Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
17/01 Môn đệ đầu tiên
- Viết bởi Ga 1, 35-42
Môn đệ đầu tiên.
Chúa Nhật 2 Mùa Thường Niên năm B.
"Họ xem chỗ Người ở, và ở lại với Người".
Lời Chúa: Ga 1, 35-42
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: "Ðây là Chiên Thiên Chúa". Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo Mình, thì nói với họ: "Các ngươi tìm gì?" Họ thưa với Người: "Rabbi, nghĩa là: thưa Thầy, Thầy ở đâu?"
Người đáp: "Hãy đến mà xem". Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười.
Anrê, em ông Simon Phêrô, (là) một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu. Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: "Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô". Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: "Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Ðá".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: 1Sm 3,3b-10.19; 1Cr 6,13c-15a.17-20; Ga 1,35-42
1. Thầy ở đâu - Hãy đến mà xem
Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng này đã được Đức Thánh Cha
dùng làm bài suy niệm cho ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XII.
Để gặp được Đức Giêsu, cần có người giới thiệu.
Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình.
Ông Anrê cũng đã giới thiệu Đức Giêsu cho em là Simon,
và dẫn ông này đến gặp Ngài.
Chẳng ai thực sự gặp được Đức Giêsu
mà lại không mong giới thiệu Ngài cho người khác.
Đức Giêsu là kho tàng cứ mãi lớn lên khi được san sẻ.
Hạnh phúc của Gioan Tẩy giả và Anrê
là thấy Đức Giêsu và người mình giới thiệu gặp nhau.
Họ chấp nhận tự xóa mình.
Gioan chấp nhận chia tay với hai môn đệ yêu dấu.
Anrê sau này chẳng được nổi tiếng bằng Simon.
Theo lời giới thiệu của Gioan, hai ông đi theo Đức Giêsu.
Chẳng rõ họ đã đi theo bao lâu và bao xa.
Họ rụt rè không biết bắt đầu câu chuyện thế nào.
Đức Giêsu thấy sự lúng túng dễ thương của họ.
Chính Ngài đi bước trước, mở đầu cuộc đối thoại.
Các anh tìm gì thế?
Câu hỏi này bắt họ phải trở lại với lòng mình,
phải ý thức về nỗi khát khao đang chi phối mình.
Tôi đang tìm gì? Tiền bạc, tiếng tăm, thỏa mãn?
Hay tôi đang tìm một Ai đó cho đời tôi một hướng đi?
Đức Giêsu gợi chuyện để họ bày tỏ khát vọng của mình.
Thưa Thầy, Thầy ở đâu?
Câu hỏi này tương đương với một câu trả lời.
Chúng con muốn biết nhà của Thầy,
muốn đến thăm Thầy.
Đến nhà một người là đi vào thế giới của người đó.
Hai ông không chỉ muốn biết Đức Giêsu qua lời Gioan.
Họ muốn đích thân gặp gỡ Ngài.
Chuyện này không ai làm thay được.
Hãy đến mà xem.
Đức Giêsu không giấu hai ông về thế giới của Ngài.
Lời mời này vẫn vang vọng đến tai chúng ta.
Đừng sợ đi theo Đức Giêsu để đến nhà Ngài.
Đừng sợ trao đổi với Ngài như một người bạn.
Nơi nào có những người nghèo khổ, bị bỏ rơi,
những người cô đơn, bị khinh miệt hay phản bội,
những người khác văn hóa và tôn giáo,
nơi đó là nhà của Đức Giêsu.
Họ đã đến xem và đã ở lại.
Hai ông đã nhận lời mời ngay lập tức.
Không có khoảng cách giữa ước muốn và thực hành.
Chúng ta chẳng rõ chi tiết của cuộc hạnh ngộ này,
nhưng chắc chắn đó là một kỷ niệm không quên.
Kinh nghiệm của hai ông cũng là của mọi Kitô hữu.
Chúng ta phải được giới thiệu Đức Giêsu,
phải đích thân gặp Ngài,
và phải trở nên người giới thiệu Ngài cho thế giới.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Các anh tìm gì thế?" Theo ý bạn, người trẻ hôm nay đang làm gì? Đang tìm ai? Nơi bản thân bạn, đâu là mối bận tâm lớn nhất của bạn hiện nay?
Bạn có tin Đức Giêsu có thể đem lại câu trả lời cho những vấn đề sâu xa nhất của bạn không? Bạn có tin Đức Giêsu có thể đem lại bình an cho thế giới hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá, những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay, Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
Không phải vì Chúa giàu có, tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
2. Hành trình ơn gọi – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Các bài sách thánh hôm nay đều nói về ơn gọi. Ơn gọi của Samuel thật lạ lùng. Còn ơn gọi của Anrê và Gioan diễn ra nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên, dù mạnh mẽ lạ lùng hay nhẹ nhàng bình thường, hành trình ơn gọi nào cũng trải qua bốn giai đoạn.
1- Giai đoạn thứ nhất: Chúa kêu gọi.
Việc Chúa kêu gọi không xảy ra tức khắc trong một lần, nhưng diễn tiến tuần tự, chậm rãi với mức độ tăng dần, tuỳ sự đón nhận của người nghe.
Thoạt tiên là một lời kêu gọi nhẹ nhàng qua một thiên hướng, một ước nguyện của người thân, một gương mẫu, một thần tượng. Ở Samuel, đó là ước nguyện của bà mẹ muốn tạ ơn Chúa. Ở Anrê và Gioan, đó là thiên hướng đi tìm lý tưởng.
Sau đó, Chúa có thể dùng các trung gian dẫn ta đến với Chúa. Trong trường hợp Samuel, người trung gian là thày cả Hêli. Còn trong trường hợp Anrê và Gioan, thánh Gioan Baotixita đã làm trung gian đưa hai môn đệ đến với Đức Giêsu.
2- Giai đoạn hai: Ta đáp trả.
Nếu ta trung thành đáp trả mỗi khi nghe tiếng Chúa kêu gọi, Chúa sẽ tiếp tục gọi ta đi vào những đoạn đường mới, mỗi lúc một khó khăn hơn. Tiếng Chúa mời gọi mỗi lúc một mãnh liệt hơn, đòi hỏi ta phải trả lời mỗi lúc một dứt khoát hơn. Cho đến một thời điểm quyết định, Chúa sẽ đưa ra lời mời gọi cuối cùng đòi ta trọn vẹn dấn thân lên đường theo Chúa. Với Samuel, việc Chúa ba lần cất tiếng gọi chứng tỏ Chúa tha thiết muốn tuyển chọn ông. Với Anrê và Gioan, việc Đức Giêsu mời hai ông đến chỗ Ngài ở đã khiến hai ông phải dứt khoát với quá khứ để bắt đầu một giai đoạn mới.
3- Giai đoạn ba: Sống thân mật với Chúa.
Tuyệt đỉnh của ơn gọi không phải là làm việc cho Chúa, nhưng là sống thân mật với Chúa. Chúa không kêu gọi ta theo một chủ thuyết nhưng kêu gọi ta theo Chúa. Ta đến với Chúa không phải để học những bài học lý thuyết nhưng để tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống của Chúa là sự sống thần linh nâng ta lên hưởng nếm sự ngọt ngào của tình Cha - Con thắm thiết. Sự sống của Chúa là tình yêu đưa ta vào hạnh phúc của người biết mình được yêu thương.
Trong tình yêu Thiên Chúa, tâm hồn ta được gột rửa sạch mọi tội lỗi.
Trong tình yêu Thiên Chúa, trái tim ta trở nên dịu dàng, hiền hoà rộng mở để tha thứ và đón nhận mọi người.
Hạnh phúc sống trong tình yêu Thiên Chúa lớn lao đến độ biến đổi toàn bộ cuộc đời ta. Ai đã một lần nếm cảm sẽ không còn mơ ước điều gì khác nữa.
Sau khi được tiếp xúc thân mật với Chúa, trọn cuộc đời Samuel hoàn toàn dâng hiến cho Chúa. Sau một buổi chiều thân mật sống với Đức Giêsu, hai tông đồ Anrê và Gioan gắn bó với Người, cho đến chết vì Người.
4- Giai đoạn bốn: Làm chứng cho tình yêu Chúa.
Cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa rồi, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là ra đi làm chứng về tình yêu đó. Giống như dòng suối sung mãn tràn xuống thành thác, tâm hồn tràn đầy tình yêu sẽ cất lên thành lời ca tụng, giới thiệu tình yêu Thiên Chúa cho mọi người.
Sau khi gặp Đức Giêsu, Anrê vội vã đi tìm em là Phêrô để dẫn đến giới thiệu với Người. Từ đó, Anrê theo Đức Giêsu cho đến cuối đời. Ông đã đem chính mạng sống làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Ông đã đổ máu ra để chứng thực tình yêu ấy. Ông dám khước từ cuộc sống trần gian vì ông đã biết đến hạnh phúc đích thực trong tình yêu Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi đến sống thân mật với Người trong tình Cha-Con thắm thiết.
Lời Chúa vang lên khi ta chịu phép Rửa tội.
Lời Chúa tiếp tục mời gọi ta khi ta lãnh nhận các bí tích, khi ta nghe sách thánh, khi ta học giáo lý, khi ta tĩnh tâm, nghe giảng.
Lời Chúa lúc thì nhẹ nhàng thoang thoảng, khi thì mãnh liệt thiết tha. Nhiều lúc ta tưởng đến nhà thờ vào ngày Chủ nhật là đã đáp lại tiếng Chúa mời gọi, nhưng không phải. Chúa không mời gọi ta chỉ đi lễ như trả nợ. Chúa muốn ta thực sự gặp gỡ Người, tiếp xúc thân mật với Người, sống thân thiết với Người trong tình con thảo.
Hành trình đức tin của người Kitô hữu là một hành trình đi về với Chúa. Sau bao nhiêu năm giữ đạo, tôi đã đi đến đâu? Tôi đã thực sự gặp được Chúa chưa? Tôi đã tiến đến gần Chúa chưa? Hay là tôi mới ở khởi điểm? Hãy đến, Chúa đang mời gọi ta. Chúa đang chờ đợi ta. Chúa đang mở rộng vòng tay, mở rộng trái tim để đón ta đến sống trong tình yêu của Người. Tình yêu ấy là hạnh phúc muôn đời của ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Có khi nào bạn nghe thấy tiếng Chúa mời gọi không?
2- Bạn đã quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi chưa?
3- Có bao giờ bạn cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chưa?
3. Ơn gọi
Chúa nhật hôm nay có thể được coi là Chúa nhật của ơn gọi.
Thực vậy, bài đọc một ghi lại câu chuyện Chúa gọi Samuel một cách đích danh và cậu đã đáp lại tiếng gọi ấy: Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.
Đoạn Tin Mừng ghi lại câu chuyện Chúa Giêsu thâu nhận những môn đệ đầu tiên, được ghi lại trong Phúc âm theo thánh Gioan, thì mọi sự dường như đã bắt đầu từ các môn đệ. Các ông đến với Chúa trong những trường hợp khác nhau. Có người đang là môn đệ của Gioan tiền hô. Có người được anh rủ tới. Có người đến với Chúa sau lời giới thiệu: Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Cũng có người đến vơi Ngài sau lời xác quyết Ngài là Đấng Messia, Đấng Cứu Thế. Tin Mừng còn nói là họ đã đến với Ngài và sau khi đã xem chổ Ngài ở, họ đã ở lại với Ngài.
Chỗ Ngài ở, hiển nhiên không phải là đền đài nguy nga lộng lẫy, bởi vì chính Ngài đã từng tuyên bố: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. Họ đến với Ngài chỉ vì Ngài và chỉ vì được Ngài lôi cuốn. Chúa Giêsu đã lôi cuốn họ và sự lôi cuốn này có sức biến đổi hẳn con người của ho.
Chúa Giêsu không muón thực hiện sứ mạng của Ngài một cách đơn độc và lẻ loi, trái lại Ngài luôn mong muốn sứ mạng ấy phải được thực hiện bởi chính Ngài và được tiếp nối bởi những người đã từng chứng kiến những việc Ngài đã làm. Sứ mạng ấy là rao giảng Tin Mừng cứu độ cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Chúng ta cũng đã đến với Chúa qua Bí tích Rửa tội và Thánh Thể. Chúng ta cũng đã trở thành Kitô hữu bằng nhiều cách khác nhau: qua sự giới thiệu của một người bạn hay của một người thân, sau một biến cố đáng ghi nhớ trong đời hay sau khi đọc xong một cuốn sách. Và thông thường nhất đó là chúng ta được diễm phúc sinh ra trong một gia đình Kitô hữu. Vấn để thiết yếu của mỗi người chúng ta, đó là đi theo Chúa và ở lại với Ngài. Nghĩa là trở thành môn đệ của Ngài, trở thành người được Ngài mời gọi và sai đi, trở thành người loan báo Tin Mừng về tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người.
Sự gắn bó với Chúa cũng như với lời Ngài, sự lắng nghe để nhận ra ý nghĩa chương trình cứu độ của Chúa trong từng sự kiện, trong gừng biến cố của cuộc sống thường ngay phải là thái độ người môn đệ trung tín của Chúa Giêsu cần phải có.
4. Vai trò trung gian - Lm. Anthony Trung Thành
Vai trò người làm trung gian để nối kết con người với Thiên Chúa và Thiên Chúa với con người bao giờ cũng hết sức cần thiết. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy điều đó.
Bài đọc I, kể lại ơn gọi của Samuel: Từ nhỏ, Samuel ở lại trong đền Silô để giúp việc cho Thầy Hêli. Vào một đêm nọ, khi Samuel đang ngủ bên cạnh hòm bia Giao ước thì Thiên Chúa đã gọi Samuel ba lần. Hai lần đầu, cậu tưởng là Thầy Hêli gọi, nên cậu đến trình diện. Nhưng sau đó, Thầy Hêli cho biết là tiếng Chúa gọi, nên lần thứ ba Samuel đã mau mắn đáp trả lại rằng: “Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.”(1Sm 3,9). Thế rồi, Samuel được Chúa chọn thay thế thầy Hêli, làm thủ lãnh dân Do thái.
Bài Tin mừng hôm nay được thánh Gioan tường thuật lại việc các môn đệ đầu tiên gặp gỡ và đi theo Đức Giêsu chính là nhờ vai trò trung gian của Thánh Gioan Tẩy Giả. Tin mừng cho biết: Khi thấy Đức Giêsu đi qua, Thánh Gioan Tẩy Giả nhìn về phía Người và giới thiệu với Anrê và Gioan rằng: “Đây là chiên Thiên Chúa.” (Ga 1,36). Thế rồi, hai môn đệ đã đi theo Đức Giêsu, đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Sau thời gian đó, hai ông đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Khi trở về nhà, Anrê lại làm trung gian giới thiệu Đức Giêsu cho em mình là Simon: “Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô”(Ga 1,41). Sau đó, Anrê dẫn Simon tới gặp Đức Giêsu và được Người đổi tên cho Simon là Kêpha, nghĩa là Đá (x. Ga 1,42).
Như vậy, nhờ thầy Hêli mà Samuel nhận ra tiếng Chúa gọi, nhờ Thánh Gioan Tẩy Giả mà Anrê và Gioan đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu và nhờ Anrê mà Simon tin theo Đức Giêsu và trở thành Kêpha, tức là Đá. Cho nên, Thánh Gioan Tẩy Giả trở thành trung gian nối kết giữa Anrê và Gioan với Đức Giêsu, còn Anrê trở thành trung gian nối kết giữa Phêrô với Đức Giêsu. Và cứ như thế, nhờ trung gian của các Tông đồ, các môn đệ, các kitô hữu đầu tiên và của Giáo hội suốt hai ngàn năm qua mà vô số người ngoại giáo trở thành kitô hữu.
Ngày hôm nay, để cho con người gặp gỡ Thiên Chúa và Thiên Chúa gặp gỡ con người cũng cần có những vai trò trung gian.
Trước hết, vai trò trung gian trong ơn gọi linh mục và tu sĩ. Samuel đã nhờ Thầy Hêli mà gặp được Chúa, trở thành lãnh tụ của dân Do Thái. Để trở thành linh mục, tu sĩ cũng cần có những người làm trung gian. Đó chính là cha mẹ, người thân, bạn bè, thầy cô giáo lý viên, cha xứ, cha đỡ đầu, những người bảo trợ…Chính nhờ gương sáng của các vị này mà nhiều bạn trẻ đã có chí hướng đi tu làm linh mục hay tu sĩ. Sống trong một đất nước nghèo như ở Việt Nam chúng ta thì sự nâng đỡ về vật chất cho các ứng sinh tu sĩ và linh mục tương lai là điều hết sức cần thiết. Vì thế, có thể nói đa số các linh mục tu sĩ trưởng thành như hôm nay có một phần đóng góp không nhỏ của những người trung gian như: cha xứ, cha đỡ đầu, người bảo trợ.
Thứ đến, vai trò trung gian trong việc giúp người tội lỗi trở về với Chúa. Qua dụ ngôn con chiên lạc, người đàn bà đánh mất đồng bạc, chúng ta thấy Đức Giêsu chú trọng đến việc “đi tìm”. Người chủ chăn đi tìm con chiên lạc. Người đàn bà đi tìm đồng bạc đã đánh mất. Chúng ta cũng phải trở thành người trung gian đi tìm “các con chiên lạc” hay “đồng tiền bị đánh mất”. Đó là những người kitô hữu nhưng sống đạo khô khan, sa vào các tệ nạn, phạm tội nặng hay thậm chí họ không còn sống đạo nữa. Họ có thể là cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè của chúng ta. Chúng ta có thể giúp họ trở về với Chúa bằng lời cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng sự khuyên bảo, dẫn dắt họ đến với các linh mục, đến với bí tích Giao hòa. Đó là trách nhiệm tái truyền giáo của chúng ta.
Thứ ba, người kitô hữu làm trung gian để giúp người ngoại giáo trở thành người kitô hữu. Thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho Anrê và Gioan. Anrê đã giới thiệu Đức Giêsu cho Simon. Suốt 2000 năm qua, Giáo hội không ngừng giới thiệu Đức Giêsu cho muôn dân. Thế nhưng con số kitô hữu trên thế giới vẫn còn là thiểu số. Tại Việt Nam, người Công giáo chỉ chiếm khoảng 10%. Vì vậy, vai trò trung gian của người kitô hữu vẫn luôn quan trọng và cấp bách. Chúng ta có thể rao giảng về Chúa cho họ, chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, nhưng hiệu quả hơn cả đó chính là làm gương sáng bằng chính đời sống bác ái yêu thương. Đó chính là trách nhiệm truyền giáo của chúng ta.
Nhưng để chu toàn vai trò trung gian giữa con người với Thiên Chúa và Thiên Chúa với con người thì người làm trung gian cần phải dành nhiều thời gian để: gặp gỡ Chúa, ở lại với Chúa như Anrê và Gioan; lắng nghe tiếng Chúa như Samuel. Chúng ta có thể gặp gỡ Chúa, ở lại với Chúa qua đời sống cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa, qua Giáo huấn của Giáo hội, qua sự khuyên dạy của Bề trên như Cha xứ, cha mẹ hay những người khôn ngoan. Chúng ta cũng có thể lắng nghe tiếng Chúa nhắc bảo qua lương tâm.
Mặt khác, người trung gian cần phải có một đời sống mẫu mực, nghĩa là phải có Chúa trong mình thì mới có thể đem Chúa đến với tha nhân, vì “không ai cho cái mình không có”. Để có Chúa trong mình, cần phải xa tránh tội lỗi. Trong bài đọc II hôm nay, Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu Cônrintô, khi đã chịu Phép Rửa tội là đã trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần nên họ không được phạm tội tà dâm, vì như vậy sẽ làm ô uế thân xác. Ngài nói: “Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.” (1 Cr 18-20). Lời mời gọi các tín hữu Côrintô cũng là lời mời gọi mọi người chúng ta hôm nay. Ngày hôm nay do ảnh hưởng bởi sách báo, phim ảnh, internet nên con người lại càng dễ bị cám dỗ phạm tội dâm dục hơn. Vì thế, để tránh được tội này cần phải thường xuyên cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, đồng thời cần phải xa tránh các dịp tội bằng cách quyết tâm không đọc sách báo xấu, không vào các trang mạng xấu, không xem phim ảnh dâm ô và xa tránh những nơi ảnh hưởng đến đức trong sạch.
Xin cho tất cả mọi người kitô hữu chúng ta biết xa tránh tội lỗi nhất là tội dâm ô, để sống thánh thiện, xứng đáng làm cầu nối cho tha nhân đến với với Chúa. Amen.
5. Gặp gỡ Tin Mừng
Tin Mừng là để được loan báo, và chia sẻ cho người khác.
Thực vậy, trong đêm giáng sinh, các thiên thần đã loan báo cho các mục đồng: Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đavít. Còn đối với các đạo sĩ Phương Đông, con đường dẫn đến Tin Mừng lại là một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời.
Thực vậy, có muôn ngàn cách thế và nẻo đường khác nhau để Thiên Chúa hướng dẫn con người nhận ra Tin Mừng, Lời Chúa hôm nay cũng muốn gợi lên cho chúng ta ý tưởng đó.
Gioan Tiền Hô đã gặp Chúa Giêsu và giới thiệu Ngài cho các môn đệ: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Và các môn đệ đã từ giã Gioan là thầy mình, để đi theo Chúa Giêsu và ở lại với Ngài suốt ngày hôm đó. Rồi đến lượt Andrê đã trở về và dẫn anh mình là Simon đến gặp Chúa Giêsu và đã được Ngài đổi tiên cho ông là Kêpha.
Những cuộc gặp gỡ trong Tin Mừng luôn có những diễn tiến như vậy. Một người nào đó gặp Chúa, họ trở về và loan báo cho người khác. Như các mục đồng chăn chiên, như ba nhà đạo sĩ phương Đông, như Andrê với Simon, như Philipphê với Nathanael...
Hoặc nếu không qua trung gian, thì chính Chúa Giêsu lại gặp gỡ con người trong chính cuộc sống của họ: Người thì đang giặt lưới dưới thuyền, kẻ thì đang trầm tư suy nghĩ dưới gốc cây vả, kẻ khác thì đang ngồi ở bàn thu thuế hay đang ở trên cây cao như ông Giakêu...
Thiên Chúa luôn đến với chúng ta qua một trung gian: Trung gian của một người đã gặp Chúa, trung gian của một cuộc sống hay của một biến cố nào đó. Có thể nói: Bao nhiêu cuộc gặp gỡ và biến cố trong cuộc sống là bấy nhiêu dịp để nhận ra Tin Mừng, là bấy nhiêu dấu chỉ mời gọi để gặp gỡ Chúa.
Thánh Phanxicô Xaviê đã nhận ra con đường Chúa muốn ngài đi qua lời nhắc bảo của thánh Ignatio: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Thi sĩ Paul Claudel đã nhận ra tiếng Chúa trong tiếng hát của lời kinh Magnificat vào buổi chiều ngày lễ Giáng sinh. Văn sĩ Andrê Frossard cảm nhận được sự hiện hữu của Thiên Chúa qua ánh nến lung linh trên bàn thờ. Đức Hồng Y Lustiger vào năm 14 tuổi, đã nhận ra Đấng Cứu Thế trong một buổi chiều thứ sáu Tuần Thánh. Còn chúng ta thì sao?
Chúng ta có nhận ra tiếng Chúa mời gọi qua những biến cố, qua những sự việc của đời thường hay không? Và hơn thế nữa, liệu bản thân và cuộc đời chúng ta có trở nên là một dấu chỉ cho sự hiện diện và tình thương của Chúa hay không?
6. Tôi đã gặp
Là người đạo gốc, chúng ta vốn thường xuyên đọc kinh xem lễ, nhưng rồi một ngày nào đó chúng ta băn khoăn tự hỏi: Liệu chúng ta đã thực sự gặp gở Chúa hay chưa? Vậy thế nào là gặp gỡ Chúa? Kinh Thánh đã kể lại biết bao nhiêu sự gặp gỡ.
Trong Cựu ước, qua bài đọc một, chúng ta thấy Samuel đã gặp gỡ Chúa ngay từ buổi thiếu thời và đã bước theo tiếng gọi của Ngài trong suốt cuộc đời.
Trong Tân ước, trước tiên là các môn đệ. Các ông đã đi theo Chúa, nhất là khi đã cảm nghiệm được mầu nhiệm Phục Sinh, các ông đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng mặc bao gian truân nguy hiểm trên con đường thực hiện sứ vụ.
Tiếp đến là những người phụ nữ. Chẳng hạn như người đàn bà ngoại tình đã được Chúa che chở bình an trước những kẻ cực đoan định ném đá chị. Hay như Madalena, ngay từ buổi gặp gỡ Chúa đã đoạn tuyệt với cuộc đời tội lỗi để sống xứng đáng với ơn tha thứ chị đã nhận lãnh.
Đặc biệt nhất là thánh Phaolô. Kể từ khi bị ngã ngựa trên đường đi Đamas, ông đã bừng tỉnh. Từ một kẻ say sưa bắt bớ các tín hũu, ông đã trở thành một tông đồ nhiệt thành và xác tín: Đức Kitô sống trong tôi… và không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa. Ông đã cảm nhận mình là chi thể của Đức Kitô, là đền thờ của Thiên Chúa, và trong suốt cuộc đời còn lại ông đã trung thành với ơn gọi của mình, là đem Tin Mừng đến cho dân ngoại.
Trong lịch sử Giáo Hội, sự gặp gỡ làm thay đổi cuộc đời đã được thể hiện qua hình ảnh của thánh Augustinô, thánh Ignatiô và nhiều vị thánh khác. Từ một cuộc sống sa ngã trác táng, họ đã trở nên những con người thánh thiện, nhiệt thành với sự nghiệp Nước Chúa.
Một câu nói của Chúa: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi, đã làm chuyển hướng cả cuộc đời của Phanxicô. Một câu trong Phúc âm: Hãy bán tất cả, làm phúc cho kẻ nghèo rồi đến mà theo Ta, đã thay đổi hẳn con người của Antôn.
Và gần đây, Mẹ Têrêxa thành Calcutta, mẹ đã gặp Chúa nơi những người nghèo khổ mà mẹ đã đem cả cuộc đời mình để phục vụ. Cha Lelotte trong cuốn “Những người trở lại trong thế kỷ 20” ghi lại hơn ba mươi khuôn mặt từ giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân và cả những người ngoài Kitô giáo, cha trình bày kinh nghiệm gặp gỡ Chúa một cách độc đáo, riêng biệt của từng người. Và từ ngày ấy cuộc đời của họ đã biến đổi một cách sâu sắc. Nhưng dẫu bởi cách thức nào đi chăng nữa, thì qua lần gặp gỡ đầu tiên ấy, tất cả đều cảm nhận được Chúa một cách rất cụ thể, Ngài thực sự hiện diện mà họ có thể nhìn thấy, có thể trao đổi. Đồng thời cũng họ cảm nhận được tình thương cao cả của Ngài đối với con người qua hình ảnh của Chúa Giêsu, Đấng đã xuống thế, chia sẻ thân phận của con người, chịu mọi khổ nhục và cuối cùng chịu chết trên thập giá để làm chứng cho tình yêu.
Qua sự gặp gỡ yêu thương ấy, con người chỉ có một cách đáp trả duy nhất là thực hiện lời dạy của Ngài: Các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con.
Đó là một ơn huệ lớn lao và cũng là một đòi hỏi triệt để của Chúa đối với con người. Dấu chứng của sự gặp gỡ Chúa là một cuộc sống biến đổi tích cực được thể hiện qua sự an bình và tình yêu thương. Và như thế, chúng ta đã thực sự gặp Chúa hay chưa?
7. Giới thiệu Chúa cho anh em mình
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ của Thiên Phúc)
Nhiều nhóm binh sĩ có vũ trang từ Syrie xâm chiếm đất Israel. Sau khi bắt dân Israel làm tù binh, chúng tàn phá thành phố và làng mạc. Chúng bắt những tù binh này làm việc như những đầy tớ trên đất Syrie. Trong số những người bị bắt, có một bé gái. Người ta không nói tên của cô ta.
Cô trở thành đầy tớ của viên sĩ quan nổi tiếng người Syrie, tên là Naaman. Vua Syrie rất hài lòng về Naaman vì ông là một sĩ quan rất gan dạ. Rủi thay ông vừa mắc bệnh phong.
Một ngày kia, cô tớ gái nói với bà chủ: “Giá mà ông chủ Naamna được gặp tiên tri Elisa, đang sống ở Samaria, thì ngài sẽ chữa cho ông chủ tôi khỏi bệnh”. Nghe vậy, Naaman xin vua Syrie viết thư giới thiệu cho vua Israel. Ông cũng mang theo vải vóc, vàng bạc làm quà tặng.
Khi vua Israel đọc thư, ông rất lo, vì ông nghĩ vua Syrie muốn gây chiến. Nhưng Elisa nghe biết, ông xin nhà vua dể mình chữa bệnh cho Naaman. Elisa không gặp Naaman, nhưng chỉ gởi một lá thư: “Hãy đi tắm trong dòng song Giodan 7 lần và ông sẽ được khỏi”.
Naaman rất tự ái, ông không chịu tắm, nhưng đây tớ khuyên ông cứ làm như lời nhà Tiên tri. Và quả nhiên, Naaman đã được chữa khỏi, da của ông trở nên mịn màng như da đứa trẻ. Naaman dâng cho Elisa quà tặng, nhưng người của Thiên Chúa không nhận, chỉ chúc cho ông “Hãy về bình an”.
Chúng ta đừng bao giờ quên đứa tớ gái nhỏ bé ở đầu câu chuyện, em đã mau mắn giới thiệu tiên tri Elisa cho Naaman. Nếu cô bé giữ im lặng, thì Naaman sẽ không bao giờ được chữa lành.
Hôm nay, Anrê cũng giới thiệu Phêrô em mình cho Đức Giêsu: “chúng tôi đã gặp Đấng Mesia” (Ga 1,41). Rồi dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu.
Dường như mỗi lần Tin Mừng Gioan đề cập đến Anrê thì liền sau đó Anrê lại dẫn một ai đó đến với Đức Giêsu. Anrê đã trở nên nổi tiếng vì ông đã dẫn cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá” giới thiệu với Đức Giêsu. Để rồi, sau khi cầu nguyện tạ ơn, Người đã biến bữa ăn trưa của cậu bé trở nên bữa ăn tập thể nuôi sống hơn năm ngàn người.
Lần thứ ba, chúng ta gặp lại Anrê lúc Đức Giêsu vào Giêrusalem lần cuối. Có mấy người Hy Lạp đến xin gặp Người. Cũng chính Anrê là người đã giới thiệu họ với Đức Giêsu. Và chắc hẳn đó là điều làm Người hài lòng, vì sau đó Người phán: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32).
Nếu Anrê không giới thiệu Phêrô với Đức Giêsu thì có lẽ chẳng bao giờ có tông đồ Pherô đá tảng của Hội thánh.
Nếu Anrê không giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá”, thì có lẽ chẳng có phép lạ đầy ngoạn mục hứng khởi nhất trong Thánh Kinh.
Vậy bài học của Anrê là hãy giới thiệu cho mọi người đến với Đức Giêsu. Đó là con đường rao giảng từ người này đến người kia, từng người một. Đức Giêsu rất cần những người giàu tình bạn chân thành, những bước chân mang dấu vết của thân thiện, những lời nói luôn chứa đầy nhiệt huyết, những chứng nhân ra đi kể câu chuyện: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mesia”.
Lạy Chúa, trên trái đất này, chúng con là đôi tay, là tiếng nói, là trái tim của Chúa. Xin cho chúng con trở nên những người nhiệt thành giới thiệu Đức Giêsu cho thế gian. Amen.
8. Hãy đến mà xem – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Vào khoảng năm 1965 về trước, thời bấy giờ chưa có vô tuyến truyền hình, nên mỗi lần có trận giao đấu bóng đá giữa hai đội mạnh, thính giả toàn quốc chỉ được nghe tường thuật về trận đấu qua làn sóng của đài phát thanh.
Thật khó hình dung nổi diễn tiến trận đấu với những pha đi bóng gay cấn, những cú sút ngoạn mục khi chỉ được nghe bằng tai.
Hiện nay, chuyện theo dõi trận đấu qua đài phát thanh đã thuộc về quá khứ vì ưu thế vượt trội của kỹ thuật truyền hình. Nhờ đủ dạng sóng truyền hình hiện đại bao trùm trái đất, người hâm mộ bóng đá từ phần nửa bên nầy địa cầu có thể chứng kiến, như thể tận mắt, từng chi tiết, từng pha đi bóng của những cầu thủ trong những trận đấu diễn ra ở nửa bên kia trái đất.
Thế là từ khi có truyền hình, không ai mê bóng đá lại theo dõi trận đấu qua đài phát thanh nữa. Từ kỹ thuật truyền thanh chuyển qua truyền hình là cả một bước tiến vượt bậc.
* * *
Tiến trình mặc khải cũng trải qua hai chặng đường như thế.
Khởi đầu, Thiên Chúa không trực tiếp tỏ mình cho loài người nhưng chỉ phán dạy qua các ngôn sứ, - như thể qua xướng ngôn viên trên các đài phát thanh - nên chân dung của Thiên Chúa còn rất mờ mịt đối với loài người.
"Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ" (Dt 1,1a).
Tiến sang giai đoạn hai, Thiên Chúa không còn mặc khải Người bằng lời qua trung gian các ngôn sứ nữa, nhưng đã bày tỏ chính Mình qua Con chí ái là Đức Giêsu Kitô.
"Nhưng vào thời sau hết nầy, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử." (Dt 1,1b)
Thế là từ đây, Lời của Thiên Chúa - tức Ngôi Lời - không còn là tiếng nói từ cõi xa xăm vọng lại, nhưng đã mặc lấy một hình hài, một thân xác để cho mọi người không những được nghe tiếng mà còn có thể nhìn ngắm, đụng chạm, tiếp xúc với Ngôi Lời.
"Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta." (Ga 1,14)
"Người là hình ảnh trung thực của Thiên Chúa" (Dt 1,3)
Thế là chương trình mặc khải của Thiên Chúa đã chuyển sang một khúc quanh mới: giai đoạn mặc khải qua hình ảnh, qua chân dung - như kỹ thuật vô tuyến truyền hình hiện nay - đã khai mở. Nhờ đó, nhân loại không những có thể "nghe", mà còn "thấy tận mắt, được chiêm ngưỡng và được chạm đến Lời" của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô. (thư IGa 1,1)
* * *
Hãy đến mà xem
Trăm nghe không bằng một thấy. Nghe tường thuật về một trận bóng sao bằng tận mắt xem trận đó, ít nữa qua chiếc TV.
Chính vì thế nên khi Anrê và một môn đệ khác của Gioan Tẩy Giả được giới thiệu cho biết Đức Giêsu là chiên Thiên Chúa, hai ông liền tìm gặp Chúa Giêsu để tìm hiểu Người.
Chúa Giêsu quay lại hỏi: "Các anh tìm ai?". Họ thưa Ngài: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?". Chúa Giêsu đáp: "Hãy đến mà xem".
Hai anh em nầy đến với Chúa Giêsu, ở lại với Người, rồi mới sống gắn bó và trở thành môn đệ của Người.
* * *
Chúa Giêsu mời gọi "hãy đến mà xem", nhưng chúng ta có thể nhìn xem Chúa ở đâu?
Trước hết là trong Kinh Thánh. Thánh Giêrônimô dạy: "Không biết kinh thánh là không biết Chúa Giêsu". Từng trang, từng dòng trong kinh thánh đều hoạ lại chân dung Chúa Giêsu và âm vang lên sứ điệp của Người. Biết bao nhiêu người nhờ thường xuyên nhìn ngắm cuộc đời và lắng nghe lời dạy của Chúa Giêsu trong Tân Ước, dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, đã được diễm phúc cảm nghiệm được Chúa là Đấng tuyệt vời khôn tả.
Dostoievski, đại văn hào trứ danh người Nga ở thế kỷ 19, cũng là ngôi sao sáng trong trong làng văn học thế giới, từng viết nhiều tác phẩm đồ sộ có giá trị vượt thời gian và không gian, thường chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong Tin Mừng nên mới cảm nhận được nét đẹp cao quý tuyệt vời của Chúa Giêsu và đã tuyên xưng Người qua bức thư gửi cho bà Von Vizine. Bức thư nầy thường được gọi là kinh tin kính của Dostoievski: "Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Kitô, và hơn thế nữa, nếu ai chứng minh với tôi rằng Đức Giêsu ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Kitô hơn là chiều theo chân lý".
Ước gì chúng ta thường xuyên "đến mà xem" Chúa Giêsu trong kinh thánh, "ở lại với Người" nơi bí tích thánh thể, để rồi say mê Người như Dostoievski và trở thành môn đệ Người như Anrê và người bạn của ông.
9. Hãy đến mà xem – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Đức Giêsu nói với mấy anh thanh niên: “Hãy đến mà xem”. Tôi tự hỏi, lúc đó Chúa Giêsu là người lang thang không nhà, không cửa, “không có hòn đá gối đầu”, thế mà Người lại gọi họ theo Người. Khi họ hỏi: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu”, Chúa nói: “Hãy đến mà xem”. Xem gì? xem hòn đá gối đầu ư? xem một người cùng khổ ư? Thật là bạo phổi, nếu không phải là vớ vẩn!
Nhưng không, không phải đến xem hòn đá, mà là nhìn kỹ một người sống mạnh mẽ. Không phải xem người cùng khổ, nhưng thấy một tấm lòng cao cả, thương yêu những người cùng khổ.
Xưa cũng như nay, người ta chỉ tin những gì xem bằng mắt, bắt bằng tay. Họ đã nói: Trăm nghe không bằng một thấy, đừng nghe những gì nó nói, phải nhìn kỹ việc nó làm. Khổng Tử cũng dậy môn đệ: “Thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an, nhơn yên sưu tai?” – Hãy nhìn kỹ cách họ làm, quan sát do đâu họ làm, cứu xét việc có an lành không? Họ làm có yên vui không? (Luận ngữ II, 10).
Để xác nhận một lý thuyết là chân thực, các nhà khoa học đòi phải được thí nghiệm và kiểm chứng.
Quan sát, suy nghĩ và hành động là phương châm khôn ngoan. Đức Giêsu muốn gọi Gioan và Anrê làm môn đệ, Người muốn họ phải biết sống theo phương châm khôn ngoan ấy, chứ không phải theo Người cách mù quáng.
Sau những lời giới thiệu của vị Tiền Hô, chắc mấy anh thanh niên đó đã thảo luận nhiều về Đức Giêsu: Đấng Chiên Thiên Chúa. Dầu vậy, mấy anh còn phải tiếp xúc trực tiếp với Người. Phải quan sát Người với tất cả trí óc, con tim và ý chí của các anh. Các anh đã thấy Người sống với các anh rất giản dị, chân thành, siêu thoát, hiền hòa khả ái, trong buổi chiều thanh bình êm đềm, thân mật để cho từng lời nói, từng việc làm và nhất là tâm tình của Người như một cuốn phim diễn ra trước khối óc, con tim, chứ không phải chỉ xem bằng mắt, bắt bằng tay của giác quan tầm thường. Lúc đó, Thần khí tình yêu thanh khiết, nồng nàn của Người như men thơm dậy hương đậm đà trong lòng mình. Chân lý cao cả nhiệm mầu của Người như ánh sáng chiếu tỏa rạng ngời trong tâm trí mình. Và sức sống mãnh liệt của Người như máu đào tươi sống dạt dào chảy tràn vào con tim mình. Toàn diện con người các anh đã thấm nhuần tinh thần cao siêu lạ lùng của Người. Mỗi người các anh đã cảm động và vui mừng thốt lên: “Lạy Thầy, con theo ai được! Vì chỉ Thầy mới có lời ban sự sống trường tồn” (Ga. 6, 68).
Các anh đã thành môn đệ nghĩa thiết và chứng nhân trung tín của Đức Giêsu, “vì ngay sáng hôm sau, Anrê đã đi tìm em mình là Simon và nói: Chúng tôi đã gặp Đấng Mesia (tức là Đấng Kitô). Rồi kéo em đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn Simon và nói: Anh là Simon, con ông Giona, anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là Phêrô”.
Đức Giêsu đã kêu tên Simon thân mật như bạn hữu và đã đổi tên tục Simon thành danh hiệu Phêrô nghĩa là Đá tảng.
Như vậy, bài Tin mừng hôm nay trình bày một đường lối trực tiếp gặp gỡ Chúa, cho ta khám phá thấy ơn Chúa gọi ta để ta quyết tâm theo Chúa.
Lời Chúa hôm nay còn cho ta thấy, trước khi được trực tiếp gặp Chúa, ta cũng cần nhiều trung gian hướng dẫn, giới thiệu cho ta đến với Chúa. Vị tiền hô đã giới thiệu cho Gioan và Anrê đến theo Chúa.
Rồi Anrê lại giới thiệu cho Simon được gặp Chúa. Ngôn sứ Samuen đã kể lại kinh nghiệm đó trong bài đọc 1. Khi còn nhỏ, Samuen đã sống với thầy tư tế Hêli trong đền thờ, được thầy huấn luyện và dạy dỗ về Thiên Chúa, Samuen đã trở thành cậu bé rất đạo đức tốt lành. Cậu ngủ trong đền thờ, bên hòm bia Thiên Chúa, được Chúa gọi bốn lần, cậu đều mau mắn thức dậy thưa: Dạ, con đây và lanh lẹ chạy đến thầy Hêli ba lần vì tưởng thầy gọi. Lần thứ bốn Chúa gọi, cậu vẫn không mê ngủ, không cựa quậy, tỉnh dậy ngay, kính cẩn thưa như thầy Hêli dạy: “Lạy Chúa, xin Chúa phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”.
Ước chi những cậu bé của chúng ta được như Samuen, đồng thời chúng ta phải nỗ lực huấn luyện con em mình biết luôn luôn kính cẩn cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Chúa phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”.
Biết lắng nghe lời cha mẹ, lắng nghe lời linh mục, lắng nghe giáo lý, lắng nghe lời Chúa, mới được Chúa đến mời gọi: “Hãy đến mà xem”.
Bài đọc hai, thánh Phaolô đã hướng dẫn tín hữu giáo đoàn Côrintô khám phá và gặp gỡ Chúa trong chính bản thân mình. Nhưng điều thiết yếu là thân xác ta không được dùng để gian dâm, mà chỉ để phụng sự Chúa, lý do là Chúa làm chủ bản thân ta, đã mua chuộc ta bằng giá rất đắt. Chỉ như thế, ta mới khám phá thấy bản thân ta là chi thể của Đức Kitô, là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự, khiến ta được kết hợp với Chúa nên một tinh thần, cho ta xứng đáng tôn vinh Thiên Chúa, và được sống lại với Đức Kitô.
Lạy Chúa, ơn kêu gọi chúng con thật cao cả quý giá vô cùng. Xin cho chúng con biết đến mà xem Chúa trong bản thân chúng con, xem Chúa trong mọi người, xem Chúa trong chính Đấng Mesia, chúng con mới mong khám phá ra ơn Chúa gọi chúng con. Đến gặp gỡ Chúa, sống nghĩa thiết với Chúa, hiệp thông sự sống dồi dào của Chúa và được chia sẻ sứ mạng cứu độ muôn dân của Chúa.
10. "Hãy quên đi cái tôi..." – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có một bài hát sinh hoạt quen thuộc vẫn mời gọi chúng ta: "Hãy quên đi cái tôi để mang Chúa đi vào đời". Xem ra để mang Chúa vào đời phải quên đi cái tôi của riêng mình để sống cho Thiên Chúa. Xem ra để mang Chúa vào đời phải từ bỏ tham vọng của cái tôi ích kỷ để Chúa được lớn lên trong đời sống chứng nhân của chúng ta. Vì ở đời ai cũng thích danh vọng. Ai cũng mong cho mình được nổi tiếng, được trở thành ân nhân của xã hội. Xem ra từ thích danh vọng đến hám danh hám lợi thật gần, gần đến nỗi nhiều người đã trơ trẽn nhận phần vinh quang về mình, cho dù vinh quang đó không do công của mình.
Ngày nay ai cũng sợ bệnh thành tích. Vì nó là nguyên nhân dẫn đến ham danh hão huyền. Vì nó là nguyên nhân dẫn đến biết bao tiêu cực bởi sự gian dối, lường gạt. Những con người ham danh thường là sống giả dối, thiếu chân thật. Những con người ham danh thường tìm vinh quang về mình. Thích được tán thưởng. Thích được biết ơn. Nhưng đôi khi họ chỉ là một loại Lý Thông cướp công Thạch Sanh như trong truyện dân gian Việt Nam.
Có một nhà truyền giáo tâm sự rằng: ngài đã từng truyền giáo tại Đông Timor. Đó là một đất nước nghèo nàn và lạc hậu. Người dân còn thiếu rất nhiều phương tiện tối thiểu của cuộc sống. Ngài đã vận động rất nhiều các cá nhân và tổ chức từ thiện ở mọi nơi để giúp đỡ cho người dân Đông Timor. Nhiều nơi hưởng ứng và nhờ đó ngài đã có rất nhiều tặng phẩm để tặng cho người nghèo. Tự nhiên ngài được người dân kính nể, yêu mến và biết ơn. Thế nhưng, ngài lại mắc cở khi được người đời ca tụng. Vì ngài biết rất rõ, ngài chỉ là kẻ phân phát, là trung gian chứ không phải là chủ nhân. Ngài chẳng có chỉ ngoài đôi tay để đón nhận và trao ban. Ngài không có quyền nhận cái không phải của mình. Vì tiền bạc, của cải là của những nhà hảo tâm trao cho ngài để ngài trao đến cho anh em nghèo khó. Từ đó, ngài đã rút ra kinh nghiệm rằng: cái khó của người làm công tác từ thiện là làm sao đửng nhận mình là người ban phát, đừng tưởng rằng những tặng phẩm đó là của mình cho người nghèo. Hãy khiêm tốn đừng nhận phần đó về mình là những lời khen, những lới tán dương... Hãy biết cho đi cả danh dự của mình, vinh quang của mình. Hãy tự biết mình chỉ là tôi tớ hèn mọn được Chúa sử dụng mang lại niềm vui cho những anh em nghèo khó.
Đó cũng là cung cách của thánh Gioan Baotixita. Ngài luôn sống khiêm tốn trước mặt mọi người. Ngài đã từng không dám nhận phần vinh dự về mình, khi ngài nói: "Có Đấng đến sau tôi. Ngài cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cởi dây giầy cho Người". Ngài đã từng mong ước cho đời sống chứng nhân của ngài luôn "nhỏ bé để Chúa được lớn lên". Ngài chỉ muốn những việc ngài làm sẽ dẫn người khác đến với Chúa. Ngài muốn dùng cuộc đời chứng nhân của mình để tôn vinh Thiên Chúa.
Hôm nay, ngài cũng sẵn sàng để các môn đệ của mình đến với Chúa. Ngài không dám giữ các môn đệ cho riêng mình. Ngài đã giới thiệu cho các môn đệ về danh tính của Đấng Messia. Đây mới chính là Chiên Thiên Chúa. Đây mới xứng đáng là Thầy mà các ngươi cần đi theo. Ngài sẵn lòng để các môn đệ ra đi. Ngài biết phận mình chỉ là kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Tinh nhân trần.
Ước gì ở đời có nhiều tâm hồn quảng đại sẵn lòng dấn thân làm chứng cho tin mừng của Chúa nhưng vẫn luôn khiêm tốn và ẩn mình đi. Dấn thân một cách vô vị lợi. Dấn thân một cách quên mình. Dấn thân để tôn vinh Thiên Chúa, chứ không tôn vinh mình. Dấn thân để làm vinh quang Thiên Chúa, chứ không nhằm rạng danh mình. Dấn thân để mang anh em đến với Chúa, để tạ ơn và chúc tụng Thiên Chúa, chứ không phải đến với mình để tâng bốc tán dương. Ước gì mỗi người chúng ta luôn có lòng quảng đại để cho đi cái riêng của mình để làm giầu có cho Thiên Chúa, như Gioan đã cho các môn đệ đến với Thầy Giêsu, như Anre đã mang em mình là Simon đến với Chúa. Ước gì chúng ta luôn nhỏ bé, khiêm tốn, đừng đề cao mình quá đáng, đừng tìm cách tán dương mình mù quáng. Hãy để những công việc mình làm cho danh Chúa được cả sáng.
Lạy Chúa, ở đời ai cũng thích được tán dương, được khen thưởng, được đề cao giữa mọi người. Người đời thường đua nhau danh vọng. Chính vì vậy mà cuộc đời không thiếu những thị phi, những bất công... Xin cho chúng con luôn khiêm tốn, bé nhỏ để Chúa được lớn lên trong cuộc đời chúng con. Amen.
11. Truyền giáo trong thế giới ảo
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Ngày nay không ai phủ nhận sự tích cực của công nghệ thông tin. Con người ngày nay đang tận dụng rất nhiều về công nghệ để giải quyết công việc hằng ngày. Với thời đại hôm nay chỉ cần ngồi một chỗ là có thể làm được mọi thứ từ làm việc đến mua sắm, học tập, giải trí... Đặc biệt là công nghệ đã giúp con người giải quyết tốt các vấn đề việc làm nhờ sự phát triển đa phương tiện.
Tuy nhiên mặt tiêu cực của công nghệ thông tin cũng đưa con người vào một lối sống mới mà người ta gọi là “sống ảo”. Sống ảo là sống không thực với hiện tại, luôn có những suy nghĩ, ý tưởng dựa vào những gì xa vời mà internet mang lại. Với thế giới ảo này người ta cũng dễ phạm tội từ việc bêu xấu, đả kích nhau, lừa tiền, lừa tình... dẫn đến phạm pháp giết người cướp của tràn lan.
Theo số lượng thống kê mới đây nhất của Facebook thì Việt Nam có khoảng 30 triệu người dùng thường xuyên trên Facebook, và con số này còn tăng trưởng mỗi ngày. Như vậy với dân số hơn 90 triệu dân thì 1/3 dân số Việt Nam biết đến mạng xã hội Facebook.
Dù facebook có mặt tốt mặt xấu nhưng thực tế trong thế giới ảo đó hiện đang có số lượng người tham gia rất nhiều. Là người ky-tô hữu chúng ta có bao giờ nghĩ mình phải là gạch nối cho những con người trong thế giới đó biết Thiên Chúa, hiểu Thiên Chúa và sống gắn bó với Thiên Chúa hay không?
Thiết nghĩ đây là cánh đồng truyền mà Chúa đang nhắc nhở chúng ta nếu không nhanh tay gặt hái thì chim trời sẽ tha đi hết. Nếu người ky-tô hữu chúng ta không tận dụng những công nghệ hiện đại để tiếp cận với cánh đồng truyền giáo mênh mông này thì ma qủy sẽ cướp đi biết bao linh hồn. Ngày xưa các nhà truyền giáo phải lặn lội cả hàng tháng trời để tới những vùng sâu vùng xa mong tiếp cận với những người chưa biết Chúa để nói về Chúa cho họ. Ngày nay chúng ta chỉ cần một nút nhấn có thể gởi một thông điệp về Chúa cho hàng ngàn con người trong một giây. Tại sao chúng ta không tận dụng cơ hội giới thiệu Chúa cho anh em đang khi chúng ta có khả năng để giới thiệu Chúa?
Thánh Gioan Tẩy Giả đã luôn tận dùng mọi thời cơ để giới thiệu Đấng Cứu Thế đến cho mọi người. Gioan đã giới thiệu Chúa cho hàng ngàn người đang đứng bên ông nơi hoang địa hay nơi sông Giordan. Ông tận dụng thời cơ để nói về Chúa cho các môn đệ của mình, cho bà con láng giềng của mình, và cho cả dân tộc của ông.
Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài có thể tự tỏ mình ra cho nhân loại. Ngài không cần sự trợ giúp của con người. Thế nhưng, Ngài đã không tự biểu dương mình. Ngài cần người giới thiệu. Ngài muốn con người là nhịp cầu cho Ngài đến với nhân loại. Nếu con người cảm nghiệm tình yêu ngọt ngào từ Ngài thì hãy giới thiệu tình yêu ấy cho nhiều người khác. Nếu con người cảm thấy tình yêu quan phòng kỳ diệu của Ngài thì hãy tuyên xưng Ngài cho thế trần. Đây là bổn phận của lòng biết ơn. Đây là cách chúng ta tỏ bày lòng biết ơn của mình với Đấng tạo thành khi đã nhận ơn của Ngài.
Ước gì chúng ta biết noi gương bắt chước thánh Gioan luôn nói về Chúa trong mọi hoàn cảnh. Trong hoang địa hay đường phố. Nơi người thân hay người xa lạ. Hãy tận dụng mọi hoàn cảnh Chúa ban để làm chứng nhân cho tình yêu của Chúa. Nhất là trong thời đại công nghệ thông tin khi mà một lượng người rất lớn đang sống ảo thì một sứ điệp về Chúa rất cần được chúng ta loan tải trên trang cá nhân của chúng ta. Một hành vi tưởng chừng như nhỏ nhoi nhưng chúng ta tin rằng Chúa sẽ làm điều kỳ diệu qua những nỗ lực của chúng ta. Một hành vi tưởng như dã tràng xe cát biển đông nhưng với quyền năng Chúa sẽ cứu rỗi được nhiều linh hồn. Điều quan yếu là ta đã biết tận dụng phương tiện truyền thông hiện đại để nói về Chúa cho con người hôm nay. Amen.
12. Nghề mai mối
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Chuyện cưới xin ngày xưa ở Việt Nam thường lệ thuộc vào ông mai bà mối. Ông mai bà mối được xem là một nghề. Khi nhà trai muốn kiếm vợ cho con. Họ cần một bà mai để kiếm vợ cho con. Họ nhờ vả bà mai kiếm cho họ một cô con dâu vừa đẹp vừa ngoan. Có khi gia đình nào có con gái đến tuổi cập kê kiếm chồng không ra, hay gọi nôm na là ế chồng thì cũng nhờ đến bà mai. Sở trường nổi bật của bà mai là phải thật dẻo mồm dẻo miệng, nói dở thành hay, mới hy vọng kết mối tơ duyện cho đôi vợ chồng.
Điều hay nơi các bà mai mối thường đóng vai trò con thoi khiêm nhường. Nhiệm vụ của họ chỉ là giới thiệu hai gia đình quen biết nhau, đốc thúc gặp gỡ để hai họ đi đến việc thăm viếng làm quen rồi đề nghị đám hỏi, đám cưới...
Theo thời gian, với cuộc sống hiện đại, khi các mối quan hệ ngày càng mở rộng, toàn cầu, con người sẽ dễ dàng tìm được bạn đời ưng ý, song thực tế, chuyện mai mối vẫn là điều đang diễn ra hàng ngày, chỉ có điều ở hình thức khác, hiện tượng khác hơn và ông tơ bà mối cũng khác hơn ngày xưa.
Có một người bạn tâm sự: “Hôm vừa rồi, mình vừa giới thiệu cô bạn thân với anh bạn đồng nghiệp. Tưởng chỉ làm bạn, ai dè thành đôi đấy. Cũng khá đẹp đôi với nhau. Mà mình cũng mát tay thật. Đây là đôi thứ 3 đấy. Cứ không ngờ mà lại thành thật. Hai đôi trước cưới nhau rồi. Mà toàn là bạn thân thiết của nhau cả. Cũng thấy vui vui vì đã làm được điều có ích”.
Sự khác biệt của ông tơ bà mối ngày nay không còn là một nghề nữa, nhưng nó lại đa dạng nơi mọi thành phần. Có thể là một người bạn, người anh, người chị, thậm chí là một chiếc điện thoại, máy tính cũng thành bà mối tình duyên.
Tình yêu Thiên Chúa đến với con người cũng cần ông mai bà mối. Thiên Chúa cần một ai đó để giới thiệu về tình yêu Chúa cho con người. Thiên Chúa cần một bà mối nói thật hay, sống thật tốt để giới thiệu Chúa cho anh em của mình. Thiên Chúa cần chúng ta giới thiệu Chúa cho anh em lương dân đang sống bên cạnh mình. Hãy nói về tình yêu của Chúa. Hãy mạnh dạn giới thiệu Chúa đến cho bạn bè, cho đồng nghiệp và cho anh em của mình.
Ngày xưa là thời các nhà truyền giáo làm nghề giới thiệu Chúa, hôm nay không còn các nhà truyền giáo chuyên biệt mà là từng người chúng ta. Mỗi người phải có bổn phận làm ông mai bà mối cho anh em, bè bạn của mình.
Thánh Gioan Tẩy Giả cũng từng là ông mai bà mối cho Đấng Cứu Thế. Gioan đã giới thiệu Chúa cho hàng ngàn người đang đứng bên ông. Ông tận dụng thời cơ để nói về Chúa cho các môn đệ của mình, cho bà con láng giềng của mình, và cho cả dân tộc của ông.
Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài có thể tự tỏ mình ra cho nhân loại. Ngài không cần sự trợ giúp của con người. Thế nhưng, Ngài đã không tự biểu dương mình. Ngài cần người giới thiệu. Ngài muốn con người là nhịp cầu cho Ngài đến với nhân loại. Nếu con người cảm nghiệm tình yêu ngọt ngào từ Ngài thì hãy giới thiệu tình yêu ấy cho nhiều người khác. Nếu con người cảm thấy tình yêu quan phòng kỳ diệu của Ngài thì hãy tuyên xưng Ngài cho thế trần. Đây là bổn phận của lòng biết ơn. Đây là cách chúng ta tỏ bày lòng biết ơn của mình với Đấng tạo thành khi đã nhận ơn của Ngài.
Thế nên, , không phải chỉ Gioan mới được Chúa mời gọi làm người “mai mối” cho Ngài đến với nhân loại. Không phải chỉ Gioan mới có khả năng làm chứng cho Thiên Chúa, mà tất cả những ai mang danh kitô hữu. Qua bí tích rửa tội đều được mời gọi làm chứng cho Chúa. Làm chứng bằng lời nói và bằng cả hành động. Hãy mạnh dạn nói về Chúa. Hãy chia sẻ niềm vui làm con Chúa cho tha nhân. Nhất là hãy sống một đời nhân chứng khi biết nói không với tội lỗi, khi biết vượt lên những bon chen tầm thường để chọn Chúa làm gia nghiệp. Và chắc chắn điều mà chúng ta có thể thuyết phục tha nhân tin theo Chúa là hết mình sống vì Tin mừng qua giới luật yêu thương.
Ước gì chúng ta biết noi gương bắt chước thánh Gioan luôn nói về Chúa trong mọi hoàn cảnh. Trong hoang địa hay đường phố. Nơi người thân hay người xa lạ. Hãy tận dụng mọi hoàn cảnh Chúa ban để làm chứng nhân cho tình yêu của Chúa. Amen.
13. Bước theo Đức Kitô trong cuộc sống hôm nay
(Suy niệm của JB. Nguyễn Quốc Tuấn)
Cuộc sống hôm nay đang đặt ra cho người Kitô hữu rất nhiều chọn lựa: chọn lựa giữa niềm tin vĩnh cửu với sự hấp dẫn kỳ thú của những thành tựu vĩ đại do nền khoa học kỹ thuật tiên tiến mang lại, giữa hành vi buông thả, tự do quá trớn với thái độ đúng mực theo nền tảng luân lý truyền thống, nhất là sự cân nhắc chọn lựa giữa các “thần tượng” trần thế với lời mời gọi lý tưởng đến từ thập giá Đức Kitô… Dưới ánh sáng Lời Chúa, chúng ta bắt gặp được câu trả lời thỏa đáng cho những chọn lựa ấy. Tin mừng Ga 1, 35 – 42 đã gợi lên cho chúng ta kinh nghiệm đáp trả đích thực của người môn đệ Chúa trước lời mời gọi của Đức Kitô.
1. Tiếng gọi từ thập giá
Gioan Tiền hô đã không giới thiệu Đức Giêsu “với hai người trong nhóm môn đệ” như là vị vua hùng dũng sẽ đem vinh quang cho toàn cõi Israel ở phương diện trần thế, nhưng “là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1, 36b). Khi nghe biết tước hiệu của Đấng đang “đi ngang qua” là “Chiên Thiên Chúa”, chắc hẳn hai môn đệ của Gioan (Anrê và một môn đệ khác) không khỏi sững sờ và kinh ngạc về vai trò và vị thế của Đức Giêsu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Lời giới thiệu của Gioan mở ra bước ngoặt trọng đại có liên quan đến sứ vụ của các ông và toàn nhân loại. Cũng chính trong thời điểm ấy, hai môn đệ của Gioan đã lắng nghe “tiếng gọi từ phía bên trong”, nhắc bảo các ông hãy bước theo Đấng cứu độ đích thật, là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, “Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (Ga 1, 33b). Nghiệm thấu điều này, hai môn đệ “liền đi theo Đức Giêsu” với tất cả niềm tín thác và hy vọng về giá máu cứu độ của “Chiên Thiên Chúa”. Hành trình sứ vụ trước mắt các ông là chặng đường đau khổ để minh chứng cho sự chọn lựa đúng đắn của mình vào thập giá Đức Kitô. Với tất cả tình yêu tận hiến, hai môn đệ của Gioan đã trở thành những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu.
Tiếng gọi từ thập giá vẫn vang vọng trong tâm thức của người Kitô hữu hôm nay và với hết thảy những ai đang hướng chiều về Đấng là “Chiên Thiên Chúa” đang “đi ngang qua” đời họ với bao nỗi niềm buồn vui, khổ đau, hạnh phúc… Có khi, dường như ta đã tỏ ra e sợ trước những khổ đau đến từ thập giá. Có lúc, người mang danh kitô hữu lại nhát đảm, thậm chí khước từ, chạy xa khỏi mối dây thông hiệp với cuộc khổ nạn, phục sinh của “Chiên Thiên Chúa” trước những đắng cay, nghiệt ngã của cuộc lữ lành đức tin. Giữa bộn bề, ngổn ngang của bao định hướng, lựa chọn và những áp lực, cám dỗ của lối sống hình thức, tiếng gọi từ thập giá nhiều khi bị chìm lắng và có nguy cơ tan biến trong tâm khảm chúng ta…Hệ quả là, ta phải đứng giữa trăm chiều do dự, lần mò giữa mục tiêu tối hậu với những phương tiện tạm thời, làm cản lối về vinh quang đích thực chỉ có thể tìm thấy nơi thập giá Đức Kitô.
Thái độ đáp trả của hai môn đệ mời gọi ta hãy dứt khoát, can đảm bước ra khỏi lối mờ tối của những lựa chọn và hướng thắng về phía thập giá, ở đó, “Chiên Thiên Chúa” là mẫu hình lý tưởng nhất cho đời ta. Vì chỉ nơi “Chiên Thiên Chúa”, ta mới được biến đổi trong tiến trình hoán cải nội tâm thực sự, nhờ hiệu quả “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận từ ơn này đến ơn khác” (Ga 1, 16).
2. Sống với Đức Kitô
Bước theo Đức Kitô, cũng có nghĩa là chúng ta biết đáp trả cách nhiệt thành và kiên trung trước tiếng gọi từ thập giá. Như hai môn đệ của Gioan, sau khi đã nghe Gioan giới thiệu Đấng “là Chiên Thiên Chúa”, hai ông đã không hề do dự nhưng đã hoàn toàn dứt bỏ lối cũ và nhất mực bước đi theo Người, để sống với Người. Câu hỏi của các ông, “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (Ga 1, 38b), hàm ẩn niềm khát khao kiếm tìm tận căn thân thế và hành động yêu thương của “Chiên Thiên Chúa” khi Người cứu độ nhân loại. Được tình yêu cứu độ thúc bách, các ông đã “đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người” (Ga 1, 39b). Để từ đây, “hai người trong nhóm môn đệ” của Gioan có thể thông dự vào đời sống thần nhiệm sâu xa và sung mãn của Đức Kitô, nhờ lòng tin và tình yêu tận hiến cho vinh quang thập giá.
Đời sống của người kitô hữu là một tiến trình bền bỉ, liên tục kết hiệp mật thiết và sinh động với sự sống của Đức Kitô. Dấu chứng cho sự kết hiệp này được biểu tỏ qua thái độ hy sinh trao hiến của chúng ta như hệ quả do bởi giá máu cứu chuộc của Con Chiên Thiên Chúa. Dù phải đối diện với những chọn lựa đầy khó khăn, người tông đồ của Đức Kitô hôm nay cũng được mời gọi đáp trả tiếng Chúa qua hành động kiếm tìm và “ở lại” trong tình yêu của Người.
Sống với Đức Kitô là cảm thông, sớt chia và làm triển nở tình yêu cứu độ của Người. Hôm nay, ta không thể “đến xem chỗ Người ở” cách thể lý, nhưng mỗi người chúng ta là thành viên chính thức, được hạnh phúc thông dự vào “Ngôi Nhà” Giáo hội do Đức Kitô thiết lập nên, là chính Nhiệm Thể của Người. Do đó, khi ta chu toàn sứ vụ của một chi thể ngay giữa lòng Giáo hội thì ta cũng đồng thời được kết hiệp với sự sống trọn hảo của Đức Kitô.
Sống với Đức Kitô, là tháp hiệp vào trong từng hơi thở, trong ánh mắt yêu thương, trong mỗi cử chỉ, hành vi trao hiến của Người. Tình yêu của Đấng “là Chiên Thiên Chúa” sẽ hiển trị khi ta biết mở rộng cõi lòng để đón nhận và đỡ nâng biết bao phận người đang bị vùi dập giữa những khổ đau của kiếp nhân sinh. Như Đức Kitô, ta hãy dõi ánh mắt yêu thương về phía hận thù và hãy nói lời thứ tha được khởi phát từ con tim dạt dào Đức ái trong ta. Như Đức Kitô, ta hãy cúi xuống và vực dậy nhân loại hôm nay đang cố rời xa những chuẩn mực nền tảng của Tin Mừng.
Ta hãy “ở lại” với Đức Kitô trong nhiệm tích Thánh Thể, để được thông truyền sự sống và tình yêu tuyệt hảo, nhờ đó, ta có được sức mạnh thần linh để sống chứng nhân cho Người trong cuộc sống hôm nay.
3. Chứng nhân cho Đức Kitô
Theo lời mời gọi của Đức Giêsu, Anrê và người môn đệ ẩn danh không chỉ “đến xem” và “ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1, 39b), nhưng các ông đã báo tin vui cho Si-mon và những người khác: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (Ga 1, 41b). Như vậy, được sống với Đức Giêsu dù chỉ trong khoảng khắc ngắn ngủi của buổi đầu gặp gỡ, các môn đệ đầu tiên đã thấu cảm gương mặt đích thực của “Chiên Thiên Chúa” như lời giới thiệu của Gioan. Các ngài đã được biến đổi thành những tông đồ thực thụ nhờ được “ở lại” trong tình yêu của Đức Kitô. Tình yêu ấy thúc bách các ngài tiến xa hơn trên hành trình sứ vụ giới thiệu “Chiên Thiên Chúa” cho muôn người, dẫu phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.
Bước theo Đức Kitô trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi trở nên chứng nhân trung thành của Người trước một nhân loại đang tỏ ra lãnh đạm với chân lý và mục tiêu tối hậu. Trong bối cảnh ấy, tiếng gọi từ thập giá vẫn không ngừng âm vọng trong cõi sâu thẳm của con người, kêu mời sự dấn thân quả cảm của những tâm hồn thiện chí cho sự sống và tình yêu của Đức Kitô được trở nên dũng khí linh nhiệm nhằm cảm hóa và biến đổi thế giới này.
Các môn đệ đầu tiên chỉ có thể giới thiệu Đức Kitô cho những người khác sau khi các ông đã “đi theo”, đã “đến xem” và “ở lại” với Người. Chúng ta chỉ có thể trở nên chứng nhân mạnh bạo, can trường của Đức Kitô khi ta đã sống kinh nghiệm thông dự vào tình yêu thập giá cách trọn hảo.
14. Ơn gọi – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Thiên Chúa có chương trình cho mỗi người; tuy nhiên nếu ai không đáp trả tiếng gọi của Ngài, thì Thiên Chúa vẫn yêu thương và tiếp tục mời gọi họ theo chương trình yêu thương của Ngài. Thiên Chúa luôn mong muốn và mời gọi mỗi người sống hạnh phúc, không chỉ ở đời sau nhưng ngay đời hiện tại này nữa.
1) Chúa gọi Samuel
Samuel là người con được sinh ra sau khi bà Anna, một phụ nữ hiếm muộn, cầu khẩn Đức Chúa. Người mẹ đã cầu xin Thiên Chúa ban cho mình người con, bà cầu nguyện khẩn thiết đến độ thầy tư tế Hêli tưởng bà say rượu nói nhảm. Sau khi nghe bà trình bày, thầy Hêli chúc lành cho bà, và sau đó bà sinh hạ Samuel. Bà mẹ này đã dâng người con quý cho Thiên Chúa, để Samuel được phục vụ trong nhà Thiên Chúa. Bà Anna nhận ra rằng, tuy Samuel là con bà, nhưng Samuel cũng là người thuộc về Thiên Chúa, là người của Thiên Chúa. Người hiếm muộn dễ nhận ra con cái là quà tặng của Thiên Chúa; họ thường trân trọng và quý món quà Thiên Chúa ban này cách đặc biệt.
Thiên Chúa gọi Samuel. Đầu tiên Samuel cũng tưởng đó chỉ là lời gọi của người phàm. Samuel chỉ nhận ra Chúa gọi mình khi thầy Eli dạy cho cậu biết. Phải chăng tiếng Chúa và tiếng con người cũng có những nét giống nhau, và chỉ con người thân quen với Thiên Chúa hay có kinh nghiệm với Thiên Chúa mới dễ dàng nhận ra? Con người là thể xác và tinh thần, nên để nghe được tiếng Chúa, con người cần nhận ra điều gì đó và xác tín rằng điều này đến từ Thiên Chúa. Thánh Yuse qua giấc mộng, nhận ra đó là tiếng Chúa. Giấc mộng, có thể là trung gian Thiên Chúa dùng để tỏ lộ Ý của Ngài cho con người. Đức Maria được thiên thần truyền tin. Có thể thiên thần lấy hình một người hiện ra cho Đức Maria và nói với Mẹ, nhưng cũng có thể Mẹ Maria nhận ra Ý Thiên Chúa qua những ý tưởng hiện ra trong đầu Mẹ.
Thiên Chúa có chương trình cho Samuel. Ngài có chương trình cho Yuse và Maria. Thiên Chúa có chương trình cho Phaolô (1Cor.1, 1). Thiên Chúa cũng có chương trình cho mỗi người chúng ta, vì Thiên Chúa yêu thương mỗi người chúng ta như yêu chính Đức Yêsu (Ga.17, 23. 20; 15, 9.13). Thiên Chúa muốn chúng ta thuộc về Thiên Chúa, và sống hạnh phúc nhờ và trong Đức Yêsu Kitô (Eph.1, 3tt).
2) Thân xác anh em là chi thể của Chúa Kitô
Con người là tạo vật vô cùng quý đối với Thiên Chúa, đến độ Thiên Chúa đã ban chính Con Một Ngài cho thế gian, để những ai tin vào Con Ngài thì được cứu (Ga.3, 16). Không phải những ai tin vào Con Ngài thì mới được cứu, nhưng những ai tin vào Con Ngài thì qua việc tin vào Con Ngài họ nhận ra sự thật về Thiên Chúa và về chính con người, và qua đó họ được giải phóng (Ga.8, 32) và được cứu.
Cả thân xác con người cũng là quý giá đối với Thiên Chúa. Thân xác của Đức Yêsu đã phục sinh, và cũng vậy thân xác của mỗi người chúng ta. Một số người tưởng rằng chết là hết, hoặc thân xác bị tiêu hủy sẽ vĩnh viễn không còn gì nữa; nhưng dựa vào biến cố Đức Yêsu phục sinh từ cõi chết, và theo sự hiểu biết của thánh Phaolô (1Cor.15), thân xác chúng ta sẽ phục sinh cho dù hiện tại chúng ta thấy thân xác của con người bị tiêu hủy với thời gian. Thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Mỗi Kitô-hữu không chỉ phải sống sao cho tâm hồn được tinh tuyền để xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, nhưng Kitô-hữu còn phải sống sao để thân xác cũng là thánh và thuộc về Thiên Chúa nữa. Với Kitô-hữu, không chỉ linh hồn là quý nhưng cả thân xác nữa.
3) Ơn gọi
Cuối tuần thứ hai trong cuộc Linh Thao, thánh Ynhã Loyola đề nghị người làm Linh Thao chọn lựa bậc sống. Với thánh Ynhã, chọn lựa bậc sống gia đình hay “dâng hiến” không phải là mình thích bậc sống nào thì mình chọn bậc sống đó, nhưng là nhận ra Thiên Chúa muốn mình sống bậc sống nào thì mình sẽ “chọn” bậc sống đó.
Xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương mỗi người. Nên nếu Thiên Chúa muốn ta sống ở bậc sống nào, thì bậc sống đó (dù gia đình hay dâng hiến) sẽ giúp ta triển nở và hạnh phúc nhất. Như vậy, để nhận ra Thiên Chúa muốn mình sống ở bậc sống nào, hãy xem bậc sống nào làm mình triển nở và hạnh phúc thật. Đời sống gia đình không kém giá trị hơn đời sống dâng hiến. Đời sống nào giúp tôi sống triển nở và hạnh phúc, thì đó là bậc sống Thiên Chúa muốn tôi sống, và đó là bậc sống tốt nhất đối với tôi. Nếu Chúa muốn tôi sống đời gia đình, thì bậc sống gia đình là tốt nhất đối với tôi; nếu Chúa muốn tôi sống đời “dâng hiến,” thì đời sống dâng hiến là đời sống tốt nhất đối với tôi, vì nơi bậc sống này tôi được triển nở và hạnh phúc, và như vậy Thiên Chúa được tôn vinh nơi tôi.
Các tông đồ và thánh Phaolô, một khi biết Đức Yêsu, đã dâng hiến cả cuộc đời để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Các tu sĩ trong dòng lịch sử, đã hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa và con người. Những người có gia đình muốn phục vụ Thiên Chúa cách đặc biệt, chẳng hạn nơi trách vụ phó tế vĩnh viễn, cần có sự đồng ý của người phối ngẫu, vì các vị này phải có trách nhiệm đầu tiên với gia đình, nên để có thời gian và sức lực phục vụ tha nhân, cần sự đồng ý của người phối ngẫu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Xin bạn cho biết những nét đẹp của đời sống gia đình.
2. Xin bạn liệt kê những nét đẹp của đời sống dâng hiến (đời sống tu trì).
3. Theo ý riêng của bạn, đời sống nào giúp bạn triển nở và hạnh phúc hơn?
15. Chúng tôi đã gặp Đấng Cứu Thế
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Nhìn nhận khả năng của người khác đó là một điều mà ít ai trong chúng ta cũng muốn. Việt Nam chúng ta thường nói: "Mỗi người có một ông quan trong bụng". Ai cũng muốn mình hơn kẻ khác, nổi hơn và trội hơn kẻ khác nhiều, ít ai chịu lép vế, chịu thua kẻ khác. Tự cao tự đại, ưa chỉ tay năm ngón, đó là thói thường của con người.
Kiêu ngạo là tội đứng đầu trong bảy mối tội đầu. Có lẽ người ta thấy tội kiêu ngạo là đầu dây mối nhợ sinh ra mọi tội lỗi khác. Tự đưa mình lên cao, không xem ai ra gì và theo như câu nói dân gian của người Việt Nam: "Coi trời bằng vung" hay "coi trời bằng ngọn rau má" là thế. Tâm trạng đó làm cho con người khó chấp nhận nhau về khả năng, về tài khiếu hơn thua.
Bài Tin Mừng hôm nay nói việc thánh Gioan Tẩy Giả cũng có những môn đệ tìm theo học hỏi và muốn tôn ông làm thầy, ít ra là phải hai hoặc ba người, vì sách ghi rằng: "Gioan đang đứng và nói chuyện với hai trong nhóm môn đệ của ông", chứng tỏ là Gioan cũng có nhiều môn đệ khác nữa ngoài hai người đó.
Và tâm trạng chung khi một người có nhiều môn đệ đi theo thì không muốn một môn đệ nào của mình bỏ mình đi mà theo một người khác. Lý do đó có thể là mình kém tài giỏi, đạo đức hơn người kia chăng? Sự việc đó phải chăng đã làm mất sĩ diện cho mình? Vậy mà chúng ta thấy Gioan không nghĩ đến điều đó, ông vẫn chỉ cho các môn đệ của mình về Chúa Giêsu: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Hai môn đệ của Gioan nghe nói liền đi theo Chúa Giêsu nhưng Gioan cũng không ngăn cản hai môn đệ mình, vì ông đã thấy sự thật nơi Chúa Giêsu là Con Thên Chúa, là Đấng ông loan báo, Đấng cứu chuộc tội lỗi nhân loại. Ông không mê hoặc người khác để cho họ nhắm mắt theo ông nhưng ông chỉ cho người khác thấy sự thật, thấy chân lý, thấy Đấng Cứu Thế.
Mỗi người trong chúng ta đôi lúc cũng có thái độ ngược hẳn lại: theo Chúa, tuân giữ luật Chúa, đôi lúc chúng ta muốn người khác nhìn vào và khen chúng ta là ngưòi đàng hoàng, tốt lành, đạo đức và chúng ta hãnh diện vì điều đó. Như thế chúng ta đã che mất hình ảnh của Thiên Chúa trong chúng ta, người khác tìm đến chúng ta chứ không phải họ tìm đến với Thiên Chúa qua sự tốt lành đạo đức đó. Mọi lời khen thưởng, ca ngợi thay vì dành riêng cho Thiên Chúa, người ta lại dành hết cho chính mình. Bài học của Gioan Tẩy Giả hôm nay là một bài học thực tế cho mỗi người trong chúng ta.
Khi hai môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu. Anrê sau khi đã biết Chúa Giêsu là Đấng Kitô, là Đấng Messia thì ông giới thiệu với anh mình là Simon Phêrô đến gặp Chúa Giêsu. Anrê nói với anh mình: "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô" và rồi ông đã dẫn Simon Phêrô đến với Chúa Giêsu.
Mỗi người trong chúng ta khi biết được Thiên Chúa, biết được ơn cứu rỗi của Đức Kitô, chúng ta có can đảm mạnh dạn giới thiệu Ngài với mọi người chăng? Chúa không đòi hết thảy trong mọi người chúng ta phải từ bỏ cha mẹ, anh em và mọi sự để theo Ngài. Nhưng Ngài đòi mỗi người trong chúng ta tùy khả năng, tùy môi trường nơi chúng ta đang sống mà giới thiệu Chúa cho mọi người biết. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải rao giảng, phải nói về Chúa thật hay như các nhà hùng biện để lôi cuốn người khác. Nhưng Ngài chỉ mong ước trong cách sống đạo của mỗi người chúng ta, như là lời mời gọi tha thiết mọi người tìm đến Thiên Chúa tình thương. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, mỗi hành động của chúng ta đều thể hiện lời Chúa trong Phúc Âm như thánh Phaolô đã thúc nhắc chúng ta: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Có khi nào chúng ta làm một việc gì mà chúng ta suy nghĩ và thành thực hỏi Chúa: Chúa muốn con làm gì bây giờ đây? Hay ý Chúa muốn con thực hiện như thế nào? Có lẽ chưa hoặc ít khi chúng ta hỏi Chúa Giêsu như vậy. Nếu chúng ta thực sự yêu Chúa, Chúa luôn hiện diện trong chúng ta và chúng ta luôn luôn muốn làm đẹp lòng Chúa, như một người muốn làm đẹp lòng người yêu của mình thì khi nào họ cũng tìm hiểu xem người yêu của họ thích gì rồi mua một món quà tặng đúng như ý người yêu mong ước.
Chúng ta yêu Chúa, chúng ta cũng phải tìm xem Chúa yêu thích nhất điều gì và chúng ta phải cố gắng lo làm đẹp lòng Ngài theo như điều Ngài mong muốn. Thật vậy, món quà đó không gì khác hơn là món quà của đức "Mến Chúa và Yêu Người".
Lạy Chúa, xin cho mỗi người trong chúng con biết sống khiêm nhượng như Gioan Tẩy Giả. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con biết giới thiệu Chúa cho mọi người qua lời ăn, tiếng nói và nhất là cách sống đạo của mỗi người chúng con trong cuộc sống hằng ngày.
16. Suy niệm của Lm. Nguyễn Thái
“Họ xem chỗ Người ở, và ở lại với Người.” (Ga 1:35-42)
Ở đời ai cũng muốn đi tìm cái hơn. Muốn giàu có hơn, học hành giỏi hơn, có bằng cấp cao hơn. Lấy vợ gả chồng đôi khi cũng nhằm chỗ cao hơn mà tính. Thật không may, người ta chỉ đi tìm cái hơn về vật chất bằng mọi giá, ngay cả bằng những cách bất chính mà không kể gì đến những giá trị đạo đức tinh thần. Gần đây tôi đọc được bài thờ trào phúc “Cha và con và… sự đời” của Nguyễn Văn Thắm trên báo Tuổi Trẻ Cười nói lên cái tâm trạng đó của con người.
Cha:
Con ơi! Lấy vợ xem tông,
Lấy chồng chọn giống… mới mong sang giàu
Chồng mà chức trọng queyền cao,
Phong bì, quà biếu… cửa sau rộn ràng.
Vợ mà con cái nhà quan,
Mình đi xin việc dễ dàng như chơi.
Con gái:
Thôi… con sợ lắm cha ơi!
Quan mà tham nhũng người đời dèm pha!
Cha:
Dèm pha mặc kệ dèm pha.,
Có xe đời mới, có nhà tầng cao.
Còn hơn cơm mắm, canh rau,
Nhà tranh, vách lá chui vào… chi ra!
Con trai:
Con quan phung phí xa hoa,
Thời trang đủ kiểu, cưói mà làm chi!
Tối ngày kẻ mắt, cắt mi
Môi son, má phấn… lấy gì nuôi con?
Cha:
Mày tưởng có bằng là ngon?
Thử đi xin việc, cúi lòn… còm lưng!
Quà thì tay xách, tay bưng
Tới lui mỏi gối, mòn chân… hết tiền!
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Gioan 1:35 -42 , khi Chúa Giêsu chú ý thấy hai người môn đệ của Gioan đi theo Ngài, Ngài quay lại và hỏi họ, “Các ngươi đi tìm gì?” Họ trả lời: “Thưa thầy, thầy ở đâu?” Họ đang là môn đệ của Gioan, lại muốn bỏ Gioan mà đi theo Chúa Giêsu, để tìm “cái hơn”. Giống như chúng ta, họ cũng muốn sống một đời sống đầy đủ hơn. Nhưng khác chúng ta, chúng ta đi tìm kiếm đời sống vật chất cao hơn, còn Anrê và Philip lại đi tìm một đời sống tinh thần cao hơn. Họ muốn có một đời sống đích thực! Và chính Gioan, thầy của họ đã chỉ cho họ thấy khi Chúa đi ngang qua: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. (1:36).
Trong một lớp giáo lý tân tòng, một thiếu nữ trẻ đang học đạo để lập gia đình, chia sẻ tâm tình và sự lựa chọn của cô như sau. Trong cuộc đời cô, cô chưa bao giờ nghe biết hay được học hỏi điều gì về tôn giáo cả. Gia đình cô rất ghét đạo Công giáo. Nhưng chàng và ngàng lại yêu thương nhau tha thiết. Khi chàng ngỏ ý muốn cưới nàng làm vợ với điều kiện cả hai phải có cùng một niềm tin tôn giáo, nàng chấp nhận ngay. Cô nói: “Tôi muốn có cái mà anh ấy có.” Cô chia sẻ rằng cô nhận thấy, đối với chàng đức tin là điều quan trọng nhất trong cuộc đời và chi phối toàn bộ cuộc đời chàng. Trong đức tin chàng có sự bình an và hạnh phúc. Đó là điều cô cũng đang đi tìm kiến thì tại sao cô lại không chấp nhận được. Trong khi đó chàng không có nhiều tiền bạc, nhưng rất hài lòng về cuộc sống của mình, và chu toàn những bổn phận hằng ngày. Cuộc sống phản ảnh đức tin mà chàng và cô muốn là một phần của niềm tin đó.
Cô đã chọn lựa “cái hơn” của đức tin, của tình yêu và hạnh phúc nơi Đức Giêsu Kitô.
Đây cũng chính là điều mà Anrê và Philip muốn tìm khi họ bỏ Gioan Tẩy Giả để theo Chúa Giêsu. Họ không những chỉ muốn “cái hơn” mà thôi, nhưng còn là sự sung mãn nhất, đầy đủ nhất và hoàn hảo nhất nơi Đức Giêsu Kitô.
Tất cả chúng ta được sinh ra với một ước muốn tự nhiên và lòng khao khát đi tìm hạnh phúc và sự sung mãn. Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng cái mà chúng ta đang ước muốn, đang đi tìm, đang chờ mong, đang cố gắng đạt cho được bằng mọi cách, ở bất cứ thời đại nào hay thế hệ nào, chỉ tìm thấy đầy đủ nơi Chúa Giêsu Kitô (Pl 3:8). Khi xưa Chúa Giêsu đã mời hai môn đệ: “Hãy đến và xem”, Ngài cũng mời chúng ta không chỉ “đến và xem”, nhưng còn “Ở lại với Người” để trở nên môn đệ của người.
Ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu là sự chọn lựa giữa việc đến gặp gỡ Chúa Giêsu và các lý do chính đáng khác trên đời (Mt 10:37). Gặp gỡ và gắn bó với Chúa Giêsu là mục đích tối hậu của người môn đệ (Ga 1:37). Sau đó những công việc mục vụ và rao truyền Tn Mừng sẽ là thành quả của việc gặp gỡ này.
Theo William Barclay, Anrê là một nhân vật luôn luôn giới thiệu người khác đến với Chúa Geiesu. Ba lần Anrê được nhắc đến trong Phúc âm của Gioan với vài trò này: đưa Phêrô đến với Chúa Giêsu (1:42); đứa bé trai với năm chiếc bánh và hai con cá đến cho Chúa Giêsu (6:8-9); đưa mấy người Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu (12:22). Anrê là con người với trái tim truyền giáo.
Và sau này cả Philip nữa, sau khi đã gặp Chúa Giêsu rồi, cũng đi mời Nathanael đến với Ngài (1:45-47). Giới thiệu Chúa Giêsu đi vào cuộc đời của tha nhân là thành quả của sự kết hiệp mật thiết và cá nhân giữa ta với Chúa.
Vào thế kỷ thứ XI, Vua Henry III của vương quốc Bavaria, nay là một tiểu bang thuộc vùng Tây Nam nước Đức, đã chán ngán làm vua và trở nên quá mệt mỏi trong việc điều hành đất nước nên ngài ao ước được sống ẩn dật trong một tu viện. Nhà Vua đi tới một tu viện gần đó để xin ý kiến của vị tu viện trưởng. Cha tu viện trưởng nhận ra ngài là vua đã quen với việc điều hành và ra những chỉ thị nên nói với vua rằng: “Nếu vào sống trong tu viện như một tu sĩ thì việc trước hết là vua phải vâng lời cha bề trên tu viện trưởng và phải làm theo lệnh truyền của ngài.” Vua Henry III nhận thấy điều đó quá dễ dàng, không thành vấn đề. Vua sẵn lòng vâng lời cha bề trong trong bất cứ chuyện gì. Cha bề trên mới nói: “Vậy thì tốt lắm, tôi sẽ chỉ cho nhà vua điều phải làm. Nhà vua hãy trở về hoàng cung và phục vụ đất nước trong ngôi vị mà Thiên Chúa đã định đặt cho ngài.”
Theo ý Vua Henry III, “cái hơn” là vào tu viện sống đời cầu nguyện và chiêm niệm như một tu sĩ. Nhưng cha bề trên đã giúp cho ngài nhận ra không phải chỉ là “cái hơn” mà là cái hoàn hảo nhất, sung mãn nhất. Đó là gặp gỡ Đức Kitô ngay trong cuộc sống của mình, rồi giới thiệu Chúa đến với tha nhân qua việc chu toàn bổn phận mà Thiên Chúa đã xếp đặt cho ngài: xây dựng một xã hôi công bằng, an bình, mang lại ích lợi cho toàn dân.
Vua Henry III đã trở về với công việc bổn phận để gặp gỡ Chúa Giêsu và trở nên người môn đệ chân chính của ngài (Mt 7:24).
17. Đáp lời Chúa gọi – Lm. Đam Trần Đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Ga 1,35-42)
Thánh Gioan kể lại một cách hết sức thích thú câu chuyện Chúa Giêsu gọi hai môn đệ đầu tiên. Thích thú thật, vì đó là câu chuyện cho phép chúng ta tha hồ dùng trí tưởng tượng mà hình dung ra bất cứ điều gì chúng ta thấy thích hợp với tâm tình cầu nguyện của chúng ta. Vậy trước hết chúng ta cứ để phần tưởng tượng lại mà tâm sự với Chúa, còn bây giờ chúng ta xem câu chuyện xảy ra như thế nào.
Chúng ta biết rõ hai người môn đệ này thuộc nhóm môn đệ ông Gioan Tẩy Giả. Với linh đạo “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30), ông Gioan Tẩy Giả thấy không có vấn đề gì khi ông vừa nhận ra Chúa Giêsu “đi ngang qua” liền nói cho các môn đệ biết đấy chính là “Chiên Thiên Chúa”. Lời ông Gioan giới thiệu giản dị, nhưng chứa đựng cả một bí mật cao cả, đã khiến cho hai trong số các môn đệ ông quyết định “đi theo Chúa Giêsu”. Đều là “đi”, nhưng người thì đi ngang qua làm như không để ý gì, kẻ thì đi theo để gặp cho được người mình chưa biết là ai. Bề ngoài xem ra như chuyện tình cờ, nhưng bên trong là động lực mạnh mẽ: Chúa Giêsu cố ý đi ngang qua để lọt vào sự chú ý của những kẻ Chúa muốn gọi, còn hai môn đệ ông Gioan cố ý đi theo Chúa Giêsu là để khám phá một mầu nhiệm.
Điểm thứ hai lôi cuốn chúng ta chú ý, đó là mẩu đối thoại ngắn gọn giữa Chúa Giêsu và hai ông. Những câu hỏi và trả lời giống như giữa những người bàng quan với những lời lẽ rời rạc. Tuy nhiên những lời rời rạc ấy lại hàm ẩn ý nghĩa vô cùng sâu xa. Tìm gì không giống như tìm một vật để đâu đó hoặc đánh mất, nhưng là một hành trình tìm kiếm chân lý, tìm Đấng là Tin Mừng với tất cả những giá trị siêu việt của Thiên Chúa. Ở đâu không có nghĩa là một nơi chốn, vì “chồn có hang, chim có tổ, còn Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58). Cho nên “ở đâu” có nghĩa là cả một kho tàng tích trữ tất cả những mặc khải Thiên Chúa muốn tỏ ra cho nhân loại. Cuối cùng là lời mời gọi Đến mà xem. Lời mời gọi “Đến mà xem” mở ra một chân trời mới cho hai môn đệ ông Gioan. Phải đến thì mới thấy được, nghĩa là phải thoát ra ngoài cái vỏ con người của mình thì mới thấy được Chúa Giêsu là Đấng nào.
Kết thúc câu chuyện tìm kiếm này, thánh sử ghi lại rõ ràng: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười”. Hai ông đã ở lại với Người ngày hôm ấy. Cả một ngày họ ở lại với Chúa Giêsu và chúng ta không rõ với khoảng thời gian đó họ đã khám phá được những gì. Thánh sử chấm dứt câu chuyện, không quên ghi lại câu chuyện thật ấn tượng ấy đã xảy ra vào khoảng giờ thứ mười, rồi ngài im lặng ở đây, nhường lại để chúng ta tưởng tượng mà lắng nghe hoặc nói với Chúa.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Như hai môn đệ ông Gioan Tẩy Giả, chúng ta thực sự đã được Chúa gọi làm môn đệ khi lãnh nhận bí tích Rửa tội. Tuy mang danh người môn đệ của Chúa, nhưng có lẽ chúng ta vẫn chưa thực sự đi theo Chúa, hỏi Chúa rằng “Thầy ở đâu?”, đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người. Tất cả những hành vi trên, người môn đệ đích thực cần phải xét lại mỗi ngày để coi mình còn giữ được căn tính môn đệ hay không.
Thay vì đi theo Chúa, chúng ta đi theo những gì thế gian quyến rũ mời gọi. Thay vì hỏi Chúa “Thầy ở đâu?”, chúng ta đã giả thiết Chúa chỉ ở trong nhà thờ, do đó trong cuộc sống thường ngày, chúng ta không muốn Chúa có mặt để Người khỏi cản trở chúng ta sống theo thế gian. Mỗi tuần một lần, chúng ta quả có đến “xem chỗ Người ở”, nhưng thực ra chúng ta không ở lại với Người, có nghĩa là không sống mối tương quan mật thiết với Người trong cầu nguyện.
Thánh sử Gioan đã kể thêm sau câu chuyện rằng ông Anrê, một trong hai môn đệ ấy, đã về nhà và đem em mình là Simôn Phêrô đến giới thiệu cho Chúa Giêsu. Đây cũng là điều chúng ta phải tự hỏi: Có bao giờ tôi giới thiệu một người nào đó và đem họ đến với Chúa chưa? Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta đấy!
18. Lắng nghe tiếng Chúa
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Từ Chúa Nhật trước, chúng ta đã bước vào Mùa Quanh Năm với Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. Hôm nay, chúng ta mừng Chúa Nhật II quanh năm (Chu kỳ năm B). Chủ điểm của Chúa Nhật này là ‘Tiếng Chúa gọi mỗi người chúng ta làm việc tông đồ cho Chúa.’
Bài đọc I (Samuel 3, 3-10; 19) nói đến việc Chúa gọi Samuel đi làm tiên tri cho Chúa. Khi nhận ra tiếng Chúa, Samuel đã mau mắn đáp lại: “Lạy Chúa xin hãy nói, con nghe đây!” Bài Phúc Âm (Gioan 1, 35-42) nói đến việc Chúa gọi hai anh em ông Anrê và Phêrô theo Chúa. Trong Bài đọc II (Corintô 6,13-15, 17-20), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta là những tín hữu của Chúa, là chi thể trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa, là đền thờ Chúa Thánh Thần, chúng ta không được sống đời sống vô luân, nhưng phải sống thánh thiện, xứng đáng con cái thật của Chúa.
Qua các thời đại, Thiên Chúa thường gọi một số người để làm các công việc đặc biệt Chúa trao phó. Trong Cựu Ước, Chúa gọi Abraham, Môsê, Davit, các tiên tri v.v… Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã gọi 12 tông đồ. Đó là những ơn gọi đặc biệt, và việc Chúa gọi và chọn ai cũng là một việc nhiệm mầu của Chúa. Chúa gọi và chọn người Chúa muốn. Tuy nhiên, Chúa vẫn tôn trọng tự do của mỗi người; tùy theo mỗi người có quảng đại đáp lại tiếng Chúa gọi hay không (Matthêu 19,16…), và có cố gắng sống xứng đáng và trung thành với Ơn Gọi của mình hay không.
Thánh Luca (Lc 6,12-16) có kể lại việc Chúa Giêsu đã “ra núi cầu nguyện suốt đêm với Thiên Chúa Cha. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy 12 ông và gọi là Tông Đồ.” Điều này cho thấy việc chọn 12 Tông Đồ là việc rất quan trọng. Trong số 12 tông đồ Chúa chọn, đa số làm nghề chài lưới, có người làm nghề thu thuế; lại có Giuđa Itcariot là kẻ phản bội; sau này, Matthia được chọn để thay thế (Cv. 1, 15-26). Chúa cũng chọn Phaolô làm Tông Đồ cho Chúa ngay chính lúc ông này (lúc đó còn tên là Saolô) đang trên đường đi bách hại đạo Thánh Chúa (Cv. 9, 1…)
Trải qua lịch sử của Giáo Hội, Chúa cũng chọn một số người để chuyên làm việc tông đồ cho Chúa qua các địa vị khác nhau: Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, Tu sĩ. Mỗi trường hợp đều do sự nhiệm mầu của tình yêu Chúa. Chẳng ai dám tự phụ mình là người xứng đáng. Dù có những Ơn Gọi rất đặc biệt, như trường hợp của Đức Hồng Y Avery Dulles (1918-2008) con của ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles, đã gia nhập Đạo Công Giáo lúc 22 tuổi, đã từng là Sĩ Quan Hải Quân Hoa Kỳ, năm 1946 giải ngũ, vào Dòng Tên, chịu chức Linh mục năm 1956, và dâng hiến cả cuộc đời để nghiên cứu, viết nhiều sách về thần học, trở nên rất nổi danh tại Hoa Kỳ về đời sống thánh thiện và nhiệt thành truyền giáo (giống như Ơn Gọi của Linh mục Bác Sĩ Cổ Tấn Hưng ở Việt Nam); Cha Bao Yuanjin, hiện sống âm thầm truyền giáo ở Trung Quốc; Cha Charles de Foulcauld (1858-1916), lập dòng Tiểu Đệ và Tiểu Muội, và rất nhiều trường hợp khác.
Nhưng không phải chỉ các Giáo sĩ hay Tu sĩ mới được mời gọi làm việc tông đồ cho Chúa, mà mọi tín hữu đều có ơn gọi riêng của mình để làm tông đồ cho Chúa cách này hay cách khác. Nhìn công việc truyền giáo bao la, Chúa Giêsu đã nói: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít…” (Matthêu 9, 37), nhưng trong thực tế, Chúa chỉ chọn có 12 người chính thức làm Tông đồ, sau này thêm ông Phaolô. Vậy, làm sao công việc rao giảng Phúc Âm của Chúa đã có thể lan rộng nhanh chóng suốt cả Đế Quốc Rôma rộng lớn thời đó? Chính là nhờ sự cộng tác quảng đại của các giáo dân thời bấy giờ. Đó là việc Tông Đồ Giáo Dân.
Qua các thời đại cho đến ngày nay, vẫn có những người làm tông đồ giáo dân rất tích cực. Có những vị là những Tông Đồ Giáo Dân rất nổi danh như Antoine Federic Ozanam (Chân Phước) (1813-1835, học giả nổi tiếng của Pháp, lập Hội Bác Ái Thánh Vinh Sơn, chuyên giúp đỡ những người nghèo trên thế giới; Bác sĩ Thomas A. Dooley (Hoa Kỳ, 1927-1961) đã hy sinh cả cuộc đời giúp đồng bào Việt Nam mới di cư từ Miền Bắc vào Miền Nam, và sau đó mở nhà thương giúp bao bệnh nhân tại Lào; Frank Duff (Ái Nhĩ Lan, 1889-1980) lập Hội Đạo Binh Đức Mẹ, chuyên lo công việc thăm viếng giúp đỡ các bệnh nhân, các gia đình đang gặp khó khăn; Chiara Lubich (người Ý, 1920-2008) thành lập hội Focolore để cổ võ tinh thần hòa hợp giữa mọi người thuộc các sắc tộc, ngôn ngữ, tôn giáo khác nhau.
Trong Giáo Hội, luôn có những Hội Đoàn hoạt động tông đồ rất tích cực cho mọi lứa tuổi, như Đạo Binh Đức Mẹ, Liên Minh Thánh Tâm, Các Bà Mẹ Công Giáo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Hướng Đạo Sinh Công Giáo, Cursillo, Opus Dei, Tông Đồ Fatima, Hồn Nhỏ, Hội Bảo Trợ Ơn Gọi v.v… Ngoài ra, còn có các Tu Hội Đời quy tụ chính những giáo dân sống giữa đời, liên kết đặc biệt với nhau để làm việc tông đồ.
Tất cả các Hội Đoàn đều có mục đích giúp thánh hóa bản thân và rao giảng Phúc Âm tình thương của Chúa cách này hay cách khác, nơi chính gia đình của mình, nơi sở làm, nhà máy, xưởng thợ, trường học, trong mọi môi trường sống hằng ngày của mỗi người.
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin Chúa cho mọi người chúng ta luôn ý thức nhiệm vụ truyền giáo mà chúng ta phải chu toàn; xin cho chúng ta luôn biết ‘lắng nghe tiếng Chúa gọi’, trở nên những tông đồ nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo bao la trong thế giới chúng ta hiện nay.
19. Họ đến và ở lại với Người
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Được công bố trong khung cảnh những ngày bắt đầu chu kỳ Thường Niên, bài Tin Mừng hôm nay (Ga 1,35-42) nêu bật sự bắt đầu một giai đoạn mới với sự xuất hiện của Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên bước theo Người.
Mở đầu bài Tin Mừng, chúng ta gặp một sự xác định thời điểm mới trong trình thuật của sách Tin Mừng thứ tư: “Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông” (c.35). Đó là ngày thứ ba kể từ sự kiện người Do Thái cử người đến chất vấn ông Gioan rằng ông là ai (1,19tt). Ông Gioan lại đang đứng ở chỗ của ngày hôm trước. Đó là cách tác giả ngầm nói với chúng ta về một tình trạng tĩnh, không tiến triển. Và quả thực, trong đoạn văn này không có bất cứ một động từ nào diễn tả sự di chuyển của ông Gioan. Nhưng sứ mạng của ông chưa kết thúc, cho đến khi nào Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng của Người. Một khi Đức Giêsu đi ngang qua ông và tiến đi tiếp (trong hành trình sứ vụ của Người), thì ông sẽ không còn xuất hiện ở chỗ đó nữa, vì sứ mạng của ông đã kết thúc. Còn bây giờ, ông vẫn đang đứng đó. Bên cạnh ông là hai người trong nhóm môn đệ của ông. Họ đã nghe ông giảng dạy và đã nhận phép rửa của ông. Tác giả Tin Mừng đã không ghi “hai môn đệ” mà ghi là “hai người trong nhóm môn đệ”, chứng tỏ đã có cả một nhóm đông người đón nhận lời giảng dạy và phép rửa của ông Gioan. Vậy cùng với ông Gioan, hai người môn đệ này của ông đang đứng đó trong tư thế chờ đợi. Nhưng có một sự khác biệt: ông Gioan đã biết Đấng Mêsia (1,29) còn họ thì chưa.
“Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (c.36). Ở đây có một chi tiết nhỏ nhưng rất đáng chú ý: ngày hôm trước, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình (1,29), còn hôm nay, vẫn đứng đó, ông lại “thấy Đức Giêsu đi ngang qua”. Quả thật, đúng như lời ông nói: “Người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi” (c.15), bây giờ ông đã ở phía sau rồi. Đó là thời khắc của một sự thay đổi quan trọng, thời điểm chấm dứt vai trò của vị tiền hô, vì Đấng ông loan báo đã bắt đầu hoạt động của Người rồi. Vào thời khắc quan trọng đó, ông Gioan công bố trước mặt hai môn đệ của ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Ông nói cho họ biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian (xem c.29). Ông chỉ cho họ thấy một cách cụ thể nội dung mà sự mong chờ của phép rửa do ông thực hiện đang hướng đến.
“Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” (c.38). “Đi theo Đức Giêsu” là một thuật ngữ được áp dụng cho các môn đệ của Đức Giêsu (1,43; 8,12; 10,4; 12,26; 13,36; 21,19). Hai người môn đệ của ông Gioan, như thế, đã quyết định sẽ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Họ đã lập tức lấy quyết định dứt khoát. Sự dứt khoát và lập tức này cho thấy họ đã hiểu sứ điệp của ông Gioan. Ông Gioan đương nhiên không hề phản đối quyết định của hai môn đệ, trái lại, có lẽ ông rất vui mừng trước quyết định đó. Vì ông biết Đức Giêsu mới là Chú Rể, như lời ông nói: “Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (3,28-30).
Vậy hai môn đệ đi theo Đức Giêsu. Trong im lặng. Tức là trong sự chờ đợi. Cuộc tìm kiếm của họ đã được bắt đầu với việc họ rời ông Gioan và đi theo Đức Giêsu, nhưng chưa đạt đến đích nếu không có sáng kiến của Đức Giêsu. Biết rằng họ đang đi theo mình, Đức Giêsu quay lại và hỏi họ. Người ân cần quan tâm đến khát vọng và sự tìm kiếm chân thành và tốt lành của con người. Người hỏi họ: “Các anh tìm gì thế?” (c.38a).Đức Giêsu muốn biết họ tìm cái gì nơi Người, họ chờ đợi gì nơi Người, họ nghĩ Người có thể làm gì cho họ.
Họ đáp: “Thưa Rabbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” (c.38). Hai môn đệ gọi Đức Giêsu bằng một tước hiệu đầy kính trọng, và là cách gọi cho thấy họ ý thức rằng Người có thể ban cho họ những giáo huấn giá trị, rằng Người có thể cho họ biết những điều họ chưa biết. Họ vốn là môn đệ ông Gioan, nhưng đó chỉ là một hoàn cảnh tạm bợ, hoàn cảnh của sự trông chờ Đấng mà chính ông Gioan loan báo là đang đến.
Đương thời, mối tương quan tôn sư – môn đệ không chỉ là tương quan giữa người truyền và người nhận kiến thức, mà còn là và chính yếu là một cách sống. Môn đệ lấy cách sống của tôn sư làm chuẩn mực cho mình. Chính vì thế, trong ước muốn làm môn đệ của Đức Giêsu, hai người đồ đệ này muốn biết Người sống ở đâu. Chắc chắn đó phải là một nơi chốn (và tình cảnh cũng như cách thức sống) khác với của ông Gioan (mà họ đã từng biết). Kèm với lời hỏi “Thầy ở đâu?”, như thế, là một lời thưa với Đức Giêsu về quyết định của họ rời xa vị tôn sư của giai đoạn cũ để đến sống dưới ảnh hưởng của Người. Quyết định này hoàn tất sự đoạn tuyệt mà phép rửa bằng nước do ông Gioan cử hành là biểu tượng. Đồng thời, câu hỏi đó cũng có giá trị của một lời xin Đức Giêsu nhận họ làm môn đệ của Người.
“Người bảo họ: “Đến mà xem” (c.39a). Đức Giêsu trả lời trực tiếp cho lời xin gián tiếp trong lời hỏi của các ông. Người đưa ra một lời mời gọi rằng chính họ hãy đến để trải nghiệm một cách cụ thể và thực tế cuộc sống chung với Người trong tư cách là đồ đệ của Người. Khi đó, họ sẽ có thể tìm ra câu trả lời cho câu hỏi của họ. Rõ ràng là để trở thành môn đệ của Đức Giêsu, trước hết, cần phải bước vào trong vùng sự sống của Người, nơi Người đang sống.
“Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (c.39b). Họ đã bước vào vùng của sự sống, trải nghiệm về ân nghĩa và sự thật trong đó (1,14). Trải nghiệm trực tiếp đó đã giúp họ đi đến quyết định cuối cùng là ở lại với Đức Giêsu. Trong Ga, đây là hai môn đệ đầu tiên đến nơi Đức Giêsu sống. Như thế là bắt đầu xuất hiện cộng đoàn mới, cộng đoàn Mêsia, cộng đoàn những kẻ sẽ có thể nói: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật “(c.14). Rõ ràng đây là một thời khắc quan trọng.
“Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười”. Theo cách tính của chúng ta ngày nay là khoảng bốn giờ chiều. Theo cách tính của người Do Thái, đó là thời điểm cuối ngày và chuẩn bị bước sang ngày mới, vốn bắt đầu vào khoảng 6 giờ chiều của chúng ta. Ngày cũ sắp chấm dứt. Ngày mới sắp xuất hiện. Khi ngày mới bắt đầu cũng là lúc đánh dấu sự chấm dứt của dân cũ và sự khởi đầu của dân mới. Dân cũ đã sắp chấm dứt vai trò của mình, và đó là lúc Đức Giêsu bắt đầu gây dựng nhóm của Người.
“Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước tiên, ông gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô)” (cc.40-41). Trải nghiệm của ông Anrê với Đức Giêsu đã lập tức gây nên nơi ông cái ý thức về tính cách khẩn thiết phải làm cho những người khác biết về Người. Trước tiên, ông tìm gặp và loan báo cho em trai mình. Nói “ trước tiên” tức là ông không chỉ giới thiệu với ông Simôn mà thôi, nhưng còn với rất nhiều người khác nữa. Ông Simôn đã không được nghe ông Gioan giới thiệu về Đức Giêsu, và ông chưa đi theo Người. Ông Anrê báo tin cho ông Simôn bằng một công thức khá đặc biệt: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô)”. Chắc chắn ông Simôn là một trong số những người đang tha thiết với niềm mong chờ Đấng Mêsia mà ông Gioan đã loan báo ở 1,27. Khi nói với Simôn rằng các ông đã gặp Đấng Mêsia, là ông Anrê loan báo cho ông Simôn biết sự chờ đợi đó đã kết thúc, Đấng Mêsia đang hiện diện rồi.
Quan niệm về “Đấng Mêsia” của ông Anrê lúc này cần được giải thích trong quy chiếu về hai sự kiện: lời công bố của ông Gioan (“Đây là Chiên Thiên Chúa” ở c.36) và lời giải thích của tác giả Ga (“nghĩa là Đấng Kitô”). Với ẩn dụ Con Chiên, ông Anrê hiểu Đức Giêsu là Đấng Mêsia trong tư cách Đấng thực hiện cuộc Vượt Qua mới, Đấng sẽ dùng cái chết của mình mà giải thoát dân Người khỏi sự chết. Người sẽ khai mở một giao ước mới,thay thế các thiết chế của giao ước cũ đã bị vượt quá. Quan niệm “ Đấng Kitô” quy chiếu về mầu nhiệm Thần Khí ngự xuống trên Đức Giêsu (1,32) và Người chính là Đấng làm phép rửa trong Thần Khí (c.33). Ông Anrê đã được trải nghiệm về tình yêu, ân sủng và sự thật nơi Đức Giêsu, và ông loan báo điều đó cho ông Simôn, em trai mình.
Ông Anrê đã nhấn mạnh trải nghiệm quan trọng đó không phải như một trải nghiệm cá nhân đơn độc, mà là trải nghiệm của cộng đoàn các đồ đệ. Ông nói “Chúng tôi đã gặp”. Trải nghiệm về Đấng Mêsia luôn luôn là một trải nghiệm mang chiều kích cộng đoàn.
“Rồi ông Anrê dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (tức là Phêrô)” (c.42). Ông Simôn không có sáng kiến tự mình đến với Đức Giêsu. Ông thụ động để cho ông Anrê dẫn đến. Chúng ta cũng không thấy ông bình luận bất cứ câu nào về lời giới thiệu của ông Anrê. Ông không nói một lời nào trong toàn bộ trình thuật này.
Đức Giêsu nhìn ông Simôn. Đây chắc chắn không phải là một cái nhìn bình thường hay thoáng qua. Trước đây, ông Gioan cũng đã nhìn Đức Giêsu và rồi tuyên bố “Đây là Chiên Thiên Chúa” (c.36). Cái nhìn của Chúa Giêsu đối với ông Simôn lúc này cũng tương tự như vậy. Người nhìn ông, rồi tuyên bố: “Anh là…”. Vì thế, đó không phải là một cái nhìn tuyển chọn, mà là cái nhìn thẩm thấu, cái nhìn để nhận định.
Đức Giêsu xác định ông Simôn là “con ông Gioan”, và tác giả Ga đặt mạo từ trước hạn từ “con”. Điều này gây khó khăn cho cách hiểu rằng thân phụ của ông Simôn có tên là Gioan, vì ngay ở câu 41 tác giả vừa nói rõ Simôn là em trai của Anrê (tức không thể là con trai duy nhất của ông Gioan được). Đàng khác, danh xưng Gioan từ đầu đến đây được dùng để gọi ông Gioan Tẩy Giả (cc.35.40). Vì vậy, nhiều người chấp nhận cách hiểu rằng ông Simôn một đàng thuộc về phong trào của ông Gioan Tẩy Giả, một đàng khác, ông chưa hề được nghe chứng từ của ông Gioan về Đức Giêsu, cũng chưa hề đi theo Đức Giêsu như hai người môn đệ kia.
Rồi Đức Giêsu tuyên bố rằng ông Simôn sẽ được gọi là Kêpha. Tác giả Ga là tác giả sách Tin Mừng duy nhất ghi tên Aram của ông Simôn là Kêpha, một têngọi khá phổ biến trong tiếng Aram, và có nghĩa là đá, tương tự như tên gọi Petros trong tiếng Hy Lạp. Tác giả Ga không hề nói rằng Đức Giêsu đổi tên cho ông Simôn thành Phêrô. Trong Ga, không bao giờ Đức Giêsu gọi nhân vật này là Phêrô; chỉ có tác giả Ga mới gọi ông là Simôn Phêrô trong một số trường hợp (thí dụ: 1,40; 6,6.68…).
Cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với ông Simôn ở đây là một cuộc gặp gỡ rất đặc biệt. Đức Giêsu không chủ động gặp ông hay bắt chuyện với ông, cũng không kêu mời ông đi theo Người. Về phần mình, ông Simôn hoàn toàn thụ động, và cuối cùng, ông cũng chẳng ngỏ lời xin làm môn đệ của Đức Giêsu. Rồi sau khi đã gặp Đức Giêsu, ông Simôn chẳng hề giới thiệu Người với bất cứ ai, khác hẳn ông Anrê là anh trai của ông. Người môn đệ đầu tiên mà Đức Giêsu chủ động kêu gọi, trong Ga, ngay sau đoạn Tin Mừng mà chúng ta suy niệm hôm nay, chính là ông Philípphê (1,43). Phải đến cuối sách, ở chương 21, sau khi ông Simôn đã ba lần tuyên bố về tình yêu của ông đối với Đức Giêsu, chúng ta mới thấy Đức Giêsu ngỏ lời với ông như Người ngỏ với ông Philípphê ngay từ giây phút đầu gặp gỡ.
Rất nhiều khi trong cuộc đời, chúng ta thấy mình được may mắn và hăng hái như ông Anrê. Nhưng cũng rất nhiều khi chúng ta thấy mình giống như ông Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay vậy… Nhưng chính nhân vật có vẻ thụ động, chẳng có gì hấp dẫn và xuất hiện trong một tình cảnh chẳng có gì nổi bật này, lại là petros, nghĩa là tảng đá…
20. Ở lại với Chúa - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trên các chương trình tivi đều có mục quảng cáo. Sản phẩm quảng cáo thì cái gì cũng nhất, cái gì cũng đẹp cũng bền. Thông tin quảng cáo đã tác động mỗi ngày nhiều lần vào người xem tạo nên một ấn tượng mạnh. Từ đó trong tiềm thức, khách hàng sẽ tìm mua sản phẩm ấy. Quảng cáo là giới thiệu những gì là độc đáo nhất. Mục đích của giới thiệu là để biết nhau. Muốn giơí thiệu một người thì phải biết về người đó, tuỳ theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết nhau nhiều hay ít. Nếu không biết rõ về một người thì có thể giới thiệu sai về người ấy.
Trong Phúc Âm có đề cập đến việc giới thiệu. Có ba lời giới thiệu tiêu biểu. Chúa Cha giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là con Ta yêu dấu, làm đẹp Ta mọi đàng”( Mt 4,17). Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha: ”Ai thầy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9) Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xoá tội trần gian.. Người đến sau tôi nhưng quyền thế hơn tôi vì có trươc tôi … Ngài làm phép rửa trong Thánh Thần.” (x.Ga 1,29–34). Trong khi toàn miền Giêrusalem và Giuđêa đang coi Gioan như thần tượng, thì chỉ vì để giới thiệu Chúa Kitô, Gioan đã từ giã sự nổi danh của mình và lặng lẽ rút lui. Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói cho người nghe hãy nhìn vào chính Ngài. Gioan giới thiệu Chúa Kitô bằng cách nói cho người nghe đừng nhìn vào mình,nhưng nhìn thằng vào Chúa. Đây là cách giới thiệu chính xác nhất khi một người muốn giới thiệu cho người khác về Thiên Chúa.
Phúc Âm hôm nay kể câu chuyện: “Thấy Đức Kitô đi ngang qua, ông lên tiếng nói: đây là Chiên Thiên Chúa. Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Đức Kitô” (Ga 1,36-37). Bấy giờ Gioan rất nổi tiếng. Những người Do thái ở Giêrusalem cử các Thầy Tư tế và Lêvi đến hỏi xem liệu ông có phải là Đức Kitô, là Êlia hoặc ngôn sứ không (Ga 1,19-23). Gioan trả lời trung thực: “Không! Tôi không phải là Đức Kitô” (Ga 1,20). Ông chỉ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa (1,23). Đức Kitô là Đấng đến sau ông, cao trọng hơn ông vì có trước ông (1,30). Đấng ấy được Thánh Thần xức dầu (1,33), và sẽ rửa mọi người trong Thánh Thần và lửa (1,33; Mt3,11). Đấng ấy cao trọng đến nỗi ông không đáng cởi dây giày cho Ngài (1,27). Nhiệm vụ của ông là làm cho mọi người và cả các môn đệ của ông hiểu đươc điều đó. Gioan mong ước khi có dịp sẽ giới thiệu cho các môn đệ về vị Thầy đích thực mà họ cần phải theo. Bởi thế, khi thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, Gioan liền lên tiếng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hiểu ý thầy, hai môn đề liền đi theo Chúa Giêsu trong hân hoan. Thay vì nuối tiếc, Gioan đã hạnh phúc hối dục họ lên đường. Nếu hai môn đệ không muốn theo Chúa mà cứ nấn ná ở lại với Gioan thì giáo dục tôn giáo của Gioan đã thất bại. Nếu hai môn sinh cứ đòi ở lại với Gioan là dấu chứng Gioan chỉ nói về mình, gây ảnh hưởng cho mình. Lên đường theo Chúa như một khám phá mới của hai môn sinh là kết quả thành công của Gioan trong sứ mạng làm người dọn đường cho Chúa.
Chúa Giêsu quay lại và hỏi: Các anh tìm gì thế? Hai môn đệ đã không đi “tìm gì” mà là tìm một Con Người. Họ đi tìm Đức Kitô. Họ mang nặng nổi khát khao đi tìm một trái tim, một vị thầy. “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Câu hỏi ấy là câu hỏi muốn hiểu, muốn tìm đến và muốn ở lại với Thầy. Chúa Giêsu không trả lời là Ngài ở nơi này nơi kia và cũng không mời họ đến thăm chơi. Chúa nói “hãy đến mà xem” rồi sẽ biết. “Đến mà xem” là lời mời gọi đi vào cuộc gặp gỡ thân thiết. Trăm nghe không bằng mắt thấy “cứ đến mà xem” cũng là câu nói Philipphê thuyết phục Nathanael (Ga 1,46).Thánh sử Gioan kết thúc câu chuyện các môn đệ đầu tiên của Đức Kitô bằng hình ảnh: “Họ đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người” (1,39).
Chỗ ở của Chúa Giêsu có gì hấp dẫn mà giữ chân các ông ở lại? Đầy đủ tiện nghi và sung túc chăng? Chắc chắn là không rồi, vì Chúa đã từng nói:” Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20). Rày đây mai đó nên nơi Chúa ở là “khách sạn ngàn sao”, chẳng có gì hấp dẫn như biệt thự hay khách sạn mấy sao. Sự hấp dẫn các môn đệ chính là con người Chúa Giêsu. Chính cuộc sống và lời giảng dạy của Ngài đã hấp dẫn họ và họ nhận ra Ngài là Đấng Messia, Đấng Cứu Thế, vị Thầy mà họ đáng theo.
Chúa kêu gọi các môn đệ, trước hết để họ “ở lại với Ngài” trong bầu khí huynh đệ thân tình (x. Ga 1,35-39), rồi Ngài mới sai họ đi thi hành sứ vụ. Yêu thương nhau là một dấu chỉ, là chứng từ cốt yếu, là đòi hỏi tiên quyết và đồng thời cũng là điều kiện cơ bản của người môn đệ Đức Giêsu.“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Đi tìm con người Đức Kitô là theo Ngài, thuộc về Ngài, ở với Ngài. Các môn đệ vui mừng hân hoan, họ muốn chia sẽ với người thân yêu nên khi trở về, Anrê gặp em là Simon, nói với em về Đấng mà mình đã gặp và dẫn em đến diện kiến Chúa. Simon được Chúa đổi tên thành Phêrô. Trên đá tảng Phêrô, Chúa xây Hội Thánh và cửa hoả ngục sẽ không thắng được. Một cuộc gặp gỡ. Một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời. Khám phá ra tình yêu Thiên Chúa trong đời mình quả là một biến cố vô cùng quan trọng.Trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, những ai đã gặp Người đều thay đổi dần cuộc đời mình.
Gioan Tẩy Giả là mẫu mực cho người tông đồ hôm nay. Giới thiệu Chúa còn mình thì lặng lẽ rút lui để Chúa lớn lên. Bổn phận giới thiệu Chúa cho người khác là một ân sủng được trao ban. Thiên Chúa là tình yêu. Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương.Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương.Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.
Lời giới thiệu của Gioan Tẩy giả về Chúa Kitô rất ngắn. Điều đó nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa, chưa chắc đã cần nói nhiều.Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay. Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng.Dung mạo đúng nhất của Thiên Chúa là tình yêu thương “ Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nổi ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16) và tình yêu thương ấy là “ Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Để giới thiệu Chúa, tôi phải biết Chúa. Bài học đầu tiên của các môn đệ là “ở lại với Chúa”. Chỉ khi sống với Chúa mới biết Chúa. Vì thế, để giới thiệu về Chúa, phải biết Chúa. Để biết Chúa, chỉ có con đường duy nhất là sống với Chúa. Sống với Chúa chính là chuyên chăm học hỏi, suy niệm Lời Chúa và chiêm nghiệm trước Thánh Thể mỗi ngày để trở nên người giới thiệu Chúa cách trung thực và chính xác cho người khác.
Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy sự từ bỏ của Gioan và hai môn đệ mà xét lại bản thân. Con đang giới thiệu Chúa hay dùng Chúa để mình được lợi. Con đang theo Chúa hay chỉ theo người của Chúa. Xin cho con luôn chọn Chúa qua những chọn lựa nhỏ bé nhiều lần trong ngày để Chúa chiếm trọn cuộc sống con và để con thông hiệp vào cuộc sống Chúa nhờ đó con được ở lại với Chúa.
Và Lạy Chúa, xin ở lại với con, vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng mỗi ngày trong đời con. Không có Chúa, con đâu còn nồng nhiệt hăng say. Xin ở lại với con vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa và không đòi phần thưởng nào khác ngoài việc được yêu Chúa hơn. Amen.
21. Tiếng Chúa gọi – AM Trần Bình An
Olalla Oliveros, người mẫu nổi tiếng đã tham gia chụp nhiều bộ ảnh quyến rũ, diễn viên chính trong nhiều bộ phim, gương mặt của cô xuất hiện trên các tấm biển khắp Tây Ban Nha. Tuy nhiên, nữ người mẫu đã quyết định trở thành một nữ tu, gia nhập Dòng thánh Michael. Mặc dù sự nghiệp vẫn đang phát triển, nhưng Olalla Oliveros không còn cảm thấy hạnh phúc, vui vẻ.
Ở tuổi 36, cô quyết định từ bỏ sự nghiệp và khoác lên mình chiếc áo nữ tu sau khi đến viếng Nhà thờ Đức Mẹ Fatima ở Bồ Đào Nha. Không muốn nói nhiều về quyết định của mình, Oliveros chỉ cho biết cảm giác khi tới nơi này giống như có một trận động đất rung chuyển trong người: “Chúa không bao giờ sai, Ngài hỏi tôi có sẵn sàng theo Ngài và tôi không thể từ chối.”
Trên một trang web, Oliveros chia sẻ rằng cô đã có những cảm giác rất kỳ lạ. Từ sau chuyến thăm nhà thờ, hình ảnh bản thân mặc chiếc áo nữ tu luôn hiển hiện trong tâm trí Oliveros. Vì thế, cô đã quyết định từ bỏ công việc của mình để trở thành một nữ tu và đổi tên thành Olalla del Sí de María. Trên tờ El Tiempo, Oliveros chia sẻ: “Là một người mẫu bạn phải có thân hình chuẩn, là hình mẫu để mọi người noi theo. Tôi cảm thấy áp lực. Tôi cũng mệt với những lời nói dối, hình thức, một xã hội đầy bạo lực, ngoại tình, ma túy, rượu, thù oán và một thế giới đề cao vật chất, hưởng thụ, dâm dục, lừa đảo.” Oliveros cho biết thêm: “Tôi không lấy việc trở thành một nữ tu để lăng xê tên tuổi của bản thân, mà chỉ muốn trở thành một hình mẫu đề cao phẩm giá thực sự của người phụ nữ.”
Oliveros không phải là người mẫu đầu tiên quyết định từ bỏ cuộc sống bận rộn trên sàn catwalk để chọn lấy một cuộc sống bình lặng trong tu viện. Amada Rosa Pérez là một trong những người mẫu hàng đầu của Colombia trước khi trở thành một nữ tu vào năm 2005, vì cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống căng thẳng của mình. (Theo Daily Mail)
Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan tường thuật Thánh Gioan Tiền Hô giới thiệu những môn đệ với Đức Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa!” Lập tức họ được Đức Giêsu mời gọi theo Người. Rồi họ lại giới thiệu người khác đến với Chúa. Bây giờ, Đức Giêsu vẫn không ngừng mời gọi mọi người bỏ mọi sự theo Người. Điển hình như các người mẫu, diễn viên tài sắc Olalla Oliveros và Amada Rosa Pérez đã đáp lời, mặc dù sự nghiệp còn đang lẫy lừng thành đạt.
Tiếng gọi
Hôm nay, tín hữu Kitô không còn vinh hạnh được thánh Gioan Tiền Hô trực tiếp giới thiệu đến với Chiên Thiên Chúa, như các môn đệ thuở xưa. Nhưng may mắn thay, Giáo Hội không thiếu các đấng như môn đệ Anrê, sẵn sàng tận tụy chỉ dẫn đến Đức Giêsu. Đó là những Chủ Chiên tốt lành, những tu sĩ chân chính, những tông đồ giáo dân nhiệt thành. Hoặc Chúa gửi đến những dấu chỉ riêng cho từng người. Một lời khuyên nhủ nhắc nhở của bè bạn. Một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Một gia cảnh lục đục bất an. Một thất bại cay đắng, ê chề…Vấn đề là người tín hữu có thức tỉnh, sẵn sàng và khao khát lắng nghe, tìm hiểu, giải mã dấu chỉ, để nghe được tiếng Đức Giêsu mời gọi hay không? Hay cứ đắm đuối, mải mê, mù lòa trong cõi ta bà tục lụy, thì làm sao nghe được tiếng Chúa gọi?
“Đến mà xem!” Bằng rất nhiều dấu chỉ, Thiên Chúa luôn xót thương, luôn kiên nhẫn mời gọi, luôn nhẫn nại chờ từng người đáp lại, tựa như Người Cha tốt lành trông ngóng đứa con hoang, biết ăn năn sám hối, đáp lời, mà quay trở về.
“Hãy theo Thầy!” Các tông đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa, con có dứt khoát một phen theo Chúa không? Chúa phải gọi con mấy lần rồi?” (Đường Hy Vọng, số 61)
Lời đáp
“Dạ, con đây!” Ngôn sứ Samuel đã luôn tỉnh thức, mau mắn cả ba lần đều thân thưa tiếng Chúa gọi. Một tâm hồn chân thành, tinh tuyền, trong sáng, nhạy cảm, sẵn sàng lắng nghe, đón nhận Lời Chúa, để thực thi Thánh Ý Chúa. “Xin Ngài phán, vì tôi tờ Ngài đang lắng nghe.”
Hai Tông đồ Anrê và Gioan cũng đều nhiệt thành, sẵn sàng tuân theo lời mời gọi “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở và ở lại vời Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. (tức bốn giờ chiều ngày nay) Không chút chần chừ, so đo, suy xét, họ bỏ tất cả nghề nghiệp, huyết tộc, thân bằng quyến thuộc, dứt khoát dấn thân theo Đức Giêsu, Đấng chẳng có nhà cửa, cũng chẳng có chỗ tựa đầu nữa. (Mt 8, 20)
Đức Giêsu cũng thân thương mời gọi, an ủi, cứu giúp tất cả những ai đang khốn khổ, cực nhọc: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Vì chỉ ở nơi Người mới có sự bình an viên mãn, niềm hoan lạc, mà thế gian không bao giờ có. “Ta để lại bình an cho các ngươi; Ta ban bình an của Ta cho các ngươi; không phải thế gian ban cho thế nào, thì Ta cũng ban cho như vậy đâu! Lòng các ngươi chớ xao xuyến, chớ nhát đảm” (Ga 14, 27)
“Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình, nhưng là việc Chúa chiếm hữu cả con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con.” (Đường Hy Vọng, số 241)
Chứng nhân
Ông Gioan Tiền Hô đã giới thiệu Đức Giêsu cho ông Anrê. Ngài đã gặp Chúa, ở lại với Chúa dù chỉ một ngày, đã cảm nghiệm Tình Yêu tuyệt vời, nay lại tiếp tục giới thiệu cho Simon. Trước hết, ông Anrê gặp em mình là ông Simon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia.” Rồi ông dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu.
Gặp gỡ Chúa, ở lại trong Tình Yêu còn gì hân hoan, sung sướng, hạnh phúc hơn? Còn gì tuyệt vời hơn được nương náu bên Người Cha chí nhân, chí thánh, nguồn cội tinh tuyền của con người? Người luôn đầy lòng thương xót, tha thứ, biến đổi, thánh hóa con người bùn nhơ, tội lỗi, bất nghĩa, bất tín, bất trung thành bạn hữu, anh em của Người. Chính vì nếm trải cảm nghiệm thần thánh, mà ông Anrê vội vàng tìm gọi em mình là Simon cùng theo, làm môn đệ Đức Giêsu cực trọng.
Có Chúa là có tất cả, dù bao phong ba cuộc đời thử thách, ngôn sứ Khabacúc vẫn trung kiên xác tín: “Thật thế, cây vả không còn đâm bông nữa, cả vườn nho không được trái nào. Quả ô liu đợi hoài không thấy, ruộng đồng chẳng đem lại gì ăn. Bầy chiên dê biến mất khỏi ràn, ngó vào chuồng bò bê hết sạch. Nhưng phần tôi, tôi nhảy mừng vì ĐỨC CHÚA, hỷ hoan vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, làm cho tôi mạnh sức, cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, và dẫn tôi đi trên đỉnh núi cao vời.” (Kb 3, 17-19)
Đức Giêsu liền sai cùng bốn mộn đệ đầu tiên làm chứng nhân, rao truyền ơn cứu độ đến mọi người, mọi dân tộc: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá." (Mc 1, 17) Bởi vì “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không.” (Mt 10,8)
“Quyết định theo Chúa của con không phải chỉ là một chữ ký, không phải là một lời tuyên thệ thôi. Nhưng là một sự hiến dâng liên lỉ, thực hiện trong cả cuộc sống.” (Đường Hy Vọng, số 69)
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con thành tâm và tỉnh thức nghe thấy tiếng Chúa gọi. Chúng con vốn yếu đuối, dễ sa ngã, dễ bị sự đời cám dỗ quyến rũ. Vậy xin Chúa tha thứ và cảm biến, đối mới chúng con, để chúng con luôn nhạy cảm nghe được tiếng gọi qua các dấu chỉ, hầu được kết hiệp cùng Chúa trong từng giây phút cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con hằng ngày biết lắng nghe Lời Chúa mời gọi, để tỉnh thức ăn năn, sám hối, trở về cùng Chúa luôn. Amen.
22. Vai trò trung gian
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Nghe hai từ trung gian, không ít nguời trong chúng ta cảm thấy khó chịu. Quả thật trong các hoạt động kinh doanh buôn bán cũng như trong các dịch vụ, hễ có trung gian là hầu như có “phết phẩy”, có những chi phí không như ý. Dĩ nhiên không ai chấp nhận một sự tồn tại của chuổi các trung gian nặng nề, vô bổ, gây phiền hà và gây lãng phí. Vì thế người ta tìm cách loại bỏ bớt những trung gian ấy ngay cả trong các sinh hoạt hành chính. Chuyện bỏ bớt “các cửa, các dấu” để tiến đến mô hình một, cửa một dấu là một trong những nổ lực của cải cách hành chánh nước Việt thời gian vừa qua. Thế nhưng cần phải xác nhận rằng tác nhân trung gian vẫn còn đó vị trí và vai trò cần thiết không thể thiếu trong đời sống kinh tế, xã hội lẫn tâm linh.
Một chân lý trong niềm tin Kitô giáo: Thiên Chúa ban ơn cho con người thường là qua các trung gian. Không kể đến thưở ban đầu của buổi sáng tạo, thì ngoài việc trực tiếp phú ban linh hồn, Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống thể lý cùng những ơn lành khác đều thường qua các trung gian là tổ tiên, ông bà, bố mẹ, thầy cô, các vị mục tử trong Hội thánh…Ngược lại, để đến với Thiên Chúa thì các trung gian luôn có đó vị trí, vai trò cần thiết dường như là tất yếu theo chương trình Thiên Chúa đặt định.
Hai lần Thiên Chúa gọi Samuel, thế mà Samuel vẫn không nhận biết. Để có thể nhận ra tiếng Chúa phán, trẻ Samuel đã phải cần đến sự chỉ dạy của tư tế Hêli. (x.1 Sm 3,3b-10) (Bài đọc 1). Chính nhờ lời giới thiệu của thầy Gioan Tẩy Giả mà hai môn đệ mới tiếp cận được với Chúa Giêsu để rồi theo Người và ở lại với Người ngày hôm ấy. Nhờ một trung gian là Anrê mà Simon Phêrô đã đến gặp Chúa Giêsu và Hội Thánh chúng ta đã có được một vị Tông đồ nhiệt thành, một vị Giáo hoàng tiên khởi. (x. Ga 1,35-42) (bài Tin Mừng). Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng thân xác chúng ta là một trung gian để chúng ta kết hợp nên một với Chúa Kitô. Và chính thân xác chúng ta là Đền thờ, là một trung gian để Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta. (x. 1Cor 6,13-20) (Bài đọc 2).
Qua các bài đọc của Thánh lễ Chúa Nhật II TN B, xin được đề ra vài tiêu chí của sự trung gian hầu cho các tác nhân trung gian thực sự là những chiếc cầu nối hữu hiệu, cách đặc biệt giữa Thiên Chúa và con người.
1. Biết Chúa và biết người: Anrê đã trở thành một người trung gian đích thực giữa Simon, anh mình với Chúa Giêsu là nhờ ngài vốn biết rõ anh mình. Chuyện anh em ruột biết rõ nhau là chuyện bình thường, anh em như thể chân tay. Anrê còn là người biết Chúa Giêsu một cách nào đó, nhờ đã đến và ở với Chúa Giêsu ngày hôm ấy, sau khi được thầy Gioan Tẩy giả giới thiệu.
Hình như ít có ai tranh cãi về tiêu chí này. Để làm trung gian thì cần phải biết cả hai phía. Tuy nhiên cái biết ở đây không dừng lại sự nhận thức bằng lý trí mà còn với cả sự gắn bó bằng ý chí. Không mến phục Giêsu hoặc không yêu thương anh mình thì Anrê chưa chắc đã đóng vai trò một trung gian.
2. Được Chúa chọn gọi và trao phó trách nhiệm: Chúng ta nhận ra tiêu chí này qua vai trò của Gioan Tẩy Giả. Ngài là đấng được Thiên Chúa chọn gọi ngay từ trong dạ mẹ (x.Gr 1,4-5) Ngài được Chúa trao phó cho trách nhiệm làm tiếng hô trong hoang mạc là dọn đường cho đấng Thiên sai ngự đến (x. Is 40,1-5).
Vấn đề đặt ra là làm sao nhận ra được tiếng Chúa chọn gọi. Dễ được mấy ai có diễm phúc được Chúa Giêsu chọn gọi cách trực tiếp như các tông đồ ngày xưa? Nhìn vào cuộc đời vị Tiền Hô, chúng ta có thể xác định rằng tiếng Chúa gọi chúng ta thường qua các biến cố cuộc sống (các hiện tượng xảy ra với nhà Giacaria), qua việc dạy bảo của mẹ cha (việc ông Giacaria và bà Isave đặt tên cho con trẻ khác với truyền thống nói lên điều này), qua việc nghiền ngẫm Thánh Kinh (nếu không có yếu tố này thì Gioan hẳn sẽ khó nhận ra vai trò của mình qua lời tiên báo của Ngôn sứ Isaia ngày nào).
3. Được Hội Thánh chuẩn nhận: Cái tiêu chí này được thể hiện qua vai trò của Tư Tế Hêli. Dù rằng tư tế Hêli còn thiếu sót trong một vài trách nhiệm của mình như lơ là việc dạy bảo con cái khiến cho hai người con trai của ông là Khópni và Pinkhát ra hư hỏng (x. 1 Sm 2,22-35), nhưng không ai phủ nhận vai trò của ông trong việc hướng dẫn trẻ Samuel lắng nghe tiếng Chúa phán.
Chúng ta cần thú nhận rằng cái tiêu chí thứ ba này thường gây tranh luận cho nhiều người bên trong lẫn bên ngoài Hội Thánh, đặc biệt, với các anh em ly khai. Thế nhưng dòng lịch sử thánh minh định rõ rằng Thiên Chúa đã dùng con đường này, phương thức này. Phương thức này, con đường này đã manh nha hình thành trong thời Cựu Ước qua việc Thiên Chúa truyền lệnh cho Môsê cắt đặt Aaron làm Tư Tế và chọn chi tộc Lêvi lo việc tế tự (x.Xh 4,13-16; 28,1-5). Và đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu đã minh nhiên thiết lập Hội Thánh trên các Tông đồ và trao quyền tài thẩm cho các ngài (x. Mt 16,13-19; Ga 20,19-23). Trong thực tế, dù là cá biệt, nhưng vẫn tồn tại hiện tượng “thầy cả Hêli”. Ước gì Kitô hữu chúng ta làm theo lời dạy của Chúa Cứu thế: “Các kinh sư và những người Pharisêu ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm, nhưng đừng theo hành động của họ…” (Mt 23,2-3).
Đến với Thiên Chúa, gặp gỡ Thiên Chúa là một diễm phúc của nhân loại chúng ta. Thiên Chúa đã tạo các trung gian là để cho mọi người có thể đến với Người, gặp gỡ Người cách thuận lợi dễ dàng và hữu hiệu theo hoàn cảnh, khả năng và điều kiện của từng người. Chính vì thế các tác nhân trung gian mãi luôn càn thiết cho nhân loại chúng ta. Tuy nhiên các tác nhân trung gian ấy vẫn ở bên ngoài chúng ta. Có một tác nhân gần gủi, thiết thân nhất với mỗi người chúng ta đó là chính con người, thân xác chúng ta. Chúa Kitô đã tự hiến thân mình trong hình bánh rượu hiến tế trên các bàn thờ. Con người, thân xác chúng ta là nơi Chúa muốn đến để nên một với chúng ta. Dù chằng đáng Chúa ngự vào, nhưng với tâm hồn khiêm nhu, xin Chúa làm cho tâm hồn, thân xác chúng ta được lành mạnh thì chúng ta sẽ làm một với Chúa cách trọn vẹn. Và Nước Trời đang ở giữa chúng ta (x. Lc 17,21).
23. Đến mà xem – AM Trần Bình An
Hành trình đến với Chúa ai cũng đều trải qua nhiều bước, lắm khi thăng trầm, gian lao, thử thách, chứ chẳng mấy khi êm ả như hai ông Anrê và Gioan, đã khéo léo theo một lộ trình khá suôn sẻ đến ơn gọi. Tiên quyết, hai ông đã được ông Gioan Tẩy Giả chuẩn bị sẵn sàng hành trang. Nếu không có tấm lòng thành khẩn, hai ông đã không tìm đến với vị Tiền Hô khổ tu, để qua từng bước Thanh tẩy và khởi sự truy tầm ơn gọi.
Khi từ biệt gia đình, thân quyến, bè bạn, xóm làng để ra đi làm môn đệ ông Gioan Tiền Hô, hai vị cũng đã nhiệt tình hưởng ứng lời kêu gọi thống hối, ăn năn, hầu sẵn sàng và xứng đáng diện kiến Đấng Cứu Thế. Một điều kiện ắt có cho bất cứ ai muốn tìm gặp Chúa.
San bằng những hầm hố tham lam, ham muốn đê tiện xấu xa, uốn nắn những khúc khuỷu lắt léo điêu ngoa, man trá, dối gian, cùng tẩy xóa tội nhơ qua Phép Rửa, hai vị mới có hội truy tìm Ơn Gọi trên con đường thiên lý.
Nhưng kìa lạ thay, chính Chúa Giêsu lại chủ động mời gọi nhị vị, khi thấy họ chỉ dám lẽo đẽo, đeo bám theo Ngài xa xa. Nên Ngài mới ngoảnh mặt ngó lại, thân thương hỏi họ: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Rabbi, Thầy ở đâu? “Người bảo họ: “Đến mà xem.”
Điều kỳ lạ trong đoạn Tin Mừng này theo thánh sử Gioan, là câu trả lời của nhị vị đó lại là một câu hỏi ngược lại Chúa. Có lẽ họ quá sức bối rối, vì cảm thấy Chúa đã nhìn thấu tâm can, biết tỏ tường mong muốn nhiệt thành của họ, nên thay vì trả lời với Ngài: “Chúng con tìm Ngài,” thì họ lại mau mắn tôn Ngài làm Sư phụ, tình nguyện làm đệ tử chân truyền: “Thưa Rabbi, Thầy ở đâu?”
Nhưng Sư phụ Giêsu không vội trả lời cho họ, vì thực ra Ngài sống vô gia cư, làm gì có nhà cửa, dinh thự, lầu son gác tía. Ngài cũng chẳng có nơi trú ẩn cố định, thì biết lấy địa chỉ nào cho các tân đệ tử. Bởi chưng“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58). Vậy dưới con mắt thế gian, theo Thầy Rabbit Giêsu thì cũng như phiêu lưu cùng Thầy.
Người ngoài không hiểu được tại sao người ta theo tiếng gọi của Chúa, họ cho ta là điên. Chính Chúa Giêsu cũng bị Hêrôđê gọi là điên, và chúng ta hãnh diện được ở trong “nhà thương Biên Hòa” của Chúa. (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, ĐHV 68)
Chưa hết, khi đến xem tận mắt, biết nơi tạm trú xuềnh xoàng, nghèo nàn, xác xơ của Sư phụ, họ đã ở lại với Người ngày hôm ấy.Một quyết định dại dột và bất ngờ với thiên hạ, nhưng là chọn lựa sáng suốt tuyệt vời của người theo Chúa. Bởi chưng họ đã tìm được Minh Chủ, đấng mà thầy cũ của họ đã loan báo vô cùng tôn kính: “Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”(Ga 1, 27)
Thật vậy, gặp và sống bên Chúa Giêsu còn gì vui thích hơn, chẳng có gì trên thế gian có thể sánh nổi. Nên Chúa đã mời gọi: “Tất cả hãy đến với ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng. Ta sẽ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách ta và hãy học cùng ta, vì ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ được bình an. Vì ách của ta êm ái, gánh của ta nhẹ nhàng” (Mt 11:30).
Lạy Chúa Giêsu, khi xưa Ngài đã kêu gọi các môn đệ, nay xin luôn nhắc nhở con dấn bước theo Ơn Gọi, để con được sống trong tình yêu vô biên của Ngài.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu con luôn biết tìm đến nương náu bên Chúa Giêsu qua Lời Chúa và Thánh Thể, hầu con được sung mãn hồng ân cứu độ. Amen.
24. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nam
“Họ đã đến xem chỗ Người ở
Và ở lại với Người ngày hôm ấy”
Thiên Chúa luôn kêu gọi và muốn con người cộng tác trong công trình cứu độ. Đó là chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.
Thiên Chúa quyền phép vô cùng, làm được mọi sự. Nhưng Ngài không muốn làm một mình, mà luôn kêu gọi con người cộng tác với Ngài.
- Khởi đầu lịch sử cứu độ, Thiên Chúa chọn ông Abraham làm cho ông trở nên cha của mọi dân tộc đông đúc. Từ dòng đời này phát sinh Đấng Cứu Thế.
- Để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc Ai Cập, Thiên Chúa đã chọn Môisen lãnh đạo dân Do Thái.
- Để có một lãnh tụ dẫn dắt dân Ngài, Thiên Chúa đã chọn kẻ nhỏ nhất, yếu đuối nhất. Đó là cậu bé Đavít.
- Để cho lời hứa ban Đấng Cứu Thế được thực hiện, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria, một thiếu nữ vô danh miền Nazaret.
- Để tiếp tục công việc loan báo Tin mừng và cứu độ trần gian, Chúa đã chọn 12 tông đồ, 72 môn đệ.
Thiên Chúa luôn kêu gọi và muốn con người cộng tác với Ngài trong việc cứu độ nhân thế. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay chứng minh rất rõ chân lý trên:
Thiên Chúa chọn và gọi Samuel để ông thay thế thầy cả Heli. Ngài gọi ông 3 lần và Samuel đã thưa: “Xin Ngài cứ phán, tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”.
Thế là Samuel đã trở thành thủ lĩnh dân Do Thái.
Bài Tin mừng ghi lại biến cố Chúa Giêsu gọi và chọn 3 tông đồ đầu tiên là Gioan, Anrê và Phêrô. Các tông đồ đi theo Chúa, đến gặp gỡ Chúa và ở lại với Người. Chính Chúa Giêsu đã gọi họ đích danh: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha”.
Ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu khởi đi từ việc đến gặp gỡ Chúa Giêsu. Đi theo Chúa Giêsu hay gặp gỡ Chúa Giêsu là bước đầu cần thiết để trở thành môn đệ. Gặp gỡ gắn bó với Chúa Giêsu là mục đích tối hậu của người môn đệ (Ga 1,37). Sau đó những công việc mục vụ và rao giảng sẽ là thành quả của việc gặp gỡ này.
Từ việc gặp gỡ “đến mà xem” tới việc ở lại với Người. Trăm lần nghe không bằng một lần thấy; ở lại với Người để thấy, để hiểu, để yêu mến và noi gương sống như Người.
Gặp gỡ Đức Kitô trong cuộc sống của mình, rồi phải giới thiệu Chúa đến với tha nhân qua việc chu toàn bổn phận mà Chúa trao phó. Đó là bổn phận, sứ mạng của người môn đệ Chúa Kitô và người kitô hữu.
Theo đạo Công Giáo không phải đi theo một tổ chức hay gia nhập một đảng phái… nhưng là đi theo một nhân vật độc đáo là Đức Giêsu và qua Chúa Giêsu đến với Chúa Cha.
Qua Tông Huấn Lời Chúa, Đức Giáo Hoàng Benêđictô XVI nhắc nhở chúng ta: “Đời sống Kitô hữu có đặc tính chủ yếu là gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng hằng kêu gọi chúng ta bước theo Ngài” (Verbum Domini số 72).
Làm cách nào chúng ta có thể gặp gỡ Đức Giêsu trong cuộc sống hôm nay?
- Gặp gỡ Chúa trong thánh kinh, trong lời của Người, học hỏi, suy niệm lời Chúa. Thánh Giêrônimô dạy: “Không biết Kinh thánh là không biết Đức Giêsu”.
- Cao điểm của cuộc gặp gỡ Đức Giêsu là thánh lễ. Vì thánh lễ là trung tâm đời sống Giáo hội và đời sống Kitô hữu. Tông huấn Verbum Domini số 52 dạy: “Chính Chúa Giêsu đã hiện diện trong lời của Người, vì chính Người nói khi ta đọc kinh thánh trong Giáo hội”.
- Gặp gỡ Đức Giêsu qua việc cầu nguyện và suy niệm lời Chúa hằng ngày.
- Gặp gỡ Đức Giêsu một cách cụ thể qua việc bác ái, giúp đỡ những người nghèo khổ… “Cho anh em một chút nước lạnh, là cho chính Chúa”.
Ngày xưa Chúa kêu gọi Samuel, các tông đồ Gioan, Anrê, Phêrô… Ngày nay Chúa cũng kêu gọi mỗi người chúng ta làm môn đệ để đem Tin mừng cho anh em. Chúng ta hãy mau mắn, quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa như các môn đệ, như Samuel xưa: “Lạy Chúa, xin hãy phán, này tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”.
25. Thi hành sứ vụ nhân danh Ngài.
(Suy niệm của Yvane Fournier-Guérard)
Sứ vụ được thực hiện do các chứng nhân. Nhờ tiếp xúc với Chúa Giêsu, họ hiểu được vai trò Phúc Âm hóa của họ.
Một vị tiền hô.
Khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai của Ngài, chiếc rìu đã đặt bên gốc cây. Một vị ẩn sĩ, Gioan Tẩy Giả, loan báo Nước Trời và lớn tiếng đòi hỏi người ta hoán cải con tim để đón tiếp Đấng Mêsia đang đến. Bằng dấu chỉ Phép rửa trong đó tín đồ được dìm vào dòng nước sông Giođan để lấy lại sự thanh sạch của con tim. Gioan nhắc nhở mọi người rằng một Đấng khác sẽ đến và thanh tẩy trong Thánh Thần.
Những gì Gioan đã làm trong hoang địa: quy tụ môn đệ, rao giảng sự thống hối và mong đợi một vương quốc sắp tới, đều đã chuẩn bị người ta nghe lời Chúa Giêsu. Bởi vì trước đó quần chúng đã thức tỉnh trước sứ điệp thiêng liêng của Gioan nên họ đón tiếp Chúa ân cần hơn và đã hiểu lời Ngài hơn.
Tỉnh thức là giai đoạn đầu tiên của việc gặp gỡ Thiên Chúa.
Một lời sống động.
Rồi chiên Thiên Chúa mà Gioan Tẩy Giả nhìn nhận là lớn hơn mình đã đến. Mảnh đất đã sẵn sàng nên hạt giống có thể gieo được. Chúa Giêsu thực sự bị thu hút bởi lời rao giảng của Gioan. Ngài đã nhìn thấy những đám đông được Gioan thuyết phục và những con người tự nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Ngài đã xin Gioan làm phép rửa cho Ngài. Ngài đã nhận ra mảnh đất tốt lành, nơi đó cỏ dại ích kỷ, hận thù, tội lỗi của dân Ngài đã được nhổ sạch.
Chúa Giêsu đã đi theo Gioan và từ nay ông sẽ theo Ngài và sẽ khuyên các môn đệ của ông cũng làm như vậy nữa.
Giai đoạn thứ hai của sứ vụ là tiếp đón Đấng đang đến cùng với sứ điệp và chân lý của Ngài.
Đây không chỉ là một trò chơi.
Anh chị em còn nhớ trò chơi điện thoại được dùng trong những buổi sinh hoạt hay trong những lớp dạy về truyền thống chứ? Người thứ nhất tham gia trò chơi rỉ tai người thứ hai một sứ điệp ngắn và người này nói lại cho người thứ ba, v.v… đến người cuối cùng thì ít khi sứ điệp còn giữ được nguyên vẹn như ban đầu. Vì nghe không rõ nên các sứ giả liên tiếp nhau thay đổi sứ điệp được truyền đi và như vậy đã phản bội chính sứ điệp.
Các môn đệ đầu tiên không phản bội sứ điệp. Sau khi đi theo Chúa Giêsu theo lời giới thiệu của Gioan, sau khi nhìn thấy và đích thân nghe vị tôn sư, họ đã mời anh em và bạn bè của họ đến gặp Ngài.
Chính nhờ lưu lại với Ngài mà việc hoán cải con tim đã được thực hiện. Ngôn sứ Samuel cũng đã sống kinh nghiệm này, và dân Samari đã diễn tả đúng chân lý này khi nói với người phụ nữ Samari: “Không phải vì những gì chị kể cho chúng tôi mà chúng tôi tin, nhưng bởi vì bản thân chúng tôi đã được nghe Ngài”. Nhưng cần phải có ngôn sứ Êlia trong Cựu Ước, cần phải có các môn đệ đầu tiên và người phụ nữ Samari để cho người ta đến với Chúa Giêsu.
Đây là giai đoạn thứ ba của việc Phúc Âm hóa: chúng ta được mời gọi loan báo cho kẻ khác con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy phán, tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.
Chúng ta là những lời sống động của Thiên Chúa bằng cuộc sống hơn là bằng lời nói. Phải đích thân gặp gỡ Ngài, lắng nghe Ngài, lớn lên trước mặt Ngài và tôn vinh Ngài bằng thân xác chúng ta được xem như đền thờ của Ngài. Chứng nhân không vượt qua giai đoạn cuối này là một chứng nhân giả. Lời của họ trống rỗng và sứ điệp của họ rất có nguy cơ bị méo mó bởi chính những cách nhìn riêng của họ.
Bài Tin Mừng hôm nay nói về sứ vụ như sau: “Hãy đến mà xem”. Kẻ lớn lên trước mặt Chúa, như Samuel, có lẽ không tự mình ý thức được rằng “không lời nào của họ là không có hiệu quả”, nhưng đã xảy ra đúng như vậy.
Được gọi với tư cách là ông bà, cha mẹ, với tư cách là giới trẻ, với tư cách là những người đã chịu phép rửa để truyền đạt đức tin, chúng ta hãy xin Chúa Giêsu giữ chúng ta lại bên cạnh Ngài. Xin cho luật tình yêu của Ngài trở nên thiết thân với chúng ta như tác giả thánh vịnh và cho chúng ta biết nói: “Này con đây” trong mọi hoàn cảnh, trong lúc “miệng chúng ta loan báo tình yêu và chân lý của Ngài cho toàn thể đại hội”. Khi đón tiếp Ngài đến trong Thánh lễ này, chúng ta hãy thưa: “Lạy Chúa, này con đây, con xin đến để thực thi ý Chúa”.
26. Chúa gọi con người hợp tác
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Các bài đọc hôm nay đều nói đến ơn gọi. Chúa kêu gọi mọi người và từng người một: Chúa đã gọi Samuel làm tiên tri, Chúa đã gọi các Tông đồ đi theo Chúa để rao giảng Tin mừng, và qua lời khuyên nhủ của thánh Phaolô tông đồ, Chúa kêu gọi mọi tín hữu hãy tránh xa thói dâm ô, hãy giữ thân xác cho trong sạch để xứng đáng là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải đáp trả lại tiếng Chúa gọi như Samuel đã mau mắn thưa lại với Chúa: ”Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”, và tìm gặp Chúa:”Hãy đến mà xem” để theo Chúa:”Hãy theo Ta”. Sau khi đã theo Chúa, chúng ta còn có bổn phận phải giới thiệu Chúa cho những người khác như ông Anrê đã làm.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 1Sm 3,3b-10.19.
Theo tác giả sách này, Samuel được Thiên Chúa gọi làm tiên tri ngay từ nhỏ và thuộc loại tiên tri đầu tiên. Lúc ấy Samuel là cậu bé giúp lễ, hầu việc Chúa tại đền thờ Silô bên cạnh thầy cả Hêli già nua, và chính cậu sẽ thay thế vai trò của Hêli.
Bài đọc 1 cho biết: một đêm cậu Samuel đang ngủ bên cạnh hòm Giao ước thì Thiên Chúa đã gọi cậu 3 lần. Lần nào cậu cũng tưởng thầy Hêli gọi và đã đến trình diện. Nhưng sau cùng, thầy Hêli cho biết đó là tiếng Chúa gọi và Samuel đã mau mắn thưa lại với Chúa như thầy Hêli đã dạy:”Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Thế là Chúa gọi Samuel làm thủ lãnh dân Do thái thay thế cho thầy cả Hêli.
+ Bài đọc 2: 1 Cr 6,13-15, 17-20.
Côrintô là một đô thị hỗn tạp. Nằm trên trục lộ giao thông, nó là nơi tấp nập để trao đổi hàng hoá, tư tưởng và cả thân xác nữa... Cuộc sống phóng túng, sắc dục được coi như là tự do và tự nhiên. Vì thế, thánh Phaolô cảnh giác những độc giả của Ngài. Ngài dạy họ rằng đối với những Kitô hữu đã trở nên thân thể của Chúa Kitô do phép rửa tội, họ không được làm ô uế thân thể họ vì họ đã được trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Những lời căn dặn của thánh Phaolô vẫn không mất tính cách thời sự của nó:
- Thân xác con người là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
- Thân xác đã được cứu chuộc bằng máu của Đức Kitô.
- Vì thế, chúng ta không được dùng thân xác để phạm tội dâm ô, nhưng phải dùng nó để tôn vinh Thiên Chúa.
+ Bài Tin mừng: Ga 1,35-42.
Khi Gioan Tẩy giả đang đứng ở bờ sông Giorđan giảng đạo và làm phép rửa, trông thấy Đức Giêsu đi qua, ông đã chỉ tay vào Chúa Giêsu giới thiệu cho hai môn đệ của ông là Anrê và Gioan:”Đây là con chiên Thiên Chúa”, kiểu nói đó có nghĩa Đức Giêsu là Đấng Messia. Nghe nói thế, Anrê và Gioan đã đi theo Đức Giêsu, đến xem chỗ ở của Ngài và ở lại đàm đạo với Ngài một ngày. Thế là từ môn đệ của Gioan, hai ông đã trở nên môn đệ của Chúa Giêsu.
Sau đó, Anrê lại giới thiệu Đức Giêsu cho em mình là Simon. Chúa cũng đã nhận Simon làm môn đệ và còn đổi tên ông là Kêpha, nghĩa là đá, cho ta đoán được trước vai trò tương lai của ông.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lời gọi và đáp trả
I. LẮNG NGHE TIẾNG CHÚA GỌI.
1. Phải biết lắng nghe.
Thiên Chúa luôn kêu gọi chúng ta mọi nơi mọi lúc, vì thế tâm trí chúng ta cần phải tập trung mới nghe được tiếng nói của Chúa. Ngài nói với chúng ta trong sự thinh lặng, trong sự kín đáo, trong tâm hồn tĩnh lặng không để cho ngoại cảnh làm xáo trộn tâm hồn.
Chúa đã gọi Samuel trong đêm thanh vắng và Samuel đã nghe ra được tiếng Chúa, nên đã mau mắn thưa:”Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Nếu ta đang bận rộn về những nỗi lo vật chất, si mê những của phù du, đầy những dục vọng, thì ta sẽ không nghe được tiếng Chúa gọi. Tiếng nói của chúng lớn quá làm át cả tiếng Chúa vì Chúa nói nhỏ nhẹ, âm thầm, phải có đôi tai thính của tâm hồn mới có thể nghe thấy.
Truyện: Dòng suối vọng từ xa.
Một nhà thám hiểm nọ, lạc mất giữa sa mạc, đi từ đụn cát này sang cồn cát nọ, nhìn hết hướng này sang hướng kia, nơi đâu cũng chỉ thấy toàn là cát với cát. Lê gót trong tuyệt vọng, tình cờ, chân ông vấp phải một cây khô, ông vấp ngã và nằm vùi trên gốc cây, ông không còn đủ sức để đứng lên, ông không còn đủ sức để chiến đấu và ông cũng không còn chút hy vọng sống sót nào.
Trong tư thế bất động ấy, nhà thám hiểm bỗng ý thức được sự thinh lặng của sa mạc: bốn bề chỉ có thinh lặng. Thình lình, ông ngẩng đầu lên, trong sự thinh lặng tuyệt đối của sa mạc, ông bỗng nghe được như có tiếng thì thào yếu ớt vọng lại bên tai. Dồn tất cả sự chú ý, nhà thám hiểm mới nhận thức: đó là tiếng róc rách chảy của một dòng suối từ xa vọng lại. Như sống lại từ cõi chết, ông định hướng nơi xuất phát của tiếng suối, rồi dùng nguồn năng lực còn sót lại, ông cố gắng lê lết cho đến khi tìm được dòng suối (Cử hành phụng vụ Chúa nhật, tr 109).
Cuộc sống có quá nhiều bận rộn và ồn ào, khiến chúng ta không nghe được tiếng nói và nhận ra sự hiện diện của Chúa. Có thinh lặng từ cõi lòng chúng ta mới nghe được tiếng mời gọi thì thầm của Chúa trong từng giây phút của cuộc sống.
2. Phải tìm gặp gỡ Chúa.
Chúng ta tin rằng Chúa ở khắp nơi mà chẳng ở nơi nào cả, nhưng nếu chúng ta tìm thì sẽ gặp được Ngài. Thực ra, Ngài đang ở giữa chúng ta, cùng đi với chúng ta, nhưng chỉ có người thiện chí mới nhận ra sự hiện diện của Ngài.
Hãy tìm gặp gỡ Chúa như ba Tông đồ Anrê, Gioan và Phêrô. Rõ ràng đây là cuộc gặp gỡ tuyệt vời bởi vì rất nhiều năm sau, khi Gioan viết Tin mừng, ông vẫn còn nhớ chính xác thời giờ lúc đó:”Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (nghĩa là khoảng 4 giờ chiều). Ngày nay chúng ta không thể gặp Ngài một cách cụ thể như ba Tông đồ xưa, nhưng chúng ta có thể tìm gặp Ngài trong các biến cố xẩy ra từng ngày: lời khuyên của một người bạn, của một người khôn ngoan, của một đoạn Thánh kinh, một sự thử thách, một sự thất bại, một tư tưởng đột xuất nào đó, đều là những dấu chỉ của Thiên Chúa, lời kêu gọi của Chúa Kitô.
Truyện: Thánh Phanxicô Borgia.
Phanxicô Borgia (1510-1572) được cắt cử tháp tùng thi hài của hoàng hậu Isabelle, một mỹ nhân sắc nước hương trời, đến chỗ an táng của hoàng tộc. Trước khi hạ huyệt, quan tài được mở ra để được xác nhận. Cảnh tượng đã làm đảo lộn cuộc đời chàng. Phanxicô từ biệt triều đình, vào dòng Tên, trở nên vị thánh. Tổng quyền thứ ba của dòng. Ngài nói:”Từ nay mọi danh vọng và lạc thú trần gian chẳng dính dáng gì đến Phanxicô nữa”! Phanxicô Borgia đã nghe một tiếng gọi từ bên trong.
Ngày hôm nay, trên khắp mọi nẻo đường trần gian, chúng ta vẫn có thể giáp mặt với Đức Giêsu khi Ngài đi ngang qua giữa chúng ta, như xưa Ngài đã “đi ngang qua” giữa các môn đệ bên bờ sông Giorđan.
Đức Giêsu không bao giờ ép uổng, không bao giờ giăng bẫy rình bắt ai. Ngài chẳng hề làm áp lực, cũng không tìm cách mê hoặc dụ dỗ người nào. Nguời ta vẫn có thể đi sát bên Ngài mà không hay biết, vẫn có thể thấy Ngài mà không buồn nhìn theo. Có khi chúng ta phải cần đến cái nhìn hay lời khuyên của một ai khác, của ai đó thì thầm bên tai “Đây là chiên Thiên Chúa”. Tuy nhiên chỉ có người nào biết tìm kiếm và khát khao chân lý và tình yêu thật mới có thể nắm bắt, mới có thể lay động và lắng nghe (Fiches dominicales B, tr 66).
II. ĐÁP TRẢ TIẾNG CHÚA GỌI.
Trong đêm tối, Chúa đã gọi Samuel và muốn ông làm tiên tri và thay thế vai trò của thầy cả Hêli, Samuel đã mau mắn đáp trả lời mời gọi ấy:”Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Đáp lại tiếng gọi của Chúa đòi phải có sự can đảm và liều mạng vì nhiều lúc Chúa trao cho ta sứ mạng đòi hỏi nhiều hy sinh, đau khổ, gian nan thử thách, có khi phải hy sinh cả mạng sống nữa. Sự đáp trả lại tiếng gọi của Chúa nơi Abraham đã nói lên đức tin của ông và nói lên ông đã tỏ ra can đảm thế nào trước tiếng gọi của Chúa.
Truyện: Thomas Merton.
Thomas Merton mồ côi cha mẹ lúc 16 tuổi, năm 20 tuổi ông trở thành đảng viên cộng sản, ông hoàn toàn không tin gì về những sự siêu nhiên và sống một nếp sống chạy theo vật chất, nhục lạc. Một đêm kia, khi đang ở trong một khách sạn, tự dưng ông nhìn lại đời mình, thấy nó quá trống rỗng và cũng quá nhầy nhụa, đến nỗi ông chê chán chính mình. Lúc đó chẳng biết làm gì khác, Thomas Merton qùi gối xuống và cầu nguyện:”Lạy Chúa, từ trước tới nay tôi chẳng hề tin Chúa và ngay bây giờ tôi cũng chẳng biết có Chúa hay không. Nhưng nếu thật có Chúa thì xin Ngài hãy kéo tôi ra khỏi vũng bùn nhầy nhụa của đời tôi hiện tại”. Đêm hôm đó lần đầu tiên Thomas Merton cầu nguyện. Ông đã gặp được Chúa và từ đó mãi mãi gắn bó với Chúa. Sau đó, ông đi tu dòng Trappe. Mọi sự bắt đầu từ một đêm gặp Chúa.
Phải có thiện chí đi tìm Chúa trong cuộc sống. Mặc dầu Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng, muốn làm gì cũng được, nhưng Ngài không thích làm một mình, mà muốn kêu mời con người chúng ta cùng làm với Ngài.
Thánh Augustinô đã viết:”Khi tạo dựng con, Chúa không cần hỏi ý con. Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần sự hợp tác của con”. Cứ nỗ lục tìm Chúa thì sẽ gặp được Ngài vì Chúa đã nói:”Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy”. Vậy nếu ta đi tìm Chúa mà Chúa lại không muốn cho chúng ta gặp được Ngài sao? Điều đó hoàn toàn mâu thuẫn. Và khi đã gặp được Ngài ta phải tin theo.
Truyện: Phim Ben Hur.
Nhiều người đã được xem cuốn phim Ben Hur, một cuốn phim hoành tráng. Nội dung câu chuyện rút trong tiểu thuyết nhan đề Ben Hur của đại tướng Lew Wallace.
Cuốn sách thành hình có lẽ do một sự ngẫu nhiên. Hai sĩ quan cao cấp, là bạn thân với nhau gặp nhau trên một chuyến xe lửa. Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu, hai ông cùng giống nhau trong quan niệm vô thần. Đó là đại tướng Lew Wallace và đại tá Robert Ingersoll. Nhất là đại tá Robert Ingersoll người vô thần nổi tiếng ở Mỹ quốc.
Trong câu chuyện hai ông đề cập đến vấn đề tôn giáo, vấn đề vai trò Chúa Giêsu trong tôn giáo. Một người nói:Tôi rất bất bình khi người ta dị đoan mê tín mà đem thần thánh hóa con người Giêsu lịch sử, và coi như là con của Thượng đế.
Rốt cuộc, vị đại tướng đề nghị: Tôi thấy nên có một người nào đứng ra viết một bộ tiểu thuyết về con người Giêsu bằng xương bằng thịt thực sự. – Thưa đại tướng, tôi rất tán thành ý kiến ấy và đại tướng nên đảm nhận việc này.
Đại tướng ưng nhận và bắt đầu tìm tài liệu nghiên cứu. Ông bỏ ra khá nhiều thì giờ và công phu để nghiên cứu kỹ lưỡng về đời sống Chúa Giêsu. Ông cố gắng chứng minh Chúa Giêsu chỉ là người chứ không phải thần thánh hay con Thượng Đế gì hết.
Sau cùng, bộ tiểu thuyết được tung ra cho dân chúng, sách bán chạy như tôm tươi, vào số cuốn sách bán chạy nhất. Người ta đã đem câu chuyện đóng thành phim và cuốn phim thu hút nhiều khán giả nhất.
Nhưng một điều đặc biệt đáng chú ý là trong khi lao công khổ cực để khám phá sự thật thì đại tướng Wallace đã tìm thấy chân lý. Chân lý đảo lộn quan niệm cả cuộc đời của vị đại tướng đó là: Chúa Giêsu không phải chỉ là người không mà Ngài còn là Con Thiên Chúa nữa.
Đại tướng Wallace đã trở thành môn đệ của Chúa vậy.
Wallace đã thành tâm tìm hiểu Chúa nên đã tìm thấy sự thật. Đây cũng là thiện chí tối thiểu Chúa đòi để gặp được Chúa vậy (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật năm B, tr 139).
III. GIỚI THIỆU CHÚA CHO NGƯỜI KHÁC.
Chúng ta đã được hân hạnh biết Chúa và tin theo Chúa. Đây là một hồng ân Chúa ban nhưng không cho chúng ta. Nếu Chúa Giêsu đã dạy:”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho đi nhưng không” thì chúng ta cũng phải chia sẻ hồng ân ấy cho người khác để họ tin theo Chúa mà được hưởng nhờ ơn cứu độ.
Hôm nay Anrê giới thiệu Phêrô em mình cho Chúa Giêsu:”Chúng tôi đã gặp Đức Messia”(Ga 1,41). Rồi dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu. Anrê là người luôn đứng ra giới thiệu người khác cho Chúa Giêsu. Trong Tin mừng, ba lần nhắc đến Anrê, là ba lần ông dẫn người khác đến với Chúa Giêsu: ở đây ông dẫn Phêrô đến với Chúa, thứ đến ông dẫn em bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ, cuối cùng ông đưa những người Hy lạp thắc mắc đến với Chúa. Anrê rất vui đưa được người khác đến với Chúa. Ông nổi bật như là một người chỉ có mong muốn là chia sẻ vinh quang, ông là người có tâm tình truyền giáo. Sau khi chính mình đã được ở gần Chúa, ông dành trọn đời mình để dẫn đưa người khác bước vào tình yêu thương đó.
Khi Anrê đưa Phêrô đến với Chúa Giêsu, Ngài nhìn ông, đó là một cái nhìn tập trung chăm chú, chẳng những thấy mặt bên ngoài mà còn đọc được cả tâm trí bên trong nữa. Khi nhìn Simon, tên của ông lúc bấy giờ, Ngài bảo:”Ngươi là Simon, ngươi sẽ được gọi là Kê-pha “(nghĩa là đá). Khi một người có mối liên hệ mới đối với Chúa, cuộc đời người ấy như được bắt đầu lại, trở thành một người mới, nên cần một tên mới...
Nếu Anrê không giới thiệu Phêrô với Chúa Giêsu thì có lẽ chẳng bao giờ có tông đồ Phêrô đá tảng của Hội thánh. Nếu Anrê không giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá”, thì có lẽ chẳng có phép lạ đầy ngoạn mục hứng khởi trong sách Tin mừng
Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta xem xét kỹ lưỡng lý do tại sao chúng ta còn miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác ? Nếu chúng ta tin Phúc âm là Tin mừng và nếu chúng ta tin Đức Giêsu là kho báu to lớn nhất mà con người có thể chiếm hữu, thì tại sao chúng ta lại miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với con cái chúng ta, với bạn bè chúng ta và với những kẻ mà chúng ta biết đang tìm kiếm một niềm tin ?
Chúng ta có nhiều cách giới thiệu Chúa cho người khác, tùy theo sáng kiến mà Chúa soi sáng cho mỗi người. Nhưng giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác tốt nhất, cụ thể nhất, hữu hiệu nhất là bằng chính đời sống gương mẫu, đời sống tốt đẹp của chúng ta. Thực tế đã chứng minh: nhiều người trở lại tin Chúa vì thấy đời sống gương mẫu, bác ái của các tín hữu. Chính nếp sống đạo đức, thánh thiện, ngay thẳng, chân thành của chúng ta là một tấm gương trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn nhiều bài giảng hùng hồn.
Người ta thường nói:”Trăm nghe không bằng một thấy”, chính cái hình ảnh tốt đẹp in sâu vào tâm hồn người ta, khiến họ phải suy nghĩ và có một sức lôi kéo mãnh liệt khiến họ không thể chống lại được. Vì thế, người ta cũng thường nói:
Lời nói như gió lung lay,
Gương bày như tay lôi kéo.
Truyện: Gương sáng của một Linh mục.
Chuyện kể rằng: một hôm, trên đường trở về nhà xứ, một linh mục kia vừa đi vừa cầm trí đọc kinh. Có hai thanh niên cùng về chung đường. Khi đã đi cách linh mục kia một đoạn khá xa, họ gặp một người hành khất ngồi bên lề đường giơ tay xin họ. Một anh cho ông ấy mấy đồng lẻ trong khi anh kia nảy ra một ý tưởng, anh nói với bạn:
- Ông cha hồi nãy thế nào cũng đi qua đây. Tôi cá với anh là ông ta chẳng bố thí cho người ăn mày này đâu, chúng ta thử rình xem.
Cả hai trốn vào bụi cây gần đó. Ít phút sau, vị linh mục kia đi tới. Ngài đứng lại nhìn người ăn mày, đưa tay lục hết túi trên túi dưới, rồi nói với người ăn mày:
- Ông bạn đáng thương ơi, rất tiếc tôi chẳng có đồng nào giúp ông.
Hai thanh niên nghe thấy thế thì khúc khích cười nói:
- Anh thấy chưa, tôi nói có sai đâu.
Lúc ấy người ăn mày lại tiếp tục nài xin. Vị linh mục nhìn người ăn mày rồi bảo ông ta:
- Ông đợi tôi một chút.
Ngài nhìn trước nhìn sau, rồi chui vào bụi cây gần đó, loay hoay một hồi rồi bước ra, tay cầm một chiếc quần dài đã cuộn gọn lại. Ngài đưa cho người ăn mày và ân cần nói:
- Đây, ông bạn cầm đỡ chiếc quần này, tuy nó hơi cũ lại đang mặc dở dang, nhưng có lẽ nó cũng giúp phần nào cho ông bạn. Nhớ đừng kể cho ai nghe đấy. Thôi tôi đi nhé.
Hôm sau, có hai người khách lạ đến bấm chuông nhà xứ rất sớm và xin xưng tội. Vị Linh mục nhận ngồi toà giải tội ngay. Và tất cả đầu đuôi câu chuyện đã được hai thanh niên thuật lại, lòng hối hận, dạ chân thành ăn năn. Vị Linh mục ngẩn ngơ thốt lên:
- Ôi Thiên Chúa nhân lành, chỉ với một chiếc quần cũ thôi mà Ngài đã đem về cho con những hai linh hồn. Tạ ơn Chúa.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện cùng Chúa:
“Lạy Chúa, xin dạy cho mỗi người trong chúng con biết rằng ngay ở đây, trên trái đất này, Chúa chỉ biết nhờ bàn tay chúng con để giúp đỡ những người thiếu thốn ; Chúa chỉ biết dùng trái tim chúng con để ôm ấp những kẻ cô đơn ; Chúa chỉ nhờ giọng nói của chúng con để chia sẻ sứ điệp loan báo cuộc sống, nỗi khổ đau và cái chết Chúa đã chịu vì chúng con”.
“Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết rằng ở nơi đây, trên trái đất này, chúng con là đôi tay của Chúa, chúng con là tiếng nói của Chúa, và chúng con là trái tim của Chúa” (M. Link).
27. Chiên Thiên Chúa – Lm Vũ Đình Tường
Thánh Danh ‘Chiên Thiên Chúa’ được thánh Gioan Tiền Hô dùng để chỉ Đức Kitô Cứu Thế. Có lẽ đây là lời tiên tri quan trọng nhất trong cuộc đời rao giảng của Gioan, đấng đi trước dọn đường cho Chúa Cứu thế. Đây cũng là lời tiên tri cuối cùng của Ngài trước khi chịu xử trảm chém đầu dưới tay hoàng đế Hêrôđê. Ngoài giải thích linh ứng bởi Thánh Thần thì không còn giải thích nào thích hợp hơn làm sáng tỏ điều gì dẫn đến việc Gioan giới thiệu Đức Kitô với các môn đệ mình khi ông gọi Ngài là Chiên Thiên Chúa. Điều Gioan với thiệu với môn đệ mình xưa kia nay được Kitô hữu tuyên xưng ba lần trước khi đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa. Khi Gioan tuyên xưng Đức Kitô là ‘Chiên Thiên Chúa’ ngài có lẽ không hiểu rõ ràng như ngày nay chúng ta biết đó là việc Đức Kitô chịu chết thay cho nhân loại, xoá tội trần gian và sống lại để ban sự sống trường sinh cho nhân loại.
Điều chắc chắn là hình ảnh chiên hiến tế thánh Gioan biết có nguồn gốc xa xưa từ Cựu Ước. Cả hai biến cố lịch sử trọng đại đều liên quan đến hình ảnh chiên hiến tế, được ghi nhận trong cuốn sách đầu trong Cựu Ước là sách Sáng Thế Kí chương 12-13 và 22.
Biến cố lịch sử trọng đại thứ nhất Yavê giải thoát dân Ngài khỏi thời kì nô lệ dưới triều đại của Pharaô. Trong ngày đó gia đình dân Chúa chọn giết con chiên làm bữa ăn và dùng máu chiên bôi trên khung cửa trước nhà. Nhà nào có máu chiên trên khung cửa mọi người được bình yên và thoát nạn chết. Sau đó toàn dân Israel an toàn ra đi khỏi vùng đất nô lê, vượt qua Biển Đỏ. Biến cố này phát sinh ngày lễ kính hàng năm của dân tộc Do Thái đó là lễ Vượt Qua tưởng niệm ngày được tự do, giải thoát khỏi ách nô lệ của ngoại bang.
Biến cố thứ hai Yavê Thiên Chúa thử tổ phụ Abraham khi nói với ông hãy hiến tế người con duy nhất là Isaac cho Ngài. Để chứng tỏ lòng yêu mến Yavê hơn chính bản thân mình Abraham thương con nhưng Ngài thương Thiên Chúa nhiều hơn nên không ngần ngại hiến tế con một mình cho Yavê. Thiên Chúa sai Thánh Thần Chúa xuống can thiệp cứu Isaac khỏi chết và thay thế bằng một con chiên sừng mắc bụi gai. Điều này dẫn Abraham trở thành tổ phụ của những ai có lòng tin vào Thiên Chúa.
Thời Cựu Ước biến cố bôi máu chiên trên khung cửa trước nhà trở thành biểu tượng của an toàn, của bào vệ dân Israel khỏi sự chết. Ngoài ra chiên còn là hình ảnh của giải thoát khỏi tình trạng nô lệ để được sống tự do. Từ đó phát sinh ngày mừng kính lễ Vượt Qua hàng năm. Thịt chiên là thực phẩm chính trên bàn ăn của các gia đình ở phương Tây, là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng chính nuôi cơ thể. Lông chiên giữ cơ thể ấm suốt mùa đông giá rét. Chiên Thiên Chúa thực hiện nhiều điều kì diệu ngoài sự suy hiểu của con người. Ngoài việc nuôi dưỡng tâm linh Kitô hữu, máu Chiên Thiên Chúa xoá sạch tội trần gian và việc Đức Kitô sống lại từ cõi chết ban sự sống trường sinh cho nhân loại. Từ đó biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa thừa hưởng những hồng ân Thiên Chúa ban cho Đức Kitô, Con yêu dấu Ngài.
Chúng ta không những tránh khỏi sự chết, còn được ban cho sự sống trường sinh khi Đức Kitô gánh tội trần gian chịu khổ hình vào đúng dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái. Vì thế chúng ta có thể nói nhờ vào cuộc tử nạn và Máu Thánh Đức Kitô đổ ra chúng ta Vượt Qua được sự chết tiến đến đất hằng sống trường sinh.
28. Này Chiên Thiên Chúa – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Môn chơi chữ có thể rất vui. Một số người nói một từ và bạn có thể trả lời theo những gì đến trong tâm trí bạn. Thí dụ, tôi nói “nhỏ” và bạn nói “lớn”. Tôi nói “bóng đá”, bạn nói “bóng chày”. Gioan Tẩy Giả nói Đây Chiên Thiên Chúa” và chúng ta có thể nói “cái gì?”.
Để trình bày Chúa Giêsu. Thánh Gioan Tẩy Giả đã có thể làm tốt hơn khi tuyên bố: “Hãy chiêm ngắm, đó là Chúa của các ngươi” hoặc “Đó là Đấng Cứu Độ” hay “đấy là Đức Kitô” không hay hơn sao? Tất cả những tước hiệu này xem ra diễn tả rõ ràng hơn: “Chiên của Thiên Chúa”.
Thật ra, đối với người Do thái, tước hiệu mà Gioan Tẩy Giả rao giảng thì từ: “Chiên Thiên Chúa” gợi lên trong tâm trí họ toàn bộ giáo lý đức tin của dân riêng Thiên Chúa. Ngay lập tức, họ nghĩ rằng không phải là một con chiên nhỏ bé nhưng là sự lớn lao của quyền năng và lòng thương xót Chúa hướng đến họ qua dấu máu của con chiên, nhờ đó họ được cứu thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập và được mang đến sự tự do và đời sống mới nơi đất Hứa. Mỗi năm và dịp lễ Vượt Qua, họ lại tưởng nhớ và mừng lễ Cứu Độ bằng việc tham dự vào bữa ăn tối Vượt Qua.
Trong Thánh Lễ, việc mừng sự cứu độ của chúng ta trong Đức Kitô, chúng ta nhìn lên Mình và Máu Chúa, chúng ta nhận biết Người bởi chúng ta hiểu những lời của vị linh mục: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Khi chúng ta nghe những lời này trước khi rước lễ, chúng ta được mời gọi nhớ lại những gì mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta, Người như Chiên Vượt Qua. Chúng ta diễn tả niềm tin của chúng ta trong những lời tuyên xưng Thánh Thể. Khi nhớ chiên Vượt Qua đã bị hy sinh sát tế như thế nào, chúng ta được mời gọi suy niệm về chung kết là việc Chúa ngự đến như là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ thế gian này: “Đức Kitô đã chết, Đức Kitô đã sống lại, và Chúa Giêsu Kitô sẽ đến trong vinh quang”.
Khi suy niệm về sự giải thoát đã ban cho các tổ phụ chúng ta, trong đức tin, chúng ta được mời gọi suy niệm về việc được giải thoát khỏi tội lỗi của chúng ta: “Lạy Chúa, bằng thánh giá và sự Phục Sinh của Người, Người đã cho chúng con được tự do. Chúa là Đấng Cứu Độ thế gian”. Khi suy nghĩ về đời sống mới của các tổ phụ tinh thần của chúng ta nơi đất Hứa, chúng ta được mời gọi suy niệm đời sống mới của chúng ta trong Đức Kitô: “Bằng cái chết, Người đã tiêu diệt sự chết nơi chúng ta, bằng việc sống lại, Người đã phục hồi sự sống cho chúng ta”. Khi suy niệm về các tổ phụ đã kỷ niệm sự giải thoát của mình bằng việc dự phần vào bữa tối Vượt Qua, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm việc chúng ta cử hành ơn cứu độ của chúng ta nơi bữa tiệc Thánh Thể: “Lạy Chúa Giêsu Kitô khi chúng con ăn bánh và uống chén này, chúng con tuyên xưng việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến”.
Khi mời gọi mọi người lên hiệp lễ, vị linh mục nói: “Phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” hay là câu “Hạnh phúc thay những người được gọi đến dự bữa tối với Người”. Bữa tối hoặc tiệc đây không phải ám chỉ bữa tối sau hết nhưng là tiệc cưới của Con Chiên Thiên Chúa trên thiên đàng nơi mà các tín hữu của Chúa mừng Giao Ước tình yêu và trung tín (Kh 19,9). Bữa tiệc huy hoàng và đời đời là số phận của chúng ta bởi vì chúng ta nên một với Chiên Thiên Chúa ở trên trời.
Không có từ đơn giản nào mà thích hợp như một câu trả lời khi chúng ta nghe xướng: “Đây Chiên Thiên Chúa”, nhưng một cuộc suy niệm sâu xa về sự phong phú của tước hiệu này sẽ giúp chúng ta hiểu biết Chúa Giêsu tốt hơn và dẫn chúng ta tới dự phần đầy đủ hơn nơi bữa tiệc Thánh Thể của Chiên Thiên Chúa.
29. Sứ mạng truyền giáo của chúng ta
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tin Mừng Lễ Hiển Linh, Lễ của Ánh Sáng cho chúng ta biết, Ba Nhà Đạo Sĩ đã nhìn thấy “ngôi sao của Người” (Mt 2, 2), ngôi sao vừa “ló dạng” (c. 2,9), Ngôi sao Giêsu. Mùa Thường Niên mới bắt đầu, Gioan Tẩy Giả thấy sự huy hoàng rực rỡ của Ánh sao, hay của Giao Ước mới đang ló rạng thì giới thiệu cho môn sinh mình rằng: "Đây là Chiên Thiên Chúa" (Ga 1, 35). Chúng ta cùng nhau suy niệm phương cách Gioan giúp các môn đệ của ông nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, từ đó rút ra bài học về ơn gọi truyền giáo của mình.
Hai môn đệ Gioan đến hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn đợi ai khác?" Đấng phải đến, theo niềm tin của người Dothái là chính Đấng Cứu Thế, Đấng họ hằng mong đợi theo ngôn sứ Malakia tiên báo: "Hãy dọn đường Chúa" (Ml 3,1).
Gioan được sai đến để làm Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế. Ông đã nhận ra Người bên giòng sông Giorđan, đã giới thiệu cho dân chúng rằng Người là: "Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian" (Ga 1,29).
Khi sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu, hẳn Gioan không phải là người không biết đến vai trò và sứ vụ của Chúa Giêsu, bởi vì khi ngài còn được tự do, chưa phải ngồi tù, chính Gioan nhận ra Chúa Giêsu ngay từ khi còn trong lòng mẹ, bằng chứng là Gioan đã nhảy mừng lên vì vui sướng khi được Đức Maria đến thăm mẹ mình là bà Elisabét. Gioan cũng thấy cùng với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình chim bồ câu đậu xuống trên trên vai Chúa Giêsu và có tiếng từ trời vọng xuống để làm chứng cho Đấng từ trời mà đến:"Con là Con yêu dấu của Cha ; Con đẹp lòng Cha" (Mc 1,11); và cũng chính ông đã loan báo về Đấng đến sau mình: "Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần" (Mc 1,8). Vì uy quyền và chức vụ của Đấng ấy là Con Đấng Tối Cao, khiến ông không đáng cúi xuống cởi giây dày cho Người; sau cùng, Gioan tuyên bố: "Đây là chiên Thiên Chúa".
"Đây là chiên Thiên Chúa", lời này được cất lên từ miệng ông Gioan khi thấy Chúa Giêsu từ sông Giorđan bước lên: Chúa Giêsu đi ngang qua, lúc ấy chừng 4 giờ chiều. Gioan và ông Anrê, hai thanh niên con nhà chài lưới, nghe lời giới thiệu của thầy mình liền cất bước đi theo Chúa Giêsu, "Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy" (Ga 1,39). Người quay lại hỏi hai thanh niên, "Các ngươi tìm gì?" (Ga 1,38). Họ ngạc nhiên trước câu hỏi của Chúa, họ trả lời: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Người bảo họ, "Hãy đến, và các ngươi sẽ thấy" (Ga 1,39). Cả hai cùng đến, và họ đã trở thành các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Đúng là gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh. Chưa dừng lại ở đó, Anrê thấy mình biến đổi, và được đầy tràn hạnh phúc, ông đã chạy về tìm người anh kể cho anh biết, "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêssia" (Ga 1,41). Và ông đưa anh mình đến với Chúa Giêsu. "Chúa Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: "Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá" (Ga 1,42).
Phêrô! Simon, là Đá ư? Không ai trong số họ được chuẩn bị để hiểu những lời này. Họ không biết rằng Chúa Giêsu đã đến để xây dựng Giáo hội của Chúa bằng những viên đá sống động. Người đã chọn hai môn đệ đầu tiên là Gioan và Anrê, và đặt Simon là đá để xây Hội Thánh của Người.
Trong lịch sử cứu độ, thánh Gioan Baotixita được xem như là nhân vật lớn cuối cùng của thời Cựu Ước và là nhân vật đầu tiên của Tân Ước. Ông là nhịp cầu nối giữa Giao ước cũ với Giao ước mới, là đèn đối với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể đối với Chàng Rể, người cao trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà với Trưởng Tử mọi loài thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện, ông có sứ mệnh rất quan trọng là giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng.
Như Gioan trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải làm gì để thi hành ơn gọi truyền giáo của mình? Bằng lời rao giảng chăng? Chưa đủ, bằng đời sống đạo, đời sống bác ái chăng? Hơn thế nữa, trong thế giới hôm nay, chúng ta cần đưa mọi người đến với Chúa Giêsu, để họ nhận biết Chúa là Đấng quyền năng, giàu lòng thương xót, nhân từ, hết mực thứ và là Đấng Cứu Độ duy nhất. Người đến để mang tình yêu, sự sống và hạnh phúc cho con người. Từ đó nẩy sinh đức tin trong mọi người, biến họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu.
Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta noi gương hai môn đệ của Gioan, những người đầu tiên đã theo Chúa và ở lại với Chúa, đi vào trong tương quan thân tình với Chúa để Chúa trực tiếp hướng dẫn, sau này làm chứng cho Chúa.
Noi gương Gioan Tẩy Giả, chúng ta sẵn sàng lui vào hậu trường để Chúa Giêsu được lớn lên và can đảm giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác để họ tin theo và thi hành ơn gọi truyền giáo của mình. Amen.
30. Đây là Chiên Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Nếu Chúa nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, lời Chúa mời gọi chúng ta sống sao cho xứng đáng làm con Thiên Chúa, thì Chúa nhật này, lời Chúa mời gọi chúng ta đặt mình vào vị trí của nhóm môn đệ Gioan Tẩy Giả, nhất là của chính Gioan để thấy được kế hoạch của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Tin Mừng hôm nay trình bày Gioan Tẩy Giả thật đúng với sứ mạng của ông là chỉ cho mọi người biết Đấng Cứu Thế: Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa" (Ga 1, 35). "Chúa Giêsu đang đi và Gioan nói", là một hành động diễn tả sự liên tục giữa Giao ước cũ với Giao ước mới, vì Gioan Tẩy Giả đã không nói về chính mình, lời của ông được rút ra từ Cựu Ước đan vào nhau để làm sáng tỏ các mầu nhiềm. Năm Phụng vụ mới bắt đầu, Gioan Tẩy Giả thấy sự huy hoàng rực rỡ của Giao Ước mới đang ló rạng thì giới thiệu cho môn sinh: "Đây là Chiên Thiên Chúa"(Ga 1, 35).
Đây là Chiên Thiên Chúa
Gioan Tẩy Giả khẳng định, Chúa Giêsu là Chiên duy nhất chết thay cho đoàn chiên là nhân loại chúng ta. Không những thế, Người còn phục hồi tất cả những người sống trên trần gian này và cứu chuộc mang về cho Thiên Chúa Cha. Một người chết thay cho toàn dân, để tất cả vâng phục Thiên Chúa; chỉ một mình Người đã chịu chết để cứu chuộc muôn người… Thật thế, con người đã trở nên hư hỏng, sống trong tội lỗi và đây là lý do tại sao Chúa Cha đã cho Con của Ngài tới làm giá chuộc tội cho toàn dân (Ga 3,16), vì Người là đầu và tất cả mọi sự ở trong Người. Để tất cả chúng ta sống trong Người, Người đã vui lòng chịu chết và hiến tế vì chúng ta, Người đã chết thay cho chúng ta, và sống lại vì chúng ta. Người là Chiên thật xóa bỏ tội trần gian.
Gioan là mẫu người tìm Chúa và giới thiệu Chúa
Gioan Tẩy Giả là một tiên tri, biết nhận ra Thiên Chúa giữa loài người. Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa mặc khải trong xác phàm, Lời làm người để cứu chuộc nhân loại. Gioan là tiếng, ông là người lồng tiếng truyền đi sứ điệp mà ông đã được ủy thác. Sứ điệp Gioan truyền là một công thức tuyệt đẹp và độc đáo, được lặp đi lặp lại ở tất cả các Bí tích Thánh Thể, được thể hiện dưới ánh mắt thân mật và yêu thương nhất của Thiên Chúa: "Đây là Chiên Thiên Chúa"(Ga 1, 35). Đây sự tuyển chọn Abraham và giao ước với nhà Đavid, đây là người Tôi Tớ đau khổ và là Chiên Vượt Qua. Đây là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi. Đây là Con Thiên Chúa.
Gioan không nói như là tiếng vọng của tiên tri Isaia, nhưng ông đã viết lời tiên tri một lần nữa và tham gia việc thực hiện lời hứa. Ông đã sống đến cùng ơn gọi của mình là chỉ cho mọi người biết Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa.
Noi gương Gioan sống chứng nhân
Con người tìm Thiên Chúa, Thiên Chúa đáp trả, con người lại tiếp tục giới thiệu Chúa cho tha nhân, nên câu hỏi: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?" (Ga 1, 38). là câu hỏi mà hai anh em nhà Anrê và Simon Phêrô sau khi được thầy Gioan giới thiệu đã hỏi Chúa. Khuynh hướng tự nhiên nơi tâm hồn con người là đi tìm Chúa, và Thiên Chúa luôn luôn mau mắn đáp trả, mời gọi con người đến gặp Người: "Hãy đến mà xem" (Ga 1, 39)..
Hai chàng thanh niên hỏi, rồi một câu trả lời có tính cách như là một lời mời gọi. Khi nghe những lời chỉ dẫn đó, hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả liền theo Chúa Giêsu. Phải chăng đây là một biến cố đầy ý nghĩa? Khi Chúa Giêsu hỏi: "Các ngươi tìm gì?" (Ga 1, 38) thì hai môn đệ trả lời cũng bằng một câu hỏi: "Thưa Thầy, thầy ở đâu?" (Ga 1, 38). Và Chúa Giêsu trả lời: "Hãy đến mà xem". Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười (Ga 1, 39). Họ trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Đến lượt Anrê, Anrê lại dẫn anh mình là Simon Phêrô đến với Chúa Giêsu.
Khi trình bày lại cuộc gặp gỡ nầy với Chúa Giêsu, phụng vụ ngày hôm nay muốn chứng tỏ điều trọng nhất trong đời sống chúng ta. Hỏi là kết quả của cuộc kiếm tìm. Con người đi tìm Thiên Chúa. Con người, tận trong thâm tâm, hiểu rằng cuộc kiếm tìm này là định luật nội tại của cuộc sống. Con người đi tìm đường đi trong thế giới hữu hình, và qua thế giới hữu hình, con người đi tìm cái vô hình trong cuộc hành trình thiêng liêng của mình.
Mượn lời vịnh gia, mỗi người trong chúng ta có thể thân thưa với Chúa: "Lạy Chúa, con đi tìm nhan thánh Chúa; xin đừng ẩn mặt xa con" (Tv 27. 26, 8-9). Mỗi người trong chúng ta có một lịch sử cá nhân riêng và mang trong mình khát vọng muốn thấy nhan Thiên Chúa, một ước vọng mà người ta cảm thấy cùng với việc khám phá thế giới tạo vật.
Chúng ta hỏi Chúa: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?" (Ga 1, 38). Giáo Hội trả lời cho chúng ta mỗi ngày rằng: Chúa Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể, bí tích của sự chết và sống lại, trong và nhờ bí tích này, chúng ta nhận ra Thiên Chúa sống động trong lịch sử con người.
Câu trả lời cho câu hỏi: "Thưa Thầy, thầy ở đâu?" Còn cần phải được nghe như sau: Thầy ở trong tất cả mọi người được cứu chuộc. Đúng vậy, Chúa Kitô, Đấng có những lời ban sự sống đời đời, Đấng là "Đầu của Dân mới và phổ quát của tất cả những con cái của Thiên Chúa" (LG số 13), hiện diện trong dân Người. Gioan đã làm chứng và giải thích về sự nhận biết và tôn thờ cũng như đón nhận Lời để thông phần vinh quan với Lời; hành động đức tin biến chúng ta thành người tôi tớ hợp nhất với người môn đệ dưới chân Thánh Giá: "Đây là Chiên Thiên Chúa "(Ga 1, 35). Đến lượt chúng ta, là thành phần của Giáo hội, thành phần sống động và có trách nhiệm, hãy là những đồ đệ và là những chứng nhân của Chúa Kitô, Đấng mạc khải Thiên Chúa Cha. Hãy sống trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống. Amen.
31. Chúa Nhật 2 Thường Niên
Bài Tin Mừng hôm nay: Ga 1, 35-42 trình bày cho chúng ta thấy Gioan và Anrê bước theo Chúa Giêsu, (là những Tông Đồ đầu tiên theo Chúa Giêsu làm thành những Tông Đồ nồng cốt cho 12 Tông Đồ sau này). Nhìn vào ơn gọi của hai ông (sự dấn thân quyết liệt, mau mắn bước theo Chúa Giêsu của hai ông,) ta thấy được một vài ý nghĩa:
Người đi theo Chúa Giêsu trước tiên là người có lòng muốn
Sống trong xã hội thời đó, giống như những người Do Thái khác, Anrê và Gioan cũng có tâm tình khao khát, các ông trông mong Đấng Thiên Sai đến để giải thoát họ. Hơn nữa hai ông còn muốn "mặt giáp mặt", muốn gặp được Người để thỏa lòng mong muốn. Bởi vì Người là "Chiên Thiên Chúa", là Đấng Thiên Sai, là Đấng Messia mà các ông đợi trông, muốn gặp mặt tự trong cõi lòng. Nên khi nghe Gioan Tiền Hô giới thiệu, Anrê và Gioan tin ngay và liền bước theo Đức Giêsu.
Phần mình, Đức Giêsu muốn hai ông ý thức việc làm của mình, Người muốn các ông xác tín rõ ràng việc đi theo của hai ông: hai ông đi theo Đức Giêsu để làm cái gì? Người muốn các ông không phải là những người hùa theo đám đông, nghe dư luận, làm theo tiếng nói quần chúng mà không có sự ý thức. Phải có sự phân định ơn gọi rõ ràng, có sự thúc bách tận cõi lòng. Sống có mục đích. Vì thế Người hỏi: "các ngươi tìm gì?"
Đối với mình, vì đã có lòng khao khát, đã có thao thức, đã có để tâm nghe, đã có lòng muốn bước theo nên khi nghe được tiếng Người hỏi, và như bắt được tần sóng, hai ông đã thưa: "Thầy ở đâu?". Lòng muốn của các ông được Đức Giêsu tạo ban cho cơ hội bước theo Đức Giêsu.
Người đi theo Chúa là người có lòng mến Chúa thật sự
Tình yêu Đức Kitô thật mãnh liệt, đã lôi cuốn hai ông. Hai ông đã bỏ Gioan Tiền Hô mà dứt khoát đi theo Đức Giêsu, dám sống dám chết cho Người, dám dấn thân cho Người.
Thế nên nếu ta có thiện chí, có lòng khát khao thật sự, tận thâm tâm, trong cõi lòng của mình để bước theo Chúa như hai ông Anrê và Gioan trong bài Tin mừng hôm nay thì Đức Giêsu sẽ cho ta gặp được chính Người, Người sẽ biến đổi ta. Lòng mến Đức Giêsu thật sự được thể hiện qua cách đáp trả dứt khoát của hai ông.
"Hãy đến mà xem." Khi nghe Đức Giêsu mời gọi, các ông liền mau mắn bước theo Thầy Chí Thánh Giêsu. Và rồi chẳng những hai ông đến xem mà còn ở lại, lưu lại. Nhờ đó hai ông được Đức Giêsu biến đổi. Ở với Đức Giêsu, các ông được sưởi ấm lòng mến, thắp thêm niềm tin, đón nhận được nguồn bình an cần thiết, được bồi bổ tình yêu. Hơn nữa các ông còn được học biết cách sống của Người: yêu người, yêu Thiên Chúa, biết cầu nguyện, sống đời sống mới. Qua cách bước theo của các ông, chúng ta nhận thấy việc theo Chúa không phải là việc theo thời " người ta đi theo thì mình cũng đi" hay vì tình cảm ham thích nhất thời " ngày một, ngày hai" ,thích hùa theo dư luận cho vui,..nhưng quan trọng phải chú ý tới là: ý thức việc theo Đức Giêsu của mình là gì?. Việc theo Đức Giêsu phải thật sự dựa trên lòng mến chân thánh, tha thiết, trọn vẹn.
Người theo Chúa là người biết lắng nghe và đáp lại ý Chúa
Động cơ theo Đức Giêsu thiết yếu dựa trên việc người môn sinh dõi theo tiếng Chúa , ý muốn của Chúa, muốn thực hiện điều Đức Giêsu muốn. Do đó ta phải chuyên chăm cầu nguyện, cầu nguyện liên lĩ, cầu nguyện không ngừng. Khi ta mở lòng mình ra để chìm sâu vào trong ơn Chúa, chìm sâu vào sự hiện diện huyền nhiệm của Đức Giêsu trong cõi lòng mình, thì trí ta, lòng ta sẽ sáng suốt nhận thấy được điều Người muốn, để ta thực thi và chỉ muốn làm đẹp lòng Người mà thôi. Và khi đó ta không còn mong làm điều mình muốn nữa mà là mong muốn thực thi thánh ý Chúa. Nên là người Kitô hữu, ta hãy hoàn toàn dấn thân, toàn tâm toàn ý, đem hết cả tâm trí để bước theo Đức Giêsu, ta sẽ để Người dùng quyền năng theo cách của Người thực hiện chương trình cứu độ qua cuộc đời chúng ta.
Hôm nay Chúa cũng đang mời gọi chúng ta theo Chúa qua Hội Thánh. Chúng ta hãy thành tâm đáp lại lời mời gọi của Chúa. Tuy nhiên cũng giống như các môn đệ, kẻ được mời gọi không dừng lại ở người trung gian mà phải vượt lên tất cả, trực diện với chúa, sống với Chúa, ở lại với chúa. Đây là công việc của mỗi cá nhân mà không ai thay thế. Bên cạnh đó, đến với Chúa, người môn đệ trở thành nhân chứng cho người anh em xung quanh. Chúng ta có trách nhiệm giúp họ, nói về Chúa cho họ, chỉ cho họ về với Chúa. Đó còn là bổn phận cấp thiết cho chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta biết can đảm bước theo Chúa và dám sống cho Chúa.
32. Cuộc hội ngộ thần linh sơ khởi
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Chúa Nhật tuần này, niên lịch phụng vụ của Giáo Hội bước vào tuần thứ hai của Mùa Thường Niên, một mùa phụng vụ được chia làm hai phần, phần sau Mùa Giáng Sinh và phần sau Mùa Phục Sinh. Chính vì theo ngay sau Mùa Giáng Sinh, ý nghĩa phụng vụ của mùa thường niên phần đầu này gắn liền với Mùa Giáng Sinh. Ở chỗ, Chúa Giêsu tiếp tục việc tỏ mình ra cho dân Do Thái. Đó là lý do chúng ta thấy, ngay sau biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa tuần trước mở màn cho Mùa Thường Niên, mở màn cho việc Chúa Giêsu bắt đầu công khai tỏ mình ra nơi dân Do Thái, Giáo Hội đã không đọc ngay đến bài Phúc Âm về biến cố Chúa Giêsu chay tịnh trong hoang địa 40 đêm ngày ở tuần này, một biến cố xẩy ra ngay sau khi Người Chịu Phép Rửa, như được bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm ghi nhận, mà là một bài Phúc Âm khác, bài Phúc Âm của Thánh Gioan, bài Phúc Âm trình thuật về cuộc hội ngộ sơ khởi giữa Chúa Giêsu và những người đầu tiên muốn tìm đến với Người.
Một điểm khác cũng cần lưu ý về phụng vụ ở đây nữa là, Giáo Hội bao giờ cũng lấy bài Phúc Âm của Thánh Gioan cho tuần thứ hai của Mùa Thường Niên thay các bài Phúc Âm Nhất Lãm của từng chu kỳ A với Thánh Mathêu, B với Thánh Marcô và C với Thánh Luca. Và bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho Chúa Nhật Hai Thường Niên này mang một ý nghĩa chuyển tiếp liên quan đến biến cố Chúa Giêsu bắt đầu công khai tỏ mình ra. Thật vậy, theo tiến trình Phụng Vụ, một tiến trình cử hành trong một năm tất cả Mầu Nhiệm về Chúa Kitô, thì trước khi Chúa Giêsu bắt đầu công khai tự tỏ mình ra cho dân Do Thái đang trông đợi Đấng Thiên Sai, Người cần phải được giới thiệu với thành phần dân này.
Trước hết, qua biến cố Phép Rửa ở sông Dược-Đăng, Người đã được Chúa Cha giới thiệu đặc biệt với Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, vị sau đó đã chứng thực rằng: “Thực ra tôi không biết Người. Đấng sai tôi đến lấy nước mà làm phép rửa bảo tôi rằng ‘khi nào ngươi thấy Thần Linh xuống đậu trên ai thì đó là Đấng làm phép rửa bằng Thánh Thần’. Giờ đây chính mắt tôi đã thấy và chứng thực ‘Vị này là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn’” (Jn 1:33-34). Thế rồi, sau khi đã nhận diện thực sự ai là Đấng Đến Sau mình nơi biến cố làm phép rửa cho Người, “ngày hôm sau” Thánh Gioan liền giới thiệu Người với dân Do Thái nói chung, như bài Phúc Âm Thánh Gioan cho chu kỳ Năm A cho thấy, cũng như cho môn đệ của mình nói riêng, như bài Phúc Âm Thánh Gioan cho chu kỳ Năm B tuần này. (Còn chu kỳ Năm C của Chúa Nhật Hai Thường Niên, Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại biến cố tiệc cưới Cana, nơi các môn đệ đầu tiên được thấy vinh hiển của Thày mình lần đầu tiên tỏ ra qua việc can thiệp của Mẹ Maria, Vị ở trong trình thuật này như cũng đóng vai giới thiệu Con Mẹ cho các môn đệ của Người).
So sánh giữa bài Phúc Âm của Thánh Gioan cho chu kỳ Năm A và Năm B của Chúa Nhật Hai Thường Niên, chúng ta thấy có điểm giống nhau và điểm khác nhau ở ngay câu mở đầu của bài Phúc Âm. Nơi chu kỳ Năm A, Phúc Âm Thánh Gioan cho thấy Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu với dân Do Thái về Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” khi “Gioan thấy Chúa Giêsu tiến đến với mình”; còn nơi chu kỳ Năm B, bài Phúc Âm Thánh Gioan, bài Phúc Âm liên tục với bài Phúc Âm của chu kỳ Năm A, cho thấy Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu với hai môn đệ “đang ở Bêthany bên kia sông Dược-Đăng” về Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” khi “ông thấy Chúa Giêsu đi ngang qua”. Như thế, bối cảnh của việc Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu “Chiên Thiên Chúa” khác nhau, trước hết, khác nhau ở đối tượng được giới thiệu, lần đầu cho chung dân Do Thái và lần sau cho riêng hai môn đệ; sau nữa, khác nhau ở hành động của vị được giới thiệu, lần đầu khi Tiền Hô thấy “Chúa Giêsu tiến đến với mình”, lần sau khi Chúa Giêsu “đi ngang qua” chỗ của ông; còn nữa, khác nhau ở thời điểm giới thiệu, lần đầu xẩy ra trước khi Chúa Giêsu vào hoang địa chay tịnh, lần sau xẩy ra sau biến cố chay tịnh, vì Chúa Giêsu không chọn môn đệ trước biến cố này; sau hết khác nhau ở vị trí giới thiệu, lần đầu ở bên này sông Dược-Đăng, lần sau “ở Bêthania bên kia sông Dược-Đăng”. Nên lưu ý ở đây là không phải tự nhiên có chuyện ngẫu nhiên xẩy ra sự kiện vị trí giới thiệu khác nhau này đâu. Bởi vì, vị trí ban đầu này, tức ở “Bêthania” xứ Galiêa này, chính là vị trí Đấng Phục Sinh hẹn gặp “anh em” của Người (x Mt 28:10), để lập Bí Tích Rửa Tội cho các vị thi hành (x Mt 28:16-19) trước khi Người thăng thiên về trời (x Lk 24:50).
Vấn đề của bài Phúc Âm Thánh Gioan cho Chúa Nhật Hai Thường Niên Năm B hôm nay không dừng lại ở những chi tiết giống nhau hay khác nhau nơi việc Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu, mà là nhấn mạnh đến tác dụng của việc giới thiệu này. Thật ra, không biết Tiền Hô Gioan Tẩy Giả có ý giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ của mình bấy giờ hay chăng, hoặc chỉ tự nhiên hô lên như thế khi thấy lại Đấng Thiên Sai vô cùng cao trọng hơn mình (x Jn 1:27), một phản ứng không thể nào cầm hãm của một con người cao trọng nhất trong thành phần được nữ giới sinh ra (x Mt 11:11). Và không biết có phải Chúa Giêsu cũng cố ý đi ngang qua chỗ của vị tiền hô này để âm thầm kêu gọi hai môn đệ này của thánh nhân hay chăng? Chỉ biết rằng, sau khi nghe thấy thày mình nói “Chiên Thiên Chúa kìa!”, hai môn đệ của thánh nhân liền, như Phúc Âm thuật lại, “đi theo Chúa Giêsu”. Tại sao lần đầu Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng giới thiệu Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” với chung dân Do Thái, hai môn đệ này không “đi theo” Người như lần này? Phải chăng vì lần đầu Chúa Giêsu mới có ý đến với chung dân Do Thái thôi, chưa có ý gọi họ nên họ chưa cảm nhận được tiếng Người gọi để đi theo Người, đúng như Người sau này đã khẳng định trong Bữa Tiệc Ly: “Không phải các con đã chọn Thày, mà là Thày đã chọn các con” (Jn 15:16).
Thật thế, chính vì Chúa Giêsu muốn gọi hai người môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này mà lời Tiền Hô nói “Chiên Thiên Chúa kìa” đã đánh động họ. Tại sao hai môn đệ này lại bị tác động theo Chúa Giêsu qua danh xưng “Chiên Thiên Chúa” mà không phải với danh xưng “Đấng Thiên Sai” như một trong hai người họ sau này tuyên xưng trong cùng bài Phúc Âm hôm nay? Phải chăng lý do hai môn đệ này theo Chúa Giêsu là vì muốn biết xem vị được thày mình nói là “Chiên Thiên Chúa”, đến sau thày mình nhưng trổi vượt hơn thày mình, có thực sự là “Đấng Thiên Sai”?
Chỉ biết rằng, sau khi “họ đến nơi Người ở và ở với Người hôm đó”, thì cả hai người môn đệ này đã phải chứng thực là “Chúng tôi đã gặp Đấng Thiên Sai”, thậm chí một trong hai đã thúc giục anh em mình đến gặp Đấng Thiên Sai ấy nữa. Thế nhưng, Chúa Giêsu ở đâu và đã làm gì hay nói gì với hai người môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này mà cả hai đã nhận thực “Chiên Thiên Chúa” là “Đấng Thiên Sai”? Phúc Âm không cho chúng ta biết thêm những chi tiết hy hữu và ly kỳ này, nhưng thái độ của Chúa Giêsu ngay từ ban đầu đã thu phục được lòng người thiện chí muốn tìm kiếm sự thật rồi vậy. Tức là, nếu cả hai tìm nhau thế nào cũng gặp nhau. Trước hết, hai môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chẳng muốn tìm gặp Đấng Thiên Sai là gì, ở chỗ, đã bỏ thày mình để đi theo Chúa Giêsu, và sau nữa, Chúa Giêsu cũng đã không tìm kiếm những ai thành tâm thiện chí khao khát chân lý là gì, ở chỗ, đã tỏ ra cởi mở với họ, đúng hơn đã chủ động tìm họ trong chính lúc họ đang bối rối và âm thầm tìm kiếm Người, qua lời Người mời gọi họ, vừa khách quan “các người tìm kiếm gì đó?” vừa chủ quan “hãy đến mà xem”.
Một vấn đề nữa liên quan đến vấn đề đức tin nhận biết và mạc khải thần linh cần phải đặt ra ở đây nữa là, tại sao các hai người môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả không căn cứ vào một dấu hiệu nào khác để xem “Chiên Thiên Chúa” như thày họ nói có phải là “Đấng Thiên Sai” hay chăng, mà lại căn cứ vào nơi Người ở? Khi được Chúa Giêsu hỏi “các người đang tìm kiếm gì đó?”, họ đồng thanh thưa bằng một vấn nạn: “Thưa Thày, Thày hiện đang ở đâu vậy?”. Cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người được mở đầu bằng hai câu hỏi được hai bên đặt ra cho nhau, Thiên Chúa hỏi trước, con người hỏi sau.
Câu con người hỏi Thiên Chúa rất ư quan trọng, vì câu này, theo ý nghĩa sâu xa của nó, liên quan đến nguồn gốc thần linh của Đấng đến sau Tiền Hô Gioan Tẩy Giả. Hai môn đệ của vị Tiền Hô này không hỏi “tên Thày là gì?” hay “Thày là ai?”, mà là “Thày hiện đang ở đâu?”. Dĩ nhiên, câu con người hỏi Thiên Chúa mở đầu cho cuộc hội ngộ thần linh này có thể không sâu xa quá như vậy, mà chỉ liên quan đến nơi ở về không gian của “Con Chiên Thiên Chúa” này thôi. Tuy nhiên, câu hỏi này là tất cả vấn đề chủ yếu vô cùng quan trọng liên quan đến thân mệnh của Chúa Giêsu, một vấn đề Người đã phải giải đáp trong ba năm công khai của Người, bằng lời nói vô cùng khôn ngoan và việc làm vô cùng quyền năng, nhất là vào những ngày cuối đời, bằng cuộc Vượt Qua của Người, để chứng thực Người từ Cha mà đến, tức Cha đã sai Người, và Người phải trở về cùng Cha, tức Người làm trọn ý Cha (x Jn 17:8), nghĩa là để chứng thực rằng “Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày” (Jn 14:10).
Về phần mình, Thiên Chúa đã không trả lời con người một cách dứt khoát: “Ta là Đấng Thiên Sai đây”, “Ta là Thiên Chúa làm người đây”, mà là một cách thách thức, một cách khách quan, một cách mời gọi, hoàn toàn tôn trọng quyền tự do và sự chọn lựa của con người, tùy theo tầm nhận thức và lòng thành thực của họ: “Hãy đến mà xem”. Có thể Chúa Giêsu đã dẫn hai người môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đến coi chỗ Người đã ăn chay 40 đêm ngày trong hoang địa chăng, một địa điểm giống như nơi ở của thày họ cũng trong hoang địa (x Mk 1:6; Mt 11:7-9, 3:1), một vị thày đã được dân Do Thái cho là Đấng Thiên Sai (x Jn 1:19-20)? Tuy nhiên, dù xem gì thì xem, thấy gì thì thấy, nếu con người thực sự khao khát thiện hảo và tha thiết tìm kiếm chân lý, chắc chắn họ sẽ gặp được những gì họ tìm kiếm và ước mong: “Ai khao khát nhân đức trọn lành ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được no thỏa vậy” (Mt 5:6). Quả thế, chính vì “chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Jn 10:27), mà hai người môn đệ thành tâm thiện chí hết sức mong đợi nhân vật được Thiên Chúa hứa sai ấy đã thực sự gặp Người: “Chúng tôi đã gặp được Đấng Thiên Sai”.
Như thế, chỉ cần con người chẳng những thành tâm thiện chí khao khát chân thiện mỹ, như một Samuel dù ngủ nhưng vẫn nghe được tiếng Chúa gọi trong đền thờ, một sự kiện được thuật lại trong bài đọc một hôm nay, mà còn dám dấn thân tìm kiếm khi thấy những dấu chỉ thời đại, như ba chiêm tinh vương Đông Phương trong Lễ Chúa Hiển Linh, hay như hai môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm hôm nay, nhất là, sau đó, tức sau khi đã nhận ra dấu chỉ của Người, nhận ra “ngôi sao của Người” (Mt 2:2), còn dám đến tận nơi để triều bái Người, chứ không sợ Sự Thật như một quận vương “Hêrôđê tìm giết con trẻ” (Mt 2:13), hay như con người thời đại văn minh ngày nay đang sống theo chủ nghĩa luân lý tương đối, “vì những việc họ làm đều gian ác” (Jn 3:19), hoặc, sau khi đã được Chúa mở đường “hãy đến mà xem”, còn dám ở lại với Người, như trường hợp hai môn đệ trong bài Phúc Âm hôm nay, chứ không dập tắt sự thật như trường hợp tổng trấn Philatô muốn tránh né sự thật và hàng đầu trước cái hóc búa lẫn rùng rợn của vấn đề “chân lý là gì?” (Jn 18:38), chắc chắn họ sẽ gặp được Đấng hằng muốn tỏ mình cho chung loài người và cho riêng từng người.
Dầu sao, lời tuyên xưng “chúng tôi đã gặp được Đấng Thiên Sai” của hai môn đệ này cũng chỉ là cảm thức ban đầu của họ, một cảm thức tin tưởng, một Cảm Nghiệm Thần Linh. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có nhiều cảm nghiệm thần linh, nhiều cảm thức tin tưởng, đã trở thành hão huyền, hoang tưởng, vì sự thật không phải như họ nghĩ. Đó là lý do, cảm thức đức tin này nơi con người tuyên xưng “Chúng tôi đã gặp Đấng Thiên Sai” còn cần phải được thử thách về tính cách chân thực của nó nữa mới được, mới xác thực, mới đúng như vậy. Bởi thế chúng ta không lạ gì với sự kiện hay hiện tượng, cho dù tuyên xưng như thế mà họ vẫn còn hay vẫn có thể chối bỏ sự thật, điển hình nhất là trường hợp của trưởng đoàn tông đồ Phêrô (x Mt 16:16; Mk 14:27-31). Đó cũng là lý do mạc khải là một tiến trình của sự thật, cho tới khi sự thật hoàn toàn chiếm hữu con người, đến nỗi khiến con người chẳng những không thể chối bỏ sự thật, mà còn rao giảng và sẵn sàng chết đi để làm chứng cho sự thật, như trường hợp của phó tế Stephanô, Vị Tử Đạo Tiên Khởi được Giáo Hội kính nhớ ngay sau Lễ Giáng Sinh hằng năm, hay của thành phần Kitô hữu tử đạo khắp nơi qua mọi thời đại.
Như thế, đời sống của một người Kitô hữu từ khi lãnh nhận Phép Rửa đến khi lìa đời là một cuộc Hành Trình Đức Tin, một cuộc Cảm Nghiệm Thần Linh cho tới khi họ trở thành chứng nhân đích thực và sống động của Chúa Kitô, tức là cho đến khi Chúa Kitô hoàn toàn chiếm đoạt và sống động trong họ, nhờ đó, thế gian có thể, qua bản thân họ và nhờ đời sống họ, nhận biết Sự Thật, nhận biết Đấng Cứu Thế duy nhất, Đấng “là đường, là sự thật và là sự sống” (Jn 14:6).
33. Gặp gỡ Đức Kitô.
(Trích trong: “Niềm Vui Chia Sẻ”)
Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình,
Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh.
Gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình,
Gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh”.
Câu điệp khúc của một bài ca sinh hoạt của các bạn trẻ giúp chúng ta ý thức về cuộc gặp gỡ Đức Kitô của hai môn đệ đầu tiên: Arê và Gioan trong Tin Mừng hôm nay. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chọn đoạn Tin Mừng này để làm đề tài cho cuộc gặp gỡ giới trẻ thế giới lần thứ 12 diễn ra vào trung tuần tháng 8 năm 1997 tại Paris, nước Pháp. Theo Đức Thánh Cha, cuộc gặp gỡ rất quan trọng vì là “khởi điểm của mọi hành trình Đức Tin”.
Nhưng thế nào là gặp gỡ Đức Kitô?
Có lẽ chúng ta đều lúng túng khi được người khác đặt câu hỏi cơ bản này. Chúng ta không biết phải trả lời làm sao, mô tả như thế nào. Chúng ta chưa có kinh nghiệm hoặc một kinh nghiệm rất hời hợt. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô của hai môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một diễn tiến gồm một số bước: Trước hết là được Gioan Tẩy Giả giới thiệu: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian”. Hai môn đệ vừa nghe giới thiệu liền đi theo Chúa Giêsu. Nếu hai môn đệ không tức khắc đi theo Chúa Giêsu khi nghe Gioan giới thiệu, hai ông đã bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ Đức Kitô và đã không trở thành những môn đệ đầu tiên của Ngài.
Bước thứ hai là đối thoại với Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu là người ngỏ lời trước: “Các anh tìm gì thế?” Đức Thánh Cha nói: “Khi ta hỏi Chúa điều gì, thì Ngài luôn hỏi lại ta, người hỏi trở thành kẻ bị hỏi; người tìm kiếm Chúa trở thành kẻ được Ngài kiếm tìm: “Các anh tìm gì thế?”. Câu hỏi có vẻ tầm thường như những câu hỏi lúc mới gặp nhau, nhưng đây là một câu hỏi đặt vấn đề cho những ai theo Chúa: Chúng ta tìm ai? Theo Chúa để làm gì? Chúng ta chờ đợi nơi Chúa điều gì?
Chúa không chờ đợi một câu trả lời của trí tuệ, nhưng chờ đợi một câu trả lời của trái tim, của tâm hồn. Các môn đệ đáp trả bằng một câu vắn gọn: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Câu trả lời vắn gọn nhưng biểu lộ lòng trìu mến gắn bó muốn dấn bước theo Thầy, muốn chia sẻ nếp sống của Thầy. Chúa cũng không nói địa chỉ, tên đường, số nhà, vì Ngài “Không có nơi gối đầu”. Ngài chỉ bảo: “Hãy đến mà xem”. “Hãy đến” là lời mời gọi của trái tim rộng mở. Hãy đến mà xem tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ nơi con người của Đức Giêsu. Đến với Chúa chắc chắn dẫn đến một kinh nghiệm: kinh nghiệm về một tình yêu sâu thẳm nhất. Các môn đệ đã đến, đã nhìn thấy nơi Chúa ở. Đây không phải là ngôi nhà vật chất, đây là chính Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là đến với Thiên Chúa. Ngài ở với Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là gặp gỡ chính Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Đấng đã sai Thầy”. Các môn đệ đã kinh nghiệm được điều ấy, nên đã ở lại với Chúa. Ở lại với Chúa là gắn bó với Chúa, kết hợp với Chúa, ở lại trong tình yêu của Chúa. Tình yêu làm cho môn đệ gần gũi với Thầy và sự gần gũi làm tăng thêm tình yêu.
Cuối cùng, khi đã kinh nghiệm tình yêu của Chúa, Anrê tự nhiên cảm thấy được thúc bách phải chia sẻ niềm tin cho em mình là Simon Phêrô: “Chúng tôi đã gặp Đức Kitô”. Rồi ông dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu. Anrê chắc chắn biểu lộ một sự thích thú rõ rệt. Ông đã sung sướng được gặp Chúa, ông đã khám phá ra Chúa là Đấng Mêsia, Đấng được Thánh Thần xức dầu tấn phong sai đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Dĩ nhiên, ông còn phải ở lại với Chúa Giêsu lâu hơn nữa, còn phải tìm hiểu, phải khám phá nhiều hơn. Nhưng giờ đây, ông cùng chia sẻ với em mình, cùng tìm hiểu, cùng khám phá với em và các bạn khác của ông. Niềm tin của ông càng được củng cố, càng lớn lên trong mức độ ông biết chia sẻ cho người khác.
Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, các ông trở lại với cuộc sống đời thường. Thế nhưng, từ nay không còn là cuộc sống như trước, vì cuộc gặp gỡ Đức Kitô đã làm thay đổi tận căn. Giờ đây các ông sống với niềm tin Đức Giêsu là Đấng Mêsia –Đấng Thiên Sai Cứu Thế- Chính niềm tin đó điều khiển cuộc sống và làm cho cuộc sống người môn đệ mang một ý nghĩa mới.
Anh chị em thân mến,
Là Kitô hữu, đi lễ, đọc kinh thường xuyên, nhưng thử hỏi, chúng ta có thật đã gặp gỡ Chúa chưa? Đã có lần nào chúng ta choáng váng vì lần đầu tiên gặp gỡ đích thực với Chúa chưa? Chúa đã có mặt trong cuộc sống của chúng ta chưa? Sao cuộc đời ta vẫn không có gì thay đổi, vẫn thấy buồn chán, thất vọng, tội lỗi?...
“Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình”. Tại sao cuộc đời tôi chưa được biến đổi? Tôi vẫn sống với con người cũ, tội lỗi, ích kỷ, lười biếng? Tôi như chưa được “tái sinh”, chưa “gặp lại mình”, chưa “nối lại những mối dây huynh đệ” với những người khác? Ấy là dấu Đức Kitô chưa có mặt trong đời tôi. Đã gặp được Chúa là phải có một sự đổi đời. Bởi, sống đạo không phải là sống theo một điều gì, đi theo một ai khác hơn là sống theo Đức Giêsu Kitô.
Nhưng ngày nay, gặp gỡ Đức Kitô ở đâu?
Đức Thánh Cha nói: “Đức Giêsu ở bên cạnh chúng ta, nơi những người anh em chúng ta cùng chia sẻ cuộc sống hằng ngày. Gương mặt của Ngài là gương mặt của người nghèo nhất trong những người nghèo; của những người bị gạt ra bên lề cuộc sống, thường là nạn nhân của những cơ chế bất công. Nhà của Đức Giêsu là bất cứ nơi nào con người phải chịu đau khổ vì các quyền sống của họ bị chối từ, những hy vọng của họ bị phản bội, những lo âu của họ không được biết đến. Nhà của Đức Kitô là chính nơi đó, ở giữa mọi người, nơi mà Ngài yêu cầu chúng ta, nhân danh Ngài, lau khô mọi giọt lệ và nhắc cho những ai cảm thấy một mình cô đơn nhớ rằng chẳng có ai cô đơn hết, nếu họ đặt niềm tín thác vào Ngài”.
Nếu đã gặp được Đức Kitô trong cuộc đời, cuộc đời chúng ta đã được đổi mới như được tái sinh, sẽ từ bỏ con người ích kỷ của mình và bị thúc đẩy chia sẻ niềm tin và cuộc sống với mọi người anh em, nhất là những con người nghèo khổ. Mẹ Têrêxa Calcutta đã gặp Đức Kitô nơi những người nghèo khổ bị bỏ rơi và mẹ đã đem cả cuộc đời để phục vụ hết lòng. Nếu thực sự đã gặp được Đức Kitô, chúng ta đã trở thành một Kitô hữu năng nổ và tích cực trong cuộc sống, sẵn sàng dấn thân phục vụ Tin Mừng tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người.
Như Đức Thánh Cha đã nói: “Cuộc gặp gỡ Đức Kitô rất quan trọng, vì là khởi điểm của mọi hành trình đức tin”. Đức tin quả là một cuộc hành trình khởi đi từ cuộc gặp gỡ Đức Kitô, đến nhận biết Ngài, yêu mến và gắn bó mật thiết với Ngài. Gắn bó mật thiết đến nỗi sẵn sàng tận hiến cả tâm hồn và thể xác, con người và cuộc sống cho vinh Danh Chúa hơn.
34. Ở lại - Huệ Minh
Nhạc sĩ Nhất Sinh gói ghém tình yêu nam nữ thật đẹp qua bài hát "Tơ Hồng":
Anh đến quê em nơi đây có dòng sông Cầu
Dự ngày hội Lim anh đã hứa khi xưa
Vượt bao đèo cao bao suối sâu
Nắng mưa gió sương anh không ngại
Chỉ mong gặp em người em gái
Hát câu dân ca người ở đừng về...
Ta chưa tham dự lễ hội hát quan họ để rồi chưa có cái cảm nghiệm của niềm vui lớn khi gặp nhau và cùng nhau hát những khúc ca quan họ. Vui lắm, tình cảm lắm, thân thương lắm để rồi ai ai cũng mong rằng "người ở đừng về".
Cảm xúc "người ở đừng về" đấy thật dễ thương bởi lẽ nó xuất phát tự đáy lòng của con người.
Đúng vậy! Là người với nhau, gặp nhau đã là quý và muốn ở lại với nhau càng lâu càng tốt nên mới nói với nhau rằng "người ở đừng về".
Thế nhưng trong đời thường, có lẽ hơn một lần ta sống cái cảm xúc "ở lại" với người thân khi họ đến thăm ta, họ đến nhà ta. Dĩ nhiên là cũng có lúc phải đi về nhưng rồi phải đi về vì ai phải trở về nhà nấy, trở về với công việc của mỗi người. Dẫu biết phải thế nhưng ai ai cũng muốn níu kéo "người ở đừng về".
Cảm xúc "người ở đừng về" đó ngày hôm nay chúng ta bắt gặp nơi các môn đệ.
Chúng ta nghe lại: Khi ấy, ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Rápbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” Người bảo họ: “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười.
Rõ ràng, trước đó hai ông này không hề biết Chúa Giêsu và chẳng biết gì về Chúa Giêsu và dĩ nhiên không thể biết chỗ mà Chúa Giêsu ở. Nghe bảo "đến mà xem" và rồi đi đến nơi Người ở.
Thánh Gioan không nói nơi Người ở là như thế nào và Thánh Gioan cũng không nói rằng Chúa Giêsu đã mời họ ăn gì nhưng chỉ nói rằng họ ở lại với Người.
Và sau đó, ta thấy thánh Gioan nói tiếp rằng một trong hai người đi theo Đức Giêsu đã nói với Gioan rằng: Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia.
Vấn đề cốt lõi là ở chỗ đó. Họ đã đến, họ ở lại và họ đã gặp Đấng Mêsia - Đấng Cứu Độ trần gian - và sau đó cuộc đời của các ông đã biến đổi.
Trở lại với bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe cũng rất hay. Samuen là đứa con cầu con khẩn để rồi sau khi cất khóc chào đời sau khi thôi bú, cha mẹ đã dâng Samuel cho Thiên Chúa. Samuel ở trong thánh điện Silô với thầy cả Hêli. Và tại nơi đây Thiên Chúa đã kêu gọi và trao sứ mạng cho Samuel.
Sau khi thầy cả Hêli qua đời, Samuel đứng lãnh đạo quốc gia suốt 20 năm (1050-1030tcn). Ông là thủ lãnh trong vai trò giải quyết các công việc cho dân chúng. Ông còn có một vai trò khác quan trọng hơn, đó là làm tiên tri (ngôn sứ): đón nghe Lời Thiên Chúa và truyền đạt lại cho dân chúng.
Ở với Thiên Chúa để rồi ngày mỗi ngày cuộc đời của Samuel có Thiên Chúa ở cùng và ân huệ Thiên Chúa tuôn đổ trên cuộc đời của ông. Hiệu quả hay nói đúng hơn là ơn của sự "ở lại" với Thiên Chúa là như thế đó.
Thiên Chúa luôn mời gọi ta ở cùng với Ngài để Ngài yêu thương ấp ủ cuộc đời của chúng ta như gà mẹ ủ ấp gà con vậy. Đặc biệt, nơi Chúa Giêsu, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta trong tin mừng theo Thánh Gioan: "Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy"
Tuyệt vời! Chắc có lẽ không gì tuyệt vời hơn cho bằng "ở lại" trong tình yêu của Thầy. Khi ở lại trong tình yêu của Thầy thì anh em sẽ cảm nghiệm được tình yêu đó và cũng sẽ yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em.
Ngày nay, chẳng hiểu sao người ta cứ chạy loanh quanh như chiếc đèn cù và không có điểm dừng, cũng như không ở lại trong nhau nữa. Cũng dễ hiểu, khi người ta không ở lại trong Chúa thì làm gì có chuyện ở lại trong nhau. Hiệu quả của việc ở lại trong Chúa và ở lại trong nhau rất rõ ràng.
Có thể là vì chạy theo kinh tế thị trường, chạy theo xã hội để rồi nhiều và rất rất nhiều người sống theo cơ chế thị trường đó. Mở mắt ra, ta thấy cuộc sống bắt đầu xô dập. Từ sáng sớm đến chiều tối, vợ chồng con cái bắt đầu "cuốn theo chiều gió".
Làm cái gì cũng nhanh nhanh cho kịp thời gian theo kiểu người ta vẫn ví von như "ma đuổi". Nhanh, vội để rồi người ta thích mì ăn liền, cháo ăn liền, phở ăn liền, hủ tíu ăn liền. Sáng là như vậy, trưa thì thức ăn nhanh còn tối thì cơm hộp... Người ta bận đến độ không còn giờ dành cho nhau nữa.
Và, giờ dành cho Chúa thì như thế nào? Mỗi tuần Chúa dành cho người ta quá nhiều thồi gian: 7 nhân với 24 giờ. Chúa chỉ mời gọi người ta đến với Chúa có 1 giờ của 7 nhân với 24 thôi nhưng vẫn còn so đo tính toán.
Đến với Chúa thật buồn cười! Chuyện tưởng là cười nhưng có thật là ở Sài Gòn người ta kháo láo với nhau có 2 nhà thờ Lễ Chúa Nhật có giảng luôn tổng cộng 30 phút!!!
Đi lễ mà còn tính toán, còn chọn nhà thờ nào ngắn nhanh gọn để đến. Có khi khoảng cách từ nhà mình đến nhà thờ lễ nhanh đó thật xa nhưng miễn sao ngắn gọn là người ta cứ tìm đến. Tính làm sao lễ càng nhanh càng tốt và như thế là tròn bổn phận.
Đến với Chúa trong Thánh Lễ, quan trọng không kém việc rước Chúa là lắng nghe Lời Chúa. Chẳng may Cha nào giảng dài một tí là bắt đầu chia lòng chia trí và không ngần ngại lướt web hoặc tán gẫu. Và, có khi đi lễ là đi lễ "vọng", lễ "gốc" và thậm chí cả lễ "ôm" nữa.
Cần kiểm chứng, ta có thể rảo quanh một số nhà thờ vào các giờ lễ ta sẽ thấy sự thật đau lòng như thế.
Sau khi rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng, cần lắm những giây phút linh thiêng để lòng kề lòng với Chúa, trải lòng với Chúa nhưng lại cứ mong cho mau để... đi về.
Với Chúa là Chúa, là chủ cuộc đời người ta mà người ta còn tính toán như thế huống hồ chi là với con người. Tính quá để rồi trong gia đình không có giờ cơm chung, giờ kinh chung nữa.
Ban ngày thì đổ lỗi cho đi học, đi làm. Tối đến, mạnh ai nấy ăn mỗi người một dĩa để tranh thủ thời gian lướt web, xem phim.
Đấy là lý do bận của con người ngày hôm nay. Không còn giờ ở lại với Chúa và rồi không còn giờ để ở lại với nhau nữa.
Ngày hôm nay, khủng hoảng về đời sống gia đình ắt là điều dễ hiểu bởi lẽ người ta không còn "ở lại" với nhau. Làm cái gì cũng làm lẹ thật lẹ, mau thật mau và làm cho cố xong chứ không còn tâm huyết cho nhau nữa.
Điều đặc biệt nhất mà Chúa dành cho ta đó chính là Bí Tích Thánh Thể, Bí tích Tình Yêu. Chúa ở lại với ta mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây để rồi phần ta, ta có đến, có kết hiệp, có ở lại với Chúa như Samuen, như hai môn đệ ngày xưa hay không mà thôi.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để ngày mỗi ngày dù bận rộn chúng ta cũng dành thời gian để kết hiệp mật thiết hơn với Chúa. Có như vậy, ta mới cảm được tình Chúa thương ta và rồi ta cũng thương Chúa và thương anh chị em như Chúa mời gọi.
35. Gặp Chúa- Đổi Đời
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Bài đọc 1, Sách Sa-mu-en kể Cậu bé Sa-mu-en gặp được Đức Chúa trong lúc phụng sự Ngài trong Nhà của Đức Chúa và Chúa đã biến đổi và làm cho ông trở thành một tiên tri lớn loan báo Nước Chúa sau này. Đến bài Tin Mừng, Thánh Gioan tông đô mô tả cuộc gặp gỡ giữa Đức Kitô và hai môn đệ của ông Gioan tẩy giả. Hai môn đệ gặp Chúa và đổi đời.
Điều chú ý trước hết là các ông này gặp được Chúa là nhờ lời giới thiệu Gioan Tẩy Giả: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian”. Hai môn đệ vừa nghe giới thiệu liền đi theo Chúa Giêsu. Và hai ông trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Rõ ràng hai môn đệ theo Chúa Giêsu rồi, tại sao Chúa Giêsu lại hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Rồi các môn đệ đáp trả: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Câu trả lời vắn gọn nhưng biểu lộ lòng trìu mến gắn bó muốn dấn bước theo Thầy, muốn chia sẻ nếp sống của Thầy. Chúa cũng không nói địa chỉ, tên đường, số nhà... mà Ngài chỉ bảo: “Hãy đến mà xem”. Hãy đến và xem cái gì? Hãy đến mà xem tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ nơi con người của Đức Giêsu. Các môn đệ đã đến, đã nhìn thấy nơi Chúa ở. Đây không phải là ngôi nhà vật chất, đây là chính Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là đến với Thiên Chúa. Ngài ở với Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là gặp gỡ chính Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Đấng đã sai Thầy”. Các môn đệ đã kinh nghiệm được điều ấy, nên đã ở lại với Chúa. Ở lại với Chúa là gắn bó với Chúa, kết hợp với Chúa, ở lại trong tình yêu của Chúa. Tình yêu làm cho môn đệ gần gũi với Thầy và sự gần gũi làm tăng thêm tình yêu. Cuối cùng, chính vì đã cảm kinh nghiệm được tình yêu của Chúa mà Anrê tự nhiên cảm thấy được thúc bách phải chia sẻ niềm tin cho em mình là ông Simon Phêrô: “Chúng tôi đã gặp Đức Kitô”. Quả thế, Ông đã gặp Chúa, ông đã khám phá ra Chúa là Đấng Mêsia, Đấng được Thánh Thần xức dầu tấn phong sai đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Và ông dẫn em mình tới và cùng với em mình là Phêrô tìm hiểu, cùng khám phá ra Chúa Giêsu là Đấng Thánh và ở lại với Người. Điều đáng học hỏi đây đó là niềm tin của ông Anrê càng được củng cố, càng lớn lên và trưởng thành là nhờ ông biết chia sẻ sự hiểu biết về Chúa cho người khác. Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, các ông môn đệ đầu tiên không còn là cuộc sống như trước mà đã làm thay đổi tận căn.
Là Kitô hữu, đi lễ, đọc kinh thường xuyên, nhưng thử hỏi, chúng ta có thật đã gặp gỡ Chúa chưa? Gặp rồi, có nhớ Lời Chúa dạy làm gì không? Chúng ta có để Chúa hiện diện trong cuộc sống của chúng ta chưa? Nếu có rồi mà tại sao ta vẫn không có gì thay đổi, vẫn thấy buồn chán, thất vọng, tội lỗi, vẫn còn chia rẽ, ganh ghét nhau, chưa hiệp nhất?... Thánh Phaolô trong bài đọc 2 trả lời rằng vì dục vọng, tức vì quyền, tiền và tình làm cho thân xác ta ra hoen ố mà chúng ta không biết rằng thân xác ta là Đền Thờ của Thánh Thần. Mà Thánh Thần đang ngự trong chúng ta là chính Thiên Chúa. Vậy đừng vì dục mà đánh mất Thiên Chúa nhưng hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác chúng ta. Cho nên, trong Thư Chung Mục Vụ năm 2015, Hội Đồng Đức Giám Mục Việt Nam kêu gọi: “Mọi tín hữu hãy tham dự những cử hành phụng vụ cách ý thức và sống động hơn, không những để chu toàn lề luật mà còn để gặp gỡ Chúa và để Chúa biến đổi đời sống chúng ta. Như thế, Phụng vụ sẽ trở thành nguồn lực thánh hóa bản thân, đồng thời đem tinh thần Phúc Âm vào môi trường sống trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội” (số 2).
Vậy, giờ này chúng ta gặp Ngài đang gặp Chúa và lát nữa chúng ta lại đón Ngài vào nhà của chúng ta là tâm hồn của mỗi người. Chúng ta hãy để Chúa nói và dạy, đồng thời khi về với cuộc sống hãy làm theo Chúa dạy, chắc chắn đời ta sẽ thay đổi dần dần: thay vì dùng lời tục tiểu mà chửi mắn nhưng lấy lời lành mà khuyên người; thay vì lo thu vén cho mình, ích kỷ không biết cho đi, nhưng yêu thương giúp đỡ nhau khi ốm đau, khi hoạn nạn. Và nhất là biết sẵn sàng chia sẻ niềm đức tin này cho anh cho em khác nhờ đồng thời chia sẻ cuộc sống an bình của mình cho mọi người anh em, nhất là những con người nghèo khổ. Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta đã gặp Đức Kitô nơi những người nghèo khổ bị bỏ rơi và mẹ đã đem cả cuộc đời để phục vụ hết lòng. Nếu thực sự đã gặp được Đức Kitô, chúng ta đã trở thành một Kitô hữu năng nỗ và tích cực trong cuộc sống, sẵn sàng dấn thân phục vụ Tin Mừng tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người. Vì vậy, Đức Thánh Cha Phan xicô nói: “Cuộc gặp gỡ Đức Kitô rất quan trọng, vì là khởi điểm của mọi hành trình đức tin”. Đức tin quả là một cuộc hành trình khởi đi từ cuộc gặp gỡ Đức Kitô, đến nhận biết Ngài, yêu mến và gắn bó mật thiết với Ngài. Gắn bó mật thiết đến nỗi sẵn sàng tận hiến cả tâm hồn và thể xác, con người và cuộc sống cho vinh Danh Chúa hơn.
Ước gì lời bài thánh ca này trở thành hiện thực nơi mỗi người chúng ta: “Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh. Gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình. Gặp gỡ Đức Kitô nảy sinh tình đệ huynh. Nguồn suối nếu bế tắc, thì dòng sông mau cạn khô. Tình yêu không Kitô ôi tình yêu sao cằn cổi. Vì Chúa chính dòng suối nguồn yêu thương vô biên, biển yêu thương nối liền các hoang đảo với đại dương”.
36. Chúa kêu gọi con người hợp tác
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
"Hai môn đệ nghe Gioan nói, liền đi theo Đức Giêsu" (Ga 1,37)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Hôm nay chúng ta bước vào mùa Thường niên. Các bài đọc trong Thánh lễ sẽ dần dần dẫn bước chúng ta đi theo Chúa. Bước đầu tiên là Chúa đến gặp gỡ chúng ta và kêu mời chúng ta đi theo Ngài.
Xin Chúa giúp chúng ta nghe được tiếng kêu gọi của Ngài và mau mắn đáp lại.
II. Gợi ý sám hối
Nhiều lần Chúa đã kêu gọi chúng ta, nhưng chúng ta không nghe thấy vì chúng ta mãi mê theo đuổi những chuyện vật chất, thế gian.
Chúa mời 2 môn đệ đầu tiên "Hãy đến mà xem". Chúa cũng kêu mời chúng ta như thế. Nhưng rất ít khi chúng ta chịu khó đến với Chúa và chiêm ngắm Chúa.
Chúa đã tạo dựng cho chúng ta một thân xác để chúng ta xử dụng mà tôn vinh Chúa. Nhưng rất nhiều lần chúng ta lại dùng thân xác mình để làm chuyện tội lỗi.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (1 Sm 3,3b-10.19)
Chuyện xảy ra vào cuối thời kỳ các Thủ lãnh (hay còn gọi là Quan án). Thủ lãnh lúc đó là thầy cả Hêli. Ông này có hai đứa con trai. Vì không được Hêli giáo dục kỹ, cho nên hai tên này rất vô đạo. Chúng lợi dụng chức vụ của cha chúng để làm nhiều điều xấu xa tội lỗi. Vì thế Thiên Chúa quyết định chọn người khác thay thế Hêli. Người đó là Samuel, khi ấy còn là một cậu bé được trao phó cho Hêli dạy dỗ trong đền thờ Silô.
Một đêm câu bé Samuel đang ngủ trong đền thờ thì Thiên Chúa gọi cậu 3 lần. Ban đầu cậu chưa biết đó là tiếng Chúa. Nhưng sau đó, được Hêli cho biết đó là tiếng Chúa thì Samuel đã mau mắn đáp lại: "Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe". Thế là Chúa gọi Samuel làm thủ lãnh dân Do Thái thay cho thầy cả Hêli.
2. Đáp ca (Tv 39)
Đây là lời đáp ngoan ngoãn và quảng đại của kẻ được Chúa gọi: "Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa".
3. Tin Mừng (Ga 1,35-42)
Gioan và Anrê là môn đệ của Gioan Tẩy giả. Một hôm, Gioan tẩy giả đang đứng với họ thì thấy Đức Giêsu đi ngang qua. Gioan tẩy giả chỉ Ngài cho môn đệ thấy và giới thiệu "Đây là con chiên Thiên Chúa", kiểu nói có nghĩa Đức Giêsu là Đấng Messia. Nghe thế Gioan và Anrê liền đi theo Đức Giêsu. Sau đó Anrê lại giới thiệu Đức Giêsu cho anh mình là Simon. Đức Giêsu lại kêu gọi Simon và còn đổi tên ông thành Phêrô.
4. Bài đọc II (1 Cr 6,13c-15a.17-20) (chủ đề phụ)
Những giáo huấn của Thánh Phaolô trong đoạn thư này vẫn còn là căn bản cho giáo lý ngày nay về giá trị thân xác con người:
- Thân xác chúng ta là chi thể của Đức Kitô,
- là đền thờ của Chúa Thánh Thần,
- đã được cứu chuộc bằng giá máu của Đức Kitô.
- Vì thế chúng ta không được dùng thân xác để phạm tội dâm ô, nhưng phải dùng nó để tôn vinh Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
1. Cảm nghiệm nhớ đời
a/ Cảm nghiệm của thánh Gioan tông đồ: Trong bài Tin mừng này, Thánh Gioan ghi lại một cảm nghiệm rất sâu sắc mà Ngài được trải qua và nhớ mãi suốt đời, đến nỗi khi Ngài ngồi lại để viết đoạn Tin mừng này (khoảng năm 90), việc đó đã trôi qua khoảng 60, 70 năm mà Ngài vẫn nhớ rất rõ "lúc đó là khoảng giờ thứ 10". Cảm nghiệm gì mà sâu sắc như vậy? Thưa là cảm nghiệm được gặp Chúa và từ đó gắn bó với Chúa. Chính Thánh Gioan kể lại như sau:
Khi ấy Ngài đang là môn đệ của Gioan tẩy giả. Một hôm Đức Giêsu đi ngang qua, Gioan Tẩy giả liền chỉ cho các môn đệ mình và nói: "Đấy là Con Chiên Thiên Chúa". Nghe vậy, Gioan và một môn đệ nữa liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy họ đi theo sau lưng nên quay lại hỏi "Các anh tìm gì?" Họ không trả lời nhưng hỏi lại "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Đức Giêsu cũng không trả lời nhưng mời họ "Hãy đến mà xem", rồi dẫn họ tới chỗ Ngài đang trọ. Họ đã đến và ở lại với Ngài suốt ngày hôm ấy. Hẳn là một ngày rất ấm cúng, cho nên sau đó họ đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu luôn và 60, 70 năm sau Thánh Gioan còn nhớ kỹ lúc bắt đầu việc đó là "khoảng giờ thứ 10". Thật đúng như lời của một thi sĩ rằng:
"Cái phút ban đầu lưu luyến ấy,
Nghìn năm hồ dễ đã mau quên".
Thánh Gioan muốn chia xẻ cho chúng ta một kinh nghiệm quý giá, đó là: nếu có lần nào chúng ta được thực sự gặp Đức Giêsu và lưu lại trong tình thân mật với Ngài thì chúng ta sẽ không thể nào quên được Ngài, chúng ta sẽ mãi mãi gắn bó với Ngài.
b/ Cảm nghiệm của một số người khác:
- Văn hào Pháp Paul Claudel: một buổi chiều kia rảnh rỗi Paul Claudel rảo bước dạo chơi và tình cờ đi ngang một nhà thờ. Từ trong nhà thờ vang ra tiếng hát thánh ca thanh thoát, siêu phàm. Tiếng Thánh ca ấy đã thu hút ông buớc vào. Ông cảm xúc và ở lại cho đến hết buổi lễ. Và từ chiều hôm đó trở đi, Paul Claudel đã trở thành một tín hữu sốt sắng kiên trì trong Đức Tin. Ông viết nhiều quyển sách truyền bá Đức tin và ca tụng Thiên Chúa, ca tụng Đức Mẹ. Mọi sự bắt đầu vào một buổi chiều đáng nhớ.
- Thomas Merton: Thomas Merton mồ côi cha mẹ lúc 16 tuổi, năm 20 tuổi ông trở thành đảng viên cộng sản, ông hoàn toàn không tin gì về những sự siêu nhiên và sống một nếp sống chạy theo vật chất, nhục lạc. Một đêm kia khi đang ở trong một khách sạn, tự dưng ông nhìn lại đời mình, thấy nó quá trống rỗng và cũng quá nhầy nhụa, đến nỗi ông chê chán chính mình. Lúc đó chẳng biết làm gì khác, Thomas Merton quỳ gối xuống và cầu nguyện: "Lạy Chúa, từ trước tới nay tôi chẳng hề tin Chúa và ngay bây giờ tôi cũng chẳng biết có Chúa hay không. Nhưng nếu thật có Chúa thì xin Ngài hãy giúp kéo tôi ra khỏi vũng bùn nhầy nhụa của đời tôi hiện tại". Đêm hôm đó lần đầu tiên Thomas Merton cầu nguyện. Ông đã gặp được Chúa và từ đó mãi mãi gắn bó với Chúa. Sau đó ông đi tu dòng Trappe. Mọi sự bắt đầu từ một đêm gặp Chúa.
2. Chúa vẫn còn kêu gọi
Mặc dù Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng, muốn làm gì cũng được, nhưng Ngài không thích làm một mình, mà luôn kêu mời con người chúng ta cùng làm với Ngài.
Bắt đầu lịch sử cứu độ, Ngài đã kêu gọi Abraham.
Khởi sự cuộc giải phóng dân do thái, Ngài kêu gọi Môsê.
Mở màn thời Tân Ước, Ngài đã kêu gọi Maria.
Khai mạc sứ vụ rao giảng Nước Trời, Ngài kêu gọi các môn đệ v.v.
Tóm lại, thời Cựu Ước vẫn thế, thời Tân Ước vẫn thế, và thời Hội Thánh cũng vẫn thế: Thiên Chúa luôn muốn kêu gọi con người hợp tác với Ngài trong công trình cứu độ.
Thánh Augustinô đã suy gẫm rất nhiều về điều này, và Ngài đã viết: "Khi tạo dựng con, Chúa không cần hỏi ý con. Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần sự hợp tác của con".
3. Chúa gọi, con người đứng lên
Tháng 3 năm 1998, Đức Cha Gioan Bta Phạm Minh Mẫn, Giám mục phó giáo phận Mỹ Tho, được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Tổng Giám mục tổng giáo phận Saigon. Từ Lyon nước Pháp, nữ tu Marie Claude Faure, cựu Tổng quyền Dòng Chúa Quan Phòng Portieux, đã gởi đến ĐC Gioan Bta những lời khích lệ như sau:
Chúa cần một người cha cho dân Ngài
Ngài đã chọn một cụ già. Thế là Abraham đứng lên...
Ngài cần một người phát ngôn.
Ngài đã chọn một kẻ nhút nhát nói năng ngọng nghệu. Thế là Môsê đứng lên...
Ngài cần một lãnh tụ dẫn dắt dân Ngài.
Ngài đã chọn kẻ nhỏ nhất, yếu nhất. Thế là Đavít đứng lên...
Ngài cần một tảng đá để đặt nền cho tòa nhà.
Ngài đã chọn một người chối thầy. Thế là Phêrô đứng lên...
Ngài cần một gương mặt để nói cho người ta biết tình thương của Ngài.
Ngài đã chọn một cô điếm. Đó là Maria Mađalêna.
Ngài cần một nhân chứng để hô to sứ điệp của Ngài.
Ngài đã chọn một kẻ bách hại đạo. Đó là Phaolô thành Tarsô...
Ngài cần ai đó để tập họp dân Ngài và để Ngài đến với những kẻ khác.
Ngài đã chọn Đức Cha: dù Đức Cha run sợ, Đức Cha sẽ có thể không đứng lên sao?
4. "Hãy đến mà xem"
Đức Giêsu nói với Anrê và Gioan "Hãy đến mà xem". Ý của Đức Giêsu là muốn gọi họ làm môn đệ. Nhưng Ngài chưa nói rõ ý đó ra, Ngài chỉ mời họ đến và xem.
Phải đến, đến gần Đức Giêsu thì mới hiểu Ngài rồi mới có thể làm môn đệ Ngài. Không thể tưởng tượng nổi kiểu môn đệ gì mà ở xa Thầy, không thường xuyên đến gần Thầy.
Rồi phải xem nữa. Môn đệ không chỉ nghe Thầy dạy, mà còn phải xem cách Thầy sống để sống theo. Không thể chấp nhận kiểu môn đệ mà không sống theo gương Thầy.
Câu Tin Mừng này nhắc tôi phải thường xuyên đến gần Đức Giêsu bằng những lúc cầu nguyện, và phải chăm chỉ xem Đức Giêsu bằng việc nguyện gẫm.
5. Giới thiệu Chúa cho anh em
Nhiều nhóm binh sĩ có vũ trang từ Syrie xâm chiếm đất Israel. Sau khi bắt dân Israel làm tù binh, chúng tàn phá thành phố và làng mạc. Chúng bắt những tù binh này làm việc như những đầy tớ trên đất Syrie. Trong số những người bị bắt, có một cô gái. Người ta không nói tên của cô ta.
Cô trở thành đầy tớ của viên sĩ quan nổi tiếng người Syrie, tên là Naaman. Vua Syrie rất hài lòng về Naaman, vì ông là một sĩ quan rất gan dạ. Rủi thay ông vừa mắc bệnh phong.
Một ngày kia, cô tớ gái nói với bà chủ: "Giá mà ông chủ Naaman được gặp tiên tri Elisa, đang sống ở Samaria, thì ngài sẽ chữa cho ông chủ tôi khỏi bệnh" Nghe vậy, Naaman xin vua Syrie viết thư giới thiệu cho vua Israel. Ông cũng mang theo vải vóc, vàng bạc làm quà tặng.
Khi vua Israel đọc thư, ông rất lo, vì ông nghĩ vua Syrie muốn gây chiến. Nhưng Elisa nghe biết, ông xin nhà vua để mình chữa bệnh cho Naaman. Elisa không gặp Naaman, nhưng chỉ gởi một lá thư: "Hãy đi tắm trong dòng sông Giodan 7 lần và ông sẽ được khỏi".
Naaman rất tự ái, ông không chịu tắm, nhưng đầy tớ khuyên ông cứ làm như lời nhà Tiên tri. Và quả nhiên, Naaman đã được chữa khỏi, da của ông trở nên mịn màng như da đứa trẻ. Naaman dâng cho Elisa quà tặng, nhưng người của Thiên Chúa không nhận, chỉ chúc cho ông "Hãy về bình an".
****
Chúng ta đừng bao giờ quên đứa tớ gái nhỏ bé ở đầu câu chuyện, em đã mau mắn giới thiệu tiên tri Elisa cho Naaman. Nếu cô bé giữ im lặng, thì Naaman sẽ không bao giờ được chữa lành.
Hôm nay, Anrê cũng giới thiệu Phêrô em mình cho Đức Giêsu: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a" (Ga.1,41). Rồi dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu.
Dường như mỗi lần Tin mừng Gioan đề cập đến Anrê thì liền sau đó Anrê lại dẫn một ai đó đến với Đức Giêsu. Anrê đã trở nên nổi tiếng vì ông đã dẫn cậu bé có "năm chiếc bánh và hai con cá" giới thiệu với Đức Giêsu. Để rồi sau khi cầu nguyện tạ ơn, Người đã biến bữa ăn trưa của cậu bé trở nên bữa ăn tập thể nuôi sống hơn năm ngàn người.
Lần thứ ba, chúng ta gặp lại Anrê lúc Đức Giêsu vào Giêrusalem lần cuối. Có mấy người Hy Lạp đến xin gặp Người. Cũng chính Anrê là người đã giới thiệu họ với Đức Giêsu. Và chắc hẳn đó là điều làm người hài lòng, vì sau đó Người phán: "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga.12,32).
Nếu Anrê không giới thiệu Phêrô với Đức Giêsu thì có lẽ chẳng bao giờ có tông đồ Phêrô đá tảng của Hội thánh.
Nếu Anrê không giới thiệu cậu bé có "năm chiếc bánh và hai con cá", thì có lẽ chẳng có phép lạ đầy ngoạn mục hứng khởi trong Thánh kinh.
Vậy bài học của Anrê là hãy giới thiệu cho mọi người đến với Đức Giêsu. Đó là con đường rao giảng từ người này đến người kia, từng người một. Đức Giêsu rất cần những người giàu tình bạn chân thành, những bước chân mang dấu vết của thân thiện, những lời nói luôn chứa đầy nhiệt huyết, những chứng nhân ra đi kể câu chuyện: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia".
***
Lạy Chúa, trên trái đất này, chúng con là đôi tay, là tiếng nói, là trái tim của Chúa. Xin cho chúng con trở nên những người nhiệt thành giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
6. Một cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa
Trong đời của chúng ta có rất nhiều cuộc gặp gỡ.
Có những cuộc gặp gỡ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu và sớm rơi vào quên lãng. Đó là gặp gỡ hời hợt bề ngoài. Ta có thể nói chuyện với một người nào đó hàng giờ, có khi hàng năm nhưng vẫn thấy chưa thể cởi mở hết tấm lòng. Ta có thể sống chung một tập thể với một người nào đó nhiều năm trời nhưng không bao giờ hiểu được người đó.
Có những cuộc gặp gỡ mà sau khi chia tay, chúng ta cảm thấy mình còn nghèo nàn hơn trước.
Nhưng cũng có những cuộc gặp gỡ rất nhiều ý nghĩa, làm cho chúng ta giàu hơn, và có khi làm thay đổi hẳn cuộc đời chúng ta. Bạn có thể gặp một người nào đó chỉ một lần liền cảm thấy gắn bó với người đó. Với người đó, bạn có thể cởi mở hết tấm lòng.
Khi tình bạn nẩy sinh giữa ta với một người nào đó, ta không cảm thấy rõ ràng đời mình đã đổi thay, nhưng ta nhận thức được rằng đời mình đã có một cái gì đó khác trước, ta có thể yêu thương và chăm sóc người đó một cách dễ dàng không cần cố gắng.
Đừng nghĩ rằng hễ cứ sống với nhau lâu dài và kiên trì chiều chuộng nhau thì sẽ có tình yêu. Theo Kahlil Gibran, "Tình yêu là con đẻ của một sự thu hút vô hình. Nếu sự thu hút này không nẩy sinh trong một giây phút thì nó sẽ chẳng bao giờ nảy sinh cho dù trải qua nhiều năm và thậm chí nhiều thế hệ".
Có những cuộc gặp gỡ rất tình cờ nhưng lại khiến người ta gắn bó với nhau suốt đời. Nhiều cặp vợ chồng đã kể về lần đầu tiên họ gặp nhau với những chi tiết mà suốt đời họ không thể nào quên.
Những điều nói trên giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Đức Giêsu và 3 môn đệ sau này sẽ trở thành tông đồ của Ngài: Anrê, Gioan và Phêrô. Rõ ràng đây là một cuộc gặp gỡ tuyệt vời, bởi vì rất nhiều năm sau, khi Gioan viết Tin Mừng, ông vẫn còn nhớ chính xác thời giờ lúc đó: "Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười" (nghĩa là khoảng 4 giờ chiều).
Vừa khi gặp Đức Giêsu, họ đã bị Ngài thu hút. Tuy nhiên Ngài không hối thúc, Ngài để họ thong thả muốn tìm hiểu Ngài bao lâu tuỳ ý: "Hãy đến mà xem". Họ đã đến và đã xem. Họ thấy Ngài thân thiện, niềm nở, nồng ấm. Họ biết mình đã gặp được một con người tuyệt vời, và thế là một tình nghĩa gắn bó được phát sinh.
Khi ở với Ngài, họ cảm thấy hoàn toàn bình an thoải mái. Qua tiếp xúc với Ngài, họ còn khám phá chính bản thân họ. Thấy cung cách của Ngài, họ cảm mến và thấy rằng mình cũng phải cố gắng sống theo cung cách ấy.
Có một khác biệt vô cùng to lớn giữa uy quyền và ảnh hưởng. Những người hành quyền trên chúng ta thì muốn chế ngự chúng ta, biến chúng ta thành nô lệ họ hoặc một bản sao của họ. Trái lại, những người có ảnh hưởng trên chúng ta thực ra không có ý gò ép chúng ta, thay đổi chúng ta hay khuôn đúc chúng ta thành người giống như họ. Họ ban cho chúng ta một không gian mà trong đó chúng ta có thể tìm gặp chính mình và sống theo cách thức của mình. Đức Giêsu không hành quyền trên các môn đệ. Nhưng Ngài có ảnh hưởng sâu đậm trên họ. Cuộc gặp gỡ hôm ấy đã biến đổi hẳn cuộc đời của Gioan, Anrê và Phêrô.
Chúng ta không thể gặp gỡ Đức Giêsu trong xác thể, nhưng chúng ta có thể gặp gỡ Ngài một cách thiêng liêng trong đức tin như gặp một người Bạn, một người Anh và một Đấng cứu tinh.
Ngày nay Đức Giêsu vẫn còn đi qua và luôn sẵn sàng đón tiếp những ai tìm gặp Ngài. Tuy nhiên Ngài không bao giờ ép buộc ai phải sống như Ngài. Đối với những ai có thiện chí muốn biết Ngài nhiều hơn, Ngài nói như đã nói với Gioan và Anrê "Hãy đến mà xem". (Viết theo Flor McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu mời gọi những người muốn theo Người "Hãy đến mà xem", để hiểu biết Người hơn mà chọn lựa thái độ đối với Người. Chúng ta hãy tin tưởng dâng lên Chúa những ý nguyện sau đây:
1. Xin cho mọi người trong Hội thánh biết năng tìm dịp gặp gỡ Đức Giêsu / để mỗi người càng hiểu biết và yêu mến Người hơn.
2. Xin cho mọi người trên thế giới chưa biết gì về Chúa Kitô / được có dịp gặp gỡ và hiểu biết Người là Đấng Cứu độ.
3. Xin cho mọi người đang gặp đau khổ và thử thách / biết tìm đến với Đức Giêsu Kitô để Người giải khổ và bồi dưỡng cho.
4. Xin cho anh chị em trong cộng đồng họ đạo chúng ta biết dùng lời nói và việc làm của mình như dấu chỉ và dụng cụ để giới thiệu Đức Giêsu Kitô cho mọi người.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu Kitô, Chúa đã mời gọi chúng con "Hãy đến mà xem", xin cho mọi người chúng con biết lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Trong tâm tình sẵn sàng của những kẻ được Chúa gọi "Lạy Chúa, này con xin đến, để thực thi ý Chúa", chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Chúa lời kinh Lạy Cha.
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con lắng nghe những tiếng gọi của Cha, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an..."
VII. Giải tán
Ngày xưa Chúa đã kêu gọi Ông Samuel, Chúa đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên là Gioan, Anrê và Simon... Ngày nay Chúa cũng kêu gọi chúng ta làm môn đệ Ngài để đem Tin Mừng của Ngài rao giảng cho thế giới. Chúng ta hãy đáp lại lời Ngài, suốt tuần lễ này nhiệt tình làm chứng cho Tin Mừng trong môi trường chúng ta sống và làm việc.
37. Đối với tôi, Đức Giêsu là ai?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Thiên ký sự của thánh Gioan về ơn gọi của những môn đệ đầu tiên, đáng khâm phục vì lời văn bình dị và gợi ý. Ký sự diễn tả tiến trình cơ bản về mọi ơn gọi theo Đức Kitô: gặp gỡ, phát hiện, ưng thuận, thay đổi đời sống.
- Gặp gỡ. Hai môn đệ Anrê và Gioan gặp Đức Giêsu vì đã được Gioan Tẩy giả lưu ý họ về người. Cũng thế, Simon – Phêrô gặp Chúa, vì Anrê cho biết. Trong hai trường hợp này, ta thấy rằng một sự can thiệp của con người chính là con đường đưa người ta đến gặp Đức Giêsu. Nhưng tự nó sự can thiệp không có tính cách quyết định trong việc các môn đồ đi tìm Chúa. Điều khiến họ quyết định, chính là lời kêu gọi của Đức Giêsu: Hãy đến mà xem. Như vậy hai yếu tố đầu tiên trong tiến trình đáp ứng ơn gọi là: một người dẫn những người khác đến nơi gặp gỡ- Thiên Chúa kêu gọi. Một câu hỏi được đặt ra: đó bao giờ chúng ta nghĩ rằng có thể chúng ta cũng dẫn một người nào đó đến gặp Đức Giêsu không? Cũng như Gioan Tẩy Giả, chúng ta biết rõ Đức Giêsu là ai. Giống như Anrê, chúng ta đã tìm thấy Đấng Cứu thế. Liệu chúng ta có lo lắng đến việc không nên khư khư giữ làm của riêng điều chúng ta tìm thấy? Để cho lời gọi của Chúa đến với một người trong anh em chúng ta, có lẽ Chúa nhờ chúng ta dẫn kẻ ấy đến gặp Người.
- Phát hiện. Vì vậy hai môn đệ đến và nhìn thấy nơi Chúa ở. Sau khi đã lưu lại với Chúa tới sáng hôm sau, họ tin chắc đã gặp Đấng Cứu Thế. Họ phát hiện Đức Giêsu là ai. Ta có thể nghĩ xa hơn: Hai môn đệ đã phát hiện Đức Giêsu là ai đối với họ. Thật vậy, không những họ nhận Đức Giêsu đúng là Đấng Cứu Thế, mà lại còn khám phá thấy một liên hệ đặc biệt do Đức Giêsu thiết lập giữa Người với họ, Chúa kêu gọi họ hãy trở nên môn đệ Người – đặc biệt Phêrô được Chúa gọi là “Đá”, tức là đá tảng trên đó Đức Giêsu sẽ thiết lập Giáo Hội Người. Tới đây, ta nhận định: Trong tiến trình ơn gọi, con người lúc đối diện với Đức Kitô không những phát hiện Đức Kitô, trong bản thế là ai mà còn thấy rõ Đức Kitô là ai đối với người được gọi. Mỗi người chúng ta cũng có thể tự hỏi: Đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Người gọi tôi làm việc gì? Ý muốn của Người ảnh hưởng trên tôi thế nào?
- Ưng thuận và thay đổi. Đoạn Phúc âm kể lại đầy đủ: Sau khi gặp Đức Giêsu và ở lại với Người tơí hôm sau, những môn đệ tình nguyện theo Chúa. Toàn bộ Phúc âm theo thánh Gioan cho biết một việc: Sự ưng thuận theo Chúa đã đếm lại đổi thay trong đời họ. Họ bỏ lại tất cả để theo Đức Kitô. Niềm tin vào Đức Kitô xoay đổi đời sống con người theo một hướng hoàn toàn khác với chiều hướng bình thường. Thậm chí, ở đây lại là theo Chúa trong điều kiện sinh hoạt khác với mọi người. Kitô hữu được kêu gọi hãy uốn sửa đời mình cho phù hợp với khuôn mẫu Đức Kitô. Đó là điều làm thay đổi một đời người, thay đổi toàn diện.
Tóm lại, đoạn Phúc âm nói với chúng ta thế này:
1) Có những người đi tìm Đấng Cứu Thế.
2) Thấy họ tìm thì Chúa đến với họ và kêu gọi họ.
3) Những người ấy đáp ứng lời Chuá bằng một câu đáp tích cực nó biến đổi đời họ. Ba câu hỏi chờ chúng ta: chúng ta có phải là những Kitô hữu trên đường tìm Chúa không? Chúng ta có nghe thấy những lời mời của Chúa không? Câu đáp của chúng ta, tức là nếp sống Kitô giaó thực tiễn, có biến đổi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành môn đệ không?
38. Lựa chọn theo Chúa
“Một trong hai người… đã đi theo Chúa Giêsu”.
Một thương gia người Mỹ, lúc chết đã làm chúc thư để lại gia tài đồ sộ cho các con. Người con gái của ông tên Grace lúc đó 23 tuổi, đang tu ở tu viện Đaminh Nữu Ước. Ông để cho cô này một triệu đô la, với điều kiện là cô phải rời tu viện và tuyên bố bỏ đạo Công giáo. Cuối cùng nữ tu Grace dứt khoát không rời tu viện, cũng không bỏ đạo. Vì thế cô đã mất cả phần tài sản to lớn đó.
Bước đường theo Chúa đôi lúc cũng đòi một sự lựa chọn như vậy. Tin Mừng hôm nay cho ta thấy những người đầu tiên xin làm môn đệ Chúa. Trong giai đoạn đầu cuộc sống công khai của Chúa, chỉ có Gioan Tẩy Giả được ban ơn đặc biệt nhận ra Chúa, ông giới thiệu Chúa: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa”. Người Do Thái nghe danh hiệu này theo ý nghĩa thường gặp trong Kinh Thánh, là tôi tớ Thiên Chúa, một người tôi tớ âm thầm phục vụ lò sát sinh. Những người nghe thánh Gioan lúc đó là những người thiện chí, muốn cải thiện, họ quanh quẩn bên vị tiền hô để học hỏi sống chính trực. Họ biết Chúa Giêsu là người tốt, nhưng không phải một ông vua, không hứa hẹn giàu sang vinh hiển, tuy nhiên cũng có người quyết định đi theo Chúa.
Chúa Giêsu tiếp đón họ rất bình thường, chẳng có gì là niềm nở. Chúa hỏi họ như hỏi người lạ: “Các anh kiếm gì?” Chúa không phải một người quảng cáo hay tuyên truyền. Chúa bảo các ông: “Hãy đến mà xem”. Việc tìm hiểu rất cần thiết, chứng tỏ một tâm hồn khát khao chân lý, một tâm hồn có khả năng tiến bộ. Trong buổi đàm đạo đầu tiên này, có lẽ những người theo Chúa không được hứa hẹn gì, ngoài việc nhận ra Chúa là Đấng Mêsia, Đấng đã được hứa ban trong Kinh Thánh. Nhưng Kinh Thánh cũng đã nói trước Đấng Mêsia sẽ chịu bạc đãi, khổ đau. Họ chưa hiểu cặn kẽ số phận Đấng Cứu Thế, nhưng cũng lờ mờ thấy theo Chúa là phải chấp nhận khó khăn, hy sinh và có khi nguy hiểm nữa, nhưng họ đã quyết định theo Chúa.
Các ông đi theo Chúa trong niềm vui phấn khởi. Các ông vui không vì đã tìm ra một món lợi, nhưng vì từ lâu các ông vốn khát khao ơn cứu độ, các ông tha thiết chia sẻ tâm tình mong chờ Đấng Cứu Thế của Kinh Thánh, và bây giờ thấy lòng mong đợi đó được đáp ứng. Các ông có được niềm vui lớn lao, và khi vui người ta thấy cần chia sẻ, niềm vui sẽ tràn đầy và truyền lan. Các ông đi nói lại với bạn bè, với bà con thân thuộc: Chúng tôi đã thấy Đấng Cứu Thế, cũng gọi là Đức Kitô. Các ông muốn người thân cũng vui với mình, và muốn mọi người cùng đi theo Chúa như mình.
Đầu tiên Gioan Tiền Hô đã gửi Anrê và Gioan đến với Chúa. Rồi Anrê và Gioan đi gọi Simon và Philipphê mời gọi Nathanael. Khởi đầu là do Chúa. Ơn gọi của Chúa như một niềm vui lan tràn từ người nọ tới người kia như nước chuyển qua những ống dẫn và ta có cảm tưởng như nếu không có người hướng dẫn thì những người kế cận sẽ không nhận được ơn gọi của Chúa.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết lắng nghe lời Chúa gọi và luôn cố gắng truyền thông cho anh chị em, để mọi người sớm thành môn đệ Chúa.
39. Giới thiệu
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, tôi muốn chia sẻ với anh em một bổn phận quan trọng, đó là: Bổn phận giới thiệu Đức Kitô cho những người chung quanh.
Thực vậy, Gioan Tiền Hô lúc bấy giờ xuất hiện bên bờ sông Giordan, ông rao giảng về tâm tình ăn năn và trao ban phép rửa sám hối. Mọi người đều kính trọng ông và coi ông như là một vị tiên tri. Thế nhưng ông đã thẳng thắn xác quyết với họ:
- Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường Chúa đến.
Cũng chính ông đã long trọng giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của mình:
- Đây là Chiên Thiên Chúa.
Rồi ông đã khiêm nhường thú nhận:
- Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài. Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Nghe lời giới thiệu ấy, Andrê và Gioan đã bước theo Chúa. Chúa Giêsu quay lại thấy hai ông liền phán:
- Các ngươi tìm chi.
Các ông thưa:
- Lạy Thầy, Thầy ở đâu?
Chúa Giêsu bảo:
- Hãy đến mà xem.
Hai ông đã đến cùng Chúa và ở lại với Ngài ngày hôm đó. Sau cuộc gặp gỡ này, Andrê đã đi tìm em mình là Simon và nói với ông:
- Chúng tôi đã gặp Đấng Cứu Thế, tức là Đức Kitô.
Và chính Andrê đã dẫn Simon đến cùng Chúa.
Thoạt nhìn thấy Simon, Chúa Giêsu liền phán:
- Con là Simon, kể từ nay con sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá.
Phúc âm còn kể tiếp, sau khi được Chúa gọi, Philipphê, đã đến gặp Nathanael và nói:
- Chúng tôi đã gặp Chúa Giêsu, con ông Giuse quê tại Nagiarét, là đấng Maisen mà các tiên tri đã nói tới trong lề luật.
Nhưng Nathanael đáp lại:
Ở Nagiarét nào có cái chi hay?
Philipphê liền nói:
- Hãy đến mà xem.
Cuối cùng Nathanael đã đi tìm gặp Chúa, đã tin nhận Chúa với lời tuyên xưng:
- Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là vua Israel.
Và ông đã trở nên một trong số 12 tông đồ của Ngài.
Từ những chi tiết tôi vừa kể, chúng ta thấy: Gioan Tiền hô đã giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của ông, trong đó có Gioan và Andrê. Rồi sau đó, Andrê cũng đã giới thiệu Chúa Giêsu cho em mình là Phêrô. Còn Philipphê, một khi đã đi theo Chúa, ông cũng đã giới thiệu Chúa cho Nathanael. Còn chúng ta thì sao?
Nhiều người trong chúng ta lầm tưởng rằng, bổn phận giới thiệu Đức Kitô, làm chứng về Ngài cũng như rao giảng Phúc âm là một bổn phận dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, còn người giáo dân, thì không cần phải vướng mắc chi vào chuyện đó.
Nghĩ như vậy là lầm. Đúng thế, với Bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên người Kitô hữu. Và như chúng ta thường định nghĩa. Người Kitô hữu là người có Đức Kitô trong tâm hồn và mang Đức Kitô trong cuộc sống của mình, bằng cách tuân giữ những điều Ngài truyền dạy và sống gắn bó mật thiết với Ngài qua những tâm tình cầu nguyện.
Thế nhưng có Chúa mà thôi chưa đủ, chúng ta còn có bổn phận phải giới thiệu Chúa, phải đem Chúa đến cho những người chung quanh. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã phán:
- Các con là muối, là men, là ánh sáng. Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân…
Bởi đó, bằng một cuộc sống đạo đức, chúng ta thực sự có Chúa trong tâm hồn, đồng thời bằng những hành động bác ái yêu thương, chúng ta đem Chúa đến và giới thiệu Chúa cho những người chung quanh chúng ta.
40. Hoàn hảo
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Thái)
“Họ xem chỗ Người ở, và ở lại với Người.” (Ga 1,35-42)
Ở đời ai cũng muốn đi tìm cái hơn. Muốn giàu có hơn, học hành giỏi hơn, có bằng cấp cao hơn. Lấy vợ gả chồng đôi khi cũng nhằm chỗ cao hơn mà tính. Thật không may, người ta chỉ đi tìm cái hơn về vật chất bằng mọi giá, ngay cả bằng những cách bất chính mà không kể gì đến những giá trị đạo đức tinh thần. Gần đây tôi đọc được bài thờ trào phúc “Cha và con và… sự đời” của Nguyễn Văn Thắm trên báo Tuổi Trẻ Cười nói lên cái tâm trạng đó của con người.
Cha:
Con ơi! Lấy vợ xem tông,
Lấy chồng chọn giống… mới mong sang giàu
Chồng mà chức trọng quyền cao,
Phong bì, quà biếu… cửa sau rộn ràng.
Vợ mà con cái nhà quan,
Mình đi xin việc dễ dàng như chơi.
Con gái:
Thôi… con sợ lắm cha ơi!
Quan mà tham nhũng người đời dèm pha!
Cha:
Dèm pha mặc kệ dèm pha.
Có xe đời mới, có nhà tầng cao.
Còn hơn cơm mắm, canh rau,
Nhà tranh, vách lá chui vào… chui ra!
Con trai:
Con quan phung phí xa hoa,
Thời trang đủ kiểu, cưới mà làm chi!
Tối ngày kẻ mắt, cắt mi
Môi son, má phấn… lấy gì nuôi con?
Cha:
Mày tưởng có bằng là ngon?
Thử đi xin việc, cúi lòn… còm lưng!
Quà thì tay xách, tay bưng
Tới lui mỏi gối, mòn chân… hết tiền!
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Gioan 1:35 -42 , khi Chúa Giêsu chú ý thấy hai người môn đệ của Gioan đi theo Ngài, Ngài quay lại và hỏi họ, “Các ngươi đi tìm gì?” Họ trả lời: “Thưa thầy, thầy ở đâu?” Họ đang là môn đệ của Gioan, lại muốn bỏ Gioan mà đi theo Chúa Giêsu, để tìm “cái hơn”. Giống như chúng ta, họ cũng muốn sống một đời sống đầy đủ hơn. Nhưng khác chúng ta, chúng ta đi tìm kiếm đời sống vật chất cao hơn, còn Anrê và Philip lại đi tìm một đời sống tinh thần cao hơn. Họ muốn có một đời sống đích thực! Và chính Gioan, thầy của họ đã chỉ cho họ thấy khi Chúa đi ngang qua: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. (1:36).
Trong một lớp giáo lý tân tòng, một thiếu nữ trẻ đang học đạo để lập gia đình, chia sẻ tâm tình và sự lựa chọn của cô như sau. Trong cuộc đời cô, cô chưa bao giờ nghe biết hay được học hỏi điều gì về tôn giáo cả. Gia đình cô rất ghét đạo Công giáo. Nhưng chàng và ngàng lại yêu thương nhau tha thiết. Khi chàng ngỏ ý muốn cưới nàng làm vợ với điều kiện cả hai phải có cùng một niềm tin tôn giáo, nàng chấp nhận ngay. Cô nói: “Tôi muốn có cái mà anh ấy có.” Cô chia sẻ rằng cô nhận thấy, đối với chàng đức tin là điều quan trọng nhất trong cuộc đời và chi phối toàn bộ cuộc đời chàng. Trong đức tin chàng có sự bình an và hạnh phúc. Đó là điều cô cũng đang đi tìm kiến thì tại sao cô lại không chấp nhận được. Trong khi đó chàng không có nhiều tiền bạc, nhưng rất hài lòng về cuộc sống của mình, và chu toàn những bổn phận hằng ngày. Cuộc sống phản ảnh đức tin mà chàng và cô muốn là một phần của niềm tin đó.
Cô đã chọn lựa “cái hơn” của đức tin, của tình yêu và hạnh phúc nơi Đức Giêsu Kitô.
Đây cũng chính là điều mà Anrê và Philip muốn tìm khi họ bỏ Gioan Tẩy Giả để theo Chúa Giêsu. Họ không những chỉ muốn “cái hơn” mà thôi, nhưng còn là sự sung mãn nhất, đầy đủ nhất và hoàn hảo nhất nơi Đức Giêsu Kitô.
Tất cả chúng ta được sinh ra với một ước muốn tự nhiên và lòng khao khát đi tìm hạnh phúc và sự sung mãn. Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng cái mà chúng ta đang ước muốn, đang đi tìm, đang chờ mong, đang cố gắng đạt cho được bằng mọi cách, ở bất cứ thời đại nào hay thế hệ nào, chỉ tìm thấy đầy đủ nơi Chúa Giêsu Kitô (Pl 3:8). Khi xưa Chúa Giêsu đã mời hai môn đệ: “Hãy đến và xem”, Ngài cũng mời chúng ta không chỉ “đến và xem”, nhưng còn “Ở lại với Người” để trở nên môn đệ của người.
Ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu là sự chọn lựa giữa việc đến gặp gỡ Chúa Giêsu và các lý do chính đáng khác trên đời (Mt 10:37). Gặp gỡ và gắn bó với Chúa Giêsu là mục đích tối hậu của người môn đệ (Ga 1:37). Sau đó những công việc mục vụ và rao truyền Tn Mừng sẽ là thành quả của việc gặp gỡ này.
Theo William Barclay, Anrê là một nhân vật luôn luôn giới thiệu người khác đến với Chúa Geiesu. Ba lần Anrê được nhắc đến trong Phúc âm của Gioan với vài trò này: đưa Phêrô đến với Chúa Giêsu (1:42); đứa bé trai với năm chiếc bánh và hai con cá đến cho Chúa Giêsu (6:8-9); đưa mấy người Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu (12:22). Anrê là con người với trái tim truyền giáo.
Và sau này cả Philip nữa, sau khi đã gặp Chúa Giêsu rồi, cũng đi mời Nathanael đến với Ngài (1:45-47). Giới thiệu Chúa Giêsu đi vào cuộc đời của tha nhân là thành quả của sự kết hiệp mật thiết và cá nhân giữa ta với Chúa.
Vào thế kỷ thứ XI, Vua Henry III của vương quốc Bavaria, nay là một tiểu bang thuộc vùng Tây Nam nước Đức, đã chán ngán làm vua và trở nên quá mệt mỏi trong việc điều hành đất nước nên ngài ao ước được sống ẩn dật trong một tu viện. Nhà Vua đi tới một tu viện gần đó để xin ý kiến của vị tu viện trưởng. Cha tu viện trưởng nhận ra ngài là vua đã quen với việc điều hành và ra những chỉ thị nên nói với vua rằng: “Nếu vào sống trong tu viện như một tu sĩ thì việc trước hết là vua phải vâng lời cha bề trên tu viện trưởng và phải làm theo lệnh truyền của ngài.” Vua Henry III nhận thấy điều đó quá dễ dàng, không thành vấn đề. Vua sẵn lòng vâng lời cha bề trong trong bất cứ chuyện gì. Cha bề trên mới nói: “Vậy thì tốt lắm, tôi sẽ chỉ cho nhà vua điều phải làm. Nhà vua hãy trở về hoàng cung và phục vụ đất nước trong ngôi vị mà Thiên Chúa đã định đặt cho ngài.”
Theo ý Vua Henry III, “cái hơn” là vào tu viện sống đời cầu nguyện và chiêm niệm như một tu sĩ. Nhưng cha bề trên đã giúp cho ngài nhận ra không phải chỉ là “cái hơn” mà là cái hoàn hảo nhất, sung mãn nhất. Đó là gặp gỡ Đức Kitô ngay trong cuộc sống của mình, rồi giới thiệu Chúa đến với tha nhân qua việc chu toàn bổn phận mà Thiên Chúa đã xếp đặt cho ngài: xây dựng một xã hôi công bằng, an bình, mang lại ích lợi cho toàn dân.
Vua Henry III đã trở về với công việc bổn phận để gặp gỡ Chúa Giêsu và trở nên người môn đệ chân chính của ngài (Mt 7:24).
41. Được kêu gọi để ở lại
Khi yêu thương ai, chúng ta thường muốn người ấy được ở lại với mình. Trong trường hợp hai người ngang hàng với nhau thì được ở lại trong nhau thì cả hai đều được lợi. Còn nếu như một người lớn muốn người cho người nhỏ được ở lại thì lợi ích dường như luôn thuộc về người nhỏ. Bởi vì, đó là tình thương được thể hiện qua sự lo lắng, quan tâm và chăm sóc.
Hôm nay, qua đoạn tin mừng Chúa Giêsu cũng muốn các môn đệ (Gioan và Anrê) được ở lại với Người. Chúa Giêsu thấy các ông đi theo mình thì đã hỏi: "Các anh tìm gì thế? Họ đáp: Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu? Người bảo họ: Đến mà xem". (Ga 1, 38b - 39). Nghe lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy" (Ga 1, 39b)
Chúng ta không biết hai ông đã được xem nơi ở của Chúa Giêsu như thế nào. Tuy nhiên, như có lần Chúa Giêsu đã nói: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." (Lc 9, 57). Do đó, chắc chắn nơi ở của Chúa Giêsu không phải là một cung điện nguy nga tráng lệ.
Dầu vậy, quan trọng hơn là các ông được lĩnh hội một năng lực hết sức quý báu từ Chúa Giêsu. Năng lực ấy chính là tình thương mà Chúa Giêsu dành cho các ông. Một tình thương có thể nói không ai ở trần gian có thể đem đến cho các ông. Cảm nhận được điều đó nên ông Anrê đã không chỉ giữ cho riêng mình mà ông đã vội vàng dẫn em mình là Simon Phêrô đến gặp Chúa Giêsu (Ga 1, 42)
Được ở lại với Chúa và trong Chúa thì không còn hạnh phúc nào bằng. Khi ở lại trong Chúa chúng ta sẽ được Người thông ban những ân sủng dồi dào và cần thiết. Và nhất là chúng ta sẽ được tình thương của Người ấp ủ và chăm sóc. Chỉ khi được như thế chúng ta mới có thể có đầy đủ năng lực để sống. Bởi lẽ, Chúa Giêsu đã nói: "Ta đến để cho chúng được sống và sống dồi dào" (Ga 10, 10).
Được biết những tu sĩ thuộc dòng của Mẹ Têrêsa Calcutta mỗi ngày phải quỳ trước Thánh Thể Chúa ít nhất là một giờ đồng hồ. Mặc dù dòng của Mẹ là dòng hoạt động chứ không phải là dòng chiêm niệm. Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng thế. Cho dù bận trăm công nghìn việc nhưng ngài không bao giờ bỏ những giờ chầu bên Thánh Thể Chúa.
Phần chúng ta, những giây phút đặc biệt được ở lại trong Chúa đó là những lúc chúng ta đi dâng Thánh lễ và cử hành các giờ đạo đức (Kinh sáng và Kinh tối). Chúng ta thường nghĩ rằng đó là những việc làm bổn phận của mình với Chúa. Thế nhưng chúng ta hãy nhớ rằng đó là những giây phút chúng ta đang đáp lại lời mời gọi của Chúa để được ở lại trong Người. Chắc chắn Chúa sẽ thông ban cho chúng ta được nhiều năng lực cần thiết và quý giá hơn những gì chúng ta mong đợi.
42. Giới thiệu – Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng
Một thủ tục đầu tiên, hay đúng hơn, một nghi thức đầu tiên mà trong bất cứ buổi hội họp hay một bữa tiệc lớn nhỏ nào người ta vẫn thường làm, đó là giới thiệu những người hiện diện, nhất là giới thiệu những chức sắc, những nhân vật quan trọng. Trong cuộc sống xã giao hằng ngày cũng vậy, mỗi khi gặp những người mới lạ, người ta cũng thường giới thiệu nhau. Như vậy, giới thiệu nhau là một điều rất bình thường, và tất cả chúng ta đều biết mục đích của sự giới thiệu là để biết nhau.
Trong bài Tin Mừng chúng ta thấy Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của ông, ông nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Lời giới thiệu này chứng tỏ Gioan biết Chúa Giêsu là ai và cũng chứng tỏ ông ý thức sứ mệnh tiền hô của mình, ông đã chỉ lối cho hai môn đệ đến gặp Chúa Giêsu. Đây là lời giới thiệu trung thực, đầy can đảm và có mãnh lực thôi thúc hai môn đệ đi theo Chúa.
Hai môn đệ ấy, một người là Anrê, còn người kia, tuy Tin Mừng không nói đích danh, nhưng chúng ta biết đó là Gioan, tác giả bài Tin Mừng này, bởi vì trong sách Tin Mừng của ông, ông thường giấu tên mình. Họ đến nói chuyện với Chúa, chúng ta không biết Chúa nói gì với hai ông và hai ông nói gì với Chúa, chỉ biết rằng sau khi tiếp xúc với Chúa ra về, hai ông đã biểu lộ lòng tin: tin nhận Chúa là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế, và lòng đầy phấn khởi, quyết dấn thân theo Chúa không điều kiện.
Ngày hôm sau, ông Anrê lại đưa em mình là Simon đến gặp Chúa. Vừa gặp Simon, Chúa đổi ngay tên cho ông là Phêrô. Trong truyền thống của Do thái, việc đổi tên như thế bao hàm một ý nghĩa quan trọng và là một cách minh chứng: người đổi tên là người có uy quyền, và người được đổi tên sẽ được trao cho một nhiệm vụ quan trọng nào đó. Ở đây, Chúa Giêsu đổi tên cho Simon, minh chứng uy quyền của Chúa, và Ngài sẽ trao cho ông một sứ mệnh mới, một nhiệm vụ đặc biệt. Simon được đổi tên là Phêrô, nghĩa là Đá Tảng, tức là ông sẽ làm nền móng của Giáo Hội, ông sẽ là người lãnh đạo tối cao của Giáo Hội sau này.
Như vậy, Gioan Tẩy Giả biết Chúa Giêsu, nên ông đã giới thiệu cho các môn đệ và hai môn đệ đã tin theo Chúa. Liền sau đó, Anrê đã giới thiệu cho em mình, và Phêrô cũng tin theo Chúa. Rồi cả ba môn đệ cũng như tất cả các môn đệ khác đã biết Chúa, sống với Chúa và vâng lệnh truyền của Chúa đi giới thiệu Chúa cho muôn dân: “Anh em hãy đi khắp nơi rao giảng cho mọi người”. Các ông đã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ này.
Đối với chúng ta hôm nay, một khi đã chịu phép rửa tội và gia nhập vào Giáo Hội, chúng ta đều có nhiệm vụ giới thiệu Chúa cho anh em. Chúng ta có thực hiện không và thực hiện như thế nào? Mục đích của giới thiệu là để biết nhau, muốn giới thiệu về một người thì phải biết về người đó, tùy theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết về nhau nhiều hay ít, nếu không biết rõ về người nào thì có thể giới thiệu sai về người ấy, chẳng ai muốn người khác giới thiệu sai về mình, giới thiệu sai là xúc phạm đến người đó và cũng mắc lỗi với người mình giới thiệu. Vì thế, muốn giới thiệu ai thì phải biết rõ về người ấy, cũng vậy, để giới thiệu Chúa chúng ta phải biết Chúa. Chúng ta có biết Chúa không?
Có lẽ nhiều người tín hữu có mặc cảm vì thấy mình non yếu về đức tin, về giáo lý, về Kinh Thánh, hình như chúng ta chỉ đủ đức tin để giữ đạo cho mình mà không truyền thụ được cho ai, vì vốn liếng kiến thức về giáo lý, về Kinh Thánh quá ít. Chúng ta thử nhìn lại bản thân mình mà coi: hồi nhỏ, chúng ta học giáo lý chỉ là những câu hỏi thưa, học thuộc để được xưng tội rước lễ lần đầu, Thêm sức hoặc lãnh bí tích hôn phối, từ đó trở đi, không còn ai lo phải học, phải thi giáo lý nữa. Nhiều người cũng chỉ bằng lòng với vốn liếng giáo lý đó, chứ không còn học hỏi hay đào sâu thêm chi nữa, cũng chẳng ai bắt buộc chúng ta học nữa, trong khi đó ở những bộ môn khác luôn luôn được học hỏi, được bồi dưỡng thêm.
Nói như vậy không phải để chúng ta bi quan, mặc cảm, nhưng để chúng ta cố gắng thêm, dù chúng ta không biết về Chúa cho đủ, nhưng Chúa cũng sai chúng ta đi giới thiệu Chúa cho mọi người. Cách giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác tốt nhất, cụ thể nhất, hữu hiệu nhất là bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta, đó chính là một tấm gương trước mặt mọi người và có giá trị hơn nhiều bài giảng, “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo” là thế.
Xin hãy nhớ: không phải ai cũng có thể làm việc lớn, nhưng tất cả mọi người có thể làm được điều thiện, mà điều thiện thì luôn có trong đời thường, và việc thường thì luôn có bên cạnh. Không phải ai cũng là thánh ở đời này, nhưng tất cả đều có thể là một người lành, người tốt, vì thế, với việc thường ngày, dù có nhạt nhẽo, nhàm chán với đắng cay, chúng ta cũng hãy góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng Giáo Hội và thế giới, chúng ta hãy cố gắng làm gì cho đời chứ không thu góp những gì của đời cho mình, vì một cuộc đời chỉ biết có mình là cuộc đời đã chết trước khi tắt thở.
43. Cuộc gặp gỡ
Trong suốt quá trình của đời sống, chúng ta có nhiều cuộc gặp gỡ với mọi người. Hầu hết những cuộc gặp gỡ này đều ít có ý nghĩa, và chẳng bao lâu, bị quên lãng.
Mỗi ngày, bạn có thể gặp gỡ một số người, nhưng không bao giờ gần gũi với họ, mà chỉ ở bề ngoài mà thôi. Bạn có thể nói chuyện với một số người hàng giờ, thậm chí hàng năm, mà vẫn không hề cảm thấy bạn đã bộc lộ con người đích thực của bạn cho họ. Bạn có thể sống nhiều năm trong cùng một cộng đoàn với người khác, mà vẫn không bao giờ biết về họ, hoặc nói chuyện về những điều sâu xa hơn với họ. Một số quan hệ với người khác mà thậm chí còn đưa chúng ta quay trở lại với chính mình, trở nên nghèo nàn hơn, sau khi chúng ta ra đi. Đây là một trong những điều đáng buồn nhất trong cuộc sống.
Nhưng có những cuộc gặp gỡ khác mang ý nghĩa vĩ đại; chúng phong phú hóa, và đôi khi, còn dứt khoát làm thay đổi cuộc sống của chúng ta nữa. Có thể bạn chỉ vừa mới gặp gỡ một người nào đó, và ngay tức khắc, một mối quan hệ liền được hình thành. Bạn có thể bộc lộ bản thân mình, một cách rõ ràng và thực sự. Đây là một trong những điều thú vị và thỏa mãn nhất trong cuộc sống.
Khi một tình bạn được khai sinh, thì không có một sự thay đổi nào rõ rệt trong cuộc sống con người – mà chỉ là một sự nhận thức rằng cuộc sống của người đó trở nên khác hẳn, khả năng yêu thương và chăm sóc của họ đã được mở rộng một cách lạ lùng, mà không hề có bất cứ sự nỗ lực nào từ phía người đó.
Thật sai lầm khi nghĩ rằng tình yêu đến từ tình bạn lâu dài và sự kiên nhẫn theo đuổi. Theo Kahlil Gibran “Tình yêu là kết quả của sự thu hút về mặt tinh thần, trừ khi sự thu hút này được tạo ra trong một chốc lát, theo năm tháng, hoặc thậm chí qua nhiều đời, người ta vẫn sẽ không tạo ra được nó”. Nhiều cuộc gặp gỡ có ý nghĩa tình cờ xảy ra. Một số người sẽ nói điều này với bạn, về cách họ gặp gỡ người bạn đời của mình: họ không bao giờ quên được những sự kiện của cuộc gặp gỡ đầu tiên đó. Một khi chúng ta đã yêu mến hoặc căm ghét một người nào, thì hầu như chúng ta nhớ được từng chi tiết của cuộc gặp gỡ đầu tiên đó. Điều này giúp chúng ta hiểu biết được tầm quan trọng của cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Đức Giêsu và ba môn đệ sau này trở thành các tông đồ của Người – Phêrô, Anrê và Gioan. Rõ ràng họ đã có một cuộc gặp gỡ tuyệt vời. Nhiều năm sau, khi Gioan viết sách Tin Mừng, ông vẫn có thể nhớ được chính xác về ngày giờ diễn ra cuộc gặp gỡ đó – đó là vào khoảng giờ thứ 10 (4 giờ chiều).
Khi được gặp Đức Giêsu, Người đã lôi cuốn họ ngay. Người dành cho họ nhiều thời gian theo lòng họ mong muốn. Họ nhận thấy Người nồng nàn, thân thiện, hiếu khách. Họ biết rằng họ được gặp gỡ một nhân vật quan trọng, và một tình bạn hiếm có được khai sinh. Họ cảm thấy hoàn toàn được bình an nhờ sự hiện diện của Người. Thông qua cuộc tiếp xúc với Người, họ bắt đầu khám phá ra chính con người của họ. Nhờ tính cách của Người, họ có được tầm nhìn về con người mà họ có thể trở thành.
Có một sự khác biệt lớn lao giữa quyền lực về ảnh hưởng. Những người nắm quyền lực trên chúng ta áp bức chúng ta, cố gắng biến chúng ta thành nô lệ, hoặc bản sao của con người họ. Những người gây ảnh hưởng trên chúng ta thì lại không hề cố gắng xoay chuyển, thay đổi, hoặc đúc khuôn chúng ta. Họ tạo ra cho chúng ta một khoảng không gian, trong đó chúng ta có thể tìm thấy bản thân mình, và đường lối của riêng mình. Đức Giêsu không áp đặt quyền lực trên các môn đệ của Người. Nhưng Người gây ra một ảnh hưởng sâu xa trên họ. Cuộc gặp gỡ với Người mãi mãi thay đổi cuộc sống của Phêrô, Anrê và Gioan.
Chúng ta không thể gặp gỡ Đức Giêsu bằng xương thịt. Nhưng chúng ta có thể gặp gỡ Người một cách thiêng liêng trong lòng tin, với tư cách là một Người bạn, một Người anh Cả, và một Đấng Cứu độ. Không nhận biết Đức Giêsu là chưa khám phá được điều mà đạo Công giáo hướng tới. Đạo Công giáo đưa đến một mối quan hệ nồng ấm, gần gũi với Đức Giêsu.
Đức Giêsu mãi mãi ra đi rồi. Nhưng Người vẫn luôn gần gũi với những ai chân thành tìm kiếm Người. Người không bao giờ áp đặt bản thân Người trên bất cứ ai. Đối với kẻ nào thích được hiểu biết nhiều hơn nữa, thì Người nói câu mà Người đã nói với Gioan và Anrê “Hãy đến mà xem”.
Tất nhiên đó không phải là một cuộc gặp gỡ một lần cho tất cả, nhưng chúng ta đang nói về một mối quan hệ đang phát triển với Người.
44. Các môn đệ đầu tiên - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn có thể biết và tin Đức Giêsu mà không do một người nào khác giới thiệu cho bạn không? Nếu thế, bạn có cảm thấy bổn phận phải tiếp tục giới thiệu Đức Giêsu cho những người khác nữa không?
2. Những người hiện nay mang danh là biết và tin Ngài, thật ra có biết và tin Ngài đích thực không? Những người này có cần được giới thiệu lại về Đức Giêsu để họ biết và tin Ngài đích thực hơn, nghĩa là niềm tin ấy phải được thể hiện bằng sự dấn thân cụ thể trong đời sống không?
3. Khi giới thiệu, rao giảng về Đức Giêsu, bạn có bị cám dỗ tìm chính mình, lợi ích cho mình - thay vì tìm Ngài và lợi ích cho Ngài - trong công việc thánh thiện ấy không? Bạn có dễ dàng từ bỏ những ưu đãi, đặc quyền đặc lợi đi kèm với công việc tông đồ không?
Suy tư gợi ý:
1. Cần giới thiệu Đức Giêsu cho người chưa biết Ngài
Đức Giêsu nói: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,16). Sự cần thiết và quan trọng của Đức tin được Kinh Thánh nói đến rất nhiều (xem thêm: Lc 8,12b; Cv 16,31; Rm 10,9; Ep 2,8; 1Pr 1,9; v.v...). Nhưng tin không phải chuyện ai cũng làm được: ta thấy hiện nay trên thế giới, cứ 10 người thì mới có 3 người mang danh là tin Đức Giêsu. Và rất có thể trong 3 người - hay hơn nữa - mang danh là tin ấy mới có một người thật sự tin vào Ngài (vì tin thật sự là tin phải được chứng tỏ bằng việc làm, bằng đời sống và sự dấn thân thật sự). Việc có đức tin tùy thuộc nhiều điều kiện: một cách khách quan vào cơ hội hay “nhân duyên” (nói theo từ nhà Phật), và một cách chủ quan vào tâm trạng của mỗi người. Về điều này thánh Phaolô cũng viết: “Kinh Thánh nói: Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát. Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng” (Rm 10,11.13-15a).
Để người ta tin vào Đức Giêsu, cần có người giới thiệu Ngài cho họ. Người giới thiệu hết sức cần thiết. Trong thương trường, để bán được hàng hóa, người ta phải tìm mọi cách, bằng quảng cáo, tiếp thị, để giới thiệu cho mọi người biết trên thị trường có loại hàng hóa ấy, chất lượng nó ra sao, nó cần thiết cho đời sống thế nào. Thời nay, hàng hóa mà không nhờ quảng cáo và tiếp thị thì dễ có nguy cơ bị ế. Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình để họ theo Ngài: hai môn đệ này một người là Anrê, và người kia chắc hẳn là Gioan (nhỏ), tác giả bài Tin Mừng này (tác giả thường không muốn nói đến bản thân mình). Nhờ Gioan Tẩy giả giới thiệu, hai môn đệ của ông đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu và dấn thân trọn vẹn cho Ngài suốt cuộc đời.
2. Cần giới thiệu lại Đức Giêsu cho người đã biết và tin Ngài
Hiện nay, chung quanh ta có biết bao người không tin thật sự vào Đức Giêsu, vào chân lý cứu độ. Trong số đó, có biết bao người mang danh là tin Ngài, nhưng thật sự chỉ là tin trên danh nghĩa, vì trong thực tế họ chỉ biết về Ngài rất mơ hồ, sự biết ấy không đủ sức mạnh để thúc đẩy họ sống và hành động như sự hiểu biết ấy đòi hỏi. Ngay trong số chúng ta, những người tự xưng là Kitô hữu, chúng ta có thể tuyên xưng rất mạnh niềm tin của mình, thậm chí kết án những ai tin khác với mình, nhưng giữa niềm tin ấy và cuộc sống của ta là cả một sự xa cách. Tin trên lý thuyết và sống trong thực tế không trùng hợp với nhau, lý và sự, chủ trương và hành động, nói và làm khác xa nhau. Điều đó chứng tỏ chúng ta chưa thật sự tin.
Thánh Giacôbê nói: “Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26; x.2,17). Nhiều khi chúng ta tưởng mình có đức tin, nhưng đức tin ấy xét cho nghiêm túc lại là thứ “đức tin chết”, những đức tin giả hiệu, là “hàng giả”, loại rẻ tiền (vì được mua với giá rẻ). Chính vì thế, Giáo Hội ngày nay mới nói đến vấn đề “phúc âm hóa mới”, hay “tái phúc âm hóa”, nghĩa là giới thiệu lại Đức Giêsu cho những người đã biết Ngài, đã mang danh là tin Ngài, để họ tin Ngài một cách đích thực hơn.
3. Tỷ lệ người tin thật sự trong Giáo Hội và thế giới hiện nay
Cứ nhìn vào thực trạng của Giáo Hội, của xã hội và thế giới hiện nay, ta có thể thấy được tỷ lệ người tin thật sự vào Đức Giêsu là bao nhiêu. Người thật sự tin tất nhiên phải trở thành “muối” (x. Mt 5,13; Mc 9,49; Lc 14,34), thành “men” (Mt 13,33; Lc 13,21) chất lượng. Nếu thức ăn được ướp muối mà vẫn bị hư, bột được trộn men mà không dậy lên được, là vì: hoặc muối hay men quá ít, hoặc muối hay men đã bị mất chất lượng. Vì nếu men tốt thì chỉ cần “một chút men (là đủ) làm cả khối bột dậy men” (Gl 5,9).
Tệ hơn nữa, nếu men bị biến chất thành men thối thì thật là nguy hiểm cho đống bột. Đức Giêsu đã cảnh cáo chúng ta chuyện này: “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisêu và men Hêrôđê” (Mc 8,15; x. Mt 16,6). Ngài giải thích: “Men Pharisêu tức là thói đạo đức giả” (Lc 12,1b), là thói giữ đạo một cách hình thức, với những nghi lễ trang trọng bề ngoài, mục đích để được ca tụng, được khen, nhưng trong tâm hồn thì chẳng có tình thương, chẳng muốn hy sinh chịu thiệt cho ai (x. Mt 23). Còn “men Hêrôđê” có thể là thói ham thích quyền bính, thích ép buộc người khác phải làm theo ý mình, đồng thời sẵn sàng làm tất cả mọi sự - kể cả những chuyện bỉ ổi, đê hèn, tội lỗi - để đạt được hay duy trì quyền bính của mình (x. Mt 2,16). Hai loại “men” này thực chất thì như nhau, nhưng một đằng áp dụng trong tôn giáo, một đằng áp dụng ở ngoài đời. Chính những loại “men” này đã làm Giáo Hội, xã hội và thế giới thoái hóa về đạo đức và tâm linh.
Vậy, ai sẽ là người làm công việc “tái phúc âm hóa” này, nghĩa là làm cho muối mặn trở lại, men nồng trở lại? Bạn nhận định thế nào về thực trạng của Giáo Hội, xã hội và thế giới hiện nay? Bạn có ý thức được nhu cầu khẩn thiết phải tái phúc âm hóa trong Giáo Hội không? Bạn có nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi bạn làm công việc này không? Nếu nghe thấy, bạn có đáp lại tiếng Chúa như Sa-mu-en trong bài đọc I không? Bạn có sẵn sàng đi theo và rủ người khác theo Ngài như hai môn đệ của Gioan Tẩy giả trong bài Tin Mừng không? Bạn thử lắng nghe Chúa nói trong lòng mình và nghe cả lòng mình nói nữa!
4. Dành cho Chúa tất cả, đừng giữ lại gì cho mình
Thái độ của Gioan Tẩy giả cũng là một gương mẫu và là một bài học tốt cho chúng ta. Anrê và Gioan (nhỏ) đều đang là môn đệ của Gioan Tẩy giả. Chắc chắn ông đã từng nói với các môn đệ mình cũng như đã từng nói với dân chúng: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Tôi làm phép rửa trong nước để giục lòng sám hối, còn Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3,11). Khi nói những lời ấy, Gioan Tẩy giả xác định mình không phải là Đấng ấy, đồng thời muốn giới thiệu Đấng ấy để mọi người - kể cả các môn đệ của ông - tin và hướng về Đấng ấy. Chính vì thế, khi Gioan Tẩy giả “thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”“ thì có “hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu”. Khi hai môn đệ rất ưu tú của mình bỏ mình để làm môn đệ Đức Giêsu, chắc chắn Gioan Tẩy giả cảm thấy một niềm vui buồn lẫn lộn. Vui vì thấy Đức Giêsu có được hai môn đệ, vui vì hai môn đệ của mình có được một người thầy cao cả và xứng đáng hơn mình. Nhưng cũng buồn vì mình đã bị mất mát một cái gì rất thân quí. Giữa vui và buồn ấy, đối với một người thật sự quan tâm tới công việc chung, thì cái vui ấy sẽ lấn át cái buồn, và nỗi buồn chỉ là thoáng qua.
Khi ta giới thiệu Đức Giêsu cho mọi người, rao giảng, dạy dỗ về Ngài, chắc chắn vì sự giới thiệu, dạy dỗ ấy, nhiều người sẽ nhận ta là thầy, và theo làm môn đệ ta. Ngoài ra, ta còn được biết bao người kính trọng, nể phục, khen ngợi, đồng thời dành cho ta nhiều ưu tiên, đặc quyền đặc lợi nào đó. Ban đầu có thể ta không hề nhắm tới những điều phụ thuộc này, nhưng khi đã hưởng được những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy, lòng ta bắt đầu cảm thấy gắn bó với chúng, đến nỗi nếu không có những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy, ta cảm thấy thiếu thốn, bực bội. Từ đó, như một phản xạ có điều kiện, khi ta giới thiệu hay rao giảng về Đức Giêsu, phản ứng tự nhiên của ta là đòi hỏi những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy. Và cuộc đời tông đồ của ta dần dần bị biến chất. Ta không còn quan tâm chính yếu tới Đức Giêsu mà ta đang giới thiệu, rao giảng, nhưng ta lại tìm chính ta, tìm danh vọng, địa vị, ưu đãi trong chính công việc tưởng chừng rất thánh thiện ấy. Và khi bổn phận tông đồ buộc ta phải từ bỏ chúng, ta không thể chấp nhận được. Ta cố níu lại cho bằng được những thứ ấy. Đó chính là một trong những cám dỗ rất thường gặp nơi những người làm tông đồ, những người giới thiệu Đức Giêsu như Gioan Tẩy giả. Thiết tưởng chúng ta luôn luôn tỉnh táo kẻo sa vào chước cám dỗ ấy, vì có biết bao người đã chìm đắm trong đó rồi!
Cầu nguyện
Lạy Cha, con biết Cha là nhờ Đức Giêsu giới thiệu, và biết Đức Giêsu là nhờ Giáo Hội, nhờ một ai đó giới thiệu. Nhờ đó, con được diễm phúc biết và yêu mến Cha, biết và tin theo Đức Giêsu để được cứu độ. Vì thế, con cảm thấy mình thật ích kỷ nếu không tiếp tục giới thiệu cho những người khác nữa biết về Cha, về Đức Giêsu. Nhưng xin hãy cho con biết và tin đích thực, đồng thời sống thật sự niềm tin ấy trước khi giới thiệu niềm tin ấy cho người khác. Amen.
45. Đáp lời Chúa kêu gọi - Lm. Minh Vận
Sau 9 năm trường giầm gìa trong vũng bùn lầy trụy lạc tội lỗi, Thiên Chúa đã kêu gọi và thức tỉnh lương tâm Margarita de Cortone, bằng cách cho người cô gái hoang đàng ấy chứng kiến một cảnh ghê rợn. Một thây chết nát rữa thối tha là tình nhân của nàng trước đây, tại một góc rừng lúc bất ngờ nàng đi qua. Trước cảnh hãi hùng đó, khiến nàng rất bàng hoàng xúc động và tự hỏi: "Lạy Chúa, sau đó còn lại cái gì?" Thế rồi, người con gái tội lỗi đó đã trở về với gia đình, xin lỗi thân phụ. Để tỏ lòng ăn năn sám hối, nàng đã tròng một giây thừng vào cổ và đã đến xin các Cha Dòng Thánh Phanxicô hướng dẫn. Rồi sau 3 năm đầy thử thách, với nhiều đêm ngày khóc lóc, ăn chay, đền tội, Margarita đã khoác trên mình bộ tu phục Dòng Ba Thánh Phanxicô, sống cuộc đời thánh thiện.
Để đáp lại tình Chúa yêu thương và lời kêu gọi của Chúa, Margarita đã biến nhà mình thành một bệnh xá vừa săn sóc bệnh nhân vừa lao động sản xuất để nuôi họ. Ma quỉ căm hờn, dùng trăm phương ngàn kế để cám dỗ Margarita bỏ đàng nhân đức, trở lại đàng tội lỗi trụy lạc; nhưng Margarita đã toàn thắng và luôn vững tiến trên đàng nhân đức. Ơn Chúa tuôn trào trên tôi tớ trung nghĩa của Ngài, khiến Margarita đã làm cho vô số tội nhân cải tà qui chính, bỏ đàng tội lỗi, ăn năn trở lại với Chúa.
I. TIẾNG CHÚA LUÔN KÊU GỌI CON NGƯỜI
Bài sách Samuel hôm nay thuật lại câu truyện Chúa đã gọi Samuel, để trao cho cậu một trọng trách của Chúa. Giữa đêm khuya đang ngon giấc trong Đền Thờ, bỗng tiếng Chúa vọng bên tai cậu: "Samuel! Samuel!" Cậu giật mình thức giấc, vội vã chạy lại Thầy Cả Heli thưa: "Này con đây, vì Thầy gọi con". Cứ như vậy, mãi tới lần thứ ba, Thầy Cả Heli biết đó là tiếng Chúa kêu gọi Samuel, nên đã bảo cậu: "Con hãy đi ngủ lại, và nếu Người gọi con, thì con hãy thưa rằng: "Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe!" Samuel về chỗ ngủ lại. Chúa tới gần và lại gọi Samuel như trước: "Samuel! Samuel!" Và Samuel thưa: "Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe!"
Tiếng Chúa kêu gọi con người bằng nhiều cách thế khác nhau: Chỉ một vài trường hợp đặc biệt, Chúa đã thân hiện đến, kêu gọi đích danh, như trường hợp của cậu Samuel, nhưng hầu hết Chúa đã dùng những cách thế thông thường, như lời khuyên nhủ của các vị đại diện Chúa, lời giảng dạy của một vị giảng thuyết, một ơn soi dẫn trong tâm hồn, một giấc chiêm bao hay một biến cố nào đó của cuộc đời. Trong tất cả mọi hoàn cảnh đó, các Thánh đã mau mắn đáp lại, khi các ngài nhận ra thánh ý Chúa.
Thánh Phanxicô thành Assisi, một chàng trai giầu sang háo danh, cũng chỉ vì nghe lời Chúa phán được trưng lại trong một bài giảng: "Con người được lợi lãi cả thế gian, mà thiệt mất linh hồn mình thì được ích gì". Ngài đã quyết tâm bỏ mọi sự, sống đời khó nghèo và đã chinh phục được biết bao người theo ngài, để hiến thân phụng sự Chúa, xây dựng Giáo Hội và giúp ích cho biết bao linh hồn.
Thánh Ignatiô, một sĩ quan quân đội bị trọng thương, đang thời gian nằm điệu trị tại bệnh viện, bất ngờ đọc cuốn truyện các Thánh, ngài cảm thấy thán phục, nên đã quyết tâm sống theo thánh ý Chúa soi dẫn, lập nên một Hội Dòng lớn với danh hiệu Dòng Chúa Giêsu, đem lại bao lợi ích cho Giáo Hội và thế giới.
Thánh Augustinô, từ một chàng trai trụy lạc tội lỗi được cải hóa và đã trở nên một vị Đại Thánh Tiến Sĩ của Giáo Hội, chinh phục biết bao linh hồn trở về với Chúa, qua những tác phẩm giáo huấn và lời giảng dạy khôn ngoan của ngài... Còn biết bao trường hợp tương tự, ơn Chúa đã thực hiện cách lạ lùng nơi đời sống của các Thánh.
II. THÁI ĐỘ CHÚNG TA TRƯỚC LỜI CHÚA
Ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, Chúa đã kêu gọi chúng ta theo Chúa, đã giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và quyền lực hỏa ngục, ban cho chúng ta được diễm phúc làm con Chúa; đồng thời, ủy thác cho chúng ta sứ mạng làm tông đồ đem Tin Mừng của Chúa đến cho muôn người. Nhưng để thực thi sứ mạng tông đồ đó cách hữu hiệu hơn, Chúa còn dùng nhiều cách thế, nhiều hoàn cảnh, nhiều cơ hội thuận tiện khác nhau hoặc bởi nhiều biến cố, nhiều nguyên nhân khác nhau, để kêu gọi và tỏ cho chúng ta biết thánh ý Chúa, muốn chúng ta sống trong ơn gọi hay địa vị nào, hợp với mỗi môi trường và hoàn cảnh khác nhau; đồng thời, ban cho chúng ta những ơn thánh cần thiết, để chúng ta có thể làm trọn thánh ý Chúa.
Nhưng đứng trước lời Chúa kêu gọi, chúng ta cần có thái độ nào? Chúng ta đã mau mắn, dứt khoát, can đảm và quảng đại đáp lại lời mời gọi ân tình của Chúa như các Thánh đã làm chưa?
Margarita sau khi bỏ đàng tội lỗi, không những ngài đã trở thành một vị Thánh, mà ngài còn chinh phục biết bao linh hồn tội lỗi khác trở về với Chúa.
Thánh Phanxicô, Ignatio, Augustinô, sau khi nghe tiếng Chúa kêu gọi, các ngài đã trung thành phụng sự Chúa, không những bằng đời sống thánh thiện của mình, mà các ngài còn tận lực dùng ảnh hưởng, dùng tài sức khôn ngoan thông thái Chúa ban, để cải hóa, chinh phục biết bao linh hồn cũng can đảm hiến thân phụng sự và làm tông đồ vinh danh Chúa. Sự nghiệp lớn lao và gương mẫu thánh thiện của các ngài vẫn còn tồn tại trong Giáo Hội và có sức chinh phục các linh hồn qua muôn thế hệ.
Các Thánh đã không hề làm uổng phí ơn Chúa đã ban cho các ngài, bởi vì các ngài đã hết lòng phụng sự yêu mến Chúa, chỉ khát khao làm vinh danh Người. Do đó, các Thánh đã tận lực dùng mọi cách thế, với tất cả khả năng, lợi dụng mọi hoàn cảnh, mọi cơ hội, để cổ võ, khuyến khích, chinh phục, lôi kéo các linh hồn về cho Chúa, để họ cũng được diễm phúc làm con Chúa, phụng sự và yêu mến Chúa. Như trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Gioan Tiền Hô thấy Chúa Kitô đi ngang qua, ngài giới thiệu với hai môn đệ của ngài: "Đây là Chiên Thiên Chúa" và cho hai môn đệ ông đi theo Chúa. Rồi khi Anrê đã gặp được Chúa rồi, lại sung sướng giới thiệu với Simon: "Chúng tôi đã gặp được Đấng Messia" và dẫn ngay anh mình đến với Chúa Giêsu.
Khi các Thánh đã nhận biết Chúa, cảm nghiệm được hạnh phúc trong tình yêu mến Chúa, các ngài cũng sốt sắng, khát khao chia sẻ niềm vui sướng và thôi thúc người ta đến với Chúa, để họ cũng được hưởng niềm an vui hạnh phúc được yêu mến và phụng sự Chúa như các ngài. Cũng giống như cậu Samuel, các Thánh mỗi ngày càng tiến cao trong đàng thánh thiện, lập thêm nhiều công phúc, làm vinh danh Chúa, vì được Chúa hằng ở cùng các ngài, các ngài không để uổng phí lời nào trong các thánh ngôn Chúa phán dạy (xem 1 Sam 3:19).
KẾT LUẬN
Chớ gì chúng ta có tâm hồn như Mẹ Maria và các Thánh, luôn mau mắn, dứt khoát, can đảm và quảng đại đáp lời Chúa kêu gọi, tiến thân theo Chúa, hết lòng yêu mến, phụng sự và làm vinh danh Ngài. Để cũng luôn được tâm hồn ngoan thảo thưa được với Chúa: "Này con xin đến để thi hành thánh ý Chúa" (xem Heb 10:7).
46. Bước theo Ngài - Thiện Mỹ
Người Ấn Độ kể rằng:
Có một thanh niên khao khát được nhìn thấy Chúa. Ngày đêm anh cầu nguyện cho ước mong được thành sự thật.
Không bao lâu Chúa hiện đến với anh dưới hình dạng một người đẹp đẽ, uy quyền và dễ mến. Chúa hỏi anh:
- Con có muốn đi với Ta một quãng đường không?
Người thanh niên cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết. Chúa và anh cùng sánh bước như đôi bạn tri kỷ. Đi được một lúc Chúa hỏi:
- Ta khát nước, con có thể đi tìm cho Ta ít nước không? Người thanh niên hăm hở đi tìm nước. Lòng anh tràn ngập hân hoan. Còn gì sung sướng cho bằng đi tìm nước cho Chúa.
Nhưng anh đi mãi mà không thấy nước đâu. Anh tiếp tục đi và sau cùng anh tới một dòng sông, anh đang chuẩn bị lấy nước mang về cho Chúa thì tình cờ xuất hiện một cô gái xinh đẹp, cô gái đẹp tới độ làm người thanh niên không còn thấy cảnh vật chung quanh cũng chẳng nghĩ đến mang nước về cho Chúa nữa.
Anh lân la đến làm quen với cô gái. Họ thương nhau, lấy nhau và sinh nhiều con cái, không gì hạnh phúc cho bằng... Thế rồi chuyện không may xảy ra, một cơn ôn dịch xảy tới, người thanh niên đưa vợ con đi nơi khác. Khi đi qua một chiếc cầu thình lình mưa gió thổi đến, nước dâng lên,cuốn cả vợ con anh. Còn anh thì may mắn bám được vào một gốc cây. Anh khóc thương cho số phận vợ con cũng như kiếp cô đơn của mình.
Giữa lúc đó Chúa lại xuất hiện trước mặt anh. Ngài ôn tồn hỏi:
- Này con, con có mang nước về cho ta không? Con làm gì để Ta chờ đợi cả tiếng đồng hồ vậy!
Chắc hẳn ai ai cũng thầm trách người thanh niên đểnh đoảng đến thế. Nhưng xét cho kỹ thì đó là sự mê hoặc thường tình của con người. Cũng như khi đọc lại những trang đầu của bộ sách Kinh Thánh, khi nguyên tổ đồng hành với Thiên Chúa trong ân sủng, lại bị sai sót rơi vào lời dụ dỗ của ma quỉ, để rồi loài người bị gián đoạn nhiều ngàn năm chờ đợi vị cứu tinh. Hôm nay Phúc Âm tỏ cho chúng ta thấy việc Chúa lại bắt đầu cuộc sống thân tình với loài người.
Hôm ấy Thánh Gioan Tẩy Giả cùng với hai môn đệ đang đứng bên bờ sông.Trông thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa Hai môn đệ nghe nói, liền xin phép Thầy để theo Chúa. Có lẽ hai môn đệ này đã được nghe nói về Chúa Giêsu nhiều và đã hỏi ý Thầy trước nên mới vội vã xin theo Ngài.
Nghe bài Tin Mừng trên chúng ta lại thèm khát cho số phận "sinh sau đẻ muộn" của mình vì không được tốt số sống đồng thời với Chúa Giêsu để rồi theo sát khít bước chân của Ngài, sống chết với Ngài như các Thánh Tông Đồ năm xưa. Nhưng giả sử tất cả chúng ta có được sống chung với Ngài, theo bước chân Ngài đi rao giảng khắp mọi nơi. Giả thiết này cũng chỉ giải quyết được những thanh niên, còn các phụ nữ ngày xưa đâu có ở luôn bên Chúa và những người bệnh tật, trẻ con, già cả làm sao mà ở với Chúa được. Thế nên Chúa chỉ chọn 12 Tông Đồ mà thôi. Và để trả lời đáp án này, Chúa Giêsu nói với chị người Samaritana bên bờ giếng Giacóp rằng: "Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa trong Thần Khí và sự thật".
Như chúng ta đã biết:"Chúa ở khắp mọi nơi". Đó là giáo lý sơ đẳng cho mọi tín hữu. Và trong thời đại này Lời Chúa đã được lan tràn khắp thế giới. Hơn nữa ta có thể thấy Ngài hiện diện trong mọi tạo vật.
"Mắt và cánh của một con bướm đủ để đánh đổ một nhà vô thần" (Diderot).
Chẳng hạn chúng ta yêu thích người bạn trăm năm của mình không những vì dáng vẻ bên ngoài, vì con tim nồng ấm, mà còn vì Thiên Chúa ở trong hữu thể của họ. Thiên Chúa ngự trị giữa gia đình nơi từng người con trai cũng như con gái. Nhờ đó chúng ta sẽ phấn khởi phục vụ và dẫn đưa cả gia đình về miền đất hứa vĩnh cửu.
Sứ mệnh con người không phải là kiếm cho được nhiều tiền, cũng không phải là tìm kiếm một ước vọng sa xôi hão huyền. Sứ mệnh con người là nhận biết Thiên Chúa để yêu mến và phụng sự Ngài. Người tu trì thể hiện tình yêu Chúa nơi cộng đoàn tu trì hoặc cộng đoàn dân Chúa. Còn giáo dân thể hiện tình yêu Chúa nơi mái ấm gia dình. Tất cả mọi trái tim làm nên khối tình yêu vĩ đại dâng lên Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời sống.
Thật sự đời sống của con người chỉ có ý nghĩa khi nhìn thấy bước chân của Ngài ở khắp mọi nẻo đường trong cuộc sống. Ngài ẩn mình trong muôn ngàn hoa sắc thắm, trong giòng suối mát dù ở tận rừng sâu thẳm, trong bầu trời lấp lánh của các vì sao, trong trái tim của nhân loại nơi người em thơ cũng như người già yếu v.v.
Mỗi người sẽ hoàn thành công việc bước theo chân Ngài trong trách vụ được trao phó để rồi đời sống mai hậu sẽ được phần thưởng nhiều hay ít là tùy ở sự đáp yêu của từng người.
Để bước theo chân Chúa Giêsu cách mau lẹ, chúng ta hãy nhìn lên gương mẫu tuyệt vời là Đức Maria. Mẹ đã đồng hành với Chúa Giêsu từ lúc thưa lời xin vâng đầu tiên trong ngày truyền tin cho đến lời xin vâng cuối cùng trên thập giá. Vì thế Đức Mẹ được ban tặng mọi danh hiệu nhân đức cao cả.
47. Cách thức Thiên Chúa kêu gọi con người
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy)
Bài Sách Thánh trích từ Sách Sa-mu-en thuộc phần Cựu Ước và bài Phúc Âm theo thánh Gioan của Chúa Nhật thứ 2 Mùa Thường Niên hôm nay có một tương quan hết sức mật thiết. Bài Sách Thánh trình bày câu chuyện cậu học trò Sa-mu-en được Chúa kêu gọi làm Tiên Tri, còn trong bài Phúc Âm thánh sử Gioan tường thuật lại ơn kêu gọi hai môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, mà một trong hai người môn đệ đó là chính tác giả của bài Phúc Âm.
Điều quan trọng khiến chúng ta không thể bỏ qua được trong hai bài tường thuật về ơn gọi của cậu học trò Sa-mu-en cũng như của các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu là sự can thiệp của một đệ tam nhân, của người làm trung gian. Vâng, trong ơn gọi của Sa-mu-en chính là Thầy Cả Thượng Phẩm Hê-li, người mà cha mẹ Sa-mu-en đã trao phó con trai mình để ngài giáo dục và dẫn dắt cậu trên đường hiến dâng cho Thiên Chúa. Một hôm đang ngủ, Sa-mu-en bỗng nghe như có ai gọi tên cậu và cậu liền chạy lại cùng Thầy Cả Hê-li ngay và thưa: “Này con đây, Thầy đã gọi con!” Thầy Cả Hê-li biết ngay là Thiên Chúa gọi cậu bé nên đã cho cậu về phòng và căn dặn hãy cứ tiếp tục mau mắn và sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi như thế. Vậy, Thầy Cả Hê-li đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Thầy Cả đã dầy công dạy dỗ và dìu dắt Sa-mu-en trở thành ngoan ngoãn thuần thục, để chuẩn bị sẵn sàng cho sứ mệnh từ Trời Cao giao phó. Nay thời giờ cho sứ mệnh đó đã điểm, một Đấng Cao Cả hơn muốn đòi lại cậu bé Sa-mu-en và Thầy Cả Thượng Phẩm Hê-li đã dâng hoàn trả lại cậu bé cho Đấng Cao Cả đó.
Còn trong bài tường thuật của Phúc Âm, Gioan Tiền Hô cũng đã cảm nghiệm được rằng sứ mệnh huấn luyện đoàn môn đệ đang luôn vây quanh ngài đã đến lúc hoàn tất. Một Đấng khác cao cả hơn ngài đã đến và cũng chỉ vì Đấng đó mà ngài đã huấn luyện đoàn môn đệ kia bấy lâu. Nay đã đến lúc ngài phải trao trả lại các môn đệ cho Đấng đó. “Kìa là Con Chiên Thiên Chúa”, Gioan Tiền Hô đã chỉ tay về phía Đức Giêsu và giới thiệu cho hai người môn đệ như thế khi ngài thấy Đức Giêsu đang đi ngang qua trước mặt mình. Và hai người môn đệ đã hiểu được ngay lời thầy mình: “Hai người môn đệ nghe ông nói và liền theo Đức Giêsu.”
Qua sự diễn biến về ơn gọi của Sa-mu-en và của hai người môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra được đường lối của Nước Thiên Chúa, hay nói cách khác, cách thức hành động của Thiên Chúa. Đó là không một ai được kêu gọi trực tiếp dâng hiến phụng sự Thiên Chúa hay làm môn đệ Đức Giêsu, nhưng đương sự phải nhờ vào đời sống đức tin có ấn tượng mạnh mẽ, gương sống đạo sâu sắc và sự tận tâm giúp đỡ của đệ tam nhân, của đồng loại khác. Dĩ nhiên, sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, giữa Đức Giêsu và người môn đệ là một điều hoàn toàn mang tính cách cá nhân. Vâng, tiếng “xin vâng” đáp lại lời kêu mời của Thiên Chúa, tiếng “xin vâng” của đức tin và của lòng tuân phục đối với Thiên Chúa, không một ai có thể làm thay cho người khác được. Đó là ngưỡng cửa mà mỗi người phải tự bước qua với tất cả ý thức trách nhiệm. Thế nhưng, khoảng cách trên đoạn đường tìm về ngưỡng cửa đó, chúng ta cần phải có sự hướng dẫn của bao người khác, những người đã đi trước và đã bước qua ngưỡng cửa đó trước chúng ta, những người đã có đầy đủ kinh nghiệm về Thiên Chúa như Thầy Cả Hê-li; và những người được gửi tới để làm bạn đường hướng dẫn chúng ta, như Gioan Tiền Hô: Cha mẹ, các cha linh hướng, các thầy cô và bạn bè tốt, v.v...
Vâng, Ơn gọi sống đức tin là một ơn nhưng không của Thiên Chúa ban, và “Thánh Thần hoàn toàn tự do, muốn thổi đâu tuỳ ý”, tuy nhiên ảnh hưởng và sự dìu dắt nâng đỡ của kẻ khác cũng hầu như là một điều kiện tất yếu trong Ơn Gọi vậy. Cũng như, không hẳn là một thửa đất đã được cày bừa thuần thục là sẽ được bác nông dân gieo hạt giống tốt vào đó, nhưng điều kiện để bác nông dân gieo hạt giống của mình vào thửa đất là trước hết thửa đất phải được cày bừa và sửa soạn thuần thục trước đã.
Tiếp đến, Sa-mu-en sẽ không bao giờ quên Thầy mình là Hê-li, hai Tông đồ Gioan và An-rê cũng sẽ không bao giờ quên sư phụ đầu tiên của các ngài là Gioan Tiền Hô. Cũng vậy, chúng ta không bao giờ được phép quên ơn những người đã dạy dỗ, đã giúp đỡ chúng ta trong việc nhận biết Thiên Chúa, biết khám phá ra và đầy tin yêu đáp lại tiếng Người mời gọi chúng ta, dù cho đã xảy ra trong tuổi thơ qua đường lối vâng lời đơn sơ như trường hợp cậu bé Sa-mu-en, hay qua những thăm dò và tìm hiểu dè dặt của các thanh thiếu niên trưởng thành như trong trường hợp của các môn đệ Gioan Tiền Hô. Mỗi người hành động tương tự theo lứa tuổi và cách thức của mình như thế đều đúng và đều quan trọng. Tuy nhiên, trường hợp thứ hai cần phải nối tiếp, đổi mới và đào sâu trường hợp thứ nhất, nói cách khác, sau khi tìm hiểu Ơn Gọi của mình, con người còn phải biết đơn sơ phó thác đáp lại tiếng Chúa, biết đơn sơ tin tưởng vâng theo Thánh Linh Chúa hướng dẫn. Bởi vậy, bạn đừng coi thường đức tin đơn sơ của tuổi thơ, nhưng bạn cũng đừng ngạc nhiên khi một ngày nào đó đức tin đơn sơ của tuổi thơ được thay thế bằng đức tin có ý thức và đầy thâm tín của người trưởng thành. Cả hai giai đoạn đều cần thiết và đều bổ túc cho nhau.
Vâng, nếu ngày nay bạn là một người trưởng thành với đời sống đức tin sống động, là do đức tin đó đã ăn rễ sâu trong con người bạn từ tuổi thơ rồi. Nhưng cả hai giai đoạn đó của đức tin - trong tuổi thơ và tuổi trưởng thành - đều cần đến sự nâng đỡ và hướng dẫn của kẻ có kinh nghiệm trong vấn đề.
Dĩ nhiên mỗi giai đoạn mỗi khác. Cách thức hướng dẫn của thầy cô ở nhà trường, của các giáo lý viên hay của cha xứ ở các lớp giáo lý khác với sự chỉ dạy của cha mẹ ở nhà khi các ngài lần đầu tiên dạy cho bạn biết kêu tên Chúa hay dạy cho bạn cách giơ tay làm Dấu Thánh Giá, v.v.. Cũng vậy, cách thức hướng dẫn của Thầy Cả Hê-li đối với bé Sa-mu-en không giống thái độ của Gioan Tiền Hô đối với hai môn đệ trưởng thành của ông. Thầy Cả Hê-li dạy bé Sa-mu-en: Con hãy làm như thế này. Còn Gioan Tiền Hô lại sử dụng một phương pháp khác: Ông chỉ giới thiệu và cho các môn đệ thông tin về Đức Giêsu: “Kià là con Chiên Thiên Chúa”.
Cả hai trường hợp, Thầy Cả Hê-li và Gioan Tiền Hô đều nhằm cùng một mục đích: Trao trả những người được giao phó cho mình lại cho Đấng Cao Cả hơn, vì sứ mệnh của các ngài là sống và hướng dẫn dạy dỗ kẻ khác cho Đấng đó mà thôi.
Đàng khác, qua thái độ sống gương mẫu và cách thức thực thi tốt sứ mệnh được giao phó cho mình của Hê-li và của Gioan Tiền Hô, chúng ta cảm nhận được rằng thật không gì đẹp đẽ và cao quí hơn là được hướng dẫn và giúp đỡ kẻ khác trên con đường dẫn tới Đức Kitô. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải học nơi các ngài là khi nào phải biết can đảm chấm dứt sứ mệnh đã nhận lãnh, khi nào phải rút lui khỏi chức vụ và nhiệm sở đã được trao phó, để nhường lại cho người kế vị và nhất là trao trả lại cho Thiên Chúa. Không phải tất cả các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục, các vị Linh mục, v.v... đã xử sự như Thầy Cả Hê-li và như Gioan Tiền Hô. Nhưng, hoặc họ quá dính bén một cách trần tục vào chức vụ thiêng liêng, hoặc họ chỉ muốn các thụ nhân của họ phải luôn lệ thuộc và phải luôn nhờ đến sự chăm sóc giúp đỡ của họ.
Họ quên rằng một chương trình giáo dục chỉ được coi là thành công khi người thụ nhân trưởng thành, tự có thể tìm ra cho mình một hướng đi riêng độc lập và không còn cần đến sự hướng dẫn của nhà giáo dục nữa. Cũng vì thế, khi người thanh niên tự chọn cho mình một con đường sống khác với sự dự định và lòng mong muốn của chúng ta - là cha mẹ, cha linh hướng và các nhà giáo dục - thì chúng ta phải tôn trọng sự tự do đó.
Mỗi người đều được tự do thờ phượng Chúa theo cách thức của mình. Mỗi người đều được tự do chọn lựa cho mình con đường tìm đạt hạnh phúc. Chúng ta phải tôn trọng sự lựa chọn đó, cả khi chúng ta tin chắc rằng sự lựa chọn đó hoàn toàn khác với sự hướng dẫn chính đáng của chúng ta và sẽ không dẫn tới Thiên Chúa, thì điều chúng ta vẫn cần phải làm là hãy tôn trọng sự tự do đó. Vì không ai được phép ép buộc người khác phải chạy đến cùng Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng không ép buộc bất cứ ai phải đến với Người. Nếu không, mọi sự sẽ đưa tới một hậu quả tồi tệ hơn.
Quả vậy, chúng ta hãy quan sát xem chính Đức Giêsu đã tôn trọng sự tự do của hai người thanh niên là Gioan và Anrê đang tìm đến với Người một cách nhã nhặn như thế nào: “Các anh muốn tôi giúp được gì cho các anh đây?” Người hoàn toàn để hai chàng thanh niên được tự do trình bày ý nguyện của họ: “Thưa Thầy, nhà Thầy ở đâu?”, nghĩa là họ muốn nói: Trước hết chúng tôi chỉ muốn có những thông tin chắc chắn về Thầy đã! Đối lại, Đức Giêsu cũng chỉ cho tin một cách hết sức khách quan, chứ không khuyến dụ hay lôi kéo hai anh: “Các anh hãy tới xem cho biết”, và “họ đã đi với Người và đã nhìn thấy nhà người đang ở, và họ đã ở lại đó với Người cho hết ngày hôm đó”. Sau rất nhiều năm, vị thánh sử và đồng thời cũng là người môn đệ còn ghi rõ: “Đó là vào giờ thứ mười”. Chính đó là giờ mà lần đầu tiên trong đời anh đã bước qua ngưỡng cửa nhà Đức Giêsu và đã được làm quen với Người. Điều đó nói lên rằng suốt đời anh sẽ không bao giờ quên những giờ phút hạnh phúc được sống với Đức Giêsu.
Sau cùng, để có thể cảm nghiệm được cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu đã nung nấu, động viên và thay đổi được con người của hai chàng thanh niên đó như thế nào, chúng ta hãy nhìn vào thành quả của buổi gặp gỡ: Chỉ mấy ngày sau đó, An-rê đã tìm gặp em mình là Simon và dẫn chàng đến gặp Đức Giêsu. Qua sự kiện đó, đường lối căn bản cố hữu của Thiên Chúa lại được sử dụng ở đây, là người này hướng dẫn người kia tới cùng Người, kẻ này giúp đỡ kẻ nọ tìm gặp được Người, và cứ thế mãi! Vậy để thử nghiệm xem đức tin của chúng ta có còn sống động hay không và liệu chính chúng ta đã bước qua ngưỡng cửa để vào nhà Đức Giêsu hay chưa, chúng ta hãy tự hỏi lòng mình là chúng ta đã nỗ lực thực thi đường lối cơ bản của Nước Thiên Chúa, tức đưa dẫn người khác đến cùng Đức Giêsu hay không!
48. Hãy đến, xem và ở lại cùng Người
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Khoa Toàn)
Norman Vincent Peale là tác giả nổi tiếng viết khá nhiều sách trong đó có best-seller "The Power of Positive Thinking". Một ngày kia, đang dạo phố ở Hồng Kông, Peale tình cờ đi ngang qua một tiệm xâm hình. Trên khung cửa kiếng trưng bày đủ loại đủ kiểu xâm nhưng có một hàng chữ đập mạnh vào mắt Peale: "Born to Lose". Không nén nỗi tò mò, Peale đẩy cửa buớc vào, chỉ vào hàng chữ trên rồi nói: "That one!"
Người thợ xâm không nói không rằng chỉ lẳng lặng ra hiệu cởi áo ngoài ra thì Peale liền xua tay: "Không! Tôi không có ý xâm đâu nhưng chỉ muốn hỏi là đã có ai vào xâm hàng chữ 'Born to Lose' kia chưa?" "Cũng có vài người." "Ông không đùa đấy chứ?" Peale trố mắt kinh ngạc. Bằng một giọng lơ lớ tiếng Anh, người thợ xâm bình thản trả lời: "Before tattoo on chest, tattoo on mind." (Truớc khi xâm trên ngực, [họ] đã xâm trong đầu rồi)...
Peale choáng váng mặt mày như không tin vào tai mình nữa. Sao ai lại vào đây và xâm trên da thịt mình những chữ rất tiêu cực kia? Oái ăm thay! Điều gì cũng có thể xảy ra dưới ánh mặt trời này!!!
Thực thế, linh mục tâm lý gia dòng Tên John Powell đã viết là có những người không bao giờ tin tưởng vào khả năng mình. Giả như có ai nhờ điều gì hoặc cậy việc chi, họ điều tìm đủ mọi cách từ chối thoái thác. Có thể một phần vì ngại ngùng, nhưng cũng có thể phần lớn của sự ngại ngùng kia là họ không tin chính vào sức mình.
Khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ 'đến và xem' chỗ Người ở, họ đã đến. Đã xem. Và họ quyết định 'ở lại' cùng Người. Họ ở lại vì chẳng những họ tin Đức Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa mà là Chiên Thiên Chúa sẽ làm những việc kỳ diệu của Người qua chính họ.
Họ ở lại. Không một chút đắn đo! Cũng chẳng một phút ngại ngùng! Chúng ta cũng thế. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta đuợc mời đến và xem và dẫu cho muôn ngàn khó khăn chông gai đang chờ đón, chính chúng ta quyết định ở lại và cùng Người tiến buớc gieo Tin Mừng Cứu Rỗi.
Không phải dễ dàng đâu nếu không xâm trong óc trong tim một lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Và vào chính mình. Đuờng theo chân Chúa chỉ có thể cho những người tay áo luôn xắn cao sẵn sàng đối đầu với những hiểm nguy và thử thách thế trần.
Khi Thiên Chúa luôn là trọng tâm của cuộc đời, chúng ta sống vũng tin hơn vào chính mình vì thân xác mình, như lời thánh Phaolô, chính là "đền thờ Thánh Thần Chúa". Và đền thờ này không phải đuợc giản đơn định giá qua lăng kính 'ngoại hình cân đối' mà là một tinh thần tuyệt đối trung kiên.
"Đuờng đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông!" Đã bước sang tuần thứ hai của năm mới, nhưng cũng chưa muộn lắm đâu khi chúng ta cầu chúc cho nhau đuợc thêm lòng tin vào Thiên Chúa. Và hãy mạnh dạn xâm niềm tin ấy vào máu vào tim. Như Samuen và các tiên tri xưa kia. Như các thánh tông đồ hai ngàn năm truớc. Họ đã đến. Đã xem. Và đã trung kiên ỡ lại cùng Người...
49. Đáp trả và sống ơn gọi mỗi ngày
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Nhìn thấy Đức Giêsu đi qua, ông Gioan tiền hô liền giới thiệu hai môn đệ của mình cho Chúa: Đây là Chiên Thiên Chúa (Ga 1:36). Một trong hai môn đệ đi theo Chúa thì Phúc âm hôm nay nêu danh tính là Anrê, còn ông kia được giấu tên. Tuy nhiên học giả Thánh kinh đoán là ông Gioan tông đồ vì ông có khuynh hướng hay giấu tên mình. Hai trường hợp khác ông cũng giấu tên là khi ông viết: Người môn đệ mà Chúa yêu (Ga 13:23; Ga 19:26-27; Ga 20:2) và ông còn tường thuật về: Người môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước (Ga 20:4).
Hai môn đệ của ông Gioan tiền hô chấp nhận lời mời gọi của Chúa: Hãy đến mà xem (Ga 1:39). Họ đến xem nơi Chúa ở và quyết định ở lại với Người và đi theo Người. Gioan tiền hô không đặt vấn nạn về việc hai môn đệ đào ngũ đi theo Chúa, vì ông chủ trương Đấng cứu thế phải được tỏ hiện, còn ông phải rút lui vào bóng tối (Ga 3:30). Hành động đầu tiên của Anrê khi tìm thấy nơi Chúa ở là đi tìm anh mình là ông Simon để giới thiệu với Chúa. Khi Simon đến gặp Chúa, Chúa liền đổi tên ông thành Phêrô, có nghĩa là đá. Chúa đặt cho ông tên này vì Chúa biết trước Người sẽ đặt ông làm đầu Giáo hội. Ông sẽ trở nên như tảng đá vững chắc cho toà nhà Giáo hội của Chúa.
Các ông đi theo Chúa, chắc chắn trăm phần trăm không phải vì Chúa ở nhà cao cửa rộng. Trong đời sống ẩn dật, Chúa ở tại nhà Nadarét. Còn trong đời sống công khai, Phúc âm chỉ nhắc Chúa ở lại nhà ông Dakêu (Lc 19:5) và có những lần ở nhà ba chị em Mác-ta, Maria và Ladarô (Lc 10:38; Ga 12:2). Những trường hợp khác ta có thể đoán khá chắc chắn rằng Chúa sống kiểu bụi đời: nay đây mai đó, có thể tá túc ở túp lều vải lưu động để che mưa nắng, đi thì gấp vào rồi mang theo. Lối sống vô gia cư này được Chúa xác nhận khi có người trong Phúc âm muốn đi theo Chúa, thì Chúa bảo: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu (Mt 8:20; Lc 9:58). Theo Chúa trong trường hợp và hoàn cảnh như vậy phải kể là mạo hiểm, nếu chưa nói là liều lĩnh vì nước Trời. Bài trích sách Sa-mu-en quyển một cho thấy câu chuyện Chúa gọi Samuen để thi hành sứ mệnh lãnh đạo dân Chúa và làm ngôn sứ. Samuen trả lời sẵn sàng: Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe (1Sm 3:10).
Nói đến ơn gọi nhiều người nghĩ rằng chỉ có linh mục và tu sĩ nam nữ mới được ơn Chúa gọi làm việc tông đồ truyền giáo. Thực ra mỗi người tín hữu đều có ơn gọi. Nói chung có ba thứ ơn gọi khác nhau: ơn gọi làm linh mục tu sĩ nam nữ, ơn gọi sống đời hôn nhân, ơn gọi sống độc thân giữa đời. Người giáo dân sống độc thân hay có gia đình qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức đều được gọi để làm việc tông đồ giáo dân bằng lời cầu nguyện, gương sáng, bằng việc bác ái phục vụ theo khả năng và phương tiện có thể.
Theo thánh Phaolô thì trong Giáo hội có những ơn gọi, những chức vụ và vai trò khác nhau khả dĩ để xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô (1 Cr 12:12-34). Công đồng Vaticanô II trong Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân, kêu gọi người giáo dân làm việc tông đồ nơi gia đình, trong xã hội, trên bình diện quốc gia và quốc tế qua việc tông đồ cá nhân, việc tông đồ tập thể. Công Đồng ghi nhận: Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc âm và thánh hoá. Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa (TĐGD # 6).
Như vậy có ơn gọi nọ giá trị và cao qui hơn ơn gọi kia chăng? Cổ nhân thường nói: Tu là cõi phúc, tình là giây oan. Tuy nhiên tu mà không trọn kiếp thì cũng không hẳn là có hạnh phúc. Điều quan trọng là mỗi người sống ơn gọi của mình, tìm cách phát triển và hoàn thành ơn gọi. Trong một vở kịch mà tài tử chính diễn dở thì làm cho vở kịch kém giá trị. Trái lại người đóng vai phụ mà diễn hay, thì cũng được khen thưởng.
Sống ơn gọi là một tiến trình kéo dài suốt cả cuộc sống. Ngày chịu chức linh mục không phải là dừng bước làm linh mục. Ngày chịu chức linh mục mới chỉ là bước khởi đầu cho đời sống linh mục. Đời sống hôn nhân cũng vậy. Hôn nhân không dừng lại trong ngày đám cưới, trong tuần trăng mật. Tình yêu và đời sống hôn nhân phải được nuôi dưỡng và phát triển từ ngày này qua ngày khác, từ năm nọ qua năm kia. Ơn gọi làm người Kitô hữu cũng không dừng lại khi lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy hay Bí tích Thêm sức. Chứng chỉ rửa tội không phải là giấy thông hành để vào nước Trời, nếu người ta không sống và thực hành lời Chúa và không giữ giới răn Chúa. Mỗi người tín hữu cần tiếp tục học hỏi về đạo giáo và đường lối Phúc âm hầu làm tăng triển mối liên hệ với Chúa, sống đức tin và làm đổi mới đức tin.
Đó là tíến trình của việc làm môn đệ. Mỗi người Kitô hữu đã chịu Phép Thanh tẩy gồm cả linh mục, nam nữ tu sĩ đều được gọi để làm môn đệ Chúa. Việc người tín hữu đáp lại tíếng Chúa mời gọi không phải là một lần. Mỗi ngày đòi ta làm mới lại việc đáp trả. Còn việc chấp nhận hay không là tùy thuộc vào mỗi người. Bản tính loài người là yếu đuối, nhưng khi Chúa mời gọi ta làm việc nọ chuyện kia, Người ban đủ ơn để ta thi hành công việc.
Lời Chúa mời gọi không phải là tiếng gọi một chiều, nhưng bao hàm việc đáp trả và cộng tác với ơn Chúa. Ân huệ và quyền năng của Chúa tuỳ thuộc vào việc mở rộng tâm hồn và cộng tác của mỗi người.
Lời cầu nguyện: xin cho được đáp trả và sống ơn gọi mỗi ngày: Lậy Chúa! Chuá hằng kêu gọi mỗi người đến những vai trò và phận vụ khác nhauđể phụng sự Chúa và phục vụ đồng loại. Xin cho những người đứng giữa ngã ba đường không biết phải theo đường nào được nhận ra đường Chúa muốn họ đi để họ có thể đáp trả và theo đuổi. Và xin ban ơn để con hoàn thành ơn gọi. Amen.
50. Hãy đến mà xem
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
Angele Laly viết: "... Để mời gọi, Chúa Giêsu hầu như không nói. Người chỉ trả lời cho một sự khát vọng và một câu hỏi: “Thầy ở đâu?”. Người mời gọi vào trong thân tình của Người, vào trong nhà Người, những ai muốn biết Người ở đâu: “Hãy đến rồi sẽ thấy”. Giới thiệu Đức Giêsu cho người khác, cho anh em là bổn phận và trách nhiệm của tất cả Kitô hữu trên trái đất này? Nếu Đức Giêsu không được nhiều người nhận biết và tin bởi vì ít người nói, loan báo về Ngài. Bởi vậy, việc loan báo và giới thiệu Đức Giêsu cho anh em là việc làm khẩn thiết và quan trọng đối với người môn đệ của Chúa. Tin Mừng Chúa Nhật II thường niên, năm B, nhắn nhủ mọi người nên bắt chước Anrê chia sẻ với người khác niềm tin của mình vào Chúa Giêsu.
Đọc Tin Mừng của thánh Gioan, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và hết sức khâm phục Anrê, vị tông đồ luôn giới thiệu Đức Giêsu cho người khác. Đoạn Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay cho thấy Anrê đã gặp Đức Giêsu: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1, 41), rồi Anrê liền giới thiệu em mình là Phêrô cho Chúa Giêsu. Anrê đã trở nên quen thuộc và được nhiều người biết đến vai trò của mình, khi dân chúng đi theo Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng dạy và vì chiều, dân quá đông, các môn đệ đề nghị với Chúa Giêsu giải tán đám đông, để họ tự đi tìm thức ăn, nhưng Chúa Giêsu đã bảo các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn”. Thế rồi Anrê đã tìm được một cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá“, Anrê liền đưa cậu bé giới thiệu với Chúa Giêsu. Qua việc giới thiệu cậu bé này, với sự cộng tác của bàn tay con người hay nói đúng hơn, có vật chất: có bánh, có cá. Chúa Giêsu sau khi đã cầu nguyện tạ ơn Thiên Chúa Cha, Ngài đã biến bữa ăn trưa của cậu bé trở thành bữa tiệc tập thể nuôi sống hơn năm ngàn người.Lần cuối cùng khi Chúa Giêsu trở lại Giêrusalem, có mấy người Hy Lạp đến xin gặp Ngài. Anrê là người đã giới thiệu họ với Chúa Giêsu. Chắc chắn Chúa Giêsu đã rất hài lòng về Anrê, bởi vì sau đó chính Ngài đã nói: “phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ khéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32).
Xem như thế, chúng ta thấy vai trò của Anrê thật quan trọng và đáng được ghi nhận để bắt chước Anrê vì nếu Anrê không giới thiệu em mình là Simon Phêrô cho Chúa Giêsu, Giáo Hội làm gì có một Phêrô là thủ lãnh được Chúa tin tưởng, yêu thương đặt lên coi sóc Giáo Hội của Ngài: “Hãy chăm sóc chiên con, chiên mẹ của Ta“. Và nếu không có Anrê giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh mì nhỏ và hai con cá“, làm sao có một phép lạ đẹp và hoành tráng như phép lạ Chúa Giêsu đã làm để nuôi sống một đám đông người như thế.
Anrê đã giới thiệu nhiều người đến gặp Đức Giêsu. Do đó, Tin Mừng của thánh Gioan 1, 35-42 mời gọi mọi Kitô hữu hãy xét lại thái độ, cử chỉ và hành động của mình cách cụ thể hơn: tại sao Kitô hữu lại chưa muốn chia sẻ đức tin của mình cho người khác? tại sao Kitô hữu lại chưa mau mắn giới thiệu Chúa Giêsu cho người xung quanh, cho bạn bè và cho nhiều người khác? Quả thực, nếu người môn đệ của Chúa đã tìm gặp Tin Mừng, đã nhận ra Tin Mừng là chính Đức Giêsu thì tại sao họ lại chậm chạp, chứ chưa chóng vánh chia sẻ niềm vui, chia sẻ đức tin cho bạn bè, những người quen biết và nhiều người mình chưa quen biết? Đây là vấn nạn quan trọng được đặt ra và mỗi người phải tự mình trả lời trước lương tâm, trước mặt Chúa về câu hỏi này, không ai có thể trả lời giúp họ được vấn nạn này. Mọi người đang nhìn vào cách thể hiện đức tin của người môn đệ Chúa và sự chia sẻ đức tin của họ cho người khác là điều rất quan trọng và hết sức hệ trọng. Bài Tin Mừng này là bài học cho mọi Kitô hữu hãy bắt chước việc làm của vị tông đồ Anrê: “giới thiệu Chúa Giêsu và chia sẻ đức tin cho người khác“.
Xung Quanh chúng ta còn biết bao người chưa biết Chúa và còn biết bao người chưa được nghe nói tới Tin Mừng. Chính vì thế, thái độ và việc làm của chúng ta là phải làm chứng cho Chúa Giêsu như Anrê, như các tông đồ xưa và nhiều người khác đã làm. Được phục vụ cho anh chị em lương dân và những anh chị em Dân tộc thiểu số, tôi vẫn cảm nghiệm được việc làm chứng cho Chúa bằng đời sống là cần thiết và việc loan báo Tin Mừng, rao giảng Đức Giêsu là tối ư quan trọng. Bởi, nếu không rao giảng, không chia sẻ đức tin mình có được thì anh chị em lương dân hay anh chị em Dân tộc sẽ không thể nào nhận ra Chúa Giêsu.
Xin mượn lời của Ange Laly để kết thúc bài chia sẻ hôm nay: “Sống dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, chia sẻ sự thân tình của Người, sẽ đem đến cho ta niềm vui, để lại đến lượt chúng ta là những kẻ mời gọi. Nhưng chúng ta có dám nói với những ai đi tìm: “Hãy đến rồi sẽ thấy! “. Thiên Chúa, cách khiêm tốn, muốn tự mặc khải ngang qua cuộc đời chúng ta và ngang qua các cộng đoàn chúng ta. Đó có phải là những dấu chỉ của Thiên Chúa không? Những đối thoại của chúng ta sẽ có được sự dồi dào phong phú, nếu mọi người đều muốn sống dưới cái nhìn của Thiên Chúa và sống trung thành với Lời của Người”.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Làm sao để có thể nhận biết và tin Chúa?
2. Anrê đã giới thiệu ai cho Chúa Giêsu?
3. Ai đã giới thiệu với Chúa Giêsu em bé có năm chiếc bánh và hai con cá?
4. Em bé đó là ai?
5. Phép lạ đòi hỏi gì nơi mỗi người chúng ta?
6. Chúa có còn làm phép lạ không? Phép lạ lớn nhất mỗi người chúng ta đang lãnh nhận là phép lạ nào?
51. Môn đệ Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm Bênađô Nguyễn Tiến Huân)
Ngay ngày hôm sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan ở sông Giođan (Ga 1,35) Chúa Giêsu bắt đầu tuyển chọn những môn đệ đầu tiên như chúng ta đọc trong bài Phúc Âm hôm nay. Đang đứng với hai môn đệ mình, Gioan thấy Chúa Giêsu đi ngang qua thì nói với họ: "Đó là Chiên Thiên Chúa". Hai môn đệ ấy là Anrê, người khác nữa thì thánh Gioan không nói nhưng dựa theo Nhất Lãm (Mt 4,18; Lc 5,10-11; Mc 1,16 và Ga 1,42), chúng ta biết môn đệ đó là Simon (Phêrô) đã bỏ Gioan Tiền Hô mà đi theo Chúa (Ga 1,37). Gioan không ngăn cản cũng không hỏi tại sao lại bỏ đi. Điều đó chứng tỏ Gioan rất bằng lòng và còn muốn cho các môn đệ mình đi theo Chúa Giêsu. Đúng như cương vị của một tiền hô, Gioan muốn giới thiệu cho mọi người tìm tới Chúa Giêsu chứ không giữ họ lại cho mình như người đã nói: "Ngài cần phải được lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ bé đi" (Ga 3,30). Khi ở trong ngục Gioan vẫn sai các môn đệ đến để được Chúa Giêsu dạy dỗ. Và Chúa đã khen Gioan là người lớn nhất trong Cựu Ước (Mt 11,2-11).
Lời Gioan giới thiệu Chúa Giêsu: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Đó là hình ảnh chỉ về Chúa Giêsu trong vai trò tế lễ và đền tội như tiên tri Isaia đã báo trước về Ngài rằng: "Bị tra tấn, Ngài đã chịu đựng và không mở miệng như con chiên bị đem đi giết" (Is 53,7). Khi đi theo Chúa Giêsu các môn đệ này chỉ hỏi Ngài một câu rằng: "Thầy ở đâu?" (Ga 1,3-8). Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp mà chỉ nói: "Hãy đến mà xem". Họ đã tới và ở lại với Ngài luôn (Ga 1,39).
Để làm môn đệ Chúa, tất cả mười hai vị cũng đã bỏ hết mọi sự kể cả cha, mẹ, vợ con và tức khắc đi theo Chúa, để Chúa ở đâu, đi đâu, thì cũng ở đó, đi đó: "Có sướng cùng hưởng có họa cùng chịu". Đó chính là tinh thần của kẻ theo Chúa và cũng là điều kiện Chúa đòi buộc: "Ai muốn theo Ta thì phải bỏ mình vác Thánh giá mà theo Ta" (Mc 8,34). "Kẻ nào đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ anh chị em và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ Ta" (Lc 14,26). Có họa cùng chịu nhưng cũng sẽ có sung sướng cùng hưởng: "Phàm ai bỏ cha mẹ vợ con ruộng vườn vì Ta thì sẽ lại được gấp trăm" (Mt 19,29). Và "khi con người được vinh hiển thì sẽ được ngồi trên mười hai ngai vinh hiển mà xét xử 12 chi tộc Israel" (Mt 19,28). Muốn theo Chúa mỗi người chúng ta cũng phải làm như vậy mà tất cả mọi người chúng ta đều là môn đệ Chúa đã chọn để chu toàn những sứ mệnh riêng trong đấng bậc của mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa, tuần này con sẽ nhìn lại sứ mạng làm tông đồ Chúa đã trao phó cho con và quyết thực hiện những điều kiện Chúa đòi hỏi.
52. Đi theo Chúa - Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Chúa Giêsu khi kêu gọi các môn đệ và thiết lập Nhóm Mười hai, Ngài luôn có cái nhìn của Ngài. Tin Mừng cho hay Chúa Giêsu đã cầu nguyện lâu giờ, Ngài đã trò chuyện thân mật với Thiên Chúa Cha và rồi Ngài tuyển chọn các môn đệ đầu tiên.
Gioan Tẩy Giả đã nhận ra Chúa, gặp gỡ Chúa. Tuy nhiên, Gioan đã không ích kỷ, không giữ riêng cho mình, Ngài đã chỉ cho các môn đệ của mình và nhiều người khác biết Đức Giêsu Kitô. Gioan Tẩy Giả khi giới thiệu Đức Giêsu Kitô cho Anrê, chính ông này lại giới thiệu cho Simon là anh của mình và họ đều đi theo Chúa Giêsu. Xem ra mọi cuộc gặp gỡ của những người được Chúa chọn cũng xẩy ra như vậy. Trở về thời Cựu Ước, chúng ta cũng nhận ra Thiên Chúa gọi ai là hoàn toàn do ý của Ngài.Thiên Chúa gọi Abraham, Môsê, Isaia, Samuel là do lòng thương xót của Ngài.Vâng, mỗi cuộc gặp gỡ trong cuộc sống là dấu chỉ của Tin Mừng, mỗi cuộc gặp gỡ hằng ngày là lời mời gặp chính Đức Giêsu. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu gặp gỡ Chúa trong những công việc nhỏ của cuộc sống, Ngài thấy Chúa nơi chị em, nơi sự khó chịu mà chị em gây ra cho mình. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô gặp Chúa nơi các bạn trẻ và ngược lại các bạn trẻ nhận ra Chúa nơi Ngài. Mẹ Têrêsa Calcutta nhận ra Chúa nơi những người nghèo, nơi những người hấp hối, nơi những cô gái lỡ lầm vv…
Các môn đệ là những người đáp trả lại lời mời gọi của Chúa Giêsu.Do đó, khi được giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả đã đến xem nơi Đức Giêsu ở, họ đã cảm nghiệm Đấng là Con Chiên Thiên Chúa là thế nào! Các môn đệ đã chứng kiến cách sống, sự hãm mình, gương sáng, những lời nói vàng ngọc chân thực của Chúa và thấy những phép lạ Chúa làm cho tha nhân. Các Ngài đã cảm nghiệm sâu xa Lòng Thương Xót của Chúa đối với mọi lớp dân nghèo. Chúa đã tiếp xức với mọi thành phần xã hội, Ngài cho các môn đệ hiểu thấu tình thương của Ngài, qua đó, Ngài dạy các môn đệ về Tình thương, Lòng Thương Xót của Ngài đối với con người. Các môn đệ đã đi vào mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu, Thầy của mình. Càng sống các môn đệ càng nhận ra sự nhân từ, lòng quảng đại của Thầy Giêsu:” Đến để chiên được sống và sống dồi dào “ ( Ga 10, 10 ).Mối tương giao thân tình, mật thiết giữa Chúa Giêsu và các môn đệ càng làm cho các Ngài nhận ra Con người của Chúa Giêsu:” Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống “. Chính tình yêu vô vị lợi, tình yêu tự hiến, nhưng không đã nối kết Chúa Giêsu với các môn đệ.
Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã viết:” Khi đôi mắt của Chúa đã nhìn ai, người đó không thể nào cưỡng lại được “.Câu nói thật cao sâu, thâm thúy. Bởi vì, khi Chúa đã chiếm đoạt ai người ấy không thể rời Ngài được. Thánh nữ đã gặp Chúa ở mọi người, ở mọi công việc dù nhỏ bé nhất vì Thánh nhân đã sống sâu thẳm mối tình cao sâu với Chúa. Còn thánh Augustinô một Vị thánh đã cảm nghiệm thế nào về tình Chúa thương ngài, nên ngài đã thốt lên:” Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con và lòng con khắc khoải cho tới khi tâm hồn con được an nghỉ trong Chúa”. Thánh Augustinô quả thật đã sống cảm nghiệm tình thương cao vời của Chúa và luôn muốn sống trong tình yêu của Ngài.
Mỗi Kitô đều được mời gọi sống với Chúa, ở lại với Ngài. Sống và ở lại với Chúa có nghĩa là được sống thân tình, sống trong sự kết hợp thâm sâu với Ngài. Sống mật thiết với Chúa, người Kitô hữu và chúng ta được chia sẻ sự sống thần linh của Ngài. Tuy nhiên, muốn được sống trong sự thân mật, chí tình với Chúa, chúng ta và mọi người phải lắng nghe lời của Chúa và thực hành những điều Ngài truyền cho chúng ta.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta chia sẻ đức tin của chúng ta cho những người khác.Tại sao chúng ta được Chúa cho chúng ta ơn nhận biết Ngài, tin và đi theo, ở lại với Ngài. Chúng ta đã tin vào Ngài, tại sao chung ta không mau mắn chia sẻ đức tin chúng ta đang thụ đắc cho những người khác để họ cũng nhận ra Chúa Giêsu , tin và đi theo Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy dạy chúng con và hãy cho chúng con biết ở trên trái đất này, trên thế giới này, chúng con là đôi tay của Chúa, chúng con là nụ cười, là tiếng nói của Chúa, là con tim quảng đại của Chúa. Amen.
Gợi ý để chia sẻ:
1. Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu ai cho Chúa Giêsu?
2. Chiên Thiên Chúa nghĩa là gì?
3. Người Do Thái quan niệm thế nào về Chiên Thiên Chúa?
4. Có lúc nào Ông,Bà, Anh chị em giới thiệu Đức Kitô cho người khác? Bằng cách nào?
5. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã cảm nghiệm thế nào về Chúa?
53. Ơn gọi - Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Thiên Chúa luôn có cách, có phương thế, có những nẻo đường để mời gọi con người đi theo Ngài. Tin Mừng mà Ngài giới thiệu chính là Con Một Chí Ai của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ đầu tiên được Tin Mừng giới thiệu hôm nay muốn gợi lên cho nhân loại ý tưởng ấy.
Gioan Tẩy giả đã gặp gỡ Chúa, Ông không chỉ giữ cho riêng mình mà giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của mình. Các môn đệ của Gioan Tẩy giả đã tới tìm gặp Chúa và ở lại với Chúa suốt ngày hôm ấy. Anrê là một người trong nhóm môn đệ đã gặp Chúa và về đưa em của mình là Simon đến gặp Chúa. Xem ra những cuộc gặp gỡ của những những người được Chúa để ý cũng tương tợ như vậy. Trở về cựu ước ta sẽ thấy những ơn gọi đặc biệt và lạ lùng.
Samuel trong đền thờ đang đêm nghe tiếng Chúa gọi. Lần thứ ba Ông đã thưa với Chúa:" Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe".
Môsê gặp gỡ Chúa trong bụi gai rực đỏ. Đavít, chàng chăn chiên nhỏ bé, có mái tóc hoe hoe vàng được Chúa tuyển chọn. Nhiều ngôn sứ đáp lại tiếng Chúa gọi mời.
Những cuộc gặp gỡ trong Tin Mừng đều na ná xẩy ra tương tự: một người gặp được Chúa, họ nong nả giới thiệu Chúa cho người khác. Các môn đệ đều được Chúa kêu mời trong những hoàn cảnh cụ thể: có người đang ngồi ở bàn thu thuế, có người đang ở dưới gốc cây vả, có người đang giặt lưới hoặc đang vá lưới với cha mình trên bãi biển vv...
Mỗi cuộc gặp gỡ trong cuộc sống là một dịp nhận ra Tin Mừng, mỗi dấu chỉ trong cuộc đời là lời mời gọi gặp gỡ Chúa. Chúa là Tin Mừng, gặp gỡ, tìm ra được Tin Mừng là nhận ra Chúa đang hiện diện giữa dòng đời, giữa cuộc sống.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã tìm và nhận ra Chúa nơi những con người nghèo, nơi những người vất vưởng, hấp hối. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, mỗi lần tiếp xúc với giới trẻ là đem Chúa cho họ và họ nhận ra Ngài là hiện thân của Chúa Giêsu. Thi sĩ Paul Claudel nhận ra tiếng Chúa trong tiếng chuông ngân của giáo đường. Charles Foucauld đã nhận ra Chúa trong những giờ tĩnh lặng. Phanxicô khó nghèo đã nhận ra Chúa nơi vẻ đẹp của muôn loài muôn vật vv và vv. Mỗi người đều có những cảm nghiệm về ơn gọi và gặp gỡ Chúa.
Ngày nay nhiều nước rất hiếm ơn gọi. Sở dĩ ơn gọi bị khủng hoảng vì con người chạy theo những khoa học, những văn minh, vật chất vượt quá sức tưởng tượng của con người. Họ vẽ ra khuôn mặt của Chúa Giêsu bị méo mó. Họ tự nghĩ ra Chúa Giêsu hơn là chính khuôn mẫu Ngài đã hiện diện, đã có. Một nhà Kinh Thánh đã viết: " Đức Giêsu loan báo nước trời nhưng Giáo Hội đã đến"( Loisy ).
Tìm gặp Đức Giêsu phải như mẫu mực của hai môn đệ tiên khởi. Người ta không thể gặp được Chúa trong sự xa hoa, tráng lệ và không phù hợp với nước trời. Một Giáo Hội nghèo với những con người chân thành, đơn sơ, chất phác, đó là Hội Thánh của Chúa Giêsu. Cuộc sống của con người chứa đựng biết bao chặng đường, nẻo đi, nơi đến của sự hiện của Chúa và lời mời gọi của Chúa Giêsu. Con người có niềm tin luôn sẵn sàng, chóng vánh và tỉnh thức để nhận ra Chúa Giêsu đang hiện diện, đang có mặt trong mọi trạng huống của cuộc đời. Chúa Giêsu trên thập giá là sự hiện diện tột đỉnh và mầu nhiệm nhất nói lên sự có mặt của Chúa giữa trần gian để cứu độ gian trần.
Tin Mừng là Đức Kitô luôn là niềm vui, sự hạnh phúc mà con người có lòng tin đang lần mò tìm kiếm và đòi được chia sẻ, đòi được cảm thông. Tin Mừng luôn thúc bách con người cần phải được loan báo. Con người chỉ có thể sống Tin Mừng khi Tin Mừng được loan báo. Cuộc sống chứng nhân là lời loan báo mãnh liệt nhất và ý nghĩa nhất để rao truyền và giới thiệu Chúa Kitô cho người khác. Ơn gọi và tiếng gọi của Chúa vẫn vang lên. Nhưng thử hỏi con người có sống ơn gọi và nhận ra tiếng gọi của Chúa đang thôi thúc con người hay không?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn mau mắn nhận ra tiếng Chúa trong cuộc sống của chúng con.
54. Chúa Nhật 2 Thường Niên
Con người là một hữu thể luôn khao khát hạnh phúc. Là con người bất toàn nhưng luôn hướng về Đấng vĩnh cửu. Hai môn đệ của Gioan đang khát khao Đấng hạnh phúc vĩnh cửu. Họ đã gặp được Đấng vĩnh cửu là Đức Kitô và đã sống hoàn toàn cho Ngài.
Anrê và Gioan đi tìm và gặp được Đức Kitô. Cuộc sống có những điều thú vị của nó nhưng nó không làm Anrê và Gioan thoả mãn. Lòng hai ông luôn mang trong mình niềm khát khao một điều cao quý hơn, khát khao điều gì đó tốt đẹp hơn, khát khao một điều gì đó bền vững hơn. Điều này thúc bách hai ông luôn ấp ủ một cuộc đổi đời, nó thôi thúc hai ông không dậm chân tại chỗ mà luôn "thao thức tìm kiếm" Đấng vĩnh cửu hạnh phúc. Sống trong tâm trạng đó nên khi nghe Thầy Gioan giới thiệu: "Đây Chiên Thiên Chúa" thì hai ông đã tức khắc đi theo Đức Giêsu. Đây là cơ hội ngàn năm có một. Hai ông không muốn bỏ lỡ cơ hội này. Hai ông mạnh dạn bước tới "Chiên Thiên Chúa". Hai ông không chần chừ, không tra hỏi Thầy điều gì thêm nữa, cũng không cần phải tính toán, không cần phải suy nghĩ thêm. Hai ông đã nhanh chóng và mạnh dạn đến với Đấng mà Thầy mình giới thiệu. Hai ông đã gặp được Đức Kitô.
Phần mình, Chúa Giêsu trả lời: "hãy đến mà xem". Ngài không giới thiệu địa chỉ, nơi chốn nhưng Ngài nói: "hãy đến mà xem". "Hãy đến mà xem" là lời mời gọi bước đi. Chúng ta là môn đệ nên hãy bỏ lại chỗ cũ, hãy bỏ lại con người cũ, hãy mặc lấy con người mới. Chúng ta hãy đến với Ngài bằng con người mới, đi trên hành trình mới, hành trình của sự từ bỏ, hy sinh và yêu thương. Chúng ta hãy đến mà xem tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ cho con người nơi Chúa Giêsu Kitô. Khi gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô là chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa tình thương: "Ai thấy Thầy là thấy Đấng đã sai Thầy". Khi gặp gỡ và "lưu lại" với Ngài, chúng ta học biết được kinh nghiệm về một tình yêu, tình yêu vĩnh cửu, về hạnh phúc trường tồn. Thật đúng như vậy hai ông Anrê và Gioan đã kinh nghiệm được điều ấy nên đã lưu lại với Chúa, lưu lại trong tình yêu của Ngài. Tình yêu làm cho hai ông trở nên gần gũi với Thầy và sự gần gũi làm gia tăng tình yêu. Hai ông đã đến với Chúa Giêsu, họ đã "lưu lại với Người", nhờ đó hai ông đã nhận ra Người là "Đấng Kitô". Như thế, có thể nói, nếu chúng ta có thao thức, chúng ta ước muốn tìm hạnh phúc là điều kiện đầu tiên tuy nhiên chúng ta cần phải bước đi. Chúng ta hãy bước đi bằng cách chấp nhận từ bỏ, chấp nhận hy sinh, từ bỏ những gì là cũ, từ bỏ những gì không phù hợp, nó đang gây cản trở cho hành trình ta gặp Chúa. Chúng ta phải hết lòng cộng tác với ơn Chúa, bước đi trong đường lối và giới răn của Thiên Chúa thì ta mới đạt kết quả tốt đẹp như Đấng đang thúc bách mời gọi. Nói một cách khác, hành trình đón nhận đức tin của chúng ta là sẵn lòng đón nhận chân lý mạc khải của Thiên Chúa và nỗ lực đáp trả tức khắc và liên lĩ lời mời gọi sống cho Đức Kitô.
Gặp gỡ được Đức Kitô, chúng ta sẽ có cơ hội đối thoại với Ngài. Chúng ta có chân thành mở rộng cõi lòng, chúng ta có thiện chí đáp trả thì chúng ta sẽ được nghe Ngài ngỏ lời, chỉ dạy giống như Anrê và Gioan đã được đối thoại với Chúa. Các ông đã nghe Chúa Giêsu hỏi: "các anh đi tìm gì?". "Các anh đi tìm gì?", đây quả thật là câu hỏi không tầm thường, một câu hỏi cho hai ông mà cũng là câu hỏi chất vấn đặt lại vấn đề cho những ai theo Chúa, cho những ai muốn làm môn đệ của Ngài. Câu hỏi như một tiếng thức tỉnh lại tâm hồn mình, thức tỉnh cho những ai đang khao khát, thức tỉnh ý muốn của mọi người. Do đó, câu trả lời không phải bằng trí tuệ mà là bằng con tim, câu trả lời bằng tất cả tấm lòng yêu mến, yêu mến vào chính Đấng khơi nguồn khao khát. Đấng ấy chính là niềm hạnh phúc thật sự và vững bền mãi mãi. Vì thế hai ông trả lời bằng một câu hỏi: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?". Câu trả lời đơn sơ nhưng ẩn chứa tấm lòng khao khát gặp Chúa, mến yêu Ngài hết lòng, biểu lộ lòng trìu mến muốn gắn bó với Ngài, muốn dấn bước theo Ngài và muốn chia sẻ cuộc sống với Ngài.
Gặp gỡ được Đức Kitô thật là thú vị! Chúa Giêsu Kitô gặp gỡ các ông và đã biến đổi các ông. Chính Đấng Messia đã chiếm được cảm tình, giúp các ông xác tín đức tin và củng cố niềm hy vọng cho các ông. Kể từ đây, các ông sẽ ở lại với Ngài, sẽ cùng sống, cùng bước theo Ngài và trở nên giống Ngài. Chính tình yêu và niềm tin vào Chúa Giêsu hướng người môn đệ sống và làm cho cuộc đời mình mang ý nghĩa mới.
Khi đã kinh nghiệm tình yêu của Chúa, Anrê tự cảm thấy được thúc bách phải chia sẻ niềm tin cho Phêrô. Anrê đã giới thiệu với Phêrô: " chúng tôi đã gặp Đức Kitô". Không dừng lại ở đó, Anrê đã dẫn Phêrô đến gặp Chúa Giêsu. Anrê đã sung sướng gặp được Chúa, ông đã khám phá ra Chúa Giêsu chính là Đấng Messia mà ông mong chờ, Đấng mà muôn dân trông đợi và các tiên tri đã loan báo. Chắc chắn Anrê sẽ ở lại với Ngài nhiều hơn nữa, lâu hơn nữa để thêm tìm hiểu và khám phá mới nơi Đấng Messia nay. Nhưng giờ đây Anrê cùng chia sẻ, cùng khám với với Phêrô. Niềm vui và lòng mến của ông sẽ được củng cố, tăng thêm và càng lớn lên hơn nữa.
Là Kitô hữu, chúng ta đã gặp Chúa. Chúng ta đã gặp Ngài nơi tha nhân, nơi các biến cố trong cuộc sống. Chúng ta đã gặp Ngài nơi Thánh Lễ và các Bí tích, nơi kinh nguyện và các việc đạo đức. Đặc biệt chúng ta đã gặp gỡ một Thiên Chúa tình thương từ trời cao đến với chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể. Nơi Thánh Thể, Chúa Giêsu Kitô muốn đối thoại, đồng hành, chia sẻ cuộc sống dương thế với chúng ta. Hơn nữa, Chúa Giêsu Kitô giúp chúng ta ở lại với Ngài và Ngài giúp chúng ta thêm yêu mến và bền lòng bước theo Ngài, đi về cõi hạnh phúc thật, cõi hạnh phúc đời đời trong vương quốc tình yêu của Ngài. Ngài là tình yêu. Chúng ta như đang rơi vào biển tình yêu bao la của Ngài.Tình yêu giúp ta hướng gặp gỡ Ngài và củng cố tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Tình yêu Chúa Giêsu Kitô giúp chúng ta loại bỏ ích kỷ và thúc đẩy chúng ta chia sẻ tình yêu cho tha nhân, sẵn sàng dấn thân cho tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Khi được chất vấn về đức tin, chúng ta không do dự mà mạnh dạn chia sẻ đức tin của mình cho người khác. Chúng ta hãy bắt chước Thánh Phaolô chia sẻ đức tin của mình với tín hữu Côrintô, Gioan Tẩy Giả chia sẻ đức tin với hai môn đệ của mình và Anrê chia sẻ đức tin vào Chúa Giêsu với Phêrô...Tha nhân đang chú tâm vào đức tin của chúng ta, và sự chia sẻ đức tin của chúng ta đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Khi xưa Chúa Giêsu đã mời hai môn đệ: "Hãy đến mà xem", thì hôm nay Ngài cũng mời gọi chúng ta không chỉ "đến mà xem" và còn "ở lại với Người" để trở nên môn đệ của Người, và để người ban cho dồi dào ơn phúc cho.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khát khao Chúa, muốn đi theo Chúa để làm môn đệ, để làm chứng nhân cho Chúa. Bởi vì Chúa chính là lẽ sống, là hạnh phúc và niềm hy vọng của chúng con. Amen.
55. Đến và ở lại – Anmai, CSsR
Thử hỏi ai trong chúng ta là người không biết yêu? Và khi yêu nhau, tâm trạng của tình yêu nó làm sao đó và chẳng ai có thể diễn tả được. Chỉ có những tâm hồn đang yêu mới diễn tả và mới hiểu được tình yêu là gì.
Đơn giản, đứa trẻ, nhìn vào đứa trẻ chúng ta sẽ thấy lộ ra tình yêu của chúng với cha mẹ chúng là như thế nào. Chúng hình như không muốn xa lìa cha mẹ chúng chút nào cả. Bằng chứng tôi thấy rõ nhất là ở gia đình, có hai đứa cháu trai năm nay đứa học lớp 10, đứa học lớp 5. Hai đứa cháu này không bao giờ chịu rời xa cha mẹ chúng cả. Dù nghe người khác bảo là dẫn đi Siêu Thị hay đi mua đồ chơi, mua thức ăn cho chúng là những điều chúng thích nhưng chẳng bao giờ dụ chúng được. Có lẽ một phần do bản tính nhưng căn cốt đó là vì yêu cha yêu mẹ chúng, chúng sợ xa cha xa mẹ nên chẳng chịu rời xa cha mẹ. Yêu là như vậy đó.
Hay là như chúng ta, hơn một lần chúng ta tiễn biệt người thân chúng ta như ông, như bà, như cha, như mẹ. Ít nhiều gì đó, chúng ta cảm thấy cái giây phút hạ huyệt, cái giây phút đưa vào lò thiêu nó đau đớn đến mức nào. Có những người khóc ngất, có những người xỉu vì xa cha, xa mẹ, xa ông, xa bà của mình. Tại sao khóc? Chẳng cần suy nghĩ, ta có thể trả lời ngay là vì yêu. Yêu nên sợ xa, sợ mất người mà mình yêu.
Nhìn vào tình yêu đôi lứa chúng ta sẽ thấy rõ nét nhất về sự xa cách này. Khi vì hoàn cảnh chưa đến được với nhau, chưa được ở gần nhau thì cái lòng nó nao nao làm sao đó. Hình như lúc nào anh chị cũng muốn được ở gần nhau, được ở bên nhau hết. Có những lúc đi xa thì chỉ tổ làm giàu cho các mạng di động thôi vì lúc nào cũng liên lạc cả. Không được ở gần nhau vì hoàn cảnh nào đó thì cũng mong được nghe tiếng của nhau. Vì sao vậy? Vô duyên quá chăng? Không! Đó là vì yêu, yêu nên người ta mới mong mỏi được ở gần nhau, ở bên nhau.
Tất cả những hình ảnh đơn sơ ấy biểu lộ tình yêu giữa con cái với ông bà cha mẹ, giữa hai người yêu nhau. Phải nhìn nhận thẳng với nhau rằng, trước khi yêu ta tin cái người ta yêu. Thử hỏi đứa trẻ xem, nó tin ai nhất? Chắc chắn nó tin cha mẹ nó nhất trên đời nên nó mới yêu. Thử hỏi không tin xem nó có dám yêu chăng?
Hai anh chị cũng thế! Dù không nói ra, dù không cân - đo - đong - đếm được nhưng hình như tự hai người nó phát ra cái tín hiệu rất là lạ đó là tin nhau. Tin nhau rồi họ mới tìm đến nhau và mới yêu. Thật sự mà nói, chẳng ai dám đi yêu cái người mà mình không tin cả. Từ tin bắt đầu đến yêu. Yêu nhau nên muốn ở lại bên nhau là chuyện bình thường thôi. Nếu yêu mà không tin nhau đó là tình yêu bất thường, tình yêu dị dạng và tình yêu móp méo.
Hình ảnh tin, yêu và ở lại bên nhau được Thánh Gioan nói cho chúng ta qua trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe. Gioan thuật lại rằng có hai môn đệ đang đứng với ông, thấy Đức Giêsu đi ngang và Gioan giới thiệu ngay: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Sau khi nghe giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, lập tức hai môn đệ đi ngay. Tại sao đi ngay? Vì lẽ là môn đệ Gioan, tin Gioan nên mới đến với Chúa Giêsu và ở lại với Chúa Giêsu. Không đơn giản như Thánh Gioan thuật lại, muốn đến và ở lại như vậy chắc có lẽ phải qua một thời gian, một giai đoạn tìm hiểu và rồi tin và rồi yêu như những người trẻ đến với nhau vậy. Và muốn có được kết qủa như ngày hôm nay của hai môn đệ ông Gioan là do hai môn đệ ấy đã lắng nghe ông Gioan nói về Chúa Giêsu trong thời gian hai ông ở với Gioan. Phải lắng nghe hai ông ấy mới biết Chúa Giêsu là ai để rồi mới ngong ngóng tìm Chúa và hôm nay mới gặp được Chúa và theo Chúa, ở với Chúa.
Muốn biết về ai, muốn tin vào ai và muốn yêu người ấy thì chuyện quan trọng nhất đó là lắng nghe. Khi ta không lắng nghe nói về người đó, nói với người đó thì làm sao ta biết, ta tin và ta yêu được.
Hình ảnh về sự lắng nghe, về tin, về yêu ấy được Samuael thuật lại trong trang sách của ông mà chúng ta cũng vừa được nghe.
Trong cơn ngủ đấy nhưng Samuel được nghe tiếng gọi, ông giật mình đến hỏi thầy của mình. Cả đến 3 lần, 3 lần ấy ông Êli đều xác nhận không phải là ông gọi nhưng chính Thiên Chúa gọi Samuel. Và Samuel lại tiếp tục trong cơn ngủ của mình. Thiên Chúa lại đến với Samuel và thực thi theo lời thầy mình dạy, Samuel đã thân thưa với Chúa: "Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng tai nghe". Sau khi thân thưa, thỏ thẻ với Chúa về tâm tình, về thái độ của mình thì ơn của Thiên Chúa đến với ông như chúng ta nghe: "Samuel lớn lên, Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu". (1 Sm 3, 19)
Thật sự là thế, Samuel lớn lên trong ơn nghĩa của Chúa nhờ thái độ, nhờ tâm tình lắng nghe Chúa và rồi Chúa ở với ông. Chúa ở với ông đồng nghĩa là ông ở trong Chúa.
Chúng ta, nhìn lại mình, chúng ta thấy buồn cười lắm! Chúng ta được nghe các thánh, các tông đồ và nhiều người nói về Chúa cho chúng ta nhưng tâm hồn của chúng ta nó cứ trơ trơ ra làm sao đó. Không chỉ các thánh, các tông đồ nhưng ngay bản thân chúng ta thôi, Thiên Chúa đã nhiều lần trực tiếp bằng những biến cố này biến cố khác trong cuộc đời Chúa nói với chúng ta đấy nhưng chuyện quan trọng là chúng ta có đủ kiên nhẫn, có đủ lắng đọng để nghe không?
Tạ ơn Chúa vì ngày nay xã hội phát triển, thậm chí phát triển quá mức tưởng tượng. Tất cả những gì xã hội mang đến cho con người là con dao 2 lưỡi. Nó phục vụ rất tốt cho cuộc sống của con người nhưng ngược lại nó cũng làm cho con người ra hư hỏng. Nếu biết dùng thì con người sẽ dùng những vật chất, những phát triển văn minh sẽ phục vụ con người nhưng không khéo nó sẽ làm hỏng con người. Nếu không cẩn thận, nếu không có chiều sâu tâm linh đậm đặc đủ con người sẽ mãi chạy theo những đam mê, những cám dỗ của vật chất, của xác thịt, của danh vọng.
Những thú vui của danh vọng, địa vị, vật chất ấy đôi khi đã làm cho con người đánh mất cảm thức về Chúa, không còn thấy Chúa có chỗ đứng trong cuộc đời của mình nữa. Sự thật thật bi đát, sự thật thật đau lòng đó là dù cho giàu có, danh vọng, hưởng thụ đến mức nào đi chăng nữa nhưng không có Chúa cuộc đời nó cứ rỗng rỗng tuếch tuếch làm sao đó.
Chúng ta vẫn bị giằng co giữa những cái mong manh của cuộc đời và Chúa nên rồi chúng ta cứ quay quắt trong những cái mong manh ấy. Vì sao chúng ta bị quay quắt? Vì lẽ chúng ta đã lìa xa Chúa, chúng ta đã không tìm Chúa, không đến, không lắng nghe lời Chúa như hai môn đệ của ông Gioan và Samuel.
Vâng! Tất cả rồi sẽ qua đi, tất cả rồi sẽ mất hết, còn lại duy chỉ mình Chúa thôi. Xin Chúa cho chúng ta ghi nhớ rằng chỉ mình Chúa là đủ cho cuộc đời chúng ta để rồi dù cuộc đời này có bao nhiêu ồn ào, bao nhiêu náo động chúng ta luôn lắng đọng tâm hồn để chúng ta đến bên Chúa, để ở lại với Chúa và để nghe lời Chúa. Khi Lời Chúa ngự vào tâm hồn chúng ta chúng ta sẽ tìm thấy sự bình an thật sự trong cuộc đời.
56. Chiến dịch Anrê – Lm. Mark Link, SJ.
Chủ đề: "Chúng ta hãy nên bắt chước Anrê chia sẻ với người khác niềm tin của mình vào Chúa Giêsu"
Cách đây mấy năm, có một ông lão được nhận vào bệnh viện để điều trị bệnh. Sau khi ông cụ được dễ chịu, cô y tá hỏi ông lão vài câu hỏi theo thông lệ, vì cô phải điền vào một trong các giấy tờ thủ tục nhập bệnh viện. Một trong những câu cô hỏi ông lão là: “Tôn giáo ông quí chuộng hơn cả là tôn giáo nào?”. Cụ già nhìn cô y tá và nói: “Tôi rất vui sướng được cô hỏi câu ấy, tôi luôn luôn muốn là một người công giáo, nhưng trước đây chưa có ai hỏi tôi như vậy. Chính cô là người đầu tiên hỏi tôi câu ấy”.
Câu chuyện có thực trên đặt cho chúng ta một vấn đề gây bối rối: Tại sao trong chúng ta có nhiều người do dự khi phải chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác? hoặc chúng ta có thể đặt lại câu hỏi này như sau: Nếu chúng ta tin rằng Phúc Âm thực sự là Tin Mừng, thì tại sao chúng ta lại không chia sẻ nó với kẻ khác? hoặc nếu chúng ta tin Đức Giêsu là kho tàng vĩ đại nhất mà chúng ta có thể chiếm hữu được, thì tại sao chúng ta không chia sẻ với người khác đức tin của mình nơi Đức Kitô?
Điều này dẫn chúng ta đến với bài đọc ngày hôm nay. Bài đọc thứ nhất tường thuật việc Samuel chia sẻ niềm tin của mình với chàng Eli. Bài đọc thứ hai thuật lại việc thánh Phaolô chia sẻ đức tin của mình với tín hữu Côrintô. Và bài Phúc Âm trình bày Gioan tẩy giả chia sẻ đức tin với hai môn đệ của mình, và Andrê chia sẻ đức tin với anh em mình là Phêrô.
Chúng ta hãy chú ý vào bài Phúc Âm và đặc biệt vào trường hợp Andrê. Sự kiện thánh Gioan nhắc đến Andrê những ba lần trong Phúc Âm của ngài quả thực mang đầy ý nghĩ. Lần nào Andrê cũng dẫn đến với Chúa Giêsu một người nào đó, lần nào ông cũng chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác, trong bài đọc hôm nay, Andrê dẫn Phêrô, anh mình đến với Chúa Giêsu, mà Ngài đặt làm viên đá để xây dựng Giáo hội Ngài trên đó. Về sau, Andrê lại dẫn đến với Chúa Giêsu một em bé có 5 ổ bánh và hai con cá (Ga 6: 8) và Chúa Giêsu đã dùng bánh và cá này để thiết đãi đám đông đang đói một bữa no nê. Sau cùng, chính Andrê lại dẫn đến với Chúa Giêsu vài người Hy Lạp (Ga 12: 20-22), để rồi Chúa Giêsu thừa cơ hội này dạy cho dân chúng những điều trọng đại.
Từ đó, chúng ta trở lại câu hỏi ban đầu; Nếu quả thực chúng ta tin Đức Giêsu là kho báu to lớn nhất mà chúng ta có thể chiếm hữu được, thì tại sao chúng ta lại không muốn chia sẻ kho tàng của chúng ta cho kẻ khác?
Câu trả lời mà chúng ta thừơng nghe là: người khác có thèm chú tâm đến Đức Giêsu đâu: câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi trên là nhiều người nghĩ rằng ông lão kia cũng chả chú tâm gì đến Chúa Giêsu. Có lẽ họ tự nghĩ; “Nếu ông lão chú tâm đến Chúa Giêsu hoặc nếu lão ta muốn trở thành một người Công giáo thì lão ta đã lo liệu được việc đó từ lâu rồi!”
Vài năm trước, một giáo viên trung học ở Chicago đã yêu cầu mỗi học viên trong lớp phỏng vấn ba người về vấn đề cầu nguyện. Các học viên phải đặt cho họ 5 câu hỏi:
- Anh (chị) có cầu nguyện không?
- Anh (chị) cầu nguyện hằng ngày hay chỉ thỉnh thoảng?
- Tai sao anh (chị) cầu nguyện?
- Khi cầu nguyện, anh (chị) cầu nguyện như thế nào?
- Ai đã dạy anh (chị) cầu nguyện?
Cuộc phỏng vấn của các học viên đem lại ba điều ngạc nhiên:
Thứ nhất, các học viên ngạc nhiên vì không ngờ người ta lại sẵn lòng bàn luận đến vấn đề cầu nguyện như thế.
Thứ hai, họ ngạc nhiên khi thấy có nhiều người cầu nguyện hằng ngày.
Và thứ ba, họ ngạc nhiên vì có nhiều bạn bè thân thiết của mình có cầu nguyện, thế mà trước đó họ chưa hề bao giờ bàn luận với nhau vấn đề ấy.
Một sinh viên nói về cuộc phỏng vấn:
“Tôi cứ tưởng các bạn tôi sẽ chế nhạo cuộc phỏng vấn, thế mà hoàn toàn khác hẳn, họ đã kính cẩn trả lời. Một trong các bạn tôi nói rằng anh thực vui mừng khi bàn về một điều thực sự có ý nghĩa như thế.
Một cô gái kết luận: “Điều tôi thu lượm được từ dự án phỏng vấn nói trên chính là:Người ta đã thực sự quan tâm đến vấn đề cầu nguyện”
Tất cả chúng ta đều đã đọc các bài viết trong các tạp chí bàn về cách thức trở nên một người nói chuyện có duyên hơn, hoặc bàn về việc trau dồi nhân cách bằng cách trau dồi nghệ thuật nói chuyện của mình. Các bài ấy luôn luôn nhấn mạnh điều này; Chúng ta nên nói đến những gì thân thiết và quan trọng đối với chúng ta. Thế mà có gì thân thiết và quan trọng hơn là niềm tin vào Chúa Giêsu? Ai còn nghĩ rằng người ta chả quan tâm gì đến những việc này thì nên ghi nhớ cuộc khảo sát của các sinh viên nêu trên. Người ta chẳng những ủng hộ cuộc khảo sát mà còn lấy làm hăng hái tham gia vào đó là khác.
Điều này khiến chúng ta đi đến một điểm quan trọng “chúng ta nên chia sẻ đức tin của chúng ta với kẻ khác”. Bất cứ ai nghĩ rằng điều này không quan trọng thì người ấy nên ghi vào tâm trí câu chuyện về ông lão nói trên. Giả như cô y tá chẳng hỏi ông về vấn đề tôn giáo thì chắc hẳn ông đã qua đời trong tình trạng chưa thực hiện được giấc mơ trở thành một người công giáo.
Và bất cứ ai nghĩ rằng việc chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác là chả quan trọng thì kẻ ấy nên ghi vào tâm trí bài Tin Mừng hôm nay. Giả như Andrê đã không chia sẻ đức tin với ông anh Phêrô thì có lẽ chẳng bao giờ Phêrô trở nên tảng đá trên đó Chúa Giêsu xây dựng Giáo hội Ngài. Và giả như Andrê đã không chia sẻ đức tin của mình với cậu bé có năm chiếc bánh và hai con cá thì có lẽ đám đông trên đồi sẽ trở về nhà bụng đói meo và Phúc Âm có lẽ đã không có được một trong những câu chuyện hứng khởi nhất của toàn bộ Kinh Thánh rồi!
Để kết luận, bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta xem xét kỹ lưỡng lý do tại sao chúng ta còn miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác? Nếu chúng ta tin Phúc Âm là Tin Mừng và nếu chúng ta tin Đức Giêsu là kho báu to lớn nhất mà con người có thể chiếm hữu, thì tại sao chúng ta lại miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với con cái chúng ta, với bạn bè chúng ta và với những ai mà ta biết đang tìm kiếm một niềm tin? đây là vấn nạn cực kỳ quan trọng mà Tin Mừng hôm nay đặt ra trước mỗi người trong chúng ta. Không ai có thể trả lời dùm chúng ta. Chúng ta phải tự mình trả lời lấy, mỗi người tuỳ theo cách thức riêng của mình. Và chúng ta bị bắt buộc phải trả lời câu hỏi ấy. Tha nhân đang chú tâm vào đức tin của chúng ta, và sự chia sẻ đức tin của chúng ta đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Chúng ta hãy kết thúc với lời khấn nguyện. Xin quí vị yên lặng hiệp ý cùng tôi.
“Lạy Chúa, xin dạy cho mỗi người trong chúng con biết rằng ngay ở đây, trên trái đất này, Chúa chỉ biết nhờ đôi bàn tay chúng con để giúp đỡ những người thiếu thốn, Chúa chỉ biết dùng trái tim chúng con để ôm ấp những kẻ cô đơn; Chúa chỉ nhờ giọng nói chúng con để chia sẻ sứ điệp loan báo cuộc sống, nỗi khổ đau và cái chết Chúa đã chịu vì chúng con.
Lạy Chúa, xin hãy dạy chúng con biết rằng ở nơi đây, trên trái đất này, chúng con là đôi tay của Chúa, chúng con là tiếng nói của Chúa, và chúng con là trái tim của Chúa".
57. Lạy Thầy, Thầy ở đâu?
Anh chị em thân mến,
Trong sách Các Vua quyển 2 có kể câu chuyện: Naaman, vị tướng chỉ huy quân đội của vua Aram, ông là người có tài, có uy tín trước mặt nhà vua; nhưng ông phải khổ sở vì bệnh cùi. Một đầy tớ gái người Israel mà họ bắt được, đang phục dịch cho ông, cô nói: "Phải chi ông chủ gặp được vị tiên tri ở Samaria, vị này chắc sẽ chữa cho ông khỏi bệnh cùi." Naaman đã xin vua Aram giới thiệu cho mình sang Israel, nhờ vị tiên tri (là Êlisêô) chữa bịnh. Naaman đã ra đi, tin theo lời giới thiệu của đầy tớ gái. Cuối cùng ông cũng đã được lành bệnh (sách Các Vua, q. 2, ch 5).
Hai môn đệ của thánh Gioan Tiền hô, đã tin lời giới thiệu của ông, nên đã đi theo Chúa Giêsu. Kết quả, nhờ lòng tin đó, họ gặp được Đấng Cứu thế và đã trở nên môn đệ của Chúa. Đây chính là đề tài chúng ta suy niệm hôm nay...
a/. Anh chị em thân mến, bài Tin mừng hôm nay có hai điều làm chúng ta suy nghỉ: một là lời giới thiệu của thánh Gioan cho 2 môn đệ mình và thái độ của họ. Hai là mời gọi của Chúa Giêsu "hãy đến mà xem" và thái độ đón nhận của họ:
Gioan giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ mình: Đây là Chiên Thiên Chúa...Các ông nghe nói liền tin và đi theo Chúa Giêsu:
Trên đời này, người ta ai ai cũng muốn đi tìm cái hơn: muốn giàu có hơn, học giỏi hơn, có vợ có chồng sang hơn...Thật không may, con số nhiều người trên đời, chỉ biết đi tìm vật chất bằng mọi giá, ngay cả bằng thủ đoạn bất chính nữa. Xem ra chỉ có số ít là muốn đi tìm giá trị tinh thần cao cả hơn. Đó chính là các môn đệ của Chúa Giêsu. Hai môn đệ của thánh Gioan trong câu chuyện hôm nay đã cư xử như thế. Họ đã không ngần ngại bỏ thầy mình để đi tìm chân lý. Thái độ bỏ thầy mà theo Chúa Giêsu, có thể đuợc coi như một hành động dứt khoát với quan niệm sai lạc về Đấng Mêsia xưa nay của người Do thái. Chính vì lẻ đó, Chúa quay lại hỏi họ: Các ông tìm gì? Có nghĩa: Tại sao các ông không đi tìm các bậc thầy của Do thái, để học hỏi làm môn đệ? Tại sao và tại sao? Các ông lúc này cũng chưa hiểu Chúa bao nhiêu, nhưng vì tin vào lời giới thiệu của thầy mình là thánh Gioan, nên họ sẵn sàng đến với Chúa.
Chính hai môn đệ này là những người đã tin, nên đã lên đường trước, đến với Chúa Giêsu, nên đáng được Chúa thưởng công lớn lao: là cho họ trở nên những tông đồ tiên khởi.
Chúa nói với hai môn đệ: "Hãy đến mà xem!" Họ đã đến và ở lại với Chúa Giêsu ngày hôm đó:
Chúa Giêsu muốn hai môn đệ đầu tiên có kinh nghiệm về cuộc sống, về Lời giảng dạy của mình, nên đã mời họ đến gặp gở Chúa. Chính các ông đã vui lòng đáp lại lời mời gọi của Chúa. Phúc âm ghi rõ: "họ đã đến và ở lại với Chúa Giêsu ngày hôm đó." Ở lại với Chúa Giêsu, cùng một nhà với Chúa, những câu nói này cũng đồng nghĩa với việc muốn đuợc tham dự vào sự sống, vào nguồn hạnh phúc, muốn chia vui xẻ buồn với Chúa. Thực ra lúc này đây, các ông cũng không hiểu rõ lắm việc mình làm; chỉ có một điều chắc chắn ta không bỏ qua được, đó là chính các ông đã tỏ ra rất tích cực, sẵn sàng cộng tác với Chúa, dù rằng các ông không biết sẽ làm gì và như thế nào. Chắc chắn chính vì điểm này mà Chúa đã chọn các ông như lời Chúa nói: "Tôi sẽ làm cho các anh nên những kẻ lưới người."
Thánh Augustinô đã nói: 'Chúa dựng nên con, không cần có con; nhưng Chúa cứu chuộc con lại cần có con...Rõ ràng Chúa dựng nên ta không cần hỏi ý ta, nhưng khi cứu chuộc ta, Chúa lại muốn ta cộng tác vào; như thế con người mới thực sự tự do và lập nên công nghiệp trước mặt Thiên Chúa...
b/. Câu chuyện: Một cha xứ hỏi một nguời vợ công giáo trẻ (cô này theo đạo chồng): lý do nào mà cô theo đạo. Cô trả lời: Con là một phật tử, dù chỉ có danh mà thôi; nhưng con lại rất ghét đạo công giáo. Dĩ nhiên, từ nhỏ con không hiểu chút nào về đạo này. Khi lập gia đình với chồng con là người công giáo, con vì yêu anh lắm nên buộc lòng phải giữ đạo, để được sống chung với anh. Chồng con không giàu có, nhưng anh có cuộc sống tốt, anh có đức tin mạnh mẻ làm mọi người quí mến. Với anh, đức tin là điều quan trọng hơn hết. Cũng chính vì đó con thấy rằng: " hể yêu anh, con cũng phải yêu cả những gì chồng con có. Chồng con có đức tin mạnh mẻ, con cũng muốn có đức tin như chính chồng con vậy"
Câu chuyện của người vợ này thật đáng khen, y như câu ông bà mình nói: "yêu nhau yêu cả lối đi." Người vợ này vì yêu chồng, nên cũng yêu cả lối sống của chồng nữa. Điễm này quá giống với các môn đệ trong bài Tin mừng hôm nay...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ: "Hãy đến mà xem". Họ đã đến ngay với Chúa, và còn ở lại với Chúa ngày hôm ấy nữa. Cuộc đời ta, bao nhiêu lần ta được mời ta đến với Chúa, qua Bí tích rửa tội, qua lời giảng dạy của bề trên, qua các Bí tích, nhất là BT Thánh thể, qua anh em xung quanh, ta có sẵn sàng đến và ở lại với Chúa trong những dịp đó không?
58. Ơn gọi theo Chúa
Mỗi người là một kiệt tác của Thiên Chúa và được kêu gọi làm môn đệ Ngài theo đấng bực khác nhau. Có những người được Chúa gọi lập gia đình để công trình tạo dựng loài người được tiếp tục, có người sống độc thân lo cho nước Chúa lớn mạnh trong thế giới, mỗi người đều được Chúa gọi làm công việc Chúa muốn theo bậc sống của mình: giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân để cộng tác vào công trình của Chúa trong vị thế của mình.
Chàng trai Samuel trong bài đọc I được Chúa chọn gọi làm tư tế để thi hành ý muốn của Yavê thiên Chúa , thực hiện những công việc phục vụ cho tuyển dân của Ngài. Samuel vừa là tư tế vừa là ngôn sứ để truyền giảng lời Chúa cho dân Israel (x. 1Sm 2, 25; 3,20) Samuel đã làm thủ lãnh Israel để giúp dân trở về với Chúa, tuân giữ đúng các giới răn của Người. Nhờ trung thành với Chúa mà họ được bảo vệ khỏi sự xâm lấn của quân Philitinh và sống trong thanh bình. Samuel còn tìm cho dân những vị vua tài cán, đáp ứng nguyện vọng của dân chúng theo ý Chúa muốn.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô cho chúng ta biết: chúng ta được Chúa kêu gọi để kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần. Chúng ta không thuộc về chính mình vì đã được chuộc bằng giá máu của Chúa Giêsu Kitô. Vậy phải tôn vinh Thiên Chúa trong thân xác mình và giữ gìn tâm trí xứng đáng làm nơi Chúa ngự, không được phạm tội nhất là tội dâm dật làm cho toàn thân ra ô uế. Chúng ta là chi thể trong thân mình Chúa Kitô là Hội Thánh cần biết giữ mình trong sạch luôn luôn.
Trong bài Tin Mừng, hai môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả nghe thầy mình giới thiệu Đấng Cứu Thế liền đi theo và ở lại với Người. Họ đã đáp trả tiếng gọi của Chúa và còn giới thiệu cho anh em mình cũng được ơn trọng đại đó.
Anrê khám phá ra Chúa giêsu trước nhất nhờ nghe lời Gioan Tẩy Giả và ông nghĩ ngay đến anh mình là Simon Phêrô đang khát mong Đấng Cứu Thế. Ông đã đem đến cho Chúa người Chúa muốn gọi làm đầu Hội thánh của Người ở trần gian. Sau này, Anrê còn dẫn những người gốc Hy Lạp tới gặp Chúa Giêsu. Chắc hẳn là Người hài lòng với Anrê về những việc này. Ơn gọi của Anrê là giới thiệu về Chúa cho người khác và nhất là làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh bằng lời rao giảng và mạng sống của mình.
Một người được gọi đồng thời với Anrê là Gioan, người đã trung thành với Chúa tới cùng, người đã theo sát bên Chúa trong những hoàn cảnh bi đát nhất. Gioan là người Tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá. Thánh Gioan đã yêu mến Chúa hết lòng và được gọi là môn đệ Chúa yêu. Nhờ lòng chân thành yêu mến Chúa mà ngài đã thắng vượt được tình nóng nảy và óc bè phái của mình (x. Mc 9, 38), trở nên một người biết thông cảm và hợp tác với người khác. Gioan khởi đầu bằng đức tin là lớn lên trong đức Ái. Gioan đã làm chứng cho tình yêu Chúa Kitô và viết lại Tin Mừng tình yêu Thiên Chúa đối với loài người trong Ngôi Hai cứu thế.
Mỗi người chúng ta được Chúa gọi làm gì? Có lẽ chúng ta không được Chúa hiện ra để kêu gọi như các Tông đồ và cũng không tử đạo theo kiểu của các ngài, nhưng mỗi người được Chúa gọi theo Chúa trong hoàn cảnh riêng của mình. Mỗi người hãy biết lắng nghe tiếng Chúa trong thâm tâm để biết mình phải sống ơn gọi nào và nên làm những gì cho Chúa, cho tha nhân và bản thân. Có người được Chúa gọi làm một Anrê trong thời đại mới, biết giới thiệu Chúa cho người khác và dẫn đưa họ đến gặp Chúa. Cụ thể là rao giảng lời Chúa trong gia đình mình rồi cho những người xung quanh bằng gương sáng là việc làm để mọi người nhận ra ơn cứu độ Chúa ban. Chúng ta đã đáp trả tiếng Chúa thế nào? Chúng ta có là những người môn đệ theo sát bên Chúa như thánh Gioan, biết chết đi cho những tính hư nết xấu của mình: những thói ích kỷ, kiêu căng của mình để trở nên giống Thầy Giêsu ngày một hơn.
Để lắng nghe tiếng Chúa, chúng ta cần ở lại trong Bí tích Thánh thể để cảm nhận tình yêu và nỗi đau của Chúa Giêsu trên Thánh giá, bắt chước Chúa vâng phục Chúa Cha và hy sinh cho tha nhân được hạnh phúc. Mỗi người hãy quyết tâm sống cuộc sống chứng nhân giữa lòng đời qua việc đọc kinh, dự lễ sốt sắng, sống hòa thuận với mọi người trong gia đình cũng như trong thôn xóm, thể hiện tình bác ái huynh đệ qua việc giúp đỡ những người nghèo, tham gia những phong trào đoàn thể chứng tỏ sự gắn bó với Giáo hội, với họ đạo.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con là những môn đệ của Chúa, nhưng nhiều khi lại để mình bị lôi cuốn theo những cám dỗ trần thế và lơ là trong nhiệm vụ làm chứng cho Chúa, xin Chúa thương xót và ban ơn trợ giúp chúng con biết thắng vượt ba thù, biết yêu mến Chúa hơn để trung thành với Chúa và trở nên những người con xứng đáng với tình yêu Chúa Ba Ngôi.
59. Hành trình hay là biến đổi
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
Lời mời gọi làm biến đổi cuộc đời
Giai đoạn từ sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa đến tiệc cưới Ca-na là một thời kỳ chuyển tiếp giữa Cựu và Tân Ước. Đối với các môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả, đây là những ngày có tầm quan trọng đặc biệt, có tính cách quyết định: các ông sẽ trở thành môn đệ của Đức Giêsu, các ông sẽ nhìn thấy nước được biến thành rượu, các lời hứa được thực hiện. Đêm trở thành ngày, nghi ngờ biến thành đức tin.
Bên bờ hồ, ông Gioan đang đứng với các môn đệ của mình, như tượng trưng cho quá khứ đã dừng lại. Còn Đức Giêsu đi ngang qua và các môn đệ ông Gioan tiến đến với Đức Giêsu: hình ảnh của tương lai. Qua lời giới thiệu của ông Gioan, hai người môn đệ bắt đầu cuộc gặp gỡ với Chiên Thiên Chúa, và sau đó chia sẻ cuộc sống với Người: họ đã đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người ngày hôm ấy.
Con đường của các môn đệ đến với Đức Giêsu được mở rộng thêm với lời mời gọi "Hãy đến mà xem" , kèm theo một tình thân mật mà không có gì có thể lật ngược lại. Con đường này diễn ra không phải bằng lời nói nhưng bằng cuộc tiếp xúc với thực tại, bằng việc đi sâu vào cuộc sống và chia sẻ cuộc sống đó.
Đi theo Đức Kitô, các môn đệ đã xem và đã ở lại với Người. Tuy vậy, các ông không ở lại luôn đó Trong truyền thống Do-thái, việc đặt tên cũng có nghĩa là ban tặng cuộc sống.
Đức Giêsu ban cho ông Simon một đời sống mới, kiện toàn đời sống đang có sẵn. Đời sống mới này được diễn tả qua một nhiệm vụ mới: "Phêrô - Đá". Như thế Simon Phêrô vẫn là con người đó nhưng đồng thời cũng là một người khác: ngay ở bên trong con người, có một đời sống mới, một trách nhiệm mới. Kê-pha: đó là tên gọi đầy yêu thương mà Con Người dành cho ông Simon. Từ nay trở đi, người thợ chài lưới tên là Phêrô sẽ phải nỗ lực để xứng đáng với tên gọi đó, qua đời sống làm môn đệ Đức Giêsu, cho đến một ngày chính ông sẽ gọi Người là Con Thiên Chúa.
Câu chuyện về cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa Đức Giêsu với các môn đệ là khởi đầu cho một con đường dài, cho mầu nhiệm hiệp thông: trời cao đã thầm thì những tên gọi vẫn được giấu kín, và ngược lại, trời cao chờ đợi trái đất khám phá và gọi lên danh hiệu của Thiên Chúa.
Một sự gắn bó
Xưa kia, trong Đền Thờ, cậu bé Sa-mu-en đã nhanh nhẹn đáp lại khi nghe được tiếng nói bí ẩn đang gọi cậu. Cậu đã chỗi dậy, sẵn sàng đón nhận tấm lòng ưu ái giúp cậu nhận ra chính Đấng đã gọi cậu.
Con đường dài của các ông Phêrô, Anrê, Gioan - và của tất cả mọi người - đã được bắt đầu từ xa xưa với cuộc di cư của tổ phụ Áp-ra-ham và cuộc xuất hành khỏi Ai-cập của dân Ít-ra-en.
Con đường này có đích điểm là Giêrusalem thiên quốc, là tận cùng thế giới. Đó là một cuộc ra đi đòi phải có lòng kiên trì ; đó là một hành trình rất dài trong sương mờ để dần dần các ông nhận ra người thợ mộc khiêm tốn của làng Na-da-rét cũng chính là Chiên Thiên Chúa.
Một hành trình như thế, một cuộc biến đổi như thế không chỉ là nỗ lực của trí óc, nhưng là một bước nhảy của tâm hồn. Tuy thế, vẫn cần phải có thời gian, phải có sự quen thuộc. Chính vì vậy, Đức Giêsu đã quay lại nhìn những người đang e dè bước đi theo mình và đưa ra lời đề nghị: "Hãy đến mà xem".
Có thể giải thích lời đề nghị ngắn ngủi này như sau: "Anh em hãy đến ở với tôi, chia sẻ cuộc sống của tôi. Hãy tiếp xúc với tôi và loại bỏ mọi thành kiến, mọi ý tưởng có sẵn, rồi các anh sẽ dần dần quen thuộc với con người lạ kỳ của tôi, hiểu được con người được sai đến đầy bí nhiệm, con người mang nhiều tước hiệu mâu thuẫn: kẻ bịp đời và Thầy, con loài người và con Thiên Chúa, Chúa và Con Chiên.
Như vậy, quả là một hành trình khó khăn đối với các môn đệ cũng như cho tất cả mọi người. Người ta không thể lấy làm thoả mãn vì những điều đã có. Đức tin chỉ sáng tỏ dần vào cuối một con đường, nó mọc lên như bình minh rực rỡ thêm dần theo bước chân của người đi săn.
Phải nói thêm rằng, hành trình này là một khát vọng, một sự biến đổi không ngừng. Sau một chặng đường tìm kiếm, ông Anrê đã nói với em mình là ông Simon: "Chúng tôi đã gặp thấy Đấng Mêsia". Lời giới thiệu này khởi đầu cho cuộc hành trình của ông Simon để "sẽ được gọi là Kêpha", đồng thời cũng đưa tất cả các ông vào một chặng đường mới. Đức Giêsu luôn nhấn mạnh với các ông về sự thay đổi, về sự hoán cải dựa trên những xác tín đã có. Nếu người ta đã tìm thấy Đấng Mê-si-a, thì vẫn chưa phải là lúc nghỉ ngơi, vẫn chưa có quyền ở lại một chỗ ; trái lại, đó là lúc chấp nhận cách mãnh liệt hơn, cách tin tưởng hơn thân phận của Đấng Mê-si-a theo cách thức của Thiên Chúa, và cũng là dám phiêu lưu trong niềm tín thác để vừa là chính mình vừa là một người khác, vừa là con người vừa là con Thiên Chúa.
Gặp gỡ để đáp trả
Vậy, bài Tin Mừng này khích lệ và củng cố chúng ta.
Trước hết, chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta và trao tặng cho mỗi người một tên gọi riêng phù hợp với con người và sứ mạng của chúng ta. Mỗi người đều có một tên gọi riêng, tên gọi vĩnh cửu được khắc vào một viên sỏi trắng mà chỉ chúng ta mới biết (x. Kh 2,17). Mỗi chúng ta có nhiệm vụ khám phá tên gọi đó và đáp lại tình thương của Thiên Chúa bằng một đời sống phù hợp. Đó chính là hành trình của chúng ta.
Ngoài ra, bài Tin Mừng còn an ủi chúng ta nếu chúng ta gặp thấy những vấn đề trong đời sống đức tin. Đó là chuyện bình thường. Tuy vậy, chúng ta không được khép kín nơi chính mình, không được đứng yên một chỗ và thoả mãn với những điều đã tìm được. Đức Giêsu luôn mời gọi chúng ta hãy đến mà xem căn nhà của Người, hãy đến gặp gỡ Người. Hãy đến mà xem Người sống thế nào và múc nước từ nguổn mạch nào. Hãy đi sâu vào bí mật của Người và hãy để lòng mình được sưởi ấm nhờ sự hiện diện của Người. Hãy tiếp xúc với Người và mắt của chúng ta sẽ bừng sáng.
Ngạn ngữ cổ có câu: "Hãy cho tôi biết anh tiếp xúc với ai, tôi sẽ cho anh biết anh là ai". Chúng ta có thể áp dụng câu ngạn ngữ này vào bài Tin Mừng hôm nay và thấy thật là thích hợp. Nếu chúng ta thường xuyên tiếp xúc với Đức Giêsu, nếu chúng ta sống trong tình thân mật với Người, thì chúng ta sẽ dần dần nên giống như Người, sẽ trở nên môn đệ đích thực của Người.
Sống với Đức Giêsu, đó là nhìn xem với cặp mắt của Người, yêu thương với tấm lòng của Người và hành động với sức mạnh của Người.
Hãy dành những khoảnh khắc để nghe được lời mời yêu thương của Đức Giêsu. Hãy dành thời gian để đến xem chỗ Người ở. Mỗi lần hãy ở lại lâu hơn. Hãy trở lại đó thường xuyên và dần dần chúng ta sẽ được biến đổi.
* * *
Lạy Chúa,
Chúa muốn chúng con đưa Chúa đi
trên mọi hành trình của cuộc sống
trên những lối quen thuộc hằng ngày.
Chúa muốn chúng con thưa lên với Chúa:
Xin hãy đến và bước đi cùng với chúng con,
xin đừng chậm trễ,
xin đến và nhìn xem
nơi chúng con đang ở ;
xin ở bên chúng con
để mắt chúng con bừng mở
và hy vọng được nảy sinh.
Bấy giờ, nếu Chúa muốn,
chúng con sẽ bước đi theo Chúa
đến những miền xa xăm.
(theo J.Y.Quellec)
60. Chúa Nhật 2 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Có một người đạo đức sau bao nhiêu năm tu thân tích đức, giờ đây ông ta muốn tìm một tôn giáo để hướng dẫn đời sống tâm linh. Nhưng ông ta tìm mãi vẫn không được. Một hôm, ông nhìn thấy bóng Thánh Giá của một tháp nhà thờ từ xa xa, ông thắc mắc về biểu tượng và ý nghĩa của Thánh Giá. Một cụ già giải thích: Đó là biểu tượng của đạo công giáo, vì một người đã hy sinh chịu chết trên Thánh Giá, để cho tất cả mọi người được sống. Ông ta gật đầu trầm ngăm suy nghĩ và xin cụ già dẫn đến nhà thờ.
Trên đường đi ông ta rất vui mừng và hồi hộp như vừa khám phá ra một chân lý mới. Đi được một lúc cụ già mới nói cho ông biết là đã bước vào ranh giới của họ đạo. Ông ta hơi ngở ngàn, vì ông ta nhìn thấy những quán nhậu bên đường, đang có nhiều người trong đó: có nơi thì ồn ào to tiếng, có nơi thì nói những lời không được đẹp cho lắm, có nơi thì chẵng những to tiếng mà thôi, nhưng còn dùng cả đến tay chân để rồi rược đuỗi nhau làm náo động cả đường phố.
Đi một quảng nữa, ông ta nhìn thấy những sòng bài, có nhiều người tụ tập chung quanh.
Đi tiếp tục, ông nhìn thấy những đứa trẻ đang chơi. Nhưng cái đơn sơ hiền dịu đâu không thấy, mà chỉ nghe những lời cọc cằng thô lỗ chưởi bới nhau.
Ông ta bèn lắc đầu rút lui, không tiếp tục cuộc hành trình tìm kiếm nữa. Ông ta rút lui với một nỗi thất vọng; Thất vọng vì những điều ông nhìn thấy trước mắt. Nếu ông chịu đi thêm một chút nữa để đến nơi mà ông muốn đến, chắc là ông không đến nỗi thất vọng như thế. Như vậy việc ông thất vọng bỏ đi đó, trách nhiệm thuộc về ai? - Thuộc về chính ông ta. Nhưng còn thuộc về cả những điều mà ông đã nhìn thấy.
Các môn đệ thật may mắn, các ông đã được một người dẫn dắt tuyệt vời là Gioan Tẩy Giả. Chẵng những chỉ bằng lời nói, nhưng đi đôi với cả đời sống và hành động. Khi các môn đệ đến với Chúa Giêsu, các ông còn được kêu mời: "Hãy đến mà xem". Ngài chẵng bảo gì hết, Ngài cũng chẵng đòi hỏi gì. Ngài chỉ nói: Hãy xem đi và quyết định cho cuộc đời của mình. Các ông đã nhìn xem cuộc đời của người giới thiệu, giờ đây các ông lại nhìn xem đời sống Đấng mà các ông được giới thiệu. Chính những điều các ông nhìn thấy đã thay đỗi cả cuộc đời các ông, và cũng đã làm cho cuộc đời các ông hoàn toàn mới.
Các ông đã nhìn thấy, nên các ông đã can đảm từ bỏ tất cả để bước theo Đấng mà mình đã thấy. Các ông cũng đã công bố, đã rao giảng, các ông còn dám dùng chính mạng sống minh chứng điều mình đã rao giảng, để cho bao nhiêu người nhìn thấy.
Ngày nay trên thế giới, được bao nhiêu người nhìn biết Thiên Chúa? Chỉ khoản 1/3 dân số thế giới. Còn Việt Nam chúng ta? - Không được 1/10.
Chúng ta là người công giáo, được biết Chúa rất lâu. Chúng ta đã được giới thiệu không phải chỉ bởi những con người tầm thường, nhưng chính Con Thiên Chúa tự giới thiệu Mình cho chúng ta. Con Thiên Chúa không chỉ mời gọi chúng ta nhìn xem chỗ Ngài ở mà thôi, nhưng Ngài còn cho chúng ta nhìn thấy bao nhiêu việc làm biểu lộ tình yêu thương của Ngài. Cái chết trên thập giá là tột đỉnh của tình yêu thương bao la đó. Vậy mà... Mỗi người thử nhìn lại mình xem. Những bước chân mà chúng ta bước theo Ngài như thế nào? Có phải là những bước chân dứt khoát - Hay chỉ là những bước chân nữa vời, chờ có dịp là vội rút lại ngay. Cuộc đời chúng ta ngày hôm nay có gì là mới mẽ tốt đẹp hơn không? Hay cũng vẫn còn là con người cũ và vẫn bước đi trên con đường cũ của bao nhiêu n#m xưa: Con đường của sự ương lười và chỉ biết hưởng thụ cách ích kỷ. Bao nhiêu người chung quanh, họ nhìn thấy được gì, chúng ta có dám mời gọi họ hãy đến mà xem cách sống của mình không? Chúng ta mời gọi người khác đến với Chúa, không chỉ bằng lời nói suông, nhưng phải bằng chính đời sống tốt đẹp và gương mẫu của một người biết yêu thương, với đầy đủ tinh thần trách nhiệm. Mọi người nhìn vào gia đình chúng ta, làm sao để họ có thể nhìn thấy được Chúa Kitô đang hiện diện thật sự. Đó là cách chúng ta mời gọi, rao giảng, minh chứng cho mọi người để họ đến với Thiên Chúa. Đó cũng là cách chúng ta bước theo Lời mời gọi của Chúa thật sự.
Xin Chúa cho chúng ta biết can đảm bước theo Chúa và sống đúng với những gì mình đã biết.
61. Chú giải của Noel Quesson
Mùa Phụng vụ được cấu trúc dựa theo hai lễ lớn: Giáng Sinh và Phục Sinh. Mỗi “thời điểm đặc biệt" trên lại được một thời gian chuẩn bị trước, gọi là Mùa Vọng và Mùa Chay, và được kéo dài theo sau bằng Lễ Hiển Linh và Mùa Phục Sinh.
Ngoài hai giai đoạn lễ quan trọng này, thời gian phụng vụ trong năm trở nên “thông thường" hơn, đó là các Chúa Nhật xem ra ít sắc thái hơn. Tuy nhiên, đó không phải là những Chúa Nhật tẻ nhạt, kém phong phú đâu. Đời sống của ta không chỉ bao gồm những thời gian đặc biệt. Cần phải biết chấp nhận cả những chuỗi ngày bình thường nữa.
Sau những ngày lễ hội Giáng Sinh và Năm mới, hôm nay chúng ta lại bước vào một chuỗi dài các Chúa Nhật, qua đó Giáo hội trình bày cho ta cuộc đời trưởng thành của Đức Giêsu.
Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông".
Đây là biểu tượng cho "nếp sống thường ngày", bắt đầu lại mỗi buổi sáng, bề ngoài có vẻ tầm thường, lu mờ, ảm đạm... cứ khởi sự lại hoài hoài, nhưng thực sự có phải chỉ dẫn ta đến buồn chán hay không?
Đâu phải vậy, chính trong bối cảnh tẻ nhạt đó, thông thường xem như "không có cái gì xảy ra", thì lại sắp phát sinh cái mới mẻ! Không có buổi sáng nào tầm thường cả.
Thiên Chúa đều hiện diện ở đó. Hôm nay, một điều gì đó sẽ xảy đến.
Thánh Gioan đã có ý soạn thảo chương thứ nhất Tin Mừng của ông, như một "Tuần lễ đầu tiên": chủ yếu là gây chú ý "buổi khởi đầu của Đức Giêsu. (Ga 1,19) đó là ngày thứ nhất. Một phái đoàn Do Thái đến chất vấn Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan.
Ga 1,29: Ngày thứ hai “Hôm sau, Gioan Tẩy Giả xác định Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa.
Ga 1,35: Ngày thứ tư, "Hôm sau, Đức Giêsu kêu gọi thêm hai môn đệ khác.
Ga 2,1: Ngày thứ bảy, "Ba ngày sau”, phép lạ đầu tiên đã xảy ra tại tiệc cưới Ca-na, qua đó Đức Giêsu biểu lộ vinh quang của Người và các môn đệ tin vào Người.
Qua các dàn dựng như trên, Thánh sử Gioan muốn báo cho chúng ta một "Tin Mừng": đây là một cuộc sáng thế mới, một cuộc tạo dựng mới được khởi sự, một việc lặp lại trang đầu tiên của Kinh Thánh. Toàn thể "mạc khải" như kêu lên cho chúng ta biết: Không, thời gian không thể tầm thường, tẻ nhạt, buồn chán. Chính thời gian sẽ phát sinh ra điều mới lạ căn bản, thới gian luôn mang chứa năng lực sáng tạo, thời gian sẽ thực hiện công cuộc Tạo dựng.
Đối với tôi mỗi buổi sáng có mang lại một điều gì mới mẻ không?
Lạy Chúa, xin giúp con biết chăm chú đến những gì sắp gây ra đến "biến cố" sắp xảy đến thường gây bất ngờ cho con, Lạy Chúa, mỗi ngày, Chúa đang chờ đợi con.
Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: "Đây là chiên Thiên Chúa”.
Vâng, Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu, và đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: ông sắp chuyển giao các môn đệ của mình. Họ sẽ rời bỏ Gioan Tẩy Giả để theo một ông Thầy khác. Tước hiệu đầu tiên trên đây, được dành cho con người mà cho tới nay, vẫn được coi là chàng thợ mộc Na-da-rét, có ý nghĩa gì? Chàng là "Chiên Thiên Chúa" sao!
Đó là tên gọi mà ta thường hát đi hát lại trong mỗi thánh lễ Dưới tên gọi để chúng ta mặc cho nó một ý nghĩa nào? Gioan Tẩy Giả nhằm nói lên điều gì? Ta chỉ cần gợi lại toàn diện bối cảnh Do Thái lúc đó. Tước hiệu này thực sự là bước "chuyển tiếp" từ Cựu ước sang Tân ước; đó là vị ngôn sứ cuối cùng và là chứng nhân đầu tiên Đức Giêsu Kitô. Vào ngày lễ Vượt qua, mỗi gia đình Do Thái giết một con chiên và lấy máu bôi lên cửa nhà mình trong lúc dùng bữa cơm tối: đó là biểu tượng cho công cuộc "giải phóng" ít-ra-en. Ngoài ra, từ "con chiên" trong tiếng A-ra-mên, ngôn ngữ Đức Giêsu sử dụng, cũng có nghĩa là “tôi tớ”. Mọi người Do Thái sùng đạo đều mang trong đầu lời sấm nổi tiếng của ngôn sứ Isaia (53,7), giới thiệu “người Tôi tớ của Thiên. Chúa" hoàn hảo như "một con” chiên bị người ta dẫn tôi lò sát sinh mà không mở miệng kêu than". Vậy Đức Giêsu đã được chỉ định như Đấng sắp bị người ta sát tế trong thinh lặng, sắp vì yêu mà hiến mạng sống mình để xóa bỏ tội lỗi trần gian. Theo tập truyền Do Thái thời Đức Giêsu, người ta thường nói tới một "con chiên Chúa", có thể mọc sừng cừu đực và lãnh trách nhiệm "bảo vệ cả đoàn chiên". Ngoài ra, đó cũng là hình ảnh mà Gioan sử dụng lại trong sách Khải Huyền, khi ông giới thiệu Con chiên, được chọn từ đoàn chiên, đảm trách việc bảo vệ các anh em mình, tấn công và đánh tan kẻ thù. Chúng ta có đi quá xa bài thánh ca dịu dàng "Đây Con chiên vô cùng hiền lành" không! Thực ra, Chiên Thiên Chúa nơi chúng ta ca ngợi trước khi trước lễ không phải là hình ảnh con vật dịu hiền, trìu mến và vô hại... Đúng ra đó là hình ảnh một kẻ giao chiến hiếu thắng nhưng phải đổ đầm đìa máu huyết để cứu thoát chúng ta khỏi bất hạnh!
Đó là cách thức Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu như thể ngay ngày thứ ba khởi sự đời sống công khai của Người.
"Hai môn đệ nghe ông nói đều đi theo Đức Giêsu”.
Tôi có thể hình dung ra cảnh tượng trên. Đức Giêsu đang bước đi trên một con đường mòn dọc theo bờ sông. Hai người theo gót chân Người, thái độ nhút nhát, vẻ hồi hộp... Họ chưa gặp Người bao giờ. Đó là một người lạ mặt. Những gì sắp xảy ra đây?
Thật là quá "liều” khi theo một người lạ như thế. Có lẽ, đây là một cuộc mạo hiểm. Nhưng những cuộc hành trình vĩ đại đều bắt đầu như thế cả, vì nhờ đó mới mở ra một con đường mới.
“Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi..."
Đức Giêsu đã nghe thấy bước chân họ đạp trên sỏi đá, phía sau Người. Người quay lại. Tôi thử quan sát cảnh tượng này. Đây cũng là "cái nhìn đầu tiên" của Đức Giêsu đối với những người lạ mặt...
“Các anh tìm gì thế?”
Đây là lời đầu tiên của Đức Giêsu được ghi nhận trong Tin Mừng thánh Gioan. Câu hỏi này Đức Giêsu muốn đặt ra cho mọi người. Hôm nay, Người cũng đang hỏi tôi như thế. "Bạn tìm gì đó? Bạn đặt cho đời mình ý nghĩa nào? ước muốn của bạn là gì?
Ta cần ghi nhận, sự can thiệp đầu tiên của Đức Giêsu không phải là một "khẳng định", nhưng là một "câu hỏi'. Vì thực ra, để đến với Đức Giêsu, cần phải có thái độ "cởi mở", không thể "khép kín" trong một hệ thống đóng khung, như các "tư tế và trợ tế" đã đến gặp Gioan Tẩy Giả. (Ga. 1,19). Đối với những loại người này, cuộc đối thoại đã sớm kết thúc vì thực ra họ ‘không tìm cái gì cả’. Lời đầu tiên của Đức Giêsu muốn lưu ý ta rằng, điều kiện trước hết để làm phát sinh và đào sâu đức tin, phải là thái độ "tìm kiếm, Đức tin trước hết phải là thái độ tìm hiểu đạo: đó là một cuộc kiếm tìm, một câu hỏi. "Lạy Chúa, Chúa là ai?", kẻ nào cho mình biết tất cả, sẽ bị khựng lại trong những xác tín của mình, sẽ không bao giờ tiến bộ được. "Không có Thiên Chúa! - Bạn có tin chắc như thế không? Thiên Chúa hiện hữu. Người là Đấng này.. Đấng kia - Bạn có xác tín như thế không?". Một triết gia tầm cỡ như Descartes đã nói: "Muốn cho khoa học tiến bộ, cần phải biết "hồ nghi". Cũng vậy, cần phải biết "đặt câu hỏi", như một thứ điều kiện để phát triển đức tin. Còn Péguy đã diễn dịch như sau: "Có những tâm hồn hoàn toàn khép kín, không để một ngõ ngách nào cho ân sủng thâm nhập. Không có chỗ có thể "thấm ướt" được, thì làm sao có thể tiếp thu... ".
Lạy Chúa, xin ban cho tâm hồn chúng con biết mơ mộng, biết kiếm tìm.
Họ đáp: 'Thưa Rapbi, (nghĩa là thưa Thầy) Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem".
Tìm kiếm... bước theo... cư ngụ... đó là ba thái độ cốt yếu của tình yêu. Tôi có kiếm tìm Thiên Chúa không? Tôi có theo vết chân Người không? Tôi có luôn ở cùng Thiên Chúa không? Đức Giêsu đáp lại lòng mong muốn, thái độ kiếm tìm của họ. Nhưng, cách đáp trả của Người luôn tôn trọng tự do của họ: "Hãy đến mà xem?” Đức Giêsu không bó buộc các ông đi theo. Người không phải là một nhà tuyên truyền, một người quảng cáo, khi cần thiết có thể tìm mọi cách và áp lực người ta hoán cải. Phần tôi, cách tôi sử dụng để trình bày đức tin như thế nào?
“Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều”.
Có những từ mà Gioan không những gặp đi lặp lại.
Không phải ông nghèo ngữ vựng, nhưng ông chú ý sử dụng vậy. Nhờ cách lặp đi lặp lại như thế, ông có thể diễn tả bước tiến của "người môn đệ": "kiếm tìm"(1,38), "đến xem" (1, 39 và 46), "quan sát" (l,39 và 41), "gặp thầy" (1,41 và 45), "bước theo” (l,37.38.40.43) "ở lại" (l,38.39).
Gioan Thánh sử là một trong hai người đã bước theo Đức Giêsu. Kỷ niệm của ông rất chính xác, như kỷ niệm lần đầu gặp gở của hai người yêu nhau. Ong ghi lại cả giờ giấc sự kiện đó đã diễn ra vào lúc "bốn giờ chiều', (thời đó người ta gọi đó là giờ thứ mười). Hôm đó, họ đã trao đổi với nhau những gì? Hẳn là hai ông đã kể lại đời sống, những khát vọng, những mong ước, thái độ "tìm kiếm" của họ. Còn Đức Giêsu, có thể Người đã nói cho họ biết về những dự tính, những ước muốn riêng của Người.
“Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, nghĩa là Đấng Kitô".
Một nét đặc thù đáng ghi nhận, đó là lời mời gọi của Thiên Chúa, hay "ơn gọi", thực tế được truyền đến tai con người, nhờ các mối tương quan nhân loại. Để nghe được lời mời gọi của Thiên Chúa, cũng cần phải chăm chú tới tiếng gọi của con người. Đó là những trường hợp của Gioan Tẩy Giả, trước hết ông gọi Anrê và Gioan. Rồi đến lướt Anrê và Gioan lại kêu gọi Simon. Sau này, Philipphê cũng sẽ mời gọi Nathanaen như thế.
Tôi có nuôi tư tưởng khi có dịp sẽ hướng dẫn một người nào đó tới gặp gỡ Đức Giêsu không? Khám phá ra Đức Giêsu rồi, tôi có lo truyền đạt cho kẻ khác hay chỉ biết giữ riêng cho mình?
“Ông dẫn em mình đến gặp gỡ Đức Giêsu, Đức Giêsu nhìn ông Si-mon và nói: "Anh là Simon, con ông Gioan. Anh sẽ được gọi là Kêpha", "tức là Phêrô".
Trở nên môn đệ, nghĩa là "thay đổi" đời sống... đó là bước vào một, cuộc phiêu lưu mới, trở nên một "con người mới". Đó là ý nghĩa việc đổi tên cho Simon. Đối với các môn đệ đầu tiên, mỗi khi hồi tưởng lại, các ông đều cảm thấy việc thay đổi đời sống của mình thật là phi thường.
Đó là khởi đầu cho một định hướng hoàn toàn khác lạ trong đời sống của các ông. Trong não trạng của người Sêmít, việc đổi tên cũng có nghĩa là, Thiên Chúa hoàn toàn ảnh hưởng trên Simon Phêrô. Những con người đó đã "tìm kiếm" Đức Giêsu, đúng vậy? nhưng chính Đức Giêsu cũng kiếm tìm họ... Chinh Người khởi xướng trước nhờ "ân sủng" kỳ diệu của Người. Ơn gọi: vừa là tiếng kêu gọi của con người... vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa.
62. Điều quan trọng là lòng tin kiên vững
(Suy niệm của Vinh sơn Trần Xuân Bình, OP)
Kính thưa cộng đoàn!
Bài đọc I kể lại câu chuyện Đức Chúa gọi Sa-mu-en và Sa-mu-en đã đáp lời: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” Chính lời đáp trả này mà Đức Chúa đã ở với Sa-mu-en và “Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu.”
Bài đọc II thánh Phao-lô tự vấn tín hữu Cô-rin-tô rằng: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?” Và ngài khẳng định, “ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người.”
Còn bài Tin mừng hôm nay, thuật lại biến cố Đức Giêsu mời gọi các môn đệ của ông Gioan đến sống thâm tình với Người, qua đó các môn đệ của ông Gioan đã xác tín vào lời giới thiệu của thầy mình về Đấng Kitô, “đây là Chiên Thiên Chúa” vì thế họ đã tuyên nhận Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a nghĩa là Đức Kitô Con Thiên Chúa.
Như vậy tất cả những ai sống thâm tình với Thiên Chúa đều được Chúa đoái thương cư ngụ trong tâm hồn và Thiên Chúa trở nên thân thiện và hằng quan tâm chăm sóc họ trong suốt cuộc đời.
Cũng vậy nhờ được đến sống thâm tình với Đức Giêsu tại nơi ở của Người mà các môn đệ đã trải nghiệm được tình yêu Thiên Chúa đối với họ qua con của Người là Đức Giêsu Kitô, đó là điều có lẽ suốt cuộc đời, họ luôn khắc ghi trong tâm hồn và thiết nghĩ đó cũng là niềm xác tín rất riêng tư nơi sâu thẳm tâm hồn mỗi tín hữu về một Đức Kitô đã được trao ban cho con người và vì con người. Đó là Mầu nhiệm hiện diện của Con Thiên Chúa nơi thế gian, đặc biệt nơi sâu thẳm tâm hồn mỗi con người.
Để có được trải nghiệm này không phải là chuyện dễ, thật thế làm sao chúng ta cảm nhận được một Thiên Chúa đang hiện diện trong tâm hồn và Người rất thân thiện và hằng quan tâm ủi an chúng ta? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên Chúa là ánh sáng cho trần gian? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên là đường dẫn đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên Chúa đã được sinh ra trong tâm hồn chúng ta cho chúng ta và vì chúng ta? …
Điều quan trọng là lòng tin kiên vững mà Đức tin đã tặng ban cho chúng ta, chứ không phải là cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa. Bởi vì sự hiện diện của Thiên Chúa, không hệ tại vào những tài năng của linh hồn, nhưng là từ tận nơi sâu thẳm của linh hồn. Chính vì thế, điều đó lý giải tại sao mà chúng ta không lãnh hội được. Thật thế Thiên Chúa luôn thân thiện, nhưng chúng ta không có một chút cảm nhận nào. Thiên Chúa rất thân thiện với chúng ta, nhưng chúng ta lại xa Người. Thiên Chúa ở trong còn chúng ta thì ở ngoài. Thiên Chúa luôn ở trong ngôi nhà tâm hồn chúng ta, thế mà chúng ta lại là kẻ xa lạ với chính ngôi nhà của chúng ta. Như lời sách Công vụ tông đồ đã nói: "Trong Người, chúng ta sống, cử động và hiện hữu" (Cv 17:28), Ngài bao bọc chúng ta mọi nơi mọi lúc. Cũng như thánh Âu-tinh, chúng ta tin tưởng cầu nguyện với Thiên Chúa rằng: "Lạy Chúa, xin che chở con, và con đã được Người che chở". Khi ấy, chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần mách bảo trong sâu thẳm tâm hồn, vì này Triều Đại Thiên Chúa "đang ở giữa các ngươi" (Lc 17:21).
Khi Đức Giêsu Kitô sinh ra vào trong thế gian như một phàm nhân, thì Người cũng được sinh ra trong tâm hồn chúng ta. Và như vậy, Người là ánh sáng soi chiếu thế gian, là ngọn đèn nội tâm dẫn đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha. Chúng ta hãy lắng nghe lời Người với một tấm lòng đơn sơ thành thật đừng ngờ vực. Nếu chúng ta chỉ lắng nghe mà không hành động theo, khi ấy chúng ta sẽ mất tất cả. Như vậy chúng ta không được biến đổi và không thể nhận biết được Thiên Chúa trong sâu thẳm tâm hồn, nơi mà chúng ta được mời gọi nhận biết Thiên Chúa trong đó.
Đức Kitô đã sinh ra trong chúng ta và chúng ta cần nuôi dưỡng mối liên hệ thân thuộc với Người. Sự sinh ra của Đức Kitô cho phép chúng ta thông phần vào bản tính Thiên Chúa; như vậy, nhân loại được liên kết với Thiên Chúa sau khi xa lìa Thiên Chúa một thời gian rất lâu vì tội nguyên tổ. Sự sinh ra của Đức Kitô là qùa tặng cao qúi của Thiên Chúa nhờ sự sáng tạo của Người; xuất phát từ tình yêu vô biên của Thiên Chúa vì chúng ta. Vì thế chúng ta được kêu mời đáp trả lại tình yêu ấy theo cùng cách thức, với lòng mến chúng ta sẵn sàng hiến dâng cả thân xác lẫn ý muốn cho Thiên Chúa, vì Người đã yêu chúng ta trước. Chúng ta có thể yêu Chúa qua lời cầu nguyện và qua sự phục vụ tha nhân.
Tất cả những điều nêu trên có thể lý giải cho chúng ta những vấn đề: tại sao chúng ta phải cầu nguyện, tại sao chúng ta phải ăn chay, tại sao chúng ta phải làm tất cả những việc lành, tại sao chúng ta phải rửa tội, tại sao Thiên Chúa phải trở nên phàm nhân, tại sao chúng ta phải sống thân tình với Thiên Chúa, tại sao tất cả những điều đó là cao cả nhất? Thưa! vì Thiên Chúa đang hiện diện trong tâm hồn chúng ta, Người rất thân thiện và hằng chăm sóc ủi an chúng ta.
Chúng ta hãy mở rộng tâm hồn ra và đến với Thiên Chúa trong sự cô liêu hoàn toàn, nhờ đó mà chúng ta tỉnh thức với những gì mà Đức Kitô mang tặng chúng ta: một thế giới mới, một thế giới nội tâm mà Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta và vì chúng ta. Đó là Mầu nhiệm hiện diện. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ân sủng để nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi sâu thẳm tâm hồn. Nếu chúng ta chưa nhận ra thì hãy có sự ao ước để được nhận ra, nếu chúng ta chưa thể có sự ao ước để nhận ra thì hãy ao ước có sự ao ước đó. Vì chính Đức Giêsu đã nói: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23).
Lạy Chúa xin ban ân sủng cho chúng con để chúng con nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi sâu thẳm tâm hồn. Amen.
63. Các môn đệ đầu tiên – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Trong Tin Mừng Gioan, bài tường thuât ơn gọi các môn đệ được ghép vào bên trong cái mà người ta gọi là “Tuần lễ khai mạc sứ vụ của Đức Giêsu”.
- hai ngày đầu: Gioan Tẩy Giả làm chứng (phủ định - khẳng định);
- ngày thứ ba (“hôm sau”, 1,35): lần này Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (cc. 35-36);
- đoạn văn của chúng ta (1,35-42) nằm ở vị trí này;
- ngày thứ tư (“hôm sau”, 1,43): Đức Giêsu gọi Philípphê và Natanaen;
- “ngày thứ ba” (2,1): Đức Giêsu “bày tỏ vinh quang” (2,11) tạiCana miền Galilê.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hai môn đệ đầu tiên (1,35-39);
2) Anrê (1,40-42a);
3) Simôn (1,42b).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Ông Gioan đang đứng... (35): Có một nhóm môn đệ thường xuyên ở quanh Vị Tẩy Giả (x. Mc 2,18t và //; Mt 11,2; 14,12; Lc 11,1; Ga 3,25). Bản văn xác định tiếp rằng một trong hai môn đệ là Anrê, em của Simôn (41); còn người thứ hai thì vô danh.
Tìm cách dung hòa bài tường thuật của TM IV với bài của các TMNL nói về ơn gọi của các môn đệ (x. Mc 1,16-20) là chuyện vô ích. Chỉ có một điểm gặp nhau: hai anh em Simôn và Anrê ở trong số những người được gọi đầu tiên. Còn các khác biệt quá lớn:
+ Theo Mc 1,29: Simôn ở Caphácnaum; theo Ga 1,44: hai anh em gốc Bétxaiđa.
+ TM IV không nói gì tới các con ông Dêbêđê, trong khi theo Mc 1,18-20, họ là cặp môn đệ thứ hai; Mc lại không hề nói đến Philípphê và Natanaen.
+ Bối cảnh cũng khác nhau: theo TM IV, các môn đệ đầu tiên thuộc nhóm của Vị Tẩy Giả, đã được ông hướng dẫn tới với Đức Giêsu; theo Mc, Đức Giêsu chỉ kêu gọi các môn đệ sau khi Vị Tẩy Giả bị bắt, và kêu gọi tại bờ hồ Ghennêsarét, chứ không tại bờ sông Giođan, lúc đó họ đang làm nghề chài lưới.
+ Ý hướng tổng quát khác nhau: Theo Mc, đây là một biến cố bất ngờ lôi kéo người ta ra khỏi cuộc sống hằng ngày để thi hành sứ mạng tông đồ. Dường như bản văn Ga còn ghi giữ lại kỷ niệm lịch sử, đó là các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, và có thể chính tác giả, đã có lúc thuộc về nhóm Gioan Tẩy Giả.
- thấy Đức Giêsu đi ngang qua (36): Hôm sau ngày làm chứng (cc. 29-34), trong khi Vị Tẩy Giả còn đứng đó, Đức Giêsu đã bắt đầu tiến đi: thái độ của Gioan tượng trưng rằng sự nghiệp của ông đã đến lúc chấm dứt; thái độ của Đức Giêsu đánh dấu khởi đầu cuộc đời của Người là một cuộc tiến bước thiêng liêng, sẽ đưa Người về với Chúa Cha (x. Ga14,28). Còn Gioan thì tức khắc nói với hai người trong nhóm môn đệ đã đến để tìm ơn cứu độ nơi ông, rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”.
- Các anh tìm gì thế? (38): “Tìm” (zeteô: 34 lần trong TM IV) có nghĩa là “tìm cách có lại những đồ vật đã bị mất hoặc để lạc”. Trong tiếng Hy Lạp LXX, đây là từ ngữ chuyên môn để nói về việc đi tìm Thiên Chúa, đặc biệt tìm sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (x. Hn 1,1-2a; 8,2.18 …). Trong tiếng Híp-ri, “tìm” là darash; darash ha Torah, “tìm Torah”, có nghĩa là giải thích Kinh Thánh.
- Thưa Rabbi, Thầy ở đâu? Trên môi họ, câu hỏi chỉ nhắm nơi Đức Giêsu đang sống, để họ đến gặp, nhưng tác giả là người đã quen sử dụng các từ ngữ theo hai ý, có lẽ cũng hiểu câu hỏi theo một nghĩa sâu hơn: “Thầy ở đâu về phương diện thiêng liêng?”. Đối với ông, các môn đệ đã mặc nhiên thưa với Đức Giêsu lời thỉnh cầu của Philípphê và của bất cứ người nào: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha (nơi Chúa Cha, Thầy đang cư ngụ), như thế là chúng con mãn nguyện” (14,8).
- Đến mà xem (39): Dịch sát là “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe. Mệnh lệnh cách erchesthe có thể hiểu theo nghĩa điều kiện là “nếu như, với điều kiện”. Còn opsesthe là thì tương lai của động từ horaô, có thể hiểu như một lời hứa của Đức Giêsu: TM IV có bốn động từ để diễn tả cái nhìn, từ cái nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó là: blepein, theasthai, theôrein, horan [idein]. Động từ sau cùng thuộc về lãnh vực đức tin. Trong Ga 1,39, Đức Giêsu mời các ông di chuyển về phía Người và có cái nhìn đức tin.
Câu trả lời của Đức Giêsu ở đây cũng có một mức sâu hơn: việc khám phá ra nơi ở trần thế của Người tượng trưng và chuẩn bị cho việc khám phá ra nơi ở thiêng liêng của Người. Bước đi theo Người theo cách thể lý, các môn đệ thấy nơi trú ngụ của Người; hơn nữa, đã bước đi theo Người cách thiêng liêng bằng lòng tin, họ cũng bắt đầu thấy được nơi ở thiêng liêng của Người, tức Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9).
- Họ ở lại với Người (39): Đây là chặng đầu của một cuộc chung sống đưa tới sự hiệp thông sâu xa nhất (x. 15,4). Trọn buổi chiều, kể từ 4g, họ xem và ở lại với Đức Giêsu, về thiêng liêng cũng như về thể lý. Buổi chiều hoặc đêm đáng ghi nhớ ấy mở đầu cho đời sống đức tin tròn đầy, đã đưa Anrê và người môn đệ vô danh kia vào trong mầu nhiệm của đời sống Đức Kitô và làm cho họ rất phấn khởi: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”, Anrê reo lên như thế khi gặp Simôn. Một niềm vui thiêng liêng bùng ra: đây là niềm vui được ban cho những tâm hồn khám phá ra viên ngọc quí và kho tàng trên trời (x. Mt 13,44).
- Khoảng giờ thứ mười (39): tức khoảng 4g chiều. TM IV quen ghi chú về thời gian chính xác (x. 4,52; 18,28; 19,14; 20,19), nhưng hẳn là có một ý hướng biểu tượng. Trong một số bản văn của Cựu Ước hoặc của Do Thái giáo đương thời, số 10 là con số hoàn hảo; vậy “giờ thứ 10” hẳn là giờ hoàn tất và đánh dấu khởi đầu công trình của Đức Giêsu. Quả thế, ở 11,9, ngày là một hình ảnh được dùng để gọi thời gian Đức Giêsu hoạt động ở trần gian (x. thêm 9,4-5; 12,35). “Mười” là một con số hoàn hảo đối với các triết gia phái Pythagore và triết gia Philô khiến Bultmann gợi ý rằng đây là giờ của sự hoàn tất. Cũng có những tác giả cho rằng ngay hôm sau, bắt đầu vào lúc mặt trời lặn, là một ngày sa-bát; do đó hai môn đệ đã phải ở lại với Đức Giêsu để tránh di chuyển vào ngày ấy.
- Trước hết (prôton) (41): Cuộc trò chuyện đã kéo dài trong đêm. Do đó, chúng ta hiểu là sáng hôm sau, Anrê trước hết vội vã đi tìm anh trước khi làm bất cứ việc gì.
- Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia (41): Dịch sát là “Chúng tôi đã tìm thấy/tìm ra Đấng Mêsia” Heuriskein, tìm thấy, được dùng thường xuyên trong phân đoạn này và phân đoạn sau. Anrê “tìm thấy/ra” Simôn, báo rằng họ đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia. Sau được Đức Giêsu “tìm thấy/ra”, Philípphê “tìm thấy/ra” Natanaen và bảo rằng đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia.
- Anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là Phêrô (42): Kêphas là từ A-ram kêpha được hy-hóa, có nghĩa là “tảng đá”. Cũng như từ rabbi (c.38) và Mêsia (c.41), kêpha là từ A-ram (Chúng ta lưu ý là có ba từ A-ram trong cùng một đoạn văn). Hẳn là tác giả suy tư trong ngôn ngữ này, hay ít ra ông cũng rất quen thuộc các thuật ngữ A-ram. Bản RSV dịch thành một câu hỏi: “So you are Simon the son of John? Vây anh là Simôn con ông Gioan à?”. Người ta đặt tên cho những người hoặc những vật thuộc quyền kiểm soát của mình (x. St 2,20; Đn 1,7); người cha đặt tên cho con cái (Mt 1,25; Lc 1,63).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hai môn đệ đầu tiên (35-39)
Truyện hai môn đệ này chắc chắn có dấu vết những hoài niệm về một vài môn đệ. Nhưng dưới ngòi bút của tác giả, truyện mang tính điển hình để chia sẻ với độc giả cái nhìn về đời môn đệ. Các biến cố xảy ra rất nhanh, trong cái khung giả tạo bảy ngày: các môn đệ đầu tiên đến gặp Đức Giêsu, rồi Đức Giêsu gọi Phêrô, Philípphê, Nathanaen. Cuối cùng toàn chương kết thúc với lời Đức Giêsu long trọng mạc khải về chính mình: “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên sứ của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51).
Trước khi truyện đạt tới đỉnh cao này, tác giả ghi lại lời chứng của Gioan. “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”“ (Ga 1,36). Lời này nhắc lại lời nói trong hoạt cảnh ở c. 29, chỉ khác là thuộc về ngày hôm sau. Đây là “cấu trúc trôn ốc” quen thuộc của tác giả. Ngài thường xuyên trở lại với những đề tài cũ, cứu xét chúng từ những viễn tượng khác, thăm dò, và chia sẻ với các độc giả sự phong phú đặc biệt của những thực tại ngài đề cập đến (x. Ga 20,19-23).
Lúc đó Gioan [và hai môn đệ] được mô tả là “đang đứng” (heistêkei). Có vẻ như thể ông đang chờ chuyện gì đó xảy ra. Trong TM IV, hành động duy nhất có ý nghĩa mà Gioan làm, đó là làm chứng. Vì lúc này Đức Giêsu chưa xuất hiện, hành động đó chưa xảy ra được. Như ngày hôm trước, Gioan thấy Đức Giêsu bước đi và đã giới thiệu Người (Ga 1,29), sang ngày hôm sau, một lần nữa, Gioan lại công bố Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Hoạt cảnh của ngày hôm qua cho biết ý nghĩa của tên gọi bí ẩn này; hoạt cảnh hôm nay cho thấy hậu quả của lời loan báo ấy. Ông mời họ rời ông để gắn bó với Đấng Cứu thế duy nhất chân thật.
Do được thầy giới thiệu, hai môn đệ đã quyết định đi theo Đức Giêsu. Ơn gọi của họ, cũng như của Samuen, được đánh thức bởi một người khác, không phải bởi “ánh sáng” nhưng bởi “chứng nhân của ánh sáng” (1,8; 3,3). Tác giả không nói gì đến hoàn cảnh thời gian, không gian, tâm lý của các nhân vật: đây cũng là một lược đồ. Ý thức về sự khác biệt giữa tiếng nói và Đấng được tiếng nói làm chứng cho, hai môn đệ bước theo Đức Giêsu.
Hẳn là vì nghe tiếng bước chân, Đức Giêsu quay lại, và thấy các ông đi theo mình. Người hỏi thẳng: “Các anh tìm gì thế?” (Ga 1,38). Những người đi theo thưa với Người là “Rabbi”, không trả lời câu hỏi của Người, mà lại hỏi Người ở đâu. Thay vì cung cấp một câu trả lời trực tiếp, Đức Giêsu mời hai người đến và xem nơi Người ở. Hai ông đã nhận lời mời và đi với Người đến nơi Người ở, nơi này là nơi nào chúng ta không biết. Lúc đó vào khoảng giờ thứ 10 (= 4g chiều, hay là 5/6 ngày đã trôi qua), tức đã muộn. Có lẽ họ đã qua đêm với Người. Chi tiết về thời gian này có ý nghĩa gì với tác giả không? Điều đánh động trong mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên của Gioan, đó là họ xưng hô với Đức Giêsu là Rabbi. “Thưa Ngài” (Kyrie) là từ ngữ thường được dùng để bày tỏ lòng tôn kính; TM IV thường dùng từ ngữ này vào những dịp tường thuật các cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người khác. Những người được hưởng nhờ quyền lực siêu phàm của Đức Giêsu cũng gọi Người là “Kyrie”. Rabbi có nghĩa chữ là “thầy tôi” (didaskalos), thường được các môn sinh dùng để gọi vị thầy họ trân trọng, nhưng sau này chỉ còn nghĩa là “thầy”.
Trong TM IV từ đầu cho đến đây, không chi tiết nào cho thấy Đức Giêsu là một thầy giáo. Không một điều gì gợi ý là dân chúng mong ước Đấng đang đến là một thầy dạy. Trong TM này, từ ngữ Rabbi cũng không được sử dụng nhiều: 7 trên 8 lần được các môn đệ Đức Giêsu sử dụng (1,38.49; 3,2; 4,31; 6,25; 9,2; 11,8); lần còn lại được đặt trên môi của các môn đệ nhìn nhận Gioan là thầy họ (3,26).
Hai môn đệ vô danh “bước theo” Đức Giêsu. Trong ngôn ngữ Hy Lạp, “bước theo” (akoloutheô) có nghĩa là “đi đàng sau một người”; “trở thành môn đệ” (nghĩa ẩn dụ). Thay vì theo Gioan, bây giờ họ bước theo Đức Giêsu. Họ đã học với Gioan; nay họ phải học với Đức Giêsu. Chính vì thế, họ gọi Người là “Rabbi”. Đây là cách tác giả diễn tả đòi hỏi từ bỏ tận căn được nói đến trong các TMNL (x. Mt 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22): hoặc họ là môn đệ của Đức Giêsu hoặc họ là môn đệ của Gioan. Không thể có thỏa hiệp. Đây không còn phải là quyết định triệt để trở thành môn đệ bằng cách từ bỏ những của cải vật chất nữa để đi theo một vị thầy du thuyết; đúng hơn, đây là từ bỏ một dấn thân đầu tiên trong đức tin của mình.
Nhưng ở đây không chỉ có vấn đề một dấn thân tận căn. Tác giả diễn tả xác tín của mình là những ai đã thật sự học nơi Gioan, những ai đã thật sự hiểu ý nghĩa của lời chứng của Gioan, thì trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Các môn đệ của Gioan tìm được vị trí đúng đắn của họ trong cuộc đời khi họ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Những ai đã chú ý thật sự đến lời chứng của Gioan thì phải đi vào nhóm môn đệ của Đức Giêsu. Đây là ý nghĩa biểu tượng và cũng là ý nghĩa đích thật của bài tường thuật.
Câu hỏi mở đầu của Đức Giêsu cũng lạ: “Các anh tìm gì thế?”, một câu hỏi trên bình diện tường thuật thuần túy chỉ có nghĩa là “Các anh muốn gì?”. Họ không đáp lại bằng một câu trả lời, nhưng bằng một câu hỏi: “Thầy ở đâu?”. Nếu so sánh với ba TMNL, ta thấy những lời đầu tiên Đức Giêsu nói công khai được các TM ấy ghi lại đều có chất chứa một chương trình cho toàn thể Tin Mừng (Mt 3,15; Mc 1,15; Lc 4,21), còn TM IV thì thế nào?
Có thể cho rằng tác giả trình bày các môn đệ đầu tiên của Gioan như là những cá nhân đang theo đuổi sự Khôn Ngoan thần linh. Tuy nhiên, Đức Giêsu chính là hiện thân của sự Khôn Ngoan thần linh. Thật khôi hài, những người đi tìm sự Khôn Ngoan thần linh lại tìm thấy sự Khôn Ngoan hiện thân khi họ bước theo Đức Giêsu. Rồi tác giả cũng cho thấy Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh, và thường quy chiếu về bản thân Người. Chẳng hạn, Người thực hiện một midrash[1] về Tv 78,24 trong Diễn từ về bánh ban sự sống (Ga 6,26-51). Từ cách hiểu tổng quát về Đức Giêsu như thế, rất có thể tác giả mô tả hai môn đệ đi đến với Đức Giêsu như đến với người có thể giải thích Kinh Thánh. Nếu vậy, hẳn là họ đã có lý khi thưa “Rabbi” (Ga 1,38), nhưng danh hiêu này cũng phản ánh cách các thành viên của cộng đoàn tác giả hiểu về Đức Giêsu. Do đó, câu hỏi của hai ông “Thầy ở đâu?” đã được Đức Giêsu nâng lên một bình diện ý nghĩa khác (x. phản ứng của Đức Giêsu đối với câu nói của Đức Maria tại tiệc cưới Cana: Ga 2,3-4), khi Người bảo các ông bằng một câu nặng chất đức tin: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy”.
Hai môn đệ hỏi: “Thầy ở đâu?”. Câu hỏi này không đơn giản như thoạt nhìn. “Ở/ở lại”, menô, là một động từ tác giả rất ưa chuộng (67 lần trong truyền thống Gioan; 40 lần trong TM IV; 51 lần trong phần còn lại của Tân Ước).
Mặc dù thỉnh thoảng tác giả sử dụng động từ này theo nghĩa thông thường là “ở lại, stay” hoặc “sống, live”, ngài rất thường dùng từ này theo một nghĩa thần học sâu sắc. “Ở [lại]” thường gợi lên một khoảnh khắc đặc biệt quan trọng trong lịch sử cứu độ (Để diễn tả ý nghĩa này, có những tác giả dịch là “abide”). Đức Giêsu “ở lại” với các môn đệ đang tin vào Người (Ga 2,12; 4,40; 7,9; 10,40; 11,6.54; 14,25). Đám đông nói rằng Đấng Kitô “ở lại” (tồn tại) mãi mãi (Ga 12,34), nhưng tác giả gợi ý rằng Đức Giêsu ở lại Nhà của Cha Ngài (Ga 8,35). Trong các bài diễn từ cáo biệt (Ga ch. 13–17), tác giả trình bày rộng rãi ý nghĩa đích thực của “ở lại”. Đức Giêsu trở về với Chúa Cha để chuẩn bị một chỗ cho các môn đệ để họ được ở với Người (Ga 14,2-3).
Chúa Cha ở lại trong Đức Giêsu (Ga 14,10) và Thánh Thần ở lại trong các môn đệ của Đức Giêsu (Ga 14,17). “Ở lại” không chỉ là “ở với”, mà còn có nghĩa là “ở trong”. Trong thực tế, có một sự “ở lại trong nhau” giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Họ ở lại trong Người và Người ở lại trong họ (Ga 15,4.5.7). Các môn đệ ở lại trong tình thương của Đức Giêsu (Ga 15,9.10), và các lời Người ở lại trong họ (Ga 15,7). Ý nghĩa tối hậu của Bí Tích Thánh Thể là: đây là một phương tiện để ở trong nhau và hiến mạng sống cho nhau (Ga 6,56).
Tất cả những điều này đã được tiên báo khi Đức Giêsu mời hai môn đệ vô danh đến và xem Người ở đâu. Không phải là Người muốn họ đến mà thăm cái lều người Ả-rập du cư (bedouin) hoặc một nhà trọ nào bên đường. Người mời họ đến mà nhận thấy rằng Người đang ở với Chúa Cha và Chúa Cha đang ở với Người. Họ đến mà trải nghiệm rằng sống chung với Người chính là điều duy nhất quan trọng của đời sống Kitô hữu.
Cũng như Gioan đã thấy (horaô) Thần Khí ở lại (menô) trên Đức Giêsu, các môn đệ được mời xem/thấy (horaô) nơi Đức Giêsu ở (menô). Đây không phải là một vấn đề nhìn xem bằng cặp mắt thể lý, mà là một nhận thức nhờ đức tin. Như ông Gioan đã trải nghiệm cái nhìn mà Thiên Chúa đã hứa (cc. 32.34), các môn đệ cũng chấp nhận lời mời của Đức Giêsu: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe” (1,39). Một lời mời gọi (các anh hãy đến) và một lời hứa (các anh sẽ thấy). Họ đã đến, tức là rời bỏ vị trí, quan điểm, lập trường của họ, để đi vào vị trí, quan điểm, lập trường của Đức Giêsu, và họ đã “xem thấy”. Họ đã nhận ra nơi Đức Giêsu đang ở thật sự.
* Anrê (40-42a)
Đến đây, tác giả cho biết một trong hai môn đệ ấy là Anrê, em của Simôn Phêrô. Truyền thống và nhiều nhà chú giải hiện đại nghĩ rằng người môn đệ vô danh kia chính là người môn đệ Chúa thương mến. Truyền thống cũng đã đồng hóa tác giả TM IV với người môn đệ Chúa thương mến và đồng hóa người môn đệ Chúa thương mến với Gioan, con ông Dêbêđê. Các học giả Kinh Thánh hiện đại khá dè dặt đối với các kiểu đồng hóa này. Dù sao, không có gì chắc chắn để chúng ta có thể đồng hóa người môn đệ vô danh trong Ga 1,35-39 với con ông Dêbêđê (Giáo sư Boismard nghĩ là Philípphê). Quả thế, nếu con ông Dêbêđê là bạn của Anrê vào dịp họ được gọi làm môn đệ, thì đây hẳn là lần duy nhất trong toàn bộ Tân Ước, Gioan con ông Dêbêđê đi đôi với Anrê. Thông thường Gioan đi đôi với anh là Giacôbê (x. chẳng hạn Mt 4,21; Mc 3,17; Lc 5,10…), còn Anrê thì đi đôi với anh là Phêrô (x. Ga 1,40-42). Simôn Phêrô chưa xuất hiện, nhưng vì ông được biết nhiều, nên chỉ cần nêu tên ông ra là có thể xác định được Anrê. Trong truyền thống của Họi Thánh sơ khai, Anrê chỉ là em của Phêrô thôi (Mt 4,18; 10,2; Mc 1,16 (29); Lc 6,14). Tuy nhiên tác giả TM IV có cách phác họa riêng Anrê.
Trong các TMNL, tên Anrê luôn xuất hiện trong một danh sách. Danh sách này có khi chỉ có hai tên (Mt 4,18; Mc 1,16.29), có khi bốn tên (Mc 3,18; Cv 1,13), có khi mười hai tên (Mt 10,2; Mc 3,13; Lc 6,14), nhưng không cho thấy Anrê có phận vụ gì cả. Anrê chỉ là em và bạn đồng hành của Phêrô hoặc là một trong Nhóm Mười Hai. Nhưng với TM IV, Anrê được phác họa ra như một người môn đệ đích thực của Đức Giêsu. Thậm chí ông còn là một môn đệ có điều gì đó mà nói ra. Ông nói với anh mình (Ga 1,41), và ông nói với Đức Giêsu (Ga 6,9; x. 12,22). Rõ ràng là tác giả có một “luận đề về đời môn đệ” (Ga 1,35-39) và ngài tìm cách minh họa luận đề này bằng “ví dụ Anrê”.
Đối với ngài, Anrê là một con người bằng xương bằng thịt, xuất thân từ một thành phố có thật: Bétxaiđa (Ga 1,44), một thành của miền Galilê (Ga 12,21). Anrê là một môn đệ đã đi theo trọn chương trình về đời môn đệ. Ông đã nghe lời chứng về Đức Giêsu. Ông đã bước theo Đức Giêsu. Ông đã nêu chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác. Nhận lời chứng về Đức Giêsu, trở thành một môn đệ, và cống hiến chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác như một cách diễn tả đời môn đệ của mình, đây là cái pattern (mô hình đơn giản) thông thường về đời môn đệ theo cái nhìn của TM IV. Cũng như Anrê có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho anh mình (Ga 1,41), Philípphê cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho Nathanaen (Ga 1,45), và người phụ nữ Samari cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho các dân trong thành của bà (Ga 4,29.39). Trong cái chuỗi phản ứng từ chứng từ đến chứng từ này, Tin Mừng tiếp tục được loan báo và người ta có thể tin.
Tác giả ghi nhận là “trước hết (prôton), ông đi tìm gặp (heuriskei) anh mình” (Ga 1,41). Điều đầu tiên mà người môn đệ mới này đã làm là đi tìm anh mình và nói về Đức Giêsu cho ông. Đã được đưa vào trong “phong trào” của các môn đệ Đức Giêsu, Anrê phải kể cho ai đó về Đức Giêsu, và anh ông là Simôn là người may mắn hưởng nhờ chứng từ của ông đầu tiên. “Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mêsia”. Một lần nữa, tác giả dịch một công thức Híp-ri ra tiếng Hy Lạp: “nghĩa là Đấng Kitô”. Vì tác giả cho thấy Anrê làm chứng cho Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Kitô), ta có một sự xác nhận là lời chứng của ông Gioan nói rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (Ga 1,34) là chứng từ về tư cách Mêsia của Người. Qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, Anrê đã nhận ra sự thật của lời chứng của ông Gioan. Trước đây, Anrê đã được mô tả như là một người đang đi tìm (Ga 1,38); bây giờ ông được giới thiệu như là người đã tìm thấy. Kẻ đi tìm đã tìm thấy nơi Đức Giêsu điều ông vẫn đang đi tìm lâu nay.
Lúc đầu Anrê đã gọi Đức Giêsu là Rabbi, “thầy của con”, bây giờ ông gọi Người là Mêsia, “Đấng được xức dầu”. Khi tác giả phác họa các môn đệ thưa với Đức Giêsu như một rabbi, thường ngài mô tả cho thấy các môn đệ này đến với Đức Giêsu và đặt một câu hỏi (Ga 1,38; 6,25; 9,2;11,8) để được chỉ giáo thêm. Đấy là thói quen của các học trò Do Thái. Các môn đệ ra khỏi cuộc gặp gỡ, đã học thêm được điều gì từ nơi thầy. Đây là trường hợp của Anrê, cũng như sau này là trong của Nathanaen (Ga 1,49) và Maria Mácđala (20,16.18).
Nói rằng tác giả coi Anrê là một môn đệ đích thực của Đức Giêsu, điều này được nêu rõ qua lời tuyên xưng đức tin của ông vào Đức Giêsu. Ông công bố: “Chúng tôi đã đã tìm thấy (heurêkamen) Đấng Mêsia” (Ga 1,41). Ở bình diện tường thuật, “chúng tôi” đây là Anrê và người môn đệ vô danh. Ở một bình diện sâu hơn, “chúng tôi” đây, theo truyền thống Gioan, là toàn thể nhóm của tác giả đang tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Mêsia qua môi miệng Anrê.
Như thế, trong bài tường thuật rất ngắn về vai trò của Anrê (Ga 1,[35-39].40-41), tác giả phác họa Anrê như là người môn đệ đích thật. Điều đáng lưu ý, đó là Anrê được thúc đẩy mạnh mẽ bởi lý tưởng dấn thân làm môn đệ đến nỗi ông đi tìm anh để kể về Đức Giêsu và đưa anh tới với Đức Giêsu. Nếu có một nét căn bản, không thay đổi, mà TM IV rút ra được từ dung mạo Anrê, đó là Anrê đưa người ta đến với Đức Giêsu.
* Simôn (42b)
Simôn Phêrô là một dung mạo quen thuộc với độc giả, vì ông được nêu tên như thế (Ga 1,40), dù sau đó hai câu, tác giả xác định là tên thật của ông là Simôn (Ga 1,42), còn Phêrô là biệt danh Đức Giêsu ban cho ông.
Simôn được em là Anrê giới thiệu về Đức Giêsu là Đấng Mêsia rồi cũng được em giới thiệu với Đức Giêsu. Như thế, con đường Simôn Phêrô theo để đến với Đức Giêsu là con đường thông thường: ông được một người đã tin làm chứng và đưa đến với Đức Giêsu; ông chấp nhận chứng từ đó và đích thân đến gặp Đức Giêsu và khám phá ra quan hệ duy nhất giữa ông với Ngài.
Vậy Simôn Phêrô là một môn đệ khác của Đức Giêsu. Nhưng có điều gì đó chỉ có nơi người môn đệ này. Được đưa đến với Đức Giêsu nhờ lời tuyên xưng của em vào Đấng Mêsia, Phêrô được Đức Giêsu ngỏ lời với theo cách huyền bí: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1,42). Công thức này, được Đức Giêsu nói ra trong khi Ngài nhìn ông, tương tự công thức mạc khải có ở Ga 1,29.36.47; 19,26-27.
Đức Giêsu đặt cho Simôn một tên mới, tác giả ghi nhận điểm này để nêu bật quan hệ có một không hai giữa Simôn Phêrô và Đức Giêsu, nhưng cũng để cho thấy Đức Giêsu có một uy quyền. Khi đặt tên cho Phêrô, Đức Giêsu cũng còn muốn xác định cho ông một căn tính mới, một vai trò mới trong cuộc sống, thậm chí một định mệnh mới (x. Abram và Giacóp: St 32,38; 35,10). Nói đến tầm quan trọng của tên mới của Simôn, chúng ta đều nhớ đến đoạn văn Mt 16,15-19. So với hoạt cảnh tương đối dài đó được Mt mô tả, bản văn của TM IV thật quá ngắn; nó chỉ tương tự với những câu ngắn nói về việc đổi tên ở Mt 10,2; Mc 3,16 và Lc 6,14, chứ không sánh được với bản văn Mt 16. Có thể nói kịch bản này là do tác giả TM IV sáng tác ra cho phù hợp với phần tường thuật của ch. 1 của TM. Tuy nhiên, tác giả không suy diễn gì về việc đổi tên hay về ý nghĩa của tên mới cả. Ngài chỉ dịch tên A-ram mới “Kêpha” thành một tên Hy Lạp mới tương đương là “Phêrô” (Petros) thôi. Ngài cũng chẳng nói gì đến tảng đá, và càng không nói đến Họi Thánh xây trên một tảng đá. Ngài cũng không có một suy tư gì về vai trò của Phêrô như người giữ cửa với quyền chìa khóa. Dù sao, đối với tác giả, tên mới này quan trọng, bởi vì ngài thường xuyên gắn nó vào tên Simôn (trừ hai lần chỉ có tên Simôn, tất nhiên: Ga 1,41.42, và vài lần chỉ có tên Phêrô: 1,44; 13,37; 18,11.16.17.18.26.27; 20,3.4; 21,7.17.20.21). Chúng ta sẽ có một dung mạo Simôn rõ ràng hơn khi đọc trọn TM IV.
+ Kết luận
Trong bài tường thuật này, có những yếu tố chính của một ơn gọi làm môn đệ: 1) gặp gỡ đích thân Đức Giêsu; 2) khám phá ra Đức Giêsu là một con người siêu phàm; 3) cuối cùng, thay đổi định mệnh. Cuộc đời mỗi người là một chuyến “đi tìm” Đức Giêsu, được Người dẫn dắt, rồi sau khi đã thực sự “tìm ra, tìm thấy” Người, thì đi giới thiệu cho người khác. Đấy là một chu kỳ giúp mọi người tin Đức Giêsu và được cứu độ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta nghĩ đến sự thẳng thắn và cương trực của Gioan Tẩy Giả. Ông đã làm chứng về Đức Giêsu, đã giới thiệu Người là Đấng Mêsia. Sau đó, ông đã chứng kiến các môn đệ rời bỏ ông mà đi theo Đức Giêsu: điều ông nói đang được thể hiện, “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (3,30). Báo trước những thất thế của mình đã là khó, nhưng vẫn còn dễ hơn là bình thản sống những thất thế đó khi chúng xảy đến. Gioan biết mình là ai và đã can đảm sống sứ mạng cho đến cùng.
2. Lời mời gọi và lời hứa của Đức Giêsu hết sức quan trọng: “Hãy đến và các anh sẽ thấy!”. Tất cả mọi chuyện đều nhắm đến cuộc gặp gỡ sống động và riêng tư. Đức Giêsu không giao cho những kẻ đi theo Người một quyển sách chứa đựng các giáo thuyết và điều luật phải học và phải tuân giữ, nhưng Người kêu gọi họ đi vào một tương quan riêng tư với Người, đi vào hiệp thông với Người. Phần họ, họ không được giữ một khoảng cách an toàn với Người để mà chỉ việc quan sát, nhưng phải dấn thân vào, phải đi với Người, phải đưa bước trên nẻo đường Người đi.
3. Có những thành kiến nào có thể ngăn cản người ta nhận biết Đức Giêsu? Có điều gì đang ngăn cản tôi, về phương diện trí thức hoặc tình cảm, khiến tôi không nhận ra Người là Con Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa? Lâu nay tôi tự hào là mình đi theo Đức Giêsu, mình là môn đệ của Người, thật ra quan hệ của tôi với Người có thật sự sống động? Vì sao? Dường như tôi chưa thật sự “đến” với Người, nên cũng chưa thật sự “thấy” được điều Người muốn mạc khải cho?
4. Anrê không gặp Simôn Phêrô tình cờ, nhưng đã chủ ý đi tìm ông này, để đưa ông tham dự vào kinh nghiệm mới mẻ và lạ lùng của ông: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”. Anrê không chỉ giới hạn vào việc làm chứng, ông còn dẫn Simôn đến gặp Đức Giêsu. Có vô số nẻo đường cụ thể đưa người ta đến với Đức Giêsu: tôi nghĩ đến những nẻo đường đã đưa tôi đến với Người. Trên các nẻo đường này, có lời chứng và gương sáng của những người khác góp vào. Nhưng chắc chắn phần quan trọng vẫn là kinh nghiệm thiết thân tôi có về Đức Giêsu. Hôm nay, phải chăng tôi là một Anrê đưa được người khác đến với Đức Giêsu, không phải chỉ bằng lời nói suông, mà bằng chính kinh nghiệm sống tôi đã và vẫn đang có?
------------------
[1] Midrash: Một cách chú giải Kinh Thánh theo kiểu các kinh sư. Thường các kinh sư lấy các câu văn Cựu Ước rồi diễn dịch, và ghép vào bản dịch của mình những chi tiết mang tính huyền thoại hoặc tưởng tượng, để giáo dục dân chúng.
64. Lắng nghe - Trầm Thiên Thu
William Arthur Ward (1921-1994) nhận định: “Trước khi nói, hãy lắng nghe; trước khi viết, hãy suy nghĩ; trước khi chi tiêu, hãy kiếm được; trước khi đầu tư, hãy tìm hiểu; trước khi phê phán, hãy chờ đợi; trước khi cầu nguyện, hãy tha thứ; trước khi bỏ cuộc, hãy thử làm; trước khi nghỉ hưu, hãy tiết kiệm; trước khi chết, hãy cho đi”. Thính giác là một trong ngũ quan, nhưng là giác quan quan trọng nhất. Lắng nghe là một nghệ thuật, vì còn phải biết cách nghe.
Có thể nói rằng phải thực sự khiêm nhường mới có thể lắng nghe. Nói là gieo, nghe là gặt. Nghe có lợi hơn nói: Nói ít thì sai ít, nói nhiều thì sai nhiều, không nói thì không sai. Người ta ví von:“Người nói hay không bằng người nghe giỏi”.
Công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential có một slogan thật thú vị: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”. Dĩ nhiên lời đó không thể tuyệt đối vì nặng tính “quảng cáo”, có chút gì đó là “nổ” mà thôi, nhưng qua đó, chúng ta biết được rằng việc “lắng nghe” có tầm quan trọng riêng. Lắng nghe là nghe thấy và chú ý, chứ không nghe cho “có lệ”, nghe vì “không điếc”. Nghe và hiểu có hệ lụy với nhau.
Tuy nhiên, hai động thái “lắng nghe” và “thấu hiểu” lại có một khoảng cách nhất định, đồng thời còn có những mức độ khác nhau, thậm chí có thể chúng ta vẫn nghe nhưng không hiểu (x. Lc 8:10), và Chúa Giêsu đã phải nhắc nhở nhiều lần: “Ai có tai thì nghe” [ai có tai nghe thì (hãy) nghe] (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35; Kh 13:9).
Trình thuật 1 Sm 3:3-10 cho chúng ta biết về câu chuyện “nổi tiếng” về việc “lắng nghe” và “mau mắn đáp lại” của ngôn sứ “nhí” Samuen. Chuyện kể về một đêm nọ, ông Êli đang ngủ, mà mắt ông thì mờ, ông không còn thấy rõ nữa. Đèn của Thiên Chúa chưa tắt và Samuen đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Bất ngờ, Đức Chúa gọi Samuen. Cậu thưa: “Dạ, con đây!”. Rồi chạy lại với ông Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con”. Ông bảo rằng ông không gọi cậu, cứ về ngủ đi”. Cậu đi ngủ, rồi lại có tiếng gọi lần nữa. Samuen lại dậy ngay và đến với ông Êli, nhưgn ông vẫn bảo là không gọi cậu.
Trẻ người, non dạ, nên Samuen chưa biết Đức Chúa, và lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. Rồi cậu lại nằm ngủ, Đức Chúa lại gọi Samuen lần thứ ba. Cậu lại dậy và đến với ông Êli. Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi cậu nên ông bảo Samuen đi ngủ, hễ có ai gọi thì thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe”. Samuen về ngủ, và Đức Chúa lại đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Samuen! Samuen!”. Cậu liền thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:10).
Đó là câu nói được trích dẫn nhiều mỗi khi nói đến việc thi hành Thánh Ý Chúa. Thi hành mau mắn và vui vẻ chứ không miễn cưỡng như “bị triệt buộc”. Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do hoàn toàn, Ngài không ép buộc ai làm bất cứ điều gì, vì thế Ngài rất đề cao sự tự nguyện, hành động vì yêu mến. Samuen đã lắng nghe, thấu hiểu, và mau mắn làm theo Ý Chúa, thế nên Samuen được Thiên Chúa bảo vệ: “Samuen lớn lên. Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu” (1 Sm 3:19). Samuen vô cùng diễm phúc!
Diễm phúc không là tình trạng “tự nhiên” mà là động thái “có điều kiện” với lòng tự nguyện: Tổ phụ Ápraham đã “xin vâng” hoàn toàn khi rời quê hương đến Đất Hứa, ông không hề ngần ngại sát tế chính con trai mình, và Đức Maria cũng diễm phúc vì lời “xin vâng” vô điều kiện. Lắng nghe – thấu hiểu – hành động, đó là “chuỗi liên kết” như một tam-giác-đều bất biến vậy, trong đó đã tiềm ẩn và mặc nhiên có nhân đức khiêm nhường – nền tảng của mọi nhân đức.
Có điều “trái khoáy” là chúng ta luôn muốn người khác lắng nghe mình nhưng mình lại không muốn lắng nghe người khác. Sao vậy nhỉ? Đó là vì ích kỷ, vì “cái tôi” lớn quá, luôn tưởng mình là “số dzách” hơn người khác về mọi lĩnh vực. Thậm chí cả với Thiên Chúa mà chúng ta cũng dám làm vậy. Thực sự chúng ta to gan, lớn mật tới mức dám làm vậy ư? Thật, không oan đâu! Chúng ta luôn xin Ngài lắng nghe mình (Tv 30:11; Tv 51:3; Tv 55:2; Tv 77:2; Tv 86:6; Tv 88:3; Tv 141:1; Tv 143:1), nhưng hiếm khi chúng ta “nhận lỗi” (Tv 51:5) hoặc “lắng nghe điều Thiên Chúa phán” (Tv 85:9), nhất là khi ý Chúa khác hẳn ý mình.
Chắc hẳn ai cũng đủ kinh nghiệm để khả dĩ biết rằng “đời là bể khổ”, thế nên lúc nào chúng ta cũng phải cầu xin Thiên Chúa thương xót: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu” (Tv 40:2). Và rồi chúng ta phấn khởi lắm: “Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta. Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ và tin tưởng vào Chúa” (Tv 40:4). Thế nhưng chúng ta lại thường “ngủ quên trong chiến thắng”, chẳng khác chi chín người vô ơn bạc nghĩa trong chuyện “mười người phong hủi” (Lc 17:11-21).
Tác giả Thánh Vịnh cho biết rằng Thiên Chúa không thích tế phẩm, lễ vật, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Ngài không đòi chi, không cần gì, vì Ngài có tất cả. Ngài chỉ muốn một điều là chúng ta PHẢI biết mau mắn thân thưa: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:7-9). Chúng ta càng thu nhỏ mình thì càng được Ngài xót thương. Và đừng quên điều này: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh” (Tv 40:10).
Chẳng có gì vĩnh cửu vì mọi sự đều có lúc, có thời mà thôi (x. Gv 3:1-8). Ngay cả sự sống và sự tự do của chúng ta cũng vậy thôi, tới một lúc nào đó sẽ không còn. Thánh Phaolô nói: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự, nhưngtôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi” (1 Cr 6:12). Thật không dễ để có thể nhận thức và tự chủ được như vậy, chứng tỏ phải có sự giằng co rất mãnh liệt. Thánh nhân giải thích cụ thể:“Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác. Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại. Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Kitô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào!” (1 Cr 6:13-15).
Chưa cần nói vấn đề tinh thần, các vật chúng ta đang sở hữu cũng không là của chúng ta mãi mãi. Chẳng hạn tiền bạc, nhà cửa, xe cộ,… Những thứ chúng ta gọi là “của mình”, tức là mình sở hữu nó. Đúng vậy, chúng ta sở hữu chúng vì chúng ta có quyền quản lý chúng, nhưng nó mãi mãi là của chúng ta, vì một lúc nào đó chúng ta không được sở hữu chúng nữa. Phũng phàng ư, thất vọng ư, buồn ư? Đời là thế nên nó thế đấy! Sự sống chúng ta đang có mà rồi cũng chẳng giữ được thì làm sao giữ những thứ khác?
Vì thế, Thánh Phaolô khuyên: “Ai đã kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người. Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thầnsao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1 Cr 6:17-20). Thân xác đủ thứ nhơ nhớp, nói ra mà thấy ngượng miệng, nhưng chính cái nhơ nhớp hèn hạ đó lại được Thiên Chúa dùng làm Đền Thờ để Ngài ngự vào – thiêng liêng và cụ thể (Thánh Thể). Chúng ta là “đền thờ” thì chúng ta phải cố gắng lắng nghe và thực thi Thánh Ý Ngài. Bức tượng không thể phản đối nhà điêu khắc!
Ước gì mỗi chúng ta đều biết xác định rạch ròi: “Tuân theo thánh ý Ngài, con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể” (Tv 119:14). Tâm niệm được như vậy thì chẳng có gì lo ngại. Tất cả đều NHỜ Ngài, VỚI Ngài và TRONG Ngài!
Hôm trước, khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, ông Gioan liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1:29-30). Và ông đã làm chứng với mọi người: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người” (Ga 1:32).
Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông và thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:36). Nghe vậy, hai môn đệ kia liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Họ đáp:“Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Ngài ở, và ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Chắc hẳn nơi ở của Chúa Giêsu giản dị lắm, khó nghèo lắm, nhưng họ vẫn theo Ngài. Cái “thấy” của họ là sự vĩ đại của Ngài, họ sẵn sàng “lắng nghe” và “thực hiện” như Ngài.
Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simôn và nói:“Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1:41). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói:“Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1:42). Thánh sử Gioan giải thích rằng chữ Kêpha có nghĩa là Đá, đồng nghĩa với tên Phêrô (Pièrre = Đá).
Dù chỉ là ngư dân, chuyên chài lưới, nhưng hẳn là lão ngư Phêrô “có tướng có tá” lắm, chắc hẳn “tướng mạo” như ông phải có gì đó đặc biệt, vì Thầy Giêsu đã “thấu suốt” cả tâm địa của ông bộc trực: Nóng nảy nhưng tốt bụng. Và Ngài OK liền, “chấm” ngay. Thật vậy, dù tội chối Thầy lớn lắm, không chối một lần mà chối tới ba lần, nhưng không sao, “chuyện nhỏ” thôi, vì Chúa Giêsu vẫn luôn giàu lòng thương xót và cho ông “bù lỗ” bằng ba lần tuyên xưng: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết rõ con yêu mến Thầy!” (Ga 21:15-18). Từ đó, lão ngư Phêrô trở thành Giáo hoàng tiên khởi của Giáo Hội lữ hành tại trần gian.
Hôm nay là ngày bắt đầu tuần lễ cầu cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. Mỗi người là một cá nhân, với tính cách khác nhau, nhưng mỗi người không là một ốc đảo, mà luôn phải hài hòa trong một tổng thể, mang tính liên đới đa dạng, kể cả tội lỗi cũng có tính liên đới. Sự hiệp nhất rất quan trọng, cần thiết đối với mọi tổ chức hoặc nhóm. Ngay trong gia đình cũng vậy, thiếu sự đồng tâm nhất trí thì “ông nói gà, bà nói vịt”, gia đình khó có thể là một tổ ấm đích thực. Các cộng đoàn tu cũng vậy, mỗi người mỗi phách thì không thể là một cộng đoàn. Mỗi thành viên có biết lắng nghe thì mới khả dĩ hiệp nhất.
Đặc biệt năm nay là năm Tân Phúc Âm Hóa các giáo xứ và các cộng đoàn. Hai loại hình này là dạng “đời sống chung”, cần biết lắng nghe nhau để hiểu nhau và cùng nhau thực hiện điều mong muốn của Thầy Chí Thánh Giêsu trong Vườn Dầu: “Xin cho họ nên một”. Tính “nên một” được Chúa Giêsu đề cập ba lần (x. Ga 17:1-24), chứng tỏ đó là tính chất đặc biệt lắm, vì đó là tính hiệp nhất của Chúa Ba Ngôi.
Lạy Thiên Chúa, xin dạy chúng con biết những quyết định của Ngài (Tv 119:108), xin giúp chúng con biết mau mắn lắng nghe lời Ngài dạy chúng con mọi nơi và mọi lúc, xin cũng giúp chúng con biết mau mắn đáp lại và sẵn sàng thực thi Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
65. Đổi đời - Trầm Thiên Thu
Sau khi những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng, người ta đến kể lại cho Chúa Giêsu nghe. Nhưng Ngài thản nhiên nói với họ: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT HẾT y như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT HẾT y như vậy” (Lc 13:2-5).
Mặc dù Chúa Giêsu không hề dùng chữ “đổi đời” nhưng ý Ngài muốn chúng ta đổi đời, tức là Ngài muốn chúng ta biến đổi (thay đổi, canh tân) để nên thánh. Muốn vậy thì phải từ bỏ ý riêng mà chấp nhận theo ý Chúa, nếu không chấp nhận thì không thể vâng lời – tuân phục. Lô-gích lạ lùng quá! Quả thật, tuân phục Thánh Ý Chúa là điều vô cùng quan trọng trong đời sống Kitô hữu, chính Đức Maria đã tiên phong nêu gương nhân đức này qua lời “xin vâng” khi được Sứ thần Gabriel truyền tin (x. Lc 1:38). Quá trình tìm kiếm và nhận biết Ý Chúa là điều không dễ, chấp nhận và hành động theo Ý Chúa lại càng khó hơn. Trong cuộc sống, không ai lại không muốn theo ý mình, thậm chí nhiều khi người ta còn muốn biến Ý Chúa theo ý mình. Thế nên, việc bỏ ý riêng mà hoàn toàn tuân phục Ý Chúa là điều rất quan trọng.
Có nhiều dạng biến đổi – đơn giản nhất là thay chiếc áo, và “cao cấp” hơn là từ bỏ một thói quen, nhưng dạng đặc biệt nhất là Sự Chết. Ngưỡng-Sinh-Tử là “khoảng” thực sự kỳ diệu nên được gọi là “mầu nhiệm sự chết” như Thánh Phaolô xác định: “Không phải tất cả chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi” (1 Cr 15:51).
CHÂN THÀNH LẮNG NGHE
Cuộc sống luôn có những hệ lụy hợp lý, tương tự một tam đoạn luận (*). Muốn tìm kiếm và nhận biết Ý Chúa thì trước tiên phải biết lắng nghe, đặc biệt là lắng nghe tiếng Chúa – điều Thiên Chúa mặc khải. Kinh Thánh cho biết: Một đêm nọ, Chúa gọi Samuel, mà cậu cứ tưởng ông Êli gọi nên vội chạy đến bên ông, nhưng ông Êli bảo ông không gọi. Cậu lại đi ngủ. Chúa lại gọi Samuel lần nữa. Samuel lại dậy, đến với ông Êli, nhưng ông Êli xác định là ông không hề gọi cậu. Lúc đó Samuel chưa nhận biết Chúa, vì “lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu” (1 Sm 3:7).
Sau đó, Đức Chúa lại gọi Samuel lần thứ ba. Cậu lại dậy và đến với ông Êli. Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi nên nói Samuel cứ đi ngủ, và dặn rằng hễ nghe gọi thì thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:9). Samuel đi ngủ. Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Samuel! Samuel!”. Samuel liền thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:10). Động thái mau mắn của Samuel là bài học và là điều cần thiết đối với mỗi chúng ta, vì Chúa gọi là việc của Chúa, hợp tác hay không là việc của chúng ta. Samuel đã lắng nghe, đã nhận biết tiếng Chúa và đã tích cực hợp tác, do đó “Đức Chúa ở với Samuel và Ngài không để cho một lời nào của Ngài ra vô hiệu” (1 Sm 3:19). Tuyệt vời!
Tuy là Đấng chí thánh và cao cả, nhưng Thiên Chúa không xa cách mà rất gần gũi chúng ta. Phần chúng ta là phải đáp lại Ngài để có thể vui mừng và hãnh diện nói được như Thánh Vịnh gia: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu” (Tv 40:2). Thiên Chúa thật giản dị và rất bình dân, Ngài không đòi hỏi gì vì Ngài có tất cả: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi” (Tv 40:7). Ngài chỉ muốn chúng ta thành tâm yêu mến Ngài. Và thật lạ, ngay cả khi chúng ta ca tụng Ngài thì cũng chẳng thêm gì cho Ngài mà chỉ thêm ích lợi cho chính chúng ta, và Ngài chỉ cần chúng ta mau mắn đáp lại bằng cách nói ngay: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:28-9). Một khi nhận biết Ngài rồi thì chúng ta phải “loan truyền đức công chính của Ngài” và không được “ngậm miệng làm thinh” (x. Tv 40:10). Vô tri bất mộ – không biết thì không mến, nhưng biết rồi thì không thể không hành động.
Cuộc đời có thuận lý và cũng có nghịch lý, cả phương diện xã hội lẫn tinh thần. Những người dám sống theo Ý Chúa thì thường bị ghen ghét. Thánh Phaolô đã từng cảnh báo: “Khi phải xét xử những việc đời này, anh em lại đặt những người mà Hội Thánh coi nhẹ làm quan toà! Tôi nói thế cho anh chị em phải xấu hổ. Anh chị em đã kiện cáo nhau thì chớ, lại còn đem nhau ra trước toà những người không có đức tin! Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh chị em rồi” (1 Cr 6:4-7). Người sống theo Ý Chúa thì luôn cố gắng bảo vệ công lý, kiến tạo hòa bình và tôn trọng nhân quyền. Không thể nói rằng sống theo Ý Chúa mà lại ăn ở bất công, bóc lột, ức hiếp đồng loại, như vậy chỉ là bất chính. Chắc chắn “những kẻ bất chính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6:9). Tuy nhiên, cũng nên cảnh giác vì cổ nhân nói: “Tâm phẫn xí, tắc bất đắc kỳ chính”. Cơn giận cũng khiến người ta hóa bất chính. Thật lạ lùng và cũng thật đáng sợ!
QUYẾT TÂM HÀNH ĐỘNG
Lắng nghe không dễ thực hiện, hành động lại càng khó hơn. Vì chúng ta là “người xấu” (Lc 11:13 ) nên dễ “nhìn xuống” mà khó “nhìn lên”, bởi vì “tinh thần thì hăng say nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38). Thật là khốn nạn quá! Thánh Phaolô liệt kê một số “bất chính” điển hình: “Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, truỵ lạc, kê gian, trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6:9-10). Trước mặt Thiên Chúa, ai cũng là tội nhân khốn kiếp, “nhưng chúng ta đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!” (x. 1 Cr 6:11). Đó là niềm hạnh phúc lớn lao lắm!
Thánh Phaolô tâm sự: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự, nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi” (1 Cr 6:12). Tham ăn tham uống là ngoại tại, nhưng lại có hệ lụy với nội tại: “Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác” (1 Cr 6:13). Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại, chính Ngài cũng sẽ dùng quyền năng mà làm cho chúng ta sống lại, thân xác chúng ta là chi thể của Đức Kitô, vì thế chúng ta phải có trách nhiệm với thân xác của mình. Có sự liên đới giữa ngoại tại và nội tại, giữa thể lý và tinh thần.
Về phần thể lý, Thánh Phaolô nói: “Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình” (1 Cr 6:18). Không chỉ vậy, thân xác còn là “Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” (1 Cr 6:19), Thánh Thần đó là Thánh Thần do chính Thiên Chúa đã ban tặng. Chúng ta không còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy chúng ta (x. 1 Cr 6:20). Vì vậy, chúng ta có bổn phận phải tôn vinh Thiên Chúa ngay nơi thân xác của mình.
Trình thuật Ga 1:35-42 kể rằng khi ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ, ông chợt nhìn thấy Đức Giêsu đi ngang qua thì ông liền lên tiếng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Nghe ông Gioan nói vậy, hai môn đệ của ông Gioan liền đi theo Đức Giêsu, không hề so đo chi ráo trọi. Chắc hẳn họ đã nhận ra Chúa Giêsu là ai nên họ sẵn sàng đi theo Ngài. Động thái “mau mắn theo Chúa” là điều luôn cần thiết trong cuộc sống. Sau đó, Đức Giêsu quay lại và thấy các ông đi theo mình nên Ngài hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Ngài không trả lời rõ ràng mà lại bảo họ: “Đến mà xem!”. Họ cũng không thắc mắc và liền đến xem chỗ Chúa Giêsu cư ngụ, và họ ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Họ nhận biết Chúa nên họ luôn nghe lời Ngài dạy bảo. Đó là hệ lụy tất yếu của động thái nhận biết và tin tưởng.
Một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu đó là ông Anrê, anh của ông Simôn Phêrô. Ông Anrê gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô, Đấng Thiên sai). Rồi ông dẫn em trai đến gặp Đức Giêsu. Lúc đó, Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” – Kêpha tức là Phêrô, nghĩa là Đá.
Cuộc đời có nhiều dạng thay đổi, thậm chí có khi là thay tên đổi họ. Chúa Giêsu đã đặt tên mới cho ông Simôn và biến đổi cuộc đời ông. Cái tên có thể ảnh hưởng cả cuộc đời, thay tên đổi họ cũng có nghĩa là cuộc đời sang trang mới. Những người tuân phục Ý Chúa cũng sẽ sớm trở thành “con người mới”, và có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20). Khi thực sự nhận biết Chúa, người ta sẽ can đảm theo Ngài và sẵn sàng tuân phục Ngài, tức là luôn làm theo giáo huấn của Ngài.
Đó là hệ lụy tất yếu trong quá trình biến đổi, “thay tên, đổi họ” vì họ không còn thuộc về thế gian mà thuộc về Thiên Chúa. Thật vậy, “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Được Ngài tiếp nhận tức là được trở nên con cái, tất nhiên con cái cũng có trách nhiệm và bổn phận riêng.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận biết Ngài để có thể lắng nghe và tuân phục Ngài, đồng thời luôn can đảm từ bỏ ý riêng mà hành động theo Thánh Ý Ngài mọi nơi và mọi lúc. Xin biến đổi con theo sự quan phòng và tiền định của Ngài, làm cho con trở nên khí cụ bình an của Ngài để minh chứng Lòng Thương Xót vô biên của Ngài. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
----------------------------
(*) Tam đoạn luận [syllogism] là hình thức suy luận diễn dịch gồm 3 mệnh đề: tiền đề lớn, tiền đề nhỏ, và kết luận. Ví dụ: Mọi người đều phải chết, tôi là người, vậy tôi cũng phải chết. Kết luận của tam đoạn luận có giá trị chặt chẽ, vì nó là một kết quả tất yếu, không thể chối bỏ nếu đã thừa nhận tiền đề. Nếu tiền đề đúng, kết luận phải đúng. Nếu tiền đề không đúng, kết luận không thể đúng, nhưng vẫn hợp lý.
66. Tuân phục Thánh Ý Chúa - Trầm Thiên Thu
Tuân phục Thánh Ý Chúa là điều quan trọng trong đời sống người Kitô giáo, và Đức Maria nêu gương tiên phong trong việc này qua lời “xin vâng” khi được Sứ thần Ggabriel truyền tin (x. Lc 1:38). Quá trình tìm kiếm và nhận biết Ý Chúa là điều không dễ, chấp nhận và hành động theo Ý Chúa lại càng khó hơn. Trong cuộc sống, không ai lại không muốn theo ý mình, thậm chí nhiều khi người ta còn muốn biến Ý Chúa theo ý mình. Thế nên, việc bỏ ý riêng mà hoàn toàn tuân phục Ý Chúa là điều rất quan trọng.
Lắng nghe
Muốn tìm kiếm và nhận biết Ý Chúa thì trước tiên phải biết lắng nghe. Một đêm nọ, Chúa gọi Samuen, mà cậu cứ tưởng ông Êli gọi nên vội chạy đến bên ông, nhưng ông Êli bảo ông không gọi. Cậu lại đi ngủ. Chúa lại gọi Samuen lần nữa. Samuen lại dậy, đến với ông Êli, nhưng ông Êli xác định là ông không hề gọi cậu. Lúc đó Samuen chưa nhận biết Chúa, vì “lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu” (1 Sm 3:7).
Đức Chúa lại gọi Samuen lần thứ ba. Cậu dậy và đến với ông Êli. Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi nên nói Samuen cứ đi ngủ, hễ nghe gọi thì thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:9). Samuen đi ngủ. Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Samuen! Samuen!”. Samuen thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:10). Động thái mau mắn của Samuen là điều cần thiết đối với mỗi chúng ta, vì Chúa gọi là việc của Chúa, hợp tác hay không là việc của chúng ta. Samuen đã lắng nghe, đã nhận biết tiếng Chúa và đã tích cực hợp tác, do đó “Đức Chúa ở với Samuen và Ngài không để cho một lời nào của Ngài ra vô hiệu” (1 Sm 3:19).
Thiên Chúa chí thánh và cao cả, nhưng Ngài không xa cách mà rất gần gũi chúng ta. Phần chúng ta là phải đáp lại Ngài để có thể vui mừng và hãnh diện nói được như tác giả thánh vịnh: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu” (Tv 40:2). Chúa giản dị và rất bình dân, không đòi hỏi gì vì Ngài có tất cả: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi” (Tv 40:7). Ngay cả khi chúng ta ca tụng Chúa thì cũng chẳng thêm gì cho Ngài mà chỉ có lợi cho chính chúng ta, Chúa chỉ cần chúng ta mau mắn đáp lại bằng cách nói ngay: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:28-9). Nhận biết Chúa rồi thì phải “loan truyền đức công chính của Ngài” và không được “ngậm miệng làm thinh” (x. Tv 40:10). Vô tri bất mộ, nhưng biết rồi thì không thể không hành động.
Người dám sống theo Ý Chúa thì thường bị ghen ghét. Thánh Phaolô cảnh báo: “Khi phải xét xử những việc đời này, anh em lại đặt những người mà Hội Thánh coi nhẹ làm quan toà! Tôi nói thế cho anh chị em phải xấu hổ. Anh chị em đã kiện cáo nhau thì chớ, lại còn đem nhau ra trước toà những người không có đức tin! Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh chị em rồi” (1 Cr 6:4-7). Người sống theo Ý Chúa thì luôn bảo vệ công lý, kiến tạo hòa bình và tôn trọng nhân quyền. Không thể nói là sống theo Ý Chúa mà lại ăn ở bất công, bóc lột, hiếp đáp đồng loại, như vậy là bất chính. Chắc chắn “những kẻ bất chính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6:9). Đừng lầm tưởng! Cổ nhân nói: “Tâm phẫn xí, tắc bất đắc kỳ chính”. Cơn giận cũng khiến người ta hóa bất chính.
Hành động
Thánh Phaolô liệt kê một số “bất chính” điển hình: “Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, truỵ lạc, kê gian, trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6:9-10). Trước mặt Thiên Chúa, ai cũng là tội nhân khốn kiếp, “nhưng chúng ta đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!” (x. 1 Cr 6:11). Thánh Phaolô xác định: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự, nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi” (1 Cr 6:12). Tham ăn tham uống là ngoại tại, nhưng lại có hệ lụy với nội tại: “Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác” (1 Cr 6:13). Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại, chính Người cũng sẽ dùng quyền năng mà làm cho chúng ta sống lại, thân xác chúng ta là chi thể của Đức Kitô, vì thế chúng ta phải có trách nhiệm với thân xác của mình.
Thánh Paolô nói về thân xác: “Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình” (1 Cr 6:18). Không chỉ vậy, thân xác còn chính là “Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” (1 Cr 6:19), Thánh Thần đó là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban tặng. Chúng ta không còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy chúng ta (x. 1 Cr 6:20). Vì vậy, chúng ta có bổn phận phải tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác của mình.
Trình thuật Ga 1:35-42 kể lại chuyện ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông Gioan lên tiếng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông Gioan nói vậy, họ liền đi theo Đức Giêsu, không hề so đo gì. Họ đã nhận ra Chúa Giêsu nên họ sẵn sàng đi theo Ngài. Động thái “mau mắn theo Chúa” là điều luôn cần thiết. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Ngài bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Họ nhận biết Chúa nên họ luôn nghe lời Ngài dạy bảo.
Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Ông Anrê gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô, Đấng Thiên sai). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” – Kêpha tức là Phêrô, nghĩa là Đá.
Ông Simôn có tên mới. Những người tuân phục Ý Chúa cũng sẽ sớm trở thành “con người mới”, và có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20). Nhận biết Chúa thì sẽ can đảm theo Ngài, theo Ngài thì sẽ tuân phục Ngài, tuân phục Ngài là làm theo lời Ngài dạy. Đó là hệ lụy tất yếu trong quá trình biến đổi, “thay tên, đổi họ” vì họ không còn thuộc về thế gian mà là thuộc về Chúa. Thật vậy, “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34-35).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận biết Chúa để có thể lắng nghe và tuân phục Ngài, đồng thời luôn can đảm từ bỏ ý riêng mà hành động theo Ý Ngài mọi nơi và mọi lúc. Xin cho chúng con trở nên khí cụ bình an của Chúa để rao truyền Lòng Chúa Thương Xót. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
67. Hành trình của đức tin - Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Các môn đệ đầu tiên theo Đức Giêsu.
Sau khi được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu Đức Giê-su, hai môn đệ của Gio-an là An-rê và Gio-an đã đi theo đến nơi Người sống và đã ở lại với Người hôm ấy. Sau khi đã tin Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế, An-rê lại giới thiệu Người với em là Si-mon. Ong dẫn em đến gặp để làm môn đệ và cộng tác với Người trong sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời.
CHÚ THÍCH:
- C 35-37:: +“Đây là Chiên Thiên Chúa”: Đức Giêsu là “Con chiên bị đem đi làm thịt” (x. Is 53,7), trở thành lễ vật “bị sát tế” trong cuộc khổ nạn (x. Lv 4,32). Máu Người đổ ra sẽ tẩy xóa tội lỗi và ban cho muôn người được ơn tha tội (x. Mt 26,28). Đức Giêsu cũng là người “Tôi Trung Đau Khổ” được Đức Chúa tuyển chọn và yêu mến mà ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm (x. Is 42,1). +Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Đức Giêsu: Hai môn đệ của Gio-an Tẩy Giả là An-rê và Gio-an đã nghe lời Gio-an Tẩy Giả, từ giã thầy để theo làm môn đệ Đức Giêsu.
- C 38-39: +Giờ thứ 10: Người Do Thái chia ngày thành 12 giờ, từ 6 giờ sáng đến 6 giờ tối. Giờ thứ 10 tức là 4 giờ chiều.
- C 40-42: +“Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô): Nhờ gặp gỡ Đức Giêsu một thời gian mà hai môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đã xác tín Người chính là Đấng Mê-si-a như Gio-an Tẩy Giả đã giới thiệu. An-rê lập tức về nhà rủ em là Si-mon: “Chúng tôi đã gặp thấy Đấng Mê-si-a rồi!”. Rồi ông dẫn em đến gặp Đức Giêsu. +“Anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô): Vị tôn sư có quyền thay tên của người xin theo học bằng một tên gọi mới. Tên mới này mang ý nghĩa tượng trưng mà vị tôn sư muốn cho học trò đạt được. “Kê-pha” là tiếng A-ram mà người Do Thái thời Đức Giêsu xử dụng, nghĩa là “Tảng đá”, tiếng Việt là “Phê-rô”. Đặt tên Phê-rô cho Si-mon, Đức Giê-su muốn ông sau này sẽ nên đá tảng, trên đó Người xây dựng Hội Thánh của Người (x Mt 16,18).
CÂU HỎI:
1- Khi giới thiệu Đức Giê-su là con chiên Thiên Chúa, Gio-an Tẩy Giả muốn nói gì về sứ mạng cứu thế của Người?
2- Hai môn đệ của Gio-an vâng lời Thầy để theo làm môn đệ Đức Giê-su là hai ông nào?
3- Giờ của người Do thái được tính như thế nào?
4- Hai môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đã làm gì sau khi tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai?
5- Đức Giê-su đã đặt tên Kê-pha cho ai và tên đó có ý nghĩa thế nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông An-rê, anh ông Si-mon Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-mon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu (Ga 1,40-42a).
2. CÂU CHUYỆN: Giới thiệu Chúa cho tha nhân.
Vào một ngày nọ, một ông cụ khoảng 70 tuổi được đưa vào phòng cấp cứu tại một bệnh viện tư trong thành phố. Ông đang trong tình trạng suy tim và khó thở vì bệnh thấp khớp thời kỳ cuối. Sau khi đã được bác sĩ chích thuốc trợ tim và cho uống thuốc giảm đau, ông cụ đã tỉnh táo hơn. Bấy giờ một y tá đến bên hỏi ông mấy câu để điền vào tờ phiếu nhập viện. Khi cô y tá hỏi: “Ông quý trọng tôn giáo nào nhất?” thì vẻ mặt ông cụ rạng rỡ hẳn lên. Ông tâm sự với cô y tá rằng: “Từ trước đến nay tôi cứ ước mong có ai hỏi tôi về tôn giáo, và mãi đến hôm nay cô là người đầu tiên hỏi tôi câu ấy. Thực ra từ nhỏ tới lớn tôi chưa chính thức theo đạo nào. Còn bây giờ thì tôi muốn theo đạo Công Giáo. Lý do là vì cách đây mười năm, khi tôi còn đi lại bình thường, mỗi sáng sớm tôi đều chạy đến công viên gần nhà tập dưỡng sinh. Tại đó tôi đã làm quen với một ông bạn công giáo. Chúng tôi thường ngồi trao đổi hàng giờ về các vấn đề thời sự quốc tế trên đài truyền hình hay báo chí, trong đó có vấn đề tôn giáo. Nhờ vậy tôi đã hiểu về đạo công giáo và tự nhiên tôi muốn theo đạo này. Tuy nhiên, tôi đã gặp phải trở ngại từ phía gia đình nên chưa làm theo ý nguyện được. Đàng khác tôi cũng ngại bày tỏ ý muốn với ông bạn của tôi. Rồi khi ông ta đi xuất cảnh, thì tôi không còn liên lạc gì nữa vì bị mất địa chỉ của ông. Từ đó, tôi để tâm tìm một người nào khác giúp đỡ. Tuy nhiên, dù đã gặp khá nhiều người công giáo, nhưng tôi chẳng thấy ai sẵn sàng trao đổi với tôi về đạo giống như ông bạn cũ của tôi. Gần đây, bệnh thấp khớp của tôi ngày một nặng hơn. Tôi tự nghĩ mình sẽ chẳng còn sống được bao lâu nữa và càng mong sớm hoàn thành tâm nguyện là gia nhập vào đạo công giáo. Do đó hôm nay khi nghe cô hỏi về tôn giáo thì tôi rất vui. Bây giờ, ước nguyện duy nhất của tôi là gặp một linh mục để xin theo đạo”. Sau đó, cô y tá người công giáo này đã liên lạc và mời được một linh mục đến ban phép Rửa Tội cho ông cụ trước khi ông nhắm mắt lìa đời. Ông đã ra đi trong sự thanh thản, vì giờ đây cái chết đối với ông trở thành niềm hy vọng, và là một cuộc hành trình về Thiên Đàng để gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của ông.
3. SUY NIỆM:
1) Những cuộc giới thiệu Đức Giê-su trong Tin Mừng: Tin mừng Gio-an nhiều lần đề cập tới việc giới thiêu của ông An-rê. Hôm nay An-rê đã giới thiệu Đức Giê-su cho em ông là Si-mon: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a" (Ga.1,41). Rồi sau đó đã dẫn em đến gặp Người. Lần khác, ông đã dẫn cậu bé có "năm chiếc bánh và hai con cá" giới thiệu với Đức Giêsu, để rồi sau khi đã cầu nguyện tạ ơn, Người đã nhân mấy chiếc bánh và cá đó ra nhiều để nuôi hơn năm ngàn người ăn no. Rồi lần thứ ba, khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem trước cuộc khổ nạn, cũng chính An-rê đã giới thiệu mấy người Hy Lạp đến gặp Đức Giê-su, khiến Người đã nhận ra dấu chỉ đã đến giờ Người ban ơn cứu độ bằng việc chịu chết trên thập giá (x, Ga 12,31-32).
2) Hiệu quả của việc giới thiệu Chúa cho tha nhân: Nếu An-rê không giới thiệu em ông là Si-mon với Đức Giê-su thì có lẽ Hội Thánh ngày nay không được xây dựng trên Tảng Đá dức Tin của Phê-rô. Nếu An-rê không giới thiệu cậu bé có "năm chiếc bánh và hai con cá" với Đức Giê-su, thì có lẽ sẽ không có phép lạ nhân bánh ra nhiều của Chúa Giê-su. Vậy bài học Hội thánh muốn chúng ta học nơi thánh An-rê là: Hãy giới thiệu Đức Giêsu với tha nhân và dẫn đưa họ đến gặp gỡ Người. Công cuộc rao giảng Tin Mừng thường theo thể thức: Đức Tin được truyền từ gười này đến người kia. Chúa và Hội Thánh hôm nay rất cần những tín hữu biết vững lòng tin vào Chúa và sẵn sàng chia sẻ niềm tin với người thân như An-rê đã gặp em mình là ông Si-mon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu (Ga 1,40-42a).
3) Hãy đến mà xem: Đức Giê-su không hối thúc người ta phải tin Người mà chỉ nới với họ: "Hãy đến mà xem". Họ đã đến, đã xem thấy lối sống thân thiện, niềm nở, nồng ấm của Người. Họ biết mình đã gặp được một con người tuyệt vời, và thế là phát sinh một tình cảm. Khi ở với Đức Giê-su, họ cảm thấy bình an thoải mái trong tâm hồn. Nhờ tiếp xúc với Đức Giê-su, họ còn khám phá ra chính bản thân mình và quyết tâm sống theo lối sống của Người.
4) Khác biệt giữa sự áp đặt và tự nguyện theo Chúa: Những người hành quyền trên người khác thì muốn chế ngự người khác, biến họ thành nô lệ theo ý mình. Trái lại, Đức Giê-su không gò ép ai. Người cho người ta tự do lựa chọn theo hay không theo làm môn đệ Người. Chính thái độ sống và gương sáng của Đức Giê-su đã khiến các ông tự nguyện theo làm môn đệ Người
5) “Tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách chúng tôi”: Một vấn nạn được đặt ra là: Tại sao nhiều người công giáo lại không nhiệt tình nói về Chúa cho tha nhân? Có thể là do ngại ngùng vì chưa nắm vững đức tin, sợ người kia vặn hỏi sẽ không biết giải thích ra sao. Cung có thể điều người công giáo đang quan tâm là tiền bạc vật chất hơn là đức tin tôn giáo. Họ chưa thấy được giá trị thực sự của đức tin nên dĩ nhiên không thiết tha với việc giúp người thân được niemf vui hạnh phúc giống như mình. Nhưng có lẽ lý do sâu xa nhất là do không mên Chúa nên không cần giới thiệu Chúa, không quan tâm đến viêc “làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” như kinh Lạy Cha dạy.
4. PHÚT HỒI TÂM:
Mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm: Tôi đã đặt trọn niềm tin vào Đức Giê-su chưa? Mỗi lần rước lễ tôi có cảm thấy đã gặp Chúa Giê-su Thánh Thể không?
Mỗi khi gặp một người nghèo khổ bệnh tật, tôi có ý thức Chúa Giê-su đang ở trong họ và đang chờ tôi giúp đỡ hay không?
Tình yêu dành cho Chúa ở nơi tôi bây giờ ở mức độ nào? Tình yêu ấy có sức thúc bách tôi dấn thân đem Chúa giới thiệu cho người khác như An-rê đã làm trong Tin Mừng hay không?
Nếu hiện giờ tôi đang dửng dưng với vấn đề Đức Tin là do đâu?
Trong những ngày này, tôi sẽ làm gì để củng cố lòng tin cậy mến Chúa nơi bản thân và sẽ sẽ đến thăm ai để giới thiệu Chúa cho họ?
5. LỜI NGUYỆN:
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con hiểu rằng: Chúa luôn nhờ đến đôi tay chúng con để phân phát chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói và động viên an ủi những người bất hạnh; Chúa đang nhờ trái tim của chúng con để yêu thương những người cô đơn hay đang lạc xa Chúa; Chúa đang nhờ miệng lưỡi của chúng con để an ủi động viên những người tội lỗi đang lạc xa Chúa, để trình bày về Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa, để rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho những người kẻ nghèo hèn. Hôm nay Chúa vẫn đang cần dùng chúng con như khí cụ bình an của Chúa, để xoa dịu những đau thương bất hạnh và góp phần kiến tạo một Trời Mới Đất Mới, giúp tha nhân vui mừng và hy vọng được sống trong Nước Trời của Chúa sau này.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
***
SUY NIỆM 2:
CHU TOÀN SỨ MỆNH GIỚI THIỆU CHÚA CHO THA NHÂN
1) Tin mừng Gio-an đã thuật lại việc ông An-rê đã giới thiệu em là Si-mon với Đức Giê-su như sau: An-rê là anh của Si-mon Phê-rô, ông đã được thầy là Gio-an Tẩy giả giới thiệu Đức Giê-su với ông. Ông đã đi theo Đức Giê-su đến nơi Người ở và ở lại với Người ngày hôm đó. Sau khi đã tin Người là Đấng Thiên Sai, An-rê liền đi gặp em là Si-mon và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a" (Ga.1,41), rồi dẫn em đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn Si-mon và nói: “Anh là Si-mon, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” nghĩa là Đá. Ngày nay Chúa Giê-su cũng muốn chúng ta giới thiệu Người với những ai chưa nhận biết, để họ tin và được hưởng ơn cứu độ của Người.
2) Vào một ngày nọ, một ông cụ khoảng 70 tuổi được đưa vào phòng cấp cứu tại một bệnh viện tư trong thành phố. Ông đang trong tình trạng suy tim và khó thở do bệnh thấp khớp thời kỳ cuối. Sau khi đã được bác sĩ chích thuốc trợ tim và cho uống thuốc giảm đau, ông cụ đã tỉnh táo hơn. Bấy giờ một y tá đến bên hỏi ông mấy câu để điền vào tờ phiếu nhập viện. Khi cô y tá hỏi: “Ông quý trọng tôn giáo nào nhất?” thì vẻ mặt ông cụ rạng rỡ hẳn lên. Ông đã tâm sự với cô y tá rằng: “Từ trước đến nay tôi cứ ước mong có ai hỏi tôi về tôn giáo, và mãi đến hôm nay cô là người đầu tiên hỏi tôi câu ấy. Thực ra từ nhỏ tới lớn tôi chưa theo đạo nào. Còn bây giờ thì tôi muốn theo đạo Công Giáo. Lý do là vì cách đây mười năm, khi tôi còn đi lại bình thường, mỗi sáng sớm tôi đều chạy đến công viên gần nhà tập dưỡng sinh. Tại đó tôi đã làm quen với một ông bạn công giáo. Chúng tôi thường ngồi trao đổi hàng giờ về các vấn đề thời sự quốc tế trên đài truyền hình hay báo chí, trong đó có vấn đề tôn giáo. Nhờ vậy tôi đã hiểu về đạo công giáo và tự nhiên tôi muốn theo đạo này. Tuy nhiên, do gặp cản trở từ phía gia đình nên tôi chưa làm theo ý nguyện được. Đàng khác tôi cũng ngại bày tỏ ý muốn trực tiếp với ông bạn của tôi. Rồi khi ông ta đi xuất cảnh, thì tôi mất liên lạc do không biết địa chỉ của ông. Từ đó, tôi ước mong có một người công giáo nào khác giúp tôi theo đạo. Tuy nhiên, dù đã gặp nhiều người công giáo, nhưng tôi chẳng thấy có ai sẵn sàng trao đổi về đạo giống như ông bạn cũ của tôi. Gần đây, bệnh thấp khớp ngày một nặng hơn. Tôi nghĩ mình sẽ chẳng còn sống được bao lâu và càng mong sớm hoàn thành tâm nguyện là được theo đạo công giáo. Hôm nay tôi rất vui khi nghe cô hỏi về tôn giáo. Bây giờ, ước nguyện duy nhất của tôi là gặp một linh mục để xin gia nhập đạo công giáo”. Sau đó, cô y tá người công giáo này đã mời một linh mục đến dạy đạo và ban phép Rửa Tội trước khi ông cụ nhắm mắt lìa đời. Ông đã ra đi trong an bình thanh thản, vì giờ đây cái chết không còn là đi vào chốn vô định, nhưng là một cuộc hành trình lên trời để gặp Thiên Chúa là Cha của ông.
3) Một vấn nạn được đặt ra là: Tại sao có nhiều tín hữu công giáo lại có thái độ thờ ơ, không nhiệt thành giới thiệu Chúa cho người thân và bạn bè để họ cũng được ơn cứu độ giống như mình?
- Có thể do họ nghĩ việc loan báo Tin Mừng là nhiệm vụ của các linh mục, mà chưa ý thức đó cũng là trách nhiệm của mọi tín hữu. Thực vậy, do đã được chịu phép rửa tội và Thêm Sức, họ được trở nên con Thiên Chúa và môn đệ Đức Giê-su, nên cũng có sứ mệnh làm chứng cho Người như lời Chúa phán với các môn đệ trước khi lên trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20). “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b).
- Có thể do họ chưa ý thức giá trị của thức ăn tinh thần là Lời Chúa, nên chỉ biết lo tìm kiếm cơm ăn áo mặc vật chất, đang khi Chúa dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
- Có thể do họ mang mặc cảm tự ti về vốn liếng giáo lý Thánh kinh ít ỏi của mình, nên không dám mạnh dạn đề cập về đức tin tôn giáo với những người không cùng tín ngưỡng.
- Nhưng lý do chính yếu là do thiếu lòng tin yêu Chúa, do chưa được tái sinh bởi Thánh Thần, nên họ không thiết tha với sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Nếu có lòng tin yêu Chúa thật sự, thì chắc mỗi người chúng ta sẽ nhiệt tình giới thiệu Chúa như thánh Phao-lô đã viết: “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14); “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16); Từ nay “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).
4) Lạy Chúa Giêsu. Qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa muốn chúng con làm chứng cho Chúa cụ thể bằng đôi tay sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói; Chúa nhờ trái tim của chúng con để yêu thương tha nhân, nhất là những người đau khổ bất hạnh; Chúa nhờ miệng lưỡi của chúng con để giới thiệu Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa. Ước gì chúng con nên khí cụ bình an của Chúa, để xây dựng hòa bình và tích cực góp phần kiến tạo Trời Mới Đất Mới, bắt đầu từ gia đình, đến khu xóm và môi trường chúng con đang sống.- Amen.
16/01 Thày thuốc cho người đau yếu.
- Viết bởi Mc 2, 13-17
Thày thuốc cho người đau yếu.
Thứ Bảy tuần 1 thường niên.
"Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi".
LỜI CHÚA: Mc 2, 13-17
Khi ấy Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển, toàn dân đến cùng Người và Người giảng dạy họ.
Khi vừa đi qua, Người thấy ông Lêvi con của Alphê, đang ngồi nơi bàn thu thuế. Người bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông liền đứng dậy theo Người. Và xảy ra là khi Người dùng bữa tại nhà ông, nhiều người thu thuế và tội lỗi cùng đồng bàn với Chúa Giêsu và các môn đệ của Người, vì đã có nhiều kẻ theo Người. Những luật sĩ và biệt phái thấy Người ngồi ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi?"
Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo họ: "Những người khoẻ mạnh không cần gì đến thầy thuốc, nhưng là những người đau yếu. Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Kêu gọi người tội lỗi
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu đã tha tội cho anh bất toại.
Và chuyện này đã bị các kinh sư coi là phạm thượng (Mc 2, 6).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ngài lại tiếp tục bị tấn công,
vì làm những điều dưới mắt các kinh sư là gai chướng.
Trước hết là việc chọn ông Lêvi vào số các môn đệ.
Như bốn môn đệ đầu tiên, khi được gọi Lêvi cũng đang làm việc.
Lúc đó ông đang ngồi nơi bàn thu thuế, bận bịu với tiền bạc và sổ sách.
Ánh mắt của Thầy Giêsu chụp lấy ông và lôi cuốn ông.
Lời mời của Thầy thật rõ ràng và ngắn gọn: “Anh hãy theo tôi.”
Lêvi có ngỡ ngàng không?
Ông đang làm một nghề bị mọi người coi là ô uế
vì phải tiếp xúc với dân ngoại và dính dáng đến dối trá tham lam.
Ông bị coi là tội nhân, bị gạt ra khỏi cộng đoàn Dân Chúa.
Bây giờ ông được Thầy mời vào nhóm môn đệ của mình
Đức Giêsu có liều lĩnh không?
Ngài có sợ uy tín nhóm bị giảm sút vì sự có mặt của Lêvi không?
Đức Giêsu không định thành lập một nhóm gồm toàn những người hoàn hảo,
nên ngài đã chọn sự có mặt của Lêvi.
Như thế ranh giới giữa “môn đệ” và “tội nhân” đã bị xóa.
Môn đệ chính là tội nhân được kêu gọi để chia sẻ tình bạn và sứ vụ.
Lêvi diễn tả niềm vui của người được gọi bằng một bữa tiệc,
trong đó ông mời các bạn bè đồng nghiệp đến để chia tay.
Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.
Ngài đã vui vẻ nhận lời, đã đến nhà và ăn với họ, dù đây là điều bị cấm.
Để biện minh cho thái độ này, ngài coi tội nhân như người đau ốm.
Người đau thì cần thầy thuốc, cần sự lại gần để săn sóc của lương y.
Họ cần chữa lành và đón nhận, chứ không cần phán xét và lên án.
Đức Giêsu chính là vị lương y đến để kêu gọi người tội lỗi (c. 17).
Nhưng có ai trong chúng ta lại không là tội nhân?
Có ai trong chúng ta lại công chính thánh thiện
đến độ không cần phải sám hối (Mc 1, 15)?
Hôm nay Đức Giêsu vẫn đi ngang qua đời tôi, tưởng như tình cờ,
vẫn thấy tôi và gọi tôi, vẫn mời tôi ra khỏi chỗ ngồi vững chãi của mình,
và bỏ lại tất cả sau lưng.
Xin được như Lêvi đứng lên ngay để theo Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy Niệm 2: LỜI THIÊN CHÚA
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Lời Chúa thật mạnh mẽ. Có sức biến đổi cuộc đời. Không chỉ Lê-vi mà cả bạn bè của ông cũng theo Chúa. “Có nhiều người thu thuế và người tội lỗi cùng ăn với Chúa Giêsu và các môn đệ, vì họ đông và đi theo Người”.
Lời Thiên Chúa thay đổi số phận con người vì Thiên Chúa quá yêu thương, quá tin tưởng con người. Quá yêu thương nên trong ánh mắt Người không ai là xấu xa, đáng ghê tởm. Trái lại, mọi người đều có chỗ trong trái tim Người. Càng yếu hèn, tội lỗi, bị bỏ rơi lại càng được Thiên Chúa yêu thương, quan tâm giúp đỡ. Vì “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”. Còn hơn thế nữa, đó là mục tiêu của Người: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi”. Thật là một tình yêu không thể hiểu được với trí óc con người.
Quá tin tưởng nên Người tin rằng mọi người đều có thể thay đổi, có thể nên tốt. Quá tin tưởng nên Người không nhìn về quá khứ mà chỉ nhìn về tương lai. Quá tin tưởng nên dù quá khứ có xấu xa đến đâu Người vẫn mở cho kẻ tội lỗi một cánh cửa tương lai. Hôm nay, Lê-vi nhận được một lời mời gọi bất ngờ: “Hãy theo Thầy”. Một người thu thuế bị coi là tội lỗi công khai được mời gọi không chỉ thay đổi đời sống mà còn nên tông đồ đi rao giảng Tin mừng, viết sách Tin mừng truyền lại Tin mừng cho đến ngàn sau. Lòng Thương Xót của Chúa là vô bờ bến.
Quả thật Chúa Giê-su là vị Thượng Tế “biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội”. Vậy nên “ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (năm lẻ).
Xót thương nên Chúa sẵn sàng ban cho Ít-ra-en một vị vua để đứng đầu, dù Sa-mu-en không muốn. Xót thương nên phán bảo, chỉ dẫn Sa-mu-en từng chi tiết trong đời sống. Xót thương nên tuyển chọn Sa-un làm vua đầu tiên của Ít-ra-en. Dù ông thuộc chi tộc nhỏ bé nhất trong Ít-ra-en (năm chẵn).
Lạy Chúa con yếu hèn tội lỗi. Xin phán một lời để thay đổi con người con. Lạy Chúa, xin hãy phán. Vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe. Chúa có lời ban sự sống đời đời.
Suy Niệm 3: Kêu gọi người tội lỗi
Ơn gọi của Lêvi được coi là khác thường và gây ngạc nhiên hơn ơn gọi của các Tông đồ khác, bởi vì ông là một người tội lỗi công khai. Lêvi sau này được gọi là Matthêu, một trong bốn thánh sử, ông làm nghề thu thuế cho đế quốc Rôma, lúc đó đang cai trị xứ Palestina. Những người làm nghề thu thuế được hưởng lợi tức cao, nhưng bị dân chúng ghét bỏ vì thường xảy ra những vụ gian lận hoặc lạm thu.
Ðối với người Do thái, những người thu thuế là gương mù cần phải tránh xa, xét về phương diện tôn giáo và xã hội, vì hai lý do: thứ nhất, vì họ cộng tác với chính quyền ngoại quốc; thứ hai, vì họ có bàn tay dơ bẩn bởi tiền của dơ bẩn. Ðối với những vị có trách nhiệm về luật Môsê và về phụng tự, thì người thu thuế bị loại trừ khỏi ơn cứu độ, vì họ bị coi như không thể từ bỏ con đường xấu xa, cũng không thể sửa lại những gian lận trong nghề được. Do đó, tiền của người thu thuế dâng cúng vào đền thờ không được nhận; họ không có quyền dân sự, không thể làm thẩm phán hoặc chứng nhân, tất cả những tiếp xúc với họ đều bị coi là nhơ uế.
Nhưng đó không phải là thái độ của Chúa Giêsu, bởi vì Ngài đến để kêu gọi những người tội lỗi. Việc Chúa kêu gọi Lêvi, một người thu thuế tội lỗi và ghi tên ông vào số các Tông đồ, đã bị những người Biệt phái chỉ trích và bị coi như một gương mù: "Sao ông ấy lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi". Chúa Giêsu nghe những lời chỉ trích này và Ngài giải thích: "Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, chỉ có người đau ốm mới cần. Tôi đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi".
Cũng như thời Chúa Giêsu, ngày nay không thiếu những kẻ giả hình, tự cho mình là nhân đức, thánh thiện, nhưng lại khinh thường kẻ khác. Cần phải sống kinh nghiệm tình yêu thương của Thiên Chúa để hiểu được bài Tin Mừng hôm nay. Không gì an ủi hơn việc khám phá ra tình thương của Thiên Chúa đối với người tội lỗi. Thiên Chúa đã so sánh mình với vị Mục Tử nhân lành dám bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và khi tìm được Ngài vác nó trên vai đưa về đàn chiên. Việc Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi không có nghĩa là Ngài dung thứ tội lỗi. Tình yêu thương của Thiên Chúa không miễn trừ việc nhìn nhận lỗi lầm của con người, cũng không cho phép con người lạm dụng lòng nhân hậu của Ngài. Chúa Giêsu đã đến để giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài thấu hiểu sự yếu đuối của con người và sẵn sàng tha thứ, với điều kiện là con người thành thật nhìn nhận tội lỗi của mình và trở lại với Ngài.
Hãy để ơn Chúa tha thứ, cứu rỗi và giải thoát chúng ta. Như Lêvi xưa, xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa và mau mắn chỗi dậy theo Chúa, ngay lúc này đây, sợ rằng ơn Chúa qua đi mà không trở lại. "Hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, các ngươi đừng cứng lòng nữa".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Kìa Người đến dùng bữa!
Đức Giêsu lại đi ra bờ biển hồ. Toàn thể dân chúng đến với Người, và Người dạy dỗ họ. Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lê-vi là con ông An-phê, đang ngồi thu thuế ở đó. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo Người. (Mc. 2, 13-14)
Chúa Giêsu thường bị những con mắt hay soi bói và đả kích Người bám theo. Mọi cử chỉ của Người đều bị họ rình mò, giải thích và sàng lọc theo luật lệ của những người Pharisiêu. Các kinh sư là những người rất quen với công việc này; và họ cũng thường có cơ hội dễ dàng.
Hạng người rình mò như thế vẫn còn, bởi lẽ tất cả chúng ta tự bản tính vốn dễ dàng xếp loại mọi người, phân cách người lành với kẻ dữ và nhất là muốn dựng lên bức vách ngăn giữa cái gì là khả kính với bất kính, ít nữa là xét theo quy tắc và quan điểm của ta.
Thực ra Giáo hội vẫn còn là một tập hợp những con người đáng trọng cũng có và không đáng kinh cũng có, nơi đây Chúa Giêsu đến cư ngụ, bởi vì ngay lúc ban đầu, từ những con người tội lỗi mà Chúa đã lập nên Giáo hội vậy.
Giáo Hội là một tập hợp đủ thứ
Theo cái nhìn của những người trí thức Mác-xít tích cực, thì Giáo hội thường quy tụ những con người yếu hèn, bất lực trong việc tự giải quyết lấy thân phận con người và xã hội của mình, nên mới chạy đến với những cái nạng gọi là “Thiên Chúa” hay “đức tin” vậy.
Nơi đây có Chúa cư ngụ
Thực ra, hơn nơi nào khác, Chúa Giêsu chỉ thích tìm cư ngụ nơi những con người đã không tìm được ở nơi mình bất cứ một lý lẽ nào để biện minh cho sự công chính của mình, nơi những kẻ không có lấy một sự đáng tôn đáng kính nào khác, ngoài chuyện họ sống trung thực, can đảm và sẵn sàng thú nhận mình là kẻ tội lỗi.
Quả thực, người tội lỗi là người sống trung thực, vì người ấy biết rõ mình. biết nơi mình không có được tất cả sự bền bỉ cần thiết để sống trọn phẩm giá con người, và để được như thế, cần phải có ơn Chúa. Người có tội không gian lận với mình.
Người tội lỗi cũng là người can đảm. Có người đã viết điều này: có can đảm hay không ở tại biết làm cho sự thật phải yên lặng hoặc không làm cho sự thật yên lặng? Quả quyết mình dốt nát hay dấu nhẹm sự ấy, đàng nào can đảm hơn? Tỏ ra run sợ trước Thiên Chúa thánh thiện và siêu phàm, phải chăng kém can đảm hơn là trốn chạy khỏi tôn nhan Người?
Sau cùng con người tội lỗi luôn ở tư thế chuẩn bị sẵn; người ấy biết rõ rằng điều tốt nhất đang ở phía trước, nên sẵn sàng lại lên đường.
Có thế ta mới hiểu được tại sao Chúa Giêsu thích lui tới hạng người này và tại sao chúng ta không được vấp phạm vì hành động của Giáo hội mẹ ta và vì những ai thường đến chung sống với họ vậy.
Suy Niệm 5: Nhạy bén với tình thương của Chúa (Mc 2, 13-17)
Ơn gọi luôn luôn đến từ Chúa. Chúa muốn gọi và chọn ai tùy ý Ngài. Tuy nhiên, nếu chỉ có Chúa gọi và con người không đáp trả thì không trở thành một ơn gọi.
Hôm nay, Chúa gọi Mátthêu, người thu thuế. Dù là con người tội lỗi vì mang trong mình cái tội phản quốc, tức là trù dập dân, o ép người đồng hương, để hưởng lợi nhuận trên xương máu của đồng bào.
Tuy nhiên, khi nhận ra mình tội lỗi ngập đầu như vậy, và được Đức Giêsu yêu thương trìu mến chọn và gọi mình, thì Mátthêu đã không ngần ngại thả lỏng cây bút chuyên ghi chép những chuyện phi nhân, bất nghĩa và sẵn sàng buông mình vào bàn tay từ ái của vị Thầy dễ thương để tùy Ngài hướng dẫn, ngõ hầu sau này dùng ngòi bút mới để viết lên những trang Tin Mừng mang đậm tình thương của Thiên Chúa cho nhân loại, mà chính ông là người được yêu thương cách nhiệm mầu và cảm nghiệm cách đặc biệt.
Nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta bỏ lỡ nhiều cơ hội được Chúa yêu thương, một phần do kiêu ngạo như những người Pharisêu, luôn coi mình là hạng người ưu tuyển, nên không nhạy bén trước tình yêu của Thiên Chúa; mặt khác, không giống như Mátthêu, nhiều khi chúng ta lại quá tự ty đến độ không dám đến với Thiên Chúa vì cho rằng mình không xứng đáng.
Tất cả những lý do đó hoàn toàn không phù hợp với Tin Mừng, vì Đức Giêsu đến không phải để kêu gọi người công chính, mà là kêu gọi người tội lỗi, bởi vì người đau yếu mới cần thầy thuốc, người khỏe mạnh thì không cần.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta hay có thái độ khinh thường những người tội lỗi và tự mãn vì mình là người đạo đức, nhưng không chừng, con cái trong nhà lại bị loại ra ngoài, còn phường tội lỗi và gái điếm lại vào Nước Trời trước chúng ta!
Xin Chúa Giêsu ban cho mỗi người chúng ta mặc lấy cái nhìn của Chúa, luôn yêu thương những người tội lỗi, đồng thời biết mau mắn đáp trả lời mời gọi của Ngài để ra đi chia sẻ tình thương của Chúa cho anh chị em xung quanh. Amen.
Ngọc Biển
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu gọi Lêvi-người thu thuế
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Phaolô - vị tông đồ dân ngoại. Ban đầu là một biệt phái hăng say bắt bớ Giáo hội của Chúa. Trên đường Đamas, Thiên Chúa đã cho Phaolô té ngựa và bị mù ba đêm ngày. Ông đã trở vào làng, âm thầm cầu nguyện, lắng nghe tiếng Chúa và tuân theo ý Ngài. Phaolô đã nhận ra thiên ý và đã tuân theo ý: Từ một thái độ hung hăng, bắt bớ Giáo hội, Ngài đã trở nên vị tông đồ nhiệt thành, làm chứng cho Chúa Kitô (x. Cv 26,4-18).
Trở thành môn đệ, Phaolô đã hết mình với sứ vụ: “Vì tình yêu của Đức Kitô thúc bách chúng tôi” (2Cr 5,15). Tình yêu của Chúa giúp Phaolô vượt qua mọi thử thách, mọi cam go và ông đã trung thành với sứ mạng đến nỗi quên mọi hiểm nguy, quên mọi thử thách để chỉ nghĩ tới việc đem dân ngoại trở lại.
Suy niệm
Người thuế vụ trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu luôn bị anh em đồng bào mình khinh miệt vì hai lý do: Thu thuế ăn chặn của dân và làm tay sai cho đế quốc Rôma để bóc lột dân mình... Với người Do Thái, thu thuế là hình ảnh của những gì là xấu xa nhất, tội lỗi nhất, đáng khinh miệt nhất bị coi đồng hạng với những kẻ cắp và phụ nữ ngoại tình.
Theo phong tục của người Do Thái, một người ngoan đạo, không được giao du với những người bị coi là tội lỗi. Lại càng không bao giờ ăn uống cùng bàn với họ để khỏi bị lây nhiễm hoặc bị ô uế… Thế nhưng, Chúa Giêsu lại gọi người thu thuế Lêvi theo Ngài. Gọi một người tội lỗi làm môn đệ, một hành động khiến người Do Thái không thể hiểu được. Ngài lại còn đồng bàn với những kẻ thu thuế khác như là những người đồng hội, đồng thuyền với quân tội lỗi… Trong Tin Mừng đã ghi lại những khoảnh khắc của Đức Kitô đã ngồi cùng bàn với phường thu thuế, tiếp xúc với bọn đĩ điếm, kẻ tội lỗi (x. Mt 9, 10-13; Mc 2,15-17; Lc 5,10; 7,36-50; 15,1-2; 19,7). Cùng đồng bàn với họ, Đức Giêsu đã hòa mình với tội nhân để gắn bó sẻ chia... Sứ mạng của Ngài là để cứu độ tất cả, chữa những người bất hạnh, trong đó có cả những tội nhân. Ngài là vị thầy thuốc đến cứu chữa (x. Mt 9,12-13) như Ngài tuyên bố “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).
Tội nhân là người bệnh người mang vết thương, Đức Giêsu đến chữa lành cho họ. Ngài sẵn sàng đồng bàn, nghĩa là cùng chia sẻ gánh nặng tội lỗi trên thân thể Ngài, mang nó lên thập giá và tiêu diệt nó nhờ cuộc Phục sinh vinh hiển của Ngài (x. 1Cr 15,26). Trên thập giá, Ngài xin ơn tha thứ những kẻ đóng đinh Ngài (x. Lc 23,34).
Khi nghe tiếng gọi của Đức Kitô, người thu thuế Lêvi đã bỏ tất cả để cất bước theo Chúa Kitô, bỏ cả một nghề nghiệp đang hốt bạc, bỏ cả một quá khứ tội lỗi để Chúa Kitô thánh hiến trở thành môn đệ Matthêu, ngài cất bước chia sẻ với anh em mình trên con đường cứu độ. Bao nhiêu quá khứ không đẹp như những vết thương được Chúa Giêsu chữa lành nên con người tông đồ của Tin Mừng.
Ý lực sống: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).
Suy Niệm 7: Chúa gọi ông Lêvi
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Chúa Giêsu đi dọc bờ biển giảng dạy dân chúng. Người thấy ông Lêvi (Matthêu) đang ngồi thu thuế. Người gọi ông, ông liền theo Người, và dọn tiệc thiết đãi Người với các kẻ thu thuế và nhiều người tội lỗi. Thấy vậy, nhóm luật sĩ và biệt phái hỏi môn đệ Chúa: Sao Thầy các ông ăn uống với phường thu thuế và kẻ tội lỗi ? Chúa nghe thấy vậy thì đáp: Thầy thuốc không cần cho người khỏe mạnh mà chỉ cần cho kẻ yếu đau. Cũng thế, Ta không đến để kêu gọi người lành thánh mà đến để kêu gọi người tội lỗi ăn năn thống hối.
2. Theo tục lệ đế quốc La Mã thời bấy giờ, chính phủ cho người ta đứng ra thầu thu thuế. Nộp tiền thầu cho chính phủ xong, những người thu thuế được độc quyền đánh thuế nặng nhẹ tùy ý. Làm một nghề dễ kiếm ăn như thế, mấy ai kiêng giữ được những sự tham lam nhũng nhiễu dân chúng ? Vì thế, người Do thái có ác cảm với bọn thu thuế không chỉ vì tội tham lam mà còn vì họ là tay sai cho đế quốc La Mã nữa.
Lêvi là người tội lỗi công khai (làm nghề thu thuế). Trong khi mọi người khinh dễ ông, khai trừ ông và tránh xa ông, coi như đồ ghê tởm, thì Chúa Giêsu không chê ông mà còn chọn ông làm môn đệ Ngài.
3. Việc Chúa Giêsu chọn một người thu thuế như Lêvi làm môn đệ đã đem lại sự vui sướng chẳng những cho chính Lêvi mà còn cho những người thu thuế khác. Vì thế họ dọn một bữa tiệc để ăn mừng. Xưa nay họ chỉ thấy mới có một mình Chúa Giêsu không chê họ mà còn chọn một người trong bọn họ làm môn đệ.
Bữa ăn hay bữa tiệc thường được diễn tả sự gần gũi thân tình. Ở đây Đức Giêsu và các môn đệ đến dùng bữa tại nhà ông Lêvi cùng với nhiều người thu thuế và các người tội lỗi, chứng tỏ Chúa bầy tỏ tình thương đối với những người tội lỗi. Chính tinh thần này lôi kéo những người tội lỗi đến với Người.
4. Việc Chúa Giêsu gọi Lêvi là người thu thuế đi theo Người lại là cớ gây ra sự phê bình và chỉ trích của người Do thái, nhất là các luật sĩ và biệt phải.
Họ vốn có quan niệm chật hẹp, khép kín và khinh rẻ đối với những người tội lỗi, nên khi thấy Chúa Giêsu và các môn đệ tiếp xúc thân tình với những người tội lỗi, thì họ đã tỏ ra khó chịu nên họ đã phê bình và chỉ trích Chúa. Họ đã hỏi các môn đệ:”Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi” (Mc 2,16) ?
5. Để sửa lại quan niệm hẹp hòi của luật sĩ, Chúa Giêsu đã trả lời cho họ: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17). Chính vì Lêvi ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình cho nên anh rất mừng khi được Chúa gọi, và quảng đại bỏ tất cả để theo Người.
Truyện: Chính vì ham mê cờ bạc mà anh hàng xóm của tôi, sau khi tiêu hết tài sản của gia đình, đã dùng những viên thuốc ngủ để kết thúc cuộc đời, ngay trong lúc đứa con thứ hai của anh chào đời. Thế nhưng anh đã không chết.
Sau khi từ bệnh viện trở về, tôi thấy anh sống trong im lặng, lầm lũi như một kẻ độc hành, lòng mang nặng mặc cảm tội lỗi, yếu hèn.
Sau một tháng suy nghĩ và do dự, tôi quyết định đến thăm anh, và chỉ sau mấy lời tôi hỏi thăm, anh đã bật khóc.
Tôi đã quyết định đúng và đã bước đến với anh khi anh đang cần chia sẻ và cảm thông. Nhưng không phải lúc nào tôi cũng làm như vậy, trong khi có biết bao người đang cần đến nụ cười thông cảm của tôi.
Lạy Chúa, Chúa đã không kết án người tội lỗi. Xin cho con biết thông cảm và đừng bao giờ xét đoán hay lên án anh em (Epphata).
6. Truyện: Xanh vỏ đỏ lòng.
Hai người bạn vào trong một tiệm nữ trang. Sau khi nhìn và chiêm ngưỡng nhiều viên đá quí, họ để ý đến viên ngọc sần sùi không được bóng láng cho lắm.
- Viên đá này không có gì đáng lưu ý cả - một người nói, làm sao lại để nó đây ?
Người chủ tiệm kim hoàn bèn cầm nó lên và nắm chặt trong lòng bàn tay. Vài phút sau, viên đá mờ đục không bóng láng đó trở nên lóng lánh muôn mầu cách kỳ diệu.
- Làm sao có thể như vậy – hai người bạn hỏi.
- Đây là một viên đá mắt mèo, được gọi là viên đá thiện cảm. Nó cần có sự đụng chạm với một bàn tay nóng ấm để các tia sáng của nó hiện lộ ra – người chủ tiệm trả lời.
Chúa Giêsu cũng thế! Ngài có một cái nhìn đặc biệt về Lêvi mà những người khác không có. Chúa đã nhìn thấy trong Lêvi có một thiện chí. Ngài đã gọi ông và quả thực Ngài đã không lầm. Cuộc đời sau này của Lêvi – Matthêu cho chúng ta thấy rõ điều đó.
15/01 Bệnh tật tâm hồn và bệnh tật thể xác.
- Viết bởi Mc 2, 1-12
Bệnh tật tâm hồn và bệnh tật thể xác.
Thứ Sáu tuần 1 thường niên.
"Con Người có quyền tha tội dưới đất".
LỜI CHÚA: Mc 2, 1-12
Sau ít ngày, Chúa Giêsu lại trở về Capharnaum; nghe tin Người đang ở trong nhà, nhiều người tuôn đến đông đảo, đến nỗi ngoài cửa cũng không còn chỗ đứng, và Người giảng dạy họ.
Người ta mang đến cho Người một kẻ bất toại do bốn người khiêng. Vì dân chúng quá đông, không thể khiêng đến gần Người được, nên họ dỡ mái nhà trên chỗ Người ngồi một lỗ to, rồi thòng chiếc chõng với người bất toại xuống. Thấy lòng tin của họ, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, tội lỗi con được tha".
Lúc ấy, có một ít luật sĩ ngồi đó, họ thầm nghĩ rằng: "Sao ông này lại nói thế? Ông nói phạm thượng. Ai có quyền tha tội, nếu không phải là một mình Thiên Chúa". Chúa Giêsu biết tâm trí họ nghĩ như vậy, liền nói với họ: "Tại sao các ông nghĩ như thế? Nói với người bất toại này: "Tội lỗi con được tha" hay nói: "Hãy chỗi dậy vác chõng mà đi", đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ông biết Con Người có quyền tha tội dưới đất". - Người nói với kẻ bất toại: "Ta truyền cho con hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà".
Lập tức người ấy đứng dậy, vác chõng ra đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy sửng sốt và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Chúng tôi chưa từng thấy như thế bao giờ".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Thấy họ có lòng tin
Suy niệm:
Bối cảnh của bài Tin Mừng là căn nhà của ông Simon ở Caphácnaum.
Đức Giêsu đang được hết sức ái mộ bởi đám đông dân chúng.
Biết ngài trở về, họ tụ tập lại đông đến nỗi cửa cũng chẳng còn lối vào.
Chính vì thế khi bốn người bạn khiêng anh bất toại tới,
họ không biết làm sao mà vào được trong nhà để gặp Đức Giêsu.
Dù sao cũng có một tình cảm nào đó giữa năm người này.
Rất có thể họ là một nhóm bạn quen biết nhau và muốn giúp nhau.
Cả năm người đều tin rằng đến với Đức Giêsu là có hy vọng khỏi bệnh.
Họ đã hẹn nhau vào một ngày nhất định để lên đường.
Tình bạn được biểu lộ qua việc vất vả khiêng người bất toại.
Khi không vào được nhà, chắc cả năm người đều bối rối.
Về ư? hay chờ đợi? hay cứ liều gạt đám đông mà vào?
Hay còn một giải pháp nào khác tốt hơn?
Thời nay chúng ta khó hiểu được chuyện dỡ mái nhà mà vào.
Nhưng mái nhà của người Palestine thời ấy cũng khá đơn sơ,
chỉ gồm những thanh xà đặt trên các tường đá, rồi lợp tranh lên trên.
Nhóm năm người đã chọn giải pháp này, sau khi đã bàn bạc và nhất trí.
Kế đến là chuyện phân công.
Phải xin phép chủ nhà, phải leo lên dỡ mái bằng thang và làm một lỗ hổng,
phải kéo anh bất toại với chõng lên và hạ xuống ngay tại chỗ Đức Giêsu ngồi.
Tất cả công việc này cần nhiều sức mạnh và sự khéo léo,
nhất là cần lòng tin và tình bạn.
Hẳn Đức Giêsu đã hết sức kinh ngạc trước lòng tin này.
Lòng tin mạnh mẽ không lùi bước trước khó khăn cản trở.
Lòng tin đầy sáng tạo, dám tìm ra những con đường mới mẻ và khác thường.
Lòng tin mang tính tập thể, vì là niềm tin của cả nhóm năm người.
Lòng tin đòi vất vả, đổ mồ hôi, chứ không chỉ ở trong tâm trí.
Lòng tin táo bạo vì dỡ mái nhà có thể bị Đức Giêsu coi là là khiếm nhã.
Đức Giêsu đã thấy được lòng tin này và ngài đã chữa lành (c. 5).
Con đường trở về nhà của năm người thật là vui và nhẹ nhàng.
Người ta có thề đi ngang hàng với nhau, chứ không phải khiêng nhau nữa.
Nhìn nhóm người trên, tôi tự đặt cho mình vài câu hỏi.
Khi tôi bất toại, có người bạn nào giúp tôi không?
Tôi có khiêm nhường để cho người khác giúp tôi không?
Tôi có sẵn sàng để người khác đưa tôi đến với Giêsu không?
Tôi có chấp nhận vất vả để giúp một người bạn đang gặp khó khăn không?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Ðấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thương của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy Niệm 2: LẮNG NGHE LỜI CHÚA
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Lời Chúa có hiệu quả khác nhau. Tuỳ cách ta đón nhận. Có lời rơi trên vệ đường. Chim chóc đến tha đi. Có lời rơi vào đất tốt. Sinh hoa kết quả gấp trăm nghìn.
Lời Chúa tăng cường đức tin cho người bị bại liệt. Đức tin đó ảnh hưởng tới những người thân. Nên họ sẵn sàng khiêng anh tới chỗ Chúa Giê-su. Đức tin của anh càng mãnh liệt hơn khi Chúa nói với anh: “Hãy đứng dậy vác giường mà về”. Nhưng Lời Chúa lại gây bất mãn cho người không tin. Những kinh sư lẩm bẩm: “Ông ta nói phạm thượng. Ai có quyền tha tội nếu không phải là Thiên Chúa”.
Lời Chúa chữa lành người bệnh. Chữa lành nhanh chóng, hiệu quả tức thì. Người bại liệt không đi nổi nay đã tự mình đứng dậy. Trước kia không mang nổi thân mình nay có thể vác giường đivề. Lời Chúa trái lại khiến các kinh sư sinh bệnh. Lúc người bệnh đứng dậy cũng là lúc các kinh sư ngã gục. Lúc người bại liệt vác giường thì các kinh sư lại liệt giường. Lời Chúa nâng dậy người bệnh và xô ngã người kiêu căng cứng cỏi.
Lời Chúa khiến người bại liệt bình an thư thái. Những người lắng nghe Chúa được tràn đầy niềm vui. Chúa đưa họ vào nơi an nghỉ. Vì họ đã có niềm tin yêu phó thác. Tâm hồn được thứ tha tội lỗi hưởng nếm sự ngọt ngào của niềm bình an và tình yêu thương được kết hiệp với Chúa. Đặc biệt người bại liệt không chỉ được Lời Chúa chữa lành thân xác mà còn được chữa lành tâm hồn khi Chúa phán: “Tội con đã được tha”. Vì thế tâm hồn ông tràn đầy bình an. Trái lại, Lời Chúa khiến các kinh sư bất an. Họ trở về tâm hồn bực tức và ganh ghét. Họ càng lún sâu trong tội lỗi nên càng bị bóng tối bất hạnh vây phủ.
Vì thế thánh Phao-lô khuyên nhủ chúng ta “hãy biết sợ rằng trong khi lời hứa được vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa vẫn còn đó, mà có ai trong anh em bị coi đã mất cơ hội”. “Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ này, kẻo có ai cũng theo gương bất tuân đó mà sa ngã”(năm lẻ).
Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước. Là ánh sáng chỉ đường con đi. Hãy tuân theo Lời Chúa, dù phải bỏ ý riêng. Như Sa-mu-en không muốn dân Do Thái có vua. Ông sợ họ lìa xa Chúa. Và có thể ông mất quyền lợi. Nhưng ông đã tuân theo ý Chúa. Xức dầu phong cho dân Do Thái một vị vua. Dù thâm tâm ông không muốn. Xin cho chúng ta luôn sống theo Lời Chúa. Để Lời Chúa hướng dẫn tư tưởng, lời nói, việc làm của ta (năm chẵn).
Suy Niệm 3: Chữa người bất toại
Một điểm trong phép lạ chữa người bất toại được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa Giêsu không nói ngay: "Ta chữa lành cho con", nhưng Ngài nói với người bất toại: "Con đã được tha tội rồi".
Qua đó, Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Thiên Chúa, bởi vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chính những kẻ chống đối Chúa Giêsu cũng nghĩ như thế, và vì không tin Ngài là Thiên Chúa, cho nên họ nghĩ thầm rằng: "Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng". Nhưng Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để một lần nữa chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài đọc thấu tư tưởng thầm kín của họ. Ngài bảo họ: "Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy?" Rồi Ngài nói với những kẻ không tin: "Trong hai điều: một là bảo người bất toại: "Con đã được tha tội", hai là bảo: "Ðứng dậy, vác chõng mà đi", điều nào dễ hơn". Thật ra, hai điều này đều khó, và Chúa Giêsu quả quyết: "Ðể các ông biết: ở dưới đất, Con Người có quyền tha tội, Ta truyền cho anh hãy đứng dậy, vác chõng đi về nhà", lập tức người ấy đứng dậy vác chõng mà đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ để chứng minh Ngài có quyền tha tội, vì Ngài là Thiên Chúa. Như những người chống đối Chúa, ngày nay cũng có nhiều người không chấp nhận quyền tha tội của Chúa, quyền này đã được Chúa trao cho các Tông đồ, và qua các ngài cho Giáo Hội. Giáo Hội vẫn tiếp tục công việc tha tội trong Bí tích sám hối và hòa giải. Nhờ Bí tích này, tội nhân sau khi lãnh Bí tích rửa tội được ơn tha thứ và làm hòa với Thiên Chúa. Từ ít lâu nay, có một cơn khủng hoảng đối với Bí tích giải tội: nhiều người không còn lãnh nhận Bí tích giải tội, không còn quý trọng ơn tha tội, vì đã đánh mất ý thức về tội lỗi: có thể họ cần được Thiên Chúa ban cho điều này điều nọ, nhưng không thấy cần được Thiên Chúa tha cho những tội đã phạm.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta trở về với tác vụ chính của Chúa Giêsu ngay từ đầu: tác vụ tha tội, hòa giải con người với Thiên Chúa. Ước gì chúng ta luôn ý thức về tội lỗi và quý trọng ơn tha thứ qua Bí tích giải tội.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Trước tiên, phải tha thứ
Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giêsu một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng. Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, và thả người bại liệt nằm trên chõng xuống. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Này con, con đã được tha tội rồi.” (Mc. 2, 3-5)
Thường ta đến cầu nguyện với Chúa, mà lòng nặng trĩu những tâm tư; ta có những nỗi khổ của riêng mình, mà còn mang theo những đớn đau của kẻ khác nữa. Ta muốn phô bày tất cả với Chúa… Ta muốn thả tất cả xuống trước mặt Chúa như người xưa đã làm cho người bại liệt nọ vậy.
Hôm ấy người ta đã khiêng đến một người bại liệt. Vấn đề coi như nan giải, vì dân chúng quá đông, đứng bít cả cửa. Nên người ta đã khéo léo tìm cách rỡ mái nhà để thả được người bại liệt xuống và đặt anh nằm trước mặt Chúa Giêsu. Nhưng kìa Chúa Giêsu lại nói với người ấy rằng: “Này con, con đã được tha tội rồi!”
Có những người nghĩ thầm trong bụng
Khi nghe Chúa nói như vậy, người ta sửng sốt và tỏ ra cứng cỏi. Họ lý luận về hai khía cạnh: ông ta tự coi mình là Thiên Chúa, khi nói lời tha tội. Đó là một thái độ tụ kiêu, ngạo ngược. Sau nữa, cho dù có như thế đi chăng, nói rằng sự tha tội có thể chữa lành bệnh tật, thì quả là một kỳ vọng còn phi lý hơn nữa!
Điều mà các kinh sư xưa nghĩ tưởng, thì nhiều người chúng ta hôm nay cũng suy nghĩ như vậy khi nghe Giáo hội giảng dạy. Phải chăng Giáo hội có thể lấy quyền Thiên Chúa mà tha tội - và nếu có đi chăng, thì làm sao chứng minh được rằng ơn tha tội đem lại một tác động hiệu nghiệm thực? Giải đáp trước nhất cho vấn đề của chúng ta phải chăng là ơn tha thứ?
Phải, tiên vàn phải được ơn tha thứ!
Người ta sẽ có thể giải thích rộng rãi về tầm quan trọng của ơn tha thứ. Tôi chỉ muốn đè cập đến vấn đề này cách dơn giản bằng cách phân biệt ơn tha thứ và ơn chữa lành. Sự khác biệt này càng rõ nét tùy theo tương quan giữa những người liên hệ. Xin đưa ra một thí dụ: một ông bác sĩ có thể chữa trị cái chân của một con bệnh mà không cần phải yêu mến, ngay cả chuyện trò với người ấy. Cũng thế, mỗi người chúng ta có thể tiếp cận người khác theo chức năng hay nghề nghiệp, có thể tham gia vào xã hội hoàn toàn theo những quy tắc luật lệ của môn khoa học hay ngành nghề mình đã theo đuổi. Nhưng con người có những nhu cầu mà nhiều kiến thức chuyên môn sẽ không có thể thỏa mãn được như giữ được niềm tin trong cuộc sống, mặc dầu con người có những yếu đuối và giới hạn; tin theo nghĩa thông thường …
Thực vậy, Thiên Chúa có thể ban ơn tha thứ cho con người thế nào thì chúng ta cũng có thể nhân danh Người mà chuyển giao ơn ấy như vậy, hầu nối kết con người với vận mệnh của mình. Ơn tha thứ khiến cho con người được Thiên Chúa doái nhìn và xót thuơng bù đắp cho những thiếu thốn của con người.
Vậy thì, trưỡc tiên là tha thứ, một người có thể sống trong một thân xác bại liệt, nhưng không thể sống thiếu tình thương.
Suy Niệm 5: Quyền năng của Chúa Giêsu (Mc 2,1-12)
Đã có lần Đức Giêsu phải than phiền vì dân chúng cứng tin vào Ngài, nhất là khi Ngài trở về quê hương. Chính sự khô cứng làm cho lòng họ trở nên trai đá, vì thế, họ không những không tin vào quyền năng của Đức Giêsu, mà họ còn vấp ngã vì Ngài nữa.
Hôm nay, lại một lần nữa, họ nghi ngờ vì Đức Giêsu lấy quyền của Thiên Chúa để chữa lành bệnh tật và tha tội.
Chuyện xảy ra là: có một người bị bại liệt, và người ta khiêng đến với Đức Giêsu để xin Ngài chữa lành. Thấy lòng tin mãnh liệt của những người khiêng cáng và của chính người bại liệt, Đức Giêsu đã ra tay cứu chữa bệnh tật thể xác và giải phóng hệ lụy phần hồn: “Tội con đã được tha rồi”; “Hãy đứng dậy, vác chõng mà về”. Thật là vui mừng và hạnh phúc! Từ nay, anh ta được tung tăng chạy nhảy trên chính đôi chân của mình. Cũng từ nay, anh không bị người đời dè bửu, khinh khi và gán cho mình tội lỗi nên mới bị phạt như vậy nữa!
Cuộc đời của chúng ta nhiều khi không bị đau bệnh phần xác như người bại liệt trong bài Tin Mừng hôm nay, nhưng chắc chắn trong tâm hồn, nhiều khi chúng ta cũng mắc phải những căn bệnh bại liệt:
Bại liệt khi chúng ta khinh thường và rẻ rúng những người nghèo, bệnh tật, ốm đau;
Bại liệt khi chúng ta có những ánh mắt phân biệt, ghen tỵ với anh chị em mình;
Bại liệt khi chúng ta thiếu sự liên đới, tình huynh đệ và vô trách nhiệm;
Bại liệt khi chúng ta thờ ơ với Chúa, nguội lạnh với đời sống đạo...
Những lúc như thế, chúng ta hãy xin Chúa đến với mình, xin Ngài đụng chạm và chữa lành, để chúng ta được lành sạch.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con là kẻ có tội, xin cho chúng con năng đến với Chúa nơi Bí tích Hòa Giải để chúng con được Chúa chữa lành. Amen.
Ngọc Biển
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu chữa lành người bất toại do 4 người khiêng
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Ngày 6/11/1997, sáng nay các dì kể chuyện. Có một người đàn bà sinh con ngay trong đêm bão. Nhà sập rồi, đành ra bụi trúc mà sinh.
Ông cố biết ai đó không ? Mẹ con Mẹt, học trò của mình đấy.
Vậy thì nên đặt tên cho bé là Linda, hoặc Số Năm. Dù bão số 5, dù hồng thủy cũng không tiêu diệt được sự sinh tồn của loài người (Trích Nhật ký truyền giáo của cha Piô Ngô Phúc Hậu).
Cơn bão Linda hay còn gọi là bão số 5 đã vào vùng đất cực Nam của quê mẹ - đất Việt vào tháng 11 năm 1997 đã gây nên bao cái chết của đồng bào, phá hủy của cải, nhà cửa và mùa màng. Nhưng dù cho bão tố nổi lên như thế, vẫn không cản được bước chân tìm kiếm sự sinh tồn cho con mình của một người mẹ, biểu tượng cho sự tìm kiếm sinh tồn của nhân loại. Hình ảnh những bước đi tìm được sinh tồn cho con của người mẹ gợi nhớ cho chúng ta hình ảnh người bị bại liệt trong Tin Mừng, trước bão tố bệnh tật, anh trở nên bại liệt, nằm bất động không thể làm gì được…
Suy niệm
Người bại liệt nằm bất động không thể làm gì được, nhưng từ trong đáy sâu thẳm niềm tin vào Đấng Mêssia, anh làm mọi cách, qua sự giúp đỡ của những người bạn đi tìm sự sống cho chính mình. Anh tin vào Đấng Mêssia, người có thể chữa lành anh, trả lại cho anh sự sống. Chính trong niềm tin đó, qua sự giúp đỡ của anh em bạn bè mang anh trên băng ca, cất bước tìm kiếm gặp Ngài. Anh và họ như chung niềm tin nơi quyền năng của Đấng nhân danh Chúa đến và cùng nhau bước đi tìm Ngài.
Đến nơi Đấng Mêssia đang giảng dạy, vì dân chúng xô lấn tới nghe Ngài đông quá đến nỗi đường vào nhà bị tắc nghẽn, họ gây trở ngại nghiêm trọng cho bất cứ ai ở ngoài muốn gặp Chúa, trong đó có bốn người khiêng một anh liệt đến. Không thể vào nhà gặp Đấng Mêssia, họ liền nghĩ đến một cách là thả người đau bệnh từ trần nhà xuống trước mặt Chúa Giêsu. Ngài “Thấy lòng tin của họ”:
Đức tin không do dự, suy tính nhưng cương quyết làm tới cùng. Lập tức lên đường, dù bất động bởi bại liệt, nhưng đã quyết là lên đường ngay, đi tìm Đấng mà anh tin với sự giúp đỡ của bạn bè.
Đức tin không chịu lùi bước trước khó khăn, dù đám đông đã lấp kín đường đi, nhưng niềm tin đã tìm ra con đường khác để đến với Đức Giêsu: Không qua bằng cửa chính, nhưng bằng lỗ hổng ở mái nhà.
Lòng tin mang tính liên đới tập thể, đồng tâm nhất trí: Người bại liệt được sự đồng tâm của bốn người bạn, họ hiệp ý tin và cùng nhau giúp đưa người bại liệt đến với Đấng Mêssia.
Lòng tin đòi nỗ lực, đục thủng mái nhà. Đục thủng mái nhà như là biểu tượng đục thủng những gì làm tê bại thân xác và làm băng giá tấm lòng con người, đục thủng những thành kiến và những kỳ thị loại trừ của một xã hội… để được gặp Đấng mình tin.
Đó là những bước đi của đức tin, nhìn vào từng bước đi này, chúng ta càng quả quyết những gì thánh Giacôbê xác tín: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26). Chúa Giêsu nói với anh: “Hỡi con, tội lỗi con được tha”, đó là lời tha thứ nhưng cũng là lời chữa lành khi Người nói tiếp: “Hãy trỗi dậy vác chõng mà đi”. Việc Đức Kitô gắn liền việc chữa lành với lời tha tội, Ngài không ám chỉ tội của người bệnh là nguyên nhân gây bệnh. Ngài cũng không cho rằng tội của anh bại liệt lớn hơn những người khác. Ngài chỉ muốn khẳng định rằng anh trong tư cách là con người cũng là một tội nhân như bao người khác và tội cũng là một căn bệnh, một căn bệnh của linh hồn. Cả bệnh phần xác và bệnh phần hồn, là những biểu hiện khác nhau của căn bệnh nơi nhân loại. Đức Giêsu nói với một người bại liệt: “Anh đã được khỏi. Đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn hơn” (Ga 5,14). Ngài tha tội và chữa bệnh bại liệt của tâm hồn, anh được giải phóng cả hồn lẫn xác, anh đứng dậy, vác chõng đi về nhà, anh được tự do, và hết bị trói buộc: Trói buộc vào chõng với cơn bệnh bại liệt và trói buộc vào tội vì là tội nhân.
Chúng ta trong kinh nghiệm bản thân, đã từng mang ít nhiều những bệnh tật thể xác và mang những bất toại của tâm hồn trong thân phận của sự yếu đuối, tội lỗi, đó là sự bại liệt của con người. Như anh bại liệt, chúng ta hãy vững tin trong sâu thẳm và làm những bước đi cố gắng của niềm tin.
Ý lực sống: “Nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1,17).
Suy Niệm 7: Tội con đã được tha
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Nghe tin Chúa Giêsu về Capharnaum, dân chúng khắp nơi tuốn đến chật trong nhà ngoài sân, và Chúa giảng dạy họ. Bỗng có bốn người khiêng một người bất toại đến,nhưng vì dân chúng đông quá, họ phải dỡ mái nhà thòng giường và bệnh nhân xuống trước mặt Chúa. Chúa thấy họ có lòng tin thì nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”. Các luật sĩ nghe vậy thì cho là Chúa đã phạm thượng vì họ không tin Người là Thiên Chúa, nên không có quyền tha tội, chỉ Thiên Chúa mới có quyền đó. Chúa biết họ nghĩ thế, Người muốn tỏ cho họ biết Người là Thiên Chúa có quyền tha tội, nên nói với người bại liệt: “Hãy chỗi dậy, vác giường mà về”. Người đó liền chỗi dậy vác giường đi về trước sự kinh ngạc của mọi người.
2. Phép lạ chữa người bất toại hôm nay không phải là mục đích chính, đó chỉ là cái khung hay cái cớ để Chúa Giêsu nói về cái khác, đó là quyền tha tội. Chúa muốn cho họ biết Người là Thiên Chúa nên có quyền tha tội.
Vì thế, người ta khiêng anh bất toại đến để mong Chúa chữa cho anh. Nhưng Chúa Giêsu tha tội trước rồi sau đó mới chữa bệnh. Tội là thứ bệnh của linh hồn, nguy hiểm hơn bệnh thể xác. Nhưng chúng ta thường làm ngược với Chúa Giêsu: khi mang bệnh thể xác thì chúng ta lo chạy chữa mau lẹ, còn khi mang tội chúng ta lại không lo.
3. Người bất toại có lòng tin Chúa nên đã nhờ người khác khiêng mình tới Chúa. Và chính những người này cũng tin Chúa nên đã chịu khó leo lên mái nhà, dỡ ngói ra, thòng người bệnh xuống trước mặt Chúa. Vì thế, muốn gặp Chúa phải có lòng tin, phải cố gắng vượt qua mọi trở ngại, và có khi còn cần nhờ người khác giúp đỡ.
Truyện: Căn nhà bỗng nhiên bốc cháy. Ông bố nghe tin liền chạy về. Về đến nơi, ông thấy đám cháy đã bốc cao và nghe có tiếng kêu thất thanh “Ba ơi cứu con với”. Khi thấy bóng đứa con út trên tầng cao, ông đã nhờ đội cứu hỏa giăng lưới bảo hộ để cho cậu nhảy xuống. Nhưng cậu vẫn do dự và sợ hãi. Lúc ấy ông la lên: “Ba đây, đừng sợ, nhảy xuống đi”. Nhận ra tiếng của cha và thấy bóng ông qua khói lửa, cậu đã thu hết can đảm nhảy xuống. Mở mắt ra, cậu đã nằm trong vòng tay của cha. Niềm tin đã cứu sống cậu (Epphata).
4. Người bất toại thì bất lực không làm được gì. Chúng ta phải ý thức bệnh bất toại của người tội lỗi: không làm được việc gì có giá trị trước mặt Chúa vì không có ân sủng, để nhờ đó chúng ta gớm ghét tội lỗi, xa lánh những dịp tội.
Chúng ta nên biết rằng ý thức về tội không có nghĩa là đánh mất giá trị làm người mà chỉ là nhìn nhận một chân lý khách quan: con người là tạo vật vừa dòn mỏng vừa vĩ đại trước mặt Thiên Chúa. Con người mỏng dòn nên dễ sa ngã. Con người vĩ đại do tự do mà Thiên Chúa ban cho: con người có quyền nói “có” hoặc nói “không” với Thiên Chúa. Nói “không” với Thiên Chúa là phạm tội, vì từ chối tình thương và sự hướng dẫn của Ngài. Ý thức về tội là nhìn nhận quyền năng và lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa, và đồng thời là nhìn nhận sự thật có tính giải phóng về bản thân: giải phóng khỏi tình trạng tội lỗi và đưa con người vào mối hiệp thông với Thiên Chúa.
5. Qua phép lạ chữa người bất toại trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta hãy bằng lòng để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta những gì Ngài đã làm cho người bất toại. Chúng ta hãy trình diện với Chúa Giêsu trong bí tích Hòa giải và lắng nghe Ngài nói với chúng ta những gì Ngài đã nói với người bất toại: “Tội lỗi con đã được tha”. Tiếp đó, bài Tin mừng mời ta cảm nghiệm sự giải thoát mà người bất toại ấy từng cảm nhận sau khi đã bị ràng buộc đớn đau quá lâu trong bệnh tật và trong tội lỗi của anh.
6. Truyện: Nhà biên kịch Henri Ghéon.
Henri Ghéon là một nhà biên kịch nổi tiếng của Pháp, cũng là một người tội lỗi trong đệ nhị thế chiến, ông ở trong một tâm trạng bất an, đã quay trở lại với Chúa. Ông đến xin lãnh bí tích Giải tội và ông đã kể lại tâm trạng của mình lúc xưng tội như sau: “Hai tay tôi ôm đầu, miệng bập bẹ run run, tôi đổ dòng tội tuôn ra như thác... Tôi cảm thấy một thứ cặn đắng, từng ngụm, từng ngụm trào ra khỏi các thớ thịt con tim tôi với tất cả khối nặng đó, với tất cả chất độc đó đã đè nén tôi suốt hai mươi năm nay. Tôi cố cựa quậy đổ dốc nó ra cho linh mục giải tội. Và Thiên Chúa đã nghe lời tôi: “Hãy về bình an. Thánh Thần đã ngự trong con”! Tôi trẻ lại hai mươi tuổi; hai mươi năm tội lỗi. Một niềm vui sướng mới lạ tràn ngập tâm hồn tôi. Tôi chạy, tôi nhảy, tôi bay, tôi không còn cảm thấy xác thịt nặng nề của tôi nữa”...
14/01 Chữa người phong cùi
- Viết bởi Mc 1, 40-45
Chữa người phong cùi.
Thứ Năm tuần 1 thường niên.
"Bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch".
LỜI CHÚA: Mc 1, 40-45
Khi ấy, có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch".
Ðộng lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh". Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch. Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: "Anh hãy ý tứ đừng nói gì cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê, để minh chứng mình đã được khỏi bệnh".
Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chạnh lòng thương
Suy niệm:
Đây là quy chế người mắc bệnh phong theo sách Lêvi (13, 45-46).
Người ấy phải mặc quần áo rách, để tóc bù xù, che môi trên,
phải vừa đi vừa kêu lên: “Ô uế ! ô uế !” để người ta biết mà tránh xa.
Người phong phải ở một mình, phải ở một chỗ bên ngoài trại…
Như thế từ xa xưa, người ta đã biết đến sự dễ lây lan của bệnh phong
và ảnh hưởng nguy hiểm trên thân xác do chứng bệnh này.
Để được chứng nhận là đã khỏi bệnh, người phong phải trình tư tế,
phải qua một quá trình phức tạp để thanh tẩy trong tám ngày,
và phải dâng những con vật bị sát tế để làm lễ xá tội (Lêvi 14).
Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay đã không giữ Luật Môsê.
Anh dám lại gần Đức Giêsu, dám tin ngài có khả năng làm anh được sạch,
mặc dù theo truyền thống Kinh Thánh,
chỉ Thiên Chúa mới làm được chuyện đó.
Đức Giêsu vì thương anh, nên cũng đã làm điều không được phép.
Ngài dám đưa bàn tay ra và đụng đến anh,
đụng đến da thịt nhơ uế của anh, đến chính phận người hẩm hiu của anh,
dù chỉ một lời của ngài thôi cũng đủ làm anh khỏi bệnh.
Cái đụng của bàn tay Đức Giêsu đã không làm ngài bị ô uế.
Trái lại, nó đã đem lại sự thanh sạch cho anh bị phong.
Để làm phép lạ chữa bệnh rất lừng lẫy này, Đức Giêsu đã phải trả giá.
Người phong khi được khỏi, đã không tránh được chuyện rêu rao.
Vì thế người ta đổ xô nhau tới khiến ngài phải ở ngoài thành.
Khi người khỏi bệnh vào được thành thì Đức Giêsu lại phải ở hoang địa!
Thái độ chạnh lòng thương và đụng đến người phong của Đức Giêsu
đã gợi hứng cho nhiều tâm hồn noi gương bắt chước.
Tại nhiều trại phong ở Việt Nam, ta thấy bóng dáng của các nữ tu.
Họ ở trại phong Bến Sắn, Di Linh, Quy Hòa, Văn Môn…
Nhiều nữ tu đã hiến dâng tuổi trẻ của mình để phục vụ người phong,
đụng đến những vết thương tàn phế nơi thân xác họ.
Các chủng sinh Miền Bắc cũng đã quen tiếp xúc với người phong,
ở lại với họ, săn sóc và chia sẻ thân phận của họ.
Giáo hội Công Giáo sung sướng được phục vụ người phong ở khắp nơi,
và coi đây như một nét đặc trưng của khuôn mặt Giáo hội.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy Niệm 2: ĐỨC TIN BAN SỰ SỐNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Theo quan niệm của người Do thái, bệnh tật là tội lỗi, ô uế. Và bệnh phong là nan y. Nên người bệnh phong bị coi như đã chết. Họ chết về thể lý. Vì bệnh là vô phương cứu chữa. Nhưng ghê gớm hơn, họ chết về phương diện xã hội. Vì bị loại trừ ra khỏi xã hội. Không được còn được sống với mọi người. Nhưng kinh khủng nhất là họ chết phần linh hồn vì phạm tội. Khi chữa anh, Chúa không chỉ chữa lành thân xác. Nhưng còn tha thứ tội lỗi. Trả lại cho anh sự sống thể lý khi chữa lành vết thương. Trả lại cho anh sự sống xã hội khi cho anh đi trình diện với thày tư tế. Trả lại cho anh sự sống linh hồn khi tha tội cho anh. Cho anh được đến trước tòa Chúa dâng của lễ. Tất cả là do lòng thương xót của Chúa. Nhưng cũng vì anh tin tưởng vào Chúa. Quả thật đức tin ban cho anh sự sống. Sự sống đời đời.
Vì thế thánh Phao-lô khuyên nhủ ta hãy giữ vững đức tin. Đừng để lòng ra chai đá như người Do thái trong sa mạc. Người Do thái cứng lòng nên đã không được vào Đất Hứa, đất chảy sữa và mật, đất sự sống. Thế hệ đó, kể cả Mô-sê đều chết trong sa mạc (năm lẻ).
Ta có đức tin nhưng phải là đức tin sống động thực sự. Đừng như những người con thày cả Hê-li là Pin-khát và Khóp-ni. Họ không có đức tin. Vì họ không kính sợ Chúa. Không nghe lời răn dậy của Chúa. Dám phạm những tội tầy đình ngay trước mặt Chúa trong lều Hội ngộ. Vậy mà khi đánh nhau với quân Phi-li-tinh, dám cả gan khiêng Hòm Bia ra chiến trận. Đó là mê tín chứ không phải đức tin. Nếu có đức tin họ đã không dám phạm tội trước Nhan Chúa. Và đúng ra họ phải sám hối trước khi lâm trận. Lâm trận rồi họ không còn thời giờ nữa. Vì thế họ đã bị chết. Đến cả Hòm Bia cũng bị quân Phi-li-tinh chiếm mất (năm chẵn).
Vì thế thánh Phao-lô khuyên nhủ chúng ta phải sám hối ngay khi còn kịp. Bao lâu còn là “ngày hôm nay” thì phải lắng nghe tiếng Chúa. Đừng để lòng ra chai đá. Hãy tin. Một đức tin sống động. Như người bệnh phong. Bệnh trầm trọng nhất là tội lỗi. Tội lỗi là thứ bệnh phong không thuốc nào chữa được. Chỉ có sức mạnh, quyền năng và Lòng Thương Xót của Chúa mới chữa ta khỏi. Vì thế ngay hôm nay hãy đến với Chúa. Hãy sám hối ngay. Kẻo không kịp.
Suy Niệm 3: Chữa người phong cùi
Raoul Folereau, vị đại ân nhân của những người phong cùi đã ghi lại một chuyến đi của ông như sau: Ðến một nơi cách thành phố 15 cây số, chúng tôi lần theo một lối đi được chỉ trước, và sau nửa giờ đi bộ chúng tôi lạc vào một thế giới của buồn thảm, đau khổ và thất vọng. Thật thế, tại một nơi mà không ai muốn đặt chân đến, có khoảng 60 người phong cùi đang sống bên nhau. Trước đây, người ta giam họ trong một trại cùi chẳng khác nào một trại tù, mọi người nhìn họ như những kẻ bị chúc dữ, hoặc tệ hơn nữa, như những con thú dữ. Không chịu nổi sự giam hãm và cách ly như thế, một số người cùi này đã trốn thoát và đến trú ẩn giữa khu rừng này. Tại đây, tình trạng của họ càng thêm tồi tệ hơn, xung quanh họ, trên đất đầy dẫy những vết tích của căn bệnh quái ác này.
Tôi đến bên một người lớn tuổi được xem như đại diện của họ và hỏi:
- Hôm nay là chiều Thứ Bảy, cửa quán ngoài phố xá đã đóng cửa rồi; thứ hai tôi sẽ trở lại và mang theo thức ăn thức uống; tôi cũng sẽ đưa một bác sĩ đến để chăm sóc cho bà con, chúng tôi sẽ cất nhà và sẽ ở lại đây với bà con khi cần, vậy bác hỏi bà con có thể chờ cho đến ngày Thứ Hai không?
Người đó đưa mắt nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, vì đã từ lâu họ không còn tin điều đó nữa; đối với họ, xem ra không còn ai đáng tin trên đời này nữa. Rồi ông khẩn khoản nói:
- Ông không thể giúp cho chúng tôi ngay được sao? Chúng tôi vừa mới có một người anh em qua đời, chúng tôi phải dùng đôi tay cùi lở này để đào xới một cái mộ chôn người anh em.
Tôi nhìn đôi bàn tay không nguyên vẹn vì bệnh tật, nay phải mang thương tích vì người đồng loại. Những con người khốn khổ đó nếu không nhìn thấy, không thể tin được là có thật.
Căn bệnh phong cùi vẫn là căn bệnh ghê sợ nhất đối với hiện tại. Người phong cùi đau đớn trên thân xác đã đành, mà còn đau khổ gấp bội phần trong tâm hồn khi cảm thấy bị bỏ rơi.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành cho người phong cùi. Không những chữa lành tấm thân bệnh hoạn, Ngài còn tái lập họ trong cộng đoàn nhân loại, khi bảo bệnh nhân đi trình diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập họ trở lại cuộc sống. Sự tái hội nhập này luôn đòi hỏi sự cảm thông, lòng quảng đại và cởi mở đón nhận của người khác. Vi trùng Hansen đục khoét và hủy hoại thân xác con người, thì cũng có biết bao thứ vi trùng khác độc hại hơn đang ẩn núp trong tâm hồn con người, tên của chúng là dửng dưng, ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết dần giết mòn con người mà con người không hay biết.
Xin Chúa tha thứ cho những mù quáng, dửng dưng và ích kỷ của chúng ta trước bao nhiêu cảnh khốn cùng của đồng loại. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim biết cảm thông và đôi tay rộng mở để san sẻ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Hãy coi chừng
Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quì xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch (Mc. 1, 40-42)
Phúc âm thánh Maccô nhấn mạnh đến một điều khá ngạc nhiên: nhiều lần Maccô tường thuật việc Chúa răn bảo, và cả đến truyền lệnh cho người ta phải giữ kín, không được nói cho ai biết Người là ai, Người làm gì. Xem ra Chúa Giêsu rất dè dặt và khôn ngoan khi nói: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả!”
Đừng có mới nới cũ
Khi dặn dò người phong hủi được chữa lành như vậy, tiên vàn Chúa có ý nhắc nhở anh hãy biết sống trung thành.
Chúa Giêsu không tin người ta một cách mù quáng, Người biết rõ bụng dạ mỗi người. Người biết rõ ta dễ dàng thả mồi bắt bóng. Người biết được một người mắc bệnh nan y lẽ nào lại không bùi tai khi nghe một ông lang vườn nói sẽ cho người ấy rất nhiều hy vọng chữa khỏi. Người biết chúng ta hay thay đổi: chỉ mới nghe nói, đây là phát minh cuối cùng, là đồ mới cáo “tuyệt cú mèo”, là ta đã vội đổ xô đến ngay. Hãy cầm thử một tờ báo mà coi, toàn là những tin tức và sự kiện, mà điều quan trọng là những tin tức và sự kiện ấy phải là sốt dẻo. Nhưng cái là nội dung tờ báo, cái mà xét cho cùng là đường giây mối rợ thông thường và căn bản cho cuộc sống, thì không ai ghi nhớ.
Thế nên, để đối lại với thái độ này của con người là hay thay đổi và chạy theo cái mới, Chúa Giêsu nhắc nhở ta hãy biết sống trung thành, biết giữ lấy sự liên tục: “Vì anh dã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền để làm chứng cho người ta biết”, có nghĩa là: “Anh đừng vội thay đổi tập tục tôn giáo! Anh hãy liên kết điều vừa xảy ra cho anh với điều anh vốn đã tin. Có một sự liên tục giữa Mô-sê với tôi.Và chúng ta có thể nghe đây như tiếng vang vọng: “Có sự liên tục giữa tập giáo lý đồng ấu với lối dạy giáo lý cho người lớn, có liên tục giữa cộng đoàn lớn với cộng đoàn nhỏ, có liên tục …”
Đào sâu hơn là trải rộng
Việc Chúa Giêsu nhắc nhở người cùi được chữa lành phải kín miệng, cũng làm cho ta ý thức đến một sự lầm lạc khác vốn rình rập ta: đó là tính hời hợt nông cạn. Hãy nhớ kỹ dụ ngôn người gieo giống: cây lúa mọc lên, nhưng chết khô vì thiếu đất ẩm. Hãy coi chừng khi ta hứng lên trở lại với Chúa mà chưa có thời gian thử thách. Đừng coi nước dầu bóng bên ngoài mà cho rằng gỗ tốt: vẻ bóng loáng ấy không nhất thiết đã bền.
Suy Niệm 5: Yêu thương để trở nên giống Chúa (Mc 1, 40-45)
Khi Đức Giêsu đến trần gian, sứ vụ của Ngài là đến với những người nghèo để chữa lành cho họ. Ngài luôn coi đây là điều căn cốt, bởi lẽ bệnh tật theo quan niệm của người Dothái nó gắn liền với tội và hệ lụy của nó là bị Thiên Chúa phạt.
Hơn nữa, bệnh phong cùi lại là thứ bệnh nan y, hay lây và bị người đương thời coi thường, khinh bỉ. Những ai mắc phải thứ bệnh khốn khổ này thì buộc phải sống cách ly khỏi dân chúng. Thường thì họ chọn nơi mồ mả để sinh hoạt. Họ bị cấm đi lại nơi công cộng, và nếu có đi đâu gần dân chúng thì buộc phải lắc chuông để báo cho mọi người biết mà tránh cho xa kẻo bị lây và nhiễm uế.
Tuy nhiên, anh này hôm nay thật may mắn vì đã gặp được Đấng đang tìm anh để chạnh lòng thương anh. Thật vậy, khi gặp người phong cùi này, Đức Giêsu đã không tránh xa, mà ngược lại, Ngài đã đến gần và chạm vào anh để anh được sạch. Không những thế, Ngài còn phục hồi nhân phẩm cho anh khi truyền cho anh đi báo với Tư Tế để được hòa nhập với cộng đồng.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy noi gương người phong cùi, mạnh dạn đến với Chúa, hãy mở rộng tâm hồn cho Đấng đầy yêu thương đụng chạm tới mình, để Ngài chữa lành tâm hồn đui hủi của chúng ta là những thói hư tật xấu và tội lỗi, khô khan, nguội lạnh, thờ ơ với Chúa và vô cảm với anh chị em.
Hơn nữa, chúng ta hãy xin với Chúa cho đôi chân biết đi tới, đôi tay biết vươn xa, và nhất là trái tim biết rộng mở, để đón nhận những anh chị em đau khổ, bệnh tật cả về tinh thần lẫn thể xác, hầu xoa dịu những đau khổ mà anh chị em chúng ta đang phải gánh chịu. Chỉ có thế, chúng ta mới thực sự là môn đệ của Thầy Giêsu mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa chữa lành những căn bệnh trong tâm hồn chúng con, để chúng con được trở nên trong sạch. Xin Chúa cho chúng con được hiểu rằng, hạnh phúc của người khác là niềm vui của mình và là vinh quang của Thiên Chúa. Amen.
Ngọc Biển
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu chữa lánh người bị bệnh phong cùi
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Tôi còn nhớ hồi nhỏ, ở ngôi chợ nhỏ gần nhà tôi, thường có một ông bị bệnh phong cùi lê lết xin ăn mỗi sáng. Mỗi lần theo mẹ ra chợ, tôi lại thấy ông với cái lon sữa bò cũ, miệng kêu gào lòng thương xót của mọi người.
Chẳng bao giờ tôi dám lại gần mà chỉ đứng xa xa nhìn lại với lòng thương xót xen lẫn ghê tởm. Con người ông không chỉ dơ bẩn, mà còn toát lên một cái gì đó gớm ghiếc với những miếng vải dính đầy máu và mủ trên bàn tay, bàn chân đã cụt hết ngón. Một vài người đi chợ ngang qua, thả vội những đồng bạc cắc rồi đi như chạy. Có lẽ họ cũng như tôi, dù xót thương cho thân ông ăn mày, nhưng cũng không dám lại gần vì sợ lây bệnh (Theo Vũ Ðình Trọng).
Bệnh phong là một bệnh nhiễm mãn tính, trước đây người ta thường gọi miệt thị là bệnh cùi, bệnh hủi. Những bệnh nhân này thường bị người đời xa lánh vì họ có những vết thương lở loét, hình hài không được bình thường, có người mang bệnh miệng méo xệch, thoáng nhìn người ta có cảm giác khiếp đảm, bệnh nhân xấu hổ cố giấu mặt, cử chỉ che giấu ấy thật tội nghiệp. Có những bệnh nhân phong ngón tay rụng hết chỉ còn trơ bàn tay không ngón, đáng sợ. Nhiều dân tộc hay bộ lạc, coi bệnh phong cùi là một hình phạt và người mang bệnh bị hắt hủi, đuổi ra khỏi nhà và khỏi làng. Họ sống lang thang trong rừng sâu, hay tại những nơi hẻo lánh chết trong cô đơn...
Suy niệm
Bệnh phong, đối với con Do Thái chỉ có Thiên Chúa mới chữa được, bởi vì người mắc bệnh phong mà được lành cũng giống như gọi một người chết về lại với cuộc sống. Trong Kinh Thánh Thiên Chúa ban quyền chữa bệnh phong cho những người đến từ Ngài như Môisê (x. Ds 12,9-14; Xh 4,6-8) và ngôn sứ Êlisê (x. 2V 5,9-14). Vì thế anh cùi trong Tin Mừng Maccô 1,40-45, trông cậy vào Đấng Mêssia - Đấng nhân danh Chúa đến chữa lành bệnh tật, giải thoát giam cầm như ngôn sứ Isaia đã loan báo (x. Is 61,1). Anh tìm đến Chúa Giêsu và thưa với tất cả lòng xác tín: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”. “Chạnh lòng thương Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh”. Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch”. Tin Mừng nhiều lần dùng từ “chạnh lòng thương” để nói tấm lòng của Ngài với người đau khổ, bệnh tật…(x. Mt 9,36; 14,14; 15,32; Mc 1,41; Lc 7,13).
Trong khi mọi người tránh xa anh theo Luật, thì Chúa Giêsu lại tiến gần chữa lành cho anh. Ngài chữa người bị bệnh phong cùi không bằng cách như ngôn sứ Êlisê đã làm đối với Naaman, viên quan của Syria, vị ngôn sứ đã truyền cho ông đến tắm gội dòng sông Giodan (x. 2V 5,1-19). Ngài chữa lành với tấm lòng cảm thương, với một lời xác quyết quyền uy của Đấng chiến thắng trên bệnh tật, sự chết và một cử chỉ cầm tay mang ý nghĩa chia sẻ đầy tình liên đới.
Ngày hôm nay trong cuộc sống có các thứ bệnh cùi của tinh thần, của tâm hồn con người: thái độ sống bất công, gian ác, điêu ngoa, dối trá… Chính những hình thức cùi này làm con người vong thân, biến dạng tâm hồn. Không chỉ cuộc sống tinh thần của cá nhân mà cả một xã hội cùi đang được hình thành, bởi những vi rút cùi gian trá điêu ngoa, thiếu thành thật đang hoành hành trong xã hội.
Ý thức được tình trạng cùi hủi của mình do bởi tội lỗi, chúng ta tin tưởng vào Đấng chữa lành là Giêsu như thánh Paschase Radbert đã suy niệm hình ảnh người phong cùi được Ngài chữa lành: “Thiên Chúa chữa lành mỗi ngày tâm hồn của người kêu cầu đến Ngài, tôn thờ Ngài với tâm hồn thánh thiện và tuyên xưng niềm tin dù mang thân phận lầm lỗi: “Lạy Chúa, nếu Ngài muốn, xin cho con được sạch”.
Ý lực sống: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm.
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy”. (Tv 50,3-4).
Suy Niệm 7: Chúa chữa người phong hủi
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Phong hủi đối với những người Do thái là chứng bệnh ghê tởm, nhơ uế, bệnh nhân phải tuyệt thông với mọi người. Ai tiếp xúc với họ cũng bị coi là uế. Vì thế, người phong hủi thường phải ở những nơi cách biệt: đi đến đâu họ phải la lớn để mọi người biết mà tránh xa. Thân phận người phong hủi thật đáng buồn tủi ! Bài Tin mừng hôm nay cho biết, người phong hủi dám đến xin Đức Giêsu chữa lành. Điều đó chứng tỏ bệnh nhân có một niềm xác tín vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu vừa quyền phép lại vừa rất thương yêu. Đến với Ngài, chắc chắn sẽ không phải thất vọng.
2. Ông M. Carré nói:”Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, thì chúng ta phải là những nhà chuyên môn của niềm tin cậy trông”. Vâng, trong lúc đau đớn tột cùng nơi thân xác vì bị trùng Hansen gặm nhấm rúc rỉa; trong lúc tâm hồn tan nát vì bị mọi người kinh tởm xa cách, chính trong lúc đau khổ ngút ngàn ấy người phung hủi lại hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và trọn vẹn phó thác cho tình yêu của Ngài.
Thấy anh có lòng tin, Chúa Giêsu chạnh lòng thương, giơ tay đặt trên người ấy và nói:”Ta muốn anh khỏi bệnh”. Chạm đến người phung là phạm luật, khiến người ta khó chịu. Ngài muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Chúa, con người được tiếp xúc thần tính của Ngài, nhờ đó được nhận lãnh ân sủng là sức sống của Ngài. Chính vì thế mà bệnh phung biến mất và anh ta được sạch.
3. Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh cho người bị phong cùi, mà còn đưa tay đụng đến anh, chứng tỏ Ngài không ghê tởm anh. Ngài còn dạy anh đi trình diện với tư tế để được công nhận hết bệnh và nhờ đó được nhập vào xã hội. Như thế, người phong cùi này vừa được chữa bệnh, vừa được phục hồi nhân phẩm. Nói cách khác, Chúa Giêsu vừa chữa anh khỏi bệnh tật phần xác vừa chữa anh khỏi bệnh tật tâm hồn. Chúng ta tự hỏi mình: sự quan tâm của ta với những người nghèo khổ có được toàn diện như thế chưa ?
4. Hãy tỏ lòng yêu thương những người bệnh tật xấu số.
Đọc những vần thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử, người thi sĩ thời danh mắc bệnh cùi cách đây không lâu lắm ở trại cùi Qui Hòa (Bình định), biểu lộ những rung cảm trong cảnh sầu khổ, ta mới hiểu được nỗi đau khổ trong cảnh cô đơn thất vọng của người bị bệnh cùi như thế nào.
Đọc truyện cha Damien, vị tông đồ người hủi, ta mới thấy xúc động và cảm phục. Khi Đức Giám mục ở Hawai giới thiệu cha Damien với dân cùi ở đảo Molokai là cha tình nguyện đến phục vụ họ. Cha Damien rởn tóc gáy khi nhìn thấy họ đến sờ vào thân mình cha. Đức Cha giải thích cho cha Damien là họ không thể hiểu nổi một người ở phương xa, không bà con huyết thống gì với họ, lại còn trẻ, đẹp trai, lại có thể đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này. Họ không tin mắt nhìn của họ nên mới đến sờ thử vào con người của cha, xem có thực sự mắc bệnh cùi không. Rồi họ nói với nhau:”Không”. Dần dần cha Damien hòa đồng được với họ, và không còn cảm thấy như ngày đầu. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh cùi.
5. Còn bệnh phong hủi thiêng liêng nữa.
Điều đáng nói là chúng ta phải nhìn đến thứ bệnh cùi thiêng liêng như là một thực tế của mọi thời đại. Các nhà tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường coi tội lỗi là một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thể xác khiến người ta bị cô lập hóa về phương diện thể lý, nghĩa là phải sống tách biệt khỏi gia đình và xã hội, thì bệnh cùi thiêng liêng là tội lỗi cũng khiến người ta bị cô lập hóa về đời sống thiêng liêng.
Tội làm sứt mẻ tình bạn với Thiên Chúa và người khác. Có những tội khiến ta không còn dám đến nhà thờ và lên rước lễ. Tội còn làm sứt mẻ tình bạn, tình cộng đồng. Khi phạm tội, người ta thường muốn tránh người khác vì mắc cỡ, và người khác cũng không muốn gặp gỡ họ vì đã là nạn nhân hay không muốn trở thành nạn nhân.
6. Truyện: Phải biết cảm ơn Chúa
Trong cuốn truyện thuộc loại Tự Thuật của một người Cha nọ có ghi những ý nghĩ như sau:
Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi bảo: ”Bố ơi, con sẽ đếm thử xem trên trời có mấy ngôi sao nhé” !
Sau đó tôi nghe giọng êm đềm dễ mến của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4.... rồi tôi lại chú tâm vào chuyện đọc báo, không còn để ý đến tiếng con tôi nữa. Đến lúc tôi đọc xong, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng đứa con gái tôi vẫn tiếp tục đếm 223,224,225.... Đến đây, nó bỗng dừng lại, rồi quay sang nói với tôi: ”Bố ơi, con không ngờ trên trời có nhiều sao đến thế”.
Nghe con gái bình luận thế ! Tôi chợt nhớ thỉnh thoảng tôi cũng đã thầm nói với Chúa:”Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã lãnh nhận bao nhiêu ơn lành của Chúa”. Và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu, mà vì quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng đã thường phải thốt lên như con gái tôi: ”Lạy Chúa, con không ngờ đời con đã lãnh nhận nhiều ơn lành của Chúa đến thế” !
13/01 Tiếp tục rao giảng và chữa bệnh
- Viết bởi Mc 1, 29-39
Tiếp tục rao giảng và chữa bệnh.
Thứ Tư tuần 1 thường niên.
"Ngài chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau".
LỜI CHÚA: Mc 1, 29-39
Khi ấy Chúa Giêsu ra khỏi hội đường. Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các Ngài. Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám; và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.
Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm được Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy". Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Bà phục vụ các ngài
Suy niệm:
Sau khi chữa người bị quỷ ám tại hội đường Caphácnaum,
Đức Giê su trở về một căn nhà của một gia đình quen biết,
gia đình của hai anh Simon và Anrê, những người mới bỏ nhà để theo ngài.
Không may bà mẹ vợ của Simon lại đang lên cơn sốt.
Đức Giêsu đã lại gần giường bà nằm, cầm lấy tay bà và nâng bà dậy.
Lập tức cơn sốt lui khỏi bà và bà phục vụ các ngài.
Đây là phép lạ chữa bệnh đầu tiên của Đức Giêsu
cho một phụ nữ, tại một ngôi nhà.
Sốt chẳng phải là một bệnh quá nặng và nguy hiểm,
nhưng cũng đủ để làm người bệnh không hoạt động được,
gây cản trở những sinh hoạt bình thường trong gia đình.
Đức Giêsu đến đem lại sự chữa lành, niềm vui và sức sống.
Khi người phụ nữ được khỏi bệnh, mọi sự như sống lại.
Bếp lại có lửa, bàn lại có thức ăn, và người ta ngồi quanh cười nói rôm rả.
Hạnh phúc gia đình có khi chỉ tùy thuộc vào những điều be bé.
Hạnh phúc bị sứt mẻ lắm khi chỉ vì những chuyện không đâu.
Hãy nhìn cách Đức Giêsu chữa bệnh cho người phụ nữ này.
Thật gần gũi và thân tình, ngài chẳng nói lời nào để đuổi cơn sốt.
Khi nắm tay người bệnh nặng, ngài chấp nhận nguy cơ bị nhiễm nhơ uế.
Nhưng Đức Giêsu chẳng hề bị nhiễm gì, trái lại ngài đem đến bình an.
Ngài đã nâng bà dậy (êgeiren), có nghĩa là ngài làm bà phục sinh.
Sau khi được phục sinh thì bà đi phục vụ các vị khách.
Phục vụ hiểu theo nghĩa đơn sơ nhất là đi chuẩn bị bữa ăn.
Các thiên thần cũng đã phục vụ Đức Giê su
sau khi ngài thắng các cơn cám dỗ (Mc 1, 13).
Tuy nhiên có thể hiểu phục vụ theo nghĩa rộng hơn nhiều.
Sau khi Đức Giêsu chết trên thập giá, chỉ còn các phụ nữ ở lại đến cùng.
“Họ đã đi theo ngài và phục vụ ngài từ hồi ngài còn ở Galilê
và họ đã cùng ngài lên Giêrusalem” (Mc 15, 40-41).
Như vậy không phải chỉ các ông môn đệ mới là người phục vụ (Mc 10, 43).
Các bà cũng đã trung tín phục vụ đến cùng,
phục vụ như Thầy Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ” (Mc 10, 45).
Chúng ta cần nhìn nhận
vai trò quý báu của người vợ, người mẹ trong nhà,
và vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội.
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy Niệm 2: MẦU NHIỆM HIỆP THÔNG
Chúa Giês-su hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện”. Kết hợp trọn vẹn với Chúa Cha nên việc cầu nguyện là một việc vừa tự nhiên vừa là nhu cầu thiết yếu của Chúa Giê-su. Bắt đầu ngày mới bằng việc cầu nguyện, Người múc lấy sức mạnh và tìm những chỉ dẫn cho mọi hoạt động từ nơi Chúa Cha. Không chỉ hiệp thông trong tâm tình mà còn trong hành động. Nên Người đã xuống thế làm người theo chương trình của Thiên Chúa. Trong suốt cuộc đời Người không làm gì tự ý mình, nhưng hoàn toàn làm theo thánh ý Chúa Cha. Vâng lời Chúa Cha cho đến bằng lòng chịu chết trên cây thánh giá. Đó là cuộc hiệp thông trọn vẹn. Hoàn toàn từ bỏ bản thân. Để thánh ý Chúa Cha được thể hiện.
Người cũng hoàn toàn hiệp thông với nhân loại. Hiệp thông trọn vẹn với nhân loại nên Người trở nên đồng huyết nhục, trở thành anh em của mọi người. Người đã sống hoàn toàn như một con người. Sống cuộc sống vất vả của người thợ mộc. Lang thang đây đó, “không có nơi tựa đầu”. Chịu đói chịu khát. Trải qua biết bao thử thách và đau khổ. Chịu cám dỗ. Bị phản bội. Bị trao nộp. Chịu hành hình và chịu chết. Người luôn ở gần những người nghèo khổ bệnh tật để giúp đỡ họ. Hãy chiêm ngắm cảnh tượng Người cầm tay bà nhạc mẫu của Phêrô, ân cần nâng dậy và chữa khỏi bệnh tật. Hãy chiêm ngắm cảnh tượng lớp lớp trùng điệp người bệnh vây quanh Người. Tất cả trở nên một cơ thể đau khổ vì Người hoàn toàn hòa nhập với con người. Hiệp thông trọn vẹn với con người, Người trở thành người đại diện, người trung gian, trở thành vị Thượng Tế nhân từ và trung tín dâng tâm tình thờ phượng lên Đức Chúa Cha. Và lời cầu nguyện của Người được đẹp lòng Thiên Chúa. Hiệp thông trọn vẹn với con người nên Người đã dùng cái chết mà giải phóng con người khỏi nô lệ sợ hãi cái chết. Và vì đã trải qua thử thách đau khổ Người có thể cứu những ai bị thử thách (năm lẻ).
Sa-mu-en phần nào giống Chúa Giêsu. Kết hợp mật thiết với Thiên Chúa nên “không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu”. Kết hợp mật thiết với toàn dân. Ông quên bản thân mà lo cho việc dân việc nước. Ông đã sống mầu nhiệm hiệp thông (năm chẵn).
Để hiệp thông phải từ bỏ chính mình. Chúa Giê-su đã từ bỏ chính mình. Hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Hoàn toàn hiến mình vì nhân loại. Từ mầu nhiệm hiệp thông phát sinh nguồn ân phúc bao la cho nhân loại. Xin cho chúng ta hiểu điều này. Biết sống mầu nhiệm hiệp thông. Để thế giới được chứa chan ân sủng của Chúa.
Suy Niệm 3: Ðộng lực của việc tông đồ
Tin Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những giây phút gặp gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương diện thiên tính, Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên Ngài luôn kết hiệp với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật thái độ sống của Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời cầu nguyện.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: "Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa Giêsu đã chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện". Mặc dù bận rộn với rất nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện. Nhưng đây không phải là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Ngài lấy hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tầm quan trọng của cầu nguyện: "Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì".
Chúng ta hãy noi gương Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại, chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như Ngài đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt tới việc cầu nguyện như thế, chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu mến Thiên Chúa như người con đối với người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Cầu nguyện là việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện. Hãy đến với Chúa như đứa con đến với cha mình".
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận lợi để bắt đầu một ngày sống tốt đẹp hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện, nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Một ngày chồng chất công việc
Chiều đến khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói vì chúng biết Người là ai (Mc. 1, 32-34)
Khi liệt kê tất cả những công việc Chúa Giêsu đã thực hiện trong hai ngày, thánh Maccô cho ta cảm tưởng là Chúa Giêsu không cà kê công việc, mà Người đã phải đầu tắt mặt tối, nào là giảng dạy ở hội đường, đi đến nhà ông bà nhạc của Phêrô, chiều đến lại dành thời giờ chữa nhiều kẻ bệnh tật. Ngày hôm sau Người thức dậy thật sớm, đi cầu nguyện ở một nơi thanh vắng, rồi lại lên đường đi rao giảng và phục vụ những người đau ốm tật nguyền.
Mô tả trên đây giúp chúng ta nhìn ra ba nét tính nơi con người Đức Giêsu.
Một con người hoạt động
Thánh Maccô cho ta thấy Chúa Giêsu mang hình ảnh khá giống với những con người nam nữ thời nay: họ bận bịu với trăm công nghìn việc, lúc nào cũng tất bật và đa đoan đủ chuyện.
Một con người biết dừng lại
Thế nhưng, dù phải đảm đang công kia việc nọ, vậy mà Chúa Giêsu vẫn có thời giờ dừng lại để làm những công chuyện quan trọng như đáp lại tình nghĩa bạn bè và cầu nguyện.
Khoảng thời giờ giữa hai lần giảng dạy cho dân chúng, Người dành cho việc đi thăm tình nghĩa và bao lâu kẻ tiếp đón còn cần đến Người thì Người không vội ra đi.
Chúa Giêsu cũng không cắt xén những thời giờ quý báu dành cho việc cầu nguyện của Người. Người thà cắt bớt giờ ngủ và có lẽ cả giờ nghỉ ngơi giải trí nữa: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy…”.
Một con người thấy rõ việc phải làm
Đây là nét tính nổi bật nơi con người Đức Giêsu mà ta thường gặp thấy trong sách Phúc âm. Người biết rõ việc Người phải làm. Nếu đã tổ chức chuyến đi truyền giáo lần đầu tiên ở Galilê rồi thì Người lại trở về miền Samari. Nếu đã kết nạp xong mấy môn đệ, thì Người vẫn không quên “những con chiên lạc”. Người không nghỉ ngơi sau một vài thành công. Người biết rõ mình còn phải làm gì và lần lượt tới viếng thăm và giảng dạy ở các hội đường theo một lịch trình rõ rệt.
Còn một ngày của chúng ta thì sao?
Khi phác họa một ngày làm việc của ta, ngày ấy có sẽ đầy đủ công việc như ngày làm việc của Chúa Giêsu không? Ta có biết làm cho ngày đó đầy tràn hiệu quả tốt không? Ta có biết dừng chân để đáp lại tình nghĩa bạn bè, tình nghĩa với Chúa, tình nghĩa với bà con lân cận không? Và mặc dầu đã mệt mỏi rã rời và đã chu toàn bổn phận rồi, ta có dám nhìn trước ngày hôm sau để hoạch định công việc mà không ai sẽ làm thay cho ta?
Suy Niệm 5: Sống tinh thần liên đới (Mc 1, 29-39)
Chúng ta đã nghe đây đó lời của một bài hát, trong đó có đoạn: “Sống trong cuộc sống, cần có một tấm lòng”. Thật vậy, trong một xã hội ngày càng giàu có, tiện nghi sang trọng, nhiều ngôi nhà cao tầng mọc lên; điện, đường, trường, trạm được mọi người quan tâm... Tuy nhiên, về tinh thần liên đới, trách nhiệm, đạo đức... thì e rằng đang xuống cấp hơn bao giờ hết! Những chuyện vô lương tâm, tàn nhẫn, bất trung diễn ra nhan nhản đến mức báo động! Lại có những chuyện tưởng chừng chỉ trong tiểu thuyết, thì giờ đây nó lại xảy ra như cơm bữa trong đời sống hằng ngày...!
Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chữa bệnh cho mẹ vợ ông Simon. Mẹ vợ ông Simon được Đức Giêsu biết đến là nhờ vào sự liên đới của mọi người, họ kể cho Ngài nghe về bệnh tình của bà.
Phải chăng Đức Giêsu cần sự thông báo của người ta? hay Ngài buộc họ phải nói thì Ngài mới ra tay cứu giúp? Không! Tuy nhiên, cứ theo cảm tính tự nhiên, thì việc quan tâm này rất cần thiết vì nó thể hiện sự yêu thương, liên đới tới nhau.
Sứ điệp Lời Chúa hôn nay mời gọi mỗi chúng ta hãy sống tinh thần yêu thương, liên đới, để cho ý Chúa được thể hiện trong cuộc sống thường ngày của mình, và để cho mọi người nhận ra chúng ta là con cái của Chúa khi mỗi người sống bác ái, xây dựng tình huynh đệ trong cuộc sống thường ngày.
Lạy Chúa Giêsu, chắc chắn Chúa sẽ không vui khi chúng con sống mà chỉ biết mình. Nhưng Chúa sẽ vui biết bao khi chúng con sống liên đới với tha nhân, nhất là biết giúp đỡ những người khổ đau, nghèo đói.
Xin Chúa ban cho chúng con trái tim của Chúa để chúng con yêu với tình yêu không phân biệt. Amen.
Ngọc Biển
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu nhạc mẫu của Phêrô
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Bác sĩ Tissot là một bác sĩ rất nổi tiếng người Thuỵ Sĩ. Tissot theo đạo Tin Lành nhưng luôn tôn trọng nếp sống của người Công giáo.
Một hôm ông tới chữa bệnh cho phụ nữ ngoại quốc, bà đang sốt nặng và tỏ ra hoảng hốt cáu kỉnh. Là người Công giáo, bà đòi gặp một Lm trước rồi mới chịu để bác sĩ chích thuốc chữa bệnh. Sau khi được giải tội và xức dầu, bác sĩ Tissot thấy bệnh nhân bình tĩnh dịu dàng khác thường.
Sáng hôm sau, bác sĩ Tissot trở lại, thấy bà giảm sốt và bắt đầu bình phục. Bác sĩ Tissot thường nói chân thành như là một chứng nhân cho bí tích bệnh nhân: “Nhiều bệnh nhân Công giáo đã lành bệnh nhờ bí tích xức dầu”.
Trong Đức tin Công giáo, bí tích xức dầu trợ giúp người tín hữu trong cơn đau yếu, giúp họ không nao núng trước thử thách bệnh tật cả về thể xác lẫn tinh thần. Người được lãnh bí tích thánh này được giữ vững lòng trung thành với niềm tin. Bí tích xức dầu như là bàn tay của Thiên Chúa thể hiện tình thương của Ngài chăm sóc trên bệnh nhân. Hình ảnh bí tích xức dầu chăm sóc, chữa lành bệnh nhân đưa chúng ta đến hình ảnh Chúa Giêsu đặt tay trên bà nhạc mẫu của Phêrô, bà liền được bình phục.
Suy niệm
Đức Giêsu đã “cầm tay” nhạc mẫu của Phêrô đang cơn bệnh và làm cho bà trỗi dậy. Người cũng đưa tay ra chữa lành tất cả bệnh tật, đau khổ nơi chúng ta như Ngài đã làm cho những kẻ tin được đưa đến bên Ngài (x. Mc 1,29-39).
Trong sự đau khổ bệnh tật của con người, Chúa Giêsu luôn luôn mang trong chính thân thể Ngài những đau khổ của nhân loại qua mọi thời đại. Ngài chăm sóc và chữa lành họ qua các bí tích, chính Ngài đi vào trung tâm lịch sử cứu độ mang tất cả đau thương trong thân xác Ngài trên thập tự để mọi đau thương được chữa lành như Phêrô đã tuyên tín: “Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1Pr 2,24).
Ngài vẫn ở với nhân loại và đưa cánh tay cứu chữa cho những người tin. Tác giả F. Deleclos suy niệm về hình ảnh bà nhạc mẫu của Phêrô được chữa lành trong tương quan với chúng ta trong thế giới hôm nay: “Là những kẻ tội lỗi, chúng ta được quy tụ bởi đức tin, làm nên cộng đoàn Hội Thánh tìm kiếm Đức Kitô và kêu cầu Người. Giống như bà mẹ vợ của ông Phêrô, chúng ta bị nằm liệt giường và lên cơn sốt, chẳng được vui hưởng cuộc sống đích thực” (F. Deleclos, Prends ét mang La Parole, Centurion – Duculot tr. 137-138). Ngài đến và mang niềm vui được chữa lành cho chúng ta và như nhạc mẫu của Phêrô, được chữa lành, đứng lên tiến bước với niềm vui phục vụ.
Chúng ta hãy để Chúa Giêsu đụng vào trái tim nhỏ bé của mình, dù nhỏ bé nhưng vương vấn tội lỗi, để chúng ta được thanh sạch như Lời Chúa trong sách ngôn sứ Êdêkien nói: “Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi” (Ed 36,25-26).
Tất cả những yếu đuối, lo âu, bệnh tật, khiếm khuyết tâm thể lý được chữa lành. Ước chi Ngài cũng vào nhà tâm hồn của tôi, nhà tâm hồn bạn và “nâng chúng ta dậy” để chúng ta không nằm bất toàn trong sự yếu đuối, mất sức lực trong sự dữ, trong cơn u mê tội lỗi… Nhưng nhờ Ngài, chúng ta “đứng lên” như Chúa Giêsu muốn những người chạy đến với Ngài trong cơn đau bệnh.
Ý lực sống: “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành” (Tv 147,3).
Suy Niệm 7: Làm việc và cầu nguyện
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Một ngày ở Capharnaum, Chúa Giêsu bận bịu với biết bao nhiêu công việc. Ngài giảng dạy trong hội đường, chữa mẹ vợ ông Simon khỏi cơn sốt nặng; chiều đến, Ngài lại chữa mọi người bệnh tật được người ta mang tới. Được thúc đẩy vì tình yêu Cha và yêu con người, Chúa Giêsu tất bật với sứ vụ được trao phó. Ngài con dành thời giờ cầu nguyện vào ban sáng sớm trước khi bắt đầu một ngày mới. Ngài vẫn còn thao thức bồn chồn cho đến khi sứ vụ được hoàn tất.
2. Nhìn lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài rất bận rộn: giảng ở hội đường; giảng xong, chữa một người bị quỉ ám; rời hội đường, Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của ông Simon Phêrô. Chiều đến chưa kịp nghỉ ngơi, người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa họ. Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài đã thức dậy sớm đi đến một nơi hoang vắng để cầu nguyện, và bắt đầu một ngày mới. Dù rất bận rộn, nhưng Chúa Giêsu vẫn dành thời giờ để cầu nguyện. Dù bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giêsu cũng có cách tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện.
3. Chúa yêu thương, nâng đỡ và thông cảm với con người, nhất là những con người đang gặp đau khổ. Ngài đến thăm nhà, chữa bệnh cho người ta cũng là cách làm cho người ta được hạnh phúc vì vừa được chữa khỏi bệnh, vừa có dịp được giãi bầu tâm sự.
Người ta kể: Vị linh mục dừng lại ghé thăm một gia đình nghèo ở Kentucky. Vừa khi linh mục chào bà mẹ, bà ứa nước mắt kêu lên:”Ôi thưa cha, con vừa được biết cha đến thăm hôm nay. Con tin cha có thể giúp con”. Bà dốc hết bầu tâm sự, bao lo âu, bao rắc rối. Thỉnh thoảng vị linh mục chen vào một vài lời khích lệ, nhưng ngài cảm thấy hoàn toàn bất lực trước nỗi khổ tâm của bà. Kể xong, bà ngưng một lát rồi kêu lên:”Ôi thưa cha, cha giúp con nhiều quá. Cha đã giải quyết cho con mọi vấn đề”. Vị linh mục bối rối, ngài chẳng giải quyết được vần đề nào cả. Rồi ngài bắt đầu hiểu ra: bà chỉ cần mong được thông cảm.
4. Chúa Giêsu là thầy dạy của sự cầu nguyện.
Chúng ta không muốn định nghĩa sự cầu nguyện như các nhà tu đức học mà chỉ nói đơn sơ như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói:”Con đã ở như một đứa trẻ không biết chữ: con cứ đơn sơ thật thà than thở cùng Chúa những điều con ước muốn, bao giờ con cũng được Chúa hiểu thấu tình”.
Cầu nguyện có thể ví như tình yêu. Chúng ta không thể học yêu qua sách vở được. Phải có phần thực hành. Cầu nguyện ví như học bơi lội, muốn biết bơi thì phải nhảyxuống nước, không thể vừa khô ráo trên bờ lại biết bơi. Cầu nguyện cũng như học gia chánh, muốn thực tập làm các món ăn thì phải lăn vào bếp. Cầu nguyện cũng giống như việc chăm sóc mảnh vườn, muốn có hoa đẹp thì phải trồng, phải vun xới, phải có nắng, phải tưới nước và phải chăm làm cỏ. Cầu nguyện không phải là một đề tài để bàn luận, nhưng là một thực tại để sống. Chúa Kitô là thầy dạy chúng ta, và tất cả chúng ta đều là học trò trong “lớp cầu nguyện”. Muốn có một đời sống sung mãn trong Chúa Kitô, chúng ta phải cầu nguyện (Thanh Thủy, Con đường tình yêu, tr 197).
5. Chiêm ngắm một ngày sống của Chúa, chúng ta được mời gọi sống như Ngài. Cuộc sống người Kitô hữu không thể chỉ có những khoảnh khắc dành cho Chúa trong Thánh lễ hay kinh nguyện, mà còn phải trải dài qua những sinh hoạt và gặp gỡ hằng ngày trong cuộc sống. Người Kitô hữu phải biết thống nhất đời sống bằng cách biến những giây phút hoạt động thành một cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa.
Thường người ta quan niệm rằng làm việc và cầu nguyện là hai việc khác nhau, có khi đối chọi nhau. Thực ra, với lòng yêu mến, chúng ta có thể biến tất cả công việc làm của chúng ta thành kinh nguyện. Như thế, suốt ngày làm việc của chúng ta là một lời kinh nguyện dâng lên Chúa. Cần nhất ban sáng khi thức dậy, chúng ta đã dâng lên Chúa mọi công việc trong ngày, thì mọi việc trong một ngày có thể trở thành kinh nguyện liên miên.
6. Truyện: Cầu nguyện và làm việc.
Một ông cụ già dẫn một thanh niên xuống thuyền của mình. Thuyền này có hai mái chèo đề chữ “cầu nguyện”, một chiếc khác có đề hai chữ “làm việc”.
Người thanh niên nói kháy cụ già:
- Ông cụ ơi, chèo thế này chậm lắm. Người đã làm việc thì không cần cầu nguyện nữa (có ý nói: chỉ cần chèo một chiếc chèo có chữ “làm việc” thôi).
Ông cụ không nói gì, chỉ buông chiếc chèo có hai chữ “cầu nguyện” ra thôi, rồi cứ chèo chèo một chiếc có hai chữ “làm việc” kia.
Ông cụ cứ cố sức chèo nhưng thuyền không đi được bước nào, chỉ quay tròn đi thôi.
Thấy thế người thanh niên kia mới hiểu rằng, ngoài chiếc chèo làm việc ra, còn cần phải có chiếc chèo cầu nguyện nữa, thuyền mới đi được.
12/01 Công việc của Chúa Giêsu
- Viết bởi Mc 1, 21-28
Công việc của Chúa Giêsu.
Thứ Ba tuần 1 thường niên.
"Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền".
LỜI CHÚA: Mc 1, 21-28
(Ðến thành Capharnaum), ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai: là Ðấng Thánh của Thiên Chúa". Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi, và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vật người ấy, thét lên một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy.
Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái chi vậy? Ðây là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế, và chúng vâng lệnh Người".
Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đấng thánh của Thiên Chúa
Suy niệm:
Trong Tin Mừng theo thánh Máccô,
ta không thấy có những bài giảng dài như Tin Mừng Mátthêu hay Gioan.
Nhưng bù lại Máccô đã kể khá nhiều phép lạ của Đức Giêsu.
Khung cảnh của bài Tin Mừng hôm nay
là hội đường vùng Caphácnaum vào một ngày sabát.
Theo Máccô, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ từ đây.
Chúng ta cần xem Ngài đã sống ngày sabát như thế nào.
Trước hết Ngài đã vào hội đường và giảng dạy.
Thánh Máccô không kể lại nội dung của bài giảng,
chỉ cho biết là người ta sửng sốt khi nghe Ngài
vì cách giảng đầy uy quyền (c. 22) và lời giảng thì mới mẻ (c.27).
Phép lạ đầu tiên Đức Giêsu làm ở hội đường này là trừ quỷ.
Ở đây có một người đàn ông bị thần ô uế ám.
Trước sự hiện diện của Đức Giêsu, anh ta sợ hãi nên kêu lên :
“Ông Giêsu Nadarét, ông đến tiêu diệt chúng tôi ư?
Tôi biết ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x. câu 24).
Sự hiện diện của Đấng Thánh cũng đủ làm cho thần ô uế phải khiếp sợ,
vì ô uế và thánh thiện không đội trời chung.
và Đấng thánh thiện có khả năng triệt phá thần ô uế.
Lời của Đức Giêsu bây giờ là lời trừ quỷ, lời quát mắng,
lời ra lệnh đầy uy quyền, lời khiến thần ô uế phải tuân theo.
“Câm đi, hãy xuất khỏi người này !”
Thần ô uế đã nhập vào và làm người ấy bị tha hóa,
bị mất tự do, bị chi phối và sai khiến như một nô lệ.
Lời Đức Giêsu là lời giải phóng để anh ấy được thật sự là mình,
được giải thoát khỏi tình trạng ô uế.
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới bị ô nhiễm,
từ không khí, nước uống đến những sản phẩm nhiễm độc của con người.
Nhưng điều đáng sợ hơn cả là bầu khí ô nhiễm về tinh thần,
bầu khí ô uế của sex thấm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống.
Xin Đức Giêsu trả lại cho ta sự trong sạch nơi cái nhìn,
sự trong trắng nơi trái tim và sự trong suốt nơi mọi cuộc gặp gỡ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy Niệm 2: UY QUYỀN CỦA CHÚA GIÊSU
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa toàn năng uy quyền phép tắc. Đó là điều dễ hiểu và dễ tin nhận. “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời. Một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú”(Tv 33, 6). Cho người trinh nữ sinh con. Cho người son sẻ như bà Anna được có người con xuất sắc là Samuel. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng với Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người thì khác. Chúa Giêsu tuy là người nhưng gây ngạc nhiên vì Người rao giảng như Đấng có uy quyền.
Uy quyền trong lời nói. Người đưa ra một giáo lý mới mẻ. Người nói xác quyết. Vì Người biết rõ mọi sự. Vì Người từ trời xuống nên biết rõ những sự trên trời. Vì Người từ Chúa Cha mà ra nên chỉ có Người biết Đức Chúa Cha. Hơn nữa Đức Chúa Cha đã trao cho Người nhiệm vụ làm người lãnh đạo thập toàn, đưa muôn vàn con cái đến vinh quang. Thày cả Hêli cũng có uy quyền trong lời nói. Vì thầy nói lời của Thiên Chúa. Thầy truyền đạt sứ điệp của Thiên Chúa khiến bà Anna đang lo buồn được bình an. Tuy nhiên thầy không có uy quyền trong việc làm vì thầy không thể tự mình làm được những điều kỳ diệu.
Chúa Giêsu không chỉ uy quyền trong lời nói mà còn uy quyền trong việc làm. Không chỉ nói mà còn làm. Những việc làm chưa từng có trong thế giới loài người. Chữa bệnh đã khó nhưng còn thấy được. Phục sinh kẻ chết thì tuyệt nhiên ngoài khả năng của con người kể cả những danh y tài ba lỗi lạc nhất. Nhưng Người còn thống trị được ma quỉ. Đây là điều hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu có toàn quyền chế ngự được thiên nhiên, vũ trụ, con người và cả ma quỉ cũng phải vâng phục.
Tuy nhiên uy quyền Người chỉ đạt tới mức thập toàn sau khi đã trải qua đau khổ và nhất là trải qua cái chết. Đó chính là để cảm thông với nhân loại. Và nhất là để chiến thắng quyền lực cuối cùng của ma quỉ là cái chết. Từ đó mở ra nguồn ơn cứu độ cho con người. Mở cho con người con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Vì thế uy quyền lớn lao nhất của Chúa Giêsu đó là uy quyền thương yêu. Vì thương yêu nên dám hi sinh mạng sống mình. Vì dám chết nên khuất phục được thần chết. Vì thế uy quyền của Chúa Giêsu chính là sự sống cho nhân loại.
Xin cho chúng ta biết đi theo người trên đường thương yêu. Hoàn toàn tin tưởng nơi tình yêu thương của Người. Theo Người trên con đường hi sinh. Đó chính là con đường sự sống.
Suy Niệm 3: Ðấng có uy quyền
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường và chữa lành một người bị quỷ ám.
Sau khi Gioan Tẩy Giả bị bắt giam, Chúa Giêsu trở về Galilê và giảng dạy trong Hội đường một cách công khai. Ngài giảng dạy với uy quyền của Thiên Chúa, chứ không như các Tiên tri trong Cựu Ước là những người được Thiên Chúa ủy thác cho; Ngài cũng không giảng dạy như các kinh sư Do thái là những người chỉ giải thích Kinh thánh và chất lên vai người dân gánh nặng của những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài. Giáo huấn của Chúa Giêsu là một cuộc giải phóng, một việc loan Tin Mừng cứu rồi, cách riêng cho những người nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội. Dân chúng nghe Chúa đều nhận thấy có sự khác biệt sâu xa giữa giáolý của Chúa và những lời giảng dạy của các kinh sư Do thái.
Kèm theo lời giảng dạy, Chúa Giêsu còn làm một phép lạ chữa một người bị quỷ ám. Phép lạ này chứng minh Ngài là Thiên Chúa, Ngài có toàn quyền trên quỷ dữ, Ngài đến để chấm dứt quyền thống trị của tà thần trên con người. "Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải vâng theo". Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện gây hứng thú và kinh ngạc nơi dân chúng; trái lại, những kẻ chống đối Chúa thì hạch sách Ngài: "Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?" Họ không muốn công nhận những việc Chúa làm, họ mơ ước một Vị Cứu Tinh hùng mạnh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, trong khi đó Chúa Giêsu lại đến để giải phóng con người khỏi quyền lực của ma quỷ và tội lỗi.
Thánh Phêrô đã mời gọi các người đồng hương của ngài: "Thưa đồng bào Israel, xin hãy lắng nghe Chúa Giêsu Nazaret, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Ngài, Thiên Chúa đã cho Ngài làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em như chính anh em đã biết điều đó".
Nguyện cho Lời Chúa hôm nay củng cố niềm xác tín rằng sứ mệnh cứu thế phát xuất từ nơi Chúa và vẫn tiếp tục trong Giáo Hội. Giáo Hội đã lãnh nhận kho tàng đức tin và quyền thánh hóa và giáo huấn từ nơi Chúa. Xin cho chúng ta luôn trung thành với Giáo Hội và sẵn sàng đón nhận giáo huấn của các chủ chăn mà Chúa đã đặt lên hướng dẫn Dân Chúa trên đường tiến về Nước Trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Trong đám cử tọa
Lập tức trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi có can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi hãy xuất khỏi người này!” Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta (Mc. 1, 23-26).
Ngày nay đâu đâu người ta cũng nghe vang lên những lời quảng cáo rùm beng cao rao cho thông điệp của mình. Và quảng cáo nào thì cũng tìm cách nói hay nói tốt cho mình là muốn phục vụ hạnh phúc mọi người. Nghe rồi, có những cái thu phục được lòng tin tưởng của ta, có những cái lại khiến ta ngờ vực. Nhưng là tín hữu xét cho cùng, chúng ta có Lời Chúa trong Phúc âm làm kim chỉ nam, và ta coi đó là chuẩn mực để đo lường phải trái, thực hư. Ta nhìn nhận rằng Lời Chúa là chân lý và uy quyền. Thế nên mỗi ngày ta tụ họp nhau để siêng năng và chăm chú lắng nghe Lời Chúa. Nhưng…
Vấn đề ai là kẻ chân chính đích thực
Trong đám cử tọa, có một người đã biết rõ Chúa Giêsu là ai: “Tôi biết ông là ai rồi”. Anh ta biết rõ Chúa Giêsu là người có uy quyền và ảnh hưởng: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Nhưng cách anh tuyên xưng lại sai lạc; anh biết rõ Người, nhưng anh không phục tùng Người. Anh bài xích, anh đối đầu với Người: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?”
Con người Giêsu này luôn đặt ra vấn đề ai là kẻ chân chính đích thực, và nhất là Người thường đặt ra cho chúng tôi mỗi khi chúng tôi tuyên xưng Thiên Chúa là đấng thánh, mỗi khi chúng tôi hát bài ca Thánh, Thánh, Thánh. Giờ đây chúng ta cũng đang là người trong đám cử tọa … Liệu Chúa sẽ bảo ta câm đi hay sẽ chấp nhận lời ta ca tụng Người?
Những đòi hỏi của sự thánh thiện
Khi Mô-sê được Thiên Chúa tỏ cho ông biết sự thánh thiện của Người, tác giả sách Xuất Hành ghi nhận như sau: “Mô-sê lấy khăn che mặt, vì ông không dám nhìn Chúa” (Xh. 3, 6). Còn tác giả Thánh vịnh khi đặt câu hỏi: “Lạy Chúa, ai sẽ được cư ngụ nơi nhà Chúa?”, liền trả lời rằng: “Chính là người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay… Người không làm ác hại đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận …” (Tv. 15).
Bởi thế ta không thể đến với Thiên Chúa thánh thiện, nếu như ta không tỏ lòng thần phục và kính sợ Người, hay những hành động của ta không được ngay thẳng.
Chúa Giêsu nghĩ gì về lời kinh ca ngợi của tôi?
Nếu Chúa Giêsu có bảo người bị quỷ ám ấy câm đi, thì không phải vì những lời anh ta nói có chi sai lạc, mà bởi vì những lời nói ấy không đi đôi với tâm tình của anh. Ta không thể mở miệng cao rao Thiên Chúa thánh thiện, mà lại là kẻ bài xích Người, hoặc ca bài Thánh Thánh Thánh mà lại chẳng thần phục suy tôn Người. Cũng không thể lấy câu hỏi này: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can chi đến ông?”, mà thay thế cho lời kinh Lạy Cha ta vẫn thường đọc: “Nguyện cho ý Cha thể hiện”.
Suy Niệm 5: GIÁ TRỊ CỦA LỜI CHÚA (Mc 1, 21-28)
Ngày nay, rất nhiều người ham mê đọc sách, nào là sách: kiếm hiệp, truyện tranh, tiểu thuyết, nấu ăn, xã giao... lại có những người thích đọc báo, hết báo này rồi lại đến báo khác, cũng có nhiều người mê xem phim ảnh, lướt web...
Họ thi nhau kể thao thao bất tuyệt những câu chuyện ly kỳ, hấp dẫn “rất new”; và “hot” mới đọc được đây đó.
Thế nhưng, Lời Chúa là lời Hằng Sống, lời Quyền Năng, lời Biến Đổi thì lại chẳng mấy người để ý tới... Hoặc có để ý thì cũng chẳng mấy chốc Lời Chúa đã đi vào dĩ vãng vì họ không yêu mến và giữ Lời Chúa trong lòng.
Phải chăng chúng ta cũng không khác gì những người đương thời với Đức Giêsu, họ thấy những việc Chúa làm, Lời Chúa nói có uy lực, quyền năng thì trầm trồ khen ngợi, nhưng khi bảo hãy thi hành những gì Chúa dạy thì họ viện đủ mọi lý chứng để khước từ.
Mong sao, mỗi người chúng ta hãy yêu mến Lời Chúa, năng đọc và suy niệm Lời Chúa, hầu đem ra thực hành trong cuộc sống. Có thế, chúng ta mới thực sự là người tin và đi theo Chúa, nếu không, chúng ta chẳng khác gì xác không hồn, hay tin và theo Chúa trong sổ Rửa Tội, còn trong thực tế thì không có chất Kitô gì cả!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết được giá trị của Lời Chúa, nhất là biết đón nhận Lời Chúa như lương thực cho linh hồn, để chúng con có đủ sức chống trả trước cám dỗ của Ma Quỷ. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu giảng dạy với uy quyền đến từ Thiên Chúa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một vị Lm nổi tiếng và thánh thiện đã chia sẻ một sự việc mà chính ngài đã gặp và trực tiếp giải quyết: Một anh thanh niên khoảng 30 tuổi, anh hãnh diện mình là cháu một Đức cha, và tự hào bản thân có nhiều khả năng đặc biệt hơn người. Nhân dịp về Bến Tre, anh ra nghĩa trang thách thức ma quỷ nhập vào mình. Ngay từ đêm ấy anh trở thành một người lạ lùng, bị điên loạn, phá phách, gia đình phải đưa vào nhà thương tâm thần Biên Hoà chữa trị nhưng chữa mãi vẫn không hết. Gia đình đem anh về nhà, ban ngày anh uống thuốc an thần liều cao nên ngủ li bì, nhưng ban đêm dù uống thuốc thế nào anh vẫn tỉnh như sáo, phá phách mọi người…
Một hôm gia đình đưa anh lên gặp cha – vị Lm đang chia sẻ câu chuyện trên. Ngài đề nghị anh xưng tội rồi đặt tay cầu nguyện cho anh. Khi cha đặt tay trên đầu anh để cầu nguyện, anh la hét lớn đến nỗi nhiều người ở dưới đường không biết có chuyện khủng khiếp gì xảy ra. Ngay sau đó tâm trí anh được ổn định và sau nhiều lần đặt tay cầu nguyện ma quỷ không còn phá anh nữa… Điều này nhắc nhở ta đừng bao giờ thách thức quỷ ma. Đây chỉ là một sự việc trong các sự việc về quỷ ám và chữa lành những người bị quỷ ám của vị Lm khả kính… Ma quỷ luôn có mặt trong thế giới con người, cuộc chiến với ma quỷ, con người trong thân phận mỏng giòn không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc nếu không có trợ giúp.
Suy niệm
“Đi vào trong hội đường, Chúa Giêsu giảng dạy”, sự hiện diện của Ngài trong hội đường đã khiến cho Satan - thần ô uế đang mai phục trong một anh em phải chường mặt ra và khiếp sợ thét lên: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,23-24).
Thật thế, Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24) như chính miệng của quỷ ma tuyên xưng, “vì là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng được xức dầu, được thánh hiến, và là Con Thiên Chúa” (Kinh Thánh Tân ước 1995:185). Người đã xuất hiện như một ngôn sứ “có uy quyền” (Mc 1,27) và chính uy quyền đó biểu lộ nơi sức mạnh trấn áp “thần ô uế”: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này” (Mc 1,23). Trước lời giảng dạy, và lời truyền cho Satan phải rút lui, “Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người” (Mc 1,22). Ngài giảng dạy không như các ký lục, nhưng Ngài giảng dạy với uy quyền đến từ Thiên Chúa.
Ma quỷ và hoạt động của chúng vẫn luôn hiện hữu trong xã hội ngày nay, chúng tạo vật vô hình, mưu mô, có thật và vẫn còn hoạt động rất mạnh. Nó hành động một cách trực tiếp hoặc qua những sự cám dỗ con người. Riêng trong xã hội Việt Nam hôm nay chúng ta vẫn còn nghe nói và có khi thấy: bùa ngải, thư yểm, nhất là nơi những người buôn bán như ta từng nghe nói: “ngậm ngải tìm trầm” hay “bùa yêu” của một vài người thỉnh về, đó là những thế lực của sự dữ của bóng tối mà Satan làm chủ trói buộc con người.
Chúng ta xin Chúa đến giúp chúng ta khỏi những ách nô lệ của quyền lực bóng tối này như xưa Ngài đã trục xuất chúng ra khỏi người bị quỷ ám trong hội đường lúc Ngài giảng dạy. Theo sự chỉ dẫn của Chúa Giêsu: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy họ sẽ trừ được quỷ” (Mc 16,17; x. Lc 9,1; 9,49; 10,17-20). Bản thân của chúng ta tin mạnh, nhưng đức tin được tuyên tín nơi con người hết sức khiêm tốn phục vụ mọi người và tăng cường sự kết hợp mật thiết với Đức Giêsu Kitô bằng đời sống cầu nguyện (x. Mc 9,29), và bằng cuộc sống chay tịnh (x. Mt 17,14-24).
Ý lực sống: “Xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Ga 17,15).
Suy Niệm 6: Một ngày ở Capharnaum
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu vào hội đường Capharnaum trong ngày hưu lễ để giảng dạy, người ta kinh ngạc về giáo huấn của Ngài. Giao huấn của Đức Kitô mới mẻ vì biểu lộ tình yêu thương vô vị lợi. Ngài dạy dỗ như Đấng có uy quyền vì lời Ngài có sức biến đổi, có sức tiêu diệt thần ô uế. Sự hiện diện của Đức Giêsu làm cho thần ô uế phải tru tréo lên. Mặc dù đối kháng với Thiên Chúa, nhưng ma quỉ cũng phải tuyên xưng Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa và Ngài đã chiến thắng chúng.
2. “Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ”.
Khi giảng dạy, các rabbi Do thái phải dựa theo truyền thống của cha ông chứ không dám có ý kiến riêng; còn Chúa Giêsu thì lấy chính sứ điệp của mình ra giảng dạy, và Ngài dạy một cách xác tín trong tư cách là Đấng Messia.
Chúa Giêsu là bậc Thầy duy nhất hiểu rõ và làm chủ hoàn toàn sứ điệp của Ngài cũng như thấu suốt khả năng thu thập của người nghe những gì hữu ích cho họ trong hoàn cảnh thực tế. Tước vị Thầy đó đã được chính Chúa Giêsu xác nhận với các môn đệ trong bữa tiệc ly :”Các con gọi Ta là Thầy, là Chúa thì thật là đúng : kỳ thực Ta là thế” (Ga 13,13).
3. Kèm theo lời giảng dạy, Chúa Giêsu còn làm một phép lạ chữa một người bị quỉ ám. Phép lạ này chứng minh Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền trên quĩ dữ, Ngài đến để chấm dứt quyền thống trị của tà thần trên con người. Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện gây hứng thú và kinh ngạc nơi dân chúng. Trái lại, những kẻ chống đối Chúa thì hạch sách Ngài :”Ông lấy quyền nào mà làm như vậy” ? Họ không muốn công nhận những việc Chúa làm, họ mơ một Vị Cứu Tinh hùng mạnh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, trong khi đó Chúa Giêsu lại đến giải phóng con người khỏi quyền lực của ma quỉ và tội lỗi.
Nguyện cho Lời Chúa hôm nay củng cố niềm xác tín rằng sứ mệnh cứu thế phát xuất từ nơi Chúa và tiếp tục trong Giáo hội. Giáo hội đã lãnh nhận kho tàng đức tin và quyền thánh hóa và giáo huấn từ nơi Chúa. Xin cho chúng ta luôn trung thành với Giáo hội và sẵn sàng đón nhận giáo huấn của các chủ chăn mà Chúa đã đặt lên hướng dẫn Dân Chúa trên đường tiến về Nước Trời.
4. Thần ô uế, hoặc ma quỉ, là những thiên thần sa ngã, chúng liên kết với Satan để chống lại Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Ngài. Chúng cám dỗ con người phạm tội và gây ra biết bao đau khổ trong đời sống con người. Thế nhưng bất cứ khi nào chúng đối diện với Chúa Giêsu, chúng đều thảm bại. Chúa Giêsu dùng quyền năng của Thiên Chúa để giải thoát con người khỏi sự thống trị của ma quỉ.
Truyện : Chúa có quyền trên quỉ.
Một bé trai hỏi bố :
- Quỉ lớn hơn con không ?
- Lớn hơn.
- Quỉ lớn hơn bố không ?
- Lớn hơn.
- Quỉ lớn hơn Chúa Giêsu không ?
- Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỉ.
Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười :
- Vậy con không sợ quỉ (Góp nhặt).
5. Truyện : Phụng sự cho ai ?
Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo hội, chúng ta cũng có thấy một câu truyện dụ ngôn về một anh chàng khổng lồ muốn đi tìm một người mạnh mẽ nhất để phục vụ.
Truyện kể rằng : có một người không lồ sống tại đất Canaan chán cuộc sống đơn điệu buồn tẻ, chàng muốn phiêu lưu và quyết tìm cho được một người nào mạnh nhất để phục vụ.
Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp, nên xin đi theo hộ vệ cho tướng cướp. Nhưng mỗi lần sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ đến thầy phù thủy làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp mà đi theo thầy phù thủy.
Một hôm, thầy phù thủy đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng khổng lồ bỏ rơi thầy phù thủy đến đứng bên cạnh Thánh giá, để chờ chủ nhân đó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh giá.
Tình cờ anh nghe thấy có tiếng gọi thật nhẹ nhàng. Anh quay lại bắt gặp một cậu bé với đôi má phúng phính và mái tóc óng ánh. Cậu bé nhờ anh chàng này đưa cậu qua khúc sông gần đó. Nhận lời, nhắc cậu bé lên vai, người khổng lồ lội xuống dòng sông đang chảy siết. Nhưng kỳ lạ nước mỗi lúc một dâng cao và chảy mạnh. Cậu bé mỗi lúc một đè nặng trên vai, chống chọi với sông nước để cuối cùng đem cậu bé lên bờ bên kia. Người khổng lồ mới thốt lên :
- Này cậu bé, cậu nặng đến độ tôi tưởng chừng mang cả vũ trụ trên vai.
Cậu bé mỉm cười đáp :
- Ngươi mang Đấng còn hơn cả vũ trụ nữa. Bởi vì chính tôi đã tạo nên cả trời và đất.
Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá.
Thế là chàng khổng lồ kia xin phò tá Vị Chúa Tể trời đất. Chúa dạy rằng : muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang.
Chàng khồng lồ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Christophe, nghĩa là người mang Chúa Kitô trên vai.
Chúng ta đã chọn Đức Kitô là thủ lãnh của đời ta, chúng ta hãy tin theo và phục vụ Ngài. Nếu chúng ta muốn phụng sự Đức Kitô, chúng ta hãy theo gương thánh Christophe, bởi vì trên đời này không còn ai xứng đáng hơn ngoài Đức Kitô để cho ta đi theo phụng sự.
11/01 Các môn đệ đầu tiên.
- Viết bởi Mc 1, 14-20
Các môn đệ đầu tiên.
Thứ Hai tuần 1 thường niên.
"Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng".
LỜI CHÚA: Mc 1, 14-20
Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng".
Ðang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người". Lập tức bỏ lưới, các ông theo Người.
Ði xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Thấy - Gọi - Bỏ - Theo
Suy niệm :
Sau khi chịu phép rửa của Gioan ở sông Giođan
Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải rời bỏ gia đình ở Nadarét,
phải chia tay với người mẹ thân yêu,
phải từ giã nghề nghiệp mà mình đã theo đuổi mấy chục năm trời.
Sau khi nhận Thánh Thần từ trên xuống,
Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải lên đường
dấn thân cho sứ mạng do Cha ủy thác.
Vùng Galilê là vùng Ngài bắt đầu rao giảng Tin Mừng về Nước Trời (c.14).
Ngài mời người ta sám hối và tin vào Tin Mừng mà Ngài rao giảng.(c.15).
Nhưng Đức Giêsu không nghĩ rằng mình có thể tự mình làm mọi sự.
Ngài cần người cộng tác, dù nước Ítraen chỉ là một nước bé nhỏ.
Đức Giêsu đi tìm môn đệ, và Ngài bắt gặp các anh đánh cá nơi hồ Galilê.
Có hai đôi anh em ruột đã lọt vào mắt của Ngài.
Ngài THẤY Phêrô và Anrê đang quăng lưới bắt cá.
“Hãy theo tôi. Tôi sẽ làm các anh thành những kẻ lưới con người” (c. 17).
Đây là một mệnh lệnh nhưng cũng là một lời mời thân thương.
Ngài GỌI họ đi theo Ngài, theo chính con người của Ngài,
chứ không phải theo một lý tưởng hay một chủ nghĩa nào đó, dù là cao đẹp.
Theo Ngài sẽ dẫn đến một thay đổi lớn nơi họ: từ lưới cá đến lưới con người.
Bây giờ con người là mối bận tâm của họ, không phải là cá như xưa nữa.
Đức Giêsu cũng thấy cặp anh em ruột thứ hai là Giacôbê và Gioan.
Họ đang vá lưới trong khoang thuyền với người cha.
Khung cảnh cha con thật êm đềm, tưởng như chẳng gì có thể làm xáo trộn.
Tiếng gọi của Thầy Giêsu vang lên, gây cuộc chia ly.
Bốn anh đánh cá đầu tiên này đã BỎ để dáp lại tiếng gọi của Thầy Giêsu.
Họ đã bỏ chài lưới, bỏ nghề dánh cá, bỏ những thú vui của sông nước.
Hơn nữa họ còn bỏ gia đình, bỏ vợ, bỏ cha, để gắn bó với Thầy Giêsu.
Họ bỏ một giá trị để sống cho một Giá Trị lớn hơn,
bỏ một tình yêu để sống cho một Tình Yêu lớn hơn.
Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về sự đau đớn khi phải từ bỏ như vậy.
Nhưng bỏ chính là để THEO (cc. 18.20).
Theo một Đấng sống không chỗ tựa đầu, và bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn cần những con người dám sống cho người khác,
dám bỏ lại những điều rất quý giá và thân thương,
dám bỏ lại cuộc sống ổn định và ấm êm, tiện nghi và dễ chịu.
Xin cho chúng ta nghe được tiếng gọi thì thầm của Ngài và vui sướng đáp lại.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự :
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: HÃY SÁM HỐI
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
“Thời đã mãn”. Đã hết thời cũ. Gioan Tẩy giả là tiên tri cuối cùng của thời cũ đã bị bắt giam. Hết thời của các trung gian. Nay đến thời mới, thời Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại. Con Thiên Chúa xuất hiện với đầy đủ quyền năng. Người là trưởng tử mọi loài thọ sinh. Người mở đường cho đoàn em đông đảo đi theo Người vào con đường đạt tới vinh quang (năm lẻ).
Khởi đầu một thời kỳ mới đòi phải có con người mới. Hôm nay, khi đầu tiên ngỏ lời với nhân loại, Người kêu gọi đào tạo con người mới bằng 2 phương thế: Sám hối và Tin vào Tin mừng. Sám hối là từ bỏ con người cũ để trở thành người mới. Tin vào Tin Mừng để sống một đời sống mới.
Bốn môn đệ đầu tiên đã thực hành Lời Chúa dậy. Các ngài bỏ con người cũ để đi theo Thiên Chúa. Xưa kia các đệ tử đi theo thầy. Như Anrê và Gioan đã từng là môn đệ của Thánh Gioan Tẩy giả. Chỉ qua trung gian người thầy mới đến với Thiên Chúa. Nay con người mới trực tiếp được Chúa kêu gọi, trực tiếp đi theo Thiên Chúa, đến với Thiên Chúa, sống cùng Thiên Chúa.
Bỏ con người cũ với những lo toan cũ như Phêrô và Anrê. Xưa lo toan về cuộc sống trần gian. Nay lo toan về cuộc sống thiên đàng. Xưa chài lưới để bắt tôm cá. Nay đi qui tụ con người. Xưa bận tâm đến phát triển cuộc sống trần gian với bữa cơm có cá ngon. Nay lo dọn bữa tiệc trên trời.
Bỏ người cũ với những tài sản, địa vị cồng kềnh như Gioan và Giacôbê, có cả lưới và thuyền, có cả cha mẹ và những người làm công, để từ nay sống không cửa không nhà, không kẻ hầu người hạ, không có người thân thích bên mình, để hoàn toàn sống cho Nước Trời, chỉ có Chúa làm gia nghiệp, sống chết cho ơn cứu độ.
Bỏ con người cũ chỉ tin vào loài người như bà Anna. Để hoàn toàn tin vào Thiên Chúa. Quả nhiên Thiên Chúa ban cho bà một người con để sống đời sống mới vui tươi trong Chúa. Người con này là Samuel, Thiên-Chúa-nhận-lời, sẽ chấm dứt thời cũ của Hêli vì các con thầy cả không còn giữ lề luật Chúa. Chính Samuel cũng khởi đầu thời kỳ mới cho lịch sử Israel khi ông tấn phong hai vị vua đầu tiên cho Dân Chúa (năm chẵn).
Xin ban ơn cho con biết sám hối và tin vào Tin Mừng.
Suy Niệm 3: Sám hối và tin vào Tin Mừng
Trong sưu tập về các thánh ẩn tu trong sa mạc, có kể giai thoại như sau: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nguyên một năm ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều riêng, ngày đêm ăn chay, cầu nguyện và đánh tội. Ngày ngày các tu sĩ của cộng đoàn nọ đem thức ăn đến tận căn lều riêng cho từng người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người: một người thì vui vẻ, khỏe mạnh; một người thì ốm o buồn phiền. Cả hai đến trình diện trước Bề Trên cộng đoàn để chờ xem họ có xứng đáng được gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi suốt một năm qua, họ đã suy niệm về những gì.
Người ốm o buồn sầu cho biết:
- Trong năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội đã phạm, từng giây từng phút tôi nhớ đến những hình phạt sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.
Ðến lượt mình, người vui vẻ khỏe mạnh trả lời:
- Suốt một năm qua, từng giây từng phút, tôi hằng cảm tạ Chúa vì đã tha thứ cho tôi: tôi luôn nghĩ tới tình yêu của Ngài.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích trước tâm tình của người vui tươi khỏe mạnh vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca cảm tạ tri ân tình yêu Chúa.
Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Dĩ nhiên, không phải tất cả những vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân, nhưng tất cả đều phải bắt đầu với ý thức về tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Càng ý thức về con người tội lỗi, bất toàn của mình, con người càng cảm nhận được tình yêu của Chúa. Ðó là cảm nhận của vua Ðavít, của thánh Phêrô, của thánh Augustinô và của tất cả các vị đại thánh trong lịch sử Giáo Hội.
Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Chúa Giêsu đã nối kết sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì, nếu không phải là tình yêu Thiên Chúa được thể hiện qua con người Chúa Giêsu Kitô. Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình; sám hối đích thực không dừng lại ở buồn phiền, sợ hãi và thất vọng, mà là ngõ tất yếu dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là vui mừng, hoan lạc.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải qua cuộc sống và nhất là qua cái chết của Ngài, là một người Cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Ðạo mà Chúa Giêsu thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau, nhưng là đạo của Tin Mừng, của tình yêu, của hân hoan và hy vọng. Ðành rằng Thập giá là biểu tượng của Kitô giáo, nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, khổ đau, buồn phiền; trái lại họ luôn được mời gọi để nhìn thấy ánh sáng, hy vọng, tin yêu và sự sống bên kia Thập giá.
Ước gì Lời Chúa hôm nay ban sức sống để chúng ta không bị đè bẹp dưới sức nặng của tội lỗi, của yếu hèn. Xin cho chúng ta luôn tiến bước trong hân hoan và tin tưởng, vì biết rằng Thiên Chúa là Cha yêu thương, không ngừng nâng đỡ và tha thứ cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Chúa Giêsu đi qua, Người gọi các ông.
Người đang đi dọc biển hồ Galilê, thì thấy ông Simon với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ là người đánh cá. Người bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người (Mc. 1, 16-18)
Phúc âm Maccô có một lối văn sống đọng và cụ thể, dùng đối thoại vắn gọn và sắc bén. Câu chuyện kể cũng có một tính cách giản dị. Hiếm có những bài nói và lời giải thich dài dòng. Trái lại, chỉ bằng một từ ngữ, một chi tiết nhỏ thôi, thánh Maccô tạo cho Phúc âm của ngài một sức diễn đạt phong phú mà lại cô đọng lạ thường.
Hôm nay Maccô tóm tắt cả Tin Mừng trong vài tiếng: “Nước Thiên Chúa đã đến gần… Anh em hãy sám hối”. Liền sau đó ngài đưa ra một thí dụ là câu chuyện Chúa gọi các môn đệ đầu tiên. Chúng ta dừng lại suy niệm ở trích đoạn này.
Người liền gọi các ông.
Chúng ta thường nhấn mạnh đến việc các môn đệ đã tỏ ra mau mắn đáp lời Chúa gọi. Thực ra không phải chỉ có sự mau mắn đáp lời, mà tiếng gọi cũng diễn ra mau lẹ: “Đi xa hơn một chút. Người thấy hai ông Gia-cô-bê và Gioan, Người liền gọi các ông”.
Việc Chúa Giêsu đi dọc theo Biển Hồ là dấu chỉ Nước Trời đang hiện diện. Thiên Chúa đi vào vũ trụ, đến với con người như thế, coi như Người đã gióng lên tiếng mời gọi tức thời và khẩn thiết vậy.
Các ông liền đi theo Người.
Người ta không phải chờ đợi sự đáp trả. Cả bốn ông Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đều dấn thân vào một nghề mới. Và thánh Maccô ghi nhận một cách rất tế nhị việc dấn thân đi theo Chúa này có điều đáng giá. Phêrô và Anrê phải bỏ lại chài lưới, dụng cụ sinh sống của các ông, còn Giacôbê và Gioan phải giã biệt người cha, không những các ông phải từ bỏ một tay nghề sẵn có, mà còn tất cả những mối giây liên hệ và tình cảm thân thương nữa.
Dấn thân trở lại với Chúa không chỉ là hành động khác trước, là thực hiện một điều gì khác, mà cũng còn là hướng dẫn con tim và cuộc sống của ta về một bến bờ khác.
Còn chúng ta…
Mỗi ngày có biết bao hoạt động đòi ta phải có sức, có tài. Cùng với mọi người. chúng ta cùng đồng lao cộng tác. Chúa Giêsu đang đi qua, Nước Trời đang hiện diện ngay tại những ven bờ này, và tiếng Chúa gọi vẫn đang vang lên cho mỗi người đang cùng ta chung sức. Đến lượt chúng ta cũng phải xem lại những mối giây liên hệ của ta hầu nối kết với những ai Chúa Kitô đang quan tâm tới.
Suy Niệm 5: DỨT KHOÁT (Mc 1, 14-20)
“Hãy theo Thầy” chính là lời mời gọi đầy yêu thương, trìu mến của Đức Giêsu dành cho các môn đệ. Nhưng sự đáp trả: “Xin theo Thầy” chính là thể hiện thái độ dứt khoát của các ông cũng không kém phần tin yêu với Đấng đã yêu thương mình trước.
Hôm nay, Kinh Thánh thuật lại việc Đức Giêsu đi dọc biển hồ Galilê, Ngài thấy các ông Simon và Anrê đang quăng lưới xuống biển, rồi đi xa hơn chút nữa, Ngài thấy Giacôbê và Gioan đang vá lưới trong thuyền, cùng một mẫu số chung, Ngài cất tiếng mời gọi các ông: “Hãy theo Tôi”. Ngay lập tức, các ông bỏ mọi sự để đi theo Ngài.
Sự dứt khoát của các ông cho thấy họ đã tìm được kho tàng, chân lý, lẽ sống đích thực là chính Chúa. Các ông cũng khám phá ra lý tưởng của cuộc đời. Vì thế, các ông đành mất hết và coi mọi sự là rơm rác so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa của các ông. Từ đây, các ông được sống cùng và sống với Đấng là đường, là sự thật và là sự sống. Thật là hạnh phúc cho bốn môn đệ đầu tiên này!
Đến lượt chúng ta, mỗi người cũng được Chúa gọi rất nhiều lần trong cuộc đời! Ngài gọi chúng ta qua lương tâm, qua các dấu chỉ, qua những sự kiện, biến cố, qua những người này hay người kia...
Ngài mời gọi chúng ta thi hành bác ái, yêu thương người nghèo, từ bỏ con đường tội lỗi, hoán cải, sống công chính và trung thành với đức tin... Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta đã không nhạy bén đủ, hay cũng có những lúc chúng ta không muốn đáp lại lời mời gọi đó và viện cớ đủ mọi lý do để khước từ.
Như vậy, chúng ta không lạ gì khi Lời Chúa hằng ngày vẫn đọc, nhưng Lời ấy không hề ăn nhập gì với cuộc sống của mỗi chúng ta! Và lẽ tất nhiên, chúng ta vẫn trơ trọi như cây không sinh trái mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho tâm hồn chúng con khao khát Chúa, để chúng con nhạy bén nhận ra tiếng Chúa gọi và can đảm đi theo Chúa như các Tông đồ khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu gọi và chọn 4 môn đệ - tông đồ đầu tiên
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Socrate gặp chàng trai trẻ Xenophon lần đầu. Thoạt tiên, ông hỏi chàng có biết ở đâu bán cái này, cái nọ, và ở đâu người ta chế ra vật này, vật kia. Xenophon chỉ cho Socrate những thông tin cần thiết. Rồi Socrate hỏi:
- Anh có biết người ta chế tạo điều lành và nhân đức ở đâu không ?
- Không.
- Vậy anh hãy theo Ta.
Đó cũng là câu của Chúa Giêsu: Hãy theo Ta.
Suy niệm
Trên bước đường rao giảng Tin Mừng, Đức Kitô đã gọi và chọn môn đệ - tông đồ đầu tiên: Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, ông Giacôbê và người em là ông Gioan, Người bảo: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Nghe được tiếng Chúa gọi, các ông đã bỏ lại mọi sự để lên đường bước đi theo Chúa. Tin Mừng ghi nhận lại thái độ của các ông: “Lập tức bỏ lưới, các ông theo Người”. Các ông bỏ chài lưới, bỏ thuyền, bỏ gia đình lại mà “bước theo”. Bước theo Đức Giêsu có nghĩa là dấn thân trọn vẹn vào một cuộc phiêu lưu, cuộc phiêu lưu mà Thầy đang đi.
“Các anh hãy theo Ta”, theo Người, “Ở với Người và để Người sai đi” (x. Mc 3,14). Lời mời gọi gắn bó với Đức Kitô là ánh sáng, là nguồn sống: “Sự sáng thế gian, chính là Ta! Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng nó sẽ có ánh sáng sự sống” (Ga 8,12), và lên đường chia sẻ thao thức của Ngài đem ánh sáng Tin Mừng cứu độ cho mọi tâm hồn, mọi dân tộc khắp cùng trái đất.
Chúa cũng đang thì thầm gọi tôi, gọi bạn, Ngài gọi đích danh tên mỗi người: “Hãy theo Ta”, theo Ngài trước tiên là gắn bó với Ngài, sống thân mật với Ngài như Ngài mời gọi: “Hãy lưu lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9). Có tình yêu, người môn đệ ra đi tiếp nối công trình của Ngài, mang Tin Mừng cứu độ cho anh em.
Ý lực sống: “Hãy theo Thầy”, các tông đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa, con có dứt khoát một phen theo Chúa không ? Chúa phải gọi con mấy lần rồi ? (Đường Hy Vọng, 61)
Suy Niệm 7: Gọi bốn môn đệ đầu tiên
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Nghe tin Gioan bị bắt, Chúa Giêsu trở về Galilê và giảng cho mọi người biết : Nước Chúa đã gần đến. Hãy sám hối và tin theo Người... Và khi đi rao giảng dọc bờ biển, Người gặp ông Simon và anh là Anrê đang thả lưới. Người gọi hai ông theo Người để “lưới người ta”. Và Người cũng gặp ông Giacôbê và em là Gioan đang vá lưới. Người cũng gọi hai ông. Hai ông liền bỏ chài lưới và cha là Giêbêđê mà theo giúp Người.
2. Sự việc Gioan bị tống giam trong ngục đã chấm dứt sứ vụ của ông dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài là :”Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chúa Giêsu đã nối kết sám hối với Tin Mừng. Tin mừng là gì, nếu không phải là tình yêu Thiên Chúa được thể hiện qua con người của Chúa Giêsu Kitô.
Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời”. Chúa nói:”Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa”? (Góp nhặt)
3. Sám hối gồm hai khía cạnh. Khía cạnh tiêu cực là nhìn về dĩ vãng, về quá khứ của cuộc đời mình để xem mình đang sống đúng hay sai, còn thiếu những gì cần bổ khuyết. Sám hối còn mang khía cạnh tích cực là hướng đến tương lai, quyết tâm thay đổi cuộc đời để sống tốt đẹp hơn. Muốn được như vậy thì người sám hối phải biết trở nên khiêm tốn, trở nên bé nhỏ và đặt tất cả niềm tin vào Người Cha Nhân ái là Thiên Chúa tình yêu.
Ngoài ra, sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình; sám hối đích thực không dừng lại ở buồn phiền, sợ hãi và thất vọng, mà là cửa ngõ tất yếu dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là vui mừng, hoan lạc...
4. Chúa Giêsu nhìn sự việc Gioan bị bắt giam bằng cái nhìn siêu nhiên và Người coi đó là sứ vụ dọn đường của Gioan chấm dứt, nên Người khởi sự đi rao giảng Tin Mừng cứu độ, hòng mọi người sẽ được hưởng ơn cứu rỗi.
Để thực hiện chương trình đó, Chúa đã kêu gọi nhiều người đến cộng tác với Người trong công cuộc lớn lao này. Đúng như lời thánh Augustinô đã nói :”Khi dựng nên chúng con, Chúa không cần chúng con, nhưng để cứu rỗi chúng con, Chúa cần chúng con giúp Chúa”. Chúa đã gọi các tông đồ đầu tiên trong hoàn cảnh đời thường như làm nghề chài lưới và ít chữ nghĩa, nhưng Chúa chỉ cần người ta có thiện chí và nhiệt thành theo Chúa. Nên khi gọi bốn tông đồ đầu tiên, thì “Lập tức các ông đã bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mc 1,18).
5. Chúa gọi các môn đệ trong những tình huống khác nhau. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy ơn gọi xem ra thật bất ngờ. Marcô cho thấy họ đang sinh hoạt bình thường (thả lưới), bỗng Chúa đến bất ngờ và gọi các ông, và điều làm cho ta ngạc nhiên là phản ứng của họ : Họ cũng theo Chúa một cách mau mắn , cũng là một bất ngờ không kém :”Họ liền bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mc 1,18). Nghe kêu là đi liền, làm như hai bên đã hẹn hò với nhau trước. Đối với loài người thì thật là bất ngờ, nhưng đối với Thiên Chúa thì không, và người ta gọi đó là Chúa quan phòng.
Cái bất ngờ thứ hai là Thiên Chúa thường chọn những con người mà người đời cho là không mấy hứa hẹn hay không còn hy vọng (Abraham già nua tuổi tác), không mấy khả năng (những môn đệ đầu tiên là những người chài lưới), không mấy tốt lành (Matthêu là ngươi thu thuế). Hình như Thiên Chúa không theo tiêu chuẩn của loài người: chọn những người có tài có đức, có triển vọng tương lai. Việc Chúa làm thật bất ngờ !
6. Truyện: Chúa làm những việc không thể ngờ.
Trong dịp lễ nhậm chức của Đức Tổng Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, người ta đọc được bài thơ này :
Khi Thiên Chúa cần một người cha cho dân của mình, Người chọn một cụ già. Thế là Abraham đứng lên.
Thiên Chúa cần một người phát ngôn, Người lại chọn một anh chàng vừa nhút nhát vừa có tật nói ngọng. Thế là Maisen đứng lên.
Thiên Chúa cần một thủ lãnh để hướng dẫn dân của mình, Người lại chọn một người thanh niên nhỏ nhất và yếu nhất trong nhà. Thế là Đavít đứng lên.
Thiên Chúa cần một tảng đá làm nền cho ngôi nhà Giáo hội, Người đã chọn một anh chối đạo. Thế là Phêrô đứng lên.
Thiên Chúa cần một khuôn mặt để diễn tả tình Người cho nhân thế, Người lại chọn một cô gái điếm. Đó là Maria Madalena.
Thiên Chúa cần một chứng nhân để hô vang sứ điệp của mình, Người lại chọn một kẻ bắt đạo. Đó là Phaolô gốc thành Tarsô.
Thiên Chúa cần một ai đó để dân Người được qui tụ và đi đến với những người khác,
Người đã chọn ngươi. Cho dù run sợ, lẽ nào ngươi không đứng lên đáp lại lời Người.
10/01 Con yêu dấu của Cha
- Viết bởi Mc 1, 6b-11
Con yêu dấu của Cha.
Chúa Nhật CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA năm B.
"Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha".
Lời Chúa: Mc 1, 6b-11
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Gioan rao giảng rằng: "Có Ðấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần."
Và đã xảy ra là trong những ngày đó, Chúa Giêsu từ Nadarét xứ Galilêa đến và chịu phép rửa bởi Gioan ở sông Giođan. Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA – Năm B
Lời Chúa: Is 42,1-4.6-7; Cv 10,34-38; Mc 1, 7-11
Suy niệm 1: Thần Khí ngự xuống
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Có ai ngờ được trong số những người xếp hàng
chờ đến phiên mình được chịu phép rửa của Gioan
lại có Đức Giêsu, Đấng thánh thiện và cao cả,
Đấng mà Gioan tự nhận không đáng cởi giày cho Ngài?
Tại sao Đức Giêsu lại chịu phép rửa của Gioan?
Ngài có phạm tội và cần xưng thú không? (Mc 1, 5)
Ngài có cần sám hối để được ơn tha thứ không?
Chúng ta tin Đức Giêsu là Đấng hoàn toàn vô tội,
nên việc Ngài chịu phép rửa hẳn phải có một ý nghĩa.
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân,
chúng ta hiểu được thế nào là liên đới với người khác.
Đức Giêsu đứng chìm trong đám đông.
Con Thiên Chúa làm người
đã không ngại che khuất sự cao sang thánh thiện của bản thân
để dìm mình xuống cùng một dòng nước với họ.
Đấng Cứu Độ lại sống như người cần được cứu độ.
Ngài muốn đi xuống tận đáy vực thẳm của chúng ta
để nâng chúng ta lên với Ngài.
Chỉ tình yêu mới giúp ta hiểu được mầu nhiệm
nơi dòng sông Giođan hôm ấy.
Ngôi Lời làm người chính là để liên đới với loài người.
Ngài đã liên đới với người nghèo ở Bêlem,
với những người lao động ở Nagiarét.
Liên đới khi chịu phép rửa
chỉ là khúc dạo đầu cho sứ vụ tông đồ sau này.
Ngài đã bị mang tiếng là tay ăn nhậu,
bồ bịch với quân thu thuế và tội lỗi (Lc 7,34).
Cuối cùng Ngài đã chết như một tử tội giữa hai tên trộm cướp.
Thánh Phaolô đã viết một câu thật kinh khủng:
"Đấng chẳng hề biết tội là gì
thì Thiên Chúa đã làm cho Ngài thành tội vì chúng ta."
Liên đới với những người sống ngoài lề xã hội và tôn giáo
chính là để đưa họ vào thế giới nồng nàn tình yêu,
thế giới của con người và thế giới của Thiên Chúa.
Trong môi trường chúng ta đang sống,
chỗ nào cũng có những người bị bỏ rơi vì thiếu may mắn,
vì bị chà đạp hay bị ngã sa.
Liên đới là đứng chung với họ, chia sẻ một số phận.
Liên đới cũng là nói thay cho người khác
tiếng nói của lẽ phải, sự thật và công bình.
Cần nhiều khiêm tốn và can đảm
để dám sống và chết vì liên đới như Đức Giêsu.
Sau phép rửa, Đức Giêsu được Thánh Thần ngự xuống.
Ngài biết đã đến lúc mình được Cha sai đi vào đời,
kết thúc hơn ba mươi năm âm thầm ở Nagiarét.
Nhờ phép rửa trong Ba Ngôi,
chúng ta đã trở nên con cái dấu yêu của Thiên Chúa,
nhưng chúng ta có ý thức về ơn gọi lên đường không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Để sống liên đới với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị kỳ thị, theo ý bạn, điều đó có khó không? Bạn có kinh nghiệm nào trong việc bênh vực một người cô thế?
Đức Giêsu đã khiêm tốn dìm mình trong sông Giođan trước khi đi rao giảng Nước Thiên Chúa. Theo ý bạn, chúng ta có cần dìm mình trong dòng truyền thống dân tộc trước khi đi truyền giáo không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên
điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
2. Khúc dạo đầu tình yêu
(Suy niệm của Thiên Phúc – “Như Thầy Đã Yêu”)
Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Cả cộng đoàn đều thắc mắc khi thấy vị kinh sư của mình tuần nào cũng biến đâu mất vào hôm trước ngày Sabat. Họ nghĩ rằng ông bí mật đi gặp Đấng Tối Cao. Vì thế, họ cử một người theo dõi ông.
Và đây là điều người ấy chứng kiến. Vị kinh sư hóa trang bằng cách ăn mặc như một dân quê, đến phục vụ một bà già thuộc dân ngoại trong căn lều tồi tàn của bà. Ông quét dọn và nấu ăn cho bà trong ngày Sabat.
Khi thám tử trở về, cộng đoàn hỏi:
- Kinh sư đi đâu? Ngài lên trời phải không?
Người kia đáp:
- Không, Ngài còn lên cao hơn cả Trời nữa.
+ + +
Có ai ngờ vị kinh sư lại âm thầm đến với người đàn bà ngoại đạo, nghèo hèn để chăm sóc bà trong ngày Sabat? Có ai tin được Đức Giêsu, Đấng thánh thiện cao cả, lại xin Gioan làm phép rửa cho?
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là Tình yêu.
Chỉ có Tình yêu mới giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm nơi dòng sông Giođan.
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Con Thiên Chúa tự che khuất sự cao sang thánh thiện, để dìm mình trong phép rửa "thống hối".
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Đấng Cứu Độ sống như người cần được Cứu Độ.
Phép rửa hôm nay chỉ là khúc dạo đầu của bản trường ca Tình yêu. Để rồi vì yêu thương, từ đây Con Thiên Chúa sẽ bị người đời liệt vào: "Tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi" (Lc 7,34). Bị người nhà coi là "kẻ mất trí". Bị xua đuổi ra khỏi thành. Bị lên án như một tội nhân. Và bị chết treo giữa những tên trộm cướp. Đến nỗi thánh Phao lô đã phải thốt lên: "Đấng chửng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta".
Đức Giêsu gọi cuộc thương khó của Người là một "phép rửa". Người trầm mình trong đau khổ để mang lại Ơn Cứu Độ cho mọi người: "Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất" (Lc 12,50).
Qua bí tích rửa Tội, chúng ta đã trở nên các kitô hữu, "con cái yêu dấu" của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi đi loan báo Tin vui cứu độ, rằng Thiên Chúa yêu thương con người. Chúng ta được mời gọi đặc biệt để mang Tình yêu Chúa đến cho những người cùng khổ, những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị sa ngã trong tội. Martin Luther King có nói: "Hãy yêu thương mọi người đừng vì thiện cảm; cũng không vì cách sống của họ dễ mến, dễ thương. Nhưng vì chính Thiên Chúa ở trong họ". Nếu chúng ta chờ cho họ trở nên đáng yêu rồi mới yêu họ, chúng ta sẽ phải chờ suốt đời. Chính khi được yêu mà họ sẽ trở nên đáng yêu.
Trong biển đời mênh mông này, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn hướng xấu, chúng ta chớ cho rằng mình đã hiểu tới chân tơ kẽ tóc một ai đó. Cứ nghe theo trái tim mách bảo mà quảng đại trao ban.
Zundel viết: "Đừng để ai trong những người anh em của chúng ta có thể phàn nàn, rằng họ chửng gặp được lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi chúng ta".
+ + +
Lạy Chúa, Chúa đã nên bạn đồng hành với thân phận mỏng dòn yếu đuối của chúng con, xin cho chúng con cũng biết đem Tình yêu cao cả nồng ấm của Chúa đến cho anh chị em chúng con. Amen.
3. Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa hôm nay kết thúc mùa Giáng sinh và dẫn chúng ta vào ngưỡng cửa đời sống công khai của Ngài. Lời Chúa trình bày Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha, được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Messia – Đấng cứu thế – nhưng muốn liên đới với loài người tội lỗi. Đây cũng là tấm gương cho chúng ta: chúng ta cũng đã chịu phép rửa trong Chúa Thánh Thần, vậy chúng ta hãy cố gắng sống như những đứa con hiếu thảo của Thiên Chúa và tham gia vào sứ mạng loan Tin Mừng của Đức Giêsu.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta đã lãnh nhận phép rửa. Nhưng chúng ta có sống như những người con hiếu thảo của Thiên Chúa không?
Chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Nhưng chúng ta có quan tâm đến sứ mạng loan báo Tin Mừng cho anh em chúng ta không?
Chúng ta có luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần không?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc 1: Is 42,1-4.6-7
Đây là bài thứ nhất trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ trong sách Đệ nhị Isaia.
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là một vị vua hòa bình có sứ mạng "lập giao ước" giữa Thiên Chúa với dân Ngài.
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là "ánh sáng của chư dân", làm cho muôn dân biết rằng Thiên Chúa là Chúa duy nhất, đấng sáng tạo vũ trụ và sẵn sàng cứu độ mọi người chứ không riêng gì người do thái.
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa "sẽ xét xử chư dân", nghĩa là Ngài sẽ chấm dứt sự đối đầu từ trước tới nay giữa Thiên Chúa của Israel với các thần của các dân ngoại. Từ nay mọi người sẽ biết rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, còn các thần của các dân ngoại chỉ là đồ hư vô.
Vì được Thánh Thần ngự trên mình, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là Đấng mạnh mẽ và sẽ chiến thắng mọi kẻ thù. Nhưng Ngài không thích dùng bạo lực, trái lại Ngài yêu thương cứu vớt những kẻ tội lỗi yếu đuối, "không lớn tiếng", "không bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét".
Tất cả những nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Đức Giêsu.
2. Đáp ca: Tv 28
Tv này ca tụng Thiên Chúa là chủ tế các quyền lực thiên nhiên như sóng nước, thuỷ triều, sấm sét v.v. Hôm nay, tiếng của vị chủ tể thiên nhiên ấy công nhận Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài.
3. Tin Mừng: Lc 3,15-16.21-22
Đoạn Tin Mừng này gồm hai phần:
Phần đầu (cc 15-16): dân chúng tưởng Gioan tẩy giả là Đấng Messia. Nhưng Gioan xác định ngay ông không phải. Mặc dù ông làm phép rửa nhưng chỉ bằng nước; Đấng Messia thật sẽ đến sau ông nhưng cao trọng hơn ông, Ngài sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.
Phần sau (cc 21-22): Đức Giêsu đến lãnh nhận phép rửa của Gioan. Đang khi đó thì trời mở ra, Thánh Thần lấy hình chim câu ngự xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán xuống "Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra con".
4. Bài đọc 2: Cv 10,34-38
Bối cảnh: Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Thánh Phêrô đã rửa tội cho ông Cornêliô, một người rôma. Đây là một hành động có tính cách mạng vì từ trước tới nay các tông đồ chưa từng nghĩ đến việc cho người không Do Thái gia nhập Giáo Hội.
Trong bài nói chuyện trước những người Do thái, Thánh Phêrô đã giải thích cho họ biết tại sao ông làm vậy: "Thiên Chúa không thiên tư tây vị… ai kính sợ Ngài và thực thi công chính đều được Ngài đón nhận". Phêrô còn chứng minh rằng chính Đức Giêsu đã theo đường lối ấy kể từ lúc Ngài chịu phép rửa ở sông Giođan.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Lễ tấn phong
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày việc Đức Giêsu chịu phép rửa như một nghi lễ tấn phong: đang khi Thánh Gioan tẩy giả dìm Đức Giêsu trong dòng nước sông Giođan thì ở phía trên trời mở ra, có Chúa Thánh Thần lấy hình chim câu đáp xuống, và có tiếng Chúa Cha từ trời long trọng công bố "Con là con yêu dấu của Cha. Con đẹp lòng Cha". Theo tin tưởng của người do thái, ngày một ông vua được tấn phong cũng là ngày ông được làm Con của Thiên Chúa (thiên tử). Hôm nay Thiên Chúa công nhận Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài, tức là Thiên Chúa tấn phong Ngài làm Messia, Đấng cứu thế.
Tuy nhiên nếu ta đọc kỹ bản văn Tin Mừng thì sẽ thấy Đấng cứu thế này có vài nét đặc biệt không như người ta vẫn tưởng:
Thứ nhất: Ngài đang ở chung với những kẻ tội lỗi xếp hàng chờ được Gioan Tẩy giả làm phép rửa. Như thế Đức Giêsu tuy là một Đấng cứu thế nhưng không tách biệt với những kẻ phàm tục tội lỗi, mà lại hòa mình với họ.
Thứ hai: tiếng Chúa Cha từ trời gọi Ngài là "Con yêu dấu". Đây là lặp lại câu của Abraham ngày xưa nói với Isaac con yêu dấu của ông. Khi đó Abraham đã già nhưng chỉ có mỗi một đứa con. Để thử lòng ông, Thiên Chúa bảo ông phải đem Isaac đi giết để tế lễ cho Ngài. Abraham thương con lắm nhưng phải vâng lời Thiên Chúa. Ông bảo Isaac vác một bó củi, phần ông thì dấu một con dao trong áo. Hai cha con lên núi chọn chỗ tốt để tế lễ. Isaac ngây thơ hỏi "Củi thì đã có sẵn nhưng lễ vật thì ở đâu?" Câu hỏi ngây thơ của đứa con làm cho lòng Abraham đau như cắt. Nhưng ông đáp "Con yêu dấu ơi. Chúa sẽ lo liệu". Trong chuyện xưa, "con yêu dấu" là cậu bé Isaac sắp bị giết chết làm lễ tế cho Thiên Chúa. Trong đoạn Tin Mừng này, "Con yêu dấu" là chính Đức Giêsu. Ngài cũng sẽ giống như Isaac xưa, sẽ bị giết chết để làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa chuộc tội cho loài người.
Như thế ngày Đức Giêsu chịu phép rửa là ngày Ngài được tấn phong làm Đấng cứu thế dùng chính cái chết của mình để cứu chuộc loài người tội lỗi.
* 2. "Cha hài lòng về con"
Đức Giêsu làm gì mà khiến Chúa Cha hài lòng? Lúc đó Đức Giêsu đang chịu phép rửa bởi tay Gioan Tẩy giả trong dòng sông Giođan. Mà phép rửa của Gioan là một nghi thức dành cho người tội lỗi để bày tỏ lòng sám hối. Đức Giêsu không cần phải bày tỏ lòng sám hối bởi vì Ngài không có tội. Vậy mà Ngài chịu phép rửa như một tội nhân. Ngài làm như thế là theo ý muốn của Chúa Cha. Một người con không thể làm gì cho cha mình hài lòng bằng làm theo ý Cha và đúng y như ý Cha muốn. Tóm lại Chúa Cha hài lòng vì thấy Đức Giêsu làm theo ý mình, mặc dù làm như thế thì Đức Giêsu phải hạ mình.
Nhờ thông phần với Đức Giêsu, tôi cũng được nhận làm "con" của Chúa Cha. Nếu tôi muốn cho Cha hài lòng, tôi cũng phải luôn làm theo ý Cha, và tôi phải hạ mình sống khiêm tốn.
3. Tác động của Chúa Thánh Thần
Trong biến cố chịu phép rửa, Đức Giêsu đã được Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên mình, và được tấn phong làm Đấng Messia.
Trong chuyện hồng thuỷ ngày xưa, chim bồ câu là hình ảnh tiên báo cảnh thái bình. Hôm nay Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Đức Giêsu cũng cho biết Ngài là Đấng cứu thế mang lại thái bình cho loài người.
Thật vậy, như bài đọc I mô tả, Đức Giêsu là một Người Tôi tớ hiền dịu "không lớn tiếng", "không bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét". Phần thánh Phêrô thì khẳng định trong bài đọc II: "Ngài đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám".
Tác động của Chúa Thánh Thần ngày nay cũng thế: bình an, dịu dàng, chữa lành, ban sự sống mới…
4. Thời điểm quyết định trong đời
Nhiều người đã thay đổi hẳn cuộc đời vì một thời điểm quyết định. Thời điểm đó giống như lúc ta đi đến một ngã tư và phải chọn một trong 4 hướng để tiến tới.
Đó là thời điểm mà tâm trí ta được soi sáng đặc biệt. Nếu ta đáp lại thì đời ta sẽ vươn lên, đồng thời kéo theo nhiều người khác cũng vươn lên. Nhưng nếu ta bỏ qua thì cơ may có thể không bao giờ trở lại.
Thời điểm ấy có thể đến một cách đột ngột. Như trường hợp của Matt Talbot, một người nghiện rượu, ngày nào cũng say bí tỉ. Một hôm anh đứng trước quán rượu chìa tay xin tiền những người qua lại mà anh nghĩ là bạn bè thân thuộc. Nhưng mọi người đều đi qua, chẳng ai cho anh một xu. Trong giây phút ấy, giống như những vảy cá trong mắt anh bỗng rơi xuống, anh chợt nhận thức rằng mình đang phá hỏng đời mình. Thế là anh quyết định bỏ rượu và cố gắng nhờ ơn Chúa để trở thành một vị thánh.
Thời điểm ấy cũng có thể đến từ từ. Như trường hợp của Mẹ Têrêxa. Mẹ đang làm việc trong một trường nội trú của những nữ sinh con nhà khá giả ở Calcutta. Nhưng lòng mẹ luôn ray rứt vì thường nhìn thấy những người nghèo nắm vất vưỡng trên những hè phố. Thế là một hôm, Mẹ quyết định đi phục vụ những người nghèo ấy. Từ đó trở đi, tên "Mẹ Têrêxa Calcutta" trở thành điển hình cho việc hiến thân phục vụ những kẻ bị bỏ rơi.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại thời điểm quyết định của cuộc đời Đức Giêsu, đó là khi Ngài lãnh nhận phép Thanh tẩy. Trước đó Ngài sống một cuộc sống tương đối bình lặng của một người thợ mộc làng Nadarét. Nhưng khi nhận phép rửa, Ngài đã nghe một tiếng nói từ trời cao, gọi Ngài làm một việc khác quan trọng hơn. Từ đó trở đi Ngài giã từ nếp sống cũ, bắt đầu cuộc sống mới chuyên lo rao giảng Tin Mừng và cứu chữa mọi người.
Tất cả chúng ta cũng đều lãnh nhận Phép Rửa. Đó phải là thời điểm quyết định của cuộc đời chúng ta, bởi vì khi lãnh nhận phép rửa là chúng ta lãnh nhận một cuộc sống mới (Bài đọc I), trong Phép Rửa chúng ta trở thành môn đệ Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi chiến đấu chống lại sự dữ và yêu thương anh em mình (Bài đọc II). Tuy nhiên vì khi đó chúng ta chưa ý thức đủ nên cuộc đời chúng ta không đổi thay được gì mấy.
Hôm nay chúng ta hãy ý thức lại thời điểm quan trọng ấy để thay đổi cuộc đời, sống đúng theo ơn gọi của người Kitô hữu (Viết theo Flor McCarthy)
5. Khúc dạo đầu tình yêu
Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Cả cộng đoàn đều thắc mắc khi thấy vị kinh sư của mình tuần nào cũng biến đâu mất vào hôm trước ngày Sabat. Họ nghĩ rằng ông bí mật đi gặp Đấng Tối Cao. Vì thế, họ cử một người theo dõi ông.
Và đây là điều người ấy chứng kiến. Vị kinh sư hóa trang bằng cách ăn mặc như một dân quê, đến phục vụ một bà già thuộc dân ngoại trong căn lều tồi tàn của bà. Ông quét dọn và nấu ăn cho bà trong ngày Sabat.
Khi thám tử trở về, cộng đoàn hỏi:
- Kinh sư đi đâu? Ngài lên trời phải không?
Người kia đáp:
- Không, ngài còn lên cao hơn cả trời nữa.
****
Có ai ngờ vị kinh sư lại âm thầm đến với người đàn bà ngoại đạo, nghèo hèn để chăm sóc bà trong ngày Sabat? Có ai tin được Đức Giêsu, Đấng thánh thiện cao cả, lại xin Gioan làm phép Rửa cho?
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu.
Chỉ có Tình yêu mới giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm nơi dòng sông Giođan.
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Con Thiên Chúa tự che khuất sự cao sáng thánh thiện, để dìm mình trong phép rửa "thống hối".
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Đấng Cứu độ sống như người cần được Cứu độ.
Phép Rửa hôm nay chỉ là khúc đạo đầu của bản trường ca Tình yêu. Để rồi vì yêu thương, từ đây Con Thiên Chúa sẽ bị người đời liệt vào: "Tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thế và phường tội lỗi" (Lc.7,34). Bị người nhà coi là "kẻ mất trí". Bị xua đuổi ra khỏi thành. Bị lên án như một tội nhân. Và bị chết treo giữa những tên trộm cướp. Đến nỗi thánh Phaolô đã phải thốt lên: "Đấng chẳng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta".
Đức Giêsu gọi cuộc thương khó của Người là một "phép rửa". Người trầm mình trong đau khổ để mang lại Ơn Cứu Độ cho mọi người: "Thầy còn một phép rửa phải chịu, lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất" (Lc.12,50).
Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở nên các Kitô hữu, "Con cái yêu dấu" của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi đi loan báo Tin Vui cứu độ, rằng Thiên Chúa yêu thương con người. Chúng ta được mời gọi đặc biệt để mang Tình yêu Chúa đến cho những người cùng khổ, những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị sa ngã trong tội. Martin Luther King có nói: "Hãy yêu thương mọi người đừng vì thiện cảm; cũng không vì cách sống của họ dễ mến, dễ thương. Nhưng vì chính Thiên Chúa ở trong họ". Nếu chúng ta chờ cho họ trở nên đáng yêu rồi mới yêu họ, chúng ta sẽ phải chờ suốt đời. Chính khi được yêu mà họ sẽ trở nên đáng yêu.
Trong biển đời mênh mông này, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn xấu, chúng ta chớ cho rằng mình đã hiểu tới chân tơ kẻ tóc một ai đó. Cứ nghe theo trái tim mách bảo mà quảng đại trao ban.
Zundel viết: "Đừng để ai trong những người anh em của chúng ta có thể phàn nàn, rằng họ chẳng gặp được lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi chúng ta".
****
Lạy Chúa, Chúa đã nên bạn đồng hành với thân phận mỏng dòn yếu đuối của chúng con, xin cho chúng con cũng biết đem Tình yêu cao cả nồng ấm của Chúa đến cho anh chị em chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
6. Hòa đồng với những người tội lỗi
Mahatma Gandhi không phải là một kitô hữu, nhưng ngài là một trong những người đã sống giống Đức Kitô nhất trong thế kỷ của ngài.
Gandhi kiên quyết chống lại hệ thống phân biệt giai cấp ở Ấn độ. Ngài gọi đó là "một vết nhơ trong linh hồn nước Ấn độ". Ngài đặc biệt ghê tởm cách người ta đối xử với những người "không nên đụng tới", tức là những người không được xếp vào giai cấp nào cả trong xã hội: họ không được vào các đền thờ; nếu sống ở thành thị, họ bị buộc phải ở trong những khu ổ chuột; nếu sống ở thôn quê, họ bị cấm không cho sử dụng những giếng nước công cộng; về việc làm, họ chỉ được làm những việc thấp hèn với đồng lương rất thấp.
Vì là một nhân vật nổi tiếng khắp Ấn độ nên Gandhi đi đến đâu cũng được mọi người tiếp rước nồng hậu. Khi ngài vào một làng nào thì ông trưởng làng mời ngài đến trọ tại nhà ông ta với đầy đủ thức ăn thức uống và mọi tiện nghi dễ chịu. Nhưng Gandhi luôn từ chối một cách lịch sự. Ngài hỏi: "Những người 'không nên đụng tới' ở đâu vậy? Tôi muốn trọ tại nhà họ". Và quả thực ngài đã đến với những người ấy, ở với họ, ăn uống với họ, chơi đùa với con cái họ. Có lần ngài còn nói: "Tôi không thể được sinh ra lần nữa. Nhưng nếu có thể thì tôi muốn sinh ra giữa những người 'không được đụng tới', vì nhớ đó tôi mới có thể giải phóng họ và chính bản thân tôi khỏi cuộc sống khốn khổ". Tóm lại Gandhi đã quên thân phận mình để hòa đồng với những người khốn khổ hầu có thể giải phóng họ.
Hôm nay Đức Giêsu xếp hàng chung với những kẻ khốn khổ để chờ được Gioan làm phép thanh tẩy. Ngài đã quên thân phận mình để hòa mình với những kẻ khốn khổ. Những kẻ khốn khổ ấy là những người tội lỗi, những người nghèo, những người bệnh tật, những kẻ bị xã hội coi khinh. Họ là thành phần đa số trong xã hội Palestina thời đó. Đức Giêsu không tách riêng ra, Ngài không đứng bên lề, không chờ họ đến với Ngài, mà đích thân tìm đến với họ và ở giữa họ.
Chính Chúa Cha từ trời đã vừa ý với sự chọn lựa ấy, nên đã phán: "Con là con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về con" (Viết theo Flor McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa của thánh Gioan Tiền Hô, rồi được Chúa Cha tỏ lòng sủng ái, và được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Cứu độ muôn dân. Chúng ta hết lòng cảm tạ và dâng lời cầu xin:
1. Xin cho mọi người đã được Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong làm Kitô hữu/ luôn sẵn sàng cộng tác với Hội thánh để đem ơn cứu độ đến cho thế giới.
2. Xin cho mọi người lương thiện đang kiếm tim hạnh phúc thật/ được gặp thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu độ/ và là Đường dẫn tới hạnh phúc thật.
3. Xin cho mọi người đang băn khoăn đau khổ trước cuộc sống đầy bất công và bất hạnh/ biết mở rộng tâm hồn để đón nhận ơn ban của Chúa Thế giới.
4. Xin cho mọi người trong cộng đồng xứ đạo chúng ta đã lãnh nhận bí tích Thêm sức/ luôn nhớ thi hành sứ vụ truyền giáo cho những người chung quanh mình.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đã được Rửa tội và được Thêm sức trong Đức Giêsu Kitô và Thánh Thần của Người để được làm con cái Chúa, xin cho chúng con luôn sống xứng đáng người con yêu của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô...
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta cũng được thanh tẩy trong cùng một Thánh Thần như Đức Giêsu và cũng được làm Con yêu dấu của Chúa Cha. Giờ đây, chúng ta hãy cùng với Đức Giêsu dâng lên Thiên Chúa là Cha những tâm tình con thảo của chúng ta.
Trước lúc rước lễ: Thánh lễ là một bàn tiệc, con cái và cha mẹ quây quần bên nhau trong cùng một bàn ăn. Chúng ta được chia xẻ thân phận làm con của Đức Giêsu nên cũng được mời dự bữa tiệc thánh này. "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa"
VII. Giải tán
Chúng ta đã được thanh tẩy trong Đức Giêsu và được tuyển chọn bởi Chúa Thánh Thần để đem Tin Mừng đến cho mọi người. Chúng ta hãy ra đi thi hành sứ mạng cao cả ấy. Chúc anh chị em bình an.
4. Con chí ái của Cha - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
“Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân” – Mỗi ngày nên mới, ngày ngày nên mới, ngày tới phải nên mới. Đây là câu tâm niệm của vua Thành Thang khắc trên bồn tắm. Vua cho rằng: Người ta phải gội rửa con tim cho sạch tội nhơ như thân xác phải tắm rửa hàng ngày (Sách Đại Học, I, 1).
Bất cứ ai lương thiện đều cần thiết phải gột rửa tâm hồn hàng ngày. Chẳng ngày nào mà không có lỗi.
Gioan Tẩy giả dù sống trong rừng vắng cũng thấy rõ đời sống con người chồng chất tội nhơ. Sao con người dám đón mừng Đấng Cứu Thế đến! Ông đã quyết tâm từ giã hoang địa, đi rảo khắp miền sông Hòa Giang, hô hào dân chúng sám hối, xuống sông thanh tẩy mình dưới giòng nước trong lành. Từ tẩy sạch thân xác cho mát mẻ, họ sẽ thấm sâu ý nghĩa thanh tẩy tâm hồn để được ơn lành mạnh, thánh thiện của Đấng Cứu Thế đến ban cho họ. Gioan đang làm phép rửa và hô hào như thế, không ngờ, Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế đã khiêm tốn ẩn mình trong đám đông dân chúng đến dìm mình dưới sông cho ông thanh tẩy. “Khi Người vừa lên khỏi nước, các tầng trời mở tung ra, Thánh Thần tựa như chim câu ngự xuống trên Người và từ trời có tiếng phán rằng: “Con là Con chí ái của Cha, Cha rất hài lòng về Con”.
Thật kinh ngạc, hôm nay Người đến thánh hóa giòng nước nhờ thân xác chí thánh của Người và nhờ Thánh Thần từ trời xuống trên Người. Chính nước thánh Người ban mới có sức thiêng liêng thanh tẩy tâm hồn vô hình được hoàn toàn trở nên trong sạch, tẩy trừ mọi vết nhơ tội lỗi, cho ta xứng đáng trở nên con yêu dấu của Chúa Cha.
Thế nhưng, người nông nổi bảo: Nước nào cũng thế thôi. Đại tướng Naaman cũng nghĩ thế khi tiên tri Êlisê bảo ông đến tắm nước sông Hòa Giang bảy lần thì khỏi bệnh phong cùi. Ông đã tức giận nói: Nước sông ở nước ta không sạch hơn nước sông ở Israel sao? Ông giận dữ đã bỏ về. Thuộc hạ đã can ông rằng: “Nếu tiên tri bảo đại tướng làm những kỳ công để khỏi bệnh, đại tướng còn làm. Huống chi một việc dễ như vậy, sao đại tướng không làm?”. Naaman đã nghe và xuống sông tắm, da ông được sạch và đẹp đẽ như da trẻ thơ. (2V. 5).
Nước suối Lộ Đức đã làm cho hàng ngàn bác sĩ phải kinh ngạc. Nước đó cũng giống như bao nhiêu nước suối khác. Nhưng với lòng tin, ơn Chúa đã ban cho bao nhiêu bệnh nhân được khỏi bệnh thân xác và tâm hồn một cách lạ lùng, như trường hợp cơn bệnh của nhà bác học nổi tiếng: Bác sĩ Alexis Carrel. Năm 1947, cô Marie Ferrand bị bệnh lao ruột, cả Hội đồng bác sĩ ở Paris khám bệnh đều chắc chắn cô sắp chết. Nhưng cô đã xin được đến tắm suối Lộ Đức. Bác sĩ Carrel đã đi theo để xem xét cô cẩn thận và khuyên không nên cho cô tắm suối vì sẽ chết khi chưa xuống tới suối. Tuy nhiên, để làm vui lòng bệnh nhân, người ta đưa cô xuống tắm nước suối. Thật lạ lùng, cô Marie đã khỏi. Bác sĩ Carrel lấy bút ghi ngay vào tay áo: “2g40 thật bất ngờ, một phép lạ mới xảy ra”. Nước suối với lòng tin mạnh mẽ của cô, cô được khỏi bệnh đã làm cho nhà khoa học vô thần Carrel trở lại, chịu phép Rửa tội Công giáo. Còn bao nhiêu nhà vô thần vị vọng khác đã được khỏi chết đời đời, nhờ một thứ nước thiêng, lạ lùng hơn nước suối Lộ Đức là nước thánh Rửa tội, nước bởi nguồn yêu thương của Thánh Thần chảy ra từ cạnh sườn và trái tim Đức Giêsu Kitô. “Ai không sinh bởi nước và Thánh Thần thì chẳng được vào nước Trời” (Ga. 3, 5).
Mỗi người chúng ta đều được nước thánh ấy đổ trên đầu nhân danh Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Đấy là một công trình tạo dựng mới, một cuộc phục sinh trong Chúa Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại để sống trong sự sống của Chúa Ba Ngôi. Sự sống ấy đầy tràn sức mạnh của Chúa Thánh Thần qua việc xức dầu thánh. Sự sống ấy được bao phủ bằng tấm áo trắng thánh thiện tinh tuyền của Đức Kitô. Sự sống ấy còn được ánh sáng nến phục sinh đốt sáng lên, cho ta xứng đáng là con cái của ánh sáng muôn đời chiếu tỏa trên những kẻ còn ngồi trong tối tăm sự chết.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến thánh hóa giòng nước trần gian, cho thế nhân nguồn nước trường sinh. Nguồn nước thanh tẩy tội lỗi, nguồn nước tạo dựng con người mới biến đổi con người tội lỗi trở nên con chí ái của Thiên Chúa, trong thân thể phục sinh sáng láng của Đức Kitô, trong nguồn sống vinh quang muôn đời của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin cho chúng con biết trung thành sống trong nguồn nước Thần Linh chí thánh ấy, cho thân xác chúng con được mạnh khỏe, cho tâm hồn chúng con được tươi mát, cho đời sống chúng con thành ánh sáng thế gian. Amen.
5. Phép Rửa của Chúa Giêsu thanh luyện chúng ta
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Chúa nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay khép lại mùa Giáng sinh và cũng là một “sự hiển linh khác” của Đức Chúa. Hôm nay không phải cảnh lặng lẽ trong hang lừa với vài chàng mục đồng chứng kiến. Nhưng, Phép rửa được cử hành như một nghi lễ công cộng với nhiều người xung quanh. Những người này ý thức rằng cuộc đời họ tội lỗi hôm nay đến đón nhận phép rửa của ông Gio-an trong dòng sông Giođan để tỏ lòng sám hối.
Đức Giêsu hôm nay đến cũng bước vào dòng nước ấy, và nhận phép rửa bởi ông Gioan nhưng không phải là cho mình, mà là cho người khác, vì người khác. Vì chưng Chúa Giêsu đâu có tội làm chịu phép rửa của ông Gioan để tỏ lòng sám hối. Chúa Giêsu chịu phép rửa là có ý nói lên: từ nay, Người chung số phận với người tội lỗi. Ngài dìm xuống để vớt mọi người lên và đó là tất cả ý nghĩa đời Người. Cuộc đời của Chúa Giêsu hoàn tất với Phép Rửa cuối cùng, của sự chết (Lc 12,50) vì chết là cùng chung số phận của con người tội lỗi. Cho nên hôm nay Chúa Giêsu để cho Gioan dìm mình có ý loan báo cái chết và sự phục sinh của Người: dìm mình xuống nước là biểu hiệu cái chết, trồi lên khỏi nước là loan báo sự sống lại. Cho nên, bài đọc 2, Thánh Gioan đã khẳng định rằng: “Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật”. Vì vậy, Giáo lý Hội Thánh dạy: “Trong cuộc Vượt Qua của mình, Ðức Ki-tô đã khai mở nguồn mạch của bí tích Rửa Tội cho tât cả mọi người. Qủa thật, Người đã nói về cuộc tử nạn sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem như "một Phép Rửa" mà Người phải lãnh nhận (x. Mc 10,38; Lc 12,50). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn bị bị đâm thâu của Chúa Giêsu chịu đóng đinh (Ga 19,34) là những điển hình của bí tích Rửa Tội và Thánh Thể, là những bí tích của đời sống mới (x.1Ga 5,6-8): từ lúc đó, người ta có thể được "sinh ra bởi nước vàThần khí " để được vào Nước Thiên Chúa (Ga 3,5)” (số 1225).
Khi chúng ta nhận lãnh bí tích Rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào sự chết và sống lại của Người. Chúng ta vào đời khi được sinh ra, và vào đạo Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong phép rửa tội chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi, tội tổ tông và tội riêng. Do đó, nó biến chúng ta thành “một tạo vật mới” (2Cr 5,17), một nghĩa tử của Thiên Chúa (Gl 4,5-7), được thông phần vào sự sống thần linh (2Pr 1,4), trở nên chi thể của Chúa Kitô (Rm 8,17) và được gọi là đền thờ của Chúa Thánh Thần (1Cr 6,15). Tóm lại, “toàn bộ cơ thể của sự sống siêu nhiên của người Kitô hữu bắt nguồn nơi bí tích Rửa tội (Giáo lý Công giáo, số 1266).
Như vậy, khi được Rửa Tội, chúng ta dĩ nhiên cũng được mời gọi tiếp nối sứ mạng liên đới của Chúa Giê-su trong hoàn cảnh của bạn nơi giáo xứ, gia đình, xóm phố, nơi học hành, nơi làm việc... Sứ mạng này không phải là việc tuỳ ý để mình thích làm hoặc không, mà là một bổn phận được lãnh nhận từ Thiên Chúa. Thiên Chúa chờ đợi bạn thi hành bổn phận này là làm cho Nước Chúa trị đến ý Chúa thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Đó là:
Trước hết, chúng ta hãy siêng năng tham gia tích cực các hoạt động trong việc phục vụ Giáo xứ của mình dù có cực nhọc hay khó khăn vì chính những dòng nước khó khăn và cực nhọc ấy sẽ thanh luyện chúng ta khỏi những gì biến nhác và vô dụng trong việc mở mang Nước Đức Chúa Trời. Thứ hai khiêm tốn, cảm thông và tha thứ là những dòng nước của Chúa Giêsu giúp thanh luyện đời sống gia đình mình vượt khổ trong hạnh phúc và bình an đồng thời xây dựng mọi thành viên trong gia đình lớn lên trong ân nghĩa với Chúa và đầy nhân đức trước mặt mọi người. Cho nên, trong bài giảng thuyết về Bí Tích Rửa Tội, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng: “Nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta có khả năng tha thứ và yêu thương ngay cả những người xúc phạm đến mình và làm tổn thương mình, chúng ta có thể nhận ra trong những người rốt hết và những người nghèo khổ nhất khuôn mặt của Chúa là Đấng đến thăm và gần gũi chúng ta.” Thứ ba, thật thà, lương thiện và công bằng là những dòng nước rửa và thanh luyện ta đồng thời làm cho ta sống với anh chị em trong khu phố, trường học hay nơi làm việc như thế người ta mới nhận ra Nước Chúa đang hiện diện ở giữa họ. Cuối cùng, tình yêu và bình an là những dòng nước của Chúa Giêsu tới gội đời ta khiến ta cảm nghiệm được sự ấm áp và tươi sáng của cuộc đời dù cuộc đời ta có gian nan khốn khó.
Ước gì, Lời Chúa trong Bài đọc 1 sẽ là điều Chúa muốn chúng ta thực hiện hôm nay rằng: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó”. Allêluia.
6. Suy niệm của Lm VIKINI
1- Nếu tôi là dân Do thái lúc đó, có thể tôi cũng đi từ Galilê bên Đức Giêsu suốt bốn năm ngày đường, tới sông Gióc đan để chịu phép rửa, mà không ngờ rằng Người là Đấng mà Gioan đang rao giảng. Khi tới nơi chắc chắn tôi sẽ chen lấn Người để tôi được tới gần Gioan hơn. Tôi trố mắt nhìn và lắng tai Gioan kêu gọi tôi sám hối. Tôi cảm động và rán lội tới sát Gioan. Tôi đẩy Người ra để xin Gioan rửa tôi trước, vì tôi nóng lòng mong đợi điều Gioan đang nói: “Hãy dọn đàng cho Đấng Cứu thế đến”. Rửa xong tôi an tâm ra về mà không ngờ Người là Đấng Cứu thế đồng hành với tôi, đứng sát bên tôi, đã bị tôi gạt Người ra ngoài.
Thực tế hàng ngày đã xẩy ra trăm ngàn lần tôi cư xử như thế đối với những người bên cạnh tôi. Tôi không ngờ rằng họ là chi thể Đấng Cứu thế. Tôi bao nhiêu lần xô lấn những người bên cạnh tôi để tôi được hơn, được trước họ mà chẳng nhớ gì lời Chúa dậy: “Con phải kính nhường và yêu mến người bên cạnh con”. Thành thử ra tôi cũng không nhận ra Đấng Cứu thế đang ở với tôi.
2- Nếu tôi được làm địa vị của Gioan tiền hô, thì khi vừa thấy Đấng Cứu thế, tôi sẽ tự đắc hô to: đấy tôi nói có sai đâu, Ngài đến đây nè... rồi tôi kêu gọi mọi người ủng hộ Ngài, hoan hô Ngài, đón rước Ngài, xin Ngài phất cờ giải phóng dân tộc, làm cho nước ta độc lập tự do, giầu mạnh, đem quân xâm chiếm các nước, trở thành bá chủ hoàn cầu. Tôi rất phàn nàn và lấy làm tiếc vì không thể ngờ được rằng Gioan không làm như tôi mong muốn. Trái lại, ông đã cúi mình xuống nhỏ nhẹ thưa với Ngài rằng: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Tôi chỉ rửa anh em trong nước, còn chính Ngài mới rửa chúng tôi trong Thánh Thần. Vậy xin Ngài rửa cho tôi đi để tôi được ơn cứu độ”. Thật là con người đầy khiêm tốn, đầy tin tưởng để rồi Gioan đã phó thác trót mạng sống mình cho Đấng Cứu thế: dù phải chặt đầu ông vẫn luôn luôn quyết tâm chu toàn nghĩa vụ Thiên Chúa trao.
3- Còn Đức Giêsu, Người rất từ tốn và ẩn mình tuyệt diệu hơn nữa. Người đã thưa lại Gioan: “Chúng ta cần phải chu toàn nghĩa vụ thánh như thế”. Người đồng hóa mình với dân chúng, chịu những kẻ cậy sức mạnh xô đẩy, chèn ép để thông cảm với mọi nỗi xót xa của cuộc đời những kẻ thấp mũi bé miệng, neo đơn, cô thế, cô thân. Người đã cúi mình trước Gioan làm phép rửa cho Người để cho những tội nhân biết cúi mình xuống trước tòa giải tội. Người đã dìm mình xuống nước để cứu vớt những kẻ chết trong giòng đời, cho họ được sống lại làm con chí ái với Người trong gia đình thiên quốc. Người chôn mình trong bản tính hư nát của loài người để cho con người được trường sinh vinh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết kính nhường nhau, đó chẳng phải là kính mến Chúa sao? Xin cho chúng con biết phó thác thân phận làm người, làm Kitô hữu cho Đấng Cứu thế, chắc chắn chúng con sẽ được Người thanh tẩy và kết nạp chúng con vào nhà Cha chí ái trên trời.
7. Người con yêu quý
Vào thế kỷ thứ IV, Ario truyền bá một lạc thuyết vô cùng nguy hại. Ario chủ trương rằng Đức Kitô không thực sự là Con Thiên Chúa. Hoàng đế Theôđôsiô đỡ đầu cho lạc thuyết này. Cũng vào lúc ấy hoàng đế phong cho hoàng tử mới 16 tuổi của ông được cùng trị vì trên ngai vàng với ông. Trong những khách được mời đến dự buổi lễ phong vương, có Đức Giám mục Amphilôcô. Đức Giám mục chỉ nói vài lời chúc mừng rồi chuẩn bị ra về. Hoàng đế giận dữ hỏi: Ngài không quan tâm đến hoàng tử sao? Ngài không biết rằng ta phong cho hoàng tử cùng trị vì với ta hay sao? Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: Tâu hoàng thượng, hoàng thượng phật ý trước sự giả bộ thờ ơ của tôi đối với hoàng tử, vì tôi đã tỏ ra không tôn kính hoàng tử như bệ hạ mong muốn. Vậy Thiên Chúa sẽ nghĩ sao về hoàng thượng, khi hoàng thượng giáng cấp Người Con ngang hàng và cùng hiện hữu với Ngài dưới danh hiệu Con Thiên Chúa.
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy: Ngày nay có nhiều người, kể cả một số người mệnh danh là Kitô hữu, đã chối bỏ hoặc nghi ngờ thiên tính của Đức Kitô. Thiết tưởng những người ấy hãy lắng nghe lời Chúa Cha tuyên phong trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
Việc Đức Kitô chịu phép Rửa bởi Gioan đánh dấu bước khởi đầu công cuộc cứu độ của Ngài. Công cuộc trọng đại này là hành động của cả Ba Ngôi, vì chúng ta thấy Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống, đồng thời Chúa Cha phán bảo. Biến cố này rất quan trọng, nên Giáo Hội muốn chúng ta mừng kính riêng trong Chúa nhật hôm nay, tựa như ngày đăng quang của Đức Giáo Hoàng hay ngày nhận chức của một tổng thống.
Đặc điểm chúng ta cần nhấn mạnh đó là Chúa Cha trên trời hài lòng về Người Con yêu quý của Ngài, là Đức Kitô. Có người cha nào lại không vui mừng khi người con của mình khởi sự một chức vụ quan trọng: người cha của một bác sĩ, người cha của một tân linh mục, người cha của chú rể trong ngày cưới. Niềm vui ấy càng lớn lao hơn khi người con ấy vâng phục và tôn kính cha mình.
Đức Kitô là một người con yêu mến và vâng phục Chúa Cha. Đồng thời Ngài luôn khoan dung và khiêm tốn như một kẻ tôi tớ, vì thế, Chúa Cha luôn hài lòng về Ngài. Còn chúng ta thì sao?
Với bí tích Rửa Tội đã lãnh nhận, chúng ta được mời gọi để nhận biết, yêu mến và phụng sự Cha trên trời, khi chúng ta cố gắng chu toàn thánh ý Ngài giữa lòng cuộc đời, khi chúng ta cố gắng sống mầu nhiệm của bí tích Rửa Tội, khi chúng ta cố gắng noi theo Người Con Chí Thánh trong sự khiêm tốn và vâng phục, thì chúng ta cũng làm hài lòng Cha trên trời, để rồi trong ngày cuối cùng, chúng ta cũng sẽ được Chúa Cha tuyên phong, như ngày xưa Ngài đã tuyên phong Đức Kitô bên bờ sông Giođan: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
8. Công dân Nước Trời
Ngày xưa người ta có một quan niệm rất ngộ nghĩnh về vũ trụ. Họ chia vũ trụ thành ba tầng chồng lên nhau. Tầng trên cùng là trời hay thiên đàng, nơi Thiên Chúa cư ngụ. Tầng giữa là đất, nơi loài người và muôn vật sinh sống. Tầng chót là âm phủ, nơi con người sẽ đến sau khi chết.
Từ khi Adong Eva phạm tội, thì tầng giữa, tức thế giới sinh vật ngày càng trở nên tồi tệ. Vì thế, các thánh luôn cầu xin Chúa từ trời ngự xuống để cứu giúp nhân trần. Chẳng hạn tiên tri Isaia đã nài van: Sao Ngài không xé bầu trời mà ngự xuống với chúng con.
Từ quan niệm trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng sáng hôm nay, chúng ta sẽ dừng lại ở ba sự kiện:
Sự kiện thứ nhất, đó là bầu trời mở ra. Và như thế lời cầu xin của các vị thánh ngày xưa đã được chấp nhận. Thiên Chúa đã đến với nhân loại, khởi đầu cho một kỷ nguyên mới trong lịch sử.
Sự kiện thứ hai, đó là Thần khí Chúa dưới hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài. Sự kiện này nhắc cho chúng ta nhớ lại lúc bắt đầu công cuộc tạo dựng. Thần khí Chúa cũng đã bay lượn trên nước. Và như thế, cùng với Đức Kitô, Thiên Chúa thực hiện việc tái tạo, việc canh tân thế giới hay nói cách khác, Ngài thực hiện một công cuộc tạo dựng mới.
Và sau cùng, sự kiện thứ ba, đó là tiếng nói từ trời: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Sự kiện này muốn xác quyết rằng: Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới, là trưởng tử của công cuộc tạo dựng mới này, như lời thánh Phaolô đã viết: Người thứ nhất là Adong từ đất mà ra nên thuộc về đất. Còn người thứ hai là Đức Kitô từ trời mà đến. Chúng ta đã mang trong mình hình ảnh con người bởi đất, tức Adong cũ thế nào, thì chúng ta cũng phải mang lấy hình ảnh con người bởi trời, tức Adong mới như vậy.
Từ đó chúng ta đi tới kết luận: Chúng ta là công dân của hai thế giới, bởi vì chúng ta mang trong mình hình ảnh của Adong thứ nhất cũng như của Adong thứ hai. Chúng ta chia sẻ sự sống với cả hai vị này. Kinh nghiệm cho thấy: Chúng ta đã từng bị lôi cuốn về mặt xác thịt của Adong thứ nhất, nhưng đồng thời cũng được sự thôi thúc về tinh thần của Adong thứ hai. Chúng ta thường bị xâu xé giữa sự thiện và sự ác, để rồi sự thiện chúng ta muốn thì chúng ta lại không làm, còn điều ác chúng ta ghét thì chúng ta lại làm.
Ý thức được như vậy, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta luôn bước đi trên đường nẻo của Ngài, thực thi những điều Ngài truyền dạy, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ được Ngài tuyên phong vào ngày sau hết: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
9. Này Là Con Ta Yêu Dấu
Biến cố ngày hôm nay quả thực đã làm cho chúng ta ngỡ ngàng không ít. Thực vậy, Chúa Giêsu đã chịu phép rửa nơi một kẻ tội lỗi, trong khi Ngài là người con yêu dấu của Chúa Cha và chính Ngài cũng đã có lần tuyên bố: Ai trong các ngươi bắt lỗi Ta được về sự gì? Thế nhưng, Chúa Giêsu lại là Đấng chuộc tội thiên hạ như có lần Gioan đã giới thiệu: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Ngài xoá tội trần gian bằng cách gánh lấy tội ấy.
Hành động chịu phép rửa phải chăng là một sự mở đầu cho sứ vụ của Ngài, đồng thời cũng là một dấu chỉ báo hiệu những gì sẽ xảy đến.
Có một lần, các con của Giêbêđê, bày tỏ ước vọng với Ngài là muốn được ngồi bên tả bên hữu Ngài. Và Chúa Giêsu đã trả lời các ông: Các con không ý thức được điều các con xin. Các con có thể uống được chén Ta phải uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy mà Ta phải chịu hay không?
Như thế là còn một cuộc thanh tẩy khác nữa đang chờ đợi Chúa Giêsu. Cuộc thanh tẩy ấy chính là cuộc thống khổ, kết thúc bằng cái chết trên thập giá. Cuộc thanh tẩy ấy được thực hiện không phải chỉ bằng nước sông Giođan và từ tay của Gioan, mà là bằng máu của chính Ngài. Chúa Giêsu chịu thanh tẩy tại sông Giođan là hình ảnh của nhân loại được thanh tẩy trong cái chết của Ngài, được sống lại trong sự phục sinh của Ngài và trở thành những người con của Thiên Chua.
Nơi Đức Kitô, phép rửa hay phép thanh tẩy đã không còn là một nghi lễ, mà đã trở thành một cuộc sống. Tội lỗi đã bị đánh bại không phải bằng nước của phép rửa mà là bằng máu của sự sống. Bí tích thanh tẩy làm cho Kitô hữu trở thành con Thiên Chúa cũng không thể chỉ là một nghi lễ được lãnh một lần rồi thôi, mà phải là chính cuộc sống làm con Thiên Chúa, cuộc sống từ bỏ và đẩy lui mọi tội lỗi. Không phải chỉ là đẩy lui tội lỗi ra khỏi cuộc sống của cá nhân mình, mà còn là ra khỏi nhân loại.
Vì thế, thờ ơ trước những tội ác diễn ra chung quanh, trước những bất công xã hội, trước những vi phạm quyền con người, trước những gian dối và thù hận, người Kitô hữu không còn là người Kitô hữu đích thật nữa vì đã không chu toàn lời cam kết khi lãnh nhận bí tích Rửa tội. Chính qua cuộc sống dứt khoát với tội lỗi mà người Kitô hữu bày tỏ được ý thức của mình về địa vị cao cả mà bí tích Rửa tội đã đem lại, đồng thời làm chứng về tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Người Kitô hữu có trách nhiệm phải làm sao để tiếng từ trời cũng được lặp lại với từng người trong nhân loại: Này là con Ta yêu dấu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
10. Còn chăng “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”?
(Suy niệm của Anmai CSsR)
Người ta vẫn thường nói hay đúng hơn là người ta vẫn thường thích cái gì là mới, còn những gì là cũ người ta lại ít trân trọng. Thử hỏi trong nhân gian được mấy người chơi đồ cổ. Chưa chắc chơi đồ cổ vì đã thích đồ cổ vì có thể thích được nổi tiếng hay nắm giữ trong tay tài sản quý chứ thật sự để mà quý mến, để mà trân trọng chắc được mấy người? Người ta vẫn thường ví cho những cái mới được trân trọng bằng câu nói: “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy!”. Vậy thì sau “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” con người sẽ ra sao? Thường thì phai dần và nhạt dần theo năm tháng nếu như ta không dừng lại để nhìn, để xem lại vấn đề để mà trân trọng, để mà quý mến.
Một người tu sĩ, ngày khấn dòng với biết bao nhiệt huyết, biết bao nhiêu ơn Thánh, đặc biệt là Thần Khí Chúa sẽ rất quyết tâm, rất cương quyết với lời tuyên khấn của mình. Đơn giản nhất một lời khấn mà người tu thường khấn đó là sự khó nghèo. Sau ngày khấn là những ngày hội nhập với cộng đoàn, cộng đồng vì mãn thời gian Tập Viện. Những ngày ấy riêng về khoản khó nghèo thôi, thử hỏi được mấy người sống được cái thuở ban đầu đơn sơ của đời tu hay là cứ vun vén về cho mình đầy phòng. Nếu thi thoảng không đặt mình xem lại mình về những lời mà mình tuyên khấn thì cũng sẽ quên và lại vun vén, vơ vét cho mình đầy vật chất.
Một linh mục, trong cái ngày được đặt tay để nhận ơn Thánh trong sứ vụ của mình sao mà hay quá! “Con có hứa vâng phục Giám mục và bề trên hợp pháp của con không?” khi nghe Giám mục chủ sự Thánh lễ truyền chức hỏi thì tất cả các ứng sinh nhanh nhảu đáp “Thưa con hứa!”. Và nữa, “con hãy nhận lấy lễ vật này mà dâng lên Thiên Chúa, con hãy rập đời sống con theo Mầu Nhiệm Mình và Máu Thánh Chúa”. Khi ấy, lòng trào dâng ơn Thánh và niềm vui, ứng sinh phấn khởi thưa vâng để lãnh nhận sứ vụ linh mục cao cả mà Thiên Chúa thương ban. Thế nhưng, cuộc đời vị linh mục đâu đơn giản như mọi người nghĩ, đâu thanh thản như mọi người thấy. Những lúc bình lặng của cuộc đời thì không sao nhưng thử hỏi những lúc gặp gian nan thử thách thì cái thuở ban đầu, cái mối tình giữa vị Thiên Chúa mà bao lâu nay vị linh mục theo đuổi còn được bao nhiêu?
Hai vợ chồng trẻ cũng thế! Những ngày đầu đến với nhau, cưới nhau sao mà vui quá, sao mà hạnh phúc quá, sao mà quấn quýt bên nhau thế nhưng rồi những ngày sau đó ra sao? Những ngày chồng ốm, vợ bệnh, con đau còn có còn chăng cái thuở ban đầu, cái vẻ đẹp của ngày mới cưới, cái hồn thiêng của lời thề hứa khi cử hành bí tích Hôn phối chăng? Những ngày mới quen nhau, những ngày mới yêu nhau, những ngày mới cưới sao mà nó hay quá nhưng khi cưới rồi nó như thế nào?
Và rồi, trước khi tuyên lời khấn dòng, hứa sống sứ vụ linh mục hay thề hứa sống đến ngày “răng long đầu bạc” tuỳ theo ơn gọi của mình mỗi kitô hữu phải sống cái Bí Tích Thanh Tẩy hay còn gọi là Phép Rửa mà mỗi người lãnh nhận. Phép Rửa mà chúng ta khi lãnh nhận, căn cốt nhất của Phép Rửa ai ai cũng biết đó là lòng tin, tin nhận vào Đức Giêsu Kitô là Chúa. Như Thánh Gioan trong thư của Ngài vừa nhắc nhở chúng ta:
“Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô,
kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra.
Và ai yêu mến Đấng sinh thành,
thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra.
Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được
mình yêu thương con cái Thiên Chúa:
đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa
và thi hành các điều răn của Người.
Quả thật, yêu mến Thiên Chúa
là tuân giữ các điều răn của Người.
Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu,
vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian.
Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian,
đó là lòng tin của chúng ta”. (1 Ga 5, 1-4)
Thánh Gioan nói rất rõ ràng chứ không mập mờ, không hai ý. Ngài nói rõ ràng: Tin là yêu mến! Đơn giản có thế thôi!
Thật ra mà nói, không đơn giản và không dễ chút nào cả.
Như người tu sĩ, linh mục cũng thế, thuở ban đầu quá tin nên quá yêu mến! Đơn giản quá sức nhưng dần dà, thời gian trôi theo năm tháng có còn tin, có còn yêu mến như ngày đầu như đã nói không mới là chuyện quan trọng.
Như hai vợ chồng, ban đầu cũng tin, cũng yêu mến nhưng thời gian dần trôi có còn tin, có còn yêu mến hay không mới là chuyện cần bàn.
Hôm nay, nhân cái ngày mà Chúa Giêsu ra sông Giođan để cho ông Gioan để lãnh nhận Phép Rửa cũng là dịp, là duyên để mỗi người chúng ta nhìn lại Phép Rửa mà chúng ta tin nhận. Cái thuở ban đầu, cái mối tình đẹp giữa ta và anh Hai Giêsu mà ta tin theo còn được bao nhiêu hay là nó cũng nhạt dần, nó cũng phai dần.
Ngày hôm nay, không chỉ ở thành thị, đời sống tôn giáo, lòng tin - cậy - mến vào Thiên Chúa bị giảm sút mà cả ở thôn quê. Điều này gợi lên cho ta nhiều suy nghĩ. Một thực trạng hết sức đau lòng đó là ở những vùng quê nghèo, ban đầu họ theo Chúa, họ tin Chúa rất dễ thương. Sau bao năm tháng, vị linh mục đặc trách cùng với giáo dân miệt mài xây cho cộng đoàn giáo xứ ngôi Thánh Đường thật to, thật lộng lẫy, thật khang trang nhưng lượng giáo dân đến tham dự Thánh Lễ, cử hành các Bí Tích nó cứ giảm dần theo năm tháng. Được biết một ngôi nhà thờ thật là to, tốn không biết bao nhiêu công sức mới tạo dựng. Tưởng chừng ngôi nhà thờ ấy sẽ đáp ứng, sẽ thoả mãn nhu cầu Phụng Vụ nhưng nào ngờ, ngày thường chỉ có loe ngoe vài mạng nên phải dùng tầng hầm của ngôi Thánh Đường đó để dâng lễ! Không chỉ một mà cũng có nhiều Thánh Đường bây giờ rơi vào tình trạng đáng buồn này.
Nguyên nhân của tình trạng này có lẽ là mỗi người chúng ta đã không còn đi đúng đường lối mà Thiên Chúa chỉ dạy, lòng tin mà lòng mến mà Thánh Gioan đã nói. Ngôn sứ Isaia đã nói với chúng ta qua bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta sấm ngôn của Đức Chúa. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy. Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó”. (Is 55, 8-11)
Chúng ta, thường rơi vào căn bệnh của chúng ta, rơi vào cái lý luận cùn của chúng ta chứ chúng ta không đi theo đường lối của Thiên Chúa. Tư tưởng của ta lúc nào cũng khác xa tư tưởng của Thiên Chúa vậy mà chúng ta cứ tưởng chúng ta hơn Chúa mới là lạ!
Isia đã không nhắc nhớ chúng ta sao?
Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống,
tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng?
Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon,
được thưởng thức cao lương mỹ vị.
Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống.
Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu,
để trọn bề nhân nghĩa với Đa-vít. (Is 5, 2-3)
Chúng ta vẫn cứ mãi cắm cúi đi tìm những cái gì mà không làm cho chúng ta được sống như Chúa nói. Chúng ta vẫn đi tìm cho chúng ta những thứ gì mà sẽ mất ngày mai.
Nhà thơ Tuý Linh đã để lại cho chúng ta câu thơ rất hay:
“Sống trong cuộc đời này không phải để giành giật
Những gì mà ta sẽ mất ngày mai”.
Vâng! Chúng ta nhận Phép Rửa nhiều năm nhưng chúng ta vì lý do này lý do khác đã nhạt nhẽo với tình yêu thuở ban đầu của Thiên Chúa. “Cái thuở ban đầu lưu luyến” giữa ta và Chúa còn đơn sơ, còn mộc mạc, còn dễ thương, còn chân thành như cái ngày mới nhận Phép Rửa hay không? Điều này chỉ có ta và Chúa biết mà thôi.
Hôm nay, xin Chúa nhắc nhớ chúng ta về Phép Rửa mà ta đã tin nhận. Nhận Phép Rửa là Tin, Tin ấy lại biểu lộ ở Tình Yêu. Xin Chúa là Vua Tình Yêu đến và ở lại với mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày chúng ta yêu Chúa và yêu anh chị em đồng loại hơn.
11. Đức Giêsu chịu phép rửa
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Giêsu chịu phép rửa. Thêm một lần nữa Kitô-hữu nhận ra Đức Giêsu sống trọn thân phận con người, khi Ngài nhận mình đồng hàng với con người cần lòng thương xót của Thiên Chúa. Mặt khác, chính khi Ngài yêu thương và đồng hóa mình với anh em, thì Thiên Chúa xác chuẩn Ngài là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa. Ngài tỏ lộ chân tướng của Ngài qua hành vi và cung cách cư xử của Ngài.
1) Đức Giêsu chịu phép rửa
Đức Giêsu được sinh ra trong chuồng chiên cừu, lớn lên và làm việc tại Nazaret. Ngài ăn cùng thức ăn như họ, cùng hưởng bầu không khí như họ, hưởng một nền giáo dục như bao trẻ em làng Nazaret thời đó, đặc biệt nền giáo dục về tôn giáo. Đức Giêsu đã trưởng thành từ làng quê Nazaret, và là người Do Thái hoàn toàn. Khi nghe tin Gioan xuất hiện như một tiên tri, rao giảng mời gọi toàn dân nhận lãnh phép rửa diễn tả lòng sám hối để đón chờ Thiên Chúa can thiệp cứu dân Người, có lẽ Đức Giêsu đã xin phép mẹ Người, tới với Gioan xin ông thanh tẩy cho.
Đức Giêsu đã cùng với bao người Do Thái khác, lắng nghe Gioan giảng dạy, và lần lượt tới để được thanh tẩy trong dòng sông Giordan. Đức Giêsu đã sống như bao người trẻ khác ở Nazarét, và giây phút ở sông Giordan này, Đức Giêsu cho thấy Ngài chia sẻ thân phận con người hoàn toàn, Ngài là người giữa bao người, Ngài hành xử như tất cả mọi người.
Con người, với thể xác và linh hồn, là thực tại vô cùng cao quý. Con người được mời gọi vươn lên thành con người trọn vẹn, thành thánh, chia sẻ sự sống và hạnh phúc với Thiên Chúa. Con người hình thành chính mình qua cung cách cư xử và chọn lựa của mình. Qua hành vi “xin vâng,” Đức Maria trở nên con người tuyệt vời; qua cách hành xử “của ăn của Ta là làm theo Đấng đã sai Ta,” Đức Giêsu cho thấy Ngài là một với Thiên Chúa trong tất cả.
2) Ngài vượt trên tôi, sao Ngài lại đến với tôi?
Theo đức tin của Kitô-hữu, Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa giáng trần, là Đấng vô tội, vậy tại sao Ngài lại chịu phép rửa? Nếu bảo rằng Ngài chịu phép rửa để làm gương cho con người khi Ngài không cần phải chịu phép rửa, phải chăng hàm chứa nói Ngài “giả hình”, “làm bộ.” Khiêm nhường là sự thật, giả hình hay làm bộ, chẳng làm gương sáng cho ai, mà chỉ là gương xấu.
Đức Giêsu chịu phép rửa thống hối, vì Ngài cần phải chịu phép rửa. Đức Giêsu không làm bộ hay giả hình. Ngài chịu phép rửa, vì Ngài đại diện con người, Ngài mang nơi mình tội của tất cả con người, nên Ngài thống hối nhân danh tất cả con người: “đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” Ngài chịu phép rửa thống hối không phải vì Ngài, nhưng vì Ngài “gánh tội trần gian,” Ngài đại diện con người xin Thiên Chúa tha thứ lỗi lầm của tất cả con người.
Gioan đã nói: “Sao Ngài lại đến với tôi? Tôi mới là người phải đến với Ngài chứ.” Gioan tiền hô đã nhận ra Đức Giêsu là con người đặc biệt, trổi vượt trên mình. Ngày nay, người ta nhận biết chân tính của Đức Giêsu nhờ ánh sáng biến cố phục sinh, nhưng ở thời điểm của Gioan tiền hô, người ta chưa biết điều này. Khi Gioan nhận ra mình “không đáng cởi dây giầy” cho Ngài, Gioan đang làm chứng cho thấy phần nào chân tướng của Đức Giêsu. Đức Giêsu là con người rất đặc biệt.
3) Này là Con Ta rất yêu dấu
Đa số người ta hiểu rằng, Đức Giêsu biết mình là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể, nên Ngài biết hết mọi sự. Tuy nhiên có một số nhà thần học, và ngay cả một số tác giả tin mừng cho thấy Đức Giêsu chia sẻ trọn vẹn thân phận con người, nghĩa là, Ngài không biết trước mọi chuyện, có nhiều điều Ngài không biết. Những người này chủ trương, là người thì không ai biết tất cả tương lai mình, nếu Đức Giêsu biết trước hết mọi chuyện thì Đức Giêsu không chia sẻ trọn thân phận con người. Mà theo đức tin Kitô, Đức Giêsu là người trọn vẹn, nên có nhiều điều Đức Giêsu không biết khi Ngài đang sống tại trần gian.
Là người, là chấp nhận đi trong đêm tối của đức tin. Như Abraham ra đi trong niềm tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa, cho dù không biết tương lai mình như thế nào, chỉ tin vào Thiên Chúa và lời hứa của Ngài mà cất bước ra đi. Đức Maria thưa tiếng “xin vâng,” cũng không biết rõ tương lai đời mình, chỉ tin tưởng rằng những gì Thiên Chúa phán với mình sẽ được thành sự. Đức Giêsu cũng không biết rõ tương lai đời mình, nên cũng phải sống trong niềm tin tưởng phó thác như bất cứ con người nào khác. Khi Đức Giêsu chịu phép rửa, là Ngài hành xử theo tiếng gọi của tình yêu, Ngài yêu thương con người đến độ muốn mang vác tất cả tội lỗi cho con người. Đây là một hành vi yêu thương và đẹp tuyệt vời, yêu thương con người ngay khi người tội lỗi: bất toàn và gian ác.
Thiên Chúa đã chuẩn nhận hành vi của Đức Giêsu: “Con là Con Ta rất yêu dấu, Ta hài lòng vì Con.” Theo tin mừng Mác-cô, tiếng này nói cho chính Đức Giêsu. Là người, Đức Giêsu cũng cần một lời chuẩn nhận của Thiên Chúa như bao người khác cần Thiên Chúa chuẩn nhận khi họ được sai gởi thi hành ý định của Thiên Chúa. Hành vi của con người diễn tả chân tướng của họ. Qua hành vi “chịu phép rửa” này, Đức Giêsu biểu lộ chân tính của Ngài: Con Yêu Quý của Thiên Chúa. Đức Giêsu tiếp tục sống, và qua chính cung cách hành xử “yêu thương đến hiến dâng chính mạng sống mình,” Đức Giêsu cho thấy tình yêu của Ngài đối với con người, và cũng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn nghĩ sao về quan điểm: con người hình thành chính mình qua cung cách hành xử và chọn lựa của mình?
2. Bạn có thể trở thành người tuyệt vời không? Bằng cách nào?
12. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chủ đề: Người đời thường chạy tội, đổ lỗi cho người khác, còn Chúa Giêsu lại sẵn sàng gánh tội cho hết mọi người.
Một trong những thói xấu nghiêm trọng gây thiệt hại không nhỏ cho xã hội là thói đổ lỗi cho người khác, không chịu nhận trách nhiệm về mình.
Căn bệnh nầy đã xuất hiện ngay từ khởi thuỷ loài người.
Sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội ăn trái cấm bất tuân lệnh Chúa (St 3, 1-18), Thiên Chúa đến hạch tội A-đam: "Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?"
A-đam bèn đổ lỗi cho cả Thiên Chúa lẫn E-và: Tại vì "người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con mới ăn." Nói như thế, A-đam cho rằng cả Chúa cũng có trách nhiệm trong vụ việc nầy, tại vì Chúa đã trao người đàn bà nhẹ dạ nầy cho ông; giá như Chúa không dựng nên E-và và trao nàng cho Ađam thì đâu đến nỗi nầy).
Bấy giờ Chúa quay ra hỏi tội E-và: "Ngươi đã làm gì?" Người đàn bà liền trút tội cho con rắn: Tại vì "con rắn đã lừa dối con, nên con đã ăn". (St 3, 9-13)
Có vô số dê tế thần để người ta trút hết tội lỗi lên đầu chúng: tại ông, tại bà, tại trời, tại đất, tại gió, tại mưa... Bao nhiêu hậu quả và trách nhiệm đáng phải chịu vì lầm lỗi của mình, người ta đùn đẩy qua cho người khác. Tìm đâu ra con người dũng cảm dám đứng ra nhận lấy phần lỗi của mình và gánh lấy hậu quả do mình gây ra?
Trong khi đó, mặc dầu Chúa Giêsu được Gioan giới thiệu là Đấng quyền thế lớn lao, thậm chí Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người; là Đấng sẽ cử hành một phép rửa ngàn lần cao trọng hơn phép rửa của Gioan - "Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước; còn Người, Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần" - vậy mà Chúa Giêsu lại đến với Gioan như một người tội lỗi, chăm chú nghe Gioan rao giảng, hoà mình với những người thu thuế, những tên cướp của giết người, những hạng người đàng điếm, côn đồ và với bao nhiêu người tội lỗi khác để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, nhờ Gioan làm phép rửa cho.
Nhưng, Chúa Giêsu là Đấng không hề vướng tội, thì sao lại phải chịu phép rửa bởi Gioan?
Chúa Giêsu chịu phép rửa không phải vì tội lỗi của Người nhưng vì tội lỗi của nhân loại mà Người đã mang vào thân. Người là "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta" (2Cr 5, 21). Người đến làm con "Chiên của Thiên Chúa" gánh lấy tội lỗi thế gian (Ga 1,29) thay cho các con chiên đền tội thời Cựu Ước.
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, Chúa Giêsu trở thành tội nhân, nên Người phải hoà mình với những tội nhân khác để cho ngôn sứ Gioan làm phép rửa cho Người.
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, Người đã bị kết án chết thảm thương trên thập giá để đền thay tội lỗi muôn người. "Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá. Để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em được chữa lành". (1 Pr 2, 24).
Cao đẹp thay, quảng đại thay hành vi hạ mình gánh lấy tội lỗi nhân loại của Chúa Giêsu. Người mãi mãi là gương mẫu của chúng ta và đáng cho chúng ta khâm phục tôn thờ.
Lạy Chúa Giêsu,
Biết đến bao giờ con mới chừa bỏ được thói trút tội lên đầu người khác và chối bỏ trách nhiệm của mình?
Biết bao giờ con mới có đủ bản lãnh và can trường để đứng ra chịu trách nhiệm về những thiệt hại mình đã gây ra?
Ước gì tấm gương khiêm nhường của Chúa hạ mình xuống nhận phép rửa dưới dòng sông Gio-đan vì tội lỗi nhân loại sẽ luôn là động cơ giúp con sửa chữa thói chạy tội vô trách nhiệm của mình.
13. Gioan: con người của canh tân
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có ai đó đã nói rằng: “Thà thắp lên một ánh nến còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối”. Lời này thật đúng vào thời Chúa Giêsu tại thế. Lúc đó dân tộc Israel đang sống trong bóng tối lầm than, đoạ đầy. Họ ao ước Đấng cứu tinh sẽ tới để giải thoát họ khỏi kiếp nôlệ cho ngoại bang. Họ chờ mong Đấng cứu tinh sẽ đến để xoay chuyển vận mạng cho dân tộc và cho chính ban thân của từng người khỏi kiếp sống lầm than. Và một tia hy vọng đã bừng sáng lên khi Gioan xuất hiện. Ông xuất hiện như một nguời hùng của dân tộc, như một nhà cách mạng giải cứu cho dân tộc. Ông đưa ra một phương thế có thể thay đổi vận mạng dân tộc: đó là hãy ăn năn sám hối, hãy trở về với Thiên Chúa Giavê và hãy trung thành với giao ước của Người. Đó cũng là cách để tránh khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa vì: “cái rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn chặt đi”. Vì ngày thanh luyện trần gian đã đến. Thiên Chúa sẽ dùng nia mà sàn lọc, phân loại tốt xấu. Kẻ tốt sẽ được trọng thưởng, kẻ xấu sẽ bị quăng vào lửa trầm luân muôn đời.
Lời rao giảng của Gioan đã thức tỉnh lương tâm hàng vạn, hàng vạn người. Người ta thấy trong số đông lũ lượt kéo xuống dòng sông Gioađan năm ấy để lãnh phép rửa có đủ mọi thành phần. Từ anh chàng cù bất cù bơ không cửa không nhà đến hạng quyền qúy cao sang, nhà cao cửa rộng. Từ những con người có chức có quyền đến hạng dân đen thấp cổ bé miệng đều cảm thấy mình cần phải sám hối hầu tránh khỏi cơn thịnh nộ của trời đất, của Đấng tạo thành.
Dòng sông hôm ấy dường như náo nhiệt hơn mọi ngày, vì dòng người tấp lập, vì những lời bàn tán xôn sao về ngày thanh luyện trần gian đã tới. Nhưng một sự kiện còn làm họ bàng hoàng kinh ngạc hơn nữa, khi bầu trời trong sáng lạ thường hơn, cửa trời như được mở toang. Ánh sáng từ trời đã tập trung vào một con người đang nài xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Gioan đã lưỡng lự, phân vân, vì ông biết đây chính là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội gian trần. Ông không hiểu nổi tại sao Con Thiên Chúa, Đấng thánh thiện vô cùng lại cần đến phép rửa của ông. Ông tự biết mình đâu xứng đang cởi dây dầy cho người thì làm sao ông có diễm phúc đổ nước trên đầu một con chiên không tỳ vết, chính là Thiên Chúa của ông. Nhưng rồi, ông đã vâng lời để đổ nước cho Đấng mà bản thân ông không đáng cởi dây dầy cho người. Tức thì ông nghe một tiếng nói từ trời phán ra. Không phải là tiếng xót xa tìm kiếm ngày nào của Giavê khi Adam lẩn trốn vì phạm tội. “Ađam – Ađam ngươi đang ở đâu?”. Đó cũng không phải là lời luận tội vì tội Ađam mà luỵ đến con cháu muôn đời. Nhưng đó là lời giao hoà của Thiên Chúa với con người: “Đây là con Ta yêu qúy, hãy nghe lời Người”.
Kính thưa,
Ngày chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, là ngày chúng ta được nhận làm con yêu qúy của Thiên Chúa. Qua cha mẹ và những người đỡ đầu, ánh sáng của đức tin đã được thắp lên trong cuộc đời chúng ta. Nhưng liệu với tuổi đời chồng chất theo thời gian năm tháng. Ta có còn là con yêu qúy của Thiên Chúa và Thiên Chúa có hài lòng về cuộc sống của ta hay không? Hay ta đã bán đi tất cả gia sản của cha mình để buông mình trong những đam mê lầm lạc, trong bóng tối của sa đoạ, tội lỗi, trong những hư danh của trần gian và khước từ ân huệ là con của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay không chỉ mời gọi chúng ta gìn giữ ân huệ cao cả được làm con Thiên Chúa mà còn mời gọi chúng ta hãy trở thành một Gioan cho thời đại hôm nay.
Thế giới hôm nay rất cần một con người như Gioan để thức tỉnh nhân loại hãy ăn năn sám hối, hãy trở về với Thiên Chúa hòng tránh cơn thịnh nộ của Đấng tạo hoá chí công.
Thế giới hôm nay rất cần một con người như Gioan dám hy sinh vì chân lý, vì tin mừng cho dù phải trả giá bằng sự nghèo đói, đoạ đầy và cả tính mạng của mình.
Thế giới hôm nay rất cần một con người như Gioan để giới thiệu Chúa cho tha nhân, ngõ hầu muôn dân khắp mặt đất cùng một tâm tình, một ước nguyện, một lời kinh dâng lên Đấng tạo thành trời đất và muôn vật. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết khiêm tốn để Chúa được tỏ hiện trong đời sống của chúng ta. Amen.
14. Liên đới tội nhân
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một lần dạy giáo lý tôi hỏi các em: Thông thường khi phạm tội điều đầu tiên mình phải làm gì?
Một em trả lời: thưa cha bỏ chạy ạ!
Nghe qua tưởng là chuyện đùa nhưng điều đó mới là lẽ thường tình. Ai phạm tội mà không bỏ chạy? Ai có tội mà không che dấu tội? Con người trước khi phạm tội thì rất hung hăng nhưng sau khi phạm tội thì lại hoảng loạn sợ hãi như cha ông ta bảo rằng: “Chưa đánh được người, mặt xanh mày tía. Đánh được người rồi hồn vía lên mây”.
Có một đứa bé đang kiễng chân lên trước cổng của một ngôi nhà to lớn để nhấn chuông, nhưng mãi không nhấn được. Cha sở đi ngang qua thấy vậy liền nói: Để cha giúp con. Thế là cha sở bế thằng bé lên cho nó nhấn chuông. Nhấn chuông xong thả nó xuống đất, cha sở mới hỏi: Con còn cần ta giúp gì nữa không? Thằng bé liền nói: Bỏ chạy ạh! Thế là nó ba chân bốn cẳng bỏ chạy, cha sở ngớ người ra chẳng biết nói gì! Hóa ra thằng nhỏ đến nghịch chuông nhà người ta mà cha sở lại tưởng nó có việc nên nhấn chuông!
Ở đời người ta thường chạy tội, đổ tội cho người khác để giảm khinh cho lỗi của mình. Khi phạm tội ông bà nguyên tổ đã chạy trốn trong bụi cây. Trốn không được nên Adam đã đổ tội cho Eva. Eva đổ tội cho con rắn. Cain thì chối tội. Cuộc đời quanh ta cũng có biết bao người sợ tội, sợ liên lụy nên không dám nhận lỗi lầm về mình, càng không dám để lộ tội lỗi của mình cho người khác biết.
Ở Việt Nam có biết bao con đường chưa xong đã hư, và cũng có biết bao cây cầu chưa khánh thành đã đổ xập. Thế nhưng, điều đáng tiếc là chúng ta cũng chỉ nghe họ đổ tội cho nhau dù đã gây nên biết bao thiệt hại cho xã hội về vật chất, về tiền, có khi cả về mạng sống con người.
Ở gia đình cũng có biết bao cha mẹ thiếu trách nhiệm giáo dục con cái, thiếu cả gương sáng nên con cái hư hỏng, nhưng điều đáng tiếc là họ chỉ đổ tội cho nhau và không bao giờ sám hối về tội của mình.
Có biết bao thanh thiếu niên phạm pháp và xì ke ma túy khi bị bắt họ cũng không nhận lỗi lầm của mình mà còn đổ tội cho cha mẹ vì quá nuông chiều.
Có biết bao mối tình bất chính đã gây nên hậu quả là những cái thai ngoài ý muốn. Điều đáng tiếc là họ cố tình che dấu tội của mình bằng việc tàn sát các thai nhi vô tội.
Chúa Giê-su là Đấng hoàn toàn vô tội. Ngài là Đấng cao cả đến nỗi Gioan bảo không đáng cúi xuống cởi quai dép cho người. Thế mà Ngài lại đến với Gioan như một tội nhân. Ngài hòa mình giữa bao tội nhân để nhận lãnh phép rửa sám hối của Gioan.
Biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa của Gioan là một khởi đầu cho một chuỗi những liên đới với tội nhân. Ngài đã chấp nhận đứng chung với tội nhân để gánh lấy hậu quả của tội lỗi nhân gian. Hậu quả của tội lỗi là đau khổ, là sự chết. Chúa Giê-su đã gánh lấy tội nhân loại khi phải sống kiếp người đầy thăng trầm và khổ đau. Ngài gánh lấy tội nhân loại khi bị kết án, tẩy chay loại trừ. Ngài còn gánh lấy tội nhân gian khi bị chết treo trên thập giá để đền thay tội lỗi nhân gian. Ngài hiến dâng mạng sống mình thành của lễ giao hòa với Thiên Chúa Cha. Qua cuộc Tử Nạn và phục sinh của Ngài mà nhân loại chúng ta được giao hòa với Chúa Cha, được gọi Thiên Chúa là Cha, và được thừa tự phần phúc thiên đàng do công phúc của Chúa Giê-su.
Cuộc đời sẽ hạnh phúc biết bao khi con người biết nhận trách nhiệm về mình, không đổ lỗi, không chạy tội nhưng luôn khiêm tốn nhìn nhận cái sai để sửa, để rút kinh nghiệm, để canh tân. Cuộc đời sẽ không còn nước mắt của sự bỏ rơi, thất vọng khi ai cũng can đảm liên đới với mảnh đời bất hạnh để cảm thông, để an ủi và giúp họ vượt qua những khổ đau. Cuộc đời sẽ công bằng hơn khi ai cũng dám làm dám chịu mà không chạy tội hay đổi tội cho người khác.
Ước gì chúng ta đừng bao giờ chối tội, chạy tội mà luôn biết nhìn nhận những khuyết điểm, những sai lỗi của mình để ăn năn sám hối và canh tân đời sống. Ước gì chúng ta cũng biết liên đới với tội nhân như Chúa Giê-su để dâng những việc lành phúc đức, những lời kinh nguyện, những hy sinh lên Thiên Chúa để đền bù tội lỗi nhân gian. Amen.
15. Các biến cố cơ bản – Camille Gagnon
Nhân dịp một số biến cố, chúng ta đã khám phá được tình yêu Thiên Chúa. Với Chúa Giêsu chúng ta nhắc lại những biến cố này và tạ ơn Chúa.
Lịch sử cuộc đời chúng ta.
Khi người ta yêu cầu ai đó kể lịch sử đời họ trong một cuộc phỏng vấn hoặc để viết một tiểu sử, người ấy sẽ kể những giai đoạn nổi bật và nối kết những bước ngoặt quyết định với một số biến cố, một số gặp gỡ, một số nơi chốn.
Đôi khi chỉ cần một điệu nhạc ngắn đã đủ khơi dậy một niềm say mê đối với Beethoven hoặc Pink Floyd. Một quyển sách có thể làm cho ta ham thích địa lý hoặc lịch sử. Một cuộc gặp gỡ, một bài diễn thuyết có thể là khởi điểm của một sự nghiệp nghệ sĩ hoặc khoa học. Những biến cố này chúng ta có thể gọi là “biến cố cơ bản”.
Trong một cuộc đời, những biến cố như thế không nhiều lắm và trong số những biến cố ấy, một số sẽ tác động nhiều hơn, nhất là những biến cố đã quyết định những mối liên hệ của chúng ta: bước đầu của một tình bạn, việc lựa chọn người phối ngẫu. Những nơi chốn hoặc giờ giấc đã xảy ra những cuộc gặp gỡ đó ghi dấu sâu đậm nơi ký ức đến nỗi chúng trở thành những biểu tượng thiêng liêng của người yêu hoặc của tình yêu.
Tin Mừng mô tả một biến cố cơ bản như thế đối với Chúa Giêsu: việc Chúa chịu phép rửa trên bờ sông Giođan từ tay Gioan.
“Con là Con Ta yêu dấu”
Không gì có vẻ báo trước sẽ xảy ra một điều đặc biệt khi Chúa tiến đến để hoàn thành nghi lễ thanh tẩy. Bản văn Tin Mừng chỉ kể lại rằng “Vào thời ấy, Chúa Giêsu chịu phép rửa trong sông Giođan”. Không có dàn cảnh, người ta không trải thảm để Chúa Giêsu đi xuống nước. Gioan Tẩy Giả không có vẻ nhận ra Chúa ngay tức khắc. Mọi sự xảy ra nơi Chúa Giêsu là người muốn sống chân thành một kinh nghiệm tôn giáo, muốn thể hiện việc hoán cải theo lời mời gọi của Gioan. Chỉ lúc ra khỏi nước Chúa Giêsu mới ý thức về tầm quan trọng của cử chỉ này. Những gì Ngài vừa mới sống sẽ có một ảnh hưởng rất lớn trên cuộc đời của Ngài. Ngài khám phá rằng Ngài được Thiên Chúa yêu như một người con một, một người con ưu ái: “Cha đã đặt nơi con tất cả tình yêu của Cha”.
Để hiểu rõ hơn kinh nghiệm mà Chúa Giêsu đang sống đây, ta nên nghĩ đến một tiếng sét ái tình. Chính trong bối cảnh này mà ta có thể tưởng tượng Chúa Giêsu ra khỏi nước, trầm lặng, lòng sốt mến, rồi ngẩng đầu lên nhìn thấy một chim bồ câu đang bay. Lúc đó chim bồ câu trở thành biểu tượng thiêng liêng của kinh nghiệm nội tâm của Ngài, của điều Ngài vừa khám phá. Sứ vụ và sự dấn thân của Chúa Giêsu sẽ phát xuất từ khám phá này, từ tiếng sét này. Chim bồ câu sẽ là biểu tượng nhắc nhở Ngài về sứ vụ ấy.
Sống lại phép rửa của chúng ta.
Đi từ phép rửa của Chúa Giêsu, việc Bí tích thánh tẩy được coi như biến cố cơ bản của đời sống Kitô, nghĩa là của sự dấn thân của chúng ta đối với Thiên Chúa và sự cam kết của Thiên Chúa đối với chúng ta. Đó là khởi điểm cuộc mạo hiểm làm con cái Chúa của chúng ta. Nếu ý thức điều này cha mẹ chúng ta sẽ yêu thương chúng ta bằng một tình yêu hoàn hảo nhất khi giới thiệu với chúng ta một người “Cha” khác, một người Cha lớn hơn các ngài. Rủi thay chúng ta đã không biết gì về biến cố thánh tẩy của mình.
Chỉ dần dần, nhờ những biến cố khác, những sự việc ngẫu nhiên khác chúng ta mới có thể khám phá tình yêu của Thiên Chúa.
Hôm nay Tin Mừng cho chúng ta dịp ôn lại lịch sử tôn giáo của chúng ta và nhắc lại với chúng ta những xúc động mạnh, những lễ hội, những tang chế là những dịp đã mặc khải cho chúng ta tình yêu Chúa. Tôi chắc chắn rằng nhiều người trong anh chị em đang có trong ký ức của mình kỷ niệm về một dịp nào đó đã giúp mình “gặp gỡ” Thiên Chúa.
Kinh nguyện Thánh Thể trong đó lịch sử cứu độ thế giới được tóm tắt lại sẽ giúp chúng ta nhớ lại những biến cố cơ bản của cuộc đời chúng ta trong niềm tri ân.
16. Phép rửa
Có hai anh bạn đi mua đồ phế thải. Sau khi xem xét một hồi, anh thứ nhất nói:
- Toàn là đồ “năm vố” không à.
Còn anh kia thì nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ đã han dỉ và nói:
- Thật là khó mà tin được, tôi đã tìm thấy một món đồ quý. Cây thánh giá này được làm bằng chất bạc ngày xưa.
Anh ta mang cây thánh giá về nhà, lau chùi, rồi đưa cho đứa con mới đi học giáo lý về. Nó kính cẩn cầm trong tay, ngắm nghía một hồi rồi bật khóc. Thấy vậy anh liền hỏi:
- Tại sao con khóc.
Nó trả lời:
- Con không thể cầm lòng được khi nhìn vào Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
Và như thế, cả ba người đều nhìn vào cây thập giá, thế mà người thứ nhất chỉ thấy đó là đồ ve chai mủ bể, người thứ hai thì thấy đó là một đồ vật có giá trị. Còn người thứ ba thì nhận ra Chúa Giêsu trên đó. Cách nhìn cây thập giá trên cũng tương tự như cách chúng ta nhìn Phúc âm.
Tất cả chúng ta đều nghe cùng một đoạn Phúc âm, thế nhưng mỗi người lại hiểu và phản ứng một cách khác nhau. Có thể chúng ta chỉ nghe như nghe một câu chuyện bình thường, chẳng có chi đặc sắc. Có thể chúng ta đã lắng nghe và tiến thêm một bước nữa, đó là tìm hiểu ý nghĩa của câu chuyện. Có thể ngoài việc học hỏi ý nghĩa, chúng ta còn cố gắng áp dụng vào cuộc sống. Đó là ba bước tiếp nhận Phúc âm: lắng nghe, học hỏi và áp dụng.
Đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay về sự việc Chúa Giêsu chịu phép rửa:
Bước thứ nhất, chúng ta lắng nghe câu chuyện và biết rằng: sau khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì tầng trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống và có tiếng từ trời phán ra. Và cũng chỉ có vậy mà thôi.
Bước thứ hai, chúng ta đi xa hơn một chút, bằng cách cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của những sự kiện trên. Chẳng hạn hình ảnh trời mở ra cho ta thấy Thiên Chúa đã nghe lời cầu nguyện của dân Ngài và Ngài đang đến để cứu vớt họ. Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống gợi lên cho chúng ta về một kỷ nguyên mới, vũ trụ này được tái tạo để trở nên tốt đẹp hơn, như ngày xưa, khi tạo dựng trời đất, Thánh Thần Chúa cũng đã bay lượn trên nước. Còn hình ảnh thứ ba, có tiếng nói từ trời phán ra:
- Đây là con Ta rất yêu dấu.
Những lời này cho thấy Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới của cuộc tạo dựng mới, như lời thánh Phaolô:
- Người thứ nhất tức Adong được tạo dựng là con người sống. Nhưng Adong cuối cùng là Đức Kitô, lại là thần khí ban sự sống. Adong thứ nhất bởi đất mà ra. Còn Adong thứ hai thì từ trời mà đến. Như chúng ta đã mang ảnh hưởng của con người bởi đất, tức Adong thứ nhất thế nào thì chúng ta cũng sẽ mang hình tượng con người bởi trời, tức Adong thứ hai là Đức Kitô như vậy.
Ngoài việc lắng nghe, tìm hiểu ý nghĩa, chúng ta còn phải áp dụng ý nghĩa câu chuyện ấy vào cuộc sống chúng ta.
Chẳng hạn, chúng ta có thể nhớ lại rằng: Cuộc sáng tạo mới bắt đầu với phép rửa của Chúa Giêsu và đã trở thành một thực tại gắn bó với mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì một cách nào đó, bầu trời cũng mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa.
Và như thế chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng với tước vị cao cả ấy. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã khuyên chúng ta:
- Anh em đã sống lại cùng Đức Kitô, vậy anh em hãy hướng tâm hồn vào những sự trên trời chứ đừng vào những sự vật của trần thế này.
17. Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An
Để được thanh tẩy
Theo sách Xuất Hành, Mosê là con trai của Amram, thuộc chi phái Levite, mẹ là Jochebed. Mosê có một chị gái lớn hơn 7 tuổi tên Miriam, và một anh trai lớn hơn 3 tuổi tên Aaron. Theo Sáng Thế Ký (46: 11) Thân phụ của Amram, Kê-hát, ở trong số 70 người thuộc gia đình Jacob vào ngụ cư ở Ai Cập. Như thế, Moses là thế hệ thứ hai sinh trưởng tại Ai Cập.
Mosê chào đời khi Pharaon (Vua Ai Cập) ra lệnh sát hại tất cả bé trai Do Thái bằng cách trấn nước chúng tại sông Nile. Cả kinh Torah và sử gia Flavius Josephus đều không nói gì đến tên tuổi và thân thế của Pharaon này. Người ta không rõ đây là vị Pharaon nào trong lịch sử Ai Cập cổ đại, và có những quan điểm cho rằng đây là vua Seti I hoặc là vua Ramesses II của Vương triều thứ 19.
Jochebed, sau khi sinh hạ một con trai, đã tìm cách giấu đứa bé trong ba tháng. Khi biết không thể bảo vệ đứa bé lâu hơn nữa, Jochebed đặt đứa bé vào một cái nôi và thả trôi theo dòng sông Nile. Miriam, chị của cậu bé, dõi theo canh chừng chiếc thuyền con bé tí này cho đến khi nó trôi giạt vào nơi công chúa Thermuthis (Bithiah) đang tắm cùng các nữ tì. Công chúa thấy đứa bé nằm trong nôi bèn ra lệnh vớt lên. Miriam tìm đến và xin công chúa nhận cô làm vú nuôi chăm sóc đứa bé. Về sau, Jochebed thay thế con gái trở thành vú nuôi của đứa bé. Khi lớn lên, Mosê được đem vào cung và được công chúa nhận làm con nuôi. Công chúa đặt tên đứa bé là Mosê, tiếng Do Thái là mashah nghĩa là được "cứu khỏi nước."
Ông Môsê, ngôn sứ lãnh đạo dân Do Thái thoát khỏi kiếp nô lệ Ai Cập, lưu lạc suốt 40 năm trong sa mạc, đến miền Đất Hứa. Hình ảnh được cứu khỏi nước, ông Môsê thoát chết, khiến tín hữu Kitô liên tưởng đến phép thanh tẩy của Đức Giêsu giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Hôm nay, Giáo Hội mửng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa bời ngôn sứ Gioan Tiền Hô. Có thể nhiều người cũng giống thái độ của Gioan, kinh ngạc thấy Đức Giêsu nằng nặc đòi ông Gioan làm phép rửa cho Người, vốn tinh tuyền, trong sạch, hoàn toàn vô tội.
Làm người
Làm sao thấu hiểu được mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta, nếu không xác tín vào Kinh Thánh, Lời Chúa? Thánh Phaolô đã tóm lược công trình cứu độ con người: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hủy mình ra không, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng phục cho đến chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-7).
Đức Giêsu sẵn sàng rời bỏ địa vị cao quý tột cùng, mặc lấy xác phàm, để cùng sống thân phận yếu đuối, mỏng dòn như nhân loại. Chẳng bao giờ có thần thánh nào khác dám tự hạ làm tiện dân bần cùng đến vậy. Chỉ vì tình yêu nhân loại, mà Người bất chấp gian lao, nguy khó, đe dọa và tước đi cả chính sinh mệnh.
Nghèo khó
Đường lối của Thiên Chúa hoàn toàn khác với đường lối con người, vốn ưa chuộng những điều phù phiếm hư ảo. Đức Giêsu không sinh trong gia đình giàu sang, phú quý, danh giá, nhưng trong cảnh nghèo khó mà công chính, đạo đức, thánh thiện. Máng cỏ Bêlem thô kệch, ngứa ngáy thay cho cái nôi ấm áp, êm ái. Thiếu thốn, bần cùng thay cho dư giả, sung túc tiện nghi. “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5, 3) Trong Bát Phúc, thì tinh thần nghèo khó được Đức Giêsu đặt lên hàng đầu.
“Xin Chúa cho con được khó nghèo như Chúa.” Thường con hay cầu nguyện ngược lại. (Đường Hy Vọng, số 419)
Gian truân
Nhờ hơi ấm bò lừa, Hài Nhi bớt run rẩy trong tiết Đông giá lạnh. Hơn nữa, Hài Nhi hiền hòa còn chịu cảnh bôn ba, vất vả vượt biên Ai Cập, trong khi Mẹ Người và Cha nuôi âu sầu, lo lắng đem Người chạy trốn bạo quyền Hêrôđê lăm le sát hại. “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. (Mt 5, 4 - 5) Người đã nêu gương đích thật về Bát Phúc, tỏa sáng chan hòa cho những ai muốn bước theo Người.
Trong gian khổ có ba điều con nên tránh:
- Đừng điều tra ‘Tại ai?” Hãy cám ơn dụng cụ nào đó, Chúa dung thánh hóa con.
- Đừng than thờ với bất cứ ai. Chúa Thánh Thế, Đức Mẹ là nơi con tâm sự trước hết.
- Khi đã qua, đừng nhắc lại trách móc, hận thù. Hãy quên đi, đừng nhắc lại bao giờ và nói: “Alleluia!” (Đường Hy Vọng, số 700)
Khiêm hạ
Thánh Gioan kinh ngạc thấy Đức Giêsu xếp hàng cùng với tội nhân khắp nơi tuôn đến, xin ngài ban phép rửa. Ai cũng đều không khỏi ngạc nhiên thấy vậy. Đấng Cứu Thế chí tôn, chí nhân, chí thánh lại tự hạ cùng cực, khi hòa mình vào đám đông tội lỗi. Bởi vì Người yêu thương con người, gánh trên mình tất cả tội lỗi gian trần, chịu phép rửa, đồng thời tiên báo cuộc tử nạn và phục sinh hầu cứu độ loài người.
“Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc 1, 52) Đức Mẹ Maria đã cảm nghiệm sâu sắc đức khiêm nhường, mà Chúa hằng yêu chuộng.
“Trong cuộc đời Chúa Giêsu, Người yêu thương cách riêng những kẻ khiêm nhường, và quên hết tội lỗi của họ, không bao giờ nhắc lại:
Phêrô
Mađalêna
Giakêu…
Chúa thân hành đến nhà họ, và đành chịu mang tiếng: “Bạn với quân thu thuế và tội lỗi.” (Đường Hy Vọng, số 521)
Vâng phục
“Người đi cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục các ngài.”(Lc 2, 51) Ba mươi năm sau, Đức Giêsu vẫn tiếp tục vâng theo Thánh Ý Cha, khiêm nhường cúi đầu chịu phép rửa của ông Gioan, toàn tâm, toàn ý trung thành với sứ vụ cứu độ loài người. Người đã làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha: “Con là Con yếu dấu của Cha, Cha hài lòng về con.” (Mc 1, 11)
“Vâng phục trong thinh lặng, sự thật sẽ giải thoát con. Thinh lặng trong năm năm, mười năm, cả đời con. Thinh lặng trong sự chết… Chúa biết con đủ rồi, và ngày tận thế nhân loại cũng sẽ biết. (Đường Hy Vọng, số 405)
Lạy Chúa Giêsu, xin thức tỉnh chúng con trở về với Chúa, chừa thói kiêu căng, tự cao tự đắc, tự mãn, mà biết cúi mình, đấm ngực, ăn năn, sám hối, ý thức thân phận tội lỗi, mà canh tân đổi mới cuộc đời, hầu được Chúa giải thoát cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con sống tự hạ, khiêm tốn, khó nghèo và vâng phục theo Mẹ, để được Chúa thương dẫn về sự sống. Amen.
18. Lên khỏi nước
Trong cuốn sách “Aqua Church”, Leonard Sweet đã đưa ra một thống kê như sau: “Không có nước thì bạn sẽ chết về cả thể lý lẫn tinh thần. Nếu bạn thiếu 1% số lượng nước trong cơ thể sẽ làm bạn khát nước. Nếu thiếu 5% sẽ gây nên sốt nhẹ. Nếu thiếu 8% sẽ làm cho các tuyến hạch ngưng sản xuất nước miếng và da trên cơ thể sẽ tái ngắt. Một người sẽ không thể bước đi nổi nếu thiếu 10% số lượng nước trong cơ thể, và nếu thiếu tới 12% sẽ chết. Mỗi ngày có khoảng 9500 trẻ em chết vì thiếu nước uống hay chết vì những bệnh gây ra do nước bị ô nhiễm”.
Nước mang lại sự sống đời này. Chúa Giêsu cũng dùng nước làm biểu tượng mang lại ơn “tái sinh và được đổi mới trong Chúa Thánh Thần”. Theo linh mục Eugene Laverdiere, trong Phúc âm của Luca và Matthêu, căn tính của Chúa Giêsu được mạc khải qua các biến cố Truyền Tin, Giáng Sinh và các nhà đạo sĩ đến thờ lạy. Thánh Gioan trình bày là Lời Hằng Sống mặc lấy xác thịt để mạc khải về Thiên Chúa Cha. Còn thánh Máccô đã dùng phép rửa của Gioan để nhận Chúa Giêsu là ai: “Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời: Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”.
Theo cha Laverdiere, Chúa Giêsu không phải là người tội lỗi, Ngài không cần phải chịu phép rửa của Gioan. Nhưng vì Ngài muốn kết hợp chính bản thân của mình với nhân loại tội lỗi để cứu rỗi họ. Phép rửa của Chúa Giêsu đã công bố Ngài, một con người trong sự liên kết với toàn thể loài người, và điều này đã chứng tỏ ý muốn của Ngài mang lấy gánh nặng của tội lỗi chúng ta trên đôi vai vô tội của Ngài. Trong ý nghĩa này, xin dùng hai hình ảnh cụ thể để minh hoạ cho phép rửa của Chúa Giêsu và phép rửa tội của chúng ta: cuộc chạy đua marathon và cây nến sáng.
1. Cuộc chạy đua Marathon:
Tháng 7 năm 1996, những cuộc tranh tài thể thao Olympic được tổ chức tại Atlanta, tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ. Khi nghe tiếng súng khởi sự, 25 vận động viên chạy đua marathon bắt đầu khởi động cho cuộc chạy thi 10 ngàn mét. Mười ngàn mét là 10 cây số, tức 6 dặm. Trước khi nói về vận động viên Stefano Baldini, tôi xin nói về một chi tiết đáng lưu ý của cuộc thi này như sau. Trong số 25 vận động viên chạy thi lần này, có 7 người chưa bao giờ hoàn tất được cuộc thi, nghĩa là chưa bao giờ chạy về đến đích cho dù mất bao nhiêu thời gian. Họ bỏ cuộc vì chuột rút bắp vế, vì đau chân, kiệt sức… nên họ có tên là DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.
Stefano Baldini trong cuộc thi này đã cố chạy về tới đích điểm, cho dù hết người này tới người khác vượt qua mặt anh. Họ vượt qua mặt anh không những một vòng chạy mà tới những hai vòng chạy! Một người Ethiopy đã về tới đích trước, đoạt hạng nhất. Rồi người khác về nhì, người về ba. Dần dần tất cả thứ hạng nhất nhì ba đã được công bố, họ đang nghỉ mệt, chúc mừng và sẵn sàng leo lên bệ đài lãnh huy chương. Nhưng anh Stefano Baldini vẫn còn đang chạy. Anh không bỏ cuộc, cứ tiếp tục chạy.
Khi anh về đến đích, xướng ngôn viên của ban tổ chức loan báo cho tất cả hội trường biết rằng anh chỉ về sau người hạng nhất có 2 phút, và tốc độ chạy ở dặm cuối cùng nhanh hơn thời gian anh chạy ở dặm thứ nhất. Khi anh về tới đích thì toàn thể hội trường đều đứng lên vỗ tay chúc mừng và hoan hô anh. Anh đã không chỉ hoàn tất cuộc chạy đua cách can trường mà còn kết thúc nó một cách xứng đáng.
Qua phép rửa của Gioan, Chúa Giêsu bắt đầu ba năm mục vụ để rao giảng tình yêu và ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Ngài bắt đầu cuộc chạy đua marathon. Theo thánh Máccô, ngay sau phép rửa, Chúa Giêsu vào sa mạc ăn chay, cầu nguyện và bị ma quỷ cám dỗ. Cuộc hành trình của Ngài là cuộc hành trình gian khổ giống như mọi người. Ngài giảng dạy, chữa lành, kể dụ ngôn, ngay cả khi nhiều người không chịu nghe! Ngài không bao giờ bỏ cuộc. Đang khi chết trên thập giá, Ngài giống như là kẻ thua cuộc nhất trên thế gian này. Nhưng lại là lúc Ngài chiến thắng. Đó là phần tốt nhất của Ngài trong cuộc đua. Vì sự vinh quang của thập giá mà bây giờ các Kitô hữu đang vỗ tay hoan hô nhiệt liệt, chúc mừng Ngài là Đấng Cứu Độ Trần Gian.
Đời sống Kitô hữu cũng giống như một cuộc chạy đua marathon. Nó vừa dài, vừa khó khăn, lại vừa đòi hỏi. Phép rửa tội đưa chúng ta vào khởi động. Đang khi chạy, chúng ta dễ bị nản chí, bỏ cuộc, bởi yếu đuối, cám dỗ… mà quên rằng đích điểm của cuộc chạy đua là sự sống đời đời và sự liên hệ với Chúa Giêsu Kitô. Nhiều khi đích điểm đó đã trở nên mờ nhạt! Chúng ta muốn bỏ cuộc, muốn mang tên DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.
Mẹ Têrêsa Calcutta, người đã ăn bánh mì chấm với nước lã, chưa bao giờ cân nặng hơn 100 pounds. Tuy nhiên, hãy nhìn vào cuộc chạy đua marathon Kitô hữu của Mẹ! Vào ngày Mẹ chết, mùng 5 tháng 9, 1997, toàn thể thế giới vỗ tay reo mừng. Xưa kia, một phóng viên đã hỏi Mẹ, “Thưa Mẹ, làm thế nào Mẹ có thể làm được như vậy? Làm thế nào Mẹ có sức mạnh để tiếp tục sống như vậy?” Mẹ đã trả lời: “Tôi nhìn vào khuôn mặt của người nghèo mà thấy mặt Chúa Giêsu”.
Trong Chúa Giêsu, Mẹ Têrêsa đã tìm thấy sức mạnh để tiếp tục cuộc chạy đua đường trường marathon. Tình yêu mến Chúa Giêsu là động lực để phục vụ tha nhân và sống bác ái.
2. Cây nến sáng.
Một hình ảnh khác cũng mang ý nghĩa sâu xa của đời sống Kitô hữu, đó là cây nến sáng. Ngày chúng ta chịu phép rửa tội, người đỡ đầu đã đại diện chúng ta đón nhận lấy ánh sáng của Chúa Kitô từ cây nến Phục Sinh. Cây nến Phục Sinh là biểu tượng của Chúa Kitô: “Ta là ánh sáng thế gian”. Chúng ta chấp nhận bước đi trong ánh sáng của Đức Kitô và làm chứng nhân cho Ngài nên được gọi là người Kitô hữu. Cây nến sáng là hình ảnh cuộc đời của người Kitô hữu.
Cây nến được làm nên bởi sáp ong. Sáp ong là kết quả công trình làm việc rất kiên nhẫn của những con ong thợ. Chúng bay từ bông hoa này sang bông hoa khác để hút lấy phần tinh túy của nhụy hoa, rồi tiết thành sáp ong. Sáp ong giúp cho ngọn lửa cháy sáng. Sáp ong cũng là hình ảnh của thân xác con người. Con người là tinh hoa của công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Một tạo vật hoàn hảo và đẹp đẽ nhất trong vũ trụ. Không có thân xác, con người không thể hiện hữu trên trần gian được.
Cây nến cháy sáng lên với ngọn lửa. Ngọn lửa tạo ra ánh sáng và hơi ấm. Anh sáng và hơi ấm làm cho phần sáp ong của cây nến có ý nghĩa và mục đích. Ngọn lửa là hình ảnh của đời sống tinh thần nơi thân xác, là đức tin của người Kitô hữu, là mục đích và ý nghĩa của cuộc đời. Chính đức tin vào Chúa Giêsu Kitô tạo nên ánh sáng hy vọng và hơi ấm tình người trong cuộc đời của người Kitô hữu.
Ngọn lửa luôn cháy thẳng đứng, bất kể cây nến sáp ong ở vào vị trí nào. Dù nghiêng sang bên trái, bên phải, hay ngã đổ xuống, ngọn lửa vẫn luôn cháy thẳng lên. Đức tin Kitô giáo luôn mang tính cách hướng thượng. Nó phản ảnh lòng khát khao sự sống vĩnh cửu, tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa Toàn Năng. Dù cuộc đời người Kitô hữu có nghiêng ngả, chao đảo, đôi khi đổ ngã, nhưng đức tin và đời sống ân sủng của Chúa Giêsu Kitô vẫn luôn hiện diện.
Ngọn lửa càng cháy sáng và hơi nóng càng ấm áp thì cây nến sáp ong càng bị mất mát, ngắn dần và bị tiêu thụ đi bấy nhiêu. Đời sống đức tin của người Kitô hữu đòi hỏi sự hy sinh, quên mình để làm chứng cho Đức Kitô.
John Ruskin, một văn sĩ người Anh sống vào thế kỷ thứ 18, đã kể lại câu chuyện sau đây. Khi về già, ông thường đến thăm nhà của một người bạn rất thân, và đứng ở cửa sổ phía trước nhà nhìn xuống mặt đường. Vào mỗi buổi chiều tối, người thắp đèn đường phải đi đốt đèn dọc theo hai bên đường. Từ cửa sổ của một ngôi nhà, một người chỉ có thể nhìn thấy những ánh đèn đã được đốt lên rồi, và ngọn lửa mà người thắp đèn đang mang đi đốt từ cột đèn này tới cột đèn khác. Chính người thắp đèn cũng không thể được ai nhìn thấy.
Nhà văn Ruskin đã lưu ý rằng người thắp đèn là một hình ảnh rất đúng của người Kitô hữu chân chính. Con đường của người Kitô hữu bước đi rực sáng ánh đèn mà chính người đó đã thắp lên với ngọn lửa đang cháy sáng trong tay để đốt lên các ngọn đèn khác, mặc dù chính người đó có thể không được ai biết đến hay được ai trông thấy.
Trong cuốn “Như Tiếng Chim Ca” của cha Anthony de Mello, SJ., kể câu chuyện “Thiền Sư Và Kitô Hữu” cũng nói lên lý tưởng của người Kitô hữu như sau:
Một Kitô hữu đến thăm một vị thiền sư và nói: “Xin thầy cho phép tôi đọc thầy nghe Bài Giảng Trên Núi”. Thiền sư đáp: “Tôi rất thích nghe”. Người Kitô hữu đọc một câu rồi ngước mắt lên nhìn. Thiền sư mỉm cười nói: “Đấng đã phán những lời đó chắc chắn phải là một vị Giác Ngộ”. Kitô hữu cảm thấy khoái trá. Ông tiếp tục đọc. Thiền sư ngưng lại rồi nói: “Những lời đó phải phát xuất từ Đấng Cứu Thế của nhân loại”. Người Kitô hữu cảm thấy thích thú. Ông tiếp tục đọc cho đến hết. Lúc bấy giờ thiền sư tuyên bố: “Người đã rao giảng như thế phải là Thiên Chúa”. Nỗi vui mừng của người Kitô hữu thật vô bờ bến. Ông ra về, cương quyết sẽ trở lại một ngày khác để thuyết phục thiền sư trở thành Kitô hữu.
Trên đường về nhà, ông gặp Chúa Giêsu đứng bên vệ đường. Ông đã thưa với Chúa một cách khoái trá: “Lạy Chúa, con đã làm cho người đó xưng ra Chúa là Thiên Chúa!” Chúa Giêsu mỉm cười và nói: “Con đã làm gì hay đâu, ngoại trừ việc con thổi phồng cái tôi Kitô hữu của con mà thôi?”
Đời sống đức tin của người Kitô hữu là một “chứng nhân không nhân chứng” cho Chúa Kitô, vì họ không phải là Chúa Kitô, nên cũng dễ bị phản chứng. Đời sống đức tin của người Kitô hữu là một cuộc chạy đua marathon, vì là cuộc chạy đua chưa về tới đích điểm, nên cũng dễ bị mang tên DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, noi gương Mẹ Têrêsa, nếu chúng ta luôn giữ vững niềm tin nơi Chúa Giêsu, chúng ta sẽ hoàn tất cuộc đua. Chúng ta có thể sẽ bị người khác vượt qua. Có thể bị đau chân, chạy cà nhắc vài dặm. Nhưng với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ hoàn tất và có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính”. Và các thiên thần cùng các thánh sẽ vỗ tay hoan hô ngày chúng ta hoàn tất cuộc đua marathon Kitô hữu về tới đích điểm là Nước Thiên đàng.
19. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA: ÂN SỦNG CỦA BÍ TÍCH RỬA TỘI
Sự kiện Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là gạch nối giữa giai đoạn quan trọng: sống ẩn dật và rao giảng công khai. Sau 30 năm sống âm thầm với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa cũng là gạch nối giữa hai mùa: Giáng sinh và Thường niên. Giáo Hội đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố Giáng Sinh và Hiển Linh. Hôm nay Chúa Nhật I thường niên, Giáo Hội sẽ cùng đồng hành với Người qua các biến cố của đời rao giảng.
1. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa
Khởi đầu cuộc sống công khai, lúc đã 30 tuổi, tức là đã trưởng thành trọn vẹn như người Á Đông vẫn quan niệm “tam thập nhi lập”, Chúa Giêsu tìm đến sông Giođan để xin Gioan Tẩy Giả cử hành phép rửa cho mình. Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” (Mc 1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy? Đây là động thái gây kinh ngạc cho con người thời nay, vì khó hiểu: Đấng không có tội lại đi nhận phép rửa làm gì? Nhưng người ta cũng sớm hiểu ra rằng: phép rửa của Gioan Tẩy Giả chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo. Chính Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lửa”. Khi Chúa Giêsu nhận phép rửa này, ngoài việc “nhập thế đến cùng”, khiêm tốn xếp hàng đứng chung với các tội nhân đợi chờ đến phiên, Người còn hữu ý qua động thái có một không hai đó, công khai khởi đầu cuộc sống mới: cuộc rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Tất cả các tiên trưng trong Cựu Ước đều được thực hiện trong Đức Kitô Giêsu. Để “chu toàn thánh ý Thiên Chúa"(Mt 3,15), Chúa Giêsu tự nguyện chịu phép rửa của thánh Gioan, dành cho những người tội lỗi. Cử chỉ này cho thấy Chúa Giêsu đã đi vào mầu nhiệm “tự hạ” (Pl 2,7). Chúa Thánh Thần xưa kia đã bay là là trên mặt nước trong cuộc sáng tạo thứ nhất, nay ngự xuống trên Đức Kitô như khúc nhạc dạo đầu của bản giao hưởng sáng tạo mới, và Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsu là “Con Chí Ái” của Ngài (Mt 3,16-17).
Trong cuộc Vượt Qua, Đức Kitô đã khơi nguồn Bí Tích Rửa Tội cho mọi người. Người nói về cuộc tử nạn sẽ phải chịu tại Giêrusalem như “một Phép Rửa” Người phải lãnh nhận (x. Mc 10,38; Lc 12,50). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Người bị đâm thâu trên thập giá (Ga 19,34) tiên trưng cho Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể là những bí tích ban sự sống mới (x.1Ga 5,6-8); từ giây phút ấy, chúng ta có thể “sinh ra nhờ nước và Thánh Thần” để được vào Nước Thiên Chúa (Ga 3,5).
Bí Tích Rửa Tội là cánh cửa phân chia tách bạch đời sống, một đàng là khép lại quá khứ của bóng tối, tội lỗi, chết chóc, và đàng khác là mở ra tương lai của ánh sáng, thánh ân, sự sống. Bí Tích Rửa Tội cần thiết cho ơn cứu rỗi, nên bí tích này cũng là khởi đầu cho một sự hiện diện mới: từ kẻ ngoại đạo trở thành người đã tòng giáo; từ một lương dân trở nên tín hữu; từ kẻ xa lạ trở thành người nhà của Thiên Chúa. Quả là một hồng ân vô cùng lớn lao cho những ai đón nhận trong lòng tin.
2. Ân Sủng của Bí Tích Rửa Tội
Khi ban Bí Tích Rửa Tội, Thừa tác viên Giáo Hội đổ nước trên đầu thụ nhân và đọc công thức “Cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đơn giản trong cung cách cử hành, nhưng hiệu quả ơn thánh lại phong phú bội phần. Bằng những hình ảnh do Thánh Kinh gợi ý, người ta trở thành thành viên trong Dân Chúa Cha, chi thể trong Thân Mình Chúa Kitô và viên đá sống động kiến tạo Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Con người mới chính là con cái Thiên Chúa và được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa hằng sống.
Bí Tích Rửa Tội là nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích này chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, thành chi thể của Đức Kitô, được gia nhập và tham dự sứ mạng của Hội Thánh (GLCG 1213).
Bí Tích Rửa Tội tha thứ nguyên tội, mọi tội cá nhân và các hình phạt do tội. Bí Tích Rửa tội cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hoá, nhờ ơn công chính hoá giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội Thánh. Bí tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các Kitô hữu. Bí tích này trao ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận bí tích Rửa tội thuộc về Đức Kitô luôn mãi: họ được đóng ấn không thể xóa được của Đức Kitô (GLCG 263).
Như vậy, có hai hiệu quả chính yếu của Bí Tích Rửa Tội là thanh luyện tội lỗi và tái sinh trong Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,38; Gl 3,5).
a. Được tha thứ tội lỗi
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, mọi tội lỗi đều được tha: nguyên tội, mọi tội riêng cũng như mọi hình phạt do tội (x. DS 1316). Những người đã được tái sinh sẽ được vào Nước Thiên Chúa và không còn gì ngăn cản họ, dù là tội Ađam, tội riêng của họ, những hậu quả của tội, kể cả hậu quả trầm trọng nhất là xa lìa Thiên Chúa.
Tuy nhiên, người đã được rửa tội còn phải chịu một số hậu quả tạm thời của tội như: đau khổ, bệnh tật, chết chóc hay những bất toàn trong cuộc sống như tính tình yếu đuối... và một sự hướng chiều về tội mà Truyền Thống quen gọi là vật dục hay nói bóng bẩy là “cái nôi của tội”. “Thiên Chúa để vật dục lại cho chúng ta chiến đấu. Vật dục không có khả năng làm hại những ai không đồng tình mà còn can đảm chống lại nó nhờ ân sủng của Đức Kitô. Hơn nữa, “không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ” (2 Tm 2,5) (x. CĐ Trentô: DS 1515).
b. “Trở nên thụ tạo mới”
Bí Tích Rửa Tội không chỉ rửa sạch mọi tội lỗi, mà còn làm cho người tân tòng trở nên “một thụ tạo mới” (2 Cr 5,17), thành nghĩa tử của Thiên Chúa (x. Gl 4,5-7), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4), thành chi thể Đức Kitô (x.1Cr 6,15; 12,27) và đồng thừa tự với Người (Rm 8,17), thành đền thờ Chúa Thánh Thần (x.1Cr 6,19).
Chúa Ba Ngôi Chí Thánh ban cho người được rửa tội ơn thánh hóa, ơn công chính hóa để người đó:
- Có khả năng tin tưởng, trông cậy và yêu mến Người nhờ các nhân đức đối thần.
- Có thể sống và hành động dưới tác động của Chúa Thánh Thần nhờ các hồng ân.
- Ngày càng hoàn thiện hơn nhờ các nhân đức luân lý.
Toàn bộ đời sống siêu nhiên của người Kitô hữu đều bắt nguồn từ Bí Tích Rửa Tội.
Bí Tích Rửa Tội làm cho chúng ta thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô, “bởi thế, chúng ta là phần thân thể của nhau” (Ep 4,25). Bí Tích Rửa Tội tháp nhập chúng ta vào Hội Thánh. Dân Thiên Chúa của Giao Ước Mới phát sinh từ giếng rửa tội. Dân này vượt trên mọi ranh giới tự nhiên hay nhân trần, quốc gia, văn hóa, chủng tộc và giới tính. “Tất cả chúng ta đều đã chịu Phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1 Cr 12,13).
Những người đã được rửa tội trở nên “những viên đá sống động... để xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần, xây dựng hàng tư tế thánh” (1 Pr 2,5). Nhờ Bí Tích Rửa Tội ,họ tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô, vào sứ mạng ngôn sứ và vương đế của Người: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công vĩ đại của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối vào nơi đầy ánh sáng dịu huyền” (2 Pr 2,9).
Bí Tích Rửa Tội cho các tín hữu tham dự vào chức tư tế cộng đồng của Dân Chúa.Người đã được rửa tội trở thành phần tử của Hội Thánh, họ “không còn thuộc về mình, nhưng thuộc về Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta” (1Cr 6,19). Do đó, họ được mời gọi để phục tùng nhau (x.Ep 5,21;1Cr 16,15-16) và phục vụ nhau (x.Ga 13,12-15) trong tình hiệp thông của Hội Thánh. Họ được mời gọi vâng lời và phục tùng các vị lãnh đạo của Hội Thánh (x.Dt 13,17) với lòng kính trọng và quý mến (x.1Tx 5,12-13). Bí Tích Rửa Tội đã trao cho người lãnh nhận những trách nhiệm và bổn phận, đồng thời cũng cho họ được hưởng những quyền lợi trong lòng Hội Thánh:được lãnh nhận các bí tích, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và được Hội Thánh nâng đỡ bằng các trợ giúp thiêng liêng. (x.LG 37).
3. Bí Tích Rửa Tội, hồng ân cao đẹp và kỳ diệu
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan là lúc Tân - Cựu ước giao duyên, là lễ bàn giao giữa hai niên đại cũ và mới mà Chúa Giêsu và Gioan là đại biểu. Gioan, ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước gặp gỡ trao đổi bàn giao với Đức Kitô,vị ngôn sứ của thời kỳ mới.Nơi cuộc gặp gỡ lịch sử này,Thiên Chúa đã xuất hiện và chứng nhận. Lúc ấy các tầng trời mở ra, Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là Con Ta yêu dấu. Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện vào chính lúc lịch sử của hai niên đại mới và cũ chuyển giao.Từ nay Chúa Giêsu sẽ lên đường vào sứ vụ mới với cuộc sống công khai, chính thức rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân chúng. Lời Người nói là Lời chân lý khai quang tâm hồn, dẫn người người về đường ngay nẻo chính Nước Trời, và việc Người làm là việc giải thoát đem lại ơn cứu rỗi, đưa toàn thể nhân loại vào trong tình nghĩa thiết ngàn đời với Thiên Chúa tình thương. Chúa Giêsu khai mở kỷ nguyên cứu rỗi.
Thánh Phaolô gọi Bí Tích Rửa Tội là tắm trong Chúa Thánh Thần, để được tái sinh và đổi mới (x. Tt 3,5). Được tái sinh làm con Thiên Chúa, những người đã được rửa tội có bổn phận tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua Hội Thánh (x.LG 10), tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của Dân Thiên Chúa (x.LG 17; AG 7,23).
Thánh Giúttinô gọi Bí Tích Rửa Tội là ơn soi sáng, vì những người được đạo lý giáo huấn thì tâm trí được soi sáng. Người chịu phép rửa, vì đón nhận Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người” (Ga 1,9), nên sau khi “đã được soi sáng” (Dt 10,32), họ trở thành “con cái sự sáng” (1 Tx 5,5) và là “ánh sáng” (Ep 5,8).
“Bí Tích Rửa Tội là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa...Chúng ta gọi là hồng ân, ân sủng, xức dầu, soi sáng, mặc lấy sự bất tử, tắm để tái sinh, ấn tín và tất cả những gì quý giá nhất. Là hồng ân, vì được ban cho những người trắng tay. Là ân sủng, vì được ban cho cả những người có lỗi. Dìm xuống,vì tội lỗi bị nhận chìm trong nước. Xức dầu, vì có tính cách linh thiêng và vương giả (như những người được xức dầu). Soi sáng, vì đó là ánh sáng chói lọi. Mặc, vì che đi nỗi tủi nhục của chúng ta. Tắm, vì làm cho chúng ta sạch. Ấn tín, vì gìn giữ chúng ta và là dấu chỉ về quyền tối cao của Thiên Chúa” (Thánh Grêriô Nadien, Bài giảng 40,3-4).
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, trong tư cách là “Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô”, chúng ta được nhắc nhớ về sứ mạng phải làm triển nở sự sống của Chúa Kitô nơi mình và nơi những người lân cận bằng lòng tin và bằng tình yêu chân thành và trung tín.
Trong tư cách “Kitô hữu hướng về Chúa Kitô”, chúng ta cũng được hun đúc để luôn biết sống bằng niềm hy vọng và bằng lời kinh phó thác, nhất là trong lúc gặp thử thách gian truân.
Trong tư cách “Kitô hữu tìm về Chúa Kitô”, chúng ta còn biết sẵn sàng thanh tẩy đời sống qua việc sám hối hòa giải để đón nhận lòng thương xót của Chúa một cách dồi dào hơn.
Trong phép lần hạt Năm Sự Sáng, gẫm thứ nhất, chúng ta vẫn đọc: “Thứ nhất thì ngắm, Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa”. Theo gương Mẹ Maria, chúng ta xin được sống gắn bó với Chúa Giêsu mật thiết hơn, để xứng đáng là những người con yêu dấu của Thiên Chúa.
20. Tầm quan trọng của Bí Tích Rửa Tội
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Nếu phép rửa của ông Gioan tẩy giả không có công hiệu tha tội thì tại sao Ðức Giêsu là Ðấng vô tội lại đến xin chịu phép rửa ở sông Gio-đan? Ðây chính ông Gioan đã trả lời cho câu hỏi này:
Tôi chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần (Mc 1:8). Như vậy phép rửa của Gioan chỉ là nghi thức, một tác động sám hối để sửa soạn cho người ta đón nhận Ðấng Cứu thế. Bằng việc chịu phép rửa, Ðức Giêsu muốn xác nhận sứ mệnh và phê chuẩn việc làm của ông Gioan. Chúa còn tỏ cho nhân loại thấy tầm quan trọng của Bí tích Rửa tội mà Người sẽ thiết lập sau này.
Mặc dù không phải là bí tích rửa tội, phép rửa mà Ðức Giêsu lãnh nhận bởi ông Gioan cũng đánh dấu quyết liệt trong đời sống của Người. Khi Chúa chịu phép rửa, có tiếng phê chuẩn từ trời: Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con (Mc 1:11). Với tiếng phán từ trời, Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha công nhận là người đến để cứu chuộc nhân loại. Tiếng từ trời phán có liên hệ rất gần gũi với lời ngôn sứ Isaia về người đầy tớ đau khổ: Ðây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người ta tuyển chọn và quí mến (Is 42:1). Từ ngữ Con trong Phúc âm thánh Mác-cô được thay thế vào từ ngữ tôi trung trong sách ngôn sứ Isaia ám chỉ Chúa Giêsu là tôi tớ đau khổ của Ðức Giavê. Và đó là điều mà Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Ðức Kitô: Ðây chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xoá tội trần gian (Ga 1:29).
Phép rửa mà Đức Giêsu lãnh nhận nhắc nhở cho ta về phép Rửa tội của mỗi người, đánh dấu việc khởi đầu của đời sống đức tin. Ðời sống đức tin của người tín hữu bắt đầu khi ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Trong nước rửa tội, ta trở nên người mới với đời sống mới. Bí tích Rửa tội vừa là việc kết thúc vừa là việc khởi đầu. Bí tích Rửa tội kết thúc đời sống trong bóng tối tội lỗi và bắt đầu đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa. Bí tích Rửa tội là việc tham dự vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, nghĩa là người chịu phép Rửa tội phải chết đi cho tội lỗi, để được sống lại với Chúa trong ơn thánh. Ðó là ý nghĩa của lời Chúa nói với ông Nicôđêmô: Không ai có thể thấy nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra bởi nước và Thánh thần (Ga 3:5). Và rồi Chúa thiết lập Bí tích Rửa tội: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha, và Con và Thánh thần (Mt 28:19).
Bí tích Rửa tội không phải là giấy thông hành để được vào nước Trời. Người ta có thể chứng minh có tất cả các giấy chứng chỉ về đạo giáo như: chứng chỉ rửa tội, rước lễ lần đầu, thêm sức, cưới hỏi.. Tuy nhiên chưa chắc người ta đã sống đức tin và trưởng thành trong đức tin. Người ta có thể chịu Phép rửa tội lâu năm, nhưng đời sống vẫn không có gì thay đổi, vẫn khô khan, nguội lạnh và làm biếng việc lành. Tại sao lại như vậy? Có lẽ tại vì người ta làm việc đạo một cách máy móc cho qua lần chiếu lệ, hay mặc cả với Chúa để được hưởng giá rẻ trong việc giữ đạo.
Khi chịu Phép Rửa tội, người tín hữu phải tỏ ra tâm tình sám hối đi kèm. Tuy nhiên làm sao trẻ thơ có thể giục lòng sám hối? Ở đây, cha mẹ và người đỡ đầu và toàn thể dân Chúa thay thế cho con trẻ khi chịu phép rửa tội để giục lòng sám hối mà nhận lãnh đức tin. Để nhắc nhở cho người tín hữu về những ơn ích của Bí tích Rửa tội, hằng năm vào lễ Phục sinh, Giáo hội cho ôn lại lời hứa khi chịu Phép Rủa tội là: từ bỏ tội lỗi, từ bỏ Xatan và những quyến rũ gian tà. Giáo hội còn nhắc nhở cho người tín hữu tin vào Thiên Chúa là Cha, tin Chúa Giêsu Kitô và tin Chúa Thánh thần. Ngươòi tín hữu còn được nhắc nhở để đặt niềm tin vào Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, tin phép tha tội, tin xác sống lại và sự sống vĩnh cửu nữa.
Bí tích Rửa tội là một biến cố lớn trong đời sống người tín hữu. Hoặc được rửa tội khi còn tuổi măng sữa, hay khi đã lớn khôn, người ta cần đem ý nghĩa vào việc rửa tội. Nếu được rửa tội khi đã khôn lớn, người ta phải xác tín về đức tin và về đạo. Nếu được rửa tội lúc còn nhỏ dại, khi lớn lên, người ta phải tự phê chuẩn đức tin mà ta đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa tội. Ta không thể cậy dựa và tuỳ thuộc vào đức tin của cha mẹ và người đỡ đầu mãi mãi. Ta phải tập đi tập đứng trong đức tin. Khi mà hạt giống đức tin được vun trồng trong đời sống, ta phải nuôi dưỡng, chăm sóc, nếu muốn cho đức tin được tăng trưởng và sinh hoa kết quả thiêng liêng.
Lời nguyện xin cho được ơn nhận ra tầm quan trọng của Bí tích Rửa tội.
Lạy Chúa Giêsu! Đấng thiết lập Bí tích Rửa tội.
Bằng việc chịu phép rửa sám hối,
Chúa đã muốn phê chuận sứ mệnh của thánh Gioan.
Chúng con cầu nguyện cho những người tin Chúa
mà không nhận phép rửa tội.
Xin cho họ nhận thức được
tầm quan trọng của Bí tích Rửa tội.
Còn những người đã được sinh lại trong nước và Thánh thần,
xin cho họ được tiếp tục đi tìm kiếm nước Chúa. Amen.
21. Chúa Giêsu chịu phép rửa: Thời đại ân sủng
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Chúa chịu Phép Rửa tại sông Giođan mở ra một thời đại ân sủng cho nhân loại.
1. Sông Giođan
Trong các dòng sông nổi tiếng khắp thế giới thì Giođan bé nhỏ là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu. Dòng sông ấy gắn liền với những sự kiện quan trọng của Thánh Kinh.
Như một thân thể của xứ Palestine, sông Giođan góp phần quan trọng trong lịch sử Israel ngay từ những ngày đầu Thiên Chúa chọn dân Do thái. Từ Giođan chuyển từ tiếng Do thái là “hayyarden” có nghĩa “chảy xuôi dòng thời gian”. Bắt nguồn từ Syria, do ba phụ lưu hợp thành. Sông dài 300km, rất nhiều chỗ cạn, nhiều chỗ uốn khúc; chảy vào biển hồ Galilê, ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển; rồi tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết, ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển, có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu. Lòng sông rất dốc, thượng lưu ở độ cao 45 mét, đến cửa sông là 390 mét so với mặt nước biển, lưu vực 93 mét khối/s. Mặc dù là con sông rộng nhất của Palestine, nhưng Giođan khác với những con sông của nhiều nước ở chỗ: khúc sông từ Biển Hồ Galilê đến Biển Chết có đến 27 ghềnh thác khó lưu thông, lắm chỗ nước chảy qua tạo thành những thung lũng như đầm lầy, nhiều nơi có thú dữ, cây cối hai bên dòng sông mọc tươi tốt, không có thành phố lớn nào được thành lập dọc theo dòng sông.
Kinh Thánh nói nhiều đến dòng sông này. Khởi đầu là việc liên hệ giữa Abraham và ông Lot ở sông Giođan (St 13,10). Giacob từ Kharan trở về đã vượt qua sông Giođan. Các chi tộc vượt sông Giođan cách kỳ diệu dưới sự hướng dân của Giosuê (Gs 3,14-17). Con sông là ranh giới vì dân du mục vượt qua sông vào Cannaan để cướp bóc. Người Israel tìm nơi nương náu bên kia tản ngạn sông Giođan (Tl 6,33; 2Sm 17,22) và được xem như sự che chở: “Trong bụi rậm sông Giođan...” (Gr 12,5; 49,19; 50,44). Tướng quân Naaman nước Aran nghe lời ngôn sứ Êlisa xuống sông tắm 7 lần nên được khỏi bệnh phong hủi (2V 5,1-19). Ngôn sứ Êdêkiel diễn tả sức sống sung túc của sông Giođan, nước sông chảy đến đâu thì trao ban sự sống đến đó (Ed 47).
2. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa
Chính tại dòng sông Giođan bé nhỏ, Chúa Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cách đón nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả. Ngôi Lời Thiên Chúa từng bước xuống dòng nước ấy, chỗ thấp nhất không chỉ về địa lý không gian nhưng còn thấp cả chiều sâu tâm lý và chiều kích tương quan xã hội.
Nếu đem so sánh với sông Cửu Long mênh mang thuyền qua lại thì dòng nước Giođan nơi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu có thể gọi là con kênh nhỏ. Nếu đặt bên cạnh sông Hồng cuồn cuộn xiết chảy thì dòng Giođan chỉ là con lạch. Nếu đứng kề bên sông Hương thơ mộng lững lờ trôi thì Giođan chỉ là con suối nhỏ. Đứng bên bờ này sông Giođan ném hòn đá qua bờ kia, nó có thể đi xa hơn.
Thế mà Chúa Giêsu đã chọn dòng nước bé nhỏ này, không phải như Môisen hay Giôsua giơ tay cho dòng nước rẽ đôi, nhưng để dìm mình xuống dòng nước nhỏ cùng với đoàn người chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả.
Thiên Chúa, Đấng cho Cửu long giang tuôn chảy tưới mát đồng bằng miền Nam; Đấng cho sông Hồng tuôn nước lũ bồi đắp phù sa cho đồng bằng miền Bắc; Đấng cho Hương giang lững lờ lãng mạn gợi hồn thơ đã chọn dìm mình vào dòng nước Giođan bé nhỏ.
Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” (Mc 1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy?
Trong đêm Giáng sinh chúng ta đã chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người, sinh ra nơi hang đá máng cỏ, làm một người nghèo hèn bé nhỏ, dường như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa. Hôm nay, Người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận cùng xã hội nhân loại khi đến xin Gioan làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi. Và đã xuống bậc tận cùng khi Chúa hạ mình thẳm sâu chấp nhận chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm hạ thẳm sâu đó của Ngôi Hai làm người!
3. Thời đại ân sủng
Trước sự hạ mình thẳm sâu của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã tôn vinh Người bằng lời tuyên bố: “Đây là con Ta yêu dấu” và sai phái Thánh Thần hiện xuống dười hình chim bồ câu.
Ba dấu hiệu mà Phúc Âm nêu lên không những tiên báo sự sống lại vinh hiển của Đức Kitô mà còn tiên báo thời đại ân sủng mà Người mang đến cho loài người.
a. Dấu hiệu 1: Trời mở ra.
Sách Sáng Thế viết: Ađam và Evà phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại (St 3,23-24). Qua biết bao thế kỷ, Dân Chúa đã thiết tha cầu nguyện “Ôi ước chi Ngài xé rách các tầng trời và ngự xuống” (Is 64,1). Nhờ Chúa Kitô, từ nay trời mở ra, một kiểu nói của Thánh Kinh ngụ ý là, con người từ nay được sống thông hiệp với Thiên Chúa.
b. Dấu hiệu 2: Thánh Thần ngự xuống như chim bồ câu.
Sách Sáng Thế viết:Trước khi tạo dựng trời đất, thì “Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,2) như để thông truyền sức sống. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu với ngụ ý: Chúa Giêsu là con người mới và trong Người nhân loại sẽ được tạo dựng lại, sẽ được đổi mới. Chính Thánh Phaolô xác định: “ Điều quan trọng chẳng phải là việc cắt bì hay không cắt bì, nhưng là trở thành tạo vật mới” (Gal 6,15).
c. Dấu hiệu 3: Lời của Chúa Cha: “ Con là con yêu dấu của Ta…”.
Qua lời tuyên bố này, chúng ta nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Trong lời giảng dạy, Chúa Giêsu cho biết: những ai tin vào Người và nhận phép rửa nhân danh Người thì cũng được thông phần vào địa vị làm con Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu chịu Phép rửa, trong giờ phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Phép rửa của Chúa Giêsu là mặc khải đầu tiên về Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện. Các Giáo Hội Đông Phương cử hành phép rửa của Chúa Giêsu như một ngày Lễ Ba Ngôi; và chính dưới dấu chỉ Ba Ngôi mà phép rửa Kitô giáo được ban“Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái với Chúa Con: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Chúa Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Chúa Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu độ con người.
Từ xưa trong Cựu ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu độ nhân loại, là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”.
Chúa Giêsu không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gãy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.
Phép rửa trong nước mà Chúa Giêsu đón nhận bởi thánh Gioan Tẩy Giả trở nên phép rửa trong Chúa Thánh Thần, khuôn mẫu và nguyên mẫu phép rửa Kitô giáo.
Ngày chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, màn đêm tội lỗi vây phủ bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đến với mỗi người, ban cho chúng ta cuộc sống thần linh, cho chúng ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho chúng ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Thiên Chúa, là tiếp tục công việc của Chúa Giêsu trong công trình cứu độ.
Chúa Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo. Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, luôn thi hành thánh ý Chúa Cha. Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin dạy chúng con biết sống ơn Bí tích Rửa Tội để chúng con được xứng đáng được làm con yêu dấu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.
22. Sứ mệnh của người đã chịu phép rửa
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cả ba bài đọc hôm nay đều qui chiếu về Đức Giêsu. Tất cả ba bài đều trình bày cho ta những hình ảnh đẹp về cuộc đời và sứ mạng của Người.
1. Hình ảnh về một Đấng Cứu Thế khiêm nhường tự hạ.
Trong khi dân Do Thái mong chờ một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt, thì Đức Giêsu xuất hiện công khai lần đầu tiên trong sự khiêm nhường thống hối. Lúc ấy, Gioan rao giảng sự ăn năn sám hối. Đoàn lũ dân chúng đông đảo kéo đến với ông để xin chịu phép rửa thống hối. Hòa mình vào đoàn lũ những con người tự nhận mình tội lỗi ấy, Đức Giêsu âm thầm khiêm tốn xếp hàng chờ được rửa tội. Thật là lạ lùng. Chính Đấng đã thánh hóa Gioan khi ông còn trong bụng mẹ giờ đây lại đến xin ông làm phép rửa cho. Chính Đấng đến để chuộc tội loài người giờ đây lại xin người khác rửa tội cho mình. Thật là khiêm nhường thẳm sâu. Trong khi loài người tội lỗi luôn kiêu ngạo tìm nâng mình lên thì Thiên Chúa thánh thiện lại tìm hạ mình xuống. Trong khi loài người tội lỗi luôn che dấu, chối không nhận tội thì Thiên Chúa vô tội lại công khai nhận mình tội lỗi. Trong khi loài người tội lỗi tìm tránh hình phạt do tội lỗi họ gây nên thì Thiên Chúa lại ghé vai gánh lấy hết tội lỗi và mọi hình phạt mà loài người đáng phải chịu. Sự khiêm nhường ấy phát xuất từ lòng Thiên Chúa yêu thương con người, muốn chia sẻ kiếp người, muốn cứu chuộc tội đời, muốn thăng tiến nhân loại.
2. Hình ảnh về cuộc giao hòa đất trời.
Chính lúc Đức Giêsu tự nguyện gánh lấy tội lỗi nhân loại, tầng trời bị xé ra. Khi loài người phạm tội, cửa trời đóng lại, đất trời phân ly, ân phúc thôi tuôn đổ. Khi phạm tội, loài người tự giam mình trong bóng tối. Bóng tối tội lỗi giam kín con người trong thân phận bụi đất, không còn hy vọng vươn lên. Hôm nay, tầng trời xé ra có nghĩa là từ nay con người đã có lối thoát. Thân phận con người thay đổi, địa vị con người được nâng lên, vì có ơn Thiên Chúa đổ xuống, có Thiên Chúa đến gieo mầm trường sinh vào kiếp người phàm hèn. Trời đất giao hòa. Thiên giới cúi xuống hạ giới. Thiên Chúa đến ở với con người. Ân phúc tuôn đổ xuống cõi đời nhơ uế.
3. Hình ảnh về sự kết hiệp mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong giây phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Đức Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái ấy với Đức Giêsu khi lên tiếng: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Đây không phải là một danh xưng, một tước vị, nhưng là một liên hệ sâu xa mật thiết: Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Đức Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Đức Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu chuộc con người.
4. Hình ảnh về sứ mệnh người được sai đi.
Từ xưa trong Cựu ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu nhân độ thế. Là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”. Người không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gẫy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.
Phép rửa của Đức Giêsu mời gọi ta nhớ lại ơn phép rửa tội của mình. Ngày ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, màn đêm tội lỗi vây phủ ta bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến với ta, ban cho ta cuộc sống thần linh, cho ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, cho ta được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Chúa, là tiếp tục công việc của Đức Giêsu trong công cuộc cứu nhân độ thế. Đức Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo, vì Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, và nhất là Người luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha, Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá. Ta hãy noi gương Đức Giêsu, luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn tìm thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho những anh em sống chung quanh ta.
Lạy Đức Giêsu Kitô, xin dạy con biết sống ơn Bí tích Rửa tội như Chúa, để con xứng đáng được làm con yêu dấu của Đức Chúa Cha.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Bạn có dễ nhận lỗi không ?
2- Bạn đã thực sự sống như một người con hiếu thảo đối với Chúa chưa ?
3- Ơn phép Rửa tội là gì ? Bạn đã sống ơn Phép Rửa tội chưa ?
4- Bạn đã thực sự là Tin Mừng cho những người chung quanh chưa ?
5- Chúa Giê su chịu phép rửa trình bày cho ta những hình ảnh nào về Chúa.
23. Ta hài lòng về Con
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Cả ba Tin Mừng Nhất lãm đều kết thúc thuật trình Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan bằng lời tuyên phán của Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Con” hoặc “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” ( x.Mt 3,17; Mc 1,11; Lc 3,22 ). Chúa Cha hài lòng với Chúa Chúa Giêsu về chuyện gì đây ? Dĩ nhiên là về chuyện Chúa Giêsu tự nguyện xếp mình vào hàng đoàn người tội lỗi đang đến để cho Gioan Tẩy Giả làm phép rửa bày tỏ lòng sám hối ăn năn. Thế nhưng Chúa Giêsu vốn là Thiên Chúa dù đã mặc lấy xác phàm nhân loại như chúng ta mọi đàng nhưng chẳng hề vương bẩn tội nhơ ( x.Dt 4,15 ). Là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Người hoàn toàn thanh sạch thế mà Người xếp hàng giữa đám người tội lỗi để làm gì ? Chắc chắn không phải là để nhờ Gioan làm phép thanh tẩy hầu được nên thanh sạch. Cũng chắc chắn rằng không phải Người cố tình làm gương cho chúng ta về việc hoán cải ăn năn như đã từng có nhiều nhà tu đức từng suy diễn. Không ai có thể làm gương một việc mà chính mình không thực làm. Như thế chìa khoá vấn đề phải nằm ở chỗ khác.
Mang lấy xác phàm, trở nên giống loài người ta mọi đàng, thì Chúa Giêsu vẫn phải cần có thời gian để hiểu biết ý Chúa Cha cũng như tự nhận thức về căn tính của mình. Các nhà Kitô học đồng thuận với nhau rằng khi còn nằm trong nôi, còn ôm lấy bầu sữa mẹ, thì trẻ Giêsu chưa thể nhận thức được căn tính Thiên Chúa của mình. Và một điều ít ai chối cải đó là năm lên mười hai tuổi, khi lưu lại Đền thờ Giêrusalem ba ngày nhân chuyến cùng cha mẹ hành hương, thì thiếu niên Giêsu đã ý thức về căn tính Thên Chúa của mình. Biết mình là Thiên Chúa, thế nhưng để biết sứ vụ của mình là cứu độ nhân loại và cứu độ nhân loại như thế nào thì Chúa Giêsu cũng cần phải có thời gian cần thiết để tìm hiểu thánh ý Chúa Cha.
Nhiều nhà Kitô học nhìn nhận rằng khi Chúa Giêsu đến chịu phép rửa tại bờ sông Giođan chính là lúc Người tìm ra con đường cứu độ. Nói đến sự ơn cứu độ, các nhà thần học lẫn tu đức thường dùng hình ảnh cứu vớt người đang chìm dưới sông nước. Không biết bơi mà rơi xuống hố nước sâu thì sự sống như không còn thuộc vào chính bản thân mình. Cần phải có một ai đó độ trì, cứu vớt, may ra mới được sống.
Để cứu độ nhân loại khỏi vùng lầy tội lỗi, Chúa Kitô không đứng bên trên mà kéo. Người đã tự nguyện đi xuống tận đáy sâu kiếp người khi vào trần gian. Đồng thân với con người trong kiếp phàm hèn chưa đủ, Chúa Kitô còn muốn đồng phận với loài người trong kiếp tội nhân, dù Người hoàn toàn vô tội. Tình yêu lên đến đỉnh cao khi người ta tự nguyện đồng thân, đồng phận với nhau. Đồng thân đồng phận với nhau là một trong những hình thức liên đới đến cùng. Là con chiên tinh tuyền, là người tôi tớ trung thành và nhân hậu, Chúa Kitô đã nhận lấy mọi hậu quả tội lỗi của loài người vào chính bản thân Người. Điều đã được Ngôn sứ Isaia loan báo xưa về “Người Tôi Trung” nay ứng nghiệm nơi chính Chúa Kitô ( x. Is 42,1-9; 49,1-7; 50,4-11 ).
Chọn con đường đi xuống để nâng loài người sa ngã lên, sự chọn lựa của Chúa Giêsu đã làm hài lòng Chúa Cha. Đây là một sự chọn lựa phát xuất bởi tình yêu sung mãn. Chúa Thánh Thần với hình chim bồ câu ngự xuống trên Người là một dấu chỉ. Và các tầng trời mở ra, nghĩa là con đường cứu độ nay đã khai mở cho con người. Việc Chúa Giêsu chọn con đường đi xuống giúp chúng ta xác tín những chân lý sau:
1. Không một ai là không có thể được cứu rỗi: Các cứu hộ viên đứng trên bờ sông mà đưa tay ra thì những người ở xa bờ hay đang chìm dưới nước quả là khó có cơ may được cứu. Trái lại khi các cứu hộ viên đã lặn sâu xuống đáy sông thì mọi người đều có thể được cứu sống. Chúa Giêsu đã cúi xuống dưới chân các tông đồ, Người đã cúi xuống dưới chân Giuđa, kẻ đã rắp tâm phản bội Người và Người sẵn sàng cúi xuống dưới chân hết mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Chỉ cần chúng ta đồng thuận thì Người sẽ nâng chúng ta lên cùng Chúa Cha.
Mọi người đều có thể được cứu rỗi. Một chân lý của niềm tin và của niềm hy vọng. Bất cứ ai, dù trong hoàn cảnh tồi tệ nào đi nữa, thì vẫn luôn có Giêsu Kitô đứng dưới chân để sẵn sàng nâng lên. Chính vì thế mà thất vọng về chính mình là một sự tồi tệ thật đáng trách không kém gì khi ta thất vọng về tha nhân.
2.Trước tiên hãy trách mình, đừng trách tha nhân hay phàn nàn Chúa, nếu giả như chúng ta vẫn mãi mê trong tội. Một trong những thói xấu của người đắm chìm trong tội đó là tìm đủ lý do để bào chữa. Để làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình, khi phạm tội, chúng ta thường hay đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho tha nhân, cho ma quỷ và có khi cho cả Thiên Chúa. Phải tiên thiên loại trừ việc gán cho Thiên Chúa là tác nhân gây sự xấu vì Thiên Chúa không hề, đúng hơn là không thể cám dỗ một ai. Chúng ta cũng cần chân nhận rằng thần dữ, người xấu hay ngoại cảnh cũng có góp phần nào đó trong tội của chúng ta. Tuy nhiên, các tác nhân ấy chỉ có thể làm tăng giảm mức độ trách nhiệm của chúng ta trên tội của mình. Nhưng không ai khác, chính chúng ta phải là người trực tiếp chịu trách nhiệm mọi hành vi tội lỗi của mình.
Mừng mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, mở đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, hãy cùng cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa vì đã yêu thương loài người đến cùng. Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự nguyện đồng hàng với chúng ta trong kiếp tội nhân. Cúi mình để cho Gioan làm phép rửa là điểm khởi đầu và điểm kết thúc là thân phận một tội nhân trên thập giá.
24. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
“Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con”
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan mà Giáo hội mừng kính hôm nay kết thúc mùa Giáng Sinh và hướng chúng ta về đời sống công khai của Chúa Giêsu. Phụng vụ Lời Chúa trình bày Đức Giêsu là con yêu dấu của Chúa Cha, được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu Thế, Ngài muốn chia sẻ thân phận con người và muốn liên đới với loài người tội lỗi, mặc dù Ngài là Con Thiên Chúa: “Con là Con yêu dấu của Cha”.
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa đã được Tin mừng Nhất lãm Mát thêu, Mác cô, Luca thuật lại. Điều này nói lên sự quan trọng của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa sám hối của Gioan Tẩy Giả.
Đây là một cuộc thần hiện mạc khải rõ nét nhất về Mầu nhiệm một Thiên Chúa Ba Ngôi. Đức Giêsu chịu phép rửa xong, thì trời mở ra. Trời mở ra nói lên sự hiện diện uy nghi của Thiên Chúa. Từ trời có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng vì Con”, và Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu trên vai Đức Giêsu.
Cuộc thần hiện này cũng xác nhận thiên tính của Đức Giêsu và mạc khải Ngài là Đấng Cứu Độ muôn dân: “Này là Con ta yêu dấu”.
Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là Mầu nhiệm quan trọng nhất trong đạo Công giáo và là nền tảng của niềm tin Kitô giáo. Mầu nhiệm này biểu lộ tình thương của Thiên Chúa: Chúa Cha tạo dựng nên vạn vật vũ trụ. Chúa Con giáng trần cứu độ nhân loại “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài”. Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa và ban sức mạnh cho chúng ta.
Qua biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo hội hướng người Kitô hữu về hồng ân làm con Chúa qua bí tích Rửa tội và kêu gọi con cái mình sống ơn làm con Chúa với tâm tình hiếu thảo đối với Thiên Chúa là Cha như người con đối với ông bà cha mẹ:
- Luôn theo Thánh ý Thiên Chúa Cha, tuân giữ các điều răn của Chúa: “Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lời Thầy”.
- Luôn nói có với Thiên Chúa và nói không với ma quỷ, tội lỗi, điều xấu…
- Tương quan tốt với Chúa và với mọi người để chúng ta trở nên những người con hiếu thảo, những người con yêu dấu của Thiên Chúa như Đức Giêsu: “Này là Con Ta yêu dấu đẹp lòng Ta mọi đàng”.
- Tham gia sứ mạng loan báo Tin mừng của Chúa giêsu và chu toàn bổn phận Chúa giao phó: Người Kitô hữu phải chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận của một người công dân đối với xã hội trần thế “Người Kitô hữu tốt phải là người công dân tốt” (ĐGH Bênêđictô XVI).
Trong cuốn “Người Lữ Hành” có một câu chuyện rất hay. Chuyện kể về một gia đình sống ở Luân Đôn thủ đô nước Anh. Một gia đình công nhân vừa nghèo lại vừa đông con với mười ba người con. Bố của chúng phải đi làm suốt ngày tại xí nghiệp. Bà mẹ ở nhà làm nghề phụ và là nội trợ. Dù bận bịu đầu tắt mặt tối suốt ngày đêm, nhưng bà Vaughan vẫn vui vẻ thay chồng dạy dỗ con cái và nhất là trưa nào bà cũng thay cho cả gia đình đến với Chúa Giêsu Thánh Thể trong Nhà Tạm. Láng giềng bà quen biết hỏi bà: “Một bầy con mười ba đứa, bận rộn từ sáng đến tối vậy mà làm sao trưa nào chị cũng đi chầu Thánh Thể như thế”. Bà tươi cười trả lời: “Thấy một bầy con lúc nhúc trưa ăn bữa mai đã phải nghĩ đến việc chạy gạo bữa hôm, tôi lo lắm. Hơn thế chúng nó còn phải đi học. Ở trường thiếu gì những bạn bè xấu rủ rê chúng đi chơi hoặc giữa đường giữa chợ thiếu gì cảnh nguy hiểm, tôi lại càng thao thức hơn. Chính vì thế mà mỗi ngày dù bận bịu đến đâu tôi cũng bỏ ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa, sốt sáng xin Người ban ơn cho vợ chồng tôi nuôi nấng các cháu hàng ngày dùng đủ và dạy dỗ chúng nên người đạo đức”.
Kết quả thật tốt đẹp. Chúa đã nhận lời và ân thưởng cho lòng tin cùng sự hy sinh của bà Vaughan. Trong mười ba người con, một người sau này làm Hồng Y tổng giáo phận Luân Đôn, một người khác làm Tổng Giám Mục, hai người làm Linh mục, hai nam tu sĩ, hai nữ tu sĩ, còn năm người nữa ở thế gian lập gia đình, nhưng tất cả đều sống một đời sống rất tốt lành, thánh thiện.
Người Kitô hữu được hai hồng ân vĩ đại là được ơn sự sống, được sinh ra và hiện hữu trên đời này qua trung gian cha mẹ. Được làm người là ân ban vĩ đại của Thiên Chúa. Hồng ân quan trọng và vĩ đại hơn là được làm con Chúa qua bí tích Rửa Tội, được sống sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, sự sống thần linh. Người Kitô hữu thường quên và lãnh đạm trước ân ban cao quý này. Nên họ không sống đạo tốt, không sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha, nghĩa là chưa sống ơn làm con Chúa qua bí tích Rửa Tội.
Chúng ta cầu nguyện với Chúa:
“Xin cho con biết luôn tín thác vào Chúa,
Luôn tìm và thi hành ý Chúa là điểm tứ của đời con.
Xin giúp con sống trọn tình con thảo với Chúa là Cha,
Sống vẹn nghĩa huynh đệ với nhau là anh em một nhà,
Mở rộng lòng bao dung đồng cảm với mọi người.
Chia sẻ mọi nỗi vui buồn, lo âu và hy vọng”.
(Kinh Năm Đức Tin)
25. Ba sứ vụ - Lm. Vũ Đình Tường
Đấng Cứu thế sinh xuống trần gian tạo nên mối liên kết đất trời. Bắt đầu bằng việc truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria và hai tiếng xin vâng. Mẹ là người đầu tiên đón nhận Đấng Cứu Thế sinh xuống làm người ở giữa chúng ta. Tiếp theo đó là Thánh Giuse bạn Đức Trinh Nữ. Thánh cả đón nhận hướng dẫn của thần linh qua các giấc chiêm bao, bảo vệ gia đình Thánh Gia qua các ngày đen tối của dã tâm con người tìm giết con trẻ. Kế đến là việc truyền tin cho các mục đồng chăn chiên và ánh sáng từ trời cao soi đường, dẫn lối cho ba vua từ Phương Đông đến đón chào, dâng tiến lễ vật. Sứ thần Thiên Chúa lại truyền tin cho cụ già Simêon và tiên tri Anna đến đón chào tại đền thờ và ngay sau khi Đức Kitô chịu phép rửa tại sông Jordan. Ngài bước lên khỏi bờ bầu trời mở ra có tiếng từ trời cao vang vọng:
“Đây là Con Ta yêu mến, hàng làm đẹp lòng Ta” (Mc 1,11)
Kèm theo tiếng nói còn có thêm Thánh Thần qua hình chim bồ câu đậu xuống trên Đức Kitô. Ngày lễ Đức Kitô chịu phép rửa chính thức chấm dứt mùa Giáng Sinh của Đấng Cứu Thế và nhường bước cho chương trình kế tiếp của Ngài. Chương trình đó chính là chương trình cứu độ nhân loại, giải thoát con người khỏi vòng tội lỗi với những mặc khải kế tiếp.
Những mặc khải từ trời cao về Đấng Cứu Thế đến đây tạm chấm dứt nhường bước cho những mặc khải khác đến từ Đức Kitô. Trước đây sứ thần Thiên Chúa và Chúa Cha nói về Đức Kitô; giờ đây đổi lại Đức Kitô nói về Thiên Chúa Cha. Đức Kitô mặc khải Chúa Cha và chương trình cứu độ nhân loại. Chương trình cứu độ Đức Kitô thực hiện do Chúa Cha hoạch định và Đức Kitô thừa hành, hoàn tất tốt đẹp chương trình đó.
Để mặc khải cho nhân loại về Chúa Cha và chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Đức Kitô xuống thế làm người, sinh bởi Đức Trinh Nữ, mặc dù vô tội Đức Kitô xá tội trần gian bằng cách thay họ chịu khổ hình, bắt đầu bằng việc lãnh nhận phép Thanh Tẩy của Gioan. Nhờ việc Thánh Thần Chúa ngự xuống biến phép rửa chúng ta lãnh nhận trở thành phép rửa do Thánh Thần thánh hoá. Những ai nhận bí tích thanh tẩy và bước theo đường lối Chúa cũng được hưởng tiếng từ trời cao phán: Đây là con Ta yêu mến, hằng làm đẹp lòng ta. Qua bí tích thánh tẩy chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và chia sẻ ba sứ vụ của Đức Kitô.
Sứ vụ thứ nhất, Đức Kitô là linh mục Tối Cao và chúng ta chia sẻ chức linh mục đó qua việc chuyên cần cầu nguyện. Điều đó sinh ích cho đời sống tâm linh ta. Là linh mục Tối Cao Kitô tự hiến thân mình làm lễ tế chuộc tội thiên hạ. Chúng ta không có khả năng làm điều đó và cũng không cần bởi một mình Đức Kitô hy sinh đủ cứu nhân loại, chúng ta chia sẻ chức linh mục qua việc chia sẻ tài năng và thời gian cũng như tài vật cho những anh em nghèo đói.
Sứ vụ thứ hai, Đức Kitô vua vũ trụ cho phép chúng ta chia sẻ chức vụ lãnh đạo của Ngài. Chúng ta chia sẻ bằng cách sống và cổ võ sống công bằng, thực thi bác ái, yêu thương và tha thứ. Sống như thế là cho thế giới biết Lời Chúa có sức mạnh, có sức thánh hoá và ban sự sống cho thân xác và tâm linh con người.
Sứ vụ thứ ba là chức vụ tiên tri. Đức Kitô dậy chúng ta biết về Thiên Chúa, tình thương Chúa và sự thật về Thiên Chúa. Chia sẻ đời sống tiên tri chúng ta nói cho tha nhân về ức Kitô, rao giảng điều Ngài rao giảng và làm chứng về Đức Kitô.
Thực hành ba chức vụ: Tư tế, tiên tri và vương đế là làm sống điều hứa khi lãnh nhận phép bí tích thanh tẩy. Khi đó linh mục xức dầu và tuyên bố ba sứ vụ cao cả trên.
26. Suy niệm của Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Cùng Chết và Phục Sinh với Đức Giêsu Kitô trong Phép Rửa
Vào các ngày Chúa nhật, chúng ta vẫn có thói quen rảy nước thánh trong phần thống hối đầu lễ. Việc rảy nước thánh này nhắc nhở mỗi người bí tích rửa tội mà chúng ta đã lãnh nhận, lời cam kết của chúng ta muốn thuộc về Chúa, và việc chúng ta được trở nên con Thiên Chúa nhờ người Con một duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô. Hơn nữa, ở các nhà thờ người ta vẫn để ở nơi cửa nước thánh để mỗi khi ra vào, chúng ta đặt ngón tay vào đó và làm dấu thánh giá tuyên xưng mầu nhiệm Ba ngôi, để nhắc nhở chúng ta bí tích rửa tội mà chúng ta đã được dìm mình vào sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Ngay cả mỗi khi chúng ta tuyên xưng kinh tin kính trong thành lễ, đó cũng là lúc chúng ta tuyên xưng lại lời tuyên xưng trong bí tích rửa tội.
Phép rửa là một Bí tích khai tâm, bí tích này dẫn người tín hữu vào tương quan sự sống với Thiên Chúa và với Giáo hội. Phép rửa vừa là một cử hành tuyên xưng và cam kết long trọng, được cử hành với sự chứng kiến của những người thân yêu. Trong cử hành này, chúng ta tuyên xưng lời tuyên xưng nguyên thủy: Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa. Lời tuyên xưng nguyên thủy này càng lúc càng được khai triển thành lời tuyên xưng Ba ngôi, bởi vì Đức Giêsu Kitô là người Con một của Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến cùng với sức mạnh Thánh Thần luôn hoạt động nơi Đức Giêsu Kitô. Đồng thời phép rửa luôn được cử hành cùng với nước. Nước là một yếu tố trong thiên nhiên vũ trụ, nước có dồi dào trên địa cầu,và chúng ta dùng nước cho đời sống hằng ngày, để tắm rửa cho cơ thể sạch sẽ lành mạnh, để uống bồi dưỡng cơ thể chúng ta. Và nước cần thiết cho mọi sinh vật chung quanh chúng ta, nước để tưới cho đồng ruộng và cây cối, trong nước có biết bao nhiêu loài cá sinh sống là nguồn lương thực dồi dào cho con người. Nước cần thiết cho tàu thuyền đi lại, nối liền các bờ đại dương, cho con người có thể buôn bán và đi lại từ những lục địa xa xôi.
Vào thời Chúa Giêsu, nước đã được dùng trong những nghi thức của các tôn giáo, bởi vì nước được dùng làm nghi lễ thanh tẩy. Người ta tin rằng khi làm những nghi thức thanh tẩy bằng nước, người ta được sạch những ô uế mà họ có thể bị lây nhiễm do bởi những tiếp xúc hằng ngày với những người khác. Thánh Gioan đã rao giảng mời gọi mọi người thống hối vì Đấng cứu độ gần đến và ông làm phép rửa thống hối bằng nước để mời gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón tiếp Đấng cứu độ. Chúa Giêsu cũng gia nhập vào dòng người để đến lãnh phép rửa của Gioan ở sông Giorđan. Khi cử hành phép rửa, Gioan cũng giải thích cho mọi người ý nghĩa và tầm vóc của phép rửa của mình và hướng mọi người đến Đấng quyền năng sẽ đến sau ông và sẽ ban phép rửa trong Thánh Thần. Như thế, khi cử hành phép rửa trong nước, Gioan đã ý thức phép rửa ông cử hành chỉ là hình bóng tạm để báo trước một thực tại toàn vẹn hơn là phép rửa trong Thánh Thần của Đức Giêsu mà mọi người cần phải hướng về để đón nhận.
Quả đúng như Gioan tẩy giả dự đoán, Đức Giêsu đã hòa vào dòng người đến xin lãnh phép rửa của Gioan.Tin mừng theo Mác-cô tường thuật rất vắn tắt việc Đức Giêsu lãnh phép rửa. Mác-cô không ghi lời đối thoại nào giữa Đức Giêsu và Gioan, chỉ vắn tắt nói rằng Đức Giêsu đã từ Nazarét xứ Galilê giữa nhiều người và đến xin lãnh phép rửa của Gioan ở sông Giorđan. Đức Giêsu muốn đón nhận những gì mà Gioan làm, như thế cũng là đón nhận truyền thống và nhịp sống của do thái giáo, bởi vì Gioan là hình ảnh của tiên tri Êlia của do thái giáo, những con người hoạt động mạnh mẽ bởi tác động của Thánh Thần. Và sự kiện trọng đại đã diễn ra, khi Đức Giêsu vừa bước lên khỏi nước, thì trời mở ra, Thánh Thần dưới hình chim bồ câu ngự xuống trên người, và có tiếng từ trời tuyên phán Con là Con Cha yêu dấu, con đẹp lòng Cha. Các Tin mừng rất nhấn mạnh đến phép rửa của Chúa Giêsu như là khởi đầu cho cuộc đời truyền giảng công khai của Chúa Giêsu. Người được Chúa Cha xác nhận và giới thiệu cho mọi người cũng như người Con rất yêu dấu, đầy tràn Thánh Thần, người là Đấng Kitô, được xức dầu để thực hiện công trình cứu thế cho nhân loại. Sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan mạc khải căn tính thần linh của Đức Giêsu. Người là Con một yêu dấu của Chúa Cha mà Chúa Cha rất hài lòng. Việc người lãnh nhận phép rửa không hề thay đổi căn tính thần linh của người mà còn mạc khải rõ cho mọi người căn tính thần linh này mà Gioan tẩy giả đã báo trước là người sẽ làm một phép rửa hoàn toàn khác, chính là phép rửa trong Thánh Thần.
Truyền thống các tiên tri, đặc biệt tiên tri Isaia (chương 42) đã báo trước về một người tôi tớ đặc biệt của Thiên Chúa mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho nhân loại, ngay cả nói rõ người tôi tớ này là người con của Thiên Chúa, được đầy tràn Thánh Thần và làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi sự, Người sẽ thi hành việc xét xử muôn dân và thực thi công trình cứu độ. Mặt khác, người con này rất “hiền lành và khiêm tốn, không bẻ gãy cây lau đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói” nhưng mang lại “ơn cứu độ và giải thoát cho những người bị giam cầm vì bệnh tật và tù tội, đem lại công lý trên địa cầu”. Giờ đây, những hình ảnh đã báo trước trở nên hiện thực một cách rõ rệt nơi Đức Giêsu, người sẽ thực hiện giao ước cứu độ bằng chính cái chết của người trên thập giá.
Sau khi Chúa Giêsu Phục sinh, Thánh Phêrô, với những chứng từ trung thực và quan trong mà ông lãnh nhận, đã bắt đầu rao giảng cho những người do thái và cho mọi người những biến cố cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Giêsu. Đây là những cảm nghiệm chân thực và sống động muốn được chia sẻ và rao giảng cho hết mọi người thành tâm thiện chí để họ tin và đón nhận Đức Giêsu, người con một Thiên Chúa ban tặng. Thiên Chúa đã thực hiện ơn cứu độ, không chỉ dành riêng cho người do thái, không thiên tư tây vị cho riêng ai, nhưng là một tình yêu dành cho hết mọi người không phân biệt màu da chủng tộc. Hết mọi người sống đời ngay thẳng, thực hành sự công chính đều được Thiên Chúa đón nhận khi sai người Con một Thiên Chúa đến sống và rao giảng giữa mọi người. Đây cũng là điều mới mẽ mà thánh Phêrô cũng chia sẽ giống với thánh Phaolô qua cách nói của Phaolô, là mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, và giờ đây được mạc khải cho mọi người, tức là các dân ngoại được trở nên đồng thừa tự, được cùng chung phần vào một lời hứa. Phần thánh Phêrô, người làm chứng rằng Đức Giêsu, Đấng đã được xức dầu Thánh Thần tấn phong, đã đi qua mọi nơi mà làm những phép lạ ban bố mọi ơn lành cho mọi người.
Phép rửa là khởi đầu, khai mào đời sống nghĩa tử của người tín hữu chúng ta. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa. Phép rửa dẫn chúng ta vào tương quan nghĩa tử với Thiên Chúa làm cho cuộc đời chúng ta được tràn ngập những quà tặng của Thánh Thần nâng đỡ cuộc đời trần thế của mình. Cuộc đời của người tín hữu là một hành trình thực hiện ơn gọi cao cả này, đó là được kết hợp với Đức Giêsu để sống ngay từ bây giờ tương quan con thảo của Thiên Chúa. Đây là hành trình cao cả và cũng rất đòi hỏi bởi vì chúng ta được mời gọi kết hợp với mầu nhiệm thập giá để được cùng chết và cùng phục sinh với Chúa Giêsu. Chúng ta thường nghĩ rằng phép rửa chỉ là một nghi thức đã qua, một nghi thức thực hiện xong rồi không cần phải nhớ lại những cam kết này làm gì nữa. Thực ra, phép rửa xác định căn tính của người kitô hữu, và họ phải cố gắng thực hiện hằng ngày căn tính này. Phép rửa là một sự dìm mình liên tục và sự đổi mới liên tục để càng lúc chúng ta càng được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Có thể nói rằng chúng ta dùng cả cuộc đời của mình để thực hành sống mầu nhiệm này cũng là căn tính của cuộc đời kitô hữu của chúng ta. Cả cuộc đời, chúng ta không ngừng được mời gọi sống trung tín với Thiên Chúa bằng việc không ngừng kết hợp với Chúa Giêsu nhờ sự thúc đẩy của Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận trong phép Rửa. Phẩm giá của mỗi người thực là cao cả và chúng ta được mời gọi khám phá và sống căn tính này của mình theo bước chân của Chúa Giêsu.
27. Một cuộc đổi mới
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Hôm nay Phụng vụ kết thúc mùa Giáng sinh và bắt đầu mùa thường niên. Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa khởi đầu cho mùa thường niên này.
Việc Chúa Giêsu nài ép Gioan làm phép rửa cho mình khiến chúng ta phải ngạc nhiên. Ngài là Đấng “vô tội” tại sao lại xin chịu phép rửa sám hối như một tội nhân? Ngài làm như vậy là vì ngay từ đầu đời sống công khai, Ngài đã thực hiện trọn vẹn ý Cha, như người “Tôi Tớ vâng phục” mà các tiên tri đã loan báo. Ngài sẵn sàng vâng phục chấp nhận cái chết trên thập giá. Phép Rửa bằng máu này dẫn tới và thánh hiến phép rửa bằng nước.
Việc làm của Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận ra ý nghĩa Phép Rửa Tội của chúng ta. Nhờ phép rửa tội, chúng ta được nhận lại làm con Chúa, được thừa hưởng Nước Trời. Do đó, chúng ta phải dấn thân trọn vẹn để sống với Chúa trong tình hiệp nhất yêu thương, sống trọn vẹn tình con đối với Cha, sống sao cho xứng danh Kitô hữu để làm vinh danh Cha trên trời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 42,1-4.6-7.
Khi ấy dân Do thái bị thử thách nặng nề, phải đi đầy ở Babylon. Để khích lệ họ, tiên tri Isaia loan báo: họ vinh dự được Thiên Chúa chọn làm đầy tớ lý tưởng của Ngài, có trách nhiệm giới thiệu Thiên Chúa cho dân ngoại.
Đây là bài thứ nhất trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ trong sách đệ nhị Isaia. Vì được Thánh Thần ngự trên mình, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là Đấng mạnh mẽ và sẽ chiến thắng mọi kẻ thù. Nhưng Ngài không thích dùng bạo lực, trái lại, Ngài yêu thương cứu vớt những kẻ tội lỗi yếu đuối, “không lớn tiếng, không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét”.
Tất cả những nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu sẽ đảm nhận vai trò Người Tôi Tớ. Vai trò này, Ngài sẽ hoàn thành khi biến tôn giáo của đức tin thành một sự ưng thuận thắm tình con thảo mà mọi người đều có thể nói lên, dù người ấy thuộc bất cứ nền văn hoá hay quốc gia nào. Theo gương Đức Kitô, các Kitô hữu cũng phải thực hiện nhiệm vụ trên.
+ Bài đọc 2: Cv 10,34-38.
Đây là phần đầu bài giảng của thánh Phêrô ở Cêsarêa cho ông Corneliô, viên sĩ quan Rôma và gia đình của ông để giúp họ hoán cải và chịu phép rửa. Đây là một việc làm có tính cách cách mạng vì từ trước đến nay các tông đồ chưa nghĩ đến việc cho người ngoại gia nhập Giáo hội.
Trong bài nói chuyện với người Do thái, Phêrô cho biết sở dĩ Ngài dám làm như vậy vì “Thiên Chúa không thiên tư tây vị ai, hễ ai thực hành sự công chính, đều được Ngài đón nhận”. Chính Đức Giêsu Nazareth đã được Thiên Chúa dùng Thánh Thần và quyền năng xức dầu tấn phong Ngài và Ngài đã đi khắp nơi để ban phát ơn lành.
+ Bài Tin mừng: Lc 3,15-16.21-22.
Cả 3 bài Tin mừng của lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa có rất nhiều điểm giống nhau. Chúng ta có thể chia bài Tin mừng thành 2 phần:
* Phần một: Ông Gioan thanh minh là mình không phải là Đấng Kitô như người ta tưởng. Có Đấng sẽ đến sau ông và cao trọng hơn ông. Hiện nay ông chỉ rửa họ bằng nước, còn Đấng đến sau sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.
* Phần hai: Đức Giêsu nhận phép rửa của ông Gioan và trong nghi lễ này Đức Giêsu được tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu thế. Đó chính là ý nghĩa việc Thánh Thần hiện xuống,”các tầng trời mở ra”, cách diễn tả lấy lại của Isaia 63,11-14.19 khi công bố tấn phong một vị giải phóng mới. Có tiếng nói từ trời vang trên Đức Giêsu, tiếng nói ấy cũng thuộc về nghi thức phong vương một vị vua mới:”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Một cuộc đổi mới.
I. NGÀY LỄ PHONG VƯƠNG.
Phụng vụ hôm nay, nhất là bài Tin mừng, gợi lên cho chúng ta ý tưởng về ngày lễ phong vương. Thánh Marcô cho chúng ta biết Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan ở sông Giorđan. Chính khi Đức Giêsu được dìm trong nước và được kéo lên thì trời mở ra và có Thánh Thần hiện xuống dưới hình chim bồ câu và tiếng nói từ trời vang xuống:”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Đây là tiếng của Thiên Chúa Cha nói với Đức Giêsu để nhận Ngài làm Con. Lời nói ấy khiến chúng ta nghĩ đến một nghi lễ phong vương.
Ngày xưa, khi một người được phong lên làm vua thì phải trải qua một cuộc lễ phong vương với nghi thức gồm 3 phần, và hôm nay Đức Giêsu cũng đã thực hiện 3 phần ấy:
- Phải tắm rửa sạch sẽ.
- Phải được xức dầu.
- Và được tôn xưng làm vua.
1. Phải tắm rửa sạch sẽ.
Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan bởi tay ông Gioan Tẩy giả. Chỉ ai không trong sạch mới cần tắm rửa. Vậy, Đức Giêsu là chiên của Thiên Chúa, một con chiên trong sạch vô tì tích, tại sao lại phải tẩy rửa tội lỗi? Thưa, Ngài làm như vậy là để hòa đồng với con người khiêm nhường để từ đó dạy ta rằng muốn vào Nước Trời, phải ăn năn sám hối, cải thiện đời sống và phải tắm gội tâm hồn cho trong sạch:”Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được xem thấy Chúa”.
2. Phải được xức dầu.
Đức Giêsu được Thánh Thần xức dầu tấn phong. Trong bài đọc 2, thánh Phêrô nói:”Đức Giêsu thành Nazareth được Thiên Chúa dùng Thánh Thần và quyền năng và xức dầu tấn phong cho Ngài”.
Tiên tri Isaia đã nói trước và chính Đức Giêsu đọc đoạn sách của Isaia ở hội đường Do thái:”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Vì Chúa đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem Tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đầy, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa...”(Is 61,1-3). Và Đức Giêsu đã kết luận: hôm nay đã ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về Ngài.
3. Ngài được phong vương.
Đức Giêsu được tôn phong làm vua, là Đấng Messia, là Chúa Cứu thế.
Trong Tin mừng, Thánh Marcô nói:”Khi Ngài vừa ở dưới nước lên thì Trời mở ra, Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán:”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Đây là lời tuyên phong long trọng Đức Giêsu là Vua, là Con Thiên Chúa.
II. Ý NGHĨA VIỆC CHỊU PHÉP RỬA.
1. Phép rửa của Gioan và của Đức Giêsu.
Chúng ta thấy có sự khác nhau giữa phép rửa của Gioan và của Chúa Giêsu. Phép rửa của Gioan chỉ là dấu hiệu của sự ăn năn sám hối. Người Do thái đến cho Gioan làm phép rửa là để được ăn năn các tội mình để được ơn tha thứ. Còn Chúa Giêsu Kitô, con người vô tội, không thể lãnh nhận Phép rửa với hướng đó. Vậy Ngài đến xin rửa không phải là cho mình, mà là cho người khác, vì người khác. Ngài chịu phép rửa là nói lên, từ nay, Ngài chung số phận với người tội lỗi và đó là tất cả ý nghĩa đời Ngài và cuộc đời này chỉ hoàn tất với phép rửa cuối cùng, của sự chết (Mc 10,38 ; Lc 12,50) vì chết là cùng chung số phận của con người tội lỗi, con người bị sa ngã, và là số phận bi đát nhất.
Phép rửa của Chúa Giêsu là phép rửa “tái sinh”. Nó ban cho mọi người một đời sống toàn vẹn. Giải thích về đời sống mới này, thánh Phaolô đã viết cho các Kitô hữu vừa mới được rửa tội như sau:”Khi được rửa tội là anh em được mai táng với Đức Kitô, và trong phép rửa tội, anh em cũng được sống lại với Đức Kitô. Anh em đã bị chết về mặt tâm linh nhưng giờ đây Thiên Chúa đã mang anh em đến nguồn sống cùng với Đức Kitô”(Cl 2,12-13).
2. Lý do Đức Giêsu chịu phép rửa.
Việc Đức Giêsu tự nguyện đến xin chịu phép rửa của Gioan không nhằm ăn năn sám hối tội lỗi như bao người khác, vì Ngài là Đấng vô tội (Dt 5,15b ; 7,26). Nhưng qua hành động này, Ngài muốn chia sẻ thân phận yếu hèn và cảm thông với các tội nhân để sau này sẽ chịu chết đền tội thay cho họ. Đàng khác, việc toàn thân Chúa Giêsu được Gioan dìm xuống nước sông Giorđan, chính là hình bóng của phép rửa mà Ngài sẽ phải chịu trong mầu nhiệm tử nạn và phục sinh sau này (x.Rm 6,3-4). Và từ mầu nhiệm phục sinh, Chúa Giêsu thiết lập bí tích rửa tội để nhờ đó tái sinh các tín hữu và đổi mới họ nhờ nước và Thánh Thần. Đây cũng là điều kiện để được gia nhập vào Nước Thiên Chúa (x.Ga 3-6 ; Tt 3,5).
Ngoài ra, việc Đức Giêsu đến xin chịu phép rửa của Gioan còn là cơ hội để ông thi hành sứ mệnh tiền hô đi trước dọn đường và làm chứng cho Ngài. Ngài chịu phép rửa của Gioan để sẽ làm cho phép rửa bằng nước trở thành bí tích rửa tội trong Chúa Thánh Thần (x.Mc 1,8) và lửa (x.Lc 3,16; Cv 2,3-4).
3. Ý nghĩa Bí tích rửa tội.
Trước khi về trời, Đức Giêsu lập bí tích rửa tội khi Ngài nói với các môn đệ:”Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (Mt 26,20).
Chúng ta xem lại phép rửa của Gioan Tiền hô: phép rửa của Gioan Tiền hô chỉ là một nghi thức tượng trưng, có mục đích nhắc nhở và thúc giục người ta ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Phép rửa này không có khả năng tẩy xóa tội lỗi, không có năng lực ban ơn thánh. Bởi vì phép rửa này không phải là một bí tích, đúng như Gioan đã quả quyết, đồng thời Ngài cũng giới thiệu một phép rửa khác, phép rửa của Chúa Giêsu, là phép rửa bằng Thánh Thần, nghĩa là phép rửa của Chúa Giêsu là một bí tích thông ban Chúa Thánh Thần, mặc dầu cũng dùng tới nước, nhưng nước chỉ là điều kiện, là nghi thức bên ngoài, còn thực sự là được rửa bằng Thánh Thần, biến đổi con người tội lỗi nên con Thiên Chúa, và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời.
Khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm sự chết và sống lại của Ngài. Chúng ta vào đời khi được sinh ra và vào đạo của Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong nghi thức rửa tội chúng ta được dìm trong nước hoặc đổ nước trên đầu để chỉ việc tẩy rửa khỏi tội tổ tông và mọi tội riêng, được tái sinh làm con cái của Chúa và gia nhập vào Giáo hội. Vì thế, Giáo hội coi bí tích rửa tội như một cuộc tái sinh, người được rửa tội trở thành một con người mới. Họ thấy đâu là ơn gọi và định mệnh của con người, đâu là ý nghĩa của cuộc đời.
Truyện: Tôi mới có 2 tuổi.
Có một cụ già, mãi tới khi 80 tuổi mới lãnh nhận phép rửa tội. Bắt đầu từ đó cụ sống một đời rất gương mẫu. Hai năm sau, cụ hấp hối. Có người muốn biết cụ bao nhiêu tuổi. Cụ dõng dạc trả lời:”Tôi mới có hai tuổi. Tám mươi năm trước khi rửa tội là những năm chết. Tôi mới bắt đầu sống thật khi tôi chịu phép rửa tội”. Thật là chí lý (Phạm văn Phượng, Chia sẻ TM Chúa nhật, B, tr 38).
III. BÍ TÍCH RỬA TỘI VÀ CHÚNG TA.
Ngày nay, mỗi người chúng ta đã được chịu phép rửa tội để trở thành Kitô hữu, con Thiên Chúa, con của Giáo hội. Bí tích rửa tội là cửa ngõ đưa ta vào trong Giáo hội và Nước Trời. Vậy bí tích rửa tội có tương quan gì với chúng ta không, và chúng ta phải sống thế nào cho xứng với hồng ân ấy?
1. Một cuộc đổi mới.
Chúng ta là những con người tội lỗi, nhờ phép rửa tội chúng ta được tẩy sạch mọi tội lỗi để trở nên con người mới trong trắng, xứng đáng làm con của Đấng đã phán:”Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng thánh”. Tuy thế, sống giữa trần gian đầy cám dỗ, nhiều khi tấm áo tắng trong ngày chịu phép rửa tội đã bị hoen ố vì những hành vi xấu xa của ta, nên phải cố gắng đổi mới cuộc sống của ta theo câu tâm niệm vua Thành Thang đã viết vào trong bồn tắm:”Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân”: mỗi ngày nên mới, ngày ngày nên mới, ngày tới phải nên mới. Vua cho rằng: người ta phải gột rửa con tim cho sạch tội nhơ như thân xác phải tắm rửa hằng ngày (X. Đại học I,1).
Chúng ta phải làm một cuộc cách mạng bản thân nghĩa là phải lột bỏ con người cũ tội lỗi mà mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện như thánh Phaolô đã dạy. Phương pháp giáo dục của người xưa vẫn còn tính cách thời sự nơi chúng ta: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.Theo trật tự của cuộc cách mạng, thì cách mạng bản thân là điều tiên quyết.
Truyện: Thay đổi chính mình.
Linh mục Anthony de Mello kể lại tâm sự của một nhà hiền triết như sau:
Nhìn lại cuộc sống đã qua, nhà hiền triết thú nhận: Lúc thiếu thời tôi là một kẻ hiếu động. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ tôi thường xin Chúa cho tôi sức mạnh biến đổi trái đất này trở nên tốt hơn.
Khi được nửa đời người, tôi ý thức là mình chưa làm được gì cả, chưa thay đổi được bất cứ người nào. Tôi lại đổi lời cầu nguyện cho thiết thực hơn:”Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con khả năng thay đổi cuộc sống của những người con tiếp xúc hằng ngày thôi”.
Nhưng rồi khi tuổi đời sắp hết, tôi thấy rằng mình quá cao vọng và ảo tưởng, tôi lại thay đổi lời cầu nguyện như sau:”Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính bản thân con”.
Nếu từ tuổi thanh xuân tôi đã cầu nguyện như thế, thì có lẽ tôi không phải hối tiếc vì đã sống một đời sống vô ích.
2. Tập sống khiêm nhường.
Việc Đức Giêsu đến xin ông Gioan làm phép rửa làm cho chúng ta phải suy nghĩ: Đức Giêsu được Gioan giới thiệu là “Con chiên Thiên Chúa”, một con chiên vô tì tích tại sao lại đến chịu phép rửa để xin được ơn tha tội như mọi người tội lỗi đến xin? Thánh Matthêu coi cử chỉ đó như là thực hiện “chương trình khiêm hạ và phục vụ” mà các tiên tri đã báo trước (Mt 3,14-15). Đức Giêsu chịu phép rửa để nêu gương cho ta về sự khiêm nhường, Ngài nhận mình là người có tội như mọi người để hòa đồng với mọi người, để giúp cho con người luôn có tinh thần sám hối, tự hạ trước mặt Chúa:”Trong các con ai làm lớn nhất phải xử như kẻ nhỏ nhất. Ai làm đầu kẻ khác phải coi mình như tôi tớ”(Lc 22,26).
Theo nhà Phật, con người có ba chứng nguy hiểm nhất: tham, sân, si.
- Tham là vì ích kỷ.
- Sân là vì tự ái.
- Si là vì ngu muội.
Trong ba chứng bệnh nói đây thì “Sân” là khó diệt hơn cả. Bởi vì lòng tự ái (kiêu ngạo) là một thói xấu sống dẻo dai bậc nhất, đến nỗi thánh Phanxicô Salêsiô phải nói:”Nó chỉ ngưng hoạt động 15 phút sau khi tôi chết”.
Các bậc hiền nhân quân tử đều coi đức “khiêm tốn” là căn bản trong công việc cải tạo con người. Tính tự ái (kiêu ngạo) buộc con người vào dục vọng, làm cho họ phải đảo điên, thì lòng khiêm tốn sẽ là phương tiện giải thoát, đem lại thế quân bình, tức là sự bằng yên cho tâm hồn.
Truyện: Vừa thì đứng
Một hôm Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công nước Lỗ, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng nghiêng, ngài hỏi, thì người giữ miếu cho biết:
- Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua hằng để bên ngai vàng hầu làm gương.
Ngài nói:
- Ta vốn nghe đồn nhà vua có một bảo vật, bỏ không thì nghiêng, đổ nước vào vừa phải thì đứng thẳng, mà đổ đầy thì lại ngã. Có lẽ là vật này chăng?
Rồi ngài bảo học trò múc nước thí nghiệm thì quả nhiên đúng như thế.
Bấy giờ ngài mới trịnh trọng giảng giải:
- Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu muội. Có công to trong thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung. Sức khỏe hơn người nên giữ bằng cách nhút nhát. Giầu có bốn biển nên giữ bằng cách bố thí và thái độ nhún nhường. Đó là lối san sẻ bớt đi để khỏi đầy tràn mà sụp đổ vậy”.
3. Sống xứng danh Kitô hữu.
Khi được chịu phép rửa tội, chúng ta được gọi là Kitô hữu. Danh xưng Kitô hữu là chỉ một người thuộc về Chúa Kitô, là người được mang danh Chúa Kitô, là Kitô khác, là Chúa Kitô nối dài. Để sống xứng đáng với danh hiệu đó, chúng ta phải có nhiều nỗ lực, nhiều khi phải đau khổ, hy sinh, nhục nhã, chịu nhiều phiền toái, thua thiệt...nhưng đó là giá phải trả để chúng ta đạt được niềm vui đích thực trong cuộc đời làm con Chúa.
Truyện: Tên con là Phliliphê.
Một hôm, người ta đem đến trình vua Philiphê một thanh niên bị bắt quả tang ăn trộm. Vua nhìn thẳng vào mặt hắn và hỏi:
- Tên mày là gì?
Anh ta rụt rè thưa:
- Thưa tên con là Philiphê ạ.
Vua trợn mắt nói tiếp:
- Mày là Philiphê trùng với tên tao mà mày lại đi ăn trộm à? Mày làm ô danh tao. Vậy mày phải làm một trong hai việc: một là phải đổi tên đi, hai là phải thay đổi cách sống...
Chúng ta đã lãnh nhận bí tích rửa tội và đã được trở thành con Thiên Chúa. Được làm con Thiên Chúa là một tước hiệu vô cùng cao quí, một hồng ân lớn lao Chúa ban cho con người. Nhưng chúng ta đã sống thế nào với hồng ân cao qúi ấy? Cha trên trời có hài lòng với chúng ta không?
Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Cha đã phán:”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Vậy Cha trên trời có hài lòng với chúng ta không? Chúng ta đã trở thành con Chúa và được mang danh hiệu là Kitô hữu, vì vậy, nỗ lực của cúng ta là phải luôn cố gắng sống xứng đáng với danh hiệu ấy để được Chúa hài lòng với chúng ta.
28. Suy niệm của Lm. Ernest Nguyễn Văn Hương
Từ khi xuất hiện trong hoang địa, Thánh Gioan Tẩy Giả đã gây được một phong trào sám hối trong xứ Do thái. Đời sống và lời giảng của ông có sức lôi cuốn người ta đến với sông Giođan để được ông làm phép rửa. Phép rửa của Gioan nhằm giúp con người bày tỏ lòng hoán cải, để chuẩn bị đón Đấng Mêsia sắp đến (x. Mt 3, 7-12).
Vấn đề là ở chỗ, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” (Mc 1,5) và chịu “phép rửa sám hối để được ơn tha tội” (Mc 1,4), lại có Đức Giêsu. Làm sao Đấng thánh thiện, Đấng quyền thế mà Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người, lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi, chờ đến phiên mình được chịu thanh tẩy? Đó là một câu hỏi mà Gioan khó trả lời.
Khi suy niệm về mầu nhiệm Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan, các giáo phụ đã đưa ra một số lý do để soi sáng. Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa trong nước vì:
- Người muốn kêu gọi những người khác noi theo gương Người mà đến chịu phép rửa do Người thiết lập sau này.
- Người muốn làm một hành vi khiêm tốn cho ta noi theo.
- Người muốn công nhận giá trị phép rửa của Gioan.
- Người muốn lần đầu tiên ra mắt trước công chúng, để chuẩn bị cho họ nghe Người và theo Người.
- Người muốn thánh hóa dòng nước sông Giođan và mọi dòng nước khác, để nhờ sự hiện diện và tác động của Người mà mọi dòng nước có thể trở nên nguồn cứu độ.
Chúa Giêsu chịu phép rửa thống hối cho thấy Người liên đới với tội nhân, với dân tộc mình, với cả nhân loại đang cần ơn cứu độ. Con Thiên Chúa không ngại che khuất cái cao sang, siêu việt và cả sự thánh thiện ngàn trùng của mình để nhờ thái độ tự hạ, tự hủy này mà Đấng Thánh của Thiên Chúa có thể đứng chung với người tội lỗi, dìm mình xuống cùng một dòng nước như họ. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa khiêm hạ, vì Ngài muốn đi xuống tận đáy vực thẳm nơi chúng ta đang sống, để nâng chúng ta lên. Chỉ tình yêu mới làm chúng ta hiểu được hành động của Ngài. Thiên Chúa Nhập thể chính là để liên đới với từng người chúng ta trong mọi cảnh ngộ của cuộc sống.
Hành động của Chúa Giêsu hôm nay cho thấy hướng đi cả một cuộc đời của Đức Giêsu. Người bị mang tiếng là “tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7, 34). Người đến với những người sống bên lề xã hội và tôn giáo để đưa họ trở về với thế giới của con người và thế giới của Thiên Chúa. “Tôi đến để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9, 13).
Thánh Phaolô đã viết một câu cho thấy Đức Giêsu đã thực sự đồng hóa với thân phận tội nhân đến mức nào: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta” (2C 5, 21). Đức Giêsu đã chết như một người phạm trọng tội, bị đóng đinh giữa hai tử tội. Người đã đem đến niềm hy vọng cho người trộm lành: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 43). Khi gắn bó với những người không còn được yêu mến và kính trọng, Đức Giêsu đã đem đến cho họ một thế giới nồng nàn tình yêu. Trong thế giới này không còn có hàng rào ngăn cách nhưng chỉ có những tội nhân được Thiên Chúa yêu thương cứu độ bởi vì Chúa Giêsu là Đấng thánh, Chúa Giêsu không đội trời chung với tội lỗi, nhưng ngài lại cúi xuống trên tội nhân, và biến đổi họ.
Hành động của Chúa Giêsu cho thấy rằng nếu chúng ta sợ mình vấy bẩn vì tiếp xúc với người tội lỗi đó là bởi vì chúng ta chưa thánh thiện thực sự. Ánh sáng không sợ bóng tối làm mình ra u tối. Ngược lại ánh sáng len lỏi vào mọi ngõ tối của cuộc đời, để làm cho bóng tối được sáng ngời lên.
Một chi tiết nữa của bài Phúc âm cũng gợi cho chúng ta sự chú ý là sau khi Đức Giêsu dìm mình trong dòng nước, thì Người nhận được một thị kiến: các tầng trời xé ra, Thánh thần ngự xuống, và tiếng phán từ trời. Các tầng trời xé ra là dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa muốn tiếp xúc với con người và thông truyền cho con người một mạc khải. Đức Giêsu cũng thấy trời mở ra và qua đó thần khí ngự xuống trên mình như chim bồ câu.
Đức Giêsu được đầy Thánh Thần. Thánh Thần chính là sự hiện diện của Thiên Chúa xâm nhập vào người được tuyển chọn, ban cho người ấy dồi dào mọi ơn cần thiết để có thể làm tròn sứ mạng quan trọng đặc biệt. Được ban Thánh Thần nghĩa là được sai đi. Khi Đức Giêsu cảm nghiệm được Thánh Thần nơi mình, thì cũng là lúc Người được sai đi để loan báo Tin Mừng và làm những dấu chỉ cứu độ. Tiếng nói từ trời phản ánh niềm tin của Hội Thánh nơi của Đức Giêsu. “Con là Con yêu dấu của Cha”. Với câu đó, Thiên Chúa Cha giới thiệu công khai Chúa Giêsu cho nhân loại và kết thúc luôn ba mươi năm âm thầm ở Nadarét.
Đức Giêsu chịu phép Rửa nhưng Người vẫn hướng đến một phép Rửa khác, đó là cuộc khổ nạn Ngài phải chịu: “Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12, 50). Như thế mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu Phép Rửa hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ đến mầu nhiệm chết và phục sinh. Chúa Giêsu làm công việc nầy để tỏ lộ công việc cứu thế của Người, tỏ lộ cho nhân loại thấy bản chất cao cả của Người là con rất yêu dấu của Thiên Chúa, là Người con luôn sẳn sàng vâng lời thánh ý Thiên Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.
Phép Rửa trên thập giá là nguồn sống cho mọi phép rửa của các Kitô hữu. Nhờ phép Rửa đó, chúng ta được trở nên con cái yêu dấu của Thiên Chúa và được tràn đầy Thánh Thần. Chúng ta nhớ rằng mình là người đã được xức dầu, được mang nến sáng, được mặc áo trắng, được dìm mình trong nước để rồi được sai ra đi làm chứng cho mọi người nghĩa sống thực sự như người con được Thiên Chúa yêu mến.
Xin cho chúng ta biết sống thực sự lý tưởng đó.
29. Sống đẹp lòng Chúa
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Với lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, chúng ta chấm dứt Mùa Giáng Sinh và bắt đầu Mùa Thường Niên I, chu kỳ năm B, kéo dài đến Chúa Nhật VII, rồi bước vào Mùa Chay Thánh với Thứ Tư Lễ Tro.
Bài Đọc I trích trong Isaia (42, 1-4, 6-7; có thể chọn đoạn 55, 1-11), nói đến ‘Người được Thiên Chúa tuyển chọn và làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự’. Bài Đọc II trích trong Sách Công Vụ Tông Đồ (10, 34-38; cũng có thể chọn 1Gioan 5, 1-9) nói đến việc Chúa Giêsu được Thiên Chúa xức Dầu Thánh, được đầy Chúa Thánh Thần và ra đi rao giảng. Bài Phúc Âm (Matcô 1, 7-11) ghi lại việc Chúa Giêsu đến để chịu Phép Rửa của Thánh Gioan, và khi Ngài chịu xong, Chúa Thánh Thần tràn ngập trên Ngài, có tiếng từ Trời cao nói: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”
Lúc đó là vào khoảng năm 30 (Lc 3, 23), Thánh Gioan Tẩy Giả đang ban Phép Rửa thống hối tại sông Giodan (Gioan 1,28) (chỗ gọi là Bêtania phía đông sông Giodan; nơi này khác với làng Bêtania là quê hương của ba chị em Matta, Maria va Ladarô). Thánh Gioan kêu gọi mọi người đến chịu Phép Rửa để tỏ dấu ăn năn tội lỗi và sửa lại cuộc sống, đón chờ Chúa Cứu Thế đến. Chúa Giêsu cũng đến nhận Phép Rửa của Thánh Gioan. Dịp này, Ngài được Đức Chúa Cha chính thức giới thiệu Ngài là Đấng ‘Thiên Sai’ và Chúa Thánh Thần xuống tràn ngập trên Ngài. Từ nay Chúa Giêsu từ bỏ cuộc sống 30 năm ẩn dật ở Nagiaret để bắt đầu cuộc sống công khai ra đi rao giảng.
Phép Rửa Thánh Gioan ban chỉ là một ‘phép rửa bằng nước’ để tỏ lòng sám hối tội lỗi. Còn Bí Tích Rửa tội là một trong bảy phép Bí Tích, là ‘phép Rửa Tội trong Chúa Thánh Thần và lửa!’ (Matthêu 3, 11). Khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội là chúng ta được tha tội nguyên tổ (tội tổ tông truyền) và các tội riêng chúng ta đã phạm (khi chúng ta chịu vào tuổi đã khôn lớn). Lúc đó chúng ta được ‘chết đi với Chúa Kitô, từ bỏ đời sống tội lỗi và sống lại thật với Chúa Kitô, trở nên trong sạch xứng đáng là con Chúa, và chính thức gia nhập gia đình Giáo Hội Chúa, bắt đầu một cuộc sống mới trong Chúa Thánh Thần, trở nên một chi thể trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô và cùng góp phần vào việc làm tăng trưởng gia đình Giáo Hội qua cuộc sống làm chứng cho Chúa” (Theo Sách Giáo Lý). Vì thế, Bí Tích Rửa Tội khởi đầu cuộc sống Kitô hữu (Bí Tích khai tâm), chỉ sau khi chịu phép Rửa Tội, chúng ta mới được chịu các phép Bí Tích khác. Bí Tích Rửa Tội ghi dấu thiêng liêng vào linh hồn chúng ta, không bao giờ mất, nên chỉ được chịu một lần (cũng như Bí Tích Thêm Sức và Bí Tích Truyền Chức Thánh).
Mừng Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa là dịp để mọi người chúng ta nhớ lại phép Rửa tội chúng ta đã được lãnh nhận, để tạ ơn Chúa và cầu xin cho mọi người chúng ta luôn cố gắng sống xứng đáng con cái Chúa trong gia đình Giáo Hội và luôn sống làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống hàng ngày.
Chúng ta nên nhớ: vào cuối nghi thức Rửa Tội, vị chủ sự trao cho người vừa được rửa tội Tấm Áo Trắng (tượng trưng tâm hồn trong sạch qua Bí Tích Rửa Tội) và Cây Nến cháy sáng đốt từ ngọn lửa của Cây Nến Phục Sinh (tượng trưng Ánh Sáng Chúa Kitô). Khi trao Tấm Áo Trắng, vị chủ sự nói: “Con đã trở nên một tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Vậy con hãy lãnh nhận áo trắng này, con hãy mang lấy và gìn giữ nó tinh tuyền cho đến ngày ra trước tòa Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để được sống muôn đời.” Khi trao Cây Nến Sáng, vị chủ sự nói với chúng ta: “Con đã trở nên ánh sáng Chúa Kitô, con hãy luôn luôn sống như con cái Sự Sáng, để được bền vững trong Đức Tin. Khi Chúa Kitô ngự đến, con sẽ xứng đáng ra nghênh đón Người cùng với toàn thể các Thánh trên trời.”
Trong nghi thức rửa tội trẻ em, vị chủ sự trao áo trắng và nói: “Con đã trở nên một tạo vật mới, và đã mặc lấy Chúa Kitô, chiếc áo này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh.” Và khi trao Nến Sáng (qua cha mẹ đỡ đầu), vị chủ sự nói: Anh chị em thân mến, là những bậc làm cha mẹ và cha mẹ đỡ đầu, ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm sóc, tức là lo lắng cho những em được Chúa Ktô soi sáng, luôn sống như con cái sự sáng và bền vững trong Đức Tin. Nhờ đó, khi Chúa đến, các em sẽ được ra nghênh đón Người với toàn thể các Thánh trên trời.” Điều này nhắc nhở trọng trách của các bậc cha mẹ trong việc giáo dục đức tin cho con cái khi các em lớn lên; đồng thời cũng nhắc nhở trách nhiệm của các cha mẹ đỡ đầu. Thật là một vinh dự khi được mời làm cha mẹ đỡ đầu, nhưng đó cũng là một trọng trách mà cha mẹ đỡ đầu phải lo chu toàn trước mặt Chúa. Chúng ta phải ý thức bổn phận này khi chúng ta được mời để đỡ đầu cho các tân tòng hay các em nhỏ khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội.
Kết thúc Bí Tích rửa Tội, trước khi lãnh nhận phép lành, chúng ta cùng nhau đọc Kinh Lạy Cha, để nhắc nhở chúng ta, qua Bí Tích rửa Tội, chúng ta được vinh dự có Chúa là Cha, và chúng ta đều là anh em với nhau trong gia đình Giáo Hội. Xin cho chúng ta luôn hết lòng phụng sự Chúa và yêu thương lẫn nhau để cùng nhau loan truyền cho mọi người nhận biết Chúa là Cha, và chung tay xây dựng tình yêu thương trong gia đình nhân loại.
30. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa chịu phép rửa, cả trần gian được thánh hóa
Tiếp theo lễ Chúa Hiển Linh, Phụng vụ của Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, kết thúc mùa Giáng sinh. Lễ này đã được các Giáo phụ quan tâm đặc biệt ngay từ những thời kỳ đầu, vì tầm quan trọng đặc biệt có tính cổ thời của nó. Đây là lễ được mừng sớm nhất, chỉ sau lễ Phục sinh, vì nó bao hàm lời rao giảng của các Tông Đồ, là điểm khởi hành cho tất cả những việc mà các Tông Đồ phải làm chứng cho (x. Tđcv 1, 21-22; 10, 37-41). Thứ đến, đây là lần đầu tiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải một cách đầy đủ và rõ ràng. Lý do nữa là phép rửa của Chúa Giêsu nơi sông Giordan loan báo trước cho phép rửa bằng Máu của Chúa trên Thập Giá, và tượng trưng cho toàn bộ những hoạt động có tính cách bí tích của Đấng Cứu Thế. Để thực hiện ơn cứu rỗi nhân loại, Ngài đặt mình vào hàng ngũ các tội nhân, mặc dù Ngài là Đấng vô tội, nhưng Ngài đã mang trên mình tất cả tội lỗi của nhân loại. Hành động khiêm nhường và tự hủy này, đã được Chúa Cha chứng dám: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha” (Mc 1, 11). Cùng với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình chim bồ câu đậu xuống trên Người, để chỉ cho chúng ta tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh mà chúng ta sẽ thấy diễn ra tương tự nơi biến cố Chúa Biến Hình.
Câu hỏi được đặt ra trước hết là tại sao Chúa Giêsu là Đấng vô tội sao lại đến xin Gioan làm phép rửa?
Thánh Ghê-gô-ri-ô, giám mục Na-di-en cho biết: “Có thể là Chúa muốn thánh hoá kẻ sắp làm phép rửa cho Chúa, nhưng chắc chắn để chôn vùi trọn vẹn con người A-đam cũ trong dòng nước. Thật vậy, trước khi thanh tẩy ta và để thanh tẩy ta, Chúa thánh hoá sông Gio-đan; vì Người vừa là thần khí vừa là xác phàm, nên Người cũng muốn nhờ Thần Khí và nước để đưa chúng ta vào đạo”. Nên dù Gioan làm phép rửa, ông cũng chỉ là đèn đối với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể đối với Chàng Rể, người cao trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà với Trưởng Tử mọi loài thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện. Quả thật, Gioan biết rằng mình sẽ được thanh tẩy bằng cuộc tử đạo. (Trích bài giảng của thánh Grêgôriô, giám mục Na-di-en). Thánh Phêrô Kim Ngôn giải thích rằng, khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì: “Tôi tớ đóng vai chủ, con người đóng vai Thiên Chúa, ông Gio-an đóng vai Đức Kitô; ông đóng vai đó để lãnh ơn thứ tha chứ không phải để ban phát“. Nên Gioan giảng: “Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần“ (Mc 1, 8). Đây là phép lạ vĩ đại đã xảy ra sau khi Đấng Cứu Thế chịu phép rửa; phép lạ này là khúc dạo đầu cho những gì sẽ xảy ra. Đây không phải là Thiên Đàng khi xưa đóng lại vì tội của Ađam nay mở ra, mà chính trời mở ra: “Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình” (Mc 1,10).
Tại sao khi Chúa Giêsu vừa lên khỏi nước, trời lại mở ra?
Chúa Giêsu vừa bước lên khỏi nước lúc ấy trời mở ra là Chúa Giêsu nâng thế gian lên cao với Ngài. Vì xưa kia, khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng và bị lưỡi gươm lửa cấm đoán, chính A-đam đã đóng cửa trời lại, không cho mình mà cũng không cho con cháu vào. Nay nhờ Chúa Giêsu mà cửa trời được mở ra.
Trời mở ra, còn mạc khải cho Gioan Tẩy Giả và những người Do Thái biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Theo thánh Gioan Kim Khẩu, điều này muốn dạy chúng ta rằng, một sự tương tự vô hình cũng xảy ra khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội: Chúa Thánh Thần cũng ngự vào tâm hồn của chúng ta. Ngài không ngự đến một cách hữu hình, bởi vì chúng ta không cần: đức tin hiện nay là đủ… Thiên Chúa mở cửa trời để kêu gọi chúng ta hướng về trời, vì quê hương chúng ta là quê trời, và mách bảo chúng ta rằng, chúng ta không có gì ở dưới đất.
Tại sao Chúa Thánh Thần lại lấy hình một con chim bồ câu mà hiện xuống?
Lý do là vì chim bồ câu rất dịu dàng và trong sạch, và Chúa Thánh Thần là thần khí dịu êm và an bình. Chim bồ câu cũng nhắc cho chúng ta nhớ lại một sự kiện chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước khi trái đất bị ngập do lũ lụt và toàn thể loài người trong nguy cơ hư mất, chim bồ câu ngậm cành ôlui xuất hiện để báo sự chấm dứt của cơn đại hồng thủy, tin vui hòa bình cho toàn thế giới. Giờ đây, tất cả những điều này cũng tiên báo về tương lai. Khi tất cả đã hư mất, nay được giải thoát và đổi mới, điều gì đã xảy ra khi nước lũ đến ngày hôm nay như là một lũ lụt của ân sủng và lòng thương xót Chúa… Chim bồ câu, thay vì ngậm một cành ô liu báo cho Noe là người duy nhất bước ra khỏi tầu để đặt chân lên mặt đất. Nay Chim bồ câu báo tin trận hồng thuỷ tràn ngập thế gian đã lui đi, thế gian không còn phải chìm ngập trong cảnh trầm luân muôn đời nữa, phẩm giá ơn gọi làm con Thiên Chúa của chúng ta được phục hồi, và lôi kéo hết thảy mọi người lên Thiên Đàng.
Lời ngôn sứ nói: “Tiếng Chúa vang rền trên nước… Tiếng Chúa uy linh tung sấm sét“ (Tv 28). Tiếng nào vậy? “Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta chọn, Ta hài lòng về người. Ta ban Thần trí Ta trên người” (Is 42, 1). Đây là tiếng từ trời vọng xuống để làm chứng cho Đấng từ trời mà đến. Tiếng đó bày tỏ lòng tôn trọng thân xác dưới hình chim bồ câu, vì thân xác đã được thần hoá, khi Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong thân xác: “Con là Con yêu dấu của Cha; Con đẹp lòng Cha” (Mc 1, 11).
Vậy, phép rửa của Chúa Giêsu và phép rửa của chúng ta có liên kết chặt chẽ với nhau. Phụng Vụ của ngày lễ này đã hát lên như sau: “Đức Kitô chịu phép rửa, cả trần gian được thánh hoá, chúng ta được tha thứ tội lỗi, được thanh tẩy nhờ nước và Thánh Thần” (Tiền xướng của Kinh Bênêdictus, của Giờ Kinh Sáng). Chúng ta hãy thanh tẩy mình cho thanh sạch, hãy tiếp tục thanh tẩy cho thanh sạch hoàn toàn và đem lòng tôn kính mà tưởng niệm ngày Đức Kitô chịu phép rửa, và hãy mừng lễ cách xứng đáng. Amen.
31. Dòng nước và dòng đời
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Lãnh nhận Phép Rửa là “dấu chỉ bề ngoài” chứng tỏ chúng ta đã đón nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ. Từ khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa, một hồng ân quá lớn!
Phép Rửa của Ông Gioan là Phép Rửa của sự sám hối (Mt 3:11), nhưng Chúa Giêsu vô tội nên không cần sám hối. Thánh Gioan nhân biết tội mình và biết mình chỉ là tội nhân, cần sám hối, không đáng xách dép cho Chúa Giêsu, nên ông ngại mà nói với Chúa Giêsu: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3:14). Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3:15). Nghe nói vậy ông Gioan mới chiều theo ý Ngài. Chúa Giêsu đến với Thánh Gioan Tẩy Giả cho thấy Ngài chấp nhận Phép Rửa của ông. Lòng thương xót của Thiên Chúa được tỏ hiện qua việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa.
Nói cách khác, ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là Đấng Mêsia và là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1:29). Ông Gioan vừa làm Phép Rửa xong, Thiên Chúa liền tỏ ra dấu chỉ tỏ tường là “các tầng trời xé ra, và Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống”, sự thật minh nhiên đó đã được chính Chúa Cha xác nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3:17; x. Mc 1:11).
Thật kỳ diệu, “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:21). Chúa Giêsu là Đấng công chính, không cần sám hối, nghĩa là không cần chịu Phép Rửa, nhưng Ngài chịu Phép Rửa để làm gương cho chúng ta, còn chúng ta thực sự cần Phép Rửa và cần sám hối, vì chúng ta là các tội nhân. Hãy mở lòng để đón nhận ơn tha thứ!
Phép Rửa là “cửa ngõ” để chúng ta bước vào miền cứu độ. Trong cuộc đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do-thái, Chúa Giêsu nói với ông: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên; không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:3 và 5). Và Thánh Phaolô xác định: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5).
Từ ngàn xưa, Đấng Kitô đã được đề cập với danh xưng Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo” (Is 42:1-4). Người-Tôi-Trung đó chấp nhận đau khổ nhưng không muốn người khác chịu đau khổ, luôn chạnh lòng thương người khác, nhất là đối với những người yếu đuối, hèn mọn.
Thiên Chúa xác nhận rạch ròi: “Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm” (Is 42:6-7). Mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa gọi đích danh và đặt vào một vị trí theo Thánh Ý Ngài, nhưng không phải để tự tôn hoặc ích kỷ giữ riêng cho mình, mà phải hành động tích cực, dùng những gì mình đã được Ngài trao ban để làm lợi cho tha nhân – đặc biệt là đối với những người bị áp bức, bị bóc lột, bị tước đoạt những quyền cơ bản của con người,...
Tất cả mọi sự chúng ta tận hưởng, cả tinh thần và vật chất, đều do Thiên Chúa ban, chúng ta chẳng có gì và chẳng đáng gì mà dám vênh vang tự đắc. Tác giả Thánh Vịnh đã nhận thức như vậy, và mời gọi chúng ta: “Hãy dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh, dâng Chúa quyền lực và vinh quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện” (Tv 29:1-2). Đó là bổn phận và trách nhiệm của mọi người. Chúng ta chúc tụng Ngài thì Ngài cũng chẳng thêm được gì, nhưng chính chúng ta lại hưởng lợi ích từ việc chúc tụng đó. Thiên Chúa luôn tìm mọi cách làm lợi cho chúng ta, thật là kỳ diệu quá!
Ngài là Đấng vô hình mà lại hữu hình, vì Ngài vẫn hiện diện trong mọi thứ: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông. Tiếng Chúa thật hùng mạnh! Tiếng Chúa thật uy nghiêm!” (Tv 29:3-4). Thiên Chúa toàn năng, và chỉ có Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Thật vậy, chính Thiên Chúa đã truyền lệnh: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta” (Xh 20:3; Đnl 5:7).
Thiên Chúa xuất hiện trong mọi vật và mọi sự. Những gì chúng ta gọi là tự nhiên hoặc thiên nhiên thì chính là Thiên Chúa: “Tiếng Chúa lay động cả rặng sồi, tuốt trụi lá cây cao rừng rậm. Còn trong thánh điện Người, tất cả cùng hô: Vinh danh Chúa! Chúa ngự trị trên cơn hồng thủy, Chúa là Vua ngự trị muôn đời” (Tv 29:9-10). Bổn phận của chúng ta là phải tôn thờ, cảm tạ và chúc tụng Ngài, như Đức Giêsu Kitô đã nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33).
Tại nhà ông Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng nói: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Đức Giêsu nhập thể và nhập thế để “cứu cái gì đã hư mất” (Mt 18:11). Thánh Phêrô giải thích rạch ròi: “Người đã gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:36-38).
Trước khi Chúa Giêsu đến thế gian theo Kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa, ông Gioan đã được sai đến trước để dọn đường. Ông là người được Thiên Chúa sai đến, nhưng phong cách rất bình dân: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Có lần người ta hỏi ông là ai – Đấng Kitô, Ê-li-a hay ngôn sứ? Cả ba lần ông đều trả lời “không”, ông chỉ dám nhận mình là “tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1:20-23). Ông khiêm nhường bao nhiêu thì chúng ta cảm thấy xấu hổ bấy nhiêu, vì chúng ta chỉ là “số không” thật lớn mà lại mạo nhận mình là “cái rốn của vũ trụ”. Lạy Chúa tôi!
Ông rao giảng về Đức Kitô: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1:7-8). Ông Gioan cho biết rằng ông cũng không biết Đức Giêsu là ai, nhưng khi ông làm Phép Rửa cho Ngài, rồi thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Ngài, nên ông nhận biết Ngài chính là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1:32-34). Đặc biệt nhất là có tiếng từ trời xác nhận: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1:11).
Di tích sông Gio-đan, nơi Chúa Giêsu chịu phép rửa (Mc 1:6-11; Mt 3:13-17; Lc 3:21-22), cách trung tâm thành phố Ti-bê-ri-a khoảng 10 km về phía Nam trên sông Jordan, có một địa điểm thu hút khoảng nửa triệu người hằng năm. Theo khoa khảo cổ và kinh thánh, nơi thực sự Chúa Giêsu chịp phép rửa cách xa Yardenit cả trăm cây số, ở gần Biển Chết, thuộc về lãnh thổ Gio-đan: “Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa” (Ga 1:28).
Dòng sông Gio-đan bình thường, nhưng bỗng trở nên vô thường vì là nơi Chúa Giêsu chọn để ông Gioan làm Phép Rửa. Nước thật kỳ diệu. Nước rất mềm mà cũng rất mạnh, đặc biệt là không thể tách hoặc cắt được nước. Ở đâu có nước là có sự sống, người ta có thể nhịn đói chứ không thể nhịn khát, vì cơ thể chúng ta chứa tới 70% là nước, mỗi ngày cơ thể cần khoảng 2 lít nước. Có điều lạ là quốc gia cũng được chúng ta gọi là “nước” – nước Việt Nam. Phải chăng Việt ngữ muốn diễn tả nơi mình sống được ví như nước? Còn nước là còn nơi sống, mất nước là mất nơi sống!
Nước biểu hiện sự xuất hiện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng của Ngài: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông” (Tv 29:3). Với Thiên Chúa, nước cũng được Ngài coi là chất liệu quan trọng nên Ngài đã dùng nước để chứng tỏ chúng ta được tẩy sạch tội lỗi. Nước rất đặc biệt vì nước còn là chất liệu Chúa Giêsu dùng làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới ở Cana (Ga 2:1-12), và cũng là chất liệu Ngài dùng để dạy “bài học phục vụ” khi Ngài rửa chân cho các môn đệ (Ga 13:1-20). Nước còn quan trọng hơn nữa vì nước là chất liệu biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:5).
Chúa Giêsu được dìm mình trong dòng nước Gio-đan để khởi đầu sứ vụ, dòng nước đó trở nên Dòng Tình mà Chúa Giêsu muốn tuôn đổ Lòng Thương Xót cho chúng ta, đồng thời cũng giao trách nhiệm cho mỗi chúng ta phải đắm mình trong dòng đời để phục vụ mọi người, đó cũng là phục vụ chính Ngài vậy: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Kinh Hòa Bình – Thánh Phanxicô Assisi).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết đón nhậ Đức Kitô là Đấng cứu độ và hết lòng phụng sự Ngài qua việc phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ những con người hèn mọn ở mọi ngõ ngách của cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
32. Dòng sông định mệnh – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Có những dòng sông đã quyết định vận mạng cả dân tộc như Chương Dương, Bạch Đằng. Những dòng sông đã đưa cả vận nước tiến lên nhờ những phù sa màu mỡ chuyển mạch sống đến cho toàn dân như Hồng Hà, Cửu Long. Dòng sông đã nổi trôi theo vận nước như Bến hải, sông Gianh.
Nhưng một dòng sông chuyển đổi định mệnh cả nhân loại vì đã được diễm phúc ghi dấu hình ảnh Con Chúa và đón nhận những bước chân rộn rã của đoàn người hành hương tìm về nguồn ơn cứu độ. Dòng sông trở thành căn cứ xuất phát bước chân Đấng Cứu thế, khi thấy cảnh trời mở ra vang vọng tiếng Chúa Cha rung chuyển cả đất trời, át hẳn tiếng người đang thống hối ăn năn. Đó là dòng sông Giođan.
ĐIỂM HỘI TỤ
Ngày ấy mọi người tuốn đến lãnh nhận phép rửa, đã khuấy đục cả một khúc sông. Thấy từng đoàn dân chúng tuốn đến, chắc chắn Gioan Tẩy giả nức lòng phấn khởi. Còn gì vui hơn cho một nhà giảng thuyết! Tất cả đều sám hối, nhưng không hề buồn bã. Sám hối để đón chờ Đấng Messia thời cánh chung. Họ sống trong niềm hi vọng một cuộc giải thoát cho toàn dân.
“Hồi ấy, Đức Giêsu từ Nadarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Giođan.” (Mc 1:9) Đức Giêsu đã nhập cuộc với đoàn lũ dân chúng. Người cũng xuống nước xin Gioan làm phép rửa, không phải để tỏ lòng sám hối, cũng không phải để sống niềm hi vọng Thiên sai. Vì chính Người là Vị Thiên sai vô tội đến hoàn thành lời hứa. Người nhập đoàn để đồng hóa với nhân loại tội lỗi. “Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta.” (2 Cr 5,21) Như vậy Người đã hoàn toàn sát nhập vào gia đình nhân loại.
Từ gia đình thiên giới, nơi Người sống mật thiết với Chúa Cha và Thánh Linh, Người đã giáng trần để thực hiện lời hứa xa xưa. Hôm nay xuống sông Giođan chịu phép rửa, Đức Giêsu đã cho thấy Người thuộc về hai gia đình. Cả hai đã hiệp nhất trong tình yêu, tình yêu Thiên Chúa nhập thể. Đó là sứ mệnh lớn lao của Người. Người là Chàng rể đến giới thiệu nàng dâu nhân loại cho Thiên Chúa. Khi lặn ngụp xuống giòng nước Giođan, Người đem trọn tình yêu của Ba ngôi dìm xuống dòng sông định mệnh của nhân loại. Nhưng “vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Mc 1:11) Chúa Cha đã xác nhận bản chất Đức Giêsu như “tình yêu Thiên Chúa đến với trần gian.” (KTTƯ 1995:183) Lời xác nhận đó vang lên như thuở mới tạo dựng đất trời, có chim bồ câu chứng kiến, một biểu tượng thật dễ thương, nhắc đến một cuộc tạo thành mới bắt đầu với Đức Giêsu (x.KTTƯ 1995:183).
Từ nay tương quan đất trời hoàn toàn thay đổi nhờ quyền lực Thánh Linh (x.Tt 3,5). Chính nhờ Thánh Linh, Đức Giêsu đã được xức dầu tấn phong làm Quân Vương cai trị muôn dân, (x. KTTƯ 1995:183) như Chúa đã hứa: “Ta cho thần khí Ta ngự trên Người.” (Is 42:1) Nhờ Thần khí, Người trở thành “Tôi Trung của Thiên Chúa có nhiệm vụ rao giảng, thực hiện công cuộc giải thoát và cứu độ”(KTTƯ 1995:183) cho muôn dân ngang qua cuộc tử nạn và phục sinh của Người. Bởi đấy khi bị dìm xuống nước, Người như đi vào cõi chết. Khi “vừa lên khỏi nước”, Người như đi vào cõi vĩnh hằng cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nhưng Người không đi vào một mình. Nhờ Thánh Linh, ngang qua phép rửa là cái chết của Người, cả nhân loại sẽ cùng thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời với Chúa. Như vậy, “tất cả lời hứa cứu độ trở thành hiện thực trong phép rửa” (Faley 1994:90).
Chính vì thế, “phép rửa của Đức Giêsu trong Thánh Thần chỉ toàn thể công trình cứu độ do Đức Giêsu khai mạc.” (KTTƯ 1995:182) Không có sức mạnh Thánh Linh, nhân loại cũng không thể gia nhập gia đình Thiên Chúa. Nhờ đó họ trở thành anh em với nhau. Đó là ơn gọi nguyên thủy của nhân loại.
ƠN GỌI NGUYÊN THỦY
Thế giới hôm nay thu nhỏ như một ngôi làng. Con người gần gũi nhau hơn bao giờ. Nhưng liệu những phương tiện truyền thông có đủ năng lực bảo đảm hòa bình cho nhân loại hay không? Thực ra, thế giới còn nhỏ hơn một ngôi làng. Tất cả nhân loại làm thành một gia đình, trong đó mọi người đều liên đới với nhau. Nền hòa bình thế giới sẽ tùy thuộc vào ý thức này. Thật vậy, “thế giới sẽ có hòa bình hay không tùy theo toàn thể nhân loại có biết tái khám phá ơn gọi nguyên thủy của mình là trở thành một gia đình duy nhất hay không, một gia đình trong đó phẩm giá và các quyền con người – bất luận là người thuộc giai tầng, chủng tộc hoặc tôn giáo nào – được xác quyết là những điều ưu tiên và trổi vượt hơn tất cả những khác biệt và những đặc tính khác của con người” (“Sứ Điệp Hòa Bình”; VietCatholic 1999:3).
Nếu thế, chiến tranh phát sinh từ lòng dạ hẹp hòi, ích kỷ của con người muốn tách mình ra khỏi gia đình duy nhất đó. Một khi chỉ biết tới quyền lợi riêng tư, người ta có thể chà đạp nhân phẩm kẻ khác. Thực tế, “những bất công, chênh lệch thái quá trong lãnh vực kinh tế hoặc xã hội, sự ghen tương, nghi kỵ và kiêu ngạo tác hại giữa con người và các quốc gia, không ngừng đe dọa hòa bình và gây ra chiến tranh.” (“Sứ Điệp Hòa Bình”; VietCatholic 1999:6) Đó là một thế giới không ai biết đến ai. Hòa bình chính là kết quả của tinh thần liên đới trách nhiệm và chia sẻ quyền lợi cho nhau. Ngày nay nhờ “tiến trình hoàn vũ hóa, người ta có được những cơ hội đặc biệt và đầy triển vọng để biến nhân loại thành một gia đình duy nhất thực sự, dựa trên những giá trị công bằng, ngay chính và liên đới” (“Sứ Điệp Hòa Bình”; VietCatholic 1999:3).
Nếu được xây dựng và mô phỏng trên tương quan giữa Ba Ngôi, tình liên đới đó chắc chắn sẽ tìm được sức sống mới. Vì nơi Ba Ngôi Thiên Chúa, tình yêu vô cùng phong phú và mãnh liệt. Người muốn chia sẻ đến tận cùng tình yêu đó cho nhân loại. Thật vậy, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một,” (Ga 3:16) để con người có thể sống ơn gọi nguyên thủy bắt nguồn từ chính tình yêu Thiên Chúa. Nếu không sống tương quan với người khác như một gia đình, con người sẽ đánh mất vẻ tươi đẹp nhất, vì “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa.” (Stk 1,27) Không phải chỉ giống Thiên Chúa trong bản chất, nhưng cả trong tương quan nữa. Đó chính là nền tảng ơn gọi nguyên thủy của con người. Từ đó sứ mệnh con người được hoàn thành trong nỗ lực liên đới với anh em. Liên đới với anh em chính là đi vào tương quan với Thiên Chúa.
Tương quan thật sâu xa đó đã được thiết lập khi Đức Giêsu dìm mình trong dòng sông Giođan. Dòng sông định mệnh đó đã nối kết gia đình nhân loại với gia đình Thiên Chúa nhờ thần lực của Con Thiên Chúa làm người. Dòng nước thanh tẩy cũng đã trả lại cho chúng ta mối tương quan thâm sâu và vô cùng ý nghĩa đó. Nếu thực sự đang sống trong tương quan với anh em, chúng ta có sẵn sàng cộng tác với người khác để xây dựng cộng đoàn không? Chúng ta có tôn trọng nhân phẩm và tạo điều kiện cho người khác phát triển không? Thời cánh chung đã điểm khi Đức Giêsu xuất hiện trong dòng sông định mệnh Giođan. Bạn còn đợi tới bao giờ mới thiết lập tương quan với Thiên Chúa và anh em trong tiến trình đi lên hôm nay?
33. Con Yêu Dấu Của Cha
Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa chấm dứt mùa Giáng Sinh, bước vào Mùa Thường Niên phần I. Mùa Thường Niên là thời kỳ kính mầu nhiệm Chúa Giêsu ở trần gian. Mùa Thường Niên gồm có 34 Chúa nhật, chia làm hai phần, phần I trước Mùa Chay và phần II sau Mùa Phục Sinh. Sau chu kỳ lễ Giáng Sinh, Chúa Giêsu công khai đi vào đời sống họat động rao giảng tin mừng. Để lời Người rao giảng được thiên hạ chấp nhận, Đức Giêsu được Chúa Cha giới thiệu về thân thế và sự nghiệp. Lời giới thiệu này đánh dấu khởi đầu Nước Trời đã khai mở. Khung cảnh ra mắt Đức Giêsu là sông Giođan. Chúng ta tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp của Người.
Khung cảnh được chọn để giới thiệu Con Thiên Chúa là thiên nhiên hùng vỹ có núi đồi bao la có con sông duy nhất chảy từ Bắc xuống Nam. Hiện tượng xảy ra vắn gọn, sau cuộc trao đổi ngắn giữa Vị tiền hô và Đức Giêsu, Gioan Tẩy Giả thi hành sứ mệnh làm phép rửa cho Đức Giêsu nơi sông Giođan, và nầy điều kỳ diệu xảy ra: “Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán: ‘Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con’” (x. Bài Tin Mừng. Mc 1, 7-11). Những lời nói nầy rất cô đọng, súc tích, đượm suy tư thần học Cựu Ước. Các nhân vật chính trong buổi lễ ra mắt đó: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần, trước sự chứng kiến của đông đảo nhân chứng và Vị tiền hô, nơi thiên nhiên hoang vắng trời cao, sông dài, núi đồi hùng vỹ, tất cả cho thấy sự hoà điệu giữa thiên, địa, nhân hòa hợp. Chúng ta ta lưu ý đến cụm từ:
“Trời xé ra”, theo người Do thái thì trời là nơi Thiên Chúa ngự, đã khép lại vì tiên tri không còn nữa, không còn sự liên hệ giữa trời và đất nữa, nhịp cầu đã gãy giữa Thiên Chúa và lòai người. Nay thì trời mở ra, sự liên lạc giữa Thiên Chúa và con người được nối lại nơi bản thân của Đức Giêsu, việc này đáp lại lời cầu xin của Isaia trong thời lưu đày, ông cảm thấy Đức Chúa xa cách con người, nên ông lên tiếng nói: “Ước gì Đức Chúa xé trời và ngự xuống”. Chúng ta nhớ lại sự kiện khi Chúa chết: “Màn trong đền thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới” (Mc 15, 38). Một sự khai mở thông lưu giữa Thiên Chúa và nhân loại. Con Thiên Chúa đến với trần gian và chính Ngài mở một lối đi cho hết mọi người thành tâm đến với Thiên Chúa. Sự kiện này được tiên báo nơi sông Giođan: “Trời xé ra”, Thiên Chúa ngự xuống với con người. Nhịp cầu gãy vì tội nguyên tổ được nối lại. Đức Giêsu là trung gian duy nhất mang ý nghĩa tròn đầy.
“Thần khí như chim bồ câu ngự xuống trên người ”. Thần Khí ngự xuống trên ai thì người đó được chọn làm người của Thiên Chúa. Ngôn sứ sống dưới tác động của Thần Khí. Ở đây Đức Giêsu được chỉ định làm Ngôn Sứ cho thời đại mới mà truyền thống Do thái hằng mong đợi.
“Lại có tiếng từ trời phán: ‘Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con’”. Tiếng từ trời là tiếng của Thiên Chúa, nghĩa là Thiên Chúa chứng thực sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu. Một câu nói tương tự trong Thánh vịnh 2, 7: “Con là Con của Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con”, câu này được được hiểu về Đấng Mêsia, tức là Đấng Cứu tinh. “Con yêu dấu” là cách gọi của ông Ápraham đối với con mình là Ixaác, khi ông định sát tế con để hiến dâng cho Thiên Chúa, Thiên Chúa đã tha mạng cho Ixaác. Danh xưng này được dùng cho Đức Giêsu, như là Ixaác Mới sẽ bị sát tế sau này trên thập giá.
Thân thế và sự nghiệp của Đức Giêsu được ám tàng nói đến trong lời giới thiệu ngày Chúa chịu phép rửa nơi sông Giođan, một tấn kịch đang được khai mở và dần dần sẽ được thực hiện trong năm phụng vụ. Về thân thế, Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa, được Cha tuyển chọn dưới tác động của Thần Khí để trở thành Ixaác-Mới; và sự nghiệp của Người là cứu độ trần gian bằng chịu sát tế trên thập giá, làm lễ vật hy sinh dâng cho Thiên Chúa, nối lại nhịp cầu gãy đổ do tội lỗi của nhân lọai gây ra. Lời giới thiệu trân trọng này của Chúa Cha dưới sự chứng giám của Thánh Thần giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ những lời Chúa nói và những việc Chúa làm, được Giáo Hội tuyên dương trong suốt Mùa Thường Niên.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã mặc lấy thân phận tội lỗi của nhân loại để cứu độ nhân lọai, chúng con tri ân cảm tạ Chúa. Xin cho con biết giới thiệu Chúa cho tha nhân qua cuộc sống của chúng con. Amen.
34. Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay kết thúc mùa Giáng Sinh và dẫn chúng ta bước vào ngưỡng cửa của đời sống công khai của Ngài. Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1 , 6b - 11) trình bày Đức Giêsu là con yêu dấu của Chúa Cha, được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu Thế, với sứ mạng cứu độ loài người. Đây là dịp để chúng ta cùng chiêm ngắm về Đấng Thiên Sai và qua đó chúng ta noi gương bắt chước Người.
1. “Không có tình yêu nào cao quí hơn tình yêu của người dám chết vì người mình yêu”. Thiên Chúa đã yêu thương loài người, Ngài đã ban người con yêu quí nhất của Ngài cho loài người. Người Con yêu quí đó đã đến trần gian sống chung với loài người, chịu những cực nhọc đau khổ với loài người. Còn gì nữa? Cuối cùng đã hy sinh mạng sống vì loài người. Còn tình yêu nào cao quí hơn? Đến đỗi Thiên Chúa Cha không thể lặng thinh được nên Ngài phải tuyên bố công khai cho mọi người biết: “Con là Con Yêu Dấu Của Cha, Cha Hài Lòng Về Con”. Tình yêu thương vĩ đại đó đã cải hóa không biết bao nhiêu người. Hơn 2000 năm đã qua ,Tình yêu đó mỗi ngày một lớn mạnh hơn, cũng mở mắt được nhiều người hơn, làm cho nhiều người nhận thấy được Tình Yêu bao la tuyệt vời để quay trở về với Tình Yêu. Mỗi người trong chúng ta đều được hưởng trọn vẹn tình yêu đó. Thiên Chúa mời gọi, giúp đở, dẫn dắt và khuyên nhủ chúng ta trở về với Tình Yêu, và Ngài cũng đã dùng tất cả mọi phương cách có thể được, kể cả khổ nhục kế để mời gọi chúng ta thức tỉnh. Đó là qua những thành công và thất bại của cuộc sống, những lần chúng ta cầu xin mà không được như ý. Chúng ta ngở rằng Thiên Chúa không còn yêu thương mình nữa. Nhưng nếu chúng ta chịu mở mắt ra nhìn thì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều tốt đẹp hơn cái mà chúng ta cầu xin. Bao nhiêu lần gặp thất bại, chúng ta có rút ra bài học gì không? Những lần chúng ta được thành công, được may mắn: chúng ta có biết tạ ơn Thiên Chúa, để nhìn thấy tình yêu thương bao la của Ngài trong những sự tốt đẹp đó. Nếu nhìn thấy được tình yêu, mỗi người nhìn lại xem đời sống của mình đã biến đổi như thế nào?
2. Chúa Giêsu từ Nagiareth đến và xin chịu phép rửa bởi ông Gioan tại sông Giorđan (Mc 1, 8). Qua Tin Mừng Marco, chúng ta nhận ra Đấng mà Gioan loan báo là kẻ có quyền hơn Ngài, và chính Gioan đã xác nhận: “Có Đấng đến sau tôi, nhưng quyền thế hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người” (Mc 1,7). Cử chỉ Chúa Giêsu cúi xuống để cho Gioan làm phép rửa, không chỉ cho thấy hình ảnh của một vị tôi tớ khiêm nhường nhưng còn muốn cho thấy rằng: Ngài tự hạ, Ngài dìm mọi tội lỗi mà chúng ta bị mang lấy trong Ađam cũ. Và cũng từ đó, trong sứ mạng của Đấng Thiên Sai, Ngài đưa lên khỏi nước một dân tộc mới, dân tộc hiến thánh cho Thiên Chúa. Đây là một cuộc tạo dựng mới thay thế cho cuộc tạo dựng cũ đã bị đánh mất nơi Ađam. Để trở thành Chiên Thiên Chúa, và nên Đấng gánh tội trần gian, Người đã chấp nhận để Gioan làm phép rửa cho mình, loan báo một phép rửa mà chính Người sẽ thực hiện trên Thập giá. Tất cả những gì Người làm đều xuất phát do tình yêu thương con người, sằn sàng vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, nhằm mang lại Tình Yêu, Ân Phúc cho con người. Chúng ta thấy những cử chỉ đầy yêu thương của Chúa Giêsu, tâm hồn chúng ta có muốn được Chúa biến đổi nên tốt hơn không?
Trời đã mở ra để ta có thể nhìn ngắm Thiên Chúa. Nhưng làm sao chúng ta có thể thấy Thiên Chúa nếu tâm hồn chúng ta còn vướng mắc nhiều tội lỗi. Cho nên, chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, những mưu toan bất chính để ta có thể sáng sáng suốt nhận ra ý Chúa muốn và đồng thời mau mắn thực hiện Thánh ý Ngài.
Khi chịu Phép rửa tội, chúng ta thuộc về Đức Kitô, nên chúng ta hãy bắt chước Đức Kitô, chúng ta thấy được sứ mạng cao cả của Người Kitô hữu là trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, trở nên tạo vật mới trong Đức Giêsu, mặc lấy tâm tình nhân hậu , sứ mạng yêu thương muốn lôi kéo nhiều người trở về nhận ra tình thương cứu độ của Thiên Chúa, sống đời khiêm tốn, phục vụ và làm theo thánh ý Chúa, làm cho người khác nhận biết và trở nên môn đệ của Đức Kitô, dù phải chấp nhận hy sinh và từ bỏ mình.
Xin Chúa cho chúng ta ý thức đến phép rửa mà mình đã lãnh nhận để mỗi ngày trong cuộc sống, ta biết lắng nghe Tiếng Chúa, và biết đáp lại Tình Yêu Chúa cho xứng đáng bằng cách sống tốt đẹp hơn là biết xa lánh, loại trừ tội lỗi, và can đảm bước theo Đưc Kitô, sống trong sạch, thánh thiện để xứng đáng vai trò là con thảo hiếu của Cha trên trời.
35. Con yêu dấu – Lm Luy Nguyễn Quang Vinh
Chúng ta không còn ở trong những trang Tin Mừng nói được là “thơ mộng” của thời thơ ấu Chúa Giêsu, vì có những vì sao và tiếng hát các thiên thần. Chúa Giêsu đã chấm dứt 30 năm cuộc sống ẩn dật của Ngài tại Nagiarét. Hôm nay, chúng ta được thấy Ngài xuất hiện trước công chúng trong tư thế sẵn sàng khởi đầu sứ vụ Chúa Cha đã trao cho Ngài.
Cả ba bài đọc của Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa hôm nay đều nhằm giới thiệu với cộng đoàn: Chúa Giêsu chính là Người Con được Chúa Cha quý mến. Bài đọc 1 trình bày Chúa Giêsu là người được Thiên Chúa nâng đỡ, tuyển chọn và quý mến. Trong bài đọc 2, Thánh Phêrô làm chứng Thiên Chúa luôn ở với Ngài và trong bài Tin Mừng, chúng ta được nghe tiếng từ trời phán về Ngài: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Những khẳng định trên đây về Chúa Giêsu lại càng làm cho chúng ta ngỡ ngàng trước việc Ngài để cho ông Gioan làm Phép Rửa cho Ngài tại sông Giođan. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa như một người tội lỗi, trong khi Ngài là Người Con yêu dấu của Chúa Cha và chính Ngài cũng có lần tuyên bố: “Ai trong các ông bắt tội lỗi tôi được về tội gì?”… Nhưng Chúa Giêsu lại là Đấng chuộc tội thiên hạ. Gioan Tẩy Giả cũng có lần giới thiệu Ngài là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Ngài xóa tội trần gian bằng cách gánh lấy tội trần gian, một cử chỉ mở đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, đồng thời cũng là dấu báo hiệu những gì sẽ xảy ra. Có một lần, các con ông Giêbêđê bày tỏ ước vọng với Chúa Giêsu là một người ngồi bên tả, một người ngồi bên hữu của Ngài. Và Chúa Giêsu đã trả lời các ông: “Các ông không ý thức được điều các ông xin. Các ông có thể uống được chén tôi phải uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy tôi phải chịu không?”. Như vậy là còn một cuộc thanh tẩy khác nữa đang chờ đợi Chúa Giêsu. Cuộc thanh tẩy ấy không chỉ còn là bằng nước của sông Giođan và từ tay ông Gioan Tẩy Giả mà là bằng Máu của chính Ngài, được sống lại trong Phục Sinh của Ngài và trở thành người con của Thiên Chúa.
Nếu Đức Kitô đến để thanh tẩy loài người bằng Thánh Thần, thì điều đó đã được thực hiện cho người Kitô hữu trong bí tích Thanh Tẩy. Khi được Rửa Tội, chúng ta cũng được Chúa Cha tấn phong và giới thiệu với thế gian rằng: “Đây là Con Ta rất yêu dấu”. Ơn gọi làm con Thiên Chúa không những không phủ nhận hay loại trừ ơn gọi làm người, nhưng còn giúp chúng ta đảm nhận ơn gọi ấy nữa. Được phúc làm con Thiên Chúa, chúng ta không được đưa ra khỏi thế gian hay được miễn khỏi mọi bổn phận trần thế. Ngược lại, chính trong thế giới và nhân loại này mà chúng ta phải thể hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, chính thế giới và nhân loại này mà chúng ta được tuyển chọn làm con Thiên Chúa.
Nhờ Thánh Thần được ban trong bí tích Thanh Tẩy, mỗi người chúng ta trở nên giống Chúa Kitô, nên một với Ngài và cùng mang trách nhiệm của Ngài. Sứ mạng của Ngài trở thành của chúng ta và công việc của Ngài phải là công việc của mọi Kitô hữu. Nếu Chúa Giêsu đã liên kết với con người tội lỗi, để giải thoát con người khỏi tội lỗi, thì chính người được Rửa Tội vẫn phải tiếp tục sống giữa anh em mình, và không được quên trách nhiệm đấu tranh chống lại tội lỗi và chiến thắng sự dữ. Bí tích Thanh Tẩy không thể chỉ là một nghi lễ lãnh một lần rồi thôi mà phải là chính cuộc sống từ bỏ và đẩy lui mọi tội lỗi. Bản thân người Kitô hữu phải chiến thắng tội lỗi để thực sự là một trong “những kẻ được sáng”, hầu có thể trở thành ánh sáng chiếu soi muôn dân.
Qua Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta đã là Kitô hữu và là con Thiên Chúa. Thế nhưng chúng ta còn phải trở thành Kitô hữu, nghĩa là mỗi ngày trong cuộc đời còn phải nên giống Chúa Kitô hơn cho tới khi được đồng hình đồng dạng với Ngài.
Muốn trở thành Kitô hữu như thế, phải tin tưởng và gắn bó với Đức Kitô, luôn sống thân tình với Ngài, lắng nghe và tuân giữ lời Ngài như Chúa Cha đã long trọng và ân cần nhắn nhủ.
Thánh Thần, Đấng đã hiện diện nơi con người Đức Giêsu để biến Đức Giêsu thành Con Chí Ái của Chúa Cha, sẽ hoạt động nơi tâm hồn mỗi người để làm cho mỗi người nên giống Đức Kitô, dạy chúng ta biết thế nào để trở nên Con Thiên Chúa trong Đức Kitô. Nhờ Thánh Thần, lời cầu nguyện của người Kitô hữu trở thành lời kêu lên của người con đối với Cha mình và kết hợp sâu xa với lời cầu nguyện của Đức Giêsu. Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, người tín hữu can đảm để tha thứ cho kẻ thù, thích thú khi sống đời yêu thương và phục vụ như Đức Giêsu đã sống.
Thánh Thần được ban cho chúng ta trong Bí tích Thánh Tẩy còn giúp chúng ta trung thành với Đức Kitô, nhất là trong trách nhiệm thiết lập công lý khắp nơi và trở thành ánh sáng muôn dân.
Chúng ta là con Thiên Chúa và muốn luôn làm con Thiên Chúa bằng việc chiến thắng tội lỗi và làm sáng tỏ công lý. Nhưng hoàn cảnh khắc nghiệt về vật chất cũng như tinh thần, có thể sẽ đè bẹp chúng ta, lôi cuốn chúng ta đồng lõa với sự bất công, hoặc có thể làm cho chúng ta nhụt chí, buông xuôi, đầu hàng sự ác.
Lúc đó, chúng ta hãy nhớ rằng, ngay giữa cuộc đời, Đức Giêsu vẫn hiện diện ở đó giống như xưa Ngài đã từng hòa lẫn với giòng người tội lỗi ở bờ sông Giođan. Đức Giêsu hiện diện ở đó để giữa tăm tối của cuộc sống, trời vẫn xé ra, hồng ân Thánh Thần vẫn đổ xuống, và Chúa Cha vẫn vui mừng nói với từng người trong chúng ta như đã nói với Chúa Giêsu rằng:
“Đây là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
36. Đi tìm tâm điểm
(Trích trong ‘Lương Thực Hằng Ngày’)
Những lời chú giải thông thái về đoạn Phúc âm này ám chỉ những giai đoạn trong Cựu Ước nói đến nước và Thần trí. Một trong những lời chú giải nhấn mạnh rằng nước biểu tượng cho khả năng tiếp thu của loài người đối với tác động của thần trí. Phép rửa bằng nước do Gioan Tẩy Giả tượng trưng cố gắng của con người tiến đến Thiên Chúa, nhưng cố gắng ấy không thể tự nó tới được đích Con người chỉ gặp được Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa đến với con người. Đấy là ý nghĩa phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu muốn thực hiện trong nhân vị mình sự chuyển động con người đến với Thiên Chúa (Phép rửa do Gioan Tẩy Giả) và sự chuyển động Thiên Chúa đến với con người (Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu) phép rửa bằng nước biểu tượng cho cố gắng con người dọn mình chịu phép Rửa trong Thần Trí, mà Thần Trí là sự Chúa đến. Thiên Chúa là nguồn gốc cảm hứng và sức hậu thuẫn cho sự trở lại của con người, và bởi ơn Chúa Thánh Thần linh ứng chỉ đạt tới đích nếu Thiên Chúa đến với con người và dẫn dắt con người từ bình diện nhân tính tiến lên bình diện thần tính. Ta có thể nói rằng trong nhân vị Đức Giêsu, con người hướng đến Thiên Chúa, và Thiên Chúa đến gặp con người. Đức Giêsu thực hiện điều ấy với một sức sống và một sự viên mãn vượt khỏi trí tưởng tượng của chúng ta. Tuy nhiên chúng ta có thể kết luận: Do sự tham gia sống động của ta vào mầu nhiệm Đức Giêsu mà ta hướng về Thiên Chúa và Thiên Chúa đến với ta. Đoạn Phúc âm hôm nay có thể gợi ý vài suy niệm về giá trị cố gắng trở lại và ý nghĩa hoạt động tông đồ của chúng ta.
1) Giá trị cuộc đời Kitô hữu là ở sự gặp gỡ của chúng ta với Thiên Chúa trong Đức Kitô. Một sự trở lại mang tính chất Kitô giáo mà tự hạn chế trong những việc lành phúc đức dù cao cả tới đâu cũng không đủ giúp người ta đạt tới phẩm giá làm con Thiên Chúa. Thế mà tất cả ý nghĩa sứ điệp Phúc âm là ở chỗ loan báo cho con người thiên chức làm con Thiên Chúa. Người Kitô hữu đích thật là người tìm kiếm sự gặp gỡ sống động với Đức Kitô, mà người Kitô hữu đến lượt mình trở nên con Thiên Chúa và gặp Thiên Chúa như thể gặp người cha vậy. Thực tế, biết tìm Đức Kitô ở đâu? Gặp Người nhiều nhất là trong Phúc âm, trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong niềm thương yêu anh em. Đời sống luân lý mà vắng thiếu sự đi tìm tâm điểm để gặp Đức Kitô, thì không phát huy hết giá trị, lại có thể xuống giá nữa. Trong cố gắng tham dự đời sống Đức Giêsu, người Kitô hữu tìm được cho đời mình ý nghĩa và giá trị thật sự.
2) Hoạt động tông đồ có tham vọng giúp người ta chuẩn bị gặp gỡ Đức Kitô. Bất cứ người làm việc tông đồ nào cũng giống Gioan Tẩy Giả, đều đóng vai tiền hô. Nhiệm vụ người ấy là dọn dẹp, khai quang, soi sáng, hướng dẫn. Niềm xác tin cơ bản của người tông đồ phải là làm thế nào để kết quả chung cục rời khỏi tay mình, vì lẽ kết quả sau hết đó là sự Thiên Chúa ngự đến trong một con người. Điều đó tuỳ thuộc Thiên Chúa. Để biểu lộ thái độ khiêm nhường, bằng một sự nhận thức về thực tại, người tông đồ hoạt động, hy sinh, cầu nguyện, hiến dâng tất cả sức lực, tất cả thân mình cho một công việc của Thiên Chúa. Do đó người ta hiểu rằng chiến sĩ Kitô hữu không hoạt động cho Đấng thần hoá những gì thuộc về nhân thế. Điều này đem đến cho cố gắng tất cả ý nghĩa và đặt cố gắng lên trên cái điều xét bề ngoài có thể coi là thất bại hoặc thành công. Một điều chắc là việc tông đồ mà linh hồn và tâm điểm là Đức Giêsu Kitô – luôn luôn đem về cho người hoạt động tông đồ một thành công hiển nhiên hoặc giấu kín.
37. Sống đời Kitô hữu – Noel Quesson
“Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con”.
Tại một xứ cùng quê nước Pháp, có một người đàn ông khoảng 50 tuổi tên là Alix. Ông bị bại liệt. Mỗi buổi sáng bà vợ đặt ông vào một ghế bành ngoài hiên nhà rồi đi làm. Ông bà không con, không cháu.
Ông Alix không phải là người công giáo, nhưng thỉnh thoảng cha sở vẫn tới thăm, cha còn khuyên giáo dân tới giúp đỡ ông. Các em nhỏ tới chơi quanh ông, đem sách cho ông đọc và giúp ông mở sách. Mỗi tuần có một bác sĩ tình nguyện tới chăm sóc ông.
Giáng sinh năm đó, ông Alix đột ngột thưa cha sở:
- Thưa cha, xin cha cho con rước lễ.
Cha sở ngạc nhiên vì ông chưa là tín hữu. Nhưng ông thưa:
- Trước đây con không tin gì vào Thiên Chúa, nhưng ít lâu nay cha và anh em giáo hữu quá tốt với con nên con thấy hạnh phúc như mình được gặp Chúa vậy. Chỉ có Chúa mới làm cho cha, bác sĩ và anh chị em bỏ công sức giúp đỡ một người xa lạ như thế này.
Có lẽ chúng ta cũng nhận ra cha sở và các anh chị em giáo hữu Pháp đó, không phải đã làm một việc truyền giáo vĩ đại, nhưng họ chỉ thi hành những bổn phận mà Chúa đòi buộc mọi môn đệ Chúa, khi đã tự nguyện sống theo giáo lý của Ngài. Ngược lại nếu không thi hành những nghĩa vụ nhỏ bé đó thì họ không thể là môn đệ Chúa được.
Tin Mừng hôm nay kể chuyện Chúa chịu phép rửa. Dĩ nhiên Chúa không cần chịu phép rửa vì Ngài hoàn toàn trong sạch. Nhưng Chúa chịu phép rửa để làm gương cho chúng ta. Để chúng ta thấy một khi chúng ta biết chuẩn bị tâm hồn và lãnh nhận bí tích Rửa Tội, bí tích Thêm Sức, thì các bí tích đó sẽ cho ta ân sủng đặc biệt, đặt ta vào địa vị môn đệ Chúa với những nghĩa vụ nặng nề.
Khi Chúa chịu phép rửa, bầu trời đã mở ra. Thánh Thần hiện xuống dưới hình chim câu, có tiếng từ trời: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Cha đặt cả tình yêu nơi Con. Từ giờ phút đó Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai. Chúa xuôi ngược khắp nơi trên toàn cõi Israel, rao giảng Tin Mừng cứu độ, chữa lành bệnh nhân, tuyển chọn và huấn luyện các tông đồ, đặt nền tảng cho Giáo Hội tiếp nối sứ mệnh Chúa nơi trần gian, để bảo toàn và làm triển nở hạt giống Tin Mừng. Cuối cùng Chúa tạo dựng kho tàng Ơn Cứu Độ bằng cái chết vô cùng đau khổ như một bằng chứng tình yêu cao cả và nồng thắm của Thiên Chúa đối với người thế qua mọi thời đại.
Những hiện tượng lạ xảy ra khi Chúa chịu phép rửa ở sông Giođan, chúng ta không thấy nữa khi một tân tòng lãnh nhận phép rửa hay một Kitô hữu lãnh bí tích Thêm Sức, nhưng phép Rửa Tội và bí tích Thêm Sức chúng ta cử hành ngày nay là những bí tích đã được Đức Kitô thiết lập và củng cố, những bí tích đó phát sinh cùng một công hiệu như xưa, và cũng trao cho chúng ta sứ mệnh như xưa. Đó là Ơn Thánh Thần và sứ mệnh truyền giáo.
Văn sĩ Anrê Manrô (André Malraux) viết: “Thế kỷ 21 là thế kỷ Kitô giáo hoặc sẽ bị tiêu vong”. Sứ mệnh đó trao phó cho chúng ta, cho mỗi Kitô hữu. Chỉ khi nào chu toàn sứ mệnh đó chúng ta mới xứng đáng là môn đệ Đức Kitô.
Lạy Chúa, xin tràn đổ Thánh Thần trên chúng con, đổi mới chúng con, nhờ Ngài chúng con trở nên chứng nhân của Chúa.
38. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
SỨ MỆNH CỦA NGƯỜI ĐÃ CHỊU PHÉP RỬA TỘI
1) Hình ảnh về một Đấng Cứu Thế khiêm nhường tự hạ
Trong khi dân Do Thái mong chờ một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt, thì Đức Giêsu xuất hiện công khai lần đầu tiên trong sự khiêm nhường thống hối. Lúc ấy, Gioan rao giảng sự ăn năn sám hối. Đoàn lũ dân chúng đông đảo kéo đến với ông để xin chịu phép rửa thống hối. Hòa mình vào đoàn lũ những con người tự nhận mình tội lỗi ấy, Đức Giêsu âm thầm khiêm tốn xếp hàng chờ được rửa tội. Thật là lạ lùng. Chính Đấng đã thánh hóa Gioan khi ông còn trong bụng mẹ giờ đây lại đến xin ông làm phép rửa cho. Chính Đấng đến để chuộc tội loài người giờ đây lại xin người khác rửa tội cho mình. Thật là khiêm nhường thẳm sâu. Trong khi loài người tội lỗi luôn kiêu ngạo tìm nâng mình lên thì Thiên Chúa thánh thiện lại tìm hạ mình xuống. Trong khi loài người tội lỗi luôn che dấu, không nhận tội thì Thiên Chúa vô tội lại công khai nhận mình tội lỗi. Trong khi loài người tội lỗi tìm tránh hình phạt do tội lỗi họ gây nên thì Thiên Chúa lại ghé vai gánh lấy hết tội lỗi và mọi hình phạt mà loài người đáng phải chịu. Sự khiêm nhường ấy phát xuất từ lòng Thiên Chúa yêu thương con người, muốn chia sẻ kiếp người, muốn cứu chuộc tội đời, muốn thăng tiến nhân loại.
2) Hình ảnh về cuộc giao hòa đất trời
Chính lúc Đức Giêsu tự nguyện gánh lấy tội lỗi nhân loại, tầng trời bị xé ra. Khi loài người phạm tội, cửa trời đóng lại, đất trời phân ly, ân phúc thôi tuôn đổ. Khi phạm tội, loài người tự giam mình trong bóng tối. Bóng tối tội lỗi giam kín con người trong thân phận bụi đất, không còn hy vọng vươn lên. Hôm nay, tầng trời xé ra có nghĩa là từ nay con người đã có lối thoát. Thân phận con người thay đổi, địa vị con người được nâng lên, vì có ơn Thiên Chúa đổ xuống, có Thiên Chúa đến gieo mầm trường sinh vào kiếp người phàm hèn. Trời đất giao hòa. Thiên giới cúi xuống hạ giới. Thiên Chúa đến ở với con người. Ân phúc tuôn đổ xuống cõi đời nhơ uế.
3) Hình ảnh về sự kết hiệp mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong giây phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Đức Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái ấy với Đức Giêsu khi lên tiếng: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Đây không phải là một danh xưng, một tước vị, nhưng là một liên hệ sâu xa mật thiết: Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Đức Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Đức Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu chuộc con người.
4) Hình ảnh về sứ mệnh người được sai đi.
Từ xưa trong Cựu Ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu nhân độ thế. Là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”. Người không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gẫy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.
Phép rửa của Đức Giêsu mời gọi ta nhớ lại ơn phép rửa tội của mình. Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, màn đêm tội lỗi vây phủ ta bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến với ta, ban cho ta cuộc sống thần linh, cho ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, cho ta được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Chúa, là tiếp tục công việc của Đức Giêsu trong công cuộc cứu nhân độ thế. Đức Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo, vì Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, và nhất là Người luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha, Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá. Ta hãy noi gương Đức Giêsu, luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn tìm thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho những anh em sống chung quanh ta.
Lạy Đức Giêsu Kitô, xin dạy con biết sống ơn bí tích Rửa Tội như Chúa, để con xứng đáng được làm con yêu dấu của Đức Chúa Cha.
CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1) Bạn có dễ dàng nhận lỗi không?
2) Bạn đã thực sự sống như một người con hiếu thảo đối với Chúa chưa?
3) Ơn phép Rửa Tội là gì? Bạn đã sống ơn phép Rửa Tội chưa?
4) Bạn đã thực sự là Tin Mừng cho những người chung quanh chưa?
5) Chúa Giêsu chịu phép rửa trình bày cho ta những hình ảnh nào về Chúa?
39. Con Thiên Chúa
Ngày kia, có một ông vua đi săn trong rừng, bỗng dưng ông nghe thấy tiếng khóc của trẻ thơ. Ông đi tới và thầm nghĩ:
- Chắc hẳn em nhỏ bất hạnh này bị cha mẹ bỏ rơi.
Ông ẵm đứa nhỏ lên, đem về hoàng cung, tắm rửa và mặc cho những bộ quần áo đẹp.
Khi em bé lớn lên, ông đã nói với em:
- Kể từ nay, ta sẽ gọi ngươi là con của ta và ngươi sẽ gọi ta là ba của con.
Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về lòng thương xót của ông vua, nhưng nếu suy nghĩ về bí tích Rửa tội, chúng ta còn phải ngạc nhiên hơn nữa.
Thực vậy, em nhỏ mặc dù được gọi nhà vua là cha, nhưng trong huyết quản em vẫn không có lấy được một giọt máu của hoàng tộc. Thực tế em vẫn chỉ là con của một kẻ nghèo túng.
Nhưng đối với chúng ta thì khác, nhờ dòng nước rửa tội, chúng ta được tẩy sạch khỏi mọi vết nhơ tội lỗi đã đành, mà hơn thế nữa chúng ta còn được mặc lấy tấm áo ơn sủng. Thiên Chúa thông ban cho chúng ta sự sống của Ngài, để khi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, thì đó không còn là một danh từ trống rỗng và vô nghĩa, nhưng là một sự thật:
- Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài.
Chúng ta hãy vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một địa vị cao cả như thế, và nhất là hãy cố gắng sống cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy.
Có một cậu bé hoàng tử chẳng may bị bọn cướp bắt cóc. Sau khi đã lấy hết những thứ quí giá trên mình, chúng trói câu vào một gốc cây. Nhưng may thay có một bác tiều phi đi ngang qua, đã cởi trói và đem cậu về nhà nuôi.
Nhiều năm sau, nhân một cuộc đi săn, vua cha đã dừng chân trước căn nhà nhỏ bé của bác tiều phu. Bác tiều vui rất lấy làm vinh dự được dẫn những đứa con của mình ra trình diện nhà vua. Khi đến cậu hoàng tử, bỗng nhà vua xúc động mạnh. Ông thầm nghỉ:
- Phải chăng đây chính là hoàng tử, con ta đã bị bắt cóc.
Ông hỏi bác tiều phu về gốc gác cậu bé và nói:
- Nếu ở bên vai phải có dấu ấn ta đã ghi, thì đúng là hoàng tử.
Với bàn tay run run, ông vạch chiếc áo và mừng rỡ kêu lên:
- Trời ơi, con ta.
Và cậu bé cũng kêu lên:
- Ba ơi.
Làm sao chúng ta có thể hiểu được sự đổi thay trong lòng cậu bé. Từ trước đến giờ, cậu cứ tưởng mình là con bác tiều phu nghèo nàn với quần áo rách rưới và nhà cửa xiêu vẹo. Bỗng chốc cậu nhận ra mình là hoàng tử, được sinh ra tại hoàng cung và thuộc hoàng tộc.
Kể từ nay, dù ở bất cứ nơi nào và làm bất cứ việc gì, cậu đều ý thức mình là một hoàng tử, là con của đức vua, nhờ đó cậu luôn có được những lời nói và những cử chỉ xứng hợp.
Với chúng ta cũng vậy. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta có ý thức được địa vị cao cả ấy không?
Người nào ý thức về địa vị cao cả ấy sẽ không bảo:
- Tôi đi nhà thờ.
Nhưng nói:
- Tôi đi gặp gỡ và tâm sự với Chúa, bởi vì cầu nguyện chính là lúc người con thố lộ tâm tình với cha mình.
Đây là một việc làm kỳ diệu và tuyệt vời,bởi vì một con người tầm thường và xấu xí như chúng ta mà lại được tiếp xúc, trò chuyện với Thiên Chúa.
Một người luôn ý thức về địa vị cao cả ấy, thì dù có làm việc gì cũng không baso giờ quên Thiên Chúa là cha của mình. Người ấy sẽ luôn thầm nhủ:
- Tôi sẽ làm vui lòng Cha tôi ở trên trời.
Khi chiêm ngắm những cảnh sắc hùng vĩ của thiên nhiên, người đó sẽ nghĩ ngay đến Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên tất cả.
Nhờ đời sống ơn sủng được chuyển thông qua bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa. Địa vị cao cả này đòi buộc chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc phải có những lời nói và những việc làm thích hợp.
Bởi đó, phải sống làm sao cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy, để rồi trong ngày sau hết, Thiên Chúa sẽ nói về chúng ta như ngày xưa Ngài đã nói về Đức Kitô bên bờ sông Giócđan:
- Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
40. Chúa chịu phép rửa
Một hiện tượng đáng lo ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu châu, đó là sự kiện con số những người tuyên bố rút tên khỏi Giáo Hội Công giáo ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên về nghĩa vụ, rút tên ra khỏi Giáo Hội có nghĩa là mỗi năm không còn phải đóng thuế tôn giáo nữa. Về quyền lợi, người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng sẽ tự rút phép thông công, nghĩa là chấm dứt mọi tham gia vào cac bí tích và đời sống của Giáo Hội. Nói cách khác, rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng đồng nghỉa chối bỏ mọi cam kết khi chịu phép rửa tội.
Nói chung, thế giới phương tây vốn được mệnh danh là Kitô giáo, hiện nay đã trở thành một vùng truyền giáo mới. Thật thế,trong những nước có con số người theo Kitô giáo, phép rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém. Người ta chỉ có lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người tây phương chỉ đến nhà thờ có ba lần, lần đầu khi chịu phép rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô giáo. Lần thứ hai để cử hành hôn phối cho long trọng. Lần thứ ba cũng là để cử hành tang lễ cho long trọng.
Khi Giáo Hội chỉ được mời để có mặt ba lần như thế trong cả một đời người, thì quả thật người ta chỉ mang danh hiệu Kitô nhưng không sống trọn những cam kết của phép rửa. Hôm nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép rửa tội. Trái với lối sống đạo cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây phương, các tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ. Trái với những nhà thờ hầu như trống rỗng tại Tây phương, các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào cũng đông nghẹt người. Tuy nhiên, biết đâu những đêm đông chật ních trong các nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin mừng của Chúa Giêsu Kitô. Biết đâu đám đông sốt sắng sống cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng đại, sợ chia sẻ lòng cảm thông và sợ tha thứ. Nói tắt một lời, nếu chúng ta chưa sống cho ra người thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích thực của lòng tin.
Khi đến nhận phép rửa của Gioan tại sông Jordan, nghĩa là khi đến dìm mình trong dòng nước, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập thể, Ngài muốn sống trọn thân phận con người mà thành phần tất yếu là cái chết. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn nói lên sự vâng phục trọn vẹn với Chúa Cha, Ngài đón nhận cái chết như thể hiện tận cùng của tình yêu.
Sống như một con người như Chúa Giêsu đã từng sống, chính là sống yêu thương và yêu thương đến độ sẵn sàng thí ban mạng sống mình. Đức Chúa Cha đã gọi Đức Chúa Giêsu là Người Con chí ái đẹp lòng Ngài mọi đàng, bởi vì Chúa Giêsu đã sống trọn ơn gọi làm người của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập và ủy thác cho Giáo Hội qua phép rửa ấy. Người tín hữu Kitô được mời gọi để sống trọn thân phận làm người như chính Chúa Giêsu đã từng sống. Thật thế, chỉ trong Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được thập giá và ơn gọi cao cả của con người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là sống cho ra người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới hiểu thế nào là sống yêu thương.
Thập giá vừa là biểu hiện cái chết của Chúa Giêsu, vừa là dấu chứng tình yêu của Ngài. Với phép rửa chúng ta được ghi dấu thánh giá trên người, chúng ta làm dấu thánh giá mỗi ngày và biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta treo thánh giá khắp mọi nơi, chúng ta đeo thánh giá trên người, và ước gì thánh giá ấy không chỉ là thứ trang sức trên ngực, trên cổ hay trên tai của chúng ta, mà phải là một nhắc nhở về tình yêu của Đấng đã yêu thương chúng ta đến độ thí ban mạng sống của Ngài cho chúng ta. Ước gì thánh giá luôn là động lực thúc đẩy chúng ta ngày càng sống cho ra người hơn.
Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam, những người đã thà chết hơn là bước qua thánh giá để chối bỏ Chúa Giêsu, nay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta được luôn luôn trung thành với đức tin, thể hiện đức tin ấy bằng cuộc sống chứng tá, đó là giá trị của Tin mừng.
41. Chúa chịu phép rửa
Tôi thường nghe nhiều người nói với tôi rằng cuộc đời của họ không giống với những gì họ đã nghĩ tưởng hoặc dự định chút nào hết. Một người bạn giới thiệu với ta một công việc mà mà mình không được chuẩn bị để làm nhưng lại mở ra những viễn ảnh bất ngờ; một biến cố không quan trọng đưa chúng ta đi xa hơn những gì mình nghĩ; cuộc gặp gỡ tình cờ với một người mang lại cho chúng ta một khả năng thăng tiến, mở ra cho ta một cuộc sống có một ý nghĩa mới mẻ. Tất cả những tình huống này có thể giúp chúng ta khám phá ra những chiều kích mình chưa biết đến, những khả năng hầu như không bao giờ ta dám nghĩ tới, và đẩy chúng ta vào một cuộc mạo hiểm hoàn toàn bất ngờ, đầy hứa hẹn và thách đố.
Việc Chúa Giêsu đến với Gioan tẩy giả có giống kinh nghiệm của bản thân chúng ta không? Chúa Giêsu có cần nghe nói Ngài là ai và từ nay Ngài phải làm gì với cuộc sống của Ngài không? Ngài đến gặp vị ngôn sứ đang rao giảng việc hoán cải. Ngài muốn nghe tiếng nói của người hô lên trong sa mạc. Ngài quyết định chịu phép rửa như tất cả các bạn đồng hương. Có lẽ với tư cách là người, Chúa Giêsu đã muốn đến tìm nơi Gioan tẩy giả ánh sáng về sứ vụ tương lai của Ngài.
Vì Chúa Giêsu không biết trọn vẹn ý định của Thiên Chúa về Ngài, như biết một sơ đồ của kiến trúc sư. Ngài không có kế hoạch chi tiết về biến cố Tin mừng. Vậy nên Ngài chuẩn bị đón nhận những dấu chỉ mà Thiên Chúa gởi đến cho Ngài. Ngài chuẩn bị nội tâm thuận lợi để có thể đương đầu với một cuộc thách thức. Chính Ngài cũng muốn gặp gỡ Vương Quốc mà Gioan loan báo. Chính Ngài đang sống một cuộc sống sinh hoa kết quả.
Chúa Giêsu đã muốn trà trộn vào đám dân chúng tội lỗi, đồng hóa với họ, khi mà Ngài bước vào một bước ngoặt quan trọng trong đời Ngài. Đây có lẻ là sự phản kháng đầu tiên chống lại giấc mơ của người Do Thái về một Đấng Mêsia chiến thắng.
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Gioan tẩy giả bắt đầu biểu lộ căn tính của Ngài. Dường như Gioan có ý thắc mắc về Chúa Giêsu, nhưng câu trả lời của Ngài có vẻ không soi sáng ho chúng ta nhiều hơn về căn tính của Ngài:
“Ta phải thực hiện mọi sự công chính”.
Trước hết là Chúa Thánh Thần đậu xuống trên Ngài như dấu chỉ cho thấy Thánh Thần ở nơi Ngài. Sau là Chúa Cha tuyên bố về tình yêu của Ngài đối với Con Một Ngài.
“Ta hoàn toàn vui thỏa về người Ta đã chọn”.
Chình lời này đã định nghĩa sứ vụ và định mệnh của Chúa Kitô: Sứ vụ làm chứng rằng Ngài được Thiên Chúa yêu thương, sứ vụ làm chứng rằng mọi con người trước và sau Ngài cũng là con cái yêu dấu của Chúa Cha.
Vậy chính từ một kẻ khác, mà Chúa Kitô đã được mặc khải cho chính mình và cho thế giới, và chính điều này đẩy Ngài vào cuộc mạo hiểm lớn lao của việc cứu độ. Cũng chính từ Chúa Kitô mà chúng ta được mặc khải cho chính mình, nhờ phép rửa:
Các con hãy xem chúng ta được thương yêu dường nào, vì chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa, và thực sự là như vậy”
Phép rửa tội của chúng ta ban cho chúng ta một sứ vụ.
Với tư cách là con cái Thiên Chúa chúng ta được mời gọi nhìn nhận thực tại này và họa lại cuộc sống của Chúa Giêsu trong đời của chúng ta. Chúng ta phải tỏ ra sẵn sàng “thực thi mọi sự công chính”. Và dấn thân theo gót Ngài để mặc khải tình yêu của Chúa Cha. Như Chúa Giêsu khi ra khỏi nước được tràn đầy Chúa Thánh Thần và được giao cho sứ vụ, cũng vậy phép rửa dìm chúng ta vào nước, để khi ra khỏi nước chúng ta sống một cuộc sống mới. Cuộc sống mới này thúc đẩy chúng ta biểu lộ tình thương xót của Thiên Chúa đối với anh chị em chúng ta, biểu lộ lòng ưu ái đối với những người nghèo nhất và những người bị xã hội bỏ rơi. Chúng ta có ý thức về trách nhiệm này không? Chúng ta có sẵn sàng làm chứng cho đức tin trước mặt những kẻ mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày không? Chúng ta có sẵn sàng trở thành những chứng nhân của Lời và hành động của Chúa Kitô bằng cách cũng thực hiện những cử chỉ tha thứ, khiêm nhường, bác ái huynh đệ đó không? Chúng ta có ý thức rằng khi chúng ta đón nhận kẻ khác trong những giới hạn, những nỗi yếu hèn của họ, là chúng ta dấn thân theo gót Chúa Kitô không? Qua chúng ta tình yêu của Chúa Cha sẽ được mặc khải cho họ, một cuộc sống mới có thể bắt đầu đến với họ, và cuộc sống này sẽ đưa họ đi xa hơn những gì họ đã dự tính.
Những gì Chúa Cha đã nói về Chúa Kitô, Chúa Kitô cũng nói lại với chúng ta trong phép rửa tội của chúng ta. Chúng ta là những con chí ái của Chúa Cha. Ước gì chúng ta có thể tỏ ra xứng đáng với địa vị làm con Thiên Chúa. Ước gì hồng ân của phép thánh tẩy có thể sinh hoa kết quả để cho Tin Mừng luôn luôn tăng trưởng nơi chúng ta và trong cộng đoàn của chúng ta. Ước gì chúng ta có thể sinh dồi dào hoa trái tình thương, công lý, trung thành và bình an.
42. Tình liên đới yêu thương
Một trong những điều khó hiểu và gây ngạc nhiên không những cho thánh Gioan Tẩy giả khi xưa mà còn cho rất nhiều người qua mọi thời đại là tại sao Chúa Giêsu là Đấng vô tội lại xếp hàng chung với đám tội nhân và tìm đến với Gioan tẩy giả để lãnh nhận phép rửa xin ơn tha thứ? Thắc mắc ấy chỉ có thể trả lời ấy được theo logic của con tim mà thôi. Đức Giêsu, Đấng vô tội đã tự nguyện gia nhập vào hàng ngũ những tội nhân vì Ngài muốn liên đới với hết mọi người tội lỗi để giải cứu họ khỏi ách nô lệ của tội lỗi và ban tặng cho họ nguồn sống đích thực và vĩnh cửu.
Chuyện kể rằng: Ngày kia, một vị quan lớn mở tiệc và mời nhiều người đến dự tiệc. Tất cả những người được mời đến dự tiệc điều ăn mặc sang trọng và dùng những phương tiện tốt nhất để đi đến buổi tiệc hôm ấy. Trong số những khách mời hôm ấy, có một người cụ già. Rủi thay, vì già yếu nên cụ này khi xuống xe đã trượt chân té xuống bùn gần đó. Khách đến dự tiệc được một phen cười no bụng. Cụ già cảm thấy xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng vào phòng tiệc, nên ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi ấy, vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi đến chỗ vũng bùn đó, rồi cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là áo quần của ông cũng dơ như cụ già kia. Thấy sự việc như vậy, mọi người chung quanh không dám cười nhạo nữa. Sau đó, vị quan cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc và ông cụ không còn lý do nào để chối từ.
Hành vi cố tình té vào vũng bùn của ông quan chủ tiệc xem ra rất khó hiểu. Nhưng nhờ hành động cố tình té ngã đó, ông quan mới có thể đưa ông cụ già vào phòng tiệc. Phải chăng đó cũng là cách ứng xử mà Chúa Giêsu đã từng thực hiện đối với mỗi người chúng ta. Khi sinh xuống làm người, Đức Giêsu đã xin ra trong cảnh cùng cực nhất của kiếp người để Ngài có thể chạm đến được với hết mọi người. Những ai từng bị bỏ rơi, bị khinh khi, bị xa lánh . . . thì nay họ lại được Con Thiên Chúa làm bạn hữu thân thiện nhất của mình. Thử hỏi còn gì danh dự hơn, còn gì an ủi hơn cho chúng ta chăng? Tất cả những gì Chúa Giêsu làm cho con người minh chứng cho chúng ta thấy chúng ta là người được Thiên Chúa yêu thương. Ngài tự nguyện trở nên một con người bình thường, mờ nhạt giữa những con người danh tiếng để chia sẻ kiếp người với chúng ta, để nâng loài người chúng ta lên. Ngài mặc lấy xác phàm để chia sẻ thân phận đói nghèo, đau khổ, bệnh hoạn của con người. Ngài hoá kiếp phàm nhân để nếm trải nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân. Ngài đang cùng nhịp đập con tim với mọi người để cảm thông và yêu thương tất cả, một sự liên đới của tình yêu.
Đức Giêsu khởi đầu sứ mạng rao giảng của mình bằng việc tìm đến với Gioan Tẩy giả để lãnh nhận Phép rửa của Gioan cho thấy Đức Giêsu là một Đấng Khiêm nhường, một Thiên Chúa khiêm nhườngï vô cùng. Ngài tự nguyện cúi mình sâu xuống tận bùn đen để nâng lên những con người đang chìm sâu trong bùn đen dơ nhớp ấy. Ngài khiêm hạ đến độ làm cho mình trở thành một kẻ vô danh bên cạnh một ông Gioan Tẩy giả đang được mọi người ngưỡng mộ và kính phục. Sự khiêm hạ của Đức Giêsu cho chúng ta thấy một tình yêu sâu đậm mà Thiên Chúa dành cho con người. Quả thật như lời của một thiền sư đã nói: “Thiên Chúa làm người để cho con người lên làm chúa”. Thiên Chúa là Đấng khiêm nhường. Ta hãnh diện và tin tưởng để nói lên điều đó. Chính trong sự khiêm nhường và tự hạ như thế, Đức Giêsu đã được Thiên Chúa Cha xác nhận “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”.
Tôi thích ngắm nhìn cảnh một người cha cúi mình xuống để nâng đứa con nhỏ của mình lên vai của ông và tung tăng vui đùa cùng đứa bé. Đứa bé khi đó tự hào và thích thú vô cùng vì thấy mình được cao hơn cha. Người cha đang xoá mình đi trước đứa con yêu. Ông chỉ muốn tìm đủ mọi cách để cho đứa con của mình được vui cười và thoả thích trong hạnh phúc đơn sơ ấy. Đó cũng là cách thức mà Thiên Chúa luôn hành động trong cuộc đời của con người chúng ta.
Thiên Chúa là Đấng cao sang, vô tội đã tự nguyện liên đới mình với mọi người để yêu thương và nâng đỡ mọi người. Chúng ta hạnh phúc chiêm ngắm tình yêu ấy để an vui mà tiến bước trong tình yêu. Nhưng khi cảm nghiệm hạnh phúc êm đềm ấy, chúng ta cũng phải có sứ mạng tiếp nối và làm cho tình yêu ấy được lớn lên trong cuộc đời này. Chúng ta cũng phải liên đới mình với anh em đang sống chung quanh mình. Cuộc sống bon chen ngày hôm nay rất dễ làm cho chúng ta có thái độ cạnh tranh nhau, chà đạp nhau để vươn lên. Chúng ta bị cám dỗ sống chủ nghĩa “Mackeno” nghĩa là “mặc kệ nó”. Chúng ta đừng nghĩ rằng ai sống chết ra sao mặc kệ họ, miễn sao gia đình tôi, bản thân êm ấm và no đủ là được rồi. Chúng ta nên sống tình lối xóm láng giềng “tối lửa tắt đèn” có nhau. Chúng ta cũng phải biết cảm thông và nâng đỡ những người nguội lạnh, thăm viếng, an ủi những gia đình đang gặp hoạn nạn, khổ đau. Cầu nguyện cho nhau vẫn là phương thế thực hiện tình liên đới cách hữu hiệu nhất. Đừng bao giờ bỏ qua những gì chúng ta có thể làm được cho người anh em của mình khi họ thật sự cần đến chúng ta. Chia sẻ thật tình với nhau trong những khi cần thiết là chúng ta đang thực hiện sự nối dài của Chúa Giêsu trong sứ mạng của Ngài, sứ mạng liên đới và cứu độ mọi người. Amen.
43. Cái nhìn – cách nhìn
Tin Mừng hôm nay tả lại một khung cảnh thật tuyệt vời khi Chúa Giêsu bước xuống dòng sông Giodan để cho ông Gioan làm phép rửa. Đây là cảnh của trời đất giao hoà, cảnh đất trời giao duyên, và đây cũng là cảnh trời đất được nối liền trong con người của Đức Giêsu Kitô, có sự xác nhận của Chúa Cha, và có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Cũng là cách nhắc nhở chúng ta đặc biệt hơn sống đúng bổn phận của một người con Chúa, theo gương Đức Giêsu Kitô. Vậy, sống đúng bổn phận làm con Chúa là sống như thế nào?
Chuyện kể rằng: Tôi có quen với một gia đình kia làm nghề mua bán những vật liệu phế thải, (người bình dân gọi họ là những người mua bán ve chai lông vịt). Hằng ngày, vợ chồng họ phải gánh hai cái cần xé đi vào tận các làng quê xa xôi để tìm mua những vật liệu phế thải, rồi chiều gánh về đại lý để cân lại lấy tiền lời sinh sống qua ngày. Chiều hôm đó, cũng như mọi buổi chiều khác, vợ chồng họ gặp nhau ở đại lý, và người vợ cũng hỏi chồng một câu quen thuộc: Hôm nay khá không anh? Anh chồng vừa lắc đầu vừa nói: Cũng như mọi ngày, chả có cái gì quí. Thế rồi chị vợ đến đổ gánh đồ phế thải ra để lựa đồ chờ chủ đến cân, thì chị ta nhìn thấy có một cây thánh giá nhỏ thật xấu xí, đen thui nằm xen trong những mãnh sắt vụn, chị cầm lên và chị nghĩ trong lòng rằng: Đây là vật thiêng của Trời cho, để đem về làm kỷ niệm, vậy là chị bỏ cây thánh giá vào trong túi đem về nhà. Về đến nhà, chị đem cây thánh giá ra chùi rửa, thì thấy nó sáng lên một chút, rồi chị đi tìm đồ để đánh bóng cây thánh giá lên, thì chị thấy đây là một cây thánh giá bằng bạc, trông rất đẹp. Còn đứa con của chị, vừa đi học về, trông thấy cây thánh giá thì thích quá, nó xin mẹ nó cho nó cây thánh giá đó để nó đeo ở cổ của nó, để Chúa phù hộ cho nó.
Qua câu chuyện trên đây, chúng ta thấy có ba con người, và ba con người đó cùng nhìn về một cây thánh giá với ba cách nhìn khác nhau, người chồng nhìn thấy cây thánh giá đó như là một vật phế thải, chẳng có giá trị gì. Người vợ nhìn cây thánh giá đó như là một vật thiêng của trời ban cho. Còn đứa con thì nhìn cây thánh giá đó, nó thấy có Chúa hiện diện, để Chúa phù hộ cho nó. Như vậy, cách nhìn về cây thánh giá của gia đình trên đây cũng có phần tương tự như cách nhìn về Chúa Giêsu trong các bài Phúc âm, mà chúng ta đã được nghe đọc từ hôm lễ Chúa Giêsu giáng sinh cho đến nay. Những người Do thái nhìn vào Chúa Giêsu và họ không thể nào tin được Chúa Giêsu là Đấng cứu thế. Còn ông Gioan Tiền hô, như chúng ta đã thấy trong bài Phúc âm hôm nay, ông nhận ra Đức Giêsu chính là Đấng cứu thế, là Đấng cao trọng, là Đấng sẽ cứu muôn dân. Và cuối cùng là cách nhìn của Thiên Chúa, chính Thiên Chúa đã xác nhận về Chúa Giêsu rằng: Đây là Con Ta yêu dấu, Con đẹp lòng Ta. Từ ba cách nhìn trên đây, chúng ta thấy Đức Giêsu vừa là Đấng Cứu thế, vừa là Đấng cao trọng, và vừa là người Con tuyệt vời của Thiên Chúa nữa.
Riêng đối với chúng ta, nếu chúng ta áp dụng ba cách nhìn này vào cuộc sống của con người, thì chúng ta cũng thấy rằng: nếu chúng ta mang cách nhìn thứ nhất, thì chúng ta cũng chỉ thấy mình là một con người bình thường, bé nhỏ, yếu đuối, một con người giống như những người khác vậy thôi. Còn nếu chúng ta có được cách nhìn thứ hai, thì chúng ta sẽ thấy mình là một Kitô hữu, là một giáo dân thuộc giáo xứ… này. Còn nếu chúng ta có được cách nhìn thứ ba, chúng ta sẽ thấy chúng ta là một người con của Chúa, một người được dựng nên giống hình ảnh Chúa.
Nhìn lại bài Phúc âm hôm nay, nếu chúng ta thấy Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu quí của Ngài, thì chúng ta hôm nay là những người con của Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải sống theo gương của Chúa Giêsu, để một ngày nào đó, Chúa Cha cũng xác nhận chúng ta là những đứa con yêu quí giống như Chúa Giêsu vậy, nếu tới lúc đó Chúa Cha nói: Con mất lòng Ta quá, Ta không biết đến con nữa đâu, thì lúc đó ta có hối hận cũng không còn kịp nữa.
Trong mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm con, rồi mới làm cha làm mẹ. Vậy thì như con cái phải làm vui lòng cha mẹ thế nào, thì chúng ta cũng phải làm vui lòng Chúa như vậy. Rồi các bậc cha mẹ ai cũng ước mong cho con cái mình sống tốt thế nào, thì chính cha mẹ cũng phải sống tốt như vậy. Nghĩa là phải sống đạo thật tốt, trung thành với các bổn phận đạo đức, trung thành với bổn phận làm người, sống yêu thương, giúp đỡ, làm tốt các việc thiện, việc lành. Và như thế, là chúng ta được sống trong tình Cha con với Thiên Chúa, và Thiên Chúa sẽ nhận chúng ta là những đứa con yêu quí của Ngài.
Xin Thiên Chúa giúp tất cả chúng ta, để chúng ta trở nên những đứa con ngoan của Chúa. Amen.
44. Chúa chịa phép rửa
Tâm lý thường tình của con người là muốn mình được trọng vọng, được đề cao, được vượt trổi hơn người khác.
Khi nói chuyện với nhau, người ta thường thích nói về mình: Tôi thế này, tôi thế nọ. Khi ở giữa đám đông, người ta thích làm nổi, thích được chú ý, thích được khen ngợi. Ở trong một tập thể, người ta thích giữ những chức vụ lớn, thích điều khiển người khác, thích làm những công việc được nhiều người biết đến. Khi hội họp, người ta muốn ý kiến của mình được tôn trọng và chấp thuận dù nó không hay bằng ý kiến của người khác… Tất cả những điều đó phản ảnh khuynh hướng kiêu căng trong lòng mỗi người. Mà kiêu căng là mối tội thứ nhất trong bảy mối tội đầu. Gọi là mối tội đầu vì nó là căn nguyên đưa tới nhiều thứ tội lỗi khác. Thật vậy, sự kiêu căng chính là đầu mối dẫn tới rất nhiều điều tệ hại trong cuộc sống của con người: Chiến tranh bởi đâu nếu không phải bởi nước này muốn thống trị nước nọ? Ghen tương bởi đâu nếu không phải bởi người này muốn trổi vượt hơn người khác? Hận thù bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn đạp người khác xuống để chiến lấy vị trị của họ? Nói hành, nói xấu, vu khống, dèm pha bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn tự quảng cáo mình tốt hơn, giỏi hơn người khác?... Sự kiêu căng không đem lại điều gì tốt đẹp cho người kiêu căng cả. Luxiphe vì kiêu căng không muốn phục tùng Thiên Chúa đã tự loại mình ra khỏi hàng ngũ các Thiên Thần. Ông bà nguyên tổ loài người vì kiêu căng muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, và cửa trời đóng lại. Sự kiêu căng đã tạo nên hố ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người. Sự kiêu căng đã dựng nên một hàng rào không cho con người đến với nhau…
Chiêm ngắm Chúa Giêsu trong máng cỏ hôi tanh, và chiêm ngắm Người trong biến cố Người chịu phép rửa, chúng ta sẽ thấy mình lố bịch biết bao khi để cho tính kiêu căng thống trị và hướng dẫn đời sống mình.
Thật vậy,
- Chúa Giêsu là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã mặc lấy những tâm tình và cung cách sống khiêm tốn thẳm sâu.
- Là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã không đòi phải được sinh ra trong một đất nước văn minh, trong một thành phố hoa lệ và trong cung ngọc điện ngà. Trái lại, Người đã chấp nhận sinh ra trong một hoàn cảnh bi đát nhất của thân phận làm người.
- Là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã không chọn cho mình một người cha, một người mẹ danh giá và giầu sang. Trái lại, Người chấp nhận làm con của một anh thợ mộc vô danh tiểu tốt và một cô thiếu nữ nhà quê khổ nghèo.
- Là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt đối, nhưng Người lại hạ mình đến xin ông Gioan làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi.
- Người là Thiên Chúa của muôn loài, nhưng lại hòa mình với đám đông không tên tuổi để trở thành một người vô danh như họ.
Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm tốn thẳm sâu của con Thiên Chúa làm người? Ngày xưa, do sự kiêu căng của nguyên tổ loài người, cửa trời đã đóng lại. Ngày nay, do sự khiêm hạ của Con Thiên Chúa mà cửu trời lại được mở ra. Trời mở ra nghĩa là mọi ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người đã bị xóa bỏ. Con người phản bội nay đã được tha thứ, được phục hồi tước vị làm con Thiên Chúa và được đồng thừa tự gia tài Nước Trời cùng với Chúa Giêsu. Trời được mở ra cho hết mọi người có thể đi vào. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục bước vào vết chân kiêu căng của ông bà nguyên tổ, thì cách Cửu Trời ấy sẽ mãi mãi đóng lại trước mắt chúng ta.
45. Ba Ngôi tỏ mình trong phép rửa
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Có một người cho tôi mượn quyển truyện cười. Tôi đọc một câu chuyện như sau: một người mở tiệm bán cá. Anh ta căng bảng hiệu "Ở đây bán cá tươi". Một người hàng xóm phê bình: "Anh bán cá tươi chứ có bán cá khô đâu. Cần gì phải để chữ "tươi" trên bảng hiệu". Nghe có lý, anh chủ tiệm xóa chữ "tươi". Bảng hiệu chỉ còn "Ở đây bán cá". Một người khác lại chê: "Tiệm của ông bán cá, ai cũng biết, cần gì phải ghi hai chữ "ở đây". Anh chủ tiệm lại nghe có lý. Vậy là bảng hiệu chỉ còn hai chữ "Bán cá". Một người khác lại không đồng ý, nên đề nghị: "Tiệm của ông bán cá chứ có bán rau trái gì đâu mà phải tốn cả cái bảng hiệu". Vậy là ngay hôm đó, anh chủ tiệm tháo luôn tấm bảng hiệu của tiệm mình.
Bạn thử nghĩ xem, câu chuyện kể trên muốn nói điều gì? Nó phê phán những người có tính ba phải, bắt chước một cách rập khuôn theo người khác, mà không biết giữ lập trường của mình.
Tôi không có ý so sánh câu chuyện kể trên với bài Tin Mừng ngày lễ Chúa chịu phép rửa, chuyện vui đó không đáng so sánh với Thánh Kinh. Dù sao tôi cũng thắc mắc, bởi thái độ của Chúa Giêsu hết sức lạ lùng. Chúa được Gioan ca tụng một cách khác thường, trên mức bình thường, nào là "Có Đấng đến sau tôi, quyền lực hơn tôi", nào là "Tôi không đáng cởi dây giày cho Người", hay "Tôi rửa anh em trong nước, nhưng Người rửa anh em trong Thánh Thần", thì chính Người, nhân vật quan trọng đó, lại đến xin Gioan làm phép rửa cho mình, và đã cúi mình để Gioan rửa thật sự. Chúa Giêsu làm điều đó có ý gì? Hình như Người cũng chỉ là một kẻ ba phải, thấy người khác đến xin Gioan làm phép rửa thì cũng đến như mọi người?
Không đúng! Chúa Kitô không ba phải! Ở cuối bài Tin Mừng, thánh Marcô cung cấp cho ta một chân lý đức tin hết sức quan trọng: Chúa Giêsu đã làm điều mà Người cần phải làm: Qua phép rửa của Gioan, Thiên Chúa tỏ mình cho trần gian. Nếu lần tỏ mình trước trong lễ Hiển Linh cho biết Chúa Giêsu đã nhập thể trong trần gian, thì lần này đánh dấu một bước ngoặc mới, đó là Chúa chuẩn bị loan báo Tin Mừng và báo trước đời sống công khai của Chúa. Lần tỏ mình này diễn ra trong bầu khí uy nghi: Ba Ngôi cùng hiện diện: Chúa Thánh Thần ngự xuống nơi Chúa Con như hình chim bồ câu. Chúa Cha tuyên bố Chúa Con là con yêu dấu của Người, luôn làm đẹp lòng Người. Tất cả những điều đó nhằm minh chứng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Người sắp thực hiện sứ mạng cứu độ trần gian.
Ngày xưa phép rửa của Gioan chỉ là phép rửa kêu gọi thống hối mà Thiên Chúa lại tỏ mình uy nghi, thì ngày nay trong phép rửa tội, là phép rửa tha tội thật sự, do Chúa Giêsu thiết lập, chắc chắn Thiên Chúa vẫn đang tỏ mình cho loài người. Bởi đó, khi linh mục hoặc bất cứ người nào trong trường hợp thiếu linh mục, rửa tội cho ai đó theo ý hướng của Giáo Hội, và đọc công thức: "Tôi rửa tội cho anh (chị, em...), nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần", kèm theo việc đổ nước trên đầu, thì lập tức bí tích rửa tội thành sự.
Bạn thân mến, trong nghi thức bí tích rửa tội cho trẻ em, trước khi tuyên xưng đức tin, Giáo Hội mời gọi mọi người hiện diện hãy tích cực tham dự và nghi thức bí tích này bằng lời kêu mời: "...Anh chị em HÃY NHỚ LẠI phép rửa tội của mình mà từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin...". Vậy mừng lễ Chúa chịu phép rửa hôm nay, bạn và tôi cũng hãy nhớ lại phép rửa tội của mình mà tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng đã yêu thương tỏ mình trong cuộc đời của từng người, kể từ giây phút ta bắt đầu gia nhập cộng đoàn Giáo Hội.
Bí tích rửa tội là bí tích đầu tiên cho ta được quyền gọi Thiên Chúa là Cha, Chúa Kitô là người Anh Cả của mình, Chúa Thánh Thần được ban để ta sống đời sống một người con Chúa. Nếu trong nghi thức bí tích, Giáo Hội mời ta nhớ lại bí tích rửa tội để từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin, thì hôm nay, trong lễ này, bạn và tôi cũng hãy thực thi lời mời gọi ấy bằng sự thành tâm trở về với Chúa, giữ cho lòng mình trong sạch và siêng năng rước lễ, cầu nguyện, lãnh bí tích giải tội, biết thực thi lòng bác ái bằng việc giúp đỡ anh chị em thiếu thốn xung quanh mình. Dù tỏ mình trong bí tích rửa tội, nhưng Danh Chúa thực cả sáng nhờ đời sống thánh thiện của bạn và tôi.
46. Suy niệm Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa
ĐẤNG CÔNG CHÍNH LÃNH LẤY PHẦN PHẠT CỦA NHỮNG KẺ TỘI LỖI
Thông thường người ta bênh vực cho người công chính, không ai lại bênh vực cho những kẻ quấy. Ông bà nguyên tổ của chúng ta đã đánh mất ơn nghĩa Chúa khi chống lại Ngài và con cháu phải mang hậu quả, hay chống cưỡng ý Chúa và làm theo ý riêng của mình. Thiên Chúa quãng đại đã không chấp nhứt, không phạt đời đời nhưng mở ra một lối đi tìm về chân lý. Chúa hứa ban nhiều ân sủng, giúp con người sống cuộc đời làm con Chúa.
Trong bài đọc I, bài trích sách tiên tri Isaia, Thiên Chúa hứa với tuyển dân: sẽ cho xuất hiện một Đấng cứu tinh. Ngài là một người rất đẹp lòng Chúa. Chúa sẽ nâng đỡ và ban Thần Khí trên Người. Người sẽ xét xử chư dân, sẽ không thiên vị nhưng rất nhân từ. Người không bẻ gẫy cây lao bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói. Người trung thành đem lại lẽ công bình, lo đặt công lý trên địa cầu, mọi nước mong đợi lề luật Người. Người lập giao ước mới và nên ánh sáng của muôn dân, người mở mắt cho người mù, đưa khỏi tù những người bị xiềng xích… Dân Israel mong đợi lời hứa đó, nhưng họ lại không đón tiếp vị Vua thuộc nhóm dân nghèo!
Lời sấm đã được thực hiện trong thời Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Bài Tin Mừng cho chúng ta biết: Đấng thiên Chúa hứa ban để giải thoát dân Israel đó chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa của mọi dân tộc. Ngài đã bỏ trời xuống thế gian để gánh lấy những đau khổ và phần phạt loài người đáng ra phải chịu vì tội lỗi mình. Ngài đã rửa loài người trong Chúa Thánh Thần. Nhưng trước hết, chính Ngài đã hạ mình mang lấy tội lỗi nhân gian, nhận lấy phép rửa sám hối bởi tay người phàm vì Ngài là Chiên Con Gánh Tội trần gian. Hành động đó rất đẹp lòng Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã làm chứng về Ngài trước mặt Gioan Tẩy Giả và đoàn người đến sám hối: Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.
Chúa Giêsu chịu phép rửa dù Ngài vô tội. Vì chúng ta, Ngài mang lấy thân phận tôi đòi. Bao nhiêu tội lỗi nhân gian từ tạo thiên lập địa đến tận thế Ngài gánh lấy. Vì vậy, trong vườn dầu, Ngài đã phải đổ mồ hôi máu, và trong giờ sát tế chiên vượt qua, Ngài phải oằn mình đau đớn trên cây khổ giá dành cho tội nhân. Chỉ những ai hiểu được nỗi khổ đau và sự hy sinh của Chúa Giêsu mới thấy được lòng khoan dung của Chúa đối với tội lỗi nhân loại và nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Chỉ những ai yêu mến Chúa mới thấy tội lỗi mình nặng nề , gớm ghiếc vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa vô biên. Điều nghịch lý là chúng ta, những kẻ tội lỗi lại không dám tỏ lòng sám hối công khai, còn Chúa Giêsu vô tội lại phải xếp hàng trong đám tội nhân để nhận phép rửa sám hối thế cho nhân loại nơi Gioan Tẩy Giả.
Chúa thật nhân từ và đáng mến biết bao vậy mà nhiều khi chúng ta chỉ lo lắng những chuyện trần thế, bỏ quên thiên Chúa, không dành thời giờ cầu nguyện với Chúa, để cảm nhận được tình thương và sự ưu ái của Thiên Chúa đối với chúng ta. Chúng ta hãy xin lỗi Chúa và thành tâm đáp trả lại tình yêu ấy bằng sự hoán cải tận căn, năng lãnh nhận Bí tích Giải tội để Chúa Giêsu ban ơn cho chúng ta sống Tám Mối Phúc Thật, giữ đúng tinh thần Chúa dạy trong Tin Mừng.
Mỗi lần tham dự thánh lễ, chúng ta hãy chuẩn bị lòng mình thật kỹ, lắng nghe lời Chúa và rước Chúa cho thật sốt sắng để chúng ta cũng được Chúa gọi chúng ta bằng câu nói: đây là những người con yêu dấu của Cha, con đẹp lòng Cha trong Chúa Ngôi Hai, Con Ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lãnh lấy phần phạt mà loài người đáng phải chịu vì tội lỗi mình. Chúa còn tiếp tục khoan dung nhân thứ cho chúng con những lúc cố tình lỗi phạm hoặc thờ ơ, thụ động trong việc giữ đạo. Xin Chúa ban thêm lòng mến cho chúng con để chúng con biết tin thờ Chúa cho phải đạo hầu ngày sau được về cùng Chúa trên Thiên Đàng.
47. Chúa chịu phép rửa
(Đức Thánh Cha Phanxicô Giảng Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa và rửa tội cho 33 em bé ở Nguyện Đường Sistine. Chúa Nhật 11/1/2015 - Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch)
"Những gì sữa làm cho thân xác thế nào thì Lời Chúa làm cho tinh thần như vậy, ở chỗ, Lời Chúa làm cho chúng ta lớn lên trong đức tin. Và nhờ đức tin chúng ta được tái sinh bởi Chúa. Và đó là những gì xẩy ra nơi Phép Rửa".
Chúng ta đã nghe thấy trong Bài Đọc Thứ Nhất là Chúa chăm sóc cho con cái của Ngài như cha mẹ: Ngài chăm chút cung cấp cho con cái của mình lương thực chân chính. Qua vị tiên tri Thiên Chúa đã nói rằng: "Tại sao các ngươi lại chi tiền của mình cho những gì không phải là bánh ăn, tiêu xài lương bổng của các ngươi cho những gì không làm thỏa mãn chứ?" (Isaia 55:2). Thiên Chúa, như một người cha thiện hảo và như một người mẹ tốt lành, muốn cống hiến cho con cái của mình những điều tốt lành thiện hảo. Thứ lương thực chân chính Thiên Chúa ban cho chúng ta đây là gì? Đó là chính Lời của Ngài: Lời của Ngài làm cho chúng ta lớn lên, làm cho chúng ta sinh hoa kết trái tốt đẹp trong đời sống, như mưa và tuyết làm cho đất trở nên phì nhiêu cùng sinh hoa trái vậy (xem Isaia 55:10-11).
Cũng thế, anh chị em là cha mẹ, và là cha mẹ đỡ đầu, là ông bà, là cô dì chú bác, cũng giúp cho những con trẻ này lớn lên một cách tốt đẹp nếu anh chị em cống hiến cho chúng Lời Chúa, cống hiến cho chúng Phúc Âm của Chúa Giêsu. Kèm theo Lời Chúa anh chị em đồng thời cũng cống hiến cả gương sống của anh chị em nữa! Hằng ngày anh chị em hãy có thói quen đọc một đoạn Phúc Âm, một đoạn ngắn thôi, và luôn mang theo một cuốn Phúc Âm nhỏ trong túi, trong xách tay của anh chị em để đọc. Đó sẽ là một tấm gương cho những con trẻ đây, khi chúng thấy người cha, người mẹ, bố mẹ đỡ đầu, ông bà, cô dì chú bác, đọc Lời Chúa.
Hỡi các người mẹ, hãy cho con của mình bú sữa - ngay cả lúc này đây, nếu chúng khóc vì đói, hãy cho chúng bú sữa, đừng lo. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa về tặng ân sữa này, và chúng ta cầu cho những người mẹ ấy - tiếc thay lại có rất nhiều - lại không thể cho con cái của mình của ăn. Chúng ta hãy cầu nguyện và cố gắng giúp cho những người mẹ này. Vậy những gì sữa làm cho thân xác thế nào thì Lời Chúa làm cho tinh thần như vậy, ở chỗ, Lời Chúa làm cho chúng ta lớn lên trong đức tin. Và nhờ đức tin chúng ta được tái sinh bởi Chúa. Và đó là những gì xẩy ra nơi Phép Rửa. Chúng ta đã nghe tông đồ Gioan viết: "Ai tin rằng Chúa Giêsu là Đức Kitô thì đều được Thiên Chúa hạ sinh" (1Gioan 5:1).
Bằng đức tin ấy, con cái của anh chị em đến để lãnh nhận phép rửa. Anh chị em phụ huynh, anh chị em đỡ đầu thân mến, đó là đức tin của anh chị em hôm nay đây. Đó là đức tin của Giáo Hội, nhờ đó mà những em bé này sẽ được lãnh nhận Phép Rửa. Thế nhưng ngày mai, nhờ ơn Chúa, đức tin này sẽ trở thành đức tin của chúng, trở thành tiếng "xin vâng" của bản thân chúng với Chúa Giêsu Kitô, Đấng cống hiến cho chúng ta tình yêu của Cha.
Tôi đang nói rằng chính đức tin của Giáo Hội. Điều này rất quan trọng. Phép Rửa tháp nhập chúng ta vào thân mình của Giáo Hội, vào dân thánh của Thiên Chúa. Và trong thân mình này, trong thành phần dân đang tiến bước này, đức tin được truyền đạt từ đời nọ đến đời kia: đó là đức tin của Giáo Hội. Và đức tin của Mẹ Maria, Mẹ của chúng ta, đức tin của Thánh Giuse, của Thánh Phêrô, của Thánh Anrê, của Thánh Gioan, đức tin của các vị Tông Đồ và các vị Tử Đạo, đã được truyền đạt cho chúng ta qua Phép Rửa: một chuỗi giây truyền đạt đức tin. Điều này thật là đẹp! Nó là một việc truyền đạt từ bàn tay này sang bàn tay kia cây nến sáng đức tin: chúng ta sẽ bày tỏ điều này trong ít phút nữa bằng cử chỉ thắp sáng cây nến phục sinh trọng đại. Cây nến phục sinh trọng đại này tiêu biểu cho Chúa Kitô Phục Sinh đang sống giữa chúng ta. Các gia đình lấy ánh sáng đức tin từ Người để truyền đạt cho con cái của mình. Anh chị em có thể lấy ánh sáng này trong Giáo Hội, trong thân mình của Chúa Kitô, trong dân Chúa là thành phần đang bước đi ở mọi thời đại và ở hết mọi nơi. Hãy dạy cho con cái của anh chị em rằng không có Kitô giáo ngoài Giáo Hội, anh chị em không thể nào theo Chúa Giêsu Kitô mà không có Giáo Hội, vì Giáo Hội là một người mẹ làm cho chúng ta lớn lên trong lòng yêu mến Chúa Giêsu Kitô.
Các Bài Đọc hôm nay còn mạnh mẽ cống hiến một khía cạnh cuối cùng nữa, đó là, nơi Phép Rửa chúng ta được Thánh Linh thánh hiến. Chữ "Kitô hữu" mang ý nghĩa ấy, có nghĩa là được thánh hiến như Chúa Giêsu, trong cùng một Thần Linh là Đấng Chúa Giêsu đã trầm ngập cả đời sống trần gian của Người trong Ngài. Người là "Đức Kitô", Đấng Được Xức dầu, Đấng Được Thánh Hiến, chúng ta lãnh nhận phép rửa là "Kitô Hữu", nên đã được thánh hiến, đã được xức dầu. Vậy giờ đây, anh chị em phụ huynh thân mến, anh chị em đỡ đầu thân mến, nếu anh chị em muốn cho con cái của anh chị em trở thành những Kitô hữu đích thực, thì hãy giúp cho chúng càng "được chìm ngập" trong Thánh Linh, tức là trong tình yêu nồng ấm của Thiên Chúa, trong ánh sáng của Lời Ngài. Vì thế, đừng quên thường xuyên cầu khẩn Thánh Linh, cầu nguyện hằng ngày. "Này cô, cô có cầu nguyện không?" - "Có" - "Tôi cầu nguyện với Thiên Chúa" - Thế nhưng nơi cách thức ấy "Thiên Chúa" lại không hiện hữu: "Thiên Chúa là một ngôi vị và Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Linh hiện hữu như là một ngôi vị". Chúng ta thường cầu nguyện cùng Chúa Giêsu. Khi chúng ta cầu "Kinh Lạy Cha" là chúng ta cầu cùng Chúa Cha. Thế nhưng chúng ta rất thường không cầu cùng Thánh Linh. Việc cầu nguyện cùng Thánh Linh rất quan trọng, để Ngài dạy chúng ta làm cho gia đình tiến triển, dạy cho những đức con đây, nhờ đó những con trẻ này có thể lớn lên trong bầu khí Ba Ngôi. Chính Thần Linh sẽ dẫn chúng tiến bước. Do đó đừng quên cầu khẩn cùng Thánh Linh, cầu nguyện hằng ngày. Chẳng hạn anh chị em có thể làm điều này bằng lời nguyện đơn sơ như sau: "Xin Thánh Linh hãy đến tràn đầy lòng tín hữu Chúa và hãy thắp lên ngọn lửa tình yêu của Chúa trong lòng họ". Anh chị em có thể đọc kinh nguyện này với con cái của anh chị em, và dĩ nhiên cho chính bản thân của anh chị em!
Khi đọc kinh nguyện này, anh chị em cảm thấy sự hiện diện từ mẫu của Trinh Nữ Maria. Mẹ dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thánh Linh, và sống theo Thần Linh như Chúa Giêsu. Lạy Đức Mẹ là Mẹ của chúng con, xin luôn đồng hành với con cái của Mẹ và các gia đình của Mẹ.
48. Tất cả là hồng ân
Ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay Giáo hội nhắc nhở chúng ta ơn phép rửa mà mỗi người lãnh nhận là một hồng ân cao quý mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một cách nhưng không, nó thật cao quý vô cùng không gì có thể sánh được. Chính nhờ phép rửa mà chúng ta được sinh trở lại làm con Chúa. Phép rửa mà chúng ta lãnh nhận không phải như phép rửa của Gioan, chỉ là phép rửa sám hối, nhưng phép rửa mà chúng ta được lãnh nhận “trong Thánh Thần”. Chính điều đó đã được Gioan xác nhận, và thứ hai nữa là một tinh thần tự hạ từ Con Thiên Chúa không chút vết nhơ tì ố lại cúi mình nhận phép rửa từ tay Gioan như một người tội lỗi .
1. Hồng ân nhưng không
Từ ban đầu Thiên Chúa đã dưng nên con người rất tinh tuyền với “sự công chính nguyên thuỷ” nhưng chúng ta đã tự mình đánh mất đặc ân cao cả đó, đang lúc ta là tội nhân, là những con người đáng chết, đáng bị huỷ diệt đời đời, Thiên Chúa không ghét bỏ mà người đã thương nâng chúng ta lên làm con yêu quý của Ngài. Cũng chính nhờ tình thương mà chúng ta được nhận hết ơn ban này đến ơn ban khác. Thiên Chúa ban cho ta rất nhiều hồng ân, nhưng có lãnh nhận hay không là tuỳ ở mỗi người. Trước tiên qua các tiên kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, và đặc biệt là Gioan, người đã đi trước để dọn đường cho Chúa và cuối cùng Thiên Chúa đã ban chính con của người cho nhân loại chính nhờ con của người mà cả thế gian được cứu rỗi. Tuy thế, muốn lãnh nhận được những ơn Chúa ban đòi hỏi mỗi người phải có đức tin. Vì ơn Phép rửa trước hết là ơn đức tin. Nhờ đức tin mà chúng ta biết được Thiên Chúa là ai và mình là ai. Chúng ta biết được mình từ đâu đến và sẽ đi về đâu. Chúng ta biết được đời sống của chúng ta có ý nghĩa như thế nào. Đó là một hồng ân cao trọng và quý báu mà không phải ai cũng có được điều đó. Vì như thánh Augustinô đã khẳng định “Thiên Chúa dựng nên ta Ngài không hỏi ta, nhưng để cứu chuộc ta Ngài phải cần sự đồng ý của ta”. Chính vì cứng đầu mà nhiều người phải quờ quạng, dò dẫm… không biết đường biết hướng mà đi. Không tìm được lối thoát cho cuộc đời mình. Để rồi thất vọng, chán chường hoặc tìm bù đắp ở những nơi khác như tiền bạc, của cải, danh vọng, thú vui … rồi cuối cùng lại đi vào bóng đêm vĩnh viễn chỉ vì không chịu đón nhận hồng ân của Ánh Sáng.
2. Tinh thần tự hạ, khiêm nhường
Khi đó Gioan đã là một người rất nổi tiếng và có uy tín, đến nỗi có nhiều người còn tưởng ông là Êlia hay một tiên tri nào đó đã sống lại. Hơn nữa, còn có nhiều người lầm tưởng ông là đấng Messia. Vậy mà mà khi so sánh với Đấng mà chính tay ông làm phép rửa hôm nay “Ông không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”. Có thể dân chúng thời Cựu Ước không thể hiểu được lời Gioan nói đó, và nhất là không thể nào hiểu được ý nghĩa xâu xa như chúng ta hiểu ngày nay. Vì Con Thiên Chúa lại hạ mình xuống như tội nhân thật là một mầu nhiệm vượt quá sức tưởng tượng của con người. Không ai có thể chấp nhận được Con Thiên Chúa là Đấng chí thánh, là Đấng vô tội lại bước vào hàng ngũ của những tội nhân để xin một người phàm làm phép rửa và Thiên Chúa đã xức dầu thánh hiến Ngài để Ngài trở thành ánh sáng chiếu soi muôn nước, để đi tới đâu Ngài thi ân giáng phúc tới đó.Cùng một phép rửa đó để rồi trên thập giá Ngài trở thành tên tử tội, nhưng Ngài vô tội, Ngài đã gánh lấy tội trần gian và cái chết đau đớn nhục nhã của Ngài là giá trị cứu chuộc chúng ta.
Lạy Chúa, chính nhờ Bí tích Rửa Tội mà chúng con được trở nên con cái Chúa. Xin cho chúng con biết nhận ra hồng ân cao quý đó mà luôn sống tốt làm người con Chúa cũng như làm tròn bổn phận mà Thiên Chúa trao phó. Amen.
49. Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa.
(Đức Thánh Cha Phanxicô - Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. - Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch)
"Ôi xin Ngài hãy xé các tầng trời ra mà xuống!" (63:19). Tiếng kêu này đã được đáp ứng nơi biến cố Chúa Giêsu lãnh nhận Phép Rửa. Như thế là thời gian 'các tầng trời khép kín' đã qua"
Anh chị em thân mến, Chào anh chị em buổi sáng!
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Chịu Phép Rửa, một lễ kết thúc mùa Giáng Sinh. Phúc Âm đã diễn tả những gì xẩy ra ở bờ sông Dược Đăng (Jordan). Trong giây phút Thánh Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì các tầng trời đã được mở toang ra. Thánh Marcô viết: "Khi lên khỏi nước, Người đã thấy các tầng trời mở ra" (1:10). Sự kiện này gợi nhớ đến lời cầu khẩn thảm thiết của tiên tri Isaia: "Ôi xin Ngài hãy xé các tầng trời ra mà xuống!" (63:19). Tiếng kêu này đã được đáp ứng nơi biến cố Chúa Giêsu lãnh nhận Phép Rửa. Như thế là thời gian "các tầng trời khép kín" đã qua, thời gian tách biệt Thiên Chúa với loài người do hậu quả của tội lỗi. Tội lỗi là những gì tách chúng ta khỏi Thiên Chúa và làm gián đoạn mối liên hệ giữa đất và trời, khiến chúng ta bị khốn khổ và bại hoại trong đời sống. Các tầng trời đã mở ra cho thấy rằng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ân sủng của Ngài để trái đất được sinh hoa kết trái (xem Sal 85,13). Vậy trái đất đã trở nên nơi cư ngụ của Thiên Chúa giữa loài người, và mỗi người chúng ta có cơ hội gặp gỡ Con Thiên Chúa, cảm nghiệm được tất cả tình yêu và tình thương vô cùng. Chúng ta có thể tìm thấy điều này thực sự hiện diện ở nơi các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta có thể nhận thấy điều ấy nơi dung nhan của anh chị em chúng ta, nhất là nơi người nghèo, nơi bệnh nhân, nơi người bị tù ngục, nơi các người tị nạn: họ là xác thịt sống động của Chúa Kitô khổ nạn và là ảnh tượng hữu hình của vị Thiên Chúa vô hình.
Nhờ Chúa Giêsu lãnh nhận Phép Rửa mà chẳng những các tầng trời được mở toang ra Thiên Chúa còn làm cho tiếng của Ngài được vang vọng một lần nữa: "Con là Con yêu dấu của Cha: Cha hài lòng về Con" (Marcô 1:11). Tiếng nói này của Chúa Cha công bố mầu nhiệm được kín ẩn nơi Con Người lãnh nhận Phép Rửa bởi vị Tiền Hô.
Bấy giờ, Thánh Linh, qua hình thể một con chim bồ câu đã giúp cho Đức Kitô, Đấng Được Xức Dầu của Chúa, bắt đầu sứ vụ của Người đó là việc cứu độ chúng ta. Vị Thánh Linh này: Đấng Trọng Đại này đã bị chúng ta lãng quên nguyện cầu. Chúng ta thường cầu nguyện cùng Chúa Giêsu; chúng ta cầu nguyện cùng Chúa Cha, nhất là bằng "Kinh Lạy Cha"; thế nhưng không thường cầu nguyện cùng Thánh Linh, đúng không? Ngài là Đấng bị lãng quên. Và chúng ta cần xin ơn trợ giúp của Ngài, sức mạnh của Ngài, thần hứng của Ngài. Thánh Linh là Đấng hoàn toàn làm sinh động cuộc đời và thừa tác vụ của Chúa Giêsu, thì cũng Vị Thần Linh này ngày nay đang dẫn dắt đời sống của Kitô hữu, đời sống của con người nam nữ ngỏ ý muốn trở thành Kitô hữu. Việc đặt đời sống Kitô hữu của chúng ta và sứ vụ của chúng ta dưới tác động của Thánh Linh, Đấng tất cả chúng ta đã lãnh nhận nhờ Phép Rửa của chúng ta, là việc nhắm đến chỗ có được lòng can đảm tông đồ để thắng vượt những gì là dễ dãi thoải mái trần tục. Trái lại, người Kitô hữu nào hay cộng đồng nào "bị điếc" trước tiếng của Thánh Linh, Đấng thôi thúc chúng ta mang Phúc Âm đến tận cùng trái đất và xã hội, sẽ trở thành một Kitô hữu hay một cộng đồng "bị câm" không nói năng hay truyền bá phúc âm hóa. Thế nhưng xin hãy nhớ điều này, đó là hãy thường xuyên cầu nguyện cùng Thánh Linh để Ngài có thể trợ giúp chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh, ban cho chúng ta hứng khởi và dẫn chúng ta tiến bước.
Xin Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Giáo Hội, đồng hành với chúng ta là những người đã lãnh nhận phép rửa. Xin Mẹ giúp chúng ta lớn lên trong tình yêu đối với Thiên Chúa và trong niềm vui phục vụ Phúc Âm, cống hiến cho chúng ta một đời sống trọn vẹn ý nghĩa.
50. Chúa chịu phép rửa
Trong ngày kỷ niệm Chúa chịu phép rửa nơi sông Giođan, phụng vụ trình bày cho chúng ta sự kiện chính Thiên Chúa Cha giới thiệu và tuyên bố Chúa Giêsu Kitô, Con của Ngài, là vị cứu tinh cho toàn thể nhân loại.
Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần rõ rệt. Phần một diễn tả Gioan làm chứng về Chúa Cứu Thế, Đấng có quyền năng thanh tẩy nhân loại trong Thánh Thần, nghĩa là có sức mạnh chữa lành con người toàn diện, mở ra con đường giải thoát thiêng liêng, và nhóm lên trong lòng con người niềm hy vọng nơi quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Phần hai trình bày sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa và việc Chúa Cha chứng kiến và can thiệp.
Phép rửa mà Gioan thực hiện bằng nước chỉ là hình bóng, là hình thức minh chứng cho người đến chịu phép rửa ý muốn xưng thú tội lỗi, cải hóa nội tâm và trở về đường ngay nẻo chính. Gioan làm phép rửa trong vùng hoang địa dọc bờ sông Giođan. Từ hoang địa nhắc lại giai đoạn lịch sử khi dân Do Thái thoát khỏi ách nô lệ trở về Đất Hứa. Sông Giođan là trở ngại sau cùng mà dân Do Thái phải vượt qua để vào Đất hứa.
Khi xuống dòng sông để cho Gioan thanh tẩy, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ liên đới với nhân loại tội lỗi, một cử chỉ báo trước việc tự hạ đẫm máu của Người trên thập giá, để cho nhân loại được giao hòa với Thiên Chúa và được cứu thoát. Dòng nước chảy chỉ có năng lực thanh tẩy thực sự trong ngày Chúa Kitô xuống dòng sông để thánh hóa và ban thần lực cho nó.
Điểm chính yếu và mang nặng ý nghĩa trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa chính là lời tuyên bố của Thiên Chúa Cha, một lời tuyên bố vắn tắt, nhưng hàm xúc ý nghĩa sâu xa: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. “Là Con yêu dấu” đồng nghĩa với Con duy nhất, nhắc lại sự kiện Abraham đã hiến tế người con duy nhất là Isaac cho Thiên Chúa. “Cha hài lòng về Con” là lời tiên tri của Isaia trong bài ca về người tôi tớ đau khổ, mà Tân ước áp dụng cho Chúa Kitô Cứu thế: “Đây là người Tôi trung Ta nâng đỡ, là người ta tuyển chọn và quí mến hết lòng. Ta cho thần khí Ta ngự trên nó, nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân”. Lời tuyên bố này chứa đựng niềm tin của cộng đoàn dân ngoại đã khai sinh, ám chỉ sự nghiệp của Chúa Kitô, Đấng mà Môsê mớ sẽ đưa dân qua Biển Đỏ, là Giosuê mới sẽ lãnh đạo và đưa dân ra khỏi dòng sông Giođan, nghĩa là ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi mà vào Đất Hứa, để hưởng niểm vui vì được giải hòa với Thiên Chúa và nhận Thiên Chúa là Cha.
Sau khi ra khỏi dòng sông Giođan, Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa bốn mươi ngày để chịu ma quả cám dỗ. Được Chúa Cha ủng hộ, từ nay Chúa Giêsu can trường chấp nhận mọi khó khăn thử thách, có đủ sức để chiến thắng ma quỷ. Người Kitô hữu tin theo Chúa mỗi khi lãnh nhận bí tích rửa tội, chẳng khác nào như được dìm mình trong dòng sông Giođan, họ sẽ trở nên con cái Thiên Chúa, được lãnh nhận Thánh Thần và được tràn đầy các ân sủng của Thiên Chúa, trung thành với sứ mệnh của mình và bảo toàn nguồn ân sủng thiêng liêng đã lãnh nhận, và họ đã được Thiên Chúa yêu thương sủng mộ.
Xin Chúa cho chúng ta luôn sống kết hiệp với Chúa, để cũng có thể được nghe lời này: “Con là Con của Ta, Ta hài lòng về Con”.
51. Người liền thấy trời mở ra
Chúa Giêsu sau khi chay tịnh trong sa mạc trở về, đã đến bờ sông Giodan để xin thánh Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho mình. Bài Tin Mừng hôm nay chính là kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan. Thánh Gioan chính là vị đại ngôn sứ được Thiên Chúa sai đi trước dọn đuờng cho Đấng Cứu Thế. Ông đã sẳn sàng lãnh nhận sứ mạng Tiền hô (đi trước để báo – để dọn đường), nên ông làm phép rửa kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối. Phép rửa của Gioan không có giá trị thanh tẩy, nghĩa là không xóa được tội lỗi; nó chỉ nói lên tâm tình của người lãnh nhận, lòng chân thành hoán cải, muốn dứt bỏ tội lỗi. Chính vì lẽ đó, khi Gioan thấy Chúa đến xin chịu phép rửa, ông muốn từ chối: “chính tôi là người cần được Ngài rửa cho” (Mt 3, 14). Nhưng Chúa bảo Gioan cứ làm như thế để trọn lẽ công chính. Lúc đó Gioan mới vâng lời. Đang khi Chúa chịu phép rửa, tầng trời mở ra; Chúa Thánh Thần ngự xuống và cả tiếng Chúa Cha phán trong đám mây, như ta vừa nghe. Đây chính là đề tài mà ta cùng suy niệm trong chúa nhật hôm nay…
a/. Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay có hai điều làm ta phải suy nghĩ:
* Chúa Giêsu vô tội, tại sao phải chịu phép rửa? Giáo lýcông giáo dạy: Chúa Giêsu có hai bản tính: vừa là TC vừa là con người nữa. Chúa sanh ra làm người y như ta, dù vô tội, Chúa vẫn muốn chịu phép rửa của Gioan để tự đồng hóa, để nên ngang hàng như tội nhân, vừa nêu gương khiêm nhường, vừa nhắc nhở ta khiêm tốn ăn năn vì tội lỗi của chính mình. Đây chính là một tấm gương cao cả, vì con người chúng ta tội lỗi ngập tràn, nhưng thường chúng ta lại không khiêm tốn ăn năn, trong khi Chúa Giêsu là Đấng vô tội lại hạ mình ngang hàng với tội nhân. Thánh Phaolô nói: “Chúa Giêsu dù là TC,..đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang TC, mà mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống hệt một người phàm.”(Phil 2, 7). Về điểm này, thực ra, chúng ta không làm sao hiểu nổi tình yêu của TC dành cho con người chúng ta.
* Đang khi Chúa chịu phép rửa, có Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống và có cả tiếng Chúa Cha phán từ trong áng mây:
Chúng ta nên nhớ, đây là lúc khởi đầu cuộc đời công khai rao giảng của Chúa; chính vì thế khi Người chịu phép rửa, Phúc âm ghi lại: có Chúa Cha chứng giám: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”, có cả Chúa Thánh Thần hiện diện nữa. Đây chính là lúc quan trọng. Chúng ta biết Chúa Giêsu không làm bất cứ điều gì mà không theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Người cũng không làm bất cứ điều gì, mà không theo ý Chúa Cha; nghĩa là Chúa luôn vâng phục Chúa Cha, trong sự hợp nhất với Chúa Thánh Thần. Việc Chúa khởi đầu ra đi rao giảng, vẫn luôn có Ba Ngôi hiện diện và chứng giám. Chính Chúa Cha chúc lành, và Chúa Thánh Thần ban sức sống. Đó chính là mầu nhiệm Ba Ngôi hiệp nhất. Thánh Phaolô đã nói: “Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.” (Phil 2, 8). Ta thấy trong đời Người, chỉ có một lần Chúa Giêsu nan nỉ Chúa Cha, đó là trong vườn Giếtsêmani: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin Cha cho Con khỏi uống chén này.” Nhưng rồi sau đó Chúa lại nói: “nhưng xin đừng theo ý Con, chỉ xin theo ý Cha mà thôi.” (Mc 14, 36).
b/. Câu chuyện: Thánh Giêrađô, là người Ý, tu sĩ của Dòng Chúa Cứu thế (1726-1755). Thánh nhân được coi là một tấm gương thánh thiện, vâng lời tuyệt hảo. Một hôm cha bề trên có việc sai thầy Giêrađô sang thành lân cận. Vì đường xa, nên cha bề trên bảo thầy: “nhớ dắt lừa theo mà đi”, có ý cho thầy đở mệt nhọc, lại vừa đi mau về mau nữa. Thầy đã ra đi, nhưng mấy hôm sau mới về tới nhà. Cha bề trên liền hỏi: “Bộ thầy không đi bằng lừa sao?” Giêrađô trả lời: “Dạ có.” “Thế sao thầy về trể vậy?” “Dạ vì cha bề trên bảo con dắt lừa theo, nên con dắt mà không có cỡi, nên đi hơi lâu.” Cha bề trên cười xòa, nhưng cũng hiểu ra thầy muốn làm một việc hãm mình, để dâng cho Chúa. (Lm Hồng Phúc, dcct)
Ngày nay, nếu có một tu sĩ nào mà cư xử như thế, ta sẽ cho là điên, là “mát”, có khi còn đuổi không cho ở trong nhà tu nữa; nhưng ta thử nhìn lại: coi chừng Chúa Giêsu có khi còn bị coi là khờ, là “mát” hơn cả thánh Giêrađô nữa. Ở đây, người ta vẫn thắc mắc: Chúa Giêsu đã vô tội, vậy mà “mắc mới” gì phải xin thánh Gioan rửa cho mình? Dưới cái nhìn kiêu căng, không khiêm tốn tự bản chất, người ta khó mà hiểu được việc làm của Chúa Giêsu.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu, dù vô tội vẫn đến xin thánh Gioan làm phép rửa cho mình, đây là một mẫu gương khiêm nhường cao cả. Phần chúng ta là con người, với muôn tội lỗi ngập tràn, thực ra ta có đủ khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, nhất là ta có đủ khiêm tốn đến tòa cáo giảng khi mình có tội không?
52. Người phải được nâng lên - Lm. Thu Băng, CRM
Công Chúa Louise con vua Louis thứ 14, nước Pháp đã lơ là với cuộc sống đạo và tôn kính Chúa, khi bị các nữ tỳ phục vụ trách móc, không cầm được sự kiên nhẫn, đã trả lời:
- Các người không biết rằng tôi là con gái của Đức Vua, vua của các người sao?
Đám nữ tỳ đáp lại:
- Nhưng chúng tôi không phải là con cái của Thiên Chúa, của Đức Vua và của Công Chúa sao?
Công Chúa hiểu ngay là mình đã không tôn kính Thiên Chúa cho xứng đáng và sau này Công Chúa đã thành một nữ tu Dòng Kín. Công Chúa hay nghĩ tới câu trả lời đanh thép đó.
Trong một bữa tiệc thịnh soạn của Hoàng Hậu Elizabeth nước Pháp với đầy đủ bộ mặt quan quyền văn võ, mọi người nâng ly rượu lên uống rất vui vẻ. Bỗng có tiếng gõ vào bàn làm mọi người im lặng. Tiếng Hoàng Tử vọng lên:
- Các người quên Chúa rồi sao, chẳng có ai làm dấu để tuyên tôn Danh Chúa cả?
Hôm nay, nhân đọc bài Tin Mừng theo thánh Mátcô, chúng ta cũng gặp một người can đảm và hy sinh cuộc đời cho lý tưởng tôn vinh Thiên Chúa giữa muôn người, đó là Gioan Tiền Hô. Ngài vì Chúa Cứu Thế mà thực hiện cuộc sống ăn chay, cầu nguyện, la lớn tiếng để báo tin Đấng Cứu Thế đến. Ngài chịu xỉ nhục, chỉ trích trước mặt các Thầy Thông Giáo. Chịu tù đầy vì dám tố cáo vua lấy chị dâu của mình. Dám chịu chém đầu đặt trên đĩa đưa cho nàng Hêrôđia. Tiếng loan báo của Gioan làm mọi người tỉnh thức, nhận biết Chúa Giêsu và bước theo Người.
Chúng ta cũng được mời gọi như thế bằng việc làm: Thực tâm sống đạo, bằng lời nói: Tông vinh danh Chúa, loan tin cho người khác. Bằng hành động: Cung kính tôn vinh Thánh Thể, sốt sắng tham dự Thánh Lễ, các giờ Phụng Vụ, và thi hành các điều Chúa truyền dạy.
Tại Việt Nam, cuộc sống đau khổ đã đưa họ đến cuộc sống đức tin, sống đạo và tuân hành các giới luật cách nghiêm chỉnh, để Chúa được tôn vinh. Tại Hoa Kỳ, chúng ta có làm tôn vinh Chúa không? Có giúp Chúa đi vào trong các tâm hồn không? Có giúp Chúa đến với gia đình bạn không?
Ông chủ giầu có kia, có được một người con trai ruột thịt. Cậu đi du học ở nơi xa với chúng bạn. Ông chủ thương cả bọn, nên tháng tháng ông cung cấp cho họ mọi sự khiến các người đều tôn nhận ông là cha. Không may gặp cơn bạo bệnh, ông chết tốt, người con trai cùng các bạn hữu đều trở về đưa xác ông và thương khóc ông như thương khóc cha ruột vậy. Mấy người bạn muốn cướp gia tài của ông nên cứ nhận mình là con ruột. Quan Tòa cũng không biết biết xử cách nào và ai là con thừa kế. Họ quyết định một phen thử sức, nếu ai cầm súng bắn đúng tim cha mình thì đó là con thừa kế. Các con hăng hái chấp thuận. Lần lượt các con thi nhau bắn vào tim cha. Đến người cuối cùng cầm súng nhắm vào tim cha rồi anh buông súng xuống. Ba bốn lần nhằm bắn để đoạt gia tài nhưng cuối cùng chàng khóc, ném súng đi và tuyên bố:Thà rằng tôi không được gia tài còn hơn tôi ác tâm bắn cha mình. Quan tòa thẳng thắn công bố:Phiên tòa chấm dứt tại đây, vì đã tìm ra người thừa kế gia tài. Đó là chính người không chịu giết cha.
Nếu là người con đích thực của Chúa, chúng ta có bắn Chúa không? Nhưng nhiều khi muốn đoạt gia tài trần gian, chúng ta lại bắn Chúa. Nếu nói rõ ra thì chúng ta không bắn, nhưng trong u tối chúng ta lại sẵn sàng bắn.
Việc người Tin Lành cắm bảng quảng cáo I love Jesus ta cho là một việc quảng cáo kỳ cục, nhưng là một việc đáng suy nghĩ.
Việc người choai choai viết vào áo, gắn trên mũ, khắc xâm vào người ri rêu rao Hãy dành cho Chúa Giêsu một chỗ trong lòng bạn. Có đáng là điều cho ta suy nghĩ không?
Cuộc sống của ta là người Công Giáo không làm ra bề ngoài ấy, nhưng ta làm trong lòng, trong gia đình, trong xóm đạo. Hãy giúp Chúa Giêsu đến với chính mình, sống trong mình. Hãy giúp Chúa Giêsu được tôn vinh nơi gia đình, nơi xóm đạo mình. Hãy chứng tỏ mình là chứng nhân của Chúa bằng việc làm, bằng việc sống đạo. Chúa phải được nâng lên còn tôi phải hy sinh cho Người.
Xin Chúa soi sáng để chúng ta không theo ý riêng mình, không theo thú tính xác thịt. Hãy bắt chước Chúa Giêsu: Được dẫn vào rừng vắng để ăn chay cầu nguyện.
53. Ngày trọng đại nhất - Lm. Minh Vận, CRM
Bờ sông Jordan hôm đó nhộn nhịp khác thường, người ta lũ lượt từ các thành thị làng mạc tuốn đến; trong số đó, có cả các luật sĩ, các văn nhân, các thầy thông giáo, các quân nhân và đủ mọi thành phần trong xã hội. Họ đến đây để làm gì? Họ đến để nghe Gioan, vị Tiền Hô Chúa Cứu Thế rao giảng Phép Rửa Sám Hối, với những lời quả quyết vững mạnh và uy quyền: "Hãy sám hối, vì Nước Thiên Chúa đã gần đến!" (Mt 3:2) Mọi người đều tỏ lòng tin tưởng, ngưỡng mộ và khâm phục, sẵn sàng nghe theo lời giáo huấn của ngài và thật lòng sám hối cải thiện đời sống, bằng cách lãnh nhận Phép Rửa ngài ban tại sông Jorđan.
I. GIOAN VÀ PHÉP RỬA SÁM HỐI TỘI LỖI
Chúa Kitô cũng hòa mình trong đám quần chúng đến nghe Gioan rao giảng và cũng xin ông làm Phép Rửa cho Người. Gioan đã nhận ra Người và bỡ ngỡ kêu lên: "Chính tôi xin Thầy làm Phép Rửa cho tôi mới phải, sao Thầy lại đến xin tôi?" (Mt 3:14). Gioan phải sửng sốt, hổ thẹn vì ông đã nhận ra Người là Đấng Thiên Sai nhân loại đợi trông, Đấng là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, hóa thân làm người, mặc lốt phàm nhân tội lỗi, Đấng Tự Hữu, quyền năng và cao cả vô cùng, đã khiêm tốn tự hạ như một tội nhân đến xin ông làm Phép Rửa! Còn ông, mặc dầu được người ta tin tưởng và khâm phục coi ông như một vị tiên tri, hơn nữa, nhiều người còn tưởng ông là chính Đức Kitô, nhưng ông đã thẳng thắn tuyên bố trước mọi người: "Tôi không phải Elia, cũng chẳng phải là Đức Kitô!" Ngài xác quyết khi tự hạ: "Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, như Isaia đã tiên báo: Hãy dọn đường cho Chúa, san phẳng các nẻo Ngài" (Mt 3:3). Ngài còn minh xác thêm với mọi người: "Phần tôi, tôi rửa cho anh chị em bằng nước, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi đang đến, và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Người. Đó mới là Đấng sẽ rửa cho anh chị em trong Thánh Thần và bằng lửa" (Mt 3:11).
II. NGHI LỄ PHONG VƯƠNG VUA KITÔ
Để khởi đầu Sứ Mạng Cứu Thế, truyền bá Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Kitô đã khiêm tốn đến lãnh Phép Rửa Sám Hối bởi Gioan là vị tôi tớ và tiền hô của Người. Sau khi chịu Gioan làm Phép Rửa và bước lên khỏi nước, các tầng trời liền mở ra và có tiếng Chúa Cha tuyên dương Con Một Người: "Đây là Con Chí Ái của Cha! Con làm vui thỏa lòng Cha!" (Mt 3:17) Ngài còn phái Thánh Linh, dưới hình Chim Bồ Câu ngự xuống đậu trên Người, để xức dầu phong vương cho Người, như lời Thánh Phêrô Tông Đồ đã rao giảng: "Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Người. Người qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa những kẻ bị quỉ ám, bởi vì Thiên Chúa ở với Người!" (Act 10:38)
Ngay từ xa xưa, qua tiên tri Isaia, Chúa đã phán về Con của Ngài: "Tôi Tớ mà Ta nâng đỡ, là Người Ta tuyển chọn, Ta hài lòng về Người. Ta ban thần trí Ta trên Người... Để Người nên Ánh Sáng của chư dân, mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong bóng tối!" (xem Is 42:1-4,6-7) Lời đó hôm nay đã hoàn toàn được ứng nghiệm.
III. NGHĨA VỤ CỦA CON CÁI THIÊN CHÚA
Theo giáo lý của Giáo Hội, Chúa dùng Phép Rửa Sám Hối Người đã lãnh nhận nơi sông Jordan, như hình bóng Nhiệm Tích Thánh Tẩy Chúa sẽ thiết lập, để tẩy rửa và giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và quyền lực hỏa ngục, phục hồi cho chúng ta quyền làm con cái Thiên Chúa.
Qua Nhiệm Tích Thánh Tẩy, chúng ta được diễm phúc trở nên con cái Chúa, được thừa hưởng gia nghiệp Hạnh Phúc Vĩnh Cửu Nước Trời. Chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần xức dầu, cho tham dự quyền Vương Đế của Chúa Kitô, gia nhập Hàng Tư Tế và Dân Thánh của Chúa. Đồng thời, cũng được Chúa ủy thác nghĩa vụ mở rộng Vương Quốc của Chúa, tiếp tục Sứ Mạng Cứu Thế của Chúa Kitô: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm Phép Rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con" (Mt 28:19).
Chúa Kitô đã chịu Phép Rửa và được Chúa Cha sai đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Nhờ Phép Rửa đã lãnh nhận, Chúa cũng sai chúng ta ra đi, để chinh phục cho Chúa các linh hồn, phụng sự Chúa và phục vụ đồng loại.
Cha Petro Arrupê, là một nhân vật quan trọng thuộc Dòng Tên, ảnh hưởng lớn lao của ngài khắp nơi đã khiến nhiều người phải ngạc nhiên thán phục. Từ thời niên thiếu, giấc mơ của ngài là sẽ trở thành một bác sĩ, nhưng những năm theo học tại đại học, ngài đã có cơ hội được tiếp xúc với giới nghèo nàn cùng khổ, ngài động lòng thương họ và từ đó ngài đã chuyển hướng cuộc đời như ngài viết: "Cảnh khốn cùng đã vén tấm màn ngu dốt nơi mắt tôi. Từ đó, tôi xác tín rằng: Ngoài tôi ra, trong thế giới còn biết bao công việc phải làm". Thế là, năm 20 tuổi ngài xin vào tập viện Dòng Tên (1927). Sau 18 năm, ngài làm Giám Đốc tập viện tại một tỉnh nhỏ gần thành phố Hirosina Nhật Bản. Quả bom nguyên tử ném xuống, ngài đã đưa tất cả mọi người bị nạn về tập viện, tập viện của ngài lúc đó đã trở thành một bệnh viện cấp cứu cho dân chúng. Cũng như Cha Petro Arrupê, các Thánh và những linh hồn thành tâm theo sát gương Chúa Kitô, các ngài đã ý thức sứ mạng cộng tác với Chúa trong Sứ Mạng Cứu Thế, nên các ngài quảng đại xả thân phục vụ các linh hồn, sẵn sàng liều cả mạng sống vì phần rỗi các linh hồn, xứng đáng với ơn Nhiệm Tích Thánh Tẩy các ngài đã lãnh nhận.
Ngày lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy phải là ngày trọng đại nhất trong cuộc đời. Ngày Chúa trào đổ muôn hồng ân xuống trong tâm hồn, ban sức mạnh thiêng liêng cho chúng ta để rao giảng Mầu Nhiệm Nước Trời, mang Ơn Cứu Độ đến cho các linh hồn. Ngày đó phải được mừng long trọng như một kỷ niệm đáng ghi nhớ muôn đời.
Đức Thánh Cha Piô XI đã nếm hưởng những giây phút hạnh phúc của ngày thụ phong Linh Mục, ngài cũng đã trải qua những giờ phút rực rỡ của ngày tấn phong Giám Mục, đã hưởng cảnh uy nghi của ngày đăng quang Giáo Hoàng; nhưng ngài vẫn quí trọng và mừng kỷ niệm ngày ngài lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy hơn hết. Ngày mồng 1.6.1930, dịp lễ giáp năm lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy, ngài sung sướng nói với giới trẻ tại Rôma: "Ngày lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy là ngày cao quí nhất đời Cha; cũng thế, ngày chúng con lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy cũng phải là ngày cao quí nhất đời chúng con".
KẾT LUẬN
Hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta và cho mọi người được hiểu biết giá trị đích thực và cao quí của đặc ân Nhiệm Tích Thánh Tẩy chúng ta đã lãnh nhận; đồng thời, chúng ta cũng cầu xin cho chúng ta được ơn can đảm và quảng đại chu toàn sứ mạng Chúa ủy thác, làm tông đồ rao giảng Chúa cho mọi người, chinh phục họ về cho Chúa bằng chính cuộc sống chứng nhân thánh thiện của chúng ta.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta sống ơn gọi làm con cái Chúa, để Chúa cũng được sung sướng phán với chúng ta: "Đây là các con Cha yêu dấu, các con hằng làm vui lòng Cha!".
54. Nhận biết mình - Br. Thiện Mỹ, CRM
Nhận biết mình là người can đảm dễ thương đối với Thiên Chúa. Nhờ nhận biết mình chúng ta mới biết sự cao trọng của Đấng tạo dựng nên ta, đồng thời chúng ta sẽ vun trồng cho thân phận yếu hèn của mình.
Quả thực sự hiện hữu của ta thật nhỏ bé. Trước khi chào đời, chẳng ai bận tâm tới tôi. Sau khi tôi trở về bụi đất, thế giới vẫn nguyên hình tốt đẹp. Các nhà khoa học phân tích thân thể con người trong phòng thí nghiệm đã cho kết quả rằng thân xác ta chỉ là một số hợp chất hữu cơ và vô cơ. Chất sắt trong tôi chỉ làm được ba chiếc đinh năm phân. Chất vôi đủ để quét một bức tường của căn phòng nhỏ. Chất Potasse làm được một cục xà bông. Chất lưu huỳnh làm được một hộp quẹt.
Còn linh hồn tôi khi mới được dựng nên đã phải chịu án phạt bởi tội nguyên tổ cùng chịu gánh nặng đam mê đầy phức tạp. Dù tôi có cố gắng tránh né nhiều cạm bẫy của sa tan nhưng tôi vẫn luôn vương vấn tội lỗi.
Câu chuyện về người nước Áo có một truyền thống lạ lùng khi an táng các vị Hoàng Đế và Hoàng Hậu thuộc hoàng tộc Anturs. Các vị Vua Chúa của hoàng tộc này được an táng trong nhà thờ hầm do các cha dòng Capucine coi sóc, tại thủ đô Vienne.
Năm 1916 khi Hoàng Đế Francois Joseph của nước Áo qua đời, sau lễ cầu hồn tại nhà thờ chánh tòa Thánh Stêphanô ở Vienne, linh cửu của ông được chở đến hầm mộ nhà thờ trên một chiếc xe tang do tám con ngựa đen tuyền kéo. Đến nơi cửa hầm mộ vẫn còn đóng kín. Người đánh xe ngựa bước xuống và gõ cửa. Từ bên trong có tiếng của một cha dòng hỏi vọng ra: "Ai đó?". Người đánh xe ngựa trả lời:
- Đại Hoàng Đế Francois Joseph đang chờ ở ngoài đây, xin mở cửa mau!
- Tôi không biết người đó là ai. Tiếng nói bên trong đáp lại.
Một lát, người đánh xe lại gõ cửa và tiếng nói quen thuộc ở bên trong lại vọng ra hỏi: "Ai đó?". Người đánh xe trả lời:
- Đại Hoàng Đế nước Áo, Quốc Vương tông truyền của nước Hungari đang chờ ở ngoài. Xin mở cửa mau!
- Tôi không biết ông ta là ai.
Lần thứ III cũng màn gõ cửa và cũng câu hỏi đấy: "Ai đó?". Nhưng lần này người đánh xe dịu giọng lại, đáp:
- Đó là một người tội lỗi, một người anh em chúng ta là Francois Joseph.
Bấy giờ cửa hầm mộ mới được mở ra và linh cửu của Hoàng Đế nước Áo mới được đưa vào bên trong để an nghỉ bên cạnh các tiên vương.
Nhờ nhận biết mình mà cửa hầm mộ được mở ra, đó là vế thứ hai của câu chuyện. Còn trong lịch sử loài người, nguyên tổ dường như đi vào vế thứ nhất của sự việc: Do lòng ham muốn trái lẽ ước ao trở thành thần thánh nên nghe theo ma quỉ để rồi khởi sự dẫn loài người xuống dốc, mất ơn nghĩa Chúa và kèm theo hình phạt.
Nhưng hôm nay sự đối lập thánh thiện của Chúa Giêsu với công việc yếu đuối của nguyên tổ là: Chúa Giêsu tuy dù cao trọng vô cùng nhưng đã trở nên thân phận loài người, đến xin Thánh Gioan làm phép rửa. Sự khiêm nhượng thẳm sâu đã làm cho Đức Chúa Cha vui sướng. Lúc Người vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời mở ra và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán:"Con là Con yêu dấu của Cha, ngày hôm nay Cha sinh thành ra Con".
Chúa Giêsu bắt đầu cuộc khởi nguyên mới, cao quí gấp bội so với cuộc khởi nguyên đầu tiên khi Thiên Chúa dựng lên trời đất muôn vật và loài người. Chúa tiếp tục sinh ra con người trong ơn nghĩa Chúa. Người tín hữu cũng được Chúa Thánh Thần xức dầu và biểu dương qua bí tích rửa tội và thêm sức để như Người chúng ta được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa.
Cũng với sự nhận biết mình chúng ta luôn được tái sinh cách đẹp đẽ trong bí tích hòa giải. Nhờ công nghiệp Chúa Kitô tử giá, Ngài sẽ xóa sạch mọi tội lỗi và nâng đỡ những ai biết thống hối ăn năn cậy trông vào lòng thương xót của Người.
Ước gì trong cả cuộc đời và đặc biệt trong mùa Giáng Sinh này, chúng ta luôn nhận biết mình và tẩy rửa linh hồn trong Đức Kitô để xứng đáng trở nên con cái đích thực của Mẹ Maria ở đời này cũng như đời sau.
55. Chúa chịu phép rửa
Hôm nay Giáo hội tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu đến sông Giođan để chịu phép rửa. Qua cử chỉ dìm xuống nước, Chúa Giêsu nuốn mặc lấy thân phận yếu đuối của con người, Ngài là Thiên Chúa gánh tội trần gian. Tưởng niệm biến cố này, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta nhớ lại những cam kết của phép rửa mà chúng ta đã lãnh nhận. Qua phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập, Ngài cho chúng ta được dự vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Cùng với Ngài, chúng ta chiến đấu chống lại tội lỗi và sự dữ để được tham dự vào vinh quang phục sinh của Ngài. Cử hành cái chết và sự phục sinh của Ngài trong thánh lễ này, chúng ta hãy xin Ngài tẩy rửa tâm hồn chúng ta và ban sức mạnh để chúng ta tiếp tục chiến đấu chống lại tội lỗi và sự dữ trong cuộc sống của chúng ta.
Trong các dòng sông nổi tiếng trên khắp thế giới hẳng dòng sông Giođan phải là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu chúng ta. Chính tại đây Chúa Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cáh đón nhận phép rửa bởi Gioan tẩy giả cử hành. Chính tại dòng sông này, khi dìm mình xuống nước, Chúa Giêsu đã tỏ bày sứ mệnh của Ngài, đó là “gánh lấy tất cả tội lỗi của nhân loại”
Là Đấng vô tội, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa với người tội lỗi qua cử chỉ dìm mình trong dòng nước, đồng thời Chúa Giêsu loan báo chính cái chết mà Ngài sẽ trải qua. Phép rửa trong sông Giođan là hình bóng của phép rửa đích thực mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện, đó là cái chết của Ngài. Từ cạnh sườn Người khi máu và nước chảy ra, Chúa Giêsu đã khai mở một dòng sông mới để từ đó tất cả những ai đến dìm mình vào đều nhận được sức sống mới.
Tưởng niệm việc Chúa Giêsu chịu phép rửa bên bờ sông Giođan, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta nhớ lại phép rửa mà chúng ta được dìm mình vào trong chính cái chết của Chúa Giêsu. Dìm mình vào trong chính cái chết của Chúa Giêsu là gì nếu không phải là tiếp tục đi lại con đường tử nạn của Ngài. Phép rửa mà chúng ta lãnh nhận không phải là một nghi thức bùa chú. Người lãnh nhận bí tích rửa tội không đương nhiên trở thành một con người thánh thiện được miễn trừ khỏi những cám dỗ và yếu đuối trong cuộc sống. Có biết bao người lãnh nhận phép rửa để mang danh hiệu là người Kitô hữu, nhưng cuộc sống của họ không bao giờ là một tiếp tục cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô đã nói với chúng ta rằng: “Người tín hữu Kitô cần phải tiếp tục những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu”. Chịu phép rửa là khởi đầu một cái chết, là bước vào một cuộc chiến đấu, chiến đấu chống lại con người cũ của tội lỗi, chiến đấu chống lại không biết bao nhiêu cơn cám dỗ trong và ngoài con người của chúng ta. Chiến đấu chống lại không biết bao nhiêu sức mạnh của sự chết như ích kỷ, hận thù, chia rẽ, đố kỵ…
Tưởng niệm phép rửa mà Chúa Giêsu đã lãnh nhận bên bờ sông Giođan, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta về chính những cam kết mà chúng ta đã đoan hứa trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, đó là cùng chết với Đức Kitô để được sống lại với Ngài. Hằng ngày mỗi lần chúng ta giơ tay làm dấu Thánh giá là mỗi lần chúng ta được mời gọi để nhớ lại lời cam kết ấy.
Trên đường tiến về Jêrusalem, khi các môn đệ tranh luận về quyền bính, vương quốc tương lai của Ngài, thì Chúa Giêsu đã hỏi các ông: “Các con có sẵn sàng uống chén đắng mà Ta sắp lãnh nhận không?”. Ngày nay trong từng giâh phút của cuộc sống, Chúa Giêsu cũng hỏi từng người trong chúng ta như thế: “Các con có sẵn sàng chịu phép rửa mà Ta sắp lãnh nhận không?”. Chúng ta đang trải qua không biết bao nhiêu những khó khăn, thử thách và cạm bẫy trong cuộc sống. Sống một cách thiết thực phép rửa chính là sống từng giây phút trong cuộc sống bằng sự phấn đấu, bằng tinh thần từ bỏ và lòng tín thác của Chúa Giêsu. Và chúng ta tin rằng nhờ nguồn nước từ cạnh sườn mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta, chúng ta cũng được trong bị để chiến đấu và nhờ đ1o chúng ta được tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
56. Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa
Nói đến tình bạn tri kỷ thắm thiết, người Việt Nam chúng ta không bao giờ quên được đôi bạn tri kỷ Lưu Bình, Dương Lễ. Họ đã yêu thương nhau thật sự, không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng những việc làm trong suốt cả cuộc đời.
Trong những ngày đầu mới gặp nhau; Lưu Bình là một công tử nhà giàu, phong lưu, tốt bụng. Nhưng vì của cải, tài sản quá nhiều, anh ta chỉ biết lo hưởng thụ mà không nghĩ đến tương lai. Còn Dương Lễ là một sĩ tử nghèo lại hiếu học. Đôi bạn tri kỷ gặp nhau, mặc dù tài sản bên ngoài chênh lệch, nhưng họ có được điểm chung đó là lòng nhân. Lưu Bình lo cho Dương Lễ thành tài, còn chính mình thì không biết lo cho bản thân. Dương Lễ rất đau xót nhưng đành chịu.
Thời cơ đã đến. Lưu Bình sa cơ thất thế, tài sản khánh kiệt, chạy tìm đến người bạn nghèo năm xưa mà mình đã giúp đỡ. Nhưng anh ta đã thất vọng và bị đuổi ra khỏi nhà. Cô đơn, chán nãn vì thế thái nhân tình. Anh gặp được một người con gái xa lạ giúp đỡ. Anh quyết lập nên công danh để trả thù người bạn bạt ơn đã đuổi anh ra khỏi nhà.
Có chí thì nên. Lưu Bình đã công thành danh toại. Anh trở về tạ ơn người đã giúp đỡ mình, nhưng tìm hoài chẳng thấy. Anh đến nhà người bạn để đòi lại sự công bằng. Nhưng anh không thể nào đòi được, vì anh nhận thấy tình thương quá lớn lao, so với khổ nhục kế mà người bạn đã xử dụng để biểu lộ tình thương đối với anh. Vì yêu thương mà người bạn đã hy sinh người vợ yêu quí của mình, cho đến để giúp đở, cứu vớt, bằng cách: cùng chịu gian khổ, chia sẻ những vất vả, và đem anh về con đường ngay chính. Tình yêu đã làm cho người bạn sáng mắt, và tình yêu đã làm cho tình yêu của họ càng thêm vững bền.
“Không có tình yêu nào cao quí hơn tình yêu của người dám chết vì người mình yêu”.
Thiên Chúa đã yêu thương loài người, Ngài đã ban người con yêu quí nhất của Ngài cho loài người. Người Con yêu quí đó đã đến trần gian sống chung với loài người, chịu những cực nhọc đau khổ với loài người. Còn gì nữa? Cuối cùng đã hy sinh mạng sống vì loài người. Còn tình yêu nào cao quí hơn, và có mối tình tri kỷ nào vượt xa hơn được? Đến đỗi Thiên Chúa Cha không thể lặng thinh được nên Ngài phải tuyên bố công khai cho mọi người biết: “Con là Con Yêu Dấu Của Cha, Cha Hài Lòng Về Con” .
Tình yêu thương vĩ đại đó đã cải hóa không biết bao nhiêu người. Trải qua 2000 năm lịch sử, Tình yêu đó mỗi ngày một lớn mạnh hơn, cũng mở mắt được nhiều người hơn, làm cho nhiều người nhận thấy được Tình Yêu bao la tuyệt vời để quay trở về với Tình Yêu.
Mỗi người trong chúng ta đều được hưởng trọn vẹn tình yêu đó. Thiên Chúa mời gọi, giúp đở, dẫn dắt và khuyên nhủ chúng ta trở về với Tình Yêu, và Ngài cũng đã dùng tất cả mọi phương cách có thể được, kể cả khổ nhục kế để mời gọi chúng ta thức tỉnh. Đó là qua những thành công và thất bại của cuộc sống, những lần chúng ta cầu xin mà không được như ý. Chúng ta ngở rằng Thiên Chúa không còn yêu thương mình nữa. Nhưng nếu chúng ta chịu mở mắt ra nhìn thì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều tốt đẹp hơn cái mà chúng ta cầu xin. Bao nhiêu lần gặp thất bại, chúng ta có rút ra bài học gì không? Những lần chúng ta được thành công, được may mắn: chúng ta có biết tạ ơn Thiên Chúa, để nhìn thấy tình yêu thương bao la của Ngài trong những sự tốt đẹp đó. Nếu nhìn thấy được tình yêu, mỗi người nhìn lại xem đời sống của mình đã biến đỗi như thế nào? Tình yêu của Dương Lễ thể hiện qua người vợ yêu quí đã cảm hóa được chàng lãng tử Lưu Bình. Còn Tình Yêu bao la tuyệt vời của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, không ảnh hưởng gì đến chúng ta sao? Con Thiên Chúa đã sống kề cận với chúng ta, Ngài dùng tất cả mọi phương tiện đã ban cho, để mời gọi chúng ta quây trở về với con đường ngay chính. Chẵng lẽ trải qua bao nhiêu năm của cuộc đời, qua bao nhiêu năm mang danh nghĩa là người công giáo, chúng ta không thể động lòng trước tình yêu bao la tuyệt vời của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta nhìn lại xem: đời sống hiện tại như thế nào? Có tốt hơn trước hay tệ hơn? Chúng ta có tìm cách thay đỗi cuộc sống cho xứng đáng với tình yêu của Người Bạn Tri Kỷ đã hy sinh vì chúng ta chưa?
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Tiếng Chúa, và biết đáp lại Tình Yêu Chúa cho xứng đáng bằng đời sống tốt đẹp hơn.
57. Suy niệm của Lm Augustine
Đức Giêsu chịu phép rửa
Gioan Tẩy Giả đã gây được một phong trào sám hối trong xứ Pa-lét-tin. Đời sống nhiệm nhặt và lời giảng quyết liệt của ông có sức lôi cuốn người ta đến với sông Giođan để được ông làm phép rửa. Phép rửa của Gioan nhằm giúp con người bày tỏ lòng hoán cải, để chuẩn bị đón Đấng Mêsia sắp đến trong cơn thịnh nộ kinh khủng (x. Mt3,7-12).
Lạ thay trong số những người đến "xưng thú tội lỗi" (Mc 1,5) và chịu "phép rửa sám hối để được ơn tha tội" (Mc 1,4), lại có Đức Giêsu. Bấy giờ Ngài hơn ba mươi tuổi, vẫn sinh sống tại Nagiarét. Làm sao Đấng thánh thiện, Đấng quyền thế mà Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài, lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi, chờ đến phiên mình được chịu thanh tẩy? Đây là một câu hỏi không dễ trả lời, và làm cho nhiều người phải lúng túng. Chỉ có hai sách Tin Mừng kể lại việc Gioan làm phép rửa cho Đức Giêsu (Mc 1,9-11; Mt 3,13-17). Còn Tin Mừng Luca và Gioan thì tránh không nói đến. Làm sao Đấng vô tội lại trở thành môn đệ của Gioan Tẩy Giả để được ơn… tha thứ? Chính Tin Mừng Matthêu cũng cố gắng trả lời câu hỏi này: "Bây giờ cứ thế đã. Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính" (Mt 3,15), nghĩa là để làm trọn ý Thiên Chúa.
Như thế việc Đức Giêsu được Gioan ban phép rửa thật là một xì-căng-đan ngay trong Hội Thánh sơ khai. Đức Giêsu có tội không mà cần chịu phép rửa sám hối? Các môn đệ của Gioan về sau cũng dựa vào sự kiện này để khăng khăng cho rằng Thầy mình hơn hẳn Đức Giêsu.
Khi suy niệm về mầu nhiệm Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan, các Giáo Phụ đã đưa ra một số lý do để soi sáng. Dù vô tội và cao trọng hơn Gioan, nhưng Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa trong nước vì:
- Ngài muốn kêu gọi những kẻ khác noi theo gương Ngài mà đến chịu phép rửa do Ngài thiết lập sau này.
- Ngài muốn làm một hành vi khiêm tốn cho ta noi theo.
- Ngài muốn công nhận giá trị phép rửa của Gioan.
- Ngài muốn lần đầu tiên ra mắt trước công chúng, để chuẩn bị cho họ nghe Ngài và theo Ngài.
- Ngài muốn thánh hoá dòng nước sông Giođan và mọi dòng nước khác, để nhờ sự hiện diện và tác động của Ngài mà mọi dòng nước có thể trở nên nguồn cứu độ.
Liên đới với tội nhân
Tin Mừng Mc 1,9-11 không chú trọng việc Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan, cũng không giải thích tại sao Ngài làm như vậy. Đức Giêsu đã bắt đầu cuộc đời công khai của mình một cách khiêm hạ lạ lùng. Ngài đã bỏ Nagiarét để đến Bêtania, bên kia sông Giođan, chỗ gần Biển Chết. Đấng mà Gioan nghĩ là một vị thẩm phán nghiêm khắc, Đấng ấy lại xếp hàng chung với những tội nhân chờ chịu thanh tẩy. Ai có thể nhận ra Ngài, vì Ngài quá đỗi bình thường? Đấng Cứu Độ lại cư xử như người đang cần được cứu độ.
Nhìn Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đứng với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là liên đới với người khác. Để liên đới với tội nhân, với dân tộc mình, với cả nhân loại đang cần ơn cứu độ, Con Thiên Chúa không ngại che khuất cái cao sang, siêu việt và cả sự thánh thiện ngàn trùng của mình nữa. Nhờ mang thái độ tự hạ, tự huỷ này, mà Đấng Thánh của Thiên Chúa có thể đứng chung với người tội lỗi, dìm mình xuống cùng một dòng nước như họ. Thiên Chúa chúng ta là một Thiên Chúa khiêm hạ, vì Ngài muốn đi xuống tận đáy vực thẳm nơi chúng ta đang sống, để nâng chúng ta lên. Chỉ tình yêu mới làm chúng ta hiểu được hành động của Ngài. Nhập thể chính là để liên đới với từng người chúng ta trong mọi cảnh ngộ của cuộc sống.
Liên đới bên dòng sông Giođan chỉ là khúc dạo đầu cho cả một cuộc đời liên đới của Đức Giêsu. Ngài bị mang tiếng là "tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi" (Lc 7,34). Liên đới với những người sống ngoài lề xã hội và tôn giáo chính là để đưa họ trở về với thế giới của con người và thế giới của Thiên Chúa. "Tôi đến để kêu gọi người tội lỗi" (Mt 9,13): Đó là hướng đi của đời Đức Giêsu. Tuy vô tội, nhưng vì mang tinh thần liên đới, Đức Giêsu cũng có thể cảm được thế nào là tâm tình ray rứt hay hối hận của một kẻ phạm tội. Thánh Phaolô đã viết một câu kinh khủng cho thấy Đức Giêsu đã thực sự đồng hoá với thân phận tội nhân đến mức nào: "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã làm cho Ngài thành tội vì chúng ta" (2C 5,21). Đức Giêsu đã chết như một người phạm trọng tội, bị đóng đinh giữa hai tử tội. Ngài đã đem đến niềm hy vọng cho người trộm lành: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43). Khi gắn bó với những người không còn được yêu mến và kính trọng, Đức Giêsu đã đem đến cho họ một thế giới nồng nàn tình yêu; trong thế giới này không có hàng rào ngăn cách người tội lỗi với người đạo đức, mà chỉ có những người tội lỗi được Thiên Chúa yêu thương và cứu độ.
Sự thánh thiện không đội trời chung với tội lỗi, nhưng sự thánh thiện đích thực lại cúi xuống trên tội nhân, và biến đổi họ. Chúng ta thường sợ mình bị vấy bẩn vì tiếp xúc với người tội lỗi. Thật ra chúng ta chỉ nên sợ là mình chưa thánh thiện thực sự. Ánh sáng chẳng sợ bóng tối làm mình tối. Nó len lách vào mọi ngõ tối của cuộc đời, và chính lúc người ta tưởng chiếc áo của nó bị vấy bẩn, thì nó lại xuất hiện với tất cả vẻ rực rỡ hơn xưa.
Trong gia đình, trường học, xí nghiệp, giáo xứ… chỗ nào cũng có những người bị xa lánh vì đã từng vấp váp trong đời. Tôi có dám đi chung với họ không, dù có tiếng xì xào của dư luận? Tôi có dám bênh vực một người cô thế không, dù rằng tôi có thể mất đi sự ủng hộ của nhiều người khác?
Đầy Thần Khí để được sai đi
Sau lúc Đức Giêsu tự hạ, dìm mình trong dòng nước, thì Ngài nhận được một thị kiến hết sức quan trọng. Thị kiến này được mô tả bằng lối nói của văn chương Khải huyền. Có ba yếu tố cần lưu ý: các tầng trời xé ra, Thần khí ngự xuống, và tiếng phán từ trời. Các tầng trời xé ra là dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa muốn tiếp xúc với con người và thông truyền cho con người một mạc khải. Như Edêkien khoảng 6 thế kỷ trước đây (Ed 1,1); Đức Giêsu cũng thấy trời mở ra và qua đó Thần Khí ngự xuống trên mình như chim bồ câu.
Đức Giêsu được đầy Thần Khí, đó là một cảm nghiệm khôn tả của Ngài. Thần Khí chính là sự hiện diện của Thiên Chúa xâm nhập vào người được tuyển chọn, ban cho người ấy dồi dào mọi ơn cần thiết để có thể vuông tròn một sứ mạng quan trọng đặc biệt. Vị ngôn sứ được nhắc đến trong I-sai-a (61,1-3) là người có Thần Khí của Đức Chúa. Chính Đức Giêsu đã áp dụng đoạn sách này cho mình trong khi giảng ở hội đường Nagiarét (Lc 4,18-19). Được ban Thần Khí nghĩa là được sai đi. Khi Đức Giêsu cảm nghiệm được Thần Khí nơi mình, thì Ngài biết đã đến lúc Ngài được sai đi để loan báo Tin Mừng và làm những dấu chỉ cứu độ.
Tiếng nói từ trời không phải là những lời nguyên văn của Thiên Chúa được ghi lại, nhưng nó phản ảnh niềm tin của Hội Thánh vào căn tính của Đức Giêsu. "Con là con yêu dấu của Cha." Trong thánh vịnh 2,7, vị vua Mêsia cũng được Đức Chúa gọi là con vào đúng ngày phong vương: "Con là con của Ta, hôm nay Ta đã sinh ra con." Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng được Cha long trọng tấn phong làm Mêsia, Đấng mà Cha yêu quý và tuyển chọn.
Khi đọc những yếu tố mô tả có tính khải huyền trên đây, chúng ta không nên hiểu theo nghĩa đen như thể là bầu trời mở ra thật, hay Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống. Điều quan trọng là những ý nghĩa của mô tả đó. Sau khi chịu phép rửa bởi Gioan, Đức Giêsu xác tín đã đến lúc mình lên đường thi hành sứ vụ. Ngài đã nhận được sức mạnh từ Cha và được sai đi vào thế giới, kết thúc hơn ba mươi năm âm thầm ở Nagiarét. Cả đời Đức Giêsu sau này vẫn hướng về một phép rửa khác, đó là cuộc khổ nạn Ngài phải chịu ở Giêrusalem: "Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất" (Lc 12,50). Từ phép rửa đến thập giá phát sinh ra nguồn sống cho mọi phép rửa của các Kitô hữu. Phép rửa nào cũng đòi dìm mình xuống, chết cho mình qua phục vụ.
Nhờ phép rửa, tôi được trở nên con cái yêu dấu của Thiên Chúa và được tràn đầy Thánh Thần. Nhưng thực sự, việc dìm mình trong Ba Ngôi đã biến đổi tôi như thế nào? Đời sống của tôi có phải là một cuộc lên lại từ sông Giođan không? Ước gì tôi nhớ mãi mình đã được xức dầu, được mang nến sáng, được mặc áo trắng, được dìm mình trong nước để rồi được sai đi làm chứng cho mọi người.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Để sống liên đới với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị kỳ thị, theo ý bạn, có phải trả giá không? Có khi nào bạn sống liên đới với một người bạn đang cô đơn tron cảnh khó khăn không?
2. Vì được rửa tội từ nhỏ, nên chúng ta ít thấy sự biến đổi lớn lao do bí tích này mang lại. Bạn có quen ai thực sự đổi đời sau khi được rửa tội không?
58. Suy niệm của Lm Trọng Hương
A. Hạt giống...
Theo cách trình bày của Thánh Matthêu, việc Chúa Giêsu chịu phép rửa là dịp Thiên Chúa giới thiệu cho người ta biết Ngài chính là Đấng Messia, tuy nhiên không phải là một Đấng Messia như người ta tưởng, mà là Đấng Messia Tôi Tớ:
- Đối với Gioan tẩy giả, ông vẫn tưởng Đấng Messia phải là một quan tòa. Ngài đến để trừng phạt kẻ ác và thưởng kẻ lành (x. đoạn Tin Mừng liền phía trước: Mt 3,12). Vì thế khi Chúa Giêsu khiêm tốn xin ông làm phép rửa cho mình như cho những tội nhân khác thì ban đầu ông từ chối. Sau đó Chúa Giêsu cho ông biết là ông và Ngài cần phải làm theo ý Thiên Chúa (“Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”) thì ông mới làm.
- Đối với dân chúng có mặt hôm ấy, họ đã nghe tiếng Thiên Chúa từ trời giới thiệu Chúa Giêsu bằng những lời mà Cựu Ước đã dùng khi nói về Người Tôi Tớ của Thiên Chúa: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”
B.... nẩy mầm.
1. Cả Gioan tẩy giả và dân chúng do thái đều không hiểu nổi Đấng Messia lại là một Người Tôi tớ khiêm tốn hiến thân phục vụ nhân loại cho đến chết. Hai ngàn năm đã trôi qua, vậy mà ngày nay chúng ta cũng vẫn thế. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho người ta như một Đấng quyền phép hay một quan tòa xét xử. Chúng ta bỏ sót một phương diện rất quan trọng của Ngài: Ngài trước hết là một Người Tôi Tớ hiến thân phục vụ. Đạo của Chúa Giêsu là một đạo hiến thân phục vụ, người môn đệ của Chúa Giêsu cũng phải là người hiến thân phục vụ.
2. Cả hai vai chính trong chuyện này đều khiêm tốn: Gioan khiêm tốn tự hạ mình để đề cao Chúa Giêsu; Chúa Giêsu khiêm tốn xin Gioan làm phép rửa cho mình. Người khiêm tốn là người chỉ nghĩ đến việc chu toàn nhiệm vụ chứ không quan tâm đến vinh dự cá nhân.
3. Một chiếc xe tải không thể qua cầu được vì nóc xe cao quá nên chạm vào mái che của chiếc cầu. Chẳng ai nghĩ ra được cách nào cả. Khi đó một cậu bé đưa ý kiến: hãy xì bớt hơi các bánh xe của nó. Người ta đã làm theo, và xe đã qua được cầu. (Quote).
4. Truyện thần thoại hy lạp có kể về hai cha con Idam, Ika và những cánh tay của họ. Idam là một kiến trúc sư kiêm điêu khắc. Ông đã xây (bát quái trận đồ để nhốt con quái vật đầu người mình thú. Về sau, chính vua Minos đã bắt giam hai cha con Idam và Ika vào đó. Nhưng họ đã chế được những chiếc cánh làm bằng lông và sáp giúp họ bay ra khỏi bát quái trận đồ. Thích thú với cuộc du hành vũ trụ bất ngờ, Ika cứ muốn bay mãi lên cao, mặc cho người cha ngăn cản. Ika càng lúc càng bay đến mặt trời cho nến sáp bắt đầu chảy. Cuối cùng, khi sáp không còn nữa, đôi cánh mềm lại, những chiếc lông rời ra, Ika rớt xuống biển sâu và thiệt mạng.
Huyền thoại trên đây thường được xử dụng để nói đến sự kiêu hãnh dẫn đến thảm trạng cho con người (Chờ đợi Chúa).
59. Cộng tac với Chúa
Bảy trăm năm về trước, tiên tri Isaia đã mô tả về đấng cứu thế, không phải với những đường nét của một vị đế vương hùng mạnh, nhưng với đường nét của một người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê.
Và ngày hôm nay, những đường nét ấy bắt đầu được thực hiện nơi Đức Kitô. Ngài là một bậc thầy dịu hiền, kiên nhẫn và khoan dung, cố gắng làm cho muôn dân nước nhận biết khuôn mặt và giới luật của Thiên Chúa. Nhìn vào cuộc đời của Ngài, chúng ta sẽ nhận thấy đúng như tiên tri Isaia đã loan báo:
- Này là tôi tớ mà Ta đã lựa chọn. Ngài sẽ không bẻ gãy cây sậy đã bị dập nát, không thổi tắt tim đèn còn leo loét…
Ngài không đến để đè bẹp muôn dân, nhưng đến để thiết lập công bình và rao giảng chân lý. Ngài sẽ mở mắt cho người mù, dẫn khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa khỏi ngục những người còn ngồi trong tăm tối.
Đúng thế, nhân loại như một kẻ bị đui mù bởi những đam mê dục vọng bất chính, thì ngày hôm nay Ngài đến để đem lại ánh sáng. Ngài không phải chỉ chữa lành những tật bệnh phần xác, mà còn thực sự giải phóng tâm hồn chúng ta khỏi những trói buộc của tội lỗi bằng tình thương và ơn tha thứ.
Và cũng ngày hôm nay, nơi dòng nước sông Giocđan, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài và từ trời có tiếng phán:
- Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Từ lời xác quyết của trời cao, chúng ta nhận biết Đức Kitô chính là người đầy tớ, người con yêu dấu của Thiên Chúa, đem lại cho tất cả chúng ta lời giao ước và ánh sáng, chân lý và tự do. Hay nói một cách khác, Ngài đến để cứu chuộc chúng ta. Tuy nhiên, Ngài muốn chúng ta, những người Kitô hữu trên khắp cùng bờ cõi trái đất, cộng tác với Ngài để cùng làm việc cho nước Ngài được trị đến.
Jacques Loew, trước kia là một người vô thần, sau đó đã quay về với Chúa và trở nên một linh mục thuộc dòng Đa minh. Ngài có một đam mê về Đức Kitô, ngài sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh gian khổ để đem Tin Mừng đến cho những anh em nghèo túng và bất hạnh. Ngày kia, ngài đi dạo tại thành phố Marseille, vừa đi vừa suy nghĩ, phải làm thế nào để thực hiện cái ước vọng tông đồ của mình?
Như được Chúa soi sáng và kêu mời, ngài bỗng dưng đi tới quyết định: Để chống lại sự đau khổ và nghèo túng, thì chỉ có một phương thế, đó là hãy sống đau khổ và nghèo túng.
Đây không còn là những giây phút để ngồi nghiên cứu sách vở, thế là đi xuống chợ ngài mua một cái mũ và một bộ quần áo lao động như mọi người, rồi sau đó đi làm việc cực nhọc và sống với những người nghèo túng.
Và cứ thế tiếp diễn hơn 20 năm cuộc đời của ngài, để rồi cuối cùng ngài đã tìm thấy ngôn ngữ và phương cách truyền bá Tin Mừng cho người nghèo, để họ cũng nhận ra rằng: Nước Thiên Chúa đã trị đến.
Nỗi đam mê của các vị tông đồ nhiệt thành là như thế. Còn chúng ta thì thế nào? Chẳng lẽ chúng ta đành bó tay hay sao?
60. Khúc dạo đầu
Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây: Cả cộng đoàn đều thắc mắc khi thấy vị kinh sư của mình tuần nào cũng biến đâu mất vào hôm trước ngày Sabat. Họ nghĩ rằng ông bí mật đi gặp Đấng Tối Cao. Vì thế, họ cử một người theo dõi ông.
Và đây là điều người ấy chứng kiến. Vị kinh sư hóa trang bằng cách ăn mặc như một dân quê, đến phục vụ một bà già thuộc dân ngoại trong căn lều tồi tàn của bà. Ông quét dọn và nấu ăn cho bà trong ngày Sabat.
Khi thám tử trở về, cộng đoàn hỏi:
- Kinh sư đi đâu? Ngài lên trời phải không?
Người kia đáp:
- Không, ngài còn lên cao hơn cả trời nữa.
Có ai ngờ vị kinh sư lại âm thầm đến với người đàn bà ngoại đạo, nghèo nàn để chăm sóc bà trong ngày Sabat? Có ai tin được Đức Giêsu, Đấng thánh thiện cao cả, lại xin Gioan làm phép rửa cho?
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu.
Chỉ có tình yêu mới giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm nơi dòng sông Giorđan.
Chỉ có tình yêu mới làm cho Con Thiên Chúa tự che khuất sự cao sang thánh thiện, để dìm mình trong phép rửa “thống hối”.
Chỉ có tình yêu mới làm cho Đấng Cứu Độ sống như người cần được cứu độ.
Phép rửa hôm nay chỉ là khúc dạo đầu của bản trường ca tình yêu. Để rồi vì yêu thương, từ đây Con Thiên Chúa sẽ bị người đời liệt vào: “Tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”. Bị người nhà coi là “kẻ mất trí”. Bị xua đuổi ra khỏi thành. Bị lên án như một tội nhân. Và bị chết treo giữa những tên trộm cướp. Đến nỗi thánh Phaolô đã phải thốt lên: “Đấng chẳng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta”.
Đức Giêsu gọi cuộc thương khó của Người là một “phép rửa”. Người trầm mình trong đau khổ để mang lại ơn cứu độ cho mọi người: “Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”.
Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở nên các Kitô hữu, “con cái yêu dấu” của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi đi loan báo tin vui cứu độ, rằng Thiên Chúa yêu thương con người. Chúng ta được mời gọi đặc biệt để mang tình yêu Chúa đến cho những người cùng khổ, những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị sa ngã trong tội. Martin Luther King có nói: “Hãy yêu thương mọi người đừng vì thiện cảm; cũng không vì cách sống của họ dễ mến, dễ thương. Nhưng vì chính Thiên Chúa ở trong họ”. Nếu chúng ta chờ cho họ trở nên đáng yêu rồi mới yêu họ, chúng ta sẽ phải chờ suốt đời. Chính khi được yêu mà họ sẽ trở nên đáng yêu.
Trong biển đời mênh mông này, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn hướng xấu, chúng ta chớ cho rằng mình đã hiểu tới chân tơ kẽ tóc một ai đó. Cứ nghe theo trái tim mách bảo mà quảng đại trao ban.
Zundel viết: “Đừng để ai trong những người anh em của chúng ta có thể phàn nàn, rằng họ chẳng gặp được lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi chúng ta”.
61. Dòng sông sám hối
Có vị sư nọ gặp ở giữa đường một viên ngọc quí. Vì nghĩ rằng mình là người tu hành không cần chi thứ đó, nên ông đem giấu viên ngọc này ở một gốc cây.
Ngày nọ có người hành khất đến ăn xin. Ông không có gì cho anh. Bỗng nhớ lại viên ngọc, nhà sư chỉ cho anh chỗ giấu. Người ăn xin đến gốc cây và tìm thấy viên ngọc. Cầm ngọc quí trong tay, người ăn xin rất đỗi vui mừng, nhưng anh ta suy nghĩ: Tại sao vị sư lại chấp nhận sống nghèo khó trong khi có một viên ngọc quí giá thế này? Sau một thời gian suy nghĩ, anh cầm ngọc quí trả lại cho nhà sư và nói:
“Bạch thày, con thấy trong lòng thày có một sự giàu có to lớn, đến nỗi thày không thiết đến viên ngọc này. Vậy con chỉ xin thày cho con sự giàu có trong lòng thày mà thôi”.
Câu chuyện tới đây là kết thúc, nên chúng ta không biết nhà sư có chỉ cho người ăn xin “sự giàu có bên trong” của ông không, nhưng Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy.
Giữa dòng người chen lấn nhau xuống sông Giorđan để xin Gioan làm phép rửa cho, tại sao chẳng một ai nhận ra Đức Giêsu, duy chỉ mình Gioan nói: “Chính tôi mới cần Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!”. Phải chăng Gioan đã nhận ra “sự giàu có bên trong” của một con người rất đỗi bình thường ấy? Và chúng ta đã không phải đợi chờ lâu. Khi Gioan từ chối làm phép rửa cho Đức Giêsu, thì Người đã trả lời: “Bây giờ cứ thế đã, vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”. Giữ trọn đức công chính cũng có nghĩa là chu toàn thánh ý Chúa. Chính vì thế, khi Đức Giêsu vừa chịu phép rửa, Chúa Cha đã tuyên phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”.
Như vậy, sự giàu có đích thực không phải là thu tích cho nhiều của cải châu báu, mà là luôn giữ trọn đức công chính, là tuân hành thánh ý Chúa, là trở nên con yêu dấu của Cha.
Chính để sống đẹp lòng cha, mà người Con đã từ trời xuống thế, mặc kiếp phàm nhân để cứu độ muôn người. Hôm nay, Người kết thúc giai đoạn ẩn dật ở Nagiarét, để khởi đầu sứ vụ công khai rao giảng. Người đi xuống Giorđan, để dìm mình trong dòng sông sám hối. Tiếng Giorđan trong ngôn ngữ Do thái có nghĩa là “người đi xuống”. Vì sông Giorđan quá thấp, thấp hơn mặt biển gần 400 mét. “người đi xuống” ấy không phải ai khác, chính là Con Chúa, Đức Giêsu Kitô. Người không chỉ xếp hàng chung với tội nhân, mà còn đồng hóa mình với tội nhân, để chết thay cho tội nhân. Chính nơi bờ sông, người ta mới có được sự yên tĩnh nghỉ ngơi, xa phố thị ồn ào. Nhìn dòng sông lững lờ trôi, lắng nghe dòng sông nhiều điều mách bảo.
Nếu Con Thiên Chúa đã chấp nhận hòa mình trong dòng người tội lỗi, có lẽ nào chúng ta lại dám nghĩ mình nhân đức thánh thiện hơn anh em.
Nếu Đấng Thánh vô cùng đã tự nguyện dìm mình xuống dòng sông sám hối, có lẽ nào chúng ta lại ngần ngại cúi mình lãnh nhận ơn tha thứ.
Lớp da cũ sau một lần tắm gội đã biến thành bùn đất. Con người cũ sau một lần đổi mới đã trở nên con người mới. Hãy ngẩng cao đầu đi giữa nhân sinh.
62. Người con Chúa
Chúa nhật cuối cùng của Mùa Giáng sinh thường được dành để kỷ niệm việc Chúa Giêsu chịu phép rửa của thánh Gioan Tiền hô tại sông Giorđan. Đây cũng là một cuộc hiển linh của Thiên Chúa nói chung và của Chúa Giêsu nói riêng, vì trong biến cố này Thiên Chúa muốn loan báo và mạc khải cho mọi người biết về Thiên Chúa và một số chân lý khác.
Trước hết, mạc khải mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đây là một lần mạc khải công khai có cả Ba Ngôi cùng hiện diện: Ngôi Cha chỉ xuất hiện qua tiếng nói: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Ngôi Con là Chúa Giêsu, Đấng nhận phép rửa, đang hiện diện cụ thể ở sông Giorđan. Ngôi Ba Thánh Thần, xuất hiện qua hình ảnh chim bồ câu.
Thứ hai, mạc khải Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa Cha đã xác nhận và giới thiệu điều này và kêu gọi mọi người hãy lắng nghe lời Chúa Giêsu, hãy đến với Ngài để đón nhận nguồn hồng phúc vô biên của Thiên Chúa.
Thứ ba, mạc khải ý nghĩa và giá trị phép rửa của Chúa Giêsu. Chính thánh Gioan đã khẳng định điều này: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần”.
Xin chia sẻ một điều về ý nghĩa và giá trị cao quí của Bí tích Rửa tội. Chúng ta biết phép rửa của Gioan Tiền hô chỉ là một nghi thức tượng trưng, có mục đích nhắc nhở và thúc giục người ta ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Phép rửa này không có khả năng tẩy xóa tội lỗi, không có năng lực ban ơn thánh. Bởi vì phép rửa này không phải là một bí tích, đúng như thánh Gioan đã quả quyết, đồng thời Ngài cũng giới thiệu một phép rửa khác, phép rửa của Chúa Giêsu, là phép rửa bằng Thánh Thần, nghĩa là phép rửa của Chúa Giêsu là một bí tích thông ban Chúa Thánh Thần, mặc dầu cũng dùng tới nước, nhưng nước chỉ là điều kiện, là nghi thức bên ngoài, còn thực sự là được rửa bằng Thánh Thần, biến đổi con người tội lụy nên con Thiên Chúa, và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nước trời.
Khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm sự chết và sống lại của Ngài. Chúng ta vào đời khi được sinh và vào đạo của Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong nghi thức rửa tội chúng ta được dìm trong nước hoặc đổ nước trên đầu để chỉ việc tẩy rửa khỏi tội tổ tông và mọi tội riêng, được sinh lại làm con cái của Chúa và gia nhập vào Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội coi bí tích tửa tội như một cuộc tái sinh, người được rửa tội trở thành một con người mới. Họ thấy đâu là ơn gọi và định mệnh của con người, đâu là ý nghĩa của cuộc đời.
Có một cụ già, mãi tới khi 80 tuổi mới lãnh nhận phép rửa tội. Bắt đầu từ đó cụ sống một đời rất gương mẫu. Hai năm sau, cụ hấp hối. Có người muốn biết cụ bao nhiêu tuổi. Cụ dõng dạc trả lời: “Tôi mới có hai tuổi. Tám mươi năm trước khi rửa tội là những năm chết. Tôi mới bắt đầu sống thật khi tôi chịu phép rửa tội”. Thật là chí lý.
Bí tích Rửa tội quí trọng vô cùng, là cửa đưa chúng ta vào đoàn chiên của Chúa là Giáo Hội, vào hàng ngũ con cái Chúa, đồng thời từ đây chúng ta được gọi là Kitô hữu. Kitô hữu là người có Chúa Kitô. Mỗi Kitô hữu là một Đức Kitô thứ hai. Mỗi Kitô hữu là một nối dài của chính Đức Kitô. Đó là tước hiệu cao quí của chúng ta. Tước hiệu ấy không mua bằng tiền bạc. Tước hiệu ấy không chỉ sáng ngời trong những dịp lễ lạc, hội hè, mà phải luôn chiếu tỏa trong từng giây phút của cuộc sống.
Nhưng phải chăng nhiều người trong chúng ta đã là Kitô hữu một cách miễn cưỡng? Đức tin chưa phải là niềm vui sống mà chỉ là một mớ những ràng buộc khiến chúng ta cảm thấy nặng nề, khó khăn? Ngoài những ràng buộc của luân lý Kitô giáo và gánh nặng của những sinh hoạt đạo giáo, biết đâu nhãn hiệu Kitô hữu lại không là đầu mối của biết bao kỳ thị, thiệt thòi trong cuộc sống của chúng ta? Chúa Kitô đã mang lại cho chúng ta cuộc sống mới của những người con Thiên Chúa, cho dầu cuộc sống ấy có thể tạo ra nhiều ràng buộc, có thể đòi hỏi nhiều hy sinh và chiến đấu, có thể gây nên những phiền toái, thua thiệt… nhưng đó là giá để chúng ta đạt được niềm vui đích thực trong cuộc đời làm con Chúa.
Đàng khác, chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và đã được trở thành con Thiên Chúa. Nhưng chúng ta đã sống ơn cao quí này như thế nào? Cha trên trời có hài lòng về chúng ta không? Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Cha đã phán: “Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con”. Còn chúng ta thì sao? Nếu như bây giờ, nhận định về chúng ta, Chúa Cha sẽ nói thế nào? Chúa hài lòng hay Chúa phải buồn rầu, đau lòng và than phiền?
Chúng ta hãy nhớ: ơn cao trọng và cao quí nhất khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội là ơn được làm con Chúa. Vậy chúng ta phải luôn cố gắng sống xứng đáng là những người con mà Chúa hài lòng về chúng ta.
63. Công khai thi hành thánh ý Cha
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hằng năm đánh dấu một giai đoạn mới của năm Phụng vụ. Giai đoạn 1 của mùa Thường niên được bắt đầu với lễ này. Quan trọng hơn là với lễ này chúng ta được nhắc nhớ lại biến cố có một không hai trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã hạ mình xuống để cùng chịu phép rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả như bao nhiêu người khác. Biến cố này đánh dấu một bước ngoặc mới trong cuộc đời của Người.
Sau ba mươi năm sống ẩn dật, hôm nay Chúa Giêsu chính thức công khai thi hành thánh ý Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha là Người đem ơn cứu độ đến cho toàn thể nhân loại. Vì vâng nghe theo thánh ý đó nên Chúa Giêsu đã được Chúa Cha long trọng tuyên bố: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con" (Mc 1, 11)
Trọn cả cuộc đời của Chúa Giêsu, Người luôn xem thánh ý Chúa Cha là ưu tiên một. Cho nên, Người luôn vâng theo tất cả những gì Chúa Cha muốn. Thực sự thánh ý Chúa Cha chỉ vì yêu thương con người đang sống trong lầm than khốn khổ vì tội lỗi và sự chết.
Có thể chúng ta sẽ cho rằng Chúa Cha sao độc ác với Chúa Cha Con Một của mình quá. Trong bài đọc 1 chúng ta sẽ thấy Chúa Cha qua tiên tri Isaia cho biết: “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55, 9). Do đó, theo cách hiểu của hạn hẹp của con người, chúng ta chỉ hiểu được tất cả chỉ vì yêu thương con người nên Chúa Cha mới đành lòng như thế.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Philipphê đã ca tụng Chúa Giêsu: “Ðức Giê-su Ki -tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự ”( Pl 2, 6 - 8)
Một trong những ơn của Bí tích Rửa tội là chúng ta được làm con Chúa Cha. Như thế, chúng ta cũng sẽ được Chúa Cha nói con là con yêu dấu của Cha nếu chúng ta biết sống như Chúa Giêsu đã sống. Thánh ý Chúa Cha năm nay đang được thể hiện qua thư mục vụ của Hội Ðồng Giám Mục. Ðó là những những bậc làm cha mẹ hãy cố gắng củng cố gia đình của mình bằng đời sống đức tin gương mẫu.
64. Con đường của Đức Giêsu - Lm Nguyễn Hữu Thy
Cách đây đã khá lâu, xuất hiện ở Pháp một cuốn sách: «Các thánh đi xuống hỏa ngục». Cuốn sách diễn tả các hoạt động của những Linh Mục thợ thuyền đã rời bỏ Giáo Hội để sống liên đới hoàn toàn với giới thợ thuyền, nghĩa là họ đã đi con đường mà Giáo Hội công khai phê bình và phủ nhận.
Con đường của những vị Linh Mục thợ thuyền này đi sâu vào tất cả các lãnh vực của cuộc sống con người, những kẻ được ghi dấu bởi sự đói nghèo, bởi sự khốn cùng và cả những đen tối khác.
Kinh nghiệm sống của những Linh Mục thợ thuyền cuối cùng đã bị Giáo quyền Pháp phủ nhận. Chắc chắn là đã có nhiều vị trong số các Linh Mục thợ thuyền đó đã lệch lạc trên con đường đi tới với người nghèo, nhưng đàng khác, người ta cũng phải công nhận là cộng đồng thợ thuyền người Pháp luôn biết ơn ghi nhớ con đường dẫn vào «hỏa ngục» của đời họ mà các Linh Mục thợ thuyền đã đi. Chính tôi đã hơn một lần nghe người ta phàn nàn: «Trước kia Giáo Hội đã đến với chúng tôi. Ngày nay chúng tôi đã bị xa tránh!»
Và trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta đã nghe Ðức Giêsu đã đi trên con đường nào! Người đã không hề xa tránh những người nghèo khổ và những người tội lỗi.
Phép Rửa của Ðức Giêsu ở sông Gio-đan đã cho chúng ta thấy rằng Con Thiên Chúa cao cả đã hoàn toàn dấn thân sống hòa mình và chìm đắm mình vào kiếp sống gian khổ hèn yếu của phàm nhân. Vâng, qua cuộc sống cụ thể của Người với từng lớp người thấp kém và hèn hạ nhất trong xã hội, Ðức Giêsu đã hiện thực đúng nghĩa của chữ «chìm đắm.» Nhưng khi chúng ta nghe nói đến chữ «chìm đắm», tự nhiên chúng ta sẽ có ngay một cảm giác tiêu cực nào đó. Vì ai để mình «chìm đắm», thì phải hiểu là người đó đã nhập bọn với những người chẳng những là thiếu đứng đắn, mà nhiều khi còn là những kẻ tội phạm, những kẻ tội lỗi và rồi cùng họ làm những điều phạm pháp.
Phúc Âm đã tường thuật là Ðức Giêsu đã vào nhà của những kẻ tội lỗi và cùng đồng bàn với họ (x. Lc 19,7). Thực vậy, Ðức Giêsu đã không ngại ngùng đi vào tận đáy tất cả những chiều sâu của cuộc sống con người. Người đã đi xa đến nỗi Người đã không còn phân biệt mình với những kẻ tội lỗi nữa. Quả thực Ðức Giêsu đã nhập bọn với những kẻ tội lỗi, với những tội phạm và với những kẻ bị khinh bỉ, nhưng không phải để cùng họ làm điều xằng bậy phạm pháp, nhưng để yêu thương, che chở và cứu vớt họ Và cái chết của Người trên thập giá như một tên tội phạm là điểm chấm tận của con đường Người đã đi đó!
Tuy nhiên, trên con đường của Người trong một thế giới vô đạo và bất luân, Ðức Giêsu đã không hề lẻ loi một mình. Từ khởi đầu, Ðức Chúa Cha luôn ở bên Người và đã cho Người hay là Người đang bước đi trên chính lộ, trên con đường tương ứng với thánh ý Thiên Chúa, mặc dù nhiều người khác lại phê bình, chỉ trích và kết án. «Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con». Nói cách khác: Cha rất hài lòng, là Con đã chọn đi con đường hoàn toàn liên đới với những kẻ đã hư mất, với những người đau khổ và bị coi khinh. Con hãy cứ tiếp tục bước đi trên con đường đó, cả khi nó sẽ bị chấm tận trong một thảm họa chóng qua. Con đừng sợ: Cha luôn ở bên Con với tất cả tình yêu thương của Cha!
Cả những lời Ðức Giêsu thốt lên trong khi hấp hối trên thánh giá: «Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ rơi con?», cũng không thể làm cho chúng ta hiểu sai về Cha trên Trời. Những lời đó là câu mở đầu của Thánh Vịnh Ai Ca (Tv 22), mà một trong những câu cuối Thánh Vịnh đã ca ngợi lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với những người công chính biết kính sợ Người: «Bởi vì Thiên Chúa chẳng coi thường, chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn khốn khổ, cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ, nhưng đã thương nghe lời cầu cứu» (Tv 22,25). Người ta có thể quả quyết được rằng Ðức Giêsu cũng đã nói lên cho mình những lời đó khi người còn thoi thóp trên Thánh giá.
Hình ảnh con chim câu đậu xuống trên Người sau khi chịu phép rửa cũng đã chứng minh rằng con đường Ðức Giêsu chọn đi về phía những người tội lỗi đã không hề bị Thần Khí bỏ rơi. Trái lại, Chúa Thánh Thần đã cho Người sức mạnh để có thể chữa lành tất cả những kẻ đang «bị giam cầm trong quyền lực của ma quỉ» (Cv 10,38).
Nếu Phép Rửa của Chúa là tượng trưng cho sự dấn thân của Người vào cuộc sống nhân loại chúng ta và ám chỉ đến cái chết và sự sống lại của Người, thì chúng ta cần phải xét lại con đường sống của chúng ta: Chúng ta đang đi trên con đường nào? Chúng ta có can đảm đi tới những người sống ngoài lề xã hội? Chúng ta cư xử thế nào với những người đã không thành công trong cuộc sống, với những kẻ phạm pháp tù đày, với những người nghiện ngập tứ độ tường, với những người lang thang đầu đường xó chợ? Chúng ta đối xử thế nào với những người ngã sa và sống trong vòng tội lỗi?
Vâng, chúng ta là những người đã được rửa tội nhân danh Thiên Chúa. Liệu chúng ta có thể sống hòa mình, sống chìm đắm theo kiểu cách của Ðức Giêsu không? Liệu chúng ta có can đảm tiếp cận với xã hội xấu để có thể mang lại cho nó một bộ mặt mới mẻ không? «Các thánh đi xuống hỏa ngục» muốn ám chỉ các Linh Mục thợ thuyền ở Pháp, những người muốn bắt chước Ðức Giêsu dấn thân sống cho những kẻ bị thua thiệt mất mát trong cuộc sống. Có phải chúng ta muốn có được Thiên đàng trên trái đất, còn thế gian chúng ta lại giao mặc cho ma quỉ?
Ước gì Thánh Lễ hôm nay có thể dẫn đưa chúng ta vào con đường của Ðức Giêsu, tức con đường dẫn tới mọi anh em đồng loại của chúng ta, cách riêng những người nghèo đói, những người đau khổ và những người bị khinh khi miệt thị.
Ðức Giêsu, Người Anh Cả của chúng ta, đã dấn thân trọn vẹn cho loài người tội lỗi đến nỗi phải hy sinh mạng sống mình. Tình yêu của Người thật quá bao la! Nhưng Người đã phục sinh để sống trong một cuộc sống đầy sung mãn.
Con đường Ðức Giêsu đi thật khó khăn, nhưng cuối đường là sự sống thật, là hạnh phúc viên mãn! Chúng ta cũng sẽ đi theo con đường đó?
65. Quyết định
Nhiều người trải qua những giây phút mang tính cách quyết định trong cuộc đời. Họ tiến gần đến những ngã tư đường, mà tại đó, họ đối diện với những chọn lựa khác nhau về cơ bản, mà sau đó, cuộc đời họ sẽ không bao giờ trở lại giống như trước nữa.
Có thể có lúc tâm trí con người được soi sáng. Nếu con người biết đáp ứng lại ân sủng đó, thì họ được cất nhắc lên khỏi chính mình, và bắt đầu đi trên một con đường mới. Nếu không biết đáp ứng lại ân sủng đó, thì cơ hội đó có thể mất đi mãi mãi. Shakespeare nói một câu tương tự như sau:
“Trong những vấn đề của con người, có một ngọn sóng xuất phát từ triều cường, đưa đến vận may; do bị bỏ qua, nên tất cả hành trình của cuộc đời họ đều bị ràng buộc vào những chỗ nông cạn và đau khổ”.
Giây phút quyết định này có thể xô đẩy trên con người, tựa như một tiếng sét bất ngờ. Điều này xảy đến cho một người dân ở Dublin, tên là Matt Talbot. Anh rất đam mê uống rượu. Ngày kia, anh đang đứng bên ngoài quán rượu, van xin những người mà anh cho là bạn bè của anh, để được uống rượu. Nhưng họ bỏ đi. Đột nhiên, anh sáng mắt ra. Anh nhận thấy rằng anh đã tự hủy hoại cuộc đời mình, và anh quyết định bỏ uống rượu, và nhờ ơn Chúa giúp, anh còn nỗ lực nên thánh nữa.
Hoặc giây phút quyết định này có thể đến với con người một cách từ từ, như đã xẩy ra với mẹ Têrêsa. Mẹ đã từng làm việc từ thiện trong một trường dòng ở Calcutta. Nhưng trong thời gian đó, càng ngày mẹ càng cảm thấy áy náy trước sự kiện những người nghèo khổ không được ai quan tâm chăm sóc, nằm lăn lóc trên vệ đường ngay bên ngoài bức tường nhà dòng. Một ngày kia, mẹ rời khỏi nhà dòng, và đến làm việc giữa những người nghèo khổ. Tên của mẹ đã trở thành một tấm gương điển hình về lòng tận tụy đối với những người bị bỏ rơi.
Đức Giêsu cũng biết đến những giây phút đó trong cuộc đời của Người. Bài Tin Mừng hôm nay chỉ ra cho chúng ta một trong những giây phút quyết định đó – sự kiện Người được thánh Gioan tẩy giả làm phép rửa trên sông Giorđan. Đây là một điểm xoay chuyển trong cuộc đời của Người.
Trước khi diễn ra sự kiện này, Người đã sống một cuộc sống rất âm thầm và an toàn trong một ngôi làng thợ mộc ở Nagiarét. Nhưng trong suốt thời gian đó, Người đã được nghe thấy một tiếng gọi đến với một công việc nào đó quan trọng hơn. Thế rồi một người anh em họ của Đức Giêsu là Gioan bắt đầu công cuộc rao giảng và làm phép rửa cho mọi người. Đột nhiên, Đức Giêsu từ bỏ lối sống cũ của Người, và chọn lựa một lối sống mới – lối sống của một thày giảng dạy về mặt thiêng liêng, và chữa lành bệnh cho các anh chị em của Người.
Kể từ giây phút đó, cuộc đời của Người sẽ không bao giờ như trước nữa. Người đã tự phát hiện ra chính bản thân và ơn gọi thực sự của Người. Tất cả những phẩm chất còn ẩn giấu của Người về sự quan tâm chăm sóc và đầy yêu thương, được phát triển âm thầm tựa như hạt lúa mì trong một cánh đồng, thì nay đã tự tỏ hiện ra, và diễn tả đầy đủ.
Hầu hết chúng ta đều đã từng biết đến những giây phút chứng thực cho những thời điểm mang tính cách quyết định trong cuộc đời của chúng ta. Tuy nhiên, có thể chiều hướng của cuộc đời chúng ta không phải là kết quả của một số quyết định, nhưng là của hàng loạt những quyết định nhỏ bé. Thỉnh thoảng, chúng ta cần phải nhìn vào chiều hướng cuộc sống của mình. Nếu không hài lòng với các sự việc đang diễn tiến, thì chúng ta nên thử thay đổi. Có lẽ chúng ta đang đi vào lối sống xáo mòn. Trong trường hợp đó, chúng ta nên cố gắng thoát ra khỏi lối sống đó.
Trong lúc lãnh nhận phép rửa tội, chúng ta chỉ ra một hướng sống đặc biệt. Thiên Chúa muốn chúng ta được sống, và sống dồi dào (Bài đọc 1). Nơi phép rửa tội, chúng ta được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa, chúng ta trở thành những môn đệ của Đức Giêsu. Chúng ta được kêu gọi chiến đấu chống lại sự dữ, và sống yêu thương nhau (Bài đọc 2).
Vấn đề cuối cùng đối với người Kitô hữu là: Liệu tôi có thực sự sống theo phương hướng mà tôi đã được chỉ cho thấy, trong ngày lãnh nhận phép rửa tội không?
66. Trưởng thành
Hầu như những bông hoa ở dãy núi Alpes luôn bừng nở ngay khi đụng chạm vào tia nắng mùa xuân. Chúng có khả năng đáp ứng rất nhanh chóng, bởi vì chúng vẫn đang âm thầm phát triển dưới lớp vỏ đầy tuyết của trái đất, và đang chờ đợi được mở cánh cửa để bung ra. Chúng chín mùi đối với tiếng gọi của mùa xuân, chín mùi để phát triển và bừng nở.
Đức Giêsu đã sống 30 năm tại Nagiarét. Tại sao Người chờ đợi quá lâu như vậy? Phải chăng Người chỉ lãng phí cuộc đời của mình một cách vô ích? Không gì có thể vượt qua sự thật được. Ơn gọi đòi hỏi một thời kỳ huấn luyện và đào tạo. Những sự việc sâu xa đã trải qua hình thành nên nhân cách của một người, đó là những sự kiện tạo nên tính cách của người đó. Con người phải sẵn sàng trải qua một thời gian học hỏi.
Trước hết, Đức Giêsu đã sống một cuộc sống thật sự và đích thực. Người bắt đầu bằng cách làm, trước khi Người khởi sự đi rao giảng cho người khác. Người phải đảm bảo sao cho khu vườn của riêng mình bừng nở, trước khi chỉ cho người khác cách thức chăm sóc khu vườn của họ.
Trong suốt 30 năm sống tại Nagiarét, Đức Giêsu đã âm thầm phát triển trong sự khôn ngoan và ân sủng. Người ta đã hình dung về Đức Giêsu như một người con trai tử tế, mang một nét gì đó khác biệt, và ngoài ra nơi Người, có một vẻ thường xuyên chăm chú. 30 năm là một thời gian dài. Tuy nhiên, nên có một thời gian chuẩn bị tương đối dài, thì tốt hơn là bắt đầu trước khi sẵn sàng. Trong suốt những năm tháng âm thầm đó, Đức Giêsu đã phát triển đến mức độ chín mùi.
Khi cuối cùng tiếng gọi đến, không có gì xa lạ đối với Người nữa. Tiếng gọi này luôn luôn ở trong Người, nhưng Người không thể vội vàng được. Người không thể thực hiện theo tiếng gọi đó sớm hơn. Tương lai phải đi vào trong con người chúng ta, trước khi điều đó xảy ra. “Khi vận mệnh đến với một người từ bên trong, từ nơi sâu thẳm nhất trong nội tâm người đó, thì vận mệnh này làm cho họ trở nên mạnh mẻ, biến họ thành thượng đế” (Hermann Hesse).
Đó là tiếng gọi phục vụ những anh chị em của Người. Đức Giêsu đã chín mùi đối với tiếng gọi này. Và thời điểm cũng chín mùi. Khi thánh Gioan bắt đầu một phong trào hoán cải, trở về với Thiên Chúa, thì một ngọn sóng đang tuôn trào.
Chúng ta cũng cần được làm cho chín mùi. Khi không chín mùi, thì người ta không có khả năng đáp ứng một cách đúng đắn được. Khi đưa đến cho ai điều gì, trước khi người đó được chuẩn bị để đón nhận điều này, thì chỉ là sự lãng phí. Chúng ta phải chờ đợi yếu tố tự nhiên.
Chúng ta học hỏi được sự kiên nhẫn từ nơi thiên nhiên. Thiên nhiên có thời điểm của nó. Chúng ta nhận thấy sự đâm chồi ở các loại củ diễn ra từ từ. Quả nào thiếu mất một giai đoạn trong quá trình phát triển của nó, thì không bao giờ đạt được sự phát triển.
Chúng ta cũng được mời gọi phát triển trong sự khôn ngoan và ân sủng. Đức Giêsu phải mất 30 năm mới tiến đến sự trưởng thành và đạt được sự khôn ngoan. Chúng ta sẽ mất suốt cả cuộc đời để phát triển, trưởng thành, và chín mùi trong tư cách là những con cái của Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta sự kiên nhẫn và sức mạnh, để nuôi dưỡng những hạt mầm mà Người đã gieo nơi chúng ta trong ngày sinh nhật thiêng liêng của chúng ta – ngày lãnh nhận phép rửa tội – cho đến khi chín mùi.
67. Đồng hóa
Mahatma Gandhi không phải là một Kitô hữu, tuy nhiên, ông vẫn là một trong những người giống Đức Kitô nhất trong thế kỷ này. Albert Einstein đã nói về ông “Các thế hệ sắp tới sẽ nhận thấy thật khó tin rằng một con người giống như ông, mà lại đã từng sống trên trái đất này”.
Gandhi là một người đối lập đáng tin cậy của chế độ đẳng cấp trái với đạo lý ở An độ. Ông ám chỉ điều đó như là “một vết nhơ trong linh hồn của An độ”. Ông đặc biệt ghê tởm cách đối xử ban phát đối với những kẻ tiện dân – những người không thuộc về đẳng cấp nào cả. Họ bị ngăn cản không được vào các đền thờ. Trong các thành phố và tỉnh lỵ, họ bị giam hãm trong những khu nhà lụp sụp, và chỉ được phép làm những công việc lao động hèn mọn nhất. Họ bị cấm sử dụng những nguồn suối trên toàn đất nước.
Trong cuộc hành trình đi khắp đó đây, Gandhi được dân chúng đón tiếp nồng nhiệt. Khi ông đi vào một ngôi làng, vị tộc trưởng của ngôi làng đó sẽ mời ông ở lại đêm tại nhà ông ta, tại đó, chắc chắn ông được mời tắm rửa, ăn uống và có chỗ ngủ đêm tươm tất. Nhưng Gandhi lịch sự từ chối những thứ người ta dành riêng cho mình. Ông hỏi “Những kẻ tiện dân của các bạn đâu? Tôi sẽ ở lại với họ”. Và ông đã làm như vậy, mặc dù hành động của ông gây sốc cho những vị tộc trưởng của ngôi làng.
Gandhi ở giữa những kẻ tiện dân, trong các túp lều ở khu vực ngoại ô của ngôi làng. Và họ đã mở rộng vòng tay đón tiếp ông. Ông tiếp xúc với họ, ăn uống với họ, và chơi đùa với con cái của họ. Một lần kia, ông nói “Tôi không có ước mong được sinh lại lần nữa. Nhưng nếu điều đó xảy ra, thì tôi mong muốn lại được sinh ra giữa những kẻ tiện dân, để tôi có thể thành công trong việc giải thoát họ và bản thân tôi, khỏi tình trạng khốn khổ”.
Gandhi đã ra khỏi lối sống của mình, để hòa đồng với những kẻ tiện dân. Khi Đức Giêsu xếp hàng sau những người tội lỗi, trong khi chờ đợi được chịu phép rửa của thánh Gioan, đó là một hành động hòa đồng phi thường. Người đã hòa đồng với loại người mà Người đến để giải thoát, nghĩa là những kẻ tội lỗi. Không chỉ những kẻ tội lỗi, mà còn những người nghèo khổ, bị áp bức, mà vào thời đó, tạo thành đa số dân cư đang sống đầy rẫy ở Palestine. Thật vậy, Người nói với họ “Ta đứng về phía anh chị em”.
Điều mà Đức Giêsu làm trong ngày đó đã được coi như một mẫu thức cho sứ vụ công khai của Người. Người không tự giữ mình tách lìa khỏi những kẻ tội lỗi. Người không chờ đợi họ đến với mình. Người tìm kiếm họ, và trở nên bạn bè đối với họ.
Đức Giêsu không đứng sang một bên, hoặc tự đặt mình ở trên những kẻ tội lỗi mà Người đến để giải thoát. Người đã tự đứng giữa họ. Người đi cùng với họ đến nơi nào họ sống. Thậm chí Người còn bị tố cáo là một kẻ tội lỗi, và đã bị đối xử như một kẻ tội lỗi.
Động cơ thúc đẩy Người hành động chính là lòng thương xót. Người là một tôi tớ mà Thiên Chúa gửi đến để đem Tin Mừng cho kẻ nghèo khổ. Và Thiên Chúa rất hài lòng về Người, và về sứ vụ mà Người đang bận rộn tiến hành. Bằng cách thế của Người, Đức Giêsu chỉ ra cho chúng ta tình yêu của người đối với chúng ta.
Mặc dù hoàn toàn không phạm tội, nhưng Đức Giêsu đã mang trên thân mình Người tình trạng tội lỗi của chúng ta. Người không đứng cách biệt khỏi chúng ta, nhưng tự đặt mình bên cạnh chúng ta, với tư cách là một người anh cả. Người muốn dẫn đưa chúng ta ra khỏi tình trạng khốn khổ của tội lỗi và sự chết nơi chúng ta. Người mong muốn chúng ta có được sự sống ở đời này và đời sau.
68. Sống Bí Tích Thanh Tẩy
(Suy niệm của Huệ Minh)
Hôm nay, mở trang Tin Mừng ra ta không chỉ thấy hình ảnh "lạ" mà còn "độc" theo ngôn ngữ của các bạn trẻ ngày nay.
Đúng vậy! Không chỉ "lạ" mà còn "độc" bởi lẽ nhân vật chính trong trang Tin mừng hôm nay không ai khác ngoài cái nhân vật "lạ" mang tên Giêsu xuất hiện. Trước đó, mọi người đều thấy Gioan xuất hiện và Gioan "to còi".
Ngày hôm ấy, tại cái bờ sông Giođan, có thêm "người ấy" xuất hiện nữa. Và, như thường ngày, người ta vẫn chú tâm đến Gioan bởi lẽ đã quá quen với hình ảnh Gioan và nghe tiếng của Gioan rồi. Nhưng, ngạc nhiên rằng hôm ấy Gioan lại cất tiếng nói: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.”
Hóa ra người quan trọng mà mọi người lầm tưởng không phải là Gioan mà là "người ấy", cái "người" mà xếp hàng đi theo đám người hôm nay nhận phép dìm của Gioan nơi dòng sông Giođan. Không còn gì để giấu diếm, Gioan đã nói rằng: "Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.” Vấn đề là chỗ đó bởi lẽ Gioan chỉ làm phép rửa bằng nước thôi.
Người "lạ" mà "độc" hôm nay chính là người mà Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa, từ ngày mà Ađam đã phản nghịch cùng Thiên Chúa.
Nhớ lại, ở vườn địa đàng, ngày hôm ấy Ađam cũ đã bước vào cuộc đời này và đã bước quá "mạnh" để rồi phạm tội. Tội của Ađam cũ là bất tuân thì Ađam mới đến để sửa lại cái cũ, sửa lại tội nguyên tô cho con người như sách Isaia nói:
Đức Chúa phán:
“Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ,
là người Ta tuyển chọn và hết lòng quý mến,
Ta cho thần khí Ta ngự trên người ;
người sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân.
Người sẽ không kêu to, không nói lớn,
không để ai nghe tiếng giữa phố phường.
Cây lau bị giập, người không đành bẻ gẫy,
tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi.
Người sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý.
Người không yếu hèn, không chịu phục,
cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu.
Dân các hải đảo xa xăm đều mong được người chỉ bảo.
Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi,
vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta.
Ta đã nắm tay ngươi,
đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân,
làm ánh sáng chiếu soi muôn nước,
để mở mắt cho những ai mù loà,
đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ,
dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.”
Ađam mới là như thế! Chúa Giêsu - Đấng Cứu Độ trần gian là như thế! Ngài đã đến trong thế gian này trong thân phận làm người như mọi người chỉ trừ tội lỗi. Chúa Giêsu đã bước một bước rất đẹp vào cõi đời này nhưng không như Ađam là bước vào để dính vào tội lỗi nhưng bước vào và bước thêm bước nữa xuống dòng sông Giođan để cùng lãnh nhận phép rửa như con người để đồng hóa với con người trong thân phận con người để cứu con người.
Rất quen thuộc hình ảnh trong đời thường của chúng ta. Những ai vì lý do nào đó mà rơi xuống nước thì buộc lòng người khác muốn cứu phải nhảy xuống dòng nước để đưa con người kém may mắn đó lên.
Chúa Giêsu cũng đã "nhảy" xuống trần gian để cứu con người như vậy.
Ta thấy ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta không như chúng ta nghĩa. Là con người tội lỗi nhưng rồi Chúa đã đưa con người tội lỗi lên được làm con Thiên Chúa và không những thế những ai lãnh phép rửa thì được tham dự vào chức vụ tư tế - vương đế - ngôn sứ của Thiên Chúa nữa.
Ân huệ, hồng ân của bí tích Thánh Tẩy là một hồng ân tuyệt vời và hồng ân cao cả nhất của đời chúng ta. Thánh Phaolô nói: "Anh em không biết rằng tất cả chúng ta là những người đã được lãnh nhận phép rửa trong Ðức Giêsu Kitô hay sao? Thế nên, chúng ta đã được chôn táng với Người trong sự chết bởi bí tích rửa tội, để như Chúa Kitô nhờ vinh quang của Chúa Cha mà sống lại từ trong kẻ chết thế nào, chúng ta cũng bước đi trong cuộc sống mới như vậy" (Rm 6, 3-4).
Vì phép rửa là một việc trầm mình vào mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô mà phép rửa Kitô giáo đã có một giá trị cao cả hơn rất nhiều những lễ nghi làm phép rửa của Do Thái và của dân ngoại, những lễ nghi gột rửa tượng trưng cho việc thanh tẩy song không có khả năng xóa bỏ tội lỗi. Trong khi đó phép rửa Kitô giáo là một dấu hiệu thực sự thanh tẩy lương tâm và thứ tha tội lỗi. Phép rửa Kitô giáo còn phát sinh một tặng ân cao cả hơn nữa, đó là một sự sống mới của Chúa Kitô phục sinh, là tặng ân biến đổi tội nhân đến tận gốc rễ.
Thánh Maccô thì đã ghi lại lời sau hết Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ của Người cho thấy cả đức tin lẫn bí tích rửa tội là đường lối duy nhất dẫn đến ơn cứu độ: "Ai tin và lãnh nhận phép rửa sẽ được cứu độ; còn kẻ không tin sẽ bị luận phạt" (Mc 16, 16). Và để ghi lại lệnh truyền giáo Chúa Giêsu đã bảo các Tông Ðồ, thánh Mathêu nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa phép rửa và việc rao giảng Phúc Âm: "Các con hãy đi tuyển mộ môn đồ khắp mọi dân nước, rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần" (Mt 28, 19).
Thánh Phaolô đã cho thấy hiệu qủa chính yếu của bí tích rửa tội khi thánh nhân viết cho Kitô hữu giáo đoàn Galata: "Tất cả anh em đã lãnh nhận phép rửa trong Ðức Kitô thì anh em đã mặc lấy Người" (Gl 3, 27). Kitô hữu mang sâu xa nơi mình hình ảnh Chúa Kitô, ở tại tặng ân họ được trở thành những đứa con thừa nhận thần linh. Chính là vì đã "rửa trong Chúa Kitô" mà Kitô hữu là "những người con cái của Thiên Chúa" một cách đặc biệt. Bí tích rửa tội làm nên một cuộc "tái sinh" thực sự.
Chúa Giêsu đã gánh tội trần gian trên cuộc đời của mình như Chiên Thiên Chúa như Thánh Gioan đã nói. Ngài đã đi vào đời để nhận lãnh tất cả tội lỗi cho con người được cứu. Tình yêu của Chúa Giêsu là một tình yêu bao la, tình yêu vô bờ bến đề rồi Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người… Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2Cr 5, 14tt).
Thật sự không phải dễ sống như lời Thánh Phaolô mời gọi. Nếu sống được như thế quả là điều tuyệt vời. Thế nhưng, con người của chúng ta vẫn mang trong mình vết tích của Ađam cũ là dễ quay lưng lại với Thiên Chúa và khước từ Thiên Chúa dẫu rằng chúng ta đã nhận phép rửa có khi là vài chục năm rồi.
Hôm nay, mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc nhớ chúng ta bí tích Thanh Tẩy mà chúng ta nhận bao nhiêu năm qua và chúng ta sống bí tích Thanh Tẩy như thế nào trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta có can đảm dìm mình như Chúa Giêsu đã dìm mình trong Thánh Thần để chúng ta được tinh tuyền hay không?
Chúa Giêsu đã đến trong thế gian này và đã sống trọn cuộc đời vâng phục. Kim chỉ nam của đời sống là lời vâng phục. Chỉ có lời vâng phục mới làm cho ta sống tròn vẹn phép rửa. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta luôn luôn biết sống vâng phục để ta được Thiên Chúa nói với chúng ta như nói với Chúa Giêsu xưa bên bờ sông Giođan: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”
69. Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Câu nói của Gio-an Tẩy giả trong bài Tin Mừng cho thấy ông là người thế nào? Có thể rút ra bài học gì cho những người loan báo hay rao giảng Đức Giêsu? Nếu không sống tinh thần tự hủy, thì việc loan báo hay rao giảng cuối cùng nhằm ích lợi cho ai?
2. Muốn con người thánh ở trong ta lớn lên và làm chủ, thì con người phàm phải làm gì? Hai con người ấy có thể cùng lớn lên không?
Suy tư gợi ý:
1. Tinh thần tự hủy của người rao giảng Đức Giêsu
Trong bài Tin Mừng, ta thấy có hai nhân vật chính: Gio-an Tẩy giả và Đức Giêsu. Trong hai người, Gio-an Tẩy giả là người phàm, đến trước để loan báo; còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, là con người thần linh, đến sau để giải phóng nhân loại. Như thế ta thấy: người phàm đến trước loan báo cho con người thần linh đến sau.
Để chu toàn nhiệm vụ loan báo, Gio-an Tẩy giả phải thực hiện tinh thần tự hủy hoàn toàn, nghĩa là hoàn toàn xóa mình đi, coi mình không là gì cả, có như thế vai trò của người mình loan báo mới được nổi bật lên: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”; “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Người loan báo hay rao giảng được kêu gọi và lên tiếng không phải vì mình, nhưng vì Đấng mà mình loan báo hay rao giảng. Vì thế, muốn loan báo hay rao giảng thật sự đúng nghĩa, chúng ta cần phải sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình khi thực hiện công việc này. Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta dễ bị cám dỗ coi việc loan báo hay rao giảng Tin Mừng như một phương tiện để làm cho mình nổi bật lên, được mọi người ca tụng là mình đạo đức, viết hay, giảng hay. Tới một lúc nào đó, chúng ta bắt đầu có khuynh hướng vì mình nhiều hơn vì Chúa. Lúc ấy, một cách nào đó, ta biến Chúa trở thành người loan báo cho ta, làm ta nổi bật lên.
Có thể ban đầu ta hoàn toàn vì Chúa, nhờ đó ta rao giảng về Ngài rất hay, mọi người ca tụng ta là người đạo đức, là “có lửa”. Từ khi có danh thơm tiếng tốt ấy, ta bắt đầu bị cám dỗ bảo vệ danh tiếng ấy, và làm cho danh tiếng ấy ngày càng mạnh lên. Danh tiếng ấy có thể giúp ta dễ “thăng quan tiến chức” trong Giáo Hội hay ngoài xã hội. Ta bắt đầu ngày càng trở nên “vì mình” hơn và bớt “vì Chúa” đi. Dần dần ta trở nên kẻ háo danh lúc nào không hay. Từ háo danh đến ham quyền, từ ham quyền đến cố vị chỉ là những bước rất ngắn. Một khi đã ham quyền cố vị rồi, ta dễ dàng bị cám dỗ làm những điều tán tận lương tâm. Vì quyền bính là một con dao hai lưỡi, tuy cần thiết để phục vụ đại chúng, nhưng lại có khả năng tha hóa rất mạnh. Vì thế, những người loan báo hay rao giảng Tin Mừng - nhất là những người đã thành công trong lãnh vực này và đang nắm những địa vị quan trọng trong Giáo Hội hay xã hội - rất cần tinh thần phản tỉnh để luôn luôn tỉnh táo đối với chính mình: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41; Mc 14,38). Thực tế cho thấy nhiều người khi chưa nắm quyền bính thì tinh thần phục vụ rất cao, nhưng khi đã nắm được quyền bính thì trở nên khác hẳn. Nhiều anh hùng dân tộc, nhiều chức sắc tôn giáo đã bị tha hóa vì quyền lực.
2. Phàm nhân và thánh nhân trong mỗi người
Bài Tin Mừng hôm nay còn có thể hiểu theo một chiều kích khác rất sâu xa: chiều kích tâm linh. Trong đó, Gio-an Tẩy giả và Đức Giêsu tượng trưng cho hai khía cạnh trong cùng một con người: Gio-an Tẩy giả tượng trưng cho con người phàm của ta, và Đức Giêsu tượng trưng cho con người thánh, con người thần linh, siêu phàm ở trong ta. Chính con người thần linh này trong mỗi người là yếu tố cốt yếu khiến con người là “hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6), “giống như Thiên Chúa” (St 1,26b). Đó là chính bản tính Thiên Chúa của Ngài được thông ban cho chúng ta: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Chính nhờ có bản tính thần linh thánh thiện này trong bản thân mà Đức Giêsu mới có thể mời gọi ta nên thánh: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Giữa con người với con chó, khoảng cách hữu thể tuy không xa, vì cùng là tạo vật, nhưng con chó không bao giờ có thể trở thành người như con người dù có cố gắng luyện tập đến đâu, vì trong con chó không có bản tính con người. Còn giữa con người với Thiên Chúa tuy là một khoảng cách vô tận, nhưng con người có thể nên hoàn thiện, nên thánh như chính Thiên Chúa, vì trong con người đã có sẵn bản tính Thiên Chúa mà Ngài thông truyền cho. Nếu bản thân con người không có bản tính Thiên Chúa thì lời Đức Giêsu mời gọi con người nên hoàn thiện như Thiên Chúa là tuyệt đối bất khả thi, và câu nói đó trở thành vô nghĩa.
Tuy nhiên, sống hoàn thiện như Thiên Chúa không phải dễ, vì bên cạnh con người thánh ấy luôn luôn có một con người phàm. Một danh nhân nào đó nói: “Trong lòng mỗi người, vừa có một vị thánh vừa có một con thú”. Thật vậy, có những lúc ta suy nghĩ và hành động như một vị thánh, nhưng cũng có rất nhiều lúc ta lại hành động như một con thú. Và dường như vị thánh và con thú trong bản thân ta phải luôn luôn tranh đấu với nhau để dành thắng thế hầu làm chủ bản thân ta. Có người thì vị thánh thường thắng thế và làm chủ, còn lắm người thì bị con thú thường khống chế toàn bộ con người. Thánh Kinh có nói đến tình trạng trái ngược giữa hai con người này: “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gl 5,17); “Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí” (Rm 8,5). Kết quả của hai cách sống đối nghịch ấy là: “Nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8,13)
a) Con người phàm thì sống theo xác thịt:
Bản chất của con người phàm là chỉ biết sống cho mình, sống ích kỷ, có khuynh hướng “phình to bản ngã”. Vì thế, chỉ quan tâm tới những tham vọng hay lợi lộc ích kỷ của mình, tự coi mình là cái rốn của vũ trụ, muốn mọi người phải phục vụ mình, luôn luôn coi ý riêng của mình là quan trọng, thích lèo lái mọi người theo ý riêng của mình… Kinh Thánh nói về tính cách của phàm nhân: “Những kẻ sống theo xác phàm thì hay mơ ước những gì xác phàm đòi hỏi” (Rm 8,5); “Họ khoe mình khôn sáng nhưng đã nên điên dại” (Rm 1,22); “Ý tưởng họ hóa ra tối tăm, vì họ lìa xa sự sống Chúa Trời” (Ep 4,18); “Lòng trí họ miên man theo điều phù phiếm, họ ngu muội đắm chìm trong bóng tối tăm” (Rm 1,21).
b) Con người thánh sống theo Thần Khí:
Con người thánh là con người sống vị tha, sống theo Thần Khí, theo sự hướng dẫn của lẽ phải, của chân lý, công lý và tình thương. Hành động không bị chi phối bởi những động lực vị kỷ, dục vọng, ý muốn riêng tư, mà bởi tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Khi không còn sống cho bản thân mình nữa, con người thánh trở nên có nhiều sức mạnh tinh thần, luôn khôn ngoan, sáng suốt, can đảm, tâm hồn luôn bình an hạnh phúc, thứ bình an hạnh phúc nội tâm không ai ban được mà cũng không ai lấy mất được, ngoại cảnh không còn làm họ làm đảo điên, đau khổ nữa.
3. Phàm nhân có nhỏ lại thì thần nhân mới lớn lên được
Nơi mỗi con người, phàm nhân được khám phá và ý thức trước tiên. Dần dần con người khám phá ra một tiếng nói, một khuynh hướng, một lực lượng thầm kín - nhiều khi rất mạnh mẽ - lôi kéo mình lên khỏi những ích kỷ cá nhân của phàm ngã. Đó là thần ngã hay con người thánh. Vấn đề là làm sao để thần ngã này lớn lên? Bài Tin Mừng cho ta một bí quyết: Gio-an Tẩy giả - tượng trưng cho phàm ngã - để tự hạ, tự hủy để làm cho Đức Giêsu - tượng trưng cho thần ngã - nổi bật lên. Chỗ khác Gio-an nói: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Phàm nhân lúc nào cũng muốn được nổi bật, được phình to lên, nhưng nếu ta chiều theo phàm ngã, thì phàm ngã sẽ lớn mạnh và lấn át thần ngã, làm thần ngã trở nên yếu ớt. Nhưng nếu ta sống tinh thần tự hủy, làm phàm ngã nhỏ lại, thì tự nhiên thần ngã sẽ lớn và mạnh lên. Hai lực lượng ấy luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau: lực này lớn thì lực kia nhỏ lại, lực này yếu thì lực kia mạnh lên. Vì thế, muốn thần ngã lớn lên, thì phải làm cho phàm ngã nhỏ đi. Không gì làm phàm ngã nhỏ đi bằng sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình: coi mình chẳng là gì cả, như một người nhỏ bé không có gì là quan trọng, không cố ý làm gì để lôi kéo sự chú ý của người khác. Nhất là không bao giờ đòi hỏi ý riêng của mình phải được thực hiện, mà trái lại sẵn sàng thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin hãy biến cải con thành một con người mới, con người sống theo Thần Khí chứ không theo những đòi hỏi của phàm ngã. Nhờ đó bản tính thần linh mà Cha đã gieo mầm vào trong bản thân con nẩy mầm và phát triển. Và hy vọng một ngày kia Cha có thể nói với con như xưa Cha đã nói với Đức Giêsu: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Xin giúp con đạt được điều ấy.
70. Đức Giêsu chịu phép rửa – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Có thể theo giáo sư G. Gnilka mà coi Mc 1,1-15 là lời tựa hoặc mở đầu của Tin Mừng Máccô: phần này đăt trọng tâm vào “Tin Mừng” (x. cấu trúc đóng khung với từ “Tin Mừng “ ở đầu và cuối đoạn). Bản văn 1,7-11 chúng ta đọc hôm nay liên kết lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa với việc Đức Giêsu chịu phép rửa, khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thật ra hai phần này biệt lập với nhau; chúng ta thấy được điều này qua chi tiết dẫn nhập “hồi ấy” và qua sự kiện tác giả mô tả thêm một lần nữa việc Gioan làm phép rửa trong sông Giođan. Tuy kể lại phép rửa Gioan, bản văn lại không tương ứng hoàn toàn với các từ ngữ và cách kết cấu của c. 5.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Lời loan báo của Gioan (1,7-8);
2) Phép rửa của Đức Giêsu (1,9-11):
a) Biến cố lịch sử: Đức Giêsu chịu phép rửa (9-10),
b) Thị kiến khải huyền: Cuộc thần hiển (10-11).
3.- Vài điểm chú giải
- Ông rao giảng (7): ekêryssen, do động từ Hy-lạp kêryssein, “công bố; loan báo”, ở thì vị hoàn (imperfect), để diễn tả đây là một hoạt động thường xuyên của Gioan. Chúng ta đến đỉnh cao của đoạn văn này, bởi vì chỉ đến đây, Gioan mới lên tiếng mà chỉ cho thấy Đấng ông làm Tiền Hô cho.
- Đấng quyền thế hơn tôi (7): Có lẽ danh xưng này ám chỉ đến Is 40,10 (“Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng [= đến với sức mạnh], tay nắm trọn chủ quyền”). Sự tương phản giữa hai bên lớn đến nỗi Gioan “không đáng cởi quai dép cho Người”, mà đây là công việc thấp hèn đến nỗi một nô lệ Do-thái cũng không buộc phải làm cho chủ (sách Mishna) (x. Mt 3,11; Lc 3,16; Ga 1,15.27.30; 3,30; Cv 13,25).
- phép rửa (8): Cho dù Gioan có thuộc về phong trào Êxêni ở Qumrân hay không, phép rửa của ông tương tự phép rửa của người Êxêni, nhất là ở điểm cả hai phép rửa đều diễn tả một sự hoán cải nội tâm, sự hoán cải này vừa là hành vi của con người vừa là ân huệ của Thiên Chúa, cũng như chuẩn bị các tâm hồn đón tiếp Thiên Chúa sắp đến can thiệp vào thời cánh chung. Tuy nhiên, Gioan khác người Êxêni ở hai điểm: không nghĩ rằng tội lỗi gây nên một sự ô nhơ nơi thân xác; không buộc các hối nhân phải sống một năm thử thách; chỉ ban phép rửa một lần, vì đây là hành vi chuẩn bị cuối cùng để đón Đấng Mêsia ngự đến.
- trong Thánh Thần (8): Các bản văn Nhất Lãm song song (Mt 3,11; Lc 3,16) đọc là “trong Thánh Thần và lửa”. Có lẽ lúc đầu, câu này có hình thức là “gió và lửa” để mô tả biến cố Triều Đại cánh chung của Thiên Chúa ngự đến. Mc chỉ quan tâm đối lập nghi thức chuẩn bị của Gioan với việc thiết lập Nước Thiên Chúa nhờ hoạt động của Đức Kitô, mà không nói đến phán xét. Nhờ đó, Người đưa lại cho “phép rửa trong Thánh Thần” ý nghĩa tích cực là một cuộc tái sinh bên trong.
- Hồi ấy (9): dịch sát là “trong những ngày ấy”.
- tựa chim bồ câu (10): Cả ba TMNL đều nói đến điểm này, với hôs (“giống như”) để so sánh (riêng Mt dùng hôsei để nhấn mạnh). Lc còn xác định rằng Thần Khí đã ngự xuống “dưới một hình dáng” (sômatikê eidei, “in bodily form”; x. Lc 3,22).
Tại sao con bồ câu lại trở thành biểu tượng của Thần Khí? Chúng ta không có câu trả lời rõ ràng. Rất có thể hành động bay lượn của Thần Khí trên mặt nước nguyên thủy trong St 1,2 đã gợi ra hình ảnh một cánh chim bay lượn (tương tự trong Đnl 32,11), nhưng bản văn ấy không nói là một con bồ câu (trừ một bản văn thuộc truyền thống kinh sư). St 8,8 thì nói rằng Nôê đã thả một con bồ câu, nhưng lại không hề khẳng định rằng con bồ câu này là hình ảnh của Thần Khí. Cha X. Léon-Dufour cho rằng con bồ câu có thể gợi ra tình yêu của Thiên Chúa (x. Dc 2,14; 5,2) hoặc cuộc tạo dựng mnới (x. St 1,2).
Trong truyền thống Do-thái, con bồ câu có một ý nghĩa biểu tượng, liên hệ đến Israel, đặc biệt với Israel đang lưu đày (Hs 7,11; 11,11; Is 60,8; Tv 55,7-8; 68,13; 74,19; Dc 1,15; 2,14; 5,2; 6,8) và cũng được nền văn chương Ngụy thư hoặc kinh sư sử dụng. Từ đó cha A. Feuillet cho rằng con bồ câu đi xuống và ngự trên Đức Giêsu tượng trưng và tiên báo điều sẽ là hoa trái chính yếu của cuộc đổ tràn Thần Khí: đó là việc thành lập Israel mới, cộng đoàn hoàn hảo của thời đại ân phúc. Vậy, điều được diễn tả không phảu trự tiếp là Thần Khí, mà là hậu quả đối với Dân Thiên Chúa, khi Thần Khí hiện diện nơi Đức Giêsu. Cũng như vào ngày lễ Ngũ Tuần, các lưỡi lửa không trực tiếp tượng trưng Thần Khí, mà là các ngôn ngữ mà các tông đồ dưới ơn Thần Khí soi sáng, sẽ nói ra, và sâu xa hơn, tượng trưng công việc phúc âm hóa thế giới, thì cũng vậy, con bồ câu trong Phép Rửa diễn tả ý tưởng này là Dân thiên sai phải chọn điểm khởi hành nơi bản thần Đức Giêsu-Mêsia, là Vua và Tôi tớ của YHWH.
Giả thuyết này cũng hấp dẫn, nhưng thật khó áp dụng vào bản văn Mc. Hẳn là bản văn St 8,8 vẫn có thể giúp ích: con bồ câu được thả ra mà không có chỗ đậu, phải trở lại tàu Nôê, phải chăng muốn nói rằng trong một thời gian dài, Thần Khí không có chỗ đậu là một người nào, cho đến khi Đức Giêsu xuất hiện? Dù sao, ít ra chúng ta có thể nói rằng Thần Khí rất gần gũi với Đức Giêsu, trong tư cách là Đấng Mêsia đi rao giảng Nước Thiên Chúa, và điều này lại khiến chúng ta nhớ tới Is 42,1.
- ngự xuống trên Người (10): Mt, Lc va Ga đều nói rằng Thần Khí ngự xuống “trên” (epi; Mc: eis) Đức Giêsu. Các nhà chú giải thường nghĩ đến Is 11,1-2a: “Từ gốc tổ Giesê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời loan báo của Gioan (7-8)
Tương hợp với câu trích Is nói về tiếng nói của người loan báo, hoạt động của Gioan được mô tả như là một việc “hô to [như anh mõ làng]”; “công bố”; “phổ biến” (kêryssein). Hành vi này đưa ông đến gần Đức Giêsu (1,14.38t), các môn đệ (3,14; 6,12), Tin Mừng (13,10; 14,9), các sứ giả đức tin (1,45; 5,20; 7,36). Cùng với sự đối lập giữa phép rửa của ông với phép rửa của Đấng Mêsia, ông loan báo “Đấng quyền thế hơn (= Đấng mạnh hơn [ông])” đang đến. Phép rửa của ông không phải là một nghi thức có sức tha tội (Bí tích Rửa tội), nhưng là phương thế giúp người ta bày tỏ lòng thống hối và quyết tâm thay đổi đời sống.
* Phép rửa của Đức Giêsu (9-11)
Phần này với phần trên biệt lập với nhau. Chúng ta thấy được điều này qua chi tiết dẫn nhập “hồi ấy” và qua sự kiện tác giả mô tả thêm một lần nữa việc Gioan làm phép rửa trong sông Giođan: tuy kể lại phép rửa Gioan, bản văn lại không tương ứng hoàn toàn với các từ ngữ và cách kết cấu của c. 5. Dường như tác giả Mc quan tâm đặc biệt đến miền Galilê; do đó, ngài đã nêu bật rằng Đức Giêsu đến từ một miền khác với miền xuất phát của các đám đông đến với vị Tẩy Giả.
Bản văn này liên kết một biến cố lịch sử với một thị kiến khải huyền. Biến cố lịch sử là phép rửa Đức Giêsu nhận bởi tay Gioan. Thị kiến khải huyền cho biết Đức Giêsu là ai. Người đến từ làng Nadarét. Đối với Mc, điều quan trọng là làng ấy thuộc về miền Galilê. Nhưng Nadarét lại được coi như địa điểm từ đó Đức Giêsu đến “trong những ngày ấy” (= “hồi ấy”, PVCGK). Chi tiết mông lung về thời gian này, tuy quy về quá khứ, lại đưa lại cho việc Đức Giêsu xuất hiện một đặc tính long trọng.
Tại sao Đức Giêsu lại đến chịu phép rửa bởi tay Gioan, khi mà Người không có tội lỗi gì? Chính sứ mạng của Người đưa Người đến chỗ sẵn sàng liên đới với các tội nhân, tự đồng hóa với họ. Tác giả Mc, cũng như hai tác giả Lc và Mt, không muốn tường thuật cho chúng ta chuỗi các biến cố đã xảy ra hôm ấy. Tác giả chỉ muốn dạy chúng ta biết Đức Giêsu là ai bằng cách vận dụng ba hình ảnh mà các độc giả thời ngài hiểu rất rõ:
1) Hình ảnh “trời xé ra”. Hình ảnh này nhắc đến Is 63,15-19: trong đoạn văn này, vị ngôn sứ xin Thiên Chúa “xé trời mà ngự xuống”, nghĩa là chấm dứt tình trạng thinh lặng của Ngài và đừng ở xa cách Dân Ngài nữa. Ông xin Thiên Chúa lại mở lòng ra và lại tỏ ra là bạn hữu của nhân loại. Khi dùng hình ảnh này, Mc muốn nói với chúng ta rằng cuộc sống công khai của Đức Giêsu đánh dấu khởi đầu cuộc hòa giải giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và chúng ta.
2) Hình ảnh “con bồ câu” đưa chúng ta trở lại với những gì đã xảy ra vào thời gian Lụt hồng thủy (St 8). Vào lúc đó, trời bị đóng lại và có sự thù nghịch giữa Thiên Chúa và loài người. Con bồ câu với cành ô-liu cho biết là sự sống đã tái sinh trên mặt đất, nghĩa là Thiên Chúa đang thôi giận loài người, hòa bình đã được phục hồi.
3) Tại sao Thần Khí lại được so sánh với một con bồ câu? Trong thời Cựu Ước, YHWH ban quyền lực của Ngài cho các ngôn sứ, làm cho các ngài nên can đảm và có khả năng hoàn tất các nhiệm vụ Ngài ký thác (x. Is ch. 6; Gr 1,6-10). Vào ngày nhận phép rửa, Đức Giêsu cũng đã được tấn phong và nhận quyền lực đó để chu toàn sứ mạng. Tại Israel, từ lâu rồi, đã vắng bóng những con người của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ cuối cùng đã qua đời cách đây 300 năm. Trời đã đóng lại, y như thể Thiên Chúa không còn muốn nói với Dân Ngài nữa. Thần Khí Đức Chúa giống như một con bồ câu bay cùng khắp mà không tìm ra được một ai để có thể đậu lên. Khi cho Thần Khí của Ngài xuống trên Đức Giêsu, Thiên Chúa cho thấy rằng Ngài đã tìm ra con người theo ý Ngài, và nay một lần nữa, Ngài lại ngỏ lời với một con người.
Ngoài ra, có hai chi tiết cần để ý vì có ý nghĩa thần học sâu sắc:
- Nơi Đức Giêsu chịu phép rửa là bờ sông Giođan. Chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước rằng Dân Israel được Giôsuê hướng dẫn, đã đi qua sông Giođan trước khi bước vào Đất Hứa. Ở đây Mc giới thiệu Đức Giêsu như Giôsuê mới dẫn dắt Dân mới của Thiên Chúa (trong tiếng Híp-ri, tên “Giêsu” cũng là tên “Giôsuê”).
- Thời điểm Đức Giêsu nhận Thần Khí (“khi Người vừa ra khỏi nước”, chứ không phải lúc Người còn đứng trong dòng sông, như nhiều bức họa diễn tả). Sau khi qua sông Giođan, Giôsuê được đầy thần khí của Thiên Chúa để ông có thể dẫn đưa Dân vào Đất Hứa. Với Đức Giêsu cũng thế: khi vừa ra khỏi nước, Người nhận Thần Khí cùng với quyền lực của Thiên Chúa để có thể hướng dẫn dân Thiên Chúa đi đến tự do. Con đường đó thế nào, tác giả Mc sẽ dần dần viết ra.
+ Kết luận
Rất có thể giai thoại này là một kỷ niệm về tình trạng căng thẳng giữa các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đệ của Đức Giêsu: họ tranh cãi để xem vị Thầy nào cao trọng hơn. Các môn đệ Gioan cho rằng vị Tẩy Giả cao trọng hơn vì đã ban phép rửa cho Đức Giêsu; còn các môn đệ của Đức Giêsu thì khẳng định rằng chính Đức Giêsu mới là Con Thiên Chúa và có Thần Khí chan hòa. Dù sao, ở đây còn có một bài học khác nữa. Các Kitô hữu tiên khởi khó mà chấp nhận được rằng Đức Giêsu lại chịu phép rửa. Phép rửa của Gioan là đễ diễn tả quyết tâm thống hối, và do đó người Pharisêu, vì nghĩ rằng họ công chính, chẳng bao giờ nghĩ rằng họ cần phải nhận phép rửa. Thế mà Đức Giêsu lại nhận phép rửa, khi mà Người là Con Thiên Chúa, Người hoàn toàn trong sạch! Đức Giêsu đã chịu phép rửa ngay lúc bắt đầu cuộc sống công khai, thật ra là để đứng vào hàng ngũ những kẻ tội lỗi, đồng hóa với họ. Đấy là một chọn lựa của Người, của chính Thiên Chúa.
Sau lễ Giáng Sinh, phụng vụ nói đến khởi đầu cuộc sống công khai của Đức Giêsu. Đức Giêsu chính là Người Tôi Trung cùa Chúa Cha; Người sẽ đưa lại một quan hệ được đổi mới giữa chúng ta với Thiên Chúa
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người Kitô hữu cũng có một vai trò tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng quan hệ của mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và trung thực giới thiệu về Người như là Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài người.
2. Đức Giêsu đã sẵn sàng đứng vào hàng các tội nhân, tự đồng hóa với họ, trở nên một người như họ, trong khi Người hoàn toàn trong sạch. Chúng ta, là những người có tội, phải chăng chúng ta lại xa cách anh em y như thể sợ rằng không ai biết cho sự lành thánh của chúng ta! Chúng ta có biết đồng cảm với những người có cuộc sống không thành công chăng? Một Kitô hữu có được phép lên án người khác chăng? Thầy chí thánh chúng ta đi theo không bao giờ trách mắng những kẻ tội lỗi, Người đồng cảm với họ, Người bảo vệ họ và ngay từ đầu, Người đứng vào hàng ngũ của họ. Đấy là những điểm khiến các môn đệ Đức Giêsu phải suy nghĩ.
3. Chúng ta thuộc về đoàn dân mới của Thiên Chúa, đoàn dân đang tiến bước, có Đức Giêsu là Vị thủ lãnh đầy Thần Khí. Thầy chí thánh đang dẫn chúng ta đi về đâu? Chúng ta phải bước theo Người với cung cách nào? Tác giả Mc sẽ trả lời các câu hỏi này cho chúng ta dọc theo năm phụng vụ với Tin Mừng của ngài, và mời gọi chúng ta can đảm bước theo Đức Giêsu, là “con đường” đưa chúng ta về với Thiên Chúa.
4. Chúng ta cũng đã nhận phép rửa tội, chúng ta cũng có Thánh Thần, chúng ta cũng có chức năng vương đế. Chính vì thế, chúng ta phải biết cộng tác với Đức Giêsu, Đấng hướng dẫn chúng ta, bằng cách chế ngự tính mê tật xấu của riêng mình, đồng thời giúp anh chị em chúng ta thắng vượt các trở ngại khiến họ không thong dong bước theo Đức Giêsu được.
5. Thánh giám mục Maximô thành Turinô (?-khoảng 420) đã giảng trong Lễ Hiển Linh như sau: “Hôm nay, Chúa Giêsu đã đến nhận phép rửa. Người đã muốn rửa mình trong dòng nước Giođan. Có lẽ có người sẽ nói: ‘Người là Đấng Thánh, tại sao Người lại muốn được ban phép rửa?’ Vậy xin nghe đây. Đức Kitô được ban phép rửa không phải để được nước thánh hóa, nhưng để chính Người thánh hóa nước và thanh tẩy bằng hành động cá nhân các dòng nứơc Người chạm tới. Vậy ở đây là việc thánh hiến nước hơn là thánh hiến Đức Kitô. Bởi vì, kể từ khi Đấng Cứu Thế được rửa, tất cả các dòng nước trở thành trong sạch nhằm phép rửa của chúng ta; nguồn được thanh tẩy là để cho ân sủng được ban cho các dân tộc sẽ đến sau đó. Vậy Đức Kitô là người đầu tiên bước đến phép rửa để cho các dân Kitô hữu không ngần ngại bước đi theo Người.
Và ở đây tôi hé thấy một mầu nhiệm. Cột lửa lại đã không đi trước qua Biển Đỏ để khuyến khích con cái Israel bước theo sau đó sao? Cột lửa ấy đã đi qua nước trước tiên để vạch ra con đường cho những người theo sau. Theo chứng từ của thánh tông đồ Phaolô, biến cố này đã là một biểu tượng của phép rửa tội (1 Cr 10,1t). Hầu chắc đây là một thứ phép rửa trong đó người ta được bao phủ bởi các đám mây và được nâng đỡ bởi các làn nước. Và tất cả những điều đó đã được hoàn tất bởi cũng một Đức Kitô, Chúa chúng ta, Đấng bây giờ đi trước các dân tộc Kitô hữu trong cái cột là thân thể Người, như Người đã đi trước con cái Isreal qua biển trong cột lửa. Cũng cái cột ấy, xưa kia đã ban ánh áng cho mắt những người bước đi, nay ban ánh sáng cho con tim các tín hữu. Khi xưa, cột ấy đã vạch ra trong các sóng nước một con đường vững chắc, bây giờ cột ấy đang củng cố các bước chân đức tin trong cuộc thanh tẩy này”.
71. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Maccô đã nói tới Chúa Giêsu. Nhưng ở đây ông cho Ngài nhập cuộc: “Cũng trong ngày ấy, Chúa Giêsu từ thành Nadaret miến Galilê đến” (c.9). Maccô không hề nói gì thêm nữa về nơi chốn Chúa Giêsu đã sinh trưởng (Lc 4,16). Nhưng như thế là để nói ngay tới một biến cố lớn (c. 9b). Maccô không nêu rõ lý do khiến Chúa Giêsu nhận phép rửa của Gioan. Điều đó giả thiết rằng, ít ra trong một thời gian, Chúa Giêsu đã là môn đệ của Gioan Tẩy Giả (Ga 3,26). Các Kitô hữu ban đầu biết rất rõ về phép rửa của Gioan. Họ tự hỏi: Phép rửa mà Chúa Giêsu nhận có gì đặc biệt?
Maccô trở lại rất chính xác vấn nạn này. Ông không nói tới việc Chúa Giêsu được dìm xuống nước sông Giođan. Nhưng lưu ý độc giả về điều đã xảy ra ngay sau đó (c.10). Dầu cho có vẻ như thế nhưng cảnh tượng này không phải là một thiên phóng sự giàu hình ảnh. Đây là một cảnh mang màu sắc trí thức, với những hình ảnh Thánh Kinh để minh họa điều mà các tín hữu tiên khởi đã khám phá ra được là độc đáo trong phép rửa Chúa Giêsu lãnh nhận.
Trong sách Isaia ta thấy có lời khẩn khoản nài xin Thiên Chúa lại đến giải thoát dân Ngài như được kể trong sách Xuất hành. Maccô đã cảm hứng theo đoạn văn sau đây: “Đâu rồi Đấng (Thiên Chúa) làm cho mục tử (=Môsê) của đoàn chiên Ngài lên từ biển cả? Đâu rồi Đấng đặt nơi người mục tử ấy Thần Khí của Ngài?” (Is 63,11). Như vậy không phải vô tình mà Maccô nói khi từ nước đi lên Chúa Giêsu đã lãnh nhận Thánh Thần. Đối với Maccô, Chúa Giêsu là Môsê mới. Phép rửa Ngài chịu, một lần nữa là cuộc giải thoát khỏi Hồng Hải. Vị Mục Tử của một dân mới của Thiên Chúa giờ đây được Chúa trao đổ Thánh Thần cho, Đấng sẽ khiến Ngài dẫn đưa đoàn chiên của mình vào Đất Hứa. Trong mạch văn này, câu “Chúa Giêsu thấy các tầng trời mở tung ra” đặc biệt có ý nghĩa. Theo truyền thống Do Thái, các tầng trời đã đóng lại khi các ngôn sứ sau cùng (Agai, Dacaria, Malaki: thế kỷ VI và V trước Chúa Kitô) không còn nữa. Sự giao tiếp giữa Thiên Chúa và con người bị coi như chấm dứt. Trước khi Chúa Giêsu đến thì “Thần Khí đã tắt rồi”, Ngài không xuống để linh hứng những lời tiên tri mới nữa. Trong bầu khí “thiếu vắng” này, một lời cầu xin tha thiết được dâng lên Thiên Chúa: “A! Xin Ngài mở toang các tầng trời mà ngự xuống…” (Is 63,19b). Như vậy là với Chúa Giêsu mọi sự đều thay đổi. Mở toang các tầng trời có nghĩa là mở lại cuộc tương giao giữa Thiên Chúa và con người, chính Đấng Mêsia là người đón nhận biến cố này. Khi ấy Maccô có thể diễn tả “Thánh Thần ngự xuống trên Ngài như một chim bồ câu”. Việc Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu khai mào kỷ nguyên mới của ơn Cứu độ. Với việc ban Thánh Thần, đấng “Mêsia” mang đến cho con người ơn tha thứ tội lỗi (Cv 2,37-38). Người ta đã từng hiểu ý nghĩa của hình ảnh chim bồ câu. Một số người thấy ở đó ám chỉ trực tiếp về con chim hòa bình mà Noê thả ra trên nước đại hồng thủy (St 8,8-11). Có những người khác nghĩ rằng điều đó nhắc nhớ đến cuộc Sáng tạo khi Thần Khí Thiên Chúa bay là trên vực thẳm (St 1,2). Trong thế giới Do Thái thời Chúa Giêsu người ta so sánh các ngôn sứ với những con chim gáy. Như vậy là ở đây, Chúa Giêsu được giới thiệu như “vị ngôn sứ” của thời đại mới.
Phần kết của đoạn văn là một sứ điệp thần linh phải được diễn giải thật đúng (c. 11). Trời đó là Thiên Chúa người mà Do Thái tránh nêu danh. Thiên Chúa lên tiếng. Lời tuyên bố của Ngài thật quan trọng. Lời sấm của Thiên Chúa gồm hai đoạn văn giàu ý nghĩa trong Cựu Ước. Một đàng, “Con là Con Cha” gợi lại Thánh vịnh mô tả ngày nhà vua đăng quang, theo nghĩa “Mêsia”: “Người phán bảo tôi: Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2,7). Rõ ràng Chúa Giêsu được chỉ định như Đấng Mêsia thuộc dòng David. Phẩm tính “yêu dấu” gán cho Chúa Giêsu, nhắc lại điều Thiên Chúa đòi hỏi Abraham liên quan tới Isaac: “Hãy đưa con của ngươi, đứa con duy nhất mà ngươi yêu dấu…” (St 22,2).
Đàng khác, những lời nói với Chúa Giêsu, “Cha hài lòng về Con”, quy chiếu về một bài thơ nổi tiếng của người Tôi tớ Thiên Chúa trong ngôn sứ Isaia: “Này đây tôi tớ của Ta (Thiên Chúa nói) người Ta yêu quý. Ta đặt Thần Khí của Ta nơi Người. Người sẽ đem Lề Luật đến cho các dân” (Is 42,1-2). Ta thấy đây là một nghi thức tấn phong ngôn sứ. Cũng giống như người tôi tớ trên đây, Chúa Giêsu được sai đi thi hành sứ vụ Ngài. Phần tiếp theo của bài thơ thật là ý nghĩa: “Ta (Chúa nói tiếp), Ta gọi con trong công chính. Ta đã làm cho con nên Giao Ước của dân, nên ánh sáng cho mọi sắc tộc để con mở mắt người mù, giải thoát tù nhân, và đưa người trong tối tăm ra khỏi ngục thất” (Is 42,6-4).
Như vậy, chắc chắn đối với Maccô phép rửa Chúa Giêsu lãnh nhận không phải để tha tội, vì Chúa Giêsu không hề phạm tội. Đó là hiệu khởi hành, là lệnh sai đi thi hành sứ vụ mà Thiên Chúa ra cho đấng “Mêsia”, là “Con Thiên Chúa” (theo nghĩa tròn đầy sẽ được khám phá sau này trong niềm tin vào Chúa Phục Sinh).
Chúa Giêsu là Đặc Sứ của Thiên Chúa để thiết lập Vương Quốc Ngài. Bây giờ Ngài có thể lên đường thi hành sứ vụ đó.
72. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
GIOAN LÀM PHÉP RỬA CHO CHÚA GIÊSU
A. Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả.
Máccô đã tóm lược rất nhiều các chi tiết liên quan đến vị Tiền hô mà truyền thống đã mang lại; đặc biệt ông đã bỏ hẳn lời Gioan Tẩy giả loan báo về Cuộc phán xét cánh chung sắp đến. Cảnh quan trọng đầu tiên của Tin Mừng của ông là cảnh Chúa Giêsu chịu rửa. Những gì ông giữ lại có liên quan đến vị Tẩy giả đặc biệt chỉ muốn "chuẩn bị" (c.3) cho quang cảnh mặc khải này Nơi Máccô, tất cả lời rao giảng của Gioan giản lược thành hai câu chúng ta đang khảo cứu: loan báo Đấng-đang-đến đầy quyền năng và cao cả hơn vị Tẩy giả; loan báo chính phép rửa của Người, phép lửa đối nghịch với phép rửa của vị Tiền hô.
"Gioan rao giảng rằng: Sẽ đến sau tôi Đấng quyền thế hơn tôi; tôi không đáng cúi xuống mà cởi quai dép Người. Phần tôi, tôi đã thanh tẩy anh em bằng nước; còn Người, Người sẽ thanh tẩy anh em bằng Thánh Thần" (cc.6b-8).
Câu đầu cho ta cảm thấy Đấng Messia đã đến gần thật: "Người đến (sát) sau tôi", Người đi tiếp tôi liền. Hình ảnh tên nô lệ dưới chân chủ được tô điểm ở đây bằng một nét đặc biệt thuộc lối văn miêu tả của Máccô ("cúi xuống"), một nét tuy nhiên không thay đổi gì ý nghĩa.
Ngược lại, mệnh đề thứ hai, mệnh đề đưa ra lại (như người bằng cách rút vắn) sự tương phản cổ truyền giữa phép rửa bằng nước và phép rửa bằng Thần khí, thì rõ ràng thay đổi ý nghĩa bản văn. Nó loại bỏ chi tiết "lửa", y như văn mạch loại bỏ mọi ám chỉ về cuộc Phán xét cánh chung. Một việc loại bỏ triệt để như thế bắt buộc ta bây giờ phải hiểu sự tương phản giữa hai phép rửa chỉ trên cơ sở những gì mà thính giả của Gioan Tẩy Giả đã có thể hiểu trước, chứ không theo văn mạch nguyên khởi.
Thế mà những người này hẳn đã biết các sấm ngôn nói về Đấng Messi a mang Thần khí (Is 11, 1-3; 42,1; 61,1) cũng như những sấm ngôn hứa đổ tràn lan Thần khí như một sức mạnh từ trên xuống vào thời thiên sai để canh tân tôn giáo và luân lý của Dân Chúa (Is 32, l5t; 44,3t; 59.21; Ed 11,19; 31.25-29; 37; 39,29; Ge 3, 1tt v.v...). Tuy nhiên cho đến đây. Chưa có gì nói rằng việc tuôn tràn này sẽ là một ân huệ của chính Đấng Messia cả. Lời tuyên bố của vị liền hô thiết lập mối liên hệ này (mối liên hệ mà Tin Mừng thứ tư sẽ khai triển): chính Đấng Messia sắp đến sẽ đổ Thánh Thần tràn ngập.
Ngoài ra, trong các lời của vị Tẩy giả được tách ra khỏi văn mạch đầu tiên của chúng, hạn từ "rửa'' tự nhiên được hiểu theo cùng một nghĩa trong hai vế của lối đối ngẫu. Người ta đối chọi nghi thức với nghi thức: nghi thức xưa có tính cách chuẩn bị và mục đích thanh tẩy với nghi thức mới có tính cách chung quyết và mục đích thánh hóa. Thật ra, khi nói ở đây về phép rửa trong thần khí mà không xác định gì thêm, thánh sử nghĩ tới phép rửa Kitô giáo, nghi thức bí tích quen thuộc với độc giả mình. Thành ra cái ông cho vị Tiền hô hứa, chính là một hoạt động của Đấng Messia, hoạt động tuôn tràn Thần khí (trong phép rửa Kitô giáo), để thực hiện một cách rất cụ thể các lời tiên tt'i xưa về việc đổ Thần khí thánh thiện vào thời cánh chung.
Tóm lại, lời trao giảng của Gioan Tẩy giả, theo như Máccô trình bày, loan báo hai việc: *1) (như trong truyền thống chung): việc giá lâm gần kề của Đấng Messia, Đấng được mặc quyền năng Thiên Chúa và xứng đáng hơn Gioan Tẩy giả bội phần; *2) Việc tuôn đổ Thánh Thần vào thời cánh chung do Chúa Kitô (trong phép rửa Kitô giáo) (riêng của Máccô).
B. Phép rửa cho Chúa Giêsu.
Như chúng ta đã nói, trong trình thuật phép rửa, Máccô đi gần với truyền thống sơ khai nhất, về phương diện bản văn cũng như thần học.
"Và xảy ra là trong những ngày ấy, Chúa Giêsu bỏ Nagiarét xứ Galilê và đã được Gioan thanh tẩy cho trong sông Giođanô. Vừa lên khỏi nước, Người thấy trời xé ra và Thần khí, như chim bồ câu, đáp xuống trên Người. Và một tiếng phán ra từ trời: "Con là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ" (cc 9-11).
1. Hành vi tự ý của Chúa Giêsu.
"Và xảy ra trong những ngày ấy": Đây là một ngữ điệu khác thường trong Mc. Kiểu nhập đề như đúc sẵn này, mà thánh sử đã chẳng sửa lại, cho thấy đây là khởi đầu của một đơn vị văn chương" mới có tính cách độc lập ngay từ sơ khai, cho thấy trình thuật này có một nguồn gốc khác với trình thuật trước là trình thuật minh nhiên đặc trưng nghi thức Gioan như một "phép rửa thống hối để được tha tội". Công thức ấy là công thức Cựu ước vẫn dùng để giới thiệu các biến cố xảy ra, theo các sấm ngôn tiên tri, do bởi thánh ý Thiên Chúa. "Chúa Giêsu bỏ Nagiarét xứ Galilê": Máccô cố ý xác định như vậy vì đây là lần đầu tiêu ông nói về Chúa Giêsu; chúng ta đang còn ở ngay đầu Tin mừng.
"Và đã được Gioan thanh tẩy cho trong sông Giođanô": Sự kiện được ghi chú một cách chính xác, nhưng với sự vắn gọn vô cùng; vì sẽ không có lơi chú giải nào khác về phép rửa của Chúa Giêsu ngoài trình thuật thần hiện. Câu văn có vẻ cố ý lấy lại các hạn từ của c.5 vai trò thanh tẩy của Gioan đạt đến đích điểm đích thực khi ông làm phép rửa cho Chúa Giêsu.
2. Thần hiện.
"Và vừa (lên khỏi nước)": Mặc dầu năng gặp nơi Máccô chữ ráp nối này ở đây hẳn đã có từ trước (nó cũng có nơi Matthêu, dầu có hơi vụng về: “và này"). Người ta hiển nhiên muốn nối kết lập tức việc Chúa Giêsu nhận phép rửa với cuộc thần hiện vốn mang lại ý nghĩa cho việc này.
"Và Người thấy": Đây là một chi tiết có từ nguyên khởi. Chính Chúa Giêsu là chứng nhân mục kích việc thần khí đến, cũng như chính Người sẽ được tiếng nói Chúa Cha ngỏ cho. Cuộc thần hiện xảy ra cho Người vậy.
Chúa Giêsu thấy trời "xé ra", "xẻ ra" (Matthêu và Luca nói đơn sơ: “mở ra"). Sở dĩ Máccô chọn tiếng này có lẽ là vì ưa lối văn gợi hình, đầy màu sắc. Dầu sao có thể hạn từ muốn ám chỉ Is 63,19 (bản Hy bá) là bản văn ghi lại một lời cầu nguyện tha thiết người ta dâng lên Thiên Chúa, Cha Israel (nhân danh tình phụ tử của Ngài) để xin Ngài phá tan một sự im lặng quá lâu và từ trời xuống với dân Ngài để cứu họ. Trong phép rửa của Chúa Giêsu là khởi nguyên Tin Mừng cũng vậy, Thiên Chúa chấm dứt một sự im lặng dài lâu, xé thủng màn trời, khai mở thời đại ân sủng chung quyết bằng việc sai Thần khí Ngài đến và bằng cách biểu lộ sự hài lòng của Ngài đối với Con chí ái đang hiện diện giũa dân Ngài.
“Và một tiếng phát ra": Trình thuật mang một giọng điệu thuật sự: các câu vắn gọn nhanh nhẹn nối tiếp nhau, nằm kề nhau cách đơn giản, không văn chương cầu kỳ. Thành thử càng gây được cảm kích.
"Con là Con Ta...": Câu nói được viết lại dưới hình thức có lẽ là sơ khai nhất của nó, như ta đã phân tích trên đây. Sự thâm tình của mối tử hệ thần linh này, thánh sử Máccô sẽ hé mở cho ta thấy qua cung giọng của lời cầu nguyện Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa: "Abba, Cha ơi" (14,36), một công thức đầy tình hiếu thảo và có vẻ như lời âu yếm của trẻ thơ.
Quang cảnh này là quang cảnh đầu tiên của đời Chúa Giêsu theo Mc. Một cảnh mặc khải. Một cảnh tấn phong làm Thiên sai (như chúng ta vừa mới chứng minh trên kìa: thánh hiến và sai đi thực-hiện công trình cứu rỗi bằng quyền lực của Thánh Thần và trong mối thâm tình phụ tử đặc biệt với Thiên Chúa). Đồng thời đây cũng là sự hé mở đầu tiên về mầu nhiệm con người Chúa Giêsu. Tóm lại, đây là sự minh giải đầu tiên và long trọng cái tiêu đề của Tin mừng Máccô: “Khởi nguyên của Tin Mừng Chúa Giêsu, Messia, Con Thiên Chúa" (1,1)
KẾT LUẬN
Ý nghĩa phép rửa Chúa Giêsu chịu được biểu lộ trong cuộc thần hiện tiếp theo sau. Đó chính là cái đã thu hút tất cả sự lưu tâm của truyền thống Tin Mừng và của các soạn giả linh ứng; đó cũng là điều chúng ta phải suy niệm trước tiên.
Hành động công khai đầu tiên của Chúa Giêsu, hành động nối kết Người với vị ngôn sứ cuối cùng và vĩ đại nhất, đã trở thành lễ tấn phong Người làm thiên sai một cách long trọng: Được mặc lấy quyền lực Thánh Thần, được vững chắc trong niềm ý thức đầy dủ về mối thâm tình, đặc biệt là về sự thông hiệp độc nhất giữa Người với Thiên Chúa Cha Người. Chúa Giêsu vĩnh viễn lãnh nhận sứ mạng thi hành ngay bây giờ công cuộc cứu rỗi, theo đường lối thiên ý đã được vạch ra trong Thánh Kinh. Nhưng bên kia công cuộc thiên sai, quang cảnh dẫn vào mầu nhiệm sâu xa hơn nữa, mầu nhiệm con người của Chúa Giêsu Mêssia - Con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa nền tảng mà ngay từ đầu người ta mặc cho biến cố, ý nghĩa đã được lồng vào trong một màng lưới đầy những hoài niệm Thánh Kinh, trong một khung cảnh có tính cách khải huyền (trời mở ra, Thần Khí đến cách hữu hình, tiếng nói từ trên cao: toàn là những yếu tố thích hợp nhất để cho ta biết điều mà ta chỉ có một mặc khải từ trên mới tỏ lộ: sứ mạng cứu rỗi của Chúa Giêsu, cái sứ mạng rốt cục đặt cơ sở trên tư cách Con Thiên Chúa của Người).
Được các thánh sử tường thuật lại ngay ở ngưỡng cửa sứ vụ Cứu Chúa, trình thuật cho thấy từ đây phải hiểu tất cả cuộc đời công khai của Chúa Kitô dưới ánh sáng vừa nói mà ánh sáng đi trước ánh sáng phục sinh. Và ngay trong lần tuôn đổ Thánh Thần đầu tiên này, ngay trong chính việc Con Thiên Chúa xuất hiện giữa nhân loại này, ta thấy thời đại cánh chung đã bắt dầu, nước Thiên Chúa đã khai mạc.
Sau cùng, nhiều chỗ nhuận sắc sửa chữa nhắc ta nhớ mối dây liên kết phép rửa Kitô giáo với phép rửa Chúa chịu. Thật vậy, chính do tương quan nội tại với phép rửa Chúa Giêsu chịu mà bí tích Kitô giáo làm ta thành con cái Thiên Chúa là được mang Thần khí Ngài.
(Bản Pháp ngữ của Edmond Jacquemin Assemhlées du Seigneur số 12.)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu là ai? Người từ đâu đến? Đó là những câu hỏi lớn lao? Ai sẽ trả lời? Ai sẽ mặc khải lai lịch của Người ra? Ai, nếu không phải làThiên Chúa. Đấng đã sinh thành và sai Người đến? phép rửa của Chúa Giêsu chính là nói Thiên Chúa mặc khải cho ta lai lịch Người. Ngài cho ta biết Chúa Giêsu là người tôi tớ Giavê (bài đọc I), là Đấng cứu rổi mọi người (bài đọc 2), là Con Thiên Chúa (bài Tin Mừng). Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả là để chuẩn bị lòng người đón nhận mặc khải hôm nay. Đối với các Kitô hữu, ngoài Chúa Giêsu Kitô ra, không còn có ơn cứu rỗi nào khác, cuộc giải phóng đích thực nào khác.
2) Hôm nay, Chúa Giêsu được tấn phong làm Đấng Thiên Sai. Người ra đi mang sứ mạng cứu rỗi với uy lực của Thánh Thần và với danh nghĩa Con Thiên Chúa. Nhưng người cứu rỗi nhân loại theo cách người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo ngày xưa. Đường lối cứu rỗi của Người là truyền rao chân lý. Tôn trọng tự do, giáo dục lương tâm, kêu gọi cõi lòng. Phương thế của Người là nêu gương và dạy nhân loại hãy từ bỏ chính mình để sống cho Thiên Chúa, là ban ân để mỗi cá nhân tự giải phóng mình khỏi sự vong thân kinh khủng của tội lỗi. Tinh thần của Người là tinh thần Bát Phúc. Kitô hữu chân chính muốn giải phóng thế giới và con người không thể đi con đường nào khác hơn.
3) Sau khi chịu rửa và được công khai tấn phong làm thiên sai. Chúa Giêsu đã được đưa vào hoang địa, chịu đủ cơn cám dỗ để chứng tỏ mình xứng đáng với lòng tin tưởng, mến yêu của Thiên Chúa, đủ vâng phục để theo thánh ý và đường lối Ngài, đủ sức mạnh để thi hành sứ vụ đặc biệt. Và thực sự Người đã chiến thắng sa tan, chiến thắng chính mình. Chúng ta cũng vậy. Sau khi chịu rửa tội và được tấn phong làm con Thiên Chúa, chúng ta đã được đưa vào lòng đời đầy bao thử thách. Hãy cố gắng chứng tỏ mình là Kitô hữu chính danh, đích thực, luôn sống và hành động theo đường lối của Chúa Kitô, của Thiên Chúa, luôn sống xứng đáng với tước hiệu "con chí ái" của Ngài.
4) Phép rửa trong nước và Thánh Thần hướng ta về phép rửa quyết định nào? Lâu lắm sau khi chịu phép rửa của Gioan, Chúa Giêsu tuyên bố: "Có một phép rửa Ta cần phải nhận, và Ta khắc khoải chờ mong cho nó hoàn tất" (Lc 12,50). Người nói tới cái chết trên thập giá như là sự hoàn thành tột bậc đời sống vâng lòi mà Người đã chọn lựa. Chúng ta cũng vậy.Bí tích thanh tẩy chúng ta đã chịu hướng ta về phép rửa quyết định được thể hiện qua tiếng "xin vâng" đối với Chúa mỗi ngày, là qua tiếng "xin vâng" cuối cùng mà, vào thời giờ một mình (Chúa biết, sẽ niêm ấn lời ưng thuận bất di bất dịch của ta trước kế hoạch yêu thương do Chúa đề nghị với ta.
73. Chu giải của Noel Quesson
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Sau một cuộc đột nhập vào Tin Mừng của Luca và Matthêu, để khám phá những mầu nhiệm về Giáng sinh và Hiển Linh, vì chỉ có hai Tin Mừng đó mới nói cho chúng ta về thời thơ ấu của Đức Giêsu... giờ đây ta gặp lại Tin Mừng Máccô. Chính Máccô bắt đầu trình thuật của mình lúc khởi sự đời sống công khai của Đức Giêsu. Và như thế chúng ta được dẫn ngay vào giai đoạn trưởng thành của Đức Giêsu. Lúc đó Ngài khoảng ba mươi tuổi.
Gioan Tẩy Giả loan báo trong hoang địa rằng: “Có một Đấng quyền thế hơn tôi, đến sau tôi"
Trong các Tin Mừng của Matthêu và Luca, lời loan truyền của Gioan Tẩy Giả mang một nội dung mãnh liệt, nhằm báo động ngày chung thẩm sắp tới gần: "Loài người rắn độc kia... Hãy tỏ lòng ăn năn sám hối... cái rìu đã đặt sát gốc cây" (Mt 3,7-10; Lc 3,7-9) Máccô hoàn toàn bỏ qua kiểu giảng truyền trên, để chỉ ghi lại lời loan báo Phép rửa của Người... Gioan Tẩy Giả chỉ nhằm giới thiệu Đức Giêsu "Đây là Đấng đến sau tôi mà các ông đang ngóng đợi" Người đã đến nơi rồi. Các ông hãy sẵn sàng!
Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dép cho Người.
Như thế, ngay từ đầu trình thuật, Máccô đã lưu ý ta: Đức Giêsu mà ông sắp nói đến mang một mầu nhiệm. Đấng chưa biết rõ này, trước khi công khai xuất hiện, đã được người ta mong chờ. Điều đó muốn làm nổi bất nhân cách phi thường của Người: Vậy ông ta là ai? Gioan Tẩy Giả còn không dám "cúi xuống trước Người"!
Tôi, thì tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần".
Trong chương đầu tiên này. Máccô đã đề cập đến Thánh Thần tới ba lần. (Mc 1,8.10.12). Sự nhấn mạnh của ông hẳn là không để ta cứ vô tâm được. Chính các thính giả của Gioan Tẩy Giả cũng không thể nhầm lẫn. Như chúng ta họ phải biết lời tiên báo liên hệ đến Đấng Mêsia vị mang Thần Khí. (Is 11, 1-3; 42,1; 61,1) và truyền thống dồi dào Thần Khí trên nhân loại vào thời cứu độ (Is 32,15; 44,3; 59,21; Dt 11,19; 36,25; 2.9,37; 39,29 Ge 3,l...) Do đó, lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả chính là nhằm loan báo Đấng Mêsia đã đến gần kề, Người sắp đổ tràn Thần khí, để làm phát sinh một nhân loại mới.
“Người làm phép rửa, nhận dìm anh em trong Thần khí” Chúng ta có ý thức rằng, phép rửa Kitô giáo của chúng ta: cũng như thế không? Nói chung, chúng ta còn chưa sống thực sự ý nghĩa thâm sâu của phép rửa mình lãnh nhận. Vì bị nhận chìm trong môi trường vô thần hiện nay, tất cả chúng ta thường dễ cho rằng, việc "cứu độ" nhân loại là do hậu quả những nỗ lực, những thái độ nhân bản đầy giá trị của ta. Quan điểm về khoa học kỹ thuật cũng tạo cho ta quen nghĩ rằng, việc cứu độ con người nằm ngay trong con người: chúng ta phải trở nên liên đới hơn, hãy làm chủ thiên nhiên hơn, hãy sống chia sẻ nhiều hơn. Điều đó không sai. Nhưng tất cả "Mạc khải Kinh Thánh" (và kinh nghiệm chính thức nhất của con người) cũng nói cho ta hay, ý nghĩa sự sống của con người không nằm trong con người: vũ trụ dù lớn lao cách mấy, cũng không tự mình có "cứu cánh” được con người chỉ có thể hoàn tất trọn vẹn, khi mơ tới một thực tại siêu việt: Đó là Thần khí của Thiên Chúa! Như thế, câu trả lời cuối cùng cho tất cả các vấn nạn lớn, không nằm trong con người. Có ích lợi gì khi lên vũ trụ và lên tới mặt trăng, mà vì thế mà lại tự sát? Chiều kích "siêu việt" càng ngày càng khẩn thiết. André Malraux viết: "Thế kỷ XXI sẽ là kỷ nguyên Kitô giáo, hay nó không là gì cả!"
Cũng trong những ngày ấy, Đức Giêsu từ thành Nagiarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa cho tại sông Giođan.
Đây là lần xuất hiện đầu tiên của Đức Giêsu trong trình thuật Máccô.
Đấng "chưa được nhận biết" này đã âm thầm sống ba mươi năm trong bóng tối của một càng quê nhỏ bé, mà cả Kinh Thánh, các sách Talmud, lịch sử hay địa lý cũng chưa khi nào nhắc đến... trước khi con người Giêsu chưa làm cho nó nổi danh trên thế giới, Vào thời đó, theo những khai quật khảo cổ Nagiarét chỉ gồm 20 nóc gia, và như thế khoảng độ một trăm dân cư. Chính từ vẻ tối tăm lạ thường đó, lại phát sinh một trong những biến động lịch sử lớn lao nhất, làm thay đổi bộ mặt địa cầu. Vậy con người Giêsu đó là ai? Lúc này đây, Người vẫn giữ vẻ bề ngoài như một người bình thường: Người cũng đến nhận phép rửa sám hối.
Vừa lên khỏi nước, Đức Giêsu liền thấy các tầng trời mở ra.
Mô tả cảnh này, Luca và Matthêu dùng một từ êm dịu hơn: "Trời mở ra". Còn Máccô viết: Tầng trời "mở tung ra".
Vừa rồi, khi bàn đến Phép rửa, ta đã gợi lên một thế giới mà trong đó con người có khuynh hướng tự đóng khung mình vào. Giờ đây Đức Giêsu chọc thủng một lỗ hổng trong vũ trụ đã đóng kín đó. Kể từ giờ trở đi trong con người của Đức Giêsu, nhân loại sẽ có một "kẽ hở" để thông hiệp với thế giới Thần linh.
Qua cách dùng từ gợi hình trên, ta có thể nhận ra lối viết thực tế của Máccô. Nhưng ta cũng có thể coi đây là một ám chỉ tới Isaia; vào thời lưu đày đau khổ, trong khi mệt mỏi và âu lo vì Thiên Chúa vân lặng thinh, một vị ngôn sứ đã khẩn cầu Thiên Chúa hãy phá tan sự thinh lặng như thời kỳ giải phóng khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, và lời cầu nguyện của ông đã trở thành tiếng kêu van: "A! ước gì Người xé trời mà xuống..." (Is 63,19).
Đức Giêsu liền thấy các tầng trời mở tung ra, và thấy Thần khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên mình.
Cảnh này là cảnh đầu tiên trong cuộc đời của Đức Giêsu, theo Máccô. Theo vị thánh sử này, thì tác động đầu tiên của Đức Giêsu là "một cái nhìn", chỉ mình Đức Giêsu đã chứng kiến trời "xẻ mở" như trên, nhờ đó, Thần khí mới đáp xuống. Như vậy, chúng ta đang đứng trước một biến cố siêu nhiên, mà những người mục kích khác không nhận ra. Đó là cái nhìn nội tâm, chắc chắn diễn tả cách đào sâu lương tâm mà Đức Giêsu có được là do tư thế làm con Thiên Chúa và do sứ vụ của Người. Chúng ta cũng cần nỗ lực để hình dung ra sinh hoạt tâm lý của Đức Giêsu: Người đã không "trở nên" con Thiên Chúa nhờ tiến hóa bởi vì Người luôn luôn là con... Nhưng, xét là một người đích thực, cần phải có một tình trạng tiến triển nào đó trong lương tâm Người, phù hợp theo độ tuổi và theo những kinh nghiệm của Người: Ngày nay, ta có thể nói đó là một thứ "trực giác" hơn là một cái nhìn. Nhưng ngôn từ cửa chúng ta còn quá yếu kém để diễn tả những thực tại của Thiên Chúa.
Cựu Ước thường minh chứng cho ta, cách Thần khí xâm chiếm một người để trao cho một sứ vụ rõ ràng (Is 11,2; Tt 6,34; 14,19; 15,14). Và thực sự ta có thể hình dung ra được, Đức Giêsu bị xâm chiếm bất ngờ trong toàn thân Người, để xác tín về "vai trò" phi thường Người sẽ đảm nhận.
Thần khí đã tự "tỏ hiện" dưới dáng vẻ nào? Ta thấy bản văn dùng từ “như”- “như một chim bồ câu”. Trong ngôn ngữ Khải huyền, hình ảnh đặc thù này được sử dụng có ý gợi lên điều gì không thấy được: “Ao người trắng như tuyết, tóc đầu người như len trắng" (Đnl 7,9).
Nếu ta được dịp hiện diện trong một cuộc "thần hiện", nghĩa là một cuộc "tỏ hiện của Thiên Chúa", ta sẽ thấy không thể dùng lý trí để đi sâu vào mầu nhiệm được: Thiên Chúa không bao giờ xuất hiện như một thứ "thách đố” đối với con người... từ mọi phía Người vượt qua mọi khả năng cảm nhận và tưởng tượng của ta. Cần phải chấp nhận sự "xé mở", và để mình chìm trong lỗ hở đó như rơi vào trong một vức thẳm.
Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con".
Đây là kinh nghiệm độc nhất về tình âu yếm. Đức Giêsu biết mình được yêu. Hiển nhiên một ít người đã có dịp gần Đức Giêsu, khám phá ra nơi Người một kiểu tương quan hết sức đặc biệt với Thiên Chúa. Trong lúc cầu nguyện Người nói với Đấng vô hình trong một mối thâm tình mà trước Người không ai dám sống như vậy. Người thưa lên: “Abba!" có nghĩa như "Ba ơi!" (Mc 14,36).
Từ nhiều năm, trong thôn làng Nagiarét nhỏ bé và tăm tối của mình, Người vẫn âm thầm sống cách diệu kỳ mối tình con thảo đó. Và giờ đây mới có dịp vang lên như tiếng chuông ngân vui trong trái tim Người: "Con là tình yêu của Cha. Con là con độc nhất của Cha. Cha hài lòng về con". Chắc chắn, những lời đó đã được rút ra từ Kinh Thánh. Tốt hơn ta nên đọc lại những câu trên mà Đức Giêsu hẳn đã suy niệm, thưởng nếm nhiều năm trong khi cầu nguyện tại Hội đường, hay trong nếp sống hàng ngày tại căn nhà bé nhỏ, với Đức Maria, trong khi làm việc. Có lúc nào bạn cảm nghiệm như thế không? Bạn có cảm thấy mình được yêu chưa? Có đáp trả tình yêu đó? Tình yêu như một cái vừa mạnh mẽ, vừa dịu êm, đem lại cho mọi giây phút đời bạn tràn ngập bình an và hạnh phúc.
Ta sẽ là Cha nó, và nó sẽ là con Ta (2 Sm 7,14).
Đức Giêsu đã phán với tôi rằng: "Người là con Ta, chính hôm nay, Ta đã sinh ra người". (Tv 2,7)
"Này đây tôi tớ của Ta, kẻ Ta đã chọn và hồn Ta sủng mộ" (Is 42,1).
"Hỡi Giêrusalem, người ta sẽ gọi ngươi tên mới: Ngươi sẽ không còn bị người ta nói: "Đồ bỏ!”, thiên hạ sẽ gọi ngươi "Sủng ái của Ta" (Is 62,4)
74. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA Ở SÔNG GIOĐAN
VÀ CUỘC TỎ HIỆN CỦA THIÊN CHÚA
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đọc lại dưới ánh sáng Phục sinh
Dưới ánh sáng Phục sinh, tác giả Tin Mừng ngược dòng thời gian trở về tới biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa. Cùng với sứ vụ của Vị Tiền Hô, biến cố này làm thành phần "Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa" (1,1).
Ở đây, tác giả cho chúng ta khám phá trong một lúc sự hoàn tất những lời đã hứa cho Israel, cuộc mạc khải về mầu nhiệm bản thân Đức Kitô, khởi đầu và lời loan báo về sứ vụ của Người.
D. Jacquemin viết: "Được các thánh sử Tin Mừng kể lại ngay trước khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ, bài tường thuật cho thấy từ nay phải hiểu toàn bộ cuộc đời công khai của Đức Kitô dưới ánh sáng đó (nó chiếu rọi trước hào quang của Phục sinh). Và rồi, trong lần hiển hiện đầu tiên của Thánh Thần này, trong cuộc xuất đầu lộ diện của Con Thiên Chúa đến hiện diện giữa loài người này, người ta được chứng kiến thời buổi cánh chung đă khởi đầu, “triều đại Nước Trời đã khai mở" (Assemblées du Seigneur, số 12, trang 66).
2. Một biến cố hoàn tất những lời hứa xưa
Bài đọc Tin Mừng của ngày lễ Chúa chịu phép rửa hôm nay, được bắt đầu bằng một màn "ra mắt" nhân vật Giêsu:
+ Hoạt động của Người được thuật lại bằng một công thức xem ra xa lạ nơi Máccô, được vay mượn từ Cựu Ước. Nó có thể lấy từ đoạn ra mắt của Môsê, ở đầu sách Xuất Hành: xảy ra là vào những ngày ấy, Môsê lớn rồi, thì..." (Xh 2, 11). Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã được giới thiệu như là Môsê mới. Điều trớ trêu, Đức Giêsu đã không đến từ miền Giuđêa hay từ thành thánh Giêrusalem, nhưng lại từ Nagiaret, miền Galilê, một làng quê hẻo lánh thuộc một vùng vốn bị thiên hạ coi rẻ. Bởi đó mới có câu: “Từ Nagiaret, làm sao có cái gì hay được" (x. Ga 1,46). Và Người đến như bao kẻ khác, để chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả trên sông Giođan.
Máccô bỏ qua không nói đến cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và vị Tẩy Giả, cũng như chi tiết việc Chúa dìm mình xuống sông Giođan. Bù lại, nhờ khả năng vận dụng khéo léo và làm khơi lên phong phú những hình ảnh Kinh Thánh, ông đã minh hoạ được điều mà cộng đoàn Kitô hữu sau này, dưới ánh sáng Phục sinh, xem là đặc thù nơi biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa.
+ Cuộc tỏ hiện của Thiên Chúa xảy ra, tác giả Tin Mừng xác định rõ, "khi Đức Giêsu vừa lên khỏi nước”. Nhận xét này, một lần nữa, có ý trình bày Đức Giêsu như là Môsê mới.
Quả thực, theo J.Hervieux giải thích: người ta tìm thấy nơi sách ngôn sứ Isaia một lời cầu tha thiết xin Thiên Chúa tái diễn lại những hành động cứu thoát như thời Xuất Hành. Máccô được gợi hứng từ một đoạn trong sách đó có câu: "Đâu rồi Đấng (Thiên Chúa) đã từng làm cho bước lên khỏi nước biển vị mục tử (= Môsê) chăn dắt đàn chiên của Người?". Bởi đó chẳng phải ngẫu nhiên mà tác giả Tin Mừng nói rằng chính lúc ‘vừa lên khỏi nước, Đức Giêsu đã được nhận lấy Thánh Thần’. Đối với Máccô, Đức Giêsu chính là Môsê mới. Phép rửa Người chịu là một cuộc vượt qua mới khỏi Biển Đỏ" (L'evangiìe de Marc, Centurion, 1991, trang 20).
+ Khác với Tin Mừng Matthêu, cuộc tỏ hiện ở đây xảy ra nhằm chính Đức Giêsu. Nó gồm hiện tượng: các tầng trời xé ra, Thần Khí ngự xuống, và tiếng từ trời phán.
a) "Đức Giêsu liền thấy các tầng trời xé ra”. Theo truyền thống Do Thái, từ thời các ngôn sứ cuối cùng thì các tầng trời, nơi Thiên Chúa ngự, đã khép lại rồi. Ngôn sứ không còn nữa, nên mối liên lạc giữa Thiên Chúa và loài người cũng đã bị cắt đứt. Bởi thế đến hôm nay, khi Người đáp lại tiếng van nài của vị Ngôn sứ trong cảnh lưu đày khốn khổ: "Ước gì Ngài xé trời và ngự xuống”, thì đúng là một thời mới đã mở màn, mối liên lạc đã được tái lập giữa Thiên Chúa và loài người. Kiểu nói "xé ra" sau này chỉ trở lại dưới ngòi bút của Máccô vào giây phút Đức Giêsu tắt thở trên thánh giá: "Bức màn trương trong đền thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới (15,38). Điều đã được khai mở hôm nay trên dòng sông Giođan rồi đây sẽ được hoàn tất mỹ mãn trên đồi Canvê: Đức Giêsu đã mở ra một lối đi cho hết mọi người được tự do đến với Thiên Chúa.
b) "Và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình”.
Trước khi Đức Giêsu đến, Thần Khí đã như bị dập tắt: Người không còn ngự xuống để tác động thêm những ngôn sứ mới. Ở đây, Đức Giêsu vừa lên khỏi nước sông Giođan liền thấy Thần Khí ngự xuống trên mình, chỉ định Người làm vị Ngôn sứ của thời đại mới.
c) “Lại có tiếng từ Trời phán rằng: Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Thiên Chúa (trong thế giới Do Thái, Trời là một cách để gọi Thiên Chúa mà tránh đụng đến Người) chứng thực cho sứ mạng của Đức Giêsu: Người không chỉ là một ngôn sứ như bao ngôn sứ khác, bởi ở đây Thiên Chúa đã nói với Người những lời mà ngoài Người ra chưa từng nói với ai. Những lời này có tầm mức vô cùng quan trọng, chúng hoạ lại và đồng thời làm sáng tỏ ý nghĩa hoàn tất của một số câu nói trong Cựu Ước:
- Họa lại một câu trong Thánh vịnh 2: "Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (c.7), mà truyền thống Do Thái vừa đọc lên như lời sấm về Đấng Mêsia. Ngay từ những trang đầu của Tin Mừng, Đức Giêsu đã được tuyên phong là Vua Cứu Thế thuộc dòng tộc Đavid, là Đấng Kitô của Thiên Chúa: Hoạ lại câu nói được nhắc đi nhắc lại đến 3 lần trong Sách Sáng Thế 22, lúc Abraham vì vâng lệnh truyền của Thiên Chúa, toan hạ tày sát tế Isaac, đứa con của lời hứa, "đứa con yêu dấu" của ông. Đức Giêsu được xem như một Isaac mới, khác chăng là Người đã không thoát khỏi cái chết. Sau cùng, hoạ lại nhiều từ trong Isaia 42,1; Đức Chúa phán bảo cùng Người Tôi Tớ: "Này đây Tôi Tớ của Ta, kẻ Ta nâng đỡ, Người Ta đã chọn và hồn Ta sùng mộ”. Giống như Người Tôi Tớ đó, Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa hằng một niềm dấu ái và Thần Khí ngự xuống dư đầy, nay được sai đi thi hành sứ mạng là trở nên ánh sáng các nước, "mở những mắt mù loà”, "đưa tù nhân ra khỏi nhà lao, khỏi ngục thất dân cư bóng tối" (Is 42,6-7). Và cũng cùng một thân phận với Người Tôi Tớ được vị ngôn sứ loan báo trên, Chúa sẽ phải thực hiện sứ mạng ấy qua con đường tự hạ, và khổ đau.
3. Và mở ra sứ mạng sẽ tới
Như vậy, ngay từ trang đầu tiên của Tin Mừng Máccô, tất cả đã cho thấy một tấn kịch đang được mở màn. Tuy nhiên, mọi sự chỉ mới ở mức độ nói xa nói gần, nói dè dặt, gần như còn cần phải giữ kín đáo để vạch ra một cái hướng cho những gì cần phải được khám phá trong suốt bản văn.
Jacques Hervieux kết luận: "điều hiển nhiên là, đối với Máccô, phép rửa Đức Giêsu chịu không phải nhằm tẩy sạch những tội lỗi mà Người chẳng hề phạm. Đó chính là tín hiệu khởi hành, là trái giao banh cho sứ mạng mà Thiên Chúa ký thác cho Đấng được gọi là "Mêsia”, và là "Con Thiên Chúa" (theo nghĩa mạnh của niềm tin Phục sinh).
Đức Giêsu quả là Sứ Giả đặc biệt của Thiên Chúa để thiết lập vương quốc của Người. Từ giây phút này, người đã có thể vào cuộc để thực hiện sứ mạng ấy.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Đức Giêsu, người Con Chí Ái của Chúa Cha.
(Mgr. Daloz, trong "Qui don est-il?", Desclée de Brouwer, tr.11).
"Đức Giêsu, kẻ xuất thân từ làng Nagiarét ấy, là Con Thiên Chúa, đó không chỉ là một định nghĩa hay một danh xưng mà thôi đâu. Đó là một liên hệ tình yêu, một mối dây "gia đình”. Tiếng Chúa Cha đã vang lên trìu mến: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con. Đúng là một khẳng định của tình yêu Đức Giêsu vừa là con người xuất thân từ Nagiarét, vừa đồng thời là Đấng sống mật thiết với Chúa Cha trên trời: Các tầng trời xé ra, và Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên Người. Đây mới thực là "mầu nhiệm của Đức Giêsu, mà người ta chẳng bao giờ khám phá cho cạn, suy cho thấu. Mầu nhiệm của một đời người hoàn toàn cho tình yêu, tràn đầy Thần Khí. Cuộc đời của Đức Giêsu ngay từ ban đầu đã được xác định qua tương quan với Chúa Cha và với Thần Khí. Đó chính là mấu chốt thâm sâu nhất của bản thân Người. Đức Giêsu được giới thiệu cho chúng ta qua lời xác nhận yêu thương của Chúa Cha. Đây là danh thiếp của Người: "Con Chí ái của Cha”.
2. “Hội Thánh và những anh chị em tân tòng hôm nay"
(Guy Cordonnier, trong "Pastorale sacramentelle. Points de repères", Cerf, trang 138-139).
"Kitô giáo, xét như là một hiện tượng xã hội học, ngày nay đang trên đường bị xoá sổ. Trào lưu ngoại giáo cổ lại như đang tìm cách trở lại với khoa chiêm tinh, các giáo phái, ma thuật, bói toán, các thầy gu-ru vv... không còn những khuôn mẫu, mọi cơ chế bị đặt lại vấn đề, nỗi thèm khát để có nhiều, biết nhiều, xu hướng ngày càng nghiêng về những cảm nghiệm tức thời và hời hợt... đó là những dấu đậm nét trên thời đại của chúng ta hôm nay, và người Kitô hữu đôi khi không biết làm sao để tìm thấy lại được chân tính của mình trước nền văn minh hiện đại. Giữa lòng một xã hội như thế, những tín hữu Kitô chúng ta có bổn phận phải làm chứng về các giá trị Tin Mừng. Họ được mời gọi đừng co cụm lại trong thế giới của mình, nhưng hãy tham gia vào số phận chung của nhân loại và khám phá những dấu chỉ của Nước Trời khắp nơi. Những dấu chỉ đó vượt xa biên giới hữu hình của Hội Thánh: Nước Thiên Chúa phải chăng hôm nay đang hiện diện ở bất cứ nơi nào có tình yêu bày tỏ, có công lý ngự trị, có sự quan tâm thương mến những người nghèo?
Thời buổi hiện đại hôm nay là một thời cơ tốt cho Hội Thánh, đang chịu thách đố để trả lời cho những vấn nạn và khát vọng mới. Những người trưởng thành mới chịu phép Rửa Tội, trong lúc gắn bó với môi trường sinh sống của mình, trở nên một thứ nhịp cầu nối liền môi trường ấy với Hội Thánh. Họ đã am hiểu những gì ở trong thế giới chưa-có-đức-tin, nên họ nói với chúng ta: "Xin quí vị đừng bỏ qua những người chưa được rửa tội, những người đã bỏ đạo, những người ở vị trí vòng ngoài của Hội Thánh. Làm sao để loan báo Tin Mừng cho họ bây giờ?”.
Những câu hỏi như thế phải giúp chúng ta trở về với điều được xem là hiển nhiên nơi các hiểu biết và thực hành của chúng ta trong Hội Thánh. Chúng hoà hợp những điều đó nơi các anh chị em mới trở lại, tức là những người quay về lại với Hội Thánh sau một thời gian đoạn tuyệt ít nhiều lâu dài, với nơi một số đông các Kitô hữu nhạy bén với thế giới hôm nay: làm sao để hội nhập đầy đủ vào trong Hội Thánh như hiện nay? Làm sao chất vấn, thậm chí thúc đẩy Hội Thánh đáp ứng được nhiều hơn sứ mạng của mình?
Những anh chị em tân tòng chỉ là số nhỏ, nhưng sự hiện diện của họ mang nặng ý nghĩa. Việc tiếp nhận họ có liên can đến mức độ phong phú thiêng liêng của Hội Thánh. Các giáo đoàn của chúng ta có ý thức đầy đủ điều đó? Sự kiện những người đã lớn ngoài Kitô giáo tìm đến với Đức Tin còn là một hiện tượng quá mới mẻ để chúng ta có được một mục vụ đặc biệt cho. Đây đó đã có vài sáng kiến trong một số giáo phận, nhưng người ta vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu và thử nghiệm".
75. Chú giải của William Barclay
Mc 1, 7-9
THÔNG ĐIỆP CỦA GIOAN
1) Thông điệp của ông sở dĩ hiệu nghiệm vì ông hoàn toàn khiêm hạ. Chính ông tự đánh giá là không xứng đáng với nhiệm vụ làm đầy tớ. Dép (bản Việt văn dịch là ‘giày’) chỉ là một miếng da có xoi lỗ, buộc vào bàn chân bằng mấy sợi dây. Đường đi rất gồ ghề, vào mùa khô, bụi tích tụ thành từng đống, mùa mưa thì đó là những con sông ngập bùn. Cởi dép là bổn phận và việc làm của kẻ tôi tớ. Gioan chẳng mong ước gì hơn là được làm bất cứ việc gì cho Chúa Cứu Thế mà ông đang loan báo. Ông quên mình, sẵn sàng phục tùng, sẵn sàng chịu lu mờ, hoàn toàn xóa bỏ mình trong thông điệp của ông đã thúc đẩy dân chúng nghe ông.
2) Thông điệp của Gioan có hiệu quả vì ông đã hướng dân chúng chú ý đến một điều, một nhân vật cao cả vượt trội. Ông bảo dân chúng rằng qua phép rửa, ông dìm họ xuống nước, nhưng Đấng đến sau ông sẽ dìm họ trong Thánh Thần. Trong khi nước tẩy sạch thân thể thì Thánh Thần thanh lọc cả đời sống, bản ngã và tấm lòng con người. Tiến sĩ G.J Jeffrey có dùng một ví dụ mà ông rất tâm đắc. Khi ông gọi điện thoại qua nhân viên tổng đài mà nếu có sự chậm trễ thì nhân viên tổng đài thường nói: “Tôi sẽ cố gắng bắt liên lạc cho ông”. Khi đã bắt được liên lạc, thì nhân viên tổng đài tự rút lui để đôi bên tiếp xúc với nhau. Mục đích duy nhất của Gioan là không chiếm lấy trung tâm liên lạc điện thoại mà cố gắng giúp người ta bắt liên lạc với Đấng trọng đại và quyền phép hơn ông, và người ta nghe ông vì ông không chỉ vào chính mình nhưng chỉ vào Đấng mà mọi người cần đến.
Mc 1, 9-11
NGÀY QUYẾT ĐỊNH
Với bất cứ ai biết suy nghĩ, thì phép rửa của Chúa Giêsu hẳn phải nêu lên một vấn đề. Phép rửa của Gioan là phép rửa kêu gọi hoán cải, dành cho những người hối tiếc về tội lỗi của mình và muốn bày tỏ quyết định từ bỏ chúng, dứt khoát với chúng. Nhưng một phép rửa như thế thì liên hệ gì đến Chúa Giêsu? Ngài lại không phải là Đấng vô tội, và một phép rửa như thế lại không phải là hoàn toàn không cần thiết, không thích hợp với Ngài hay sao? Với Chúa Giêsu thì phép rửa có bốn ý nghĩa sau đây.
1) Với Ngài đó là khoảnh khắc quyết định. Ba mươi năm qua Ngài ở tại Nagiarét, Ngài trung tín làm bổn phận hàng ngày trong nhà. Từ lâu Ngài đã ý thức rằng sẽ có lúc Ngài phải rời gia đình, chắc Ngài đang chờ một dấu hiệu. Với Ngài, sự xuất hiện của Gioan chính là dấu hiệu đó. Ngài thấy đó chính là khoảnh khắc Ngài phải dấn thân vào sứ vụ. Trong mỗi đời sống đều có những khoảnh khắc quyết định mà người ta có thể chấp nhận hay chối từ. Chấp nhận chúng là thành công, chối bỏ chúng là hụt mất, thất bại. Mỗi người đều có một khoảnh khắc để quyết định mà không bao giờ còn gặp lại. Một đời sống phí hoài, thất vọng, bất đắc chí và thường thường một đời sống đầy thảm kịch là một đời sống không biết quyết định. Một đời sống bỏ mặc, đánh liều nhắm mắt đưa chân chẳng bao giờ là một đời sống có hạnh phúc. Khi Chúa Giêsu biết Gioan xuất hiện là lúc Ngài phải quyết định. Làng Nagiarét vốn bình lặng, gia đình Ngài vốn yên lành, êm đềm, nhưng Ngài phải đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa.
2) Với Ngài, đó là khoảnh khắc để tự hòa mình với mọi người. Chúa Giêsu không cần phải hoán cải, nhưng đây là lúc mà dân chúng cần quay về với Thiên Chúa và với phong trào trở về đó, Ngài quyết định tự hòa mình vào. Có thể có người đang sống thoải mái dư giả, sung túc, nhưng nếu người ấy thấy dấy lên một phong trào có thể đem đến nhiều điều tốt đẹp hơn cho những người nghèo khổ bị chà đạp, phải cư trú trong những ngôi nhà lụp xụp tồi tàn, phải lao động quá sức nhưng lại nhận những đồng lương quá ít ỏi, không có lý do gì để người ấy không chịu đến để hòa mình vào đó. Sự hòa mình thật sự có ý nghĩa khi một người tự hòa mình vào một phong trào không phải vì chính mình nhưng vì kẻ khác. Trong giấc mơ của John Bunyan, Kitô hữu và nhà truyền giáo đến một cung điện được canh giữ cẩn mật, đòi hỏi phải có một chiến trận để tìm đường vào. Tại trước cửa có một người ngồi, tay cầm bút để ghi tên những người dám tấn công. Trong lúc mọi người đang chùn lại thì Kitô hữu thấy một người dung mạo cường tráng, tiến đến bên cạnh người đang cầm bút và nói “thưa ông xin hãy ghi tên tôi”. Khi thấy việc trọng đại trước mắt, Kitô hữu bị buộc phải nói “thưa ông xin hãy ghi tên tôi” vì đó chính là điều Chúa Giêsu đã làm khi Ngài đến xin chịu phép rửa.
3) Với Ngài đó là khoảnh khắc để được chấp thuận. Chẳng có ai lại nhẹ dạ bỏ nhà ra đi mà không biết mình đi đâu. Người ấy phải biết chắc chắn mình đã hành động đúng. Chúa Giêsu đã quyết định bắt đầu hành động và giờ đây, Ngài đang chờ đợi dấu ấn đồng ý tán thành từ Chúa Cha. Vào thời của Chúa Giêsu, dân Do Thái nói về điều họ gọi là Bath Qol có nghĩa là con gái của tiếng gọi. Bấy giờ, họ tin là có nhiều tầng trời, trên tầng cao nhất có Thiên Chúa ngự trong một vùng ánh sáng không một ai đến gần được. Thật là hiếm có những cơ hội mà các tầng trời mở ra và Chúa truyền phán. Theo họ Chúa ở xa đến nỗi người ta chỉ nghe được tiếng phán của Ngài vọng lại từ nơi thật xa mà thôi. Với Chúa Giêsu, tiếng phán của Chúa Cha hoàn toàn trực tiếp. Theo Maccô kể, đây là một kinh nghiệm riêng của Chúa Giêsu chớ không có ý bày tỏ cho quần chúng. Tiếng từ trời không nói “Này là Con yêu dấu của Ta” như Matthêu ghi lại, nhưng phán thẳng với chính Ngài rằng “Con là Con yêu dấu của Cha”. Lúc chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã quyết định phục tùng Chúa Cha và rõ ràng quyết định ấy đã được chấp thuận, không có gì phải nghi ngờ cả.
4) Với Ngài, đó là khoảnh khắc để trang bị. Bấy giờ Thánh Thần ngự xuống trên Ngài. Ở đây có ý nghĩa biểu tượng, Thánh Thần đã ngự xuống như chim bồ câu. Hình ảnh dùng so sánh không phải là ngẫu nhiên. Chim bồ câu tượng trưng cho sự nhu mì. Cả Matthêu lẫn Luca đều kể lại cho chúng ta cách rao giảng của Gioan (Mt 3,12; Lc 3,7-13). Thông điệp của Gioan là thông điệp chiếc búa đang đặt gần gốc cây, về việc luyện lọc khủng khiếp, về ngọn lửa thiêu rụi. Đó là một thông điệp cấp báo sự tàn hại, hủy diệt, chứ không phải một thông điệp của những tin tốt lành. Nhưng ngay từ đầu, bức tranh về Thánh Thần được ví sánh với chim bồ câu là một bức tranh nhu mì, hiền dịu. Ngài sẽ chiến thắng nhưng chiến thắng ấy sẽ là chiến thắng của tình yêu.
76. Suy niệm của Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên
Bằng hành động bước xuống dòng nước, Đức Giêsu thực sự muốn đồng cảm với con người, để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người, để cảm nếm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân, để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.
Trong truyện cổ dân gian cũng như trong những bộ tiểu thuyết, có biết bao nhiêu câu chuyện tình thật cảm động, khi hai người đến với nhau mà người bạn đời lại không “môn đăng hộ đối”. Thế nhưng, vì tình yêu, họ đã dám chấp nhận tận cả để có được nhau trong đời, như câu chuyện hoàng tử đi cưới một cô bé lọ lem chẳng hạn. Để ca tụng mối tình vượt không gian và thời gian đó, ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “Yêu nhau mấy núi cũng leo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua. Yêu nhau chẳng ngại đường xa. Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều”.
Thế nhưng màu nhiệm Con Thiên Chúa làm người là một câu chuyện tình đẹp hơn thế bội phần. Bởi vì vị hôn phu ở đây không phải là một người phàm, nhưng là một vị Thiên Chúa. Ngài đã từ bỏ ngai vàng ở trên trời cao để đến với nhân loại. Như lời bài thánh ca Philipphê: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Hôm nay, Tin Mừng Luca thuật lại việc Đức Giêsu cùng bước xuống dòng nước Giođan để chịu phép rửa bởi tay ông Gioan đã nói lên sự tự hủy đó. Có lẽ đây là biến cố chúng ta đã kỷ niệm nhiều lần, nên thành ra có cảm giác “quen quá hóa nhàm”, mà không thấy được sự cao vời của màu nhiệm tự hủy của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Quả vậy, làm sao chúng ta có thể hiểu được việc Đức Giêsu - Con Thiên Chúa - Đấng hoàn toàn vô tội, lại có thể đứng chung với đoàn người tội lỗi, để rồi cùng bước xuống dòng sông như một tội nhân? Làm sao có thể hiểu được khi mà Đấng sẽ làm phép Rửa trong Thánh Thần, nay lại xin được chịu phép rửa sám hối trong nước.
Chính vì thế mà Tin Mừng Matthêu thuật lại rằng: khi thấy Đức Giêsu đến gần mình, thì Gioan tỏ ra bối rối. Ông đã một mực can Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" Nhưng Đức Giêsu trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." (Mt 3,14-15)
Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người: Một tình yêu đến quên bản thân mình, để cùng sống chết với người mình yêu. Một tình yêu sẵn sàng chia sẻ trọn vẹn, một tình yêu chấp nhận cúi xuống để nâng người mình yêu trỗi dậy.
Thánh Macximô Giám mục Tôrinô đã không ngần ngại gọi ngày hôm nay là một “lễ Giáng Sinh nữa”. Thánh nhân lập luận rằng: lễ Giáng Sinh trước, Đức Giêsu được sinh ra trong thân phận con người bởi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Còn hôm nay, Người được sinh ra theo mầu nhiệm. Chúa Cha đã âu yếm nói với Người: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22). Xưa kia, Đức Mẹ nâng niu âu yếm trong lòng khi con sinh ra, còn hôm nay, Chúa Cha dùng lời chứng thân thương mà nâng đỡ; xưa kia, Đức Mẹ đưa Chúa Con cho các hiền sĩ bái thờ, còn hôm nay, Chúa Cha mạc khải Chúa Con cho muôn dân thờ kính. Xưa kia, Người được sinh ra để thánh hóa nhân loại, còn hôm nay, Người khởi đầu sứ vụ của mình bằng việc chịu phép rửa, không phải để được nước thánh hóa, nhưng là để chính Người thánh hóa nước, để từ nay ơn thanh tẩy được phân phát cho hậu thế.
Với sự kiện Chúa Giêsu chịu phép Rửa, Người đã khai mạc một giai đoạn mới trong cuộc đời cứu thế của Người. Người kết thúc cuộc sống ẩn dật và bước vào cuộc đời công khai loan báo Tin Mừng. Đồng thời Người mở ra một kỷ nguyên mới, “kỷ nguyên tân tạo” những gì Adong cũ đã làm hư hoại như lời thánh Phaolô xác quyết: “Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thế nào, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống như vậy” (1Cr 15,22).
***
Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay, dạy cho chúng ta bài học về sự đồng hành và liên đới.
Muốn đồng hành với người khác đòi chúng ta phải đi chậm lại, đòi chúng ta phải có chung một tâm tình, một lối suy nghĩ giống người khác. Sở dĩ ngày hôm nay, nhiều cặp vợ chồng chưa hiểu được nhau, chưa thể tìm được một tiếng nói chung trong gia đình, là vì họ chưa cùng một lối suy nghĩ. Nếu ai cũng khăng khăng bảo vệ lập trường của mình, thì làm sao mong tìm được một sự đồng thuận! Việc gia đình mà cứ “ông nói gà, bà nói vịt” thì làm sao có thể giải quyết được. Người xưa vẫn nói: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn” là vậy.
Trong việc dạy dỗ con cái, nhiều bậc phụ huynh thường giáo dục theo kiểu áp đặt. Theo các chuyên gia tâm lý, muốn giáo dục con cái, cha mẹ trước tiên phải vừa là người thầy để hướng dẫn, nhưng lại vừa là người bạn để có thể lắng nghe và thông cảm.
Để liên đới với người khác, đòi hỏi chúng ta phải nhỏ bé đi, phải khiêm hạ trong lối sống và cung cách cư xử. Hôm nay Đức Giêsu đánh dấu cuộc đời công khai của Ngài bằng một hành vi khiêm hạ, dìm mình, mất hút... Bên bờ sông Giođan, Ngài trở nên một kẻ vô danh bên cạnh một Gioan lúc bấy giờ tiếng tăm đã lẫy lừng. Ngài đã cúi xuống, dìm mình trong dòng sông, để nâng con người lên. Như lời một vị thánh giáo phụ đã từng nói: “Thiên Chúa làm người, để con người được làm con Thiên Chúa”.
Bằng hành động bước xuống dòng nước, Đức Giêsu thực sự muốn đồng cảm với con người, để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người, để cảm nếm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân, để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.
Học nơi Đức Kitô, chúng ta hãy sống một đời sống khiêm hạ. Hãy để cho Chúa lớn lên trong cuộc đời chúng ta, để Ngài dìu dắt và hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Đức Giêsu đã khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng của mình bằng việc dìm mình trong dòng nước. Qua phép rửa của Đức Giêsu trong Thánh Thần, chúng ta cũng được mời gọi lên đường để phục vụ anh chị em quanh ta, nhất là những anh chị em đang cần một tình yêu chia sẻ, nâng đỡ và trao ban trọn vẹn. Amen.
77. Sống hiền hòa và khiêm hạ noi gương Đức Giêsu
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Đức Giêsu được tấn phong làm vua Mêsia
Tin mừng Mác-cô trình bày việc Đức Giêsu được tấn phong làm Vua Mê-si-a tương tự như một lễ phong vương gồm 3 nghi thức như sau:
- Một là thanh tẩy: Đức Giêsu được Gio-an Tẩy Giả dìm trong nước sông Gio-đan.
- Hai là xức dầu: Đức Giêsu được Thần Khí, qua hình ảnh chim câu, từ trời đáp xuống trên mình để xức dầu thiêng liêng tấn phong làm Vua Mê-si-a.
- Ba là tung hô: Đức Giêsu cũng được Chúa Cha công khai thừa nhận là “Con rất yêu dấu” luôn làm mọi việc theo thánh ý Cha.
CHÚ THÍCH:
- C 7-8: +Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi: Gio-an là “Sứ giả của Giao Ước”, có nhiệm vụ như Ê-li-a ngày xưa: đến trước để chấn hưng mọi sự, hầu dọn đường cho Đức Chúa ngự đến (x. Ml 3,1-3.23-24). Mọi lời Gio-an rao giảng đều liên quan tới Đấng Thiên Sai. Tuy Đấng Thiên Sai đến sau Gio-an nhưng Người lại có đầy sức mạnh và Thần Khí của Đức Chúa để chiến thắng kẻ thù (x. Is 11,2), cụ thể là chiến thắng Xa-tan cám dỗ (x. Mc 1,12-13). +Tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người: Cởi quai dép là việc làm của người nô lệ. Gio-an khiêm tốn nhận mình không đáng làm nô lệ cho Đấng Thiên Sai sắp đến. +Phép rửa nhờ nước: Khi chịu phép rửa này, người chịu phép được Gio-an dìm xuống sông Gio-đan như dấu hiệu“tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (x. Mc 1,4). Từ đây họ được gia nhập vào nhóm những người chuẩn bị đón Đấng Mê-si-a. +“Phép rửa trong Thánh Thần”: Phép Rửa này ám chỉ toàn bộ công trình cứu độ của Đức Giêsu. Những kẻ chịu phép rửa do Đức Giêsu thực hiện sẽ nhận được Thần Khí tuôn đổ vào lòng. Nhờ đó họ được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Họ sẽ được tặng một quả tim mới bằng thịt biết yêu thương, thay cho quả tim đã hóa ra chai đá (x. Is 44,3).
- C 9-10: +Đức Giêsu từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan: Đúng như lời Gio-an loan báo, Đức Giêsu đã xuất hiện và trước hết Người đến với ông Gio-an. Gio-an đã thi hành sứ mạng tiền hô khi làm phép rửa cho Người trong nước sông Gio-đan .+Người liền thấy: Mác-cô tường thuật cuộc Thần Hiện của Đức Giêsu lúc chịu phép rửa như một thị kiến mà chỉ riêng mình Người trông thấy, đang khi các Tin Mừng còn lại như Mát-thêu, Lu-ca và Gio-an lại tường thuật đúng như đã xảy ra (x. Mt 3,13-17; Lc 3,21-22; Ga 1,32-34). +Các tầng trời xé ra: Đây là sự đáp ứng của Thiên Chúa cho lòng khát vọng của dân Ít-ra-en và của nhân loại. Người ta chờ mong “trời mở ra và Thiên Chúa sẽ xuống cứu độ dân Người”. Hôm nay qua hiện tượng các tầng trời xé ra, Thiên Chúa bắt đầu thực hiện những lời Ngài đã hứa qua các ngôn sứ (x. Is 63,19b). Ngài sai Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu, giống như Đức Chúa trong cuộc Xuất hành đã ngự xuống trên con dân Ít-ra-en (x. Xh 19,11.18). Với việc trời xé ra, Đức Giêsu bắt đầu ra khỏi Na-da-rét để công khai thi hành sứ mạng cứu độ loài người, đối lập với A-đam ngày xưa (x. Rm 5,12-19). +Người liền thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình: Câu này nhắc tới sự kiện Thần Khí của Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước khi Chúa sáng tạo nên trời đất muôn vật (x. St 1,2), nhằm diễn tả một một cuộc sáng tạo mới được thực hiện nơi Đức Giêsu sau khi chịu phép Rửa. Thánh Thần xức dầu thiêng liêng tấn phong và giới thiệu Người là Đấng Thiên Sai, qua hình ảnh một con chim câu đậu xuống trên mình Người (x. Is 11,2 ; 42,1).
- C 11: +“Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”: Qua câu này, Mác-cô muốn làm nổi bật dung mạo của Đức Giêsu: Người chính là Vua Thiên Sai, được xức dầu tấn phong để cai trị muôn dân (x. Tv 2,7) ; Người là Con Một yêu dấu của Chúa Cha, trở thành của lễ hiến tế trên bàn thờ thập giá (x. St 22,2); Người là Tôi Trung của Thiên Chúa, được sai đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chịu chết để đền tội thay cho loài người và sống lại để phục hồi sự sống đời đời cho loài người (x. Is 42,1).
CÂU HỎI: Tại sao Đức Giêsu là “Đấng quyền thế hơn” mà lại xuất hiện như một tội nhân đứng xếp hàng để được Gio-an làm phép rửa tại sông Gio-đan?
ĐÁP: Việc Đức Giêsu tự nguyện đến xin chịu phép Rửa của Gio-an không phải để sám hối tội lỗi như bao người khác, vì Người vô tội (x. Dt 5,15b; 7,26). Nhưng qua hành động này, Người muốn chia sẻ thân phận yếu hèn với các tội nhân và cảm thông với họ (x. Pl 2,6) và sau này Người sẽ còn chịu chết trên cây thập giá để đền tội thay cho họ.
Đàng khác, việc toàn thân Đức Giêsu được Gio-an dìm xuống nước sông Gio-đan, chính là hình ảnh của phép rửa sẽ phải trải qua trong cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sau này (x. Rm 6,3-4). Từ mầu nhiệm Phục Sinh, Đức Giêsu sẽ thiết lập bí tích Rửa Tội, để tái sinh các tín hữu trở nên con Thiên Chúa và canh tân họ nhờ nước và Thần Khí. Đây là điều kiện cần có để được gia nhập vào Nước Thiên Chúa (x. Ga 3,3-6). Ngoài ra, đây còn là cơ hội để Gio-an Tẩy Giả thi hành sứ mạng tiền hô đi trước dọn đường và làm chứng Người thực là Đấng Thiên Sai với dân Do thái. Cuối cùng, Đức Giêsu chịu phép rửa của Gio-an để biến đổi phép rửa bằng nước trở thành bí tích Rửa Tội trong Thánh Thần (x Mc 1,8) và lửa (x Lc 3,16;Cv 2,3-4), để ban ơn cứu độ cho các tín hữu.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Khi ấy, Gio-an rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người” (Mc 1,7).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Giá trị của sự khiêm hạ giữa đời thường:
Một tài xế xe tải kia không dám cho xe tải chạy qua cầu, vì theo anh nghĩ chiếc xe tải có mui xe cao hơn thành cầu tới 10 phân. Trong lúc tiến thoái lưỡng nan, không biết nên giải quyết thế nào, thì có người đề nghị: Hãy xì bớt hơi cho các bánh xe xẹp xuống. Anh tài xế liền làm theo lời khuyên này và cuối cùng chiếc xe của anh đã có thể an toàn đi qua cầu.
Xì hơi cho bánh xe xẹp bớt cũng giống như thái độ khiêm nhường. Trong giao tiếp với tha nhân, nếu “biết mình biết người, thì trăm trận trăm thắng!”. Cũng nhờ biết ứng xử khiêm tốn nhún nhường với tha nhân mà chúng ta sẽ dễ dàng thành công trong mọi việc.
2) Khiêm tốn là luôn trong tư thế quân bình:
Một hôm Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công nước Lỗ, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng thì hỏi thăm và được người giữ miếu cho biết:
- Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua luôn để gần ngai vàng để nhắc nhở mình.
Khổng Tử nói:
- Ta nghe đồn nhà vua có một bảo vật: không cho nước vào thì lọ sẽ đứng nghiêng ; Đổ nước vào vừa phải thì lọ sẽ đứng thẳng. Còn nếu đổ nước đầy tới miệng thì lọ lại sẽ bị đổ ngã. Có lẽ đó là chiếc lọ này chăng?
Rồi ngài bảo học trò múc nước để kiểm tra thì kết quả đúng như thế.
Bấy giờ Khổng Tử mới dạy bài học về sự trung dung như sau:
- Người thông minh thánh trí thì hãy giữ quân bình bằng cách làm việc như một người tầm thường chứ không muốn được nổi bật hơn người khác. Kẻ lập được công to thì hãy giữ quân bình bằng thái độ và lời nói khiêm hạ chứ không khoe mình. Kẻ có sức khỏe vô địch thì nên giữ quân bình bằng thái độ ứng xử nhún nhường chịu đựng tha nhân. Nếu đang là một người giầu có thì hãy giữ quân bình bằng sự quảng đại chia sẻ cơm áo cho người nghèo khổ. Cái lọ của vua Hoàn Công chính là bài học giúp thực hành lối sống quân bình để khỏi bị sụp đổ vậy”.
3) Tôi mới được 2 tuổi:
Một ông cụ mãi đến năm 80 tuổi mới có điều kiện tin theo Chúa và được lãnh bí tích rửa tội để được tái sinh làm con Thiên Chúa. Từ ngày theo đạo, ông cụ đã thay đổi hẳn trở thành một người mới, ông đã bỏ được sở thích uống rượu say xỉn và không còn chơi bài bạc. Ông đi dự lễ nhà thờ hằng ngày và có lối ứng xử khiêm tốn và bác ái với mọi người chung quanh. Hai năm sau cụ lâm trọng bệnh và bị thày thuốc khám bệnh cho biết cụ sắp chết. Nhiều bạn bè đến thăm và có người thắc mắc hỏi cụ được bao nhiêu tuổi. Ông cụ trả lời:”Tôi mới được hai tuổi. Tám mươi năm trước tôi có sống cũng như chết. Chỉ từ ngày theo đạo tôi mới trở nên một người mới và đến nay mới được hai tuổi”.
3. SUY NIỆM:
Tin mừng lễ Đức Giêsu chịu phép rửa hôm nay dạy chúng ta bài học về mầu nhiệm nhập thể của Chúa Giêsu. Người chính là Con Thiên Chúa đã đến lập cư giữa loài người và trở thành người phàm giống như chúng ta mọi đàng ngoại trừ không có tội. Khi đứng xếp hàng để được Gio-an dìm xuống dòng sông để chịu thanh tẩy bằng nước, Đức Giêsu đã thiết lập bí tích rửa tội để thanh tẩy các tín hữu chúng ta bằng Nước và Thánh Thần hầu ban ơn thánh biến hóa chúng ta trở nên con Thiên Chúa giống như Người. Từ nay chúng ta không còn phải là kẻ xa lạ, nhưng là người nhà của Thiên Chúa. Qua bí tích Thánh Tẩy chúng ta đã được tháp nhập làm chi thể của đầu nhiệm thể là Đức Giêsu. Hơn nữa, chúng ta còn được tham phần vào ba chức vụ của Người là ngôn sứ, tư tế và vương đế. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất chúng ta cần học tập noi gương Chúa hôm nay là ăn ở khiêm hạ trong lời nói và việc làm như sau:
1) Sống khiêm hạ noi gương Đức Giêsu và Ông Gioan Tẩy Giả:
- Đức Giêsu đã dạy các môn đệ học tập noi gương khiêm nhường của Người như sau: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Người đã nêu gương khiêm nhường khi rửa chân hầu hạ các môn đệ và dạy bài học khiêm nhường: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” là “Chúa”, điều đó phải lắm. Vì quả thật, Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Vậy nếu Thầy là “Chúa” là “Thầy”, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (x. Ga 13,13-15). Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã thể hiện sự khiêm nhường qua việc đến xếp hàng xin ông Gio-an làm phép rửa, mặc dù Người hoàn toàn vô tội (x. Mc 1,9).
- Còn Gio-an Tẩy Giả cũng thể hiện sự khiêm nhường khi nói mình không đáng làm đầy tớ cho Đấng Thiên Sai như sau: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người” (Mc 1,7). Ông cũng khẳng định mình không phải là Đấng Ki-tô Thiên Sai mà chỉ là tiếng người nói trong hoang địa mời người ta chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Ki-tô sắp đến (x. Ga 1,20.23). Gio-an còn chứng tỏ có đức khiêm nhường qua việc đề cao Đức Giêsu trước mặt các môn đồ: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (x.Ga 3,30).
2) Chúng ta cần làm gì để thực hành nhân đức khiêm nhường?:
- Khiêm nhường trong lời nói: Hãy nói ít nghe nhiều; Không khoe khoang thành tích của mình; Không phê bình nói xấu người vắng mặt; Sẵn sàng xin lỗi khi mắc phải sai sót khiến tha nhân buồn lòng; Kịp thời khen thưởng người cộng tác để động viên những cố gắng của họ; Can đảm bênh vực những người yếu đuối thân cô thế cô bị kẻ khác đàn áp bóc lột.
- Khiêm nhường trong thái độ: Năng dâng lời cảm tạ hồng ân Thiên Chúa và cám ơn những ai làm ơn cho mình; Luôn có thái độ hiền hòa và nhẫn nhịn tha nhân; Biết làm chủ tính nóng giận và không to tiếng la mắng người dưới; Luôn sống “dĩ hoà vi quí”, không “Bé xé ra to”, hoặc “chuyện không đáng gì mà làm cho ầm ĩ”; Sẵn sàng đi bước trước đến với tha nhân; Biết bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa muốn thể hiện qua ý bề trên hay ý chung của tập thể.
- Khiêm nhường trong cách ứng xử: Không đổ lỗi cho người khác, nhưng “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”; Kiên nhẫn lắng nghe lời phê bình góp ý của người khác; Tận tình phục vụ tha nhân vô vụ lợi kèm theo sự khôn ngoan để tránh bị lợi dụng; Tránh thái độ “Thượng tôn hạ đạp”; Can đảm đứng ra bênh vực những người “thân cô thế cô”; Khi công việc bị thất bại sẽ không đổ lỗi cho người khác, mà nhận phần trách nhiệm của mình; Khi thành công thì nhận là do ơn Chúa ban và là công của tập thể. Khi làm được điều gì tốt thì hãy khiêm tốn tự nhủ: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
4. THẢO LUẬN: Tuần này bạn sẽ làm gì để tập sống đức khiêm nhường noi gương Chúa Giêsu và ông Gio-an Tẩy Giả?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Qua việc tình nguyện xếp hàng xin Gio-an làm phép rửa, Chúa muốn dạy chúng con thực thi đức khiêm nhường, là nền tảng của sự thánh thiện. Về phần con, con mang đầy những tội lỗi khuyết điểm, thế mà con lại thường ngại ngùng khi phải thú tội trong tòa giải tội. Con chỉ là một kẻ bất tài vô đức, thế mà con lại thích được nổi tiếng, được người đời khen ngợi về tài năng và lòng đạo đức của mình. Con thiếu khả năng lãnh đạo, thế mà con lại muốn nắm giữ những chức vụ quan trọng trong tập thể...
- Lạy Chúa Giêsu, “Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, xin thanh tẩy con sạch mọi thói hư tật xấu, nhất là thói tự ái cao và tự mãn. Xin giúp con thành tâm hoán cải để luôn ứng xử hiền lành và khiêm tốn hơn, để con đáng được Chúa thứ tha tội lỗi và được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
09/01 Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại.
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại.
Thứ Bảy sau lễ Hiển Linh.
"Bạn hữu của tân lang vui mừng vì tiếng nói của tân lang".
LỜI CHÚA: Ga 3, 22-30
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ Người đến đất Giuđêa. Người ở lại đó với họ và làm phép rửa. Cũng có Gioan làm phép rửa tại Ainon, gần Salim, vì ở đó có nhiều nước, và người ta đến để chịu rửa. Vì chưng, khi ấy Gioan chưa bị tống ngục.
Xảy ra có cuộc tranh luận giữa các môn đệ của Gioan và người Do-thái về việc thanh tẩy. Họ đến cùng Gioan và nói với ông: "Thưa Thầy, người đã ở với Thầy bên kia sông Giođan, mà Thầy đã làm chứng cho, nay cũng làm phép rửa và ai nấy đều đến cùng người!"
Gioan trả lời rằng: "Người ta không tiếp nhận gì mà không phải bởi trời ban cho. Chính các ngươi đã làm chứng cho tôi là tôi đã nói: Tôi không phải là Ðấng Kitô, nhưng tôi được sai đến trước Người. Ai cưới vợ, thì là người chồng, còn bạn hữu của tân lang đứng mà nghe tân lang nói thì vui mừng vì tiếng nói của tân lang. Vậy niềm vui của tôi như thế là đầy đủ. Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Mọi người đều đến với ông
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu tỏ mình
tại một nơi nào đó thuộc vùng đất Giuđê.
Nơi đây Đức Giêsu và các môn đệ ở với nhau, và Ngài đã làm phép rửa.
Tại một nơi khác có tên là Ênôn, gần Salim, có lẽ thuộc vùng Samaria,
Gioan Tây Giả cũng đang làm phép rửa
cho những người đến với ông.
Như thế ở hai nơi khác nhau, có hai phép rửa khác nhau,
được làm bởi hai người khác nhau.
Ta không thấy có gì khác biệt về bản chất giữa hai phép rửa này.
Chỉ có điều là phép rửa của Đức Giêsu thu hút được nhiều người hơn.
Các môn đệ của ông Gioan đã nhận thấy điều đó
và họ đi báo cho Thầy Gioan của mình một tin không vui:
“Mọi người đều đến với ông ấy!” (c. 26).
Họ khó chịu vì Đức Giêsu, người đã từng được Thầy của họ làm chứng,
người đã sống bên Thầy ở bên kia sông Giođan (c. 26),
bây giờ lại nổi tiếng hơn Thầy.
Ông Gioan lại chẳng hề khó chịu chút nào.
Ông chưa bao giờ quên sứ mạng của mình là làm chứng cho Đức Giêsu,
Đấng mà ông đã thấy Thần Khí ngự xuống khi chịu phép rửa..
Gioan biết sự cao trọng của mình nằm ở đâu:
Ông là người được Thiên Chúa sai đến trước Đức Kitô (c. 28).
Ông không phải là chú rể, ông chỉ là bạn của chú rể,
vì thế ông không có quyền “có cô dâu” (c.29).
Cựu Ước coi dân Ítraen là cô dâu (Is 62, 4-5; Gr 2, 2; Hs 2, 21).
Tân Ước coi Giáo Hội Kitô là cô dâu (2 Cr 11, 2; Ep5, 25-27. 31-32).
Ông Gioan coi Đức Giêsu là chú rể, và ông đứng đó nghe chàng.
Ông vui mừng hớn hở khi nghe được tiếng nói của chàng.
Khi người ta kéo đến với Đức Giêsu để chịu phép rửa,
thì ông Gioan biết rằng mình đã thành công trong sứ vụ của mình,
sứ vụ làm nhịp cầu cho Dân Chúa và Đức Giêsu Kitô gặp nhau.
Ông như reo lên vì mãn nguyện: “Đó là niềm vui của Thầy,
niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn” (c.29).
Chúng ta không quên ơn Gioan, không quên sự xóa mình của ông.
Đức Giêsu được hiển linh, được nổi bật, chính vì Gioan đã chịu lu mờ đi.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,
để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.
Xin cho con thấy Chúa thật bao la,
để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.
Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu,
để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.
Lạy Chúa Giêsu,
xin làm cho con thật mạnh mẽ,
để không nỗi thất vọng nào
còn chạm được tới con.
Xin làm cho con thật đầy ắp,
để ngay cả một ước muốn nhỏ
cũng không còn có chỗ trong con.
Xin làm cho con thật lặng lẽ,
để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.
Xin Chúa ngự trong con thật sống động,
để không phải là con,
mà là chính Ngài đang sống.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: CHIẾN THẮNG ÁC THẦN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đã có tranh luận và tranh chấp. Vì đòi quyền lợi, đòi uy tín. Các môn đệ Gioan muốn kéo Gio-an vào cuộc. Thánh Gioan Tẩy giả đã vượt qua cuộc tranh chấp bằng một chiến thắng bản thân.
Ngài đã chiến thắng vì Ngài đã biết phân định. Đúng như lời thánh Gioan Tông đồ: “Thiên Chúa ban cho chúng ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật”. Cuộc phân định của Thánh Gioan Tẩy giả thật minh bạch khi Ngài xác định: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người… Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn”.
Ngài đã chiến thắng vì Ngài luôn ở trong Thiên Chúa. Nhận biết mọi việc của mình đều bởi Thiên Chúa ban cho, nên Ngài đã khuyến cáo môn đệ: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban”. Biết mọi sự mình có đều là của Chúa. Xác tín mình thuộc về Thiên Chúa chứ không thuộc về trần gian, Ngài đã thoát được thói tranh đua của trần gian. Luôn qui phục Thiên Chúa.
Ngài đã chiến thắng vì Ngài luôn thực hiện chương trình của Thiên Chúa. Ngài có bổn phận làm chứng cho Chúa Giêsu. Ngài tự nguyện chìm vào bóng tối để Chúa Giêsu càng được nhận biết: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi”. Chấp nhận lu mờ đến tự hủy mình chịu chết trong cung điện vua Hê-rô-đê.
Chúa Giêsu đến tiến hành cuộc chiến giữa Nước Trời và thế gian. Thánh Gio-an Tẩy giả xứng đáng là người mở đường khi can đảm tự nguyện hi sinh để Nước Trời có cuộc chiến thắng thế gian ngay trong chính bản thân Ngài. Xin cho con biết noi gương thánh Gioan Tẩy giả luôn biết quên mình để chương trình của Chúa được thực hiện.
Suy Niệm 3: Gioan làm chứng lần cuối
“Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Đó là tâm tình của thánh Gioan Tẩy Giả mà Giáo hội muốn gửi đến chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay.
Thật vậy, ảnh hưởng của Chúa Giêsu càng lớn, thì vai trò của Gioan càng lu mờ. Ba Phúc âm Nhất lãm đã làm nổi bật sự kiện ấy khi đặt sứ vụ công khai của Chúa Giêsu chấm dứt vai trò của Gioan Tẩy Giả.
Gioan đã diễn tả vai trò tiền hô của mình qua câu nói bất hủ: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Thay vì ghen tức, buồn phiền, Gioan đã vui mừng đóng trọn vai phụ của mình. Như một quản trò trong tiệc cưới, Gioan đã khơi dậy niềm vui và hướng mọi người đến với Tan Lang là Đức Kitô.
Ngày nay, người Kitô hữu cũng tiếp tục vai trò của Gioan Tẩy Giả. Phương châm hành động của họ là: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Nhỏ lại trong những khuynh hướng xấu lôi kéo chúng ta vào tội lỗi, nhỏ lại trong những đam mê, ích kỷ của chúng ta, để nhờ đó Chúa Kitô đước lớn lên trong chúng ta.
Nguyện cho ánh sáng và sức sống của Đức Kitô tràn ngập tâm hồn và cuộc sống chúng ta, để chúng ta đạt tới tầm mức viên mãn của chính Ngài.
Suy Niệm 4: LỚN LÊN VÀ NHỎ LẠI NHƯ THẾ NÀO?
Đoạn kết Tin Mừng hôm nay được khép lại với câu nói có hậu của Gioan Tiền Hô: “Người phải lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ lại”. Nói là kết, nhưng nó lại mở ra cho một tương lai và hy vọng mới.
“Người phải lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ lại”, đã trở thành một phương châm sống cho vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế.
Giữa lúc uy tín của Gioan lên như diều, mọi người từ khắp nơi ai ai nghe thấy tên của ông cũng đều nghiêng mình kính cẩn, đến nỗi nhiều người muốn tôn ông là ngôn sứ vĩ đại, là Đấng Mêsia. Tuy nhiên, ông đã đứng đúng vị trí của mình là tiền hô, kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Thế, vì vậy, ông đã thẳng thắn tuyên bố: tôi không phải là Đấng Kitô, Đấng ấy đến sau tôi, tôi không đáng cởi giây dép cho Người! Khi Đấng ấy đến, Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần... và “Người phải lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ lại” vì "Tôi là tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối người đi" (x. Mt 3,3).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở thành tiền hô cho Chúa trong xã hội hôm nay. Đồng thời sống đúng tư cách của người tiền hô, để “Người phải lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ lại”.
Để cho Chúa lớn lên, ấy là khi chúng ta biết sống quảng đại, mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Biết cảm thông, yêu thương và tha thứ, bao dung và nhân hậu. Sẵn sàng sống cho người khác.
Tôi phải nhỏ lại, tức là nhỏ lại cái tôi ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ, khoe khoang...
Tuy nhiên, trong xã hội hôm nay, vẫn còn đó những tiền hô không đứng đúng vị trí của mình! Họ đã đứng lên vị trí của Đấng Cứu Thế, còn Đấng Cứu Thế thì lại bị đẩy ra bên lề. Vì vậy, thay vì dọn đường thì lại hưởng lợi, thay vì làm vinh danh Chúa thì họ lại tìm vinh danh mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi theo gương sáng của Gioan Tiền Hô khi xưa, luôn sống theo tinh thần đến để phục vụ chứ không phải để được người khác phục vụ, để Chúa được lướn lên, còn chúng con thì nhỏ lại. Amen.
Ngọc Biển SSP
08/01 Chữa một người phong cùi
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Chữa một người phong cùi.
Thứ Sáu sau lễ Hiển Linh.
"Lập tức người ấy khỏi phong hủi".
LỜI CHÚA: Lc 5, 12-16
Xảy ra khi Chúa Giêsu đang ở trong một thành kia, thì có một người mình đầy phong hủi, thấy Chúa Giêsu, liền sấp mặt xuống đất, van xin Ngài rằng: "Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho tôi được sạch".
Người giơ tay chạm đến người ấy và nói: "Ta muốn, hãy nên trơn sạch". Lập tức, người ấy khỏi phong hủi. Người ra lệnh cho người ấy không được nói với ai, nhưng: "Hãy đi trình diện với tư tế, và hãy dâng lễ vật như luật Môsê đã dạy, để làm chứng cho người ta biết ngươi được sạch".
Nhưng tiếng đồn về Người cứ lan rộng, và dân chúng đông đảo kéo nhau đến để nghe Người và được chữa lành bệnh tật. Còn Người, thì lánh vào nơi hoang vắng và cầu nguyện.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hãy đi trình diện tư tế
Suy niệm:
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu vừa tỏ mình, vừa giấu mình.
Ngài giấu mình khi Ngài ra lệnh cho người phong không được nói với ai.
Nhưng hẳn anh ấy cũng khó giữ kín chuyện này, khi anh đi gặp các tư tế.
Thế nên cuối cùng tiếng đồn về Ngài đã lan ra,
khiến người ta nô nức, lũ lượt kéo đến với Ngài (c. 15).
Đức Giêsu đã không thể giấu mình trước đám đông dân chúng.
Ngài lôi cuốn họ như một vị giảng thuyết và như một người chữa lành.
Con người mãi mãi cần sức mạnh tinh thần và sức khỏe thân xác.
Đức Giêsu đem đến cả hai điều ấy cho hạnh phúc con người.
Hãy nhìn người phong, mình anh đầy những vết lở loét.
Anh đến với Đức Giêsu, sấp mặt xuống nài xin.
“Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c.12).
Lời nguyện của người phong là lời cầu xin mẫu mực cho ta.
Dĩ nhiên là anh ấy rất muốn được khỏi căn bệnh nan y này,
căn bệnh đã làm tan nát thân xác anh và cả cuộc đời anh,
Hơn nữa, nó còn bắt anh trở nên kẻ sống ngoài lề xã hội và tôn giáo.
Nhưng anh vẫn không để ước muốn quá đỗi bình thường của mình lấn lướt.
Anh đặt ước muốn ấy dưới ước muốn của Đức Giêsu.
“Nếu Ngài muốn !” nghĩa là Ngài có thể và có quyền không muốn.
Anh để cho Đức Giêsu được tự do muốn điều Ngài muốn.
“Ngài có thể làm tôi được sạch: anh tin vào khả năng của Ngài,
khả năng làm cho những vết lở loét kia biến mất.
Chính khi Đức Giêsu được tự do, được tin cậy và phó thác,
thì dường như Ngài không thể từ chối được nữa.
“Tôi muốn, anh hãy được sạch.”
Đức Giêsu tẩy sạch anh bằng một ước muốn được nói ra lời,
kết hợp với một cử chỉ đầy yêu thương là đưa bàn tay ra đụng vào anh.
Khi cầu xin, bạn hãy để cho Chúa được tự do giúp bạn,
theo ý muốn của Chúa, theo cách của Chúa, vào lúc của Chúa.
Đừng dạy Chúa phải làm gì, vì Chúa biết điều tốt nhất cho bạn.
Cầu nguyện :
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. (R. Tagore)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: THÁNH THẦN, NƯỚC VÀ MÁU
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu tiếp tục hiển linh với quyền năng tuyệt đối khi chữa lành người bệnh phong. Ngôi vị Thiên Chúa của Người được chứng thực bằng chính lời chứng của Thiên Chúa với ba chứng nhân: Thánh Thần, Nước và Máu. Thánh Thần là lời chứng đến từ Đức Chúa Cha. Nước và Máu là lời chứng của chính Chúa Giêsu. Tất cả làm thành lời chứng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tất cả là lời chứng về quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.
Thánh Thần là tình yêu kết hiệp Ba Ngôi Thiên Chúa, là sự sống, là sức mạnh, là lò lửa, là nguồn sinh lực vô biên, không bao giờ vơi cạn, nhưng ngày càng sung mãn. Là sự thật, là nguồn mạch sự thật, nên là lời chứng không thể phủ nhận được.
Nước và Máu là tình yêu cụ thể, thể hiện trong xác thịt Con Người, trước mắt mọi người. Là tình yêu bao dung, tẩy sạch mọi tội lỗi vô vàn vô số của nhân loại. Nhưng trên hết là tình yêu cứu độ đưa loài người từ tình trạng bị trừng phạt đến được thứ tha, từ thân phận nô lệ khốn khổ về làm con Thiên Chúa trong tự do, từ vực sâu sự chết đớn đau về vinh quang khôn sánh của con Thiên Chúa. Đó là tình yêu lớn lao cao cả nhất dám hi sinh tính mạng vì bạn hữu. Vì thế cũng là lời chứng chân thực nhất và có sức thuyết phục nhất.
Lời chứng tuyệt đối quan trọng không chỉ vì thế giá của Thiên Chúa, nhưng quan trọng vì quyết định vận mệnh của ta. Bằng chứng ấy chỉ nói lên một điều quan trọng: Thiên Chúa yêu thương ta vô vàn và Thiên Chúa đã làm tất cả chỉ vì muốn ta được sống và được hạnh phúc. Chính vì thế lời chứng ấy đặt ta trước một chọn lựa sinh tử: Tin hay không. Từ đó là quyết định sống hay chết.
Người bệnh phong là người coi như đã chết vì bị loại trừ khỏi cộng đoàn và không có hi vọng được chữa lành. Người bệnh phong là người đã ở bên bờ vực sinh tử, ở lằn ranh giữa cái chết và cái sống. Anh đã tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu. Anh đã lựa chọn đúng nên đã từ cõi chết trở về cõi sống. Anh đã lựa chọn niềm tin vào con Thiên Chúa nên anh có sự sống, không chỉ là sự sống với đầy đủ ý nghĩa nhất của thân xác, nhưng còn là sự sống đời đời của linh hồn bất diệt.
Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu. Bằng chứng của Chúa chính là bằng chứng của tình yêu. Động lực của bằng chứng cũng là tình yêu: mong muốn đem đến cho con sự sống đời đời. Xin cho con biết tin nhận và tuyên xưng Thiên Chúa Tình Yêu trong suốt cuộc đời con.
Suy Niệm 3: Chữa một người phung hủi
Bài Tin mừng hôm nay cho thấy cử chỉ ưu ái mà Chúa Giêsu dành cho những người cùng khổ, những kẻ bị xã hội ruồng rẫy.
Với sự nhạy cảm của một lương y, thánh sử Luca ghi lại một chi tiết đáng chú ý, đó là sự kiện Chúa Giêsu giơ tay chạm đến người phung hủi, biểu lộ một tình yêu xoá bỏ mọi ngăn cách, một tình yêu đi đến và dừng lại nơi những đau khổ của con người. Đối với Chúa Giêsu, con người cùi hủi ấy không còn là một phế nhân, môt kẻ bị loại bỏ, mà là một con người đáng cảm thông và thương yêu. Người phung hủi được chữa lành, nhưng nhất là được phục hồi nhân phẩm, được sống như một con người giữa mọi người.
Chung quanh chúng ta có biết bao người bị đẩy ra bên lề xã hội. Họ đang chờ đợi một cánh tay nâng đỡ, một lời an ủi, một nụ cười cảm thông. Bao nhiêu nghĩa cử là bấy nhiêu phép lạ.
Ước gì chúng ta biết sống thế nào để Chúa Giêsu có thể thực hiện phép lạ tình yêu của Ngài đối với tất cả mọi người.
Suy Niệm 4: CÁI KHỔ CỦA NGƯỜI BỊ BỆNH
"Khi còn có thể làm việc được thì người mắc bệnh vẫn còn được chung sống với gia đình. Nhưng đến khi thân tàn ma dại không làm được chi nữa, nhất là khi các vết ung thối bắt đầu phá miệng lở loét ra, máu mủ vấy đầy, khiến những người chung quanh nhờm gớm, kinh tởm không chịu được, thì dân làng đưa họ vào rừng, cất cho họ một túp lều tranh để người cùi ở lại đó một mình sống chết ra sao mặc kệ!
Khi yếu liệt, cô đơn trong túp lều hiu quạnh, người cùi đói khổ mà chết dần chết mòn một cách thảm khốc, ấy là không kể trường hợp có thể bị cọp đói tha đi, vì có lời đồn đại rằng cọp rất hám thịt người cùi.
Nói tóm một điều: người cùi là một bệnh nhân biết rõ mình đang chết và với đôi mắt tỉnh táo còn chứng kiến được rành rành giữa thanh thiên bạch nhật những sình thối rục rã của chốn mồ sâu...!"
Câu chuyện trên đây chính là nhận định của Đức Cha Cassaigne, thừa sai sống giữa anh chị em người cùi.
Trong cuộc sống, cái gây nên đau khổ nhất cho con người chính là: bệnh tật và sự cô đơn.
Bệnh tật thì làm cho con người ta thất vọng và nghĩ mình vô dụng; bệnh tật còn làm cho con người đau đớn thể xác... Còn sự cô đơn thì làm cho con người trở nên dư thừa, họ bị cô lập không được tiếp xúc với ai và cũng không ai thèm tiếp xúc với họ. Đau khổ nhất chính là bị đẩy ra một nơi xa cộng đồng, không được ở với cha mẹ, anh chị em và bà con xóm làng.
Tất cả những tâm trạng đó, nơi người bị bệnh phong, họ phải hứng chịu tất cả.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết yêu thương ngay cả đến người không đáng yêu, tha thứ kẻ không đáng tha thứ. Đức Giêsu đã làm thế và chúng ta cũng phải làm như vậy, nếu chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa.
Mong sao mỗi người chúng ta sẵn sàng chia sẻ và gánh lấy những gánh nặng cho nhau. Thập giá mà mỗi người chúng ta phải vác, sẽ nhẹ đi biết bao, khi chúng ta biết bắt chước Đức Giêsu, giơ tay ra chạm đến người phong cùi.
Xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta được trở nên dấu chỉ tình thương của Chúa trong xã hội hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
- 07/01 Quê hương Nazaret
- 06/01 Chúa Giêsu đi trên mặt biển
- 05/01 Phép lạ Bánh hóa nhiều
- 04/01 Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến.
- 03/01 Chúng tôi đến để triều bái Người.
- 02/01 Gioan làm chứng về Chúa Giêsu.
- 01/01 Maria ghi nhớ và suy niệm.
- 31/12 Ngôi Lời Ðã LÀM NGƯỜI
- 30/12 Bà tiên tri Anna
- 29/12 Cụ già Si-mê-on