Gương Thánh Nhân
Ngày 08/11 Chân Phước John Duns Scotus (1266-1308)
- Viết bởi Hạnh Các Thánh
Chân Phước John Duns Scotus
(1266-1308)
Chân Phước John Duns Scotus là một tu sĩ Phanxicô khiêm tốn, mà tư tưởng của ngài có ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ.
Sinh ở Duns trong quận Berwick, Tô Cách Lan, John thuộc dòng dõi một gia đình giầu có. Trong những năm về sau, ngài được gọi là John Duns Scotus để ghi dấu nơi sinh trưởng. (“Scotus” là chữ Latinh thay cho “Scotland” [Tô Cách Lan]).
John mặc áo dòng Phanxicô ở Dumfries, mà bác của ngài là Cha Elias Duns làm bề trên. Sau thời kỳ tập viện, John theo học ở Oxford và Paris và thụ phong linh mục năm 1291. Sau đó ngài tiếp tục theo học ở Paris cho đến năm 1297, ngài trở về làm giáo sư ở Oxford và Cambridge. Bốn năm sau, ngài trở lại Paris để dạy học và hoàn tất luận án tiến sĩ.
Vào thời đại mà nhiều người chấp nhận các hệ tư tưởng không có giá trị, thì John đã vạch ra sự phong phú của truyền thống Phanxicô-Augustinô, quý trọng sự uyên thâm của Thánh Aquinas, của Aristotle và các triết gia Hồi Giáo — nhưng ngài vẫn duy trì là một nhà tư tưởng độc lập. Ðiều đó được chứng tỏ khi Hoàng Ðế Philip, trong một tranh chấp với Ðức Giáo Hoàng Boniface VIII năm 1303, đã cố chiếm lấy Ðại Học Paris về phía mình. John Duns Scotus bất đồng ý và được lệnh phải rời Pháp trong vòng ba ngày.
Trong thời đại của John Duns Scotus, một số triết gia chủ trương rằng con người bị định đoạt bởi các động lực ở bên ngoài cá thể. Họ cho rằng sự tự do của ý muốn là một ảo tưởng. Là một người rất thực tế, John lý luận rằng nếu tôi đánh một người nào đó mà họ khước từ sự tự do của ý muốn, thì ngay lập tức người ấy bảo tôi ngừng tay. Nhưng nếu tôi thực sự không có tự do ý muốn, làm sao tôi có thể ngừng tay? John đã khéo léo đưa ra một thí dụ mà ai ai cũng dễ nhớ!
Sau một thời gian ở Oxford, ngài trở về Paris, là nơi ngài lấy bằng tiến sĩ năm 1305. Ngài tiếp tục dạy ở đây và vào năm 1307 ngài đã bảo vệ đặc tính Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ðức Maria mà sau cùng đại học đã chính thức công nhận lập trường của ngài. Cùng năm đó, bề trên tổng quyền bổ nhiệm ngài về trông coi trường của dòng Phanxicô ở Cologne mà ngài đã từ trần ở đây năm 1308.
Dựa vào lý luận của John Duns Scotus, vào năm 1854 Ðức Giáo Hoàng Piô IX đã long trọng tuyên bố tín điều Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. John Duns Scotus, vị “Tiến Sĩ Khôn Ngoan”, được phong chân phước năm 1993.
Lời Bàn
Cha Charles Balic, O.F.M., người có uy tín nhất của thế kỷ 20 về Chân Phước Scotus, đã viết: “Toàn bộ thần học của Scotus đều quy hướng về đức ái. Ðặc tính nổi bật của đức ái là sự tự do tuyệt đối. Khi đức ái ngày càng trở nên tuyệt hảo và sâu đậm, sự tự do trở nên cao quý và trọn vẹn hơn trong con người” (New Catholic Encyclopedia, Bộ. 4, tr. 1105).
Lời Trích
Sự thông thái ít khi đảm bảo sự thánh thiện. Nhưng John Duns Scotus không chỉ là một người tài giỏi mà ngài còn là một người khiêm tốn và siêng năng cầu nguyện — đó chính là sự tổng hợp mà Thánh Phanxicô muốn nơi bất cứ tu sĩ nào có học thức. Vào lúc phong trào dân tộc chủ nghĩa ở Pháp đe dọa quyền lợi của đức giáo hoàng, John Duns Scotus đã đứng về phía giáo hội và phải gánh chịu mọi hậu quả. Ngài cũng bảo vệ sự tự do của con người đối với những ai thỏa hiệp sự tự do ấy với chủ thuyết tất định (determinism).
Tư tưởng thì quan trọng. John Duns Scotus đã dùng tư tưởng hay nhất của ngài để phục vụ gia đình nhân loại và Giáo Hội.
Trích từ NguoiTinHuu.com
Ngày 07/11 Thánh Didacus (1400-1463)
- Viết bởi Hạnh Các Thánh
Thánh Didacus
(1400-1463)
Thánh Didacus là một bằng chứng sống động của Thiên Chúa khi Người “chọn những gì là điên dại trong thế gian để làm xấu hổ những người khôn ngoan; những gì là yếu đuối để làm xấu hổ kẻ hùng mạnh” (1 Cor. 1:27).
Sinh trưởng trong gia đình nghèo nàn ở một tỉnh nhỏ thuộc giáo phận Seville, Tây Ban Nha, Didacus được cha mẹ đồng ý cho sống với một vị ẩn tu ở thành phố gần đó. Mặc dù còn trẻ, nhưng ngài đã cố bắt chước sự khắc khổ và lòng đạo hạnh của vị ẩn tu này. Họ trồng trọt và làm những dụng cụ bằng gỗ để mưu sinh.
Vài năm sau, ngài bị gọi trở về nhà nhưng sau đó không lâu, ngài gia nhập tu viện Phanxicô ở Arrizafa làm trợ sĩ. Sau khi khấn trọn, Didacus tình nguyện đi truyền giáo ở quần đảo Canary, và hăng say hoạt động, đem nhiều người về với Chúa. Dù là một trợ sĩ, nhưng ngài được chọn làm bề trên cả một tu viện chính ở quần đảo, là tu viện Fuerteventura. Sau đó bốn năm, ngài được gọi về Tây Ban Nha và sống trong nhiều tu viện gần Seville.
Vào năm 1450, nhiều tu sĩ Dòng Phanxicô quy tụ về Rôma để cử mừng năm thánh và dự lễ phong thánh cho Thánh Bernardine ở Siena. Didacus cũng đến đó và ngài phải ở lại Rôma ba tháng để chăm sóc các tu sĩ dòng lâm bệnh nặng.
Sau khi trở về Tây Ban Nha, ngài dành trọn thời giờ để theo đuổi đời sống chiêm niệm.
Vào năm 1463, ngài lâm trọng bệnh khi ở Alcala, và trong lúc hấp hối, Didacus nhìn vào thánh giá và nói: “Ôi mảnh gỗ trung tín, ôi đáng quý thay những cây đinh! Bay được sinh ra với một gánh nặng thật ngọt ngào, vì bay xứng đáng được đỡ lấy Ðức Kitô, là Thiên Chúa của thiên đàng” (Marion A. Habig, O.F.M., The Franciscan Book of Saints, t. 834)
Hoàng Ðế Philip II, vì nhớ ơn ngài đã cứu sống đứa con trai nên đã khẩn khoản xin phong thánh cho ngài. Nhiều phép lạ qua sự cầu nguyện của ngài khi còn sống cũng như sau khi chết được Giáo Hội công nhận. Ngài được phong thánh năm 1588.
Lời Bàn
Với những người thánh thiện thực sự, chúng ta không thể giữ thái độ trung dung. Hoặc chúng ta ngưỡng mộ họ, hoặc chúng ta coi họ là điên dại. Didacus là thánh vì ngài đã hiến dâng cuộc đời để phục vụ Thiên Chúa và cộng đồng dân Chúa. Có thể nào nhận xét ấy được áp dụng cho chính chúng ta hay không?
Lời Trích
“Ngài sinh ở Tây Ban Nha với học lực tầm thường, nhưng cũng như các vị thầy đầu tiên và các vị lãnh đạo mù chữ của chúng ta lại được coi là khôn ngoan. [Thiên Chúa chọn Didacus] để cho thấy ơn sủng dồi dào của Thiên Chúa sẽ dẫn đưa nhiều người đến con đường cứu chuộc, bởi đời sống và gương mẫu thánh thiện của ngài, và để chứng tỏ cho thế gian thấy rằng sự điên rồ của Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối của Người thì mạnh mẽ hơn loài người” (Sắc lệnh Phong Thánh).
Trích từ NguoiTinHuu.com
Ngày 06/11 Thánh Nicholas Tavelic và các bạn (c. 1391)
- Viết bởi Hạnh Các Thánh
Thánh NICHOLAS TAVELIC và CÁC BẠN
(c. 1391)
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lược sử
Thánh Nicholas và các bạn là những người trong số 158 tu sĩ Phanxicô được tử đạo ở Đất Thánh khi họ được giao cho nhiệm vụ trông coi các vương cung thánh đường ở đây vào năm 1335.
Nicholas sinh năm 1340 trong một gia đình giầu sang và quý phái ở Croatia. Ngài gia nhập dòng Phanxicô và được gửi đi rao giảng ở Bosnia với Deodat Rodez. Năm 1384, các ngài tình nguyện sang Đất Thánh với nhiệm vụ trông coi các địa danh linh thiêng, chăm sóc các người hành hương và học tiếng Ả Rập.
Vào năm 1391, Nicholas, Deodat, Peter Narbonne và Stephen Cuneo quyết định thuyết phục người Hồi Giáo trở lại đạo một cách công khai.
Nicholas và các bạn được phong thánh năm 1970. Họ là các tu sĩ Phanxicô duy nhất được phong thánh vì tử đạo ở Đất Thánh.
Suy niệm 1: Tử đạo
Thánh Nicholas và các bạn là những người trong số 158 tu sĩ Phanxicô được tử đạo ở Đất Thánh.
Có những vị chịu tử đạo vì đã trực tiếp minh chứng cho các Chân Lý của Ðức Tin (in odium fidei), như thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi và hầu hết các Thánh Tông Ðồ của Chúa Giêsu cũng như các Thánh Tử Ðạo Việt Nam. Nhưng cũng có những vị đã chịu chết để bảo vệ một hoặc nhiều Nhân Ðức Kitô Gíao, như thánh Gioan Batixita đã chịu tử hình vì đã chống lại việc vua Hêrôđê cưới một người đàn bà (vợ của anh mình) đã có con về làm vợ (nhà vua đã phạm tội ngoại tình). Thánh Maria Goretti được kể là tử đạo vì cô đã không để cho kẻ hành hung làm hoen ố đời mình, lỗi nghĩa cùng Chúa, vì vậy cô đã bị giết chết.
Một vài vị khác cũng được kể là tử đạo vì đã chấp nhận cái chết để bảo vệ những Huấn Lệnh và Kỷ Luật của Giáo Hội. Như các thánh Thomas of Canterbury, Anh Quốc, và thánh John of Nepomuc. Thánh John (Gioan thành Nepomuc) là cha giải tội cho hoàng hậu Sophie, nước Bohemia, vào cuối thế kỷ thứ XIV. Vua Wenceslaus IV vì nghi ngờ vợ mình đã phạm tội ngoại tình, nên bắt buộc thánh Gioan phải nói rõ những gì hoàng hậu đã xưng cho nhà vua. Thánh nhân đã từ chối việc phá bí mật của phép giải tội nên đã bị nhà vua giết chết.
Việc tử đạo đòi hỏi sự trưởng thành và sự tình nguyện chấp nhận cái chết, như một số nhà thần học đòi hỏi, chỉ dành cho các vị tử đạo cách hoàn hảo (in odium fidei). Nhưng họ không thể giải thích được những trường hợp thiếu niên, hoặc thiếu nhi tử đạo. Vì vậy, nhà thần học Cajetan đã viết rằng một người có thể chịu tử đạo trong khi ông ta đang ngủ (không tình nguyện), và những trẻ em chưa được rửa tội nhưng bị giết vì đạo Chúa cũng được cứu rỗi vì Ðức Tin của cha mẹ. Ðiều này phù hợp với việc giáo hội tôn kính các thánh Anh Hài như những Ðấng Tử Ðạo, và giáo huấn về sự đổ máu đã thay thế cho nước tuôn ra từ phép Thánh Tẩy. Thánh Ambrose đã đặt sự can thiệp của Chúa Thánh Linh như điều kiện tiên quyết để minh chứng việc tử đạo của một Kitô hữu. Ngài nói rằng tất cả những sự thật trong Chúa Thánh Linh thì đều sẽ được nhận ra nhanh chóng. Ðiều này cũng phù hợp với giáo huấn của giáo hội trong việc đòi hỏi các thánh nhân (không tử đạo) phải có những phép lạ, trước khi thực sự được phong thánh (Lm Phaolô Nguyễn văn Tùng).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn bảo vệ những Huấn Lệnh và Kỷ Luật của Giáo Hội, dầu phải chết cách nào.
Suy niệm 2: Đất Thánh
Thánh Nicholas và các bạn là những người trong số 158 tu sĩ Phanxicô được tử đạo ở Đất Thánh.
Đất Thánh là thuật ngữ trong Do Thái giáo chỉ Vương quốc Israel như được xác định trong bộ kinh Tanakh. Đối với các người Do Thái, việc xác định vùng đất được coi là Thánh trong “Do Thái giáo” là để phân biệt với các vùng đất khác, do việc thực hành “Do Thái giáo” thường chỉ có thể diễn ra trong vùng Đất của Israel. Thuật ngữ “Đất Thánh” cũng được các người Hồi giáo và Kitô giáo sử dụng để chỉ toàn bộ khu vực giữa sông Jordan và Địa Trung Hải.
Một phần tầm quan trọng của đất thánh xuất phát từ ý nghĩa tôn giáo của Jerusalem, thành phố linh thiêng nhất đối với Do Thái giáo, nơi giảng đạo của Chúa Giêsu, và sự kiện Isra và Mi’raj trong Hồi giáo. Nhiều nơi trong Đất Thánh là những địa điểm hành hương tôn giáo của người Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo từ thời Thánh Kinh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quý trọng miền đất thánh gần gũi nhất, đó là tâm hồn nơi Chúa đang ngự trị.
Suy niệm 3: Tình nguyện
Các ngài tình nguyện sang Đất Thánh với nhiệm vụ trông coi các địa danh linh thiêng, chăm sóc các người hành hương và học tiếng Ả Rập.
Tình nguyện là gì? Đó là sẵn sàng đóng góp một số thời gian và kĩ năng của mình để giúp đỡ cộng đồng. Những lợi ích của hoạt động tình nguyện: Khi tham gia tình nguyện, một vài hay rất nhiều người sẽ nhận được lợi ích từ sự tham gia của ta. Giúp đỡ những người xung quanh vừa mang lại lợi ích cho họ đồng thời ta cũng nhận được rất nhiều thứ khác: -Rèn luyện được nhân cách -Tinh thần phục vụ bất vụ lợi -Trước khi ta đi đến một vùng dân tộc, địa phương khác thì ta phải tìm hiểu nghiên cứu xem phong tục tập quan của người dân ở đó thế nào, cách ăn ở giao lưu ra sao, ngôn từ thế nào… Chính vì thế mà tình nguyện ở địa phương giúp ta mở rộng tầm nhìn, đó là chấp nhận cái mới, cái khác biệt để hòa đồng hơn với các dân tộc khác, cộng đồng người khác. -Khi làm việc gì cũng phải nghiên cứu, hoạch định, tính toán trước. Điều này giúp ta biết cách nhận xét đúng đắn và tỉ mỉ về sự việc xảy ra xung quanh mình. -Tham gia hoạt động tình nguyện giúp chúng ta tìm được con đường mới, thoát khỏi lối mòn bao kín trong ta từ lâu. Tìm kiếm những sở thích mới đó mang lại nhiều điều thú vị, sự thư giãn và giúp ta có cái nhìn chín chắn hơn về quan điểm cá nhân và cách nhìn qua khám phá những kinh nghiệm. -Khi tham gia tình nguyện thì mình sẽ trở thành một thành viên tích cực và trong đầu lúc nào cũng có ý nghĩ đó là “một người vì mọi người và mọi người vì một người” -Tình nguyện đưa mọi người từ những nơi khác nhau, địa vị xã hội khác nhau đến gần nhau hơn. Tạo ra nhiều mối quan hệ trong xã hội để chúng ta có thể phát triển kĩ năng giao tiếp cá nhân qua sự đánh giá, nhận xét của bạn bè. Gặp gỡ nhiều bạn bè để giao lưu, học hỏi những kinh nghiệm mới từ những môi trường, ngành nghề và hoàn cảnh khác nhau. -Hoạt động tình nguyện cũng mở ra nhiều cơ hội mới để cho ta có thể lựa chọn nghề nghiệp của mình, vì hoạt động tình nguyện đã mang lại rất nhiều lợi ích cho ta, giúp ta hoàn thiện mình hơn. Và đi tình nguyện cũng là cách khám phá ra các lĩnh vực mới tố nhất. Tất cả những đợt tham gia hoạt động tình nguyện đều giúp chúng ta có cách nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống và con người hay cụ thể hơn đó là lĩnh vực mà ta đang tham gia tình nguyện.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn phục vụ trong tinh thần tình nguyện.
Suy niệm 4: Trông coi
Các ngài tình nguyện sang Đất Thánh với nhiệm vụ trông coi các địa danh linh thiêng, chăm sóc các người hành hương và học tiếng Ả Rập.
Thánh Phanxicô đưa ra hai đường lối truyền giáo cho các tu sĩ trong dòng. Trong nhiều năm trời, Nicholas và các bạn đã chọn đường lối thứ nhất (sống thầm lặng và làm chứng cho Đức Kitô).
Các tu sĩ Phanxicô hiện vẫn hoạt động ở Đất Thánh qua đời sống gương mẫu để nhiều người biết đến Đức Kitô hơn. Đồng thời các cơ vật chất cũng rất cần có sự hiện của những người trông coi. Công việc tuy âm thầm lặng lẽ nhưng cũng rất quan trọng, ít ra là để quét dọn sạch sẽ, hạn chế tình trạng xuống cấp vì thiếu vắng sinh khí, chưa nói đến việc phải kịp thời ngăn chận những sự phá hoại có thể xảy đến cho một ngôi nhà vắng chủ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn trông coi cẩn mật ngôi nhà linh hồn chúng con, không để cho ma quỷ thời cơ cướp phá.
Suy niệm 5: Chăm sóc
Các ngài tình nguyện sang Đất Thánh với nhiệm vụ trông coi các địa danh linh thiêng, chăm sóc các người hành hương và học tiếng Ả Rập.
Nhu cầu trước mắt của các người hành hương là được chăm sóc sức khoẻ thể xác với nơi ăn chốn nghỉ sau một hành trình nhọc nhẳn. Đồng thời họ cũng cần có người hướng dẫn và giải thích cặn kẻ về các thánh tích mà họ đang chứng kiến tận mắt nhưng chưa thấu hiểu.
Ngoài nhu cầu thể xác và tinh thần, họ cũng có thể ao ước được chỉ điểm về mặt tôn giáo, khi họ được diễm phúc đặt chân đến những bước đường mà Đấng Cứu Thế đã sinh sống, rao giảng và chết đi cho chính họ. Sự hiện diện của các ngài thật không thể thiếu được.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cũng biết chăm sóc bản thân không chỉ về thể xác, tinh thần mà còn về mặt tín ngưỡng nữa.
Suy niệm 6: Công khai
Vào năm 1391, Nicholas, Deodat, Peter Narbonne và Stephen Cuneo quyết định thuyết phục người Hồi Giáo trở lại đạo một cách công khai.
Trong Quy Luật 1221, Thánh Phanxicô viết cho các tu sĩ được sai đến Saracens (Hồi Giáo) “có thể tự đối xử trong hai phương cách. Một cách là tránh tranh luận hoặc cãi cọ, và ‘vì Chúa, hãy tùng phục bất cứ ai’ (1 Pr 2,13), để làm chứng rằng mình là Kitô Hữu. Một cách khác là công khai rao giảng lời Chúa, khi họ thấy đó là ý Chúa muốn mời gọi những người được rao giảng hãy tin vào Thiên Chúa toàn năng, là Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, Đấng Tạo Dựng muôn loài, và qua Chúa Con, Đấng Cứu Thế, hãy rửa tội cho họ để trở nên người Kitô đích thực và thánh thiện” (Ch. 16).
Sau những năm sống thầm lặng và làm chứng cho Đức Kitô, họ cảm thấy được mời gọi để đi theo đường lối thứ hai là rao giảng công khai. Ngày 11-11-1391, họ đến Đền Omar ở Giêrusalem và xin được gặp Qadi (giáo sĩ Hồi Giáo). Từ một bản văn viết sẵn, họ nói mọi người phải chấp nhận phúc âm của Đức Giêsu Kitô. Và khi được yêu cầu rút lại lời tuyên bố ấy, họ đã từ chối. Sau khi bị đánh đập và cầm tù, sau cùng họ bị chặt đầu trước đám đông.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết lắng nghe và đáp lại lời mời gọi của Chúa, cho dầu phải hy sinh mạng sống.
Ngày 05/11 Tôi tớ Thiên Chúa Solanus Casey (1870-1957)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Tôi tớ Thiên Chúa
Solanus Casey
(1870-1957)
Cha Solanus không được phép giảng và nghe xưng tội. Một tu sĩ Capuchin biết rõ về ngài cho biết sự ngăn cấm khó chịu đó “đã khiến ngài trở nên cao cả và thánh thiện.”
Barney Casey là một linh mục nổi tiếng ở Detroit, Hoa Kỳ, dù rằng ngài không được phép giảng và giải tội!
Barney xuất thân từ một gia đình ở Oak Grove, tiểu bang Wisconsin. Khi 21 tuổi, và sau khi đã trải qua các công việc sinh nhai như đốn củi, giúp việc ở bệnh viện, tài xế xe công cộng và cai tù, ngài gia nhập Chủng Viện Phanxicô ở Milwaukee — nhưng không theo đuổi nổi vì việc học quá khó khăn đối với ngài. Ðến năm 1896, ngài gia nhập dòng Capuchin ở Detroit, lấy tên là Solanus. Một lần nữa, ngài phải vất vả với việc học.
Ngày 24-7-1904, ngài được thụ phong linh mục, nhưng vì kiến thức thần học được coi là quá yếu nên Cha Solanus không được phép giảng và nghe xưng tội. Một tu sĩ Capuchin biết rõ về ngài cho biết sự ngăn cấm khó chịu đó “đã khiến ngài trở nên cao cả và thánh thiện.” Trong 14 năm làm người gác cổng và dọn lễ ở Yonkers, Nữu Ước, dân chúng nhận ra tài ăn nói của ngài.
James Derum, người viết tiểu sử của ngài cho biết, “Dù ngài bị cấm không được giảng dạy về tín lý, nhưng ngài có thể xuất khẩu những tư tưởng mà các cha Capuchin gọi là feverino”. Nhiệt huyết tinh thần của ngài đã khiến người nghe phải kinh ngạc.
Cha Solanus phục vụ tại các giáo xứ ở Manhattan và Harlem trước khi trở về Detroit, là nơi ngài giữ việc gác cổng và dọn lễ trong vòng 20 năm ở Tu Viện Thánh Bonaventura. Mỗi chiều thứ Tư hàng tuần ngài thi hành công việc mục vụ cho các người bệnh. Một cộng tác viên cho biết, trung bình từ 150 đến 200 người chờ đợi Cha Solanus ở văn phòng. Hầu hết người ta đến để xin cha ban phép lành, và khoảng 40 đến 50 người xin lời khuyên bảo của cha. Nhiều người coi ngài là một khí cụ của Thiên Chúa trong việc chữa lành và nhiều ơn khác. Họ nhận thấy sức mạnh của sự cầu nguyện của ngài, một người có đức tin mạnh mẽ.
Những lời Cha Solanus chia sẻ về Thiên Chúa đã khích động các người nghe. Câu nói phổ thông của ngài là “Hãy chúc tụng Thiên Chúa vì tất cả những công trình của Người.”
Nhiều bạn hữu của Cha Solanus đã giúp dòng Capuchin mở nhà phát chẩn cho người nghèo trong thời kỳ Ðại Khủng Hoảng. Và cho đến ngày nay sinh hoạt đó vẫn tiếp tục.
Vào năm 1946, vì sức khỏe yếu kém, Cha Solanus được thuyên chuyển về đệ tử viện Capuchin ở Huntington, bang Indiana, là nơi ngài sống cho đến năm 1956. Ngài từ trần ngày 31-7-1957 tại bệnh viện ở Detroit. Lời cuối cùng ngài thốt lên là: “Con phó linh hồn con cho Chúa.” Người ta ước lượng khoảng 20,000 người đã đến viếng thi hài của ngài trước khi được mai táng trong nhà thờ Thánh Bonaventura ở Detroit.
Vào năm 1960, một tổ chức lấy tên Cha Solanus được thành lập ở Detroit để giúp đỡ chủng viện Capuchin. Vào năm 1967 tổ chức này có đến 5,000 hội viên – mà nhiều người đã từng được ngài khuyên bảo cũng như an ủi. Ngài được tuyên xưng Ðáng Kính vào năm 1995.
Lời Bàn
James Patrick Derum, người viết tiểu sử Cha Solanus nói rằng ngài kiệt quệ vì gánh nặng của những người ngài phục vụ. “Ðã từ lâu, ngài hiểu rõ chân lý của lời Ðức Kitô là tình yêu Thiên Chúa và tha nhân hệ tại ở hành động. Sống chân lý này một cách nhiệt thành và liên tục đã khiến ngài trở nên một con người tự do về tinh thần — không bị nô lệ bởi những đam mê, bởi cái tôi, bởi lạc thú, và bởi sự than van — để tự do phục vụ Thiên Chúa và đồng loại” (Người Giữ Cửa Nhà Thờ Thánh Bonaventura, trang 199).
Lời Trích
Trong một lá thư gửi cho người em là Cha Maurice Casey khi làm việc trong một bệnh xá gần Baltimore và cảm thấy khó chịu với vị tuyên uý nhà thương này, Cha Solanus viết: “Thiên Chúa đã có thể thiết lập Giáo Hội với sự trông coi của các thiên thần để không có gì sai trái hay khiếm khuyết. Nhưng Giáo Hội, như hiện nay, bao gồm và dưới sự trông coi của những người tội lỗi tầm thường — kế vị ‘người đánh cá tầm thường ở Galilê’ — thì ai có thể hồ nghi rằng, chính Giáo Hội là một phép lạ vĩ đại?”
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 04/11 Thánh Charles Borromeo (1538-1584)
- Viết bởi Hạnh Các Thánh
Thánh Charles Borromeo
(1538-1584)
Tên của Thánh Charles Borromeo đi liền với chữ cải cách. Ngài sống trong thời kỳ Cải Cách Tin Lành, và đã tiếp tay trong công cuộc cải cách toàn thể Giáo Hội trong những năm cuối của Công Ðồng Triđentinô.
Mặc dù ngài thuộc về một gia đình quý tộc ở Milan và có bà con với dòng họ Medici rất uy thế, nhưng ngài lại muốn tận hiến cho Giáo Hội. Khi người bác của ngài là Ðức Hồng Y de Medici được chọn làm giáo hoàng năm 1559 với tước hiệu là Piô IV, đức giáo hoàng đã chọn ngài làm trưởng phó tế và là quản lý của Tổng Giáo Phận Milan trong khi ngài chỉ là một sinh viên giáo dân. Vì sự thông minh xuất chúng nên ngài được giao cho nhiều chức vụ quan trọng có liên hệ đến Tòa Thánh, và sau này được bổ nhiệm làm bộ trưởng chịu trách nhiệm toàn thể ban hành chánh của tòa thánh. Cái chết đau đớn của người anh đã đưa ngài đến quyết định đi tu làm linh mục, mặc dù bao người thân nhân ngăn cản. Ngài được thụ phong linh mục năm 25 tuổi, và sau đó không lâu được tấn phong làm giám mục của Milan.
Chính thánh nhân là người đã thúc giục đức giáo hoàng phục hồi Công Ðồng Triđentinô vào năm 1562 sau 10 năm bị ngưng trệ. Ðứng ở đằng sau và âm thầm làm việc, thánh nhân là người có công trong việc duy trì sự liên tục của các khóa họp Công Ðồng mà nhiều khi tưởng đã đổ vỡ. Trong giai đoạn cuối của Công Ðồng, ngài là người chủ yếu trong việc hướng dẫn và thành hình các sắc lệnh của công đồng. Hiển nhiên ngài cũng được phép dành thời giờ để làm việc cho Tổng Giáo Phận Milan, là nơi mà tôn giáo và luân lý thật sáng tỏ.
Sự cải tổ cần phải thi hành trong mọi tầng lớp Công Giáo, dù là giáo sĩ hay giáo dân, và được khởi sự từ các công đồng địa phương với các giám mục phụ tá. Những quy luật rõ ràng được đặt ra cho các giám mục và tu sĩ: Nếu người ta thay đổi đời sống để trở nên tốt lành hơn, thì giáo sĩ phải là những người làm gương và phải canh tân tinh thần tông đồ của mình trước hết.
Chính Thánh Charles tiên phong trong việc làm gương. Ngài chia sẻ hầu hết phần lương của ngài cho công việc bác ái, tự ý từ bỏ đời sống sang trọng của một tổng giám mục, và ăn chay đền tội. Ngài hy sinh giầu sang, danh vọng, sự mến mộ và ảnh hưởng để trở nên nghèo hèn. Trong thời kỳ dịch tễ và đói kém năm 1576, ngài cố tìm cách để nuôi ăn 60,000 đến 70,000 người mỗi ngày. Ðể thực hiện điều này, ngài phải mượn một số tiền rất lớn mà nhiều năm sau mới trả hết. Khi nạn dịch hoành hành đến mức tối đa, các giới chức hành chánh dân sự bỏ trốn thì ngài vẫn ở lại thành phố để thi hành công việc mục vụ cho những người đau yếu, người hấp hối và những ai cần sự giúp đỡ.
Vào năm 1578, ngài thành lập một tổ chức cho các linh mục triều, Tu Sĩ của Thánh Ambrôsiô (bây giờ là Tu Sĩ của Thánh Charles), tích cực rao giảng, chống với sự xâm nhập của các tà thuyết, và đưa những người Công Giáo lầm lạc trở về với Giáo Hội.
Công việc và gánh nặng của chức vụ đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ngài. Ngài từ trần khi mới 46 tuổi và được phong thánh năm 1610.
Lời Bàn
Thánh Charles đã sống theo lời Ðức Kitô: “… Khi ta đói con đã cho ta ăn, ta khát con đã cho ta uống, ta lạc lõng con đã tiếp đón, ta trần truồng con đã cho áo mặc, ta đau ốm con đã chăm sóc, ta tù đầy con đã thăm viếng” (Mt. 25:35-36). Thánh Charles đã nhận ra Ðức Kitô trong tha nhân, và ngài biết rằng công việc bác ái được thi hành cho những người bé mọn là được thi hành cho Ðức Kitô.
Lời Trích
“Trong cuộc lữ hành trần thế, Ðức Kitô luôn mời gọi Giáo Hội hãy cải tổ liên tục và đó là điều rất cần thiết, vì giáo hội là một tổ chức của con người. Do đó, nếu ảnh hưởng của các biến cố hay thời cuộc đã đưa đến những khiếm khuyết trong hành động, trong kỷ luật của Giáo Hội, hay ngay cả trong việc hình thành tín lý (cần thận trọng phân biệt với kho tàng đức tin), thì những khiếm khuyết ấy phải được chấn chỉnh một cách thích hợp và đúng lúc” (Sắc Lệnh về Ðại Kết, 6).
Ngày 03/11 Thánh Martin Người Nghèo (1579-1639)
- Viết bởi Hạnh Các Thánh
Thánh Martin Người Nghèo
(1579-1639)
Hàng chữ thật lạnh lùng “không có cha” được ghi trong hồ sơ rửa tội, và danh từ “con lai” hay “vết tích cuộc chiến” là cái tên ác nghiệt mà những người “thuần chủng” gán cho những người mang hai dòng máu. Như bao người khác, Martin đã có thể trở nên một người cay đắng, nhưng ngược lại, ngay từ còn nhỏ Martin đã có lòng thương người đặc biệt, nhất là những người nghèo và bị xã hội khinh miệt.
Ngài là đứa con bất hợp pháp của một nhà quý tộc Tây Ban Nha ở Lima, Peru và một phụ nữ Panama. Thánh Martin giống mẹ nên có nước da ngăm đen, và điều này làm cha ngài khó chịu, do đó mãi tám năm sau ông mới chịu nhận Martin là con. Sau khi sinh đứa thứ hai, ông bỏ rơi gia đình. Martin lớn lên trong cảnh nghèo nàn, thuộc giai cấp bần cùng của xã hội Lima.
Lúc 12 tuổi, mẹ ngài cho theo học nghề cắt tóc và giải phẫu, nên ngoài việc cắt tóc, ngài còn biết cách lấy máu (sự chữa trị rất phổ thông thời ấy), biết chăm sóc vết thương và biết chích thuốc.
Sau vài năm hành nghề, Martin xin vào dòng Ða Minh làm “người giúp việc,” vì ngài cảm thấy không xứng đáng để làm thầy dòng. Sau chín năm, gương mẫu đời sống cầu nguyện và hãm mình, bác ái và khiêm nhường của ngài khiến cộng đoàn phải yêu cầu ngài khấn trọn. Ngài cầu nguyện hằng đêm và sống khắc khổ; công việc hàng ngày của ngài là chăm sóc bệnh nhân và người nghèo. Ngài coi mọi người như nhau, bất kể mầu da, sắc tộc hay địa vị xã hội. Ngài là cột trụ trong việc thành lập cô nhi viện, chăm sóc người nô lệ từ Phi Châu và trông coi việc bố thí của nhà dòng. Ngài trở nên nổi tiếng trong nhà dòng cũng như ngoài thành phố, dù đó là vấn đề “chăn màn, quần áo, đèn nến, bánh kẹo, phép lạ hay lời cầu nguyện!” Khi nhà dòng bị nợ quá nhiều, ngài nói với cha bề trên, “Con chỉ là một đứa con lai nghèo hèn. Cha hãy bán con đi. Con là sở hữu của nhà dòng. Hãy bán con đi để trả nợ.”
Ngoài những công việc hàng ngày như nấu ăn, giặt giũ và chăm sóc bệnh nhân, Thiên Chúa còn ban cho ngài những ơn sủng đặc biệt: được xuất thần bay bổng trên không, căn phòng rực sáng khi ngài cầu nguyện, ơn lưỡng tại (ở hai nơi cùng một lúc), ơn hiểu biết cách lạ lùng, ơn chữa bệnh và chế ngự các thú vật cách tài tình. Lòng bác ái của ngài còn nới rộng đến các thú vật ở ngoài đồng hay chó mèo trong phố và ngay cả chuột bọ trong bếp.
Nhiều tu sĩ thời ấy coi ngài như vị linh hướng, nhưng ngài vẫn tự coi mình là “người nô lệ nghèo hèn.” Ngài còn là bạn của Thánh Rosa ở Lima. Ngài từ trần ngày 3-11-1639.
Lời Bàn
Kỳ thị chủng tộc là cái tội mà hầu như không ai muốn thú nhận. Cũng như sự ô nhiễm, đó là “cái tội của thế giới”, là trách nhiệm của mọi người nhưng không ai muốn nhận lỗi. Không ai xứng đáng là quan thầy của sự tha thứ và sự công bằng Kitô Giáo cho bằng Thánh Martin của Người Nghèo.
Lời Trích
Trong buổi lễ phong thánh (6-5-1962), Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã có lời nhận xét về Thánh Martin như sau: “Ngài đã tha thứ lỗi lầm của người khác. Ngài đã quên đi những xúc phạm thật cay đắng, vì cho rằng ngài đáng phải phạt vì những tội lỗi của chính mình. Ngài cố gắng hết sức để đền bù các lỗi lầm ấy; ngài an ủi bệnh nhân một cách trìu mến; ngài cung cấp thực phẩm, quần áo và thuốc men cho người nghèo; ngài giúp đỡ các nông dân và người da đen, cũng như những người mang hai dòng máu mà thời ấy thường coi là nô lệ: do đó ngài xứng đáng với cái tên mà người ta thường gọi là ‘Martin Nhân Hậu.'”
Trích từ NguoiTinHuu.com
Ngày 01/11 Lễ Các Thánh
- Viết bởi Hạnh Các Thánh
Lễ Các Thánh
Ngày lễ đầu tiên trong lịch sử để vinh danh các thánh là ngày tưởng niệm “các vị tử đạo” được cử hành vào đầu thế kỷ thứ tư. Vào đầu thế kỷ thứ bảy, sau làn sóng trộm cắp đột nhập các hang toại đạo, Ðức Giáo Hoàng Boniface IV đã cho thu lượm khoảng 28 toa đầy những hài cốt và chôn cất lại bên trong đền Pantheon, là đền thờ các thần của người La Mã, và ngài thánh hiến đền thờ này như một đền thờ Kitô Giáo. Theo sử gia của Giáo Hội là Bede Ðáng Kính, đức giáo hoàng có ý định rằng “việc tưởng nhớ các thánh trong tương lai có thể thay cho việc thờ phượng mà trước đây không được dành cho thần thánh nhưng thờ ma quỷ” (Về Việc Tính Toán Thời Giờ)
Nhưng việc thánh hiến đền Pantheon, cũng như ngày kính nhớ đầu tiên các vị tử đạo xảy ra vào tháng Năm. Nhiều Giáo Hội Ðông Phương vẫn kính nhớ các thánh vào mùa xuân, hoặc trong mùa Phục Sinh hoặc ngay sau lễ Hiện Xuống.
Tại sao Giáo Hội Tây Phương cử hành lễ này vào tháng Mười Một thì không ai hiểu. Người ta chỉ biết vào năm 800, thần học gia Alcuin người Anglo-Saxon cử hành lễ này vào ngày 1 tháng Mười Một, và người bạn của ông là Arno, Giám Mục của Salzburg cũng theo như vậy. Sau cùng, trong thế kỷ chứ chín, Giáo Hội La Mã đã chấp thuận ngày lễ này.
Lời Bàn
Ðầu tiên lễ này để kính nhớ các vị tử đạo. Sau này, khi Kitô Hữu được tự do tín ngưỡng, Giáo Hội đã dùng ngày lễ này để tỏ lòng kính trọng những người thánh thiện. Vào các thế kỷ đầu tiên, được coi là thánh thì chỉ cần một tiêu chuẩn là được nhiều người công nhận, ngay cả việc chấp thuận của vị giám mục cũng được coi là bước sau cùng để đưa vào niên lịch Giáo Hội. Việc phong thánh bởi đức giáo hoàng lần đầu tiên xảy ra vào năm 973; ngày nay việc phong thánh đòi hỏi cả một tiến trình lâu dài để chứng minh các đức tính thánh thiện. Bây giờ, lễ các thánh để kính nhớ các vị thánh vô danh cũng như nổi danh.
Lời Trích
“Sau đó, tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế…
[Một trong các kỳ mục] bảo tôi: “Họ là những người sống sót sau thời gian thử thách lớn lao; họ đã giặt sạch và tẩy áo mình tinh nguyên trong máu Con Chiên.'” (Khải Huyền 7:9, 14).
Ngày 31/10 Thánh Wolfgang ở Regensburg (924-994)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Wolfgang ở Regensburg
(924-994)
Khi làm giám mục Regensburg, ngài bắt đầu việc cải tổ hàng giáo sĩ, hồi phục quy luật tu viện, cổ võ việc giáo dục, ngài hăng say rao giảng và đạt được nhiều kết quả khả quan, đặc biệt ngài nổi tiếng về lòng bác ái đối với người nghèo.
Thánh Wolfgang sinh ở Swabia, nước Ðức, và theo học tại một trường gần tu viện Reichenau. Ở đó ngài gặp Henry, một nhà quý tộc trẻ mà sau này là Ðức Tổng Giám Mục của Trier. Từ đó trở đi, Wolfgang tiếp tục liên lạc với đức tổng giám mục, dạy giáo lý trong trường của giáo phận và hỗ trợ đức tổng trong việc cải cách hàng giáo sĩ.
Khi đức tổng từ trần, Wolfgang quyết định trở thành một tu sĩ dòng Biển Ðức và di chuyển đến một tu viện ở Einsiedeln, bây giờ thuộc Thụy Ðiển. Ngài được bổ nhiệm làm giám đốc trường đệ tử của nhà dòng và sau khi thụ phong linh mục, cùng với một số tu sĩ, ngài sang Hung Gia Lợi để truyền giáo cho người Magyar, nhưng mới được một năm, Hoàng Ðế Otto II đã bổ nhiệm ngài làm Giám Mục của Regensburg (gần Munich). Ngay lập tức ngài bắt đầu việc cải tổ hàng giáo sĩ, hồi phục quy luật tu viện, cổ võ việc giáo dục, ngài hăng say rao giảng và đạt được nhiều kết quả khả quan, đặc biệt ngài nổi tiếng về lòng bác ái đối với người nghèo. Dù là giám mục, ngài vẫn mặc y phục của một tu sĩ dòng và sống khắc khổ.
Khao khát của ngài là sống thầm lặng trong tu viện để chiêm niệm, nhưng trách nhiệm của một giám mục đã không cho phép, ngoài ra ngài còn là thầy dạy tư của Hoàng Ðế Henry II khi còn nhỏ. Vào năm 994, sau một cuộc hành trình ngài bị lâm trọng bệnh và từ trần ở Puppingen, gần Linz, nước Áo. Lễ giỗ của ngài được cử mừng một cách rộng rãi trong hầu hết các quốc gia trung Âu Châu. Ngài được phong thánh năm 1052.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 30/10 Thánh Anphongsô Rodriguez (1532 -1617)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Anphongsô Rodriguez
(1532 -1617)
Một linh mục dòng Tên phải kêu lên, “Thầy đó không phải là một người bình thường – thầy là một thiên thần!”
An-phông-sô sinh ở Segovia, Tây Ban Nha, con của một người buôn bán len sợi giầu có. Khi còn nhỏ, An-phông-sô thường gặp Cha Phêrô Favre (sau này là chân phước) và một linh mục dòng Tên khác, họ là những người thường tạm trú qua đêm ở nhà người cha ruột của An-phông-sô. Dần dà, chính Cha Phêrô Favre là người đã chuẩn bị cho An-phông-sô rước lễ lần đầu.
Vào lúc 14 tuổi, cùng với người anh, An-phông-sô được theo học với các linh mục dòng Tên, nhưng chưa được một năm sau, hai anh em được gọi về nhà để giúp trông coi cơ sở thương mại của gia đình sau cái chết bất ngờ của người cha. Vào lúc 23 tuổi, một mình An-phông-sô trông coi cơ sở buôn bán tơ sợi và, vài năm sau đó ngài lập gia đình và được một trai hai gái.
Khi kỹ nghệ tơ sợi xuống dốc thê thảm, nhiều thảm kịch cũng xảy đến cho An-phông-sô qua những cái chết bất ngờ của hai cô con gái, của vợ và của mẹ trong vòng ba năm liên tiếp. Sau khi bán hết cơ sở thương mại, An-phông-sô ngưng hoạt động, về sống với hai cô em gái và đứa con trai nhỏ. Chính trong quãng thời gian này An-phông-sô học được cách cầu nguyện và chiêm niệm từ hai cô em. Ngài thường xuyên lãnh nhận bí tích Hòa Giải và Thánh Thể, và sống một đời khổ hạnh. Khi đứa con trai từ trần, An-phông-sô, giờ đã gần 40 tuổi, quyết định gia nhập dòng Tên và tìm mọi cách để được thu nhận vào dòng ở Segovia. Vì cao tuổi, sức khỏe yếu kém và thiếu nền tảng học vấn nên khó cho ngài được thu nhận vào đời sống tu trì, nhưng An-phông-sô rất kiên nhẫn, ngài trở lại trường học tiếng Latinh. Sau cùng, cha bề trên đồng ý nhận An-phông-sô làm thầy trợ sĩ. Sáu tháng sau, ngài đến làm việc ở trường dòng Tên ở Majorca. Ở đây ngài giữ việc gác cửa.
Trong vòng 45 năm kế đó, thầy An-phông-sô trung thành với nhiệm vụ của mình trong khi dành thời giờ để cầu nguyện và chiêm niệm. Ngài nổi tiếng về sự vâng phục và hãm mình, cũng như sùng kính Ðức Mẹ Vô Nhiễm. Một linh mục dòng Tên phải kêu lên, “Thầy đó không phải là một người bình thường — thầy là một thiên thần!” Các giáo sĩ, giới trưởng giả, giới chuyên nghiệp, giới thương mại cũng như người nghèo tìm đến ngài để xin hướng dẫn tâm linh. Một trong những người ấy là Cha Phêrô Claver, sau này được phong thánh và là vị Tông Ðồ của Người Nô Lệ Da Ðen.
Trong những năm cuối đời, thầy An-phông-sô bị đau khổ vì bệnh tật và sự khô khan tinh thần. Sau cùng, trước khi từ trần, ngài được rước Mình Thánh và bỗng dưng mọi đau khổ tâm thần cũng như thể xác tan biến. Sau khi trìu mến nhìn đến các tu sĩ đứng quanh giường, ngài hôn thánh giá và lớn tiếng kêu tên Chúa Giêsu, ngài trút hơi thở cuối cùng vào ngày 31 tháng Mười, 1617. Tang lễ của ngài có nhiều thành phần tham dự, ngoài những người nghèo và bệnh tật còn có phó vương Tây ban Nha, giới quý tộc và các giám mục. Ngài được phong thánh năm 1888, cùng lúc với Thánh Phêrô Claver.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 29/09 Lễ kính các Tổng Lãnh Thiên Thần Micael, Gabriel, và Raphael
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lễ kính các Tổng Lãnh Thiên Thần
Micael, Gabriel, và Raphael
Thiên Thần theo nguyên ngữ là sứ giả. Thánh Grêgôriô thu nhặt nhiều đoạn khác nhau để xếp các Thiên Thần thành 9 phẩm… “Tên các Thiên Thần là danh xưng chỉ các chức phận chứ không chỉ bản tính.” (thánh Grêgôriô Cả)
Giáo huấn của Giáo Hội về thế giới thần thiêng rất giản dị và không thay đổi, là có một thế giới như vậy, trong đó gồm có cả thần lành, thần dữ và ảnh hưởng đến thế giới chúng ta. Trong kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng rằng việc tạo dựng được thể hiện gồm có “muôn vật hữu hình và vô hình”. Còn về ảnh hửơng của thế giới vô hình, của các thần thiêng đối với chúng ta, chỉ cần nhớ lại biến cố cám dỗ Eva tại vườn địa đàng và biến cố truyền tin cho Đức Mẹ. Trong lịch sử như Thánh Kinh trình bày, thế giới thần thiêng được tỏ lộ trong bối cảnh những Thiên Thần đến thế giới này để thi hành thánh ý Thiên Chúa hay để truyền đạt Lời Chúa cho loài người. Thiên Thần theo nguyên ngữ là sứ giả. Thánh Grêgôriô thu nhặt nhiều đoạn khác nhau để xếp các Thiên Thần thành 9 phẩm. Riêng phẩm tổng lãnh được 1Tx 4,16 nhắc đến. Nhưng Thánh Kinh chỉ nêu tên 3 vị tổng lãnh là: Micae, Gabrie, và Raphae mà thôi.
Nhắc đến tên các Ngài, chúng ta cũng cần phải ghi nhớ lời dặn dò của thánh Grêgôriô Cả: “tên các Thiên Thần là danh xưng chỉ các chức phận chứ không chỉ bản tính”.
– Micae có nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa”.
– Gabrie có nghĩa là “Uy lực của Thiên Chúa”.
– Raphae có nghĩa là “Thầy thuốc của Thiên Chúa”.
Lần dở lại Thánh Kinh, chúng ta sẽ thấy rõ phận vụ mỗi đấng thực hiện và dĩ nhiên các phận vụ ấy liên quan đặc biệt đối với loài người chúng ta.
Người Do Thái vẫn coi Tổng lãnh Thiên Thần Micae là đấng bảo trợ đặc biệt. Trong Kitô giáo, Ngài cũng là đấng bảo trợ đặc biệt Giáo Hội. Chúng ta coi Ngài là đấng thống soái đạo binh trên trời, dựa theo lời kể của thánh Gioan: “Một cuộc chiến dữ dội xảy ra trên trời, Tổng lãnh Thiên Thần Micae cùng với các đồng bạn giao chiến cùng con rồng, con rồng và các đồng đảng chống lại mãnh liệt. Song chúng không sao thắng nổi và chúng mất địa vị trên trời. Con rồng lớn tức là con rắn xưa kia, thường gọi là ma quỉ hay là satan. Kẻ lừa dối thiên hạ, bị quăng xuống đất cùng với đồng đảng của nó” (Kh 12,7-9).
Tổng lãnh Thiên Thần Gabrie được sai đến với Đức trinh nữ Maria ở Nazareth để nói rõ cho Mẹ biết định mệnh của Mẹ (Lc 1,23). Ngài cũng đến với Zacaria để nói cho biết việc sinh hạ của Gioan tẩy giả (Lc 1,11-19). Chính Ngài đã tiên báo cho Daniel biết việc Đấng thiên sai đến (Dn 9,21). Nay Ngài được nhận làm đấng bảo trợ của nhân viên bưu điện và điện thoại.
Tổng lãnh Thiên Thần Raphae là một trong bảy vị tổng lãnh hầu cận trước nhan Thiên Chúa. Ngài đã thực hiện phận vụ này trong câu chuyện Tôbia, sau khi Ngài giữ gìn trẻ Tôbia trong một cuộc hành trình xa và khi được chữa lành cho Tôbia cha được sáng mắt. Trong Tân ước, Tổng lãnh Thiên Thần Raphael được đồng hoá với vị Thiên Thần đã khuấy nước trong hồ gần Giêrusalem và lại xuống hồ trước tiên khi nước mới sủi lên, thì bất cứ mắc bệnh tật gì đều được khỏi cả (Ga 5,1-4).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 28/09 Thánh Wenceslaus (907? – 929)
- Ngày 27/09 Thánh Vinh-sơn Phao-lô (1580?-1660)
- Ngày 25/09 Thánh Elzear và Chân Phước Delphina (1286-1323) (1283-1358)
- Ngày 24/09 Thánh Pacifico ở San Severino (1653 – 1721)
- Ngày 23/09 Thánh Padre Piô (1887-1968)
- Ngày 21/09 Thánh Mátthêu
- Ngày 20/09 Thánh Anrê Kim Taegon
- Ngày 19/09 Thánh Januarius
- Ngày 18/09 Thánh Giuse Cupertino (1603-1663)
- Ngày 17/09 Thánh Robert Bellarmine (1542-1621)