Tin Giáo Hội Việt Nam
Lên đường - Bài giảng của Đức cha Vũ Văn Thiên trong Chúa nhật 15 Thường niên
HẢI PHÒNG - Một khi được sai đi, người ngôn sứ không thể ù lỳ bất động, nhưng phải lên đường. Cuộc lên đường nào cũng đòi hỏi phải chấp nhận hy sinh, thoát ra khỏi vỏ bọc ích kỷ để đến với người khác.
Cuộc sống quanh ta muôn màu muôn vẻ. Mỗi ngày sống chỉ có ý nghĩa khi đem lại niềm vui và hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân. Cuộc sống cũng như dòng chảy, luôn mang theo sức sống đến với mọi người ta gặp gỡ và mọi nơi ta hiện diện. Thiếu niềm vui, cuộc sống sẽ trở nên nghèo nàn đơn điệu vô nghĩa. Cuộc sống cũng luôn là cuộc lên đường, mở rộng tầm nhìn, khám phá những điều kỳ diệu Thiên Chúa đang không ngừng thực hiện mỗi ngày, để ca tụng tôn vinh và loan báo tình thương của Ngài đối với nhân loại. Đối với người tin Chúa, mỗi ngày sống là một cuộc lên đường. Càng nhiệt thành lên đường, ta càng nhận ra cuộc đời này tươi đẹp.
Tiếp nối tư tưởng sứ mạng “ngôn sứ” được diễn giải trong Chúa nhật trước, Lời Chúa hôm nay muốn phác họa chân dung người ngôn sứ trong cuộc sống hiện tại. Ngôn sứ là người được sai đi nói lời của Chúa. Một khi được sai đi, người ngôn sứ không thể ù lỳ bất động, nhưng phải lên đường. Cuộc lên đường nào cũng đòi hỏi phải chấp nhận hy sinh, thoát ra khỏi vỏ bọc ích kỷ để đến với người khác. Đến với người khác là chấp nhận họ cùng với những khiếm khuyết và bất toàn của họ trong nhân cách cũng như mối tương giao.
Chẳng có ai sinh ra lập tức đã là ngôn sứ, nhưng phải rèn luyện bản thân và thiện chí học hỏi. Ngôn sứ Amos đã được Chúa gọi “bất thình lình” khi ông đang đi theo đàn chiên. Ông tự nhận mình không phải là một ngôn sứ cha truyền con nối. Nhưng một khi đã được Chúa gọi, ông làm hết sức mình để chuyển tải lời giáo huấn của Chúa cho dân (Bài đọc I). Chúa có quyền tự do chọn lựa và gọi những ai Ngài muốn. Tất cả đều có thể cộng tác với Ngài để thi hành nhiệm vụ ngôn sứ. Không có ai lấy cớ, sức khỏe, học vấn, địa vị xã hội… để khước từ sứ mạng cao quý này. Hiệu quả của nhiệm vụ ngôn sứ không đến từ sự khôn ngoan loài người, nhưng do Chúa làm nên. Ngôn sứ Giona đã lên đường với toan tính kiểu con người, tức là trốn tránh trách nhiệm Chúa trao vì quá nặng nề, nhưng kết cục, ông vẫn phải đến nơi Chúa muốn sai ông đến. Trong Cựu ước, có những vị ngôn sứ vì sợ cường quyền hoặc ham muốn bổng lộc, đã làm sai lệch ý Chúa. Những vị này đã phải chuốc lấy thất bại, vì tội bất trung.
Mỗi người tín hữu là một ngôn sứ được sai vào lòng đời. Thánh Máccô thuật lại việc Chúa Giêsu sai các môn đệ lên đường. Hành trang các ông mang theo trước hết là quyền năng và sức mạnh thần thiêng của Chúa. Nhờ quyền năng này, các ông có thể xua trừ ma quỷ, đẩy lui sự tấn công của thần ô uế và những mãnh lực tăm tối. Những người được sai đi không làm việc đơn lẻ, nhưng trong tình hiệp thông và liên kết với anh em mình. Đó là lý do tại sao Chúa sai “từng hai người đi”. Sự liên kết này vừa tạo sức mạnh trong việc loan báo, vừa là một chứng từ sống động để giúp người khác nhận ra sứ điệp của Chúa.
Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta trở nên những ngôn sứ của Giao ước mới. Thánh Phaolô khẳng định: Thiên Chúa đã chọn chúng ta từ trước khi tạo dựng thế gian, với mục đích để chúng ta nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài (Bài đọc II). Đây chính là vinh dự của người Kitô hữu. Vinh dự này đem lại cho chúng ta ân sủng và niềm vui. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương cũng thúc bách chúng ta hãy loan báo tình yêu thương ấy cho mọi người. Đó chính là nhiệm vụ ngôn sứ mà chúng ta đã lãnh nhận khi được thanh tẩy.
Nhiệm vụ ngôn sứ gắn liền với những khó khăn chống đối và thử thách trăm chiều. Chúa Giêsu là vị Ngôn sứ vĩ đại khôn ngoan, đã chấp nhận những phản đối từ phía đồng bào của Người và đã phải chết trên thập giá, do sự ghen tương thù nghịch của họ. Những ngôn sứ tiếp nối Chúa Giêsu không thể khước từ thập giá, vì thập giá là con đường Chúa đã đi, là phương tiện Chúa đã sử dụng và là phong cách Chúa qua đó Chúa thể hiện tình thương vô biên của Chúa Cha đối với nhân loại.
Thi hành nhiệm vụ ngôn sứ qua lời rao giảng. Đó là điều đương nhiên. Tuy vậy, người Kitô hữu còn phải thực hiện chức năng này qua chính cuộc sống hằng ngày. Sự thân thiện, cởi mở, bao dung, nhân hậu, hiếu hòa, độ lượng… đều là những chứng từ tuyệt vời khẳng định chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu. Khi cố gắng trau dồi những đức tính trên đây, mặc dù chúng ta chẳng đi đâu xa, nhưng vẫn đang lên đường mỗi ngày. Với thiện chí của bản thân và ân sủng của Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ đem lại những hoa trái và thành công.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Nguồn: Giáo phận Hải Phòng
Thánh Lễ Khấn Dòng 2018 tại Đan Viện Thiên An Huế
Tại Đan Viện Thiên An, một bầu khí an tĩnh thường ngày trong đời sống đan tu nhường chỗ cho sự rộn ràng niềm vui, một niềm vui thánh thiện của sự hiệp thông, chia sẻ trong Thánh Lễ mừng kính Thánh Tổ Phụ Biển Đức và Hồng ân Thánh hiến Đan tu.
Thánh Lễ được cử hành vào lúc 06g00 ngày 11.7.2018 do Cha Louis Gonzaga Đặng Hùng Tân, Bề trên Giám quản Đan Viện chủ tế. Cùng đồng tế trong Thánh lễ này, còn có quý Cha thuộc triều và dòng đến từ nhiều giáo phận. Ngoài ra, còn có sự tham dự và hiệp thông cầu nguyện của quý Tu sĩ nam nữ, quý bà con thân nhân các Đan sĩ.
Trong dịp này có 6 Đan sĩ được Khấn Trọng:
– Đan sĩ Phêrô Mônica Nguyễn Văn Chinh
– Đan sĩ Justinô Nguyễn Văn Mai
– Đan sĩ Tôma Aquinô Trần Phúc Danh
– Đan sĩ Augustinô Cao Đình Khương
– Đan sĩ Bônifaciô Nguyễn Văn Liễu
– Đan sĩ Phanxicô de Sale Lê Ngọc Hoàng
Mở đầu Thánh Lễ, Cha Louis Gonzaga chủ tế mời gọi cộng đoàn cùng hiệp ý tạ ơn với Đan Viện Thiên An trong dịp 6 Đan sĩ được tuyên khấn trọn đời, và xin mọi người tiếp tục cầu nguyện để các Đan sĩ càng ngày càng trở nên thánh thiện, biết phụng sự Thiên Chúa trong đời sống đan tu của mình.
Sau phần công bố Tin Mừng, Cha Grêgôriô Trần Văn Tuấn (thuộc Đan Viện Thiên An) đã có những tâm tình chia sẻ với cộng đoàn hiện diện, qua các bài đọc và bài Tin Mừng nói về việc từ bỏ tất cả mọi sự để theo Chúa, và với tấm gương của Thánh Biển Đức Tổ Phụ, Ngài đã nhấn mạnh đến điều quan trọng nhất để tìm kiếm chính là Nước Trời, và sự sống đời đời là gia tài lớn nhất.
Người Đan sĩ không phải là ra đi phục vụ ngoài xã hội như các Hội Dòng khác, nhưng là qua cuộc sống chiêm niệm ở trong Đan viện, để cầu nguyện cho các công việc của Giáo Hội, cầu cho những người đang rao giảng Tin Mừng. Và gia tài lớn nhất mà Đan viện trong mỗi dịp Lễ Khấn thường trao cho các Đan sĩ chính là Sách Kinh Thần Vụ. Đó là dấu chỉ để nói lên bản thân người Đan sĩ giờ đây thuộc về cộng đoàn, được hiến dâng thuộc về Thiên Chúa, và một ngày sống với những lời kinh được cất lên để cầu nguyện cho tất cả mọi người.
Đối với các Đan sĩ được Khấn trọng hôm nay, Ngài chia sẻ rằng đây chưa phải là “đỉnh cao” của đời sống đan tu, nhưng chỉ mới là bước khởi đầu trên hành trình dâng hiến của mỗi người, và mỗi ngày là những cố gắng không ngừng để bản thân được hoàn thiện hơn.
Kết thúc bài chia sẻ, Cha Grêgôriô mong ước mọi người tiếp tục cầu nguyện thêm cho các Đan sĩ, để mỗi ngày cho dù gặp phải nhiều Thập Giá chông gai, vẫn luôn vững tâm để vượt qua, từ đó biết vươn lên trong đời sống đan tu của mình.
Tiếp đến là Nghi thức Khấn trọng với các phần: giới thiệu các Đan sĩ được Khấn trọng, các Đan sĩ đến quỳ trước cha mẹ của mình để được cha mẹ đặt tay lên đầu chúc lành và dâng con mình cho Chúa.
Sau phần thẩm vấn của Cha Bề trên Giám quản, các khấn sinh phủ phục trước bàn thờ, cộng đoàn sốt sắng với kinh cầu Các Thánh, sau đó các khấn sinh đọc lời khấn và ký vào đơn khấn trước khi trình lên Cha Bề trên Giám quản.
Tiếp đến, các tân Khấn sinh dang rộng tay cất lên lời ca dâng hiến: “Lạy Chúa, theo lời Chúa xin nhận lấy con…”. Đây là cử chỉ nói lên tâm tình tín thác hiến dâng đời mình trong vòng tay của Thiên Chúa.
Cha Bề trên Giám quản long trọng dâng lời nguyện chúc lành, làm phép tu phục Khấn trọng rồi mặc cho các khấn sinh, tiếp đến là trao Sách Kinh Thần Vụ.
Kết thúc Nghi thức Khấn dòng, Cha Bề trên Giám quản chúc bình an cho các khấn sinh, sau đó lần lượt quý Cha và các Đan sĩ trong Đan viện lần lượt chúc mừng.
Thánh lễ tiếp tục trong tâm tình tạ ơn của các Đan sĩ Khấn trọng cũng như toàn thể bà con thân nhân và cộng đoàn hiện diện hôm nay.
Kết thúc Thánh lễ, Cha Bề trên Giám quản Louis Gonzaga thay mặt cho Đan viện nói lời cám ơn quý Cha, quý Tu sĩ nam nữ, quý Ân nhân, quý Thân nhân đã hiện diện, hiệp thông và cầu nguyện cho Đan Viện.
Tạ ơn Chúa về Hồng ân Thánh hiến Đan tu hôm nay, ước mong các Đan sĩ Khấn trọng luôn biết can đảm để trung tín trong ơn gọi của mình, ngõ hầu qua đời sống âm thầm, tĩnh lặng chiêm tu, các Đan sĩ trở nên chứng tá sống động của Thiên Chúa.
Ban Truyền Thông TGP Huế
Lễ truyền chức Linh mục Vincent Nguyễn Quốc Bảo SDB, một nhà truyền giáo tại Paraguay Nam Mỹ
Tại Asunción, Paraguay, ngày 7 tháng 7 năm 2018 - Giáo xứ Virgen del Carmen đã tưng bừng cử hành một lễ hội, mừng ngày thụ phong Linh mục của thầy Salesian Vincent Nguyễn Quốc Bảo, một người Việt Nam truyền giáo. Đức cha Gabriel Escobar SDB, Giám mục Giáo phận Tông Tòa Chaco Paraguayo chủ phong.
Hiện diện trong Thánh lễ có khoảng 200 tín hữu và đông đảo các sơ Salesian FMA, và nhiều thanh niên nam nữ.
Các tu sĩ Salesian đã hiện diện ở Chaco từ năm 1917 và năm 1948 giáo điểm này được nâng lên là Giáo Phận Tông Tòa, là một trong 6 lãnh thổ truyền giáo được giao phó cho Tu Hội Salesian đảm trách tại Châu Mỹ Latinh. Dân số của Tông tòa này chỉ có 19.000 người (6000 trong số đó là người dân bản địa): Gồm 16.500 là người Công Giáo, 1.500 là các giáo phái Kitô giáo khác và 1000 người không phải là Công Giáo. Lãnh thổ của Tông tòa này trải rộng trêm một phạm vi 96.030 km2, với mật độ rất thấp 0,2 người/km2 và chưa có đường trải nhựa nào cả.
Trong số các giáo sĩ của Tông tòa này có 4 vị truyền giáo đến từ vùng Á Châu: 3 từ Việt Nam và một từ Indonesia, tất cả được cha Bề trên cả Artime sai đến vào năm 2010.
Cha Vincent Bảo (37 tuổi) là một trong những thành viên của chuyến Truyền giáo lần thứ 139, sau khi thầy hoàn thành tất chương trình Triết học tại Học viện Don Rua Đà Lạt, Việt Nam.
Lời chào mừng và tuyên bó lý do Đêm Thắp Nến tại Trung Tâm Công Giáo Orange 6-7-2018
Kính thưa Quí vị lãnh đạo tin thần các tôn giáo,
quí vị dân cử, quí đại điện cộng đồng, cộng đoàn, đoàn thể, quí ông bà và anh chị em.
Thay mặt cho ban tổ chức Đêm thắp nến cầu nguyện cho quê hương VN hôm nay tôi xin trân trọng chào mừng toàn thể quí vị và trân trọng sự hiện diện của quí vị. Điều này nói lên nhiệt huyết và ý chí của những người Việt Nam ở hải ngoại muốn cùng đồng hành và chia sẻ những khắc khoải đau thương của đồng bào của chúng ta tại VN.
Qua buổi cầu nguyện này chúng ta thành tâm Thiên Chúa và Đấng Thiêng Liêng phù trợ và nâng đỡ những người VN đang tranh đấu cho tự do, công lý, và vẹn toàn lãnh thổ Việt Nam.
Đồng bào VN đã biểu tình khơi nguồn từ những ngày 9, mùng 10 tháng 6 cho đến nay tại nhiều thành phố bao gồm Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang và Phan Thiết,v.v… Họ phản đối dự luật Đặc khu kinh tế cho nhà đầu tư nước ngoài thuê đất, báo động về khả năng người Trung Quốc kiểm soát đất đai và gây tổn hại đến chủ quyền quốc gia.
Đồng bào ta đã nhận ra được những cảnh báo tương tự ở những nơi khác, bao gồm cả Kazakhstan vào năm 2016, ở Sri Lanka hiện nay nơi mà nhiều tàu ngầm Trung Quốc cập cảng tại Colombo, khai khẩn và biến nơi này thành khu đất tự trị của Trung quốc.
Hiện nay đã 17 người biểu tình tại Ninh Thuận đã bị bắt, 20 người tại Đồng Nai cũng mới bị bắt và nhiều người khác bị khởi tố chỉ vì họ muốn phát biều lòng yêu nước Rất nhiều người biểu tình khác đã bị cảnh sát đánh đập.
Trong một xã hội thiếu tính minh bạch và có mức điểm thấp về tự do báo chí (xếp thứ 175 trong tổng số 180 quốc gia khảo sát), nay lại còn áp đảo luật an ninh mạng để bóp chết quyền tự do ngôn luận của dân chúng, thì thử hỏi đồng bào chúng ta sẽ bị kìm kẹp và đàn áp đến mức nào.
CSVN thấy cần thiết phải kiểm soát Internet chặt chẽ hơn để ngăn chặn tình trạng bất ổn của công chúng. Facebook thường là phương tiện được lựa chọn để tổ chức các cuộc biểu tình. Luật an ninh mạng yêu cầu Facebook và Google văn phòng ở Việt Nam tiết lộ người sử dụng và dữ liệu cá nhân họ kiểm soát. Từ ngày xẩy ra biều tình đến nay nhiều trang Web ở hải ngoại đã bị khóa tại VN, tiêu biểu như trang VietCatholic. Dù vậy chúng tôi vẫn có cách khác để thông tin tức cập nhật cho đồng bào tại VN.
Người Việt Nam dù ở đâu cũng bày tỏ lòng yêu nước. Nhưng ngày vừa qua, những thông điệp đơn giản từ trong nước như “Không cho Trung Quốc thuê đất dù chỉ một ngày” và “Luật An ninh mạng giết chết tự do”, đã cho thấy dân chúng VN hiểu được tầm quan trọng bị ngoại bang thống trị và tiếng nói của mình bị bóp chết.
Chúc nữa đây chúng ta sẽ được nghe lời chứng và nhận định của 2 vị giám mục Nguyễn thái Hợp và Hoàng Đức Oanh vừa mới gửi cho chúng ta chiều hôm nay về tình hình bất ổn và nguy cơ VN có thể bị Trung Cộng đô hộ như thế nào?
Thưa quí đồng hương, thay mặt cho BTC một lần nửa chúng tôi xin cám ơn toàn thể quí vị hiện điện trong buổi lễ này. Kính chào quí vị.
Bài phát biểu - Hiểm họa của Trung quốc với Việt nam và Thế giới
Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa
Phát biểu tại Đêm Thắp Nến Cầu nguyện cho Quê hương Việt Nam, ngày Thứ Sáu 06 Tháng Bảy 2018 tại Trung Trung Tâm Công Giáo VN Orange
(Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam tại Hoa Kỳ, Liên đoàn Công Giáo Việt Nam Miền Tây Nam Hoa Kỳ, Cộng Đồng Linh Mục Việt Nam Miền Tây Nam Hoa Kỳ và Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange cùng tổ chức).
Chào mừng quý vị lãnh đạo tôn giáo và cảm tạ ban tổ chức. Trong buổi sinh hoạt ý nghĩa này, chúng tôi xin được phát biểu ngắn gọn để giành thời giờ cho nhiều tiết mục khác.
Trọng tâm của chúng tôi không nói về dự luật thành lập ba đặc khu tự trị vì quý vị, các chuyên gia trong ngoài nước, và bản thân chúng tôi, đều đã phê bình nội dung, rồi chế độ lật đật cho đình chỉ biểu quyết đêm mùng chín, rạng mùng 10 Tháng Sáu. Lý do thứ hai là dự luật đó chỉ là mặt nổi, có thể là “giọt nước tràn ly” thôi, chứ vấn đề là tính chất lệ thuộc của Việt Nam vào Trung Cộng thì toàn diện và trầm trọng gấp bội.
Lý do thứ ba là chúng ta cần nhìn rộng ra ngoài: Việt Nam không đơn độc trước hiểm họa đa diện của Trung Cộng vì nhiều quốc gia cũng thấy ra mối nguy đó. Cho nên dân ta có thể huy động các nước cho cùng một mục tiêu là ngăn chặn đà bành trướng của Bắc Kinh.
Vì vậy, là người nghiên cứu về kinh tế, chúng tôi mở đầu về sự lệ thuộc của Việt Nam, trước hết là qua vài dữ kiện cụ thể và xin kêu gọi sự kiên nhẫn của quý cha, quý thầy và quý vị.
Lãnh đạo Cộng sản Hà Nội có chủ đích nguy hại là chọn sách lược kinh tế dại dột khi trông cậy quá nhiều vào đầu tư ngoại quốc. Vì sao nguy hại mà dại dột thì xin sẽ nói sau.
Đầu tư của ngoại quốc vào Việt Nam qua hai ngả chính là thứ nhất, các dự án “xây dựng, quản lý và chuyển lại cho Việt Nam” gọi tắt là BOT mà ngoài này ai cũng nghe dân trong nước nói tới với lời rủa xả; thứ hai là các dự án “thiết kế, cung cấp và xây dựng”, gọi tắt là EPC.
Số liệu từ Việt Nam không có nhiều, mà cũng đủ cho thấy là tính đến năm 2014 thì trong 62 dự án BOT về xi măng, có 49 là do doanh nghiệp Trung Cộng làm tổng thầu, là thực hiện trọn gói, coi như là 80% của Tầu. Trong 27 dự án BOT nhiệt điện thì có 16 dự án là của Trung Cộng, coi như 60%. Về các dự án EPC là thiết kế kỹ thuật, cung cấp máy móc và xây dựng, thì có đến 90% là của Tầu, chính yếu là về dầu khí, hóa chất, điện, dệt kim và quan trọng hơn cả là có tới 30 dự án thuộc loại “trọng điểm quốc gia”, chữ của Hà Nội, với kinh phí hàng tỷ đô la. Tôi xin dùng đơn vị là đô la Mỹ, chứ không nói tới vài chục ngàn tỷ đồng Việt Nam.
Mấy con số trên cho thấy vai trò quá quan trọng của doanh nghiệp Trung Cộng, nhưng chưa nói hết tình trạng thực hiện vô cùng tệ hại vì chậm trễ, phẩm chất tồi mà đội vốn quá đắt, trong khi gây ô nhiễm môi sinh. Nói dễ hiểu là Bắc Kinh tống qua nước ta kỹ thuật và máy móc lỗi thời, bị chính họ phế thải, nhưng với giá đắt.
Họ xuất cảng nạn ô nhiễm qua Việt Nam.
Chúng ta thiếu thời giờ cho loại thống kê u ám đó nên chỉ xin nhắc tới các dự án Tân Rai, Nhân Cơ trong tổ hợp Bauxite tại Cao nguyên Trung Phần, hay dự án Vũng Áng tại Hà Tĩnh đã nổi tiếng từ năm 2016, hoặc hai Nhà máy đạm tại Ninh Bình, tại Hà Bắc, Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình tại Hà Nội, Khu Liên hợp Gang thép Lào Cai hay các dự án nhiệt điện Duyên hải 1, Duyên hải 3, Vĩnh Tân 2, Uông Bí, Hải Phòng 1 và 2, Quảng Ninh 1 và 2, v.v…
Nhưng vì sao Hà Nội có chủ đích chúng tôi gọi là nguy hại và dại dột đó? Chúng ta phải bước từ kinh tế qua chính trị.
Dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản, hệ thống kinh tế chính trị của Việt Nam là hiện tượng tôi xin gọi là “công cụ”. Tài nguyên quốc gia, từ sức lao động của người dân tới đất đai của tổ quốc, là công cụ của nhà nước, mà nhà nước là công cụ của đảng, cho nên đảng viên và cán bộ có toàn quyền định đoạt. Họ định đoạt vì lợi ích riêng, trở thành đại gia tỷ phú về địa ốc chứ chẳng đóng góp gì cho sản xuất và phát triển. Có tiền rồi, họ chuyển ra ngoài. bất kể tới cái giá phải trả về kinh tế, xã hội, môi sinh hay nợ nần mà thế hệ sau phải gánh. Lợi ích riêng cho thiểu số mới thành quốc sách nguy hại.
Nó cộng sinh với chế độ tham nhũng trong đảng.
Nhưng hiện tượng tham nhũng đó liên quan gì tới Trung Cộng? Câu trả lời phải làm chúng ta rợn mình: tham nhũng của thiểu số tại Việt Nam giúp Bắc Kinh thực hiện tham vọng bành trướng. Đó là một hiện tượng cộng sinh khác. Vì sao như vậy?
Vì nhà nước Việt Nam là công cụ của đảng Cộng sản Việt Nam, mà đảng Cộng sản Việt Nam là công cụ của đảng Cộng sản Trung Quốc. Đấy là một xoáy ốc nhiều tầng đan kết dìm dân ta xuống đáy. Doanh trường thì nói đến công ty công cụ, “captive company”. Chúng ta phải nói đến “captive nation”, một quốc gia bị làm công cụ.
Chúng tôi xin được kết luận phần một: “hiểm họa Trung Cộng nằm tại Hà Nội, và là vấn đề mà dân Việt phải giải quyết.” Qua phần hai, tôi xin kết luận rằng “dân Việt không giải quyết một mình”.
***
Sáu năm trước, Tổng bí thư Tập Cận Bình của Trung Cộng nói tới một sáng kiến là “Con Đường Tơ Lụa Mới”, sau này được họ khai triển và sửa tên nhiều lần, thành “Nhất Đới Nhất Lộ”. “Đới” là sáu hành lang trên đất liền từ nội địa Trung Hoa qua Trung Á, Nam Á, Trung Đông tới Âu Châu. “Lộ” là đường giao lưu trên biển, từ vùng duyên hải của Trung Hoa xuống biển Thái Bình, qua Ấn Độ Dương tới Đông Phi và Trung Đông rồi Âu Châu.
Mục tiêu kế hoạch gồm các chương trình và dự án nhắm vào an ninh và kinh tế, với tham vọng kết hợp 70 quốc gia và khống chế toàn đại lục Âu Á, từ Tây Âu tới Viễn Đông và xuống tận Úc Châu. Nhưng sáu năm sau, thế giới mới phát giác những điều mà Việt Nam đã biết từ trước, từ mấy năm 2009-2016, về các dự án do Trung Cộng thực hiện.
Vẫn là nống giá, với phẩm chất kém, ô nhiễm cao và tham nhũng chồng chất cho nên nhiều dự án bị đình hoãn, hủy bỏ hoặc gặp sự phản đối của người dân tại chừng một chục quốc gia. Đó là về giá trị kinh tế. Về chính trị, Bắc Kinh liên kết với các chế độ độc tài và tham ô, và gây tai họa làm người dân bản xứ nổi giận.
Về an ninh thì kế hoạch chỉ là sự bành trướng không thèm che giấu, đi cùng việc quân sự hóa bảy cụm đảo nhân tạo trên vùng Trường Sa, khiến các cường quốc khác đã báo động và cảnh giác.
Quan trọng hơn cả là việc Bắc Kinh tung tiền lũng đoạn các nước, từ học đường tới doanh trường và chính trường, kể cả cường quốc dân chủ như Úc, Tân Tây Lan, cho nên từ một năm nay các quốc gia này đã có phản ứng dữ dội.
Nhìn từ lục địa ra biển, Bắc Kinh lạm thác, là khai thác với lạm dụng, đầu nguồn của các dòng sông lớn, kể cả sông Mekong. Họ vét cá cướp dầu ngoài đại dương, lại còn muốn kiểm soát việc giao lưu ngoài Đông Hải của Việt Nam, hay biển Đông Nam Á của các nước. Vì vậy, không chỉ Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc đang kết hợp nỗ lực ngăn chặn mà nhiều nước Đông Nam Á, và thậm chí Anh với Pháp đang cùng nhau dàn trận để bảo vệ quyền tự do lưu thông ngoài biển.
Trong khi đó, nội tình Trung Cộng lại có quá nhiều mâu thuẫn nan giải, đang bùng nổ thành biểu tình công khai của bộ đội hồi hưu hay ngấm ngầm phá hoại của đảng viên cán bộ muốn bảo vệ quyền lợi riêng tại các địa phương và khu vực xưa nay họ vẫn kiểm soát khỏi sự chỉ đạo của trung ương đang tập trung vào tay Tập Cận Bình.
Nếu nhìn trên toàn cảnh như vậy thì chúng ta thấy gì?
Trung Cộng không mạnh như ta thường nghĩ, hoặc như giới trí thức thiên tả của Tây phương vẫn ngợi ca. Đấy là nơi mà người dân chưa giàu đã già, nhà nước chưa hùng mà đã hung, và lãnh tụ toàn quyền là Tập Cận Bình đang xoay trở với những “mâu thuẫn cơ bản của kỷ nguyên mới”, như ông ta phát biểu sau khi sửa Điều lệ đảng và Hiến pháp để thành Hoàng đế vĩnh viễn từ Đại hội 19 vào cuối năm ngoái.
Trung Quốc Mộng của ông ta chỉ là chuyện mộng mị. Thực chất là một cơn ác mộng, sẽ kéo dài cả chục năm khi mà đà tăng trưởng hết còn như xưa và gánh nợ còn vĩ đại hơn Vạn Lý Trường Thành.
Nhưng then chốt hơn cả, chuyện mộng mị đó lại gây hậu quả bất lường là tạo ra sự liên kết của các quốc gia tôn trọng tự do, dân chủ và nhất là chủ quyền của người dân. Cuộc bầu cử vừa qua tại Malaysia, với Chính quyền mới đã tống giam Thủ tướng cũ về tội tham ô cấu kết với Bắc Kinh, là một nhắc nhở cho Việt Nam.
Khi đó, dân ta có thể làm gì? Tôi xin được đi vào đoạn kết.
***
Chúng ta phải thấy một sự thật là dân Việt Nam ta không đơn độc.
Trung Cộng là vấn đề cho Việt Nam. Vấn đề ấy nằm tại Hà Nội, là đảng Cộng sản Việt Nam, cho nên người Việt Nam phải giải quyết lấy chứ không thể trông chờ ngoại quốc. Nhưng Trung Cộng cũng là vấn đề cho thế giới, mà vì quyền lợi của họ, các nước đều đang cùng giải quyết. Người Việt Nam sẽ góp phần giải quyết vấn đề đó của thế giới, khi vận dụng sức mạnh của các nước kia. Việc đó trực tiếp có lợi cho giải pháp của người Việt ở trong nước.
Một cách cụ thể thì người Việt tại hải ngoài cần hỗ trợ đồng bào trong nước, một cách sáng suốt và liên tục với sự sáng tạo của hoàn cảnh mới. Người dân hết tin vào đảng mà cũng hết sợ, chúng ta nên linh động yểm trợ theo tinh thần đó.
Nhưng người Việt hải ngoại còn có thể làm hơn vậy. Đó là huy động sự quan tâm và hợp tác của các nước khác.
Thiết thực mà nói thì huy động thế nào?
Tại mọi quốc gia có người tỵ nạn sinh sống, hãy vận động giới dân cử gốc Việt nhìn ra khỏi khuôn khổ địa phương mà tranh thủ hậu thuẫn ở cấp cao hơn. Như tại Hoa Kỳ, phải lên tới tiểu bang và liên bang. Tiếng nói của cử tri gốc Việt cần tập trung vào đó chứ không nên xé lẻ vì mâu thuẫn cục bộ.
Song song, chúng ta nên mở ra phong trào “quốc tế vận”.
Đó là vận dụng các định chế quốc tế trên toàn cầu và tại Đông Á, kể cả các tôn giáo lớn. Đó là liên lạc các tòa đại sứ và tổng lãnh sự của các nước đang ngăn chống sự bành trướng của Trung Cộng. Họ cần biết là người Việt đang đấu tranh cho mục tiêu chính đáng, có chính nghĩa, và phù hợp với những giá trị tinh thần của nhân loại văn minh. Thiết thực là chúng ta phải có địa chỉ, điện thoại và điện thư email của các nơi này để thường xuyên thông báo, nhắc nhở và lập kiến nghị yêu cầu họ hưởng ứng. Chúng ta cần họ thì họ cũng cần chúng ta.
Sau cùng, nên nhớ rằng ta không chống người Hoa và biết cộng đồng Hoa kiều không hoàn toàn do Bắc Kinh chi phối. Hãy tranh thủ hậu thuẫn của họ, tức là có nỗ lực “địch vận” nhằm chia rẽ hàng ngũ địch, chứ không để họ kết tụ thành một khối cho Bắc Kinh mặc tình lợi dụng và sai khiến. Các quốc gia khác cũng muốn như vậy ngay trong xã hội của họ, cho nên có thể hỗ trợ chúng ta.
Kết luận của chúng tôi là ta không đấu tranh vì phản ứng, là cứ đợi xem Hà Nội hay Bắc Kinh làm gì thì phản đối, rồi thôi. Chúng ta cần viễn kiến, nhìn xa hơn thời sự, và nhất là sự bền bỉ. Cuốn lịch không chỉ có mấy ngày cuối tuần, còn những ngày khác thì cứ để cái ác hoành hành.
Chúng tôi xin trân trọng cảm tạ sự quan tâm theo dõi của toàn thể quý vị.
Bài phát biểu - Căn cước của chúng ta: Chúng tôi là nhân dân
của Mục sư Nguyễn Xuân Hồng, Chủ tịch Hội Đông Liên Tôn
Kính thưa các bậc trưởng thượng, kính thưa quí vị lãnh đạo các tôn giáo, các cơ quan chính quyền, các đoàn thể xã hội, cùng toàn thể quan khách. Tôi xin mạn phép thay mặt HĐLT VN tại HK mạo muội trình bày một vài ý kiến kính gởi đến quí vị cũng như toàn thể đồng bào trong nước.
Kính thưa quí vị! Dietrich Bonhoeffer một vị mục sư và nhà thần học Tin Lành nổi tiếng Đức quốc vào thời Thế chiến II đã nói một câu bất hũ: “Silence in the face of evil is itself evil: God will not hold us guiltless. Not to speak is to speak. Not to act is to act.” (Im lặng trước điều ác chính là một điều ác. Đức Chúa Trời sẽ không bỏ qua cho chúng ta đâu. Không nói gì hết tức là nói đấy. Không làm gì hết tức là làm đấy). Ông đã thực hành điều mình nói, đã tham gia công cuộc lật đổ Hitler, bị bắt và chịu tử hình trước khi quân đồng minh tiến vào. Tôi có nghe trên youtube một số bài giảng của những linh mục trẻ ở VN mạnh dạn lên án những bất công tệ nạn ở trong nước. Cũng như Bonhoeffer, họ là những người chăn chiên can đảm, ý thức được trách nhiệm ngôn sứ của mình, nói lên sự thât và sẵn sàng chấp nhận hậu quả.
Kính thưa đồng bào trong nước, Chúng tôi ở đây cách xa tổ quốc ngàn dặm đại dương, không thể làm gì nhiều hơn là bày tỏ sự đồng tình với đồng bào và cầu nguyện cho đồng bào. Rồi đây, đồng bào sẽ còn phải hành động nhiều nữa, hi sinh nhiều nữa, nhưng xin hãy nhớ cho rằng chúng tôi sẽ luôn luôn sát cánh với đông bào, yễm trợ đồng bào bằng mọi cách có thể được.
Tôi xin có một đề nghị nhỏ với đồng bào, tôi không kêu gọi biểu tình, chống đối hay bạo động, bất kỳ nam nữ, già trẻ, giàu nghèo cũng đều có thể làm được đề nghị nầy. Đó là mọi người hãy mang trước ngực mình hàng chữ: CHÚNG TÔI LÀ NHÂN DÂN. Không ai có quyền cấm đồng bào làm điều đó. Một hành động có vẻ tầm thường nhưng lại rất quan trọng, vì nó nhắc nhở đồng bào nhớ lại cái địa vị thật sự của mình là chủ nhân của đất nước. Nó giúp đồng bào ý thức được vai trò và sức mạnh của mính. Đồng bào sẽ hành động như một tập thể chứ không phải như những cá nhân lẻ loi nữa.
CS là tổ sư của trò chơi chữ, đánh tráo khái niệm. Họ hô hào ‘đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ’. Đảng là họ rồi, nhà nước cũng của họ nữa, nhưng còn nhân dân là ai? Thưa, là tất cả mọi người, nghĩa là không phải là ai hết. Khi nhân dân chỉ là cái bóng ma, không có mặt mũi tên tuổi, thì đảng cứ tha hồ nhân danh nhân dân ăn ngược nói ngạo, nghĩ quấy làm càng. Nếu kêu ca, phản kháng, thì cứ gán cho cái tội chống lại nhân dân, ném vào tù là xong.
Bây giờ, nếu cả 90 triệu người không phân biệt già trẻ, giàu nghèo, học thức mù chữ, trong thôn quê ngoài thành phố, trên cao nguyên dưới đồng bằng, cùng vỗ ngực xưng với đảng rằng CHÚNG TÔI LÀ NHÂN DÂN đây, thì sẽ không một ai dám khinh thường đồng bào nữa. Bởi vì khi ấy đồng bào thuộc về đa số tuyệt đối, một người bị đàn áp thì có cả chục cả trăm binh vực; một người bị bao vây thì có cả trăm cả ngàn người đến giải thoát; một người bị đánh chết thì cả vạn ức nguòi kéo nhau đi đòi công lý. Kẻ ác chỉ mạnh khi mọi nguòi khoanh tay đứng nhìn trong lúc chúng hiếp đáp người khác. Nhưng khi mọi nguòi ý thức rằng hôm nay họ là nạn nhân thì ngày mai sẽ đến minh, cùng hè nhau binh vực họ, thì chắc chắn lũ cướp sẽ phải ngán sợ.
Đồng bào là nhân dân, là con thừa tự của mẹ VN tiền rừng bạc biển, là chủ nhân thật sự của giang sơn gấm vóc nầy. Khi còn non nớt, đồng bào chưa ý thức được quyền lợi của mình, bị tên quản lý là đảng CS lừa phỉnh chiếm đoạt gia tài, chỉ nuôi đồng bào bằng cơm thừa canh cặn, lại còn dạy đồng bào phải biết ơn nó. Nhưng nay đồng bào đã trưởng thành, đã rõ âm mưu xảo quyệt của tên đầy tớ, hãy công bố căn cước của mình, hãy nói lớn rằng CHÚNG TÔI LÀ NHÂN DÂN, chúng tôi là chủ đất nước nầy! Khi ấy đồng bào sẽ không cần năn nỉ xin huỷ bỏ hay thu hồi một đạo luật nào cả. Đồng bào có quyền giải tán cái quốc hội bù nhìn ăn hại, chuyên ngủ gục và bấm nút thuận. Đồng bào có quyền đứng ra tổ chức bầu cử quốc hội lập hiến, huỷ bỏ cái hiến pháp lạc hậu phản động cho phép cái đảng gian trá được ngồi vĩnh viễn trên đầu nhân dân, để thay bằng một hiến pháp tiến bộ tự do dân chủ và công bình thật sự. Khi đât nước về tay đồng bào, đồng bào sẽ được quyền lựa chọn những người cầm quyền trong sạch đạo đức thay cho những phần tử sa đoạ, độc ác. Khi ấy những bộ óc lỗi lạc của người Việt trên thế giới sẽ kéo về để giúp VN phát triển, ngoại tệ sẽ đổ về gấp 10 lần tiền cho mướn đặc khu, lực lượng hùng mạnh của thê giới dân chủ sẽ giúp đẩy giặc bành trướng ra khỏi Hoàng Sa Trường Sa.
Mong rằng đề nghị nầy sẽ được mọi giới cổ võ và hưởng ứng. Để tỏ tình đoàn kết với đồng bào, chúng tôi cũng xin gắn lên ngực hàng chữ CHÚNG TÔI LÀ NHÂN DÂN. Xin mọi người cùng tôi hô to khẩu hiệu: TỔ QUỐC VN MUÔN NĂM! NHÂN DÂN VN MUÔN NĂM!
Xin trân trọng kính chào quí vị.
VietCatholic bị tường lửa ngăn chặn, xin giúp chúng tôi một tay
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Từ trước đến nay, VietCatholic thường xuyên bị tường lửa ngăn chặn tại quê nhà. Tuy nhiên, từng nơi, từng lúc vẫn có thể vào được.
Kể từ ngày 10 tháng Sáu đến nay, số lượng người vào Web site của VietCatholic chỉ còn 28% so với thời gian ngay trước đó. Đây là một sự sút giảm kinh hoàng và đột ngột chúng tôi chưa bao giờ trải qua trong hơn 20 năm hiện diện trên mạng lưới toàn cầu.
Phân tích các con số thống kê, chúng tôi thấy sự sụt giảm đột ngột này là do hầu hết quý vị và anh chị em ở Việt Nam không thể vào được nữa.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn bị điện tặc với các IP address từ Thượng Hải và Bắc Kinh tấn công rất quyết liệt trong mấy ngày vừa qua.
Tạm thời, trong khi suy tính một giải pháp lâu dài, xin mời gọi quý vị và anh chị em giúp chúng tôi một tay trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay.
Quý vị và anh chị em có thể giúp chúng tôi bằng cách:
1. LẶNG LẼ (nghĩa là dùng Viber, hay email) báo cho bạn bè, thân nhân các địa chỉ sau để vào VietCatholic
https://tinyurl.com/yb344s3u
https://tinyurl.com/ybsq9vnj
https://tinyurl.com/ya9gjf86
https://tinyurl.com/yomeqk
Những địa chỉ này có thể nhanh chóng bị chặn. Vì thế, xin quý vị và anh chị em theo dõi thường xuyên trên YouTube của VietCatholic. Để vào các kênh YouTube của VietCatholic
Bước 1: Vào YouTube: https://www.youtube.com/
Bước 2: Tìm VietCatholicNews hay VietCatholic
Bước 3: Chúng tôi sẽ loan báo các địa chỉ mới trong các chương trình thường lệ.
Xin cũng giúp gởi những chỉ dẫn này cho anh chị em ở quê nhà biết cách vào các kênh YouTube của VietCatholic.
2. Quý vị nào vào được VietCatholic, xin chia sẻ các thông tin của chúng tôi với anh chị em ở Việt Nam bằng những phương thức quý vị và anh chị em có trong tay (Web, Facebook, Minds, email, Google Drive ...) Quý vị không cần xin phép gì hết. Chúng tôi không hề thắc mắc hay đặt vấn đề tác quyền mà còn cám ơn và xin Chúa trả công bội hậu cho quý vị.
Xin nhớ đến chúng tôi trong lời cầu nguyện. Chân thành cám ơn,
Kỹ sư J.B. Đặng Minh An
Phó Giám Đốc VietCatholic.
Trung tâm hành hương Ba Giồng
WGPSG -- Trong Năm Thánh 2018 tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam, ở mỗi Giáo tỉnh, Hội đồng Giám mục ấn định một Trung tâm hành hương cho Năm Thánh:
- Vương cung thánh đường Sở Kiện: được chọn làm nơi hành hương năm thánh cho Giáo tỉnh Hà Nội;
- Trung tâm hành hương Thánh Mẫu La Vang: được chọn làm nơi hành hương năm thánh cho Giáo tỉnh Huế;
- Trung tâm hành hương Ba Giồng (thuộc Giáo phận Mỹ Tho): được chọn làm nơi hành hương năm thánh cho Giáo tỉnh Sài Gòn.
Riêng về Ba Giồng, người ta có thể thấy, tuy nơi này mới được Đức Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc ấn định là nơi hành hương của Giáo phận Mỹ Tho vào năm 2004, nhưng cộng đoàn tín hữu đã có mặt tại đây từ thuở ban đầu của lịch sử Giáo Hội Việt Nam, nên có thể nói rằng, hành hương nơi này cũng được coi là về thăm một trong những cái nôi của Giáo Hội Việt Nam. Đến đây, người ta có thể chiêm ngắm những ngôi mộ cổ của các tín hữu ghi năm 1663, 1664…
Trung tâm hành hương Ba Giồng nằm trong khuôn viên của nhà thờ giáo xứ Ba Giồng - một họ đạo lâu đời nhất của Giáo phận Mỹ Tho. Lịch sử họ đạo Ba Giồng gắn liền với các biến cố bách hại đạo Công giáo ở Tây Đàng Trong. Những người dân thuở xưa sống ở nơi này đã từng chứng kiến cảnh tử đạo của rất nhiều tín hữu (1783, 1836, 1861…). Và trong số 117 vị thánh Tử đạo tại Việt Nam, có 2 linh mục phụ trách họ đạo Ba Giồng là cha Philipphê Phan Văn Minh - phục vụ Ba Giồng từ năm 1849 đến 1853, và cha Phêrô Nguyễn Văn Lựu - phục vụ Ba Giồng từ năm 1852 đến 1861. Cha Phillipphê Minh là vị đầu tiên nằm trong danh sách những linh mục coi sóc họ đạo Ba Giồng.
I. GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH
1. Tên gọi Ba Giồng
Tài liệu “27 vị tử đạo tại Ba Giồng (Mỹ Tho)” của Linh mục M. Hamon (1882) - hiện còn lưu trữ tại Hội Thừa Sai Paris - có nhắc đến sự hình thành tên gọi Ba Giồng như sau:
Ở tỉnh Mỹ Tho có một cánh đồng lầy rộng lớn. Vào mùa mưa, cánh đồng ấy biến thành một hồ nước mênh mông. Ở lối vào đồng lầy này, nước cuốn dồn cát lại như tạo cho mình một rào chắn không thể vượt qua nổi. Với thời gian, những đụn cát ấy cao dần lên. Một cộng đồng nho nhỏ đã dần dần hình thành ngay trên ba giồng cát này, với một rừng tre xanh có ngọn cao vây quanh như một vòng đai xanh, đó chính là xóm nhỏ Ba Giồng.
Thuộc làng Tân Lý Đông, gần chợ Cổ Chi, xóm Ba Giồng không có gì khác biệt với các xóm làng khác: cũng những túp lều người dân An Nam, lợp tranh bé lớn tùy theo mức sống của người dân ở đó. Giữa xóm có một ngôi nhà lớn hơn với cây Thánh Giá nổi bật. Dân cư không giàu sang mà cũng không túng quẫn, hầu như mọi người đều sống bằng lao động của đôi bàn tay, thế nhưng họ có một kho báu mà họ coi trông hơn tất cả mọi của cải giàu sang, đó là Đức Tin.
2. Hình thành Họ đạo Ba Giồng
Tài liệu “27 vị tử đạo tại Ba Giồng” kể tiếp: “Không ai biết xóm đạo được thành lập từ bao giờ. Rất có thể, dân cư đã trở lại đạo từ một thời xa xưa. Các cụ già thường chỉ cho con cháu ngôi mộ của ba thế hệ đã sống trước họ mà tất cả đều là người có đạo Công Giáo”.
Nếu đến thăm Đất Thánh của họ đạo này, ta sẽ thấy có một ‘mộ bia đôi’ ghi niên đại 1663, một mộ bia khác ghi niên đại 1664, và nhiều ngôi mộ cổ ghi chữ Nho mà nay đã lu mờ không thể đọc được. Đặc biệt, có một ngôi mộ xây bằng đá xanh rất đẹp niên hiệu Đinh Hợi 1887 - có câu đối chữ Nho khắc sâu: “Sơn Trung Phương Uất Nhật - Thế Phượng Dĩ Thiên Niên”, tạm dịch: “Giữa núi gặp ngàn mây bay - trần thế đã ngàn năm”, ý nói: “ngàn năm như mây bay”, diễn ý: “Đời người dầu đạt tột đỉnh cũng qua mau như mây khói!”
Một tài liệu khác được lưu trữ tại Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn - là bản tường trình của linh mục F. Demarcq (cha sở họ đạo Tân An 1911), thừa sai Tông Tòa - đã xác định sự hiện diện từ rất sớm của họ đạo Ba Giồng:
“Do tính cách lâu đời của nó, họ đạo này đáng đứng chỗ nhất; tất cả các họ đạo khác tương đối mới có khá gần đây.
“Theo những lời truyền tụng khá chắc chắn, vào khoảng năm 1700 hoặc 1702, dưới triều đại Minh Vương, chừng 20 ghe biển rời bờ Phú Yên, lìa xa các bở biển An Nam, mang theo khoảng 30 gia đình Kitô giáo. Những gia đình này trốn tránh cuộc bắt đạo và trẩy về hướng Nam Kỳ. Ghe ngược dòng tới chỗ bắt đầu cánh đồng lác rộng lớn và dừng lại ở miệng con rạch ngày nay gọi là Rạch Chanh. Rạch Chanh là một con rạch do nước từ đồng lớn tràn xuống kết thành mà trước kia chảy ngang qua những cánh rừng bao la.
“Đầu tiên tất cả các gia đình lập cư ngay trên con rạch này, và ghe lại trở về Phú Yên rước thêm những gia đình khác. Sáu tháng sau, ghe trở lại đem theo những Kitô hữu khác còn đông hơn nữa. Những người này cũng lập cư cùng một chỗ với những người đến lần đầu.
“Khu vực này lại ở ngay bên sông, như sự cố sau đây chứng minh: Ngày kia, một vài người đánh cá trong sông thì bị một chiếc thuyền chở ông quan từ Sài Gòn đi Châu Đốc bắt gặp. Họ bị bắt và bị đem đi. Tất cả Kitô hữu khác khiếp sợ, vội vã bỏ nơi ấy để đi sâu vào trong rừng, cho tới Ba Giồng bây giờ và lập cư tại đó. Về sau, nhiều Kitô hữu Phú Yên khác chạy trốn các cuộc bắt đạo cũng đến nhập cư với họ. Ngoài ra, Kitô hữu vùng lân cận Sài Gòn, Biên Hòa, Mỹ Tho cũng đến nhập cư và làm con số giáo hữu lên đến 3.000 người”.
3. Chứng nhân đức tin
Năm 1783 khi bị Tây Sơn đánh đuổi, Nguyễn Ánh (Gia Long) có chạy ghé qua Ba Giồng, được dân ở đây cho ăn uống. Chính vì vậy, quân Tây Sơn đã nghi ngờ và giết khoảng 150 người ở họ đạo Ba Giồng.
Năm 1836, trong cuộc bách hại thời vua Minh Mạng (trị vì 1791 - 1841), quan quân đã cho giết khoảng 1700 tín hữu Công giáo ở Ba Giồng.
Vào thời vua Tự Đức (trị vì 1847 - 1883), vị linh mục từng phục vụ giáo xứ Ba Giồng là cha Philipphê Phan Văn Minh đã bị bắt vào ngày 26-2-1853 tại Mạc Bắc (Vĩnh Long) và bị xử tử vào ngày 7-3-1853 tại pháp trường Đình Khao (Vĩnh Long). Còn linh mục Phêrô Nguyễn Văn Lựu thì bị bắt vào năm 1860 khi đang là cha sở ở vùng Ba Giồng, và bị chém đầu vào ngày 7-4-1861 tại Mỹ Tho.
Vài ngày sau khi cha Lựu tử đạo, quân Pháp tràn vào Mỹ Tho. Trước khi quan quân Việt Nam rút đi, họ đã quyết định tiêu diệt họ đạo Ba Giồng. Được tin này, giáo dân Ba Giồng tìm cách chạy trốn trong đêm, nhưng hầu hết đã bị bắt lại. 25 người đàn ông của họ đạo Ba Giồng, sau khi tuyên xưng Đức Tin cách mạnh mẽ, đã bị trảm quyết tại căn nhà vuông, trên mảnh đất chợ Cổ Chi, giáp với xã Tân Lý Đông, cách nhà thờ Ba Giồng khoảng hai cây số. Xác các vị Tử Đạo, các quan bắt người lương đem chôn trong cánh đồng bên cạnh chợ; một số được chôn tại một gò đất, nơi đây đồng bào địa phương gọi là “Gò Chết Chém” (Trong một thời gian dài - từ năm 1862 đến 1986 - người ta truyền tụng rằng: trên gò này, cỏ không mọc được, và những tàn cây phủ bóng trên gò cũng bị chết khô. Những lương dân làm ruộng xung quanh có vào đó ngồi nghỉ chân, nhưng không bao giờ dám phóng uế).
Sau khi chém 25 tín hữu và giết 2 người khác khi họ đang chạy trốn (1862), quan án ra lệnh các giáo hữu phải bỏ họ đạo Ba Giồng để đi nơi khác, không ai được ở lại. Còn nhà thờ thì bị phá, cho đến 10 năm sau, cha M. Hamon vâng lệnh Đức Cha Micae về coi sóc họ đáo và lo việc cải táng hài cốt các vị Tử Đạo về nơi an nghỉ tại Đất Thánh ngày 18-6-1872.
II. BA GIỒNG HIỆN NAY
Theo thống kê của họ đạo, vào năm 1976, Ba Giồng chỉ còn khoảng 450 giáo dân. Hiện nay, năm 2018, Ba Giồng có khoảng gần 2.000 giáo dân. Đa số dân ở đây sống bằng nghề làm ruộng, trồng rẫy, đan giỏ nón... Cuộc sống người dân không khá giả, nhưng cũng không đến nỗi túng quẫn. Một trong những nét đẹp của Ba Giồng là sự thân ái của tình làng nghĩa xóm. Bà con giáo dân sống chan hòa, chân thành với người dân khác tín ngưỡng.
Như đã trở thành một truyền thống, Ba Giồng là một trong những vườn ươm cung cấp cho Giáo hội những hoa thơm trái tốt. Khởi đi từ mảnh đất Ba Giồng, đã có không ít linh mục, tu sĩ dấn thân phục vụ Giáo hội và con người một cách nhiệt thành. Quả đúng như Cha Hamon đã từng nói: “Xóm nhỏ này không có du khách nào đặt chân tới, mà cũng chẳng có nhà địa lý nào biết đến. Nhưng tên tuổi xóm này lại rất đáng được tôn vinh. Chúng ta hãy kính chào đi, vì đây là một vùng đất đã được máu các Thánh Tử Đạo thánh hiến!”
III. NHÀ THỜ BA GIỒNG
Họ đạo Ba Giồng như thế đã có một bề dày lịch sử, được Cha Hamon thuộc Hội Thừa Sai Paris đề cập đến trong “Les Missions Catholiques năm 1882”. Theo cuốn sách này thì trong những thời kỳ đầu tiên, nhà thờ Ba Giồng đã ba lần bị thiêu hủy.
Sau đó, vào năm 1950, nhà thờ Ba Giồng được xây dựng lại từ một lớp học nối dài, chiều dài chỉ có 24 mét, chiều rộng 6 mét, vật liệu bằng vôi cát thô sơ, đã nhiều lần được sửa chữa cho khỏi sụp đổ. Nhưng thời gian mưa nắng và mối mọt tàn phá, xuống cấp không đảm bảo cho việc cử hành có đông giáo dân tham dự.
Năm 1997, Đức Giám mục Giáo phận cho phép tái thiết thánh đường họ đạo Ba Giồng dâng kính Đức Maria, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo. Và ngày 16-11-1997, Đức Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn (lúc đó là Giám mục Phó Giáo phận Mỹ Tho) đã dâng thánh lễ khởi công xây dựng nhà thờ Ba Giồng.
Ngày 16-3- 2000, nhà thờ họ đạo Ba Giồng với tước hiệu: “Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam” được Đức Cha Phaolô, Giám mục Giáo phận Mỹ Tho cung hiến.
LỜI KẾT
Vào năm 2004, Đức Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc đã công bố: Nhà thờ Ba Giồng là nơi hành hương của Giáo phận Mỹ Tho.
Và vào năm 2018, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã chỉ định Trung tâm hành hương Ba Giồng thành địa điểm hành hương cho Giáo tỉnh Sài Gòn trong Năm Thánh 2018 của Giáo Hội Việt Nam.
Để đến với trung tâm hành hương này, từ Sài Gòn, khách hành hương chỉ mất 1 giờ 30 phút - lái xe về hướng miền tây trên quốc lộ 1A, qua Long An khoảng 10km - là có thể thăm viếng và cầu nguyện tại đây. Khách hành hương sẽ có thể tận hưởng bầu khí yên tĩnh với khung cảnh cây xanh mát mẻ và thanh thoát, rồi viếng Thánh Thể tại nhà thờ, đi đàng Thánh Giá, khấn xin trước đài Cha Thánh Lựu… Đặc biệt, ra ngoài khuôn viên nhà thờ, khách hành hương chỉ cần đi bộ 10 phút là tới mộ của những anh hùng tử đạo tại Ba Giồng và cầu nguyện sốt sắng với các ngài…
Mừng Kim Khánh Linh Mục nhạc sư Kim Long
WGPSG -- “Cha giáo Phêrô Kim Long được coi ‘là người thổi hồn cho nền thánh ca Việt Nam phát triển đúng theo tinh thần phụng vụ của Giáo hội’”. Đó là lời của Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, Chủ tịch UB Thánh nhạc, phát biểu trong Thánh lễ tạ ơn và mừng Kim Khánh Linh Mục nhạc sư Kim Long, được cử hành vào lúc 10g00 ngày 15.06.2018 tại thánh đường giáo xứ Phú Trung.
Đức cha Phêrô Trần Đình Tứ, nguyên Giám mục Phú Cường, chủ tế. Đồng tế với ngài có Đức cha Phêrô Nguyễn Khảm, Giám mục Mỹ Tho, Tổng Thư ký HĐGMVN; Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên, Giám mục Hải Phòng, Phó tổng Thư ký HĐGMVN; Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, Giám mục Buôn Mê Thuột, Chủ tịch UB Thánh Nhạc; Đức cha Tôma Vũ Đình Hiệu, Giám mục Bùi Chu, Chủ tịch UB Bác ái xã hội Caritas; Đức cha Phêrô Huỳnh Văn Hai, Giám mục Vĩnh Long; Đức cha Giuse Nguyễn Văn Yến, nguyên Giám mục Phát Diệm, cùng các Đức ông, linh mục Tổng đại diện, linh mục đoàn giáo phận Mỹ Tho, các linh mục Bề trên, Giám tỉnh và rất đông các linh mục từ nhiều miền đất nước.
Hiện diện đông đảo trong cộng đoàn giáo dân là gia đình huyết tộc linh tông, quý tu sĩ nam nữ khách mời và dân Chúa ở Phú Trung.
Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản đã giảng một bài tuyệt hay, vừa lồng ghép khéo léo tiểu sử viết thánh nhạc của cha giáo Phêrô để minh họa cho chủ đề chính – phương châm sống của cha giáo “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em, để anh em ra đi, sinh được hoa trái" (Ga 15,16), vừa nêu được những điểm nổi bật trong gia sản thánh ca đồ sộ của ngài.
Ngay năm 17 tuổi, cha giáo đã viết bài “Con hân hoan bước lên bàn thờ Chúa”, một bài ca nhập lễ đã giúp cho biết bao thế hệ cộng đoàn dân Chúa chuẩn bị tâm hồn cho Thánh lễ mà không cần nhờ đến 1 ca đoàn. Những bài như “Từ ngàn xưa Cha đã yêu con”, “Ca tình tri âm”, “Từ muôn thuở” giúp cho người ta cảm nhận được sự cao quý của chức linh mục và tâm tình thấy mình bé nhỏ bất xứng của người được chọn, nhưng nhờ xác tín rằng “Chúa không lầm” và cậy dựa lời Chúa nói “Chính thầy đã chọn anh em” mà người môn đệ vững bước tiến tới.
“Kinh Hòa Bình” được cha giáo phổ nhạc từ năm ngài 20 tuổi, đã trở thành lời cầu nguyện của dân Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Đức cha Vinh Sơn ca ngợi rằng những tâm tình của mầu nhiệm Giáng sinh, Phục sinh được cha giáo chuyển thành những bài tụng ca và những bài chầu Thánh Thể của cha giáo sáng tác đã trở thành lương thực trong đời sống phụng vụ của dân Chúa.
Những bài ca về Đức Mẹ như “Con dâng về Mẹ”, “Mẹ đứng đó”, “Linh hồn tôi tung hô Chúa”… như trở thành máu thịt của các Ki-tô hữu.
Ngoài sáng tác và dạy âm nhạc tại các chủng viện, cha giáo đã hướng dẫn các nhạc sĩ thánh ca biết vẻ đẹp của bình ca giúp họ tạo ra các tác phẩm phù hợp phụng vụ, và dạy các ca trưởng khai thác thêm những điều còn ẩn dấu trong các bài ca để xử lý bài tốt hơn nữa.
Với gần 4.000 bản nhạc trong suốt 60 năm sáng tác thánh ca và dạy thánh nhạc, cha giáo Phê-rô Kim Long thực sự “là người thổi hồn cho nền thánh ca Việt Nam phát triển đúng theo tinh thần phụng vụ của Giáo hội”, như lời Đức cha Vinh Sơn nhận định.
Vào cuối Thánh lễ, Đức cha Phêrô Nguyễn Khảm đã thay mặt Giáo hội Việt Nam cám ơn cha giáo vì “những cống hiến và sự tận tụy lo cho việc chung của Giáo hội”. Đức cha cầu chúc ngài nhiều sức khỏe, nhiều niềm vui và hạnh phúc.
Sau đó, các linh mục nghĩa tử của cha giáo đọc bản công bố Phép lành Tòa thánh do Đức Thánh Cha Phanxicô ban cho cha giáo cùng gia đình linh tông, huyết tộc và môn sinh nhân dịp ngài kỷ niệm 50 linh mục.
Thánh lễ kết thúc sau 90 phút trong niềm vui tưng bừng.
Toàn văn Bài giảng của Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt tại Sở Kiện
Trọng kính Đức Hồng Y và quý Đức Cha!
Kính thưa quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể cộng đoàn.
Cách đây đúng 30 năm, tại đền thờ Thánh Phêrô ở Roma, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chính thức và long trọng tuyên phong hiển thánh cho 117 chân phước tử đạo của Hội Thánh tại Việt Nam. Hôm ấy, ngài đã nói: “Giáo Hội Rôma hôm nay gửi lời chào Giáo Hội Việt Nam, mặc dầu trùng dương xa cách, nhưng rất gần gũi trong tình thân ái của tôi. Đồng thời tôi xin chào toàn thể dân tộc Việt Nam và nói lên rằng: cả Giáo Hội hoàn vũ hết lòng cầu chúc cho dân tộc quí quốc được trăm phần an lành.”
Hôm nay kỷ niệm biến cố trọng đại ấy, hòa chung với lời tạ ơn của cộng đồng Dân Chúa trên quê hương Việt Nam thân yêu và của các tín hữu Việt Nam khắp nơi trên thế giới, lòng tràn ngập niềm vui, chúng ta diễn tả bằng một câu trong thánh vịnh:
“Việc Chúa làm cho ta ôi vĩ đại
Ta thấy mình chan chứa một niềm vui”
Cách đây 2500 năm, dân Israel đã hát như vậy khi họ rời Babylon, nơi họ bị lưu đày 50 năm, để trở về quê hương. Quê hương của họ là đất Chúa đã hứa với tổ phụ Abraham, và sau đó ông Môsê đã dẫn đưa họ rời bỏ kiếp nô lệ Ai Cập để đến đó lập nghiệp và xây dựng đền thờ. Niềm vui của chúng ta hôm nay có được nhờ các bậc tiền nhân đã trung thành đến cùng khi tiến bước theo Chúa Giêsu giữa trần gian với đức tin, đức cậy và đức mến.
Tại Việt Nam, gần 500 năm trước, cây Thánh Giá đầu tiên đã được trồng tại Cù Lao Chàm ở ngoài khơi tỉnh Quảng Nam. Ít lâu sau, những nhà truyền giáo Châu Âu chính thức đến loan báo Tin Mừng cứu độ. Dần dần Tin Mừng được đón nhận và lan tỏa cả ở trong Nam cũng như ngoài Bắc. Các vị thừa sai cho biết trong khắp vùng Đông Á, người Việt Nam chúng ta có nếp sống gần với Tin Mừng nhất, nên dễ đón nhận đức tin nhất. Chỉ trong vòng 50 năm, số tín hữu đã lên đến con số trên dưới 300 ngàn. Tuy nhiên, gần như ngay từ đầu, đã có những tín hữu bị kết án tử hình, tiêu biểu là chân phước Anrê Phú Yên ở Hội An năm 1644. Đặc biệt vào thế kỷ 19, các cuộc bách hại lan rộng và khốc liệt, và các bậc tiền nhân chúng ta đã có cơ hội bày tỏ lòng trung kiên hiếm có. Một linh mục giáo sư người Đức trong tác phẩm về cha Đắc Lộ gần đây đã viết: “Nếu trên thế giới này có một đất nước nào đáng được gọi là đất nước của các vị tử đạo thì chắc chắn đó phải là nước Việt Nam, vì 117 vị được tuyên thánh năm 1988 chỉ là 1 phần ngàn số tín hữu đã thực sự chết vì đạo.” Nếu dành mỗi ngày 8 giờ để đọc tiểu sử 8 vị thì phải dành ra 44 năm rưỡi mới đọc xong 1 lượt, còn nếu mỗi ngày chỉ đọc truyện 1 vị thì phải mất 356 năm.
Hôm nay chúng ta có thể cùng diễn tả lại niềm vui sâu xa và dào dạt với các thánh Tử đạo Việt Nam và với toàn thể Hội Thánh, cách riêng Hội Thánh tại Việt Nam. Các ngài đã thực sự cùng chết với Chúa Giêsu và sống lại với Chúa trong vinh phúc, để Hội Thánh Việt Nam trổ sinh hoa trái dồi dào: “Hạt lúa gieo xuống đất nếu không thối đi thì chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu thối đi thì sẽ sinh nhiều bông hạt.”
Trong muôn vàn gương mẫu, chúng ta có thể nhớ đặc biệt đến thánh Anrê Dũng Lạc và thánh Anê Lê Thị Thành.
Thánh Anrê Dũng Lạc tên thật là Trần An Dũng sinh năm 1795 tại Bắc Ninh, trong một gia đình lương dân. Năm ngài khoảng 10 tuổi ngài theo gia đình đến Hà Nội làm ăn sinh sống. Một thầy giảng thấy ngài ngoan ngoãn và sáng trí đã xin gia đình cho ngài đi học. Ngay khi gia nhập Hội Thánh, ngài quyết tâm dâng mình cho Chúa. Sau thời gian tu học, ngài được làm thầy giảng. Năm 28 tuổi, ngài thụ phong linh mục và được sai đến giúp giáo dân khu vực Hà Nam. Năm 40 tuổi, ngài làm chính xứ Kẻ Đầm, tức là Bích Trì hiện nay, đang lúc cuộc bách hại trở nên gay gắt. Ngài phải lén lút nay đây mai đó, âm thầm dâng lễ, dạy giáo lý và cử hành các bí tích ban đêm, thường chỉ có năm mươi giáo dân tham dự. Ngài sống rất nhiệm nhặt và khiêm tốn, nhưng tận tụy và can đảm chăm sóc đoàn chiên.
Một hôm ngài đến dâng lễ ở Kẻ Xui, nay là xứ Phú Lương, thì bị bắt. Giáo dân đã dùng tiền “chuộc” ngài. Từ đó, ngài nhận tên mới là Lạc, nên ngày nay chúng ta quen gọi ngài là cha Dũng Lạc. Lần khác ngài đến Kẻ Sông xưng tội với cha thánh Phêrô Thi. Cả hai cha cùng bị lính bắt. Giáo dân Kẻ Đầm đến “chuộc” hai cha nhưng chỉ chuộc được cha Dũng Lạc, vì lính đòi thêm tiền. Đang trên thuyền thì gặp trời mưa, ngài phải lên trú chân ở một nhà trên bờ sông. Một toán lính khác lại đến bắt. Giáo dân muốn “chuộc” ngài, nhưng ngài “không dám chối Chúa 3 lần”, nên bị bắt giam tại huyện Bình Lục cùng với cha thánh Phêrô Thi. Quan huyện rất tử tế với các ngài, vì biết các ngài có học và chuyên giúp đỡ giáo dân chứ không có tội gì. Lính thấy hai ngài vẫn vui vẻ thì hỏi: “ Các ông không sợ à ?” Cha Dũng Lạc đáp: “Vua cấm đạo, chúng tôi chẳng những không sợ mà còn vui nữa, vì có dịp chịu khổ và chịu chết với Chúa.” Khi quan cho giải các ngài về Hà Nội, giáo dân lại muốn “chuộc”, nhưng cha Dũng Lạc viết thư xin Đức Cha để ngài chịu chết vì Chúa. Khi dân chúng khóc lóc tiễn hai cha xuống thuyền đi Hà Nội, cha Dũng Lạc khuyên bảo họ đừng khóc, nhưng hãy trung thành với Chúa và yêu mến nhau.
Ở trại giam Hà Nội, hai vị bị giam cầm, gông cùm xiềng xích,, nhiều lần được dỗ ngon dỗ ngọt bước qua Thánh Giá. Có lần lính khiêng ngài lên, kéo chân ngài chạm vào Thánh Giá, nhưng ngài nói: “Cứ chặt chân tôi đi, chứ tôi không bao giờ dẫm lên Thánh Giá đâu.” Khi lệnh xử trảm của vua Minh Mạng về đến trại giam, hai ngài ký vào bản án. Sau đó cha Dũng Lạc làm bài thơ gửi cho một cha bạn tên là Thực, chưa bị bắt :
Lạc rầy đã rõ chốn quân quan
Bút chép thơ này gửi thở than
Lòng nhớ bạn, nỗi còn vất vả
Dạ thương khách, chạy giữa yên hàn
Đông qua tiết lại thì xuân tới
Khổ trảm mai sau hưởng phúc an
Làm kẻ anh hùng chi quản khó
Nguyện xin cùng gặp chốn thiên đàng
Ngày 21/12/1840, hai cha Phêrô Thi và Anrê Dũng Lạc được dẫn đến pháp trường Cầu Giấy. Khi ra khỏi cổng thành Hà Nội, cha Dũng Lạc chắp tay hát lớn tiếng:
Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa
Ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người.”
Đến nơi xử, hai cha quỳ xuống cầu nguyện, rồi nghiêng đầu cho lính chém cổ. Giáo dân thấm máu các ngài, thu nhặt các di vật, rồi đưa xác hai ngài về Kẻ Sở cầu nguyện và ca hát tạ ơn Chúa.
Thánh Anê Lê Thị Thành, quen gọi là Bà Thánh Đê, sinh năm 1781 ở Thanh Hóa, gia đình chuyển đến sinh sống ở xứ Phúc Nhạc, giáo phận Phát Diệm. Tại đây, ngài bị bắt vào sáng lễ Phục Sinh năm 1841 vì giấu một linh mục ở rãnh, phủ rơm lên trên. Ngài bị giam ở Nam Định và qua đời ở đó ngày 12/7/1841, dưới triều vua Thiệu Trị, thọ 60 tuổi.
Ngài kết hôn năm 19 tuổi. Là người vợ và người mẹ trong gia đình, ngài làm việc đồng áng, nuôi tằm kéo tơ, chăm sóc gia đình 6 người con. Ngài siêng năng đọc kinh cầu nguyện sáng và tối. Gia đình Ngài được mọi người quý mến vì rất hiền lành và tận tụy. Lúc bị bắt, ngài hết sức sợ hãi. Ngài phải mang gông cùm, xiềng xích và tống giam, bị quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh ép dẫm lên thánh giá. Có lần quan ra lệnh cho ngài, khai nơi các cha trú ẩn, ngài một mực từ chối, nên bị đánh đòn đến chảy máu ở nhiều vết thương trên người. Con gái ngài đến thăm thấy vậy thì khóc, ngài bảo: “Chúa cho mẹ mặc áo hoa hồng đấy! Các con hãy cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá với Chúa.” Nhưng với người khác, ngài nói: “Họ đánh tôi đến cả các ông cũng không chịu được, nhưng Chúa thêm sức cho tôi.” Quan cho lính bắt rắn độc bỏ vào trong áo ngài để ép, nhưng ngài cương quyết từ chối. Chẳng hiểu vì sao con rắn trườn ra mà ngài không hề hấn gì. Quan cho lính khiêng ngài lên để chân ngài chạm vào thánh giá, ngài quỳ gối cung kính trước thánh giá: “Lạy Chúa, con là đàn bà yếu đuối, người ta gí chân con vào thánh giá, con không đời nào làm như vậy.”
Khoảng hai tuần lễ cuối đời, ngài lên cơn sốt mê man, lính xin quan tháo gông cùm cho ngài, nhưng quan không đồng ý. Trong cơn hôn mê, ngài luôn miệng nói: “Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết trên thánh giá vì con, con hết lòng theo thánh ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con.” Ngài trút hơi thở cuối cùng trong trại giam sau ba tháng bị giam cầm và tra tấn.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã sống Lời Chúa chúng ta vừa nghe:
“Vì Danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng ai bền chí đến cùng sẽ được cứu độ”
“Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như lễ vật toàn thiêu”
“Chúng tôi luôn mang trong thân xác mình cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, để sự sống của Chúa Giêsu được thể hiện nơi thân xác chúng tôi.”
“Nếu anh em bị sỉ nhục vì Danh Đức Kitô thì phúc cho anh em, vì Thần Khí của Thiên Chúa sẽ ngự trên anh em.”
“Ai gieo trong lệ sầu sẽ gặt trong hân hoan.”
Xưa dân Israel đã bỏ đất nô lệ là Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ và sa mạc để vào Đất Hứa, rồi bỏ đất lưu đầy là Babylon vượt qua sa mạc về lại Đất Hứa. Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc Vượt Qua có một không hai trong lịch sử nhân loại: Vượt Qua cái chết để bước vào cõi Hằng Sống. Lịch sử Hội thánh không ngừng tái diễn khuôn mẫu Vượt Qua ấy, và các thánh Tử đạo là những mẫu gương sống động tiêu biểu: cùng Vượt Qua với Chúa Giêsu, để cùng sống với Chúa.
Trong cuộc Vượt Qua ấy, Hội Thánh đã làm được gì cho quê hương? Trước hết các ngài đã đem máu của mình làm chứng về một trời mới đất mới do Chúa Giêsu khởi sự: “Đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái”, hoặc “Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đêm an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm”. Đó là mơ ước của con người trong mọi thời đại, ở bất kỳ nơi đâu trên hành tinh xanh này. Thứ đến, Hội thánh đã góp phần đáng kể vào văn hóa dân tộc. Trước hết là cái nhìn độc đáo về con người, dù là nam hay nữ, lớn hay bé, trong bất kể hoàn cảnh hay địa vị nào, kể cả người khuyết tật hay thiểu năng, đều là hình ảnh Thiên Chúa nên bình đẳng và phải được tôn trọng. Hơn nữa, mọi người được mời gọi thực thi công bình và bác ái: đây chính là Trời mới đất mới hay nền văn minh đích thực. Thêm vào đó là chữ Quốc ngữ cả nước đang dùng: do thế hệ đầu tiên của Hội Thánh tại Việt Nam, gồm các giáo dân trí thức và các linh mục thừa sai tạo ra, lối viết tiếng Việt Nam này đã góp phần đáng kể vào viẹc phát triển toàn diện của cả dân nước. Ngoài ra, các hoạt động giáo dục và từ thiện đã góp phần xây dựng một xã hội nhân văn hơn và nhân ái hơn.
Ngày nay, chúng ta được mời gọi tiếp bước các vị tử đạo trong hoàn cảnh mới và với những phương thế mới. Đây vẫn là mầu nhiệm Vượt Qua mà Chúa Giêsu đã mở ra, các tông đồ và cả Hội Thánh tiếp bước, trong đó có các bậc tiền nhân của chúng ta. Thời nào cũng vậy và ở đâu cũng vậy, con người đều khao khát hưởng công bình và bác ái. Chúng ta được mời gọi làm chứng cho Chúa, mỗi người trong hoàn cảnh và khả năng của minh, chủ yếu là yêu mến, thể hiện qua não trạng và nếp sống công bình và bác ái mọi nơi mọi lúc, theo gương Chúa Giêsu: yêu đến cùng. Kế đến, cùng với mọi người thành tâm thiện chí, không phân biệt tôn giáo, thành phần xã hội, lập trường chính trị, nắm tay nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống trê quê hương Việt Nam thân yêu. Nếu gặp khó khăn hay khổ nhục, hãy ngước mắt nhìn lên Chúa Giêsu trên Thánh giá, nhớ lại lời khuyên của thánh Phaolô: “Những gian nan và thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24)
Trước khi bước vào cuộc Vượt Qua, Chúa Giêsu đã an ủi các môn đệ: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian”. Chắc chắn đó không phải là chiến thắng theo mô thức quân sự, chính trị hay kinh tế, nhưng là chiến thắng của tình yêu Thiên Chúa, mà mẫu mực là Chúa Giêsu và động lực là Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu đã đổ mồ hôi, nước mắt và cả máu vì yêu mến con người. Các thánh tử đạo hòa trộn máu các ngài với máu của Chúa. Tiếp bước các bậc tiền nhân vinh hiển, và nhờ lời cầu khẩn của các ngài, chúng ta thực hiện cuộc Vượt Qua trong hoàn cảnh hiện này nhờ đức tin, đức cậy và đức mến, hòa trộn mồ hôi và nước mắt với máu của các bậc tiền nhân để trở nên một với của lễ là chính Chúa Giêsu tư tế và lễ vật đích thực đẹp lòng Thiên Chúa để đem lại hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu cho con người.
Hy vọng vác thể hệ mai sau muôn người như một được hưởng niềm vui lời thánh vịnh này:
“Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ
Hòa bình công lý đã giao duyên”
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, là con thảo của Cha trên trời, là chứng nhân anh dũng của Đức Kitô, là thành phần trung kiên của Hội Thánh, chúng con cảm tạ các ngài. Xin các ngài phù hộ Hội thánh tại Việt Nam và cả đất nước Việt Nam. Xin Mẹ Maria là Nữ vương các thánh tử đạo chuyển cầu cho chúng con và toàn thế giới. Xin Thiên Chúa là Cha nhân từ chúc phúc cho chúng con và quê hương Việt Nam chúng con.