Dân Chúa Âu Châu

thu 7 TT BDThứ Bảy Tuần Thánh – Đêm Vọng Phục Sinh

Tin Mừng: Mc 16, 1-8 (năm B)

Hết ngày sabát, bà Maria Mácđala với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giêsu. Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?” Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giêsu Nadarét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này! Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông.” Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi.

Suy niệm:

1. Mặt trời hé mọc - Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Sau hai buổi tối chờ đợi trong đau đớn và thấp thỏm lo âu,
sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa nhật của chúng ta,
những phụ nữ đến viếng mộ của Thầy Giêsu, và đem theo dầu thơm để xức xác.
Các bà đã đi theo và giúp đỡ Thầy từ hồi ở Galilê (Mc 15, 41).
Trong những ngày qua, họ đã lên Giêrusalem chứng kiến Thầy bị đóng đinh (15, 40).
và có người còn đến xem tận mắt chỗ mai táng Thầy (15, 47).
Chúng ta có thể cảm được nỗi đau nơi trái tim của những phụ nữ.
Nhưng sáng sớm hôm nay, mặt trời đã mọc, ánh sáng đã bừng lên.
Ai quên được chuyện bóng tối đã bao phủ khắp mặt đất ngay giữa trưa?
Bóng tối ngạo nghễ chiến thắng khi Thầy Giêsu chết trên thập giá.
Nhưng chuyện ấy đã qua rồi, hoàn toàn qua rồi.
Bây giờ là giờ của ánh sáng, của sự sống, của mặt trời đến thăm.
Thiên Chúa cho thấy sự hiện diện hùng mạnh của Ngài nơi vùng chết chóc.
Một tảng đá rất lớn che cửa mộ, ai sẽ giúp các phụ nữ yếu đuối này lăn ra?
Vậy mà vừa ngước lên nhìn, các bà thấy nó đã được lăn ra rồi (c. 4).
Thiên Chúa làm điều tưởng như không thể.
Các bà đi tìm xác Thầy thì không gặp, lại gặp một thiên thần
dưới dạng một thanh niên mặc áo trắng ngồi trong mộ (c. 5).
Thật là đáng sợ khi thấy sự linh thánh cao cả lại gần gũi mình đến thế.
Vị thiên thần này loan báo cho các bà Tin Mừng mà họ chẳng dám nghĩ tới.
Đây là việc Thiên Chúa đã làm cho Thầy của họ:
“Đức Giêsu Nadarét, Đấng đã bị đóng đinh, Đấng ấy đã được trỗi dậy rồi.”
Đấng là Con, đã khó nhọc xin vâng ý Cha trong vườn Dầu,
Đấng đã chấp nhận uống chén đắng, hiến mạng làm giá chuộc (Mc 10, 45),
Đấng có vẻ bị Cha ruồng rẫy khi chịu đóng đinh trên thập giá (15, 34),
Đấng ấy nay được Cha phục sinh, được Thiên Chúa nâng dậy rồi.
Xác Ngài không còn đây, đây chỉ là chỗ trước đây người ta đặt Ngài nằm.
Thiên Chúa đã bất ngờ chuyển thất bại thành chiến thắng cho Con của Ngài.
Ánh sáng đã thắng bóng tối, sự sống đã thắng sự chết,
tình yêu đã thắng hận thù, công lý và sự thật đã thắng bất công và dối trá.
Chiến thắng của Giêsu là chiến thắng của những người cùng thân phận như Ngài.
Đây là khởi đầu cho chiến thắng chung cục của Thiên Chúa vào ngày tận thế.
Vị thiên thần nhờ các bà nhắn giùm các môn đệ
về cái hẹn sau khi ăn bữa Tiệc Ly của Thầy Giêsu:
“Sau khi được trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em” (14, 28).
Bây giờ “Thầy đang đến Galilê trước các ông rồi…” (15, 7).
Nhưng theo thánh Marcô, các bà đã không nhắn, “họ chẳng nói gì với ai.”
Họ hoảng sợ, chạy trốn khỏi mộ, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía (c. 8).
Như thế các phụ nữ phần nào cũng giống các môn đệ, sợ hãi và trốn chạy.
Họ đã theo Thầy Giêsu đến tận cùng của cái chết bi đát,
nhưng họ lại hoảng sợ trước ngôi mộ trống, trước Tin Mừng Phục sinh.
Dầu vậy Thiên Chúa cũng thu xếp để Đấng phục sinh gặp lại các môn đệ.
nên cuộc hẹn gặp ấy không vì các phụ nữ mà bị đổ vỡ.
Làm sao ta không sợ hãi và chạy trốn trước việc đi loan báo Chúa Phục sinh?
Làm sao ta không chỉ dừng lại trước cửa mộ, trước cái chết của Chúa?
Mầu nhiệm Phục sinh thật là cao cả, nhưng mầu nhiệm ấy vẫn gọi ta đến gần.
Ta phải sống mầu nhiệm đó mới thực sự là sống mầu nhiệm Vượt Qua.
“Hãy về nói với môn đệ của Người…” (c. 7).
hãy về nói với thế giới quanh ta rằng Đức Giêsu phục sinh muốn hẹn gặp họ.
“Ở đó các ông sẽ thấy Người…”
Thế giới hôm nay cần thấy Đấng chịu đóng đinh, Đấng đang sống biết bao!

Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của người kitô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh liệt
khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời:
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận tình hơn
với Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả.

2. ĐÊM THÁNH – ĐÊM HY VỌNG - Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.

Thánh Phaolô dạy cho chúng ta biết rằng: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (x. 1Cr 15,14).

Quả đúng như vậy: Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết. Ngài đã chiến thắng cũng như tiêu diệt bóng tối sự dữ và sự chết qua việc sống lại huy hoàng, để mở đường cho những ai tin cũng được sống lại như Ngài đã sống lại.

Đây là niềm tin và hy vọng tuyệt đối của tất cả chúng ta.

Vì thế, đêm hôm nay được gọi là Đêm Hồng Phúc, Đêm Cứu Độ, Đêm Ánh Sáng, Đêm của Sự Sống. Đêm Mẹ của các đêm.

Toàn bộ nghi thức phụng vụ mà chúng ta đang cử hành đều diễn tả những tâm tình trên cách sống động và sốt sắng, để đưa mỗi người chúng ta vào trong mầu nhiệm thánh, mầu nhiệm cứu chuộc.

Khởi đi từ việc Giáo Hội cử hành nghi thức thắp lửa Nến Phục Sinh. Đây là nghi thức làm toát lên vai trò của Đức Giêsu chính là Ánh Sáng chiếu soi thế gian. Ngài đến khai mở và dẫn đưa nhân loại thoát ra khỏi bóng đêm của tội lỗi để bước vào miền ánh sáng cứu độ.

Khi đã đi ra khỏi bóng đêm của cái chết để bước vào cõi sống, chúng ta hãy cùng với các thần thánh trên trời, nhân loại dưới thế và toàn thể vũ trụ hân hoan công bố Tin Mừng Phục Sinh và cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa (x. Exsultet).

Tiếp theo, Mẹ Giáo Hội cho chúng ta đọc lại những bài sách thánh quan trọng trong lịch sử cứu chuộc, để cảm nhận được tình thương, sự trung tín của Thiên Chúa trên dân của Người như thế nào! Ngõ hầu giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng: Thiên Chúa – Đấng giàu lòng thương xót, chính Người là chủ tể trong toàn bộ lịch sử cứu độ của dân Người.

Đỉnh cao của lòng xót thương ấy chính là việc: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải hư mất, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Thế nên, sứ mạng của Đức Giêsu đến trong trần gian này là để cứu chuộc và khai mở cho nhân loại biết đích xác con đường cứu chuộc ấy là con đường tình yêu. Đây là con đường bản lề để dẫn tới mầu nhiệm phục sinh.

Không chỉ nói và dạy, nhưng Đức Giêsu còn đích thân khai mở con đường ấy bằng chính cuộc khổ nạn và phục sinh của mình.

Như vậy, nếu Đức Giêsu chết mà không phục sinh, hẳn tất cả những gì đã loan báo về Ngài trước đó đều vô hiệu, những Giáo Huấn của Ngài trở nên phù phiếm, lời rao giảng của các Tông đồ trở thành chiêu trò lừa bịp, và chúng ta trở thành những kẻ mê muội, dại dột khi tin vào một con người đã chết mà không bao giờ sống lại.

Nhưng, Đức Giêsu – Con Thiên Chúa hằng sống, đã sống lại vinh quang, khiến cho tất cả những lời các ngôn sứ tiên báo nay ứng nghiệm. Nhất là lời chứng của các Tông đồ trở nên sự thật. Giáo Huấn của Giáo Hội trở nên vững chắc. Và, niềm tin của chúng ta tràn đầy hy vọng. Vì thế, giáo phụ Tertulianô đã phát biểu rất chính xác qua một câu Latinh ngắn gọn như sau: “Fiducia christianorum resurrectio mortuorum; illam credentes, sumus: Niềm hy vọng của người Kitô đặt ở nơi sự việc kẻ chết sống lại; chính vì tin như thế, mà chúng ta mới là Kitô hữu”; chỗ khác, thánh Phaolô dạy: “Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta, xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3,4; x. 1Ga 3,2).

Đây thực sự là niềm vui khôn xiết tả và nguồn hy vọng được cứu độ trở nên tuyệt đối. Xin tạ ơn Chúa: Halêluiya.

Như thế, những gì diễn ra đêm nay không chỉ là một biến cố đã qua, nay được lặp lại, mà nó là một sự kiện sinh động đến sống động, bởi vì Đức Giêsu đã không kết thúc cuộc đời dương thế của Ngài bằng cái chết, nhưng là sự sống lại. Cái chết của Ngài không phải là dấu chấm hết, mà nó là một khởi đầu, khai mào cho một sự sống mới trong vinh quang dành cho tất cả những ai tin vào Người.

Sứ điệp mà Giáo Hội gửi đến cho mỗi người chúng ta hôm nay, đó là:

Thiên Chúa luôn luôn yêu thương con người cách đặc biệt. Người đã, đang, và sẽ hiện diện cách trực tiếp, sống động trong lịch sử nhân loại cũng như nơi mỗi người chúng ta.

Vì thế, chúng ta thuộc về con cái của sự sáng, sự sống, là những người đã được cứu chuộc nhờ Máu và Nước của Đức Giêsu.

Khi đã cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa trên nhân loại và trong cuộc đời của chúng ta, đồng thời xác tín mạnh mẽ vào Đấng Phục Sinh, mỗi người chúng ta cần tu chỉnh cuộc sống của chính mình, để trở chứng nhân Tin Mừng Phục Sinh khi tin điều xác tín, sống những gì đã tin và thi hành những việc Chúa dạy. Những điều đó là:

Luôn biết xót thương người khác, nhất là những người tội lỗi, để tìm cách nâng họ dậy, khơi gợi niềm hy vọng, ngõ hầu họ cũng được tháp nhập vào đoàn Dân Thánh, dân được cứu chuộc.

Không bao giờ chấp nhận hay lựa chọn thói vô tâm, vô cảm, dửng dưng làm tinh thần chủ đạo trong những sinh hoạt và các mối tương quan hằng ngày của chúng ta.

Cần tránh cho xa những chân lý nửa vời, những trò đánh lận con đen, những thói ăn thời ở đợ, những hành vi tham nhũng, áp bức, bóc lột, gian dối, kiêu ngạo, ăn chơi đàn điếm…, đây là những bóng đêm của tội lỗi, là con đường dẫn đến sự chết, vì thế, chúng ta phải tránh cho xa kẻo mất ơn cứu độ.

Mong sao, trong Đêm Thánh, Đêm Hồng Ân cứu độ này sẽ đem lại cho chúng ta một luồng sinh khí mới, để mỗi người được tràn đầy niềm vui, hy vọng và bình an, hạnh phúc.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng Phục Sinh, xin cho chúng con biết loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng mạnh mẽ Chúa đã sống lại cho tới khi Chúa lại đến. Halêluiya. Amen.

3. Suy Niệm của Lm Trần Bình Trọng

Kính Mừng Chúa Phục Sinh &

Chúc Mừng Anh Chị Em Tân Tòng

Nếu có ai hỏi Thiên Chúa là Ðấng nào? Người ta sẽ được nghe những câu trả lời khác nhau chẳng hạn như: Thiên Chúa là Ðấng tạo thành trời đất, loài người và muôn vật; Thiên Chúa là Ðấng điều hành vũ trụ và vận mạng con người cũng như loài vật; Thiên Chúa là Ðấng quan phòng đời sống loài người và thưỏng phạt người lành người dữ. Và đó cũng là quan niệm chung của dân Việt Nam về ông Trời. Và người công giáo gọi ông Trời là Thiên Chúa. Quan niệm chung của dân Việt về ông Trời còn lưu hành câu ca dao: Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cầy, lấy đầy bát cơm, lấy rơm đun bếp. Có nơi đọc câu cuối là: lấy con tôm to. Ông Trời đó của dân gian Việt Nam cũng là Thiên Chúa của người công giáo.

Có điều khác biệt là người công giáo biết nhiều về Thiên Chúa mà họ tôn thờ, nhờ việc Thiên Chúa mạc khải cho loài người qua các tổ phụ, các ngôn sứ trong Thánh kinh. Và sau cùng chính con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu nhân loại đã dậy bảo cho các môn đệ. Vì tổ phụ loài người bất phục tùng Thiên Chúa, nên tội lỗi đã lọt vào thế gian mà nhân loại hậu sinh phải gánh chịu hậu quả. Ðể cứu chuộc loài người, Thiên Chúa sai Con Một Người xuống thế làm người, sinh bởi Ðức nữ đồng trinh, được đặt tên là Giêsu để cứu nhân độ thế. Ðức Giêsu được xức dầu tấn phong là Ðấng Kitô, đi giảng đạo ba năm về nước Thiên Chúa, về giáo lí yêu thương, tha thứ, sống vị tha, bác ái của đạo Chúa. Người dùng quyền năng Thiên Chúa làm nhiều phép lạ như là cho người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm được nói, người què được lành mạnh, cho người đói ăn, khát uống để người ta tin tưởng. Không chấp nhận đường lối và giáo lí của Chúa, những nhà lãnh đạo tôn giáo đương thời đã bách hại, đóng đinh và lên án tử hình cho Người. Và ngày thứ ba Người đã sống lại như chính Người đã tiên báo (Mt 16:21; Mt 17:23; Mt 20:19; Mc 8:31; Mc 9:31; Mc 10:34; Lc 9:22; Lc 18:33; Ga 2:19).

Ðể xây dựng nước Chúa ở trần gian, Chúa chọn mười hai tông đồ và sai họ đi rao giảng tin mừng cứu độ và làm chứng cho việc Chúa phục sinh bằng chính cái chết của họ. Những ai định nghĩa Thiên Chúa thế nào thì cứ việc định nghĩa. Thánh Gioan, không cần dài dòng văn tự, chỉ định nghĩa một cách vắn tắt mà đầy đủ ý nghĩa: Thiên Chúa = tình yêu (1Ga 4:8). Thật vậy vì yêu, Thiên Chúa đã thực hiện tất cả những công trình trên đây.

Hôm nay người tín hữu tụ họp nơi đây để mừng việc Chúa cứu thế sống lại. Qua việc chết đi cho tội lỗi trong mùa Chay, người tin hữu được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa phục sinh. Hôm nay ta cũng mừng các anh chị em tân tòng được sống lại về phần hồn trong Bí tích Rửa tội.

Cùng anh chị tân tòng!

Anh chị em đã được học hỏi về đạo Chúa từ tháng Chín năm ngoái. Từ đầu mùa Chay năm nay, anh chị em đã được tuyển chọn để tiếp tục tìm hiểu đạo Chúa. Trong mùa Chay, anh chị em cũng đã cùng với toàn thể Giáo hội cầu nguyện, hi sinh... để sửa soạn tâm hồn đón mừng Chúa phục sinh. Hôm nay anh chị em tụ họp nơi đây để chia sẻ niềm vui với Chúa phục sinh bằng việc xin được sinh lại trong ơn thánh qua Bí tích Rửa tội. Ðối với anh chị em mà trong gia đình, vợ hay chồng hay bạn sắp cưới, đã là người công giáo, thì từ nay anh chị em cùng chia sẻ một niềm tin, cùng nhìn về một hướng, cùng theo đuổi một mục đích siêu nhiên. Anh chị em cùng nhắm đến tình yêu trọn vẹn, hạnh phúc toàn diện và hạnh phúc lâu dài. Tình yêu trọn vẹn là tình yêu chung thuỷ cho đến cùng. Hạnh phúc toàn diện là hạnh phúc về vật chất, tinh thần và đời sống thiêng liêng. Hạnh phúc lâu dài là hạnh phúc ở đời này cũng như đời sau.

Việc chấp nhận đức tin công giáo không có nghĩa là anh chị em phải cắt đứt những liên hệ quá khứ. Nếu trước kia vào những ngày giỗ chạp, anh chị em có thói quen cúng tế tổ tiên, ông bà, cha mẹ vì lòng hiếu thảo, thì từ nay anh chị em cũng có bổn phận kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ bằng cách cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà cha mẹ. Ðó chính là giới răn thứ Bốn của đạo Chúa dạy. Ðể cụ thể hoá lòng hiếu thảo, hôm nay anh chị em cùng cảm tạ Thiên Chúa cho ông bà cha mẹ đã có công sinh thành, dưỡng dục anh chị em và còn cho phép anh chị em được tự do quyết định tìm hiểu đạo Chúa và nhận lãnh đức tin.

Việc nhận lãnh đức tin công giáo cũng không có nghĩa là từ nay anh chị em không còn cô đơn và buồn khổ. Có những lúc anh chị sẽ cảm thấy cô đơn buồn khổ. Tuy nhiên từ nay anh chị em có Chúa là bạn đồng hành trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Chúa sẽ là lẽ sống của anh chị em. Chúa sẽ là ánh sáng, là sức mạnh, là nguồn cậy trông, là niềm an ủi và là ơn cứu độ của anh chị em. Từ nay Chúa là gia nghiệp của đời anh chị em. Từ nay anh chị em có thể chạy đến với Chúa bất cứ lúc nào vì Chúa không cần ngủ nghỉ: anh chị em không cần kêu điện thoại trước để làm hẹn xem Chúa có nhà ngày giờ đó không. Anh chị em không cần đợi vì Chúa đang gặp người khác quan trọng hơn. Chúa không thiên vị, thiên tư ai cả. Trước mặt Chúa mọi người đều bình đẳng. Từ nay anh chị em có thể đến với Chúa bất cứ ở đâu vì Chúa ở khắp mọi nơi. Ðến với Chúa tư riêng và bất ngờ như vậy, anh chị em không cần làm đẹp như sửa soạn quần áo hay trang điểm gì cả. Anh chị em sẽ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa là thật, không còn xa vời, mà là gần gũi với anh chị em, nếu anh chị em mở lòng ra với Người và để Chúa đi vào đời sống riêng tư cá biệt của anh chị em. Từ nay anh chị em không sống và làm việc một mình, nhưng là sống và làm việc kết hiệp với Chúa, vì yêu mến Chúa. Ðó chính là ý nghĩa của lời thánh Phaolô quả quyết: Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi (Gl 2:20).

Việc lãnh nhận đức tin công giáo cũng không có nghĩa là đức tin là sự vật gì mà anh chị em có thể nắm chắc trong tay, hay bỏ vào nhà băng, nhưng phải luôn tìm cách bảo trì. Có những khi anh chị em sẽ cảm thấy đức tin bị lung lạc, những giờ phút tuyệt vọng, chán chường, những ngày giờ, những năm tháng mà tâm hồn bị bóng tối nghi ngờ bao phủ, đè nặng như chính thánh Tôma tỏ ra nghi ngờ về việc Thầy mình sống lại (Ga 20:25). Anh chị em sẽ cảm thấy như Chúa đi vắng hay không còn hiện hữu. Tuy nhiên cũng như bà Maria Mácđala (Mc 16:1-8), cũng như thánh Phêrô và thánh Gioan vẫn đi tìm Chúa khi bóng tối bao trùm tâm trí (Ga 20:3-9), thì anh chị em cũng cần tiếp tục đi tìm Chúa ngay cả khi nản lòng nhụt chí.

Thưa anh chị em! Chúa vẫn ở đó chờ đợi ta. Chúa vẫn đến với ta trong cuộc sống hằng ngày: trong lúc ăn, nghỉ, làm việc và giải trí. Chúa vẫn hiện diện với ta qua những kì công của vũ trụ, những vẻ đẹp thiên nhiên. Ðiều cần thiết là ta học hỏi để có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa và nhận ra tiếng Chúa.

Lời cầu nguyện xin cho được sống lại về phần linh hồn với Chúa phục sinh:

Lạy Ðức Kitô phục sinh!

Chúng con cảm tạ Chúa cho ngày hôm nay

ngày Con Chúa Phục Sinh từ cõi chết.

Qua mùa chay, chúng con đã sống tinh thần cầu nguyện

cải thiện đời sống và làm việc từ thiện bác ái.

Trong Thánh lễ, chúng con vừa lặp lại lời hứa

khi chịu phép Rửa tội là sẵn sàng chết đi cho tội lỗi.

Xin cho con được sống lại về phần hồn.

Với Chúa Phục Sinh. Amen.

4. Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết - Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên

“Hôm nay là ngày Thiên Chúa dựng nên.

Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ”

Cùng với toàn thể Giáo Hội, hôm nay, cộng đoàn chúng ta hân hoan mừng lễ Chúa Phục Sinh. Đó là niềm vui mừng và hoan lạc không chỉ cho chúng ta là những người có niềm tin, mà còn cho toàn thể nhân loại. Quả vậy, như lời Thánh Phaolô đã nói: “Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì niềm tin của chúng ta trở nên vô ích. Và chúng ta là người dại dột hơn ai hết vì chúng ta tin vào một chuyện hão huyền”. Thế nhưng, sự thật là Đức Kitô đã sống lại từ trong kẻ chết.

Đức Kitô sống lại, trước tiên là một tin vui cho toàn thể địa cầu

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta nhìn sự kiện Chúa Giêsu phục sinh như một cuộc tạo thành mới. Bài trích sách Sáng Thế kể về trình thuật Thiên Chúa tạo dựng trời đất muôn vật mà trung tâm điểm là con người. Với công trình tạo dựng ấy, Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Thế nhưng, tình trạng tốt đẹp đó đã bị phá hỏng bởi ông bà Nguyên Tổ đã nghe theo lời ma quỷ mà phạm tội bất tuân, chống lại Thiên Chúa. Tội lỗi ban đầu đó đã khiến cho đau khổ và sự chết tràn vào thế gian. Ảnh hưởng của tội lỗi, không chỉ trên sự sống của con người, mà còn trên muôn loài, muôn vật. Như lời Thánh Phaolô: “Cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,22). Nhưng nhờ sự chết và sống lại của Đức Kitô, mà muôn loài được giải thoát khỏi vòng tội lỗi và sự chết. Không chỉ có thế, sự Phục sinh của Đức Kitô, còn mang đến cho nhân loại sự sống mới sung mãn hơn, tràn đầy hơn sự sống mà nhân loại đã có thuở ban đầu. Vậy nên, chúng ta mới hiểu được lý do tại sao trong đêm Vọng Phục Sinh này Giáo Hội lại ca lên: “Ôi ! tội A-dong thật là cần thiết, tội đã được tẩy xóa nhờ cái chết của Chúa Kitô. Ôi! tội hồng phúc, vì đã cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc cao sang”. (x.Exsultet).

Đức Kitô sống lại mang đến cho đau khổ một ý nghĩa mới

Đau khổ, thập giá, vốn là một sự xỉ nhục, nên không ai trong chúng ta thích đau khổ, và đặc biệt, không ai trong chúng ta muốn nói đến sự chết. Thế nên, đau khổ sẽ mãi là một mầu nhiệm, mãi là một câu hỏi lớn của con người ở mọi thời đại, nếu những đau khổ đó không được giải đáp bằng sự Phục Sinh của Đức Kitô.

Nhưng, Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng. Ngài đã làm cho những quằn quại đau thương của con người có một ý nghĩa mới. Nỗi đau đó, không trở nên vô ích, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự sống mới, một niềm vui mới. Chúa Kitô đã làm cho cuộc sống trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu.

Đức Kitô sống lại, mang đến cho chúng ta niềm hy vọng thân xác chúng ta, một ngày kia sẽ được sống lại với Chúa

Quả vậy, Đức Kitô chính là Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc là toàn thể nhân loại chúng ta. Ngài đã sống lại và đi vào cõi vinh quang bất diệt. Ngài đã mở đường cho chúng ta từ cõi chết dẫn vào trong cõi sống muôn đời. Từ nay, thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết của con người không còn là đường cùng hay ngõ cụt, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối con đường hầm. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng Phục Sinh của thân xác chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển dòng lịch sử và khi Ngài xuất hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện trong vinh quang cùng với Ngài.

Người tín hữu sống niềm tin vào Chúa phục sinh như thế nào?

Chúa Kitô đã Phục Sinh, Ngài đang sống trong vinh quang của Chúa Cha. Niềm tin đó, giúp chúng ta đón nhận cuộc đời, kể cả đau khổ và cái chết, một cách tích cực, chủ động và vui tươi. Đau khổ, đối với chúng ta, không còn là điều phi lý nữa, bởi vì thập giá đã được đưa vào vinh quang Phục Sinh. Cuộc sống này, không còn gì là tuyệt đối bi đát, tuyệt đối hư hỏng, vì từ cái chết, Thiên Chúa đã làm phát sinh sự sống trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã tin vào sự Phục Sinh, vào chiến thắng chung quyết của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ không còn lo âu buồn phiền, không còn sống ích kỷ hẹp hòi, mà dám từ bỏ, hy sinh, xả thân vì sự sống và hạnh phúc của mọi người. Sự Phục Sinh của Đức Kitô không chỉ hướng tới ngày mai, hướng tới sự sống bên kia thế giới, hay hướng tới thiên đàng đã được hứa ban, nhưng còn hướng chúng ta tới cuộc sống hiện tại, tức là hôm nay và ngay lúc này.

***

Đã có bao nhiêu lễ Phục Sinh đến rồi đi qua, nhưng thử hỏi, điều đó có giúp ích gì cho cuộc sống của tôi hôm nay? Nhiều người tự nhủ, Chúa sống lại ư! điều đó có can hệ gì đến tôi? Mừng lễ thì mừng vậy, chứ thay đổi đời sống của tôi thì còn phải xem xem đã!!! Xin Chúa đừng quấy rầy tôi, xin đừng đụng chạm đến cuộc sống riêng tư của tôi!!! Với những quan niệm và cách nhìn như vậy, đã khiến không ít người trong chúng ta bỏ lỡ nhiều cơ hội hoán cải trong cuộc đời. Vâng, việc mừng lễ Đức Kitô sống lại sẽ chẳng có ý nghĩa gì, nếu chúng ta không biết thay đổi đời sống mình cho phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.

Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh hôm nay, một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta cũng biết chết đi cho con người cũ là những tính mê nết xấu; là sự ghen ghét, đố kị; là sự gian tham, lọc lừa… để sống lại cho con người mới trong Chúa Kitô là tình yêu thương, bao dung; là sự trung thực, ngay thẳng… Chỉ có như vậy, việc chúng ta mừng lễ Phục Sinh mới thực sự có ý nghĩa và mang lại cho chúng ta niềm hy vọng được Phục Sinh với Chúa.

5. CÙNG CHÚA CHIẾN THẮNG TỬ THẦN - LM ĐAN VINH - HHTM

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mc 16,1-8.

(1) Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Maria mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. (2) Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. (3) Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây? (4) Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. (5) Vào trong mộ, các bà thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng ; các bà hoảng sợ. (6) Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-ret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!”. (7) Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông. (8) Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai vì sợ quá.

2. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng tường thuật mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su đã được thiên thần loan báo trước tiên cho ba người phụ nữ khi họ đi ra mồ tứ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần để xức thuốc thơm ướp xác Thầy. Thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải trở về loan báo Tin Mừng ấy cho các môn đệ của Đức Giê-su và nhắn tin là họ hãy trở về xứ Ga-li-lê để gặp Người tại đó.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-2: + Vừa hết ngày Sa-bát: Nghĩa là lúc mặt trời lặn, vào lúc 6 giờ chiều ngày sa-bát, cuối ngày Thứ Bảy và bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần. + Bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà sa-lô-mê: Vì có nhiều bà khác cùng tên Ma-ri-a, nên người ta thêm tên làng quê cũ để phân biệt nên gọi bà là Ma-ri-a Mác-đa-la. Trong Tin Mừng, Ma-ri-a Mác-đa-la là người bị 7 quỉ ám (x. Lc 8,2), nhưng không phải là phụ nữ tội lỗi đã xuất hiện tại nhà người Pha-ri-sêu (x. Lc 7,37-48). Bà là một trong mấy người đã đến viếng mộ trống (x. Ga 2,1; Mt 28,1; Mc 16,1; Lc 24,10). Bà đã đứng dưới chân thập giá Đức Giê-su (x. Mc 15,40), có mặt khi mai táng và đã quan sát nơi đã an táng Người (x. Mc 15,47). Cả 4 Tin Mừng đều thuật lại việc mấy phụ nữ đã đi viếng mộ Đức Giê-su. Riêng Ma-ri-a Mác-đa-la đã được cả bốn Tin Mừng nêu tên gọi, cho thấy uy tín và vai trò quan trọng của bà trong Hội Thánh sơ khai. + Mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su: Vì thời gian Đức Giê-su được môn đệ mai táng quá ngắn và được làm vội vã, nên mấy phụ nữ này đã phải mua thêm dầu thơm để xức lên thi hài của Người theo phong tục Do Thái. + Sáng tinh sương Ngày Thứ Nhất trong tuần: Sáng tinh sương khi mặt trời mới mọc của ngày Chúa Nhật, tức khoảng 6 giờ sáng.

- C 3-4: + Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?: Ngôi mộ an táng Đức Giê-su là ngôi mộ đục trong tảng đá lớn và được một tảng đá khác che lấp ngoài cửa mộ. + Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi: Tảng đá to che chắn cửa ngôi mộ đã được lăn sang một bên. Người lăn tảng đá không ai khác hơn là thiên thần đang ngồi trong mộ lúc đó.

- C 5-6: + Người thanh niên ngồi bên phải mặc áo dài trắng: Áo dài trắng cho thấy đây là một thiên thần. Vị này loan Tin Mừng Chúa phục sinh cho các bà, và trao sứ vụ loan báo tin ấy cho Phê-rô và các môn đệ khác.+ Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa: Đức Giê-su sống lại và thân xác Người đã biến đổi nên mới, có những đặc tính khác với thân xác khi chịu khổ nạn. Do đó, đừng tìm kiếm Người tại mồ của kẻ chết, vì Người đã sống lại vinh quang rồi. Từ đây, Người không lệ thuộc vào không gian và thời gian như một người phàm nữa.

- C 7-8: + Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Khi đi viếng mộ của Đức Giê-su ngay từ sáng sớm nhằm xức dầu thơm cho xác Đức Giê-su. Nhưng Người đã sống lại rồi, và thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải đi báo tin vui phục sinh cho các môn đệ. Phê-rô được nêu tên vì ông đứng đầu Nhóm 12. + Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông: Vì trước đây có lần Đức Giê-su đã nói: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (Mc 14,28). Ga-li-lê là miền đất mà dân Do thái sống lẫn lộn với các lương dân.

- HỎI: So sánh thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn giống và khác nhau thế nào? Thân xác của các người được Đức Giê-su làm phép lạ cho hồi sinh như: Anh La-da-rô, người con trai bà góa thành Na-in, con gái ông Gia-ia… có giống với thân xác loài người được sống lại vào ngày tận thế không?

- ĐÁP:

+ Đức Giê-su sau khi sống lại vào ngày Chúa Nhật, cũng chính là Đức Giê-su đã chịu tử nạn vào chiều Thứ Sáu tuần thánh, như Người đã cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người (x. Ga 20,20), cho ông Tô-ma xem dấu đinh ở bàn tay, cho ông xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào vết thương nơi cạnh sườn Người (x. Ga 20,25.27-29). Người cũng cho thấy Người không phải là ma vì có xương thịt mà các ông có thể nhìn xem và sờ thấy. Người còn ăn một khúc cá nướng trước sự chứng kiến của các ông (x Lc 24,38-43).

+ Nhưng thân xác của Chúa Giê-su Phục Sinh có những đặc tính mới, khác với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn, đến nỗi Ma-ri-a Mác-đa-la gặp Chúa Phục Sinh hiện ra mà tưởng là người giữ vườn (x. Ga 20,15). Hai môn đệ làng Em-mau cùng đi và nói chuyện với Đức Giê-su trong nhiều giờ mà vẫn không nhận ra Người (x. Lc 24,16). Thân xác Chúa Phục Sinh có khả năng đi xuyên qua cửa nhà Tiệc Ly đóng kín để hiện ra với các tông đồ (x. Ga 20,19.26). Thân xác Người lúc ẩn lúc hiện (x. Lc 24,27.30-31). Chúa Phục Sinh cũng hiện diện ở khắp nơi nên dù không hiện diện cụ thể mà vẫn nghe được lời Tô-ma nói với các anh em môn đệ (x. Ga 20,27). Ngày nay Đức Giê-su Phục Sinh tuy đã được Chúa Cha tôn vinh, nhưng thân xác Người có đặc tính thiêng liêng, nên người ta không thể xác định Người đang ở nơi đâu (x. Lc 24,51 ; Pl 2, 9-11).

+ Thân xác của những người đã chết, được Đức Giê-su làm phép lạ hồi sinh như: ông La-da-rô chết được chôn trong mồ 4 ngày (x. Ga 11,43-44), con trai bà góa thành Na-in đang được khiêng đi chôn (x. Lc 7,14-15), con gái ông Gia-ia mới chết đang nằm trên giường (x. Mc 5,40-42). Những người này chỉ được Đức Giê-su cho phục hồi sự sống tự nhiên và sau đó lại bị chết một lần nữa. Còn mầu nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận thế có những đặc tính giống như thân xác Đức Giê-su Phục Sinh. Người ta sẽ bước vào một cuộc sống mới vinh quang, không bị hủy diệt và luôn tràn đầy sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16,6):

2. CÂU CHUYỆN:

1) ÁNH SÁNG PHỤC SINH SẼ XUA TAN BÓNG TỐI GIAN ÁC TỘI LỖI:

JOHN KELLER, một diễn giả nổi tiếng một hôm đang thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại sân vận động Los Angeles bên Hoa Kỳ. Giữa buổi diễn thuyết ông bỗng dừng lại và nói: "Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này".

Đèn tắt, sân vận động chìm trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy!". Một que diêm được bật lên, cả sân vận động vang lên những tiếng hô: "Đã thấy!".

Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy".

Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!". Bỗng chốc cả sân vận động rực sáng.

Ông John Keller kết luận: "Nếu tất cả mọi người chúng ta hợp lực cùng nhau, sẽ có thể chiến thắng bóng tối sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng của tình thương và lòng tốt của chúng ta".

Mỗi người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng lên. Một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thế giới tối tăm này sẽ dần dần bớt tối đi. Nếu tất cả mọi người đều thắp sáng lên ngọn đèn tin yêu của mình, thì thế giới này sẽ bừng sáng lên.

Mỗi tín hữu chúng ta đều có cây đèn đức tin, nếu được cháy sáng đức cậy và đức mến, thì mỗi gia đình, cộng đoàn Hội Thánh, và cả thế giới sẽ rực sáng lên tình thương, niềm vui và ơn cứu độ như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

2) CÂU CHUYỆN LỘT XÁC NÊN MỚI:

Vào một buổi trưa hè oi ả, nhà đạo diễn lừng danh tại Hô-li-út (hollywood) tên là SƠ-SIU ĐƠ MIU-Ơ (Cecil B. De Mille) đi hóng gió trên chiếc du thuyền ven bờ hồ thuộc tiểu bang Men (Maine). Đang chăm chú đọc sách, bỗng ông ngó xuống mặt hồ thì thấy một đàn cánh quýt nước đang tung tăng đùa giỡn trên mặt nước. Rồi một chú cánh quýt đã bỏ đàn leo lên mạn thuyền cạnh ghế ông đang ngồi, và nằm im như chết. Đơ Miu-ơ chăm chú nhìn con cánh quýt chừng một phút, rồi ông tiếp tục đọc sách. Ba giờ sau, Đơ Miu-ơ lại nhìn con cánh quýt kia và rất ngạc nhiên khi thấy dường như nó đã bị chết khô. Rồi bỗng chiếc mai của nó bị nứt ra làm đôi. Ông nhìn thấy có cái gì đó đùn lên từ kẽ nứt ấy. Trước tiên là chiếc đầu ươn ướt, rồi đến thân mình và mấy chiếc cánh cũng dần lộ ra. Cuối cùng một chú chuồn chuồn thật đẹp xuất hiện. Đơ Mi-ơ tiếp tục quan sát con chuồn chuồn. Ông thấy nó cử động đôi cánh, rồi từ từ bay lên. Nó bay lượn trên mặt nước, nơi có những con cánh quýt bạn nó đang nô đùa trên mặt nước, nhưng xem ra chúng không nhận ra con chuồn chuồn mới nhập bọn kia. Đơ Miu-ơ đưa ngón tay ra sờ nhẹ vào chiếc vỏ ngoài của con cánh quýt. Thì nó chỉ còn là cái xác nhẹ hều và ọp ẹp rỗng không như một ngôi mộ trống rỗng.

Ai trong chúng ta cũng thấy có sự giống nhau giữa câu chuyện lột xác của con cánh quýt, với sự Phục Sinh của Đức Giê-su: Như con cánh quýt đã bị chết khô trên mạn thuyền, thì Đức Giê-su cũng bị chết treo trên cây thập giá. Như con cánh quýt được biến hóa trở thành con chuồn chuồn nước trong thời gian 3 giờ đồng hồ, thì Đức Giê-su cũng được biến đổi từ tình trạng bị chết rồi sống lại trong thời gian chưa đầy 3 ngày. Như con cánh quýt đã hóa thành con chuồn chuồn nước, khiến các con cánh quýt bạn nó không nhận ra, thì Đức Giê-su cũng trở nên một người mới, đến nỗi nhiều môn đệ thân tín cũng không nhận ra Người sau khi phục sinh và đã hiện ra gặp gỡ nói chuyện với họ. Như con cánh quýt sau khi lột xác thành chuồn chuồn nước, đã có khả năng bay lượn trong không khí, thì thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại cũng có những năng lực mới, trổi vượt hơn thân xác của Người trước đó...

3) THANH TẨY MÙI HỔ DỮ:

Tạp chí “Bách Khoa Văn Học” có đăng một truyện ngắn với tựa đề là “Mùi Cọp” như sau:

Có một đôi vợ chồng trẻ nọ. Chồng là giảng viên đại học. Còn vợ vừa là diễn viên, lại vừa huấn luyện thú của một đoàn xiếc. Người chồng, dù nhận thấy nghề dạy thú của vợ mình có một cái gì đó không bình thường, nhất là cái mùi cọp, lúc nào cũng hăng hắc, xuất phát từ thân thể của vợ, nhưng anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật là khó chịu, nhưng người diễn viên dạy thú không thể thiếu mùi ấy, vì nhờ đó mà bày cọp dữ mới nhận ra cô và ngoan ngoãn nghe theo cô. Rồi một hôm, hai vợ chồng giận nhau và cơn giận kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành bằng cách tẩy sạch mùi cọp bằng một loại nước hoa thơm phứ và hai người đã làm hòa cùng nhau. Thế nhưng, đến đêm hôm sau thì người vợ đã chết. Chị đã chết vì con cọp dữ mà chị trước đó chị đã thuần hóa được. Vì nó đã không còn nhận ra chị khi mùi cọp quen thuộc không còn, mà chỉ có mùi nước hoa xa lạ. Con cọp dữ đã hoảng hốt trước cái mùi lạ lẫm ấy, nên đã tự vệ bằng cách tấn công chị. Và chỉ trong phút chốc, chị đã bị tan xác dưới móng vuốt của con cọp mà chị hết lòng yêu thương.

Qua câu chuyện trên, chúng ta cảm nhận được tình thương yêu của người vợ. Vì thương chồng, chị đã chấp nhận tẩy rửa mùi cọp nơi mình và đã hy sinh mạng sống mình do hành động ấy. Đức Giê-su đã yêu và yêu đến cùng, nên đã hiến mạng sống mình vì chúng ta như Người đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Trong Đêm thánh vọng Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng chịu mai táng vơi Đức Kitô, chôn vùi đi con người cũ tội lỗi với mùi dục vọng sai trái, để được sống lại với Người như lời thánh Phaolô: “Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật” (Ep 4,22-24).

4) NẾU THỰC SỰ TIN VÀO CHÚA SẼ KHÔNG BUỒN SẦU VÌ MẤT NGƯỜI THÂN:

Một cậu bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: “Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giêsu”. Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: “Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không hả mẹ?” Bà mẹ đáp: “Phải”. Bé hỏi tiếp: “Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại buồn và nói là em con đã mất?” Bà mẹ chợt tỉnh ra nên từ đó bà không còn cảm thấy đau buồn nữa, vì ý thức rằng con mình giờ đang vui hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng.

3. SUY NIỆM:

Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng ta long trọng mừng mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu. Đây là mầu nhiệm quan trọng nhất trong đạo Công Giáo dựa trên những bằng chứng vững chắc và mang lại hiệu quả tốt đẹp trong cuộc sống đức tin của người tín hữu, nhờ đó chúng ta mới có thể chu tòan sứ mệnh làm chứng nhân của Người.

1) Ý nghĩa của mầu nhiệm Phục Sinh:

a) Đức Kitô sống lại, mang đến cho chúng ta niềm hy vọng cùng được sống lại với Người: Khi sống lại Đức Ki-tô đã mở đường cho chúng ta từ cõi chết vào trong cõi sống muôn đời. Từ nay, thập giá không còn là sự nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của phục sinh vinh quang. Ánh sáng của Đức Ki-tô đã bừng lên trong đêm tối, và niềm hy vọng thân xác loài người sau này sẽ sống lại không phải là sự hão huyền. Đến ngày tận thế Đức Ki-tô sẽ lại đến phán xét chung nhân loại. Người sẽ cho những ai tin vào Người, thể hiện qua việc yêu thương phục vụ Người hiện thân nơi những người nghèo đói bất hạnh, cũng sẽ được vào trong vinh quang phục sinh với Người.

b) Người tín hữu cần sống niềm tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh như thế nào?

Chết với Chúa Ki-tô là loại trừ con người cũ của chúng ta đang nằm dưới ách thống trị của các thói hư như tham lam, ích kỷ, kiêu căng, ghen ghét, hận thù…. để con người mới được tái sinh trong Chúa Ki-tô được lớn lên.

Sống lại với Chúa Ki-tô là mặc lấy Chúa Ki-tô như lời thánh Phao-lô: “Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt” (Rm 13, 13-14).

Mặc lấy Chúa Ki-tô là có những tâm tình cao đẹp, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa Ki-tô, biết thứ tha, yêu thương và chân thành phục vụ tha nhân như Chúa Ki-tô.

Làm được như thế, chắc chắn chúng ta sau này sẽ được khải hoàn vinh thắng với Chúa Phục Sinh.

2) Chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa:

a) Các môn đệ đã chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa:

Sở dĩ các môn đệ đã có thể làm chứng cho Chúa Giêrsu là nhờ được ơn Thần Khí của Người biến đổi: Từ thái độ sợ hãi trốn chạy trở nên can đảm công khai nhận mình là môn đệ Chúa, Từ thái độ hèn nhát phản bội trở nên trung thành can đảm tuyên xưng đức tin, vui mừng chịu đòn vọt tù tội và sẵn lòng chịu chết vì đức tin. Chắc chắn các ngài đã gặp được Chúa Phục Sinh nên lời chứng của các ngài mới đầy xác tín và có sức thuyết phục, đến nỗi các tín hữu đầu tiên đã sẵn lòng dâng của cải mình có làm của chung, chấp nhận cuộc sống chui lủi trốn chạy, sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho niềm tin vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau. Người ta sẽ không thể lý giải được sự biến đổi kỳ diệu đó nếu các ngài đã không gặp được Chúa Phục Sinh.

b) Các tín hữu hôm nay phải làm chứng cho Chúa như thế nào và bằng cách nào?:

- Làm chứng cho Chúa hôm nay không phải chỉ là thuật lại cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng là minh chứng cho mọi người biết Đức Ki-tô đã chiến thắng thần chết, đã từ cõi chết sống lại mà chính chúng ta đã được gặp Chúa và được Người biến đổi ra sao.

- Làm chứng cho Chúa hôm nay là loan báo Tin Mừng cho những kẻ chưa tin, biểu lộ dung nhan của Người qua lối sống quên mình vị tha và bác ái, sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói và khiêm nhường phục vụ những người bệnh tật, bất hạnh và đang bị bỏ rơi như phục vụ chính Chúa.

- Chúng ta chỉ có thể làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu nếu chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Người giống như các môn đệ Chúa xưa. Ngày nay, để được biến đổi giống như các ngài, chúng ta cần năng đến tham dự các buổi học sống Lời Chúa để tìm hiểu ý Chúa, quyết tâm sống theo gương Chúa làm và Lời Chúa dạy. Rồi còn phải năng lãnh nhận các bí tích nhất là dự lễ và rước lễ, chúng ta sẽ được liên kết mật thiết với Chúa, đón nhận được Thần Khí Phục Sinh để chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu như Người đã phán: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).

4. THẢO LUẬN: Trong Mùa Phục Sinh, chúng ta sẽ làm gì để chiếu tỏa ánh sáng tin yêu trước mặt người đời bằng lời nói việc làm của chúng ta?

5. NGUYỆN CẦU

LẠY CHÚA GIÊ-SU, nhiều lần con liên tiếp gặp phải những điều rủi ro trái ý. Những lúc ấy, con cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Nhiều lúc con chán nản muốn được chết đi cho xong! Nhưng lạy Chúa. Con biết Chúa cũng đã từng ở vào hoàn cảnh giống như con: Bị môn đồ phản bội chạy trốn và chối bỏ không biết Thầy là ai, bị quân lính đánh đập tàn nhẫn, bị dân chúng đòi Phi-la-tô kết án tử hình thập giá, bị kẻ thù xỉ vả mắng nhiếc trên cây thập giá, cảm thấy như bị Chúa Cha bỏ rơi... Thế mà trong những giờ phút đau thương ấy, Chúa vẫn một lòng phó thác cậy trông, và nhờ quyền năng Thánh Thần, Chúa đã chiến thắng thần chết, đã trỗi dậy khỏi mồ và đã được Chúa Cha tôn vinh, để ban ơn cứu độ cho loài người chúng con. Xin cho chúng con hôm nay biết sẵn sàng chịu đựng đau khổ là vác thập giá do Chúa gởi đến. Nhờ cùng chết với Chúa, chúng con hy vọng sẽ cùng được sống lại với Chúa sau này.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.