Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
Ai thực hiện ý Chúa Cha
- Viết bởi C.G
Thứ Năm Tuần I Mùa Vọng Năm B
"Ai thực hiện ý Chúa Cha, sẽ được vào nước trời".
LỜI CHÚA: Mt 7, 21. 24-27
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Ta, 'Lạy Chúa, lạy Chúa!', là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. "Vậy ai nghe những lời Ta nói đây và đem ra thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên nền đá. Và hễ ai nghe những lời Ta nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".
Suy Niệm 1: Người Khôn Ngoan Thi Hành Ý Chúa
Ở bất cứ một xã hội nào, một quốc gia nào, một thời đại nào, người ta vẫn trọng chữ "Tín", nghĩa là tin tưởng nhau, đặt trọn niềm tin ở nhau. Ai cũng muốn sống chân thật, không lừa dối, phỉnh phờ... Khi tìm bạn để kết nghĩa, ai cũng muốn sống với nhau bằng trái tim chân thành. Không lạ gì khi người ta có quan niệm: "Một túp lều tranh, hai quả tim vàng". Người ta sợ nhất những người ăn nói dẻo miệng, ăn nói ngọt ngào, vì ai cũng cho là "mật ngọt chết ruồi". Những người có khoa ăn nói dễ thành công khi ngoại giao tiếp xúc với bên ngoài nhưng không mấy ai kết thân trong tình nghĩa.
Và hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta một nhận xét: "Không phải những ai nói Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào Nước Trời nhưng chỉ có những người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời". Chúa Giêsu cũng thường lên án những người Do Thái bấy giờ: "Dân này thờ Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta".
Chúng ta đi tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật để thờ phượng Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta đã không hẳn hoàn toàn nhớ đến Chúa. Chúng ta vẫn để ý những câu chuyện đâu đâu, từ nhà đến phố chợ, từ công sở cho đến những việc giải trí. Chúng ta không tìm hiểu Thánh Lễ là gì đối với những phần chính yếu trong Thánh Lễ mang một ý nghĩa nào. Qua các phần đó, Chúa Giêsu muốn nói gì với chúng ta qua Giáo Hội. Chúng ta giữ đạo chứ chúng ta chưa sống đạo: giữ đạo tức là chúng ta giữ các giới răn của Chúa như người thanh niên trong Tin Mừng thuật lại rằng: "Khi anh đến xin cùng Chúa Giêsu nhân lành: Lạy Thầy, con phải làm gì để được sống đời đời. Chúa Giêsu đã bảo anh ta: Hãy thờ phượng Thiên Chúa, hãy thảo kính cha mẹ, chớ ngoại tình, chớ gian tham, chớ làm chứng dối... Người thanh niên đó thưa: Lạy Thầy, những điều ấy tôi đã giữ từ thuở nhỏ. Chúa Giêsu liền nói với anh: Vậy anh hãy về bán tất cả của cải rồi đến đây theo Ta. Vì nhiều của cải nên anh không thể bỏ mà đi theo Ngài được". Như vậy anh thanh niên đó đã giữ trọn lề luật cho chính bản thân mình mà thôi, còn đối với những người khác, anh vẫn chưa thực hiện được việc yêu người.
Chúng ta cũng thế, chúng ta có thể giữ trọn Mười Ðiều Răn của Chúa, vẫn không trộm cắp, không ngoại tình, vẫn đi nhà thờ theo luật Chúa dạy. Thế nhưng người bên cạnh tôi không có gì ăn tối, tôi đang dư phần cơm nguội nhưng vẫn điềm nhiên như chẳng liên can gì đến tôi. Trên đường đi đến nhà thờ dự thánh lễ là nguồn mạch yêu thương, thế nhưng có người đang bị trúng gió ngã bên đường, liếc mắt qua, nhìn lại không thấy ai tôi cũng nhanh chân bước vội vì sợ trễ thánh lễ. Vào nhà thờ, người vào trước ngồi trên, chúng ta vẫn cứ ngồi cuối nhà thờ mặc cho ai kêu gọi lên trên. Có lẽ chúng ta sợ Chúa phạt nên ngồi xa xa chăng.
Tình yêu Thiên Chúa cơ mà. Chúng ta sống đạo, sống luật Chúa trong tình yêu thương. Thiên Chúa thực sự và gần anh chị em trong tâm tình con một Cha chung trên trời, khi chúng ta cùng nhau đọc lời kinh Lạy Cha, có như thế chúng ta mới thực sự sống đạo, có như thế chúng ta mới xây nhà trên đá được. Dù sóng gió, bão táp của cuộc đời, ngôi nhà sống đạo của chúng ta vẫn vững bền, dù sóng gió có lùa vào thì cũng không thể làm sập nổi, dù có mưa sa nước lũ, căn nhà đức tin của chúng ta cũng không hề hấn gì, vì được bao bọc bằng tình thương quan phòng của Thiên Chúa che chở. Ðó là người khôn ngoan mà Chúa Giêsu đã nói hôm nay: "Ai nghe và giữ lời Ta nói đây mà đem ra thực hành thì giống như người khôn ngoan xây nhà trên đá". Nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, đó là một cần thiết cho mọi Kitô hữu. Và Chúa Giêsu còn quả quyết thêm: "Ai nghe và giữ lời Ta thì là Mẹ Ta, là anh em Ta".
Bàn Tiệc Lời Chúa và Bàn Tiệc Mình Máu Thánh Chúa quan trọng như nhau. Trong Thánh Lễ nhắc nhở cho chúng ta hai phần quan trọng nhất là Bàn Tiệc Lời Chúa, Bàn Tiệc Mình Máu Chúa. Lời Chúa là của ăn bổ dưỡng tinh thần cho chúng ta, Mình Chúa là của ăn thần linh nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta ý thức được điều đó.
Lạy Chúa, xin cho chúng con chuẩn bị mừng Chúa đến trong tâm tình yêu mến và ý thức cảm nghiệm được thức ăn bổ dưỡng tâm linh cho chúng con, đó là thức ăn Lời Chúa và Mình Máu Chúa. Amen.
Suy Niệm 2: Thực thi chân lý
R. Khrisna, nhà thần bí Ấn độ, có kể câu chuyện như sau:
Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sự đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho nhà vua nghe, và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi: “Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?” Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời: “Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã”.
Dĩ nhiên, thái độ của vua làm cho nhà sư buồn không ít. Ngày nào ông cũng miệt mài tra cứu cốt để giúp nhà vua hiểu được lời kinh trong sách thánh của Ấn giáo. Nhưng mỗi ngày ông có cảm tưởng như mình đang làm một công việc dã tràng.
Ngày nọ, giữa lúc đang định tâm, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sự quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua: “Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được”.
Sự giác ngộ của nhà sư trên đây có thể gợi lên cho chúng ta lời nhắn nhủ của thánh Gioan Tông đồ. Trong thư thứ nhất, ngài lặp đi lặp lại nhiều lần: “Chúng ta phải thực thi chân lý, chúng ta phải sống chân lý. Ai thực thi chân lý sẽ đến với ánh sáng”. Giác ngộ đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý.
Giáo huấn của thánh Gioan chính là âm vang của lời Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai thực thi ý Cha Ta trên trời, những người ấy mới được vào Nước Trời”.
Chúa Giêsu không bao giờ dạy điều gì mà chính Ngài không sống và thực thi trước. Cả cuộc sống Ngài là một tiếng xin vâng với thánh ý Thiên Chúa, cả cuộc sống Ngài là một thể hiện lời Ngài giảng dạy.
Ước gì lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về sứ mệnh của người Kitô hữu, đó là làm chứng cho Đức Kitô, không những bằng những tuyên xưng hay biểu dương bên ngoài, mà bằng cả cuộc sống của chúng ta.
Suy Niệm 3: Giấc mơ tồn tại vững chắc
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi”. (Mt. 7, 21)
Một Lời
Thiên Chúa khác với các thần tượng ở sự tồn tại vững chắc muôn đời của Thiên Chúa, còn các thần tượng khác thì chóng qua, chóng hết. Lời Thiên Chúa thì kiên cố vì Ngài đã thực hiện những việc kỳ diệu. Hành động của Ngài mạnh mẽ vô song đã đánh bại quân thù. Sự trung tín của Ngài được thể hiện mãi mãi. Tình yêu của Ngài tồn tại đến muôn đời.
Tin mừng hôm nay nói cho chúng ta biết sự tồn tại vững chắc của Thiên Chúa như tảng đá cho chúng ta xây nhà. Ngài quả quyết ai xây nhà trên tảng đá này sẽ được hoàn toàn bình an vững chắc. Tảng đá đó chính là Đức Kitô.
Trong Xã Hội Chúng Ta
Xã hội tân tiến của chúng ta luôn luôn phô trương quảng cáo mọi cái đều vững chắc lâu bền. Những công ty quảng cáo đều nhấn mạnh việc thành lập đã nhiều năm. Người ta tuyên bố một công ty bảo hiểm vững chắc như “Hòn đảo Gibraltar” trên Đại tây dương ngoài biển khơi Châu Phi. Trái lại, chính những công ty đó lại sụp đổ khi nền kinh tế bị khủng hoảng. Thế mà chúng ta vẫn bị quảng cáo lừa dối, dù chúng ta biết rõ những loại đó chỉ tồn tại được vài năm như máy giặt, máy sấy, ô tô.
Còn chúng ta, chúng ta tưởng mình đang an toàn khi có việc làm vững chắc bảo đảm, khi mọi liên hệ của chúng ta với bà con thường gần gũi nhau. Chúng ta còn đề phòng cho tương lai mình được vững chắc bằng số tiền dự trữ gửi vào ngân hàng hay cho vào quỹ hưu bổng.
Thế Nào Mới Là Tồn Tại Vững Chắc Thật
Hôm nay Tin Mừng dạy ta biết thế nào là tồn tại vững chắc thật. Nếu người ta chỉ nói, chỉ hô hào, chỉ đọc kinh, chỉ la ó phản đối bất công, chỉ tố cáo giả hình thì người ta đã xây nhà trên cát. Chỉ nói suông không đủ làm nền móng vững chắc cho đời sống. Phải hành động, phải sống thực với lời cầu nguyện, phải sống công bằng và thực thi bác ái. Phải thực hiện như thế mới thực sự xây nhà trên đá.
Vậy hôm nay tôi sẽ làm gì?
C.G
Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng
- Viết bởi Lm. Đinh Lập Liễm
Thứ Tư Tuần I Mùa Vọng Năm B
"Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng".
* Phanxicô sinh năm 1506 tại Xaviê thuộc giáo phận Pampelune nước Tây Ban Nha trong một gia đình quyền quý. Năm 19 tuổi, ngài sang Ba Lê để tiếp tục việc học. Tám năm sau, ngài tốt nghiệp và trở thành giáo sư đại học đó. Ðược nổi tiếng nhờ trí thông minh, Phanxicô ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng thế tục. Nhưng một ngày kia, Chúa đã dùng miệng lưỡi thánh Ignatiô, cũng là thầy dạy, để nói cùng ngài: “Ðược lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi?”. Và Chúa đã hoàn toàn chiếm đoạt trái tim thánh nhân, biến ngài trở thành một khí cụ tuyệt vời cho cánh đồng truyền giáo. Năm 1539, Phanxicô hăng hái lãnh sứ mệnh nơi Ðức Giáo Hoàng Phaolô III là đem ánh sáng Phúc Âm đến cho dân tộc Ấn Ðộ.
Mười một năm trường nhiệt thành với nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, đời sống thánh nhân là một cuộc hành trình không ngừng. Bước chân ngài len lỏi qua khắp các thành thị cũng như thôn quê để rao giảng Phúc Âm Chúa Giêsu. Tiếng ngài vang vọng từ Ấn Ðộ, Tích Lan đến Nhật Bản. Riêng tại Ấn Ðộ, ngài đã đem về cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn và Rửa Tội cho nhiều bậc quân vương. Dù vậy, ngài luôn ấp ủ một tâm hồn khiêm nhượng hiếm có: Ngài thường quỳ gối để viết thư cho thánh Inhaxiô là Bề Trên của mình. Chúa đã hỗ trợ lòng nhiệt thành của thánh nhân bằng nhiều phép lạ phi thường.
Ngày 02/12/1552, khi đang trên đường tới gần Trung Hoa thì ngài ngã bệnh và từ trần tại đảo Tân Châu (Sancian). Xác ngài được đem về mai táng tại thành Goa bên Ấn Ðộ.
Ðúng 70 năm sau, Ðức Grêgôriô XV đã phong ngài lên bậc Hiển Thánh (1622). Và đến năm 1904, Ðức Thánh Cha Piô X đặt ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo.
LỜI CHÚA: Mc 16, 15-20
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép Rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không Tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thày, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”. Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
SUY NIỆM 1: Giác ngộ
“Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?”. Lời thách thức này của Tin Mừng đã khiến cho một vị giáo sư trẻ tuổi bỏ tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người đồng loại.
Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay Giáo Hội kính nhớ... Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.
Không còn chống cưỡng lại với lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khuyết tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Ðức Thánh Cha.
Năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisboa của Bồ Ðào Nha để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Ðộ. Trong 10 năm ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê đả rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn Ðộ. Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ nhất... Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức, tại một hải đảo cách Hồng Kông 100 cây số. Bị những người lái buôn Bồ Ðào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời trong sự trơ trụi nghèo nàn.
Danh vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe... tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả chúng ta...
“Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”... Có lẽ người ta thường dùng câu nói trên đây không những để nói lên tính cách tương đới của đau khổ, mà còn để nói lên ngay cả sự tương đới của hạnh phúc.
Sau những tháng năm ăn độn, ăn rau, những người nghèo có thể hớn hở reo vui khi được bữa cơm trắng với chút thịt cá. Sau những tháng năm tù đày, một người vừa mới được phóng thích sẽ reo hò sung sướng khi được đi lại tự do, khi được thở không khí trong lành...
Những người giàu có, ngày nào cũng yến tiệc linh đình sẽ thèm khát đôi chút cá kho, mắm cà của người nghèo khổ... Những đứa trẻ giàu có ở đô thị có lẽ sẽ thèm khát những giây phút được cưỡi trâu hay tắm ao của những chú bé nghèo ở nhà quê...
Tựu trung, vấn đề cơ bản nhất của con người vẫn là đi tìm hạnh phúc. Và cuối cùng, sau những miệt mài tìm kiếm, ai cũng nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu trên trần gian này. Kẻ đứng ở núi này sẽ luôn nhìn sang núi nọ...
Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta một bí quyết của hạnh Phúc: Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất và ai mất mạng sống mình vì Ta sẽ gặp lại... Chỉ có một niềm vui đích thực đó là sống trọn vẹn cho Chúa. Chỉ có một điều quan trọng nhất trong cuộc sống: đó là lắng nghe lời Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Cuộc đời và tiếng gọi
Khi được hỏi về việc chọn một lời Thánh Kinh làm châm ngôn cho đời giám mục của mình, Đức tân Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã trả lời: “Tôi chọn lời Thánh Kinh làm châm ngôn nhắc nhớ chính mình là: “Hãy theo Thầy!”.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng dù làm linh mục hay làm giám mục, vẫn chỉ là một tiếng gọi mà thôi, có chăng là tiếng gọi ấy thôi thúc hơn và mạnh mẽ hơn.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng điều quan trọng trong đời dâng hiến không phải là đi đâu và làm gì, mà là đi với ai. Đi theo Thầy Giêsu thì dù làm gì và ở đâu cũng là đi trên đường sự thật và là đường dẫn đến sự sống.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng muốn làm người lãnh đạo thì trước hết phải làm môn đệ, và càng sống tư cách môn đệ tốt bao nhiêu thì càng có hi vọng lãnh đạo tốt bấy nhiêu… Theo Thầy không chỉ là theo bằng trí, mà là theo bằng tâm; cho nên theo Thầy là để tâm mình gắn bó với tâm của Thầy, để mang trong lòng mình những tâm tư của Thầy (x. Pl 2,5). (tinvui.org).
Đọc Phúc Âm, ta nghe âm vang lời mời gọi: “Hãy theo Thầy!”. Tiếng gọi của Chúa Giêsu luôn để lại những âm vang làm chuyển biến cuộc đời. Những ngư phủ đã trở thành Tông đồ, những kẻ chuyên nghề đánh bắt cá đã trở nên người chuyên nghiệp bủa lưới các tâm hồn.
Ngày 3.12, Giáo Hội mừng lễ Thánh Phanxicô Xaviê, một nhà truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời đại mới. Đọc lại tiểu sử để thấy cuộc đời ngài được dệt bằng những tiếng gọi “Hãy Theo Thầy!”.
1. Cuộc đời
Thánh nhân sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê, trong một gia đình quyền quý của vương quốc Navarre nhỏ bé miền bắc nước Tây Ban Nha ngày nay. Khi ngài 5 tuổi, nước Tây Ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre, khiến gia đình ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi, ngài đến Paris học (1525-1536).
Tại Paris, ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Phêrô Favre và sau đó, với thánh Ignaxiô. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh Ignatiô thu phục. Năm 28 tuổi, ngài cùng với nhóm bạn của thánh Ignatiô, khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi, ngài chịu chức linh mục tại Venezia, miền đông bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi, ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
Tháng 04.1541, ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau, mới đến được Goa bên Ấn độ.
Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số.
Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó, đến Indonésia.
Là vị giám tỉnh đầu tiên của tỉnh dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục thánh Ignatiô, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh.
Trong vòng 2 năm (1549-1551), ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản. Trước khi ra đi, ngài trao lại cho cho một linh mục Bồ Đào Nha; 20 năm sau, cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người.
Cuối cùng, vì muốn vào Trung Quốc truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên, ngay cửa khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung Quốc. Tiếc rằng tại đây, ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh, chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
Thánh Phanxicô Xaviê qua đời ngày 3/12/1552, được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh Ignatiô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. (x.Phụng vụ chư thánh tập 2, Lm Augustin Nguyễn Văn Trinh).
2. Tiếng gọi.
Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống đã chiêm nghiệm cuộc đời thánh nhân qua 3 tiếng gọi: Lời Chúa, bạn bè và nhu cầu truyền giáo. (x. Làm nụ hoa trắng, tr 135).
a. Tiếng gọi từ Lời Chúa.
Đức Giêsu hỏi: “Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?” (Mt 16,26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón.
Sinh ra trong gia đình quyền quý, nhưng Phanxicô Xaviê luôn nuôi trong mình những ước vọng bay cao, ngài tìm thăng tiến qua nẻo đường học hành.
Phanxicô Xaviê lên Paris theo đuổi khoa bảng, dùi mài kinh sử để cuối cùng trở thành giáo sư môn Triết học. Nhưng trên đỉnh cao danh vọng ấy, một lần tiếp cận Tin Mừng, gặp được câu: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn liệu ích gì?” và dù không quen cân đo đong đếm kinh tế, ngài cũng đặt tất cả lên cán cân giá trị: lời lãi trần thế mà đời sống linh hồn trống rỗng, không có gì, thì là lỗ vốn, đạt được ước vọng trong cuộc sống này mà đời sau lại mất hết, thì là bể bụi cuộc đời trắng tay sự nghiệp. Vì thế mà thánh Phanxicô Xaviê đã suy nghĩ lựa chọn định hướng đời mình sao cho có lợi cho đời sống Thiên Chúa. Phanxicô Xaviê không muốn dừng lại hưởng thụ cuộc sống đầy đủ muốn gì được nấy, nhưng luôn được kích thích bởi ước vọng vươn lên; không muốn một cuộc đời chật hẹp gò bó dù luôn có kẻ hầu người hạ, mà lại thích vất vả khai phá lên đường; không muốn ngày ngày làm quen với vũ khí chiến đấu phòng thủ hoặc tấn công chỉ vì lãnh địa đồi núi hoang sơ, nhưng lại ham thích vũ khí tinh thần là sách vở kiến thức không gây bực bội tinh thần và cũng chẳng hôi tanh mùi máu.
Lời Chúa ở đây quả là lựa chọn, đã trở thành sức mạnh giúp thánh nhân định hướng đời sống.
b. Tiếng gọi đến từ môi trường bè bạn.
Lời Chúa gọi khi Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh thành Paris tráng lệ. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt: Cha Ignatiô ở Loyola đã liên lỉ thuyết phục và sau cùng, đã chiếm được người thanh niên ấy cho Ðức Kitô. Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha Ignatiô, và năm 1534, ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatiô (là Dòng Tên thời tiên khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và hoạt động tông đồ dưới sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng.
Bạn bè có một ảnh hưởng không nhỏ đến chọn lựa của Phanxicô Xaviê. Đó là tiếng gọi thứ hai.
Ở Paris, sống đời sinh viên trau dồi trí thức, Phanxicô Xaviê đã gặp gỡ Ignaxiô trong tình thân bạn bè. Sự thân thiết này đã giúp ngài cởi mở cõi lòng, tâm sự chia sẻ cuộc sống tinh thần. Nhận biết Phanxicô là con người đầy cao vọng, nhất là những ước vọng lành thánh, Inhaxiô một hôm nói với Phanxicô rằng: “Con người nhiều cao vọng như anh mà chịu dừng lại trong vinh quang trần thế thì quá uổng. Thiết nghĩ chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với tầm cao ước vọng của anh”.
Câu nói của Ignatiô tác dụng như một liều thuốc mạnh, có sức công phá, không gì có thể cầm lại được. “Chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với khát vọng khôn cùng”, Phanxicô Xaviê đã coi đây như châm ngôn để ngài dấn thân phục vụ Giáo Hội trong Giáo Hội và theo đường lối của Giáo Hội. Ngài từ bỏ tất cả công danh sự ngthiệp, nhận chức Linh mục, rồi sau đó, cùng với Ignaxiô, thành lập Dòng Tên với khẩu hiệu “cho vinh danh Chúa hơn”.
Nhắc lại vài đoạn trong bút tích Thánh Phanxicô Xaviê cũng đủ thấy tình anh em bạn bè luôn nâng đỡ ngài trên hành trình truyền giáo.
- “Tất cả anh em trong Dòng hiện diện liên lỉ trong tâm trí tôi” (Bt 48,1: bút tích Thánh Phanxicô Xaviê, tài liệu 48 số 1);
- “Ở Ấn Độ, để giải trí, tôi rất thường nhớ đến anh em trong Dòng, và nhớ đến thời gian, vì Chúa quá thương, tôi đựoc biết anh em và sống với anh em. Nhờ lời anh em cầu nguyện, và vì anh em luôn nhớ đến tôi, Chúa ban cho tôi ơn rất lớn là dù xa cách anh em về thể xác, nhưng nhờ anh em nâng đỡ và giúp đỡ, Chúa cho tôi cảm thấy muôn vàn tội lỗi của mình, và cho tôi sức mạnh để đến giữa dân ngoại” (Bt 20,14);
- “Để đừng bao giờ quên anh em trong Dòng, và lúc nào cũng nhớ đặc biệt đến anh em, tôi đã cất tên của anh em trong các thư từ chính tay anh em viết cho tôi, tôi có thể luôn luôn mang trên mình, cùng với lời khấn của tôi. Điều này đem lại cho tôi nhiều an ủi…Tôi cảm thấy sung sướng khi mang tên của anh em trên mình” (Bt 55,10).
- “Gặp anh em thì tâm hồn tôi đựơc an ủi hơn nhiều. Vậy mà tôi cứ phải viết thư cho anh em, lại không chắc thư đến, vì từ Ấn Độ đến Roma xa quá…Tôi nghĩ mình không lầm khi nói xa cách phần xác không làm cho chúng ta, vốn yêu mến nhau trong Chúa bớt yêu mến và nghĩ đến nhau” (Bt 48,1).
- “Đặc biệt đối với Cha Ignatiô, Phanxicô đã xúc động thổ lộ tâm tư. Chúa đã ban ân huệ lớn lao khi cho tôi được biết Cha Ignatiô. Bao lâu còn sống, không bao giờ tôi trả được món nợ đối với ngài” (Bt,16).
- “Trong số nhiều lời thánh thiện và an ủi của ngài, tôi đọc được những lời thế này: “hoàn toàn thuộc về nhau. Không bao giờ quên được nhau”. Tôi đã rơi lệ khi đọc những chữ ấy, và cũng rơi lệ khi kể lại, vì nhớ lại thời gian đã qua, nhớ đến ngài đã và vẫn luôn luôn rất thương tôi, và nhờ những lời khẩn nguyện thánh thiện của ngài, Thiên Chúa đã cho tôi thoát đựoc bao gian nan, bao nguy hiểm” (Bt 97,1).
- “Đó là một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, đời sống không có gì chê trách được” (Bt 1,7).
c. Tiếng gọi đến từ nhu cầu truyền giáo.
Ban đầu, nhận công tác đi tìm Vinh Danh Chúa qua việc phục vụ các bệnh nhân, nhưng chừng như chưa đủ, Phanxicô Xaviê vẫn khát vọng xa hơn, là hiến thân loan báo Tin Mừng tận miền sâu miền xa của địa cầu. Tiếng gọi thứ ba đến từ nhu cầu truyền giáo.
Từ Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó, ngài dong buồm đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước Ấn. Trong vòng 10 năm tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật Bản.
Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học tiếng Nhật và rao giảng cho các người dân chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho họ, cũng như thành lập các trụ sở truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công cuộc của ngài. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.
Tới Goa ngày 6/5/1542, Phanxicô rong ruổi khắp nơi, nhiệt tình rao giảng cho người ta biết con người Nagiaret nghèo nàn kia chính là Thiên Chúa ở giữa loài người. Trong 7 năm (1542-1549), Ngài là nhà truyền giáo rửa tội đựơc nhiều nhất, tới 100.000 người, “có những buổi chiều nhức mỏi cả cánh tay” như thánh nhân viết.
Từ Malaca, Ngài đến Nhật, xứ sở mặt trời. Ngài muốn gặp gỡ tìm hiểu trao đổi để Lời Chúa sáng ngời qua đối thoại. Ngài dự định đến tận kinh đô Nhật, vào các Đại học, gặp gỡ các nhà Sư để trao đổi. Phanxicô hoạt động nhiều nhất tại Kagoshima, Hirado, Bungo trên đảo Kyushu, lên Yamaguchi, từ đó đi hai tháng lên kinh đô Myako (tức Kyoto). Sau hai năm ở Nhật, Phanxicô trở về Goa, trao công việc truyền giáo lại cho cha Torres và tu huynh Fernandez.
Ngày 14.4.1552 nhà truyền giáo lên tàu. Tháng 8 năm đó ngài tới đảo Thượng Xuyên, cửa ngõ Trung Hoa. Ba tháng sau Phanxicô bị sốt nặng, lòng vẫn ngong ngóng đựơc nhà cầm quyền Quảng Đông cho phép vào đất liền. Thật bất ngờ, ngài qua đời vào 2-3 giờ sáng ngày 3/12/1552, mới 46 tuổi đời. Nói theo “thói thế gian”, đó là vỡ mộng, mọi việc còn dang dở… Nhưng đối với Thiên Chúa thì Phanxicô đã làm trọn ý Người và mọi sự đã hoàn thành, dù chưa đựơc phép bước vào nước Đại Minh thời đó với dân số dưới 200 triệu người.
Bất cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo, chia sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng qua các thư từ ngài để lại, chúng ta được biết, ngài luôn luôn tràn ngập niềm vui.
Hành trình không mệt mỏi, Phanxicô Xaviê rong ruổi những nẻo đường Á Châu, một miền xa lạ và xôi xa. Nhưng mặc kệ. Sợ gì! Đối với thánh nhân: “Tôi không sợ ai ngoại trừ Thiên Chúa, chỉ sợ Người phạt vì chểnh mảng trong việc phục vụ Người, vì vụng về và vô dụng trong việc truyền bá danh Chúa Giêsu giữa những kẻ chưa biết Người” (Bt 78,2).
Ở đâu có vinh quang Thiên Chúa, Phanxicô Xaviê sẵn sàng lên đường. Mỗi một tâm hồn chinh phục được là một niềm vui cho vinh quang Thiên Chúa, mỗi một hao mòn trong thân xác là “một vốn” bỏ ra để có “bốn lời” cho cuộc sống mai hậu. Mỗi một thời khắc sống cho Tin Mừng, cũng chính là một cách đong đầy cho khát vọng cống hiến tìm Vinh Danh Chúa.
Chính vì thế mà Phanxicô Xaviê đã không mỏi mệt ra đi, dấn bước lên đường: từ Nhật đến Ấn Độ, từ Goa đến biên giới Trung Quốc. Mỗi chặng đường đi qua, lại là một lời “còn nữa” vang lên không ngừng. Tiếng gọi từ nhu cầu truyền giáo đã hớp lấy tâm hồn Phanxicô Xaviê. Thánh nhân đã sống do và cho tiếng gọi này đến hơi thở cuối cùng trên con đường sang Trung Quốc. Đúng là một con người đầy cao vọng, nhưng là một cao vọng đích thực chỉ mình Thiên Chúa mới có thể đong đầy, mới làm no thỏa.
3. Biết tận dụng Ơn Chúa ban
Nhìn cuộc đời thánh Phanxicô Xaviê trong ba tiếng gọi: Lời Chúa, bè bạn và nhu cầu truyền giáo, cũng là một cách học tập đời sống của ngài để họa lại trong đời sống của mình.
Đời mỗi tín hữu cũng đong đầy những tiếng gọi như thế.
Xin cho những tiếng gọi của Lời Chúa được ta lắng nghe chân thành và thực thi trung thành, bởi đó là ánh sáng soi lối ta đi.
Xin cho những tiếng gọi từ những người xung quanh không bị ta quên lãng, bởi tưởng như tầm thường, nhưng đó lại là tiếng gọi nhiều khi rất quý hiếm cho vững bước đi lên.
Và xin cho nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội luôn là tiếng gọi ta phải quan tâm để ý, bởi đó là sự sống và là sự sống còn của Giáo Hội.
Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi “Hãy theo Thầy” để “ra đi và rao giảng cho muôn dân” (Mt 28,19).
Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người cùng làm việc với chúng ta.
Rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe người khác.
Món quà lớn nhất của cuộc đời chúng ta là Ơn Chúa.Thánh Phanxicô đã đón nhận hồng ân ấy, rồi làm trổ sinh hoa trái trong suốt năm tháng truyền giáo. Lời khuyên và cũng là lẽ sống của ngài cho chúng ta: “Không ai là người yếu đuối, nếu biết tận dụng Ơn Chúa ban cho mình” (Bt 90,8.9).
Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Ðiều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc “Chúa đến viếng thăm”, là tiếng gọi trong hành trình cuộc đời.
Lm. Nguyễn Hữu An
SUY NIỆM 3: Thánh Phanxicô Xaviê, quan thầy các xứ truyền giáo
Thánh Phanxicô Xaviê sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê, thuộc giáo phận Pampelune, nước Tây ban nha. Năm 17 tuổi đến Paris theo học tại trường đại học danh tiếng Sorbonne nước Pháp. Tám năm sau Phanxicô tốt nghiệp và được tuyển làm giáo sư triết học tại đại học này. Nổi tiếng nhờ trí thông minh, Phanxicô ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng trần gian.
Ngài có một người bạn thân là Inhaxiô Loyola, một hôm đã gieo lời Chúa vào tai Phanxicô: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn thì nào có ích gì”(Mt 16,26). Được ơn thánh Chúa tác động, Phanxicô đã cùng 7 anh em bạn đến Montmartre thành lập dòng Chúa Giêsu (ngày nay là dòng Tên) do Inhaxiô Loyola đứng đầu, cùng khấn khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ.
Năm 31 tuổi ngài chịu chức Linh mục tại Venetia miền bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi ngài xuống tầu từ Lisbonne (Bồ đào nha) đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức thánh Cha Phaolô III.
Suốt 11 năm ngài đã đi giảng đạo tại Ấn độ, Tích lan, qua Nhật và còn dự định vào Trung quốc. Tại Ấn độ ngài rửa tội cho nhiều bậc quân vương. Tại Nhật ngài cũng được Nhật hoàng Bungolu hết sức cảm phục. Ngài đã vượt hàng ngàn cây số đường bộ nhất là đường biển và đã đem lại cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn. Ngoài thánh Phaolô chắc có ít vị thánh nào có hành trình truyền giáo như thánh Phanxicô.
Lòng nhiệt thành cứu các linh hồn còn thôi thúc ngài tới lục địa Trung quốc bao la để truyền giáo, nhưng đang trên cuộc hành trình tới đó, ngài đã qua đời tại đảo Tân châu (Trung quốc) ngày 03/12/1552. Xác ngài được đưa về mai táng tại Goa (Ấn độ). Năm 1622, tức sau 70 năm, Đức giáo hoàng Grêgôriô XV đã phong thánh cho ngài cùng với thánh Inhaxiô và được đặt làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Chúa Giêsu đã từng nhắn nhủ các môn đệ: “Các con hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và con và Thánh Thần”(x. Mt 16,16). Sau khi Chúa Giêsu về trời, các môn đệ chia nhau đi khắp nơi để rao giảng Tin mừng. Việc rao giảng Tin mừng ấy còn phải được kế thừa trong Giáo hội. Như vậy, mọi người đều có trách nhiệm phải rao giảng Tin mừng trong hoàn cảnh thực tế của mình.
Thánh Phanxicô đã ý thức về điều đó. Ngài thấy rằng không có gì quí trọng bằng một linh hồn, bởi vì “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn thì có ích gì” (Mt 16,16). Ngài thấy cánh đồng truyền giáo còn rộng rãi bao la, nhiều người đang sẵn sàng đón nhận Tin mừng, nhưng tiếc thay, không có người đi rao giảng cho họ. Mối thao thức của ngài được diễn tả trong bức thư ngài gửi về cho thánh Inhaxiô:
“Có rất nhiều người tại những nơi này hiện giờ chưa trở thành người có đạo, chỉ vì thiếu người làm cho họ trở nên người có đạo.
Nhiều lần tôi đã nghĩ đến việc đi tới các đại học bên châu Âu, nhất là ở Paris, để điên cuồng kêu lên khắp đó đây và thúc bách những kẻ chỉ biết lý thuyết hơn là thực hành rằng: “Khốn thay, có vô số linh hồn vì lỗi của các ông mà phải trục xuất khỏi trời và bị đẩy xuống hỏa ngục.
Chớ gì những người đó chuyên chú vào việc tông đồ này như họ đã chuyên chú vào văn chương để có thể trả lẽ cho Chúa về đạo lý và những nén bạc đã ủy thác cho họ (Các giờ kinh Phụng vụ, tr 535).
Thượng hội đồng Giám mục Á châu đã cho thấy mối ưu tư của các Giáo hội ở Á châu. Về việc truyền giáo cho các dân tộc Á châu. Nhìn vào bản đồ Á châu, chúng ta thấy đây là một lục địa đông dân cư nhất, nhưng lại là lục địa có con số Công giáo thấp nhất, khoảng 2,6%. Đây là một thách đố lớn cho công việc truyền giáo. Giáo hội Á châu là một Giáo hội bé nhỏ trong một lục địa mênh mông được mời gọi rao giảng về sứ mạng tình yêu và phục vụ của Chúa Giêsu Kitô tại Á châu.
Thánh Phanxicô đã làm gương cho chúng ta về lòng nhiệt thành truyền giáo vì yêu Chúa và các linh hồn, ngài đã hy sinh tất cả bởi vì như ngài nói: “Tất cả đau khổ phiền muộn là nguồn vui sướng cho tôi”. Đúng như lời thánh Augustinô nói: “Ở đâu có tình yêu ở đó không còn khó nhọc nữa. Mà nếu có khó nhọc thì họ lại yêu thích chính sự khó nhọc đó”.
Vì thế, sau khi rửa tội cho một bà già đau nặng, ngài đã kêu lên: “Lạy Chúa, bỏ cha mẹ, quê hương, vượt trùng dương để cứu một linh hồn mà thôi thì con cũng thỏa mãn lắm rồi. Nay có chết con cũng vui lòng”. Điều đó chứng tỏ ngài yêu các linh hồn như thế nào.
Gương truyền giáo của thánh Phanxicô thật tuyệt vời, còn chúng ta thì sao? Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi để “đi rao giảng cho muôn dân” (x. Mt 28,19). Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người làm việc với chúng ta. Và sự rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hằng ngày.
Một cách cụ thể, chúng ta thực hiện việc truyền giáo trước hết bằng lời cầu nguyện và bằng những việc hy sinh hãm mình. Chỉ có Chúa mới làm cho người khác tin Chúa mà thôi. Chứ người phàm không có khả năng làm được điều đó vì Chúa đã phán: “Hãy xin thì sẽ được” (Mt 7,7-8; Lc 11,9-10; Ga 14,13-14).
Thứ đến phải sống một đời sống tốt lành thánh thiện để làm gương sáng cho người khác vì như người ta nói: “Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi kéo”. Gương sáng có tính cách thuyết phục và hấp dẫn hơn lời nói như Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Người thời này không thích những thầy dạy cho bằng nhân chứng”.
Chúng ta chỉ có thể truyền giáo bằng gương sống của chúng ta qua việc sẵn sàng giúp đỡ mọi người, qua việc thực thi bác ái của Tin mừng mà thôi. Ước gì đời sống mỗi người, mỗi gia đình là tấm gương tốt lành, công bằng, yêu thương minh chứng cụ thể cho đức tin và lòng yêu mến Chúa của chúng ta.
Lm. Đinh Lập Liễm
Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần
- Viết bởi J.Y.G
Thứ Ba Tuần I Mùa Vọng Năm B
"Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần"
Lời Chúa: Lc 10, 21-24
Khi ấy, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. Cha Ta đã trao phó cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!"
Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe.
Suy Niệm 1: Mặc Khải Cho Kẻ Bé Mọn
Chúng ta đang bước vào Mùa Vọng là mùa trông đợi Ðấng Cứu Thế mang ơn cứu độ đến cho nhân loại. Chờ đợi là thời gian dài thăm thẳm, vì theo tâm lý thì thời gian như kéo dài thêm ra. Trải qua một thời kỳ lịch sử Cựu Ước, kể từ khi con người phạm tội phản nghịch qua Adam và Evà, biết bao nhiêu tổ phụ, bao nhiêu tiên tri đã được sai đến dọn đường cho Con Thiên Chúa là Ngôi Hai mặc lấy thân xác con người, gánh lấy tội lỗi con người và làm cho con người được ơn cứu rỗi.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta lời cầu nguyện của Chúa Giêsu để mạc khải cho chúng ta biết bản tính Thiên Chúa của Ngài: "Không ai biết Chúa Con ngoại trừ ra Cha, cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào ngoài Chúa Con và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết".
Ðôi mắt con người chỉ nhìn xem những vật hữu hình, nếu quá nhỏ có thể dùng kính hiển vi, nếu quá xa có thể dùng kính thiên văn. Trí óc con người có thể suy nghĩ một cách hạn hẹp trong khả năng giới hạn nào đó mà thôi, ví dụ chúng ta có thể nhìn thấy ngôi nhà chúng ta đang ở, chúng ta biết nó không phải tự nhiên mà có nhưng phải do bàn tay thợ nề, thợ mộc, do con người làm nên và tạo ra. Khi nhìn đồng hồ treo tường hay treo đồng hồ đeo tay, chắc hẳn trong chúng ta không ai nghĩ rằng nó tự nhiên mà có nhưng phải có người suy tính và tạo ra.
Từ những thí dụ cụ thể trên, chúng ta có ý nghĩ: Con người chúng ta không phải tình cờ hay ngẫu nhiên mà được sinh ra. Ða số ai cũng chấp nhận có ông Trời tạo dựng nên và điều khiển vũ trụ. Tuy nhiên trí óc con người không dừng lại ở đó, trí óc họ không thể hiểu thêm gì về ông Trời đó, chỉ có thể tưởng tượng ra ông Trời cũng biết thương, biết giận, biết ghét, biết khen thưởng hay trừng phạt như con người. Và con người cũng thường nói: "Ông Trời có mắt" để cùng nhau làm lành làm dữ, sống hòa thuận, bớt làm điều tai ác.
Chúa Giêsu mặc lấy thân phận con người để tiết lộ cho chúng ta biết về Thiên Chúa qua lời cầu nguyện của Ngài hôm nay với Thiên Chúa Cha: "Không ai biết Thiên Chúa Cha ngoại trừ ra Con". Thiên Chúa Con, Ngài từ trời xuống nên Ngài biết rõ những việc trên trời nơi Ngài đã ở với Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu còn cho chúng ta biết về Thiên Chúa Cha có Ba Ngôi, và khi Ngài chịu Phép Rửa ở sông Jordan, Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, đồng thời có tiếng Thiên Chúa Cha phán ra từ đám mây: "Này là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta mọi đàng". Và trước khi về Trời, Chúa Giêsu cũng đã truyền lệnh cho các môn đệ: "Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Như vậy, con người không thể biết được về bản tính Thiên Chúa nếu Chúa Giêsu Kitô không mạc khải truyền lệnh cho các môn đệ: "Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Như vậy, con người không thể biết được về bản tính Thiên Chúa nếu Chúa Giêsu Kitô không mạc khải cho chúng ta biết, và lời Ngài trên đây cũng cho chúng ta biết thêm dẫn chứng về ngôi vị Thiên Chúa: "Không phải những kẻ thông thái khôn ngoan biết những điều này nhưng là những kẻ đơn sơ". Những kẻ đơn sơ bé mọn đó chính là chúng ta.
Chúng ta đang ở trong Mùa Vọng để chuẩn bị đón mừng một mầu nhiệm rất trọng đại, mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng ta là những người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, thuộc mọi quốc gia, đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi trình độ, mọi ngôn ngữ khác nhau, không phân biệt nhưng cùng chung một niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế đem bình an đến cho mọi tâm hồn.
Chúa Giêsu đã chúc lành cho chúng ta: "Hạnh phúc cho những người được xem thấy những điều chúng con xem thấy, vì đã có nhiều tiên tri, vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy mà chẳng được xem". Biết bao nhiêu người hiện nay chưa biết, chưa được nghe đến Tin Mừng của Chúa, vì chưa được ai rao giảng cho họ.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con tin vững vàng vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ngôi Hai Nhập Thể để chúng con sống thật với mầu nhiệm yêu thương ấy. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con sống trọn vẹn tâm tình tha thiết mong đợi Ðấng Cứu Thế đến để cứu rỗi nhân loại chúng con. Amen.
Suy Niệm 2: Phúc cho mắt nào được thấy
(Lc. 10, 21-24)
Rồi Đức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy! Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: Nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Lc. 10, 23-24)
Đức Giêsu sai bảy mươi hai môn đệ đi truyền giáo. Khi trở về, các ông rất vui mừng vì dân chúng đã đón nhận Tin mừng cách tốt đẹp. Nên Đức Giêsu hướng về Chúa Cha và cảm tạ Ngài. Đồng thời Người kêu mời các ông hãy vui mừng vì Thiên Chúa đã thực hiện những điều lạ lùng cho mắt các ông được thấy: “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy”.
Chúng ta đã nhìn thấy những điều tốt lành đó không? Chúng ta đã chú tâm đến những việc tích cực và lạ lùng trong học thuyết Kitô giáo ngày nay không?
Trong Giáo Hội có nhiều thay đổi thật sự. Đó không phải là dấu chỉ của sức khỏe sao? Nếu bất động thì không còn sống nữa?
Cơn khủng hoảng chúng ta đang trải qua, làm chúng ta phải cựa quậy, phải chao đảo, lo lắng. Nhưng đó là dịp cho chúng ta phục hưng, đổi mới và trở nên Kitô hữu trưởng thành và có trách nhiệm.
Giáo Hội này nay cố gắng đi về phía con người, và đặc biệt về phía những người nghèo khổ. Dù phải rước họa vào thân càng ngày càng nhiều, Giáo Hội luôn luôn hợp tác với những ai tranh đấu cho công lý và hòa bình. Đó không phải là sống Tin mừng sao? Giáo Hội canh tân phụng vụ, đó là để giúp chúng ta dễ cầu nguyện. Giáo Hội thay đổi và giảm nhẹ các luật lệ, đó là để khuyến khích chúng ta biết lãnh trách nhiệm riêng của chúng ta. Nếu chúng ta biết mở to mắt hơn và đừng chỉ trích gì của thời quá khứ, có thể chúng ta sẽ khám phá thấy rằng thời đại, mà chúng ta đang sống, không xấu mà còn có thể nói như Đức Giêsu nói: “Phúc thay mắt nào thấy điều anh em thấy”.
J.Y.G
Suy Niệm 3: Mạc khải cho kẻ bé mọn
Một chú ếch nọ suốt đời ngồi dưới đáy giếng. Một hôm, nó ngạc nhiên vô cùng khi thấy một con ếch khác xuất hiện trên bờ giếng. Nó lên tiếng hỏi: “Chú mày từ đâu đến?” Từ trên miệng giếng, khách lạ tra lời: “Tôi đến từ một vùng biển”.
Lần đầu tiên nghe nói đến biển, con ếch dưới đáy giếng thắc mắc: “Thế biển là gì? Biển giống như cái gì?” Khách lạ lắc đầu đáp: “Biển mênh mông, biển không cùng, không thể dùng bất cứ hình ảnh nào để nói cho một kẻ suốt đời ngồi dưới đáy giếng hiểu được thế nào là biển”.
Nghe thế, con ếch ngồi dưới đáy giếng mới nghĩ thầm: “Từ trước đến nay, ta gặp không biết bao nhiêu kẻ lường gạt, nhưng tên này hẳn phải là kẻ trí trá vô liêm sỉ nhất”.
Nhiều người có lẽ đang nhìn vào niềm tin Kitô giáo với lối suy nghĩ của chú ếch ngồi đáy giếng trong câu chuyện trên. Người ta dùng cái vùng giếng hẹp hòi của ý thức hệ để đo lường trời biển bao la của niềm tin tôn giáo.
Đức tin thiết yếu là một ân ban nhưng không. Điều đó có nghĩa là người ta không đạt đến đức tin bằng sự lý luận uyên bác của mình; và điều đó cũng có nghĩa là không phải kẻ thông thái đương nhiên là người có đức tin hoặc có đức tin sâu sắc hơn người quê mùa dốt nát.
Lời tá tụng của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay xác quyết tính cách nhưng không của đức tin. Chúa Giêsu cảm ta Chúa Cha vì đã dấu hạng khôn ngoan thông thái những điều đó, tức là ơn đức tin, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn.
Nói đến hạng khôn ngoan thông thái hẳn Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến những Biệt phái và luật sĩ, những người học cao hiểu rộng. Chính cái mớ kiến thức về luật pháp và đạo giáo ấy đã khiến họ cho mình là người nằm giữa chân lý, là người đạo đức và có đức tin sâu sắc hơn người khác. Chúa Giêsu đã không ngừng lên án thái độ huyênh hoang tự đắc ấy.
Chọn những người đơn sơ, thất học làm môn đệ, kết thân với những kẻ bị đẩy ra bên lề xã hội, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho mọi ngươi thấy rằng trong nước Ngài không có sự phân biệt đối xử, rằng người ta không nhất thiết là người thông thái mới có thể trở thành môn đệ Ngài. Để thuộc về nước Ngài, để trở nên môn đệ Ngài, điều kiện thiết yêú là phải trở nên bé mọn, khiêm tốn, trút bỏ lối suy nghĩ hẹp hòi của mình.
Quả thực, người có đức tin không còn nhìn, suy nghĩ, lý luận bằng cái nhìn ích kỷ, hẹp hòi của mình, mà bằng cái nhìn của Thiên Chúa, nhờ đó họ tìm được ánh sáng và hy vọng ngay trong cuộc sống tăm tối, cảm nhận được sức mạnh trong những mất mát, thua thiệt, nhận ra được lẽ khôn ngoan ngay trong những gì mà thế gian cho là điên dại. Người có đức tin sẽ sống và yêu thương bằng chính tình yêu của Thiên Chúa, yêu đến độ hy sinh chính mạng sống mình.
Nguyện cho cả cuộc sống chúng ta được trở thành bài ca tán dương và tri ân Chúa vì hồng ân đức tin Ngài đã ban cho chúng ta.
Nguyện cho từng tâm tư, suy nghĩ, hành động của chúng ta không phát xuất từ con người ích kỷ, hẹp hòi của chúng ta, mà là thể hiện của đức tin mà Thiên Chúa đã trao ban cách nhưng không cho chúng ta.
Niềm tin đích thực
Thứ Hai Tuần I Mùa Vọng Năm B
"Nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến trong nước trời".
Lời Chúa: Mt 8, 5-11
Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một viên đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt và đau đớn lắm!" Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó". Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi; tôi bảo người kia đến thì anh đến; tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!"
Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Suy Niệm 1: Xin Ngài Chỉ Phán Một Lời
Trong quân đội Roma, danh từ "bách quan" hay "đại đội trưởng" dùng để chỉ những người có một trăm tên lính trong tay. Nếu ở chốn đế đô, họ chẳng là gì thì tại các vùng thuộc địa họ là những viên chức đầy uy quyền góp phần cai trị hà khắc của đế quốc. Có thể gọi họ là chất xúc tác và là thước đo lòng căm thù đế quốc của người Do Thái. Ðối với đế quốc cai trị, họ là những người trực tiếp áp đặt chính sách lên dân chúng.
Luật Do Thái đã khắt khe trong việc giao tế với dân ngoại thì lại càng khắt khe hơn đối với những người đang giày xéo lên mảnh đất Thánh của Giavê Thiên Chúa. Người Do Thái sẽ không bước vào nhà dân ngoại vì đó là những nơi không thanh sạch. Sách Midna đã viết: "Mọi nơi cư ngụ của dân ngoại đều là chỗ không thanh sạch", thế mà Chúa Giêsu lại không ngần ngại đi đến nhà viên bách quan để chữa bệnh cho gia nhân của ông. Chúa Giêsu có ý gì khi hành động như vậy? Nếu luật lệ Do Thái khắt khe với dân ngoại mà Chúa Giêsu và các tông đồ lại nghiêng về phía họ thì hẳn việc làm của Chúa Giêsu và các tông đồ phải mang một ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống.
Riêng về các viên bách quan, Kinh Thánh Tân Ước đã không ít lần lên tiếng khen ngợi hành vi của các viên bách quan như lúc Chúa Giêsu bị chết treo nhục nhã trên Thập Giá, một viên bách quan đã tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa. Một viên bách quan khác đã cứu tông đồ Phaolô thoát khỏi hình phạt đánh đòn, và một viên bách quan khác nữa đã giúp Phaolô thoát khỏi âm mưu giết hại của người Do Thái. Tuy nhiên nổi bật hơn hết là viên bách quan được nói đến trong bài đọc Tin Mừng hôm nay. Nơi ông đã hội tụ hai yếu tố căn bản mà mỗi người trong chúng ta cần phải có để khiêm nhượng trước mặt Chúa và bác ái với anh em. Một gia nhân hay đúng hơn một tên nô lệ chẳng là gì trước mặt viên bách quan, ông có thể sử dụng như một món đồ vật, không dùng thì quăng đi cần gì phải bận tâm. Thế mà ở đây ông lại quan tâm đến tên gia nhân cách đặc biệt. Ngoài ra theo đoạn Tin Mừng song song của Luca, ông còn là người giúp đỡ cho Hội Ðường Do Thái.
Lòng vị tha đã khiến viên bách quan vừa có uy quyền, vừa được mộ mến. Tuy nhiên dù là gì đi nữa, trước mặt Thiên Chúa và trước mặt Chúa Giêsu, ông vẫn phải giữ một thái độ hoàn toàn khiêm nhu: "Lạy Thầy, tôi không xứng đáng để được Thầy đến nhà". Ông không chỉ khiêm nhu nhưng lại đầy tin tưởng: "Xin Thầy hãy phán một lời thì gia nhân của tôi được lành mạnh".
Lời cầu khiêm nhu này đã trở thành lời kinh hằng ngày được tín hữu chuyên đọc, và niềm tin của viên bách quan khai mở một kỷ nguyên mới cho lịch sử ơn cứu độ: "Nhiều người từ Ðông chí Tây sẽ đến dự tiệc với Abraham, Isaac và Jacob, còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài". Chúa Giêsu, Ngài đến để cứu chữa hết mọi người, chưa cần viên bách quan tuyên xưng lòng tin, Ngài đã nói lên ý định của Ngài: "Tôi sẽ đến chữa nó".
Luật Do Thái ngăn cấm bước vào nhà dân ngoại thì Chúa Giêsu vượt ra ngoài các cấm đoán của lề luật, vì Vương Quốc của Ngài không xây dựng trên nền tảng các luật cứng nhắc ấy nhưng trên thực hành niềm tin. Ngài cũng không đến để hủy bỏ lề luật nhưng để kiện toàn. Lề luật bây giờ phải được thể hiện trọn vẹn trong cuộc sống.
Viên bách quan không có các nghi thức để tuân giữ lề luật như: không rửa tay trước khi dùng bữa, không đến Hội Ðường vào ngày Sabat. Nhưng trước sự hiện diện của Chúa, ông tỏ một niềm kính sợ, trước tha nhân ông hết lòng yêu mến. Ông trở thành tiêu biểu cho các công dân Nước Trời. Chúa Giêsu đã khen ngợi và đã đón nhận ông vào nước của Ngài.
Chúa Giêsu nói với những kẻ theo Ngài lúc đó cũng như đối với chúng ta hôm nay: "Còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài". Không phải được mang tước hiệu con cái là bảo đảm được dự phần vào Nước Thiên Chúa, nhưng phải là kẻ biết thực hành niềm tin. Tước hiệu Kitô hữu nếu không được nuôi dưỡng bằng sức sống của niềm tin thì chỉ là những bản án được công bố trước thời điểm mà thôi.
Bước vào Mùa Vọng, cùng với Giáo Hội với ý hướng chờ ngày Chúa đến, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ nhìn vào niềm tin của viên bách quan làm tiêu chuẩn sống cho mình. Mỗi người chúng ta hãy biết khiêm nhu trước Thiên Chúa và biết yêu mến anh em thì hy vong chúng ta sẽ được Thiên Chúa hài lòng đón nhận trong bàn tiệc Nước Ngài.
Suy Niệm 2: Mùa của đức cậy và đức tin
(Mt. 8, 5-11)
Khi Đức Giêsu vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin: “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm”. Người nói: “Chính tôi sẽ đến chữa nó”. Viên đại đội trưởng đáp: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh (Mt. 8, 5-8).
Điều gì đã thúc đẩy vị sĩ quan Rô-ma ra khỏi nhà từ sáng sớm? Thưa, ông hy vọng rằng ông ra đi ông sẽ gặp được điều tốt hơn là cứ luẩn quẩn trong nhà. Dù ông là một người đầy quyền thế, biết chỉ đạo mọi việc, nhưng cứ ở nhà, ông sẽ chẳng có thể làm gì để cứu chữa đầy tớ đang đau liệt. Ông phải đến với Đức Giêsu.
Ngày hôm nay, bạn cần phải ra khỏi con người bạn để khởi hành vào mùa vọng; mùa sẽ đưa bạn đầy tràn hy vọng đến với Chúa chúng ta. Bạn đã sẵn sàng chưa?
Niềm hy vọng tăng cao nhờ khát vọng mạnh, nhờ nhu cầu khẩn thiết. Niềm hy vọng của bạn hôm nay là gì? Khát mong của viên sĩ quan là: “Đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà tôi, đau đớn lắm”. Còn bạn, bạn có thể đồng cảm với nỗi đau đớn đó không?
Bạn đồng cảm rất dễ với chồng bạn, với vợ bạn, với con bạn, với ông bà cha mẹ, họ hàng và bạn bè của bạn. Bạn cần đồng cảm xa hơn nữa. Viên sĩ quan đã đồng cảm với những tên đầy tớ: một sự đồng cảm với những kẻ hèn mọn. Còn bạn, bạn có thể đồng cảm với bao nhiêu nỗi xót xa của những kẻ đi làm thuê, làm mướn, những kẻ quét đường, đổ rác đi qua nhà bạn mỗi sáng thứ hai không? … Đó là những tôi tớ của bạn, của cộng đồng, của xã hội.
Hôm nay bắt đầu mùa vọng, bạn cầu nguyện cho ai? Bạn hy vọng vị nào đến làm gì cho họ? Thật quan trọng khi bạn biết liệt kê ra những nhu cầu đó để khêu gợi cho mình có những niềm hy vọng, niềm cậy trông giúp bạn có đức cậy.
Hôm nay, bắt đầu mùa vọng, còn một việc nữa cần phân tích, đó là đức tin của chúng ta. Đức Giêsu nói với chúng ta: “Chính tôi sẽ đến cứu chữa nó”. Vị sĩ quan thưa lại: “Lạy ngài, tôi không đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh …”. Chúng ta có thể tin được như thế không? Bao giờ chúng ta mới có được đức tin như thế?
Chúng ta có tin Đức Giêsu có thể đổi mới tâm hồn chúng ta được không? Biết bao nhiêu tôi tớ trên trái đất này đang đau khổ cực độ. Chúng ta có tin Ngài đến cứu chữa họ không?
Bắt đầu mùa vọng, chính là để giúp chúng ta cậy trông và tin tưởng. Và cử hành Thánh lễ chính là để giúp chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu đến thực hiện công trình cứu độ.
C.G
Các con hãy tỉnh thức
- Viết bởi Lm. Trần Ngà
Chúa Nhật Tuần I Mùa Vọng Năm B
"Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về".
Lời Chúa: Mc 13, 33-37
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào. Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức. Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Ðiều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!"
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG B
Lời Chúa: Is 63,16b-17.19b; 64,2-7; 1Cr 1,3-9; Mc 13,33-37
Suy Niệm 1: Tỉnh thức
Chọn bài Phúc Âm này để làm đề tài suy gẫm trong ngày đầu năm phụng vụ, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta một bài học rất hữu ích và cần thiết đó là hãy tỉnh thức và sẵn sàng để đón nhận Chúa vào ngày giáng sinh cũng như ngày Chúa gọi chúng ta đến tính sổ cuộc đời với Ngài.
Nhìn vào đời sống, chúng ta thấy tỉnh thức và sẵn sàng là điều kiện cốt yếu để được sống còn. Ngay như trong thế giới loài vật chúng ta cũng thấy như vậy. Một nông dân Mỹ bị đàn quạ khoang phá hoại ruộng ngô. Ông mang súng ra bắn, nhưng không sao lại gần được vì trên cây thông cao, có một con đậu để canh chừng khi các con khác đang ăn. Len lỏi lâu dưới hố sâu ông mới lại gần được mà con gác không hay biết. Một tràng đạn nổ vang, những con sống sót bay vù lên, nhưng chúng không bay đi xa, chúng xà xuống con canh gác với những tiếng kêu giận dữ. Con chim khốn nạn này bị đồng bọn xử một cách tàn nhẫn và nhanh chóng, không thể ở lại trong bầy, phải rời hàng ngũ mà đi nơi khác.
Câu chuyện trên đây cho thấy việc tỉnh thức và sẵn sàng là điều rất cần thiết, loài vật còn cảm thấy phương chi là con người. Nơi giống vật không chu toàn bổn phận tỉnh thức còn bị trừng phạt nặng nề, phương chi là con người.
Trong cuộc sống, chúng ta thường nói: Mấy ai học được chữ ngờ. Nghĩa là có nhiều biến cố xảy đến ngoài dự kiến của chúng ta. Nhưng có một cái bất ngờ, tuy không do chúng ta dự liệu, nhưng lại tuỳ thuộc chúng ta định đoạt số phận, đó là cái chết.
Đọc báo chí, nghe truyền thanh và xem truyền hình, chúng ta thấy cái chết phảng phất ở mọi nơi, và trong mọi lúc. Nào là thiên tai bão lụt giết chết hàng trăm người. Nào là núi lửa, động đất giết chết hàng ngàn người. Nào là chiến tranh, đói khổ giết chết hàng vạn người. Dẫu vậy có ai nghĩ rằng mình cũng sẽ phải chết, mà mấy ai đã tỉnh thức và sẵn sàng cho cái bất ngờ cuối cùng ấy.
Sống sao thì chết vậy. Muốn được chết tốt lành, muốn cho giờ chết không phải là giờ cay đắng bẽ bàng thì ngay từ lúc này, chúng ta phải lo sống tốt lành. Đối với những người còn hồ nghi về đời sau, họ nên khôn ngoan lý luận như nhà tư tưởng Pascal: Có đời sau hay không, điều ấy thật khó mà chứng minh rõ rệt, tuy nhiên tôi vẫn tin có là hơn, vì dù không có, thì tin như vậy cũng không thiệt hại gì. Còn như trong trường hợp mà có, thì không tin quả là điều nguy hiểm. Cho nên tin vào sống niềm tin ấy, thì khôn ngoan hơn.
Tỉnh thức và sẵn sàng ở đây có nghĩa là hãy khử trừ tội lỗi ra khỏi cuộc sống và tích trữ cho một kho tàng quý giá là những hành động bác ái, là những công nghiệp chúng ta lập được khi còn sống ở đời này, để bất kỳ lúc nào Chúa lên tiếng kêu gọi, chúng ta cũng có thể sẵn sàng thưa lên: Lạy Chúa, này con xin đến.
Suy Niệm 2: Tỉnh thức - Thức tỉnh
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Dụ ngôn nói về người chủ đi xa, giao quyền hành lại cho đầy tớ, mỗi người một việc. Tuy nhiều người nhiều việc, nhưng ông chỉ có căn dặn người canh cửa phải lo tỉnh thức để mở cửa cho ông lúc trở về. Rồi trong phần kết của bài phúc âm, lời nhắn bảo “hãy tỉnh thức” lại được gởi đến cho “hết mọi người.” Phải chăng Đức Giêsu ám chỉ tất cả các Kitô hữu đều là những người canh cửa, và họ hãy mở tung cánh cửa đời mình để đón Ngài.
Hôm nay, Dân Chúa trên khắp thế giới bắt đầu bước vào mùa Vọng với ý nghĩa chấn chỉnh lại thái độ trông ngóng, mong chờ, chuẩn bị đón mừng ngày Chúa lại đến.
Mùa Vọng luôn được nối kết với mùa Giáng Sinh, kỷ niệm biến cố Con Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta. Nhưng nếu biến cố đó không gợi lên trong tôi một dư âm nào, việc Chúa sinh ra hay hồng ân cứu độ không mang một tầm quan trọng nào trong đời tôi, thì thử hỏi mùa Vọng có nghĩa lý gì, chẳng qua là một mùa lạnh hay mùa đông.
Cho nên thiết tưởng để sống trọn vẹn hơn mùa Vọng năm nay, chúng ta hãy nhìn lại chính mình và tự hỏi: Đâu là ý nghĩa của cuộc đời? Hạnh phúc của tôi đang ở nơi nào? Những gì tôi đang tìm kiếm, khao khát, mong ước có làm cho tôi thoả mãn thật sự không? Hay là cứ tìm được điều này xong, tôi lại chạy theo điều khác, và rồi cuộc đời cứ mãi kiếm tìm không nguôi?
Thử hỏi Đức Giêsu có phải là đối tượng chính trong sự tìm kiếm của tôi không, hay chỉ là một thứ phụ thuộc, là nơi tôi đến tìm yên ủi, cố vấn những lúc bị thất bại trên đường chạy theo các đối tượng khác.
Nếu không cảm nhận Chúa là lẽ sống, niềm vui, hay nguồn hy vọng của đời mình thì làm sao có thể nhớ thương và mong chờ cho đúng nghĩa được. Có ai trông đợi hay nôn nao được gặp lại một bóng hình mà họ không yêu thương cũng chẳng qúi mến chăng?
Thế cho nên sống mùa Vọng là tái xác định đối tượng chính trong cuộc đời. Khi mà tôi nhận thức Chúa chính là áng mây cho sa mạc tâm hồn, là dòng suối mát cho cánh đồng chờ nước bao năm, thì lúc ấy lời ca “Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội” sẽ thấm đến tận nơi sâu thẳm của cõi lòng.
Vậy lời kêu gọi “tỉnh thức” của ngày đầu năm phụng vụ không chỉ nhắc tôi về thái độ chờ đợi và sẵn sàng, nhưng còn ngầm bảo tôi hãy “thức tỉnh”: thức tỉnh lại từ những đam mê, trăn trở, gian nan để xem Chúa có ở trong đó không; thức tỉnh từ những kiếm tìm: tìm job, tìm của, tìm tình, tìm danh dự, tìm địa vị… để xem Chúa ở trong và ở trên tất cả những sự đó không. Vì nơi đâu không có Chúa, nơi đó chỉ là những quảng cáo của thế gian, ma qủi. Tìm mọi sự mà không tìm Chúa thì rồi vẫn cứ mãi thiếu vắng và khát khao. Phải chăng là vì “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Thánh Augustinô).
Người ta kể rằng dưới chân lâu đài Mamara của Hoàng đế Maximilian là dòng nước trong vắt của vùng biển Adriatique. Ở chiều sâu mấy chục thước nước phía dưới có một hang động từng làm say mê nhiều thợ lặn. Điều thú vị nhất là thỉnh thoảng mấy người thợ lặn đó đã tìm được những viên ngọc đẹp nhất trong hang động này lại thuộc quyền sở hữu của Quận chúa Reiner. Thế nhưng sau một thời gian dài, người ta khám phá các viên ngọc ấy bị nhạt màu. Nhiều chuyên gia về ngọc được triệu đến. Sau nhiều lần nghiên cứu, thử nghiệm, họ đã nhận định rằng để có được vẻ tươi đẹp nguyên thủy, các viên ngọc ấy phải được ngâm lại dưới đáy biển sâu. Và đúng vậy, sau một thời gian trầm mình dưới giòng nước trong của vùng biển này, dần dần các viên ngọc đã phục hồi được vẻ đẹp long lanh của thuở ban đầu.
Đời sống con người cũng thế! Để tìm lại niềm vui và bình an chân thật, để gột rửa những phấn bụi của dòng đời, chúng ta cũng hãy ngâm mình vào biển tình bao la của Thiên Chúa, ướp đượm hồn ta bằng hồng ân tươi mát của Ngài.
Giáng sinh là thời điểm của ân sủng và mến thương vời vợi. Thức tỉnh để được sống trọn vẹn niềm vui tìm gặp Chúa sẽ là thái độ khôn ngoan nhất của người Kitô hữu trên hành trình bước sang năm phụng vụ mới.
Suy Niệm 3: Tỉnh thức và cầu nguyện
(Lm Vinh Sơn)
Tại các giáo đường ở châu Âu trong Mùa vọng, bên cạnh bàn thờ người ta trang hoàng một vòng nguyệt quế được kết từ những cành lá thông mà trung tâm là 4 cây nến: Chúa nhật thứ nhất họ thắp lên cây nến thứ nhất, và mỗi Chúa nhật tiếp theo người ta lại thắp thêm ngọn nến cho đến Chúa nhật thứ tư bốn cây nến được tỏa sáng.
Mỗi Chúa Nhật thắp lên một cây nến nhắc nhở người tín hữu tỉnh thức cầm đèn sáng trong tay cầu nguyện chờ đợi như Thánh Thi ca tụng:
Và giờ đây xin thương tình lạy Chúa,
Lấy lửa thiêng đốt cháy cả tâm can
Để chúng con luôn tỉnh thức sẵn sàng
Cầm đèn sáng trong tay chờ Ngài đến.
Tư thế canh thức đó chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giêsu Giáng sinh và tỉnh thức cầu nguyện, sẵn sàng cho ngày cánh chung, ngày đó ngôn sứ Isaia đã nói: “Hỡi người canh thức, đêm còn mấy chốc nữa?” (Is 21,11), Thánh Phaolô đã nói đến Chúa ngự đến khi diễn tả ánh bình minh của ngày mới: “Đêm sắp tàn, ngày gấn đến” (Rm 13,12), ngày đó “Con Người” sẽ quay lại để phán xét mà Tin Mừng Mc 13,33-37, Chúa Giêsu nói đến hình ảnh: “chủ nhà trở về…” vì chúng ta không biết giờ nào… nên Đức Kitô kêu mời: “Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào”.
Trước hết tỉnh thức giữa đêm khuya cuộc đời, theo Kinh Thánh, đêm khuya là thời gian của bóng tối của “quyền lực tối tăm” (x.Lc 22,23; Mc 14,49; Ep 6,12). Do đó đêm tối cũng chính là thời gian của cám dỗ, thời gian của thử thách, do đó chúng ta phải mang tâm tình thức tỉnh.
"Nửa đêm" trong vườn Giếtsêmani, Chúa Giêsu bị thử thách, các Tông đồ bị cám dỗ ngủ mê và thiếu tỉnh thức. Trước sự mê ngủ của các môn đệ Chúa Giêsu đã mời gọi các ông tỉnh thức, ba lần "Người thấy họ ngủ”. Người nói: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (x. Mt 26, 36-46; Mc 14, 32-42; Lc 22, 39-46).
Đêm tối, Chúa bị bắt, Phêrô theo bước chân Thầy đến Dinh Thượng Tế, bị chất vấn, ông đã yếu đuối, mất cảnh giác và đã chối thầy. Ông thức tỉnh nhận ra tình trạng “chối thầy” của mình lúc bắt đầu bình minh vào "Lúc gà gáy”.
Tin Mừng còn nhắc đến một thái độ thức tỉnh là phải “coi chừng” để nghe lời Chúa (x. Mc 4,12), nếu không ta chỉ đứng bên lề mà để cho lời Chúa vượt qua. Cần phải có thái độ “coi chừng”, để chúng ta giữ mình khỏi “men Pharisêu”, men giả hình, kiêu căng để khỏi bị thấm nhiễm (x. Mt 8, 6; Mc 8,15). Cần phải chú ý “coi chừng”, để không tin những kẻ bắt mao danh Đức Kitô nói trước tương lai (Mt 24, 4 -13; Mc 13,5-13; Lc 21, 8-19) đó là các tiên tri giả hình.
Khi nói về thái độ tỉnh thức, Thánh Phaolô đòi hỏi phải có hành động “thức dậy ngay” (Rm 13,11). Ngài còn sử dụng đến hình ảnh về chiến tranh với những “vũ khí” trang bị cho thái độ tỉnh thức (x.Rm 13,12; Ep 6,10; 1 Tx 5,6-8). Có nghĩa là người thức tỉnh luôn chủ động:
- Tỉnh thức là luôn sẵn sằng, sẵn sàng ngay cả lúc ngủ: dụ ngôn Mười cô trinh nữ, năm cô trinh nữ khôn ngoan cũng ngủ như năm cô khờ dại (Mt 25,1-13). Sự khác biệt giữa họ là sẵn sàng đèn dầu. Nửa đêm, khi chàng rể đến, các cô khôn ngoan ra đón với đèn sáng trong tay, vì các cô có mang theo dầu dự trữ. Còn của các cô khờ dại đèn đã tắt do thiếu dầu. Lúc đó các cô mới chạy đi mua, nên không kịp hẹn hội Hoa đăng. Vậy tỉnh thức là ở trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ lúc nào, sẵn sàng cả trong khi ngủ, ngủ trong an bình như các cô trinh nữ khôn ngoan, cho nên Thánh Phanxicô de Sales nói rằng: “Sự chờ đợi đích thực có nghĩa là chờ đợi mà không lo lắng gì cả”.
- Tỉnh thức là dấn thân chu toàn bổn phận như Người quản gia được giao trách nhiệm phân phát lương thực cho các gia nhân (x. Mt 24,45-51; Lc 12, 42-46). Nếu chủ về mà gặp thấy anh vẫn thức tỉnh đang siêng năng làm công việc được giao nên dược chủ cất nhắc. Ngược lại anh mê ngủ, hay anh lạm dụng quyền hành và chè chén say sưa (x. Mt 24,49), anh bỏ bê trách nhiệm sẽ bị luận phạt.
- Tỉnh thức là luôn chủ động làm cho những nén vàng, nén bạc Chúa trao được sinh lợi (x. Mt 25,31-46). Mỗi người được trao khác nhau, dù ít dù nhiều đều có bổn phận phải sinh lợi cho mình và Thiên Chúa. Người đào lỗ chôn giấu nén bạc được giao là thụ động không dám đầu tư vì sợ mất vốn. Người tỉnh thức hăng say làm việc để sinh lợi là người thức tỉnh với “số mệnh” được giao, anh được chủ khen là đã trung tín với ơn Chúa ban.
- Tỉnh thức để nhận ra Chúa nơi người anh em bé mọn, khốn khổ, bất ngờ đến với mình và nài xin mình trợ giúp. Thật thế, Đức Kitô đến với chúng ta qua hiện thân người đói khát, rách rưới, một người yếu đau, lỡ đường, thậm chí một phạm nhân trong nhà giam như chính Ngài đã khẳng định (x. Mt 25,31-46). Ai tỉnh thức đón nhận những người bé mọn này là đón nhận Ngài, được Ngài đưa vào dự tiệc dành sẵn đời đời. Vâng, Người thức tỉnh biết nhận ra Chúa nơi anh em, Ngày Chúa đến, họ hân hoan như Thánh Phaolô diễn tả: Một ngày kia chúng ta sẽ gặp gỡ Chúa, mặt đối mặt với Người, chúng ta sẽ thực sự nhận biết Chúa, như Chúa biết chúng ta (x. 1Cr 13,12).
Mang tâm tình Tỉnh thức, chúng ta luôn có thái độ sẵn sàng như Cha Charles de Foucault khuyên nhủ: “Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay”. Nhưng thái độ chủ động trong thức tỉnh chưa đủ, tâm tình tỉnh thức còn dẫn đến cầu nguyện. Thật thế, tỉnh thức phải luôn đi đôi với cầu nguyện như Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cơn cám dỗ”(Mc 14,38). Cuộc sống thường ngày chúng ta thường bị cám dỗ ngủ quên trong những thành công, trong những tiện nghi dễ dãi làm ta say mê những thực tại trần thế mà quên đi ngày Chúa đến.
Bước vào mùa vọng, người Kitô hữu mang tâm tình thức tỉnh và cầu nguyện như Chúa Giêsu kêu gọi để chờ, để đợi. Chờ đợi ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang, ngày đó Ngài đến thật bất ngờ, không ai biết được ngày giờ. Cho nên anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra Ngài đến bất thần, bắt gặp anh em đang mê ngủ (x. Mc 13,33-37).
Trong thức tỉnh chúng ta cầm đèn sáng trong tay với lời cầu:
“Maranatha, Lạy Chúa, xin hãy đến!”(Kh 22,20).
“Xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con,
và ban ơn cứu rỗi cho chúng con”(Tv 84, 8)
Suy Niệm 4: Khao khát Chúa
(PM Cao Huy Hoàng)
Mở đầu Mùa Vọng, Chúa Giêsu tha thiết kêu gọi chúng ta hãy “tỉnh thức và cầu nguyện”. "Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc nào chủ về” (x.Mc 13, 33-37)
Mỗi người đang có một ước mơ, một khát vọng trong lòng. Có thể, không ai hiểu ai. Nhưng không ai sống mà không khát vọng. Đời người là một Mùa Vọng. Chỉ tiếc là, có những khát vọng làm cho con người ra ra hư đốn.
Chẳng hạn:
Có ai ngờ được người đang có quyền có tiền lại đang khát chia nhau một phần lợi lộc béo bở nếu cùng nhau toa rập bán được một lô đất ăn cắp. Họ bất chấp công lý, đạo đức, luật pháp, miễn là thỏa cơn khát quyền lực, cơn khát tài sản!
Có ai ngờ được người đang có nhà cao cửa rộng, xe hơi bóng loáng lại khát đổi nhà đổi xe cho sang trọng hơn giữa những người vô gia cư, bất hạnh, què quặt… đang lê la cuộc đời trước mắt mình, dưới chân mình.
Hôm nay, được mời đi chơi với các đại gia, nhìn thấy người ta quá giàu có, sang trọng, tiêu xài thoải mái, vui chơi thỏa thích, em tôi nhắn về cho tôi tin nầy: “Khi người ta quá đầy đủ, còn nhớ đến Thiên Chúa nữa không?” Lặng đi mấy phút, tôi tạ ơn Chúa vì em đang nhớ đến Chúa giữa cuộc du lịch, giữa khu du lịch ĐN ồn ào, sôi động. Tôi trả lời: “Em lầm rồi, họ chưa đầy đủ đâu. Còn khát lắm. Ai biết?”.
Có ai ngờ được người đang có một cuộc sống thiêng thánh lại khát những điều mê muội thấp hèn. Trong đó, có tôi, có bạn, có tất cả những Kitô hữu, không kể thành phần nào, vẫn không tránh khỏi nghiêng chiều về những thực tại thấp hèn, phù du, chóng vánh.
Tin mừng khai mạc Mùa Vọng nhắc nhớ cho chúng ta về khát vọng chính đáng nhất trong cuộc đời: Khát Chúa ngự trị trong căn nhà tâm hồn bé nhỏ, vì chỉ có Chúa mới làm cho chúng ta thỏa cơn khát vô biên.
“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi. Hồn tôi mới được nghỉ ngơi an bình” (Tv 61)
Thánh Augustin: “Chúa là khát vọng của lòng tôi, tôi sẽ khắc khoải cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”.
Có thể nói đoạn sách của Isaia và Thánh Vịnh 79, đáp ca hôm nay đã để cho chúng ta mẫu gương Khát Chúa rất quí giá:
Dân Chúa tha thiết kêu xin: “Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống” (Is. 63) để phục hồi những gì đã tàn hoang, “xin Chúa thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình” (x. TV 79).
Khát vọng của Dân Chúa là một khát vọng chính đáng, một khát vọng thánh thiện: khát vọng Chúa nhìn xem, bảo vệ, củng cố công trình Ngài đã thiết lập: “vườn nho” Giáo Hội mà Chúa đã ươm trồng, “nhà cửa” linh hồn, thân xác, đức tin mà Chúa đã để lại cho chúng ta quản lý trông nom.
Như vậy,
Khát vọng chính đáng của chúng ta là khát vọng Chúa phục hồi con người chúng ta để sống đúng với danh nghĩa, với tư cách là con cái của Ngài mà chúng ta đã vì những khát vọng bất chính mà đánh mất.
Khát vọng chính đáng ấy là khát vọng Chúa đến ngự giữa tâm hồn, giữa gia đình chúng ta, cộng đoàn chúng ta, để Ngài can thiệp vào đời sống chúng ta: nhìn xem, bảo vệ, củng cố Giáo Hội cơ bản của Ngài.
Khát vọng chính đáng ấy, thiết tưởng, không phải là khát vọng đối đầu thành công với thế lực gian tà của ma quỷ, nhưng là khát vọng làm chứng cho công lý cho sự thật, thức tỉnh những con người mê muội, cải tạo những con người bị ma quỷ giáo dục sớm nhận ra uy quyền của Thiên Chúa.
Khát vọng chính đáng ấy không phải là khát vọng Chúa sẽ ra tay đàn áp những người đàn áp, Chúa sẽ phỉ nhổ nhục mạ những người phỉ nhổ nhục mạ, Chúa sẽ xử luật rừng với người chơi luật rừng… nhưng là để Chúa phục hồi lại nhân phẩm tồi tệ của những con người kia cũng là con cái của Chúa, kẻo uổng công trình Chúa cứu chuộc.
Khát vọng chính đáng ấy là khát vọng nên công chính cho mình và cho mọi người, cho xã hội, cho đất nước, cho cả những người đang chìm ngập trong bất công, gian tà, bạo lực.
Khát vọng chính đáng ấy là khát vọng tỉnh thức trước những nguy cơ làm cho chúng ta xa cách Chúa, tỉnh thức trước nguy cơ Satan hóa bản thân, gia đình, đất nước chúng ta.
Để thực hiện được khát vọng chính đáng, “Khát Vọng Chúa”, khát vọng nên công chính, Thánh Phaolô kêu gọi chúng ta: dừng chân ngay những hành vi ám muội, bất chính; xóa bất công xây bình an trong lòng; mặc lấy khí giới ban sự sống; và sống công minh như giữa ban ngày. (x.Rm 13,1-14). Bởi vì, chúng ta đã và đang có những khát vọng bất chính rồi ra dững dưng ơ hờ trước lời kêu gào thống thiết với khát vọng chính đáng của dân Chúa khắp nơi nơi.
Biết không phải dễ dàng mà chúng ta buông bỏ những khát vọng bất chính, biết đôi khi khát vọng bất chính lại len lấn ẩn tàng ngay trong những hành vi tưởng như là công chính, cho nên, Thánh Phaolô lại khuyên chúng ta hãy dùng nguồn trợ lực quí giá là ân sủng của Thiên Chúa và yên tâm, kiên vững kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô: “Vì chưng, trong Ngài, anh em được tràn đầy mọi ơn: ơn ngôn ngữ và ơn hiểu biết, đúng như Chúa Kitô đã minh chứng nơi anh em, khiến anh em không còn thiếu ơn nào nữa trong khi mong chờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra. Cũng chính Ngài sẽ ban cho anh em bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến”. (1 Cr 1, 3-8)
Thiết nghĩ, khao khát Chúa, mỏi mòn khao khát Chúa, tuyệt đối khao khát Chúa, khát vọng nên công chính, khát khao hết hiệp với Chúa Giêsu, là biết tỉnh thức và cầu nguyện vậy.
Cụ Chu, người xướng kinh trong nhà thờ ở Gx tôi đã yếu liệt bỏ ăn bỏ thuốc cả tuần nay. Anh em đến thăm cụ và đọc kinh xin ơn chết lành. Sau giờ kinh, chuyện trò với cụ. Cụ vui vẻ nói “Xin Chúa đến rồi, mà mấy hôm nay Chúa bận quá. Để từ từ Chúa sắp xếp. Chờ thôi. Chắc thứ sáu”. Thiết nghĩ, cụ đã làm gương cho chúng tôi về việc tỉnh thức, cầu nguyện và sẵn sàng đón Chúa đến.
Lạy Chúa, xin cho chúng con tỉnh thức trước những nguy cơ xa cách Chúa và luôn biết khát khao kết hiệp với Chúa từng phút giây trong cuộc đời, để Chúa làm chủ mọi ý tưởng, lời nói, việc làm của chúng con.
Nguyện xin Vị Tôi Tớ Chúa Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, Người đã luôn tỉnh thức cầu nguyện trong tù, phù hộ cho chúng con. Amen.
Suy Niệm 5: Tỉnh thức và cầu nguyện
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta không chắc gặp được Người. Vì Người đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa ta phải tỉnh thức.
Tỉnh thức có nghĩa là đừng mê ngủ. Chúa thường hay đến vào ban đêm nghĩa là vào lúc ta không ngờ. Đời sống có những bóng đêm ru ta ngủ say mê khiến ta không gặp được Người. Có những bóng đêm của tội lỗi giam cầm hồn ta trong giấc ngủ bạc nhược khiến ta không còn đủ sức thoát ra. Tội lỗi lôi kéo tội lỗi. Tội lỗi chồng chất giống như những tảng đá gìm ta xuống vực sâu vô tận. Có những bóng đêm của danh vọng ru hồn ta ngủ quên trên vinh quang chói lọi. Vinh quang giống như ngọn đèn đốt cháy biết bao đời thiêu thân. Có những bóng đêm của xác thịt cuốn hồn ta vào giấc mộng lạc thú. Lạc thú giống như chiếc lưới rất mềm mại, rất nhẹ nhàng, nhưng rất hiểm độc. Linh hồn đã sa vào khó có thể thoát ra. Có những bóng đêm của thói ích kỷ chỉ biết sống cho bản thân mình. Ích kỷ giống như một hang sâu, càng đi vào càng thấy tối tăm. Có những bóng đêm của tiền tài bao phủ ta trong giấc mộng giàu sang phú quí. Chìm đắm trong giấc mộng, ta sẽ chẳng nghe được bước chân Chúa đi qua.
Tỉnh thức cũng có nghĩa là tỉnh táo phân định. Chúa đến rất âm thầm và rất bé nhỏ. Người không đến với cờ quạt trống phách tưng bừng, nhưng đến trong âm thầm lặng lẽ. Người không đến trong uy nghi lẫm liệt của những vị vương đế, nhưng Người đến trong hiền lành khiêm nhường như một người phục vụ. Người không mặc gấm vóc lụa là, nhưng đơn sơ trong y phục dân dã. Người không đến như vị quan toà nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương dễ mến. Người đang đến qua những con người hiền lành bé nhỏ quanh ta. Người đang đến trong những con người khốn khổ túng cùng. Người đang đến qua những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Người đang đến trong những tấm thân gầy guộc. Người lẫn vào giữa đám đông vô danh. Người chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài lề xã hội. Người ẩn mình giữa đám người ăn xin đang lê bước khắp các nẻo đường cát bụi. Người đang rét run với cặp mắt ngơ ngác thất thần ở giữa những nạn nhân bão lụt. Phải tỉnh táo lắm mới nhận ra Người. Phải tỉnh thức lắm mới gặp được Người.
Tỉnh thức không có nghĩa là cứ ngồi đó mà chờ đợi. Tỉnh thức là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng. Người cho ta được toàn quyền khi Người vắng nhà. Người giao trách nhiệm cho ta trông coi gia đình ta, giáo xứ ta, địa phương ta, đất nước ta và cả thế giới nơi ta đang sống. Ta được tự do hành động. Ta có trách nhiệm làm cho gia đình, xứ đạo, địa phương, đất nước, và cả thế giới được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy ý Chúa trong những trào lưu thời đại. Tỉnh thức là nhận biết Chúa hành động trong những tâm hồn thiện chí thuộc các niềm tin, mầu da, quan điểm khác nhau để biết cộng tác trong việc xây dựng xã hội. Tỉnh thức là dấn thân hy sinh phục vụ anh em trong quên mình.
Ngay từ đầu mùa Vọng, Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức. Hãy bước ra khỏi giấc ngủ miệt mài, lười biếng. Hãy đoạn tuyệt với những giấc mộng phù hoa. Hãy thôi đuổi theo những đam mê dục vọng. Hãy nói không với những đồng tiền bất chính.
Hãy tỉnh táo phân định để nhận ra dung mạo thực sự của Đức Kitô. Đừng chạy theo những khuôn mặt mang dáng vẻ cao sang quyền quý. Đừng chạy theo những khuôn mặt nặng về quyền lực. Đừng chạy theo những lời hứa hẹn giàu sang. Dung mạo đích thực của Đức Kitô là nghèo hèn, là khiêm nhường, là bé nhỏ.
Hãy tỉnh thức để làm việc không ngừng, để quên mình, hi sinh phục vụ cho lợi ích của đồng loại.
Như thế, tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên ta phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Có ơn Chúa thúc đẩy, ta mới có thể dứt bỏ con đường tội lỗi xưa cũ. Có ơn Chúa soi sáng, ta mới đủ tỉnh táo nhận ra dung mạo đích thực của Đức Giêsu. Có ơn Chúa trợ giúp, ta mới đủ hăng hái ra đi phục vụ trong quên mình.
Lạy Chúa, xin giữ hồn con tỉnh thức để con nhận biết Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tỉnh thức là đừng mê ngủ. Hãy kể ra những bóng tối khiến ta mê ngủ?
2) Tỉnh thức là tỉnh táo phân định. Làm thế nào để nhận ra khi Chúa đến?
3) Tỉnh thức là phải hành động. Muốn tỉnh thức, bạn phải làm những gì?
4) Mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì để tỉnh thức?
Suy Niệm 6: Người giữ cửa
(‘Manna’)
Có bao nhiêu thời gian sống ở đời được chúng ta dành cho việc chờ đợi?
Có sự chờ đợi làm ta căng thẳng, mệt mỏi; nhưng cũng có sự chờ đợi đem lại hương vị và ý nghĩa cho cuộc sống. Người mẹ tần tảo nuôi con, chờ ngày con thành tài. Người vợ chờ đợi ngày chồng trở về từ biên ải.
Con người không chỉ sống bằng quá khứ nhưng còn bằng những ngóng đợi về tương lai.
Cái tương lai tưởng như mơ hồ, xa xôi mà lại lôi kéo được cái hiện tại đi về một hướng.
Biết sống là biết chờ đợi
Chờ đợi làm nên cuộc sống.
Mùa vọng đưa ta đi vào thái độ chờ đợi. Chờ đợi Chúa sẽ đến trong vinh quang mai này. Chờ đợi Chúa vẫn đến trong niềm vui và nước mắt.
Chờ như người giữ cửa thức trắng đêm, vì không biết giờ nào chủ trở về. Nhưng chờ không phải là thụ động khoanh tay mà là vuông tròn sứ mạng được giao phó.
Ông chủ đi xa đã để lại ngôi nhà, giao quyền cho các đầy tớ, mỗi người một việc (câu 34).
Có lẽ từ lâu ta đã thấy không cần chờ đợi Chúa, vì chúng ta có quá nhiều điều khác để đợi mong, những điều gần gũi hơn, thiết thực hơn, cấp bách hơn.
Hãy nói cho tôi biết, bạn đang chờ gì, tôi sẽ nói cho bạn biết, bạn đang đi về đâu.
Nếu không có Ai để chờ, thì cũng chẳng cần tỉnh thức.
Tỉnh thức trong đêm tối đâu phải là chuyện dễ dàng.
"Ngài trở lại và thấy các môn đệ đang ngủ... Rồi Ngài lại đến và thấy họ vẫn đang ngủ, đôi mắt họ li bì nặng giấc" (Mt 26, 40-45).
Chiến đấu chống lại sự buồn ngủ của mắt còn dễ dàng hơn chống lại sự mê ngủ của tinh thần.
Cuộc sống vật chất ngày càng cao cung ứng cho con người biết bao thứ ru ngủ và đưa con người vào cơn mê mà họ không hay biết.
Ma túy là mối đe dọa giới trẻ hôm nay.
Ma túy đi vào trường học, được bán ở cổng trường, để chích, để hút, để ngửi. Nó cho người ta sống lâng lâng trong một thế giới ảo, để rồi không còn khả năng sống đời thực của mình nữa. Nhưng ma túy đâu phải chỉ là bạch phiến, cần sa.
Ma túy là tất cả những gì gây nghiện, khiến con người thành nô lệ và đánh mất mình.
Tiền bạc, tiếng tăm, tình dục, tiện nghi... vẫn là những thứ ma túy mê hoặc con người.
Mùa Vọng là mùa tỉnh thức, để thành thật tự hỏi:
"Tôi đang nghiện thứ ma túy gì?"
Gợi Ý Chia Sẻ
Sống là có ước mơ và chờ đợi. Đâu là những ước mơ của bạn? Chúa có chỗ trong những ước mơ đó không?
Có bạn trẻ coi chuyện tình cảm là chuyện hết sức quan trọng, đến độ dám tự tử nếu cuộc tình đổ vỡ. Bạn nghĩ thế nào là thái độ quân bình nên có khi yêu nhau?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin đánh thức con.
Xin đưa con ra khỏi cơn mê mà tự sức con không sao thoát ra được.
Xin đừng ngại đánh thức con bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ, nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ đang cắt tỉa con vì yêu con.
Ước gì con được tỉnh táo để nhìn lại vẻ đẹp từng làm con say mê, những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối.
Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện, xin cho con thức luôn và sáng luôn, trước nhan Chúa.
Suy Niệm 7: Đón chờ Chúa đến
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Khi màn đêm buông xuống, có những người vẫn thức. Thức vì không ngủ được. Thức để xem nốt một cuốn truyện hay một bộ phim vidéo nhiều tập… Nhưng cũng có người thức để làm việc. Họ trực ở phòng cấp cứu, ở trạm cứu hoả, ở cơ quan an ninh, ở bưu điện. Họ là những công nhân làm ca ba, những tài xế tàu hoả chạy suốt đêm đến sáng, những chuyến bay ban đêm.
Và còn có những người khác cũng thức. Thức không phải vì mất ngủ, không phải để đọc truyện hay xem phim, mà thức để cầu nguyện. Trong các đan viện, các đan sĩ nam nữ là những người không ngủ, với cái nghĩa là họ ca tụng Chúa 24 giờ một ngày luân phiên nhau. Nhiều cộng đoàn tu sĩ nam nữ chầu Mình Thánh Chúa ngày đêm, từ năm này qua năm khác. Họ tỉnh thức và cầu nguyện thay cho chúng ta, trong khi chúng ta ngủ.
Trên trái đất này, không lúc nào mà không có người thức: Đang khi chúng ta lên giường ngủ thì ở bán cầu bên kia, một nửa nhân loại đang vươn vai thức dậy, ăn uống, làm việc, vui chơi, để rồi lại ngủ khi chúng ta ở đây thức dậy.
Như thế, trên thế giới, Thánh lễ được hiến dâng liên tục ngày đêm. Nếu chỉ 2/3 trong số linh mục trên thế giới cử hành Thánh lễ mỗi ngày, thì mỗi giờ ít nhất có hai ngàn linh mục cử hành Thánh lễ, và mỗi phút, ngày cũng như đêm, đều có một số linh mục đang dâng lễ cầu nguyện cho chúng ta.
Tuy nhiên, thức đêm không phải là điều tự nhiên và dễ dàng. Ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu đã từng có kinh nghiệm về điều đó: Trong Vườn Cây Dầu, mặc cho Chúa Giêsu hai lần gọi: Hãy tỉnh thức! Họ vẫn ngủ li bì. Có lẽ lúc đầu, Chúa Giêsu tưởng họ sẽ thức cả đêm với mình để chia sẻ nỗi khổ đau, nhưng cuối cùng, Ngài đau lòng khi thấy họ không thức nổi được một giờ với Ngài (Mc 14,34-37).
Một trong những căn bệnh của thời đại là căn bệnh mất ngủ. Người ta phải dùng thuốc an thần để tìm một giấc ngủ không tự nhiên. Hoặc chán đời, người ta dùng thuốc ngủ quá liều lượng để tìm giấc ngủ ngàn thu!
Thế nhưng, hôm nay, Chúa Giêsu lại kêu gọi: Anh em phải canh thức, kẻo bất thần ông chủ về bắt gặp anh em đang ngủ. Phải chăng Chúa Giêsu muốn các Kitô hữu phải thức suốt đêm để chờ Ngài? Chắc là không! Vậy thì thế nào là thái độ tỉnh thức mà Chúa đòi hỏi nơi chúng ta?
Tỉnh thức không phải là không ngủ:Năm cô trinh nữ khôn ngoan cũng ngủ như năm cô khờ dại (Mt 25,1-13). Điểm khác biệt là vào lúc nửa đêm, khi chàng rể đến, các cô khôn ngoan có thể ra đón với đèn sáng trong tay, vì các cô có mang theo dầu dự trữ. Còn đèn của các cô khờ dại thì đã tắt ngúm mà lại không đem dầu theo. Lúc đó mới chạy đi mua, nên không kịp. Vậy tỉnh thức là ở trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ lúc nào, sẵn sàng cả trong khi ngủ.
Tỉnh thức là chu toàn bổn phận:Người quản gia được giao trách nhiệm phân phát lương thực cho các gia nhân (Mt 24,45-51). Nếu chủ về mà gặp thấy anh đang làm công việc được giao, thì đúng là anh đã có thái độ tỉnh thức. Mê ngủ là bỏ bê trách nhiệm, lạm dụng quyền hành và say sưa chè chén (Mt 24,49).
Tỉnh thức là làm cho những nén vàng, nén bạc Chúa trao được sinh lợi (Mt 25,31-46). Số nén vàng có thể nhiều hay ít tùy người, và mỗi người cũng chỉ phải sinh lợi tùy theo số vốn đã nhận. Mê ngủ là đào lỗ chôn giấu nén bạc của mình, không dám đầu tư vì sợ mất vốn, nhưng cũng có thể vì lười biếng, thụ động. Người tỉnh thức là người được chủ khen là đã trung tín trong việc nhỏ, nghĩa là trung tín với ơn Chúa ban trong hiện tại.
Tỉnh thức là tỉnh táo để nhận ra Chúa bất ngờ đến với mình và nài xin mình trợ giúp.Ngài xuất hiện dưới dáng dấp của một người đói khát, rách rưới, một người yếu đau, lỡ đường, thậm chí một phạm nhân trong nhà giam (Mt 25,31-46). Mê ngủ là để cho Chúa Giêsu ngửa tay đi qua đời mình mà không nhận được chút gì làm quà tặng.
Cuối cùng, tỉnh thức là để cầu nguyện. Tỉnh thức luôn đi đôi với cầu nguyện: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cơn cám dỗ (Mc 14,38). Chúng ta đã làm nhiều việc cho Chúa, nhưng có thể vẫn chưa phải là con người tỉnh thức và cầu nguyện. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ ngủ quên trong thành công tông đồ, trong tiện nghi dễ dãi.
Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta vào bầu khí Mùa Vọng, mùa tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến. Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta phải chờ đợi. Có sự chờ đợi làm ta sốt ruột, khó chịu, nhưng cũng có sự chờ đợi làm cho cuộc sống hiện tại trở nên đầy ý nghĩa. Dân Do Thái từ hơn 2000 năm trước đây cho đến nay vẫn sống nhờ vẫn còn chờ đợi Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai Cứu Thế. Sự chờ đợi như tăng thêm sức mạnh để con người can đảm sống cái hiện tại hơn. Biết sống là biết chờ đợi. Chờ đợi làm nên cuộc sống. Sống mà không còn gì để chờ đợi, kể như đã chết!
Mùa Vọng là thời gian chờ Chúa đến. Cả lịch sử của nhân loại được đánh dấu bằng những lần Chúa đến. Lần nào Ngài cũng đến bất ngờ. Ngài đã đến bất ngờ ở Bêlem, mang hình hài trẻ thơ yếu đuối. Cả cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Ngài cũng là bất ngờ, khiến cho các môn đệ phải ngỡ ngàng. Kitô hữu là người đang chờ, chờ ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang. Đây cũng là một bất ngờ, vì không ai biết được ngày giờ Ngài trở lại. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra Ngài đến bất thần, bắt gặp anh em đang mê ngủ(Mc 13,33-37).
Chúa đã đến, sẽ đến, nhưng Ngài vẫn đang đến trong thế giới, trong đời từng người, trong đời từng tập thể. Nếu chúng ta tập lắng nghe, chúng ta sẽ nhận ra được tiếng bước chân của Ngài. Chúa đến với ta qua mọi biến cố của cuộc sống, kể cả những biến cố đau buồn. Bước vào Mùa Vọng, cùng với Giáo hội sống một Mùa Vọng mới, chúng ta hãy mở tâm hồn ra tiếp đón Chúa: Maranatha, Lạy Chúa, xin hãy đến! (Kh 22,20).
Suy Niệm 8: Hãy tỉnh thức
(‘Suy Niệm Tin Mừng’ – Noel Quesson)
Ngày kia, một sinh viên Rôma tới gặp thánh Philipphê Nêri. Anh say sưa nói về kế hoạch xây dựng tương lai đời mình. Anh sẽ học luật, anh có đủ khả năng và kế hoạch đạt tiến sĩ luật.
Thánh nhân hỏi anh: - Sau đó thì sao?
Chàng trai hăng hái trả lời: - Con sẽ tham gia bào chữa những vụ kiện lớn và con sẽ thành công.
- Sau đó thì sao? Thánh nhân hỏi tiếp.
- Rồi con nổi tiếng, con sống thoải mái hạnh phúc, giàu sang.
- Rồi sao nữa? Nghe hỏi tiếp, người thanh niên hơi bối rối.
- Dĩ nhiên rồi con cũng chết như mọi người.
Thánh nhân vẫn tiếp tục câu hỏi cũ:
- Sau đó thì sao? Con sẽ là gì khi xuất hiện trước phiên tòa cuối cùng? Con sẽ là bị cáo và Thiên Chúa sẽ là thẩm phán tối cao?
Chàng trai im lặng cúi đầu. Từ đó anh suy nghĩ nhiều về ý nghĩa cuộc đời.
Cuộc sống của mỗi người đều có một sứ mệnh do Chúa trao ban. Có thể đó là một nguồn vốn, một tài năng, một nhiệm vụ. Và sẽ có lúc Chúa đòi ta tính sổ lại với Người. Điều đó chắc chắn, và cũng chắc chắn là ta không biết thời gian phải tính sổ đó là lúc nào.
Để ứng phó với vấn đề này, Chúa dạy ra luôn luôn tỉnh thức. Trong Tin Mừng, Chúa nhắc nhở nhiều lần: Hãy cẩn thận, hãy luôn tỉnh thức. Ở đây, có thể hiểu về việc tính sổ cuối cùng của cuộc đời mỗi người. Ai cũng phải sẵn sàng, bất cứ lúc nào, vì không ai biết ngày giờ Chúa tới. Chúng ta cứ ước mơ, cứ xây dựng và dự tính tương lai, nhưng đừng khi nào quên mục đích cuối cùng của cuộc đời và phải luôn tâm niệm: tất cả đều do Chúa ban và sẽ có lúc Chúa đòi ta tính sổ. Chúa như một ông chủ đi xa, Ngài trao cho các tôi tớ Ngài mỗi người một phần vốn, và một nhiệm vụ cụ thể. Mỗi người phải tự mình xoay xở làm thế nào cho vốn Chúa ký thác được sinh lời.
Cha Charles de Foucault nói: “Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay”. Đó là một lời khuyên khôn ngoan, một lời khuyên lặp lại lời nhắn nhủ của chính Chúa: “Hãy tỉnh thức, vì các con không biết giờ nào chủ sẽ về”.
Nhưng thái độ “tỉnh thức” không chỉ ứng dụng vào cái chết, chúng ta còn phải luôn luôn tỉnh thức trong cuộc sống hằng ngày, nhớ mình đang tham dự một cuộc chiến đấu gay go, trường kỳ. Phải cẩn thận đón nghe, suy niệm Lời Chúa, nếu không, ta sẽ là người nghe mà không hiểu gì (Mc 4,12); cẩn thận tránh men biệt phái và men Hêrôđê (Mc 8,15); cẩn thận đừng lầm lạc theo các ngôn sứ giả mạo có cả những kẻ mạo danh Đức Kitô mà đánh lừa chúng ta (Mc 13,5.23). Phải cầu xin Chúa trợ giúp để biết luôn tỉnh thức hầu sống một đời Kitô hữu trung tín, xứng đáng với các ân huệ Chúa trao ban.
Lạy Chúa, chúng con tin rằng Chúa đang đến và sẽ đến với chúng con bằng nhiều cách. Xin ban Thánh Thần cho chúng con, nhờ Người trợ giúp, chúng con biết tỉnh thức, kiên trì cầu nguyện, suy niệm và thực hành Lời Chúa mỗi ngày; nhờ Người, chúng con biết đón nhận những vui buồn trong cuộc sống như hồng ân Chúa ban. Chúng con xin tạ ơn Chúa.
Suy Niệm 9: Tỉnh thức để bảo toàn sinh mạng
(‘Cùng Đọc Tin Mừng’ của Lm. Trần Ngà)
Tai nạn giao thông ngày càng gia tăng khốc liệt, gây ra chết chóc, thương tật, tai hoạ cho hàng chục ngàn người mỗi năm tại Việt Nam. Chưa từng có trận chiến nào trong lịch sử chiến tranh Việt Nam cận đại ngốn nhiều nhân mạng và gây nhiều thương vong cho bằng tai nạn giao thông trên các tuyến đường dọc theo chiều dài đất nước trong những năm qua.
Nguyên nhân chính gây ra tai nạn giao thông là người lái xe không tỉnh táo. Phải lái xe suốt đêm trường trên những con đường dài thăm thẳm khiến người lái thiếp đi lúc nào không hay. Một số khác mất tỉnh táo vì men rượu, nên không thể chủ động và phản ứng kịp thời khi tình huống xấu xảy ra. Thế là tai hoạ và chết chóc chụp xuống trên đầu nhiều người thật khủng khiếp.
Khi tài xế ngủ gật, say rượu bia thì nguy cơ gây nên cái chết cho mình và cho người liên hệ hầu như chắc chắn. Người lái xe không tỉnh thức, vì ngủ gật hay vì ma men, là kẻ sát nhân và là người tự sát, gây nên những hậu quả nghiêm trọng khôn lường cho nhiều nạn nhân vô tội.
Chính vì thiếu tỉnh thức dễ đưa đến những hậu quả nghiêm trọng khôn lường nên Chúa Giêsu đã nhiều lần kêu gọi mọi người đừng mê ngủ nhưng hãy tỉnh thức dưới nhiều hình thức:
Tỉnh thức như người tôi tớ chong đèn đợi chủ đi ăn cưới mãi đến hai hoặc ba giờ sáng mới về (Luca 12, 35-48); tỉnh thức như người chủ nhà canh phòng kẻ trộm thâm nhập giữa đêm khuya (Mt 24, 42-44); tỉnh thức như người quản lý được người chủ đi xa giao trọng trách quán xuyến việc nhà mà không biết giờ nào chủ trở lại kiểm tra công việc đã được giao phó (Mc 13, 33-37. Lc 12, 42-46); tỉnh thức như những cô phù dâu mang dầu đèn đi đón chàng rể có thể vào giữa đêm khuya mới đến. (Mt 25,1-13)
Trong các trường hợp được nêu trên đây, việc tỉnh thức sẽ mang lại phần thưởng lớn lao và sự ngủ mê sẽ gây hậu quả tai hại.
* * *
Mỗi người chúng ta là những người tài xế điều khiển chiếc xe cuộc đời của mình, có trách nhiệm với vận mệnh đời đời của mình cũng như những người liên hệ.
Những nhà lãnh đạo cao cấp của đất nước là những người lèo lái chiếc tàu quốc gia. Nếu những vị nầy "mê ngủ", chắc chắn sẽ gây ra hậu quả đau thương cho đất nước, cho dân tộc và cho thế giới. Đại biểu cho những "tài xế" kiểu nầy gồm những nhân vật như Hitler, Stalin, Sadam Hussein và rất nhiều tên tuổi khét tiếng khác.
Những nhà lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo là những người cầm lái cỗ xe tôn giáo, có trách nhiệm uốn nắn lương tâm của số đông tín đồ, nếu không tỉnh táo thì cũng sẽ dẫn đưa hàng vạn tín đồ của mình lao xuống vực thẳm bạo lực, chiến tranh tôn giáo hoặc những hình thức khủng bố dã man như đã xảy ra lâu nay.
Những Thầy Cô giáo nắm tay lái cỗ xe học đường, có sứ mạng đào tạo những mầm non hôm nay thành những rường cột cho nước nhà mai sau, nếu không tỉnh táo thì sẽ đưa bao thế hệ học sinh xuống vực.
Vị chủ chăn trong giáo xứ hay bậc phụ huynh trong các gia đình cũng đều là những "tài xế" điều khiển những chiếc xe Chúa trao cho mình quản lý, nếu không tỉnh táo, không sáng suốt thì gây phương hại cho mình cũng như cho vô vàn người khác.
Người lái xe đường dài ban đêm không bao giờ dùng bia, rượu, những chất gây ngủ hoặc bất kỳ loại thức ăn nước uống nào làm cho đầu óc mất tỉnh táo.
Là tài xế cầm lái chiếc xe đời mình, chúng ta quyết không để cho men say của lạc thú, bóng tối của dục vọng, những cơn lốc của đam mê... làm mờ tối lương tri, làm thui chột con mắt linh hồn, làm mê muội tâm trí, khiến chúng ta không còn tỉnh táo để lèo lái đời mình theo đường lối Chúa Giêsu.
Người chạy xe đêm đường dài cần đến cà phê, thuốc lá, nước tăng lực, khăn lạnh... để làm cho đầu óc luôn tỉnh táo hầu tránh được tai nạn giao thông, khỏi làm thiệt hại mạng sống mình cũng như những người liên hệ; thì chúng ta, những người đang lèo lái đời mình qua nhiều khúc quanh của cuộc sống, xuyên qua bóng đêm cuộc đời, cũng luôn cần Lời Chúa lay tỉnh, để khỏi gây gương mù làm hại linh hồn người khác và có thể tỉnh táo, sáng suốt đưa đời mình, linh hồn mình về đến bờ bến bình an.
Suy Niệm 10: Trách nhiệm
Đoạn Tin Mừng ngắn ngủi chúng ta vừa nghe, lặp đi lặp lại tới bốn lần lời kêu gọi: - Hãy tỉnh thức.
Nằm giữa những lời kêu gọi ấy là một dụ ngôn ngắn kể lại rằng: Người kia sắp đi xa, để nhà cửa lại, giao trách nhiệm cho đầy tớ trông coi, chỉ định cho mỗi người một việc và dạy phải tỉnh thức luôn vì không biết chừng nào ông ta về. Sẽ không may mắn cho người đầy tớ nào khi chủ bất thần trở về mà bắt gặp còn đang ngủ mê.
Ngôi nhà ông chủ trao cho tôi tớ, chính là thế giới mà Đức Kitô trao cho loài người chúng ta chịu trách nhiệm. Chúng ta có bổn phận phải quản lý nó. Cũng như Chúa dạy chúng ta phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình và phải quản lý cuộc đời mình sao cho phù hợp với ý muốn của Chúa, theo lề luật bác ái yêu thương.
Rồi ngày kia, Ngài sẽ xuất hiện tỏ tường với chúng ta và Ngài sẽ xét xử chúng ta theo cách thức chúng ta hoàn thành nhiệm vụ của mình như thế nào. Chúng ta phải sống cuộc đời hiện tại trong sự tỉnh thức, nghĩa là không quên ngày Chúa đến, đó là ngày tận thế cũng như ngày cuối cùng cuộc đời chúng ta. Vì qui hướng về Đức Kitô như thế, chúng ta sẽ tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cửu của mình.
Chúa Giêsu đã đến, rồi Ngài đã ẩn mình đi khỏi con mắt xác thịt của loài người. Đến ngày quang lâm, Ngài sẽ lại xuất hiện tỏ tường trước mắt muôn dân. Trong thời gian Ngài ẩn mình đi, chúng ta nhiều khi kêu trách Chúa sao như muốn bỏ mặc chúng ta. Nhưng Chúa ẩn khuất như thế chính là vì muốn tôn trọng chúng ta, muốn cho chúng ta nên người trưởng thành.
Thực vậy, làm sao con cái có thể lớn khôn khi cha mẹ cứ bám sát lấy nó, lo cho nó từng ly từng tí. Dĩ nhiên Chúa vẫn lo cho chúng ta ta nhưng có thể nói là một cách kín đáo, tế nhị, không bao giờ dành mất tự do và trách nhiệm của con người.
Có ba quan niệm dễ dàng tạo nên một thái độ tiêu cực trong cuộc đời:
Một là cho rằng chết là hết, không còn gì nữa.Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu rồi sẽ như nhau cả, thì người ta có lý để lập luận rằng: Hãy ăn uống, vui chơi, hưởng thụ giây phút hiện tại.
Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là cho rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được định đoạt do các vị thần thánh. Nếu thế thì con người chẳng cần làm gì nữa, chẳng cần cố gắng hy sinh hoặc sáng tạo.
Ba là tin vào thuyết luân hồi, hết kiếp này qua kiếp khác.Nếu kiếp này chưa đạt hạnh phúc thì ta còn có thể chờ kiếp sau đầu thai lại và tiếp tục xây dựng hạnh phúc.
Quan niệm Kitô giáo về cuộc đời, về thời gian và về lịch sử rất khác với những quan niệm trên. Đó là một quan niệm có tính biện chứng. Người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại hết sức nghiêm chỉnh như thế là sẽ mãi mãi ở đây vì đó là thánh ý Chúa và vì số phận của mình được định đoạt ngay trên cõi đời này, đồng thời họ lại thanh thoát, tự do, sẵn sàng rời bỏ mọi sự bất cứ lúc nào Chúa gọi họ ra đi. Quan niệm Kitô giáo là một quan niệm cho những con người trưởng thành. Bởi vì, hãy tỉnh thức có nghĩa là hãy sống có trách nhiệm.
Suy Niệm 11: Hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy trong bất kỳ lãnh vực nào, người ta cũng cần phải đề cao cảnh giác, có nghĩa là phải tỉnh thức và sẵn sàng.
Thực vậy, trong một quốc gia, để bảo đảm an ninh và trật tự, chính phủ phải luôn tỉnh thức bằng cách đặt các đồn canh ở các nơi trọng yếu, rồi lại còn phải thường xuyên huấn luyện các binh lính, công an và cảnh sát.
Trong một gia đình, muốn không bị trộm cắp, nhất là vào những đêm tối trời, thì chúng ta cũng phải tỉnh thức. Ngoài ra, lại còn phải nuôi thêm chó để canh giữ, làm cổng cho kiên cố, đặt ổ khóa cho chắc chắn.
Trong phạm vi cá nhân cũng thế, muốn được khỏe mạnh, thì phải sắm sẵn mũ áo, phòng lúc trời mưa cũng như lúc trời nắng. Rồi lại còn phải sắm sẵn những thứ thuốc thông thường, phòng khi cảm cúm bất ưng.
Chúng ta có biết khẩu hiệu của hướng đạo là gì hay không? Tôi xin thưa: - Đó là khẩu hiệu: Sắp sẵn.
Powell, ông tổ của ngành hướng đạo, hồi còn là đại tá chỉ huy những cuộc chiến đấu tại Âu Châu, lần kia đoàn quân của ông có một ngàn mà phải đương đầu với địch quân những chín ngàn. Suốt trong 217 ngày đợi chờ được cứu viện, ông đã dùng chiến thuật nghi binh.
Ở mặt trận, ban ngày thỉnh thoảng ông cho nổ chỗ này chỗ khác mấy trái lựu đạn. Còn ban đêm trong một vùng rộng lớn, ông cho thắp đèn sáng tại nhiều nơi, mục đích là để đánh lừa đối phương, khiến chúng tin rằng ông có nhiều lính và hiện diện ở khắp nơi, chớ có liều lĩnh mà tấn công. Khi viện binh tới, ông mới tấn công đối phương và đã dành được thắng lợi.
Giữa lúc chính phủ nước Anh định nâng ông lên cấp bậc thống tướng thì ông lại rút lui, để rồi lập nên phong trào hướng đạo, huấn luyện các em thiếu nhi trở thành những người hữu ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
Mục đích của hướng đạo là lúc nào cũng phải tỉnh thức và sẵn sàng để đương đầu với mọi hoàn cảnh.
Đối với việc linh hồn của chúng ta cũng vậy. Có nghĩa là chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng bằng cách khử trừ tội lỗi, uốn nắn sửa đổi lại những tính hư tật xấu, đồng thời cố gắng thực hiện những hành động bác ái yêu thương, để bất kỳ lúc nào Chúa viếng thăm chúng ta cũng sẵn sàng thưa lên cùng Chúa: - Lạy Chúa, này con xin đến.
Nhờ đó, chúng ta sẽ được Ngài đón nhận vào quê hương nước trời.
Để kết luận tôi xin kể lại một mẩu chuyện như sau:
Có một du khách, sau khi đã thăm viếng những danh lam thắng cảnh ở Thụy sĩ. Ông ta dừng chân trước một vườn hoa đẹp bao quanh một tòa lâu đài. Người làm vườn mừng rỡ đón chào. Ông bèn lên tiếng hỏi:
- Cụ ở đây đã bao lâu rồi?
- Thưa hai mươi bốn năm.
- Có lẽ chủ của cụ ít khi tới đây.
- Vâng, tôi chỉ mới gặp ông chủ có bốn lần mà thôi và lần cuối cách đây đã mười hai năm.
- Thế thì ai thưởng thức cảnh đẹp mà cụ phải tốn công chăm sóc kỹ lưỡng như vậy?
- Thưa ông, tôi làm như thể chủ tôi sẽ đến hôm nay, ngay bây giờ và ngoài ra, khi chăm sóc cho thửa vườn thì chính vợ chồng tôi được thưởng thức vẻ đẹp của muôn hoa trước hết.
Nếu như Chúa đến viếng thăm chúng ta ngay lúc này thì liệu chúng ta có tỉnh thức và sẵn sàng hay chưa?
Suy Niệm 12: Sự mê ngủ
Trong bài Tin Mừng hôm nay, đến bốn lần Đức Giêsu hối thúc các môn đệ “Hãy tỉnh thức”. Lời kêu gọi “Hãy tỉnh thức” này cũng có ý nghĩa cả đối với chúng ta. Đây là một lời kêu gọi rất phù hợp khi mở đầu năm phụng vụ mới.
Người ta nói rằng mỗi năm, những con chim sẻ đều quay trở lại tổ vào đúng thời điểm. Bằng mọi cách, chúng phải kết thúc chuyến bay tại cùng một địa điểm. Điều này nói gì với chúng ta về những con chim sẻ? Chúng là những tạo vật sống theo thói quen.
Thói quenđóng một vai trò lớn trong cuộc sống của chúng ta. Ngoại trừ những đứa trẻ còn rất nhỏ, tất cả chúng ta đều là những tạo vật sống theo thói quen ở mức độ lớn. Người ta nói rằng chúng ta sống nửa phần sau của cuộc đời mình tuỳ theo những thói quen đãđược hình thành từ nửa phần đầu cuộc đời. Điều đó sẽ đem lại dễ chịu cho người đã hình thành được những thói quen tốt. Nhưng sẽ gây rắc rối cho người nào đã nhiễm phải những thói quen xấu.
Thói quen có khía cạnh tích cực. Sự lập đi lập lại là điều cần thiết. Đây là một công việc cực nhọc đều đều và là một kỷ luật nghiêm khắc, nhưng có thể đem lại kết quả. Các vận động viên đã chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng sự lập đi lập lại có thể tạo ra những thành quả. Chỉ bằng cách đó, người ta mới làm chủ được một kỹ năng. Từ đó, chúng ta có thể đạt được những hành động hoàn hảo nhất, mà không cần phải cố gắng gì cả, bởi vì qua hàng loạt thói quen đã được khắc sâu, chúng trở thành một bản chất thứ hai đối với chúng ta.
Những thói quen có thể thông truyền và duy trì sức sống. Thói quen và công việc hằng ngày có thể giúp chúng ta tiếp tục tiến tới, và vượt qua được những thời điểm khó khăn, khi mà cả những thói quen hằng ngày nhỏ bé nhất đều trở nên có ý nghĩa.
Nelson Mandela cho chúng ta một ví dụ về điều này. Khi viết về thời gian ở tù, ông nói “Để tồn tại được ở trong tù, người ta phải triển khai những cách thức để đạt được sự thoả mãn trong cuộc sống hằng ngày. Người ta vẫn có thể cảm thấy dễ chịu bằng cách giặt giũ quần áo, quét hành lang…”
Nhưng thói quen cũng có khía cạnh tiêu cực. Cuộc sống có rất nhiều sự lập đi lập lại, đặc biệt trong công việc. Khi làm cùng những công việc đó hết ngày này sang ngày khác, chúng ta dễ đi vào lối mòn, để rồi cuối cùng, chúng ta thường chỉ làm việc theo thói quen mà thôi. Điều này đưa đến hậu quả là chúng ta có thể làm việc mà không ý thức, theo một cách thức vô tình, không cần suy nghĩ gì cả. Trong những công việc này, người ta không hề thực sự có tâm hồn hoặc cảm giác. Tình trạng này thật đáng buồn và huỷ hoại tâm hồn.
Thói quen có thể là một nhân tố gây u mê, làm lu mờ các giác quan, đặc biệt là đối với thị giác và thính giác. Thói quen có thể đưa chúng ta đi vào giấc ngủ mê, để rồi chúng ta không còn sống động nữa, mà chỉ biết hành động theo thói quen mà thôi.
Ngoài ra, thói quen có thể mang tính ích kỷ, rất khó bẻ gẫy, đặc biệt là đối với những thói quen xấu. Chúng ta vẫn có thể quen thuộc đối với bất cứ thứ gì, ngay cả đối với các bức tường của nhà tù. Ban đầu, bạn ghét chúng, thế rồi bạn quen thuộc với chúng, và sau đó, bạn lệ thuộc vào chúng.
Nếu bạn đặt một con ếch vào một nồi nước nóng, thì nó sẽ nhảy ngay ra ngoài. Nhưng nếu bạn đặt một con ếch vào một nồi nước lạnh, rồi từ từ đun sôi lên, thì nó sẽ chỉ ngồi yên ở đó. Hệ thần kinh của nó quá sơ đẳng, nên cần một cú xốc nẩy đột ngột, thì nó mới nhận ra rằng mình đang gặp nguy hiểm.
Có lẽ đó là mục đích của Mùa vọng, khi đưa ra một lời mời gọi tỉnh thức, cung cấp cho chúng ta một cơ hội bắt đầu lại. Chúng ta có thể dễ dàng trở thành những Kitô hữu chỉ theo thói quen. Chúng ta có thể chỉ sinh hoạt, tham gia vào các lễ nghi phụng vụ, nhưng đã bị mất đi tất cả nét tươi mát và ý nghĩa. Chúng ta không còn biết lắng nghe Tin mừng nữa.
Mùa vọng kêu gọi chúng ta tỉnh thức, để rũ bỏ lớp bụi của công việc hằng ngày và thói quen, và một lần nữa, để cho Đức Kitô sống động trong đời sống của chúng ta.
Suy Niệm 13: Những đầy tớ
Trong bài Tin mừng hôm nay, có một dụ ngôn ngắn, nói về người chủ nhà có nhiều đầy tớ. Một lần kia, trước khi trẩy đi phương xa, ông gọi họ lại và trao cho mỗi người một việc. Ông hối thúc họ phải giữ trách nhiệm bằng cách nói với họ “Khi tôi trở về, tôi muốn rằng anh em phải tỉnh thức”. Ông ta ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức đặc biệt.
Câu chuyện của Đức Kitô chấm dứt ở đó, với lời cảnh báo vang lên ở tai chúng ta. Chúng ta hãy xem xét đôi chút, bằng cách tập trung vào người giữ cửa. Có lẽ sự nguy hiểm lớn nhất trước mặt anh ta không quá nhiều, đến nỗi anh có thể ngủ ngay trong giờ làm việc, cho bằng vì anh ta có thể càng ngày càng quen thuộc đối với công việc đó.
Lúc đầu, anh ta hoàn toàn phấn khởi với công việc này. Anh cảm thấy hãnh diện vì được chủ tin tưởng nơi anh nhiều đến thế. Anh thích bộ đồng phục. Khi mặc bộ quần áo này, anh cảm thấy mình trở thành một con người khác hẳn. Anh ý thức rằng mình phải rất cẩn thận. Đối với anh, đó không phải là một việc quá nặng nề, cho bằng đó là một công việc của lòng quí mến.
Nhưng thời gian trôi qua, có thể công việc mở cửa và đóng cửa trở nên nhàm chán, cảm giác mới lạ bị hao mòn. Lớp bụi của thói quen tích lũy trên con người và trên thế giới của anh một cách từ từ nhưng chắc chắn, thay vào đó, là một công việc chán chết. Anh vẫn còn có tinh thần trách nhiệm, vẫn còn liên tục giữ vị trí của mình. Nhưng anh chỉ thuần túy coi đó là công việc mà thôi. Lòng quí mến và cảm hứng ban đầu đã bay đi hết. Anh không còn đặt cả tâm hồn mình vào công việc nữa. Khi ông chủ trở về, chắc chắn ông sẽ nhìn thấy anh ta đang làm việc. Anh ta sẽ tỉnh thức, nhưng anh không còn sống động nữa. Anh sẽ bị tê liệt, bởi vì anh đã đánh mất tâm hồn của mình rồi.
Thói quen bóp chết chúng ta một cách từ từ, và sau cùng tiêu diệt tất cả mọi sự sống. Chúng ta bị chìm ngập trong những lối mòn của truyền thống và sự tùng phục. Chúng ta quên đi rằng mình đã từng có những giấc mơ. Chúng ta cứ ngồi yên một chỗ, trong khi thực hành những thói quen cũ kỹ và không có hiệu quả, rồi phê phán tất cả mọi sự và tất cả mọi người.
Những gì xảy đến cho đời sống bình thường, thì cũng xảy đến cho đời sống kitô hữu của chúng ta. Chúng ta có thể đi vào một lối sống hằng ngày nhàm chán, hậu quả là chúng ta chỉ là những Kitô hữu theo thói quen. Chúng ta chỉ thuần túy coi đó là công việc mà thôi. Chúng ta đang tham gia vào những lễ nghi phụng vụ đã bị mất đi tất cả ý nghĩa và nét tươi mát. Chúng ta không còn biết lắng nghe Tin mừng nữa. Lời Chúa chỉ đi vào tai này rồi trôi qua tai kia. Dưới cái nhìn của chúng ta, gương mặt của Đức Kitô đã bị tiêu tan.
Vậy chúng ta phải có giải pháp nào? Đôi khi, chúng ta cần được xáo động lên. Đó là khi Mùa vọng đến. Mùa vọng đưa ra một lời mời gọi “Tỉnh thức” mạnh mẽ đối với chúng ta, cung cấp cho chúng ta một cơ hội để rũ bỏ lớp bụi của thói quen, và một lần nữa, để cho Đức Kitô sống động trong đời sống của chúng ta.
Chúa đang đến. Người sẽ đến với chúng ta vào giờ chết, và đến với thế giới vào thời sau hết. Chúng ta không biết Người đến vào ngày nào hoặc giờ nào. Bất cứ thời điểm nào đều cũng không phù hợp đối với người đầy tớ không trung tín. Nhưng bất cứ thời điểm nào đều cũng phù hợp với người đầy tớ tín trung. Người đầy tớ trung tín không e sợ Chúa đến: Họ sẵn sàng tiếp đón ngày đó.
Chúng ta phải luôn sẵn sàng. Bằng cách nào? Bằng cách trở thành những người đầy tớ sống động, cảnh giác và có tinh thần trách nhiệm của Chúa và của nhau.
Suy Niệm 14: Hãy tỉnh thức
1- Tỉnh thức và ý thức: Cả hai đều có cùng một nội dung diễn tả bản chất thiết yếu của con người có lý trí. Khi ngủ ta mất hay ít ý thức. Ta chỉ hoàn toàn ý thức khi tỉnh thức. Việc Chúa Giêsu đã giáng trần để cứu chuộc nhân loại sẽ chẳng có ảnh hưởng gì tới đời sống con người nếu chúng ta không ý thức. Ngài vẫn còn vắng mặt trong tâm thức của nhiều người. Sự vắng mặt này gây nên các vấn đề rắc rối và tạo nên những bi kịch trong cuộc sống nhân sinh. Nó gây ra đau khổ, và chết chóc.
Trong một cuộc phỏng vấn qua ca khúc “Bông Hồng Cài Ao”, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chia sẻ rằng nhận thức sự có mặt của mẹ trong đời, đó là điều làm nên hạnh phúc của những người con. Theo cách suy nghĩ này, chúng ta có thể nói rằng nhận thức sự hiện diện của Đức Kitô và ơn cứu rỗi của Người là điều cần thiết tạo nên hạnh phúc của người Kitô hữu.
2. Tỉnh thức để cảm nhận được những dấu tích của Thiên Chúaxung quanh chúng ta nếu chúng ta biết cách đón nhận. Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen, nhà giảng thuyết thời danh của Hoa Kỳ vào những thập niên 60 và 70 thường ví vũ trụ giống như một cửa sổ được ghép bằng những ô kính. Qua cửa sổ ô kính của thế giới hữu hình chúng ta có thể đến để nhìn ra Đấng Vô Hình, sức mạnh và sự hiện diện của Thiên Chúa. Ký giả Kitô giáo Malcolm Muggeridge đã diễn tả điều này như sau: “Mọi điều lớn hay nhỏ xảy ra là một dụ ngôn qua đó Thiên Chúa nói với chúng ta, và nghệ thuật của đời sống chính là thu thập được cái thông điệp đó”. Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy dẫy những làn sóng điện và âm thanh phát ra trong không gian. Chúng ta không biết nó và không nhận ra nó cho đến khi có một cái máy thu nhận làn sóng điện – receiver – như là radio, tivi, điện thoại di động, computer… Bật máy lên sử dụng, một thế giới thông tin với hình ảnh, âm thanh và tin tức mở ra cho chúng ta. Tất cả sự thông tin thú vị và phong phú này đến với chúng ta chỉ khi nào chúng ta biết đón nhận chúng. Tiếng nói của Thiên Chúa giống như những làn sóng radio hay làn sóng điện toán trong không gian, vây quanh và thấm nhập vào thế giới của chúng ta. Và mỗi người có một cái máy tiếp nhận làn sóng tinh thần ở bên trong giúp chúng ta cảm nhận được những dấu chỉ và cho phép lắng nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Tôi nhìn thấy cái radio, computer tinh thần này ở bên trong mỗi người như một thứ giác quan thứ sáu. Giác quan thứ sáu này chính là lương tâm và đức tin. Khi chúng ta qui tụ nhau lại thờ phượng Thiên Chúa nơi nhà thờ, tham dự bàn tiệc Thánh Thể, rước lấy Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô qua hình bánh và rượu, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện ngọt ngào và thánh thiện của Ngài giữa chúng ta.
3. Tỉnh thức để xa tránh tội lỗi: Trong bài Phúc âm, thánh Marcô dùng hình ảnh của một người canh giữ cửa. Một người canh giữ cửa tỉnh thức và chờ đợi chủ trở về. Không ngủ mê trong yếu đuối xác thịt và tội lỗi. Cũng không canh giữ theo kiểu các chú học trò tinh nghịch nhìn qua khe cửa xem thầy giáo đã trở về hay chưa để phá phách! Trước Giáng sinh năm 1980, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II quy tụ hơn 2000 trẻ em của một giáo xứ ở Rôma. Bằng cuộc đối thoại, ngài dạy giáo lý cho các em và hỏi: “Làm thế nào các con sửa soạn mừng lễ Giáng sinh?” “Bằng cầu nguyện” từ phía sau các em la to. “Rất tốt, bằng cầu nguyện, Đức Giáo Hoàng nói, nhưng cũng phải bằng việc đi xưng tội nữa. Các con phải đi xưng tội để có thể lên rước lễ sau đó nữa. Các con có làm như thế không?” Hàng ngàn trẻ em trả lời trong cùng một tiếng lớn giọng hơn: “Chúng con sẽ làm!” Và Đức Giáo Hoàng nói với các em. “Phải, các con nên đi xưng tội”. Rồi ngài hạ thấp giọng xuống thì thầm, “Đức Giáo Hoàng cũng sẽ đi xưng tội để đón tiếp Chúa Giêsu Hài đồng một cách xứng đáng”.
4. Tỉnh thức vì Thiên Chúa đến rất bất ngờ: Thiên Chúa đến với chúng ta qua mọi hình thức, mọi biến cố trong cuộc sống, ngay cả sự chết, và sau cùng trong ngày phán xét chung, tận thế. Chúng ta phải luôn sẵn sàng đón tiếp Ngài, nhất là những lúc chúng ta không ngờ. “Ta đến như một tên ăn trộm, hạnh phúc cho những ai tỉnh thức”. Trên chiếc máy bay phản lực 747 vừa cất cánh rời phi trường ở Nữu Ước bay đi Rôma, có một bà cụ già tên là Maude, ngồi ở bên cửa sổ. Cụ để dành tiền trong nhiều năm trời mới đủ để làm một chuyến hành hương Rôma như cụ hằng mong ước. Đây là lần đầu tiên cụ đi máy bay, nên cụ lo sợ và kinh hoàng. Cụ cứ lầm bầm cầu xin: “Lạy Chúa, con phải làm gì ở trển đây?” Mặc dù phía trước cụ có 4 vị giám mục cùng sang Rôma dự hội nghị, cụ vẫn cứ run sợ. Cụ sợ rớt máy bay mà chết! Sau cùng đang lúc run sợ, cụ liếc trộm ra ngoài cửa sổ, chẳng may gặp đúng lúc một trong bốn động cơ của phản lực không còn hoạt động được nữa, và máy bay biến vào đám mây bên dưới. Cụ la hét lên kinh hoàng: “Chúng ta sắp chết! Chúng ta sắp chết!” Cô trưởng đoàn chiêu đãi viên hàng không lập tức đến bàn hỏi ý kiến với phi hành đoàn, rồi thông báo cho tất cả hành khách biết rằng mọi sự sẽ êm đẹp: “Xin quý vị an tâm, viên trưởng phi công bảo đảm với quý vị rằng ông ta có thể điều khiển máy bay quay trở về New York và đáp xuống an toàn với 3 động cơ”. Nhưng bà cụ cứ la hoảng lên: “Chúng ta sắp chết! Chúng ta sắp chết!” Cô chiêu đãi viên lại phải đến trấn an cụ lần nữa: “Cụ ơi, cụ đừng lo, Chúa đang ở với chúng ta. Máy bay của chúng ta chỉ có 3 động cơ thôi, nhưng xem kìa, chúng ta có tới 4 vị giám mục cơ mà!” Nhưng bà cụ trả lời: “Thôi, tôi muốn có 4 động cơ và chỉ cần 3 giám mục là đủ!” Hôm nay Chúa nói với chúng ta rằng: “Chúng con hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết lúc nào chủ nhà trở về… kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp chúng con đang ngủ”. “Hãy tỉnh thức”. Bà cụ hoảng sợ vì không ngờ thời giờ lại đến ngay vào lúc cụ chưa sẵn sàng. Thánh Phanxicô de Sales nói rằng: “Sự chờ đợi đích thực có nghĩa là chờ đợi mà không lo lắng gì cả “.
Suy Niệm 15: Luôn tỉnh thức
(Lm Nguyễn Hữu An)
Từ thuở tiểu học chúng ta đã thuộc lòng 2 câu ca dao:
"Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh".
Nàng Tô Thị ôm con chờ chồng, mỏi mòn đợi chờ, mịt mù xa thẳm để rồi hóa đá. Hòn vọng phu là một di tích văn hóa của dân tộc. Hòn Vọng Phu như là một biểu tượng lòng thủy chung của người vợ đợi chờ chồng. Linh Mục Thiện Cẩm, Dòng Đaminh, đã ví von: "Đối với tôi, Hòn Vọng Phu có một ý nghĩa biểu tượng khác. Nó như là biểu tượng Giáo Hội đang ôm ấp cả nhân loại trong lòng và đứng thẳng trên cao, nhìn vào chân trời xa thẳm, đợi chờ Đức Giêsu - vị Hôn Phu của mình đang ngự đến, như lời sách Khải Huyền đã viết: Thần Khí và Tân nương nói: "Xin Ngài ngự đến... Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài ngự đến" (Kh 22, 17-20).
Toàn bộ cuốn Thánh Kinh kết thúc như vậy. Hình ảnh Hôn Thê chờ Hôn Phu. Kinh Thánh là một câu chuyện tình giữa Thiên Chúa và nhân loại mà phần lớn được diễn tả bằng ngôn ngữ tình yêu nam nữ, vợ chồng. Xin nhắc lại vài câu Thánh Kinh cũng đủ nói lên điều ấy:
"Ngươi sẽ được Thiên Chúa đem lòng sủng ái
Và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi
Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ
Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về
Như cô dâu là niềm vui cho chú rể
Ngươi cũng là niềm vui cho thiên Chúa ngươi thờ". (Is 66, 4-5)
Thánh Phaolô trong 2 Cr 11, 2; Ep 5, 26-27 đã diễn tả Giáo Hội là Hiền thê, là bạn trăm năm của Đức Kitô. Hình ảnh Hôn Thê chờ Hôn Phu là một hình ảnh đẹp biểu trưng lòng tín trung của Giáo Hội đối với Chúa Kitô.
Phụng Vụ Giáo Hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng. Mẹ Giáo Hội đang ôm ấp tất cả con cái nhân loại đợi chờ Đức Kitô đến trong hai lần Người ngự đến. Ngự đến trong thời gian là Nhập Thể và kết thúc thời gian là Quang Lâm.
Từ Chúa Nhật I Mùa Vọng đến ngày 16.12, Phụng Vụ nói lên sự mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời gian; tám ngày cuối cùng trực tiếp nói đến Sinh Nhật của Đức Giêsu.
Theo tinh thần canh tân Phụng Vụ, Mùa Vọng không còn là mùa thống hối nữa mà là mùa hân hoan mong đợi. Các Chúa Nhật trong Mùa Vọng không đọc Kinh Vinh Danh không phải vì đặc tính đền tội của Mùa Chay, nhưng là để bài ca của các Thiên Thần được xem như là một tiếng hát mới mẻ trong đêm Giáng Sinh.
Mùa Vọng cũng là mùa của những lời loan báo. Loan báo việc Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Chúa Nhật.
- Bài đọc 1 trích trong sách I-sai-a, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bê-lem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đa-vít và sẽ được gọi là Em-ma-nu-en.
- Bài Tin Mừng Chúa Nhật I Mùa Vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức. Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa. Chúa nhật IV là Chúa Nhật Truyền Tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
- Các bài đọc 2 là các bài Thánh Thư của các Thánh Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
Lời Chúa Chúa Nhật I Mùa Vọng dặn dò mỗi người Kitô hữu là hãy tỉnh thức, tỉnh thức để để đón chờ ngày tái ngộ với Chúa Kitô. Cuộc tái ngộ có thể xảy đến bất ngờ đối với mỗi người và đối với cả nhân loại. Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức vì đó là ý muốn, là mệnh lệnh của Chúa. Tỉnh thức và đợi chờ là lời mời gọi của Chúa đối với mỗi ngày sống của mỗi người.
Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa. Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn. Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi Lời Hứa Cứu Độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.
Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường. Niềm hy vọng cánh chung không cản trở công cuộc xây dựng trần thế và mưu tìm hạnh phúc hiện tại. Trái lại, đó là một động lực thúc đẩy mỗi người góp phần kiến tạo gia đình, làng xóm, xã hội sống công bình, huynh đệ và hạnh phúc hơn. Ai thấy rõ đường đi thì càng vững tâm mà đi.
Chỉ có một Đức Kitô, chỉ có một Giáo Hội là bạn trăm năm của Người. Giáo Hội không chỉ là Trinh Nữ, là Hiền Thê mà còn phải là Mẹ. Do đó hình ảnh người Mẹ bồng con là hình ảnh thích hợp để biểu tượng cho Giáo Hội. Hình ảnh Hòn Vọng Phu tượng trưng cho Mẹ Giáo Hội đứng trên đỉnh núi giữa trời mây sông nước, ẵm chặt vào lòng đứa con của sự sống là tương lai và hạnh phúc của mình hướng về trời cao với niềm hy vọng là Đức Kitô. Mẹ Giáo Hội cưu mang các thực tại của mọi dân tộc là sự sống, là tương lai, là hạnh phúc để nuôi dưỡng và ấp ủ cho đến ngày hoàn toàn viên mãn, ngày Đức Kitô ngự đến.
Mùa Vọng được khai mở với lời mời gọi của Đức Giêsu: Hãy tỉnh thức.
Bước đầu là bước quyết định cho cả một cuộc đời, một chương trình kế tiếp như sách Nho có câu: nhất nhật chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân (Kế hoạch một ngày hệ tại giờ ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân).
Tỉnh thức là thái độ sống của người tín hữu suốt Năm Phụng Vụ.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu trong Nhà Thờ, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa.
Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ
- Viết bởi JNK
Thứ Sáu Tuần XXXIII Mùa Thường Niên Năm A
"Người giơ tay trên các môn đệ mà nói: Đây là mẹ Ta và là anh em Ta".
* Vượt lên trên những câu chuyện cổ kính thuật lại việc Đức Trinh Nữ Maria dâng mình vào Đền Thờ, Hội Thánh Đông Phương và Tây Phương ngày nay đều kính nhớ biến cố Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội dâng mình cho Chúa từ lúc còn ấu thơ. Mọi Kitô hữu có thể nhận thấy nơi Đức Maria “đầy ân sủng” gương mẫu cho đời sống hiến dâng.
Ðức Mẹ Dâng Mình Vào Ðền Thờ
Theo truyền thống Do Thái, người ta thường dâng con trẻ vào đền thờ để được thánh hiến và sau đó con trẻ sẽ ở trong đền thờ một thời gian giúp việc các vị chủ tế... Phúc Âm không đề cập đến thời thơ ấu của Ðức Trinh Nữ Maria. Nhưng theo Thánh Truyền thì Ðức Mẹ cũng đã thi hành tập tục nói trên. Tại đền thánh Giêrusalem, ngài đã thực hành biết bao hy sinh với một tâm hồn quảng đại.
Mười hai năm suy gẫm và cầu nguyện, chính là thời gian chuẩn bị cho chức vụ Mẹ Thiên Chúa. Theo thánh Hiêronimô, chương trình ngày sống của Ðức Mẹ trong đền thờ được phác họa như sau: Từ hừng đông đến 9 giờ sáng, Ngài cầu nguyện; từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều, Ngài làm việc chân tay và sau đó ngài lại cầu nguyện, sốt sắng suy gẫm Thánh Kinh và siêng năng đọc Thánh Vịnh.
Ngày lễ Mẹ dâng mình như bước đầu dẫn tới Ðức Khiết Tịnh Kitô giáo. Sau Ngài, biết bao trinh nữ đã tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa. Vì thế Mẹ Maria thực là gương mẫu bất diệt, là Ðấng bảo trợ nhiệt thành và là Ðấng hướng dẫn chắc chắn trên đường nhân đức vậy.
Lời Chúa: Mt 12, 46-50
Khi ấy, Chúa Giêsu còn đang nói với dân chúng, thì mẹ Người và anh em Người đứng ngoài tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa rằng: "Kìa, mẹ Ngài và anh em Ngài đang đứng tìm Ngài ngoài kia". Nhưng Người trả lời kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta?" Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: "Đây là mẹ Ta và là anh em Ta, vì hễ ai làm theo ý Cha Ta trên trời, thì người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta vậy".
SUY NIỆM 1: Đức Mẹ Dâng Mình
Tại hầu hết các nhà thờ ở Liên Xô mà tôi đã viếng thăm đều có những bức họa lớn hoặc nhỏ, rất đẹp về cảnh Đức Mẹ dâng mình vào đền thờ. Ở góc cao nhất của bức họa là cửa đền thờ Giêrusalem diễn tả cửa Trời. Thầy thượng tế mặc phẩm phục đứng đó nhìn xuống một cô bé 3 tuổi, đang lanh lẹn và đẹp đẽ leo hết 36 bậc thang đi vào Đền Thánh, trước sự ngưỡng mộ của hàng ngàn trinh nữ cầm đèn cháy sáng đứng hai bên. Cô bé ba tuổi đó chính là Maria, lanh lẹn tiến vào nhà Chúa, không thèm ngoái cổ lại nhìn thế gian, từ giã họ hàng…
Các nhà thờ chính thống cũng như Công giáo ở Đông Phương đều đề cao việc Đức Mẹ dâng mình và mừng lễ này hết sức long trọng và hân hoan, không biết từ những ngày xa xôi nào. Chỉ biết đến thế kỷ VI, đòan đại biểu của Giáo Hội La Mã qua thăm Đông Phương thấy vẻ đẹp của các bức họa và các cuộc lễ này đẹp đẽ phấn khởi như vậy, mới trở về quảng bá việc mừng lễ Đức Mẹ Dâng Mình cho đến ngày nay.
Như vậy, lễ này phát xuất từ Đông Phương, miền truyền giáo của thánh Gioan tông đồ và có thể là nơi xuất phát lòng tôn sùng Đức Mẹ sâu sắc hơn cả. Dĩ nhiên, câu truyện Đức Mẹ dâng mình vào đền thờ không được viết trong Thánh Kinh. Phải đọc nó trong các sách bình dân không có phép của giáo quyền. Nghĩa là không có gì chắc chắn Đức Maria đã dâng mình vào đền thờ khi lên ba. Nhưng cuộc đời của Đức Mẹ là cả một lễ dâng mình kéo dài mà đỉnh cao như chúng ta sẽ nói là ở đồi Sọ, gần thập giá Đức Giêsu.
Maria sinh ra được giáo dục trong lòng đạo đức của Dân được tuyển chọn. Lớn lên, một trong những câu truyện đầu tiên cô được nghe và phải thuộc lòng, chính là câu truyện về cuộc đời của Abraham tổ phụ dân Chúa. Và Thánh Kinh kể Abraham là con người có đức tin, tin một mình Đức Chúa, tin hoàn toàn vào Lời Hứa và sự dẫn dắt của Người. Vì Đức Chúa, để gắn bó với Người, ông bỏ quê hương, bỏ gia tộc, bỏ mọi sự, đi theo Chúa. Không phải ông không mơ ước điều nọ điều kia. Ông đi theo Chúa vì Chúa hứa cho ông một giang sơn, một dòng dõi, một đời sống hạnh phúc bất tận. Dần dần ông thấy mình được những điều đó. Đặc biệt đến tuổi 100, ông đã được Chúa ban đứa con nối dòng là Isaac. Chúng ta cứ thử nghĩ xem Isaac đối với ông quí như thế nào. Đó là sự sống của ông, sự sống sẽ được nối dài trong bao ngàn thế hệ… Thế mà Chúa lại đòi ông đi sát tế Isaac. Lòng đau như cắt, ông xin vâng, dẫn Isaac lên tế đàn…
Câu truyện đó làm sao không làm cho Maria say mê sung sướng. Là thiếu nữ Sion tuyệt vời, là tiêu biểu của dòng giống được tuyển chọn, Maria phải yêu nước, yêu dân tộc mình, yêu tổ phụ của dân và do đó phải thích và thuộc những gì Kinh Thánh viết về Abraham. Hơn nữa, là một tác phẩm kỳ công của Thiên Chúa, câu truyện Abraham tin Chúa, yêu Chúa đến nỗi sẵn lòng hy sinh tất cả để tỏ lòng tin, cậy, mến, phải thu hút tình yêu của Maria. Maria muốn bắt chước tổ phụ của dòng dõi mình. Maria dâng trọn đời mình cho Chúa.
Chúng ta khẳng định được như vậy vì tất cả các nét mà các sách Tin Mừng vẽ lại cho chúng ta thấy tâm hồn của Maria. Chúng ta biết câu truyện Truyền tin. Maria dâng mình phó thác cho Thiên Chúa quyết liệt thế nào trong hai tiếng Xin Vâng khiêm nhường. Cũng vì chỉ muốn đi theo Chúa, phục vụ Chúa, mà nghe tin Chúa làm việc lạ nơi bà chị họ Êlisabét, Maria đã tất tưởi lên đường, hạnh phúc nhảy các đồi cao, đến nhìn công việc của Chúa. Và tại đây, như bài Tin Mừng cho thấy, tâm hồn của Maria đã dạt dào cởi mở trong bài kinh Magnificat. Cứ đọc bài ca ấy đi, ai không thấy ngay một tâm hồn đẹp đẽ nhưng dâng hiến hoàn toàn cho công việc của Thiên Chúa. Lòng dâng hiến trọn vẹn sẽ đưa Maria không một phút nào không mật thiết kết hiệp với Đức Giêsu, đặc biệt trên con đường thập giá. Và khi Phêrô và các môn đệ to mồm nhất, bỏ Chúa đau đớn và trơ trọi trên thập giá, Mẹ Maria dũng cảm có mặt ở đó, để các vết thương trên thân thể Con trở thành những nhát gươm đâm nát trái tim Mẹ. Con dâng mình đau đớn thế nào cho Chúa Cha, Mẹ cũng dâng khổ đau dữ dằn như thế, để cùng Con đổ Máu đền tội cho trần gian và ban Nước ân sủng Thánh Thần cho mọi tín hữu. Đức tin cho chúng ta biết lễ dâng của Chúa và của Đức Mẹ tại đồi Sọ có giá trị như thế nào. Thánh Phaolô nói rõ trong bài thư hôm nay. Chúng ta vẫn tin như vậy. Tôi không cần nói thêm.
Tôi chỉ muốn nói điều này: Ơn Cứu độ, Sự sống của Hội Thánh phát xuất từ lễ dâng trên núi Sọ. Đó là lễ dâng của Chúa Giêsu và của Đức Mẹ. Lễ dâng đó trọn vẹn vì đã chảy cho đến giọt máu cuối cùng… Nhưng đã khởi sự và đi con đường thập giá hy sinh lâu rồi. Cũng như thư Hi- bá viết: Khi vào thế gian, Đức Kitô đã nói với Đức Chúa Cha: Này Con xin đến để làm theo ý Cha; thì khi cho chúng ta gặp Đức Mẹ lần đầu tiên, sách Tin Mừng cũng kể: Người nói hai chữ “Xin Vâng” để suốt đời sống theo ý Chúa.
Cha của chúng ta là Đức Giêsu, Mẹ của chúng ta là Đức Maria. Cả hai đã suốt đời Xin Vâng ý Cha Trên Trời nên mới có dòng dõi là nghĩa tử. Đó là Adong và Evà mới của nhân loại mới được cứu độ, thay cho Adong và Evà cũ đã đưa loài người vào con đường tội lỗi lầm than vì bất tuân, vì không dâng hiến nhưng muốn sống cho mình.
Cha mẹ của chúng ta như vậy, chúng ta sẽ thế nào? Anh em Linh mục thân mến, chúng ta hãy nhìn vào Đức Mẹ trong lễ dâng mình hôm nay, để dâng lại ý chí của chúng ta trong ngày chịu chức, là vâng phục Giám mục để thực sự là tông đồ, tức là được sai đi như Chúa Con được Chúa Cha sai xuống trần gian thi hành chương trình cứu độ thương xót của Người.
Anh chị em nam nữ tu sĩ, hôm nay hãy cùng chúng tôi dâng mình lại theo gương mẫu Đức Maria, dâng trọn vẹn để sống mật thiết với Chúa Giêsu và công cuộc Cứu thế của Người.
Anh chị em giáo dân hãy hợp lòng với tất cả các bậc tu trì chúng tôi để cùng dâng linh hồn và thân xác, đời sống và gia đình cho Chúa, cho Đức Mẹ để xứng đáng là tín hữu, tức là có đức tin trung tín.
Và như vậy, tất cả chúng ta, sau khi dâng mình hiệp với của lễ dâng trên bàn thờ, để gắn bó với tâm tình hiến dâng của Chúa và Đức Mẹ, và sau khi mang tinh thần hiến dâng trọn vẹn ở nơi mình, chúng ta trước khi ra về sẽ dâng Giáo phận, các Giáo xứ, các Cộng đoàn, các gia đình và hết thảy mọi người cho Chúa trong đà dâng mình trọn vẹn, tuyệt diệu của Đức Maria Mẹ chúng ta trong thánh lễ hôm nay.
Chúng ta cùng nhau đứng lên bắt đầu thái độ hiến dâng trong các lời nguyện cầu sau đây cho mọi thành phần dân Chúa và xã hội.
(ĐGM. Bart. Nguyễn Sơn Lâm)
SUY NIỆM 2: Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ
(Bài Suy Gẫm số 191 của Thánh Gioan La San)
“Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào,
đưa mắt nhìn và hãy lắng tai,
quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ.
Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái”
(Tv 44, 10-11)
Điểm 1. Đức Maria dâng mình trọn vẹn cho Thiên Chúa.
Không phải vô duyên vô cớ mà Hội Thánh tôn vinh sự kiện Đức Trinh Nữ rất thánh dâng mình trong Đền thờ bằng một ngày lễ. Bởi vì chính trong ngày nầy mà Đức Trinh Nữ đã dâng mình cho Thiên Chúa, để hoàn toàn thuộc về Người suốt đời, ngõ hầu không chỉ xa lánh sự đồi trụy của thế gian, Trinh Nữ còn loại bỏ khỏi tâm trí người mọi lo toan với những tư tưởng vô ích của thế gian, và loại khỏi lòng người cảm tình đối với tạo vật, vì lòng người được dựng nên chỉ để yêu Chúa và dâng trọn cho Chúa mà thôi. Vì thế, trong ngày thánh nầy, được Thiên Chúa ban cho không những ân sủng mà còn cả trí hiểu biết, cho nên dù tuổi còn rất trẻ, Trinh Nữ đã khấn sống khiết tịnh suốt đời, theo niềm tin truyền thống dựa trên tường trình của một tác giả đạo đức thời xưa. Theo lời thánh Gioan Damascène, (Trinh Nữ đã khấn như thế) để gìn giữ linh hồn mình trong sự thanh khiết, một khi thân xác người thoát khỏi mọi lạc thú của đời sống nầy.
Anh Em đã dâng mình cho Chúa khi Anh Em xa lìa thế gian, để sống trong cộng đoàn nầy bằng cách hoàn toàn thoát ra khỏi tất cả những gì, trong thế gian, có thể làm thoả mãn các giác quan Anh Em, và chọn nơi nầy làm nhà của Anh Em. Anh Em phải xem ngày nầy như là ngày hạnh phúc của Anh Em bắt đầu trên mặt đất, để một ngày kia được thành toàn trên Trời. Nhưng Anh Em đã dâng mình cho Chúa không phải chỉ tạm thời mà thôi. Bởi lẽ Anh Em đã dâng linh hồn Anh Em cho Chúa, mà linh hồn Anh Em thì sẽ sống đời đời, vì vậy sự dâng hiến của Anh Em cũng phải đời đời. Mà nếu Anh Em đã bắt đầu dâng mình trên trái đất nầy rồi, thì sự dâng hiến nầy phải như thể một cuộc tập huấn cho việc mà Anh Em sẽ làm đời đời trên Thiên đàng.
Điểm 2. Cuộc sống của Đức Maria trong Đền thờ.
Đức Trinh Nữ rất thánh đã hiến mình hoàn toàn cho Thiên Chúa một cách dứt khoát trong ngày thánh nầy. Cha mẹ người tháp tùng người trong hành động thánh thiện nầy, đã để người ở lại trong Đền thờ hầu được dưỡng dục tại đó với các trinh nữ khác, và chú tâm thực hành mọi nhân đức. Vì Thiên Chúa muốn một ngày kia Đức Maria sẽ trở thành đền thờ cho Thiên tính của Người, nên Người đã thực hiện nơi Trinh Nữ một điều cao trọng, ngay từ tuổi thơ ấu, bằng sự tuyệt đỉnh của ân sủng để tôn vinh Trinh Nữ. Điều Thiên Chúa làm thật là chính đáng. Vì thế, theo lời một tác giả đạo đức, trong Đền thờ Trinh Nữ luôn tận tụy phục vụ Thiên Chúa, tập luyện chay tịnh và cầu nguyện ngày đêm. Chính bằng cách nầy mà Trinh Nữ vẹn toàn thanh khiết nầy đã sống cách thánh thiện trong suốt thời gian người đã trải qua trong Đền thờ.
Anh Em được hạnh phúc sống trong nhà Thiên Chúa mà Anh Em đã dấn thân phụng sự. Anh Em phải: 1) tích lũy đầy tràn ân sủng nhờ linh thao thánh là nguyện gẫm; 2) ra sức thực hành các nhân đức thích hợp nhất với bậc sống của Anh Em. Chính bằng những phương tiện nầy mà Anh Em có khả năng chu toàn bổn phận của Anh Em. Bởi vì Anh Em chỉ có thể làm tròn bổn phận mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi Anh Em trong mức độ Anh Em trở nên trung tín và chuyên cần nguyện gẫm. Chính nhờ nguyện gẫm mà “Thần Khí sẽ ngự đến và dẫn Anh Em đến sự thật toàn vẹn”, như Đức Giêsu Kitô đã dạy các tông đồ của Người, những chân lý của Giáo lý và những châm ngôn Kitô giáo, mà Anh Em phải biết và thực hành cách thật trọn hảo, vì Anh Em có bổn phận truyền lại cho người khác.
Điểm 3. Bằng sự thánh thiện của mình, Đức Maria chuẩn bị trở thành Mẹ Thiên Chúa.
Kết quả của việc Đức Trinh Nữ rất thánh ở trong Đền thờ là sự biến đổi lòng Trinh Nữ thành một đền thánh. Đó là lời mà Hội Thánh đã dùng để ca ngợi Trinh Nữ trong ngày thánh nầy, rằng Trinh Nữ là đền thờ của Chúa và là thánh điện của Chúa Thánh Thần. Vì lẽ ấy, Trinh Nữ là thọ tạo duy nhất đẹp lòng Thiên Chúa một cách tuyệt hảo và cao quý đến nỗi sẽ không có một thọ tạo nào khác giống như Trinh Nữ. Vì Trinh Nữ chính là thiếu nữ mà Đức Chúa, theo lời sách Sáng Thế (3,15), đã chuẩn bị cho con của Người, và vì theo lời một ngôn sứ, “ngày của Đức Chúa đến gần” (x. Ed 12,23) nên Người đã chuẩn bị Trinh Nữ trước, biến Trinh Nữ thành một lễ phẩm thánh thiện được thánh hiến cho Người. Vì vậy mà, theo sách Khải Huyền, Trinh Nữ “trốn vào sa mạc” (Kh 12,6), nghĩa là vào trong Đền thờ, là nơi cách ly khỏi những liên hệ với con người, nơi mà Trinh Nữ tìm được sự tĩnh mịch mà Thiên Chúa đã định cho Trinh Nữ. Vì Con Thiên Chúa phải chọn Trinh Nữ làm nơi lưu ngụ cho mình, thì việc Trinh Nữ không chuyện vãn với người phàm ngoài đời là điều rất hợp lý; mọi cuộc chuyện vãn đều ở trong Đền thờ của Đức Chúa; thậm chí Trinh Nữ thường chuyện vãn với các Thiên Thần hơn là với các bạn đồng môn của mình, để trở nên xứng đáng được một thiên sứ của Thiên Chúa bái chào.
Hôm nay Anh Em hãy tôn vinh Đức Trinh Nữ rất thánh như là Nhà Tạm và Đền thờ sống mà chính Thiên Chúa đã xây dựng cho Người, và tự tay Thiên Chúa tô điểm. Anh Em hãy nguyện xin Trinh Nữ cầu thay nguyện giúp cho Anh Em được hồng ân là linh hồn Anh Em được trang điểm xinh đẹp, và sẵn sàng đón nhận Lời Chúa để truyền đạt lại cho người khác, đến nỗi Anh Em trở thành những nhà tạm của Ngôi Lời Thiên Chúa, nhờ lời Trinh Nữ chuyển cầu.
Bó hoa thiêng liêng:
“Cuộc đời Đức Maria có thể làm gương mẫu cho mọi người” (Thánh Amrôsiô)
SUY NIỆM 3: Vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời
William Barlay, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng người Anh đề nghị sửa một dấu trong Kinh "Lạy Cha" như sau: Giữa những câu "chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến" và câu "ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" thay vì dấu phết hay dấu chấm phết nên dùng dấu hai chấm, để nêu bật ý nghĩa: Nếu chúng ta vâng theo ý Chúa dưới đất ý Chúa được vâng phục trên trời thì chúng ta sẽ làm cho: danh Chúa cả sáng và Nước Chúa được thống trị mọi nơi.
Ðề nghị trên nhằm mục đích nhấn mạnh sứ mệnh xây dựng Nước Trời giữa lòng xã hội trần thế bằng cách hoàn toàn vâng theo ý Chúa của các tín hữu Kitô.
Bởi lẽ đây là một trong những nội dung quan trọng nhất của sứ điệp Chúa Giêsu rao giảng và cũng là mẫu gương nổi bật nhất trong cuộc đời của Ngài.
"Ai vâng theo ý Cha Ta ở trên trời thì kẻ ấy là anh em Ta, là chị em Ta và là Mẹ Ta".
Tuyên bố câu này, Chúa Giêsu không có ý khước từ mối dây liên lạc và tình mẫu tử giữa Ngài với Ðức Maria. Nhưng Ngài muốn nêu bật một thực tại: Ðức Maria đã trở nên Mẹ Ngài qua câu trả lời: "Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền" và trong suốt cuộc đời, Ðức Maria đã trung tín giữ trọn lời thưa xin vâng này đến giây phút đứng dưới chân thập giá.
Mừng Lễ Ðức Mẹ dâng mình vào đền thánh, không gì chúng ta có thể làm đẹp lòng Mẹ hơn là học cùng Mẹ để bập bẹ thưa: "Xin vâng!".
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – R. Veritas)
SUY NIỆM 4: Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ
Mẹ Maria đã thực hiện tập tục, truyền thống của người Do Thái là dâng hiến tuổi thơ mình cho Thiên Chúa Giavê trong đền thánh. Đây là tục lệ của người Do Thái là bất cứ trẻ nhỏ nào cũng được dâng vào đền thánh để được thánh hiến và sau đó sẽ ở lại đền thờ một thời gian để giúp việc và phục vụ các vị chủ tế. Mẹ Maria đã tuân theo truyền thống của người Do Thái.
Một con người được dâng hiến cho Thiên Chúa Giavê
Mẹ Maria đã được thánh Gioankim và thánh Anna đem dâng cho Thiên Chúa trong đền thánh Giêrusalem, để cuộc đời của Người được thánh hiến. Chính giây phút cha mẹ của Đức Trinh Nữ Maria đem con mình là Maria vào đền thánh Giêrusalem để được Thiên Chúa thánh hiến. Maria đã hoàn toàn thuộc trọn về Chúa. Mẹ đã được Thiên chúa chuẩn bị để lãnh nhận sứ mạng hết sức cao cả là trở thành Mẹ Đức Giêsu Kitô. Giây phút ấy trở thành hồng phúc vì chính Thiên Chúa đã biến cuộc đời của mẹ trở nên tinh ròng, vẹn tuyền khiến cung lòng của mẹ là đền thờ cho Đức Giêsu Kitô ngự trị. Nơi đền thánh Giêrusalem, mẹ Maria đã thực hành biết bao hy sinh, biết bao cố gắng, biết bao gian khổ với một tâm hồn quảng đại, với con tim nhạy cảm, với con mắt yêu thương. Một quá trình xuyên suốt sống trong đền thánh, mẹ Maria đã thực hành biết bao nhiêu nhân đức, những nhân đức anh hùng trổi vượt nhất đã biến mẹ nên con người hoàn hảo nhất để dọn đường, dọn chức vụ mẹ Thiên Chúa của Đức trinh nữ Maria. Mẹ âm thầm cầu nguyện, kết hiệp với Chúa, làm việc nội trợ, chân tay, rồi cầu nguyện, suy gẫm lời Chúa. Đó là chương trình sống của mẹ trong ngày. Sự hy sinh, từ bỏ, kiên nhẫn đã thanh luyện mẹ và nhờ được thanh luyện mẹ trở nên ngôi đền thiêng liêng, xứng đáng cho con một Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô đến cư ngụ.
Dâng hiến Mẹ vào đền thánh là mở đầu nhân đức tinh khiết của đời tận hiến
Mẹ Maria được dâng hiến trong đền thánh là bước đầu khai mở cuộc đời tận hiến, dẫn tới đức khiết tịnh Kitô giáo. Mẹ Maria đã biến cuộc đời mình, đã biến cái tinh hoa cao quí nhất của cuộc đời mình làm cái phúc. Chính cái phúc là con đường hướng mẹ Maria tới việc vâng phục ý Thiên Chúa. Mẹ chấp nhận tất cả với tâm hồn rộng mở, tâm hồn quảng đại, quả cảm. Mẹ là mẫu gương tuyệt vời để nhiều người noi theo. Tình yêu của mẹ đã biến đổi cái nhìn của con người. Nhờ tình yêu thanh luyện của mẹ đã có nhiều trinh nữ hiến trọn cuộc đời mình cho Thiên chúa trong cuộc đời tận hiến. Chính tình yêu mẫu tử của mẹ đã xóa nhòa mọi nỗi cay đắng khổ đau, để muôn đời mẹ vẫn là mẫu gương sáng chói, là Đấng bảo trợ nhiệt thành và là Đấng hướng dẫn con người, Đấng soi chiếu mọi người trên con đường tận hiến.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con nhận ra con người chúng con để chúng con chỉ có một điều là hiến trọn thân cho Thiên Chúa.
(Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
SUY NIỆM 5: Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh
1. Cuộc đời có định hướng và hướng về Thiên Chúa của Đức Maria
Theo truyền thống của Giáo Hội, khi còn thanh xuân, Đức Ma-ri-a đã có ý hướng dâng trọn cả cuộc đời mình để phụng sự Thiên Chúa đặc biệt trong bậc sống độc thân và đồng trinh. Nghĩa là Mẹ muốn dâng trọn cả hồn và xác cho Thiên Chúa, để hoàn toàn tự do hầu tuân hành thánh ý Chúa một cách trọn vẹn. Mẹ muốn trở nên dụng cụ ngoan ngùy trong tay Thiên Chúa, để Ngài muốn sử dụng mình thế nào tùy ý Ngài. Như thế Mẹ Ma-ri-a đã chọn Thiên Chúa làm lẽ sống, làm chủ cuộc đời mình, dâng trọn tình yêu và trái tim cho Ngài. Chính trong ý hướng đó, Thiên Chúa chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
2. Cuộc đời người Ki-tô hữu cũng cần được định hướng và hướng về Thiên Chúa
Một người ra khỏi nhà mà không định hướng mình đi đâu, thì sẽ chẳng đi đến đâu. Một con thuyền không có định hướng sẽ bị sóng gió đưa đẩy và cuối cùng có thể bị nước cuốn chìm. Cũng vậy, muốn nên thánh hay muốn trở nên một Ki-tô hữu đúng nghĩa, người Ki-tô hữu cũng cần định hướng rõ rệt cuộc đời mình. Người Ki-tô hữu đích thực phải là người thuộc về Đức Ki-tô, hay thuộc về Thiên Chúa, nói khác đi, phải là người của Đức Ki-tô hay của Thiên Chúa. Vì thế, họ cần xác định điều đó một lần dứt khoát cho cả cuộc đời mình. Nghĩa là họ cần dâng lại trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa hay Đức Ki-tô, để từ đó về sau, họ thuộc trọn về Chúa, và chỉ làm những gì Chúa muốn. Một cuộc đời như thế chắc chắn sẽ hạnh phúc, không chỉ đời sau mà ngay cuộc đời này, bất chấp hoàn cảnh bên ngoài dễ dàng hay khó khăn.
3. Người Ki-tô hữu là người thực thi thánh ý Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã xác định người thân của mình là người thế nào: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? (…) Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Nói cách khác, đó cũng là định nghĩa chính xác nhất của người Ki-tô hữu, của người môn đệ Đức Giêsu. Đức Giêsu không hề định nghĩa người thân của mình, môn đệ của mình, người theo mình, hay người Ki-tô hữu là người đã được rửa tội, hay được ghi danh là người Công giáo, hay có tên trong danh sách thành viên một xứ đạo. Theo Ngài, người Ki-tô hữu đích thực là người biết quan tâm thực hành ý muốn của Thiên Chúa. Ngược lại, nếu không quan tâm đến việc thi hành ý muốn của Ngài, thì dù ta có mang danh là Ki-tô hữu, ta cũng chỉ là thứ Ki-tô hữu “hữu danh vô thực” mà thôi.
4. Hãy dâng mình cho Thiên Chúa từ tuổi thanh xuân
Nếu có ai tặng cho bạn một bông hồng thật đẹp nhưng đã đến lúc héo tàn, bạn sẽ không muốn nhận, hoặc nhận mà không vui. Bạn sẽ có cảm tưởng: người tặng bạn bông hồng ấy coi thường bạn lắm. Cũng vậy, nếu bạn dành tuổi thanh xuân để hưởng thụ cuộc đời, và chỉ dành cho Thiên Chúa phần còn lại của cuộc đời là tuổi già, thì bạn đã đối xử với Thiên Chúa chẳng khác gì người tặng bạn bông hồng đã héo tàn!
Nhân ngày Đức Mẹ dâng mình vào đền thờ, bạn cũng hãy bắt chước Mẹ dâng mình cho Thiên Chúa, để toàn cuộc đời bạn chỉ lo thi hành thánh ý Thiên Chúa mà thôi. Đó là cách bạn làm cho cuộc đời bạn nên tốt đẹp cả đời này lẫn đời sau.
JNK
Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp
- Viết bởi RC
Thứ Năm Tuần XXXII Mùa Thường Niên Năm A
"Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi".
Lời Chúa: Lc 19, 41-44
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: "Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp luỹ bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".
Suy Niệm 1: Giờ Chúa viếng thăm
Nhìn trong văn mạch, biến cố được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay, đi liền sau biến cố Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Nhưng không như bao lần khác, Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem lần cuối cùng này để thực hiện cuộc Vượt Qua đem lại ơn cứu rỗi, hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với nhau. Ðây là giờ Thiên Chúa viếng thăm, giờ mang đến ơn cứu rỗi, tuy nhiên, những vị lãnh đạo Do thái tại Giêrusalem, như chúng ta sẽ thấy trong cuộc khổ nạn của Chúa, họ không những từ chối, mà còn xách động dân chúng chối bỏ Chúa, yêu cầu quan Philatô ra lệnh đóng đinh Chúa vào Thập giá và tha Baraba cho họ. Như thế, dù có sự nồng nhiệt hoan hô Chúa khi Ngài cỡi trên lưng lừa tiến vào thành thánh, thì sự nồng nhiệt đó cũng chỉ là thoáng qua, và Chúa Giêsu nhận thấy ơn cứu rỗi mà Ngài mang đến bị con người khước từ hơn là đón nhận.
Ðiều xẩy ra cho thành Giêrusalem cũng có thể xẩy đến cho mỗi người ở mọi thời: mỗi người đều có những giây phút hồng phúc được Chúa viếng thăm đem đến ơn lành. Theo quan niệm Kinh Thánh, giây phút Thiên Chúa viếng thăm là giây phút Ngài thực hiện lòng nhân từ. Thánh Luca đã nhấn mạnh ý nghĩa này trong hai bài thánh ca ở đầu sách Tin Mừng của Ngài, đó là bài ca của ông Dacaria và của Ðức Maria. Trong bài ca chúc tụng của mình, Dacaria đã nêu bật lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa: chính vì lòng nhân nghĩa mà "Thái dương từ cao xanh khấng viếng thăm ta". Còn về phần mình, ý thức giờ Thiên Chúa viếng thăm đang xẩy ra không những cho bản thân, mà còn cho cả dân tộc và toàn thể nhân loại, Ðức Maria đã nhận định về ý nghĩa sâu xa của việc Thiên Chúa viếng thăm: "Lòng nhân nghĩa của Người suốt đời nọ đến đời kia, trên những kẻ kính sợ Người". Chỉ có một lý do cho cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, đó là thể hiện lòng nhân nghĩa đối với những người được Ngài viếng thăm. Do đó, nếu không đón nhận giờ Chúa viếng thăm, con người không những gây thiệt hại cho chính mình, mà còn cho cả người khác nữa.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết lắng nghe tiếng Chúa cảnh tỉnh, đồng thời biết mở rộng tâm hồn đón nhận những giây phút ân sủng của Chúa để được sống an vui hạnh phúc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Khóc thương thành Giêrusalem
Ðoạn Phúc Âm được Giáo Hội đề nghị cho chúng ta suy niệm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu khóc thương thành Giêrusalem vì đã không biết nhìn nhận giờ Thiên Chúa đến viếng thăm. Nhìn chung trong toàn bộ văn mạch thì biến cố được nhắc đến trong Phúc Âm đi liền sau biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Và đây không phải là lần vào thành thông thường như bao lần khác, mà là lần vào thành long trọng, lần cuối cùng, để rồi sau đó Chúa thực hiện công cuộc cứu rỗi, mục đích cuối cùng của nhập thể, của cuộc đời của Chúa.
Chúa vào thành Giêrusalem để thực hiện cuộc vượt qua mang lại ơn cứu rỗi, sự hòa giải giữa con người với Thiên Chúa. Ðây là giờ Thiên Chúa đến viếng thăm, giờ mang đến ơn cứu rỗi, sự bình an. Tuy nhiên, những người lãnh đạo dân Israel tại Giêrusalem như chúng ta thấy trong cuộc thương khó của Chúa, không những họ từ chối mà còn thành công trong việc xách động toàn dân chối bỏ Chúa, yêu cầu quan Philatô ra lệnh đóng đinh Chúa vào thập giá và tha cho Baraba. Như thế, dù có sự nồng nhiệt hoan hô Chúa trong ngày vào thành Giêrusalem trên lưng lừa, nhưng sự nồng nhiệt này chỉ thoáng qua và Chúa Giêsu nhìn thấy sự khước từ ơn cứu rỗi mà Ngài mang đến hơn là sự chấp nhận.
Ðiều xảy ra cho thành Giêrusalem cũng có thể xảy ra cho mọi người thuộc mọi thời đại. Mỗi người chúng ta đền có giây phút Chúa đến viếng thăm, đó là giây phút hồng phúc mang đến ơn lành, ơn cứu rỗi và sự bình an. "Ước chi hôm nay, ngươi hiểu biết sứ điệp mang hòa bình lại cho ngươi". Nhưng Chúa không bắt buộc tự do của mỗi người, sự tự do mà Ngài đã trao ban cho con người một lần vĩnh viễn, không bao giờ muốn lấy lại. Dù biết rằng con người vẫn có thể lạm dụng sự tự do đó để chống lại Ngài.
Trong quan niệm Kinh Thánh, giây phút Thiên Chúa đến thăm là giây phút Thiên Chúa đến thực hiện lòng nhân từ, trao ban sự bình an cho tâm hồn. Tác giả Phúc Âm theo thánh Luca đã nhấn mạnh ý nghĩa này trong hai bài ca quan trọng vào khởi đầu sách Phúc Âm, đó là bài ca về ông Dacaria và của Mẹ Maria. Ý thức giờ Thiên Chúa đến viếng thăm đang xảy ra không những cho chính bản thân mình, mà còn cho cả toàn dân tộc, cho cả toàn nhân loại, Mẹ Maria đã nhận định về ý nghĩa sâu xa của cuộc viếng thăm của Thiên Chúa với những lời như sau: "Lòng thương xót Chúa lan tràn từ đời này tới đời kia, đối với những ai kính sợ Chúa. Chúa đã cứu Israel, tôi tớ Chúa và nhớ lại lòng thương xót của Người".
Chỉ có lý do duy nhất cho cuộc viếng thăm của Chúa, đó là để thực hiện lòng nhân từ của Ngài cho người được viếng thăm mà thôi. Nếu không nhận biết giờ viếng thăm của Chúa, con người chỉ gặp phải những thiệt thòi cho chính mình, như đã xảy ra cho thành Giêrusalem ngày xưa. Chúng ta không nên nhìn biến cố Chúa khóc thương và loan báo ngày sụp đổ của thành Giêrusalem trong viễn tượng của sự trả thù. Thiên Chúa nhân từ không bao giờ hành động để trả thù sự chống đối khước từ của con người. Những thiệt thòi mà kẻ từ chối Chúa gặp phải là hậu quả tai hại của tội lỗi, của những hành động xấu xa do con người thực hiện vì chối bỏ Thiên Chúa mà thôi. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ mặc con người trong sự dữ, nhưng Ngài luôn luôn làm những gì có thể để cảnh tỉnh, để lưu ý con người đừng đi vào con đường nguy hiểm, gây thiệt hại cho chính mình.
Ước chi hôm nay chúng ta lắng nghe tiếng Chúa cảnh tỉnh và đừng cứng lòng từ chối giây phút ân sủng nơi Thiên Chúa an bài cho mỗi người chúng ta được gặp lại.
Lạy Chúa,
Chúng con cảm tạ Chúa vì đã luôn luôn đối xử nhân từ đại lượng với chúng con, mặc dù chúng con nhiều lần làm ngơ, không muốn nhìn thấy những việc Chúa làm cho chúng con, không muốn lắng nghe những gì Chúa chỉ dạy để được sống an vui, hạnh phúc. Xin thương giúp chúng con trở về sống trong tình thương Chúa luôn mãi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Thương tiếc Giêrusalem
Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Đức Giêsu khóc thương mà nói: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình anh cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không trông thấy được. Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp lũy chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tứ bề.” (Lc. 19, 41-42)
Đoàn hành hương theo Đức Giêsu tiến về Giêrusalem vừa đi vừa hát những Thánh vịnh lên đền thánh. Họ dừng lại với Người chiêm ngưỡng thành thánh. Họ xúc động khi hát Thánh vịnh 122: “Hãy xin bình an cho Giêrusalem; ước gì bình an trong thành lũy ngươi”. Còn Đức Giêsu lại khóc thương thành.
Những âm mưu
Từ nhiều thế kỷ, các ngôn sứ đã loan báo cho dân thành Giê-ru-sa-lem biết thành sẽ có ngày bị phá hủy, nếu họ không sám hối trở về. “Khốn cho quân loạn tặc, cho đứa ô nhơ, cho thành áp bức! Nó không nghe tiếng gọi. Nó không lĩnh lời chỉ giáo. Nó không cậy trông Gia-vê. Nó không lại gần Thiên Chúa của nó” (Sôphônia 3, 1-2). Quân Can-đê đã phá hủy thành và bắt dân đi lưu đầy, thế mà họ vẫn cứng đầu cứng cổ, không lay chuyển, Đức Giêsu đến kêu gọi họ lần cuối cùng trở về với tình yêu Thiên Chúa.
Đức Giêsu biết dân thành Giêrusalem đã quyết định bắt Người chịu nạn chịu chết. Tôn trọng tự do của họ, Người bất lực cứu thoát thành thánh khỏi bị tàn phá. Họ thật cứng đầu cố chấp. Với tình yêu tha thiết với họ, Đức Giêsu đã khóc, Người khóc vì yêu thương đoàn chiên này cố chấp lầm lạc. Trong khi đoàn hành hương ca hát chúc mừng thành được bình an, thì Đức Giêsu khóc than lòng kiêu ngạo và thỏa mãn của họ đã đóng kín con mắt những thủ lãnh dân chúng: Họ không bao giờ còn được thấy hòa bình nữa!
Lời tiên tri về phá hủy thành Giêrusalem dựa trên những chi tiết bao vây và công phá Giê-ru-sa-lem vào năm 70. Chắc hẳn lời tiên báo của Đức Giêsu cũng tương tựa như thế về thành bị phá hủy, “vì ngươi đã không nhận biết thời giờ Thiên Chúa viếng thăm”. Chính Thiên Chúa đến viếng thăm Giê-ru-sa-lem qua con người của Đức Giêsu, và Người đã ban cho họ ơn giải thoát, ơn bình an và thăng tiến họ. Nhưng họ đã từ chối những ơn ban nguồn phúc cứu độ ấy. Lại còn giết người con của vua trời đất. Họ sẽ gặt lấy hoa trái của lòng bất trung của họ. Cuộc phán xét trong cơn lôi đình của Thiên Chúa không thể hãm lại được nữa. Đức Giêsu khóc vì Thiên Chúa không muốn người ta phải chết. Ước chi họ ăn năn sám hối và được sống.
RC
Sao ngươi không gửi bạc ở ngân hàng
- Viết bởi RC
Thứ Tư Tuần XXXIII Mùa Thường Niên Năm A
"Sao ngươi không gửi bạc Ta ở ngân hàng".
Lời Chúa: Lc 19, 11-28
Khi ấy, Chúa Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa, vì Người đã đến gần Giêrusalem, mà dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong giây lát. Vậy Người phán rằng: "Có người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về. Ông cho gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng: "Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về". Nhưng các người dân của ông ấy ghét ông, sai người đi theo mà rằng: "Chúng tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi". Ðược phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu. "Người thứ nhất đến và thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được mười nén". Nhà vua bảo: "Ðược, hỡi người tôi tớ tốt lành, ngươi đã trung tín trong điều nhỏ mọn, ngươi sẽ được quyền cai trị mười thành". Người thứ hai đến thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được năm nén". Nhà vua đáp: "Ngươi cũng vậy, hãy cai quản năm thành". "Người thứ ba đến thưa: "Tâu vua, đây nén bạc của vua, tôi còn giữ trong khăn, vì tôi sợ ngài: ngài là người hà khắc, và lấy cái ngài không gửi, gặt cái ngài không gieo". Vua phán rằng: "Hỡi đầy tớ bất lương, ta cứ lời ngươi mà xử ngươi. Ngươi đã biết ta là người hà khắc, lấy cái ta không gửi, gặt cái ta không gieo, sao ngươi không gửi bạc ta ở ngân hàng, để rồi khi ta trở về, ta có thể lấy cả vốn lẫn lời".
"Vua liền bảo những người đứng đó rằng: "Hãy lấy nén bạc của nó mà trao cho người đã có mười nén". Họ tâu rằng: "Tâu vua, người ấy đã có mười nén rồi". Vua đáp: "Ta nói cùng các ngươi: Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư dật; còn ai không có, người ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có. Còn những kẻ nghịch cùng ta, không muốn ta làm vua, hãy đem chúng ra đây và giết chúng trước mặt ta". Nói thế rồi Chúa liền dẫn họ lên Giêrusalem.
Suy Niệm 1: Tỉnh thức chờ Chúa
Cộng đoàn tín hữu Thessalonica sống trong niềm thao thức việc Chúa sắp trở lại đến độ một số người trong họ không còn muốn dấn thân làm việc nữa. Thái độ lệch lạc này không phù hợp với lời dạy của Chúa Giêsu là sống tỉnh thức chờ đợi ngày Chúa trở lại trong vinh quang. Cần phải có thái độ tỉnh thức được thể hiện bằng những việc làm tốt, chứ không phải một thái độ canh chừng thụ động. Thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Thessalonica: "Chúng tôi cầu xin Thiên Chúa cho anh em được sống xứng đáng với ơn gọi, xin Ngài dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin... Còn về ngày Chúa Giêsu Kitô quang lâm và tập hợp chúng ta về với Ngài, tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mạc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần giao động, cũng đừng hoảng sợ. Ðừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào" (2Tx 1,11; 2,1-2)
Ðó là những lời khuyên cụ thể của thánh Phaolô cho tín hữu Thessalonica đang mong chờ lần trở lại của Chúa Giêsu, và những lời đó diễn đạt những lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay: "Hãy làm lợi thêm những nén bạc được giao phó, chứ đừng đem chôn dấu nó".
Dụ ngôn nén bạc mời gọi mỗi người chúng ta ý thức trách nhiệm với tư cách là người có niềm tin. Ðức tin không là nén bạc để được cất giữ, nhưng phải được đầu tư để phát triển, sinh lợi. "Một đức tin không có việc làm là đức tin chết". Nếu chúng ta chỉ đóng khung cuộc sống đạo trong bốn bức tường nhà thờ, nếu chúng ta chỉ giản lược đức tin vào những biểu dương bên ngoài, nếu đức tin chỉ là một mớ những giáo điều phải tin, những điều răn phải giữ, thì quả thực chúng ta đang chôn chặt đức tin như gia nhân đã chôn nén bạc mà chủ đã trao: chúng ta có giữ đạo, nhưng chưa thực sự sống đạo.
Cuộc đầu tư nào cũng bao hàm những bất tất, rủi ro; một đức tin sống động cũng hàm chứa nhiều hy sinh, mất mát. Nhưng chúng ta tin rằng chính lúc chúng ta mất mát là lúc chúng ta được lợi lộc, chính lúc chúng ta quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc chết đi là khi được vui sống. Ðó phải là bài trường ca trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa vì hồng ân đức tin chúng ta đã lãnh nhận. Xin Chúa ban thêm can đảm, để đức tin của chúng ta thực sự được đầu tư trong từng giây phút của cuộc sống, để đáng được phần thưởng Chúa ban trong ngày Ngài trở lại vinh quang.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Những nén bạc
Cộng đoàn tín hữu Thexalonica sống trong niềm thao thức Chúa sắp trở lại đến độ một số người trong họ không còn muốn dấn thân làm việc bổn phận nữa. Thái độ lệch lạc này không phù hợp với lời dạy của Chúa Giêsu về thái độ sống tỉnh thức canh chừng chờ ngày Chúa trở lại trong vinh quang. Cần có một thái độ thức tỉnh canh chừng tích cực được thể hiện trong các việc làm tốt, chứ không phải một thái độ canh chừng thụ động khoanh tay ngồi yên chờ đợi. Thánh Phaolô đã trách thái độ sống lệch lạc của một số tín hữu Thexalonica trong khi chờ đợi ngày Chúa đến với những lời như sau:
"Chúng tôi hằng cầu xin Chúa cho anh chị em được sống xứng đáng với ơn kêu gọi của anh chị em, được thực hiện đầy đủ mọi quyết định tốt lành và được can đảm hoạt động theo đức tin. Thưa anh chị em, về việc Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tái hiện thì tôi xin anh chị em đừng vội bối rối, đừng quá lo sợ vì một vài lời tiên tri giả mạo hay vì một câu, một bức thư, tự xưng là của chúng tôi, mà cho là ngày của Chúa đã gần tới. Vậy, thưa anh chị em, anh chị em hãy vững tâm, hãy giữ các điều anh chị em đã học biết bởi lời giảng dạy hay bởi thư từ của chúng tôi. Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và nguyện xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, nâng đỡ tâm hồn anh chị em, để anh chị em quyết chí làm mọi việc và nói mọi lời cách hoàn hảo. Thưa anh chị em, nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, chúng tôi khuyên anh chị em hãy lánh xa những tín hữu lười biếng và không tuân giữ các điều mà anh chị em đã học biết bởi chúng tôi".
Ðó là những lời khuyên cụ thể của thánh Phaolô tông đồ cho cộng đoàn tín hữu Thexalonica nơi thư thứ hai Thexalonica chương 1. Cộng đoàn tín hữu này đang mong chờ Chúa ngự đến lần thứ hai. Những lời đó diễn đạt một cách cụ thể lời dạy của Chúa Giêsu hãy làm lợi thêm những nén bạc Chúa ban cho, chứ đừng làm biếng chôn giấu nó như được trình bày trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay.
Nội dung giáo lý Chúa Giêsu muốn dạy các đồ đệ của Ngài qua bài dụ ngôn trên khá rõ. Cần phải làm lợi nén bạc Chúa ban cho trong khi chờ đợi ngày Chúa ngự đến lần thứ hai để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Và dù có làm lợi thêm những điều tốt đẹp mới, người đồ đệ của Chúa không nên vì đó mà tự kiêu. Chúng ta tất cả chỉ là những đầy tớ vô dụng của Thiên Chúa mà thôi. Tất cả những gì chúng ta có đều đến từ lòng quảng đại của Ngài và Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài như những người con hiếu thảo.
Lạy Chúa,
Chúng con cảm tạ Chúa vì đã tin tưởng vào chúng con, trao ban cho chúng con những nén bạc để làm lợi thêm. Xin Chúa thương mở mắt chúng con cho chúng con nhìn thấy những thiếu sót, những sự tầm thường của mình để canh tân và dấn thân lại trên con đường phục vụ Chúa và anh chị em chung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Nén bạc sinh lời
Vậy Người nói: “Có một người quý tộc kia trẩy đi phương xa lãnh nhận vương quyền, rồi trở về. Ông gọi mười người trong các tôi tớ của ông đến, phát cho họ mười yến bạc và nói với họ: “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến.” (Lc. 19, 12-13)
Trước khi long trọng vào thành Giêrusalem, Đức Giêsu lưu ý các môn đệ về thời kỳ đăng quang cuối cùng. Tiếp đến thời kỳ Giáo hội được trao phó cho các ông để chịu thử thách.
Một lần nữa, Đức Giêsu kể một sự kiện nổi tiếng được mọi người đã biết, nó xảy ra hai năm sau ngày Người sinh ra: Đó là hành trình của quận vương A-kê-lau tới thăm Rô-ma để được chuẩn y thăng chức làm vua xứ Giu-đa. Một phái đoàn năm mươi người Do thái phản đối sự phong vương này. Và khi A-kê-lau trở về đã trả thù những người Do thái chống đối. Lần này, chính Đức Giêsu đến đương đầu với sự chống đối của người Do thái, họ không muốn nhận vương quyền của Người.
Trong khi vắng mặt, Đức Giêsu đã trao sự nghiệp của Người cho các đầy tớ, cho Giáo hội của Người. Sản nghiệp Người trao cho các ông, chỉ là một vật rất nhỏ. Các ông phải làm cho sinh lời. Các đầy tớ của Đức Giêsu đều phải được thử thách như thế để chứng tỏ lòng trung thành và sự kiên trì trong suốt thời gian bấp bênh. Các ông có là những quản lý trung tín và khôn ngoan rao giảng Lời Thiên Chúa không?
Khi Đức Giêsu trở về, Người kêu tính sổ, những đầy tớ không nói tới việc họ đã làm, nhưng nói về sản nghiệp được trao cho họ làm sinh lời, vì lời Người đã được rao giảng và vẫn sống động. Lời Người đã sinh hoa kết quả tùy theo sự cảm nhận và khôn khéo của các đầy tớ. Lòng trung tín trong các việc nhỏ được ghi công và được lãnh phần Nước Trời.
Kẻ lười biếng mất hết quyền lợi
Kẻ chỉ tìm yên thân, không làm gì. Nó chê trách chủ thu nơi không phát nên nó đem đi chôn, những người biệt phái cũng thế, họ canh giữ lề luật bắt người ta kính trọng lề luật để bảo vệ luật lệ được nguyên vẹn, làm cho lề luật khô héo ứ đọng, chết cứng, nên họ bị tước mất cả cái họ có. Sự mong đợi ngày quang lâm của Chúa kêu gọi hành động, chứ không phải bất động chờ đợi, ngập lòng sợ hãi.
Hình phạt của vua chống lại kẻ thù cho thấy sự khủng khiếp trong ngày phán xét chống lại sự nổi loạn của Ít-ra-en và chắc hẳn nhắm tới cảnh thiêu hủy của thành Giê-ru-sa-lem mà Đức Giêsu đã loan báo nhiều lần trước khi Người chết. Nhưng hình phạt cũng áp dụng cho những người từ chối đón nhận nước Chúa. Họ tự kết án mình phải hư mất.
RC
Giakêu, một con lừa chui qua lỗ kim
- Viết bởi RC
Thứ Ba Tuần XXXIII Mùa Thường Niên Năm A
"Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Lời Chúa: Lc 19, 1-10
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó. Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi". Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn". Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điễu gì đã hư mất".
Suy Niệm 1: Hoán cải đích thực
Gặp gỡ Chúa Giêsu là một biến cố hồng phúc cho con người, nếu người đó không lo sợ hoặc tránh né cuộc gặp gỡ này.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Chúng ta có thể ghi nhận hai thái độ trong cuộc gặp gỡ này. Trước hết là thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dễ kẻ khác, không muốn cho kẻ khác đến gặp Chúa và nhận lãnh ơn lành của Chúa. Ðó là thái độ của những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đã niềm nở đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với họ, bởi vì đối với Chúa không có ai xấu xa tội lỗi đến độ không đáng được hưởng lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Liệu chúng ta có thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính và khinh dễ người khác không?
Thái độ thứ hai là thái độ của ông Giakêu, người thu thuế trưởng và giầu có. Ðối với người Do thái, người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai: đó là tội phản bội quê hương cộng tác với ngoại bang, và tội gian lận tiền thuế quá mức qui định. Giakêu là người thu thuế trưởng và giầu có, sự giầu có này theo lý luận của người Do thái, chứng tỏ ông có những hành vi bất chính để làm giầu: thu nhiều, nộp ít, và như vậy ông là một người tội lỗi. Ðối với người đồng hương với Giakêu, thì tội của ông không thể tha thứ được; nhưng đối với Chúa Giêsu, Ðấng đến tìm và cứu những gì đã hư mất, thì đây là dịp để thể hiện tình thương nhân từ của Thiên Chúa.
Nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về Chúa: ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi qua, và đây là yếu tố căn bản để được Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại không có khoảng cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu có thể vượt qua khoảng cách này một khi con người đã có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trở về với Chúa. Ông đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một hành động cụ thể thiết thực: phân chia nửa phần tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thể hiện một cách cụ thể sự hoán cải của mình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác với ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Thủ lãnh người thu thuế
Gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô luôn luôn là một biến cố hồng phúc cho con người, nếu người đó không lo sợ hay tránh né cuộc gặp gỡ này với những lý do này, lý do nọ. Hôm qua, chúng ta cùng nhau suy niệm về thái độ khiêm tốn của anh mù ăn xin bên vệ đường gần thành Giêrikhô, nhưng vội vàng nắm lấy vận may khi nghe biết Chúa Giêsu đi ngang qua và chân thành cầu xin: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót con. Xin cho con được nhìn thấy". Và anh đã được nhìn thấy ơn lành của Chúa và ca tụng Ngài.
Hôm nay, Giáo Hội trình bày cho chúng ta một cuộc gặp gỡ khác nữa, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Dakêu, người thu thuế. Cuộc gặp gỡ này đã mang đến cho ông Dakêu ơn ăn năn trở lại và sự an vui trong tâm hồn mà ông hằng mong ước.
Trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Dakêu, chúng ta thấy có hai thái độ:
- Thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dễ kẻ khác, không muốn cho kẻ khác gặp được Chúa, được ơn lành của Ngài và ăn năn trở lại. Ðó là thái độ mà chúng ta nhìn thấy nơi những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đến trú ngụ và chia sẻ tình thân với ông Dakêu qua bữa tiệc: "ông này trú ngụ tại nhà người tội lỗi và là tội lỗi nặng, đã bị cộng đồng chối từ loại bỏ". Thái độ của họ cũng giống như thái độ của những người ngăn trở không cho anh mù ăn xin bên vệ đường đến gặp Chúa Giêsu. Họ ngăn cản anh, bảo anh hãy im đi. Liệu chúng ta có có thái độ giống như vậy hay không?
Chúng ta có thể tự phụ mình là người công chính mà khinh dễ anh chị em chung quanh. Xét đoán anh chị em là kẻ tội lỗi và không đáng gặp Chúa Giêsu, không đáng lãnh nhận ơn lành Ngài ban, không đáng được thông cảm để trở về với Chúa và canh tân đời sống tốt đẹp hơn. Chúng ta có thái độ tự phụ như vậy không? Không ai xấu xa mãi mãi đến độ không đáng hưởng nhận lòng nhân từ và sự tha thứ của Chúa.
- Thái độ thứ hai là thái độ của ông Dakêu, người thu thuế trưởng và giàu có. Hai chi tiết này không nhằm mô tả địa vị xã hội của ông, mà mô tả tình trạng tinh thần của ông. Người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai, tội phản bội quê hương, tội cộng tác với ngoại bang đế quốc Rôma thống trị và tội gian lận tham nhũng tiền thuế, vì người thu thuế có quyền do người Rôma thống trị ban cho là thu thuế cao mà chỉ góp cho chính quyền Rôma theo mức qui định thấp hơn để có thể có lợi cho mình. Ông Dakêu là người thu thuế trưởng và giàu có. Sự giầu có chứng minh là ông đã có hành vi bất chính để làm giàu, đó là thu nhiều nộp ít để làm giàu. Ðối với người đồng hương của ông, hay những kẻ tự phụ cho mình là người công chính mà khinh dễ kẻ khác, ông Dakêu là con người tội lỗi, và tội của ông ta không thể tha thứ được nữa.
Nhưng đối với Chúa Giêsu, Ngài vốn đến là để cứu chữa những gì đã hư mất, thì ông Dakêu lại là nơi để thể hiện tình thương nhân từ của Ngài. Nơi con người tội lỗi Dakêu, còn có một khát vọng hướng về Chúa. Ông chỉ mong ước được nhìn xem Chúa đi qua. Ðây là yếu tố căn bản mà Chúa thi ân cho con người. Từ khao khát gặp được Chúa đến việc ăn năn trở lại, không có khoảng cách không vượt qua được. Chúa Giêsu có thể vượt qua được khoảng cách này một khi con người có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của ông Dakêu có thể khuyến khích chúng ta trên con đường trở về với Chúa. Ông Dakêu đã thể hiện sự trở lại của mình bằng hành động cụ thể, phân phối một nửa của cải cho anh chị em để thể hiện tình liên đới bác ái và đền bù gấp bốn những thiệt hại đã gây ra. Liệu chúng ta có can đảm như vậy hay không?
Lạy Chúa,
Chúng con đã nhiều lần dốc lòng với Chúa sẽ làm điều này, làm việc kia để chứng tỏ đã được trở về với Chúa. Nhưng có thể chúng con không can đảm, không nghiêm chỉnh đủ để làm như ông Dakêu đã làm. Xin cho chúng con đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa. Ơn Chúa mạnh hơn tội lỗi nhưng chúng con phải cộng tác với ơn Chúa.
Lạy Chúa,
Xin thương giúp chúng con trở về với Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Giakêu, một con lừa chui qua lỗ kim
Ông Da-kêu thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo.”Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất. (Lc. 19, 8b-10)
Ông Gia-kêu thân hình thấp bé, đứng đầu những người thâu thuế ở thành Giê-ri-cô, những đoàn người buôn bán từ Ả-rập qua thành đều phải chịu thuế nhập thị. Như thế, ông là người rất giàu, nhưng bị người Do thái khinh chê là hạng người tội lỗi công khai và cộng tác với quân xâm lăng. Tuy nhiên, chính ông là người được Thiên Chúa gửi Thánh Thần đến lôi kéo ông về cùng Đức Giêsu.
Ông “Sếp” trở nên trẻ nhỏ
Các trẻ nhỏ sẵn lòng trèo lên cây cao quá tầm đám đông để xem. Ông Gia-kêu, mặc dầu là “xếp”, địa vị cao và giàu sang đã nên giống trẻ nhỏ. Ông không sợ thiên hạ nhạo cười và hạ nhục. Được tiếng nội tâm thúc đẩy, ông tò mò trèo lên cây nhìn xem Đức Giêsu bất kể ra sao thì sao.
Đức Giêsu vị ngôn sứ tuyệt vời, rất nhạy bén với hành động của Thánh Thần nơi người khác. Người nhìn lên và thấu suốt tận con tim của Gia-kêu. Người gọi tên ông, đó là tiếng gọi của tình yêu. Người ra lệnh cho ông: “Hãy xuống mau đi, vì hôm nay tôi ở lại nhà ông”. Sứ điệp của Đức Giêsu đã kêu gọi ông. Người phải dắt đưa chiên lạc của nhà Ít-ra-en về.
Đoàn hành hương theo Đức Giêsu chẳng hiểu gì sứ điệp của Người. Đức Giêsu vừa tỏ quyền phép của Thiên Chúa chữa người mù được thấy và bây giờ tự mời mình vào ở nhà một người tội lỗi. Vậy Người không thể là Đấng Thiên sai Cứu thế. Người trong sạch không thể đồng cư với kẻ ô uế. Như thế, Đức Giêsu đã nên cớ cho người ta vấp phạm trong suốt cuộc đời cứu thế của Người đúng như ông Si-mê-on nói tiên tri: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm cớ cho nhiều người Ít-ra-en vấp ngã hay được chỗi dậy” (Lc. 2, 34).
Và tự hủy mình đi
Niềm vui đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa để trở về thật chứa chan, Gia-kêu đã vui mừng đón rước Đức Giêsu vào nhà. Ông vui mừng chính thức công bố trở về và hứa bồi thường đầy đủ gấp bốn lần luật buộc, cùng hiến nửa gia tài làm việc bác ái giúp người nghèo. Ơn Chúa đầy tràn, ông đáp lại bằng tấm lòng thiện chí đầy tràn.
Đức Giêsu quay lại phía đám đông giúp họ hiểu rằng Gia-kêu đã tỏ ra xứng đáng là con cháu thật của tổ phụ Áp-ra-ham, có lòng quảng đại đặc biệt, mặc dầu nghề nghiệp ông thuộc lớp người tội lỗi. Đức Giêsu đem ơn cứu độ đến nơi nào biết tiếp đón Người đến ở.
RC
Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi
- Viết bởi RC
Thứ Hai Tuần XXXIII Mùa Thường Niên Năm A
"Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? - Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy".
* Thánh nữ sinh năm 1207. Năm lên mười bốn tuổi, thân phụ là Anrê vua Hunggari đem gả cho Lu-y miền Thu-rin-gi-a. Cả hai sống hạnh phúc được sáu năm, sinh được ba người con trai. Cả hai đều nỗ lực sống lý tưởng của thánh Phanxicô trong bậc gia đình. Năm 1227, Lu-y qua đời, chị đã nghe theo lời mời gọi sống đời nghèo khó, tận tâm phục vụ các bệnh nhân. Vì thế sức khỏe chị sớm hao mòn và chị đã qua đời ở Mác-bua năm 1231.
Lời Chúa: Lc 18, 35-43
Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì đó. Người ta nói cho anh biết có Ðức Giêsu Nazareth đang đi qua. Bấy giờ anh liền kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Những người đi trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người. Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: "Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?" Anh thưa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy". Chúa Giêsu bảo anh: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa.
Suy Niệm 1: Sự mù lòa thiêng liêng
Con người đã được Thiên Chúa sáng tạo đặt vào trong hiện hữu và cuối cùng sẽ trở về cùng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Trong thời gian chờ đợi ngày trở về này, mỗi người chúng ta phải sống như thế nào? Chúng ta hãy đối chiếu cuộc sống chúng ta với Lời Chúa, nhưng không phải chỉ đối chiếu, mà còn cần phải sửa chữa, vứt bỏ những gì không phù hợp với lời dạy của Chúa.
Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người mù thành Giêricô. Ðây không phải là dụ ngôn, mà là biến cố có thật. Chúng ta có thể quan sát hai thái độ thực hành. Trước hết là thái độ của những người cản trở không cho anh mù gặp gỡ Chúa, những người này cho rằng chỉ có họ mới được quyền đi bên cạnh Chúa. Thật ra, trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, trên bình diện thông ban ân sủng, cứu rỗi, con người không thể cậy dựa vào quyền lợi của mình mà đòi hỏi Thiên Chúa. Tất cả đều là ân sủng nhưng không của Thiên Chúa, không ai có quyền dành lại ân sủng đó cho riêng mình.
Thái độ thứ hai chúng ta có thể nhận thấy nơi anh mù. Ý thức thân phận của mình, anh không có gì để khoe khoang hay đòi hỏi, nhất là đòi hỏi Thiên Chúa, mà anh chỉ khiêm tốn cầu xin: "Lạy ông Giêsu, con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi". Sự mù lòa thể xác và nghèo nàn vật chất không phải là một ngăn trở con người gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận ơn lành của Ngài. Từ ơn lành cho thể xác mù lòa: "Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được", anh mù đã tiến thêm một bước quan trọng, như tác giả Luca ghi lại: "Tức khắc anh thấy được và theo Chúa, vừa đi vừa ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa". Anh mù đã sống trọn ơn gọi Kitô của mình; anh đã thực hiện lời Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ Ngài: "Ánh sáng của các con phải chiếu soi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc lành các con làm, mà tôn vinh Cha các con Ðấng ngự trên trời".
Ước gì Lời Chúa hôm nay thức tỉnh và giải thoát chúng ta khỏi sự mù lòa thiêng liêng, để chúng ta luôn bước đi trong ánh sáng của Chúa và chiếu tỏa ánh sáng ấy trước mặt mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Người mù thành Giêrikhô
Giáo Hội sắp kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Giêsu Kitô Vua để nhắc nhở mỗi người chúng ta về sự thật căn bản là Thiên Chúa là khởi đầu và cùng đích của mọi sự, là Alpha và Ômêga. Con người và vũ trụ đã được Thiên Chúa sáng tạo, đặt vào trong hiện hữu và cuối cùng sẽ trở về cùng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Trong thời gian chờ đợi ngày trở về cuối cùng này, mỗi người chúng ta phải sống như thế nào? Trong tuần lễ này, chúng ta hãy đối chiếu cuộc sống cụ thể của mình với lời dạy của Chúa trong Phúc Âm, và không phải chỉ đối chiếu suông mà thôi, mỗi người chúng ta cần sửa chữa, cần dứt bỏ đi những gì không phù hợp với lời dạy của Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ hồng phúc giữa Chúa Giêsu và người mù thành Giêrikhô. Thái độ của anh mù này có thể nêu gương cho mỗi người chúng ta. Ðây không phải là dụ ngôn mà là một biến cố thật sự đã xảy ra, trong đó ta có thể quan sát hai thái độ thực hành.
Thái độ của những người cản trở không cho anh mù đến với Chúa Giêsu, dường như thể chỉ có họ mới có quyền hay đặc quyền theo bên Chúa. Còn người mù ăn xin kia không có phẩm giá, không được kính trọng và không có quyền làm phiền Chúa, không có quyền đi theo Chúa. Ðây là những người độc quyền và muốn giới hạn hành động của Thiên Chúa theo những tiêu chuẩn phàm trần do chính con người đặt ra. Trong mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa trên bình diện của sự thông ban ân sủng cứu rỗi, con người không thể cậy dựa vào quyền lợi của mình mà đòi buộc Thiên Chúa phải làm như thế này hay như thế nọ. Tất cả là ân sủng nhưng không của Thiên Chúa, không ai có quyền giới hạn ân sủng đó cho riêng mình hay trong phạm vi mà mình muốn mà thôi.
Và thái độ thứ hai là thái độ chúng ta quan sát thấy nơi anh mù ngồi ăn xin bên vệ đường gần thành Giêrikhô. Ý thức thân phận của mình, không có gì để khoe khoang hay đòi hỏi, nhất là đòi hỏi Thiên Chúa, anh mù chỉ khiêm tốn kêu xin: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Người ta càng ngăn cản thì anh càng la to hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Sự mù lòa thể xác và nghèo hèn vật chất không phải là một ngăn trở không cho con người gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận ơn lành của Ngài, và từ ơn lành cho thể xác mù lòa: "Lạy Ngài, xin cho con được nhìn thấy". Anh mù đã tiến thêm một bước quan trọng thứ hai là theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa, đến độ những kẻ chung quanh cũng được khuyến khích làm theo như vậy. Tác giả Phúc Âm theo thánh Luca đã chú ý ghi lại chi tiết: "Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa". Ðược Thiên Chúa chữa lành, anh mù được sáng mắt kia đi theo Chúa. Trong Phúc Âm cũng có trường hợp con người được Thiên Chúa làm phép lạ, ban cho ơn lành nhưng rất ít người có phản ứng như anh mù này: "Anh đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa". Anh làm cho nhiều người bị lôi cuốn ca tụng Thiên Chúa như anh vậy. Anh đã sống trọn vẹn điều mà chúng ta có thể diễn tả qua từ ngữ "Sống trọn vẹn ơn gọi Kitô". Theo Chúa, ca tụng Chúa và làm cho anh chị em chung quanh ca tụng Thiên Chúa. Chúng ta nhớ lại lời căn dặn của Chúa Giêsu với các đồ đệ của Ngài như được ghi lại nơi Phúc Âm thánh Mátthêu chương 5,16 như sau: "Ánh sáng của anh em phải chiếu dọi cho mọi người để họ xem thấy việc lành của anh em mà ngợi khen Cha của anh em ở trên trời".
Lạy Chúa,
Người mù thành Giêrikhô thức tỉnh chúng con, những kẻ đã lãnh nhận nhiều ơn lành của Chúa mà lại không biết theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa, đó là sự mù lòa thiêng liêng có thể làm cho con người càng ngày càng sống bội bạc với Chúa.
Lạy Chúa, xin thương giải thoát chúng con khỏi sự mù lòa nguy hiểm này.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Người mù được thấy
Đức Giêsu nói: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh ta đáp: “Lạy Ngài xin cho tôi được thấy.”Đức Giêsu nói: “Anh hãy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” (Lc. 18, 41-42)
Cuối chặng đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu còn loan báo cho các môn đệ về số phận đang chờ đợi Người, nhưng các ông không hiểu gì, mắt các ông còn bị che phủ. Trong số những kẻ ăn xin ở cửa thành Giê-ri-cô, có một người mù, chờ xin đoàn hành hương về dự lễ Vượt qua. Nghe thấy tiếng ồn ào, càng lúc càng gần, người mù biết có gì lạ: “Cái gì vậy?”.
Đôi mắt đức tin
Người ta trả lời cho anh biết đó là Đức Giêsu Na-gia-rét. Đám đông thấy Đức Giêsu làm nhiều việc của Thiên Chúa, nhưng họ vẫn mù về lý lịch của Người. Còn anh mù lại thấy xa hơn họ, Thánh Thần Thiên Chúa đã đem chân lý vào con tim anh và anh tin. “Đức Giêsu, con vua Đa-vít”. Anh biết đó là Giêsu, Đấng Thiên sai Cứu thế, Người phải đến và anh la lớn kêu Người: “Xin thương xót tôi”. Người ta bảo anh câm đi: Anh càng la lớn. Không phải bao giờ cũng gặp được dịp may như thế này: Người được Thiên Chúa sai đến đã viếng thăm dân Ngài!
Đức Giêsu luôn luôn ý thức được hành động của Thánh Thần, Người đã nghe thấy tiếng van xin át cả tiếng ồn ào của đám đông. Người không từ chối biểu lộ là Đấng Thiên sai Cứu thế nữa. Trái lại, Người hành xử vai trò Cứu thế: Người truyền lệnh cho người ta dắt anh mù đến với Người.
Họ thấy quyền phép của Thiên Chúa
Đức Giêsu hỏi anh như thường lệ để trắc nghiệm lòng tin của anh. Người không áp đặt ý muốn của Người bao giờ, nhưng để kẻ khác khởi xướng hỏi xin: “Anh muốn Tôi làm gì cho anh?”, anh đáp: “Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy”. Anh mù kêu Người là Đức Kitô, như các Kitô hữu thời sơ khai đã hát: “Mọi miệng lưỡi tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa trong vinh quang Thiên Chúa Cha”.
Câu trả lời của Đức Giêsu tất nhiên cũng như mọi khi: “Anh hãy thấy đi, lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Người đến cho những mù thấy được, người què đi được, người câm nói được, người điếc nghe được và người chết sống lại.
Lập tức anh thấy được và đi theo Người để cảm tạ Thiên Chúa đã tỏ bày quyền năng của Ngài, và đám đông cùng hòa đồng với anh hát Thánh vịnh ca ngợi Thiên Chúa. Đó là một dấu chỉ về Giáo hội tiến bước theo Đức Kitô để tôn vinh Thiên Chúa Cha.
RC