Gương Thánh Nhân
Ngày 07/9 Chân Phước Frederick Ozanam (1813 -1853)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Frederick Ozanam (1813 -1853)
Sự phục vụ người nghèo đã dạy cho Frederick những điều về Thiên Chúa mà ngài không thể tìm thấy ở bất cứ đâu khác.
Lược sử
Vì tin tưởng ở giá trị vô cùng của mỗi một con người, Frederick đã phục vụ người nghèo ở Balê và đã lôi cuốn những người khác phục vụ người nghèo trên thế giới. Qua tổ chức St. Vincent de Paul, công việc của Chân Phước Frederick còn tiếp tục cho đến ngày nay.
Frederick là con thứ năm trong 14 người con của ông bà Jean và Marie Ozanam, và là một trong ba người còn sống cho đến tuổi trưởng thành. Khi là thiếu niên, anh nghi ngờ tôn giáo của mình. Việc đọc sách thánh và cầu nguyện dường như không giúp ích gì, nhưng sau những lần thảo luận với Cha Noirot của Ðại Học Lyons đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề.
Frederick muốn học về văn chương, mặc dù cha anh, một bác sĩ, muốn anh trở thành một luật sư. Frederick vâng theo ý cha và năm 1831 anh đến Balê học luật tại đại học Sorbonne. Khi một vài giáo sư chế nhạo giáo huấn Công Giáo trong các bài giảng, Frederick lên tiếng bảo vệ Giáo Hội.
Một câu lạc bộ về biện luận do Frederick thành lập đã thay đổi hướng đi cuộc đời anh. Trong câu lạc bộ này, người Công Giáo, người vô thần và người chủ trương bất-khả-tri tranh luận về những vấn đề xảy ra hàng ngày. Có một lần, sau khi Frederick nói về vai trò của Kitô Giáo trong nền văn minh, một hội viên lên tiếng: "Này ông Ozanam, chúng ta hãy thành thật với nhau và hãy thiết thực. Tôi hỏi ông, ngoài việc thảo luận ông còn làm gì để chứng tỏ đức tin của ông?"
Frederick đau điếng bởi câu hỏi ấy. Sau đó anh quyết tâm rằng lời nói phải đi đôi với hành động. Và cùng với một người bạn, anh đến thăm những người nghèo ở chung cư Balê và giúp đỡ bất cứ gì họ có thể. Không bao lâu một nhóm người thiện chí nhằm giúp đỡ những ai có nhu cầu được thành lập dưới sự bảo trợ của tổ chức St. Vincent de Paul do Frederick đứng đầu.
Nghĩ rằng đức tin Công Giáo cần phải được một nhà thuyết giảng nổi tiếng giải thích các giáo huấn, Frederick nài nỉ Ðức Tổng Giám Mục Balê chỉ định Cha Lacordaire, nhà thuyết giảng đại tài của Pháp thời ấy, đến giảng trong Tuần Thánh ở Vương Cung Thánh Ðường Notre Dame. Người ta tham dự rất đông và từ đó trở đi đã trở thành một truyền thống hàng năm ở Balê.
Sau khi tốt nghiệp đại học Sorbonne, Frederick dạy luật tại Ðại Học Lyons. Ngài cũng đậu bằng tiến sĩ văn chương. Sau đó, vào ngày 23-6-1841, ngài kết hôn với Amelie Soulacroix, và trở về Sorbonne dạy văn chương. Là một giảng viên đáng kính nể, Frederick đã đem lại nhiều lợi ích cho sinh viên. Trong khi đó, tổ chức St. Vincent de Paul lan tràn khắp Âu Châu. Riêng ở Balê có tới 25 chi nhánh.
Vào năm 1846, Frederick, Amelie và cô con gái Marie đến nước Ý; ở đây Frederick hy vọng sẽ phục hồi sức khỏe yếu kém của mình. Và họ đã trở lại Ý vào năm sau đó. Cuộc cách mạng 1848 đã khiến nhiều người ở Balê cần đến sự giúp đỡ của tổ chức St. Vincent de Paul. Số người thất nghiệp lên đến 275,000. Chính phủ yêu cầu Frederick và các cộng tác viên của ngài trông coi tổ chức giúp đỡ người nghèo của chính phủ. Các hội viên St. Vincent de Paul ở khắp Âu Châu tuốn đến Balê để giúp đỡ.
Sau đó Frederick thành lập tờ báo, Thời Ðại Mới, để bảo vệ sự công chính cho người nghèo và giới lao động. Nhiều người Công Giáo không vui với những bài viết của Frederick. Cho rằng người nghèo là "tư tế của dân tộc," Frederick nói rằng sự đói khát và mồ hôi của người nghèo tạo thành một hy lễ có thể đền bù tội lỗi nhân loại.
Vào năm 1852, sức khỏe yếu kém buộc Frederick phải trở về Ý với vợ và cô con gái. Ngài từ trần ngày 8-9-1853. Trong tang lễ của Frederick, Cha Lacordaire mô tả ngài như "một trong những tạo vật được đặc ân trực tiếp xuất phát từ bàn tay Thiên Chúa, mà trong con người ấy Thiên Chúa đã nối kết sự nhạy cảm với kỳ tài để khích động thế giới."
Vì ngài có viết một tuyệt tác nhan đề Thơ Thánh Phanxicô Trong Thế Kỷ 13, và vì cảm nhận của ngài về phẩm giá của người nghèo rất gần với tư tưởng của Thánh Phanxicô, nên thật thích hợp để coi ngài là một trong những "vĩ nhân" của dòng Phanxicô.
Frederick được phong chân phước năm 1997.
Suy niệm 1: Giá trị
Vì tin tưởng ở giá trị vô cùng của mỗi một con người, Frederick đã phục vụ người nghèo ở Balê và đã lôi cuốn những người khác phục vụ người nghèo trên thế giới.
Mỗi một con người đều có một giá trị vô cùng, vì nó là một thụ tạo trổi vượt nhất trong các loài thụ tạo được Chúa dựng nên ở trần gian này với quyền làm bá chủ và thống trị muôn loài (St 1,28) qua ý nghĩa của việc đắt t6en (St 2,19). Sở dĩ con người được đặc ân siêu vượt trên các loài thụ tạo như thế, là vì nó được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26).
Giá trị vô cùng của con người còn được thấy rõ qua việc dầu là tội nhân nhưng vẫn được Thiên Chúa yêu thương trước (1Ga 4,10), hứa ban ơn cứu độ (St 3,15) và ban Con Một dấu yêu đến trần gian làm của lễ đền tội (1Ga 4,10) bằng cái chết (Rm 5,8) trên thập tự giá (Pl 2,8).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con (Ga 15,12).
Suy niệm 2: Phục vụ người nghèo
Vì tin tưởng ở giá trị vô cùng của mỗi một con người, Frederick đã phục vụ người nghèo ở Balê và đã lôi cuốn những người khác phục vụ người nghèo trên thế giới.
Với quyết tâm rằng lời nói phải đi đôi với hành động, và cùng với một người bạn, ngài đến thăm những người nghèo ở chung cư Balê và giúp đỡ bất cứ gì họ có thể. Không bao lâu một nhóm người thiện chí nhằm giúp đỡ những ai có nhu cầu được thành lập dưới sự bảo trợ của tổ chức St. Vincent de Paul do Frederick đứng đầu. Tổ chức St. Vincent de Paul lan tràn khắp Âu Châu. Riêng ở Balê có tới 25 chi nhánh.
Cuộc cách mạng 1848 đã khiến nhiều người ở Balê cần đến sự giúp đỡ của tổ chức St. Vincent de Paul. Số người thất nghiệp lên đến 275,000. Chính phủ yêu cầu Frederick và các cộng tác viên của ngài trông coi tổ chức giúp đỡ người nghèo của chính phủ. Các hội viên St. Vincent de Paul ở khắp Âu Châu tuốn đến Balê để giúp đỡ. Sau đó Frederick thành lập tờ báo, Thời Đại Mới, để bảo vệ sự công chính cho người nghèo và giới lao động. Nhiều người Công Giáo không vui với những bài viết của Frederick. Cho rằng người nghèo là "tư tế của dân tộc," Frederick nói rằng sự đói khát và mồ hôi của người nghèo tạo thành một hy lễ có thể đền bù tội lỗi nhân loại.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con phục vụ người nghèo với chí hướng không xem họ là thụ ân mà là ân nhân, vì nhờ họ mà chúng con có dịp sống được đức ái như Chúa dạy.
Suy niệm 3: Nghèo
Vì tin tưởng ở giá trị vô cùng của mỗi một con người, Frederick đã phục vụ người nghèo ở Balê và đã lôi cuốn những người khác phục vụ người nghèo trên thế giới.
"Ai chế nhạo người nghèo là xúc phạm đến Thiên Chúa" (Cn 17,5). Frederick Ozanam không bao giờ coi thường người nghèo trong bất cứ sự phục vụ nào mà ngài có thể thi hành. Đối với ngài, mỗi một người, dù là đàn ông, đàn bà hay trẻ em đều thật đáng quý. Sự phục vụ người nghèo đã dạy cho Frederick những điều về Thiên Chúa mà ngài không thể tìm thấy ở bất cứ đâu khác.
Giáo sư Bailly, giám đốc linh hướng cho chi nhánh đầu tiên của tổ chức St. Vincent de Paul, nói với Frederick và các cộng sự viên về đức ái, "Cũng như Thánh Vinh Sơn, các bạn cũng sẽ nhận ra rằng người nghèo giúp các bạn nhiều hơn là các bạn giúp họ."
Vì ngài có viết một tuyệt tác nhan đề Thơ Thánh Phanxicô Trong Thế Kỷ 13, và vì cảm nhận của ngài về phẩm giá của người nghèo rất gần với tư tưởng của Thánh Phanxicô, nên thật thích hợp để coi ngài là một trong những "vĩ nhân" của dòng Phanxicô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tận dụng việc học biết về Chúa qua sự hiện diện của người nghèo.
Suy niệm 4: Thiếu niên
Khi là thiếu niên, Frederick nghi ngờ tôn giáo của mình.
Việc đọc sách thánh và cầu nguyện dường như không giúp ích gì, nhưng sau những lần thảo luận với Cha Noirot của Đại Học Lyons đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề.
Một câu lạc bộ về biện luận do Frederick thành lập đã thay đổi hướng đi cuộc đời anh. Trong câu lạc bộ này, người Công Giáo, người vô thần và người chủ trương bất-khả-tri tranh luận về những vấn đề xảy ra hàng ngày. Có một lần, sau khi Frederick nói về vai trò của Kitô Giáo trong nền văn minh, một hội viên lên tiếng: "Này ông Ozanam, chúng ta hãy thành thật với nhau và hãy thiết thực. Tôi hỏi ông, ngoài việc thảo luận ông còn làm gì để chứng tỏ đức tin của ông?" Frederick đau điếng bởi câu hỏi ấy và đã thay đổi hướng đi cuộc đời anh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy sống mối phúc không thấy mà tin (Ga 20,29).
Suy niệm 5: Bảo vệ
Khi một vài giáo sư chế nhạo giáo huấn Công Giáo trong các bài giảng, Frederick lên tiếng bảo vệ Giáo Hội.
Nghĩ rằng đức tin Công Giáo cần phải được một nhà thuyết giảng nổi tiếng giải thích các giáo huấn, Frederick nài nỉ Đức Tổng Giám Mục Balê chỉ định Cha Lacordaire, nhà thuyết giảng đại tài của Pháp thời ấy, đến giảng trong Tuần Thánh ở Vương Cung Thánh Đường Notre Dame. Người ta tham dự rất đông và từ đó trở đi đã trở thành một truyền thống hàng năm ở Balê.
Sau khi tốt nghiệp đại học Sorbonne, Frederick dạy luật tại Đại Học Lyons. Ngài cũng đậu bằng tiến sĩ văn chương. Sau đó, vào ngày 23-6-1841, ngài kết hôn với Amelie Soulacroix, và trở về Sorbonne dạy văn chương. Là một giảng viên đáng kính nể, ngài đã đem lại nhiều lợi ích cho sinh viên.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ bảo vệ đức tin của mình mà còn những người khác nữa.
Suy niệm 6: Tang lễ
Trong tang lễ của Frederick, Cha Lacordaire mô tả.
Cha mô tả như thế nào? Cha mô tả ngài như "một trong những tạo vật được đặc ân trực tiếp xuất phát từ bàn tay Thiên Chúa, mà trong con người ấy Thiên Chúa đã nối kết sự nhạy cảm với kỳ tài để khích động thế giới."
Thật ra trước khi nhận được đặc ân lúc trưởng thành như Cha Lacordaire mô tả, ngài đã nhận được đặc ân sống còn trong số đông đảo các anh chị em trong gia đình với 14 người con mà hầu hết đều chết yểu lúc còn trẻ tuổi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mỗi sáng sớm khi thức dậy hãy cảm tạ Chúa vì hồng ân Chúa ban thêm cho ngày mới và hãy hết mình đáp trả cân xứng.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 06/9 Chân Phước Claudio Granzotto (1900-1947)
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
Chân Phước Claudio Granzotto (1900-1947)
Sinh ở Santa Lucia del Piave gần Venice, nước Ý, Claudio là con út trong gia đình 9 người con và họ quen với công việc đồng áng thật vất vả. Năm lên chín, anh mồ côi cha. Sáu năm sau, anh bị động viên vào quân đội Ý, là nơi anh phục vụ trong ba năm.
Vì có tài trong lãnh vực nghệ thuật, nhất là điêu khắc, nên anh theo học tại Viện Nghệ Thuật Venice, và tốt nghiệp năm 1929 với điểm cao nhất lớp. Sau đó, anh đặc biệt lưu ý đến nghệ thuật tôn giáo. Khi Claudio gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn vào bốn năm sau đó, cha sở của anh viết thư giới thiệu, "Nhà dòng không chỉ tiếp nhận một nghệ nhân mà còn là một vị thánh". Sự cầu nguyện, yêu thương người nghèo cũng như say mê nghệ thuật, là đặc điểm cuộc đời Claudio, nhưng tiếc thay cuộc đời ấy không kéo dài được lâu vì bệnh ung thư não. Ngài từ trần vào ngày lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời và được phong Chân phước năm 1994.
Lời Bàn
Claudio đã phát triển được tài điêu khắc tuyệt vời đến độ các tác phẩm của ngài vẫn còn giúp con người trở về với Thiên Chúa. Không xa lạ gì với các nghịch cảnh, ngài đã can đảm đối phó mọi trở ngại, phản ánh sự độ lượng, đức tin và niềm vui mà ngài học được từ Thánh Phanxicô Assisi.
Lời Trích
Trong bài giảng lễ phong Chân phước, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói rằng Claudio đã dùng tài điêu khắc "như một khí cụ đặc biệt" trong đời sống tông đồ và để phúc âm hóa. "Sự thánh thiện của ngài đặc biệt toả sáng khi chấp nhận đau khổ và cái chết để hiệp thông với Thập Giá Ðức Kitô. Do đó, bởi hiến thân hoàn toàn cho tình yêu Thiên Chúa, ngài trở nên gương mẫu cho các tu sĩ, nghệ sĩ trong việc tìm kiếm sự mỹ miều của Thiên Chúa, và gương mẫu cho người đau yếu qua lòng sùng kính Thánh Giá của ngài" (L'Observatore Romano, Tập 47, Số 1, 1994)
Trích NguoiTinHuu.com
Ngày 05/9 Tôi Tớ Thiên Chúa Anacleto Gonzales (1890-1927)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Tôi Tớ Thiên Chúa Anacleto Gonzales (1890-1927)
" Anh giết tôi, nhưng chính nghĩa ấy sẽ không chết với tôi. Tôi sẽ ra đi, nhưng tôi tin chắc rằng từ thiên đàng tôi sẽ nhìn ngắm sự chiến thắng của đạo trên quê hương tôi." (Anacleto)
Lược sử
Khi là sinh viên luật trong thời kỳ Công Giáo bị bách hại ở Mễ Tây Cơ, Anacleto Gonzales cảm thấy cần phải đương đầu với các giáo sư vô tôn giáo, và vì thế anh đã quy tụ các sinh viên Công Giáo trong một tổ chức với mục đích bảo vệ Giáo Hội. Chính anh gia nhập dòng Ba Phanxicô. Tin tưởng ở sức mạnh của báo chí, anh sáng lập tờ tuần báo lấy tên Word (Lời), và thường xuyên viết bài cho các tờ báo Công Giáo khác. Anh cũng sáng lập tờ tuần báo thứ hai lấy tên Sword (Kiếm). Nhiều lần nhà cầm quyền đã bịt miệng anh bằng cách tống giam. Nhưng anh lại dùng năng lực của mình trong việc rao giảng Tin Mừng cho các bạn đồng tù.
Sau cùng nhà cầm quyền quyết định dùng Anacleto như một tấm gương để cảnh cáo. Vì anh từ chối không chịu tiết lộ nơi trú ẩn của đức tổng giám mục, anh bị treo lên cao, bị đánh bằng roi và bị rạch bằng dao. Anacleto vẫn giữ im lặng, và anh nói với một tên lý hình, "Tôi hoạt động một cách vô vị lợi để bảo vệ chính nghĩa là Đức Kitô và Giáo Hội. Anh giết tôi, nhưng chính nghĩa ấy sẽ không chết với tôi. Tôi sẽ ra đi, nhưng tôi tin chắc rằng từ thiên đàng tôi sẽ nhìn ngắm sự chiến thắng của đạo trên quê hương tôi."
Anacleto bị một lưỡi lê đâm xuyên qua người và sau cùng anh từ trần vì hàng loạt viên đạn bắn vào thân thể. Đó là ngày 1 tháng Tư, 1927. Anh để lại một vợ và hai con nhỏ.
Đám tang của anh tạo nên một sức sống đức tin mãnh liệt nơi các tín hữu với những tiếng hô to "Viva Christo Rey!" (Vạn tuế Vua Kitô!), tất cả là nhờ sự hy sinh của một giáo dân đã sống và chết vì nước trời.
Suy niệm 1: Báo chí
Tin tưởng ở sức mạnh của báo chí, Anacleto sáng lập tờ tuần báo lấy tên Word (Lời), và thường xuyên viết bài cho các tờ báo Công Giáo khác. Anh cũng sáng lập tờ tuần báo thứ hai lấy tên Sword (Kiếm).
Sống trong thời kỳ bị bách hại, ngài đã dùng báo chí như một lợi khí để đương đầu; và ngài đã khéo chọn tên tuần báo là Lời như một nhắc nhở mọi người phải biết sợ gì: "Quan quyền bách hại con vô cớ, nhưng lòng này sợ Lời Chúa mà thôi" (Tv 119,161).
Tên Kiếm cho tờ tuần báo thứ hai cho thấy giá trị của Lời Chúa như một lý do đáng phải sợ: "Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người" (Dt 4,12).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết sợ Chúa hơn sợ người, vốn giết được thân xác mà không giết được linh hồn (Mt 10,28).
Suy niệm 2: Tống giam
Nhiều lần nhà cầm quyền đã bịt miệng Anacleto bằng cách tống giam.
Cổ nhân có câu: Người tính không bằng trời tính. Quả vậy nhà cầm quyền nhiều lần tống giam ngài với mục đích muốn bịt miệng ngài để không còn gây được ảnh hưởng đến quần chúng.
Thế nhưng ý đồ xấu xa ấy vô tình lại nằm trong kế hoạch quan phòng của Chúa. Nhờ sự hiện diện của ngài trong trại giam, nhiều tù nhân đã được gương sáng cũng như tinh thần của ngài mà học biết được Tin Mừng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhớ rằng người đời có thể xiềng xích người, chứ không bao giờ xiềng xích được Lời Chúa (2Tm 2,9).
Suy niệm 3: Chính nghĩa
Tôi hoạt động một cách vô vị lợi để bảo vệ chính nghĩa là Đức Kitô và Giáo Hội.
Lời tuyên xưng của Anacleto thật can đảm và cũng thật chính xác về chính nghĩa là Đức Kitô và Giáo Hội, vốn được chính Chúa đích thân sáng lập khi tuyển chọn nhóm Mười Hai Tông đồ (Lc 6,13) với Đấng kế vị tiên khởi của Người là thánh Phêrô (Mt 16,18-19;Ga 21,15-17).
Mặc dầu có một số các giáo hội tách lìa khỏi Giáo Hội chân chính ấy và để có thế giá thì vẫn tự xưng là chính nghĩa với các danh xưng như là Chính Thống hoặc Tin Lành, nhưng thực chất không thể là chính nghĩa được vì không do chính Chúa mà chỉ do người phàm lập ra là Thượng phụ giáo chủ Photius vào năm 866 và Luther vào năm 1517.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn kiên vững niềm tin và sống chết vì về chính nghĩa là Đức Kitô và Giáo Hội.
Suy niệm 4: Đám tang
Đám tang của Anacleto tạo nên một sức sống đức tin mãnh liệt nơi các tín hữu với những tiếng hô to "Viva Christo Rey!" (Vạn tuế Vua Kitô!).
Ngọn lửa đức tin của quần chúng được nuôi dưỡng bấy lâu qua các tờ tuần báo của ngài nay có cơ hội bùng cháy lên và rực sáng với những tiếng hô to không ai cản ngăn được.
Ngài chết đi như hạt lúa phải chịu mục nát để bao bông hạt đức tin triển nở rầm rộ và công khai vào dịp đám tang của ngài, đúng như lòi tiên đoán của ngài: "Tôi sẽ ra đi, nhưng tôi tin chắc rằng từ thiên đàng tôi sẽ nhìn ngắm sự chiến thắng của đạo trên quê hương tôi."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chấp nhận chết đi để cho muôn người được nhờ (Ga 11,50-52).
Suy niệm 5: Hy sinh
Tất cả là nhờ sự hy sinh của một giáo dân đã sống và chết vì nước trời.
Hy sinh là gì? Xin được gợi lên một ít ý nghĩ. Hy sinh là giúp cho ai một điều gì đó mà phần thiệt quay về mình không ít thì nhiều, với biểu hiện là không cần đền đáp, trao đổi hay thỏa thuận. Hy sinh là làm một việc gì đó cho ai mà không đòi hỏi họ làm gì cho mình. Hy sinh là chịu mất cái gì mình có để đánh đổi một cái khác, thường mang nghĩa tích cực.
Hy sinh là cho người khác những gì tốt đẹp nhất của bản thân mà không hề hối tiếc, với kết quả là nhận được sự đau khổ thậm chí là cái chết, chết nhưng một cái chết có cống hiến. Hy sinh là chết vì mục đích và lý tưởng cao cả. Hy sinh chỉ đơn giản là sự dâng sinh mạng của mình cho lý tưởng vì mục đích cao cả.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng ngại phải hy sinh, để được vui hưởng hạnh phúc và các phúc lành từ sự hy sinh ấy.
Suy niệm 6: Chết
Tất cả là nhờ sự hy sinh của một giáo dân đã sống và chết vì nước trời.
Vì Anacleto từ chối không chịu tiết lộ nơi trú ẩn của đức tổng giám mục, anh bị treo lên cao, bị đánh bằng roi và bị rạch bằng dao. Anacleto vẫn giữ im lặng.
Anacleto bị một lưỡi lê đâm xuyên qua người và sau cùng anh từ trần vì hàng loạt viên đạn bắn vào thân thể. Đó là ngày 1 tháng Tư, 1927. Anh để lại một vợ và hai con nhỏ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thà chết chứ không bội phản để tố cáo hoặc làm hại ai.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 04/9 Thánh Rosa ở Viterbo (1233-1251)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Rosa ở Viterbo (1233-1251)
Thánh Rosa không thành đạt được điều gì đáng kể. Nhưng ngài đã biến cuộc đời thành một nơi đầy ơn sủng của Thiên Chúa, và như Thánh Phanxicô, ngài coi cái chết như cửa ngõ dẫn đến sự sống mới.
Lược sử
Thánh Rosa đạt được sự thánh thiện trong cuộc đời ngắn ngủi 18 năm. Ngay từ khi còn nhỏ, Rosa đã ao ước thiết tha muốn cầu nguyện và giúp đỡ người nghèo. Khi còn trẻ, ngài đã bắt đầu hãm mình. Ngài độ lượng với người nghèo bao nhiêu thì lại khắt khe với chính bản thân bấy nhiêu. Vào lúc 10 tuổi, ngài gia nhập dòng Ba Phanxicô và không lâu sau đó, ngài đi rao giảng về vấn đề tội lỗi và sự đau khổ của Chúa Giêsu.
Thành phố Viterbo, nơi ngài sinh trưởng, đã nổi dậy chống đối đức giáo hoàng. Khi Rosa đứng về phía đức giáo hoàng chống với hoàng đế, ngài và gia đình bị đuổi ra khỏi thành phố. Cho đến khi phe bênh vực đức giáo hoàng chiến thắng ở Viterbo, Rosa mới được phép trở về. Vào năm 15 tuổi, ngài cố gắng thành lập một tu hội nhưng thất bại, sau đó ngài trở về với đời sống cầu nguyện và hãm mình tại nhà của vị thân sinh, cho đến khi lìa đời năm 1251. Rosa được phong thánh năm 1457.
Suy niệm 1: Cầu nguyện
Rosa đã ao ước thiết tha muốn cầu nguyện và giúp đỡ người nghèo.
Tuổi thơ thường thích sống mơ mộng và vô tư nô đùa. Thế nhưng ngài lại biểu hiện một đặc điểm của thánh nhân, đó là ngay từ nhỏ, ngài đã ao ước thiết tha muốn cầu nguyện.
Cha thánh Gioan Maria Vianê dầu có tuổi đời dài lâu hơn. Hai giờ đêm ngày 03 rạng 04 tháng 8 năm 1859, ngài mới qua đời khi được 73 tuổi 2 tháng 27 ngày. Nhưng ngay từ bé, ngài lại khác với các trẻ em khác, ngài đã có dấu hiệu đạo đức chuyên chăm cầu nguyện khác thường. Thật thế cánh tay non trẻ của ngài vừa co duỗi được, thì mẹ đã cầm lên tập cho làm dấu thánh giá. Do đó, ít lâu sau ngài đã có tập quán làm dấu thánh giá trước khi ăn. Hồi ngài được 18 tháng tuổi, có lần mẹ ngài cho ngài ăn cháo, nhưng quên giúp ngài làm dấu, ngài cứ ngậm miệng lắc đầu không chịu ăn. Hiểu ý con, bà Beluse liền cầm tay con giúp làm dấu thánh giá, bấy giờ ngài mới mở miệng ăn cháo. Rồi hồi ngài vừa lên 4 tuổi, có lần tới chuồng bò, bà gặp thấy ngài đang quỳ gối giữa 2 con bò nằm im đó, 2 tay cầm tượng Đức Mẹ, chấp lại cầu nguyện sốt sắng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc phụ huynh lưu tâm dạy bảo các trẻ chuyên chăm cầu nguyện để dễ tiến đức lúc trưởng thành.
Suy niệm 2: Nghèo
Rosa đã ao ước thiết tha muốn cầu nguyện và giúp đỡ người nghèo.
Một nét nổi bật nơi ngài, đó là ngài độ lượng với người nghèo bao nhiêu thì lại khắt khe với chính bản thân bấy nhiêu.
Là thánh nhân tương lai, cha Gioan Maria Viane6 cũng rất quan tâm giúp đỡ người nghèo. Thuở còn cậu nhỏ mục đồng 7 tuổi, nhiều lần đi chăn chiên bò, ngài đem theo mấy ổ bánh mì lớn chia cho những trẻ nghèo hơn. Gặp những trẻ khốn khó phải đi chân đất, áo quần rách rưới thì ngài dắt về nhà và nài xin mẹ thương xót. Ngài xin mẹ cho trẻ này đôi giày, trẻ kia cái áo, trẻ khác cái quần, trẻ nọ cái áo lót. Mẫu thân cũng xúc động, mở tủ lấy ra những đồ ấy mà phân phát trước thái độ hớn hở vui sướng của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp có nhiều tâm hồn quãng đại rộng lòng rộng tay giúp đỡ những kẻ nghèo khổ.
Suy niệm 3: Hãm mình
Khi còn trẻ, ngài đã bắt đầu hãm mình.
Hy sinh gắn liền với hãm mình, nghĩa là biết kềm chế những ham muốn, dục vọng, và ngay cả những ước vọng thường tình để tôi luyện bản thân mình trở nên cao quý. Sự tiết độ trong hy sinh hãm mình chính là phương thức tẩy luyện tâm can khỏi những dơ bẩn và hôi hám của mùi tục lụy, và là điều kiện để làm triển nở đời sống tâm hồn dưới tác động của ơn thánh. Thiếu hy sinh hãm mình con người ta sẽ dần dần bị cứng đọng lại trong lề thói thường tình của mình và sẽ bị nô lệ hóa bởi chính nó.
Khi không còn hãm mình thì người ta dễ tìm kiếm những thỏa mãn riêng tư và lợi ích cá nhân. Trong khi đó tình yêu đích thực đòi người ta phải hy sinh tiết chế thì mới đem lại những điều tốt đẹp cho mình và người khác. Thói quen hy sinh hãm mình sẽ giúp ta phong phú hóa nghị lực, làm giàu tâm cảm và làm gia tăng sức mạnh của ý chí để vượt ra khỏi sự ràng buộc của chính mình, hầu phát huy tầm cao của cuộc sống là nhu cầu nội tâm đòi phải thể hiện mình như mình đáng phải là.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết vận dụng phương thế hy sinh hãm mình để tiến đức.
Suy niệm 4: Rao giảng
Rosa đi rao giảng về vấn đề tội lỗi và sự đau khổ của Chúa Giêsu.
Tội lỗi là nguyên nhân gây nên sự đau khổ của Chúa Giêsu. Chính vì để xóa bỏ tội lỗi, Người phải rời bỏ trời cao để xuất hiện trong trần gian (1Ga 3,5) như một của lễ đền tội (1Ga 4,10). Người phải chịu, phải trải qua nhiều đau khổ (Mt 16,21;Dt 5,8) với khổ hình thập giá (Dt 12,2).
Do đó mọi người cần phải đoạn tuyệt với tội lỗi (1Pr 4,1), cũng như đừng cộng tác vào tội lỗi của người khác (1Tm 5,22). Đồng thời hãy cam chịu đau khổ vì Nước Thiên Chúa (2Tx 1,5). Hãy cảm thấy vui mừng và hạnh phúc được chịu đau khổ vì Đức Kitô (Cl 1,24;Pl 1,29), vì có cùng chịu đau khổ với Người thì mới được cùng Người hưởng vinh quang (Rm 8,17).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con kiên tâm vác lấy thập giá hằng ngày để xứng đáng là người môn đệ Chúa (Mt 10,38).
Suy niệm 5: Bị đuổi
Rosa và gia đình bị đuổi ra khỏi thành phố.
Xưa kia, nhằm bảo vệ chân lý, Đức Giêsu đã mạnh dạn lấy dây làm roi ra tay xua đuổi những người mua bán ra khỏi đền thờ vì họ đã biến nơi cầu nguyện thành hang trộm cướp (Ga 2,14-16). Và Người cũng dùng quyền năng trục xuất ma quỷ đang ám hại hai người ở miền Gađara (Mt 8,28-32).
Còn Rosa và gia đình vì bảo vệ chân lý thì lại bị đuổi ra khỏi thành phố, khi đứng về phía đức giáo hoàng mà chống với hoàng đế, vì cả thành phố Viterbo, nơi ngài sinh trưởng, đang nổi dậy chống đối đức giáo hoàng, mãi cho đến khi phe bênh vực đức giáo hoàng chiến thắng ở Viterbo, Rosa mới được phép trở về.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn kiên trung với Chúa để khỏi bị xua đuổi ra khỏi Nước Chúa (Lc 13,28).
Suy niệm 6: Lìa đời
Rosa trở về với đời sống cầu nguyện và hãm mình tại nhà của vị thân sinh, cho đến khi lìa đời năm 1251.
Danh sách các thánh dòng Phanxicô dường như bao gồm một ít người không thành đạt được điều gì đáng kể. Thánh Rosa là một trong những người ấy. Ngài không có ảnh hưởng đến đức giáo hoàng hay các vị vua, chưa bao giờ làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi người đói, và chưa bao giờ thành lập được tu hội như mơ ước. Nhưng ngài đã biến cuộc đời thành một nơi đầy ơn sủng của Thiên Chúa, và như Thánh Phanxicô, ngài coi cái chết như cửa ngõ dẫn đến sự sống mới.
Di chúc mà Thánh Rosa để lại cho cha mẹ có viết: "Con chết với niềm vui, vì con khao khát được kết hợp với Thiên Chúa. Hãy sống sao để đừng sợ chết. Vì những ai sống tốt lành ở đời này thì không sợ chết, nhưng cái chết sẽ đáng quý và ngọt ngào."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương thánh Rosa hãy sống sao để đừng sợ chết.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 03/9 Thánh Grêgôriô Cả (540?--604)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Grêgôriô Cả (540?--604)
"Không thể nào tưởng tượng được những gì sẽ xảy ra trong thời Trung Cổ - thật lộn xộn, vô trật tự - nếu không có triều đại giáo hoàng; và nói về giáo hoàng của thời trung cổ, vị cha chung đích thực là Ðức Grêgôriô Cả." (Một sử gia Anh Giáo)
Lược sử
Trong cuộc đời Thánh Grêgôriô Cả, sự nghiệp sau nổi tiếng hơn sự nghiệp trước.
Ngài thẳng tính và kiên quyết.. Ngài rất lưu tâm đến việc trở lại của nước Anh nên đã sai 40 đan sĩ của ngài đến hoạt động ở đây.
Ngài nói về nhiệm vụ và đặc tính của môt giám mục. Trong các bài giảng thực tế của ngài, Thánh Grêgôriô có tài áp dụng phúc âm hàng ngày vào nhu cầu đời sống của giáo dân. Được gọi là "Cả".
Suy niệm 1: Nổi tiếng
Trong cuộc đời Thánh Grêgôriô Cả, sự nghiệp sau nổi tiếng hơn sự nghiệp trước.
Ngài là trưởng thánh bộ Rôma trước khi 30 tuổi. Năm năm sau đó, ngài từ chức, sáng lập sáu đan viện trên các phần đất của ngài ở Sicilia và chính ngài là một tu sĩ dòng Biển Đức (Benedictine) ở Rôma. Sau khi thụ phong linh mục, ngài là một trong bảy phó tế của đức giáo hoàng, và ngài còn giữ chức vụ sứ thần tòa thánh ở Constantinople, Đông Phương. Sau đó ngài được gọi về làm đan viện trưởng, và vào lúc 50 tuổi, ngài được chọn làm giáo hoàng bởi hàng giáo sĩ và giáo dân Rôma.
Ngoài những chức vụ nổi bật, Ngài còn nổi tiếng vì những cải cách phụng vụ, và củng cố sự tôn trọng học thuyết. Người ta đang tranh luận xem có phải chính ngài là người chịu trách nhiệm phần lớn nhạc bình ca (Gregorian) hay không.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hết mình phục vụ Chúa và tha nhân ở đời này để được vinh quang đời sau.
Suy niệm 2: Thẳng tính và kiên quyết
Thánh Grêgôriô thẳng tính và kiên quyết.
Ngài cách chức các linh mục bất xứng, cấm không được lấy tiền khi phục vụ, và ngài lấy tất cả quỹ riêng của đức giáo hoàng để chuộc các tù nhân bị phe Lombard bắt, săn sóc những người Do Thái bị bách hại và các nạn nhân của nạn dịch tễ cũng như nạn đói kém.
Vì thẳng tính và kiên quyết, ngài sống trong giai đoạn luôn luôn có bất hòa vì sự xâm lăng của phe Lombard và vì những tương giao khó khăn với Giáo Hội Đông Phương. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài là người đến chất vấn vua Lombard.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dũng cảm sống thẳng tính và kiên quyết để diệt trừ điều xấu, dầu phải bị chống đối.
Suy niệm 3: Lưu tâm
Ngài rất lưu tâm đến việc trở lại của nước Anh.
Nên khi được gọi về làm đan viện trưởng, ngài đã sai 40 đan sĩ của ngài đến hoạt động ở đây.
Một sử gia Anh Giáo đã viết: "Không thể nào tưởng tượng được những gì sẽ xảy ra trong thời Trung Cổ--thật lộn xộn, vô trật tự--nếu không có triều đại giáo hoàng; và nói về giáo hoàng của thời trung cổ, vị cha chung đích thực là Đức Grêgôriô Cả."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chờ đợi được người lưu tâm nhưng luôn lưu tâm đến người.
Suy niệm 4: Giám mục
Đức Grêgôriô Cả nói về nhiệm vụ và đặc tính của môt giám mục.
Trong một cuốn sách của ngài với nhan đề "Cách Chăm Sóc Mục Vụ", nói về nhiệm vụ và đặc tính của môt giám mục. Và cuốn sách này đã được đọc trong bao thế kỷ sau khi ngài chết. Ngài diễn tả vị giám mục chính yếu như một y sĩ mà nhiệm vụ chính là rao giảng và duy trì kỷ luật.
Hình ảnh của một vị y sĩ chữa trị bệnh thân xác với các lời chỉ bảo cũng như cách thức điều trị rất nghiêm túc đối với bệnh nhân đã được chẩn đoán chính xác thật rất gần với vị lương y tinh thần tối cao trong địa phương là giám mục.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị giám mục chu toàn nhiệm vụ theo đặc tính căn bản của mình.
Suy niệm 5: Bài giảng
Trong các bài giảng thực tế của ngài, Thánh Grêgôriô có tài áp dụng phúc âm hàng ngày vào nhu cầu đời sống của giáo dân.
Giảng lễ là giúp người dự lễ sống đạo, dựa vào lời Chúa đặc biệt trong phúc âm hàng ngày. Biết thế nên ngài chú trọng đến khía cạnh thực tế: người nghe để sống chứ không phải để thưởng thức, và kiếp sống của người giáo dân thường bị chi phối bởi các nhu cầu thực tiễn chứ không cao xa với phần lý thuyết nặng nề và trừu tượng.
Chính vì thế trong một bài giảng về chủ đề từ bỏ, ngài không lý luận dông dài mà đưa ra bài học cụ thể và vắn gọn: "Nói cho cùng có lẽ không khó để người ta từ bỏ của cải, nhưng chắc chắn là thật khó để từ bỏ chính mình. Khước từ những gì mình có là chuyện nhỏ; nhưng khước từ cái tôi của mình, đó mới thật đáng kể".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị có trách nhiệm chia sẻ Lời Chúa mỗi ngày ghi nhận và sống theo bài học thánh nhân để lại.
Suy niệm 6: Cả
Thánh Grêgôriô cũng được gọi là "Cả".
Vì ngài được nâng lên một vị trí ngang hàng với Thánh Augustine, Thánh Ambrôsiô và Thánh Giêrôme như một trong bốn vị tiến sĩ nòng cốt của Giáo Hội Tây Phương.
Đồng thời ngài thích là một đan sĩ, nhưng ngài sẵn sàng phục vụ Giáo Hội trong các phương cách khác khi được yêu cầu. Ngài đã hy sinh những sở thích của ngài trong nhiều phương cách, nhất là khi làm Giám Mục Rôma (Giáo Hoàng). Một khi được kêu gọi để phục vụ công ích, ngài đã dùng hết khả năng để chu toàn nhiệm vụ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dầu không mong được gọi là Cả, nhưng cũng biết dùng hết khả năng để chu toàn nhiệm vụ, mỗi khi được kêu gọi để phục vụ công ích.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 02/9 Chân Phước John Francis Burté và các Bạn (k. 1792; d.1794)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước John Francis Burté và các Bạn (k. 1792; d.1794)
Các linh mục này là nạn nhân của cuộc Cách Mạng Pháp. Tất cả họ được Giáo Hội mừng kính cùng một lúc vì tất cả đã hy sinh mạng sống với cùng một lý do.
Lược sử
Các linh mục này là nạn nhân của cuộc Cách Mạng Pháp. Mặc dù họ tử đạo trong thời gian khác nhau, nhưng được Giáo Hội mừng kính cùng một lúc vì tất cả đã hy sinh mạng sống với cùng một lý do. Hiến Chương Dân Sự về Tu Sĩ (1791) của nhà cầm quyền buộc tất cả các linh mục phải tuyên thệ những điều chung qui là chối bỏ đức tin. Họ đã từ chối và đã bị hành quyết.
John Francis Burté gia nhập dòng Phanxicô lúc 16 tuổi và sau khi thụ phong linh mục ngài dạy thần học cho các đệ tử sinh. Sau này ngài là giám đốc tu viện lớn ở Balê cho đến khi ngài bị bắt và bị giam trong tu viện dòng Camêlô.
Appolinaris Posat sinh năm 1739 ở Thụy Điển. Ngài gia nhập dòng Capuchin và nổi tiếng là một người thuyết giảng, một cha giải tội và nhà giáo dục các tu sĩ. Được sai sang Đông Phương để truyền giáo, ngài đến Balê để học các ngôn ngữ Đông Phương khi cuộc Cách Mạng Pháp bắt đầu. Từ chối không chịu tuyên thệ, ngài bị bắt và bị giam trong tu viện Camêlô.
Severin Girault, một người Dòng Ba, là tuyên úy cho một số các nữ tu ở Balê. Bị cầm tù với những người khác, ngài là người đầu tiên bị chết trong cuộc tàn sát ở tu viện.
Ba vị này cùng với 182 người khác -- kể cả vài giám mục và nhiều linh mục dòng cũng như triều -- đã bị thảm sát tại tu viện Camêlô ở Balê ngày 2 tháng Chín, 1792. Tất cả được phong chân phước vào năm 1926.
John Baptist Triquerie, sinh năm 1737, gia nhập Đan Viện Phanxicô. Ngài là tuyên uý và là cha giải tội cho các tu sĩ dòng Thánh Clara Khó Nghèo trong ba thành phố trước khi ngài bị bắt vì không chịu tuyên thệ. Cùng với 13 linh mục triều, ngài bị chém đầu ở Laval ngày 21 tháng Giêng 1794. Ngài được phong chân phước năm 1955.
Suy niệm 1: Cách Mạng Pháp
Các linh mục này là nạn nhân của cuộc Cách Mạng Pháp.
"Tự Do, Bình Đẳng, Huynh Đệ" là châm ngôn của cuộc Cách Mạng Pháp. Nếu mỗi cá nhân có "các quyền lợi không thể thay đổi", như Bản Tuyên Ngôn Độc Lập khẳng định, thì những quyền này không thể xuất phát từ những thỏa ước của xã hội (có thể rất mong manh) nhưng phải được phát xuất trực tiếp từ Thiên Chúa. Chúng ta có tin điều đó không? Chúng ta có hành động theo điều đó không?
"Biến động xảy ra ở Pháp vào cuối thế kỷ 18 đã tàn phá mọi sự thiêng liêng và đã xúc phạm cũng như trút sự tức giận lên Giáo Hội và các mục tử. Những người vô đạo đức lên nắm quyền đã che đậy sự giận dữ Giáo Hội dưới chiêu bài triết lý lừa bịp... Dường như thời bách hại tiên khởi đã trở lại. Giáo Hội, nàng dâu không tì vết của Đức Kitô, trở nên lộng lẫy với các triều thiên tử đạo" (Sử Liệu Tử Đạo).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp mọi người trên thế giới luôn tôn trọng quyền tự do tôn giáo vì đó cũng là một nhân quyền.
Suy niệm 2: Một lý do
Tất cả đã hy sinh mạng sống với cùng một lý do.
Hiến Chương Dân Sự về Tu Sĩ (1791) của nhà cầm quyền buộc tất cả các linh mục phải tuyên thệ những điều chung qui là chối bỏ đức tin. Họ đã từ chối và đã bị hành quyết.
Giáo Hội mừng kính các ngài cùng một ngày, mặc dù họ tử đạo trong thời gian khác nhau, cũng như với nhiều chức trách khác nhau: người thì giáo sư thần học, người thì nhà truyền giáo, tuyên úy hoặc cha giải tội... Nhưng tất cả đều tử đạo vì cùng một lý do chung.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thà chết chứ không chối bỏ đức tin chân chính.
Suy niệm 3: Dạy thần học
John Francis Burté dạy thần học cho các đệ tử sinh.
Là một giáo sư chân chính và nghiêm túc, ngài không chỉ nhằm truyền đạt kiến thức mà còn giáo dục cho các đệ tử được thành nhân và thánh nhân.
Hơn thế là một cha giáo chuyên dạy môn thần học không phải cho các học sinh mà là các đệ tử sinh đang tìm hiểu và trau dồi ơn gọi tu trì, ngài còn sống như một chứng nhân gương mẫu cho những gì mình giảng dạy. Vì thế với bối cảnh đang xảy ra, ngài đón nhận cái chết anh dũng vì đức tin.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp cho chúng con có được những nhà giáo dục đúng nghĩa để được hưởng nhờ nhiều lợi ích.
Suy niệm 4: Truyền giáo
Appolinaris Posat được sai sang Đông Phương để truyền giáo.
Vì sứ mạng truyền giáo, ngài phải đến Balê để học các ngôn ngữ Đông Phương. Như thế là người Thụy điển, ngài lại có mặt tại Pháp đúng khi cuộc Cách Mạng Pháp bắt đầu. Thế là ngài bị bắt và chịu hy sinh.
Sứ mạng truyền giáo của ngài vừa khởi sự nhưng đã sớm kết thúc bằng một thành quả tốt đẹp, không bằng lời giảng dạy nhưng bằng cái chết chứng nhân đức tin với giá trị vượt xa lời rao giảng, vì giọt máu tử đạo luôn có hiệu năng trổ sinh con nhà có đạo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức thế giá bài giảng kém xa cuộc sống chứng nhân.
Suy niệm 5: Tuyên úy
Severin Girault, một người Dòng Ba, là tuyên úy cho một số các nữ tu ở Balê.
Với trách nhiệm của một vị tuyên úy, ngài chăm sóc ân cần đời sống thiêng liêng cho các nữ tu ở Balê. Để cho thì phải có trước đã, chắc hẳn ngài phải luôn tăng triển sự sống thiêng liêng cho chính ngài ở mức độ mỗi lúc mỗi cao thêm.
Nhờ thế khi biến cố bách hại xảy ra, ngài không hề nao núng khi bị cầm tù với những người khác, và nhất là ngài đón nhận vinh dự là người đầu tiên bị chết trong cuộc tàn sát ở tu viện, như mở đường cho bao người anh dũng nối gót.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương Chúa luôn tiên phong tiến lên trên đường chịu tử nạn (Lc 19,28).
Suy niệm 6: Giải tội
John Baptist Triquerie là cha giải tội cho các tu sĩ dòng Thánh Clara Khó Nghèo.
Là cha giải tội, ngài có dịp tiếp xúc với nhiều tội nhân. Ngài càng cảm nhận đậm nét thân phận yếu đuối của con người, trong đó có chính ngài, trước bao chước cám dỗ tinh quái của quỷ ma.
Để rồi ngài không chỉ ban lời khuyên bảo cùng việc đền tội cho các hối nhân, mà còn cho chính mình. Cụ thể ngài tự nguyện làm các việc đền tội vừa cho chính mình vừa thay cho hối nhân. Nhưng bao nhiêu là đủ? Cơ hội đến, ngài vui lòng đón nhận cái chết bị chém đầu vì đức tin, với ước mong xóa sạch được tội lỗi cùng các hình phạt hữu hạn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết tự nguyện gia tăng việc lành phúc đức như một việc đền tội nhằm xóa bớt các hình phạt hữu hạn đi kèm với tội, dầu tội đã được tha sau lời xá giải.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 01/9 Thánh Beatrice Silva (1424-1491)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Beatrice Silva (1424-1491)
"Trong cộng đoàn của họ nảy sinh một nhân đức ngoại hạng về lòng bác ái cộng đồng và liên tục, mà nhân đức này đã kết hợp họ thành một " (Celano)
Lược sử
Thánh Beatrice có một liên hệ sơ sài nhưng rõ ràng với phong trào Phanxicô. Dòng tu ngài sáng lập đã không được sát nhập vào dòng Phanxicô cho đến sau khi ngài chết, nhưng ngày nay dòng ấy là một nhánh chính yếu của gia đình Thánh Phanxicô.
Beatrice sinh trưởng ở Ceuta, Morocco. Ngài có liên hệ đến hoàng gia Bồ Đào Nha và có lúc phục vụ như một thị tỳ cho nữ hoàng Castile. Sau khi từ bỏ công việc ấy, ngài gia nhập tu viện Đa Minh ở Toledo, là nơi ngài sống trong 37 năm (dù rằng ngài chưa bao giờ tuyên khấn lời hứa của dòng này).
Ngài từ trần ngày 01 tháng 9 năm 1490. Bảy năm trước khi từ trần, Thánh Beatrice thành lập một cộng đoàn chiêm niệm theo luật Dòng Xitô. Sau khi ngài chết được ba năm, Đức Giáo Hoàng Alexander VI đặt cộng đoàn của thánh nữ trong hệ thống Anh Em Hèn Mọn Phanxicô và theo Luật Thánh Clara. Ngày nay những nữ tu này thường được gọi là Người Theo Linh Đạo Thánh Clara Khó Nghèo, và vào năm 1968 các nữ tu này chiếm khoảng 20 phần trăm tổng số người trong Dòng Nhì. Sơ Beatrice được phong thánh năm 1976.
Suy niệm 1: Liên hệ
Thánh Beatrice có một liên hệ sơ sài nhưng rõ ràng với phong trào Phanxicô.
Đời ngài có hai mối liên hệ đặc biệt luôn được đề cập đến. Trước hết xét về mặt đời, ngài có liên hệ đến hoàng gia Bồ Đào Nha và có lúc phục vụ như một thị tỳ cho nữ hoàng Castile. Nhưng nổi bật nhất đó là mối liên hệ xét về mặt tu trì, ngài có một liên hệ sơ sài nhưng rõ ràng với phong trào Phanxicô.
Thật thế, dầu lúc sinh tiền, Dòng tu ngài sáng lập đã không được sát nhập vào dòng Phanxicô, nhưng sau khi ngài chết được ba năm, Đức Giáo Hoàng Alexander VI đặt cộng đoàn của thánh nữ trong hệ thống Anh Em Hèn Mọn Phanxicô và theo Luật Thánh Clara. Đến năm 1968 các nữ tu này chiếm khoảng 20 phần trăm tổng số người trong Dòng Nhì. Và ngày nay dòng ấy là một nhánh chính yếu của gia đình Thánh Phanxicô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức và hết mình sống mối liên hệ thiêng liêng với mọi người cùng có một Cha chung trên trời (Mt 6,9).
Suy niệm 2: Thị tỳ
Ngài có liên hệ đến hoàng gia Bồ Đào Nha và có lúc phục vụ như một thị tỳ cho nữ hoàng Castile.
Lối sống thị tỳ cho một nữ hoàng dĩ nhiên đã buộc ngài phải hư vô hóa chính mình hoàn toàn, để chỉ biết thực thi mọi lệnh truyền và chủ ý của chủ nhân.
Lối sống này vô tình như một chuẩn bị xa cho nếp sống tu trì của ngài khi ngài gia nhập tu viện Đa Minh ở Toledo, là nơi ngài sống trong 37 năm mà không được tuyên khấn, để rồi trở thành một mẫu gương sống cho chính cộng đoàn do ngài sáng lập.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống tâm tình hết mình phục vụ như là một tôi tớ của Chúa (Lc 1,38).
Suy niệm 3: Tuyên khấn
Silva chưa bao giờ tuyên khấn lời hứa của dòng này.
Tuyên khấn dầu là lần đầu hay trọn đời vẫn là một cột mốc cho đường đời tu luyện của một tu sĩ, và dĩ nhiên là đích nhắm cho mỗi một người khi đặt chân vào một Dòng Tu.
Với Silva chắc hẳn cũng thế khi ngài rời bỏ thế gian mà chọn lấy hướng sống tu trì. Nhưng thật độc đáo và cũng họa hiếm, suốt quãng đường tu luyện gần nửa đời người, 37 năm trời trong tu viện Đa Minh ở Toledo, ngài vẫn chưa bao giờ tuyên khấn lời hứa của dòng này. Điều này cho hay không phải vì phẩm chất tu trì của ngài không tốt, mà ngược lại vì quá tốt nên đủ kiên trì để theo đuổi, để rồi theo Thiên Ý thích hợp cho tư cách của Vị sáng lập một cộng đoàn khác.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn đủ kiên nhẫn đợi chờ thì giờ Thiên Ý thực hiện.
Suy niệm 4: Dòng Xitô
Thánh Beatrice thành lập một cộng đoàn chiêm niệm theo luật Dòng Xitô.
Tại Pháp quốc cuối thế kỷ thứ XI, khi đời sống đạo tại đan viện Molesme có phần sa sút, thánh Robertô cùng với một số đan sĩ của đan viện đã tách ra làm một nhóm khác hầu giữ trọn bộ tu luật của thánh Biển Đức một cách trọn vẹn hơn. Nhóm này lấy vùng đất có tên là Xitô làm nơi xây dựng cộng đoàn.
Theo dòng thời gian, họ biến đổi nhiều điểm khác với dòng Biển Đức. Một trong những đặc điểm chúng ta thấy rõ đó là màu áo. Các đan sĩ Biển Đức mặc áo đen và áo choàng đen, các đan sĩ Xitô mặc áo trắng và giữ lại áo choàng đen. Dòng Xitô được phát triển mạnh mẽ nhất dưới thời thánh Bênađô (Bernard).
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa đã ban ơn cho các vị sáng lập để có được những thích ứng phù hợp với nhu cầu của thời đại.
Suy niệm 5: Người Theo Linh Đạo Thánh Clara Khó Nghèo
Ngày nay những nữ tu này thường được gọi là Người Theo Linh Đạo Thánh Clara Khó Nghèo.
Nhiều người khiếp sợ sự cầu nguyện và hãm mình của các nữ tu dòng Thánh Clara Khó Nghèo. Những người khác lại được hứng khởi bởi lòng bác ái và hy sinh này, mà linh đạo ấy đã giữ cộng đoàn trung tín với mục đích của dòng: phục vụ Thiên Chúa và Giáo Hội với một tâm hồn ngày càng thanh khiết hơn.
Celano viết về những người đầu tiên theo Thánh Phanxicô: "Trên tất cả mọi sự, trong cộng đoàn của họ nảy sinh một nhân đức ngoại hạng về lòng bác ái cộng đồng và liên tục, mà nhân đức này đã kết hợp họ thành một, mặc dù bốn năm chục người sống trong một mái nhà, và sự đồng tâm nhất trí của họ đã khuôn đúc thành một tinh thần trong nhiều tinh thần ngoại hạng khác" (I Celano, #19).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết thể hiện niềm cảm phục bằng hành động cụ thể trong cuộc sống.
Suy niệm 6: Dòng Nhì
Các nữ tu này chiếm khoảng 20% tổng số người trong Dòng Nhì.
Trong tổ chức của một số Dòng Tu chẳng hạn như Dòng Đa Minh hoặc Dòng Phanxicô đang có mặt tại Việt Nam, chúng ta thường thấy xuất hiện cụm từ Dòng Nhất, Dòng Nhì và Dòng Ba.
Chung quy tất cả đều sống chung một linh đạo từ Đấng Sáng Lập là Thánh Đa Minh hoặc Thánh Phanxiô Átsidi cũng được gọi là Thánh Phanxiô Khó Khăn, nhưng có thể nói Dòng Nhất là các nam tu, Dòng Nhì là các nữ tu, còn Dòng Ba là các giáo dân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các thành viên dầu thuộc Dòng nào cũng hết mình sống linh đạo của Dòng để thánh hóa bản thân và tha nhân.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 31/8 Tôi Tớ Thiên Chúa Cha Martin Valencia (1470 - 1534)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Tôi Tớ Thiên Chúa
Cha Martin Valencia (1470 - 1534)
Bất kể sức khoẻ yếu kém, Cha Martin cũng đi đây đi đó khắp nơi và rao giảng đức tin cho bất cứ ai ngài gặp. Ngài từ trần trong một chuyến đi truyền giáo.
Lược sử
Khi Martin chào đời thì Mỹ Châu chưa được khám phá. Khi ngài từ trần là khi Giáo Hội Công Giáo nỗ lực rao giảng phúc âm ở lục địa ấy.
Sinh trưởng ở một ngôi làng nhỏ bé ở Leon, Juan Martin de Boil gia nhập dòng Phanxicô ở Mayorga thuộc tỉnh Santiago, Tây Ban Nha. Sau khi chịu chức, ngài được bổ nhiệm về quê cũ. Vào năm 1517, khi Martin Luther nổi tiếng ở Đức, Cha Martin de Boil làm bề trên Tỉnh Dòng St. Gabrien. Trong thời gian đệ tử, Martin thường bắt chước Thánh Phanxicô, thay đổi đời sống theo gương Đức Kitô. Nhưng ngài không nhận ra ước vọng truyền giáo đã nhen nhúm ngay từ thuở ban đầu mãi cho đến khi ngài 54 tuổi. Vào năm 1524, theo lời yêu cầu của Hoàng Đế Charles V, Cha Martin dẫn 11 tu sĩ sang Mễ Tây Cơ, là nơi họ được gọi là "12 Tông Đồ của Mễ Tây Cơ. " Tất cả các tu sĩ tiên khởi ở Mễ Tây Cơ đều rất nghèo và rất hãm mình. Thay mặt cho các người địa phương, các tu sĩ lên tiếng phản đối sự bất công của người thực dân Tây Ban Nha. Bất kể sức khoẻ yếu kém, Cha Martin cũng đi đây đi đó khắp nơi và rao giảng đức tin cho bất cứ ai ngài gặp. Ngài từ trần trong một chuyến đi truyền giáo.
Suy niệm 1 Rao giảng
Giáo Hội Công Giáo nỗ lực rao giảng phúc âm ở lục địa ấy.
Qua bao năm, việc loan truyền Tin Mừng về Đức Giêsu được coi là một công việc hầu như dành cho linh mục và tu sĩ. Nếu quả thật công việc truyền giáo là "căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội" như lời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói, thì công việc này cũng hệ tại phần nào nơi mọi phần tử của Giáo Hội. Nhiệm vụ của Cha Martin de Valencia đã hoàn tất, còn của chúng ta thì chưa.
"Mục đích đặc biệt của hoạt động truyền giáo là rao giảng Phúc Âm và vun trồng Giáo Hội nơi các dân tộc và các tổ chức mà giáo hội chưa bén rễ. Các giáo hội bản xứ trên toàn thế giới phải lớn mạnh từ hạt giống Lời Chúa, các giáo hội nào được tổ chức đầy đủ thì sẽ làm chủ sức mạnh và sự trưởng thành của chính giáo hội ấy" (Công Đồng Vatican II, Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội, #6).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nối tiếp sứ vụ truyền giáo của các vị tiền bối theo chức vụ ngôn sứ đã lãnh nhận qua bí tích Rửa Tội.
Suy niệm 2 Quê cũ
Martin được bổ nhiệm về quê cũ.
Sau thời gian xa nhà, nay được trở về quê cũ, quả là một ước mơ của bao người. Chính Đức Gioan Phaolô II sau khi rời quê hương để đến Rôma làm việc theo chức vị của ngài, ngài cũng vui mừng sắp xếp điều kiện để trở về thăm quê cũ Ba Lan.
Nhưng được bổ nhiệm về quê cũ để thi hành chức vụ như Cha Martin thì là một hy sinh lớn lao được hỗ trợ bởi đức vâng lời cao độ, vì chính vị Tôn Sư tuyệt hảo là Đức Giêsu cũng không gặt hái được thành quả khi về thăm quê làng (Mt 13, 58), để rồi phải não nuột thốt lên: Ngôn sứ có bị rẽ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình (Mt 13, 57).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống được tinh thần vâng lời trọng hơn của lễ (1Sm 15, 22).
Suy niệm 3 Đệ tử
Trong thời gian đệ tử, Martin thường bắt chước Thánh Phanxicô, thay đổi đời sống theo gương Đức Kitô.
Là đệ tử của một trường phái, của một sư phụ, thông thường người ta tiếp thu các kiến thức, để rồi có thể đến giai đoạn tách rời và tự trở thành sư phụ đối với các đệ tử theo mình.
Đệ tử theo Đức Giêsu thì không như thế, nghĩa là không phải gắn liền với một giáo thuyết mà là một con người, đến mức phải coi trọng hơn cả cha mẹ mình (Mt 10, 37), phải vác thập giá (Mc 8, 34), phải uống chén đắng (Mc 10, 38), tựu trung thay đổi đời sống trở nên giống hệt với Đức Giêsu (1Pr 1, 15).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đã theo Chúa thì phải có cuộc sống giống Chúa.
Suy niệm 4 12 Tông Đồ của Mễ Tây Cơ
Họ được gọi là "12 Tông Đồ của Mễ Tây Cơ.
Sau khi cầu nguyện suốt đêm mãi đến sáng, Đức Giêsu mới gọi các môn đệ lại, chọn lấy mười hai vị và gọi là Tông Đồ (Lc 6, 12-13), trong đó có Giuđa Ítcariốt là kẻ phản bội và sau này được Mátthia thay thế (Cv 1, 26). Họ là các vị Tông Đồ chính thức của Giáo Hội.
Cha Martin và các cộng sự cũng được tôn vinh là 12 Tông Đồ của Mễ Tây Cơ, vì có sự trùng hợp về con số 12 khi họ cùng đến, đồng thời họ cũng là những tu sĩ tiên khởi đặt chân đến rao giảng Tin Mừng ở vùng đất này.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp Giáo Hội có thêm nhiều vị Tông Đồ khai sáng những vùng đất mới để Nước Chúa sớm trị đến.
Suy niệm 5 Bất công
Các tu sĩ lên tiếng phản đối sự bất công của người thực dân Tây Ban Nha.
Chính Thiên Chúa cũng không chấp nhận được sự bất công để rồi ra tay can thiệp, khi nghe tiếng kêu than của dân bị áp bức ở Ai Cập (Xh 3, 7-10), tiếng than van của người ngoại kiều cư trú trên đất nước, của các cô nhi quả phụ (Xh 22, 20-23), người làm thuê bị đối xử bất công (Đnl 24, 14-15;Gc 5, 4).
Việc người ngoại kiều bị đối xử bất công cũng không làm Chúa hài lòng, phương chi những người bản xứ có chủ quyền. Thế mà nay họ lại bị lấn chiếm và bị chinh phục để trở thành những người nô lệ phục vụ cách bất công cho các chủ nô thực dân. Theo gương Chúa, các vị tu sĩ cũng đồng thanh thay dân lên tiếng phản đối.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhớ lời Chúa dạy: Đng đấu nào sẽ bị trả lại bằng đấu ấy (Mt 7, 2).
Suy niệm 6 Từ trần
Ngài từ trần trong một chuyến đi truyền giáo.
Cùng chung số phận với cha Martin đã từ trần trong một chuyến đi truyền giáo, Cha Phanxicô Xavie đến truyền giáo ở các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.
Các vị khác thì lại được phúc tử đạo vì sứ mệnh truyền giáo, chẳng hạn Cha Bêra rời Ý với các tu sĩ Peter, Adjute, Accurs, Odo và Vitalis để đi rao giảng ở Morocco. Các ngài bị nhà cầm quyền Hồi Giáo khiển trách và ra lệnh cho họ phải rời bỏ nơi đó; nhưng họ từ chối. Khi các ngài lại tiếp tục rao giảng thì vua Thổ Nhĩ Kỳ tức giận đã ra lệnh xử tử họ. Sau khi bị đánh đập và khước từ những dụ dỗ để chối bỏ đức tin, các ngài đã bị chém đầu vào ngày 16 tháng Giêng, 1220.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống chết vì sứ mạng truyền giáo để không hổ danh là hậu thế của các vị tiền bối.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 30/8 Tôi Tớ Thiên Chúa Mẹ Marianne Molokai (1838-1918)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Tôi Tớ Thiên Chúa
Mẹ Marianne Molokai (1838-1918)
Mẹ Marianne đã thay đổi đời sống của những người cùi ở Hạ Uy Di ở Molokai bằng cách du nhập sự sạch sẽ, sự hãnh diện và vui thích vào cộng đoàn này.
Lược sử
Mặc dù bệnh cùi đã làm kinh hãi nhiều người ở Hạ Uy Di trong thế kỷ 19, bệnh dịch đó đã khích động lòng độ lượng vô bờ của Mẹ Marianne. Mẹ đã can đảm tận tình giúp thăng tiến đời sống của những người cùi ở Hạ Uy Di.
Vào ngày 23 tháng Giêng, 1838, một cô gái được chào đời trong gia đình ông Peter và bà Barbara Cope ở Hessen-Darmstadt, nước Đức. Tên của cô được đặt theo tên người mẹ. Hai năm sau, gia đình ông bà Cope di cư sang Hoa Kỳ và định cư ở Utica, Nữu Ước. Cô Barbara làm việc trong một nhà máy cho đến tháng Tám 1862, là lúc cô gia nhập Nữ Tu Dòng Thánh Phanxicô ở Syracuse, Nữu Ước.
Sau khi khấn trọn vào tháng Mười Một vào năm kế đó, cô bắt đầu dạy học tại trường của giáo xứ Assumption. Sơ Marianne giữ chức vụ hiệu trưởng ở một vài nơi và hai lần làm giám đốc đệ tử viện. Với bản tính lãnh đạo, đã ba lần sơ làm giám đốc bệnh viện Thánh Giuse ở Syracuse, là nơi sơ học được nhiều điều lợi ích cho những năm sau này ở Hạ Uy Di.
Được chọn làm bề trên năm 1877, Mẹ Marianne lại tái đắc cử chức vụ bề trên vào năm 1881. Hai năm sau, chính phủ Hạ Uy Di cần tìm những người điều hành trung tâm tiếp nhận người cùi ở Kakaako, và trên 50 tu hội ở Hoa Kỳ và Canada đã được hội ý. Khi lời thỉnh cầu đến tai các sơ ở Syracuse, ngay lập tức đã có đến 35 sơ tình nguyện.
Vào ngày 22-10-1883, Mẹ Marianne và sáu sơ đến Hạ Uy Di để điều hành trung tâm người cùi Kakaako, ở ngoại ô Honolulu; và trên bán đảo Maui họ đã mở một bệnh viện và một trường nữ học sinh. Vào năm 1888, Mẹ Marianne và hai sơ đến Molokai để mở một trung tâm cho "các thiếu nữ và phụ nữ cô thế". Chính phủ Hạ Uy Di rất do dự khi giao phó cho các phụ nữ một công việc rất khó khăn; nhưng với Mẹ Marianne họ không phải lo lắng gì! Ở Molokai, sơ đảm trách một trung tâm mà Chân Phước Damien Deveuster (chết năm 1889) đã thiết lập cho thanh niên và quý ông bị cùi.
Mẹ Marianne chết ngày 9 tháng Chín, 1918, và sự nghiệp của mẹ đã dẫn đến tiến trình phong thánh ở Rôma.
Suy niệm 1 Bệnh cùi
Mặc dù bệnh cùi đã làm kinh hãi nhiều người ở Hạ Uy Di trong thế kỷ 19, bệnh dịch đó đã khích động lòng độ lượng vô bờ của Mẹ Marianne.
Bệnh phong còn gọi là bệnh hủi hay cùi, do vi khuẫn Hansen gây ra. Vì không có bào tử nên vi khuẫn này không lây qua vật chủ trung gian. Khi ở ngoài, nó chỉ tồn tại được 1 đến 2 ngày.
Bệnh cùi được mô tả: Da thịt người mắc bệnh thường phát nhọt, lở loét. Khi nặng hơn, vết thương lõm vào da thịt. Lông mày rụng, mắt lộ ra, thanh quản bị lở nên giọng nói khàn. Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng.Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co làm hai bàn tay co quắp. Ở mức độ nặng, ngón tay ngón chân rụng dần.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp có nhiều thiện nguyện hy sinh giúp đỡ các bệnh nhân cùi như một hỗ trợ cho tinh thần họ.
Suy niệm 2 Độ lượng
Mặc dù bệnh cùi đã làm kinh hãi nhiều người ở Hạ Uy Di trong thế kỷ 19, bệnh dịch đó đã khích động lòng độ lượng vô bờ của Mẹ Marianne.
Vì thể trạng và hình dáng của bệnh nhân do căn bệnh tàn phá, nên cách chung nhiều người đều kinh hãi. Trong xã hội Việt Nam, người bị nhiễm bệnh trước đây thường chịu thành kiến sai lầm, chịu sự hắt hủi, xa lánh, thậm chí bị ngược đãi.
Chắc hẳn cá nhân Mẹ Marianne cũng không tránh khỏi, nhưng tấm lòng độ lượng đã giúp Mẹ vượt lên tất cả, nhất là nhờ Mẹ cũng hiểu được về sự lây nhiễm. Thật ra bệnh chỉ lây khi tiếp xúc lâu dài với các thể phong nặng (phong hở) như phong ác tính, phong đang tiến triển, chảy nước mũi nhiều và có tổn thương lở loét ở da, ở bàn tay, bàn chân. Các thể phong nhẹ khác như phong bất định, phong củ ít có khả năng lây hơn nhiều. Bệnh không di truyền và có thể chữa khỏi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết nhận định rõ và nhất là có lòng độ lượng để có thái độ gần gũi chia sẻ hơn là xa lánh các bệnh nhân cùi.
Suy niệm 3 Thăng tiến
Mẹ đã can đảm tận tình giúp thăng tiến đời sống của những người cùi ở Hạ Uy Di.
Mẹ Marianne đã thay đổi đời sống ở Molokai bằng cách du nhập sự sạch sẽ, sự hãnh diện và vui thích vào cộng đoàn này. Một trong những phương cách ấy là quần áo mầu mè cũng như khăn quàng cổ sặc sỡ. Một thành quả đáng đề cao để nói lên sự thăng tiến ấy, chính là công việc của các sơ trong dòng đã thu hút được nhiều ơn gọi tu trì nơi người Hạ Uy Di và họ hiện đang làm việc ở Molokai.
Chính vì thế Chính phủ Hạ Uy Di đã trao tặng cho Mẹ Marianne nhiều huy chương cao quý, và mẹ cũng đã được nhắc đến trong các tác phẩm của nhà thơ Robert Louis Stevenson, nhưng Mẹ Marianne vẫn tiếp tục làm việc một cách trung tín.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hết mình phục vụ không tìm vinh quang đời này mà là đời sau.
Suy niệm 4 Đệ tử viện
Sơ Marianne hai lần làm giám đốc đệ tử viện.
Đệ tử viện là nơi Dòng tiếp nhận và đào tạo các em muốn thử tìm hiểu và sống ơn gọi tu trì. Các em được hướng dẫn sống chung với nhau, cùng tham gia mọi sinh hoạt do Dòng tổ chức hướng về việc tìm hiểu hỗ tương (các em tìm hiểu Dòng và Dòng tìm hiểu các em) xem có thích hợp với Dòng không, nếu không hợp thì ra về hoặc đi Dòng khác.
Công cuộc đào tạo này là trách nhiệm chung của mọi thành phần trong Dòng, và được Hội Dòng ủy thác cách riêng cho các nhà đào tạo, từ giai đoạn đào tạo khởi đầu Đệ tử viện, Nhà Thử, Nhà Tập mà cao điểm là việc tuyên khấn lần đầu, qua giai đoạn Học Viện được kết thúc với việc tuyên khấn trọn đời, đến giai đoạn đào tạo thường xuyên diễn ra trong suốt cả cuộc đời mỗi tu sĩ, với những hình thức rất đa dạng và thích hợp cho từng hoàn cảnh và độ tuổi, phản ảnh nổi bật đặc sủng và linh đạo Dòng thể hiện trong Hiến Chương, Nội quy và Luật Sống.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp mọi thành viên nỗ lực cọng tác và giúp các nhà đào tạo chu toàn được sứ vụ ủy thác.
Suy niệm 5 Bệnh viện và một trường
Họ đã mở một bệnh viện và một trường nữ học sinh.
Khi điều hành trung tâm người cùi Kakaako, Sơ Marianne cùng các chị em nữ tu đã bắt đầu bằng việc mở một bệnh viện và một trường nữ học sinh. Sự quan phòng của Thiên Chúa thật nhiệm mầu.
Để chuẩn bị cho công cuộc phục vụ hữu hiệu ở môi trường này, Chúa đã sắp xếp cho Sơ Marianne tích lũy kinh nghiệm trước đó, khi dạy học tại trường của giáo xứ Assumption cũng như giữ chức vụ hiệu trưởng ở một vài nơi, đồng thời đã ba lần làm giám đốc bệnh viện Thánh Giuse ở Syracuse.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vững tin vào tình thương quan phòng của Chúa để an bình đi theo.
Suy niệm 6 Do dự
Chính phủ Hạ Uy Di rất do dự khi giao phó cho các phụ nữ một công việc rất khó khăn; nhưng với Mẹ Marianne họ không phải lo lắng gì!
Nhà cầm quyền Hạ Uy Di đã do dự khi để Mẹ Marianne trở thành một bà mẹ ở Molokai. Ba mươi năm kiên trì làm việc đã chứng minh sự lo sợ của họ là vô căn cứ. Bất kể sự thiển cận của loài người, Thiên Chúa đã ban nhiều ơn sủng và cho phép những ơn sủng đó nở hoa vì Nước Trời.
Sau khi Mẹ Marianne chết không lâu, Bà John F. Bowler đã viết trong tập san Honolulu Advertiser: "Không có nhiều thời cơ cho một phụ nữ mà bà đã dành từng chút giờ một trong 30 năm để săn sóc những người bị tách biệt khỏi thế giới vì lề luật. Bà đã hy sinh trong suốt thời gian đó, và đã chống trả với đủ mọi thứ một cách can đảm không nao núng và với nụ cười luôn tươi nở trên môi."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín về sự trợ giúp diệu kỳ của Chúa với ơn sủng luôn đủ (2Cr 12,9) để hoàn thành nhiệm vụ.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 29/8 Thánh Gioan Tẩy Giả Bị Chém Ðầu
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan Tẩy Giả Bị Chém Ðầu
Gioan Tẩy Giả là người đã chỉ đường đến Ðức Kitô. Lối sống đơn giản của ngài thực sự là lối sống tách biệt khỏi vật chất thế gian. Tâm hồn của ngài đặt trọng tâm ở Thiên Chúa...
Lược sử
Lời thề khi say sưa của một vị vua coi thường danh dự, một điệu vũ mê hoặc và một con tim hận thù của hoàng hậu đã đưa đến cái chết của Gioan Tẩy Giả. Vị ngôn sứ vĩ đại nhất đã chịu chung số phận như nhiều ngôn sứ khác trong Cựu Ước: bị tẩy chay và tử đạo.
"Tiếng kêu trong sa mạc" không ngần ngại lên án kẻ có tội, và dám nói lên sự thật. Tại sao ngài làm như vậy? Ngài được gì khi hy sinh mạng sống mình? Nhà cải cách tôn giáo này đã được Thiên Chúa sai đến để chuẩn bị dân chúng đón nhận Đấng Thiên Sai. Ơn gọi của ngài là một hy sinh cách vị tha. Chỉ có một quyền năng mà ngài công bố là Thần Khí Thiên Chúa. Ngài biết ơn gọi của mình là sự chuẩn bị. Đời sống và cái chết của Gioan là để hy sinh cho Thiên Chúa và loài người. Lối sống đơn giản của ngài thực sự là lối sống tách biệt khỏi vật chất thế gian. Tâm hồn của ngài đặt trọng tâm ở Thiên Chúa và lời mời gọi ngài nghe được từ Thần Khí Thiên Chúa đã đánh động tâm hồn ngài. Tin tưởng ở ơn Chúa, ngài đã can đảm nói những lời kết tội hoặc kêu gọi sám hối, vì sự cứu độ.
Suy niệm 1 Chết
Lời thề khi say sưa của một vị vua coi thường danh dự, một điệu vũ mê hoặc và một con tim hận thù của hoàng hậu đã đưa đến cái chết của Gioan Tẩy Giả.
Thật vậy, nhân bửa tiệc mừng kỷ niệm ngày sinh nhật của vua Hêrôđê, một cô gái đã nhảy múa giúp vui và vừa ý vua. Vua buột miệng thề thưởng cho cô bất kể điều gì cô muốn, thậm chí cả nửa nước cũng được. Cô gái chưng hửng chạy lại mẹ là bà Hêrôđiađê để hỏi ý kiến. Bà ta vốn là vợ của Philipphê em vua nay lại muốn bỏ chồng để làm vợ anh rể mình, một vi phạm cả về xã hội lẫn tôn giáo.
Triều đình tiêu biểu cho xã hội thì im lặng vì không dám đụng chạm nhà vua. Riêng Gioan Tẩy Giả đại diện tôn giáo đã mạnh dạn lên tiếng phản đối như một mũi gươm đâm thẳng vào bà và cả nhà vua. Bà hận thù và dùng dịp này để bảo con xin đầu Gioan. Nhà vua vốn bất bình về việc Gioan cản ngăn nên đã dùng quyền bỏ tù Gioan, nay nắm lấy cơ hội này và lệnh lính vào ngục chém đầu Gioan (Mt 14,3-11).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thà chết chứ không thà thông đồng với tội ác.
Suy niệm 2 Số phận
Vị ngôn sứ vĩ đại nhất đã chịu chung số phận như nhiều ngôn sứ khác trong Cựu Ước.
Thật thế sau khi tiên tri Ê-li-a đã chứng minh ai là Chúa thật và đã cho giết hết các ngôn sứ thờ Thần Baan, thì bị hoàng hậu Ideven ra lệnh truy nã (1V 19,2). Còn ngôn sứ Mikhagiơhu vì nói thật về sự thất bại của vua Ítraen, nên bị vả mặt và bị bỏ tù (1V 22,14.27).
Isaia đê nhị với sứ điệp an ủi người lưu đày bất hạnh lại vấp phải sự vô tri, ngờ vực và giận dữ của những người đã nếm mùi đắng cay của một cuộc lưu đày dài lâu. Còn Giêrêmia đã rên lên vì mọi người chống đối ông (Gr 18,18-20).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cam chịu bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ ngặt nghèo vì Chúa (1Cr 12,10).
Suy niệm 3 Sự thật
"Tiếng kêu trong sa mạc" không ngần ngại lên án kẻ có tội, và dám nói lên sự thật.
Là ngôn sứ bảo vệ cho chân lý và sống chết vì chân lý, ngài can đảm vạch trần lầm lỗi của vua Hêrôđê về tội cướp vợ em mình. Phúc Âm còn kể cho chúng ta biết có nhiều người theo Gioan để tìm kiếm hy vọng, có lẽ vì nóng lòng chờ đợi Đấng Thiên Sai. Gioan không bao giờ tự nhận cho mình cái vinh dự giả dối khi dân chúng tuốn đến với ngài.
Ngài khẳng định: "Tôi làm phép rửa cho các người với nước để giục lòng sám hối, nhưng Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các ngươi trong Thánh Thần và lửa" (Mt 3,11).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chẳng những bênh vực mà còn dám chết cho chân lý.
Suy niệm 4 Ơn gọi
Ơn gọi của ngài là một hy sinh cách vị tha.
Mỗi người đều có một ơn gọi mà họ phải lắng nghe. Không ai có thể lập lại sứ vụ của Thánh Gioan, và tất cả chúng ta đều được kêu gọi đến một sứ vụ riêng biệt. Đó là vai trò làm chứng nhân cho Đức Giêsu của mỗi một Kitô Hữu. Bất cứ hoàn cảnh nào trong đời sống, chúng ta được mời gọi để trở nên môn đệ của Đức Kitô. Qua hành động và lời nói, người khác sẽ nhận thấy chúng ta đang sống trong niềm vui khi tin nhận Đức Giêsu là Chúa chúng ta. Chúng ta không bị gò bó bởi sức mạnh hạn hẹp của chính chúng ta, nhưng chúng ta có thể tìm thấy sức mạnh từ ơn cứu độ bao la của Đức Kitô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra và sống trọn vẹn ơn gọi của mình.
Suy niệm 5 Chuẩn bị
Gioan biết ơn gọi của mình là sự chuẩn bị.
Khi đã đến lúc, ngài dẫn các môn đệ đến với Chúa Giêsu: "Hôm sau, ông Gioan lại có mặt ở đó với hai môn đệ của ông và khi thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông nói: 'Đây là Chiên Thiên Chúa.' Hai môn đệ nghe nói, liền đi theo Đức Giêsu" (Ga 1,35-37).
Chính Gioan Tẩy Giả là người đã chỉ đường đến Đức Kitô đúng với sứ vụ chuẩn bị, như ngài tự nhận và được ghi lại: "Họ đến gặp Gioan và nói: 'Thưa thầy, người đã ở với thầy bên kia sông Giođan, và được thầy chứng thực, bây giờ ông ấy đang làm phép rửa, và mọi người đều đến với ông ấy." Gioan trả lời: 'Không ai có thể nhận được gì mà không do trời ban. Chính anh em làm chứng là tôi đã nói: tôi không phải là Đấng Thiên Sai, mà chỉ là kẻ được sai đến trước Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chàng rể; người phù rể đứng ở đó thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng rể. Như vậy niềm vui của tôi đã được trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi" (Ga 3,26-30).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết dẫn đưa người đến với Chúa hơn là giữ lại cho mình.
Suy niệm 6 Sám hối
Gioan đã can đảm nói những lời kết tội hoặc kêu gọi sám hối.
Công đồng Trentô định nghĩa: Sám hối là cảm thấy đau buồn, gớm ghét tội đã phạm và quyết chí chừa cãi. Đau buồn và gớm ghét nhìn về quá khứ, còn quyết tâm chừa cãi nhắc tới tương lai (Dz 1676).
Sám hối là tâm tình và hành động mà người ta nhìn nhận và cố gắng sửa lại một sai trái, để nhận được sự tha thứ nơi người mà họ xúc phạm. Trong ngữ cảnh tôn giáo, Sám hối thường chỉ sự ân hận về những tội xúc phạm đến Thiên Chúa. Nó luôn gao gồm sự thừa nhận có tội, và đồng thời bao gồm ít nhất một trong các điều sau: tuyên hứa hay quyết định không tái phạm; nỗ lực đền bù lại tác hại do tội lỗi gây ra hoặc bằng cách nào đó; đảo ngược lại những hậu quả tai hại nếu có thể.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sám hối cách thành tâm thiện chí như Giáo Hội chỉ dạy.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 28/8 Thánh AUGUSTINÔ (354 – 430)
- Ngày 27/8 Thánh Monica (322?-387)
- Ngày 26/8 Thánh Giuse Calasan (1556 -1648)
- Ngày 25/8 Thánh Louis của Pháp (1226-1270)
- Ngày 24/8 Thánh Batôlômêô
- Ngày 23/8 Thánh Rôsa ở Lima (1586-1617)
- Ngày 22/8 Lễ kính Ðức Maria Nữ Vương
- Ngày 21/8 Thánh Giáo Hoàng Piô X (1835-1914)
- Ngày 20/8 Thánh Bernard ở Clairvaux (1091-1153)
- Ngày 19/8 Thánh Gioan Eudes (1601-1680)