Dân Chúa Âu Châu

Mc 1 21-28CHÚA NHẬT TUẦN IV MÙA THƯỜNG NIÊN NĂM B(01.02)

"Ngài giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền".

LỜI CHÚA: Mc 1, 21-28

(Đến thành Capharnaum) ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.

Đang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái gì vậy? Đấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người". Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.

Suy Niệm 1: Chúa Giêsu và dân chúng

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thử tìm về thái độ của Chúa Giêsu đối với dân chúng. Như chúng ta đã biết Palestine là một xứ nóng, người ta thường sống ở ngoài đường. Cũng chính ở ngoài đường mà Chúa Giêsu thường tiếp xúc và giảng dạy cho dân chúng. Chung quanh Ngài lúc nào cũng có một đám đông thuộc đủ mọi hạng người: Đau yếu, tàn tật, mù lòa, phong cùi, khổ đau, nghĩa là những người cần đến một sự giúp đỡ nào đó. Ngoài ra còn có những bà mẹ và những đứa con, những người đạo đức và những kẻ tội lỗi. Ngài thường mở rộng vòng tay đón nhận, tiếp xúc và nâng đỡ họ.

Ngày kia khi thuyền vừa cặp bến, thì có một đám đông đã chờ đợi Ngài. Từ trong đám đông, ông Giairô tiến ra xin Ngài đến chữa cho đứa con gái của ông đang hấp hối. Chúa Giêsu liền bước theo ông mà chẳng nói một lời. Rồi giữa đám đông, bỗng dưng Chúa Giêsu quay mặt lại và hỏi: Ai đã động đến Ta. Câu hỏi này làm cho các môn đệ ngạc nhiên và nói: Thầy coi đám đông đang chen lấn thế mà Thầy lại hỏi ai động đến Thầy. Sở dĩ Ngài hỏi như thế là vì muốn giúp người đàn bà đau yếu đã làm hành động ấy được biểu lộ đức tin của mình. Sau khi bà ấy đã xác nhận, Ngài nói với ba: Đức tin của con đã cứu chữa con, vậy con hãy về bình an.
Chúa Giêsu không phải chỉ niềm nở tiếp đón mọi người, nhưng hơn thế nữa, Ngài còn biết cách nói với từng hạng người. Thực vậy với bọn biệt phái, là những kẻ đạo đức giả, vốn kiêu căng và tự mãn, Ngài không ngần ngại gay gắt chỉ trích: Các ngươi giống như mồ mả tô vôi. Các ngươi là những kẻ dẫn đường đui mù. Với những người tội lỗi thì khác, Ngài thấu hiểu nỗi đớn đau và sự giày vò của họ, nên Ngài đã nói với họ bằng tất cả sự tế nhị, để họ thấu hiểu và tìm thấy được niềm hy vọng.

Một đặc điểm đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa Giêsu luôn sử dụng những hình ảnh cụ thể để diễn tả những chân lý cao siêu. Chẳng hạn Ngài sánh vị Thiên Chúa như một người cha nhân từ mòn mỏi đón chờ đứa con hoang đàng trở về hay như người mục tử đi tìm kiếm con chiên bị lạc mất. Ngài đòi hỏi mỗi người chúng ta phải trở nên như muối mặn, như đèn sáng. Với những người đau yếu, Ngài nói với họ về bệnh tật, về sức khoẻ, nhưng từ đó Ngài dẫn họ tới bình diện siêu nhiên bằng cách nói với họ: Con hãy về bình an. Tội con đã được tha. Sự chữa lành phần xác chỉ là một khởi điểm cho một cuộc sống mới, cuộc sống thấm nhuần tình thương của Thiên Chúa.
Mặc dù phải tiếp xúc, phải giảng dạy, Ngài cũng biết giữ lấy những khoảng khắc thinh lặng. Ban sáng, ban tối và ban đêm Ngài thường tới những nơi thanh vắng để cầu nguyện. Trước sự tố cáo của bọn biệt phái đối với Người phụ nữ ngoại tình Ngài đã yên lặng. Trước toà án Philatô Ngài cũng đã yên lặng. Sự yên lặng của Ngài lúc này có giá trị như một lời nói. Từ những điều vừa trình bày chúng ta nhận thấy: Qua Đức Kitô, Thiên Chúa đã nói, đã đối thoại với chúng ta, bởi vì Ngài là Lời của Thiên Chúa. Lời ấy hoàn toàn khác biệt với lời của chúng ta. Thực vậy, lời của Thiên Chúa là lời tạo dựng: Ta muốn có trời đất muôn loài vậy lập tức liền có. Lời của Thiên Chúa là lời của chữa lành: Ta muốn con hãy chỗi dậy, Ta muốn con hãy lành sạch. Lời của Thiên Chúa là lời tình yêu: Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Lời của Thiên Chúa là lời Tin Mừng cứu rỗi: Đức tin của con đã cứu chữa con.

Suy Niệm 2: Ma quỷ

Năm 1970, cuốn phim Quỷ Ám được trình chiếu và đã phá kỷ lục về số vé bán ra. Chuyện phim được xây dựng trên một trường hợp có thật của một cậu bé 14 tuổi, sống tại bang Maryland vào năm 1949. Tờ Newsweek đã mô tả như sau: Tranh ảnh, bàn ghế và cả chiếc giường của cậu bé đột nhiên di động. Về đêm cậu bé không thể nào chợp mắt. Sau khi được nhận vào bệnh viện trường đại học Geogetown cậu bé bắt đầu lâm râm trong miệng những lời nguyền rủa hung hãn bằng một thứ cổ ngữ. Cuối cùng cậu được trừ tà và được cứu thoát. Hiện nay cậu đang sinh sống tại thủ đô Washington. Một vị linh mục già trừ tà cho cậu đã hứa không bàn luận gì về việc này, nhưng ngài nhấn mạnh rằng kinh nghiệm ấy đã thực sự biến đổi cuộc đời mình.

Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Với sự việc Chúa Giêsu xua trừ ma quỷ chúng ta sẽ đưa ra 2 câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất đó là nếu như Đức Kitô đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa 2000 năm rồi, vậy tại sao đến hôm nay điều ác vẫn còn lan rộng, hay nói cách khác vương quốc của Satan vẫn còn tác oai tác quái? Dĩ nhiên câu trả lời sẽ như sau: Nước Thiên Chúa không đến tức khắc, nhưng là một bước tiến từ từ. Nó không phải là một biến cố chỉ xảy ra trong một lúc nào đó, mà là một chuyển biến liên tục suốt dọc dòng lịch sử. Ngài khai mạc vương quốc ấy, nhưng lại trao cho chúng ta hoàn tất. Đó là lý do tại sao trong kinh Lạy Cha chúng ta vốn kêu cầu: Xin cho Nước Cha trị đến. Đức Kitô đã gieo trồng, còn bổn phận của chúng ta là vun xới và chăm sóc để Nước Chúa được đâm bông kết trái.

Câu hỏi thứ haiđược đưa ra đó là tại sao Nước ấy lại đến chậm như thế, hay nói cách khác tạo sao vương quốc của Satan lại lâu tàn lụi như vậy? Tôi xin thưa chỉ vì chúng ta đã không hoàn tất nhiệm vụ của mình một cách thoả đáng, đã không thực hiện những lệnh truyền của Chúa. Chẳng hạn có bao nhiêu người trong chúng ta đã thi hành giới luật yêu thương của Ngài. Sở dĩ chúng ta chưa yêu thương người khác, thậm chí cả những người thân yêu trong gia đình là vì chúng ta quá bận rộn với những công việc bên ngoài đến nỗi quên mất sự tuyệt vời của những người ấy. Vì chúng ta không biết dừng lại để nhìn ra được bản chất đích thực của họ, vốn là những tạo vật xinh đẹp, đáng được yêu thương, giống như chúng ta đã được chính Thiên Chúa yêu thương vậy.
Hãy sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó Nước Chúa mỗi ngày một trị đến, đồng thời nhờ đó chúng ta đẩy lui được ảnh hưởng của quyền lực Satan.

Suy Niệm 3: "Con Người Đến Để Phục Vụ"

(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Ở đời người ta thường đua nhau tìm kiếm danh vọng và quyền lực. Danh vọng càng cao, quyền lực càng mạnh, càng có lắm kẻ hầu người hạ, càng có tiền chất kho, chất lẫm. Vì tìm kiếm danh vọng và quyền lực, người ta sẵn sàng đối kháng với nhau, loại trừ lẫn nhau. Người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau để leo lên đỉnh vinh quang. Vì danh vọng, quyền lực người ta sẵn sàng lao vào những cuộc chiến bất khoan dung. Lịch sử đã từng chứng mình điều đó. Hitler đã từng đẩy cả thế giới vào chiến tranh loạn lạc chỉ vì tìm kiếm quyền bính của ông. Polpot đã từng xây dựng quyền bính mình trên hàng triệu mạng người. Thực vậy, quyền lực làm cho nhân loại chia rẽ lẫn nhau. Quyền lực làm cho tình người tan rã. Quyền lực là nguyên nhân cho những đố kỵ, ghen tương và thù hận. Cho dù quyền lực làm cho nhân loại khổ đau nhưng người ta vẫn lao vào tranh giành lẫn nhau. Vì dầu sao đi nữa, quyền lực vẫn đem về cho họ rất nhiều mối lợi cả tinh thần lẫn vật chất.

Năm 1986, sau 20 năm cầm quyền tổng thống Philippines, ông Ferdinand Marcos đã trở về vui thú điền viên với gia tài kếch xù trị giá trên 10 tỷ mỹ kim. Đặc biệt là vợ ông chiếm hữu một lâu đài sang trọng với biết bao đồ vật quý giá như: 3,000 đôi giầy đủ màu đủ kiểu còn mới tinh, 100 chiếc ví da hạng sang đắt tiền, hoá đơn một chiếc áo dạ vũ trị giá 107,000 mỹ kim. Ở Việt Nam ngày nay cũng không thiếu những quan gia có những đồn điền cao su thì mênh mông, có những đồng ruộng thì vô tận, có tài khoản thì bao la và nhà cửa thì vào bậc sang trong nguy nga. Xem ra quyền lực không chỉ mang lại cho con người uy quyền mà còn mang lại cho họ vinh hoa phú quý ở đời này, khiến họ trở thành một giai cấp thượng lưu hơn hẳn đám dân đen thấp cổ bé miệng.

Chúa Giêsu đến để nối kết tình nhân loại. Ngài không tìm quyền bính và danh vọng. Ngài không chạy theo những toan tính vụ lợi cho bản thân. Ngài đển để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Chính đời sống khiêm nhu xoá bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài đã sống một cuộc đời phục vụ tha nhân một cách không mệt mỏi. Ngài đã phục vụ mọi người bất luận sang hèn, bất luận già trẻ. Ngài đã từng quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Ngài còn rửa chân cho cả Giu-đa kẻ sẽ bán ngài với giá 30 đồng bạc. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến độ "sinh vô gia cư - chết vô địa táng".

Vâng, Chúa Giêsu, Ngài đã thi hành quyền bính của mình là đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Đối tượng được Ngài phục vụ là các bệnh nhân, là những người nam, người nữ đang bị thần ô uế thống trị, là những con người nghèo khổ, bất hạnh đang bị bỏ rơi bởi đời sống thiếu vắng tình người của đồng loại. Tình thương đó đã được thể hiện trên người bệnh nhân bị thần ô uế thâm nhập mà đoạn tin mừng thánh Marco tường thuật lại. Ma quỷ cũng nhìn nhận quyền bính của Ngài nên đã thốt lên: "Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Người đồng hương cũng nhìn nhận Ngài có đầy uy quyền trên môi miệng và nhân cách của Ngài. Họ đã khâm phục ngài vì "giáo lý thì mới mẻ, và người dạy lại có uy quyền".

Người Kitô hữu cũng được tham dự vào vương quyền của Chúa Giêsu qua bí tích Rửa tội. Người Kitô hữu cũng được mời gọi dùng tình yêu để hoán cải lòng người, để hàn gắn những hố sâu ngăn cách của giầu nghèo, của địa vị sang hèn. Dùng tình yêu để phục vụ anh em, để dấn thân quên mình vì hạnh phúc của tha nhân. Sự hiện diện của người Kitô hữu phải là những ngọn nến sáng chịu hao mòn để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho cuộc đời. Người Kitô hữu phải là những hạt lúa chịu nghiền nát để dâng hiến cho đời những hương thơm của phục vụ, của bác ái và vị tha. Người Kitô hữu được mời gọi theo gương Thầy Giêsu biết dùng quyền để phục vụ, biết dùng tình yêu để hàn gắn những thương đau của chia rẽ và hận thù, biết lấy đức ái để sống vì lợi ích của tha nhân.

Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đến để phục vụ, ban cho chúng ta tinh thần xả kỷ hy sinh, biết sống cho tha nhân và vì tha nhân hơn là vun quén cho bản thân. Nguyện xin Chúa là Đấng đến để chữa lành tâm hồn và thể xác con người, xin cũng chữa lành tâm hồn chúng ta khỏi những ràng buộc của tội lỗi, của đam mê nhục dục để biết sống cao đẹp giữa mọi người. Amen.

Suy Niệm 4: Giảng dạy như có thẩm quyền

(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Tác giả Mác-cô giới thiệu sứ vụ của Đức Giêsu tại Ga-li-lê gồm hai phần: giảng dạy và chữa lành. Tuy nhiên đặc biệt là ở chỗ ông không tách hai điều này riêng ra mà đã liên kết chúng lại thành một cách rất tài tình. Chữa lành chính là để lời rao giảng trở nên thuyết phục.
Mác-cô trước hết giới thiệu Đức Giêsu như một nhân vật xuất hiện hầu công bố một sứ điệp trọng đại: “Thời đại đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (c.15). Ông không những xác địch công việc chính của Đức Giêsu là công bố sứ điệp, nhưng còn nói thêm Ngài đã gây ấn tượng mạnh mẽ trên dân chúng. ‘Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày Sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’. Tác giả hình như quan tâm tới thái độ dân chúng tiếp nhận sứ điệp nhiều hơn là chính nội dung thuyết phục hay sự phong phú của sứ điệp Tin Mừng được rao giảng.

Rõ ràng là như thế khi Mác-cô lập tức tường thuật các công việc đầy từ tâm Đức Giêsu thực hiện như chữa người bị quỉ nhập, chữa nhạc mẫu ông Si-mon, chiều đến chữa mọi kẻ ốm đau bệnh tật mà cả thành đem đến cho Người…, hầu như để cho thấy tại sao dân chúng có phản ứng tích cực như vậy trước sứ điệp, hay đúng hơn, với con người công bố sứ điệp đó. So với tác giả các cuốn Tin Mừng khác, tác giả cuốn thứ hai này hầu như không chú trọng tới nội dung sứ điệp nhiều cho lắm. Ông dành nhiều giấy mực hơn cho việc tường thuật các hành động chữa lành và yêu thương Đức Giêsu thực hiện. Và tất cả chỉ để minh chứng cho điều mà ông muốn khảng định ngay từ đầu: ‘Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’.
Thật ra thì dân chúng bình dân thời nào và ở đâu cũng vậy thôi, với trình độ hiểu biết hạn chế họ ‘nghe’ thì ít mà muốn ‘thấy’ nhiều hơn. Đúng hơn, họ là các thính giả có tầm hiểu biết bằng con tim nhiều hơn là bằng trí óc, nhất là trên con đường đi tìm chân lý; trong khi đó các bậc mô phạm hay hiền triết lại có khuynh hướng sử dụng khối óc nhiều hơn con tim. Các hành động chữa lành đầy từ tâm của Đức Giêsu đánh thẳng vào con tim của thính giả bình dân và chinh phục họ; trong khi các thính giả tri thức như các luật sĩ, biệt phái và kinh sư lại chỉ tìm đến để nghe thuyết pháp, để tìm lý luận, rồi sau đó thi nhau đem ra phân tích mổ xẻ, và tìm lỗi bắt bẻ, chính vì vậy mà các tranh luận căng thẳng giữa họ với Đức Giêsu đã không ngừng nổ ra. Đối với dân chúng, sứ điệp của Đức Giêsu quả là một Tin Mừng, vì nó làm cho con tim của họ được an bình no thỏa, trước khi làm trí óc họ được say mê. Trong thẳm sâu cõi lòng, họ hằng khao khát tìm thấy một Đấng Mét-si-a nhân ái, đầy từ tâm và xót thương, gần gũi với nỗi thống khổ yếu hèn của con người hơn. Đó chính là lý do để mà, trong tất cả sự chân thành mộc mạc họ chân nhận cách thẳng thắn và đơn sơ: ‘Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền’ hơn hẳn các kinh sư và Biệt Phái.

Suy niệm trên đây, tuy đơn giản thật nhưng lại có tầm quan trọng lớn đối với hết thảy mọi người chúng ta, nhất là đối với các linh mục của Đức Ki-tô.

- Quan trọng đối với đời sống thiêng liêng, vì là một tu sĩ linh mục, tôi luôn có nguy cơ xa rời sự nhạy cảm thiêng liêng của người bình dân. Không biết từ khi nào suy luận triết thần đã hoàn toàn chiếm lĩnh đầu óc và suy nghĩ của linh mục. Tôi quan tâm tới hiểu biết và lý luận nhiều tới độ không còn thời giờ để lắng nghe khát vọng thầm kín của chính con tim mình cũng như của người bình dân; kết quả là Tin Mừng đối với tôi phải là chân lý hơn là lòng nhân ái. Và quả thực rất ít khi trong đời sống thiêng liêng tôi dành thời giờ và nỗ lực để nhận ra cái ‘thẩm quyền’ này của Tin Mừng phải tác động trên chính tôi trước hết!

- Quan trọng đối với việc mục vụ:suy niệm trên đưa tôi tới nhận thức sau đây: trước một cộng đoàn phụng vụ, các bải giảng của tôi có được ‘thẩm quyền’ Tin Mừng chỉ khi nào chúng quảng diễn được lòng xót thương cứu độ của Thiên Chúa. Trong thực tế nó đã bị chi phối quá nhiều bởi các kiến thức thần học - luân lý, hay các dẫn chứng mang tính biện giáo. Ngay khuôn mặt Hội Thánh hoặc nội dung Tin Mừng mà tôi trình bày cũng thường khi còn quá mô phạm và nghiêm khắc. Biết bao giờ dung mạo từ nhân tha thứ của Đức Ki-tô mới được sáng tỏ để các tín hữu có thể chiêm ngắm tỏ tường cách mãn nguyện?

Lạy Chúa, đúng là những kẻ bé mọn nhận biết Chúa rõ ràng hơn các bậc khôn ngoan thông thái. Xin đừng để học vấn và hiểu biết làm cho con, linh mục của Chúa, không nhận ra nổi ‘thẩm quyền’ đích thực của Tin Mừng Chúa. Cũng xin làm cho lời rao giảng của Hội Thánh được nhiều người lắng nghe bằng con tim và qua đó nhận ra Chúa thật gần gũi và xót thương hết thảy mọi người. Amen.

Suy Niệm 5: Chân tướng của Đức Giêsu

(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Người đồng thời với Đức Giêsu chưa biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Sở dĩ vậy vì Đức Giêsu là một người như bất cứ ai khác, Ngài là người hoàn toàn đến độ một người bình thường như thế nào thì Ngài cũng như vậy. Ngài nghèo như bất cứ người nghèo nào. Không ai biết Ngài, Ngài vô danh như bất cứ ai khác. Lời tựa trong tin mừng theo thánh Yoan gọi Ngài là Lời Thiên Chúa, Lời đã thành xác phàm.

1) Đức Giêsu là một ngôn sứ đối với người đương thời

Ngôn sứ là người Thiên Chúa dùng để nói với dân về ý định của Ngài, chuyển thông cho dân những gì Thiên Chúa muốn. Một vị ngôn sứ không nhất thiết phải là người biết trước những biến cố sẽ xảy ra ở tương lai. Dân Do Thái tin rằng Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ “lớn” như Môsê. Vì thế nên khi Đức Giêsu làm những dấu lạ cả thể, thì người đương thời đã coi Ngài là một ngôn sứ.
Khi một ký lục giảng dạy, ông ta tựa vào Lời Chúa để dạy dân chúng. Uy quyền của lời giảng dạy của ký lục, không đến từ họ nhưng đến từ uy quyền Lời Chúa. Đức Giêsu giảng dạy không giống như các ký lục, Ngài giảng dạy như người có uy quyền. Không chỉ là người có uy quyền qua giảng dạy, Đức Giêsu còn đuổi được quỷ qua lời truyền phán của Ngài. Đức Giêsu là ai mà có thể làm những điều này. Hành vi của Đức Giêsu làm dân chúng đặt câu hỏi về chân tính của Ngài.

Một ngôn sứ xuất hiện, là dấu chỉ Thiên Chúa đang ở với dân. Thiên Chúa đang thực hiện việc kỳ diệu qua vị ngôn sứ. Khi dân chúng nhận ra Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là một ngôn sứ, thì họ nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với họ. Thiên Chúa đang quan tâm và yêu thương họ.

2) Hơn một vị ngôn sứ

Đức Giêsu không chỉ là một ngôn sứ (tiên tri), nhưng Ngài còn là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân Ngài. Dân chúng thời Đức Giêsu đang ao ước thoát ách đô hộ của người Roma, nên họ mong chờ Thiên Chúa sai đến một vị cứu tinh giải thoát họ khỏi cảnh áp bức chính trị này. Đức Giêsu ý thức Ngài không phải là vị Kitô chính trị, nên Ngài đã cấm các tông đồ nói cho người ta biết Ngài là Kitô (Mt.16, 20).

Cái chết trên thập giá của Đức Giêsu làm cho dân chúng và các tông đồ như bừng tỉnh. Đức Giêsu không là Đấng Kitô như họ nghĩ. Các tư tế, kỳ lão và biệt phái nghĩ rằng Đức Giêsu cũng như bất kỳ ai khác, nên khi Ngài chết là họ tưởng rằng họ đã giải quyết được một bận tâm tranh chấp ảnh hưởng. Đức Giêsu sống lại, là một điều gì hoàn toàn mới. Không ai có thể nghĩ rằng Ngài sẽ sống lại. Ngay cả các tông đồ cũng không dám tin Ngài sống lại, cho dù Ngài đã báo trước vài lần, vì thế nên các ngài mới hoảng loạn sợ hãi, và hai môn đệ trên đường Emmau là hai người đã bỏ cuộc về quê vì thất vọng.

Đức Giêsu sống lại và truyền trao sứ mạng cho các tông đồ, làm các tông đồ và những người tin vào lời rao giảng của các tông đồ, suy nghĩ và hiểu biết hơn về Đức Giêsu. Đức Giêsu vẫn đang sống, cho dù bây giờ Ngài vượt khỏi tầm kiểm soát của con người, của những thế lực thù ghét Ngài cũng như cả của những người yêu mến Ngài. Ngài là ai? Đây là một câu hỏi luôn theo sát những người yêu mến Ngài, và cả những kẻ không thích Ngài. Ngay khi Ngài còn sống, Đức Giêsu đã biết người ta nói Ngài là ai, và cũng chính Ngài đã hỏi các tông đồ Ngài là ai, nhưng dường như những câu trả lời đó chưa đủ (Mt.16, 13-16).

3) Đức Giêsu là Con Thiên Chúa

Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng cả với câu trả lời này, người ta cũng có thể hiểu Đức Giêsu chỉ là một người đặc biệt thôi, vì nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn như những người được Thiên Chúa chọn, được Thiên Chúa yêu thương (Xh.4, 22; Hs.2, 1; Tv.82, 6). Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt, theo nghĩa là Ngài Con “đồng bản tính” với Thiên Chúa, được xác định sau này bởi công đồng Nicea (325).
Đức Giêsu là ai? Đối với các tông đồ, Ngài là người rất đặc biệt, luôn kết hợp với Thiên Chúa, đến độ lấy ý Thiên Chúa là lương thực cho mình (Ga.4, 34), là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa (Mt.17, 5). Ngài là Đấng “ngự bên hữu” Thiên Chúa (Mc.16, 19). Nhưng tất cả những “từ ngữ” ấy nghĩa là gì? Ngay cả từ ngữ “đồng bản tính” với Thiên Chúa có nghĩa là gì khi đức tin Kitô giáo dạy chúng ta Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Dnl.6, 4).

Đức Giêsu là một người như bất kỳ ai khác, Ngài bị cám dỗ, Ngài biết đói biết khát, Ngài cũng bị cám dỗ về danh lợi ở trong hoang địa, Ngài cũng bị cám dỗ “mất lòng tin vào Thiên Chúa” khi ở trên thập giá: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con;” nhưng Đức Giêsu còn hơn là một con người nữa, Ngài là một tiên tri, và hơn một tiên tri vì Yoan Tẩy Giả không đáng cởi dây giầy cho Ngài; Ngài là Đấng Kitô, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu con người. Và còn hơn thế nữa, Giáo Hội dạy rằng Ngài là Con Thiên Chúa, Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài có trước khi Ngài được sinh ra bởi Đức Maria. Ngài là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài khác biệt với Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài lại là một với Thiên Chúa Cha. Ngôi Hai Thiên Chúa cũng là một từ ngữ các nhà thần học dùng để diễn đạt chân tướng của Ngài. Đức Giêsu là một người rất đặc biệt, và người ta đã dùng nhiều từ ngữ để diễn đạt về Ngài, về chân tướng của Ngài, về mầu nhiệm Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Bạn hiểu thế nào về từ ngữ diễn tả Thiên Chúa “Một Thiên Chúa Ba Ngôi”?
2. Đức Giêsu là ai đối với bạn? Ngài ảnh hưởng trên đời bạn như thế nào?

Suy Niệm 6: Đấng Thánh của Thiên Chúa

(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)

Trong Tin Mừng theo thánh Máccô, ta không thấy có những bài giảng dài như Tin Mừng Mátthêu hay Gioan. Nhưng bù lại Máccô đã kể khá nhiều phép lạ của Đức Giêsu.
Khung cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là hội đường vùng Caphácnaum vào một ngày sabát.
Theo Máccô, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ từ đây.
Chúng ta cần xem Ngài đã sống ngày sabát như thế nào.
Trước hết Ngài đã vào hội đường và giảng dạy.
Thánh Máccô không kể lại nội dung của bài giảng, chỉ cho biết là người ta sửng sốt khi nghe Ngài vì cách giảng đầy uy quyền (c. 22) và lời giảng thì mới mẻ (c.27).

Phép lạ đầu tiên Đức Giêsu làm ở hội đường này là trừ quỷ. Ở đây có một người đàn ông bị thần ô uế ám.
Trước sự hiện diện của Đức Giêsu, anh ta sợ hãi nên kêu lên: “Ông Giêsu Nadarét, ông đến tiêu diệt chúng tôi ư? Tôi biết ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x. câu 24).
Sự hiện diện của Đấng Thánh cũng đủ làm cho thần ô uế phải khiếp sợ, vì ô uế và thánh thiện không đội trời chung. và Đấng thánh thiện có khả năng triệt phá thần ô uế.
Lời của Đức Giêsu bây giờ là lời trừ quỷ, lời quát mắng, lời ra lệnh đầy uy quyền, lời khiến thần ô uế phải tuân theo.
“Câm đi, hãy xuất khỏi người này !”
Thần ô uế đã nhập vào và làm người ấy bị tha hóa, bị mất tự do, bị chi phối và sai khiến như một nô lệ.
Lời Đức Giêsu là lời giải phóng để anh ấy được thật sự là mình, được giải thoát khỏi tình trạng ô uế.
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới bị ô nhiễm, từ không khí, nước uống đến những sản phẩm nhiễm độc của con người.
Nhưng điều đáng sợ hơn cả là bầu khí ô nhiễm về tinh thần, bầu khí ô uế của sex thấm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống. Xin Đức Giêsu trả lại cho ta sự trong sạch nơi cái nhìn, sự trong trắng nơi trái tim và sự trong suốt nơi mọi cuộc gặp gỡ.

Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.

Suy Niệm 7: “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền”

(Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ ưu việt mà ông Môsê đã tiên báo cho dân tộc Israel ở trong sa mạc: “Từ giữa anh em, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ để giúp anh em”.
Trong Tin mừng, thánh sử Marco trình bày Đức Giêsu là một Đấng rất uy quyền trong lời nói cũng như trong hành động: “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc, 1, 21).

- Uy quyền trong lời nói, vì lời rao giảng của Đức Giêsu là tin mừng giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết. Lời nói của Ngài rất thực tế và hấp dẫn có thể thay đổi tâm hồn con người, biến cải con người nên thánh thiện đạo đức. Hơn nữa những gì Chúa rao giảng thì Chúa đã thực hành trong cuộc sống chứ không như các kinh sư “nói mà không làm; nói một đàng làm một nẻo”. Điều này đã được dân chúng, các thính giả của Ngài xác nhận; “Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy quyền”.

- Uy quyền trong hành động, lời giảng dạy của Chúa Giêsu kèm theo các phép lạ, cụ thể qua việc Chúa chữa người bị quỷ ám. Hơn nữa chính ma quỷ phải công nhận “Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Trước lời rao giảng và phép lạ trừ quỷ thì “dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người… Ngài dùng uy quyền mà trừ thần ô uế”.
Lời giảng của Đức Giêsu là giáo lý mới mẻ! Sự mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.

Lời giảng của Đức Giêsu là “lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo” (Mc 1, 27). Chính thái độ vâng phục của ma quỷ trước uy quyền của Chúa Giêsu, đã nói lên thời cứu độ đã tới, thời đại của Đấng Thiên Sai đã đến.
Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Chúa, đồng thời nhạn ra quyền năng của Chúa bày tỏ trong vũ trụ vạn vật để ca tụng ngợi khen và yêu mến Chúa.

G. Coutois khẳng định: “Nếu chúng ta khiêm tốn sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối men” cho cả nhân loại vì “ánh sáng” của những người sống lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều”.
Tokichi Ishii, một tên sát nhân không gớm tay đã đạt kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi. Hắn tàn sát đàn ông, phụ nữ, trẻ em với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn bị bắt và bị kết án tử hình.

Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ khuyên nhủ hắn, tất cả những lời thăm hỏi, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như một hung thủ.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn cuốn Tân ước với hy vọng mỏng manh hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động… Niềm hy vọng đã trở thành sự thật. Ishii đã đọc, Lời Chúa thu hút anh khiến anh tiếp tục đọc trình thuật cuộc tử nạn của Chúa Giêsu… Đọc đến câu: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”! (Lc 23, 34), anh dừng lại, suy nghĩ. Anh tâm sự: “Đọc đến câu này, con tim tôi bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu, là lòng thương xót của Ngài. Điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin vào Chúa”.
Các nhân viên nhà giam dẫn đưa anh đi hành quyết, họ rất ngạc nhiên thấy tử tôi Ishii hòa nhã, lễ độ, chứ không phải một tên sát nhân hung bạo. Ishii, tên tử tội đã được lời Chúa tái sinh(Trích Lẽ Sống, Radio Veritas).
“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước
Là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, 105).

Suy Niệm 8: Người trừ quỷ.

(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Anh chị em có tin ma quỷ không? Anh chị em có thực sự tin không? Anh chị em không biết phải trả lời ra sao nữa. Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, ma quỷ đang là vấn đề thời sự. Anh chị em hãy nhớ lại sự thành công của một cuốn phim mang tựa đề: “Exorcist” (Người trừ quỷ) được ra mắt khán giả vào năm 1970 đã phá kỷ lục bán vé. Chuyện phim kể lại một chàng thanh niên bị quỷ ám, giống hệt anh chàng trong Tin Mừng hôm nay. Cuốn phim được xây dựng dựa trên một trường hợp có thật của một cậu bé 14 tuổi, sống tại vùng Mt. Rainier, bang Maryland, vào năm 1949.

Một hôm trong phòng của cậu bé, các tranh ảnh, ghế bàn và chiếc giường của cậu bé đột nhiên di động. Ban đêm hầu như cậu ta không thể nào ngủ được, vì luôn bị quấy phá. Sau khi được nhận vào bệnh viện, cậu bé bắt đầu lầm bầm trong miệng những lời nguyền rủa hung hãn bằng những thứ cổ ngữ, và đến một lúc nào đó, dù cậu đang bị cột vào chiếc giường ngủ, thì trên thân xác cậu lại hiện ra những vết cào dài nhuốm máu. Cuối cùng cậu đã được cứu sống nhờ được một linh mục trừ tà, và hiện nay cậu đang sinh sống tại vùng Thủ đô Washington. Một linh mục già từng tham gia vào việc trừ tà cho cậu bé đã thề hứa sẽ không bàn luận gì về việc ấy, ngài nhấn mạnh rằng kinh nghiệm này đã thực sự biến đổi cuộc sống của ngài tốt đẹp hơn.

Thưa anh chị em, như đám đông dân chúng chứng kiến Chúa Giêsu trừ quỷ ở Hội đường Caphanaum đã bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo”. Chúng ta cũng thắc mắc: Đâu là ý nghĩa sâu xa ẩn chứa đàng sau quyền năng của Chúa Giêsu xua đuổi ác thần, quyền năng mà Chúa Giêsu đã trao ban cho Giáo Hội của Ngài?
Để trả lời cho câu hỏi này, Chúa Giêsu nói: “Ta trừ quỷ chính nhờ quyền năng Thiên Chúa, và điều ấy chứng tỏ rằng Nước Thiên Chúa đã đến với các ngươi rồi” (Lc 11,20). Ý nghĩa sâu xa hơn ẩn chứa đàng sau việc Chúa Giêsu trừ quỷ chính là Vương quốc của Satan từng kiềm kẹp nhân loại dưới vòng nô lệ kể từ khi Ađam phạm tội, giờ đây đang nhường chỗ cho Vương quốc của Thiên Chúa: Nước đã đổi chủ. Nước Thiên Chúa đã đến. Điều này gợi ra cho chúng ta một vấn nạn khác: Nếu Chúa Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa từ 2000 năm nay, vậy thì tại sao đến ngày hôm nay, điều ác vẫn còn lan rộng trên thế giới? Nói cách khác: Nếu Chúa Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa khi Ngài còn sinh thời, thì tại sao Vương quốc Satan cũng vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta ngày nay?

Dĩ nhiên câu trả lời sẽ là: Vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc. Đó là một bước tiến từ từ. Nó không phải là biến cố xảy đến chỉ một lúc, mà là một chuyển động liên tục xuyên suốt dòng lịch sử. Đức Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa, nhưng Ngài trao phó cho chúng ta công việc hoàn tất: Đó là lý do tại sao trong lời Kinh Lạy Cha, chúng ta vẫn cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến”. Chúng ta có thể sánh ví Vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Chúa Giêsu trồng cây ấy, nhưng Ngài giao cho chúng ta nhiệm vụ vun xới, bón phân, tưới nước cho nó. Nhiệm vụ của chúng ta là chăm sóc làm sao cho Vương quốc ấy sinh hoa kết trái theo đúng ý định của Thiên Chúa.

Nhưng tại sao Vương quốc Thiên Chúa lại chậm đến như thế? Tại sao Vương quốc Satan lại lâu lụi tàn như thế? Đó là vì chúng ta đã không hoàn tất nhiệm vụ của chúng ta một cách thỏa đáng. Chúng ta đã không thực hiện trách nhiệm làm hoàn tất Vương quốc ấy đúng như chúng ta đã có thể làm. Thậm chí, có khi chính chúng ta lại đồng lõa với Satan, với thế lực của sự ác để làm lùi bước tiến của Nước Chúa.

Chúa Giêsu đã khai mở Nước Thiên Chúa trên mặt đất, nhưng cuộc chiến với Satan còn kéo dài đến tận thế. Chúng ta phải cộng tác để Nước Chúa mau thành tựu.

Anh chị em thân mến, Satan, ma quỷ thường được mô tả như một con vật xấu xí và đáng sợ. Nếu thế thì chúng ta rất dễ nhận ra nó, và nó cũng khó lòng cám dỗ được ta. Trong thực tế, ma quỷ không bao giờ hiện nguyên hình của nó để cám dỗ chúng ta. Nó luôn ẩn nấp dưới những hình dáng xinh đẹp và hấp dẫn. Nó tấn công chúng ta bằng thủ đoạn tinh vi, ngọt ngào. Nó nắm rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân cũng như tập thể. Xưa nay, người bị quỷ nhập thực sự chắc không nhiều. Nhưng chắc hẳn nhiều người bị quỷ lèo lái mà không biết. Kitô giáo không bịa ra ma quỷ để hù dọa tín đồ. Ma quỷ là những mãnh lực xấu xa, cố kéo chúng ta xa Chúa. Chúng chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người. Chúng phỉnh phờ con người bằng thứ hạnh phúc giả tạo. Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám. Nhưng thế giới hôm nay vẫn bị ám bởi nhiều thứ quỷ: quỷ tham vọng và dục vọng, sợ hãi và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ… Có những điều vốn không xấu cũng trở thành ngẫu tượng: tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc làm ăn, phim ảnh… Cái ám nào cũng làm ta mất tự do, mất trong trắng. Cái ám từ ngoài vào, ở lại trong ta, trở nên ô uế. Nó bắt chúng ta phải nghĩ, phải sống như theo một lập trình vi tính. Chúng ta không thể làm khác, không thắng được bản năng và thói quen. Chúng ta thấy mình bất lực, nên cần “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Hôm nay Chúa muốn nói với tà thần ở trong tôi: “Hãy xuất ra khỏi người này!”. Nhờ ơn Chúa, tôi cũng muốn ra lệnh cho ma quỷ hãy xuất ra khỏi thế giới này.

Hôm nay chúng ta được mời gọi kiểm chứng cuộc chiến đấu của chúng ta với Satan, để phát hiện những thông đồng của chúng ta với sự ác và với ma quỷ. Satan là “thủ lãnh của việc giết chết” và “cha của sự dối trá”. Đối với đồng loại, chúng ta có sử dụng bạo lực không, hay chúng ta sống yêu thương và phục vụ? Chúng ta có sống trong sự thật với Thiên Chúa và với anh em chúng ta không?
Nguyện cho Thánh lễ này, trong đó chúng ta tham gia vào cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên ác thần, trên tội lỗi và sự chết, làm cho chúng ta được tăng cường sức sống của Chúa để cộng tác với Ngài chiến đấu và chiến thắng sự ác trong ta và trong thế giới.

Suy Niệm 9: Xua đuổi ma quỷ

(Arthur Tone)

Một nông dân giàu có nhất trong huyện và rất keo kiệt. Ông đã hối cải, khi ông ý thức rằng. Ông chỉ là một người quản lý đất đai và một người giữ tiền. Không lâu sau đó, một người lối xóm nghèo bị chấy hết cửa nhà, đến gõ cửa xin đồ ăn. Nông dân giàu có này định cho người ngheo một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp. Ma quỷ nói thầm bên tai ông: “Cho hắn cái đùi heo nhỏ nhất”.
Người giàu có này chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của ông. Cuối cùng lòng quảng đại đã thắng. Ông lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỷ cười nhạo ông: “Mày khùng quá”. Nhưng người nông dân bịt miệng y: “Nếu mày không đứng im, tao cho hết mọi đùi heo tao có”.
Chúng ta vừa nghe Đức Giêsu đuổi ma quỷ ra khỏi người bị ám.
Thời đại chúng ta có nhiều chuyện liên quan đến ma quỷ, không những do những cuốn sách, những phim ảnh; gọi là “người trừ quỷ”, nghĩa là một người có thể xua đuổi ma quỷ, mà còn do những nhóm người kỳ dị, họ thờ cúng Satan.
Thật là một lầm lẫn lớn thường thấy ngày nay khi nghĩ rằng ma quỷ ở đâu xa, một nơi nào đó. Nó ở trong một người nào khác chứ không có trong tôi. Thực sự, ma quỷ có mặt nơi mỗi người chúng ta. Cảm tạ Chúa, chúng ta không hoàn toàn dưới sự kiểm soát của chúng. Nhưng cái tinh thần ma quỷ thì ở trong hầu hết mọi con người.

Người hà tiện trong câu chuyện đã đánh bại con quỷ keo kiệt. Nhưng nó vẫn còn cám dỗ ông keo kiệt tiếp. May thay ông lại đánh bại nó.
Con quỷ kiêu hãnh ở trong nhiều người chúng ta. Chúng ta phải đánh bại nó hoài hoài, nói được là mọi lúc. Nhưng chúng ta phải luôn cảnh giác kẻo nó đưa chúng ta lên khi nghĩ rằng chúng ta thật là một nhân vật quan trọng do công nghiệp của riêng mình.
Quỷ mê ăn uống, nó cố gắng làm chúng ta ăn uống thái quá, nhất là uống rượu quá độ. Nó không bao giờ từ bỏ ý định xô đẩy chúng ta ra khỏi tinh thần tiết độ.

Quỷ khoái lạc là một con quỷ có mặt nạ dễ thương, có nhiều bạn trợ giúp như Tivi, phim ảnh, tòa án ly dị, sách báo đồi trụy và bạn bè xấu nết. Tuy nhiên nó cũng phải bị đánh bại. Hàng triệu người đã đánh bại nó.
Bất chấp ma quỷ đến với chúng ta dưới hình thức nào. Chúng ta luôn luôn có thể nương tựa vào Đức Kitô hộ giúp. Trên trần gian Chúa chúng ta đã trừ quỷ nhiều lần trong đời Ngài như trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng Satan vẫn trở lại, và thành công trong việc giết Đức Kitô trên thập giá. Xem như ma quỷ đã hoàn toàn thắng. Nhưng sự Phục Sinh đã đem lại cho Đức Kitô sự chiến thắng.
Trong mỗi thánh lễ, trên chiến long trời, lở đất này tái diễn: Đức Kitô chết – Đức Kitô sống lại. Trong sự lập lại chiến thắng của Chúa chúng ta. Bạn và tôi được thêm sức mạnh và can đảm để xua đuổi ma quỷ ra khỏi cuộc sống của mỗi người. Hãy tìm kiếm con quỷ trong cuộc đời riêng của bạn và với sự trợ giúp của Đức Kitô; Bạn trục xuất hắn ra.
Xin Chúa chúc lành cho bạn.

Suy Niệm 10: Hãy xuất khỏi người này

(‘Manna’)

Một ông thợ ở Nadarét được mời giảng trong hội đường.

Maccô không cho ta biết Đức Giêsu đã giảng gì. Chỉ biết nội dung của lời giảng thì mới mẻ, và cách giảng thì khác hẳn với các kinh sư.
Kinh sư thì giải thích Kinh Thánh với thẩm quyền. Còn Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh với uy quyền. Ngài chẳng phải dựa vào sách vở, vào truyền thống có sẵn.

Một cách mới mẻ và đầy uy quyền, Đức Giêsu loan báo Triều đại Thiên Chúa đã đến, triều đại của Xa-tan phải bị đẩy lui.
Quả vậy, sự hiện diện của Ngài trong hội đường ngày hôm ấy đã khiến cho thần ô uế phải chường mặt ra và khiếp sợ. Đức Giêsu ra lệnh: "Hãy câm đi và xuất khỏi người này." Thần ô uế chẳng muốn từ bỏ căn nhà nó đã ở. Nó chỉ ra sau khi đã vật vã người ấy và thét lên.
Đức Giêsu đã chiến thắng và giải phóng ta khỏi nô lệ. Ngài khai mở Nước Thiên Chúa trên mặt đất. Nhưng cuộc chiến với Xa-tan còn kéo dài đến tận thế. Chúng ta phải cộng tác để Nước Chúa mau thành tựu.
Quỷ thường được vẽ như một con vật xấu xí đáng sợ. Nếu thế thì ta rất dễ nhận ra nó, và nó cũng khó lòng cám dỗ được ta. Trong thực tế, quỷ mang dáng dấp xinh đẹp và hấp dẫn. Nó tấn công ta bằng những thủ đoạn tinh tế, ngọt ngào. Nó nắm rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân, tập thể.

Xưa nay, người bị quỷ nhập thực sự chắc không nhiều. Nhưng hẳn nhiều người bị quỷ lèo lái mà không biết.
Kitô giáo không bịa ra quỷ để hù dọa tín đồ.
Quỷ là những mãnh lực xấu xa, cố kéo ta xa Chúa. Chúng chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người.
Quỷ phỉnh phờ con người bằng thứ hạnh phúc giả tạo. "Nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho tất cả". Làm gì có hạnh phúc vững bền khi ta quay lưng với Thiên Chúa!
Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám. Nhưng thế giới hôm nay vẫn bị ám ảnh bởi nhiều thứ khác: tham vọng và dục vọng, sợ hãi và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ...
Có những điều vốn không xấu cũng trở thành ngẫu tượng: tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc làm ăn, phim ảnh...
Cái ám nào cũng làm ta bớt tự do, bớt là mình.
Cái ám từ ngoài vào, ở lại trong ta và không chịu ra.
Cái ám khi trở thành tuyệt đối thì làm ta trở nên ô uế.
Nó bắt ta phải nghĩ, phải sống như theo một lập trình. Ta không thể làm khác, không thắng được bản năng và thói quen.
Ta thấy mình bất lực, nên cần Đấng Thánh của Thiên Chúa.
"Hãy xuất ra khỏi người này": Hôm nay Chúa muốn nói với tà thần ở trong tôi như vậy.
Tôi cầu xin Ngài trục xuất khỏi tôi điều gì?
"Hãy xuất ra khỏi thế giới này": Nhờ ơn Chúa, tôi cũng phải ra lệnh cho ma quỷ như vậy.

Gợi Ý Chia Sẻ

Lời xin cuối của kinh Lạy Cha: Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Theo sách Giáo Lý Công Giáo, sự dữ ở đây để chỉ một nhân vật, đó là Xa-tan, là vị thiên thần đã chống lại Thiên Chúa, là ma quỷ (số 2851). Bạn tin có Xa-tan, có ma quỷ không? Ma quỷ đã có tác động xấu nào trên đời bạn?
Ma quỷ là kẻ dối trá và hay đánh lừa con người (Ga 8,44). Có khi nào việc bạn làm lúc đầu thấy là tốt, sau cùng lại thấy nó dẫn đến điều xấu không? Bạn có khi nào bị ma quỷ đánh lừa không?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con.

Suy Niệm 11: Ma quỷ thời đại mới

(ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Từ ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma quỷ. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam hãm.

Đức Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma quỷ. Ngay khi Đức Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề. Đức Giêsu đã toàn thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy.
Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.

Người trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của satan.Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả một đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn heo đang ăn bên bờ biển, và cả đàn heo lăn xuống biển chết hết.

Người gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của satan qua việc chữa bệnh.Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”.
Người tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi,nên Người thường lui tới với những người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.

Qua những việc làm của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của chúng.
Cuộc chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các Tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay, Người sai chúng ta tiếp bước các Tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế giới.

Có thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn. Có thứ quỷ dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.

Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy.
Với bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộm cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xui giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.

Hôm nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.
Hãy tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ.
Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.

Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.

Suy Niệm 12: Ma quỷ

Có một bác nông dân rất giàu nhưng cũng lại rất keo kiệt. Thế rồi bác hối hận và muốn làm lại cuộc đời. Ngày kia một người hàng xóm bị cháy nhà, đến gõ cửa và xin ăn. Bác định cho người ấy một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp ma quỉ nói thầm bên tai bác: Cho cái đùi bé bé thôi nhé. Bác chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của mình và đã lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỉ nhạo cười bác: Mày khùng quá. Thế nhưng bác đã nói lớn: Nếu mày không câm miệng lại, thì ta sẽ cho ông ta cả con heo ngay bây giờ.

Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, kể lại việc Chúa Giêsu xua trừ ma quỉ. Thời buổi chúng ta có nhiều chuyện liên quan tới ma quỉ, không những do sách vở, phim ảnh, mà còn do những nhóm người kỳ dị, thờ cúng Satan. Thật là một lầm lẫn tai hại khi tưởng rằng ma quỉ ở đâu xa, tại một nơi nào đó, hay ở trong một người nào khác chứ không phải ở trong tôi.

Thực sự thì ma quỉ có mặt nơi mỗi người chúng ta. Cảm tạ Chúa vì chúng ta không hoàn toàn sống dưới sự kiểm soát của chúng. Tuy nhiên có điều chắc chắn là cái tinh thần của ma quỉ thì ở trong hầu hết mọi người. Bác nông dân đã đánh bại con quỉ keo kiệt, nhưng nó vẫn còn cám dỗ bác và bác lại đánh bại nó.

Con quỉ kiêu hãnhở trong nhiều người. Hãy chiến đấu chống lại nó ở mọi nơi và trong mọi lúc, nhưng cũng hãy cảnh giác kẻo nó đưa chúng ta lên khi nghĩ rằng: Tôi là một nhân vật quan trọng do công nghiệp và tài năng riêng của tôi.
Con quỉ mê ăn uốngluôn thôi thúc chúng ta ăn quá nhiều, uống quá nhiều đến độ say sứa xỉn, không còn biết tiết độ là gì nữa.
Con quỉ khoái lạcthì đến với chúng ta bằng một bộ mặt thật dễ thương, đồng thời nó còn nhiều đồng minh trợ giúp như sách báo và phim ảnh đồi trụy, hay bè bạn xấu…

Tuy nhiên, chúng ta cần phải chiến đấu chống lại nó. Bất chấp ma quỉ đến với chúng ta dưới hình thức nào, thì chúng ta vẫn có thể và phải nương tựa vào Chúa. Trong quãng đời công khai, Ngài đã nhiều lần trừ quỉ như đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại. Thế nhưng Satan vẫn hoạt động, vẫn bành trướng và đã thành công trong việc giết chết Ngài trên thập giá. Tuy nhiên, cũng nhờ cái chết ấy, mà Ngài đã đem lại sự chiến thắng, một sự chiến thắng trọn vẹn và mãi mãi qua mầu nhiệm Phục sinh của Ngài.
Hãy tìm kiếm xem đâu là con quỉ chính yếu đang làm mưa làm gió, đang chi phối cõi lòng chúng ta, rồi sau đó, hãy chạy đến với Chúa để xin Ngài nâng đỡ và chở che như kinh chúng ta vốn thường đọc: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.

Suy Niệm 13: Ma quỷ

Ma quỉ vốn là một tạo vật của Thiên Chúa. Đôi khi nó được phép quấy nhiễu con người và làm cho con người sợ hãi mà bỏ việc phụng sự Chúa…
Cha thánh Vianney là một thí dụ. Quỉ thường quấy nhiễu ngài ban đêm, có lúc nó bắt chước tiếng đóng đinh xuống nền nhà, có lúc nó hát bằng một giọng the thé. Ngài nói:
- Tôi đã nghe nó bảo rành mạch: Hỡi Vianney, mày làm cái gì đó, hãy cút đi.
Dần dần tôi cũng quen với sự quấy phá của nó. Nói chung, nó chẳng làm gì được ngài.
Thật ra chúng ta không nên sợ những con quỉ có sừng hay có đuôi đe dọa. Chúng ta nên sợ Satan đội lốt thiên thần ánh sáng, lắm mánh khóe và lắm trò bịp bợp. Nó biến chúng ta thành tay sai cho nó ngay chính lúc chúng ta tưởng rằng mình đang phụng sự Thiên Chúa.
Vậy phải cảnh giác trước những quyến rũ ngọt ngào, những hứa hẹn hấp dẫn của nó.
Con đường dẫn tới Nước Trời phải là con đường nhỏ hẹp khó đi. Thế nhưng có nhiều người tín hữu hôm nay không tin vào sự hiện diện của ma quỉ.
Nếu đọc lại Phúc Âm chúng ta sẽ thấy ma quỉ quả thực là một thực tại mầu nhiệm, đang hiện hữu và hoạt động nhằm làm băng hoại con người. Nó không phải là một ý niệm trừu tượng, mà là một quyền lực cụ thể đang bành trướng trong thế giới.
Người ta có thể gọi quyền lực này là Belzebuth, là Lucifer, là con rắn xưa, là tên dối trá, là kẻ cám dỗ… Tất cả chỉ là một thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa và đưa con người vào vòng nô lệ.
Cần phải nhận ra quyền lực của ma quỉ để hiểu được cái mỏng giòn yếu đuối của thân phận con người, và từ đó đón nhận ơn giải thoát của Đức Kitô…
Ma quỉ đúng là một kẻ thù mạnh mẻ đáng gờm, nhưng may mắn thay, Đức Kitô còn là người mạnh mẻ hơn nó nhiều. Ngài đã phục sinh ngay lúc tử thần đang huênh hoang vì đã tiêu diệt được Ngài.
Chiến thắng của Ngài là bảo đảm cho chiến thắng của nước Thiên Chúa vào ngày sau hết và cũng là bảo đảm cho chiến thắng của chúng ta hôm nay, giữa những cuộc đối đầu với tên thủ lãnh của thế gian này. Satan đưa chúng ta vào vòng nô lệ, còn Đức Kitô thì giải thoát chúng ta.

Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao nhiêu hình thức nô lệ, biết bao nhiêu xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người, mà nhiều lúc con người không nhận ra. Nô lệ cho quyền lực, nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc, nô lệ cho rượu chè, nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, nô lệ cho mọi thứ cuồng tín tôn giáo.
Khi nhìn vào bản thân, chúng ta thấy mình cũng ít nhiều sống dưới sự thống trị của ma quỉ, mặc dầu mỗi năm vào đêm Phục sinh, chúng ta vẫn lặp lại lời tuyên xưng từ bỏ ma quỉ và những gì thuộc về nó. Ma quỉ vẫn còn cám dỗ chúng ta mỗi ngày qua giác quan, qua trí tưởng tượng, qua lòng tham lam, qua những tương quan lệch lạc…hãy chạy đến với Chúa và kêu cầu:
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.

Suy Niệm 14: Quyền năng

Ralph Waldo Emerson chiếm vị trí như là một trong những nhân vật văn học vĩ đại của Mỹ vào thế kỷ 19. Vốn là một học giả, một nhà văn tiểu luận và một thi sĩ gây ảnh hưởng rộng rãi, ông trở nên một trong những tiếng nói quan trọng nhất trên quê hương ông. Ông là một kẻ thù ác liệt của sự nô lệ và thối nát về mặt chính trị. Một trong những bài tiểu luận của mình, ông nói một điều gì đó rất phù hợp dưới ánh sáng của bài Tin Mừng hôm nay:
“Tôi chỉ biết rằng mình sống đến mức độ này mà thôi. Ngay khi chúng ta biết rằng những lời nói của người nào mang nặng hơi thở cuộc sống, thì ngay tức khắc, tôi học hỏi được từ bất cứ thuyết trình viên nào về lối sống của họ. Một người nói từ bên trong, hoặc từ kinh nghiệm, là sở hữu chủ của sự kiện; người nào nói từ bên ngoài, thì như một khán giả, hoặc như một người mới làm quen với những sự kiện dựa trên chứng cứ của một người thứ ba. Không cần phải rao giảng cho tôi từ bên ngoài. tôi có thể tự mình làm được điều đó”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đọc được rằng lối giảng dạy của Đức Giêsu đã “làm cho dân chúng sửng sốt, bởi vì người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”. Tại sao Đức Giêsu gây được tác động như vậy trên các thính giả của Người? Bởi vì theo lối nói của Emerson, thì “ Đức Giêsu luôn luôn nói từ bên trong, và theo một mức độ vượt lên trên tất cả những người khác. Nhưng đây là cách thức mà mọi người nên luôn luôn áp dụng. Tất cả mọi người đều không ngừng trông đợi sự xuất hiện của một nhà giảng dạy giống như thế”.

Trong đời sống thiêng liêng, lối nghe gián tiếp ít có giá trị. Ở đây, người duy nhất nói với quyền năng, chính là người đã sống với điều đang nói đến. Không có quyền năng nào giống như quyền năng của người đã sống điều mà họ đang nói.
Ngay khi Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy, ngay tức khắc dân chúng nhận ra rằng có một sự mới mẻ và trong suốt trong lời giảng dạy của Người. Mặc dù Người không có cùng một loại kiến thức giống như các kinh sư vào thời đó. Nhưng theo một cách thế nào đó, thì đây lại là một lợi thế. Van Gogh nói “Về một phương diện nào đó, thì tôi lại vui mừng vì mình không được học vẽ”. Có nhiều cách học hỏi hơn là từ trong sách vở. Trường đời thật là vĩ đại.

Điều này đã gây được ấn tượng nhiều nhất nơi nơi các thính giả của Đức Giêsu chính là quyền năng mà Người đã sử dụng khi giảng dạy, mặc dù Người không hề giữ một vị trí chính thức nào cả. Nhưng để có khả năng nói bằng năng quyền, người ta không cần phải giữ một vị trí chính thức nào. Trên thực tế, đôi khi sự thật còn trái ngược lại. Người giữ một cương vị chính thức không sống theo con người riêng của họ. Người đó bị bắt buộc phải thúc ép theo đường lối của đảng phái. Trong khi người không nắm giữ một cương vị chính thức nào, thì có quyền tự do để nói đúng điều cần phải nói.

Trong thời của Đức Giêsu, không có một kinh sư nào diễn tả được theo ý riêng của mình. Ông ta luôn luôn phải mở lời bằng cách nêu ra uy tín của mình. Ông ta dựa vào những lời trích dẫn từ các thày thông luật vĩ đại trong quá khứ, để hỗ trợ cho câu nói của mình. Điều cuối cùng mà ông ta làm được, đó là đưa ra một lời phê phán độc lập.
Đức Giêsu nói với tiếng nói của riêng Người, với quyền năng của bản thân Người. Người không hề biện hộ cho tất cả mọi điều mà Người nói, bằng cách trích dẫn Kinh Thánh, hoặc câu nói của một vị thày thông luật khác. Điều đó sẽ chỉ càng chứng tỏ rằng người đó thiếu năng quyền mà thôi.

Về một khía cạnh, chúng ta phải phân biệt giữa quyền năng và ảnh hưởng, và về khía cạnh, phải phân biệt giữa sức mạnh và sự kiểm soát. Một số người có quyền năng vĩ đại nhất về mặt luân lý, lại không hề có sức mạnh; và có người gây ảnh hưởng nhất, lại không cần phải kiểm soát những người mà họ gây ảnh hưởng. Một người có thể có tất cả quyền năng trên trần gian, lại vẫn thất bại trong vai trò của một người giảng dạy.

Có một số người có tính ưu việt về mặt tinh thần, mà không thể giải thích được. Điều này đem đến cho họ năng quyền vĩ đại về mặt luân lý. Họ có được năng quyền này, không phải là do chức vụ mà họ nắm giữ, nhưng là do ở chính con người của họ. Đây là năng quyền vĩ đại nhất và cao cả nhất vượt lên trên tất cả mọi sự. Điều này bắt nguồn từ chính năng quyền của Thiên Chúa. Nếu không có được năng quyền này, thì người nắm giữ một chức vụ chỉ là một người thừa hành, chỉ là một người phát ngôn mà thôi.
Đức Giêsu đã có loại quyền năng này, với một mức độ mà không có bất cứ người nào khác đạt được. Mỗi người Kitô hữu, bất kể người đó nắm giữ một chức vụ gì, đều có thể và nên có loại quyền năng này – loại quyền năng xuất phát từ việc sống theo tính cách của một con người chính trực trong suốt.

Suy Niệm 15: Giêsu Nagiarét

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta tự hỏi Chúa Giêsu là ai? Tôi xin thưa Ngài là một người như chúng ta.
Trước hết Ngài đã có một quê hương và quê hương Ngài là làng Nagiarét.
Đây là một thôn làng nhỏ bé quây quần chung quanh một cái giếng duy nhất. Thôn làng này không có chi nổi bật, nếu không phải là người ta đã có một chút châm biếm và khinh dể khi nghĩ về nó:
- Từ Nagiarét nào có sự gì tốt đâu.

Tiếp đến, Ngài cũng có một gia đình.Gia đình Ngài gồm có thánh Giuse, Mẹ Maria và Ngài. Thực vậy, người ta thường gọi Ngài là con bác thợ mộc Giuse. Nghề thợ mộc là một nghề lặt vặt và đa dạng. Vừa xây cất nhà cửa, vừa đóng bàn đóng ghế và sửa chữa những gì hư hỏng. Có lẽ vào khoảng 12 tuổi, Chúa Giêsu đã học nơi thánh Giuse nghề nghiệp này để kiếm sống.
Mẹ Ngài là Đức Maria, người đã giữ một vai trò quan trọng trong cuộc sống của Ngài. Mẹ Maria đã hòa nhập vào sinh hoạt của dân làng nên mọi người đều biết đến.

Cũng như những gia đình khác, Chúa Giêsu có một tổ tiên, một gia phả. Trong cuốn sổ gia phả này, chúng ta thấy xuất hiện những khuôn mặt không mấy tốt lành. Điều đó muốn nói lên rằng Chúa Giêsu đến để mang lấy tội nhân loại, Ngài muốn mang lấy những đau khổ mà chính chúng ta gặp phải, từ phía gia đình cũng như xã hội. Ngài đã trở nên một người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi: có một quê hương, có một gia đình và có một tổ tiên.

Thời bấy giờ, người ta chưa tổ chức được những trường học như ngày nay. Tất cả những gì Ngài biết, một phần do cha mẹ Ngài truyền dạy, một phần do Ngài lãnh nhận được ở hội đường. Tại đó mỗi ngày thứ bẩy, người ta đều cắt nghĩa Kinh thánh. Chúa Giêsu không phải chỉ hiểu một cách hời hợt, nhưng Ngài đã hiểu đúng ý nghĩa sâu xa của nó. Ngài sống một cuộc sống bình thường, ăn mặc như họ, nói năng như họ.

Chính vì thế, khi Ngài bắt đầu giảng dạy thì những người bà con của Ngài đã ngạc nhiên và tự hỏi:
- Bởi đâu mà Ngài được như thế.
Thánh Giuse đã chết khi Chúa Giêsu còn trẻ, chính vì thế mà Ngài phải cáng đáng mọi công việc nặng nhọc để nuôi sống gia đình.
Khi được 30 tuổi, Ngài đóng cửa xưởng mộc, từ giã mẹ Ngài để lên đường rao giảng Tin Mừng. Bởi vì Ngài là Đấng Messia, người được Thiên Chúa sai đến. Ngài chia sẻ kiếp sống lầm than với mọi người. Có lần đói, Ngài đã muốn ăn một trái vả, có lần khát Ngài đã xin người phụ nữ Samaria cho mình một gáo nước. Cuộc sống êm đềm tại Nagiarét đã chấm dứt, bây giờ là những ngày tháng lang thang vất vưởng:
- Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có lấy một chỗ tựa đầu.
Có lần quá mệt mỏi, Ngài đã thiếp ngủ trên thuyền trong khi các môn đệ cố gắng chèo qua bên kia bờ hồ.
Chúa Giêsu đã chia sẻ một kiếp sống cùng khổ. Thế nhưng, nơi Ngài vẫn có một cái gì là đặc biệt vượt trên khuôn khổ bình thường ấy, vì Ngài chính là Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Là Thiên Chúa Đấng ở khắp mọi nơi, Ngài đã chấp nhận giới hạn trong không gian, cùng với những khổ đau mệt mỏi vì yêu thương chúng ta. Là Thiên Chúa Đấng vĩnh cửu, Ngài chấp nhận có một lịch sử, bị giới hạn vào thời gian vì yêu thương chúng ta. Là một Thiên Chúa Đấng tạo hóa, Ngài đã học một nghề và đã vất vả để kiếm sống cũng vì yêu thương chúng ta. Chỉ với cặp mắt của tình thương yêu, chúng ta mới hiểu được điều đó.
Vì kiêu căng, con người muốn bước lên ngôi Thiên Chúa, thì giờ đây để chữa tội kiêu căng ấy, chính Thiên Chúa đã bước xuống phận con người.

Suy Niệm 16: Quyền năng

Một hoàng tử kia rất đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Satan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Satan, hoàng tử tỏ dấu thắc mắc, ma quỷ nói với ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức ngài là một điều tốt, ngài thấy không, ai làm việc lành cũng là người tốt cả”. Hoàng tử đáp: “Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói rõ vì lý do nào mi đánh thức ta? Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu ngài ngủ quên không đọc kinh sáng khi thức dậy ngài sẽ hối hận, khiêm tốn và sửa chữa để sống đạo tốt hơn, còn ngày nào cũng ra vẻ sốt sắng, ngài sẽ tự mãn, sẽ kiêu ngạo, cho là mình đạo đức đủ rồi”. Nói xong nó biến mất, ma quỷ thật tinh khôn và hiểm độc.

Ma quỷ không bao giờ làm điều lành, vì bản chất của nó là gian dối, xảo quyệt, ngay từ đầu nó đã lừa đảo và xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên Chúa, nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới yêu thương cứu vớt chúng ta. Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô, Ngài đã đến trần gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng quyền năng chiến thắng ma quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ.

Bài Tin Mừng cho biết: thoạt nhìn thấy Chúa Giêsu, thần ô uế đã thét lên: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tại sao ma quỷ lại phải thét lên? Vì không thể có sự tương hợp giữa ô uế và thanh sạch, giữa tội lỗi và thánh thiện, những điều đó quá quen thuộc để nói về ma quỷ và Thiên Chúa. Cho nên, khi Chúa Giêsu đến, một kỷ nguyên mới đươc mở ra cho nhân loại, chấm dứt sự thống trị của thần dữ và đồng thời giải thoát con người khỏi mọi xiềng xích nô lệ.

Là những người tin vào Chúa Kitô và đón nhận Lời giải thoát, phải chăng câu hỏi đầu tiên mỗi người chúng ta phải tự đặt ra cho mình là: chính bản thân tôi đã được giải thoát chưa? Chúng ta phải nói là chưa, vì vẫn còn biết bao thứ “quỷ ám”, biết bao thứ ngẫu tượng đang ám ảnh chúng ta. Có những người đang bán nhân phẩm bằng những đồng tiền rẻ mạt, có những người đang thú vật hóa chính mình bằng những hành vi đê tiện, có những người đang tìm chiếm hữu tất cả, nhưng lại đánh mất chính mình.
Nói khác đi, lục soát lương tâm cho kỹ, có lẽ ai trong chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình là nô lệ của rất nhiều ông chủ: có ông chủ là một ý thức hệ luôn trói buộc đôi cánh tư tưởng chúng ta, có ông chủ là những định kiến đối với cuộc đời, xã hội, con người mà chúng ta không bao giờ muốn từ bỏ, có ông chủ là thói quen xấu mà chúng ta tích luỹ như một pháo đài kiên cố không muốn rời bỏ, có ông chủ là thứ tôn giáo vụ hình thức mà trong đó chúng ta cố gắng tô vẽ cho mình một bộ mặt đạo đức, nhưng thực ra lại hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng của chân lý, của yêu thương và tự do đích thực…

Đàng khác, ma quỷ thường khống chế con người bằng cách pha trộn lòng tin thực sự với những tin kiêng dị đoan dối trá: tin vào những ngôi sao, hành tinh vận chuyển, tin vào thẻ bài, cầu cơ, bói toán. Tại sao lại tin vào những cái vô tri không đối tượng như thế? Càng văn minh người ta càng bị cám dỗ tin dị đoan, càng bị ma quỷ khống chế trong lãnh vực này. Trên những tờ báo lớn của nhiều nước văn minh chúng ta thấy dầy đặc những lá số tử vi, người ta dựa vào tử vi, phương hướng hành trình của tinh tú để đoán định tương lai đời mình, có những người tin kiêng ngay cả từng bước đi cho đến cuộc đời. Người nào làm ăn phát đạt thành công là có ngôi sao tốt, người nào gặp thất bại, đau khổ là sinh bởi ảnh hưởng của một ngôi sao xấu. Như thế là người ta đã làm nô lệ cho những vì sao vô tri giác, chẳng có quyền hành gì trên mình. Khi người ta nô lệ cho những cái vô tri như thế chính là người ta nô lệ cho ma quỷ núp sau đó.

Người ta có cảm tưởng rằng tin theo Chúa Giêsu là một điều tốt, là cần rồi, thế nhưng Ngài không giải thoát được hết những nguy hại trong đời, nên cần tin vào những cái vô tri đó để kiếm thêm hạnh phúc. Đó chính là một cám dỗ của vườn địa đàng tái diễn để làm sao tách rời con cái Chúa ra khỏi lòng tin Ngài, ma quỷ dùng cách đó trước khi làm chúng ta bỏ hẳn lòng tin, nghĩa là trước khi làm chúng ta mất hẳn lòng tin thì hãy tạm pha trộn tin kiêng như thế đã, và đó là bước đầu của mất đức tin. Chúng ta nên biết: Thiên Chúa là Đấng có quyền trên cả hồn lẫn xác và cuộc đời chúng ta, Ngài là Đấng duy nhất chúng ta phải tin thờ, còn những ai tin kiêng dối trá, dị đoan thì hãy nhớ một điều này “tin ma ma nhát, tin quỷ quỷ làm”, sẽ mất cả chì lẫn chài, vì thế Giáo Hội khuyên bảo chúng ta hãy coi chừng trong lãnh vực này, nó lầy lội, người ta dễ bị sa lầy trong đó.

Biết thân phận mình yếu đuối, bất toàn, dễ sa ngã, chúng ta phải luôn tỉnh thức, đồng thời luôn cậy dựa vào quyền năng của Chúa, vào ơn soi sáng của Ngài, để khám phá ra mưu mô hiểm độc của ma quỷ và kiên quyết đánh bại chúng.
Và giả như có bị thua những cám dỗ, chúng ta càng cần phải tin tưởng vào Chúa hơn, bởi vì Thiên Chúa là Đấng cao cả vô cùng thì lòng nhân từ của Ngài cũng vô hạn, tội lỗi con người có nhiều tới đâu, có nặng nề đến mức nào thì cũng như cát, như đá chìm sâu dưới đáy đại dương của lòng nhân hậu thương xót ấy mà thôi. Không có tội lỗi nào mà Thiên Chúa không tha thứ được, không có con người khốn khổ nào mà Thiên Chúa không yêu thương…, chỉ cần chúng ta có lòng khiêm tốn, muốn được tha thứ, muốn được yêu thương mà thôi.

Nguồn: GP Long Xuyên