Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
20/02 Tin mừng của lòng thương xót
- Viết bởi Lc 5, 27-32
Tin mừng của lòng thương xót.
Thứ Bảy sau lễ Tro.
“Ta không đến kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
Lời Chúa: Lc 5, 27-32
Khi ấy, Chúa Giêsu trông thấy một người quan thuế tên là Lêvi đang ngồi ở bàn thu thuế, Ngài bảo ông: “Hãy đi theo Ta”. Ông liền bỏ mọi sự đứng dậy theo Người. Lêvi đã dọn một bữa tiệc linh đình thết đãi Người tại nhà ông. Có đông người thu thuế và nhiều người khác cùng ngồi ăn với các ngài.
Những người biệt phái và các luật sĩ của họ lẩm bẩm với các môn đệ của Người rằng: “Sao các người lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?” Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Kêu gọi người tội lỗi sám hối
Suy niệm:
Việc Thầy Giêsu kêu gọi anh Lêvi làm môn đệ
phải được coi là một cuộc cách mạng lớn vào thời bấy giờ.
Chẳng ai gọi một người thu thuế bị xã hội khinh miệt vào nhóm của mình.
Làm thế là hạ giá chính Thầy và cả nhóm môn đệ.
Đức Giêsu đã vượt qua những biên giới ngăn cách rạch ròi
giữa tội lỗi và công chính, giữa thanh sạch và ô nhơ.
Người Do Thái thường không giao tiếp với các người thu thuế,
họ bị coi là tội nhân vì làm việc cho dân ngoại, vì dễ ích kỷ tham lam.
Đức Giêsu chẳng sợ mời anh Lêvi đi theo mình: “Anh hãy theo tôi.”
Ngài không nhìn anh bằng ánh mắt khác với các môn đệ kia.
Chỉ một lời mời của ngài đủ lấp đi mọi hố sâu ngăn cách.
Lêvi đã quảng đại đáp lại bằng hành động: bỏ tất cả, đứng dậy, đi theo.
Đối với người Do Thái, bữa ăn có tính thiêng liêng.
Đó là lúc người ta thông hiệp với nhau, nên một trong tình bạn.
và cùng chia sẻ với nhau một thứ đồ ăn, thức uống.
Chính vì thế ăn uống với người tội lỗi là điều không được phép,
vì điều ấy sẽ khiến mình bị ô nhơ.
Đức Giêsu có vẻ không sợ chuyện này,
khi ngài nhận lời ăn tiệc chia tay do anh Lêvi khoản đãi.
Bữa tiệc thật là lớn, có đông đủ bạn bè đồng nghiệp của anh.
Trong số khách mời có cả các môn đệ.
Đức Giêsu dám đến nhà người tội lỗi và ăn với họ.
Hẳn là ngài rất vui và tự nhiên, chẳng có gì phải e dè, xa cách.
Chỉ có những người Pharisêu là khó chịu và lẩm bẩm đặt câu hỏi tại sao.
Đức Giêsu sẽ cho họ thấy những lý do.
Vì những người thu thuế và tội nhân là những người đau yếu (c. 31).
Những người đau yếu mới cần đến thầy thuốc Giêsu.
Vì mục tiêu của đời Đức Giêsu là kêu gọi người tội lỗi sám hối (c. 32),
nên ngài phải đến với họ, gần gũi và chia sẻ, mời gọi và yêu thương.
Đức Giêsu cho họ thấy trái tim thật sự của Thiên Chúa.
Không như người Pharisêu nghĩ, trái tim ấy có chỗ cho tội nhân.
Đức Giêsu cũng dành chỗ cho anh Lêvi trong nhóm môn đệ.
Đức Giêsu giúp chúng ta biết cách mời người khác hoán cải.
Đến với họ, nhìn họ bằng cái nhìn mới, và vui vẻ làm bạn với họ.
Trước khi làm cho người khác hoán cải,
chính chúng ta phải hoán cải nơi cái nhìn của mình về người khác.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: TIN MỪNG CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hôm qua, I-sai-a đã chỉ cho ta cách ăn chay đẹp lòng Chúa là sống tình bác ái với tha nhân. Hôm nay I-sai-a còn đi xa hơn khi cho thấy tình yêu thương có sức biến đổi thế giới, sửa chữa và tái thiết thế giới bị hủy hoại, đem lại sự sống đã suy tàn. Ngài nói: “Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe dọa và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thỏa lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu tỏa trong bóng tối.. Nhờ ngươi người ta sẽ tái thiết những tàn tích cổ xưa, ngươi sẽ dựng lại những nền móng của các thế hệ trước, người ta sẽ gọi ngươi là người sửa lại những lỗ hổng, là kẻ tu bổ phố phường cho người ta cư ngụ”.
Điều đó hoàn toàn ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Đặc biệt với việc Chúa đến bàn thu thuế và kêu gọi Matthêu. Việc kêu gọi Mat-thêu nói lên tình yêu thương của Chúa. Vì lòng thương xót nên Chúa hạ mình xuống nơi nhơ uế này. Vì lòng thương xót nên Người đưa mắt nhìn Mat-thêu. Không nhìn với ánh mắt khinh miệt. Nhưng nhìn với tình yêu thương tin tưởng. Và thật lạ lùng với lòng thương xót, Chúa kêu gọi Mat-thêu, một người tội lỗi, làm tông đồ của Chúa.
Lòng thương xót đã biến đổi Matthêu. Từ một người tội lỗi thành một người thánh thiện. Từ một người phản đạo thành một tông đồ nhiệt thành. Từ một người theo đuổi tiền bạc thành một người tha thiết với các linh hồn. Từ một người ham mê tiền bạc thành một người siêu thoát dứt bỏ. Việc đổi đời, dứt bỏ được tiền bạc khiến ông vui mừng đến nỗi mở tiệc ăn mừng. Quả thật tình yêu có sức biến đổi con người.
Thế giới hôm nay như sau một trận chiến để lại biết bao người mang thương tích, biết bao hoang tàn đổ vỡ. Cần có lòng thương xót để chữa lành vết thương, tái thiết thế giới. Chính trong bản thân ta đang có đổ vỡ, có nhiều vết thương. Xin lòng thương xót của Chúa đến băng bó và chữa lành ta.
SUY NIỆM 3: Tin mừng của lòng thương xót
Vua thánh Louis IX của Pháp nổi tiếng là khôn ngoan, ứng biến tài tình.
Có một nông dân nọ được mùa củ cải. Để đánh dấu thành công, ông chọn củ cải lớn nhất trong vụ mùa và đem dâng kính Đức vua. Ông đến cung điện và xếp vào hàng những người ngày ngày đến dâng tặng vật cho đức vua. Ai cũng mang đến một lễ vật cao quí và cũng chuẩn bị xin vua một đặc ân.
Người nông dân nghèo trái lại chỉ có một tâm tình duy nhất, là nói lên niềm vui được trung mùa của mình. Mọi người không ngờ rằng đây là tặng vật đã làm vua hài lòng nhất.
Nhà vua sai các cận vệ đem đến một cái cân và truyền lệnh hãy cân số lượng vào bằng củ cải này và trao cho người nông dân. Hành động này của vua đã khơi dậy lòng ham muốn của các đình thần. Một tuần sau, một nịnh thần giầu có lựa con ngựa đẹp nhất đem tặng vua với hy vọng được tưởng thưởng. Thế nhưng, khi đón nhận con ngựa, nhà vua cám ơn và truyền cho các cận vệ: “Các khanh hãy mang tặng người này một củ cải, đó là phần thưởng dành cho những người suốt ngày chỉ biết nói những lời xua nịnh và chờ chực đặc ân”.
Giai đoạn trên đây có thể gợi lại cho chúng ta thái độ của Chúa Giêsu đối với những kẻ bé mọn, nghèo hèn, đĩ điếm, thu thuế, nói chung những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngài kết thân với họ, đồng bàn với họ, và tuyên bố họ là những người vào Nước Trời trước những kẻ tự xưng là công chính. Những con người nghèo khổ ấy là một thể hiện cụ thể của mối phúc đầu tiên mà Chúa Giêsu đã công bố trong Bài giảng trên núi: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”. Tin mừng được loan bao cho những người nghèo, hay đúng hơn chỉ người nghèo mới có thể mở rộng tâm hồn để đón nhận Tin mừng.
Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng thương xót: chỉ khi nào con người nhận thức được thân phận nghèo hèn tội lỗi cảu mình, con người mới thấy được tình thương bao dung hải hà của Chúa. Thánh Phaolô đã nói: “Nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó ân sủng càng dồi dào”. Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng tin tưởng phó thác: có thấy được nỗi bất toàn của mình, con người mới cảm nhận được sức mạnh nâng đỡ của Chúa. Tin mừng của Chúa là Tin mừng của an bình, hạnh phúc: có dốc cạn những ham muốn ích kỷ và những sức mạnh của danh vọng, có trở nên thực sự trống rỗng, thanh thoát, con người mới có thể được Thiên Chúa lấp đầy và tìm được hạnh phúc bình an đích thực.
Giữa những bôn ba tìm kiếm của cuộc sống, xin cho chúng ta luôn đặt Chúa vào chỗ nhất. Cho dù phải đánh mất tất cả, xin cho chúng ta luôn tin rằng chúng ta đang có tất cả và được Chúa làm gia nghiệp duy nhất.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Trở về
Sau đó, Đức Giê-su đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lê-vi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người. Ông Lê-vi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông. Có đông đảo người thu thuế và những người khác cùng ăn với các Ngài. (Lc. 5, 27-29)
Đức Giê-su đến không phải để kêu gọi người công chính. Nhưng để kêu gọi những người tội lỗi. Những người đáng phải quan tâm là những người nghèo khó, khốn khổ, đói khát, tội lỗi, và tất cả những kẻ bị xã hội coi là hạng bất hảo (pas bons). Những người ấy được Chúa muốn biến đổi, muốn cứu chuộc. Đó là những kẻ Người phó dâng đời sống, niềm vui và bình an của Người cho họ. Họ được Người kêu gọi trở về.
Ước mong chúng ta được vào nhóm các người “bất hảo” ấy để được Đức Giê-su mời gọi đến với Người. Chúng ta không luôn luôn dễ dàng nhận mình vào hạng xấu đó đâu. Chỉ cần thấy chúng ta liếc nhìn những người sống chung quanh chúng ta, là chúng ta nghĩ mình chẳng hề xấu như thế, cho nên chúng ta không cần ăn chay trở lại.
Thực ra cũng đúng. Chúng ta khá can đảm, và là người tín hữu khá tốt. Chắc có nhiều kẻ xấu hơn chúng ta! Nhưng nghĩ mình không cần ăn năn trở lại thì đã tự đặt mình ra rìa, và là kẻ tự cao tự đại quá xá rồi.
Cứ nhìn ông Lê-vi đã làm, chúng ta có thể có một chút hiểu biết về thế nào là trở về, rồi ra đi bỏ hết cả tài sản. Ông đã bỏ hết như Tin mừng nói. Ông đã bỏ chức vị. Ông đổi mới cái nhìn, đổi mới phán đoán, đổi mới những tập quán thói quen của đời sống. Và ông đã bắt đầu sống trở về tận nguồn gốc theo Đức Ki-tô mời gọi.
Nếu muốn được trở về, phải sống tận nguồn gốc là Tin mừng để thấy phải từ bỏ mọi hòa hoãn, mọi nửa vời và đi đến tột đỉnh chí thiện và chí ái, lúc đó chúng ta mới thấy sáng tỏ sự cần thiết phải sám hối trở về biết chừng nào. Ai nghĩ ngược lại thì chỉ là kẻ tự phụ, lừa dối mình.
SUY NIỆM 5: TỪ BỎ... VÀ ĐI THEO ĐỂ LÀM LẠI CUỘC ĐỜI (Lc 5, 27-32)
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta vẫn thấy đây đó có những người đạo đức tốt lành xuất hiện như một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta noi theo! Tuy nhiên, trong số đó, không thiếu những thành phần ăn chơi trác táng một thời; đầu trộm đuôi cướp khét tiếng; hay cũng không thiếu những vị trước đó buôn gian bán lận, sống bằng nghề nhàn hạ khi cho vay nặng lãi trên xương máu của anh chị em mình...
Tại sao họ lại có một sự thay đổi đến lạ thường như vậy? Thưa! Bởi vì họ đã biết dừng lại, nhận thấy mình đi sai đường và nhận ra tình thương của Thiên Chúa, nên họ thay thái độ để đổi cuộc đời trong ân sủng của Người.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy một Mátthêu ăn trên ngồi trước, hà hiếp, bóc lột, phản dân, hại nước khi sống bằng nghề thu thuế cho đế quốc! Nhưng hôm nay, trên chiếc ghế đã gắn liền cuộc đời ông với cái nghề đáng nguyền rủa; trên chiếc bàn đã là bệ kê cho ông chắp bút để ghi những con số nhơ nhớp, bẩn thỉu nhằm thu lại những đồng tiền khốn cùng nơi anh chị em đồng loại của ông. Nhưng chính một thứ tội không thể tha, một con người đáng khinh bỉ, thì hôm nay, tấm lòng nhân hậu của Đức Giêsu ngang qua ánh mắt cảm thông, trìu mến và lời mời gọi đầy yêu thương: "Anh hãy theo tôi!", đã đảo lộn tất cả. Vì thế, như cá gặp nước, Mátthêu đã sẵn sàng đứng dạy, từ bỏ nơi chốn tội lỗi, và dứt khoát quay lưng lại với cái nghề ám muội để đi theo và làm môn đệ cho Đức Giêsu.
Từ khi bước theo Thầy Chí Thánh, ông đã trở thành người đầy kinh nghiệm về Thiên Chúa tình thương, và luôn mang trong mình tâm tư, nguyện ước của Thầy. Sau này, ông đã viết lại một con người vĩ đại đã cải hóa cuộc đời ông nơi những trang Tin Mừng đầy sống động.
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối như Mátthêu và có lòng nhân từ như Đức Giêsu. Đồng thời tránh xa và không được lưu trữ thái độ coi thường, khinh bỉ, cố chấp như những người Pharisêu trong tâm trí của mình, bởi vì trên đời này có ai là vô tội đâu? Tự nhận mình là người xứng đáng và coi khinh kẻ khác là dấu hiệu của một tâm hồn trống rỗng, kiêu ngạo, thích đi theo và làm môn đệ cho ma quỷ chứ không phải là môn sinh của Thầy Giêsu.
Thật vậy, nếu là học trò của Đức Giêsu, chúng ta phải hiểu và thấm câu nói của Thầy mình: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” vì “tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết khiêm tốn, lắng nghe lời mời gọi của Chúa, để sẵn sàng đi theo và làm môn đệ Chúa. Xin cho chúng con biết yêu thương và nâng dạy những người tội lỗi như Chúa khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu kêu gọi người thu thuế Lêvi
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một người bán gỗ cho xưởng mộc. Anh thường thủ lợi bằng cách đo gỗ thiếu. Ngày kia, có tin đồn đến xưởng là anh ta nhập đạo. Nghe thấy thế, mọi người bán tín bán nghi rồi bàn thảo mỗi người mỗi ý. Có một người lặng lẽ ra kho gỗ, một lúc sau trở vào dõng dạc tuyên bố:
- Đúng, anh ta nhập đạo thật.
- Sao anh biết ?
- Tôi vừa xem lại số gỗ anh ta chở tới hôm qua. Tôi thấy là đúng với quy cách ta đặt, không thiếu nữa.
Người nào tiếp nhận Đức Kitô cũng phải thay đổi cuộc đời và sống ngay chính.
Suy niệm
Khi nghe tiếng gọi của Đức Kitô, người thu thuế Lêvi đã bỏ tất cả để cất bước theo Ngài, bỏ cả một nghề nghiệp đang hốt bạc của người thu thuế, bỏ cả một quá khứ tội lỗi để Chúa Kitô thánh hiến trở thành môn đệ Ngài…
Người thuế vụ trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị anh em đồng bào mình khinh miệt do các anh ăn chặn của dân, hơn nữa lại là tay sai cho đế quốc Rôma để bóc lột dân mình... Họ là hình ảnh của những gì xấu xa nhất, tội lỗi nhất, đáng khinh miệt nhất mà dân chúng coi đồng hạng với các kẻ cắp và các phụ nữ ngoại tình.
Hơn nữa, những người Pharisiêu cho rằng: một người Do Thái ngoan đạo, không được giao du với những người bị coi là tội lỗi…
Thế nhưng Đức Kitô đã ngồi cùng bàn với phường thu thuế, tiếp xúc với bọn đĩ điếm, kẻ tội lỗi (x. Mt 9,10-13; Mc 2,15-17; Lc 5,8; 7,36-50; 15,1-2; 19,7). Họ là người bệnh, người mang vết thương, Đức Giêsu đến chữa lành cho họ. Ngài sẵn sàng đồng bàn, nghĩa là cùng chia sẻ gánh nặng tội lỗi. Ngài mang nó lên thập giá và tiêu diệt nó nhờ cuộc phục sinh vinh hiển của Ngài (x. 1Cr 15,25-26). Ngài đã trở nên như tội nhân để đưa tội nhân vào sự cứu chuộc khi Ngài đã chết treo trên thập giá với thân phận của một tội nhân, đồng hạng với tội nhân để cứu chuộc tội nhân. Sứ mạng của Ngài là để cứu độ tất cả, chữa lành những người bất hạnh, trong đó có cả những tội nhân. Trên thập giá, Ngài xin ơn tha thứ những kẻ đóng đinh Ngài (x. Lc 23,34).
Chúng ta có bao nhiêu vết thương lòng, bao nhiêu khiếm khuyết bất toàn, bao nhiêu những yếu đuối tội lỗi, hãy chỉ cho Đức Kitô, để Ngài - vị thầy thuốc băng bó, chữa lành, và làm công chính, lúc đó chúng ta cảm nghiệm tại sao thánh Phaolô chia sẻ: ”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Nếu không có Ngài - vị thầy thuốc đến từ Thiên Chúa, chúng ta sẽ chết trong bệnh tật là tội lỗi, trong vết thương yếu đuối và khiếm khuyết của chính chúng ta như người Pharisiêu tự phụ công chính không cần ân sủng nên vẫn sống trong sự tội lỗi (x. Ga 9,41).
Ý lực sống: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống” (Ed 18,23).
Suy Niệm 7: Đức Giêsu kêu gọi ông Lêvi
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Phụng vụ hôm nay chọn bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu gọi ông Lêvi, để trình bầy cho chúng ta về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân, để khích lệ chúng ta là kẻ có tội biết trông cậy vào Thiên Chúa tình thương.
Bài Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu thực hiện điều đó. Cứu một người thu thuế tội lỗi là Lêvi, còn gọi ông làm môn đệ, và còn ngồi ăn cùng bàn với những người tội lỗi khác. Ngài tuyên bố: ”Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”.
2. Nghề thu thuế thời Đức Giêsu.
Một trong những tội bị người dân ghét nhất từ cổ chí kim là “cõng rắn cắn gà nhà”, hay là “nối giáo cho giặc”, vì họ cộng tác với ngoại bang làm khổ anh em đồng bào của mình. Là nhân viên thuế vụ, Lêvi làm việc cho Rôma đang cai trị dân Do thái, sưu cao thuế nặng, ức hiếp dân lành và làm giầu trên mồ hôi nước mắt của dân.
Người Do thái thời ấy coi kẻ thu thuế là vừa phản đạo vừa phản quốc và coi họ đứng ngang hàng với gái điếm, phải bị loại trừ bằng vạ tuyệt thông cách ly. Không ai thèm chơi với họ. Họ chỉ chơi với quân xâm lược La mã và những tín đồ cặn bã của các Hội đường. Lêvi biết tất cả những điều ấy nhưng ông vẫn bất chấp, vì đổi lại ông được chức vụ rất hấp dẫn, đem lại của cải giầu sang.
3. “Tôi đến kêu gọi người tội lỗi”.
Ai cũng biết, một bệnh viện mà chỉ nhận săn sóc cho người mạnh khỏe thì không còn là bệnh viện; người khỏe mạnh thì không cần đến bác sĩ. Cũng thế, Đức Giêsu không còn là Đấng Cứu Thế nữa, nếu Ngài chỉ muốn tiếp xúc với những người tự phụ cho mình là người công chính không cần đến Thiên Chúa.
Luật Do thái coi ai tiếp xúc với kẻ thu thuế là đồng lõa với tội lỗi, nhưng Đức Giêsu đã vượt lên tất cả. Chúa cứ gọi ông. Ngài không nhìn quá khứ của Lêvi, nhưng nhìn ông bắt đầu từ lúc ông và Ngài gặp nhau, còn quá khứ của ông thì Ngài đã quên hết rồi.
Người Do thái coi người thu thuế là hạng tay sai cho đế quốc, hạng người mang tiếng là ăn bẩn, tội lỗi. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái, luật sĩ, tư tế luôn nghĩ xấu cho người khác. Chúa lại nói với họ: ”Ta đến không để gọi những người công chính, mà là gọi những người tội lỗi” và “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”.
4. Lòng thương xót của Thiên Chúa.
Việc kêu gọi Lêvi nói lên tình yêu thương của Chúa. Vì lòng thương xót nên Chúa hạ mình xuống nơi nhơ uế này. Vì lòng thương xót nên Ngài đưa mắt nhìn Lêvi. Không nhìn với ánh mắt khinh miệt, nhưng nhìn với tình yêu thương tin tưởng. Và thật lạ lùng với lòng thương xót Chúa kêu gọi Lêvi, một người tội lỗi, làm Tông đồ của Chúa.
Lòng thương xót đã biến đổi Lêvi. Từ một người tội lỗi thành một người thánh thiện. Từ một người phản đạo thành một tông đồ nhiệt thành. Từ một người theo đuổi tiền bạc thành một người tha thiết với các linh hồn. Từ một người ham mê tiền bạc thành một người siêu thoát dứt bỏ. Việc đổi đời, dứt bỏ được tiền bạc khiến ông vui mừng đến nỗi mở tiệc ăn mừng. Quả thật tình yêu có sức biến đổi con người.
5. Một phút hồi tâm.
Câu chuyện ơn gọi của Lêvi lại một lần nữa khẳng định, Đức Giêsu gọi ai thì Ngài không quan trọng đến thời điểm nào, lý lịch ra sao mà trên hết tất cả là Ngài nhìn thấy nơi ta có dám sẵn sàng bỏ hết tất cả để theo Chúa không?
Ngày hôm nay, nếu bạn đang ngồi nơi bàn giấy quyền cao lương hậu, đang vui thích với công việc đầy lợi nhuận... nếu Chúa gọi bạn theo ơn gọi tu trì, bạn có dám bỏ lại để theo Ngài không. Khi phải lựa chọn giữa một bên là đức tin và lề luật Công giáo và một bên là danh lợi vật chất, bạn có dám chọn Chúa không?
Ngày hôm nay, Chúa cũng đang mời gọi bạn làm Tông đồ cho Chúa. Thế nhưng, bạn có đáp lại lời mời gọi của Chúa cách thành tâm, thiện chí hay không, dám từ bỏ không, hay còn đang vướng víu bởi những của cải vật chất làm cho tâm hồn trở nên nặng trĩu trước lời kêu gọi?
6. Truyện: Cải tà qui chính.
Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề “Hãy xuống những con đường tồi tàn này”. Tác phẩm thuật lại viêc ông cải tà qui chính từ một người bị kết án tù vì nghiện ma túy và cố tình giết người, cuối cùng đã sám hối để trở thành một tín hữu Kitô gương mẫu.
Một đêm kia, Piri đang nằm trong phòng giam chuẩn bị ngủ. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng tai hại xấu xa mà anh đã gây ra trong đời mình. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt cần phải cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm chung với một tù nhân khác tên là Chicô. Nên anh phải đợi cho Chicô ngủ đã, anh mới quì gối trên sàn nhà và cầu nguyện. Anh kể lại rằng: ”Tôi bầy tỏ với Chuá những gì có trong trái tim tôi... Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những thiếu thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng... Tôi cảm thấy dường như có thể khóc được... đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm được”.
Sau khi Piri cầu nguyện xong, một tiếng nói đáp lại: ”Amen”. Đó là tiếng của Chicô. Rồi Chicô nói nhỏ với Piri: ”Tôi cũng tin Chúa”. Thế là hai người bạn tù dốc cạn quá khứ tội lỗi xấu xa và cùng chia sẻ quyết tâm sám hối trở về. Không biết họ đã tâm sự với nhau bao lâu, nhưng trước khi đi ngủ lại, Piri đã nói: ”Chúc Chicô ngủ ngon nhé! Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài thôi”.
19/02 Ý nghĩa của việc ăn chay
- Viết bởi Mt 9, 14-15
Ý nghĩa của việc ăn chay.
Thứ Sáu sau lễ Tro.
“Khi tân lang ra đi, bấy giờ họ mới ăn chay”.
Lời Chúa: Mt 9, 14-15
Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Gêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: “Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?”
Chúa Giêsu nói với họ: “Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chàng rể bị đem đi
Suy niệm;
Có một sự khác biệt về lối sống giữa Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu.
Gioan sống khổ hạnh nơi hoang địa, ông lôi kéo người ta đến với ông.
Ông dọa tội nhân về cơn thịnh nộ mà Thiên Chúa sắp giáng xuống.
Còn Đức Giêsu thì đến với những kẻ tội lỗi, bị xã hội loại trừ,
ăn uống vui vẻ với họ vì Nước Trời đã đến rồi (Mt 11, 18-19).
Sau khi Gioan đã bị tống ngục (4, 12)
các môn đệ của ông vẫn tiếp tục hoạt động (11, 2-6).
Chắc họ khó chịu khi thấy các môn đệ của Thầy Giêsu không ăn chay,
không có vẻ khắc khổ, nhiệm nhặt như họ hay như người Pharisêu,
nên họ hỏi thẳng Thầy về chuyện này (c. 14).
Thầy Giêsu trả lời họ bằng một câu hỏi khác (c.15):
“Khách dự tiệc cưới có thể than khóc khi chàng rể còn ở với họ sao?”
Dĩ nhiên là không rồi!
Câu nói của Thầy Giêsu cho thấy bầu khí Thầy-trò trong nhóm
là bầu khí vui tươi ấm áp, bầu khí của một tiệc cưới.
Thầy là chàng rể, còn trò là khách dự tiệc.
Thời gian Thầy ở với các môn đệ là thời gian hạnh phúc cho họ.
Trong Cựu Ước, hình ảnh chàng rể để chỉ Thiên Chúa (Is 62, 4-5),
Đấng kết duyên cầm sắt với dân Ítraen (Hs 2, 21-22).
Còn ở đây Đức Kitô kín đáo nhận mình là chàng rể.
Chàng rể là nhân vật chủ yếu của tiệc cưới.
Tiệc cưới ấy chính là Nước Trời được ngài khai mở (Mt 22, 1-14; 25, 1-13).
“Nhưng sẽ đến ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ…” (c.15).
Đây không phải là một lời tiên báo rõ ràng về cuộc khổ nạn,
nhưng là một ám chỉ đến cái chết bất ngờ sắp xảy ra.
Chàng rể Giêsu chẳng ở luôn với các môn đệ (Mt 26, 11).
Có ngày họ sẽ không còn thấy Thầy nữa, “bấy giờ họ mới ăn chay.”
Ăn chay đối với Kitô hữu là thái độ chuẩn bị ngày Thầy trở lại.
Ăn chay làm ta nhẹ nhàng để chờ ngày gặp Chúa diện đối diện.
Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường việc ăn chay.
Ngài đã ăn chay bốn mươi ngày trước khi bắt đầu sứ vụ (Mt 4, 2).
Hội thánh sơ khai cũng gắn liền cầu nguyện với ăn chay (Cv 13, 2-3)
Thánh Phaolô vẫn ăn chay, dù vất vả với tông vụ (2 Cr 6,5; 11, 27).
Để rước lễ, chúng ta phải kiêng ăn uống khoảng một giờ.
Ngày thứ sáu vẫn là ngày kiêng thịt theo luật chung của Hội thánh.
Ước gì việc ăn chay làm ta gặp Chúa, gặp anh em và gặp lại chính mình.
Cầu nguyện;
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã có kinh nghiệm về cái đói,
sau khi ăn chay bốn mươi ngày trong hoang địa.
Sau khi được dân chúng tung hô lúc vào thành Giêrusalem,
Chúa cũng đói đến mức phải tìm trái nơi cây vả.
Chúa đã xin nước uống nơi người phụ nữ Samari,
và Chúa đã nếm cái khát của người bị mất máu trên thập giá.
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa có thân xác như chúng con,
nên Chúa đã bênh các môn đệ khi họ bứt lúa mà ăn vì đói,
Chúa đã làm phép lạ bánh hóa nhiều vì sợ người ta xỉu dọc đường,
Chúa đã bảo nhà ông trưởng hội đường cho cô bé mới hồi sinh được ăn.
Đói khát là chuyện bình thường của thân xác con người,
và Chúa chẳng bao giờ coi thường những nhu cầu chính đáng của nó.
Nhưng xin nhắc chúng con nhớ rằng
con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, mà còn nhờ Lời Chúa,
con người không chỉ đói khát thức ăn vật chất
mà còn khao khát những giá trị tinh thần của Nước Trời.
Xin dạy chúng con chia sẻ cho những Ladarô đang nằm ngoài cổng,
và đừng khép cửa lòng như ông nhà giàu xây thêm kho.
Xin cho chúng con hiểu được giá trị của một ly nước lạnh được trao đi,
một tấm bánh giữa đêm khuya cho người bạn mượn,
và chút vụn bánh rơi xuống từ bàn ăn đủ nuôi một người.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa là người đói khát vẫn ngửa tay xin chúng con mỗi ngày
mà chúng con không hay.
Xin giúp chúng con bắt chước Chúa trong bữa tiệc cuối cùng
dám bẻ ra và trao đi tấm bánh đời mình để phục vụ tha nhân.
Ước gì mai này chúng con được đồng bàn với Chúa
và với mọi người thành tâm thiện chí trong Nước Trời. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: CHAY TỊNH
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chay tịnh là một thực hành tôn giáo có từ lâu đời. Nhưng nhiều khi biến thành hình thức. Đánh mất ý nghĩa thực sự. Thực ra chay tịnh là để hãm dẹp xác thịt. Kềm chế dục vọng. Loại trừ tính hư tật xấu. Từ bỏ cái tôi. Để Thiên Chúa ngự trị. Khi có Thiên Chúa ngự trị ta đạt đến đích điểm của đạo rồi. Khi đó đạo trở thành niềm vui. Chỉ khi ta phạm tội, lạc mất Thiên Chúa, ta mới phải ăn chay. Như Chúa Giê-su dạy: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay”.
Vì thế từ xa xưa các tiên tri đã quyết liệt đả phá thói ăn chay hình thức. “Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vài thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa?”
Tệ hơn nữa ăn chay trở thành giả hình. Và nhất là trở thành phản chứng. Vì khi ăn chay vẫn còn lo kiếm lợi nhuận bằng áp bức tha nhân. Vẫn còn chia rẽ bất hoà, thậm chí hành hung người khác: “Này ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn”.
Chúa cho biết cách ăn chay đẹp lòng Chúa là quan tâm đến người nghèo khổ. Chia sẻ vật chất với người túng nghèo. Giải phóng kẻ bị tù tội. “Cách ăn chay mà ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?”
Ăn chay là để kết hợp với Chúa. Vì thế ăn chay phải quan tâm phục vụ tha nhân. Vì Chúa ở trong tha nhân. Đặc biệt những người anh em nghèo khổ bất hạnh. Vì thế ăn chay là phải hãm dẹp bản thân. Bớt chi tiêu. Để giúp người nghèo. Khi đó ta gặp được Chúa. Khi đó ăn chay đạt tới ý nghĩa đích thực.
SUY NIỆM 3: Ý nghĩa của việc ăn chay
Bên Trung Quốc có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quí. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đều khen ngợi và cho đó là kỳ công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc cho gọi ông đến và hỏi: “Nhà người có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?” Nhà điêu khắc trả lời: “Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản: khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, việc gì xảy ra là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi”.
Công trình giữ chay của các tín hữu trong mùa chay mỗi năm được gán cho nhiều ý nghĩa: nào là chay tịnh để kềm hãm một nhu cầu mạnh mẽ nhất trong con người, đó là ăn uống để sinh tồn, nhờ đó có thể tiến mạnh hơn trên con đường tu thân tích đức; nào là ăn chay để kinh nghiệm được sự đói khát, nhờ đó có thể cảm thông và chia sẽ với những anh em túng thiếu, nghèo khổ đang cần đến sự trợ giúp của mình; nào là ăn uống kham khổ để tiết kiệm được một số tiền hầu đóng góp vào các chương trình bác ái, từ thiện. Ăn chay để tìm được ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người không chỉ lo làm lụng để cung phụng cho thân xác và đời sống vật chất, nhưng còn cố gắng hướng lên những mục đích tối thượng thiêng liêng. Tất cả những ý nghĩa đó của việc ăn chay có những yếu tố rất tích cực, đáng suy nghĩ và thực hành. Nhưng còn một ý nghĩ khác rất quan trọng, đó là ăn chay để tập trung tư tưởng, nhờ đó khám phá hình ảnh nòng cốt của chính mình và cuả tha nhân: đó là hình ảnh Thiên Chúa tiềm ẩn nơi mỗi người.
Xin cho công việc chay tịnh chúng ta thực hiện trong mùa chay này giúp chúng ta đi vào chiều sâu để khám phá hình ảnh Thiên Chúa trong chúng ta và trong lòng mọi người, ngõ hầu cuộc sống đức tin chúng ta là một công trình ngày càng tỏ lộ và chúng ta có khả năng yêu mến hình ảnh Thiên Chúa nơi người khác.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Thái độ dứt khoát.
Phanxicô được mệnh danh là người nghèo của Thiên Chúa, đã làm một cuộc đoạn tuyệt với tất cả những gì thuộc về thế gian để nên giống Chúa Giêsu trong mọi sự.
Trên bước đường theo Ngài, Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào nơi người môn đệ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình”. Nếu chính bản thân mà còn phải từ bỏ, thì huống chi những gì thuộc về thế gian. Thái độ dứt khoát này được Chúa Giêsu làm nổi bật trong cách xử thế của Ngài đối với một số những luật lệ Cựu ước. Trong khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Biệt phái tuân giữ một số ngày chay tịnh, thì Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tự miễn chước. Hành động như thế, Chúa Giêsu muốn nói lên sự độc lập của Ngài và của các môn đệ đối với một số truyền thống cũ. Chúa Giêsu đã minh định thái độ của Ngài khi tuyên bố về sự hiện diện của Tân lang. Ngài chính là Tân lang, là Ðấng Cứu Thế mà con người mong đợi.
Theo truyền thống Do thái giáo, việc giữ chay được liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế. Căn cứ trên ý nghĩa và mục đích của việc giữ chay như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Ðó là thái độ hợp thời và hợp lý: họ đang sống bên Chúa Giêsu: thái độ của họ không phải là thái độ buồn sầu, khóc lóc. Thời của Ðấng Cứu Thế không phải là thời của tang chế, ủ dột, mà là thời của hân hoan.
Làm môn đệ Chúa Giêsu, sống với Chúa Giêsu, thái độ của người theo Chúa phải là sống tất cả cho Ngài và vì Ngài. Ðưa ra dụ ngôn chiếc áo và bình rượu, Chúa Giêsu muốn nói rằng thái độ của người môn đệ phải là thái độ dứt khoát tận căn, một thái độ không pha lẫn Tin Mừng với tinh thần thế tục.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xét lại tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu. Mang danh hiệu của Ngài, làm môn đệ của Ngài có nghĩa là phải sống trọn cho Ngài. Nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Tại sao phải ăn chay?
Bấy giờ các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Đức Giê-su rằng: “ Tại sao chúng tôi và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” Đức Giê-su trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể đã bị đem đi, bấy giờ họ mới ăn chay”. (Mt. 9, 14-15)
Giáo hội mời gọi chúng ta ăn chay suốt cả mùa chay. Nói đúng nghĩa ăn chay là nhịn ăn uống. Người ta có thể tưởng rằng Giáo hội có lý nhắc nhở một điều quan trọng cho chúng ta cần ăn chay vì ăn quá nhiều như ở Mỹ làm mình phì nộn và nhồi tọng đủ thứ trong khi bao nhiêu người trên thế giới thiếu ăn mỗi ngày. Nhưng không phải vì những lý do đó mà Giáo hội khuyến khích ăn chay. Giáo hội có nhiều lý do khác.
Giáo hội đánh giá rằng ăn chay là cách tốt nhất để chúng ta mở lòng hướng về Thiên Chúa và tiếp rước Ngài. Giáo hội tin tưởng rằng trong khi thiếu ăn uống, tự nhiên chúng ta thấy mình là tạo vật yếu đuối cần phải nương tựa vào Đấng gìn giữ, bảo đảm sự hiện hữu của muôn loài. Ăn chay nhất thiết làm cho chúng ta cảm nghiệm ngay trong xác thịt mình thấy rằng đời sống chúng ta và bản chất chúng ta đều bởi Thiên Chúa ban.
Giáo hội khuyến khích ăn chay vì lý do thứ hai: ăn chay là phương thế tốt nhất để chuẩn bị chúng ta mong đợi Đức Ki-tô lại đến. Tất cả chúng ta đều biết tại sao nhiều người ăn mất ngon khi gặp cơn bối rối hay gặp cảnh chia ly. Sau một cơn cãi lộn, người ta không còn muốn ăn uống. Khi mất chồng, vợ bỏ ăn nhiều ngày. Ăn chay còn biểu lộ chúng ta hoàn toàn liên kết với Đức Ki-tô mà chúng ta yêu mến. Chúng ta ăn chay như thể là tưởng nhớ Đức Ki-tô và ra sức trông mong Người.
Đó là ý nghĩa của lời Chúa trong Tin mừng hôm nay. Đức Giê-su đã ở với chúng ta, nhưng chúng ta không hoàn toàn kết hợp với Người. Người đã đến giữa chúng ta, nhưng một ngày kia, Người lại đến trong vinh quang. Trong khi ăn chay, chúng ta tỏ hết lòng thiện chí được thấy Người lại đến để chúng ta hợp nhất với Người trọn vẹn cho đến muôn đời.
J.Y.G
SUY NIỆM 6: GIỮ CHAY ĐÚNG NGHĨA (Mt, 9, 14 –15)
Tại Giáo phận Taytay – Philippines, có một thầy ẩn sĩ tu rừng. Thày từ bỏ thế giới náo động, nhộn nhịp bên ngoài để vào rừng sâu ăn chay, cầu nguyện và sống thân tình với Thiên Chúa.
Thi thoảng, mỗi dịp lễ lớn, thày thường đi bộ trên đôi chân trần, không giày, không dép, đi hàng chục kilômét để về nhà thờ chính tòa hiệp thông cùng Giáo Hội. Trông thấy thày, ai cũng thấy toát ra một vẻ hồn nhiên, thánh thiện, thanh thoát, vui tươi và bình an.
Có lẽ vì nơi thày có được vẻ đẹp của Tin Mừng và đời sống chay tịnh cũng như cầu nguyện thường xuyên, nên nhìn mọi người, mọi vật dưới con mắt của Chúa!
Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy thường xuyên nhắc tới việc ăn chay, chẳng hạn như: vua Đavít ăn chay để cầu nguyện cho con khỏi ốm; từ triều đình đến thường dân thành Ninivê đã đáp lại lời mời gọi của tiên tri Giona nên ăn chay và sám hối để thoát khỏi tai họa...
Sang thời Tân Ước, Gioan Tẩy Giả cũng ăn chay và sống khổ hạnh trong sa mạc để chuẩn bị loan báo Đức Giêsu; đến khi Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đã khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng việc chay tịnh và cầu nguyện 40 ngày trong hoang địa sau khi chịu phép Thánh Tẩy; không những thế, Ngài thường xuyên nhắc các môn đệ phải ăn chay, cầu nguyện và Ngài còn cảnh báo các ông, nếu muốn trừ được quỷ thì phải ăn chay và cầu nguyện.
Như vậy, vấn đề chay tịnh là vấn đề quan trọng trong Kinh Thánh.
Tuy nhiên, hôm nay, khi các môn đệ của Gioan đến hỏi Đức Giêsu về việc: "Tại sao chúng tôi và các người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?", nhân cơ hội này, Đức Giêsu mặc khải cho biết ý nghĩa đích thực của việc ăn chay.
Ăn chay là để chờ đón Chúa đến, nhưng Ngài đang ở giữa họ thì không có lý do gì để ăn chay nữa. Nếu ăn chay lúc này là mâu thuẫn, chẳng khác gì vải mới vá áo cũ, hay rượu mới đổ vào bầu da cũ vậy!
Ý nghĩa chính yếu của việc giữ chay chính là đền tội, hãm dẹp những khuynh hướng xấu xa, đê tiện, tội lỗi, từ bỏ cái tôi ích kỷ, kiêu ngạo, sống liên đới, yêu thương, tha thứ, giúp đỡ người nghèo..., nhất là tin vào Tin Mừng.
Xin Chúa giúp sức, để mỗi người chúng ta sống tinh thần của Mùa Chay thật sốt sắng và ý nghĩa, ngõ hầu chúng ta hưởng trọn vẹn niềm vui phục sinh. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Ðức Giêsu chính là Tân Lang mang Tin Mừng
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Cha Ira Gillett, nhà truyền giáo ở miền Tây Phi Châu, kể rằng: những người dân bản địa thường đi bộ những đoạn đường dài, qua bệnh viện nhà nước để đến bệnh viện của các nhà truyền giáo chữa trị. Khi được hỏi tại sao mà phải vất vả như thế, trong khi ở bệnh viện nhà nước cũng có những y sĩ giỏi, họ đáp: “Các y sĩ có thể tài năng như nhau, nhưng bàn tay khác nhau!”. Thật thế, khác ở tấm lòng…
Suy niệm
Đám cưới ở Do Thái là một dịp yến tiệc linh đình, kéo dài cả tuần, nhà cửa đôi tân hôn mở rộng để tiếp khách. Mọi người không phân biệt giàu sang đều được mời tham dự yến tiệc vui mừng…
Trong khi đó việc giữ chay theo truyền thống Do Thái giáo, liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế… Khi chuẩn bị đón Chúa Cứu Thế, mọi người chay tịnh, như cách sống và lời rao giảng của Gioan Tẩy giả đón Chúa Cứu Thế. Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Ngài đến như tân lang trong tiệc cưới - tiệc cứu độ tình yêu, đem niềm vui đời đời cho chúng ta…
Khi tự xưng mình là tân lang, nghĩa là môn đệ của Ngài, là bè bạn đang dự tiệc cưới với tân lang là Chúa Kitô đang hiện diện, có nghĩa là Đấng Thiên Sai đã đến rồi, nên các phù rể không ăn chay để chờ đợi nhưng đang sống trong niềm vui. Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng: Ngài chính là Ðấng Cứu Thế - tân lang, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Vì thời của Ðấng Cứu Thế - tân lang là thời của hân hoan, của niềm vui, không phải là thời của khóc lóc, tang chế, ủ dột…
Khi các môn đệ Chúa Giêsu bị chê trách là không ăn chay như các môn đệ của Gioan và biệt phái, Ngài đã bênh vực các môn đệ - những người đang sống trong thời đại Cứu Thế: Ðức Giêsu chính là Tân Lang mang Tin Mừng - niềm vui Ơn Cứu Ðộ nên phải biết sống vui tươi, tin tưởng. Ủ rũ, sầu khổ là không hợp thời và không đúng lúc.
Hơn nữa, người biệt phái và các môn đệ của Gioan ăn chay là để lôi kéo sự thán phục của thiên hạ. Vì thế, không đúng với ý nghĩa của việc ăn chay, cho nên Đức Giêsu nhiều lần đã khiển trách họ (x. Mt 6,16; Lc 18,12).
Với Đức Kitô, dân Ngài trong Giáo hội như đang dự tiệc cưới nước Trời, sống hoàn toàn trong tinh thần mới: tinh thần của Chúa Cứu Thế - Đức Tân Lang Tân ước là tất cả Tin Mừng mà Ngài rao giảng như thứ rượu mới duy nhất không thể thay thế hoặc pha trộn trong bầu da cũ…
Ý lực sống: “Anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa. Tôi nhắc lại: Hãy vui lên” (Pl 4,4).
Suy Niệm 8: Nói về việc ăn chay
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng kể lại một phần cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và những người biệt phái về vần đề ăn chay, chúng ta thấy nhân cuộc tranh luận này, Đức Giêsu đã bộc lộ cho mọi người biết về bản thân và sứ mạng của Ngài.
Luật cũ chỉ buộc người Do thái ăn chay mỗi năm một lần vào ngày đền tội (Lc 16,19-31). Ngoài ra thời Đức Giêsu, người ta còn giữ chay tự nguyện vào những ngày chay chung, vì lý do như để cầu mùa. Hơn nữa, còn có những ngày chay do cá nhân giữ vì lòng đạo đức, như nhóm biệt phái ăn chay mỗi tuần hai lần vào ngày thứ hai và thứ năm (x.Mc 2,18; Lc 18,12).
Hôm nay, rất có thể bữa tiệc của Lêvi (Matthêu) khoản đãi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài đã được tổ chức trùng vào ngày những người đạo đức và nhóm biệt phái ăn chay, nên các môn đệ của Gioan đã đến chất vấn Ngài.
2. “Tại sao môn đệ ông lại không ăn chay” ?
Đức Giêsu và các môn đệ được mời dự tiệc, có lẽ trùng vào ngày thứ hai hay thứ năm, ngày mà những người đạo đức thường ăn chay. Điều này làm cho các môn đệ Gioan, biệt phái và những người đạo đức thắc mắc.
Câu trả lời của Chúa vừa là một dụ ngôn vừa là một ám ngôn, Chúa đem trường hợp tiệc cưới ra để so sánh; chúng ta biết tiệc cưới nơi người Do thái thường kéo dài cả tuần lễ, như vậy, dĩ nhiên trong những ngày ấy, những người được mời dự tiệc không ăn chay. Rồi tự coi mình là chàng rể. Chúng ta biết trong Cựu ước, Thiên Chúa tự ví mình là chàng rể và Israel là nàng dâu. Như thế, khi tự nhận cho mình một hình ảnh mà Cựu Ước vẫn dùng để nói về Thiên Chúa thì Đức Giêsu đã đi rất xa trong tiến trình tự mạc khải chính mình, Ngài cho biết Ngài là Thiên Chúa đã đến giữa loài người.
3. Để cho dễ hiểu, chúng tôi xin trích lời giải nghĩa của cha Phạm Văn Phượng OP: Vậy là Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu xúc tích, Ngài vượt trên vấn đề được đặt ra để mạc khải xâu xa về bản thân và sứ mạng của Ngài: Sao lại bắt các môn đệ của tôi ăn chay giống như các anh? Họ đang dự tiệc cưới mà. Chính tôi là chàng rể đây, chàng rể mà Israel vẫn trông chờ, bao lâu tôi còn ở với họ thì họ đâu cần ăn chay, các anh ăn chay là để chờ đón Đấng Messia, còn các môn đệ của tôi đã nhận ra tôi là Đấng Messia. Vậy thì nếu họ cũng ăn chay để đón chờ Đấng Messia như các anh thì thật là phi lý, cũng giống như người đang dự tiệc cưới mà ăn chay vậy, nếu các anh muốn thấy họ ăn chay, thì chờ tới ngày chàng rể bị giết, họ sẽ ăn chay để than khóc.
4. Qua việc chất vấn của các môn đệ Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã nhân cơ hội này, dạy chúng ta những bài học:
- Đừng học đòi những người bắt bẻ môn đệ Đức Giêsu về việc ăn chay bởi vì họ xét đoán người khác, bắt người khác làm theo ý của mình, bắt người khác phải giống như họ, tạo ra một khuôn mẫu để bắt người khác phải chiều theo ý mình.
- Muốn trở thành môn đệ Đức Giêsu, ta phải thay đổi cách sống cũ, từ suy nghĩ đến hành động, để mặc lấy cách suy nghĩ, cách hành động, cách sống mới cho phù hợp với Tin Mừng.
- Vải vá áo, rượu trong bình là hình ảnh diễn tả đời sống của tôi. Chúa muốn tôi bước theo Chúa thì cần phải thay đổi cách sống cho phù hợp với Tin Mừng. Thay đổi tư tưởng, lời nói và hành động. Thay đổi để trở nên giống như Đức Giêsu, hiền lành, khiêm nhường, yêu thương phục vụ, khoan dung tha thứ...
5. Chay tịnh là việc cần phải thực hiện cách tích cực trong Mùa Chay, vì thế qua bài Tin Mừng hôm nay, Phụng vụ nhắc nhủ chúng ta về việc ăn chay và ý nghĩa của việc ăn chay; là để đền tội và được kết hợp với Chúa ở đời này và sống với Chúa đời sau.
Cố gắng đừng ăn chay hình thức nhất là để khoe khoang; người biệt phái và các môn đệ của Gioan ăn chay là để lôi kéo sự thán phục của thiên hạ. Vì thế, không đúng với ý nghĩa của việc ăn chay, cho nên Đức Giêsu nhiều lần đã khiển trách họ (x. MT 6,16; Lc 18,12).
6. Truyện: Cái giá treo chuông.
Bên Trung quốc, có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quí. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đề khen ngợi và cho đó là kỳ công của bậc thần thánh. Ngày nọ, vị công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc này cho gọi đến và hỏi:
- Nhà ngươi có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?
Nhà điêu khắc trả lời:
- Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản; khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, mọi sự được tốt đẹp là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt, để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi.
Việc giữ chay của chúng ta trong mỗi Mùa Chay cũng phải hiểu theo ý nghĩa đó.
18/02 Theo Chúa Giêsu.
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Theo Chúa Giêsu.
Thứ Năm sau lễ Tro.
“Ai bỏ mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống”.
Lời Chúa: Lc 9, 22-25
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”.
Chúa nói với mọi người rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì chưng, ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?”
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Vác thập giá mình hằng ngày
Khi nhìn các bạn đi dự Ngày Giới trẻ Thế giới ở Úc năm 2008
giành nhau chung vai vác cây thánh giá bằng gỗ, thật dài và nặng,
với vẻ mặt hớn hở vui tươi,
chúng ta sẽ dễ nghĩ rằng vác thánh giá đâu có gì khó.
Nhưng khi phải đối diện với những thánh giá không bằng gỗ,
những thánh giá vô hình mà ta phải vác một mình,
chúng ta thấy khó hơn nhiều.
Không thể nói đến Đức Giêsu mà không nói đến thánh giá.
Thánh giá là cái giá Ngài trả cho cả một đời dám sống cho Cha
và cho con người, đặc biệt những người yếu thế.
Thánh giá nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha,
nhưng thánh giá cũng là kết quả của lựa chọn căn bản của Đức Giêsu.
Ngài đã chết như thế vì Ngài đã dám sống như thế.
Đức Giêsu dần dần ý thức rằng
nếu Ngài cứ tiếp tục làm chướng mắt giới lãnh đạo Do thái giáo,
gồm các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư (c. 22),
thì cái chết như Gioan Tẩy giả là điều Ngài sẽ không tránh khỏi.
Đức Giêsu có thừa cách để tránh cái chết.
Nếu Ngài đừng giảng dạy, đừng hành xử như đã quen làm.
Nếu Ngài đừng nhất quyết lên Giêrusalem, nơi nguy hiểm (Lc 9, 51)…
Nếu Ngài chiều sự tò mò của Hêrôđê bằng cách làm vài phép lạ (Lc 23, 8)…
Nhưng Đức Giêsu đã không sợ hãi lùi bước.
Ngài bình thản đón lấy định mệnh bi đát của mình khi nói với môn đệ:
“Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị loại trừ, bị giết chết…”
Ngài đón lấy chữ phải từ tay Cha, và tin mọi sự đều không ngoài ý Cha.
Đức Giêsu xác tín Cha sẽ không bỏ rơi mình,
Ngài tin vào kết thúc có hậu của đời mình:
“và ngày thứ ba Con Người phải được nâng dậy” (c. 22).
Chính Cha sẽ nâng ngài dậy từ cõi chết.
Định mệnh của Thầy Giêsu cũng là định mệnh của chính chúng ta.
Kitô hữu là người đi theo Thầy, đi cùng con đường với Thầy.
Vác thánh giá là chuyện bình thường hằng ngày của Kitô hữu
nếu chúng ta muốn sống yêu thương, phục vụ, trong trắng, thành thật…
Chỉ khi từ bỏ chính mình (c. 23), ta mới không đánh mất chính mình (c.25).
Dựa vào sự phục sinh của Đức Giêsu, ta mới dám sống kinh nghiệm đó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có,
tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: SỰ SỐNG HAY SỰ CHẾT
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau khi vượt qua Biển Đỏ, trước khi ký kết giao ước với Thiên Chúa, Mô-sê trình bày rõ ràng tình hình. Để dân chúng tự do chọn lựa. Hoặc ký giao ước với Thiên Chúa để được sống. Hoặc đi theo các bụt thần dân ngoại sẽ bị chết. “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ… Nếu anh em trở lòng và không vâng nghe, lại bị lôi cuốn và sụp xuống lạy các thần khác và phụng thờ chúng, thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong, sẽ không được sống lâu trên đất… Anh em hãy chọn sống để anh em và dòng dõi anh em được sống, nghĩa là hãy yêu mến đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nghe tiếng Người và gắn bó với Người, vì như thế anh em sẽ được sống, sống lâu mà ở lại trên đất Đức Chúa đã thề với cha ông anh em”.
Chúa Giê-su đi vào sâu xa hơn. Đó là chọn lựa giữa Thiên Chúa và bản thân. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì”?
Bản thân đang trở thành ngẫu tượng. Với trào lưu tìm hưởng thụ. Cá nhân. Tự do. Con người vừa thờ phượng thân xác. Vừa phóng túng sử dụng nó vào hưởng thụ khoái lạc. Nhưng lại sẵn sàng hi sinh thân thể của tha nhân. Coi như một món hàng. Để trục lợi. Nhưng chọn lựa bản thân sẽ diệt vong. Đó chính là nền văn hoá sự chết. Huỷ hoại chính mình. Huỷ hoại tha nhân. Vì khinh thường sự sống. Thật hiển nhiên: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất”.
Đi theo Chúa là từ bỏ bản thân. Chế ngự xác thịt. Vượt trên thú tính. Đạt đến phẩm giá con Thiên Chúa. Sẽ được chính Thiên Chúa. Là sự sống. Sự sống viên mãn. Là hạnh phúc. Là niềm vui đích thực. Từ bỏ hết. Để được lại tất cả.
Mùa Chay là mùa ta phải ngồi suy xét lại. Kiểm điểm lại. Chỉnh đốn lại. Chọn lựa lại. Chọn lựa đúng đã là khó. Kiên quyết theo chọn lựa đúng còn khó hơn. Biết dễ làm khó. Xin Lời Chúa soi sáng để ta có lựa chọn sáng suốt. Xin sức mạnh của Chúa giúp ta đủ sức thi hành điều đã chọn lựa.
SUY NIỆM 3: Theo Chúa Giêsu
Trong lịch sử Giáo hội, từ hơn hai ngàn năm qua đã có biết bao linh mục, tu sĩ, giáo dân dâng hiến cuộc đời phục vụ Chúa trong tha nhân. Ơn gọi của mỗi người thường khác nhau, nhưng có điều chắc chắn là tất cả đều được kêu mời nên thánh, sống hạnh phúc trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa, theo gương mẫu của Chúa Kitô.
Con đường ơn gọi sống đời tận hiến là hành trình tìm về khổ đau, về cái chết trên thập giá và sự phục sinh vinh hiển. Sống đời tận hiến, sống niềm tin Kitô giáo là chấp nhận thiệt thòi, mất mát, là hy sinh từ bỏ để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu. Nói cách khác sống ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi làm môn đệ Chúa, ơn gọi trở thành công dân Nước Chúa cần một lựa chọn quyết liệt và dứt khoát. Chúa Giêsu đòi hỏi những ai dấn bước theo Ngài sự lựa chọn ấy, cũng như chính Ngài đã lựa chọn dâng hiến cuộc đời và mạng sống vì yêu mến Chúa Cha và để cứu độ con người. Ngài nói: “Ai muốn theo Ta hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy thập gía mình mỗi ngày mà theo Ta”.
Chúa Giêsu có ngặt nghèo và đòi hỏi quá đáng chăng? Không. Ngài chỉ muốn cho chúng ta đước hoàn toàn thanh thoát và hạnh phúc trên con đường sống đời Kitô hữu và đặc biệt là đời tận hiến. Bởi vì chúng ta không thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người một cách thiết thực, nếu còn bị ràng buộc bởi tiền tài, danh vọng, tình cảm.
Xin Chúa ban sức mạnh, để chúng ta kiên quyết dấn thân theo Chúa với một tâm hồn thanh thản và tràn trề hạnh phúc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Vác thập giá
Người bảo rằng: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy.
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. (Lc. 9, 22-23)
Để bước theo Đức Kitô, phải vác thập giá mình, người ta biết ít về sứ điệp này và coi đó không đơn giản. Nếu người ta chịu vác thập giá của người khác thì sẽ thấy không quá khó. Còn thập giá của mình có vẻ nặng hơn nhiều của người khác. Nhưng không phải thế, chúng ta ai cũng phải vác thập giá mình. Thập giá mình là thập giá chúng ta không được chọn, không hề muốn, không có chút hấp dẫn nào, thật kinh khủng cho chúng ta.
Thập giá chúng ta phải vác quả thực mang lại khổ cực cho chúng ta vì nó đả thương chúng ta dù không muốn bị thương. Chúng ta hãy dừng ít phút để nghĩ tới cái đả thương chúng ta nhất trên đời mà chúng ta không thể chống lại được, đó là thập giá của chúng ta. Chúng ta phải vác lấy mỗi ngày. Thập giá đó chúng ta phải chấp nhận. Chúng ta chấp nhận vác thập giá, đời chúng ta sẽ không bị uổng công đâu vì tin rằng chúng ta có thể sống sung mãn khi biết vác thập giá. Thập giá bảo đảm không tiêu diệt chúng ta nhưng lại là nguồn sống của chúng ta.
Đức Giêsu đã quả quyết như vậy bằng gương mẫu của chính Người. Người đã vác thập giá mình. Thập giá đã đưa Người đến cái chết. Và qua cái chết Người đã tới sự sống vinh quang. Con đường thánh giá của Người đã là con đường sống. Nếu chúng ta tin điều đó chúng ta có thể đón nhận thập giá của chúng ta. Nếu không tin thì không thể còn cách nào khác để được sống đời đời.
Không ai trên trái đất này thoát khỏi thập giá, vì thập giá là thành phần xây dựng sự sống. Ai không biết rằng phải vác thập giá mới tới sự sống thì thật thảm hại.
J.Y.G
SUY NIỆM 5: XÂY DỰNG LẠI CÁC MỐI TƯƠNG QUAN (Lc 9, 22 -25)
Mỗi khi Mùa Chay về, hay nghe nói tới Mùa Chay, chúng ta hiểu ngay: đây là “mùa trở về”.
Trở về với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình.
Trở về với Chúa để cảm nghiệm được tình thương của Người trên cuộc đời chúng ta.
Trở về với tha nhân để nhận thấy bổn phận yêu thương, liên đới và chia sẻ với anh chị em đồng loại.
Trở về với chính mình để nhận ra mình tội lỗi và cần được Thiên Chúa yêu thương, tha thứ.
Như vậy, cả ba mối tương quan, chúng ta thấy có một mẫu số chung là: nhận thấy mình bất toàn, ích kỷ, kiêu ngạo, nên cần phải trở về với Thiên Chúa, tha nhân và ngay cả với chính mình để được trở nên hoàn thiện.
Muốn hàn gắn và xây dựng lại những mối tương quan ấy, chúng ta hãy để ý đến lời mời gọi của Đức Giêsu: phải từ bỏ chính mình và phải vác thập giá mình.
Khi nói đến từ bỏ chính mình, Đức Giêsu muốn chúng ta phải ý thức tận căn, bởi vì nếu từ bỏ nhiều thứ, dốc quyết nhiều chuyện, mà chưa từ bỏ chính mình thì kể như chưa bỏ gì cả, và nếu có bỏ đi chăng nữa, thì sẽ tìm dịp và tìm cách thuận lợi để lấy lại!
Bỏ mình còn có nghĩa là coi mình ra không để hướng về Chúa và anh chị em, là quên mình để yêu thương, tha thứ và sống cho người khác.
Bỏ mình luôn đi đôi với việc vác thập giá của chính mình hằng ngày. Thập giá của mỗi người chính là ốm đau, bệnh tật, những chiến đấu chống lại cám dỗ, những trái ý, hiểu lầm, vu vạ, cáo gian...
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn từ bỏ tội lỗi, sống yêu thương, đón nhận thánh giá trong đời và trung thành vác lấy cách yêu mến. Xin cũng ban cho chúng con ơn trở về trong Mùa Chay thánh này. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một số nhà truyền giáo đến thăm M. Gandhi, vị lãnh đạo phong trào giải phóng Ấn Độ khỏi thực dân Anh bằng phương pháp bất bạo động. Ông đề nghị các ngài hát một bài thánh ca.
“Bài nào?”.
“Bài nào mà quý vị thấy là diễn tả đức tin sâu sắc nhất”.
Tất cả đồng thanh hát bài Suy tôn Thánh giá.
Suy niệm
Vào đầu Mùa Chay, chúng ta suy ngẫm về ý nghĩa và lời kêu gọi của Mùa Chay: Chúa Giêsu tiên báo về cuộc thương khó của Ngài ở Giêrusalem và lời mời gọi các môn đệ của Ngài cùng chịu với khổ đau thập giá: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.
Khi nghiền ngẫm lời tiên báo đau khổ, tử nạn và lời mời gọi vác thập giá vượt qua đau khổ và sự chết, chúng ta cảm thấy được an ủi và thêm sức mạnh giữa những lúc đương đầu với thử thách, gian nan, khủng hoảng và đau khổ. Vì vậy, chúng ta vẫn tiến bước trong cuộc sống và đối diện với đau thương mà mỗi người chúng ta luôn đối diện trong những nỗi đau của thể xác, hay nỗi đau về tâm hồn, có khi cả hai nỗi đau về thể xác lẫn tâm hồn...
Chúa Giêsu không chỉ loan báo cuộc khổ nạn mà còn loan báo cuộc phục sinh: “Ngày thứ ba sẽ sống lại”. Thật thế, Đức Giêsu đến Giêrusalem chịu nhiều đau khổ và bị giết chết, nhưng Ngài sống lại ngày thứ ba như lời tiên báo, Ngài đã vượt qua bằng chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu, sự chiến thắng huy hoàng cũng dành cho người môn đệ trung kiên vác thập giá, thánh Phaolô khẳng định: Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người (Rm 6,8). Đức Kitô đã chiến thắng sự dữ, chiến thắng đau khổ, chiến thắng sự chết và cho phép chúng ta cùng Ngài vượt qua đau khổ, vượt qua sự chết như Ngài: “Ngày thứ ba Người sẽ sống lại”.
Cho nên, chúng ta vác thập giá theo Chúa Kitô, không phải giữ mãi đau khổ, đi vào con đường chết, nhưng cùng với Ngài xuyên qua đau khổ, vượt qua sự chết mà đến vinh quang phục sinh như lời Chúa Giêsu loan báo, vì thế thánh Phaolô xác tín: “Vinh dự của tôi là thập giá Chúa Kitô” (Gl 6,14).
Ý lực sống: “Đức Chúa đã muốn Người phải bị nghiền nát vì đau khổ... Nhờ nỗi thống khổ của mình, Người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện” (Is 53,10-11).
Suy Niệm 7: Điều kiện để theo Chúa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Phêrô vừa thay mặt anh em tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (Mt 9,18-21), thì Đức Giêsu bắt đầu loan báo cho các môn đệ về con đường cứu thế của Ngài, là con đường tử nạn và phuc sinh, đồng thời Ngài cũng loan báo về điều kiện phải có để theo Ngài.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cho biết rõ hơn con đường của Chúa là con đường gì: đó là con đường dẫn tới vinh quang phục sinh, nhưng trước đó phải qua đau khổ của thập giá; ai muốn đi theo Ngài thì cũng phải đi qua con đường thập giá, thậm chí phải vác thập giá hằng ngày.
2. Phải biết lựa chọn.
Trong việc theo Chúa. Ngài đòi chúng ta phải lựa chọn và lựa chọn trong tự do. Cuộc sống là một chuỗi những lựa chọn. Mà chọn thì phải bỏ, bỏ cái này để được cái kia. Nên nhớ là chúng ta đã chọn Chúa và con đường của Chúa. Đó là sự lựa chọn căn bản, nhưng lựa chọn căn bản ấy phải thể hiện trong những lựa chọn hằng ngày theo cùng chiều hướng đó. Mùa Chay là thời gian chúng ta xét mình lại về những lựa chọn của mình, đồng thời lặp lại lựa chọn căn bản: chọn Chúa, chọn con đường thập giá, chọn từ bỏ.
3. “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất...”
Chúng ta thấy có mối tương quan biện chứng giữa “mất đi” và “được lại”. Người Kitô hữu chỉ thưc sự hạnh phúc khi dám đánh mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được cái trường tồn. Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sằn sàng “mất đi” sự sống hay chết để “được lại” sự sống đời đời. Và Đức Giêsu đã kết luận bài giáo huấn của Ngài bằng những lời này: “Nếu được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống mình, thì nào có lợi gì”?
Truyện: Người ta kể rằng: Trần Bình, vốn là một mưu thần của nhà Hán, thời Hán Sở tranh hùng. Một hôm, khi trốn Sở về đầu Hán, Trần Bình phải đi qua một con sông lớn. Người lái đò đưa khách qua lại vốn là một tay cướp giật, giết người khét tiếng. Hắn nghĩ Trần Bình là người giầu có, định ra tay hãm hại để trấn lột tiền của. Biết ý định của tên lái đò, trước khi xuống thuyền, Trần Bình đã cởi bỏ hết quần áo, mình trần như nhộng, và đến xin tên lái đò cho chèo phụ giúp hắn. Nghĩ rằng một người trần truồng như thế không phải là một người giầu có, tên lái đò để yên cho Trần Bình. Thế là ông đã thoát nạn.
4. “Hãy từ bỏ chính mình”.
Bước theo chân Chúa mà phải từ bỏ những thứ bên ngoài, những cái làm ngăn trở con người theo Chúa, cái đó đã khó, nhưng bỏ mình, tức là bỏ đi cái “tôi” của mình còn khó biết bao. Ở đây, Đức Giêsu nói rõ “bỏ mình”. Bỏ mình chính là bỏ cái tôi của mình, đó là sự từ bỏ khó khăn nhất. Hoàng đề Alexandre từng nói: “Thắng được vạn quân dễ hơn là thắng được chính mình”. Cái tôi chính là cá tính của mỗi người, vốn dễ kiêu ngạo muốn trên người, muốn thể hiện chính mình, muốn người khác theo ý mình; chứ không dễ gì khiêm tốn và phục vụ tha nhân. Nhưng đó lại là điều kiện của “thập giá”, bởi thập giá làm bằng chất liệu khiêm tốn và phục vụ.
5. “Vác thập giá hằng ngày mà theo”.
Theo Chúa phải vác thập giá. Vác thập giá không phải chỉ là dấu hiệu của đau đớn và xỉ nhục, nó còn là dụng cụ của sự chết. Đức Giêsu biết thế nào là đóng đinh vào thập giá.
Khi Ngài còn là cậu bé 11 tuổi, thì Giuđa, người gốc Galilê đã cầm đầu một cuộc nổi dậy chống Rôma. Ông đã đánh cướp kho vũ khí của vua tại Sepphoris, chỉ cách Nazareth có 6,4 cây số. Rôma trả thù tức khắc. Sepphoris bị san phẳng bình địa, dân chúng bị bán làm nô lệ, 2000 loạn quân bị đem đóng đinh vào thập giá dựng theo dọc hai bên lề đường cái để cảnh cáo cho những ai dám chống lại bạo quyền.
Vác thập giá mình có nghĩa là chúng ta phải sẵn sàng đối diện với những hình khổ như vậy vì lòng trung thành với Chúa. Vác thập giá có nghĩa là sẵn sàng chịu đựng mọi thứ đau khổ loài người có thể làm cho chúng ta vì lẽ chúng ta thành tâm đi theo Chúa Giêsu.
6. Cách vác Thập giá cho đỡ nặng.
John Newton đã đề nghị chúng ta cách vác thập giá cho có hiệu quả: Chúng ta biết rằng những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của ngày hôm nay và còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi.
7. Truyện: Biến bại thành thắng.
Người ta kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn. Lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến.
Lũ khỉ qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau lấy đá, lấy đất và bẻ cành cây ném xuống đầu con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây vứt xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra ngoài hố được.
17/02 Hoán cải nội tâm
- Viết bởi Mt 6, 1-6. 16-18
Hoán cải nội tâm.
Thứ Tư LỄ TRO. – Giữ chay và kiêng thịt.
“Cha ngươi, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi”.
Lời Chúa: Mt 6, 1-6. 16-18
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.
Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Các con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Cha hiện diện nơi kín ẩn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Cứ đến Thứ Tư Lễ Tro là chúng ta lại được nghe bài Tin Mừng này.
Đức Giêsu nói đến ba việc đạo đức quan trọng của người Do Thái:
cầu nguyện, bố thí, ăn chay.
Chẳng phải cứ đợi đến Mùa Chay chúng ta mới làm ba việc đó.
Nhưng Mùa Chay là thời gian thuận lợi để ta tập trung chú ý hơn.
Tập trung vào cầu nguyện là làm mới lại tương quan với Thiên Chúa,
từ bỏ những gì làm tôi xa Chúa và dứt bỏ mọi tội lỗi quen phạm.
Tập trung vào bố thí là chia sẻ của cải cho những người nghèo hơn,
tự nguyện bỏ bớt một phần tiện nghi để giúp những ai đói khổ.
Tập trung vào chay tịnh là làm cho thân xác, tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng,
thoát khỏi những kéo xuống nặng nề, những cám dỗ sống hưởng thụ, ích kỷ.
Cả ba việc này có tương quan chặt chẽ với nhau.
Khi làm tốt một việc, ta sẽ dễ làm hai việc còn lại hơn.
Ăn chay giúp chúng ta hàn gắn lại tình bạn với Chúa,
và lớn lên trong sự thân mật đối với Ngài.
Ăn chay giúp ta tránh tội và tránh mọi thứ dẫn đến tội.
Ăn chay là thoát ra khỏi sự thèm muốn tự nhiên về cơm bánh vật chất,
để nếm cảm sự cần thiết của tấm bánh tinh thần.
Nhờ ăn chay con người thấy mình được tự do hơn để sống theo ý Chúa.
Khi chịu đói nơi thân xác, chúng ta sẽ thấy tim mình đói khát Thiên Chúa
và mong Ngài đến với ta để làm ta mãn nguyện.
Nhưng ăn chay cũng giúp ta mở mắt trước tình cảnh thiếu thốn của tha nhân.
Nhờ ăn chay, chúng ta không còn sống cho chính mình nữa,
nhưng biết sống cho Chúa và tha nhân.
Ăn chay giúp ta chế ngự được tính ích kỷ làm ta co lại,
nhờ đó ta có thể mở lòng ra trước nhu cầu của anh chị em mình
và chia sẻ cho họ điều mình đã tiết kiệm được từ ăn chay.
Ngay cả một người có hai áo cũng có thể chia sẻ được cho người trần trụi.
Người chỉ còn vài lon gạo cũng có thể chia cho người đang đói.
Chúng ta đã bắt đầu cuộc hành trình 40 ngày Mùa Chay.
Không phải chỉ là ăn chay, mà là sống chay.
Chay tịnh phải là một thái độ thấm vào cuộc sống.
Khi bớt nuông chiều những đòi hỏi ngày càng nhiều của thân xác,
chúng ta sẽ thắng được những cám dỗ của thèm muốn vô độ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
SUY NIỆM 2: HÃY XÉ LÒNG
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do Thái. Trong Cựu Ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do Thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Cựu Ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân thành Ninivê. Ninivê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên Chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước khi phạt, Chúa sai ngôn sứ Giona đến báo động. Ngh vị ngôn sứ này nói Chúa sắp trừng phạt, dân thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn, đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới đẹp, hôm nay đã cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.
Như thế, việc xức tro và xé áo có một nội dung ý nghĩa rất sâu xa. Nhưng với thời gian, do những cử hành máy móc, các việc này dần dần rơi vào thái độ hình thức bên ngoài. Người ta làm cho qua lần chiếu lệ, chẳng còn có ý thức thống hối. Chính vì thế, ngôn sứ Giôen đã kêu gọi dân chúng: “Hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2,12b-13a).
Nghi thức phải diễn tả tâm tình thì việc cử hành mới có ích lợi. Việc xức tro sẽ vô ích nếu trong lòng ta không dâng lên tâm tình sám hối. Việc xé áo sẽ trở thành giả dối nếu tâm hồn ta không tan nát vì hối hận tội lỗi.
Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn cho tâm hồn xót xa đau đớn vì tội lỗi. Hãy xức tro vào thói kiêu căng để nó biết hạ mình xuống trong khiêm nhường bé nhỏ. Hãy xức tro vào thói phô trương để nó biết chìm vào âm thầm nghèo hàn. Hãy xức tro vào thói hận thù ghen ghét để nó đau đớn vì đã không biết yêu thương. Hãy xức tro vào những mối chia rẽ bất hoà để tẩy sạch vết thương, hàn gắn tình hiệp nhất. Hãy xức tro vào tính ích kỷ để nó biết mở ra chia sẻ. Hãy xức tro vào thói lười biếng để nó tỉnh thức chăm lo việc đạo đức. Xức tro như thế có khác gì xát muối vào lòng, sẽ gây nên đau đớn xót xa, nhưng sẽ tẩy rửa linh hồn nên trong trắng.
Xé áo chẳng có ích lợi gì nếu ta không xé lòng ra. Lòng ta bấy lâu đã gắn bó với tội lỗi. Tội lỗi ăn sâu dính chặt hầu như trở thành một phần của tâm hồn. Muốn dứt lìa tội lỗi, phải xé nó ra. Hãy xé lòng ra khỏi những đam mê dục vọng bất chính. Hãy xé lòng ra khỏi thói tham lam tiền bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói nô lệ danh vọng chức quyền. Hãy xé lòng ra khỏi thói ham mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói tự mãn tự tôn. Biết bao thứ đã trở thành thiết thân. Những quan hệ, những tiền bạc của cải, những chức tước danh vị, những thú ăn chơi, những tự ái, những giận hờn, tất cả đã gắn chặt vào đời ta. Giờ đây phải xé nó ra. Đau đớn lắm. Vết thương sẽ nặng lắm. Máu sẽ chảy nhiều lắm. Nhưng khi đã cắt bỏ được hết những ung nhọt độc hại, linh hồn sẽ nhẹ nhàng, trong sạch và lớn mạnh vì được đầy tràn ơn phúc và tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban thêm sức mạnh cho con, để mùa Chay năm nay con thực sự biết xức tro vào tâm hồn, biết xé tâm hồn trong đau đớn vì tội lỗi. Lạy Chúa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Mỗi lần dự lễ tro, bạn có ý thức ý nghĩa sâu xa của việc xức tro không?
2. Mỗi khi mùa Chay về, bạn có quyết tâm đổi mới đời sống không?
3. Hôm nay nếu phải xức tro vào tâm hồn, bạn sẽ xức vào nết xấu nào trong bạn?
4. Hôm nay nếu phải xé lòng mình, vết thương nào sẽ làm bạn đau đớn nhất. Bạn có dám xé nó ra không?
SUY NIỆM 3: Một chương trình mùa chay
Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. (Mt. 6,1)
Mùa chay là thời kỳ ăn năn trở lại và chuẩn bị mừng lễ Phục sinh. Thời kỳ ăn năn nghĩa là thời gian chúng ta cần phải đổi mới con tim và sửa đổi những thói hư tật xấu không phù hợp với yêu cầu của Tin mừng. Đó không phải là điều dễ dàng!
Chúng ta đã sống qua nhiều mùa chay với lòng chân thành mà vẫn không có kết quả, không làm cho chúng ta hoàn toàn đổi mới. Nếu chúng ta bắt đầu vào mùa chay với cảm nghĩ sẽ biến đổi hoàn toàn từ đầu tới đến ngày Phục sinh, chúng ta sẽ bị thất vọng. Ăn năn sám hối, thay đổi con tim của mình là công việc suốt đời. Cần phải cố gắng từng bước từng bước, không nóng vội. Phải tiến bước thế nào?
Tin mừng lưu ý chúng ta chú trọng về ba việc phải làm này: bố thí, ăn chay, cầu nguyện. Không có gì mới, không có gì cách mạng. Đó là lời khuyên có trong hầu hết các tôn giáo trước khi Đức Giê-su đến trần gian. Đức Giê-su không bãi bỏ các việc thực hành đó, mà còn khuyên làm.
Làm việc bố thí là chia sẻ cái gì mình có, chia sẻ tiền của, cơm áo dĩ nhiên nhưng còn chia sẻ thời giờ, trí thức, trái tim. Dùng thời giờ để đem yêu thương đến cho mọi người, nhất là người xấu số, dùng thời giờ làm việc giúp đỡ người khác.
Cầu nguyện: cầu nguyện ở nhà thờ, ở nhà mình. Hiến dâng thời giờ cho Chúa, tiêu hao thời giờ vì Chúa. Chúng ta không siêng năng cầu nguyện, thế là mất nhiều mối lợi to lớn rồi. Đức Giê-su thấy đó là mối lợi to lớn đối với Người, khi Người luôn luôn cầu nguyện với Đức Chúa Cha. Sao chúng ta không cậy trông Người để cầu nguyện.
Ăn chay: Không phải chỉ tinh luyện đời sống mình, mà còn tác tạo, bồi đắp cho ta lòng khao khát mến Chúa vô bờ. Ăn chay để khám phá, phát triển lòng ham thích cầu nguyện. Ăn chay để giúp cho những người khác những gì họ đang thiếu.
Đó là chương trình mùa chay xin đề nghị với chúng ta. Nó đã được ứng nghiệm bằng nhiều chứng nhân. Nó giản dị và vừa tầm tay mọi người. Không còn phương thế nào tốt hơn nữa. Thật vô ích khi tìm việc nào khác.
SUY NIỆM 4: Hãy thay đổi cách hành động
(Lm Tạ duy Tuyền)
Ngày 22/01/2008, Omar Osama Bin Laden, con trai thứ tư của ông trùm khủng bố, nhắn cha hãy tìm con đường khác. Anh công khai nói ra ý muốn chấm dứt bạo động mà thân phụ của anh kích động. Loại bạo động của al-Qaeda đã tàn sát thường dân vô tội trong hàng loạt vụ khủng bố khắp thế giới, gồm trận tấn công tại Hoa Kỳ ngày 11-9-2001.
Omar nói rõ "Bom là không tốt để dùng với bất cứ ai. Hãy thay đổi cách hành động". Ðó chính là thông điệp mà người con của Bin Laden muốn nhắn gửi cha mình. Anh không muốn chiến tranh. Anh không muốn thế giới này cứ tiếp tục nhuốm máu bởi lối sống quá khích của cha mình. Anh muốn cha mình hối cải và cải tà quy chính để sống đúng với phẩm giá con người là "nhân chi sơ tính bản thiệt".
Thế nhưng nhiều người vẫn còn tiếp tục hành động như Bin Laden. Người ta thường dùng roi dòn để đè bẹp người khác. Người ta dùng quyền bính để chèn ép người khác. Ở đời có mấy khi tìm được tiếng nói chung. Tiếng nói của cảm thông. Tiếng nói của tôn trọng nhân quyền, của sự tôn trọng lẽ phải. Người ta thường ỷ lớn bắt nạt bé. Người ta thường chà đạp lên nhau theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé". Người ta thường xuyên tạc tả đột hữu xung để lừa dối dư luận, để lấn át kẻ yếu, kẻ cô thế cô thân. Nếu cuộc đời không còn tiếng nói của lẽ phải, của công bằng thì chỉ còn tiếng than khóc của lầm than, của ai oán cơ hàn. Nếu ở đời người ta không còn lắng nghe nhau, không còn phân biệt phải trái, đó là nỗi bất hạnh cho kiếp người chúng ta.
Hôm nay chúng ta bước vào mùa chay với 40 ngày chay thánh, chúng ta lại được nghe những lời mời gọi tương tự: "Hãy sám hối". Hãy sửa lại lỗi lầm. Hãy canh tân đời sống. Lời mời gọi đó không chỉ là tiếng gọi mời của Chúa hay của Giáo hội mà còn là tiếng gọi mời của những người thân thương nhất của mình. Ðừng vì lối sống ẩu thả, lười biếng, tội lội của mình mà gây nên đau khổ cho cha mẹ, cho anh em, bạn bè. Ðừng vì những đam mê bất chính của mình để rồi phá hoại hạnh phúc gia đình của mình. Ðừng vì lối sống thiếu trách nhiệm của mình mà chồng chất những gánh nặng khổ đau cho chồng, cho vợ, cho con cái của mình. Ðừng vì lợi ích cá nhân hay băng nhóm của mình mà chà đạp kẻ yếu, mà gây nên oán than bởi công lý và nhân phẩm bị chà đạp. "Hãy thay đổi cách hành động" cho xứng với nhân tính của một con người. Hãy thay đổi cách sống theo đúng với phẩm giá của những người mang danh là kytô hữu. Ðừng hành động mà không ý thức về hậu quả tai hại do việc làm của mình gây nên. Ðừng hành động nông nổi nhất thời, thiếu suy nghĩ để rồi làm khổ bản thân và gia đình của mình.
Vâng, có thể chúng ta không thảm sát người vô tội như Bin Laden, nhưng có thể vì đời sống phóng túng, vô nại, lười biếng của mình đã phá huỷ cuộc sống hạnh phúc của biết bao con người. Có thể chúng ta không quá khích như Bin Laden nhưng với lối sống độc tài, bảo thủ, gian ác của mình cũng là nỗi sợ hãi của những người đang sống bên cạnh chúng ta. Có thể chúng ta không huấn luyện một đội binh hùng hậu chuyên đi giết người, nhưng có thể vì gương xấu của chúng ta đã lôi kéo biết bao tâm hồn trong trắng, thơ ngây thành mồi ngon cho ma quỷ dẫn dắt. Tại sao mỗi ngày chúng ta đều cầu nguyện "xin gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ", thế mà sự dữ ấy lại do chính chúng ta gây nên cho anh em? Tại sao sự dữ lại là chính chúng ta? Chính chúng ta đã giết hại anh em của mình. Chính chúng ta đã gieo khổ đau cho anh em của mình. Chính chúng ta đã và đang nuôi dưỡng sự dữ trong lòng chúng ta là những hận thù, ghen ghét, nói hành, bỏ vạ cáo gian anh em của mình. Phải chẳng chúng ta phạm tội mà chúng ta chẳng hay biết? Phải chăng vì phạm tội thành thói quen đến nỗi đánh mất ý thức về tội? Như vậy chúng ta phải cầu nguyện "xin gỡ chúng con ra khỏi sự dữ". Sự dữ không ở ngoài chúng ta. Sự dữ ở trong chính tâm hồn chúng ta.
Giờ đây, khởi đầu cho hành vi sám hối, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy xức tro trên đầu để nhớ rằng mình là cát bụi. Cát bụi cuộc đời chẳng đáng là gì, chỉ "một cơn gió thoảng cũng đủ làm biến tan đi". Thế nên, hãy khiêm tốn để sống đúng với thân phận thọ tạo phải vâng phục Ðấng Tạo Hoá. Là hạt bụi nhưng được Chúa yêu thương tạc vẽ nên hình hài một con người giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên, hãy sống đúng với phẩm giá cao quý của mình. Xức tro trên đầu còn là hành vi sám hối ăn năn, vì những tham vọng kiêu căng, sống bất tuân lệnh Chúa đã gây nên biết bao sự dữ cho nhân gian. Xức tro trên đầu là nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến tình thương và ân sủng của Chúa gìn giữ hồn xác chúng ta luôn trong sạch vẹn tuyền. Xin đừng để chúng ta tan biến đời mình bằng đời sống tội lỗi và bán rẻ linh hồn của mình cho danh lợi thú trần gian. Nhưng xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh thoát khỏi những quyến luyến tội lỗi trần gian. Amen.
SUY NIỆM 5: GIỮ CHAY THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA? (Mt 6,1-6.16-18)
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc xức tro và ăn chay để khởi đầu Mùa Chay Thánh. Mùa Chay được bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào thứ Sáu Tuần Thánh. Mùa Chay kéo dài năm tuần lễ để chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh là đỉnh cao của niềm tin Kitô Giáo.
Tuy nhiên, ý nghĩa của việc xức tro và ăn chay nhiều khi chúng ta chỉ dừng lại ở hành vi bên ngoài, mà không có tâm tình bên trong.
Nhân ngày thứ tư Lễ Tro, chúng ta hãy làm mới lại tinh thần về ngày lễ này.
1. Xức Tro
Việc xức tro lên đầu nhắc chúng ta về thân phận hữu hạn, tro bụi của kiếp người. Vì thế, Tổ Phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18, 27).
Thật vậy, con người được hiện hữu trên trần gian này là do tình thương của Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, tình thương ấy đã bị con người lạm dụng và hướng chiều về tội lỗi thay vì biết ơn! Mỗi khi xức tro, Giáo Hội nhắc chúng ta: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 14) để được Thiên Chúa tha thứ.
Những ý nghĩa này được khởi đi từ những câu chuyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, điển hình như: tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi” (Gr 6, 26). Không chỉ dừng lại ở lời khuyên, tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Itrael, và nêu gương cho họ khi nói và hành động: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9, 3). Đến thời Giona, Đức Chúa truyền cho ông loan báo về tai ương mà Người sẽ giáng xuống trên dân, nếu dân không ăn năn sám hối. Ông đã loan báo công khai, mãnh liệt, ráo riết, nên: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro” (Gn 3, 6).
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của việc xức tro. Tuy nhiên, Ngài hối thúc và cảnh báo sự chai lỳ cứng cỏi của dân khi nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” (Mt 11, 21 - 22; x. Lc 10, 13).
Như vậy, hành động xức tro lên đầu ngoài việc công khai nhận mình là người có tội và tỏ lòng sám hối chân thành, để xin ơn thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn thể hiện sự quyết tâm trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn để xứng đáng là con Chúa.
Một trong những điều thể hiện sự trở về, đó là việc chay tịnh. Tuy nhiên, giữ chay thế nào mới đúng với tinh thần mà Chúa mong muốn?
2. Ăn Chay
Ăn chay khởi đi từ tinh thần thờ phượng Thiên Chúa và làm đẹp lòng Người (x. Ds 29,7; Cv 13,2), (x. Tl 20,26; Gđt 8,6). Ăn chay còn có ý nghĩa nữa là thể hiện lòng đạo đức để được Thiên Chúa nhận lời (x. 2Sm 12,16-22; Er 8,21; để đền tội, xin Thiên Chúa tha thứ (x. Lv 23,27; Hc 34,26; Đn 10,2); hỗ trợ việc trừ Quỉ... (x. Mt 17,21).
Ăn chay còn nói lên tính vị tha là thực hiện công lý và tình thương (x. Is 58,6-7), thánh hóa bản thân, siêu thoát tinh thần để được hưởng sự sống đời đời. Không bám vúi vào của cải, sức riêng cách thái quá, vì: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4, 4).
Thật vậy, nếu không ăn chay với những mục đích đã kể trên thì sẽ trở thành công dã tràng! Điều này đã được thánh Phaolô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).
3. Cách giữ chay của người Công Giáo hiện nay
Ngày nay, tinh thần ăn chay của người Công Giáo xem ra đã bị lạm dụng, hay hướng chiều về những hành vi tiêu cực.
Có những người ăn chay, bố thí... chỉ vì mục đích được khen là đạo đức, họ ủ dột, thê lương, cốt để làm sao cho mọi người biết mình là người nghiêm chỉnh giữ chay.
Lại có những người ăn chay chỉ vì vụ luật hay sợ Chúa phạt! Vì thế, nếu trong ngày, lỡ cách nào đó mà phạm luật, họ hoang mang đến bất an chỉ vì trót ăn vặt, không đúng giờ, đúng bữa...
Cũng có những người tính toán đến độ ngày mai ăn chay, hôm nay ăn uống cho đã để ngày mai đỡ thèm, hoặc ăn trực nằm chờ cho qua thời gian luật định, tức là qua 24h, sau đó nhậu nhẹt hả hê. Họ làm như thế và an tâm vì đã giữ trọn ngày chay theo đúng luật. Vì thế, không lạ gì khi có những người mỉa mai cách thức ăn chay của chúng ta rằng: “thứ ba béo”; “thứ năm sung sướng”.
Đáng buồn hơn nữa là: có nhiều gia đình ngày chay kiêng thịt thì lại đi mua những thứ cao lương mỹ vị như: hải sản, tôm hùm hay những thứ khác đắt tiền hơn thịt nhiều... mà không hề nghĩ rằng: tiền bớt chắt được trong ngày chay là để chia sẻ bác ái, đóng góp cho công cuộc truyền giáo và các nhu cầu khác của Giáo Hội!
Tinh thần ăn chay như thế, hẳn chúng ta thua xa nơi anh chị em các tôn giáo khác về việc giữ chay! Mặt khác, điều chúng ta dè bỉu người Pharisêu hình thức khi xưa, khi họ lo giữ cho sạch chén bát bên ngoài, còn trong lòng toàn sự hận thù, ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo (x. Mc 7,1-8a.14-15.21-23), thì nay, chúng ta lại đi vào chính vết xe đổ của họ. Như vậy, chúng ta chỉ là cỗ máy không hồn, hay giống chiếc thùng kêu to, nhưng thực chất nó rỗng, và đôi khi chúng ta trở thành “danh hài” hay “con hề” trên sân khấu.
Thái độ khiển trách nặng nề những người Pharisêu của Đức Giêsu: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7, 6), không chừng cũng chính là lời trách móc nặng nề cho những ai hôm nay giữ chay hình thức, hời hợt.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo" (Ge 2, 12-18); “Hãy làm hoà cùng Thiên Chúa ... vì bây giờ là cơ hội thuận tiện" (x. 2 Cr 5, 20 - 6, 2).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống tinh thần của ngày lễ hôm nay đó là: “Xé tâm hồn chứ đừng xé áo". Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 6: Hoán cải nội tâm
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Tiên tri Joel đã kêu gọi: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”, hãy phản đối lại chính tà dâm của mình. Nói khác đi, cần phải thay đổi cái nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của Thiên Chúa. Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, như từ bỏ tập quán xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả là để tái lập thế quân bình giữa hồn và xác.
Do tội lỗi, con người đã bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống và bị dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết. Màn tang chế đã bao trùm lên con người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở về với Ngài để Ngài cất khỏi chúng ta tấm màn tang chế ấy và ban cho chúng ta niềm hoan lạc giao hoà. Sự giao hoà này trước tiên phải là một lời cầu nguyện khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã xúc phạm đến Chúa”. Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa vì diễn tả tâm tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, và chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời.
Tuy nhiên, người ta không thể giao hoà với Thiên Chúa mà lại không hoà giải với tha nhân. Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết: “Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hoà với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi”. Bởi vậy, nếu chúng ta cầu mong ơn giải hoà với Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xoá đi những xích mích, bất hoà hờn giận với người khác.
Không những là mùa hoà giải, mùa chay còn tưởng niệm 40 ngày Đức Kitô chay tịnh nơi sa mạc trước khi thi hành sứ mệnh cứu độ. Truyền thống Giáo Hội từ lâu vẫn giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Dù vậy tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ qua được. Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng những ngày thánh này để gột rửa những sơ xuất trong các mùa khác, bằng cách chế ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối, để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh”. (Tu luật Biển Đức).
Mùa chay là những ngày thánh, vì là thời thuận tiện, là ngày cứu độ. Thiên Chúa lúc nào lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận. Cùng với Giáo Hội, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con bắt đầu cuộc chiến thiêng liêng này bằng ngaỳ chay tịnh hôm nay. Ước gì những kiêng khem, hãm mình của chúng con giúp chúng con nên dũng mạnh để chiến đấu với sự dữ. Amen.”
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 7: HOA VÀ RÁC
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Những ngày gần Tết, hoa và cây cảnh được bày bán khắp mọi nẻo đường phố thị. Đủ mọi loại hoa kiểng, lắm màu hương sắc. Gia đình nào cũng mua hoa chưng Tết. Tôi cũng mua cây mai nhiều nụ và mấy chậu hoa hồng hoa cúc để làm đẹp phòng khách. Nâng niu, chăm sóc thật kỹ lưỡng. Đến Mồng Ba Tết, hoa đã héo rụng đầy phòng. Phải quét rác thôi, gom cả mai cả hoa đi đốt. Ôi Hương sắc của hoa! Hôm qua tươi đẹp, hôm nay héo tàn rụng úa. Hôm qua “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”, hôm nay quét bỏ như rác rưởi.
Thứ Tư Lễ Tro, nghĩ về hoa và rác như nghĩ về thân phận tro bụi của kiếp người theo lời Thánh Vịnh 102:
Đời sống con người giống như hoa cỏ
Như bông hoa nở trên cách đồng
Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi
Nơi nó mọc không còn mang vết tích.
Đời người cũng tựa đời hoa. Khi tươi nở, hoa rực rỡ khoe sắc, hoa ngào ngạt toả hương, ai cũng yêu cũng quý. Khi ủ rũ héo tàn, hương sắc của hoa rụng úa tàn tạ, chỉ mau vứt vào thùng rác. Hôm trước nâng niu, hôm sau vứt bỏ. Một đời hoa chóng tàn phai như lời sách Giảng viên:
“Phù hoa nối tiếp phù hoa,
chi chi chăng nữa cũng là phù hoa” (Gv 1,2).
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Linh mục đọc "Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro” và xức tro trên trán tín hữu. Đây là lời Thiên Chúa báo cho Ađam biết khi ông vừa phạm tội. Giáo Hội cũng sẽ lặp lại những lời ấy trong phần xức tro đễ nhắc nhở về thân phận cát bụi của con người.
Nghi thức xức tro bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra. Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích.
Sách Giảng Viên viết rằng: "Tất cả chỉ là phù vân". Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân. Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo:
"Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau"(Nguyễn Du).
Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định:
”Lênh đênh duyên nổi phận bèo.
Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi”(Ca dao).
“Bèo dạt, mây trôi đành với phận”(Chu Mạnh Trinh)
Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến?
Cuộc đời tuy có là bèo bọt. Phận người dù phù hoa, mau chóng tàn phai trở về bụi đất. Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do.
Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (x.Mt 6,1-6).
Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Canh tân nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.
Nói một cách hình tượng, thì con người của Mùa Vọng là một con người ÐI, con người hành hương, lòng tràn trề hy vọng đang tiến về cùng đích tối hậu của cuộc đời; con người của Mùa Phục Sinh là một con người ÐỨNG, tự do, chủ động và tự tín đối diện với thế giới, còn con người của Mùa Chay thì NGỒI trong thái độ chiêm nghiệm, trầm tư. (Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống).
Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: "Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi". Ý nghĩa của lời đó quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui..., anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng v.v. nhưng khi chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Ðâu là bậc thang giá trị đời anh?
Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời.
Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!
Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích.
Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.
Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu. Chúa Giêsu khuyên chúng ta “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” bằng cách “ Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức của Mùa Chay.
Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về: tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Tỉnh thức để đợi chủ về. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ. Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.
Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.
Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “ phù vân, bèo bọt” vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình.
Biết rằng mình được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, người Kitô hữu luôn có đựơc điểm tựa an toàn cho hạnh phúc đích thực.
Con người là “hoa” và cũng là “rác”, nhưng với tình yêu Chúa Kitô, con người không còn là bèo bọt, không là phù hoa mà là con người của thần khí, trổ sinh những hoa quả của Thánh Linh (Gal 5,22). Làm việc thiện, luôn bình an, thư thái, tự chủ. Nhờ đó, chúng ta sống một Mùa Chay thánh thiện.
SUY NIỆM 8: SỨ ĐIỆP CỦA TRO - Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Lễ Tro mọi người tín hữu tiếp nhận tro xức trên trán, trên đỉnh đầu. Ðây là tập tục tôn giáo đạo đức có từ thời xa xưa trong Cựu ước.
Nhưng tro nói lên dấu chỉ ý nghĩa gì cho đời sống niềm tin đạo giáo?
1. Sau buổi lửa trại một đống củi được đốt thắp sáng lên lúc chiều tối, sáng hôm sau chỉ còn lại một nắm tro tàn nguội.
Ngày tháng đời sống con người cũng như vậy. Những lời chân tình trao cho nhau như than hồng nồng cháy, những ước vọng nhiệt huyết hăng say làm sưởi ấm lòng người, sau cùng cũng biến thành tro tàn.
Lời kinh Thánh nhắn nhủ: Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro!
2. Tro tàn còn lại sau trận hỏa hoạn
Tro tàn từ đống sách báo bị thiêu đốt hủy diệt.
Tro tàn sau trận chiến chém giết nhau bên Sarajevo, bên Irak, bên Haiiti, bên Congo, bên Hiroshima, bên Afghanistan...
Tro tàn gắn liền với lịch sử đời sống con người: tro tàn của tội lỗi.
Và tro tàn cũng do tội lỗi, thiếu xót của lịch sử từng cá nhân còn lưu lại: một tâm hồn tan hoang chán chường thất vọng, đổ vỡ không còn muốn nhìn về đằng trước. Vì niềm tin, niềm hy vọng đã cạn, như lời Ðức Mẹ Maria nói với Chúa Giêsu: Họ hết rượu rồi!
Lời kinh Thánh nhắn nhủ. Hỡi người hãy nhớ mình là người tội lỗi. Tội lỗi là đống tro tàn trong tâm hồn đời sống.
3. Sau mùa gặt hái, rơm rạ cây khô cỏ dại ngoài đồng ruộng được đốt cháy chỉ còn lại tro bụi. Bụi tro đó thẩm thấu xuống lòng đất, và biến thành chất phân bón sức sống cho cây lúa, cho hạt giống nẩy mầm đời sống mới của mùa gieo trồng kế tiếp.
Trong lò lửa, than củi bị đốt cháy, tạo nên sức nóng cực mạnh làm nung chảy vàng bạc kim loại và từ đấy lọc tẩy ra, đúc thành khuôn mẫu hình thù mới.
Ðời sống con người cũng bị thử thách trôi luyện như vậy, để trở thành một „người mới khác“.
Hỡi người hãy biết mình được tạo dựng sinh ra cho sự sống, cho tốt lành thiện hảo. Hãy trở về với niềm tin và đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, Ðấng là nguồn sự sống đời mình!
SUY NIỆM 9: Ý NGHĨA CỦA LỬA VÀ TRO - Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
Lửa và tro là hai biểu tượng ghi dấu để bước vào Mùa Chay. Nhúm tro tàn một cách bột phát gợi lên sự sầu khổ thiêng liêng, sự điêu tàn. Nhưng ở đây, người ta thấy sự khởi đầu một sự bắt đầu lại, một sự sám hối. Đó là nội dung bài chia sẻ của Đức Hồng Y Pierre Eyt cho các bạn trẻ về ý nghĩa Mùa Chay tại nhà thờ chính tòa Thánh Anrê, giáo phận Bordeaux, Pháp.
Thứ Tư lễ Tro không phải chỉ là ngày hôm sau của Thứ Ba Béo. Trước tiên, nó không phải là một ngày mang nét dân gian. Thứ Tư lễ Tro đối với các Kitô hữu là dịp bước vào Mùa Chay. Nó diễn tả một con đường thiêng liêng, được biểu hiện và hỗ trợ bởi những dấu chỉ, những biểu tượng như lửa và nhúm tro xức trên trán.
Hình ảnh lửa mà chúng ta sẽ lại thấy trong đêm Vọng Phục Sinh có ý nghĩa là chúng ta muốn thiêu đốt những gì cản bước chúng ta, và rồi chúng ta muốn hủy diệt tội lỗi vốn làm cho con người bị tổn thương và dị dạng. Thánh Phaolô nói rằng cần phải phá bỏ trong chúng ta con người cũ để mang lấy con người mới (x. Col 3,1-11). Lời gọi thật rõ ràng. Nó chứa đựng lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu là: « Hãy sám hối ». Điều này còn có nghĩa là thay đổi tinh thần, thay đổi tâm hồn, thay đổi não trạng. Tất cả những ích kỷ, lười biếng, lề mề, tham lam, giận dữ, bạo hành, kiêu ngạo là những thứ cần phá hủy và thiêu rụi.
Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về tội. Làm thế nào để dũ bỏ nó? Chúa Giêsu dạy bảo trong Tin Mừng rằng chúng ta sẽ là những kẻ chiến thắng tội lỗi khi biết thay thế lửa của sự xấu bằng lửa của Tình Yêu. Bởi vì, trước tiên lửa ở đây bừng cháy để thiêu hủy, nhưng cùng lúc nó còn chiếu sáng, sưởi ấm, củng cố, hướng dẫn và động viên. Như một ngọn lửa sống động, Đức Kitô là ánh sáng, là hơi ấm, là tiếng gọi, là sự an ủi. Ước chi ngọn lửa này tiếp tục bừng cháy trong tâm hồn chúng ta.
Tro được xức trên trán đối với chúng ta còn minh nhiên kêu gọi sám hối, nói cách chính xác là bằng con đường khiêm nhường. Nắm tro là những gì còn lại sau khi ngọn lửa thiêu rụi chất liệu mà nó đã chiếm lĩnh hoàn toàn. Chúng ta nhận thấy rằng khi có những nắm tro tàn, điều đó hẳn là không còn gì nữa từ cái mà đã bị lửa thiêu hủy. Đó còn là hình ảnh về sự nghèo khó của chúng ta. Nhưng tro cũng còn có thể làm cho đất đai màu mỡ, giúp tái tạo thiên nhiên và sự sống có thể tái sinh dưới đống tro tàn.
Khi chúng ta lưu ý đến những gì mang ý nghĩa từ tro tàn là chúng ta được dẫn vào bí tích giao hòa và thống hối. Nói rằng mình có tội là để được đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nói rằng chúng ta hung bạo và hối tiếc về điều ấy, rồi ăn năn hối lỗi là để đến lượt mình chúng ta cũng biết bắt chước Thiên Chúa trong việc tha thứ. Bí tích giao hòa định hướng nội tâm, cũng giống như ngọn lửa có thể soi tỏ cho chúng ta từ bên ngoài trước bóng đêm tội lỗi. Do đó, con đường Phục Sinh nhìn bề ngoài gồm sáu tuần lễ và bốn mươi ngày của Mùa Chay, nhưng cách đặc biệt còn là con đường của trái tim, con đường của nội tâm, con đường của sám hối.
Lửa, tro, thống hối…nói lên sự phá bỏ và thiêu rụi « con người cũ », nhưng một điều rất rõ ràng, người ta chỉ hủy bỏ và thiêu rụi để thay thế bằng cái khác. Vậy thì tất cả nghĩa cử, hành động, và dấn thân mà Giáo Hội đề nghị thực hành cho Mùa Chay mà trong Tin Mừng chính Đức Giêsu đã giảng giải cho chúng ta về tính khẩn thiết như: bố thí, cầu nguyện, ăn chay. Điều này đề cập đến việc xây dựng lại những gì đã bị phá hủy. Đó chính là xây dựng bằng ân sủng của Đức Kitô, và bằng cách đưa bàn tay của mình cho Ngài dẫn dắt. Đó còn là xây dựng bằng Thần Khí của Đức Kitô tác tạo nên con người mới. Ở đó hội tụ ba phương hướng mà Tin Mừng nói với chúng ta: bố thí, cầu nguyện và chay tịnh.
SUY NIỆM 10: CON LÀ THÂN TRO BỤI - Lm. Giuse Đinh lập Liễm
Hôm nay là Thứ Tư lễ Tro, ngày khai mạc Mùa Chay thánh. Theo lời thánh Phaolô: ”Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2Cr 6,2b)). Mùa Chay giúp chúng ta thực hành tinh thần thống hối, điều chỉnh lại hướng đi của mình và biết quay trở về với Chúa.
Mỗi người được xức tro trên đầu để chỉ sự khiêm nhường thống hối. Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa việc xức tro, đồng thời cầu xin Chúa giúp sức để thi hành trong Mùa Chay này những lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.
I. TÓM TẮT VỀ LỄ TRO
Ngày Thứ Tư lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ sách Sáng thế: ”Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về bụi tro”. Lời Kinh Thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người, biểu hiệu “bụi tro” được dùng trong Kinh Thánh và trong lễ nghi Thứ Tư đầu Mùa Chay.
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng ngày xưa. Theo đó, những người đã phạm một số tội nặng công khai, mà mọi người biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình… là những người bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng: vào ngày thứ tư trước Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, họ tập trung tại nhà thờ chính tòa để, sau khi xưng thú tội mình, Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhâm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình.
Sau đó họ bị đuổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thư Năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập tại nhà thờ chính tòa, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành sám hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ dây, họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích.
Sau một thời gian lễ nghi tiếp tục biến chuyển. Vào năm 1091, công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ xức tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi xức tro, vị Linh mục đọc: ”Ta là thân cát bụi và sẽ trở về cát bụi” (St 3,19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Lễ Lá năm trước để lại.
Trước công cuộc canh tân phụng vụ của công đồng Vatican II, lễ nghi làm phép tro và xức tro được cử hành trước lễ. Vào năm 1970, khi công bố sách lễ Rôma được tu chỉnh, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ Lời Chúa. Ngoài câu trích từ sách Sáng thế, còn có thêm một công thức khác dùng khi xức tro, lấy từ Phúc âm: ”Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1,15).
II. Ý NGHĨA VIỆC XỨC TRO
1. Tro chỉ sự thống hối.
Trong Cựu ước, việc xức tro và mặc áo nhâm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel.
Ngày xưa, khi ai làm việc gì không chính đáng, họ thường xức tro trên đầu để tỏ dấu chỉ ăn năn hối lỗi, quyết tâm làm điều lành, lánh sự dữ.
Tro là tập tục biểu hiệu của lòng ăn năn sám hối bên Trung Đông. Theo tập tục bên Do thái, trong Kinh Thánh còn ghi lại: Tro được dự trữ làm nước tẩy uế (Ds 19,9). Ông Abraham đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa nhận mình là thân tro bụi (St 18,27). Rắc tro trên đầu cũng là lễ nghi sám hối trong niềm tin đạo giáo văn hóa thời xa xưa bên Do thái (2Sm 13,19; Mac 3,47). Mặc áo vải thô và rắc tro trên đầu là dấu chỉ lòng ăn năn thống hối của con người với Thiên Chúa (Eth 4,1; Mt 11,21).
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con ngươi sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.
2. Tro chỉ sự chóng qua.
Việc xức tro mời gọi chúng ta ý thức về thân phận nhỏ nhoi mỏng dòn nơi bản tính con người của mình, vốn dễ bị tội lỗi thống trị. Nghi thức xức tro chính là nghi thức khai mạc Mùa Chay, nó là hành động hữu hiệu và cụ thể nhất nhắc nhở ta về thân phận và kiếp người mỏng dòn ấy: thân phận con người là tro bụi.
Trong lễ an táng, chúng ta thường hát bài thánh vịnh đáp ca 102. Bài thánh vịnh nói lên sự mong manh của kiếp con người, đời sống con người giống như loài hoa sớm nở chiều tàn, không có gì là bền vững:
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình. (Tv 102, 15-16)
Thi sĩ Nguyễn Khuyến, nhìn cuộc đời chóng qua của kiếp người cũng phải kêu lên bằng những hình ảnh sống động:
Ôi! nhân sinh là thế ấy!
Như bóng đèn, như mây nổi,
Như gió thổi, như chiêm bao!
Trong bài “Cát bụi” nhạc sĩ Trịnh công Sơn cũng nói lên kiếp mong manh của con người: Cát bụi, con người chỉ là cát bụi. Hạt bụi tuyệt vời khi hóa kiếp thân tôi. Hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Một vòng quay. Trăm năm một kiếp người có là mấy: ”Chợt một chiều tóc trắng như vôi”…
Trịnh công Sơn không bi quan. Ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người. Cuộc đời đẹp biết bao! Sự sống cao quí biết bao! Nhưng cũng chỉ như một “đóa hoa vô thường” như tên gọi của một bài hát khác của ông. Đó là thực tế, nhìn nhận đúng thực tế đó, đối diện với nó một cách can đảm có thể đưa đến một cuộc sống tốt đẹp và hữu ích hơn.
Tro không những chỉ được dùng trong lễ nghi thống hối xức tro hằng năm, mà còn được dùng trong nghi lễ nhậm chức đăng quang của Đức Giáo hoàng mới được bầu lên. Theo tập tục lễ nghi, vị hồng y niên trưởng đốt những sợi chỉ ra tro để nhắc nhở vị tân Giáo hoàng với câu: ”Sic transit mundi gloria”: vinh quang thế gian cũng mau qua như thế.
3. Tro nhắc nhở về sự chết.
Trong Cựu ước, tro chỉ thân xác chúng ta là tro bụi và sẽ phải chết: ”Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19. x. Gb 34,4; Gr 6,26; Is 58,5).
Chết là án lệnh của Thiên Chúa sau khi nguyên tổ phạm tội: ”Người sẽ trở về với bụi đất”(St 3,19). Vì thế không ai có thể tránh được cái chết.
Người Á Đông quan niệm: con người phải trải qua 4 giai đoạn là sinh, lão, bệnh, tử. Có người thoát được lão và bệnh vì chết quá sớm, còn không ai thoát được tử, vì đã có sinh thì phải có tử, sinh tử luôn nối kết với nhau.
Kinh nghiệm ngàn đời đã giúp ông Văn Thiên Trường suy nghĩ về cuộc sống mong manh của con người nên đã phát biểu ý kiến bằng một câu để đời:
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Ngàn xưa, người thế ai không chết,
Chết, để lòng son rạng sử xanh.
Vì thế, trong truyền thống các đan sĩ và tu viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Do đó, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martinô thành Tours ở bên Pháp đã nói: ”Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó con trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết.
Chớ gì việc xức tro trên đầu khiến cho chúng suy nghĩ về sự chết để biết dọn mình sẵn sàng vì giờ chết đến như kẻ trộm, luôn có tinh cách bất ngờ như người ta nói:
Sinh hữu hạn, tử bất kỳ.
Ai cũng mong đời sống của mình được trở thanh “cây bách niên” (agavé). Người ta cho biết: cứ một trăm năm một lần nở hoa, nhưng hoa đẹp lạ lùng. Trong một thế kỷ cây ấy đã sửa soạn cho cái ngày tươi đẹp ấy, nó dồn sức lực, nó trang điểm, nó làm cho đẹp, bằng công việc kín đáo, không ai trông thấy. Cả một thế kỷ! Và khi đã hết thời nó nở những cánh hoa trắng muốt để làm đẹp lòng người đến xem cái phi thường của nó.
III. MÙA CHAY VÀ THÂN TRO BỤI
Trong việc xức tro hôm nay Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người lìa xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế, phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.
Để thể hiện sự thống hối trong Mùa Chay, chúng ta phải làm gì? Chắc chắn có nhiều việc phải làm và mỗi người có một chương trình riêng, nhưng thiết tưởng chúng ta phải thực hiện 3 điều mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thực hành theo bài Tin Mừng hôm nay: đó là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.
1. Hãy cầu nguyện.
Cầu nguyện là một việc làm đẹp ý Chúa, mà ai cũng có thể làm được, ở đâu ta cũng có thể cầu nguyện được; chính vì thế Chúa Giêsu đã dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Mà không những Chúa chỉ dạy chúng ta cầu nguyện, mà Chúa còn làm gương cầu nguyện nữa, nhiều chỗ trong Tin Mừng đã nói rõ (Lc 22,42; Ga 11,41-42). Còn rất nhiều đoạn khác trong Tin Mừng nói về việc Chúa Giêsu cầu nguyện, đặc biệt Chúa dạy chúng ta kinh Lạy Cha (Mt 6,9-13).
Cầu nguyện là một vấn đề cần thiết và rất quan trọng, nó là vấn đề sinh tử.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã so sánh sự cần thiết của lời cầu nguyện với chuyện cá trong nước. Bao lâu cá ở trong nước, nó vẫn sống, hoạt động và tăng trưởng, nhưng nếu nó bị bắt ra ngoài, chắc chắn nó sẽ chết. Cũng vậy, con người muốn sống siêu nhiên thì phải cầu nguyện, nếu không cầu nguyện họ sẽ mất ơn Chúa giúp, rồi dần dà họ sẽ mất sự sống siêu nhiên không khác nào cá phải chết vì không có nước.
Thánh Bênađô cũng đã so sánh sự hô hấp cần thiết cho con người như thế nào, thì lời cầu nguyện cũng cần thiết cho con người như vậy. Đối với linh hồn, cầu nguyện cần thiết cũng như hô hấp cần cho cơ thể con người. Nếu con người hô hấp khó khăn thì thân xác sẽ trở thành tiều tụy, và nếu hô hấp đình chỉ thì con người sẽ chết. Cũng thế, khi ta ít cầu nguyện, thì linh hồn biến thành bạc nhược, và khi ta không cầu nguyện tí nào, thì linh hồn ta sẽ chết trước mặt Chúa.
Thế nào là cầu nguyện?
Các nhà tu đức học thường định nghĩa cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa, hay cầu nguyện là cuộc trò chuyện giữa ta với Chúa. Thật thế, cầu nguyện là tâm tình với Chúa, thưa truyện với Chúa bằng tâm tư và ngôn ngữ của chính ta, như con cái thỏ thẻ với cha mẹ những tình cảm yêu mến, những nhu cầu xin Chúa thương ban, hoặc kể cho Chúa nghe những tâm sự vui buồn, lòng biết ơn…
Có những khi ta vui quá, hay buồn quá tự lòng ta không biết nói gì với Chúa, hoặc khi có đông người muốn có chung một lời cầu nguyện thì Giáo hội mới lập nên những lời kinh chung giúp chúng ta cùng nhau cầu nguyện. Do đó, cầu nguyện không chỉ là đọc kinh, đọc những công thức một cách máy móc, còn lòng trí thì để vào chuyện đâu đâu. Với kinh nguyện thì miệng đọc lòng ta phải kết hợp với lời kinh để suy gẫm với Chúa, với Đức Mẹ, các thánh… theo nguyên tắc “khẩu tụng tâm suy”.
Chúng ta thường nghe rất nhiều, đôi khi đã tham dự buổi cầu nguyện nhờ những kỹ thuật như: thiền, yoga, cầu nguyện theo cách của cộng đoàn Taizé, Béatitude (cộng đoàn Phúc thật), Chemin neuf (Con đường mới)… Những buổi tổ chức cầu nguyện như thế càng ngày càng được nhiều nơi tổ chức và hấp dẫn nhiều người vì những lợi ích sau: làm cho chúng ta “dễ nâng lòng lên với Chúa”, tạo cho chúng ta những bầu khí và tâm tình sốt sắng, ham thích cầu nguyện và thấy như Thiên Chúa ở bên chúng ta, lắng nghe chúng ta và an ủi chúng ta thật nhiều. Tóm lại, những kỹ thuật này góp phần tích cực vào cho buổi cầu nguyện. Điều này không ai có thể chối cãi được.
Nhưng nếu, cầu nguyện là trò chuyện với Chúa như bạn bè, cũng như tình bạn bè không cần kỹ thuật, thì cầu nguyện cũng không cần theo một kỹ thuật nào mà nó phải phát xuất tự trong lòng với những tâm tình riêng tư một cách tự nhiên và chân thành.
Truyện: Con chỉ nghe.
Một cụ già có thói quen ngồi bất động hằng giờ ở cuối nhà thờ. Một ngày nọ, cha xứ hỏi cụ là Chúa đã nói gì với cụ. Cụ trả lời:
- Thưa cha, Chúa chả nói gì cả, Ngài chỉ nghe con.
- Vậy à? Thế thì cụ nói gì với Chúa?
- Dạ, con cũng chẳng nói gì, con chỉ nghe Chúa!
Thực ra, đỉnh cao của cầu nguyện là hoàn toàn kết hợp với Chúa, lúc đó không còn ai nói ai nghe mà chỉ có sự im lặng, để con tim nói với nhau. Chúng ta có thể nói đây là một sự thinh lặng hùng biện, không nói gì mà lại nói rất nhiều. Vì thế cầu nguyện có 4 mức độ:
- Tôi nói, Chúa nghe.
- Chúa nói, tôi nghe.
- Không ai nói, cả hai cùng nghe.
- Không ai nói, không ai nghe. Đây là sự thinh lặng tuyệ đối.
Phải chăng người đời cũng hiểu sự thinh lặng hùng biện là thế nào:
Nước mắt nói lời của mắt,
Hương hoa nói lời của hoa,
Lặng im nói lời đôi ta!
Ngoài ra chúng ta còn thực hiện lời Chúa dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện luôn khi chúng ta có trăm ngàn công việc phải làm? Cầu nguyện ở đây là biến mọi công việc thành lời nguyện.
Cầu nguyện đẹp lòng Chúa nhất là trong mọi công việc hằng ngày, ta hãy có tâm lòng cùng làm việc với Chúa, và làm vì yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân. Qua đó những việc ta làm, những lời ta nói luôn luôn hướng về Chúa, cho Chúa và cho tha nhân… biến những lời nói việc làm của ta thành những việc lành, việc thiện như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng nhặt một cọng rác, khâu một mũi kim cũng làm vì mến Chúa. Chúa muốn ta cầu nguyện liên tục là như vậy, chứ Chúa không bảo ta đọc kinh liên tục để khỏi sa chước cám dỗ đâu!
2. Hãy ăn chay
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay, đã là Mùa Chay thì phải ăn chay. Nhưng phải ăn chay như thế nào thì mới đúng cách và hữu ích?
Mùa Chay gợi nhớ 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, mà Ngài đã trải qua trước khi đi vào sứ vụ công khai. Chúng ta đọc thấy trong Tin mừng: ”Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào trong hoang địa, để chịu quỉ cám dỗ. Ngài ăn chay ròng rã 40 đêm ngày, và sau đó, Ngài thấy đói” (Mt 4,1-2).
Giống như ông Maisen đã ăn chay trước khi đón nhận những tấm bia lề luật (x.Xh 34,28), và việc ông Êlia ăn chay trước khi gặp Chúa ở núi Horép (x. 1V 19,8). Đức Giêsu cũng vậy, qua việc cầu nguyện và ăn chay, đã chuẩn bị cho sứ vụ đặt trước mặt Ngài, sứ vụ được đánh dấu vào lúc khởi đầu, bằng một cuộc chiến đấu nghiêm trọng với kẻ cám dỗ.
Tôn giáo nào cũng có ăn chay như Do thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo… nhưng phương cách và mục đích của họ lại khác nhau.
Người Do thái ăn chay bằng cách nhịn ăn từ sáng đến chiều (Giona 3,7-8; Samuel 14,24). Tập tục ăn chay bằng cách nhịn ăn từ rạng đông cho đến khi mặt trời lặn, ngày nay vẫn còn được anh chị em Hồi giáo tuân giữ trong suốt tháng Ramadan. Trong khi ấy, anh chị em Phật giáo lại ăn chay vào mồng một và ngày rằm, bằng cách vẫn ăn no, nhưng kiêng không ăn thịt của bất cứ động vật nào, chỉ ăn thực vật.
Ngày xưa, người Công giáo cũng ăn chay giống như người Do thái là nhịn ăn từ sáng cho đến chiều. Ngày nay người Công giáo chúng ta ăn chay một năm có hai lần vào ngày thứ Tư Lễ Tro và Thứ sáu Tuần thanh, và chỉ cần ăn ít đi vào buổi sáng và buổi chiều, đồng thời kiêng thịt vào hai ngày đó.
Chúng ta thấy việc ăn chay ngày nay rất đơn giản, đơn giản hơn các tôn giáo khác, nhưng việc ăn chay này có ý nghĩa nào đối với người Kitô hữu? Thánh Tôma tiến sĩ đã giải thích cho chúng ta:
- Thứ nhất: để kềm chế sự thèm muốn của xác thịt. Nhờ chay tịnh, sẽ giữ được sự trong sạch. Trong Cựu ước cũng đề cập đến: ”Sự thèm muốn bị kềm chế lại bởi kiêng rượu, thịt”.
- Thứ hai: nhờ vào sự chay tịnh để tâm hồn chúng ta gia tăng một cách tự do, hướng đến sự chiêm niệm về những điều thiện hảo của thiên đàng. Tiên tri Daniel cũng được Thiên Chúa mạc khải sau khi ăn chay ba tuần lễ.
- Thứ ba: ăn chay để đến bù cho những tội lỗi của mình. “Hãy đến với ta bằng cách thay đổi hoàn toàn tâm hồn ngươi, trong chay tịnh và trong khóc lóc”.
Thánh Augustinô cũng đã nhấn mạnh trong một bài giảng về cầu nguyện và ăn chay: ”Chay tịnh làm sạch sẽ tâm hồn, gia tăng trí khôn, hướng xác thịt đến thần linh, thể hiện con tim thống hối và khiêm nhường, chẻ nhỏ những đám mây thèm muốn, dập tắt đám lửa dâm dục và đốt lên ánh sáng thật sự của đức ái”.
Từ xa xưa, tiên tri Isaia đã có ý kiến về việc ăn chay và đã vạch vẽ cho dân Do thái biết cách ăn chay cho đẹp lòng Thiên Chúa: ”Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các người kêu tới trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày các ngươi phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa”?
“Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành”(Is 58,4-8).
Trong sứ điệp Mùa Chay 2009, Đức Thánh Cha bênêdictô XVI đã nói: ”Trong thời đại chúng ta, chay tịnh dường như đã đánh mất điều gì thuộc về ý nghĩa thiêng liêng, và trong một nền văn hóa có đặc điểm là tìm kiếm hạnh phúc vật chất, nó đảm nhiệm vai trò chữa bệnh để chăm sóc thân thể. Chắc hẳn chay tịnh đem lại lợi ích cho hạnh phúc thể lý, nhưng đối với người tín hữu, trước tiên nó là “một phương thế chữa trị” để chữa lành tất cả những gì ngăn cản họ sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Trong tông hiến Paenitemini năm 1966, Người Tôi Tớ Thiên Chúa Phaolô VI thấy nhu cầu trình bầy chay tịnh trong khuôn khổ ơn gọi của mọi Kito hữu “không còn sống cho chính mình, nhưng cho Đấng đã yêu thương và hiến thân vì mình, và sống cho anh chị em của mình”(x. Ch. 1).
Như vậy ăn chay thể xác không quan trọng bằng ăn chay tinh thần, nghĩa là từ bỏ ý riêng của mình để sống theo ý Chúa, loại bỏ tính ích kỷ và mở rộng con tim để yêu mến và đón nhận tha nhân, phục vụ anh chị em và đem hạnh phúc đến cho mọi người. Đúng là:
“Ăn mặn nói ngay, còn hơn ăn chay nói dối” (Tục ngữ).
3. Hãy làm phúc bố thí.
Mùa Chay là thời gian khám phá ra các nhu cầu của anh chị em mình và nhắc nhở chúng ta tìm mọi cách để gặp gỡ và giúp đỡ những người đau khổ thể xác cũng như tinh thần.
Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2002, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trích dẫn câu nói của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho tín hữu Côrintô: ”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận (1Cr 4,7). Và ngài tiếp: ”Một khi đã nhìn nhận như thế thì bạn phải yêu mến anh chị em và hy sinh cho họ”.
Làm phúc bố thí và ăn chay là những phương thế liên hệ mật thiết với nhau để giúp chúng ta ăn năn hối cải. Làm phúc bố thí có nghĩa là chia vui sẻ buồn với người khác, giúp đỡ người ta, nhất là những ai lâm cảnh thiếu thốn, phân phát cho người ta không nguyên của cải vật chất mà cả tinh thần nữa. Chính vì thế, chúng ta phải tỏ ra cởi mở đối với người khác, biết nhận ra những nhu cầu của họ và cảm thông những nỗi đau buồn của họ, đồng thời tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó và làm cho những đau thương của họ vơi nhẹ đi.
Như vậy, cầu nguyện để kết hợp với Thiên Chúa đồng thời cũng hướng chúng ta tới tha nhân. Khi chúng ta đòi hỏi đối với bản thân và quảng đại đối với tha nhân, nhất là đối với những ai đau khổ và thiếu thốn là chúng ta sống kết hợp với Đức Kitô chịu đau khổ và bị đóng đinh vì Người tự đồng hóa với họ như Người nói: ”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han”(Mt 25,35-36).
Truyện: Cho đi tất cả.
Một người kia rất nghèo và vẫn thường nghĩ mình là người nghèo khổ nhất trên khắp mặt đất này. Thế rồi, một hôm ông ta lên đường và gặp một người hành khất khác còn nghèo khổ hơn mình hơn nữa. Ông dừng lại chào hỏi và nói:
- Từ trước tới nay tôi vẫn tưởng mình là người nghèo khổ nhất trong thiên hạ, thế mà hôm nay gặp anh tôi thấy anh còn nghèo hơn tôi nữa, vì đến cái che nắng che mưa trên đầu anh cũng không có.
Người hành khất đáp:
- Này ông bạn ơi, xin ông đừng quên rằng mỗi người nghèo trên đường đi của mình đều gặp thấy những người khác còn nghèo khổ hơn nữa. Đó là điều duy nhất an ủi chúng ta hơn cả, bởi vì mình vẫn còn có thể cho đi người khác một cái gì đó.
Nghe vậy, người ấy liền giơ tay lên đầu lấy mũ trao cho người nghèo không có mũ. Dọc đường, người ấy lại gặp một người khác nghèo hơn nữa không có manh áo che thân, và người ấy liền cởi áo mình ra trao cho người kia. Tiếp tục con đường hành trình, người ấy lại gặp những người khác nghèo hơn nữa và trao cho mỗi người một chút cái mình có. Sau cùng, người ấy chỉ còn đôi dép trong chân và cảm thấy hài lòng sung sướng vì còn có thể tiếp tục đường đi.
Khi hoàn tất cuộc hành trình, người nghèo ấy thấy mình đến trước cửa thiên đàng và nhận ra mình chỉ còn hai bàn chân đi đất, thân mình hoàn toàn ở trần
Mẩu truyện trên đây nói lên ý nghĩa sâu xa của tinh thần nghèo khó là gì. Thật vậy, chúng ta thường nghe nói: ”Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để cho đi và cũng không ai giầu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm nữa”.
Cái phải cho đi khó hơn là chính bản thân mình, khi nào chúng ta chưa biết cho đi chính mình chúng ta vẫn chưa phải là người nghèo khó nhất. Cho đi chính bản thân mình mới là điều kiện căn bản không thể thiếu sót để nhận lãnh tất cả, tức là nhận lấy tình yêu và chọn con đường yêu thương.
Làm sao có thể chọn yêu thương khi chúng ta cảm nghiệm được tình thương quá ít ỏi, khi chung quanh chúng ta vẫn còn nhiều hận thù và mọi hình thức ích kỷ?
Phải, chúng ta vẫn có thể chọn yêu thương bắt đầu từ những bước nho nhỏ có thể được. Có thể bắt đầu từ một nụ cười, từ một lời nói âu yếm, một lời khích lệ cảm thông, một lời chào hỏi thân tình, một sự quan tâm chú ý, một đồng tiền nhỏ bé, một món quà đơn sơ. Đó là những bước tiến nho nhỏ trên con đường yêu thương, như những cái chấm nối lại thành một đường thẳng. Cũng vậy, những hành động yêu thương nho nhỏ sẽ ghép lại thành con đường yêu thương dài cho đến khi đạt tới nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa (R. Veritas).
Mùa Chay đòi hỏi chúng ta thống hối để kết hiệp mật thiết vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, để cùng hưởng sự Phục sinh vinh hiển của Người. Vì vậy, cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí là thực hành sống những điều cốt yếu của tinh thần Mùa Chay.
SUY NIỆM 11: Các việc đạo đức
Tại nhiều nơi, cứ vào mùa tranh cử, người ta lại dễ dàng nhìn thấy những bảng hiệu ghi ơn dân biểu này, nghị sĩ nọ, hoặc loan báo những công trình xây dựng của các nhân vật chính trị. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đó là những vận động gián tiếp, những hứa hẹn với dân chúng để hy vọng được bầu vào những chức vụ công quyền. Tâm thức và lối hành xử thường tình của con người là như thế đó: làm việc tốt để kể công, để được trọng vọng, khen thưởng. Người Kitô hữu cũng dễ bị cám dỗ để có tinh thần khoe khoang kể công như trên vào đời sống đạo đức.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Môsê, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quý, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia.
Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người đời khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác.
Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta đề phòng thứ đạo đức vụ hình thức. Nhưng việc đạo đức tự nó rất ích lợi cho bản thân, cho tha nhân và đáng được Thiên Chúa ban thưởng, với điều kiện chúng được thực hiện với ý ngay lành.
Chúng ta cần thực hành các việc lành với ý hướng này, vì đó là lẽ sống, là niềm vui và là động lực cho cuộc đời hy sinh phục vụ của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 12: LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THỨ TƯ LỄ TRO
LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THẦN HỌC PHỤNG VỤ
Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu "bụi tro" được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.
1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro
Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: "Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay" (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.
Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là "Đầu Mùa Chay" (Caput ieiunii), hay " Đầu Mùa ăn chay 40 ngày" (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Đức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hoà giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi người đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình... Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhặm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưởi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hoà với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Đại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Đức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.
Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Đầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Đức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.
Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Đức Giáo hoàng tập họp các giáo sĩ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Đức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhặm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Đức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ mọi tội khiên" (Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Đó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Đức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).
Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: "Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi" (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: "Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng" (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu "tro" đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời" (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).
2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro
Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhặm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).
Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Đó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải "quay trở lại" một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ "canh tân" trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Đàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tuỳ thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thứ tư Lễ Tro.
Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.
Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Đồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.
Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhặm, như đi chân không trong cuộc hành hương, vv. không còn được thực hiện như xưa, vì hoàn cảnh xã hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro.
SUY NIỆM 13: MÙA CHAY VÀ ƠN CỨU ĐỘ - ĐGM. Bùi Tuần
Mùa Chay là thời gian nhắc nhở đặc biệt đến ơn cứu độ.
Hầu như ngày nào Phụng vụ cũng có lời giục giã. Thí dụ:
Hãy khát khao tìm ơn cứu độ,
Hãy sốt sắng cầu xin ơn cứu độ,
Hãy khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ,
Hãy tích cực cộng tác vào công trình cứu độ,
Hãy cảm tạ Chúa vì ơn cứu độ,
Hãy xin Chúa thương ban ơn cứu độ cho thế giới vv…
Tất cả chứng tỏ ơn cứu độ là hết sức quan trọng.
Vậy ơn cứu độ là gì?
Tôi không đưa ra một định nghĩa thần học. Chỉ xin nêu lên một số yếu tố gần gũi, vừa rút ra từ Kinh Thánh, vừa sát với kinh nghiệm cuộc đời.
Yếu tố thứ nhất là con người cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi. Tội lỗi bám vào con người. Tội lỗi đeo đẳng cuộc đời. Tội lỗi tước đoạt tự do con người.
Đây là một kinh nghiệm bản thân, mà mỗi người đều có thể nói lên cách này hay cách khác. Riêng thánh Phaolô dám viết ra kinh nghiệm của mình một cách khiêm nhường và xác thực. Thiết nghĩ đây là một sự thực mà mỗi người nên coi là của chính mình. Ngài viết: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.
Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25). Nói lên được sự thực bi đát đó như thánh Phaolô là điều đáng mừng. Phải nhận sự thực này một cách khiêm nhường mới hiểu được sự cần thiết đi tìm ơn cứu độ.
Hiện nay, ý thức về tội đã và đang suy giảm một cách mau lẹ và rất đáng lo ngại. Có người mất hẳn ý thức về tội. Vì thế mà tình hình đạo đức xuống dốc rõ ràng. Nguy cơ đe doạ phần rỗi là rất trầm trọng.
Do đó, Mùa Chay nói về ơn cứu độ, mà nếu quên nhắc đến xiềng xích tội lỗi, thì sẽ là một thiếu sót lớn. Đối với những ai có trách nhiệm loan báo ơn cứu độ, sự thiếu sót đó sẽ là một bất trung đối với Đấng Cứu độ, làm lạc đi ý nghĩa mùa chay.
Yếu tố thứ hai là con người cần được cứu khỏi nguy cơ làm tôi ma quỉ. Quyền lực ma quỉ trên thế gian này là rất lớn, rất rộng.
· Có trường hợp con người vâng phục ma quỉ một cách ngoan ngoãn và tự nhiên như thể họ là con cái đối với ma quỉ là cha mẹ họ. Chúa Giêsu có lần đã nói rõ về một đám đông: “Cha các ông là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thực, vì sự thực không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).
· Có trường hợp con người phải vâng phục ma quỉ một cách miễn cưỡng như kẻ bị xiềng xích dưới quyền bạo lực.
Thánh Luca thuật lại hình ảnh kẻ bị quỉ ám tại Ghêraxa như một người bị cả một cơ binh hành hạ khống chế một cách ác độc. “Chúa Giêsu hỏi: “Tên anh là gì? Anh thưa: Đạo binh. Vì rất nhiều quỉ nhập vào anh” (Lc 8,30-31).
· Có trường hợp con người đi theo sự dụ dỗ của ma quỉ, như một người liên minh thân thích vốn cùng chung mưu tìm sự tội. Kinh Thánh nói: Khi Giuđa vừa ăn xong tấm bánh Chúa Giêsu trao cho, “Satan liền nhập vào y” (Ga 13,27).
Sự ma quỉ luôn mưu tìm cách lôi kéo con người vào đường tội lỗi là điều chắc chắc. Chúa Giêsu phán: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31).
Chính thánh Phêrô sau này cũng đã trải qua kinh nghiệm đó, nên đã khuyên bảo giáo đoàn mình: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ là thù địch anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em” (1 Pr 5,8).
Trước một nguy cơ đáng sợ như thế đang xảy ra xung quanh chúng ta, chúng ta rất cần đến Đấng cứu độ. Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu đã nhiều lần trừ quỉ, và ma quỉ rất sợ Ngài. Chính Ngài là Đấng cứu độ con người khỏi quyền lực ma quỉ.
Yếu tố thứ ba là con người cần được hiệp thông với Thiên Chúa. Hai yếu tố trên chỉ là mặt tiêu cực. Mặt tích cực của ơn cứu độ là được hiệp thông với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. Thiên Chúa thường được trình bày như nguồn sự sống. Chúa Giêsu phán: “Quả thực, Chúa Cha có sự sống nơi mình thể nào, thì cũng ban cho người con được sự sống nơi mình như vậy” (Ga 5,26). Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,2).
Tham dự vào sự sống đời đời của Chúa được hiểu là được cứu độ. Vì thế, Chúa Giêsu hay nói về sự tham dự này nơi chính Ngài: “Ta là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). “Ta đến để họ được sống và sự sống dồi dào” (Ga 10,10). Theo chính Chúa Giêsu giải thích, thì tham dự sự sống của Chúa là nhận biết Thiên Chúa. Trong bữa tiệc ly Ngài nói với Chúa Cha: “Sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
Theo Kinh Thánh, nhận biết Chúa thường mang một ý nghĩa riêng biệt, đó là tiếp xúc trực tiếp với Ngài, đón nhận Ngài, dấn thân theo Ngài, chọn Ngài một cách dứt khoát như chọn sự sống.
Như thế nhận biết Chúa cũng là một cách xin vâng trọn vẹn ơn gọi Chúa gởi đến cùng với mọi trách nhiệm đi kèm ơn gọi đó. Nhận biết Chúa là chọn điều Chúa chọn, nghĩ điều Chúa nghĩ, muốn điều Chúa muốn, cảm điều Chúa cảm. Nhận biết Chúa như thế là một cách cảm nghiệm được sự Chúa ở bên mình, ở trong mình, ở với mình. Ngài sống động như một tình yêu tác tạo và cứu độ, an ủi và đỡ nâng.
Ba yếu tố tôi vừa nêu lên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi hy vọng, với ơn Chúa, những người thiện chí sẽ có thể dùng như một gợi ý đơn sơ dễ hiểu, để đi vào Mùa Chay theo phương hướng rõ ràng. Họ sẽ cầu nguyện, sám hối, hãm mình, sửa tính theo ý Chúa một cách có ý thức hơn.
Tôi cầu mong: Những tâm hồn bé nhỏ, con cái Đức Mẹ, trong Năm Mân Côi này, sẽ đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, biến Mùa Chay này thành khí cụ bình an, mang ơn cứu độ đến cho một mảng lớn nhân loại, đầy những xung khắc, đầy những sợ hãi, đầy những bất ổn, đầy những ảo tưởng đang chuẩn bị cho những chết chóc tang thương và những hận thù sâu sắc lâu dài.
SUY NIỆM 14: BỤI TRO
Hôm nay, khi bỏ tro trên đầu chúng ta, vị linh mục chủ sự đọc:
- Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro.
Cũng một lời ấy được lặp lại cho mọi người, không phân biệt nam nữ, tuổi tác và địa vị.
Trong ngày đăng quang, trước đông đảo quần chúng từ khắp nơi kéo về công trường thánh Phêrô, vị Hồng Y niên trưởng tiến tới trước mặt Đức Tân Giáo Hoàng, tay cằm một miếng vải mỏng, vừa đốt vừa nói:
- Thưa Đức Thánh Cha, mọi chức sang quyền trọng cũng sẽ qua đi như thế.
Đó là một sự thật, mà không ai có quyền chối cãi.
Ngoài nghĩa địa có biết bao nhiêu ngôi mộ, cái thì to, cái thì nhỏ, cái thì đơn sơ một nắm đất, cái thì được xây cất lộng lẫy như một biệt thự, nhưng bên trong cũng chỉ là xương khô và tro bụi. Người đi trước thế nào, thì chúng ta những kẻ đi sau cũng thế, một ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu vâng theo định luật chung ấy mà thôi:
- Danh vọng là mây khói và con người là bụi tro.
Bởi đó chúng ta phải nhìn rõ con người bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu? Mục đích của cuộc đời chúng ta là gì?
Đức tin trả lời cho chúng ta rằng: cuộc đời là một chuyến đi tìm về cùng Thiên Chúa, mục đích cuối cùng của chúng ta phải là chính Thiên Chúa. Và để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, Giáo Hội trong mùa chay luôn kêu gọi chúng ta hãy hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, đó là những cái chúng ta có thể đem theo trong cuộc hành trình cô đơn là cái chết.
Tuy nhiên, trong khi chấp nhận hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, chúng ta cần phải tránh đi thói kiêu căng và háo danh. Có nghĩa là chúng ta phải âm thầm và kín đáo, để chỉ mình Chúa biết và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta mà thôi.
Jacopone là một luật sư nổi tiếng, trong cuộc chạy đua vào thượng viện, ông trúng ghế nghị sĩ. Vào ngày ăn khao, đang lúc xem trình diễn văn nghệ thì rạp hát bị sụp đổ, khiến bà Jacopone bị vùi dưới đống gạch vụn. Người ta phải đào bới mãi mới kéo được bà lên. Khi ấy bà đã bị thương nặng và đang thoi thóp gần chết. Lúc bấy giờ người ta mới khám phá ra, bên trong chiếc áo dạ hội, bà mặc một chiếc áo nhặm, kết bằng lông ngựa cứng.
Ông Jacopone phàn nàn trách bà là đã đày đoạ thân xác, nhưng bà trả lời:
- Tôi khuyên răn mà ông không nghe. Ông vẫn cứ sống bê tha. Vì thế, tôi mặc áo này, để hy sinh và cầu nguyện cho ông.
Bà đã hy sinh hãm mình một cách âm thầm lặng lẽ để cầu nguyện cho ông và chỉ có một mình Chúa hay biết mà thôi.
Việc bỏ tro trên đầu nhắc cho chúng ta nhớ rằng mình chỉ là tro bụi, nhưng đừng trở về bụi tro với hai bàn tay trắng.
Bởi đó, ngay từ giây phút này chúng ta hãy lo thực thi tình bác ai yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời. Bởi vì, đứng trước cái chết thì: Những gì chúng ta ta có hôm nay, ngày mai sẽ thuộc về người khác. Những gì chúng ta mua sắm hôm nay, ngày mai người khác sẽ hưởng dùng. Chỉ những gì chúng ta cho đi mới mãi mãi thuộc về chúng ta mà thôi.
SUY NIỆM 15: HOÁN CẢI
Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.
Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hàng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.
Rồi một ngày kia người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.
Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh:
- Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.
- Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.
- Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi: có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa: sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.
Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế: muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa. Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục. Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.
Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc. Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp:
- Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi? Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi? Vị ẩn sĩ trả lời: quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng: tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó. Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó. Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.
- Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp? Vị ẩn sĩ cũng trả lời: cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng: phải quí chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ảnh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.
Người anh trong câu chuyện trên phản ảnh tâm trạng của chúng ta:
- Cuộc sống của chúng ta có thể nói là cứ mãi mãi ở thế bình bình: chúng ta không đến nỗi xấu lắm mà cũng không được tốt lắm. Cái thế lình bình đó khiến chúng ta giống như một thân cây bị chai: không chết khô mà cũng không có sức sống vươn lên.
- Tại vì mỗi ngày chúng ta không biết cố gắng loại bớt khỏi ta những gì là xấu, là khuyết điểm, là tội lỗi và đồng thời cũng không cố gắng đón nhận những gì là tốt, là cao, là lý tưởng hơn. Nghĩa là vì chúng ta không chú ý thực hiện sự hoán cải hằng ngày cho nên hết ngày này sang ngày khác cuộc đời của chúng ta vẫn cứ chai lì, tầm thường, vô vị.
- Muốn cho cuộc sống có đà vươn lên thì phải thực hiện sự hoán cải ấy:
Mỗi ngày loại dần những cái xấu bằng cách đừng nghĩ tới nó, đừng tiếp xúc với nó, đừng mơ tưởng tới nó. Mỗi ngày đón nhận thêm những điều tốt bằng cách đi tìm nó, chú trọng tới nó, mơ ước nó và cố gắng chiếm đoạt nó.
Bấy nhiêu thôi xét ra cũng đủ là một chương trình dài hạn cho chúng ta chẳng những trong mùa chay này mà còn trong suốt cả cuộc đời chúng ta.
(Trích trong Sợi Chỉ Đỏ)
SUY NIỆM 16: ĂN CHAY CÁCH NÀO MỚI ĐẸP LÒNG THIÊN CHÚA? - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong các tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, ăn chay có những ý nghĩa và tác dụng nào?
2. Ăn chay như thế nào mới đẹp lòng Thiên Chúa? Mới đem lại ích lợi đích thực cho tâm linh ta? Hình thức ăn chay và tinh thần chay tịnh, cái nào quan trọng hơn?
3. Tại sao nên ăn chay và cầu nguyện một cách kín đáo?
Suy tư gợi ý:
1. Ăn chay trong đời sống tâm linh và tôn giáo
Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.
a. Trước hết, ăn chay - thường đi đôi với hãm mình - là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hoà với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ninivê là một điển hình (x. Gn 3,1-10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá huỷ thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã từ bỏ dự định phá huỷ thành ấy.
b. Ăn chay - phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái - là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giêsu hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội…
c. Ăn chay - phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm - để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giêsu đề cập đến qua câu nói: «Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện» (Mt 17,21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.
Chính Đức Giêsu đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.
2. Tinh thần chay tịnh
Cốt yếu của việc ăn chay không hệ tại việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà hệ tại tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh… Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: «Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương» (Gr 14,12).
Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Điều này phù hợp với lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: «Khi ăn chay, hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh». Ngôn sứ Giôen trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh cái cốt tuỷ bên trong của việc chay tịnh: «Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em» (Ge 2,13). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.
Ngôn sứ Isaia lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài: «Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?» (Is 58,3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.
Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng «các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung. Tuy nhiên, ta cần biết là tâm tình thâm sâu bên trong làm cho hình thức thể hiện bên ngoài có giá trị. Nếu chỉ có hình thức bên ngoài, thì hình thức đó hoàn toàn vô giá trị.
3. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.
Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là «tình yêu biểu diễn», «có vẻ yêu thương», mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giêsu khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: «Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo».
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ Isaia, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ… trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.
SUY NIỆM 17: HÃY XÉ LÒNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên.
Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thày trò hăng hái lên đường. đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày.
Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình. Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.
Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt. Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh? Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.
Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình. Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.
Xức tro là để tỏ lòng sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.
Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ. Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm. Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em. Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2 ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác. Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em. Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau. Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc. Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.
Chính vì thế mà tiên tri Dô-el đã kêu gọi dân chúng: "Hãy xé lòng chứ đừng xé áo". Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra. Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối. Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.
Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể. Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai. Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.
Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa. Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay. Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.
Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi. Amen.
SUY NIỆM 18: MẦU TÍM TRONG PHỤNG VỤ MÙA CHAY
(Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long)
Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.
Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.
Mầu tìm có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin chúng ta?
Mầu tím là hỗn hợp pha trộn của hai mầu đỏ và xanh chung nhau.
Mầu tím nói về sự ăn năn thống hối trở về đường ngay lối chính.
Mầu tím dùng trong Phụng vụ cho mùa Vọng chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giáng sinh nhập thể làm người, cho mùa chay chuẩn bị đón mừng lễ Chúa sống lại từ cõi chết, cho nghi lễ cử hành bí tích hòa giải thống hối, cho lễ nghi rước kiệu cầu mùa ba ngày trước lễ Chúa Giêsu lên trời, và cho nghi lễ an táng người qua đời.
Trong mùa chay, phẩm phục phụng vụ dùng mầu tím muốn diễn tả: đời sống cũ của con người sụp tàn qua đi, và đời sống mới trong con người nẩy mầm mọc lên.
Đúng như vậy, mầu tím diễn tả sâu xa khía cạnh sụp đổ suy tàn, sự qua đi, sự cởi bỏ của con người cũ, nó khơi lên sự sầu buồn, nhớ nhung mong chờ.
Nhiều người nghĩ rằng mầu tím gợi lên tâm tưởng bất an, gây suy nghĩ bối rối. Có người cho rằng mầu tím đóng vai trò trung gian trình bày giữa trời và đất, giữa đam mê khát vọng và thông minh của trí khôn, giữa tình yêu mến và sự khôn ngoan.
Giáo Hội nhìn nơi mầu tím là mầu nối kết giữa mầu xanh và mầu đỏ. Mầu xanh nói chỉ về trời, còn mầu đỏ nói chỉ về con người.
Mầu tím dùng trong phụng vụ mùa chay muốn nói lên ý nghĩa: Thần linh Thiên Chúa liên kết với con người, cùng tìm cách thấm nhập vào thân xác máu mủ của họ.
Mùa chay không chỉ nguyên là thời thời gian hãm mình kiêng khem, nhưng còn là thời gian tinh luyện tẩy rửa cho trở nên tinh ròng thanh sạch, thân xác hướng về Thiên Chúa nơi trời cao, như mầu đỏ hoà lẫn chung hợp với mầu xanh.
Trong lễ an táng người qúa cố vị chủ tế mặc phẩm phục lễ nghi mầu tím muốn nói lên niềm hy vọng, người qúa cố với cả thân xác linh hồn đi về với Thiên Chúa, trời và đất liên kết lại với nhau, đất được cất nhắc đưa lên trời cao.
Mầu tím trong phụng vụ mùa chay nói lên ý nghĩa cánh cửa mầu nhiệm chết, sự đau buồn mở sang nếp sống mới: sự sống lại của Chúa Giêsu là ơn cứu chuộc cho con người.
Suy Niệm 5: Tro bụi
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Người cha rất đau khổ vì đứa con trai theo bạn bè phung phí hết tiền của. Cùng đường, chàng ta viết thư thống thiết xin lỗi cha và ngỏ ý xin cha thương xót. Người cha gửi cho cậu bức điện tín, chỉ có một chữ “về” và kí tên cũng chỉ một chữ “cha”.
Tin Mừng của Chúa cũng là bức điện tín gửi cho thế giới đầy tội lỗi này, với một chữ “về” và một chữ kí “cha”. Mùa Chay, mùa trở về cùng Chúa là Cha...
Suy niệm
Bụi thường được dùng kết hợp đồng hóa với tro… tro bụi. Bản Kinh Thánh Bảy Mươi nhiều lần các học giả dùng từ “bụi” để nói và đồng hóa “tro”. Trong Kinh Thánh tro bụi là biểu tượng tội lỗi (x. Kn 15,10; Ed 28,18), sự mỏng giòn của con người, sự khiêm tốn (St 18,2), nỗi đau khổ (x. G 42,6; Gn 3,6; Gdt 4,11-15; Ed 27,30; Mt 11,21) và cả sự thống hối ăn năn (x. Gn 3,6; G 42,6).
Mùa Chay Thánh bắt đầu bằng thứ Tư Lễ Tro - ngày được gọi là ngày “bụi tro” bởi vì trong ngày này, người tín hữu lãnh nhận tro được ghi hình thánh giá trên trán. Nghi thức xức tro trong ngày đầu Mùa Chay đã bắt đầu vào thời Ðức Giáo Hoàng Grêgrôriô Cả (590 - 604). Ngày “bụi tro” có nguồn gốc từ “Dies Cinerum” trong sách Lễ Rôma và được tìm thấy trong quyển sách Lễ Grêgôriô. Với tất cả ý nghĩa của tro bụi trong Thánh Kinh, việc lãnh nhận tro trên trán là dấu chỉ nhắc nhở sự chết và sự ăn năn, ý thức thân phận mỏng giòn như bụi đất, sám hối vì những lầm lỗi mà mình phạm. Nghi thức xức tro được đưa vào phụng vụ Tây phương vào thế kỷ X, và được phổ biến rộng rãi trong Giáo hội tại Công đồng Bênêventô năm 1091.
Khi xức tro lên trán người tín hữu, thừa tác viên kêu gọi sự sám hối của người muốn nhận lãnh tro và khiêm tốn nhìn nhận mình thấp hèn: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19), hay thừa tác viên dùng lời kêu gọi ý thức mình tội lỗi, sám hối và canh tân đời sống theo Tin Mừng với lời mà Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
Con người dù trong thân phận thấp hèn yếu đuối như tro bụi, nhưng qua cử chỉ khiêm tốn nhận tro với dấu thánh giá được ghi trên trán, dấu tượng trưng cho ấn tín thánh mà người tín hữu lãnh nhận khi lãnh phép rửa tội. Dấu giải phóng khỏi tội, qua dấu đó, người tín hữu được trở nên con cái của Thiên Chúa (x. Rm 6,3-18). Đó là dấu chỉ con người trở về với bụi đất. Nhưng trong bụi đất, nhờ Đức Kitô qua cái chết trên thập giá và phục sinh, con người sẽ tham dự vào vinh quang với Ngài. Cho nên, việc lãnh tro cũng được coi như là dấu chỉ của sự trở về trong vinh quang khi chúng ta được lãnh nhận làm con cái của Thiên Chúa đã được diễn tả trong sách Khải Huyền, vinh quang với Chiên chiến thắng là Đức Giêsu Kitô khải hoàn.
Vì thế, xức tro trên trán là nhận mình yếu đuối, sám hối lỗi lầm, nhưng cũng tuyên tín rằng sẽ được tìm thấy, gắn liền lại tình yêu, tình bạn hữu với Tạo Hóa bởi dấu thánh giá… với tro bụi, chúng ta nhìn nhận thân phận bất toàn, sám hối lầm lỗi, tro bụi với dấu thập giá - trở nên dấu vinh quang…
Mang tâm tình sám hối trong Mùa Chay, người tín hữu làm việc bác ái, cầu nguyện và chay tịnh. Nhưng Chúa dạy hãy làm với sự khiêm nhường và làm cách kín đáo chỉ mong làm vui lòng Cha trên trời.
Ý lực sống: Vâng, đón nhận tro chúng ta ý thức rằng: “Lửa tình yêu Thiên Chúa đã thiêu rụi tội lỗi, đốt cháy bởi lòng thương xót của Ngài… hãy nhìn tro, mang ý nghĩa tuyên xưng Đức tin vào mầu nhiệm Pascale – Phục sinh: Một ngày chúng ta sẽ là tro bụi, nhưng được dành để Phục sinh”
(Enzo Bianchi, Donner sens au temps, Bayard, 2004).
16/02 Phó thác cho tình yêu Thiên Chúa
- Viết bởi Mc 8, 14-21
Phó thác cho tình yêu Thiên Chúa.
Thứ Ba tuần 6 thường niên.
"Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái và men Hêrôđê".
Lời Chúa: Mc 8, 14-21
Khi ấy, các môn đệ quên mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh trong thuyền. Và Chúa Giêsu dặn bảo các ông rằng: "Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê". Các môn đệ nghĩ ngợi và nói với nhau rằng: "Tại mình không có bánh".
Chúa Giêsu biết ý liền bảo rằng: "Sao các con lại nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các con không nhớ sao?" Các ông thưa: "Mười hai thúng". - "Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?" Họ thưa: "Bảy thúng".
Bấy giờ Người bảo các ông: "Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Không nhớ sao?
Suy niệm:
Tin Mừng Máccô kể ba câu chuyện về việc Thầy trò vượt Biển hồ.
Lần đầu, Thầy Giêsu đã ra lệnh cho sóng gió yên lặng
khiến các môn đệ tự hỏi: Người này là ai…? (Mc 4, 35-41).
Lần thứ hai, sau khi hóa bánh ra nhiều, Thầy đã đi trên mặt nước mà đến với họ.
Nhưng lòng các môn đệ còn chai đá,
họ không hiểu được chuyện bánh hóa nhiều (Mc 6, 45-52).
Bài Tin Mừng hôm nay là lần cuối Thầy trò vượt biển qua bờ bên kia,
sau khi Thầy Giêsu đã hóa bánh ra nhiều lần thứ hai (Mc 8, 1-10).
Có một sự cố xảy ra khiến các môn đệ lo âu.
Các ông quên mang bánh khi vượt biển.
Trên thuyền chỉ có một cái bánh duy nhất (c. 14).
Không rõ tại sao trong bối cảnh này Thầy Giêsu lại cảnh báo các ông
về thứ men xấu làm hư hỏng con người (x. 1 Cr 5, 6-8),
đó là thứ “men của người Pharisêu và men của người theo Hêrôđê (c. 15).
Có lẽ vì cuộc đụng độ vừa qua với người Pharisêu (Mc 8, 11-13).
Nhưng lời cảnh báo của Thầy Giêsu có thể đã bị các môn đệ hiểu sai.
Các ông tưởng Thầy trách về chuyện họ không mang đủ bánh.
Từ đó xảy ra một cuộc tranh cãi giữa họ với nhau về chuyện này.
Thầy Giêsu chắc là giận lắm.
Chưa khi nào chúng ta thấy Ngài đặt nhiều câu hỏi liên tiếp như vậy.
Tùy lối chấm câu, có thể có từ sáu đến chín câu hỏi.
Qua các câu hỏi, Ngài bày tỏ sự thất vọng về các môn đệ.
Họ chậm hiểu, chậm nắm bắt; tim của họ bị chai (c. 17).
Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe (c. 18).
Trí nhớ và lòng tin của họ khá kém,
vì dù đã chứng kiến hai lần phép lạ bánh hóa nhiều,
một lần, năm chiếc bánh cho năm ngàn người,
lần khác, bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người,
họ vẫn lo âu khi thấy trong thuyền chỉ có một chiếc bánh dự trữ.
“Vậy mà anh em vẫn còn chưa hiểu sao?” (c. 21).
Chúng ta cũng nghe Chúa hỏi câu hỏi này khi chúng ta xao xuyến âu lo
trước những khó khăn của cuộc sống.
Các môn đệ vượt biển mà không mang đủ lương thực cần dùng.
Họ lo âu vì sợ lỡ ra có bão hay sự cố gì thì làm sao đây.
Thực ra điều họ quên không phải là bánh,
mà là quên Thầy Giêsu đang ở cùng thuyền với họ.
Chúng ta cần ôn lại những điều lạ lùng Chúa đã làm cho đời ta từ nhỏ,
để sống mỗi ngày trong bình an.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con. (Charles de Foucauld)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm 2: Anh em không nhớ sao?
Suy niệm:
Ít khi Đức Giêsu giận các môn đệ đến thế.
Ngài đặt cho họ dồn dập bảy câu hỏi liên tiếp (cc. 17-21),
và Ngài chỉ cho họ hai cơ hội trả lời (cc. 19, 20).
Câu chuyện xảy ra khi Thầy trò đang ở trên thuyền đi qua bờ bên kia.
Các môn đệ quên đem bánh theo,
hay đúng ra trên thuyền chỉ có một chiếc bánh (c. 14).
Hẳn các ông đã cảm thấy lo âu, bất an,
vì lỡ ra cuộc hành trình kéo dài,
một chiếc bánh làm sao đủ ăn cho cả nhóm?
Chính vì thế họ mới bàn tán với nhau về chuyện thiếu sót này (c. 16).
Chẳng rõ cuộc bàn cãi giữa họ có lớn tiếng không,
nhưng chắc chắn Thầy Giêsu đã biết được (c. 17).
“Tại sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không có bánh?” (c. 17).
Tại sao anh em lại có vẻ lo sợ, không yên?
Thầy Giêsu rõ ràng không chấp nhận thái độ bất an đó.
“Anh em chưa hiểu, chưa thấu sao?
Anh em có trái tim cứng cỏi như thế sao?” (c. 17; Mc 6, 52).
Đối với người Do Thái, trái tim là nơi phát sinh mọi suy nghĩ và hiểu biết.
Một trái tim cứng cỏi ắt không còn khả năng thấu hiểu.
Khi đường vào trái tim bị nghẽn, mọi lối vào qua giác quan cũng bế tắc:
“Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe sao?” (c. 18).
Người có trái tim cứng cỏi thì trở nên mù lòa và điếc lác.
Để các môn đệ thấy rằng nỗi lo âu của họ là vô lý,
Thầy Giêsu đã gợi cho các ông nhớ lại hai lần Ngài làm bánh hóa nhiều.
“Anh em không nhớ sao?” (c. 18).
Với năm chiếc bánh Thầy bẻ cho năm ngàn người ăn,
anh em còn thu về được mười hai thúng bánh vụn (c. 19; Mc 6, 31-44).
Với bảy chiếc bánh Thầy bẻ cho bốn ngàn người ăn,
anh em còn thu được bảy giỏ đầy (c. 20; Mc 8, 1-9).
Thầy có thể nuôi được số đông người như thế một cách dư dật,
vậy mà anh em còn lo vì thấy cả nhóm chỉ có một chiếc bánh khi qua hồ.
Câu hỏi cuối cùng của Thầy: “Anh em vẫn chưa hiểu sao?”
Con người là con vật hay lo, quay quắt vì lo.
Có khi lo vì dễ quên những gì Chúa đã làm cho đời mình.
Nếu ta dành giờ để suy nghĩ về những kỳ công Chúa làm trong quá khứ,
ta sẽ được giải thoát khỏi những nỗi lo hiện tại chẳng đáng gì.
Hãy để cho trái tim mình mềm lại, trí hiểu được thông suốt,
mắt sáng lên và tai nhạy bén, trí nhớ minh bạch rõ ràng.
Như thế là hãy để cho toàn bộ con người mình mở ra trước Thiên Chúa,
tín thác vào sự quan phòng của Ngài khi ta băng qua biển đời.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn hỏi chúng ta: Anh em không nhớ sao?
Nhớ là hành vi quan trọng trong đời sống thiêng liêng.
Nhớ sẽ làm chúng ta bình an ra khơi với Thầy, dù chỉ có một chiếc bánh.
Nhớ sẽ làm chúng ta dám chia sẻ số bánh nhỏ nhoi của mình cho đám đông.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 3: ,,,
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Suy Niệm 4: Tín thác vào tình yêu của Chúa
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu ngồi trên thuyền với các môn đệ để đi về hướng Betsaiđa; Ngài lợi dụng những giây phút rảnh rỗi để trắc nghiệm phản ứng của các ông về những phép lạ Ngài đã thực hiện, đặc biệt là phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều.
Khi cảnh giác các môn đệ phải tránh men của Biệt phái và men của Hêrôđê, Chúa Giêsu có ý ám chỉ đến sự mù quáng và những thành kiến của những nhóm người này. Chúa Giêsu đã dùng chữ "men" để nói đến tinh thần kiêu ngạo và thái độ mù quáng ấy. Thế nhưng, các môn đệ đã không hiểu được kiểu nói bóng bẩy ấy, đầu óc các ông còn đầy những bận tâm về vật chất.
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy ra khỏi những bận tâm vật chất ấy để hiểu được ý nghĩa các phép lạ và sứ điệp của Ngài. Ðó cũng chính là nội dung của chương trình huấn luyện mà Ngài đeo đuổi trong ba năm rao giảng của Ngài. Mãi đến lúc Ngài bị bắt và chịu treo trên Thập giá, xem chừng các môn đệ vẫn chưa hiểu được chiều sâu sứ điệp của Ngài. Mơ tưởng của những người dân chài này là được trở thành công hầu khanh tướng trong vương quốc trần gian mà họ nghĩ là Chúa Giêsu đã đến để thiết lập.
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ Ngài hãy vượt lên những bận tâm vật chất để đi vào chiều sâu sứ điệp của Ngài. Ðiều đó cũng có nghĩa là tin vào quyền năng của Ngài, hoàn toàn phó thác cho Ngài. Giữa những khó khăn thử thách của cuộc sống, con người dễ dàng chạy đến với Chúa: đó là thái độ rất chính đáng, bởi vì qua cử chỉ ấy, con người tuyên xưng niềm tin vào tình yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy có một thái độ vô vị lợi hơn, hoàn toàn tín thác vào tình yêu của Ngài. Một thái độ như thế sẽ cho chúng ta nhận ra tình yêu của Ngài, và cho chúng ta thốt lên như các vị thánh: "Tất cả đều là hồng ân của Chúa" bởi vì tình yêu của Ngài vượt trên mọi tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta một niềm tin như thế, để trong mọi sự, chúng ta luôn biết dâng lời cảm tạ Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Quên mang theo bánh
Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh? Các ông đáp: “Thưa được mười hai.” “Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu bánh?” Các ông nói: “Thưa được bảy.” (Mc. 8, 19-20)
Khi thuyền đã ra tới gần giữa Biển Hồ, các môn đệ mới nhận thấy là chỉ có một cái bánh cho bữa ăn. Một cái bánh cho mười hai người mà phần lớn đều là những tay chài thì thật quá ít, chẳng bõ nhét kẽ răng cho mỗi người. Vì thế cuộc cãi vã nổi lên có lẽ để dò tìm cho biết ai là người đã gây nên cớ sự này, ai là người phụ trách lo lương thực cho nhóm? Chẳng lẽ người ấy không có thể mang theo cả thúng bánh thừa sau phép lạ sao? Thấy vậy, Chúa liền can thiệp mạnh mẽ và nghiêm nghị đến độ ta phải ngạc nhiên. Tại sao rầy rà nhau vì đã quên mang bánh theo? Tại sao cãi cọ nhau vì một sự cố tầm thường như thế? Thường khi người ta quên sót một điều chi, thì hay bực bội. Nhưng Chúa Giêsu nắm lấy cơ hội này để huấn luyện các môn đệ của mình, và qua đó Người cho ta thấy rằng tư chất cuộc sống thưòng ngày bộc lộ cái tâm cúa ta rõ hơn ta tưởng.
Thực ra không phải vì chuyện quên mang theo bánh khiến Chúa Giêsu bực mình mà vì chuyện quên sót này làm cớ cho các tông đồ cãi cọ nhau và gây lo lắng cho các ông; vả lại cuộc cãi cọ này còn cho thấy các tông đồ hiểu biết về bản thân Chúa còn quá ít. Quên bánh đưa các ông tới điều quên Người là Đức Giêsu Kitô.
Căn nguyên của sự quên xót
Chúa Giêsu còn đi xa hơn. Chúa cảnh báo các môn đệ về căn nguyên sự quên lãng chính bản thân Người, tức là thái độ không tin. Men Pharisiêu và men Hêrôđê chính là những ý xấu, những thái độ từ chối và thù địch đối với Chúa Giêsu và là sự cố chấp không chịu tin các dấu lạNgười làm. Những tâm hồn cứng cỏi này có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe. Đã hẳn các tông đồ không phải là những con người như vậy: các ông đã không đòi hỏi những dấu lạ từ trời, không tích cực tỏ ra không tin. Tuy nhiên các ông đã không nắm bắt được ý nghĩa việc Chúa làm trước mắt các ông, và do đó có nguy cơ dẫn đến thái độ không tin. Bởi lẽ các ông sống và suy nghĩ như thể đã không được nhìn thấy phép lạ hóa bánh vậy. Chúa bảo các ông phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisiêu là có ý như vậy. Quên Đức Giêsu Kitô nơi tư chất sống của Người có thể dẫn đến việc công kích Đức Giêsu Kitô vậy.
Chúng ta sợ hãi gì? Sợ thiếu những sự cần, sợ phải rủi ro xui xẻo, sợ ốm đau, sợ chết. Sợ những điều đó là chuyện thường tình của con người … người tín hữu đâu phải là siêu nhân. Nhưng khi ta sợ hãi như vậy, chẳng phải là đã có sự quên lãng Chúa ư, và thậm chí đã không tin Chúa một cách nào đó sao?
Suy Niệm 6: ANH EM CHƯA HIỂU Ư? (Mc 8,14 -21)
Qua những ngày làm việc mệt nhọc với đám đông dân chúng và sau khi Đức Giêsu bị những người Pharisêu đòi hỏi về dấu lạ..., Đức Giêsu đã không những không làm mà Ngài đã bỏ họ mà đi nơi khác.
Thánh Máccô kể: Đức Giêsu và các môn đệ đã trèo thuyền để ra đi hướng về Betsaiđa. Khi Ngài và các ông đang ở trên thuyền, thì đây là lúc riêng tư để thầy trò tâm sự. Đức Giêsu đã lên tiếng căn dặn các môn sinh của mình: “Anh em phải coi chừng, hãy đề phòng men Pharisêu và Hêrôđê!”. Tại sao Đức Giêsu lại cẩn trọng nhắc các môn đệ như vậy? Thưa là vì Ngài thấy rõ sự mù quáng do thành kiến và xuất phát từ thói kiêu ngạo, ghen tỵ, hình thức gây ra cho hai nhóm này, nên lòng họ khô cứng, trai lỳ, không còn nhạy bén với lương tâm nữa. Chính vì thế mà Đức Giêsu cảnh báo các môn đên dừng đi vào vũng lầy đó của họ.
Mặt khác, qua những lời thầm thì thể hiện sự lo lắng của các môn đệ về chuyện các ông không mang bánh theo, Đức Giêsu đã khiển trách các môn đệ và Ngài tiếp tục dạy cho các ông bài học về sự phó thác. Đức Giêsu đã dùng phương pháp hồi tưởng để gợi lại cho các môn sinh về sự quan phòng của Thiên Chúa khi con người tin tưởng vào Ngài qua hai phép lạ hóa bánh ra nhiều. Nhắc lại như thế, Đức Giêsu còn đi xa hơn để củng cố lòng tin của các ông vào chính Ngài, đó là: có Chúa là có tất cả. Chúa là kho báu mà không gì có thể sánh bằng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn, tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc, nhất là những lúc khó khăn, thử thách.
Khi phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài sẽ ra tay phù trợ, che trở và đỡ nâng chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con phó thác cuộc đời của mình vào bàn tay từ ái của Chúa để được Ngài yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Men Pharisiêu và Hêrôđê
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Con mèo bề ngoài trông có vẻ hiền lành, mềm mại. Khi muốn ăn, nó đến sát cạnh ta, cọ mình vào chân ta, ve vẩy đuôi, kêu meo meo, gừ gừ tỏ vẻ tình tứ, nhưng khi đã ăn rồi nó đi thẳng một lèo, gọi mấy cũng không đến. Khi rình chuột thì nó đi lại rất nhẹ, thu mình vào một xó tối, nằm im không cử động để chuột mất cảnh giác chạy ra tung tăng. Khi đó, anh mèo mới giở thủ đoạn chồm lên bắt mồi, ngoạm cổ đem đi cắn xé ăn thịt.
Người giả hình cũng tương tự như vậy.
Suy niệm
Trước phép lạ hóa bánh ra nhiều và các phép lạ của Chúa Giêsu, người biệt phái giả hình cố chấp vẫn không tin Chúa Giêsu. Họ còn đòi Ngài làm một dấu chỉ từ trời (x. Mc 8,11-13). Những người phái Hêrôđê thì lo chuyện quyền bính chính trị và quyền lợi vật chất nên cũng không lưu tâm đến giáo lý Chúa Kitô. Họ cứng lòng cố chấp. Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ phải tránh men giả hình của biệt phái và men quyền bính và ham vật chất của phái Hêrôđê. Hình ảnh “men” chỉ những gì gây nên tình trạng biến chất, hư hại do kiêu ngạo và thành kiến, làm cho người Pharisiêu và Hêrôđê cố chấp mù quáng không nhận ra ý nghĩa phép lạ.
Chính các môn đệ lòng trí hẹp hòi, con mắt thiển cận, chỉ nghĩ đến những cái trước mắt, những cái vật chất của thế giới trần tục nên dễ bị nhiễm thứ men này. Cho nên, Ðức Giêsu cảnh giác các đồ đệ, Ngài hướng các ông đến sự khát khao thần thiêng: Cuộc sống vĩnh cửu mới, đòi hỏi sự cố gắng mỗi ngày. Chúa Giêsu nhắc các môn đệ nhớ lại hai lần hóa bánh ra nhiều và giúp họ nhận ra ý nghĩa của các phép lạ Chúa làm. Ðiều đó cũng có nghĩa khẳng định tin vào quyền năng của Ngài, hoàn toàn phó thác cho Ngài.
Ước chi mỗi người chúng ta cũng có thái độ vô vị lợi, hoàn toàn tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa và nhận ra tình yêu của Ngài, tình yêu vĩ đại vượt trên mọi tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Ý lực sống: “Chúa Giêsu bảo các môn đệ: Anh em phải coi chừng,
phải đề phòng men Pharisiêu và men Hêrôđê”(Mc 8,15).
Suy Niệm 8: Hãy tránh men biệt phái
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu xuống thuyền đi với các môn đệ. Nhưng các ông quên mang bánh theo, trong thuyền chỉ có một cái bánh. Dọc đường, Chúa căn dặn các ông cẩn thận lo tránh “men những người biệt phái và Hêrôđê”, tức là lo tránh thói tự mãn, cứng đầu cứng cổ của họ. Nhưng các ông không hiểu ý Chúa muốn nói, mà cứ tưởng là Chúa quở vì không mang bánh theo ăn, nên Chúa trách các ông chậm hiểu kém tin. Chính mắt các ông đã thấy hai phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều cho mấy ngàn người ăn no nê mà còn dư thừa, chính tai các ông đã nghe bao nhiêu lời Chúa dạy mà cũng chưa hiểu chưa tin.
2. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu ngồi trên thuyền với các môn đệ đi về hướng Betsaiđa; Người lợi dụng những phút rảnh rỗi để trắc nghiệm phản ứng của các ông về những phép lạ Người đã thực hiện, đặc biệt là phép lạ bánh và cá ra nhiều.
Khi cảnh giác các môn đệ phải tránh men của biệt phái và men của Hêrôđê, Chúa Giêsu có ý ám chỉ đến sự mù quáng và những thành kiến của những nhóm này. Chúa Giêsu đã dùng chữ “men” để nói đến tính kiêu ngạo và thái độ mù quáng ấy. Thế nhưng, các môn đệ đã không hiều được kiểu nói bóng bẩy ấy, đầu óc các ông còn đầy những bận tâm về vật chất.
3. Từ thời Ai cập cổ đại, người ta đã dùng men để làm bánh mì, làm rượu. Mãi đến năm 1857 nhà khoa học Louis Pasteur mới khám phá ra rằng men thực ra là một thứ vi sinh vật thuộc loài nấm, âm thầm mọc rễ đam chồi trong các chất hữu cơ và làm biến chất chúng. Có những loài men hữu ích loài người biết được và sử dụng, nhưng cũng có hàng ngàn thứ men có hại như men chua, men thối làm hư hỏng thức ăn, thậm chí gây nhiễm độc chết người.
Chúa Giêsu cho biết về mặt thiêng liêng cũng có nhiều thứ “men”. Có thứ “men Nước Trời” mà người môn đệ Kitô đem thấm nhập vào trong thúng bột thế giới và âm thầm làm nó dậy men. Cũng có thứ men mà Chúa cảnh giác các môn đệ phải coi chừng, phải loại bỏ men biệt phái và men Hêrôđê (5 phút Lời Chúa).
4. “Anh em phải coi chừng, phải đề phong men biệt phái và men Hêrôđê” (Mc 8,150.
Khi xuống thuyền vội vàng, các ông quên mang bánh theo, trên thuyền chỉ có một chiếc thì không đủ cho mọi người. Các ông bàn tán việc đi mua bánh. Nhân dịp này, Đức Giêsu răn dạy các môn đệ hãy dè giữ cho khỏi men người biệt phái và men Hêrôđê.
Như chúng ta đã biết “Men” là hình ảnh những gì gây nên tình trạng biến chất, làm hư hại các chất hữu cơ). Các rabbi coi đó là những những hướng chiều xấu nơi con người. Ngày nay men biệt phái và men Hêrôđê vẫn còn sinh sôi nảy nở trong thời đại của chúng ta. Đó là thói kiêu căng giả hình, đánh mất lòng nhân nghĩa. Đó là “men” thực dụng, nặng về tiền bạc và vật chất, sống hưởng thụ và ích kỷ, men dâm ô, qua sách báo phim ảnh xấu khiến chúng ta vì đam mê chúng mà trở nên lãnh đạm thù nghịch với tình yêu Chúa và ơn cứu độ của Người. Vậy chúng ta đang “say” thứ men nào, “men trần tục” hay “men Kitô”?
5. “Người bảo các ông: “Anh em chưa hiểu ư”?
Câu hỏi này là lời Chúa trách móc các môn đệ. Họ là những người đã chứng kiến những phép lạ Chúa làm, họ đã phân phát bánh hóa nhiều mà họ còn lo lắng để tiếp tế lương thực, trong lúc Chúa Giêsu còn ở bên cạnh họ! Thế nhưng họ đã không ý thức rằng có Chúa Giêsu ở với họ, là họ có tất cả.
Điều này thật đúng tâm lý chúng ta. Chúng ta dễ dàng chấp nhận rằng: dĩ vãng, Thiên Chúa đã can thiệp cứu giúp chúng ta, ở với chúng ta. Nhưng hiện tại, khi chúng ta gặp khó khăn, gặp thử thách, phản ứng đầu tiên của chúng ta là lo lắng hốt hoảng, nghi ngờ, bối rối, chứ chúng ta có giữ bình tĩnh và tin chắc rằng Chúa vẫn tiếp tục ở với chúng ta không?
6. Truyện: Hãy nhìn ra dấu chỉ của thời đại.
Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người Tây phương, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước... Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ gặp một xác người. Một người thốt lên “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành”.
Tại sao lại có chuyện thế này? Nhưng người bạn lắc đầu giải thích: “Ông ta là người Tây phương. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng”.
Thảm trạng của con người thời đại: con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại (Mỗi ngày một tin vui).
15/02 Xin điềm lạ
- Viết bởi Mc 8, 11-13
Xin điềm lạ.
Thứ Hai tuần 6 thường niên.
"Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ?".
Lời Chúa: Mc 8, 11-13
Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người.
Người thở dài mà nói: "Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1a: Tìm một dấu lạ từ trời
Suy niệm:
Ai cũng dễ bị hấp dẫn bởi cái lạ thường, cái khác thường.
Còn cái bình thường, như thường, thì ít hấp dẫn, lắm khi tẻ nhạt.
Chỉ cần nghe đâu đó có hiện tượng khác thường là người ta đổ xô đến,
lắm khi chẳng cần suy nghĩ để biết có thực không, có đáng tin không.
Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ trong mấy năm sứ vụ.
Những phép lạ đó không nhằm ra oai biểu diễn quyền uy,
cũng không nhằm lôi kéo sự tôn vinh của dân chúng.
Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc đền thờ:
một cám dỗ làm điều ngoạn mục để thu hút quần chúng.
Ngài cũng từ chối xuống khỏi thập giá:
một hành vi đủ làm bẽ mặt những kẻ giết Ngài.
“Cứ xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy và tin” (Mc 15, 32).
Đức Giêsu không mua niềm tin của đám đông bằng sự phản bội Cha.
Ngài đã ở lại trên thập giá như một người có vẻ thua cuộc…
Kitô giáo không đặt nền trên những chuyện dị thường, ma quái.
Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ
vì Ngài chạnh lòng thương trước nỗi khổ đau của con người,
vì Ngài muốn đáp lại lòng tin quá lớn của bệnh nhân,
và vì Ngài muốn cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến rồi.
Phép lạ lớn nhất của Đức Giêsu là Tình Yêu.
Các ông Pharisêu không phủ nhận chuyện Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ.
Sau này các thượng tế cũng nhìn nhận:
“Hắn đã cứu được người khác…” (Mc 15, 31).
Nhưng họ thấy điều đó vẫn không đủ hoành tráng và gây ấn tượng.
Họ đòi một dấu lạ từ trời, một dấu lạ lớn hơn để họ tin vào Ngài.
Đức Giêsu đã mạnh mẽ từ chối đòi hỏi ấy.
Làm sao chúng ta nhìn ra được những điều bình thường, nho nhỏ
mà Chúa vẫn làm cho chúng ta mỗi ngày?
Nhiều khi chúng ta vẫn đòi những điều lạ lùng hơn, lớn lao hơn.
Như người Pharisêu, chúng ta chẳng hề mãn nguyện.
Chúng ta vẫn muốn thử Thiên Chúa, bởi lẽ chúng ta không tin Ngài.
Xin cho tôi thấy được sự kỳ diệu của Tình Yêu
nơi những điều tưởng như là tự nhiên của cuộc sống.
Cầu nguyện:
Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa nhân từ,
xin cho chúng con thấy sự hiện diện của Cha
trong vũ trụ vô cùng lớn, trong những hạt tử vô cùng nhỏ,
và trong bộ óc vô cùng phức tạp của con người.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy mầu sắc.
Mầu xanh cỏ non, mầu hồng trái chín, mầu vàng mặt trời xế chiều.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy âm thanh.
Tiếng suối róc rách, tiếng chim hót véo von,
tiếng gió rì rào qua kẽ lá.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.
Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,
hương thơm của nắng xuân dìu dịu.
Chúng con ca ngợi đôi tay khéo léo của Cha
khi tạo nên sự trong ngần ngời sáng của viên ngọc,
sự lộng lẫy phong phú của muôn loài hoa lan,
sự rực rỡ hài hòa nơi đôi cánh của loài bướm,
và nhất là sự đẹp đẽ cao cả nơi con người.
Dưới lòng đất, trên núi cao,
giữa biển sâu, trong rừng vắng,
chỗ nào chúng con cũng thấy bóng dáng Cha.
Xin cho chúng con
biết chung sống với thiên nhiên này
như một người bạn, một quà tặng Cha ban,
biết giữ gìn ngôi nhà trái đất
để nó khỏi hư hỏng, cạn kiệt,
và biết chia sẻ cho nhau bao tài nguyên còn tiềm ẩn.
Ước gì đến ngày cả trái đất, cả vũ trụ này
và muôn loài Cha đã dựng nên
được cùng với cả nhân loại chúng con
vui hưởng tự do và vinh quang trong Nước Cha. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm 2: Đòi một dấu lạ
Suy niệm:
Trong Tin Mừng Máccô, ngay sau phép lạ bánh hóa nhiều lần thứ hai,
các ông Pharisêu đã đến và tranh luận với Đức Giêsu.
Đơn giản họ muốn đòi Ngài làm một dấu lạ từ trời.
Có vẻ phép lạ nuôi đám đông vừa qua và những phép lạ trước đó
không đủ để thuyết phục họ tin vào con người Ngài.
Họ vẫn muốn thử thách Đức Giêsu (c. 1).
Chẳng trách Đức Giêsu đã thở dài não nuột
và quyết liệt từ chối một cách trịnh trọng: “Tôi bảo thật cho các ông biết:
thế hệ này sẽ không được cho một dấu lạ nào cả.” (c. 12).
Toàn bộ cuộc sống của Đức Giêsu đã là một dấu lạ từ trời rồi.
Trong nỗi muộn phiền, Ngài đặt câu hỏi với các ông Pharisêu:
“Tại sao thế hệ này lại đòi một dấu lạ?” (c. 12).
Hóa ra họ lại vấp vào tội của cha ông họ thời xưa trong hoang địa:
“Tổ phụ các ngươi đã từng thách thức
và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.
Suốt bốn mươi năm, dòng giống này làm Ta chán ngán.” (Tv 95, 8-11).
Bất chấp bao việc lạ Chúa làm (Ds 14, 10-12. 22),
dân Chúa hôm qua cũng như hôm nay vẫn không ngớt đòi thêm.
Các vị lãnh đạo Do Thái giáo đòi thêm vì họ không muốn tin Đức Giêsu.
Chính vì lòng họ chai đá, không muốn tin,
nên các phép lạ lớn lao trước mắt chẳng ảnh hưởng gì trên họ.
Họ mong một phép lạ lớn hơn nữa, rõ hơn nữa, ấn tượng hơn nữa.
Nhưng dù dấu lạ manna rơi xuống từ trời có xảy ra lại
thì chưa chắc họ đã tin Đức Giêsu.
Thay vì đòi Ngài làm thêm phép lạ để minh chứng,
con người cần ra khỏi sự chai đá của lòng mình
Cần có mắt sáng để thấy được ý nghĩa sâu xa của phép lạ.
Cũng như cần có tai tốt để hiểu được các dụ ngôn của Đức Giêsu.
và đi vào mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (Mc 4, 11).
Phép lạ của Đức Giêsu không chỉ hấp dẫn vì yếu tố kỳ diệu, lạ lùng,
nhưng vì chúng khai mở Nước Thiên Chúa
và vén mở cho ta thấy Đức Giêsu là ai.
Chẳng phải chỉ người Do Thái mới đòi hỏi những dấu lạ (1 Cr 1, 22).
chúng ta cũng dễ đặt đức tin mình trên nền tảng dấu lạ, phép lạ.
Chúng ta không thích cái bình thường, cái đều đặn xảy ra mỗi ngày,
vì chúng ta không tin Chúa hiện diện và hoạt động trong thầm kín.
Thay vì quá tìm kiếm và đòi hỏi những dấu lạ,
chúng ta được mời gọi nhận ra những dấu chỉ của thời đại mình sống.
Qua những thao thức và khát vọng của con người hôm nay,
chúng ta nghe được tiếng gọi mời của Thiên Chúa.
Qua dấu chỉ của một thế giới đang biến chuyển từng ngày,
chúng ta thấy Giáo hội cần thích nghi và đáp ứng những nhu cầu mới.
Người Pharisêu không đọc được ý nghĩa những dấu lạ Đức Giêsu làm.
Chúng ta xin ơn đọc được những dấu chỉ của Thiên Chúa cho thời hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 3: ĐỨC TIN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su buồn và than phiền về thế hệ này. Họ chỉ đòi dấu lạ. Nhưng không có đức tin. Có đức tin thì không cần dấu lạ. Không có đức tin thì dấu lạ cũng vô ích. Nên Chúa quyết định: “Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả. Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền qua bờ bên kia”. Chúa Giê-su bỏ họ lại đó với sự cứng lòng chết chóc của họ. Chúa sang bờ bên kia của đức tin. Chỉ có đức tin mới nối kết được con người với Thiên Chúa.
Nhưng đức tin luôn gặp thử thách vì những khó khăn trong đời sống. Những thử thách Chúa gửi đến có mục đích thanh luyện đức tin, kiểm nghiệm đức tin và ban thưởng đức tin.
Người có đức tin có Thiên Chúa ở cùng. Nên vui tươi trong mọi hoàn cảnh. Vui tươi khi gặp khốn khó. “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn”. Vui tươi chấp nhận mọi thăng trầm thành bại trong đời. Vì biết rằng mọi sự mau qua. “Người anh em phận hèn hãy tự hào khi được Chúa nâng lên; còn người giầu có hãy tự hào khi bị Chúa hạ xuống, vì họ sẽ qua đi như hoa cỏ”. Vì thế người có đức tin không do dự. Luôn cầu xin ơn khôn ngoan để biết phân định trong đời sống. Nhờ đó sống trung tín trong mọi hoàn cảnh. Luôn trung tín (năm chẵn).
Người không có đức tin sống như không có Chúa. Ca-in giết em, tưởng Chúa không biết. Nên chối “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?”. Không có đức tin nên không chiến đấu để vượt qua cám dỗ. Dù đã được cảnh báo: “Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn người; nhưng ngươi phải chế ngự nó”. Không chế ngự được mình. Không có đức tin. Nên Ca-in sống trong buồn rầu, thất vọng. “Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi,... Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa” (năm lẻ).
Đức tin như thế là một cuộc vượt qua. Vượt qua những gì khả giác để thấy thế giới siêu nhiên. Vượt qua những giá trị mau qua để chiếm được vương quốc vĩnh cửu. Vượt qua được những cám dỗ rình rập. Vượt qua chính mình để đạt tới Chúa.
Suy Niệm 4: Dấu lạ của tình thương
Thánh Marcô đặt cuộc tranh luận giữa Chúa và những người Biệt phái, sau một loạt phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện khi bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài. Phép lạ mới nhất là việc hóa bánh và cá ra nhiều cho đám đông theo Ngài. Những người Biệt phái đã bắt đầu nghe nói đến hoặc chính mắt họ chứng kiến các phép lạ của Chúa Giêsu, nhưng họ không tin.
Ở đây, chúng ta thấy rõ tương quan giữa phép lạ và lòng tin của con người. Chúa Giêsu không làm phép lạ như một trò ảo thuật; Ngài làm phép lạ trước hết là để biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa, loan báo những dấu chỉ của Nước Trời và kêu gọi lòng tin nơi con người, do đó phép lạ là một lời mời gọi hơn là một cưỡng bách.
Khi những người Biệt phái đòi hỏi một dấu lạ, thái độ đó gợi lại sự thử thách mà người Do thái trong thời kỳ lang thang trong sa mạc cũng đã đòi hỏi nơi Thiên Chúa; thái độ đó cũng tương tự thái độ của Satan khi đến cám dỗ Chúa Giêsu. Thật thế, Satan đã bảo Chúa Giêsu hãy gieo mình xuống từ thượng đỉnh Ðền thờ như một cử chỉ vừa ngoạn mục vừa cả thể. Nhưng Chúa Giêsu đã mượn lời của chính Thiên Chúa nói với dân Do thái trong Cựu Ước để khước từ cám dỗ của Satan: "Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi". Trước sự cứng lòng tin của những người Biệt phái, Chúa Giêsu đã khước từ mọi phép lạ, hay đúng hơn, Ngài không làm phép lạ nào để nói với họ hơn là cái chết của Ngài trên Thập giá, bởi vì chỉ cái chết ấy mới có thể lôi kéo mọi người về với Thiên Chúa.
Giáo Hội tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Chúa Kitô; qua cuộc sống của mình, Giáo Hội cũng đang lặp lại những phép lạ của Chúa Giêsu như một lời mời gọi. Thế nhưng, đâu là dấu chỉ đáng tin cậy nhất mà Giáo Hội có thể chứng tỏ cho con người thời nay? Với những phát minh mỗi ngày một tân tiến, con người thời nay dường như vẫn đang tự hào thực hiện được nhiều phép lạ trong mọi địa hạt. Do đó, đối với con người ngày nay, không một dấu lạ nào đáng tin hơn nơi Giáo Hội cho bằng chính cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mà Giáo Hội có thể lặp lại nơi chính mình. Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội khước từ vẻ hào nhoáng bên ngoài, để mặc lấy thái độ vâng lời và phục vụ của Chúa Kitô; Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội là thể hiện của một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu của Ðấng sẵn sàng hy sinh và chết cho người mình yêu.
Dấu lạ cả thể mà có lẽ con người thời nay đang chờ đợi nơi Giáo Hội chính là dấu lạ của tình thương. Nói như Staline, thế giới này chỉ cần mười người như thánh Phanxicô Assisi, thì cũng đủ để thay đổi bộ mặt. Người ta mãi mãi vẫn nhớ khuôn mặt từ tốn, nhân hậu của một Gioan XXIII; hoặc chỉ như một ánh sao băng, người ta khó mà quên được nụ cười hiện thân của lòng nhân từ nơi Ðức Gioan Phaolô I; lòng hy sinh quảng đại của Mẹ Têrêsa Calcutta cũng là một dấu lạ cả thể mà con người thời đại đang tìm thấy nơi Giáo Hội.
Trong sự đóng góp khiêm tốn của mình trong cuộc sống hiện tại, xin Chúa cho mỗi Kitô hữu chúng ta luôn ý thức rằng mình đang là một dấu hỏi, một lời mời gọi đối với những người chưa nhận biết Chúa Kitô.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Chúa Giêsu thở dài
Những người Pha-ri-sêu kéo ra và bắt đầu tranh luận với Đức Giêsu, họ đòi Người một dấu lạ từ trời để thử Người. Người thở dài não nuột và nói: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả.” (Mc. 8, 11-12)
Than vắn thở dài là chuyện thường tình. Có ai đã không nghe tiếng thở than của một người bệnh, một người hấp hối? Ai trong chúng ta đã không bao giờ buông ra tiếng thở dài não nuột? Khi lòng ta gặp chuyện trái ý, đau buồn, thất vọng, hoặc thân xác ta phải đau đớn, thở dài một tiếng, ta cũng cảm thấy được vợi bớt phần nào. Chính nỗi đau thái quá ta phải chịu, khiến ta bộc lộ những phản ứng thái quá. Làm như thế ta coi như tâm hồn được giải thoát phần nào.
Trong Phúc âm hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu cũng phải buông tiếng thở dài. Người cảm thấy chán quá rồi. Ngay khi Người vừa mới ở dưới thuyền lên, những người Pharisiêu đã xấn lại và bắt đầu chất vấn Người. Họ đòi Người làm cho họ một dấu lạ từ tròi, bởi lẽ theo họ quan niệm, một vị ngôn sứ phải chứng tỏ mình có sứ mệnh Chúa trao bằng một dấu lạ từ trời. Họ đòi một điều như thế đó, khi mà Chúa Giêsu vừa mới làm phép lạ hóa bánh rá nhiều cho bốn ngàn người ăn no. Họ còn muốn được thấy từ trời đổ xuống một trận mưa những miếng bánh mì, như dấu chỉ có giá trị và chứng minh cho sứ mạng chân chính về ngôn sứ của Chúa Giêsu.Trước một yêu sách như thế, chứng tỏ họ cứng lòng và ngoan cố không tin, nên Chúa Giêsu phải thở dài não nuột.
Một thái độ cự tuyệt
Trong những điều kiện như vậy, để phản đối những người Pharisiêu, Chúa Giêsu tỏ một thái độ cự tuyệt, một sự từ chối thẳng thừng: “Thế hệ này sẽ khong được một dấu lạ nào cả”. Biết được lòng dạ xấu xa của họ, Chúa Giêsu không tranh luận, không tự biện bạch, Người từ chối điều họ yêu cầu. Và như để tỏ rõ lập trường hơn nữa, Người nói là làm ngay: Người để họ đứng trơ ra đó, xuống thuyền, đi ngược chiều về phía bờ bên kia. Nguyên sự có mặt của họ cũng đủ làm cho Người bực mình rồi, nên Người muốn thoát đi cho mau lẹ. Chúa Giêsu tỏ ra rất cương nghị, Người tàn nhẫn xua đuổi những kẻ đến trò chuyện với mình. Vì đây là trường hợp hi hữu, trái với thái độ thường xuyên của Người là vốn niềm nở tiếp đón và hiền từ với mọi người: xưa nay Người vẫn hay để cho dân chúng chen lấn xô đẩy, trẻ em “quấn quýt”, bệnh nhân tràn ngập.
Là những tín hữu, chúng ta có thể bắt chước thái độ ngoan cường, cứng rắn đó của Chúa không? Tất nhiên là có, khi danh dự của Chúa – chứ không phải của ta – bị coi thường. Người ta vẫn tố cáo là Kitô giáo đã làm cho con người trở nên nhu nhược, mất tính nam nhi, ta cần phải chứng minh điều ngược lại, khi biết tỏ thái độ cương quyết, lúc cần phải tỏ. Người Kitô hữu là người có khả năng chọn lựa, thì cũng phải có khả năng từ chối. Nhưng người Kitô hữu cũng phải biết cho người ta những dấu lạ ở trần gian khi người ta đòi mình những dấu lạ từ trời.
Suy Niệm 6: CẦN CÓ ĐỨC TIN ĐỂ ĐÓN NHẬN TÌNH THƯƠNG (Mc 8,11-13)
Chúng ta thấy trong Tin Mừng, gần như đã trở thành quy luật để Đức Giêsu thi hành phép lạ, đó là đức tin và lòng mến. Nếu không có đức tin thì ắt không thể có lòng mến, mà không có lòng mến thì làm sao có thể hoán cải? Như thế sẽ không bao giờ có phép lạ!
Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy những người Pharisêu cũng đến để nghe Đức Giêsu giảng và họ đã chứng kiến rất nhiều phép lạ cả thể Đức Giêsu đã làm. Một trong những phép lạ mới nhất, đó là phép lạ hóa bánh ra nhiều cho bốn ngàn người từ bẩy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ. Tuy nhiên, thay vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, thì họ lại trai cứng và tiếp tục đi vào vết xe đổ như Tổ tiên họ đã thách thức Thiên Chúa trong Samạc; hay đi theo con đường của Satan khi chúng thử thách Đức Giêsu sau khi Ngài ăn chay 40 đêm ngày! Trước sự chai lỳ và u mê do thói kiêu ngạo, ghen tỵ và sự giả dối nơi họ, nó đã làm cho lương tâm những người Pharisêu bị phủ lấp và không còn nhạy bén để nhận ra tình thương của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu. Vì thế, Đức Giêsu đã phải thốt lên: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ?” Và Ngài đã không làm phép lạ theo như yêu cầu của những người Pharisêu, bởi vì họ không tin và phép lạ không thể diễn ra trong sự thách thức và cưỡng bách được.
Trong đời sống đức tin của chúng ta thường ngày cũng vậy. Nhiều khi cũng thách thức Thiên Chúa khi chúng ta đem Ngài ra để so sánh với ông nọ, thần kia; hoặc có lúc chúng ta cũng ra những điều kiện cho Ngài khi nhủ rằng: nếu Chúa có mặt thực sự, thì Chúa làm cho con được thế này hay thế kia thì con sẽ tin? Những lúc như thế, chúng ta đã bị sự kiêu ngạo thúc bách và khi đó trong ta chỉ còn những yêu cầu phát xuất từ sự tham vọng và thực dụng thuần túy mà không hề nghĩ đến ơn cứu chuộc là hạnh phúc vĩnh cửu!
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con ơn khiêm tốn và lòng yêu mến Chúa để chúng con nhận ra tình thương của Thiên Chúa và luôn sống trong sự an bài của Ngài. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Một dấu lạ từ trời
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước... Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?”. Nhưng người bạn lắc đầu giải thích “Ông ta là một người phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.
Thảm trạng của con người thời đại: Con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
Suy niệm
Theo văn mạch của Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu vừa làm nhiều phép lạ trong đó có những phép lạ lớn (x. Mc 4,35-5,43): Dẹp yên bão táp, trục xuất quỷ ám ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại. Phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ hai (x. Mc 8,1-10). Thế mà những người pharisiêu vẫn chưa tin Ngài, họ lại thách Ngài làm một “dấu lạ từ trời”, nghĩa là một phép lạ xuất phát từ chính Thiên Chúa.
Họ không chú ý tìm chân lý nhưng chỉ để thử Ðức Giêsu, họ thiếu thiện chí, họ không tin là vì họ ngoan cố. Nơi lòng dạ những người cứng tin này, Ðức Giêsu buồn lòng, Ngài không làm gì được cho họ.
Trong phần tiếp theo của Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục làm thêm những phép lạ khác. Những phép lạ đó không phải làm cho những người pharisiêu cứng lòng, nhưng cho những người tin. Phép lạ không sinh ra đức tin mà chỉ là những dấu chỉ dẫn chúng ta tới đức tin. Bởi thế, nếu sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ chưa phải là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin.
Xin cho chúng ta biết tin vào Chúa một cách vô điều kiện, đức tin soi chiếu từng bước chân đi vào đời.
Ý lực sống: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).
Suy Niệm 8: Biệt phái xin Chúa phép lạ từ trời
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều (8,1-10) lần thứ hai ở phía đông biển hồ Bétsaiđa, Chúa Giêsu cùng môn đệ xuống thuyền sang phía tây hồ. Nhưng vừa cập bến được ít lâu, một nhóm biệt phái, có cả nhóm sađucêu nữa, kéo nhau đến rình mò , tranh luận và thử thách Ngài.
Trước đó Người cũng đã làm nhiều phép lạ, trong đó có những phép lạ lớn (Mc 4,35 – 5,43: dẹp yên bão táp, trục xuất quỉ ám ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại). Thế mà những người biệt phái vẫn chưa tin Người. Hôm nay họ lại thách thức Người làm một “dấu lạ từ trời” nghĩa là một phép lạ phát xuất từ chính Thiên Chúa.
2. “Người thở dài não nuột mà nói...”
Thực ra những phép lạ Người làm, nhất là những phép lạ lớn vừa kể trên, đã đủ minh chứng Người là Đấng có quyền phép “từ trời”. Sở dĩ họ không tin là chỉ vì họ ngoan cố. Bởi đó Chúa Giêsu nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa .
Trong phần tiếp theo, Tin Mừng Mc vẫn tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu làm thêm nhiều phép lạ khác. Tuy nhiên những phép lạ đó cũng chẳng phải làm cho những người biệt phái ấy. Nói cách khác, những phép lạ ấy chỉ có ý nghĩa và giá trị cho những người khác chứ không cho những người biệt phái cứng lòng.
3. Vấn đề phép lạ - dấu lạ.
Đành rằng trong công cuộc truyền giáo, Chúa ban cho một số chứng nhân của Người có khả năng làm một số phép lạ hay dấu lạ để minh chứng lời rao giảng và nâng đỡ niềm tin cho người nghe, nhưng phép lạ hay dấu lạ không là điểm chính yếu và đóng vai trò quyết định cho việc đón nhận Lời Thiên Chúa. Vì thế, sẽ tầm thường hóa niềm tin và hậu quả là sự hời hợt không có chiều sâu cũng như không có sự yêu mến đích thực.
Thánh Phaolô từng dạy rằng, đã trông thấy rồi mới tin thì không còn là đức tin nữa. Nói cách khác, chỉ là sự bất đắc dĩ phải chấp nhận khi chuyện đã tỏ tường mà thôi. Thiên Chúa ban phép lạ hay dấu lạ là do lòng nhân hậu của Người và có giá trị trong chương trình cứu độ, chứ không chiều theo sở thích của con người đòi hỏi Người phải ban dấu lạ điềm thiêng.
Thật vậy, một đức tin trưởng thành không hệ tại ở dấu lạ, mà kiên trì trong thử thách và sự trung tín bền vững vào Chúa. Đó mới là điều hữu ích cho linh hồn tín hữu.
4. Những phép lạ kể trên đã đủ chứng minh Chúa Giêsu là Đấng có quyền phép từ trời rồi. Thế nhưng, họ không tin là vì họ ngoan cố, bởi đó Ngài nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa.
Chúng ta phải nói lại, phép lạ Chúa như vậy, Tin Mừng hôm nay cho thấy phép lạ “không sinh ra đức tin” mà chỉ là “dấu chỉ dẫn người ta tới đức tin”. Bởi thế, Sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ (như Lộ Đức, Fatima, La Vang...) thì chưa hẳn là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin. Ngược lại, người có đức tin thật thì nhìn thấy phép lạ trong tất cả mọi việc, kể cả việc nhỏ và tầm thường nhất.
5. Niềm tin thì chúng ta dễ có, và có thể tạo ra niềm tin, còn Đức tin thì phải đến từ Thiên Chúa, đó là một hồng ân Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải con người tạo ra Đức tin. Trong hành vi đức tin, Thiên Chúa vừa cho có ánh sáng, vừa cho bóng tối. Đức tin, vì thế đòi hỏi phải có sự khó nhọc, chọn lựa, hy sinh và dấn thân. Một Đức tin mà đòi hỏi một chứng cớ rõ ràng, thì không phải là Đức tin nữa. Vả lại, Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình thương, mà trong tình yêu thì không có sự ép buộc hay cưỡng bức, nhưng là sự tự do, tự nguyện.
6. Truyện: Hãy cho tôi thấy Thiên Chúa.
Một ông vua thông minh tài giỏi, nhưng rất ngạo ngược. Ngày kia, ông bèn nảy ra ý kiến hiểm độc. Ông cho triệu các nhà lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần lễ phải cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu.
Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm sao có thể thực hiện cho nhà vua được? Vì không thiếu phép lạ, nhưng phép lạ không phải để đáp lại cái ý muốn điên rồ và thách thức ấy.
Biết được nỗi lo âu ấy, một kẻ chăn chiên đến xin các vị lãnh đạo cho phép để chỉ cho nhà vua thấy Thiên Chúa. Họ không tin tưởng lắm, nhưng cũng đành lòng chấp nhận.
Buổi sáng ngày ấn định, anh chăn chiên dẫn nhà vua đến cánh đồng cỏ nơi anh thường thả đàn vật. Họ cùng nhau đi bộ. Lúc đến nơi thì mặt trời đã gần lên tới đỉnh đầu. Người chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và nói: “Tâu bệ hạ, xin hãy nhìn”.
Nhà vua tức giận quát lớn: “Thằng điên! Ngươi muốn ta mù sao? Ai có thể nhìn vào mặt trời chói chang như vậy”?
Lúc ấy, người chăn chiên liền quì gối xuống trước mặt vua mà nói: “Muôn tâu bệ hạ, với một vật Chúa làm ra và ánh sáng của nó còn chói chang, đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy chính Thiên Chúa được?
14/02 Xin Chúa sáng soi
- Viết bởi Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
XIN CHÚA SÁNG SOI CHO BIẾT VIỆC PHẢI LÀM
SUY NIỆM LỄ MÙNG BA TẾT
(Ga 20, 19-31)
Để thánh hóa ba ngày Tết Nguyên Đán, Hội Thánh Việt Nam đã chỉ định Ngày mồng ba Tết, Ngày Cầu Mùa, để xin Chúa chúc lành cho công việc làm ăn được phát đạt.
Sau khi đã vui chơi ăn Tết, đến lúc phải bắt tay vào làm việc. Lời nguyện nhập lễ giao thừa chúng ta cúi xin Chúa rộng ban cho chúng ta một năm mới dồi dào phúc lộc và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh.
Thánh Phaolô đã có một kinh nghiệm tuyệt vời khi chia sẻ: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Điều này có nghĩa là, chúng ta không thể điều khiển được chính mình, chúng ta không đủ nghị lực để dám chắc mọi điều ta làm đều tốt. Vì thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc “Kinh Sáng Soi” để xin Chúa hướng dẫn, nhất là thánh hóa trước khi bắt đầu việc làm trong năm mới. “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen”.
Lời kinh này chất chứa niềm tin tưởng và lòng cậy trông vững vàng của những người con Chúa.
Quả thật, khi chúng ta: “Xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm” là chúng ta khơi lên niềm khát mong được nguồn ánh sáng của Chúa soi dẫn tâm trí, lời nói, việc làm… cho chính bản thân ta và đồng thời xin Chúa thánh hóa. Bởi đã có không ít lần chúng ta bắt đầu làm việc mà không biết phải làm gì hoặc phải bắt đầu từ đâu. Vì thế, khi giục lòng cậy trông xin ơn Chúa soi sáng là ta nhận biết về uy quyền của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta suốt năm tháng ngày giờ.
Thiên Chúa đặt con người làm chủ
Sau khi đã tạo dựng vạn vật muôn loài, Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất” (St 1, 26). Thế là “Thiên Chúa lấy bù đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống. Thiên Chúa lập một vường tại Eđen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên” (St 2, …). Việc con người được dựng nên từ bùn đất cho thấy tính chất yếu hèn, mỏng giòn của thân phận. Nhưng Thiên Chúa lại tạo nên con người và ban cho con người hình ảnh Chúa, cho con người được chia sẻ sự sống của Chúa, phú ban cho con người sự sống siêu nhiên và nhiều đặc ân như trí khôn minh mẫn, ý chí hướng thiện, không phải đau khổ và không phải chết và nhất là đặt con người làm chủ công trình Chúa sáng tạo, làm chủ chính mình trong ơn sủng mà Thiên Chúa đã ban cho.
Việc làm trong chương trình của Thiên Chúa
Công ăn việc làm là một phần trong chương trình của Thiên Chúa Sáng Tạo. Trong sách Sáng Thế, đề tài trái đất như là nhà – vườn được trao phó cho con người săn sóc và canh tác (x. St 2,8.15) đã đuợc diễn tả như sau: “Ngày Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai, và Người làm trào lên từ đất nước của các con kinh để tưới” (St 2,4b-6). Vẻ đẹp của trái đất và phẩm giá của công ăn việc làm được làm ra để nối kết với nhau. Cả hai song hành cùng nhau: trái đất trở nên xinh đẹp, khi nó được con người canh tác.
Hình ảnh địa đàng, nơi con người là chủ, sống, cày cấy và canh giữ đất đai (x. St 2,4-15), cho thấy con người nguyên thủy sống trong mối hiệp thông thân tình với Thiên Chúa, hài hòa với chính mình, với nhau và với cả vạn vật chung quanh. Trong tình trạng hạnh phúc và công chính nguyên thủy đó, con người làm chủ chính mình, không phải đau khổ và không phải chết. Lao động không là gánh nặng nhưng là sự cộng tác của con người với Thiên Chúa, nhằm kiện toàn chính bản thân và cả công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Vì “khi chúng ta làm việc là chúng ta cộng tác với Đấng đang làm việc…bởi vì không có Chúa chúng ta không thể làm được gì” (Thánh Augustino – GL HTCG Số 2001). Ý thức được giá trị ấy, con người phải có nghĩa vụ sinh lời từ những ân phúc do Chúa tặng ban.
Làm gì với nén bạc Chúa trao
Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện ba người đầy tớ được ông chủ tin tưởng trao phó tài sản của mình trước khi ông bắt đầu một cuộc hành trình dài. Hai trong số họ đã làm rất tốt công việc của mình, vì họ đã làm sinh lợi gấp đôi cái nhận được. Nhưng người thứ ba thì không: “Người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình” (Mt 25,18). Anh đào lỗ chôn giấu, vì sợ ông chủ, không biết làm thế nào để sinh hoa lợi. Đây có lẽ là trung tâm của dụ ngôn.
Việc gì đến cũng sẽ đến, chủ trở về, ông gọi các đầy tớ lại để tính sổ những gì ông đã trao phó cho họ. Ông hoan nghênh hai người đầu tiên, và tỏ sự thất vọng đối với người thứ ba. Trong thực tế, người thứ ba đã sai lầm khi chôn kín số tiền nhận được, anh hành xử như thể sẽ không có ngày anh sẽ bị hỏi về những việc anh đã làm. Với dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta cách sử dụng tốt những gì chúng ta đã được ban tặng.
Ý nghĩa của dụ ngôn này thật rõ ràng. Ông chủ trong dụ ngôn này là Chúa Giêsu, những đầy tớ là chúng ta và những nén bạc là tài sản mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta. Khi thông ban cho chúng ta sự sống, Thiên Chúa cũng phú ban cho chúng ta những nén bạc, có thể là khả năng nhiều hay ít. Các nén bạc tượng trưng cho những ơn ban của Chúa để phát triển cá nhân, đạo đức và tôn giáo. Các nén bạc ấy, Ngài đã ủy thác để chúng ta làm cho chúng sinh lời. Cái hố được đào dưới đất bởi người “đầy tớ xấu xa và biếng nhác” (Mt 25, 26). Chúa không yêu cầu chúng ta phải bảo quản ân ban của Ngài trong két sắt! Nhưng mong muốn rằng, chúng ta sử dụng nó để sinh lợi cho tha nhân.
Những nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít. Nhiều hay ít, số lượng không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người làm việc với những nén bạc đó. Chúa chú ý tới cố gắng của mỗi người. Bởi thế, người đã lãnh năm nén và người đã lãnh hai nén mà xử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ” (x. Mt 25, 21.23). Bạc Chúa trao cho chúng ta phải ra sức làm việc để sinh lời. Việc sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ, người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa sáng soi, để chúng ta biết việc phải làm. Đồng thới luôn ý thức về sứ mạng Chúa trao ban là làm chủ, để chúng ta mến yêu lao động, cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Chúng ta không làm việc một mình, nhưng có Chúa cùng hoạt động.
Xin Chúa chúc phúc cho công ăn việc làm của chúng con trong suốt cả năm mới này. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
13/02 Mừng xuân với những liên hệ.
- Viết bởi Lc 1,67-75
Mừng xuân với những liên hệ.
Thứ Bảy tuần 5 thường niên.
MỒNG HAI TẾT TÂN SỬU. KÍNH NHỚ TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ.
"Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta".
Lời Chúa: Lc 1,67-75
Khi ấy, Dacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: "Chúc tụng Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Chúa đã gầy dựng cho chúng ta một uy quyền cứu độ. trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa, như Người đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa; để giải phóng chúng ta khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng ta; để tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta, và nhớ lại lời thánh ước của Người: lời minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta, rằng: Người cho chúng ta không còn sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù, được phục vụ trước tôn nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời chúng ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Cầu cho cha mẹ
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Suy niệm
Đã có lúc người ta cho rằng theo đạo Công giáo là bỏ ông bà,
nhất là khi Hội thánh chưa cho phép bày tỏ lòng hiếu thảo
bằng cử chỉ vái lạy tổ tiên đã khuất.
Ở đất nước ta, thờ cúng tổ tiên là chuyện quan trọng,
đến độ người ta có thể nói đến đạo thờ ông bà, đạo hiếu.
Ai không giữ đạo hiếu thật đáng khinh.
Nhiều người tin khi chết thì con người đi về thế giới bên kia,
và thế giới bên kia cũng không khác lắm với thế giới bên này,
người chết cũng có những nhu cầu vật chất cần thỏa mãn.
Tết là thời gian mời ông bà đã khuất về ăn Tết với con cháu.
Như thế ông bà và con cháu được gần nhau, thông hiệp với nhau.
Đạo Công giáo tin có thế giới bên kia,
nhưng không quan niệm thế giới ấy một cách vật chất.
Người chết không cần ăn uống, không cần xài tiền vàng mã,
nhưng lại rất cần lời cầu nguyện để sớm hưởng nhan Chúa.
Thảo kính cha mẹ là điều răn đặc biệt trong 10 điều răn,
vì không cấm làm một điều xấu, nhưng buộc làm một điều tốt.
Các sách Cựu Ước đều coi trọng mệnh lệnh này (Xh 20,12; Đnl 5,16).
Thậm chí một người con có thể bị xử tử bằng cách ném đá
nếu không vâng lời hay nguyền rủa cha mẹ (Xh 21,17; Lv 20,9; Đnl 21,21).
Còn ai hiếu thảo sẽ được Chúa cho sống thọ trên đất hứa (Xh 20,12).
Thảo kính cha mẹ là kính trọng và yêu mến kẻ đã sinh dưỡng mình,
Thăm viếng khi khỏe mạnh, chăm sóc khi yếu đau, hầu hạ khi cao tuổi.
Thảo kính cha mẹ cũng là làm cho cha mẹ được vinh danh.
Nhờ con cháu mà “danh thơm mãi lưu truyền hậu thế” (Hc 44,14).
Có thể nói Đức Giêsu đã giữ điều răn này một cách nghiêm chỉnh.
Khi nghe Ngài giảng, có người đã kêu lên để ca ngợi Mẹ Ngài:
“Phúc cho người đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm” (Lc 11,27).
Bà Êlisabét đã ca ngợi Mẹ Maria là có phúc hơn mọi phụ nữ,
vì Người Con mà Mẹ đang cưu mang là Đấng có phúc tuyệt vời (Lc 1,42).
Đức Giêsu hằng vâng phục cha mẹ khi lớn lên ở Nadarét (Lc 2,51),
Và lo liệu cho Mẹ Ngài trước khi nhắm mắt (Ga 19,25-27).
Mồng Hai Tết, Giáo Hội mời ta nhớ lại nguồn cội tổ tiên đã xa ta,
và cũng nhớ đến nguồn cội đang ở gần ta với lòng biết ơn.
Đạo thờ ông bà, dù khác, nhưng cũng rất gần với đức tin Công giáo.
Thảo kính cha mẹ là “lời”, là “điều răn”của Thiên Chúa (Mt 15,3.6).
Không ai được phép bỏ qua hay coi nhẹ.
Qua tổ tiên, Thiên Chúa tạo dựng nên con người chúng ta.
Qua ông bà cha mẹ, Thiên Chúa cho chúng ta nên người thành toàn.
Tri ân tổ tiên là tri ân chính T. Chúa, Nguồn Cội của mọi nguồn cội.
Sách Nhị Thập Tứ Hiếu kể lại 24 gương hiếu thảo đối với mẹ cha.
Lão Lai tuy đã già vẫn nhảy múa như con nít để giúp vui cho cha mẹ.
Lục Tích là đứa bé ăn cắp quýt ở bữa tiệc để đem về, vì biết mẹ thích.
Ngô Mãnh, tám tuổi, cởi trần cho muỗi đốt mình để khỏi đốt cha mẹ.
Diễm Tử có cha mẹ già, thèm sữa hươu, nên ông khoác bộ da hươu,
giả làm hươu con vào rừng, để đến gần hươu mẹ vắt sữa.
nên suýt nữa bị các thợ săn nhắm bắn.
Nếu không hiếu thảo đến mức cao như các gương trên đây
thì ít là hôm nay ta biết ngước lên trời cầu nguyện cho cha mẹ:
“Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, sau hơn 30 năm
sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn và trưởng thành,
Sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh Ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con, xin biến nó thành nơi sản sinh con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn, Giáo Hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
2. Thờ cha kính mẹ
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Suy niệm:
Giáo Hội dành Mồng Hai Tết để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Người Công Giáo thường bị coi là bỏ rơi việc thờ cúng ông bà tổ tiên,
như thế họ có thể bị coi là bất hiếu.
Thật ra thảo kính cha mẹ là điều răn thứ bốn Thiên Chúa đòi chúng ta phải giữ.
Cha Đắc Lộ trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày (1651) cho rằng
thảo kính cha mẹ gồm bốn phần, đó là yêu mến, kính sợ, chịu lụy và giúp đỡ.
Cha còn ghi nhận một tập tục đặc biệt vào thời đó.
Ngày Mồng Một Tết, người dân và cả những quan lớn,
sau khi theo vua chúa đi tế Nam Giao về,
“ai nấy về nhà mà lạy cha mẹ ông bà ông vải.”
Vào năm 1625, các thừa sai cho phép cúng giỗ các vị đã khuất.
Trong các gia đình, ngoài bàn thờ kính Chúa, còn có “bàn thờ” tổ tiên
Chỉ có hai điều không được phép,
đó là đốt vàng mã và tin tổ tiên về ăn đồ cúng.
Thật ra, người Công Giáo nhớ đến người quá cố
không qua những nghi lễ giỗ chạp hàng năm,
cho bằng qua việc cầu nguyện và dâng lễ hàng ngày.
Nhà Vua tế Trời ở đàn Nam Giao, nhà sư thờ Phật tại Chùa,
các bậc chức sắc trong làng xã thờ Thành Hoàng tại đình làng,
còn việc cầu nguyện, cúng giỗ tổ tiên được cử hành tại gia đình,
nơi người sống và người đã qua đời vẫn thông hiệp với nhau chặt chẽ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu bênh vực quyền lợi của cha mẹ.
Ngài đòi người ta phải giữ điều răn thứ tư của Thiên Chúa.
Thảo kính cha mẹ hàm chứa việc săn sóc và phụng dưỡng cha mẹ.
Cụ thể người con phải giúp cha mẹ về mặt tài chánh.
Đức Giêsu phản đối một truyền thống được bày đặt bởi người Pharisêu,
đó là khi một người con lấy số tiền lẽ ra dành để nuôi cha mẹ
mà dâng cúng cho đền thờ làm lễ phẩm
thì anh ta khỏi phải dùng tiền đó mà nuôi cha mẹ nữa (cc. 5-6).
Đối với Đức Giêsu, làm thế là nhân danh một truyền thống con người
mà “vi phạm điều răn của Thiên Chúa”và “hủy bỏ lời của Thiên Chúa” (cc. 3.6).
Khi suy nghĩ về tương quan giữa cha mẹ và con cái,
chúng ta cần tự hỏi:
Làm sao để có sự cảm thông giữa những thế hệ?
Làm sao để con cái biết vâng phục và tôn kính cha mẹ?
Làm sao để cha mẹ biết giáo dục con cái bằng khuyên răn và sửa dạy?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn
và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
3. “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ”
(Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc)
Các môn đệ đã không rửa tay trước khi dùng bữa, nhưng người ta lại đi chất vấn vị Thầy của họ, là Đức Giê-su: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?”(c. 2)
Như thế, các môn đệ làm điều không đúng dưới mắt của những người tuân giữ và bảo vệ Truyền Thống, nhưng người nghe lời than trách, lại là vị Thầy. Điều này có nghĩa là lời giảng của Thầy, cung cách hành xử của Thầy và chính bản thân của Thầy có vấn đề !
Đối với người Do Thái, rửa tay trước bữa ăn không phải là vấn đề vệ sinh, nhưng là một nghi thức thanh tẩy. Bởi vì, lương thực là ân huệ Thiên Chúa ban, nên phải chuẩn bị mình đển đón nhận. Hiểu như thế, nghi thức thanh tẩy này thật là có ý nghĩa trên bình diện thiêng liêng và cũng là một nghi thức tôn giáo nên bảo tồn. Và thật ra, chính chúng ta cũng làm như thế: trước bữa ăn, chúng ta làm dấu Thánh Giá, đọc lời nguyện xin Chúa chúc lành; khởi đầu Thánh Lễ, chúng ta xin Chúa thanh tẩy để trở nên xứng đáng lãnh nhận Lời và Mình của Đức Ki-tô như là lương thực; và theo Phụng Vụ Thánh Lễ, linh mục phải rửa tay trước khi cử hành nghi thức truyền phép, đồng thời đọc thầm: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con đã phạm xin Ngài thanh tẩy”» (x. Tv 51, 4).
Như thế, những người Pha-ri-sêu và Luật Sĩ thật có lí, khi lưu ý Đức Giê-su rằng, các môn đệ của Ngài đã không rửa tay trước bữa ăn. Cũng tương tự như các nhà chuyên môn về phụng vụ của chúng ta, hay những người yêu thích phụng vụ vẫn thường lưu ý hay góp ý người này người kia đã làm sai hoặc không làm một qui định chữ đỏ nào đó trong Sách Lễ Roma. Tuy nhiên, Đức Giê-su lại bênh vực các môn đệ của mình. Vậy, đâu là vấn đề của những người Pha-ri-sêu và Luật sĩ ? Và phải chăng, vấn đề của họ cũng có thể là vấn đề của chúng ta ?
Nghi thức thanh tẩy dù có ý nghĩa và quan trọng, nhưng cũng chỉ là một cách diễn tả của con tim, là một lời mời gọi hướng tới một thái độ nội tâm. Thật vậy, giữ nghi thức và giữ thật đúng qui định nói lên điều gì hay sẽ đem lại hoa trái nào, khi mà trong lòng trống rỗng, hay có những tâm tình hay cảm nghĩ bất xứng hay không phù hợp ? Như Đức Giê-su đã nói trong Bài Giảng Trên Núi: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24). Sai lầm là ở chỗ, người ta bị xét đoán là thanh sạch hay nhơ uế tùy theo việc giữ hay không giữ nghi thức rửa tay hay những nghi thức khác ; như thế, nghi thức trở thành tiêu chuẩn xét đoán về tương quan giữa con người và Thiên Chúa, và do đó, giữa con người với nhau, bởi vì người ta sẽ cư xử đặc biệt với những « người nhơ uế », những « người tội lỗi ».
Đối với Đức Giê-su, điều làm cho người ta trở nên thanh sạch hay nhơ uế không phải là điều ở bên ngoài, nhưng là điều trong nội tâm. Trước đó, Đức Giê-su đã trích lời Kinh Thánh này : « Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân » (Mt 15, 8-9). Và trong các Mối Phúc, Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (5, 8).
Ước gì chúng ta có được một con tim biết sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa ; vì đó là con đường duy nhất làm cho con tim của chúng ta trở nên gần gũi với Thiên Chúa, làm cho các việc làm, các thực hành đạo đức của chúng ta trở nên đáng yêu dưới mắt Chúa. Nhưng ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự bất lực trong nỗ lực điều khiển con tim, trong việc làm chủ những diễn biến nội tâm, và nhất là những diễn biến ở những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn. Chỉ có Thiên Chúa, ngang qua Lời và Mình của Đức Giê-su, mới có thể làm cho con tim của chúng ta nên thanh sạch, mới có thể tái tạo và làm cho con tim của chúng ta nên mới. Xác tín này làm cho chúng ta bình an và khiêm tốn.
Truyền thống và Lời Chúa
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa được nghe công bố, Đức Giêsu nói hai lần về cùng một điều, đó là tương quan giữa truyền thống và Lời Chúa. Lần thứ nhất về chuyện rửa tay trước khi dùng bữa: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”(c. 3)
Lần thứ hai, nghiêm trọng hơn, vì liên quan đến luật thảo kính cha mẹ của Mười Điều Răn: “Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa.”(c. 6b)
Trong câu nói này, Đức Giêsu coi giới răn như là lời Thiên Chúa. Trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giê-su còn thêm: “Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa !” (Mc 7, 13) Truyền thống là một giá trị qui chiếu quan trọng, hơn nữa là một ơn huệ, bởi vì đó là một cách sống giới răn của Chúa, sống Lời Chúa của một cộng đoàn trong một thời gian và nơi chốn đặc thù. Nhưng với thời gian, các việc thực hành tốt đẹp này trở thành máy móc, nghĩa là nghi thức tự động tạo ra sự thanh sạch, trở thành quan trọng hơn so với chính Lời Thiên Chúa, trở thành ngẫu tượng.
Chúng ta cũng có rất nhiều truyền thống ở mọi cấp độ: Giáo Hội, Dòng tu, tu hội, dân tộc, cộng đoàn, nhóm… Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhận định lại toàn bộ dưới ánh sáng của Lời Chúa ban sự sống và diễn tả lòng thương xót.
Giới răn “Thờ cha kính mẹ”
Tại sao, giới răn “thờ cha kính mẹ” mang tầm mức Lời Chúa, vượt trên mọi lề luật, thói quen, tập quán phát xuất từ Truyền Thống?
Bởi vì, năng động sống « uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu », thuộc về nhân tính, vốn được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như thế, đạo hiếu từ ngàn xưa của Dân Tộc Việt Nam đã phát xuất và chất chứa Lời Thiên Chúa. Ngoài ra, giới răn này không chỉ có nền tảng nhân bản, nhưng còn có nền tảng thiêng liêng nữa. Bởi vì:
“Thờ cha kính mẹ” là con đường dẫn con người đến việc tin nhận Thiên Chúa. Thực vậy, tổ tiên ông bà và cha mẹ sinh ra chúng ta, nhưng các vị không phải là nguồn sự sống; hơn nữa, sự sống rất nhiệm mầu và chỉ có thể đến từ Thiên Chúa mà thôi, như chúng ta vẫn nói: cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Nhất là trong việc giáo dục đức tin ngày nay, giáo dục lòng biết ơn là con đường tốt nhất dẫn người trẻ đến kinh nghiệm tin nhận Thiên Chúa: biết ơn, biết ơn đối với cha mẹ, đối với cuộc đời, đối với Giáo Hội, và đối với chính Thiên Chúa, cội nguồn và điểm tới của mọi sự.
“Thờ cha kính mẹ” là con đường dẫn đến hiểu biết khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, một khuôn mặt rất dễ bị bóp méo bởi những hệ thống tư tưởng, khuynh hướng tuyệt đối hóa những điểm tùy phụ và bởi chính luật lệ. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và “Đấng Hay Thường Xót”; và khuôn mặt này được phản ánh tốt nhất nơi cha mẹ. Đức Giê-su cũng đã khởi đi từ tình yêu của cha mẹ, để giúp chúng ta hiểu đúng về Thiên Chúa: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7, 11).
Và cuối cùng, một thái độ “thờ cha kính mẹ” sẽ khơi dậy nơi chúng ta lòng ước ao Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới làm thỏa mãn niềm hi vọng gia đình tái đoàn tụ mãi mãi bên nhau trong tình yêu thương mà thôi.
4. Mừng xuân với những liên hệ
Dịp Tết, ta thường gửi thiệp chúc Tết, thăm viếng và tặng quà cho nhau. Những sinh hoạt ngày Tết như thế là những sinh hoạt của các mối quan hệ. Nếu không có nhưng liên hệ, ngày Tết sẽ mất đi ý nghĩa của nó. Tết là của người khác chứ không phải của riêng mình. Vì thế, đối với trẻ em,Tết là những ngày hội vui. Nhưng đối với người trưởng thành, Tết là một trách nhiệm:
Người ta sống được ở đời là nhờ những liên hệ. Không ai có thể sống một mình. Ta cần có cha mẹ để mặt ở đời. Ta cần có thầy cô để khai thông trí hoá. Ta cần có bạn bè để chia sẻ buồn. Ta cần người nông dân để có lúa gạo, rau trái. Ta cần có thợ may để có quần áo. Ta cần người quét đường để đường phố được sạch sẽ. Có thể tất cả những gì ta có được: từ sự sống đến kiến thức, từ cơm ăn áo mặc đến xe cộ, thuốc men, tất cả đều nhờ người khác.
Những mối liên hệ giống như những con đường chuyên chở đến cho ta những chất liệu nuôi dưỡng cuộc sống. Những mối liên hệ là những mạch máu đem máu đỏ đến tận những tế bào bé nhỏ nhất trong thân thể ta. Những mối liên hệ chính là chiếc tay vịn giúp ta leo lên những bậc thang làm người và thành đạt.
Đời ta có nhiều liên hệ. Có những liên hệ chiều rộng giúp cho cuộc đời thêm tươi đẹp phong phú. Có những liên hệ chiều sâu tạo bản chất cuộc đời. Gia đình với ông bà cha mẹ tổ tiên nằm trong mối liên hệ chiều sâu của đời ta. Không có ông bà cha mẹ tổ tiên, ta không có mặt ở đời. Ông bà cha mẹ là những hạt giống chịu vùi chôn dưới những lớp đất vất vả nhọc nhằn để cho cây đời ta được mọc lên xanh tươi. Ông bà cha mẹ đã tư nguyện quên bản thân mình, chịu mục nát như lớp phân bón cho cây đời chúng ta đơm bông kết trái. Ta là điểm tới của một quá trình phấn đấu gian nan dài đằng đẵng của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời sống ta như một bông hoa thì những bông hoa ấy đã được tưới bằng những giọt mồ hôi và cả những giọt nước mắt của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời ta như một toà nhà cao tầng thì ông bà cha mẹ chính là lớp nền móng chịu vùi chôn dưới lòng đất, còng lưng gánh chịu mọi sức nặng cho toà nhà đứng vững, phô trương vẻ đẹp với đời. Hạt mầm hiện hữu vì bông hoa sắp nở. Nền móng có mặt vì ngôi nhà sắp xây. Trọn một đời ông bà cha mẹ đều dành cho hạnh phúc của con cháu.
Đời sống mỗi người, vì thế, đều có một lịch sử rất dầy và rất sâu. Bề dầy ấy không chỉ đo bằng những trang sách của cuốn gia phả, nhưng còn đo bằng những tranh đời của bao thế hệ tổ tiên. Độ sâu ấy không chỉ đo bằng những cố gắng của bản thân, mà còn đo bằng bề sâu ân nghĩa của biết bao hi sinh vất vả của ông bà cha mẹ.
Ngày Tết là ngày của những mối liên hệ. Mùng Một Tết, chúng ta đã sống mối liên hệ với Chúa, nguồn gốc và cứu cánh của đời ta. Mùng hai Tết, Giáo hội muốn chúng ta sống mối liên hệ với ông bà cha mẹ, những người thay mặt Chúa, trực tiếp ban sự sống cho ta.
Sự sống là món quà nhất nên mối liên hệ với người ban sự sống cũng là mối liên hệ sâu nhất.
Tục lệ lập bàn thờ và kính nhớ tổ tiên trong ngày Tết là một nét văn hoá rất cao của người Việt Nam. Hình ảnh của ông bà cha mẹ trong nhà không chỉ nói lên sự sum họp của một gia đình đầm ấm, hình ảnh ấy còn nhắc ta về lòng biết ơn, cho ta nhìn thấy bề sâu bề dầy của lịch sử đời mình. Và vì thế giúp ta ý thức về trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đối với bản thân, và đối với những thế hệ kế tiếp.
Muốn xây một căn nhà thật cao thật đẹp, trước hết phải xây dựng nền móng vững chắc. Muốn xã hội tiến nhanh tiến mạnh, phải xây dựng gia đình vững chắc. Thờ kính tổ tiên, nhớ ông bà cha mẹ là nền tảng giúp xã hội tiến bộ vững mạnh.
Nếu những mối liên hệ là những con đường chuyển tải sự sống thì những liên hệ chiều sâu chính là những xa lộ huyết mạch. Nếu những mối liên hệ là những mạch máu nuôi dưỡng sự sống thì mối liên hệ chiều sâu chính là những động mạch chủ. Sửa chữa, củng cố và tăng cường những liên hệ gia đình chính là phát triển sự sống, phát triển xã hội.
Chính trong ý hướng đó mà Giáo hội, muốn ta sống tình gia đình, lòng biết ơn ông bà cha mẹ trong ngày mùng Hai Tết.
5. Lòng hiếu thảo với tiên nhân (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Sách khải huyền có viết:” Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi”(Kh 14, 13). Lời Kinh thánh giúp ta hiểu rõ của những người đi trước đã nhắm mắt lìa đời trong ân nghĩa Chúa. Niềm tin Kitô giáo dậy nhân loại, dậy mỗi người Kitô hữu rằng bổn phận của người còn sống có bổn phận và nghĩa vụ đối với những người đã khuất, đặc biệt đối với các bậc tiền nhân, tiên tổ, ông bà, cha mẹ. Đây cũng là điều răn thứ bốn trong mười thập giới của Đạo công giáo. Riêng đối với người Việt Nam vấn đề đạo hiếu có một tầm quan trọng đối với cá nhân, gia đình và họ hàng thân tộc.
NGƯỜI VIỆT NAM MANG NẶNG CHỮ HIẾU:
Đối với người Việt Nam chữ hiếu luôn đứng đầu trong mọi đức tính sẵn có của con người. Người Việt Nam vốn lấy đạo đức làm căn ban cho cuộc sống, cho bản thân, cho gia đình và cho dòng tộc của mình. Con cái thảo hiếu với cha mẹ lúc còn sống, khi cha mẹ đã khuất, người con hiếu thảo là người con luôn tưởng nhớ tới cha mẹ bằng việc cầu nguyện, xin lễ cho những người thân đã mất. Người Việt thường có bàn thờ gia tiên để tôn kính tổ tiên, ông bà cha mẹ đã qua đời. Sự hiếu thảo của con cái được thể hiện bằng nhiều cách như khi cha mẹ còn sống, con cái kính trọng, nuôi dưỡng, vâng phục cha mẹ và khi các vị đã mất, con cái cháu chắt lại tưởng nhớ tới các bậc tiền nhân trong những ngày giỗ, ngày kỵ, này tết nơi gia đình, nơi dòng tộc của mình. Người Việt Nam cũng không chỉ đóng khung trong gia tộc, gia đình mà họ còn đi xa hơn biết ơn cả đối với những người đã hy sinh để xây dựng quê hương, bảo vệ đất nước.
Tấm lòng tốt, sự biết ơn là một nét độc đáo trong nền văn hóa và đạo đức của người Việt Nam. Chính vì thế, người Kitô hữu Việt Nam đã cảm nghiệm sâu xa giới luật thứ bốn của đạo công giáo và hài hòa với truyền thống tôn kính, tưởng nhớ, ghi ơn những người đã có công với đất nước, quê hương, dân tộc.
NIỀM TIN KITÔ GIÁO:
Người Kitô hữu thể hiện chữ hiếu Kitô giáo bằng nhiều cách:khi cha mẹ còn sống, con cái chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ, khi cha mẹ đã khuất lòng hiếu thảo được thể hiện bằng việc cầu nguyện, dâng lễ, làm việc lành dành riêng cho cha mẹ đã qua đời. Việc chăm sóc mồ mả, nhớ ngày giỗ, ngày kỵ, hương nhang, nến đèn cho người chết cũng là một cách biểu tỏ lòng biết ơn đối với những kẻ đã khuất, đã chết. Xưa có quan niệm theo Chúa, theo đạo công giáo là bỏ tổ tiên, bỏ ông bà cha mẹ, quan niệm ấy đã lỗi thời vì xưa kia đã có ngộ nhận như thế. Nay, người công giáo là người nhận mọi người là anh em. Theo Chúa, theo đạo, người Kitô hữu như được dọn trước để mở rộng vòng tay đón nhận mọi người. Người Kitô hữu không chỉ đóng khung trong gia đình, gia tộc, họ hàng của mình mà họ còn có nhiều tổ tiên, ông bà, cha mẹ vì đạo Chúa bao gồm tất cả mọi người không loại trừ bất cứ ai. Trong tình yêu của Chúa mọi người đều là anh em với nhau. Đức ái Kitô giáo không phân biệt, không loại trừ bất cứ người nào.
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội Việt Nam dành ngày này để kính nhớ tổ tiên, ông bà cha mẹ, đây là một việc làm thật đáng trân trọng và hữu ích vì trong những ngày tết, mọi người đều vui vẻ, hạnh phúc sum vầy, êm ấm để ăn tết, tưởng nhớ, dâng lễ và cầu nguyện cho những bậc tiền nhân là một nghĩa cử cao đẹp và là một nhắc nhớ cho mọi người hãy sống hiếu thảo, hãy thực hành giới luật thứ bốn của thập giới Kitô giáo. Sống đạo hiếu là nét son văn hóa và nét nổi bật đức tin của người Kitô hữu Việt Nam.
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, Chúa dậy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo. Hôm nay, nhân dịp đầu năm mới, chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các Ngài (Lời nguyện nhập lễ, lễ Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ).
6. Sống thảo hiếu (Lm. Tạ Duy Tuyền)
Theo tục lệ Việt nam, ngày Tết là ngày con cháu dù ở nơi xa cũng sum họp cùng gia đình để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ. Đồng thời nói lên lòng yêu mến, biết ơn của con cháu đối với các bậc sinh thành.
Nhiều bài ca dao, tục ngữ, nhiều bài hát, câu chuyện, đã kể về công cha nghĩa mẹ và răn dạy con cái cần sống đáp đền công ơn ấy:
“Công cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao
Đội ơn chín chữ cù lao
Sinh thành kể mấy non cao cho vừa”.
Khi nhận ra công cha nghĩa mẹ, thì đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta:
“Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng”
Thế nên,
Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm
Lòng hiếu thảo quả là một tấm lòng thơm tho, đáng yêu. Lòng hiếu thảo làm cho con người thêm thanh cao, giá trị. Bởi được người đời kính trọng, yêu thương những ai có hiếu với mẹ cha.
Thế nhưng, giữa dòng đời hôm nay vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn nơi các bậc cha mẹ vì thiếu tình thương của con. Ở đâu đó, trong nhiều mái gia đình, ông bà cha mẹ lại là gánh nặng cho con cái. Ở đâu đó, vẫn còn những tiếng nghẹn ngào của những bậc sinh thành bị bỏ rơi ngay giữa đàn con cháu của mình.
Thiết tưởng, ngày đầu xuân chúng ta cùng lắng đọng tâm hồn để nghe lời bộc bạch chân thành từ lá thư của một người cha viết cho con.
Lá thư ấy viết rằng:
Con thân mến,
Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và hiểu giùm cho bố mẹ. Nếu như bố mẹ ăn uống rớt vun vãi… Nếu như bố mẹ gặp khó khăn ngay cả đến cái ăn cái mặc… Xin con hãy bao dung!
Con hãy nhớ những ngày giờ mà bố mẹ đã trải qua với con, để dạy cho con bao điều lúc thuở bé.
Nếu như bố mẹ cứ lập đi lập lại hàng trăm lần mãi một chuyện, thì đừng bao giờ cắt đứt lời bố mẹ… mà hãy lắng nghe!
Khi con còn ấu thơ, con hay muốn bố mẹ đọc đi đọc lại mãi một câu truyện hằng đêm cho đến khi con đi vào trong giấc ngủ… và bố mẹ đã làm vì con.
Nếu như bố mẹ không tự tắm rửa được thường xuyên, thì đừng quở trách bố mẹ và đừng nên cho đó là điều xấu hổ.
Con hãy nhớ… lúc con còn nhỏ, bố mẹ đã phải viện cớ bao lần để vỗ về con trước khi tắm.
Khi đôi chân của bố mẹ không còn đứng vững như xưa nữa… hãy giúp bố mẹ, nắm lấy tay bố mẹ như thể ngày nào bố mẹ đã tập tềnh con trẻ những bước đi đầu đời.
Và một ngày như một ngày sẽ đến, bố mẹ sẽ nói với con rằng… bố mẹ không muốn sống, bố mẹ muốn từ biệt ra đi.
Con đừng oán giận và buồn khổ… vì con sẽ hiểu và thông cảm cho bố mẹ khi thời gian sẽ tới với con.
Hãy giúp bố mẹ trong từng bước đi vào chiều…
Cách duy nhất còn lại mà bố mẹ muốn cảm ơn con là nụ cười và cả tình thương để lại trong con.
Thương con thật nhiều
Là người Ki-Tô, chúng ta cũng được mời gọi sống giới răn: “hãy thảo hiếu cha mẹ”. Đây là lệnh truyền chứ không phải lời khuyên. Lời khuyên thì có thể không làm nhưng lệnh truyền thì buộc phải thi hành.
“Phải thờ cha kính mẹ” còn là lễ dâng đẹp lòng Thiên Chúa. Ngược lại, Kinh Thánh còn ví kẻ khinh rẻ cha mẹ là chọc giận Thiên Chúa: ”Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai khinh rẻ mẹ, là chọc giận Đấng tạo thành ra nó” (Hc 3, 16). “Phải thờ cha kính mẹ” đó là điều răn duy nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).
“Phải thờ cha kính mẹ” còn phải được thể hiện qua những lời khuyên nhủ thật chân tình trong sách Huấn Ca: “Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dễ người” (Hc 3, 12-16).
Người ta nói: ”Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó". Việc thất đức mình làm cho tiền nhân cũng có thể tái diễn ngay chính cuộc đời chúng ta. Nếu chúng ta không muốn con bất hiếu với mình thì chính chúng ta hôm nay cũng phài làm gương sáng về hiếu thuận với mẹ cha. Nếu chúng ta muốn con cái đối xử tốt với mình thì hôm nay chúng ta cũng phải ân cần săn sóc mẹ cha.
Nguyện xin Chúa Xuân chúc lành cho buổi họp mặt gia đình hôm nay. Xin Chúa Xuân cư ngụ đến từng gia đình, mang ơn lành đến cho muôn nhà để mọi người được hưởng nếm những giây phút bình yên nhất bên gia đình và người thân. Amen
7. Kính Nhớ Ông Bà Tổ Tiên – Lm Đinh Lập Liễm
I. Ý NGHĨA BA NGÀY TẾT
Theo tục lệ Việt nam, ngày Tết là ngày con cháu dù ở nơi xa cũng xum họp cùng gia đình để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ. Đồng thời nói lên lòng yêu mến, biết ơn của con cháu đối với các bậc tiền bối.
Giáo hội Việt nam cùng đồng hành với dân tộc cũng muốn đề cao ba ngày Tết để giúp giáo dân thánh hóa ngày Tết với ý chỉ:
* Mùng một : cầu bình an cho năm mới.
* Mùng hai: kính nhớ ông bà tổ tiên.
* Mùng ba: thánh hoá công việc làm ăn.
Hôm nay mùng hai Tết, Giáo hội muốn cho giáo dân tỏ lòng hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên bằng cách dâng thánh lễ đặc biệt để cầu cho các ngài còn sống hay đã qua đời, tuy đã khuất nhưng còn luôn ở bên cạnh chúng ta.
II. ĐẠO HIẾU CỦA TA
1. Luật của Chúa.
Hằng tuần chúng ta vẫn đọc kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời, khi đọc đến giới răn thứ bốn, ta nhớ ngay đến nghĩa vụ phải thảo kính cha mẹ. Thảo kính cha mẹ là gì? Thưa là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và khi đã qua đời. Ta phải hiếu thảo ngay cả khi cha mẹ đã qua đời, vì tuy các ngài đã khuất nhưng vẫn còn ở bên chúng ta.
2. Chữ hiếu của người Á đông.
a) Người Á đông đề cao chữ hiếu, coi như cội rễ của mọi đức. Người con bất hiếu là người con bỏ đi, và tội nặng nhất là tội “bất hiếu”.
b) Người Phật giáo cũng có một lễ riêng vào ngày rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân mà ta gọi là lễ Vu lan. Ngày này, người ta có những nghi lễ đặc biết để nhớ đến ông bà tổ tiên.
c) Người ta còn có lệ “cúng cô hồn”, tặng cho các cô hồn thức ăn cho khỏi đói, một nghĩa cử cao qúi đối với những hồn cô đơn không ai nhớ tới. Bên Công giáo chúng ta gọi là cứu giúp các linh hồn mồ côi trong luyện ngục.
3. Sự tử như sự sinh.
Những người thờ cúng tổ tiên có vẻ sống gần gũi với ông bà cha mẹ đã khuất. Người ta coi “sự tử như sự sinh” (phụng dưỡng người chết cũng như người sống). Do đó, người ta khấn vái, nói chuyện với cha mẹ đã chết giống như nói chuyện với người còn sống. Họ dâng cho cha mẹ hoa quả, nén hương, thậm chí cả mâm cơm để tỏ tấm lòng thành với các ngài.
Truyện: Đôi đũa thứ năm.
Bác Năm Hớn có một vợ và hai con. Chẳng may vợ mất sớm. Một hôm bác mời cha Piô Ngô phúc Hậu đến dùng cơm với bác. Trong mâm chỉ có bốn người mà sao lại thắp những 5 đôi đũa bát. Cha Piô Ngô Phúc Hậu ngạc nhiên hỏi: ”Bát đũa này dành cho ai”? Bác trả lời: ”Dành cho vợ bác”. Tuy vợ bác đã khuất nhưng bác vẫn mời vợ về cùng dùng cơm.
III. Ý NGHĨA NGÀY MÙNG HAI TẾT
Giáo Hội Việt nam luôn đồng hành với dân tộc, không những phải giữ lấy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn nâng cao lên, cho nó một ý nghĩa cao qúi. Vì thế, Giáo hội Việt nam muốn dùng ngày mùng hai Tết để chúng ta kính nhớ ông bà tổ tiên, vì
Người ta có cố có ông,
Như cây có cội, như sông có nguồn. (ca dao)
Không có ông bà tổ tiên thì không có ta, tất cả những cái ta có là do ông bà cha mẹ để lại. Không ai đuợc quên công ơn lớn lao đó:
Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm (ca dao)
Truyện: Con kiện mẹ.
Tại bang New Jersey bên Hoa kỳ, một bà mẹ 78 tuổi bị đứa con trai kiện vì bà không trả tiền công cho chàng đã sửa chiếc xe vận tải của bà.
Bà đã đệ đơn tố ngược lại con mình, với đề nghị là chàng phải bị đánh đòn vì lúc chàng còn nhỏ, bà đã không áp dụng câu:”Thương con cho roi cho vọt”.
Trả lời đơn người con trai kiện mình, bà đã viết:”Nguyên cáo mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một người mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, một nhà tâm lý để cố vấn khuyên bảo… Tất cả những dịch vụ trên nguyên cáo đã không trả tiền công cho bị cáo”.
Bà mẹ viết tiếp:”Như một người mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh con tôi, những roi vọt cần thiết cho nó mà tôi đã không dành cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con, thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi”. (R. D. Warhreit, Ánh sáng hy vọng, tr 226)
Ngược lại câu truyện cười ra nước mắt trên đây, một PHONG TRÀO vô danh đã gợi ý các thành viên mình suy nghĩ về câu châm ngôn:”Những cụ già là một hồng ân”, với những tư tưởng như sau:
Phúc cho anh chị khi hiểu rằng tay tôi đã khởi sự run rẩy và chân tôi bắt đầu yếu dần.
Phúc cho anh chị khi nhớ rằng tai tôi không còn nghe rõ như xưa và dù muốn hay không những người lớn tuổi cũng phải chấp nhận câu:”Trẻ khôn ra, già lú lại”.
Phúc cho anh chị nếu biết rằng mắt tôi không còn sáng được như xưa.
Phúc cho anh chị nếu không giận dữ vì tôi đánh rơi một cái tách đắt tiền, khi tôi năm lần bảy lượt thuật lại cùng một câu truyện.
Phúc cho anh chị nếu anh chị biết trao cho tôi những nụ cười thông cảm, nếu anh chị hỏi tôi về quãng đời quá khứ, những kinh nghiệm của tuổi thanh xuân, nếu anh chị hiểu được những dòng nước mắt cô đơn của tôi, nếu anh chị dành cho tôi chút tình yêu thương kính trọng.
Phúc cho anh chị nếu ở lại với tôi thêm giây lát dù trời sắp tối.
Phúc cho anh chị nếu nắm lấy tay tôi khi tôi phải giã từ cõi đời để một mình đi vào bóng đêm, bóng đêm của sự chết.
Phải, phúc cho anh chị, vì khi lên thiên đàng, tôi sẽ thắp cho anh chị những vì sao.
KẾT LUẬN
Chúng ta có hiểu câu thành ngữ tha thiết và trách móc này không:
Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.
Để dễ dàng lấp đầy hố sâu chia cách hai thế hệ, giới trẻ chúng ta phải ghi nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ mà giữ trọn chữ hiếu. Đấy là bài học hữu hiệu để giữ được mãi trong xã hội chúng ta nét đặc thù mà xã hội Âu Mỹ đã đánh mất từ lâu.
Hôm nay chúng ta hãy làm hai việc khẩn thiết trong ngày kính nhớ ông bà tổ tiên
1. Sốt sắng hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các ngài vì Thánh lễ là một phương thế hiệu nghiệm nhất chúng ta có thể kéo ơn Chúa xuống cho ông bà cha mẹ chúng ta khi các ngài còn sống cũng như đã qua đời.
2. Khơi lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với các ngài bằng những việc làm cụ thể nhất là trong những ngày Tết này. Hãy ghi nhớ lại điều răn Chúa đã dạy chúng ta trong kinh Mười điều răn:”Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.
Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng. (Ca dao)
8. Hiếu kính Cha Mẹ
Có một chàng trai sắp thi tốt nghiệp đại học. Trước đó, anh đã nói với cha về ước muốn có chiếc xe thể thao xinh đẹp và mong rằng nó sẽ là quà tặng của cha nhân ngày tốt nghiệp.
Người cha nghe xong im lặng, không có ý kiến gì.
Sau ngày chàng trai tốt nghiệp, người cha đã gọi anh vào phòng, nói rằng ông rất yêu thương và hãnh diện có được đứa con như anh. Sau đó, ông trao cho anh một hộp quà được gói cẩn thận. Ngạc nhiên, chàng trai mở hộp quà và nhìn thấy đó là một quyển sách thể loại “rèn nhân cách” được đóng gáy và bọc bìa da rất đẹp. Chàng trai nhíu mày, “với tất cả tài sản mà cha mình đã có… và món quà tặng cho con tốt nghiệp đại học chỉ là một quyển sách tầm thường này hay sao?”.
Chán nản và buồn phiền với ý nghĩ đó, chàng trai không nói lời nào với cha mình, rời khỏi phòng, để lại quyển sách trên bàn. Sau đó anh bỏ nhà ra đi…
Trong một thời gian dài, chàng trai không liên hệ với cha mình. Cho đến một ngày anh nhận được tin cha mình đã qua đời và để lại toàn bộ tài sản cho anh ta.
Khi anh về đến căn nhà cũ xưa, sự buồn phiền và hối hận tràn ngập trong lòng chàng trai khi anh nhớ đến sự cư xử lạnh nhạt mà anh đã có với cha trước đây. Anh tìm đọc những giấy tờ quan trọng của cha mình và nhìn thấy cuốn sách “rèn nhân cách” vẫn còn nguyên vẹn trên bàn như ngày anh từ bỏ nó. Chàng trai mở cuốn sách ra, lật từng trang và thấy một bao thư được ép chặt trong đó. Anh đã nhẹ nhàng mở bao thư ra, và bỗng dưng nước mắt anh tuôn trào khi nhận ra đó chính là một chìa khóa xe hơi và tờ hóa đơn của chính chiếc xe mà anh ta yêu thích ngày trước. Tờ hóa đơn ghi đúng ngày anh ta tốt nghiệp với dòng chữ đã thanh toán đầy đủ…
Trong cuộc sống của chúng ta, không ai mà không mắc những sai lầm. Có những sai lầm thì sau đó được sửa chữa và trở nên bình thường. Nhưng có những sai lầm sau khi khắc phục rồi, nó vẫn còn để lại “một vết sẹo” mà khó có thể phai mờ được.
Có thể nói, “vết sẹo” mà chúng ta đã gây ra đối với đấng sinh thành, là đáng trách nhất. Vết sẹo đó sẽ mãi mãi ở bên chúng ta, khiến chúng ta luôn bị nhức nhối lương tâm mỗi khi nhớ đến nó. Như trong câu chuyện trên, chàng trai sau khi thức tỉnh, đã vô cùng ân hận, nhưng người cha đã không còn nữa để anh ta làm một cái gì đó, dù chỉ là một lời xin lỗi…
Ngày Tết là dịp để chúng ta về đoàn tụ bên các đấng sinh thành để xin lỗi, để cầu chúc các đấng an khang trường thọ.
Ngày Tết là dịp để con cái nhìn nhận tình thương của cha mẹ là tình thương không thể thiếu cho con bước đi trong cuộc đời.
Dầu rằng, Tình Cha, Tình Mẹ có khác nhau nhưng nhờ Ơn Cha, nhờ Nghĩa Mẹ mà con cái mới đứng vững trước những sóng gió cuộc đời.
Thực vậy, tình cảm của người cha không bao giờ như người mẹ.
Tình thương của cha luôn giấu kín trong lòng, đôi khi còn tỏ ra nghiêm nghị, cứng rằn mỗi khi dạy con. Cha giống như một thân cây vững chắc, bám rễ thật sâu dưới lòng đất để hút nhựa nuôi dưỡng cành lá, hoa, quả.
Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ mềm lòng, cha phải giữ kỷ cương, mẹ chín bỏ làm người, cha phải cầm cân nảy mực. Cuộc sống đòi buộc cha lăn lộn với đời để kiếm tìm miếng cơm manh áo cho gia đình.
Cha thường xuyên phải xa gia đình, xa con cái, nên tình cảm đôi khi cũng lạt hơn mẹ.
Cha còn thẳng tay trừng phạt những đứa con thiếu ý chí vươn lên, lười biếng, vô dụng.
Cha luôn đòi đứa con phải tự bước đi trên đôi chân của mình, cho dù có té ngã, vẫn phải một mình đứng dậy. Đó chính là một tình thương mà chỉ có người cha mới rèn nên cho con tính đoan trang, tính mực thước và nghị lực khi bước vào đời vốn dĩ luôn ngập tràn những khó khăn.
Nhưng đáng tiếc, chỉ khi nào mất cha, người con mới cảm thấy mất núi Thái Sơn, mất đi cái nóc cột trụ gia đình.
Mất cha, người con mới ngậm ngùi nói rằng:
Còn cha, gót đỏ như son
Mất cha, gót mẹ, gót con đen sì.
Hay:
Thương cha lam lũ một đời,
Tìm trong xa vắng những lời xa xưa.
Bồng bềnh gió đẩy mây đưa,
Bơ vơ con đứng, bóng mưa ngập lòng. (Nguyễn Ánh Hồng)
Vâng, đời của những người làm con sẽ trở nên trống vắng lạc lõng vô cùng nếu như một ngày kia cha mẹ vĩnh viễn ra đi, bỏ lại thân xác trong nấm mồ cô đơn lạnh lẽo. Lúc đó, lòng con lại dâng trào một nỗi buồn mênh mông sâu lắng:
Thấy bơ vơ lạc lõng dấy trong lòng
Khi chợt nhớ mẹ già không còn nữa.
Bởi vì:
Mẹ ơi, trên vạn nẻo đường
Con đi, mới hiểu tình thương mẹ hiền.
Đời con xuôi ngược bao miền
Nhưng tình của mẹ là nguồn yêu thương.
Bởi thế, đạo làm con luôn mời gọi chúng ta hãy thờ cha kính mẹ, để mai này, chúng ta khỏi phải xót xa mà nói rằng:
Tình thương xuôi chảy một miền
Nhưng con nào biết giữ niềm kính yêu
Con nay hầu mẹ tuổi chiều
Nuôi cha dưỡng mẹ, ít nhiều kể công.
Và với lòng hiếu kính đang trào dâng trong ngày Mồng Hai Tết, có lẽ ai trong chúng ta cũng thầm mong ước cho cha mẹ mãi mãi ở cùng chúng ta:
“Ngày đêm khấn nguyện cầu Trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”.
Cầu cho cha mẹ sống đời với con, đó là tâm nguyện của tất cả những người con dành cho cha mẹ. Bởi lẽ không có một tình con người nào sâu đậm, gắn bó, chân thành bằng tình cha mẹ yêu con, và càng không có một tình yêu nào trên trái đất này có thể thay thể được tình phụ mẫu yêu con, mà bài cầu cho cha mẹ của Linh mục Nguyễn Duy đã lột tả.
“Này chúng con sinh vào đời nhờ có tay của mẹ cha. Là Thái Sơn cao xa cao xa, là Biển Đông bao la bao la, như một rừng hoa ngát hương cả bốn mùa. Ôi tình mẹ cha nói lên tình Chúa. Đời chúng con yên vui hân hoan, nhờ mẹ cha gian nan lo toan, trong giọt mồ hôi có chung cả máu hồng, luôn dạy lòng con biết câu mặn nồng.
Rồi lớn lên, con vào đời, gặp biết bao nhiêu người thương. Dù có ai hy sinh cho con. Dù được ai cho mâm cơm ngon, đi gần về xa, thấy đâu một mái nhà, như nhà mẹ cha thiết tha từ ấy. Rồi lớn lên, con xây non cao, vượt biển khơi bay lên trăng sao. Khi về nhà xưa với cha và với mẹ, vẫn là trẻ thơ bé như ngày nào”
Vâng, lời ca như muốn mời gọi chúng ta hãy sống trọn tình con thảo ngay từ hôm nay. Hãy sống ngoan hiền bên những người cha mẹ đang còn trẻ để hưởng nếm giây phút ngọt ngào mà ai đó nói rằng: là chùm khế ngọt cho con trèo hái mỗi ngày.
Hãy sống thảo hiếu, quan tâm chăm sóc các đấng sinh thành khi đã còng lưng vì một đời lam lũ cho đoàn con.
Vâng, hãy tạ ơn Chúa đi, hãy sống cho trọn vẹn đạo làm con, trọn nghĩa tình với cha mẹ mình, vì cha mẹ là món quà thiêng liêng và quí giá nhất, tình cha mẹ là cái gì rất cao siêu lành thánh, mà lại thật thân mật gần gũi, được Chúa dành cho chúng ta.
Nguyện xin Chúa chúc lành và trả công cho các bậc sinh thành và ước gì những ngừơi con hôm nay đang vinh dự được chúc mừng tuổi mới của cha mẹ, thì cũng biết sống hiếu thảo để đền đáp ân nghĩa cù lao chín chữ mà cha ông ta đã từng khuyên răn rằng:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.
Amen.
+++++++++
Note: Chín chữ cù lao, tức là chín điều khó nhọc của cha mẹ sanh dưỡng con cái.
Chín chữ cù lao gồm:
1. Sinh: Sanh đẻ.
2. Cúc: Nâng đỡ.
3. Dục: Dạy dỗ.
4. Phủ: Vuốt ve triều mến.
5. Xúc: Cho bú sữa.
6. Trưởng: Nuôi cho khôn lớn.
7. Cố: Trông nom.
8. Phục: Ôm ấp.
9. Phúc: Bảo vệ.
9. Hiếu kính cha mẹ (Lm Giuse Đinh lập Liễm)
Hôm nay Mồng Hai Tết Kỷ Sửu. Hội thánh Việt nam muốn dùng ngày này cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà cha mẹ với mục đích nhắc nhở và khuyến khích con cháu hãy tỏ lòng hiếu kính với ông bà cha mẹ. Nhân ngày đầu năm, chúng ta hãy cùng nhau suy niệm về giới răn thứ bốn của Chúa và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, nhất là trong dịp đầu năm này.
I. LỜI CHÚA DẠY.
1. Điều răn thứ bốn.
Trong mười điều răn, Thiên Chúa đã dành hẳn điều răn thứ bốn nói về lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ, trước các điều răn hướng về con người. Đây không phải là lời khuyên mà là một luật buộc phải thi hành như các điều răn khác.
Vậy hiếu kính cha mẹ là gì? Theo giáo lý Công giáo, hiếu kính cha mẹ là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và đã qua đời (Theo cuốn Giáo lý Tân định). Hôm nay Giáo hội Việt nam muốn chúng ta hãy tỏ lòng hiếu kính đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ trong cuộc sống, nhất là trong dịp Tết nguyên đán này.
2. Sách Huấn ca dạy.
Sách Huấn ca đã đề cập đến lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Theo tác giả# Ben Sira, lòng hiếu thảo đối với cha mẹ đem lại nhiều lợi ích:
– Được đền bù tội lỗi.
– Được con cái cháu chắt thảo hiếu lại.
– Sẽ được Chúa nhận lời.
3. Gương Chúa Giêsu.
Thánh Luca cho chúng ta biết Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta về lòng hiếu thảo đối với thánh Giuse và Đức Maria tại Nazareth, mặc dù chỉ bằng một câu rất vắn tắt:”Rồi Ngài theo cha mẹ trở về Nazareth và vâng lời các Ngài”(Lc 2, 51)
4. Lời khuyên của thánh Phaolô.
Trong thư gửi cho tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô khuyên bảo con cái:”Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”(Ep 6, 1-3).
II. CHỮ HIẾU NGÀY XƯA.
Theo truyền thống Đông phương, chữ Hiếu được đề cao trong đời sống gia đình và ngoài xã hội, vì xã hội này chịu ảnh hưởng sâu xa nền luân lý Khổng Mạnh. Đức Khổng Tử đã dạy môn sinh của mình phải phụng dưỡng cha mẹ, quạt nồng ấp lạnh, tối sớm chăm nom:
Tử viết:”Phụ mẫu tại bất viễn du,
Du tất hữu phương”.
Đức Khổng Tử nói: cha mẹ còn sống không nên đi chơi xa, và đi đâu thì phải cho biết có nơi có chốn.
Ngài còn đặt ra nhiều phong tục rất tỉ mỉ và phiền toái để tỏ lòng hiếu với cha me như việc ma chay, tang chế, kiêng kỵ… Ngày nay nhiều điều không còn phù hợp nữa.
Theo tục lệ ngày Tết, con cháu dù ở nơi xa xôi cũng phải về họp mặt cùng ông bà cha mẹ vì ngày này được coi là linh thiêng. Ai vắng mặt không có lý do chính đáng bị coi như là bất hiếu.
III. CHỮ HIẾU NGÀY NAY.
Xưa nay, chữ Hiếu rất quan trọng đối với người Việt nam. Theo học thuyết Khổng Mạnh, chữ Hiếu là nhân đức làm đầu của đạo con cái. Và trong các tội phạm đến cha mẹ thì bất hiếu là tội lớn nhất. Người Việt nam đã tôn phong chữ Hiếu lên thật cao, thành một đạo khi người ta nói:
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho trọn chữ Hiếu mới là ĐẠO CON.
Hai từ ngữ THỜ và KÍNH là hai từ dùng trong những việc làm của tôn giáo. Thờ kính cha mẹ là có hiếu với cha mẹ, và người ta nâng chữ Hiếu lên thành ĐẠO, đạo làm con. Do đó, chúng ta phải ý thức rằng thảo kính cha mẹ không còn là những tình cảm chủ quan tùy tiện, cũng không phải chỉ là lẽ công bằng mà là một ĐẠO. Mà lỗi đạo là phạm tội chứ không phải chỉ là một sự sơ sót.
Theo điều răn thứ bốn thì con cái phải thảo hiếu cha mẹ, nhưng ngày nay người ta coi thường điều răn này, có người cho là lỗi thời trong thời đại tiến bộ, văn minh và dân chủ này. Con cái đến tuổi khôn là đã muốn sống độc lập đối với cha mẹ, không cần sự hướng dẫn bảo ban của các ngài. Người ta quên rằng:
“Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già” (Tục ngữ)
Cha mẹ có tuổi thì già yếu thật, nhưng kinh nghiệm và khôn ngoan thì nhiều hơn tuổi trẻ. Vì thế người ta mới nói:
“Người 70 còn phải học người 71″(Tục ngữ)
Ngày nay, cha mẹ già trở nên gánh nặng cho con cái, không muốn nuôi dưỡng cha mẹ trong tuổi già. Để bớt gánh nặng, con cái chỉ việc gửi cha mẹ đến viện dưỡng lão, nếu tốt thì ít lâu gửi cho một số tiền, hay một món quà. Do đó, cha mẹ phải sống cô đơn. Thực ra cha mẹ cần tình thương hơn là tiền bạc, sự viếng thăm cần hơn của cải.
Công ơn cha mẹ như trời như bể,
Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày.
Truyện: Tờ hóa đơn.
Có một bà mẹ nọ, vì muốn khuyến khích đứa con nhỏ của mình chăm lo việc nhà, nhất là những công việc nhỏ nhặt, nên hầu như lúc nào bà cũng thưởng cho nó một món tiền nhiều ít tùy theo công việc nặng nhẹ.
Lần kia, suốt cả một tuần, bà mẹ đau liệt giường. Thế là em nhỏ phải giúp mẹ trong nhiều công việc, nhưng không thấy mẹ tính thù lao. Cuối tuần, em nhỏ viết một cái hóa đơn ghi những công tác chưa được nhận tiền thưởng gồm: xách nước 2 đồng, nấu cơm 3 đồng, giặt quần áo 5 đồng… Tất cả các thứ tính chung trong một tuần lễ là 80 đồng. Xong, em rón rén bước vào phòng, dúi tờ hóa đơn vào tay bà mẹ.
Ba phút sau, bà mẹ đưa cho em bé 80 đồng kèm theo một tờ hóa đơn khác, trong đó ghi: công sinh, công nuôi dưỡng, công dạy dỗ, công học hành, công thầy thuốc mỗi khi đau bệnh… x 10 năm: chưa có mục nào được thanh toán cả. !
Cầm tờ hóa đơn trong tay, em nhỏ chợt hiểu, vội chạy vào xin lỗi mẹ.
Lại còn cách xưng hô với cha mẹ!
“Cha mẹ” hai từ ấy linh thiêng và cao quí dường nào. Thế nhưng nhiều người trong chúng ta cố ý hay vô tình quên đi ý nghĩa cao quí đó. Không ít bạn đã gọi các bậc sinh thành của mình bằng từ “ông già, bà già, ổng, bả”… thậm chí còn có bạn gọi là “ông bô, bà bô”.
Phần lớn những ngôn từ này thường phát ra từ miệng của phái nam. Tuy nhiên ở nữ cũng không kém. Chúng ta hãy nghe một bạn nữ nói:”Ông già mình chịu khó lắm. Suốt đời chỉ lo cho mình ăn học không à”! Nghe xong, thấy có điều chẳng xuôi. Có cái gì đó mâu thuẫn giữa lời nói và tấm lòng của người con ấy.
Thật tội nghiệp! Nếu cha mẹ còn trẻ măng đã bị “lão hóa” bởi chính cái miệng của đứa con mình rứt ruột sinh ra.
IV. QUYẾT TÂM CỦA CHÚNG TA.
Truyền thống của cha ông chúng ta rất coi trọng chữ hiếu. Để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ ngày xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ, anh chị em theo tinh thần “Hiếu đễ”. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu. (Ca dao)
Mặt khác, đối với người Kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại bản thập giới, chúng ta thấy ngay sau ba giới răn nói về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “Thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau. Điều đó cho thấy, việc hiếu thảo với cha mẹ là bổn phận hàng đầu của mỗi người Kitô hữu.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đã lặp lại giới răn này và khẳng định đó chính là ý muốn từ ban đầu của Thiên Chúa và con người không có quyền thay đổi, Ngài nói:”Thiên Chúa dạy:”Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử”.
Truyện: Ý kiến của tù trưởng.
Trong quyển tiểu thuyết nhan đề “Cội rễ”, tác giả E. Heili viết như sau:
Ở một bô lạc bên Phi châu, người thanh niên khi đến tuổi trưởng thành sẽ được gọi là “chiến sĩ”. Tuy nhiên, muốn được mang danh hiệu này, anh phải trải qua một cuộc sát hạch, thường là thả vào rừng sâu một thời gian.
Năm ấy, có ba thanh niên đến tuổi trưởng thành và rất muốn được gọi là “chiến sĩ”. Ba chàng đã đến trình diện vị tù trưởng. Vị tù trưởng chúc mừng và hỏi người thứ nhất:”Trong một tháng qua, anh đã làm được những gì”? Người thanh niên thưa:”Tôi đã giết được một con hổ dữ”.
Tù trưởng khen “tốt” rồi bảo anh đứng sang một bên và hỏi người thứ hai:”Trong tháng qua, anh đã làm được những gì? Anh có giết được con hổ dữ nào không”? Người thanh niên đáp:”Thưa ngài, hổ dữ thì tôi không giết được, nhưng tôi cũng đã chém được một con trăn to”.
Tù trưởng khen “tốt”, bảo anh đứng sang một bên và hỏi người thứ ba:”Một tháng qua, anh đã làm được những gì? Anh có chém được một con hổ dữ hay một con trăn nào không”? Người thanh niên đáp:”Thưa ngài, hổ hay trăn thì tôi không chém được”. Tù trưởng hỏi tiếp:”Thế anh làm được gì”? Anh đáp:”Thưa tôi kiếm được một tảng mật ong to”. Tù trưởng hỏi:”Ngươi kiếm mật ong để làm gì”? Người thanh niên đáp:”Thưa ngài, tôi có mẹ già, mà nhà tôi lại nghèo, nên tôi kiếm mật ong để cho mẹ tôi bồi dưỡng”.
Nghe xong, vị tù trưởng rút con dao ra trao cho anh và nói:”Ta phong anh làm chiến sĩ, bởi là người thì phải biết sống hiếu thảo với cha mẹ”.
Hôm nay Giáo hội Việt nam kính nhớ ông bà tổ tiên nhân dịp đầu năm. Kính nhớ các tiền nhân chính là thể hiện tinh thần đạo hiếu của dân tộc Việt nam “Uống nước nhớ nguồn”, “Aên quả nhớ kẻ trồng cây”. Các ngài đã tận tụy nuôi dưỡng, giáo dục chúng ta nên người, đặc biệt là giúp chúng ta biết Chúa là Đấng đáng tôn thờ và yêu mến. Công ơn của tổ tiên ông bà cha mẹ đòi hỏi chúng ta phải báo hiếu bằng cách cầu nguyện cho các ngài trong ngày đầu Xu6n này, đồng thời tiếp tục những gì các ngài đã làm: hãy tận tâm săn sóc dạy dỗ con cháu chúng ta nên người
Để khích lệ chúng ta tỏ lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ, thiết tưởng chúng ta nên nhắc lại một câu rất hay trong sách Huấn ca:”Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu”.
10. Xuân Đẹp Ngời Đạo Hiếu (Mt 15, 1-6) (J. B. Nguyễn Quốc Tuấn)
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm luôn thơm phức hương thảo hiếu của chúng ta khi chu toàn bổn phận của người con, người cháu với ông bà, cha mẹ.
“Biển cả mênh mông đong sao đầy tình mẹ
Gió trời lồng lộng ngăn không nổi công cha” (Danh ngôn đạo đức)
Đạo hiếu, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Nó được thể hiện rõ nét trong mỗi dịp Tết cổ truyền. Những ngày vui tươi đầu xuân cũng là thời điểm thuận tiện để con cháu bày tỏ lòng biết ơn, hiếu kính đối với các đấng bậc đã có công sinh thành dưỡng dục mình cả về thể lý và tâm linh. Người Kitô hữu ý thức Đạo hiếu mang một chiều kích sâu xa hơn trong mối tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại và giữa con người với nhau. Do đó, khi chúng ta sống trọn chữ Hiếu cũng đồng thời ta đáp trả lời mời gọi của Tin Mừng trong thái độ yêu mến và tôn phục Thiên Chúa.
1. Đạo hiếu theo Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội
Tiếp sau bổn phận của con người đối với Thiên Chúa được nêu lên trong Thập giới (mười điều răn), Kinh Thánh đã coi thái độ hiếu thảo với cha mẹ là nền tảng thứ nhất và quan trọng nhất trong những tương quan giữa con người với con người (Is 49, 15; 63, 16…).
“Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).
Đạo hiếu đối với bề trên được khởi đi từ việc thấu hiểu và đáp trả xứng hợp công ơn của các ngài là những cánh tay nối dài của Thiên Chúa ở dưới thế, đã hy sinh, nâng đỡ ta trên đường trọn lành. “Hãy hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ cha mẹ, con mới sinh ra. Làm sao con báo đền được điều cha mẹ cho con” (Hc 7, 27-28). “Hỡi những người con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa” (Cl 3, 20).
Biểu lộ của lòng hiếu thảo thể hiện qua sự chú tâm lắng nghe lời chỉ bảo của cha mẹ trong sự vâng phục, khiêm kính. “Hỡi con, hãy giữ lấy lời huấn hụ của cha, và đừng ruồng rẫy giáo huấn của mẹ… Chúng sẽ hướng dẫn con khi con đi, canh giữ con khi con nằm, và khi con thức dậy, chúng chuyện trò với con” (Cn 6, 20-22). “Con ngoan mến chuộng lời cha quở mắng, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời khiển trách” (Cn 13, 1).
Lòng hiếu thảo là một hành vi nhân linh đặc biệt quan trọng có giá trị kiện toàn bản thân ta nên công chính thánh thiện hơn mỗi ngày. “…Vì của dâng cho cha sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi…” (Hc 3, 14-15).
Tân ước đề cao Đạo hiếu qua mẫu gương của Chúa Giêsu. Ngài đã chu toàn trọn hảo bổn phận làm con với cha mẹ trong suốt ba mươi năm sống cùng Thánh Gia (Lc 2, 51-52). Trong thời gian thi hành sứ vụ, lòng hiếu thảo được Ngài đề cập như một trong những chuẩn mực nền tảng của luật Thiên Chúa. “Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải xử tử”.
Thư 1Tm 5, 8 xác quyết bổn phận sống đạo hiếu là đòi buộc của đức tin: “Ai không biết lo lắng đến người thân và nhất là gia quyến mình, thì nó đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn là người không tin” (1Tm 5, 8).
Công đồng Vatican II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (MV, số 48).
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nêu lên vai trò của cha mẹ và bổn phận đáp trả của chúng ta: “Thiên Chúa muốn rằng sau Ngài, chúng ta phải tôn kính cha mẹ vì đã sinh thành và dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa” (GLHTCG, số 2197).
2. Niềm vui chưa trọn vẹn
Trong ngày đầu xuân, thật hạnh phúc khi chúng ta được đoàn tụ trong bầu khí yêu thương của gia tộc để bày tỏ đạo hiếu với tổ tiên. Nhưng niềm vui của chúng ta chưa thể trọn vẹn được, khi vẫn còn đó bao cụ già neo đơn, bao bậc làm cha, làm mẹ phải đau xót khốn cùng vì bị con cái hắt hủi, bỏ rơi giữa ngày đời tàn hơi, xế bóng…
Chúng ta vui sao được trước thực trạng xã hội, trong đó, một bộ phận đông đảo những người trẻ đang chạy theo lối sống tự do mất định hướng, cố tình ngoảnh mặt trước các chuẩn mực truyền thống và quan niệm sự vâng phục các đấng bậc sinh thành như một thứ bó buộc tiêu cực đối với họ.
Nếp sống đề cao tính cố kết gia tộc trong bản sắc văn hóa của các làng xã Việt Nam dường như đang bị phai nhạt dần. Các cặp vợ chồng trẻ mới thành hôn có xu hướng thích “ra riêng” (gia đình độc lập) hầu có thể thoát ra ngoài “chiếc vòng kim cô” của đại gia đình nhiều thế hệ. Điều này đang có nguy cơ dẫn tới việc các thế hệ sau ngày càng có biểu hiện xem nhẹ vai trò của những người đi trước. Và hậu quả là, họ cố tình “bỏ ngoài tai” những giáo huấn vốn được kết tinh từ kinh nghiệm sống của ông bà, cha mẹ, thầy cô.
Ngày Tết là thời điểm thật thuận tiện để những người con, người cháu cháu chúng ta tự vấn lại bổn phận và thái độ sống cần thiết đối với các bậc tiền nhân. Năm cũ qua đi, có biết bao lần ta đã làm phiền lòng những người đã phải vật lộn một nắng hai sương, lam lũ giữa dòng đời cay đắy với bao nhiêu mồ hôi nước mắt chỉ vì mong muốn, dìu dắt ta nên người. Biết bao lần ta đã vi phạm trầm trọng chuẩn mực đạo hiếu chỉ vì muốn được tự do sống theo ý riêng mình…
Năm mới, ta hãy sống sao cho đẹp Chữ Hiếu.
3. Sống đẹp Chữ Hiếu
Nhiều giáo xứ đang phát huy truyền thống tốt đẹp, đó là tổ chức long trọng thánh lễ kính nhớ tổ tiên tại nghĩa trang giáo xứ vào ngày Mồng Hai Tết. Trong ngày này, con cháu, dâu rể… dù ở phương xa phải bận bịu trăm công nghìn việc, vẫn cố gắng sắp xếp quy tụ về bên phần mộ gia tộc, cùng nhau thắp lên nén hương lòng kính hiếu và chung lời nguyện xin cho người quá cố được sớm an nghỉ trong Chúa. Thật là nghĩa cử đẹp đẽ, nói lên Đức ái Kitô giáo được biểu lộ qua đạo hiếu.
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm sẽ cháy mãi và bừng lên nơi tâm hồn của những người con hiền, cháu thảo như một lời tri ân đáp trả nồng nhiệt công ơn của các đấng bậc đã sinh thành, dưỡng dục ta.
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm cho tổ tiên sẽ lan tỏa trong đời bạn, đời tôi để chúng ta luôn sống xứng với truyền thống Đức tin rạng ngời của tiền nhân.
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm luôn thơm phức hương thảo hiếu của chúng ta khi chu toàn bổn phận của người con, người cháu với ông bà, cha mẹ.
Ước mong nén hương lòng đầu năm trước người quá cố đang và sẽ thức tỉnh những ai có biểu hiện xem thường chuẩn mực đạo hiếu.
Và nguyện ước cho nén hương lòng đầu năm trước tổ tiên là tất cả tâm thành của ta hướng về Chúa, cảm tạ Ngài đã ban cho ta có được tổ tiên ông bà cha mẹ. Nhờ sống trọn, sống đẹp Đạo Hiếu, chúng ta góp phần tôn vinh Thiên Chúa, tôn vinh Đạo Trời.
11. Thảo kính cha mẹ (Mt 15, 1-6) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Mỗi năm vào ngày mồng hai tết, Giáo Hội luôn dành một ngày để con cái cháu chắt có dịp báo hiếu tưởng nhớ tới ông bà tổ tiên. Đây là hình thức rất có ý nghĩa, Giáo Hội giúp mỗi người còn được diễm phúc sống dưới trần gian này hiểu được thế nào là công lao của ông bà tổ tiên. Có tổ tiên, có ông bà mới có cha mẹ rồi mới có chúng ta: đây là một điều hiển nhiên ai cũng phải hiểu và cảm nghiệm một cách sâu sắc công ơn trời biển của tổ tiên ông bà, của cha mẹ vv…” Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra “, ca dao Việt Nam quả có lý khi đề cập tới nghĩa vụ của con cái đối với mẹ cha. Do đó, hôm nay, mọi người dâng thánh lễ này cầu nguyện cho các bậc sinh thành rất hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam chúng ta, đồng thời cũng rất thực tế với dạy của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu.
CUỘC TRANH LUẬN GIỮA CÁC NGƯỜI PHARISÊU, CÁC KINH SƯ VÀ CHÚA GIÊSU: Trong đoạn Tin Mừng thánh Matthêu xoay quanh cuộc tranh luận của Đức Giêsu với các người Pharisêu, các Kinh sư về bổn phận của con cái đối với cha mẹ. Đối với các người Pharisêu, các kinh sư họ cho rằng theo lời của tiền nhân thì tất cả những gì họ làm cho cha mẹ đều là tế phẩm dâng lên Thiên Chúa, do đó, họ làm như thế là vừa đủ rồi, không cần phải thờ cha kính mẹ nữa. Người Pharisêu và Kinh sư giới hạn bổn phận con cái dựa trên hoàn toàn vật chất, một nghĩa vụ vật chất được họ gán cho nghĩa vụ đạo đức. Đối với Đức Giêsu, Ngài nhắc nhở cho các Pharisêu, các Kinh sư và mọi thế hệ, mọi người chúng ta rằng:” Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử “. Ngay trong điều răn thứ bổn của thập giới cũng viết:” Thảo kính cha mẹ “. Như thế rõ ràng Thiên Chúa dạy con người phải thảo hiếu với mẹ cha không chỉ dừng ở của cải vật chất nhưng phải hiếu thảo bằng cả tấm lòng yêu thương, tôn kính, mến yêu đến nỗi ai nguyền rủa cha mẹ tức là đụng đến nhân phẩm, đụng đến quyền làm người của cha mẹ, thì phải bị xử tử. Chính vì thế, lập trường của Chúa Giêsu hoàn toàn khác với người Pharisêu và các Kinh sư. Chúa Giêsu mở ra một giá trị mới, một đạo hoàn toàn dựa trên tình thương.
VẤN ĐỀ HIẾU THẢO BỊ LUNG LAY: Nếu lược qua các nơi, các nước chúng ta như nhận ra được cái yếu của nhiều gia đình. Bởi vì đời sống của nhiều gia đình hiện nay đang vấp phải khủng hoảng về đức tin, về đạo lý, Nhiều con cái chỉ dừng trên nghĩa vụ, bổn phận lo lắng cho cha mẹ của cải vật chất, mà quên đi cha mẹ còn phải được kính trọng và yêu mến. Vật chất chỉ là giá trị bề ngoài nhưng chính giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mới quan trọng cho đời sống cha mẹ. Ngày nay có nhiều gia đình con cái đối với cha mẹ không ra làm sao cả. Nên, giá trị đạo đức bị đảo lộn, con cái coi vật chất là trên hết, có nhiều đứa con đặt tiền tài trên nghĩa vụ làm con. Ở nhiều nước văn minh có nhiều gia đình con cái sẵn sàng gửi cha mẹ vào các nhà dưỡng lão đầy đủ tiện nghi nhưng lại thiếu thái độ”thờ cha kính mẹ ” theo ý của Thiên Chúa là ” Hãy thảo kính cha mẹ “. Các Giám mục Việt Nam trong năm 2007 và 2008 đã ra hai thư mục vụ nói về gia đình. Điều này nói lên sự quan trọng của nền tảng gia đình. Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2008 viết về gia đình Nagiarét:” Các Ngài là những bậc cha mẹ gương mẫu, luôn biết đón nhận thánh ý Chúa và đem ra thực hành. Trong gia đình Nagiarét mọi thành viên đều tôn trọng nhau, mong muốn cho nhau điều tốt và cùng nhau thực hiện ý của Cha trên trời. Thánh Giuse và Đức Maria là những nhà giáo dục tài giỏi đã chu toàn sứ mạng được trao phó trong sự khôn ngoan và trung tín. Xin các Ngài chuyển cầu và luôn phù trợ cho các gia đình chúng ta”. Gia đình thánh gia là gia đình gương mẫu cho mọi gia đình bởi vì Chúa luôn hiếu thảo đối với thánh Giuse và mẹ Maria.
ÁP DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG: Cha mẹ là người sinh ra chúng ta, chúng ta phải hết lòng tôn kính, yêu thương cha mẹ. Ai cũng có cha có mẹ. Cha mẹ sinh ra chúng ta, cha mẹ nuôi dưỡng chúng ta, chúng ta phải hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Chúa nói: ” Hãy thảo kính cha mẹ “. Bổn phận của con cái là nuôi dưỡng, thăm hỏi khi cha mẹ còn sống, lúc qua đời phải xin lễ, cầu nguyện cho cha mẹ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng Chúa cũng có một gia đình, có cha có mẹ, Chúa đã hiếu thảo với cha mẹ, xin cho chúng con luôn biết báo đáp mẹ cha. Amen.
12. Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ (Mt 15, 1-6) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giáo Hội Việt Nam luôn dành ngày mồng hai tết mỗi năm để cầu nguyện cho tổ tiên và ông bà cha mẹ đúng như đoạn Sách Cách ngôn 6, 29-23abc viết trong ca nhập lễ:
” Con ơi giữ lấy lời cha,
Chớ quên lời mẹ nhớ mà ghi tâm.
Đèn soi trong chốn tối tăm,
Ấy là chính những lời răn, lệnh truyền.
Nhớ cầu cho bậc tổ tiên,
Khắc ghi công đức một niềm tri ân“.
Vâng, Giáo Hội là người Mẹ luôn âu yếm, nâng niu đoàn con và dạy dỗ con cái hãy sống điều răn Chúa phán truyền:” Hãy thảo kính cha mẹ ” (Điều răn thứ 4 của Thập Giới Đạo Công Giáo).
Từ ngàn xưa nhân loại luôn ghi nhớ công ơn tổ tiên, ông bà cha mẹ. Bởi vì, nước có nguồn, sông có cội, con người phải có tổ tông. Tổ tiên sinh ra ông bà nội ngoại và rồi nội ngoại sinh ra con cái, sinh ra chúng ta. Công ơn tổ tiên, công ơn ông bà, ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ luôn luôn phải được đền đáp cho cân xứng. Chỉ cần đọc lại kinh tiền tụng lễ mồng hai tết, chúng ta sẽ thấy Giáo Hội chủ tâm tới những Đấng Bậc sinh thành, dưỡng dục như thế nào:” Quả thực, khi ngẫm xem muôn loài trong vũ trụ, tự nhiên chúng con thấy vạn sự đều có cội rễ căn nguyên: chim có tổ…. Nhưng phải nhờ ơn Cha mạc khải, chúng con mới nhận biết Cha là nguyên lý sáng tạo muôn loài, là Cha chung của tất cả chúng con. Cha đã ban sự sống cho tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con, để các ngài truyền lại cho con cháu. Cha cũng đã ban cho các ngài ơn huệ dư đầy, để chúng con được thừa hưởng mà nhận biết, tôn thờ và phụng sự Chúa “. Do đó, con người phải có hiếu đễ, lúc cha mẹ còn sống phải thăm nom, chăm sóc, khi cha mẹ khuất bóng, phải cầu nguyện, lo ngày giỗ ngày chạp vv…Đó là ơn nghĩa con cái phải đáp trả báo đền. Thánh vịnh 111, 1-2 viết rất rõ:” Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban. TRên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường, dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc “. Thánh Phaolô khuyên nhủ giáo đoàn Êphêxô:” Kẻ làm con, hãy vânbg lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này “. Thánh Matthêu còn nhấn mạnh hơn:” Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải xử tử “.
Vâng, đạo hiếu vẫn là đạo mà mọi nước, mọi dân tộc trên thế giới này đều khuyên nhủ con người thực hiện. Còn sống phụng dưỡng cha mẹ, không được làm phật lòng cha mẹ để cho cha mẹ buồn. Khi qua đời phải hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…”. Bởi vì như Sách Khải Huyền viết: ”Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả. Giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi“.
Những ngày đầu năm mới trong khi mọi người ăn uống, sum vầy, Giáo Hội luôn khuyên dạy chúng ta hãy nhớ tới công ơn của tổ tiên, ông bà và cha mẹ. Chính là các bậc tiên tổ, bậc cha ông mà chúng ta mới có ngày hôm nay…
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,
Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.
Hôm nay nhân dịp đầu năm mới … Nhâm Thìn
Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Amen (lời nguyện nhập lễ, lễ mồng hai tết).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tại sao ngày mồng hai tết, Giáo Hội lại dành để cầu cho tổ tiên, ông bà và cha mẹ?
2. Tổ tiên là ai?
3. Ông bà là ai?
4. Tại sao chúng ta lại phải trả ơn cho tổ tiên, ông bà và cha mẹ?
13. Kính nhớ tổ tiên (Lc 1, 67-75) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Truyền thống Dân tộc Việt Nam chúng ta luôn đề cao chữ hiếu. Bởi vì, dù có đi đạo hay không, người Việt Nam từ ngàn xưa đã biết thờ Cha kính Mẹ. Như thế, quả rất thích hợp với điều răn thứ tư trong mười điều răn của Thiên Chúa. Ngày mồng hai tết bao giờ, Giáo Hội cũng dành riêng để kính nhớ ông bà cha mẹ, tổ tiên. Đây là nét son của Giáo Hội.
Vâng, ngay từ khi khởi đầu công cuộc truyền giáo ở đất nước chúng ta, Cha Alexandre de Rhodes đã luôn quan tâm và dạy dỗ con người hãy trung thành, hiếu thảo với Thiên Chúa, với Vua và với Cha mẹ. Đây là giáo lý nói về tam phụ. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, dựng nên con người. Nên, con người phải biết ơn Thiên Chúa, trung thành với Ngài. Cha mẹ thừa lệnh Thiên Chúa sinh ra chúng ta, do đó, chúng ta phải hiếu thảo và trung thành với Cha mẹ. Con người có đất nước, có tổ quốc. Đứng đầu nước là Vua, nên con người phải trung với Vua vv…Đây là đạo lý của con người. Tuy nhiên, lúc đó vì chưa hiểu rõ các địa phương, các đất nước. Giáo Hội đã có những thông tư nghịch lại với nghi lễ Trung Hoa. Nên, một thời gian dài đã có những hiểu lầm và nghi kỵ đối với đạo Công giáo.
Ngày nay, với Công Đồng Vatỉcanô II, Giáo Hội đã có cái nhìn phù hợp với hoàn cảnh, truyền thống của các đất nước, các địa phương. Nên, mọi Kitô hữu đều cảm thấy thoải mái hơn với việc tôn kính tổ tiên vv…Giới răn bốn trong thập giới đã viết:” Hãy tháo kính Cha mẹ “. Điều này rất phù hợp với các đoạn Sách Thánh như Cn 6, 20, 23abc:” Con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm. Đèn soi trong chốn tối tăm, ấy là chính những lời răn, lệnh truyền. Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân “. Hoặc Sách Khải Huyền 14, 13 viết:” Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi, vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi “.
Người công giáo Việt Nam bao giờ cũng có lòng biết ơn và kính nhớ ông bà tổ tiên cha mẹ. Hầu như nhà nào cũng có bàn thờ ông bà tổ tiên với những hoa nến, nhang hương tỏa hương thơm ngát, nghi ngút khói bay…Thật đúng như lời Sách Đức Huấn Ca viết:” Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên, mả đẹp, và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài, và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen “. Thánh Augustinô cũng viết một đoạn đáng ghi nhớ:” Các ngài thấy, các thế hệ loài người trên mặt đất cũng giống như những chiếc lá trên cành cây, luôn luôn xanh tươi. Trái đất này cũng mang những con người, như cây mang những chiếc lá. Trái đất đầy dẫy những con người kế tiếp nhau, người này chào đời, trong khi người kia vẫy tay giã biệt. Cây không bao giờ cởi bỏ bộ áo màu xanh của mình, nhưng hãy nhìn xuống gốc cây: các ngài đang đạp trên một tấm thảm dầy những chiếc lá khô mục “. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô đã khuyên nhủ:” Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ…”.
Thảo kính cha mẹ, tôn kính tổ tiên là truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam. Cài bông hồng đỏ trên áo để chứng tỏ cha mẹ còn sống. Đó là cách biểu lộ tình thương đối với cha mẹ, do đó, phụng dưỡng cha mẹ, an ủi cha mẹ là tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Cài bông hồng trắng trên áo để tưởng nhớ cha mẹ đã khuất. Con người nhớ để cầu nguyện, dâng lời kinh, tạ lễ cầu cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã mất là cách tỏ lòng tôn kính, thảo hiếu đối với các bậc sinh thành…
Xin Chúa cho chúng con luôn biết hiếu thảo với ông bà tổ tiên cha mẹ và quyết tâm nối tiếp sự nghiệp của các ngài, để luôn luôn làm rạng rỡ dòng họ và làm rực sáng gia phong.
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,
Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.
Hôm nay nhân dịp đầu năm mới,
Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Xin Chúa trả công bội hậu
Cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con,
Và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. (Lời nguyện nhập lễ, lễ Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tại sao lại phải hiếu thảo đối với Ông bà cha mẹ và tổ tiên?
2. Chúa dạy sao về hiếu thảo?
3. Cài bông hồng đỏ trên áo có nghĩa gì?
4. Cài bông hồng trắng trên áo có ý nghĩa gì?
14. Thảo kính mẹ cha (Mt 15, 1-6) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Hôm nay Hội Thánh dành riêng ngày mồng hai tết để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Giáo Hội quả thực là người Mẹ rất khôn ngoan dậy con cái đủ điều. Thảo kính cha mẹ và các bậc tổ tiên là việc làm vừa phù hợp với tập tục, truyền thống hiếu thảo của dân tộc Việt Nam, vừa phù hợp với điều răn thứ tư trong thập giới của Chúa, đồng thời thực hiện lời Chúa trong đoạn Tin Mừng Mt 15, 1-6 hôm nay.
CUỘC TRANH LUẬN CỦA PHARISIÊU VỚI CHÚA GIÊSU: Đọc Tin Mừng hôm nay chúng ta nửa khóc nửa cười với các ông Pharisiêu và kinh sư bề ngoài xem ra đạo mạo, đạo đức nhưng bên trong lại toàn dao găm. Họ sống cái vỏ bên ngoài chứ thực ra họ chẳng sống cái lõi của Tin Mừng là bác ái yêu thương. Cuộc tranh luận của nhóm Pharisiêu và các kinh sư xoay quanh vấn đề rửa tay trước bữa ăn để rồi họ muốn tránh điều căn bản nhất là thảo kính cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Kinh sư và Pharisiêu giới hạn việc làm con trong bổn phận thuần túy thế tục, vật chất, một nghĩa vụ vật chất được họ gán cho ý nghĩa tôn giáo, ý nghĩa đạo đức. Đức Giêsu nhắc lại, nói lại với Pharisiêu, với kinh sư và với con người muôn thời:” Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15, 4). Rõ ràng, đối với Chúa Giêsu, nghĩa vụ đối với cha mẹ không chỉ dừng lại ở vật chất, nhưng còn đi tới cả nghĩa vụ tinh thần, thái độ đối với cha mẹ, đến nỗi ai nguyền rủa cha mẹ sẽ bị xử tử.
CUỘC SỐNG HÔM NAY VÀ MUÔN THỜI ĐỐI VỚI LỜI DẬY CỦA CHÚA GIÊSU: Ông bà cha mẹ, tổ tiên là những người có công sinh ra, dưỡng dục và xây dựng cuộc đời cho chúng ta. Các Ngài tận tụy dậy dỗ chúng ta sống đời sống làm người, đặc biệt nhờ các Ngài mà chúng ta được biết Chúa và yêu mến Ngài. Công lao của các bậc tiền nhân, ông bà, cha mẹ thật bao la trời biển. Ca dao Việt Nam đã viết:” Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Chữ hiếu đối với chúng ta rất có giá trị hợp với đạo lý làm người. Hiếu là yêu thương. Chúa là tình yêu. Do đó, đạo công giáo chúng ta là đạo yêu thương. Chính vì thế, mà tục ngữ ca dao đã viết rất dí dỏm, nửa khóc, nửa mếu vì nếu khi cha mẹ ông bà còn sống mà chẳng cho ăn, chẳng chăm sóc: vật chất cũng như tinh thần sẽ mang cái tội tầy trời:” Khi sống mà chẳng cho ăn, đến khi thác xuống làm ma tế ruồi “. Cuộc sống của chúng ta hôm nay và mãi mãi đang vấn nạn chúng ta hay đang hạch xét chúng ta về chữ hiếu, về nền tảng của gia dình. Các giá trị của đời sống gia đình hình như bị lung lay khá nhiều, nếu nói được là đang bị giao động đến tận gốc rễ, đến tận cuộc sống của nhiều người, của nhiều gia đình. Ngày nay, có nhiều người định mức cuộc sống bằng việc làm ra vật chất, làm ra của cải. Người ta định mức số tiền, của cải làm ra được bao nhiêu. Người trẻ không thích cha mẹ sống lâu, người già sống thọ. Muốn tiến thân người trẻ phải loại trừ người già vv…Nhiều nước trên thế giới, con cái đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão cho xong, vì viện dưỡng lão nhiều tiện nghi vật chất, nhưng lại thiếu thái độ cần thiết nhất là ‘ thờ cha, kính mẹ “. Chính vì thế, con người ngày nay cũng na ná như Pharisiêu và kinh sư tưởng rằng mình biện minh được cho thái độ bất hiếu của mình cũng như nhóm Pharisiêu và kinh sư xưa đã nhân danh lời của tiền nhân để lại. Lời của Đức Giêsu nhắc lại trong đoạn Tin Mừng Mt 15, 1-6 không cho phép ai được biện hộ cho thái độ bất kính, bất hiếu đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên, ngay cả khi họ nại ra lý do tôn giáo nữa.
Ngày đầu xuân Giáo Hội nhắc lại cho mỗi người, mọi người sự đáp trả, báo ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên là việc làm rất ư cần thiết. Ngày đầu xuân mới, chúng ta nhớ đến các Ngài. Chúng ta xin lễ, cầu nguyện cho các Ngài, xin Chúa là Đấng từ bi thương xót xóa hết lỗi lầm các Ngài đã trót phạm và mau đưa các Ngài về hưởng nhan thánh Chúa mãi mãi, muôn đời.
Lạy Chúa, xin thương ban thiên đàng cho tất cả những người đã nuôi nấng, lo lắng và giáo dục chúng con. Amen.
15. Từ đạo Hiếu đến đạo Chúa (Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Ngày Tết Việt nam luôn có một ý nghĩa gia đình rất sâu đậm. Dù đi đâu xa người ta vẫn cố gắng về quê ăn Tết. Ngày xuân gia đình đoàn tụ, con cái chúc tuổi cha mẹ, học trò chúc tuổi thầy cô, kẻ dưới chúc tuổi người trên, bà con bạn bè thăm viếng nhau. Ngày Tết mọi người được liên kết trong niềm vui yêu thương chia sẻ. Ngày Tết còn liên kết người sống với người chết, hiệp thông con cháu với tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời. Nhiều người có thói quen đi tảo mộ những ngày trước Tết. Người ta tin rằng dịp đầu năm ông bà tổ tiên về sum họp với con cháu. Niềm tin đó có tác dụng tích cực giúp người sống luôn nhớ tới cội nguồn, sống hiếu thảo, ăn ở xứng đáng với dòng tộc của mình.
Người Việt nam rất trọng lễ giáo, coi trọng sự bền vững gia đình với những tôn ti trật tự, với cung cách ứng xử theo mỗi bậc người. Theo đó người Việt nam có nét đặc trưng trong cách thức chào hỏi, xưng hô giao tiếp mà những ngôn ngữ của các dân tộc khác dù văn minh cũng không có được. Linh mục F. Buzomi, dòng Tên, nhà truyền giáo đã đặt chân lên đất Việt nam khá sớm vào ngày 18. 1. 1615, có nhận xét chí lý: “Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình Việt nam đã có một tổ chức rất cao, người dân Việt nam có những đức tính, phong tục rất đáng khâm phục, nó đã giúp rất nhiều vào công việc truyền giáo” (Nguyễn Hồng “Lịch sử truyền giáo ở Việt nam”, Sài gòn 1959, tr. 55).
Trong lễ giáo thì ân nghĩa là đầu tiên. Tôn kính tổ tiên là một cách tỏ ân nghĩa đối với các vị tiên nhân, ông bà cha mẹ. Lúc ông bà cha mẹ còn sống, con cháu phải kính mến, phụng dưỡng các ngài thì lòng phải vui, vâng lời chiều ý các ngài, ăn ở sao cho các ngài hài lòng. Khi các ngài qua đời, lo an táng tử tế, con cháu thờ kính, giỗ chạp hàng năm. Khi tam giáo (Phật, Khổng, Lão) chưa du nhập Việt Nam thì người Việt đã biết kính thờ tổ tiên, trọng kính cha mẹ, thương yêu anh, chị, em và hầu như mọi gia đình đều lập bài vị ông bà, cha mẹ để thờ cúng. Những ngày giỗ kị thì thắp nhang, dâng hoa quả, cơm nước đặt trên bàn thờ để mong ông bà, cha mẹ (những người đã khuất) về hưởng. Nhà nghèo nhất cũng có chén cơm trắng với quả trứng luộc dâng lên với tất cả lòng thành. Tuy người đã khuất không hưởng được, nhưng lễ nghi ấy lại cần thiết để giáo hóa con cái để sau này chúng cũng nhớ đến ông bà, cha mẹ như vậy. Người Việt vốn hiền hoà, tình cảm, lại chung sống cộng đồng với nhau, suốt đời quanh quẩn bên luỹ tre làng; cho nên dù sống, dù chết, họ vẫn gần gũi bên nhau, ấm áp tình người. Việc thờ cúng tổ tiên là mạch nước ngầm trong mát vẫn mãi nuôi sống và nối kết những tâm hồn Việt Nam giàu tình trọng nghĩa.
Mỗi người Việt nam đều có một đạo rất gần gũi, đó là Đạo Ông Bà hay Đạo Hiếu. Trong mỗi gia đình người Việt, dù sang hay hèn cũng dành một nơi trang trọng nhất để đặt bàn thờ gia tiên. Ông bà cha mẹ dù có khuất đi nhưng vẫn luôn hiện diện gần gũi với con cháu. Những ngày đầu tháng, ngày rằm, ngày tết, gia đình làm mâm cơm cúng ông bà. Tấm lòng của con cháu tỏ bày lòng hiếu kính biết ơn. Mỗi khi trong gia đình có việc gì quan trọng như dựng vợ gả chồng cho con cái, hoặc con cái thi cử đỗ đạt… cha mẹ đều dẫn con cái đến trước bàn thờ gia tiên để trình diện với các ngài, bày tỏ mọi việc để các ngài chứng giám. (x. Gia đình Việt nam, mảnh đất phì nhiêu cho hạt giống Tin mừng, Thời sự thần học số 32 tháng 06/03).
Đạo Hiếu là cốt tuỷ của nền văn hoá Á châu trong đó có Việt nam. Hiếu là gốc của đức. Người ta có 100 nết nhưng hàng đầu vẫn là Hiếu. Chưa từng có người nào hiếu thảo lại bất trung, cũng như chưa từng có người hiếu thảo nào lại bất nhân.
Cốt lõi của Hiếu bắt đầu bằng: tôn kính cha mẹ lúc còn sống, thờ phượng cha mẹ lúc qua đời. Biết ơn cha mẹ phải được nói lên bằng đạo hạnh, bằng thờ cúng tổ tiên. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng, là phẩm chất tối cao của con người.
Việc hiếu lễ từ ngàn xưa đã in sâu vào tâm linh mỗi người. Dân tộc Việt nam từ nam chí bắc dù ai theo tín ngưỡng nào, dù có bài bác thần linh, nhưng với ý niệm “Cây có cội, nước có nguồn” đều coi trọng gia lễ.
Ca dao đã đúc kết lòng hiếu nghĩa ấy:
Cây có gốc mới nở ngành sanh ngọn.
Nước có nguốn mới bể rộng sông sâu.
Người ta có gốc từ đâu.
Có cha có mẹ rồi sau có mình.
Đạo Hiếu chính là đạo của lòng biết ơn. Biết ơn trời đất, biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ. Ơn cha nghĩa mẹ sinh thành, ơn chín chữ, đức cù lao, ơn võng cực biển trời “Ai ai phụ, mẫu sinh ngã cù lao, dục báo chi đức, hạo thiên võng cực”. Cha mẹ sinh ra ta, nâng đỡ ta từ cung lòng, vỗ về âu yếm, nuôi dưỡng bú mớm, bồi bổ cho lớn khôn, dạy ta điều hay lẽ phải, dõi theo mỗi bước đường đời của ta, tuỳ tính tình mỗi đứa con mà khuyên dạy, che chở bảo vệ con. Ơn đức cha mẹ như trời biển “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Đạo Hiếu là nền tảng văn hoá gia đình Việt nam. Người Việt yêu chuộng những gì là tình, là nghĩa, coi tình nghĩa hơn lý sự “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình”; chấp nhận “bán anh em xa mua láng giềng gần”; thích “dĩ hoà vi quý”, độ lượng “chín bỏ làm mười”; quý trọng con người, không tôn thờ của cải “người là vàng , của là ngãi; người làm ra của chứ của không làm ra người”; mong muốn anh em bốn biển một nhà “tứ hải giai huynh đệ”; đề cao tinh thần khoan dung “đánh kẻ chạy đi, ai đánh người chạy lại”. Đỉnh cao của lòng nhân ái là “thương người như thể thương thân”.
Gia đình Việt nam có nhiều thế hệ sống với nhau “tứ đại đồng đường”. Người Việt quan niệm “một mẹ già bằng ba hàng dậu”. Cha mẹ già không còn lo việc đồng áng, ở nhà chăm nom giữ cháu. Bầu khí gia đình luôn ấm cúng. Tuổi thơ con trẻ được ươm đầy tiếng ầu ơ của bà, câu chuyện cổ tích của ông. Từ lúc chưa rời vành nôi, trẻ thơ đã được trau dồi cái nhân cái nghĩa. Khi lớn lên, con cái lập gia thất, cha mẹ cho miếng đất dựng căn nhà, con cháu sum vầy bên ông bà cha mẹ, tối lửa tắt đèn có nhau. Chính gia sản tinh thần gia đình là chất keo nối kết tầm hồn con người lại để rồi ai ai cũng cảm thấy “quê hương mỗi người chỉ một…. đi đâu cũng phải nhớ về” (Quê hương, Đỗ trung Quân). Dù đi học xa, đi làm xa, đi đâu xa cũng phải về với gia đình sum họp những ngày cuối năm, ngày đầu năm. Ngày Tết là những ngày thiêng liêng ấm áp tình gia đình. Con cháu quy tụ chúc Tết với cử chỉ thành kính chắp tay chào lạy, dâng quà lễ mừng thọ.
Gia đình Việt nam là môi trường đào tạo con người toàn diện, tỉ mỉ và hiệu lực nhất. Dưới mái trường này, con người được đào tạo cả về kiến thức, tâm hồn, tư duy, nhân cách, lối sống để rồi có đủ bản lãnh và khả năng bước vào đời sống xã hội. Gia đình là nơi đào tạo căn bản nhất lòng đạo đức, giúp phát triển cái tài, nhân rộng cái đức cho con cái vào đời.
Đạo Hiếu chính là sợi chỉ vàng nối kết mọi người, mọi sinh hoạt gia đình. Đạo Hiếu làm nên bản sắc văn hoá người Việt. Như thế, tâm thức dân Việt rất gần với Tin mừng Đạo Chúa. Điều răn thứ bốn dạy thảo kính cha mẹ được đặt ngay sau ba điều răn về Thiên Chúa đủ nói lên tính cách quan trọng của nó. Sách Giảng Viên dạy: “thảo kính cha mẹ là thảo kính Chúa, tôn kính cha mẹ là tôn kính Chúa”. Chính Chúa Giêsu là mẫu mực hiếu thảo với Cha, yêu mến Cha, vâng ý Cha, luôn làm đẹp lòng Cha. Chúa Giêsu đã lên án bọn người lấy cớ để tiền của dâng cúng vào đền thờ mà trốn tránh bổn phận giúp đỡ cha mẹ. Đạo Chúa cũng là Đạo Hiếu. Hiếu với cha mẹ, đấng bậc sinh thành dưỡng dục. Hiếu với Thiên Chúa và thờ phượng Người, Đấng sáng tạo muôn loài, dựng nên con người giống hình ảnh Người. Như vậy Đạo Chúa cũng chỉ gồm chữ Hiếu. Thờ lạy Thiên Chúa là chân nhận Người chủ tể muôn loài, con người có bổn phận tôn vinh thờ phượng tỏ bày lòng hiếu thảo. Đối với tha nhân, Đạo Chúa dạy phải sống hiếu, phải thể hiện hiếu. Điều răn trọng nhất “kính Chúa, yêu người” là điều răn của Đạo Hiếu. Không một tôn giáo nào khai triển Đạo Hiếu cho bằng Đạo Chúa. Hiếu với Chúa, hiếu với tha nhân, đặc biệt hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Vì hiếu với Chúa nên phải tu thân tích đức để làm vui lòng Chúa, xứng đáng làm con cái của Người. Vì hiếu với ông bà cha mẹ nên phải sống đạo làm con, giữ nề nếp gia phong lễ nghĩa, làm vinh dự cho gia đình, gia tộc.
Chính từ tổ tiên ông bà cha mẹ mà người Việt nam có thể tìm đến với Đấng là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. Đạo Hiếu là một điểm tựa, một bước đi khởi đầu thuận lợi, một lối đi dễ dàng, gần gũi, một mãnh đất phì nhiêu để đưa con người vào Đạo Chúa. Loan báo Tin mừng của Đạo Chúa chính là làm sáng lên những nét tinh tuý tiềm tàng trong mỗi nền văn hoá. Đối với môi trường gia đình Việt nam, đó chính là “minh minh đức”, làm sáng cái đức sáng trong môi trường gia đình. Tin mừng chính là nguồn nước thẩm thấu qua mọi lớp ngăn văn hóa và tôn giáo, Tin mừng là ánh sáng các dân tộc (LG), là ánh sáng trần gian (Ga 8, 12). Tin mừng và văn hóa giao thoa và hoà điệu với nhau. Phụng vụ Giáo hội dành ngày Mồng Hai Tết để cầu cho tổ tiên. Hằng ngày trong mọi thánh lễ, Giáo hội đều có lời cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.
Đạo Chúa dạy, có một Cha trên trời mà con người phải tôn kính hiếu thảo;dạy yêu thương nhau “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”;dạy sống chan hoà, bình dị “anh em hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, dạy yêu quý sự sống “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào”. Tin mừng làm sáng lên những giá trị sáng ngời có sẵn trong môi trường văn hoá Việt nam, mang đến cho các giá trị văn hoá ấy chiều kích siêu việt, chiều kích cứu độ. (Quốc Văn, OP).
Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã đề cao vai trò gia đình, lòng thảo hiếu của con cái “chủng viện thứ nhất, đệ tử viện thứ nhất, trường sư phạm thứ nhất là gia đình công giáo. Không vị giám đốc tài ba, chuyên môn đến đâu có thể thay thế cha mẹ được. Nếu cơ sở bậc nhất ấy bị hỏng, tương lai Hội thánh và xã hội nhân loại cũng rung rinh sụp đổ. Đức Gioan XXIII biên thư cho cha mẹ ngày ngài được ngũ tuần: “Thưa thầy mẹ, hôm nay con được 50 tuổi. Chúa thương ban cho con nhiều chức trong Hội thánh, đi nhiều nơi, học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con hơn hồi con được ngồi trên chân thầy mẹ” (ĐHV 505).
Tinh thần hiếu hoà, lòng thảo hiếu của người Việt là điểm son đậm đà bản sắc dân tộc. Tin mừng bén rễ sâu vào nền văn hoá ấy làm xanh lên chồi lộc sự sống tình yêu rồi kết thành hoa trái tốt lành cho con người và cuộc đời.
16. Hiếu thảo với cha mẹ (Mt 15, 1-6) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Truyền thống dân tộc Việt Nam quả rất cao quí khi ông bà tổ tiên, cha mẹ luôn được mọi người kính yêu, hiếu thảo. Tuy nhiên, Hội Thánh Việt Nam luôn dành ngày mồng hai tết để con cái cháu chắt tưởng nhớ tới tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Giáo Hội luôn cho con cái hiểu rằng việc hiếu thảo có giá trị rất cao và là một trong những điều Chúa dạy. Bởi vì, trong mười điều răn của Chúa, giới răn thứ bốn:” Hãy thảo kính cha mẹ ” là một giới răn được xếp trong mười điều Chúa dạy bảo. Chính vì thế, hôm nay, con cái của Chúa dâng thánh lễ này để cầu nguyện cho ông bà tổ tiên, cha mẹ là một điều thích hợp, phải lẽ đồng thời cũng rất hợp với lời dạy của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 15, 1-6.
Ngược lại với quan niệm, suy nghĩ của dân Do Thái, đặc biệt là các Kinh sư, Pharisêu về vấn đề báo hiếu, Chúa Giêsu luôn đề cao việc hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên, cha mẹ, các bậc sinh thành, dưỡng dục. Kinh sư và Pharisêu cho rằng theo lời của tiền nhân thì tất cả những gì họ làm cho cha mẹ đều là tế phẩm dâng lên Thiên Chúa, do đó, họ làm như thế là đủ rồi, là tròn bổn phận và trách nhiệm rồi, không cần phải thờ cha kính mẹ nữa. Họ giới hạn bổn phận và nghĩa vụ dựa trên vật chất, và họ gán cho nó tính chất đạo đức. Đối với Chúa Giêsu, Ngài nói cho các Pharisêu, các Kinh sư và mọi người biết rằng:” Phải thảo kính cha mẹ…” theo đúng giới răn thứ bốn trong thập giới của Thiên Chúa đã trao cho ông Môsê:” Thảo kính cha mẹ “. Chúa nói :” Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử “. Chúa Giêsu mở ra cho thế giới, cho con người, cho mỗi người một chân trời mới về nghĩa vụ và bổn phận đối với các bậc sinh thành. Vật chất cần thật nhưng tấm lòng, con tim, tinh thần còn có giá trị cao vời hơn. Thật vậy, xưa cũng như nay, vấn đề hiếu thảo đối với các bậc sinh thành luôn được đặt ra với nhiều quan niệm và suy nghĩ khác nhau. Ngày nay, tại nhiều đất nước, việc truyền bá tự do luôn được đề cao, nhiều nơi xem sự tự do là chính mà quên đi giá trị đạo đức. Do đó, giá trị truyền thống hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ bị coi nhẹ. Nhiều nước, luật pháp bảo vệ tự do quá đáng: cha mẹ không được nói nặng tới con cái, chứ chưa nói tới quát nạt, to tiếng hay đánh sửa dạy. Nhiều nước, con cái tới 18 tuổi được luật pháp bảo hộ theo ý của mình. Cha mẹ luôn phải dè chừng với con cái. Nên, giá trị đạo đức bị lung lay: con cái muốn làm gì thì làm. Luân lý bị coi nhẹ. Cha mẹ được xem như gánh nặng đối với con cái. Con cái thích tự lập, ở riêng. Người già đã có nhà xã hội, nhà dưỡng lão vv…Việc hiếu thảo đối với cha mẹ được xem nhẹ. Cha mẹ già thường cảm thấy cô đơn, buồn tủi. Có người đã nói cay chua, mỉa mai:” Ước gì mình được con cái chăm sóc như con chó mà con mình đang nuôi “. Đó là sự thực nhưng sự thực thật cay đắng và mỉa mai. Thiết tưởng, mọi gia đình phải nhìn vào mẫu của gia đình thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu để noi gương bắt chước. Chúa là Chúa nhưng làm người, Ngài luôn vâng lời, tuân phục và sống thảo hiếu với cha mẹ của mình.
Dân tộc Việt Nam luôn còn giữ được truyền thống thảo hiếu và giáo dân Việt Nam còn biết lắng nghe lời Chúa và thực hành lời Chúa. Do đó, nghĩa vụ, bổn phận đối với các bậc sinh thành, tổ tiên luôn được trân trọng giữ gìn.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng mến cho chúng con để chúng con luôn biết thảo hiếu với tổ tiên, cha mẹ: sống thì thăm hỏi, giúp đỡ, nuôi dưỡng, khi các Ngài khuất bóng thì biết xin lễ, cầu nguyện và làm những việc phúc đức dâng cho cha mẹ, tổ tiên. Amen.
177. Suy Niệm Lời Chúa (Mt 15, 1-6)
Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng trên cho thấy, cuộc đụng độ giữa Chúa Giêsu và những người lãnh đạo Do Thái. Trọng tâm chính của lần này, không phải là cuộc chạm trán trực tiếp có tính cách cá nhân giữa Chúa Giêsu và các rapbi nữa, nhưng là sự đụng độ giữa hai quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa, hai hình thức giữ luật. Các luật sĩ thắc mắc: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân?…” Chúa Giêsu trả lời họ cũng bằng một câu hỏi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”
Theo người Do Thái, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được ghi trong luật. Luật gồm hai phần: Luật thành văn là luật Chúa chứa đựng trong Kinh Thánh, và luật truyền khẩu được các kinh sư triển khai qua nhiều thế hệ, và được xem như là truyền thống của tổ tiên. Luật này có tính cách bắt buộc tuân giữ, nếu không muốn nói là hơn cả luật thành văn. Đối với người Do Thái, tất cả những luật truyền thống là lệnh truyền của Chúa, thực thi những điều luật truyền thống là làm vừa lòng Chúa, là trở nên một người công chính. Tuân giữ luật Chúa là tuân thủ những luật lệ, những nguyên tắc và những lễ nghi bề ngoài, nghiêm ngặt phần hình thức như “rửa tay trước khi ăn”, “dâng lễ phẩm cho Chúa thay thế sự hiếu kính cha mẹ”.
Đối với Chúa Giêsu, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được thể hiện lớn nhất bằng luật yêu thương. Ngài xem giữ luật là một cảm nghiệm sống ở trong lòng, một biểu hiện liên đới, nhân từ, vượt trên hình thức, là tấm lòng trong sạch và đời sống yêu thương.
Hôm nay, Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của Pharisêu và các kinh sư cách trực tiếp. Nhưng Ngài lấy một ví dụ về việc thực hành luật truyền khẩu để cho họ thấy, chẳng những đây không phải là luật Chúa mà còn có thể đi ngược lại Luật Chúa. Luật Thiên Chúa đã đặt ra là phải “hiếu thảo với cha mẹ của mình”. Nhưng những người Do Thái lại nói: “Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi”. Những người Do Thái này, đã dùng nghi lễ bề ngoài, để thoái thác một bổn phận căn bản là hiếu kính cha mẹ. Họ đã lấy quy ước của các kinh sư để xóa bỏ đi điều răn của Thiên Chúa.
Quý vị và các bạn thân mến,
Hôm nay ngày mùng hai Tết, Giáo Hội Việt Nam dành để nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa về lòng hiếu thảo, biết ơn tổ tiên – ông bà – cha mẹ. Trong 10 điều răn Chúa truyền dạy, sau ba điều dành cho Thiên Chúa thì đến điều thứ tư dành cho ông bà, cha mẹ. Thánh Phaolô đã làm cho điều răn thứ tư này mạnh mẽ hơn khi nói: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này (Ephêsô 6, 1-3)”.
Vâng, thảo kính cha mẹ không phải là chuyện gởi những món quà to, nhưng lỡi tết nặng, nhưng thảo kính cha mẹ là về bên các ngài trong những ngày nghỉ, thăm hỏi, chăm sóc, hiện diện, an ủi, đỡ đần và yêu thương. Thảo kính cha mẹ không phải là chuyện khoe thành tích, cũng chẳng là chuyện dâng cúng ít nhiều, nhưng là biết vâng nghe nhưng lời dạy dỗ bảo ban; biết kính trên nhường dưới; biết ghi lòng tạc dạ đền đáp công ơn:
Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Lời Chúa hôm nay mạnh dạn nhắc nhở, không thể có một sự thỏa hiệp nào giữa hai quan niệm luật hình thức và luật yêu thương; không thể san bằng nghi thức bên ngoài với lệnh truyền của Chúa. Những kinh sư đã lẫn lộn mọi luật lệ của Chúa với những nguyên tắc bên ngoài, và họ đã biến những nguyên tắc ấy thành một thứ luật mà họ coi là điều Thiên Chúa đòi hỏi cho riêng họ.
Thảo kính cha mẹ là điều Thiên Chúa muốn, Giáo Hội nhắc nhở, đạo làm người mong khắc ghi:
Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
Đố ai đếm những vì sao,
Đố ai đếm được, công lao mẹ thầy.
Lạy Chúa,
Xin chúc lành cho cha mẹ của chúng con.
Xin ban muôn ơn lành hồn xác cho các ngài.
Xin chúc phúc cho những người con thảo hiếu như Chúa đã hứa.
18. Suy niệm Lời Chúa
Giáo hội dành ngày mùng hai tết để cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ, và cũng là để nhớ đến công ơn của các ngài. Giáo hội nhớ đến và cầu nguyện cho các ngài là bởi vì, tổ tiên, ông bà, cha mẹ là những người có công sinh thành, dưỡng dục và xây dựng cuộc đời cho chúng ta. Các ngài tận tụy dậy dỗ mình sống đời sống làm người, và đặc biệt nhờ các ngài mà mình được biết Chúa và yêu mến Ngài. Công lao của các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ thật bao la trời biển.
“Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Quả thật, truyền thống cha ông chúng ta rất coi trọng chữ hiếu. Chính vì vậy mà để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ ngày xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ của mình như thế nào. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:
“Tu đâu cho bằng tu nhà,
thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu”.
Và hơn nữa, đối với người kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại bản thập giới, ngay sau ba giới răn nói về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô cũng nhắc: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo”.
Và đặc biệt trong bài Tin mừng, Đức Giêsu nhắc lại với Pharisiêu, với kinh sư và với con người mọi thời rằng: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử”. Rõ ràng, đối với Chúa Giêsu, việc hiếu thảo đối với cha mẹ là điều hết sức quan trọng và là bổn phận hàng đầu của mỗi người kitô hữu.
Như thế, việc thảo kính cha mẹ không còn tùy thuộc vào ý thích cá nhân, nhưng đó là thánh ý của Thiên Chúa, đó là lệnh truyền của Thiên Chúa, và đó là đòi buộc của Thiên Chúa.
Ngày đầu xuân Giáo hội nhắc lại sự đáp trả, báo ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên là việc làm rất ư cần thiết. Thế nhưng, ta phải có những thái độ nào, phải có những cách hành xử như thế nào, để đạo “thờ cha, kính mẹ” cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa? Đó có phải chỉ là cấp tiền nuôi dưỡng cha mẹ? Hay đó có phải chỉ là đến ngày, đến tháng vào xin một thánh lễ cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên là xong?
Trong sách xưa có một bài về đạo hiếu rất hay và cũng phù hợp với tinh thần Kitô giáo:
“Hiếu hữu tam:
Đại hiếu tôn thân
Kỳ thứ phất nhục
Kỳ thứ năng dưỡng”
Tạm dịch là:
Đạo hiếu có ba điều:
Hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ
Hai là không làm nhục cha mẹ mình
Ba là có thể nuôi dưỡng cha mẹ mình.
Vậy, thế nào là tôn vinh cha mẹ? Thế nào là không làm nhục cha mẹ? Và thế nào là dưỡng nuôi cha mẹ mình?
1. Tôn vinh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và con người
Theo quan niệm của Kitô giáo, thì sự tôn vinh cha mẹ ở cấp độ cao nhất đó là sự tôn vinh cha mẹ, làm rạng rỡ cha mẹ ở trước mặt Thiên Chúa. Niềm vinh dự lớn lao của cha mẹ đó là được tôn vinh trước mặt Thiên Chúa. Thành ra, người có hiếu lớn nhất đó là người sống ngay lành, làm điều tốt trước mặt Thiên Chúa: sống theo thánh ý Chúa, sống theo luật Chúa đó là tốt nhất. Do đó khi sống đạo tốt, đó là mình thể hiện cái hiếu lớn nhất đối với cha mẹ.
Mặt khác, tôn vinh cha mẹ không chỉ trước mặt Thiên Chúa mà còn là tôn vinh, làm rạng danh cha mẹ trước mặt người đời. Mình không thể nói là có hiếu với cha mẹ khi mà đời sống của mình bê bối đủ điều. Mình không thể nói là có hiếu nếu mình cứ sống một cuộc sống mua gian bán lận, một cuộc sống thiếu yêu thương bác ái đối với người khác, một cuộc sống muốn loại trừ những người khác. Do đó, cái hiếu đối với cha mẹ, đó còn là việc thể hiện một đời sống tốt trước mặt người đời. Bởi vì khi mình sống tốt trước mặt người đời là mình đang làm rạng danh, đang tôn vinh cha mẹ mình.
Hơn thế nữa, cái hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ, không chỉ là tôn vinh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và tôn vinh cha mẹ trước mặt người đời, nhưng còn là thể hiện cái hiếu qua việc tôn vinh cha mẹ trước mặt chính mình. Tôn vinh cha mẹ trước mặt chính mình đó là khi mình biết vâng lời cha mẹ, tôn kính cha mẹ. Do đó, mình không thể nói là có hiếu trong khi mình cứ luôn cãi lời cha mẹ, không biết tôn kính cha mẹ.
2. Cái hiếu thứ hai đó là không làm nhục cha mẹ
Trước hết chúng ta xét đến tương quan với Thiên Chúa, đó là đừng làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa. Nghĩa là, khi xa lánh tội lỗi, không làm điều xấu đó là mình thể hiện cái hiếu đối với cha mẹ. Chúng ta không thể là người có hiếu nếu cứ sống trong tình trạng lầm lạc, trong những đam mê, những thú vui tội lỗi. Khi chúng ta phạm tội đó là mình đang làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, và như thế thì không thể nói là mình đang sống trọn chữ hiếu với cha mẹ được. Và chúng ta không chỉ đừng làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa mà còn không làm nhục cha mẹ trước mặt người đời. Mình đừng để cho người đời vì mình mà chửi cha mẹ mình. Con cái đi làm điều bậy bạ để rồi cha mẹ phải lãnh lấy hậu quả, bị người đời coi thường, khi đó chúng ta không thể là người sống có hiếu được.
3. Và cái hiếu thứ ba đó là có thể nuôi dưỡng cha mẹ
Nuôi dưỡng hay chu cấp cho cha mẹ ở đây không chỉ là về những nhu cầu vật chất nhưng là còn về tinh thần.
Trước mặt Thiên Chúa, mình cầu nguyện cho cha mẹ đó là nuôi dưỡng cha mẹ. Khi cha mẹ còn sống hay đã qua đời, lời cầu nguyện của chúng ta cho cha mẹ thể hiện lòng hiếu thảo đối với cha mẹ.
Trước mặt người đời, người có hiếu là người có thể phụng dưỡng cho cha mẹ về vật chất cũng như tinh thần, đem lại niềm vui, đem lại niềm hạnh phúc cho cha mẹ.
Như vậy, cái hiếu lớn nhất của mỗi người đó là tôn vinh cha mẹ, làm rạng danh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, trước mặt người đời và trước mặt chính mình.
Cái hiếu thứ hai đó là không làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, không làm nhục cha mẹ trước mặt người đời.
Cái hiếu thứ ba đó là nuôi dưỡng cha mẹ, phụng dưỡng cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, trước mặt người đời.
Làm được như thế đó là mình sống trọn lòng hiếu thảo đối với cha mẹ như lòng Chúa mong muốn.
Lắng nghe lời Chúa trong ngày đầu năm này, ước gì mỗi người một lần nữa ý thức hơn về những hồng ân Thiên Chúa đã ban cho mình qua ông bà cha mẹ, để hết lòng tri ân và cảm tạ các ngài. Đồng thời, đây cũng là cơ hội thuận tiện để mình duyệt xét lại lòng thảo hiếu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Việc thảo kính này, không chỉ là dâng một ít quà hay một lời cầu chúc trong ngày đầu năm, nhưng lòng thảo hiếu này, cần được kéo dài trong suốt cuộc đời mỗi người.
Xin Chúa cho mỗi người có được lòng mến yêu, có được một tinh thần thảo hiếu, để chúng ta có thể luôn biết thể hiện lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ.
Sưu tầm
19. KÍNH NHỚ TỔ TIÊN
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Ngày Mồng Một tết chúng ta dâng lên Thiên Chúa tâm tình tạ ơn và những ước nguyện cho ngày đầu năm mới, hôm nay ngày Mồng hai, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn và thảo kình đối với ông bà tổ tiên những người còn sống cũng như đã qua đời. Tuy nhiên với thời buổi người ta đặt lợi nhuận kinh tế lên hàng đầu, thì hình như bổn phận thảo hiếu đối với tổ tiên nơi nhiều người, nhiều gia đình cũng đang bị tính toán thiệt hơn. Nhiều câu chuyện xảy ra trong năm qua đã kiến cho cộng đồng bức xúc, vì có những đứa con giàu có nhưng đùn đẩy không ai muốn đón bố về chăm sóc, nên họ đã để bố của mình năm ở vỉa hè trong lúc sắp chết, có người con thì kiện mẹ ra tòa để đòi mấy trăm triệu tiền công chăm sóc trong mấy năm trời. Đọc và nghe những mẩu tin như thế thật đau lòng khi thấy tình nghĩa đạo lý trong gia đình đã xuống cấp trầm trọng.
Những ngày cuối năm gặp nhau câu hỏi đầu tiên có lẽ là câu: Năm nay có về quê ăn tết không? Ai đã từng phải đón cái tết xa quê thì mới thấm thía thế nào là nỗi nhớ nhà trong những ngày này. Nỗi nhớ nhà của ngày tết nó thôi thúc mọi người bằng mọi giá phải trở về với cha mẹ với tổ tiên để thắp một nén nhang trước bàn thờ tổ tiên, để được ngả đầu vào bờ vai cha mẹ, để ăn một bữa cơm đầu năm, dù là bữa cơm thật đạm bạc, nhưng trong bữa cơm ấy nó chứa đựng bao nỗi vất vả của cha, bao sự chờ đợi lo lắng của mẹ, bao tình yêu thương để chia sẻ. Sau một năm bận rộn vất vả chỉ có những ngày này trở về với gia đình, người ta mới cảm thấy thư thái bình an, vì không có nơi nào an toàn cho bằng trái tim của người mẹ, và không nơi nào vững chắc cho bằng bờ vai của cha. Vì thế những người không còn cha không còn mẹ sẽ thấm thía đến tận cùng sự trống vắng thiếu thốn trong ngày tết này, sẽ cảm nhận sự đau đớn sự buồn bã, lạc lõng khi mình đi không ai nhớ, về không ai mong.
Nhớ ơn cha mẹ, ông bà trong dịp đầu năm là giúp chúng ta trở về cội nguồn, với dòng tộc, giúp mỗi người sống đúng với con người của mình và sống trọn bổn phận với cha mẹ tổ tiên. Biết ơn mẹ cha là nhớ đến công sinh thành dưỡng dục. Các ngài đã trải qua bao gian lao vất vả, mang nặng đẻ đau, bao tháng ngày bú mớm chăm sóc, kể làm sao hết những gọt mồ hôi của cha, những sư lo lắng của mẹ khi chúng ta đau ốm, bao nhiêu hy sinh vất vả nắng mưa sớm hôm để cho ta được bằng người. Kể làm sao hết sự hy sinh thầm lặng nhịn ăn nhịn mặc để cho con không thua kém bạn bè, để cho con được đến trường thì mỗi ngày cha mẹ lại phài vất vả nhiều hơn.
Việc thảo hiếu với tổ tiên ông bà không chỉ là bổn phận của đạo hiếu, đạo làm người, của lòng biết ơn, mà nó còn là giới răn và đòi buộc của đạo Chúa. Tuy nhiên người ta sẽ không thể chu toàn được đạo Chúa nếu không chu toàn đạo làm con và đạo làm người. Sách Huấn Ca dạy chúng ta sống sao để làm rạng danh cha mẹ tổ tiên, và đừng bao giờ quên công đức của các ngài, và vì các ngài chính là gia tài quý giá nhất mà người ta không thể tìm kiếm hoặc mua ở đâu được, và chính chúng ta đang được hưởng phúc đức và dòng máu các ngài để lại cho chúng ta.
Ngày xưa các thày tiến sĩ Do Thái đã đưa ra một thứ luật, mà sau này Chúa Giêsu đã cực lực phản đối sự trốn tránh trách nhiệm của luật ấy. Luật dạy rằng: Ai nguyền rủa và đối xử tệ bạc với cha mẹ thì bị xử tử. Còn các ông lại nói: Ai nói với cha mẹ rằng: của phụng dưỡng cha mẹ đã được dâng cho Thiên Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa. Các ông dựa vào truyền thống của các ông để chối bỏ luật Thiên Chúa và Thiên Chúa không chấp nhận một của lễ được dâng lên do sư bất hiếu, trốn tránh trách nhiệm như thế. Sách Khôn Ngoan còn nhấn mạnh: Của dâng cho cha sẽ không bị quên lãng, của biếu cho mẹ sẽ đền bù được tội lỗi. Như thế, có thể nói việc thảo hiếu với cha mẹ được Thiên Chúa đón nhận như việc thảo hiếu đối với Ngài vậy.
Thánh Phaolô còn khuyên rằng: Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tình thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo, và ai tôn kính thảo hiếu cha mẹ thì được trường thọ trên mặt đất. Thế nhưng ngày nay đang diễn ra bao cảnh trái ngang: Con cái hất hủi coi thường, chửi mắng đánh đập cha mẹ là đấng sinh ra mình, đùn đẩy trách nhiệm báo dưỡng vì sợ phiền phức tốn kém, sợ bẩn nhà, nhiều người đối xử với cha mẹ như đầy tớ. Dịp tết này, hãy điều chỉnh lại cách sống thảo hiếu của mình với cha mẹ để còn làm gương cho con cái, vì sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy, chúng ta bắc cầu tới đâu, con cái sẽ đi tới đó. Hôm nay chúng ta đối xử với cha mẹ thế nào, thì ngày mai con cái chúng ta cũng sẽ đối xử với chúng ta y như vậy.
Trong Năm Gia đình Sống và Loan Báo Tin Mừng, trong sư mới mẻ của đất trời mùa xuân, Giáo Hội mời gọi chúng ta làm mới lại tương quan trong gia đình. Sự đổi mới phải bắt đầu từ mỗi thành viên của gia đình, nhưng trước hết vẫn là cha me. Người cha người mẹ hãy nỗ lực vươn lên, sẽ là niềm vui hạnh phúc cho con cái, mọi thành viên trong gia đình cố gắng canh tân, sẽ là niềm vui hạnh phúc cho cả gia đình.
Hãy bắt đầu từ nơi người cha, người chồng: các ông hãy là mùa xuân cho gia đình bằng một đời sống đạo hạnh, hãy vì vợ, vì tương lai gia đình mà đem niềm vui về cho gia đình, hãy dẹp bỏ những đám mây u ám trong gia đình là những cuộc nhậu nhẹt rượu chè, bài bạc, chửi bới đánh đập vợ con…, đừng biến gia đình thành địa ngục cho nhau. Đừng để con cái sơ hãi, mặc cảm với bạn bè về cha của mình, vì con cái không chỉ cần tình thương, mà nó còn cần danh dự phẩm giá của cha mẹ để có thể tự hào hãnh diện với bạn bè. Cuộc sống đạo đức thành thật của người cha sẽ là tia nắng ấm mùa xuân cho gia đình, hãy trở nên người chồng người cha có trách nhiệm với gia đình, nuôi sống gia đình bằng mồ hôi lương thiện, bằng nỗ lực của chính mình. Hãy là một người cha cương nghị. trở nên hàng rào bảo vệ gìn giữ con cái trên con đường lương thiện và là trụ cột vững chắc cho gia đình những khi sóng gió. Hãy biết chia sẻ trách nhiệm với vợ mình và hết lòng chăm lo cho cha mẹ khi các ngài luống tuổi.
Phúc đức tại mẫu, các bà vợ, người mẹ hãy có một cuộc sống đạo hạnh dịu hiền bao dung, hãy trở thành cành mai cành đào tô điểm cho gia đình thêm tươi thắm bằng sự dịu dàng khả ái, bằng đời sống nết na đạo đức. Người mẹ là người có trái tim nhạy bén, hãy thông cảm và chia sẻ những lo toan với chồng và hãy bao dung tận tụy với con cái. Người mẹ hãy trở nên mùa xuân cho gia đình bằng sự cần mẫn, hãy làm cho gia đình trở nên ấm cúng sạch sẽ ngăn nắp gọn gàng, làm cho những bữa cơm thêm thân mật, cho gia đình đầy ắp tiếng cười. Hãy dùng trái tim nhạy cảm của một người vợ, người mẹ để làm cho gia đình thực sự trở thành một tổ ấm, là nơi cư ngụ tốt nhất cho chồng con sau những ngày mệt mỏi với công việc, thông cảm với chồng, chia sẻ với những khó khăn của con cái bằng sự nhẫn nại dịu hiền.
Còn những người làm con hãy trở thành mùa xuân cho gia đình, cho cha mẹ, khi biết tôn kính mến yêu vâng lời các ngài, đừng để cha mẹ phải đau khổ hơn nữa vì sư lêu lổng ngỗ nghịch của mình, đừng để cho tệ nạn ăn chơi, nghiện hút cá độ làm tan nát gia đình. Hãy làm vơi đi sư nhọc nhằn của cha mẹ, đem lại sư hãnh diện cho cha mẹ, bằng việc chăm chỉ rèn luyện học hành, bằng tư cách đạo đức tốt. Hãy trở nên một thanh thiếu niên Công giáo tốt nơi gia đình nơi công ty xí nghiệp trường học, hãy thảo hiếu và biết ơn cha mẹ và làm cho tình anh em trong gia đình thêm mặn mà hạnh phúc vui tươi hơn. Nếu cha mẹ già yếu, hãy kiên nhẫn yêu thương kính trọng và chăm sóc cho các ngài, vì chúng ta sẽ không thể tìm được cha mẹ nữa một khi các ngài đã không còn.
Cầu chúc cho mọi người, mọi gia đình noi gương gia đình Thánh Gia xây dựng gia đình êm ấm thuận hòa con cái thảo hiếu, chúc cho mọi người biết chu toàn bổn phận của mình như lời Chúa dạy hôm nay, và hãy dành cho nhau tình yêu thương, hãy yêu thương nhau hết lòng và hãy làm tất cả những gì tốt đẹp cho nhau, để khi cha mẹ hay người thân có mất đi, chúng ta không phải hối tiếc vì chưa làm gì cho họ. Amen.
20. CẦN CÓ MỘT TẤM LÒNG
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Trong tác phẩm “Để gió cuốn đi” nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã đặt một câu hỏi: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em có biết không?” Nhạc sĩ đã trả lời: “Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi”. Có người thắc mắc tại sao lại cần có một tấm lòng để gió cuốn đi như vậy? Có lẽ, nhạc sĩ họ Trịnh này muốn dùng hình ảnh “gió cuốn đi” không phải là một cơn bão xóa sổ một ngôi làng, nhưng đây là một cơn gió mát giữa trưa hè oi bức, một ngọn gió thu lúc buổi sớm, mang theo hương cau, mùi lúa mới, làm nhẹ lòng người, khiến lòng con người cảm thấy thanh thản và yêu cuộc sống hơn. Như thế, theo Trịnh Công Sơn, tấm lòng chân thành là điều cần thiết giúp lòng người có thể gặp nhau và làm vui lòng nhau.
Thiên Chúa khi dựng nên con người, Ngài ban cho con người có một dáng vẻ bên ngoài và một thế giới bên trong được gọi bằng ngôn ngữ bình dân đó là lòng người. Thế nhưng, không phải lúc nào dáng vẻ bên ngoài của một người cũng đồng nhất với cái lòng bên trong. Có nhiều lúc, bên ngoài có vẻ thành thật nhưng cái lòng lại gian dối, bên ngoài có vẻ tươi cười vui vẻ, nhưng lòng lại đau thắt. Ngược lại, có những lúc trong lòng rất yêu rất thương, nhưng bên ngoài lại tỏ ra giận dỗi. Thông thường, người ta thường lấy cái vẻ bên ngoài, để che đây cái lòng bên trong. Nhưng khi có một tấm lòng thành, lòng thật, thì sự thành thật sẽ thể hiện ra bên ngoài qua ánh mắt, cử chỉ lời nói. Khi có một người tấm lòng thành, người khác sẽ dễ dàng cảm nhận được điều đó qua các cử chỉ bên ngoài.
Thiên Chúa là Đấng thấu suốt cả bên ngoài lẫn trong lòng của mỗi người. Ngài thấu tỏ từ ý nghĩ, lời nói và tấm lòng của con người, cho dù con người chưa tỏ lộ ra bên ngoài. Thiên Chúa muốn mỗi chúng ta đến với Chúa và sống với Chúa, bằng một tấm lòng thành thật chứ không chỉ là những hình thức bên ngoài. Chúa muốn chúng ta làm việc tốt với một tấm lòng tốt, không tính toán, không gian dối, Chúa cũng muốn chúng ta đối xử với nhau bằng tấm lòng chân thành, không hình thức, không chiến thuật. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho thấy, những người Biệt Phái đã sống và thực hành đạo chỉ có hình thức bên ngoài mà không có tấm lòng bên trong, họ đến với Chúa bằng áo quần lượt thượt và nghi lễ dài dòng, nhưng lại không có tấm lòng. Những người Biệt Phái trách Chúa Giêsu và các môn đệ không rửa tay trước khi ăn theo tập tục của tiền nhân. Việc rửa tay của người Do Thái không phải là việc giữ vệ sinh như ngày nay, nhưng là một nghi lễ thanh tẩy. Tuy nhiên, do trở thành thói quen, người Do Thái không còn biết mình rửa tay trước khi ăn để làm gì. Chúa Giêsu đã trách họ, vì họ chỉ còn hình thức mà không có nội dung, giữ các tập tục, hình thức bên ngoài mà không có tấm lòng. Chúa muốn đưa họ trở về với ý nghĩa đích thực của tập tục này, đó là việc thanh tẩy bên ngoài, rửa tay rửa bình, nhắc cho mỗi người phải không ngừng tẩy rửa lòng mình khỏi mọi thói quen xấu từ bên ngoài và thanh tẩy những vết nhơ tính xấu và tội lỗi từ bên trong. Chúa Giêsu đã trích lời tiên tri Isaia cảnh cáo lối sống giả dối của họ: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa ta”. Hơn nữa, Chúa còn cảnh cáo lối sống hai lòng hai dạ của họ: Thay vì những Biệt Phái và Luật Sĩ phải có bổn phận dạy cho dân chúng Lời và Ý của Chúa thì họ lại không làm như vậy. Họ đã khéo đánh tráo vào công việc và lời nói của mình, thay vì nói Lời của Chúa, họ lại nói lời của họ; thay vì làm việc làm của Chúa, họ lại làm việc theo ý riêng cá nhân và dạy người khác làm. Họ đã đánh tráo cả vị trí của Thiên Chúa để thay thế mình vào chỗ của Thiên Chúa.
Điểm thứ hai Chúa trách các Biệt Phái về lòng gian của họ. Họ đã bẻ quẹo Lời Chúa để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Luật Chúa đòi mọi người phải thờ cha kính mẹ, hết lòng thảo hiếu phụng dưỡng các Ngài nhất là khi tuổi già sức yếu. Tuy nhiên, các Luật Sĩ lại mượn Thiên Chúa để bẻ quẹo luật Chúa, khi họ dạy người khác rằng: Ai tuyên bố dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì không phải nuôi dưỡng phụng kính cha mẹ nữa. Như thế, có nhiều kẻ không muốn phụng dưỡng cha mẹ, kẻ ấy chỉ cần tuyên bố sẽ dâng hết tài sản cho Chúa. Chắc chắn Chúa không chấp nhận của lễ dâng cho Ngài từ một kẻ bất hiếu như thế. Chúa cũng không muốn một cái lòng gian dối, quanh co, luồn lách trách nhiệm như vậy. Chúa mong muốn, trước hết mỗi người phải có một tấm lòng thành đối với cha mẹ và lòng trung đối với Thiên Chúa, không thể bỏ qua bên nào, cũng không thể chỉ chọn một trong hai. Đồng thời, Chúa cũng không chấp nhận con người tìm cách thay thế luật Chúa bằng những tập tục gian dối của mình, hoặc chỉ chú trọng đến tập tục truyền thống mà làm lu mờ luật Chúa. (Dựa theo ý bài chia sẻ của Đức Cha Giuse ngày thường huấn 06/2/2018)
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận thảo hiếu với ông bà tổ tiên. Việc nhớ đến ông bà tổ tiên cũng phải đặt trên một tấm lòng thành. Lời Chúa hôm nay soi rọi cho Chữ Hiếu của người Việt Nam, việc hiếu thảo phải được thể hiện một cách đặc biệt qua các dịp lễ tết, bằng việc trân trọng gìn giữ nét đẹp truyền thống của gia đình. Kế đến, là việc thảo kính vâng lời và làm vui lòng các bậc sinh thành và tiền nhân.
Bài đọc một khuyên chúng ta: “Hãy ca tụng công đức của các bậc tiền nhân vì bao công lao khó nhọc và phúc ấm các ngài để lại cho con cháu”. Hãy gìn giữ và làm phát huy những giá trị tốt đẹp, là tài sản quý giá mà cha ông để lại. Gần đây, có một vài tiến sĩ đề nghị bỏ cái tết cổ truyền, với lý do là nghỉ tết nhiều, sẽ ảnh hưởng đến kinh tế. Nói như thế chứng tỏ, những nhà tiến sĩ này đã quên các giá trị đạo đức gia đình, truyền thống và văn hóa dân tộc, để chỉ nghĩ đến tiền (kinh tế). Ngày tết không đơn thuần là ngày nghỉ, vì ngày tết còn là ngày mỗi người có thể đụng chạm đến hồn dân tộc và cảm nhận được văn hóa lâu đời của một dân tộc, là dịp để mọi người sống, cảm nhận và vun đắp cho truyền thống gia đình. Vì vậy, không có ngày nào trong năm mà mỗi người cảm thấy thiêng liêng, quan trọng như đêm ba mươi và sáng mồng một tết. Cũng vì sự thiêng liêng quan trọng này, mà cha mẹ ở nhà mong con cháu về xum họp, mọi người đi xa đều mong về đến nhà, để xum họp với ông bà, mẹ cha và nhất là để thắp cho ông bà, tổ tiên một nén hương, thể hiện tấm lòng thảo hiếu biết ơn. Như thế, có bài học biết ơn nào hay hơn bài học thực tế này trong ngày tết; có tình cảm nào thiêng liêng, ấm cúng cho bằng tình cảm của gia đình xum họp trong ngày đầu năm. Chính trong dịp xum họp đầu năm này, mà các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình được lưu truyền cho con cháu. Cha mẹ, ông bà hạnh phúc vì con cháu thành đạt, xum họp đông đủ, con cháu tự hào, trân trọng, duy trì và làm phát huy truyền thống gia đình. Tuy nhiên, lòng thảo hiếu biết ơn, tình cảm gia đình, cuộc xum họp ngày xuân chỉ thực sự trở nên có ý nghĩa, khi mỗi người trở về với mẹ cha và gia đình bằng một tấm lòng thành. Thiếu tấm lòng thành, sự thảo hiếu chỉ còn là hình thức, thiếu tấm lòng, ngày xum họp gia đình, anh em chỉ còn là một màn kịch, bằng mặt mà không bằng lòng. Có nhiều gia đình ngày tết cha mẹ anh em gặp nhau mà không mừng, gần nhau mà không quý, còn có sự hiện diện của cha mẹ, anh em mà không biết trân trọng.
Thư Ephêsô dạy chúng ta duy trì bầu khí ấm cúng, truyền thống của gia đình mọi ngày trong đời sống bằng cách: “Hãy vâng lời và thảo hiếu cha mẹ, để ngươi cũng được trường thọ trêm mặt đất này”. Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho, thảo hiếu cha mẹ trước hết bằng sự tôn kính và vâng lời các ngài, vì các Ngài thay mặt Chúa, cộng tác với Chúa để sinh thành, nuôi dưỡng dạy dỗ và yêu thương chúng ta. Vì vậy, đạo làm con là phải biết vâng nghe lời dạy của mẹ cha, vì các ngài luôn muốn điều tốt và làm điều tốt cho ta. Ta yêu mến kính trọng các ngài, đừng hắt hủi khinh dể khi các ngài tuổi cao sức yếu, vì các ngài đã một đời hi sinh vất vả cho ta ngày hôm nay và vì các ngài hết mực yêu thương không tiếc gì với ta. Nay cha mẹ tuổi cao, ta có bổn phận phải làm cho tuổi già của các ngài được an vui hạnh phúc. Đừng khi nào tỏ ra bội nghĩa vong ân, hỗn láo hay cử xử tệ bạc với cha mẹ vì đó là điều đáng bị nguyền rủa và bị Thiên Chúa kết án.
Lời Chúa ngày tết hôm nay nhắc cho những người đang lơ là với cha mẹ và gia đình, cần biết điều chỉnh lại lòng mình. Gạt bỏ những gì là ấm ức tức tối, bất hòa bất đồng, những gì là bằng mặt mà không bằng lòng, để vun đắp lại tình nghĩa gia đình và tình cảm mẹ cha anh em. Vì, các thứ khác trên đời này có thể mua bằng tiền, nhưng cha mẹ, anh em và hạnh phúc gia đình không thể mua bằng tiền, mà phải đổi bằng hy sinh có khi là của cải, kể cả công danh sự nghiệp mới có được thứ hạnh phúc ấy - hạnh phúc gia đình. Amen.
21. Suy niệm Lời Chúa Mồng Hai Tết—Kính nhớ Tổ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ.
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Ngày tết là dịp để chúng ta đoàn tụ với gia đình. Ai cũng mong được về cùng chung với gia đình bên mân cơm. Cùng dâng cho nhau ly rượu chúc mừng năm mới. Bữa cơm tết với gia đình thật ấm cúng, thật đáng quý biết bao. Vì ở giữa cuộc đời bon chen, không ở đâu bình yên bằng gia đình. Không ở đâu có tình yêu chân thật bằng cha mẹ con cái yêu thương nhau. Gia đình là tổ ấm, là điểm tựa của mỗi người, dù đi đâu thì gia đình vẫn luôn sẵn sàng là bến đỗ để ta trở về.
Thế nhưng, để hiểu điều này đôi khi phải chờ đến khi rời xa gia đình, lúc ấy chúng ta mới nuối tiếc về mái ấm gia đình mà chúng ta đã từng làm lơ hay hững hờ:
Khi rời xa mới biết ý nghĩa của gia đình
Mới biết niềm vui trong từng cử chỉ
Mới biết hạnh phúc phải đâu nào xa xỉ
Vì chỉ một nụ cười cũng đủ ấm con tim…(Kim Liên)
Có những người khi xa gia đình mới cảm thấy thương cha thương mẹ. Họ mới cảm nhận được “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Xa cha, nhớ mẹ, họ chỉ mong cho các ngài bình yên hạnh phúc trong lời kinh nguyện mà thôi:
Giữ mãi gia đình trong một góc riêng
Để nhớ để mong để âm thầm cầu nguyện:
- Xin nỗi buồn đừng hằn trên mặt mẹ
Và nụ cười đừng chia cách môi cha… (Kim Liên)
Khi rời xa khỏi vòng tay nồng ấm của cha mẹ, người ta mới thấy hụt hẫng, bâng khuâng. Tuy trong đời họ có tiền, có địa vị nhưng lại thiếu một tình yêu ôm ấp bảo ban. Thế nên, có những người thầm ước được trở về tuổi thơ, để nơi đó họ được sống trong vòng tay yêu thương của mẹ cha:
Thời gian thấm thoắt trôi đi,
Tìm đâu một vé trở về tuổi thơ?
Một thời lém lỉnh ngây ngô,
Sống trong đùm bọc bến bờ yêu thương. (ST)
Tuổi thơ ai cũng hạnh phúc. Cái hạnh phúc là được ở trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Cái hạnh phúc nồng ấm khi được cha mẹ “Nâng như nâng trứng – Hứng như hứng hoa”. Cái hạnh phúc được làm nũng, được ăn vạ và được mẹ vỗ về. Đó cũng là món nợ ân tình mà những người làm con phải trả cho các bậc sinh thành đến suốt cuộc đời.
Con nợ mẹ cha những ngày vui bất tận
Rong ruổi suốt cuộc đời không định hướng tương lai
Con nợ những chiếc hôn còn nóng hổi vành môi
Trong cơn điên loạn giữa bạc tiền mến mộ
Nợ ân nghĩa mẹ cha đòi hỏi chúng ta phải trả cho suốt cuộc đời. Nếu các ngài đang trong tuổi già lầm lũi cô đơn thì hãy chăm nom, săn sóc, phụng dưỡng tuổi già. Nếu các ngài là những cha mẹ trẻ đang bươn chải một nắng hai sương thì phận làm con, hãy chia sẻ gánh nặng với các ngài trong khả năng của mình. Và nếu các ngài đã qua đời thì xin dành cho các ngài những nén hương với lời nguyện cầu tha thiết cho các ngài sớm hưởng phúc thiên đàng bên Chúa.
Một nén hương nồng nàn lặng lẽ
Nỗi lòng con gửi gắm những niềm thương
Dù bao năm dù có hóa vô thường
Công sinh dưỡng vẫn là công lớn nhất.
Nhưng dù muốn dù không khi nói đến tình nghĩa mẹ cha, ai cũng cảm thấy mình còn thiếu sót, còn nhiều lỗi lầm với mẹ cha. Có những người đã từng cãi lời mẹ cha. Có những người đã từng quên lãng mẹ cha để mải miết đi tìm danh vọng. Có những người còn bất hiếu với mẹ cha qua những việc làm thất đức, đáng xấu hổ với “liệt tổ, liệt tông”. Đó là lý do khiến bao người khi nghĩ đến mẹ cha lại cảm thấy nuối tiếc về thời gian bên cha mẹ, nuối tiếc vì những việc làm đã gây đau khổ cho cha mẹ. Thế nên, có ai đó nói rằng:
Bài học đầu đời thật vất vả mẹ cha ơi!
Xin cho con im lặng để mắt con cay
Xin cho con lạnh lùng để con không bật khóc
Xin cho con góp nhặt để còn chút lương tâm
Xin cho con chuộc lỗi dù biết đã muộn màng.
Hôm nay Mồng Hai Tết, ngày cầu cho ông bà cha mẹ. Ai cũng phải nợ ân, nợ nghĩa ông bà cha mẹ. Hãy dùng thời gian hôm nay để nói lên lòng hiếu kính của chúng ta với các ngài. Hãy dâng cho các ngài lời nguyện cầu với lòng biết ơn mong sao các ngài luôn hạnh phúc bên đàn con cháu. Chúng ta hãy dành thời gian hôm nay để sum vầy bên các ngài quanh cầu chuyện đầu năm. Cùng chúc mừng các ngài vạn sự cát tường.
Xin cầu chúc cho các gia đình một ngày ngập tràn niềm vui sum vầy bên những người thân yêu nhất. Cầu chúc cho mọi nhà rộn ràng tiếng cười vui bên mâm cơm gia đình. Xin Chúa chúc lành cho ngày sum họp hôm nay được trọn niềm trong Chúa và bên nhau. Amen.
22. MỒNG HAI TẾT KỶ HỢI 2019: KÍNH NHỚ TỔ TIÊN ÔNG BÀ CHA MẸ
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Ngày xưa, với nền văn hóa nông nghiệp, có nhiều thời gian nông nhàn, việc nghỉ tết, ăn tết, vui xuân kéo dài cả tháng. Ngày nay xã hội công nghiệp, mọi sự đều phải rút ngắn thời gian, vì thế những ngày nghỉ tết, vui tết cũng bị rút ngắn lại. Cùng với sự rút ngắn thời gian, các giá trị văn hóa, tập tục truyền thống ngày tết cũng bị đơn giản lại hoặc bị bào mòn. Ví dụ: Trước đây ngày ba mươi và mồng một tết hầu như không ai ra khỏi nhà, mọi người dành trọn vẹn cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và gia đình. Đêm ba mươi cùng với việc tạ ơn trời, người Việt nam còn mời tổ tiên về ăn tết. Vì vậy đêm ba mươi, mọi người đều phải quy tụ trước bàn thờ tổ tiên để đón ông bà. Ngày mồng một, nén nhang, hoa trái, bánh kẹo đầu tiên được dâng lên tạ ơn trời, kế đến là cúng ông bà với lòng biết ơn để xin trời đất, ông bà phù hộ. Sau đó trọn ngày mồng một dành để chúc tuổi ông bà nội ngoại hai bên. Từ mồng hai trở đi sẽ là ngày đi chúc tuổi chú bác cô dì, họ hàng.
Ngày nay, các sự kiện được tổ chức vào đêm ba mươi để kéo mọi người ra khỏi nhà, cướp mất giờ phút linh thiêng giao thừa bên gia đình. Có nhiều người còn “trốn tết” bằng những cuộc du lịch dài ngày ngay từ ngày mồng một; những cuộc thăm viếng ông bà cha mẹ, họ hàng chỉ còn là thủ tục phải làm cho qua lần. Cứ như thế, tương quan gia đình ngày càng lỏng lẻo, liên hệ họ hàng ngày càng mờ nhạt, dẫn đến tình cảm và bổn phận thảo hiếu cũng bị vơi cạn, lâu dần các giá trị đạo đức cũng bị bào mòn. Có lẽ vì thế, thỉnh thoảng trên mạng lại loan truyền những đoạn clip con cái bạo hành cha mẹ, bất hiếu đuổi cha mẹ ra đường, đùn đẩy trách nhiệm chăm lo cho cha mẹ.
Ngày mồng một chúng ta được mời gọi hướng tâm hồn lên Chúa với tâm tình tạ ơn và phó dâng năm mới cho Chúa, cầu xin cho gia đình được an vui. Bước qua mồng hai tết, Giáo Hội nhắc chúng ta bổn phận kính nhớ và bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người còn sống và những người đã qua đời.
Sách Huấn ca dạy chúng ta bày tỏ lòng biết ơn bằng việc học hỏi thực hành những điều cha ông truyền dạy và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp các ngài để lại: Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi các vị danh nhân cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ. Công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Như thế, lòng biết ơn đối với tiền nhân là tiếp nối truyền thống đạo đức của cha ông mà các ngài đã dày công xây dựng, vun đắp cho gia đình và dòng họ. Là hậu sinh, chúng ta được mời gọi lưu giữ và bảo vệ thanh danh cho gia đình và dòng họ, giữ gìn nếp sống đạo hạnh mà cha ông đã tạo lập nên. Trong xã hội hiện đại, gia đình nào duy trì và vun đắp được những giá trị đạo đức truyền thống, như việc thảo hiếu, lễ phép, kính trên nhường dưới, trên thuận dười hòa, gia đình xum họp, con cháu thảo hiền, gia đình dòng họ đó sẽ êm ấm hạnh phúc. Cũng theo sách Huấn Ca: Khi các gia đình sống thư thế là chúng ta thể hiện lòng biết ơn đối với tiền nhân cách tốt đẹp nhất và cũng là cách chúng ta làm vẻ vang tổ tiên của gia đình hơn là xây các mồ mả cho to cho đẹp.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu phản đối lối sống bất hiếu vô ơn đối với cha mẹ của những người Do Thái. Những người Biệt phái đến trách Chúa Giêsu vi phạm truyền thống của tiền nhân khi không thanh tẩy chén bát, đồ dùng trước khi dùng bữa. Chúa Giêsu chỉ cho những người này thấy giá trị truyền thống đích thực, không phải là các tập tục rửa tay, rửa bình, nhưng là phải chu toàn bổn phận thảo hiếu với ông bà cha mẹ. Chính việc thảo hiếu, tôn kính, biết ơn ông bà cha mẹ mới là giá trị truyền thống tốt đẹp và hơn nữa đó còn là giới răn lề luật của Thiên Chúa. Các luật sĩ và biệt phái đã đưa ra một điều luật thay thế bổn phận thảo hiếu là: Khi một người tuyên bố dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì được miễn mọi bổn phận phụng dưỡng báo hiếu, thờ cha kính mẹ. Việc dâng tặng lại cho nhà Chúa hoa trái và thành quả lao động của mình là điều tốt, đáng khuyến khích, nhưng Thiên Chúa không chấp nhận lễ dâng với sự vô ơn bất hiếu với cha mẹ như thế.
Chúa Giêsu đã phản đối điều luật này vì nó vi phạm trầm trọng đến giới răn thứ bốn của Thiên Chúa: Hãy thảo kính cha mẹ. Theo quan điểm của Chúa Giêsu, không có bất cứ thứ gì có thể đánh đổi hoặc thay thế được giới răn này của Thiên Chúa. Vì cha mẹ chính là những người được Thiên Chúa cho cộng tác với Chúa để sinh ra chúng ta. Cũng qua cha mẹ, Thiên Chúa tiếp tục yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ chúng ta. Vì thế, tất cả mọi người đều có bổn phận hiếu thảo, thờ cha kính mẹ, ai không chu toàn bổn phận này thì cũng là lỗi giới răn Thiên Chúa.
Qua thư Ephêsô, thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta bổn phận đối với cha mẹ: Hỡi những người làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ, đó là điều răn thứ nhất kèm theo lời hứa: Để ngươi được hưởng thọ trên mặt đất này. Vâng lời cha mẹ không chỉ thể hiện sự thảo hiếu ngoan hiền đối với cha mẹ, mà vì cha mẹ là những người luôn yêu thương ta, hy sinh cả cuộc đời cho ta, chỉ dạy ta những điều tốt lành. Cha mẹ nhiều kinh nghiệm hơn ta và luôn muốn điều tốt cho ta. Nghe lời cha mẹ, chúng ta sẽ học được sự khôn ngoan và trưởng thành.
Mỗi người chúng ta mắc nợ cha mẹ về công sinh thành dưỡng dục. Kể sao hết công cha nghĩa mẹ vì chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và nhiều năm dài nuôi ta khôn lớn; đong sao hết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, sức lực các ngài đã phải hao mòn vì con cái; đếm sao được biết bao đêm mất ngủ, biết bao ngày lo toan khi ta đau yếu bệnh tật vv. Phận làm con, khi khôn lớn, ta có bổn phận phải chia sẻ gánh nặng gia đình với cha mẹ, chia sẻ với các ngài những lo toan của cuộc sống kinh tế gia đình, để các ngài bớt phần vất vả. Khi cha mẹ lớn tuổi, chúng ta phải chăm sóc, yêu thương, kính trọng và phục vụ các ngài. Khi các ngài yếu đau, trí nhớ giảm sút, con cái phải hết sức kiên nhẫn và lễ phép với cha mẹ, vì khi ta còn nhỏ, các ngài cũng đã hết sức kiên nhẫn và quảng đại với chúng ta. Cha mẹ đã đổ biết bao nước mắt vì chúng ta, khi cha mẹ về già, chúng ta phải đem niềm vui đến cho các ngài đừng để các ngài phải đổ thêm những giọt nước mắt khổ đau buồn tủi nữa.
Thưa quý OBACE, ngày tết là ngày đoàn viên xum họp gia đình, ông bà, cha mẹ, con cháu quây quân bên nhau. Gia đình nào cũng mong ước có một bầu khí ngày tết xum vầy như thế. Tuy nhiên, không phải tất cả các ông bà, cha mẹ đều có được niềm vui hạnh phúc trọn vẹn bên con cháu. Thời nay, con người trọng tiền hơn trọng tình. Vì thế, nhiều người con đã rất thiết sót bổn phận với cha mẹ, bổn phận thảo hiếu phụng dưỡng cha mẹ được tính toán theo giá đất, được quy ra thành tiền. Có nhiều người phụng dưỡng cha mẹ không phải vì biết ơn, mà vì ngóng trông phần hơn, khi chia tài sản của cha mẹ. Khi cha mẹ nghèo khó, hết tiền, hết của, con cái đùn đầy nhau trách nhiệm trông coi, nuôi dưỡng. Có những người con đem cha mẹ mình quăng ra đường hoặc hắt hủi cha mẹ như con ăn đầy tớ trong nhà.
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội nhắc lại bổn phận kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ, để mỗi người rà soát lại xem mình đang chu toàn bổn phận thảo hiếu cách vuông tròn chưa. Chắc chắn cha mẹ sẽ không sống mãi với chúng ta, vì thế ai còn cha mẹ hãy làm cho cha mẹ cảm thấy an vui hạnh phúc trong tuổi già. Những ai đã không chu toàn hoặc đã từng đối xử tê bạc với cha mẹ, cần điều chỉnh lại thái độ của mình với cha mẹ.
Ngày hôm nay cũng nhắc cho chúng ta nhớ đến các bậc đã qua đời bằng việc chu toàn việc đọc kinh, cầu nguyện, xin lễ và nhắc cho con cháu cầu nguyện thường xuyên cho ông bà. Nhắc cho con cháu biết ơn ông bà cách riêng các dịp giỗ chạp; chăm sóc cho bàn thờ tổ tiên trong gia đình, đừng để tắt hương lạnh khói vì sự vô ơn hay vô tình của mình. Hôm nay ta chu toàn bổn phận thảo hiếu, biết kính trong cha mẹ ông bà, sau này con cái cũng theo gương đó mà kính trọng biết ơn ta.
Xin Chúa ban niềm vui và bình an xuống trên tổ tiên, ông bà cha mẹ của chúng con, vì các ngài dã một đời hy sinh vất vả vì chúng con. Xin Chúa ban cho các gia đình được anh phúc trên thuận dưới hòa, con cháu thảo hiền Amen.
23. Ngày Mồng hai Tết Giáp Ngọ: Sống Chữ Hiếu
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện.
Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng: “ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba “. Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối: ” Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”. Một cậu con trai khác cau cau lông mày: “Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao ? “. Cô con dâu trưởng phán một câu: “Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện “.
Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ. Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn. Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người, nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.
Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ. Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời. Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang ?… Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời: ” Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền ?”.
Đám người đang khóc mếu, cãi nhau… đột nhiên im bặt. Rồi từng người một lẻn ra ngoài…
Đúng là “một mẹ nuôi được 10 con nhưng 10 con lại không nuôi được một mẹ”. Cho dù câu ca dao xưa dạy rằng:
Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
Thế nhưng, lời dạy ấy dường như chỉ dừng lại nơi môi miệng mà rất khó mang ra thực hành. Dẫu biết rằng đi khắp thế gian cũng không có tình nghĩa nào cao sâu cho bằng tình cha tình mẹ yêu con. Dẫu biết rằng không ở đâu có tình yêu chân thành cao cả như tình cha mẹ yêu con.
Con đi khắp vạn nẻo đường
Giờ con mới hiểu tình thương mẹ hiền
Người con yêu quý nhất trên đời
Chính là mẹ đó tuyệt vời tình sâu
Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu. Ngày xuân là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:
Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy
Núi rất cao và biển rất tuyệt vời
Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở
Và trái tim nhân ái làm người
Đây là dịp con cái biểu lộ chữ hiếu qua những hành vi không chỉ dâng hương kính bậc tổ tiên mà còn khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành.
Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ
Phong sắc hồng hào tâm thể khang an
Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng
Nên quá ít thời gian hầu cận mẹ
Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể
Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây
Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây
Mừng tuổi mẹ kính dâng thêm một tay
Như thế, mùa xuân còn là mùa của đoàn tụ, của sum họp. Mùa xuân không chỉ có không gian rạng ngời mà lòng người cũng tràn ngập niềm vui vì có nghĩa tình đằm thắm của tình cha mẹ, ông bà, anh em một nhà sum vầy bên nhau. Ước chi mùa xuân mãi ở lại đây để tình nghĩa gia đình mãi hòa hợp yêu thương, để con cháu mãi sum vầy bên cha mẹ và anh em hòa hợp bên nhau.
Xin Chúa làm chủ thời gian xin ban cho nhân gian một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Amen
24. MỒNG HAI TẾT ĐINH DẬU 2017 – KÍNH NHỚ TỔ TIÊN
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Một vài năm gần đây, vào dịp cuối năm, trên mạng có nhiều đoạn clip để nhắc cho mọi người trở về xum họp gia đình trong dịp tết. Có những đoạn film rất xúc động với hình ảnh cha mẹ già, ngày ngày đợi con đi làm ăn xa trở về đoàn tụ. Cũng có nhiều lời kêu gọi: Cha mẹ ngày càng già, hãy trở về xum họp với mẹ cha trong ngày tết. Ngày tết là ngày của gia đình, ngày xum họp không chỉ với mẹ cha, anh em để bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn, nhưng người Việt Nam còn tin rằng: Ngày tết cả ông bà tổ tiên, những người đã khuất cũng trở về gia đình xum họp với con cháu. Ngày nay, xã hội có xu hướng tổ chức những tụ điểm vui chơi vào đêm giao thừa và mồng một, để kéo mọi người ra đường đón tết. Việc làm này có lẽ đi ngược lại với truyền thống Việt Nam, đêm ba mươi và mồng một, mọi người luôn gắn liền với gia đình. Không biết có phải vì sự thay đổi này dẫn đến sự lỏng lẻo trong tương quan các gia đình? Bên cạnh đó, có những người đã trốn tết bằng cách đi du lịch vào đúng ngày ba mươi mồng một, với lý do cả năm bận rộn, tranh thủ những ngày tết để đi nghỉ ngơi.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa có đăng một đoạn nhận xét rằng: Ngày tết bỏ nhà đi du lịch không ở với mẹ cha là bất hiếu. Đoạn nhận xét này đã có phản ứng mạnh từ nhiều thành phần. Có người ủng hộ, có người phản đối. Người phản đối cho rằng, nhu cầu nghỉ ngơi là cần thiết, đưa cả gia đình đi chơi cũng là điều hay… Dù đồng tình với nhận xet trên hay không đồng tình, người ta cũng thấy rằng, mối tương quan gia đình ngày nay đang bị rạn nứt, tình cảm gia đình bị lỏng lẻo, các giá trì văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình đang bị mai một.
Giáo Hội công Giáo Việt Nam đã đón nhận những tập tục và những giá trị văn hóa tốt đẹp của truyền thống để đưa vào phụng vụ ngày tết. Giáo hội dạy giúp chúng ta duy trì và phát triển những giá trị tốt đẹp về gia đình trong truyền thống văn hóa cho phù hợp với Tin Mừng. Ngày Mồng một tết, chúng ta hướng về Thiên Chúa là cội nguồn của vũ trụ và sự sống, để tạ ơn tôn vinh Chúa, cũng như xin ơn bình an cho năm mới. Hôm nay mồng hai tết, Giáo hội hướng chúng ta về cội nguôn của gia đình để kính nhớ tổ tiên ông bà và các đấng sinh thành dưỡng dục, đồng thời làm sáng tỏ và vun đắp cho các giá trị tốt đẹp của đời sống mỗi gia đình.
Bài đọc sách Huấn Ca mời gọi chúng ta giữ gìn nề nếp truyền thống tốt đẹp của gia đình qua lời văn rất hay: Chúng ta hãy ca tụng các vị danh nhân cũng là cha ông chúng ta qua các thế hệ, công đức các ngài không chìm vào quên lãng, dòng dõi các ngài là lũ cháu đàn con. Đọc những lời dạy của Kinh Thánh trong bầu khí ngày tết, mời gọi chúng ta luôn sống tâm tình biết ơn đối với ông bà cha mẹ. Các ngài là những người đã dày công sinh thành dưỡng dục chúng ta nên người hôm nay. Kể sao hết được sự vất vả của người cha dầm mưa dãi nắng, lo cơm, kiếm gạo về cho gia đình, nuôi cho con khôn lớn; nói sao cho vừa với sự hy sinh đêm ngày để lo cho con học hành bằng anh bằng chị. Diễn tả sao hết sự vất vả tần tảo của người mẹ, thân cò lăn lội, mang nặng đẻ đau, lo cho con từng li từng tí, từng ngày từng giờ. Cho dù con còn nhỏ hay khôn lớn, thì trong mắt mẹ cha, nó vẫn luôn là đứa bé cần được yêu thương chăm sóc. Cho dù vất vả truân chuyên trăm bề, mẹ cha không bao giờ kể lể, tính toán với con cái, các ngài luôn dành cho con lòng bao dung độ lượng. Cho dù con cái ngỗ nghịch phá phách, làm đau lòng mẹ cha, bất hiếu bất kính với cha mẹ, cha mẹ vẫn sãn lòng để yêu thương tha thứ và ôm con vào lòng. Vì tất cả những công lao hy sinh vất vả ấy, phận làm con không bao giờ được phép quên và cũng không bao giờ được vô ơn bạc hiếu với các ngài.
Cha mẹ không mong đợi gì nhiều nơi con cái, các ngài chỉ mong muốn được nhìn thấy con cháu lớn khôn, thành nhân, thành đạt. Niềm vui của cha mẹ ông bà là được nhìn thấy con cái cháu chắt xum vầy, thấy con cháu yêu thương nâng đỡ lẫn nhau. Không gì đau khổ bất hạnh cho bậc cha mẹ, khi thấy các con kèn cựa, cãi vã, giận hờn lẫn nhau. Ngày tết là ngày của xum họp gia đình, các bậc ông bà tuổi cao sức yếu không mong đồng quà tấm bánh, nhưng chỉ mong được gặp con cháu xum họp và lấy niềm vui tiếng cười của con cháu, làm niềm vui và hạnh phúc cho tuổi gìa của mình. Chính vì thế, ngày tết đừng để cha mẹ mòn mỏi đợi chờ, cũng đừng gây đau khổ cho cha mẹ bằng những chuyện anh em bất hòa, nhưng hãy lấy tình yêu thương tha thứ để cư xử với nhau, đó là cách đem đế hạnh phúc an vui cho ông bà cha mẹ.
Thánh Phaolô trong thư Ephesô khuyên dạy: ‘‘Các kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ, đó là điều răn thứ nhất. Cha mẹ chính là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng và sinh thành, đưa chúng ta vào đời. Con cái là hoa trái tình yêu của cha mẹ. Mỗi chúng ta được cưu mang trong tình yêu, nuôi dưỡng không chỉ bằng sữa hoặc cơm bánh, nhưng được lớn lên trong tình yêu. Vì thế, việc tôn kính vâng lời trong yêu mến, chính là thái độ đền đáp tình yêu thương cha mẹ đã dành cho chúng ta. Khi tôn kính vâng lời cha mẹ, là chúng ta tôn kính vâng lời Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa đã cậy nhờ cha mẹ để sinh thành và dưỡng dục chúng ta. Trái lại bất kính và không vâng lời, không chỉ là bất hiếu, làm tổn thương đến tình yêu của cha mẹ, mà còn là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Ngày nay, con cái dường như được học hành nhiều hơn thế hệ cha mẹ ngày xưa, hiểu biết nhiều về khoa học và công nghệ nhiều hơn các ngài, nhưng lại cư xử rất tệ với cha mẹ, khinh chê, bất kính bất hiếu với cha mẹ. Các ngôi nhà của các gia đình, sang trọng, đẹp đẽ, có đầy đủ tiện nghi, nhưng dường như không có chỗ cho cha mẹ. Họ sợ cha mẹ già bôi bẩn ra nhà, sợ hôi nhà, không cho ông bà gần con cháu, vì sợ bẩn, sợ hôi, họ hắt hủi khinh dể cha mẹ già, chỉ mong ông bà ra khỏi nhà.
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay cảnh báo về thái độ bất hiếu bất kính nhân danh bất cứ lý do gì, kể cả nhân danh việc đạo đức. Những người Do Thái ngày xưa đã nhân danh Thiên Chúa để từ chối bổn phận nuôi dưỡng chăm sóc cho cha mẹ. Họ tự đặt ra một truyền thống cho rằng: Những người tuyên bố dâng cúng của cải cho Thiên Chúa, thì không phải phụng dưỡng cha mẹ nữa. Chúa Giêsu đã phản đối và chỉ trích truyền thống vô đạo đức này và lặp lại giáo huấn của Thiên Chúa: Ngươi phải thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ sẽ bị xử tử. Khi nhấn mạnh bổn phận thờ cha kính mẹ, có thể nói Chúa Giêsu nâng bổn phận của con cái thảo hiếu với ông bà cha mẹ, trở thành một đạo, đó là đạo hiếu, đạo làm người. Ai không chu toàn được bổn phận đạo hiếu, đạo làm người, thì cũng không thể chu toàn đạo với Thiên Chúa. Cũng vậy, chỉ những ai chu toàn đạo hiếu với cha mẹ trần gian thì mới có thể biết và chu toàn bổn phận thảo hiếu với Thiên Chúa là Cha trên trời.
Thưa quý OBACE, tôn kính thảo hiếu, biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ là điều giáo hội dạy, là đạo lý của người Việt chúng ta. Tuy nhiên, trong cuộc sống xã hội, chúng ta vẫn còn thấy nhiều cảnh trái tai gai mắt, khi con cháu đối xử tệ bạc với ông bà, bất hiếu bất kính và hành hung đánh đập ông bà cha mẹ, là những Đấng bậc sinh thanh dưỡng dục mình. Chúng ta vẫn thấy những gia đình đông con, nhưng con cháu đùn đẩy bổn phận phụng dưỡng cha mẹ già, họ tính toán thiệt hơn với ông bà cha mẹ từng đồng. Ngày xưa cha mẹ đã hết sức kiên nhẫn để yêu thương dậy dỗ chúng ta nên người, không hề tính toán thiệt hơn, nhưng đến nay dường như con cái lại không kiên nhẫn yêu thương khi cha mẹ tuổi cao sức yếu, khi trí khôn trí nhớ các ngài giảm sút.
Cử hành ngày Tết kính nhớ tổ tiên hôm nay, nhắc mỗi chúng ta biết ơn ông bà cha mẹ của mình và cũng xét lại bổn phận và lòng thảo hiếu của mỗi chúng ta đối với các ngài. Nếu chưa chu toàn vuông tròn, thì hãy tận dụng thời gian này, để đền đáp công ơn cha mẹ, vì các ngài không còn ở với chúng ta lâu nữa. Đồng thời mỗi người cũng cần vun đắp cho gia đình mình bằng tình yêu, sự quảng đại và tha thứ, để gia đình thực sự đầm ấm yên vui không chỉ trong những ngày tết mà là suốt đời.
Cầu chúc cho mọi gia đình được được an vui thuận hòa, con cháu ngoan hiền, gia đình êm ấm và là dấu chỉ lòng thương xót Chúa cho xã hội hôm nay Amen.
25. MỒNG HAI TẾT ẤT MÙI 2015: BIẾT ƠN TỔ TIÊN – ÔNG BÀ CHA MẸ
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Kính thưa quý OBACE, tết là ngày xum họp gia đình, là dịp mọi người dù đi làm ăn nơi phương xa thì cũng thu xếp để kịp về nhà vào những ngày này để quây quần bên nhau. Có dịp đi dọc quốc lộ trong những ngày vừa qua có thể thấy được sự khao khát trong ánh mắt của anh chị em công nhân chờ đón những chuyến xe cuối năm đề trở về nhà. Chính vì khao khát bằng mọi giá phải có mặt ở nhà dịp tết mà nhiều khi họ chấp nhận bị nhồi nhét trên những chiếc xe chật chội, cũ kỹ. Trở về nhà trong dịp đầu năm là về với gia đình, về với mẹ cha, dù nhiều người cha mẹ, ông bà đã không còn, nhưng họ vẫn muốn trở về ngôi nhà tổ, nơi ông bà cha mẹ đã từng sinh sống để thắp lên một nén nhang, để bày tỏ tấm lòng thành của con cháu biết ơn mẹ cha.
Giáo Hội đã dành ngày mồng hai tết để dạy chúng ta biết ơn các bậc sinh thành, dưỡng dục; nhắc chúng ta nhớ đến các bậc tổ tiên, những người đã khuất và bày tỏ lòng hiếu kính đối với ông bà cha mẹ là những người còn đang sống. Đã từ lâu, do cách sống và giải thích sai của người có đạo, khiến nhiều người ngoại đạo nghĩ rằng : người Công giáo là những người bất hiếu, không thờ cúng ông bà tổ tiên. Chúng ta nghĩ gì khi người ngoại trách chúng ta như thế ? Và, chúng ta cần phải sửa lại cách sống thế nào để giải thích cho mọi người về giáo lý của đạo chúng ta?
Người Công giáo có được “thờ cúng ông bà tổ tiên” hay không ? Tức là, cúng giỗ ông bà có được phép hay không ? Thưa - thờ cúng ông bà là bổn phận thảo hiếu buộc tất cả mọi người có đạo cũng như không có đạo phải chu toàn. Việc thờ cúng ông bà hoàn toàn khác với việc thờ phượng Thiên Chúa. Thờ cúng công bà là đòi buộc của đạo làm con, đạo làm người. Vì đạo làm người, đạo hiếu, đạo làm con là đạo đức căn bản trong đời sống nhân bản của con người. Ai không chu toàn bổn phận đạo hiếu, đạo làm người, thì không thể chu toàn đạo nào khác được. Vì thế, việc thờ cúng ông bà, việc tổ chức cúng giỗ tổ tiên là việc bổn phận phải làm của mọi người, còn cách thức làm như thế nào thì tùy thuộc vào tập tục văn hóa của mỗi vùng, mỗi gia đình.
Đối với người Công Giáo, việc thờ cúng tổ tiên và chu toàn đạo hiếu, đạo làm con còn là đòi buộc của giới răn thứ bốn : Thảo kính cha mẹ. Trong mười giới răn của đạo Chúa, ba giới răn đầu là những đòi buộc về những bổn phận đối với Thiên Chúa, còn bảy giới răn sau là những đòi buộc trong tương quan đời sống con người thì giới răn thứ bốn đứng đầu trong bảy giới răn này. Điều đó cho thấy bổn phận thảo kính cha mẹ là bổn phận đầu tiên của con người. Cũng như các giới răn khác, khi xúc phạm đến giới răn thứ bốn này, thì cũng là một trọng tội trước mặt Thiên Chúa và là sự xúc phạm trực tiếp đến chính Thiên Chúa.
Chính vì thế, ngày mồng hai tết hôm nay, các bài đọc nhắc cho chúng ta về những đạo lý và bổn phận căn bản của con người, đó là thảo hiếu, biết ơn ông bà cha mẹ, những người còn sống và đã qua đời. Bài đọc một sách Huấn Ca nhắc nhở rằng : Chúng ta hãy ca tụng các bậc tiền nhân, có những người đã ra đi mà không được con cháu nhớ đến nữa, nhưng có những người vẫn còn lưu danh cho hậu thế vì công phúc của họ đã để lại. Người Việt nam nói rằng : Cha mẹ hiền lành để đức cho con, và nhiều người vẫn tin rằng, họ đang được hưởng phúc lộc của ông bà. Như thế, trong chúng ta ngồi đây, ai cũng được thừa hưởng phúc lộc từ nơi cha mẹ ông bà của mình, ai cũng đang mang trong mình một món nợ ân tình của mẹ cha.
Kể sao hết được những món nợ ân tình ấy. Trước hết, chúng ta đang mang trong mình dòng máu và sự sống của cha mẹ. Thiên Chúa đã cho cha mẹ chúng ta cộng tác với Ngài trong việc sinh ra chúng ta, trao tặng chúng ta sự sống. Vì món quà sự sống mà mỗi người đang có là từ Thiên Chúa được trao qua mẹ cha nên ơn sinh thành là ơn trời biển mà phận con cái không sao có thể đáp đền mẹ cha cho cân xứng. Kế đến là sự dưỡng dục và tình yêu thương cha mẹ dành cho con cái. Chính vì tình yêu thương, vì lo cho con cái có cơm ăn áo mặc mà cha mẹ phải lặn lội, vất vả sớm hôm. Kể sao hết những nỗi nhọc nhằn, những giọt mồ hôi vất vả người cha phải chịu. Đong sao hết những tháng ngày vất vả của mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và cả một đời yêu thương con. Những lúc con ốm con đau, những khi con đói vì khát sữa, những đêm con quấy vì mọc răng, biết lẫy, là những đêm mẹ cha mất ngủ. Để nuôi con khôn lớn nên người bằng anh bằng em, thì người mẹ đã phải tần tảo một nắng hai sương, thân cò lặn lội sớm hôm ; người cha phải còng lưng vất vả lo cho con có cái áo, quyển vở đến trường, và bao nhiêu nỗi nhọc nhằn khác nữa.
Vì thế, trong thư gửi cộng đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô khuyên nhủ mọi người : Hỡi những bậc làm con, hãy vâng phục cha mẹ trong Chúa, hãy thảo kính cha mẹ, đó là giới răn thứ nhất kèm theo lời hứa: để ngươi được phần phúc và sống lâu trên địa cầu. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa chúc lành và ban ơn cho những ai biết thảo hiếu với cha mẹ ông bà mình. Yêu mến và kính trọng cha mẹ ông bà bằng việc vâng nghe những lời dạy bảo, vì cha mẹ là người thương chúng ta nhất và có kinh nghiệm nhiều hơn chúng ta, nên lời dạy bảo của các ngài là những lời dạy bảo khôn ngoan. Hãy yêu mến thảo hiếu ông bà cha mẹ khi các ngài về già, khi sức khỏe và trí khôn của các ngài giảm sút. Hãy kính trọng, thông cảm, phục vụ và chăm sóc các ngài, vì khi xưa chúng ta còn bé, cha mẹ cũng đã thông cảm, đã ân cần săn sóc chúng ta từng miếng ăn, giấc ngủ như vậy. Khi cha mẹ qua đời, hãy nhớ đến cha mẹ bằng việc đọc kinh cầu nguyện, dâng lễ cho các ngài, vì khi xưa các ngài cũng đã đêm ngày cầu nguyện và âm thầm hy sinh cho chúng ta. Đừng bao giờ tỏ ra vô lễ, bất hiếu với mẹ cha, đừng bao giờ để tuổi già của mẹ cha phải buồn tủi vì những lời nói hay cử chỉ coi thường, xúc phạm.
Cuối cùng, mỗi người hãy sống thảo hiếu hết lòng, đừng nại vào bất cứ lý do gì để từ chối mẹ cha, từ chối bổn phận phụng dưỡng các ngài, để các ngài có thể hưởng một tuổi già hạnh phúc. Mỗi người chỉ có một mẹ một cha mà thôi, đừng để tuổi già của các ngài phải rơi nước mắt vì tủi nhục, vì con cháu bỏ bê, đùn đẩy cho nhau. Những người Do Thái ngày xưa đưa ra một điều luật vô trách nhiệm đối với cha mẹ và đã bị Chúa Giêsu cảnh cáo. Họ đã bỏ giới răn của Thiên Chúa để tuân giữ những tục lệ của nhau. Trong khi Chúa đòi phải thảo kính cha mẹ, thì những thầy luật sĩ lại dạy rằng : Nếu ai tuyên bố với cha mẹ rằng những của tôi có để giúp cha mẹ đã được dâng cho Thiên Chúa rồi, thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Chúa Giêsu đã không chấp nhận thứ tục lệ ấy, vì nó đi ngược lại với đạo làm người, đi ngược lại giới răn Thiên Chúa, và Thiên Chúa cũng không chấp nhận một của lễ dâng tiến bất hiếu như thế.
Thưa quý OBACE, ngày tết là ngày của gia đình, là ngày đoàn tụ, ngày trở về với cội nguồn của gia đình là ông bà cha mẹ. Song ngày nay, dường như nét đẹp văn hóa này đang bị mai một bởi cuộc sống kinh tế và lối sống thực dụng. Nhiều gia đình đã vì đồng tiền, tấc đất, mà anh em đánh lộn, chửi bới, mất tình mất nghĩa, không nhìn mặt nhau. Cha mẹ và con cái chỉ vì phân chia chút tài sản mà đi đến giận hờn, hỗn láo. Có nhiều gia đình ngày tết mà cũng không thể tổ chúc được bữa cơm chung xum họp ông bà cha mẹ con cháu. Nhiều cảnh con cái bất hiếu, chửi bới, khinh thường cha mẹ đang xảy ra mà chúng ta có thể chứng kiến. Tất cả những điều ấy đang làm tổn thương các gia đình và làm đổ vỡ các tổ ấm. Nguy hiểm hơn nữa là nó đang tạo ra những gương xấu cho các thế hệ trẻ sau này.
Các bậc làm cha mẹ hãy cố gắng vun đắp cho gia đình mình thực sự trở thành một tổ ấm yêu thương, là nơi mọi thành viên có thể cảm nhận được sự nâng đỡ và cảm thông, chia sẻ. Đừng vì mải mê lo tìm kiếm cơm áo gạo tiền mà quên tìm hạnh phúc cho gia đình. Đừng biến gia đình mình trở thành một nhà trọ sáng đi tối về. Đừng để cho khó khăn cuộc sống cướp đi tiếng cười, tiếng nói trong gia đình. Nhất là các bậc làm cha mẹ đừng để cho rượu chè, cờ bạc, số đề, say sưa làm cho gia đình mình tan nát, làm cho con cái hoảng sợ; Trái lại, hãy dùng tình yêu thương, lòng đạo đức để vun đắp hạnh phúc và sự ấm cúng cho gia đình.
Còn các bậc làm con, hãy hết lòng yêu mến, kính trọng cha mẹ mình. Đừng để cha mẹ đã khổ sở nhọc nhằn vì cơm áo, lại phải khóc thầm khóc vụng vì ta. Hãy góp phần làm cho gia đình thêm hạnh phúc bằng việc siêng năng học tập và làm việc để chia sẻ gánh nặng với cha mẹ. Hãy trở thành nhưng người con ngoan và đạo đức để làm yên lòng mẹ cha, để cho tuổi già các ngài được vui trọn vẹn.
Xin Chúa, Đức Maria ban cho các gia đình mỗi ngày một thêm ấm cúng, thuận hòa, hạnh phúc hơn. Amen.
26. Mồng Hai Tết Bính Thân 2016: Tri Ân Ông bà cha mẹ
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Đạo truyền thống Việt Nam được coi là đạo hiếu. Cốt tuỷ của Đạo hiếu là Đức Hiếu thảo được thể hiện qua hai điều: Tôn kính cha mẹ lúc còn sống và thờ kính cha mẹ, ông bà khi các ngài qua đời.
Nhiều bài ca dao, tục ngữ, nhiều bài hát, câu chuyện, đã kể về công cha nghĩa mẹ và răn dạy con cái cần sống đáp đền công ơn ấy:
“Công cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao
Đội ơn chín chữ cù lao
Sinh thành kể mấy non cao cho vừa”.
Bởi đó khi cha mẹ về già, con cái phụng dưỡng cha mẹ với của ngon vật lạ, sáng viếng tối thăm:
“Muốn cho gần mẹ gần cha
Khi vào thúng thóc, khi ra quan tiền.”
Suốt dọc dài lịch sử, cha ông đã để lại rất nhiều mẫu gương sáng ngời về đạo hiếu. Lòng hiếu thuận ấy sâu đậm đến nỗi khóc thương mẹ mà mù cả đôi mắt như chuyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
Chuyện kể rằng:
Lục Vân Tiên đang trên đường đi thi, nghe tin mẹ mất, quá thương xót mẹ, chàng khóc lóc thảm thiết. Chàng đã bỏ thi - bỏ dở cả con đường công danh sự nghiệp sáng lạn đang ở phía trước, quay về quê để chịu tang mẹ. Trên đường về khóc thương mẹ đến thành bệnh mà mù mắt. Mắt đã mù nhưng nỗi sầu vẫn chưa nguôi ngoai:
Ôi thôi ! Con mắt đã mang lấy sầu
Mịt mù nào thấy gì đâu.
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã nêu bật chữ Hiếu nơi Lục Vân Tiên để rồi răn bảo người đời:
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình
Vào những ngày đầu Năm Mới, Giáo hội Việt Nam dành trọn ngày Mồng Hai Tết để con cái dâng thánh lễ đặc biệt cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ, tổ tiên . Đây là dịp để con cái tri ân công ơn trời bể của cha mẹ. Cuộc đời chúng ta được dệt nên từ những giọt mồ hôi lao công vất vả của ông bà cha mẹ. Các ngài đã hy sinh một nắng hai sương cho cuộc đời ta tươi vui, hạnh phúc. Công ơn của các ngài thật lớn lao, lớn lao đến nỗi ca dao cũng từng nói:
“Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha.
Cho tròn Chữ Hiếu mới là Đạo con”
Lời ca dao thật đơn sơ, mộc mạc nhưng biểu lộ một giá trị bất hủ của Đạo hiếu trong lòng người Việt Nam. Điểm nổi bật của lòng hiếu nghĩa là lòng biết ơn và sống báo đáp công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Hiếu nghĩa khi còn ở với cha mẹ thì vâng lời kính yêu các ngài. Hiếu nghĩa khi ở xa thì luôn biết thăm hỏi, dành đồng quà tấm bánh cho các ngài. Hiếu nghĩa cả khi các ngài qua đời thì cầu kinh dâng lễ.
Hôm nay trong ngày mừng xuân là dịp con cái quây quần bên cha mẹ ông bà để tỏ lòng tri ân. Thật hạnh phúc trong ngày xuân chúng ta được cha mẹ ông bà chúc lành cho ngày xuân của chúng ta. Thật hân hoan khi ngày xuân được sum họp bên nhau trong tình nghĩa ruột thịt. Đúng như thánh vịnh nói:
“Anh em sum họp một nhà
Bao là tốt đẹp, bao là tốt tươi”.
Xin Chúa là Chúa của mùa xuân, là cùng đích của mọi vạn vật chúc lành cho ngày sum họp của các gia đình luôn nồng nàn mến thương. Xin cho chúng ta luôn biết trân trọng mái ấm gia đình, vì chẳng ở đâu có người yêu thương, lo lắng cho ta bằng những người thân trong gia đình. Hãy trân trọng gia đình bằng việc sống có trách nhiệm với bổn phận của mình. Đừng vì thói lười biếng, trốn tránh trách nhiệm của mình mà mang lại những nỗi đau cho người thân. Xin đừng bao giờ vui xuân mà bán hết gia tài, gây nên đau khổ cho gia đình chỉ vì đam mê cờ bạc, rượu chè, trai gái, …
Xin cho ngày xuân luôn thắt chặt tình ruột thịt để cùng nhau xây dựng gia đình trong yêu thương nồng ấm và mỗi ngày an khang thịnh vượng hơn. Amen.
27. MỒNG HAI TẾT: ÔNG BÀ TỔ TIÊN
Hc 44, 1.10-15; Ep 6, 1-4.18-23; Mt 15, 1-6
(Lm. Đaminh Nguyễn Thành Tiến)
Trong mồng một tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta -trước hết- dâng lời tạ ơn Chúa, cầu bình an, thì trong ngày mồng hai tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Mừng lễ hôm nay là dịp nhắc nhở chúng ta nhớ đến nguồn cội của mình và công ơn sinh thành dưỡng dục của tổ tiên, ông bà, cha mẹ chúng ta...
Người Á Đông nói chung, đặc biệt người VN nói riêng rất đề cao chữ HIẾU và nâng chữ Hiếu lên thành ĐẠO, đó là ĐẠO HIẾU.
“Mẹ cha vất vả nuôi mình//Từ khi trứng nước công trình biết bao./ Làm con phải nhớ công lao,/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Kẻ làm con phải “Dĩ hiếu vi tiên” nghĩa là lấy hiếu làm đầu. Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất.
Bởi vậy, từ thuở mới cắp sách tới trường, bài học đầu tiên của ta là: Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra / Một lòng thờ mẹ kính cha / Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Sự hiện diện của mỗi người trên cõi đời này không phải là một sự xuất hiện ngẫu nhiên, nhưng là mắt xích của cả một công trình vĩ đại, một chuỗi dài những liên hệ yêu thương từ Adam đến các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và giờ đây là chúng ta,… Người ta thường nói: “Con người có cố có ông,/ Như cây có cội như sông có nguồn”. Người ta có cha có mẹ/ Không ai ở chỗ nẻ chui lên (Tục ngữ).
Trong đời sống người Kitô hữu, chữ Hiếu càng được quý trọng hơn. Hiếu thảo đối với cha mẹ không phải chỉ là một cảm tình tự nhiên hay là một qui định xã hội mà còn là một điều răn Chúa dạy trong 10 điều Chúa truyền qua ông Môsê: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”. 10 điều răn được khắc vào 2 bia đá; và nếu để ý một chút ta sẽ thấy không phải là mỗi bên 5 điều nhưng một bên 3, một bên 7; bia đá thứ nhất gồm 3 điều ghi lại bổn phận của con người đối với Thiên Chúa; bia đá thứ hai 7 điều ghi lại bổn phận giữa con người với nhau; và như thế ta mới thấy điều răn mà ta gọi là thứ tư lại là điều răn thứ nhất trong đạo làm người.
Các bài đọc Lời Chúa thánh lễ hôm nay, có chung chủ đề là chữ Hiếu.
Bài đọc thứ nhất trích sách Huấn ca nhắc chúng ta không chỉ biết ơn mà còn tôn vinh những bậc vĩ nhân và các tổ phụ chúng ta qua các thời đại.
Bài đọc 2, thánh Phaolô nói với chúng ta qua thư gửi tín hữu Ephêso: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).
Đúng ra, Phaolô đã viết lại lời Chúa trong sách Xuất Hành: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12).
Bài tin mừng, Chúa Giêsu cũng nhắc lại lời trong sách Xuất Hành và Lêvi: “Ngươi phải thờ cha kính mẹ, kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử”. Đặc biệt, Chúa Giêsu khiển trách những luật sĩ và biệt phái về việc áp dụng sai luật Chúa. Đối với họ, lễ vật gọi là ‘Coban’, tức là những gì họ dâng cho Chúa rồi thì họ không còn bổn phận giúp cha mẹ nữa.
Ngày hôm nay cũng còn có những người con như thế: đưa cha mẹ vào trại dưỡng lão, đóng tiền cho người ta nuôi; hay cho cha mẹ tiền, quà rồi cho đó là thảo hiếu, nhưng không hề về thăm hay hỏi han cha mẹ mạnh khỏe ra sao? Đau yếu thế nào?
Chúa Giêsu không chỉ nhắc nhở con người về đạo làm con mà chính Ngài từ muôn thuở đã luôn là Người Con đẹp lòng Chúa Cha. Hơn nữa, khi nhập thể làm người, Ngài cũng luôn thảo kính, vâng phục Đức Maria và thánh Giuse.
Theo truyền thống tốt lành của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, ngày mồng hai tết là ngày con cháu kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Hôm qua, ngày mồng một tết, trước hết ta thờ kính Chúa, tạ ơn Ngài và xin Ngài ban bình an; hôm nay, ngày mồng 2 tết, ta thảo kính OBTT, cha mẹ chúng ta. Trong ngày mồng hai Tết này chúng ta hãy nhìn lại lòng thảo kính của chúng ta đối với cha mẹ.
Vậy thảo kính cha mẹ là gì ?
Thảo kính cha mẹ (theo sách giáo lý Tân định) là yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi [các ngài] còn sống và [cũng như] đã qua đời.
1. Khi cha mẹ còn sống.
Khi cha mẹ còn sống nếu con cái chỉ tỏ lòng yêu mến và biết ơn thì chưa đủ, còn phải thực hiện bằng việc làm là giúp đỡ cha mẹ, nhất là khi các ngài đã về già. Nuôi cha mẹ già không phải là dễ. “Mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày”; bởi vậy, người ta nói: “Có nuôi con mới hiểu lòng cha mẹ”.
Tiếc thay, rất nhiều người -dù đã đang nuôi con- đã có kinh nghiệm vất vả vì con nhưng lại quên ơn nghĩa sinh thành. Họ coi việc chăm sóc cha mẹ già là một gánh nặng nên đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Tục ngữ VN có câu: “Sống không cho ăn, chết thì làm văn tế ruồi” là lời nhắc nhớ con cháu phải cần kíp chăm sóc cha mẹ bao nhiêu có thể khi các ngài còn sống với ta trong cõi đời này. Ngày hôm nay, có những người con tuy vui tết, nhưng vẫn cứ ân hận vì mình đã không lo chu toàn bổn phận chữ hiếu với cha mẹ mình, bây giờ cha mẹ không còn nữa; trái lại, ngày hôm nay, chúng ta vẫn thấy có những người con trước khi đi làm đã tranh thủ đút cháo và sếp giường chiếu cho cha mẹ; có những người con dìu dắt cha mẹ già lọm khọm bước lên bực cấp nhà thờ để dự lễ. Hình ảnh này làm cho tất cả chúng ta cảm động và thấy mình cần có trách nhiệm hơn nữa đối với song thân sinh thành dưỡng dục mình. Hơn nữa: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Nếu ta không trọng cha mẹ ta, khi ta về già, sao con cháu có thể trọng ta được!
2. Khi cha mẹ đã qua đời.
Người ta thường nói: “Cách mặt xa lòng”. Điều đó rất đúng trong đời sống thực tế hằng ngày bởi vì xa nhau thì mối tình dễ bị nhạt nhòa, dễ bị quên lãng. Nếu ông bà cha mẹ còn sống mà ta còn ít nhớ đến thì làm sao ta có thể nhớ đến các ngài hằng ngày khi các ngài đã qua đời? Thật ra, các ngài qua đời/khuất núi nhưng vẫn hiện diện [Chứ không phải trở về hư vô]. Giữa âm và dương thật gần gũi. “Người chết nối linh thiêng vào đời” là vậy.
Bởi thế, mỗi dịp giỗ chạp, đặc biệt là tháng 11 và mồng 2 tết là dịp thuận tiện để chúng ta hâm lại lòng yêu mến của chúng ta đối với các ngài: “Ai mà phụ nghĩa quên công/ Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”.
Hôm rồi, lễ an táng 1 bà cụ Anna Nguyễn Thị Đẫm [bà Tộ], một cha già nhắc tôi: đối với cha mẹ và ân nhân, các cha phải nhớ: “Sống thì phải tết, chết thì phải lễ”. Lời cha già nhắc tôi cũng là lời nhắc tất cả chúng ta vì ai trong chúng ta ra đời cũng có cha có mẹ.
Vậy, mồng Hai Tết hôm nay, chúng ta được nhắc nhớ về bổn phận hiếu thảo với các bậc tổ tiên, ông bà cha mẹ. Hãy chăm sóc, phụng dưỡng khi cha mẹ còn sống; Hãy dâng một nén hương, một lời nguyện cầu lên Thiên Chúa để cầu nguyện cho linh hồn tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời, để ngày Xuân của chúng ta không chỉ là mùa xuân của ân nghĩa đối với nhau mà còn là mùa xuân của lòng báo hiếu với người đã khuất. Amen.
28. UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN
(Trầm Thiên Thu)
Mồng Hai Tết là ngày cầu cho tiền nhân, những người đã “ra đi” trước chúng ta, mang tính cách cầu hồn. Tuy nhiên, dù cầu nguyện cho những người đã khuất bóng, nhưng lại vẫn liên quan chuyện hiếu nghĩa – tức là liên quan những người thân còn sống với chúng ta dịp Xuân này. Hãy nghe Thánh Phaolô nói: “Ai không chăm sóc người thân, nhất là người sống trong cùng một nhà, thì đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn người không có đức tin” (1 Tm 5:8). Cách so sánh thật “mạnh” khiến chúng ta phải “giật mình”.
Nói đến hiếu nghĩa, nhiều người ngoại giáo thường nghĩ rằng đạo Công giáo không cho thờ kính tổ tiên. Đúng và sai. Đúng vì “không ai được thờ kính (tôn thờ) bất kỳ thụ tạo nào” (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 32:39), kể cả tổ tiên, nhưng họ nghĩ sai vì Công giáo không chỉ “cho phép” (được) mà còn “bắt buộc” (phải) kính nhớ tổ tiên, các thân nhân và người có công trạng. Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Uống nước nhớ nguồn”. Như vậy, đừng vội “kết án” Công giáo khi chưa hiểu rõ!
Cổ thư nói về đạo hiếu rất hay, tất nhiên cũng phù hợp với tinh thần Kitô giáo: “Hiếu hữu tam: Đại hiếu tôn thân, kỳ thứ phất nhục, kỳ thứ năng dưỡng”. Nghĩa là “Đạo hiếu có ba điều: Hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ, hai là không làm nhục cha mẹ, ba là có thể phụng dưỡng cha mẹ”.
Liên quan đạo hiếu vào dịp Tết, chúng ta nhớ tới chuyện An Tiêm: Vào đời Hùng Vương, ở một vùng quê cách xa kinh đô Phong Châu, có một cậu bé mồ côi thường theo người lớn đi săn thú và đánh cá. Năm tám tuổi, cậu được lên kinh đô gặp vua Hùng. Thấy cậu thông minh, nhà vua nhận làm con nuôi và đặt tên là Mai An Tiêm.
Vua Hùng cưới vợ cho An Tiêm và cho cả hai vợ chồng đi phá rừng, làm rẫy trồng trọt. Chỉ ít lâu sau, An Tiêm đã dựng được nhà cửa và gặt được nhiều thóc lúa chứa đầy kho. Thấy thế, bọn người ghen tị tâu nịnh với vua vì cho rằng An Tiêm coi thường ơn vua. Vua Hùng giận lắm, không cần tìm hiểu thực hư ra sao, và đày hai vợ chồng ra hoang đảo.
Cây ngay không sợ chết đứng, vì “người công chính được Chúa độ trì” (Tv 37:17). Ở hoang đảo, có con chim trắng bay tới làm rơi hạt đen xuống bãi cát trắng. An Tiêm đem trồng thử hạt này. Chúng mọc thành những dây bò lan trên mặt cát. Cây có nhiều trái màu xanh thẫm to bằng đầu người. An Tiêm hái một trái đem về cho cả nhà ăn thấy ruột đỏ mà ngọt, lại có nhiều nước. Loại trái “xanh vỏ, đỏ lòng” đó chính là trái dưa hấu.
Bài học về chữ hiếu: Dù bị Phụ vương đày ra hoang đảo, nhưng An Tiêm vẫn giữ trọn đạo hiếu với cha, không hề trách hờn ai. Về sau, vua Hùng hối hận và phục chức cho An Tiêm.
Và chắc hẳn nhiều người (tuổi trung niên trở lên) còn nhớ sách “Nhị Thập Tứ Hiếu”, tác phẩm văn học của tác giả Quách Cư Nghiệp, kể lại gương hiếu thảo của 24 người con đời nhà Nguyên (Trung Hoa). Chính tác giả cũng là người con chí hiếu.
Sách Huấn Ca dạy: “Hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ” (Hc 44:1). Đồng thời xác nhận: “Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế” (Hc 44:10-14). Do đó, nhân dân sẽ “kể lại đức khôn ngoan của họ và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen họ” (Hc 44:15).
Thánh Vịnh ca tụng những thành quả của gia đình: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Tuy nhiên, phúc lộc đó không phải ai cũng có được: “Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4). Đúng nhu Chúa Giêsu đã nói chắc: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Thánh Phaolô phân tích lý do mà con cái phải tuân giữ đạo hiếu: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6:1-3). Tuy nhiên, không phải là làm lớn thì có thể làm láo, là cha mẹ thì có thể độc đoán, muốn làm gì thì làm, mà cũng phải tuân giữ nghiêm luật và thể hiện tình yêu thương đúng nghĩa: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6:4).
Cuộc sống đời thường và tâm linh đều có những điều phức tạp, cần phải biết kết hợp và cân bằng. Thánh Phaolô nói: “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh. Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng, tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi phải nói” (Ep 6:18-20).
Về đạo hiếu, sách Huấn Ca nhắc nhở những người con: “Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng?” (Hc 7:27-28).
Và Công đồng Vatican II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (Hiến chế Gaudium et Spes – Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Ngày nay, số 48).
Hãy ghi nhớ và noi theo tấm gương tột đỉnh: Dù là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng khi mặc xác phàm và làm con trong một gia đình, Chúa Giêsu đã chu toàn bổn phận làm con với cha mẹ trong suốt 30 năm (x. Lc 2:51-52).
Không chỉ vậy, Chúa Giêsu còn có phong cách hoàn toàn không giống ai khác. (Mt 15:1-6)
Một hôm, có mấy người Pha-ri-sêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và nói: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?” (Mt 15:2). Đúng là lũ người xấu bụng, chuyên thọc gậy bánh xe, thích phá rối, ưa gài bẫy, chuyên gia sử dụng loại phần mềm về “dấu trừ” và “dấu chia”, chứ không rành (hoặc không thích) sử dụng “dấu cộng” và “dấu nhân”.
Chọc vào ổ kiến lửa thì sẽ “đỏ người”, chọc tổ ong vò vẽ thì “sáng mắt” ngay thôi. Họ vừa hỏi xong, Chúa Giêsu liền trả lời một hơi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15:4-6).
Tất nhiên là họ chỉ có nước ngậm bồ hòn và im như thóc thối. Ai bảo ngu dốt mà lại chảnh, dám vênh váo “ta đây”, muốn chứng tỏ mình là “ngon” lắm! Thùng càng rỗng càng kêu to, kêu càng to càng mau… xẹp. Phải thế mới đáng đời bè lũ Pha-ri-sêu hèn nhát!
Lạy Thiên Chúa, chúng con chúc tụng Ngài là Chúa Tể càn khôn! Chúng con xin lỗi Chúa về mọi lỗi lầm năm cũ, xin ban Thánh Linh để chúng con biến đổi nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn. Chúng con xin tán dương Ba Ngôi Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết một lòng hướng về Mùa Xuân Vĩnh Hằng trên Thiên quốc; xin Chúa lì xì nhiều Hồng Ân để chúng con sống trọn vẹn năm mới; và chúng con cũng xin lì xì cả cuộc đời của chúng con cho Chúa, xin Ngài thương thánh hóa và hướng dẫn chúng con đi đúng Đường Chân Lý của Ngài.
Xin Đức Mẹ Maria, Đức Thánh Giuse, chư Thần và chư Thánh nguyện giúp cầu thay cho chúng con luôn, để mai đây chúng con cũng được hợp đoàn và chung lời với các ngài mà ca tụng Thiên Chúa muôn đời. Nguyện xin Chúa thương cho mọi người đã hoàn tất đường lữ hành trần gian được niềm vui Xuân Trường Sinh nơi Thiên Quốc.
Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người và cứu độ chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
29. Suy niệm Lời Chúa
Câu chuyện
Dù ai buôn bán nơi đâu
Nhớ đến ngày Tết rủ nhau mà về
Vào dịp Tết Nguyên đán, người dân ở phương xa về quê sum họp gia đình và dành thời gian để thăm viếng thân nhân, cúng bái tổ tiên, thờ phượng đất trời. Vì Tết là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri ân tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn”.
Biết ơn trời, nhớ nguồn gốc tổ tiên thật là một tục lệ tốt đẹp và mang đầy nét nhân văn của lòng biết ơn được văn hóa Việt Nam trân trọng và được chính Chúa Kitô đánh giá cao (x. Lc 17,11-19).
Ngày mùng hai tết, người Trung Quốc (gồm cả Đài Loan) có một truyền thống rất tốt đẹp là: Tất cả những người con gái đã xuất giá (lấy chồng) đều cùng với chồng và con trở về nhà cha mẹ ruột của mình, để cùng ăn cơm, cùng vui Tết, cùng chúc tuổi cha mẹ, đó cũng là một cách báo hiếu của con gái đã lấy chồng.
Suy niệm
Mùng hai tết, tuy không khí ngày tết vẫn rộn ràng vui tươi của ngày xuân, những người Công giáo Việt Nam đến nhà thờ và viếng nghĩa trang với tâm trạng bồi hồi xúc động, vì hôm nay kính nhớ tổ tiên, những người con dâng thánh lễ với tấm lòng hiếu thảo cầu nguyện cho gia tiên và hồi tưởng về tổ tiên, ông bà cha mẹ và những người thân đã qua đời. Những ánh nến lung linh soi hồi ức của người con về những kỷ niệm đẹp với ông bà cha mẹ và người thân khi họ còn sống bên cạnh, những nén hương thơm tựa như lời cầu nguyện chân thành dành cho người đã khuất bay tới trời cao như Thánh Vịnh có nói: “Ước chi lời con nguyện, tựa hương trầm bay tỏa trước Thánh Nhan” (Tv 141,2), những bông hoa muôn sắc dâng tiến như tâm tình biết ơn đẹp mãi không phai và luôn thắm như hoa xuân.
Nhớ về tổ tiên, chúng ta làm sống lại tâm tình của sách Huấn ca về sự nghiệp của tổ tiên luôn sống động mãi: “Miêu duệ họ sẽ tồn tại đến muôn đời, và vinh quang của họ không bao giờ bị lu mờ. Thân xác họ được chôn cất bình an, tên tuổi họ sẽ sống đời này qua đời nọ. Sự khôn ngoan của họ cộng đoàn truyền tụng, và công hội thuật lại lời ngợi khen họ” (Hc 44,12-15).
Thảo hiếu với cha mẹ còn sống và kính nhớ ông bà tổ tiên đã khuất bằng lời cầu nguyện trong ngày mùng hai Tết, chúng ta sống tâm tình của thánh Phaolô về chữ hiếu trong gia đình luôn làm phần phúc cho người con thảo mà ngài đã viết khuyên nhủ cộng đoàn tín hữu Êphêsô: “Hãy thảo kính cha mẹ ngươi, đó là giới răn thứ nhất kèm theo lời hứa để ngươi được phần phúc và sống lâu dài trên địa cầu” (Ep 6,1-2).
Hôm nay ngày cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời, chúng ta càng thêm xác tín: “Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại”, tin vào lời Thầy Giêsu đã phán dạy: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết bao giờ, cả những ai tin vào Người Con thì được sống muôn đời” (Ga 11,25-26). Được sống muôn đời là sống trong mùa xuân vĩnh cửu với Chúa trên thiên đàng.
Cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ là hành động của niềm tin vào Đấng Phục Sinh - Chúa Xuân vĩnh cửu sẽ ban cho chúng ta hạnh phúc thật trường tồn. Kính nhớ ông bà tổ tiên còn là “đạo làm người” trong tư cách con người, biểu hiện lòng biết ơn các đấng sinh thành dưỡng dục.
Ngày xuân nhớ đến gia tiên, với cây nến, nén hương trong tay chúng ta tin rằng: Mừng xuân hôm nay nói về mùa xuân Thiên quốc: Tất cả đều trổ bông với một sức sống mới: Con người cũng sẽ phục sinh, nở hoa khi theo bước chân của Đức Kitô, như thánh Phaolô đã tuyên xưng: “Chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Ðức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Ðức Giêsu” (1Tx 4,14). Tất cả sẽ cùng Đức Kitô đi vào trong Giáo hội Chiến Thắng - Mùa Xuân Cứu Độ.
Ý lực sống
“Người kính mẹ khác nào kẻ tích trữ kho tàng…
Kẻ kính cha sẽ được trường thọ” (Hc 3,4.6).
30. MỒNG HAI TẾT. KÍNH NHỚ TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ.
(http://www.simonhoadalat.com //Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)
Nhân ngày tết, theo truyền thống dân tộc VN, chúng ta luôn tỏ lòng biết ơn và hiếu thảo với tổ tiên, ông bà, cha mẹ còn sống cũng như đã qua đời. Người công giáo Việt Nam ngay từ thưở ban đầu, tuy không theo những nghi thức nơi dân ngoại, nhưng luôn kính viếng các phần mộ cha ông, và dâng lễ cầu nguyện cho các Ngài. Sau nhiều cố gắng HĐGMVN trước 1975 cũng đã được Tòa Thánh chấp thuận những khẩn cầu để có thể thiết lập bàn thờ tổ tiên trong gia đình, để hằng ngày có thể hiệp thông với các ngài trong cầu nguyện.
Thực sự, ngay từ thời Cựu Ước, tương quan với tổ tiên không chỉ là tương quan nghi lễ, mà còn là tương quan gắn liền với Giao Ước của Thiên Chúa. Theo đó “Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con” “Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước” nhờ đó mà “Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại”.
Đến thời Tân Ước, tương quan đó được đẩy lên mức cao tuyệt đối, vì thánh Phaolô đặt tương quan ấy “theo tinh thần của Chúa” mà thánh sử Luca gói trọn trong lời “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” và trước khi từ giã cõi đời, Chúa đã trối Mẹ mình cho người môn đệ Ngài yêu để thay Ngài chăm sóc Mẹ, và Hội Thánh đã nhận lời trối của Chúa để luôn có lòng đón nhận Mẹ Ngài như là mẹ của mình. Thật ra phải nói rằng theo tinh thần của Chúa, thì đời sống đặt nền tảng trên đức hiếu thảo không chỉ với Chúa Cha mà cả với cha mẹ trần gian nữa. Và đức hiếu thảo này chính là nền tảng cho sự thánh thiện của Dân mới.
Thánh Phaolô nhìn vào đức Hiếu Thảo của Chúa là một tương quan 2 chiều : Cha mẹ - con cái. Về phần con cái thì phải “tôn kính cha mẹ” như là “điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”. Về phần cha-mẹ “đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.”.
Bài Tin Mừng cho thấy người làm cha là Giacaria đã nhìn thấy nơi người con của mình là Gioan tiền hô, có một sứ mạng mà Thiên Chúa trao cho, sứ mạng làm cho mọi người nhận biết “Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người” theo “lời minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta”. Sứ mạng gắn liền với Giao Ước. Mỗi người cha, người mẹ, người con đều phải “phục vụ trước tôn nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời”.
Tương quan hai chiều này suốt theo dòng lịch sử luôn bị khủng hoảng, nhiều khi rất khủng khiếp : cha mẹ-con cái nhiều khi trở thành thù hận, thậm chí chém giết như thấy trên các báo ngày nay. Vì thế muốn giữ được tương quan theo tinh thần của Chúa thánh Tông Đồ khuyên chúng ta “Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh”, nghĩa là cho mọi người được Thánh Thần nâng đỡ để chu toàn giới răn này.
Và tôi mượn lời của Thánh Tông Đồ “Nguyện xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ơn bình an và lòng mến cùng với lòng tin.”
31. MÙNG HAI TẾT Mt 15,1-6---HÃY HIẾU KÍNH ÔNG BÀ CHA MẸ
(LM ĐAN VINH – HHTM)
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Thiên Chúa đã dạy : Ngươi hãy thờ cha kính mẹ. Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: Ai nói với cha với mẹ rằng: Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa” Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15,4-6).
2. CÂU CHUYỆN:
Một người đàn ông kia sống chung với người cha cao niên và đứa con trai mới năm tuổi của anh ta. Một hôm người cha của anh do tuổi già nên tay thường bị run, và có lần đã làm bể bát chén kiểu đắt tiền khi đang ăn cơm, nên anh ta ra vườn nhặt một chiếc gáo dừa mang về gọt dũa làm thành một cái chén bằng gáo dừa để bố anh ta dùng. Đứa con trai của anh ta thấy vậy liền hỏi lý do tại sao thì anh trả lời con rằng: Để ông nội con dùng chén này ăn cơm nếu có run tay làm rơi cũng không bị bể.
Một hôm anh ta thấy đứa con trai của anh đang loay hoay dùng dao chơi với một chiếc gáo dừa. Sợ con bị đứt tay anh liền ngăn cản. Khi được hỏi tại sao làm như vậy thì được đứa con trả lời: “Con thấy bố cho ông nội ăn cơm bằng chiếc gáo dừa để khỏi bị bể, nên con cũng chuẩn bị trước cho bố một cái, để sau này khi bố già dùng sẽ không bị bể nếu bị run tay giống như ông nội bây giờ!”.
3. THẢO LUẬN: Bạn sẽ làm gì để thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ ông bà trong dịp Tết và trong thời gian sắp tới?
4. SUY NIỆM:
1) Bổn phận thảo kính cha mẹ:
Ba ngày Tết, sau ngày Mùng Một dành Tạ Ơn Chúa xin ơn bình an năm mới, thì ngày Mùng Hai dành để Kính nhớ Tổ Tiên và Ông Bà Cha Mẹ. Có lẽ không ai trong chúng ta lại không biết câu thơ đã trở thành câu ca dao và bài hát bất tử về đạo làm con: “Uống nước nhớ nguồn. Làm con phải hiểu. Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…”. Hay: “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ hơn là đi tu”…
Và chắc không ai trong chúng ta lại không biết nhạc phẩm Lòng mẹ của cố nhạc sĩ Y Vân: “Lòng mẹ bao la như biển thái bình…”
Với người Ki-tô hữu, ai cũng nằm lòng Mười Điều Răn, trong đó, ba điều răn đầu tiên dành cho Chúa, ngay sau đó, điều răn thứ tư dành cho cha mẹ. “Thứ bốn: Thảo kính cha mẹ”. Người Công Giáo có tháng 11, tháng cầu cho các tín hữu đã qua đời, cũng là dịp đặc biệt nhớ về ông bà cha mẹ đã an nghỉ. Hằng ngày, người Công Giáo tham dự Thánh Lễ luôn kính nhớ nguyện cầu cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ: “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt là các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ…” (Kinh Nguyện Thánh Thể).
Ngày Tết cũng là ngày hội vui của đại gia đình. Ai cũng mong ngày Tết được đoàn tụ với người thân trong gia đình. Mọi người Việt Nam đều muốn được đón giờ phút thiêng liêng ngày đầu xuân bên cha mẹ, ông bà và con cháu.
2) Phương cách tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ:
Sự hiếu thảo không chỉ được biểu lộ trong những ngày Lễ Tết, nhưng còn phải thể hiện trong suốt thời gian sống chung với ông bà cha mẹ trong gia đình.
Phải sống thế nào cho tròn chữ hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Nếu cha mẹ chúng ta còn khỏe, con cái phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta cha mẹ là lá chắn che chở suốt đời mình.
Nếu cha mẹ già yếu, con cháu không được xem thường và coi các ngài như gánh nặng. Hãy nói với các ngài bằng những lời thưa gởi hiếu kính, cảm thông với những sự lẩm cẩm của các ngài và đừng bao giờ tỏ thái độ vô lễ to tiếng cãi lại hoặc khinh thường cáu gắt với các ngài. Hãy luôn tôn trọng các ngài vì chính các ngài cũng đã từng phải kiên nhẫn ân cần chăm sóc, cho bú mớm và lau dọn vệ sinh khi ta còn thơ bé.
Khi cha mẹ qua đời, con cái hãy năng đọc kinh cầu nguyện, xin lễ và làm các việc lành để các ngài sớm được về thiên đàng. Hãy lập bàn kính nhớ tổ tiên bên cạnh và thấp hơn bàn thờ Chúa. Hãy năng đọc kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ vào giờ kinh tối gia đình hằng ngày hoặc trong những ngày Giỗ Tết.
3) Làm gì trong những ngày này?:
Xin đừng phụ công ơn dưỡng dục của các bậc sinh thành. Hãy sống sao cho đúng phận làm con, vì như câu ca dao người xưa dạy:
“Công cha như núi thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
“Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó”. Chúng ta cư xử với cha mẹ mình thế nào thì con cái của chúng ta sau này cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.
Dịp Xuân Mới, bạn sẽ mua biếu quà gì cụ thể để tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ ông bà còn sống và những đấng bề trên đã qua đời?
5. LỜI CẦU:
Lạy Thiên Chúa là Chúa của Mùa Xuân đất trời.
Xin chúc lành cho ngày họp mặt của gia đình chúng con hôm nay.
Xin liên kết mọi người chúng con trong tình yêu của Cha.
Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con biết trân trọng giây phút xum vầy trong ngày đầu Xuân, coi đó là hồng ân Cha ban để sống trọn tình con thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ và sống yêu thương huynh đệ với anh chị em trong gia đình ruột thịt của chúng con.
Xin cho chúng con một Năm Mới an lành và hạnh phúc trong bàn tay quan phòng của Cha.- Amen.
12/02 Phó thác cho Chúa của mùa xuân.
- Viết bởi Mt 6,25-34
Phó thác cho Chúa của mùa xuân.
Thứ Sáu tuần 5 thường niên.
MỒNG MỘT TẾT TÂN SỬU. CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI.
"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".
Lời Chúa: Mt 6,25-34
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con. Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?
Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư?
Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đóa hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin? Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc?"
Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó.
Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con.
Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Đừng lo lắng gì cả (Mc 6, 25-34)
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm:
Ngày Tết báo hiệu một năm cũ đã qua và một năm mới đang đến.
Chúng ta cần nhìn lại một năm qua với cái nhìn của Chúa
để thấy tất cả là hồng ân,
kể cả những gì người đời coi là xui xẻo, bất hạnh.
Chúa đã cho chúng ta sống thêm một thời gian, thêm một năm trên đời.
Chúng ta nhận ra thời gian một ngày nhờ mặt trời mọc lên rồi lặn xuống.
Nhà nông nhận ra thời gian một tháng nhờ mặt trăng tròn rồi lại khuyết.
Tạ ơn Chúa vì hai nguồn sáng quý báu như vậy trên bầu trời.
Thời gian theo Kitô giáo không đi theo đường xoắn ốc, nhưng theo đường thẳng.
Thời điểm nào cũng là duy nhất, đi rồi không trở lại, nên rất đáng quý.
Con Thiên Chúa làm người đã đằm mình trong dòng thời gian như ta.
Nhờ Ngài, dòng thời gian này sẽ đưa ta vào vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Ngày Tết người ta thường hay chúc nhau.
Chúc sức khỏe, chúc làm ăn phát đạt, chúc mọi sự như ý…
Chúng ta có thể học được một cách chúc rất đẹp trong sách Dân Số (6, 22-27).
Đức Chúa chỉ dạy cho ông Môsê
để ông này chỉ lại cho ông tư tế Aaron biết cách chúc lành cho dân.
Có ba lời chúc, mỗi lời đều bắt đầu bằng chủ từ là Đức Chúa:
“Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em.
Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em.
Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn anh em và ban bình an cho anh em.”
Ơn bình an là ơn bao gồm mọi ơn về sức khỏe, sống lâu, an ninh, thịnh vượng…
Rốt cuộc chính Đức Chúa mới là Đấng chúc lành cho dân Israel (c. 27).
Chính Đức Chúa đóng ấn Danh của Ngài trên họ để bảo trợ họ.
Và hôm nay chính Ngài cũng ban muôn ơn cho ta nhờ Danh Đức Giêsu.
Trước thềm Năm Mới, con người không tránh khỏi nỗi lo về tương lai.
Có nhiều nỗi lo rất hữu lý, vì khó khăn trước mắt là có thật.
Có nhiều nỗi lo âu chỉ vì con người thấy mình quá đỗi mong manh.
Nỗi lo quấn lấy con người và làm tâm con người không yên.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu bốn lần nhắc chúng ta “Đừng lo.”
Nếu Kitô hữu không bị quay quắt vì lo âu
thì không phải vì họ là người vô lo, hay vì họ tự tin, giỏi giang hơn người khác.
Đơn giản chỉ vì họ có một Người Cha quan tâm đến mọi nhu cầu của họ.
Kitô hữu tận tụy hết mình cho công việc, nhưng lại không bất an, lo âu.
Tín thác như một đứa con ngồi trong lòng cha,
họ đặt vinh quang Thiên Chúa lên trên hết,
và tin mọi sự khác sẽ được Ngài lo liệu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
Cha đã cho chúng con sống thêm một năm,
đi thêm một đoạn đường đời.
Nhìn lại đoạn đường đã qua,
chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân thành,
vì Cha vẫn cho chúng con sống,
và sống trong tình yêu.
Mọi biến cố vui buồn của năm qua
đều là những lời mời gọi kín đáo của Cha
để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên cao.
Tạ ơn Cha
vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con,
và những gì chúng con đã làm được cho cuộc đời.
Xin cho chúng con sống những ngày Tết dân tộc
trong tinh thần vui tươi, hòa nhã,
và không quên những ai nghèo khổ, cô đơn.
Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau
là những lời chúc lành
xuất phát từ trái tim yêu thương.
Và lạy Cha, năm mới đã đến,
trái đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời,
chúng con cũng muốn
ở lại trong quỹ đạo của Cha,
nhận Cha là trung tâm cuộc sống,
và nhận mọi người là anh em. Amen.
2. Thời gian (Mt 6,25-34)
Một năm mới đã bắt đầu, nhưng cũng một năm cũ đã qua đi trong dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là ý nghĩa của thời gian, của cuộc đời chúng ta đang sống?
Người xưa đã bảo: thời giờ thấm thoát thoi đưa. Một khi đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Cũng như chẳng ai tắm hai lần ở cùng một dòng sông. Cuộc đời chúng ta trải dài 60 năm hay 100 năm là cùng. Thế nhưng 60 năm ấy, 100 năm ấy có là gì so với khoảng thời gian bao la của vũ trụ. Bởi đó, người xưa đã phải thốt lên một cách não nề khi nghĩ đến cuộc đời ngắn ngủi: Ôi nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười. Và Thánh Vịnh cũng đã sánh ví: Cuộc đời như cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn.
Bởi đó, tự ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã tìm mọi cách để kéo dài cuộc sống và khát vọng được sống vĩnh cửu vẫn là niềm day dứt nhất của con người. Ngày xưa, có những người đã phải vào tận rừng sâu để tìm cho được trái đào trường thọ. Có những người đã phải khổ công tu luyện để chến biến cho được những viên thuốc bất tử. Có một ông vua, đã phải xây những ngọn tháp cao vút để hứng lấy những giọt sương thuần khiết nhất mà uống vì nghĩ rằng những giọt sương thuần khiết ấy có sức kéo dài sự sống con người. Ngày nay y khoa luôn cố gắng tìm ra những phương thuốc hiệu nghiệm tăng thêm tuổi thọ cho con người. Tuy nhiên cái chết vẫn là một thách thức, một thực tại ngàn đời không thể lẩn trách và ước vọng được sống mãi vẫn còn ở ngoài tầm tay của chúng ta, nếu không muốn nói là một huyền thoại, một ảo vọng như câu chuyện dưới đây đã minh chứng:
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người đó bưng thuốc vào thì viên canh cửa bèn hỏi: Vị thuốc này có ăn được không? Người ấy đáp: Ăn được. Tức thì viên canh cửa bèn giật lấy vị thuốc ấy mà ăn. Nhà vua biết được câu chuyện thì giận lắm, bèn truyền bắt viên quan ấy mà đem đi chém đầu. Viên quan ấy kêu lên rằng: Thần đã hỏi người đem dâng và được biết đó là một vị thuốc bất tử, nghĩa là ăn vào thì sẽ không chết nữa. Thế mà thần vừa mới ăn, thì đã phải tội chết. Như vậy, đây là thuốc tử thuốc chết, chứ sao lại gọi là bất tử cho được. Nhà vua giết thần là bắt lỗi một con người vô tội, đồng thời tỏ ra rằng thiên hạ dối gạt nhà vua mà nhà vua vẫn tin. Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha cho viên canh cửa.
Câu chuyện trên muốn chứng tỏ rằng: Có sinh thì phải có tử. Thuốc bất tử chỉ là chuyện bịa đặt mà thôi. Tuy nhiên, ước vọng được sống mãi, được sống đời đời vẫn còn đó. Mỗi độ xuân về, chúng ta thường cầu chúc cho nhau được trường thọ khang an, bách niên giai lão. Và những bức tranh bình dân của mấy ngày tết là gì, nếu không phải là diễn tả ba niềm vui lớn của con người, là Phúc Lộc Thọ. Cho dù cuộc đời có cay đắng thì sự sống vẫn là một cái gì quý giá cần phải bảo vệ. Còn sự chết vẫn là một cái gì đáng lo sợ.
Chúng ta bất lực trước khát vọng được sống mãi và người khác cũng không thể thực hiện cho chúng ta lời chúc trường thọ. Chỉ mình Chúa mới là Đấng dư quyền năng và tình thương để làm cho chúng ta được sống như lời Ngài đã phán: “Ta là Đường, là sự thật và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời. Ta đến để họ được sống và được sống dồi dào”. Thực vậy, Thiên Chúa đã xuống thế làm người để chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến sự sống. Đạo của chúng ta là đạo của Tin Mừng, của niềm vui, của sự sống. Vậy muốn được sống, chúng ta phải đi trên con đường Chúa đã chỉ vẽ. Phải tuân giữ những điều Ngài đã truyền dạy, phải thực thi cái đạo mà Ngài đã tỏ lộ. Con đường ấy, cái đạo ấy gồm hai chiều kích: hàng dọc và hàng ngang.
Trước hết, hàng dọc là phải kính mến Chúa vì đó chính là bổn phận của một kẻ nhận ơn đối với Đấng đã ban ơn, của thụ tạo đối với Đấng tạo hoá, của kẻ làm con đối với người cha của mình: Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn như Chúa đã dạy. Tiếp đến, hàng ngang đó là phải yêu thương mọi người như chính mình, không trừ một ai, kể cả kẻ thù địch như Chúa đã dạy: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Phải đủ cả hai mới là đạo. Vì nếu chỉ mến Chúa mà không yêu người, thì chúng ta là kẻ nói dối. Còn nếu chỉ yêu người mà không mến Chúa, thì mọi hành động của chúng ta đều trống rỗng và vô nghĩa như tiếng não bạt ầm vang. Người vô thần không tin thờ Chúa, chúng ta gọi họ là kẻ vô đạo. Còn chúng ta, mặc dù đã tin Chúa, nhưng lại không yêu thương anh em, thì chúng ta cũng chỉ là một thứ vô đạo mà thôi.
Hãy mến Chúa và yêu người, để nhờ đó, lời cầu chúc trường thọ của chúng ta sẽ được Chúa thực hiện cho cá nhân chúng ta cũng như cho những người mà chúng ta cầu chúc.
3. Nhìn lại và nhìn đi (Mt 5,1-12)
Chúng ta đã bước qua ranh của năm cũ và đang đứng ở đầu ranh của năm mới. Năm cũ là một chặng đường dài và năm mới cũng sẽ là một chặng đường dài. Đứng ở giáp ranh hai chặng đường dài ấy, chúng ta thường có hai hướng nhìn. Một là nhìn lại, hai là nhìn đi. Nhưng đâu là ý nghĩa mà hai cái nhìn ấy muốn gửi đến với chúng ta trong giây phút linh thiêng này?
Trước hết khi nhìn lại, chúng ta nghe vọng lên nỗi niềm biết ơn. Đúng thế, hãy biết ơn những gì đã lãnh nhận. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy trong năm qua chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều mà cho đi chẳng bao nhiêu, vì chúng ta là những kẻ thiếu thốn luôn cần đến người khác. Cần để sống, cần để nên người, cần để thắng lợi. Từ đồng bạc cắc đến một sản nghiệp. Từ nụ cười đến tình thương, từ lời chào đến tiếng khuyên. Tất cả những gì chúng ta nhận lãnh đều là những viên gạch xây dựng cuộc đời chúng ta. Đừng chỉ coi những gì sung sướng hay lớn lao mới là ơn. Dù cuộc đời chúng ta có như chiếc xe đò ồn ào, đông đảo, chen lấn, nhưng sau cùng xe lại trống trơn, thì chúng ta cũng đừng cho mình là cô đơn vì thực sự chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều.
Dù cuộc đời chúng ta có như một cành mai báo hiệu mùa xuân, nhưng chính mình lại không có mùa xuân vì mau tàn vội héo, thì cũng đừng cho mình là phù hoa chẳng chịu ơn, vì thực sự chúng ta cũng đã lãnh nhận rất nhiều. Dù cuộc đời chúng ta có như một khúc sông, nuôi dưỡng bao nhiêu ruộng đồng, thì cũng đừng kiêu hãnh cho rằng chỉ có mình, vì khúc sông này bao giờ cũng mắc nợ những khúc sông khác, nhất là mắc nợ với nguồn mạch yêu thương. Dù cuộc đời chúng ta có như một ngôi nhà lộng lẫy, thì cũng đừng tự đắc cho rằng tất cả là do ở mình, vì ngôi nhà vẫn mắc nợ với từng hạt cát, từng viên gạch, từng giọt mồ hôi và biết bao những công lao vất vả. Dù cuộc đời chúng ta có như Saolô ngã ngựa thì cũng đừng cho rằng mình vô phước, vì thực sự chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều, và biết đâu chính sự ngã ngựa ấy, lại là một ơn huệ.
Tóm lại, cuộc đời của chúng ta là kết tinh của biết bao công ơn. Mà đã chịu ơn thì phải biết ơn. Còn biết ơn những ai, thì mỗi người có thể tự trả lời. Hãy biết ơn, đó là tiếng vọng chúng ta nghe được khi nhìn lại quá khứ. Còn khi nhìn đến tương lai, chúng ta ghi nhận những gì?
Tôi xin thưa, đó là hãy tiến bộ, hãy phát triển, bởi vì sống là tiến bộ, sống là phát triển. Không tiến tức lùi, không cố gắng bơi thì sẽ bị giòng nước cuốn trôi. Phát triển không phải chỉ về phần xác, to bề ngang, cao bề đứng, nhưng còn về tinh thần. Tiến bộ không phải chỉ về sản xuất mà còn về đạo đức. Cặp mắt phải biết nhìn cuộc đời một cách thực tế hơn, không để mình bị ru ngủ bởi những ảo vọng hão huyền. Con tim phải biết khử trừ những nghi kỵ hận thù, để đoàn kết và mở rộng cánh cửa thương yêu. Trí khôn phải biết tin tưởng vào Chúa và rút ra từ lòng cuộc đời những bài học bổ ích cho tâm hồn. Bản thân phải biết bấu víu vào Đấng có thể an ủi mình ở đời này và ban cho mình hạnh phúc ở đời sau, cũng như phải biết thu tích những sự thiêng liêng không bao giờ hư mất.
Dĩ vãng kêu gọi chúng ta hãy biết ơn, tương lai kêu gọi chúng ta hãy tiến bộ, đó là sứ điệp mà chúng ta ghi nhận trong dịp đầu xuân, khi chúng ta đứng giáp ranh giữa năm cũ và năm mới vậy.
4. May mắn (Mt 5,1-10)
Trong dịp đầu xuân, người ta thường gửi cho nhau những tấm thiệp với lời nguyện chúc tốt đẹp nhất. Rồi trong những ngày tết, bước chân ra đường, chúng ta sẵn sàng nở một nụ cười thật tươi và không ngần ngại cầu chúc cho nhau một năm mới nhiều may mắn. Đó cũng là lời cầu chúc tôi xin thành thật gửi đến cho anh chị em. Thế nhưng chúng ta cần phải tìm hiểu xem sự may mắn là gì? Bởi vì năm người thì mười ý, mỗi người hiểu sự may mắn theo một quan niệm riêng.
Thực vậy, nếu tôi hỏi bác nông dân:
– Một năm mới nhiều may mắn là gì?
Bác sẽ vuốt chòm râu bạc hay lau khô những giọt mồ hôi trên trán và trả lời:
– Đó là một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, lúa thóc đầy bồ.
Nếu tôi hỏi một cô gái đi buôn:
– Thế nào là một năm mới nhiều may mắn?
Chắc hẳn cô ta sẽ trả lời:
– Đó là một năm trúng mánh, đi chuyến nào trót lọt chuyến ấy, không bao giờ bị bắt và nếu có bị bắt, thì cũng gãi đầu gãi tai, năn nỉ ỉ ôi mà xin lại được.
Nếu tôi hỏi đôi vợ chồng trẻ:
– Năm mới nhiều may mắn là gì?
Họ sẽ trả lời:
– Đó là một năm không bao giờ xảy ra cái cảnh nồi niêu xoong chảo, chổi cùn rế rách bay ra ngoài sân, hay thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau. Rồi đầu năm sinh con trai và không chừng cuối năm sinh con gái. Hay là trúng số cặp hai, đẻ sinh đôi, nuôi luôn một thể.
Cái được gọi là may mắn của nhiều người thời nay là gì, nếu không phải là những thành công, những tiến bộ. Và nhất là tiền bạc phải rủng rỉnh. Bởi vì trong mọi sinh hoạt, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng là vấn đề tiền đâu.
Dĩ nhiên chúng ta phải nghĩ đến sinh kế làm ăn và mong ước có được một cuộc sống tương đối đầy đủ. Thế nhưng thành công trong nghề nghiệp, chiếm được một địa vị khả quan ngoài xã hội, lãnh được một số lương hậu hĩnh, tạo được những thành tích sáng chói mà thôi chưa đủ để nói được rằng: đó là một năm mới nhiều may mắn. Điều quan trọng hơn hết là phải biết kết hiệp với Chúa, phải biết làm việc cho Ngài, để mỗi hành động của chúng ta có được một giá trị vĩnh cửu. Những việc còn lại sẽ không mấy quan trọng, vì tất cả rồi sẽ qua đi.
Thực vậy, Chúa đã phán:
– Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi.
Phúc âm đã kể lại câu chuyện về ông phú nông như sau: Năm đó, mưa thuận gió hòa, mùa màng trúng lớn. Ông ta thu tích không biết cơ man nào lúa thóc. Cho nên ông ta đã quyết định phá kho lẫm cũ nhỏ bé, để xây kho lẫm mới to lớn hơn nhiều. Rồi đưa mắt nhìn về tương lai giữa lúc ông cảm thấy được bảo đảm thì lời Chúa vang lên:
– Hỡi kẻ điên khùng và dại dột, nếu như đêm hôm nay người ta đến đòi linh hồn ngươi, thì ngươi sẽ ăn nói làm sao bây giờ, và những của cải ngươi chắt chiu thu tích sẽ để lại cho ai?
Thánh nữ Têrêxa Avilla đã nói:
– Tất cả sẽ qua đi, chỉ mình Chúa mới tồn tại muôn đời.
Với Chúa, chúng ta sẽ có được mọi sự. Một mình Chúa mà thôi, thì cũng đã đủ. Giữa những lao công vất vả, giữa những giọt mồ hôi và nước mắt, giữa những quyến dũ trần gian, thì đôi mắt chúng ta vẫn hướng nhìn về Chúa. Chỉ có một sự cần đó là sống cho Chúa để cứu rỗi linh hồn mình.
Ngày kia quận công Toscane đi tham dự thánh lễ tại nhà thờ chính tòa. Ông ta nhìn thấy những em bé được rước lễ lần đầu đang quỳ cầu nguyện thật sốt sắng, nên sai một tên cận vệ bí mật trèo lên nóc thánh đường, rỡ một viên ngói, rồi từ đó ném xuống những đồng tiền vàng. Những đồng tiền vàng rơi trên nền gạch, tạo thành những tiếng động trong bầu khí thinh lặng, trang nghiêm và thánh thiện này, rồi lăn đi khắp mọi nơi… Tuy nhiên, không một em nhỏ nào đã cúi xuống lượm những đồng tiền vàng ấy. Không một em nhỏ nào đã chia trí và lo ra.
Chút nữa đây trong thánh lễ vị linh mục sẽ mời gọi chúng ta:
– Hãy nâng tâm hồn lên.
Và chúng ta đáp lại:
– Chúng con đang hướng về Chúa.
Đúng thế, mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi việc làm của chúng ta phải qui hướng về Chúa, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:
– Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì bản thân và cuộc đời chúng ta cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy. Nghĩa là chúng ta phải sống cho Chúa, bởi vì Chúa là hạnh phúc, Chúa là tất cả. Một khi mất Chúa thì cũng sẽ mất mọi sự và chẳng còn lại gì nữa.
Và như thế, một lần nữa, tôi xin cầu chúc mỗi người chúng ta một năm mới nhiều may mắn.
5. Tin tưởng vào Chúa Quan Phòng (Mt 6, 25-34)
Ngày Tết là ngày ai nấy đều no đủ, kể cả những người nghèo nhất trong xã hội, vì theo truyền thống văn hóa của dân tộc, dù quanh năm có đói khát, túng thiếu thì ngày Tết cũng phải là ngày no say, đầy đủ nhất. Thế có nghĩa là đối với nhiều người, vấn đề cơm-áo-gạo-tiền vẫn còn là vấn đề nhức nhối và ưu phiền nhất. Sau hơn hai ngàn năm, dù khoa học tiến bộ đã đưa con người lên không gian và sống trên đó một thời gian dài, thì con người vẫn chưa giải quyết được vấn đề ăn và uống cơ bản của mình. Thế giới vẫn đang phải vật lộn với vấn đề nước sạch, lương thực tối thiếu và thuốc men cần thiết.
Tại sao vậy? Tại vì có tình trạng quá chênh lệch về sở hữu của cải trần gian trong các xã hội: một số người lòng tham không đáy, tìm hết mọi cách – kể cả những cách ô nhục và thấp hèn – để chiếm đoạt tài sản chung của xã hội và nhân loại. Còn một số người khác không làm sao có được các điều kiện tối thiểu để sống cho ra người. Ở Việt Nam chúng ta hãy nghĩ đến những số tiền thất thoát trong các công trình xây dựng hạ tầng cơ sở ở khắp cả nước và con số chạy vào túi riêng cán bộ thuộc các sở, ban, ngành, công ty, tỉnh, huyện, xã v.v… thì chúng ta hiểu tại sao dân Việt Nam vẫn còn bị xếp vào loại các nước nghèo nhất trên thế giới dù chiến tranh đã chấm dứt gần 28 năm rồi!
Vậy thử hỏi việc tin tưởng vào Thiên Chúa Quan Phòng mà Đức Giêsu dạy chúng ta hôm nay có ý nghĩa gì trong một bối cảnh xã hội và thế giới như thế? Chắc đối với những người có “của ăn của để” thì không thành vấn đề vì họ đâu có bao giờ phải lo ngày mai sẽ sống ra sao, ngày mốt sẽ lấy đâu ra tiền để mua gạo cho gia đình, để trả tiền học phí cho con hoặc trả tiền bệnh viện cho cha hay mẹ già! Nhưng đối với những người tối ngày phải vật lộn với cuộc sống (chỉ để sống, chưa nói đến làm giầu) thì quả là vô cùng khó mà tin vào lời của Đức Giêsu! Lời ấy có xa vời và viển vông không? Lời ấy có sức ru ngủ không? Lời ấy chỉ để đánh lừa những kẻ nhẹ dạ dễ tin? Hay Lời ấy là Lời hằng sống và chân thật?
Nếu đi sâu vào đời sống của giáo dân và kể cả lương dân, chúng ta sẽ thấy có không ít người nghèo xác tín rằng họ được Thiên Chúa hay Trời Phật chăm lo cho cuộc sống gia đình của họ. Họ là những người chịu thương chịu khó làm việc chứ không phải là những hạng ươn lười biếng nhác. Nhưng cứ nói theo cách bình thường thì họ không thể có đủ tiền đủ bạc để lo cho vợ chồng con cái vì hoàn cảnh eo hẹp và công ăn việc làm thu nhập chẳng là bao. Thế mà trên thực tế họ vẫn sống. Họ vừa lao động vừa cậy trông vào Chúa, vào Trời Phật. Và gia đình họ vẫn bình yên hạnh phúc, vì họ dám liều mà giao phó mọi sự cho Thiên Chúa, cho Trời Phật (trời sinh voi trời sinh cỏ) nên họ cảm nghiệm được là có một bàn tay vô hình thu xếp, giải quyết mọi khó khăn cho họ.
Ngày đầu năm mà suy nghĩ một chút về vấn đề vật chất trong cuộc sống chắc không phải là vô bổ. Nếu chúng ta không phải chạy ăn chạy uống thì chúng ta đừng quên cảm tạ Thiên Chúa Quan Phòng. Cách thể hiện lòng biết ơn tốt nhất, đẹp lòng Thiên Chúa nhất, là chúng ta biết chia sẻ một phần của cải mà mình đã nhận được cho những người túng thiếu hơn chúng ta. Còn nếu chúng ta đang sống trong cảnh nghèo túng, thì chúng ta hãy mạnh dạn phó dâng và tin tưởng ở Lời của Thiên Chúa. Chỉ cần Đức Tin nhỏ bằng hạt cải là chúng ta sẽ chứng kiến chuyện động trời và bất ngờ thú vị: Thiên Chúa không bỏ ai phải đói, phải khổ! Bình an cho Năm Mới không phải được bảo đảm bằng của cải vật chất mà bằng sự tin tưởng phó thác vào Đấng Thiên Chúa là Cha yêu thương biết chúng ta cần gì và không bao giờ làm ngơ trước các nhu cầu đích thực của chúng ta.
6. Hạnh phúc (Mt 6,25-34)
Trong giờ phút giao thừa, nghĩa là trong lúc năm cũ sắp qua đi, nhường bước cho năm mới, chúng ta hướng về Đức Kitô, Đấng vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời, đồng thời trao phó cho Ngài vận mạng của chúng ta, của loài người và của cả vũ trụ. Chúng ta phó thác cho Ngài cuộc đời và những dự phóng của chúng ta: Tất cả những gì chúng ta đang thực hiện và muốn tiếp tục hoàn thành, tất cả những gì chúng ta muốn làm nhưng chưa muốn hay chưa dám kởi công, cũng như tất cả những gì mới chỉ là những mơ ước, những nguyện vọng. Chúng ta phó thác cho Ngài tất cả mọi người thân yêu, bè bạn.
Chúng ta xin Ngài bảo đảm cho những lời nguyện chúc của chúng ta được trở thành sự thật. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng phải biết noi gương Chúa Giêsu, nghĩa là đừng chỉ chúc suông cho nhau hạnh phúc mà phải thực sự chia sẻ hay ít ra nếu chúng ta chưa có hạnh phúc để chia sẻ, thì cũng biết cùng nhau xây dựng hạnh phúc cho nhau.
Chúng ta đừng chỉ chúc hay hứa cho nhau hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng, tuy đó là hạnh phúc thật nhưng có lẽ vẫn còn xa. Chúa không chỉ hứa cho chúng ta hạnh phúc thật đời sau, nhưng đàng khác, Ngài cũng không muốn chúng ta phải khổ cực ở đời này, hay là muốn chúng ta mua sắm hạnh phúc tương lai bằng cách trả giá quá đắt là những đau khổ hôm nay.
Thiên Chúa là Cha của chúng ta ngay từ bây giờ, ngay hôm nay, chứ không là người Cha của tương lai mà thôi. Vì thế, Ngài muốn chúng ta ngay từ hôm nay phải được hạnh phúc. Chỉ có điều là hạnh phúc đó, hạnh phúc của hôm nay, hạnh phúc tại đời này cũng chỉ có thể xây dựng bằng mồ hôi nước mắt, bằng sự nhọc nhằn, thậm chí bằng đau khổ. Thế nhưng, tình yêu sẽ làm vơi bớt đau thương và còn có thế biến đổi gánh nặng của chúng ta thành nhẹ nhàng êm ái.
Một cách cụ thể, chúc cho nhau được hạnh phúc trong ngày đầu xuân, không nên chỉ là phát biểu trên đầu môi chót lưỡi, mà là tự thâm tâm, tự đáy lòng, chúng ta cam kết đem lại hạnh phúc đó bằng cách quyết tâm sống đơn sơ, nghèo khó, hiền từ, biết xót thương, biết sẵn sàng chịu đau khổ vì Chúa, vì anh em đồng loại.
Chúng ta không thể cầu chúc cho nhau hạnh phúc, nếu cứ tiếp tục sống ích kỷ, để mạc anh em phải đói khổ. Chúng ta không thể cầu chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu cứ tiếp tục sống tàn bạo, độc ác, hay sống bất chính, bất công với một tâm hồn khô cằn sỏi đá, chẳng biết xót thương. Chúng ta không thể chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu không sẵn sàng chịu gian khổ để giúp đỡ, giải thoát họ khỏi tình trạng đói nghèo, khỏi cảnh bị bóc lột, hay không tìm cách gỡ họ ra khỏi cảnh chia rẽ và thù oán.
Đừng để những lời giả dối thốt ra từ môi miệng chúng ta trong những giờ phút đầu tiên của năm mới. Trái lại hãy đem trót cả tâm tình mà cầu chúc cho nhau biết đón nhận hạnh phúc mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đem lại cho chúng ta.
Lời cầu chúc đầy ý nghĩa nhất đối với người Kitô hữu đó là cầu chúc cho nhau biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, và đó chính là chiếc chìa khoá đem lại cho mỗi người hạnh phúc đích thực.
7. Niềm vui và nỗi buồn (Mt 6, 25-34)
Không gì cần thiết cho chúng ta bằng niềm vui. Phải, niềm vui cũng cần thiết như cơm để ăn, áo để mặc và khí trời để thở. Niềm vui được biểu lộ nơi ánh mắt, nơi nụ cười, phản ảnh cho một tâm hồn trong sạch và một trái tim nhiệt thành. Vì thế mà người ta đã bảo:
– Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn vậy.
Thế nhưng đâu là chiếc chìa khóa đem lại niềm vui cho chúng ta?
Sau khi Chúa Giêsu sống lại, vấn đề quan trọng đối với các tông đồ chính là niềm vui, bấy giờ tâm hồn các ông ngập tràn hạnh phúc, bởi vì Chúa Giêsu vẫn còn đó, bên cạnh các ông. Nhưng rồi các ông sẽ phải buồn phiền vì Chúa Giêsu sẽ từ giã các ông mà về cùng Chúa Cha. Điều cần thiết cho các tông đồ cũng là điều cần thiết cho chúng ta, những người tín hữu, đó là niềm vui được kết hiệp với Chúa.
Thực vậy, bao lâu xa cách Chúa, tâm hồn chúng ta sẽ phải khắc khoải u sầu. Tại sao lại như thế?
Trước hết vì Chúa Giêsu là Đấng đem lại cho chúng ta niềm vui đích thực. Có một gia đình giàu sang, chuẩn bị cho cô gái út của mình trong ngày rước lễ lần đầu. Bà mẹ đã may cho cô bé những bộ quần áo lộng lẫy. Cô bé yên lặng suy nghĩ, rồi với cặp mắt long lanh, cô bé nói:
– Xin mẹ cứ mặc cho con những bộ quần áo bình thường như những nhỏ bạn nghèo khổ của con. Niềm vui của con chính là được gặp gỡ và kết hiệp với Chúa trong ngày trọng đại ấy.
Phải, một khi ngự vào tâm hồn chúng ta, Chúa sẽ đem đến niềm vui và sự bình an. Vì thế, chỉ có một nỗi buồn day dứt, đó là chúng ta bị xa cách Chúa bởi tội lỗi mà thôi.
Vua thánh Louis hồi còn nhỏ, thường ngồi dưới chân mẹ là hoàng hậu Blanche de Castille, ngước mắt nhìn mẹ và chăm chú lắng nghe những lời mẹ dạy. Ngày kia, người mẹ đặt một tay lên vai con rồi nghẹn ngào nói:
– Hẳn con biết rằng mẹ yêu con nhiều lắm, nhưng thà rằng mẹ thấy con chết dưới chân mẹ còn hơn là thấy con phạm một tội trọng mất lòng Chúa.
Cậu bé yên lặng và suy nghĩ, rồi trên khuôn mặt cậu bé biểu lộ một điều dốc quyết thật can cảm:
– Thà chết chẳng thà phạm tội.
Với các tông đồ ngày xưa, hẳn rằng Chúa Giêsu đã chiếm một địa vị quan trọng. Các ông không thể sống thiếu vắng Ngài. Và Ngài đã là tất cả cho các ông. Thế nhưng ngày nay, không thiếu gì những tín hữu và ngay cả chúng ta nữa, chỉ vì một lợi lộc nhỏ mọn, chỉ vì một vui thú tầm thường, chúng ta đã bỏ Chúa như các môn đệ, đã bán Chúa như Giuđa và đã chối Chúa như Phêrô. Mặc dù trong ngày chịu phép Rửa tội và hằng năm trong đêm thánh vọng Phục sinh chúng ta đã thề hứa: Từ bỏ ma quỉ, từ bỏ những công việc và những quyến dũ của nó, để kết hiệp với Chúa mãi mãi. Nhưng rồi chúng ta lại mau quên đi những lời thề hứa ấy, bỏ mặc Chúa trong sự quên lãng.
Nếu chẳng may tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Chúa, thì hãy mau mắn chạy đến nơi tòa cáo giải với tâm tình sám hối ăn năn, để được tha thứ, để được hòa giải với Ngài hầu lấy lại sự bình an và niềm vui.
Chúng ta không biết mình sẽ sống được bao lâu: Bảy tám chục năm hay chỉ một vài bữa nữa mà thôi. Tuy nhiên, những tháng ngày hiện tại không thể nào sánh với cuộc sống vĩnh cửu, khi chúng ta được trở về nhà Chúa, được nhìn thấy Ngài mặt đối mặt. Lúc đó, niềm vui của chúng ta sẽ tràn đầy, hạnh phúc của chúng ta sẽ trọn hảo, và chẳng một ai có thể lấy mất được.
Đạo của Chúa là đạo của niềm vui. Tin mà Chúa đem đến là Tin mừng. Vì thế, xin cầu chúc cho mỗi người chúng ta luôn gắn bó mật thiết với Chúa, để hiện tại chúng ta được hưởng một năm mới ngập tràn niềm vui và mai ngày chúng ta sẽ được hưởng một mùa xuân vĩnh cửu trong tình thương của Chúa.
8. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
PHẤN ĐẤU TẠO MÙA XUÂN
Mùa Xuân là màu của hoa. Những bông hoa góp phần làm thành nét đẹp của ngày Tết. Ngày Tết mà thiếu hoa sẽ mất đi rất nhiều vẻ đẹp đẽ vui tươi.
Tại Việt nam, hai loại hoa tiêu biểu cho ngày Tết là mai và đào. Trong Nam, mai rộ nở như ganh đua với nắng vàng rực rỡ. Ngoài Bắc, trong cái buốt giá của mùa Đông kéo dài, những cành đào tươi thắm chen giữa đám lộc non xanh biếc là một cánh thiệp báo tin vui mùa Xuân đến.
Nhìn những cánh hoa tươi thắm như đang cười đùa với nắng Xuân, mấy ai nghĩ rằng những cánh hoa kia đã phải trải qua một quá trình phấn đấu gian nan.
Thật vậy, trước khi mùa Xuân đến, những cây đào trơ trụi như những xác chết không hồn. Những cây mai cũng bị tuốt sạch lá để trơ những cành khẳng khiu nom đến tội nghiệp.
Nhưng ai đã trồng hoa đều có kinh nghiệm là càng tuốt sạch lá càng có nhiều hoa. Chính những thân cây khẳng khiu trơ trụi ấy đã góp phần làm nên những bông hoa tươi đẹp trang điểm cho mùa Xuân, đem niềm vui đến cho con người, trở thành dấu hiệu của hạnh phúc, của thành công.
Mùa Xuân, ta thường chúc nhau thành công, hạnh phúc. Đã thấy những cành cây trơ trụi mùa đông, rồi nhìn những bông hoa rực rỡ hôm nay, tôi hiểu rằng thành công và hạnh phúc ta đạt được cũng phải trải qua những phấn đấu như loài hoa. Để đạt được những thành công thiêng liêng và hạnh phục vĩnh cửu, ta càng phải noi gương loài hoa mà phấn đấu rất nhiều.
Phấn đấu loại bỏ những gì xưa cũ. Nếu những cây hoa không chịu tước bỏ lớp lá cũ già nua xấu xí thì làm sao có được những cánh lá non mơn mởn và nhất là làm sao có được những nụ hoa lộng lẫy vào mùa xuân?
Tương tự như thế, muốn đời sống thiêng liêng sinh hoa kết quả, ta cũng phải từ bỏ những gì xưa cũ trong bản thân. Những gì xưa cũ là những gì không phù hợp với Phúc Âm, những gì ngăn cản ta tiến bước như thói lười biếng, thói giận hờn ganh ghét, thói ích kỷ, thói chia rẽ bất hoà, thói tự kiêu tư đại.
Phấn đấu dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mùa đông, người làm vườn tuốt lá, tỉa cành để khi mùa đến, nhựa cây phong phú không phải tốn phí nuôi dưỡng những chiếc lá già nua, những cành cây thừa thãi vô bổ, nhưng dồn hết sức sống cho hoa, cho lá mới. Nhờ thế hoa càng thêm tươi, lá càng thêm xanh.
Con người cũng thế, muốn thành công và hạnh phúc, phải loại bỏ những gì tiêu phí năng lực, để dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mục tiêu chính của ta là tập luyện lòng mến Chúa yêu người, là sống theo Tám mối phúc thật. Chuyên tâm vào mục tiêu chính, ta sẽ dễ thành công.
Sau cùng, phải phấn đấu vượt qua mọi gian khổ. Khi tuốt lá những cây mai, tôi thầm nghĩ: Nếu cây mai biết nói, chắc nó sẽ kêu lên đau đớn. Tuốt lá, tỉa cành làm cho cây đau đớn, mất mát, xấu xí khó coi. Nhưng chính nhờ vượt qua được những gian nan thử thách ấy mà cây hoa mới đạt đến mùa xuân tươi đẹp đem hương sắc cho đời.
Để loại bỏ những gì xưa cũ và dồn hết năng lực vào mục tiêu chính, con người cũng phải phấn đấu rất nhiều. Phấn đấu từ bỏ mình. Không hành động theo bản năng, dục vọng. Không hành động theo ý riêng. Chỉ tìm thánh ý Thiên Chúa. Những phấn đấu từ bỏ mình làm cho ta đớn đau. Nhưng chính những đớn đau đó góp phần tạo nên mùa xuân tươi đẹp.
Năm Mới, tôi cầu chúc tất cả anh chị em được nhiều ơn chúa để có sức phấn đấu, tạo nên một mùa xuân tươi đẹp cho gia đình, cho đất nước và cho nước Trời.
9. Năm mới bình an và hạnh phúc (Mt 6,25-34)
Một năm cũ đã qua và một năm mới đã tới,trong giây phút linh thiêng này, chúng ta thường làm gì? Tôi xin thưa: Chúng ta thường gửi đến cho nhau những lời cầu chúc. Thế nhưng, nhiều người đã không ý thức được tập tục tốt đẹp này. Họ không hề nghĩ tới những điều họ nói, để rồi những lời cầu chúc ấy trở thành bôi bác.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cầu chúc cho nhau những gì? Và chúng ta nghĩ sao về những lời cầu chúc ấy? Tôi xin thưa: Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới hạnh phúc. Vậy thế nào là một năm mới hạnh phúc?
Khi em bé nhặt được một tờ giấy bạc trên hè phố, tụi bạn sẽ bảo em là một người hạnh phúc và may mắn. Khi chúng ta trúng số độc đắc, bà con lối xóm cũng bảo chúng ta là người hạnh phúc và may mắn. Tại sao lại như thế? Vì đối với nhiều người, hạnh phúc hệ tại giàu sang, tiền nhiều bạc lắm.
Nhưng theo tôi, đó mới chỉ là một thứ hạnh phúc giả hiệu và thời gian của nó kéo dài không quá một kiếp của con thiêu thân, như lời một câu danh ngôn đã bảo:
– Hạnh phúc của người giàu cũng dễ bể như một chiếc ly thủy tinh.
Chẳng hạn vì chiến tranh, vì bệnh tật, vì tai ương hoạn nạn…mà nhiều người đã mất đi tất cả sản nghiệp đã được chắt chiu gầy dựng: Bừng con mắt dậy thấy mình tay không. Điều đó chứng tỏ rằng giàu sang không đủ đảm bảo và đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc.
Đối với nhiều người khác, một năm mới hạnh phúc sẽ là một năm mới khỏe mạnh, gặp nhiều may mắn trong công ăn việc làm. Đúng thế, khỏe mạnh và may mắn cũng là những điều chúng ta thường cầu chúc cho nhau, nhưng vẫn chưa phải là niềm hạnh phúc đích thực.
Nếu sức khỏe là niềm hạnh phúc, thì chắc hẳn những lực sĩ sẽ là những người hạnh phúc nhất. Thế nhưng, không phải vậy. Bởi vì có những người đau yếu, sức khỏe thì èo uột, thế mà nụ cười vẫn tươi nở trên cặp môi khô héo của họ.
Còn về sự may mắn trong công ăn việc làm, nếu quả đúng như vậy, kẻ nào càng kiếm được nhiều tiền, thì càng hạnh phúc. Thế nhưng, trong cuộc sống, những người kiếm được ít tiền chưa chắc đã là những kẻ khổ đau, vì như chúng ta thường bảo:
– Lòng tham thì vô đáy…Đứng núi này trông núi nọ…Được voi đòi tiên…
Và như thế, khát vọng này nảy sinh ra khát vọng khác và sẽ chẳng bao giờ được thỏa mãn. Rất nhiều người đã mong ước có được một việc làm dễ dãi, khả dĩ kiếm được nhiều tiền, nhiều bạc để rồi sống một cuộc sống an nhàn và hạnh phúc, vì họ thầm nghĩ:
– Có tiền mua tiên cũng được.
– Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Có tiền là sẽ có nhà lầu xe hơi, là sẽ có Tv tủ lạnh và nhất là sẽ được mọi người kính nể. Thế nhưng, họ đã lầm. Tôi xin đưa ra một thí dụ đẻ chứng minh cho sự thật trên.
Paul Getty là ông chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Khu đất ông ở rộng bốn mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng tỷ mỹ kim. Thế mà mỗi ngày ông đều phải làm việc từ ba giờ sáng. Chung quanh ông có tới mười cảnh sát bảo vệ. Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm bức thư hăm dọa sẽ ám sát và ông đã phải thốt lên:
– Tôi là người chẳng bao giờ biết đến hạnh phúc.
Thí dụ trên cho chúng ta thấy: Hạnh phúc thật không hệ tại nơi tiền bạc vật chất. Vậy chúng ta phải đi tìm hạnh phúc ở đâu bây giờ?
Hẳn chúng ta đã biết: Con người không phải chỉ có thân xác, mà còn có linh hồn. Bởi đó, không phải chỉ cần có của cải vật chất bên ngoài, mà còn cần phải có những nhu cầu thiêng liêng, xuất phát tự bên trong. Và như thế, niềm hạnh phúc đích thật hệ tại sự bình an trong tâm hồn.
Nhìn vào đời sống các thánh, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Chẳng hạn thánh Giuse và Mẹ Maria. Chắc hẳn các ngài không có nhiều tiền bạc, không ở trong những tòa nhà tráng lệ và tiện nghi. Trái lại, các ngài sống rất nghèo nàn, đến nỗi không tìm được một chỗ trú chân. Dầu vậy, các ngài vẫn hạnh phúc. Tại sao lại như thế? Tôi xin thưa: Vì Chúa Giêsu luôn ở với các ngài.
Thực vậy, nơi nào có Chúa, nơi ấy có hạnh phúc. Và ai yêu mến Chúa, người ấy sẽ được hạnh phúc thực sự. Bởi vậy, muốn được hạnh phúc, chúng ta cần phải có Chúa ở cùng, nghĩa là tâm hồn chúng ta phải trong sạch, xứng đáng làm nơi cho Chúa ngự trị.
Nếu trót sai lỗi vấp phạm, chúng ta hãy chạy đến với bí tích của lòng khoan dung với tâm tình sám hối, để được tha thứ, bởi vì sự bình an phải là kết quả của việc hòa giải giữa chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau.
Niềm hạnh phúc của một tâm hồn trong sạch và có Chúa ở cùng, cũng chính là niềm hạnh phúc chúng ta cần phải cầu chúc cho nhau trong năm mới này.
Thực vậy, dù năm mới này có nhiều khổ đau và cay đắng, nhưng nếu tâm hồn chúng ta thực sự có Chúa ở cùng, chúng ta vẫn cảm thấy vui mừng và hy vọng. Chính trong ý nghĩ ấy mà trong giây phút linh thiêng này, tôi xin cầu chúc cho anh chị em một năm mới bình an và hạnh phúc.
10. Tôi là người hạnh phúc nhất – Mt 6,25-34
Một ông vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều do sự miễn cưỡng đóng góp của thần dân. Ông tự so sánh mình với những người hành khất: người hành khất nhận được tiền của do lòng thương của người khác, còn ông, ông nhận được tiền do sự cưỡng bách.
Ngày nọ, ông vua giàu có đã quyết định làm một việc táo bạo: đó là cải trang thành người hành khất để cảm nghiệm được những đồng tiền bố thí… Thế là mỗi ngày Chúa Nhật, ông biến mình thành một người ăn xin lê lết trước cửa giáo đường. Ông cho tất cả những tiền ăn xin được vào một chiếc hộp nhỏ. Tuy không là bao so với cả kho tàng của ông, nhưng có lẽ nó vẫn có giá trị hơn… Ông tự nghĩ: bây giờ ta nới thực sự là người giàu có nhất trên đời, bởi vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót của con người, chứ không do một sự cưỡng bách nào.
Khi đã gom góp được một số tiền khá lớn sau những năm tháng ăn xin trước cửa các giáo đường, ông đã xin từ chức khỏi ngai vàng và đi đến một phương xa, nơi không ai có thể nhận ra ông. Ông mua một mảnh đất, và tự tay cất được một ngôi nhà tranh đơn sơ. Không mấy chốc, do sự hòa nhã, vui tươi của ông, mọi người trong lối xóm đều mến thương ông, nhất là các em bé. Ông kể chuyện cho chúng nghe, ông đem chúng đi câu cá, ông dạy chúng ca hát.
Trong đám trẻ nhỏ, có một cậu bé gia đình còn nghèo hơn cả ông nữa. Cậu bé chỉ có vỏn vẹn một con chim họa mi. Nghe tin ông đau nặng, cậu bé đã vội vàng mang con chim đến tặng ông, với hy vọng rằng con chim sẽ hót cho ông được khuây khỏa.
Đón nhận món quà, con người đã từng là vua của một nước mới thốt lên: “Từ trước đến nay, tất cả những gì tôi có, tôi đều lãnh nhận do lòng thương xót của người khác. Người ta cho tôi, nhưng không phải là cho tôi mà là cho một người hành khất. Giờ đây, với món quà tặng là con chim này, người ta tặng cho tôi với tất cả tấm lòng yêu thương… Chắc chắn, tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian”.
Một thời gian sau đó, trong vùng, có một người táđiền nghèo bị người chủ đe dọa lấy nhà và trục xuất ra khỏi mảnh vườn đang canh tác. Nghĩ đến cảnh hai vợ chồng và 7 đứa con dại bị đuổi ra khỏi nhà, ông vua không thể nào ăn ngủ được… Cuối cùng, ông quyết định tặng chính mảnh vườn và ngôi nhà của mình cho gia đình người tá điền nghèo… Và một lần nữa, không một đồng xu dính túi, ông lên đường trẩy đi một nơi khác.
Bùi ngùi vì phải chia tay với những người quen biết trong vùng, nhưng ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên ông cảm nghiệm được niềm vui của sự ban tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có phúc hơn là nhận lãnh… Lần này, ông thốt lên với tất cả xác tín: “Tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian này”.
Câu chuyện của ông vua đi tìm hạnh phúc trên đây có thể gợi lên cho chúng ta về hình ảnh của chuyến đi cuộc đời của chúng ta… Người Kitô là một người lữ hành đi tìm hạnh phúc. Và hạnh phúc đích thực của chúng ta là gì nếu không phải là trao tặng, trao tặng cho đến lúc trống rỗng, nhưng bù lại, chúng ta được lấp đầy bằng chính Chúa.
11. Thiên Chúa hay thần tài? (Suy niệm của Lm Nguyễn Hồng Giáo)
Trong bài Phúc Âm Mt 6, 24-34 mà chúng ta nghe đọc trong Chúa Nhật 8 Thường Niên năm A, và trong dịp tết nguyên đán, Đức Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm để chỉ cho chúng ta thấy một sự lo lắng thái quá về đời sống vật chất là vô lý nếu như chúng ta còn tin có Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ví dụ thứ nhất: chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống. Ví dụ thứ hai: cuộc đời của mỗi người chúng ta có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, – điều đó chúng ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc! Và cuối cùng: hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó”
Chúng ta đồng ý rằng lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay thật là hấp dẫn. Có gì đáng mong ước hơn là có Cha Trên Trời lo lắng cho ta? Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi sâu vào thực tế, chúng ta càng thấy mọi sự chẳng đơn giản chút nào.
Những lo lắng chính đáng
Con người thời đại ta cũng như mọi thời đại, đều có trăm ngàn nỗi lo, và những nỗi lo chính đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ nguyên những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống đã làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ gia đình: lo sao cho có cái ăn, cái mặc, cho căn nhà ở khỏi giột nát khi tới mùa mưa, cho con cái được học hành, cho có thuốc thang khi bệnh tật, cho giá cả đừng tăng vọt, mùa màng không thất thoát… Những nỗi lo như thế phát xuất từ trách nhiệm của mỗi người, đều chính đáng và đẹp lòng Chúa.
Chúa Giêsu không muốn cho chúng ta lười biếng hoặc sống vô trách nhiệm. Chim trời cũng phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim phải bay thật xa mới tới chỗ có thức ăn. Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải đâm rễ len lỏi giữa sỏi đá để tìm chất nuôi sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói rằng: “Ngày nào có cái khó, cái khổ của ngày đó”. Vậy khó nhọc, gian khổ là điều có thực, gắn vào thân phận con người.
Không những Chúa không muốn ta sống lười biếng, vô lo, vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải làm việc để cùng với Người hoàn hiện thế giới này và góp phần vào công cuộc cứu độ thế giới. Ngay lúc vừa mới dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu đã hỏi mỗi người đã dùng tài năng Chúa ban mà làm lợi cho Người được bao nhiêu, chứ không phải đã chôn giấu nó an toàn như thế nào. Thế thì ta có quyền và có bổn phận phải lo lắng, tính toán, phải có kế hoạch, phải phòng xa. Điều Chúa không chấp nhận là chúng ta lo lắng về đời sống vật chất như thể đó đã là cùng đích của đời sống, là tuyệt đối cho đời mình.
Thiên Chúa hay Thần Tài?
Câu then chốt nhất của bài Phúc Âm hôm nay là: “Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và đời sống công chính như Nguời đòi hỏi, còn các thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho.” Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa: đây mới là vấn đề ưu tiên.
Nỗi lo số một của người môn đệ Chúa Giêsu là nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết. Nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.
Lời dạy của Chúa Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Người ta thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Nhưng thực tế luôn luôn chứng minh rằng suy nghĩ và hành động như thế là sai lầm. Xã hội tư bản lấy sự sản xuất của cải hàng hoá dư dật và sự hưởng thụ tự do làm mục tiêu, và bắt mọi sự khác phải phục vụ cho mục tiêu ấy, nên đã rơi vào khủng hoảng về tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì mục tiêu ấy, người ta khai thác các tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ và ngày nay thiên nhiên quay lại “trả thù” con người, đe dọa cuộc sống trên trái đất. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta coi kinh tế là yếu tố quyết định mọi sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục vụ con người, nhưng trên thực tế con người và các giá trị đạo đức bị chà đạp trầm trọng… Sau khi hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những nước khác đã quay sang kinh tế thị trường và cũng đang phát triển theo hướng phương Tây, liệu có tránh nổi những tiêu cực gắn liền vào tư bản chủ nghĩa không? Của cải vật chất là ông chủ không dễ gì khuất phục nổi. Tinh thần thường tỏ ra yếu đuối và không hấp dẫn bằng của cải giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa “thời mở cửa”, điều đó cũng đang được chứng minh.
Của cải là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào.
“Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi”: Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất.
Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
12. Xin ơn bình an – ĐGM. J.B. Bùi Tuần
Để mừng Xuân mới, theo thông lệ, tôi xin Chúa ban cho đại gia đình chúng ta một Lộc thánh.
Lộc thánh nói đây là Lời Chúa. Lời Chúa sẽ mang lại cho ta nguồn ánh sáng và hy vọng. Đó là lợi lộc tốt nhất cho hành trình cuộc sống ta trong năm mới.
Vậy, Lộc thánh mà Chúa gởi chung cho chúng ta đầu năm nay là Lời nào của Chúa? Thưa là lời Chúa Giêsu đã chào chúc các môn đệ yêu dấu của Người chiều Phục sinh. Lời đó là: “Bình an cho các con” (Ga 20,20).
Theo tôi, bình an là điều mà chúng ta luôn rất cần. Bình an là món quà tặng quý nhất cho mọi hoàn cảnh đời ta.
Nhưng, để lời chào chúc bình an của Chúa trở thành một mùa Xuân thiêng liêng thực sự cho ta, ta nên đón nhận ý Chúa đi liền với ơn bình an.
Ý Chúa là thế này:
Ngay sau lời chào chúc bình an cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã thân mật truyền đạt rõ ràng quyết định của Người: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21).
Như vậy, ơn bình an luôn gắn liền với ơn gọi sai đi. Phải sống đúng ơn gọi sai đi, mới đón nhận được ơn bình an. Xin nói ngay rằng: Mọi người chúng ta, ai cũng được Chúa sai đi. Sai vào đời. Sai vào nơi mình ở và làm việc. Sai vào lịch sử của Đất Nước và của Hội Thánh đang cưu mang mình.
Chúa sai ta đi để làm gì? Chúa phán: “Các con hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Tin Mừng Chúa bảo chúng ta loan báo là “Sám hối, để được ơn tha tội” (Lc 24,53), và đi theo Người “là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6) hầu được về với “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8).
Chúng ta loan báo Tin Mừng đó ít ra bằng cách chúng ta thực hiện Tin Mừng đó nơi bản thân ta. Nếu ta hiểu ơn gọi là như vậy, thì, ngay ngày đầu năm, ta đã có một cái nhìn đúng về hướng đi đời ta trong năm Ất Dậu này.
Năm Ất Dậu này, cho dù đang được mở đầu với những vẻ đẹp huy hoàng và với những hứa hẹn tốt, nó vẫn không che giấu được nhiều băn khoăn, nhiều lo lắng, nhiều trăn trở của biết bao người, nhất là của những người thiện tâm, thiện chí.
Thực tế cho thấy:
Có những cái mong manh bên cạnh những cái ổn định. Những mối đe doạ sát liền với những thành công. Những cái ta tự chọn có thể bị lung lay và tan vỡ bởi những gì vượt khỏi ý muốn và khả năng của ta.
Trên đây là chút nhìn xa. Không bi quan, nhưng là sự thực. Nhận thức sự thực này, để biết sống ơn gọi của mình, theo thánh ý Chúa, đó là cách ta đón nhận ơn bình an của Chúa. Một sự bình an không đồng nghĩa với nghỉ ngơi, nhưng là phấn đấu, là làm việc, là tin cậy, theo ơn gọi của mình. Chúa Giêsu phán: “Như Cha Thầy luôn làm việc, thì Thầy cũng luôn làm việc” (Ga 5,17). Chúng ta cũng làm việc và phấn đấu, trong thánh ý Chúa như vậy.
Với vài tâm tình trên đây, tôi xin cùng với Đức Cha Cố Micae và Đức Cha Giuse Giám mục giáo phận xin tha thiết cầu chúc anh chị em một năm mới đầy bình an của Chúa.
13. Bình an
(Bài đọc 1: St 1, 14-18; Bài đọc 2: Pl 4, 4-8; Tin mừng: Mt 6, 25-34)
Một trong những nét đẹp của nền văn hoá Á Đông nói chung và của Việt Nam chúng ta nói riêng, đó là phong tục đi chúc Tết trong những ngày đầu năm. Trong những ngày đầu năm này, chúng ta luôn cầu chúc cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Chúng ta ước mơ và chúc cho nhau trong năm mới này được thịnh vượng, may mắn, làm ăn phát tài…và nhiều điều may mắn khác nữa, nhưng có lẽ điều mà tất cả từng người chúng ta đây ước mơ nhiều nhất và cũng được cầu chúc nhiều nhất là sự bình an trong năm mới. Vâng, hai chữ “bình an” chính là ước vọng sâu xa nhất của từng người chúng ta. Nếu suy xét kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng tất cả mọi việc chúng ta làm tựu trung cũng là để có được sự bình an. Thế nhưng, thực tế, chúng ta vẫn chưa có được sự bình an thực sự.
Do đó, trong giờ chia sẻ này, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em dựa vào ánh sáng của Lời Chúa để tìm ra phương thế đạt được sự bình an đích thực trong năm mới này.
1. Thiên Chúa, nguồn bình an:
Trước khi nói đến sự bình an, có lẽ chúng ta cũng cần nhìn qua những lý do làm cho chúng ta mất bình an. Lý do thì nhiều, nào là làm ăn thất bại, bị hiểu lầm, gặp tai ương, bệnh tật…, nhưng xâu xa hơn, có lẽ vì mọi việc không xảy ra đúng với ý muốn, dự định của chúng ta nên chúng ta bất an. Hay nói một cách khác, chúng ta nghĩ rằng mình là chủ cuộc sống của mình và mình có thể kiểm soát được tất cả mọi việc, nên khi có một điều gì đó không đúng với chương trình của mình, chúng ta liền khó chịu bất an.
Do đó, tôi thiết nghĩ để có sự bình an thật sự, từng người chúng ta cần xác tín với nhau một điều: Thiên Chúa là Đấng quan phòng, làm chủ mọi sự. Chính Ngài là Đấng tạo dựng muôn loài, như trình thuật của sách Sáng Thế: “Thiên Chúa phán: Phải có những vầng sáng trên vòm trời…. Liền có như vậy…. Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp”. Không chỉ là Đấng Sáng Tạo, Thiên Chúa còn là người Cha đầy yêu thương sẵn sàng lo cho chúng ta mọi sự. Chính Đức Giêsu đã khẳng định với chúng ta điều này như chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cũng cần tất cả những thứ đó”. Cha chúng ta thừa biết chúng ta cần gì và Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta điều chúng ta cần. Điều quan trọng là chúng ta có dám đặt mình vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, và để cho Ngài lo hay không mà thôi. Thật vậy, kinh nghiệm hàng ngày cho thấy: trong thân phận làm con thì điều quan trọng nhất là ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ, rồi cha mẹ sẽ lo cho con tất cả mọi sự. Và lúc đó, chúng ta sẽ có bình an, vì mọi chuyện đã có cha mẹ lo cho rồi.
Như thế, để có được sự bình an, điều đầu tiên mỗi người chúng ta cần thực hiện đó là hướng tâm hồn và con người chúng ta lên Thiên Chúa, nhận Ngài là chủ mọi sự kể cả cuộc đời của mỗi người chúng ta. Đây là một sự thật căn bản đầu tiên làm nền tảng cho một tâm hồn bình an.
2. Con đường bình an:
Hướng tâm hồn lên với Thiên Chúa, chính là luôn gắn bó với Chúa là nguồn bình an, lúc đó chúng ta sẽ nhận được sự bình an. Tuy nhiên, thánh Phaolô nhắc nhở mỗi người chúng ta: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em”. Điều đó cho thấy, niềm tin tưởng và phó thác của chúng ta nơi Chúa không miễn trừ cho chúng ta các khó khăn, trở ngại trong cuộc sống hiện tại, nhưng sẽ giúp chúng ta có được sức mạnh nội tâm và làm cho tâm hồn chúng ta được thanh thản để vượt qua những khó khăn đó. Như vậy, cho dù ngoại cảnh bên ngoài không làm cho chúng ta vui, nhưng trong Chúa, chúng ta vẫn có thể vui được. Đây chính là kinh nghiệm của Đức Maria: giữa những khó khăn của cuộc sống nghèo khổ, và án tử có thể đến vì mang thai trong lúc chưa về nhà chồng. Mẹ vẫn cất tiếng ca vang: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”. Mẹ đã vui vì Mẹ luôn tin tưởng vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ tin chắc rằng, Chúa sẽ có cách để giải quyết vấn đề của Mẹ. Tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng xác tín như thế khi nói: “Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”. Vịnh gia còn mời gọi chúng ta: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”.
Kế đến, sự bình an thật sự chỉ có nơi những tâm hồn thanh sạch, bởi vì “cây ngay không sợ chết đứng”. Những người công chính luôn cậy trông vào Chúa có thể vẫn còn phải gặp những khó khăn bên ngoài, nhưng chắc chắn họ không cùng đường, tuyệt vọng, tâm hồn họ vẫn luôn bình an, vì họ tin vào lời hứa của Đức Giêsu: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người; còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”. Thật vậy, với kinh nghiệm của mình chắc hẳn mỗi người trong chúng ta có cùng xác tín của tác giả Thánh vịnh: “Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ”. Do đó, để có bình an thật sự trong tâm hồn, chúng ta cần lánh xa tội lỗi và thực hành những điều công chính như lời dạy của thánh Phaolô: “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và mang lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen thì xin anh em hãy để ý”.
14. Chúng ta là người hành khất
“Chúng ta là người hành khất!” lời tâm sự này Martinô Lutherô, cha đẻ của đạo Tin lành Thệ Phản bên Đức, đã thốt lên năm 1546 vào những ngày cuối cùng cuộc sống trên trần gian của ông. Lời tâm sự này của ông biểu lộ niềm tin mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người. Người có tâm hồn niềm tin vào Thiên Chúa trông mong chờ đợi đón nhận từ nơi Ngài, những sự cần thiết cho đời sống. Và đồng thời cũng nói lên tâm tình niềm tin: Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ân đức tặng phẩm cho đời sống, con cám ơn Ngài! “Chúng ta là người hành khất!” tâm tình này cũng có thể là một suy tư gợi ý vào những giờ phút cuối cùng của năm hiện tại đang đi vào qúa khứ. Nhưng tại sao lại đem tâm tình này vào đời sống ngày cuối năm?
Khi nghe đến “hành khất” ta nghĩ ngay tới nghèo khổ, đói khát, túng thiếu, yếu đau, bơ vơ không nhà cửa… Không lẽ cuộc sống chỉ tiêu cực như thế sao? Không, chúng ta không dừng lại ở điểm tiêu cực đó. Ngày nay, nơi nhiều quốc gia tình trạng xóa đói, giảm nghèo, vệ sinh bệnh tật đang dần dà được đẩy mạnh bài trừ cải tiến. Và mức sống no cơm ấm áo dần được nâng cao, cho xứng với phẩm gía con người. Trong cuộc sống, lẽ dĩ nhiên rất nhiều người, nhất là ở trong xã hội văn minh đầy đủ hay đang mở cửa phát triển, đã đạt được những thành công rực rỡ về mặt chính trị, kinh tế, học hành, nghề nghiệp, y tế, của cải tài sản, cuộc sống gia đình hòa hợp êm ấm… Những điều đó đối với người có lòng tin vào Thiên Chúa, khi nhìn lại cũng có tâm tình gần giống như của Martinô Lutherô: Vâng, chúng con là người hành khất!
Tâm tình này muốn nói lên: Con cám ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng con cơ hội sống, cơ hội góp phần vào cuộc sống. Những gì con có hay đạt được, là những ân đức qùa tặng Thiên Chúa ban cho. Cuộc sống xã hội và đời sống từng người không chỉ có mặt sáng đẹp đó. Nhưng còn có mặt với nhiều bóng tối tiêu cực nữa: chiến tranh, thiên tai, lo âu, tai nạn, đau khổ bệnh tật, chạy loạn tỵ nạn tha hương … Trước những cảnh tượng đó, không ai muốn, nhưng chúng xảy ra đó và mọi người phải đối diện với! Trong cơn tuyệt vọng như thế, đâu đâu vào thời đại nào, hầu như bất cứ ai cũng đều cúi đầu hướng tâm hồn lên cao, thành tâm khấn vái xin Thiên Chúa, xin Thượng Đế, xin Trời phù hộ cho đời sống, cho thế giới khỏi cơn khốn khó đó.Tâm tình này càng vẽ rõ nét hơn “Chúng ta là người hành khất!” Người tin vào Thiên Chúa, khi nhận lãnh một tin lành bằng an, một tin vui, họ đều thắp sáng cây nến lòng biết ơn cho Đấng đã ban cho mình ân đức cao qúi đó và cho người nào đó đã liên đới trao tặng giúp đỡ mình. Cung cách sống đạo đức tình người này muốn nói lên: “Chúng ta là người hành khất!”
Trước ngưỡng cửa Năm Mới đang tiến dần vào hiện tại, niềm vui mừng đang khơi dậy trong lòng. Nhưng nào ai có thể biết đươc tương lai ngày mai trong năm mới sẽ đến như thế nào. Rồi trong đời sống vào nhiều hoàn cảnh giai đoạn cuộc sống, chúng ta thường lâm vào ngõ bí đường cùng, không biết nên làm sao nữa… Là người có niềm tin, ta đặt niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, Đấng biết sự gì cần thiết cho đời sống của ta. Chúng ta thường cầu nguyện cùng Đức Chúa Thánh Thần: lạy Cha kẻ khó khăn bần hàn, xin đến trợ giúp ban cho chúng con ân đức gìn giữ cuộc sống hôm nay và ngày mai! Đó cũng là tâm tình: “Chúng ta là người hành khất!”
15. Lễ Tân Niên- Cầu Bình An Cho Năm Mới
ĐỊNH HƯỚNG
Năm hết tết đến, ai trong chúng ta mà lại chẳng cảm thấy một chút gì náo nức: trẻ em thì mong đợi những bộ quần áo mới và những đồng tiền lì xì mừng tuổi, người lớn thì tính sổ công việc làm ăn trong năm qua và hoạch định chương trình cho thời gian sắp tới. Mọi người đều tạm gác những âu lo thường ngày để thăm viếng, để gặp gỡ và chúc mừng nhau một năm mới nhiều may mắn và hạnh phúc.
Thế nhưng giờ đây, chúng ta hãy bỏ qua những náo nức ấy để suy nghĩ một chút. Năm cũ đã trôi qua như một giấc chiêm bao và năm mới lại trở về. Chúng ta sống thêm một năm, nhưng cũng mất đi một năm trong dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là hướng đi, đâu là ý nghĩa, đâu là trọng tâm của cuộc đời, để nhờ đó chúng ta sẽ đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu?
Có lẽ chúng ta đã đánh mất phần nào cái trọng tâm của cuộc đời. Trọng tâm ấy chính là Thiên Chúa. Thực vậy, chúng ta từ bỏ Thiên Chúa để chạy theo những thần tượng giả trá, do những đam mê, những ước vọng riêng tư của mình tạo nên. Bởi đó, chúng ta bôn ba vất vưởng trên dòng thời gian, như thuyền không lái, như ngựa không cương. Khi thì chúng ta tìm cái này, lúc thì chúng ta kiếm cái kia. Vì thế, cuộc đời chúng ta chất đầy như bồn chồn và lo lắng. Chúng ta lo sợ tương lai có nhiều bất trắc, vì thế mới cầu chúc cho nhau được may mắn. Có người còn cẩn thận kiêng cữ để khỏi rước cái xui vào nhà.
Tuy nhiên, những may mắn và niềm hạnh phúc chúng ta cầu chúc cho nhau lại không treo trên đỉnh cây nêu, cũng không nằm trong những tấm thiệp. Ngay cả những lời cầu chúc chân thành và nồng hậu nhất cũng không phải là những vị sứ giả mang lại hạnh phúc.
Thực vậy, hạnh phúc không do những tiện nghi vật chất đem đến, vì những tiện nghi này nay còn mai mất. Hạnh phúc không do bản thân chúng ta gầy dựng nên, vì bản thân chúng ta vốn đã chìm ngập trong khổ đau và nghèo túng. Hạnh phúc ấy cũng không do người khác tạo thành vì người khác không có đủ quyền năng và tình thương để thực hiện những mộng ước của họ và của chúng ta.
Như thế, chúng ta nhận ra rằng chỉ mình Chúa mới là Đấng có thể đem lại hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Chỉ mình Chúa mới là Đấng có thể thực hiện được những lời mừng chúc của chúng ta mà thôi. Thực vậy, thánh Augustinô đã nói:
– Linh hồn tôi chỉ được nghỉ yên khi nó nằm gọn trong lòng bàn tay của Chúa.
Bao lâu chúng ta còn chạy theo những ảo ảnh của đam mê và dục vọng, thì bấy lâu cuộc đời chúng ta vẫn còn vất vưởng và xao xuyến. Khát vọng như một thứ rượu nồng, càng uống lại càng khát. Chúng ta sẽ đi từ khát vọng này đến khát vọng khác và chẳng bao giờ được no thỏa.
Niềm hạnh phúc đích thực chính là sự bình an trong tâm hồn. Và sự bình an này chỉ có được khi chúng ta đã ở trong tình thương của Chúa, khi chúng ta đã hòa giải với Ngài. Vì thế, Thiên Chúa phải là trọng tâm của cuộc đời chúng ta, phải là cùng đích của mọi vệc chúng ta làm. Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của chúng ta cũng phải xoay quanh Thiên Chúa như vậy. Có nghĩa là suốt dọc cuộc đời, chúng ta phải bước đi trong quĩ đạo của Thiên Chúa.
Ngài là Đấng nhân từ và hay thương xót. Sống trong Ngài, chúng ta sẽ không còn lo âu và sợ hãi, như một câu danh ngôn đã bảo:
– Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành, còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Dưới mắt Ngài, không có gì là may mắn hay xui xẻo. Những điều chúng ta gọi là hên hay xui, thực ra chỉ là hai tên gọi của cùng một thực tại, đó là tình yêu của Chúa. Hay nói một cách khác: tất cả đều là hồng ân của Ngài.
Hướng đi và ý nghĩa, trọng tâm và hạnh phúc của cuộc đời chúng ta là chính Thiên Chúa. Bởi vì Ngài là ơn cứu độ, là tình yêu, là sức sống của chúng ta. Ý thức được như vậy, nên các thánh bao giờ cũng bắt đầu công việc bằng thái độ cầu nguyện, kêu xin Chúa.
Một ngày sống được khởi đầu như thế, chắc chắn sẽ hạnh phúc hơn nhiều so với khi chúng ta bắt đầu bằng một điếu thuốc lá, bằng một ly rượu mạnh hay bằng cách lo láng đưa mắt nhìn lên tờ lịch và nghĩ ngay đến những món nợ phải trả, những công việc phải làm hay những vui thú phải kiếm.
Giả như trong đêm giao thừa, khi chuông đồng hồ vừa đổ mười hai tiếng cuối cùng của năm cũ, mọi người chúng ta hãy tuyệt đối yên lặng trong giây lát, rồi sau đó mới mở tiệc và mừng chúc nhau. Trong khoảng khắc thinh lặng này, chúng ta sẽ nhận ra đâu là mục đích, đâu là hướng đi chúng ta cần phải thực hiện và theo đuổi cho năm mới, cũng như cho suốt cả cuộc đời chúng ta.
Chính trong ý nghĩa ấy, tôi xin thành thực cầu chúc cho mỗi người một năm mới ngập tràn hạnh phúc trong tình yêu thương của Chúa.
16. Lời hứa năm mới
Đứng trước thềm ngưỡng cửa Năm Mới, niềm vui mừng hân hoan bừng lên từ trong tâm hồn trái tim ta, lộ hiện ra nơi khuôn mặt ánh mắt. Đàng sau niềm vui mừng hân hoan đó ẩn dấu niềm trông mong chờ đợi: lời cầu chúc tốt đẹp, qùa tặng và lời hứa. Niềm tin tôn giáo nói cho ta: Thiên Chúa là Đấng làm chủ, trao tặng thời gian năm mới cho con người vũ trụ.Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, từ trời cao hạ sinh làm người là lời cầu chúc bình an tốt đẹp cho nhân loại: Bình an dưới thế cho người Chúa thương.Lời Chúa đã được loan tuyền qua Chúa Giêsu cho con người trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Lời Ngài là lời hứa, là thức ăn cho cuộc sống tâm hồn niềm tin con người.
Với Bạn Trẻ lời hứa của Chúa nói với họ: Các Bạn thân yêu, thời gian Năm Mới là cơ hội tốt đẹp cho cuộc sống của tuổi trẻ đang vươn lên. Các Bạn là niềm hy vọng, là tương lai của xã hội, của Hội Thánh, của gia đình, của nhân loại, của phát triển. Các Bạn hãy cùng Thầy bước đi vào Năm Mới với những mơ ước, đích điểm mong chờ, với lòng khao khát và cả với những lo ngại áy náy hay cả với nỗi niềm lo âu sợ sệt của các Bạn. Cho dù thế nào đi chăng nữa, các Bạn không đi một mình và đó chưa phải là tất cả đâu!Thầy hằng cùng đồng hành bên cạnh trợ giúp Bạn!
Với những người lớn tuổi, lời hứa của Chúa cũng là hành trang cho họ cùng bước vào năm mới: Các Ông, các Bà là những người đã sống trải qua nhiều chặng đường đời sống từ hăng chục năm, có người gần thế kỷ với nhiều thăng trầm buồn vui, thành công thất bại, cay đắng nọt bùi, đau khổ bệnh tật khoẻ mạnh, gánh nặng lo âu và được an ủi… Nhưng các Ông Bà đã sẵn có kinh nghiệm một đời sống thản nhiên, hãy cùng con cháu, cùng mọi người và với niềm tin vào Thiên Chúa bước đi vào thời gian năm mới. Xin các Ông Bà đừng quên những gì đã xảy ra trong đời mình, cho dù là cay đắng thất bại. Vì đó là những ân đức giúp xây dựng cuộc sống qúa khứ để có ngày hôm nay và ngày mai.
Thầy đến mang sự an ủi và ơn cứu rỗi cho con người. Thầy thông cảm và luôn hằng cùng ở bên cạnh trợ giúp niềm tin tinh thần cho con người: Hỡi những ai gánh nặng mệt nhọc, hãy đến cùng Thầy, để sẽ an ủi bồi bổ sức lực cho tâm hồn. Với mọi người lời hứa của Chúa nhắn gửi: Hãy đạt niềm tin tưởng phó thác vào Thầy. Trong đời sống thời gian năm mới cũng như những năm tháng đã qua, chúng ta, mọi người sẽ sống trải qua cảnh hầu như cô đơn, nhìn xung quanh đâu có thấy gì ngoài mình, tâm hồn chán nản. Lúc đó sao chẳng thấy Thiên Chúa đồng hành Cha không để con một mình!
“Có đêm tôi nằm mơ: thấy mình cùng Chúa đi dọc bờ biển. Những hình ảnh đời tôi hiện dần ra trước mắt, hình ảnh nào tôi cũng thấy có những dấu chân in trên cát. Thường thường tôi thấy rõ dấu chân của hai người, nhưng đôi lúc lại chỉ thấy dấu chân một người.Tôi phân vân, vì những lúc chỉ thấy dấu chân của một người như thế là những lúc đời tôi gặp thất bại, lo âu và piền muộn. Vì thế tôi quay sang hỏi Chúa: Lạy Cha, Cha đã hứa với con là nếu con theo Cha, Cha luôn luôn ở bên con. Nhưng sao trong những lúc khó khăn nhất đời con, con chỉ thấy dấu chân một người. Những khi con cần Cha như vậy, sao Cha không ở bên con? húa quay sang bảo tôi: “Con ơi! dấu chân của một người đó là dấu chân Cha. Vì trong những lúc con gặp khó khăn, chịu đau khổ, Cha đâu có bỏ con một mình, nhưng Cha đã cõng con trên vai Cha!”. Niềm tin vào lời hứa của Chúa đồng hành trong Năm mới, tất nhiên không làm ta giàu có thêm tiền bạc của cải, nhà cửa vườn tược. Nhưng lời hứa cùng đồng hành trợ giúp của Chúa trong Năm mới làm tinh thần tâm hồn ta phấn khởi, vui tươi hăng hái vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Điều này cần thiết cho cuộc sống con người với Chúa và con người với nhau.
17. Xin cho tất cả đều mới (Lm. Jos Nguyễn Hưng Lợi)
Đêm giao thừa khởi đầu một năm mới. Người Việt Nam có tục xông nhà, xông đất các gia chủ mong có người hiền, nhanh nhẹn, tử tế đến xông nhà đầu tiên để gia đình có người tốt đặt chân đầu tiên sẽ gặp những điều mới, điều tốt lành trong năm mới. Người Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất quí quá là dâng ngày đầu năm cho Thiên Chúa. Dâng những giây phút đầu của một năm, người Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới.
NHỮNG ƯỚC NGUYỆN MỚI CHO MỘT NĂM MỚI:
Ngay ca nhập lễ thánh lễ minh niên đã viết:” Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài”(Tv 66, 2-3). Từ cái giây phút linh thiêng của đêm giao thừa khi trời đất giao hòa, năm cũ bàn giao cho năm mới.
Con người trước bàn thờ nghi ngút hương trầm bay đã cầu xin Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn phúc cho năm mới và qua những chén trà, ly rượu chúc mừng, con người đã muốn cầu chúc cho nhau sức khỏe, điều lành, điều tốt. Và chính ngay lúc khởi đầu của những ngày mới, con người quả đã muốn mọi sự cũ phải được qua đi, cái mới, cái đẹp phải loé rạng, tỏa sáng. Trong thánh lễ tân niên, người Kitô hữu luôn đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác. Mọi sự đều do Chúa, đều bởi Ngài vì thế như lời thánh vịnh viết:” Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, công lý bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ” và như Tin Mừng đọc trong thánh lễ này, thánh sử Matthêu đã viết:” Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”. Ngày mồng một và suốt cả năm mới, người Kitô hữu luôn ước nguyện làm theo ý Chúa và tin tưởng, phó thác cho Chúa vì mọi sự sự đều do Ngài, bởi Ngài. Thánh Phaolô nhấn mạnh:” Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!”. Nguyện ước cho mọi sự được mới, cho tất cả tỏa sáng trong Chúa, cho mọi người được an lành, vui khỏe. Đó là những ước nguyện chân thực của con người…
TRÊN HẾT MỌI SỰ HÃY VUI LÊN:
“Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”(Tv 36).Để có được lòng tin tỏa chiếu, người Kitô hữu ngoài những nguyện ước bình thường cho cuộc đời thường ngày, họ còn phải có lòng tín thác tuyệt đối cho Thiên Chúa, Đấng tác sinh nên họ và họ phải đi đến chỗ tin tưởng phó thác:” …ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy”. Năm mới, người Kitô hữu cầu xin cho được sức khỏe, an bình và thịnh vượng, nhưng điều chính yếu họ sống tin, yêu, cậy trông và phó thác:” Vì Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó “(Mt 6, 32).
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lòi chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm 2004 này được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào”(Lời nguyện nhập lễ, thánh lễ minh niên).
18. Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thánh vịnh 66, 2-3 có viết:” Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài “. Một năm mới tới: 365 ngày cứ xoay đổi vần xoay, luân chuyển không ngừng. Khắp nơi trên quê hương Việt Nam thân yêu, giờ này người ta đang hân hoan mừng năm mới Quí Mùi. Năm mới, tôi nghiệm ra xuân hay nói nôm na là Ân Huệ, là Phúc, là Lộc, là Thọ.
XUÂN LÀ MỘT ÂN HUỆ CHÚA TRAO BAN
Gọi là Ân Huệ vì con người có cơ hội nghỉ ngơi, giãn xả và sống cái tâm tình cảm tạ, biết ơn Thiên Chúa, Đấng tạo hóa vô cùng diệu vợi, vô cùng thánh thiêng, vô cùng quyền phép. Nói theo một cách nào đó, Thiên Chúa là Đấng cực kỳ quyền năng. Vậy, sống ngày đầu xuân, con người hướng trọn tâm tình và cuộc đời của mình để tạ ơn Thiên Chúa vì một năm qua đi trong tình thương che chở của Chúa. Tạ ơn, biết ơn vì những thất bại, những chua cay, đau khổ tưởng rằng sẽ vùi dập con người, cuộc đời trong bể dâu, thê lương, nhưng tạ ơn vì Chúa cho qua đi những ngày đen tối và cả những ngày hạnh phúc tràn đầy. Biết ơn Chúa để quên đi quá khứ mà lao tới tương lai mà tương lai có thể sẽ vô cùng vô tận, sẽ kéo dài mãi trong những ngày sắp tới và trong cả đời người. Nên, đời là một cuộc tri ân, biết ơn liên lỉ đối với Chúa của mùa xuân vĩnh cửu là Đức Giêsu Kitô.
Gọi là Ân Huệ vì con người có dịp, có giây phút gọi là thảnh thơi để dừng lại dẫu chỉ là một thoáng để nhìn lại quãng đường đã đi trong cuộc hành trình cuộc đời để xem những gì cần nhân lên, cần làm cho tỏa sáng hay những gì cần phải khắc phục sửa đổi và như thế cuộc đời là một cuộc quay trở về không ngừng để hoán cải, ăn năn và làm mới nội tâm để sống tốt hơn, đẹp hơn.
Gọi là Ân Huệ vì con người sẽ có cơ hội sống tình thân, tình máu mủ ruột thịt, sống cái tình đầm ấm gia đình: trở về với cội nguồn, ông bà, cha mẹ, anh em, họ hàng để tỏ tình hiếu thảo, báo đáp nghĩa tình với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Và như thế rất thích hợp với điều 04 của 10 thập giới:” Hãy thảo kính cha mẹ”. Sống tâm tình ấy là phù hợp mãi mãi với Đạo của Chúa và làm tỏa sáng năm thánh hóa gia đình.
Gọi là Ân Huệ vì con người có dịp sống tâm tình chia sẻ, làm quen, sống tình làng nghĩa xóm hài hòa để nâng cao tình người và sống trọn kiếp người như Chúa đã sống với các tông đồ xưa. Đó là hồng ân cao cả Thiên Chúa trao ban cho con người để con người sống niềm vui, sự hạnh phúc và lòng quảng đại hầu con người mãi mãi sống con đường làm người của Con-Thiên-Chúa là Đức Giêsu Kitô.
Sống Ân Huệ Chúa ban là con người sống cái Phúc, cái Lộc, cái Thọ mà Thiên Chúa dành riêng cho con người.
Nhân dịp năm mới, xin cho mọi người được ấm cái lòng, no cái bụng, đẹp cái mặt, mát cái dạ và như thế là con người sống mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân múc từ ngọn nguồn Tình Yêu là Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Mùa Xuân bất diệt.
LỜI CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới, chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Quí Mùi này được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào(Lời nguyện nhập lễ, lễ Minh Niên).
Lạy Chúa, xin cho mọi người chúng con biết ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay(Tv 36,3-4.5-6.23-24.25-26).
19. Hãy tìm Nước Thiên Chúa (Mt 6, 25-34) (Lm Jos Nguyễn Hưng Lợi)
Lại một mùa xuân qua đi nhường chỗ cho những ngày mới khai mở một năm mới với biết bao ước vọng, với biết bao dự kiến, biết bao mơ ước và những kế hoạch, dự phóng cho một năm mới. Ngày xuân với bao lời chúc tụng cho nhau, chúc nhau an bình, thịnh vượng, may mắn. Đối với người Công giáo, ngày xuân ngoài những lời nguyện chúc bình thường mà bất cứ người nào cũng có thể chúc tụng nhau được thì người Kitô hữu còn chúc cho nhau được tràn đầy ơn Chúa, giữ vững đức tin và luôn sống đời sống của Chúa như Thầy đã yêu (Ga 15, 12).
ĐỔI MỚI VÀ MÃI MÃI ĐỔI MỚI: Năm cũ đã qua: năm con chuột đi vào quá khứ với những niềm vui, nỗi buồn. Năm con chuột có nhiều biến cố tốt đẹp nhưng cũng có những điều chưa được đối với từng người, đối với mọi người. Nhưng phải công nhận năm Mậu tý qua đi bình dị và vui tươi, hạnh phúc.Năm mới hy vọng với những ước mơ, với những dự tính xem ra sáng sủa và tốt đẹp hơn. Con người sẽ đẹp nếu họ biết quay trở về với chính mình để sửa đổi, để vươn tiến. Cuộc đời chỉ đẹp khi con người biết vươn lên, biết sửa đổi, biết làm cho cuộc đời sáng tươi, trong sáng. Năm con trâu với sự cần cù của loài vật đã có nhiều thập kỷ trở thành công cụ lao động quí hóa và mang lại nhiều lợi ích cho con người khi con người biết dùng sức lao động của con vật này trở nên bạn với người nông dân. Đã có một thời ” Con trâu đi trước, cái cầy đi sau ” luôn luôn gần gũi với người lao động Việt Nam. Bây giờ với thời đại khoa khoa, văn minh đi lên, con trâu không còn là công cụ duy nhất để cùng với người nông dân làm ra của cải. Ngày nay đã có máy móc, đã có khoa học kỹ thuật, người ta luôn đổi mới và luôn mãi mãi đổi mới để làm cho việc lao động mang lại nhiều của cải cho con người, cho loài người.
HÃY TÌM KIẾM NƯỚC TRỜI: Bài Tin Mừng của thánh Mathêu 6, 25-34 trình bầy cho mọi người một quan niệm. một tư tưởng, một lối đi chúng ta phải chọn lựa: ” chọn Chúa hay tiền của “. Đã chọn rồi, chúng ta phải sống theo điều đã chọn lựa. Nếu chúng ta chọn Chúa, chúng ta phải lo phụng sự Chúa, lo lắng làm những điều Chúa dạy, Chúa làm. Tuy nhiên, nếu đã chọn tiền của, con người sẽ làm tôi ma quỉ, làm tôi Mammôn và như thế con người sẽ xa Chúa và mất Chúa. Con người chọn Chúa sẽ được hai phần: được Chúa và Chúa ban cho con người tùy theo nhu cầu của con người. Do đó, suốt bài Tin Mừng, Chúa dạy con người đừng lo lắng thái quá về những điều phụ thuộc, không chính yếu lắm như của ăn, của mặc, nhưng phải tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Để làm nổi bật ý tưởng này, Chúa dùng hai hình ảnh rất thực tế như chim trời và hoa huệ ngoài đồng. Chim trời và hoa huệ ngoài đồng không lo lắng gì cả nhưng Thiên Chúa vẫn luôn chăm sóc chúng. Chúa dạy chúng ta hãy nhìn vào chim trời và hoa huệ để bắt chước, để học bài học quan phòng của Thiên Chúa. Chúa minh chứng và xác nhận con người cao quý hơn chim trời hơn hoa huệ nhiều vì con người có trí khôn, lý trí, có lương tâm, có đạo đức để phân biệt lành và dữ, biết phân biệt hạnh phúc và sự xấu số vv…Chim trời, hoa huệ vẫn làm việc vì không bay đi để kiếm ăn, không hút nước, hút tinh hoa trong lòng đất, hoa huệ sẽ chết. Chính vì thế, Chúa không khuyên chúng ta đừng làm việc, nhưng Ngài dạy chúng ta phải cần mẫn làm việc và phó thác tất cả cho Chúa để Chúa hướng dẫn và chỉ bảo.
NĂM MỚI VỚI NHỮNG ƯỚC MƠ MỚI: Năm mới mở ra cho con người, cho mỗi người hãy sống và hãy phục vụ với tình yêu, với đức tin. Chúa luôn yêu thương con người và dạy con người phải yêu thương như Ngài đã yêu. Bởi vậy, năm mới ai cũng có dự phóng, cũng có những ước mơ nhưng tất cả còn tùy thuộc nơi sự quan phòng của Chúa. Điều gì Chúa thấy cần, Ngài sẽ ban cho con người chúng ta. Chúa bảo”đừng lo ” không có nghĩa là Chúa bảo đừng làm việc, đừng lao động, đừng lo cho nhu cầu phần xác và trần gian, nhưng Ngài nói hãy cần cù lao động theo ý Chúa và phó thác thành công và thất bại nơi Chúa.Ước mơ luôn là mơ ước nhưng chính Chúa mới là người định đoạt:” Bạn hãy ký thác đường đời cho Chúa. Chúa, Chúa chính Chúa Ngài sẽ ra tay “.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: Xuân đem lại những gì tốt đẹp cho con người nếu con người biết thánh hóa những ngày xuân và năm mới.Tuy nhiên, còn nhiều người chưa chắc đã được hưởng một ngày xuân ấm áp, đẹp tươi: những mảnh đời tang thương, những mảnh đời rách nát. Chúng ta được diễm phúc hơn những hạng người nghèo khổ.Chúng ta hãy mở lòng để giúp đỡ những mảnh đời đau thương và cố gắng sưởi ấm tâm hồn họ.Năm mới, chúng ta cầu xin Chúa ban bình an để cuộc đời mỗi người, mỗi gia đình luôn đầy ắp tình thương và ân huệ của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Mùa Xuân vĩnh cửu, xin ban cho chúng con luôn biết phó thác nơi bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.
20. Chúa Giê-su là mùa xuân của nhân loại (Lm Ignatio Trần Ngà)
Nguyện xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu biến đổi chúng ta nên những người có phẩm chất cao đẹp.
Tết đến, xuân về, ai ai cũng hân hoan đón mừng năm mới; nhà nhà rộn rã sửa soạn mừng xuân.
Bầu trời ảm đạm của mùa đông đã được Xuân về nhuộm màu thắm tươi rực rỡ.
Xuân xua tan băng giá của mùa đông và đem lại ấm áp cho con người.
Xuân tô điểm cảnh vật, cho hoa trổ hương sắc, cho cây cối đâm chồi nẩy lộc, chim chóc ríu rít vui ca.
Xuân đổi mới vạn vật, xuân làm phấn chấn lòng người nên mọi người đều tưng bừng mừng xuân, chào đón xuân và cầu mong xuân sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp cho bản thân, cho gia đình mình, cho đất nước mình trong năm mới.
Thế nhưng còn có một Mùa Xuân khác tuyệt vời hơn mùa xuân của thời gian. Đó là Mùa Xuân Giê-su.
Chúa Giê-su chính là Mùa Xuân tươi đẹp đã và đang đến với nhân loại. Mùa Xuân Giê-su đi đến đâu thì tô đẹp cuộc đời và thăng hoa con người đến đó.
Mùa Xuân Giê-su hôm xưa đã hồi sinh những người đã chết: cho La-da-rô đã chết bốn ngày rồi được sống lại, cho con trai bà goá thành Na-im và cô con gái ông Giai-rô được hồi sinh.
Mùa Xuân Giê-su đã làm cho những người đau bệnh được chữa lành, người mù tối được sáng mắt, cho người điếc được nghe, cho kẻ què đi được, người phong được sạch.
Mùa Xuân Giê-su đã hồi sinh những tâm hồn héo hắt trong tội và giúp họ trở về nẻo chính đường ngay: hoán cải Gia-kêu bóc lột trở thành người quảng đại dám đem nửa gia tài bố thí cho người nghèo, đền gấp bốn những thiệt hại đã gây ra; biến người đàn bà tội lỗi trở thành người loan tin vui, biến người thu thuế thành tông đồ, biến Sao-lô bách hại trở nên chiến sĩ anh dũng loan Tin Mừng…
Nhưng điều đáng tiếc là mặc dù Mùa Xuân Giê-su đã đến trong cuộc đời chúng ta từ lâu nhưng chúng ta không chịu để cho Mùa Xuân Giê-su đổi mới đời mình. Vì thế, hôm nay, chúng ta hãy tha thiết cầu xin Mùa Xuân Giê-su tô điểm cuộc đời chúng ta nên tươi đẹp hơn.
Quý trọng nét đẹp tâm hồn
Ai ai cũng quý trọng sắc đẹp phần xác. Ngược lại, người ta cảm thấy buồn tủi nếu mình không được xinh đẹp duyên dáng.
Nhưng hãy nhớ rằng vẻ đẹp của tâm hồn đáng quý hơn vẻ đẹp thân xác. Vì thế, người ta thường nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người” hoặc: “Cái nết đánh chết cái đẹp.”
Đúng vậy, nét đẹp của tâm hồn, nét đẹp phát xuất từ phẩm chất cao quý của con người đáng trân trọng và quý mến hơn vẻ đẹp thân xác.
Bằng chứng là Mẹ Tê-rê-xa Calcutta, một nữ tu già nua, nghèo nàn, thấp bé và không có nhan sắc, vậy mà nhờ Mẹ có một thái độ tôn trọng mọi người như tôn kính Chúa, có một trái tim nhân ái đầy ắp yêu thương, có một tâm hồn quảng đại quên mình vì mọi người, có một tinh thần sẵn sàng phục vụ những người bần cùng khốn khổ khắp nơi trên thế giới… nên Mẹ được thế giới kính trọng và xem như là người phụ nữ cao quý nhất. Đúng là “xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.”
Trang điểm tâm hồn
Muốn trở nên xinh đẹp, cần phải tẩy xoá đi những gì làm cho đời ta hoá nên xấu xí.
Trong giao tiếp hằng ngày, phải loại trừ những lời nói thô lỗ, những ngôn từ thô bỉ, thiếu văn hoá… vì nó làm mất thanh danh phẩm giá của người thốt ra những lời đó.
Cố gắng loại trừ những hành động vũ phu, những hành vi côn đồ, thiếu văn hoá, thiếu văn minh và đạo đức… vì ai thực hiện những hành vi đó là tự làm hại chính mình, đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đồng thời chúng ta cố gắng trang điểm đời mình bằng cung cách lịch sự, bằng những hành vi cao thượng, bác ái, vị tha… Chính những hành vi cao đẹp nầy làm cho bản thân chúng ta thực sự trở nên cao cả.
Ngôi nhà chúng ta ở đã được nâng cấp (trước đây ở nhà tranh nay lên nhà ngói), phương tiện đi lại của chúng ta đã được nâng cấp (trước đi xe đạp nay lên xe máy), các mặt hàng tiêu dùng trong nhà đều đã được nâng cấp thì lẽ nào bản thân chúng ta lại không được nâng cấp sao?
Nguyện xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu biến đổi chúng ta nên những người có phẩm chất cao đẹp, càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và nhân đức, được Thiên Chúa và mọi người yêu mến (theo Luca 2,39).
21. Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Hãy ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Xem ra con người chúng ta thường vất vả, bon chen để sinh sống và để kiếm cho được một chỗ đứng nào đó trong xã hội. Đó là lẽ thường tình của con người. Tuy nhiên, đường của những môn đệ của Chúa lại khác bởi vì Chúa nói:” Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho “.
Những giây phút đầu năm mới là những giây phút thật đẹp Chúa trao ban cho nhân loại, cho con người, cho mỗi người. Chúa trao cho mỗi người, người năm nén, người ba nén, người một nén và Chúa đòi hỏi con người phải làm lợi ra cho Chúa. Mỗi ngày có 24 tiếng, 365 ngày một năm là món tiền Chúa trao ban cho mỗi người đồng đều để mỗi người làm lợi ra cho Chúa. Vâng, Chúa tạo dựng nên vũ trụ, con người, Chúa giao cho con người làm chủ vũ trụ, làm đẹp công trình sáng tạo của Chúa. Con người có đức tin, nên thánh Phaolô khuyên nhủ mỗi người hãy vui luôn trong Chúa. Như thế, con người chẳng lo lắng gì vì Chúa luôn quan phòng. Một sợi tóc trên đầu rơi xuống cũng nằm trong bàn tay quan phòng của Chúa. Con chim sẻ, hoa huệ là tạo vật, Chúa vẫn an bài huống chi là con người…Do đó, mỗi người hay tín thác vào Chúa và đặt hết sinh mạng, đời sống của mình nơi bàn tay an bài của Chúa:” Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”.
Chúa là Đấng chí công, Ngài là Đấng giầu lòng nhân hậu và giầu tình thương, Ngài sẽ ban ơn phù giúp cho mỗi người chúng ta. Đầu năm mới, chúng ta tiến thêm một bước nữa trong cuộc hành trình đức tin. Chắc chắn, mỗi người cần sự an bình bởi vì sự bình an là điều rất cần thiết để con người lãnh nhận ân huệ của Chúa. Sự bình an mà các thiên thần năm xưa hát vang trên không trung ngày Chúa giáng trần:” Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm “. Chúng ta phải có sự an bình trong tâm hồn, mới hiểu được những nấc thang giá trị của cuộc sống. Của cải vật chất cần thật để sinh tồn nhưng xin Chúa là sự khôn ngoan, sự bình an ban cho mỗi người chúng ta biết sáng suốt khước từ những gian tà, những bất chính, những thỏa hiệp để chỉ biết làm giầu cho cá nhân, cho bản thân mình. Chúng ta phải luôn tín thác nơi Chúa vì có Chúa mới giúp chúng ta biết quảng đại, chia sẻ với những người khổ đau, đói nghèo.
Tiết Đông nay đã qua rồi, mưa phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên thềm. Ngàn hoa rực rỡ vươn lên, tỏa hương ngào ngạt khắp miền đồng quê. Mùa vui hát lại trở về, tiếng chim gáy đã vẳng nghe thôn làng (Dc 2, 11-12). Cuộc đời con người giống như Xuân, Hạ, Thu, Đông cứ xoay chuyển vần xoay và rồi năm này tiếp qua năm nọ. Con người rồi cũng có lúc tàn phai. Nhưng Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, Chúa là Chúa của muôn xuân. Ngài hôm qua, hôm nay và mãi mãi muôn đời vẫn tươi xinh, tốt đẹp. Con người chỉ biết cúi đầu trước Đấng tạo hóa tối cao:” Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài ” (Tv 66, 2-3).
Và rồi con người chúng ta luôn hiểu lời này:” Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh. Công lý ban, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ “.
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Nhâm Thìn được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào (Lời nguyện nhập lễ, lễ Mồng Một Tết).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Ngày đầu năm có ý nghĩa gì?
2. Thánh Lễ Minh Niên để làm gì?
3. An bình có cần thiết cho con người không?
4. Phúc Lộc Thọ là gì?
5. Tại sao lại gọi Chúa là mùa xuân vĩnh cửu?
22. “Những Dấu lặng của Mùa Xuân”!
Năm cũ đi. Năm mới đến. Người ta lại bắt tay vào những công việc quen thuộc. Người thì lo tính toán sổ sách, hoàn tất công việc. Kẻ thì đi sắm sửa quần áo, giày dép, hoa kiểng, bánh mứt, quà cáp … Người khác lại lo chuẩn bị các mặt hàng để buôn bán ở chợ Tết. Năm nào cũng vậy, Mùa Xuân nào cũng thế. Nhưng thử hỏi nếu không có Mùa Xuân? Thì…?
Chuyện kể rằng:
“Ngày kia, có vài người đến thưa với Thượng Đế rằng: Tết năm nào cũng có bấy nhiêu việc. Chán quá! Chỉ có bọn con nít vô tư ham Tết chứ người lớn như chúng con chẳng ham gì Tết vì còn vất vả, tốn kém hơn ngày thường. Xin Ngài xem xét cho”! Suy đi nghĩ lại, Thượng Đế quyết định gọi Mùa Xuân trở về Thiên Quốc.
Thế là ba trăm sáu mươi lăm ngày này trôi qua, lại đến ba trăm sáu mươi lăm ngày khác tiếp nối nhau liên tục. Trẻ con cứ vùi đầu vào sách vở. Người lớn thì miệt mài chạy theo công việc làm ăn. Nhà cửa chẳng bao giờ được trang hoàng bởi những nhánh mai vàng rực rỡ và những chậu hoa kiểng xinh xắn, dễ thương. Các ông bà cụ mỏi mòn bên song cửa ngày này qua tháng nọ mà bóng dáng con cháu vẫn biền biệt. Bạn bè không có dịp họp mặt nhau bên ly rượu, mâm cơm để gặp gỡ, chia sẻ tâm tình … Và rồi dần dần, hoa cỏ nhợt nhạt vì thiếu làn gió xuân ấm áp và những đôi tay chăm sóc. Con người cũng dần dần xa cách nhau vì thiếu sự quan tâm và tình thương nồng nàn.
Chịu hết nổi, một ngày nọ, con người lại đến van xin Thượng Đế: “Xin Ngài đem Mùa Xuân trở về với chúng tôi. Không có Mùa Xuân, có ngày chúng tôi phát điên lên mất”.
Khi Mùa Xuân trở lại, sức sống và niềm vui lại chan hòa trên cảnh vật và con người …”
Có lẽ Mùa Xuân là một quà tặng tuyệt vời mà Thượng Đế gửi đến cho vũ trụ và con người. Quà tặng đó là thời gian, là những vẻ đẹp được kết tinh từ cả một chiều dài lịch sử văn hóa dân tộc, và sâu xa hơn, đó là một “món ăn” bổ ích cả thể xác lẫn tinh thần cho con người.
Có lẽ tùy vào hoàn cảnh và tâm trạng của mình mà mỗi người có những cảm xúc khác nhau trước Mùa Xuân.
Tôi rất thích Mùa xuân! Bao năm rồi vẫn vậy. Ngày xuân! Chợ và siêu thị nào cũng đầy ắp các loại bánh mứt, trái cây … được trưng bày đủ kiểu, đủ dáng thật đẹp; tấp nập kẻ bán, người mua. Bước ra hội chợ Hoa Xuân dường như … hoa cả mắt bởi các loại hoa kiểng xinh xắn, rực rỡ và mới lạ – đủ các dáng kiểu. Các Hội Xuân tưng bừng các trò chơi vui nhộn. Đường phố “dập dìu tài tử giai nhân” rạng rỡ trong những bộ quần áo thật đẹp và “model”. Trong các nhà thờ thì càng vui hơn nữa: mọi người hăng hái quét dọn, treo lộc xuân và những câu đối. Cảnh đẹp và người đẹp! Nhất là được trở về xum họp với gia đình và những người thương mến sau những tháng ngày xa cách, vì thế mà tôi vẫn cứ thích Mùa Xuân!
Đón mừng Xuân Mới. Ai cũng cũng có nhiều công việc phải làm: những chương trình vui xuân và những dự tính mới cho ba trăm sáu mươi lăm ngày sắp tới. Giữa những ồn ào náo nhiệt ấy, cần lắm một chút lắng đọng lại để lắng nghe “lời thì thầm của Mùa Xuân”!
Sau một năm dài bôn ba, mỏi mệt bởi công việc và tất bật chạy đua với thời gian, tôi cần có những giây phút dừng lại để nghỉ ngơi và “nạp năng lượng”; để đọc lại những bài học may, rủi, thành công và thất bại đã qua; để vun tưới cho những tương quan và tình cảm tốt đẹp với bao người thân yêu mà nhiều khi vì vô tình và vội vã, tôi đã đi lướt qua họ và bỏ mặc họ.
Đón Xuân không chỉ là dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa cho đẹp và mặc những bộ quần áo mới, hay có những kế hoạch vui chơi giải trí cho thật hấp dẫn, mới mẻ và thỏa thích. Điều quan trọng hơn, đón xuân là làm mới lại tất cả: tâm hồn, cách sống, công việc và đời sống gia đình, cũng như các mối tương quan xã hội. Khi đã “gạn đục khơi trong” con người mình bằng cách loại bỏ tư tưởng và những điều tiêu cực, đồng thời chắt lọc những giá trị tích cực và bổ ích, tôi sẽ có được sức mạnh và nghị lực mới để bước tiếp chặng đường mới một cách tự tin và vững vàng hơn.
Mùa Xuân mở đầu cho một năm mới. Hoa lá khoe sắc mới và gió xuân thổi vào lòng người niềm vui và hy vọng của những may mắn mới. Người người phơi phới niềm vui, hân hoan trao nhau những lời chúc tốt đẹp nhất: Phúc, Lộc, Thọ … và gửi biếu nhau những món quà thể hiện lòng biết ơn, sự trân trọng, quý mến và chia sẻ. Xin đừng quên nói lời cảm ơn những người bạn thân thiết đã chia sẻ cùng mình những niềm vui, nỗi buồn, thành công và thất bại. Hãy nói lời cảm ơn người cha, người mẹ, người chồng, người vợ và những người bà con thân quyến … đã gắn bó và nâng đỡ mình trong những ngày tháng qua. Hãy cảm ơn chính mình về những nổ lực và nhiệt tâm … Và đừng quên cất lời cảm tạ Thượng Đế về bao ơn lành Ngài đã ban cho ta trong một năm qua nơi mọi biến cố vui, buồn, may, rủi …
Có thể ví cuộc đời mỗi người như một bản nhạc được dệt bởi những cung bậc trầm bổng của thời gian. Giữa những cung bậc tưng bừng và náo nhiệt của Mùa Xuân, có “những dấu lặng” thật tuyệt vời để ta nghe lại âm hưởng của đoạn nhạc phía trước và bắt đầu những giai đoạn mới ở phía sau. Khi ấy, Mùa Xuân mới thật sự là “một phần tất yếu của cuộc sống” chúng ta. Cuộc đời chúng ta sẽ là Khúc Nhạc Mùa Xuân mà Thượng Đế ban tặng để làm phong phú hơn cho vẻ đẹp của con người.
23. Vạn sự như ý… Chúa
Dịp tết tôi có nhận được lá thư của người thân ở nước ngoài, cầu chúc cho tôi “vạn sự như ý” được nhắc đi nhắc lại gần ba lần Tôi hiểu người thân của tôi rất thương mến tôi, quan tâm nhiều tới tôi, mong ước cho tôi được may mắn điều này điều kia, không muốn tôi phải khổ, không muốn tôi gặp những khó khăn… Vạn sự đây chắc không phải chỉ có mười ngàn lần mà là mọi việc xẩy ra đều tốt đẹp như ý muốn, và đó là hạnh phúc nhất của con người, rất là tự nhiên thôi. Thử hỏi trên đời này có ai lại “mát” đến cỡ muốn đau khổ, muốn phiền toái, muốn thất bại, mọi việc xẩy ra đều ngoài ý muốn bao giờ đâu. Các tôn giáo này các giáo phái kia đều muốn giúp con người cách này cách khác thoát khỏi khổ, vì không được như ý muốn là khổ, muốn giầu mà cứ nghèo mãi chẳng khổ là gì? Muốn bình yên mà cứ gặp tai nạn hoài chẳng khổ là gì?
Xưa nay người ta vẫn hiểu công khai hoặc hiểu ngầm là Ý Chúa thì luôn ngược với ý người ta nên người ta phải khổ. Khi phải khổ thì người ta chẳng còn tha thiết gì với Đấng ấy, càng xa càng tốt, càng dửng dưng càng khỏe, càng tránh được bao nhiêu càng đỡ phiền toái bấy nhiêu… Bởi vì đấng ấy có nhiều quyền hành muốn sao nên vậy, mọi vật đều phải tuân thủ. Khi nổi cơn ngông lên thì giáng họa, đánh phạt, răn đe đủ điều, có khi dùng tạo vật làm những trò tiêu khiển; Ngài như con muỗi sốt rét lâu lâu chích cho ta một phát chơi đỡ buồn. Gặp đường cùng con người quay lại chống đối, giơ nắm đấm, vênh mặt lên nghênh hoặc con người không tìm được lối thoát thì đành phải ngậm bồ hòn chịu vậy. Có người gắng công gồng mình tập chịu vậy, rồi cho đó là một nhân đức, lập công; khi chịu vậy đã quen thì cho đó là đỉnh cao của đời sống đức tin, và đi đến đâu cũng khuyên bảo người khác một cách rất sốt sắng là “Ý Chúa đấy, hãy… chịu vậy”. Gặp người chịu vậy thì họ lại chịu vậy, gặp người không chịu vậy thì họ dù không tỏ thái độ ra bên ngoài nhưng bên trong cũng giận điên lên!!!
Có điều con người muốn nhận diện rõ ràng đâu là ý Chúa, đâu là ý người ta, đâu là ý Bề trên? Hay bị lẫn lộn. Ý Chúa thì ráng cúi đầu chịu vậy, chứ còn ý người ta thì….. không thể chịu được, ăn thua đủ, sòng phẳng. Ông muốn gà bà muốn vịt, ông muốn không bà muốn có, muốn có điện lại bị cúp điện, muốn làm hòa mà nó lại chẳng cần… như thế có phải ý Chúa không?
24. Hạnh phúc đích thật
Tai nạn giao thông ở ngoại ô thành phố Paris năm nào đã cướp đi mạng sống của công nương Diana. Cái chết của bà làm hàng triệu người xúc động. Người ta thương bà vì bà xinh đẹp, bà nhân từ và vì bà phải mất đi cuộc sống này khi tuổi đời còn qúa trẻ, chưa được hưởng trọn vẹn niềm vui hạnh phúc. Hạnh phúc là niềm khát khao của mọi người. Con người sinh ra là để được sống hạnh phúc. Cả đời người là cuộc hành trình kiếm tìm hạnh phúc. Vậy hạnh phúc ở đâu? Hạnh phúc là gì?
Bạn thân mến! Thiên Chúa cũng bận tâm đến hạnh phúc của con người. Những gì Ngài làm cho ta như tạo dựng, nhập thể, cứu chuộc, thánh hóa..v..v.. Tất cả đều nhằm đem lại hạnh phúc cho ta trong cuộc đời này và cả cuộc đời mai sau nữa. Hạnh phúc của Thiên Chúa như gắn liền với hạnh phúc của con người. Thiên Chúa vui khi thấy con người hạnh phúc.
Định nghĩa hạnh phúc là điều không dễ làm, vì mỗi người có một quan niệm khác nhau về hạnh phúc, và nơi mỗi người, quan niệm này cũng biến đổi theo thời gian. Thường ta hay chạy theo những cái bóng của hạnh phúc, để rồi vỡ mộng, nhưng nhờ đó ta dần dần hiểu hơn thế nào là “hạnh phúc đích thật”: Hạnh phúc đích thật không nằm nơi của cải; kiến thức hay quyền uy. Hạnh phúc đích thật không do chiếm đoạt những gì mình muốn, nhưng do trao hiến những điều quý nhất của mình. Hạnh phúc đích thật là mãn nguyện với những gì mình được ban tặng; là niềm vui nhẹ nhàng, là bình an sâu lắng. Hạnh phúc đích thật là sự an bình ổn thỏa giữa tôi với Chúa, giữa tôi với anh em, và giữa tôi với chính tôi…
Sống ở đời, con người thấy mình không hạnh phúc trọn vẹn. Hạnh phúc bao giờ cũng được pha trộn với mồ hôi và nước mắt. Nhưng có hạnh phúc thật nào lại không mua bằng khổ đau? Chỉ ai biết yêu thực sự, mới cảm thấy hạnh phúc thực sự.
Chúng ta cần nhiều thời gian để suy đi nghĩ lại, và nhất là cần nhiều ơn ban từ trời cao giúp ta thấu hiểu được các mối phúc. Cũng như trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, những điều người đời coi là bất hạnh, Đức Giêsu bảo đó là hạnh phúc đích thật: nghèo, đói, khóc than, bị oán ghét, bị khai trừ, bị sỉ vả..v..v.. những điều đó tự chúng chẳng có giá trị gì. Nhưng nếu ta nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét bỏ vì nói lên dự thật, bị sỉ vả vì Chúa..v..v..thì ta thật là người có phúc. Hạnh phúc đó xảy ra ngay trong hiện tại, nơi một lương tâm thanh thản. Ta thấy mình giàu lên trong cảnh nghèo khó, no thỏa khi đói khát, vui tươi khi rơi lệ, và nhảy mừng khi bị bách hại.
Trải qua bao nhiêu thế hệ, có biết bao Kitô hữu đã sống các mối phúc thật trong đời mình. Họ cảm nghiệm được cái nghịch lý dễ thương; cái thâm sâu cao cả của Lời Chúa đã khắc ghi trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.
Không phải chỉ có bốn hay tám mối phúc trong Tin Mừng. Phúc cho ai nghe và giữ Lời Chúa, phúc cho ai không thấy mà tin… Đức Giêsu có thể kéo dài các mối phúc đến vô tận, để các mối phúc đi vào mọi ngõ ngách của đời thường. Ước gì mỗi người trong chúng ta biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, biết viết lên những mối phúc mới, cậy dựa vào những niềm vui và ơn ban Chúa dành cho ta trong cuộc sống hàng ngày.
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ trên đường Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa luôn ẩn hiện trong Tin Mừng. Nụ cười ấy hòa lẫn với niềm vui trào dâng của người được lành bệnh; của người chết sống lại và của người đàn bà tội lỗi được ơn tha thứ …
Lạy Chúa, có những niềm vui Chúa muốn trao cho con hôm nay, có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại trong con. Xin dạy con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với con. Xin cho con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều là màu hồng. Con hay lo âu và chản nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi của con. Xin cho con luôn cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Chúa yêu thương, và được sai đi để thông truyền tình thương ấy cho anh chị em của con. Amen.
25. Ngày đầu năm – R. Veritas
Tâm tình tạ ơn và phó thác trong cuộc sống.
Một nhà tư tưởng người Đức sống vào thế kỷ thứ 14 được tôn làm bậc tôn sư đưa ra khuôn vàng thước ngọc như sau:
– Người quan trọng nhất trong lúc này là người đối diện với ta.
– Giờ phút quan trọng nhất đối với ta lúc này là giờ phút hiện tại.
– Công việc quan trọng nhất là công việc bác ái yêu thương.
Chỉ chú ý vào người đối dịện, vào giờ phút hiện tại vào công việc ta đang làm. Đó là bí quyết sống hạnh phúc.
Người Nga cũng có một châm ngôn tương tự:
– Chỗ quan trọng nhất là chỗ bạn đang đứng này đây.
– Con người quan trọng nhất là con nguời đang đứng trước mặt bạn và đang cần bạn.
Đầu năm mới, có lẽ ai trong chúng ta cũng có một quyết tâm. Có người quyết tâm bỏ thuốc lá. Có người quyết tâm bỏ uống rượu. Có người quyết tâm dành thêm tiền bạc để đi buôn, để xây nhà,v.v… Có người quyết tâm hăng hái học hành để chuẩn bị cho một tương lai sáng lạn. Có quyết tâm và có quyết tâm, nhưng lắm khi sức người có hạn, chúng ta lại bỏ cuộc giữa đàng, đâu lại vào đó, con sâu của chán nản, của thất vọng lúc nào cũng chực sẵn để gậm nhấm tâm hồn chúng ta.
– Hãy sống giây phút hiện tại với tất cả tâm tình lạc quan và phó thác. Đó phải là quyết tâm mà chúng ta có thể làm tức khắc trong giây phút này.
– Hãy hưởng nếm những niềm vui nhỏ trong cuộc sống như ân tình diệu vợi của Chúa.
– Hãy trao vào tay Ngài mọi sầu muộn lắng lo. Chúng ta hãy để cho mọi lo âu lắng đọng xuống.
Chúng ta hãy chấm dứt mọi bài ca than vãn của thất vọng để chỉ còn lại một tâm tình duy nhất xứng hợp với người có lòng tin: Đó là tâm tình phó thác và tri ân.
– Tạ ơn Chúa đã ban cho ta chào đón năm mới.
– Tạ ơn Chúa đã luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta để dẫn dắt chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống.
– Tạ ơn Chúa đã giữ vững chúng ta trong niềm tin vào Tình Yêu của Ngài.
– Tạ ơn Chúa cho riêng chúng ta. Tạ ơn Chúa cho tất cả mọi người.
– Tạ ơn Chúa chúng ta cũng không quên tạ ơn người:
– Tạ ơn ông bà tổ tiên đã cho chúng ta được sinh ra làm người Việt Nam. Tạ ơn cha mẹ đã sinh ra và giáo dục chúng ta nên người. Tạ ơn những người thân thương ruột thịt đã đùm bọc chúng ta. Tạ ơn những người bạn tốt đã nâng đỡ chúng ta bằng muôn nghìn cách thể hiện của tình yêu. Tạ ơn những người vô danh mà sự hiện diện và âm thầm đồng hành đã giúp chúng ta được sống như con người. Tạ ơn tất cả những người khốn khổ kém may mắn hơn chúng ta: Nhờ đó tiếng gọi sống yêu thương huynh đệ liên đới còn vang vọng trong tâm hồn chúng ta. Tạ ơn nhiều người mà chúng ta thù ghét. Tạ ơn những người thù ghét chúng ta. Tạ ơn tất cả bởi vì cách này hay cách khác họ vẫn luôn luôn là tiếng gọi để chúng ta sống tinh thần Kitô hữu nhiều hơn.
Với tất cả tâm tình tạ ơn. Chúng ta hãy dâng lên Chúa một năm mới.
Xin đâng lên Ngài tất cả niềm cảm mến tri ân của chúng ta.
26. Năm mới cầu gì? – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Năm mới, mọi người thường trao tặng nhau những lời cầu chúc thật tốt đẹp. Một trong những lời chúc được ưa chuộng nhất đó là lời chúc: Phúc – Lộc – Thọ. Lời chúc này được tạo nên bởi một hình tượng khá rõ nét với bộ Tam Đa: ông Phúc bế đứa trẻ; ông Lộc mặc phẩm phục đeo đai, trên đầu đội mão cánh chuồn; ông Thọ, người lùn thấp, đầu nhẵn bóng trán dô lên, một tay chống gậy, một tay cầm quả đào
. Cả ba ông đều có chòm râu dài bạc trắng, nét mặt hồng hào, cười tươi rạng rỡ.
Vậy, Phúc- Lộc- Thọ: Các ông là ai?
Ông Phúc là Quách Tử Nghi – Thừa tướng thời nhà Đường. Ông là một vị quan thanh liêm nên cũng nghèo. Đổi lại nhà ông ngũ đại đồng đường, con cháu đề huề. Lúc ông mất, con cháu năm đời đều có đủ.
Ông Lộc là Đậu Tử Quân, làm Thừa tướng thời nhà Tấn. Trái ngược với Quách, Đậu là quan tham, tiền của như núi nhưng khi trăm tuổi không có người nối dõi.
Ông Thọ là Đông Phương Sóc, làm Thừa tướng thời nhà Hán. Ông này giỏi xu nịnh, được lòng vua nên hưởng nhiều bổng lộc. Ông mang lộc vua ban mua nhiều gái đẹp làm thê thiếp, mục đích dưỡng sinh. Và cũng sống dai, trên trăm tuổi. Khi chết thì chỉ có đứa chút bốn đời lo tang ma, còn cháu chắt chết hết cả.
Ba vị đó được người Trung Quốc dựng lên ba hình tượng, không phải để thờ mà để người đời nhìn gương đó mà lựa chọn cách sống cho phù hợp. Phúc –Lộc – Thọ có lối sống khác nhau. Phúc thì tử tế, còn cầu như Lộc Thọ là cầu cái vô phúc, liệu có ai muốn không?
Xem ra lời cầu chúc “Phúc – Lộc – Thọ” đã được hiểu sang một ý khác không còn mang ý nghĩa ban đầu của hình tượng Tam Đa. Nhưng thực tế, có lộc mà không có an bình, có Thọ mà không có niềm vui cũng là điều bất hạnh cho con người. Thế nên, không cần cầu cho có nhiều tiền, không cần cầu cho sống dai mà là cầu cho có phúc được hưởng niềm vui trong cuộc sống mới là quan yếu.
Có ai đó đã nói rằng: ” Ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao. Tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao”. Có được niềm vui thanh cao là hạnh phúc. Đây mới là mục đích tìm kiếm của đời người. Con người sinh ra để đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là điều ai cũng khao khát, tìm kiếm suốt cả cuộc đời.
Tóm lại, Phúc – Lộc – Thọ là ước nguyện lớn nhất của mọi người. Thế nhưng, trong ba điều ước Phúc – Lộc – Thọ thì Phúc mới là điều chính yếu mà chúng ta cần cầu mong. Vì được đông con, có tiền, sống dai mà không có hạnh phúc thì cũng là những tháng ngày bất hạnh cho cuộc đời chúng ta.
Chúa Giê-su ngay trong bài giảng đầu tiên Ngài cũng nhắc đến cái Phúc của con người. Cái phúc của Chúa Giê-su không phải là con cháu đầy nhà. Cũng không phải là nhiều tiền nhiều của. Cũng không phải là sống lâu đến độ “bách niên giai lão”. Cái phúc mà Chúa mời gọi chúng ta ao ước, tìm kiếm là có Chúa ở cùng. Có Chúa làm gia nghiệp. Hay được Chúa xót thương….
Những mối phúc này hoàn toàn lệ thuộc vào sự tự do chọn lựa của chúng ta. Chọn Chúa để sống khó nghèo, thanh sạch, hiền lành, nhẫn nại, hy sinh…; Đổi lại người ấy được nhìn xem Thiên Chúa và có Chúa làm gia nghiệp đời đời.
Nhưng ở đời hôm nay người ta ít chọn Chúa khi mà nhu cầu hưởng thụ mỗi ngày một cao hơn. Người ta cần tiền để thoả mãn nhu cầu vật chất của mình lên không chịu sống khó nghèo. Có tiền người ta rải tiền trong các cuộc truy hoan trụỵ lạc. Thế nên, người ta ít sống thanh sạch. Cuộc sống luôn tất bật, bon chen, xô đẩy con người, khiến có mấy ai hiền lành, nhẫn nại, hy sinh…?
Hôm nay ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới chứa chan ơn Phúc từ Trời. Xin cho chúng ta luôn là người có Phúc khi chọn Chúa làm gia nghiệp, khi chọn Chúa hơn những của cải mau qua trần gian. Xin cho chúng ta luôn tìm được niềm vui có Chúa ở cùng khi biết sống phụng sự Chúa với hết cả tấm lòng. Amen
27. Bình An Năm Mới – Mt 6, 25-34 (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi – Tết Quý Tỵ 2013)
Cả trời bỗng diêu diêu như báu vỡ:
Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta ngỡ Đấng Tiên Tri muôn thuở
Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm.
Đó là những câu thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, đã viết lên để ca ngơi Đấng Tiên Tri muôn thuở, xin Ngài giáng phúc thi ân, ban phước lộc cho muôn người, muôn nhà trong năm mới. Bởi vì năm cũ Nhâm Thìn đã qua đi nhường chỗ cho năm Quý Tỵ.Mọi Kitô hữu hãy ngước mắt lên trời, xin Thiên Chúa chúc lành cho năm mới này, để muôn người, muôn nhà được sống trong sự an bình của Chúa…
Tiết Đông nay đã qua rồi,
Mưa phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên thềm.
Ngàn hoa rực rỡ vươn lên,
Tỏa hương ngào ngạt khắp miền đồng quê.
Mùa vui hát lại trở về,
Tiếng chim gáy đã vẳng nghe thôn làng (Tv 66,2-3).
Sự an bình, vui nhộn của đồng quê, làng mạc, thôn xóm trong những ngày xuân nói lên rằng Thiên Chúa yêu thương con người, quan tâm đến con người cả tinh thần đến vật chất. Đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay nói đến sự quan phòng của Thiên Chúa: chim trời, hoa huệ và mọi sự đều được Chúa an bài, ngay cả sợi tóc trên đầu rơi xuống đất cũng do Thiên Chúa định liệu. Con người quý trọng hơn hoa huệ, chim trời biết bao! Người Kitô hữu hãy ký thác đường đời cho Chúa, tín thác nơi Chúa:” Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn.Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng “.
Suốt một năm qua, chắc chắn mỗi người đã được Thiên Chúa ban cho những ân huệ đặc biệt tùy theo lòng thương xót của Ngài…Năm mới tới, chúng ta luôn tin như thánh Phaolô viết:” Anh em đừng lo lắng gì cả.Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu “.
Năm mới, chúng ta luôn xác tín rằng Thiên Chúa sẽ luôn ở cùng chúng ta. Nên, Lời Chúa:” Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế ” (Mt 28, 20) an ủi, nâng đỡ và giúp chúng ta tin tưởng tiến bước vì chúng ta cảm nghiệm sâu xa Chúa ở cùng chúng ta trong mọi hoàn cảnh của đời sống chúng ta.
Ngày lại ngày, chúng con ca ngợi Chúa, mãi ngàn năm, xin chúc tụng danh Ngài, lời Thánh Vịnh là động lực giúp chúng con luôn bám chặt vào Chúa và tôn vinh, ca ngợi Chúa. Kinh tiền tụng lễ Minh Niên nhắc nhở chúng ta:”…Riêng con người, Cha đã tạo nên giống hình ảnh Cha và cho điều khiển mọi công trình kỳ diệu trong hoàn vũ trụ, để họ thay quyền Cha làm chủ mọi loài, và khi chiêm ngưỡng những kỳ công Cha đã thực hiện, họ hát mừng ca tụng Cha luôn mãi, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con “. Chúng ta vững bước, tin tưởng ký thác nơi Chúa, chính Người sẽ hướng dẫn và điều khiển cuộc đời của mỗi người.
Lạy Chúa, Chúa đã trao cho loài người chúng con trách nhiệm trông coi vũ trụ. Nay chúng con hoan hỷ dâng lên Chúa những lễ vật đầu xuân, chọn lựa trong tinh hoa của ruộng vườn.Xin cho chúng con không ngừng cảm tạ tri ân, và chu toàn sứ mệnh làm chủ trái đất (Lời nguyện tiến lễ, lễ Minh Niên).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tết có ý ngjĩa gì?
2. Tại sao chúng ta lại ký thác đường đời cho Chúa?
3. Bình an của Chúa có khác với hòa bình của con người?
4. Phúc Lộc Thọ là gì?
5. Tại sao lại gọi Chúa là Mùa Xuân vĩnh cửu?
28. Tết cho mọi người – Lm Jos Nguyễn Hữu An
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa với nền văn minh lúa nước vốn có những ngày Tết truyền thống, những ngày lễ hội dân gian đầy ý vị và vui tươi. Từ Tết cơm mới cuối vụ mùa cho đến lễ mở rừng đi săn. Đến như lễ tết ra giêng để vào hè thì có Tết Thượng Nguyên, Tết Hàn Thực, Tết Đoan Ngọ. Đặc biệt để tiễn mùa đông người Việt đã ăn Tết Nguyên Đán. Bên cạnh đó còn có nhiều tết khác như Tết Trung Nguyên (rằm tháng bảy) của Phật Giáo, Tết Trung Thu (dành cho thiếu nhi), Tết Trùng Dương, Tết Ông Táo… Tất cả đều có sự tính toán dựa theo sự chuyển đổi của thời tiết trong năm và căn cứ vào nông lịch phương Đông.
Chữ “Tết” ngày nay đã được một số quốc gia sử dụng như là một “Lễ” hết sức độc đáo của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng chữ “Tết” bắt nguồn từ “Lễ Tiết” bên Trung Quốc. Tết do Tiết đọc chệch đi. Từ chữ Tết người ta còn ghép theo từ Nhứt nữa nghe thật thú vị, như ‘Tết Nhứt’ là do đọc chệch đi từ hai âm Hán Việt “Tiết Nhựt”, có nghĩa là ngày Tết. Còn Nguyên Đán, theo chữ Nôm: Nguyên là bắt đầu, Đán là buổi sớm mai, Nguyên Đán là sớm mai đầu năm. Nguyên Đán còn gọi là “Chính Đán” tức là “Chính Nguyệt Chi Đán” (buổi sớm mai tháng giêng), ngoài ra còn sử dụng từ tam chiêu, là ba cái sớm mai (sớm mai đầu năm, sớm mai đầu mùa, sớm mai đầu tháng).
Tự xưa nay, là người Việt Nam, dẫu ở bất cứ nơi đâu vẫn xem trọng ngày Tết Nguyên Đán. Một năm làm lụng vất vả mưu toan cho cuộc sống; một năm xa gia đình bôn ba mọi nơi, ba ngày Tết Nhứt vui vẻ, đoàn tụ, mọi chuyện buồn phiền lo toan đời thường tạm gác sang một bên để mọi người cùng hưởng niềm vui đón xuân về, tết đến.
Người Việt Nam vui hưởng Tết và luôn nhớ về Tổ tiên ông bà cha mẹ, nhưng không quên nghĩ đến người nghèo, thương đến những người đã khuất núi.
Tết cho người trần
“Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết”, câu nói ấy đủ cho thấy người Việt chú trọng đến ngày Tết như thế nào. Dù khốn dù khó thì ngày Tết cũng phải có cặp bánh chưng, khoanh giò lụa, nải chuối, hộp mứt. Nhà có điều kiện thì mua sắm đủ thứ, nào là mâm ngũ quả thật đẹp, các loại bánh mứt thật hảo hạng, cây giò thật to, gà, thịt thật nhiều, bánh chưng và nhiều loại bánh khác. Cùng với những thứ ăn, là những chậu hoa, cây cảnh, chậu quất sai qủa, gốc mai cành đào đầy đủ lộc, nụ, hoa…
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ” là cái Tết truyền thống của người Việt Nam. Ý nói cái Tết có cả phần vật chất lẫn tinh thần. “Câu đối đỏ” ngày nay được cải tiến rất nhiều. Bên cạnh những đôi câu đối viết bằng mực đen trên nền giấy điều, giấy lụa là những câu đối in trên loại giấy bóng tốt, nhiều nhà còn sắm về những hoành phi câu đối bằng gỗ, khảm trai hay những đôi câu đối thêu… Quan niệm của người Việt, ngày Tết tiễn cái cũ đi, đón cái mới về. Chính vì vậy, cùng với việc mua sắm, nhiều nhà có điều kiện, những tháng cuối năm thay đổi những cái cũ trong nhà như thay đổi tivi mới to hơn, đổi cái tủ lạnh, cái máy giặt hay thay xe… nhà không có điều kiện thì cũng cố gắng làm cho căn nhà mới hơn bằng việc quét vôi lại hoặc kê dọn đồ đạc trong nhà, lau chùi đánh bóng lư hương bát đèn, dọn dẹp sân vườn sạch sẽ…
Ngày Tết, còn là dịp để người người vui chơi. Bên cạnh việc “Ăn Tết”, người ta nghĩ đến việc “Chơi Tết”. Chơi Tết có thể kéo dài từ những ngày áp Tết 27, 28, 29 Tết với những cuộc đi ngắm chợ hoa, đi chợ Tết và ngày nay còn cả việc đi vào các siêu thị. Có thể mua hoặc có thể chẳng mua gì, song việc đi chợ như là niềm vui của ngày Tết, đặc biệt đối với giới nữ. Vì vậy, chợ là nơi thu hút đông người. Chợ vốn dĩ đã ồn ào, náo nhiệt thì những ngày áp Tết chợ càng thêm tưng bừng, rộn rã hơn. Nói đến “Chơi Tết” thì không thể không nói đến chuyện đi thăm hỏi, chúc Tết nhau, con cái đi chúc Tết cha mẹ, anh em, họ hàng, thân bằng cố hữu đến chúc Tết nhau. Trong nhà, ngoài đường vui như trẩy hội. Việc “Chơi Tết” không chỉ dừng lại ở ngày Mùng Một, Mùng Hai. Nó có thể kéo dài hết tháng giêng, tháng hai và cả tháng ba với những lễ hội, đình đám. Vì thế mà người ta có câu: Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai đình đám, tháng ba hội hè. Có lẽ người người chờ đón Tết, thích Tết cũng vì lẽ đó.
Tết cho người âm
Người Việt rất trọng chữ “Lễ nghĩa – trước sau”. Ngày Tết nhà ai cũng phải có mâm ngũ quả, mâm cơm thắp hương tổ tiên. Quan niệm “Trần sao, âm vậy” nên dễ thấy những ngày trước Tết, trong các chợ, quầy bán hàng mã cũng rất đông người. Người ta mua tiền, vàng, mua quần áo, có nhà chu đáo còn mua cả tivi, tủ lạnh, xe đạp, xe honda hay cả xe hơi, điện thoại di động, toà nhà nhiều tầng về đốt cho người thân ở cõi âm.
Ở nhiều làng quê, người ta còn nghĩ về người âm, lo Tết cho những người âm không có nhà cửa bằng việc nấu cháo hay cơm nát đơm từng thìa cho vào lá sung hoặc lá ổi đã được cuộn tròn như cái phễu đem để bụi tre, dọc đường vào đêm ba mươi. Và cũng trong đêm ba mươi, ngày mùng một chủ nhà nào cẩn thận còn bảo con cháu ra mở cửa, mở cả cửa trước, cửa sau, ngoài ý niệm trần thế đón Xuân vào nhà còn hàm ý mở cửa mời ông bà, tổ tiên về cùng vui đón Tết.
Tết cho người âm còn thể hiện ở việc người trần đi tảo mộ. Thường người ta đi tảo mộ vào sáng sớm mùng hai hoặc mùng ba Tết với mâm cơm nhỏ để ông bà, cụ kị chứng cho con, cho cháu, hoặc với những người trẻ xấu số thì mâm cơm tảo mộ còn để cho hương hồn họ không cảm thấy cô quạnh.
Tết cho hai phần thế giới… giao thoa
Ngày Tết, đất trời giao hòa, người người gần gũi nhau hơn. Trong cái không khí ấm áp lạ thường của ngày Tết, người đi xa lại thêm nhớ về nhà, về quê hương, nơi đó có những người thân yêu, ruột thịt. Bên mâm cơm gia đình, gợi nhớ những người ở xa, ngậm ngùi nghĩ về những người thân đã khuất. Trong cái khối đất trời hoà quyện, người người muốn tìm và gặp nhau có lẽ cũng xuất phát từ những ước nguyện ấy.
Những ngày Tết, người ta đến với cửa chùa, cửa đền nhiều hơn. Tuỳ từng điều kiện của mỗi gia đình, tuỳ vào lòng thành của mỗi người song hầu hết đến chùa ai cũng có được lễ vật để dâng. Ở nơi này, trong bảng lảng của khói hương, người người cầu ước và hy vọng những ông quan với bộ mặt hiền từ ngồi kia cùng những linh hồn quanh đó nghe được và giúp họ thực hiện những điều ước tốt đẹp trong năm mới. Trong dân gian, người ta cũng truyền miệng nhau rằng, ngày Tết, các quan trông coi các chùa cũng rất bận rộn. Họ phải cắt cử nhau ở chùa để ghi lại những điều mong ước của người trần. Sau đó báo cáo lên thiên đình, rồi căn cứ vào những việc làm thiện, ác của từng người, của từng gia đình mà thiên triều cho người đó được hưởng hạnh phúc hay khổ đau trong năm đó. Những vong hồn cũng quanh quẩn cửa chùa thường là những vong hồn phiêu dạt không cửa nhà, họ tìm đến đây để xin được ăn. Và cửa chùa chính là nơi giúp người âm và người dương gần nhau hơn. (Tổng hợp từ các báo xuân: tuổi trẻ, phụ nữ, nhân đạo, kinh tế, công giáo dân tộc).
Tết nơi xứ đạo
Những ngày giáp Tết mọi nhà tất bật bận rộn công việc bán mua, sắm sửa cho ngày Tết. Chợ búa đông vui nhộn nhịp.
Xứ đạo tôi thuộc miền quê, rộn ràng bao lo toan đón Tết. Chuẩn bị quà Tết cho người nghèo. Năm nay mất mùa, người nghèo nhiều hơn. Quà Tết cho người nghèo là lương thực cứu đói. Huy động hết mọi đoàn thể, mọi giới trong xứ đi lạc quyên giúp người nghèo được “Ăn Tết” cùng với mọi nhà, bởi lẽ “giàu thì ngày ăn ba bữa, nghèo thì cũng đỏ lửa ba lần”. Quà cho các cụ già trên 70 tuổi như tấm lòng biết ơn cùng với lời chúc thọ của con cháu trong thánh lễ Mồng Hai Tết.
Năm nào giáo xứ cũng tổ chức hội thao cho giới trẻ, thiếu nhi, bóng đá bóng chuyền. Thêm ba đêm hội chợ, văn nghệ vui xuân. Vì thế khuôn viên Nhà thờ tấp nập mọi đoàn thể ngày đêm tập luyện, chuẩn bị cho ba ngày Tết. Vui Tết lành mạnh, ở làng quê giảm đi bao tệ nạn cờ bạc rượu chè say sưa.
Đất Thánh cũng đông người đến tảo mộ, sửa soạn cho Thánh Lễ sáng Mồng Hai Tết. Những ngày cận Tết, nghĩa trang lung linh ánh sáng đèn nến, nhập nhoà hương khói.
Chuyện Tết cho người trần, Tết cho người âm, Tết cho người nghèo chính là cuộc sống mà người người đang hối hả khi cái Tết bắt đầu gõ cửa.
29. Hạnh phúc trường sinh (Lm. Jos Tạ duy Tuyền)
Người đời vẫn coi ba hạnh phúc lớn nhất của con người là Phúc – Lộc – Thọ. Phúc là công danh chức tước – Lộc là con cháu đông đảo – Và thọ là tuổi già.
Có công danh, sinh con cái là những dịp để người ta khao vọng, mừng rỡ, và khi hưởng tuổi già người ta lại càng cần phải mừng rỡ hơn để tạ ơn trời đất tiên tổ đã phù hộ cho được sống lâu. Vì đây là nỗi khao khát của con người vượt qua mọi thời đại. Dân tộc nào cũng ước mơ trường thọ, thời đại nào cũng mong được trường sinh bất tử. Dân tộc Việt Nam cũng biểu lộ sự khao khát trường sinh bất tử qua câu truyện Từ Thức lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh. Nỗi khao khát này còn được biểu lộ nơi chúng ta trong những dịp lễ tết đầu năm thường chúc nhau mạnh khỏe sống lâu, và trong đám cưới người ta vẫn thường cầu chúc cô dâu chú rể trăm năm hạnh phúc.
Vâng, sống hạnh phúc và trường thọ là nỗi khao khát nhất của đời người. Người đời không chỉ mong sống lâu mà còn mong được sống hạnh phúc và bình an. Hôm nay ngày đầu năm, mỗi người chúng ta đều chúc nhau hạnh phúc. Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm an khang thịnh vượng. Chúng ta mong ước cho nhau luôn mạnh khoẻ sống lâu và làm ăn phát đạt. Đây chính là những ước mơ rất chính đáng của con người. Là người ai cũng mong được sống trường sinh và hạnh phúc.
Chính Chúa Giê-su cũng định hướng cho chúng ta một con đường dẫn tới bến bờ hạnh phúc và trường sinh. Đó chính là con đường của tám mối phúc. Đây là con đường đòi hỏi sự dấn thân quên mình, đòi hỏi phải hy sinh những cái nhỏ để được cái lớn hơn. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, có tấm lòng hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, giữ lòng trong sạch, và biết xây dựng hoà bình. Đây cũng là một đòi hỏi kiên quyết của người môn đệ Đức Kytô. Họ phải là những người nghèo trước mặt Thiên Chúa. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Chúa và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người. Cho dù mình có bị thiệt thòi một chút, đau khổ một chút nhưng họ lại có ích cho gia đình, cho xã hội và đồng loại. Cuộc sống của ta chỉ có niềm vui trong những gì chúng ta cho đi. Cho thì có phúc hơn nhận lãnh. Một con người không bao giờ biết cho đi, không bao giờ biết hy sinh vì người khác, hay không bao giờ sống thanh sạch lòng thanh – gìn giữ công lý và xây dựng hoà bình, họ chỉ là một ốc đảo xa xăm, tự nhốt kín đời mình trong ngục tù cô đơn. Họ là những con người vô dụng, vô tâm, sống xa rời tình Chúa – tình người nên họ chỉ là những cây xanh thiếu lá, xem ra trơ trụi, trơ trẽn giữa cuộc đời.
Năm nay được gọi là Năm Con Rồng. Con Rồng là linh vật đứng thứ 5 trong 12 con giáp, rồng được coi là là sản phẩm của truyền thuyết và các huyền thoại, biểu tượng của sự may mắn, thịnh vượng cũng như quyền lực mạnh mẽ. Rồng còn là biểu tượng của lòng bái ái bao dung. Theo truyền thuyết, khi Rồng vừa bay tới vừa nhả lửa trên bầu trời. Thượng Đế thắc mắc tại sao một con vật mạnh mẽ như Rồng lại không đến đích đầu tiên, Rồng trả lời vì nó còn phải dừng lại giữa đường, làm mưa giúp dân dưới trần thế.
Năm Rồng chúng ta cầu chúc nhau nhiều điều may mắn đến với chúng ta trong năm, đồng thời cũng cầu chúc nhau biết xây dựng hạnh phúc đời mình như con Rồng bằng việc thi ân cứu đời. Sống thanh cao như Rồng. Sống vươn lên khỏi những đam mê xác thịt thấp hèn. Sống thanh thoát khỏi những bon chen vật chất tầm thường, những danh lợi thú mau qua, và biết tìm niềm vui trong đời sống hiến dâng phục vụ cho đời.
Nguyện xin Chúa Xuân ban cho chúng ta một năm mạnh mẽ như rồng và nhiều điều may mắn đến với chúng ta. Xin Chúa Xuân chúc lành cho chúng ta một năm vạn sự như ý. Xin Chúa giúp chúng ta biết vươn lên trong nhân đức và mạnh mẽ trong đức tin đức cậy và đức mến. Amen
30. Hạnh phúc đầu năm (Mt 5,1-10) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Mỗi năm vào ngày đầu năm mới người ta vẫn chúc tụng nhau và cầu chúc cho nhau những điều may mắn, những điều tốt đẹp nhất, những điều hạnh phúc nhất.Hôm nay ngày 01 tết Canh Dần, phụng vụ cho chúng ta đọc lại tám mối phúc thật của Chúa Giêsu để chúng ta hiểu được thế nào là hạnh phúc thật, thế là là những người được Chúa chúc phúc.
Sống nơi cõi trần, con người ai cũng muốn mình được may mắn, được tốt đẹp, đặc biệt được hạnh phúc. Do đó, con người tranh đấu để sinh tồn, con người phấn đấu để vượt khó, vượt lên cả số phận của mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã hứa ban Nước Trời là hạnh phúc đích thật cho các môn đệ Chúa. Chúa cũng đảm bảo cho những con người hiền lành, sầu khổ, có tâm hồn trong sạch, bị bách hại sẽ được” đất nước làm cơ nghiệp ” được ” Thiên Chúa xót thương” được ” nhìn thấy Thiên Chúa ” được ” gọi là con Thiên Chúa “. Và để những lời chúc phúc của Chúa trở nên hiện thực cho đời sống, cho con người, Chúa mời gọi các môn đệ Chúa phải trải qua đau khổ, vác thập giá và trải qua cái chết với Ngài trên thập giá. Đối với Chúa phải qua thập giá mới tới được vinh quang. Chính vì thế, người môn đệ Chúa sẽ không thể nhận được lời chúc phúc, sẽ không thể nào được hạnh phúc nếu không trải qua cuộc hành trình thập giá. Không có đau khổ không có vinh quang. Không có cái chết, không có sự phục sinh. Chúa muốn dạy chúng ta rằng muốn có hạnh phúc, muốn được tài lộc phải hy sinh, chịu khó, đổ mồ hôi sôi nước mắt. Bởi vì, không ai nằm chờ sung rụng rồi sẽ được giầu có nếu họ không chịu khó, phấn đấu, cực nhọc. Không ai muốn sống lâu mà cứ luôn phung phí sức khỏe, không biết tập luyện, kiêng khem vv…
Ngày đầu năm mới, chúng ta cảm tạ hồng ân Thiên Chúa vì Người đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh của Người và còn hứa ban ” Nước Trời ” cho chúng ta.
Chúng ta cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta một năm qua được lãnh nhận nơi Ngài biết bao hồng ân, Ngài yêu thương và thành tín với chúng ta dù rằng nhiều khi chúng ta phản bội Ngài.
Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài luôn là người Cha đầy tình thương xót, luôn tha thứ mỗi lần chúng ta xúc phạm đến ngài và chẳng trách cứ chúng ta.
Đầu năm mới chúng ta hãy sống và chúc cho nhau một năm mới đầy yêu thương, đầy ý nghĩa vì Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân không bao giờ tàn úa, nhạt phai.
Chúa là mùa xuân, chúng ta hãy mở tung cõi lòng để đón nhận những lời chúc phúc của Thiên Chúa, đồng thời, chúng ta phải sống yêu thương như Ngài yêu thương chúng ta và Ngài đã hy sinh mạng sống vì yêu thương chúng ta.
Tạ ơn Chúa vì lời chúc phúc của Chúa vẫn luôn hiện thực trong đời sống của mọi người.
Tạ ơn Chúa vì hạnh phúc được làm con Chúa trong tin yêu và hy vọng và như thế lời chúc đầu năm mới: an bình, tuổi mới và sống lâu vẫn là những điều quí hóa bởi vì đó là hoa quả của tình yêu của Chúa là mùa xuân vĩnh cửu.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một năm mới vui tươi và hạnh phúc. Amen.
31. Bình an và hạnh phúc (Giuse Nguyễn Hữu Duyên – Lm Quản Xứ Bảo Lộc)
Anh Chị em rất thân yêu,
Ngày đầu năm đâu đâu cũng rộn rã tiếng cầu chúc bình an và hạnh phúc. Xuyên qua những lời chúc xuân ấy, chúng ta có thể nắm bắt được những ý nghĩ căn bản của nhân thế về hạnh phúc và bình an:
Sức khoẻ và tuổi thọ, tiền tài và thịnh vượng, công danh và thành đạt, tình yêu và đại gia đình, đó là những gì làm nên an bình và hạnh phúc cho con người.
Lời Chúa chúng ta mới nghe cũng là những lời cầu chúc bình an và hạnh phúc. Nhưng Lời Chúa có một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ và dường như trái nghịch với ước mơ thường tình của con người:
Trước hết nền tảng của hạnh phúc và bình an chính là sự bảo trợ của Danh Thiên Chúa và Chúc Lành của Người. Dân Chúa khi còn ở Ai Cập cũng thường nghĩ chính công ăn việc làm, chính đất đai nhà cửa, chính những tài sản tích lũy là sự bảo trợ của hạnh phúc và an bình. Cho nên 40 năm trong sa mạc, khi phải vứt bỏ tất cả, thậm chí ngay đến những gì gồng gánh đem theo cũng phải tiêu tán trong cát bụi, không ít lần họ đã nổi loạn chống lại Môsê… nhưng Thiên Chúa không khoan nhượng… Ngài đã chôn vùi và lột trần tất cả trở thành những con người sống từng bữa bởi lòng thương xót của duy mình Thiên Chúa. Những kẻ đã ra khỏi Ai Cập phải phơi xương trên biển cát mênh mang, và còn lại chỉ là một lớp người mới sinh ra trong hoang điạ, chỉ lúc ấy Dân Chúa mới chiếm được Đất hứa và trở nên Dân Ưu Tuyển và hùng cường.
Chúa Giêsu đã rút từ lịch sử Thánh ấy điều cốt lõi khi công bố Hiến Chương Nước Trời cho Dân Mới: Phúc cho ai có tinh thần khó nghèo: Phải xây dựng Hạnh Phúc của mình, của gia đình, của xã hội dựa vào hành động yêu thương của Chúa Dù sao Israel vẫn còn được cưng chiều hơn, giữa sa mạc, họ vẫn còn khí trời, vẫn còn cột mây che mát, vẫn còn cột lửa sáng soi…và vẫn còn tình huyết tộc bao bọc chở che, Hội Thánh của Đức Kitô phải chôn vùi sự sống của mình trên 300 năm trong các hang toại đạo, phải phiêu dạt tứ xứ nơi đất lạ…chịu muôn vàn bách hại và truy sát… Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa không khoan nhượng trong đòi buộc vứt bỏ tất cả để hoàn toàn chỉ sống nhờ sự bảo trợ của Người. Sau này, khi hòa bình bên ngoài được thiết lập, không thiếu thành phần con cái Hội Thánh quên đi cái nôi sự sống của mình chính là Khó Nghèo ấy, Thiên Chúa đã làm nẩy sinh phong trào ẩn tu, và Hội Thánh đã được tái sinh chung quanh những trung tâm ẩn tu ấy. Gần chúng ta hơn, khi Hội Thánh sa lầy trong nhung lụa và quyền bính thời Trung Cổ, là cái cớ của sự phân hóa của những giáo phái Tin Lành, Chúa đã một lần nữa tái sinh Giáo Hội như một Bà Chúa Nghèo của Phanxicô thành Assisie… Lịch sử Dân Chúa chính là lịch sử đầy tính hiện sinh của cái nghèo chân thực. Hạnh Phúc được neo trong sự nghèo khó ấy.
Thánh Phaolô đã không làm giảm thiểu tính quyết liệt ấy khi xác định cách chắc chắn rằng, không phải là sự khó nghèo luân lý đạo đức nào đó là nền tảng của Hạnh Phúc và bình an, nhưng chính là con người nghèo của Đức Giêsu Kitô, và vì vậy trong mọi hoàn cảnh sự nghèo khó của Người Kitô chính là được kết hiệp với Đức Giêsu Kitô. Và qủa thực, những ai thuộc về Đức Kitô thì luôn sẵn sàng đi từ hang BeLem cho tới Núi Sọ và cách riêng là trở thành Tấm Bánh bị bẻ ra cho những con người nghèo.
Anh Chị Em rất thân yêu,
Đứng trước đòi hỏi của Hiến Chương Hạnh Phúc Nước Trời, và sự đòi hỏi phải trở nên Tấm Bánh bị bẻ ra ấy, tôi có thể nào trong lúc này không nhận ra tính nghịch thường ấy giữa một quang cảnh nhộn nhịp của ngày tết. Tuy nhiên, bên dưới lớp vỏ vui xuân, lại chỉ là những con tim khô quạnh và nhức nhối. Còn nơi bàn thờ này sự nghèo khó cô đơn đến lạnh lùng lại là con tim rộn ràng sức sống yêu thương.
Ngày đầu năm, tôi kính chúc Qúy Cha rất đáng yêu mến của tôi, kính chúc Thầy Phó Tế, Quý Tu Sỹ nam nữ, Qúy Chủng Sinh, Quý Cố Ông, Cố Bà, và toàn thể Anh chị em thân yêu được chính Thiên Chúa bằng Thánh Thần trong Đức Giêsu thánh hóa và gìn giữ vẹn toàn trong năm mới, để chúng ta tất cả trở nên nhân chứng của Hạnh Phúc đích thật cho mọi người, mọi gia đình và toàn thể xã hội.
Kính Chúc
32. Xuân Tạ Ơn (Mt 5, 1-10) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giây phút linh thiêng của những giờ phút của đêm giao thừa luôn có một ý nghĩa nhiệm mầu. Giây phút mà Hàn Mặc Tử đã viết:” Đây phút linh thiêng đã khởi đầu…”Giây phút giao thoa giữa năm cũ và năm mới. Giây phút mà những cái cũ được đẩy qua một bên để nhường cho những giây phút linh thiêng nhất, quí hoá nhất. Giây phút dành để cho Thiên chúa vì chỉ có mình Người là Đấng tạo dựng vũ trụ, tạo dựng con người. ” Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời ” như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do Thái 13, 8 đã viết. Do đó, những giờ phút quan trọng của đêm giao thừa là để tạ ơn Thiên Chúa.
TẠ ƠN LÀ ĐIỀU TỐI CẦN THIẾT: Sống trên gian trần, chúng ta mọi người đều mang ơn nhau, nặng nợ với nhau. Do đó, việc tri ân cảm tạ là điều cần thiết mọi người phải có với nhau. Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa chúng ta trả ơn không bao giờ cho cân xứng, Thiên Chúa không cần chúng ta cảm ơn Ngài, nhưng cảm tạ lại cần thiết và sinh ơn cứu độ cho chúng ta vì như lời nguyện nhập lễ chúng ta đọc thấy:” Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh”. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, chúng ta phải biết ơn Ngài và luôn luôn hướng về Ngài để cảm tạ tri ân Ngài và cầu khẩn Ngài vì ” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời “.Chính vì thế, giây phút giao thừa là giây phút huyền nhiệm, linh thiêng để chúng ta dừng lại tạ lỗi với Chúa vì những thiếu xót trong năm vừa qua và kính dâng Chúa năm mới với những cố gắng của mỗi người chúng ta với sự bảo trợ của Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Một phút quay lại với tâm tình thống hối và những quyết tâm với những ước mơ mới. Tạ ơn Thiên Chúa là điều tối cần thiết vì những hồng ân vô giá Thiên Chúa trao ban cho con người, cho loài người, cho mỗi người:” Lạy Thiên Chúa chí nhân chí thánh, Chúa là Đấng tạo thành vạn vật. Thời gian không gian là của Chúa, Chúa ban cho chúng con được hưởng dùng. Nay, trước thềm một mùa xuân mới, chúng con đến dâng lời tán tụng. Cùng với lời cảm mến tri ân. Năm cũ vừa qua được an bình, năm mới sắp tới muôn phần tốt đẹp. Chúng con xin cúi đầu cảm tạ”.
LỜI CẦU NGUYỆN TRI ÂN: Lạy Chúa, trước thềm năm mới, năm Đinh Hợi, chúng con cầu xin cho ánh sáng của Chúa chiếu toả khắp nơi trên vũ trụ, trần gian. Xin ơn hòa bình ngự trị mọi tâm hồn của những con người thành tâm thiện chí ” Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương “. Xin cho Quê Hương, Đất Nước chúng con luôn được niềm hạnh phúc của mùa xuân vĩnh cửu ngự trị và muôn dân được ấm no hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin cho mọi tâm hồn của con người luôn được thanh luyện trong Thánh Thần. Xin cho tất cả mọi người có niềm tin và không có niềm tin đều ước nguyện một mùa xuân vĩnh cửu không bao giờ tàn úa.
Xin cho những Kitô hữu luôn biết sống lời Chúa và yêu thương phục vụ.
Xin cho chúng con luôn biết hiếu đễ để mọi người luôn biết nói lời cảm tạ tri ân. Xin cho chúng con luôn là những dòng suối mát vun tưới cho cành xuân của chúng con được nở rộ trong mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân như ý, mùa xuân cứu độ.
Lạy Chúa, trước thềm năm mới Đinh Hợi, chúng con xin cảm tạ tri ân Chúa vì những ân huệ quí báu Thiên Chúa ban cho chúng con nhưng không. Xin cảm tạ Chúa vì mùa xuân bất diệt Chúa tặng ban cho nhân loại, cho con người, cho gian trần.
Xin cho giây phút giao thừa của xuân Đinh Hợi mang lại cho chúng con ơn bình an và hạnh phúc.
33. Việc gì phải lo, có Chúa an bài (Mt 6, 25-34) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Trong muôn loài được Thiên Chúa dựng nên, con người là hình ảnh Chúa. Do đó, con người có nhiều đặc ân mà không loài nào trên trần thế có thể so ví với con người.Loài người có suy tư, suy nghĩ và tư duy biết phán đoán, ưu tư, quan tâm đến người khác và quay lại với chính mình. Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, Ngài luôn yêu thương săn sóc, lo lắng, quan phòng. Hoa huệ ngoài đồng, chim se sẻ Chúa cũng còn quan tâm huống chi con người. Chính vì thế, Chúa nói:”…Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì?…”.
CHÚA NÓI ĐỪNG QUÁ LO LẮNG NHỮNG CÁI PHÙ PHIẾM: Nghĩ cũng nực cười khi con người hết thế hệ này qua thế hệ khác, chẳng có gì mới mẻ, vẫn cứ ngựa y đường cũ nghĩa là cứ đầu tắt mặt tối lo lắng cơm, gạo, bạc, tiền vv…Có người suốt đời cơm vẫn thiếu, áo vẫn không đủ mặc ấm. Tại sao lại như vậy? Nghĩ cũng buồn và cười ra nước mắt, thật là thê lương. Tuy nhiên, đọc lại Tin Mừng của thánh Matthêu 6, 25-34, Chúa nói:” Đừng lo “. Con người là loài thụ tạo cao hơn mọi loài Chúa dựng nên. Hoa huệ đẹp ngoài đồng mà vua Salomon tuy vinh sang như thế nhưng cũng không mặc đẹp như đóa hoa đó. Con chịm se sẻ, Chúa cũng nuôi. Hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin (Mt 6, 30). Loài người, con người họa lại hình ảnh vô song, toàn mỹ của Thiên Chúa. Do đó, con người được Chúa quan phòng, lo toan vì họ trọng hơn hoa, quí hơn muông thú. Ngài quan tâm đến từng nhu cầu của mỗi người theo cách thức tế nhị nhiệm mầu cao sâu của Ngài. Thánh Phaolô đã viết rất chí lý rằng:” Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào!…Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời.Amen. “(Rm 11, 33-36).
CỨ TIN TƯỞNG, KÝ THÁC CHO CHÚA: Thánh vịnh 13 có câu:” Hãy ký thác đường đời cho Chúa.Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”. Chúa bảo” đừng lo”, không có nghĩa Chúa nói chúng ta lười biếng, ỷ lại, không chịu làm việc, đừng lo cho nhu cầu thể xác và trần thế này. Chúa không hề nương chiều con người, cũng như ủng hộ cho những con người lười biếng, liều lĩnh. Thánh Phaolô đã từng nói:” Không làm việc thì đừng ăn…”. Đúng sự đời là như thế, con người quả tuyệt vời vì có lý trí để suy luận, có đạo đức để biết phân biệt điều phải, điều ác, điều ngay, điều gian và có hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Loài chịm, loài thú, chúng ta cứ tưởng chúng không vất vả, kỳ thực ra chúng vất vả nhiều, chúng phải bay đi hoặc đi xa để kiếm mồi, kiếm thức ăn nuôi sống…Loài hoa, loài cây cũng phải nhờ rễ đâm sâu, nhờ hút nước ở dưới đất, nhờ hấp thụ sương, mặt trời vv…Con người Chúa luôn khuyên nhủ hãy phó thác, nghĩa là hãy để tâm hồn bình an, đừng bôn ba quá đáng, đừng lạc quan đến bất cần, nhưng ” Hãy lấy Chúa làm niềm vui…Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”(Tv 36). Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philipphê 4, 4-8 cũng đã viết:” Anh em đừng lo lắng gì cả…”.
Tết là dịp để con người dừng lại, chiêm ngắm những kỳ công hết sức tuyệt vời của Thiên Chúa: chim chóc, thú rừng, cây cỏ, hoa lá vv… ngắm lại chính bản thân của mình: ” Con người là hình ảnh của Thiên Chúa Giavê”. Và đã là hình ảnh của Thiên Chúa, con người sẽ sống sự sống của Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa vĩnh cửu, trường sinh. Do đó, sự phó thác luôn là cần thiết của mọi người…
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết phó thác vào bàn tay uy quyền của Chúa. Amen.
34. Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Năm mới đang đến, mở ra một giai đoạn mới của cuộc sống. Và ở thời khắc linh thiêng này, có lời của Thiên Chúa nói với chúng ta qua Tin Mừng mà Hội Thánh công bố.
Vài phút suy niệm về lời được công bố ấy, tưởng cũng là điều rất cần thiết cho chúng ta lúc này. Vậy ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại mà đối diện với lời Chúa.
1. Mt 6,25-32: Đừng lo lắng khi phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống
Những của cải trần gian có thể chiếm trọn trái tim, chi phối hành động và biến thành một thứ thước đo giá trị của con người. Con người bị các thực tại phàm trần tác động và điều kiện hoá, vì ai cũng phải đối diện với những nhu cầu rất căn bản của cuộc sống như cái ăn, cái mặc… Các thực tại vật chất là rất cần thiết để con người có thể sống được: chúng ta không thể chỉ sống bằng suy tưởng hay bằng ý chí và không cần bất cứ thứ gì khác. Để sống, người ta buộc phải ăn, phải uống, phải mặc; và chính trong sự tuỳ thuộc vào các thực tại vật chất như thế mà mối tương quan của người ta với của cải trần gian được thực hiện. Không ai có thể tránh né được mối tương quan này. Vấn đề là chúng ta phải sống sự tuỳ thuộc đó như thế nào. Phần thứ nhất của bài tin mừng hôm nay (cc.25-32) trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy.
Với một loạt những quan sát và suy tư, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa biết rất rõ chúng ta và Người luôn sẵn sàng bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta. Người đã ban cho chúng ta món quà lớn lao hơn tất cả: thân thể và mạng sống, lẽ nào Người lại chẳng sẵn sàng ban cho chúng ta những món quà nhỏ hơn, tức là những phương tiện giúp chúng ta gìn giữ quà tặng lớn lao kia? Chim trời vẫn tìm được của ăn, cho dù không gieo không gặt. Đoá huệ ngoài đồng vẫn được trang điểm diễm lệ, cho dù không làm lụng canh cửi. Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, luôn lo liệu mọi sự cho chúng. Há Người lại chẳng làm như thế cho con người, vốn là những con cái mà Người quý hơn tất cả và hằng ấu yếm lấy tình phụ tử mà chăm nom gìn giữ? Và cuối cùng là một suy tư đơn giản: Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? (c.27). Chúng ta được mời gọi đón nhận những thực tại căn bản, ví dụ như độ dài của cuộc sống trần gian của mỗi người, như Thiên Chúa đã ấn định.
Đức Giêsu không có ý nói rằng chúng ta đừng làm lụng canh cửi, đừng gieo gặt trồng cấy, đừng để ý lưu tâm hay đừng xây dựng những dự phóng tương lai… Người muốn nói rằng tất cả những điều đó phải được thực hiện nhưng không phải là với một sự lo lắng bận tâm thái quá và mù quáng, mà là với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho con người bàn tay và khối óc, tức là Người đã lo liệu trước để chúng ta có thể xây dựng cuộc sống cho phù hợp với phẩm giá cao cả của mình.
Đức Giêsu biết rõ sự vận hành bình thường của cuộc đời. Người không phủ nhận rằng đôi khi chim trời và con người vẫn phải chết vì đói. Nhưng ngay cả trong những trường hợp cực đoan đó, sự lo lắng thái quá cũng không hề giúp chúng ta tiến bước bình an và chắc chắn trong cuộc sống trần gian này. Trái lại, trong những trường hợp cực đoan bi đát đó, chúng ta càng có lý do để trông cậy và hy vọng nơi Thiên Chúa, không chỉ hy vọng về những thực tại trần gian mà thôi, mà nhất là hy vọng về những thực tại Nước Trời, là nơi duy nhất có cuộc sống viên mãn thật sự.
Sự “không lo lắng” của chúng ta, như vậy, theo lời của Đức Giêsu, không đặt cơ sở trên một sự lạc quan ngây thơ hay trên khả năng làm chủ cuộc sống của chúng ta (khả năng ấy quá bé nhỏ). Sự “không lo lắng” đó được đặt cơ sở trên sự thực vững chắc, rằng Thiên Chúa quyền năng và thông biết mọi sự, rằng Thiên Chúa luôn luôn nhân lành yêu thương ta, rằng Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời sáng tạo của Người.
2. Mt 6,33-34: Chọn lựa căn bản của cuộc sống: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người
Sau khi đã dạy chúng ta đừng lo lắng, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết đâu là thực tại phải chi phối ước muốn của chúng ta, lấp đầy con tim của chúng ta, xác định thước đo giá trị của chúng ta và đòi hỏi những hoạt động của chúng ta: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Đó là những giá trị cao cả nhất và sâu xa nhất; và chúng ta được mời gọi hoàn toàn quy hướng tất cả con người của mình về những thực tại đó.
Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa đang tỏ mình hoàn toàn cho chúng ta trong tư cách là Đức Chúa quyền năng và tràn đầy ân nghĩa, Đấng luôn đón nhận và yêu thương che chở chúng ta trong sự hiệp thông vào sự sống của chính Người. Tất cả lòng tin của chúng ta, tất cả niềm hy vọng của chúng ta và tất cả lòng yêu mến của chúng ta đều phải được quy hướng về Người trong một ý hướng hoàn toàn thuần khiết. Đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Sự công chính của Thiên Chúa là sự công chính đến từ chính Thiên Chúa. Đó là cách hành xử của người công chính, phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và được Đức Giêsu nói rõ trong bài giảng trên núi. Tất cả nỗ lực của chúng ta và tất cả sức mạnh của chúng ta, đều phải được huy động để thực hiện sự công chính ấy.
Nếu chúng ta trước hết chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người như thế, thì những điều khác sẽ được ban cho chúng ta như những phương tiện để chúng ta thực hiện chọn lựa căn bản đó của cuộc đời. Ý nghĩa của sự hiện hữu của chúng ta không tuỳ thuộc vào những mối bận tâm về cuộc sống hiện tại này, mà là ở sự hoàn toàn quy chiếu của chúng ta, ngay trong cuộc sống thế tạm hôm nay, vào Thiên Chúa, và ở sự chuẩn bị của chúng ta, nhờ những hành động công chính, cho cuộc hiệp thông viên mãn vĩnh cửu với chính Thiên Chúa.
Đó mới là tương lai đích thật mà chúng ta hướng tới, chứ không phải là cái ngày mai trong cuộc đời thế tạm này. Vì thật ra, cái ngày mai thế tạm vẫn sẽ là cái ngày mai vất vả: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (c.34). Nhưng sự vất vả trong ngày mai thế tạm sẽ rất khác nhau. Đó sẽ là sự vất vả nhọc nhằn và cay đắng, nếu chúng ta vất vả vì những lo lắng cho cuộc sống thế tạm và vật chất này. Trái lại, đó sẽ là vất vả phúc lạc và bình an, nếu chúng ta tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, tức là nếu chúng ta hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa và sống theo những mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi (5,3-12).
Ngày Tết, chúng ta cầu chúc cho nhau một cuộc sống bình an và hạnh phúc, bởi biết rằng tất cả chúng ta đều chịu tác động của các thực tại thế tạm. Nhưng lời Chúa nhắc cho chúng ta rằng: ngay trong mối tương quan của chúng ta với những thực tại cần thiết cho cuộc sống thế tạm, Thiên Chúa vẫn phải chiếm vị trí mang tính quyết định. Ta được mời gọi đừng để cho những lo toan về các nhu cầu (cho dù là khẩn thiết nhất) của cuộc sống, hoàn toàn chi phối tâm trí chúng ta, đến nỗi chúng ta đánh mất sự tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Quan trọng hơn tất cả những bận tâm lớn nhỏ của cuộc sống, là lòng tin và niềm xác tín rằng: “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (c.32). Nếu lòng tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa và xác tín mạnh mẽ về sự nhân lành vô biên của Người, làm người bạn đồng hành với những mối bận tâm về cuộc sống vật chất của chúng ta, thì chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và chúng ta sẽ đối diện với cuộc sống (có khi rất khắc nghiệt) này với một sự tự do nội tâm đích thực. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 5,33).
35. Tám Mối Phúc (Mt 6,25-34) (Lm. Trần Bình Trọng)
Tư tưởng cũng như văn chương bình dân Việt Nam hàm chứa những quan niệm về thời giờ như: Thời giờ là vàng bạc; thời giờ thấm thoắt tựa thoi đưa, cứ đi đi mãi, không chờ đợi ai. Thường khi người ta nhìn tới thì thấy lâu dài, nhưng khi nhìn lại thì thấy mau lẹ. Người ta nói mới ngày nào đó, chúng mình thế nọ thế kia, mà nay đã hai mươi năm, ba mươi năm rồi. Khi bận rộn với công việc làm hay chương trình hoạt động, người ta cảm thấy thời giờ đi mau lẹ. Những lúc nhàn rỗi hay không bị hoàn cảnh thúc ép, người ta lại cảm thấy thời giờ đi chậm. Cho dù người ta cảm thấy thời giờ đi mau hay chậm, thời giờ vẫn xoay đều không thay đổi. Người ta không thể đi trước thời giờ, cũng không thể kéo dài thời gian.
Cho dù Tết đến sớm hay muộn, mùa Xuân đến mau hay chậm, người ta cũng phải theo chu kì tuần hoàn của vũ trụ mà đón nhận giây phút bàn giao của thời giờ mới cũ ở lúc không giờ của đêm giao thừa, là giây phút tống cựu nghinh tân. Người Việt xưa kia coi đêm giao thừa là giây phút linh thiêng, giao hoà giữa trời và đất. Gần đến giây phút giao thừa, người ta cứ ngồi đợi để hoà nhịp với giây phút giao hoà của trời đất, không được nói hay làm gì. Vừa tới lúc giao thừa thì họ vỗ tay vang động hay cho nổ pháo: đạch, đạch… đạch, đùng. Đạch, ĐÙNG… ĐÙNG… Đốt pháo để mừng xuân mới sang. Đốt pháo theo quan niệm của nhiều người Việt trước đây còn để xua đuổi ma qủi. Có người còn nghĩ: pháo nổ càng lớn, ma quỉ càng sợ. Vậy phải đốt pháo cối.
Người Công giáo thì coi ông trời là Thượng Đế, là Thiên Chúa và chỉ có Chúa mới làm chủ được thời giờ và thời gian. Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chúa có quyền trên mưa nắng, sóng gió, bão táp… như trong lời nguyện đầu lễ Giao thừa, linh mục chủ tế cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Đấng vô thuỷ vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc.
Bài Tin Mừng lễ Giao thừa bàn về Tám mối Phúc thật. Vào dịp Tết, mọi người đều chúc cho nhau những điều tốt đẹp, thì Giáo Hội cũng dùng những lời Thánh Kinh có chứa đựng những lời chúc phúc của Thiên Chúa. Trong khi thiên hạ chúc cho nhau mọi sự giàu sang phú quí và may mắn, thì Thiên Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật trong đó có một lời chúc cho những ai sống tinh thần nghèo khó. Thật là một điều nghịch lý và mâu thuẫn! Có một người dự tòng kia hỏi linh mục chánh xứ nọ: Thưa cha khi cha giảng về Tám mối Phúc thật, con không thể chấp nhận được bởi vì những điều Chúa dạy trong Tám mối Phúc thật đi ngược lại với quan niệm của người đời và ngược lại với những gì con đã sống. Nhưng rồi con vẫn tiếp tục đi lễ, nghe cha giảng Lời Chúa. Bây giờ thì con đã chấp nhận. Mỗi lần sau khi dâng thánh lễ, con cảm thấy được bình an trong tâm hồn.
Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật. Và không phải họ chỉ được hạnh phúc đời sau, nhưng còn được hưởng hạnh phúc ngay tại đời này. Hạnh phúc đó là một tâm hồn bình an, thư thái. Được Chúa chúc phúc là được tất cả: đời này cũng như đời sau. Có những người có thể hiểu lầm cho rằng Chúa muốn người ta sống nghèo khó, khắc khổ. Thực sự thì Chúa đến giải thoát con người khỏi cảnh nghèo đói. Chúa bảo: Nào những kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa, Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống (Mt 25,34-35).
Người đời còn cho rằng Giáo Hội dùng mối Phúc thật thứ nhất để cổ võ đời sống nghèo khó. Sự thực thì Giáo Hội không chủ trương như vậy. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lần đã tố cáo chính sách cấm vận của Hoa kỳ khiến cho dân nghèo Cuba càng nghèo, thiếu những phương tiện tối thiểu cho nhân phẩm con người. Trước đó ngài còn kêu gọi dịp Tết dương lịch 1998 hoàn cầu hoá việc phát triển kinh tế và phát triển kinh tế phải nằm trong vòng liên đới các quốc gia chứ không nhắm đến việc ăn mảnh và đánh lẻ. Đức Thánh Cha còn khuyến khích những quốc gia giàu mạnh xoá nợ cho những quốc gia nghèo đói. Như vậy Giáo Hội không khuyến khích thực tại nghèo khó, nhưng là sống tinh thần nghèo khó, nghĩa là tinh thần siêu thoát, không để lòng dính bén vào của cải trần thế.
Trong thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô chúc cho họ như sau: Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn (1Tx 5,23). Trong bài trích sách Dân Số, Chúa dạy Môsê chúc phúc cho dân chúng như sau: Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện xin Thiên Chúa tươi nét mặt gìn giữ anh em, và dủ lòng thương anh em! Nguyện xin Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em (Ds 6,24-26).
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, ta thấy dân được chọn kêu cầu đến Chúa mà chúc lành lẫn cho nhau. Bố cũng chúc lành cho con cái như ông Raguên chúc lành cho con rể là Tôbia và con gái là Xara như sau: Con đi mạnh giỏi và bình an! Xin Chúa trời cho con và Xara vợ con thành đạt, và ước gì cha được nhìn thấy con cái của chúng con trước khi nhắm mắt (Tb 10,11). Bà Étna cũng nại đến Chúa để chúc lành cho con gái và con rể như sau: Trước mặt Chúa, mẹ kí thác Xara cho con, con rể của mẹ! Suốt đời con, đừng bao giờ làm cho nó phải buồn (Tb 10,13).
Chúc Tết và chúc tuổi cho nhau mà nại đến Thiên Chúa và kêu cầu đến ân sủng và quyền năng của Chúa là đặt người mà mình cầu chúc dưới sự che chở và bảo vệ của Chúa. Việc cầu chúc cho nhau mà nói ra tiếng để người được cầu chúc có thể nghe thấy còn có tác dụng tâm lý là khiến cho người được chúc phúc cảm động và tự cố gắng thế nào để lời cầu chúc được thực hiện nơi mình.
Để áp dụng thực hành, ta nguyện xin Chúa chúc lành cho ông bà cha mẹ, anh chị em họ hàng. Và nguyện xin Chúa chúc lành lẫn cho nhau trong năm mới. Ta cũng không quên xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu sót trong năm cũ, những lúc ta phí phạm thời giờ Chúa ban, cũng như việc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa tha thứ những lần ta không dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình: cha mẹ, vợ chồng và con cái; những lần ta không dành thời giờ cho chính mình để suy tư về thân phận làm người trong mối tương quan với Đấng tác thành nên mình.
Lời nguyện xin Chúa chúc lành cho Năm mới:
Lạy Chúa, Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân Hạ Thu Đông. Chúng con xin tạ ơn Chúa cho thời giờ, năm tháng Chúa ban trong năm cũ. Xin Chúa tha thứ những lần chúng con phí phạm thời giờ hoặc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa thánh hoá thời giờ chúng con xử dụng để chúng con biết dùng thời giờ làm vinh quang nước Chúa. Amen.
36. Ơn Bình An (Mt 6,25-34)
Mùa xuân đang đến với quê hương, gia đình và mỗi tâm hồn.
Mùa xuân đến mang thêm tuổi đời, niềm vui và hy vọng.
Mùa xuân đến làm tươi nở cuộc đời với hương trời, gió xuân, hoa thắm.
Mùa xuân đến đem niềm an bình và hạnh phúc cho con người.
Vâng, tất cả chúng ta đang được tận hưởng tràn trào hương xuân trong ngày đầu năm mới với muôn ngàn lời chúc tốt đẹp. Chúng ta chúc nhau năm mới an khang hạnh phúc, an bình phúc lộc, an mạnh trường thọ, an lành thánh đức… Những lời cầu chúc thân thương ấy đã diễn tả phần nào nguyện ước sâu xa của cõi lòng con người. Hơn hẳn những nhu cầu thiết thực khác của cuộc sống, chúng ta mong ước được an bình từ nội tâm đến cuộc sống ngoại tại, từ mối tương giao thân tình giữa người với người đến sự hòa hợp thích ứng với thiên nhiên và các tạo vật.
Thế nhưng, đâu là phương thức chính đáng nhất để chúng ta có được sự bình an đích thực như lòng mình mong muốn? Câu trả lời được tìm thấy trong bài Tin Mừng mà Giáo hội đã chọn đọc trong ngày đầu năm mới hôm nay.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa quan phòng, để đừng quá bận tâm vào những nhu cầu của cuộc sống thực tại, vì chính Chúa Cha sẽ ân ban cho chúng ta tất cả. Điều quan trọng và cần thiết nhất trong lúc này là chúng ta hãy ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (x.c.33). Đó là thái độ mà chúng ta cần kiên quyết thực hiện ngay trong ngày đầu năm mới này. Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người chính là trạm dừng chân lý tưởng nhất để chúng ta có được sự bình an như lòng mình mong ước. Trong sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm nay, Đức Thánh Cha Bênêđictô cũng xác nhận: “Một xã hội được hòa giải với Thiên Chúa thì gần gũi với hòa bình hơn… Hòa bình là kết quả của một tiến trình thanh tẩy…” (số 15).
Quả thật, sự bình an đích thực mà chúng ta đang khát khao chính là việc thiết lập được mối tương giao thuận thảo giữa chúng ta với Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta cho Ngài, nên tâm hồn chúng ta còn mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi nào được an nghỉ trong Chúa (thánh Augustin). Thánh nhân đã nói lên được tâm tư nguyện vọng nơi thẳm sâu tâm hồn của mỗi người chúng ta. Thật vậy, chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có được sự bình an đích thực. Chính sự an bình tràn ngập tình yêu thương này, khiến chúng ta luôn luôn muốn sống thân tình với Thiên Chúa, kết hiệp thâm sâu với Ngài trong tình yêu, chu toàn thánh ý Ngài trong cuộc sống, tận tâm giới thiệu Chúa cho người khác, mong cho Danh Ngài tỏa lan đến mọi người mọi nơi. Đây cũng chính là phần ưu tiên mà chúng ta phải chọn lựa theo giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng. Bởi lẽ, một khi có Chúa trong cuộc đời, ta sẽ được tận hưởng một sự bình an vô hạn. Với Chúa, chúng ta cùng đi gieo rắc niềm an bình đến mọi nơi. Và vì Chúa, chúng ta cũng sẽ biết trân trọng, gìn giữ và bảo vệ sự bình an mà Ngài đã ân ban.
Hôm nay, ngày đầu năm mới, chúng ta cùng nguyện cầu ơn bình an được tỏa lan đến khắp mọi nhà và mọi tâm hồn. Cầu mong ơn bình an được chan hòa trên khắp miền quê hương đất nước. Chúng ta ước nguyện quê hương được thái bình thịnh vượng, nhà nhà an hòa, người người an lòng, để cùng chung tay xây dựng quê hương ngày một tốt đẹp hơn. Thế nhưng, để có được sự bình an như lòng mong ước, chúng ta phải biết ngước nhìn lên Đấng là chính nguồn cội sự bình an. Xin Ngài thương ban tặng cho chúng ta niềm an bình và hạnh phúc đích thực trong năm mới này.
Tuy nhiên, sự bình an không chỉ dừng lại nơi bản thân của mỗi người, mà cần phải được chia sẻ đến mọi người và mọi nơi. Chúng ta cần trao tặng cho tha nhân sự bình an của Chúa qua thái độ biết quảng đại tha thứ để sống yêu thương hơn, biết trân trọng người khác với những khả năng và khác biệt nơi họ, biết ân cần quan tâm đến nhau nhiều hơn, biết nhiệt tâm phục vụ với tất cả lòng từ tâm và nhân ái, biết cảm thông trước những nỗi khổ đau hay giới hạn của người khác… Vâng, trong mùa xuân này, Thiên Chúa đang ngỏ lời với chúng ta, đang mong chờ một vòng tay yêu thương rộng mở của chúng ta để đón nhận, để sẻ chia cho những tâm hồn bé nhỏ là hình ảnh thân thương của Ngài. Những hiện thân ấy đang ở chung quanh chúng ta, bên lề đường, trong những túp lều ẩm thấp, trong những cơn bệnh thập tử nhất sinh, hay trong những mái nhà xiêu vẹo vắng bóng tiếng cười, vắng luôn cả miếng cơm manh áo… Chúng ta cần đáp trả thế nào trước tiếng kêu than của người anh em chúng ta? Đó chính là tiếng kêu gào của một vị Thiên Chúa đang nhập thể từng ngày trên quê hương này, ngay trong mùa xuân này.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một mùa xuân an bình hạnh phúc. Quê hương con giờ đây không còn chiến tranh, không còn bạo lực, chúng con được thoải mái vui chơi và tận hưởng mùa xuân an bình trên quê hương dấu yêu. Thế nhưng, Chúa thấy đấy, khung cảnh bên ngoài thì bình an thư thái, nhưng bên trong chiều sâu thăm thẳm của lòng người, của xã hội, thì cũng còn đầy dẫy những kiểu “chiến tranh không đổ máu”. Từ những lối sống ích kỷ, thụ hưởng với những đam mê khoái lạc, rồi những thái độ gian dối lừa lọc, cư xử bất công, hành xử đầy tính cách bạo lực… đã tạo nên những hố sâu ngăn cách giữa người với người. Để rồi còn tìm đâu ra sự bình an trong những cảnh tượng như thế? Một điều làm cho Chúa đau lòng hơn cả là từ nội tâm con người đã tự nguyện giết chết sự bình an của một lương tâm trong sáng, khi sẵn sàng ngăn cản sự ra đời của một thai nhi bé bỏng vô tội. Thật xót xa cho Chúa khi từng ngày và mỗi phút giây trên quê hương con, hàng chục thai nhi bị giết chết mà không kịp tận hưởng một chút hương vị mùa xuân cuộc đời.
Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con, xin canh tân đổi mới tâm hồn chúng con, đặc biệt là tâm hồn các bà mẹ trẻ, để trong năm mới này, mọi người đều biết duy trì được sự bình an đích thực trong tâm hồn mà Chúa đã ban tặng.
Xin cho mùa xuân này đem lại nhiều niềm vui và sự an bình cho mọi tâm hồn, nhất là những tâm hồn đang cô đơn sầu khổ.
Xin cho mùa xuân này là lời động viên, nhắc nhở hay cảnh báo cho tất cả mọi người, để cùng với ơn thánh, chúng con luôn biết nỗ lực sống yêu thương và an bình trong tình Chúa và tình người chân thành. Amen.
37. Quê hương thật (Ga 14,23-27)
Trong những ngày Tết, chúng ta thường cầu chúc cho nhau được khoẻ mạnh, được nhiều may mắn, được gặt hái những thành quả tốt đẹp. Thế rồi khi năm mới bắt đầu, chúng ta thường ra sức làm việc, nhưng phần lớn là để tìm lấy những vinh quang, những lợi ích cho riêng mình. Và nếu có lỡ thất bại, chúng ta cảm thấy buồn chán, và nhất là chúng ta hậm hực tức tối khi người khác trổi vượt hơn chúng ta. Chính vì thế, đây là lúc chúng ta phải đặt lại vấn đề, phải xác định phương hướng cho cuộc đời chúng ta. Chúng ta sống là để làm gì? Và đâu mới là quê hương thật của chúng ta? Trả lời cho những câu hỏi này chúng ta mới có thể đi đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta đi cũng như mới có thể tìm thấy được những giá trị trường tồn và vĩnh cửu.
Khi ông Roosevelt còn làm tổng thống nước Mỹ, có lần đã đi nghỉ hè tận Phi Châu để săn những con hươu cao cổ. Trên chuyến bay từ Phi Châu trở về Hoa Kỳ, có một nhà truyền giáo đã hy sinh phục vụ những dân Phi Châu suốt 40 năm trời. Khi phi cơ hạ cánh, nhà truyền giáo ấy chứng kiến đông đảo dân chúng cùng một phái đoàn cao cấp trong chính phủ ra đón mừng tổng thống trở về bằng yên, không ai để ý tới nhà truyền giáo đang lủi thủi một mình. Bấy giờ nhà truyền giáo than thở với Chúa trong cõi lòng của mình: Lạy Chúa, Chúa biết không, một vị tổng thống đi nghỉ hè trở về mà được nhiều người đón rước như vậy. Còn con đây, con đã hy sinh vì Chúa để phục vụ những người anh em cùng khổ tại Phi Châu suốt 40 năm thế mà giờ đây, khi trở về, lại không một ai thèm nhớ đến con. Quả là bất công và tủi hổ cho thân phận của con. Thế nhưng lúc đó, dường như có tiếng Chúa trả lời trong tâm hồn nhà truyền giáo: Này con, đừng vội thất vọng, vì con chưa trở về quê hương thật của con cơ mà.
Có thể đôi lúc chúng ta cũng than phiền với Chúa như thế. Và câu trả lời của Chúa cho nhà truyền giáo cũng là câu trả lời cho mỗi người chúng ta: Con chưa trở về quê hương thật của con. Trần gian chỉ là nơi tạm gởi và vinh quang của nó tựa cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn. Vì thế, đừng quá bận tâm tới tiền bạc vật chất, địa vị danh vọng, cũng đừng ganh tỵ với những may mắn của kẻ khác, nhưng hãy cố gắng tạo cho mình một kho tàng thiêng liêng, có giá trị trường cửu, để nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Với những chia sẻ ngắn ngủi trên, tôi xin cầu chúc anh chị em một năm mới bình an và hạnh phúc trong tình yêu thương của Thiên Chúa.
38. Cầu bình an trong năm mới
Không biết có ai trong chúng ta thắc mắc “tại sao Giáo hội lại chọn đọc bài Tin Mừng này vào ngày đầu năm mới? Ngày cầu bình an?” Thiết tưởng Giáo hội là mẹ cũng muốn dạy con cái mình những điều thật hữu ích. Vì thế, có lẽ chúng ta cũng nên đặt thêm một vài câu hỏi: Tại sao lại phải cầu bình an trước tiên ngay trong ngày đầu năm mới? Điều gì đem lại bình an? Điều gì làm mất bình an? Lời Chúa hôm nay có giúp gì cho việc giải quyết những vấn nạn này không?
Xin thưa câu trả lời chắc chắn là có. Lời Chúa hôm nay sẽ giúp cho mỗi người tìm được bình an. Vì bình an là gốc của mọi điều tốt lành khác. Có bình an con người sẽ có được những thứ khác. “Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?”.
Lời Chúa thật là chí lý: xét đi xét lại chúng ta thường lo cho mình “của ăn, áo mặc”, mà cái lo này thường làm cho chúng ta quên đi cái chính yếu mình đang có đó là “mạng sống và thân thể”. Chúa nhắc chúng ta nhìn về điều chính yếu Chúa ban cho, Chúa đã trao cho chúng ta mạng sống, cái mà chúng ta không thể làm gì trên nó được, không kéo dài cũng không rút ngắn, không sớm cũng không muộn… mạng sống của chúng ta tùy thuộc vào tay Chúa. Nhưng ngay cả điều quý giá nhất là mạng sống thì Chúa cũng đã ban cho và được đặt vào trong một thân thể rồi. Thân thể cũng vậy, một món quà quý giá không ai có thể làm cho mình cao hơn lên, hoặc đầy đủ hơn. Chúng ta không can thiệp được về thân thể của chúng ta, có chăng chúng ta chỉ có thể giúp mạng sống và thân thể an toàn và tốt đẹp thêm như nó đã được trao tặng. Vậy mà nhiều khi trong cuộc sống chúng ta lại quên, đánh mất, hoặc làm tổn hại cái chính mà mình đang có để lo tìm cái phụ. Những cái phụ thuộc ấy nếu lo lắng quá đáng chúng ta sẽ làm cho mất bình an.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng cuộc sống ngày hôm nay có quá nhiều khó khăn và thử thách. Công ăn việc làm hết sức bấp bênh. Việc học hành và tương lai của con cái đáng phải lo nghĩ. An sinh xã hội không được bảo đảm. An ninh chính trị thì luôn bất ổn. Xung đột và khủng bố diễn ra khắp nơi. Những điều ấy đã làm cho cuộc sống chúng ta đôi khi mất bình an và luôn phải lo nghĩ để tìm cách ứng phó. Chúng ta vẫn có quyền lo nghĩ và sắp xếp tương lai của mình cho tốt đẹp nhất nhưng đừng để những thứ ấy làm ảnh hưởng đến sự bình an mà Chúa đã ban cho mỗi một người.
Chúng ta là những người đã dám tin vào vào quyền năng và ân sủng của Chúa, chúng ta phải có một lối sống và cách hành xử khác, dám để cho Lời Chúa hướng dẫn vì “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó”. Không phải ỉ nại vào sự quan phòng của Chúa, nhưng là cộng tác với Chúa, và khi đã nỗ lực hết sức để cộng tác với Chúa, thì tin tưởng Chúa sẽ chúc lành.
Như vậy điều đem lại bình an là vui với những hồng ân mà mỗi chúng ta được nhận lãnh hằng ngày cách nhưng không: mưa thuận gió hòa, mặt trời mọc và lặn đúng thời đúng buổi, không khí trong lành và những dòng nước mát, những người thân yêu và tình bằng hữu… Và điều làm mất bình an là chúng ta lo lắng tìm kiếm những cái phụ quá đáng, đôi khi lo lắng tìm cái phụ mà chúng ta tranh giành làm tương tổn nhau, đôi khi lo tìm những cái phụ mà đánh mất cả những giây phút hạnh phúc hiện tại mà mỗi chúng ta đang có.
Cầu xin bình an trong năm mới, là cầu xin cho chúng ta cảm nghiệm những hồng ân Thiên Chúa ban cách nhưng không. Cầu xin bình an trong năm mới là cầu xin cho có lòng tin vào bàn tay Chúa quan phòng. Cầu xin bình an trong năm mới là cầu xin cho biết lượng giá và tìm kiếm những điều chính yếu, tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, giữa cuộc sống có quá nhiều bề bộn và lo toan hôm nay, xin cho con được giữ mãi trong lòng hơi ấm bình an của Chúa. Nhiều khi cơm, áo, gạo, tiền đã làm chúng con quá mỏi mệt mà quên đi sự hiện diện nhiệm mầu của Tình Yêu Chúa.
Chúa biết đó, chúng con đang còn phải vật lộn mỗi ngày với cuộc sống nhiều cam go và thử thách hôm nay. Những khó khăn và thử thách từ ngoài tác động vào lòng chúng con và có những thử thách tự chúng con gây ra cho chính mình. Trong tất cả những vấn đề ấy, xin cho chúng con tìm ra được hướng giải quyết và tháo gỡ. Nhưng trên hết, xin cho chúng con luôn biết đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa và trao đời mình trong vòng tay yêu thương quan phòng của Chúa luôn.
Amen
39. Bình An – Quà Tặng Năm Mới
(J.B. Nguyễn Quốc Tuấn)
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô.
Bình an, đó là điều mà chúng ta mong ước và cầu chúc cho nhau mỗi dịp Tết đến xuân về. Bình an là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người kể cả trên bình diện xã hội và tâm linh. Bình an như là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đồng hành giữa nhân loại và thái độ đáp trả của con người bằng đời sống yêu thương. Vì khi sống yêu thương, chúng ta cũng đồng thời được tận hưởng một thế giới an bình.
1. Thiên Chúa là nguồn mạch bình an
Nguồn bình an đích thực đến từ Thiên Chúa. Từ tạo thiên lập địa, chính Thiên Chúa đã khai thông nguồn bình an ấy đến tận muôn loài. Riêng đối với con người, Ngài đã ưu ái đặc biệt khi cho chúng ta được cộng tác với Ngài trong việc tạo lập bình an cho thế giới. Nhưng chúng ta đã khước từ tình yêu của Thiên Chúa, lạm dụng quyền tự do Ngài ban theo chiều hướng xấu dẫn đến bất an, đau khổ.
Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Khi nhân loại bị tước mất nguồn bình an vì phải xa lìa Thiên Chúa, thì chính Ngài lại tiếp tục nâng đỡ và kêu mời chúng ta trở về nhận lại ơn bình an nơi Con Một Người là Đức Giêsu Kitô.
“Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1Tx 5, 23-24).
Một khi ý định của Thiên Chúa đã được thành toàn nơi Đức Kitô, nhân loại thực sự được mời gọi bước vào sống trong thế giới của nguồn bình an vô tận. Khi đã được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm của Đức Kitô, chúng ta không còn phải bất an vì lo sợ quyền lực sự dữ thống trị.
“Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó” (Cl 3, 15).
Cuộc lữ hành trong Đức tin của người môn đệ dù phải đối diện với muôn vàn mối hiểm nguy luôn rình rập đe doạ, nhưng đó sẽ là cơ hội quý giá cho chúng ta tận hưởng bình an chân thật do chính Thập giá mang lại.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi” (Ga 14, 27).
2. Không có bình an nếu thiếu tình yêu
Như vậy, bình an là quà tặng vô giá do bởi tình yêu mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Điều này cho thấy bản chất của bình an được khởi đi từ tình yêu. Tình yêu vừa là động lực, vừa là cốt tuỷ của sự bình an. Bình an mà Đức Kitô đã dành trọn cho nhân loại trong công cuộc cứu độ của Ngài, chính là nguồn bình an mà nhờ đó con người được sống trong tình yêu Thiên Chúa và anh em.
Kitô giáo đã mở ra cho chúng ta một hướng nhìn toàn diện khi nghiệm xét điều mà nhân loại hôm nay không ngừng vươn tới: Bình An. Đích điểm mà con người bao đời vẫn kỳ vọng là được sống trong một thế giới hoà bình sẽ trở thành ảo tưởng, nếu thế giới ấy thiếu đi tình thương.
Vẫn còn đó những bất an khi con người chưa đáp ứng lời mời gọi của Đức Kitô: hoà giải, thứ tha.
Vẫn còn đó những bất an khi những nhóm, hay cá nhân bất chấp các nguyên tắc luân lý nền tảng của sự sống và nhân phẩm con người.
Vẫn còn đó những những bất an khi người ta nhân danh quyền lực để xâm hại quyền lợi đồng bào vô tội.
Vẫn còn đó những bất an khi đồng tiền được đặt trên tình thương…
Vẫn còn đó những bất an khi chúng ta chưa chịu xả thân hết mình để chia sẻ những mất mát, đau thương của bao người…
3. Bình an – quà tặng năm mới
BÌNH AN - Món quà thiêng liêng nhất mà chúng ta trao đến nhau trong ngày đầu năm mới. Nó không là một lời chúc suông hoa mỹ, mà hàm chứa một thái độ sống, một nỗ lực sống của chúng ta trên chặng đường những tháng ngày mới đang mở ra.
Món quà BÌNH AN chỉ thực sự sinh động và và có ý nghĩa khi chúng ta gói gém vào trong đó những nguyện ước chân thành và thiện chí xây dựng một cuộc sống êm ấm tốt đẹp cho nhau.
Món quà BÌNH AN chỉ có thể đem lại bầu khí an bình đích thực khi nó được khắc vào đó dấu ấn Thân Ái – Thứ Tha.
Một năm mới bình an khi mỗi người dành cho nhau nhiều thời giờ trao đổi, chia sẻ, nâng đỡ và cùng nhau thăng tiến trong hiệp nhất.
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô. Do vậy, thực chất của ơn bình an chính là một cuộc sống luôn kết hiệp với Đức Kitô trên tinh thần tôn trọng sự thật và xây dựng một xã hội công bình, yêu thương.
“Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3, 14).
40. Những nét đẹp Tin Mừng của ngày tết
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Xuân đến làm đẹp đất trời. Những cành đào đua nhau khoe sắc. Những chồi non bụ bẫm nhú ra khỏi cành cây khô khẳng. Chợ búa đông vui và đẹp đẽ với những hàng hoá đủ mọi loại. Những tà áo mới tha thướt làm đẹp phố phường. Trong khung cảnh vui tươi tấp nập ấy, khuôn mặt mọi người như rạng rỡ tươi cười. Mùa Xuân đem đến nhiều vẻ đẹp. Cao quý nhất là những nét đẹp văn hoá dân tộc đậm đà mầu sắc Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của lòng biết ơn. Năm hết Tết đến, người Việt nam thường nhớ đến công ơn của những người đã giúp đỡ mình trong năm qua. Biết ơn là một nét đẹp văn hoá đáng trân trọng và cũng là một điều hợp lý. Năm 2000 phải biết ơn 1999 năm qua. Dòng sông lớn phải mang ơn những con suối nhỏ. Hạt lúa phải nhớ ơn những hạt mưa, hạt nắng, hạt phân. Ngày hôm nay phải biết ơn ngày hôm qua. Thế hệ này phải nhớ ơn thế hệ trước. Đời sống ta chịu ơn biết bao người. Cảm nghiệm sâu xa chân lý này, nên mỗi dịp Tết đến, người Việt nam ta thường bày tỏ lòng biết ơn với ông bà, cha mẹ và các ân nhân. Những món quà nho nhỏ nhưng thắm đượm tình nghĩa làm vui cả người nhận lẫn người cho. Riêng với người Công giáo, bày tỏ lòng tri ân đối với Thiên chúa là một bổn phận không thể thiếu. Vì Thiên chúa chính là tổ tiên đã sinh thành nên ta. Vì Thiên chúa là ân nhân lớn nhất đời ta. Chính Người đã ban cho ta món quà cao quý nhất: đó là sự sống. Chính Người tiếp tục chăm sóc gìn giữ ta từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây. Biết ơn là việc làm của lương tri, cổ võ cho một thế giới mới chan chứa tình người. Biết ơn cũng là một giá trị đạo đức được Chúa Giêsu đề cao trong Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của sự cho đi. Ta gửi đi những cánh thiệp như những sứ giả của tình cảm yêu thương. Ta gửi đi những lời cầu chúc như tâm tình mến yêu tha thiết dành cho nhau. Ta sửa sang quét dọn nhà cửa để đón tiếp nhau. Ta dành thời giờ viếng thăm nhau để xiết chặt thêm tình thân ái. Ta ăn mặc tề chỉnh để tỏ lòng kính trọng nhau. Ta nói năng tế nhị để làm vui lòng nhau. Ta rộng rãi tặng tiền mừng tuổi cho con cháu. Tóm lại, tất cả những gì ta làm trong ngày Tết đều vì người khác và cho người khác. Đặc biệt trong lãnh vực ăn uống. Ngày Tết, nhà nào cũng chuẩn bị sẵn đồ ăn thức uống cho gia đình, nhưng nhất là để mời khách. Khách vào nhà bao giờ cũng được mời thưởng thức ấm chè mới, nếm kẹo bánh ngon. Sự chiếu cố của khách làm vui lòng cho chủ. Sự vui vẻ của người nhận là hạnh phúc của người cho. Có niềm vui cho đi và có niềm vui lãnh nhận. Những niềm vui ấy tạo cho ngày Tết một nét đẹp đầy mầu sắc Tin Mừng: nét đẹp của sự quên mình, của sự quảng đại cho đi, của sự khiêm tốn đón nhận, của tình liên đới.
Ngày Tết có nét đẹp của sự đổi mới. Thiên nhiên đổi mới với sự hồi sinh của cây cỏ. Phố phường đổi mới với những căn nhà mới, với những gian hàng mới và với quần áo mới. Hoà vào cái mới của đất trời, của xã hội, lòng người cũng nôn nao trong niềm hy vọng đổi mới bản thân và cuộc đời. Ai cũng mong tống tiễn những điều xấu vào quá khứ. Ai cũng mong đón nhận một tương lai tươi đẹp. Niềm mong ước đổi mới được thể hiện qua những cố gắng giữ vẻ mặt tươi cười, không tức giận, không nói những lời thô tục, những điều rủi ro, nhưng chỉ nói những điều tốt đẹp, đối xử hoà nhã với mọi người trong những ngày Tết. Phút giao thừa thật thiêng liêng. Nó đánh dấu một khởi đầu mới. Người ta tin rằng sống tốt đẹp những giây phút đầu tiên sẽ có ảnh hưởng tốt đến cả năm. Nên mỗi dịp Tết là một lần khuyến khích ta cố gắng đổi mới đời sống, đổi mới bản thân.
Đổi mới đời sống là điều Chúa Giêsu tha thiết mong muốn nơi ta. Người không ngừng mời gọi ta hãy từ bỏ con đường tội lỗi xưa cũ, bước vào con đường mới, con đường tự do, thánh thiện của con cái Thiên chúa. Người không ngừng mời gọi ta trở thành bầu da mới để có thể chứa đựng thứ rượu mới là giáo lý của Người. Ngày Tết chính là một cơ hội cho ta thực hành Lời Chúa dạy, tích cực đổi mới đời sống nên tốt đẹp hơn.
Với tất cả những nét đẹp trên đây, tinh thần ngày Tết cổ truyền dân tộc rất gần gũi với Tin Mừng. Rõ ràng nét đẹp văn hoá Việt nam đã chất chứa những giá trị Tin Mừng. Rõ ràng Tin Mừng đang đi vào cuộc sống của người Việt nam.
Vì thế, người Việt nam Công giáo không những có trách nhiệm gìn giữ những nét đẹp văn hoá của ngày Tết cổ truyền mà còn phải biến những nét đẹp ấy thành những trang Tin Mừng sống động. Khi ta sống tâm tình biết ơn trong ngày Tết, đừng chỉ giữ hình thức bề ngoài hay chỉ chú ý tới khía cạnh vật chất. Hãy có tâm tình biết ơn sâu xa. Hãy nhìn thấy ơn Chúa ban qua mọi ân huệ nhận được. Khi ta cho đi trong ngày Tết, đừng chỉ cho đi như một hình thức xã giao hay như một thói tục bắt buộc. Hãy cho đi với tâm tình yêu mến, kính trọng thực sự. Hãy đón tiếp khách thăm viếng như đón tiếp chính Chúa. Khi ta muốn đổi mới đời sống, đừng chỉ giữ như một hình thức và không chỉ giữ trong những ngày Tết, nhưng duy trì sự cố gắng đổi mới trong suốt cả đời với quyết tâm thực sự đổi mới đời sống.
Khi ta sống tinh thần Tin Mừng trong những phong tục ngày Tết, ta góp phần xây dựng một mùa Xuân mới, một mùa Xuân dân tộc, một mùa Xuân tình thương. Mùa Xuân ấy sẽ vĩnh cửu vì sẽ dẫn đến mùa Xuân Nước Trời.
Lạy Đức Kitô là mùa Xuân đích thực, không bao giờ tàn úa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen
41. Một năm mới tốt đẹp
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
I. NĂM MỚI VỚI LỜI CHÚA
Bài đọc 1: St 1,14-18.
Thiên Chúa là Alpha và Oméga, nghĩa là Khởi Nguyên và Cùng Tận của vũ trụ muôn loài. Ngài sáng tạo thời gian và không gian, chính Ngài ấn định năm tháng ngày giờ và đặt ra các chu kỳ đại lễ.
Một năm mới bắt đầu là một khoảng thời gian nữa được ban cho chúng ta. Có thời gian là một ơn rất quí. Chúng ta có thời giờ để làm ăn sinh sống, nhưng cũng có thời giờ để chuẩn bị cho đời sống vĩnh cửu.
Bài đọc 2: Pl 4,4-8
Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Không phải ngẫu nhiên mà thánh Phaolô lại thêm chữ niềm vui của Chúa, vì niềm vui của Chúa thì khác với niềm vui của người ta. Niềm vui của người ta thì tùy ở nhiều yếu tố vật chất bên ngoài; còn niềm vui của Chúa thì nhẹ nhàng thanh thoát và tùy thuộc những điều kiện bên trong nhiều hơn như: tính hiền hòa, lòng quảng đại và tinh thần cầu nguyện. Có được những điều kiện đó là chúng ta có thể vui luôn trong Chúa.
Bài Tin mừng: Mt 6,25-34
Bài Tin mừng mời gọi chúng ta an tâm bước vào năm mới với niềm tin tưởng phó thác cho Chúa. Chúng ta phải biết cái gì đáng lo, đó là sống công chính, lo xây dựng Nước Trời. Xây dựng Nước Trời, có nghĩa là thực thi công bình bác ái, kiến tạo hòa bình và tạo dựng hạnh phúc cho mọi người. Có được Nước Trời như thế, thì còn gì phải lo lắng cho vấn đề cơm ăn áo mặc nữa: tất cả những cái mà chúng ta cho là thiết yếu nhất, chẳng qua chỉ là những cái được “thêm cho” mà thôi.
II. XUÂN ĐẾN XUÂN ĐI, XUÂN BẤT TẬN
Người ta thường nói:
Xuân khứ xuân lai, xuân bất tận,
Nhân hòa nhân thỉnh, nhân trường sinh.
Xuân đến xuân lại đi và sang năm xuân sẽ tới vì quả đất tròn quay mãi không ngừng. Dù có ai yêu hay ghét xuân thì xuân vẫn đến, không phụ thuộc ai dù già trẻ, lớn bé, giầu nghèo, trí thức hay dốt nát, xuân đến một cách nhẹ nhàng, đều đặn.
Chúng ta hãy trở lại với sách Sáng thế. Sách cho biết Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật và Ngài đã tách ánh sáng ra khỏi bóng tối để làm ra ngày và đêm phân biệt. Ngày và đêm thay đổi nhau để làm nên năm tháng. Ngày đêm thay đổi nhau 365 lần làm nên một năm (x. St 1,14-18)
Sau 365 ngày lại có một năm khác mà ta gọi là “Năm Mới” mà năm nay là năm Tân Mão. Ai trong chúng ta cũng gọi năm nay là năm mới, nhưng có thật là mới không vì có người cho rằng chả có gì là mới cả, năm nào cũng vậy thôi và năm nay có thể cũ hơn năm ngoái.
Trước đây, thi sĩ Trần Tế Xương có cái nhìn khác không giống như mọi người, khi ông nói:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Thực ra, nếu xét theo xuân cảnh vật thì càng ngày càng cũ đi như 70 tuổi thì phải cũ đi hơn là 20 tuổi. Nhưng nếu xét theo xuân trong tâm hồn, tức là xuân của ơn thánh thì có thể gọi là năm mới.
Francis Bacon đã có cái nhìn sâu sắc về vấn đề này khi ông nói: “Con người thời nay đã già cỗi, cần phải trở lại “thời thanh xuân” của con người nguyên thủy”.
Đúng vậy, con người trẻ trung ngày xưa đã bị vật dục làm hư hỏng đã trở nên già khọm. Phải làm sao canh tân con người già cả của chúng ta để trở nên người trẻ trung tươi mát vì nó phải trở nên trẻ thơ mới được vào Nước Trời (x. Mt 19,13-15).
III. NGƯỜI TA CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Chúng ta cứ coi năm Tân Mão này là Năm Mới đi và cùng mọi người chúc nhau. Vậy người ta thường chúc nhau những gì? Người ta thường chúc nhau một : Năm Mới Tốt Đẹp, Bonne année hay Happy new year. Câu chúc cổ điển nhất của xã hội chúng ta vừa súc tích vừa vắn gọn nhất bằng 3 chữ là: PHÚC, LỘC, THỌ.
Cũng có người chúc nhau nhiều hơn bằng 5 chữ: PHÚ, QUÍ, THỌ, KHANG, NINH. Nhưng có lẽ chữ Phúc luôn đứng hàng đầu vì nếu được tất cả mà thiếu Hạnh phúc thì cuộc đời trở nên vô nghĩa. Chúng ta hãy xem thi sĩ Trần tế Xương nói chuyện với chúng ta về lời chúc Năm Mới như thế nào:
1. Chúc cho sống lâu.
Có người cho rằng năm mới tốt đẹp là ở tại chỗ sống thật lâu thật bền cho đến lúc đầu phủ tuyết, da đồi mồi. Thi sĩ nói:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Nhưng sống lâu có hạnh phúc không? Tại sao người ta thường nói:”đa thọ, đa nhục” hoặc thành ngữ có câu:”Trẻ khôn qua, già lú lại”. Đã “lú lại” sẽ bị con trẻ chê bai! Đã “lú lại” tất không thể trốn đâu được cái nhục. Không thiếu gì các ông già bà cả bị bỏ rơi, đang sống tủi sống nhục trong tuổi già. Ít có người già nào nói: mình được hạnh phúc trong tuổi già.
Ngắm nhìn ngày tháng dần trôi, người già mới thấm thía câu ca dao:
Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa.
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa… một mình.
Trước cảnh tượng phũ phàng ấy, người ta tự nhiên cảm thấy ù tai chóng mặt. Để cứu vãn tình thế, tranh thủ thời gian, họ đâm ra ăn chơi phóng đãng:
Ai ơi, chơi lấy kẻo già,
Măng mọc có lứa, người ta có thì.
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già xống xộc nó thì theo sau.
2. Chúc cho giầu có.
Có người cho rằng: năm mới tốt đẹp là ở chỗ làm ăn phát tài phát lộc, tiền chảy vào túi như nước như non. Người ta chúc nhau:”Nhất bản vạn lợi” hay “Một vốn bốn lời”:
Nó lại chúc nhau cái sự giầu
Trăm ngàn vạn mớ để vào đâu?
Người ta chúc nhau giầu có, nhưng thử hỏi giầu có đến đâu là đã thỏa mãn? Chắc chẳng bao giờ ngươi ta thỏa mãn với cái lòng tham vô đáy, nên chẳng bao giờ người ta đạt được sự giầu có như lòng mong ước?. Người ta vẫn khát khao sự giầu có mà không được.
Nhiều người đã tôn vinh tiền của lên hàng thần thánh: thần MAMMON (thần Tiền Của). Vị thần này rất quyền năng, trở thành ông chủ khắc nghiệt tuyệt đối chi phối con người họ, bắt họ làm nô lệ cho mình, và có ai thấy mình được hạnh phúc khi phải sống kiếp nô lệ không?
Ngày 06/06/1976 ông Paul Getty, một người giầu có, đã qua đời. thọ 83 tuổi. Ông để lại khoảng 4 tỉ Mỹ kim. Sau 5 lần ly dị, trong một cuộc phỏng vấn, ông đã tuyên bố:”Tôi đã mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ mình không thành công. Tôi sợ không thể tạo được hạnh phúc hôn nhân ấy”.
Một lần khác, ông đã phải thú nhận với một phóng viên là ông đã không đạt được hạnh phúc gia đình.
Một lần khác nữa, ông Paul Getty xác nhận: tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Hơn nữa, ông còn tin rằng tiền bạc có bà con với nỗi bất hạnh.
3. Chúc cho vinh sang
Có người cho rằng một năm tốt đẹp là được mọi người ca tụng, tiếng tăm được vang khắp bốn bể, được thiên hạ nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa:
Nó lại chúc nhau cái sự sang
Đứa thì buôn tước, đứa buôn quan.
Danh tiếng vang lừng bốn bể có làm cho người ta được hạnh phúc không? Đây là một chứng từ mà người ta đã biết: ông Anatole France là một người giầu có, được mọi người hoan nghênh, được nếm đủ các thứ khoái lạc trên đời, đã phải thú nhận rằng: “Nếu anh có thể đọc được trong tâm hồn tôi, anh sẽ rùng mình. Trong trời đất không có vật nào vô phúc bằng tôi: người ta tưởng tôi sống hạnh phúc. Thật ra, không bao giờ được sung sướng cả, dầu trong một giờ, dẫu trong một ngày”.
Còn một chứng từ khác của một người còn sang hơn quan nữa, tiếng tăm lừng lẫy khắp muôn phương, được thiên hạ học từ lời ăn tiếng nói, được theo dõi, từ chân tơ kẽ tóc như cô đào minh tinh màn bạc Brigitte Bardot mà cũng không thấy được hạnh phúc.
– ?
– Mộng tôi bây giờ không phải là thủ vai tài tử quan trọng. Mộng tôi bây giờ là làm thế nào có đủ can đảm rút lui khỏi màn bạc.
– Thế thì tất cả những công danh của cô xưa rầy là mây, là khói hay sao?
– Phải! Brigitte Bardot đáp lại những câu hỏi bồi hồi của một ký giả báo Văn Đàn. Phải! Tất cả là mây khói, là hư vô.
IV. CHÚNG TA NÊN CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Nếu chúc cho ông bà anh chị em được sống lâu, giầu có, được vinh sang… thì thấy không ổn vì tất cả những cái đó chưa làm nên hạnh phúc vì nó vẫn là mây khói. Xin được lấy lại câu chúc của thi sĩ Trần Tế Xương một lần nữa:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Câu chúc của thi sĩ “Sao được cho ra cái giống người” xem ra có vẻ hài hước và mang tính cách châm biếm. Nhưng cái nhìn của ông về con người cũng giống như cái nhìn của nhà hiền triết Diogène ngày xưa. Đang giữa trưa ông cầm đèn ra giữa thành phố Athènes để đi tìm cài gì đó. Người ta hỏi tìm gì. Ông trả lời: đi tìm người! Thiếu gì người ở giữa thành phố mà phải đi tìm? Nhưng ông cho rằng những đám người này chưa phải là người đúng nghĩa, ông đi tìm một con người chính danh, con người xứng đáng “linh ư vạn vật” kia!
Năm mới chúng ta chúc nhau hãy trở nên con người đúng nghĩa, phải “linh ư vạn vật ” mới được.
Đối với người Việt nam Công giáo chúng ta, thời gian được ban cho chúng ta trong Năm mới này là để chúng ta “làm người” và “làm con Chúa”. Chúng ta không tự nhiên là người hay là con Chúa được, có là hay không còn tùy thuộc ở chỗ chúng ta có “làm” và có “làm” được hay không. Hạt giống không tự nhiên có thể nở thành cây và sinh hoa kết quả: nó cần phải được gieo cấy trong ruộng trong vườn, và cần phải có thời gian để phát triển. Con người chúng ta cũng vậy, chúng ta là những cái “nhân” được gieo cấy trong ruộng đồng là thế gian này và thời gian được ban cho chúng ta làm nên đời mình bằng cách cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa: ân sủng này cũng ví như ánh sáng và sương mưa cần thiết cho sự sinh trưởng của cây.
Chúng ta sẽ trở nên người con có Thiên Chúa là Cha, để chúng ta có thể thưa với Chúa là “Abba, Cha ơi” (Mc 14,36), và chúng ta có mọi người là anh chị em, và đây là một vinh dự lớn lao đối với con người hèn mọn chúng ta, như người ta nói:
Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Cha chúng ta điều khiển muôn loài muôn vật, Ngài nuôi chim trời cá biển, săn sóc từng cây cỏ nơi đồng nội. Ngài lại càng săn sóc chúng ta hơn nhiều vì chúng ta là con của Ngài. Vì thế, chúng ta đừng quá bồn chồn lo lắng về đời sống vật chất cho có cơm ăn áo mặc, hãy tin vào Chúa quan phòng.
Có một điều khác biệt nơi người tin và người không tin là người tin thì một đàng ra sức xây dựng và phát triển những giá trị trần gian (trong đó có sự tích lũy tiền của), một đàng vẫn hướng mắt, hướng lòng, hướng lời cầu về với Thiên Chúa là Cha, là Nguồn Mạch mọi sự giầu có và hạnh phúc.
Nhân dịp Năm Mới, xin chúc ông bà anh chị em một năm mới tốt đẹp và một năm mới tốt đẹp như lời Chúa dạy:”Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và ăn ở công chính như Người đòi hỏi; còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho”(Mt (Mt 6,23). Còn ăn ở công chính đây là sống Tám mối Phúc thật như Chúa đã dạy trong bài giảng trên núi (x. Mt 5,3-12).
42. Mùa Xuân là Mùa của Hy Vọng
(Lm Giuse Nguyễn Văn Thành)
Mùa xuân lại về trên quê hương đất nước chúng ta. Người người náo nức. Chúng ta thường chúc nhau những lời tốt đẹp nhất.
Theo qui luật của Tạo hóa, thời tiết thay đổi nối tiếp nhau theo một chu kỳ: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa nào mang tính độc đáo của mùa ấy, nhưng Xuân vẫn được gọi là mùa của sự đâm chồi nảy lộc, mùa hoa đua nở, cảnh khoe sắc, bởi thời tiết ấm áp hơn. Phong cảnh xinh tươi báo hiệu sức sống dồi dào. Xuân cũng báo hiệu nhiều niềm vui, nhất là các bạn trẻ.
Xuân nào xuân tuổi nhỏ
Trong trắng ấy xuân ơi.
Hầu như tất cả các nước trên thế giới đón mừng năm mới, vào ngày mồng một của tháng đầu năm. Riêng Việt Nam và những nước Châu Á đón Tết theo giờ, ngày của lịch Can Chi năm đó. Lịch Can Chi là Nhân lịch. Sự vận động của thời gian tương ứng với các vị trí không gian trong vũ trụ được thể hiện qua năm, tháng, ngày, giờ. Tết Nguyên Đán là quan trọng nhất đối với chúng ta.
Tết Nguyên Đán được tổ chức rất long trọng cả về tinh thần lẫn vật chất. Nó đã đi vào thói quen của người Việt Nam và đã trở thành nét đẹp văn hoá.
Ngay cả khi nền kinh tế của chúng ta vẫn còn eo hẹp thì ngày Tết vẫn được coi là “no ba ngày Tết, đói ba tháng hè”. Cho dù thiếu thốn đến đâu, người ta cũng sẵn sàng làm Tết trong ba ngày cho thịnh soạn. Vì thế, gia đình nào cũng phải mua sắm ngũ quả, gói mứt, chai rượu, trước hết để thắp hương kính tổ tiên, sau để tết ông bà, cha mẹ…. Ngày xưa, nhiều người còn quan niệm những thứ làm nên ngày Tết:
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”.
Người ta vẫn coi ngày Tết là ngày rất thiêng liêng, nên trong gia đình có điều gì khúc mắc thì cha mẹ, con cái hay vợ chồng sẽ xin lỗi nhau để hi vọng một năm mới sẽ có nhiều sự may mắn.
Đối với người Công Giáo, chúng ta hãy vui và đón Tết với tất cả tâm tình của người con Đất Việt, cùng đồng hành với dân tộc. Những hành vi thảo hiếu, tình bằng hữu cũng như tình làng nghĩa xóm cần phải được giữ cho trọn. Bởi Chúa chính là chủ của mùa xuân. Ngài đến ban sức sống dồi dào cho muôn loài thụ tạo. Mọi hoạt động của vũ trụ vạn vật đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cho nên, Ngài là hi vọng của thế giới.
“Bốn mùa Chúa đổ hồng ân,
Ngài cho mầu mỡ ngập tràn lối đi”.(Tv 64,12)
Vì thế, nó rất hợp với ý Chúa và Giáo Hội kêu mời. Đây là thời gian thuận tiện để chúng ta thi hành những công việc của người con cái Chúa. Chúng ta làm chứng cho Chúa trước mặt người khác bằng đời sống vui Tết nhưng không quên bổn phận thiêng liêng và chơi Tết mà không sa vào những tệ nạn xã hội.
Hơn nữa, với người Kitô hữu, Tết cổ truyền còn được gọi là dịp biết ơn và báo hiếu, mùa của đổi mới và hi vọng nữa.
Chúng ta cầu nguyện cho hoà bình trên quê hương đất nước.
Chúng ta quan tâm đến những người kém may mắn để họ cũng được hưởng một cái Tết vui vẻ, khoẻ mạnh và tràn đầy hồng ân Chúa.
43. SUY NIỆM MỒNG MỘT TẾT Mt 6,25-34
(Lm Thaddaeus. M. Lê Văn Ý)
Một mùa xuân nữa lại về trên quê hương Việt Nam. Nói đến mùa xuân, Tết cổ truyền ai nấy cũng đều háo hức vì đó là ngày lễ hội truyền thống của dân tộc. Vào những ngày cuối năm cũ, người ta lo trang hoàng nhà cửa, sắm sửa mọi thứ đều mới để vui chơi trong những ngày đầu xuân.
Những ngày Tết là những ngày vui. Người ta vui mừng vì gia đình được đoàn tụ, được sum họp sau những ngày tháng làm lụng vất vả: con trẻ vui vì được lì xì, người già vui vì được mừng tuổi và chúc thọ. Bao người đi xa, dù Bắc hay Nam, dù tận phương trời Tây cũng tìm về với gia đình, dòng họ để chung vui.
Ngày đầu năm còn là dịp để người ta xích lại gần nhau hơn, quên đi những điều không may trong năm cũ, đến với nhau và chúc mừng năm mới cho nhau: chúc cho nhau sống lâu trăm tuổi, an khang thịnh vượng và hy vọng mọi việc sẽ được an lành mỹ mãn.
Theo truyền thống của người công giáo Việt Nam, ngày đầu năm mới ngày cầu xin Chúa ban bình an. Ai ai cũng mong được bình yên trong tình yêu quan phòng của Chúa. Khởi đầu năm mới, mọi người đều cảm thấy cần khẩn cầu cho những ngày sắp tới được bình yên thịnh vượng. Đang khi đó ai ai cũng tự hiểu tương lai không ai nắm chắc được điều gì. Người Việt Nam cho rằng “Vạn sự khởi đầu nan”. Khởi đầu năm mới, bên cạnh những niềm vui sum họp, nhưng cũng cảm thấy nỗi lo lắng dâng tràn cho một năm mới đang đến. Vì thế, những người sống niềm tin, chạy đến với Ông Trời, người công giáo tìm đến Chúa để cầu xin được bình an, mong sao được Chúa phù hộ chở che, như trong thánh vịnh 121 đã nói:
“Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi,
Ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?
Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa
Là Đấng dựng nên cả đất trời,
Xin Đấng gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước,
Xin Người chớ ngủ quên.
Đấng gìn giữ Israel, lẽ chợp mắt ngủ quên cho đành!
Chính Chúa là Đấng gìn giữ bạn,
Chính Chúa là Đấng vẫn chở che,
Người luôn luôn ở gần kề.
Ngày sáu khắc, vầng ô không tác họa,
Đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại.
Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh,
Gìn giữ cho sinh mệnh an toàn.
Chúa gìn giữ bạn lúc ra vào lui tới,
Từ giờ đây cho mãi muôn đời”.
Đông qua, xuân lại đến. Dù muốn hay không, qui luật vận hành của đất trời cứ thế mà xoay chuyển, và đó là điều người ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng làm ra và nắm giữ mọi điều, thời gian là của Chúa ban cho con người trên mặt đất này.
Thiên Chúa là Chúa của mùa xuân, là Chúa của trời đất vạn vật. Chính Người là Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật ngay từ thuở ban đầu, “từ những vật sáng trên vòm trời, đến những vầng sáng lớn và các tinh tú” (St 1,14-18). Mùa xuân đầu tiên ngập tràn hạnh phúc được Thiên Chúa tạo lập trong vườn Địa Đàng năm xưa chính là mùa xuân tình yêu dành cho Ađam - Evà. Tuy nhiên, hai ông bà đã để mùa xuân yêu thương ấy kết thúc trong sự sa ngã nuối tiếc.
Ngày Tân Niên, chúng ta đến với Thiên Chúa để mừng tuổi Chúa, đến với Đấng làm chủ thời gian để xin Người chúc phúc cho chúng ta:
“Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,
xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con,
cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa,
và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài”. (Tv 66,2-3).
Điều mà ai cũng ao ước trong những ngày đầu xuân đó là sự bình an. Một khi có sự bình an thực sự, con người sẽ có được những thứ khác. Một khi có sự bình an thực sự, chúng ta sẽ luôn vui mừng trong Chúa: “Bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô” (Pl 4,7).
Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu trong ngày Tân Niên, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta một phương thế để có được sự bình an, đó là tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, qua hai cách nói “đừng lo” và “hãy lo”:
"Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?... Tiên vàn, anh em hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,25.33).
Không lo sao được vì với những người có dư thừa vật chất thì không có vấn đề. Nhưng đối với những người mà mỗi ngày phải lo tìm kế sinh nhai cho đủ ăn đủ mặc, sống lây lất qua ngày, chứ chưa nói đến làm giàu thì rõ ràng đây lại là một vấn đề to lớn. Giữa thế giới tục hóa của thời đại cơm áo gạo tiền này, vấn đề vật chất tiền của đã chiếm chỗ rộng lớn trong tâm trí. Vì thế, nhiều người mãi mê tự mình đi tìm kiếm kinh tế, tiền tài để tiêu dùng và hưởng thụ.
Tuy nhiên, điều Chúa muốn nơi mỗi người là: chúng ta không được phép ỷ lại vào sự quan phòng của Chúa một cách quá đáng, nhưng cũng đừng lo lắng thái quá về tiền của, cái ăn cái mặc cho ngày mai, như kiểu của người không có niềm tin: Chúng ta sẽ ra sao, sẽ ăn gì, uống gì, mặc gì? Kinh thánh khuyên bảo chúng ta sống tín thác vào tình yêu của Chúa:
“Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện
Thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn.
Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn,
Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng.
Hãy ký thác đường đời cho Chúa,
Chính người sẽ ra tay” (Tv 37; 4 – 5)
Hạnh phúc đích thực chỉ có cho những ai biết tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước tiên. Chúa không muốn con cái của Chúa lo lắng quá nhiều, Chúa chỉ muốn chúng ta tin cậy vào tình yêu của Người, bởi lẽ “ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34b). Còn sự công chính của Thiên Chúa được tỏ lộ qua lời giảng dạy của Người (x.Mt 5,6.10.20).
Cùng đích của đời người không hệ tại ở vật chất, tiền bạc của cải, quyền lực,... mà là cuộc sống mai hậu. Chúa biết chúng ta cần gì muốn gì và chính Người sẽ bảo đảm cuộc sống cho chúng ta. Vì thế, chúng ta “hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37,5).
Trong giờ phút linh thiêng của ngày đầu năm, thiết nghĩ tâm tình của người Kitô hữu trong Thánh Lễ Tân Niên phải là tâm tình phó thác, trông cậy cầu xin những ơn lành từ lòng thương xót của Chúa cùng với tâm tình tạ ơn. Đặc biệt chúng ta mừng đón tết trong khung cảnh của Năm thánh giáo phận Qui Nhơn mừng kỷ niệm bốn trăm năm loan báo Tin Mừng, càng làm cho mỗi người suy gẫm về sự quan phòng, yêu thương của Chúa đã ban xuống cho chúng ta biết bao hồng ân. Một năm đã qua với biết bao biến cố vui buồn trong cuộc sống, chúng ta đều cảm tạ Chúa vì muôn phúc lành mà Chúa đã thương ban. Tình yêu thương mà chúng ta có thể cảm nghiệm là ngay trong giây phút này đây mình vẫn đang sống, vẫn đang hiện diện, để được cùng sum họp với gia đình, với cộng đoàn giáo xứ. Đồng tiền mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày đầu xuân tượng trưng cho lòng thành tri ân cảm tạ của chúng ta.
Đồng thời mỗi người chúng ta cũng xin lỗi Chúa vì những do dự, yếu đuối, thiếu sót, vì những phận sự mà mình chưa chu toàn với trách nhiệm làm cha mẹ, vợ chồng, con cái,... trong gia đình và bổn phận truyền giáo của người Kitô hữu.
Và sau cùng, bước sang Năm Mới, ai trong chúng ta cũng mơ ước cho mình và cho người khác mọi điều may mắn tốt đẹp. Chúng ta hy vọng một năm Mậu Tuất sẽ đầy thuận lợi hơn năm Đinh Dậu đã qua với nhiều ân sủng Chúa. Việc hái lộc lời Chúa trong ngày đầu năm sẽ giúp chúng ta suy niệm và thực hành trong một năm mới dưới sự soi sáng và nâng đỡ của Chúa quan phòng, giúp ta luôn trông cậy vào Chúa, vượt qua lo lắng thái quá cho ngày mai. “Hãy vui lên anh em!” (Pl 4,4), chính cái vui này giúp chúng ta sống đời phó thác “ngày mai, cứ để ngày mai lo” (Mt 6,34) để sống tròn đầy giây phút ân huệ hiện tại.
Chúng ta cùng cầu chúc cho nhau một mùa xuân nhiều PHÚC LỘC THỌ, một mùa xuân đầy AN BÌNH VUI TƯƠI HY VỌNG, một mùa xuân thêm lòng TIN CẬY MẾN. “Càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và thêm ân nghĩa với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).
44. TIN VÀO TÌNH YÊU QUAN PHÒNG CỦA CHÚA Mt 6,25-34
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Một trong những thực hành mê tín của dân ngoại đang ảnh hưởng đến đời sống của người tín hữu, đó là sự tin kiêng mù quáng và phong thủy sai lầm. Những người này, mặc dù vẫn tin Chúa, nhưng đồng thời họ lại tin kiêng vào những lời lẽ của ông thày và những thói quen của người ngoại. Ví dụ như chọn người xông nhà, chọn ngày khởi công, khai trương, xây nhà phải đếm bậc, đếm đòn tay. Người dân ngoại, vì không biết Chúa, họ cho rằng sự may mắn trong năm là do ông thầy hướng dẫn; sự thành công của công việc là do chọn đúng ngày, gia đình hạnh phúc là do phong thủy.
Người Công giáo khi tin và thực hành như thế, có nghĩa là chối bỏ quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa, và cho rằng sự thành công hay thất bại, khỏe manh hay đau ốm, may mắn hay bắt hạnh, là do tài khéo của bản thân hoặc do một sức mạnh nào đó không phải là Thiên Chúa. Khi cố tình tin và thực hành như vậy, chúng ta xúc phạm trầm trọng đến Thiên Chúa và đức tin của mình.
Trong giây phút đầu năm hôm nay, chúng ta đến đây để dâng lên Thiên Chúa những giây phút đầu xuân, cầu xin Chúa ban cho một năm mới thuận lợi trong công việc, gia đình bằng an, mạnh khỏe, hạnh phúc, con cháu ngoan hiền. Trong ngày đầu năm này, Lời Chúa mời gọi chúng ta tái khăng định niềm tin của mình vào quyền năng, tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa.
Bài đọc một cho chúng ta thấy: Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ mọi vật mọi loài, không có một thần linh nào khác ngoại trừ Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa dựng nên vũ trụ trời đất, Ngài dùng lời quyền năng, chỉ phán: hãy có, mọi vật, mọi loài liền có. Ngài là Đấng quan phòng, sắp xếp thời gian, cho mặt trời soi sáng ban ngày và mặt trăng soi đường ban đêm; Ngài chi phối hướng dẫn vũ trụ và điều khiển cuộc đời của từng con người. Vì thế, tất cả những việc cúng bái tin kiêng vào các thần linh theo kiểu của dân ngoại đều là phản bội lại niềm tin vào Thiên Chúa tạo dựng.
Thánh Kinh không chỉ khẳng định cho chúng ta về một Thiên Chúa tạo dựng quyền năng, nhưng trước hết, và trên hết, Thiên Chúa thực sự là một người Cha giàu lòng thương xót. Thiên Chúa yêu thương các tạo vật Ngài đã dựng nên, nhưng Ngài vẫn dành cho con người một tình yêu thương đặc biệt. Vì yêu thương cách đặc biệt, nên đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Thiên Chúa giống như Thiên Chúa. Con người được nâng cao và trao ban một phẩm giá đặc biệt trên tất cả mọi loài. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến độ, Ngài trở nên bạn hữu với con người; mỗi buổi chiều, Thiên Chúa ngự xuống đi dạo với con người, trò chuyện với con người.
Tình thương của Thiên Chúa dành cho con người thật cao cả lớn lao, Ngài đã chấp nhận cho Con của Ngài là Chúa Giêsu xuống thế làm người, để ở với con người. Chúa Giêsu là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài đến thế gian để nói cho mọi người biết rằng: Con người được Chúa yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã quả quyết về tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Ngài nói cho mọi người biết rằng, Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn muốn và làm điều tốt đẹp cho con người. Vì thế, con người đừng cậy dựa vào sức lực khả năng của mình, nhưng hãy tin tưởng, cậy dựa và phó thác cuộc sống mình cho Thiên Chúa.
Đừng lo cho mạng sống lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho thân xác lầy gì mà mặc…hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, vậy mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Căn dặn chúng ta như thế, Chúa Giêsu không khuyến khích chúng ta lười biếng, thụ động, cũng không ù lỳ, lười suy nghĩ tính toán. Nhưng nói như thế, để nhắc chúng ta nhớ rằng: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Chúng ta tính toán làm ăn, nhưng vẫn phải biết trông cậy và cầu xin cùng Thiên Chúa và phó thác công việc cùng toan tính của ta cho Chúa. Vì cho dù chúng ta lên kế hoạc, đầu tư làm ăn, nếu Chúa không trợ giúp, không ban, chúng ta cũng không thể thành công được.
Cũng vậy, cơm ăn áo mặc hằng ngày, chúng ta vẫn phải vất vả lào động để tìm kiếm, nhưng đừng vì quá lo chuyện ngày mai ăn gì mặc gì, mà quên Thiên Chúa là Cha yêu thương, Ngài không ngừng chăm sóc cho chúng ta. Vì thế, đừng bao giờ mất niềm tin vào Thiên Chúa, cho dù cuốc sống có muôn vàn khó khăn, Thiên Chúa vẫn tìm cho ta một giải pháp tốt nhất. Do đó, hãy lao động làm việc trong tư cách là con của Thiên Chúa, làm với lòng tin tưởng và yêu mến. Đừng biến mình trở nên như một kẻ nô lệ, lệ thuộc vào công việc và lệ thuộc vào miếng cơm manh áo, đến độ, làm giảm phẩm giá làm người làm con Chúa. Vì là con của Thiên Chúa, nên dù có gian lao vất và, chúng ta vẫn phải ưu tiên tìm kiếm Thiên Chúa và hạnh phúc đời đời cho linh hồn của ta và của người thân trong gia đình. Vì thế, Chúa căn dặn chúng ta: Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác Người sẽ ban cho.
Một khi đã cảm nhận được tình Chúa yêu thương, quan phòng, chăm sóc cho từng người chúng ta, thánh Phaolô mời gọi: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi. Điều đó có nghĩa là, mỗi chúng ta đón nhận được Tin Mừng yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta không thể để mình sống trong u bồn sầu não, cũng không bi quan chán nản, nhưng trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn vui. Vui, vì dù trong đau khổ, khó khăn nhất, chúng ta vẫn thấy Chúa hiện diện bên cạnh nâng đỡ; vui vì biết mình luôn được Chúa yêu thương, Chúa chia sẻ và nâng đỡ.
Thánh Phaolô căn dặn: Trong mọi hoàn cảnh, anh em hãy tạ ơn Thiên Chúa và giãi bày trước Thiên Chúa mọi điều anh em khẩn nguyện. Vì vậy, trong giờ phút đầu năm quy tụ trong nhà Chúa đây, nhìn lại một năm qua, không phải tất cả mọi người đều thành công thành đạt, nhưng tất cả cùng chung một lời để tạ ơn Thiên Chúa. Tạ ơn Chúa vì món quà thời gian, năm mới, Chúa ban tặng; tạ ơn vì bao thăng trầm cũng đã trôi qua, bao khó khăn phía trước, xin Chúa giải gỡ; tạ ơn vì Chúa luôn quan phòng chở che bênh đỡ.
Ngày nay, nhiều người không hề biết phong thủy là gì nhưng vẫn tin kiêng một cách mù quáng vào phong thủy và nhiều thứ khác nữa. Họ tin như thể rằng, mọi sự họ đang có, đang hưởng là do phong thủy, do tin kiêng, do hên, hơn là do Thiên Chúa. Điều này đang là một cám dỗ và là nguy cơ phá vỡ đức tin của chúng ta.
Phong thủy theo nghĩa của người Hoa, có nghĩa là gió và nước. Hợp phong thủy, là sự hòa hợp của đất trời, của nắng của gió, sự hòa hợp của thiên nhiên. Khi con người biết tôn trọng thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên, con người sẽ mạnh khỏe. Phong thủy có nghĩa như thế.
Theo cái nhìn của Kitô giáo, khi con người sống hòa hợp với Thiên Chúa, với tha nhân và với thiên nhiên vũ trụ, con người sẽ đạt được hạnh phúc. Tỗi lỗi và ma quỷ, chính là kẻ gây sự bất hòa giữa con người và Thiên Chúa, cũng như với tha nhân và vũ trụ. Vì thế, chỉ khi loại trừ tội lỗi, ma quỷ trong tâm hồn, chúng loại trừ được nguyên nhân gây xáo trộn bất hòa.
Ngày tết, mọi người đều muốn có một bầu khí hòa hợp vui tươi, quảng đại, dễ dàng bỏ qua cho nhau những xích mích. Vì vậy, hãy tận dụng những ngày tết này, để giao hòa với Thiên Chúa, đem lại cho gia đình nhiều niềm vui tiếng cười. Hãy chủ động bước đến thăm nhau và thật lòng mong muốn, cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp. Quan trọng hơn, là hãy làm những điều tốt đẹp cho gia đình, cho nhau, không chỉ trong ngày tết, mà kéo dài tâm tình hòa thuận vui tươi của ngày tết trong suốt cả năm mới này.
Cầu chúc cho mọi người năm mới Đinh Dậu sống hòa hợp vui tươi, luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh vui buồn, xin Chúa giúp ta nhận ra sự hiện diện đồng hành của Chúa. Amen.
45. LỄ MINH NIÊN--TIN VÀO TÌNH YÊU QUAN PHÒNG CỦA CHÚA Mt 6,25-34
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Kính thưa quý OBACE, có lẽ trong chúng ta ai cũng cảm nhận được sự thay đổi của đất trời khi bước vào năm mới. Vẫn là ánh nắng ấy, ngọn gió ấy, nhưng hôm nay dường như nó mang một hương vị khác hơn của ngày hôm qua. Ngày hôm nay đất trời chuyển mình từ mùa đông qua mùa xuân, vũ trụ dường như khoác trên mình một bộ áo mới, cây cối đâm chồi nảy lộc, ngàn hoa khoe sắc. Sự chuyển vận của đất trời cũng làm cho tâm hồn con người thêm vui tươi, phấn khởi và hy vọng. Mọi người đều mong chờ năm mới đến sẽ đem theo sự đổi mới không chỉ của vũ trụ, mà còn là sự đổi mới của con người, của gia đình và của xã hội. Chính vì sự khát khao đổi mới, mà chúng ta dành những giây phút đầu tiên của năm mới để đến với Thiên Chúa, bày tỏ lòng biết ơn và cầu xin cho một năm mới an lành.
Các bài đọc của ngày đầu năm hôm nay gợi lên nhiều điểm giáo lý quan trọng: Bài đọc một nhắc nhớ rằng, tất cả vũ trụ và trật tự lạ lùng trong đó, cùng muôn vật muôn loài là do Thiên Chúa dựng nên. Chính Chúa làm chủ thời gian không gian, và cả mọi vật mọi loài. Sách Sáng Thế chúng ta vừa nghe giới thiệu cho chúng ta một Thiên Chúa quyền năng, tạo dưng nên trời đất và tinh tú chí bằng một mệnh lệnh: Hãy có … thì mọi sư liền có. Điều này diễn tả rằng Thiên Chúa là Đấng quyền năng, làm chủ vũ trụ, các thần linh của dân ngoại không thể sánh ví được với Thiên Chúa. Chính Ngài làm chủ thời gian, phân chia ngày đêm và bốn mùa thay đổi nối tiếp nhau. Thánh kinh khẳng định: Thiên Chúa thấy mọi sự là tốt đẹp. Khẳng định như thế để cho chúng ta xác tín một cách chắc chắn rằng Thiên Chúa luôn muốn điều tốt đẹp cho con người và làm mọi điều tốt đẹp cho chúng ta. Vì thế con người phải đặt trọn niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Khẳng định như vậy, để loại trừ những tập tục của dân ngoại, tin kiêng những điều vớ vẩn, coi ngày coi giờ, hoặc là gán cho vũ trụ thiên nhiên những sức mạnh như thần thánh.
Ngày nay, nhiều người mang danh là Kitô hữu, nhưng họ không tin vào sự quan phòng xếp đặt của Thiên Chúa. Họ không tin Thiên Chúa luôn làm điều tốt cho con người, nên khi gặp khó khăn thử thách họ muốn tìm giải pháp của người đời, tìm đến sức mạnh của ma quỷ qua việc bói toán bùa ngải. Nhiều người không tin Thiên Chúa là Đấng làm chủ thời gian và không gian, nên mỗi khi làm việc gì họ tìm thầy coi ngày coi giờ, coi hướng coi tuổi, coi ngày khai trương… thay vì tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Những việc làm ấy ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống đạo, thể hiện sự yếu kém trong đức tin của người tín hữu.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy mỗi người chúng ta tin tưởng hoàn toàn vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa: Các con chớ lo lắng sẽ ăn gì uống gì, lấy gì mà mặc? Vì chưng dân ngoại cũng tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần những điều đó. Tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, không có nghĩa là lười biếng ỷ nại và không làm việc gì, nhưng biết tính toán sắp đặt công việc và làm việc với hết khả năng của mình trong sự tin tưởng và biết phó thác kết quả công việc cho Chúa.
Lời Chúa còn dạy ta phải biết xếp đặt thứ tự ưu tiên trong chọn lựa mục tiêu đời mình, biết phân biệt đâu là điều chính yếu, đâu là điều tùy phụ. Dù có bận rộn với cuộc sống thì cũng biết đặt ưu tiên tuyệt đối cho việc tìm kiếm nước Trời và hạnh phúc đời đời. Vì hạnh phúc nước trời mới là mục đích cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta. Không đạt được công danh, con người vẫn có thể sống, nhưng không có Thiên Chúa, và không đạt được Nước Trời đó điều thất bại và bất hạnh lớn nhất. Chúa Giêsu nhấn mạnh: Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các sự khác Thiên Chúa sẽ ban cho. Đừng để sự lo âu sợ hãi gặm nhấm cuộc đời và làm lung lạc đức tin của chúng ta; cũng đừng để đau khổ đè bẹp và làm cho chúng ta mất lòng cậy trông nơi quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Vì trong mọi đau khổ, ơn Chúa vẫ đủ để chúng ta có thể vượt qua những đau khổ ấy.
Thánh Phaolô là người đã trải qua biết bao gian lao thử thách song Ngài vẫn kiên trì trong đức tin, chính từ kinh nghiệm sống đức tin ấy thánh nhân đã khuyên các tin hữu Philipphê: Anh em hãy vui luôn trong Chúa, tôi nhắc lai một lần nữa: anh em hãy vui lên. Niềm vui là một trong những nét đặc trưng của người Kitô hữu, vì chúng ta là những người đang sống tin mừng của Đức Giêsu và đang rao truyền tin mừng ấy, thì cuộc sống của mỗi người phải la cuộc sống ngập tràn niềm vui. Tuy nhiên niềm vui của chúng ta phải là niềm vui khác với những thú vui của trần gian. Thế gian vui những cái vui hời hợt bên ngoài, vui với thỏa mãn dục vọng xác thịt ăn uống say sưa, còn chúng ta vui với một niềm vui sâu xa phát xuất từ trong tâm hồn. Đó là niềm vui được hưởng ơn cứu độ, được làm con cái Chúa, được hưởng hạnh phúc đời đời, được gọi Thiên Chúa là Cha.
Khác với dân ngoại, đời sống của người tín hữu còn phải được thể hiện ra bên ngoài bằng sự ôn hòa nhẫn nại, bằng sự tin tưởng cầu nguyện và không ngừng tạ ơn Thiên Chúa. Điều này có nghĩa rằng dù khi vui cũng như khi buồn, dù thành công hay thất bại chúng ta vẫn được mời gọi nhận ra bàn tay của Thiên Chúa đang điều khiển cuộc đời chúng ta.
Ngày nay vật chất và các lối sống hưởng thụ đang tấn công người tín hữu, đang bào mòn và có nguy cơ làm lung lạc đời sống đức tin của chúng ta. Nhiều người lấy lý do: có thực mới vực được đạo, họ đã đặt của cải vật chất ở trên Thiên Chúa, biến của cải vật chất trở thành thần linh và là mục đích cuộc đời của mình. Nhiều người chỉ còn biết tìm tiền bạc của cải và gạt Thiên Chúa qua một bên. Trong bối cảnh ấy chúng ta được mời gọi tin vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa, Đấng quyền năng quan phòng và an bài mọi điều tốt lành cho con người. Việc làm chứng cho lòng thương xót Chúa, không chỉ là những lời kinh đọc trên môi, mà phải được thể hiện qua việc cử hành mỗi ngày, tức là cùng nhau cử hành thánh lễ và các bí tích. Vì thánh lễ và các bí tích là nơi chúng ta đón nhận lòng thương xót Chúa. Khi ý thức và tích cực siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ mỗi ngày là chúng ta đang đón nhận lòng xót thương và cùng với mọi người chúng ta làm chứng cho tình yêu của Chúa. Người đời sẽ không thể đụng chạm được lòng thương của chúng ta, họ chỉ có thể cảm nhận qua thái độ yêu thương của chúng ta mỗi ngày.
Trong giờ phút đầu năm xum họp nơi đây để tạ ơn Thiên Chúa và để cầu xin ơn phúc lành và sư bình an cho năm mới. Trong Năm Thánh Lòng Thương xót Chúa, xin Chúa đổ tràn lòng thương xót xuống trên chúng ta và biến chúng ta trở thành hiện thân lòng thương xót của Chúa cho anh em. Amen.
46. CHÚC NHAU MỌI ĐIỀU TỐT LÀNH
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Ngày tết của người Việt hoàn toàn với ngày tết dương lịch, và cách đón tết của người Việt cũng khác với các dân tộc khác. Ngày tết của người Việt là ngày của tình thân, ngày của gia đình và là dịp ước nguyện, vì mọi người tin rằng ngày đầu năm khi có nguyện ước tốt đẹp thì cả năm sẽ tốt đẹp. Chính vì thế, ngày tết người ta tránh nói là làm những gì mích lòng nhau, và dù rất quen tai với lời chúc xuân, nhưng khi gặp nhau ngày tết dù quen hay lạ, mọi người luôn cầu chúc cho nhau và cho gia đình những điều chúc tốt đẹp, nào là gia đình hạnh phúc, sức khỏe dồi dào, an khang thịnh vượng…đó là nét văn hóa rất tốt đẹp của người Việt chúng ta.
Tuy nhiên dầu có nhiều lời cầu chúc và những ước mơ tốt đẹp, nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận tình hình cuộc sống kinh tế xã hội được dự báo cho năm mới còn rất nhiều khó khăn đòi mỗi người mỗi gia đình phải nỗ lực hết mình. Cũng vì thế ai cũng tin rằng những điều tốt đẹp chúng ta cầu chúc cho nhau, chỉ là bày tỏ ước nguyện điều tốt lành cho nhau, còn điều quan trọng là tất cả ơn lành là do Trời ban, mà người Công Giáo gọi là ơn do Thiên Chúa ban.
Chúng ta tin rằng chính Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và làm chủ vũ trụ và con người, Ngài còn tiếp tục quan phòng và điều khiển vũ trụ này cho nó xoay vần thời tiết thay đổi nối tiếp nhau hết mùa hạ, đến mùa thu, mùa đông rồi sang xuân để phục vụ cho con người, và tất cả mọi sự tốt lành mà chúng ta cầu chúc cho nhau đều đến từ Thiên Chúa.
Lời Chúa của ngày Mồng Một tết nhắc lại cho chúng ta giáo lý quan trọng: Thiên Chúa là Đấng tao dựng nên vũ trụ, Ngài lại là người Cha yêu thương chúng ta và luôn muốn và làm điều tốt đẹp cho chúng ta là con cái Ngài. Sách Sáng Thế đã nhắc lại “Bài ca Tạo dựng” của Thiên Chúa để khẳng định về một Thiên Chúa quyền năng vượt trội trên tất cả, không có một thần linh nào sánh kịp Ngài, Ngài đã chỉ cần phán một lời: Hãy có, thì mọi vật liền từ không nên có. Thánh Kinh còn cho thấy Thiên Chúa tạo nên vũ trụ này không phải như một vật vô hồn, mà là một tuyệt tác kỳ công của Ngài, và Ngài thấy thế là tốt đẹp. Nó tốt đẹp không chỉ vì nó thỏa mãn cái nhìn của con người, mà Ngài còn thấy tất cả công trình Ngài tạo dựng nó tốt đẹp và mang lại lợi ích cho con người là tạo vật được Chúa yêu thương và nâng niu nhất. Điều quan trọng hơn nữa, Thiên Chúa giống như một nghệ nhân đã trao tặng tác phẩm của mình cho con người để con người làm chủ.
Con người được Thiên Chúa yêu thương, Ngài trao tất cả mọi loài mọi vật và cả vũ trụ này cho con người, và Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục chăm sóc và mời gọi con người tin tưởng vào tình yêu thương quan phòng của Ngài. Hôm nay trước những lo lắng của cuộc sống của con người Chúa Giêsu đã khuyên chúng ta: Đừng lo lắng cho mạng sống: lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho thân thể lấy gì mà mặc, hãy xem chim trời nó không gieo không gặt mà Cha anh em vẫn nuôi nó… Có ai nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được một gang nữa không? Khuyên chúng ta như thế trong ngày đầu năm, không có nghĩa là Chúa muốn chúng ta lười biếng thụ động không suy nghĩ, không tính toán, ngồi chờ sung rụng, nhưng Chúa muốn chúng ta vẫn phải làm việc hết mình hết khả năng, và còn phải làm trong sự tin tưởng và phó thác cho quyền năng và tình thương của Chúa, vì mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên, việc tính toán là của con người còn thành quả là do Chúa ban. Khi làm việc với tinh thần như thế, chúng ta sẽ không trở thành nô lệ cho công việc, nhưng trong tư cách là cộng tác viên của Thiên Chúa, cùng với Thiên Chúa làm cho cuộc sống thêm tốt đẹp hơn.
Cái ăn và cái mặc là những nhu cầu căn bản của cuộc sống, nó khiến cho con người phải vất vả tất bật sớm hôm, mỗi ngày mở mắt ra con người đều phải nghĩ đến việc ngày hôm nay mình sẽ ăn gì mặc gì? Tuy nhiên Chúa Giêsu đã cho chúng ta những hình ảnh làm ví dụ về bông hoa ngoài đồng được Chúa tô điểm cho thật rực rỡ dù nó không phải may vá gì, cũng vậy lũ chim sẻ không gieo không cấy mà Thiên Chúa vẫn nuôi nó, để cho chúng ta thấy một ý nghĩa cao hơn nữa, đó là khi chúng ta sống và làm việc trong sự phó thác hoàn toàn cho Chúa thì Chúa sẽ lo liệu cho ta còn tốt hơn rất nhiều lần chúng ta tự lo cho mình. Thiên Chúa làm tất cả điều tốt đẹp cho con người chỉ vì Ngài là Cha yêu thương chúng ta.
Điều này làm cho chúng ta khác với những người không có đức tin, người không có đức tin làm việc trong sự lẻ loi một mình, còn người có đức tin làm việc trong sự hiện diện và trợ giúp của Thiên Chúa, và khác với người không có đức tin, vì chúng ta biết Thiên Chúa yêu thương ta và trợ giúp ta. Vì thế Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta: Đừng để cho công việc và những lo toan cuộc sống chiếm hết chỗ trong cuộc sống, nhưng hãy biết dành lại chỗ cho Thiên Chúa, hay nói đúng hơn, là dù có bận rộn với cuộc sống và công việc thì đừng quên tim kiếm Nước Trời và hạnh phúc đời đời. Vì chúng ta sẽ không mãi ở trên mặt đất này, mà chúng ta sẽ phải trở về với Thiên Chúa, thì ngay hôm nay chúng ta phải làm việc trong tư thế của một người sẽ phải trở về, đừng để mình lệ thuộc vào trần gian này.
Trong niềm xác tin như thế, thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa,… sao cho mọi người thấy anh em ăn ở hiền hòa rộng rãi. Trong mọi hoàn cảnh cứ cầu khẩn, vàn xin và tạ ơn mà giải bày trước mặt Thiên Chúa điều anh em thỉnh nguyện. Như thế niềm vui phải là nét đặc trưng và luôn được thể hiện trên cuộc đời và gương mặt người tín hữu. Chúng ta luôn vui vì chúng ta sống trong sự chở che của Thiên Chúa, vui vì có Chúa là bạn và là Đấng cùng chia sẻ gánh nặng cuộc đời với chúng ta và luôn tạo mọi điều tốt đẹp cho ta. Đồng thời thể hiện niềm vui qua cuộc sống tin tưởng, vui tươi, hiền hòa nhân ái, đó phải là những nét đặc trưng của người tín hữu chúng ta.
Thưa quý OBACE, trong ngày đầu năm này, chúng ta mang trong mình bao nguyện ước cho mình cho gia đình và người thân, đừng ngại ngần bày tỏ những ước nguyện ấy với Chúa, hãy nói với Chúa về toan tính của mình để xin Chúa chỉ bảo cho chúng ta biết phải làm gì và làm thế nào. Mong điều tốt lành cho nhau đã là điều tốt, song mỗi người còn phải đem đến cho nhau, cho gia đình những điều tốt lành.
Ngày tết không chỉ tránh cho nhau những điều không hay không đẹp, mà hãy tránh cho nhau tất cả những điều không hay không đẹp trong suốt cả năm. Các bậc cha mẹ chính là người tạo nên sự may lành tốt đẹp cho gia đình. Hãy mang về cho gia đình nhiều niềm vui, nhiều nụ cười thân thương, nhiều bữa cơm ấm cúng tình gia đình. Hãy làm việc và nuôi sống gia đình trong sự tin tưởng và cậy trông phó thác nơi Chúa. Hãy nuôi gia đình không chỉ bằng cơm gạo mà còn cần phải được nuôi bằng tình yêu thương, sự hy sinh và sư ân cần dành cho nhau. Các bậc làm cha mẹ đừng xả xui cho mình bằng cờ bạc rượu chè, đề đóm, tất cả những điều đó không những không xả xui, mà còn đem đến đổ vỡ cho gia đình. Trái lại hãy hiện diện nhiều hơn bên vợ chồng bên con cái, hãy dành những ngày tết này để chuyện trò để hiểu nhau và thông cảm cho nhau hơn.
Cũng vậy những người làm con không chỉ bày tỏ lòng thảo hiếu bằng tấm bánh hay một vài lời cầu chúc, mà hãy đem đến cho cha cha mẹ niềm vui bằng sự ngoan ngoãn, thảo hiếu, biết ơn và vâng lời. Con cái là mùa xuân của gia đình, hãy làm cho gia đình mình rộn rã tiếng cười vui, hãy làm cho cha mẹ vơi đi sự nhọc nhằn bằng việc chăm chỉ học hành, đem về cho cha mẹ những kết qua học tập thật tốt và những thành công nho nhỏ, đó là những món qua mà các bậc cha mẹ nào cũng cảm thấy hạnh phúc và tự hào để đón nhận.
Xin Đức Maria ở mãi với các gia đình, đem đến cho các gia đình và mọi người người một mùa xuân mới đầy tràn ơn Thánh Chúa và cho các gia đình được tràn đầy niềm vui và hạnh phúc. Amen
47. CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Bước vào năm mới, mỗi khi gặp nhau dù quen hay lạ, mọi người đều chúc cho nhau sự bình an. Điều đó cho thấy, bình an là khao khát sâu thẳm trong tâm hồn con người. Con người sống trong xã hội dù có được xem là an toàn đến mấy, vẫn cảm thấy cần sự bình an, vì chỉ khi có bình an cuộc sống mới an vui, hạnh phúc. Thực tế từ xã hội và thế giới cho thấy, nhân loại dường như luôn phải sống trong chiến tranh bạo lực, thiên tai, nhân tai có thể ập xuống bất cứ lúc nào trên con người. Con người cảm thấy cuộc sống của mình thật mong manh, giới hạn trước sự xoay vần của vũ trụ, trước những tai họa từ thiên nhiên hoặc từ con người gây ra cho nhau. Vì vậy con người luôn cầu xin và cầu chúc cho nhau được bình an.
Tại sao con người cầu mong bình an mà không được, chờ đợi hòa bình mà không thấy? phải chăng Thiên Chúa đã giữ độc quyền sự bình an trong tay Ngài? - Thiên Chúa không giữ độc quyền sự bình an. Sách Sáng Thế cho thấy, ngay từ đầu khi tạo dựng nên vũ trụ và con người, Thiên Chúa đã an bài cho chúng có một trật tự hài hòa rất đẹp, mặt trời chiếu sáng ban ngày để sưới ấm cho vũ trụ, cung cấp năng lượng cho muôn loài và soi đường dẫn lối cho con người, mặt trăng nhẹ nhàng trong mát để soi sáng ban đêm và ru giấc ngủ ngon cho vũ trụ cùng muôn loài, các tinh tú khác tô điểm cho vũ trụ thêm xinh đẹp hơn. Tất cả muôn loài, mặt trăng, mặt trời và các tinh tú đều chuyển động hài hòa theo một quỹ đạo đã được bàn tay Thiên chúa chỉ vẽ. Từ những chuyển động này đã làm nên thời tiết, mùa màng cho trái đất: xuân, hạ, thu, đông, nắng, mưa cân bằng. Tuy nhiên sự hài hòa tốt đẹp ban đầu Thiên Chúa ban tặng đã bị phá vỡ bởi sự tham lam, ích kỷ và kiêu ngạo của con người. Con người đã muốn tôn mình làm Chúa, muốn thống trị người khác, giành về cho mình thật nhiều của cải, tài nguyên thiên nhiên, đã phá vỡ sự cân bằng hài hòa, gây bất ổn, bất thuận và dẫn đến những thảm họa cho con người.
Như thế, thủ phạm gây ra bất hòa bất ổn, lo âu cho con người lại chính là tội lỗi của con người cùng với sự hợp tác của Satan. Ngay từ đầu, Satan đã đánh lừa con người để gieo tội và sự chết vào thế gian. Tội lỗi là nguyên nhân đem đến sự bất an trong tâm hồn và làm đảo lộn trật tự của cuộc sống. Chúng ta có thể thấy, chỉ vì tham vọng quyền lực cá nhân mà con người không ngần ngại chém giết loại trừ lẫn nhau: Hitler đã gây ra cái chết cho hàng triệu người Do Thái; Polpot đã gây ra cuộc diệt chủng cho người Campuchia...
Mọi người cầu chúc cho nhau sự bình an trong ngày đầu năm mới là điều rất tốt, nhưng tốt hơn và quan trọng hơn là phải cùng nhau xây dựng sự bình an và đem bình an đến cho gia đình và mọi người. Thư Philiphê dạy chúng ta phải tái lập lại sự trật tự trong tâm hồn, sống niềm vui thánh thiện xuất phát từ trong tâm hồn. Đây là bước căn bản để ta đem bình an đến cho mình và người khác. Tác giả kêu gọi chúng ta: “anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em” sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi. Trong mọi hoàn cãnh hãy cầu nguyện và trải lòng ra trước mặt Thiên Chúa. Như thế có nghĩa là khi mỗi người cố gắng sống ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa, xây dựng một tương quan tốt đẹp thuận thảo với Thiên Chúa, thì chính Chúa sẽ là bình an và nguồn vui trong tâm hồn. Nói cách khác đó là mỗi người cần tẩy rửa khỏi mình tình trạng tội lỗi, giữa một lương tâm ngay thẳng trong sáng trước mặt Chúa, chúng ta sẽ cảm nhận được bình an và niềm vui. Thánh Phaolô còn nói thêm: Khi mỗi người sống trong bình an Thiên Chúa như thế, chúng ta sẽ phải sống tích cực hơn để đem bình an đến cho người khác bằng cách: Những gì là chân thật là cao quý, những gì là đáng mến đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen thì hãy có mà gìn giữ và thực hành.
Hiểu được tâm trạng bất an của con người trước sự bấp bênh của cuộc sống, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta vượt lên trên những lo âu thường ngày để dám sống phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Sống phó thác cho sự quan phòng, không có nghĩa là ỷ nại, lười biếng, lười suy nghĩ, lười làm việc. Trái lại, làm việc, suy nghĩ tình toán trong sự quan phòng trợ giúp của Thiên Chúa.
Đừng lo lắng cho mạng sống lấy gì mà ăn, lấy gì mà mặc, vì mạng sống chẳng trọng hơn của ăn và thân thể chẳng quý hơn áo mặc sao? Nhắc điều này vì có nhiều người dồn cả cuộc đời công sức của mình để tìm kiếm những điều hết sức tùy phụ và bỏ qua điều chính yếu. Nhiều người tìm kiếm của ăn, tiền bạc vật chất mà không quan tâm đến mạng sống sức khỏe của mình; lo tìm kiếm thật nhiều vật chất của cải mà không lo đến mạng sống thiêng liêng, tức là sự sống của linh hồn mình. Cũng vậy, con người ngày nay tiêu tốn rất nhiều tiền của cho sắc đẹp và mỹ phẩm, quần áo và các đồ trang sức bên ngoài, nhưng lại không quan tâm tô điểm nhân cách tác phong, phẩm giá của mình. Tương tự như thế, nhiều người cung cấp cho cơ thể đủ mọi chất dinh dưỡng và phụ kiện đắt tiền, nhưng lại để tâm hồn mình bẩn thỉu, hôi thối bởi một đời sống tội lỗi bê tha.
Chúa muốn mỗi người biết đâu là mối lo chính yếu, đâu là điều cần quan tâm nhất trong cuộc đời. Điều quan trọng nhất trong cuộc đời là có một tâm hồn khỏe mạnh trong sáng, vì loại trừ được tội và những thói xấu, không để mình bị lạm dụng và lợi dụng của ma quỷ. Khi có một đời sống tinh thần thoải mái thanh thản như thế, chúng ta sẽ cảm nhận được sự bình an hạnh phúc vì chính Chúa ở trong những tâm hồn như thế.
Chúa Giêsu cũng cho một ví dụ minh họa về sự quan phòng của Thiên Chúa dành cho vũ trụ và con người. Về vũ trụ, Chúa so sánh một bông hoa ngoài đồng, không may không dệt, nhưng Thiên Chúa vẫn tô điểm cho nó màu sắc hương thơm theo từng loại. Có loài có sắc thì không có hương, có loài có hương thì không có sắc để chúng bổ xung cho nhau, cũng có những loại được ưu ái hơn, Thiên Chúa ban cho nó cả hương lẫn sắc. Tất cả là do tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, Thiên Chúa muốn cho nó tốt đẹp để tô điểm cho vũ trụ. Chúa Giêsu nhấn mạnh, đến hoa cỏ ngoài đồng còn được Chúa quan phòng cho mọi sự tốt đẹp như vậy, huống hồ là con người là con của Thiên Chúa, chẳng lẽ Chúa không quan phòng cho nó tốt đẹp hơn bội phần những loài khác sao?
Trong những giờ phút đầu tiên của năm mới, chúng ta đến với Chúa nơi đây, được Lời Chúa soi sáng, mỗi chúng ta biết đặt mối lo của chúng ta vào đúng nơi, đúng việc. Chúng ta mong ước sự bình an và cầu chúc cho nhau được bình an, thì trước hết hãy cầu xin Thiên Chúa là Chúa của sự bình an ban bình an xuống trên những người chúng ta cầu chúc. Kế đến chúng ta phải trở thành người xây dựng và đem bình an đến cho người chung quanh.
Hãy bắt đầu từ nơi bản thân: Tìm kiếm sự bình an đích thực trong tâm hồn qua bí tích Giải tội, tẩy rửa khỏi mình tội lỗi và những sự dày vò do tội gây ra; gạt bỏ khỏi mình sự kiêu căng ích kỷ cũng như tham lam thu vén tích góp cho cá nhân mình. Kế đến, chúng ta đem bình an và niềm vui đến cho người khác bằng sự chân thành, cảm thông. Cần gạt bỏ khỏi mỗi người sự say sưa rượu chè, nóng nảy, bài bạc gây bất an, bất ổn cho gia đình vợ chồng, con cái. Hãy bước đến với những gia đình hành xóm láng giềng, gạt bỏ những giận dỗi khó chịu với nhau để chân thành cầu chúc và cầu nguyện cho nhau, đem đến cho nhau niềm vui và bình an.
Bước vào năm mới với lòng tin tưởng phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Chúng ta cố gắng vận dụng hết khả năng, trí tuệ, sức khỏe và những điều kiện hiện tại để đem đến cho gia đình và cộng đoàn một cuộc sống an vui hạnh phúc, còn kết quả như thế nào, chúng ta phó dâng cho Chúa. Chắc chắn, dù một năm mới sắp tời sẽ thành công hoặc không được như ý muốn, chúng ta vẫn tin rằng đó cũng là ý Chúa muốn để chúng ta thêm lòng tin tưởng vào chúa hơn.
Cầu chúc cho mọi người, mọi gia đình năm mới Mậu Tuất này được luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh. Amen.
48. TẠ ƠN VÀ CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Người Việt Nam chúng ta có một tập tục rất đẹp, đó là sáng sớm mồng một tết, chuẩn bị ít thức ăn hoặc trái cây và một ít hoa tươi, đứng trước Bàn Thiên ở cửa nhà hoặc Bàn thờ Tổ tiên trong gia đinh để thắp lên một nén nhang với lòng thành biết ơn trời đất và tổ tiên ông bà.
Kính thưa quý OBACE, đối với người Việt Nam Công Giáo, tập tục tốt đẹp ấy được thể hiện trong giờ phút đầu tiên của năm mới này. Chúng ta họp nhau nơi đây không phải trước Bàn Thiên mà là trước tôn nhan Thiên Chúa, để dâng lên Chúa tâm tình Tạ Ơn và cầu xin Chúa ban cho một Năm Mới bình an; đồng thời, nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng điều khiển cả vụ trụ này và tất cả mọi việc xảy ra đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cũng vì thế, con người luôn luôn cảm thấy mình nhỏ bé và hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Sự lệ thuộc vào Thiên Chúa không làm hạ thấp giá trị con người, nhưng lại làm gia tăng phẩm giá của con người. Vì mỗi chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng, cứu chuộc, được nhận làm con và Thiên Chúa còn quan phòng ban cho muôn điều kỳ diệu, tốt đẹp cho mỗi người.
Các bài đọc được chọn cho ngày Mồng Một Tết nhắm đến các ý tưởng ấy. Trước hết, bài đọc sách Sáng Thế nhắc lại cho chúng ta về công trình tạo dựng của Thiên Chúa: Chính Ngài dựng nên trời đất, tinh tú muôn loài và cũng chính Ngài là Đấng điều khiển bốn mùa luân chuyển, thay đổi nối tiếp nhau, làm nên nhịp sống cho con người và phân định thời gian cho vũ trụ. Cũng mặt trời ấy, cũng ánh nắng ấy, nhưng những ngày đầu năm này, mọi sự dường như khác, từ vạn vật đến con người như đang khoác lên mình một bộ áo mới, một sức sống mới của mùa xuân sau những ngày mùa đông lạnh giá. Cũng chính vì thế, mọi người đều muốn bắt đầu một năm mới với một sự đổi mới, một kế hoạch mới và một quyết tâm mới. Song vì con người ý thức được rằng “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, kế hoạch là của mỗi người đưa ra, song sự thành hay bại còn do trời ban hay nói theo ngôn ngữ nhà đạo của chúng ta đó là: Con người cố gắng với hết khả năng của mình, còn kết qủa thì phó dâng cho Chúa. Ý thức như thế để chúng ta không quá cậy dựa vào sức mình, nhưng biết khiêm nhường tạ ơn Thiên Chúa về những thành quả chúng ta đã đạt được và bằng lòng với những gì Chúa ban, đồng thời cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho những dự tính của chúng ta trong năm mới.
Trong bài đọc hai, Thánh Phaolô đã khuyên cộng đoàn Philipphê hãy luôn vui mừng và tín thác vào Thiên Chúa. Niềm vui cũng là ước nguyện của ngày đầu năm: Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: Anh em hãy vui lên… Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, hãy trình bày ước vọng lên cùng Chúa. Như thế có nghĩa là chúng ta sẽ vẫn phải sống và làm việc, vẫn gặp những thành công và thất bại, vui và buồn, nhưng khác ở chỗ là dù trong những hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn giữ được niềm vui và sự bình an trong tâm hồn. Niềm vui và sự bình an này là bình an vì có Chúa ở trong chúng ta, và tin rằng Chúa đang điều khiển cuộc đời mình. Chúng ta cũng vẫn phải lo toan cho cuộc sống, song chúng ta không lo lắng theo kiểu của những người không có niềm tin, nhưng lo liệu công việc trong sự trợ giúp của Thiên Chúa và làm mọi công việc thường ngày trong tinh thần cầu nguyện, tin tưởng, phó thác. Khi sống và làm việc như thế, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm vui trong chính công việc của mình và sẽ thấy tâm hồn mình thực sự bình an.
Ước nguyện Bình an cho gia đình là một trong những ước nguyện đầu tiên của năm mới. Thế nhưng, để có bình an, mỗi người phải nỗ lực thật nhiều. Trước hết là phải tìm được sự bình an trong tâm hồn. Sự bình an này đến từ Thiên Chúa và chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng. Đó là sự bình an của một tâm hồn thanh thản trước mặt Thiên Chúa, một tâm hồn được thứ tha và chữa lành nhờ Bí tích Giải tội, luôn sống thuận thảo với Chúa. Chúng ta chỉ thực sự bình an khi không để mình sống trong tình trạng thù nghịch tội lỗi trước mặt Thiên Chúa, siêng năng gặp gỡ Thiên Chúa trong công việc, trong cầu nguyện và trong các việc phụng thờ Thiên Chúa.
Kế đến là sự bình an đối với nhưng người chung quanh, tức là phải dám gỡ khỏi tâm hồn mình những bất hòa, những bất đồng và xung khắc đối với vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, láng giềng. Bước đến với nhau trong sự tha thứ, làm hòa và thông cảm, đây cũng là nét đẹp của người Việt Nam. Năm mới, cũng cần phải đổi mới lại tương quan tình nghĩa giữa những người thân và anh em, gạt bỏ đi những tranh chấp để đến với nhau và nhìn nhau một cách chân tình hơn, hãy can đảm nói với nhau một lời xin lỗi và tha thứ.
Ước nguyện bình an trong công việc là một ước nguyện thật tốt, vì ai làm nghề gì thì cũng mong muốn được thuận lợi, bình an. Bình an ở đây không chỉ là tránh khỏi rủi ro tai nạn, mà còn ước mong bình an trong mọi việc. Sự bình an này chỉ có ở những con người có những cách làm việc tôn trọng sự công bằng và bác ái, tôn trọng sự thật, không gian dối, không lừa đảo và biết tôn trọng quyền lợi của người khác. Kinh doanh buôn bán với một lương tâm ngay thẳng như thế thì mới có được sự bình an trong công việc và bình an trong tâm hồn.
Thịnh vượng là một trong những ước nguyện đầu năm, giàu có sung túc là một ước muốn tốt đẹp. Theo truyền thống của Kinh Thánh thì sự giàu sang còn là dấu chỉ chúc lành của Thiên Chúa. Thế nhưng làm giàu bằng cách nào và sử dụng sự giàu sang Chúa ban như thế nào mới là điều quan trọng.
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ cho chúng ta cách thế sống và vui hưởng những của cải Chúa ban, đó là tin tưởng và phó thác tất cả cho Chúa : Đừng lo lắng cho ngày mai vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Nói như thế không có nghĩa là chúng không lo lắng và không suy nghĩ đầu tư. Chúng ta không được phép ỷ nại vào sự quan phòng của Chúa để lười biếng, nhưng cũng đừng lo lắng quá mức về cái ăn cái mặc cho ngày mai, như kiểu của người không có niềm tin: Chúng ta sẽ ăn uống gì mặc gì? Trái lại, chúng ta biết lo liệu và tin rằng Thiên Chúa là cha, Ngài biết những nhu cầu, những ước muốn của chúng ta ngay trước khi chúng ta mở miệng cầu xin và Ngài sẽ trợ giúp chúng ta. Vì thế, hãy sống thật tốt giây phút hiện tại của ngày hôm nay và vui hưởng những gì Chúa ban cho ngày hôm nay.
Chúa vẫn lưy ý chúng ta rằng dù ăn gì, uống gì và làm gì thì cũng vẫn cần có một ưu tiên tuyệt đối đó là: Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều khác Chúa sẽ ban cho. Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính có nghĩa là lo tìm kiếm và làm giàu trước mặt Thiên Chúa; đừng chỉ làm giàu của cải vật chất, nhà cửa xe cộ mà để mình nghèo nàn công phúc trước mặt Chúa. Nhiều người cầu nguyện đầu năm cho gia đình mình thịnh vượng vật chất, mà quên cầu xin cho mình và gia đình được giàu có thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa. Làm giàu trước mặt Thiên Chúa là làm nhiều việc lành và công phúc, việc lành ở đây chính là những việc tông đồ, bác ái, là công việc phục Chúa và phục vụ anh em. Làm giàu trước mặt Chúa còn là những việc hy sinh thầm lặng, hy sinh tiền của, thời giờ, sức khỏe cho Chúa. Những công việc cụ thể như thế sẽ làm cho chúng ta trở nên giàu có, thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa.
Cầu chúc cho mọi người, mọi gia đình một Năm Mới đầy tràn Bình an của Chúa và sự Thịnh vượng, không chỉ của cải vật chất mà là thịnh vượng, giàu có của cải thiêng liêng trước mặt Thiên Chúa. Cầu chúc cho mọi gia đình luôn hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Amen.
49. Ngày Mồng Một Để Có Niềm Vui Xuân
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Ngày đầu năm chúng ta hướng về Đấng tạo thành. Đấng đã làm cho con tạo xoay vần, cho trời đất luân chuyển Xuân – Hạ – Thu – Đông. Hướng về Ngài để phó dâng về một năm mới bắt đầu. Một khởi sự mong được vẹn toàn nhờ ơn trên phù hộ. Hướng về Đấng tạo thành cũng mời gọi con người nhìn nhận sự quan phòng che chở, phù trì của Ngài để dâng lời tạ ơn về những ơn lành Ngài ban.
Đó là lý do mà người Việt Nam đi lễ hội đầu năm rất đông. Họ đi vì lòng tạ ơn. Họ đi vì mong muốn được Trời phù hộ chúc phúc cho một năm an bình. Đây cũng là một truyền thống tốt đẹp của người dân Việt Nam. Cha ông ta luôn tin vào vận Trời. Cha ông ta luôn phó thác cho Trời. Và ngày đầu năm là dịp thuận lợi nhất để tri ân và cầu xin với Đấng tạo hóa đã làm nên muôn loài.
Điều này ta có thể thấy qua sự tích bánh chưng bành dày. Chuyện kể rằng: Đời Hùng Vương thứ Sáu, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân bên Tàu, vua có ý định truyền ngôi cho con.
Nhân dịp đầu Xuân, vua họp các hoàng tử lại, bảo rằng: - "Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho".
Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng.
Trong khi đó, người con trai thứ 18 tên là Tiết Liêu có tính tình hiền hậu, lối sống đạo hạnh, hiếu thảo với cha mẹ, nhưng vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào tìm được của ăn ngon và có ý nghĩa.
Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo:
- "Này con, trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy lấy gạo nếp làm 2 thứ bánh: bánh dầy và bánh chưng. Thần còn dặn kỹ càng cách làm.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Trời ơi! đầy các món ăn vừa thơm ngon vừa lạ mắt. Hoàng tử Tiết Liêu trên mâm chỉ có 2 tấm bánh Chưng và bánh Dầy. Vua cha lấy làm lạ hỏi lý do. Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng dạy cách làm, giải thích ý nghĩa của 2 thứ bánh. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu.
Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, theo lệnh vua, dân chúng làm bánh Dầy và bánh Chưng để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.
Bánh chưng bánh dầy tượng trưng cho Trời Đất. Trời Đất ở đây không hiểu theo nghĩa vật chất mà là tượng trưng cho Đấng tạo thành trời đất. Con người phải biết ơn Đấng tạo thành. Con người dâng cho Đấng tạo thành hạt gạo là tinh hoa của đất trời, là ân lộc trời ban. Con người dùng hạt gạo trời cho để kết thành tấm bánh như nói lên tấm bánh là ân lộc trời ban và cũng là công sức con người làm nên.
Đấng tạo hóa càn khôn mà nhân loại hướng về với lòng biết ơn chính là Thiên Chúa toàn năng. Ngài đã làm nên hoàn vũ. Ngài đã cho định luật bốn mùa vần xoay như tình yêu của Ngài vẫn đong đầy cho nhân gian vượt mọi thời gian. Chính Ngài làm chủ vận mạng của lịch sử nhân loại. Chính Ngài mới có thể phù hộ, che chở gìn gìn con người, vì Ngài là Đấng quyền năng.
Thiên Chúa lại không xa lạ với con người. Ngài là Cha muôn loài và cũng là Cha của loài người chúng ta. Ngài là một người Cha rất tốt lành. Ngài luôn cho mưa thuận gió hòa. Không phân biệt lành dữ. Không phân biệt màu da. Ngài luôn cho mưa ơn trên xuống cho kẻ lành người dữ.
Lời Chúa ngày đầu năm hôm nay mời gọi chúng ta hãy tín thác đường đời cho Thiên Chúa. Hãy để Chúa chúc phúc cho một năm bình an. Hãy để Chúa làm chủ vận mệnh của mình theo thánh ý Chúa. Vả lại, cuộc sống đâu mấy khi theo ý chúng ta, vì “Mưu sự tại nhân – Thành sự tại thiên”. Sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy để Chúa khởi sự và hoàn tất mọi việc theo ý Ngài. Điều này không có nghĩa là ta phó mặc cho Thiên Chúa, còn mình thì “ngồi chờ sung rụng”. Điều này chỉ nhắc nhở chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận sự bất toàn của mình để trông cậy vào sự phù hộ của Thiên Chúa cho công việc của mình được mọi sự như ý.
Hãy nhìn xem muôn triệu đóa hoa chỉ đẹp xinh khi hướng về mặt trời. Hãy nhìn xem vạn vật vần xoay chung quanh mặt trời để tạo nên muôn điều kỳ diệu đẹp xinh. Đó là quy luật của vạn vật. Đó cũng là quy luật của loài người khi biết quy hướng về Thiên Chúa, và chỉ trong Thiên Chúa con người mới hạnh phúc bình an. Xin cho mỗi người chúng ta biết quy phục Thiên Chuá, biết dành cho Ngài vị trí tôn thờ tuyệt đối trong lòng chúng ta. Và với lòng tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, chúng ta hãy phó dâng mọi sự cho Chúa. Xin Chúa chúc phúc cho chúng ta một năm bình an và vạn sự cát tường. Amen.
50. TẾT KỶ HỢI 2019 - LỄ MINH NIÊN: CẦU XIN MỘT NĂM MỚI AN VUI
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Cuộc sống xã hôi ngày nay dường như tạo ra quá nhiều sự bất an lo lắng cho con người: Lo có công ăn việc làm ổn định, lo cho gia đình bằng an, êm ấm, hạnh phúc, mọi người khỏe mạnh. Bước ra ngoài lo lắng về an toàn giao thông, an toàn xã hội, lo những chuyện bất ưng, tai bay vạ gió xảy ra cho mình vv. Chúng ta hình dung, một gia đình bỗng dưng nghe tin con cái bị quẹt xe, bị tai nạn, vợ chồng phải cấp cứu… tâm trạng mọi người trong nhà sẽ bất an và cả gia đình lo lắng. Chúng ta đặt mình trong hoàn cảnh của các gia đình tại Lộc Hưng, Sài Gòn: trong không khí tưng bừng mọi người đang chuẩn bị đón tết, xum họp gia đình, thì bỗng dưng một ngày đi làm về, thấy cả ngôi nhà và đồ đạc bị chính quyền ủi tan hoang, tâm trạng của chúng ta sẽ thế nào?
Thưa quý OBACE, xã hội tiềm ẩn nhiểu rủi ro bất trắc, khiến cho con người lắng bất an, lo sợ; đời sống nhiều cá nhân và gia đình thiếu vắng niềm vui, khiến cho cuộc sống trở nên nặng nề mỏi mệt. Vì thế, ngày đầu năm mới ai trong chúng ta cũng mong ước, cầu chúc cho nhau, cầu xin cho mình và gia đình được bình an, vui tươi. Lời Chúa trong ngày đầu năm mới mời gọi chúng ta luôn sống trong niềm vui, như lời kêu gọi của thánh Phaolô: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần đến.
Kêu gọi như thế không phải là thánh Phaolô không hiểu gì về tình hình thực tế của cuộc sống. Ngày xưa dân Philipphê cũng sống trong tình trạng lo âu khắc khoải như chúng ta hôm nay, khi chứng kiến sự nhiễu nhương của cái xấu và bất công trong xã hội; đời sống của cộng đoàn có nhiều vấn đề, cuộc sống gia đình gặp nhiều khó khăn. Thánh Phaolô thấu hiểu, nhưng vẫn mời gọi cộng đoàn Philipphê hãy vượt qua những lo âu sợ hãi bất an đó, để sống vui, để chờ đợi Chúa trở lại. Chúa sẽ trả lại sự công bằng và đem đến niềm vui đích thực. Niềm vui mà thánh Phaolô mời gọi không phải bất cứ niềm vui nào, mà phải là niềm vui của Chúa, niềm vui vì có Chúa và hy vọng nơi Chúa.
Thánh Phaolô còn chỉ cho chúng ta sống niềm vui của Chúa bằng cách, trong mọi hoàn cảnh, cho dù gặp phải sự bất công, bất trắc, chúng ta vẫn phải cư xử hiền hòa rộng rãi. Không dùng ác báo ác, không gây thù gây oán, không đồng lõa với điều xấu, nhưng phải chống lại bất công và cái ác bằng sự hiền hòa quảng đại. Đó là cách cư xử của người con Chúa. Trên hết, thánh nhân mời gọi chúng ta, trong mọi hoàn cảnh cứ tin tưởng và giãi bầy với Chúa về nỗi lòng của mình, vì Thiên Chúa là Cha Ngài sẽ lắng nghe lời con cái nài van; Thiên Chúa là nguồn Bình an sẽ ban lại bình an cho chúng ta. Vì là con của Chúa, chúng ta luôn phải thể hiện mình là những người công minh chính trực, chân thật ngay thẳng. Khi dám sống và cư xử như thế, Thiên Chúa sẽ ban niềm vui và bình an xuống trong tâm hồn chúng ta.
Bài đọc sách Sáng Thế cho chúng ta một lý do quan trọng để chúng ta gạt bớt những lo âu, sống trong niềm vui, đó là: hết lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và quan phòng. Thiên Chúa dùng quyền năng để sáng tạo nên mọi vật, mọi loài trong sự tốt đẹp. Ngài cho vũ trụ thiên nhiên và vạn vật xoay vần để hỗ trợ cho nhau, loài này giúp cho loài khác phát triển. Thiên Chúa là Cha, Ngài tiếp túc quan phòng chăm lo và xếp đặt mọi sự tốt đẹp cho con người, vì muốn cho con người được hạnh phúc. Mỗi người có mặt trên trần gian này không phải là sự ngẫu nhiên, nhưng là do tình yêu thương quan phòng của Chúa. Từng ngày qua đi là từng ngày Thiên chúa chăm sóc và yêu thương ta, như cha mẹ lo liệu, xếp đặt cho con cái. Vì thế, chúng ta được mời gọi sống trong sự tin tưởng phó thác cho tình yêu và sự quan phòng của Chúa.
Cuộc sống dường như ai cũng có mối lo riêng, nhưng nhiều khi chúng ta biến cái lo, thành lo lắng, lo âu, lo sợ, đến độ quên sự hiện diện quan phòng của Chúa. Qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết phải lo những gì là quan trọng và chính đáng. Chúa dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến cái ăn, cái mặc, nhưng biết lo điều chính yếu là phát triển con người và sự sống của mình: Vì mạng sống chẳng trọng hơn của ăn và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Thực tế có nhiều người chỉ chăm sóc cho áo quần, tóc tai và chuyện ăn uống bên ngoài, nhưng lại thiếu quan tâm làm cho con người, sức khỏe và phẩm giá của mình được nâng cao và phát triển. Con người chúng ta được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa và được trao ban phẩm giá là con Thiên Chúa. Vì thế, khi chăm lo cho mình có một cuộc sống lành mạnh và khỏe mạnh, trí tuệ, nhân cách và phẩm giá được nâng cao, được tôn trọng, đó là là sự lo liệu chính đáng. Nếu chỉ lo cái ăn cái mặc và dáng vẻ bên ngoài mà quên chăm lo đời sống thiêng liêng, đạo đức của mình và sự lớn mạnh của linh hồn, thì chúng ta vẫn chưa hơn được những động vật khác. Do đó, lo liệu cho sự sống thiêng liêng và phần rỗi đời đời của linh phải là mối lo chính yếu của chúng ta.
Chúa Giêsu cũng cảnh báo chúng ta đừng để mình rơi vào lối sống của dân ngoại hoặc người vô thần. Cùng đích cuộc đời của họ là thế gian này, chúa của họ là của cải vật chất, danh vọng. Vì thế, nhiều người trong họ đã bất chấp tất cả, chỉ để giành giật cướp bóc, thâu tích thật nhiều tiền bạc, của cải, đất đai, địa vị. Mục tiêu và lo lắng của họ chỉ là vật chất và hưởng thụ mà thôi. Chúng ta là con Thiên Chúa, ưu tiên tìm kiếm và cùng đích cuộc đời của chúng ta phải là Thiên Chúa và sự công chính thánh thiện, còn những thứ khác, Thiên Chúa là Cha sẽ lo liệu cho chúng ta: Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, người sẽ thêm cho. Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai cứ để ngày mai lo, ngày nào có cái khổ của ngày ấy.
Khi dạy như thế, Chúa Giêsu không bảo chúng ta sống ỷ nại, lười biếng, lười suy nghĩ, không làm việc. Trái lại, Thiên Chúa ban cho con người có trí óc và đôi bàn tay, chúng ta phải phát huy khả năng của trí óc, suy nghĩ và làm việc hết khả năng hết sức mình. Chúng ta cũng tin rằng, mỗi người Chúa ban cho có sức khỏe, khả năng khác nhau, vì thế tất cả mỗi người đều phải suy nghĩ, tính toán và làm việc theo khả năng Chúa ban và biết nâng đỡ trợ giúp người kém khả năng hơn. Nhưng trong tất cả mọi công việc, chúng ta làm trong sự trợ giúp và hướng dẫn của Thiên Chúa, làm việc hết mình và phó dâng kết quả công việc cho Thiên Chúa vì: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Biết như vậy để dù thành công như ý muốn, chúng ta không kiêu ngạo và không được như ý, ta không thất vọng oán trách Chúa.
Thưa quý OBACE, sự lo âu và buồn chán đang gặm nhấm nhiều tâm hồn và nhiều gia đình. Nhiều người đang lo buồn đến héo hắt vì chồng, vì vợ, vì con; nhiều gia đình từ lâu đã trở nên u ám tăm tối không còn ánh sáng, không còn niềm vui tiếng cười. Nhiều gia đình trong những ngày tết này, bầu khí gia đình vẫn rất nặng nề, căng thẳng, thiếu sự xum họp, thiếu bữa cơm chung. Vì thế, trong lúc này chúng ta đang khẩn xin Chúa ban lại cho tâm hồn và gia đình tìm lại được bình an và vui tươi. Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn lắng nghe và thấu hiểu, Ngài trợ giúp ta bằng ơn soi sáng trong tâm hồn, và hướng dẫn ta bằng Tin Mừng. Nhiều người đã không dám làm theo sự hướng dẫn của Chúa, để ngòai tai những giáo huấn của Tin Mừng. Vì thế, chúng ta không thoát ra được những lo lắng thế gian và ưu tư cuộc sống, để phó thác cho Chúa và sống trong niềm vui của Chúa. Sở dĩ sự lo âu buồn bã cứ mãi đeo bám trong cuộc đời ta, vì ta không chấp nhận sự thay đổi bản thân, thay đổi tình trạng hiện tại của gia đình.
Thiên Chúa còn ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần, là Thầy dạy sự khôn ngoan, là thần sức mạnh ở với chúng ta, để trợ giúp và hướng dẫn chúng ta trong mọi việc. Xin Chúa Thánh Thần gạt bỏ khỏi chúng ta sự lo âu, lo lắng, lo buồn và ban cho chúng ta ơn Biết Lo Liệu của Ngài, để nhờ ơn soi sáng của Thánh Thần chúng ta bắt đầu một năm mới trong niềm vui tươi phấn khởi. Amen.
51. Mồng Một Tết Kỷ Hợi 2019: Trời Ban Heo Đất Trong Nhà
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay ngày đầu năm Con Lợn tôi xin kể một câu chuyện cười ra nước mắt của tôi về con lợn.
Một buổi chiều trước khi tắm tôi mở tivi, thấy con bé trên ti vi nói: da hồng hào, lông tơ mịn màng là dấu chỉ khỏe mạnh. Tôi liền ngó vào gương thấy mặt cũng hồng, xoa vào tay thấy lông cũng mịn, lòng mừng phấn khởi, tôi mỉm cười một mình thì nghe con bé nói tiếp: “kính thưa, quý bà con cô bác, chương trình chăn nuôi lợn tới đây là hết”! Hoá ra nó nói con lợn các bác ạ! Xâu hổ quá thôi đành đi tắm vậy!
Nói gì thì nói: con lợn vẫn là hình ảnh của sự nhàn hạ, có của ăn của để và là dấu chỉ sự khỏe mạnh:
"Trông mặt mà bắt hình dong
Con lợn có béo thì lòng mới ngon"
Lợn còn làm biểu tượng cho sự giàu có sung túc qua các lễ hội, đám đình vì thế dân gian Việt đã đặt ra bài ca dao sau đây:
Thịt lợn nấu với măng hầm
Chờ ba ngày Tết, bà… quằm với ông.
Đối với người Việt Nam con lợn còn là vốn liếng để dành mà nhà nào cũng cần có để khi hữu sự mang ra dùng. Nhưng nuôi thì nuôi chứ cũng phải nhờ Trời chúc phúc mới có của dư của để, bằng không lại ế dài như câu ca dao đùa cợt cảnh mấy bà gánh heo đi rồi lại gánh về:
"Ba bà đi bán lợn con
Bán đi chẳng được lon ton chạy về
Ba bà đi bán lợn sề
Bán đi chẳng được chạy về lon ton"
Ngày đầu năm chúng ta hay thăm hỏi nhau bạn làm ăn thế nào? Cuộc sống của bạn có bình an không? Dường như ai cũng khiêm tốn trả lời: nhờ ơn Trời mà năm nay làm ăn tốt hơn. Nhờ ơn Chúa mà được bình an mọi sự. Như năm nay nhiều nhà không bị dịch tai xanh thì nói : nhờ ơn Trời mà nhà con không bị một con nào.
Nhà thơ Nguyễn Du năm xưa cũng từng tin vào Trời. Ông Trời định đoạt mọi sự cho nhân gian.
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
Quả thực, “Trời còn để có hôm nay” để sống, để nhìn thấy nhau, là ân ban bởi Trời. Mỗi ngày là một tặng phẩm của đất trời. Dầu không biết ngày mai sẽ ra sao nhưng vẫn phải trân quý giây phút hiện tại để cám tạ ơn Trời đã ban cho chúng ta được đoàn viên hôm nay. Dẫu rằng có những lúc : “Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”, thế nhưng sau những rủi ro, cùng cực, khổ đau, thao thức, ba đào... Trời vẫn cho chúng ta có ngày hôm nay để có thề sum vầy bên nhau.
Với tâm tình mùa xuân không chỉ hướng lòng con người đến với nhau trong hội hè, đoàn tụ gia đình hay dòng tộc. Mùa Xuân còn hướng chúng ta đến Đấng tạo thành. Chính Ngài đã làm cho con tạo xoay vần có Xuân – Hạ – Thu - Đông. Chính Ngài đã tô điểm cho mùa xuân thêm rạng ngời với ánh nắng lung linh, với gió nhè nhẹ lượn quanh người. Ngài là chủ mùa Xuân. Ngài đã ban mùa xuân đến cho nhân trần. Ngài đã chúc phúc cho mùa xuân với biết bao niềm vui của hội hè đình đám. Chính Ngài đã tạo dựng mùa xuân đầu tiên nơi vườn địa đàng để Adam – Eva ngập tràn hạnh phúc yêu thương. Đó là một mùa xuân bất tận. Một mùa xuân trường sinh. Mùa xuân ấy đã kết thúc khi Adam – Eva quay lưng lại với Đấng tạo thành. Vườn xuân cũng khép lại. Cỏ dại và sự dữ đã đi vào trần gian.
Thế nên, hướng về mùa xuân con người được mời gọi giữ mãi mùa xuân trong lòng mình. Một mùa xuân ngập tràn niềm vui hạnh phúc khi con người sống trong ân nghĩa với Đấng tạo thành. Một mùa xuân ngập tràn yêu thương khi con người sống hòa thuận với nhau, tránh xa những đố kỵ ghen tương và cùng nhau xây dựng hòa bình. Đó chính là cách chúng ta gìn giữ mùa xuân trong cuộc đời chúng ta. Đừng như Adam đã đánh mất mùa xuân khi phạm tội quay lưng lại với Đấng tạo thành.
Hôm nay ngày đầu xuân chúng ta cũng cám ơn Ngài đã ban cho một Mùa Xuân với bao hương tình nồng ấm. Cám ơn Ngài đã dẫn dắt cuộc đời chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Một dòng đời có xen lẫn buồn vui sướng khổ. Có nước mắt và nụ cười nhưng bàn tay quan phòng của Đấng tạo hóa luôn làm chủ mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời con người. Đồng thời cũng phó dâng lên Ngài một năm mới vừa mới bắt đầu. Xin Ngài lì xì cho chúng ta một năm mới thuận buồm xuôi gió, vạn sự như ý. Một năm mới ngày nào cũng có “Thịt heo nấu với măng hầm” với của ăn của để như tích được heo đất trong nhà. Xin Ngài làm chủ cuộc sống của chúng ta hôm nay và mãi mãi.
Ước gì mùa xuân mãi ở lại đây trong tâm hồn chúng ta khi có Chúa đồng hành, khi trung thành với giáo huấn của Chúa. Ước gì cuộc đời chúng ta luôn tươi trẻ vì có Chúa Xuân hiện diện chúc phúc cho cuộc đời chúng ta. Amen
52. MỒNG MỘT TẾT MẬU TUẤT 2018: ƯỚC MƠ NGÀY XUÂN
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Mùa Xuân luôn mang lại cho ta một niềm vui, một hạnh phúc. Mùa Xuân cho ta một hy vọng ngày mai sẽ tốt hơn. Đó là lý do mọi chữ ghép vào chữ Xuân đều biểu lộ sự hồi sinh và tràn đầy sự sống như: Xuân thì, Xuân tình, Xuân nồng, Xuân ngời . . . Dẫu dòng đời luôn vần xoay cứ xuân đến rồi xuân đi nhưng mỗi mùa xuân đến lại cho ta một niềm hy vọng, một ước mơ mới trong cuộc đời.
Ước mơ thì ai cũng có. Ước mơ cho mình đẹp. Ước mơ được đóng góp phần mình tô thắm cho đời đẹp hơn. Ước mơ lớn dần theo từng lứa tuổi. Ước mơ cũng thay đổi theo thời gian. Bài hát “tuổi mộng mơ” dường như đã diễn tả thật gần gũi điều đó.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười hɑi, tuổi mười bɑ?
Em ước mơ ℮m là, ℮m được là tiên nữ
ßɑn ρhéρ tiên cho hoɑ biết nói cả tiếng người
ßɑn ρhéρ tiên cho người chắρ cánh bɑу giữɑ trời.
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ tiên!
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ tiên!
Ước mơ của tuổi thần tiên thật đẹp. Đẹp trong tâm hồn và thể xác. Cái đẹp của thiên thần không có giận hờn ghen ghét chỉ có niềm vui và hạnh phúc đón nhận và trao ban.
Qua cái tuổi dậy thì ai cũng mơ mộng xa xăm, sống thiếu thực tế nhưng vẫn mang hoài bão xây dựng cho đời tươi đẹp hơn.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười bɑ, tuổi mười bốn?
Em ước mơ mɑng hồn, ℮m mɑng hồn thi sĩ
Ƭh℮o gió mưɑ ℮m đi, hát xâу mộng cho người
Ƭrên cánh thơ tuуệt νời, hát уên νui cõi đời.
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ hoɑ!
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ hoɑ!
Rồi tới tuổi trăng tròn trông ai cũng xinh xắn, luôn nở nụ cười tươi và dáng đi đầy kiêu hãnh làm thổn thức bao trái tim rung nhịp tình yêu.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười tư, tuổi mười lăm?
Em ước mơ ℮m đẹρ như trăng rằm tươi tắn
Ƭhoɑ ρhấn son ℮m mɑng chiếc áo dài ƙhăn hồng
Em sẽ thi đuɑ cùng νới hoɑ ƙhôi ƙhắρ νùng.
Rồi khi cái tuổi mộng mơ không còn thì ước mơ của người ta thực tế hơn, gần gũi hơn với cuộc sống.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười lăm, tuổi mười sáu?
Em ước mơ ƙhông nhiều, xin một điều уêu dấu
ĸhông ước mơ xɑ xôi, ước mơ được nên người
Ϲô gái уêu nước Ѵiệt bước chân th℮o giống nòi.
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ ngoɑn!
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ ngoɑn!
Ngày đầu xuân, theo thói quen của nhân gian người ta thừơng rủ nhau đi hái lộc xuân. Gọi là hái lộc nhưng thực ra người hái đã có sẵn những ước mơ, những ước nguyện trước khi đón nhận lộc xuân. Lộc xuân như là dấu chỉ ân lộc trời ban hay như là sự chúc lành của Đấng hoá công tạo dựng đất trời cho ước nguyện ngày xuân.
Ước mơ ngày xuân luôn là những ước mơ chân thực nhất, vì nó chính là nỗi khát khao từ trong sâu thẳm của từng người, là nỗi niềm riêng mà người ta muốn đổi thay cuộc đời hoà nhịp với sự đổi thay của đất trời.
Ước mơ có thể là những dự định mà ta muốn thực hiện trong cuộc đời. Nhưng dầu sao, ước mơ vẫn là những điều vượt ngoài tầm tay, là những hoài bão, mong ước nhưng chưa đạt được hay chưa có cơ hội thực hiện.
Ngày xuân chúng ta trao gởi nỗi niềm ước mơ của mình cho Đấng Tạo hoá – Đấng Càn Khôn. Ngài là Đấng làm cho đất trời thay đổi theo bốn mùa: Xuân – Hạ – Thu – Đông. Và chỉ có Ngài mới làm cho ước mơ ngày xuân trở thành hiện thực. Vì “mưu sự tại nhân – thành sự tại thiên”. Sự toan tính là của con người, nhưng điều đó có thành hiện thực hay không lại tùy thuộc vào ơn ban của Trời. Đây cũng là niềm tin của người kytô hữu, vì mọi sự đều nhờ bởi ơn Chúa, chính Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành, là Đấng phù trợ và bảo vệ cuộc đời chúng ta. Niềm tin này không phải là niềm tin mông lung, nhưng dựa trên chính lời hứa của Chúa Giêsu: “Các con đừng lo chi ngày mai sẽ ra sao. Hãy xem chim trời, hãy nhìn xem hoa huệ ngoài đồng, chúng không hề lo lắng ngày mai sẽ ra sao”.
“Hãy trút mọi nỗi lo âu cho Người và Người sẽ lo cho anh em”. Chúng ta hãy dâng lên Chúa Xuân những ước mơ, những hoài bão của chúng ta trong niềm tín thác vào Chúa. Xin cho ước mơ ngày xuân của chúng ta được Thiên Chúa chúc phúc cho một năm an khang thịnh vượng. với hai câu đối:
Sống tu thân tích đức, mở rộng lòng, Sống sao cho đáng sống
Xuân phúc lộc bình an, tràn muôn lối, Xuân mãi vẫn là xuân
Amen.
53. MỒNG MỘT TẾT NHÂM THÌN 2012: TẠ ƠN VÀ CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Người Việt Nam chúng ta có một tập tục rất đẹp trong ngày đầu năm mà những người thờ Trời hay thờ Ông Bà họ thường làm đó là sáng sớm ngày mồng một, người ta làm một ít đồ ăn hoặc là trái cây và một ít hoa tươi đứng trước Bàn Thiên ở cửa nhà hoặc Bàn thờ Tổ tiên trong gia đinh để thắp lên một nén nhang với lòng thành biết ơn trời đất và tổ tiên ông bà.
Kính thưa quý OBACE, đối với người Việt Nam Công Giáo, tập tục tốt đẹp ấy được thể hiện trong giờ phút đầu tiên của năm mới Nhâm Thìn này, chúng ta họp nhau không phải trước bàn thiên mà là trước tôn nhan Thiên Chúa, để dâng lên Chúa tâm tình Tạ Ơn và cầu xin Chúa ban cho một Năm Mới bình an, đồng thời cũng là nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng điều khiển cả vụ trụ này và tất cả mọi việc xảy ra đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cũng vì thế con người luôn luôn cảm thấy mình nhỏ bé và hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Sự lệ thuộc vào Thiên Chúa không làm hạ thấp giá trị con người, nhưng lại làm gia tăng phẩm giá của con người vì con người chúng ta đã dược Thiên Chúa yêu thương tạo dựng, cứu chuộc, được nhận làm con và Thiên Chúa còn quan phòng ban cho muôn điều kỳ diệu tốt đẹp cho con người.
Các bài đọc được chọn cho ngày Mồng Một Tết nhắm đến các ý tưởng ấy- Trước hết bài sách Sáng Thế nhắc lại cho chúng ta về công trình tạo dựng của Thiên Chúa, chính Ngài dựng nên trời đất tinh tú muôn loài và cũng chính Ngài là Đấng điều khiển để cho bốn mùa luân chuyển thay đổi nối tiếp nhau, để làm nên nhịp sống cho con người và phân định thời gian cho vũ trụ. Cũng mặt trời ấy, cũng ánh nắng ấy, nhưng những ngày đầu năm này, chúng ta nhìn thấy mọi sự đều khác, từ vạn vật đến con người như đang khoác lên mình một bộ áo mới một sức sống mới của mùa xuân sau những ngày mùa đông lạnh giá. Cũng chính vì thế, mà mọi người đều muốn bắt đầu một năm mới với một sư đổi mới, một kế hoạch mới và một quyết tâm mới. Song vì con người ý thức được rằng: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” kế hoạch là của mỗi người đưa ra, song sự thành hay bại còn do trời ban hay nói theo ngôn ngữ nhà đạo của chúng ta đó là: Con người cố gắng với hết khả năng của mình còn kết qua thì phó dâng cho Chúa. Ý thức như thế để chúng ta không quá cậy dựa vào sức mình, nhưng biết khiêm nhường tạ ơn Thiên Chúa về những thành quả chúng ta đã đạt được và bằng lòng với những gì Chúa ban đồng thời cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho những toan tính của chúng ta trong năm mới.
Trong bài đọc hai Thánh Phaolô đã khuyên cộng đoàn Philipphê hãy luôn vui mừng và tín thác vào Thiên Chúa, niềm vui cũng là ước nguyện của ngày đầu năm: Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên… Anh em đừng lo lắng gì hết nhưng trong khi cầu nguyện hãy trình bày ước vọng lên cùng Chúa. Như thế có nghĩa là chúng ta sẽ vẫn phải sống và làm việc, vẫn gặp những thành công và thất bại, vui và buồn, nhưng khác ở chỗ là dù trong những hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn giữ được niềm vui và sự bình an trong tâm hồn, niềm vui và sự bình an này là bình an vì có Chúa ở trong chúng ta, và tin rằng Chúa đang điều khiển cuộc đời chúng ta. Chúng ta cũng vẫn phải lo toan cho cuộc sống, song chúng ta không lo lắng theo kiểu của những người không có niềm tin, nhưng lo liệu công việc trong sự trợ giúp của Thiên Chúa và nhất là làm mọi công việc thường ngày trong tinh thần cầu nguyện tin tửơng phó thác. Khi sống và làm việc như thế, chúng ta sẽ càm nhận được niềm vui trong chính công việc của mình và sẽ thấy tâm hồn mình thực sự bình an.
Ước nguyện Bình an cho gia đình là một trong những ước nguyện đầu tiên của năm mới, thế nhưng để có bình an đòi mỗi người phải nỗ lực thật nhiều. Trước hết là phải tìm được sự bình an trong tâm hồn, sự bình an này đến từ nơi Thiên Chúa, và chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng, đó là sự bình an của một tâm hồn thanh thản trước mặt Thiên Chúa, một tâm hồn được thứ tha và chữa lành nhờ Bí tích Giải tội, một tâm hồn luôn sống thuận thảo với Chúa, tức là không để mình sống trong tình trạng thù nghịch tội lỗi trước mặt Thiên Chúa, siêng năng gặp gỡ Thiên Chúa trong công việc, trong cầu nguyện trong các việc phụng thờ Thiên Chúa.
Kế đến là sự bình an đối với nhưng người chung quanh, tức là phải dám gỡ khỏi tâm hồn mình những bất hòa những bất đồng và xung khắc đối với vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, láng giềng, hãy bước đến với nhau trong sự tha thứ, làm hòa và thông cảm, đây cũng là nét đẹp của người Việt Nam, mỗi dịp tết gặp nhau, người ta thường xin lỗi nhau về những gì làm mất lòng nhau trong năm cũ, cũng vậy, năm mới, chúng ta cũng cần đổi mới lại tương quan tình nghĩa giữa những người thân và anh em, gạt bỏ đi những tranh chấp để đến với nhau và nhìn nhau một cách chân tình hơn hãy can đảm nói với nhau một lời xin lỗi và tha thứ.
Ước nguyện bình an trong công việc là một ước nguyện thật tốt, vì ai làm nghề gì thì cũng mong muốn được thuận lợi bình an. Bình an ở đây không chỉ là tránh khỏi rủi ro tai nạn, nhưng sự bình an thật sự chỉ có ở những con người có những cách làm việc trong tôn trọng sự công bằng và bác ái, tôn trọng sự thật, không gian dối không lừa đảo, và biết tôn trọng quyền lợi của người khác. Kinh doanh buôn bán với một lương tâm ngay thẳng như thế thì mới có được sự bình an trong công việc và bình an trong tâm hồn.
Thịnh vượng là một trong những ước nguyện đầu năm, giàu có sung túc là một ước muốn tốt đẹp và theo truyền thống của Kinh Thánh thì sự giàu sang còn là dấu chỉ sự chúc lành của Thiên Chúa, thế nhưng làm giàu bằng cách nào và sử dụng sự giàu sang Chúa ban như thế nào mới là điều quan trọng.
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ cho chúng ta cách thế sống và vui hưởng những của cải Chúa ban đó là tin tưởng và phó thác tất cả cho Chúa: Đừng lo lắng cho ngày mai vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Nói như thế không có nghĩa là chúng không lo lắng và không suy nghĩ đầu tư. Chúng ta không được phép ỷ nại vào sự quan phòng của Chúa để lười biếng, nhưng cũng đừng lo lắng đến quá mức về cái ăn cái mặc cho ngày mai, lo như kiểu của người không có niềm tin: Chúng ta sẽ ăn uống gì mặc gì? Trái lại chúng ta biết lo liệu và tin rằng Thiên Chúa là cha chúng ta Ngài biết những nhu cầu những ước muốn của chúng ta ngay trước khi chúng ta mở miệng cầu xin, và Ngài sẽ trợ giúp chúng ta, vì thế hãy sống thật tốt giây phút hiện tại của ngày hôm nay và vui hưởng những gì Chúa ban cho ngày hôm nay.
Thế nhưng Chúa vẫn lưy ý chúng ta rằng dù ăn gì, uống gì và làm gì thì cũng vẫn cần có một ưu tiên tuyệt đối đó là: Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều khác Chúa sẽ ban cho. Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính có nghĩa là lo tìm kiếm và làm giàu trước mặt Thiên Chúa, đừng chỉ làm giàu của cải vật chất nhà cửa xe cộ mà để mình nghèo nàn công phúc trước mặt Chúa. Nhiều người cầu nguyện đầu năm cho gia đình mình thịnh vượng vật chất, mà quên cầu xin cho mình và gia đình được giàu có thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa, và không làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Làm giàu trước mặt Thiên Chúa là làm nhiều việc lành và công phúc, việc lành ở đây chính là những việc tông đồ, bác ái, là công việc phục Chúa và phục vụ anh em, và còn là những việc hy sinh thầm lặng, là hy sinh tiền của thời giờ, sức khỏe cho Chúa; Công phúc trước mặt Chúa chính là sự bác ái, tình yêu thương giúp đỡ, sự chia sẻ cụ thể với những người bất hạnh, những người đang cần đến chúng ta. Vì chỉ những công việc cụ thể như thế mới làm cho chúng ta trở nên giàu có thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa mà thôi.
Cầu chúc cho mọi người mọi gia đình một Năm Mới đầy tràn Bình an của Chúa và sự Thịnh vượng không chỉ của cải vật chất và là thịnh vượng, giàu có của cải thiêng liêng trước mặt Thiên Chúa, cầu chúc cho mọi gia đình luôn hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Amen.
54. THÁNH LỄ MINH NIÊN MỒNG MỘT TẾT (Năm Canh Tý)
1. “Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày và đêm, và trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm trời và giãi sáng mặt đất” “Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp.”
Bước vào đầu năm mới một câu hỏi tự nhiên đến với mỗi người chúng ta cùng sống trong một thời gian mà tại sao nó lại mang những ý nghĩa vô cùng khác biệt nơi người này và nơi người khác? Thời gian có thực sự là tốt đẹp như “Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp” mà bài sách Sáng Thế vừa công bố? Trải qua giòng đời, người thì thấy nó quý báu đến nỗi phải tranh thủ từng giây phút, người thì lại thấy nó như là một gánh nặng đến nỗi mong nó mau chấm dứt.
Câu trả lời đến từ những suy nghĩ của chúng ta về SỰ SỐNG, và tùy theo ý nghĩa về sự sống mà thời gian có ý nghĩa thế nào.
Để cho sự sống, và đặc biệt là sự sống của con người xuất hiện trong vũ trụ, Thiên Chúa đã phải tạo dựng không gian, thời gian với sự hoàn mỹ thế nào để có thể làm cho SỰ SỐNG nên giống Hình Ảnh Ngài. Nói khác đi khi SỰ SỐNG không còn là Hình Ảnh Thiên Chúa ở những mức độ khác nhau thì nó cũng hủy hoại luôn sự tốt đẹp của không gian và thời gian ở những mức độ khác nhau. Và đó chính là điều chúng ta cảm nghiệm được ngày hôm nay, khi con người không chấp nhận Thiên Chúa trong lòng mình, thì họ cũng đang ra sức tàn phá môi trường sống của mình.
2. Để trả lại cho thời gian vẻ tốt đẹp ban đầu, Thiên Chúa đã phải sai CON MỘT Ngài sinh ra trong thời gian để như thánh Phaolô nói “giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô”, cũng là gìn giữ lòng trí chúng ta về SỰ SỐNG trong Chúa Giêsu. Bởi vì với Chúa Giêsu thì thời gian đã đi đến sự viên mãn như chính Người công bố "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,15). Chính SỰ SỐNG của Chúa Giêsu là ý nghĩa, là ánh sáng cho thời gian một ý nghĩa tốt đẹp nhất, như Người đã tuyên bố “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối. ”. Vì thế Thánh Phaolô mới nói “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi.” Nhưng điều này không thật dẽ dàng, vì vậy thánh Tông đồ mời gọi “Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ.”
3. Cầu nguyện để chúng ta không dùng thời gian để tìm kiếm những gì “dân ngoại tìm kiếm” nhưng “tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người”. Và đó là ý nghĩa đích thật của thời gian. Đức Ki-tô là hiện thân của nước Thiên Chúa. Đức Kitô đã đến. Người không những ở trong chúng ta mà còn ở giữa chúng ta nơi những người anh chị em sống chung quanh ta. Và hơn nữa, Người còn đồng hóa mình với những người nghèo nàn, bất hạnh. Vì vậy, chúng ta không thể chỉ tìm Chúa trong nhà thờ hay khi đọc kinh cầu nguyện mà còn phải tìm và phục vụ Người trong cuộc sống, nơi tha nhân, nhất là những người chúng ta có bổn phận và trách nhiệm. Chúng ta khát khao ước ao nước Cha hiển trị bởi vì đó là lẽ sống đích thực của chúng ta – sống trong nước tình yêu. Vì thế ý nghĩa thời gian của chúng ta còn phải là thời gian để xây dựng Giáo Xứ thành cộng đoàn của Đức Kitô vậy.
4. Xin cầu chúc quý Cha, Quý Thầy, Quý Soeurs và mọi gia đình anh chị em NĂM MỚI LUÔN TRÀN ĐẦY SỰ SỐNG CỦA ĐỨC KITÔ.
55. MÙNG MỘT TẾT Mt 6,25-34--PHÓ THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34).
2. CÂU CHUYỆN:
1) HỌA PHÚC KHÓ LƯỜNG:
Có một người đi biển, gặp cơn bão lớn, chìm tàu, anh may mắn sống còn và trôi dạt vào một hoang đảo. Muốn tồn tại, anh phải tự lo tất cả từ hai bàn tay trắng. Một cái nhà nhỏ trú mưa trú nắng, hàng rào chống thú dữ, tự làm quần áo che thân, tìm kiếm thức ăn. Khó nhất là lửa. Khó khăn lắm anh mới dùng đá đập vào nhau để có được lửa. Anh nuôi lửa cẩn thận, không để lửa tắt. Một đêm nọ, khi anh đi tìm săn tìm thức ăn về, thì anh thấy ngôi nhà của mình đã cháy rụi! Một cơn gió lốc làm ngọn lửa bùng lên và cháy rụi căn nhà anh. Bao nhiêu công khó gầy dựng cái “gia sản” tối thiểu để được sống còn bây giờ ra tro bụi! Anh ngửa mặt lên trời than trách sao Chúa lại có thể đối xử với anh tệ bạc đến thế!
Mệt mỏi và chán nản, anh ngủ thiếp đi trong đêm thảm họa ấy!
Bừng con mắt dậy, trong ánh nắng bình minh rực rỡ của ngày mới trên hoang đảo, anh chợt thấy một vết chấm to xa xa trên bờ biển. Nhìn kỹ, anh nhận ra đó là một con tàu.
“Chúng tôi đã thấy ngọn lửa làm hiệu của anh. Chúng tôi đến cứu giúp anh đây!”. Những người trên tàu đã tìm gặp anh và nói với anh như thế.
Anh chắp tay ngửa mặt lên trời, nghẹn ngào nói: “Tạ ơn Chúa! Xin tha thứ cho con!”
2) TÁI ÔNG THẤT MÃ, AN TRI HỌA PHÚC
Sách Hoài Nam Tử có ghi lại một câu chuyện dạy đời như sau:
Một ông lão ở gần biên giới giáp với nước Hồ phía Bắc nước Tàu, gần bên Trường thành có nuôi một con ngựa. Một hôm con của ông lão dẫn ngựa ra gần biên giới cho nó ăn cỏ, vì lơ đễnh nên con ngựa vọt chạy qua bên nước Hồ mất dạng. Những người trong xóm nghe tin đến chia buồn với ông lão. Ông lão bình tỉnh nói: “Các ông bà đừng lo cho tôi. Biết đâu con ngựa chạy mất kia sau này sẽ đem lại những điều tốt cho tôi”. Vài tháng sau, con ngựa chạy mất tự nhiên quay về nhà, dẫn theo một con ngựa của nước Hồ, cao lớn và mạnh mẽ. Người trong xóm hay tin liền đến chúc mừng ông lão và nhắc lại lời ông đã nói trước đó. Ông lão không tỏ vẻ vui mừng mà nói: “Ông bà đừng vội chia vui với tôi. Biết đâu việc được ngựa Hồ nầy về sau sẽ dẫn đến tai họa cho tôi”.
Quả nhiên con trai của ông lão rất thích cưỡi ngựa, thấy con ngựa Hồ cao lớn mạnh mẽ thì thích lắm, liền nhảy lên lưng cỡi nó chạy đi. Con ngựa Hồ chưa thuần nết, chưa quen người nên nhảy loạn lên, khiến đứa con trai ông lão bị ngựa Hồ hất xuống đất, bị gãy một xương đùi thành ra bị què chân mang cảnh tật nguyền. Người trong xóm vội đến chia buồn với ông lão vì không ngờ con ngựa không tốn tiền mua nầy lại gây ra tai họa cho con trai của ông như thế. Ông lão thản nhiên nói: “Xin các vị cũng đừng lo cho tôi, con tôi bị ngã gãy chân, tuy bất hạnh đó, nhưng biết đâu nhờ cái họa nầy mà về sau sẽ biến thành phúc đó”.
Một năm sau, nước Hồ kéo quân sang xâm lấn Trung nguyên. Các trai tráng trong vùng biên giới đều phải sung vào quân ngũ để ngăn chặn giặc Hồ. Quân Hồ thiện chiến, đánh tan đạo quân mới nhập ngũ và nhiều trai tráng đều bị tử trận, riêng con trai ông lão vì bị què chân được miền đi lính, nên còn sống sót.
3. THẢO LUẬN: 1) Qua câu chuyện “Tái ông thất mã, an tri họa phúc” nghĩa là: Lão ông mất ngựa, họa hay là phúc?, bạn suy nghĩ thế nào về các điều phúc họa trong cuộc sống của bạn? 2) Tin Mừng trong thánh lễ Mùng Một Tết hôm nay dạy thế nào về sự quan phòng của Thiên Chúa trước những điều may rủi gặp phải giữa đời thường?
4. SUY NIỆM:
1) Nội dung Tin Mừng ngày đầu Năm Mới:
Tin Mừng thánh lễ ngày đầu Năm Mới hôm nay, Đức Giê-su đã dạy môn đệ đừng quá lo lắng về đời sống cho bản thân nhưng phải tin cậy vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa qua ba ví dụ cụ thể như sau:
Một là loài chim trời không gieo không gặt nhưng Cha trên trời vẫn nuôi sống chúng.
Về việc sống lâu thì dù lo lắng cũng không thể kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc!
Về cơm ăn áo mặc: Như loài hoa huệ ngoài đồng không kéo sợi may mặc, thế mà Cha trên trời vẫn cho chúng mặc áo đẹp hơn long bào của vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc.
Từ đó Đức Giê-su dạy các môn đệ phải biết phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa: Nếu loài chim trời chẳng đáng giá là bao, và loài hoa đồng nội chỉ sớm nở tối tàn mà Cha trên trời còn chăm sóc cho như thế, phương chi con cái loài người chúng ta còn đáng giá hơn muôn phần lại không được Thiên Chúa quan phòng gìn giữ sao? Và Đức Giê-su kết luận: "Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó".
2) Phân biệt lo liệu với lo lắng:
“Đừng quá lo lắng” không có nghĩa là “không cần lo liệu”. Người biết lo liệu là người khôn ngoan. Tùy sự tính toán lo liệu mà người ta có thể thấy mức độ khôn ngoan của một người. Chúa phán: “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cái tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa”. (Lc.14,28).
Biết lo liệu không chỉ để làm tốt công việc thường nhật, mà còn thăng tiến trong Đức Tin, trong đàng Nhân Đức. Đó không chỉ là nỗ lực bình thường của con người mà còn là ơn Chúa Thánh Thần. như lời cầu xin ơn Thánh Thần trong lễ ban phwps Thêm Sức:
“Lạy Chúa, xin ban Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi đến trong những người này. Xin ban cho nhứng người này thần trí khôn ngoan và thông hiểu; thần trí lo liệu và sức mạnh; thần trí suy biết và đạo đức; xin ban cho người này đầy ơn kính sợ Chúa. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con”
3) Phải tránh thói ỷ lại lười biếng và vô trách nhiệm:
Chim trời tuy không phải vất vả gieo gặt như loài người, nhưng chúng cũng phải bay đi đó đây để tìm mồi. Hoa huệ ngoài đồng tuy không phải dệt may nhưng cũng phải đâm rễ tìm chất bổ dưỡng. Đàng khác chính Đức Giê-su đã nói: "Ngày nào có cái khổ của ngày ấy" (Mt 6,34).
Không những Đức Giê-su không muốn chúng ta rơi vào thói hư lười biếng vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải chịu khó làm việc để góp phần làm cho môi trường mình đang sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, cho thế giới này ngày một hoàn thiện hơn. Ngay từ khi dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25,15-25), Đức Giê-su đã đòi mỗi đầy tớ phải làm lợi cho chủ gấp đôi các nén bạc được trao, chứ không được mang đi chôn giấu. Như vậy, chúng ta có bổn phận phải lo lắng, tiên liệu cho tương lai. Điều Chúa không chấp nhận là quá lo lắng về vật chất, coi nó là cùng đích đời mình.
4) Tiên vàn phải lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa:
Người môn đệ Đức Giê-su phải coi trọng Nước Thiên Chúa. Những điều khác cũng cần phải quan tâm, nhưng không được coi chúng hơn Nước Thiên Chúa. Người ta thường coi tiền bạc vật chất là số một và có khả năng giải quyết được mọi vấn đề của con người. Nhưng thực tế chứng minh suy nghĩ ấy thật sai lầm. Thực ra tiền bạc của cải là phương tiện cần để giúp con người có đời sống tốt hơn như người ta thường nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc”. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc. Nó chỉ tốt khi chúng ta biết dùng nó như phương tiện, như đầy tớ của chúng ta. Nhưng tên đầy tớ tiền bạc này lại rất có uy, rất dễ tự coi mình là ông chủ lúc nào không hay. Khi nó đã nắm quyền làm chủ, nó sẽ bắt chúng ta là đầy tớ phải phụng sự nó với bất cứ giá nào.
Ưu tiên tìm nước Thiên Chúa là phải chịu khó làm việc với hết khả năng, tìm kiếm đối sách và nhìn xa trông rộng để giải quyết các vấn đề mới phát sinh theo khả năng của mình. Cần tránh thái độ ỷ lại vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Khi gặp sự khó, chúng ta tránh thụ động, nhưng phải biết chủ động xin ơn Thánh thần soi sáng để tìm ra cách giải quyết theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su trong Tin Mừng. Cần thực hành lời người xưa dạy: “Hãy làm hết sức mình, rồi trời sẽ giúp”, hoặc : “Hãy thắp sáng lên ngọn đèn, chứ đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Hôm nay Chúa đã dạy chúng con phải biết ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính, còn những thứ khác như ăn gì mặc gì, thì phó thác vào tình thương quan phòng của Chúa Cha trên trời. Xin cho chúng con ý thức rằng: “Đồng tiền chính là đầy tớ tốt nhưng lại là ông chủ xấu”. Nhờ biết sử dụng đồng tiền phụng sự cho Nước Chúa và phục vụ tha nhân, mà chúng con sẽ có bình an nội tâm và sẽ nên chứng nhân của Chúa trước mặt người đời, góp phần xây dựng một thế giới mới là Nước Trời đời sau.- AMEN.
11/02 Chúa Giêsu và bà mẹ ngoại giáo
- Viết bởi Mc 7, 24-30
Chúa Giêsu và bà mẹ ngoại giáo.
Thứ Năm tuần 5 thường niên.
"Những con chó ở dưới gầm bàn cũng ăn những mụn bánh rơi của con cái"
Lời Chúa: Mc 7, 24-30
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt Tyrô và Siđon. Vào một nhà kia, Người không muốn ai biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được.
Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người. Bà đó là người dân ngoại, dòng giống Syrô-Phênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà.
Người nói: "Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó". Nhưng bà trả lời và thưa Người rằng: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái".
Người liền nói với bà: "Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi". Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Những mảnh vụn
Suy niệm:
Để có được cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với người phụ nữ,
hai bên đã phải vượt qua nhiều đường ranh, nhiều rào cản.
Đức Giêsu đã bỏ đất Ítraen để đến vùng Tia, vùng đất ô uế của dân ngoại.
Người đàn bà dân ngoại đã vượt qua sự ngăn cách với người đàn ông Do thái.
Qua câu đáp của bà, bà cũng vượt qua được sự lụy phục thường gặp nơi phụ nữ
sống trong một nền văn hóa do đàn ông làm chủ ở thế kỷ đầu.
Trong Tin Mừng Máccô, đây là phép lạ duy nhất nhắm đến dân ngoại.
Rõ ràng Đức Giêsu không có ý làm phép lạ trừ quỷ này,
Chúng ta ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu từ chối giúp bà ta, rồi lại đổi ý.
Nhiều người không tin đây là cách cư xử vốn có của Đức Giêsu
trước nỗi đau của trái tim người mẹ có đứa con bị quỷ ám.
Tuy nhiên, nên nhớ rằng sứ vụ của ngài không bao gồm dân ngoại.
Ngài chỉ được sai đến với dân Ítraen,
để rồi chính môn đệ ngài sẽ chịu trách nhiệm đến với dân ngoại.
Hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ.
Bà nài xin ngài đuổi quỷ ra khỏi con gái của bà,
nhưng bà đã phải nghe một câu trả lời rất khó chịu và có thể gây tổn thương.
“Hãy để con cái ăn trước,
vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con” (c. 27).
Đức Giêsu ví dân Do thái với những đứa con trong nhà,
còn dân ngoại là mẹ con bà, được ví với những chó con.
Con cái dĩ nhiên là có quyền ưu tiên rồi, được ăn bánh trước.
Bánh của con cái đương nhiên không nên ném xuống đất cho chó con.
Với người khác, câu trả lời gây sốc của Đức Giêsu có thể khép lại mọi hy vọng.
Nhưng đối với bà, chính câu này lại mở ra niềm hy vọng mới.
“Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn
cũng được ăn những mảnh vụn của lũ trẻ nhỏ” (c. 28).
Bà khiêm tốn nhận mình là chó con,
được nuôi trong nhà, nằm dưới gầm bàn lúc mọi người ăn uống,
nên thỉnh thoảng cũng được đám con cái cho ăn những mảnh bánh vụn.
Như thế những đứa con cũng chẳng giữ riêng tấm bánh cho mình.
Chúng cũng biết chia sẻ, thậm chí cho mấy chú chó con.
Hôm nay bà chẳng xin ngài cho tấm bánh trên bàn dành cho con cái,
Bà chỉ xin ngài cho vụn bánh dành cho chó con nằm dưới bàn.
Đức Giêsu hẳn hết sức bất ngờ với câu trả lời này,
vừa tin tưởng, hy vọng, vừa khiêm tốn, khôn ngoan.
Chính câu trả lời này đã chinh phục và làm cho Đức Giêsu đổi ý.
“Vì bà nói thế, bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” (c. 29).
Phép lạ này rất “lạ” vì Đức Giêsu đã đuổi quỷ từ xa,
và ngài cũng chẳng đưa ra một lời uy quyền nào để đuổi quỷ.
Khi người mẹ này về nhà, thì thấy con gái mình đã được bình an.
Chúng ta học được gì nơi cách cư xử của người phụ nữ?
Chúng ta học được gì nơi thái độ của Đức Giêsu?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
có những ngày con cảm thấy
đời sống thật nặng nề;
có những lúc con muốn buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa đẩy;
có những khoảng thời gian dài,
con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.
Xin cho con ánh sáng của Chúa
để con biết lối mà đi.
Xin cho con tấm bánh của Chúa
để con có sức mà dấn bước.
Xin cho con Lời của Chúa
để con vững một niềm tin.
Xin cho con sự sống của Chúa
để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,
niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu,
con thấy mình cần Chúa
trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp được sự hiện diện của Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: AN VÀ LOẠN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa tạo dựng tất cả vì con người và cho con người. Đặt mọi vật dưới chân con người. Cho con người đặt tên cho mọi sinh vật. Theo quan niệm Do thái, đặt tên trên ai là có quyền trên người đó. Thấy con người vẫn chưa vui, Thiên Chúa tạo dựng nên phụ nữ để làm bạn ngang hàng với người nam. Thuở ban sơ mọi thứ đều đẹp đẽ, ổn định trong trật tự: Thiên Chúa – con người – vạn vật. Mọi loài thanh thản an vui vì sống trong tự do, trong Thiên Chúa. Nam nữ không là đối tượng để chiếm đoạt hay thống trị. Nhìn nhau với tâm hồn thiên thần. Nên không hề xấu hổ (năm lẻ).
Nhưng ma quỉ đến phá vỡ tình trạng bình an trong tự do. Trật tự bị đảo lộn. Con người không còn vâng phục Thiên Chúa. Vạn vật nổi loạn muốn thống trị nhau. Nam nữ trở thành đối tượng chiếm đoạt. Nhìn nhau với ánh mắt thèm muốn. Vì thế trở thành ngẫu tượng. Sa-lo-mon khôn ngoan là thế mà cũng rơi vào lầm lạc khi để cho dục vọng chi phối. Để cho phụ nữ điều khiển. Vì thế rơi vào tôn thờ ngẫu tượng. Vì thế mất hết ơn nghĩa với Thiên Chúa. Mất hết quyền trên vạn vật. Đang là con cái trong nhà được ngồi trên bàn ăn bỗng nhiên trở thành chó con phải ngồi dưới gầm bàn. Đang tự do trở thành nô lệ. Đang giầu có bỗng mất tất cả (năm chẵn).
Muốn chuộc lại phải có đức tin mạnh mẽ. Như người phụ nữ Ca-na-an. Vượt qua hết mọi chướng ngại. Từ bỏ tất cả để trở về với Chúa. Tin nhận Chúa trên hết. Tất cả chỉ là phụ thuộc. Kể cả bản thân cũng chỉ là chó con dưới gầm bàn. Chúa là tất cả. Chúa là tuyệt đối. Nhờ đó thân phận được phục hồi. Từ chó con dưới gầm bàn trở thành con cái trong nhà. Được đồng bàn với Thiên Chúa. Được hưởng mọi ơn lành Chúa ban. Khi trật tự được vãn hồi, bình an trở lại. Ma quỉ phải ra đi. Bệnh tật chấm dứt. Và Thiên Chúa ngự trị.
Suy Niệm 3: Ơn cứu độ đại đồng
Trong nhật ký của mình, Mahatma Gandhi cho biết khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất say mê đọc Kinh Thánh, nhất là Bài Giảng Trên Núi, đến nỗi ông xác tín rằng Kitô giáo chính là câu trả lời cho nạn kỳ thị giai cấp đã từng hành hạ dân Ấn suốt bao thế kỷ, thậm chí ông còn muốn trở thành Kitô hữu nữa. Thế nhưng, một ngày nọ, khi đến nhà thờ dự lễ, ông bị người giữ cửa chặn lại và bảo ông phải đi lễ ở nhà thờ dành cho người da đen, kể từ đó, ông không bao giờ quay trở lại nhà thờ nữa.
Chúa Giêsu không bao giờ tỏ ra kỳ thị con người như thế. Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng. Cũng như các tác giả Tin Mừng khác, thánh sử Marcô cho thấy phần lớn hoạt động và thời giờ của Chúa Giêsu được dành cho người Do thái; chỉ sau khi sống lại, Ngài mới chính thức sai các Tông đồ truyền giảng Tin Mừng cho mọi người, bất luận là Do thái hay không Do thái. Thật ra ngay những năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã hé mở cho thấy chiều kích phổ quát của giáo lý và của ơn cứu độ mà Ngài mang lại. Ngoài những giáo huấn về tình huynh đệ đại đồng và thái độ không bài ngoại của Chúa Giêsu, Tin Mừng còn thuật lại các chuyến đi của Ngài tới vùng đất ngoại giáo, tại đây, Ngài cũng đã làm nhiều phép lạ, như trừ quỷ cho một thanh niên ở Gêrasa, cho một người câm ở miền Thập tỉnh nói được, và lần này trừ quỷ cho con gái của một phụ nữ Hy lạp gốc Phênixi.
Dựa vào những yếu tố trên, câu nói của Chúa Giêsu: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con" không thể giải thích đó là dấu biểu thi sự khinh miệt của Ngài đối với người khác đạo và khác tổ quốc; đúng hơn, Chúa muốn mọi người đừng quên ưu thế của người Do thái trong việc thừa hưởng ơn cứu độ, bởi vì Thiên Chúa đã chọn cha ông họ và muốn tỏ lòng trung thành với cha ông họ. Người Do thái được ưu tiên, chứ không phải là những người duy nhất được hưởng ơn cứu độ; vì thế, dù quan tâm săn sóc người Do thái nhiều đến đâu, Chúa Giêsu cũng không để trở thành vật sở hữu độc quyền của họ, Ngài vẫn có tự do bày tỏ tình thương đối với người khác.
Chúng ta chấp nhận sự tự do của Thiên Chúa trong việc ban phát ơn huệ và tình thương của Ngài. Dù ý thức mình chẳng là gì, chúng ta hãy tin rằng mình luôn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa. Với một Ðấng vô biên như Thiên Chúa, thì bất cứ hành vi nào của Ngài cũng có chiều kích vô hạn và quà tặng của Ngài cũng tràn trề sung mãn. Xin cho chúng ta cảm nhận được rằng Chúa đang yêu thương chúng ta và như thế là đủ cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Thế giới tha nhân
Thật vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người. Bà ta là người Hy-lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri-a. bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà. (Mc. 7, 25-26)
Để hiểu rõ câu chuyện gặp gỡ này, đừng quên rằng Chúa Giêsu là người Do thái. Theo tâm thức của người Do thái, chuyện gặp gỡ một người ngoại là điều không ổn, cũng giống như ta gặp một người nào đó không cùng chủng tộc với ta vậy.
Nhưng ở đây lòng khiêm tốn tháo gỡ tất cả, bởi lẽ lòng khiêm tốn là cánh cửa mở rộng. Trước tấm lòng cởi mở của người phụ nữ này, tâm hồn của Chúa Giêsu cũng mở rộng ra. Bà ta không phải là thành phần của dân giao ước, nhưng lòng tin của bà tiếp nối lòng tin của Áp-ra-ham. Bà ta đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đã làm thay đổi hoàn cảnh lịch sử lúc đó mà trở thành con cái của Chúa Cha. Nhờ Chúa Giêsu, Chúa Cha nhậm lời bà cầu xin. Thiên Chúa mở đường cho việc rao giảng tin mừng sau này.
Và để loan báo tin mừng này, chỉ cần yêu thương, trung thực cho đến cùng. Chỉ cần sống say mê nhiệt tình: khi người ta thực tâm thực tình để chỉ lo cho một chuyện, mọi chuyện khác đều thấy là tương đối thôi.
Qua bai Phúc âm hôm nay, Chúa muốn mở mắt mở lòng ta để hướng về thế giới những người ngoại. Họ là những con người biết thu lượm những mảnh vụn từ bàn ăn khi họ đòi hỏi ta phải tôn trọng sự thật, công bằng, khi họ lo lắng cho việc phục vụ những người nghèo, khi họ muốn dỡ đi những hàng rào ngăn cách do những đặc quyền đặc ân của ta đã dựng lên.
Cuộc sống của ta có loan báo điều mới lạ này không, một điều làm cho ta có được trái tim nhân lành, thực nhân lành, theo đúng nghĩa của lời “không có ai nhân lành cả trừ một mình Thiên Chúa”?
Suy Niệm 5: NIỀM TIN CẦN ĐƯỢC TÔI LUYỆN QUA THỬ THÁCH (Mc 7,24-30)
Trong đời sống đức tin của mỗi người, nhiều khi chúng ta phải mần mò đi trong đêm tối! Có những lúc tưởng chừng như Chúa đang bỏ rơi chúng ta! Có khi cuộc đời chúng ta đi vào ngõ cụt với biết bao thách đố mà chúng ta khó hòng vượt qua.
Tuy nhiên, khi chúng ta không còn biết cậy dựa vào ai, thì lúc đó Chúa có mặt và giải thoát chúng ta cách nhiệm mầu. Điều quan trọng là chúng ta có dám lỳ trong đức tin hay không mà thôi.
Tin Mừng hôm nay thuật lại gương sáng của người đàn bà dân ngoại. Một mẫu gương về niềm tin tuyệt đối vào Đức Giêsu. Bà thừa biết mình là người dân ngoại, nên không thể có lý do gì để xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà. Thế nhưng, niềm tin và sự hy vọng đã làm cho bà vượt qua hàng rào ngăn cách đó, nên bà đã mạnh dạn đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà.
Quả thật, Đức Giêsu đã không chữa ngay, mà ngược lại, Ngài đã nói một câu rất nặng để thử thách đức tin của bà, Ngài nói: “Phải để con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà mà nén cho lũ chó con” (Mc 7,27). Người phụ nữ này đã không nản lòng, nhưng qua câu nói đó, bà lại càng khiêm tốn và đức tin mỗi lúc lại mãnh liệt hơn, bà thưa với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”(Mc 7, 28).
Chính đức tin mãnh liệt như thế, nên phép lạ đã xảy ra. Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và cứu thoát con gái bà khỏi Quỷ ám.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên trì, trung thành và vững tin nơi Chúa. Bởi lẽ đức tin chỉ có thể trưởng thành khi chúng ta trải qua đau khổ và được tôi luyện bằng nghịch cảnh. Nhờ thế, chúng ta mới có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa, đồng thời xứng đáng trở nên chứng nhân về niềm hy vọng cho con người hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con vững tin vào quyền năng của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Kiên nhẫn - khiêm nhường trong đức tin vững mạnh
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là ông lấy hết sức lực, và la lớn: “Lạy Chúa”.
Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế”. “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất”. Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra”. Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!” (Trích “Món quà giáng sinh”).
Suy niệm
Người phụ nữ đau khổ vì hằng ngày chứng kiến cảnh quỷ dữ hành hạ con gái bà. Bà đã tìm thầy chạy thuốc khắp nơi rồi nhưng con bà vẫn không khỏi...
Chúa Giêsu đang ở vùng đất Tyrô và Siđon, rất xa quê hương bà. Thế nhưng bà đã tìm đến gặp Ngài. Tuy nhiên có sự ngăn cách giữa bà và Chúa Giêsu vì Người là người Do Thái mà người Do Thái lại không tiếp xúc với dân ngoại như bà, dòng giống Syrôphênixi. Tuy nhiên bà đến và phục lạy Ngài. Phục lạy là thái độ chỉ dành cho thần minh, như vậy có nghĩa là bà đã tôn vinh Ngài là vị thần.
Chúa Giêsu hiền lành, luôn chạnh lòng trước nỗi khổ của người dân (x. Mc 6,30-34) và sẵn sàng đáp trả… Thế nhưng Ngài có vẻ dửng dưng, thoái thác trước nỗi khổ tâm của người đàn bà đau khổ này. Thái độ của Chúa Giêsu đáp lại làm cho chúng ta bị “sốc”: “Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó” (Mc 7,27). Nhưng bà càng tỏ ra cương quyết và đặt trọn niềm phó thác vào tình thương cùng với quyền năng của Ðức Giêsu: “Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái” (Mc 7,28).
Với cách đối xử có vẻ phân biệt chủng tộc, giai cấp… và dường như dửng dưng khinh miệt, nhưng trước niềm tin mạnh của bà, Ngài vẫn ban cho bà điều mà bà kêu xin. Ngài muốn dạy cho bà và qua đó cũng dạy cho chúng ta sự kiên nhẫn và khiêm nhường trong một đức tin vững mạnh trải qua gian nan thử thách.
Xin Chúa cho chúng ta một đức tin kiên trung, đức cậy trông vững vàng, để không khó khăn thử thách nào có thể tách chúng ta ra khỏi đức tin vào Ngài.
Ý lực sống: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ” (Mt 24,13).
Suy Niệm 7: Chúa trừ quỉ ở miền Tyrô
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu chữa trừ quỉ cho người đàn bà xứ Phênixi. Qua phép lạ này chúng ta thấy người đàn bà ngoại giáo này được Chúa chữa bệnh cho con bà nhờ bà có những đặc tính này:
- Bà là một người ngoại, nên lẽ ra theo kế hoạch hành động của Chúa Giêsu, bà không được hưởng những ơn phúc của Chúa Giêsu, bởi vì theo kế hoạch ấy, Ngài đến ban ơn cho người Do thái trước. Vì thế, ban đầu Ngài đã từ chối bằng những lời rất nặng “Phải để cho con cái ăn no trước đã. Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”.
- Nhưng lòng tin kiên trì cùng với lòng khiêm nhường của bà đã biến bà thành “con cái trong nhà” nên Chúa Giêsu đã ban ơn theo lời bà xin.
2. Người đàn bà dân ngoại trong câu chuyện hôm nay có nhiều đức tính đáng chúng ta chú ý và bắt chước:
- Chúng ta thấy bà là người rất khiêm tốn, dám chịu nhận mình là “chó con: “Thưa Ngài đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những mảnh vụn trên bàn rơi xuống”.
- Bà có một đức tin kiên trì: dù bị khước từ ngay từ lúc đầu bằng những lời rất nặng nề nhưng bà vẫn không nản lòng. Lòng tin của bà không hề lay chuyển.
- Bà có một lòng phó thác mạnh mẽ nơi Chúa: Chúa Giêsu bảo bà “Cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” Mc 7,29). Dù chưa thấy hiệu quả trước mắt, nhưng vì tin lời Chúa nên bà ra về trong tin tưởng.
3. Trước sự cầu xin của người đàn bà ngoại giáo (không thuộc Do thái giáo), lời trả lời đầu tiên của Chúa Giêsu nghe có vẻ nặng nề và miệt thị, nhưng cũng qua đó cho thấy niềm tin của người đàn bà rất mạnh vượt lên trên mọi ngăn cách tôn giáo, sự kỳ thị và có thể cả sự khinh khi.
“Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”. Câu nói này có vẻ mang dáng dấp của một sự khinh miệt và xúc phạm danh dự, nhưng thật không ngờ người đàn bà không nao núng theo tính tự ái mà còn thân thưa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”. Trước đức tin cao độ như thế, Chúa Giêsu đành chào thua mà ban cho bà điều bà xin. Bà tin lòng thương xót của Chúa bao la, chắc chắn cũng vượt ra bên ngoài dân Do thái, nên bà có thể hưởng được những mảnh vụn của lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa thương yêu mọi người, muốn cứu rỗi mọi người. Lòng tin khiêm tốn bền vững của con người càng chiếm được tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa.
4. Tại sao một số người có đức tin mạnh mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém? Tại sao một số người thấy đức tin là điều dễ dàng đang khi số khác lại thấy đó là điều khó khăn? Người đàn bà ngoại giáo này biết mình là người ngoại, không hy vọng được Chúa đoái nghe vì người Do thái không ưa người Canaan, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm khó chịu và muốn xua đuổi của các Tông đồ đối với bà? Nhưng bà tin rằng thế nào Chúa cũng phải thương bà. Bà có lòng tin như một người ngoại khác là viên bách quan kia: “Thưa Thầy, tôi chẳng đáng Thầy vào nhà tôi, song xin Thầy chỉ phán một lời”(Mt 8,8). Nghe vậy, Chúa Giêsu bỡ ngỡ nói với các kẻ theo Ngài: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin như thế nơi một người nào trong Israel’(Mt 8,10).
5. Đọc Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu là người không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài chỉ muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào trong lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành hơn. “Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết (Mc 7,24).
Chúa sống như vậy, còn chúng ta thì sao? Hãy tập cho mình biết sống âm thầm như Chúa.
Newton, một nhà vật lý học và thiên nhiên học trứ danh, sau những thành công hiển hách của sự tìm tòi, ông đã viết: “Không biết thế giới nghĩ về công việc của tôi như thế nào, nhưng tôi, trong tất cả các sự tìm tòi của tôi về khoa học, tôi chỉ như một đứa trẻ con chơi ngoài bãi biển. Có lẽ, đôi khi cũng đã tìm được những hạt sỏi tròn hơn, những vỏ hến đẹp hơn những cái bạn tôi tìm, nhưng biển mênh mông của chân lý, dưới con mắt tôi vẫn còn mầu nhiệm quá”.
Văn sĩ Walter Scott người Anh đã nói một cách rất nhũn nhặn, sau bao nhiêu năm làm việc chuyên cần: “Trong đời sống của tôi, cái dốt đã ngăn tôi lại và dày vò tôi. Người ta càng biết nhiều bao nhiêu thì lại phải khiêm nhường bấy nhiêu, người ta càng học nhiều thì lại càng thấy mình còn dốt”.
Truyện: Giữ vững lòng tin sắt đá.
Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị linh mục Hungari và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.
Khi cửa nhà khách được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị linh mục rằng: “Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các linh mục bầy ra để làm mê hoặc đám dân nghèo để giúp những người giầu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa”.
Vị linh mục cười và trả lời rằng: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật”.
“Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi”, vị sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào đầu linh mục và hăm dọa: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng”.
Vị linh mục điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa”.
Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuông sàn và chạy đến ôm vị linh mục. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi không thể tin rằng có những người dám chết vì Đức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được”.
*****************************
Thứ Năm: Lc 17,11-19
Thứ Năm 11/02/2021 – Tạ ơn Chúa.
11/02 – Thứ Năm tuần 5 thường niên.
NGÀY TẤT NIÊN. TẠ ƠN THIÊN CHÚA.
"Người ấy đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người".
Lời Chúa: Lc 17,11-19
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi ngang qua biên giới Samaria và Galilêa.
Lúc Người vào một làng kia, thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch.
Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này".
Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
GIAO THỪA. CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI.
Lời Chúa: Mt 5,1-10
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mátthêu.
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ".
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an.
Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp.
Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả.
Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương.
Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.
Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".
1. Thánh Lễ Tạ Ơn tất niên (Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
(Is 63,7-9; 1Co 1,3-9; Lc 1, 39-45)
Dẫn nhập đầu lễ:
Anh chị em thân mến,
Chiều hôm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn nhân ngày Tất Niên, ngày kết thúc một năm cũ, năm Giáp Thân 365 ngày của năm cũ sắp đi qua mang theo bao nhiêu vui buồn sướng khổ, những giọt mồ hôi lẫn nước mắt, những nụ cười hoan vui lẫn xót xa cay đắng. Chúng ta xin dâng lên Thiên Chúa tất cả để hiệp cùng của lễ cực thánh là chính hiến Tế của Chúa Kitô làm thành Lời Ca Tụng Tạ Ơn tôn vinh Thiên Chúa, như chính Đức Kitô đã hiến dâng của lễ Tạ Ơn Chúa Cha là cả cuộc đời trong Hy Tế Thập Giá mà chúng ta đang tái diễn qua Thánh Lễ nầy.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng cử hành Thánh Lễ.
Giảng Lời Chúa:
Đã lắm phen và bằng nhiều cách, Thiên Chúa đã dạy bảo loài người chúng ta phải biết sống thái độ tạ ơn. Qua bao nhiêu bài Thánh Vịnh, thánh thi trong cựu ước chúng ta gặp không biết bao nhiêu lời tạ ơn đã được cất lên: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv 136)
Lạy Chúa xin dâng lời cảm tạ
Ngài dã nghe lời miệng con xin (Tv 138)
Hãy dâng Chúa bài ca cảm tạ
Gảy khúc hạc cầm mừng Thiên Chúa chúng ta (Tv 147)
Ngay trong Bài Đọc 1 hôm nay, sứ ngôn I-sa-i-a đã thay lời Thiên Chúa nói với muôn thế hệ nhân loại rằng:
Tôi xin nhắc lại ân nghĩa Chúa, dâng lời ca tụng Chúa, vì tất cả những gì Chúa thực hiện cho chúng tôi, vì lòng nhân hậu lớn lao của người đối với nhà Ít-ra-en, vì những gì Người đã thực hiện, bởi lòng Người đầy lòng thương xót và lắm nghĩa giàu ân”.
Nhưng để có một lời Tạ ơn cao cả nhất, trọn vẹn nhất phải đợi đến khi Thiên Chúa sai Con Một mình! Vâng, chỉ có người Con nhân loại và chính là Con Thiên Chúa, đã đến để dẫn dắt con người đi vào quỹ đạo của tình yêu tạ ơn, đi vào thái độ hiếu nghĩa tin yêu dành cho Thiên Chúa một cách trọn hảo qua chính cuộc đời Ngài.
1. Đức Kitô thiết lập nghĩa cử tạ ơn bằng cuộc đời vâng phục:
Nếu dân tộc của Giao ước cũ đã minh chứng niềm tin và lòng tri ân hiếu thảo đối với Thiên Chúa qua những của lễ chiên bò, hy sinh và tạ tội; thì trong trật tự của Giao Uớc Mới, của lễ tuyệt hảo nhất, lời tạ ơn trọn vẹn nhất dành cho Thiên Chúa lại chính là Con Người của Đức Kitô, là cuộc đời và toàn bộ cuộc sống của Ngài, một cuộc đời trọn vẹn vâng phục thánh ý Chúa Cha:
Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô đã nói: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: lạy Thiên Chúa, nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.” (Dt 10,5)
Thật vậy, Đức Kitô đã đến giữa trần gian và đã biến cả vũ trụ trở nên một “đền thờ vĩ đại” và đã qui tụ toàn nhân loại chung quanh Ngài để làm nên một cuộc “đại thờ phượng”, một cuộc tạ ơn và phụng thờ Thiên Chúa vượt qua mọi biên giới không gian, xuyên suốt mọi thời gian. Bởi vì đó là cuộc thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và Chân lý:
“Nầy chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi nầy hay tại Giê-ru-sa-lem…..Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc nầy đây – giờ những người thờ phượng đích thức sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.” (Ga 4,21-24)
Qua những chỉ dẫn của Tin Mừng, chúng ta còn biết được rằng: thái độ tạ ơn, tâm tình tri ân cảm tạ lại chính là thái độ cốt yếu của tinh thần “Tám mối Phúc thật”, tinh thần “nghèo khó, khiêm hạ, yêu thương…”, tinh thần luôn biết đưa tay hướng mắt về phía Thiên Chúa với niềm tin yêu phó thác của những con người như Bà Góa bị loạn huyết 18 năm xứ Canaan, của người phung hủi ngoại bang được chữa lành, của viên sĩ quan có người tôi tớ đau nặng, của người đàn bà tội lỗi khóc lóc ăn năn, của những người thu thuế bị loại trừ như Gia-kê, Lê-vi, của các trẻ thơ xúm quanh để chờ được chúc lành hay của người kẻ trộm sắp sửa đi về bên kia thế giới với hy vọng sẽ được cứu độ trong Vương quốc phục sinh…
Rồi cũng chúng ta cũng biết được rằng: trên môi miệng của Đức Kitô luôn vang lên lời tri ân cảm tạ: “Lạy Cha, con tạ ơn Cha, vì Cha đã dấu…”
Và còn hơn thế nữa Ngài đã tạ ơn bằng chính 1 cuộc đời vâng phục mà chỉ trọn vẹn khi Ngài nói lời “Con phó thác hồn con trong tay Cha”. Đó chính là lời tạ ơn trọn hảo nhất bằng Hy Tế Thập Giá mà hôm nay trên mọi bàn thờ chúng ta đang tái diễn mỗi ngày.
2. Đức Trinh Nữ Maria và lời Tạ Ơn Magnificat:
Cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô và với Đức Kitô chính là con đường đức tin của Dân Chúa hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Và may mắn thay, trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại suốt 2000 năm nay, đã có một “bài ca tạ ơn”, đã có một “cuộc đời tạ ơn” theo cung cách ấy. Đó chính là bài ca “Magnificat”, đó chính là “cuộc đời của Trinh nữ Maria”. Quả thật cuộc đời của Đức Mẹ được phản ảnh qua bài Magnificat mà Tin Mừng hôm nay vừa nhắc đến là mô hình sống động, là mẫu gương sáng ngời để nhân loại bước đi trong “con đường tạ ơn” Thiên Chúa, trên nẽo đường đáp trả hồng ân.
– Tạ ơn: trước hết là như Đức Maria dâng lên lời ngợi khen Thiên Chúa và hân hoan vì hồng ân cứu độ Ngài đã ân ban: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa….”
– Tạ ơn: phải chăng như Đức Maria nhận ra “những việc lạ lùng Thiên Chúa đã thực hiện nơi tôi”.
– Tạ ơn phải chăng như Đức Maria luôn biết nhận ra bàn tay Thiên Chúa đưa ra nâng đỡ thân phận yếu hèn, lòng quảng đại Chúa mở ra để ban cho dư đầy ơn phúc.
-Tạ ơn phải chăng là luôn xác tín mãnh liệt và đầy lòng trông cậy vững vàng trước lời hứa và kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa: “Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”.
Và Mẹ đã hoàn tất lời tạ ơn tuyệt diệu đó vào Chiều Thứ Sáu trên đồi Can-vê khi Mẹ thay cho nhân loại dâng hiến lễ Tạ Ơn đầu tiên cùng với Con yêu dấu trên bàn thờ Thánh Giá.
3. Sống chiều kích Tạ Ơn trong nhỏ nhặt đời thường:
Qua lời kinh Tạ Ơn Magnificat của Đức Maria, và nhất là, qua cuộc đời đã trở nên Hy Tế TẠ Ơn của chính Đức Kitô, chúng ta cảm nhận được rằng:
– Thái độ Tạ Ơn, cuộc sống Tạ Ơn không chỉ là một hành vi mang tính “thời sự’, “cơ hội” đột xuất (như được khỏi cơn bệnh hiểm nghèo, thoát qua cơn hoạn nạn, tránh được hiểm nguy, làm ăn buôn bán trúng mánh, trúng số độc đắc…), nhưng “Tạ Ơn” phải là một thái độ, một nhịp sống, một cử hành thường xuyên, từng phút giây, mọi biến cố, trên mọi nẽo đường cuộc sống. Đó chính là cách ứng xử mà mấy ngàn năm trước, ông thánh Gióp đã từng nêu gương: “Chúa cho, Chúa cất lấy, xin cảm tạ ơn Chúa!”. Dĩ nhiên, có những thời điểm, có những biến cố dễ gợi mở tâm tình chúng ta hướng về Thiên Chúa trong thái độ tạ ơn đặc biệt…Nhưng không phải, chỉ tạ ơn trong những hoàn cảnh, những thời điểm đặc biệt thôi, còn ngoài ra thì “bàn tay ta làm nên tất cả”, có nhờ vả ai đâu, có khấn xin gì nào mà phải tạ ơn cám ơn…
– Bởi vì, chính khi chúng ta cử hành cuộc sống trong thái độ tạ ơn, chúng ta sẽ thấy cuộc đời mình nhỏ lại, khiêm hạ hơn, khó nghèo hơn, trái tim kiêu căng hợm hĩnh sẽ được biến đổi để trở nên nhỏ bé hiền lành, và từ đó con mắt tâm hồn sẽ khám phá ra muôn vạn hồng ân của Cha trên trời vây bọc xung quanh. Ngày hôm nay, hơn lúc nào hết, cái nảo trạng ‘đương nhiên” của chủ nghĩa duy vật vô thần đang âm thầm hay mãnh liệt len lỏi vào mọi ngỏ ngách của cuộc sống. Vì đã lý luận như thế: “đương nhiên trái cấm nầy thuộc về tôi, địa đàng nầy là của tôi, tôi cóc cần Thiên Chúa với những luật lệ của Ngài…” mà A-đam và E-Va đã đẩy nhân loại vào vũng lầy nguyên tội. Cũng vì lý luận như thế: tôi khỏi phung cùi chắc là do số phận run rủi, là tới lúc phải được như thế, chứ ông Giêsu nào có can thiệp gì đâu… nên chín người phung cùi được khỏi bệnh đã không thèm trở lại tạ ơn Chúa Giêsu! Còn chúng ta hôm nay thì sao. Có thấy được “phép lạ tình yêu của Thiên Chúa” ghi dấu ấn trên đời thường cuộc sống mỗi ngày để ngước mắt tạ ơn, hay chỉ là những thở dài oán trách Chúa vì đã van xin bao điều mà sao vẫn cứ hoài vô vọng. Có thấy bàn tay quan phòng của Thiên Chúa tế nhị ấp yêu trên mọi biến cố cuộc đời để cảm tạ tri ân, hay chỉ thấy mọi sự là “đương nhiên” để cóc cần phải tính sổ với Thiên Chúa.
Trong giờ phút thiêng liêng khi trời đất sắp sửa giao mùa, chúng ta có dịp ngồi lại với nhau trước mặt Chúa để nhờ ánh sáng của Lời Ngài mà nhìn lại cuộc sống, mà cảm nhận muôn vạn hồng ân Chúa đã ân ban trong suốt một năm. Và điều quan trọng hơn hết, phải chăng là chúng ta được cùng với Đức Kitô dâng Hy Tế Tạ Ơn nầy như một nghĩa cử của lòng hiếu thảo mến yêu, của tâm tình tri ân cảm mến; và cũng chính qua sứ điệp của lời kinh tạ ơn Magnificat của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta được gọi mời từ hôm nay, biết mở lòng đón nhận và khám phá muôn điều kỳ diệu Chúa đã làm, để từ đó biến cuộc sống trở thành “Lời ca khen cảm tạ Magnificat”:
Hồn tôi tán tụng Chúa Trời,
Lòng tôi hoan hỷ dâng lời tạ ơn,
Tạ ơn Chúa chuộc khoan nhân,
Thương người tỳ nữ, thương thân phận hèn.
Từ nay thiên hạ ca khen,
Rằng tôi có phúc, có duyên lạ lùng.
Rằng tôi bé mọn khiêm cung,
Được bàn tay Chúa oai hùng điểm trang,
Cho tôi nên trọng nên sang,
Cho Danh Thánh Chúa hiển vang muôn đời (SĐTT, NXV)
2. Thánh Lễ Giao Thừa
(Bài đọc 1: Ds 6, 22-27, Bài đọc 2: 1 Tx 5, 16-26. 28, Tin mừng: Mt 5, 1-10)
Lời tạ ơn
Vậy là chúng ta đang ở vào những giờ phút cuối cùng của năm Giáp Thân, chuẩn bị bước vào năm mới Ất Dậu. Và cũng theo lệ thường không biết đã có từ bao giờ, đây là giây phút để tất cả chúng ta cùng nhìn lại cuộc sống của chúng ta trong suốt một năm qua. Đồng thời, cũng là lúc chúng ta hướng một cái nhìn vào năm mới.
Nhìn lại những gì đã lãnh nhận trong năm cũ và hướng về những điều sẽ được ban trong Năm mới, có lẽ tâm tình thích hợp và đúng đắn nhất của mỗi người tín hữu chúng ta là tâm tình tạ ơn như lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em hãy vui mừng luôn… Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.
1. Nhìn về năm cũ:
Cha ông chúng ta vẫn thường nói: “Ôn cố, tri tân”. Do đó, để có thể bước vào năm Mới một cách thành công, điều đầu tiên chúng ta cần làm là “ôn cố”, nghĩa là nhìn lại cuộc sống chúng ta trong suốt một năm qua. Trong suốt 365 ngày vừa qua, chắc hẳn đã xảy ra biết bao nhiêu chuyện trong cuộc đời của mỗi người chúng ta: chuyện vui cũng có, mà chuyện buồn chắc cũng không thiếu. Một năm với nhiều thành công và chắc cũng có nhiều vấp váp lỗi lầm. Nhưng cho dù vui hay buồn, thành công hay thất bại, thì đó cũng là chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Giờ đây, khi nhìn lại cuộc sống của mình trong năm cũ, Giáo Hội mượn lời thánh Phaolô khuyên bảo con cái mình: “Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa”.
Vâng, điều gì tốt thì giữ lại và phát huy, điều gì xấu thì loại bỏ và lánh xa, đó chính là thái độ của những người khôn ngoan, thức thời, đó là thái độ cần có của mỗi người chúng ta trong giờ phút Giao thừa này.
Nhìn lại một năm, có lẽ điều mà mỗi người chúng ta có thể cảm nhận được, đó là hồng ân Thiên Chúa đang bao phủ cuộc đời của từng người và cả giáo xứ chúng ta. Vâng, khi nhìn lại một năm qua, có lẽ nhiều người chúng ta phải rùng mình vì không biết tại sao chúng ta lại đứng vững và vượt qua được nhiều thử thách gian nan đến thế. Có những biến cố chúng ta không ngờ, những tai nạn tưởng chừng như không thể tránh khỏi. Vậy mà không biết bằng cách nào, chúng ta đã vượt qua tất cả. Đối với những người không tin, đó có thể là sự may mắn, nhưng thật ra, chẳng có cái gì là vô tình. Chính vì thế, trong giờ phút cuối năm này, Giáo Hội mượn lời Thánh vịnh nhắc bảo từng người chúng ta: “Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh mệnh an toàn. Chúa gìn giữ bạn lúc ra vào lui tới, từ giờ đây cho đến mãi muôn đời”. Như thế, mọi sự xảy ra trong đời sống chúng ta chẳng phải là vô tình, nhưng tất cả đều nằm trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Và đó chẳng phải là hồng ân tuyệt vời mà Thiên Chúa ban cho chúng ta đó sao?
Chính vì cảm nghiệm được hồng ân Thiên Chúa trong cuộc đời mình, tác giả Thánh vịnh đã cất tiếng ca khen Thiên Chúa: “Ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa, là Đấng dựng nên cả đất trời”. Và nếu quả thật “ơn phù hộ của chúng ta đến từ Đức Chúa, Đấng dựng nên cả đất trời”, thì thánh Phaolô có lý khi mời gọi chúng ta: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu Kitô”.
Tóm lại, khi nhìn về năm cũ, không phải để chúng ta chán nản bởi vì đã không được như ý của chúng ta, hay tự mãn vì những điều xem ra thành công, nhưng đây là giây phút để chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời mình và hết lòng dâng lời cảm tạ Ngài, vì những gì Ngài đã làm cho chúng ta trong một năm qua.
2. Nhìn về tương lai:
Mặt khác, Giao thừa không chỉ là dịp để chúng ta suy gẫm việc đã qua, nhưng còn là thời gian để chúng ta chuẩn bị hướng tới tương lai. Có lẽ với năm tháng trôi qua, càng ngày chúng ta càng cảm nghiệm rõ hơn về giới hạn của chính bản thân và của những người chung quanh, nói chung là giới hạn của con người. Con người giới hạn phần vì “lực bất tòng tâm”, phần vì tính ích kỷ của mỗi người. Trong năm qua, đã biết bao lần chúng ta hứa hay nhận được lời hứa, nhưng rốt cuộc chẳng thực hiện được là bao. Lắm khi những người chúng ta tin tưởng nhất lại là những người làm chúng ta thất vọng nhất. Do đó, tin tưởng nơi Chúa quả thật là điều cần thiết và là một bảo đảm chắc chắn nhất cho hạnh phúc của mỗi người chúng ta. Chính Đức Giêsu khi nghe người ta khen ngợi: “Phúc cho lòng dạ cưu mang ông, và vú ông đã bú!”, thì Ngài đã lập tức tuyên bố: “Hạnh phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc 11, 27-28).
Hướng về năm mới, chúng ta cần có một cái nhìn tươi vui và tin tưởng vào Thiên Chúa. Đây không phải là sự vui mừng hay là một niềm tin mù quáng, dễ dãi của những tâm hồn yếu đuối, nhưng là niềm vui và niềm tin của những tâm hồn mạnh mẽ. Đó là niềm vui của những người biết rõ những khó khăn, thử thách vẫn còn đó, nhưng vì tin có Chúa ở cùng, nên họ vẫn luôn vui vẻ, nhìn ra mặt tích cực của các sự kiện để bước tới trong tin tưởng. Nhìn lên bầu trời đầy mây đen u ám, họ không buồn vì mây che mất mặt trời, nhưng vẫn vui vì ánh sáng của mặt trời vẫn đủ để họ nhìn thấy được đám mây đen. Chính trong niềm tin đó, Giáo Hội đã muốn chúng ta suy niệm về các mối phúc trong Thánh lễ Giao thừa hôm nay. Thật vậy, trong năm mới sắp tới, cho dù có nghèo khổ, đói khát, hay bị bách hại đi chăng nữa, thì gia nghiệp Nước Trời đang dành sẵn đó cho những ai hết lòng tin tưởng cậy trông.
Đồng thời, không chỉ là thụ động đón nhận những thử thách, Đức Giêsu còn mời gọi chúng ta sống hiền lành, biết cảm thương và sẵn sàng chia sẻ với những nỗi bất hạnh của anh chị em mình để rồi đến lượt mình, chúng ta cũng được Thiên Chúa xót thương. Ngài còn muốn chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa và được Thiên Chúa nhận làm con, khi mời gọi chúng ta sống trong sạch và kiến tạo hòa bình cho thế giới hôm nay. Và nhờ luôn ở trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ được hạnh phúc. Chính trong niềm tin này, thánh Phaolô đã cầu xin cho chúng ta: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an thánh hóa toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta quang lâm”.
Cuối cùng nhờ “Ôn cố tri tân”, mà chúng ta nhận ra rằng: Thành quả mà giáo xứ chúng ta có được ngày hôm nay chính là kết quả của biết bao thế hệ cha ông, những người còn sống cũng như đã qua đời xây dựng nên. Do đó, giờ phút Giao Thừa cũng là cơ hội thuận tiện để mỗi người chúng ta cầu nguyện cho các ngài. Đồng thời, đây cũng là dịp nhắc nhở mỗi người chúng ta hôm nay cần phải chung sức góp công của mình, để vun đắp cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta ngày càng trở nên một cộng đoàn sống yêu thương và hiệp nhất trong tình yêu của Thiên Chúa. Và không chỉ dừng lại ở cộng đoàn Giáo xứ, cách tốt nhất để chúng ta tỏ lòng biết ơn ông bà, cha mẹ, đó là tiếp bước các ngài, loan truyền Tin mừng của Thiên Chúa cho tất cả mọi người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống thường ngày.
Để kết thúc bài chia sẻ này, tôi xin mượn lại lời Chúa trong bài đọc một để cầu chúc cho quý OBACE: “Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh chị em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em!” trong suốt Năm Mới này. Amen.
3. Giây phút linh thiêng (Lm Jos. Nguyễn Hưng Lợi)
Thi sĩ Hàn Mạc Tử đã viết một câu thơ rất ý nghĩa:” Giây phút linh thiêng đã khởi đầu…”. Xuân về được bắt đầu bằng giây phút giao thừa. Người người, nhà nhà, mọi gia đình, mọi người đón chào giây phút linh thiêng khởi đầu một năm mới trước bàn thờ hương trầm nghi ngút bay. Giây phút kết nối giữa những ngày đã qua và những ngày mới bắt đầu. Người Kitô hữu tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi vì bao hồng ân Chúa ban và cầu sự an bình cho một năm mới đã ló rạng. Đây là khởi điểm của thời gian khiến con người gợi nhớ về sự sáng tạo mà Thiên Chúa trao ban cho vũ trụ, cho con người.
GIAO THỪA, ĐẤT TRỜI GIAO CẢM:
Thời gian đêm giao thừa rất linh thiêng, huyền nhiệm. Người ta nâng cốc chúc nhau sức khỏe, may mắn và bình an trong lúc đón chào Chúa xuân đến với hy vọng năm mới sẽ có những điều mới, an lành và hạnh phúc hơn. Năm mới đến có liên quan đến vận mệnh của từng con người. Riêng đối với người Kitô hữu, giây phút giao thừa, thời điểm bàn giao giữa năm cũ và năm mới còn mang ý nghĩa cao vời: con người sẽ nhớ tới Đấng là Mùa Xuân vĩnh cửu, Đấng tạo dựng đất trời, dựng nên con người. Đấng ấy là Thiên Chúa, là tình yêu. Đêm giao thừa làm cho người Kitô hữu nhớ đến Đấng Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng nhân loại, ở với con người, ở với mỗi người. Thiên Chúa đã sai Con của Người là Đức Giêsu tới trần gian cũng vào một đêm, đêm mà Con Thiên Chúa và loài người hợp nghĩa kết giao. Đêm mà các thiên thần loan báo cho các mục đồng, đại diện cho toàn nhân loại tin vui về việc Con Thiên Chúa đến với họ và ở lại với họ để ban an bình, và hứa với họ sẽ ở với họ cho tới ngày tận cùng thế giới.
VẪN LÀ GIÂY PHÚT LINH THIÊNG:
Giây phút giao thừa là thời điểm của một năm mới, là lúc trời đất giao hòa, là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người. Chính trong giây phút huyền diệu của đêm giao thừa, con người chỉ có thể nói lên:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion”(Tv 133, 3) hoặc ” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời”. Đón xuân về, trong giây phút giao thừa uy linh và huyền nhiệm, con người vẫn nhớ tới cảnh đoàn tụ, ấm cúng của gia đình, nhưng vẫn còn những gia đình, những kẻ thiếu may mắn không có điều kiện, cơ hội để đón giao thừa. Chúa là mùa xuân vĩnh cửu. Người Kitô hữu được mời gọi sống tin, yêu và sứ mạng của họ là loan báo Mùa Xuân vĩnh cửu cho mọi người.
Chúa là mùa xuân vĩnh cửu. Con người biết chia sẻ, biết quảng đại, biết cảm thông và loan báo Đức Giêsu Kitô, Đấng là mùa xuân bất tận cho người khác là họ đã sống giây phút linh thiêng nhất của một năm vì họ có Chúa ở cùng, và như vậy khi một tâm hồn có Chúa ở cùng là một trời xuân bất tận (thánh Gioan Vianney).
Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh (Lời nguyện nhập lễ, thánh lễ giao thừa)
4. Lời cảm tạ tri ân (Lm. Jos. Nguyễn Hưng Lợi)
Ngày cuối của một năm, thường con người vẫn có thói quen ngồi lại để tính sổ với Chúa, với đời xem mình đã làm được gì, chưa làm được gì và rồi con người dù thế nào đi nữa vẫn phải nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa vì do tình thương của Ngài mà con người vẫn còn tồn tại.
CUỘC ĐỜI PHẢI LÀ LỜI CẢM TẠ:
Nhìn lại một năm với bao biến cố xẩy ra trong đời: buồn có, vui có, khó khăn có, may mắn có, con người vẫn tự nhủ tại sao mình còn hiện diện? Tại sao mình còn thở, còn sinh hoạt được, còn đi dứng, ăn uống, ngủ nghỉ được? Chắc chắn với lòng tin sẵn có, người Kitô hữu luôn ý thức Thiên Chúa đang tiếp tục làm phép lạ trong cuộc đời của mình. Như vậy, tâm tình của con người là tạ ơn. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô đã viết:” Đàn hát lên! Nhờ Thánh Thần linh hứng, trót tâm tình, dâng Thiên Chúa là Cha. Luôn cảm ta Người, nhân danh Thánh Tử vì Người ban muôn phúc lộc chan hòa”(Eph 5, 19-20). Vâng, Thiên chúa đã ban cho nhân loại, cho mỗi người muôn vàn hồng phúc. Những ân huệ cao quí, Thiên Chúa tặng ban cho con người quả không kể xiết. Con người chỉ có thể hiểu được những điều quí hóa ấy khi họ biết hồi tỉnh, suy nghĩ và cầu nguyện. Hồi tỉnh để thấy mình đã lãnh nhận quá nhiều ân phúc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể trao ban. Suy nghĩ để con người nhận ra họ được hạnh phúc có Thiên Chúa là Cha nhân từ không nỡ cho con người con bọ cạp hoặc hòn đá khi họ xin bánh ăn. Cầu nguyện để thân mật trao đổi và cám ơn Thiên Chúa vì tình thương vô biên Chúa đã tặng ban cho con người. Chính vì thế, con người phải luôn có tâm tình như Chúa Giêsu vì cuộc đời của Ngài là bài ca cảm tạ tri ân Thiên Chúa Cha. Chúa luôn cảm tạ Chúa Cha trong mỗi biến cố cuộc đời: khi làm phép lạ cho cá và bánh hóa nên nhiều, khi lập bí tích Thánh Thể, khi chọn các môn đệ và nhiều việc Chúa Giêsu làm trong đời của Ngài. Bao giờ, Chúa cũng nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa Cha. Tạ ơn là điều tối hệ trọng trong đời Chúa Giêsu. Mẹ Maria cũng thế, Mẹ đã nói lên lời xin vâng và tạ ơn trong cả cuộc đời của Mẹ. Bài kinh Magnificat Mẹ cất lên hôm nay là một lời cảm tạ Thiên Chúa Cha. Mẹ mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy cùng Mẹ hát bài tạ ơn vì chính Mẹ và con cái của Mẹ đã được Thien Chúa trao ban quá nhiều hồng phúc.
NGÀY CUỐI NĂM LUÔN LÀ LỜI TẠ ƠN:
Nhìn lại một quãng đời, suy nghĩ về một chặng đường đã qua, con người chỉ biết thốt lên như Mẹ:”…Đấng toàn năng đã làm cho Tôi biết bao điều kỳ diệu”. Đời con người là một huyền nhiệm. Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, Ngài lại ban cho con người biết bao hồng phúc khiến con người không thể nào hiểu hết sự lạ lùng của Thiên Chúa. Con người chỉ có thể cùng với tác giả thánh vịnh:’ Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Đức Chúa”(Tv 115, 12-13)
Ngày cuối năm, người Kitô hữu luôn phải ngồi lại để suy nghĩ, điều chỉnh tâm hồn và nói lời tạ ơn Thiên Chúa. Đây là dịp rất tốt để con người hồi tỉnh xem điều gì mình đã làm được tốt, điều gì mình chưa làm tốt và điều còn thiếu xót để rồi chấn chỉnh điều chưa tốt và nhân lên càng nhiều càng tốt điều tốt lành mình đã làm được. Điều quan trọng con người cần phải xét tới xem mình đã có quan hệ thế nào đối với Thiên Chúa và có thái độ ra sao đối với tha nhân? Chúa luôn mời gọi mỗi người quay trở về với Thiên Chúa và làm hòa với anh em. Như thế, ngày cuối năm là dịp để hồi tỉnh, trở về với Chúa và thắp sáng đức tin cho anh em. Những việc làm tỏa sáng vẫn là những việc Chúa mời gọi con người thực hiện để làm vinh danh Chúa và nối kết anh em. Ngày cuối năm cũng là ngày tạ lỗi Chúa và tạ lỗi mọi người. Tạ lỗi là nói lên lòng sám hối, ăn năn và tạ ơn.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong suốt cả năm nay, Chúa đã thương ban phù trợ cho hồn xác chúng con an toàn. Giờ đây năm cũ sắp qua, chúng con cùng họp nhau dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân, và xin Chúa thứ tha tội lỗi, để chúng con được thư thái bình an trước thềm năm mới (Lời nguyện nhập lễ, lễ tất niên).
5. Hạnh phúc theo Tám Mối Phúc Thật (Martin Lê Hoàng Vũ)
Giao thừa, đêm trừ tịch, đêm 30 tháng chạp âm lịch là thời khắc thiêng liêng nhất trong năm. Bởi vì đêm nay có một sự chuyển giao của thời gian: Một năm cũ ra đi và năm mới lại đến. Chính vì vậy người Việt Nam dù quanh năm đi làm ăn xa cũng cố gắng thu xếp trở về với gia đình trước đêm nay để cùng với người thân đón một năm mới lại đến. Đêm giao thừa còn là thời khắc “ngừng chiến” để con người tận hưởng bầu khí ấm áp của tình nghĩa gia đình, giữa anh chị em với nhau và giữa cha mẹ với con cái, họ tạm quên đi cuộc sống đầy dẫy điều ích kỷ, bon chen, sự vội vã, vất vả. Trong giờ phúc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới ai trong chúng ta cũng hy vọng năm mới tới mọi sự sẽ tốt đẹp hơn, điều hạnh phúc sẽ đến với mình và gia đình.
Cùng hòa chung với niềm vui đón năm mới của dân tộc, đêm nay người Kitô hữu Việt Nam hướng lòng về Thiên Chúa là nguồn mạch của mọi sự Thiện hảo, cầu xin Ngài ban mọi điều tốt lành trong năm mới. Trong niềm tin ở Chúa là chủ thể của thời gian, là Đấng điều khiển mọi vận hành của thời vũ trụ, là An-pha và Ô-mê-ga, nghĩa là khởi đầu và tận cùng của lịch sử, thì đối với chúng ta giây phúc giao thừa là dịp của tri ân và cảm tạ. Chúng ta cảm tạ Chúa vì suốt một năm qua đã cho chúng ta được sống, đã gìn giữ chúng ta trước mọi nguy biến của cuộc đời và đã tặng ban muôn vàn ơn phúc dư đầy. Thiên Chúa luôn quảng đại ban ơn cho con người. Hạnh phúc cũng là một ân ban của Thiên Chúa.
Đặc biệt thánh lễ đêm giao thừa được cử hành theo truyền thống dân tộc là dịp đoàn tụ của một gia đình rộng lớn hơn, gia đình con cái Thiên Chúa, họ cùng tin Thiên Chúa là Cha và cùng nhận mọi người là anh chị em với nhau, họ ngồi lại bên nhau để ôn lai những việc đã qua trong năm cũ và hướng đến năm mới.
Bài Tin Mừng được đọc trong đêm hôm nay thánh sử Matthiêu ghi lại bài giảng Tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu đã công bố trện một ngọn núi. Lắng nghe đoạn Tin Mừng này và cùng suy nghĩ trước giờ phút thiêng liêng khi bước sang một năm mới chúng ta sẽ hiểu được thế nào là hạnh phúc.
Tám mối phúc thật được công bố ở trên một ngọn núi. Điều này gợi cho chúng ta nhớ đến Thập Giới mà Thên Chúa ban cho dân Israel qua Môsê. Tám mối phúc thật là Bản Hiến Chương của Nước Trời, là lời mời gọi trong đời sống của mỗi người tín hữu phải biết vươn lên. Cho nên tất cả những ai đi theo Chúa Giêsu, và muốn vào Nước Trời thì không thể không đi qua con đường của Tám mối phúc thật.
Giờ đây cùng nhau suy niệm về hạnh phúc dưới ánh sáng của Lời Chúa chúng ta nhận ra được nhiều điều.
Ngày nay trong cuộc sống có rất nhiều thứ hạnh phúc giả tạo hay còn được gọi là thứ hạnh phúc ảo đang lôi cuốn chúng ta, Chúng có nhiều hình dạng, có vẻ đẹp, có sức quyến rũ và hứa hẹn một cuộc sống dễ dãi, luôn muốn được thỏa mãn, muốn hường thụ cuộc sống với những đam mê thấp hèn theo bản năng, sẵn sàng quên người để chỉ tìm sự sung sướng cho riêng mình. Họ nhất định phải “hạ gục nhanh tiêu diệt gọn” người khác, nhất là đối thủ của mình để có được địa vị, danh vọng, nhưng xem ra khi đạt được tất cả những điều đó hạnh phúc vẫn là điều xa với. Nhiều người cũng cho rằng một gia đình hạnh phúc là trong đó những thành viên phải có mức lương cao, quan hệ rộng, có tiếng tăm, có thế lực,nhà cửa đầy đủ tiện nghi, nhiều tiền,nhưng chưa chăc hạnh phúc lại ở trong gia đình đó. Hạnh phúc không bao giờ được xây đắp bằng vật chất.
Theo Chúa Giêsu dạy trong Tám mối phúc thì hạnh phúc chính là dám sống nghèo, sống hiền hòa, sống ngay thẳng, sống yêu thương, xây dựng hòa bình, và có thể vì Chúa mà chịu khổ đau. Tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta sống theo không phải là một lý thuyết suông hay không phải là điều không thể thực hiện mà đó là việc cần làm ngay trong năm mới tới đây, là bản tự kiểm cho chúng ta trong suốt một năm qua. Chính khi sống theo những điều ấy chúng ta lại tìm được hạnh phúc đích thực.
Cuối cùng vế thứ hai của những lời chúc phúc nói về phần thưởng mà Thiên Chúa ban cho những người sống theo Tám mối phúc. Hạnh phúc là được vào trong Nước Trời. Hạnh phúc là được nhìn thấy Thiên Chúa. Hạnh phúc là được thiên Chúa ủi an. Hạnh phúc là được Thiên Chúa yêu thương.Hạnh phúc là được làm con Thiên Chúa …. Tất cả những điều đó phải là mối lo lắng của chúng ta trong đêm giao thừa này.Mỗi người cần tự hỏi liệu: năm mới tới đây chúng ta có được những điều Chúa hứa ban như trong Tám mối phúc thật hay không?
Tới đây để kết bài, chúng ta cùng để tâm suy nghĩ một lời chúc của một tác giả người Pháp không rõ tên được đăng trên CG và DT những ngày gần đây như sau:
“Nhân dịp năm mới đang đến,
Tôi xin chúc bạn.
Không phải là sự thành công trong công ăn việc làm.
Nhưng là tiếp rước đón nhận.
Trong trái tim và trong cuộc sống.
Từng ngày một và từng bước một,
Tình yêu của Chúa đang mang đến ý nghĩa cho sự hiện hữu.
Tôi chúc bạn không phải là không gặp những thất bại,
Nhưng biết đón nhận như một món quà bất xứng.
Sức mạnh giúp bạn đứng vững, dù cho những gian lao nặng nề,
Tôi chúc bạn không phải những ngày êm ả, nhưng là khả năng để cho người khác quấy rầy,
Và đón nhận người khác biệt với mình như một sứ giả của Chúa.
Tôi chúc bạn không phải là có câu trả lời cho mọi vấn nạn.
Nhưng là biết đón nhận những câu hỏi của người khác,
Biết mang trong lòng bạn những khó khăn âu lo, những xung đột bế tắc của họ.
Để được gần gũi họ như một người chị, một người anh em biết liên đới.
Như một người biết chia sẻ và reo rắc an bình”.
Lạy Chúa Giêsu trong giờ phút giao thừa này chúng con xin hết lòng cảm tạ tình yêu thương của Chúa đã ban muôn ơn lành và gìn giữ chúng con trong suốt một năm qua. Xin cho chúng con trong năm mới biết hoàn toàn sống cho Chúa và vì Chúa mà sẵn sàng từ bỏ mọi thứ lợi lộc trần thế,bởi không điều gì hạnh phúc cho chúng con bằng phần thưởng Nước Trời và được ở với Chúa. Xin Chúa chúc lành cho năm mới Giáp Thân 2004. Amen
6. Thánh Lễ Giao Thừa (Mt 5, 1-10) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thế là 365 ngày đã qua đi. Đêm nay trời và đất như giao hòa, kết duyên. Giây phút mà thi sĩ Hàn Mạc Tử đã nói:” Giây phút thiêng liêng đã khởi đầu”. Giờ này, nhân loại, con người đối diện với Thiên Chúa, Đấng là chủ thời gian, là Chúa của vũ trụ, của nhân loại, của con người. Vào phút giây huyền diệu này, thời gian cũ như ngừng lại, bàn giao cho một thời gian mới, một năm mới. Con người chỉ còn biết dâng lên Thiên chúa, vua mùa xuân lời cảm tạ sâu xa và tha thiết xin Chúa giáng phúc lành cho năm mới được phúc lộc miên trường.
GIÂY PHÚT LINH THIÊNG
Con người trong đêm thiêng liêng của sự giao hòa đất trời, luôn cảm nghiệm có một cái gì đó rất đời thường nhưng cũng vô cùng linh thiêng. Cái giờ phút những ngày cũ của một năm cũ đã qua đi. Thời gian như đi mãi, đi hoài và hầu như không dừng lại. Nhưng giữa cái mốc điểm của đêm giao thừa huyền nhiệm: đêm đẩy lùi quá khứ hướng về tương lai, đêm linh thánh báo hiệu những ngày mới của một năm mới đã ló rạng. Đêm mà con người đối diện với Thiên Chúa, Chúa của mùa xuân, Chúa của lịch sử, Chúa của loài người, đêm giao thừa, con người chỉ có thể khẩn cầu Thiên Chúa như thánh vịnh 133, 3 đã viết:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion” và như ca nhập lễ đêm giao thừa đã thốt lên: “trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh”. Đêm hôm nay, trong cõi u tịch của sự bàn giao thời gian, con người chỉ có thể hiểu được: Vũ Trụ, Xuân, Hạ, Thu, Đông luôn vần xoay, xoay chuyển và con người có là gì đều do Thiên Chúa. Nên, tâm tình đầu tiên trong giây phút linh thánh của đêm giao thừa là sám hối, tạ ơn. Sám hối để luôn đón nhận Chúa và tạ ơn để hiểu mọi sự đều bởi Chúa. Sách dân số 6, 22-27 đã viết:”.khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!”. Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của Danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng. Đêm giao thừa trong giây phút thiêng liêng nhất: phút giây trời đất giao hòa, con người hãy hướng cả tâm hồn của mình lên Thiên Chúa, Chúa của mùa xuân vĩnh cửu để tạ ơn và xin Chúa chúc lành:” Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em, gìn giữ mọi người”(Dân số 6, 22-27).
HÃY TẠ ƠN VÀ CẦU NGUYỆN KHÔNG NGỪNG
Thánh Phaolô đã viết:” Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”(1thes. 5, 16). Con người và nhân loại trong giây phút thiêng liêng của đêm giao thừa hãy tạ ơn Chúa, kết hiệp mật thiết với Chúa bằng lời cầu nguyện liên lỉ. Những ngày tháng năm cũ, chắc chắn có lúc ta gặp những điều thuận lợi, nhưng có nhiều lúc ta gặp những sự bất trắc, thử thách khó khăn. Tất cả những điều đó là những thánh đố của mỗi người. Con người dù có thêm tuổi, dù gánh nặng chồng chất trên vai, dù có sự thay đổi của tuổi tác, của trí tuệ, của khả năng, của sức khỏe. Nhưng, tất cả đều là ân huệ của Chúa. Tất cả đều làm vinh quang cho Ngài. Và rồi, con người chỉ có thể đứng vững khi họ biết bước trên từng nấc thang của tám mối phúc thật. Và như thế, con người sẽ vĩnh viễn ở trước mặt Chúa cho dù thời gian có đi qua. Con người không chỉ sống đơn độc một mình, họ còn có một mái ấm gia đình. Giờ phút linh thiêng của một năm mới đã khởi đầu: xin Chúa thánh hóa các gia đình và để các gia đình có thể gần gũi Chúa, phương thế các gia đình phải thực hiện là lần chuỗi mân côi. Xin cho từng người và mọi người, mọi gia đình biết tạ ơn Chúa không ngừng và cầu nguyện liên lỉ để ý Chúa được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Có như thế, thời gian sẽ trở thành vĩnh cửu và xuân sẽ là cái mốc cho con người càng lúc càng gần Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Chúa xuân vĩnh cửu:” Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời”(Tv 120,1.).
Xin Chúa ban cho chúng con biết biến giây phút linh thiêng đêm giao thừa này trở nên lời ca ngợi tình thương vô biên của Chúa.
Lạy Chúa, xin nhìn đến lòng tin của chúng con mà luôn luôn che chở giữ gìn, hầu suốt cả năm nay chúng con được sống trong tình thương của Chúa (lời nguyện hiệp lễ, lễ giao thừa).
7. Giây phút thiêng liêng (Mt 5, 1-10)
Cứ mỗi giao thừa, tôi lại có những cảm nghiệm về giây phút linh thiêng, giây phút bàn giao giữa năm cũ và năm mới. Mà sao không lạ lùng và hồi hộp khi năm cũ nhường bước cho những giây phút linh thiêng nhất, giây phút đẹp nhất cho một năm mới khởi đầu. Và Hàn Mạc Tử đã không ngần ngại viết những câu thơ thật truyền cảm, nhẹ nhàng như đưa hồn cao người vào chốn linh thiêng, tuyệt diệu:” Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu. Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ! Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt. Như đón từ xa một ý thơ “.
GIÂY PHÚT LINH THIÊNG CỦA MỘT ĐÊM KHAI MÀO NĂM MỚI: Sự linh thánh của đêm giao thưa như gợi trong trí của mỗi người về giây phút hết sức huyền diệu, giây phút hết sức linh thánh, giây phút đong đưa giữa cái cũ và cái mới. Lời thánh vịnh:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion ” (Tv 133, 3).
Lời thánh vịnh này là lời khẩn cầu Thiên Chúa tưới xuống muôn hồng ân để con người, mỗi người được sống trong niềm vui, hạnh phúc và sự an bình.Giây phút giao thừa vẫn là giây phút đẹp, giây phút thiêng liêng, giây phút mà mỗi người đều cảm thấy như có một cái gì đó thôi thúc, như có một cái gì đó níu kéo con người và làm cho con hướng tâm hồn lên cao, hướng tâm hồn lên Thiên Chúa để xin Thiên Chúa gia ân giáng phúc cho cho mọi người, mọi nhà hầu con người được sống trong hòa bình và sống trong yêu thương. Đêm giao thừa, người ta vẫn có tục lệ khấn vái cầu xin ơn trên đổ muôn ơn hồng phúc xuống cho con người. Đối với với người công giáo, đêm giao thừa sẽ là đêm người Kitô hữu ngước mặt lên Chúa và cầu khẩn nguyện xin:” Trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh “. Giây phút giao thừa là giây phút trời đất giao hòa: Năm cũ nhường cho năm mới. Một năm mới đã mở ra và mọi người sống giây phút này trong niềm tin, trong hy vọng và sống trong sự yêu thương bởi chính Thiên Chúa là tình yêu.
GIÂY PHÚT GIAO HÒA GIỮA THIÊN CHÚA VÀ CON NGƯỜI: Trong đêm giao thừa, trong giây phút linh thiêng, con người đứng trước bàn thờ, dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân vì muôn vàn hồng ân Thiên Chúa đã ban cho con người, đã ban cho từng người trong suốt một năm qua. Giây phút giao hòa trời đất là giây phút con người gặp gỡ Thiên Chúa, con người gặp gỡ Đấng vô cùng thánh thiện. Thiên Chúa đang ở với con người, sống với con người và sống vì con người.Trong giây phút Thiên Chúa gặp con người và con người đối diện với Thiên Chúa. Con người hiệp với Hội Thánh ca tụng tình thương vô biên của Thiên Chúa:” Lạy Cha Chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Trong Cha chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn nhận bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết”
(Lời Tiền Tụng Chúa Nhật IV thường niên). Giây phút Thiên Chúa và con người là giây phút thánh thiêng, giây phút hạnh phúc nhất vì Thiên Chúa là Tình Yêu, là Mùa Xuân vĩnh cửu.
MUÔN ĐỜI VẪN LÀ LỜI CẢM TẠ: Cảm tạ là một hồng ân. Chính vì thế, con người, mỗi người luôn phải nói lời tri ân cảm tạ. Bởi vì, Thiên Chúa không cần lời cảm tạ của chúng ta, nhưng nói lên lời cảm tạ lại là một hồng ân Chúa ban.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa ban sự sống cho chúng ta.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì phép lạ lớn nhất Thiên Chúa đang làm cho chúng ta là cho chúng ta còn sống tới giờ phút này.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta thấy ngày khởi đầu của một năm mới.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta gặp gỡ mọi người.
Tình thương của Chúa đời con ca tụng (Tv 88). Lời Thánh vịnh này luôn thúc bách chúng ta hãy tạ ơn tình thương vô biên, tình thương tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút giao thừa linh thiêng đêm nay, xin củng cố đức tin cho chúng con, để chúng con luôn nhìn ra tình thương tuyệt vời của Chúa và để chúng con nhận ra những giây phút mở đầu của ngày mới là giây phút quý hóa nhất cho một năm mới tốt đẹp và trong lành. Amen.
8. Cầu bình an cho năm mới – Mt 5, 1-10 (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thánh lễ giao thừa là những giây phút thật cảm động, linh thiêng, bởi vì đây là giờ phút năm cũ và năm mới giao thoa, là giây phút năm cũ sắp sửa bàn giao cho năm mới.Vị chủ tế dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân của Ngài và của toàn thể bà con giáo dân trong xứ đạo bởi vì suốt một năm cũ mọi người đã nhận lãnh biết bao ân huệ từ nơi Thiên Chúa. Thi sĩ Hàn Mạc Tử đã viết một câu thơ thật chí lý, thật ý nghĩa:” Đây phút linh thiêng đã khởi đầu…”.
Trong giờ phút thật linh thiêng, Chủ tế và bà con giáo dân cùng nhau dâng lời tạ ơn. Thánh vịnh đáp ca viết:” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời “. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Thessalonica:” Hãy cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh”. Thánh vịnh 133,3 lại viết:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion “. Giây phút linh thiêng nhà thơ họ Hàn viết là giây phút huyền diệu, giây phút linh thánh. Trời và đất giao hòa. Những giây phút này là giây phút cảm tạ ngợi khen. Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi. Giây phút linh thiêng như Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận là giây phút Ngài muốn thưa với Chúa rằng:” Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa, cuộc sống của con sẽ luôn luôn là ” một giao ước mới và giao ước vĩnh cửu ” với Chúa.
Mỗi giây phút con muốn hát lên cùng với toàn thể Giáo Hội:” Vinh danh Cha, và Con và Thánh Thần ‘. Giây phút linh thiêng, giây phút mới của những giây phút đầu tiên sẽ là khoảnh khắc đầu tiên, khoảnh khắc cuối cùng, khảnh khắc duy nhất.
Vâng, những giây phút khởi đầu của một năm mới mở ra những giây phút ân lộc. Và chúng ta hãy ký thác đường đời cho Chúa. Giây phút giao thừa là giây phút mở ra một chân trời mới, mở ra niềm tin, niềm hy vọng và cậy trông bởi vì tất cả đều là hồng ân, đều là ân lộc của Chúa như lời nguyện nhập lễ diễn tả:” Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh danh Chúa “.
Như Đức cố Hồng y Phanxicô Xavie Thuận, chúng ta hãy tín thác cho Chúa những gì thuộc về quá khứ.
” Ôi phút hiện tại, ngươi hoàn toàn tùy thuộc ở nơi ta.
Ta ước muốn sử dụng ngươi trong quyền hạn của ta.
Vì thế, con tín thác nơi lòng nhân từ Chúa,
Con tiến bước trong đời con như một trẻ em.
Và mỗi ngày con dâng cho Chúa trái tim con
Nồng cháy tình yêu để danh Chúa được cao cả hơn”
Giờ linh thiêng là những giây phút hiện tại, Giờ con mèo lui đi để con rồng hiện diện. Đó là nói theo cách thông thường của người trần. Còn xét theo mặt linh thiêng. Giây phút giao thừa là giây phút Chúa đang nhìn ngắm con người và ngược lại con người đang cầu khẩn Chúa. Kinh tiền tụng thánh lễ giao thừa viết: ” Trong Cha, chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con nghiệm hằng thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn được nhận lãnh bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng muôn đời được hưởng ơn Phục Sinh “.
Trong Đức Giêsu, chắc chắn mùa xuận Nhầm Thìn sẽ mang lại nhiều hạnh phúc bởi vì Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời (Dt 13, 8)
Lạy Chúa, trong đêm giao thừa này, Chúa đã cho cộng đoàn chúng con được tham dự tiệc thánh. Xin nhìn đến lòng tin của chúng con mà luôn luôn che chở giữ gìn hầu suốt cả năm nay, chúng con được sống trong tình thương của Chúa (Lời nguyện hiệp lễ, lễ Giao thừa, cầu bình an cho năm mới).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Thánh lễ Giao thừa nói lên gì?
2. Giây phút linh thiêng là giây phút gì?
3. Tại sao lại nói Trời Đất giao hòa?
4. Đầu năm mới người ta thường chúc cho nhau những gì?
5. Ân lộc là gì?
9. Thánh Lễ Giao Thừa
Trong những ngày này và cách riêng trong những giờ phút linh thiêng của năm cũ sắp qua đi, nhường chỗ cho thời gian năm mới đến, tự nhiên mỗi người, mỗi gia đình và toàn xã hội đều muốn có cái nhìn tổng kết mọi mặt về một năm đã qua. Tất nhiên anh chị em cũng muốn chúng tôi trình bày một bản báo cáo tổng kết về Giáo Xứ để định hướng cho tương lai. Nhưng những báo cáo tổng kết chúng ta thường thấy dường như không phản ảnh những gì mà Lời Chúa đòi hỏi.
Trước hết Bài Sách Dân Số, chúng ta vừa nghe công bố, muốn khẳng định cuộc sống mỗi người, mỗi gia đình và của cả Dân Tộc, tất cả đều tùy thuộc vào CHÚC LÀNH của Thiên Chúa. Nói cách khác thời gian là HỒNG ÂN Thiên Chúa trao ban cho con người. Và vì thế cũng là Thời Gian mà con người phải công bố Phúc Lành của Thiên Chúa cho mọi người. Hơn thế nữa, Lời Chúa còn xác định thật rõ ràng: Chúc Lành của Thiên Chúa chính là việc “Chúa tỏ Nhan Thánh Chúa”, là việc “Chúa ghé mặt lại”. Nhan Thánh Chúa là Nhan Thánh của lòng thương xót, khuôn mặt Chúa là khuôn mặt của bình an. Tất nhiên, những công trình vật chất như nhà cửa, ruộng vườn, công ăn việc làm, những ngày lễ, ngày hội… tất cả đều có thể là những dấu chỉ của hồng ân, nhưng không phải là chính Hồng Ân nếu chúng không vén mở cho chúng ta thấy NHAN THÁNH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ KHUÔN MẶT CỦA BÌNH AN của Chúa. Với quan điểm ấy, chúng ta thấy trong năm đã qua, Chúa đã tỏ Nhan Thánh Lòng Thương Xót Chúa qua rất nhiều cơ hội cách đặc biệt dành cho Giáo Xứ chúng ta. Nhưng khi đón nhận Hồng Ân Nhan Thánh, chúng ta cách nào đó lại đã che lấp Nhan Thánh mà phô trương khuôn mặt trần tục vinh vang của xác thịt. Chúng ta đã xúc phạm Nhan Thánh.
Để thấy rõ sự sai lạc của mình, chúng ta hãy nghe Thánh Phaolô minh giải về các Hồng Ân Chúa ban. Theo thánh Tông Đồ, mọi Hồng Ân đều đã được ban tặng cho chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô. Và Hồng Ân trong Đức Giêsu chính là Thánh Thần và Lời Thiên Chúa. Hồng ân Thánh Thần và Lời Thiên Chúa nhằm thanh tẩy chúng ta, biến đổi chúng ta nên một thân thể trong Đức Kitô. Lẽ ra khi đón nhận những dấu chỉ của Hồng Ân, thánh Phaolô nói chúng ta phải tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức, và giữ lại những điều gì tốt, nhưng thực tế xem ra không được như thế: khi sự dữ càng ngày càng xâm chiếm cuộc sống chúng ta.
Hồng ân Chúa nhằm đưa cuộc sống của Chúa Giêsu Kitô vào trong cuộc sống chúng ta để chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với Người. Con người mà chính Người đã diễn tả trong bài Tin Mừng: đó là một người nghèo, một người hiền lành, một người than khóc, một người đói khát công chính, một người biết thương xót, một người trong sạch, một người kiến tạo hòa bình, một người chấp nhận bị bách hại vì lẽ công chính. Thế nhưng, mặc dù có thể được qúa nhiều dấu chỉ của hồng ân, nhưng chúng ta lại biến những dấu chỉ trở thành quyền lực của bản thân, để tự cao tự đại, để áp bức và khinh khi tha nhân! Và nhất là làm suy giảm sự hiệp nhất trong Giáo Xứ.
Vậy làm sao tôi có thể làm bản tổng kết của Giáo Xứ này trong năm qua. Thánh Phaolô cũng từng nói với giáo dân của mình “Anh chị em chính là triều thiên của tôi, anh chị em chính là chứng thư của tôi trước Nhan Thánh Chúa”. Nhưng triều thiên tôi có, chứng thư tôi cầm trong tay là gì đây?
Nhìn lại năm cũ thực tế là như vậy, nhưng tôi không bi quan, tôi vẫn hướng về năm sắp tới với tâm tình tri ân và đền tạ, đồng thời vẫn kiên vững trong niềm hy vọng Chúa là Đấng Trung Tín, chính Người sẽ thực hiện điều Người muốn cho Giáo Xứ.
Dẫu sao trong tư cách là chủ chăn riêng của Giáo Xứ, tôi nhận mình có phần trách nhiệm chính yếu về những yếu kém của Giáo Xứ, do những thiếu sót và tội lỗi của chính mình. Vì vậy lẽ ra như thư Do Thái đã viết, hằng ngày tôi phải dâng của lễ đền tội bản thân đã lỗi phạm và cũng đền tội cho dân chúng nữa. Nhưng có lẽ chính những lễ dâng đền tội này chưa đủ đẹp lòng Chúa, vậy tôi xin anh chị em tha thiết cầu nguyện cách riêng cho tôi ngay từ giây phút này và trong năm mới biết dâng lên những lễ tế xuất phát từ “tấm lòng tan nát giày vò” để Chúa chẳng khinh chê mà ban cho Giáo xứ rực rỡ ánh Tôn Nhan Thương Xót và Bình An của Người, để Giáo Xứ trở nên dấu chỉ và thực tại của sự hiệp nhất yêu thương của Chúa giữa lòng xã hội hôm nay. Amen
10. Giao Thừa Đoàn Tụ – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Tết là khởi đầu của một năm, là dịp lễ quan trọng và linh thiêng nhất trong một năm. Ngày Tết ai cũng ao ước khởi đầu lại. Ai cũng muốn rũ bỏ những gì không tốt đẹp của năm qua để đón nhận một luồng sinh khí mới. Thế nên, mọi người đều cố gắng vui vẻ độ lượng với nhau, bỏ qua hiềm khích cũ. Sống tình thân ái trong những ngày Tết. Lòng người ai cũng tràn đầy hoài bão về hạnh phúc và thịnh vượng cho năm mới.
Ngày tết với những giờ phút rất linh thiêng gọi là giao thừa. Một thời khắc giao thoa giữa cũ và mới. Giữa quá khứ và hiện tại. Một thời khắc con người như muốn chuyển mình cùng vạn vật, hoà mình vào chốn tâm linh, bỏ lại phía sau bao nỗi ưu tư, vất vả truân chuyên trong cuộc sống. Một thời khắc tràn đầy niềm lạc quan hy vọng cho một năm mới an bình, hạnh phúc và thịnh vượng.
Ngày Tết còn là dịp để gia đình dòng tộc sum họp. Dù ai đi ngược về xuôi cũng muốn trở về đoàn tụ với gia đình trong giây phút linh thiêng ấy. Quây quần bên bàn thờ, thắp lên nén hương trầm trên bàn thờ tổ tiên để tưởng nhớ tới ông bà, cha mẹ những người đã nuôi nấng sinh thành ra mình nay đã khuất. Vì cây có cội, nước có nguồn. Con người cũng phải nhớ về tổ tiên để tỏ lòng tri ân và cầu mong các ngài chúc phúc cho một năm mới bình an.
Trong giây phút giao thừa, mỗi thành viên trong gia đình thường lần lượt chúc tuổi nhau. Con cháu chúc mừng ông bà mạnh khoẻ sống lâu. Ông bà cha mẹ mừng tuổi lại con cháu chăm ngoan, học giỏi, thảo hiếu, vâng lời. … Ngày tết người lớn thường không quên lì xì cho con cháu với một ý nghĩa tượng trưng, mong sang một năm mới con cháu sẽ gặt hái được nhiều điều tốt đẹp.
Một việc làm trong Ba ngày tết có lẽ không thể thiếu chính là lễ hội tâm linh. Ngày tết người Phật Giáo rủ nhau đi Chùa. Người Công Giáo đến Nhà Thờ như muốn hoà vào dòng người đi lễ để cảm nhận được sự giao hoà của trời đất. Để gởi gắm vào chốn linh thiêng những ưu từ hoài bão lên Đấng Tạo Thành. Chính nơi đây, con người cũng tìm thấy sự thanh thoát, nhẹ nhàng cho tâm hồn như những làn khói nhẹ bay vào chốn không trung.
Người Công Giáo chúng ta luôn nhìn nhận Thiên Chúa là chủ thời gian. Thiên Chúa sắp đặt mọi vận hành của trời đất và con người. Thế nên, gửi gắm tâm tình lên Đấng Tạo Thành trời đất là lẽ thường tình. Chỉ có Ngài mới làm cho “con tạo xoay vần” theo chu kỳ của nó. Chỉ có Ngài mới giúp con người đạt được ước nguyện của mình.
Thế nên, hôm nay trong giây phút giao thừa, mỗi người hãy để lòng mình thanh thản nương theo thánh ý Chúa. Hãy trao vào tay Chúa những ưu phiền lắng lo. Hãy đặt niềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa có thể xoay vần cuộc đời theo như ý Ngài. Xin phó thác mọi sự trong tay Ngài. Và trước thềm một năm mới, chúng ta cùng kính chúc nhau:
Vừa đủ HẠNH PHÚC để giữ tâm hồn luôn ngọt ngào
– Vừa đủ THỬ THÁCH để luôn kiên nhẫn trung kiên
– Vừa đủ HY VỌNG để luôn hạnh phúc
– Vừa đủ THẤT BẠI để luôn khiêm nhường
– Vừa đủ THÀNH CÔNG để luôn nhiệt tâm
– Vừa đủ BẠN BÈ để được an ủi
– Vừa đủ VẬT CHẤT để đáp ứng mọi nhu cầu
– Vừa đủ NHIỆT TÌNH để đời thêm hân hoan
– Vừa đủ NIỀM TIN để xua tan thất bại
Xin cầu chúc cho nhau một đêm giao thừa ấm áp Tình Chúa – Tình Người. Amen
11. Bàn giao năm cũ – Mt 5, 1-10 (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giây phút huyền nhiệm của đêm giao thừa như có một sự gì đó hết sức linh thiêng vì năm cũ chuyển giao cho năm mới. Đây là giây phút trời với đất gặp nhau, trời và đất giao hòa như lời Thánh vịnh 133,3 viết:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion “. Lời khẩn cầu ấy phải là lời nguyện xin của mỗi người, mỗi gia đình khấn van Chúa tưới đổ muôn hồng ân xuống năm mới để người người, nhà nhà được an bình, thịnh vượng và hạnh phúc.
Với truyền thống của người Việt Nam, đêm giao thừa là đêm thánh thiêng, đêm con người gặp gỡ thần linh, đêm con người gặp gỡ trời và đất. Thường người lớn trong gia đình đứng trước bàn thờ tổ tiên, ông bà để khấn vái tổ tiên, khấn xin người trên ban cho gia đình được nhiều hồng phúc, ban cho gia đình được dồi dào sức khỏe, may mắn và bình an. Đối với các Kitô hữu, giây phút giao thừa là giây phút con người gặp gỡ Thiên Chúa để nói lời cảm tạ tri ân Ngài vì muôn ân phúc Ngài đã ban cho con người, cho mỗi người, cho gia đình trong suốt một năm qua. Do đó, giây phút giao thừa là giây phút linh thiêng nhất: Thiên Chúa gặp gỡ con người và con người gặp gỡ Thiên Chúa. Giây phút linh thánh trời và đất gặp nhau, Thiên Chúa đang ở với con người và con người đang đối diện với Thiên Chúa. Giây phút huyền diệu này con người không biết diễn tả sao cho hết tình Chúa thương yêu con người. Trong giây phút ấy, con người chỉ biết hợp cùng Giáo Hội ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa:” Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Trong Cha chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn nhận bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết ” (Lời Kinh Tiền Tụng Chúa Nhật IV Thường niên). Chúng ta có thể nói không ngoa vì giây phút này là giây phút tuyệt hảo, giây phút hạnh phúc nhất con người gặp gỡ Đấng vô cùng chí thánh, giống như giây phút trên núi Sinai, Môsê không dám nhìn vào bụi gai đang cháy khi Thiên Chúa đang ở đó. Môsê phải cúi mặt xuống, không dám nhìn vào Chúa.
Vâng, mỗi nước, mỗi dân tộc có một tập tục, một cách thể hiện để đón năm mới, nhưng dù với cách nào, với tập tục nào, truyền thống nào, người môn đệ Chúa luôn coi giây phút giao thừa là giây phút linh thiêng, giây phút năm cũ sẽ nhường chỗ cho một năm mới tới. Người môn đệ Chúa luôn ước mong năm mới sẽ đẹp hơn, tốt hơn năm cũ. Người môn đệ Chúa sẽ xua đi tất cả những gì được coi như xui xẻo, coi như không được may mắn của năm cũ và đón chào những gì tốt hơn, quí hơn của năm mới mà Thiên Chúa sẽ trao ban cho họ.
Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút linh thánh của đêm giao thừa, xin cho mọi người môn đệ Chúa luôn biết nói lời cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì những ơn huệ đã nhận lãnh và nhận ra những hồng ân mà Ngài sẽ ban cho nhân loại, cho con người, cho mỗi gia đình trong năm mới bắt đầu này. Amen.
12. Xuân Tạ Ơn (Mt 5, 1-10) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giây phút linh thiêng của những giờ phút của đêm giao thừa luôn có một ý nghĩa nhiệm mầu. Giây phút mà Hàn Mặc Tử đã viết:” Đây phút linh thiêng đã khởi đầu…”Giây phút giao thoa giữa năm cũ và năm mới. Giây phút mà những cái cũ được đẩy qua một bên để nhường cho những giây phút linh thiêng nhất, quí hoá nhất. Giây phút dành để cho Thiên chúa vì chỉ có mình Người là Đấng tạo dựng vũ trụ, tạo dựng con người. ” Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời ” như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do Thái 13, 8 đã viết. Do đó, những giờ phút quan trọng của đêm giao thừa là để tạ ơn Thiên Chúa.
TẠ ƠN LÀ ĐIỀU TỐI CẦN THIẾT: Sống trên gian trần, chúng ta mọi người đều mang ơn nhau, nặng nợ với nhau. Do đó, việc tri ân cảm tạ là điều cần thiết mọi người phải có với nhau. Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa chúng ta trả ơn không bao giờ cho cân xứng, Thiên Chúa không cần chúng ta cảm ơn Ngài, nhưng cảm tạ lại cần thiết và sinh ơn cứu độ cho chúng ta vì như lời nguyện nhập lễ chúng ta đọc thấy:” Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh”. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, chúng ta phải biết ơn Ngài và luôn luôn hướng về Ngài để cảm tạ tri ân Ngài và cầu khẩn Ngài vì ” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời “.Chính vì thế, giây phút giao thừa là giây phút huyền nhiệm, linh thiêng để chúng ta dừng lại tạ lỗi với Chúa vì những thiếu xót trong năm vừa qua và kính dâng Chúa năm mới với những cố gắng của mỗi người chúng ta với sự bảo trợ của Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Một phút quay lại với tâm tình thống hối và những quyết tâm với những ước mơ mới. Tạ ơn Thiên Chúa là điều tối cần thiết vì những hồng ân vô giá Thiên Chúa trao ban cho con người, cho loài người, cho mỗi người:” Lạy Thiên Chúa chí nhân chí thánh, Chúa là Đấng tạo thành vạn vật. Thời gian không gian là của Chúa, Chúa ban cho chúng con được hưởng dùng. Nay, trước thềm một mùa xuân mới, chúng con đến dâng lời tán tụng. Cùng với lời cảm mến tri ân. Năm cũ vừa qua được an bình, năm mới sắp tới muôn phần tốt đẹp. Chúng con xin cúi đầu cảm tạ”.
LỜI CẦU NGUYỆN TRI ÂN: Lạy Chúa, trước thềm năm mới, năm Đinh Hợi, chúng con cầu xin cho ánh sáng của Chúa chiếu toả khắp nơi trên vũ trụ, trần gian. Xin ơn hòa bình ngự trị mọi tâm hồn của những con người thành tâm thiện chí ” Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương “. Xin cho Quê Hương, Đất Nước chúng con luôn được niềm hạnh phúc của mùa xuân vĩnh cửu ngự trị và muôn dân được ấm no hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin cho mọi tâm hồn của con người luôn được thanh luyện trong Thánh Thần. Xin cho tất cả mọi người có niềm tin và không có niềm tin đều ước nguyện một mùa xuân vĩnh cửu không bao giờ tàn úa.
Xin cho những Kitô hữu luôn biết sống lời Chúa và yêu thương phục vụ.
Xin cho chúng con luôn biết hiếu đễ để mọi người luôn biết nói lời cảm tạ tri ân. Xin cho chúng con luôn là những dòng suối mát vun tưới cho cành xuân của chúng con được nở rộ trong mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân như ý, mùa xuân cứu độ.
Lạy Chúa, trước thềm năm mới Đinh Hợi, chúng con xin cảm tạ tri ân Chúa vì những ân huệ quí báu Thiên Chúa ban cho chúng con nhưng không. Xin cảm tạ Chúa vì mùa xuân bất diệt Chúa tặng ban cho nhân loại, cho con người, cho gian trần.
Xin cho giây phút giao thừa của xuân Đinh Hợi mang lại cho chúng con ơn bình an và hạnh phúc.
13. Tám Mối Phúc (Mt 6,25-34) (Lm. Trần Bình Trọng)
Tư tưởng cũng như văn chương bình dân Việt Nam hàm chứa những quan niệm về thời giờ như: Thời giờ là vàng bạc; thời giờ thấm thoắt tựa thoi đưa, cứ đi đi mãi, không chờ đợi ai. Thường khi người ta nhìn tới thì thấy lâu dài, nhưng khi nhìn lại thì thấy mau lẹ. Người ta nói mới ngày nào đó, chúng mình thế nọ thế kia, mà nay đã hai mươi năm, ba mươi năm rồi. Khi bận rộn với công việc làm hay chương trình hoạt động, người ta cảm thấy thời giờ đi mau lẹ. Những lúc nhàn rỗi hay không bị hoàn cảnh thúc ép, người ta lại cảm thấy thời giờ đi chậm. Cho dù người ta cảm thấy thời giờ đi mau hay chậm, thời giờ vẫn xoay đều không thay đổi. Người ta không thể đi trước thời giờ, cũng không thể kéo dài thời gian.
Cho dù Tết đến sớm hay muộn, mùa Xuân đến mau hay chậm, người ta cũng phải theo chu kì tuần hoàn của vũ trụ mà đón nhận giây phút bàn giao của thời giờ mới cũ ở lúc không giờ của đêm giao thừa, là giây phút tống cựu nghinh tân. Người Việt xưa kia coi đêm giao thừa là giây phút linh thiêng, giao hoà giữa trời và đất. Gần đến giây phút giao thừa, người ta cứ ngồi đợi để hoà nhịp với giây phút giao hoà của trời đất, không được nói hay làm gì. Vừa tới lúc giao thừa thì họ vỗ tay vang động hay cho nổ pháo: đạch, đạch… đạch, đùng. Đạch, ĐÙNG… ĐÙNG… Đốt pháo để mừng xuân mới sang. Đốt pháo theo quan niệm của nhiều người Việt trước đây còn để xua đuổi ma qủi. Có người còn nghĩ: pháo nổ càng lớn, ma quỉ càng sợ. Vậy phải đốt pháo cối.
Người Công giáo thì coi ông trời là Thượng Đế, là Thiên Chúa và chỉ có Chúa mới làm chủ được thời giờ và thời gian. Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chúa có quyền trên mưa nắng, sóng gió, bão táp… như trong lời nguyện đầu lễ Giao thừa, linh mục chủ tế cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Đấng vô thuỷ vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc.
Bài Tin Mừng lễ Giao thừa bàn về Tám mối Phúc thật. Vào dịp Tết, mọi người đều chúc cho nhau những điều tốt đẹp, thì Giáo Hội cũng dùng những lời Thánh Kinh có chứa đựng những lời chúc phúc của Thiên Chúa. Trong khi thiên hạ chúc cho nhau mọi sự giàu sang phú quí và may mắn, thì Thiên Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật trong đó có một lời chúc cho những ai sống tinh thần nghèo khó. Thật là một điều nghịch lý và mâu thuẫn! Có một người dự tòng kia hỏi linh mục chánh xứ nọ: Thưa cha khi cha giảng về Tám mối Phúc thật, con không thể chấp nhận được bởi vì những điều Chúa dạy trong Tám mối Phúc thật đi ngược lại với quan niệm của người đời và ngược lại với những gì con đã sống. Nhưng rồi con vẫn tiếp tục đi lễ, nghe cha giảng Lời Chúa. Bây giờ thì con đã chấp nhận. Mỗi lần sau khi dâng thánh lễ, con cảm thấy được bình an trong tâm hồn.
Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật. Và không phải họ chỉ được hạnh phúc đời sau, nhưng còn được hưởng hạnh phúc ngay tại đời này. Hạnh phúc đó là một tâm hồn bình an, thư thái. Được Chúa chúc phúc là được tất cả: đời này cũng như đời sau. Có những người có thể hiểu lầm cho rằng Chúa muốn người ta sống nghèo khó, khắc khổ. Thực sự thì Chúa đến giải thoát con người khỏi cảnh nghèo đói. Chúa bảo: Nào những kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa, Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống (Mt 25,34-35).
Người đời còn cho rằng Giáo Hội dùng mối Phúc thật thứ nhất để cổ võ đời sống nghèo khó. Sự thực thì Giáo Hội không chủ trương như vậy. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lần đã tố cáo chính sách cấm vận của Hoa kỳ khiến cho dân nghèo Cuba càng nghèo, thiếu những phương tiện tối thiểu cho nhân phẩm con người. Trước đó ngài còn kêu gọi dịp Tết dương lịch 1998 hoàn cầu hoá việc phát triển kinh tế và phát triển kinh tế phải nằm trong vòng liên đới các quốc gia chứ không nhắm đến việc ăn mảnh và đánh lẻ. Đức Thánh Cha còn khuyến khích những quốc gia giàu mạnh xoá nợ cho những quốc gia nghèo đói. Như vậy Giáo Hội không khuyến khích thực tại nghèo khó, nhưng là sống tinh thần nghèo khó, nghĩa là tinh thần siêu thoát, không để lòng dính bén vào của cải trần thế.
Trong thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô chúc cho họ như sau: Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn (1Tx 5,23). Trong bài trích sách Dân Số, Chúa dạy Môsê chúc phúc cho dân chúng như sau: Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện xin Thiên Chúa tươi nét mặt gìn giữ anh em, và dủ lòng thương anh em! Nguyện xin Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em (Ds 6,24-26).
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, ta thấy dân được chọn kêu cầu đến Chúa mà chúc lành lẫn cho nhau. Bố cũng chúc lành cho con cái như ông Raguên chúc lành cho con rể là Tôbia và con gái là Xara như sau: Con đi mạnh giỏi và bình an! Xin Chúa trời cho con và Xara vợ con thành đạt, và ước gì cha được nhìn thấy con cái của chúng con trước khi nhắm mắt (Tb 10,11). Bà Étna cũng nại đến Chúa để chúc lành cho con gái và con rể như sau: Trước mặt Chúa, mẹ kí thác Xara cho con, con rể của mẹ! Suốt đời con, đừng bao giờ làm cho nó phải buồn (Tb 10,13).
Chúc Tết và chúc tuổi cho nhau mà nại đến Thiên Chúa và kêu cầu đến ân sủng và quyền năng của Chúa là đặt người mà mình cầu chúc dưới sự che chở và bảo vệ của Chúa. Việc cầu chúc cho nhau mà nói ra tiếng để người được cầu chúc có thể nghe thấy còn có tác dụng tâm lý là khiến cho người được chúc phúc cảm động và tự cố gắng thế nào để lời cầu chúc được thực hiện nơi mình.
Để áp dụng thực hành, ta nguyện xin Chúa chúc lành cho ông bà cha mẹ, anh chị em họ hàng. Và nguyện xin Chúa chúc lành lẫn cho nhau trong năm mới. Ta cũng không quên xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu sót trong năm cũ, những lúc ta phí phạm thời giờ Chúa ban, cũng như việc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa tha thứ những lần ta không dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình: cha mẹ, vợ chồng và con cái; những lần ta không dành thời giờ cho chính mình để suy tư về thân phận làm người trong mối tương quan với Đấng tác thành nên mình.
Lời nguyện xin Chúa chúc lành cho Năm mới:
Lạy Chúa, Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân Hạ Thu Đông. Chúng con xin tạ ơn Chúa cho thời giờ, năm tháng Chúa ban trong năm cũ. Xin Chúa tha thứ những lần chúng con phí phạm thời giờ hoặc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa thánh hoá thời giờ chúng con xử dụng để chúng con biết dùng thời giờ làm vinh quang nước Chúa. Amen.
14. Những nét đẹp Tin Mừng của ngày tết (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Xuân đến làm đẹp đất trời. Những cành đào đua nhau khoe sắc. Những chồi non bụ bẫm nhú ra khỏi cành cây khô khẳng. Chợ búa đông vui và đẹp đẽ với những hàng hoá đủ mọi loại. Những tà áo mới tha thướt làm đẹp phố phường. Trong khung cảnh vui tươi tấp nập ấy, khuôn mặt mọi người như rạng rỡ tươi cười. Mùa Xuân đem đến nhiều vẻ đẹp. Cao quý nhất là những nét đẹp văn hoá dân tộc đậm đà mầu sắc Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của lòng biết ơn. Năm hết Tết đến, người Việt nam thường nhớ đến công ơn của những người đã giúp đỡ mình trong năm qua. Biết ơn là một nét đẹp văn hoá đáng trân trọng và cũng là một điều hợp lý. Năm 2000 phải biết ơn 1999 năm qua. Dòng sông lớn phải mang ơn những con suối nhỏ. Hạt lúa phải nhớ ơn những hạt mưa, hạt nắng, hạt phân. Ngày hôm nay phải biết ơn ngày hôm qua. Thế hệ này phải nhớ ơn thế hệ trước. Đời sống ta chịu ơn biết bao người. Cảm nghiệm sâu xa chân lý này, nên mỗi dịp Tết đến, người Việt nam ta thường bày tỏ lòng biết ơn với ông bà, cha mẹ và các ân nhân. Những món quà nho nhỏ nhưng thắm đượm tình nghĩa làm vui cả người nhận lẫn người cho. Riêng với người Công giáo, bày tỏ lòng tri ân đối với Thiên chúa là một bổn phận không thể thiếu. Vì Thiên chúa chính là tổ tiên đã sinh thành nên ta. Vì Thiên chúa là ân nhân lớn nhất đời ta. Chính Người đã ban cho ta món quà cao quý nhất: đó là sự sống. Chính Người tiếp tục chăm sóc gìn giữ ta từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây. Biết ơn là việc làm của lương tri, cổ võ cho một thế giới mới chan chứa tình người. Biết ơn cũng là một giá trị đạo đức được Chúa Giêsu đề cao trong Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của sự cho đi. Ta gửi đi những cánh thiệp như những sứ giả của tình cảm yêu thương. Ta gửi đi những lời cầu chúc như tâm tình mến yêu tha thiết dành cho nhau. Ta sửa sang quét dọn nhà cửa để đón tiếp nhau. Ta dành thời giờ viếng thăm nhau để xiết chặt thêm tình thân ái. Ta ăn mặc tề chỉnh để tỏ lòng kính trọng nhau. Ta nói năng tế nhị để làm vui lòng nhau. Ta rộng rãi tặng tiền mừng tuổi cho con cháu. Tóm lại, tất cả những gì ta làm trong ngày Tết đều vì người khác và cho người khác. Đặc biệt trong lãnh vực ăn uống. Ngày Tết, nhà nào cũng chuẩn bị sẵn đồ ăn thức uống cho gia đình, nhưng nhất là để mời khách. Khách vào nhà bao giờ cũng được mời thưởng thức ấm chè mới, nếm kẹo bánh ngon. Sự chiếu cố của khách làm vui lòng cho chủ. Sự vui vẻ của người nhận là hạnh phúc của người cho. Có niềm vui cho đi và có niềm vui lãnh nhận. Những niềm vui ấy tạo cho ngày Tết một nét đẹp đầy mầu sắc Tin Mừng: nét đẹp của sự quên mình, của sự quảng đại cho đi, của sự khiêm tốn đón nhận, của tình liên đới.
Ngày Tết có nét đẹp của sự đổi mới. Thiên nhiên đổi mới với sự hồi sinh của cây cỏ. Phố phường đổi mới với những căn nhà mới, với những gian hàng mới và với quần áo mới. Hoà vào cái mới của đất trời, của xã hội, lòng người cũng nôn nao trong niềm hy vọng đổi mới bản thân và cuộc đời. Ai cũng mong tống tiễn những điều xấu vào quá khứ. Ai cũng mong đón nhận một tương lai tươi đẹp. Niềm mong ước đổi mới được thể hiện qua những cố gắng giữ vẻ mặt tươi cười, không tức giận, không nói những lời thô tục, những điều rủi ro, nhưng chỉ nói những điều tốt đẹp, đối xử hoà nhã với mọi người trong những ngày Tết. Phút giao thừa thật thiêng liêng. Nó đánh dấu một khởi đầu mới. Người ta tin rằng sống tốt đẹp những giây phút đầu tiên sẽ có ảnh hưởng tốt đến cả năm. Nên mỗi dịp Tết là một lần khuyến khích ta cố gắng đổi mới đời sống, đổi mới bản thân.
Đổi mới đời sống là điều Chúa Giêsu tha thiết mong muốn nơi ta. Người không ngừng mời gọi ta hãy từ bỏ con đường tội lỗi xưa cũ, bước vào con đường mới, con đường tự do, thánh thiện của con cái Thiên chúa. Người không ngừng mời gọi ta trở thành bầu da mới để có thể chứa đựng thứ rượu mới là giáo lý của Người. Ngày Tết chính là một cơ hội cho ta thực hành Lời Chúa dạy, tích cực đổi mới đời sống nên tốt đẹp hơn.
Với tất cả những nét đẹp trên đây, tinh thần ngày Tết cổ truyền dân tộc rất gần gũi với Tin Mừng. Rõ ràng nét đẹp văn hoá Việt nam đã chất chứa những giá trị Tin Mừng. Rõ ràng Tin Mừng đang đi vào cuộc sống của người Việt nam.
Vì thế, người Việt nam Công giáo không những có trách nhiệm gìn giữ những nét đẹp văn hoá của ngày Tết cổ truyền mà còn phải biến những nét đẹp ấy thành những trang Tin Mừng sống động. Khi ta sống tâm tình biết ơn trong ngày Tết, đừng chỉ giữ hình thức bề ngoài hay chỉ chú ý tới khía cạnh vật chất. Hãy có tâm tình biết ơn sâu xa. Hãy nhìn thấy ơn Chúa ban qua mọi ân huệ nhận được. Khi ta cho đi trong ngày Tết, đừng chỉ cho đi như một hình thức xã giao hay như một thói tục bắt buộc. Hãy cho đi với tâm tình yêu mến, kính trọng thực sự. Hãy đón tiếp khách thăm viếng như đón tiếp chính Chúa. Khi ta muốn đổi mới đời sống, đừng chỉ giữ như một hình thức và không chỉ giữ trong những ngày Tết, nhưng duy trì sự cố gắng đổi mới trong suốt cả đời với quyết tâm thực sự đổi mới đời sống.
Khi ta sống tinh thần Tin Mừng trong những phong tục ngày Tết, ta góp phần xây dựng một mùa Xuân mới, một mùa Xuân dân tộc, một mùa Xuân tình thương. Mùa Xuân ấy sẽ vĩnh cửu vì sẽ dẫn đến mùa Xuân Nước Trời.
Lạy Đức Kitô là mùa Xuân đích thực, không bao giờ tàn úa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen
15. Giao Thừa--XUÂN 2015
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Thời gian vẫn dần trôi. Như chiếc kim đồng hồ mãi vần xoay. Thời gian chẳng đợi chờ ai bao giờ. Ngày hôm qua đã thành quá khứ. Ngày mai còn chưa tới. Chỉ có ngày hôm nay đang trong tầm tay. Có thể nói món quà quý báu nhất mà Thượng Đế ban cho chúng ta hưởng thụ chính là thời gian. Thời gian lại qua đi rất nhanh nếu chúng ta không biết hưởng thụ thì thật uổng phí! Thời gian sẽ không chờ, thế nên, đừng chờ sau này mới làm những việc mà đáng lý mình phải làm. Nếu không làm ngày hôm nay thì không biết ngày mai chúng ta còn có cơ hội hay khả năng để thực hiện ước mơ của mình hay không?
Có những người con nghĩ rằng khi lớn lên sẽ phụng dưỡng cha mẹ, thế nên tuổi nhỏ thì vẫn lười biếng, sống thiếu trách nhiệm với gia đình, nhưng khi lớn lên thì cha mẹ đâu còn để mà thảo hiếu.
Có những người cha người mẹ tưởng rằng mình còn nhiều thời gian để xây mộng ước, thế nên, vẫn cứ trì trệ, không lo tương lai, đến khi già vẫn chưa có một mái nhà nương thân.
Có những bạn trẻ tưởng rằng thời gian còn dài, thế nên, vẫn vui chơi, có khi sa đọa, đến khi bệnh tật mới biết mình không còn cơ hội cho tương lai.--------Có biết bao nhiêu mộng ước, dệt thật nhiều nhưng vẫn dở dang vì chẳng đủ thời gian để hoàn thành.
Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.
Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:
- Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.
- Không được. - Thần Chết lắc đầu.
- Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không? - Anh ta tiếp tục van xin.
- Không được. - Thần Chết vẫn không đồng ý.
Anh ta vội nói:
- Vậy... tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?
- Không được. - Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.
Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:
- Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.
Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:
- Xin hãy ghi nhớ: "Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày".
Thời gian thật quý hóa. Quý hóa vì nó một đi mà không quay trở lại. Thời gian cho ta làm việc, cho ta hưởng niềm vui nhưng chúng ta đã để lỡ thời gian khi lao vào những đam mê lầm lạc, khi hăng say tranh chấp bon chen với cuộc đời. Chúng ta đã đánh mất niềm vui của thời gian hiện tại. Đây mới là thời gian thực. Thời gian để sống và hưởng thụ. Vì quá khứ đã vuột qua. Tương lai còn mù tối. Hiện tại mới quan trọng với chúng ta. Hãy sống thật vui vẻ, lạc quan với hiện tại, vì đó là cách chúng ta không lãng phí thời gian.
Theo niềm tin ky-tô giáo, thời gian là ân ban của Thiên Chúa. Thời gian Chúa ban cho con người dài ngắn khác nhau. Điều đáng tiếc là ít ai bằng lòng với hiện tại. Không bằng lòng với hiện tại, nên con người thường hay lo lắng, bon chen, dùng đủ mọi khả năng, sức lực, tâm trí mong sống dài hơn, giàu có hơn, danh vọng và quyền lực hơn. Khi đã đạt đến mục tiêu rồi con người lại cảm thấy một khoảng trống vắng trong tâm hồn mà tất cả những lạc thú trần gian không thể lấp đầy. Dường như cuộc đời chẳng có gì vừa ý, toại nguyện mãi mãi với con người, vì ‘‘Được voi đòi tiên” là vậy.
Chúa Giê-su phán: “Có ai trong các ngươi lo lắng mà làm cho đời mình dài thêm một khắc không? Vậy nếu đến việc rất nhỏ các ngươi cũng không có thể được sao các ngươi lo việc khác? Hãy xem hoa huệ mọc lên thể nào: nó chẳng làm khó nhọc, cũng không kéo chỉ; song ta phán cùng các ngươi, dầu vua Sa-lô-môn sang trọng đến đâu, cũng không được mặc áo như một hoa nào trong giống ấy” (Lc 12, 25-26)
Trong giây phút giao thừa, là thời gian chuyển tiếp giữa cũ và mới. Một thời khắc chuyển sang một năm mới với nhiều âu lo, trăn trở. Chúng ta hãy gác mọi lo âu trăn trở để sống giây phút hiện tại thật bình yên và hạnh phúc. Hãy phó dâng cho Chúa như muôn chim, muôn hoa để cho Chúa thực hiện theo sự quan phòng của Ngài. Chúng ta hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quyền năng, một Thiên Chúa nhân từ sẽ làm mọi sự tốt nhất cho con người, vì chúng ta là hình ảnh của Ngài, là con cái của Ngài, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta.
Xin Chúa chúc phúc cho chúng ta một đêm giao thừa an bình. Xin cầu chúc cho quý ông bà và anh chị em được những giây phút hiện tại này tràn đầy niềm vui trong tình Chúa tình người đầy ắp hôm nay. Amen.
16. LỄ GIAO THỪA 2020: Tha Thứ Để Có Niềm Vui Xuân
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Ngày 03/10/2019, một thanh niên da đen 18 tuổi đã làm rúng động nước Mỹ, và có thể còn xa hơn nữa, với thông điệp tha thứ của anh.
Trong phiên tòa xét xử cô Amber Guyger, 31 tuổi, cảnh sát viên người da trắng.
Vì mải nói chuyện điện thoại cho nên cô đã đi nhầm vào phòng của anh Botham Jean, và ngạc nhiên khi thấy anh Botham đang ngồi ăn kem trong phòng khách, cô liền rút súng ra. Cô tưởng anh tấn công mình nên cô đã bắn hai phát súng trúng vào tim anh. Botham Jean, 26 tuổi, người da đen, đã chết trong căn phòng của mình một cách bất ngờ, ngỡ ngàng không hiểu tại sao mình phải chết!
Trong bối cảnh căng thẳng vì vấn đề màu da và vì tình trạng bạo hành của cảnh sát, phiên tòa xử cô Amber Guyger đã diễn ra hết sức căng thẳng.
Kết thúc 4 ngày xét xử, bồi thẩm đoàn đã nhất trí kết tội cô là ‘sát nhân’. Và kết án 10 năm tù.
Người em trai của Botham tên là Brandt Jean, 18 tuổi, khi được cho phép nói lên lời cuối với tội nhân, đã sử dụng thời gian đó tại tòa án để đưa ra một thông điệp tha thứ:
“Tôi không muốn nói hai lần hoặc hàng trăm lần cô đã lấy đi những gì, và bao nhiêu từ chúng tôi.
Tôi nghĩ rằng cô biết điều đó. Nhưng tôi chỉ hy vọng rằng cô đến với Chúa với tất cả mọi tội lỗi và tất cả những gì tôi nghĩ là xấu xa mà cô đã từng làm trong quá khứ.
Ai trong chúng ta cũng có thể đã làm một cái gì đó chúng ta không nên làm.
Nếu cô thực sự hối hận. Tôi biết tôi có thể nói về phần tôi là tôi tha thứ cho cô.
Và tôi biết nếu cô đến với Chúa và xin Ngài tha thứ thì Ngài sẽ tha thứ cho cô. Thực tâm tôi không muốn cô phải ngồi tù. Tôi không muốn bất cứ điều gì xấu cho cô’’.
Ngập ngừng một lúc, anh quay sang phía chánh án hỏi:
‘‘Tôi không biết tôi có thể dành cho cô ấy một cái ôm không? Xin vui lòng cho phép tôi’’.
Bà chánh án Tammy Kemp rất bối rối trước đề nghị này. Sau một lúc suy nghĩ bà nói “Được”.
Chứng kiến cảnh này bà chánh án Tammy Kemp đã rơi lệ.
Đây “Thật là một tấm gương đáng kinh ngạc về tình yêu và sự tha thứ Kitô giáo, chàng trai 18 tuổi đã thay anh tha thứ cho người sát hại anh và khuyến khích cô ấy hiến dâng cuộc sống của mình cho Chúa Kitô để bù đắp tội lỗi mình.
Hôm nay đêm giao thừa, nhắc lại sự kiện này như muốn mời gọi tất cả chúng ta “điều gì tha thứ được thì hãy tha thứ”, “điều gì có thể quên đi được thì hãy quên đi”, nhất là hãy quên đi oán giận, hận thù ganh ghét để cho tâm hồn thanh thản bước vào một mùa xuân mới của đất trời. Và nếu chúng ta là người đã nhận được sự tha thứ của anh em thì hãy hiến dâng cuộc sống mình phụng sự cho Chúa để bù đắp lại tỗi lỗi của mình.
Và giây phút giao thừa đã gần tới. Giây phút “tống cưu nghinh tân” là tống bỏ đi những điều không tốt để đón điều tốt đẹp đến với chúng ta. Giây phút này chúng ta hãy can đảm bỏ đi những đố kỵ, giận hờn, ghen ghét. Hãy làm mới tình người qua tinh thần hòa giải yêu thương. Giây phút này không ai muốn ưu phiền, càng không muốn những điều bực dọc đến với mình. Hãy gác lại những bất đồng ý kiến, những thành kiến cố chấp để cùng nhau đón một mùa xuân yêu thương và hạnh phúc.
Nhưng điều mà Chúa muốn chúng ta là phải dấn than để “hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Vạn vật vào xuân để thay đổi thì con người muốn thăng tiến cũng phải vươn lên để hoàn thiện hơn.
Xin Chúa giúp chúng ta tống bỏ đi những điều xấu để mặc lấy con người mới. Con người đầy ân sủng của Chúa sẽ mang về cho nhân gian niềm vui và hạnh phúc. Xin Chúa chúc lành cho đêm giao thừa chúng ta tràn ngập tiếng cười vui và muôn lời cầu chúc tốt đẹp dành cho nhau. Amen
17. GIAO THỪA KỶ HỢI 2019: HÃY TẠ ƠN CHÚA TRONG MỌI HOÀN CẢNH
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Các báo đài và facebook luôn có mục điểm lại các sự kiện quan trọng nổi bật trong năm. Những thành công, thất bại, những niềm vui, nỗi buồn như những trang sách được lật qua từng ngày. Sau những ồn ào tất bật của ngày cuối năm, bước vào những giờ phút cuối cùng của năm cũ, chúng ta có dịp đến đây để nhìn lại, lật qua những biến cố xảy ra trong cuộc đời dưới cái nhìn đức tin và để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Nhìn lại ba trăm sáu mươi lăm ngày đã qua có những lúc niềm vui ngập tràn và cũng có những lúc mây mù u ám, nhưng tất cả 365 ngày là chuỗi ngày có bàn tay Thiên Chúa dắt dìu.
Thánh Phaolô trong bài đọc hai mời gọi tất cả mọi người: Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh, vì đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô muốn nhắc chúng ta rằng, chúng ta không chỉ tạ ơn Chúa những khi vui, lúc thành công, nhưng trong mọi hoàn cảnh hãy tạ ơn. Điều đó có nghĩa là chúng ta còn phải tạ ơn Chúa cả khi buồn và khi không thành công. Xét cho cùng trong những lúc đau buồn, Chúa vẫn dùng nhiều người và nhiều cách để an ủi chúng ta; Chúa ban cho chúng ta sức mạnh và nghị lực để vượt qua nỗi buồn. Cũng vậy, có nhiều khi thất bại tối tắm mặt mũi, nhưng trong những thất bại ấy, Chúa vẫn trợ giúp bằng ơn soi sáng và nhiều ơn nâng đỡ khác để giúp ta vượt qua. Chúa gìn giữ chúng ta để trong cái rủi vẫn có nhiều điều may và trong những cái mất vẫn có nhiều cái được, trong thất bại, vẫn có nhiều điều tích cực và cơ hội.
Điều quan trọng mà thánh Phaolô nhắc chúng ta tạ ơn Chúa, là vì Thiên Chúa hằng ban Thánh Thần trên chúng ta. Thánh Thần hoạt động trong chúng ta qua các ơn của Ngài: Khôn ngoan, sức mạnh, can đảm, hiểu biết, soi sáng, kính mến Chúa, vv. Hơn nữa có chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an thánh hóa toàn diện con người và tâm trí chúng ta. Ơn bình an của Chúa là ơn được ban trong tâm hồn, để khi tâm hồn bình an, chúng ta sẽ được sáng suốt để xử lý và giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Ơn bình an trong tâm hồn là hoa quả của ơn tha thứ tội lỗi mà Chính Đức Giêsu đem lại cho chúng ta qua bí tích Hòa Giải. Chính Thiên Chúa là đấng gìn giữ và ban bình an cho chúng ta qua mỗi giây phút của cuộc sống. Vì thế, nhìn lại những ngày đã qua, Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: Anh em hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Đó là điều Thiên Chúa muốn chúng ta thể hiện trong lúc này và suốt cuộc đời.
Tụ họp nhau nơi nhà Chúa trong giờ phút giao thừa này còn là thời khắc để chúng ta tạ lỗi với Chúa và xin Chúa chúc lành cho năm mới sắp tới. Xin lỗi Chúa vì những lần chúng ta vô ơn, bất tín với Chúa. Chúng ta đón nhận được ơn Chúa, nhưng vẫn chưa bày tỏ lòng biết ơn, trái lại nhiều khi chúng ta đã coi những thành công là do khả năng và sự khéo léo của mình. Mỗi ngày qua đi là mỗi ngày chúng ta đón nhận được ơn bình an và sự trợ giúp của Chúa, nhưng cả ngày sống chúng ta đã không dành lại cho Chúa một khoảng thời gian thờ phượng tạ ơn cho tương xứng. Nhìn lại trong tâm hồn, mỗi người đã nhiều lần đón nhận được ơn tha thứ và chữa lành, ơn bình an và sức mạnh và nhất là ơn cứu độ của Chúa ban cho, nhưng chúng ta vẫn chưa sử dụng ơn Chúa một cách hiệu quả, vẫn để mình bị trì kéo nghiêng chiều về điều xấu. Vậy mà Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc chúng ta trong đau khổ và sự chết, Ngài vẫn luôn ghé mắt nhìn đến chúng ta.
Ngày xưa dân Do Thái đã nhiều lần bất trung với Thiên Chúa. Có những lần Thiên Chúa đã toan bỏ mặc họ cho quân thù giày xéo, nhưng Thiên Chúa đã không nỡ bỏ con người, Ngài vẫn thương nhìn đến họ. Từ kinh nghiệm được Thiên Chúa yêu thương ngoảnh mặt lại nhìn đến dân Người mà hôm nay, ông Mose đã chúc lành cho dân chúng cùng với lời cầu xin: Xin Đức chúa thương chúc lành và gìn giữ anh em. Xin Đức Chúa tươi nét mặt mà nhìn đến và dủ lòng thương anh em. Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em. Đó là những điều Mose cầu xin cho dân Chúa và cũng là điều Giáo Hội cầu xin cho con cái mình trong giờ phút linh thiêng này, để mọi người, mọi gia đình đều được đón nhận ơn phúc lành và sự bình an của Chúa; xin Chúa tươi nét mặt nhìn đến từng người từng gia đình. Vì, Chúa ghé mắt nhìn đến ai thì người ấy sẽ được đặt dưới sự bảo trợ của chính Thiên Chúa.
Nghe lại Tám Mối Phúc trong bầu khí của đêm giao thừa hôm nay, chúng ta cảm thấy lời nhắc nhở của Chúa dành cho chính mình. Đây chính là kim chỉ nam, là định hướng mọi dự định và toan tính cho năm mới. Có thể nhiều người cũng đã có những kế hoạch và dự định riêng cho năm mới, nhưng kế hoạch nào thì cũng cần phải đặt dưới sự hướng dẫn của các mối phúc này làm ưu tiên. Có thể nói, ai cũng mong muốn một cuộc sống sung túc, giàu sang về của cải vật chất, đó là mong ước chính đáng. Tuy nhiên, Chúa muốn chúng ta, dù giàu hay nghèo về vật chất, chúng ta vẫn phải giữ được một tinh thần nghèo khó như mối phúc đã nói. Người có tinh thần nghèo khó là người có lòng khiêm nhường trước mặt Chúa và mọi người, biết đặt trọn cuộc đời nơi Thiên Chúa, lệ thuộc vào Thiên Chúa và để cho Thiên Chúa hướng dẫn từ lời nói đến việc làm và những toan tính của mình. Sống như thế sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và sẽ hạnh phúc trong cuộc sống.
Mối phúc hôm nay chúc phúc cho những người hiền lành sẽ giành được đất, nhưng không phài là đất đai, mà là Đất Hứa tức là hạnh phúc Nước trời: Phúc cho những ai hiền lành vì họ sẽ Đất Hứa làm gia nghiệp. Người hiền lành là người không để cho những tình cảm, phản ứng nóng nảy chi phối, nhưng biết cư xử và giải quyết mọi vấn đề trong tình yêu thương và bác ái. Người hiền lành sẽ bộc lộ ra cuộc sống bên ngoài cách ăn nói nhẹ nhàng dễ nghe, nói những lời hay, lời tốt đẹp, mang tính xây dựng và cách cư xử từ tốn. Người hiền lành sẽ không gieo điều xấu điều ác cho người khác, lời nói luôn chân thật cho dù cuộc sống xã hội bên ngoài vẫn đầy dẫy những dối gian xảo trá, lọc lừa.
Các mối phúc không quên nhắc đến những người đang sầu khổ cả tinh thần và mệt mỏi về thể xác, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. Thiên Chúa đến là để chia sẽ thân phận đau khổ của kiếp người. Đau khổ do bệnh tật nghèo đói ngày nay là do chính con người gây ra cho nhau và đau khổ tột cùng là sự chết do ma quỷ và tội lỗi gây ra cho nhân loại. Chúa Giêsu thấu hiểu nỗi đau khổ đang dằn vặt trên con người, Ngài đã đến để ở với con người, nếm trải sự yếu đuối bệnh tật, giới hạn của kiếp người. Chúa Giêsu đã dùng cái chết và sự phục sinh của Ngài để giải thoát con người khỏi đau khổ của sự chết, cho con người được sống và còn được chia sẻ vinh quang với Chúa. Chúa Giêsu đã an ủi bà góa Naim: Đừng khóc nữa; Ngài nói với ông trưởng hội đường: Ông cứ an tâm, con ông không chết đâu; Ngài nói với các môn đệ trong lúc đau khổ: Bình an cho các con; lúc các ông gặp sóng gió: Thầy đây, đừng sợ. Chúa cũng sẽ an ủi chúng ta lúc chúng ta buồn chán, đau khổ hoặc thất bại khi chúng ta đến với ngài, để cho Ngài yêu thương, an ủi vỗ về.
Tất cả các mối phúc đểu nhắc cho chúng ta biết chọn lựa cách sống và làm ăn trong năm mới theo tinh thần của Tin Mừng. Chúng ta đừng lập kế hoạch làm ăn một mình, nhưng hãy bàn bạc với Chúa, lắng nghe Chúa tư vấn. Chúa sẽ chỉ cho chúng ta biết phải làm như thế nào tốt nhất cho phần linh hồn, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho cuộc sống thường ngày. Khi dám sống và làm việc theo các mối phúc, chúng ta sẽ được Chúa chúc phúc ngay tại đời này và gia nghiệp Nước trời chắc chắn sẽ được dành cho chúng ta mai sau trên Nước Trời.
Thưa quý OBACE giây phút giao thừa này là dịp để mỗi người tạ ơn Chúa vì một năm đã qua, mọi biến cố vui buồn cũng đã qua. Những gì đã qua, niềm vui nỗi buồn, cả những sai lỗi và bất toàn, chúng ta phó dâng cho lòng thương xót Chúa. Chúng ta dâng những toan tính dự định của mình trong năm mới cho Chúa, xin Chúa chúc lành và giúp chúng ta dù làm việc gì, luôn biết đặt ưu tiên tìm kiếm hạnh phúc nước trời cho mình, cho gia đình. Vì giàu có của cải vật chất, nhiều nhà cửa, xe cộ, ruộng vườn mà gia đình không bằng an, không hạnh phúc, thì đó là thất bại; nhất là: lời lãi cả và thế gian mà thua thiệt mất linh hồn thì chẳng có ích gì. Mất linh hồn sẽ là mất tất cả và là thất bại lớn nhất.
Xin Chúa đón nhận tâm tình tạ ơn và tạ lỗi của chúng con trong giây phút giao thừa này và chúc lành cho năm mới sắp tới của chúng con. Amen. (Nên dành một ít phút thinh lặng).
18. GIAO THỪA XUÂN MẬU TUẤT 2018: ĐÊM TẠ ƠN
(Lm. Jos Tạ duy Tuyền)
Anh chị em thân mến
Một năm cũ sắp trôi qua và một năm mới sắp đến. Trong khoảng khắc giao thừa giữa cũ và mới này, chúng ta đến với Chúa, Đấng Tạo dựng muôn loài, Đấng làm chủ thời gian, để tạ ơn Ngài về 365 ngày sắp qua, và xin Ngài giúp chúng ta biết sử dụng 365 ngày sắp đến theo đúng thánh ý Ngài.
Đêm nay người ta vẫn gọi là đêm giao thừa, là nhịp cầu chuyển tiếp giữa cũ và mới. Ai ai cũng mong muốn trút khỏi lòng mình mọi lo âu phiền muộn, không ai dám nhắc tới những rủi ro bất hạnh của ngày hôm qua, dường như ai cũng thầm mong ước cho đêm nay như là một khởi đầu tốt đẹp cho hành trình mới của tương lai. Ai cũng gác lại quá khứ để bước vào năm mới trong niềm vui và hy vọng như câu ca dao xưa:
“Đêm ba mươi co cẳng đạp thằng bần ra cửa.
Sáng mồng một giang tay bồng ông phước vào nhà”.
Thực vậy, mùa xuân, ngày tết, ai cũng mong nhận được nhiều phước lộc, nên ai cũng chúc cho nhau nhiều tài lộc, nhiều tiền, nhiều của. Những người có tín ngưỡng thì tin rằng may mắn, tiền của là ân lộc trời ban. Nhưng phước hạnh đời người mà chúng ta cầu chúc cho nhau không chỉ là nhắm đến tài lộc mà là hạnh phúc miên trường, hạnh phúc của người có tâm hồn bình an.
Nhìn lại một năm qua, có những người được hạnh phúc vì làm ăn thuận buồm xuôi gió, công thành danh toại, có những người hạnh phúc vì tìm được chân lý, tìm được lẽ sống, tìm được bình an trong tâm hồn. Nhưng vượt lên trên tất cả cái may mắn đó, chính là sự sống, là sự bình an của đời người. Sự sống luôn ở bên ngoài khả năng của chúng ta, sự sống của chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa.
Hạnh phúc là ân ban của Thiên Chúa. Con người không thể kiến tạo hạnh phúc cho mình bằng thủ đoạn, bằng gian dối hay sự ác. Con người phải sống ngay lành nhờ đó mà Thiên Chúa mới ban phúc lộc là bình an. Một năm qua với những vụ trọng án cho ta thấy con người không thể tạo dựng hạnh phúc cho mình bằng quyền lực để tham nhũng hại dân mà phải bằng tấm lòng luôn đi theo chân thiện mỹ. Đâu ai ngờ một ông Đinh La Thăng dám nói dám làm đầy quyền thế lại phải hầu tòa? Đâu ai ngờ một Trịnh Xuân Thanh luôn sống trong nhung lụa giầu có quyền thế lại phải thân tàn ma dại? Đâu ai ngờ một đại gia Vũ Nhôm khuynh đảo Tp đáng yêu Đà Nẵng lại có kết cục trong tù tội . . .?
Hạnh phúc đến từ lộc Trời ban xuống thì con người phải sống theo lẽ Trời. Phải sống ăn ở ngay lành và làm việc thiện phúc đức. Quy luật của trời đất là “Xởi lởi trời gửi của cho -Co ro trời co của lại”. Càng gieo nhân nghĩa con người lại càng tìm được niềm vui hạnh phúc tự trong tâm hồn. Đây gọi là tích đức để Trời sẽ ban hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và cho mọi người thân nhờ công đức của ta.
Nếu hiểu rằng hạnh phúc – bình an là lộc ban từ Trời thì giây phút này là giây phút tạ ơn về quá khứ đã qua. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta 365 ngày bình an. Tạ ơn Chúa vì những biến cố xảy ra trong cuộc đời giúp ta nhận ra tình yêu của Chúa luôn bao bọc gìn giữ chúng ta. Có thể đó là những đau khổ, là những mất mát nhưng chúng ta lại được bàn tay Chúa dìu dắt và bồng ẵm chúng ta qua những thăng trầm cuộc đời. Tạ ơn Chúa đã cho chúng ta niềm tin tưởng vào Chúa, nếu không, biết đâu giờ này chúng ta đang rơi vào tâm trạng tuyệt vọng vì không đủ can đảm đối diện trước gian nan.
Nguyện xin Chúa Xuân đang về trên quê hương ban cho chúng ta những giây phút đầu xuân tràn đầy bình an và hoan lạc. Xin Chúa Xuân chúc lành cho giây phút giao thừa này được vơi đi những ưu phiền để người người hưởng một mùa Xuân thánh ân hạnh phúc dư tràn. Amen.
19. GIAO THỪA NHÂM THÌN 2012: TẠ ƠN TRỜI ĐẤT
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Ai đã có những lần, xa nhà, xa quê và đón giao thừa năm dương lịch ở nơi xứ người thì sẽ thấy khác biệt giữa giao thừa dương lịch và giao thừa âm lịch của chúng ta, những giao thừa tết tây, mặc dù pháo hoa bắn rợp trời, mà lòng người như vẫn thấy xa xôi, trái lại mỗi năm người Việt Nam chúng ta ai chũng chờ đợi giây phút linh thiêng của đêm giao thừa này; Mỗi người như cảm nhận, như đụng chạm được đến thời khắc thiêng liêng chuyển giao của năm cũ và năm mới; Tiễn năm cũ qua đi với bao buồn vui tiếc nuối lẫn lộn, đón năm mới đến với lo âu và hy vọng,.. tất cả những tình cảm ấy đang đan xen trong mỗi chúng ta.
Giây phút này là giây phút thảnh thơi nhất trong năm, vì lúc này đây mọi người như tạm gác lại mọi lo toan của năm cũ đế đón chào một năm mới với hy vọng đổi mới tốt hơn, mọi người cũng có dịp nhìn lại trách nhiệm của mình với gia đình, với cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè và có thể nói rằng, nếu ngày cuối năm dương lịch là ngày người ta tổng kết công việc, thì ngày cuối năm âm lịch là dịp mọi người tổng kết lại các mối tương quan trong cuộc sống.
Có lẽ thiết thân nhất là mối tương quan trong gia đình, ai cũng muốn cho gia đình mình giàu sang và hạnh phúc, đó là mơ ước thật chính đáng, thế nhưng làm thế nào để cho gia đình mình giàu sang và hạnh phúc thì mỗi người lại có những suy nghĩ và cách thực hiện khác nhau và ưu tiên khác nhau. Cụ thể có nhiều người đặt hạnh phúc làm ưu tiên số một, còn có nhiều người lại lấy sự giàu sang làm chính. Vì chỉ quan tâm đến tìm kiếm sự giàu sang, nên nhiều người đã lơ là việc xây dựng và vun trồng hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là điều tự nhiên mà có, nó cũng không đương nhiên xuất hiện trong gia đình cùng với sự giàu sang, mà nó là hạt giống, là cây mầm đòi mỗi người phải vun tưới mỗi ngày. Hoa trái hạnh phúc phải là kết quả của sự chung tay đóng góp của mọi thành viên. Tuy nhiên, vì lo tìm kiếm sư giàu sang, nên nhiều người đã quên mất yêu tốhạnh phúc, đã để tình cảm yêu thương giữa cha mẹ và con cái trở nên lỏng lẻo, thiếu quan tâm thiếu thông cảm và lắng nghe, đã để cho tình yêu vợ chồng trở nên nhạt nhẽo và bầu khí gia đình trở nên lạnh giá, thiếu vắng nụ cười thiếu vắng niềm vui.
Lúc này chính là lúc mỗi người cần nhìn lại và tìm cách, cũng như quyết tâm đặt lại thứ tự ưu tiên cho gia đình; có thể gia đình mình chưa giàu sang, nhưng gia đình ấm cúng thì vẫn hạnh phúc hơn gia đình giàu sang nhiều tiền nhiều của mà nghèo nụ cười, thiếu niềm vui, bầu khí gia đình lạnh lẽo. Chúng ta cũng cần nhìn lại tương quan của chúng ta với cha mẹ, nhất là với cha mẹ già, đôi khi vì sư thiếu kiên nhẫn với các ngài, trong lúc các ngài tuổi cao sức yếu, mà chúng ta đã có những lời lẽ bất kính, những thái độ coi thường hoặc khinh khi các ngài, chúng ta cần điều chỉnh lại để sống cho tròn chữ hiếu, để cho các ngài được hạnh phúc trong tuổi già, không phải khóc vì tủi thân. Là cha mẹ chúng ta cũng cần xem lại thái độ của chúng ta với từng đứa con để đem đến cho con cái một môi trường an toàn và hạnh phúc.
Kế đến chúng ta cũng cần nhìn lại mối tương quan anh em họ hàng bạn bè, dường như cuộc sống của mỗi người ngày nay quá bận rộn khiến anh em họ hàng chẳng mấy khi có dịp đến thăm nhau, thậm chí một năm cũng chỉ được ngày tết đến với nhau mà cũng vội vàng như làm nghĩa vụ… cứ như thế, thì chỉ một thời gian ngắn nũa thôi, anh em họ hàng sẽ như người xa lạ, con cháu, họ hàng gặp nhau cũng như người dưng, chẳng còn thân thiết nữa. Dịp tết này là dịp để chúng ta làm cho tình nghĩa anh em họ hàng xóm ngõ thêm đậm đà, gắn bó, hiểu nhau hơn, quý mến nhau hơn bằng việc thăm viếng nhau, hàn huyên tâm sự với nhau trong bầu khí ấm áp của những ngày xuân này, vì mỗi người sống là sống trong tình liên đới với nhau.
Nhưng mối tương quan quan trọng nhất mà giây phút giao thừa này chúng ta cần nhìn lại đó là tương quan của chúng ta với Trời Đất để biết sống tâm tình trân trọng và biết ơn, đất trời trước hết là môi trường sống của tất cả mọi người, là môi trường thiên nhiên xung quanh mà chúng ta cần trân trọng và bảo vệ và làm cho trong lành tốt đẹp hơn; hai chữ Tạ ơn Trời Đất, dù có nghĩa dân gian, song với người Kitô hữu đó còn là kiểu nói để diễn ta lòng biết ơn của chúng ta với Đấng Tạo Hóa là Thiên Chúa của chúng ta, Đấng làm chủ và điều khiển cả vũ trụ này.
Tạ ơn vì phúc lành Chúa hằng thương ban, tạ ơn vì mưa thuận gió hòa, vì tai qua nạn khỏi vì buôn bán làm ăn thuận lợi thành công, vì gia đình ấm cúng, tạ ơn Chúa vì Chúa thương gìn giữ mỗi người và mỗi gia đình, đó là lời Thánh Phaolô đã mời gọi trong bài đọc hai: Anh em hãy cầu nguyện không ngừng và hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh, điều gì tốt thì giữ lại và điều gì xấu hãy tránh cho xa. Tâm tình này cũng là tâm tình Mose nói với Aaron và con cháu ông rằng: Các ngươi hảy chúc lành cho con cái Israel, hãy nói với chúng thế này: Xin Chúa chúc lành cho con và gìn giữ con, xin Chúa tỏ thánh nhan Chúa cho con và thương xót con. Xin ghé mặt lại cùng con và ban bằng yên cho con. Thiên Chúa là Đấng tốt lành, Ngài luôn muốn và làm điều tốt cho con người, khi Chúa ghé mắt nhìn đến ai là Ngài yêu thương quan phòng che chở và bảo vệ người ấy giống như Ngài đã ghé mắt đến Apbraham, Isaac và Giacóp để làm cho các ông trở thành các tổ phụ vĩ đại, Ngài đã ghé mắt đến vua Đavít từ khi ông còn là một đứa trẻ theo sau đàn vật để dẫn đưa ông trở thành một vị vua của Israel, Ngài đã ghé mắt đến Đức Maria để làm cho mẹ trở thành một tạo vật tuyệt hảo nhất trong mọi tạo vật.
Để được Chúa ghé mắt đến, để được Chúa chúc lành, đòi mỗi người phải dám sống những đòi hỏi của các mối phúc mà chúng ta vừa nghe trong bài tin Mừng. Ngày hôm nay con người dường như tìm kiếm và chạy theo tiền bạc của cải, họ muốn phô trương sự giàu sang phú quý, thì Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì nước trời là của họ. Lời chúc phúc này cho thấy rằng của cải vật chất ở trần gian nó cần thiết cho cuộc sống nhưng nó lại hoàn toàn không thể đem đến hạnh phúc thật cho con người, chỉ có Thiên Chúa và nước Trời mới là hạnh phúc thật mà chỉ những người có một tâm hồn khiêm nhường nghèo khó, khao khát tìm kiếm thì mới tìm được. Ngày hôm nay cuộc sống cạnh tranh khốc liệt, kẻ mạnh là kẻ thắng thế, kẻ giàu có là người có tiếng nói, kẻ nắm giữ quyền lực là người chi phối người khác thì Chúa Giêsu lại chúc phúc cho những người sống hiền lành, vì chỉ những người hiền lành, trong lòng không chất chứa sự gian ác, sống ngay thẳng thật thà đặt trọn niềm tin tương nơi Chúa, không chạy theo danh vọng quyền lực, mới là những người xứng đáng được ở trong vương quốc của Chúa …cũng như thế nhưng người hương được phúc lành của Thiên Chúa là người đau buồn đói khát điều công chính, là những người được Chúa ghé mắt nhìn đến, vì những người này không còn cây dựa vào quyền lực sức mạnh thế gian nhưng tìm đến với sự an ủi vỗ về của Thiên Chúa.
Thưa quý OBACE, hơn lúc nào hết trong giây phút giao thừa này Giáo Hội cũng xin Chúa ghé mắt nhìn đến dân Chúa là những người đang thành tâm chạy đến với Chúa, đến với chúa với lòng biết ơn, đến với Chúa trong giờ phút này là chúng ta đang muốn nói lên tâm tình tin tưởng và phó thác, biết ơn vì từng hơi thở, từng nhịp sống của ta là do bởi Chúa điều khiển và quan phòng, dẫn dắt chúng ta vượt qua bao trở ngại thăng trầm.
Đến với Chúa trong giờ phút này để mỗi người khi đã nhận ra tình yêu của Chúa, thì cũng biết điều chỉnh lại cuộc đời của mình, sống thân thiết với Chúa hơn trong năm mới, đến với Chúa thường xuyên hơn qua việc dâg lễ tạ ơn Chúa mỗi ngày, qua việc xưng tội rước lễ.
Đến với Chúa trong giờ phút linh thiêng này để mỗi người nhìn lại gia đình của mình và dám nhận trách nhiệm về mình, để rồi vợ chồng, cha mẹ, con cái cùng chung tay làm mới lại bầu khí của gia đình, thay đổi lại cách sống cách cư xử với nhau, tái lập lại những bữa cơm thân mật xum vầy, tái lập lại những giờ phút bên nhau cùng tạ ơn Chúa bằng việc đọc kinh cầu nguyện mỗi tối. Vì, hạnh phúc và niềm vui chỉ đến với những gia đình nào kiên trì với Chúa mà thôi.
Chúc mọi người mọi gia đình ngập tràn niềm vui và nụ cười, bình an và hạnh phúc của Chúa trong Năm mới này. Amen.
20. THÁNH LỄ GIAO THỪA – TẠ ƠN CHÚA VÌ MUÔN PHÚC LÀNH
(https://thanhcavietnam.net // Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Người Việt nam có một nét văn hóa rất đẹp trong đêm giao thừa: Vào đêm ba mươi, gia đình tụ họp trước bàn thờ tổ tiên hoặc trước Bàn Thiên để cùng nhau tạ ơn trời đất một năm qua mưa thuận gió hòa; tạ ơn ông bà vì một năm phù hộ, độ trì cho con cháu làm ăn tốt đẹp. Thời khắc giao thừa cũng là lúc mọi người muốn loại bỏ những gì là muộn phiền của năm cũ, để bắt đầu năm mới với hy vọng một khởi đầu mới sáng tươi.
Đón nhận truyền thống văn hóa tốt đẹp đó, đêm giao thừa người Công giáo Việt Nam cùng nhau quy tụ nơi nhà của Chúa, nhìn lại một năm đã qua, để tạ ơn Thiên Chúa về tất cả mọi sự tốt lành Chúa đã ban tặng, cho cuộc sống cá nhân, gia đình và cầu xin Chúa ban một mùa xuân và một năm mới được may lành hạnh phúc. Vì thế, các bài đọc Lời Chúa đêm nay đều nhắc tới phúc lành của Thiên Chúa như là quà tặng Chúa đã ban cho con người.
Bài đọc một kể lại việc ông Mose đứng lên chúc lành cho dân chúng theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Phúc lành quan trọng nhất được nhắc đến, không phải là sự giàu sang phú quý, cũng không phải là sự may mắn trong làm ăn theo kiểu thế gian, nhưng là sự gìn giữ và quan phòng của Thiên Chúa: Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em. Nói đến việc Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ, dân Israel đã có kinh nghiệm được Thiên Chúa chúc phúc và dùng cánh tay hùng mạnh để gìn giữ, giải thoát và bảo vệ họ. Ước mong được Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ, là ước mong được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Nguyện ước tiếp theo là xin Thiên Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an của Ngài cho anh em. Lời nguyện ước này, dân Israel đặt mình như một đứa con thơ sống dưới ánh mắt chăm sóc và che chở của Thiên Chúa là Cha. Khi được Thiên Chúa nhìn đến, con người sẽ được sống trong hạnh phúc an vui dưới sự bảo vệ của Ngài.
Bài đọc hai thánh Phaolô mời gọi : Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Đó cũng là tâm tình chúng ta cần có trong giờ phút này và suốt cuộc đời. Vì cầu nguyện, chính là lúc chúng ta sống tâm tình con thảo, đặt hết niềm tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa là Cha, Đấng yêu thương và quan phòng, luôn muốn và làm điều tốt cho ta là con của Ngài. Hãy tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, vì trong một năm qua và suốt cả cuộc đời, có những lúc thăng trầm biến đổi, thành công xen lẫn thất bại, niềm vui xen lẫn nỗi buồn. Nhưng trong tất cả những bước thăng trầm đó, chúng ta luôn cảm nghiệm một cách cụ thể, Thiên Chúa luôn ở với ta, Ngài vẫn luôn ra tay kịp thời, để giúp giải gỡ những khó khăn, an ủi khi ưu sầu và dẫn qua những đoạn đường chông gai.
Suốt một năm trôi qua, tất cả mọi người đều bận rộn với công việc, các toan tính của mình, của gia đình. Có những người công việc thành công, đem lại lợi nhuận kinh tế, nhưng cũng có những người không được như mong đợi. Tuy nhiên, dù lo toan rất nhiều việc, nhưng có nhiều người vẫn không xác định được mục tiêu của gia đình là gì và mục đích chung cuộc của cuộc đời mình là gì? Vì thế, họ để mình đi lạc hướng và dù có thành công nhưng vẫn không tìm thấy hạnh phúc.
Tin Mừng đêm giao thừa chỉ cho thấy, mục đích cuối cùng của đời người chúng ta là tìm kiếm hạnh phúc. Tuy nhiên nhiều người đã dừng lại ở việc tìm kiếm niềm vui và hạnh phúc ở đời này, mà quên tìm kiếm hạnh phúc cho đời sau. Niềm vui và hạnh phúc đời này là điều cần, nhưng chưa đủ. Chỉ khi đạt được hạnh phúc ở đời này và hạnh phúc đời sau, chúng ta mới hạnh phúc thật. Kinh nghiệm cuộc sống cho thấy, tiền bạc của cải, danh vọng, địa vị, có thể thỏa mãn niềm vui, nhưng không chắc đem đến hạnh phúc cho mình và gia đình.
Trong bài diễn từ về Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu chỉ cho ta những con đường và những cách sống, để đạt được hạnh phúc ngay ở đời này và là bảo đảm cho hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Những con đường và cách sống này, đòi chúng ta phải dám sống khác với những khuynh hướng và trào lưu của xã hội. Đây là một con đường khó, nhưng là con đường chắc chắn, bảo đảm chúng ta sẽ đạt được cùng đích cuộc đời và mục tiêu của gia đình. Cuộc sống và nền kinh tế thị trường hôm nay cám dỗ mọi người lao vào làm giàu bằng mọi giá, thì mối phúc thứ nhất lại mời gọi chúng ta phải có một tâm hồn khó nghèo. Người có tâm hồn khó nghèo trước hết là một người khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa và với mọi người. Có tâm hồn khó nghèo, để không vênh vang, nhưng biết cậy dựa vào Thiên Chúa và biết sống tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Người sống khó nghèo là người không cậy dựa vào thế lực của tiền bạc, để chèn ép người khác, không để mình bị lệ thuộc hoặc yêu thích tiền của, khiến họ khép lòng từ chối anh chị em, biến mình trở thành nô lệ tiền của. Khi sống thanh thoát như vậy, họ sẽ có được niềm vui và hạnh phúc ngay ở đời này và nhất là họ được Nước Trời làm gia nghiệp.
Sống trong xã hội đầy dẫy bạo lực bạo hành, ganh đua ghen tị, mạnh được yếu thua, chúng ta được Chúa mời gọi sống hiền lành và biết xót thương những người chung quanh. Sống hai mối phúc này gíup chúng ta loại trừ được sự nóng nảy cãi vã, biết cư xử với nhau bằng tình yêu thương và lòng quảng đại vị tha. Người sống hiền lành sẽ là người đem lại bình an cho mình và cho người khác. Hiền lành không phải là nhu nhược, cũng không thụ động nhắm mắt làm ngơ trước sự dữ và bất công, nhưng hiền lành, để dù có phản ứng chống lại bất công, chúng vẫn phản ứng trong ôn hòa, đúng mực. Cũng vậy, khi có tâm hồn biết xót thương, chúng ta sẽ có một trái tim rông mở, một tâm hồn bao dung, để đồng cảm và thông cảm với anh chị em. Khi sống hiền lành và biết xót thương, chúng ta sẽ đón nhận được lòng xót thương của Thiên Chúa và được Chúa làm gia nghiệp.
Bước qua năm mới, mọi người đếu muốn những điều cũ không vui, không tốt sẽ qua đi, để bắt đầu năm mới với bình an và niềm vui mới. Nhưng để có được hạnh phúc, bình an, niềm vui, Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta phải trở thanh người xây dựng hòa bình. Nhìn lại một năm qua, chúng ta đã làm gì để đem lại hòa bình, bình an và niềm vui cho mình, cho gia đình và cho giáo xứ ? Muốn trở thành người xây dựng hòa bình, trước hết chúng ta phải tạo nên sự hòa bình trong tâm hồn, phải dẹp bỏ cuộc nội chiến trong tâm hồn và trong gia đình. Cuộc chiến trong tâm hồn trước tiên, là cuộc chiến với ma quỷ, ham muốn và tội lỗi. Chỉ khi chúng ta tẩy trừ khỏi mình tội lỗi và sự chi phối của ma quỷ, tâm hồn ta mới có thể được bình an. Hãy dùng Bí tích giải tội để tẩy trừ tội lỗi và dùng Bí tich Thánh Thể để xua trừ ma quỷ khỏi tâm hồn. Chỉ khi tâm hồn có Chúa, tâm hồn sẽ bình an và ngập tràn niềm vui, từ đó chúng ta mới có thể đem bình an và niềm vui cho gia đình và cho người khác.
Nếu chúng ta chỉ chúc cho nhau, hoặc chỉ mong điều tốt đẹp mới mẻ cho mình và cho gia đình trong năm mới, thì chưa đủ, nhưng mỗi người cần phải thay đổi và bắt tay xây dựng điều tốt, làm điều tốt trong năm mới, cho mình và gia đình, thì mới có thể thay đổi được gia đình, xã hội và thế giới.
Trong giờ phút linh thiêng này, chúng ta cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa vì muôn phúc lành Chúa đã thương ban cho từng người, từng gia đình và cộng đoàn giáo xứ trong năm qua; đồng thời cũng nhìn lại trách nhiệm tìm kiếm hạnh phúc cho mình và gia đình. Chúng ta cùng tạ ơn Chúa về những gì đã đạt được, xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau về những điều thiếu sót, cùng bắt đầu năm mới với một tinh thần và quyết tâm mới.
Ngày tết là ngày của gia đình, trong năm Gia đình là dấu chỉ lòng thương xót của Chúa này, hãy đem về cho gia đình thật nhiều niềm vui, tiếng cười, không chỉ trong những ngày xuân, nhưng trong suốt năm này; hãy loại trừ sự say sưa, cờ bạc, cãi vã, lấy tình yêu thương, lòng trắc ẩn để vun đắp cho gia đình.
Dưới sự soi sáng, nhắc bảo của Lời Chúa trong đêm giao thừa này, chúng ta mạnh dạn nhìn lại, để xác định mục đích cuộc đời và mục tiêu của gia đình, cho phù hợp với sự hướng dẫn của Lời Chúa, để mỗi người, mỗi gia đình tìm được niềm vui ngay hôm nay và nhất là niềm vui và hạnh phúc Nước Trời sau này. Amen.
21. CẦU XIN PHÚC- LỘC-THỌ - Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Đã thành một nét đẹp trong truyền thống văn hóa Việt Nam, đêm giao thừa người Việt thường đến chùa, đến nhà thờ hoặc ra đình làng để cầu xin phúc - lộc và hái lộc đầu năm. Các phật tử hái những cành lá ngọn cây mới nhú ở trên chùa, họ tin rằng nhửng cành lá non đem đến cho họ sư may mắn, mới mẻ trong năm mới. Trong các gia đình thờ trời, thờ ông bà, người ta chuẩn bị một mâm cúng gồm xôi, gà hoặc trái cây được đặt ở Bàn Thiên trước cửa, vào giây phút giao thừa họ cúng bái trời đất đã ban cho mọi sư tốt đẹp một năm qua, và cầu xin cho mưa thuận gió hòa trong năm mới. Người Công Giáo chúng ta trong giây phút giao thừa, đến nhà thờ để tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho ta một năm qua bằng an và cũng cầu xin Thiên Chúa chúc lành, ban phúc lộc cho cả năm mới. Chúng ta không hái lá cây để cầu may, nhưng mỗi gia đình sẽ nhận một câu Lời Chúa như là một một lời nhắc nhở, một kim chỉ nam hướng dẫn đời sống cho cả một năm.
Tạ ơn là thái độ cần phải thể hiện của con người trước sư quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ngài đã thương dẫn đưa bước đường đời của mỗi người chúng ta bình an. Có những người một năm qua nhiều thuận lợi may lành, song cũng có nhiều người một năm qua long đong, sóng gió, thử thách, buồn nhiều hơn vui. Có những khi gặp khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua được, thế mà bàn tay Chúa vẫn dẫn đưa chúng ta đến ngày hôm nay. Tạ ơn vì sự bình an Chúa ban cho từng người từng gia đình, cho công việc được thuận buồm xuôi gió, dù cũng có nhiều bão tố. Một ví dụ cho thấy: Gia đình làm nghề xe ngày nào cũng chạy trên đường, một năm qua Chúa gìn giữ không bị một va quẹt nào. Chỉ nhìn như thế thôi thì cũng đã thấy không có Chúa giữ gìn làm sao có thể an toàn trên đường được.
Dù buồn dù vui, dù thành công hay thất bại, thì Lời Chúa trong bài đọc một hôm nay cũng mời gọi chúng ta: Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Qua Mose Thiên Chúa muốn dạy cho Dân Do Thái thấy rằng: Phúc lành lớn nhất mà Thiên Chúa hằng ban cho con người đó là sự gìn giữ của Ngài. Có Thiên Chúa gìn giữ chúng ta thì không gì có thể làm hại chúng ta, và có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta thì không ai có thể làm hại chúng ta. Khi ban phúc lành cho dân chúng Mose còn cầu xin Thiên Chúa tươi nét mặt, nhìn đến và dủ thương dân Người đồng thời ban bình an cho dân Người. Quả thật như thế, Thiên Chúa nhìn đến ai thì Người đổ muôn phúc lành xuông trên người ấy. Hình ảnh Thiên Chúa tươi nét mặt nhìn đến dân người, là hình ảnh nói lên tình yêu thương của Thiên Chúa, như người cha yêu thương để mắt trông nom con cái, bảo vệ từng bước đường đời con đi. Những hình ảnh đó đã diễn tả Thiên Chúa không phải là một vị thần hung dữ, cũng không phải là một ông vua khiến người ta khiếp sợ, mà là một người Cha nhân từ, ân cần yêu thương con cái. Vì Thiên Chúa là cha yêu thương, Ngài luôn muốn và làm điều tốt nhất cho chúng ta. Nhìn thấy như thế, để mỗi người biết sống tâm tình tạ ơn và lòng hiếu thảo của những người con đối với cha mình.
Thiên Chúa đã ghé mắt nhìn đến thân phận chúng ta, trong khi đáng lẽ chúng ta đã phải chết vì tội lỗi. Thiên Chúa đã cho Con của Ngài là Đức Giêsu đến thế gian và làm người như chúng ta. Ngài trở thành một thành viên trong cộng đồng nhân loại, để chia sẻ với lo âu đau khổ của con người và để cứu chuộc con người. Vì thế, chúng ta tạ ơn Chúa vì hồng ân cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện và ban tặng qua Đức Giêsu Kitô. Hơn thế nữa qua cái chết thập giả của Ngài, Đức Giêsu cho chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, và được Thiên Chúa tiếp tục quan phòng săn sóc từng giây phút. Vì thế chúng ta không ngừng tạ ơn Thiên Chúa.
Chúng ta tụ họp nơi nhà Chúa trong giờ giao thừa này là để cầu xin Chúa ban phúc lành xuống trên mỗi người và mỗi gia đình. Tuy nhiên phúc lành của Thiên Chúa không giống với những cái mà thế gian mong đợi. Thế gian mong đợi những cái phúc vật chất, thì Thiên Chúa lại hứa ban phúc thiêng liêng; thế gian mong đợi phúc ở trần gian thì Chúa hứa ban phúc Nước trời.
Tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu công bố là những mối phúc đích thực, mà chỉ có những ai thành tâm tìm kiếm và khiêm tốn cầu xin, thì mới có thể hiểu và đón nhận được.
Trong ngày tết, người ta cầu mong phúc lộc tiền tài, thì Đức Giêsu lại ban phúc cho những tâm hồn nghèo khó. Chúa Giêsu đã không hứa cho họ tiền bạc mà là hứa Nước Trời là của họ. Mối phúc này được Chúa Giêsu đưa lên đầu tiên, điều đó cho thấy rằng: Nước trời mới là hạnh phúc thật của con người. Chỉ có Nước trời mới là điều đáng để con người khao khát tìm kiếm và chỉ những người đạt được Nước trời thì mới là người hạnh phúc thật. Thế nhưng mối phúc này chỉ dành cho những người có tâm hồn nghèo khó, tức là những người không cậy dựa vào sức riêng mình, nhưng biết cậy dựa vào Thiên Chúa, tin tưởng phó thác và cầu xin. Chỉ khi biết đặt Chúa làm chủ cuộc đời thì mới có thể đón nhận được mối phúc lớn lao này. Vì thế hôm nay chúng ta cầu xin phúc lộc của Thiên Chúa, tức là chúng ta không chỉ xin phúc lộc vật chất, mà điều cần thiết là cầu xin phúc lộc Nước Trời.
Mối phúc thứ hai mà Chúa nói đến đó là sống hiền lành. Hiền lành là một trong những đức tính căn bản của con người. Người hiền lành không phải là người cù lần, cam chịu, nhưng là người có lòng quảng đại rộng lượng. Người hiền lành là người nhân ái trong cách cư xử, nhẹ nhàng kiêm tốn trong lời nói, và là người đem đến sự bình an vui tươi cho người khác. Chính vì thế ai sống hiền lành thì được Thiên Chúa chúc phúc và ai gặp gỡ người hiền lành thì cũng được hưởng phúc của Thiên Chúa ban cho.
Ngày nay do ảnh hưởng của xã hội, do sức ép của công việc, khiến nhiều người đã trở nên nóng nảy hung dữ, con người dường như cư xử với nhau độc ác hơn, bạo lực hơn và mang nhiều thú tính hơn. Vì thế cầu xin cho gặp người hiền lành cũng là một trong những ước mơ của cuộc sống con người ngày nay.
Chắc chắn ai cũng mong muốn và cầu xin một Năm Mới phúc lộc chan hòa, khang an hạnh phúc. Nhưng nhiều người chỉ mới dừng lại ở việc cầu xin phúc lộc ở trần gian, mà quên cầu xin cho mình phúc lộc của Chúa, là hạnh phúc Nước Trời. chúng ta cầu xin gặp những điều may lành, thì trước hết chúng ta được mời gọi trở thành những người đem điều may lành đến cho anh em. Sự may lành ở đây không phải là việc xông nhà lấy may, mà là sự gặp gỡ thăm viếng chân tình, đem đến cho nhau niềm vui không chỉ trong những ngày xuân mà là mọi ngày trong năm. Ngày tết hãy tránh cho nhau những chuyện không may không lành, như rượi chè say sưa quá độ gây cãi vả bất hòa, hãy tránh đi nỗi buồn cho gia đình do đam mê bài bạc đỏ đen, đua xe gây tai nạn. Nhất là để có được Phúc-Lộc-Thọ thì đừng quên đến với Thiên Chúa, đến với Thánh lễ mỗi Ngày, vì chí có Thiên Chúa mới là Đấng ban những phúc lộc ấy cho chúng ta mà thôi.
Cầu chúc cho tất cả mọi người được đầy tràn Phúc - Lộc của Thiên Chúa trong Năm Mới này. Amen.
22. TẠ ƠN TRỜI ĐẤT - Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ai đã có những lần xa nhà, xa quê và đón giao thừa dương lịch ở nơi xứ người thì sẽ thấy khác biệt giữa giao thừa dương lịch và giao thừa âm lịch của chúng ta. Có thể giao thừa tết tây, dù pháo hoa bắn rợp trời nhưng lòng người xa quê vẫn thấy xa xôi. Trái lại mỗi năm, người Việt Nam chúng ta ai cũng chờ đợi giây phút linh thiêng của đêm giao thừa âm lịch. Mỗi người như cảm nhận, như đụng chạm được đến thời khắc thiêng liêng chuyển giao của năm cũ và năm mới. Tiễn năm cũ qua đi với bao buồn vui, tiếc nuối lẫn lộn, đón năm mới đến với lo âu và hy vọng,… Tất cả những tình cảm ấy đang đan xen trong mỗi chúng ta.
Giây phút này là giây phút thảnh thơi nhất trong năm, vì lúc này đây, mọi người như tạm gác lại những lo toan của năm cũ để đón chào một năm mới với hy vọng đổi mới tốt hơn. Lúc này cũng là dịp mỗi người nhìn lại trách nhiệm của mình với gia đình, với cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè. Có thể nói rằng, nếu ngày cuối năm dương lịch là ngày người ta tổng kết công việc, thì ngày cuối năm âm lịch là dịp mọi người tổng kết lại các mối tương quan trong cuộc sống.
Sang năm mới, ai cũng muốn gia đình mình giàu sang và hạnh phúc, đó là mơ ước thật chính đáng. Thế nhưng, làm thế nào để cho gia đình mình giàu sang và hạnh phúc thì mỗi người lại có những suy nghĩ, cách thực hiện và ưu tiên khác nhau. Cụ thể có nhiều người đặt hạnh phúc làm ưu tiên số một, còn có nhiều người lại lấy sự giàu sang làm chính. Vì chỉ quan tâm đến tìm kiếm sự giàu sang, nên nhiều người đã lơ là việc xây dựng và vun trồng hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là điều tự nhiên mà có, nó cũng không đương nhiên xuất hiện trong gia đình cùng với sự giàu sang, mà nó là hạt giống, là cây mầm, đòi mỗi người phải vun tưới mỗi ngày. Hoa trái hạnh phúc phải là kết quả của sự chung tay đóng góp của mọi thành viên. Tuy nhiên, vì lo tìm kiếm sự giàu sang, nên nhiều người đã quên yếu tố hạnh phúc, đã để tình cảm yêu thương giữa cha mẹ và con cái trở nên lỏng lẻo, thiếu quan tâm, thiếu thông cảm và lắng nghe. Nhiều gia đình đã để cho tình yêu vợ chồng trở nên nhạt nhẽo và bầu khí gia đình trở nên lạnh giá, thiếu vắng nụ cười, thiếu vắng niềm vui.
Lúc này chính là lúc mỗi người cần nhìn lại và quyết tâm đặt lại thứ tự ưu tiên cho gia đình. Có thể gia đình mình chưa giàu sang, nhưng gia đình ấm cúng thì vẫn hạnh phúc hơn gia đình giàu sang. Nhiều tiền nhiều của mà nghèo nụ cười, thiếu niềm vui thì bầu khí gia đình lạnh lẽo. Chúng ta cũng cần nhìn lại tương quan của chúng ta với cha mẹ, nhất là với cha mẹ già, đôi khi vì sự thiếu kiên nhẫn với các ngài, trong lúc các ngài tuổi cao sức yếu, mà chúng ta đã có những lời lẽ bất kính, những thái độ coi thường hoặc khinh khi các ngài. Chúng ta cần điều chỉnh lại để sống cho tròn chữ hiếu, để cho cha mẹ được hạnh phúc trong tuổi già, không phải khóc vì tủi thân. Là cha mẹ, chúng ta cũng cần xem lại thái độ của chúng ta với từng đứa con. Chúng ta đã đem đến cho con cái một môi trường gia đình an toàn và hạnh phúc chưa?
Kế đến, chúng ta cũng cần nhìn lại mối tương quan với anh em họ hàng, bạn bè. Dường như cuộc sống ngày nay quá bận rộn khiến anh em họ hàng chẳng mấy khi có dịp đến thăm nhau, thậm chí một năm cũng chỉ được ngày tết đến với nhau mà cũng vội vàng như làm nghĩa vụ. Như thế, thì chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, anh em họ hàng sẽ như người xa lạ ; con cháu, họ hàng gặp nhau cũng như người dưng, chẳng còn thân thiết nữa. Dịp tết là dịp để chúng ta làm cho tình nghĩa anh em họ hàng xóm ngõ thêm đậm đà, gắn bó, hiểu nhau hơn, quý mến nhau hơn. Hãy dành giờ thăm viếng nhau, hàn huyên tâm sự với nhau trong bầu khí ấm áp của những ngày xuân này, vì mỗi người sống là sống trong tình liên đới với nhau.
Mối tương quan quan trọng nhất mà giây phút giao thừa này chúng ta cần nhìn lại, đó là tương quan của chúng ta với Trời Đất. Nhìn lại để biết sống tâm tình trân trọng và biết ơn. Trời Đất, trước hết là môi trường sống của tất cả mọi người, là môi trường thiên nhiên xung quanh mà chúng ta cần trân trọng, bảo vệ và làm cho trong lành, tốt đẹp hơn. Cụm từ “Tạ ơn Trời Đất”, dù mang nghĩa dân gian, song với người Kitô hữu, đó còn là kiểu nói để diễn tả lòng biết ơn của chúng ta với Đấng Tạo Hóa là Thiên Chúa của chúng ta, Đấng làm chủ và điều khiển cả vũ trụ này.
Tạ ơn Chúa vì phúc lành Chúa hằng thương ban, tạ ơn vì mưa thuận gió hòa, vì tai qua nạn khỏi, vì buôn bán làm ăn thuận lợi, thành công, vì gia đình ấm cúng. Tạ ơn Chúa vì Chúa thương gìn giữ mỗi người và mỗi gia đình, đó là lời Thánh Phaolô đã mời gọi trong bài đọc hai : Anh em hãy cầu nguyện không ngừng và hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh, điều gì tốt thì giữ lại và điều gì xấu hãy tránh cho xa. Tâm tình này cũng là tâm tình Môse nói với Aaron và con cháu ông: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel, hãy nói với chúng thế này : Xin Chúa chúc lành cho con và gìn giữ con, xin Chúa tỏ thánh nhan Chúa cho con và thương xót con. Xin ghé mặt lại cùng con và ban bằng yên cho con. Thiên Chúa là Đấng tốt lành, Ngài luôn muốn và làm điều tốt cho con người. Khi Chúa ghé mắt nhìn đến ai là Ngài yêu thương, quan phòng, che chở và bảo vệ người ấy, giống như Ngài đã ghé mắt đến Apbraham, Isaac và Giacóp để làm cho các ông trở thành các tổ phụ vĩ đại. Ngài đã ghé mắt đến vua Đavít từ khi ông còn là một đứa trẻ theo sau đàn vật để dẫn đưa ông trở thành một vị vua của Israel. Ngài đã ghé mắt đến Đức Maria để làm cho Mẹ trở thành một tạo vật tuyệt hảo nhất trong mọi tạo vật.
Để được Chúa ghé mắt đến, được Chúa chúc lành, mỗi người phải dám sống những đòi hỏi của các mối phúc mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng. Ngày hôm nay, con người dường như tìm kiếm và chạy theo tiền bạc, của cải. Trong khi chúng ta muốn phô trương sự giàu sang phú quý, thì Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ. Lời chúc phúc này cho thấy của cải vật chất ở trần gian cần thiết cho cuộc sống, nhưng nó lại hoàn toàn không thể đem đến hạnh phúc thật cho con người. Chỉ có Thiên Chúa và Nước Trời mới là hạnh phúc thật, mà chỉ những người có tâm hồn khiêm nhường, nghèo khó, khao khát thì mới tìm được. Ngày hôm nay, cuộc sống cạnh tranh khốc liệt, kẻ mạnh là kẻ thắng thế, kẻ giàu có là người có tiếng nói, kẻ nắm giữ quyền lực là người chi phối người khác. Chúa Giêsu lại chúc phúc cho những người sống hiền lành. Chỉ những người hiền lành, trong lòng không chất chứa sự gian ác, sống ngay thẳng thật thà, đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa, không chạy theo danh vọng quyền lực, mới là những người xứng đáng được ở trong vương quốc của Chúa. Cũng thế, những người được hưởng phúc lành của Thiên Chúa, được Chúa ghé mắt nhìn đến là những người đau buồn, đói khát điều công chính. Những người này không còn cậy dựa vào quyền lực, sức mạnh thế gian nhưng tìm đến sự an ủi, vỗ về của Thiên Chúa.
Thưa quý OBACE, hơn lúc nào hết, trong giây phút giao thừa này, Giáo hội cũng xin Chúa ghé mắt nhìn đến dân Chúa là những người đang thành tâm chạy đến với Chúa. Đến với Chúa trong giờ phút này là chúng ta đang muốn nói lên tâm tình tin tưởng, phó thác và biết ơn vì từng hơi thở, từng nhịp sống của ta là do bởi Chúa điều khiển và quan phòng.
Đến với Chúa trong giờ phút này, để mỗi người khi đã nhận ra tình yêu của Chúa, thì cũng biết điều chỉnh lại cuộc đời của mình để sống thân thiết với Chúa hơn trong năm mới. Quyết tâm đến với Chúa thường xuyên hơn qua việc dâng lễ tạ ơn Chúa mỗi ngày, qua việc xưng tội rước lễ.
Đến với Chúa trong giờ phút linh thiêng này để mỗi người nhìn lại gia đình của mình và dám nhận trách nhiệm về mình. Trong ngày đầu năm này, vợ chồng, cha mẹ, con cái cùng chung tay làm mới lại bầu khí của gia đình. Hãy thay đổi cách sống, cách cư xử với nhau, tái lập lại những bữa cơm thân mật xum vầy, tái lập lại những giờ phút bên nhau cùng tạ ơn Chúa bằng việc đọc kinh, cầu nguyện mỗi tối. Vì, hạnh phúc và niềm vui chỉ đến với những gia đình nào kiên trì với Chúa mà thôi.
Chúc mọi người, mọi gia đình ngập tràn niềm vui và nụ cười, bình an và hạnh phúc của Chúa trong Năm nới này. Amen.
23. Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa
(http://giaophanthaibinh.org // Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên)
Có thể nói Phụng vụ Lời Chúa trong Thánh Lễ Giao thừa hôm nay là tổng hợp của những lời chúc phúc.
Theo truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, vào những dịp lễ tết, người ta thường cầu chúc cho nhau những điều may lành, đặc biệt là trong dịp Tết Nguyên Đán là Tết lớn nhất trong năm. Bởi vì người ta quan niệm rằng, vào những thời khắc thiêng liêng của một năm, nếu nhận được những lời chúc lành, thì cả năm đó, gia đình sẽ được bình an thịnh vượng, người người sẽ được hạnh phúc, ấm no.
Không chỉ người Việt Nam chúng ta, mà từ xa xưa, trong Cựu Ước, dân Do Thái cũng đã có thói quen người trên chúc phúc lành cho người dưới, như Giacop và Exau phải tranh nhau để hưởng lời phúc lành từ cha là Tổ phụ Ixaac.
Trong bài đọc thứ nhất trích sách Dân Số hôm nay, Đức Chúa qua môi miệng của Môsê đã chúc phúc cho toàn thể dân tộc Israel với những lời cầu chúc thật ý nghĩa: “Nguyện ĐỨC CHÚA chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện ĐỨC CHÚA tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện ĐỨC CHÚA ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em !' Chúc như thế là đặt con cái Ítraen dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng." (Ds 6, 24-27).
Bài Tin Mừng hôm nay cũng là những lời chúc phúc đầy yêu thương mà Chúa dành cho những người nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, sống công chính, biết xót thương người, có lòng trong sạch, có công xây dựng hòa bình và bị bách hại vì chính đạo. (x.Mt 5,1-10).
Thử hỏi còn gì vui mừng và hạnh phúc hơn khi được chính Chúa là Thiên Chúa chúc phúc cho, bởi lời chúc phúc từ Thiên Chúa, không chỉ mang tính xã giao, nhưng là lời hiệu nghiệm. Vì Ngài là Đấng toàn năng và rất mực yêu thương con người, nên lời cầu chúc của Ngài cũng chính là phúc lành mà Ngài ban cho dân.
Đối với người Việt Nam, Giao thừa là thời khắc hết sức thiêng liêng và cao quý. Theo nguyên ngữ: "giao" là trao, còn "thừa" là nhận lãnh để tiếp tục. Năm cũ trao thời gian lại cho năm mới đón nhận và tiếp nối. Bởi vậy, khoảnh khắc giao thừa này là lúc rất thích hợp để chúng ta suy nghĩ về thời gian.
Chắc chắn lúc này, mỗi người trong chúng ta đều mang một suy nghĩ khác nhau với những cảm xúc không giống nhau, nhưng tất cả đều có một điểm chung, đó là tâm tình Tạ ơn và phó thác. Tạ ơn, vì Chúa đã cho chúng ta sống đến giờ phút này. Gia đình chúng ta vẫn còn được sum vầy bên nhau quanh mâm cơm ngày Tết, trong khi có rất nhiều gia đình trong năm qua đã phải chia lìa, li tán, mất đi những người thân yêu. Biết bao cuộc hỏa hoạn, những tại nạn giao thông, những thiên tai địch họa xảy đến cướp đi sinh mạng của bao người dân vô tội, trong khi đó, chúng ta vẫn sống bình an.
Trong năm qua, công ăn việc làm có thể không như chúng ta mong đợi, nhưng ngày ba bữa cơm, Chúa vẫn ban cho đầy đủ, trong khi nhiều người còn lâm vào cảnh thất nghiệp và nghèo đói. Mùa Đông với cái rét cắt da cắt thịt, ta vẫn có cái để mặc, trong khi ngoài kia còn có biết bao người chẳng có lấy một mảnh áo để che thân.
Một năm qua, ta gặp gỡ thêm biết bao nhiêu con người mới, thiết lập thêm bao mối tương quan, nhờ những sự trợ giúp cách nào đó của họ, mà chúng ta có thêm tin tưởng để bước tiếp hành trình dương thế này.
Suốt một năm qua, đã biết bao lần Chúa đã che chở cho ta cách âm thầm mà ta không hề biết. Đó là những khi Ngài giải thoát ta khỏi căn bệnh hiểm nghèo mà đáng lý ra chúng ta đã không qua khỏi; đó là những khi gia đình ta gặp những bất hòa, lục đục, cãi vã, tương quan vợ chồng đang trên bờ vực thẳm, nhưng rồi dưới sự chở che của Ngài, mọi sự đều đã qua đi.
Một năm qua, biết bao lần vì vô tình hay hữu ý, ta đã làm tổn thương đến người khác, lỗi nghĩa cùng Chúa, khiến cho cuộc sống của ta chẳng mấy khi bình an. Dường như ta thiếu sốt sắng trong việc đạo nghĩa, dường như ta có phần chểnh mảng trong việc tham dự Thánh lễ hay các giờ kinh nguyện… Nhiều khi, vì ích kỷ mà đã có những lúc ta chỉ chăm lo cho bản thân mình hơn là lo cho người bạn đời hay cho những đứa con yêu dấu; Biết đâu đã có vài lần ta đã nói những lời khiến cha mẹ phải phiền lòng; lắm khi vì mải chơi, mà chúng ta chưa cố gắng học tập cho nghiêm túc, còn sa đà vào những trò chơi vô bổ làm ảnh hưởng đến bản thân cũng như gia đình… Có lúc ta không kim nén được cảm xúc của mình mà gây gổ, to tiếng với người hàng xóm, khiến mối tương quan giữa hai gia đình trở nên căng thẳng, nặng nề… ; đã bao lần ta bỏ lỡ cơ hội làm một việc tốt, đã không dám đưa tay ra để giúp đỡ cho những anh chị em đau khổ, những người cần đến sự trợ giúp của chúng ta… Ta vẫn còn co cụm trong thế giới của riêng mình mà chưa dám mở lòng mình để nói một lời an ủi, một lời yêu thương với những người khổ đau, bất hạnh…
Nhìn lại một năm đã qua, đó không phải là khoảnh khắc ta lôi tất cả những gì chưa tốt đẹp trong quá khứ để dày vò bản thân hay để than trách một ai đó, nhưng là cơ hội để thêm một lần nữa, ta nhận ra hình ảnh của Chúa vẫn song hành bên ta trong từng bước đi của cuộc sống.
Trong thời khắc thiêng liêng này, còn gì thích hợp và ý nghĩa hơn khi chúng ta mặc lấy tâm tình của thánh Phaolô trong lời ngài nhắn nhủ với tín hữu Thêxalônica rằng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu.” (1 Tx 5, 16-18).
Tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cũng là điều mà chúng ta không chỉ làm trong giờ phút Giao thừa này, mà là làm trong suốt cuộc đời. Bởi lẽ, tạ ơn là thái độ căn bản của người Kitô hữu đối với Thiên Chúa, vì tất cả những gì con người có đều là hồng ân Thiên Chúa ban cho.
Vậy giờ đây, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của Mẹ Maria để hát lên bài ca Chúc tụng Chúa (Magnificat) rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Ngài quyền năng và Danh Ngài là Thánh” (Lc 1, 29-55).
24. PHÚT LINH THIÊNG – TRẦM THIÊN THU
Giao thừa là “phút linh thiêng”, là khoảnh khắc chuyển giao lại năm cũ để đón nhận năm mới. Người ta có nhiều tục lệ đón giao thừa gọi là Lễ Giao Thừa hoặc Lễ Trừ Tịch, cúng tổ tiên, bói Kiều,…
Ngoài tục lệ đời, người Công giáo còn có thói quen tốt lành là tham dự Thánh lễ Giao thừa để tôn kính Thiên Chúa Ba Ngôi và kính nhớ Đức Mẹ.
Người ta cầu mong nhiều điều cho năm mới, thể hiện qua mâm ngũ quả. Mỗi vùng miền có thể dùng những loại trái khác nhau. Nhưng kiêng kỵ là các loại trái có tên gọi “na ná” với từ có nghĩa xấu như cam (cam chịu), chuối (chúi đầu, chúi mũi, tức là vất vả). Ngược lại, các loại trái ở Nam bộ được ưa thích như trái thơm (dứa, ý nói thơm tho, danh thơm tiếng tốt), trái sung (sung túc). Đủ một câu thể hiện sự mong ước khiêm tốn gồm mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài (cầu vừa đủ xài); hơn mức đầy đủ thì gồm mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (cầu vừa đủ xài sung).
Với các Kitô hữu, Thiên Chúa mới chính là Chúa Xuân đích thực. Ngay từ đầu Thánh lễ, Giáo hội dùng lời Kinh thánh để cầu chúc mọi người trong giây phút giao thừa: “Cúi xin Đấng tạo thành trời đất xuống cho bạn muôn vàn phúc cả từ Núi Thánh Sion” (Tv 134:3).
Nghi thức nhằm phục vụ con người, cũng như luật là để phục vụ con người. Đừng câu nệ hình thức mà “bắt” con người phải phục vụ nghi thức hoặc luật lệ! Đức Chúa truyền cho ông Môsê phải nói với A-ha-ron và các con về “công thức” chúc lành cho con cái Ít-ra-en:“Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìnđến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” (Ds 6:24-26). Sao lại phải chúc như vậy? Chính Thiên Chúa giải thích: “Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng” (Ds 6:24-27).
Thật tuyệt vời vì chúng ta luôn được Thiên Chúa quan tâm, chăm sóc, nâng đỡ, bảo vệ, chúc lành,… Tác giả Thánh vịnh đã từng thắc mắc: “Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? (Tv 121:1), nhưng tác giả lại xác định ngay: “Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa, là Đấng dựng nên cả đất trời” (Tv 121:2).
Năm cũ vừa giã từ, năm mới vừa sang. Chúng ta hãy thành tâm cầu chúc nhau những điều tốt lành nhất: “Xin Đấng gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước, xin Người chớ ngủ quên. Đấng gìn giữ Ít-ra-en, lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành! Chính Chúa là Đấng canh giữ bạn, chính Chúa là Đấng vẫn chở che, Người luôn luôn ở gần kề. Ngày sáu khắc, vầng ô không tác hoạ, đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại chi. Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh mệnh an toàn. Chúa giữ gìn bạn lúc ra vào lui tới, từ giờ đây cho đến mãi muôn đời” (Tv 121:3-8).
Giao thừa nhắc nhở chúng ta xin lỗi Chúa và tha nhân về những lỗi lầm trong năm cũ, đồng thời cũng phải biết tạ ơn về bao ơn lành từ Thiên Chúa trao ban suốt năm qua và xin ơn cho năm mới. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5:16-18). Và rồi thánh nhân cũng nhắc nhở: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1 Tx 5:19-22).
Tiếp theo là lời chúc: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó. Chúc anh em được đầy ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Tx 5:23-24 & 28).
Trong cuộc sống, ai cũng khao khát được tận hưởng niềm hạnh phúc viên mãn. Có nhiều dạng hạnh phúc theo quan niệm của mỗi người, mỗi vùng, mỗi miền, mỗi dân tộc. Tuy nhiên, có một điều phúc thật mà đôi khi chúng ta hay quên hoặc chưa thực sự lưu tâm, đó chính là điều mà Chúa Giêsu đã mặc khải cho mọi người: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:28).
Tin Mừng đêm Giao thừa là trình thuật Mt 5:1-10, nói về Bát Phúc (Tám Mối Phúc Thật, Hiến Chương Nước Trời, Bài Giảng Trên Núi) đã được Chúa Giêsu công bố lần đầu tiên:
1. Phúc thay ai có tâm hồn NGHÈO KHÓ, vì Nước Trời là của họ.
2. Phúc thay ai HIỀN LÀNH, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
3. Phúc thay ai SẦU KHỔ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
4. Phúc thay ai KHÁT KHAO nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
5. Phúc thay ai XÓT THƯƠNG người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
6. Phúc thay ai có tâm hồn TRONG SẠCH, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
7. Phúc thay ai XÂY DỰNG HOÀ BÌNH, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
8. Phúc thay ai BỊ BÁCH HẠI vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Với 8 điều khoản ngắn gọn mà súc tích, Bát Phúc còn được coi là Đệ Nhất Tuyên Ngôn, tức là bản tuyên ngôn đầu tiên đối với nhân loại. Người không có niềm tin vào Thiên Chúa thì không thể nào “chịu nổi” vì cả 8 điều mà Chúa Giêsu cho là PHÚC như vậy, vì tất cả đều “nghịch nhĩ”. Sao mà “ngược đời” quá! Để có thể sống theo kiểu “ngược đời” của Chúa Giêsu thì phải cần đến ĐỨC TIN. Và chính ĐỨC TIN chắc chắn sẽ cứu thoát chúng ta nhờ Danh Đức Giêsu Kitô.
Được trở thành Kitô hữu là một ơn gọi, là vào đời làm NHÂN CHỨNG cho Tin Mừng của Đức Kitô. Tất nhiên chúng ta có thể bị ghen ghét và bị hại – đa dạng, lắm kiểu, nhiều dạng. Thật vậy, Ngài biết trước nên Ngài căn dặn: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Hãy khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10:16). Con Rắn là loài vừa khôn ngoan vừa xảo quyệt nhất trong các loài động vật. Chính nó đã lừa được Bà Eva bằng lời đường mật, và rồi Ông Adam lại “chết” vì mỹ nhân kế của một phụ nữ “yếu đuối” là chính vợ mình. Chúa Giêsu muốn chúng ta học cái khôn ngoan của con Rắn chứ đừng nham hiểm như nó!
Xuân về, Tết đến, ai cũng “khác” từ tinh thần đến thể lý, cả trong lẫn ngoài. “Khác” là đổi mới, là canh tân tích cực để tốt hơn chứ không “biến chất”, và phải mãi mãi như Chúa Xuân: “Đức Giêsu Kitô vẫn là MỘT, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13:8).
Lạy Chúa, chúng con chúc tụng Cha là Chúa Tể càn khôn! Chúng con xin lỗi Chúa về mọi lỗi lầm năm cũ, xin ban Thánh Linh để chúng con biến đổi nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn; chúng con xin chúc Tết Ba Ngôi Thiên Chúa, xin giúp chúng con hướng về Mùa Xuân Vĩnh Hằng trên Thiên quốc; chúng con xin Chúa lì xì nhiều Hồng Ân để chúng con sống trọn vẹn năm mới; và chúng con cũng xin lì xì cả cuộc đời của chúng con cho Chúa, xin Ngài thương thánh hóa và hướng dẫn chúng con đi đúng Đường Tốt Lành của Ngài.
Xin Đức Mẹ Maria, Đức Thánh Giuse, chư Thần và chư Thánh nguyện giúp cầu thay cho chúng con luôn. Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và ban cho mọi người đều có được niềm vui Xuân trọn vẹn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người cứu độ chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
25. ƯỚC ĐƯỢC TRỞ VỀ TUỔI THƠ
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Có người hỏi tôi: cha có vui khi tết đến không?
Tôi trả lời: tết nay đâu vui bằng tết xưa mà thích.
Người ấy nói: Tết xưa nghèo có gì mà vui.
Tôi nói: Vâng, vì nghèo nên nó mới vui. Vì nhà nghèo nên tết đến đồng nghĩa với việc tôi sẽ có được những điều mà ngày thường tôi không có. Có tiền lì xì, có quần áo mới, được ăn dưa hấu, được ăn mứt, ăn bánh kẹo thỏa thích . . . .
Thế nên, nếu bây giờ trời cho tôi điều ước, tôi sẽ ước được trở về như xưa. Được trờ về với tuổi thơ, được sống với bầu khí tết thuở nào tuy nghèo nhưng đầy ắp tiếng cười. Nhưng thời gian cứ phũ phàng trôi đi. Thời gian tiến chứ không lùi. Con người thì cứ lớn lên, già đi cũng đồng nghĩa lo toan nhiều và niềm vui bớt đi.
Có một người khi bước qua tuổi thơ đã ước rằng:
Ước gì mình có thật nhiều tiền!
Mua chiếc vé về tuổi thơ
Chơi với búp bê, siêu nhân và gấu bông với đàn trẻ con hàng xóm.
Những đứa trẻ ngây ngô ngày nào giờ khôn lớn,
Chẳng hiểu vì sao xa lạ một góc trời…
Ước gì có điều kỳ diệu trên đời!
Một sớm mở mắt ra có mẹ, có bà, có tiếng nói cười thân thương quen thuộc.
Người lớn thức dậy với chiếc bóng dưới chân giường đơn độc,
Tự mỉm cười: Lại thêm một ngày nữa sắp sửa trôi qua…
Hôm nay, khi bóc tờ lịch cuối cùng của năm cũ chúng ta mới bàng hoàng sao thời gian đi nhanh thế?Liệu mình có thể níu kéo được thời gian? Mới mừng đó năm Tỵ mà giờ đây ngày cuối của năm Tỵ đã hết. Con ngựa đang tung tăng bước vào thời gian. Thời gian như chẳng chờ chẳng đợi ai.
Người ta thống kê rằng: tuổi thọ của con người trung bình chỉ kéo dài được 4,000 tuần tức là xấp xỉ với 77 năm cuộc đời. Nếu mình đang bước vào tuổi trung niên, nghĩa là đã đi được nửa chặng đường đời, chỉ còn khoảng 2,000 tuần nữa để sống, để thực hiện những ước mơ, hoài bão, nhưng liệu thời gian có còn đủ để ta thực hiện ước mơ?
Một điều kỳ lạ của thời gian là hiện tại dường như trôi qua nhanh hơn thời gian trước đó, dường như tuần này trôi nhanh hơn tuần đã qua và chắc tuần sau sẽ trôi nhanh hơn tuần này.
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ. Nó rất vô tình. Hãy dùng nó cho có ý nghĩa. Hãy tận dụng từng thời khắc cuộc sống kẻo thật uổng phí thời gian. Có lẽ, không có cụm từ nào tai hại cho bằng ba chữ “Giết – thời – gian”. Nhiều người tìm những thú vui, tìm những việc làm để chỉ mong giết thời gian. Có người giết thời gian trong đam mê cờ bạc. Có người trong tửu sắc. Có người hoang phí trong những tiệc tùng thâu đêm vô bổ hay rong chơi đàn ca hát sướng.
Thật ra chúng ta được ban cho thời gian để sử dụng chứ không phải để giết chúng.
Lời Chúa trong thơ của thánh Phaolo gởi tín hữu Ê-phê-sô (5,16) đã đề cao giá trị về thời gian như sau: “Thế thì anh chị em hãy cẩn thận về cách sống của mình; đừng sống như kẻ dại dột, nhưng như người khôn ngoan. Hãy tận dụng thì giờ, vì thời buổi nầy thật đen tối”
Thời gian là một tài sản vô giá. Nó giúp chúng ta có thời gian giúp người giúp đời. Thời gian không bao giờ quay ngược trở lại được. Hãy trân trọng thời gian. Hãy sống từng giờ cho có ý nghĩa. Hãy tận dụng nó để sống có ích cho đời, cho gia đình và bạn bè. Hãy luôn nhớ rằng thời gian không chờ đợi bất cứ ai.
Giờ đây trong giây phút giao thừa chúng ta lại càng thấy thời gian trân trọng biết bao. Đây là thời gian giao thoa giữa mới và cũ. Giữa con Rắn và con Ngựa. Giữa quá khứ và tương lai. Thế nên, hãy sử dụng thời khắc hiện tại này thật ý nghĩa. Hãy sống như thể đây là giây phút cuối đời. Hãy trân trọng những người đang sống bên ta. Hãy dùng nó để xây dựng tình người, để kiếm tìm hạnh phúc. Hãy khai mở mùa xuân trong nụ cười rạng ngời, trong cái bắt tay yêu thương. Và hãy mang mùa xuân yêu thương gieo vào nhân thế hôm nay.
Lạy Chúa, Chúa là chủ thời gian. Chúng con là người quản lý. Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con đã không quản lý thời gian cho đúng. Xin giúp chúng con biết trân trọng thời gian, biết dùng thời gian để làm việc thiện, để tôn vinh Chúa và sống có ích cho tha nhân.
Chúng con xin dâng lên Chúa giây phút giao thừa nay. Xin Chúa chúc lành cho những giây phút hiện tại này trần ngập niềm vui. Xin cho những ngày xuân là những ngày họp trong yêu thương hạnh phúc. Amen
26. PHÚT DỪNG CHÂN
(Lm. Đỗ Đức Trí)
Sau 365 ngày vừa trôi qua, có lẽ giờ phút này là giờ phút chúng ta cảm thấy thảnh thơi nhất. Trong những ngày cuối năm vừa qua ai cũng tất bật để lo tổng kết sổ sách, dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị quà bánh cho dịp Tết này, mọi nỗ lực của cả năm như dồn tất cả cho ngày Tết. Giờ phút giao thừa này cũng là dịp dừng chân để chúng ta nhìn lại bản thân, gia đình, trách nhiệm, công việc và các mối tương quan xã hội, chúng ta đã làm gì cho gia đình, gia đình của chúng ta hiện nay như thế nào ? Điều gì tốt, điều gì chưa tốt ? Điều gì là chính yếu, điều gì là tùy phụ ? Giờ đây trút bỏ mọi lo toan của năm cũ, ngồi trước mặt Chúa trong bầu khí giao thừa này, chúng ta cũng được mời gọi nhìn lại đời sống đạo của bản thân, tương quan của chúng ta đối với Chúa xem hiện đang ở trong tình trạng nào ? Trách nhiệm của ta với gia đình như thế nào ?
Trong đời sống xã hội và kinh tế, năm vừa qua vẫn là năm khó khăn chung cho cả nước, càng ngày của càng khó người càng khôn. Chính vì kinh tế làm ăn khó khăn kiến cho nhiều cha mẹ thêm lo lắng hơn cho gia đình, gánh nặng trên vai càng nặng hơn, chi tiêu trong gia đình phải cân nhắc hơn cho việc mua sắm, những khoản chi cố định như việc ăn uống học hành của con cái, khoản phát sinh khi ốm đau.., tất cả những lo toan ấy đang đè nặng trên vai của các bậc cha mẹ. Những lo lắng ấy thật là chính đáng, thế nhưng cứ thử bình tâm nhìn lại, để xét xem chúng ta lo lắng cho gia đình cho con cái như vậy đã đủ chưa ? Điều gì còn lại cho gia đình sau một năm vất vả ?
Ai bước vào đời sống gia đình cũng mong cho gia đình hạnh phúc, thế nhưng nhiều người đã không biết làm thế nào để cho gia đình hạnh phúc, mà chỉ nghĩ rằng cứ đi kiếm tiền về cho gia đình là xong trách nhiệm. Nhưng thực ra không phải như thế, kiếm tiền cho gia đình là quan trọng, là điều cần, nhưng chưa đủ, vì thực ra tiền bạc không thể thay thế cho hạnh phúc của gia đình. Để gia đình hạnh phúc thì cha mẹ và các thành viên phải đầu tư vào gia đình mình bằng tình yêu, sự hy sinh, phục vụ và quan tâm đến nhau. Vì thực tế cho thấy chính vì sức ép của công việc khiến cho nhiều gia đình rơi vào cảnh: mạnh ai nấy sống, việc ai nấy làm, đã đánh mất những giờ phút gặp gỡ trong gia đình. Có những gia đình ngày Tết này cũng không tổ chức được bữa ăn chung với nhau, bởi vì họ không thể nói chuyện với nhau, vợ chồng ngồi gần nhau là cãi vã, con cái không thể ngồi chung với cha mẹ, vì toàn là những chửi bới không thể chịu nổi. Có những gia đình khác, những ngày này bố mẹ con cái chẳng gặp nhau, vì còn vùi đầu từ sáng đến tối vào các canh bài, sòng bạc, cá độ.
Một khía cạnh quan trọng mà mỗi người cần nhìn lại trong lúc này đó là đời sống đạo của gia đình mình như thế nào ? Con cái ra sao, có ngoan hay không ? Tác giả bộ phim “Chuyện tử tế” đã có mộ câu bình luận chua chát về gia đình như sau : Một căn nhà bề ngang được ba bốn mét, chiều sâu được năm bảy mét mà đến bốn năm con người ở, thì còn chỗ đâu cho đạo đức nó ở. Câu nhận định ấy có khi nó cũng đúng với nhiều gia đình chúng ta. Nhiều nhà hôm nay có đầy đủ máy móc ti vi xe cộ, đồ đạc, chỉ thiếu mỗi đạo đức là không có. Trách nhiệm đó thuộc về ai ? Một khi gia đình thiếu đời sống đạo đức, thì gia đình không thể hạnh phúc.
Là cha mẹ, trước mặt Chúa trong giờ phút này, mỗi người phải dám nhìn lại đời sống đạo đức của bản thân, và có quyết tâm điều chỉnh lại nếp sống đạo của gia đình. Hãy bắt đầu từ chính cha mẹ, hãy dành giờ mỗi ngày cho việc đến với Chúa qua việc tham dự Thánh Lễ, qua việc cầu nguyện riêng tư, lãnh nhận các bí tích Giải tội và Thánh Thể, hãy làm cho các giờ kinh chung của gia đình thêm sốt sắng và là giờ thiêng liêng nhất của gia đình mỗi ngày, gặp gỡ trò chuyện với Thiên Chúa và lắng lòng để nghe Chúa nói với mỗi người. Vì qua các giờ kinh mỗi ngày Thiên Chúa sẽ giúp ta giải gỡ được những căng thẳng trong gia đình, tìm ra giải pháp cho những khó khăn trong cuộc sống.
Kế đến chúng ta cũng cần nhìn lại mối tương quan anh em họ hàng bạn bè, dường như cuộc sống của mỗi người ngày nay quá bận rộn khiến anh em họ hàng chẳng mấy khi có dịp đến thăm nhau, thậm chí một năm cũng chỉ được ngày Tết đến với nhau mà cũng vội vàng như làm nghĩa vụ… Cứ như thế, thì chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, anh em họ hàng sẽ như người xa lạ, con cháu, họ hàng gặp nhau cũng như người dưng, chẳng còn thân thiết nữa. Dịp Tết này là dịp để chúng ta làm cho tình nghĩa anh em họ hàng xóm ngõ thêm đậm đà, gắn bó, hiểu nhau hơn, quý mến nhau hơn bằng việc thăm viếng nhau, hàn huyên tâm sự với nhau trong bầu khí ấm áp của những ngày xuân này, vì mỗi người sống là sống trong tình liên đới với nhau.
Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã chỉ cho chúng ta những phương cách đem đến hạnh phúc cho gia đình: Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng, hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh, vì đó là điều Thiên Chúa muốn. Qua đó thánh Phaolô muốn mời gọi chúng ta tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, vì tất cả mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống dù vui hay buồn, thì Thiên Chúa vẫn có thể biến những điều đó nên những điều có ích cho chúng ta. Vì thế tâm tình cần có đó là tâm tình tạ ơn, biết ơn Thiên Chúa, mà cách thể hiện lòng biết ơn tốt đẹp nhất là việc thờ phượng Chúa.
Phương cách thứ hai đó là: Đừng dập tắt Thánh Thần, đừng coi thường các lời ngôn sứ dạy bảo, hãy giữ lấy những điều tốt và điều dữ thì tránh cho xa. Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong mỗi người và hằng soi sáng nhắc nhở và thúc đẩy chúng ta làm điều tốt và tránh điều xấu. Thánh Thần cũng nhắc bảo chúng ta qua tiếng lương tâm trong mỗi quyết định, hãy lắng nghe và làm theo tiếc nhắc bảo ấy, đừng cố tình làm ngơ, thì tâm hồn chúng ta sẽ được bằng an, và gia đình ta sẽ ấm cúng thuận hòa.
Xã hội ngày nay đưa ra cho con người nhiều tiêu chuẩn hạnh phúc để lôi kéo con người chạy theo nó, khiến nhiều người quên mất rằng, hạnh phúc mà thế gian ban tặng chỉ là hạnh phúc ảo, là đồ giả mà thôi. Hạnh phúc đích thật là hạnh phúc phát xuất tư nơi Thiên Chúa và được trao tặng trong tâm hồn, đó mới là hạnh phúc có thể giúp con người vượt qua mọi sóng gió thử thách. Hạnh phúc đó hoàn toàn khác, có khi còn trái ngược lại với hạnh phúc của thế gian.
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã công bố cho chúng ta tiêu chuẩn và điều kiện để đạt được hạnh phúc đích thật. Trong khi người đời đang lao đầu tìm kiếm sự giàu sang phú quý, và người ta còn đánh giá nhau trên tiêu chuẩn giàu sang phú quý, thì Chúa Giêsu lại đưa ra một tiêu chuẩn khác: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Nói như thế chắc chắn không phải trong Nước Trời toàn những kẻ đói rách, nhưng nghèo khó ở đây là sự nghèo khó trong tâm hồn. Điều đó có nghĩa là người hạnh phúc ở đời này và đời sau là người có một tâm hồn khiêm tốn phó thác cho Thiên Chúa, để mình lệ thuộc vào Thiên Chúa. Như thế dù người có nhiều của cải vật chất hoặc người thiếu thốn, nhưng có tâm hồn nghèo khó, biết sống tin tưởng gắn bó với Chúa không để mình làm nô lệ cho vật chất không lệ thuộc vào nó và biết sử dụng nó đúng theo ý Chúa, đó là những người được Chúa chúc phúc.
Phúc cho ai hiền lành vì họ sẽ được đất nước làm gia nghiệp. Đòi hỏi này dường như hoàn toàn đi ngược với khuynh hướng của xã hội, trong khi xã hội hôm nay mạnh được yếu thua, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, người ta giải quyết với nhau bằng bạo lực, bằng cơ bắp, bằng sự nóng nảy thì Chúa lại muốn chúng ta là những người hiền lành. Hiền lành ở đây không phải là sự nhu nhược hèn kém, cũng không phải là cù lần, nhưng hiền lành ở đây là giữ cho mình có được cái tâm bình an trong mọi nghịch cảnh. Người hiền lành thì giải quyết mọi công việc mọi căng thẳng trong ôn hòa và nhân ái, trong thông cảm và tha thứ. Vì họ tin rằng chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng hoàn hảo và là Đấng phân xử công minh cho mọi người tùy theo việc kẻ ấy đã làm.
Trong đêm giao thừa nhìn lại trách nhiệm của mình đối với Chúa với gia đình như thế để mỗi người hãy có một quyết tâm mới cho gia đình cho bản thân, để năm mới này gia đình và đời sống nên tốt đẹp hơn, gia đình ấm cúng thuận hòa hơn. Xin Chúa qua sự bầu cử của Mẹ Maria, mẹ của các gia đình, thương ghé mặt nhìn đến những cố gắng và quyết tâm của mỗi chúng ta. Amen.
27. GIAO THỪA --Mt 5,1-10
Câu chuyện
Lẽ trời đất có khởi thủy phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết thúc, bắt đầu vào lúc giao thừa, kết thúc cũng vào lúc giao thừa. Giao thừa có nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy (Theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh). Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm lúc giao thoa giữa hai năm cũ - mới này có lễ trừ tịch.
Ý nghĩa của lễ này là chúng ta bỏ đi hết điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để “Khử trừ ma quỷ” cử hành vào lúc giao thừa.
Suy niệm
Trong đêm giao giữa năm cũ và năm mới, chúng ta họp mặt trong thánh lễ giao thừa hôm nay (hoặc giờ phút linh thiêng này), rất có ý nghĩa: Chúng ta vui ca tạ ơn Chúa những gì đã làm được và chưa làm được cũng như làm mất lòng Chúa trong năm cũ vừa qua và mặc lấy tâm tình của thánh Phaolô mời gọi: “Anh em thân mến, anh em hãy vui mừng luôn. Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc, hãy cảm tạ Chúa” (1Tx 5,16-18).
Cũng đêm giao thừa, trong tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta trừ khử những gì thuộc về bóng tối, ma quỷ, mặc lấy ân sủng để tiến vào năm mới với tâm hồn vui hạnh phúc như tục ngữ của cha ông ta: “Nghinh xuân tiếp phúc”. Thật thế, chữ phúc mà chúng ta khẩn cầu với Chúa Xuân, để Ngài chúc phúc như lời cầu chúc tha thiết của thánh Phaolô cho những người anh em thành Thêxalônica: “Xin chính Thiên Chúa bình an thánh hóa anh em toàn diện, để thần trí, linh hồn và thể xác anh em được gìn giữ toàn diện trong ngày Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta ngự đến. Đấng đã kêu gọi anh em, chính Người là Đấng trung tín” (1Tx 5,23-24).
Vào giờ phút giao thừa, người ta dâng tiến mâm ngũ quả dâng lên bàn thờ Thiên Chúa, bàn thờ tổ tiên, ông bà. Mâm ngũ quả ở miền Bắc thường có nải chuối xanh, quả bưởi, quả cam (hoặc quít), hồng, quất. Ở miền Nam là dừa xiêm, mãng cầu, đu đủ, xoài xanh, nhành sung hoặc một loại trái cây khác. Ngũ quả là lộc của trời, tượng trưng cho ý niệm khát khao của con người vì sự đầy đủ, sung túc. Mâm ngũ quả bên cành đào, câu đối đỏ, bức tranh Tết, bánh chưng xanh… tạo nên khung cảnh ấm áp của mỗi gia đình khi Tết đến xuân về. Phong tục này ra đời từ ngàn xưa, có lẽ vì đất nước ta bốn mùa hoa trái, nhất là vào mùa xuân hoa quả nở rộ. Hoa quả là lộc của thiên nhiên, đất trời. Dâng lộc xuân, lộc của trời cho chính trời như là lời tuyên xưng tạ ơn: “Tất cả những gì Chúa ban, con có dâng về cho Chúa”, và khẩn cầu: “Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc” (Lời nguyện năm mới). Dâng lộc trời để nhớ ơn và cúng bái ông bà, tổ tiên trong những ngày đầu xuân, như để tỏ lòng biết ơn. Biết ơn trời, nhớ nguồn gốc tổ tiên thật là một tục lệ đẹp và mang đầy nét nhân văn của lòng biết ơn được văn hóa Việt Nam trân trọng và được chính Chúa Kitô đánh giá cao (x. Lc 17,11-19).
Trong giờ phút linh thiêng này, chúng ta chúc phúc cho nhau như Chúa Giêsu gửi lời chúc cho chúng ta qua bát phúc, trong đó, Ngài chúc con người trở nên hiền lành, xót thương người, tâm hồn trong sạch và xây dựng hòa bình để được hạnh phúc. Ngài còn chúc phúc chúng ta dù sống giữa những hoàn cảnh cơ cực nhất: nghèo khó, sầu khổ, đói khát, bị bách hại vì sống công chính (x. Mt 5,1-10), cũng cảm nghiệm hạnh phúc mà Thiên Chúa mang lại.
Giờ phút giao thừa, chúng ta dùng lời phúc của Chúa chúc cho nhau, mong mỗi người sở hữu một niềm vui tâm hồn, không bị ảnh hưởng bởi những hoàn cảnh bên ngoài chung quanh tác động. Mỗi mối phúc mà Chúa Giêsu đề cập, không được con người quan tâm như là những điều may mắn hạnh phúc, trái lại họ coi đó là những khổ đau mà họ luôn phải tránh. Những hoàn cảnh này Chúa Giêsu tuyên bố: Họ hạnh phúc thật. Chính sứ mạng của Chúa Giêsu là đến thế gian để trao cho con người chìa khóa để mở hạnh phúc, một niềm vui nội tại không bị chi phối khi ta sống giữa những hoàn cảnh khó khăn nhất.
“Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa” (Tv 40,5). Hạnh phúc được sinh ra khi chúng ta biết đặt trong tim mình những công trình và thực hiện với sự vui mừng và hoan hỉ trong Thiên Chúa, bất chấp mọi hoàn cảnh. Cầu mong chúng ta có được tinh thần tám mối phúc, để luôn tiến mạnh mẽ.
Chúng ta xin Chúa Kitô, Người là ánh sáng tỏ rạng hơn mọi ánh sáng đốt lên trong tâm hồn chúng ta ánh sáng tình yêu nuôi dưỡng cuộc sống chúng ta. Chúng ta mở lòng mình ra với niềm hy vọng vào ánh sáng rạng ngời của Người. Chắc chắn rằng sẽ không còn bóng đêm của năm cũ nhưng là ánh sáng tình yêu của Chúa viếng thăm trong năm mới:
“Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn,
Cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta” (Lc 1,78).
28. THÁNH LỄ GIAO THỪA Năm Canh Tý 2020
(http://www.simonhoadalat.com // Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)
Anh chị em thân mến,
Trong Thánh Lễ cuối cùng của Năm Cũ, dĩ nhiên chúng ta muốn hợp ý cùng mọi gia đình, mọi cá nhân để dâng lên Chúa Lễ Tạ Ơn vì các hồng ân Chúa đã ban, nhưng nhìn lại năm cũ chúng ta thấy đâu là Hồng Ân Chúa để Tạ Ơn.
Theo cách suy nghĩ của chúng ta thì hầu như chúng ta không nhận được Hồng Ân nào, bởi vì một năm qua dù chúng ta hết sức cố gắng nhưng cá nhân và gia đình vẫn chỉ thấy những khốn khổ và túng quẫn. Rồi thời tiết nắng hạn kéo dài…chưa kể những vấn đề tình vợ chông, cha mẹ và con cái, bạn bè một năm qua nhiều sóng gió khiến cho tình cảm sứt mẻ…Và chúng ta thật khao khát đổi đời khiến cho rơi vào những cảnh huống tan nhà tan cửa vì nợ nần, vì bị lừa đảo… và mất niềm tin vào mọi người, và mất niềm tin vào cả Thiên Chúa Đấng Giàu Lòng Thương Xót. Chúng ta đã gào thét lên bao lần tiếng TẠI SAO VẬY? Chúng ta không có câu trả lời.
Câu trả lời chỉ có thể tìm thấy trong chính SỰ CHÚC LÀNH của Thiên Chúa, khi Ngài ban cho chúng ta Con Một Người : Đức Giêsu Kitô để nói như thánh Phaolô NGƯỜI LÀ ĐẤNG TRUNG TÍN, CHÍNH NGƯỜI SẼ THỰC HIỆN. Thiên Chúa thực hiện “thánh ý về tất cả anh em trong Chúa Giêsu Kitô”. Người thực hiện bằng việc làm cho Đức Giêsu trở nên mẫu mực của con người được chúc lành : Đó là:
- Một con người có “tinh thần nghèo khó”. Không chỉ là nghèo vật chất, mà cả tâm hồn Ngài đã từ bỏ mọi sự để chỉ còn lại duy nhất một ý muốn “Này Con xin đến để làm theo ý Cha”.
- Một con người “hiền lành” luôn đối xử không chỉ là với mọi người mà cả muôn vật trong sự trân trọng vì tất cả đều là công trình tốt đẹp trong sự quan phòng yêu thương của Cha cho mọi sự mọi loài đều là VINH QUANG của Cha.
- Một con người cũng đã từng “than khóc” để ủi an những người đau khổ. Và “than khóc” trước thảm họa của loài người bị hư đi và xa rời tình yêu của Cha.
- Một con người biết làm cho những “kẻ đói khát công chính” được no đủ.
- Một con người luôn “biết thương xót” những con người bị loại trừ vì bệnh tật, vì vấp ngã, vì sợ hãi để họ được hội nhập lại trong xã hội, được đứng dậy và can trường.
- Một con người có “lòng trong sạch”, và luôn sống để kiến tạo sự “hoà thuận”.
- Một con người “bị bắt bớ vì sự công chính” để đem lại ơn cứu độ cho mọi người.
Khi nhìn vào mẫu người trong Đức Giêsu mà Thiên Chúa muốn chúng ta noi theo để có được hạnh phúc, chúng ta có thể thấy câu trả lời cho mọi điều chúng ta thấy là bất hạnh trong năm cũ, chỉ vì chúng ta không muốn và không sống những điều Chúa Giêsu đã sống được tóm tắt trong kinh Tám Mối Phúc ấy.
Cuộc sống của Chúa có thể sống tám mối phúc ấy vì Ngài luôn nhắm tới “phần thưởng sung mãn … trên trời”, phần thưởng trở về địa vị vinh quang là CON THIÊN CHÚA.
Người kitô hữu chúng ta nhờ các bí tích, cách riêng bí tích Thánh Thể cho chúng ta dần được chính Chúa Giêsu biến đổi chúng ta nên giống Người để cảm nhận được điều Chúa từng nói với các môn đệ “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”, và đó mới là Chúc Lành của Thiên Chúa.
Chúng ta cùng Tạ Ơn và cầu xin cho chúng ta trong NĂM MỚI được biết mở lòng đón nhận CHÚC LÀNH CỦA CHÚA.
29. GIAO THỪA Mt 5,1-10 : LỜI CHÚC HẠNH PHÚC ĐẦU XUÂN – 8 MỐI PHÚC THẬT
1. LỜI CHÚA:“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3)
2. CÂU CHUYỆN:
1) HẠNH PHÚC ĐÒI TA LUÔN PHẤN ĐẤU:
Vào một buổi sáng đẹp trời, chú cún con chạy đến bên mẹ và hỏi:
- Mẹ ơi, hạnh phúc ở đâu?
Mẹ cún con mỉm cười đáp:
- Hạnh phúc nằm ở chiếc đuôi xinh xắn của con đó!
Cún con thích lắm, ngày nào chú cũng ngắm nghía chiếc đuôi của mình, vừa nhảy vừa vẫy vẫy chiếc đuôi! Nhưng rồi bỗng một hôm, chú cún con buồn bã chạy đến bên mẹ:
- Mẹ ơi, tại sao con chẳng bao giờ nắm giữ được hạnh phúc vậy?
Mẹ khẽ vuốt ve cún con và đáp:
- Chỉ cần con tự tin bước về phía trước, hạnh phúc sẽ tự đi theo con thôi!!!
2) HẠNH PHÚC Ở TRONG LÒNG CHÚNG TA:
Ngày xưa, có một bầy yêu tinh tập hợp lại với nhau để lên kế hoạch làm hại con người. Một con yêu tinh lên tiếng: "Chúng ta nên giấu cái gì quý giá của con người. Nhưng mà cái đó là cái gì?"
Một con yêu tinh khác lên tiếng: "Chúng ta nên giấu hạnh phúc của con người. Không có nó, ngày đêm con người sẽ phải khổ sở. Nhưng vấn đề là chúng ta sẽ giấu hạnh phúc nơi nào mà con người không thể tìm thấy được."
Một con yêu tinh cho ý kiến: "Chúng ta sẽ quẳng hạnh phúc lên đỉnh núi cao nhất thế giới."
Con yêu tinh khác phản đối: "Con người rất khỏe mạnh, chuyện trèo lên đỉnh núi đối với họ không có gì khó khăn."
"Vậy thì chúng ta sẽ đem hạnh phúc ném xuống đáy biển sâu."
"Không được, con người rất tò mò. Họ sẽ chế tạo ra những con tàu hiện đại để đi xuống tận đáy biển. Rồi tất cả mọi người sẽ biết."
Một con yêu tinh trẻ có ý kiến: "Hay là chúng ta đem giấu hạnh phúc ở một hành tinh khác."
Con yêu tinh già phản đối: "Không được, con người rất thông minh. Càng ngày họ càng thám hiểm nhiều hành tinh khác đấy thôi."
Suy nghĩ hồi lâu, có một con yêu tinh già lụ khụ lên tiếng: "Tôi biết phải giấu hạnh phúc ở đâu rồi. Hãy giấu nó ở chính bên trong con người. Đa số con người đi tìm hạnh phúc ở khắp chốn, khắp nơi và bao giờ họ cũng thấy người khác hạnh phúc hơn mình. Bản thân họ thì chẳng bao giờ quan tâm. Giấu nó ở đó thì con người không bao giờ tìm thấy!!!"
Tất cả các con yêu tinh đều đồng ý. Và kể từ đó, rất nhiều người mãi miết kiếm tìm hạnh phúc ở những nơi nào khác mà không biết rằng nó đang nằm ngay trong lòng mình.
3) NGƯỜI GIÀU CŨNG KHÓC:
PAUL GETTY là ông chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Khu đất ông ở rộng bốn mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng tỷ mỹ kim. Thế mà mỗi ngày ông đều phải thức dậy làm việc từ lúc ba giờ sáng. Chung quanh ông lúc nào cũng có tới mười người cảnh sát bảo vệ. Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm cú điện thoại và những lời đe dọa ám sát… Ông đã phải thốt lên rằng: “Tôi là người đau khổ nhất và chẳng bao giờ cảm nghiệm được thế nào là hạnh phúc !”.
3. THẢO LUẬN: 1) Hạnh phúc thực sự là gì? 2) Làm thế nào để đạt được hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại và mai sau?
4. SUY NIỆM:
Năm cũ sắp qua nhường chỗ cho năm mới đang tới. Trong dịp này, chúng ta thường chúc cho nhau những điều tốt đẹp. Chẳng hạn: Chúc cho đông con nhiều cháu, phát tài phát lộc, khỏe mạnh sống lâu… Những lời cầu chúc thường qui về ba chữ: Phúc, Lộc, Thọ. Tóm lại là chúc nhau được hạnh phúc trong Năm Mới. Nhưng thế nào là hạnh phúc thực sự?
1) Hạnh phúc là gì?
Hạnh phúc là tình trạng thỏa mãn khi đạt được những điều mong ước mà người đời thường mong ước như Phúc, Lộc và Thọ. Tuy nhiên không nhất thiết cứ có đông con nhiều cháu, cứ sở hữu nhiều nhà cửa tiền bạc, chức cao quyền trọng hoặc được sống lâu trăm tuổi là đương nhiên có hạnh phúc… Vì lòng tham con người vô đáy như người đời thường nói: “Được voi đòi tiên”, “Đứng núi này trông núi nọ”…
Người ta cũng thường chúc nhau khỏe mạnh. Nhưng khỏe mạnh vẫn chưa phải là thứ hạnh phúc thực sự. Vì nếu sức khỏe là hạnh phúc, thì chắc hẳn những nhà lực sĩ sẽ là người hạnh phúc nhất. Thế nhưng, không phải vậy. Bởi vì có những người dù đau yếu, sức khỏe èo uột, thế mà nụ cười vẫn tươi nở trên môi, đang khi những nhà vô địch Ô-lim-pic sức khỏe vô địch lại thường âu lo có ngày sẽ bị soán ngôi vô địch như người ta thường nói: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”.
Rất nhiều người đã mong ước kiếm nhiều tiền để được sống an nhàn như người ta thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được: Đồng tiền là Tiên là Phật; Là sức bật của tuổi trẻ; Là sức khỏe của tuổi già; Là cái đà của danh vọng; Là cái lọng để che thân; Là cán cân của công lý; Là triết lý của cuộc đời”... Nhưng thực ra “Người giàu cũng khóc!” Biết bao gia đình nông dân việt Nam đang sống vất vả trên mảnh đất ruộng nhưng gia đình hạnh phúc. Rồi đột nhiên có dự án làm đường đi qua khu đất nhà của họ, biến đất ruộng trở nên quý giá “Tấc đất tấc vàng”, tiền bạc rủng rỉnh. Nhưng từ khi bán đất lấy tiền lấy vàng, gia đình được ở nhà cao cửa rộng, có đủ xe máy xịn, tivi màu, máy lạnh máy giặt… nhưng gia đình con cái bỏ học ăn chơi sa đà vào nghiện hút xì-ke ma túy, vợ ngày ngày chơi đề, chồng thì nhậu nhẹt vợ nọ con kia… gia đình xào xáo dẫn đến chỗ ly hôn và bất hạnh.
2) Hạnh phúc thực sự do đâu ?
Hạnh phúc thật sự không nhất thiết do tiền bạc, chức quyền, sắc đẹp, sức khỏe... dù rằng những điều đó đều là ưu điểm có thể mang lại cho chúng ta niềm vui trong một lúc nào đó. Vậy hạnh phúc đích thật ở đâu?
Thực ra: Con người chúng ta không những gồm thân xác mà còn có linh hồn nữa. Cơm áo gạo tiền hay tiền bạc vật chất, địa vị chức quyền, sắc đẹp, tài năng, sức khỏe, sống lâu… chỉ đáp ứng được những nhu cầu về thể xác bên ngoài và không bền lâu, nên đã không thực sự mang lại hạnh phúc. Điều quan trọng để có hạnh phúc là một tâm hồn bình an và nhiều niềm vui như Đức Ma-ri-a, sau khi được bà chị Ê-li-sa-bét khen là người có phúc, đã dâng lời ca tụng Thiên Chúa như sau: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-47).
Dù thân xác chúng ta có gặp những tai nạn rủi ro và những điều trái ý, nhưng người có đức tin vẫn luôn phó thác vào Thiên Chúa và gặp được niềm vui hạnh phúc trong sự nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân, quảng đại tha thứ cho những kẻ thù ghét bách hại mình, như Phó tế Tê-pha-nô khi bị kết án ném đá sắp chết, vẫn mở miệng cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7,60), hoặc như Đức Giê-su khi bị treo trên thập giá sắp chết cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Như thế, hạnh phúc phải bắt nguồn từ Thiên Chúa là nguồn mạch mang lại hạnh phúc đích thực. Nơi nào có Chúa hiện diện thì nơi ấy sẽ có bình an hạnh phúc như Người đã hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29).
3) Cho thì có phúc hơn là nhận (Cv 20,35):
Trong một buổi hội thảo về hạnh phúc gồm 50 người tham dự. Diễn giả khởi đầu bằng một hoạt động tập thể. Ông đưa cho mỗi người một quả bóng và yêu cầu họ viết tên của mình lên trái bóng bằng chiếc bút lông. Sau đó, số bóng được thu hết lại trong giỏ rồi được đưa sang một phòng khác.
Rồi 50 người này lại được tập trung sang phòng chứa bóng và được yêu cầu hãy tìm quả bóng có ghi tên mình trong thời hạn 5 phút. Mọi người đều lao vào giỏ xô đẩy nhau để tìm kiếm quả bóng tên mình và căn phòng trở nên hỗn loạn, khi hết 5 phút mà ít có người tìm được quả bóng tên mình.
Sau đó, vị diễn giả lại yêu cầu mỗi người tự nhặt lên một quả bóng bất kỳ rồi tìm chuyển cho người có tên ghi trên bóng. Chỉ trong vòng 5 phút, ai nấy đều đã có được quả bóng tên mình.
Lúc này, vị diễn giả mới dẫn vào đề tài về hạnh phúc: Trong cuộc sống, mỗi người đều hối hả đi tìm hạnh phúc của mình, nhưng thực ra lại không biết chúng nằm ở đâu.
Hạnh phúc của chúng ta nằm xen lẫn với hạnh phúc của người khác. Hãy tìm cách làm cho người xung quanh có được hạnh phúc của họ, rồi chúng ta cũng sẽ được người khác mang lại hạnh phúc cho ta. Cũng như câu chuyện trên cho thấy: khi náo loạn đi tìm bóng thì sẽ không tìm thấy. Còn khi mỗi người cầm bóng trao cho kẻ khác thì chính họ cũng sẽ được người khác trao quả bóng hạnh phúc cho mình. Hãy cứ cho đi rồi sẽ được nhận lại: “Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy" (Lc 6,38).
4) Phương thế để được hạnh phúc thực sự là sống Tám Mối Phúc:
Hạnh phúc không ở đâu xa, nó luôn ở bên cạnh mình hoặc ở trong lòng mình. Có điều chúng ta quên điều này nên cứ đi tìm hạnh phúc ở nơi đâu khác và cuối cùng đành chịu mất nó.
Để luôn có hạnh phúc nghĩa là có Chúa ở cùng, là luôn có tình yêu của Chúa trong lòng, thì chúng ta phải thực hành Tám Mối Phúc bằng cách quên mình vị tha, ứng xử công bình nhân ái, như lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay: Sống khiêm hạ nghèo khó, luôn ăn ở hiền lành, chấp nhận đi con đường hẹp: “qua đau khổ vào trong vinh quang”, luôn khát khao nên người công chính, biết chạnh thương những kẻ bất hạnh, có tâm hồn trong sạch, luôn ăn ở thuận hòa, sẵn sàng chịu bách hại vì sống công chính, chấp nhận bị sỉ nhục vì danh Chúa...
Niềm hạnh phúc luôn có Chúa ở cùng, cũng chính là hạnh phúc mà chúng ta cần phải cầu chúc cho nhau trong giờ phút đón Giao Thừa và trong Năm Mới này. Dù chúng ta ít nhiều vẫn còn chịu đau khổ và gặp những điều trái ý, nhưng nếu thực sự có Chúa ở cùng, chắc chắn chúng ta vẫn cảm thấy vui mừng và hy vọng, bình an và hạnh phúc như thánh Phao-lô đã chia sẻ: “Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2 Cr 7,4b).
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Xin cho chúng con quyết tâm thực thi tinh thần Tám Mối Phúc của Chúa trong Tin Mừng hôm nay, thể hiện qua cách suy nghĩ, nói năng và cách ứng xử khiêm tốn, vị tha, luôn nhẫn nhịn chịu đựng, từ bi nhân hậu, sẵn sàng tha thứ cho tha nhân noi gương Chúa khi xưa, để tâm hồn chúng con luôn được bình an, lạc quan vui vẻ từ giờ phút đón Giao Thừa này, như dấu chỉ chúng con sẽ được an bình hạnh phúc trong suốt năm nay và hạnh phúc ấy sẽ kéo dài mãi ở đời sau.- AMEN.
LM ĐAN VINH-HHTM
- 09/02 Điều chính yếu của Tin Mừng
- 07/02 Chúa Giêsu chữa bệnh – rao giảng
- 06/02 Dung mạo yêu thương của Chúa Giêsu
- 05/02 Gioan Tẩy giả bị trảm quyết
- 04/02 Chúa Giêsu sai đi mười hai tông đồ
- 03/02 Chúa Giêsu tại quê hương Nadarét
- 02/02 Dâng con trẻ
- 01/02 Người bị quỷ ám và đàn heo
- 31/01 Ðấng có uy quyền
- 30/01 Chúa Giêsu quyền năng