốn và phương thức phụng thờ đích thực--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Việc tẩy uế đền thờ tạo dịp để Đức Giêsu đề cập với giới lãnh đạo Do Thái về một đề tài rất nóng bỏng và thiết thân đối với họ: phải phụng thờ Thiên Chúa như thế nào cho phải lẽ? Thật vậy, đền thờ Giê-ru-sa-lem vốn là trái tim của cả dân tộc Do Thái, là nơi họ dâng lễ vật phụng thờ lên Đức Chúa Gia-vê, đồng thời thanh tẩy mình khỏi tội nhơ. Vì thế cho nên, khi Đức Giêsu thách thức: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại!” thì các tư tế lập tức có những phản ứng gay gắt; Nhưng ngược lại, các môn đệ qua đó lại dần nghiệm ra: đây mới chính là mạc khải mới mẻ nhất mà Đức Giêsu, không chỉ tuyên bố xuông, mà còn thực tế minh định bằng sự kiện Vượt Qua thập giá do chính Người thực hiện; ‘Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, và họ tin rằng… Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói đây là chính thân thể Người’.
‘Làm thế nào thờ phượng, hay đúng hơn, đi vào tương quan với Thiên Chúa cách chân thực nhất?’ hẳn đây là vấn nạn thầm kín của rất nhiều tâm hồn tín hữu qua mọi thời đại. Các tư tế Do Thái thì đinh ninh họ đã sở đắc được lời giải đáp quá rõ như ban ngày: cứ lên đền thánh Giê-ru-sa-lem dâng tiến lễ vật theo luật định! Sau này người phụ nữ Sa-ma-ri bình dân và tầm thường cũng sẽ nêu lên cùng một vấn nạn: “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa”. Khi giải đáp vấn đề thiết thân này, Đức Giêsu đã rất thẳng thừng tuyên bố, một lời công bố mang tính cách mạng triệt để trong lãnh vực tôn giáo: “Giờ đã đến, và chính là lúc này đây, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4:19-26)
Nối kết hai đoạn văn liên quan tới đền thờ này lại với nhau, ta sẽ khám phá ra một mạc khải có tầm quan trọng bậc nhất đối với hết thảy các tín hữu Kitô: nơi thờ phượng Thiên Chúa xứng hợp nhất chính là con người Đức Kitô, và phương thức thích hợp nhất để tôn thờ Chúa Cha đó là tôn thờ trong thần khí và sự thật. Nói cách khác, chỉ duy nhất trong Đức Giêsu Kitô ta mới tôn thờ được Chúa Cha cách chân thực, và chỉ nơi thâm sâu nhất của cõi lòng ta mới thực sự thờ phượng trong thần khí và sự thật.
- ‘Thần khí’, nếu trong suy nghĩ của người Do Thái và Sa-ma-ri thần khí là sức mạnh của Đức Chúa, thì Đức Giêsu chắc hẳn cũng đang đề cập tới một sức mạnh gì ghê gớm hơn hẳn. Đúng vậy, đó là sức mạnh mà Người sẽ thực hiện cũng chính tại Giê-ru-sa-lem, qua cái chết thập giá và sống lại của mình: sức mạnh của yêu thương cứu độ. Thờ phương Chúa Cha trong ‘thần khí – sức mạnh’ của tha thứ và xót thương thì chỉ có Kitô hữu mới làm được, nhờ đi vào cái chết thập giá của Đức Giêsu.
- ‘Sự thật’, đối với Kitô hữu sẽ không phải là thứ triết lý gì cao siêu, nhưng là một điều rất cụ thể và thực tế mà ai cũng phải giáp mặt và có thể nắm bắt. Tông đồ Gio-an đã từng khảng định: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1:8-10). Sự thật đơn giản là thế đó! Quả vậy, không thể phụng thờ một Chúa Cha đầy từ tâm và xót thương nếu không chân thành và khiêm tốn nhìn nhận sự thật mười mươi ‘tôi đã phạm tội!’ Đó cũng là cách thờ phương Thiên Chúa chân chính và độc đáo nhất mà chỉ các Kitô hữu mới có thể tích cực chu toàn.
Đức Giêsu không chỉ muốn ‘tẩy uế’ đền thờ Giê-ru-sa-lem, Người thậm chí còn công khai yêu cầu phá bỏ nó hoàn toàn để xây dựng lại một nơi thờ phượng mới, và phải thiết lập một phong cách thờ phương mới. Phải chăng điều này đồng nghĩa tới việc kẻ phụng thờ phải từ bỏ lề thói tôn thờ Thiên Chúa theo kiểu phụng tự với những nghi lễ rình rang mà mọi các tôn giáo cổ điển đều làm, để triển khai một lối phụng thờ mới tập trung vào một Thiên Chúa từ nhân và cứu độ, trong thái độ thẳng thắn và khiêm tốn nhìn nhận con người tội lỗi và yếu hèn của mình, đồng thời kín múc lấy nguồn nước hằng sống là ơn cứu độ của thập giá Đức Kitô? Công việc phá bỏ và xây dựng mới này đương nhiên không thể thực hiện trong một sớm một chiều, vì “đền thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà trong ba ngày ông xây lại được sao?” Phải, không thể nếu ta không dứt khoát, đặc biệt trong ba ngày thánh thiêng nhất của năm phụng vụ, thật lòng đi vào của cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô Giêsu.
Nếu sự thật là như thế thì những ngày này của mùa chay sẽ quan trọng đối với các Kitô hữu chúng ta biết bao. Ta phải dứt khoát thôi, để chuẩn bị mình cho việc thờ phượng chân chính nhất được cử hành bên ngoài, nhưng nhất là bên trong cõi lòng ta… và được biểu hiện cách tuyệt vời trong Thánh Lễ Thập Giá trên bàn thờ!
Lạy Thiên Chúa cứu độ, xin dạy cho con biết tôn thờ Chúa trong thần khí và sự thật. Trước hết xin giúp con can đảm phá hủy đền thờ Giê-ru-sa-lem (lề thói giữ đạo / đi nhà thờ) mà con đã mất bao công sức xây dựng nên. Từ nay con muốn dứt khoát xây dựng ngôi đền thờ mới là đi vào con đường thập giá: khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi mình và mở rộng lòng đón lấy ơn cứu độ. Như Phao-lô, con không muốn tôn thờ một Thiên Chúa nào khác ngoài Đức Kitô thập giá. Amen.
16.Hãy xem lại lối sống đạo của chúng ta--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
Trước và sau tết Nguyên Đán, người dân Việt Nam nói chung, nhất là miền Bắc, không ai lại không biết đến ít nhiều lễ hội.
Theo thống kê 2009 trên vi.wikipedia, hiện cả nước có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%). Các địa phương có nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Hải Dương và Phú Thọ.
Qua những lễ hội này, chúng ta thấy được một phần nào truyền thống, văn hóa của dân tộc Việt Nam. Điều này rất bổ ích, nhất là cho thế hệ trẻ! Tuy nhiên, trong những năm gần đây, có khá nhiều nơi đã lạm dụng lễ hội để kinh doanh, buôn bán và mê tín dị đoan. Từ đó, kéo theo một loạt những hệ lụy không đẹp như trộm cắp, đánh đập, chửi bới và hành xử thiếu văn hóa ngay chốn linh thiêng…, làm cho lễ hội nhuốm màu trần tục!
Hôm nay, Tin Mừng cũng thuật lại việc những nhà lãnh đạo tôn giáo thời Đức Giêsu đã biến đền thờ là chốn linh thiêng, là nơi dành riêng để tôn thờ Thiên Chúa thành nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc. Thấy vậy, Đức Giêsu đã thẳng tay đánh đuổi để trả lại cho đền thờ đúng với ý nghĩa của nó.
Qua đó, Ngài muốn dạy cho chúng ta rất nhiều bài học sau biến cố này.
1. Lý do khiến Đức Giêsu đánh đuổi con buôn
Đền thờ Giêrusalem là một đền thờ nguy nga, tráng lệ vào bậc nhất thời đó. Đền thờ này được dùng vào việc tôn thờ Thiên Chúa và là nơi quy tụ những người Dothái hằng năm vào dịp lễ Vượt Qua.
Câu chuyện căng thẳng giữa Đức Giêsu và dân chúng đã xảy ra đúng vào thời điểm này.
Khởi đi từ việc Đức Giêsu quan sát và thấy được người ta đổi tiền, mua bán súc vật ngay trong đền thờ, làm cho đền thờ trở nên ô uế!
Điều đáng nói là: theo quy định, những con vật được dùng vào việc tế lễ phải là con vật lành lặn không tỳ vết. Những người chính thức được các chức sắc chỉ định mới đủ thẩm quyền để tuyên bố con vật xứng đáng sau khi đã kiểm tra! Tuy nhiên, con vật đủ kiều kiện để dùng vào việc tế lễ phải là con vật được mua trong nơi quy định của các tư tế và nó sẽ đắt gấp 15 lần so với bên ngoài. Hơn nữa, người mua còn phải trả một loại phí không nhỏ cho những người kiểm tra!
Bên cạnh đó, nơi đây còn diễn ra chuyện đổi tiền. Theo luật thì buộc mỗi người Dothái phải nộp thuế cho đền thờ từ 19 tuổi trở lên. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, tương đương với hai ngày lương công nhật.
Vì là lễ Vượt Qua không chỉ dành riêng cho người Dothái tại chỗ, mà còn cho cả những người Dothái ở nhiều nơi khác hội tụ về, nên tiền họ mang theo cũng đủ loại…. Nhưng tiền nộp vào đền thờ lại chỉ được chấp nhận là thứ tiền của người Dothái, vì họ cho rằng chỉ có tiền này mới xứng đáng để nộp thuế đền thờ, các thứ tiền khác là ô uế!
Chính vì lý do đó nên việc đổi tiền đã diễn ra tại nơi đây với giá cắt cổ.
Chứng kiến cảnh tượng đó, cộng thêm: “Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn”(Tv 68.10), nên Đức Giêsu đã bừng bừng nổi giận. Thánh Gioan cho biết là Ngài đã lấy dây bện thành một ngọn roi xua đuổi bọn họ và đạp đổ tung thùng tiền (x. Ga 2, 14-17).
Khi có hành vi ấy, Đức Giêsu cho thấy những hệ lụy đầy bất công của những kẻ lãnh đạo tinh thần thời bấy giờ, đó là: họ đã nhân danh tôn giáo để đè đầu cưỡi cổ và bóc lột dân, nên Ngài đã không thể chấp nhận tình trạng ấy diễn ra ngay tại nơi dành riêng để tôn thờ Thiên Chúa, vì thế, Đức Giêsu nói: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Lời cảnh cáo này của Đức Giêsu cho thấy Ngài đã nhắc lại lời của Ngôn Sứ Isaia khi xưa: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Is 56,7).
2. Thực trạng đời sống đạo của chúng ta
Khi xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, Đức Giêsu mặc khải và dạy cho chúng ta những bài học thật bổ ích, đó là:
Cần cẩn trọng và đừng nên mừng vội khi thấy mỗi Chúa Nhật và các dịp lễ trọng, người đi lễ nườm nượp và ngồi chật kín cả nhà thờ, nhất là tuần làm phúc (trước Tuần Thánh) và Tuần Thánh. Có lẽ về khía cạnh này, Giáo Hội Việt Nam đứng đầu bảng trên toàn thế giới. Đây là một tín hiệu rất đáng mừng và rất nên khuyến khích cũng như phát huy.
Tuy nhiên, điều đáng tự hào ấy lại cần phải xem xét lại, vì biết bao nhiêu người chỉ tập chung vào những chuyện bên ngoài như đi “xem lễ” chứ không “sống thánh lễ” trong đời sống của mình.
Lại có những người siêng năng tham dự thánh lễ và chăm chú nghe giảng rồi lên rước lễ rất sốt sắng như thiên thần. Nhưng khi ra khỏi nhà thờ, họ sẵn sàng chửi bới, nói hành nói xấu, buôn gian bán lận, ăn chơi trác táng… không khác gì dân chơi thứ thiệt hạng sang ngoài đời! Hơn nữa, việc đi lễ, thuộc kinh là một chuyện, còn chuyện coi bói, xem quẻ, thờ ông địa, bái gốc đa, khấn gốc gạo với viện cớ rằng: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành…” lại là chuyện thường tình xảy ra hằng ngày ngay tại các cộng đoàn tín hữu với những sinh hoạt tôn giáo sầm uất!
Và, vẫn còn đó những người rất năng nổ tham gia chuyện quyên góp để xây dựng những công trình tôn giáo, nhưng đền thờ tâm hồn lại không màng chi đến hoặc có quan tâm thì cũng chẳng khác gì cưỡi ngựa xem hoa! Vì thế, việc xây dựng đền thờ tâm hồn với những nét đẹp như: từ bi, nhân hậu, bao dung, tha thứ, xây dựng tình huynh đệ, tạo sự hiệp nhất, liên đới, cảm thông…, thì lại quá xa lạ đối với những người xem ra có vẻ đạo đức ấy!
Hơn nữa, điều đáng buồn nhất, đó là nhiều khi chúng ta lại đi lại chính vết xe của những nhà lãnh dạo tôn giáo khi xưa, đó là: nhân danh lề luật, tôn giáo và nhân danh Thiên Chúa để làm bình phong, nhằm ngụy trang cho những thói lưu manh, gian dối bẩn thỉu của mình!!!
Tắt một lời, tin Chúa như vậy là hình thức, là vỏ bọc, là đầu môi chóp lưỡi, còn thực chất bên trong là rỗng tuếch! Tin Chúa như vậy được ví như tin có mùa vụ. Tin lúc thuận tiện. Tin khi có lợi mà thôi….
3. Sứ điệp Lời Chúa
Bài học cho chúng ta hôm nay chính là: ngoài việc tôn kính nhà thờ, nhà nguyện là nơi dành riêng để thờ phượng Thiên Chúa, chúng ta còn có một đền thờ khác, đó là đền thờ thân xác của mỗi người. Thánh Phaolô nói: “Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa” (1 Cor 3, 16).
Vì vậy, mỗi người chúng ta phải có bổn phận xây dựng cho mình một ngôi đền thờ xứng đáng để cho Thiên Chúa ngự. Ngôi đền thờ này phải được xây dựng bằng nền móng vững chắc là đức tin và lòng mến thật tâm. Cần phải được trang trí bằng những việc đạo đức, bác ái, khoan dung, quảng đại, thông cảm và tha thứ.
Mặt khác, chúng ta đang sống trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy canh tân để đổi mới. Canh tân lối sống cũ không phù hợp với giá trị Tin Mừng. Đổi mới từ con người tội lỗi, hình thức, hào nhoáng bên ngoài thành con người có chiều sâu nội tâm bên trong qua việc ăn năm sám hối thật lòng….
Ước gì sứ điệp Lời Chúa hôm nay được chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận và sống sao cho thật đẹp lòng Chúa, ngõ hầu xứng đáng là đền thờ cho Thiên Chúa Ba Ngôi ngự. Amen.
17.Thanh tẩy đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Trên tờ tuổi trẻ Online Thứ Năm, 12/3 có bài viết của tác giả Trần Thị Thanh với nhan đề: "Rãi tiền lẻ khắp đền chùa!". Trong đó có đoạn viết: "Cứ mỗi dịp gần tết kéo dài đến tháng ba (âm lịch) hằng năm, cổng chùa lại léo xéo cảnh đổi tiền lẻ vào lễ chùa. Những tờ tiền 200, 500 đồng được đổi thành từng cục như viên gạch mộc, cứ "10 ăn 8 hoặc 10 ăn 7". Tức 100.000 đồng tiền chẵn thì đổi được 70.000 hoặc 80.000 đồng loại chuyên dùng để "sắp lễ" (200, 500 đồng). Không biết bao nhiêu triệu đồng tiền "bé" được quay vòng cả năm không chán: người đi lễ đổi tiền, tiền ấy được ném vào xó xỉnh, cài vào chân tay, nách, đùi của các pho tượng đẹp nổi tiếng của quốc gia; rồi nhà chùa xách túi hoặc rổ rá đi gom tiền ấy lại đem ra đổi ngoài cổng chùa. Và vòng quay lại bắt đầu.
Chỉ xót thương cho văn hóa đi chùa và xót thương cho "viên ngọc điêu khắc và kiến trúc" chùa Mía đã bị những đồng tiền của người "đồng cốt quàng xiên" làm mất vẻ trang nghiêm, thanh tịnh. Du khách, người có liêm sỉ đều thấy xao xác cái cảm giác thần linh bị báng bổ. Ông ngọc hoàng, ngài thiên lôi, bà Liễu Hạnh, rồi đến ông Quan Công, bà bồ tát, 18 vị la hán, tất tật đều bị ép ngồi ôm (hoặc trông nom)... tiền lẻ.
Đáng sợ, đã thành 'đại dịch' kinh niên, ở Bắc Ninh có đền thờ Bà Chúa Kho, nạn sắp lễ bằng tiền rồi rải khắp di tích đã trở thành công nghệ. Dài dằng dặc khu vực đường dẫn vào đền là chi chít biển quảng cáo cho dịch vụ đổi tiền, sắp lễ. Níu kéo, chèn ép, lừa lọc, chửi bới cũng là bởi sắp tiền lẻ.... Cái lệ 'mua thần bán thánh' kiểu này diễn ra ở rất nhiều đền, chùa".
Đọc bài viết này làm tôi liên tưởng đến một cảnh tượng thậm chí còn bát nháo hơn thế đang diễn ra ngay tại một nơi cực kỳ thánh thiêng đối với Dân Dothái, đó là Đền thờ Giêrusalem vào thời Chúa Giêsu.
Quả vậy, chúng ta biết rằng Đền thờ Giêrusalem là trung tâm đời sống tôn giáo của dân tộc Do Thái. Nó được coi như con ngươi của đạo Giavê Thiên Chúa. Tuy nhiên theo thời gian, Đền Thờ ấy đã bị tục hoá, bị giải thiêng nhiều mặt vì nạn buôn thần bán thánh và thói ham danh ham lợi của một số người. Điều này khiến Chúa Giêsu nỗi giận, cơn giận mà người ta gọi là cơn giận thánh. Ngài đã thực hiện ngay một cuộc thanh tẩy quyết liệt nhằm trả lại ý nghĩa đích thực của Đền thờ; đồng thời qua đó, Ngài cũng muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể Ngài.
Đọc lại lịch sử dân thánh, ta thấy Đền Thờ Giêrusalem mang nhiều ý nghĩa nghĩa rất quan trọng:
- Trước hết, Đền thờ Giêrusalem là địa chỉ của sự gặp gỡ nối kết. Từ xa xưa, người Do thái vẫn xem đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Nói cách khác, Đền Thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện và gặp gỡ con người; đồng thời cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau. Gặp gỡ để phượng thờ, cảm tạ, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, đặc biệt là vào các ngày Sabát và các ngày đại lễ.
Thế nhưng, một số người đã biến nó thành nơi nhếch nhác của những kẻ tụ tập buôn bán và đổi chác. Chúa Giêsu xua đuổi những kẻ lạm dụng này ra khỏi Đền Thờ là để trả lại chổ đứng của nó, vốn là "Nhà cầu nguyện".
- Thứ đến, Đền thờ Giêrusalem là dấu chứng của tình yêu thương hiệp nhất. Quả thế, Đền Thờ Giêrusalem là nơi biểu lộ rõ nét nhất tình yêu của Giavê Thiên Chúa đối với dân Người và đồng thời cũng là nơi hiệp nhất muôn dân nước: "Từ muôn phương ta về đây sánh vai lên đường, đường đưa ta đi lên Đền Chúa ta...".
Thế mà các giới chức Do thái đã biến thành nơi cạnh tranh, kèn cựa, xô bồ và phận biệt đối xử (phụ nữ, dân ngoại, kẻ tội lỗi....). Chúa Giêsu đã lật nhào, xô đổ tất cả nhằm thanh tẩy Đền thờ khỏi những điều bất xứng, cách riêng là khu vực dân ngoại. Từ nay, mọi người không phân biệt sắc tộc, tôn giáo... đều được tôn trọng và đón nhận. Đối với Chúa Giêsu, Đền Thờ phải là nơi dành cho hết mọi người.
- Sau nữa, Đền thờ Giêrusalem còn là biểu tượng của sự thánh thiêng. Khi nói đến sự thánh thiêng, người Do thái thường nói đến Đền Thờ. Vì đối với họ, không có nơi nào khác ngoài Đền Thờ, con người có thể tìm được tất cả những gì là thiêng thánh và siêu việt của cõi thiên giới. Bởi đó chúng ta không ngạc nhiên gì khi thấy người Do Thái khi phải thề thốt một điều gì quan trọng, họ thường lấy Đền Thờ Giêrusalem mà thề.
Tuy nhiên, Đền Thờ ấy đã bị làm cho ô uế bằng đủ mọi thứ dối gian, trở thành nơi trục lợi, chổ mua danh, chốn lạm quyền, v.v... Trước thực trạng đó, Chúa Giêsu đã xua đuổi tất cả những kẻ làm cho Đền Thờ bị ô nhơ, nhằm trả lại sự thánh thiêng cho Đền Thờ. Đồng thời qua hành động và lời nói của mạnh mẽ của mình, Chúa Giêsu muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể của Ngài.
Đức Kitô chính là Đền thờ sống động, nơi Ngài chúng ta tìm được 3 ý nghĩa trên một cách tròn đầy nhất.
- Trong Đức Kitô, chúng ta được gặp gỡ Thiên Chúa là Cha và được nối kết với mọi người là anh em. Trong Đức Kitô, chúng ta có thể thưa lên "Aba"- lạy Cha, và đối xử với nhau như anh chị em con cùng một Cha trên trời.
- Trong Đức Kitô, chúng ta nhận được tình yêu tràn đầy mà Thiên Chúa dành cho nhân loại và hiệp nhất nên một với nhau, như lời Vinh Tụng Ca mà chúng ta thường nghe đọc: "Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời".
- Trong Đức Kitô, chúng ta cũng tìm lại được sự thánh thiện nguyên thuỷ dư đầy của mình vốn là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Ađam và Evà đã đánh mất khi phạm tội.
Và trong Đức Kitô, chính chúng ta cũng đã trở nên đền thờ sống động đã được thánh hiến ngày chúng ta lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô đã minh định điều này với giáo đoàn Côrintô: "Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần ngự trong đền thờ ấy". Đó là một hồng ân cao cả Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta qua Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ thế nào đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.
Vậy hằng ngày chúng ta đã thực sự sống xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa ngự chưa? Hay chúng ta đang làm cho đền thờ tâm hồn mình ra nhơ uế bởi những tính toan ích kỷ, bởi lòng ghen tị, óc thành kiến hẹp hòi và bao nhiêu thói hư tật xấu khác?
Xin Chúa Giêsu hằng yêu thương thanh tẩy đền thờ tâm hồn của chúng ta mỗi ngày, đặc biệt trong Mùa Chay thánh này. Xin Ngài tiếp tục xua đuổi, lật nhào khỏi lòng trí chúng ta những gì làm cho tâm hồn ra ô nhơ và trả lại cho Chúa Thánh Thần một nơi xứng hợp để Ngài ngự vào. Amen.
18.Làm mới đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Trong những năm gần đây, báo chí thường chạy những bài phóng sự về cảnh tượng xô bồ nơi các đền chùa trong những dịp lễ hội đầu năm: nào là chen lấn xô đẩy để lĩnh ấn Đền Trần, nào là buôn bán chặt chém khách hành hương Chùa Hương, nào là hỗn loạn xin lộc đền bà Chúa Kho, v.v... Mục đích đi chùa chiền là để cầu an, hay cầu tài, cầu lộc. Nhưng nhiều khi tài lộc đâu không thấy mà thấy mất tiền vì bị kẻ gian móc túi, hay bị những người bán hàng chặt chém. An bình đâu không thấy chỉ thấy bất an vì bị chen lấn, xô đẩy, bị văng tục khi không mua hàng của người mời hay mua cho người này mà không mua cho người kia, v.v... Thế mới thấy rằng chính não trạng vụ lợi muốn biến thần thánh thành công cụ phục vụ lòng ham muốn của mình đã mở đường cho việc thương mại hoá những giá trị cao quý linh thiêng của văn hoá và tín ngưỡng.
Cũng với não trạng ấy, người Do Thái xưa kia đã biến sân Đền Thờ Giêrusalem, một nơi thánh thiêng, thành một nơi bát nháo để trao đổi buôn bán, nhằm trục lợi. Là Con Thiên Chúa và là Đấng Thánh, Chúa Giêsu không chấp nhận để Đền Thờ, “nhà của Cha Ngài,” bị tục hoá, giải thiêng, và làm cho trở nên ô uế. Ngài đã hành động thẳng thắn để trả lại ý nghĩa đích thực của nó; đồng thời Ngài muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể của Ngài.
Đọc lại lịch sử dân thánh, ta có thể thấy Đền Thờ Giêrusalem mang ba ý nghĩa rất quan trọng sau đây:
1. Trước hết, Giêrusalem là địa chỉ của sự gặp gỡ nối kết.
Từ xa xưa, người Do thái vẫn xem đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Nói cách khác, Đền Thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện và gặp gỡ con người; đồng thời cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau. Gặp gỡ để phượng thờ, cảm tạ, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, đặc biệt là vào các ngày Sabát và các ngày đại lễ.
Thế nhưng, một số người đã biến nó thành nơi nhếch nhác của những kẻ tụ tập buôn bán và đổi chác. Chúa Giêsu xua đuổi những kẻ lạm dụng này ra khỏi Đền Thờ là để trả lại chổ đứng của Đền Thờ, vốn là “Nhà cầu nguyện”, nhà của sự gặp gỡ và nối kết giữa Thiên Chúa và con người.
2. Thứ đến, Giêrusalem còn là dấu chứng của tình yêu và hiệp nhất.
Quả không sai khi nói rằng Đền Thờ Giêrusalem là nơi biểu lộ rõ nét nhất tình yêu của Giavê Thiên Chúa đối với dân Người, đồng thời cũng là nơi hiệp nhất muôn dân nước. Thánh Vịnh Lên Đền 122 đã nói lên ý nghĩa này: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: ‘Ta cùng trẩy lên Đền thánh Chúa!’ Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân”.
Thế mà các giới chức Dothái đã biến thành nơi cạnh tranh, kèn cựa, xô bồ và phận biệt đối xử (phụ nữ, dân ngoại, kẻ tội lỗi…). Chúa Giêsu đã lật nhào, xô đổ tất cả nhằm thanh tẩy Đền thờ khỏi những điều bất xứng, cách riêng là khu vực dân ngoại. Từ nay, mọi người không phân biệt sắc tộc, tôn giáo … đều được tôn trọng và đón nhận. Tắt một lời, Đền Thờ phải là nơi dành cho tất cả mọi người.
3. Sau nữa, Giêrusalem còn là biểu tượng của sự thánh thiêng tinh tuyền.
Khi nói đến sự thánh thiêng, người Do thái thường nói đến Đền Thờ. Vì đối với họ, không có nơi nào khác ngoài Đền Thờ, con người có thể tìm được tất cả những gì là thiêng thánh và siêu việt của cõi thiên giới. Bởi đó ta không ngạc nhiên khi thấy người Do Thái khi phải thề thốt một điều gì quan trọng, họ thường lấy Đền Thờ Giêrusalem mà thề.
Tuy nhiên, Đền Thờ ấy đã bị làm cho ô uế bằng đủ mọi thứ dối gian, trở thành nơi trục lợi, chỗ mua danh, chốn lạm quyền, v.v... Trước thực trạng đó, Chúa Giêsu đã xua đuổi tất cả những kẻ làm cho Đền Thờ bị ô nhơ, nhằm trả lại sự thánh thiêng cho Đền Thờ. Đồng thời, qua hành động và lời nói của mạnh mẽ của mình, Chúa Giêsu muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân Thể của Ngài.
Quả vậy, Đức Kitô chính là Đền thờ sống động, nơi Ngài chúng ta tìm được ba ý nghĩa trên một cách tròn đầy nhất.
- Trong Đức Kitô, chúng ta được gặp gỡ Thiên Chúa là Cha và được nối kết với mọi người là anh em. Trong Đức Kitô, chúng ta có thể thưa lên “Aba” - lạy Cha, và đối xử với nhau như anh chị em con cùng một Cha trên trời.
- Trong Đức Kitô, chúng ta nhận được tình yêu tràn đầy mà Thiên Chúa dành cho nhân loại và hiệp nhất nên một với nhau, như lời Vinh Tụng Ca mà chúng ta thường nghe đọc: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời”.
- Trong Đức Kitô, chúng ta cũng tìm lại được sự thánh thiện nguyên thuỷ dư đầy của mình vốn là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Ađam và Evà đã đánh mất khi phạm tội vì bất phục tùng.
Hãy nhớ rằng trong Đức Kitô, chính chúng ta cũng đã trở nên đền thờ sống động đã được thánh hiến ngày chúng ta lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô đã minh định điều này với giáo đoàn Côrintô: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta qua Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có nguy nga đồ sộ như Đền thờ Giêrusalem đi chăng nữa, cũng đã tiêu tan. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ bền vững thiên thu. Thế nhưng hằng ngày chúng ta đã thực sự sống xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa ngự chưa? Hay chúng ta đang làm cho đền thờ tâm hồn mình ra nhơ uế bởi những tính toan ích kỷ, bởi lòng ghen tị, óc thành kiến hẹp hòi, và bao nhiêu thói hư tật xấu khác?
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để ta làm mới lại tâm hồn của mình. Xin Chúa Giêsu tiếp tục yêu thương thanh tẩy tâm hồn chúng ta mỗi ngày. Xin Ngài tiếp tục xua đuổi và lật nhào những gì làm cho tâm hồn chúng ta ra ô nhơ để trả lại cho Chúa Thánh Thần một nơi xứng hợp để Ngài ngự vào. Amen.
19.Thân xác chúng ta là đền thờ cần được thanh tẩy--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chúa Giêsu rất mực hiền lành và Người cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Người mời gọi: "Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng". (Mt 11, 29)
Khi Chúa Giêsu và các môn đệ bị người dân xứ Sa-ma-ri-a ngăn chặn không cho đi qua làng của họ để tiến về Giê-ru-sa-lem, Giacôbê và Gioan nổi giận đùng đùng, đòi khiến lửa trời thiêu đốt làng mạc của chúng. Thế nhưng Chúa Giêsu liền quở trách Giacôbê và Gioan vì lối xử sự nóng nảy mang tính gây hấn nầy. (Lc 9, 54)
Khi bị người đời phê phán là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), là người bị quỷ ám (Ga 7,20), là người dại dột; Chúa Giêsu vẫn bình thản như không.
Nhất là trong cuộc thương khó, dù bị lăng nhục hành hạ đủ điều, bị chế nhạo đủ cách, Chúa Giêsu vẫn nín lặng và thản nhiên. Khi chịu treo trên thập giá đớn đau tủi nhục lại còn bị chế giễu nhạo cười, Chúa Giêsu chẳng những không nóng giận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ hành hạ và đóng đinh Người.
Tóm lại, Chúa Giêsu là Đấng rất dịu hiền và rất bao dung khiến ta nghĩ rằng Người không hề nổi giận bao giờ.
Dù rất hiền lành, Chúa Giê-su cũng không thể khoan dung với việc tục hoá đền thờ.
Vậy mà khi vào đền thờ Giê-ru-sa-lem, thấy người ta làm ô uế đền thờ thì Người không thể nào chịu nổi. Người nổi giận thật sự. Tin Mừng Gioan ghi lại: "Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (Ga 2, 14-16)
Thật không ngờ! Một Chúa Giêsu rất mực hiền lành khiêm nhượng. Đấng mà 'cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi' (Mt 12,20) giờ đây đã nổi trận lôi đình, phải dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người xúc phạm đến sự linh thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Chúa Giêsu, việc làm ô uế Đền Thờ là một xúc phạm nặng nề mà Người vốn rất nhân từ và bao dung cũng không thể nào chịu đựng nổi!
Thân thể chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa.
Thế nhưng còn một đền thờ khác còn cao trọng hơn đền thờ Giê-ru-sa-lem xưa. Đó là đền-thờ-thân-xác chúng ta. Thánh Phao-lô khẳng định: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (I Cor 3,16), hoặc: "Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? (I Cor 6, 19)
Chúa Giêsu cũng dạy rằng thân xác chúng ta là đền thờ cho Ba Ngôi ngự trị: "Ai yêu mến Thầy và tuân giữ lời Thầy, thì Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng ta (tức Ba Ngôi Thiên Chúa) sẽ đến ngự trong người ấy". (Ga 14, 23)
Chính vì yêu quý đền-thờ-thân-xác chúng ta quá đỗi nên Chúa Giêsu sẵn sàng chuộc lại bằng giá máu của Người, đã thánh hoá nó bằng lời hằng sống và hiến ban Thịt Máu Người trong bí tích thánh thể để bồi bổ nó nên vạn lần cao đẹp.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Thiên Chúa thì thân xác con người là đền thờ vô giá!
Vì thế, nếu hôm xưa người Do-thái làm ô uế đền thờ Giê-ru-sa-lem khiến Chúa Giêsu đau lòng một phần, thì hôm nay, nếu có ai làm cho đền thờ cao quý là thân xác các môn đệ Người ra nhơ uế thì Người đau xót gấp trăm. Thế nên, Người nghiêm khắc lên án những người nầy: "Ai làm cho một kẻ nhỏ tin vào Thầy vấp phạm, (tức là làm hư hại đền-thờ-thân-xác người khác), thì thà lấy cối đá cột vào cổ người ấy rồi xô xuống biển còn hơn."
Thánh Phao-lô cũng quả quyết: "Ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy.Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em." (1Cr 3, 13-17)
Hãy sớm thanh tẩy đền thờ thân xác mình
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn thật sâu vào nội tâm kín ẩn của mình để truy tìm những điều làm cho chúng ta ra nhơ uế và quyết tâm thanh tẩy tâm hồn, vì "từ trong lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế" (Mt 15, 19-20)
Ngoài ra, chúng ta phải tôn trọng thân xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa, được Chúa Giêsu cứu chuộc, được Chúa Thánh Thần xức dầu thánh hiến, được Ba Ngôi Thiên Chúa vui thích chọn làm nơi ngự trị. Phải trang điểm đền thờ thân xác chúng ta bằng những đức tính tốt; phải nâng cấp bản thân bằng rèn luyện cho mình những phẩm chất cao đẹp cho xứng với danh hiệu đền thờ cao quý của Thiên Chúa Ba Ngôi.
20.Sự lạm dụng thân xác--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Từ ngày 06 đến 11/02/2012, chúng tôi có dịp tham quan Singapor và Malaysia. Ở đất nước của họ thật văn minh hiện đại, nhưng xem ra lại không có cái nhìn tích cực về người con gái Việt Nam. Tôi đã chứng kiến một cô gái Việt Nam bị từ chối nhập khẩu tại hải quan Singapor vì nghi ngờ qua đây làm nghề mại dâm. Điều này khiến tôi cảm thấy khó chịu với nhân viên hải quan Singapor khi từ chối cô gái vào Singapor chỉ vì cô ta mang theo quá ít tiền (200USD) mà cho rằng qua đây để bán thân. Nhưng rồi vào tối ngày 09/02/2012 khi ngồi xem tivi đài Malaysia, tôi mới cảm thấy thật xấy hổ khi đài truyền hình của họ thông báo đã bắt được một ổ mại dâm toàn là các cô gái Việt Nam. Quả thực, nhìn lên truyền hình tôi thấy có tất cả 11 cô gái Việt Nam bị dắt lên xe cảnh sát vì tội hành nghề mại dâm.
Thật đau xót cho hình ảnh người con gái Việt Nam: Công - dung - ngôn - hạnh của truyền thống Việt Nam nay còn đâu! Những đức tính này đang bị lu mờ bởi nhiều cô gái Việt nam hôm nay đang cố gắng tu sửa thân xác của mình để kiếm tiền chứ không trau dồi nhân đức. Người ta dùng thân xác để kiếm tiền mà bỏ qua nhân phẩm con người. Người ta trau truốt vẻ đẹp thân xác hơn là vẻ đẹp tâm hồn. Người ta cũng bỏ công sức nhiều cho sắc đẹp nhưng trau dồi nhân cách thì lại dửng dưng xem thường. Cha ông ta bảo rằng: "Cái nết đánh chết cái đẹp", nhưng đời con cháu hôm nay thì dường như: "cái đẹp đang đè bẹp cái nết". Người ta chuộng cái đẹp nhiều hơn cái nết vì cái đẹp mang lại lợi nhuận còn cái nết đâu mang lại lợi nhuận kinh tế cho ai? Trong các lễ hội, kể cả cưới xin người ta đều tôn vinh trai tài - gái sắc nhưng có mấy ai tôn vinh vẻ đẹp tôn hồn? Cái đẹp là dấu chỉ của giầu sang và cũng là cơ hội giầu sang của biết bao cô gái chân dài? Vì thế mà người ta bất chấp lợi nhuận miễn sao có thể lợi dụng vẻ đẹp thân xác thành một món hàng để trao đổi, mua bán, làm ăn...
Ngày nay, người ta nói nhiều về việc suy thoái đạo đức, nhưng điểm suy thoái nguy hiểm nhất vẫn là suy thoái về nhân phẩm con người. Thân xác con người là đền thờ của Chúa đã bị tục hoá vì thói đời hưởng thụ hôm nay. Người ta xem thân xác chỉ là một món hàng để có thể trao đổi, mua bán, lạm dụng... mà không cần bàn tới luân thường đạo lý. Khi thân xác chỉ là món đồ hàng thì người ta cố gắng trang trí cho đẹp, cho lộng lẫy, cho kiêu sa để bắt mắt, để thu lời mà quên rằng cái đẹp chỉ được tôn vinh khi có duyên thắm đi cùng. Người đẹp nhưng lòng dạ xấu xa chắc chắn cũng bị xem thường.
Sự lạm dụng thân xác để hưởng thụ không chỉ ở chợ đời mà còn len lỏi vào cả trong sân Chúa, Nhà Thờ là nơi trang nghiêm, linh thánh cũng bị tục hoá bởi những lối sống của một số thành phần suy thoái như câu ca:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho Sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Cách đây hơn 2,000 năm, Chúa Giêsu cũng chứng kiến sự ô uế của một môi trường được xem là thánh thiêng, là nơi cực thánh, thế nhưng đã bị tục hoá từ vật chất đến tinh thần. Đền thờ là nơi linh thánh đã bị lạm dụng vào việc làm ăn, buôn bán, trao đổi tiền. Nhìn vào Đền thờ Giêrusalem bị tục hoá mà lòng Chúa Giêsu quặn đau. Ngài đã không thể chần chờ. Ngài đã hành động dứt khoát để thanh tẩy đền thờ, để mang lại vẻ đẹp ban đầu của đền thờ là nơi Chúa ngự, là nơi linh thánh cho con người gặp gỡ Thiên Chúa. Phúc Âm nói rằng: Chúa Giêsu bện roi xua đuổi tất cả những ai can dự vào việc làm ô uế đền thờ như: những người buôn bán chiên, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người đã đổ tung và lật nhào bàn ghế của họ. Người khuyến cáo họ: "Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán". Đó là đền thờ vật chất, con người cũng phải tôn trọng sự linh thánh của đền thờ, huống chi là một đền thờ linh thánh hơn nửa, đó chính là thân xác con người.
Thực vậy, thân xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa hãy biết kính trọng thân xác mình và anh em. Đừng lạm dụng thân xác trong những đam mê bất chính. Đừng lạm dụng thân xác để tìm thú vui xác thịt và kiếm tiền. Đừng phá huỷ đền thở tâm hồn trong những xa hoa truỵ lạc. Hãy biết sống đúng với phẩm giá con người là "nhân linh ư vạn vật". Hãy sống cao thượng hơn các loài sống theo bản năng hoặc các loài vô tri vô giác. Hãy thanh tẩy từ chính tâm hồn chúng ta khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những ước muốn gian dâm và trộm cắp. Hãy loài trừ trong tâm hồn chúng ta những cái nhìn bất chính, những ước muốn tầm thường, những đam mê vô độ. Hãy để Chúa ngự trị và chiếm đoạt tâm hồn chúng ta. Hãy sống thanh sạch. Hãy thanh tẩy tâm hồn mình thường xuyên bằng các bí tích nhất là bí tích Hoà Giải và Thánh Thể. Nhờ bí tích Hoà Giải mà ta luôn làm mới lại tâm hồn, và nhờ bí tích Thánh Thể mà ta luôn có Chúa ở trong mình.
Nguyện xin Chúa luôn nâng đỡ và trợ giúp để chúng ta biết thanh tẩy mình mỗi ngày nên tinh tuyền, xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự, và là viên đá sống động xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô mỗi ngày một vững mạnh hơn. Amen.
21.Thế giới tục hóa--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày nay người ta nói nhiều đến tục hóa. Thế giới tục hóa, con người tục hóa, nhà thờ, nhà chùa cũng tục hóa! Vậy tục hóa là gì?
Người xưa hay dùng chữ “hoàn tục” để nói về người bỏ tu để về với thế gian. Thực ra, tục hóa không chỉ là hoàn tục của người đi tu mà còn nói về một trào lưu loại bỏ sự hiện diện của thần linh để đưa tinh thần thế tục vào chính sự linh thánh.
Cụ thể ta vẫn thấy ở Việt Nam rất nhiều ngôi Chùa hoàn toàn để tham quan du lịch, người ta còn cổ vũ cả một tour du lịch tâm linh tại Bái Đính. Các nước phương tây đã sử dụng các ngôi nhà thờ cổ kính để làm nơi tham quan du lịch và tìm lợi nhuận như nhà thờ Đức Bà Pari . . . Sự tục hóa len lỏi trong cả những việc bác ái từ thiện. Trước đây việc bác ái hoàn toàn dựa vào sự hảo tâm của bá tánh, ngày nay nhiều nhà thờ, nhiều hội dòng cũng biết kiếm tiền bằng cách kinh doanh buôn bán nhân danh gây quỹ từ thiện. Ở thời đại này ta rất dễ thấy bóng dáng các nữ tu, các đệ tử, các thầy dòng đứng bán tranh ảnh, băng dĩa, đồ dùng ở những nơi hành hương hay những ngày lễ hội lớn nơi các giáo xứ. . .
Nhiều nhà thờ nhân danh người nghèo để biến sân nhà thờ thành nơi thuê mướn mặt bằng để đám tiệc linh đình, ca hát, nhảy nhót trên cả lễ đài vẫn để dùng làm lễ Chúa nhật! Điều tệ hại là khuôn viên nhà thờ thì không có khu vệ sinh để đáp ứng nhu cầu tối thiểu nên ta vẫn vô tình nhìn thấy những cách thiếu tôn kính nơi tường rào chung quanh hay một góc khuất nào đó quanh nhà thờ của những người say sỉn, thiếu ý thức. . . Đây là điều mà Đức Cha Giuse giáo phận Xuân Lộc đã thấy nhà thờ bị tục hóa nên đang đề nghị các giáo xứ chấm dứt dùng sân nhà thờ để cho thuê đám cưới.
Phúc âm kể rằng ngày hôm ấy Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ, Ngài thấy người Do Thái đã biến đền thờ thành nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để kiếm lời. Kẻ buôn bán súc vật và đổi tiền. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương kiếm lợi nhuận hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của Đền thờ.
Chính vì Đền thờ bị lạm dụng., Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Chúa bảo rằng “đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình.
Thế giới tục hóa vẫn là lời mời gọi chúng ta đem đạo vào đời. Đem ánh sáng lời Chúa thánh hóa thế gian đang hư đốn bởi tham sân si. Hãy dùng lời Chúa để canh tân xã hội. Người ky-tô phải làm sao dậy men tin mừng trong đời sống của mình. Đừng vì lợi nhuận mà bán rẻ lương tâm, mà tục hóa những nơi linh thánh, nhất là trong chính thân xác con người là đền thờ của Chúa. Xin đừng tục hóa đến độ xem thường thân xác để chỉ tìm thú vui bất chính, để thỏa mãn tính xác thịt mà tìm lợi nhuận trên thân xác.
Muà Chay là muà mợi gọi chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói mùa chay là mùa giúp chúng ta nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chúa thanh tẩy tâm hồn khỏi những đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá ngự trị.
Lạy Chúa, tâm hồn con là đền thờ của Chúa, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
22.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
“Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16)
Các em thiếu nhi thân mến,
Có bao giờ các em đọc kinh hay hát thánh ca trong nhà thờ mà không suy nghĩ gì đến lời kinh, tiếng hát cuả mình không? Có khi nào ngồi đây nghe giảng mà tâm trí các em đang bay ở mãi tận khung trời xa xôi nào đó không? Ðó chính là lối thờ phượng máy móc, vụ hình thức của những nguoi đi đạo lâu năm. Họ đọc kinh theo thói quen. Họ hát theo thói quen. Họ nghe giảng theo thói quen. Họ không còn ý thức đến hành vi của mình nữa, và cũng không có một cảm xúc hay một tâm tình thờ phượng đích thực nào trong những việc làm của mình.
Người ta kể rằng: một người kia nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày chúa nhật. Tại đó người này thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng âm nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh nào cả. Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả. Người ấy rất đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói: "Ông không nghe thấy gì, vì không có gì để nghe cả. Những người trong nhà thờ không tham dự vào buổi thờ phượng, mà chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ Chuá bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi.
Qua câu chuyện này, người ta muốn nói điều gì? Thưa, câu chuyện này dậy ta một bài học quan trọng: khi nào ta vào nhà thờ, thờ phượng Chúa, ta hãy đến đó với một tấm lòng ước muốn ra mắt Chúa, và tôn kính Ngài trong mọi việc ta làm trong nhà thờ. Ta hãy đọc kinh với thái độ tin tưởng và yêu mến. Ta hãy hát với thái độ ca ngợi Chúa thật, dù là hát trong ca đoàn hay chung với cộng đoàn. Nếu ta đứng lên nói, hãy nói với thái độ tôn thờ Chúa. Cầu nguyện cũng phải chân thành tập trung vào Chúa, ngay cả khi nghe lời Chúa cũng phải có thái độ thờ phượng. Khi nào ta ý thức được như thế thì giờ thờ phượng mới có ý nghĩa. Và chỉ những lúc đó, tiếng ca ngợi của ta từ nơi đất thấp, mới bay lên tận trời cao được.
Hôm nay Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ, Ngài đã thấy gì trong đó? Họ đã biến đền thờ thành nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để lợi dụng lẫn nhau. Kẻ buôn bán súc vật và đổi tiền nhằm lợi nhuận. Kẻ mua để dâng cúng trong đền thờ chỉ nhằm mục đích phô trương giả hình. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương như thế, để họ thu lợi nhuận hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của Đền thờ. Chính vì Đền thờ bị lạm dụng., Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Vậy ý nghiã đích thực của Đền thờ là gì?
Thưa, Đền thờ là nơi cầu nguyện. Chuá bảo rằng “đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình. Đồng thời, khi Chuá Giêsu nói với những kẻ chất vấn Ngài: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Ngài ám chỉ đến Đền thờ mới chính là thân thể Ngài. Như vậy qua hành động thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chuá Giêsu còn cho biết thêm: sự thờ phượng đích thực của thời Tân ước là thờ phượng Thiên Chuá trong Thần Khí và Sự Thật. Thế nên, “đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chuá Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, vì Thiên Chuá là Thần Khi và những kẻ thờ phượng Người phải thờ trong Thần khí và sự thật” (Ga 17, 23).
Ngày hôm nay, người ta vẫn có thể lạm dụng Đển thờ bằng nhiều cách:
Có những người đến nhà thờ nhưng lại lo ra chia trí trong lòng. Đó là những người có xác mà không có hồn. Họ chỉ là những thây ma trơ trẽn và nguội lạnh. Họ xem lễ chứ không dự lễ, vì họ không đóng góp tấm lòng của mình vào việc thờ phượng Chuá.
Có những người đi lễ vì người khác đi mình cũng đi hay chỉ vì cha mẹ bắt phải đi. Đó là những người thờ phượng giả hình. Họ không sống những điều mình tin. Họ lấy “vải thưa che mắt thánh”. Họ chỉ che được mắt thế gian nhưng không che dấu được Thiên Chuá. Họ đến nhà thờ nhưng không gặp được Chuá nên đời sống họ cũng không có gì thay đổi.
Nhưng điều quan trọng mà hôm nay sứ điệp Lời Chuá muốn nhắn gởi chúng ta, chính là hãy chỉnh đốn lại đền thờ tâm hồn chúng ta. Tâm hồn chúng ta có Chuá ngự trị hay không? Chúng ta đang tôn thờ Thiên Chuá hay tôn thờ những danh lợi thú trần gian?
Mùa Chay là muà mợi gọi chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói muà chay là muà giúp chúng ta nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chuá thanh tẩy tâm hồn khỏi những đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá ngự trị.
Lạy Chuá, tâm hồn con là đền thờ của Chuá, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
23.Nhà Cha là nhà cầu nguyện--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một người nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày Chúa Nhật. Tại đó, ông thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh nào cả. Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả. Người ấy rất đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói: "Ông không nghe thấy gì, vì không có gì để nghe cả. Những người trong nhà thờ không tham dự vào buổi thờ phượng, mà chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ Chuá bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi!
Đôi khi chúng ta cũng đến với Chúa bằng hình thức bên ngoài mà chằng có tâm tình bên trong. Ðó chính là lối thờ phượng máy móc, vụ hình thức của những người đi đạo lâu năm. Họ đọc kinh theo thói quen. Họ hát theo thói quen. Họ nghe giảng theo thói quen. Họ không còn ý thức đến hành vi của mình nữa, và cũng không có một cảm xúc hay một tâm tình thờ phượng đích thực nào trong những việc làm của mình.
Hôm nay Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ, Ngài đã thấy gì trong đó? Người Do Thái đã biến đền thờ thành nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để lợi dụng lẫn nhau. Kẻ buôn bán súc vật và đổi tiền nhằm lợi nhuận. Kẻ mua để dâng cúng trong đền thờ chỉ nhằm mục đích phô trương giả hình. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương như thế. Họ thu lợi nhuận hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của Đền thờ.
Chính vì Đền thờ bị lạm dụng., Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Chuá bảo rằng “đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình. Đồng thời, khi Chuá Giêsu nói với những kẻ chất vấn Ngài: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Ngài cũng ám chỉ đến Đền thờ mới chính là thân thể Ngài. Thân thể Ngài cũng bị phá huỷ bởi sự gian ác của con người, nhưng rồi Ngài sẽ sống lại sau ba ngày trong mồ.
Ngày hôm nay, người ta vẫn có thể lạm dụng Đển thờ bằng nhiều cách:
- Có những người đến nhà thờ nhưng lại lo ra chia trí trong lòng. Đó là những người có xác mà không có hồn. Họ ví tựa như những thây ma trơ trẽn và nguội lạnh. Họ xem lễ chứ không dự lễ, vì họ không đóng góp tấm lòng của mình vào việc thờ phượng Chuá.
- Có những người đi lễ vì người khác đi mình cũng đi hay chỉ vì cha mẹ bắt phải đi. Đó là những người thờ phượng giả hình. Họ không sống những điều mình tin. Họ lấy “vải thưa che mắt thánh”. Họ chỉ che được mắt thế gian nhưng không che dấu được Thiên Chuá. Họ đến nhà thờ nhưng không gặp được Chuá nên đời sống họ cũng không có gì thay đổi.
- Nhưng điều quan trọng mà hôm nay sứ điệp Lời Chuá muốn nhắn gởi chúng ta, chính là hãy chỉnh đốn lại đền thờ tâm hồn chúng ta. Tâm hồn chúng ta có Chuá ngự trị hay không? Chúng ta đang tôn thờ Thiên Chuá hay tôn thờ những danh lợi thú trần gian?
Mùa Chay là muà mợi gọi chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói muà chay là muà giúp chúng ta nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chuá thanh tẩy tâm hồn khỏi những đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá ngự trị.
Lạy Chuá, tâm hồn con là đền thờ của Chuá, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
24.Điên rồ cho Thiên Chúa--Peter Feldmeier--Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
“Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh” (1Cr 1,23)
Tin Mừng quả là điên rồ, nhưng điên rồ như thế nào? Bài đọc phụng vụ hôm nay trích trong thơ thứ nhất Thánh Phaolô tông đồ gửi cho giáo đoàn Côrinthô. Ngài viết: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp kiếm tìm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đanh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ (1Cor 1,22).
Vậy, phải chăng Tin mừng thật điên rồ, thật vô lý, và dẫn con người đi vào lầm lạc? Sự khôn ngoan mà con người thường hay đề cao có thực sự phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương phản ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Chúa (Kn 7,26) hay không?
Chắc chắn, Thánh Phaolô muốn khẳng định rằng, sự khôn ngoan theo quy chuẩn xã hội loài người sẽ bị cáo chung bởi Tin mừng. Tin mừng đưa dẫn chúng ta tiếp cận sự khôn ngoan không theo dạng thức mà thế gian vẫn hướng về. Cũng trong lá thư này, Thánh Phaolô đã nhắc các độc giả, để giúp họ biện phân đâu là sự khôn ngoan đích thực. “ Khi anh em được Chúa kêu gọi, trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. Song, những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh…(1,26-27). Sự xét định theo tiêu chí của thế gian không phải là đường lối của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã tóm kết nghịch lý này, khác với suy nghĩ bình thường của xã hội loài người, khi Ngài tuyên bố “ Phúc cho những ai sống tinh thần nghèo khó ” và “Những ai tìm mạng sống mình, sẽ mất nó. Ai liều mất mạng mình vì tôi, sẽ tìm được chính mạng sống ấy (Mt 5,3; 10,39).
Đức Giêsu không phải là người hùa chạy theo đám đông, hay dễ theo xu hướng của cộng đồng xã hội. Thay vì rập theo não trạng chung của dân chúng, Ngài lại tuyên bố những điều hoàn toàn trái ngược. Chúng ta cũng thấy điều tương tự trong trình thuật Tin mừng hôm nay. Đức Giêsu lên Giêrusalem, Ngài thấy trong đền thờ có một khu vực người ta đang bán bê, chiên, bồ câu, và có những người đổi tiền ngồi đó. Đức Giêsu mạnh tay xua đuổi họ ra ngoài, và còn lật tung những bàn đổi tiền, khiến tiền bạc đổ vãi tung tóe. Ngài truyền lệnh đem tất cả thứ đó ra khỏi đền thờ, “ Đừng biến nhà Cha ta thành nơi bán buôn”.
Việc mua bán trong khu vực đền thờ hồi xưa, không bị coi là một sự phạm thánh. Thậm chí, người Do Thái còn xem đó là một việc đạo đức tốt lành. Khách hành hương thường mua những lễ vật để tiến dâng cho Chúa. Điều này chẳng có gì xấu. Vả lại việc mua bán này chỉ diễn ra tại khu vực tiền sảnh bên ngoài đền thờ, là những chỗ mà ngay cả dân ngoại vẫn có thể lui tới. Khách hành hương đến đền thờ cần có lễ vật, và những người buôn bán giúp họ thực thi bổn phận tôn giáo rất chính đáng. Có lẽ, vì luật Do Thái cấm tôn thờ ngẫu tượng, nhưng việc buôn bán giao dịch lại phải dùng tiền Rôma có in hình Xêda, hoàng đế của đế quốc, nên phải chăng vì thế mà Đức Giêsu đã phản ứng gay gắt? Có phải thế không? Chúng ta sẽ từ từ tìm ra câu trả lời, và khám phá ra ý nghĩa sâu xa của câu chuyện nêu trên.
Đối với dân Israel, đền thờ là chốn linh thiêng nhất, biểu thị cho việc Thiên Chúa luôn hiện diện giữa dân Ngài. Tác giả Thánh vịnh đã viết “ Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được ở trong đền Chúa tôi, mọi ngày trong suốt cuộc đời, để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang, ngắm xem thánh điện huy hoàng (Tv 27,4). Tin mừng thuật lại, sau này các học trò của Đức Giêsu nhìn vào hành động của Ngài trong đền thờ Giêrusalem như một hành vi tiên tri, diễn bày niềm tin sâu xa mà tác giả thánh vịnh đã miêu tả: “Vì nhiệt tâm lo cho nhà Chúa, mà con đã chịu thiệt thân (Tv 69,4)”. Đi sâu vào ý nghĩa của biến cố, chúng ta mới có thể nhận ra rằng, những quy chuẩn theo não trạng con người dễ làm cho chúng ta trở nên mù tối trước những thực tại thánh thiêng. Chúng ta cần phân định đâu là những gì hợp pháp mang tính phàm tục, và đâu là những gì thuộc phạm trù linh thánh.
Khi những vị đầu mục Do thái giáo cai quản đền thờ tra vấn Đức Giêsu, đòi Ngài phải minh chứng bằng một dấu chỉ cho thấy Ngài có quyền hành xử như vậy, Đức Giêsu một lần nữa lại tuyên bố sự cáo chung của những quy chuẩn khôn ngoan theo não trạng con người. Ngài nói” Cứ phá hủy đền thờ này đi, sau ba ngày ta sẽ xây lại”. Họ chỉ biết nghĩ về một ngôi đền thờ bằng gỗ, bằng đá, nhưng Đức Giêsu nói về ngôi đền thờ khác, là chính thân xác Ngài. Sự sống lại của Ngài là dấu ấn chung cuộc, khải thị cho thế giới về những gì Ngài đã nói, đã hành xử. Ngài muốn nói về sự khôn ngoan đích thực cho thế giới hôm nay, một thế giới trong đó người ta vẫn nghĩ tưởng rằng cái chết là dấu chấm hết cuối cùng. Đức Giêsu chính là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa, và sự hiện diện của Ngài diễn bày cho chúng ta chân lý này.
Tất cả những điều đó bị coi là ngu xuẩn đối với họ. Những luật lệ theo quy ước và não trạng hạn hẹp đã khiến họ trở nên mù tối trước chân trời rộng mở của chân lý vĩnh hằng.
Tin mừng không phải là những gì xuẩn ngốc hay ngu dại. Tuy nhiên, sống giữa một thế giới đầy sợ hãi, khi con người thường hay sống cố thủ và tự mãn, người ta vẫn nghĩ tưởng Tin mừng là như thế. Lá thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Hoa kỳ vừa qua nói về vấn đề hòa bình đã bị quần chúng công kích mạnh mẽ. Người ta cho rằng Giáo hội quá ấu trĩ và không đi sát với những trào lưu chính trị của thế giới. Lá thư nêu bật giáo huấn về sự phân bổ của cải sao cho công bằng và hợp lý, đồng thời phải phân phối những tiện ích xã hội để phục vụ đồng đều cho hết mọi người. Chế độ tư bản, khuyến khích người ta làm giàu, khuyến khích quyền tư hữu một cách ích kỷ, mà không lo cho thiện ích chung, là một chế độ đáng bị lên án và cần phải loại trừ. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị và cả Đức Thánh Cha Bênêđictô đều nhấn mạnh về giáo huấn này. Lệnh truyền của Thiên Chúa là phải chăm lo cho sự sống nội tại nơi từng mỗi con người. Nhưng điều này dường như con người xã hội hiện nay vẫn không chấp nhận. Người Công giáo từ lâu đã cố gắng hòa nhập với xã hội, nhưng có một nguy hiểm to lớn là chúng ta dễ bị chao đảo về đức tin, hoặc đức tin trở nên suy yếu, khi chúng ta đang từ từ bị xã hội đồng hóa, bị thỏa hiệp và chúng ta không dám can đảm nêu bật căn tính của mình.
Chúng ta có dám can trường sống đức tin, phần nào có vẽ như “điên rồ” trong cái nhìn của thế giới ngày hôm nay hay không?
25.Uy quyền Đấng Thiên Sai--Lm. Hồng Phúc
Chúng ta thường gọi 10 giới răn là căn bản lề luật Thiên Chúa. Người Do thái gọi đó là “Thập điều” (Decalogue) của Thiên Chúa nói lên ý muốn cứu độ của Ngài. Mười lời đó không phải bản tuyên xưng đức tin, một bản tóm lược luân lý, nhưng là những lời nhắn nhủ của Chúa gửi đến con cái của Ngài. Trong mùa Chay, chúng ta hãy đến dưới chân núi Sinai, như ngày xưa dân Israel tập họp dưới núi thánh, để nghe lời thân mật của Chúa. Chúa nói như Cha nói với con, Cha khuyên bảo con. Tất cả Thập điều đều tóm tắt trong một câu và phải được khắc ghi vào tâm khảm mỗi người: “Ngươi hãy thương yêu”. Hãy yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.
Tình thương đó, khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã tỏ ra một cách cực độ khi chịu đóng đinh trên thập giá. Phaolô gọi đó “là cớ vấp phạm cho người Do thái, một sự điên rồ cho người ngoại giáo”. Làm sao hiểu được tình thương của Thiên Chúa? Yêu đến bỏ trời xuống thế, yêu đến chết trên thập giá để đền tội chúng ta.
Thiên Chúa đã cứu rỗi chúng ta bằng phương cách chúng ta không thể hiểu nổi.
Trong khi có người tự cho là thông thái như dân Hy lạp dùng lý luận để tự cứu vãn, trong khi người Do thái tự cho là có thể dùng chay giới, giữ luật lệ để vào thiên đàng thì Thiên Chúa dùng tình thương và tình thương đến điên dại như Phaolô suy tưởng.
Tình yêu Chúa Cha nung nấu tâm can của Chúa Giêsu và bộc lộ ra bên ngoài hôm nay bằng một cử chỉ táo bạo mà Gioan đã chứng kiến và tường thuật lại. Đó là việc Chúa xua đuổi con buôn bán ra khỏi đền thờ. Lễ vượt qua của dân Do thái gần đến, Chúa Giêsu lên đền thờ. Ngài thấy trước mắt trong khuôn viên đền thờ Cha Ngài, diễn ra một cảnh hỗn loạn không thể chịu được. Người ta bày bán chiên bò. Người ta mở bàn đổi tiền bạc. Ngài chắp giây thừng làm roi, hất tung bàn ghế và đánh đuổi tất cả ra khỏi đền thờ. Ánh mắt Ngài chiếu sáng và miệng Ngài hô to: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán.”
Ngài phẫn nộ để cho mọi người biết Ngài là ai.
Ngài tỏ uy quyền của Đấng Thiên Sai, như lời tiên tri Malachia đã loan báo; Ngài xuất hiện trong đền thánh để tẩy uế nơi tôn nghiêm này. Nhà chức trách đền thờ hiểu điều đó nên họ không vặn hỏi lý do mà chỉ đòi một dấu chứng minh. Chúa trả lời cách khô khan: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”; “Ngài có ý nói đền thờ là thân thể Ngài.”
Ngài cho biết “Con Chiên chân thật của Thiên Chúa chính là Ngài” (Gio. 1,29) đến trong đền thờ. Nghi lễ của đạo cũ đã quá thời. Ngài là Con Chiên Pascal bị tế sát vì chúng ta (1Cor. 5,7-8) và sẽ dẫn đưa chúng ta vào “trong nhà của Cha Ngài” (Gio. 14,2).
Bằng cử chỉ hôm nay, Chúa Giêsu không có ý bãi bỏ những nơi thờ phượng, nhưng đã chấn chỉnh và nói lên bản chất chân thật của nó. Dưới con mắt của Gioan, đền thờ của Đạo mới chính là Thánh Thể của Chúa Giêsu, rồi đây sau 3 ngày nằm trong nhà mồ, sẽ khởi hoàn sống lại.
Là người tín hữu trong Giáo hội, chúng ta có bổn phận lo cho Chúa có một nơi thờ phượng trang nghiêm xứng đáng, vì “nhiệt thành với nhà Chúa”. Nhưng đừng quên xua đuổi quét sạch những gì làm hoen ố tâm hồn chúng ta là đền thờ Chúa ngự.
26.Cơn Giận Thánh--AM Trần Bình An
Theo Phúc Âm Nhất Lãm, sau cuộc nghênh đón trọng thể của dân chúng rước Chúa Giêsu vào Đền Thánh Giêrusalem, Người đã đơn phương xua đuổi con buôn ra khỏi nơi linh thiêng, mặc dù họ đã được các thầy tư tế cho phép hành nghề.
Dĩ nhiên, họ đã phải nộp đầy đủ các khoản hoa chi, thuế má, hay phí kiểm tra chất lượng các vật hy tế. Hơn nữa, lợi dụng luật cấm dân chúng không được phép tự ý mua lễ vật bên ngoài đem vào, họ nâng giá vô tội vạ, thường gấp hàng chục lần giá thị trường.
Vì thế Chúa Giê su mới nổi cơn thịnh nộ.
Người liền lấy dây làm roi, mà xua đuổi tất cả chiên, cũng như bò, ra khỏi Đển Thờ. Còn tiền của những người đổi bạc, Người lật tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” (Ga 2, 15 -17) Trong khi Phúc Âm Nhất Lãm đều chép lại lời quở mắng của Chúa Giê su còn đanh thép hơn nữa: “Đã có lời chép rằng: Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện,(Is 56,7) thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp.”(Mt 21, 13. Mc 11, 17. Lc 19, 46)
Ngày nay, nhiều chốn linh thiêng cũng vẫn tiếp tục bị ô uế, chẳng phải vì cảnh buôn bán bát nháo chiên bò, chim câu như xưa nữa, mà khéo léo che đậy tinh vi hơn. Có nơi bị biến tướng thành chốn rạp hát, vũ trường. Có nơi còn thành chốn ca ngợi tà thuyết, truyền bá văn minh sự chết. Có nơi trá hình thành điểm giao dịch buôn thần bán thánh, biến thành hang ổ của tập đoàn tội ác.
Cơn giận Chúa làm sao nguôi được?
Còn đền thờ sống động của tín hữu, cũng chẳng mấy tươm tất, sạch sẽ, hay sáng sủa cho cam, mà trái lại, cũng hoen ố bụi bặm, rác rười, ruồi nhặng, xú uế hôi hám, vì chất chứa thói mê tật xấu. Vì thế ông Gioan Tẩy Giả đã mời gọi ăn năn, sám hối, để chào đón Chúa đến viếng thăm. Nhưng hình như lời kêu gọi ấy chỉ vang vọng trong hoang mạc, chưa kịp dội vào vào tâm hồn kẻ tin vào Chúa.
Làm sao Chúa không nổi cơn thịnh nộ?
Nhưng Ngài vẫn xót thương, thứ tha, không tiêu diệt,
Nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí (Tv 78, 38)
Thánh Phaolô đã phải tha thiết nhắn nhủ trong thư gửi cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền thờ của Chúa Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế anh em đâu còn thuộc về chính mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1 Cr 6, 19-20).
Lạy Chúa, nhờ vào lòng thương xót vô biên của Ngài, xin thanh tẩy đền thờ tâm hồn con, để con trở nên thanh sạch, xứng đáng đón nhận Lời Hằng Sống.
Lạy Mẹ từ bi nhân hậu, xin giúp con thấy được những lỗi lầm, vấp phạm và tội lỗi, để con sớm sám hối, canh tân, đổi mới, hầu con được ơn cứu rỗi. Amen.
27.Điện Thờ Thân Thể của Người--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Chương hai gồm hai câu chuyện: phép lạ tại Cana, như là dấu lạ đầu tiên để các môn đệ tin vào Chúa Giêsu (2,1-11) và việc thanh tẩy đền thờ và loan báo đền thờ thân thể Người, như là dấu lạ cho người Do thái, nhưng họ không hiểu (2,13-25). Đoạn 2,13-25 gồm hai phần song song với nhau: - phần 2,13-17 gồm: hành động của Chúa Giêsu (c.14-15), lời của Người về nhà của Thiên Chúa bị làm thành cái chợ (c. 16), và việc nhớ lại của các môn đệ (c. 17); - và phần 2,18-25 gồm: hành động của người Do thái (c. 18), lời của Chúa Giêsu về điện thờ mới (c.19), và việc nhớ lại của các môn đệ (c. 22). Trong phần nầy có thêm ghi nhận việc không hiểu của người Do thái (c. 20) và lời giải thích của thánh sử (c. 21). Phần thứ hai hoàn thành phần thứ nhất.
Theo thánh Gioan, đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Người còn lên đó nhiều lần khác nữa (6,4; 11,15; 12,1; 13,1). Ba sự kiện: lễ Vượt Qua, thanh tẩy đền thờ và loan báo việc sống lại liên kết với nhau rất ý nghĩa. Mỗi dịp lễ Vượt Qua là lúc đền thờ được sử dụng cách đặc biệt để cử hành biến cố Thiên Chúa đưa dân Do thái ra khỏi kiếp nô lệ ở Ai cập. Chúa Giêsu thanh tẩy đến thờ là để phục hồi lại phẩm giá cho nhà của Thiên Chúa, vì những người buôn bán trong đền thờ đã tục hóa khi làm nơi đó thành cái chợ. Trong bối cảnh nầy, Chúa Giêsu loan báo một điện thờ mới, xứng đáng cách tuyệt đối làm nơi thờ phượng Thiên Chúa. Đó là thân thể phục sinh của Người. Muốn được thế, Người phải chịu hủy hoại, cũng vào dịp lễ Vượt Qua (2,17; 19,14).
Điện thờ mới gắn liền với sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã đi từ một đền thờ, ieros, Giê-ru-sa-lem cụ thể, với những gian nhà và không gian chung quanh (2,14.15) đến một không gian hẹp hơn. Đó chỉ là điện thờ, naos, là nơi để cử hành các nghi thức thờ phượng Thiên Chúa (2,19.20. 21). Đền thờ Giêrusalem tượng trưng cho cơ chế và quyền bính của Do thái giáo. Chúa Giêsu không nói gì đến việc phá hủy đền thờ và quyền bính nầy, theo như lời cáo buộc sau nầy (Mc 14,58; Mt 26,61). Việc thanh tẩy đền thờ dẫn đến việc loan báo dựng lên một điện thờ mới chứng tỏ đền thờ cũ không cần thiết nữa và phải được thay thế (cf. 4,21).
Việc thay thế sẽ không là xây dựng một đền thờ trong bốn mươi sáu năm, mà trong ba ngày. Thân thể Chúa Giêsu chính là điện thờ. Người sẽ chết và sống lại trong ba ngày. Sự chết của Người được ám chỉ trong trích dẫn Thánh vịnh 69,10: “Nhiệt tâm cho nhà Người sẽ hủy hoại tôi” và trong mệnh lệnh “Các ông hãy phá huỷ điện thờ này đi” (2,19). Trong khi để chỉ sự sống lại, thánh Gioan đã cố ý dùng chữ egeiro, có hai nghĩa: dựng lên một căn nhà hay một đền thờ, và làm cho đứng dậy, trỗi dậy. Động từ nầy được dùng để chỉ việc Chúa Cha làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ cõi chết (2,22; 21,14).
Điện thờ là nhà của Thiên Chúa, là nơi gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa. Nơi đó sẽ không còn là một không gian, mà là một đấng: Chúa Giêsu Kitô Sống Lại.
28.Chúa Giêsu, Đấng kiện toàn lề luật --Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý anh chị em,
Lề luật là những chuẩn mực con người phải tuân giữ để giao ước được luôn mãi duy trì và lời hứa được thực hiện.
Lề luật đồng hành với sự sống, từ những hình thức rất đơn sơ đến những quy định chi tiết phức tạp, nhằm đảm bảo và phong nhiêu sự sống.
Vào thời sáng tạo, Chúa chỉ lệnh cho nguyên tổ “không được ăn trái cây giữa vườn”. Một lệnh truyền rất đơn giản, nhưng mang nhiều ý nghĩa biểu tượng.
Nếu quy chiếu vào các bản văn Kinh Thánh có liên hệ đến lề luật, lệnh cấm ăn trái cây giữa vườn chứa đựng cả “Mười” giới luật được ghi chép trong các sách luật sau này. Đó là luật tự nhiên, là đạo tự nhiên, Chúa in vào lương tâm con người, để tuân giữ và được sống.
Chúa Giê-su tuyên bố: ai giữ và dạy người ta tuân giữ thì được kể là kẻ cao trọng trong Nước Trời, ngược lại, ai vi phạm và dạy người khác làm sai điều luật dạy, thì bị coi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời (cf. Mt 5, 19).
Vì cớ con người hay quên do thiếu hiểu biết, do tham, sân, si, lề luật phải luôn được gióng lên giữa cộng đoàn cho dân nghe, kiện toàn, học hỏi, ghi nhớ, đem ra thực hành, đáng được Chúa chúc phúc và ban ơn.
Phụng vụ Lời Chúa, chúa nhật III mùa chay, phác họa bức tranh toàn cảnh lề luật và sự kiện toàn lề luật trong Đức Kitô, giúp con người sống đúng, sống đẹp trọng tâm lề luật “tình yêu và vâng phục” đúng ý Chúa muốn.
Bài đọc I, trích sách Xuất Hành, tuyên bố “Mười” giới luật, hay còn gọi là “mười điều răn”.
Việc tuyên đọc luật điều là một phần của giao ước tại núi Si-nai, trong bối cảnh dân Chúa không còn muốn thực hành các điều luật dạy: thờ lạy con bò vàng như vị thần bảo hộ, bất công bóc lột lẫn nhau, nuôi lòng hận thù ghen ghét đố kị...
Trong khi tuyên bố các khoản luật, sách thánh đưa độc giả tới tận thời điểm sáng tạo, vì Thiên Chúa sáng tạo mọi sự trong “sáu ngày và ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi” (Xh 20, 11), nhấn mạnh đặc tính trường tồn, bất di, bất dịch của lề luật và khi đối chiếu cách sống của dân với luật Chúa, họ nhận ra sự sai thù, cách biệt, nên cần phải được canh tân, kiện toàn đúng ý Chúa muốn.
Chúa đã ban hành lề luật cho nguyên tổ thế nào, Người cũng ban luật điều cho dân như vậy. Sự chúc lành và chúc dữ đã áp dụng cho Adam/Eva thế nào, cũng sẽ được áp dụng cho dân như vậy. Gương của nguyên tổ là lời cảnh báo dân hôm nay: Hãy lắng nghe các lề luật, huấn lệnh của Chúa, đem ra thực hành thì các ngươi sẽ được sống và được vào chiếm hữu phần đất mà Chúa là Thiên Chúa cha ông các ngươi sẽ ban cho các ngươi (cf. Đnl 4, 1).
Việc không vâng giữ luật Chúa đã làm cho tâm hồn méo mó biến dạng. Thân xác không còn là đền thờ của Chúa Thánh Thần, hoạt động không đem lại tình yêu và sự sống. Con người cần được Thiên Chúa thanh tẩy.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, xuất hiện như Đấng thanh tẩy có thẩm quyền: xua đuổi chiên cừu ra khỏi đền thờ, hất tung tiền bạc, lật nhào bàn ghế kẻ buôn, người bán, với một lời cảnh cáo nặng nề: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Jn 2, 16).
Còn hơn gấp nhiều lần việc thanh tẩy, Chúa Giê-su còn đòi phá hủy đền thờ này, để Người xây lại nó nội trong “ba ngày”.
Ở đây, Giê-su muốn mạc khải một điều rất quan trọng: đền thờ là chính thân thể Người, mỗi chúng ta cũng là đền thờ của Thiên Chúa.
Nếu thân xác là dụng cụ cho tội lỗi, vi phạm lề luật trở nên thù nghịch với Thiên Chúa, làm thành hang trộm cướp, thì có còn xứng đáng là đền thờ nữa không ? Có đáng tồn tại hay nên phá bỏ ?
Chúa đòi phá bỏ đền thờ xác thịt, cũ nát, để xây lại một đền thờ mới trong Chúa Thánh Thần là điều cần thiết, phải lẽ. Cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới trong Chúa Giê-su chẳng phải là phá hủy cái cũ, xây lại cái mới mẻ đó sao !
Khi mặc lấy thân xác giống chúng ta mọi đàng, Chúa Giê-su chấp nhận tình trạng nhân tính sau tội nguyên tổ, nghĩa là, cái hậu quả của tội lỗi con người phải gánh chịu theo nghĩa liên đới, để chính trong kinh nghiệm về sự yếu hèn, bất lực, Giê-su xây lại ngôi đền thờ thiêng liêng vững bền.
Vậy nên, khi Người từ cõi chết sống lại, các môn đệ nhớ lại lời Người đã nói, họ tin vào Kinh Thánh và tin vào Người (cf. Jn 2, 22).
Thưa anh chị em,
Xây lại đền thờ là làm cho chúng ta trở nên một thụ tạo mới trong Chúa Giê-su, nghĩa là, trở nên những con người biết mến yêu, lắng nghe và thực thi luật Chúa.
Giê-su xây lại đền thờ trong Chúa Thánh Thần là thiết lập cái cốt lõi của lề luật, còn kiện toàn, là thực hành lề luật trong tình yêu và tự do, loại bỏ thái độ sợ hãi, giả hình và nô lệ.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đưa chúng ta về “vườn địa đàng” chiêm ngắm Chúa Giê-su, Đấng ban hành lề luật mới. Người chỉ cho chúng ta cây sự sống đích thực, cho trái trường sinh, để ai hái mà ăn thì có sự sống đời đời.
Cây thánh giá đặt đối diện với cây sự chết. Mười luật điều ban ra từ thánh giá có sức thánh hóa và cứu độ con người. Tất cả mọi người đều được mời gọi thực thi luật Chúa, nhưng hiệu quả thì luôn khác nhau. Những ai tuân giữ luật Chúa với tình yêu và tự do đích thực mới là người được giải phóng khỏi sự sợ hãi và luận phạt, vì họ ở trong Thiên Chúa.
Hiểu như thế, chúng ta mới tâm đắc lời dạy về thập giá của thánh Pha-lô trong bài đọc II. Phao-lô không bận tâm đến sự khôn ngoan theo kiểu thế gian đòi dấu lạ điềm thiêng. Lời rao giảng của ngài tựa vào thập giá của Đấng chịu đóng đinh. Ngài kín múc từ thập giá luật yêu thương là con đường thanh tẩy và đổi mới.
Đối với Phao-lô, những ai tin và kết hợp với Đấng chị đóng đinh, sẽ được tẩy sạch mọi hành vi mang sự chết, mà phụng sự Thiên Chúa hằng sống, xứng đáng hưởng sự sống muôn đời.
Thật, họ là những đền thờ đã được Đức Giê-su phục sinh xây lại nội trong ba ngày. Cuộc đời họ từ đây, tuân giữ lề luật theo tinh thần mới với men yêu thương vâng phục của Chúa Giê-su, men của “tình yêu và sự sống” tuân trào từ cạnh sườn Đấng chịu đóng đinh, nghĩa là, cùng chết với Chúa, sẽ được cùng Người phục sinh.
Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi tuân hành luật chúa cách mới mẻ theo gương Chúa Giê-su. Lấy tình yêu thương làm dây ràng buộc mọi điều toàn thiện. Toàn thể lề luật và giáo huấn ngôn sứ đều quy tụ trong một tình yêu.
Hãy làm mọi điều luật dạy vì lòng mến Chúa, yêu người, chúng ta sẽ tìm được sự bình an, hạnh phúc và niềm vui cứu độ.
Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta trong chúa nhật hôm nay. Amen!
29.Đền Thờ Thiên Chúa--Lm. Minh Vận, CRM
Theo luật Maisen thì việc tôn thờ Thiên Chúa gồm có mục dâng con vật sống làm lễ vật hy sinh. Luật còn buộc cha mẹ dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa trong Đền Thờ.
Vì thế, việc mua bán súc vật quanh Đền Thờ là cần thiết, hay ít nhất cũng được dung thứ, vì những người ở xa đến, khó có thể đem theo súc vật để hiến dâng. Vậy nếu việc mua bán súc vật là tiện lợi cho những người ở xa tới, thì tại sao Chúa Kitô lại tỏ ra thái độ khó chịu và thịnh nộ lên tiếng quở mắng những người mua bán như thế?
I. TẠI SAO CHÚA CỨU THẾ THỊNH NỘ
Thưa, việc mua bán lễ vật dâng hiến của họ đã trở thành việc thương mại, thiếu lòng thành tín bên trong: Người bán súc vật chỉ lợi dụng cơ hội để làm tiền, để trục lợi, chứ không chú ý cung cấp nhu cầu cần thiết cho khách hành hương tới thờ phượng Chúa. Còn người mua thì coi bổn phận dâng lễ vật chỉ là một việc bất đắc dĩ, một gánh nặng cực chẳng đã.
Trước cảnh tục hóa này, Chúa Giêsu đã dùng uy quyền của một Đấng được Thiên Chúa sai đến trần gian, và với nhiệt tâm của một Người Con có trách nhiệm phải bảo vệ nhà Cha Mình. Chúa đã lên tiếng cảnh giác họ: "Hãy cất những thứ này khỏi nơi đây, các ngươi không được làm cho Nhà Cha Ta trở nên hãng buôn, nên hang trộm cướp". Đồng thời, Chúa đã nổi cơn thịnh nộ, chắp giây thừng làm roi, đánh đuổi bọn họ cùng với chiên bò, hất tung khay tiền, xô đổ bàn ghế của họ.
II. CHÚNG TA LÀ ĐỀN THỜ THIÊN CHÚA
Cũng như một ngôi Đền Thờ được xây cất với mục đích hiến dâng làm nơi thờ phượng Thiên Chúa, làm nhà cầu nguyện của muôn dân; mỗi người chúng ta cũng đã được thánh hiến cho Thiên Chúa, ngày chúng ta lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, để làm nơi Thiên Chúa ngự. Chính Thánh Phaolô đã lưu ý chúng ta rằng: "Anh chị em lại không biết rằng, anh chị em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Chúa Thánh Linh ngự trong anh chị em sao? Ai tục hóa Đền Thờ Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ hủy diệt họ; vì Đền Thờ Chúa là Thánh, mà chính bản thân anh chị em là Đền Thờ đó" (1 Cor 3:16-17). Đây là một chân lý rất an ủi và làm cho chúng ta được sung sướng hạnh phúc; nhưng đồng thời cũng khiến chúng ta phải lo sợ hãi hùng.
Các Thánh Nhân và những người công chính luôn sống trong ơn nghĩa thánh, có tâm hồn trong sạch, nhiều lúc Chúa cho các ngài được cảm nghiệm thấy niềm an vui hạnh phúc này, nên các ngài đã để lộ trên khuôn mặt hân hoan, thốt lên trong lời nói, trào ra qua nét bút.
Chị Nữ Tu Elizabeth Chúa Ba Ngôi đã thường quen nói: "Hồn tôi là một Cõi Trời, nơi tôi sống, trong khi chờ đợi Jerusalem Thiên Quốc. Tôi đã gặp Thiên Quốc ngay tại thế, vì Thiên Quốc chính là Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong tâm hồn tôi". Một hôm, Chị Dòng gởi một bức thư khuyên bà chị đã lập gia đình có nội dung như sau: "Thiên Quốc ở trong tâm hồn chúng ta. Giữa những lo âu do nhiệm vụ của một bà mẹ, lúc nào chị bị chia trí vì công việc bề bộn chồng chất, chị cứ bước vào giữa linh hồn chị, nơi vị Thượng Khách Thần Linh cư ngụ. Như vậy không phải là đơn sơ an ủi và hạnh phúc lắm sao?"
Ông Leoniđê, thân phụ của Giáo Phụ Origenê, đã cảm nghiệm được niềm tin vào hạnh phúc Thiên Chúa ngự trong tâm hồn những người sống trong ơn thánh, nên một hôm ông đã nghiêng mình trước đứa con nằm trong nôi, ông đã đặt môi hôn ngực con. Thấy người ta bỡ ngỡ trước cử chỉ ấy, ông sung sướng trả lời: "Tôi thờ lạy Thiên Chúa hiện diện trong trái tim của trẻ thơ đã nhận lãnh Bí Tích Thánh Tẩy này".
Thấu hiểu và cảm nghiệm được sự sống thần linh cao cả này, cùng với tâm tình của các Thánh, chúng ta có thể sung sướng kêu lên: "Thực đúng, Thiên Chúa ngự trong tôi mà xưa nay tôi không nghĩ tới. Tôi đã sống qua một phần lớn đời tôi mà tôi không nhận biết và quan tâm đến Ngài. Ôi con người tôi là cả một Thánh Vật đáng quí trọng biết bao! Tôi là Đền Thờ của Thiên Chúa, là Cửa Thiên Quốc!"
III. CHÚNG TA PHẢI CÓ NGHĨA VỤ NÀO
Đức Tin dạy cho chúng ta biết: Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta, khi chúng ta sống trong ơn nghĩa thánh, khi chúng ta có tâm hồn trong sạch. Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta không những như một Thiên Chúa toàn năng cao cả, mà còn:
* Như một người Cha Nhân Từ, hằng yêu thương săn sóc đến mọi nhu cầu của con cái, như chính Chúa Kitô đã dạy chúng ta dâng lời cầu xin Người với tâm tình của một con ngoan thảo: "Lạy Cha chúng con ngự trên trời" (Mt 6:6).
* Như một Bạn Tâm Phúc, Chúa luôn tha thiết yêu thương thân mật, tâm giao với chúng ta bằng tất cả tâm tình của một Người Yêu: "Cha không gọi các con là tôi tớ nữa, nhưng gọi các con là Bạn Tâm Phúc" (Jn 15:15).
* Như Đấng Thánh Hóa, Chúa luôn soi sáng lương tâm, dạy chúng ta biết những điều đẹp lòng Chúa, kích thích chúng ta làm điều thiện tránh điều ác, ban cho chúng ta sức mạnh giúp chúng ta chiến thắng kẻ thù, thực thi các việc lành phúc đức, sống đời thánh thiện đẹp lòng Chúa, như lời Thánh Phaolô quả quyết: "Nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể làm được mọi sự" (Phil 4:13).
Để đáp lại ơn phúc cao cả được Chúa Ba Ngôi ngự trong linh hồn chúng ta, như Ngai Tòa, như Đền Thờ, như Thiên Đàng của Chúa, chúng ta cần có 3 nghĩa vụ sau đây:
1. Tôn Thờ: Chúng ta hãy dâng lên Chúa lòng tôn thờ xứng đáng, tôn nhận Chúa là Thiên Chúa , một Chủ Tể tối cao và phải hết lòng tôn thờ Người, không bao giờ dám cố tình phạm tội làm phiền lòng Người, dù là những lỗi rất nhỏ mọn, những khiếm nhã sơ xuất.
2. Yêu Mến: Chúng ta hãy hết lòng yêu mến Chúa, không những bằng tâm tình người con thảo luôn làm hài lòng Cha; mà còn bằng tâm tình một người yêu, luôn tha thiết thân mật khăng khít nên một với Chúa, đáp lại lòng Chúa khát khao: "Chúng con hãy dâng trái tim chúng con cho Cha". Và: "Cha muốn chiếm trọn trái tim chúng con, các Bạn Tâm Phúc của Cha, các Linh Mục và Tu Sĩ của Cha, Cha không muốn một thái độ hững hờ và một tình yêu chia sẻ" (Đại Thông Điệp Tình Yêu).
3. Biết Ơn: Được Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta là một đặc ân cao cả. Vì thế, chúng ta hãy luôn cảm tạ lòng Chúa yêu thương và sống xứng đáng với ơn Chúa ban, bằng cách:
* Không bao giờ cố tình phạm tội trọng, vì tội trọng là trục xuất Chúa ra khỏi linh hồn mình, rồi rước ma quỉ vào thống trị linh hồn.
* Luôn làm tăng trưởng Ơn Thánh Chúa, bằng việc thực thi các nhân đức, giúp linh hồn tiến bước trên Đường Thánh Thiện.
* Giãi sáng gương đời sống thánh thiện, để tất cả những ai chúng ta giao tiếp được nhận ra chúng ta là người mang Thiên Chúa trong mình.
Kết Luận
Quyết tâm không bao giờ cố tình làm điều gì phiền lòng Chúa, không bao giờ để cho tội lỗi tính mê nết xấu lấn át, khiến tâm hồn ra ô uế, tục hóa Đền Thờ Chúa, kẻo bị Chúa hủy diệt.
Luôn biết thánh hóa Đền Thờ tâm hồn mình, luôn sống đời trong sạch, để bản thân chúng ta được trở nên Đền Thờ, nên Cung Thánh, nên Thiên Đàng xứng đáng làm nơi Chúa sung sướng hiển ngự.
30.Cứ phá hủy Đền Thờ này đi …--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
Trong những năm gần đây, việc xây dựng các ngôi thánh đường mới, hay các trung tâm mục vụ diễn ra khá ồ ạt. Có những nơi, Thánh đường xuống cấp hay không có nơi học giáo lý cho các em thì việc xây dựng quả là cần thiết. Tuy nhiên, cũng có những nơi muốn hoành tráng, muốn giáo xứ của mình hơn giáo xứ bạn nên những ngôi nhà thờ cổ hay nhà xứ cổ bị phá hủy đi để thay thế bằng những công trình đồ sộ thì quả là lãng phí. Đằng sau những công trình đó là biết bao nhiêu câu chuyện khó diễn tả thành lời.
Trong bữa cơm trưa nay, tôi trao đổi với vài người trong bàn ăn về đề tài xây dựng này. Có một bạn trẻ nói với tôi rằng nơi bạn sinh sống và học tập, bạn thấy các thánh lễ cứ dâng của lễ liên tục. Bạn cảm thấy thánh lễ mất đi vẻ thiêng thánh. Bạn cũng chia sẻ thêm là có những người nói với bạn đó rằng đi lễ thấy người ta lên dâng của lễ mà mình không lên thì ngại. Vì thế mà họ bắt buộc phải lên. Bản thân tôi cũng được nghe những chia sẻ từ những giáo dân tôi quen biết. Có người nói rằng con không dám đi dự thánh lễ đó bởi biết chắc sẽ có dâng của lễ mà con thì không có tiền. Một người khác thì nói: nhà con có ba khẩu. Mỗi khẩu đóng góp 200 ngàn đồng. Trong nhà con chỉ còn có 500 ngàn, nhưng người đi thu tiền nhất định không nhận, phải đủ 600 mới được. Thế là con lại phải đi vay thêm 100 ngàn để đóng cho đủ số.
Tin Mừng Chúa Nhật III Mùa Chay năm B kể lại câu chuyện Chúa vào Đền Thờ và đánh đuổi tất cả bọn buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Chúa nói đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán. Có lẽ chưa bao giờ tôi thấy Chúa tỏ thái độ dứt khoát và mạnh mẽ như hôm nay. Một Đức Giê-su hiền lành và khiêm nhường lại có thể có những hành động thực sự quyết liệt. Người Do Thái chất vấn Chúa rằng ông lấy quyền gì mà làm như vậy. Chúa đáp cứ phá hủy Đền Thờ này đi nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại. Người Do Thái kinh ngạc vì phải mất 46 năm họ mới xây dựng được Đền Thờ này. Thế mà Chúa bảo chỉ xây dựng lại trong ba ngày. Nhưng họ không biết rằng Chúa ám chỉ Đền Thờ là chính Thân Thể của Chúa. Qua câu chuyện này, Chúa muốn dạy tôi một bài học thật rõ ràng. Đền Thờ vật chất dù có nguy nga tráng lệ tới đâu thì cũng không bao giờ quan trọng bằng Đền Thờ là chính tâm hồn mỗi con người. Con người mới thực sự quan trọng. Con người dù bé nhỏ nghèo hèn tới đâu cũng đều là thánh thiêng. Chúa không chấp nhận sự thỏa hiệp. Tâm hồn con người không thể bị đồng tiền chi phối, điều khiển. Vì thế, cần có một thái độ dứt khoát với tiền bạc như chính Chúa đã dạy: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. (Lc 16,13)
Người ta thường nói Đình sang thì Làng siêu. Việc xây dựng những Đền Thờ vật chất chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được làm nên bởi những tâm hồn thiện lành. Khi con người cảm nghiệm sâu xa mọi sự mình có đều do Chúa tặng bạn, họ sẽ đóng góp xây dựng không phải là sự bắt buộc mà là sự tự nguyện dâng hiến. Những công trình vật chất dù hoành tráng tới đâu, nếu được làm nên từ sự ép buộc thì cũng chẳng có giá trị gì. Nếu vì xây dựng Đền Thờ vật chất mà phá hủy đi Đền Thờ thiêng liêng là tâm hồn các tín hữu thì quả là đáng buồn. Thú thật, tham dự các thánh lễ tạ ơn khánh thành các ngôi thánh đường mới những năm gần đây, tôi cứ thấy không ổn lắm. Bước vào nhà thờ, tôi không cảm nghiệm được vẻ thiêng thánh. Tôi cảm thấy rất khó cầu nguyện. Có vẻ như những ngôi nhà thờ mới chỉ đáp ứng được một việc là rộng lớn hơn chứ không thể tạo ra một cái gì đó huyền bí so với các ngôi nhà thờ trước đây. Khuôn viên Nhà thờ cũng thiếu đi cây xanh, thiếu đi một cái gì đó là thiên nhiên. Nhiều giáo xứ xây dựng bừa bãi không quy hoạch đã làm mất đi cái hồn thiêng mà bao đời cha ông và các vị tiền bối đã dày công xây dựng. Tôi băn khoăn và tự hỏi rồi chúng ta sẽ đi về đâu?
Lạy Chúa, xin biến đổi con thành Đền Thờ đích thực của Chúa. Xin Chúa giúp xua đuổi khỏi con những gì nhơ bẩn. Xin tẩy rửa con trong sạch để con luôn mãi thuộc về Chúa. Amen.
31.Thánh Đường, điểm hẹn--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Một giáo xứ miền quê nọ đã được thành lập từ lâu, nhưng chưa có một ngôi nhà thờ xây cất hẳn hoi. Giáo dân lại nằm rải rác trong hai ngôi làng sát cạnh nhau. Khát vọng duy nhất của giáo dân là được có nơi thờ phượng đàng hoàng. Với sự hăng say bộc phát của những người nông dân, mọi người đã quảng đại đáp lại lời kêu gọi của cha chính xứ: kẻ góp công, người góp của. Thế nhưng vấn đề cơ bản vẫn là: đâu là địa điểm xứng hợp nhất để xây cất ngôi nhà thờ mới. Người ở làng bên này thì muốn ngôi nhà thờ toạ lạc trong làng của mình. Người ở làng bên kia thì lại muốn nhà thờ được xây cất gần bên chỗ mình ở. Thế là hai bên cứ tranh luận, không bên nào muốn nhường bên nào. Tiền của đã có sẵn, vật liệu cũng không thiếu, nhưng không biết phải đặt viên đá đầu tiên ở đâu.
Giữa lúc vấn đề địa điểm xây cất chưa ngã ngũ, một nạn hạn hán trầm trọng đang đe doạ dân chúng trong cả hai làng. Thế là người ta chỉ còn nghĩ đến việc chống hạn hán hơn là xây cất nhà thờ. Năm ấy toàn dân trong hai làng đều phải chịu cảnh đói khát. Trong cảnh túng quẫn, lá lành đùm lá rách, dân làng hai bên mới nghĩ đến nhau. Một đêm kia, dân làng bên này lặng lẽ phân chia lúa thóc rồi mang qua cứu trợ dân làng bên kia. Trong khi đó, dân làng biên kia cũng có một ý nghĩ tương tự, họ cũng mang lúa thóc qua cứu trợ dân làng bên này. Giữa đêm tối, không hẹn mà hò, dân làng hai bên đã gặp nhau trong cùng một ý nghĩ và hành động. Không cần một lời giải thích, không cần một lời chào hỏi, họ đã hiểu nhau: Họ đặt những bao lúa xuống đất và ôm chầm lấy nhau… Điểm gặp gỡ của tình tương thân tương ái, của tình liên đới chia sẻ ấy đã được giáo dân gọi là “đất thánh” và họ đã nhất trí chọn địa điểm này làm nơi đặt viên đá đầu tiên xây cất ngôi nhà thờ mới của giáo xứ.
Thưa anh chị em,
Nhà thờ đúng là nơi hẹn hò gặp gỡ: hẹn hò gặp gỡ với Thiên Chúa và với anh em đồng bào. Không ai đến nhà thờ mà không tìm gặp được sức mạnh từ chính Chúa, sự an ủi nâng đỡ từ cộng đoàn anh em. Do đó, nhà thờ phải là điểm hẹn của mọi nẻo đường, là nơi hội tụ của mọi xây dựng, là giải đáp của mọi tranh luận, là nơi gặp gỡ của tình yêu thương.
Đền thờ Giêrusalem là nơi tập họp của dân Do Thái trên mọi khắp mọi miền đất nước vào dịp lễ Vượt Qua hằng năm, mừng kỷ niệm dân được Thiên Chúa giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ về miền Đất Hứa. Năm ấy, Chúa Giêsu cũng hoà mình vào đoàn dân tiến bước về đền thờ. Vừa bước vào đền thờ, Chúa Giêsu đã chứng kiến những cảnh chướng tai gai mắt: buôn bán chiên bò, trao đổi tiền bạc, đám đông ồn ào náo nhiệt, vô trật tự. Không cầm mình được trước cảnh tượng đền thờ linh thiêng bị biến thành thị trường, sào huyệt của bọn đầu trộn đuôi cướp, Chúa Giêsu đã “nhào vô” thẳng tay đánh đuổi những kẻ buôn thần bán thánh, thanh tẩy đền thờ, trả lại sự trong sáng cho nơi cầu nguyện và gặp gỡ của Cha Ngài và của mọi người.
Nhưng không phải chỉ có thế. Dưới ngòi bút của Thánh sử Gioan, hãnh động của Chúa Giêsu còn mang một ý nghĩa biểu tượng sâu sắc hơn nhiều, khi Gioan nói: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Sau này, dưới anh sáng Phục Sinh, các môn đệ mới hiểu đền thờ Chúa muốn nói ở đây chính là thân xác của Chúa Giêsu sẽ được Phục Sinh sau ba ngày ở trong mồ.
Chúa Giêsu đã xua đuổi bọn con buôn, xô đổ lật nhào bàn ghế những người đổi tiền. Ngài phá hủy không phải chỉ để phá hủy. Phá hủy sẽ không có nghĩa gì cả, nếu không găn liền với xây dựng. Ngài chỉ phá hủy những gì hủy hoại con người, hủy hoại mốt tương giao giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Thực ra, chính việc buôn bán đổi chác, ồn ào trong đền thờ mới phá hủy đền thờ, làm cho đền thờ không còn là đền thờ, không còn là nơi gặp gỡ Thiên Chúa và anh em đồng bào, trái lại trở thành sào huyệt trộm cướp, bóc lột, cắt cổ nhau. Chính vì thế, việc phá đổ, giết chết, đánh mất ý nghĩa là “việc của các ông”: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi”. Còn “việc của Thiên Chúa” là xây dựng lại đền thờ mới, là cứu sống và tái tạo tất cả trong Đức Giêsu khi cho Ngài Phục Sinh sau ba ngày ở trong mồ, và đặt Ngài làm Đức Chúa, để từ nay, Đức Giêsu Kitô trở thành trung tâm phụng tự duy nhất. Trong Ngài toàn thể nhân loại sẽ “thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và chân lý”.
Anh chị em thân mến,
Thời Cựu Ước, dân Do Thái tôn thờ Thiên Chúa một cách vụ hình thức, bôi bác, máy móc. Họ nghĩ rằng, cứ dâng cúng vào đền thờ nhiều tiền của, nhiều lễ vật là Chúa hài lòng, Chúa sẽ xí xóa mọi tội lỗi cho họ. Họ tưởng dùng tiền của, lễ vật, quà cáp là mua chuộc, hối lộ được Thiên Chúa. Thành thử ra, dù có sống gian tà, xảo trá, độc ác, bất công, chỉ cần đợi dịp đại lễ hành hương lên đền thờ, dâng cúng cho nhiều, thế là vừa bình an trong lương tâm vừa được tiếng đạo đức. Chính ngôn sứ Giêrêmia đã thốt lên lời sấm chống lại đền thờ, vì ở đó không còn nền thờ phượng đích thực nữa. Dân chúng chỉ sống đạo bề ngoài mà không hoán cải đời sống, không tuân giữ Giao Ước mười điều răn của Thiên Chúa (x.Bđ.1). ngôn sứ nói: “Chúa phán: Sao? trộm cướp, giết người, ngoại tình, thề dối, thờ cúng Thần Baal, đi theo các tà thần, rồi chạy vào đến trước mặt Ta trong đền thờ này, các ngươi cho thế là thoát nợ, để rồi tiếp tục cái trò quái gở ấy ư? Các ngươi đã biến đền thờ này là nơi Danh Ta được kêu cầu thành sào huyệt trộm cướp” (Gr 7,9-11). Điều Thiên Chúa muốn, rõ ràng không chỉ là thái độ phải có trong đền thờ mà là thái độ phải có trong cả cuộc sống.
Trong cuộc sống, chúng ta thường quan niệm bổn phận đối với Thiên Chúa trong các nhà thờ tách rời khỏi bổn phận đối với anh em ngoài xã hội. Thực ra, thờ phượng Thiên Chúa đâu chỉ là đến nhà thờ đọc kinh, dự lễ và rồi người anh em bên cạnh có chết đói, chết rét, có gặp tai ương hoạn nạn… cũng chỉ là việc riêng tư của họ, không cần biết đến. Người ta không thể xây dựng những ngôi nhà thờ nguy nga đồ sộ mà lại làm ngơ trước những người đang giẫy chết bên cạnh. Người ta không thể nhắm mắt đi đến nhà thờ trong khi bên lề đường có bao nhiêu người lê lết trong đói khổ. Nhà thờ phải là nơi hẹn hò gặp gỡ với Thiên Chúa và với anh em đồng loại. Nhà thờ chỉ có thể xây dựng ngay chính trên “Đất Thánh” của tình yêu thương, chia sẻ, của tình liên đới anh em mà thôi. Và việc đi đến nhà thờ cũng chỉ có ý nghĩa khi nó là điểm hẹn, là biểu tượng của chính những viên đá sống động, những viên gạch bác ái mà người ta không ngừng xây dựng trong cuộc sống hằng ngày. Vì chính các Kitô hữu là đền thờ của Chúa Thánh Thần (x.Cv 7,49-51; 1Cr 3,16; 2Cr 6,16).
Chúng ta đang tham dự Thánh Lễ là lễ tế của Chúa Giêsu trên thập giá. Chính Thánh Thể của Ngài giờ đây vĩnh viễn thay thế mọi lễ tế chiên bò trong đền thờ Giêrusalem và khánh thành một đền thờ mới với một phụng tự mới trong Thánh Thần và chân lý là yêu thương và phục vụ anh em cũng là chi thể của thân xác Chúa Giêsu Phục Sinh và là Đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi.
32.Giao ước mới--Lm. Đỗ Vân Lực
Lời hứa có một ảnh hưởng nào trong cuộc sống? Hôn ước cũng chỉ là một lời hứa vắn tắt, nhưng ràng buộc con người suốt đời. Thiên Chúa cũng bị lời hứa ràng buộc. Giao ước chính là lời Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Nhưng rõ ràng có một sự khác biệt lớn lao giữa Thiên Chúa và con người trong việc giữ lời hứa. Chính nhờ lời hứa, giá trị được xác định. Vì chữ tín càng cao, con người càng được mọi người kính nể. Chúng ta thử xem Thiên Chúa đã giữ lời hứa như thế nào trong khi thiết lập tương giao với nhân loại.
TƯƠNG QUAN HAI CHIỀU
Thiên Chúa đã chứng tỏ tất cả uy quyền khi thiết lập giao ước với loài người. Chính vì yêu thương, Chúa đã hạ cố đến với Môsê. Người đã dẫn ông qua những nẻo đường, đến tận núi Sinai để thiết lập giao ước với dân tộc Do thái. Mười Điều Răn chính là cách diễn tả cụ thể giao ước đó (Faley 1994:244). “Mười Điều răn thể hiện quyền bình Thiên Chúa trên chúng ta” (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:13). Quyền bính ấy không nhằm đè bẹp, nhưng thăng tiến con người. Con người chỉ thực sự thăng tiến khi biết rõ mình là ai trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Bởi vậy “ trước khi ban Mười Điều Răn cho Israel, Thiên Chúa mạc khải Người là ai. Israel khám phá mình là ai khi đáp trả lại lời Thiên Chúa mời gọi bước vào tương quan giao ước, nhờ vậy có một căn tính mới” (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:13). Quả thực chính nhờ giao ước, Do thái thực sự được Chúa yêu thương và trở thành người con đầu lòng của Thiên Chúa. Họ rất hãnh diện vì như chiếm được lòng ưu ái của Thiên Chúa, trong khi dân ngoại bơ vơ giữa đủ thứ thần tượng. Nhờ thực thi giao ước, họ sẽ chiếm được niềm hi vọng thiên sai.
Chính vì thế, Đức Giêsu đã sinh ra trong dân tộc Do thái. Người đến để thực hiện tất cả những gì Thiên Chúa đã hứa qua giao ước. Thiên Chúa phải được tôn thờ là vị Thần độc nhất. Đối với Do thái, nhận thêm một vị thần vào bảng phong thần không khó lắm. Nhưng tôn thờ Người là vị thần độc nhất, loại trừ tất cả các thần khác là cả một vấn đề. “Giới răn thứ nhất (cc.3-6) là một cách diễn tả niềm tin độc thần trong thực tế” (Faley 1994:245). Đền thánh là lãnh vực tuyệt đối dành cho một mình Giavê mà thôi. Nếu ai đem thần ngoại bang vào đền thờ, tức là chối bỏ Giavê. Xúc phạm tới đền thánh tức là xúc phạm tới Thiên Chúa. Đền thờ trở nên trung tâm sinh hoạt tôn giáo và chính trị của toàn dân. Đó là biểu tượng của niềm tin và hi vọng. Dân tộc trở thành một cộng đồng qui tụ quanh đền thờ. Cộng đồng đó cần được Thiên Chúa hướng dẫn về Đất hứa.
“Mười Điều Răn đã được Thiên Chúa phác họa để dẫn dân Do thái tới một cuộc sống thánh thiện trong thực tế. Trong Mười Điều Răn đó, họ sẽ nhìn thấy bản tính Thiên Chúa và kế hoạch Người chỉ vẽ cho dân lối sống. Mệnh lệnh và những chỉ dẫn nhằm hướng dẫn cộng đoàn gặp gỡ từng nhu cầu cá nhân một cách đầy thương yêu và có trách nhiệm” (Life Application Study Bible 1991:136). Thực hành Mười Điều Răn là cách duy nhất để cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa đối với dân Người.
Biểu tượng của tình yêu và niềm hi vọng chính là đền thờ. Bởi vậy mỗi khi nhìn đến hay hướng về đền thờ, dân Chúa vô cùng phấn khởi và hăng say giữ tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi qua giao ước. Họ không cảm thấy gò bó hay miễn cưỡng khi giữ luật vì đó là “phương tiện duy nhất chu toàn luật thương yêu của Thiên Chúa” (Life Application Study Bible 1991:136). Ngày sabát là một bằng chứng. Chính vì biến phương tiện thành mục đích, người Do thái đã đánh mất nét tinh hoa cao quí nhất của lề luật. Nói khác, khi không còn là phương tiện đạt mục đích Thiên Chúa đã vạch ra, luật lệ hay đền thờ trở thành những thứ thừa thãi, vô bổ.
Chính vì thế Đức Giêsu mới không ngần ngại nổi nóng với những lạm dụng đền thờ, cản trở việc thờ phượng. Làm sao có thể tưởng tượng nổi một Đấng “hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29) lại có thể “lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế ho.” (Ga 2:15). Giữa chốn ồn ào hỗn loạn đó, chắc chắn Người đã phải quát lên: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Công cuộc thanh tẩy Đền Thờ làm Người hầu như quên bản chất hiền lành của mình. Người sẵn sàng vượt lên trên mức thường tình để thanh tẩy Đền Thờ. Người còn muốn cho mọi người thấy mạc khải lớn lao về bản chất đích thực. Người chính là Đền Thờ mới thay thế Đền Thờ cũ vào thời Thiên sai (Ml 3:1-4; Dcr 14:21). Bởi thế, “hành động của Đức Giêsu mang tính cánh chung, thúc đẩy người Do thái thắc mắc về tư cách Thiên sai của Người” (Ga 2:18) (Faley 1994:248). Thắc mắc đó phải đợi sau cái chết và phục sinh của Người được trả lời thỏa đáng. “Đền Thờ ấy sẽ được một thực tại mới thay thế là Đức Kitô tràn đầy Thần khí” (Faley 1994:248). Chính nơi Người, Thiên Chúa sẽ hiện diện cách sung mãn và sống động nhất. Người sẽ trở nên trung tâm thu hút mọi người về với Thiên Chúa. Quả thế, sau khi phục sinh, Đức Giêsu là nơi nhân loại tìm được dung nhan Thiên Chúa và sự tôn thờ đích thực trong “thần khí và sự thật” (4:23-24). Trước đó, Người đã làm nhiều dấu chỉ chứng tỏ nơi Người, sự thật mới đạt đến độ sâu sa nhất. Vì nhờ thiên tính, Người đã đi sâu vào tận bản tính nhân loại (c.25; 1,47).
ĐỀN THỜ HÔM NAY
Đức Giêsu cũng muốn thanh tẩy Đền Thờ hôm nay là Giáo hội. Nếu Giáo hội không được thanh tẩy, những hoạt động trần tục sẽ che khuất dung nhan Thiên Chúa trước mắt mọi người. Nói khác, chính vì Giáo hội quá nặng nề với lỗi lầm quá khứ, những nghi lễ và luật lệ rườm rà, nhiều người đã không thể đến được với Chúa Kitô. Bởi đấy, ngày 12.3.2000, ĐGH Gioan Phaolô II đã làm một cử chỉ ngoạn mục trước mắt toàn thể nhân loại. Giáo hội đã tự thanh tẩy. Đúng hơn, Thánh Linh đã thanh tẩy khuôn mặt Giáo hội, không phải để Giáo hội được nổi tiếng, nhưng để mọi người nhận biết Đức Kitô là “sự thật và là sự sống” (Ga 14:6), có sức giải thoát nhân loại khỏi mọi cảnh khốn cùng hiện tại.
Trong khi rao giảng Đức Kitô, Giáo hội nhìn nhận lịch sử Giáo hội là một chuỗi “các tội đã phạm trong khi phục vụ chân lý, các tội đã làm tổn thương đến sự hiệp nhất Kitô giáo, các tội chống lại dân tộc Israel, các tội chống lại tình yêu, hòa bình và kính trọng đối với các nền văn hóa và các tôn giáo, các tội chống lại phẩm giá của người phụ nữ và sự hiệp nhất của loài người, và các tội phạm đến các quyền cơ bản của con người” (VietCatholic 19/3/2000). Không phải vì những lầm lỗi ấy mà Giáo hội phải bị phá hủy, vì bản chất Giáo hội vẫn là thánh. Hi vọng sau lời thú tội này, Giáo hội sẽ phục vụ Thiên Chúa và con người đắc lực hơn. Mọi người có thể dễ dàng đến với Đức Kitô qua cung cách khiêm nhường của Giáo hội. Nhân loại như bước vào “thời gian hòa giải, thời gian cứu độ cho tất cả mọi người tín hữu và cho tất cả mọi người đang tìm kiếm Thiên Chúa!” (ĐGH Gioan Phaolô II, “Ngày Xin Ơn Tha Thứ”, VietCatholic, 19/3/2000). Đức Giáo Hoàng đã tô một nét son thật đậm vào lịch sử Giáo hội. Các Giáo hội địa phương cũng theo gương sáng đó. Chẳng hạn tại Giáo hội Hoa Kỳ, các Đức Hồng y Roger Mahony, TGM Los Angeles, đã xin lỗi cả những người đống tính luyến ái và những tín đồ thuộc các tôn giáo khác. Người cũng xin lỗi cả những gia đình hay cá nhân về những lạm dụng tình dục của một số linh mục. Đức Hồng y Bernard Law tại Boston cũng xin lỗi về nạn nô lệ tại Hoa Kỳ. Các Giám mục Âu châu cũng thú nhận người Kitô hữu đã không cố sức cứu người Do thái trong thời Đệ nhị thế chiến (VietCatholic 19/3/2000).
33.Thiên Chúa thanh tẩy người tình--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Trong Chúa nhật trước, câu chuyện tình của Thiên Chúa và con người đã đi tới chỗ con người phải lòng Thiên Chúa. Con người đã chấp nhận đi theo Chúa mà không đòi hỏi gì. Nhưng khốn nỗi, thân phận nó lúc này đâu phải là thánh nhân. Nó đang là một kẻ lang thang, hoang dã, tả tơi bởi cái tội dám cao ngạo với Trời. Thế nên Thiên Chúa đã tìm cách thanh tẩy nó, Thiên Chúa thanh tẩy người tình của mình.
Thiên Chúa đơn phương tỏ tình với con người – Chúa Nhật I Mùa Chay năm B
Con người phải lòng Thiên Chúa – Chúa nhật II Mùa Chay – Năm B
Thanh tẩy nếp sống
Dòng dõi tổ phụ Abraham ngày một đông. Sau thời gian lưu lạc bên Ai-cập, họ đã trở nên một đám dân có thế lực khiến triều đình Ai-cập cũng phải dè chừng. Ngày mà ông Mô-sê dẫn dân ra khỏi Ai-cập để tiến về miền đất mà Chúa đã hứa, là ngày không thể quên đối với dân này. Họ đã vượt qua Biển Đỏ, thoát khỏi sự truy đuổi của quân lính Ai-cập cách diệu kỳ. Họ đã cảm được uy quyền của Thiên Chúa, cảm được tình thương cụ thể mà Thiên Chúa cứu họ khỏi chết.
Kể từ khi ra khỏi Ai-cập, Thiên Chúa đã từng bước thanh tẩy họ, uốn nắn họ đi trong đường lối của Ngài. 40 năm trong sa mạc Dân được Chúa dẫn lối: ban ngày có mây che nắng, ban đêm có cột lửa dẫn đường. Họ phải bỏ đi những nếp sống bừa bãi theo ý mình và tập làm quen dần với nếp sống có kỷ cương.
Đỉnh điểm của cuộc thanh tẩy là tại núi Sinai. Thiên Chúa quyết định làm một cuộc thanh lọc để chỉ còn lại những ai chấp nhận sống theo khuôn phép. Giao ước mà con người với ông Mô-sê là người đại diện ký kết với Thiên Chúa, là giao ước đầu tiên được ký kết thực sự giữa con người và Chúa. Trong Giao ước ấy, mỗi bên đều có nghĩa vụ và quyền lợi của mình: về phía Thiên Chúa, Ngài nhận dân là dân riêng của Ngài và sẽ gìn giữ họ; về phía dân, họ nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất của họ và tuân giữ 10 Điều Luật. Bài đọc thứ nhất được trích trong sách Xuất Hành (Xh 20, 1-17) liệt kê 10 điều luật này. Đây chính là Kinh 10 Điều Răn Đức Chúa Trời mà ngày nay chúng ta vẫn đọc thường ngày. Đây không phải lời Chúa khuyên dạy con người, ai thích thì làm theo. Nhưng đây là 10 điều mà con người phải tuân giữ. 10 điều trong giao ước mà con người đã ký với Chúa. Nếu ai không thực hiện đủ thì đồng nghĩa với việc người đó phá vỡ giao ước và họ phải chịu hình phạt.
Trước cuộc Giao ước này, con người chỉ được giao tiếp với Chúa qua 1 nhân vật đại diện. Giờ đây, con người đã có thể gặp gỡ Chúa nơi có sự hiện diện của Hòm Bia. Hai tấm bia trong hòm ấy ghi lại 10 lời của Chúa. Đó cũng chính là lời của Chúa, mặc dù lời ấy chưa trọn vẹn, chưa hoản hảo như Ngôi Lời sau này. Nhưng cách nào đó, sự thân tình giữa con người và Chúa đã dần trở nên gần gũi. Con người được tiếp cận gần hơn với trái tim của Chúa. Và Thiên Chúa cũng dễ bề vỗ về, uốn nắn con người hơn.
Thanh tẩy tâm hồn
Khi dân đã định cư tại vùng đất Canaan, họ xây dựng đền thờ nguy nga vững chắc để thờ phượng Chúa. Hòm Bia Giao ước được đặt nơi cực thánh của Đền Thờ. Hằng năm, ít là dịp lễ Vượt Qua họ kéo về Đền Thờ để tế lễ, để gặp gỡ Chúa. Dịp lễ Vượt Qua là thời gian họ cùng nhau nhắc lại biến cố vĩ đại mà Chúa đã giúp họ vượt qua Biển Đỏ thoát chết. Họ cùng nhau ca tụng quyền năng và tình thương của Chúa. Nhưng cuộc sống bon chen đã khiến tâm hồn họ hướng về những sự thế gian hơn là hướng về Chúa. Họ cần được thanh tẩy không ngừng.
Câu truyện trong Tin mừng trong Chúa nhật này (Ga 2, 13-25) liên quan đến những lệch lạc của dân chúng trong dịp lễ Vượt Qua tại Đền Thờ. Đức Giêsu đã có mặt ở đó. Ngài đã không chấp nhận cảnh bát nháo buôn bán làm ô uế Đền Thờ. Ngài đã thẳng tay xua đuổi: “người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ”. Sự công thẳng của Thiên Chúa được thể hiện rất rõ. Ngài yêu con người. Nhưng Ngài không chấp nhận để cho người yêu của mình trở nên nhơ uế. Ngài đau lòng khi thấy con người nhếch nhác. Bằng mọi cách, Ngài thanh tẩy cho bằng được tâm hồn của người tình để cho nó ngày thêm xinh tươi.
Kết lại bài Tin Mừng, Thánh Gioan đã khẳng định “Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta”. Thế đấy, Chúa biết rõ tâm hồn con người. Mọi sự kín đáo mà con người có thể che giấu đồng loại thì nó đều bị phơi bày trước nhan Thiên Chúa. Nếu tôi ghét ai thì việc người ấy phơi bày những sự xấu xa của họ chỉ làm tôi chán ghét hơn và rời xa họ. Nhưng nếu tôi yêu bạn, thì việc phát hiện ra điều không hay nơi bạn càng làm tôi gần gũi bạn hơn. Bạn càng làm điều xấu tôi càng thương bạn và tìm mọi cách để cứu bạn. Thiên Chúa đau khổ đến tột cùng chính bởi Ngài yêu con người hết mực mà con người thì xa đi ngã lại, tội lỗi ngập tràn. Những cái roi mà Đức Giêsu quất xuống biểu lộ cơn giận giữ trong tâm hồn Ngài, nhưng là cơn thịnh nộ thánh. Nó xuất phát từ một trái tim ngập tràn tình yêu con người.
Ngẫm
Khi gục ngã hay khi lao đao chẳng còn ai bám víu, tôi thường quay về kêu cứu Trời cao. Tôi nại đến tình thương của Chúa để xin Chúa cứu tôi. Và khi tôi thoát nạn, tôi lại lạm dụng tình thương của Ngài. Tôi tiếp tục đi vào con đường lầm lỗi mà bỏ ngoài tai những giáo huấn của Ngài.
Thiên Chúa là Đấng luôn yêu con người, nhưng Ngài cũng là Đấng rất mực công minh. Sự công thẳng của Chúa khiến con người bao phen sợ hãi. Nhưng dường như chỉ khi tôi bị luận phạt bấy giờ tôi mới sợ hãi. Đành rằng sống trong sự sợ hãi là điều dễ làm người ta không trưởng thành nổi. Nhưng khi ta biết sợ thì ta sẽ không dám làm điều dữ trước mặt Chúa.
Chúa yêu tôi và Chúa mãi yêu tôi. Tôi mon men chạm đến tình Ngài nhưng chân tôi run rẩy đứng không vững. Tôi gục đổ trước nhan Ngài không phải vì tôi đã kiệt sức hay bị đánh té tua. Tôi gục xuống bởi toàn thân tôi đã khuất phục Ngài.
Lậy Chúa, con muốn được ở lại trong Ngài. Xin giữ con lại trong tình yêu Ngài. Xin Thần Khí Chúa thấm đậm trong con, thúc đẩy con, dẫn lối con đi trong đường lành. Xin Tình Yêu Chúa thanh tẩy và tái tạo con.
34.Thanh tẩy tâm hồn--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Mùa Chay thánh đã qua một phần ba thời gian. Mọi người tiếp tục được mời gọi sống tinh thần sám hối của Mùa chay. Sám hối để được nên thánh thiện hơn. Trong Chúa nhật thứ III Mùa chay, Lời Chúa liên quan đến việc thanh tẩy tâm hồn. Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm xua tan mọi nhơ uế trong tâm hồn để cho tâm hồn mình phần nào xứng đáng là nơi Chúa ngự.
Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan thuật lại trình thuật Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán tại Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Đền thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng từ thời vua Salomon vào thế kỷ thứ 10 TCN. Đền thờ ấy tồn tại được 400 năm. Nó bị phá hủy hoàn toàn vào năm 587 TCN. Đền thờ thứ hai được xây dựng theo đúng kích thước Đền thờ cũ trên đống đổ nát vào năm 537 tcn và được tái thiết vào năm 19 TCN. Ngôi đền thờ bằng đá đồ sộ tưởng như không ai có thể phá hủy, nhưng vào năm 70 SCN nó đã bị cháy dụi bởi một người lính ném cây đuốc đang cháy trên tay vào trong đền thờ.
Đền thờ bao gồm những khu vực dành riêng cho từng thành phần: tại cửa vào là phần sân chư dân. Phần tiền đình này những người ngoại giáo được đi vào. Đi tiếp vào bên trong là nơi thánh chỉ dành cho người Do thái. Nơi này được chia thành các phần dành cho nam giới, dành cho nữ giới, và dành cho các tư tế riêng. Trong cùng là gian cực thánh, nơi đặt Hòm bia Giao ước. Hòm đựng tấm bia bằng đá trên đó khắc 10 điều răn Đức Chúa Trời.
Bài đọc thứ nhất trích từ sách Xuất Hành nói về 10 điều răn này. Đây là 10 điều trong Giao ước mà ông Mô-sê đã đại diện cho toàn dân ký kết với Thiên Chúa trên núi Sinai. Sau khi thoát khỏi Ai cập, dân Do thái đã ở trong sa mạc 40 năm để được thanh tẩy dần dần. Trong giai đoạn này, tại núi Si nai, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với dân. Trong Giao ước ấy: về phía Thiên Chúa, Ngài nhận dân là dân riêng của Ngài và sẽ gìn giữ họ; về phía dân, họ nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất của họ và tuân giữ 10 Điều. 10 Điều dân phải giữ ấy được khắc ghi trên bia đá. Và kể từ ấy, sự hiện diện của hai tấm Bia có khắc 10 Điều được coi là sự hiện diện của chính Thiên Chúa.
Chiếc hòm đựng Bia Giao ước, còn gọi là Hòm bia Giao ước hay Hòm bia Thiên Chúa được đặt nơi cực thánh của Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Đây là đền thờ duy nhất của dân Do Thái thời đó. Người ta lên Đền thờ là để gặp gỡ Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu đã không chấp nhận Đền thờ ấy lại trở thành nơi buôn bán.
Khi thấy Giêsu xua đuổi người ta như vậy, dân chúng gạn hỏi Giêsu về tư cách của Ngài: “Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy”. Giêsu đã kéo họ ra khỏi óc suy tư hạn hẹp trong thế giới vật chất: “Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”. Người dân khi ấy không thể hiểu nổi điều mà Giêsu nói với họ. Nhưng sau khi Chúa sống lại thì các môn đệ đã hiểu Giêsu muốn nói về chính thân thể của Ngài. Từ Đền thờ Giê-ru-sa-lem bằng đá và đất, Chúa Giêsu đã kéo chúng ta đến với Đền thờ vĩnh cửu đó chính là Ngài.
Ở cuối bài Tin mừng, cái nhìn của Giêsu đã không còn hướng về sự nhơ uế của Đền thờ Giê-ru-sa-lem nữa. Ngài nhìn thẳng vào sự nhơ uế và u tối của tâm hồn những người đang đứng quanh Ngài: “Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta”. Tâm hồn chúng ta thế nào, Ngài biết rõ. Ngôi đền thờ mà mỗi chúng ta đang sở hữu, nó đang trong tình trạng thế nào, Ngài biết rõ.
Mỗi lần tôi đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng là dấu chỉ rõ rệt nhất Chúa ngự trong tâm hồn tôi. Nhưng khi Chúa Giêsu bước vào tâm hồn tôi Ngài sẽ thấy gì? Tâm hồn tôi có xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự chăng?
Giêsu sẵn sàng ngồi xuống đồng bàn với những người tội lỗi. Ngài sẵn sàng đưa tay chạm đến những người phong cùi; Ngài ôm lấy những con người tội lỗi; Ngài tha thứ cho kẻ có tội ngay khi mọi người xung quanh đều kết án tội nhân. Nhưng Ngài không chấp nhận bất cứ hành vi nào biến nơi thánh thiêng thành nơi chợ búa, mặc cả so đo, lọc lừa đồng loại, lợi dụng lòng tốt. Ngài tha thứ vào kéo chúng ta lên để chúng ta được bước vào sự thánh thiện, bước vào nơi thiêng thánh có sự hiện diện của Thiên Chúa.
Lời mời gọi trở nên thánh thiện và trong sạch không chỉ đối với những người tín hữu. Thánh Gioan không kể việc Chúa làm sạch khu vực Đền thờ dành cho người Do Thái mà là phần Đền thờ dành cho dân ngoại, những người không tin vào Chúa. Ngay cả những nơi dành cho dân ngoại Chúa cũng không chấp nhận sự nhơ bẩn, nhếch nhác.
Lạy Chúa, Mùa Chay thánh còn lại hai phần ba chặng đường. Xin Chúa giúp con luôn can đảm xua đi những nhơ uế trong tâm hồn mình. Để tâm hồn con trở nên thanh sạch mà đón tiếp Chúa, đón tiếp anh chị em của con trên mọi nẻo đường của cuộc sống.
35.Tẩy rửa--Lm. Vũ Đình Tường
Trong hình ảnh thế giới loài vật có những điều nhờ ống kính và phát minh khoa học ta mới được nhìn thấy. Đó chính là hình ảnh một đàn cá con không sợ mà lại bu quanh một con cá lớn. Con cá lớn rất thân thiện, hiền lành, tỏ ra hoà nhã và có nhiều cảm tình với lũ cá bé. Chúng không đồng loại cá, khác loại nhưng lại thân thiện đến thế. Người ta hay ví von xỉa răng cọp nhưng ít ai nhìn thấy; còn xỉa răng cá thì quá rõ ràng. Cá bé bơi vào miệng cá lớn ăn những thịt cá dính chân răng con cá lớn. Con cá lớn mở miệng, phồng mang, xoè vây cho lũ cá con nhào vào những chỗ hiểm hóc, đầy nguy hiểm đó. Vì sao? Theo các nhà nghiên cứu thì con cá lớn cần đám cá con tẩy rửa những nơi hiểm yếu mà nó không tự tẩy rửa được. Người ta thấy hình ảnh con cá trườn mình trên cát vì chúng dùng cát lau rong rêu dơ dính trên vảy cá. Một hình thức tẩy rửa thông thường của loài cá. Bạn nào nuôi hồ cá trong nhà thấy cá con hay hớp cát rồi phun ra là hình thức rửa răng cá cho sạch. Những chỗ khó khăn như mang cá, miệng và vi là những nơi cá tự nó không thể thanh tẩy nên nhờ lũ cá con đến làm công việc thanh tẩy dùm. Cả hai đều có lợi. Cá lớn được tẩy sạch vết nhơ lại được một màn đấm bóp không mất tiền. Lũ cá nhỏ cũng có lợi vì được một bữa ăn ngon lại không tốn phí chi cả. Trên đồng cỏ lũ chim đậu lưng trâu cũng làm cùng công việc thanh tẩy đó. Chúng bắt rận cho trâu bò.
Đời sống động vật là như thế. Con người cũng cần thanh tẩy qua hình thức tắm rửa cho sạch sẽ bản thân. Thử quên tắm vài ngày bạn sẽ biết ngay cái mùi vị của chính mình. Có lẽ không cần phải lâu như thế chỉ cần đóng kín cửa phòng sau một đêm ngủ dài, sáng ra bạn nhận thấy cái mùi khác lạ. Trên chuyến bay dài hơn mười giờ đồng hồ, không khí trong máy bay lúc mới tươi mát thế nào, nửa đường bay bạn cảm thấy cái không khí đó vẫn mát lạnh nhưng vẻ trong lành bắt đầu nhiễm mùi vị và cuối chặng bay thì cái mùi đó tăng rõ.
Thông thường chúng ta cho đền thờ là nơi thánh nên gọi là đền thánh. Thực ra trên trần gian không nơi nào dơ hơn đền thờ. Đền thờ là nơi cực dơ, quy tụ mọi thứ bẩn thỉu. Một Chúa Nhật nào đó bạn ngồi quan sát xem. Còn có một thứ tội nào trên gian trần mà không xuất hiện trong đền thờ. Thùng rác chứa các chất dơ trần thế từ thề gian đến nói dối, từ cướp của đến giết người, từ gian dâm đến bán dâm đều có mặt nơi toà giải tội. Xét về phương diện đó thì đền thờ chính là nơi bẩn thỉu nhất, phòng giải tội chất chứa mọi thứ dơ bẩn trên đời. Đền thờ được gọi là đền thánh vì con người tội lỗi đến đó đổ bỏ mọi thứ dơ bẩn để trở nên tốt lành, trở nên thánh thiện hơn nên đền thờ là đền thánh vì giúp người ta nên thánh. Đền thờ là nơi tất cả các tội phạm, các bí ẩn cuộc đời được phơi bày. Mọi dấu kín được thổ lộ để tâm tư con người được thoải mái, để tâm hồn được bình an, để bản thân thấy nhẹ nhàng. Đền thờ chính là thùng rác công cộng cho mọi người tự do đến đổ rác, không từ loại rác nào, từ rác thông thường đến rác nguy hiểm mang chất phóng xạ đều được tự do đổ.
Thế sao Đức Kitô lại dùng roi, xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ. Ngài lật tung bàn của người đổi tiền, thả chim cho bay đi tự do. Câu trả lời cho thắc mắc này nằm gọn trong hai chữ ' buôn bán hay chợ búa'. Buôn bán hay nơi chợ búa là nơi trao đổi. Đền thờ là thùng rác chung của xã hội. Ai muốn đổ rác đều có quyền và được tự do làm công việc đổ rác. Những người bị Đức Kitô xua đuổi vì họ không đến đền thờ để đổ rác mà đến đền thờ để buôn bán rác. Kẻ đến đổ rác thì được mời gọi. Kẻ đến sống nhờ buôn bán rác thì bị xua đuổi. Đức Kitô thanh tẩy đền thờ vì người ta làm cho đền thờ thành nơi buôn bán. Trung tâm của buôn bán dối trá, điêu ngoa, thề gian, làm chứng dối.
Đến đền thờ đổ rác chính là tìm sự sống chân thật. Có được sự sống thật nhờ biết vất bỏ rác rưới trói buộc con người. Nhờ vất bỏ nên cảm thấy tự do, thảnh thơi, thoải mái. Đến đền thờ buôn bán rác kiếm sống là tìm kiếm sự sống giả tạo, sư sống tạm bợ nên bị ngăn cản, cấm đoán.
Chúng ta xin ơn biết cách đổ rác và tránh xa việc buôn rơm, bán rác.
36.Chăm lo đền thờ Giáo Xứ, tu bổ đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đối với Do Thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt Qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch. Mọi người trong đất nước Palestine đều về Giêrusalem dự lễ. Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này. Dầu sống ở xứ nào, người Do Thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự Lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời. Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự Lễ Vượt Qua với các môn đệ.
Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do Thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng. Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật. Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều co giá trị tại Palestine. Nhưng tiền thuế Đền Thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Ga-li-lê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền. Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1 đồng. 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền Thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.
Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ. Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh tôn giáo để trục lợi. Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền Thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong Đền Thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. “Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ...”
Trong Tin Mừng hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Người bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Người bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nỗi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cành Đền Thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. ”Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2, 16). “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện, còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” (Mt 21, 12 – 13). Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy. ”Nơi buôn bán”, “Hang trộm cướp”, Đền Thờ, nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do Thái xưa đã nên ứng nghiệm (x. Gr 7, 11). Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền Thờ vì Người yêu mến Đền Thờ. “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69, 10). Lòng nhiệt thành với Đền Thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x. Ga 15, 5).
Tại sao Chúa Giêsu lại hành động như vậy? Chúa Giêsu làm như vậy vì Nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm. Trong sân Đền Thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính. Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng. Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ. Trong sân Đền Thờ, người ta cãi vã cò kè về giá cả các món hàng, tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền Thờ.
Chúa Giêsu hành động như vậy để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa. Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta chán ngấy. Máu chiên dê Ta chẳng thèm”. (Is 1,11). ”Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu Người cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). Thái độ thanh tẩy Đền Thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính. Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
Lý do thứ ba chính là “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện”. Đền Thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người. Các chức sắc Đền Thờ, các con buôn người Do Thái đã biến Đền Thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khàch hành hương không thể cầu nguyện được.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem. Ngày nay Chúa cũng muốn người tín hữu chúng ta thanh tẩy nhà xứ giáo xứ mình, thanh tẩy Đền Thờ tâm hồn mình.
Chúa Giêsu đã quan tâm đến Đền Thờ, đã thanh tẩy Đền Thờ và coi đó là nhà của Cha Người. Chúng ta cần quan tâm đến Nhà Thờ giáo xứ. Bảo vệ nơi thánh thiêng, tôn nghiêm. Loại trừ những thái độ bất kính. Giữ giữ Nhà Thờ, khuôn viên được sạch đẹp. Cùng nhau góp phần xây dựng Nhà Chúa.
Chúa Giêsu có lòng nhiệt thành đối với Nhà Cha. Người Kitô hữu cũng phải nhiệt thành đối với Nhà Thờ giáo xứ bằng cách giữ gìn trật tự ngăn nắp trong ngoài. Nhà Thờ không phải của Cha Xứ mà là của mỗi người góp công góp sứ xây dựng nên. Nhà Thờ là nơi người Kitô hữu họp nhau mỗi ngày để cử hành các Mầu Nhiệm Thánh nên luôn cần lòng tôn kính chân thành, yêu mến thiết tha.
Thiên Chúa không cần Nhà Thờ. Chỉ có con người mới cần Nhà Thờ. Không có Đền Thờ nào đẹp bằng Đền Thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa thấy sự huy hoàng của Đền Thờ, nhưng Chúa Giêsu lại nói rằng: ”...sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào!”
Khi người Do Thái chất vấn: “Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?” Chúa Giêsu bảo: “Cứ phá Đền Thờ này đi, trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự Phục Sinh của Người. Đền Thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên Đền Thờ ấy. Thân thể phục sinh của Người là Đền Thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý.
Sự thờ phượng thiêng liêng và hoàn hảo nhất chính là sự thờ phượng trong Bí Tích Thánh Thể. Chúa Giêsu vừa hiện diện vừa tự hiến. Một sự tự hiến để thờ phượng liên tục khắp mặt đất và chung của giáo hội toàn cầu. Một hiến tế vừa cảm tạ, vừa ban phát ân sủng. Người tín hữu họp nhau trong Nhà Thờ cử hành thánh lễ chính là đỉnh cao của việc thờ phượng và đón nhận ân sủng Thiên Chúa ban.
Chăm lo giữ gìn, xây dựng Nhà Thờ Giáo Xứ, người tín hữu còn phải lưu tâm xây dựng con người mình vì đó là Đền Thờ của Cha và Con (x. Ga 14, 23) và chính thân xác ta cũng là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (x. 1 Cr 6, 19). Mùa Chay là mùa tu sửa Đền Thờ tâm hồn bằng việc siêng năng đến với Nhà Thờ Giáo Xứ hàng ngày với tất cả lòng nhiệt thành yêu mến.
37.Đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Phụng vụ Lời Chúa qua hai Chúa Nhật Mùa Chay cho thấy Đức Giêsu vừa là con người phải chịu cám dỗ trong sa mạc, vừa là Con Thiên Chúa nơi biến cố Hiển Dung trên núi Tabor.
Phụng vụ Lời Chúa tuần 3 Mùa Chay trình bày Đức Giêsu là Đền Thờ của Thiên Chúa qua sự kiện thanh tẩy đền thờ Giêrusalem.
1. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ
Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.
Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ.Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này. Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.
Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.
Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều có giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1đồng. Cứ 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.
Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi.
Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ;còn tiền của những người đổi bạc,Người đổ tung ra,và lật nhào bàn ghế của họ.
Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nỗi giận đùng đùng,lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy.”Nơi buôn bán“, “Hang trộm cướp“, Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x. Gr 7,11).
Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ: “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10).Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Chúa Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x. Ga 15,5).
2. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?
– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.
Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng.Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ.Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả,tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.
– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.
Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu,mỡ bê mập, Ta chán ngấy.Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” ( Tv 50,16).
Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện“
Đền thờ là nơi Thánh,là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.
Các chức sắc Đền thờ,các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.
3. Xây dựng đền thờ tâm hồn.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn của mình.
Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ,nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.
Đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của mọi nhà thờ trên thế giới này đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác;
Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.
38.Đền Thờ sống động--Lm. Vũ Thái Hoà
Trong các sách Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu là Đấng từ bi và nhân hậu, luôn đón tiếp và tha thứ những kẻ tội lỗi, chữa lành các bệnh nhân... Thế mà, trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nổi giận “khi thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.” Người còn nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Tại sao Đức Giêsu lại giận dữ như thế?
Chúng ta thường hiểu sai câu chuyện Đức Giêsu đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Sự hiện diện của họ rất cần thiết vì họ phục vụ khách hành hương đến từ xa, cần mua thú vật tại chỗ để dâng của lễ trong Đền Thờ theo Luật Chúa truyền. Khi bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa, chắc hẳn rất hài lòng khi mua được cặp bồ câu non ngay trong Đền Thờ (Lc 2,22-24).
Thật ra, khi đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, Đức Giêsu chống đối việc thờ phượng của người Do Thái. Khi lật nhào các quầy hàng, Người muốn lật nhào thứ tôn giáo hám lợi, mà Đền Thờ là tượng trưng. Mỗi lần Đền Thờ bị phá đổ, người Do Thái luôn xây cất lại. Lần này xây mất bốn mươi sáu năm mới xong. Thế mà Đức Giêsu nói phải phá hủy nó đi: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Thánh sử Gioan giải thích ngay sau đó: Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là thân thể Người, là chính Người. Đức Giêsu ám chỉ sự thương khó và phục sinh của Người.
Đức Giêsu muốn nói với họ rằng: “Bây giờ tôi đã ở đây, các ông có thể phá hủy Đền Thờ được rồi!” Nếu đền thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện, thì bây giờ chính Người là sự hiện diện của Thiên Chúa. Nếu đền thờ là nơi Lời Thiên Chúa, thì bây giờ chính Người là Lời Chúa.
Sau khi Đức Giêsu sống lại, các môn đệ mới hiểu ra lời nói của Người, cũng như lời Người nói với người phụ nữ miền Samari: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem...” (Ga 4,21). Đã đến giờ họ nhận ra Đền Thờ Thiên Chúa là chính Đức Kitô, là tất cả những ai tin vào Người như theo lời thánh Thánh Phaolô: “Các anh em là thân thể Đức Kitô” (1 Cr 12,27), “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3,16-17).
Đền Thờ mới này là nhiệm thể của Chúa Kitô, nghĩa là Giáo Hội, được xây dựng không bằng những viên gạch vô tri, nhưng bằng những viên đá sống động (1 P,2-5), đó là những môn đệ của Người, tất cả các tín hữu được Người cứu chuộc bằng cái chết của Người, tất cả những ai tuân theo giới răn của Người, như bài đọc I (trích sách Xuất Hành) đã nhắc nhở chúng ta. Và xi-măng gắn chặt các viên đá sống động này để làm nên Đền Thờ tuyệt hảo đó, chính là Tình Yêu.
Nếu khi xưa, Đức Giêsu tuyên bố với những người buôn bán ở đền thờ Giêrusalem, hôm nay Người cũng phán với chúng ta: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Đừng lấy danh nghĩa Giáo Hội, danh nghĩa giáo xứ hay cộng đoàn công giáo của mình để làm việc thương mại, kinh doanh và mưu ích cá nhân. Đừng biến lời cầu nguyện thành chuyện buôn bán. Nói cách khác, cầu nguyện, không có nghĩa là mặc cả với Chúa. Không phải tôi dâng cúng cho nhà thờ hoặc cho người nghèo là Chúa phải nhận lời cầu xin của tôi! Không! cầu nguyện không phải là chuyện thương mại!
Đức Giêsu muốn chúng ta cầu nguyện với niềm tin tưởng như đứa con thơ ngỏ lời với cha mẹ mình. Chúng ta cầu nguyện, vì biết rằng Chúa biết những gì chúng ta cần (Mt 6,8), vì biết Người chọn điều tốt nhất cho mình (Mt 7,11), vì biết Người luôn ở với chúng ta trong lúc hạnh phúc cũng như trong lúc gian nan thử thách (Mt 28,20).
Trong lời cầu nguyện, không phải chúng ta thay đổi Chúa, nhưng để Chúa hành động trong tâm hồn và trong đời sống chúng ta. Cũng như mỗi sáng, khi mở cửa sổ, không phải chúng ta làm cho mặt trời mọc lên, nhưng để mặt trời chiếu sáng khắp căn nhà. Cầu nguyện là mở rộng những cánh cửa tâm hồn chúng ta để đón nhận ánh sáng của Chúa. Do đó, cầu nguyện không phải là việc mặc cả với Chúa, nhưng là sự đón nhận tình yêu bao la của Người.
Ước gì trong Mùa Chay này, mỗi người chúng ta siêng năng cầu nguyện để Thiên Chúa chiếu sáng tâm hồn chúng ta hầu chuẩn bị đón mừng Chúa phục sinh là Đền Thờ Vĩnh Cửu.
39.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.
Sống trong thời đại tự do khi mà người ta coi luật lệ như rơm rác và tự quyết định cho mình điều này đúng điều kia sai, chúng ta có thể tự hỏi số phận của 10 điều răn rồi sẽ ra sao đây. Thập giới thật sự có còn chỗ đứng hay là đã hơi cổ hủ lỗi thời? Việc Thiên Chúa trao ban thập giới cho ông Môsê trên núi Sinai đánh dấu ngày khai sinh ra đất nước Israen. Bởi thế đối với dân Do thái, tuân giữ lề luật trong đời sống hằng ngày không nhằm tới việc làm điều đúng, tránh điều sai, nhưng được coi là thể hiện trong cuộc sống mối tương quan với chính Thiên Chúa. Giữ giới luật, đối với họ, chính là đem tình yêu đáp lại khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa, Đấng đã tự mình kết giao với dân Ngài. Họ xem những giới luật như là những điều khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa chia sẻ với họ như một quà tặng - như một lời mời gọi họ cư xử như chính Thiên Chúa chứ không phải là một thước đo lòng tuân phục - vâng lời nơi họ. Xã hội chúng ta tiến bộ và lý luận cao hơn dân Israen thời ông Môsê, nhưng đúng sai phải trái thì ngàn đời vẫn thế. Mười giới răn ngày xưa vẫn còn là cội rễ của đức tin chúng ta ngày nay. Bất cứ quốc gia nào không giữ được điều cơ bản này làm thành mẫu mực cho cuộc sống, thì quốc gia đó khó lòng tồn tại. Chúng ta vẫn còn cần đến thập giới vì chúng ta là gạch, là vữa để kết xây nên nền tảng vững chắc của một xã hội ổn định.
Khi xua đuổi những người buôn bán trong Đền Thờ, Đức Chúa Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn kính của Người đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về cung cách tôn kính những nơi thờ phượng như là những thánh địa dành riêng cho việc cầu nguyện mà thôi. Đền thờ hôm ấy không khác gì một chốn chợ búa náo nhiệt với kẻ mua người bán. Các con buôn có lỗi vì đã dùng nơi cư ngụ của Thiên Chúa làm nơi trục lợi ích kỷ cho mình. Họ không mấy quan tâm đến tinh thần thờ phượng đích thực. Chúng ta thấy Đức Chúa Giêsu đã tái khẳng định mạnh mẽ vì lòng tôn kính Thánh Danh Thiên Chúa và Nhà Chúa vì toàn bộ mọi việc diễn ra nơi đây đã biến thành nghi thức trống rỗng che mờ nhiệm vụ đích thực của đền thờ.
Cộng đoàn Kitô hữu thường tụ họp nhau mỗi Chúa Nhật để cử hành mầu nhiệm Thánh Thể và Tạ Ơn Thiên Chúa vì một tuần lễ đã qua. Mỗi một ngày của Chúa lẽ ra phải là một bước dẫn đưa chúng ta về quê trời, nhưng liệu có thật như thế chăng? Chúng ta có được gần Chúa hơn qua việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật hay là việc thờ phượng ngày Chúa Nhật lại trở nên xuống dốc, trở thành một nghi thức trống rỗng, một ước lệ của xã hội hay là một cái gì chúng ta phải làm chỉ vì người ta muốn chúng ta làm? Ngày Chúa Nhật lẽ ra phải làm cho chúng ta tôn vinh Thiên Chúa cao cả, ca ngợi thế giới mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta, và chúc mừng mọi người quanh chúng ta. Thiên Chúa mong muốn chúng ta tôn thờ Ngài không chỉ bằng môi miệng hay cử chỉ bên ngoài. Thờ phượng Thiên Chúa có nghĩa là nói: "Chúa cao cả biết bao!", là tiếng đáp trả của chúng ta khi chúng ta nhận ra sự thiện hảo của Thiên Chúa trong cuộc sống chúng ta, nhất là khi chúng ta biết rằng có Chúa là chủ chiên chăn dắt, chúng ta không còn muốn gì, không còn sợ gì? Thờ phượng Thiên Chúa và cuộc sống hằng ngày của chúng ta không hề bị chia cắt nhau. Ngày Chúa Nhật chúng ta được mời gọi đi tới nhà thờ, còn ngày thường trong suốt tuần lễ chúng ta cũng được kêu gọi trở nên ngôi thánh đường ngay trong lòng xã hội chúng ta đang sống.
40.Luật vĩnh hằng--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
Văn hào Victor Marie Hugo (1802-1885, Pháp) phân biệt: “Đối với nhân dân, quyền lực duy nhất là pháp luật; đối với cá nhân, quyền lực duy nhất là lương tâm”. Còn văn thi sĩ Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832, Đức) nói: “Có hai sức mạnh mang đến sự yên ổn: pháp luật và đạo đức”. Những ý tưởng thật hay! Kinh Thánh xác định: “Chính nhân cầm quyền, dân mừng rỡ. Ác nhân cai trị, dân oán than” (Cn 29:2). Và chắc chắn chỉ có luật Chúa là tuyệt đối, được đề cập trong Tv 119 (rất dài, với 176 câu). Thật vậy, “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8).
Trong xã hội loài người, bất cứ một quốc gia nào, một tổ chức nào, một gia đình nào, một nhóm nào, dù chỉ là một “nhóm” vài người,… cũng đều phải có luật lệ, nội quy, quy tắc, hoặc nguyên tắc để bảo đảm trật tự – ở phạm vi lớn gọi là an ninh, ở phạm vi thế giới gọi là hòa bình. Vì con người làm hư trật tự Thiên Chúa đã thiết lập nên cần phải có luật để tái lập trật tự.
Bởi vì luật có sau con người nên luật được lập ra cốt để phục vụ con người, giúp xã hội tốt hơn, gọi là “luật vị nhân sinh” – luật vì con người, chứ con người không câu nệ hoặc quá lệ thuộc vào luật. Tuy nhiên, lề luật của Thiên Chúa là Thập Giới, tức là Mười Điều Răn. Luật Chúa là Thánh luật, là Thánh chỉ, là luật giao ước, là Ý Chúa. Luật của Thiên Chúa là luật vĩnh hằng và bất biến. Còn luật của con người có thể thay đổi cho phù hợp, ngay cả luật của Giáo hội cũng thay đổi – trước đây là SÁU Điều Răn, nhưng nay là NĂM Điều Răn.
Xin “mở ngoặc” nho nhỏ: Vào các ngày Chúa nhật (và Lễ Trọng), nhiều nơi vẫn đọc “Hội thánh có SÁU điều răn…” thay vì Năm Điều Răn (*). Như vậy là không kịp cập nhật thông tin cần thiết về giáo huấn của Giáo hội. Trách nhiệm của ai đây? Có những nơi đã sử dụng kinh Năm Điều Răn Hội Thánh, nhưng kinh Nghĩa Đức Tin (Ngày Chúa Nhật hôm nay chúng con họp nhau kính lạy thờ phượng Chúa…) vẫn thấy đọc “…song phải giữ Mười Điều Răn Đức Chúa Trời cùng SÁU Luật Điều Hội Thánh…” chứ không sửa là “năm”. Chuyện nhỏ mà… không nhỏ. Lệch pha!
BIẾT LUẬT
Cựu Ước có đề cập Thập Giới (Xh 20:3-17; Đnl 5:7-21). Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng con người, đồng thời trao quyền tự do cho con người, bởi vì chính Ngài đã “đưa dân Chúa ra khỏi đất Ai Cập, để thoát khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Thoát khỏi nô lệ là được tự do. Tự do rất cần, mà Thiên Chúa đã cho con người tự do, nhưng đồng thời Ngài cũng có luật đòi hỏi con người phải thực hành: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20:3-4).
Các Phúc Âm nhất lãm lặp lại Giới Răn thứ nhất: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22:37; Mc 12:30; Lc 10:27), hoặc như tiên tri Samuel xác định: “Hãy phụng thờ Đức Chúa hết lòng” (1 S 12:20). Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất (Mt 22:39). Theo kinh Mười Điều Răn, chúng ta quen đọc là “thứ nhất, thờ phượng và kính mến Người trên hết mọi sự”.
Tiếp theo, Thiên Chúa nghiêm cấm: “Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 20:5a). Ngài không ngần ngại tự nhận Ngài là “một vị thần ghen tương” (Xh 20:5b), và Ngài nhấn mạnh: “Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông” (Xh 20:5c). Có phải vì Thiên Chúa đã “ấn định” như vậy nên ngày xưa người ta cũng “bắt chước” mà ra luật “tru di tam tộc” chăng?
Có lẽ chúng ta cảm thấy cách nói của Chúa có vẻ “gay gắt”, nhưng thật ra không phải như vậy. Ngài là Đấng giàu lòng thương xót thì chắc chắn không độc đoán, và vì yêu thương mà Ngài hứa chắc chắn: “Những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời” (Xh 20:6). Ôi, Ngài quả là rất tâm lý và công bằng, Ngài “bắt buộc” về lĩnh vực này thì Ngài lại “thưởng công” về lĩnh vực khác. Đó là công lý. Chính Thánh Vịnh gia đã xác định: “Chúa giữ gìn những ai thành tín, nhưng thẳng tay trừng trị người ăn ở kiêu căng” (Tv 31:24). Thiên Chúa còn giải thích rất rõ ràng: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng” (Xh 20:7). Và đó chính là Giới răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”.
Đối với các Giới răn từ thứ ba tới thứ mười, trình thuật Xh 20:9-17 “liệt kê” chi tiết: “Ngươi HÃY nhớ ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi KHÔNG được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày Sa-bát và coi đó là ngày thánh. Ngươi HÃY thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi KHÔNG được giết người. Ngươi KHÔNG được ngoại tình. Ngươi KHÔNG được trộm cắp. Ngươi KHÔNG được làm chứng gian hại người. Ngươi KHÔNG được ham muốn nhà người ta, ngươi KHÔNG được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta”. Trong tám Giới răn đó có hai cái HÃY và bảy cái KHÔNG. Rất rõ ràng, rất rạch ròi.
Là Kitô hữu, ai cũng biết luật của Thiên Chúa và luật của Giáo hội. Biết thì phải giữ. Không biết thì không có tội, biết mà không giữ thì có tội (x. Ga 9:40-41).
GIỮ LUẬT
Giữ luật không chỉ là duy trì và bảo vệ luật mà còn phải thi hành – nghiêm túc chứ không lơ là, gặp chăng hay chớ. Vô tri bất mộ – không biết nên không yêu thích. Ngược lại, càng hiểu biết thấu đáo điều gì thì người ta càng yêu quý. Hiểu biết sâu sắc về Luật Chúa, Thánh Vịnh gia đã vui mừng thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Luật pháp khiến người ta “sáng mắt” để khả dĩ phân biệt đâu là đúng và đâu là sai. Còn Luật Chúa khiến “người dại hóa khôn”. Chính các “huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng” có thể “làm hoan hỷ cõi lòng” và “mệnh lệnh Chúa minh bạch” để làm cho “đôi mắt rạng ngời” (Tv 19:9).
Thánh Vịnh gia cũng chân nhận rằng “quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” nên thực sự “quý báu hơn vàng ròng muôn lượng” và “ngọt ngào hơn mật ong nguyên chất” (Tv 19:10-11). Như vậy, luật làm cho người ta hạnh phúc hơn chứ không làm cho người ta bị gò bó, chịu lệ thuộc hoặc đau khổ. Luật phải hợp lòng dân, phải bắt nguồn từ yêu thương chứ không vì tư lợi, nếu không thì đó chỉ là ác luật để hành dân, là luật không hợp lý, và luật đó khiến người dân khổ sở. Tất nhiên luật đó trái với Ý Chúa. Và người ta thường nói: “Quan nhất thời, dân vạn đại”.
Trong cuộc sống đời thường, chúng ta thấy luôn có những điều trái ngược, như người ta thường nói rằng chín người mà có tới mười ý, và đôi khi có những tình huống rất khó xử. Không ai chịu nghe ai, nếu không có nghiêm luật thì xã hội sẽ rối loạn. Thánh Phaolô nói: “Người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1:22). Hai thái cực khác nhau. Còn những người tin yêu Chúa, như thánh Phaolô, thì “lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1:23). Người ta chỉ theo những người có uy tín – dù “uy tín” đó chỉ là vàng bạc, chức tước, địa vị, quyền hành,… chứ ai lại ủng hộ người “nghèo rớt mồng tơi”, không có cục đất chọi chim? Thậm chí người ta còn “chửi xéo” là kẻ “thừa nói thiếu ăn”! Những người “chịu” theo Chúa chắc chắn cũng bị người ta cho là “tâm thần”, là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, hoặc chí ít cũng là “khờ khạo”. Tuy nhiên, “đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1:24). Thật tuyệt vời!
Quả thật, Chúa Giêsu là “dị nhân” đúng nghĩa, bởi vì Ngài có những động thái “ngược đời”, hoàn toàn khác loài người. Trong xã hội cũng vậy (cả đạo lẫn đời), những người có tư tưởng “mới lạ” là những người “đi trước thời đại”, có khả năng “nhìn xa, hiểu rộng”, nhưng họ thường bị coi là cấp tiến, bị xa lánh, bị cô lập, bị ghét bỏ, thậm chí là bị hại. Thật phũ phàng! Thực tế cho thấy đã có những người chỉ được chấp nhận là vĩ nhân sau khi họ chết từ lâu rồi – đơn vị thời gian có thể tính bằng thế kỷ. Thật đáng buồn! Những người có tư tưởng mới mà “yếu bóng vía” sẽ ái ngại, và rồi có thể “bỏ của chạy lấy người”. Còn những người “dị ứng” với những tư tưởng mới thì chỉ là những người không theo kịp thời đại, thậm chí có thể là “tiểu nhân”, không muốn người khác hơn mình, hoặc cố chấp, không muốn thay đổi nếp nghĩ dù vẫn biết mình cổ hủ, lỗi thời. Ngày nay người ta gọi loại người đó là “đầu đất” hoặc “đầu tôm”. Tồi tệ thật!
Đối với “nhà thông thái” Saolê, sau lần ngã-ngựa-chí-tử, ngài chợt nhận ra cái “ngược-đời-xem-chừng-nghịch-lý” kia, và hóa thành Phaolô, và ông đã can đảm xác nhận: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Thật vậy, có lần Thiên Chúa đã xác định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9). Khoảng cách biệt quá lớn, và chẳng bao giờ phàm nhân có thể hiểu hết Thánh Ý của Ngài. Nhưng Ngài rất công minh chính trực, công bằng tuyệt đối, chắc chắn sẽ “bù lỗ” cho những người chịu thua thiệt ở đời này.
HƯỞNG LUẬT
Trình thuật theo Thánh sử Gioan cho biết rằng…
Gần dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem, Ngài hết sức ngạc nhiên khi thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.
Bản tính thẳng thắn và nghiêm túc, Chúa Giêsu nói thẳng với những kẻ buôn bán: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Lúc đó, các môn đệ “giật mình” nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2:17; Tv 69:10). Thấy Chúa Giêsu “nổi nóng” và dám chê họ sai, người Do Thái ấm ức nên chất vấn Ngài: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (Ga 2:18). Nhưng Ngài vẫn thản nhiên: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19).
Ui da! Ngôi Đền Thờ Giêrusalem phải mất 46 năm mới xây xong, thế mà Chúa Giêsu nói có thể xây lại chỉ nội trong 3 ngày. Ai cũng lắc đầu và nói: “Bó tay luôn!”. Bó toàn thân luôn chứ bó tay là chuyện nhỏ. Đối với họ thì đúng là Chúa Giêsu sinh sống gần kho đạn, “nổ” hết mức, hoặc là “tâm thần” thật. Tuy nhiên, Ngài muốn nói về chính thân thể Ngài mà họ không thể nghĩ kịp tư tưởng của Ngài. Ngay cả các môn đệ, dù đã từng rong ruổi với Ngài khắp nơi, cùng chia ngọt sẻ bùi với Ngài, đúng ra là họ phải hiểu Ngài, thế mà các ông cũng đã “miệng chữ A, mắt chữ O” khi nghe Sư phụ mình nói như vậy. Và chúng ta cũng chẳng hơn gì!
Tất cả còn trong “bức màn bí ẩn”. Mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ mới “tá hỏa tam tinh” mà nhớ lại điều Ngài đã nói thì mới đủ tin vào Kinh Thánh và lời Ngài nói. Trong lúc Ngài ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều người tin Ngài vì đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm. Thế nhưng chính Đức Giêsu chưa đủ tin họ, vì Ngài biết rõ có gì trong lòng con người.
Chắc chắn chúng ta cũng chẳng hơn gì người Do Thái. Thật vậy, thấy cái gì lạ thì tin ngay, nhưng rồi “đâu lại vào đấy”, xin và được ơn thì tin lắm, xin không được thì “nhăn mặt” và muốn “đặt vấn đề” hoặc lung lay niềm tin. Thậm chí, đôi khi chúng ta cầu nguyện mà kỳ thực chúng ta đang “ngã giá”, “hối lộ” hoặc “mua chuộc” Chúa và các vị thánh mà chúng ta cho là “thiêng lắm”. Quả thật, đó là điều chúng ta phải suy tư nhiều, bởi vì ngày xưa chính Thiên Chúa cũng đã từng đặt vấn đề: “Cho đến bao giờ nữa quý vị từ chối, không tuân giữ các mệnh lệnh và luật lệ của Tôi?” (Xh 16:28). Coi bộ “căng” dữ nghen!
Lạy Thiên Chúa duy nhất mà con tôn thờ, con chẳng khác những kẻ bơ vơ, lạc hướng trong thế giới ngày nay, vì khó tìm được người thực sự đáng tin cậy, trong khi xung quanh con có nhiều loại thần ô uế, thần tài, thần nhục dục, thần danh vọng, thần địa vị, thần quyền lực,… nhất là thần hóa “cái tôi”. Đôi khi con còn mắc những chứng bệnh trầm kha trong cách nhìn, trong nếp nghĩ, và trong lối sống, thế nên con vẫn làm ngơ những người sống bên lề xã hội, mặc họ bị bóc lột, bị áp bức, bị khinh miệt, bị tước đoạt nhiều thứ… Con chân thành xin lỗi Chúa, cầu xin Ngài thương giúp con nhận diện chính mình để có thể nhìn rõ tha nhân mà chạnh lòng thương xót họ bằng chính trái tim của Đức Kitô, đồng thời cũng xin giúp con can đảm chấp nhận mọi thứ dù trong hoàn cảnh nào. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
-----------------------
(*) Hội Thánh có năm điều răn:
– Thứ nhất: Dự lễ và kiêng việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc;
– Thứ hai: Xưng tội trong một năm ít là một lần;
– Thứ ba: Rước Mình Thánh Chúa trong mùa Phục Sinh;
– Thứ bốn: Giữ chay và kiêng thịt những ngày Hội Thánh buộc;
– Thứ năm: Góp công góp của xây dựng Hội Thánh, tùy theo khả năng của mình.
41.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chúa Nhật III Mùa Chay Năm B có thể được gọi là “Chúa Nhật về sự thánh thiện của Thiên Chúa”
Xh 20: 1-17
Bài Đọc I trích từ sách Xuất Hành trình bày Thập Giới trong đó việc thờ phượng Thiên Chúa chân thật và tôn kính Danh Thánh của Ngài được định vị ngay ở hàng đầu tiên.
1Cr 1: 22-25
Bài Đọc II, trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, dành một chỗ đặc biệt cho biến cố Tử Nạn: Đấng Mê-si-a bị đóng đinh là hình ảnh kỳ chướng đối với người Do thái và điên rồ đối với dân ngoại, nhưng đó lại là sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa.
Ga 2: 13-25
Tin Mừng Gioan tường thuật hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, vì họ làm ô uế nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài.
BÀI ĐỌC I (Xh 20: 1-17)
Sách Xuất Hành là cuốn sách thứ hai của bộ Ngũ Thư. Sách tường thuật cuộc ra khỏi Ai-cập và giai đoạn đầu tiên của cuộc hành trình trong hoang địa. Biến cố này được định vị có lẽ vào thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên (giữa 1250 và 1230).
Qua trung gian của ông Mô-sê, Thiên Chúa không chỉ giải thoát dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhưng Ngài còn quy tụ dân và ban cho họ Lề Luật. Thập Giới chỉ là một phần rất nhỏ của Luật Mô-sê, nhưng phải nói là căn bản của Luật Mô-sê. Trong các bộ luật được gặp thấy trong Ngũ Thư chỉ có Thập Giới được đặt vào bối cảnh cuộc Thần Hiển, ở đó Thiên Chúa trực tiếp phán với dân Ngài (Xh 20: 18-19); còn các bộ luật khác Thiên Chúa ban gián tiếp cho dân Ngài qua trung gian của ông Mô-sê.
Trong Ngũ Thư, có hai bản văn Thập Giới: bản văn của sách Xuất Hành (Xh 20: 1-17) và bản văn của sách Đệ Nhị Luật (Đnl 5: 6-21) với vài tiểu dị. Hai bản văn nêu lên hai lý do khác nhau về việc tuân giữ ngày sa-bát. Trong Thập Giới của sách Xuất Hành, lệnh truyền tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc Sáng Tạo (Xh 20: 11) để nêu bật tính chất tôn giáo của ngày sa-bát; còn trong Thập Giới của sách Đệ Nhị Luật, lệnh truyền tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập (Đnl 5: 15) để nhấn mạnh tính chất xã hội của ngày sa-bát. Cả hai bản văn nầy đều cho thấy chúng không là bản văn nguyên thủy nhưng được khai triển rồi. Vài chi tiết cho thấy chúng được gởi đến dân chúng không còn hành trình trong hoang địa nhưng đã định cư rồi.
1. Tính chất cổ xưa của Thập Giới:
Có nhiều dấu chỉ cho thấy tính chất cổ xưa của Thập Giới. Việc luật được ghi khắc trên hai bia đá là nét đặc trưng cho thấy tính chất cổ xưa của nó. Mặt khác, cách thức luật được trình bày nhắc nhớ vài hiệp ước được soạn thảo ở miền Cận Đông vào giữa những thế kỷ thứ mười lăm và mười ba trước Công Nguyên, nhất là những hiệp ước được ký kết giữa các vua Hít-ti và các vua Át-sua hay giữa vua Hít-ti và Pha-ra-ô Ai-cập. Vị bá vương đề xuất hiệp ước của mình với các chư hầu khi nhắc lại cho họ trước tiên những ân phúc mà vua đã ban cho họ. Cũng vậy, Đức Chúa nhắc lại cho dân Do thái rằng Ngài đã can thiệp để giải phóng họ khỏi miền đất nô lệ. Giờ đây, Ngài ngỏ lời với họ như với những con người tự do, những con người được luật pháp bảo vệ hẳn hoi; nhưng bù lại, Ngài đưa ra những yêu sách của mình.
2. Nội dung của Thập Giới:
Thập Giới trình bày một tổng đề về những bổn phận tôn giáo và luân lý. Vả lại, con số “mười” đánh dấu sự viên mãn. Trong số mười giới luật, tám giới luật được phát biểu theo hình thức phủ định tức lệnh cấm: “Ngươi không được…”; còn hai giới luật được đặt vào giữa Thập Giới và được phát biểu theo hình thức khẳng định tức lệnh buộc: tuân giữ ngày sa-bát để kính Đức Chúa và giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ (20: 8-12). Thập Giới được phân chia thành những giới luật để nhắc nhớ những bổn phận đối với Thiên Chúa và những bổn phận đối với tha nhân.
2.1-Bổn phận đối với Thiên Chúa:
Những bổn phận đối với Thiên Chúa cốt yếu là những lời cảnh báo mà Thiên Chúa nhắc nhở dân Do thái khi dân định cư ở giữa dân ngoại: không được tạc các tượng thần; không được thờ lạy các tượng thần đó, nhưng chỉ phụng thờ Thiên Chúa độc nhất. “Đức Chúa, Thiên Chúa ghen tuông” là cách diễn tả tính không nhân nhượng của Ngài. Đoạn văn nầy chứa đựng một ghi nhận hùng hồn bằng con số: những kẻ ghét Ngài, Ngài phạt con cháu đến “ba bốn đời”, nhưng những ai yêu mến Ngài, Ngài giữ trọn niềm nhân nghĩa đến “ngàn đời”. Lối nói song đối nghịch đảo nầy diễn tả lòng xót thương nhân hậu vô cùng tận của Thiên Chúa: Ngài trừng phạt có chừng có mực, nhưng Ngài yêu thương vô bờ bến. Đây là kinh nghiệm về mối quan hệ của dân Do thái với Thiên Chúa của mình trong lịch sử của dân tộc mình: Thiên Chúa nổi giận, giận trong giây lát, nhưng Ngài yêu thương, thương cho đến trọn một đời.
Bổn phận của dân đối với Thiên Chúa liên quan đến định chế ngày sa-bát: “Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát…”. Lệnh buộc nầy nhấn mạnh nét đặc thù của dân Ít-ra-en: mọi ngày sống trong một tuần lễ phải hướng đến ngày sa-bát, ngày của Chúa, Đấng đem lại ý nghĩa cho cuộc sống.
2.2- Bổn phận đối với tha nhân:
Về những bổn phận đối với tha nhân, Thập Giới trở về luân lý phổ quát, có giá trị thường hằng và khắp nơi. Điều cốt yếu ở nơi những bổn phận này là tôn trọng gia đình, con người và của cải. Tuy nhiên, những ý định ẩn kín ở trong lòng con người được gợi lên ở đây: “Ngươi không được ham muốn…”. Căn nguyên của mọi tội lỗi hệ tại ở trong lòng con người. Khẳng định nầy chuẩn bị giáo huấn của các ngôn sứ và của chính Đức Giê-su.
3. Nét độc đáo của Thập Giới:
Tuy nhiên, Thập Giới bày tỏ nét độc đáo của riêng mình. Chắc chắn nó dựa trên luân lý tự nhiên, nhưng nguồn gốc của nó thì siêu việt: chính Thiên Chúa đích thân ban Thập Giới cho dân Ngài. Thập Giới chủ yếu lấy sự thánh thiện của Thiên Chúa làm khuôn vàng thước ngọc, vì thế Luân Lý của Thập Giới trổi vượt trên luân lý của dân ngoại chung quanh, nhất là ở nơi lời kêu gọi ăn ngay ở lành. Tính siêu việt nầy sẽ đảm bảo sự thăng tiến tinh thần của một dân tộc nhỏ bé có một vận mệnh đặc biệt.
Thập Giới được đặt ở dưới dấu chỉ lịch sử của cuộc giải phóng khỏi Ai-cập. Chúng ta hãy đọc lại lời mào đầu, ở đây Đức Chúa không phán như trước đây: “Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi: Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của I-sa-ác và của Gia-cóp”, nhưng “Ta là Đức Chúa, Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ”. Đức Chúa tự giới thiệu mình như Đấng Giải Phóng. Chính ách nô lệ khác mà giờ đây Thiên Chúa muốn giải phóng dân Ngài, tức ách nô lệ của tội lỗi, nhằm làm cho họ thành một dân thánh.
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 22-25)
Đoạn văn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô được cấu trúc rất chặc chẻ. Một cách nào đó, đoạn trích nầy tự nó là trọn nghĩa; tuy nhiên, để hiểu chiều kích của đoạn trích này rõ hơn, chúng ta đặt nó vào trong bối cảnh của bức thư.
Xin được nhắc lại cách vắn tắt: các tín hữu Cô-rin-tô bất hòa với nhau về những nhà rao giảng của họ. Những bất hòa này đã dẫn đến những bè phái. Chống lại những chia rẽ nầy, thánh Phao-lô vạch cho họ thấy rằng óc bè phái không phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Đối với những người thích“lý sự” tự cho mình là “khôn ngoan hiểu biết”, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng thánh nhân đã không rao giảng cho họ những lời lẽ khôn ngoan, nhưng sự điên rồ của thập giá. Thánh nhân đề cập đến việc người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ và người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Tuy là hai tinh thần rất khác nhau, nhưng hình ảnh thập giá trên đồi Can-vê không thể nào có chỗ đứng trong những viễn cảnh của họ. Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh nhân đã gặp phải cả hai chướng ngại nầy.
1. Thập giá đối với người Do thái:
Người Do thái mong chờ một Đấng Mê-si-a đầy quyền năng, Ngài sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ và đem lại sự toàn thắng cho dân tộc của mình. Vì thế, nhiều người Do thái đã không chịu nổi ý tưởng về Đấng Mê-si-a chịu khổ hình thập giá một cách nhục nhã đến như vậy. Vì thế, thánh nhân bị họ bách hại ở An-ti-ô-khi-a, ở Thê-xa-lô-ni-ca và ở những nơi khác.
2. Thập giá đối với người Hy-lạp:
Người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan thì hình ảnh một con người bị đóng trên thập giá chẳng khôn ngoan một chút nào. Thánh nhân đã chạm trán với họ ở A-thê-na; ngài đã ra sức thuyết phục họ, nhưng vô ích. Họ chờ đợi một hệ thống triết lý cao vời trong khi thánh Phao-lô lại rao giảng “Một Con Người”. Đoạn trích thư nầy tự nó cho thấy rằng việc rao giảng thập giá khó mà tránh khỏi sự thất bại. Đối với người Hy-lạp, phẩm tính đầu tiên của thần linh chính là vẻ đẹp; ấy vậy, Đấng chịu đóng đinh không ra hình tượng người không tương xứng với hình ảnh của vị thần linh.
3. Rao giảng một Đức Ki tô chịu đóng đinh:
Nhưng thập giá không là một bài thuyết giáo, cũng không là một sự chứng minh mà là một sự kiện, một sự kiện khác thường, ở nơi sự kiện đó ẩn dấu sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những viễn cảnh của con người.
Một trong những bài học vĩ đại của bức thư nầy đó là “rao giảng mầu nhiệm đau khổ như yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Một cách khái quát, thần học của thánh Phao-lô không tách Tử Nạn ra khỏi Phục Sinh. Ở đây là một trường hợp ngoại lệ, thánh nhân có chủ ý chỉ giương cao “hình ảnh Đức Ki tô bị đóng đinh” đối diện với sự tự mãn của con người.
TIN MỪNG (Ga 2: 13-25)
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ Tin Mừng Gioan. Hoạt cảnh thật khác thường: cơn phẩn nộ của Đức Giê-su: “Ngài bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ”. Đối với những kẻ bán bồ câu – của lễ của những người nghèo – Ngài không mở tung các lồng chim của họ, nhưng cho họ một lời giải thích: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi chợ búa”. Vì thế, phải chăng Đức Giê-su đến để chấn chỉnh tôn giáo Ít-ra-en và thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao lâu sau bị phá hủy? Không phải như thế, trái lại, Ngài loan báo rằng một thời đại mới đang khởi sự. Cách hành xử của Ngài cốt yếu mang tính ngôn sứ.
Để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của hoạt cảnh quá đặc biệt nầy, phải định vị nó trước hết vào trong khung cảnh bên ngoài; đoạn vào trong khung cảnh tôn giáo: lễ Vượt Qua; và sau cùng, vào trong văn mạch của Tin Mừng thứ tư.
1. Khung cảnh bên ngoài:
Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng trên một tiền sảnh bát ngát có những hàng hiên bao quanh. Khi băng qua hàng hiên, người ta ở trên tiền đình được gọi “Tiền Đình dân ngoại”, được gọi như thế vì lương dân nào muốn cầu nguyện với Thiên Chúa của dân Do thái đều được phép đi vào ở đây. Tiếp đó, là nơi thánh, chỉ dành riêng cho người Do thái, được phân chia thành nhiều khu vực khác nhau: khu vực nữ giới, khu vực nam giới, và sau cùng sân của các tư tế.
Chính ở nơi Tiền Đình dân ngoại nầy mà những kẻ buôn bán súc vật được dùng làm hy lễ. Công việc buôn bán của họ rất thịnh đạt. Có nhiều lý do để nghĩ rằng các chức sắc tư tế đã kiếm nhiều lợi nhuận từ những thương vụ này.
Những người đổi bạc cũng ở nơi Tiền Đình nầy. Việc đổi bạc từ hiện kim sang “tiền đền thánh” là một nhu cầu cần thiết cho khách hành hương, vì người Do thái không được nộp thuế cho Đền Thờ bằng những đồng tiền “ô uế” được đúc hình của hoàng đế Rô-ma hay của vị thần linh ngoại giáo.
2. Khung cảnh lễ Vượt Qua:
Thánh ký nói với chúng ta: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái”. Qua kiểu nói: “lễ Vượt Qua của người Do thái”, thánh ký hàm ý với độc giả rằng vào thời tác giả và từ nhiều năm rồi có một lễ Vượt Qua khác: “lễ Vượt Qua của người Ki-tô hữu”.
Niên biểu lễ Vượt Qua của người Do thái này được chính bản văn cung cấp: “Đền Thờ nầy phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong”. Đền Thờ được vua Hê-rô-đê Cả khởi công tái thiết vào năm 19 trước Công Nguyên, vì thế, đây là lễ Vượt Qua vào năm 28 sau Công Nguyên.
Khung cảnh lễ Vượt Qua nầy đem lại ý nghĩa sâu xa cho hoạt cảnh. Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, vì đây là nơi dành riêng để cầu nguyện. Nhưng Ngài cũng còn xua đuổi những súc vật dành riêng cho các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là “con chiên sát tế”, con chiên Vượt Qua đích thật, hy lễ có giá trị duy nhất từ nay sẽ thay thế tất cả hy lễ vô giá trị khác (chúng ta quen lối đọc đa nghĩa nầy của Tin Mừng Gioan). Thư gởi tín hữu Do thái cho chúng ta một bài suy niệm sâu xa về ý nghĩa này: “Khi vào trần gian, Đức Ki-tô đã nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến lễ, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xóa tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10: 5-6).
Đức Giê-su xua đuổi những người đổi bạc vì công việc làm ăn của họ bất lương không xứng hợp với khung cảnh thánh thiêng, nhưng cũng vì những tiền dâng cúng chẳng bao lâu nữa không còn lý do tồn tại nữa: sẽ không còn Đền Thờ, không còn tư tế…
Sau cùng, Đức Giê-su thanh tẩy Tiền Đình dân ngoại vì dân ngoại có quyền đòi hỏi phải tôn trọng những lời cầu nguyện của họ. Quả thật, sẽ đến một ngày không xa lắm, dân ngoại sẽ không còn phải bị loại ra ngoài, chính họ cũng sẽ là một phần không thể thiếu Dân Mới của Ngài và sẽ được mời gọi dự phần vào ơn cứu độ như dân Ít-ra-en.
3. Văn mạch của Tin Mừng Gioan:
Tin Mừng Gioan đặt sự kiện Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, sau tiệc cưới Ca-na và sau vài ngày lưu lại ở Ca-phác-na-um. Ba Tin Mừng nhất lãm tường thuật việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem vào lúc Ngài sắp bước vào tuần Tử Nạn và xem biến cố nầy như đổ thêm dầu vào lửa khiến cho giáo quyền Do thái công phẩn đến cực độ. Đây là một trong những lý do họ ra lệnh truy nả Đức Giê-su.
Tin Mừng Gioan có một quan điểm thần học khác với các Tin Mừng nhất lãm. Thánh Gioan muốn dẫn chúng ta tiến bước vào trong mầu nhiệm của Đấng Mê-si-a (“Đức Ki-tô”). Đức Giê-su đã được Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Đấng Mê-si-a. Ở Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su hành xử với tư cách “Con Thiên Chúa”. Ngài cho mọi người tiên cảm những mối liên hệ rất đặc biệt của Ngài với Thiên Chúa, Cha Ngài, qua việc Ngài ra tay hành động để buộc người ta phải tôn kính nơi thánh thiêng, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”.
Ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đã ban “rượu mới”, báo trước rượu sẽ trở thành máu Ngài (Ga 19: 31-37). Ở Giê-ru-sa-lem, Ngài loan báo “đền thờ mới” đền thờ này sẽ là Thân Thể Ngài. Như vậy, Ngài ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Các ông cứ phá hủy đền thánh nầy đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (2: 19). Điều mà thánh Gioan muốn chúng ta lưu ý ở đây chính là khi nói đến Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, tác giả dùng từ “Iros” có nghĩa “không gian thánh” (2: 14, 15) nhưng khi nói về đền thờ sẽ là thân thể của Ngài, Đức Giê-su sử dụng từ “Naos” là nơi cực thánh của Đền Thờ. Khi nói về thân thể của Ngài bị giết chết nhưng sống lại, Đức Giê-su không dùng động từ “oikodomein” (“xây dựng”), nhưng “egeirein” (“chỗi dậy”), động từ được các bản văn Tân Ước sử dụng để nói về cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su. Vì thế, tác giả giải thích: “Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói”.
Mặt khác, toàn bộ Tin Mừng Gioan được trình bày như một phiên tòa ở đó những người xét xử Đức Giê-su mà thánh Gioan gọi là “người Do thái” với nét nghĩa tiêu cực (chủ yếu là các chức sắc tư tế và các kinh sư). Hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ cấu thành điểm nhấn của phiên tòa nầy. Ai đọc hoạt cảnh này chắc chắn nghĩ đến lời công bố của các ngôn sứ: “Việc Thanh tẩy Đền Thờ sẽ đánh dấu việc khai mạc thời đại Mê-si-a”.
Cuối cùng, thánh Gioan ghi nhận rằng có nhiều người đến với Ngài và tin vào Ngài vì họ đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm, nhưng Ngài không tin họ vì Ngài “biết có gì trong lòng con người”. Như vậy, Đức Giê-su tiên cảm họ sẽ quay lưng lại với Ngài trong tương lai.
Như vậy, trong Tin Mừng Gioan, hoạt cảnh nầy có giá trị mặc khải: bày tỏ con người Đức Giê-su với tư cách Con Thiên Chúa và loan báo những đảo lộn mà Ngài sẽ thực hiện cũng như sự vô tri mà Ngài sẽ là đối tượng. Khung cảnh của lễ Vượt Qua sắp đến phóng chiếu trên những dữ kiện nầy một sự soi sáng mang tính ngôn sứ.
42.Luật Chúa truyền và luật trần gian--Lm. Xuân Hy Vọng
Bôn ba khắp trốn tìm lời giải đáp cho những vấn nạn cuộc đời, anh Suzuki dừng chân trước một ngôi thánh đường nguy nga, tráng lệ, anh ngỡ ngàng với sự hồ hỡi sống vui tươi, thân thiện của giáo dân vùng Nam Mỹ. Đứng hồi lâu trước khuôn viên nhà thờ, anh tự hỏi mình: tôi là một người Công Giáo, nhưng tâm hồn tôi xa Chúa, dẫu rằng mỗi tuần đến tham dự Thánh lễ Chúa Nhật; biết bao lần tôi cầu nguyện nhưng tâm trí tôi cứ quanh quẩn bởi nhiều điều lo toan với cuộc sống vật chất; biết bao lần tôi phải đối diện với luật đời và luật đạo; và biết bao phen tôi vật lộn với chính sự ương hèn của chính mình, v.v...
Thưa quý bà và anh chị em, tâm tư của anh Suzuki phần nào cũng là nỗi trăn trở của chúng ta. Sống trong xã hội bị chi phối với nhiều luật lệ, nguyên tắc, dường như chúng ta bị cuốn vào guồng xoáy giữ luật hơn là sống tinh thần luật; xem trọng luật trần gian hơn luật Chúa truyền qua sứ vụ của Hội Thánh. Đáng buồn hơn nữa, chúng ta rơi vào chủ nghĩa duy luật, và trở nên cứng nhắc với những điều lệ mà quên đi phần cốt lõi của luật, đó là tình yêu và giải thoát. Thậm chí, trong một ý nghĩa nào đó, chúng ta trở nên ‘nô lệ’ của luật lệ, hoặc để cho những điều lệ xã hội trói buộc chúng ta.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến luật Chúa truyền dạy qua Mười Điều Răn (x. Xh 20, 1-17). Nói đến điều răn, chúng ta thường nghĩ ngay đến những điều phải tuân giữ, những điều bắt buộc với ý nghĩ tiêu cực; trái lại, Mười Điều Răn cũng có thể được gọi là Mười Điều Cam Kết giữa Thiên Chúa và con người. Và khi nói đến cam kết, thì chắc hẳn phải có hai bên, và đôi bên đều tự nguyện giao ước và tuân giữ. Quý ông bà và anh chị đã thuộc nằm lòng Mười Điều Răn này, nhưng thiết nghĩ để sống đúng tinh thần của nó lại là một vấn đề khác. Thí dụ, nhiều năm qua đã biết bao lần chúng ta tham dự Thánh lễ với thói quen, hoặc với ý nghĩ: không đi thì Chúa phạt. Hoặc khi tham dự Bàn tiệc Thánh, chúng ta chỉ hiện diện với thân xác, còn tâm trí chúng ta đang lo nghĩ đến điều khác, hay đang suy tính...Dĩ nhiên, chỉ có Chúa và bản thân chúng ta mới biết những gì đang xảy ra trong tâm hồn hay trong tâm trí ta thôi, nhưng nếu ý thức lại thì ắt hẳn chúng ta cũng cảm thấy xấu hổ khi đến với Chúa với thái độ bất xứng này vì như Lời Kinh Thánh chép rằng: “dân này chỉ thờ Ta ngoài môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (x. Mt 15, 8). Thiên Chúa mong muốn, mời gọi chúng ta sống cam kết tình yêu với Ngài, vui tươi tuân giữ giới răn yêu thương, quảng đại trao ban, hy sinh cho tha nhân và phụng sự Chúa. Đừng tần tiện thời giờ với Chúa, đừng chôn giấu tài năng, ơn sủng Chúa ban, nhưng hãy dâng lên Chúa tất cả thời gian, cơ hội để phụng sự Chúa và yêu mến tha nhân, cũng như quảng đại cho đi, dân hiến qua việc phục vụ cộng đoàn. Như thế, chúng ta đang sống tinh thần luật, sống những điều chúng ta đã và đang cam kết với Thiên Chúa.
Thứ đến, Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy ưu tiên, chăm lo về phần thiêng liêng nữa “người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (x. Mt 4, 4b). Xã hội thực dụng ngày nay đưa chúng ta vào chỗ quy tất cả giá trị tinh thần ra vật chất, những gì có thể ‘cân, đo, đong, đếm’ được; hoặc nhiều lúc, chúng ta cứ để con thuyền đời sống thiêng liêng bị sóng gió, bảo tố ‘danh vọng, tiền tài, địa vị’, những gì có thể nhìn thấy, hay chóng qua đưa đẩy đến chỗ chìm sâu dưới đáy đại dương ‘hư vô’. Để khỏi rơi vào tình trạng bi đát này, chúng ta cần tỉnh thức, cải hối tận căn, sống theo tinh thần luật Chúa truyền dạy tóm lại trong giới răn yêu thương: Yêu Chúa – thương người. Thật vậy, chúng ta không phủ nhận điều này: vật chất cần thiết cho cuộc sống thân xác của con người chúng ta; tuy nhiên, nó không quyết định đời sống hạnh phúc trường tồn của chúng ta. Hơn nữa, nó chẳng phải là tiêu chuẩn đánh giá, khuôn vàng thước ngọc của giá trị tâm linh, đời sống thiêng liêng. Tiền tài, danh vọng, chức tước, địa vị, vật chất sẽ qua đi, nhưng giá trị tinh thần, đời sống đạo đức sẽ còn mãi, và được lưu truyền mãi mãi.
Giờ đây, chúng ta hãy đặt mình trước Chúa và tha nhân; trong thinh lặng, chúng ta nhìn lại thái độ, động lực thúc bách chúng ta sống theo luật Chúa truyền, hay chỉ giữ luật Chúa dạy? Chúng ta biết chăm lo, vun trồng đời sống đức tin hay chỉ chạy theo đời sống vật chất chóng qua? Trong niềm tín thác, tin tưởng và nhận mình là kẻ yếu hèn trước Chúa, chúng ta cùng xin Chúa ban cho chúng ta biết can đảm dứt bỏ những gì đang cản trở đời sống đức tin, cắt bỏ những gì khiến chúng ta xa lìa Chúa, xa lìa luật Chúa truyền dạy.
Trần gian này chọn đường thênh thang
Chúa dạy con đi qua con đường hẹp
Gian trần này chọn đường vinh quang
Chúa hy sinh bước trọn đường thập hình.
Trần gian này chọn đường huênh hoang
Chúa dạy con đi trong khiêm nhường
Gian trần này chọn đường lợi danh
Chúa đưa con bước trọn đường hy sinh.
Trần gian này chọn đường khinh chê,
Chúa dạy con bao dung nhân hiền
Gian trần này chọn đường âu lo
Chúa đưa con bước vào đường an vui.
Trần gian này chọn đường vinh hoa
Chúa dạy con đi qua thập hình
Gian trần này chọn đường hư vô
Chúa đưa con bước vào đường ơn thiêng.
43.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Trong cuộc sống, đã là con người ai cũng có lần bị vấp ngã vì những yếu đuối, tội lỗi. Nhưng điều tốt đẹp nơi con người đó chính là mỗi khi chúng ta biết ý thức để nhận ra những giới hạn của bản thân, nhận ra những điều chưa tốt, những lỗi lầm để ăn năn hối lỗi và nhất là biết quyết tâm, cố gắng để sống tốt hơn. Vậy thì, câu hỏi cần được đặt ra: Làm sao để tôi có thể sống tốt hơn đây, mặc dầu tôi đã cố gắng rất nhiều, nhưng rồi chứng nào vẫn tật nấy; những yếu đuối lỗi lầm cũ, tôi lại cứ sa ngã và tái phạm. Thưa ACE, vì lẽ đó mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay soi sáng, hướng dẫn cho chúng ta để chúng ta cần biết cậy dựa vào ơn thánh Chúa ban mà bắt đầu trở lại.
Trong bài đọc một từ sách Xuất hành, Thiên Chúa vì yêu thương, quan tâm đến dân chúng, nên Ngài đã qua ông Môisê truyền lại những giới răn, lề luật cho dân chúng hầu giúp họ sống xứng đáng với phẩm giá của những người được Thiên Chúa tuyển chọn. Khi nói đến lề luật-giới răn, người ta thường nghĩ đến là: Tôi đang bị mất tự do, bị trói buộc, bị kìm hãm…Thế nhưng, với Thiên Chúa và qua Giáo hội, giới răn, huấn lệnh và lề luật chính là để giúp con người nên hoàn thiện và mục đích tối hậu là để cứu rỗi các linh hồn. Đây chính là tất cả tình thương và thánh ý mà Thiên Chúa muốn cho chúng ta, Ngài biết chúng ta cần những phương thế để giúp cho chúng ta sống và trở nên hình ảnh tốt đẹp của Thiên Chúa, mà ngay từ ban đầu Ngài đã tạo dựng nên chúng ta. Có người đã hỏi tôi: “Thưa Cha, đạo Công giáo có tới 10 điều răn, nhiều và khó vậy, sao mà theo và sống cho được?” Tôi đã trả lời: “Để biết 10 điều răn khó hay không thì tùy thuộc vào cách chúng ta trả lời với hai câu hỏi sau đây. Thứ nhất: Tôi có muốn trở nên người tốt không? Thứ hai: Tôi có yêu mến Chúa và thương yêu tha nhân không? Thưa ACE, câu trả lời của mỗi người chúng ta là gì?
Thánh vịnh 18 trong bài đáp ca giúp chúng ta xác tín hơn ý nghĩa cao đẹp của việc thực thi những giáo huấn và lề luật của Chúa. “Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh. Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt”. Thật vậy, chỉ những ai tin, chấp nhận và đón nhận “quà tặng lề luật” này của Chúa ban, thì sẽ được Chúa nâng đỡ, giúp sức hầu chu toàn và đạt tới sự hoàn thiện. Suy cho thấu, thật ra, ai trong chúng ta cũng biết những giá trị tốt lành của giới răn và lề luật Chúa ban. Nhưng để sống, tuân giữ, thực thi thì không phải là điều dễ dàng. Chính vì lẽ đó mà Thánh Phaolo trong bài đọc hai đã chỉ cho chúng ta một kinh nghiệm sống, nghĩa là: hãy “Rập theo khuôn mẫu của Đức Kitô chịu đóng trên Thập giá”. Hay nói khác hơn, đây là mẫu gương của sự hy sinh, tha thứ, mẫu gương của hiến tế, ban ơn và cứu sống. Những ai chấp nhận và muốn sống theo Chúa và đi theo con đường Thánh giá này thì sẽ cảm nghiệm được sự ngọt ngào và ơn thánh của lề luật và giới răn yêu thương. Thế nhưng thưa ACE, con đường Thánh giá Chúa đã nêu gương, con đường mà Thánh Phaolô đã mời gọi chúng ta noi theo, nhiều người cho là điên rồ, khờ dại. Nhưng với Thiên Chúa, thì đây chính là sự khôn ngoan và ơn thánh dành cho chúng ta. Về phần mình, chúng ta nhận định và chọn theo cách nào?
Nếu chúng ta còn chần chừ, lưỡng lự chưa biết lựa chọn, thì Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta ý thức và xác tín hơn về con đường và sứ vụ của Chúa Giêsu. Sứ vụ của Chúa Giêsu không gì khác hơn đó là: Trong mọi sự luôn làm để tôn vinh danh Thiên Chúa Cha. Ở đây chúng ta sẽ nhận ra lòng yêu mến, nhiệt thành của Chúa Giêsu cho Nhà của Thiên Chúa. Vì với Chúa Giêsu, nơi “Nhà Chúa” phải chính là nhà cầu nguyện, nhà để gặp gỡ, tiếp xúc, thưa chuyện với Thiên Chúa Cha, để từ đây nơi “Nhà Chúa” này, ân sủng từ Thiên Chúa Cha phải được lan tỏa và trao ban đến cho mọi người. Đồng thời, cũng vì tôn vinh danh Chúa Cha, mà chính từ nơi Cha Chúa mỗi ngày, Chúa Giêsu trở nên của lễ tinh tuyền, tuyệt hảo để dâng lên cho Thiên Chúa. Của Lễ Giêsu này từ đây thay cho tất cả mọi lễ vật mà con người dâng tiến. Do đó, ai kết hiệp những lễ vật của mình dâng tiến Chúa với Của Lễ Hiến Tế là Đức Kitô Giêsu, thì sẽ được Thiên Chúa Cha chấp nhận và ban ơn chúc phúc.
ACE rất thân mến, Mùa Chay chính là mùa hồng phúc mà Thiên Chúa ban tặng để cho chúng ta có thể sống kết hiệp với Chúa Giêsu trong sứ mạng của Ngài. Xin cho chúng ta biết trân quý những ơn thánh Chúa ban qua những giới răn lề luật, qua mẫu gương nhiệt thành-hiến tế của Chúa Giêsu, để nhờ đó chúng ta cũng trở nên lễ phẩm đẹp lòng Chúa. Lạy Thánh cả Giuse, xin chuyển cầu ơn Chúa cho chúng con để cuộc đời chúng con luôn trở nên con thảo đẹp lòng Chúa mọi đàng. Amen.
44.Thánh luật--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
Bất cứ một quốc gia nào, một tổ chức nào, một gia đình nào, một nhóm nào, dù chỉ là một “nhóm” vài người,… cũng đều phải có luật lệ, nội quy, quy tắc, hoặc nguyên tắc để bảo đảm trật tự – ở phạm vi lớn gọi là an ninh, ở phạm vi thế gới gọi là hòa bình.
Luật vị nhân sinh – luật vì con người, chứ con người không lệ thuộc luật, bởi vì luật có sau con người nên luật được lập ra cốt để phục vụ con người, giúp xã hội tốt hơn. Còn lề luật của Thiên Chúa là Thập Giới, tức là Mười Điều Răn. Luật Chúa là Thánh luật, là Thánh chỉ, là luật giao ước, là Ý Chúa.
THẬP GIỚI
Thiên Chúa đã tạo dựng con người, cho con người tự do, vì chính Ngài “đưa dân Chúa ra khỏi đất Ai Cập, để thoát khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Thoát khỏi nô lệ là được tự do. Tự do rất cần, mà Thiên Chúa đã cho con người tự do, nhưng đồng thời Ngài cũng có luật đòi hỏi con người phải thực hành: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20:3-4).
Phúc âm nhất lãm lặp lại Giới răn thứ nhất: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22:37; Mc 12:30; Lc 10:27), hoặc như tiên tri Samuel xác định: “Hãy phụng thờ Đức Chúa hết lòng” (1 S 12:20). Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất (Mt 22:39). Theo kinh Mười Điều Răn, chúng ta quen đọc là “thứ nhất, thờ phượng và kính mến Người trên hết mọi sự”.
Rồi Thiên Chúa nói tiếp: “Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 20:5a). Ngài không ngần ngại tự nhận Ngài là “một vị thần ghen tương” (Xh 20:5b), và Ngài nhấn mạnh: “Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông” (Xh 20:5c). Có phải vì Thiên Chúa đã “ấn định” như vậy nên ngày xưa người ta cũng có luật “tru di tam tộc” chăng?
Nghe cách nói của Chúa có vẻ “gay gắt” nhưng thực ra không phải vậy. Ngài không độc đoán, vì Ngài luôn yêu thương và hứa chắc chắn: “Những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời” (Xh 20:6). Ngài rất tâm lý và công bằng, Ngài “bắt buộc” cái này thì Ngài lại “thưởng công” cái khác. Công lý là thế. Chính tác giả Thánh vịnh đã xác định: “Chúa giữ gìn những ai thành tín, nhưng thẳng tay trừng trị người ăn ở kiêu căng” (Tv 31:24). Thiên Chúa còn giải thích rõ ràng: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng” (Xh 20:7). Đó chính là Giới răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”.
Sách Xuất hành, chương 20, câu 9-17 “liệt kê” các Giới răn từ thứ ba tới thứ mười: “Ngươi hãy nhớ ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày Sa-bát và coi đó là ngày thánh. Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian hại người. Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta”.
VUI, BUỒN VÌ LUẬT
Vô tri bất mộ – không biết nên không yêu thích. Càng hiểu biết thấu đáo điều gì thì người ta càng yêu quý. Tác giả Thánh vịnh đã vui mừng thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Luật pháp khiến người ta “sáng mắt” để khả dĩ phân biệt đâu là đúng và đâu là sai. Còn Luật Chúa khiến “người dại hóa khôn”. Chính các “huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng” có thể “làm hoan hỷ cõi lòng” và “mệnh lệnh Chúa minh bạch” để làm cho “đôi mắt rạng ngời” (Tv 19:9). Tác giả Thánh vịnh chân nhận “quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” nên thực sư “quý báu hơn vàng ròng muôn lượng” và “ngọt ngào hơn mật ong nguyên chất” (Tv 19:10-11). Như vậy, luật làm cho người ta hạnh phúc hơn chứ không làm cho người ta bị gò bó, lệ thuộc, hoặc đau khổ. Luật phải hợp lòng dân, phải bắt nguồn từ yêu thương chứ không vì tư lợi, nếu không thì đó chỉ là ác luật để hành dân, là luật không hợp lý, và luật đó khiến người dân khổ sở. Tất nhiên luật đó trái với Ý Chúa. “Quan nhất thời, dân vạn đại”, người ta thường nói vậy.
Cuộc sống luôn có những điều trái ngược, như người ta thường nói: “Chín người mười ý”, và đôi khi có những tình huống rất khó xử. Không ai chịu nghe ai, nếu không có nghiêm luật thì xã hội sẽ rối loạn. Thánh PhaoLô nói: “Người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1:22). Hai thái cực khác nhau. Còn những người tin yêu Chúa, như thánh Phaolô, thì “lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1:23). Người ta chỉ theo những người có uy tín – dù “uy tín” đó chỉ là vàng bạc, chức tước, địa vị, quyền hành,… chứ ai lại ủng hộ người “nghèo rớt mồng tơi”, không có cục đất chọi chim? Người ta còn “chửi xéo” là kẻ “thừa nói thiếu ăn”! Những người “chịu” theo Chúa chắc chắn cũng bị người ta cho là “tâm thần”, là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, hoặc chí ít cũng là “khờ khạo”. Tuy nhiên, “đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1:24).
Thiên Chúa là “dị nhân” đúng nghĩa, với những động thái “ngược đời”, hoàn toàn khác loài người. Trong xã hội cũng vậy (cả đạo lẫn đời), những người có tư tưởng “mới” là những người “đi trước thời đại”, có khả năng “nhìn xa, nhìn rộng”, nhưng họ thường bị coi là cấp tiến, bị xa lánh, bị cô lập, bị ghét bỏ, thậm chí là bị hại. Thức tế cho thấy đã có những người chỉ được chấp nhận là vĩ nhân sau khi họ đã chết lâu rồi – đơn vị thời gian có thể tính bằng thế kỷ. Thật là buồn! Những người có tư tưởng mới mà “yếu bóng vía” sẽ ái ngại rồi có thể “bỏ của chạy lấy người”. Còn những người “dị ứng” với những tư tưởng mới thì chỉ là những người không theo kịp thời đại, thậm chí có thể là “tiểu nhân”, hoặc không muốn người khác hơn mình!
Riêng thánh Phaolô, sau lần ngã-ngựa-chí-tử, ngài chợt nhận ra cái “ngược-đời-xem-chừng-nghịch-lý” kia, và đã can đảm xác nhận: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Cũng có lần Thiên Chúa đã nói: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9).
THỰC HÀNH LUẬT
Thánh sử Gioan kể: Gần dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem, Ngài hết sức ngạc nhiên khi thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.
Ngài nói thẳng với những kẻ buôn bán: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Lúc đó, các môn đệ “giật mình” nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2:17; Tv 69:10). Thấy Chúa Giêsu “nổi nóng” và dám chê họ sai, người Do Thái ấm ức hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (Ga 2:18). Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19). Đền Thờ Giêrusalem phải mất 46 năm mới xây xong, thế mà Chúa Giêsu nói có thể xây lại chỉ nội trong 3 ngày. Đối với họ thì đúng là Chúa Giêsu sinh sống gần kho đạn, “nổ” hết mức, hoặc là “tâm thần” thật. Tuy nhiên, Ngài muốn nói về chính thân thể Ngài mà họ không thể nghĩ kịp tư tưởng của Ngài. Ngay cả các môn đệ, dù đã từng rong ruổi với Ngài khắp nơi, cùng chia ngọt sẻ bùi với Ngài, hẳn là phải hiểu Ngài, thế mà các ông cũng đã “miệng chữ A, mắt chữ O” khi nghe Sư phụ mình nói như vậy!
Mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ mới “tá hỏa tam tinh” mà nhớ lại điều Ngài đã nói thì mới đủ tin vào Kinh Thánh và lời Ngài nói. Trong lúc Ngài ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều người tin Ngài vì đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm. Thế nhưng chính Đức Giêsu chưa đủ tin họ, vì Ngài biết rõ có gì trong lòng con người.
Chúng ta cũng chẳng hơn gì người Do Thái, thấy cái gì lạ thì tin ngay, nhưng rồi “đâu lại vào đấy”, xin và được ơn thì tin lắm, xin không được thì “nhăn mặt” và nghĩ: “Kỳ vậy ta?”. Thậm chí, đôi khi chúng ta cầu nguyện mà kỳ thực chúng ta đang “ngã giá”, “hối lộ” hoặc “mua chuộc” chính Chúa và các vị thánh mà chúng ta cho là “thiêng lắm”! Thật đáng để chúng ta phải trầm tư suy nghĩ nhiều với câu hỏi của Chúa: “Cho đến bao giờ nữa quý vị từ chối, không tuân giữ các mệnh lệnh và luật lệ của Tôi?” (Xh 16:28).
Lạy Chúa, chúng con chợt thấy mình như những kẻ bơ vơ, lạc hướng trong thế giới ngày nay, vì khó tìm được người đáng tin cậy, trong khi xung quanh chúng con có nhiều thần ô uế, thần bạc tiền, thần nhục dục, thần danh vọng, thần địa vị, thần quyền lực,… Đôi khi chúng con còn mắc những bệnh trầm kha trong cách nhìn, trong nếp nghĩ, và trong lối sống, thế nên chúng con vẫn bỏ mặc những người sống bên lề xã hội, mặc họ bị bóc lột, bị áp bức, bị khinh miệt, bị tước đoạt nhiều thứ… Chúng con xin lỗi Chúa. Xin Ngài thương giúp chúng con nhận ra chính mình để có thể nhìn rõ tha nhân mà chạnh lòng thương họ bằng chính trái tim của Đức Kitô, đồng thời giúp chúng con dám chấp nhận mọi thứ dù phải thiệt thân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
45.Chúa Giêsu đánh đuổi con buôn trong hành lang đền thờ--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Ga 2: 13-25: Hôm nay, Chúa Giêsu đã phẫn nộ khi bước vào hành lang đền thờ Giêrusalem. Tại sao Chúa lại có thái độ như thế?
Hôm nay, Chúa Giêsu đã phẫn nộ khi bước vào hành lang đền thờ Giêrusalem. Tại sao Chúa lại có thái độ như thế? Chúng ta hãy tìm hiểu một chút về cách tổ chức cũng như sinh hoạt tại đền thờ Giêrusalem vào thời Chúa Giêsu.
1. Trước hết là về việc đóng thuế cho Đền Thờ
Thuế Đền Thờ là sắc thuế mà mỗi người Do Thái từ 19 tuổi trở lên phải nộp. Đó là phần dành cho việc dâng các sinh tế và lễ nghi trong Đền Thờ hằng ngày. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, bằng gần hai ngày lương của một công nhân. Trong việc giao dịch bình thường, mọi loại tiền đều có giá trị ở Palestine. Các loại tiền bằng bạc lưu hành từ Rôma, Hy Lạp, Ai Cập đến Tia, Siđôn và Palestine đều có giá trị. Nhưng tiền thuế Đền Thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Đó là loại tiền Do Thái dùng để dâng cho Đền Thờ. Các loại tiền khác là của người ngoại, do đó bị xem là ô uế. Chúng được dùng trả các món nợ thường, nhưng không thể dùng trả nợ cho Chúa. Khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến với đủ loại tiền, nên trong Đền Thờ có nhiều người đổi bạc. Nếu họ hành nghề ngay thẳng, thật thà, thì họ đã thực hiện một mục đích chân thật và cần thiết. Nhưng muốn đổi lấy một đồng nửa siếc-lơ tiền để dâng cho Đền Thờ, người ta phải trả tương đương với ¼ tiền lương một ngày; như vậy cứ đổi 4 đồng nửa siếc-lơ thì người đổi lợi được một số tiền tương đương một ngày công. Do đó, số tiền thuế Đền Thờ thu được và lợi tức đổi bạc thật khủng khiếp.
Thu nhập của Đền Thờ về khoản thuế đó hằng năm ước lượng khoảng 75.000 bảng Anh, lợi tức hằng năm của những người đổi bạc là 9.000 bảng Anh. Năm 54 TC, Crassus chiếm thành Giêrusalem, cướp kho Đền Thờ, đã lấy của kho ấy 2.500.000 bảng Anh, nhưng chưa lấy hết.
Thực ra, việc những kẻ đổi bạc ăn lời khi đổi tiền cho khách hành hương tự nó không có gì sai quấy. Kinh Talmud quy định: “mỗi người cần có đồng nửa siếc-lơ để nộp thuế cho mình. Do đó, khi đổi đồng một siếc-lơ để lấy hai đồng nửa siếc-lơ, người ấy phải cho kẻ đổi bạc chút ít tiền lời”. Nhưng điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu đựng tệ nạn đổi bạc bóc lột với giá cắt cổ. Thật là một bất công, và càng tệ hại hơn nữa là người ta nhân danh tôn giáo để làm việc ấy.
2. Bên cạnh bọn đổi bạc, còn có một số người bán bò, chiên và bồ câu
Thường thì mỗi lần đến Đền Thờ là một lần dâng lễ vật. Nhiều khách hành hương muốn dâng một lễ vật cảm tạ vì chuyến hành trình đến thánh địa bình an, hầu hết các hành động hoặc biến cố xảy ra trong đời sống đều có một lễ vật tương ứng. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua được các con vật tại sân Đền Thờ. Nhưng luật quy định bất cứ con vật nào dùng làm của lễ đều phải lành lặn, không tì vết. Ban quản trị Đền Thờ phân công những người kiểm tra súc vật. Mỗi lần khám xét đều phải trả lệ phí 1/12 siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua con vật ngoài Đền Thờ, chắc chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét. Vấn đề dường như chẳng có gì quan trọng, nhưng khốn nỗi, một con vật mua trong sảnh Đền Thờ có khi phải trả đắt gấp mười lăm lần giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo. Chính điều ấy đã khiến Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận.
3. Nhà Ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân
Một lý do khác khiến Chúa Giêsu hành động như thế mà chỉ có Maccô ghi lại: “Nhà Ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Mc 11,17). Để hiểu điều này, chúng ta phải biết cách bố trí của Đền Thờ Giêrusalem. Đền Thờ gồm nhiều hành lang dẫn vào trong Đền Thờ và nơi Thánh. Trước hết có hành lang dành cho dân ngoại, rồi đến hành lang dành cho phụ nữ, tiếp đến là hành lang dành cho Israel, rồi đến hành lang cho các tư tế. Cảnh buôn bán kể trên diễn ra trong hành lang dành cho dân ngoại, là nơi duy nhất người ngoại có thể tới trong Đền Thờ. Một người ngoại chỉ có thể đến đó và bị cấm không tiến xa hơn nữa. Như thế, một người ngoại có thể vào hành lang dành cho họ để cầu nguyện và đứng từ xa tiếp xúc với Chúa. Đây là chỗ cầu nguyện duy nhất dành cho họ. Thế mà, ban quản trị Đền Thờ và các con buôn người Do Thái đành biến hành lang ấy thành nơi huyên náo, hỗn loạn khiến không ai có thể cầu nguyện được. Quang cảnh như vậy của hành lang Đền Thờ đã loại bỏ mất những người ngoại muốn tìm kiếm Chúa. Có thể đó là điều đập mạnh vào tâm trí Chúa Giêsu; và chỉ một mình Maccô mới giữ được câu nói ngắn ngủi nhưng đầy ý nghĩa : “Nhà Ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Mc 11,17). Chính vì vậy Chúa đã xúc động tận tâm can khi thấy những người muốn ra mắt Chúa lại bị ngăn chặn lại.
4. Trong sinh hoạt của Giáo Hội chúng ta ngày hôm nay như thế nào?
Biết đâu có khi thái độ kỳ thị, phân chia giai cấp, lạnh lùng, kém niềm nở, thái độ kiêu căng, làm khó dễ của chúng ta đã đẩy những người lương, những người muốn tìm kiếm Thiên Chúa ra khỏi nhà thờ, ra khỏi xứ đạo của chúng ta. Chúng ta hãy nhớ lại cơn giận của Chúa Giêsu đối với những ai làm khó dễ những người thiện chí muốn tìm kiếm Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay.
Một câu chuyện minh họa: khi còn là một sinh viên, Gandhi được du học tại Nam Phi, một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Gandhi có dịp đọc Kinh Thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là Tám Mối Phúc Thật trong Bài Giảng trên núi. Ông rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do Thái hay lương dân... Gandhi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn Độ quê hương của ông. Gandhi nghĩ mình nên tìm hiểu và sẽ gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Gandhi đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Công Giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và nói như sau:”Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu ông muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da mầu”! Gandhi tức giận bỏ đi và ông đã ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau: ”tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo có hơn gì Ấn Giáo của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn Giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ rồi”!
46.Nhà Ta là nhà cầu nguyện--Lm. Trần Bình Trọng
Theo luật Môsê thì việc thờ phượng gồm có mục dâng con vật sống để làm lễ vật hi sinh. Luật Môsê buộc cha mẹ phải dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa trong đền thờ. Đó là lý do tại sao sau khi Chúa cứu thế giáng sinh thì được cha nuôi và mẹ Người dâng vào đền thờ. Khi dâng Chúa trong đền thờ, ông Giuse và bà Maria vì nghèo nên chỉ mang được đôi chim câu làm lễ vật.
Vào dịp lễ Vượt qua của người Do Thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền, mua bán súc vật, Người lấy làm khó chịu xua đuổi họ ra khỏi Đền Thờ. Cũng nên biết là những người ở xa đến khó có thể mang theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong đền thờ là cần thiết hay ít ra được dung thứ. Vậy nếu việc mua bán súc vật là tiện lợi cho những người từ xa tới, thì tại sao Chúa Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật quanh đền thờ? Thưa rằng việc dâng hiến lễ vât của họ đã trở thành một việc chỉ nhắm mục đích thương mại. Người bán thì coi đó như là cách thế làm tiền, còn người mua thì coi việc dâng lễ vật như là bổn phận phải làm một cách bất đắc dĩ mà thiếu tâm tình bên trong.
Vì thế trong Phúc âm hôm nay Chúa lên tiếng cảnh giác họ: Đừng biến nhà cha ta thành nơi buôn bán (Ga 2:16). Đây cũng là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng loã trong việc trần tục hoá và thương mại hoá Đền Thờ. Phúc âm thánh Matthêu (21:14), Maccô (11:17), và Luca (19:36) còn trích Sách tiên tri Isaia để cảnh giác họ: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp (Is 56:7). Người Do thái thường tỏ ra tôn kính đền thờ và bàn thờ dâng lễ vật của họ. Họ thường cảm tạ Thiên Chúa cho họ có được đền thờ và bàn thờ dâng lễ vật. Nếu bạn có dịp sang Giêrusalem mà đến đền thờ đã bị phá huỷ, chỉ còn lại một phần tường đền thờ, mà người ta gọi là tường ô nhục, bạn sẽ thấy người Do thái gục đầu vào tường mà than khóc, vì đền thờ của họ đã bị phá huỷ mà chưa xây được đền thờ mới. Còn thực tế và cụ thể hơn, người Hồi giáo khi vào đền thờ của họ, phải để giày bên ngoài. Ta có thể tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giày, tức là hai ngàn chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giày nào là của mình trong hai ngàn chiếc giày thì sẽ lộn xộn và khó khăn thế nào? Tuy nhiên để tỏ ra tôn kính nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay.
Sống ở đô thị hay ở ngoại quốc, ta có dịp va chạm với nhiều người thuộc các tôn giáo khác nhau, và được mời đến nơi thờ phượng của họ, có thể giúp ta làm tăng triển, hoặc làm giảm căn tính tôn giáo của mình khi vào nhà thờ. Nếu vào nhà thờ có Mình Thánh Chúa ngự, mà ta tỏ ra những cử chỉ như đi đứng nghêng ngang, xỏ tay túi quần giống như vào xem viện bảo tàng hay nhà triển lãm thì ta cần xét lại cái căn tính tôn giáo của mình.
Kinh Thánh hôm nay nhắc nhở cho ta: Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi (Tv 69:10). Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, biết giữ gìn sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy cho con cháu biết trong nhà thờ, nơi thờ phượng thì không chạy nhảy, la hét, không xả rác rưởi, không chơi đồ chơi phát ra tiếng động... Ta cũng nên xét theo phương diện tích cực xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ gìn, và bảo trì nhà Chúa.
47.Nhà Ta là nhà cầu nguyện--Lm Trần Bình Trọng
Vào dịp lễ Vượt qua của người Do thái, Ðức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền bạc và mua bán súc vật trong quảng trường của Ðền thờ, Người liền lấy giây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò ra khỏi Ðền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ (Ga 3:15). Luật Do thái cấm chỉ việc mua bán trong khu vực Ðền thờ. Tuy nhiên hàng tư tế quản trị Ðền thờ lại dung thứ cho dịch vụ này. Việc dung thứ có thể hiểu được vì những người từ xa đến khó có thể mang theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong khu vực Ðền thờ được hiểu là tiện lợi. Tiện lợi chứ không hẳn là cần thiết vì việc mua bán vẫn có thể được thực hiện bên ngoài các cổng ngoại tường Ðền thờ. Vậy nếu việc mua bán súc vật và đổi tiền được coi là tiện lợi cho những người từ xa tới, thì tại sao Ðức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật và đổi tiền quanh Ðền thờ? Thưa rằng dịch vụ hối đoái để trả thuế Ðền thờ và mua bán súc vật để hiến dâng đã trở thành một việc chỉ nhắm mục đích thương mại. Người bán thì coi đó như là cách thế làm tiền, còn người mua thì phải mua một cách bất đắc dĩ cho việc dâng hiến. Rồi súc vật hiến dâng phải chịu sự khám xét của nhân viên đền thờ để được chứng nhận con vật không có vết tì ố. Thực tế thì viên chức Đền thờ muốn có độc quyền cho người đấu thầu bán súc vật trong khu vực đền thờ cho nên người dân nghĩ rằng họ phải mua súc vật được đấu thầu bên trong thì mới được bảo đảm là con vật có đủ tiêu chuẩn cho việc hiến dâng. Rồi họ còn phải trả tiền khám xét súc vật nữa. Do đó người nghèo cũng phải mua súc vật của họ với giá cắt cổ thay vì mua ở ngoài theo giá thị trường.
Thứ đến việc đổi tiền để nộp thuế cho Ðền thờ cũng có gì không chỉnh. Theo luật Do thái, mỗi người nam công dân Do thái phải đóng thuế đền thờ, tương đương với hai ngày công. Ðức Giêsu cũng đóng thuế đền thờ (Mt 17:27). Thuế đóng cho Ðền thờ mỗi năm một lần bằng tiền Do thái vì tiền Rôma có hình vua ngoại đạo là Xêdarê, nên không được lưu hành trong Ðền thờ. Ðổi từ tiền Rôma hay những loại tiền ngoại quốc khác sang tiền Do thái phải trả tiền huê hồng đáng kể cho quầy đổi tiền.
Ðền thờ Giêrusalem đồ sộ, nguy nga và lộng lẫy vừa được xây cất lần thứ ba là qùa tặng của vua Hêrôđê, có lẽ nhắm mục đích chính trị hầu làm vừa lòng dân chúng hơn là sùng đạo. Như vậy không có vấn đề dân chúng phải trả nợ. Do đó dịch vụ buôn bán súc vật và đổi tiền chỉ còn đem tiền lời chồng chất lên ngân khố Đền thờ. Còn nhóm người đổi tiền và buôn bán súc vật cũng đã phải trở nên giầu có. Rồi hàng đại tư tế cho đấu thầu hai dịch vụ này cũng phải có món tiền bỏ túi riêng. Vì thế mà Ðức Giêsu lên tiếng cảnh giác họ: Ðừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán (Ga 2:16). Ðó là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng loã trong việc thương mại hoá và phàm tục hoá Ðền thờ. Phúc âm thánh Mát-thêu, Mác-cô, và Luca còn ghi lại lời Ðức Giêsu trích dẫn sách ngôn sứ Isaia ghi: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện (Is 56:7), rồi dùng lời ngôn sứ Giêrêmia (Gr 7:11) để khiển trách họ vì họ đã biến nơi thờ phượng thành sào huyệt của bọn cướp (Mt 21:14; Mk 11:17; Lk 19:46). Khi người Do thái hỏi xem Ðức Giêsu lấy dấu chỉ nào mà tỏ uy quyền làm như vậy, thì Chúa dùng cơ hội này tiên báo về việc phục sinh của Người: Các ông cứ phá huỷ Ðền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (Ga 2:19). Ở đây Chúa muốn nói đến đền thờ là thân thể phục sinh của Người sau khi đã nằm trong mộ ba ngày, mà họ không hiểu. Ngay cả các môn đệ cũng chưa hiểu nổi. Khi có mấy môn đệ trầm trồ khen ngợi Ðền thờ, thưa với Chúa: Thầy xem kìa: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đai thay (Mk 13:1) thì Chúa trả lời: Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ (Mc 13:2). Năm bảy mươi sau công nguyên, tướng Titô của đế quốc La mã cho đem quân đội đến phá huỷ Ðền thờ, chỉ để chừa lại một phần của bức tường Đền thờ đế chứng minh cho hậu thế biết rằng quân đội La mã hùng mạnh đến thế nào. Trong một nhóm linh mục hành hương sang Thánh địa khi thăm một phần bức tường than khóc Đền thờ còn tồn tại, ghé vào tai linh mục bạn nói: Chu choa! Sao người ta có thể phá huỷ bức tường này vậy (khi chưa có chất nổ, xe tăng và xe ủi).
Phúc âm hôm nay nhắc đến việc các môn đệ nhớ lại lời Thánh kinh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa làm hao mòn thân tôi (Tv 69:10). Luật Chúa ban cho Mosê dậy dân Người phải giữ ngày Sabát (Xh 20:8-10) là ngày thứ Bảy, ngày thánh, ngày lễ nghỉ. Khi Ðức Giêsu sống lại vào ngày thứ Nhất trong tuần, Giáo hội mới chuyển sang ngày Chúa nhật để thờ phượng và nghỉ ngơi. Do lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa mà Giáo hội hoàn vũ cũng như giáo phận địa phương còn đưa ra những luật lệ nơi thánh đường và trong khuôn viên nhà thờ trong giờ thờ phượng công cộng để bảo đảm cho giáo dân khỏi bị chia trí trong khi thờ phượng. Vậy thì lòng nhiệt thành với việc nhà Chúa phải nhắc nhở cho ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, khi đến nhà thờ làm việc thờ phượng và cầu nguyện.
Do đó Giáo hội đòi hỏi khi đến nhà thờ ngày Chúa nhật để thờ phương cách công cộng, người công giáo nên ăn bận thế nào, tỏ ra những cử chỉ ra sao để giúp khơi dậy tâm tình đạo đức thích hợp. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng và nhắc cho con cháu tránh những cử chỉ và hành động gây chia trí cho người khác. Có linh mục kia nhận được lá thư của một người đàn ông có kí tên, mà ngài không quen biết, được trích nguyên văn như sau: Thưa Cha, tôi đi nhà thờ hằng ngày, hầu hết bảy ngày trong tuần và lần nào ở hàng ghế đầu, đều thấy mấy bà rất trẻ, rất khoẻ mạnh, mang hài cao, mặc váy ngắn, tóc tai ngắn ngủi, đi lễ rất trễ, cứ chạy xoong xoong lên hàng ghế đầu để gần các cha. Có những bà ăn mặc không được kín đáo, mà ngồi gần như vậy, thì không tốt mấy. Tôi xin Cha đề nghị với Cha sở xem có cách nào giảỉ quyết? Ông cha nhận được thư thì thắc mắc sao ông này có mắt quan sát hay thiệt.
Giáo hội còn đưa ra những nguyên tắc về phụng vụ, về thánh nhạc, về kiến trúc thánh và nghệ thuật thánh và mở những lớp huấn luyện nhằm cải tiến những bộ môn trên. Không cần phải đào sâu, mà chỉ cần hiểu biết sơ qua cũng thấy thánh nhạc, dụng cụ nhạc khí dùng trong nhà thờ và các cơ sở thánh thì mầu sắc, âm thanh, ánh sáng, vật liệu và phẩm chất của vật liệu xử dụng phải khác biệt. Vậy thì những mầu sắc hay bóng đèn mầu loè loẹt nhấp nháy có thích hợp trong nhà thờ không? Người am hiểu nghệ thuật, kiến trúc và hội họa thánh khi đến thánh đường mà thấy không phải là nghệ thuật, kiến trúc và hội hoạ thánh, khiến họ có thể chia trí, khó chịu và còn ẫm ức nữa. Những xứ đạo nghèo ở miền quê, thì chưa có đủ điều kiện, khả năng và phương tiện để đạt tới mức độ khả quan đó thì người ta cũng thông cảm. Còn những xứ đạo lớn ở thành thị: có nhân lực, vật lực và nhân tài có thể gửi người đi học để được huấn luyện về kiến trúc và hội hoạ thánh, về những nguyên tắc phụng vụ và thánh nhạc và nhạc khí để rồi cho áp dụng.
Việc kiến thiết và tu bổ nơi thờ phượng công cộng nhất là trên cung thánh tại những xứ đạo có những điều kiện và phương tiện trên, phải nhờ đến kiến trúc sư có khả năng và được huấn luyện về kiến trúc và nghệ thuật thánh chứ không phải là việc làm vá víu có tính chất mộc mạc của thợ cây nhà lá vườn. Nếu công trình kiến trúc lớn và phức tạp, kiến trúc sư còn phải nhờ đến giới chuyên môn khác như kĩ sư điện, kĩ sư máy móc, kĩ sư âm thanh, kĩ sư ánh sáng, kĩ sư đo độ co dãn của vật liệu tuỳ theo thời tiết... Bức họa hình thánh để tôn kính cũng phải được nghiên cứu và theo dõi việc thực hiện của hoạ sĩ chứ không phải như cho vẽ tấm phông cho buổi trình diễn văn nghệ. Khuôn viên nhà thờ cũng phải được kiến thiết sao cho có vẻ thẩm mỹ làm đẹp mắt nữa.
Một linh mục kia có lần đến xin đồng cử hành cuộc Khổ nạn của Chúa vào Thứ Sáu Tuần Thánh tại một xứ đạo kia. Linh mục khách được trao cho cây thập giá có tượng chịu nạn để cho giáo dân hôn kính. Chiều đứng cây thập giá dài độ sáu mươi phân. Hình như cả cây thập giá và tượng chịu nạn làm bằng kẽm. Linh mục đó quan sát cây thập giá thấy chia trí vì không khơi dậy được tâm tình đạo đức. Chân tượng chịu nạn quá dài sánh vói thân hình tượng. Hai đầu gối giang ra quá xa và nhô lên quá cao khỏi thân cây thập giá cho thấy việc thiết kế tượng chịu nạn thiếu cân đối và thiếu nét thuần phong mĩ tục. Linh mục đó nói cầm thập giá bằng tay trái thấy khá nặng, rồi còn phải đưa chân tượng vào gần miệng cho giáo dân hôn kính và tay kia cầm khăn lau chân tượng sau mỗi lần có người hôn kính. Linh mục đó lại nói thấy hơi mỏi tay và còn phải cẩn thận kẻo nhỡ đầu gối của tượng chịu nạn đụng vào trán hay xương gò má của người hôn kính thì cũng có thể làm họ đau. Câu chuyện này có ý nhắc nhở việc cung cấp tượng chịu nạn cần cân nhắc xem chọn tượng nào, cho treo ở đâu và có nên dùng để cho giáo dân hôn kính, hầu khỏi làm họ chia trí không?
Nghệ thuật và kiến trúc thánh gồm biểu hiệu bàn đến ở đây là kiến trúc và nghệ thuật Kitô giáo. Do đó muốn hội nhập văn hoá mà đem nét văn hoá bản xứ vào mà không chọn lọc, đào thải và thích ứng, có thể trở thành lạc lõng, méo mó. Và khi đem một nét văn hoá hay phong tục không phải là Kitô giáo vào đạo Kitô, thì giống như việc cắt râu ông nọ cắm cằm bà kia vậy, nếu không cho rửa tội cho sản phẩm văn hoá và phong tục đó.
Tóm lại về phương diện tiêu cực tại nơi thờ phượng công cộng, phải giữ những kỉ luật nào đó để khỏi gây chia trí và than phiền nơi người đến thờ phượng. Còn về phương diện tích cực, thì tuỳ khả năng và phương tiện của mỗi địa phương, cần đạt tới mức độ tương xứng trong nghệ thuật thánh, kiến trúc thánh và việc cử hành phụng vụ để giúp người đến thờ phượng có tầm hiểu biết khá về các bộ môn trên đánh giá được vẻ đẹp được diễn tả qua các bộ môn liên hệ và giúp người chưa hiểu biết, để với thời gian, họ cũng thưởng thức được vẻ đẹp của kiến trúc thánh, nghệ thuật thánh và thánh nhạc mà ca tụng Ðấng sáng tạo.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn biết tôn kính nhà Chúa:
Lạy Chúa là Ðấng sáng tạo và quan phòng muôn loài.
Chúa hiện diện khắp mọi nơi, trên toàn cõi địa cầu.
Ðặc biệt Chúa diện diện trong thánh đường
nơi có Mình Thánh Chúa Kitô ngự trị.
Xin dạy con biết tỏ ra tôn kính và yêu mến nhà Chúa,
và cho con được tìm thấy nơi nhà Chúa
nguồn sức mạnh, niềm an ủi và sự cậy trông
của đời con. Amen.
48.Đức Giêsu tại Samari--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Các cụm từ “đã đến giờ” và “giờ đã đến - và chính là lúc này đây” trong bài Tin Mừng có ý nghĩa gì? Giờ đó là giờ nào?
2. Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí”? Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật”? Trái ngược với hai kiểu thờ phượng ấy là thờ phượng thế nào? Chúng ta đang thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu nào: kiểu lỗi thời của các kinh sư Do Thái hay kiểu “mới” của Đức Giêsu?
3. Có cần thiết phải sửa đổi cung cách thờ phượng của chúng ta không? Nếu không thì sao? Việc thờ phượng kiểu lỗi thời có còn giá trị không?
Suy tư gợi ý:
1. Việc thờ phượng Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước
Vào thời Cựu Ước, trình độ tâm linh của con người còn non kém, đầu óc con người thường chỉ hướng về những gì cụ thể, hữu hình, dễ thấy, nghĩa là họ hướng ra ngoài hơn là vào nội tâm. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa chủ yếu gồm những việc cụ thể, thấy được, được thực hiện trong thời gian và không gian rõ rệt. Từ bản chất, thờ phượng Thiên Chúa chính là nhìn nhận Thiên Chúa là chủ tể vũ trụ, có toàn quyền trên tất cả mọi sự, trong đó, con người coi mạng sống và của cải của mình là quí giá nhất. Để biểu lộ sự nhìn nhận quyền chủ tể đó của Thiên Chúa, đúng ra con người phải sát tế chính mạng sống mình; nhưng làm như thế, con người sẽ dần dần chết hết, là điều mà Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người bèn sát tế những con vật như chiên bò làm của lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa thay cho mạng sống của mình (x. St 4,3; 8,20; Xh 20,24; 29,18; Lv 1,14; v.v...). Có lần, để thử thách niềm tin và tinh thần hy sinh hiến dâng ấy, Thiên Chúa yêu cầu Abraham sát tế đứa con trai duy nhất của mình là Isaác làm lễ vật toàn thiêu: khi thấy Abraham không tiếc với mình đứa con duy nhất, Thiên Chúa đã ra tay cứu Isaác (x. St 22,1-14). Đó là cách thờ phượng Thiên Chúa thời Cựu Ước.
Đến thời Đức Giêsu, Ngài đã khai mở một kỷ nguyên mới, thích hợp với trình độ tâm linh con người vốn đã lên cao hơn. Vì càng về sau, con người càng có khả năng tư duy trừu tượng hơn, biết hướng vào nội tâm hơn. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa phải mặc lấy một hình thức mới hợp với trình độ mới: tức cao hơn, mang tính nội tâm hơn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chủ trương một cách thờ phượng Thiên Chúa mới mẻ hơn, cao cấp hơn. Ngài nói: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem (...) Giờ đã đến - và chính là lúc này đây - những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật. (...) Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”.
2. Thời Tân Ước: thờ phượng trong thần khí và sự thật
Đức Giêsu nói khi Ngài còn sống: “Đã đến giờ”, “Giờ đã đến - và chính là lúc này đây”. Như vậy, Đức Giêsu yêu cầu con người thay đổi cách thờ phượng Thiên Chúa cho xứng hợp với trình độ mới của con người đã được 2000 năm, một thời gian rất dài! Nhưng ta thử xét lại xem, cách thờ phượng của chúng ta trong thế kỷ 21 này đã thay đổi và tiến bộ đúng như yêu cầu của Đức Giêsu cách đây 2000 năm chưa? Sau 20 thế kỷ tiến bộ về vật chất đến mức chóng mặt, con người đã tiến bộ về tâm linh thế nào, đặc biệt trong cách thờ phượng Thiên Chúa? Chúng ta đã nội tâm hóa việc thờ phượng ấy chưa, hay vẫn còn mang nặng tính bề ngoài, tính vật chất, tính câu nệ hình thức, và vẫn còn lệ thuộc nặng nề về thời gian lẫn không gian? Việc thờ phượng Thiên Chúa của chúng ta hiện nay đã đúng với tinh thần Tân Ước của Đức Giêsu chưa, hay vẫn theo tinh thần Cựu Ước của đám kinh sĩ và biệt phái Do Thái xưa, vốn đã bị Đức Giêsu coi là lỗi thời từ 2000 năm nay?
Thiết tưởng chúng ta nên đặt lại vấn đề này một cách nghiêm chỉnh, và sửa đổi lại những gì chưa đúng. Điều quan trọng chúng ta cần tìm hiểu là: Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật”?
* Thờ phượng trong thần khí
Đức Giêsu nói: “Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí”. Thần khí (pneuma - esprit - spirit) là tinh thần, tâm linh, thuộc thế giới nội tâm, không thấy được. Thần khí thì ngược với vật chất, thể lý, thuộc thế giới bên ngoài, cụ thể, thấy được. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa hữu hình, nên việc thờ phượng Thiên Chúa không nhất thiết phải xảy ra ở bên ngoài, trong không gian và thời gian. Theo Đức Giêsu, Ngài là thần khí, là tinh thần, là thiêng liêng, nên việc thờ phượng Ngài cũng phải thực hiện trong thần khí, trên bình diện tinh thần, nghĩa là một cách thiêng liêng, trong nội tâm con người. Hành vi thờ phượng phải là hành vi của tâm hồn, là thái độ của nội tâm, hơn là hành vi của thể xác. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa cứ phải nghe ta nói, nhìn ta biểu lộ ra ngoài mới hiểu được ta; trái lại, Ngài biết hết, thấu hiểu hết những gì ta nghĩ, ta cần, ta muốn nói: “Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì rồi” (Mt 6,32; Lc 12,30). Vì thế, xét về phía Thiên Chúa, việc thờ phượng Ngài không cần thiết phải biểu lộ ra bên ngoài bằng lời nói, bằng lễ nghi, bằng những biểu hiện bên ngoài: “Khi cầu nguyện, anh em đừng nhiều lời như dân ngoại; họ tưởng cứ nói cho nhiều là được nhận lời” (Mt 6,7). Điều Ngài mong muốn nằm trong thái độ nội tâm của chúng ta: tinh thần từ bỏ, tự hủy, lòng quảng đại, biết ơn, khâm phục, nhất là tình yêu dành cho Ngài. Nếu Giáo Hội chủ trương phải biểu lộ việc thờ phượng ra bên ngoài thì không phải là vì Thiên Chúa mà vì con người: để việc thờ phượng mang tính cộng đoàn, tính Giáo Hội, hay để biểu lộ vinh quang Thiên Chúa cho con người, v.v...
Ngày nay, cần phải thay thế việc thờ phượng Thiên Chúa qua những hình thức bên ngoài bằng việc thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí. Lễ vật dùng để sát tế, để toàn thiêu không còn là chiên, bò, hay bất kỳ một vật nào khác, mà phải là “cái tôi” ích kỷ và kiêu căng của ta, là ý riêng của chúng ta, là những dự định dù tốt hay xấu nhưng không phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Bàn thờ hay đền thờ - nơi sát tế - là chính tâm hồn ta. Thời điểm sát tế không còn là một thời điểm cố định nào do con người qui định, mà phải là thời gian liên tục. Vì sát tế không còn là một hành động xảy ra vào những thời điểm nhất định nào đó, cho bằng một thái độ nội tâm thường hằng trong đời sống ta, thậm chí trở thành một yếu tố cố định trong bản tính của ta. Cầu nguyện cũng không còn là một hành động cho bằng một trạng thái thường hằng của nội tâm. Một biểu hiện lý tưởng của việc thờ phượng trong thần khí đã được Đức Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”. Việc quan tâm thi hành thánh ý Thiên Chúa phải thay thế cho việc quan tâm thực hiện ý riêng mình, phải trở thành lương thực nuôi sống đời sống tâm linh của ta.
* Thờ phượng trong sự thật
Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật khác với thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối. Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật đòi hỏi những gì mình nói với Thiên Chúa phải phản ảnh đúng những tâm tình, ý nghĩ trong đầu óc mình, và đúng với thực tế của đời sống mình. Còn thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối là có sự khác biệt giữa điều mình cầu nguyện với tâm tư, tình cảm và đời sống thực tế của mình. Cầu nguyện như thế chẳng những hoàn toàn vô ích mà còn xúc phạm và tỏ ra coi thường Thiên Chúa nữa. Nếu không thể thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật, thì thà rằng đừng thờ phượng còn hơn là thờ phượng Ngài trong giả dối.
Ngày xưa, người ta có thể giết chết một con vật làm lễ toàn thiêu, để tượng trưng cho việc họ nhìn nhận quyền Chủ Tể trên mọi sự của Thiên Chúa. Hành động tế tự đó hoàn toàn xảy ra ở bên ngoài. Nhưng bên trong, người ta vẫn có thể tiếc với Thiên Chúa những chuyện rất nhỏ: chẳng hạn họ không thể từ bỏ một ý riêng, một sở thích, một vật đang muốn chiếm hữu, hoặc hoãn thi hành một dự định, hy sinh một cơ hội, v.v... để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Như vậy, hành động thờ phượng bên ngoài chẳng phù hợp chút nào với tâm trạng bên trong. Chính vì thế, có lần Đức Giêsu nói về việc thờ phượng của họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng trí chúng thì lại xa Ta. Việc chúng thờ phượng Ta thật là vô ích” (Mt 15,8-9; Mc 7,6-7; x, Is 29,13).
Ngày nay, có biết bao người khi cầu nguyện thì nói rằng mình yêu mến Chúa, sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa; nhưng trong đời sống thì chẳng thấy họ yêu mến Ngài ở chỗ nào. Họ thường nói với Chúa: “Xin tha cho con như con vẫn tha kẻ có nợ với con”, nhưng trong thực tế, họ chấp nhất và bắt bẻ lỗi người khác từng chút một! Điều tệ hại là người ta vẫn cảm thấy an tâm, họ tưởng rằng làm như thế là đã chu toàn bổn phận thờ phượng đối với Thiên Chúa! Thiên Chúa rõ ràng không ưa lối thờ phượng đó. Ngôn sứ Isaia diễn tả sự ngao ngán và dị ứng của Thiên Chúa đối với kiểu thờ phượng bên ngoài ấy: “Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm! Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình. Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu” (Is 1,11b.13b-15). Thử đặt mình vào địa vị của Ngài xem ta có thể chấp nhận một cung cách thờ phượng như thế không? Tại sao ta lại có thể đang tâm tiếp tục thờ phượng Ngài theo kiểu ấy?
Cầu nguyện
Tôi nghe Chúa nói với tôi: “Ta đã chán những lễ nghi rỗng tuếch, ghét những những nghi thức trang trọng mà người cử hành chẳng tỏ ra có chút tình thương nào trong lòng. Ta cần tình thương của con người, nhưng họ lại chỉ dâng lên Ta toàn những nghi thức, lời kinh trống rỗng!”
49.Đền thờ Thiên Chúa--Lm Anphong Trần Đức Phương
Đền Thờ Giêrusalem hùng vĩ đã được xây cất thời vua Salomon từ năm 967-964 trước Chúa Giáng Sinh (BC) trong thành Giêrusalem Cổ, trên đồi Moriah (nơi được coi như Abraham đem con trai duy nhất là Isaac đến hiến tế cho Thiên Chúa theo lệnh Chúa truyền (Stk 22, 1-18). Đền thờ này bị người Babylon thời vua Nabuchodonosor II phá hủy vào năm 586 (BC), khi họ đến chiếm đóng Giêrusalem và bắt người Do Thái đi lưu đày ở Babylon. Đến năm 536 (BC), người Do Thái được hồi hương; sau đó, họ lại tái thiết Đền Thờ hùng vĩ như trước. Đến năm 19 (BC), Hêrôđê Đại Đế cho xây cất lại hùng vĩ hơn. Đến năm 70 sau Chúa Giáng Sinh, khi người Do Thái vùng lên chống lại sự cai trị của người Rôma, Đại Tướng Titus đã dẫn đoàn quân Rôma đến dẹp tan cuộc vùng dậy, phá hủy hoàn toàn Đền Thờ Giêrusalem (đúng như Chúa Giêsu đã nói trước vào khoảng năm 30: “Sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào…” (Mt. 24, 2; Mc. 13,2; Lc. 21,6), và bắt tất cả người Do Thái đi lưu đày khắp nơi trong Đế Quốc Rôma, và từ đó dân Do Thái lại phải rời bỏ quê hương. Sau gần 2 ngàn năm mất nước, người Do Thái lại tìm cách trở về và khôi phục lại quê hương là nước Israel ngày nay từ năm 1948.
Đền Thờ Giêrusalem luôn luôn là trung tâm thờ phượng của người Do Thái. Vào dịp Đại lễ, người Do Thái ở các nơi trở về thờ phượng Chúa tại Đền Thờ Giêrusalem thường phải đổi tiền và mua các con vật như chiên, bò, bồ câu để dâng làm lễ vật theo nghi thức Do Thái Giáo thời đó. Vì thế, người ta lợi dụng dịp này, biến Đền Thờ thành chỗ buôn bán, đổi chác để kiếm lời.
Trong bài Phúc Âm Thánh lễ hôm nay (Ga 2, 13-25), Chúa Giêsu đã phải tỏ thái độ mạnh mẽ để tìm cách thanh tẩy Đền Thờ cho xứng đáng nơi thờ phượng: “Mang tất cả những thứ này đi nơi khác! Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán!” Trước phản ứng của người Do Thái, Chúa Giêsu cũng dùng dịp này để nói về việc chính Chúa Giêsu sẽ bị họ giết đi, nhưng sau 3 ngày, Ngài sẽ sống lại.
Đền Thánh Giêrusalem đã bị phá hủy hoàn toàn để chấm dứt thời gian Cựu Ước và bước sang thời Tân Ước, và việc thờ phượng Thiên Chúa không phải chỉ lệ thuộc vào ‘Đền Thờ’, nhưng quan trọng là thờ phượng Chúa trong ‘tinh thần và chân lý’ (Gioan 4,23-24), bằng tâm hồn và lương tâm ngay thẳng của chúng ta do việc giữ đầy đủ các giới răn của Chúa đã được ghi rõ trong sách Xuất Hành (Bài Đọc I: Xh. 20, 1-17): Chu toàn các bổn phận thờ phượng Chúa, phụng dưỡng cha mẹ già yếu, thương yêu nhau, giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh tật, giữ phép công bằng và xa tránh các tội lỗi theo ham muốn xác thịt. Đó cũng là điều chúng ta đều phải suy nghĩ nhiều trong Mùa Chay Thánh để sửa đổi các lầm lỗi trong quá khứ và canh tân cuộc sống.
Vào Thánh Đường nào chúng ta cũng nhìn thấy Thánh Giá là ảnh tượng chính, để nhắc nhở chúng ta về những hy sinh đau khổ Chúa Giêsu đã phải chịu để đền thay tội lỗi chúng ta, để chúng ta thấy rõ hậu quả của tội lỗi mà chừa bỏ và xa lánh dịp tội. Vì thế, Thánh Phaolô trong Bài Đọc II (1Cr 1, 22-25) nhấn mạnh: Ngài không rao giảng sự khôn ngoan thế gian, nhưng rao giảng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, dù có những kẻ cho là điên rồ.
Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta phải nhắc bảo nhau, cha mẹ có bổn phận phải nhắc nhở con cái phải giữ thái độ xứng đáng khi đến các nơi Thờ Phượng, đặc biệt vào các Thánh lễ cuối tuần. Ăn mặc nghiêm trang, kín đáo, nhất là các người có nhiệm vụ lên đọc Sách Thánh, và các Thừa Tác Viên Thánh Thể… Tất cả mọi người khi vào Thánh Đường phải giữ cử chỉ cung kính, nhất là khi lên Rước Lễ, rước Chúa Trời Đất cao cả, thánh thiện vào lòng chúng ta. Nói chung, Thánh Đường là nơi thờ phượng chứ không phải nơi để trò chuyện, không phải nơi để khoe tài, khoe sắc, khoe quần, khoe áo!
Thánh Đường giáo xứ cũng là trung tâm thờ phượng của mỗi giáo xứ. Bổn phận mọi giáo hữu chúng ta là chung tay xây dựng và gìn giữ Thánh Đường luôn xứng đáng là nơi thờ phượng Thiên Chúa là Cha chúng ta, là trung tâm tinh thần của giáo xứ, là gia đình thiêng liêng của chúng ta. Hơn nữa, khi đến Thánh Đường, chúng ta cùng dâng lễ thờ phượng Chúa chung với cả Cộng Đoàn Đức Tin, chứ không phải chỉ là việc cá nhân hay riêng cho mỗi gia đình. Chúng ta cùng đọc kinh, cùng hát thánh ca, cùng hiệp nhất với nhau trong việc thờ phượng Chúa trong một gia đình Giáo xứ đầm ấm.
Sau hết, tâm hồn mỗi tín hữu cũng là một Đền Thờ, nơi Ba Ngôi thiên Chúa ngự trị. Luôn luôn chúng ta phải thanh tẩy Đền Thờ tâm hồn chúng ta để xứng đáng là Đền Thờ Thiên Chúa, qua việc giữ mình sạch tội: xét mình, ăn năn sám hối lỗi lầm, chừa bỏ tội lỗi hàng ngày; đặc biệt qua việc lãnh nhận Bí tích Hòa Giải. Xin Chúa thương thanh tẩy, thánh hóa chúng ta trong Mùa Chay Thánh này.
50.Chúa nhật 3 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
CON NGƯỜI THỜI CHÚA GIÊSU CŨNG PHẢI ĐỐI MẶT VỚI THÁCH THỨC VỀ SỰ ĐA DẠNG QUAN ĐIỂM
Các bài đọc Chúa nhật III Mùa Chay hôm nay nhắc nhở về những cuộc chiến đấu và cam kết nhằm giúp chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn. Chúng tạo cho chúng ta cơ hội suy ngẫm về những mong ước để trở thành thành viên trong một cộng đoàn đức tin.
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe về Mười Điều Răn được ban cho Môsê để công bố cho dân Israel. Sau cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập, dân chúng quy tụ tại chân núi Sinai, và Môsê lên núi nhận bản luật để tuân giữ khi vào đất hứa. Lề luật đưa ra một ô cửa để nhìn vào những lý tưởng của người Israel cổ đại trong việc thờ phượng và hành xử đúng đắn nơi cộng đoàn. Lề luật là lời nhắc nhở các đòi hỏi đi kèm với tư cách thành viên trong một cộng đoàn đức tin.
Tương tự, bài đọc thứ hai, nêu bật những thách thức khi sống trong một xã hội có nhiều quan điểm khác nhau. Thánh Phaolô viết thư cho cộng đoàn ở Côrintô và ngài lưu ý rằng những Kitô hữu sơ khai đang sống giữa những người Do Thái và Hy Lạp. Những người này có thể chỉ trích đức tin của Kitô hữu về cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Tuy nhiên, ngài khuyến khích cộng đoàn duy trì niềm tin và sự tín thác vào sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa. Thánh Phaolô mở ngỏ việc đón nhận cả người Do Thái lẫn dân ngoại vào cộng đoàn nếu họ nhận ra tầm quan trọng của Chúa Kitô.
Trong bài Tin mừng, chúng ta nghe câu chuyện Chúa Giêsu đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, lên án việc buôn bán trong sân đền thờ. Trong khi việc họ hiện diện ở những nơi này có lẽ không sai trái, Chúa Giêsu tức giận vì họ buôn bán súc vật và tuyên bố, “Đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán.” Nhìn bề ngoài, vấn đề này xảy ra như một lời chỉ trích chống lại các giao dịch kinh doanh ở nơi thánh. Tuy nhiên, sự việc này có mục đích mang tính biểu tượng nhiều hơn.
Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán và súc vật dùng để hiến tế vào lễ Vượt Qua, tưởng niệm quyền năng cứu độ của Thiên Chúa trước và trong cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập. Hành động đầy kịch tính của Chúa Giêsu cho thấy rằng những hy lễ Vượt Qua sẽ không còn cần thiết nữa. Trước khi hoàn tất sứ vụ của mình, Chúa Giêsu trở thành con chiên Vượt Qua (Paschal) tối hậu. Vào cuối Tin mừng thánh Gioan, Chúa Giêsu bị đóng đinh vào lễ Vượt Qua. Ở đầu Tin mừng, thánh Gioan Tẩy Giả đã tuyên bố: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian” (Ga 1, 29). Qua việc xua đuổi súc vật và những người buôn bán, Chúa Giêsu rõ ràng xác nhận rằng hy lễ không còn cần thiết nữa vì Ngài sẽ là Chiên vượt qua, sẽ chết và sống lại từ cõi chết.
Khi chuẩn bị tưởng niệm cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta cần nhìn nhận những khó khăn và đòi hỏi đi kèm với đức tin. Cũng vậy, chúng ta cần tiếp tục cầu nguyện và suy ngẫm về ý nghĩa của mầu nhiệm Vượt qua.
Nguồn: http://www.americamagazine.org/faith/2021/02/18/third-sunday-lent-gospel-reflection-catholic-scripture-239994
51.Thanh tẩy “Nhà Thờ”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Các môn đệ Chúa Giêsu khi chứng kiến việc Thầy mình thịnh nộ trước sự kiện người ta biến đền thờ thành nơi buôn bán, đã nhớ lại lời Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”. Một cơn thinh nộ đúng nghĩa bằng việc lấy dây làm roi đánh đuổi người buôn bán chiên bò, lật nhào bàn ghế và hất tung tiền của những người đổi bạc. Quả là to gan, nếu không là tên phạm thượng thì cũng là phường phá hoại. Cần phải nghiêm trị nếu không sẽ mất hết luật lệ, mất hết truyền thống, tôn ti…
Trước hết cần phải cật vấn ông này lấy quyền gì mà làm những sự to gan, tày trời như vậy. Những người Do Thái lúc bấy giờ, cách riêng những người đang có trọng trách đã kinh ngạc trước câu trả lời của Chúa Giêsu: Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại. Dĩ nhiên họ chẳng thể hiểu nội hàm câu trả lời của Người. Sau này, khi chứng kiến cuộc khổ nạn và phục sinh của Thầy chí thánh, các môn đệ mới hiểu Thầy dùng chính mạng sống của mình để làm dấu chỉ cho việc Người có quyền hành sử những sự to gan như thế. Đã chấp nhận hy sinh mạng sống vì sự việc gì đó thì nó phải có tầm quan trọng đáng kể và việc đó chính là thanh tẩy đền thờ.
Thanh Tẩy nhà thờ vật chất gỗ đá (église - church): Chuyện nhỏ. Quét bụi, lau chùi bàn ghế nhà thờ… là chuyện phải làm. Người ta vẫn làm thường nhật hay thường kỳ mà chẳng một ai thắc mắc. Ra những quy luật để gìn giữ các nhà thờ thực sự là nơi quy tụ tín hữu cho việc thờ phượng, tránh các lạm dụng làm mất sự thiêng thánh, thì cũng là chuyện dễ đón nhận và tuân giữ. Nhiều nơi, nhiều giáo xứ khi có điều kiện đã xây phòng hội, xây phòng giáo lý để tách các việc hội họp, dạy giáo lý ra khỏi nhà thờ. Đây là việc làm chính đáng nhưng cũng vẫn là chuyện không lớn.
Thánh hiến hay làm phép một ngôi nhà thờ cũng chẳng là chuyện trọng đại nếu xét về công sức bỏ ra. Chỉ một thánh lễ do đức Giám mục chủ sự hay do một linh mục được uỷ quyền thì mọi sự gọi là hoàn tất.
Thanh tẩy Nhà Thờ (Église – Church): Chuyện lớn. Khi hai từ nhà thờ được viết hoa thì đã không còn là một công trình kiến trúc vật chất, cho dù vẫn còn nhiều người, nhiều tập thể, vì thiếu hiểu biết hay cố tình làm như không biết, gọi là “bọn Nhà Thờ” hay “Nhà Thờ”, mà thực ra đó là Giáo Hội. Thanh tẩy Giáo Hội ư? Chuyện lớn đấy! Đó là một cơ cấu tổ chức, là một thực thể có tính thánh thiêng. Đó là tập thể những người có niềm tin. Và cũng không thể không kể, cho dù chỉ là đại diện, đó là những người đang có quyền cao, chức trọng. Trong niềm tin và theo giáo lý, Giáo Hội được Công đồng Vatican II trình bày với hình ảnh nền tảng đó là đoàn dân Thiên Chúa. Thế nhưng dưới cái nhìn người bình dân trong đạo và theo nhãn quan của bà con ngoài đạo thì quý đấng bậc có “chức vụ cao trọng” được đồng hoá với Giáo Hội cách nào đó.
Để làm cho cơ cấu tổ chức và luật lệ thực sự có ra vì con người chứ không ngược lại, thì quả là chuyện không nhỏ chút nào (x. Mc 2,27). Công đồng Vatican II đã kết thúc vào năm 1965, thế mà phải đến năm 1983 Bộ tân Giáo Luật mới được hình thành. Thử hỏi nội dung và tinh thần của bộ Giáo Luật 1983 đã được triển khai và áp dụng ra sao và ở mức độ nào? Chuyện “phép vua thua lệ làng” hình như vẫn tồn tại ít nhiều nơi này nơi kia. Để giúp những người đang mang trọng trách với chức vị lớn trở thành “người hầu thiên hạ” thì cũng không phải là việc một sớm một chiều (x.Mc 9,35). Chuyện “phủ bênh phủ, huyện bênh huyện” là chuyện vẫn không là cá biệt. Thỉnh thoảng có một vài tín hữu giáo dân vì thành tâm mà bạo miệng lên tiếng về một vài tình trạng “cha chú” đó đây, hoặc lên tiếng về thái độ thụ động của đấng này, vị kia trước bất công, bạo quyền, thì cũng dễ bị hứng “búa rìu” cách này cách khác.
Thanh tẩy đền thờ tâm hồn: chuyện hệ trọng. “Bách niên chi kế, mạc như thụ nhân” (Quản Trọng). Và kế ngàn đời là trồng con cái Chúa. Trồng người con Chúa ra sao đây? Bản Thập giới mà bài trích sách Xuất Hành trình bày không hề lỗi thời mà trái lại. Chúa Kitô đã minh nhiên nhắc lại điều này với một vị luật sĩ và với người thanh niên muốn nên trọn lành (x.Mt 19,16-19). Để mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình thì chuyện thanh tẩy là chuyện phải làm cả đời.
Theo thiển ý, để có những đền thờ tâm hồn trong sáng, thánh thiện, xứng đáng, thì một trong những điều cần thanh tẩy đó là sự tham lam. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng gọi tham lam là một hình thức “thờ ngẫu tượng”. Chúa Kitô cũng đã từng ví “của tiền” (dĩ nhiên có cả chức quyền, danh vị) như một vị thần, khi Người nói rằng không được làm tôi hai chủ (x.Lc 16,13). Và thực tiển minh chứng rõ ràng lòng tham lam, tham danh, hám lợi đã giết chết hay làm băng hoại tình người thật khó lường. Sự tham lam khi đã được quyền bính bảo kê hay được luật lệ hợp thức hoá thì hậu quả thật khó lường.
Đức Bênêđictô XVI trong cuốn “Đức Giêsu thành Nagiarét” nhận thức rằng khi Chúa Giêsu thanh tẩy đền Thờ Giêrusalem, Người không phá bỏ lề luật nhưng Người đánh đổ các sai trái của con người vốn đã được lề luật hoá (Phần II trang 24).
Thanh tẩy nhà thờ gỗ đá, cách riêng Nhà Thờ viết hoa hay đền thờ tâm hồn chắc chắn phải có trả giá. Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng, dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan thì chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh…(1Cr 1,22). Chúa Kitô đã chấp nhận để người ta phá “thân thể Người” để rồi xây lại sau ba ngày không phải chỉ để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem mà đặc biệt để thanh tẩy cái Nhà Thờ viết hoa cũng như các đền thờ tâm hồn, tức là con người qua mọi thời đại.
Môn đệ không trọng hơn Thầy (x.Ga 15,20). Rất nhiều người, nhiều vị thánh đã từng to gan tiếp bước chân Thầy chí thánh nhiệt thành lo việc thanh tẩy Nhà Thờ viết hoa, thanh tẩy các đền thờ tâm hồn. Và số phận của họ đã dẩy đầy truân chuyên. Nói gì cho xa, để có được thành quả là Công Đồng Vatican II và gìn giữ cũng như phát triển thành quả ấy thì nhiều vị, nhiều đấng bậc đã chấp nhận bao hy sinh, khổ ải, truân chuyên. Cuộc đời của Hồng Y Ives Congar, cha Marie –Dominique Chenu, Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI… là những minh chứng hùng hồn.
Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một quy luật như là tất yếu. Đã sợ thiệt thân thì hầu chắc không làm được sự gì tốt cho việc nhà Chúa. An thân, thủ phận, hay sống theo “chủ nghĩa cơ hội” thật không xứng với người môn đệ Chúa Kitô. Có thể có nhiều lý do, nhưng chắc chắn có lý do này, đó là chưa nhiệt tâm lo việc nhà Chúa. Khi chưa nhiệt tâm lo việc nhà Chúa thì có lẽ chúng ta đang mải mê lo việc nhà mình chăng?
52.Phải bị thiệt thân--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Các môn đệ Chúa Giêsu khi chứng kiến việc Thầy mình thịnh nộ trước sự kiện người ta biến đền thờ thành nơi buôn bán, đã nhớ lại lời Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một cơn thinh nộ đúng nghĩa bằng việc lấy dây làm roi đánh đuổi người buôn bán và chiên bò, lật nhào bàn ghế và tung vãi tiền của những người đổi bạc. Quả là to gan, nếu không là tên phạm thượng thì cũng là phường phá hoại. Cần phải nghiêm trị nếu không sẽ mất hết luật lệ, mất hết truyền thống, tôn ti...
Trước hết cần phải cật vấn ông này lấy quyền gì mà làm những sự to gan, tày trời như vậy. Những người Do Thái lúc bấy giờ, cách riêng những người đang có trọng trách đã kinh ngạc trước câu trả lời của Chúa Giêsu: Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại. Dĩ nhiên họ chẳng thể hiểu nội hàm câu trả lời của Người. Sau này, khi chứng kiến cuộc khổ nạn và phục sinh của Thầy chí thánh, các môn đệ mới hiểu Thày dùng chính mạng sống của mình để làm dấu chỉ cho việc Người có quyền hành sử những sự to gan như thế. Đã chấp nhận hy sinh mạng sống vì sự việc gì đó thì nó phải có tầm quan trọng đáng kể và việc đó chính là thanh tẩy đền thờ.
Thanh Tẩy nhà thờ vật chất gỗ đá (église - church): Chuyện nhỏ. Quét bụi, lau chùi bàn ghế nhà thờ... là chuyện phải làm. Người ta vẫn làm thường nhật hay thường kỳ mà chẳng một ai thắc mắc. Ra những quy luật để gìn giữ các nhà thờ thực sự là nơi quy tụ tín hữu cho việc thờ phượng, tránh các lạm dụng làm mất sự thiêng thánh, thì cũng là chuyện dễ đón nhận và tuân giữ. Nhiều nơi, nhiều giáo xứ khi có điều kiện đã xây phòng hội, xây phòng giáo lý để tách các việc hội họp, dạy giáo lý ra khỏi nhà thờ. Đây là việc làm chính đáng nhưng cũng vẫn là chuyện không lớn.
Thánh hiến hay làm phép một ngôi nhà thờ cũng chẳng là chuyện trọng đại nếu xét về công sức bỏ ra. Chỉ một thánh lễ do đức Giám mục chủ sự hay do một linh mục được uỷ quyền thì mọi sự gọi là hoàn tất.
Thanh tẩy Nhà Thờ (Église - Church): Chuyện lớn. Khi hai từ nhà thờ được viết hoa thì đã không còn là một công trình kiến trúc vật chất, cho dù vẫn còn nhiều người, nhiều tập thể vì thiếu hiểu biết hay cố tình làm như không biết, gọi là "bọn Nhà Thờ" hay "Nhà Thờ", mà thực ra đó là Giáo Hội. Thanh tẩy Giáo Hội ư? Chuyện lớn đấy! Đó là một cơ cấu tổ chức, là một thực thể có tính thánh thiêng. Đó là tập thể những người có niềm tin. Và cũng không thể không kể, cho dù chỉ là đại diện, đó là những người đang có quyền cao, chức trọng. Trong niềm tin và theo giáo lý, Giáo Hội được Công đồng Vatican II trình bày với hình ảnh nền tảng đó là đoàn dân Thiên Chúa. Thế nhưng dưới cái nhìn người bình dân trong đạo và theo nhãn quan của bà con ngoài đạo thì quý đấng bậc có "chức vụ cao trọng" được đồng hoá với Giáo Hội cách nào đó
Để làm cho cơ cấu tổ chức và luật lệ thực sự có ra vì con người chứ không ngược lại, thì quả là chuyện không nhỏ chút nào (x. Mc 2,27). Công đồng Vatican II đã kết thúc vào năm 1965, thế mà phải đến năm 1983 Bộ tân Giáo Luật mới được hình thành. Thử hỏi nội dung và tinh thần của bộ Giáo Luật 1983 đã được triển khai và áp dụng ra sao và ở mức độ nào? Chuyện "phép vua thua lệ làng" hình như vẫn tồn tại ít nhiều nơi này nơi kia. Để giúp những người đang mang trọng trách với chức vị lớn trở thành " người hầu thiên hạ" thì cũng không phải là việc một sớm một chiều (x.Mc 9,35). Chuyện "phủ bênh phủ, huyện bênh huyện" là chuyện vẫn không là cá biệt. Thỉnh thoảng có một vài tín hữu giáo dân vì thành tâm mà bạo miệng lên tiếng về một vài tình trạng "cha chú" đó đây, thì cũng dễ bị hứng "búa rìu" cách này cách khác.
Thanh tẩy đền thờ tâm hồn: chuyện hệ trọng. "Bách niên chi kế, mạc như thụ nhân" (Quản Trọng). Và kế ngàn đời là trồng con cái Chúa. Trồng người con Chúa ra sao đây? Bản Thập giới mà bài trích sách Xuất Hành trình bày không hề lỗi thời mà trái lại. Chúa Kitô đã minh nhiên nhắc lại điều này với một vị luật sĩ và với người thanh niên muốn nên trọn lành (x.Mt 19,16-19). Để mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình thì chuyện thanh tẩy là chuyện phải làm cả đời.
Theo thiển ý, để có những đền thờ tâm hồn trong sáng, thánh thiện, xứng đáng, thì một trong những điều cần thanh tẩy đó là sự tham lam. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng gọi tham lam là một hình thức "thờ ngẫu tượng". Chúa Kitô cũng đã từng ví "của tiền" (dĩ nhiên có cả chức quyền, danh vị) như một vị thần, khi nói rằng không được làm tôi hai chủ (x.Lc 16,13). Và thực tiển minh chứng rõ ràng lòng tham lam đã giết chết hay làm băng hoại tình người thật khó lường.
Thanh tẩy nhà thờ gỗ đá, cách riêng Nhà Thờ viết hoa hay đền thờ tâm hồn chắc chắn phải có trả giá. Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng, dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan thì chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh...(1 Cr 1,22). Chúa Kitô đã chấp nhận để người ta phá "thân thể Người" để rồi xây lại sau ba ngày không phải chỉ để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem mà đặc biệt để thanh tẩy cái Nhà Thờ viết hoa cũng như các đền thờ tâm hồn, tức là con người qua mọi thời đại.
Môn đệ không trọng hơn Thầy (x.Ga 15,20). Rất nhiều người, nhiều vị thánh đã từng to gan tiếp bước chân Thầy chí thánh nhiệt thành lo việc thanh tẩy Nhà Thờ viết hoa, thanh tẩy các đền thờ tâm hồn. Và số phận của họ đã dẩy đầy truân chuyên. Nói gì cho xa, để có được thành quả là Công Đồng Vatican II và gìn giữ cũng như phát triển thành quả ấy thì nhiều vị, nhiều đấng bậc đã chấp nhận bao hy sinh, khổ ải, truân chuyên. Cuộc đời của Hồng Y Ives Congar, cha Marie -Dominique Chenu, Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI... là những minh chứng hùng hồn.
Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một quy luật như là tất yếu. Đã sợ thiệt thân thì hầu chắc không làm được sự gì tốt cho việc nhà Chúa. An thân, thủ phận, hay sống theo "chủ nghĩa cơ hội" thật không xứng với người môn đệ Chúa Kitô. Có thể có nhiều lý do, nhưng chắc chắn có lý do này, đó là chưa nhiệt tâm lo việc nhà Chúa.
53.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Phép lạ hoặc những việc làm của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan thường mang ý nghĩa biểu tượng. Dấu lạ được thánh Gioan kể lại là để nói lên một thực tại khác về Chúa Giêsu. Thí dụ phép lạ khiến ông La-da-rô sống lại cho ta biết Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Cũng vậy, việc Chúa lên Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua và tẩy uế Đền Thờ là để nói lên rằng Chúa Giêsu sẽ thay thế cho Đền Thờ. Thiên Chúa không còn ngự trị trong Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem hay tại Ga-ri-dim nữa, nhưng trong Đức Kitô, để “những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,23). Thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ Mới là Chúa Kitô chắc chắn phải là một đề tài ta cần suy nghĩ và xét lại trong mùa Chay về cách thờ phượng và cầu nguyện của ta.
a) “Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”
Khác với các sách Tin Mừng nhất lãm, sách Tin Mừng Gioan nói Chúa Giêsu lên Giê-ru-sa-lem nhiều lần và việc tẩy uế Đền Thờ xảy ra ngay ban đầu sứ vụ của Người. Đặc biệt những lời của Chúa Giêsu nói trong dịp này cũng mang một sắc thái hoàn toàn khác. Không phải những câu trích dẫn ngôn sứ I-sai-a và Giê-rê-mi-a, nhưng là những lời của chính Chúa Giêsu nói với mọi người: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Do đó lệnh truyền của Chúa Giêsu không chỉ đòi ta phải suy tư về ý nghĩa của Đền Thờ Mới, nhưng còn đòi ta phải có những hành động cụ thể để thanh tẩy đền thờ của Chúa Thánh Thần, tức là thân xác và tâm hồn của ta.
Thật là một hình ảnh tuyệt vời nếu ta hiểu tất cả con người Chúa Giêsu là Đền Thờ Thiên Chúa ngự. Nơi Người, bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại kết hiệp với nhau trong một ngôi vị, tức là Ngôi Hai Thiên Chúa. Không những Thiên Chúa hoàn toàn ngự trong Chúa Giêsu, mà còn nhờ Chúa Giêsu ở lại với nhân loại (Emmanuel = Thiên Chúa ở cùng chúng ta). Đến với loài người qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa muốn mọi sự đổi mới. Đời sống mới của ta phải theo lề luật mới là giáo lý Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng đến để kiện toàn Lề Luật. Việc phụng tự biểu lộ quan hệ giữa ta với Thiên Chúa cũng phải đổi mới. Đền thờ Giê-ru-sa-lem không còn là trung tâm thờ phượng, nơi duy nhất người ta đến với Chúa nữa. Nhưng từ nay, Chúa Giêsu thay thế cho Đền Thờ và là nơi thể hiện việc thờ phượng đích thực. Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem... Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật”. Chỉ trong Chúa Giêsu mới có sự thật toàn vẹn và thần khí Thiên Chúa đầy tràn. Do đó chỉ trong Người mới thể hiện việc thờ phượng đích thực. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn muốn mỗi người môn đệ phải là “người thờ phượng đích thực” và trở nên một đền thờ sống động, hoặc những viên đá sống động để xây dựng Hội Thánh Người. Thánh Phao-lô khẳng định: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3,16).
Giáo Hội là Thân Thể Mầu nhiệm Chúa Kitô. Người là Đầu và ta là chi thể của Nhiệm Thể ấy. Như vậy, khi ta hiệp cùng Giáo Hội thờ phượng Thiên Chúa trong Chúa Kitô thì việc thờ phượng đó là đích thực. Ta cũng hiểu được tại sao Giáo Hội luôn luôn kết thúc các lời nguyện với câu: Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Bởi vì nếu không nhờ Đức Kitô, Đấng Trung gian giữa Thiên Chúa và con người, lời cầu nguyện cũng như việc thờ phượng của ta không bao giờ có thể đạt tới mức thập toàn được.
b) “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”
Nếu ý thức ta là đền thờ Thiên Chúa ngự, ta sẽ thấy lời nói trên của Chúa Giêsu bắt ta phải suy nghĩ về tình trạng đền thờ của ta. Trước hết Chúa gọi tâm hồn ta là “nhà Cha tôi” và lúc nào cũng phải là nơi xứng đáng để Chúa Cha hiện diện tại đó. Chúa đã nhìn thấy nguy cơ có thể xảy ra cho ta, đó là tâm hồn ta biến thành “nơi buôn bán”. Ta thử tưởng tượng lại khung cảnh buôn bán tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Những ồn ào, cãi vã, gian dối, lường gạt... đầy dẫy trong khung cảnh buôn bán ấy và không thích hợp chút nào cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr 7:11) gọi nơi buôn bán ấy là “sào huyệt của bọn cướp”. Thực đúng như vậy. Khách hành hương từ xa tới Đền Thờ ít khi quan tâm vấn đề tiền bạc. Còn đám con buôn thì lợi dụng thời cơ và lòng đạo đức của khách hành hương, tìm đủ cách moi tiền của họ để làm giầu cho mình.
Tình trạng này vẫn xảy ra tại nhiều nơi hành hương trên thế giới hôm nay. Nếu tới Đất Thánh và Giê-ru-sa-lem, ta cũng khó mà kiếm được vài ba chỗ có được khung cảnh cầu nguyện thích hợp. Có lẽ chỉ có Na-da-rét và núi Tám Mối phúc là còn khung cảnh thanh tĩnh giúp ta sống lại những quan hệ mầu nhiệm Chúa Kitô. Tại những nơi hành hương nổi tiếng như Lộ-đức và Fatima, chung quanh Đền thánh việc buôn bán sầm uất không kém! Đó là những buôn bán bên ngoài. Còn những buôn bán bên trong tâm hồn thì sao? Trong Giáo Hội, tinh thần buôn thần bán thánh vẫn là điều khiến nhiều người đặt vấn đề. Ngày nay Giáo Hội Hoa-kỳ đã bị ràng buộc trong cơ cấu hành chánh và tiền bạc, không sao tìm được lối thoát. Không có tiền, làm sao trả lương các linh mục, thư ký văn phòng, giám đốc thánh nhạc, giám đốc giáo lý... chưa kể những khoản bảo trì cơ sở vô cùng tốn kém. Có những giáo phận bỏ ra cả mấy triệu bạc để thuê một công ty “gây quỹ”, đặt chỉ tiêu cho các giáo xứ phải quyên góp cho đủ! Do đó thật khó mà tránh được tinh thần buôn bán ngay trong những công việc đạo đức.
Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là tình trạng buôn bán trong tâm hồn mỗi Kitô hữu. Chúa Giêsu dạy ta “đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”. Người để cho ta nhận diện từng thứ, rồi đem “tất cả” ra khỏi tâm hồn ta. Tâm hồn ta trước hết phải là “lều hội ngộ” để Chúa và ta gặp gỡ mọi lúc. Chúa Giêsu, sự thật toàn vẹn và Thần Khí đầy tràn, phải chiếm hữu tất cả con người của ta để loại trừ đi cảnh buôn bán và sào huyệt của bọn cướp. Thánh Phao-lô cho ta thấy sự trái ngược giữa hoa quả của Thần Khí và hoa quả của tính xác thịt, là những điều có thể gặp thấy trong tâm hồn ta. Nếu ta biết đem tất cả những gì thuộc tính xác thịt ra khỏi tâm hồn và thay thế bằng những hoa quả tốt lành của Thần Khí, ta sẽ là một đền thờ xứng đáng cho Chúa Ba Ngôi ngự trị. “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy... Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,19-24).
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Nếu coi mùa Chay như là mùa “dọn dẹp tâm hồn”, tôi có chương trình cụ thể nào để tẩy uế đền thờ tâm hồn tôi? Tôi phải đem “tất cả những thứ này” ra khỏi tâm hồn tôi, vậy đó là những thứ gì?
Tôi hiểu thế nào là thờ phượng trong sự thật và thần khí? Chúa Giêsu là sự thật toàn vẹn giúp tôi hiểu gì về Thiên Chúa? Và thần khí của Người dạy tôi sống như thế nào?
Việc thờ phượng với tính cách cá nhân và cộng đồng của tôi như thế nào? Tôi tham dự vào việc thờ phượng của toàn thể Giáo Hội một cách tích cực hay hời hợt? Tôi tham dự vào đời sống của Nhiệm Thể Chúa Kitô như thế nào? Tôi đã làm gì để đóng góp vào việc giúp cho Giáo Hội được lành mạnh thêm và chiếu tỏa hình ảnh Chúa Kitô hơn ngay trong cộng đoàn đức tin tôi thuộc về?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy
chỗ đứng của con trong Hội Thánh:
nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện.”
- dựa theo lời của thánh Têrêxa
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 62)
54.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Alfonso
Tin mừng Ga 2: 13-25: Tin mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu hành hương lên đền thờ Giêrusalem, nhìn thấy những người đang đổi tiền, buôn bán chiên bò, chim câu, Chúa Giêsu đã nổi giận, cầm roi đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền thờ.
Suy Niệm
Thiên Chúa đã chọn cho Con của Ngài nhập thể làm người có một nơi một chốn, một xã hội và môi trường văn hóa. Chính vì thế theo năm tháng lớn lên, Chúa Giêsu được cha nuôi Giuse và Mẹ Maria chỉ dạy để trở nên một người Do Thái nhiệt thành sống đạo. Thánh sử Gioan đã bảy lần ghi lại Chúa Giêsu hành hương lên Giêrusalem vào những dịp lễ trọng (Ga 5,1; 6,4; 7,2; 10,22; 11,55; 12,1; 13,1), đặc biệt là Lễ Vượt qua vào Mùa Xuân và Lễ Lều trại vào Mùa Thu.
Trong đoạn Tin mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu hành hương lên đền thờ Giêrusalem, nhìn thấy những người đang đổi tiền, buôn bán chiên bò, chim câu, Chúa Giêsu đã nổi giận, cầm roi đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền thờ. Những người buôn bán nơi đây không hẳn là những người xấu, bởi vì đồng tiền sử dụng bên ngoài thị trường mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma đang đô hộ dân Israel, nên buộc đổi sang một đồng tiền chỉ dành cho phụng tự nơi đền thờ. Còn những người bán chiên, bò, chim bồ câu phục vụ đáng kể cho khách hành hương từ xa đến, đang cần sắm sửa tại chỗ những lễ vật cần thiết để tiến dâng, đỡ vất vả mang lễ vật khệ nệ đi đường. Nhưng sở dĩ Chúa Giêsu nổi giận là vì vị trí quá lớn của tiền bạc đang dần ngự trị trong Đền thờ. Và họ tự biến việc phục vụ của mình trở thành nghề thương mại, biến mình thành những con buôn, lòng họ trở nên dính bén với tiền bạc.
Vì thế mà Chúa Giêsu dứt khoát: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Điều này làm cho những người chứng kiến liền phản ứng. Mọi người đều biết lời tiên báo này gợi nhớ tiên tri Giacaria loan báo việc tẩy uế Đền thờ (14,21). Họ hiểu ngay rằng người đang đánh đuổi họ không những là một vị cải tổ để tố cáo những lạm dụng nơi Đền thờ, mà còn trong tư cách Đấng Messia, đến để làm cho lời tiên tri thực hiện.
Chúng ta hãy lắng nghe kỹ kiểu nói lạ thường mà Chúa Giêsu sử dụng để nói về đền thờ. Người đã không dùng từ “nhà của Chúa”, mà Người nói “nhà Cha Ta”. Điều này tỏ cho thấy mối liên hệ đặc biệt giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha, trong tương quan Cha-Con. Người nói hết sức tự nhiên, chỉ nơi đây chính là nhà của Cha Người, là nhà của Người. Điều này làm cớ cho những người Do Thái xem Chúa Giêsu phạm thượng, vì đối với họ, ông Giêsu con ông thợ mộc và bà Maria ở làng quê Nazarerth vô danh tiểu tốt cùng lắm là một vị tiên tri. Để rồi đỉnh điểm, những người đang muốn làm lợi kinh tế cho mình nơi đền thờ sôi sục khi Chúa Giêsu phán rằng: “Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”.
Câu nói của Chúa Giêsu làm cho chúng ta phải thót tim nếu như đang ở trong khung cảnh đó, vì khi dám đụng tới Đền Thờ Giêrusalem, kết tinh của tình cảm, đức tin và niềm kiêu hãnh của toàn dân Do Thái “phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?” Vì thế mà án tử họ dành cho Chúa Giêsu là điều khó tránh khỏi. Nhưng điều Chúa Giêsu muốn nhắm tới là việc thanh tẩy đền thờ tâm hồn con người. Vâng! Đền thờ vật chất rồi cũng qua đi, và thánh sử Gioan viết đoạn Tin mừng này trong bối cảnh sau năm 70, khi mà đền thờ Giêrusalem đã bị thiêu rụi. Gioan chỉ ra điều Chúa Giêsu nhắm đến trước tiên là yếu tố phụng tự mà con người thể hiện với Thiên Chúa, không phải là những gì bên ngoài như bò, chiên, bồ câu… cho bằng tấm lòng con thảo ta đặt vào đó. Tấm lòng con thảo luôn muốn giữ Lời Chúa, Lời mà Ngài mời gọi dân khi đã vượt ra khỏi Ai Cập, bằng giao ước Mười Điều Răn Ngài trao cho Môisen trên núi Sinai. Khi dân khôn ngoan, trung thành sống các Giới luật đó thì Chúa sẽ gìn giữ dân. Dẫu cho việc tin vào Chúa Giêsu là cớ vấp phạm đối với người Do Thái, và là sự điên rồ đối với người Hy Lạp, là thua thiệt đối với dân ngoại gán cho những các Kitô hữu, song chính các Kitô hữu đang là những người được hướng dẫn tiến đến sự khôn ngoan khi chọn lấy Chúa Kitô là Đường Cứu Độ, vì chính họ được giáo huấn để sống trong tình thương Thiên Chúa dành cho con người.
Chuyện Mạnh Tử, nhà tử tưởng, chính trị và giáo dục lớn của Trung Hoa, là người kế thừa tư tưởng Nho gia của Khổng Tử, mồ côi cha từ nhỏ, vì thế mà người mẹ Chương Thị rất lưu tâm đến việc nuôi dưỡng giáo dục Mạnh Tử nên người. Nhà Mạnh Tử ban đầu ở dưới chân núi, gần nghĩa trang. Mạnh Tử cùng lũ trẻ con chơi đùa, thường gặp cảnh đưa tang nên cũng bắt chước theo: đào, chôn, lăn, khóc. Mẹ Mạnh Tử thấy vậy ái ngại: “Chỗ này u ám, tang tóc không phải chỗ con ta ở được”. Bà bèn chuyển nhà tới gần một chợ phiên, đến buổi chợ là ồn ào huyên náo cảnh mặc cả trả giá, cảnh buôn bán lời qua tiếng lại, chẳng thiếu chuyện lừa lọc, điêu ngoa. Mẹ Mạnh Tử lại nghĩ: “Chỗ thị phi, gian dối này cũng không phải chỗ con ta ở được”. Mạnh mẫu không muốn con bị ô nhiễm bởi thói chợ búa chỉ biết mưu đồ kiếm lợi. Lần thứ ba bà chuyển nhà đến gần trường học. Tuy nhà cửa nhỏ bé tồi tàn, nhưng luôn có những Nho sinh dáng vẻ cao nhã, phong thái chuẩn mực. Mạnh Tử cùng lũ trẻ túm tụm dưới gốc cây tập tành học lễ nghĩa, nhân cách, chắp tay cúi chào, nhường nhịn, rất ra dáng và cung kính, khiến Mạnh mẫu từ xa nhìn xem, trong sâu thẳm nội tâm rất vui mừng: “Đây mới là hoàn cảnh cư trú tốt nhất cho con ta nên người”. Sách Tam Tự Kinh cũng viết rằng “Dưỡng bất giáo, nãi phụ quá”, “Giáo bất nghiêm, sư chi nọa”. Nuôi mà không dạy, là lỗi người cha; dạy mà không nghiêm, là lỗi người thầy.
Lạy Chúa, xin cho con biết vượt lên trên con người ích kỷ của con, những bon chen thường ngày, để chọn lấy Chúa là niềm vui và cùng đích đời con. Amen.
55.Đức Giêsu tẩy uế đền thờ--Lm Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Lần đầu tiên, tác giả Gioan có một bản văn song song với các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 11,15-19; Mt 21,12-17; Lc 19,45-48). Tuy nhiên, có những khác biệt:
- Trong khi Tin Mừng IV đặt biến cố này vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu, các Tin Mừng Nhất Lãm lại đặt ở đầu tuần Khổ Nạn.
- Lý do đã thúc đẩy Đức Giêsu can thiệp được gợi hứng bởi các bản văn ngôn sứ, cũng không giống nhau: “một nơi buôn bán” (Ga 2,16) thì nhắm đến chuyện mua qua bán lại, còn “sào huyệt của bọn cướp” (Mc 11,17 và //) thì hàm chứa một cáo giác về sự trộm cắp.
- Cuối cùng, cuộc cãi vã giữa Đức Giêsu và các đối thủ xảy ra ngay sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày hôm sau (theo các Tin Mừng Nhất Lãm: Mc 11,28 và //).
Trong quá khứ, người ta thường đề nghị một giả thuyết, theo chiều hướng tương phù (concordism): Đức Giêsu đã đuổi những người buôn bán khỏi Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và cuối sứ vụ (Tin Mừng Nhất Lãm). Nhưng dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có thể lặp lại được một thách đố như thế đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đàng khác, giữa bản văn của Ga và của các Tin Mừng Nhất Lãm có những nét tương đồng, khiến người ta phải nghĩ rằng hầu chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến cố duy nhất: nơi cả hai bên, ta đều thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm cử chỉ ấy (sự hiện diện của những người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có một lời Đức Giêsu trách mắng những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ lãnh Do Thái, và nhất là dây liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết của Đức Giêsu (Ga 2,17.19; Mc 11,18; Lc 19,47).
Vậy phải chọn giữa bài của Gioan và bài của Tin Mừng Nhất Lãm: bài nào đã đặt biến cố này vào đúng thời điểm?
1. Đa số các nhà chú giải Công Giáo và nhiều nhà chú giải Tin Lành ủng hộ bài của Gioan. Luận điểm chính nằm trong chi tiết về thời gian do 2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ bắt đầu từ năm 20/19 tr CG (Fl. Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27 CN: thời điểm này phù hợp với khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người ta hiểu các Tin Mừng Nhất Lãm đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì các Tin Mừng Nhất Lãm chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất và một lễ Vượt Qua duy nhất.
2. Những người nghiêng về các Tin Mừng Nhất Lãm thì ghi nhận trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố này của Đức Giêsu và cái chết của Người không mấy phù hợp với thời gian khởi đầu sứ vụ của Người. Tại cuộc xử án Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại câu tuyên bố của Người về việc phá Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên người ta còn nhớ rõ. Nhưng luận điểm mạnh nhất, là tác giả Gioan đã đưa bài tường thuật này ra đầu sứ vụ của Đức Giêsu, vì ông trung thành với quan điểm ông đã biểu lộ trong bài tường thuật Dấu lạ Cana (Ga 2,4.11): ông muốn quy hướng toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu ngay từ đầu về “giờ” Khổ Nạn của Người; hơn nữa, Gioan muốn rằng Do Thái giáo chính thức được chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ tư cách Mêsia của Người ngay từ đầu, để những người Do Thái phải ở trong một tư thế bị phán xét.
Nói cho cùng, thật khó chọn bài nào, bởi vì cả hai luận đề đều có những lập luận vững chắc.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (2,13-17);
2) Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (2,18-22);
3) Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (2,23-25).
3.- Vài điểm chú giải
- Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái (13): Thời gian của dấu lạ này dĩ nhiên gợi nhớ tới lễ Vượt Qua trong đó Đức Giêsu sẽ bị xử tử. Tương quan giữa việc tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can thiệp của Đức Giêsu, vì kết án cả giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ khiến các thượng tế và các kinh sư quyết định “giết Người”.
- trong Đền Thờ (en tôi hiêrôi, 14): Đây là tiền đường của Đền Thờ (đối lại với naos là Đền Thờ đúng nghĩa, gần gian Thánh và gian Cực Thánh).
- Các môn đệ của Người nhớ lại (17): Sau khi Đức Giêsu sống lại, khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu chỉ Thầy đã làm, các môn đệ đã hiểu biến cố hôm nay:
- Người Do Thái (18): Trong thực tế, đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người chịu trách nhiệm về tình trạng vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong Tin Mừng, tác giả Gioan không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và dân Do Thái đã từ chối tin vào Đức Kitô. Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của dân này đang được đề cập đến.
- Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”. Thật ra, các động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả.
- bốn mươi sáu năm (20): Đền Thờ, với phần cung thánh và tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay chi tiền sửa sang lại thật huy hoàng. Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe, Ant. jud., 15, 11, 1) vào năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tCN, các công việc đã kéo dài cho tới thời Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud., 20, 9, 7). Vào thời điểm của bài tường thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy khởi điểm là năm 20 hoặc 19, sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm 27 hoặc 28. Điều này phù hợp với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa của Đức Giêsu xảy ra vào năm 15 triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và 30-9-28.
-... là chính thân thể Người (21): Đền Thờ mới sẽ thay thế Đền Thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Đức Kitô. Với lời giải thích của thánh Phaolô (x. 1 Cr 3,16 và 12,27; Ep 2,21 và 4,12), Đền Thờ mới là Giáo Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô phục sinh, và tất cả các tín hữu được kết hợp với Người.
- Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại... Họ tin (22): Tác giả Máccô cứ đều đặn ghi nhận rằng các môn đệ không hiểu. Gioan thì nói cách tích cực rằng các môn đệ hiểu sau khi Đức Kitô đã sống lại (12,16). Chỉ khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới được nhận Thánh Thần (7,39), và Thánh Thần mới cho các ông hiểu tất cả những dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện (14,26; 15,26t). Vậy, đức tin của các môn đệ không được liên kết với cuộc Phục Sinh như với một bằng cớ về tính xác thực của những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng như với nguyên do (= nguồn) ban Thánh Thần, là Đấng duy nhất cho phép hiểu.
- Họ tin vào Kinh Thánh (22): Không thể xác định rõ tác giả Gioan ám chỉ tới đoạn Cựu Ước nào. Có thể so sánh Cv 2,24t; 13,34tt, trong đó có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc đến trong quan hệ với sự Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 16/15,10). Chúng ta ghi nhận rằng Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên cùng một bình diện (so sánh 18,9.32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn đệ.
- nhiều kẻ tin (23): Nhiều người tin rằng Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm bản thân Người. Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải là không có giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu cũng tham dự vào một đại lễ khác. Đây không phải là một lễ của một đôi vợ chồng được cử hành bởi gia đình và mọi người thân thuộc trong khung cảnh một thôn làng như Cana ở Galilê, nhưng là lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ lại Giêrusalem. Israel tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi Ai Cập và tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã làm cho họ thành một dân độc lập và thành Dân Người.
* Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (13-17)
Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã không góp phần cứu lấy và gia tăng niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã hòa vào cảnh sống náo nhiệt trên sân Đền Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa (1,29.36) và đã ra tay cứu lễ mừng Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới một phương diện hoàn toàn khác. Là một người khách hành hương vô danh đến từ miền Galilê, Người đã gây ra một sự cố “động trời” tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo TM IV, vào chuyến hành hương đầu tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động tại Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho Lương dân, phần ít cao quí nhất của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại quốc được đặt chân đến.
Truyền thống vẫn yêu cầu người ta tỏ ra trang nghiêm kính cẩn tại vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi qua đó chỉ để đi tắt. Nhưng các quy định này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua, không được tuân giữ: do khách hành hương phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định (một con bò hoặc một con chiên cho trường hợp những người giàu, một con bồ câu cho trường hợp những người nghèo), và một nửa đồng bạc Do Thái (một siklos, hoặc shéqèl bằng 4 ngày công) đóng thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây huyên náo hỗn độn ngay tại đây. Các cửa hàng của những người bán bò và chiên được bố trí dưới các cổng, bàn của những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời, đã biến vùng sân này thành một cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách người ta quan niệm việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng nghĩ rằng có thú vật và tiền lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát của giới hữu trách Đền Thờ là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với quan niệm của Đức Giêsu về nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và xác định cách cư xử dựa trên ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là mọi chuyện đều có thể chấp nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa lại tiền bạc là đúng đắn. Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là một sinh hoạt đáng trọng, nhưng phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi người ta tôn kính Ngài. Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.
Nay đã được đặt để trong chức năng Mêsia-Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một khách hành hương, mà còn là người quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi chứng tỏ uy quyền này ngay tại Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng Do Thái giáo, trước mặt các nhà lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành hương, nhờ thực hiện sấm ngôn Malakhi: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các ngươi đợi trông đang đến... Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim... Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi (các thừa tác viên Đền Thờ)...” (Ml 3,1-3).
Không màng tới các rủi ro, Đức Giêsu không ngần ngại nối kết sức lực của cánh tay vào sức mạnh của lời nói để thực hiện nguyện vọng của Cha Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứ Dacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21). “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7), nhưng “Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Đức Giêsu đã can thiệp với biện pháp rõ ràng và dứt khoát: “Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: ‘Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây’” (2,15-16). Trong nhà Chúa Cha, Chúa Cha đang hiện diện; người ta phải suy nghĩ và hành động tương ứng với chân lý này.
Cử chỉ này, trực tiếp nhắm đưa Đền Thờ trở lại với sự thanh sạch vẫn có, dường như có một tầm mức biểu tượng. Bằng cử chỉ này, Đức Kitô muốn nói rằng Người sẽ truất các tư tế mất quyền điều hành Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền mà Thiên Chúa cũng đã loan báo qua miệng ngôn sứ Malakhi: “Ta chẳng ưng nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng... Và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta” (Ml 1,10-11). Đúng là đã tới giờ rồi.
Vào lúc ấy, hẳn là sự can thiệp cương quyết của Thầy đã khiến các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến các ông lo sợ rằng Người sẽ phải gánh chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những lái buôn và những thừa tác viên Đền Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng kêu của tác giả Tv 69/68: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân...”, thiệt thân vì sự nhiệt thành của mình và vì những đối thủ. Vào lúc chịu Khổ Nạn, khi tuyên bố rằng Thánh vịnh này được ứng nghiệm nơi Người (Tv 69/68,5; x. Ga 15,15), Đức Giêsu công nhận rằng các ông đã linh cảm đúng: sự nhiệt thành đã thiêu đốt Người bên trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ thiêu đốt Người hoàn toàn vào lễ Vượt Qua cuối cùng, để biến Người thành một lễ hy sinh “đẹp lòng Chúa hơn bò bê đủ móng đủ sừng” (Tv 69/68,32). Người chính là Đấng công chính chịu đau khổ để thanh tẩy Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu xây dựng một Đền Thờ mới và thiết lập một nền phượng tự mới (cc.19-21). Việc chuyển đi từ cái cũ sang cái mới sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (18-22)
“Người Do Thái” đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân Do Thái, đã hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (c. 18). Đây là đề tài căn bản của tất cả những xung đột sau đó giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do Thái giáo. Người đã yêu cầu trả lại phẩm cách trang nghiêm cho nhà Chúa Cha; điều này không thỏa mãn người Do Thái, cũng như tất cả những gì Đức Giêsu sẽ nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn họ (x. 5,16; 6,30; 9,16; 11,45-53). Hẳn là các nhà chức trách Do Thái cảm thấy khó chịu gai chướng bởi một sáng kiến vừa lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù không có chức tư tế và không có nhiệm vụ gì ở Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một hệ thống được các nhà chức trách chuẩn nhận, mà như thế là tự cho mình có một uy quyền cao hơn uy quyền của họ. Thậm chí Người còn muốn nói là Người triệt tiêu nền phượng tự đã từng được Thiên Chúa thiết lập ở đấy, và như thế là tự gán cho mình có một uy quyền ngang bằng với uy quyền của Thiên Chúa mà Người gọi là “Cha Người”! Bởi vì Người cho rằng Người có một uy quyền thần linh, thì Người phải chứng minh điều ấy bằng cách làm một dấu lạ: một hành động phi thường cho thấy dấu ấn của Thiên Chúa trên sứ mạng cứu thế của Người (x. Mt 11,38; 16,1; Mc 8,11; Lc 11,16; 1 Cr 1,22).
Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy)” (c. 19). Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”. Với bối cảnh của cuộc tranh luận, Đức Giêsu dường như ám chỉ việc phá hủy và xây lại ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc ngay gần bên. Người Do Thái nghĩ ngay đến Đền Thờ ấy, và cho rằng không thể được. Quả thật, phải là điên thì mới nghĩ có thể xây lại trong ba ngày; cũng phải là điên thì mới nghĩ rằng có thể đụng chạm được tới Đền Thờ này! Cứ lấy lương tri mà xét, lẽ ra người Do Thái không nên gán những ý tưởng ấy cho một người có đầu óc sáng suốt: là những người Đông phương, đã quen với giọng văn bóng bảy cũng như những câu nói hiểm hóc, hẳn là họ phải ngờ rằng ở đây có một ý hướng biểu tượng, nhất là những động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Nhưng họ cố ý xoáy vào ý nghĩa vật chất, cũng như người phụ nữ Samari khi đề cập tới nước ban sự sống (4,11-15), như những người Do Thái khi đề cập tới bánh ban sự sống (6,34) [xem lời các nhân chứng tạo tòa án (Mt 26,61; Mc 14,58) và những người qua đường (Mt 27,40; Mc 15,29)]. Dấu lạ Đức Giêsu loan báo ở đây tương ứng với câu trả lời cho người Pharisêu trong Mt 12,39t và 16,4.
Người Do Thái quy các lời Đức Giêsu nói vào ngôi Đền Thờ bằng gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4). Đức Giêsu đang nói với họ: Các ông có thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi đến thử thách lớn lao cùng cực nhất. Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của tôi và sẽ tự mạc khải ra vĩnh viễn.
Phần các môn đệ, sau khi Đức Giêsu sống lại, các ông mới hiểu được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và “đã tin vào lời Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (c. 22). Nhưng ở đây tác giả Gioan cho chúng ta được hiểu trước biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về Đền Thờ bằng gạch đá, nhưng hoàn toàn về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân tính của Người. Các từ ngữ Người dùng phù hợp với ý nghĩa đó hơn: “Cứ làm tan rã Đền Thờ là thân thể của tôi đi (Các ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân thể tôi), và trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ ấy)”. Đàng khác, ý nghĩa hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ đã linh cảm rằng lòng nhiệt thành của Đức Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của Thiên Chúa sẽ khiến Người bị các đối thủ hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ hơn các ông rằng cử chỉ này sẽ đưa Người tới cái chết. Như vậy, cái chết đối với Đức Giêsu không phải là một tai nạn bất ngờ hoặc một thất bại không thể tránh được, nhưng là một thử thách Người tự do chấp nhận, để rồi tiếp theo là một Sự Sống dồi dào phong phú hơn. Đã được báo trước như vậy, người Do Thái sẽ không thể coi đó là một chiến thắng, còn các môn đệ không thể coi đó là một cớ vấp phạm được.
Ở đây, ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, ta đã thấy rõ các hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào và mục tiêu của con đường Đức Giêsu theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục Sinh sẽ chuẩn nhận cho tư cách của Đấng đã bị đẩy đến một cái chết khốc liệt do việc làm và yêu sách của Người. Do cái chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên. Đức Giêsu Phục Sinh là “nơi” vĩnh viễn có Thiên Chúa hiện diện với Dân Người và có Dân Người thờ phượng Thiên Chúa: đây là “ngôi nhà Cha” hoàn hảo. Lời tiên báo của Đức Giêsu một phần cảm hứng từ một sấm ngôn của ngôn sứ Hôsê (Hs 6,2). Theo lời hứa của Đức Giêsu cho ông Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy Thầy họ là “Bết-Ên” thật, là Nhà Thiên Chúa và Cửa thiên đàng (1,51). Một cách gián tiếp, Đức Giêsu mạc khải cho các thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ nơi Người một cách viên mãn và vĩnh viễn (8,16; 10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi Người, các tín hữu mới có thể gặp được Chúa Cha vô hình (14,6-10).
* Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (23-25)
TM IV nổi bật với sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đối thủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các yếu tố tiêu biểu của cuộc chiến đấu này: các người tranh chấp, đối tượng của cuộc tranh chấp và kết luận. Cuộc xung đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa: Đức Giêsu nhận biết Thiên Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người làm đều do Thiên Chúa gợi hứng và Người làm chứng về những điều đó; còn các đối thủ của Người lại cảm thấy bị Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra những bằng chứng khác, và họ loại trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho Người dẫn dắt, các ông đạt tới đức tin và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị đánh động bởi những gì Đức Giêsu thực hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên Người giữ khoảng cách với họ. Tình trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái chết dữ dội, nhưng Người sẽ được xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.
+ Kết luận
Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào Đền Thờ như vào “nhà Cha Người”; hôm ấy, vì yêu thương Chúa Cha, Người đã đuổi những con buôn khỏi Đền Thờ. Vì nhiệt thành lo cho nhà của Cha, vì muốn hoàn toàn dành ngôi nhà này cho Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Cha, trong khi vẫn làm chủ chính mình. Như thế, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, là bạn của kẻ tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh quang của Thiên Chúa Cha.
Sau này, đàng sau tấm màn bị xé rách của Đền Thờ và xuyên qua thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối, Thiên Chúa xuất hiện, bằng một tấm thân con người thật sự, đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu Ước, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, nay được thực hiện mãi mãi trong Đức Giêsu Phục Sinh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Theo Đức Giêsu, người ta không thể chấp nhận hay nhượng bộ mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc trục trặc này, chuyện không xuôi chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc thờ phượng Thiên Chúa, thì không được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi sự việc liên hệ đến làm chứng cho mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa vời. Phần chúng ta, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về “nhà của Cha”, hoặc về nhiệm vụ và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng ta có vận dụng trọn bản thân mình cho điều đó không?
2. Các đối thủ của Đức Giêsu cứ đòi Đức Giêsu phải trưng ra thêm các bằng chứng. Lý do không phải là để họ đạt được niềm tin tròn đầy, nhưng nói có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng chứng là để phủ nhận đức tin, để họ có cớ mà nói rằng họ không tin là phải. Toàn bọ TM IV là một bài học với nhiều minh họa về niềm tin như một sự phó thác vào Đấng được Thiên Chúa sai phái tới, là Đức Kitô. Trong những trường hợp nào, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đề những ranh giới dè dặt cho niềm tin tưởng của chúng ta vào Đức Giêsu, chúng ta nêu ra những điều kiện, và chúng ta đòi những đảm bảo?
3. Chứng từ của các môn đệ còn đấy: lời của Đức Giêsu có một trọng lượng như chính lời Kinh Thánh. Nhờ được Kinh Thánh thôi thúc, các ông hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ được lời Đức Giêsu soi sáng, các ông hiểu Đấng Phục Sinh chính là “nơi” vĩnh viễn có sự hiện diện và chăm sóc ân cần của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm quan trọng được chia sẻ cho chúng ta, để hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào ánh sáng của Kinh Thánh mà khám phá thêm nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, đã chết và đã sống lại.
4. Để thực hiện được điều này, cần nhận lấy bài học khác của các môn đệ. Các ông đã rảo qua một đoạn đường dài cùng với Đức Giêsu và đã được Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có thể chờ đợi để được dẫn đến chỗ hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và con đường của chúng ta chăng?
56.Bắt đầu lại trong sự thật--Jean-Yves Garneau
Khi sự việc hư đi
Đa số những của cải trần thế này đều mau chóng biến chất. Chưa đầy hai năm mà chiếc xe lộng lẫy đắt tiền của chúng ta đã bắt đầu trục trặc rồi. Ghế trường kỷ đẹp đẽ trong phòng khách nhanh chóng bạc màu, nhất là nếu có trẻ con trong nhà. Nước sơn trên tường nhà bếp, những cánh cửa bằng gỗ, những chỗ nối các viên gạch hoặc các viên đá… Mọi sự đều xuống cấp một cách mau chóng lạ lùng.
Cũng y như vậy trong nhiều lãnh vực khác nữa. Một tình bạn nẩy sinh: mươi ngày sau, có lẽ người ta đã cãi nhau rồi. Kết hôn: đó là tình yêu lớn. Sáu tháng sau người ta không còn như trước nữa. Mọi sự không suôn sẻ nữa. Có những điều làm ta khó hiểu nhau. Có những hố sâu bắt đầu xuất hiện. Cũng một hiện tượng đó về mặt tôn giáo. Với thời gian, tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và anh em nguôi đi. Ta buông thả. Ta có những thói quen nhỏ ít nhiều không đúng đắn. Cũng như mọi sự khác, đời sống thiêng liêng cũng có thể xuống cấp… và trong thực tế rất thường xuống cấp.
Vào thời Chúa Giêsu, Đền Thờ phải là nơi cầu nguyện và dâng của lễ, nhưng người ta đã biến nó thành một cửa tiệm và một trung tâm buôn bán. Ở Công đồng Vatican II, người ta đã ý thức rằng phải thanh tẩy Giáo hội về nhiều mặt. Phải đổi mới nhiều điều khác. Phải loại bỏ đi nhiều điều khác nữa. Thật vậy, với thời gian mọi sự đều có thể xuống cấp.
Thẳng thắn nhìn vấn đề.
Sự kiện có bao nhiêu thứ hư hỏng đi theo thời gian xem ra không trầm trọng lắm. Nhưng không nhìn thấy điều đó hoặc tệ hơn nữa không chịu nhìn thấy, không ý thức vấn đề, làm như thể không có chuyện gì cả, đó mới là trầm trọng.
Chúa Giêsu đã thấy ngay những gì không ổn tại cửa đền thờ. Ngôi nhà dùng cho việc phụng tự đã trở thành nơi buôn bán. Chúng ta có sáng suốt như vậy để nhận thấy những gì đang xuống cấp trong cuộc sống Kitô của chúng ta không? Hay là chúng ta cứ nhắm mắt làm ngơ?
Tìm biết sự thật về tình trạng hiện thời của chúng ta. Đó là việc đầu tiên phải làm. Việc thiết yếu.
Cầm roi trong tay.
Sau khi thấy những gì không ổn trong Đền Thờ. Chúa Giêsu không mặc kệ bỏ đi, Ngài không làm ngơ. Cầm roi trong tay, Ngài hành động. Một cách hành động nghiêm khắc mà Ngài ít khi dùng trong đời Ngài.
Không cố gắng thì ta không đạt được gì cả. Điều này đúng về mặt luân lý và đời sống Kitô hơn về mọi phương diện khác. Chết đối với bản thân, móc mắt, chặt tay chân v.v… đó là kỹ thuật mà Chúa Kitô dạy. Roi ư? Tức là mọi năng lực ta có thể có được để xa lánh những nẻo đường mà trong đó chúng ta có nguy cơ sa lầy và để tiếp tục tăng trưởng.
Bắt đầu lại.
Cây không còn trổ lá nữa bởi vì đất đã khô cằn. Người ta bón phân cho nó. Thế là những chồi mới lại nhú ra. Lập gia đình đã hai năm rồi, đôi vợ chồng trẻ không còn yêu nhau như trước kia nữa. Họ muốn dành một buổi tối để kiểm điểm lại, nói với nhau vài sự thật. Cách bình thản. Và tình yêu của họ đã tìm lại được vẻ tươi mát ban đầu. Họ yêu nhau hơn trước kia nữa.
Cũng giống như vậy về mối tương quan giữa mỗi người chúng ta với Thiên Chúa. Đối với Ngài, không bao giờ có điều gì hoặc có ai đó đã hoàn toàn mất đi. Lầm đường vẫn còn có thể trở lui và đổi hướng. Những mối liên hệ bị cắt đứt có thể nối lại được. Tình yêu đã nguội lạnh có thể trở thành lò lửa. Với Ngài bao giờ cũng có thể bắt đầu lại và bao giờ cũng là lúc để bắt đầu lại. Và việc trước hết để bắt đầu lại là có cái nhìn sáng suốt về mình, về chính mình, về con người mà ta đang trở thành. Đó là Sự thật.
57.Đền thờ đích thật của sự thờ phượng và tập hợp--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Đoạn Phúc âm của thánh sử Gioan nói về Chúa đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ có một mạch lạc và đầy đủ ý nghĩa mà người ta khó lòng nhận ra được dễ dàng như vậy ở các thánh sử khác. Các thánh sử này biên soạn Phúc âm từ những quan điểm khác và quy tụ một các khác những tài liệu do đời sống Chúa cung cấp. Có những câu hỏi được đặt ra ở đây về sự phù hợp giữa những gì mà Gioan nói và những gì mà các Phúc âm Nhất lãm nói. Không đi sâu vào chi tiết, chúng ta chỉ đồng ý rằng: các khó khăn sẽ tan biến một khi người ta nhớ lại là thánh Gioan ưa trình bày một cảnh trí chung từ một sự kiện riêng rẽ. Cuộc đời Chúa Giêsu do thánh sử Gioan viết không có tính cách giai thoại. Bằng cách dùng những chi tiết cụ thể, thánh sử Gioan trình bày ở đây cho chúng ta thấy một bối cảnh qua đó, thánh sử muốn làm cho chúng ta nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai.
Giáo huấn rút ra từ cảnh tượng các kẻ buôn bán trong Đền thờ bị đuổi, có tính cách song đôi. Nó chứng tỏ cho chúng ta: 1. Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai; 2. Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai đích thân kế tiếp thực- tại tôn-giáo, được biểu thị qua Đền Thờ.
1) Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Chúa xử sự trong Đền thờ với một uy quyền mà chỉ có Đấng được Thiên Chúa sai đến và người Do Thái hằng mong đợi, mới dám tự cho mình như vậy, Người xuất hiện như trưởng tử của ngôi nhà và Người xưng hô Thiên Chúa là ‘Cha’ Người. Trước mắt người Do thái đương thời thì đó là đặc quyền dành cho Đấng Thiên Sai. Họ quả không lầm nên liền đó, họ xin Chúa Giêsu một dấu chỉ bảo đảm nguồn gốc Thiên Sai của Người. Nhưng Chúa Giêsu không cho dấu chỉ mà họ đòi hỏi, vì Chúa biết họ không thể tin được. Người ta đã vạch lá tìm sâu rất nhiều câu nói sau đây của Chúa: “Đừng biến nhà Cha Ta thành cửa tiệm buôn bán”. Dĩ nhiên khi người ta buôn bán trong nhà thờ, người ta xúc phạm đến Ngôi Nhà của Thiên Chúa. Thỉnh thoảng cũng cần phải lột mặt nạ sự buôn bán thật sự này nọ. Ví dụ, khi người ta gay gắt đả kích thói tục đốt nến, thì từ khi đó, người ta có quyền dùng toà giảng để đề cao những lợi ích có tính cách thế tục, dầu là ở lãnh vực chính trị hay bất cứ lãnh vực nào không?
2) Hãy phá Đền thờ này, trong 3 ngày Ta sẽ xây lại. Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho người Do thái khi họ đòi hỏi Người một dấu chỉ. Dấu chỉ đó là cái chết, và sự phục sinh của Người. Quả thật, Chúa Giêsu đã đưa ra một câu trả lời che đậy mà chính các môn đệ cũng không hiểu ngay. Họ sẽ hiểu sau này khi Chúa sống lại. Sau này, họ sẽ hiểu là Đền thờ vật chất nơi tế lễ và tập hợp dân chúng, sẽ bị phá huỷ, sẽ trở thành vô ích. Nó sẽ bị “giải nhiệm” theo ý nghĩa là, một Đền thờ khác sẽ được dựng lên cho việc tế lế và tập hợp nhân loại. Đền thờ đó, chính là bản thân Chúa Giêsu. Người đích thân chu toàn việc tế lễ trọn hảo của sự ngợi khen và đền tạ. Người quy tụ nơi mình Người tất cả chúng sinh trong một sự hiệp thông chặt chẽ và phổ quát. Chúng ta phải tìm gặp Thiên Chuá (cách đích thật) và anh em ta (cách sâu sắc) ở đâu?
Ba ngày đây ám chỉ đến quãng thời gian vắn vỏi giữa cuộc khổ nạn và sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Kiểu nói ‘Ba ngày’ này còn có cái lợi khác: nó dùng để chỉ ‘chẳng bao lâu nữa’. Ngày nay, chúng ta quen nói: ‘Trong giăm phút nữa’ để diễn tả một thời gian ngắn nữa thôi. Chúa Giêsu phán: ‘Trong ba ngày’ để chỉ rằng: Chúa làm chủ thời gian và khi nào Người muốn, Thiên Chúa sẽ chi phối mọ chi tiết. Nhân dịp này, chúng ta có thể nghĩ đến thân xác chúng ta mà thánh Phaolô gọi là ‘Đền thờ’ của Thiên Chúa. Nó sẽ bị cái chết phá huỷ. Bao giờ nó sẽ được tái thiết, chừng nào nó sẽ phục sinh? Chúng ta biết rằng mọi kỳ hạn nơi Thiên Chúa vắn vỏi, mặc dầu những tính toán của con người đo lường thời gian bằng đơn vị nghìn vạn thế kỷ.
58.Dấu lạ của việc thanh tẩy đền thờ (2,13-22)--Alain Marchabour
Cả bốn Tin Mừng đều trình thuật về Đền thờ (Mc 11,15-17 và tương đương). Thế nhưng giữa ba Tin Mừng khác, có nhiều điểm khác biệt quan trọng, đặc biệt nhất là vấn đề xác định thời gian: đối với Gioan, đó là vào lúc Chúa mới bắt đầu cuộc đời công khai, đối với các sách Tin Mừng Nhất Lãm thì lại vào cuối đời sống công khai. Hơn nữa Gioan là tác giả duy nhất tường thuật dài về việc xua đuổi con buôn ra khỏi Đền thờ bằng việc người Do Thái yêu cầu một dấu lạ và Chúa Giêsu trả lời về việc phá hủy Đền thờ và xây dựng lại trong ba ngày. Chính Gioan phải chịu trách nhiệm về việc di dịch biến cố. Ông chỉ tỏ sự đoạn tuyệt với Do Thái giáo ngay từ lúc Chúa khởi đầu đời sống công khai của Chúa Giêsu (phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của Giáo Hội của mình). Từ ngữ được sử dụng xác quyết điều đó: đó là lễ Vượt Qua của người Do Thái; dung ngữ này còn lặp lại trong 6,4 và 11,55 (cũng như trong 7,2 nhân dịp lễ Lều) và làm lệch đi sự xa cách và ngay cả sự đoạn tuyệt giữa các tín hữu tiên khởi và cộng đoàn Do Thái.
DẪN NHẬP (cc. 13-14)
Phần dẫn nhập xác định quang cảnh và địa điểm. Chúa Giêsu lên Giêrusalem lần này là lần đầu tiên và Người lên đây đúng vào “lúc gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái”. Dụng ngữ này, lặp lại ba lần trong Tin Mừng (6,4; 11,555) xác định sự chính xác về nguồn tin của Gioan. Ba lần lễ Vượt Qua phù hợp với hai năm rưỡi đời sống công khai của Chúa Giêsu. Đem so chiếu với những đại lễ Do Thái với những đại lễ Do Thái này có một ý nghĩa khác nơi con người của Chúa Giêsu.
Con buôn bày bán dưới các hành lang trên sân Dân ngoại (tiếng Hy Lạp hieron, dịch ra ở đây là “đền”) chứ không phải bên trong Đền thờ. Ngoài ra điều đó rất khó mà tránh khỏi khi người ta muốn cho khách hành hương, nhân dịp về Giêrusalem, có thể đổi bạc để có được chiên bò dâng làm của lễ hiến tế. Chúa, vị ngôn sứ đầy nhiệt tâm trước những quyền của Thiên Chúa, xem điều đó như làm ô uế Đền thờ.
HÀNH ĐỘNG NGÔN SỨ (cc. 15-16)
Việc can thiệp của Chúa Giêsu liên kết với những hành động mà các ngôn sứ thường làm để thông truyền sứ điệp cho có hiệu quả hơn. Nó gồm một hành động và hai lời giải thích. Hành động ở đây dồi dào hơn ở trong bài trần thuật Nhất Lãm: lấy dây làm roi, có nhiều chiên bò trong Đền thờ. Thời bấy giờ dọc theo Cédron hay trên núi Olivêtê có một chợ súc vật dùng làm của lễ dâng cúng, do nhóm Sanhédrin tổ chức. Trước cảnh tục hóa như thế, Chúa Giêsu chống đối theo đường hướng của các ngôn sứ như Giêrêmia (7,14), Malakhi (3,1) hoặc Israel (65,7) đã làm trước Người. Người chứng tỏ việc tẩy uế Đền thờ được tiên liệu vào thời cánh chung hiện đang tiến hành.
Lời Người nói có hai phần: Trước hết Người yêu cầu chính đáng một tập tục bất xứng với Thiên Chúa. Lời này không hẳn là một trích dẫn Kinh Thánh, dù rằng điều đó được nói đến trong Zacaria 14,21: “Vả trong ngày đó sẽ không còn kẻ buôn bán nơi Đền thờ Chúa quân lực nữa”. Ở đây Chúa Giêsu hành xử như Người bênh vực quyền lợi của Thiên Chúa. Người vén lên bức màn về mối liên hệ duy nhất giữa Người với Chúa Cha. Sau đó, Chúa Giêsu đáp ứng yêu cầu dấu lạ bằng một lời huyền nhiệm về Đền thờ. (không phải hieron nữa, mà là naos, nghĩa là chính cung thánh).
Việc so chiếu với các sách Tin Mừng Nhất Lãm về vấn đề này sẽ làm cho dễ hiểu hơn. Ở trong Nhất Lãm có một câu gần gũi với câu trên nhưng với những điều khác biệt quan trọng: trong Nhất Lãm, lời tuyên bố về việc phá hủy Đền thờ được những kẻ làm chứng gian hiểm độc nói lại; còn trong Gioan, lời này được đặt vào trong môi miệng Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Maccô, việc phá hủy Đền thờ được quy cho Chúa Giêsu: “Tôi sẽ phá” (14,58); trong Tin Mừng Gioan, lời nói đó đối đáp với những người đối thoại: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi”. Ngoài ra Gioan cố ý dùng cụm từ “Tôi sẽ xây dựng lại Đền thờ này” để chỉ công việc xây dựng cũng như để chỉ sự sống lại.
GIẢI THÍCH (cc 17-22)
Như vậy không dễ gì hiểu được nền tảng lịch sử rõ ràng về bài trần thuật này. Ta có thể nghĩ đến một hành động tượng trưng chống lại các lạm dụng trong Đền thờ. Sự hiện diện của các người đổi bạc là cần thiết để khách hành hương có thể đổi những đồng bạc mang dấu ấn triều đình để lấy đồng tiền trong sạch. Cũng vậy việc buôn bán gia súc dùng làm của lễ dâng cúng là một nhu cầu. Trừ khi nghĩ đến sự phản kháng triệt để về việc thờ phượng do Chúa Giêsu… còn thì toàn thể Tin Mừng không đi theo chiều hướng đó. Chỉ cần lưu ý đến sự băng hoại nổi tiếng của gia đình Anna, thượng tế tiền nhiệm của Caipha. Bù lại, một sự công kích triệt để như thế về của lễ dâng cúng đã được cộng đoàn của Gioan nhấn mạnh, sau khi Đền thờ bị phá hủy, đánh dấu sự kết thúc việc hiến tế.
Tác giả thận trọng về các vấn đề trên: ông để tâm đến việc khác. Ông chứng tỏ điều đó bằng cách đưa vào trong bài trần thuật của mình nhiều chú thích. Chúng ta hãy ghi lại:
a. Sự liên quan mật thiết với phép lạ ở Cana. Quả vậy cả hai cảnh tượng có nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều kể đến một sự chuyển tiếp: những chum đá rỗng không, đền thờ trống vắng. Mối liên hệ với lễ Vượt Qua được chú ý trong bài trần thuật thứ nhất: “ngày thứ ba, vinh quang”, và trong bài thứ hai: “vào dịp lễ Vượt Qua”, “nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (2,19), “khi Người từ cõi chết chỗi dậy”(2,22).
b. Các lời chú giải của thánh sử. Tác giả trong khi đưa vào trong bài trần thuật những suy tư của riêng mình hướng dẫn chúng ta xem xét: “Các môn đệ của Người nhớ lại…” (2,17). Thánh vịnh 69,9-10 soi dẫn cộng đoàn tiên khởi của Gioan, có đoạn sau:
“Anh em nhà kể con như người dưng nước lã
Hàng máu mủ xem con bằng khách lạ mà thôi.
Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân.
Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu”.
Vậy nên, Gioan hiểu được sự cô đơn của Chúa Giêsu đối với anh em của Người (và rộng hơn đối với dân tộc của Người) cũng như hiểu được số phận bị thảm của Người: nhiệt tâm lo việc nhà Chúa của Chúa Giêsu đưa Người đi đến cái chết. Thế nhưng suy tư tiếp theo của thánh sử tiến dẫn nguyên nhân của sự phục sinh. “Các môn đệ nhớ lại…và tin”.
Trong bài trần thuật này, Đền thờ mới, Chúa Kitô, chiếm vị trí của Đền thờ cũ (biến mất vào thời biên soạn Tin Mừng), ta sẽ không khỏi khâm phục tác giả đã khéo léo liên kết Kinh Thánh, các sự kiện liên quan đến Chúa Giêsu và sự suy niệm Phục Sinh.
CHUYỂN TIẾP (2,23-25)
Cảnh tiếp theo tạo nên một sự chuyển tiếp khéo léo giữa hai cảnh Cana và cảnh tẩy uế Đền thờ và cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô. Ta có thể nhận thấy ở đó một kết luận đã tỉnh ngộ với sự cương quyết dứt khoát với Do Thái giáo được thể hiện trong bài trần thuật về Cana và hành động ngôn sứ từ việc xua đuổi những người mua bán trong Đến thờ. Đồng thời sự cảm nghiệm thất bại này chuẩn bị cuộc gặp gỡ với một nhân vật tiêu biểu của Do Thái giáo: ông Nicôđêmô, dù có thiện chí phấn đấu, vẫn được xem như không thể tiếp bước theo Chúa Giêsu với những đòi buộc của Người. Sự nghi ngờ này xảy ra ở giữa sự từ khước có hệ thống cho nhóm Do Thái chính cống và đức tin của các môn đệ. Gioan không xác định bản chất các dấu lạ Chúa Giêsu đã làm tại Giêrusalem (xem thêm 4,45)
59.Giữ trong sạch nhà Cha--Noel Quesson
“Đừng biến nhà Cha Tôi, thành nơi chợ búa”
Trong tác phẩm “Chim hót trong bụi gai” tác giả kể chuyện một linh mục, cha Rap (Ralph). Cha Rap là một linh mục trẻ, có khả năng nhưng lại đầy tham vọng. Cha mong muốn thành công, muốn nổi danh và cũng ham tiền. Một giáo dân đã nhận ra chân tướng của vị linh mục. Bà phú hộ thương thầm cha nhưng không được đáp lại. Bà liền trả thù bằng cách hiến toàn bộ tài sản của bà cho Giáo Hội, với điều kiện phải cử cha Rap làm quản lý tài sản đó. Cách trả thù của bà phú hộ đã thành công.
Câu chuyện cốt phê bình chỉ trích Giáo Hội, nhưng cũng nói lên một thực tại, Giáo Hội của Đức Kitô bản chất tinh tuyền, nhưng lại gồm những con người bằng xương bằng thịt và có thể bị ảnh hưởng xấu do tiền của. Là con người, thì ai cũng phải cẩn thận lắm, khi sử dụng tiền của. Tiền của cần thiết cho mọi người, cho mọi tổ chức và cho cả Giáo Hội. Nhưng nó dễ chiếm địa vị độc tôn, khi ấy nó trở thành chủ nhân như Chúa cảnh giác ta về tình trạng đó: “Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của” (Mt 6,24).
Tục ngữ có nói, đồng tiền liền khúc ruột. Còn Chúa Giêsu bảo ta: “Kho tàng con nơi đâu thì lòng dạ con ở đó” (Mt 6,21). Cũng như khi ta đặt một đồng tiền trước mắt, thì nó che chắn hết mọi cảnh vật, và trong thực tế nó có thể che chắn cả việc đạo đức, cả mọi ý hướng tốt lành.
Và nhiều khi có tiền bạc xen vào các việc thờ tự thì người ta dễ hiểu lầm. Phụng vụ xưa cũng như nay, cần có những lễ vật. Lễ vật trong phụng vụ xưa là chiên bò, chim câu cũng như bây giờ có hương hoa, đèn nến. Những thứ đó là tùy phụ, giúp con người biểu lộ tâm tình thờ phượng. Nhưng một khi những thứ tùy phụ đó lại trở thành chính cốt thì con người quên cả tâm tình bên trong. Và Chúa Giêsu đã phải tuyên bố: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Chúa không ưa kiểu tính toán của dân buôn, không thích nghe tiếng sột soạt, leng keng của tiền bạc bên cạnh bàn thờ.
Chúa Giêsu nói tới Nhà Cha với một cảm tình quen thuộc, thân thương. Chúng ta tới với Chúa như người con về nhà Cha mình. Đó là cốt lõi của phụng tự, của nghi lễ của cầu nguyện, của cuộc đời Kitô hữu. Vậy điều cần thiết là phải lo sao cho tinh thần mình xứng hợp với ý Chúa, lo cho cuộc sống Kitô hữu của mình được trong sạch, hơn mọi mối lo khác, hơn mọi dáng vẻ vật chất, và đẹp đẽ trong phụng vụ, trong tổ chức, trong việc tô điểm Giáo đường, và mọi sinh hoạt tôn giáo khác.
Giá trị chính yếu của con người, và việc giúp con người phụng sự Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dâng hiến chính bản thân mình chúng con làm lễ tế sống thánh thiện để tôn thờ Chúa!
60.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Noel Quesson
Gần đến Lễ Vượt qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem.
Đức Giêsu là một người Do Thái nhiệt thành sống đạo. Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan đã bảy lần ghi lại Đức Giêsu tham dự những buổi lễ trọng phải hành hương (Ga 5,1; 6,4; 7,2; 10,22; 11,55; 12,1; 13,1), đặc biệt là Lễ Vượt qua vào Mùa Xuân và Lễ Lều trại vào Mùa Thu. Trước hết tôi chiêm ngưỡng Đức Giêsu, với tư thế là một người trần hòa lẫn trong đám đông, đang cầu nguyện ca hát trên bước đường hành hương, rồi trên sân trước của Đền thờ. Cho dù trên thực tế, Đức Giêsu đã sửa đổi rất kỹ những nghi thức phụng tự Do Thái, nhưng về mặt giáo lý Người không chủ trương bài xích. Cuốn phim “Lễ vật toàn thiêu” nhắc lại cho ta thấy sự đau khổ của dân tộc này mà Đức Giêsu là thành phần; một dân tộc luôn mang một định mệnh đặc biệt cách nhiệm mầu. Trang Tin Mừng trên đây của thánh Gioan bắt đầu bằng "Lễ Vượt Qua của người Do Thái" (câu 13), và kết thúc với "Lễ Vượt Qua của Đức Giêsu (câu 2) nhằm nhắc lại những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu đều là người Do Thái, là những kẻ “tin vào danh Người trong dịp lễ Vượt Qua" (câu 23). Từ ‘lễ Vượt qua của người Do Thái’ đến ‘Lễ Vượt qua Kitô giáo’, luôn thể hiện cùng một mầu nhiệm khôn dò: Mầu nhiệm phá hủy một đền thờ, rồi nhờ đó lại mọc lên một đền thờ khác.
Người thấy trong Đền thờ có những kẻ bán chiên bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”.
Tranh ảnh Kitô giáo đã không bỏ sót diễn tả những cảnh này với màu sắc và hành động thật là phong phú. Đức Giêsu đang nổi giận, cầm roi trong tay, xua đuổi "phường buôn bán ra khỏi Đền thờ". Chúng ta cần phải vượt qua giới hạn của "biến cố" trên, để tìm hiểu ý nghĩa thần học sâu xa của pha cảnh. Trong câu này, ta nhận thấy, hình như Đức Giêsu đối xử với những kẻ bán bồ câu với thái độ khác thường, tử tế hơn so với những kẻ khác: Vì bồ câu thuộc "lễ vật của người nghèo", lễ vật của những người như Đức Maria xưa kia, đã không đủ tiền để mua những con vật lớn. Ở đây, Đức Giêsu chứng tỏ thái độ ưu ái đối với những người nghèo mà Người không ngừng biểu lộ.
Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi chợ búa.
Những con buôn và phường đổi tiền không nhất thiết là những người xấu. Thực ra, họ đã phục vụ đáng kể đối với các tín hữu từ xa đến, đang cần sắm sửa tại chỗ những lễ vật cần thiết để tiến dâng: Như trướng hợp Maria và Giuse, đến đền thờ trong ngày hiến dâng con mình, hẳn là rất hài lòng gặp được những người buôn bán như thế, để mua sắrn một cặp bồ câu non (Lc 2,24). Vì thế, chúng ta dễ sai lầm nếu chúng ta chỉ đọc trang Tin Mừng trên cách hời hợt, nhất là chúng ta chỉ áp dụng trang sách đó cho kẻ khác. Chúng ta rất dễ nổi giận, dễ dùng lời nói mà không sợ bị liên lụy để chống lại tiền bạc, sự mua bán trái phép, những "ồn ào của bạc tiền" chung quanh bàn thờ, xã hội tiêu thụ, đề cao lợi nhuận trong các nền kinh tế phương Tây. Đức Giêsu quả đã là một người nghèo thực sự. Người đã nổi giận trước vị trí quá lớn của tiền bạc đang ngự trị trong Đền thờ. Chắc chắn là thế! Như vậy, chính chúng ta cũng phải hoán cải về vấn đề này. Lạy Chúa, xin cứu chữa chúng con khỏi lòng dính bén với tiền bạc.
Nhưng điểm cốt yếu của trang Tin Mừng hôm nay không nằm ở đó.
Chúng ta hãy lắng nghe kỹ kiểu nói lạ thường mà Đức Giêsu sử dụng để nói về đền thờ: "Nhà của Cha Tôi". Chúng ta quá chán với kiểu nói đó. Tuy nhiên chúng làm cho ta càng phải tìm hiểu sâu xa hơn căn tính của "con người" này, Giêsu thành Nagiarét? Trong con người đó đang ẩn chứa một bí nhiệm to lớn biết bao! Giữa Người và Thiên Chúa, có một mối tình yêu thương mật thiết biết bao! Người đang hiện diện nơi nhà mình, trong đền thánh của Giavê. Nơi thánh này, chính diện bất khả xâm phạm này, không ai được phép vào trừ vị Thượng tế, mỗi năm một lần (Dt 9,7). Đó là nơi "chí thánh", nó "tách biệt" với tất cả "không ai được đụng chạm" đến, không ai bước vào mà không phải chết. Thế mà nói một cách hết sức tự nhiên, đó là "nhà của Cha Người", là nhà của Người, vì Người là con. Vào lúc 12 tuổi, Người cũng nói như thế, nhưng không ai hiểu cả, ngay cả mẹ Người là Đức Maria: Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" (Lc 2,49).
Vâng! yếu tố trước nhất trong việc phụng tự mà ta thể hiện với Thiên Chúa, không phải là việc làm bề ngoài (như bò, chiên, bồ câu) mà là tấm lòng con thảo ta đặt vào đó. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi mối bận tâm quá đề cao những nghi lễ, những hình thức bên ngoài.
Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh thánh: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây đã phải thiệt vào thân" (Tv 69,10).
Đối với Đức Giêsu "tình yêu Chúa Cha" luôn thiêu đốt Người, nói cách văn vẻ, như ngọn lửa ngốn trọn những nhánh củi khô. Lễ vật dâng lên Chúa Cha của Đức Giêsu không theo "nghi thức", nghĩa là những gì ở bên ngoài Người. Người sẽ dâng hiến chính bản thân mình làm lễ vật và trọn cuộc sống Người luôn là một của lễ như thế. Còn đối với tôi, việc phụng tự ra sao? Nó mang hình thức nào? Tôi ‘dự lễ’ hay tôi ‘chung phần’ vào thánh lễ? Cùng với Đức Giêsu, tôi có được Thiên Chúa khơi lửa nhiệt tình, nung đốt tình yêu và làm cho say đắm không? Ôi! lạy Cha, con cũng muốn rằng, từ giờ trở đi, nhà của Cha sẽ làm cho con phải thiệt vào thân vì yêu mến, Nếu Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ như thế, chính là vì danh dự và vinh quang của Cha Người đã bị xúc phạm trong việc "buôn bán trái phép" đó. Đức Giêsu quả là một con người say mê Thiên Chúa, sống cho quyền lợi của Thiên Chúa.
Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại. Người Do Thái nói: Đền thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây dựng lại được sao?”
Ở đây bản văn Hy Lạp không dùng từ "đền thờ" (iéron) mà là từ "thánh điện" (naos). Và đó không phải là điều ngẫu nhiên, bởi vì trước đó, cùng trong cùng bản văn, Gioan đã sử dụng chính xác từ "đền thờ". Người thấy trong đền (iéron) có những kẻ buôn bán; và Người xua đuổi họ ra khỏi đền thờ (iéron). Theo nghĩa này, đền thờ là toàn bộ những công trình kiến trúc, kể cả đường dạo chơi, công trường, các sân phía trước. Nhưng giờ đây Đức Giêsu đi xa hơn nhiều, khi Người nói: "Các ông cứ phá hủy thánh điện (naos) này đi”, tai hại biết bao, nếu những người dịch không tôn trọng bản văn! Thánh điện chỉ là phần kiến trúc hoàn toàn bé nhỏ, những quý giá nhất của toàn bộ đền thờ; là trung tâm điểm, nơi Thiên Chúa hiện diện (shékinah). Chúng ta đừng quên rằng, Đức Giêsu sẽ bị kết án tử hình do lời tố cáo sai lầm vì Người đã tuyên bố: “Tôi sẽ phá thánh điện này và sẽ xây cất lại" (Mt 26,6). Thực sự đó là một lời phạm thượng. Thánh điện này vẫn hoàn toàn mới mẻ, được Hêrôdê cho phép khởi công xây cất 50 năm trước đó. Đó là niềm tự hào của quốc gia, là nơi tôn kính để cầu nguyện và hành hương, mà mỗi năm hàng triệu người tới viếng thăm. Đó cũng là nơi phụng tự duy nhất" của Israel. Quả thực, con người này bạo gan mới dám nói như thế! Phát triển như thế, cũng như người nào đó tuyên bố: "Cứ phá Đền thờ thánh Phêrô ở Rôma đi hay cứ phá đền thánh Lộ Đức, nhà thờ Đức bà ở Paris hay vương cung thánh đường ở Angers...". Thế mà, Đức Giêsu nói năng tự nhiên, không có vẻ gì của một kẻ khiêu khích cả.
Nhưng đền thờ (naos) Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính mình Người.
Đền thờ ở đây, bản văn Hy Lạp dùng từ "thánh điện" (naos). Hiển nhiên, ta đang ở vào trung tâm của trang Tin Mừng trên. Ta thử tìm hiểu thêm, Đức Giêsu đã ý thức về mình thế nào. Người biết Người là ai. Người nói: Người là một thánh điện. Đức Giêsu tự tạo cho mình thành "nơi Thiên Chúa hiện diện". Chính thân xác Người là "đền thờ mới", là nơi "phụng tự mới". Gioan Tẩy giả đã chỉ Người như Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Phải, Đức Giêsu đã phịu sát tế trên ngọn đồi ngoài cửa thành, hy sinh vào đúng giờ mà trong Đền thờ người ta đang sát tế nhiều chiên Vượt Qua, ngày áp lễ "Vượt Qua trọng đại" (Ga 19,31). Bằng chính thân xác mình chịu hy sinh, Đức Giêsu đến thay thế cho mọi lễ vật và làm cho Đền thờ Giêrusalem trở nên vô tích sự và màn trong Đền lúc đó có thể bị xé bỏ (Mt 27,51). Từ thân xác đó sẽ tuôn ra "con sông với dòng nước mạnh" (Ga 19,84): Nước và máu đã được ngôn sứ Edêkien báo trước, sẽ từ thánh điện chảy ra (Ed 41,l-12).
Vậy khi người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó.
Do đó, Lễ Vượt qua của Đức Giêsu và của các Kitô hữu đã kết thúc "Lễ Vượt qua của người Do Thái", như đã đề cập đến đầu trang Tin Mừng trên. Đây là cuộc giải phóng phi thường và triệt để, mà cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập chỉ là sự báo trước và là hình ảnh tiêu biểu. Đây là Đền thờ mới, làm vô hiệu mọi nơi thờ tự khác. Như vậy, nơi Thiên Chúa hiện diện không còn là một lâu đài nữa, mà là một Đấng nào đó: Đó là Thân mình Đức Kitô. Tất cả phụng vụ Kitô giáo chỉ được thể hiện chung quanh thân thể này. Nhưng chúng ta cần hiểu thêm, mầu nhiệm này còn đi xa biết bao? Sau này, thánh Phaolô sẽ nói với các Kitô hữu, các kẻ bốc dỡ hàng tại cảng Côrintô: “Anh ern là Thân mình Đức Kitô” (1Cr 12,27). Đó là cơ sở để xây dựng phẩm giá cao cả của con người: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (1Cr 3,16-l7).
Như thế, không phải chỉ có "thân xác Phục sinh" của Đức Giêsu mới là Đền thờ mới, mà cả "thân xác của mỗi người đã chịu phép rửa": "Anh em không biết rằng thân xác của anh em là Đền thờ của Thánh Thần, và Thánh Thần đang ngự trong anh em sao?" (1Cr 6,19-20). Thánh Âu Tinh cũng nói với các tín hữu của mình: "Khi linh mục nói với anh em "Mình Thánh Chúa Kitô", anh em đáp lại: “Amen" với niềm xác tín anh em đang "hiện diện trong Đức Kitô". Có một bản thánh ca ngợi khen mầu nhiệm này như sau: "Chớ gì chúng con trở nên mình thánh biết sung sướng tạ ơn; chớ gì chúng con trở nên mình thánh, giữ gìn Giao ước của Chúa...".
Chúng ta tuôn có huynh hướng "ấn định chỗ ở cho Thiên Chúa", xây dựng cho Người những "nhà tù sơn son thiếp vàng", những "thánh điện" để cô lập Người, gạt Người ra khỏi thế giới, khỏi cuộc sống của ta. Nhưng không có nhà thờ nào, vương cung thánh đường hay đền thánh nào có thể giam giữ Thân mình Đức Kitô được? Anh em là Thân mình Đức Kitô! Tôi là Thân mình Đức Kitô! Khi nhận mình thánh Đức Giêsu, tôi "trở nên" Thân mình của Người, trở nên thánh điện.
Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp Lễ Vượt qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người.
61.Tẩy uế đền thờ--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Lễ vượt qua của người Do thái gần đến”. Thời gian xảy ra dấu chỉ đây tự nhiên làm ta nghĩ tới lễ Vượt qua trong đó Chúa Giêsu sẽ bị lên án tử hình; tương quan giữa việc tẩy uế Đền thờ và cuộc Tử nạn của Chúa Kitô như thế là đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47 ghi chú rằng việc can thiệp này của Chúa Giêsu nhằm lên án giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ thúc đẩy các tư tế và ký lục "tìm cách hại Người".
"Người gặp thấy trong Đền thờ": Đền thờ gợi lên tất cả hệ thống phụng tự cổ xưa vốn tập trung hoàn toàn tại đó. Cũng tại đó, các lái buôn bán súc vật để làm lễ hy tế riêng và những người đổi tiền đổi cho bạn tiền Do thái (tiền cũ của vùng Tyrô) là thứ tiền duy nhất được chấp nhận để trả thuế Đền thờ.
"Một cái chợ": thành ngữ này cảm hứng từ Dcr 14,21, trong khi Tin mừng Nhất Lãm, vì muốn đối chọi hoàn cảnh hiện tại (‘một hang trộm cướp’) với lý tưởng Thiên Chúa muốn (‘một nhà cầu nguyện’), nên dã trích dẫn Gr 7,11 và Is 56,7.
"Môn đồ nhớ lại": Các môn đồ chỉ hiểu được câu chuyện này sau khi Chúa Giêsu sống lại, lúc Thần khí đã cho họ ơn thông hiểu các dấu chỉ Thầy đã làm.
"Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa sẽ nghiến cả mình tôi”: Thánh vịnh 69 trình bày người Công chính trị thiêu đốt bởi lòng nhiệt thành đối với sự thánh thiện của nhà Thiên Chúa, nhưng lòng nhiệt thành này khiến ông phải bị bách hại. Ga 15,25 và 19,29 cũng sẽ còn trích dẫn thánh vịnh 69, luôn luôn trong tương quan với cuộc Khổ nạn chia Chúa Kitô. Thành thử ý nghĩa của câu trích dẫn này trong văn mạch hiện tại là như sau: cũng như người Công chính đau khổ đã phải trả giá cho lòng nhiệt thành đối với Đền thờ thì Chúa Kitô, khi tẩy uế Đền thờ cũng gây nên đau khổ và cái chết cho bản thân.
Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ và phụng tự cũ hầu xây dựng một Đền thờ mới cùng thiết lập một phụng tự mới (cc.19-20); việc đi từ cũ sang mới này sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Người.
"Người Do thái": Trong thực tế, đây là các chức sắc trong Đền thờ (tư tế, Lêvi và vệ binh) có trách nhiệm về những chuyện Chúa Giêsu kết án. Tuy nhiên, như hết mọi nơi trong Tin Mừng của ông, Gioan không phân biệt giới lãnh đạo với toàn thể dân Do thái đã từ chối tin vào Chúa Kitô. Thành thử đây là vấn đề hệ thống phụng tự của toàn dân Do thái.
"Dấu nào ông tỏ ra được cho chúng tôi?": Qua câu này, người Do thái muốn nói tới một hành động phi thường vốn sẽ biểu lộ dấu ấn Thiên Chúa trên sứ mệnh Chúa Giêsu. Mt 12,38; 16,1; Mc 8,11 và Lc 11,16 cũng ghi lại một lời yêu cầu tương tự của Biệt phái. Dcr 1,22 bảo người Do thái hay đòi hỏi như vậy.
"Hãy phá hủy Đền thờ này đi": Vì không tin, người Do thái sẽ trở thành dụng cụ gây nên dấu chỉ họ đòi hỏi. Về sau câu nói này của Chúa Giêsu sẽ bị nhắc lại bởi các chứng nhân trong vụ án xử Người (Mt 26,61; Mc 14,58) và bởi khách bộ hành lăng nhục Người dưới chân thập giá (Mt 27,40; Mc 15,29) Dấu chỉ Chúa Giêsu loan báo đây tương ứng với câu Người trả lời cho Biệt phái trong Mt 12,29t và 16,4: "Con Người, Người đã nói về Đền thờ thân thể Người'': Đền thờ mới thay thế Đền thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Chúa Kitô.Tín hữu thành Ephêsô, độc giả trực tiếp của Gioan, rất quen thuộc với một sự đồng hóa như vậy vì Dcr 3,16 và 12,27 (được viết tại Ephêsô) cũng như Ep 2,21 và 4,12 đều nói Kitô hữu vừa là Đền thờ của Thiên Chúa, vừa là thân thể Chúa Kitô, với lối giải thích này của Phaolô, Đền thờ mới chính là Giáo hội, Thân thể vinh hiển của Chúa Kitô phục sinh mà mọi tín hữu đều kết hợp vào.
"Vậy khi Người phục sinh từ cõi chết, môn đồ người nhớ lại... họ đã tin": Maccô thường ghi nhận là các môn đồ không hiểu gì hết. Gioan thì nói cách tích cực là họ hiểu rõ sau ngày Chúa Kitô phục sinh (12,16). Bởi vì chỉ sau khi Chúa Giêsu được tôn vinh, họ mới nhận lãnh Thần khí (7,39), Đấng sẽ soi sáng cho họ hiểu các dấu chỉ Chúa Giêsu đã làm (14,26; 15,26tt). Thành thử ở đây đức tin của các môn đồ được liên kết với sự Phục Sinh không như với một bằng chứng về sự xác thực của những gì Chúa Giêsu đã bảo, song như với nguyên nhân ban ơn Thần khí, Đấng duy nhất giúp cho họ hiểu.
"Họ đã tin vào Kinh thánh": Ta không rõ Gioan muốn ám chỉ đoạn nào trong Cựu Ước. Có thể so sánh với Cv 2,24t; 13,34tt, nơi có những bản văn thường được Giáo hội sơ khai trích dẫn đối chiếu với sự Phục sinh của Chúa Giêsu (đặc biệt là Tv 16,10). Xin lưu ý là Kinh Thánh (lời Thiên Chúa) và Lời Chúa Giêsu đều được đặt trên cùng bình diện (so sánh Ga 18,9.32) và đều là đối tượng niềm tin của các môn đồ.
Các câu 23-25 là những câu chuyển mạch nhằm chuẩn bị cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với Nicôđêmô; chúng giải thích việc Nicôđêmô đến (3,2), niềm tin bất toàn của ông và những lời Chúa Giêsu khiển trách ông (3,11t). Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với Nicôđêmô như thế được đặt trong một khung cảnh cụ thể. Thói quen của Gioan là vậy: để ra một vài câu để đặt các trình thuật biểu tượng và thần học của ông trong một khung cảnh lịch sử: so sánh 4,43-45; 7,1-13; 10,19-21.40-42; 11,55-57; 12,17-19.41-43.
"Lắm kẻ tin vào Danh Người": Nhiều kẻ tin rằng Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm con người của Người. Niềm tin của họ chỉ dựa trên phép lạ mà thôi: nó không phải là vô giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
KẾT LUẬN
Sau bức màn bị xé toang của Đền thờ và qua thân thể bầm dập tắt thở của Chúa Giêsu Thiên Chúa đã xuất hiện trong một thân xác người đích thực, phủ đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu ước Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, giờ đây được thực hiện trong Chúa Giêsu Phục Sinh mãi mãi.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Vì yêu Chúa Cha, Chúa Giêsu đã chắp dây thừng làm roi đánh đuổi quân buôn bán ra khỏi Đền thờ, nơi mà 20 năm về trước, Người đã vào như vào nhà thân phụ khi làm cử chỉ đầu tiên của một người Israel khôn lớn. Người đã dùng võ lực bênh vực quyền lợi của Cha, vì bị nung nấu bởi lòng nhiệt thành đối với nhà Cha, vì muốn nhà Cha được sử dụng cách xứng đáng, vì bị thúc đẩy bởi một cơn thịnh nộ. Thành thử, dù là Đấng "hiền lành và lòng đầy khiêm nhượng", bạn bè của các trẻ nhỏ và tội nhân, Chúa Giêsu cũng là người biết nổi giận và phẫn uất. Người chẳng phải là một thượng thánh im lìm song là một con người bằng xương bằng thịt, biết phản ứng và tỏ ra kinh khủng khi phải bênh vực vinh quang Cha Người.
2) Chúa Giêsu cũng muốn dùng phương pháp trên để giải phóng tâm hồn nhân loại, biến nó thành Đền thờ đích thực của Thiên Chúa hằng sống. Người biết rõ mọi cái có nơi con người ta hơn cả những nhà tâm phân học; biết những uẩn khúc của ý thức, tiềm thức, vô thức của chúng ta, biết các con vật đang thu mình và gầm gừ trong đó. Người hết sức muốn giải phóng ra khỏi cảnh nô lệ này, khỏi sự tục hóa này cái con người đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, cái con người đã được mời gọi sống sự sống thần linh. "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài hầu những ai tin vào Người sẽ được sống vĩnh cửu” (Ga 3,16).
3) Trong dịp lễ Vượt qua đầu tiên của đời sống công khai này, Chúa Giêsu tỏ mình như một nhà giải phóng khác với Môsê: Người thiết lập một ngày sabbat mới và một lễ Vượt Qua mới. Vì danh Cha, Người muốn có một phụng tự khác trong Thần Khí và sự thật, trong tình yêu và tự do, một phụng tự tôn thờ đích thực trong đó giới răn thứ nhất được thi hành một cách tuyệt hảo: "Ngươi hãy thờ lạy một mình Thiên Chúa và mến yêu Ngài trên hết mọi sự".
4) "Hãy phá hủy Đền thờ này đi, và nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại". Nghĩa là thân xác Chúa Giêsu sẽ bị đánh dập nhừ tử, sẽ bị giết chết nhưng rồi sẽ phục sinh. Trong thực tế, vào ngày thứ sáu Tuần thánh, hai nhân chứng sẽ đến lặp lại những lời này: Tên này đã nói: Ta có thể triệt hạ Đền thờ Thiên Chúa và trong ba ngày sẽ xây cất lại (Mt 26,61). Tại đồi Canvê, dân chúng sẽ lắc đầu nhạo báng Người mà rằng: "Mày định triệt hạ Đền thờ và trong ba ngày sẽ xây lại, hãy tự cứu mình đi" (Mt 27,41). Nhưng rồi cuộc Phục sinh đã khôi phục cái Đền thờ, trong đó, Chúa Giêsu đã dâng hy tế hoàn hảo, đã dâng của lễ giải phóng nhân loại. Trên thập giá, Người đã vừa dâng lễ vừa tự hiến, là tư tế và hy lễ cùng một lúc; thành thử đối với chúng ta, Đền thờ mến yêu và thờ lạy chính là thân thể Chúa Kitô, trái tim Chúa Kitô. Trong thân thể của Người, chúng ta có thể kết hợp với Chúa Kitô tư tế và hy lễ. Trong thân thể phục sinh của Người là tạo vật được giải phóng tuyệt hảo nhất, thuần tính (nguồn tự do toàn vẹn) đã chiến thắng trong thân thể phục sinh của người, Giao ước mới đã được ký kết và củng cố mãi mãi.
5) Người Kitô hữu là Đền thờ Thiên Chúa. Phạm tội là biến Đền thờ Thiên Chúa là hang trộm cắp, và như thế xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi lòng mình. Mùa chay là lúc trùng tu, kiến thiết đền thờ tâm hồn chúng ta để xứng đáng làm nơi Thiên Chúa ngự trị.
62.Đức Giêsu xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ--Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ đền thờ bằng đá, nơi Đức Giêsu đuổi quân buôn bán.
Nếu Tin mừng của hai Chúa nhật trước trích từ Maccô, thì Tin Mừng của ba Chúa nhật cuối cùng Mùa Chay này trích từ Gioan.
Các thánh sử khác đã đặt câu chuyện này vào cuối thời gian rao giảng của Chúa (Mt 21,12-17; Mc 11,15-17; Lc 19,45-46). Còn Gioan chủ ý đặt biến cố này vào đầu đời công khai của Chúa. Để như vậy, nêu rõ sự đoạn tuyệt với đạo Do Thái chính thống, lúc đó đang là hoàn cảnh lịch sử của Giáo Hội, đồng thời khôn khéo nối kết Kinh Thánh, các sự kiện và cử chỉ của Đức Giêsu bằng cái nhìn sau Phục Sinh.
Câu chuyện này xảy ra trong hoàn cảnh Đức Giêsu lên Giêrusalem "bởi vì lễ Vượt Qua đã đến gần Gioan nhắc lại công thức này 4 lần trong Tin Mừng (Ga 6,4; 11,55) để chuẩn bị cho độc giả thấy lễ Phục Sinh của Kitô giáo trùng hợp với lễ Vượt Qua của Israel (X.Léon-dufour, "Lecture de L'evangile selon Jean" cuốn 1, Seuil, trang 253).
Đức Giêsu thấy "trong đền thờ có những kẻ bán chim, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền”? Danh từ "Đền thờ” nhắc đến ở đây không phải khu vực thánh của ngôi đền, cung thánh, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Người. Những người đổi tiền ở đó, là cần thiết, bởi vì đồng tiền chính thức mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma không được dùng trong phụng tự, và buộc phải đổi sang một đồng tiền không dơ. Còn bọn bán chiên, bò, chim bồ câu ở đó để bán những vật cần cho việc hy tế.
Chính trong khung cảnh này mà Gioan đặt cuộc can thiệp của Đức Giêsu, một cuộc can thiệp gồm hành động và lời quở trách.
+ Cử chỉ của Đức Giêsu giống với cử chỉ của các ngôn sứ thời xưa, khi thông báo sứ điệp của các ông. Gioan đã tả hết sức tỉ mỉ với những chi tiết mà không thấy nơi các tác giả Nhất Lãm: "Đức Giêsu cầm lấy một dây thừng dùng làm roi, Người đuổi những lái buôn chiên, bò, người lật đổ bàn của người đổi tiền bạc; người xua đuổi bọn bán chim bồ câu”.
+ Lời giải thích rất ý nghĩa: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” - Lời này gợi nhớ ngôn sứ Giacaria 14,21 loan báo việc tẩy uế Đền thờ được tiên báo vào cuối đời, lúc này đã khởi sự rồi (A. Marchadour, "L'evangile de Jean", Centurion, trang 60). Lời này tỏ cho thấy mối liên hệ đặc biệt giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa. Khi nói về Đền thờ, Người đã không dùng từ "nhà của Chúa”, mà Người nói "nhà của Cha tôi”.
Những người chứng kiến liền phản ứng tức khắc. Mọi người đều biết lời tiên báo về việc tẩy uế đền thờ. Họ hiểu ngay rằng: Đức Giêsu không những đến như một người cải tổ, chỉ tố cáo những lạm dụng nơi Đền thờ, mà còn như một vị đến để làm cho lời tiên tri thực hiện.
Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”. Bởi vì dưới con mắt họ, quyền thiên sai mà Đức Giêsu tự nhận, cũng như những gì thuộc Đền Thờ phải được chuẩn nhận bằng một dấu lạ.
2. Đến đền Thờ mới là Thân Thể của Chúa.
Bấy giờ Đức Giêsu đáp: "Các ông cứ phá Đền Thờ này đi Đền Thờ này "nos”); nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại" (từ ‘dựng lại’ là từ mà thánh ký sau này, câu 22 dùng để chỉ "sống lại) X. Léon-dufour quảng giải: "Trong câu nói long trọng mà chúng ta đang được Đức Giêsu đối chiếu đền thờ sẽ bị phá huỷ với đền thờ mà Người sẽ là kẻ xây dựng lại, (Lecture de L'evangile selon Jean", cuốn 1, Seuil, trang 261).
Những kẻ đối thoại với Chúa càng tỏ ra bực bội và ngạc nhiên. Sự không hiểu nhau về vấn đề Đền Thờ - đây là lần đầu trong một loạt những không hiểu dẫn Người đến núi Canvê – như vậy là hết cứu chữa.
Và cuối cùng, cộng đoàn Kitô hữu đã làm gì khi đọc lại những lời này dưới ánh sáng của Đức Giêsu Phục sinh: “Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói".
+ Nhớ lại cử chỉ của Chúa, cộng đoàn Kitô hữu khám phá ra rằng lời Thánh Vịnh 69 đã thực hiện, lời mà họ đặt ở tương lai: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân". Họ hiểu ra rằng, câu chuyện Đền Thờ này, mọi tiến trình đã bắt đầu để dẫn Đức Giêsu đến cái chết; rằng Đức Giêsu đã trả giá bằng chính mạng sống Người, để thực hiện lời tiên tri về việc tẩy uế Đền Thờ mà Giacaria đã loan báo.
+ Nhớ lại những lời của Chúa về Cung Thánh Đền Thờ:
“Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, họ hiểu rằng người nói về thân thể Người, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người; nơi mở cửa cho hết thảy mọi người, nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người; là Đền thờ của Giao ước mới.
Và X. Léon-Dufour kết luận: "Có thể nghĩ rằng, đoạn văn đã được biên tập sau năm 70, tức là sau khi đền thờ Giêrusalem thực sự bị phá huỷ, đền thờ mà Israel coi là nơi có sự hiện diện Thiên Chúa. Bởi đó, sau khi đền thờ bị phá huỷ, câu hỏi hóc búa được đặt ra là: cung thánh đã tan tành, vậy từ nay Thiên Chúa hiện diện ở đâu? Theo thúc đẩy của đức tin, người Do Thái thời đó tin rằng: nơi mà họ gặp Thiên Chúa là Lề Luật. Còn đối với những Kitô hữu, những người còn chăm chỉ lên đền thờ cầu nguyện, câu trả lời sẽ là: Chúa Kitô sống lại hiện diện ở giữa họ khi họ tụ họp để cử hành lễ tưởng niệm Người" (Sđd, trang 266-267).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Ơn gọi của chúng ta: làm dấu chỉ sự hiện hiện của Thiên Chúa giữa loài người
(Đức cha Daloz, trong cuốn "Nous avons vu Sa gloire", Desclée de Brouwer, trang 38-39).
"Ngay từ những chương đầu của Tin Mừng, thánh Gioan đã nói cho chúng ta biết về cuộc hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu nhân dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái. Chính trong dịp này, ngài đề cập đến việc tẩy uế Đền thờ, trong khi những thánh sử khác thuật lại việc này sau khi Đức Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem lần cuối. Cử chỉ của Đức Giêsu là cử chỉ của một tiên tri. Người xua đuổi những kẻ mua bán chiên bò để cúng tế và những kẻ đổi tiền ra khỏi đền thờ.
Ở đây hành vi đầy bạo lực của Đức Giêsu là hành vi của một tiên tri, chính các môn đệ của Người cũng hiểu như vậy. Họ nhớ tới lời Thánh Vịnh: “Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”. Người Do thái cũng hiểu rõ ý nghĩa của cử chỉ này. Họ đòi Đức Giêsu phải làm một đấu lạ để biện minh cho hành động của mình: "Ông lấy dấu lạ nào để chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" Đức Giêsu trả lời họ bằng rnột câu bí ẩn, mầu nhiệm: "Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Chúa có ý nói đến tính cách tạm thời của những hy lễ trong đền thờ của giao ước cũ. Chúa nói về một đền thờ khác, đền thờ mà ở đó sẽ ký kết giao ước mới. Những đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Chính nơi Đức Giêsu mà từ nay Thiên Chúa bày tỏ sự hiện diện của Người. Cần chờ đến biến cố phục sinh, các môn đệ mới nhớ lại và tin vào Kinh Thánh và những lời Chúa đã nói. Chính đền thờ mới, thân thể Đức Kitô và nhà của Chúa Cha, mà tạ ngày nay cần phải gìn giữ, đừng biến nó thành nơi buôn bán. Ta cần phải hết sức cung kính đối với lễ vật của giao ước mới, đã thay thế cho lễ vật hy sinh của đền thờ ngày xưa. Ta cần phát hết lòng tôn trọng đốt với thân thể mầu nhiệm, mà Đức Giêsu là đầu, thân thể có ơn gọi làm dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại".
2. Một đền thờ mới xây dựng những viên đá sống
(H. Denis, trong cuốn "100 mots pour dire la foi", Desclée de Brouwer, trang 39-40).
Đức Giêsu làm một cuộc cách mạng, lật đổ cấu trúc tôn giáo. Không những người muốn cho người ta hiểu rằng những ngôi đền thờ vật chất trở nên vô dụng, mà Người còn muốn tỏ cho biết một ngôi đền thờ mới, đích thực là thân thể Người, đã chết đi và sống lại.
Đền thờ mới là chính Người, trong Người tình yêu của Thiên Chúa và của con người chuyển thông nhau trong một cuộc hiệp thông duy nhất.
Thật là một giao hoán lạ lùng. Nhưng chưa hết, Tân Ước còn thêm rằng ngôi đền thờ này mà Đức Giêsu là viên đá góc, được xây dựng bằng những viên đá sống là các Kitô hữu, và nói rộng ra là toàn thể nhân loại. Là đền thánh, bởi vì nó không được làm bằng đá, gạch hay bất cứ vật liệu cao quí nào, nhưng bằng những con người, con người được kêu gọi để thương yêu nhau, để hiến mạng sống cho nhau, nhờ đó lưu thông tình yêu vô hạn của Đức Giêsu.
3. Thánh lễ Chúa nhật: lúc dân mới kết hợp nên một thân thể hữu hình.
(Thơ mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Pháp “Lettre aux catholiques de France", Cerf, 93-94).
Trong tiệc Thánh Thể, các cộng đoàn ý thức hơn về tầm quan trọng của mình trong đời sống của Giáo Hội. Nhưng điều tuyệt đối cần thiết là phải canh tân rộng khắp ý nghĩa của việc cử hành ngày Chúa nhật, hiểu như thời điểm mà dân mới, gồm những người đã được rửa tội, làm nên thân thể hữu hình, để đáp lại lời Đức Kitô mời gọi các môn đệ, kêu gọi họ dâng hiến sự sống kết hiệp với của lễ Đức Giêsu Kitô để thế giới được sống. Chúng ta hết thảy đều có lần cảm nghiệm những lần cử hành cởi mở, đầm ấm, khiến ta dường như cảm nhận được ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng, nhờ đó, ta được bồi dưỡng sức lực để tiếp tục lên đường. Điều đó không chỉ là một lý tưởng viễn vông đối với các cộng đoàn, nhất là nếu những cảm nhận và những truyền thống tu đức biết hoà hợp những đòi hỏi mà đôi khi người ta lầm tưởng là đối nghịch nhau, như tôn trọng truyền thống phụng vụ, kêu gọi mọi thành phần tham gia tích cực, và sự góp phần của thẩm mỹ và mỹ thuật vào phụng vụ.
Như vậy, việc thực hiện lễ tạ ơn không thể tách rời khỏi ý thức về thừa tác vụ được uỷ thác để ban sự sống và xây dựng cộng đoàn Giáo Hội.
63.Cơn giận của Chúa Giêsu (2,12-16)--William Barclay
Bây giờ chúng ta hãy xét xem tại sao Chúa Giêsu hành động như thế. Cơn giận của Ngài là một điều đáng sợ. Hình ảnh Chúa Cứu Thế cầm roi khiến chúng ta phải kinh hãi. Điều gì đã khiến Ngài nổi cơn giận thánh tại sân Đền Thờ như vậy?
Trong các ngày lễ của dân Do Thái, lễ Vượt Qua là quan trọng nhất. Như chúng ta biết, luật quy định mỗi người nam Do Thái trưởng thành, sống trong vòng hai mươi lăm cây số chung quanh Giêrusalem phải đến đó dự lễ. Nhưng không phải chỉ có người Do Thái trong xứ Palestine đến dự lễ Vượt Qua. Thời bấy giờ dân Do Thái tản lạc khắp thế giới, họ chẳng bao giờ quên tôn giáo và đất nước của tổ tiên họ. Người Do Thái dù sống ở xứ nào, họ vẫn mong ước và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất một lần. Chuyện nghe thật đáng kinh ngạc nhưng dường như đã có đến hai triệu hai trăm ngàn người Do Thái đã tập họp về xứ thánh dự lễ Vượt Qua.
Thuế Đền Thờ là sắc thuế mà mỗi người Do Thái từ 19 tuổi trở lên phải nộp. Đó là phần dành cho việc dâng các sinh tế và lễ nghi trong Đền Thờ hằng ngày. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, gần hai ngày lương của một công nhân. Trong việc giao dịch bình thường, mọi loại tiền đều có giá trị ở Palestine. Các loại tiền bằng bạc lưu hành từ Rôma, Hy Lạp, Ai Cập đến Tia, Siđôn và Palestine đều có giá trị. Nhưng tiền thuế Đền Thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Đó là loại tiền Do Thái, nên có thể dùng dâng cho Đền Thờ. Các loại tiền khác là của người ngoại, do đó bị xem là ô uế. Chúng được dùng trả các món nợ thường, nhưng không thể dùng trả nợ cho Chúa.
Khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến với đủ loại tiền, nên trong Đền Thờ có nhiều người đổi bạc. Nếu họ hành nghề ngay thẳng, thật thà, thì họ đã thực hiện một mục đích chân thật và cần thiết. Nhưng muốn đổi lấy một đồng nửa siếc-lơ tiền để dâng cho Đền Thờ, người ta phải trả tương đương với ¼ tiền lương một ngày; vậy cứ đổi 4 đồng nửa siếc-lơ thì người đổi lợi được một số tiền tương đương một ngày công. Do đó, số tiền thuế Đền Thờ thu được và lợi tức đổi bạc thật khủng khiếp. Thu nhập của Đền Thờ về khoản thuế đó hằng năm ước lượng khoảng 75.000 bảng Anh, lợi tức hằng năm của những người đổi bạc là 9.000 bảng Anh. Năm 54 TC, Crassus chiếm thành Giêrusalem, cướp kho Đền Thờ, đã lấy của kho ấy 2.500.000 bảng Anh, nhưng chưa lấy hết.
Việc những kẻ đổi bạc ăn lời khi đổi tiền cho khách hành hương tự nó không có gì sai quấy. Kinh Talmud quy định: “Mỗi người cần có đồng nửa siếc-lơ để nộp thuế cho mình. Do đó, khi đổi đồng một siếc-lơ để lấy hai đồng nửa siếc-lơ, người ấy phải cho kẻ đổi bạc chút ít tiền lời”. Từ chỉ tiền lời là kollubos, những kẻ đổi bạc được gọi là kollubistai. Chữ này sản sinh một vai hề tên kollybos trong tiếng Hy Lạp, trong tiếng La Tinh là Collybus. Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu đựng tệ nạn đổi bạc bóc lột với giá cắt cổ. Thật là một bất công, và càng tệ hại hơn nữa là người ta nhân danh tôn giáo để làm việc ấy.
Bên cạnh bọn đổi bạc, còn có số người bán bò, chiên, bồ câu. Thường thì mỗi lần đến Đền Thờ là một lần dâng lễ vật. Nhiều khách hành hương muốn dâng một lễ vật cảm tạ vì chuyến hành trình đến thánh địa bình an, hầu hết các hành động hoặc biến cố xảy ra trong đời sống đều có một lễ vật tương ứng. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua được các con vật tại sân Đền Thờ. Nhưng luật quy định bất cứ con vật nào dùng làm của lễ đều phải lành lặn, không tì vết. Ban quản trị Đền Thờ phân công những người kiểm tra con vật. Mỗi lần khám xét đều phải trả lệ phí 1/12 siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua con vật ngoài Đền Thờ, chắc chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét. Vấn đề dường như chẳng có gì quan trọng, nhưng khốn nỗi, một con vật mua trong sảnh Đền Thờ có khi phải trả đắt gấp mười lăm lần hơn giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính điều ấy đã khiến Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Gioan biết là Chúa đã lấy dây bện thành một cái roi. Thánh Jerôme nghĩ rằng chính cái nhìn của Chúa Giêsu cũng đủ rồi, không cần đến cây roi nữa. “Một tia giận sáng như sao từ đôi mắt Ngài chiếu ra, và oai nghi của Chúa rạng ngời khuôn mặt Ngài”. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha, và chính vì yêu mến các con cái Thiên Chúa, cho nên Ngài không thể thụ động đứng ngoài vòng, trong khi những kẻ khốn khổ đến Đền Thờ để thờ phượng Chúa tại Giêrusalem bị đối xử như thế.
CƠN GIẬN CỦA CHÚA GIÊSU (Ga 2,12-16)
Chính những kẻ vô lương tâm, bóc lột khách hành hương đã khiến Chúa Giêsu nổi giận, nhưng phía sau sự kiện dọn sạch Đền Thờ này còn có nhiều điều sâu sắc. Chúng ta thử đi sâu hơn vào các lý do đã khiến Chúa Giêsu mạnh tay như thế.
Để có một bức tranh chính xác về lời Chúa Giêsu nói, chúng ta ghi ra những gì các tác giả Phúc Âm đã nhớ và chép lại, vì mỗi người đã tường thuật một cách. Mátthêu ghi lại lời Chúa Giêsu nói: “Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện, nhưng các ngươi thì làm cho nhà ấy thành ra ổ trộm cướp” (Mt 21,13). Maccô viết: “Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân… Nhưng các ngươi đã làm thành cái hang trộm cướp” (Mc 11,17). Luca thì chép: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện song các ngươi làm thành ra một cái hang trộm cướp”. Gioan viết: “Hãy cất bỏ đồ đó khỏi đây, đừng làm cho nhà Cha Ta thành ra nhà buôn bán” (Ga 2,16). Có ít nhất ba lý do khiến Chúa Giêsu hành động như vậy, tại sao Ngài nổi giận:
1) Chúa Giêsu làm như vậy vì nhà của Chúa đã bị xúc phạm. Trong Đền Thờ, có thờ phượng mà không có lòng tôn kính. Lòng tôn kính là một bản năng bẩm sinh. Nhà nghệ sĩ Edward Seago kể lại có lần ông dẫn hai đứa bé du mục vào một nhà thờ lớn ở Anh. Hai đứa bé này bình thường rất ngỗ nghịch. Nhưng khi vào trong đại giáo đường, chúng giữ yên lặng cách kỳ lạ. Trên đường về, chúng tỏ ra trang trọng cách khác thường, cho đến tối chúng mới trở lại nghịch ngợm bình thường. Bản năng tôn kính nằm sâu trong lòng chúng ta.
2) Chúa Giêsu hành động như thế để chứng minh việc dâng con vật làm sinh tế không còn thích đáng nữa. Từ nhiều thế kỷ trước, các ngôn sứ đã nói: “Đức Chúa phán: Muôn vàn của lễ các ngươi có can hệ gì đến Ta? Ta đã chán chê của lễ thiêu chiên đực và mỡ của bò con mập. Ta chẳng hài lòng về máu của bò đực, chiên con và dê đực đâu. Thôi đừng dâng của lễ chay vô ích cho Ta nữa” (Is 1,11-17). “Vì Ta đã đem tổ phụ các ngươi ra khỏi đất Ai Cập, Ta chẳng hề phán và chẳng hề truyền lệnh gì về của lễ toàn thiêu và các của lễ khác” (Gr 7,22). “Chúng nó sẽ đi với các bầy chiên, đàn bò để tìm kiếm Đức Chúa, song không thấy Ngài” (Os 5,6). “Còn như của lễ dâng cho Ta thì chúng nó dâng thịt và thức ăn, nhưng Đức Chúa chẳng nhận đâu” (Os 8,13), “Vì Chúa không ưa thích của lễ, nếu Ngài ưa tôi chắc đã dâng. Của lễ toàn thiêu cũng không đẹp lòng Chúa” (Tv 51,16). Tiếng nói ngôn sứ luôn nhắc đi nhắc lại với loài người tính cách bất thích hợp của các lễ toàn thiêu và các sinh tế vẫn còn tiếp tục bốc khói từ bàn thờ tại Giêrusalem. Chúa Giêsu hành động như vậy là để chứng tỏ không có một lễ vật hay một sinh tế nào có thể làm cho loài người hòa thuận lại với Chúa được.
Ngày nay chúng ta cũng không thoát khỏi khuynh hướng này. Chúng ta không còn dâng sinh vật làm của lễ cho Chúa. Nhưng chúng ta đồng hóa việc phục vụ Chúa với việc lắp đặt những cửa sổ bằng kính màu, việc có thêm một cây đàn phong cầm vang tiếng hơn, việc hao phí thực hiện nhiều công trình chạm trổ trên đá, trên thạch cao, trên gỗ quý, trong khi tinh thần thờ phượng đích thực không thấy đâu. Chúng ta không lên án những việc đó, trái lại tạ ơn Chúa, điều đó thường là do những tấm lòng yêu mến Chúa dâng hiến. Chúng được dùng hỗ trợ cho thờ phượng chân thật, là những việc được Chúa ban phước; nhưng khi chúng thay thế cho lòng thờ phượng chân thật, thì lại khiến Chúa phải ghê tởm.
3) Một lý do khác khiến Chúa Giêsu hành động như thế mà Maccô có thêm một chi tiết đáng chú ý, không tác giả nào đề cập đến: “Nhà Ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Mc 11,17). Đền Thờ gồm nhiều hành lang (sân) dẫn đến bên trong Đền Thờ và nơi Thánh. Trước hết có hành lang dành cho dân ngoại, rồi đến hành lang dành cho phụ nữ, tiếp đến là hành lang dành cho Israel, rồi đến hành lang cho các tư tế. Cảnh buôn bán kể trên diễn ra trong hành lang dành cho dân ngoại, là nơi duy nhất người ngoại có thể tới trong Đền Thờ. Một người ngoại chỉ có thể đến đó và bị cấm không tiến xa hơn nữa. Như thế, một người ngoại có thể vào hành lang dành cho họ để suy gẫm, cầu nguyện và đứng từ xa tiếp xúc với Chúa. Đây là chỗ cầu nguyện duy nhất của họ.
Thế mà, ban quản trị Đền Thờ và các con buôn người Do Thái đành biến hành lang ấy thành nơi huyên náo, hỗn loạn khiến không ai có thể cầu nguyện được. Quang cảnh như vậy của hành lang Đền Thờ đã loại bỏ mất những người ngoại muốn tìm kiếm Chúa. Có thể đó là điều đập mạnh vào tâm trí Chúa Giêsu trên hết; và chỉ một mình Maccô mới giữ được câu nói ngắn ngủi nhưng nhiều ý nghĩa đó. Chúa đã xúc động tận tâm can khi thấy những người muốn ra mắt Chúa lại bị ngăn trở như vậy.
Trong sinh hoạt của Giáo Hội chúng ta, giai cấp, kỳ thị, lạnh lùng, kém niềm nở, khuynh hướng biến cộng đoàn thành một câu lạc bộ khép kín, thái độ kiêu căng, làm khó, đã ngăn trở những người lạ có lòng tìm kiếm Chúa phải ở bên ngoài hay không? Chúng ta nên nhớ lại cơn giận của Chúa Giêsu đối với những ai làm khó những người thiện chí tìm Chúa nhưng không thể tiếp nhận Ngài được.
ĐỀN THỜ MỚI (Ga 2,17-22)
Một hành động, như việc dọn sạch Đền Thờ, chắc chắn phải gây phản ứng tức khắc từ phía những người đã mục kích. Đây không phải là loại sự việc mà người ta có thể đứng nhìn với thái độ hoàn toàn dửng dưng, vì hành động đó quá táo bạo.
Có hai phản ứng. Một là phản ứng của các môn đệ của Chúa. Họ nhớ lại những lời trong Thánh Vịnh 69,9; được xem như chỉ về Đấng Mêsia. Khi Đấng Mêsia đến, Ngài có lòng sốt sắng, nóng nảy như nung nấu về nhà Chúa. Khi Thánh Vịnh này hiện lên trong trí các môn đệ, thì niềm tin Chúa Giêsu là Đấng Mêsia càng sâu xa và dứt khoát hơn. Hành động ấy không thích hợp với ai khác ngoài Đấng Mêsia. Các môn đệ càng tin hơn bao giờ hết Chúa Giêsu đúng là Đấng được xức dầu của Thiên Chúa.
Hai là phản ứng tất nhiên của người Do Thái. Họ hỏi Chúa Giêsu lấy quyền gì để hành động như vậy, và đòi Ngài phải làm một dấu lạ để chứng minh thẩm quyền của Ngài. Họ nhìn nhận hành động của Chúa Giêsu là hành động tự tuyên xưng của Đấng Mêsia. Người ta luôn luôn trông chờ Đấng Mêsia, khi Ngài đến, Ngài sẽ chứng minh và bảo đảm những lời xưng nhận của Ngài bằng nhiều phép lạ. Thật ra nhiều Mêsia giả đã xuất hiện, và hứa sẽ rẽ nước sông Giođan làm hai, hoặc chỉ nói một lời thì các vách thành liền đổ xuống. Ý niệm phổ thông về Đấng Mêsia gắn liền với phép lạ. Do đó, người Do Thái mới nói: “Bằng hành động dọn sạch Đền Thờ, Thầy đã công khai tự xưng là Đấng Mêsia, bây giờ, hãy cho chúng tôi thấy phép lạ để chứng minh lời tự xưng đó của Thầy”.
Câu trả lời của Chúa Giêsu đã tạo nên vấn đề lớn cho đoạn này. Chúa Giêsu thật sự đã nói gì? Ngài muốn ngụ ý gì? Chúng ta thấy rõ hai câu 21, 22 là lời diễn giải Gioan viết sau này. Tất nhiên ông đã đưa các ý niệm vốn là kết quả của 70 năm suy nghĩ và kinh nghiệm về Chúa Cứu Thế Phục Sinh vào đoạn này. Giáo phụ Irenaeus kinh nghiệm: “Không có lời tiên tri nào được thấu hiểu đầy đủ, cho đến khi nó đã được ứng nghiệm”. Nhưng nguyên thủy, Chúa Giêsu nói gì, và đã ngụ ý gì?
Không có gì để nghi ngờ là Chúa Giêsu đã nói mấy lời giống như câu này, những lời có thể bị những kẻ quỷ quyệt xuyên tạc thành lời tuyên xưng có tính cách phá hoại. Lúc Chúa Giêsu bị đem ra xét xử, có lời chứng dối đưa ra để tố cáo Ngài: “Người này nói: Ta có thể phá Đền Thờ của Chúa rồi dựng lại trong ba ngày” (Mt 26,61). Lời tố cáo chống lại Têphanô: “Chúng ta đã nghe người này nói rằng Giêsu ở Nagiarét sẽ phá nơi đây và đổi tục lệ Môsê đã truyền lại cho chúng ta” (Cv 6,14)
Có hai điều chúng ta phải nhớ và ghép chúng lại với nhau. Trước hết, chắc chắn Chúa Giêsu không bao giờ bảo Ngài sẽ phá hủy Đền Thờ bằng vật liệu thấy được ấy, rồi sẽ xây dựng lại. Thật ra, Chúa Giêsu chờ ngày chấm dứt Đền Thờ. Ngài đã nói cùng người đàn bà Samari, đã đến ngày mà người ta không còn thờ phượng Đức Chúa Trời hoặc trên núi Garidim, hoặc tại Giêrusalem, nhưng phải thờ phượng Ngài bằng tinh thần và chân lý (Ga 4,21). Điều thứ hai, có thể việc Chúa Giêsu mạnh tay dọn sạch Đền Thờ là một cách để chứng tỏ toàn thể thờ phượng với nghi lễ và lễ vật đó không còn phù hợp, và không thể đưa người ta đến với Chúa. Như thế, Chúa Giêsu đã dự liệu đền thờ này sẽ bị phá bỏ, Ngài đã đến để khiến cho sự thờ phượng tại đó trở thành lỗi thời không cần thiết, vì thế chẳng bao giờ Ngài lại gợi ý là sẽ xây lại đền thờ.
Bây giờ chúng ta quay sang Maccô. Như thường lệ chúng ta thấy một câu nhỏ thêm vào có tính cách gợi ý và soi sáng trong tường thuật của Maccô. Theo Maccô kể thì lời tố cáo Chúa Giêsu là: “Ta sẽ phá đền thờ này bởi tay người ta cất lên, khỏi ba ngày, Ta sẽ cất một đền thờ khác không bởi tay người ta cất” (Mc 14,58). Rõ ràng, điều Chúa muốn nói là Ngài đến để chấm dứt tất cả những gì do tay người ta làm ra, cách thức thờ phượng Chúa do người ta sắp xếp, để đưa vào sự thờ phượng thiêng liêng. Ngài đã kết thúc mọi việc dâng của lễ bằng súc vật và lễ nghi do các thầy tế lễ chủ trì, thay vào đó bằng việc trực tiếp đưa tâm linh người ta đến gần Thánh Linh của Chúa mà không cần các nghi lễ dâng hương, dâng lễ vật. Lời xác nhận của Chúa Giêsu là: “Sự thờ phượng tại Đền Thờ, các nghi lễ rườm rà, vô vàn lễ vật của các ngươi phải chấm dứt, bởi vì Ta đã đến”. Lời hứa tiếp theo của Chúa là: “Ta sẽ mở cho các ngươi một con đường đến với Thiên Chúa mà không cần các nghi lễ tỉ mỉ đó nữa. Ta đã đến để phá hủy Đền Thờ Giêrusalem, khiến cả trái đất này thành một ngôi đền thờ, ở đó loài người có thể đến gần và biết có sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống”.
Người Do Thái đã thấy việc đó. Năm 19 TC, vua Hêrôđê đã bắt đầu xây dựng ngôi đền thờ vĩ đại ấy. Nhưng đến năm 64 SC việc xây dựng mới xong. Từ ngày khởi công đến lúc bấy giờ là 46 năm, còn hai mươi năm nữa mới hoàn thành. Chúa Giêsu khiến người Do Thái phẫn nộ khi bảo rằng tất cả những huy hoàng tráng lệ, tiền bạc kỹ thuật mà người ta đã đổ vào công trình ấy hoàn toàn vô ích, và Ngài đã đến để chỉ cho người ta một con đường đến với Đức Chúa Trời mà không cần một đền thờ nào cả.
Đây là điều thực sự Chúa Giêsu đã nói. Những năm sau đó Gioan còn nghiệm thấy thêm nhiều điều trong những lời Chúa Giêsu nói. Ông thấy đó là một lời tiên tri về sự Phục Sinh, và Gioan đã đúng. Ông đã thấy đúng, vì cả thế gian này không thể trở thành ngôi đền thờ của Thiên Chúa hằng sống, cho đến khi Chúa Giêsu lìa bỏ thân xác trần gian hiện diện khắp nơi, ở với mọi người, mọi chỗ, cho đến tận cùng trái đất.
Chính sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh và hằng sống đã khiến cả thế gian trở thành đền thờ của Thiên Chúa. Cho nên khi các môn đệ gẫm lại, họ mới hiểu đó là lời hứa về sự Phục Sinh. Lúc ấy họ không thể hiểu được, nhưng sau khi chính họ kinh nghiệm về Chúa Cứu Thế Hằng Sống, họ mới thấy được ý nghĩa sâu nhiệm của những gì Chúa Giêsu đã nói.
Cuối cùng Gioan bảo: “thì (họ) tin Kinh Thánh”; Kinh Thánh nào đây? Ông muốn nói đến câu Kinh Thánh vẫn ám ảnh Hội Thánh sơ khai: “Chúa không để cho người thánh Chúa thấy sự hư nát” (Tv 16,10). Đó là câu Phêrô đã trích dẫn vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2,31); Phaolô đã trích dẫn tại Antiokia (Cv 13,35). Câu Kinh Thánh đó diễn tả lòng tin của Hội Thánh vào quyền năng của Thiên Chúa và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô.
Tại điểm này chúng ta được đưa vào chân lý, chúng ta được tiếp xúc với Chúa, ra mắt Ngài, đến gần Ngài, không tùy thuộc vào bất cứ điều gì do bàn tay và trí tuệ con người làm ra. Ngoài đường phố, ở trong nhà, lúc làm việc, khi ở trên núi, trên đường dài vắng vẻ hay trong nhà thờ, chúng ta đều có đền thờ nội tâm, có sự hiện diện vĩnh viễn của Chúa Kitô Phục Sinh, Ngài vẫn ở với chúng ta khắp mọi nơi.
ĐẤNG DÒ XÉT LÒNG NGƯỜI (Ga 2,23-25)
Gioan không thuật lại các phép lạ Chúa Giêsu đã làm tại Giêrusalem trong mùa lễ Vượt Qua ấy. Nhưng nhiều người sau khi thấy phép lạ Ngài làm, thì tin Ngài. Vấn đề Gioan đặt ra ở đây là: Nếu đã có nhiều người tin Ngài tại Giêrusalem ngay từ buổi đầu, tại sao Chúa Giêsu không ở lại đó, dựng cờ lên để tự xưng là Đấng Mêsia, công khai tuyên bố mình là ai?
Câu trả lời là, Chúa Giêsu vốn biết rõ tâm địa con người. Ngài biết rõ, đối với nhiều người Ngài chỉ là một hiện tượng lạ chóng qua. Ngài biết có nhiều người chỉ bị lôi cuốn bởi những việc lạ lùng Ngài làm. Ngài đã biết rõ chẳng có ai thấu hiểu con đường Ngài đã chọn. Ngài biết nhiều kẻ chỉ theo Ngài vì phép lạ, dấu kỳ, nhưng khi Ngài bắt đầu nói với họ về phục vụ, từ bỏ mình, tuân phục ý Chúa, về thập giá và việc vác thập giá, chắc chắn họ sẽ trố mắt nhìn Ngài mà chẳng hiểu gì cả, sẽ bỏ Ngài ngay.
Một đặc điểm quan trọng của Chúa Giêsu là Ngài không muốn những ai theo Ngài mà chưa hiểu biết thật rõ ràng, và dứt khoát chấp nhận trả giá. Ngài khước từ việc nắm lấy cơ hội nổi tiếng trong chốc lát. Nếu Ngài tự phó mình cho đám quần chúng tại Giêrusalem, chắc họ tôn Ngài là Đấng Mêsia ngay tức khắc, để sau đó họ trông mong vào những hành động vật chất trần gian Đấng Mêsia thực hiện. Nhưng Chúa Giêsu không yêu cầu người ta thừa nhận Ngài, cho đến khi họ biết rõ tiếp nhận Ngài có ý nghĩa gì. Ngài đòi hỏi mỗi người phải nhận biết điều Ngài đang làm.
Chúa Giêsu biết rõ bản chất, tấm lòng bất định, dễ đổi thay của loài người. Ngài biết rõ con người có thể bị bốc đồng, bị lôi cuốn trong những khoảnh khắc xúc động mạnh, nhưng lại rút lui sau khi thấy rõ những gì phải trả giá. Ngài biết bản chất con người thèm những kích động tình cảm. Ngài không muốn đám đông hoàn toàn chẳng biết gì cả mà cứ tung hô, Ngài chỉ cần một số ít người biết rõ mình đang làm gì, và sẵn sàng theo Ngài cho đến cùng.
Có một điều cần chú ý trong đoạn này, vì chúng ta còn nhiều lần lặp lại. Khi Gioan đề cập đến những phép lạ của Chúa Giêsu, ông gọi đó là những dấu lạ. Tân Ước dùng ba từ khác nhau chỉ các công việc lạ lùng của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu, mỗi từ cho chúng ta biết một phần về ý nghĩa và bản chất của phép lạ.
1) Chữ Teras chỉ có nghĩa là một cái gì đó lạ lùng, đáng ngạc nhiên, kỳ lạ. Chữ này không bao hàm một ý nghĩa đạo đức nào cả. Một trò lừa đảo bằng phù phép có thể là một teras, nó chỉ là một điều xảy ra khác lạ khiến người ta phải ngạc nhiên. Tân Ước không dùng chữ này một mình để chỉ các công việc của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu.
2) Chữ Dunamis theo nghĩa đen là năng lực, do từ này mà có chữ cốt mìn (dynamite). Nó có thể được dùng để chỉ bất cứ một năng lực khác thường nào, hoặc chỉ sức tăng cường, các năng lực thiên nhiên, năng lực của một thứ thuốc, năng lực của một người có tài. Nó luôn luôn có nghĩa là một năng lực hữu hiệu để làm việc mà ai cũng nhìn nhận.
3) Chữ Semeion có nghĩa là một dấu hiệu (sign). Đây là chữ mà Gioan thích dùng. Theo ông, phép lạ không chỉ là một việc xảy ra kinh ngạc, một việc làm bởi quyền năng và là một dấu hiệu; nghĩa là nó cho người ta biết về người đã làm việc lạ ấy, phô bày một điều gì đó về tính tình, bản chất của người ấy, đó là một hành động mà qua đó người ta có thể biết rõ hơn, đầy đủ hơn về phẩm cách của người đã hành động. Với Gioan, điều tối quan trọng trong các phép lạ của Chúa Giêsu là bày ra cho người ta biết về bản chất và phẩm cách của Thiên Chúa. Quyền phép Chúa Giêsu đã được sử dụng để chữa kẻ bệnh, cho kẻ đói được ăn, an ủi kẻ gặp bối rối; chính sự kiện Chúa dùng quyền phép mình như thế, là bằng chứng Chúa quan tâm đến sầu khổ, thiếu thốn và đau đớn của con người. Với Gioan thì các phép lạ là các dấu hiệu bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa.
Vậy, trong bất cứ phép lạ nào cũng có ba điều: có điều lạ làm cho người ta bàng hoàng, sững sờ, kinh ngạc. Có phần quyền năng hoạt động hữu hiệu đối phó và hàn gắn thân thể bị thương tật, tâm trí bị rối loạn, tấm lòng tan nát, một quyền năng có thể làm mọi việc. Có phần dấu hiệu bày tỏ tình yêu và tấm lòng của Thiên Chúa, Đấng đã làm những việc như thế cho loài người.
64.Thanh tẩy đền thờ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang - Joshepus Quang Nguyễn
Trong tất cả các tôn giáo, đền thờ là nơi thánh, nơi thần linh hiện diện với con người để tiếp nhận sự phụng tự của họ và cho họ thông phần vào các ân huệ và sự sống của thần linh. Đương nhiên thế giới các thần linh không thuộc thế gian này, nhưng đền thờ được coi là nơi cư ngụ của các thần linh. Cho nên, thời Cựu Ước đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người. Nhưng đó chỉ là dấu chỉ tạm thời sẽ được thay thế bằng một dấu chỉ loại khác trong thời Tân ước: Thân Thể Chúa Kitô và Giáo Hội Người.
Thời các tổ phụ không có đền thờ mà chỉ có nơi thánh để thờ phượng Chúa như Bêtel (nhà của Thiên Chúa: St 12,8), Bersabê (St 26,25), Sikhem (St 33,18tt). Đặc biệt Núi Sinai là nơi thánh và đã được thánh hiến do việc Thiên Chúa tỏ mình (Xh 3,19). Trong suốt cuộc hành trình về đất hứa, dân Israel đã dùng Nhà Tạm (đền thờ lưu động) nhờ đó Thiên Chúa hiện diện và dẫn dắt họ (Xh 26-27). Sau khi chiếm lại hòm bia khỏi tay người Philitin (2Sm 6), Đavít thiết lập thánh địa liên tộc ở Giêrusalem. Và khi đã cất cho mình một cung điện, ngài mơ ước xây một đền thờ cho Giavê (2Sm 7,1-3). Vua Đavít chuẩn bị ba ngàn tấn vàng, ba mươi ngàn tấn bạc, đồng, sắt, gỗ, đá nhiều vô kể. Ngài kêu gọi nhiều nhân công: thợ đá, nghệ nhân chạm trỗ và đủ thứ thợ cao tay trong mọi ngành nghề (2Sm 22,1-16). Nhưng tiếc thay ông không thực hiện được. Kế nghiệp cha, Salomon đã cho xây dựng một Đền Thờ nguy nga, lộng lẫy và tráng lệ trong vòng bảy năm (1V 5,15-7,51).
Chúa Giêsu tỏ lòng tôn kính sâu đậm đối với đền thờ Giêrusalem nơi Người đã được Đức Maria dâng hiến (Lc 2,22-39). Trong các đại lễ, Người lên đó như lên để gặp gỡ Cha Người (Lc 2,41-50). Chúa Giêsu luôn coi đền thờ là nhà của Thiên Chúa, một ngôi nhà để cầu nguyên, nhà của Cha Người. Cho nên hôm nay, Ngài lên án, nổi giận khi người ta biến nó thành nơi buôn bán (Mt 21,12-17; Ga 2,16tt). Ngài không muốn nơi Thánh này trở thành nơi buôn bán, đổi chác tiền bạc. Khi xua đuổi các con buôn ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng. Theo Đức Giêsu, ngẫu tượng nguy hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon”. Những con buôn đưa súc vật vào Đền thờ không do lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng vì lợi nhuận. Họ đã coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Họ đã dùng Đền thờ làm phương tiện phục vụ túi tiền của họ. Các tư tế coi sóc Đền thờ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng: thờ tiền bạc, dùng Chúa và Đền thờ để phục vụ tư lợi.
Hôm nay, Chúa Giêsu một mặt ra tay thanh tẩy đền thờ vật chất mặc khác tiên báo cho chúng ta biết về đền thờ thiêng liêng nữa. Đền thờ thiêng liêng trước hết phải là chính Chúa Giêsu, “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, Chúa có ý nói đến thân xác của Ngài. Ngài sẽ bị giết chết, nhưng trong ba ngày Ngài sẽ sống lại. Nhờ vậy, qua Chúa Giêsu Thiên Chúa đã trở thành Emmanuel, đã trở thành Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đồng thời nhờ Ngài, chúng ta sẽ dâng lên cho Thiên Chúa của lễ tuyệt hảo nhất. Tiếp đến, đền thờ thiêng liêng còn là Giáo hội, bởi vì nhờ Giáo hội, Thiên Chúa đến với chúng ta qua những hoạt động của bí tích và lời giảng dạy, cũng như qua Giáo hội mà chúng ta không ngừng tôn vinh và thờ phượng Chúa. Sau cùng, đền thờ thiêng liêng là chính tâm hồn chúng ta, bởi vì nhờ công cuộc cứu độ với dòng nước Rửa tội, tâm hồn chúng ta trở nên như một gian cung thánh sống động cho Thiên Chúa ngự trị, đồng thời cũng chính tại thẳm sâu cõi lòng, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm tình cầu nguyện tha thiết và kết hợp chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, để tâm hồn chúng ta luôn xứng đáng là nơi cho Chúa ngự trị, thì có một việc chúng ta cần phải làm ngay, đó là khử trừ tội lỗi, vì tội lỗi sẽ làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ nhớp. Vậy, nếu Thiên Chúa viếng thăm vào giữa lúc chúng ta đang lặn ngụp trong tội lỗi, thì có lẽ Ngài sẽ tức giận mà nói với chúng ta như xưa Ngài đã nói với phường buôn bán tại đền thờ: đừng biến nhà Cha ta thành hang trộm cướp.
Chúng ta đang sống trong mùa chay, đoạn Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín hữu được coi là một đền thờ của Thiên Chúa. Vì vậy, Mùa Chay này là dịp tốt nhất để thanh tẩy tâm hồn. Chúng ta hãy nhanh chóng thanh tẩy tâm hồn khỏi thói tôn thờ ngẫu tượng tiền bạc vì chưng, bài đọc 1, Sách Xuất Hành dạy: “Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20,4). Thứ hai, trong tinh thần năm Phúc âm hóa giáo xứ, mọi thành phần dân Chúa trong giáo xứ chúng ta hãy trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Một đền thờ trong đó các thành viên biết lấy yêu thương, sự khoan dung tha thứ mà đối xử với nhau. Một đền thờ mà trong đó có Thiên Chúa ngự trị không còn bị những ngẫu tượng có tên là tiền bạc, tham vọng, ích kỷ, hận thù, gian dối chi phối nữa!
Tóm lại, mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực… đã chiếm chỗ của Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những cái đó để trả lại chỗ cho Thiên Chúa bằng sự ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.
Xin Chúa cho Mùa chay thánh này là mùa hồng ân cho chúng ta: cho mỗi người chúng ta trở thành một đền thờ xứng đáng, và cho gia đình và giáo xứ chúng ta cũng là một đền thờ tốt đẹp để Thiên Chúa ngự trị, chúc lành và ban ơn cho chúng ta.
65.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại câu chuyện Đức Giêsu đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi sân đền thờ Giê-ru-sa-lem. Lý do Ngài làm như vậy là vì: Đền thờ là nơi tôn nghiêm, Đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự trự, Đền thờ là nơi dành để dân thập phương qui tụ lại để cầu nguyện và dâng tiến lễ vật cho Thiên Chúa nhưng người Do thái đã biến thành nơi buôn bán.
Thật vậy, từ thời Cựu ước, dân Thiên Chúa đã đặt niềm tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đền Thờ. Niềm tin đó dựa vào những sự kiện sau đây:
Sự kiện thứ nhất là giấc mơ của tổ phụ Gia-cóp tại Bết Ên: Sau khi ra khỏi Bơ-e Se-va và đi về Kha-ran, Gia-cóp đến một nơi kia và nghỉ đêm tại đó vì mặt trời đã lặn. Gia-cóp lấy một hòn đá để gối đầu và nằm ngủ ở đó. Gia-cóp chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống. Thiên Chúa đứng bên trên thang và hứa với ông nhiều điều: ban đất cho ông, dòng dõi ông đông đúc như sao trên trời, sẽ ở với ông, gìn giữ ông…(x. St 28, 10-22). Sau giấc mơ, tổ phụ Gia-cóp đã thốt lên rằng: “Quả thật, có ĐỨC CHÚA ở nơi này mà tôi không biết!”; “Nơi này đáng sợ thay! Đây là nhà của Thiên Chúa, là cửa trời, chứ không phải là gì khác.”;
Sự kiện thứ hai là Nhà xếp: Sau khi giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ Ai-cập, ông Mô-sê được lệnh bởi trời dựng Nhà xếp tức là thánh đường di động để dành riêng cho Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn luôn hiện diện trong Nhà xếp để đồng hành với dân Người. Cho nên, ông Mô-sê mới khẳng định rằng: “Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người?” (Đnl 4,7);
Sự kiện thứ ba diễn ra tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem: Khi Sa-lo-mon vừa cung hiến thánh đường Giê-ru-sa-lem mà ông đã xây xong, ông truyền đem Hòm bia giao ước vào Đền thờ thì có áng mây sà xuống bao phủ nơi cực thánh, hình ảnh đó là dấu chỉ Thiên Chúa ngự xuống giữa dân Người (x. 1V 8,10-11).
Tuy nhiên, Bết Ên, Nhà xếp hay Đền thờ Giê-ru-sa-lem chỉ là hình bóng của Nhà thờ (Thánh đường) công giáo ngày nay. Người công giáo tin tưởng có Chúa ngự thật trong Nhà thờ. Vì nơi Nhà thờ đã được làm phép hay cung hiến luôn có cất giữ Thánh Thể, tức là có Đức Giêsu hiện diện cả nhân tính lẫn thần tính.
Vì sự hiện diện của Chúa nơi Nhà thờ nên người giáo giáo luôn gắn bó với Nhờ thờ. Hầu hết các sinh hoạt quan trọng trong cuộc đời của người công giáo đều diễn ra tại Nhà thờ: Khi mới sinh ra, chúng ta được cha mẹ đem đến Nhà thờ để lãnh nhận Bí tích Rửa tội, trở thành con cái Thiên Chúa. Khi đến tuổi khôn, chúng ta được học giáo lý và lãnh nhận Bí tích Giao hòa cũng tại Nhà thờ. Sau khi lãnh nhận Bí tích Giao hòa lần đầu chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Từ đó, chúng ta có thể đến Nhà thờ hằng ngày để tham dự thánh lễ Misa và lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Khi đến tuổi trưởng thành, chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thêm sức với đầy đủ bảy ơn cả của Chúa Thánh Thần cũng tại nhà thờ. Các anh chị đến tuổi lập gia đình cũng đem nhau đến nhà thờ để thề nguyền chu toàn các bổn phận vợ chồng, cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và Hội Thánh. Những người sống đời dâng hiến được cam kết với Chúa và Giáo hội bằng một nghi thức truyền chức hay khấn dòng cũng được diễn ra tại Nhà thờ. Khi kết thúc cuộc đời trần thế, mỗi người công giáo cũng được đem đến Nhà thờ để được linh mục dâng thánh lễ và cử hành các nghi thức sau hết.
Ngoài ra, Nhà thờ là nơi người công giáo có thể đến để thi hành những nhiệm vụ khác liên quan đến phần rỗi đời đời, đó là việc thờ phượng Thiên Chúa. Thờ phượng Thiên Chúa không chỉ mang tính riêng tư mà còn mang tính tập thể, cộng đoàn. Vì Nhà thờ là nơi thích hợp nhất để cầu kinh, ca hát, xin ơn, cảm tạ, chúc tụng Thiên Chúa. Vì Nhà thờ là nơi chúng ta được bồi dưỡng bởi ơn trên bằng việc cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích. Vì Nhà thờ là nơi chúng ta được nghe Lời Chúa, được nghe giảng dạy để mọi người hiểu đúng giáo lý và sống tốt bổn phận của mình. Vì Nhà thờ là nơi chúng ta được sống hiệp thông với Thiên Chúa và liên kết với mọi thành viên trong cộng đoàn xứ đạo và trong Giáo hội.
Chính vì Nhà thờ là nhà của Chúa, là nơi Chúa ngự và là nơi diễn ra các sinh hoạt quan trọng trong cuộc đời người kitô hữu nên Nhà thờ rất cần thiết. Thông thường, mỗi giáo xứ, giáo họ đều có một Nhà thờ hay nhà nguyện. Nhà thờ hay nhà nguyện thường được xây dựng nên bởi công sức của mọi thành phần trong giáo xứ. Người công giáo thường rất quảng đại trong việc đóng góp công của để xây dựng Nhà thờ. Không những nhiệt tình khi xây dựng mà họ còn ra sức bảo vệ Nhà thờ có khi bất chấp cả tính mạng. Đúng như thánh vịnh: “Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa làm hao tổn thân tôi” (Tv 68.10).
Tuy nhiên, trong thực tế không phải ai cũng có tinh thần đóng góp công của để xây dựng Nhà thờ hay nhiệt thành trong việc bảo vệ Nhà thờ. Đó là điều mà mỗi người công giáo chúng ta phải xét mình lại. Nếu ngày hôm nay, Đức Giêsu đến một số các Nhà thờ công giáo chắc chắn Ngài cũng sẽ nỗi nóng và xua đuổi nhiều người ra khỏi Nhà thờ hay khuôn viên Nhà thờ. Đó là thái độ của những người xả rác bừa bãi trong khuôn viên hay thậm chí trong Nhà thờ. Đó là thái độ của những người cố tình ngồi ngoài nhà thờ để tham dự thánh lễ trong khi bên trong nhà thờ vẫn còn nhiều chỗ. Đó là thái độ thiếu tôn kính của nhiều người khi vào Nhà thờ: đứng ngồi không ngay ngắn, nói chuyện riêng, nghe điện thoại, quay fim chụp hình và làm những việc riêng khác đang khi tham dự thánh lễ. Đó là chưa nói tới hiện tượng phá nhà thờ bởi các nhà chức trách tại một số nước thiếu tự do tôn giáo đây đó trên thế giới như tại Trung quốc.
Trên đây, chúng ta đề cập đến ngôi Nhà thờ vật chất. Nhưng có một Đền thờ quan trọng hơn Nhà thờ vật chất rất nhiều đó là tâm hồn của mỗi người chúng ta. Tất cả các Nhà thờ vật chất được xây dựng nên đều nhằm mục đích giúp ích cho đền thờ tâm hồn. Thật vậy, khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi người chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô nói: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?”(1Cr 3,16). Tuy nhiên, cũng như nhiều Nhà thờ bị tàn phá bởi con người, nhiều Đền thờ tâm hồn cũng đang bị tục hóa trở thành nơi tôn thờ Ma quỷ. Đó là những người ham mê tiền của nên tham ô, tham nhũng, chiếm đoạt tài sản của người khác. Đó là những người tham quyền, nên bất chấp mọi thủ đoạn kể cả giết người để đạt được mục đích. Đó là những người ham mê sắc dục nên đã bán rẻ thân xác của mình cũng như làm hại thân xác của tha nhân. Và nhiều hình thức khác tương tự đang làm tục hóa Đền thờ của rất nhiều tâm hồn.
Chính vì thế, mỗi người chúng ta hãy tự xét mình để quyết tâm gìn giữ Đền thờ tâm hồn bằng cách giữ gìn thân xác sạch sẽ và tâm hồn sạch tội, nhất là tội trọng. Vì khi phạm tội trọng tức là chúng ta đuổi Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn mà rước Ma quỷ vào. Để bảo vệ đền thờ tâm hồn cần phải tuân giữ lề luật của Thiên Chúa, đó là Mười điều răn, Cựu ước gọi là “Thập Giới”. Đó là điều mà Thiên Chúa đã ban bố cho Môi-sê và ông đã truyền lại cho dân chúng rằng: “Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta. Ngươi đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa không thể không trừng phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt. Ngươi hãy nhớ thánh hoá ngày Sabbat. Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi. Ngươi chớ giết người; chớ phạm tội ngoại tình; chớ trộm cắp; chớ làm chứng dối hại anh em mình; chớ tham lam nhà của kẻ khác; chớ ham muốn vợ bạn hữu, tôi tớ nam nữ, bò lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu.” (x. Xh 20, 1-3. 7-8. 12-17).
Xin cho tất cả mỗi người chúng ta luôn biết đóng góp công của xây dựng, tu sửa và bảo vệ Nhà thờ vật chất. Đồng thời, xin cho mỗi người chúng ta luôn biết tôn trọng tâm hồn của mình là Đền thờ của Thiên Chúa bằng cách năng đến Nhà thờ cầu nguyện, tham dự thánh lễ và lãnh nhận các Bí tích. Amen.
66.Ánh sáng Phục Sinh
Sau khi xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ, các nhà lãnh đạo Do Thái đã đến hỏi Chúa Giêsu: Ông có thể làm một phép lạ nào để chứng minh rằng ông có quyền làm như thế không? Và Chúa Giêsu đã trả lời: Hãy phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại. Thánh Gioan đã ghi chú: Ngôi đền thờ mà Chúa Giêsu nói đến chính là thân xác Ngài. Vì thế khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại, các môn đệ mới nhớ rằng Ngài đã nói như vậy, nên họ tin vào Thánh Kinh và những gì Chúa Giêsu đã nói.
Như thế có nghĩa là ngay cả các môn đệ cũng không hiểu hoàn toàn những điều Ngài nói. Chỉ sau khi Ngài sống lại trong vinh quang, thì những điều ấy mới được sáng tỏ. Nói cách khác, biến cố phục sinh chính là luồng ánh sáng chiếu soi, nhờ đó mà chúng ta hiểu được những biến cố và toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu.
Thực vậy, khi Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem một cách trọng thể, thánh Gioan cũng đã viết: Lúc đó, các môn đệ không hiểu những điều ấy, nhưng khi Ngài sống lại trong vinh quang, họ mới nhớ lại rằng Thánh Kinh đã nói những điều đó về Ngài. Rồi khi Ngài biến hình trên đỉnh Taborê, lúc xuống núi Ngài đã căn dặn các ông không được tiết lộ cho bất kỳ ai biết những việc xảy ra cho đến khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại. Phúc Âm đã ghi chú: Các ông tuân giữ lời căn dặn ấy, nhưng vẫn thắc mắc: từ trong kẻ chết sống lại có ý nghĩa gì? Tất cả những điều vừa trình bày có phần nào giống với công việc của người thợ rửa hình. Anh ta rọi phim xuống tấm giấy. Lúc bấy giờ chỉ là tấm giấy trắng, không hình ảnh, không màu sắc. Thế nhưng sau đó, anh ta đem ngâm tấm giấy đã được rọi vào thau đựng thuốc: Thế là hình ảnh và màu sắc bắt đầu hiện lên trên tấm giấy ấy. Cũng thế, những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu, mới đầu không có gì đặc biệt. Nhưng sau biến cố phục sinh, ý nghĩa sâu xa của nó mới bắt đầu xuất hiện.
Từ đó chúng ta hãy nhìn cuộc đời chúng ta qua ánh sáng của sự phục sinh. Đúng thế, nếu không có sự phục sinh thì đời sống của chúng ta chỉ là một mớ hỗn mang, một chùm những sự kiện vô nghĩa, nếu không muốn nói là phi lý. Bởi vì người giàu và kẻ nghèo, người đạo đức thánh thiện và kẻ gian ác bất lương rồi cũng sẽ bằng nhau trước cái chết. Nếu không có ánh sáng của sự phục sinh, thì chết là hết, là trở về với hư vô và cát bụi. Thế nhưng, với ánh sáng của sự phụng sự, thì tất cả đều chuyển biến, tất cả đều đổi thay, tất cả đều mang một giá trị và ý nghĩa. Đúng thế, nếu như cuộc đời tôi chất đầy những đắng cay và chua xót, thì không có nghĩa là tôi đã thất bại, bởi vì nếu tôi biết thánh hoá, biết chấp nhận những đắng cay chua xót ấy vì lòng yêu mến Chúa, thì rồi mai ngày tôi sẽ sống lại và được Chúa ân thưởng niềm hạnh phúc Nước Trời. Dưới ánh sáng của sự phục sinh thì dù cuộc sống hiện tại của chúng ta có vắn vỏi, có buồn phiền, thì mãi mãi vẫn là một kho tàng quý giá, bởi vì nhờ nó mà chúng ta có thể chiếm được sự sống đời đời, cũng như nhờ nó chúng ta có thể lãnh nhận niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
67.Yếu tố con người.
Paganini là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng của Ý vào thế kỷ XIX. Trong một cuộc trình diễn, ông linh cảm như có một điều gì bất ổn và khi nhìn kỹ cây đàn, ông khám phá ra đó không phải là cây đàn quen thuộc đã từng đưa ông lên đài danh vọng. Ông đứng lặng trong giây lát, rồi lên tiếng: Vì lý do kỹ thuật, xin quý vị vui lòng chờ đợi trong giây lát, vì tôi đã cầm lộn cây đàn. Nói xong, ông vào hậu trường bước thẳng đến nơi ông vẫn để cây đàn quen thuộc. Ông bàng hoàng nhận ra có người đã đánh cắp cây đàn quý giá của ông và đã đặt một cây đàn rẻ tiền thay thế vào đó. Trong lúc còn bàng hoàng thì bỗng một ý tưởng loé lên trong đầu, khiến ông mạnh dạn cầm lại cây đàn rẻ tiền kia mà bước ra sân khấu. Ông nói vơi khán giả: Kính thưa quý vị, ai đó đã đánh cắp cây đàn quý giá của tôi, nhưng trong buổi trình diễn này tôi muốn chứng minh cùng quý vị là vẻ đẹp và nét tinh tuý của âm nhạc không nằm trong nhạc khí, nhưng hàm ẩn nơi chính con người của nhạc sĩ. Phải yếu tố con người mới là quan trọng.
Từ câu chuyện này chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó chúng ta thấy Chúa Giêsu xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ, vì họ đã biến đền thờ, nơi cầu nguyện thành một chốn buôn bán, thành một hang ổ trộm cướp. Và những người Do Thái đã vặn hỏi: Ông lấy quyền gì mà làm như vậy? Chúa Giêsu đã trả lời: Các ông cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại. Và Phúc âm đã ghi nhận: Đền thờ Ngài muốn nói đến ở đây chính là thân xác Ngài. Lần khác, bên bờ giếng Giacóp, Ngài đã nói với người phụ nữ Samaria: Không phải thờ phương Thiên Chúa ở núi này hay núi nọ, mà phải thờ phượng trong tinh thần và chân lý.
Với những lời xác quyết trên, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đặt nặng yếu tố con người. Con người với thân xác và tâm hồn chính là một đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị, chính là một nhạc sĩ làm vang lên muôn cùng điệu chúc tụng Thiên Chúa. Thực vậy, nhờ bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta trở thành ngôi đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa. Chính vì thế, chúng ta phải gìn giữ tâm hồn chúng ta khỏi mọi dấu vết của tội lỗi, để xứng đáng làm đền thờ của Ngài. Mặc dầu bên ngoài chúng ta nghèo túng, ốm đau, hay gặp phải những điều bất hạnh, thì trong thẳm sâu cõi lòng, trong ngôi đền thờ thiêng liêng ấy, luôn vang lên những lời ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa.
Thế nhưng, nếu lúc này Chúa Giêsu cũng đến và viếng thăm chúng ta, liệu Ngài có nhận ra tâm hồn chúng ta là một nơi cư ngụ lý tưởng cho Ngài hay là bằng những hành động tội lỗi, chúng ta đã biến tâm hồn chúng ta thành một hang ổ trộm cướp?
68.Đền thờ.
Những người quản lý đền thờ, lúc ban đầu, có thể đã tổ chức bán chiên bò, chim bồ câu, hay đổi tiền đổi bạc với tinh thần phục vụ, với ý hướng ngay lành là để giúp cho người lên đền thờ có sẵn lễ vật, khỏi phải mang theo từ xa. Cũng là một thứ dịch vụ, thế nhưng đồng tiền lại là một cái dốc, có thể nói được là êm ả và người ta cũng có thể bị tuột trên cái dốc này một cách êm ả không hay biết.
Có biết bao nhiêu việc khởi đầu là phục vụ, là cứu trợ, là bác ái, là từ thiện, là tôn vinh Chúa và mưu ích cho các linh hồn, cho xã hội. Nhưng rồi theo hơi men của đồng tiền đã biến thành chuyện kinh tài thuần tuý, chạy theo lợi nhuận, mưu cầu địa vị, thanh danh hay quyền lực riêng cho mình. Lợi nhuận sẽ kéo theo gian dối, chèn ép, bất hoà và bất công.
Và như chúng ta đã thấy, đền thờ, mặc dù vẫn được coi là nơi thiêng liêng, nơi để con người hướng tâm hồn lên trên những cái quen được gọi là trần tục, chóng qua, nơi giúp con người tìm gặp cái vô giá, cũng có thể biến thành chợ búa, thành hang trộm cướp, nơi người ta cãi cọ nhau, giành giật nhau.
Trước cảnh tượng như vậy, cùng với lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa, Ngài đã lấy dây thừng làm roi để xua đuổi phường buôn bán và quân đổi tiền ra khỏi đền thờ. Ngài đổ tung tiền của họ xuống đất và xô nhào bàn ghế của họ.
Với chúng ta cũng thế, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta đã trở nên như một đền thờ, một gian cung thánh sống động, một nơi cho Thiên Chúa ngự trị. Thế nhưng, cùng với thời gian, lòng đam mê tiền bạc, của cải vật chất đã xô đẩy chúng ta vấp phạm hết tội này đến tội khác. Bởi vì như chúng ta thường nói: tiền bạc là một tên đầy tớ tốt nhưng nó lại là một ông chủ hà khắc, khả dĩ bóp nghẹt những tình cảm cao đẹp nhất của chúng ta.
Đúng thế, vì đam mê chạy theo tiền bạc mà chúng ta sao lãng những bổn phận đối với Chúa. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng gian tham, chèn ép và đối xử bất công với những người chung quanh. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng ăn trộm, ăn cắp, ăn gian, ăn quỵt, cũng như ăn hối lộ. Tất cả những tội lỗi phát sinh từ lòng đam mê chạy theo tiền bạc ấy, đã biến tâm hồn chúng ta trở nên như một cái chợ, một hang ổ trộm cướp, chứ không còn phải là một gian cung thánh, một ngôi đền thờ sống động cho Chúa nữa.
Nếu như bây giờ Chúa bước vào trong tâm hồn chúng ta thì liệu, Ngài sẽ vui mừng hay là sẽ nổi nóng vì tất cả những sai lỗi đã làm cho tâm hồn chúng ta trở thành ô uế và nhơ nhớp?
69.Xây dựng đền thờ Chúa ngự
Đền thờ là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và anh chị em. Người ta đến Đền thờ để tìm gặp sức mạnh của Chúa, người ta đến Đền thờ để tìm sự an ủi nâng đỡ từ cộng đoàn anh em. Có thể nói Đền thờ là nơi gặp gỡ của tình yêu thương. Vì thế, Chúa Giêsu muốn chúng ta xây dựng Đền thờ mình trong tình yêu thương đúng nghĩa của nó.
Đối với người Do Thái, kể từ thời vua Salomon, họ đã có được một ngôi Đền thờ, để làm nơi thờ phượng Thiên Chúa. Như thế, Đền thờ Giêrusalem là nơi tập họp tôn giáo của người Do thái từ mọi miền của đất nước vào dịp lễ vượt qua hằng năm, mừng kỷ niệm dân Chúa được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, vượt qua biển đỏ về Đất Nước, để tạ ơn, để xá tội, để xin ơn...Đền thờ Giêrusalem vừa cụ thể hóa sự hiện diện uy nghiêm của Thiên Chúa vừa chính thức hóa việc phụng tự của cả dân tộc. Bởi đó, Đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho muôn dân, và không ngừng mang tính chất thánh thiêng. Nhưng dần dần người ta đã ngang nhiên biến một phần của nơi thánh thiện ấy thành nơi thương mại, tuy dù với lý do tốt đẹp bên ngoài là để phục vụ việc tế tự. Họ đã biến nơi đó thành một cái chợ, thành một hang ổ trộm cướp khiến Chúa Giêsu đã phải giận dữ, ra tay dọn dẹp và loan báo ngày tận cùng sắp tới của chính Đền thờ.
Vừa bước vào Đền Thờ, Chúa Giêsu đã chứng kiến cảnh tượng chướng tai gai mắt. Người ta buôn bán chiên bò và trao đổi tiền bạc. Đám đông ồn ào náo nhiệt gây mất trật tự. Chúa Giêsu vốn quý trọng Đền Thờ Giêrusalem. Ngài gọi đó là nhà Cha của Ngài, là nhà cầu nguyện. Ngài không muốn nơi Thánh này trở thành cái chợ buôn bán. Ngài không chấp nhận nhà của Cha Ngài bị xúc phạm. Chính tình yêu đã khiến Ngài nổi giận. Ngài thấy cần phải thanh tẩy Đền Thờ, dù điều đó sẽ đưa Ngài đến chỗ thiệt thân. Lòng nhiệt thành khiến Ngài thanh tẩy Đền thờ, Ngài không sợ nguy hiểm khi phải ra tay dẹp loạn hầu thể hiện thánh ý Chúa Cha là Đền thờ phải là nơi tôn nghiêm, thánh thiện. Không cầm mình được trước cảnh tượng Đền Thờ thiêng liêng bị biến thành nơi thương mại như thế, Ngài thẳng tay đánh đuổi những kẻ buôn thần bán thánh. Ngài thanh tẩy Đền thờ, Ngài đã xua đuổi con buôn, xô đẩy lật nhào bàn ghế những người đổi tiền. Ngài yêu cầu mọi người trả lại cho đền thờ sự thánh thiêng phải có, trả lại sự trong sáng cho nơi cầu nguyện, nơi gặp gỡ của Cha Ngài và của mọi người.
Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là một kẻ phản động, vì Ngài không có chức tư tế, cũng chẳng có nhiệm vụ nào trong Đền thờ. Vậy mà Chúa Giêsu đã kết án cách tổ chức của các trưởng tế và gán cho mình một uy quyền trên họ. Ngài bãi bỏ việc phụng tự của họ. Ngài đã tuyên bố: "Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại". Các người Do Thái đã nghĩ ngay đến đền thờ bằng gạch đá, nhưng Chúa Giêsu không có ý nói đến đền thờ bằng gạch đá mà là Đền thờ thân thể Ngài. Nghe Ngài nói thế, các trưởng tế tỏ vẻ khó chịu ra mặt, họ biết Đền thờ đã được vua Hêrôđê sửa sang, xây dựng mất 46 năm mới xong, thế mà bây giờ Ngài bảo phá hủy đi và xây dựng lại chỉ trong ba ngày. Họ không tin lời Ngài. Họ cho rằng Ngài nói phạm thượng.
Chúa Giêsu đã nói: "Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại". Chúa Giêsu muốn phá hủy nhưng gắn liền với xây dựng. Còn ngược lại các vị lãnh đạo tôn giáo đang phá hủy mà cứ tưởng là mình đang xây dựng điều tốt đẹp. Chúa Giêsu đã xua đuổi con buôn, xô đổ bàn ghế những người đổi tiền. Hay nói đúng hơn Ngài dẹp bỏ trật tự cũ để xây dựng trật tự mới. Ngài phá hủy những gì gây hại cho con người, gây cản trở mối hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa và với nhau. Vì thế, việc buôn bán đổi chác gây ồn ào trong Đền thờ mới phá hủy đền thờ, làm cho Đền thờ không còn là đền thờ nữa; nó không còn là nơi gặp gỡ Thiên Chúa và nhân loại. Trái lại nó trở thành nơi bóc lột, trộm cướp,...đang làm hủy hoại tôn giáo thờ phượng Thiên Chúa của người Do Thái. Chính vì thế, việc phá đổ giết chết là việc của giới lãnh đạo tôn giáo Do thái. Cần phải phá hủy nó đi. Còn việc của Thiên Chúa là cần xây dựng lại Đền thờ mới, là cứu sống và tái tạo tất cả trong Chúa Kitô Phục sinh. Để từ nay, Chúa Kitô trở thành trung tâm phụng tự duy nhất. Trong Ngài, người ta sẽ "thờ phượng Thiên Chúa trong Chân lý và Sự thật".
Người Do Thái tôn thờ Thiên Chúa một cách vụ hình thức, máy móc. Họ nghĩ rằng dâng cúng vào Đền Thờ nhiều tiền bạc, nhiều lễ vật là Chúa sẽ hài lòng, Thiên Chúa sẽ "xí xóa" tội lỗi cho họ. Họ tưởng dùng của cải vật chất để có thể hối lộ được Thiên Chúa. Từ suy nghĩ đó đã dẫn họ đến hành động sống bê tha tội lỗi; họ nghĩ dù sống gian tà, độc ác, bất công với tha nhân đến thế nào đi nữa; họ sống tội lỗi ngập đầu ngập cổ đi nữa nhưng chỉ cần đợi vào dịp đại lễ, vào dịp hành hương lên Đền Thờ, họ sẽ dâng cúng thật nhiều tiền của thì họ nghĩ rằng mình sẽ được tha thứ hết. Làm như thế họ vừa được bình an vừa được tiếng là mình đạo đức. Điều này đã làm cho họ sống đạo bề ngoài mà không cần phải hoán cải đời sống không tuân giữ giao ước Thiên Chúa nữa. Chính vì thế mà Chúa Giêsu thấy họ cần dẹp bỏ cách thờ phượng cũ đó, để mang tâm tình mới, biết thờ phượng Thiên Chúa trong tình yêu thương. Con người cần biết sống tương quan tình yêu với Thiên Chúa và với nhau.
Trong cuộc sống, đôi khi một số người trong chúng ta có quan niệm bổn phận đối với Thiên Chúa trong nhà thờ tách rời khỏi bổn phận đối với tha nhân ngoài xã hội. Người ta chỉ lo đọc thật nhiều kinh, dự nhiều lễ nhưng không biết yêu thương tha nhân đang ở chung quanh mình. Thậm chí có nhiều người siêng năng đọc kinh và đi lễ nhưng khi về nhà thì cứ chửi rủa hàng xóm, ghen ghét và nói xấu anh em mình. Chắc chắc điều đó Chúa Giêsu không muốn rồi. Hay là, người ta không thể nhắm mắt đi lễ trong khi bên lề đường có nhiều người đói khổ cần chúng ta giúp đỡ. Đền thờ phải là nơi gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân. Đến Đền thờ, chúng ta cần biến đổi để trở nên con người của sự hiệp thông, của tình bác ái yêu thương. Chúng ta cần xây dựng ngôi đền thờ trong tình yêu thương, chia sẻ, trong đó mọi người biết sống liên đới với nhau.
Mọi người chúng ta đều là Đền thờ của Thiên Chúa ngự trị (Cv 7, 49 - 51; 1Cr 3, 16, 2Cr 6, 16). Thiên Chúa muốn chúng ta sống hiên ngang như đền thờ Giêrusalem. Thiên Chúa muốn chúng ta sống có lương tâm trong sạch để xứng đáng là Đền Thờ uy nghi cho Thiên Chúa ngự. Thiên Chúa muốn chúng ta hãy xây dựng lòng mình bằng những ý nghĩ và hành động yêu thương tha nhân để xây đựng Đền thờ thiêng liêng thờ phượng Thiên Chúa.
Chính vì thế Chúa Giêsu đã xác định, chính Ngài sẽ trở thành Đền thờ mà con người có thể gặp gỡ và thờ phượng Thiên Chúa và Ngài cũng muốn rằng tất cả những ai tin theo Ngài cũng phải trở nên Đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa ngự trị. Chúng ta phải ra sức xây dựng, trang hoàng và tô điểm chính cõi lòng con người mình để nó xứng đáng trở nên một đền thờ của Thiên Chúa, xứng đáng nơi thể hiện tình yêu thương đối với Thiên Chúa và với nhau.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống hiệp thông trong tình yêu thương. Như thế là chúng con đang xây dựng và trang hoàng ngôi đền thờ thiêng liêng và uy nghi thánh thiện cho Thiên Chúa ngự. Chính nơi đó chúng con sẽ gặp gỡ được chính Chúa và gặp gỡ được anh em mình. Amen.
70.Đức Giêsu là chuẩn mực
1. Đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán
Không được biến đền thờ thành nơi buôn bán. Đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa. Không tôn trọng nơi tôn nghiêm, là không tôn trọng những người đang hiện diện hoặc đến đây thờ phượng Thiên Chúa.
Người ta có thể lý luận "những người buôn bán này đang làm một việc bác ái", họ tạo điều kiện thuận tiện cho những người dâng lễ có của lễ để dâng kính Thiên Chúa. Thực ra khi làm như vậy, họ đã đặt cái lợi về vật chất trên Thiên Chúa và coi thường Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta là đền thờ sống động của Thiên Chúa. Đừng biến thân xác mình, con người mình thành nơi buôn bán, thành đối tượng buôn bán. Thân xác chúng ta là thánh vì thuộc về Thiên Chúa. Chính Đức Yêsu cũng coi thân mình Ngài là đền thờ: "Cứ hủy đền thờ này và trong ba ngày Ta sẽ xây lại"!
Nếu chúng ta để đam mê thống trị mình, nếu chúng ta còn mê say tiền bạc, danh vọng, địa vị chức quyền, thì Thiên Chúa không có chỗ nhất nơi chúng ta. Bài Tin Mừng còn giúp chúng ta nhìn lại xem đâu là thái độ của tôi đối với thân xác, với sức khỏe, với con người toàn diện của tôi?
Với đức Yêsu, Thiên Chúa là nhất đối với Ngài. Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán khỏi đền thờ, dù bị những người có quyền hành không đồng ý và tra hỏi: "ông lấy quyền gì mà làm như vậy?". Hôm nay Đức Yêsu đuổi họ ra khỏi đền thờ, nhưng ngày mai thì sao? những người này có tiếp tục tôn trọng đền thờ không, hay mai họ vẫn làm như cũ? Đức Yêsu vẫn làm điều phải làm. Ngài vẫn làm cho dầu bị người ta ghét bỏ, cho dù người ta không vâng theo ngay trong ngày mai. Đức Yêsu sống giây phút hiện tại cách trọn vẹn, bất chấp tất cả.
2. Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá
Cho dù người Hy Lạp coi trọng và tìm kiếm khôn ngoan, cho dù người Do Thái sính phép lạ, thì Phaolô vẫn "rao giảng Đức Yêsu Kitô chịu đóng đinh".
Cứ sự thường nếu không đáp ứng mong ước, không thỏa mãn thị hiếu của người ta, thì sẽ thất bại! Ấy vậy Phaolô vẫn rao giảng "Đức Yêsu Kitô chịu đóng đinh" cho dù không đáp ứng mong ước của người đương thời. Sở dĩ vậy vì rao giảng "Đức Yêsu chịu đóng đinh" là điều tuyệt đối cần thiết. Đức Yêsu chịu đóng đinh thập giá là một giá trị, và là giá trị tuyệt đối.
"Đức Yêsu chịu đóng đinh", đòi người ta xét lại cách sống của mình. Đức Yêsu đã chọn điều gì? Tại sao Ngài bị đóng đinh? Tôi có cùng cách sống và chọn lựa với Đức Yêsu không?
Rao giảng Đức Yêsu chịu đóng đinh, là rao giảng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Nếu không yêu, tại sao Thiên Chúa lại để Con của Ngài bị khốn khổ như vậy? Nếu không yêu, tại sao Đức Yêsu phải chịu đau đớn khổ cực và ô nhục dường ấy?
Đức Yêsu chịu đóng đinh, là niềm vinh dự, mối tự hào của mọi kitô-hữu. Đức Yêsu chịu đóng đinh, biểu tượng và bằng chứng cho biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.
3. Ta là Thiên Chúa, ngươi không được...
Nội dung của thập giới là gì? Hãy tôn thờ Thiên Chúa, thảo kính cha mẹ và yêu thương con người! Đừng xúc phạm con người, đừng chà đạp nhân phẩm!
Tại sao tôi không được làm điều này điều kia? Thập giới cho thấy khi tôi vi phạm lệnh cấm của thập giới, là tôi xúc phạm con người và Thiên Chúa. Thập giới có là để bảo vệ con người. Ngày sabbat được lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabbat.
Luật Cựu Ước lấy con người là chuẩn, còn luật Tân Ước lấy Đức Yêsu làm chuẩn. Luật Cựu Ước dạy "hãy yêu thương tha nhân như chính mình", còn luật Tân Ước dạy: "hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga.13, 34-35).
Luật Cựu Ước cho thấy: nếu xúc phạm con người sẽ bị xử, còn luật Tân Ước cho thấy: nếu không yêu thương, sẽ bị xét xử (Mt.25, 31tt).
Chính Đức Yêsu là Đấng làm cho lề luật nên trọn "Ta đến không phải để phá hủy, nhưng để làm nên trọn".
Xin cho chúng ta trở nên giống Đức Yêsu trong mọi sự.
71.Chúa Nhật 3 Mùa Chay
Anh chị em thân mến.
Có những lần tôi đi chợ, len lỏi và đôi khi phải chen lấn để vượt lên phía trước, vậy mà cũng có những lúc phải dừng lại. Quan sát kỹ, thì không phải những người đi chợ làm cho sự lưu thông bị tắc nghẽn. Nhưng chính những người ngồi mới làm cản trở lưu thông. Họ ngồi với một chướng ngại vật phía trước, chiếm một khoảng không gian rộng cùng với những vật dụng trên đó. Họ kêu mời những người đi ngang qua, ghé mắt vào những món hàng mà họ bày bán. Nhưng bổng nhiên, có một sự náo động và lưu thông được dể dàng trở lại. Thì ra xuất hiện bóng dáng một người, mặc bộ đồ đặc biệt, với chiếc băng vấn trên tay áo. Đây là người trong ban quản lý chợ, anh ta đi để lập lại trật tự cho nơi buôn bán.
Công việc đó cứ diễn ra mỗi ngày: Cứ có những người bán rong, và cũng vẫn phải có người lập lại trật tự. Vì người ta chỉ biết tìm lợi ích riêng tư mà không nhìn thấy những ích lợi chung, nên ban quản lý chợ cứ phải làm việc, phải đi, phải dẹp, để lập lại trật tự.
Chúa Giêsu là người quản lý đền thờ, còn hơn thế nữa, Ngài còn là chủ đền thờ. Ngài không thể chịu được khi nhìn thấy đền thờ không có một chút trật tự nào hết. Đền thờ là nơi tôn nghiêm mà giờ đây đã trở thành nơi ồn ào náo nhiệt của buôn bán. Đền thờ là nơi cầu nguyện , mà giờ đây trở thành nơi trao đỗi và gian lận. Đền thờ là nơi dành riêng cho Thiên Chúa, nơi để con người gặp gỡ Thiên Chúa, mà giờ đây con người đã biến thành nơi của riêng mình để biếng thành nơi phục vụ cho lợi ích riêng tư. Ngài mới lập lại trật tự trong đền thờ.
Đi xa hơn nữa, Ngài muốn hướng con người đến ngôi đền thờ thật sự là tâm hồn của mỗi người. Đền thờ vật chất, theo thời gian , nó chẵng còn giá trị và sẽ bị phá đỗ, vì nó là sản phẩm do con người tạo nên, nó sẽ bị biến chất. Thiên Chúa không cần một đền thờ đã bị biến chất. Ngài cần một đền thờ thật sự trong tâm hồn mỗi người, đền thờ đó luôn phải xứng đáng với những gì mà Thiên đã xây dựng nên nó từ thuở ban đầu. Nếu nó không xứng đáng, Ngài sẽ không ngần ngại dùng roi để lập lại trật tự cho ngôi đền thờ của Ngài được xứng đáng hơn.
Có thực mới vực được đạo.
Câu nói mà bao nhiêu người đã dùng nó để biện hộ cho những hành vi sai trái của mình. Biện hộ cho hành vi lười biếng: nào là con nghèo khổ quá, không còn thời gian đến nhà thờ, không thể giữ đạo được, không thể chăm sóc con cái cho tốt được. Nào là không có thời gian để làm việc bác ái, không có thời gian để sống đạo cho tốt. Nhưng cuối cùng là gì? chẵng qua là vì lười biếng, ích kỷ, muốn tìm những lợi lộc cho bản thân mà chúng ta bất chấp tất cả. Chúng ta để ra bên ngoài tất cả những luật công bằng, yêu thương, chúng ta cũng chẵng cần biết đến Thiên Chúa của mình đã nói gì, đã dạy những gì.
Còn thân xác nầy, chúng ta xem nó như là vật sở hữu riêng của chính mình, để rồi chúng ta tùy tiện xử dụng nó vào bất cứ công việc gì cũng được, xấu có , tốt cũng có, ngay chính có, mà bất chính cũng có. Chúng ta quên rằng thân xác nầy là do chính Thiên Chúa dựng nên, và thân xác nầy là đền thờ cho Thiên Chúa ngự. Do đó chúng phải có bổn phận gìn giữ thân xác luôn tốt đẹp để xứng đáng đón rước Chúa. Nếu giờ nầy Chúa đến viếng ngôi đền thờ của mỗi người chúng ta, thử hỏi Ngài có thể yên tâm ngự trong đó cách thoải mái được không? Hay Ngài phải giận dữ tìm một chiếc roi để dẹp tất cả những chướng ngại vật đang ngổn ngang trong ngôi đền thờ nầy.
Chúng ta thử nhìn lại xem, giờ nầy cái gì đang thống lĩnh và chiếm hết tâm hồn của mình. Có phải là Thiên Chúa mà chúng ta hằng tôn thờ hay là chúng ta đã đem Thiên Chúa để bên ngoài , còn hiện tại, chúng ta đang tôn thờ cái gì? Có phải là tiền bạc, hay địa vị chức quyền, hoặc những đam mê nào khác. Để tất cả những cái đó thống lĩnh cuộc sống và điều khiển tất cả mọi hành động của chúng ta. Con tim đã chay lì khô cứng, ngôi đền của Thiên Chúa không còn được một trật tự tốt đẹp nữa. Thiên Chúa sẽ đánh đổ những tiền bạc, tẩy chay dọn sạch những gì đang được bày biện trong tâm hồn chúng ta để Ngài tái lập trật tự cho ngôi đền thờ của Ngài. Đó là những lúc chúng ta gặp thất bại với những toan tính bất chính, và cũng là những lúc công việc làm ăn không được thuận lợi, mặc dù mình đã cố gắng hết sức. Những lúc đó chúng ta có biết nhớ đến Chúa, nhìn lại chính mình, thì thật hạnh phúc biết bao.
Xin Chúa ban ơn giúp cho mỗi người được trở nên xứng đáng là ngôi đền thờ cho Thiên Chúa ngự.
72.Đền thờ vật chất, đền thờ tâm hồn
1. Một ngày kia tôi đi xa, khi trở về thì thấy ở vách tường phía trước phòng ở đầy những vết dơ do một số em nhỏ có lẽ do vô ý thức đã chọi những trái bàng vào vách tường, làm mủ dính gây bẩn, điều này làm tôi khó chịu, cho nên mau mau đi chùi rửa. Có thể nói, đó là tâm lý chung của mọi người, ai cũng muốn giữ sạch sẽ nơi mình ở, dù chỉ là nơi ở tạm. Vì thế, chúng ta chẳng ngạc nhiên gì khi thấy Chúa Giêsu giận dữ xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ Giêrusalem, nơi Ngài xem đó là nhà Cha của Ngài.
Qua hành động này Chúa muốn nhắc nhở chúng ta điều gì? Phải chăng Ngài ước muốn chúng ta quan tâm chăm sóc, trân trọng đối với ngôi nhà Thiên Chúa: ngôi nhà vật chất là nơi thờ phượng cũng như đền thờ thật của Thiên Chúa là tâm hồn của chúng ta.
2. Người Do thái thời Chúa Giêsu họ có rất nhiều hội đường, một cộng đoàn Do thái khá đông là có thể có một hội đường, để các ngày lễ, ngày Sabbat họ tựu lại để cầu nguyện, học hỏi Lời Thiên Chúa. Nhưng chỉ có một đền thờ chính thức, duy nhất ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem được gọi là Đền thánh vì là nơi tượng trưng cho Thiên Chúa ngự. Những dịp lễ lớn người Do thái có thói quen hành hương về Đền thờ Giêrusalem.
Theo tục lệ, khách hành hương lên Đền thờ phải dâng của lễ, người giàu thì thường dâng bò hay chiên, kẻ nghèo thì một cặp bồ câu. Dân buôn bán lợi dụng đem bày bán những thứ này ngay ở sân Đền thờ cho khách hành hương. Luật Do thái cũng buộc người đàn ông hằng năm phải nộp thuế cho đền thờ nữa (1/2) đồng tiền của người Do thái. Tiền Lamã lúc ấy rất thông dụng, nhưng vì in hình vua ngoại đạo, nên không được lưu hành trong Đền thờ. Vì thế con buôn cũng lợi dụng đổi chác tiền bạc để kiếm lời.
Đền thờ Giêrusalem đã bị tục hoá, biến thành cái chợ, không hơn không kém. Việc phụng tự đã trở nên tấm bình phong để người ta tìm kiếm những lợi lộc vật chất, là nơi để người ta phô trương... Đứng trước tình trạng tục hóa, Đức Giêsu rất đau lòng, không nén nổi cơn thịnh nộ, Ngài đã ra tay hành động để nhắc nhở về việc thờ phượng đích thực và trả lại cho Đền thờ sự tôn nghiêm cần thiết phải có của nó.
3. Giờ đây, qua đoạn Phúc Âm này, Ngài cũng nhắc nhở chúng ta cần có một sự quan tâm, trân trọng chăm sóc đối với đền thờ của Thiên Chúa: đền thờ vật chất cũng như đền thờ thật của Thiên Chúa là con người của chúng ta:
* Trước hết đó là đền thờ vật chất. Chúa Giêsu đã sử dụng nhiệt tâm và cả sức mạnh thể lý để bênh vực bảo vệ "Nhà Cha". Cũng vậy, chúng ta cũng phải biết vận dụng mọi khả năng của chúng ta để: xây dựng, gìn giữ nơi thờ phượng; tham gia những sinh hoạt của Giáo Hội để làm sáng danh Chúa.
* Kế đến cùng xây dựng Đền thờ thật của Thiên Chúa. Xây dựng, chăm sóc cho ngôi nhà thờ hữu hình, tích cực xây dựng Giáo hội là cần thiết, nhưng chưa đủ; mỗi Kitô hữu chú tâm xây dựng con người mình thành nơi thờ phượng đích thực của Thiên Chúa.
Nhờ Bí tích Rửa tội, thân xác của mỗi chúng ta được trở nên Đền thờ Chúa Ba Ngôi, thế mà nhiều lần đã trở nên nhơ uế khi chúng ta suy nghĩ, nói năng và hành động theo thói thế gian, chiều theo tính xác thịt của mình thay vì theo ý Thiên Chúa. Đó chính là những cản trở làm Chúa khó đến với ta. Chúa Giêsu cũng giận dữ nói với mọi người chúng ta: "Hãy đem những thứ nầy đi khỏi đây" cho khuất mắt Ta. Chúng ta nghĩ sao? Khi nơi ta ở dơ bẩn thì cảm thấy khó chịu, lẽ nào ta lại cam chịu để tâm hồn chúng ta đầy vết nhơ tội lỗi!
Không riêng gì bản thân mọi người, mà gia đình Kitô hữu, cũng được mời gọi trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Liệu trong ngôi đền thờ ấy các thành viên có biết yêu thương, khoan dung đối với nhau không? Nếu có được những điều đó là dấu hiệu Thiên Chúa ngự trị, rất đáng mừng. Ngược lại, khi để những thứ ngẫu tượng khác ngự trị như: ích kỷ, hận thù, gian dối thật là điều đáng buồn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra rằng gia đình chúng con, thân xác chúng con là hình bóng Giêrusalem trên trời, để chúng con không những biết dọn dẹp, trang hoàng ngôi nhà thờ vật chất mà điều cần thiết hơn là phải làm đẹp nội tâm của chúng con ngay từ bây giờ, nhất là trong những ngày chay thánh này. Amen.
73.Đền thờ
Sau khi nghe đoạn Tin Mừng, chúng ta không khỏi băn khoăn và tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại hành động như thế. Thực vậy, công việc của những người buôn bán và đổi tiền là công việc đem lại lợi ích cho đền thờ và thuận tiện cho khách hành hương.
Theo luật lệ qui định, thì vào những dịp lễ lớn, người Do Thái phải lên đền thờ để chu toàn bổn phận thờ kính đối với Đức Giavê. Họ từ khắp các miền trong nước cũng như ngoài nước hành hương trở về Giêrusalem. Cũng trong những dịp này, họ phải dâng lễ vật và đóng thuế cho đền thờ. Lễ vật có thể là chiên bò hay chim bồ câu, tùy khả năng tài chính của mỗi người. Bởi đó, muốn dâng cúng tiền thì phải đổi ra tiền thông dụng tại Giêrusalem. Muốn có những lễ vật thì phải có những nơi để mua sắm. Biết đâu, chính Mẹ Maria và thánh Giuse cũng đã mua ở đấy cặp chim bồ câu khi dâng tiến Chúa vào đền thờ.
Xem như thế thì những kẻ mua bán đổi chác không những không có hại mà còn đem lại hoa lợi và bổng lộc cho đền thờ. Hơn nữa, mặc dù Kinh Thánh có nói đến cơn giận của Thiên Chúa, nhưng cơn giận ấy không phải sẽ được biểu lộ theo kiểu này và trong một hoàn cảnh cụ thể như thế, vì Chúa Giêsu ở mọi nơi và trong mọi lúc vẫn là Thiên Chúa của lòng từ nhân và bao dung, như lời Ngài đã từng phán: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường.
Vậy thì đâu là ý nghĩa, đâu là mục đích mà Chúa Giêsu muốn nhằm tới? Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy khi đánh đuổi phường buôn bán, Chúa Giêsu đã làm một hành động có tính cách tiên tri, một biểu tượng nhằm đưa chúng ta đến một ý nghĩa khác thâm thúy và cao xa hơn. Các nạn nhân của Ngài cũng đã hiểu được thâm ý ấy nên đã vặn hỏi Ngài: Ông có thể đưa ra dấu hiệu nào để biện minh cho hành động của ông? Và Chúa Giêsu đã đưa ra dấu hiệu để biện minh, dấu hiệu này mãi về sau các tông đồ mới hiểu được: thân xác Ngài sẽ chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Và như vậy, Ngài muốn nói lên rằng chính Ngài là Đấng Thiên sai, là Đấng sẽ đến để cứu chuộc dân Ngài.
Với tư cách là Thiên sai, Chúa Giêsu đã bất bình với phường buôn bán và đổi chác, không phải vì hành động của họ, mà chính vì quan niệm sai lạc của họ. Họ lên đền thờ với thái độ tự mãn.
Với tiền bạc, họ có thể mua được những lễ vật. Và khi đã dâng lễ vật thì họ có cảm tưởng như là đã trả nợ cho Thiên Chúa, họ thảnh thơi ra về vì đã chu toàn lề luật và có quyền ngồi chờ Thiên Chúa thi ân đáp lễ. Họ đã cậy vào uy lực của tiền tài chứ đâu có cậy nhờ vào Chúa.
Dấu hiệu Chúa Giêsu đưa ra: Ngài sẽ phải chết nhưng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại. Đó mới chính là cái uy lực thực sự mà con người phải bấu víu, phải nương tựa vào.
Qua hành động của mình, Chúa Giêsu đã đưa con người từ quan niệm về uy lực trần tục tới quan niệm về uy lực của Thiên Chúa. Đó chính là một cuộc canh tân, đổi mới tận gốc rễ. Ước chi trong Mùa Chay, chúng ta hãy nhìn lại đời sống xem chúng ta đã nghĩ gì và đã thực hiện cuộc đổi mới này như thế nào.
74.Chúa Nhật 3 Mùa Chay
Thưa Quý ông bà anh chị em! Nếu đặt bài Phúc âm của ngày Chúa nhật vừa rồi và bài Phúc âm của ngày Chúa nhật này nằm kề với nhau, thì có lẽ là chúng ta sẽ cảm thấy ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng không phải là vì chúng ta nhìn thấy được những nhân vật siêu phàm hay những bài học chí lý cho cuộc sống; Thế nhưng chúng ta ngỡ ngàng trước sự thay đổi đột ngột của dung mạo đức Giêsu. Chúa nhật vừa rồi chúng ta đã cùng với Phêrô, Gioan và Giacôbê, hãnh diện chiêm ngắm một Đức Giêsu vinh hiển, sáng láng, rạng ngời. Sự vinh hiển ấy, mặc dù chúng ta không tận mắt chứng kiến, nhưng chúng ta cũng có thể cảm nghiệm được phần nào khi nghe các môn đệ này thổ lộ niềm vui và hạnh phúc của mình: "Thưa Thầy! Nếu được ở mãi nơi này tốt quá".
Còn Chúa nhật hôm nay thì sao? Có lẽ là chưa bao giờ chúng ta nhìn thấy cung cách ứng xử của Chúa Giêsu lạ lùng, nếu không muốn nói là bộp chộp nóng nãy như ngày hôm nay. Thánh Gioan thuật lại là hôm ấy, nhân dịp đại lễ Vượt Qua sắp tới, Chúa Giêsu cũng có mặt ở Giêrusalem như mọi người theo luật đã định. Thế nhưng lần này, khi bước vào Đền thờ, dường như Người không còn tự chủ được nữa. Đền thờ từ muôn thuở vẫn được coi là biểu tượng duy nhất cho sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người, là nơi để người ta cầu nguyện gặp gở Chúa. Thế mà giờ đây, nó đã không hơn không kém một cái chợ: ồn ào, mua bán, đổi chác, gian lận, bóc lột. Người ta tụ họp lại nơi đây không còn giống như ngày trước, khi ở chân núi Sinai, lúc Thiên Chúa ban mười điều răn mà bài đọc Cựu Ước hôm nay đã kể lại một cách linh thiêng cảm động. Lòng nhiệt thành vì Nhà Chúa đã khiến Người giận dữ đánh đuổi tất cả mọi thứ ra khỏi đền thờ: "Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây! Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".
Hai hình ảnh hoàn toàn trái ngược nhau về con người của Đức Giêsu. Phải chănglà Giáo hội đã không suy nghĩ, không tiên liệu trước, khi đặt hai câu chuyện này gần nhau, để vô tình gây nên một sự ngỡ ngàng như đã nói ở trên? Thưa không! Nếu đọc hai câu chuyện này trong tinh thần và trong ý nghĩa của Mùa Chay, thì không những là không đối chọi nhau; Mà ngược lại, hai câu chuyện ấy còn bổ túc cho nhau, làm nên một gợi ý liên tục và chính xác trong việc sống Mùa Chay. Rõ ràng là nếu như trong ngày Chúa nhật vừa rồi, chúng ta nghe Chúa Giêsu dạy rằng: muốn đạt tới vinh quang thì phải bước lên con đường thập giá; Muốn có được hạnh phúc thì phải vượt qua con đường của sự đau khổ, thì trong bài phúc âm hôm nay, thập giá ấy, sự đau khổ mà mình phải vượt qua ấy chính là việc tỉa gọt, đổi mới con người và cung cách sống đạo của mình, mà việc thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu là hành động biểu tượng.
Thưa anh chị em! Chính thái độ quyết liệt của Đức Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay, đòi buột chúng ta là những người thường xuyên có mặt trong ngôi nhà thờ này, phải duyệt xét lại thái độ của chính mình. Chắc chắn rằng Chúa không bao giờ xua đuổi những con người thành tâm thiện chí, mà Người chỉ loại trừ những nếp sống giả hình: Lời nói và việc làm không đi chung với nhau. Mỗi người chúng ta hãy tưởng tượng xem; Nếu bây giờ Chúa có mặt ở đây, thì Người sẽ nói với chúng ta điều gì: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng hạnh phúc với chủ ngươi!, hoặc chổ khác "Hỡi bọn giả hình khéo léo kia, các ngươi hãy ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi chợ búa!"
Ai trong chúng ta cũng biết rằng nhà thờ là nơi thánh thiêng để tôn thờ, cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa. Thế mà rất nhiều lúc chúng ta cũng nhận thấy rằng: không khí chợ búa dường như cũng còn man mác đâu đó, khi mà chúng ta đến nhà thờ trong thái độ mà người ta gọi là "mắt trước mắt sau". Mình phải xuất hiện với bộ trang phục nào cho đúng mốt, với kiểu tóc nào cho sành điệu. Vâng! Chúng ta phải nhìn nhận rằng: không có một kiểu quần áo nào là xấu cả, nhưng chính nó sẽ làm cho mình quê mùa khó coi khi chúng ta xử dụng nó ở những nơi không thích hợp. Chẳng ai khoác lên mình bộ áo dài gấm Thái Tuấn hay veston để đi tắm biển, và cũng chẳng ai đến công sở làm việc với bộ đồ ngủ. Vậy thì tại sao chúng ta không can đảm chọn cho mình, hay giúp con cái chọn lấy một bộ quần áo thích hợp mỗi khi bước vào ngôi nhà thánh thiêng này. Rồi nhà thờ là nơi mà chúng ta chính thức được nghe Lời Chúa: "Các con đừng xét đoán nhau"; Nhưng rất nhiều khi chúng ta vô tình làm cho nó trở thành một nơi để đánh giá lòng đạo đức của người khác: người này thế này, người kia thế nọ. Và cũng chính vì chúng ta đã làm sai đi cái ý nghĩa tốt đẹp của nó mà nhiều lúc chúng ta đến nhà thờ là để thắp sáng hào quang cho mình hơn là cho Chúa. Chúa không cần đến nhà thờ; mà chỉ có chúng ta mới cần nhà thờ. Và rồi con người cũng chẳng cần gì đến nhà thờ nếu họ sống xa lạ, nếu họ đối xử lạnh nhạt với nhau. Điều đó hàm chứa một lời xác định rằng: Nhà thờ chỉ là nhà thờ đúng nghĩa khi nó là trung tâm điểm để dân Chúa được hiệp thông với nhau.
Thưa anh chị em! Bước vào Chúa nhật thứ ba Mùa chay này, chúng ta có được một cơ hội thật tốt để nhìn lại mối liên hệ của mình đối với ngôi nhà thờ hữu hình này. Đồng thời cũng được mời gọi làm mới lại ngôi nhà thờ thiêng liêng là chính con người của mình: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa sao?". Vậy chúng ta hãy làm noi gương Đức Giêsu làm mới ngôi đền thờ hữu hình bằng cách trả lại cho nó tất cả sự tôn nghiêm thánh thiện qua cung cách và thái độ của mình mỗi khi bước vào ngôi nhà này. Hãy noi gương Đức Giêsu làm mới lại ngôi đền thờ thiêng liêng là chính con người của mình bằng cách mỗi ngày cố gắng thay thế những tham vọng, bất trung, ghen ghét, hận thù bằng lòng khoan dung, khiêm tốn, thông cảm và thứ tha. Thực hiện tốt hai mối liên hệ này là chúng ta đang sống đúng tinh thần của Mùa Chay, đang bước đi trên con đường dẫn tới sự sống đời đời.
75.Đền thờ đích thực
Tin Mừng Gioan thuật lại Đức Giêsu xua đuổi những người buôn bán chiên bò, chim câu và những người đổi tiền ra khỏi đền thờ. "Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán" (Ga 2,16). Thái độ quyết liệt của Đức Giêsu đòi chúng ta phải xét lại chính mình. Bởi vì, Người không muốn nhà Cha của mình bị xúc phạm, nơi thánh thiêng trở thành cái chợ.
Tuy nhiên, Nhà thờ là nơi qui tụ các kitô hữu họp nhau lại để cầu nguyện, học hỏi, chúc tụng ngợi khen Chúa, lãnh nhận các bí tích và nhất là tham dự Thánh Lễ để gặp được Chúa. Nhờ bí tích Thánh Tẩy, tất cả chúng ta được trở nên Đền Thờ của Thiên Chúa. Thiên Chúa không chỉ ngự trong những Đền Thờ do tay con người làm ra, đặc biệt Người còn ngự trong linh hồn đã được dựng nên giống hình ảnh của Người và do chính tay Người dựng nên. Vì thế, Thánh Phaolô Tông Đồ nói rằng: "Đền Thờ Thiên Chúa chính là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em".
Ngày nay, nhà thờ được xây dựng nguy nga, tráng lệ, được trang bị khá nhiều tiện nghi để mọi người thoải mái cầu nguyện, đọc kinh xem lễ. đây là điều rất đáng mừng vì đã có nơi để mỗi người dể dàng tìm gặp Chúa. Điều cần chú ý là làm thế nào để ai cũng có thể gặp gỡ tâm sự và lắng nghe Chúa chỉ bảo qua bầu khí thanh tịnh và ấm áp trong nhà thờ. Nhưng đền thờ đích thực chính là tâm hồn của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải biết tôn trọng với chính bản thân của mình. Nghĩa là luôn giữ cho tâm hồn thanh sạch, trong sáng không chìu theo những dục vọng của xác thịt. vì tất cả những điều ấy làm cho tâm hồn ta không còn xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự. cũng như phải có thái độ cung kính, tôn thờ và yêu mến mỗi khi tôi bước vào nhà thờ. Mỗi người trong chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa, và là đền thờ nơi Thiên Chúa ngự, nên cần phải dọn lòng mỗi khi rước Chúa. Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy trở nên đền thờ đích thực cho Ngài ngự vào. Muốn vậy, ta cần phải biến đổi con người của mình không chỉ nơi hình thức bên ngoài mà cả trong tâm hồn: trong cách nhìn sự vật, trong cách đánh giá người khác...
Noi gương Thầy Giêsu: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa..."(Ga 2,17). Hãy làm mọi việc vì lợi ích của người khác chứ không vì bản thân của mình. Đừng đánh giá nhau qua hình thức bên ngoài, nhưng qua tấm lòng nhân ái vì mọi người: Thánh Phaolô viết, chỉ có tình yêu đích thực mới giúp ta vượt qua những gian nan, khó nhọc, cay đắng, tủi nhục xảy đến trong cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu mùa chay là dịp thuận tiện, là cơ hội để con sám hối và quay về với Chúa. Xin cho con đừng tự mãn với những gì mình đã đạt được , nhưng giúp con canh tân con người của mình để mỗi ngày con xứng đáng là đền thờ của Chúa hơn. Amen.
76.Con người và Đền Thờ
Kể từ thời vua Salomon, dân Do Thái đã có được một ngôi đền thờ, để làm nơi thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng ngôi đền thờ ấy đã sớm trở thành duyên cớ cho họ phạm tội, bởi vì họ đã biến nơi đó thành một cái chợ, thành một hang ổ trộm cướp, khiến Chúa Giêsu đã phải giận dữ, ra tay dọn dẹp và loan báo ngày tận cùng sắp tới của chính đền thờ.
Vẫn biết rằng Thiên Chúa coi trọng lòng nhân từ hơn của lễ, nhưng người Do Thái, đứng đầu là hàng tư tế, lại nhấn mạnh tới những nghi lễ rườm rà và tốn kém bên ngoài. Chính vì thế có lần bên bờ giếng Giacóp Ngài đã xác định: Phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý. Vấn đề không còn là phải thờ phượng Thiên Chúa trên núi này hay núi nọ, trong đền thờ này hay đền thờ kia, mà là thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Hay nói đúng hơn, kể từ nay, chính Chúa Giêsu sẽ trở thành đền thờ nơi mà con người có thể gặp gỡ và thờ phượng Thiên Chúa và Ngài cũng muốn rằng tất cả những ai tin theo Ngài cũng phải trở nên đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa ngự trị. Như thế, chúng ta thấy con người cao trọng hơn đền thờ. Cho nên nỗi ưu tư số một là phải lo làm sao cho có những người thờ phượng Thiên Chúa đích thực, chứ không phải là lo làm sao cho có những đền thờ lộng lẫy. Con người nếu biết thờ phượng Thiên Chúa đích thực, thì có thể thờ phượng Ngài ở bất kỳ nơi nào và bất kỳ lúc nào cũng được.
Trái lại, người ta có thể xây những nhà thờ cao đẹp, mà trong đó lại chẳng có một ai thờ phượng Thiên Chúa, hay tệ hơn nữa, có người hiện diện trong đó, nhưng lại chỉ thờ phượng Thiên Chúa bằng môi bằng miệng mà thôi, còn cõi lòng họ thì lại xa cách Thiên Chúa.
Ngày xưa vua Đavid đã từng ước mơ xây đền thờ cho Thiên Chúa, nhưng Ngài lại phán cùng vua: Ngươi mà lại xây nhà cho Ta ở hay sao? Thật vậy, từ ngày Ta đưa con cái Israel ra khỏi Ai Cập cho tới hôm nay, Ta đã không ở trong một ngôi nhà, nhưng Ta đã nay đây mai đó trong một chiếc lều và trong một nhà tạm.
Thiên Chúa đâu cần nhà để ở, bởi vì trời là ngai của Ngài và đất là bệ chân của Ngài. Chúa Giêsu trong cuộc sống, tuy mang tiếng là một bác thợ mộc, có lẽ chỉ là thợ làm nhà cho người khác, còn chính bản thân thì lại sinh ra trong chuồng bò, vất vưởng bên Ai Cập, lớn lên trong căn nhà của thánh Giuse, cuối cùng trở thành một người lang thang không cả chốn tựa đầu và chết ở trên cây thập giá, được an táng trong ngôi mộ của người khác. Sống không cần nhà cửa, không cần địa chỉ, thì nay sau khi đã Phục sinh liệu Ngài có cần những đền đài lộng lẫy hay không?
Trải qua dòng thời gian, Kitô giáo cũng đã đi vào dấu vết của mọi tôn giáo khác, đó là xây thật nhiều đền thờ. Thực ra đền thờ cũng rất cần thiết. Cần thiết cho chúng ta chứ không phải là cần thiết cho Thiên Chúa. Đền thờ bằng gỗ đá sẽ bị mai một với thời gian nhưng đền thờ thiêng liêng bằng chính con người thì sẽ tồn tại mãi mãi. Bởi đó, cùng với công việc tu bổ kiến thiết ngôi thánh đường này, chúng ta còn phải ra sức xây dựng, trang hoàng và tô điểm chính là cõi lòng con người để nó xứng đáng trở nên một đền thờ của Thiên Chúa.
77.Đền thờ
Chúa Giêsu đã xác định rõ đền thờ là nơi dành riêng cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Đây không phải là chỗ để giao dịch buôn bán. Tuy nhiên, ngày nay người ta dễ đánh mất cảm thức về việc tôn kính Nhà của Thiên Chúa. Trong thời đại của điện thoại di động, chúng ta càng phải cẩn trọng và có trách nhiệm gìn giữ sự tôn nghiêm của những nơi dành riêng cho sự thờ phượng. Không có lý do nào có thể biện minh cho việc sử dụng di động trong nhà thờ. Tôi nghĩ rằng việc đem điện thoại di động vào trong nhà thờ là hoàn toàn không thích hợp, vì chúng ta cần phải hết sức tôn kính Chúa Giêsu Thánh Thể đang ngự trong nhà tạm. Chúng ta hoặc là vào nhà thờ để cầu nguyện hoặc đừng vào. Chúng ta dành thời giờ đến nhà thờ là để cầu nguyện, sống thân tình với Thiên Chúa hoặc đừng đến nhà thờ. Nếu chúng ta đem điện thoại di động vào nhà thờ nó sẽ trở thành tác nhân gây chia trí, ngăn cản việc cầu nguyện của chúng ta.
Với tư cách là một linh mục, trong thánh lễ, tôi đứng ở một vị trí thuận lợi trên cung thánh và nhìn xuống dân chúng ở phía dưới, tôi thấy nhiều người không chú tâm đủ đến việc cử hành bí tích Thánh thể. Theo tôi, họ chưa chu toàn đầy đủ bổn phận tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật.
Điều này liên quan đến vấn đề tôn kính Thiên Chúa. Đã đến lúc chúng ta đừng để mình làm nô lệ cho các phương tiện kỹ thuật và phải khẳng định khả năng kiểm soát việc sử dụng chúng. Chúng ta hãy tôn kính nhà thờ là nơi dành riêng cho việc thờ phượng và cầu nguyện, chúng ta hãy bỏ điện thoại di động ở nhàkhi đi tham dự thánh lễ. Tôi quả quyết với bạn, trái đất này vẫn tiếp tục quay, cho dù bạn không để điện thoại di động trong túi áo của bạn. Trái đất cũng chẳng dừng lại cho dù bạn không trả lời các tin nhắn khi chúng được gửi đến cho bạn.
78.Thanh tẩy
Đền thờ Giêrusalem đầu tiên được vua Salomon xây dựng rất đồ xộ, vĩ đại và cũng rất nguy nga, tráng lệ, đây là một công trình quý giá vào bậc nhất thời bấy giờ, phải huy động mỗi ngày cả trăm ngàn công nhân và bảy năm mới hoàn thành, đền thờ này đứng vững được 400 năm thì bị Nabucô, vua nước Babylon phá hủy vào năm 587 trước Công nguyên. Sau thời gian lưu đầy Babylon, Giôrôbaben kiến thiết lại đền thờ, nhưng thô sơ thôi. Đến thời Hêrôđê đại vương, ông cho trùng tu lại toàn bộ đền thờ, rất vĩ đại và nguy nga lộng lẫy, mỗi ngày có 18.000 thợ làm việc, không thể ước tính được số kinh phí, khởi công từ năm 20 trước Công nguyên mãi đến năm 63 sau Công nguyên mới xong, đền thờ này cũng bị tàn phá bình địa vào năm 70 do tướng Titô của Rôma tấn công.
Đền thờ rất vĩ đại, chia ra từng khu cho từng loại người: ngoài cùng là khu dành cho người ngoại giáo đến tham quan đền thờ, rồi đến khu dành cho phụ nữ, rồi đến khu dành cho nam giới, khu thiêu sinh các của lễ, khu dành cho tư tế, rồi đến bàn thờ dâng hương, trong cùng là nơi cực thánh, đặt hòm bia 10 điều răn, tượng trưng sự hiện diện của Thiên Chúa ở đây.
Đối với người Do Thái, đền thờ là trung tâm tôn giáo của dân tộc, vừa cụ thể hóa sự hiện diện uy nghiêm của Thiên Chúa vừa chính thức hóa việc phụng tự của cả dân tộc, bởi đó, đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho muôn dân, và không ngừng mang tính chất linh thiêng thánh thiện. Nhưng dần đà người ta đã ngang nhiên biến một phần của nơi thánh thiện ấy thành nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc, dĩ nhiên với lý do tốt đẹp bên ngoài là để phục vụ việc tế tự. Quang cảnh ấy đã làm Chúa Giêsu khó chịu, nổi giận, Ngài yêu cầu mọi người trả lại cho đền thờ sự thánh thiêng phải có.
Bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán và trao đổi tiền bạc ở đền thờ Giêrusalem, hành động này của Chúa được gọi là hành động thanh tẩy đền thờ, nhưng làm cho giới lãnh đạo Do Thái giáo khó chịu và hạch hỏi Chúa, nhân cơ hội này Chúa dạy bảo cho họ biết một điều rất quan trọng về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Từ khi lên 12 tuổi và suốt thời gian ẩn dật, hàng năm Chúa Giêsu đều lên đền thờ Giêrusalem dự lễ, tại sao Ngài không đuổi những người buôn bán trong đền thờ mà lại làm bây giờ, khi sắp kết thúc cuộc đời trần gian của Ngài? Vì bây giờ Ngài vào nhà Thiên Chúa không phải với tư cách một người hành hương nhưng với tư thế của một Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, Ngài vào đó và chính thức can thiệp với tư cách quản lý và chủ nhân. Dĩ nhiên trong những lần hành hương trước, chắc chắn Chúa Giêsu đã lấy làm chướng tai gai mắt cái cảnh buôn bán, biến nơi cầu nguyện thành chợ búa, ồn ào, thành hang trộm cướp, bây giờ chính thức lãnh lấy trách nhiệm chu toàn công việc của Chúa Cha, Ngài phải chấm dứt ngay cảnh lộn xộn đó. Lòng nhiệt thành vì Cha đã khiến Ngài dùng mọi phương thế hữu hiệu nhất để thanh tẩy đền thờ, Ngài không sợ nguy hiểm khi phải ra tay dẹp loạn hầu thể hiện thánh ý Chúa Cha là đền thờ phải là nơi tôn nghiêm, thánh thiện.
Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là một kẻ phản động, vì Ngài không có chức tư tế, cũng chẳng có nhiệm vụ nào trong đền thờ. Chúa Giêsu đã kết án cách tổ chức của các trưởng tế và gán cho mình một uy quyền trên họ, Ngài đã bãi bỏ việc phụng tự do Thiên Chúa thiết lập, và còn gán cho mình có quyền bằng Thiên Chúa, Đấng mà Ngài gọi là Cha, nếu vậy thì phải làm một phép lạ từ trời, nghĩa là từ Thiên Chúa để làm bằng chứng, vậy Chúa Giêsu đã làm phép lạ nào?
Chúa trả lời: “Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Các người Do Thái đã nghĩ ngay đến đền thờ bằng gạch đá, nhưng Chúa Giêsu không có ý nói đến đền thờ bằng gạch đá mà là đền thờ thân thể Ngài. Nghe Chúa nói thế, các trưởng tế tỏ vẻ khó chịu ra mặt, họ biết đền thờ đã được vua Hêrôđê sửa sang, xây dựng mất 46 năm mới xong, thế mà bây giờ Chúa bảo phá hủy đi và xây dựng lại chỉ trong ba ngày, họ không tin lời Chúa nói mà còn cho là Chúa phạm thượng, nên khi Chúa bị đưa ra tòa xét xử, họ đã đưa điều này ra để tố cáo Chúa. Thật ra ở đây Chúa muốn báo trước cho mọi người biết: Ngài sẽ bị giết chết nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại, Ngài dùng đền thờ làm hình ảnh để nói về thân thể Ngài là đền thờ đích thực của Thiên Chúa, lời tiên báo của Chúa đã xảy ra đúng như vậy.
Mỗi người chúng ta đều là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị, nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi đã chiếm mất chỗ của Chúa, vậy chúng ta phải trả lại chỗ cho Chúa bằng việc tẩy trừ tội lỗi. Chúa muốn chúng ta sống hiên ngang như đền thờ Giêrusalem, Chúa muốn chúng ta sống tự do độc lập hoàn toàn với tội lỗi, bởi vì phạm bất cứ tội gì, có tính hư tật xấu nào, mắc một đam mê nào là chúng ta làm nô lệ cho những thứ đó, như Chúa Giêsu đã nói: “Ai phạm tội là nô lệ cho tội”. Muốn độc lập với tội lỗi chúng ta phải đến với Chúa Giêsu, ăn năn sám hối, xin Chúa tha thứ, để được sống trong tự do của con cái Chúa.
79.Đền thờ
Dân Do thái vào thời các tổ phụ đã không biết tới đền thờ, cho dù họ vẫn có các nơi thánh để cầu khẩn Đức Giavê, chẳng hạn như Bêtel, Sikem, Sinai.
Rồi sau đó, trong cuộc xuất hành, họ dùng một thứ đền thờ lưu động, đó là nhà tạm với hai hòm bia giao ước, nhờ đó Thiên Chúa có thể ngự trị thường xuyên giữa dân Ngài.
Sau khi đã định cư tại miền đất hứa, Đavid muốn thiết lập một đền thờ tại thủ đô Giêrusalem, thế nhưng Thiên Chúa đã chống lại ý định ấy, bởi vì không phải Đavid sẽ xây nhà cho Đức Giavê, nhưng chính Đức Giavê sẽ xây nhà cho Đavid.
Thế nhưng, bước sang triều đại của Salomon, ý định của Đavid đã được thực hiện mà không gặp một sự chống đối nào của các tiên tri.
Công cuộc dựng xây này đã kéo dài suốt 40 năm, để rồi từ nay đền thờ Giêrusalem sẽ trở nên trung tâm phụng thờ Thiên Chúa. Người ta từ khắp nơi trong nước hành hương về đó để tôn kính Thiên Chúa. Người Do thái đã dành cho đền thờ một tình cảm hết sức trìu mến.
Trong những năm tháng bị lưu đày bên Babilon, họ luôn hướng tới đền thờ Chúa, và khi được trở về, thì việc đầu tiên họ đã làm ngay, đó là bắt tay vào việc tái thiết đền thờ Chúa.
Như trên chúng ta vừa nói, đền thờ là trung tâm của việc thờ kính Thiên Chúa. Hàng năm người Do thái phải lên đền thờ vào những dịp lễ lớn. Và cũng trong những dịp lễ lớn này, họ thường phải dâng tiến lễ vật như chiên bò hay chim bồ câu, tùy theo như khả năng tài chính, đồng thời đóng thuế cho đền thờ.
Vì thế, người ta đã tổ chức tại khuôn viên đền thờ một cái chợ, để buôn bán và đổi chác tiền nong. Trước cảnh tượng ồn ào và huyên náo ấy, Chúa Giêsu đã tức giận, Ngài lật đổ bàn của những người đổi tiền và xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ và Ngài đã nói với họ:
- Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi đã biến nó thành hang trộm cướp.
Ngoài ra, Ngài còn hướng tâm hồn tới ý nghĩa thiêng liêng của đền thờ.
Thực vậy, đền thờ là nơi Thiên Chúa ở với chúng ta, đồng thời cũng là nơi chúng ta dâng lên Ngài những tâm tình cầu nguyện.
Nếu hiểu như vậy, thì đền thờ thiêng liêng trước hết phải là chính Chúa Giêsu, vì qua Ngài Thiên Chúa đã trở thành Emmanuel, đã trở thành Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đồng thời nhờ Ngài, chúng ta sẽ dâng lên cho Thiên Chúa của lễ tuyệt hảo nhất.
Tiếp đến, đền thờ thiêng liêng còn là Giáo hội, bởi vì nhờ Giáo hội, Thiên Chúa đến với chúng ta qua những hoạt động của bí tích và lời giảng dạy, cũng như qua Giáo hội mà chúng ta không ngừng tôn vinh và thờ phượng Chúa.
Sau cùng, đền thờ thiêng liêng là chính tâm hồn chúng ta, bởi vì nhờ công cuộc cứu độ với giòng nước Rửa tội, tâm hồn chúng ta trở nên như một gian cung thánh sống động cho Thiên Chúa ngự trị, đồng thời cũng chính tại thẳm sâu cõi lòng, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm tình cầu nguyện tha thiết và kết hợp chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, để tâm hồn chúng ta luôn xứng đáng là nơi cho Chúa ngự trị, thì có một việc chúng ta cần phải làm ngay, đó là khử trừ tội lỗi, vì tội lỗi sẽ làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ nhớp.
Nếu Thiên Chúa viếng thăm vào giữa lúc chúng ta đang lặn ngụp trong tội lỗi, thì có lẽ Ngài sẽ tức giận mà nói với chúng ta như xưa Ngài đã nói với phường buôn bán tại đền thờ.
Đúng thế, vì tội lỗi, tâm hồn chúng ta không còn phải là nhà cầu nguyện nữa, nhưng nó đã trở thành hang trộm cướp.
80.Đền thờ tâm hồn
Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ. Nhưng sâu xa hơn Chúa muốn nhắc mọi người phải lo thanh tẩy tâm hồn mình là nơi Thiên Chúa hằng hiện diện.
Người Do Thái quan niệm, muốn thờ phượng Thiên Chúa phải đến Đền thờ và có lễ vật. Còn Đức Giêsu, Ngài cho thấy đền thờ và lễ vật không dẫn con ngừơi đến với Thiên Chúa nếu như tâm hồn chúng ta khép kín hay bị lấp đầy bởi những tham lam, ích kỹ và ghanh tỵ. Nên Ngài thay thế tế vật thành tinh thần thờ phượng. Chính vì vậy mà Ngài có thể gặp gỡ Thiên Chúa mọi nơi, mọi lúc: "thờ Chúa trong tinh thần và chân lý". (Ga 4, 23-24)
Trong cuộc sống, chúng ta tìm Chúa khắp nơi, nhưng Chúa luôn hiện diện trong tâm hồn của mỗi người. Như lời Thánh Phaolô dạy rằng: "Anh em không biết sao, chính anh em là đền thờ của Thiên Chúa." Nên điều quan trọng không phải tìm Chúa nơi này hay nơi kia nhưng là làm sao để tâm hồn mình trở thành nơi Thiên Chúa ngự.
Quả thật, điều này không đơn giản như chúng ta nghĩ. Bởi vì, những người buôn bán xem ra rất gần gũi với đến thờ, nhưng Tin Mừng cho thấy đây là những người xa cách Thiên Chúa hơn ai hết. Họ đã đặt sai bậc thang giá trị khi xem tiền bạc ưu tiên hơn việc Thờ phượng Thiên Chúa. Lẽ ra đền thờ là nơi tôn nghiêm, nơi ngự trị của Thiên Chúa và là nơi con người đến đó để gặp gỡ Ngài, nhưng họ đến để buôn bán, để kinh doanh. Tâm hồn họ bị giới hạn trong suy nghĩ và hành động. Việc thờ Thiên Chúa bị đóng kín trong không gian vật chất và bị trói buộc trong cách giữ lề luật máy móc. Khi tâm hồn đầy những lo toan, những bận tâm về danh lợi thì sẽ không con chỗ cho Thiên Chúa hiện diện.
Theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải có lòng nhiệt tâm yêu mến Chúa và lề luật một cách thật sự với một tinh thần ngay chính. Điều này, đòi hỏi chúng ta phải hy sinh rất nhiều. Vì thờ phựơng không chỉ đơn thuần là lễ phẩm dâng hiến cho Thiên Chúa hay các nghi thức bên ngoài, nhưng phải thực thi điều công chính bằng đời sống của mình. Cũng như Đức Giêsu: "vì nhiệt tâm nhà Chúa mà phải thiệt thân" (Ga 2, 17). Nếu nhìn với cái nhìn trần thế, quả thật đây là một điều điên dạy. Ngày nay, con người chỉ làm những gì có lợi cho mình, ách giữa đàng không dạy gì mang vào cổ. Thế nhưng, thời buổi kinh tế đã đưa con người đến chỗ mạnh được yếu thua, nhân nghĩa, hy sinh, nhường nhịn là những từ mà người ta dường như loại bỏ và đi vào quên lãng. Chúng ta không sống theo thời đại "ai làm sao tôi làm vậy, ai làm bậy tôi làm theo". Nhưng Chúa Giêsu dạy cho ta khôn ngoan thật là sống theo đường lối Chúa.
Đền thờ chính là tâm hồn của mỗi người chúng ta. Mỗi năm Mùa chay đến rồi lại đi, chúng ta có thực sống tinh thần chay tịnh: ăn năn sám hối, cải thiện đời sống và bác ái trong việc bố thí và phục vụ tha nhân? Có sẵn sàng thanh tẩy tâm hồn mình sạch hết những lo lắng, bận tâm về danh, lợi, thú? Để tâm hồn ta xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự.
Lạy Chúa! Ước gì Lời Chúa hôm nay thấm nhập vào tâm hồn mỗi người chúng con, để biến đổi chúng con thành đền thờ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự.
81.Thanh tẩy Đền Thờ
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do thái vẫn có những hội đường để mỗi ngày sabat, ngày thứ bảy, họ đến đây để nghe lời Chúa và cầu nguyện. Đây không phải là nhà thờ hay đền thờ như chúng ta ngày nay. Họ chỉ có một đền thờ duy nhất tại Giêrusalem để tế lễ Thiên Chúa, là một nơi linh thiêng thánh thiện. Vậy tại sao lại có chuyện buôn bán, đổi chác tiền bạc ở đền thờ, đến nỗi Chúa Giêsu phải nổi giận, xua đuổi?
Trước hết, về việc buôn bán ở đền thờ. Mỗi năm, vào những dịp đại lễ, như lễ Vượt qua, lễ Ngũ Tuần… theo tập tục và thói quen đã trở thành như một luật lệ, bắt buộc các tín hữu khi đến đền thờ dự lễ đều phải dâng vào đền thờ một lễ vật nào đó làm của lễ dâng Thiên Chúa. Người giàu có thì dâng chiên bò, người nghèo thì dâng bánh rượu, dầu hương, chim câu… Nhưng vì gần đền thờ không có chợ, nên các tư tế đã lợi dụng cơ hội để làm ăn: hoặc là chính họ hoặc họ cho phép các con buôn đã nộp thuế cho họ, được buôn bán các thứ lễ vật đó cho những người đến dự lễ. Và đã là chuyện buôn bán thì có người mua kẻ bán, người trả người thách, lại với số đông người, không thể nào không ồn ào, om xòm, lộn xộn… làm cho khu vực đền thờ có vẻ là một chợ phiên hơn là nơi yên tĩnh để cầu nguyện và tế lễ.
Về chuyện đổi chác tiền bạc. Theo luật buộc: mỗi năm mỗi người trưởng phải nộp ½ đồng Xêken, tức là một nửa đồng tiền Do thái. Đây là một thứ thuế nghĩa vụ, ai cũng phải nộp và chỉ được nộp tiền Do thái, chứ không nộp thứ tiền nào khác, mặc dầu thời ấy tiền Rôma và tiền Hy lạp rất thông dụng, vì những thứ tiền ấy in hình vua ngoại đạo, nên cấm lưu hành trong khu vực đền thờ. Vì thế, để có tiền Do thái nộp thuế cho đền thờ, những người đến dự lễ phải đổi tiền. Đó là lý do sinh ra cái nạn đổi tiền và có những quầy đổi tiền trong đền thờ.
Trước sự bất kính đối với đền thờ như thế, Chúa Giêsu đau xót và nổi giận. Ngài xua đuổi họ. Việc này làm cho các tín hữu hài lòng, duy có nhóm tư tế bực mình, hạch hỏi Chúa: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng ta thấy là ông có quyền làm như thế?”. Chúa bảo họ: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”.
Hành động của Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần là xua đuổi các con buôn, là đụng chạm đến quyền lực và lợi nhuận của hàng tư tế, nhưng sâu xa hơn, đó là cử chỉ tượng trưng, nhằm phủ nhận một cung cách thờ phượng đã bị làm cho biến chất. Và không những phủ nhận nghi thức phụng tự, Chúa Giêsu còn phủ nhận luôn đền thờ bằng gỗ đá, một đền thờ lộng lẫy, huy hoàng, tráng lệ đã được vua Hêrôđê cả ra lệnh xây dựng từ năm 19 trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Tin Mừng kể lại hôm nay xảy ra vào năm 28 sau công nguyên. Như vậy đã ròng rã 46 năm trời xây cất vẫn chưa xong.
Khi phủ nhận các nghi thức phụng vụ cũ, phủ nhận cả đền thờ gỗ đá, Chúa Giêsu giới thiệu một đền thờ mới, đền thờ đích thực, đó là thân xác Phục sinh của Ngài, khi Chúa nói: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, Chúa có ý nói đến thân xác của Ngài. Ngài sẽ bị giết chết, nhưng trong ba ngày Ngài sẽ sống lại.
Chúng ta đang sống trong mùa chay, đoạn Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín hữu được coi là một đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng hiện giờ đền thờ ấy có xứng đáng để Thiên Chúa ngự không hay là một cái chợ trưng bày đủ thứ, nhất là những thứ cấm kỵ: tham vọng, ích kỷ, hận thù, bất trung, ghen ghét, gian dối…? Không nhiều thì ít, có lẽ đền thờ nơi chúng ta còn đang bất xứng, chúng ta cần thanh tẩy, sửa chữa.
Thứ hai, gia đình Kitô hữu cũng được mời gọi trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Liệu trong ngôi đền thờ ấy, các thành viên có biết lấy yêu thương, sự khoan dung tha thứ mà đối xử với nhau, hay ngôi đền thờ đã trở thành quán trọ mạnh ai nấy sống? Liệu trong ngôi đền thờ ấy có Thiên Chúa ngự trị hay đang bị đủ thứ ngẫu tượng chi phối, những ngẫu tượng có tên là tiền bạc, tham vọng, ích kỷ, hận thù, gian dối?
Tóm lại, mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực… đã chiếm chỗ của Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những cái đó để trả lại chỗ cho Thiên Chúa bằng sự ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.
Xin Chúa cho Mùa chay thánh này là mùa hồng ân cho chúng ta: cho mỗi người chúng ta trở thành một đền thờ xứng đáng, và cho gia đình chúng ta cũng là một đền thờ tốt đẹp để Thiên Chúa ngự trị, chúc lành và ban ơn cho chúng ta.
82.Cơn tức giận
Bối cảnh Tin Mừng mô tả về một Đức Giêsu đang nóng giận, với cây roi trong tay. Hình ảnh này của Đức Giêsu không phù hợp với hình ảnh quen thuộc một Đức Giêsu hiền lành và tươi cười. Dường như điều này vượt xa tính cách mà chúng ta biết về Đức Giêsu trong những bài Tin Mừng còn lại, đến nỗi khiến chúng ta xua đuổi hình ảnh đó. Điều này chứng tỏ cho chúng ta rằng tính cách của Đức Giêsu có một khía cạnh khác. Tất nhiên, Đức Giêsu là một người hiền dịu. Nhưng điều đó không có nghĩa là Người yếu đuối. Khi cơ hội đòi hỏi, Người có thể rất mạnh mẽ và rất quyết đoán.
Lại nữa, chúng ta bị sốc khi nhận thấy Đức Giêsu không chỉ tức giận, mà còn hung dữ nữa. Và Người còn sử dụng một hình thức như thể là bạo lực. Chúng ta đã từng được dạy dỗ rằng tất cả mọi cơn nóng giận đều xấu xa cả. Nhưng tự thân sự tức giận chỉ là một cảm giác, vì thế, nó không tốt và cũng chẳng xấu về mặt luân lý.
Quả thật cơn nóng giận là một điều nguy hiểm, có thể khiến cho chúng ta có những lời nói hoặc hành động mà chúng ta sẽ phải hối tiếc sau này. Nhưng tức giận cũng có thể là một điều tốt đẹp. Nó có thể thúc đẩy chúng ta chấn chỉnh lại ngay tức khắc những điều sai trái tỏ tường. Có những lúc chúng ta cần phải tức giận. Chúng ta nên tức giận trước một tình huống bất công. Tức giận có thể là một cách diễn tả tình yêu thương.
Chúng ta phải nhìn vào những điều khiến cho chúng ta tức giận. Người ta nói rằng bạn có thể đo lường được mức độ tâm hồn của một con người, qua mức độ các sự việc làm cho người đó tức giận. Hầu hết cơn nóng giận của chúng ta đều do động cơ là quyền lợi cá nhân, và chúng ta thường tức giận về những điều vặt vãnh.
Một người đàn ông sống tại vùng ngoại ô của một ngôi làng. Cách nhà ông ta khoảng độ hơn 10 mét, có trồng một cây chanh lớn. Cây chanh này là ranh giới của ngôi làng. Tuy nhiên, nó đang bắt đầu già cỗi. Rõ ràng chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi nó gãy đổ. Mỗi khi có bão táp, người đàn ông đó đều sợ hãi cho ngôi nhà và mạng sống của mình. Ngày kia, không thể chịu đựng sự căng thẳng lâu hơn nữa, ông ta đốn hạ cây chanh xuống. Ông tin chắc rằng dân làng sẽ hiểu cho ông. Nhưng ông đã lầm: Một người nói “Ông thật xấu hổ, khi đã cắt bỏ một thân cây tuyệt đẹp như vậy”.
Một người khác nói “Ông đã tước đoạt của dân làng một phần gia sản”. Tuy là một cách ngoài lề, nhưng cách thế dân làng nổi nóng khi ý riêng của họ bị đe dọa thật đáng ngạc nhiên. Nhưng khi sở thích của những người hàng xóm bị đe dọa, thì rất ít khi họ nổi nóng.
Đức Giêsu không tức giận vì lý do cá nhân. Cơn nóng giận của Người xuất phát từ tình yêu của Người đối với Thiên Chúa và đối với mọi người. Hành động của Người tại đền thờ phải được coi như một sự phản đối lại việc thương mại hóa tôn giáo và báng bổ thần thánh của đền thờ. Nhưng điều này còn sâu xa hơn.
Trước hết, Người chống đối việc người Do thái không hoàn tất sứ vụ quốc tế đối với nhân loại. Tôn giáo đã trở nên chật hẹp, theo chủ nghĩa dân tộc và mang tính cách độc quyền. Thiên Chúa có ý muốn cho đền thờ trở thành một ngôi nhà cầu nguyện “cho tất cả mọi quốc gia”, nhưng lại trở thành một nơi được bảo vệ một cách ích kỷ, dành riêng cho dân Do thái. Đức Giêsu muốn hủy bỏ khái niệm độc quyền. Ơn Cứu Độ không chỉ dành riêng cho người Do thái, mà còn dành cho tất cả mọi dân tộc.
Thứ hai, Người tấn công vào chính bản chất thờ phượng của người Do thái. Với các lễ nghi và hiến tế súc vật, toàn bộ cách thờ phượng của đền thờ không còn phù hợp nữa, và không thể làm được gì để đưa con người đến với Thiên Chúa. Người đã thay thế lối thờ phượng với hiến tế hy sinh bằng lối thờ phượng trong tinh thần. Việc thờ phượng đòi hỏi nơi chúng ta rất nhiều điều, hơn là chỉ biết dâng lên Thiên Chúa các đồ vật, và biểu diễn một số lễ nghi. Điều mà Thiên Chúa muốn hơn hết, đó là thái độ thờ phượng trong cuộc sống của chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta biến ngôi nhà này thành một ngôi nhà cầu nguyện, vui tươi và hợp nhất. Và xin cho những việc chúng ta thực hiện ở đây giúp chúng ta biết thờ phượng Thiên Chúa trong cuộc sống của chúng ta.
83.Thanh tẩy đền thờ
Gần đến lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Giêrusalem, Ngài vào trong đền thờ. Chúa Giêsu hết sức đau lòng trước cảnh tượng đang diễn ra trước mắt. Nguời người lố nhố kỳ kèo bớt một thêm hai, người mua trả giá xuống, kẻ bán lại chần chừ, đâu đó có tiếng người cãi cọ, văng tục nữa. Người đổi tiền thì rủn rẻn những đồng tiền vừa trao đổi, vui cười tít mắt vì lợi nhuận đã thu được. Gần đến lễ Vượt Qua nhiều người Do thái từ mọi miền trở về để mừng đại lễ của họ. Đây là cơ hội vô cùng tốt đẹp để những người buôn bán trong đền thờ hưởng lợi, trong số những người được hưởng lợi đó làm sao lại không có giới tư tế quản lý Đền thờ? Việc chính là dâng những lễ tế thờ phượng Thiên Chúa, nhưng sự ngọt ngào, hấp dẫn của đồng tiền lại che lấp tất cả, che cả Chúa! Đền thờ của Thiên Chúa đó sao? Thật đáng buồn, đáng tức giận! Chúa Giêsu không chỉ buồn, không chỉ giận mà còn đau, đau nhiều lắm. Chúa đã dùng dây làm roi để đánh, vừa đánh vừa đuổi. Người ta thường bảo " giận quá thì mất khôn " , nhưng Chúa Giêsu giận mà không mất khôn. Vì Chúa không đánh họ cho chết bỏ, đánh cho hả dạ, đánh cho đã tức mà đánh để dạy: " đừng biến nhà ta Cha ta thành nơi buôn bán và là sào huyệt của bọn trộm cướp ". Thực ra những thứ đuợc bày bán trong sân Đền thờ cũng nhằm phục vụ cho việc thờ phượng bên trong Đền thờ như cung cấp các lễ vật để tế lễ cho Thiên Chúa, dịch vụ đổi tiền để giúp tiện lợi trong việc đóng thuế cho Đền thờ. Nhưng điều đáng tiếc là những việc đó đã làm sai lệch việc thờ phượng, vì người bán thì chạy theo lợi nhuận, người mua thì nghĩ rằng nhờ những thứ đó họ có thể mua lòng được Thiên Chúa, bắt Thiên Chúa khi nhận lễ vật thì phải nghe theo lời họ cầu xin, họ kêu ngạo quá chừng, không thể chấp nhận được. Họ xem Thiên Chúa là sở hữu riêng ở trong tay mình. Thiên Chúa là chủ tể mọi loài, là Đấng tạo thành vạn vật, nhưng giờ đây con người đã vô phép bắt Thiên Chúa phải nghe theo lời con người như nô lệ phải vâng lời ông chủ, bởi ông chủ có tiền trong tay. Thật vô lý láo xược vô cùng. Đúng là châu chấu đá xe mà! thật không biết tự lượng sức mình. Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là kẻ phản động, vì Chúa Giêsu không có chức tư tế, cũng không hề có nhiệm vụ nào trong đền thờ. Họ hỏi Chúa Giêsu: " Ông con kia, ông lấy quyền gì mà làm như thế? " Chúa Giêsu trả lời họ: " Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội ba ngày, ta sẽ xây lại. " Chúa Giêsu muốn ám chỉ Ngài là Đền thờ mới, nhưng người Do thái không hiểu. Quả thực Chúa Giêsu là Đền thờ mới, Ngài đòi hỏi phải có nền phụng tự mới. Chúa Giêsu đánh đuổi người buôn bán, xô đẩy các súc vật, hất tung những đồng tiền của họ là một hành động tiên tri; vì các thứ ấy không có lý do tồn tại nữa, Chúa Giêsu đến thay thế mọi sự, Người chính là Đền thờ mới, trên thập giá Người hiến mình làm lễ vật tiến dâng cho Chúa Cha. Chúa Giêsu là Đền thờ mới, nơi đó con người gặp gỡ Thiên Chúa, như lời Chúa Giêsu dạy: " không ai đến được với Cha mà không qua Thầy ". Mỗi Kitô hữu chúng ta nhờ Bí tích Rửa tội và Thánh Thể được trở nên đền thờ của Chúa. Là Đền thờ của Chúa nghĩa là nơi Chúa ngự, nơi anh chị em chung quanh có thể gặp được Chúa. Chúng ta hãy xét mình xem, Đền thờ của Chúa nơi chúng ta có còn chỗ cho Chúa ngự không hay ta dã để cho tội lội và các sự xấu xâm chiếm hết chỗ rồi. Mùa chay là thời gian thích hợp để chúng ta thanh tẩy lòng mình nên tinh sạch va mới mẻ bằng cách tránh xa tội lỗi, xin Chúa tha tội giúp chúng ta sống xứng đáng làm con cái Chúa, là nơi Chúa ngự, là nơi anh chị em gặp Chúa.
84.Chúa Nhật 3 Mùa Chay
"Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán"
Các em thiếu nhi thân mến,
Có bao giờ các em đọc kinh hay hát thánh ca trong nhà thờ mà không suy nghĩ gì đến lời kinh, tiếng hát cuả mình không? Có khi nào ngồi đây nghe giảng mà tâm trí các em đang bay ở mãi tận khung trời xa xôi nào đó không? #ó chính là lối thờ phượng máy móc, vụ hình thức của những nguoi đi đạo lâu năm. Họ đọc kinh theo thói quen. Họ hát theo thói quen. Họ nghe giảng theo thói quen. Họ không còn ý thức đến hành vi của mình nữa, và cũng không có một cảm xúc hay một tâm tình thờ phượng đích thực nào trong những việc làm của mình.
Người ta kể rằng: một người kia nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày chúa nhật. Tại đó người này thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng âm nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh nào cả. Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả. Người ấy rất đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói: "Ông không nghe thấy gì, vì không có gì để nghe cả. Những người trong nhà thờ không tham dự vào buổi thờ phượng, mà chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ Chuá bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi.
Qua câu chuyện này, người ta muốn nói điều gì? Thưa, câu chuyện này dậy ta một bài học quan trọng: khi nào ta vào nhà thờ, thờ phượng Chúa, ta hãy đến đó với một tấm lòng ước muốn ra mắt Chúa, và tôn kính Ngài trong mọi việc ta làm trong nhà thờ. Ta hãy đọc kinh với thái độ tin tưởng và yêu mến. Ta hãy hát với thái độ ca ngợi Chúa thật, dù là hát trong ca đoàn hay chung với cộng đoàn. Nếu ta đứng lên nói, hãy nói với thái độ tôn thờ Chúa. Cầu nguyện cũng phải chân thành tập trung vào Chúa, ngay cả khi nghe lời Chúa cũng phải có thái độ thờ phượng. Khi nào ta ý thức được như thế thì giờ thờ phượng mới có ý nghĩa. Và chỉ những lúc đó, tiếng ca ngợi của ta từ nơi đất thấp, mới bay lên tận trời cao được.
Hôm nay Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ, Ngài đã thấy gì trong đó? Họ đã biến đền thờ thành nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để lợi dụng lẫn nhau. Kẻ buôn bán súc vật và đổi tiền nhằm lợi nhuận. Kẻ mua để dâng cúng trong đền thờ chỉ nhằm mục đích phô trương giả hình. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương như thế, để họ thu lợi nhuận hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của Đền thờ. Chính vì Đền thờ bị lạm dụng., Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Vậy ý nghiã đích thực của Đền thờ là gì?
Thưa, Đền thờ là nơi cầu nguyện. Chuá bảo rằng "đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán". Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình. Đồng thời, khi Chuá Giêsu nói với những kẻ chất vấn Ngài: "Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại". Ngài ám chỉ đến Đền thờ mới chính là thân thể Ngài. Như vậy qua hành động thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chuá Giêsu còn cho biết thêm: sự thờ phượng đích thực của thời Tân ước là thờ phượng Thiên Chuá trong Thần Khí và Sự Thật. Thế nên, "đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chuá Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, vì Thiên Chuá là Thần Khi và những kẻ thờ phượng Người phải thờ trong Thần khí và sự thật" (Ga 17, 23).
Ngày hôm nay, người ta vẫn có thể lạm dụng Đển thờ bằng nhiều cách:
- Có những người đến nhà thờ nhưng lại lo ra chia trí trong lòng. Đó là những người có xác mà không có hồn. Họ chỉ là những thây ma trơ trẽn và nguội lạnh. Họ xem lễ chứ không dự lễ, vì họ không đóng góp tấm lòng của mình vào việc thờ phượng Chuá.
- Có những người đi lễ vì người khác đi mình cũng đi hay chỉ vì cha mẹ bắt phải đi. Đó là những người thờ phượng giả hình. Họ không sống những điều mình tin. Họ lấy "vải thưa che mắt thánh". Họ chỉ che được mắt thế gian nhưng không che dấu được Thiên Chuá. Họ đến nhà thờ nhưng không gặp được Chuá nên đời sống họ cũng không có gì thay đổi.
- Nhưng điều quan trọng mà hôm nay sứ điệp Lời Chuá muốn nhắn gởi chúng ta, chính là hãy chỉnh đốn lại đền thờ tâm hồn chúng ta. Tâm hồn chúng ta có Chuá ngự trị hay không? Chúng ta đang tôn thờ Thiên Chuá hay tôn thờ những danh lợi thú trần gian?
Muà Chay là muà mợi gọi chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói muà chay là muà giúp chúng ta nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chuá thanh tẩy tâm hồn khỏi những đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá ngự trị.
Lạy Chuá, tâm hồn con là đền thờ của Chuá, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
85.Giữ các giới răn
Lần kia, có một người đàn ông rất thành thật ước ao sống một cuộc sống thánh thiện. Vì thế, anh ta đến gặp vị thầy của mình, để xin được khuyên bảo. Vị thầy này khen ngợi anh ta về ước vọng của anh, rồi hỏi “Tình hình của con tiến triển đến đâu rồi?”.
Người đàn ông đó trả lời “Con nghĩ rằng khá tốt”.
Vị thầy hỏi “Khi con nói rằng tốt, thì ý con muốn nói gì?”
Người đàn ông trả lời “Con không hề vi phạm bất cứ giới răn nào. Con đã không kêu tên Chúa vô cớ. Con không hề xâm phạm vào ngày Sabát. Con không bất kính đối với cha hoặc mẹ con. Con không hề giết bất cứ người nào. Con không thiếu lòng trung thành đối với vợ con. Con không hề ăn cắp. Con không làm chứng dối chống lại bất cứ ai. Và con đã không muốn chiếm đoạt vợ của người khác hoặc tài sản của họ”.
Vị thầy nói “Thầy biết. Như vậy, con không hề lỗi phạm bất cứ giới răn nào”.
Người đàn ông trả lời một cách tự hào “Dạ đúng ạ”.
Vị thầy hỏi “Nhưng con đã giữ các giới răn chưa?”.
Người đàn ông nói “Ý thầy muốn nói gì ạ?”.
“Thầy muốn nói rằng con đã tôn kính thánh danh của Thiên Chúa chưa? Con có giữ ngày Sabát không? Con có yêu thương và kính trọng cha mẹ con không? Con có tìm kiếm cách bảo vệ gìn giữ cuộc sống của con không? Lần cuối cùng con nói với vợ con rằng con yêu thương cô ấy là vào lúc nào? Con có biết chia sẻ tài sản của con cho người nghèo không? Con có biết bảo vệ danh tiếng cho người khác không? Lần cuối cùng con từ chối không giúp đỡ người đồng loại là lúc nào?”.
Người đàn ông đó rút lui. Nhưng theo lòng tin của mình, anh ta ra đi và suy nghĩ về những điều vị thầy đã nói. Anh nhận ra rằng cho đến nay, anh chỉ mới có ý định tránh làm điều sai trái mà thôi. Thật đáng ngạc nhiên khi có nhiều người nghĩ rằng đây là một tiêu chuẩn nhân đức cao nhất. Nhưng vị thầy đã đưa ra cho anh ta một cái nhìn mới về lòng nhân ái không chỉ là tránh làm điều ác, mà còn phải cư xử tốt nữa. Cho đến nay, anh đã có một quan niệm tiêu cực về lòng nhân ái. Bây giờ, thầy đã cho anh thấy một khái niệm tích cực về lòng nhân ái. Thầy đem đến cho anh một phạm vi mới mẻ và tốt đẹp hơn để hướng dẫn anh, một đường lối mới và nhiều thách đố hơn để anh đi theo.
Chúng ta phải cẩn thận để không phạm phải cùng một lỗi lầm như người đàn ông đó. Chúng ta không được tiếp cận với các giới răn theo một cách thức tiêu cực, bởi vì điều này đưa đến việc chỉ thực hiện các giới răn ở mức vừa đủ tối thiểu. Nhưng chúng ta phải tiếp cận với các giới răn theo một cách thức tích cực.
Và chúng ta còn phải giữ các giới răn trong tinh thần ngay chính nữa. Sự vâng phục của chúng ta không được phát xuất từ động cơ là nỗi sợ hãi, mà là tình yêu. Chúng ta không giữ các giới răn để sao cho Thiên Chúa sẽ yêu thương chúng ta, mà giữ các giới răn chính bởi vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.
Đức Giêsu đưa ra một giới luật mới mẻ và chính xác hơn – giới luật yêu thương. Giới luật này không mâu thuẫn hoặc hủy bỏ giới luật cũ, mà vượt lên trên, để rồi đưa đến việc kiện toàn giới luật cũ. Người nói rằng tất cả những giới luật của Thiên Chúa có thể được rút lại thành hai giới răn: Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến người đồng loại. Trên thực tế, chỉ có một giới luật mà thôi – giới luật yêu thương.
86.Người bị kết án tử hình
Linh Mục Frank Roof, cựu tuyên úy của nhà cải huấn thuộc tiểu bang Kentucky, kể lại một chuyện cảm động về một tù nhân tên là Paul Kordenbrock.
Paul lớn lên trong một môi trường dễ dãi của thập niên 1960. Triết lý phổ thông thời đó là "Hãy làm, nếu cảm thấy thích"
Chính triết lý này đã lôi cuốn cậu Paul trẻ tuổi này lâm vào hết tình trạng tệ hại này đến tệ hại khác. Cho đến một ngày nọ Paul đã bị hoảng hồn khi nhận được tin là mình sẽ bị xử tử.
Bây giờ, cậu đang bị giam giữ trong nhà tù và chiếc ghế điện đang chờ cho sự công lý phân xử cậu.
Vào năm 1982, Paul xin cha Roof ban phép giải tội, và xin được rước Thánh Thể. Cuộc gặp gỡ này đã đưa đến nhiều cuộc gặp gỡ khác. Dần dà, Paul được giới thiệu đến các tử tội Công Giáo khác. Paul đã viết đơn xin phép ban quản trị nhà tù để cho cha Roof cử hành Thánh Lễ cho đám tù tội Công Giáo nhỏ bé đang từ từ chờ đón án tử của mình. Nhà tù đã cho phép điều đó, và như thế cha Roof đã cử hành Thánh Lễ hằng tuần trong một cái phòng tù bằng thép cho các tử nhân.
Tất cả sự kiện này không phải xảy ra một cách bất ngờ. Cha Roof đã tìm hiểu và biết rằng Paul còn theo học các khóa giáo lý hàm thụ: lớp Cựu Ước, Tân Ước, lịch sử Giáo Hội, giáo huấn Giáo Hội, luân lý Công Giáo.
Paul còn đã trở thành một giáo lý viên có bằng cấp thuộc một giáo phận và đã thi hành chương trình RCIA - chương trình dài một năm để khai tâm cho những người lớn- cho các tử tội nhận đức tin Công Giáo. Mỗi năm, Paul đã đưa ít là một người tử tội về với Đức Kitô.
Câu truyện của Paul Kordenbrock cũng giống câu truyện của người đàn bà tại giếng nước.
Phúc Âm ghi lại: "Bà để gầu nước lại và đi về làng và nói với mọi người, 'Hãy đến mà xem Người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm.' "
Phúc Âm thêm rằng mọi người đã rời làng và đến gặp Chúa Giêsu.
Và như thế, người đàn bà, từng là người tội lỗi nhất, đã trở nên nhà truyền giáo đầu tiên của đạo Kitô Giáo. Sau khi bà khám phá ra Chúa Giêsu, bà đã ra đi chia sẻ sự khám phá của bà với bạn bè và tha nhân.
Và đấy thực sự chính là những gì Paul Kordenbrock đã làm. Sau khi khám phá ra Chúa Giêsu, anh đã ra đi chia sẻ sự khám phá của mình với những bạn tử tù. Anh nói cho họ, "Hãy đến và gặp người đã làm những sự vĩ đại cho tôi." Và như thế, anh chàng tội lỗi nhất đã trở nên nhà truyền giáo đầu tiên của những tử tù trong trại Cải Tạo Tiểu Bang Kentucky.
Khi chúng ta để Chúa Giêsu Kitô vào trong đời sống của chúng ta, thì những điều phi thường mới có thể xảy ra. Chúa Giêsu có thể biến đổi đời sống chúng ta triệt để, y như Ngài đã biến đổi cuộc sống của người đàn bà và cuộc sống của Paul.
Qua chúng ta, Chúa Giêsu có thể với tới và biến đổi đời sống của những người khác, giống như Ngài đã chạm tới và biến đổi đời sống của những người khác qua người đàn bà xứ Samaria và qua Paul.
Lạy Chúa, xin hãy giúp chúng con biết khám phá ra Chúa trong Mùa Chay này. Và qua sự khám phá của chúng con, xin hãy giúp chúng con trở nên những nhà truyền giáo trong gia đình và cộng đoàn của chúng con.
87.Mười điều răn mới
Mục đích giới luật của Thiên Chúa không phải là để hạn chế chúng ta, nhưng là để chỉ cho chúng ta phương cách sống. Giới luật của Thiên Chúa chính là ánh sáng cho những bước chân của chúng ta, và là ngọn đèn soi chiếu đường đi cho chúng ta. Mười điều răn của Người rất tốt đẹp. Nhưng lời giảng dậy của Đức Kitô còn đi xa hơn nhiều. Kẻ nào hài lòng với giới luật cũ, thì cũng giống như một người vẫn cứ bước đi bằng ngọn nến, sau khi đã có đèn điện rồi vậy.
Trong phần sau đây, chúng ta nhìn vào mười điều răn dưới ánh sáng lời giảng dạy của Đức Kitô (Có thể sử dụng hai giọng nói):
Cũ: Hãy nghe đây, hỡi nhà Israel! Ta là Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Đấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai cập, ra khỏi nơi chốn nô lệ.
Mới: Hãy nghe đây, hỡi những người đi theo Đức Kitô, dân tộc mới của Thiên Chúa! Ta là Chúa, Thiên Chúa của các con. Đấng đã đưa các con ra khỏi cảnh tối tăm, để đi vào ánh sáng. Các con có thể nhìn thấy những hiệu quả của ánh sáng nơi lòng nhân ái, lối sống ngay thẳng và theo lẽ phải.
Các con đã từng nô lệ cho tội lỗi và những hành động sai trái. Hiện nay, các con phải sống trong tự do của con cái Thiên Chúa.
Cũ: Ta là Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. Các ngươi không được có vị thần nào đi trước Ta.
Mới: Ta là Chúa, Thiên Chúa của các con. Ta không phải là một Thiên Chúa xa lạ và xa cách các con. Ta là bạn bè và người cố vấn của các con. Hãy coi chừng các vị thần, họ sẽ phản bội các con. Tiền bạc là một loại thần phổ biến nhất. Các con không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền bạc được.
Cũ: Các ngươi không được kêu tên Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, một cách vô cớ.
Mới: Kể từ bây giờ, Ta muốn các con gọi Ta bằng một tên mới. Hãy gọi Ta là Cha. Hãy gọi tên đó không phải trong sự sợ hãi, mà bằng tình yêu. Hãy cầu khẩn danh xưng đó trong sự ca ngợi, biết ơn, cũng như hãy cho Ta biết những nhu cầu của các con. Tên của các con đều được viết trong lòng bàn tay Ta.
Cũ: Các ngươi hãy nhớ giữ ngày sabát.
Mới: Các con hãy ghi nhớ rằng tất cả mọi ngày đều thuộc về Thiên Chúa, và hãy sống thánh thiện. Nhưng hãy dành ngày đầu tiên trong tuần, ngày Chúa nhật, làm một ngày đặc biệt. Đây là một ngày mà Đức Giêsu, người Anh Cả của các con, đã bẻ gãy xiềng xích của sự chết và sống lại vinh quang từ hầm mộ. Ngày này nhắc nhở các con rằng các con là một dân tộc đang hành hương tiến về miền đất hứa của sự sống đời đời. Sự an bình và thư giãn của ngày Sabát là điều dự báo trước về niềm vui sắp đến.
Cũ: Các ngươi hãy kính trọng cha mẹ.
Mới: Các con hãy yêu thương cha mẹ, đó là những tâm hồn quí giá mà nhờ có họ, các con được mời gọi vào bữa tiệc của sự sống. Các con hãy giúp đỡ cha mẹ khi họ cô độc. Hãy an ủi cha mẹ khi họ đau yếu. Hãy săn sóc cha mẹ khi họ già cả và yếu đuối.
Cũ: Các ngươi chớ giết người.
Mới: Các con không được gây đau khổ cho người khác bằng bất cứ cách nào. Hãy thương xót như Cha các con là Đấng thương xót. Đừng phê phán ai, và các con sẽ không bị phê phán. Đừng kết án ai, và các con sẽ không bị kết án. Hãy yêu thương kẻ thù. Hãy cư xử tốt với những người ghét các con. Hãy chúc phúc cho những người nguyền rủa các con. Hãy cầu nguyện cho những người nói điều ác chống lại các con. Từ đó, các con sẽ chứng tỏ rằng các con chính là những con cái của Thiên Chúa.
Cũ: Các ngươi chớ phạm tội ngoại tình.
Mới: Các con hãy yêu thương người bạn đời của các con, như thể đó là một nửa của các con. Sự trung thành về thể lý là điều vĩ đại, nhưng sự trung thành trong tâm hồn lại còn tốt đẹp hơn nữa.
Cũ: Các ngươi chớ lấy của người.
Mới: Có nhiều cách thức ăn cắp. Nếu các con chất đống và tích trữ những của cải mà các con không cần đến, trong khi đồng loại của các con lại đang cần đến – đó là một hình thức ăn cắp. Những tài sản trên trái đất này đều được dành cho tất cả những con cái của Thiên Chúa. Như vậy, Ta nói với các con: hãy đem của cải cho người nào đang cần đến, hãy chia sẻ cơm bánh cho kẻ đói khát, hãy cho kẻ rách rưới ăn mặc, hãy mở lòng ra cho những người cô đơn và không có nhà, và ánh sáng của Thiên Chúa sẽ chiếu tỏa trên các con.
Cũ: Các ngươi chớ làm chứng dối. Mới: Các con hãy trở nên ánh sáng cho người đồng loại, chứ không phải là nguồn tối tăm. Hãy dùng những lời lẽ để xây dựng, nâng đỡ và an ủi người đồng loại. Nếu các con không thể tìm được điều gì tốt đẹp để nói về người đồng loại, thì hãy giữ im lặng.
Cũ: Các ngươi chớ thèm muốn vợ người khác. Mới: Các con vẫn có thể phạm tội ngoại tình trong tư tưởng và lòng ao ước, cũng như trong hành động. Tội ngoại tình ở trong tâm hồn trong ước muốn chiếm đoạt người khác. Do đó, các con hãy phấn đấu giữ tâm hồn thanh sạch.
Cũ: Các ngươi chớ thèm muốn tài sản của người khác. Mới: Ta nói với các con: đừng thèm muốn bất cứ tài sản nào. Đừng tích trữ kho tàng trên trái đất này. Nói đúng hơn, các con hãy phấn đấu để làm cho bản thân mình được trở nên phong phú dưới mắt Thiên Chúa. Nếu các con thèm muốn bất cứ điều gì nơi người đồng loại, thì hãy thèm muốn sự ân cần trong tâm hồn và cách cư xử tử tế. Kết luận: Hãy tuân theo các giới răn, không phải vì sợ hãi, mà vì lòng yêu mến. Và nếu bạn nhận thấy mười điều răn là quá nhiều, không nhớ được, thì bạn có thể rút gọn thành hai giới răn: Yêu mến Chúa hết linh hồn hết trí khôn, và yêu mến người đồng loại như chính bản thân mình.
88.Tẩy uế đền thờ
"Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (Ga 2,16)
Suy niệm:
Đức Giêsu mang lại những cái mới:
Bài Tin Mừng đặt ta giữa một loạt những điều mới mẻ do Đức Giêsu mang lại. Tại Cana, Người mang lại rượu mới từ nước lã (Ga 2,1-12). Cái mới được loan báo cho ông Nicôđêmô là cuộc "sinh ra bởi nước và Thần Khí" như điều kiện để gia nhập Nước Thiên Chúa (3,5). Cái mới mà Đức Giêsu khẳng định thực sự đã đến khi Người tuyên bố: "Giờ đã đến - và chính lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và trong sự thật" (4, 23).
Riêng với đoạn Tin Mừng hôm nay, cái mới được loan báo lại là chính Thân Thể Người (2,21)! Tại sao vậy? Thưa, vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Câu Thánh Vịnh 69,10 này được trích khi tác giả Tin Mừng Gioan đặt động từ thiệt thân ở thì tương lai (sẽ phải thiệt thân) để chỉ về cái chết Đức Giêsu phải chịu như hậu quả của lòng nhiệt thành của Người đối với nhà Chúa. Trong thực tế trước Thượng Hội Đồng Do Thái Giáo, Đức Giêsu sẽ bị tố cáo "Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại" (Mt 26,61). Rồi khi bị đóng đinh trên thập giá, Người sẽ bị kẻ qua lại nhục mạ: "Mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi!" (27,39-40).
Trở lại với bản văn Tin Mừng hôm nay, điều nổi bật là cơn thịnh nộ của Đức Giêsu. Ta đặt mình vào bối cảnh trong đó Người tỏ ra không thể đội trời chung được với cái thế giới làm cho Đền Thờ bị tục hoá. Người nhận lấy sứ mạng tẩy uế nơi thánh. Bản văn cho thấy trước hết là bối cảnh (2,13). Kế đến là sự kiện (cc.14,15 và 16). Sau cùng là những suy nghĩ (cc.17-22).
Về bối cảnh, hãy coi tầm quan trọng mà tác giả dành cho đoạn văn này. Đây là đoạn đầu về đời công khai của Đức Giêsu. Mặc dầu trước đó đã có phép lạ tiệc cưới Cana, nhưng cách nào đó tại tiệc cưới này Đức Giêsu còn hành động cách kín đáo. Người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết) ông mới gọi tân lang lại và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ!" (Ga 2,10). Còn ở đây, ngược lại, là hồi đầu của cuộc đời công khai trong đó Đức Giêsu hành động một cách chính thức và công khai. Thời điểm mà người chọn cho hành động đó cũng rất quan trọng đối với đời sống phụng tự của người Do thái: "Lễ Vượt Qua của người Do thái gần đến." Độc giả nhớ rằng sách Tin Mừng thứ bốn được đặt ăn nhịp với tiến trình của những cuộc lễ mà chính yếu là lễ Vượt Qua về cuối đời Đức Giêsu. Chính với lễ này phụng vụ mới về đời Chúa được khai trương. Vậy lễ Vượt Qua của người Do thái gần đến, Đức Giêsu lần đầu tiên lên Giêrusalem cách chính thức và công khai.
Đức Giêsu nổi giận trước cảnh Đền Thờ bị tục hoá:
Thế rồi sự kiện xảy ra như thế nào? Đức Giêsu thấy Đền Thờ bị biến thành cái chợ! Người ta đang bán bò, chiên, chim bồ câu. Đức Giêsu còn thấy những người đang ngồi đổi tiền. Tại sao đổi tiền? Vì tiền của chính quyền thực dân không thể xài được vào việc dâng cúng nên phải đổi nó ra tiền của Đền Thờ thì mới dâng cúng được. Vậy Người lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ. Bất kể tới tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra khi lật nhào bàn ghế của họ.
Ở đây ta có hình ảnh một Đức Giêsu nổi nóng. Người vớ lấy bất cứ thứ gì, chẳng hạn dây rợ, để bện thành roi. Đó là dụng cụ Người dùng để xua đuổi những người đang buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Làm hành vi tẩy uế đó xong, Người mới cắt nghĩa lý do khi nói với những kẻ bán bồ câu rằng: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (c.16)
Kế đến trong bài Tin Mừng là ba suy nghĩ như sau:
Trước hết các môn đệ nhớ tới lời Kinh Thánh "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (c.17). Ở đây, các môn đệ áp dụng câu Thánh Vịnh 69,10 này trực tiếp cho số phận của Đức Giêsu. Người sẽ bị thiệt mạng do âm mưu của giới lãnh đạo Do thái giáo. Nhưng với Đức Giêsu, hành vi nhiệt thành của Người, thuộc về đạo làm con vì Người nói: "Đừng biến nhà CHA TÔI thành nơi buôn bán." (c.16).
Người Do thái đòi Đức Giêsu phải làm dấu lạ để chứng minh Người có quyền hành xử như trên (c.18). Nhưng Đức Giêsu đã không làm phép lạ. Người cắt nghĩa Tin Mừng này qui về thân thể của Người là thân thể sẽ trở nên Đền Thờ cuối cùng của Thiên Chúa (cc.19-22).
Điều nổi bật trong bài Tin Mừng là tội được mạc khải như hành vi tục hoá Đền Thờ của Thiên Chúa. Thay vì thờ phượng Thiên Chúa, người ta đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ.
Mọi tội đều là hành vi tục hoá công trình của Thiên Chúa. Con người được Thiên Chúa dựng nên để tán dương, tôn kính và phụng sự Người. Mọi sự khác đều được dựng nên để giúp con người thể hiện mục đích cao cả đó. Tội khiến con người hành động ngược lại với ý định của Thiên Chúa nơi công trình của Người bằng cách đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ! Thư thứ nhất của Gioan nêu ba loại ngẫu tượng đặc trưng, đó là: "dục vọng của xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình" (2,16). Dục vọng của xác thịt chỉ về những ham muốn vô trật tự của bản tính loài người, trong đó phải kế tới dục tình đang đe dọa trầm trọng tương lai của xã hội loài người. Dục vọng của đôi mắt chỉ về lòng tham của con người muốn sở hữu tất cả những gì mắt thấy bất kể tới đức công bằng và nhu cầu của người khác. Cuối cùng là thái độ cậy mình có của. Nó phát sinh từ tính kiêu căng tự phụ. Kẻ kiêu căng luôn tìm quyền lực để thống trị người khác. Đó là gốc gác của biết bao cuộc chiến từng xảy ra trong lịch sử.
Những dục vọng ấy sẽ trở thành ngẫu tượng khi trở nên giá trị tuyệt đối. Chúng sẽ thay thế Thiên Chúa để điều khiển con người. Và khi ấy không còn phải là đền thờ được xây dựng bằng đá hay bê tông bị tục hoá, nhưng là chính con người bị tục hoá như lời thánh tông đồ Phaolô nói: "Nào anh em chẳng biết anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em." (1Cr 3,16-17).
Vậy cơn thịnh nộ của Đức Giêsu nói lên lòng nhiệt thành chính Người mang nặng. Nó thúc đẩy Người dấn thân giải thoát những ai bị dục vọng kềm kẹp. Thực ra, chỉ thân thể Đức Giêsu chịu chết nay được phục sinh mới thực sự là Đền Thờ mới, là nơi loài người có thể phụng thờ Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật.
Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới:
Một cách chính xác thánh Phaolô khuyên người Kitô của mọi thời là: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện." (Ep 4,22-24).
Vậy sứ điệp cơ bản của bài Tin Mừng hôm nay cũng giống sứ điệp của tông đồ Phaolô khi viết: "Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, cái mới đã có đây rồi." (2Cr 5,17)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa mạc khải cho chúng con biết chính Chúa là Đền Thờ. Chúa chính là Đền thờ cao quý nhất. Xin cho chúng con biết trân trọng và yêu mến Đền Thờ. Xin cho chúng con chúng con cũng biết dọn dẹp tâm hồn mình trở nên trong sạch, xứng đáng là đền thờ đẹp cho Chúa ngự.
89.Đền thờ di động--Huệ Minh
Với bất kỳ tôn giáo nào, Đền Thờ chính là nơi trang trọng nhất để con người gặp gỡ vị thần linh của mình tin cậy. Và vì thế, Đền Thờ phải nói là nơi được xây cất không chỉ kỹ lưỡng mà còn phải trang trí, tô vẽ cho thật đẹp và dùng những vật liệu qúy giá và đắt tiền.
Dân Do Thái cũng thế, với lòng thành kính dâng lên Thiên Chúa nên họ đã xây cấn đền thờ Giêrusalem thật hoành tráng. Vì tính chất cũng như đặc thù như thế, Giêrusalem phải mất 46 năm cũng như mất biết bao nhiêu tiền của mới xây dựng được như mọi người thấy.
Đền thờ chính là nơi thờ tự, nên mà con người gặp Thiên Chúa và dâng lên Thiên Chúa của lễ của mình theo mỗi thời điểm. Thánh Gioan thuật lại cho ta là Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu cùng với bao nhiêu người khác cùng lên Giêru-salem để tế lễ.
Khi đến Giêrusalem, Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc làm mất đi vẻ trang nghiêm của Đền Thờ. Thấy thế, Ngài không ngần ngại chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Không những thế, Chúa Giêsu đã hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".
Đứng trước cảnh tượng đó, dĩ nhiên dân chúng đã bất bình. Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy?".
Nghe thế, Chúa Giêsu nói: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại"
Ta thấy cuộc tranh luận ngày càng gắt gao. Người Do Thái đáp lại: "Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?"
Chuyện Chúa Giêsu muốn nói ở đây không phải là cái đền thờ bằng gạch đá này nhưng Chúa Giêsu muốn nói đến chính thân mình của Ngài. Và, ta thấy ngay cả các môn đệ cũng không hiểu được lời của Chúa Giêsu. Chỉ sau khi chết và sống lại các môn đệ mới hiểu điều Chúa Giêsu nói.
Chuyện quan trọng đó chính là thân mình của mỗi người chúng ta, là Đền Thờ của Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, nhìn lại hình ảnh Đền Thờ Giêrusalem với cảnh hoang tàn bởi người ta mua bán, đổi tiền, kiếm ăn trên đó ta cũng phải nhìn lại chính cuộc đời mỗi người chúng ta. Chúng ta, lẽ ra cũng phải có tâm tình như Vua Đavit là Vua ước ao xây cho Thiên Chúa một ngôi Đền Thờ xứng với Thiên Chúa. Vua ngẫm nghĩ rằng Vua sẽ xây nhà cho Thiên Chúa nhưng Ngôi nhà mà Chúa hứa xây cho Vua Đavit không phải là ngôi nhà bằng gạch đá nhưng là một ngôi nhà sống động, nghĩa là Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra từ dòng dõi của Vua Đavit.
Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu đã đến trong thế gian này thật sự để rồi nơi Chúa Giêsu con người được gặp gỡ Thiên Chúa và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Và, Chúa đến trong trần gian này để ghi dấu ấn cho những ai tin vào Chúa qua bí tích Thanh Tẩy. Qua bí tích Thanh Tẩy, con người được cùng hiệp nhất với Thiên Chúa để rồi con người cũng trở nên những đền thờ mà Thiên Chúa ngự.
Đã là đền thờ thì phải thanh sạch, không được vương tội lụy trần gian.
Trải qua bao nhiêu năm lãnh bí tích Thanh Tẩy nhưng rồi cái đền thờ di động chính là tâm hồn của ta như thế nào? Chắc có lẽ giờ này mà Chúa đến Chúa còn giận hơn khi Chúa đến đền thờ Giêrusalem. Chắc có lẽ đền thờ của mỗi người chúng ta thì chúng ta hiểu hơn ai hết.
Có khi ta nghĩ rằng những người Do Thái thời đó thế này thế nọ... Họ không biết gìn giữ Đền Thờ và họ làm cho đền thờ ra ô uế. Thế nhưng, nếu như nghĩ lại bản thân ta, đôi khi đền thờ của ta còn ô uế hơn như thế nữa.
Đời ta, nhiều khi nghĩ lại rất buồn cười đó là ta thấy rõ hơn ai hết về cuộc sống tạm bợ này. Thế nhưng, vẫn mang trong mình tính ích kỷ, bon chen, hơn thua, giận hờn... Chính khi ta sống tâm tình như thế là ta hủy diệt đời ta, ta hủy diệt tâm hồn của ta và khi đó Chúa không thể nào ngự vào tâm hồn của ta được.
Ta nhớ Thánh Phaolô quả quyết: "Ai phá huỷ Ðền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy.Vì Ðền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Ðền Thờ ấy chính là anh em." (1 Cr 3, 13-17)
Và như vậy, khi nhìn lại đền thờ tâm hồn của mỗi người chúng ta, chúng ta lại xin Chúa hãy đến, hãy thánh hóa, hãy tẩy rửa đền thờ tâm hồn của chúng ta. Có như thế Chúa mới có chỗ trong cung lòng của chúng ta được. Và, điều mà Chúa cũng muốn nơi mỗi người chúng ta chính là đền thờ đích thực của Thiên Chúa để rồi bất cứ ai nhìn vào ta họ cũng thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn của ta.
Ngày nay, cũng khó nói bởi vì ai ai cũng phải chạy đua với cuộc sống để rồi giữ đạo được ngày Chúa Nhật cũng là may lắm. Còn lại thời gian, ai ai cũng chạy đua với cuộc sống để rồi gạt Chúa ra khỏi đời của mình.
Thật ngạc nhiên có một gia đình kia bỏ Chúa gần hai mươi năm qua. Tôi nhẹ nhàng nói với họ rằng hãy tập sống đời sống cầu nguyện, hãy tạ ơn Chúa vì những ơn lành mà Chúa đã ban cho mình. Khi mình nhìn thấy những ơn lành thì mình tạ ơn Chúa.
Tưởng chừng mình sẽ cảm hóa được suy nghĩ cũa họ nhưng không. Khi nghe những lời đó, người chồng vui vẻ nói rằng con thấy con sống như thế này là thoải mái lắm rồi, có thấy Chúa gì đâu?
Đáng tiếc thay là họ đã nhận được quá nhiều ơn của Chúa nhưng họ đã không cảm nhận được đó là ơn của Chúa. Thôi thì thêm lời cầu nguyện cho họ để đến một lúc nào đó trong cuộc đời họ nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời họ.
Phần ta, ta hãy luôn cảm nhận rằng tất cả những gì ta có đó là ân huệ mà Thiên Chúa ban cho ta. Có như thế, ta mới tạ ơn Chúa, ta mới ý thức rằng Chúa luôn ở trong cuộc đời ta, Chúa luôn hiện diện trong đời ta và ta chính là đền thờ mà Thiên Chúa ngự.
Có như thế ta mới đi nói với người khác rằng Chúa ở trong tôi và tôi ở trong Chúa. Nếu sống được như vậy, ta mới cảm thấy bình an thư thái vì lúc nào ta cũng là đền thờ của Chúa và Chúa ngự nơi đền thờ là tâm hồn ta vậy.
Xin Chúa thêm ơn cho ta để ta luôn luôn dọn mình, dọn lòng, dọn tâm hồn mình thanh sạch để mời Chúa vào ngự vào lòng ta.
02/03 Người cha nhân hậu
- Viết bởi Lc 15, 1-3. 11-32
Người cha nhân hậu.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 2 Mùa Chay.
“Em con đã chết nay sống lại”.
Lời Chúa: Lc 15, 1-3. 11-32
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này:
“Người kia có hai con trai. Ðứa em đến thưa cha rằng: “Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con”. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho.
Bấy giờ nó mới hồi tâm lại và tự nhủ: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: “Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: “Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa”. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu; hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
“Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: “Ðó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ”. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào, nhưng anh trả lời: “Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn; còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó”. Nhưng người cha bảo: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ăn mừng
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Dụ ngôn người cha nhân hậu là một dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó Đức Giêsu cho thấy tại sao Ngài đón tiếp và ăn uống với tội nhân.
Đơn giản chỉ vì ngài giống Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.
Người cha nhân hậu là người tôn trọng tự do của đứa con thứ,
người đã chia một phần ba gia sản cho nó ngay khi ông còn sống.
Ông đã không tìm con, như người ta tìm chiên lạc hay tìm đồng bạc bị mất.
Ông tin và hy vọng sớm muộn nó sẽ về, nên ông kiên nhẫn chờ.
Vì chờ, nên ông là người đầu tiên trông thấy con trở về tiều tụy.
Không cầm lòng được vì thương, ông chạy ra, ôm lấy cổ con mà hôn.
Người con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.
Khi con thứ sám hối, ông đã trả lại cho cậu tất cả vinh dự của người con.
Việc duy nhất phải làm ngay là mở tiệc ăn mừng (cc. 23, 24. 29, 32).
Khi con cả giận dỗi, không chịu vào nhà chung vui với cha và em,
một lần nữa người cha lại đi ra và năn nỉ (c. 28).
Ông chấp nhận ở thế yếu vì ông không muốn mất một đứa con nào.
Ông không thể yên tâm ở trong nhà khi còn một đứa con ngoài cổng.
Hoán cải bao giờ cũng khó.
Con thứ phải can đảm lắm mới dám trở về nhà cha.
Làm sao lường được phản ứng của cha, anh, của gia nhân, hàng xóm?
Làm sao dám về nhà trong tình trạng thân tàn ma dại?
Nhưng con cả cũng không dễ vào nhà chút nào,
vì vào nhà là phải bắt tay thằng em đã phung phí hết của cải,
vào nhà là phải chấp nhận sự thiên vị khó hiểu của người cha (cc. 29-30).
Cả hai người con đều cần hoán cải.
Người con cả cũng hỗn hào với cha không kém gì đứa em (c. 30).
Em bỏ nhà ra đi nên đói, còn anh không chịu vào nhà nên cũng có thể bị đói.
Anh phục vụ cha rất tốt nhưng lại mong cha trả công như người thợ (c. 29).
Anh ở gần cha, nhưng thực sự trái tim lại xa cha.
Khi cha vui vì em trở về thì anh lại buồn giận.
Mùa Chay là thời gian trở về với Cha, trở lại với anh em.
Người con thứ đã đứng lên trở về nhà cha và tìm được hạnh phúc.
Không rõ người con cả có vào nhà cha và ôm lấy em mình không?
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ,
khi coi Cha
như người cản trở hạnh phúc của chúng con.
Chúng con thèm được tự do bay nhảy
ngoài vòng tay Cha,
nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.
Như người con thứ,
chúng con bỗng thấy mình tay trắng,
rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung,
xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày,
giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.
Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui
vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên,
thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ,
chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân. Amen.
Suy Niệm 2: Tấm lòng Cha
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trung tâm điểm của mùa chay, đó là trở về với Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa là người Cha rất yêu thương có tấm lòng nhân hậu vô biên. Cha là người ban sự sống. Không có cha thì không có sự sống. Có sự sống là có tất cả. Không có sự sống là không có gì hết. Vì thế cha không những là nguồn cội phát sinh mà còn là nguồn mạch hạnh phúc.
Nhưng ma quỉ đưa ra một cơn cám dỗ tinh vi. Làm cho người ta nghĩ rằng lệ thuộc vào Thiên Chúa là mất tự do. Xui khiến người ta tìm cách làm chủ đời mình, bằng cách tách lìa khỏi Thiên Chúa. Nhưng họ đã phải đón nhận hậu quả phũ phàng.
Khi chiếm đoạt của cải của Thiên Chúa, con người nghĩ rằng mình giầu có. Nhưng không ngờ con người trở nên nghèo túng nhất.
Khi ra khỏi ảnh hưởng của Thiên Chúa, con người tưởng mình tự do. Nhưng không ngờ lại trở nên nô lệ nhất.
Khi con người chống lại Thiên Chúa, mọi thứ chống lại con người. Cả thiên nhiên, cả súc vật. Và con người chống lại nhau.
Khi không còn lệ thuộc Thiên Chúa, con người tưởng phẩm giá mình được nâng cao. Không ngờ con người trở nên tồi tệ, mất nhân phẩm.
Nhưng khi trở về nhà Cha, mọi sự lập tức thay đổi. Người con tưởng như không có gì mà giờ đây có tất cả. Có áo đẹp, giầy mới, nhẫn quí và bữa tiệc thịt béo rượu ngon. Hơn nữa nó có phẩm giá cao quí, được mọi người kính trọng. Trên hết nó được đón nhận và được yêu thương. Về nhà người con hoang đàng thấy rõ. Lìa bỏ cha là mất tất cả. Ở trong cha là có tất cả. Vì mọi sự của cha là của con. Và đặc biệt tấm lòng cha bao dung tha thứ như tiên tri Mika nói: “Người không giữ mãi cơn giận, nhưng chuộng lòng nhân nghĩa. Người sẽ lại thương xót chúng ta. Tội lỗi chúng ta, Người chà đạp dưới chân. Mọi lỗi lầm chúng ta, Người ném xuống đáy biển”.
Tôi đang theo mốt thời đại, muốn thể hiện sĩ diện khi muốn tự do, tách lìa quyền năng của Thiên Chúa. Tôi đang bị cám dỗ muốn toàn quyền sử dụng tiền của, kể cả sức khỏe, thân xác của mình và của người khác. Tôi đang phạm tội. Nhưng cha đang chờ tôi. Hãy mau mắn như người con hoang đàng quyết định: “Vâng, tôi quyết chỗi dậy và đi về nhà Cha”.
Suy Niệm 3: Người con hoang đàng
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Văn hào Nga Dostoievki khi biết mình không còn sống bao lâu nữa, đã gọi các con đến bên giường bệnh và yêu cầu vợ đọc cho chúng nghe dụ ngôn người con hoang đàng. Khi bà vợ vừa dứt lời, Dostoievki nói như để lại di chúc riêng của ông như sau:
“Các con yêu dấu, các con đừng quên những gì các con vừa nghe đọc. Hãy tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, đừng bao giờ thất vọng về sự tha thứ của Ngài. Cha thương các con vô cùng, nhưng tình thương của cha không thể sánh được với tình yêu Thiên Chúa dành cho những ai Ngài đã tạo dựng. Cho dù các con có phạm tội ác, các con đừng bao giờ thất vọng về Thiên Chúa. Các con là con cái Ngài, hãy khiêm tốn đến trước mặt Ngài. Hãy xin Ngài tha thứ và Ngài sẽ vui mừng vì sự sám hối của các con, như người Cha đã vui mừng khi người con hoang trở về”.
Những lời trăn trối của Dostoievki có lẽ cũng chính là tâm tình mà Giáo Hội mời gọi chúng ta khi cho chúng ta lắng nghe dụ ngôn về người con hoang đàng. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa được chính Ngài cụ thể hoá qua sự gần gũi của Ngài với các tội nhân. Nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người, Chúa Giêsu cũng nhắm đến thái độ chai đá của các biệt phái và luật sĩ, được Ngài tô vẽ qua hình ảnh của người con cả. Trong một vài nét ngắn ngủi, nhưng Chúa Giêsu đã phô bày được bộ mặt chai đá, ích kỷ, mù quáng của biệt phái và luật sĩ. Người con cả là hạng người không bao giờ nhận ra được tình thương của Thiên Chúa. Bao lâu nay sống bên cạnh cha, người con cả vẫn xem mình như một thứ người làm công trong nhà, mà không nghĩ rằng “tất cả những gì của cha đều là của con”.
Đó có thể là tâm tình của rất nhiều người trong chúng ta. Chúng ta tuân giữ và thực hành đúng đắn với giới răn, nhưng có lẽ chúng ta chỉ ngước lên Chúa như một quan toà công thẳng hay như một viên cảnh sát lúc nào cũng rình rập theo dõi để trừng phạt chúng ta. Từ một hình ảnh như thế về Thiên Chúa, tâm tình mà chúng ta có đối với Ngài có lẽ chỉ là sợ hãi, nô lệ. Và bởi lẽ không nhận ra Thiên Chúa như một người cha, cho nên con người cũng không nhận ra tha nhân là anh em của mình và như vậy cũng là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Mùa Chay là mùa của hoán cải. Hoán cải trước tiên là trả lại cho Thiên Chúa gương mặt mà Chúa Giêsu đã mạc khải, đó là gương mặt của người Cha yêu thương con người đến thí ban Con Một mình. Nhưng không thể trở về với Thiên Chúa là Cha mà lại không yêu thương tha thứ cho người anh em của mình.
Suy Niệm 4: Người cha nhân hậu
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Ðoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe trên đây là một trong những đoạn rất quen thuộc với người Kitô. Trước đây, đoạn Tin Mừng này có tên gọi là Người Con Hoang Ðàng, nhằm nhấn mạnh đến sự hư hỏng và sau đó là sự ăn năn hối lỗi của người con thứ. Theo cách nhìn này thì người con hoang đàng là nhân vật chính trong câu chuyện, nhưng trọng tâm của câu chuyện không phải là người con đi hoang mà là người cha nhân hậu, do đó dụ ngôn này có tên gọi là dụ ngôn về người cha nhân hậu, và được chia làm hai phần với hai dụng ý rõ rệt. Phần đầu nói về Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Ngài luôn luôn yêu thương con người, sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của họ và hằng mong chờ họ quay trở về với Ngài. Phần thứ hai nói về tính ghen tị của những người tự xưng mình là con của Thiên Chúa, nhưng lại rất nhỏ mọn, thiếu vị tha đối với anh chị em.
Qua ba hình ảnh người cha, người em đi hoang, người anh cả ở nhà trong dụ ngôn trên đây, chúng ta thấy rõ bài học mà Chúa Giêsu muốn nếu lên đó là hãy tin vào lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa Cha, hãy ăn năn sám hối mà trở về với Ngài, hãy chìa tay nâng đỡ anh chị em sa ngã đứng lên.
Lạy Chúa là Cha tuyệt vời của chúng con, xin cho chúng con biết thực hành ba điều giáo huấn mà Chúa Giêsu đã dạy chúng con trong dụ ngôn hôm nay.
Suy Niệm 5: Trả lời cho anh cả
Đức Giê-su nói: “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tai sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. (Lc. 15, 11-13)
Trong dụ ngôn này, chính anh cả là quan trọng nhất, vì chính anh đặt ra những thắc mắc phải được giải đáp.
Người cha vui như điên khi thấy đứa con lầm lạc trở về. Thiên Chúa quan tâm săn đón thương xót kẻ tội lỗi biết bao, để tỏ cho người ta thấy một chút về trái tim thương yêu của Thiên Chúa, để người ta có một chút về hình ảnh công chính của Thiên Chúa. Nhưng bao nhiêu đứa con có vẻ trung thành, lại tỏ ra ngang ngược với cha như đứa con cả, đó là một mầu nhiệm.
Chính ra chúng phải nói tốt và làm tốt như người cha, ông không bao giờ được lợi lộc gì ở đứa ăn bám, nhưng ông vẫn đối xử đẹp với nó, dầu suốt đời ông đã chịu khổ nhọc vì nó. Có lẽ chúng ta vừa mới trách người anh cả khá tệ vì chúng ta cũng nuôi dưỡng cùng một thái độ như anh ta. Vậy nên trách mình trước rồi trách người sau “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Đức Giê-su cũng nói: “Hãy lấy cái xà khỏi mắt anh trước, rồi sẽ lấy cái rác ra khỏi mắt người”.
Trung tín luôn luôn là giá trị tốt nhất của người Ki-tô. Những bản văn Tin mừng đều đề cập đến chủ đề này rất dồi dào: “Hãy đến, tôi tớ tốt lành và trung tín, anh đã trung tín trong việc nhỏ, Ta sẽ trao phó cho anh việc lớn”. “Phúc thay tôi tớ tỉnh thức cho tới lúc chủ về …”
Nhưng đức tin đòi kẻ trung tín không được lộng quyền qua mặt lòng thương xót của Thiên Chúa. Lòng trung tín chân chính biết sống nhân hậu, nó không ghen tương, không tìm cái không thuộc quyền nó, nó không tính toán công lao. Ai dám có quyền trên Thiên Chúa?
Lời đáp của cha rất đẹp: “Con ơi, tất cả của cha là của con”. Thực ra ta phải nói ngược lại và rất hợp lý rằng: “Tất cả của con, con đã nhận được, kể cả lòng trung tín đều là của cha”. Không ai trung tín nếu Thiên Chúa không đoái thương.
Đức trung tín và đức tin đều là ơn huệ của Thiên Chúa ban và vô phúc cho kẻ lạm dụng chiếm lấy như một quyền lợi. Người con cả đã lầm tưởng mình trung tín với cha nên chẳng còn chân thành nghe lời cha nữa, anh tưởng anh phục vụ cha khi ở với cha, nhưng chính cha đã ban cho anh tất cả.
J.G.
Suy Niệm 6: Trở nên giống Thiên Chúa trong tình thương
Có một người mẹ đã suốt một đời hy sinh cho con cái. Tuy nhiên, ngay cả đến lúc già nua tóc bạc, bà vẫn không nhận được một nghĩa cử đền ơn báo nghĩa nào của người con. Nhưng mang trong mình tâm tư của người mẹ, với một tình mẫu tử, bà vẫn hết mực thương con.
Câu chuyện trên đây phản chiếu một phần nào hình ảnh của người cha nhân hậu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Ông đã quá vất vả vì con cái! Tuy nhiên, thay vì tuổi già, ông được con cái phụng dưỡng, đằng này, nó lại đòi chia gia tài để rồi đi ăn chơi trác táng với phường tội lỗi gian dâm. Hết tiền, hết bạc, bị người ta coi thường, khinh miệt trong thân phận nô lệ và bụng đói thì mò về với Cha của mình!
Tuy nhiên, thay vì xua đuổi, ông lại tỏ ra nhân hậu khi đứa con tội lỗi trở về. Vì thế, người cha này đã tìm mọi cách để phục hồi nhân phẩm và phục quyền cho đứa con lêu lổng một thời đi hoang, và cuối cùng là mở tiệc ăn mừng...
Thế nhưng, hành động của ông nhân từ bao nhiêu, thì hình ảnh, lời nói và thái độ của người con cả lại ngược lại với ông bấy nhiêu.
Người con cả trong bài Tin Mừng hôm nay đã không chấp nhận tha thứ cho người em của anh. Anh ta trách móc cha mình rồi tỵ nạnh với em mình khi kể lể công trạng của anh ta với cha của anh.
Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta vẫn thấy hình ảnh phóng đãng ăn chơi của người con thứ, hay thái độ ích kỷ, kiêu ngạo như người con cả ngay trong con người của chúng ta, mỗi lần chúng ta đi xa hay không chịu hiểu về tình thương của Thiên Chúa và lời mời gọi của Ngài.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, đứng dạy và trở về để được ơn tha thứ của Thiên Chúa. Đừng sợ tình thương của Thiên Chúa, vì tội lỗi của chúng ta có đỏ như son thì Chúa cũng làm cho trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều, Chúa cũng làm cho trắng như bông. Thiên Chúa luôn chờ đợi chúng ta từng ngày, từng giờ như người cha trong bài Tin Mừng hôm nay để tha thứ, tẩy rửa tội lỗi cho chúng ta.
Mặt khác, Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta đừng vì ích kỷ mà ngăn cản tình thương của Chúa xuống trên anh chị em mình như người con cả trong bài Tin Mừng vừa nghe.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết quay trở về với Chúa trong Mùa Chay này như người con thứ, biết từ bỏ thói kiêu ngạo, tự phụ như người con cả, và biết mặc lấy tâm tình từ bi, nhân hậu nơi người Cha trong dụ ngôn hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Vui mừng đón nhận con cái trở về
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Niềm vui trở về không phải chỉ là của kẻ quyết tâm sám hối ăn năn, nhưng đó là niềm vui chung của mọi người, niềm vui của cả Thiên Đàng. Chúa Cha vui mừng đón nhận con cái trở về.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, người con hoang đàng trên đường trở về nhà cha trĩu nặng ưu tư lo lắng. Tâm hồn anh xao xuyến nhưng vẫn dũng cảm đến gặp cha mình. Nhưng tất cả ưu tư xao xuyến kia đã bị xóa sạch vì cha yêu thương hơn anh tưởng. Tình thương luôn mang lại nhiều bất ngờ.
Lạy Chúa, cũng như người con thứ kia, có lúc con đã tự tạo cho mình những ngày vui tươi, hạnh phúc theo cách nghĩ riêng con. Nhưng cuối cùng, con cảm nhận những niềm vui và hạnh phúc đó thật là bèo bọt, phũ phàng! Vì thế, hôm nay con muốn dứt khoát, quyết tâm trở về nhà Cha.
Lạy Chúa, đường trở về nhà Cha tràn đầy niềm vui vì là con đường duy nhất có thể cứu sống. Con biết điều đó. Nhưng vẫn còn nhiều trở ngại ngăn cản con. Cũng như người con thứ, con tưởng mình không được đón tiếp mà chỉ mong được cư xử như người làm thuê. Nhưng không! Chúa đón nhận con hơn cả người cha trong dụ ngôn. Hôm nay, không phải người giúp việc mặc áo mới cho con, xỏ nhẫn, xỏ giày cho con. Nhưng chính Chúa làm cho con điều ấy. Tình thương Chúa luôn chờ đợi con trở về và đổi mới cuộc đời con. Niềm vui của con trước hết bắt đầu từ nơi Chúa. Và đó là niềm vui chung của cả gia đình, của cả Nước Trời. Xin cho con biết tin vào tình yêu Chúa và xin nâng đỡ lòng quyết tâm của con.
Lạy Chúa, khởi điểm của lòng sám hối là nhận biết mình yếu đuối tội lỗi. Xin Chúa soi sáng để con nhận ra con người thật của mình với bao lầm lỗi khuyết điểm, và giúp con can đảm đứng dậy trở về với Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Em con đã chết nay sống lại”.
Suy Niệm 8: Dụ ngôn người cha nhân hậu
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Danh họa Rembrandt, người Hà Lan, vào thế kỷ thứ XVII là một thanh niên kiêu hãnh, tự hào về tài năng. Anh làm ra nhiều tiền, nhưng cũng phung phí nhiều và cuối cùng mất hết tất cả.
Tiếp theo giai đoạn thành công và giàu có ngắn ngủi ấy là một chuỗi những thất bại, tai họa và phiền muộn: Năm 1635, người con trai của ông tên là Prubertus qua đời; ba năm sau đến lượt người con gái đầu tiên của ông là Cornelia cũng ra đi, hai năm sau đó, chính người vợ của ông cũng từ giã cõi đời. Ông phải sống cảnh gà trống nuôi con với một đứa con trai là Titô vừa mới được chín tháng tuổi. Sau khi vợ chết, ông toàn gặp khổ đau và thử thách, cuộc tình bất hạnh với bà vú nuôi của Titô đã để lại cho ông thêm hai đứa con khác. Trong những năm sau đó, mặc dù các nhà sưu tầm và giới phê bình nghệ thuật nhìn nhận tài năng của ông, nhưng tiếng tăm của ông đã bắt đầu đi xuống. Ông đã nhìn lại bản thân và cuộc đời để rồi ký thác cái nhìn về cuộc sống đầy sóng gió của mình trong bức tranh nổi tiếng “Người con hoang đàng”.
Suy Niệm
Dụ ngôn người con hoang đàng, hay còn gọi là dụ ngôn ba cha con vì ba nhân vật trong dụ ngôn: Cha, con cả và con thứ hoang đàng hoặc gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu làm nổi bật trái tim của người cha: Một trái tim nhân hậu, bao dung tha thứ và tràn đầy yêu thương. Đức Giêsu qua hình ảnh người cha, Ngài mạc khải Thiên Chúa - một người Cha luôn bao dung như lời tuyên bố của ngôn sứ Hôsê: “Chúa vẫn trung thành tiếp tục thương yêu người bất trung” (Hs 14,5). Người con thứ bất trung, bất hiếu lấy tài sản ra đi hoang đàng ăn chơi, bỏ cha già ở nhà, nhưng cha vẫn mong mỏi đứa con trở về.
Người em lạm dụng tình thương, tự cắt bỏ cung lòng yêu thương của cha, của gia đình ra đi hoang đàng sống theo ý mình. Khi rơi xuống tận đáy cặn bã của cuộc đời, trong sự hoang tàn không sức sống và nghèo đói, nghèo hơn cả thân nô lệ, anh trở về xin lỗi mong được nương nhờ nơi nhà cha trong thân phận người làm công, nhưng hơn cả mong đợi, từ sự sám hối, anh được sống trong cảm nghiệm lòng thương của cha.
Người con cả hờn dỗi trách cha vì đón tiếp em về trong niềm vui vô bờ với tiệc mừng và sự đối xử bao dung của cha dành cho đứa em hoang đàng. Anh tự hào về phẩm hạnh của mình, anh sống bên cha trong ân tình của cha mà vẫn không khám phá và cảm nghiệm tình yêu. Vì thế, dù sống bên cha mà sống như người nô lệ không ý thức địa vị là con. Như nhận định của thánh Ambrôisiô: Anh là “biểu tượng của những tâm hồn khi tin vào sự trung thành, yêu và dành hết với những sự việc bên ngoài nhưng xa lạ tinh thần của Thiên Chúa”. Cho nên, dù tất cả là của anh nhưng anh không cảm nghiệm được mình đang có. Thánh Gioan Kim Khẩu suy diễn lời của cha nói với anh “tất cả của cha là của con” bằng lời diễn giải: “Bầu trời là của con, đất đai là của con... Giáo hội, bàn thờ, của lễ hiến dâng, thiên thần, tông đồ, tử đạo, hiện tại, tương lai, sự phục sinh, vĩnh cửu, tất cả là của con. Cha đã không hề lấy cẩm bào của con mà mặc cho em. Cha cũng không lấy gì của con để cho em. Nhưng khi chúng ta nhìn thấy một người chết sống lại, niềm vui thật vô bờ, và người này chính là con cha”. Với người anh cả, đứa em hoang đàng - con của cha, cũng là em của anh, nhưng anh chẳng tình nghĩa gì với cậu em trai, đã không biết chia sẻ niềm vui của cha… anh dù bên cha, nhưng vẫn nhạt nhòa không có tình yêu trong tim.
Một người cắt nguồn tình yêu cha, ra đi sống hoang đàng, nay quay về. Một người sống bên cha, nhưng tinh thần lại xa cách. Anh cả cũng cần mang tinh thần quay về khám phá lại tình yêu sống bên cha... Cả hai mang hình ảnh của mỗi người chúng ta ngày hôm nay hoang tàng đời mình, hay sống thánh thiện phẩm hạnh nhưng lại khô héo tình yêu trong tâm hồn.
Cả hai người con cả và thứ đều cần trở về trong tâm tình sám hối. Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui, sự sống. Trở về trọn vẹn để được sống lại trong cung lòng thương xót của Chúa như người con thứ. Trở về để khám phá và sống trọn vẹn tình yêu cha, như người anh cả cần khám phá.
Ý lực sống:
“Sự hối cải là một lời cầu nguyện, những người ăn năn sám hối sẽ thấy lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ những thực tại tuyệt vời” (Thánh Gioan Kim Khẩu).
Suy Niệm 9: Dụ ngôn đứa con hoang đàng
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Để nói về tình yêu tha thứ của Thiên Chúa đối với người tội lỗi, thánh Luca đưa ra cho chúng ta 3 dụ ngôn: con chiên bị thất lạc, đồng tiền của bà góa bị mất và nhất là đứa con hoang đàng. Hôm nay thánh Luca dưa ra dụ ngôn đứa con hoàng đàng để nói về tình yêu tha thứ của Thiên Chúa đối với người tội lỗi biết ăn năn sám hối. Thực ra, dụ ngôn hôm nay không nhằm đứa con hoang đàng, nhưng Lời Chúa nhấn mạnh đến lòng nhân từ thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với người tội lỗi.
2. Người con hoang đàng này là người con thứ và cũng là con út trong gia đình khá giả, nên cậu được nhiều ưu đãi, cưng chiều. Vì được ưu đãi nuông chiều nên dễ hư hỏng, đúng với câu phương ngôn của Pháp: “Con cưng là con hư”. Vì muốn sống tự do, thoải mái, cậu đòi người cha chia gia tài, và người cha đã chia gia tài cho cậu. Số gia tài được đổi thành tiền để dễ dàng ra đi. Vừa trẻ, lại có tiền, lại được tự do không bị ai ràng buộc... nên chỉ có một con đường nhào tới là hư hỏng.
Thực vậy, cậu đi phung phí tiền bạc, chơi bời trác táng. Thế là tiền mất tật mang. Địa vị của cậu suy sụp quá mau lẹ, rơi vào tình trạng khốn đốn phải đi chăn heo cho người ta để sống qua ngày. Nhưng rất may, câu chuyện không chấm dứt ở đây. Giữa cảnh túng đói cùng cực, chàng trai trẻ đã biết nghĩ lại và quyết tâm trở về với gia đình. Cậu can đảm trở về cũng như cậu đã can đảm ra đi, cậu quay gót 180 độ để về cùng cha.
3. Một trong những cách đánh động lương tâm nhân loại mà Đức Giêsu mang đến, đó là lòng thương xót của Thiên Chúa, được diễn tả qua nhiều câu nói, qua nhiều dụ ngôn, như dụ ngôn được đề tựa: ”Người con hoang đàng” được Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay. Đúng hơn, dụ ngôn đó phải được đề tựa là: “Người cha nhân hậu”, bởi vì nhân vật chính trong câu chuyện là người cha với lòng thương xót vô bờ bến của ông. Người cha ở đây chính là Thiên Chúa. Thánh Luca đã nêu bật khuôn mặt của một người cha nhân từ, thương xót và xem niềm vui tha thứ là niềm vui to lớn nhất đối với ông.
Thiên Chúa nhân từ thương xót chúng ta như thế đó nhưng phần đông chúng ta lại ăn ở bội bạc với Thiên Chúa. Vậy cả hai ngươi con đều phải quay trở về với cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha: nhân hậu, bao dung, tha thứ và tròn đầy yêu thương.
4. Trong dụ ngôn đứa con hoang đàng ra đi, người cha không dùng sức mạnh của uy quyền để giữ lại. Ông đã tôn trọng sự tự do, đó là mầu nhiệm lớn lao. Đối với Thiên Chúa, Ngài có thể ngăn cản tội lỗi và sự dữ, nhưng làm như thế, Ngài sẽ tước mất sự tự do của con người. Không có tự do, con người không thể yêu mến Thiên Chúa như Ngài mong muốn. Mặt khác, con người sẽ không tìm thấy trong cuộc sống, một tình yêu trọn vẹn dẫu là có trách nhiệm.
5. Đó là ý nghĩa dụ ngôn. Chúng ta có thể rút ra được nhiều điều hữu ích cho cuộc sống. Hôm nay chúng ta chỉ cần ghi nhớ một điều thôi: Những người Do thái xưa kia đã nhạo báng, xỉ nhục, đánh đòn và đóng đinh Chúa Giêsu. Chúng ta ngày nay có xử với Chúa như vậy không? Chúng ta đừng tưởng rằng chúng ta không đối xử với Chúa như vậy. Thưa rằng: Có đấy, và rất nhiều lần, mỗi khi chúng ta phạm tội nhẹ là một lần chúng ta nhạo báng, xỉ nhục Chúa, và nhất là khi phạm tội trọng là chúng ta đã đánh đòn và đóng đinh Chúa mà giết Chúa ngay bên lòng chúng ta. Chúng ta hãy xin lỗi Chúa và quyết tâm sống đẹp hơn.
6. Truyện: Chúa quên hết rồi.
Một bà già thường đến gõ cửa phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo: “Lần sau, nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài “Cha xứ con có tội gì nặng nhất?“, sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
- Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.
- Thế bà có hỏi Ngài không?
Cha xứ bắt đầu hồi hộp:
- Bà hỏi thế nào?
- Thì con hỏi y như cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất”?
Cha xứ càng hồi hộp thêm:
- Vậy Chúa có trả lời không?
- Có chứ.
Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:
- Chúa nói sao?
- Chúa nói: “Ta đã quên hết rồi”
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm (Kể theo ĐHY Nguyễn Văn Thuận).
Suy Niệm 10: Lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lòng nhân từ thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với người tội lỗi:
1. Bài đọc 1 có câu: “Chúa không khư khư giữ mãi cơn thịnh nộ của mình, vì Chúa ưa thích lòng từ bi. Chúa còn thương xót chúng tôi, còn dày đạp những bất công của chúng tôi dưới chân Chúa, và ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển”.
2. Hình ảnh người Cha trong bài Tin Mừng minh hoạ rất sống động tấm lòng nhân từ bao la đến độ không thể ngờ của Thiên Chúa.
3. Bởi đó, câu xướng trước bài Tin Mừng mời gọi người tội lỗi hãy an tâm quay về với tình thương tha thứ của Chúa, vì “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Nhà truyền giáo T.R. Stevenson ở Thượng hải kể: một thương gia giầu có ở Quảng đông có hai con trai, người con lớn thường kết bè tụ đảng với bọn bất lương phá phách làng xóm. Một lần, quá túng, hắn dẫn cả một băng về cướp ngay tại nhà mình. Khi tội hắn bị lộ, người cha cho người đến nói với hắn: nếu biết đường cải tà qui chánh thì sẽ được tha. Người nhắn còn bảo đây là lần gia ân cuối cùng của ông chủ. Hắn chầm chậm đứng lên và quay về nhà cha. Một bữa tiệc đón tiếp xem ra cũng vui vẻ, nhưng trong dĩa thức ăn của hắn có bỏ thuốc độc. Hắn chết ngay đêm đó, nhưng người cha không bị ra toà vì theo luật Trung hoa, cha có quyền giết con. Từ câu chuyện này, các nhà truyền giáo thường đem đối chiếu với đoạn 15 Tin Mừng thánh Luca.
2. Dụ ngôn này giống như một bộ tranh gồm 3 bức. Bức nào cũng đáng ta chiêm ngưỡng:
- Hãy nhìn bức tranh người cha, và chiêm ngưỡng tấm lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa.
- Hãy nhìn bức tranh đứa em, để suy nghĩ về con đường hư đốn của kẻ tội lỗi và con đường trở về của kẻ sám hối.
- Hãy nhìn bức tranh người anh, để thấy cõi lòng “người công chính” có thể trở nên hẹp hòi như thế nào.
3. Một bà già thường đến gõ cửa phòng Cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo: “Lần sau, nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất?’, sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
- Thưa Cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.
- Thế bà có hỏi Ngài không?
- Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp:
- Bà hỏi thế nào?
- Thì con hỏi y như Cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất?”
Cha xứ càng hồi hộp thêm:
- Vậy Chúa có trả lời không?
- Có chứ.
Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:
- Chúa nói sao?
- Chúa nói: “Ta đã quên hết rồi”
Cha xứ thở phào nhẹ nhỏm (Kể theo Đức Cha Px NVT)
Suy Niệm 11: Sống như Chúa đầy yêu thương và nhân từ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lòng nhân từ thương xót vô biên của Thiên Chúa.
Hình ảnh người Cha trong bài Tin Mừng minh họa rất sống động tấm lòng nhân từ bao la đó.
1. Hãy nhìn bức tranh đứa em, để suy nghĩ về con đường hư đốn của kẻ tội lỗi và con đường trở về của kẻ sám hối.
Trong một tuyển tập ngụ ngôn, tác giả người Ý, ông Yacob Basavalti có kể câu chuyện như sau: Một tên cướp nọ muốn trút bỏ gánh nặng tội lỗi đang đè nặng trên lương tâm, nên đã tìm đến với một linh mục. Nhưng vừa nghe xong những lời thẳng thắn của linh mục, anh ta liền nổi giận, tuốt gươm chém chết vị linh mục. Một thời gian sau, cảm thấy hối hận, anh ta lại tìm đến một vị linh mục khác, lần này vị linh mục cho biết để được ơn tha thứ của Chúa, anh phải đến Tòa Thánh. Cũng thấy bị xúc phạm, anh ta liền tuốt gươm kết thúc cuộc đời vị linh mục thứ hai.
Vị linh mục thứ ba mà tên cướp tìm đến xưng tội sẵn sàng ban phép giải tội cho anh, nhưng về việc đền tội, ngài yêu cầu anh hãy đi chôn cất tất cả những người chết mà anh gặp, đồng thời hãy khóc lóc như thể họ chính là người thân của anh. Vị linh mục trao cho anh một cái chai nhỏ để hứng nước mắt. Tên cướp ra về và nghe bất cứ nơi nào có đám tang, anh cũng tìm đến, nhưng mắt anh vẫn luôn khô ráo, anh không thể nhỏ được một giọt nước mắt nào. Cho đến một hôm tình cờ anh được đối diện với Chúa Giêsu đang khóc trên một cây Thập Giá, anh nhìn lên và than thở với Chúa về nỗi khổ đau không hề biết khóc là gì. Chính lúc đó, tự nhiên nước mắt anh trào ra. Anh lấy chai đã nhận được từ tay vị linh mục trao cho để hứng lấy và từ lúc đó anh đã hiểu được thế nào là sám hối. Sau đó anh đã tìm vào sa mạc để sống những ngày còn lại.
2. Hãy nhìn bức tranh người anh, để thấy cõi lòng “người công chính” có thể trở nên hẹp hòi như thế nào.
Nhà tu đức học nổi tiếng người Ấn Độ là cha Anthony de Mello có kể câu chuyện ngụ ngôn:
Một ngày nọ, Thiên Chúa đi vào Thiên Đàng, và ngài ngạc nhiên khi khám phá ra tất cả mọi người đều được vào đó cả. Thế là ngài dừng lại suy nghĩ: “Phải chăng ta không phải là Đấng công bình vô cùng”.
Ngài liền cho gọi sứ thần Gabriel:
- Ngươi hãy tập trung mọi người lại trước mặt Ta và đọc cho họ nghe 10 giới răn của Ta.
Tất cả mọi người đều đến trình diện trước tòa Chúa. Sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ nhất, và Chúa phán:
- Tất cả những ai đã phạm giới răn thứ nhất hãy xéo khỏi mặt Ta, và đi vào hỏa ngục.
Một số người từ từ ra khỏi đám đông, buồn bã đi vào hỏa ngục.
Sứ thần tiếp tục đọc các giới răn khác, và cứ sau mỗi giới răn thì có một số người lặng lẽ đi vào hỏa ngục như trên.
Sau khi sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ 6, thì cả đám đông đều tự động đi vào hỏa ngục, chỉ còn lại vị ẩn sĩ già, đầu hói, “béo mập”.
Thiên Chúa đưa mắt nhìn sứ thần rồi hỏi:
- Phải chăng chỉ có người này được vào Thiên Đàng thôi sao? Nếu vậy thì hắn phải cô độc lẻ loi lắm.
Nói xong, Thiên Chúa truyền lệnh cho sứ thần gọi đám đông lại và cho họ được trở lại Thiên Đàng. Nhìn thấy đám người tội lỗi xấu xa bỗng nhiên có được sự tha thứ, vị ẩn sĩ già bèn nổi giận và hằn học nói:
- Chúa không phải là Đấng công bình. Tại sao Chúa không cho con biết trước điều đó.
Đây quả là hình ảnh của người anh trong dụ ngôn: Rất hẹp hòi với anh em mình.
3. Hãy nhìn bức tranh người cha, và chiêm ngưỡng tấm lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa. Đây là câu chuyện Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận rất thích kể:
Một bà già thường đến gõ cửa phòng cha xứ, kể cho ngài nghe việc Chúa hiện ra với bà mỗi đêm. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, cha xứ bảo:
- Lần sau, nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài xem ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất, sau đó tới kể cho cha nghe”.
Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm tưởng là bà đã trúng kế của ngài.
Nhưng rồi một tuần sau, bà già lại trở lại.
- Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.
- Thế bà có hỏi Ngài không?
- Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp:
- Bà hỏi thế nào?
- Thì con hỏi y như Cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất?”
Cha xứ càng hồi hộp thêm:
- Vậy Chúa có trả lời không?
- Có chứ.
Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:
- Chúa nói sao?
- Chúa nói: “Ta đã quên hết rồi”
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm.
Lạy Chúa,
xin cho mỗi người chúng con biết sống đầy lòng yêu thương và nhân từ như Chúa. Amen.