Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
28/06 Con đường theo Chúa
- Viết bởi Mt 8, 18-22
Con đường theo Chúa.
Thứ Hai tuần 13 thường niên. – Thánh Irênê, giám mục, tử đạo. Lễ nhớ.
"Con hãy theo Ta".
* Chào đời khoảng năm 130, lớn lên học ở Miếc-na, Irênê trở thành môn đệ của thánh Pô-ly-cáp, giám mục thành này. Năm 177, người chịu chức linh mục tại Ly-ông (Pháp). Sau đó một thời gian ngắn, người làm giám mục giáo phận này. Trong nhiệm vụ mục tử, người lo loan báo Tin Mừng cho các dân xứ Gô-lơ, nhưng người cũng lo bảo vệ đức tin tinh tuyền, chống lại những sai lầm của phái ngộ đạo. Các tác phẩm của người cho ta có được cái nhìn sâu sắc về kế hoạch của Thiên Chúa, về ơn gọi của con người và mầu nhiệm Hội Thánh. Người lãnh nhận triều thiên tử đạo khoảng năm 200.
Lời Chúa: Mt 8, 18-22
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng vây quanh Người, thì Người ra lệnh sang qua bờ bên kia. Một luật sĩ đến thưa Người rằng: "Lạy Thầy, bất cứ Thầy đi đâu, con cũng xin theo Thầy". Chúa Giêsu trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu".
Một môn đệ khác thưa Người rằng: "Thưa Thầy, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã". Chúa Giêsu trả lời: "Con hãy theo Ta, và hãy để kẻ chết chôn kẻ chết".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Không chỗ tựa đầu
Suy niệm:
“Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo.”
Đó là lời yêu cầu của một vị kinh sư đáng kính, thông thạo Thánh Kinh.
Vị này gọi Đức Giêsu là Thầy, dù chính ông là một bậc thầy trong dân.
Tại sao ông lại muốn đi theo Đức Giêsu, một ông thợ mộc ở Nazareth?
Tại sao một người có sự nghiệp ổn định như ông
lại chịu hạ mình làm môn đệ của Ngài?
Tại sao ông lại muốn theo Ngài đến tận chân trời góc biển?
Điều gì nơi con người Đức Giêsu đã khiến ông quyết định như thế?
Điều gì nơi Ngài đã cuốn hút con người ông
đến độ ông không muốn xa Ngài nữa,
và muốn gắn bó đời mình với Ngài?
Chúng ta không có câu trả lời cho các câu hỏi đó.
Chúng ta chỉ nghe câu trả lời của Đức Giêsu cho vị kinh sư.
“Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu.”
Ngài nhắc cho ông biết cái giá phải trả
để đi theo Ngài làm môn đệ.
Đó là cuộc sống bấp bênh, lang thang, nay đây mai đó.
Trên bước đường rao giảng, Đức Giêsu sống như kẻ vô gia cư.
Ngài tạm trú ở nơi nhà của người mở lòng đón nhận.
Chẳng rõ sau câu trả lời thẳng thắn của Đức Giêsu,
vị kinh sư có còn muốn theo Ngài nữa không?
Khi một môn đệ của Đức Giêsu xin phép về chôn cất cha trước đã,
thì Ngài đã trả lời bằng một câu khó hiểu:
“Anh hãy đi theo tôi. Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.”
Người Do Thái coi trọng chữ hiếu và việc tống táng cho cha mẹ.
Có thể ở đây anh môn đệ này muốn xin về nhà,
ở với cha già cho đến ngày cha qua đời, rồi chôn cất cha để báo hiếu.
Không phải là anh không muốn làm môn đệ Thầy Giêsu nữa,
nhưng trước hết, anh muốn làm tròn bổn phận của một người con.
Đức Giêsu cho anh thấy báo hiếu không phải là bổn phận hàng đầu,
dù tôn kính cha mẹ là luật quan trọng trong xã hội Do Thái.
Ngài cho anh thấy có Ai đó còn quan trọng hơn cả cha mẹ.
“Hãy theo tôi”, tiếng gọi này đòi dành ưu tiên cho Ngài,
đến độ nghĩa vụ thiêng liêng nhất là chôn cất cha phải nhường bước.
Tin Mừng hôm nay cho thấy cái giá phải trả để làm môn đệ Đức Giêsu.
Có người xin đi theo Thầy khắp mọi nơi Thầy đi.
Nhưng đi vào Vườn Dầu, đi lên Núi Sọ, ít người dám theo Thầy.
Có người đã là môn đệ rồi, nhưng lại băn khoăn vì nghĩa vụ.
Anh phải nghe được tiếng gọi mới của Thầy: “Hãy theo tôi” (c. 22).
và đơn sơ đặt sứ mạng lên trên hết.
Thân phận người môn đệ xưa nay đều giống nhau.
Theo Thầy là phải chịu long đong, thiếu thốn, bị từ chối và bách hại,
thậm chí phải chấp nhận cái chết.
Nhưng hạnh phúc vẫn chờ họ, chỉ vì họ đã cùng thân phận với Thầy.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có,
tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Được và mất
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa bắt ta phải có lựa chọn tuyệt đối, dứt khoát. Giữa Thiên Chúa và thế gian. Chọn Thiên Chúa ta phải cam lòng mất tất cả những gì thuộc về trần gian. “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”. Thật là một tâm hồn quảng đại. Yêu mến chân thành. Nhưng Chúa trả lời quyết liệt: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Thật là ghê gớm. Muốn đi theo dù đi đến đâu. Nhưng không có “đâu” để mà theo. Không có nơi đi. Không có nơi đến. Hư vô. Từ bỏ hết. Không có chỗ tựa đầu nữa. Đừng tựa vào gì khác. Chỉ một mình Chúa thôi. Chọn lựa dứt khoát quá. Đau đớn quá. Vì phải từ bỏ cả những mối thân tình rất quý giá như cha mẹ. “Xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã…Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ”. Hãy dứt khoát giã từ cõi chết. Theo Chúa là đi vào cõi sống. Chúa là sự sống. Có sự sống là có tất cả.
Đó là điều tổ phụ Áp-ra-ham đã chứng nghiệm. Lót đã chọn thế gian. Đến cư ngụ tại thành Xơ-đôm phồn vinh. Nhưng rồi mất tất cả. Bà Lót vì tiếc sót của cải. Quay đầu nhìn lại. Nên cũng hoá tượng muối. Đuổi theo hư ảo trần gian. Ta cũng trở nên phù du bọt bèo. Áp-ra-ham chỉ chọn Chúa. Ở đâu cũng được. Miễn là ở trong Chúa. Trong Lời Hứa của Chúa. Ông chọn ở trong sa mạc. Khô khan cằn cỗi. Nhưng vì ở trong Chúa. Nên ông được tất cả. Được trở nên bạn hữu của Chúa. Được tham dự vào chương trình của Chúa: “Ta có nên giấu Áp-ra-ham điều Ta sắp làm chăng? Áp-ra-ham sẽ trở thành một dân tộc lớn mạnh, và nhờ nó mọi dân tộc sẽ được chúc phúc”. Nhờ đó ông cứu được Lót và gia đình khỏi tai hoạ (năm lẻ).
Tiên tri A-mốt nhắc lại cho dân biết chân lý quan trọng này. Khi họ chọn Chúa. Họ được tất cả. Thắng quân đội Ai-cập. Chiếm đất E-mô-ri: “Chính Ta đã đem các ngươi lên khỏi đất Ai-cập, dẫn các ngươi đi trong sa mạc bốn mươi năm trường để các ngươi chiếm đất của người E-mô-ri”. Dù người E-mô-ri “cao lớn như cây hương nam và hùng mạnh như cây sồi”. Nhưng giờ đây dân đã phản bội. Chọn thế gian chứ không chọn Chúa. “Tội của Ít-ra-en đã lên tới cực độ…Vì chúng bán người công chính để lấy tiền, bán kẻ nghèo khổ với giá một đôi giày. Vì chúng đạp đầu kẻ yếu thế xuống bùn đen và xô người khiêm hạ ra khỏi đường lộ..Và rượu của người bị nộp phạt, chúng đem uống tại đền thờ Thiên Chúa”. Vì thế Chúa sẽ phạt họ. Họ sẽ mất tất cả. “Vậy này đây, ta sắp cán lên các ngươi như chiếc xe chất đầy lúa cán lên mặt đất”. Mọi người sẽ chết. Họ sẽ mất tất cả (năm chẵn).
Bỏ tất cả để chọn Chúa. Ta sẽ được tất cả. Bỏ Chúa để chọn tất cả. Ta sẽ mất tất cả. Vì Chúa là tất cả.
Suy Niệm 3: Theo Chúa
Có hai tu sĩ lên đường hành hương: một người chủ trương cần phải có tiền bạc và phương tiện vật chất đầy đủ mới có thể đảm bảo cho đời sống tu trì; một người thì luôn tin tưởng nơi tinh thần từ bỏ. Hai người trao đổi, tranh luận với nhau về hai tinh thần khác nhau mà không ai có thể thuyết phục được ai. Khi họ đến bờ sông thì trời cũng đã tối. Người có tinh thần từ bỏ đề nghị: - Chúng ta không có tiền để qua sông? Chúng ta hãy ngủ lại đây và dâng lời chúc tụng Chúa.
Người kia đáp lại:
- Nơi này không có làng mạc, nhà cửa, thú dữ có thể cắn xé; bên kia sông, chúng ta có thể nghỉ lại một cách an toàn. Tôi có mang theo tiền, chúng ta hãy thuê một người lái đò.
Sau khi đã qua sông, vị tu sĩ trả tiền cho người lái đò và nói với người bạn của mình như sau: - Anh đã thấy được cái lợi của việc giữ tiền trong túi chưa? Chính nhờ có chút tiền bạc, tôi đã có thể cứu mạng anh và mạng tôi. Ðiều gì sẽ xẩy ra, nếu tôi cũng sống tinh thần từ bỏ như anh?
Nghe thế, vị tu sĩ luôn sống trong tinh thần từ bỏ mỉm cười và nói:
- Chính sự từ bỏ của anh đã cứu sống chúng ta; anh đã không tiếc của để thuê người lái đò là gì? Hơn nữa, tôi không có đồng xu dính túi, thế mà tôi vẫn sống; tôi tin rằng chính tinh thần từ bỏ đã cho tôi có được mọi sự cần thiết.
Tin Mừng Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay kể lại rằng: Ngày nọ, Chúa Giêsu và các môn đệ đang đi đường, thì có người đến thưa Ngài: "Tôi xin theo Thầy bất cứ nơi nào Thầy đi". Chúa Giêsu trả lời: "Chồn có hang, chim có tổ, Con Người không có nơi tựa đầu". Một người khác cũng muốn theo Ngài, nhưng xin được về chôn cất cha trước đã. Chúa Giêsu nói: "Anh hãy theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết".
Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ và tất cả những ai muốn theo Ngài một thái độ từ bỏ, dứt khoát tận căn; Ngài không bao giờ chấp nhận bất cứ một thỏa hiệp nào. Qua những đòi hỏi ấy, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho chúng ta giới răn cơ bản: mến Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Ðây không phải là một điều không tưởng, cũng không phải là một lý tưởng cao vời mà là một mệnh lệnh. Quả thật, con người chỉ thực sự đạt được ơn gọi làm người của mình, khi nó sống trọn vẹn cho Thiên Chúa; con người chỉ thực sự hạnh phúc khi nó thuộc trọn về Chúa. Những việc làm, như hy sinh, hãm mình, khổ chế, chỉ thực sự có ý nghĩa và giá trị, nếu chúng được thực thi như một cố gắng dốc cạn chính mình để sống tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, và đó cũng là mục đích cuộc đời người Kitô hữu.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Một lời đáp trả rõ ràng và dứt khoát
Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Đức Giêsu trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt. 8, 19-20)
Một lời mời gọi không hàm hồ
Khi dấn thân cho bất cứ công việc gì, cũng như đối với bất cứ ai, ta thích mọi chuyện phải rõ như ban ngày. Ta muốn biết mình đi đâu, muốn biết đích xác phần trách nhiệm của mình. Ta mong cho người đồng chí của ta nói lên không mập mờ ý hướng của anh.
Với Chúa Giêsu, chúng ta hoàn toàn được Người phục vụ tốt. Khi Chúa mời gọi ai đi theo Người, Người không ngại nói cho kẻ ấy biết Người chờ đợi gì nợi họ. Nói ra cũng rất đơn giản thôi. Người chờ đợi tất cả. Người đòi hỏi tất cả. Người yêu cầu ta từ bỏ hết, từ bỏ ngay lập tức vì Người. “Anh hãy cứ đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ”
Lời lẽ của Chúa thật cứng rắn, sắc bén. Không có tiếng nào thừa, cũng không có gì giấu diếm. Nếu người ta quyết định đi theo Người, hẳn phải biết cái gì đang chờ đợi mình: không có chỗ tựa đầu, thập giá, đau khổ, nhưng cũng có niềm vui ngập tràn, không tưởng tượng được.
Một lời đáp thẳng thắn và chân thành
Nếu Chúa Giêsu đặt các quân bài của Người lên bàn, Người yêu cầu các môn đệ Người cũng phải làm như vậy. Lời Người mời gọi không mập mờ, thì Người đòi câu đáp trả cũng phải như vậy. Đi theo Người hoặc không đi theo Người. Không thỏa hiệp. Không thể đi với Người mà vẫn quấn quýt với người thân. Không thể trở thành môn đệ Người mà còn dính bén với những thói hư tật cũ, những cách suy nghĩ và hành động lỗi thời.
Chúng ta đã thẳng thắn và chân thành đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu không? Chúng ta đã thật sự quyết định đi theo Người không? Điều Người chờ đợi nơi ta, ta có đã thưa vâng một cách rõ ràng và dứt khoát không? Ta đừng trả lời quá vội. Chẳng phải vì ta đã được rửa tội và đang là những Kitô hữu tương đối tốt mà ta dứt khoát bước đi theo Đức Kitô đâu.
Suy Niệm 5: CHỌN LỰA ƯU TIÊN (Mt 8, 18-22)
Xem lại Chúa Nhật 13 Thường Niên, C
Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại chuyện có một môn đệ muốn theo Đức Giêsu, nhưng anh ta xin được về chôn cha trước đã. Đức Giêsu đã không chấp nhận thái độ đó và nói: "Anh hãy theo Ta, và hãy để kẻ chết chôn kẻ chết".
Xét theo góc độ tình cảm tự nhiên, đòi hỏi này của Đức Giêsu xem ra có vẻ ích kỷ, và phi nghĩa quá chăng? Một sự đòi hỏi không hợp tình cũng chẳng hợp lý! Là con cái mà cũng không được thi hành bổn phận sau cùng là lo chôn cất cha mình cho tròn chữ hiếu?
Tuy nhiên, càng khó chấp nhận nghịch lý của Đức Giêsu đưa ra với môn đệ này bao nhiêu thì lại càng sáng tỏ chân lý mà Đức Giêsu muốn nhắm tới bấy nhiêu.
Thật vậy, điều mà Đức Giêsu muốn người môn đệ phải có đối với Ngài và sứ vụ mà Ngài sẽ trao phó trong tương lai là một thái độ tin tưởng, phó thác, can đảm và dứt khoát. Không được chần chừ hay nửa vời, bởi lẽ, nếu lừng khừng, trong tương lai, không sớm thì muộn cũng có những thái độ thỏa hiệp và bỏ cuộc.
Nếu không thanh thoát thì làm sao chấp nhận được sự thiếu thốn trong hành trình theo Chúa và thi hành sứ vụ được! Bởi lẽ, hành trình của người môn đệ luôn phải đối diện với sự thiếu thốn như chính Đức Giêsu đã trải qua: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu".
Như vậy, Đức Giêsu không có ý nói phải bỏ cha, bỏ mẹ để mà theo Ngài cho bằng Ngài muốn nói lên một sự lựa chọn ưu tiên cho ơn gọi và sứ vụ.
Là Kitô hữu, sống trong thời đại văn minh, kinh tế thị trường, có nhiều điều để chọn lựa. Tốt có, xấu có. Cao cả có, tầm thường cũng có. Tuy nhiên, nhiều người đã không chọn cho mình điều tốt, nhưng lại chọn những điều xấu, bởi vì những cái đó hấp dẫn và dễ thi hành hơn. Hoặc có nhiều người tin và đi theo Chúa, nhưng khi gian nan thử thách đến, họ đã viện nhiều lý do để bỏ cuộc.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức lại ơn gọi và sự trung tín của mình với Chúa? Chúng ta có chọn Chúa và những phẩm tính tốt thuộc về Ngài không? Hay chúng ta đã chọn những thứ tầm thường?
Lạy Chúa Giêsu, theo Chúa là điều khó! Vì thế, xin cho chúng con biết thanh thản từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa, hầu tâm hồn chúng con nhẹ nhàng, thanh thoát khi thi hành sứ vụ Chúa trao cách tốt đẹp. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Điều kiện để theo Chúa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu đòi hỏi gắt gao nơi các môn đệ, những người muốn đi theo Chúa phải chấp nhận khó khăn. Khi Chúa Giêsu nói: “Con người không có chỗ tựa đầu”, Ngài muốn họ phải quyết liệt từ bỏ vật chất, tình cảm làm cho họ phân tâm. Nhưng dứt khoát đó giúp họ được tự do trong tâm hồn để sống hoàn toàn cho Nước Trời.
2. Khác với những chưởng môn hay đạo trưởng khi chiêu tập môn sinh thường đưa ra những hứa hẹn cho tương lai xán lạn, Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay lại đưa ra những đòi hỏi quyết liệt và dứt khoát cho những ai muốn bước theo Ngài. Chúa Giêsu đã trả lời cho hai trường hợp đến xin theo Ngài cùng chung một điều kiện là “từ bỏ”, từ bỏ những tìm kiếm mang tính trần thế và từ bỏ những vương vấn tình cảm, thậm chí là liên hệ ruột thịt.
Điều mà Chúa Giêsu muốn người môn đệ phải có đối với Ngài và sứ vụ mà Ngài sẽ trao phó là một thái độ tin tưởng, phó thác, can đảm và dứt khoát. Không được chần chừ hay nửa vời, bởi lẽ, nếu lừng khừng, trong tương lai, không sớm thì muộn cũng có những thỏa hiệp và bỏ cuộc.
3. “Con cáo có hang... Chim trời có tổ”.
Trước hết, đối với người luật sĩ, Chúa bảo ông muốn theo Chúa thì phải từ bỏ hoàn cảnh an toàn của mình, phải chấp nhận cuộc sống phiêu lưu của một nhà truyền giáo lưu động, nay đây mai đó, mà vấn đề sẽ ăn gì, sẽ ngủ ở đâu, không bao giờ được bảo đảm. Chúa cho ông biết hoàn cảnh thực tại của Chúa: chồn cáo có hang để trú ẩn trong những giờ phút nguy hiểm, lạnh lẽo. Chim trời có tổ để yên nghỉ sau những ngày rã cánh, còn Ngài không có nhà cửa, cả một chỗ dựa đầu cũng không? Ai muốn theo làm môn đệ Chúa phải chấp nhận sống như Chúa. Tin Mừng không cho biết câu trả lời của người luật sĩ này thế nào, không biết ông ta có dám từ bỏ mọi sự để theo Chúa không?
4. “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”.
Đối với một người khác, người này không bị ngăn trở về vật chất, nhưng ngăn trở về gia đình, đó là lòng hiếu thảo. Trước khi theo Chúa anh ta xin về nhà để chôn cất cha già rồi sẽ đến theo Chúa. Nhưng Chúa không cho. Tại sao vậy?
Theo một số nhà chú giải Thánh Kinh, câu nói của người này không có nghĩa là bố của anh ta vừa chết, nhưng là bố anh ta đã già yếu, và anh muốn được săn sóc cha già cho đến khi cha chết để báo hiếu, rồi sẽ đến theo Chúa. Hiểu như thế chúng ta mới hiểu được lý do tại sao Chúa không cho.
Một số người khác lại cắt nghĩa rằng: người này xin về để chôn cất cha già, nhưng đó chỉ là câu nói khéo để lưỡng lự từ chối lời Chúa. Cho nên Chúa muốn anh ta phải dứt khoát lập trường ngay từ đầu.
Thật ra ở đây Chúa Giêsu muốn bảo cho mọi người biết chôn cất cha già là một bổn phận cao cả nhưng còn có một bổn phận khác cao quí hơn, đó là việc xây dựng Giáo hội, tôn vinh Thiên Chúa, cứu vớt các linh hồn là những việc cần thiết hơn việc chôn cất cha mẹ. Vì thế, Chúa bảo người ấy: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh, hãy đi theo Ta”, nghĩa là hãy để cho những kẻ trần thế lo công việc của họ, còn con được ủy thác một sứ mệnh cao cả hơn, thì con hãy đi theo Ta. Tin Mừng không cho biết anh ta có đi theo Chúa không (Phạm văn Phượng).
5. Với những hình ảnh trên, Chúa Giêsu chỉ muốn nói lên đòi hỏi tận gốc và dứt khoát của Nước Trời: người chọn lựa Nước Trời và muốn làm môn đệ Ngài, phải sẵn sàng hy sinh từ bỏ tất cả. Qua những đòi hỏi đó, Ngài muốn cụ thể hóa giới răn cơ bản nhất, đó là kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Thiên Chúa không công nhận bất cứ một thỏa hiệp nào trong lòng người. Hạnh phúc duy nhất và đích thực của con người là chính Thiên Chúa. Bao lâu con người đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự, bao lâu con người tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự, thì bấy lâu con người sống trong ơn gọi của mình và tìm được hạnh phúc đích thực (Mỗi ngày một tin vui).
6. Truyện: Cái lợi của sự từ bỏ.
Có hai tu sĩ lên đường hành hương: một người chủ trương phải có tiền bạc và phương tiện vật chất đầy đủ mới có thể đảm bảo cho đời sống tu trì; một người thì luôn tin tưởng nơi tinh thần từ bỏ. Hai người trao đổi, tranh luận nhau về hai tinh thần khác nhau mà không ai có thể thuyết phục được ai. Khi họ đến bờ sông thì trời cũng đã tối. Người có tinh thần từ bỏ đề nghị:
- Chúng ta không có tiền thì làm sao có thể qua sông? Chúng ta hãy ngủ lại đây và dâng lời chúc tụng Chúa.
Người kia đáp:
- Nơi này không có làng mạc, nhà cửa, thú dữ có thể cắn xé, bên kia sông, chúng ta có thể nghỉ lại một cách an toàn. Tôi có mang theo tiền, chúng ta hãy thuê một người lái đò.
Sau khi đã qua sông, vị tu sĩ trả tiền cho người lái đò và nói với người bạn của mình như sau:
- Anh đã thấy được cái lợi của việc giữ tiền trong túi chứ? Chính nhờ có chút tiền bạc, tôi đã có thể cứu mạng anh và mạng tôi.
Nghe thế, vị tu sĩ luôn sống trong tinh thần từ bỏ mỉm cười và nói:
- Chính sự từ bỏ của anh đã cứu sống chúng ta, anh đã không tiếc của để thuê người lái đò là gì? Hơn nữa, tôi không có đồng xu dính túi, thế mà tôi vẫn sống; tôi tin rằng chính tinh thần từ bỏ đã cho tôi có được mọi sự cần thiết.
27/06 Quyền lực trên bệnh tật và sự sống.
- Viết bởi Mc 5, 21-43
Quyền lực trên bệnh tật và sự sống.
CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN năm B.
"Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy".
Lời Chúa: Mc 5, 21-43
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng: "Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống". Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía.
{Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: "Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành". Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: "Ai đã chạm đến áo Ta?" Các môn đệ thưa Người rằng: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi 'Ai chạm đến Ta?'!" Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: "Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh".}
Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: "Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?" Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: "Ông đừng sợ, hãy cứ tin". Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: "Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó". Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm.
Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: "Talitha, Koumi", nghĩa là: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc.
Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy và bảo họ cho em bé ăn.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN – B 2021
Lời Chúa: Kn 1,13-15;2,23-24; 2Cr 8,7.9.13-15; Mc 5,21-43
1. Đụng đến áo.
(Trích trong ‘Manna’)
Giữa đám đông chen lấn chung quanh Đức Giêsu,
có những người đụng vào áo Ngài.
Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý,
đụng lén như sợ bị bắt quả tang.
Đó là cái đụng của một người phụ nữ,
mười hai năm mắc bệnh băng huyết,
mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi,
mười hai năm bị coi là ô nhơ:
không được đụng đến người khác,
không được tham dự nghi lễ ở Đền thờ.
Người phụ nữ đụng vào áo Đức Giêsu
bằng tay và bằng lòng tin,
một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ.
"Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi."
Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
Trong đời sống Kitô hữu,
chúng ta đã nhiều lần đụng vào Chúa.
Đụng đến Lời Ngài, đụng đến Mình Máu Thánh Ngài.
Đụng bằng tay, bằng miệng, bằng rung động của trái tim.
Có những lần đụng chạm hời hợt vì thói quen,
không để lại một âm vang nào,
không đem lại một biến đổi nào trong cuộc sống.
Nhưng cũng có lần, như người phụ nữ,
ta run rẩy đụng vào Ngài, dù biết mình ô nhơ tội lỗi.
Hay nói đúng hơn, vì biết mình ô nhơ tội lỗi
mà ta cả dám đụng vào Ngài.
Đụng vào Đấng Thánh để được nên trong sạch.
Chúng ta cần đụng đến Đức Giêsu mỗi ngày
và chúng ta cũng cần được Ngài đụng đến.
Ông trưởng hội đường xin Ngài đặt tay trên con mình.
Ngài đã cầm tay cô bé để kéo cô ra khỏi cái chết.
Như con gái của ông trưởng hội đường,
chúng ta cần được Chúa cầm tay và bảo:
"Hãy chỗi dậy."
Chỗi dậy khỏi bệnh tật và cái chết.
Chỗi dậy và đi lại, ăn uống như người bình thường.
Chỗi dậy và sống vui tươi, tự do như con cái Thiên Chúa.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.
Đức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ:
"Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con" (c.34).
Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Gia-ia:
"Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi" (c.36).
Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu.
Cần nhạy cảm để nhận ra cái đụng nhẹ của Ngài.
Khi đụng vào Thân Mình Ngài nơi bí tích Thánh Thể,
ta được mời gọi đụng đến nỗi khổ của anh em,
là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài.
Khi đụng đến Lời Chúa nơi những trang Tin Mừng,
ta được mời gọi chạm đến Lời Chúa nơi mọi biến cố.
Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần thôi,
đời bạn sẽ hoàn toàn đổi mới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn?
Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và bạn đụng vào Chúa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện
dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
2. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
CẢM NGHIỆM VỀ CHÚA
Hai người hưởng phép lạ hôm nay đều được đụng chạm đến Chúa.
Người đàn bà bị bệnh băng huyết lén lút sờ vào gấu áo Người. Vừa đụng chạm vào áo Người, lập tức bà thấy có biến chuyển: bệnh tật bao năm hành hạ bà, làm cho bà tốn biết bao công sức tiền của chạy chữa tưởng như vô vọng, nay bỗng tiêu tan trong phút chốc.
Em bé không đụng chạm đến Chúa vì em đã chết. Nhưng chính Chúa đụng chạm đến em. Chúa cầm tay dắt em chỗi dậy. Cuộc tiếp xúc với Chúa đã gây nên những biến đổi mãnh liệt nơi thân xác. Căn bệnh bị xua trừ. Thân xác khỏe mạnh lại. Người phụ nữ được sinh hoạt bình thường với xã hội. Thần chết bị trục xuất. Sự sống trở lại. Em bé được giải thoát khỏi thế giới tử thần, trở về với thế giới sự sống.
Nhưng những biến đổi trong tâm hồn còn mãnh liệt hơn. Khi Đức Giêsu gọi người phụ nữ đến để khen ngợi và khích lệ chị, tâm hồn chị hẳn phải rộn ràng hạnh phúc. Với thái độ khoan dung nhân hậu, Đức Giêsu đã biến đổi sâu xa tâm hồn chị. Từ mặc cảm là người ô uế, bị xã hội khai trừ, chị thấy mình được đối xử một cách trân trọng. Từ thân phận một người lén lút như kẻ ăn trộm phép lạ, chị trở thành người được Đức Giêsu công khai khen ngợi. Từ một người xa lạ, chị trở thành người thân thiết của Đức Giêsu. Chắc chắn, chị sẽ chẳng bao giờ quên được những lời nói và thái độ của Đức Giêsu. Những lời nói, những thái độ ấy đã đem lại cho chị niềm tin, niềm bình an và lòng tự tín. Còn em bé, khi trở lại sự sống, người đầu tiên mà em nhìn thấy là Đức Giêsu. Hơi ấm đầu tiên em cảm nhận được từ bàn tay Người đã làm em thấy yên tâm. Ánh mắt hiền từ của Người cho em niềm tin yêu phó thác. Và thái độ của Người thật như một người cha hiền. Việc đầu tiên Người bảo mọi người là cho em bé ăn. Thật là một sự quan tâm ân cần. Ơn lớn nhất Người ban là trả lại sự sống cho em bé. Em đã được cứu thoát khỏi bàn tay tử thần. Nhưng chính ánh mắt, cử chỉ và lời nói đầy tình yêu thương đã ghi khắc trong tâm hồn em bé một hình ảnh rất đẹp và rất sâu đậm về Người. Trọn đời em sẽ ghi nhớ mãi hình ảnh Người. Trọn đời em sẽ biết ơn Người. Trọn đời em sẽ sống xứng đáng với tình yêu thương mà em đã cảm nhận được.
Người phụ nữ và em bé đã được Đức Giêsu thương yêu vì họ đã có những phẩm chất đáng quí.
Phẩm chất thứ nhất mà họ có, đó là đức tin mạnh mẽ. Ông trưởng hội đường tin tưởng mãnh liệt nên đã đến tìm Đức Giêsu. Hội đường Do Thái vốn không ủng hộ Đức Giêsu, trái lại còn chống đối và tìm cách giết Người. Thế mà ông trưởng hội đường này vẫn đến cầu cứu Người, chứng tỏ lòng tin của ông mãnh liệt biết bao. Chính Đức Giêsu đã bảo ông: “Chỉ cần tin thôi!”. Còn người phụ nữ tuy sợ hãi không dám nói với Người, nhưng với lòng tin tưởng mãnh liệt đã sờ vào gấu áo Người. Đức Giêsu đã khen ngợi đức tin của họ: “Lòng tin của con đã chữa con”. Đức tin mãnh liệt như thế đã xứng đáng được Chúa thưởng công.
Phẩm chất thứ hai mà họ có, đó là đức khiêm nhường thẳm sâu. Sự khiêm nhường được biểu lộ không những qua sự nhận biết thân phận thiếu thốn, bất lực của bản thân, mà còn diễn tả qua thái độ bên ngoài. “Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp lạy dưới chân Người”. Sau khi bị phát giác, người phụ nữ cũng đến phủ phục dưới chân Người và tỏ bày tất cả mọi sự. Chính thái độ khiêm nhường ấy đã được Chúa thương.
Hằng ngày có nhiều lần ta đụng chạm đến Chúa hoặc Chúa đụng chạm đến ta. Ta đụng chạm đến Chúa trong khi đọc Sách Thánh. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta đụng chạm tới Chúa khi ta lãnh nhận các bí tích. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta tiếp xúc với tha nhân, đặc biệt những anh em bệnh tật, nghèo túng, bị bỏ rơi. Nhưng những đụng chạm ấy dường như chẳng để lại dấu ấn nào trong ta. Điển hình là khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta trực tiếp đụng đến Chúa. Thế nhưng vì ta đã đụng đến Chúa cách hời hợt, máy móc, theo thói quen, thiếu lòng tin, thiếu tình yêu, nên đời sống ta chưa biến đổi. Hôm nay, ta hãy noi gương ông trưởng hội đường và người phụ nữ bị bệnh băng huyết, đến với Chúa bằng một đức tin mãnh liệt và bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Với đức tin và sự khiêm nhường, ta sẽ cảm nghiệm được Chúa. Chỉ cần một lần nếm cảm được tình yêu Chúa, được thấy ánh mắt nhân từ của Chúa, được lắng nghe những lời êm dịu, khích lệ của Chúa, ta sẽ chẳng còn muốn làm gì khác hơn là đền đáp tình yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con một đức tin mạnh mẽ và một lòng khiêm nhường thẳm sâu. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn?
2) Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và bạn đụng vào Chúa?
3) Có lần nào bạn đã cảm nghiệm được Chúa đụng chạm vào bạn chưa?
3. Hãy bám vào Chúa
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Tôi mới nghe tin một người quen bị ung thư. Tôi liền điện thoại hỏi thăm. Người bạn đó bảo: bác sĩ tây y – đông y đều bó tay rồi. Bây giờ trong người đau nhức lắm. Tôi chỉ mong ra đi sớm cho khỏi chịu sự đau đớn này. Tôi nói với người bạn: còn nước còn tát. Còn một hơi thở cũng đừng bỏ cuộc. Là người ky-tô hữu chúng ta còn có một phương dược diệu kỳ là cậy dựa vào quyền năng Chúa. Hãy cầu nguyện và bám chặt vào Ngài.
Dầu thế nào đi nữa, sinh bệnh lão tử là lẽ thường tình. Con người dường như bất lực với lẽ thường tình ấy. Dù Tần Thủy Hoàng có thuốc linh đan trường sinh rồi cũng chết. Dù văn minh khoa học tiến bộ rồi cũng bất lực trước những bệnh tật khổ đau của con người. Sự bế tắc trong sinh tử cho thấy con người không thể dựa vào khả năng của mình để thoát khỏi dòng sinh mệnh ấy. Con người đành ngậm ngùi tiếc thương cho nhau khi gặp hoạn nạn gian nan. Chúng ta vẫn thường nghe bác sĩ nói nhỏ với bệnh nhân hoặc người nhà bệnh nhân: “tôi rất tiếc vì không có thể làm gì hơn được nữa!”
Xem ra chỉ có Thiên Chúa mới có quyền trên mọi bệnh tật. Chỉ có Ngài mới cầm quyền sinh tử cho con người. Ông hội trưởng trong tin mừng thánh Marco có lẽ đã từng “vái tứ phương” để tìm thầy chạy thuốc cho đứa con cưng của mình. Nhưng đã hoàn toàn thất bại. Chỉ khi ông gặp được Chúa, đặt niềm tin nơi Chúa. Con gái ông mới được cứu. Niềm tin vào Chúa đã được bù đắp bằng ơn lành Chúa ban theo ý ông xin.
Thế nhưng, đôi khi chúng ta không khỏi thắc mắc băn khoăn. Tại sao Chúa nhận lời người này mà lại không nhận lời người kia? Tại sao giữa dòng đời có người vui và có người buồn? Có người khoẻ mạnh. Có người ốm đau. Có những người cả cuộc đời sống trong lụa là gấm vóc. Có những người lại cơ cực lầm than. Có người được yêu thương, có người bị khinh chê ruồng bỏ. Có người hạnh phúc, có người bất hạnh.
Phải chăng Thiên Chúa yêu thương người này và ghét bỏ người kia? Chắc chắn là không. Vì Thiên Chúa là Cha nhân từ. Ngài yêu thương mọi loài mà Ngài đã tạo dựng nên. Hoa cỏ đồng nội. Muôn thú muôn loài đều được Ngài chăm sóc huống chi con người. Sự dữ không phải do Thiên Chúa mang đến. Sự dữ là thế lực thù nghịch với Thiên Chúa. Ma qủy luôn tìm cách phá hủy công trình của Chúa. Trong đó công trình vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đã làm nên, đó là tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Chính vì điểm này mà Thiên Chúa luôn đòi hỏi con người dùng tự do để quy phục Thiên Chúa thay vì quay lưng lại với Ngài. Con người có tự do để hành xử. Theo Chúa để chống lại sự dữ, để sống vâng phục theo thánh ý Chúa. Khi con người sử dụng tự do để sống theo thánh ý Chúa là lúc con người chấp nhận những thử thách khó khăn trong cuộc đời, với một niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi những ai trung tín theo Ngài.
Cuộc đời vẫn thường có những trái ngang. Dòng đời không thiếu những bất trắc xảy ra, khiến chúng ta dễ thất vọng về những gì đang diễn ra trong cuộc đời. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Hãy chạy đến cùng Thiên Chúa. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài sẽ làm những điều tốt đẹp nhất cho dân Ngài.
Ước gì chúng ta có đủ đức tin để chạy đến kêu cầu Chúa chữa lành khi gặp những tai ương hoạn nạn. Xin cho chúng ta luôn tín thác vào Chúa dẫu cuộc đời vẫn còn đó những phong ba gió bụi cuộc đời. Amen.
4. Đừng tuyệt vọng …
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Điều cao qúy nhất của con người không phải là của cải vật chất, là danh vọng, địa vị mà là tự do. Tự do để đi lại. Tự do để hành động mà không bị một thế lực nào khống chế hay kềm kẹp. Thế nên, có tự do là có hạnh phúc, ngược lại là đau khổ và bất hạnh.
Con người có thể mất tự do bởi đau ốm bệnh tật. Con người cũng có thể mất tự do bởi những đam mê tội lỗi. Đau ốm bệnh tật giam hãm con người phần xác. Đam mê tội lỗi giam hãm con người phần hồn. Tất cả đều làm cho con người đau khổ và thất vọng. Có những người đau khổ vì đau lâu ốm dài. Có những người đau khổ vì tai nạn hay mắc những căn bệnh hiểm nghèo. Có những người đau khổ vì lỡ nghiện ngập hay sa chân lỡ bước mà không thể tử bỏ và làm lại cuộc đời được. Tất cả những ai đang sống trong tình trạng này đều mong muốn được giải thoát, được cứu chữa. Họ đều cảm thấy mình bất lực với sự dữ đang hoành hành thân xác và tâm hồn mình. Họ cần một phép lạ có thể biến đổi tình trạng của họ nên tốt hơn.
Đó cũng là tâm trạng của ông Hội trưởng có con gái bị bệnh và của người phụ nữ bị bệnh băng huyết trong bài tin mừng hôm nay. Ông hội trưởng có lẽ đã từng đi “vái tứ phương” để tìm thầy chạy thuốc cho đứa con cưng của mình. Người phụ nữ có lẽ đã đi đến đường cùng, nên đánh liều xông thẳng vào Chúa, chỉ mong được chạm vào Chúa, với hy vọng nho nhỏ là được lành bệnh. Họ đã được toại nguyện. Người phụ nữ cảm thấy nhẹ mình. Không còn khổ sở vì căn bệnh đã kéo dài suốt 12 năm. Ông hội trưởng cảm thấy hạnh phúc vì đứa con đã ngồi dạy, ăn uống bình thường. Có lẽ họ rất vui vì được Chúa nhận lời họ. Niềm tin của họ vào Chúa đã được bù đắp bằng ơn lành Chúa ban cho họ. Họ đã được giải thoát khỏi đau khổ bằng sức mạnh và quyền năng của Chúa.
Thế nhưng, đôi khi chúng ta không khỏi thắc mắc băn khoăn. Tại sao Chúa nhận lời người này mà lại không nhận lời người kia? Tại sao giữa dòng đời có người vui và có người buồn? Có người khoẻ mạnh. Có người ốm đau. Có nhũng người cả cuộc đời sống trong lụa là gấm vóc. Có những người lại cơ cực lầm than. Có người được yêu thương, có người bị khinh chê ruồng bỏ. Có người hạnh phúc, có người bất hạnh. Phải chăng Thiên Chúa yêu thương ngừơi này và ghét bỏ người kia? Chắc chắn là không. Vì Thiên Chúa là Cha nhân từ. Ngài yêu thương mọi loài mà Ngài đã tạo dựng nên. Hoa cỏ đồng nội . Muôn thú muôn loài đều được Ngài chăm sóc huống chi con người. Sự dữ không phải do Thiên Chúa mang đến. Sự dữ là thế lực thù nghịch với Thiên Chúa. Ma qủy luôn tìm cách phá hủy công trình của Chúa. Trong đó công trình vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đã làm nên, đó là tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Chính vì điểm này mà Thiên Chúa luôn đòi hỏi con người dùng tự do để quy phục Thiên Chúa thay vì quay lưng lại với Ngài. Con người có tự do để hành xử. Theo Chúa để chống lại sự dữ, để sống vâng phục theo thánh ý Chúa. Khi con người sự dụng tự do để sống theo thánh ý Chúa là lúc con người chấp nhận những thử thách khó khăn trong cuộc đời, với một niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi những ai trung tín theo Ngài.
Người ta kể rằng: có một thiếu phụ sống rất bi quan. Cô cảm thấy dường như Chúa đã bỏ rơi mình. Một lần kia, thiếu phụ đang đi trên đường và gặp một linh mục, sau câu chào hỏi, linh mục đã nói với thiếu phụ rằng: Cô có dám buông tay cho đứa bé rớt xuống đất không?
Thiếu phụ nhìn linh mục với sự ngạc nhiên, không hiểu sao ngài lại nói như thế?
Linh mục nói tiếp: Nếu có ai trả cho cô một số tiền lớn để buông đứa bé cho rơi xuống đất, cô có chịu không?
Thiếu phụ trả lời: Dù ai có cho tiền nhiều như sao trên trời tôi cũng không đời nào buông con tôi rơi xuống cách đau đớn như vậy.
Lúc ấy, linh mục ôn tồn bảo: Thiên Chúa là người cha nhân lành, Ngài sẽ không bao giờ để con cái Ngài rơi xuống hố thẳm của đau khổ đâu.
Nghe lời đó, thiếu phụ bừng tỉnh, và dường như cô không còn bi quan trong cuộc sống nữa.
Cuộc đời vẫn thường có những trái ngang. Dòng đời không thiếu những bất trắc xảy ra, khiến chúng ta dễ thất vọng về những gì chúng ta đang có. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Hãy chạy đến cùng Thiên Chúa. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài sẽ làm những điều tốt đẹp nhất cho dân Ngài.
Nguyện xin Thiên Chúa luôn nâng đỡ trợ giúp chúng ta vượt qua khó khăn, thử thách và ban cho chúng ta một đức tin vững vàng, để chúng ta luôn tin rằng: Thiên Chúa là người Cha đầy nhân ái, bao dung, Ngài sẽ làm những điều tốt đẹp nhất cho cuộc đời của chúng ta. Amen.
5. Khẽ chạm vào Chúa Giêsu
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
“Tôi mà sờ vào được áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa” (Mc 5,28)
Đó là xác tín của “người đàn bà bị băng huyết 12 năm khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc, đến tán gia bại sản”. Và bà đã thực hiện điều bà đã xác tín.
Cái khẽ chạm của người đàn bà bị băng huyết, chỉ nơi gấu áo choàng của Chúa Giêsu, cũng đủ làm cho Người phát hiện một năng lực đang tiêu hao, đang xuất phát. Vì cái khẽ chạm ấy bắt nguồn từ một ước muốn ngay lành và niềm tin mãnh liệt.
Ước muốn ngay lành
Ước muốn ngay lành là ước muốn được trở nên tinh tuyền, không còn ô uế, không còn phải xấu hổ vì sự ô uế của mình trước mặt thiên hạ. Thánh Marcô cho biết “bao năm chạy thầy chạy thuốc đến tán gia bại sản” đủ cho thấy ước muốn ấy, đã đến mức thành khẩn biết bao! Một ước muốn ngay lành. Một khao khát chính đáng. Ước muốn sống động của một con người khôn ngoan không chấp nhận đầu hàng trước số phận nghiệt ngã. Khao khát cháy bỏng nhưng tế nhị biết người biết ta trong quan hệ tương giao vừa đủ. Bởi bà biết mình là ai, bà biết mình cần gì. Bà cũng biết Đức Giêsu là ai, và bà biết tránh cho Đức Giêsu khỏi bị lây nhiễm cái ô uế oan nghiệt của cuộc đời. Bà biết nghĩ đến Chúa Giêsu, biết giữ gìn cho danh giá Con Thiên Chúa. Từ ước muốn ngay lành và khôn ngoan của bà, đã điều phối mọi cử chỉ, theo với niềm tin mãnh liệt.
Niềm tin mãnh liệt
Niềm tin mãnh liệt là một khẳng định “có một không hai”- không ai khác ngoài Chúa Giêsu mới có thể cứu chữa bà: “Tôi mà sờ vào được áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa”. Niềm tin ấy đơn sơ mộc mạc, không cầu kỳ, không vênh vang, nhưng âm thầm lặng lẽ. Niềm tin của người đau khổ. Niềm tin của người bé nhỏ, thấp kém. Niềm tin mãnh liệt nhưng thể hiện khiêm tốn: “bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người và sờ vào áo choàng của Người”. Giữa một đám đông chen lấn như thế, thì việc đụng chạm vào Chúa Giêsu là điều không tránh khỏi. Có biết bao nhiêu cái chạm vào Chúa Giêsu , nhưng chỉ có cái khẽ chạm phát xuất từ niềm tin và khao khát hoàn thiện của bà băng huyết ấy, mới có sức làm tiêu hao năng lực Chúa Giêsu mà thôi, mới có sức lôi kéo sự sống, sự toàn thiện của Chúa Giêsu về làm sự sống, sự toàn thiện cho mình.
Còn chúng ta? Trong số những người chen lấn, đụng chạm vào Chúa Giêsu có cả tôi và bạn đấy chứ? Có cả chúng ta? Có cả những người đương thời, đương chung sống với chúng ta đấy chứ? Có cả những người mang danh là tín hữu, có cả những người vô thần… Nhưng có năng lực nào đã xuất phát từ Đức Giêsu về phía chúng ta không? Sự sống và sự toàn thiện của Ngài sao không xuất phát ra để chúng ta khỏi trầm mình trong bóng tối sự chết, trong cõi mê lầm, lung lạc?
Hẳn là vì chúng ta đang chen lấn, đụng chạm vào Chúa Giêsu để ghi tên vào danh sách những người đi theo Chúa Giêsu mà không hề có một ước muốn hoàn thiện, một đức tin được chữa lành. Hoặc có người đang đụng chạm vào Chúa Giêsu như một xúc phạm để làm cho danh giá của Ngài bị vùi dập trước mặt người đời.
Nếu chúng ta không thực sự khẽ chạm vào Chúa Giêsu với niềm tin mãnh liệt để chính mình được nên toàn thiện với Ngài, thì việc rao giảng về Chúa Giêsu Kitô, việc dạy giáo lý về Chúa Giêsu Kitô, cũng không khác gì việc truyền bá một mớ vốn liếng kiến thức của các kinh sư ngày ấy. Càng không thể lay chuyển hay mời gọi ai đến chạm vào Chúa Giêsu khi căn bệnh trầm kha trong đời mình chưa chữa khỏi: căn bệnh “không ước muốn hoàn thiện”.
Sự cần thiết của ước muốn hoàn thiện…
Ôi sự cần thiết của ước muốn hoàn thiện đang trở nên cấp bách dường nào trong tình thế, trong môi trường truyền giáo của chúng ta hôm nay.
Chúng ta đang sống trong một đất nước xã hội chủ nghĩa với những người cộng sản vô thần. Họ đang mang căn bệnh trầm kha “không ước muốn hoàn thiện” theo ý của Thiên Chúa. Và tư tưởng ấy, căn bệnh ấy, đang là một chủ trương cuốn hút nhiều người sa đà theo cách sống hoàn thiện vật chất “ăn ngon, mặc đẹp” là đủ ý nghĩa cuộc đời!
Thách thức mới trong thời đại chúng ta là chúng ta phải thực sự trở nên toàn thiện nhờ múc lấy năng lực của Chúa Giêsu mới có thể thực hiện ước mơ biến đổi não trạng của những người vô thần. Họ là bà con, là anh em, là đồng bào của chúng ta. Họ cũng được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Việt Nam thân yêu thắm đẫm máu các thánh Tử Vì Đạo. Họ cũng là những công trình thượng đẳng của Thiên Chúa. Tiếc là, họ không tin nhận Thiên Chúa. Và vì không có «đấng trên đầu trên cổ» nên họ đã sa vào bao lầm lạc. Người công giáo Việt Nam, không xem họ là kẻ thù. Kẻ thù chính yếu là những lầm lạc của satan trong lòng họ. «Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai. Kẻ thù ta tên nó là gian ác…» (Phạm Duy).
Trong những ngày nầy, có thể đang có những giằng xé tận thâm tâm của những người cộng sản nắm giữ vận mạng đất nước, về sự tồn vong của tổ quốc của dân tộc Việt nam! Người công giáo Việt Nam khắp nơi đang thắp nến cầu nguyện công khai, đang âm thầm cầu nguyện nơi các nhà thờ, các gia đình, cầu cho giới lãnh đạo khôn ngoan nhận ra con đường phải đi, việc phải làm vì lợi ích chung cho dân tộc; cầu cho họ «có ước muốn hoàn thiện» để sửa chữa khẩn cấp những chủ trương có thể nguy hại cho vận mệnh đất nước. Việc đạo đức ấy, chính là việc làm phát xuất từ Ước Muốn Hoàn Thiện và Đức Tin Mãnh Liệt của «bà băng huyết 12 năm khổ sở chạy thầy chạy thuốc đến tán gia bại sản». Việc đạo đức ấy chính là việc khẽ chạm vào gấu áo Chúa Giêsu, với lòng tin Ngài sẽ tuôn sức sống nơi Ngài xuống cho mình và cho cả cộng đồng dân tộc
Và việc cần làm ngay là mỗi người phải nhận ra mình đang lâm trọng bệnh, cần có ước muốn hoàn thiện nhờ lòng tin mãnh liệt vào Chúa Giêsu, Đấng duy nhất có thể, không chỉ cứu chữa mà còn tuôn tràn sức sống, sự toàn thiện của Ngài để chúng ta có sức chu toàn ơn gọi yêu thương và giới thiệu Chúa cho mọi người.
Một cái khẽ chạm vào chân lý, sẽ ngộ ra ngay mình lầm lạc bấy nay…
Lạy Chúa Giêsu, không cần phải báo cáo, Chúa cũng đang biết có bao nhiêu người Việt Nam đang thành tâm khẽ chạm vào gấu áo Ngài… Xin tuôn tràn sức sống của Chúa cho chúng con. Amen.
6. Đức tin
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã ghi lại hai mẫu gương đức tin sáng chói.
Trước hết là ông Giairô, ông đến với Chúa để van nài Ngài: Lạy Thầy, đứa con tôi sắp chết, xin Ngài hãy tới. Khi người ta báo tin đứa bé đã chết, Chúa Giêsu liền bảo ông: Đừng sợ, nhưng hãy tin. Tiếp đến là người đàn bà mắc bệnh loạn huyết. Bà từ phía sau, đến gần Chúa và tự nhủ: Nếu tôi chạm tới gấu áo Ngài thì tôi sẽ được khỏi.
Ước gì mỗi khi lên rước lễ, chúng ta cũng có được một đức tin như thế, khi miệng lưỡi chúng ta chạm tới Mình Máu Thánh Chúa.
Qua đức tin, Phúc Âm cũng dạy cho chúng ta một bài học về đức cậy. Thực vậy, đứa con gái đã chết và người ta cười nhạo Chúa. Thế nhưng Ngài điềm nhiên nói: Đứa bé không chết đâu, nó ngủ đấy. Cũng vậy, khi thân xác Lagiarô bắt đầu rữa thối, nhưng Ngài muốn cho ông ta được sống lại, thì liền nói: Bạn Lagiarô của Ta đang ngủ.
Thực vậy, Đức Kitô, qua cái chết và sống lại, đã giải phóng chúng ta khỏi cái chết. đôn đốc tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là hy vọng Ngài sẽ cho chúng ta được sống lại. Thế nhưng tin có khó hay không? Cha Thomas có viết như sau: Vấn đề gai góc ngày hôm nay, không phải là vấn đề Giáo Hội có bị lung lay chăng, nhưng là vấn đề đức tin của chúng ta hôm nay gặp quá nhiều chướng ngại, nào là văn minh vật chất, nào là óc thực nghiệm và duy khoa học, sợ dấn thân và thích yên ổn. Trong khi đức tin đòi hỏi chúng ta phải dấn thân, phải phó thác, phải hy sinh. Tin đồng nghĩa với bị quên lãng, bị bách hại và phải chấp nhận hy sinh. Tóm lại, tin là phải sống chính thân phận của Đức Kitô, là Thiên Chúa Ngài đã hạ mình xuống, mặc thân phận tôi đòi, đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Là Thiên Chúa Ngài đã chấp nhận thân phận tội nhân, để con người tội lỗi chúng ta được gọi là con Thiên Chúa.
Ngoài ra, tin còn là hiệp thông với Giáo Hội bởi vì Giáo Hội gắn liền với Đức Kitô, cùng thao thức với Giáo Hội trước những vấn đề của thế giới hôm nay. Cùng đau khổ vì những chống đối, những sai phạm và những khinh khi của kẻ khác đối với truyền thống xã hội.
Vậy niềm tin đem lại ích gì? Tôi xin thưa đó là sự an bình đích thực cho tâm hồn. Trong một cuộc động đất kinh hoàng, mọi người đều lo sợ, tuy nhiên có bà cụ vẫn bình tĩnh chăm sóc cho những nạn nhân, mặc dầu nhà cửa của bà cũng đã bị sụp đổ. Người ta hỏi thì bà trả lời: Tôi chẳng bao giờ phải sợ hãi vì tôi tin rằng Thiên Chúa là Cha tôi và Ngài có thể lay chuyển cả trời lẫn đất với tình yêu thương của Ngài.
Chính vì thế, chúng ta hãy kêu lên như các tông đồ ngày xưa: Lạy Chúa, xin hãy củng cố niềm tin bé nhỏ của chúng con.
7. Này bé, Chỗi dậy đi!
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Thánh Máccô tường thuật một loạt các phép lạ của Chúa Giêsu; và hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta dừng lại nơi hai phép lạ cả thể này, hai phép lạ mang nhiều ý nghĩa: một người được lành bệnh nan y và một người chết sống lại.
Chúa Giêsu vẫn là con người của đám đông. Ngài thuộc về họ. Đi đến đâu cũng bị bao vây. Đang lúc bận bịu với đám đông, một ông trưởng Hội Đường đến gặp. Thánh Máccô ghi rõ thái độ của ông: ông sụp lạy dưới chân Ngài. Một ông trưởng Hội Đường, một người danh giá trước mặt dân chúng, thế mà ông quì sụp xuống dưới chân Ngài. Thật khiêm tốn và khẩn thiết! Vì ông đã đến đường cùng và ông nhìn Chúa Giêsu như một Đấng có thể giúp ông vượt qua cơn ngặt nghèo. Ông chỉ có một đứa con gái duy nhất. Giàu có như ông, chắc không thiếu gì thầy thuốc, nhưng tình trạng của con ông gần như tuyệt vọng. Ông chỉ còn cậy trông vào “ông Giêsu” mà ông đã từng nghe nói tới.
Chúa Giêsu nhận lời ông ngay và cùng đi với ông. Đám đông vẫn đi theo, chen lấn. Nhưng dọc đường, một người đàn bà bị băng huyết đã đến, âm thầm lách qua đám đông, sờ vào áo Ngài. Bà nghĩ rằng: nếu có thể động vào áo Ngài chắc bà sẽ khỏi bệnh. Tình trạng của bà cũng gần như tuyệt vọng. Bà đã chạy thầy chạy thuốc suốt bao nhiêu năm, nhưng bệnh tình càng ngày càng trầm trọng hơn. Chỉ còn một tia hy vọng cuối cùng là “ông Giêsu.”
Tại sao bà không đi đến với Ngài trực tiếp xin Ngài chữa cho?
Theo luật Do thái, những bệnh như bà là những bệnh ô uế, không được phép ra khỏi nhà và đụng vào ai người ấy bị ô uế. Làm sao bà có thể đường đột đến xin Ngài chữa bệnh? Vì thế bà lén lút lách qua đám đông để tìm cách chạm vào áo Ngài thôi.
Niềm tin của bà mang một chút mê tín, nhưng là một niềm tin thành thật và mãnh liệt.
Bà đã thành công. Bà đã động được áo Ngài và bà đã được lành bệnh. Nhưng Chúa Giêsu biết mọi sự, Ngài dừng lại và hỏi: “Ai đã động vào áo Ta?” Các môn đệ bảo: “Thầy xem người ta chen lấn Thầy thế này mà Thầy còn hỏi ai động vào Thầy!” Chúa Giêsu khẳng định: “Có người động vào Ta”. Có điều gì quan trọng đã xảy ra khiến Ngài chú ý. Ngài rảo mắt tìm quanh. Người đàn bà run lên vì thấy mình bị bại lộ. Mình là một người ô uế! Mình đã làm một điều trái Luật! Bà quì xuống dưới chân Ngài và thú tội. Nhưng trái với ý nghĩ của bà, không những không bị quở trách và đuổi xua, bà lại nghe một lời dịu ngọt, đầy an ủi: “Nầy con, lòng tin của con đã cứu lấy con.. Hãy về và khỏi hẳn bệnh”.
Chúng ta nghĩ, người đàn bà đó sẽ vui mừng như thế nào! Đó là phần thưởng của niềm tin chân thật.
Chúng ta vào tòa giải tội. Có những người sợ sệt, run rẫy, nhưng khi đã xưng thú tội lỗi đã nhận được sự bình an đến nỗi reo lên: “Ô! Tôi nhẹ như cất cả một khối sắt trong tâm hồn! Hồng ân của lòng tin thành thật là sự bình an. Chúa Giêsu vẫn chờ đón chúng ta khi chúng ta gần như thất vọng. Ông Giai-ia và bà băng huyết đã đi đến mức tuyệt vọng như thế và đã không hối tiếc.
Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy lòng tin của người đàn bà băng huyết và hồng ân Ngài ban tặng. Ngài có thể làm như không hay biết, nhưng Ngài muốn cho mọi người thấy kết quả của lòng tin.
Ngài tiếp tục đi tiếp về nhà ông Giai-ia, nhưng một biến cố mới xảy đến. Người nhà ông trưởng Hội đường cho hay: “Em bé đã qua đời, đừng phiền Thầy nữa”. Chúng ta nghĩ ông Giai-ia sẽ như thế nào khi nghe tin đó? Tất cả niềm hy vọng của ông phụt tắt. Ông òa lên khóc. Chúa Giêsu bảo: “Đừng sợ. Tin thôi!” Và Ngài tiếp tục cuộc hành trình.
Giữa bao nhiêu thử thách cam go của cuộc sống, nhiều khi chúng ta nản lòng,mất phương hướng. Chúa Giêsu chỉ bảo chúng ta một điều: tin thôi.
Chúng ta dám tin, Chúa dám làm. Nhưng ngược lại, nếu chúng ta kém tin, Chúa không thể hoạt động. Điều kiện tiên quyết để Chúa hành động chính là niềm tin của chúng ta. Ngay khi chúng ta ở trong những tình trạng bế tắc nhứt, Chúa vẫn chờ đợi chúng ta tin vào Ngài: “Thầy đây! Đừng sợ!”
Đến nhà ông Giaia, người ta đang khóc lóc ồn ào và đợi ông về để quấn khăn liệm cho em bé. Chúa Giêsu bước vào, Ngài nói ngay: “Sao lại khóc ồn ào như thế? Em bé nầy có chết đâu, nó ngủ đó”.
Ai cũng cười nhạo Ngài, và cho Ngài là một tên “xạo” nào đó. Đứa bé đã chết cóng rồi mà ông nói nó ngủ! Thật là buồn cười! Chúa Giêsu làm như cố tình để cho người ta nhạo cười để rồi Ngài cho họ thấy uy quyền của Thiên Chúa.
Ngài bảo mọi người ra khỏi nhà, trả lại sự yên tĩnh cho căn nhà. Ngài chỉ cho ba môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo vào nhà và đến trước nơi em bé đang nằm. Ngài cầm tay em bé và gọi: “Em bé, dậy đi con”. Thế là em bé ngồi dậy…như vừa tỉnh giấc. Những người cười nhạo đâu rồi? Giờ nầy họ mới sáng mắt ra và ngỡ ngàng.
Lòng tin của ông trưởng Hội đường được ân thưởng. Chúng ta thử tưởng tượng nỗi vui mừng của ông và gia nhân của ông.Niềm vui đột ngột đến nỗi không ai có thể hiểu được. Nếu chúng ta có mặt ở đó, chúng ta sẽ nghĩ sao? Có thể nói, chúng ta cũng như những người đang có mặt đó thôi. Ngỡ ngàng và thán phục. Chưa từng thấy ai làm được một việc cả thể như thế! Vậy ông Giêsu nầy là ai? Sao ông có thể làm được một việc kỳ diệu như thế? Nó là kết quả của niềm tin và lòng khiêm tốn. Chúa Giêsu thường nói đến niềm tin và đòi buộc những người đến với Ngài một niềm tin không sứt mẻ. Anh mù ở Giêrikhô,bà góa Xyrô-Phênixi có đứa con gái bị quỉ ám, người đàn ông có đứa con trai bị quỉ ám…đều là những người đã tin vào Chúa vô điều kiện.
Chính Ngài cũng bảo chúng ta: “Nếu đức tin chúng con bằng hạt cải thôi, chúng con cũng có thể chuyển núi dời non”. Thế nhưng chúng ta có ai đã làm được? Tại sao? Chúa nói sai hay sao? Không! Chỉ vì chúng ta kém tin. Niềm tin của chúng ta còn quá xanh xao, không đủ sức mang lại hiệu quả. Chúng ta luôn tưởng rằng chúng ta đã tin vững vàng, nhưng trong thực tế, cần phải xét lại…
Chúng ta đã cố gắng rất nhiều, đã dùng mọi phương tiện tối tân, đã đổ bao công sức để truyền giáo, kết quả như thế nào? Chẳng được bao nhiêu như các môn đệ xưa chài lưới suốt đêm mà không được con cá nào. Vì người ta cứng tin hay vì chính chúng ta cũng không tin? Hay chúng ta chỉ làm việc mà không cần đến Chúa? Chúng ta chỉ tin vào khả năng và phương tiện của chúng ta?
Khi chúng ta nhận thấy được rằng chúng ta không là gì cả, chúng ta hoàn toàn bất lực; Lúc ấy, chúng ta mới chạy đến sấp mình dưới chân Chúa để nói rằng: xin Thầy đến giúp chúng con, vì chúng con không thể làm gì mà không có Thầy. Đa số chúng ta đều mang một thứ bệnh không ai chữa được là bệnh tự phụ. Ai cũng muốn cho cái tôi nổi cộm lên, và như thế, Chúa Giêsu nhỏ lại. Chúng ta che lấp Chúa vì chúng ta lớn quá, che cả mặt trời.
Chúa Giêsu ngược lại, Ngài trở nên nhỏ bé, đến nỗi người ta không thấy Ngài mà chỉ thấy ông thợ mộc Nadaret, con ông Giuse. Ngài nhỏ bé đến nỗi chỉ còn là một tấm bánh và chúng ta nuốt vào trong mình mà không hay. Chúng ta khác Chúa như thế làm sao chúng ta làm công việc của Ngài được? Người đàn bà mắc bệnh băng huyết, và ông trưởng Hội đường đã dạy chúng ta bài học về sự khiêm tốn. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta một bài học duy nhất đó thôi: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng”. Sự khôn ngoan nằm trong sự khiêm tốn. Thành công vĩ đại không phải là làm những việc to tác mà làm việc cho Chúa tôi, không cầu vinh, không ham mê kết quả thấy được. Chính Chúa mới làm cho con người khỏi bệnh hay sống lại. Chính Chúa mới cầm tay chúng ta kéo chúng ta đứng dậy và cho chúng ta ăn, như em bé kia.
Nầy đây, bàn tiệc của Chúa đang chờ chúng ta đến tham dự. Hãy đến với niềm tin chân thành và khiêm tốn, chúng ta sẽ thấy được quyền năng của Đấng là sự thật và là sự sống.
8. Đừng sợ! Hãy cứ tin
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mc 5: 21-24.35-43 Tin khi đời sống yên ổn, thuận buồm xuôi gió thì chưa phải là một đức tin đích thực. Đức tin phải được tôi luyện trong đau khổ. Trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên những phép lạ.
Chúa Giêsu nói với ông Trưởng Hội Đường: "Đừng sợ, hãy cứ tin”.
Câu chuyện trong Tin Mừng cho chúng ta biết đôi điều về ông Trưởng Hội Đường này. Ông là Chủ Tịch Ban Quản Trị Hội Đường và là Chủ Tịch Hội Đồng Kỳ Mục và có trách nhiệm điều hành mọi công việc trong Hội Đường. Ông có trách nhiệm trong việc chỉ đạo các buổi hội họp, có trách nhiệm phân phối công việc và xem xét mọi việc thực hiện cho đúng như luật định. Ông là nhân vật quan trọng trong cộng đồng, nhưng khi con gái ông ngã bệnh, ông nghĩ ngay đến Chúa Giêsu.
Ông đã quên đi các thành kiến. Trước kia có thể ông đã coi Chúa Giêsu như một người xa lạ, một người giảng tà giáo, bị các hội đường cấm cửa, một người mà bất luận người nào coi trọng chính thống giáo cũng phải xa tránh.
Ông quên đi vị thế của mình. Ông là Trưởng Hội Đường đầy quyền lực thế mà lại đến hạ mình dưới chân Đức Giêsu.
Còn một điều lạ lùng nữa là ông đã đích thân đến với Chúa Giêsu chứ không sai người nhà đi. Có lẽ sở dĩ ông ta phải đi vì không còn ai chịu đi. Người nhà ông đều tỏ ra nghi ngờ và bảo ông rằng đừng đi tìm ông Giêsu làm gì cho mất công. Theo tinh thần câu chuyện, nếu ông không đi tìm Chúa Giêsu để xin Ngài giúp đỡ, họ còn hài lòng hơn, nhưng ông đã bất chấp dư luận và thách đố cả những lời khuyên bảo của người nhà khi ông ta đến kêu cầu Chúa Giêsu.
Ông đã đến với Chúa Giêsu và Chúa Giêsu cùng đi với ông …nhưng đang khi đi đường thì có người nhà đến báo: “Con gái ông chết rồi, còn làm phiền Thầy làm chi nữa!" Nhưng Chúa Giêsu bảo ông: “Đừng sợ, hãy cứ tin”…chính nhờ lòng tin mà ông đã được một điều ngoài cả sự mong ước của mình.
“Đừng sợ, hãy cứ tin”…thế là đứa bé được sống lại. Một người chết rồi mà Chúa còn cho sống lại, phương chi làm cho một người bệnh, dù bệnh nặng như người phụ nữ bị loạn huyết 12 năm thì có gì là khó đối với Chúa Giêsu.
Chúng ta trở lại diễn tiến của câu chuyện: Theo luật Do Thái, người nào mắc chứng bệnh này thì đương nhiên bị liệt vào hàng ô uế, cho nên không được vào Đền Thờ, không được tham dự các lễ nghi phụng tự, và cũng không được đụng tới ai vì hễ ai mà bị người ô uế đụng phải thì cũng trở thành người ô uế luôn.
Trong đau khổ, bà đã nảy ra một ý tưởng táo bạo là tìm cách đụng vào gấu áo Đức Giêsu. Ý định này táo bạo ở chỗ là việc đó trái lề luật, và cũng chẳng ai chịu cho bà ta đụng vào mình vì sợ bị lây nhiễm sự ô uế, vì thế mà bà ta phải làm một cách lén lút. Dù vậy Đức Giêsu vẫn biết.
Khi Đức Giêsu hỏi "Ai đã đụng đến ta?" thì bà ta sợ hãi vì thấy việc làm của mình đã bị bại lộ. Nhưng bà ta ngạc nhiên hết sức vì Đức Giêsu không hề quở trách, trái lại đã chữa bà khỏi bệnh, và còn an ủi bà "con hãy đi bình an".
Chúa chỉ cần đức tin. Đức tin của ông Trưởng Hội Đường: “Đừng sợ, hãy cứ tin”.
Chúa chỉ cần đức tin, một đức tin vững mạnh của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an”.
Qua thái độ của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và của ông Trưởng Hội Đường Giairô, ta thử nhìn lại đức tin của chúng ta xem như thế nào.
Tin khi đời sống yên ổn, thuận buồm xuôi gió thì chưa phải là một đức tin đích thực. Đức tin phải được tôi luyện trong đau khổ. Trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên những phép lạ.
Cuộc đời của chúng ta không bao giờ hết đau khổ. Chúng ta có thể cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa ngay trong đau khổ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không nhất thiết lấy đi đau khổ, nhưng là cho chúng ta một năng lực để chuyển hoá đau khổ như ông Francois Mauriac đã phát biểu:”Ngài đến không phải để cất đi sự đau khổ mà để hiện diện với đau khổ”. Nghĩa là Thiên Chúa đến ban đức tin cho chúng ta để chúng ta biết chịu đựng đau khổ, biết chuyển hoá đau khổ, biến nó thành phương tiện để đạt tới ơn cứu độ. Bằng không thì chúng ta chịu đau khổ một cách vô ích và những đau khổ trở nên vô nghĩa.
Những ai không có đức tin thì gặp nhiều bất lợi trước đau khổ. Họ chịu đựng đau khổ gấp ba lần: họ phải chịu đựng bệnh tật, họ phải chịu đựng sự vô nghĩa của bệnh tật và phải chịu đựng đau khổ vì cuộc sống của họ bị ngưng trệ. Trái lại, đối với những người có đức tin thì đau khổ lại là một cơ hội để đức tin lớn mạnh và trưởng thành hơn.
Trường hợp của người phụ nữ bị loạn huyết và của ông Trưởng Hội Đường, cả hai hầu như bị dồn vào đường cùng, nhưng đường cùng có thể làm chúng ta tuyệt vọng nhưng đường cùng cũng có thể là một cơ hội làm cho đức tin của chúng ta nên mạnh mẽ như trong bài Tin Mừng hôm nay:
Chúa chỉ cần đức tin, đức tin của ông Trưởng Hội Đường: “Đừng sợ, hãy cứ tin”.
Chúa chỉ cần đức tin, một đức tin vững mạnh của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an”. Amen.
9. Đức tin.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay được chia thành hai màn nhưng cùng chung một khung cảnh, đó là bên bờ hồ với đông đảo dân chúng. Màn thứ nhất đó là ông chủ hội đường đến, phủ phục dưới chân Chúa mà van xin: Lạy Thầy, con bé nhà tôi gần chết xin Ngài đến đặt tay lên cháu để cháu được qua khỏi và được sống. Trước một nguy cơ đang đe doạ nghiêm trọng sự sống của con gái ông, ông đã khước từ hy vọng vào loài người để chỉ trọn vẹn tin vào Đức Kitô. Thế nhưng, cái tin đau đớn về cái chết của cô bé ập xuống trên đầu ông. Tức khắc Chúa Giêsu an ủi ông: Đừng sợ, chỉ cần tin mà thôi. Điều ông xin lúc mới gặp Chúa Giêsu thì bây giờ đã bị vượt qua. Có lẽ nhờ đó mà ông có được một niềm tin lớn hơn, đúng như Chúa Giêsu đã mời ông thực hiện. Ngài đem ba môn đệ thân tình nhất cùng với cha mẹ cô bé ra riêng mà nói với họ: Con bé không chết đâu, nó ngủ đấy, trong khi đó đám đông cười nhạo Ngài. Là người Kitô hữu hôm nay chúng ta hiểu được ý nghĩa sâu xa của câu nói đó. Khi Chúa Giêsu đến thì cái chết không còn là cái chết, mà đó chỉ là giấc ngủ. Xuyên qua niềm tin của Giairô, chúng ta thấy thấp thoáng niềm tin của ông vào Đấng sẽ làm cho kẻ chết sống lại.
Đang khi Chúa Giêsu gặp ông Giairô thì một người đàn bà đến từ phía sau và lén động tới gấu áo của Ngài. Lén, là bởi vì bà ta đang trong tình trạng ô uế, vì bị băng huyết. Ở đây, chúng ta thấy nổi bật lên hai nét: Một thứ tín ngưỡng tin vào sức mạnh thể lý nào đó của người làm phép lạ và quyền năng của Đức Kitô trước thất bại của các lương y khác. Hai ghi nhận đó được diễn tả trong câu: Tức khắc máu cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Đó là niềm tin dưới dạng thức sơ khai của người đàn bà được một thứ tính toán vụ lợi hướng dẫn, nhưng cuối cùng đã được toại nguyện, với cái giá phải trả là chạm mặt với Đức Kitô. Nhưng đó mới là màn một, còn màn hai thì như thế nào.
Màn hai này mang lại cho câu chuyện một tầm vóc khác xa những gì đã diễn ra trước đó. Bởi vì Đức Kitô muốn con người đã lén động đến Ngài vượt ra khỏi cảnh vô danh. Ngài bắt bà ta phải tự giới thiệu công khai và cùng bà ta đi vào một quan hệ cá nhân, một cuộc trực diện có thể soi sang chúng ta. Khi đó, bà ấy đã trình bày sự thật và khi nhấn mạnh tới niềm tin của bà, Chúa Giêsu cho bà ta lui về bình an: Này con, đức tin của con đã chữa con, con hãy đi bình an và khỏi bệnh. Từ một niềm tin sơ khai, người đàn bà đã bước sang một niềm tin trọn vẹn, mang sâu đậm một mối quan hệ của bà với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Và ông Giairô đã trông thấy điều đó khi ông đứng cạnh Chúa Giêsu, cho nên chúng ta dễ hiểu tại sao chính ông cũng đã đạt được đức tin trọn vẹn như chúng ta vừa mới chứng kiến ở trên.
Hãy tự hỏi xem coi long chai đá của chúng ta có thể đi từ sợ sệt đến đức tin, có thể vượt qua mọi e dè để từ từ khai mở cho một đức tin đầy tin tưởng hay không?
10. Đừng sợ.
Sợ hãi có lẽ là tâm trạng chung của con người, ngày xưa cũng như hôm nay. Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy: Trong khi các môn đệ và Chúa Giêsu vượt biển, thì bỗng dưng cuồng phong nổi lên, sóng gió ập vào đến nỗi thuyền đầy nước và sắp chìm. Các môn đệ ra sức chèo chống và tát nước, còn Chúa Giêsu vẫn đang ngủ say. Các ông sợ hãi đánh thức Ngài dậy. Chỉ với một lời đầy quyền năng: Hãy im đi, hãy lặng đi. Lập tức sóng liền yên, biển liền lặng và các ông đem thuyền vào bến bình an.
Với chúng ta cũng vậy, cuộc đời người Kitô hữu nói riêng, hay Giáo Hội nói chung, vẫn không thiếu những sóng to và gió lớn. Nó làm cho con thuyền cuộc đời chúng ta bị chao đảo và dường như muốn chìm xuống đáy nước. Trong những giờ phút đen tối, chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu: Đừng sợ.
Đây cũng là lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Đấng kế vị thánh Phêrô, đã lặp lại để động viên chúng ta, ngay từ những ngày đầu lãnh nhận sứ vụ thay mặt Chúa ở trần gian. Và từ đó, Đức Thánh Cha đã không mệt mỏi lặp lại lời này. Nó có giá trị trấn an thế giới đang sẵn sàng bước vào ngàn năm thứ ba.
Tại sao lại đừng sợ? Vì bên trên chiến tranh, tàn khốc, bên trên những xung khắc kinh tế và xã hội, bên trên tính bất khoan dung và sự nghèo đói mà nhân loại đang phải gánh chịu, còn có Tin Mừng mang lại sự sống và sự bình an. Đó chính là nguồn hy vọng cho thế giới ngày mai. Tuy nhiên bản thân chúng ta cần phải làm gì để không còn sợ hãi?
Trước hết chúng ta phải biết làm chủ cảm xúc của mình. Thực vậy, cây cỏ tuỳ vào thời tiết để sinh trưởng, nhưng chúng ta thì khác, chúng ta phải tạo ra thời tiết chung quanh chúng ta. Trong giao tiếp hằng ngày, nếu chúng ta chỉ đem đến mưa bão, gió lạnh và bóng tối, thì những người chung quanh chúng ta cũng sẽ đáp trả lại bằng những mưa bão, gió lạnh và bóng tối. Trái lại, nếu chúng ta đem đến cho họ niềm vui, tiếng cười, lòng hăng say và ánh nắng rực rỡ, thì sọ sẽ phản ứng với niềm vui mừng và hy vọng chan chứa. Cái thời tiết chúng ta đã tạo ra sẽ mang đến cho chúng ta một mùa gặt sung mãn. Gieo gì thì gặt nấy. Nếu chúng ta gieo rắc sự bình an, thì chúng ta cũng sẽ gặt lấy được sự bình an và chúng ta sẽ không còn phải sợ hãi.
Tiếp đến, chúng ta phải xây dựng cuộc đời chúng ta trên nền tảng đức tin. Bởi vì đức tin luôn chiến thắng sợ hãi, đức tin là một sức mạnh mà nỗi sợ hãi không thể nào chống đỡ được. Nếu cõi lòng chúng ta chất đầy niềm tin, thì chắc chắn sẽ không còn chỗ cho sợ hãi nữa. Và như thế, chúng ta chỉ còn một nỗi lo sợ duy nhất đó là lo sợ không mến Chúa và yêu người cho đủ mà thôi.
11. Đức Kitô là nguồn sống
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Sách Thánh dạy chúng ta:”Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài” để con người được tham dự vào sự sống vĩnh cửu, nhưng chương trình ấy đã bị phá vỡ bởi tội lỗi con người, và từ đó sự chết đã nhập vào thế gian, khiến con người phải chết (Kn 1,13-15). Ngoài ra, con người còn phải chịu nhiều đau khổ như bệnh tật, thiên tai, hận thù, chiến tranh, chém giết nhau... Chúng rình rập chúng ta như săn đuổi con mồi, hòng chộp bắt chúng ta, đánh qụy chúng ta và sớm đẩy chúng ta xuống mồ.
Nhưng sách Khôn ngoan hôm nay dạy chúng ta:”Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi kẻ sống phải chết”(Kn 1,13). Ngài muốn cứu sống chúng ta, đem lại hạnh phúc và bình an cho chúng ta. Vì thế, nếu chúng ta biết tin tưởng và kêu cầu Ngài thì được Ngài cứu sống (Đáp ca:Tv 29).
Chúa sẽ nghe lời chúng ta kêu cầu nhưng đòi hỏi chúng ta phải đặt hết niềm tin vào Ngài và cộng tác với ơn Ngài theo gương người đàn bà băng huyết và ông trưởng hội đường Giairô trong bài Tin mừng hôm nay. Ngoài ra, chúng ta cần có thái độ tích cực và khôn ngoan trước những đau khổ, trước những gian nan thử thách mà Chúa gửi đến cho chúng ta:”Ông đừng sợ, hãy vững tin”(Mc 5,36).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Kn 1,13-15; 2,23-24.
Sách Khôn ngoan được soạn vào khoảng thế kỷ I trước công nguyên. Tác giả là một người rất ư lạc quan. Dưới con mắt của ông, Tạo hoá mong muốn mọi sự tồn tại và danh dự của Ngài không cho phép cái chết thắng sự sống. Mọi sự có lẽ sẽ hài hoà nếu tội lỗi không xen vào chương trình sáng tạo để làm nó bị lạc hướng và dẫn nó đến cái chết, bởi vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, để cho loài người được sống vĩnh viễn.
Để giải quyết vấn đề do cái chết đặt ra, tác giả bèn liên kết cái chết thể xác với cái chết tinh thần: sở dĩ có sự chết là do tội lỗi mà ra. Tuy nhiên, cái chết thể xác nằm trong viễn tượng Phục sinh, vì nó sẽ khai mở tới sự sống đời đời.
+ Bài đọc 2: 2Cr 8,7-9.13-15.
Lúc ấy cộng đoàn Giêrusalem đang gặp nạn đói, thánh Phaolô đang tổ chức một cuộc lạc quyên để giúp đỡ cộng đoàn này. Để thuyết phục tín hữu tích cực tham gia đóng góp, Ngài đã đưa ra gương sáng của Đức Giêsu Kitô, Đấng giầu sang vô cùng, đã tự ý trở nên nghèo khó để làm cho loài người được nên giầu có.
Cuộc lạc quyên này sẽ chứng tỏ sự bình đẳng giữa người Do thái và Hy lạp: người Do thái đã chia sẻ cho người Hy lạp những đặc ân tinh thần, thì cũng là điều bình thường khi người Hy lạp chia sẻ cho người Do thái những may mắn của họ về vật chất trong lúc này. Như thế, sự dư dả của người này bù đáp sự thiếu thốn của người kia. Có như thế,”Kẻ được nhiều cũng không dư, mà kẻ có ít thì cũng không thiếu”.
+ Bài Tin mừng: Mc 5,21-43.
Thánh Marcô thuật lại cho chúng ta hai phép lạ có liên quan đến nhau: phép lạ làm cho con gái ông trưởng hội đường Giairô sống lại và phép lạ làm cho người đàn bà bị băng huyết đã 12 năm được khỏi. Hai phép lạ này gợi cho chúng ta hai điều:
1. Trước hết, hai phép lạ này mạc khải cho chúng ta về lòng nhân hậu của Đức Kitô, khiến không bao giờ cho Ngài được dửng dưng trước đau khổ của người khác. Đồng thời cũng hé mở cho chúng ta về quyền năng phát xuất từ Đức Giêsu: Ngài có thể làm cho khỏi bệnh dễ dàng, nhất là làm cho kẻ chết sống lại.
2. Những phép lạ này đòi hỏi đức tin nơi người muốn kêu xin. Đức tin cần thiết biết bao:”Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”(Mc 5,36). Đức tin của ông Giairô và người đàn bà băng huyết rất lớn: đặt hết tin tưởng vào Đức Kitô. Ngài dùng quyền năng cứu chữa và ban sự sống Ngài mang trong mình cho những ai, dù bề ngoài thất bại cách nào đi nữa, xin thì sẽ được như ý.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Sống trong niềm tin và hy vọng.
I. TIN THÌ ĐƯỢC SỐNG.
Bài đọc 1 hôm nay nhắc cho chúng ta tư tưởng lạc quan về cuộc sống. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, để con người được tham dự vào sự sống vĩnh cửu, được hạnh phúc đời đời, nhưng con người đã phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa vì phạm tội. Tuy nhiên, Thiên Chúa giầu lòng thương xót sẽ nhận lời những ai thành khẩn kêu xin Ngài (Đáp ca:Tv 29). Tư tưởng này được minh chứng bằng hai phép lạ dưới đây:
1. Chữa người đàn bà băng huyết.
Bỏ địa hạt Cêsarê, Đức Giêsu lại trở về Capharnaum. Thấy Ngài trở lại, dân chúng đến đón Ngài rất đông để được nghe giảng và xin phép lạ. Trong số đó, ông trưởng hội đường Giairô có đứa con gái bệnh nặng gần chết. Ông đến xin Ngài đến chữa cho con ông. Ngài nhận lời đi ngay.
Đang trên đường đi đến nhà ông Giairô thì dọc đường có một người đàn bà bị bệnh băng huyết đã 12 năm, không dám đến gần Ngài một cách công khai vì luật lệ cấm ky, vì bệnh băng huyết là một thứ bệnh nhơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng. Bà lén lút đến đàng sau Đức Giêsu với ý nghĩ rằng miễn sao chạm được vào gấu áo Ngài là khỏi bệnh ngay. Bà đã sờ vào được gấu áo Chúa nên bà cảm thấy lập tức trong mình đã được khỏi bệnh. Đức Giêsu biết rõ sự việc đã xẩy ra và hỏi xem ai đã động đến gấu áo Ngài? Bà thành thật thú nhận việc đã làm, Đức Giêsu đã yên ủi và khích lệ bà:”Hỡi con, đức tin của con đã chữa con”.
2. Cứu sống con gái ông Giairô.
Vừa chữa bệnh cho một người đàn bà bị băng huyết, Đức Giêsu vừa tiếp tục đi tới nhà ông Giairô. Tình cờ người nhà ông đến báo tin con ông đã chết rồi, đừng phiền đến Thầy nữa. Nhưng Đức Giêsu khích lệ ông:”Đừng sợ, hãy cứ tin”.
Quang cảnh nhà đứa bé thật nhộn nhịp: tiếng khóc của thân nhân cũng như của những người khóc mướn, tiếng trống tiếng kèn , cùng với lời báo tin của người nhà cũng như thái độ cười nhạo của những người chung quanh không tin vào quyền năng của Đức Giêsu cho thấy cô bé đã chết thật. Nhưng ở đây Đức Giêsu lại bảo:”Cô bé không chết đâu, nó ngủ đấy”. Ngài nói thế là vì Ngài muốn tỏ ra rằng Ngài làm cho kẻ chết sống lại dễ dàng như người ngủ thức dậy, để người khó tin được dễ hiểu.
Trước mặt 5 nhân chứng là cha mẹ cô bé và 3 môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan, Đức Giêsu cầm lấy tay cô bé và nói:”Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy”. Và em bé chỗi dậy mạnh khỏe. Ở đây Đức Giêsu tỏ ra có quyền trên sự chết và sự sống. Ngài làm chủ của kẻ sống và kẻ chết.
II. THIÊN CHÚA MUỐN ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA.
1. Phép lạ và đức tin.
Tất cả các phép lạ Đức Giêsu làm đều có ý khơi dậy lòng tin cho người ta. Không ai có thể chối cãi được những phép lạ Ngài đã làm như chữa bệnh, trừ qủi, dẹp yên sóng gió, làm cho kẻ chết sống lại... Vì những phép lạ này làm công khai trước mặt nhiều người và làm ngay tức khắc nên mọi người phải công nhận. Khi chữa bệnh xong, Đức Giêsu hay nói với bệnh nhân:”Đức tin của con đã chữa con”.
Còn những nơi người ta không tin Ngài thì Ngài không làm phép lạ, như trường hợp ở quê hương Ngài vì “gần chùa gọi bụt bằng anh”; còn đối với những luật sĩ và liệt phái chống đối Ngài thì Ngài cũng không làm phép lạ cho họ. Họ không thật lòng xin Ngài làm phép lạ mà chỉ thách thức Ngài thôi. Nếu không tin, không kêu xin Ngài thì làm gì có phép lạ?
Người đàn bà bị băng huyết này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà, nhưng bà tự nhủ:”Tôi chỉ cần sờ vào gấu áo Ngài thì tôi sẽ được khỏi”. Nghĩ thế và bà đã dám làm, bất chấp luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe. Điều đó chứng tỏ bà đã có đức tin vững mạnh, và thúc đẩy Chúa làm phép lạ. Kết quả là bà đã được như ý khi Chúa nói với bà:”Đức tin của con đã chữa con”.
Trường hợp ông trưởng hội đường Giairô cũng thế. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Đức Giêsu diễn tả niềm tin sâu xa của ông, ông đã qùy mọp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin:”Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Như vậy ông này phải tin Đức Giêsu là ai, có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được toại nguyện.
2. Phép lạ có còn hợp thời không?
Đứng trước những dữ kiện “phép lạ” Chúa làm mà Tin mừng kể lại, (1/3 của Tin mừng Marcô) chúng ta thấy ngày nay có hai khuynh hướng trái ngược nhau. Một số khoa học gia cho rằng phép lạ chỉ gây rắc rối cho đức tin, dần dần khoa học sẽ giải quyết nhiều bệnh lý. Trái lại, ngày nay, phong trào Thánh Linh đang phát triển mạnh làm cho người ta tin tưởng rằng trong một cộng đoàn có Chúa Thánh Thần hoạt động, phép lạ không còn là một sự phi thường. Kinh nghiệm bản thân và sự quan sát khách quan đã minh chứng điều đó (Theo Sr Briege Mckenna, O.S.C, Des Miracles d’Aujourd’hui).
Sống trong không khí thực nghiệm và duy vật, người ngày nay, cả trong Kitô hữu, có khi là cả tu sĩ hay giáo sĩ, có khuynh hướng muốn phủ nhận phép lạ và chối bỏ các điều mầu nhiệm của đạo.
- Đối với phép lạ, họ cho là nghịch công lệ tự nhiên, trái với sự bất di dịch của Thiên Chúa. Không nghịch, không trái gì hết. Tin phép lạ là tin Thiên Chúa có thể làm được những việc mà không loài thọ tạo nào tự sức mình có thể làm được. Ta hãy nghe nhà văn hào J.J Rousseau nói:”Thiên Chúa có làm được phép lạ không? Nghĩa là Ngài có thể làm khác với các định luật Ngài lập không? Câu hỏi ấy mà có ý đặt ra thực, thì quả là ngạo mạn, nếu không là vô lý. Đối với kẻ trả lời rằng không, thì phạt nó còn là quá hân hạnh cho nó, hạng ấy cứ giam vào ngục là xong”.
- Đối với các mầu nhiệm, họ bảo người tin có mầu nhiệm nghĩa là tin cái không hiểu được, là mê tín. Không phải là mê tín. Tin mầu nhiệm chỉ là công nhận rằng sự thông minh của Thiên Chúa vượt hẳn trí khôn ta. Ông Charles Nicolle, một bác học có hạng, khi trở lại Công giáo nói:”May mà còn có những mầu nhiệm của tôn giáo! Nếu không, thì thật là khả nghi, vì tôi sợ rằng đó chỉ là sản phẩm giả tạo của trí óc loài người. Mầu nhiệm của tôn giáo làm tôi an tâm. Nó là biểu hiệu của Thiên Chúa” (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật năm B, tr 151-152).
Truyện: Phải chăng là phép lạ?
Trong chương trình “The Extraordinary” có kể câu chuyện lạ, xẩy ra tại Melbourne, Australia vào năm 1987. Buổi sáng đẹp trời, một bà bẹ chở đứa con gái 7 tuổi đến trường. Đang lúc mẹ con trò chuyện vui vẻ, bất chợt một chiếc xe trọng tải đâm thẳng vào hông xe, nơi em bé ngồi. Em bé bị ngất xỉu. Sau khi cứu sống, hội đồng bác sĩ cho biết là em sẽ không bao giờ có thể đi lại được nữa! Em sống, nhưng mất nhiều khả năng tri giác và cảm xúc. Thật là tin buồn cho người mẹ. Tuy nhiên bà ngoại vẫn điềm tĩnh và có linh cảm rằng cháu của bà sẽ được ơn đặc biệt. Bà thường đến bệnh viện thăm và giúp cháu đọc kinh và cầu nguyện. Những ai thấy bệnh trạng của em bé đều thương hại cho em. Nhiều người ngạc nhiên là trên khuôn mặt của em luôn hiện lên sự bình an từ trong tâm hồn và niềm vui siêu nhiên. Sau khi rời bệnh viện, dần dần em đi học lại và theo kịp các bạn cùng lớp (Hà ngọc Đoài).
Câu chuyện em bé hôm nay và con gái ông trưởng hội đường hôm xưa cũng tương tự. Xưa và nay cũng chỉ là một Thiên Chúa. Ngài luôn tươi trẻ với thời gian và luôn gần gũi trong không gian để an ủi và nâng đỗ những ai tìm đến Ngài.
III. ĐỨC TIN VÀ HÀNH ĐỘNG.
1. Phải cộng tác với Chúa.
Thánh Giacôbê đã khẳng định về sự cần thiết của việc làm song song với đức tin:”Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: “Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không có hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin”(Gc 2,17-18).
Tin là cộng tác với ơn Chúa, và muốn sống đời đời cũng phải đồng hành với Chúa như người đàn bà băng huyết, bà nghĩ mình phải làm cái gì đó chứ không chỉ tin suông, nên bà đã đến với Chúa chớ không chờ Chúa đến với mình.
Ông Giairô cũng vậy, ông tin Đức Giêsu có thể cứu sống con ông, ông vội vã đến với Chúa. Cả hai đều tin tưởng vào Chúa và nỗ lực cộng tác với Ngài. Vì thế, chúng ta không thể cứ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy xử dụng hết những phương tiện Chúa ban, còn phần kia tùy Chúa định liệu.
Truyện: Hãy tự cứu mình trước
Câu chuyện xẩy ra vào mùa thu, có một vùng quê bị một trận lụt dữ dội tàn phá, khiến cho một bà già bị kẹt trong căn nhà bà. Đang khi bà ta đứng tựa cửa sổ nhà bếp nhìn ra thì một chiếc thuyền xuất hiện, người lái thuyền bảo bà:”Hãy leo lên thuyền để thoát nạn”. Bà lão đáp lại:”Không, cám ơn, tôi tin vào Chúa, Ngài sẽ cứu tôi”. Người lái thuyền lắc đầu rồi bỏ đi.
Ngày hôm sau, cơn lụt dâng cao đến tầng hai của căn nhà. Đang lúc bà lão đứng tựa cửa sổ tầng hai ngắm nhìn con nước thì một chiếc thuyền khác lại xuất hiện. Người lái thuyền bảo bà:”Hãy lên thuyền để thoát nạn”. Bà già đáp lại:”Không, cảm ơn, tôi tin vào Chúa. Ngài sẽ cứu tôi”. Người lái thuyền lắc đầu rồi bỏ đi.
Ngày kế tiếp cơn nước dâng lên tận nóc nhà. Đang khi bà lão ngồi trên nóc nhà nhìn con nước dâng, một chiếc trực thăng lại hiện ra. Viên phi công dùng loa gọi vọng xuống:”Tôi sẽ thả một chiếc thang dây cho bà, hãy leo lên và bà sẽ thoát nạn”. Bà già lại nói:”Không, cảm ơn, tôi tin vào Chúa, Ngài sẽ cứu thoát tôi”. Viên phi công nhìn bà lắc đầu, rồi bỏ đi.
Ngày sau đó, cơn lụt nhận chìm ngôi nhà và bà lão bị chết đuối. Khi được đưa về trời, bà ta nói với thánh Phêrô:”Trước khi vào đây, tôi xin được phàn nàn một điều. Tôi đã tin chắc Chúa sẽ cứu tôi thoát khỏi trận lụt, thế mà Ngài lại để tôi bị chết chìm”. Thánh Phêrô bối rối nhìn bà lão đoạn lên tiếng:”Tôi chả hiểu Chúa có thể làm thêm điều gì được cho bà nữa, vì Ngài đã gửi tới cho bà những hai chiếc thuyền và một chiếc trực thăng rồi còn gì” (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 254-255)?
Bà lão trong trận lụt này quá lầm lẫn. Bà quên rằng Chúa thường hoạt động trong đời sống chúng ta xuyên qua những phương tiện bình thường. Bà quên rằng chúng ta phải làm hết phận vụ mình và hợp tác với Chúa bằng cách xử dụng những phương tiện bình thường Ngài ban cho ta. Nói cách khác, chúng ta không thể ngồi thụ động chờ Chúa làm phép lạ, mà phải dùng tất cả mọi phương tiện thông thường Chúa ban để tự giúp mình trước đã.
Tục ngữ Việt nam đã nói lên chân lý này:”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”: con người phải bắt đầu làm đã, còn thành bại thế nào thì sẽ do Trời định liệu. Nhưng về phía Trời thì chắc chắn:”Thiên thượng bất phụ hảo tâm nhân”, Trời sẽ giúp cho những ai biết cố gắng dùng mọi phương tiện Chúa đã ban cho, đúng như tục ngữ Pháp có câu: Aide-toi, le Ciel t’aidera: anh hãy tự giúp mình trước, Trời sẽ giúp mình sau.
2. Xét lại đức tin của mình.
Qua thái độ của người đàn bà băng huyết và của ông trưởng hội đường Giairô, ta thử xét lại đức tin của chúng ta xem sao: Tin khi đời sống bình an, thuận buồm xuôi gió thì chưa hẳn là đức tin thật, nó phải được tôi luyện trong đau khổ, trong khó khăn, trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên phép lạ.
Hay nói đúng hơn, lúc ấy Thiên Chúa mới trợ giúp, mới cứu chữa, vì khi đó chúng ta không tin vào sức riêng mình mà tin vào Chúa, thì Chúa phải thực hiện thôi. Như Abraham xưa, như Phêrô đi trên mặt biển, như người đàn bà và ông Giairô trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta hãy tin tưởng.
Cuộc đời của chúng ta không bao giờ hết đau khổ. Chúng ta có thể cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa cả trong đau khổ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không nhất thiết lấy đi đau khổ, nhưng cho chúng ta năng lực chuyển hoá đau khổ. Chúng ta cần Thiên Chúa giúp đỡ để linh hồn chúng ta không bị thu hẹp vào sự thụ động hoàn toàn, gần giống như những đồ vật, bị tác động nhưng không bao giờ hoạt động.
Thấu hiểu chân lý này, ông Francois Mauriac đã phát biểu:”Ngài đến không phải để cất sự đau khổ mà để hiện diện với đau khổ”. Như vậy nghĩa là Ngài đến ban đức tin cho chúng ta để chúng ta biết chịu đựng đau khổ, biết chuyển hoá đau khổ, biến nó thành phương tiện để đạt tới ơn cứu độ. Bằng không thì chúng ta chịu đau khổ một cách vô ích và những đau khổ trở nên vô nghĩa.
Những ai không có đức tin thì gặp nhiều bất lợi trước đau khổ. Họ chịu đựng đau khổ gấp ba lần: họ chịu đựng bệnh tật, họ chịu đựng sự vô nghĩa của bệnh tật (vì đối với họ, bệnh tật chỉ là phiền toái, kết quả của một số phận mù quáng) và họ chịu đựng đau khổ vì cuộc sống của họ bị ngưng trệ. Họ coi bệnh tật của họ như một việc phải chịu đựng thay vì một việc phải sống. Đời sống của họ như bị giữ chặt lại vì họ chờ đợi thụ động cho đến khi mọi việc trở lại bình thường để họ có thể bắt đầu cuộc sống trở lại.
Mặt khác, các bệnh nhân có đức tin ở trong một tình thế tốt hơn. Dù đức tin không giải thoát họ khỏi bệnh tật, hoặc làm giảm bớt đau khổ do bệnh tật gây ra, người có đức tin tiếp tục sống một cách mãnh liệt như trước đây, có khi còn mãnh liệt hơn. Họ có thể tìm thấy Thiên Chúa trong bệnh tật cũng như trong lúc khỏe mạnh, và bệnh tật của họ có thể sinh ra kinh nghiệm có lợi là họ sẽ xin Chúa chữa lành cho bệnh tật ấy (Flor McCarthy).
12. Sống chết trong tay Chúa – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Tin mừng Chúa nhật 12 đến Chúa nhật 13 như một cuốn phim sống động quay lại cảnh con thuyền các môn đệ gần chìm đắm trong bão biểm đêm tối, đến cảnh người dân ngoại sống dưới ách xiềng xích, cùm kẹp khốn khổ của quỷ dữ giữa mồ mả, đồi núi, hoang dại. Để cứu họ, Đức Giêsu đã dẹp tan bão tố, xua đuổi ác quỷ chui đầu xô đẩy đàn heo lối hai ngàn con xồng xộc chạy theo dốc núi chênh vênh nhào xuống biển chết ngộp.
Sau đó, Đức Giêsu đã lên thuyền trở về với đám đông dân chúng đầy thiện cảm đang chờ đón Ngài bên bờ biển Galilê. Mới lên bờ, ông trưởng hội đường đến sấp mình dưới chân Ngài, tha thiết kêu xin Ngài cứu chữa đứa con gái mười hai tuổi gần chết. Ngài chẳng nói một lời, chỉ vội vàng đi với ông và dân chúng chen nhau kéo theo Ngài. Họ đụng cả vào Ngài.
Tự nhiên, Ngài quay lại hỏi đám đông: “Ai đã sờ vào áo Ta?”. Môn đệ chỉ thấy đám đông chen nhau đụng vào Ngài, còn Ngài thấu suốt tâm tư mọi người. Người phụ nữ như thấy Ngài trực tiếp hỏi mình, sợ run lên, đến sấp mình trước mặt Ngài. Ngài đã ôn tồn nhắn nhủ: “Này con, lòng tin của con đã cứu con, hãy đi bằng an và lành hẳn tật nguyền của con”.
Quá sung sướng, người phụ nữ đã mạnh dạn khai báo hết nỗi lòng đau khổ vì bệnh băng huyết. Suốt 12 năm chạy đủ mọi thầy, mọi thuốc, sạch bách tiền của mà tật bệnh vẫn còn.
Đang lúc đó, người nhà ông hội trưởng nhắn tin con ông đã chết rồi! Như sét đánh ngang tai, ông sợ quá. Đức Giêsu đã trấn an ông: “Đừng sợ, hãy tin”. Ông tin dù mọi người khóc lóc, kêu ầm ĩ, có kẻ còn nhạo cười Ngài. Trước cái chết, loài người chỉ biết khóc than hay cười ra nước mắt vì quá bất lực, quá đau đớn và lặng lẽ cúi đầu!
Thánh Phêrô đã chứng kiến từ đầu đến cuối những phép lạ đó và khi đi rao giảng Tin mừng, ngài đã kể rành mạch mọi chi tiết, kể rõ cả tên ông trưởng hội đường là Giairô và đứa con gái 12 tuổi. Chắc chắn ông Giairô và con gái ông vẫn còn sống để làm chứng cho lời Phêrô giảng. Phêrô muốn cho mọi người thấy Chúa Giêsu là Chúa biển cả trời đất, Chúa thống trị quỷ thần và là Chúa nắm giữ sự sống chết của loài người.
Sự sống, sự chết của mỗi người chúng ta đều thuộc quyền Đức Giêsu, cho nên Phaolô đã quyết tâm thực hiện: “Đối với tôi, sống là chính Đức Kitô” (Phil. 1, 21). Lý do là: “Ngài đã chết thay cho tất cả mọi người, hầu kẻ sống không sống cho chính mình, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại cho họ” (2Cr. 5, 15).
Thánh Xiprianô đã mạnh mẽ trả lời tổng trấn Galêriô khi ông ra lệnh: “Các hoàng đế đã truyền cho ngươi phải tế thần”.
Xiprianô đáp: Tôi không tế.
Galêriô nói: Hãy suy nghĩ kỹ đi, hãy tuân lệnh đi.
Xiprianô đáp: Thần là quỷ ma giả dối, chỉ có Thiên Chúa là Đấng chân thật, sáng tạo vạn vật. Đó là chân lý, không cần suy nghĩ nữa.
Galêriô nói: Ngươi phải chịu án trảm quyết.
Xiprianô đáp: Xin ngợi khen Chúa.
Vì tin Chúa nắm sự sống chết, nên người sống cho Chúa, coi cái chết nhẹ như lông hồng, như một giấc ngủ. Chính Chúa Giêsu đã bảo cha đứa trẻ: “Con bé không chết, nó ngủ”. Sau này, khi nghe tin Lagiarô chết, Ngài cũng nói: “Lagiarô, người thân của Ta ngủ, Ta đi đánh thức ông dậy”.
Đối với kẻ không nắm được sự sống chết, thì chết là tận diệt, nên phải khóc than, gào thét. Đối với Chúa, sự chết thật là một giấc ngủ. Để được chết an lành như vậy thánh Vinh sơn Phaolô đã tập coi giấc ngủ mỗi đêm là việc lặp đi lặp lại của cái chết thực sự, và thức dậy là dấu của sự sống lại trong ánh sáng của Đức Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Chúa trên thập giá đau đớn đến cùng cực, nhưng vì yêu thương cứu độ loài người chúng con, Chúa đã coi cái chết đó như một giấc ngủ thật nhẹ nhàng, bình an, trong sáng. Xin cho con biết hy sinh, tập chết đi những ích kỷ, kiêu căng vì mến Chúa yêu người để đến giờ chết con được an nghỉ êm ái trong Chúa muôn đời. Amen.
13. Tin thì được chữa lành và được sống
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
Tin Mừng Mc 5: 21-24.35-43 Khi tin tưởng vào Ngài, chúng ta sẽ nhận ra Chúa không thờ ơ trước lời kêu cầu đầy lòng tin của người bệnh và không ngừng quan phòng cho chúng ta: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng...
Mang trong mình kiếp con người từ khi sinh ra đến lúc chết đi, ai cũng trải qua những giai đoạn như: sinh, bệnh, lão, tử. Tuy nhiên, trong 4 cái khổ ấy, đệ nhị khổ là thứ khổ dai dẳng nhất.
Khổ về mặt thể lý, con người đã cảm thấy ngán ngẩn. Nhưng cái khổ tâm lý, khổ tinh thần, người đối diện với nó sẽ cảm thấy day rứt khôn nguôi!
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại hai phép lạ Đức Giêsu đã làm. Một phép lạ chữa lành bệnh tật. Một phép lạ cứu sống. Phép lạ chữa lành bệnh tật, Ngài đã chữa lành cả thể bệnh lẫn tâm bệnh. Phép lạ cứu sống, Ngài thể hiện uy quyền nhờ lòng tin của người kêu xin.
Qua mạc khải được gợi hứng từ chính bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu thêm những phép lạ khác Đức Giêsu đã làm để thấy được sứ mạng chính yếu của Đức Giêsu ngang qua những phép lạ ấy.
1. Thực thi phép lạ để cứu chuộc
Các sách Tin Mừng ghi lại Đức Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ liên quan đến việc chữa lành, chẳng hạn như: chữa hai người bị quỷ ám (x. Mt 8, 29-34; Mc 5,1-20; Lc 8, 26-39); chữa nhạc mẫu ông Phêrô khỏi sốt (x. Mt 8, 14-15; Mc 1, 29-31; Lc 4, 38-39); chữa lành người bại liệt (x. Mt 9,1-8; Mc 2,1-12; Lc 5,17-26); chữa 10 người phong cùi được lành (x. Lc 17, 11-19); chữa hai người mù (x. Mt 9, 27-31); chữa người câm bị quỷ ám (x. Mt 9,32-34); chữa con gái người đàn bà Canaan cũng bị quỷ ám (x. Mt 15,21-28; Mc 7,24-30); chữa nhiều bệnh nhân tại bờ Biển Hồ Galilê (Mt 15,29-31); chữa rất nhiều người ốm đau và mắc đủ thứ bệnh cũng như loại trừ ma quỷ (x. Mt 8,16-17; Mc 1,32-34; Lc 4,40-41); và rồi ngay trước lúc bị bắt, Ngài đã chữa lành tai bị đứt của đầy tớ thầy thượng tế (x. Mt 26,47-55; Mc 14,43-49; Lc 22,47-51; Ga 18,3-11).
Qua một số phép lạ đã liệt kê ở trên, chúng ta thấy có điểm chung, đó là tin thì được lành và được sống.
Điều này cũng được Tin Mừng thánh Máccô ghi lại hôm nay thật rõ:
Phép lạ thứ nhất, Máccô kể lại giữa một đám người ô hợp, họ chen lấn, xô đẩy và à uôm. Vì thế, việc đụng chạm tới Đức Giêsu là chuyện bình thường. Tuy nhiên, có một cái đụng rất ấn tượng khiến Máccô không thể bỏ qua, bởi vì cái đụng này được Đức Giêsu để ý và nhắc tới. Ngài nói: “Ai đã đụng đến ta?”. Cái đụng ấy chính là cái đụng của một phụ nữ bị coi là ô uế suốt nhiều năm. Trong những năm ấy, người phụ nữ Dothái này đã phải tủi nhục, đắng cay và nhiều khi đặt ra cho mình những câu hỏi tại sao? Tại sao? Chính câu hỏi trong đầu và tâm khảm của chị phụ nữ này đã làm cho nàng không còn câu nệ vào luật lệ, bất chấp mọi thứ cấm cản và đã chạy thẳng tới nơi Đức Giêsu và đụng chạm vào Ngài.
12 năm mắc căn bệnh băng huyết. 12 năm đối diện với nhiều tủi nhục. 12 năm tìm thầy chạy thuốc. 12 năm bị cấm không được đụng chạm tới người khác. 12 năm không được đến đền thờ.... Càng đau khổ, tủi nhục bao nhiêu, người phụ nữ này lại càng tăng thêm lòng can đảm bấy nhiêu. Vì thế, bà ta đã quyết tâm và tin tưởng rằng: “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi”. Bà tin thì bà được. Vì thế, Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi cả bệnh thể xác lẫn tinh thần.
Phép lạ thứ hai, thánh sử Máccô nhấn mạnh đến đức tin của người liên hệ và đề cao tinh thần liên đới giữ người cha và cô con gái xấu số. Từ một người trưởng Hội Đường, không quen biết gì đến Đức Giêsu, chỉ nghe người ta nói về Ngài. Từ một người giàu có và quyền thế trong dân, lẽ ra ông bám víu vào thế gian để đảm bảo cho con gái ông khỏi lưỡi hái tử thần. Tuy nhiên, những thứ vật chất và quyền hành trần thế đã không làm cho điều ông mong muốn được thành hiện thực, vì thế, ông đã can đảm, dốc hết lòng tin vào Đấng xa lạ chưa một lần gặp mà chỉ nghe đồn thổi về Ngài. Nhưng khi gặp, ông đã quỳ mọp dưới chân và năn nỉ Ngài đến chữa lành bệnh tật cho con gái ông.
Gặp được Đức Giêsu, ông giống như cá gặp nước, bởi vì từ lòng dạ xót thương, Đức Giêsu đã an ủi ông: “Đừng sợ, cứ tin“. Nói xong, Ngài đã đích thân tới tận nơi để an ủi những người còn sống: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” và ngay lập tức, Ngài tiến lại gần đứa trẻ và nói: “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!”
Hai phép lạ khởi đi từ lòng tin. Hai phép lạ kết tụ ở sự sống được trao ban.
Sự sống thể lý nơi người đàn bà mất dần bởi chứng loạn kinh tới 12 năm. Khi chữa lành, Đức Giêsu đã trả lại cho bà sự sống sung mãn thủa ban đầu.
Còn đứa trẻ con ông trưởng Hội Đường thì sự sống đã tắt, nhưng Đức Giêsu đã làm cho sự sống ấy được hồi sinh.
Như vậy, phép lạ có được là do lòng tin từ phía con người và do quyền năng của Thiên Chúa cũng như lòng xót thương của Ngài đúng như lời Kinh Thánh đã chép: “Không phải lá cây, chẳng phải thuốc đắp đã chữa họ lành, nhưng chính Lời Ngài chữa lành tất cả” (Kn 16,12).
2. Niềm hy vọng của chúng ta
Lược qua những phép lạ trong cuộc đời sứ vụ Đấng Cứu Thế, nhất là hai phép lạ được thánh Máccô nhắc tới trong bài Tin Mừng hôm nay đã đem lại cho chúng ta bài học quý giá, đó là:
Nếu sự giàu có, quyền hành của ông trưởng Hội Đường đã không thể tự cứu con của mình khỏi chết, hay sự bất lực không thể diễn tả nổi của người phụ nữ đã tìm thầy chạy thuốc suốt 12 năm, tốn biết bao tiền, mất biết bao công sức… đã dẫn đến một đức tin trưởng thành và can trường vào sự hiện diện của Đấng có thể cứu chữa cả xác và hồn.
Thì đức tin của mỗi chúng ta cũng vậy. Nhiều lúc, mỗi người cũng cảm thấy trống trải khi bám víu vào sự giàu có hay quyền cao chức trọng hoặc cậy vào những khả năng của con người mà phớt lờ Thiên Chúa, Vị Thầy Thuốc tuyệt hảo của cuộc sống để bám víu vào nỗ lực trần gian. Những lúc như thế, ấy là chúng ta đã bị phai nhạt đức tin và không xác tín vào Thiên Chúa nữa. Noi gương người đàn bà và ông trưởng Hội Đường, chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Thiên Chúa, Ngài sẽ ra tay cứu chữa và trao ban cho chúng ta sự sống thần linh. Nói cách khác, bí quyết được chữa lành chính là đức tin. Chìa khóa này sẽ mở được cánh cửa của lòng thương xót Chúa để ta được đắm chìm trong ân sủng và chính sự sống thần linh của Thiên Chúa.
Khi tin tưởng vào Ngài, chúng ta sẽ nhận ra Chúa không thờ ơ trước lời kêu cầu đầy lòng tin của người bệnh và không ngừng quan phòng cho chúng ta: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. […] Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy.Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em!” (x. Mt 6, 25-30).
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giải thoát chúng con khỏi những căn bệnh thể lý đang dằn vặt thể xác chúng con, đồng thời, xin Chúa cũng chữa lành những căn bệnh tự kiêu, tự mãn, tự ti, tự phụ của chúng con, để thân xác và tâm hồn chúng con được lành mạnh. Amen.
14. Sống đức tin
Thiên Chúa là sự sống và tình thương. Tình thương của Người là tình thương cứu vớt, đem lại cho con người được sự sống, tham dự sự sống của cộng đoàn và tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa. Chỉ nơi Ngài, mới có tình thương và sự sống tuyệt đối.
Khi muốn xin ai hay thỉnh cầu điều gì, thì chúng ta tin tưởng vào người chúng ta đang đặt niềm tin. Người phụ nữ mắc bệnh băng huyết và người cha có đứa con gái bị bệnh nặng gần chết đã làm như thế. Cả hai đã tin Chúa Giêsu nên đến xin Ngài cứu chữa. Chính vì có lòng tin mạnh mẽ mà cả hai đã được hưởng phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng làm sao chúng ta thấy được hay biết được lòng tin của họ? Vì nó đã được biểu lộ ra qua thái độ, cử chỉ, lời nói và hành động của họ.
Người phụ nữ này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà trước mặt mọi người. Bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa" (Mc 5, 28). Bà thật khiêm tốn, có thể so sánh với người đàn bà xứ Canaan, hoặc như người trộm lành. Vì thế, bất chấp tất cả những luật lệ phiền phức và nghiêm ngặt, bà lén đến sau lưng Chúa, để thực hiện ý định "rút ơn Chúa", và kết quả bà đã được toại nguyện. Bà đã thể hiện đức tin một cách sâu sắc, như chính Chúa đã xác nhận và thưởng công cho lòng tin của bà: "Lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mc 5, 34).
Tuy nhiên, theo quan niệm của người Do Thái thì máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi chị mất dần đi, tiêu hao di nên có thể coi chị là người đã chết. Nhất là trong hoàn cảnh của bà, đau khổ không chỉ vì bệnh kéo dài, tiền mất tật mang mà bà còn đau khổ về tinh thần vì tập quán tôn giáo xã hội lúc đó coi những người mắc những thứ bệnh này cũng giống như bệnh cùi là những người bị ô uế, đáng bị cộng đoàn khai trừ. Có thể nói người phụ nữ này đã chết hai lần, cả về mặt sự sống thể xác lẫn về mặt đời sống tinh thần. Chị đã được Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật, hay đúng hơn chị đã được cứu thoát và Ngài đã đem đến cho chị sự sống mới sự sống dồi dào, chị được sát nhập vào đời sống cộng đoàn tôn giáo.
Trường hợp của ông trưởng hội đường Giaia cũng thế. Ông đã thể hiện lòng tin của ông vào Chúa Giêsu. Qua cử chỉ, thái độ và lời nói của ông: Khi đến trước mặt Chúa Giêsu, ông đã quỳ sụp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống" (Mc 5, 23). Ông cầu cứu Chúa Giêsu vì ông yin rằng Ngài có thể cứu sống con ông khỏi chết. Phải tin Chúa Giêsu là ai, phải tin Chúa có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ, thái độ và lời kêu xin như thế. Ông không hồ nghi, ông tin chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như thế, nếu Chúa muốn, vì Ngài là Chúa sự sống và sự sống lại. Ngài động đến đâu thì sức mạnh và sự sống lan tràn tới đó. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.
Trong cả hai phép lạ, chúng ta thấy nổi bật lên một yếu tố, đó là lòng tin. Người phụ nữ bệnh băng huyết khi đã nghe nói về quyền phép của Chúa Giêsu thì chị tin mãnh liệt vào Ngài, bà tin Ngài có thể chữa chị khỏi bệnh, chính vì thế nên chị nghĩ trong lòng rằng: "Nếu tôi sờ vào được áo choàng của Thầy, thì tôi sẽ được khỏi bệnh". Chính vì tin mà bà vượt qua hàng rào kỳ thị tôn giáo kia, chị vượt qua mọi nếp suy nghĩ và quan niệm của tôn giáo Do Thái lúc bấy giờ để mạnh dạn đến chạm tay vào gấu áo Chúa Giêsu. Chính vì quyền năng đó mà Chúa đã không từ chối chữa lành cho chị. Bên cạnh đó, lòng tin của ông Giaia cũng là yếu tố quan trọng để Chúa Giêsu làm cho con gái ông sống lại. Hai phép lạ trên cho chúng ta thấy Chúa Giêsu có quyền năng trên bệnh tật. Điều này chứng tỏ Ngài chính là Thiên Chúa thật, là vị Cứu Tinh, là Đấng cứu độ con người.
Hai phép lạ này còn loan báo cho chúng ta một sứ điệp tình thương, sứ điệp thời đại mới, thời đại cứu độ mà các tiên tri đã loan báo. Thời đại của Chúa Giêsu Kitô. Trước hết, Thiên Chúa là sự sống, Ngài là chủ sự sống. Ngài ban phát sự sống cho con người và muôn loài muôn vật. Riêng đối với con người, Ngài không chỉ là chủ sự sống đời sống vật chất mà còn là chủ đời sống ân sủng, đời sống làm con cái Chúa. Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã hiến dâng cho loài người tất cả, kể cả Người con yêu dấu, con một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Suy gẫm về bài phúc âm này, chúng ta nhận thấy: Chúa Giêsu đã bộc lộ thiên tính của Ngài, thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa, những gì đã hư mất, là tìm đến những người đau ốm cần thầy thuốc. Ngài luôn quan tâm mọi nhu cầu cụ thể của con người. Ngài quan tâm đến nỗi thống khổ về tinh thần lẫn vật chất của nhân loại. Tất cả nỗi khổ đau của nhân loại đều được Chúa Giêsu cảm thông, chia sẻ và cứu vớt. Chính vì mang trong lòng trái tim yêu thương của Thiên Chúa, nguồn sống từ nơi Chúa Cha nên Ngài đã không khước từ và mau mắn cứu chữa hết người này đến người kia, bình phục cho người này, hồi sinh cho kẻ khác, đem lại phẩm giá và sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ. Đối với Chúa Giêsu, Ngài không hề loại trừ một ai vì tất cả mọi người đều thuộc về gia đình Thiên Chúa. Điều duy nhất Ngài đòi hỏi chúng ta có tin nơi quyền năng và tình thương của Thiên Chúa hay không?
Niềm tin, lòng tin hay đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất, nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc về thần linh. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Giaia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi lễ, thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa. Vì thế, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Giaia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế.
Chúng ta tin Thiên Chúa là chủ sự sống, là nguồn gốc sẽ dẫn chúng ta đến thái độ là biết tôn trọng sự sống, bảo vệ và phát huy sự sống. Không đơn thuần là sự sống thể xác, tinh thần mà còn quan tâm đến sự sống thần linh. Không chỉ quan tâm sự sống nơi bản thân mình mà còn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích sự sống nơi tha nhân nữa. Thế nhưng xung quanh chúng ta có rất nhiều sự sống con người đang bị xâm phạm, bị chà đạp, cách này hay cách khác. Biết bao nhiêu trẻ em không có quyền được sinh ra, không có được những điều kiện thiết yếu về mặt vật chất, tinh thần để sống một cuộc sống cho ra người.
Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để con người được sống và sống dồi dào. Nhưng sự sống mà chúng ta đón nhận từ nơi Chúa sẽ không trọn vẹn nếu chúng ta chưa thật sự chia sẻ sự sống ấy cho tha nhân chung quanh chúng ta. Bao lâu nhiều người anh em chung quanh chúng ta chưa được sống xứng đáng vơi nhân phẩm con người, bao lâu niềm vui và quyền được sống như một con người vẫn còn bị khước từ nơi nhiều người đang sống bên cạnh chúng ta thì có lẽ chính chúng ta cũng không thể nào hưởng được một cách dồi dào sự sống mà Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trân trọng đức tin, sự sống mà Chúa đã ban, để chúng con luôn tin tưởng mạnh mẽ và quyết liệt, bền bĩ và phó thác vào Chúa, vì chúng con được dựng nên bởi tình thương và sự sống của Chúa. Xin cho chúng con biết quý trọng sự sống của mình, của tha nhân và không ngừng phát huy sự sống ấy bằng cách sống yêu thương và giúp đỡ nhau tiến tới sự hoàn thiện như Chúa muốn. Amen.
15. Đức tin mang ơn chữa lành.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Trong thời cận đại và hiện tại, với những phát minh tân kì về khoa học, y khoa và kĩ thuật, loài người chứng kiến những việc chữa trị bệnh tật với những cuộc giải phẫu thành công ngoài sức tưởng tượng.
Mặc dầu thế, có những bệnh tật mà y học tân tiến cũng đành bó tay. Lại có những trường hợp khác mà người ta được khỏi bệnh thì y học cũng không cắt nghĩa được tại sao, mà chỉ thấy rằng người ta được khỏi bệnh mà không phải do cách chữa trị của bác sĩ, cũng không phải do thuốc chữa. Tại Lộ Ðức, có toán bác sĩ quốc tế gồm cà người không công giáo đã khám nghiệm, cứu xét và đi đến kết luận rằng có những bệnh nhân được khỏi bệnh một cách ngoại thường.
Phúc âm hôm nay ghi lại một dấu chỉ về quyền năng của Thiên Chúa được thực hiện cho người có đức tin quả quyết và vững mạnh. Ðó là người đàn bà mắc bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà ta tốn nhiều tiền của đi tìm thầy chạy thuốc mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Do đó bà ao ước muốn được gặp Ðức Giêsu để xin Người một ân huệ là cho bà được khỏi bệnh. Không may là phong tục người Do thái thời bấy giờ không cho phép đàn ông nói chuyện với đàn bà nơi công cộng. Cũng theo phong tục Do thái thì người đàn bà không được chạm đến người đàn ông nơi công chúng giống như quan niệm: Nam nữ thụ thụ bất thân của Khổng giáo xưa bên Trung Hoa, có ảnh hưởng sang Viêt Nam vậy.
Còn theo luật Lêvi thì khi người đàn bà trong lúc có kinh nguyệt mà đụng chạm đến ai hay ai đụng chạm đến người đàn bà có kinh thì người đó sẽ ra ô uế (Lv 15:19-28). Thời đó chắc người ta chưa chế tạo băng vệ sinh cho các bà dùng khi có kinh nguyệt. Như vậy bệnh xuất huyết kéo dài mười hai năm của ngưởi đàn bà trong Phúc âm gây ra cả một vấn đề bất tiện và khó khăn cho việc giữ vệ sinh như thế nào! Do đó ước muốn được chửa khỏi càng phải gia tăng cường độ vì bà có thể sợ người đời chê bai là hôi hám khi huyết dính vào quần áo. Vậy thì bà ta phải hành xử thế nào trong trường hợp này để đối diện với Ðức Giêsu?
Ðể tránh việc lỗi luật, bà ta chỉ dám động đến gấu áo của Ðức Giêsu mà thôi. Bà tin rằng chỉ cần động đến gấu áo của Người thì bà cũng được khỏi bệnh. Nếu nhóm người Pharisêu hay bới lông tìm vết có tố cáo bà là đụng đến Đức Giêsu, thì bà có thể cãi hoặc nhờ luật sư cãi phăng đi, là bà đâu có đụng đến thân thể của Đức Giêsu đâu, mà chỉ đụng đến gấu áo của Người mà thôi. Quả thật, đức tin của bà đã cứu chữa bà. Ðức Giêsu đã cảm thấy sức chữa trị xuất phát từ thân mình Người. Người quan tâm đến bà, mà không sợ dư luận quần chúng, nên mới hỏi thử: Ai đã động đến tôi (Mc 5:31). Ðức Giêsu đòi bà phải đối diện với thực chất của việc bà làm. Sau khi bà kể tất cả sự thật, Chúa liền chữa bà khỏi bệnh và còn cho bà được bình an (Mc 5:34).
Ðức tin còn đem đến phép lạ cho người chết sống lại. Viên trưởng hội đường Do thái trong Phúc âm hôm nay cũng đã bầy tỏ đức tin vào quyền năng Ðức Giêsu trong khi nhiều nhà lãnh đạo Do thái nghi ngờ và bất tín Người. Ông bất chấp những nhà lãnh đạo Do thái khác nghĩ thế nào về ông khi ông đến xin Ðức Giêsu một ân huệ. Ông chỉ xin Ðức Giêsu đặt tay trên con gái ông đang hấp hối cho được sống lại. Ðức tin của ông khiến Ðức Giêsu làm phép lạ phục hồi sự sống cho con gái ông: Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi (Mc 5:41).
Phép lạ vẫn xẩy ra hằng ngày trong thời đại ta đang sống. Chỉ cần dùng con mắt đức tin là ta có thể nhận ra và chứng kiến phép lạ. Hằng ngày ta còn có cơ hội để bầy tỏ đức tin vào quyền năng Chúa, xin Người cứu chữa. Ðiều mà ta cần có là lời cầu xin. Phong trào Thánh linh trong Giáo hội đời nay đã giúp khơi dậy ước muốn cầu nguyện, không hẳn là cầu nguyện xin cho được khỏi bệnh, mà còn cầu nguyện để tạ tội, tạ ơn và ca tụng Thiên Chúa. Và lời cầu nguyện của ta phải đi đôi với đức tin, vì nếu cầu nguyện mà không có đức tin, thì lời cầu nguyện của ta chưa chắc gì được Chúa trả lời. Bằng chứng được ghi lại trong Phúc âm là khi người Pharisêu xin Ðức Giêsu một dấu lạ, Người từ chối việc làm phép lạ vì họ không có lòng tin (Mc 6:5,6) hay chỉ muốn thử Người (Mc 8:11-12). Trái lại ta thấy đức tin của người đàn bà loạn huyết và của viên trưởng hội đường là một đức tin quả quyết, vững mạnh, đơn sơ, chân thành và khiêm tốn. Phúc âm ghi lại: Ông ta sụp xuống dưới chân Người (Mc 5:22); còn bà đến phủ phục trước mặt Người (Mc 5:33). Là người, ta cũng cảm thấy khó từ chối khi có ai kêu cầu đến ta một cách khẩn khoản và khiêm tốn như vậy.
Bất cứ khi nào Chúa làm phép lạ đều do người ta xin với lòng tin. Nếu không có đức tin, sẽ không có phép lạ, cũng không được ơn chữa lành. Tất cả những người được thụ hưởng phép lạ của Chúa đều có một điểm giống nhau là họ được thúc đẩy bởi lòng tin vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa.
Ðôi khi ta có thể có thái độ như người Pharisêu, nghĩa là ta ngồi đó há miệng chờ ho, đợi cho Chúa làm phép lạ, trước khi ta có thể đặt tin tưởng vào Chúa. Còn Chúa thì lại muốn ta bầy tỏ niềm tin trước đã, trước khi Người hành động. Chúa biết nhu cầu thiếu thốn của mỗi người. Tuy nhiên nếu ta đóng cửa nhà tâm hồn, thì Chúa cũng đành chịu, vì Chúa đã ban cho loài người được tự do lựa chọn và Chúa tôn trọng tự do của loài người.
Nói như vậy không có nghĩa là khi mắc bệnh, người tín hữu không cần đi bác sĩ, không cần uống thuốc chữa trị. Việc đi bác sĩ hay vào nhà thương nếu cần, ta vẫn tiến hành, nhưng đồng thời ta cũng vẫn cầu xin cho được ơn khỏi bệnh. Cách thế Chúa chữa trị bệnh tật loài người thông thường là dùng bác sĩ và thuốc men để chữa trị. Ðôi khi Chúa không cần dùng đến bác sĩ hay thuốc chữa, nhưng là chữa trực tiếp. Cách thế chữa trị đó được gọi là phép lạ. Có một vài giáo phái Kitô giáo chủ trương không đi bác sĩ và uống thuốc. Họ cho rằng đi bác sĩ và uống thuốc là làm giảm lòng tin vào quyền năng của Chúa. Họ không biết rằng Chúa cũng dùng bác sĩ và thuốc men để chữa trị bệnh tật loài người. Như vậy không có việc xung khắc giữa việc đi bác sĩ, uống thuốc và lời cầu nguyện cho được khỏi bệnh. Cả hai phương pháp: đi bác sĩ/uống thuốc và cầu nguyện cho được khỏi bệnh đều bổ túc cho nhau để phục hồi sức khoẻ.
Tuy nhiên có những trường hợp người ta vừa đi bác sĩ, vừa uống thuốc, vừa cầu nguyện với đầy lòng tin tưởng mà bệnh vẫn không được khỏi. Như vậy thì phải giải thích thế nào? Thưa rằng khi Ðức Giêsu còn tại thế, Người có chữa bệnh tật của một số ít người, nhưng mục đích chính của việc Ðức Giêsu xuống thế là để chữa bệnh tật linh hồn của loài người. Ðược chữa trị khỏi bệnh tật phần xác là một niềm vui và là một hồng ân, ta cần tạ ơn Chúa. Tuy nhiên ta cũng phải nhận thức rằng mỗi người phải đi qua tiến trình của kiếp sống con người: sinh, lão, bệnh, tử, để ta có thể chấp nhận những giai đoạn cuối của cuộc đời. Trước khi Ðức Giêsu xuống thế cứu chuộc, thì tác giả sách Khôn ngoan đã nhận ra vì tội ganh tị của quỉ dữ, mà sự chết về phần linh hồn đã lọt vào thế gian (Kn 1:24). Do đó Ðức Giêsu đến để phục hồi sự sống cho hồn thiêng loài người.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn giải thoát khỏi bệnh tật đau khổ:
Lậy Chúa Giêsu nhân lành hay thương xót!
Cũng như Chúa đã chữa trị bệnh tật
của người đàn bà loạn huyết
và cho con gái viên trưởng hội đường được sống lại
vì họ bầy tỏ lòng tin xác tín vào Chúa.
Xin Chúa cũng chữa trị bệnh tật của những người
kêu cầu đến Chúa, gồm cả chính con
với tất cả lòng chân thành, khiêm tốn và tin tưởng
để chúng con được tự do phụng thờ Chúa
với lòng an vui thanh thoả. Amen.
16. Đức tin mạnh mẽ nhờ hành động
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa Calcutta phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội. Mẹ Têrêxa nói với ông: “Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin”. Người phóng viên hỏi: “Tôi phải làm gì để có đức tin?” Mẹ Têrêxa đáp: “Ông hãy cầu nguyện”. Ông chống chế: “Tôi không biết và không thể cầu nguyện”. Mẹ Têrêxa dịu dàng nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Vì một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta”.
Đúng thế, những hành động cụ thể thường hùng hồn hơn, có khả năng thuyết phục hơn những lời nói suông. Trong bài Tin Mừng, người phụ nữ bị hoại huyết được chữa lành hoàn toàn do lòng thương xót Chúa. Người phụ nữ bệnh hoạn này theo luật Môisê, là một người ô uế, không được ra trước công chúng. Ấy thế mà hôm nay dám ra trước đám đông, lách qua đám đông rồi tiến đến gần Chúa Giêsu. Vì quá tin vào Chúa, bà ta đã biểu lộ đức tin của mình, dù có khó khắn cách mấy, bao lâu đến mấy, bất chấp luật cấm phiền phức và khắt khe, người ta xua đuổi khinh chế bà đến với Chúa Giêsu và chỉ cần chạm đến Chúa là chắc chắn được khỏi bệnh. Đức tin của bà quá sống động, cực kỳ vững mạnh cho nên Chúa Giêsu đã xác nhận và ban thưởng cho bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Rồi đến ông Gia-ia có đứa con gái mắc bệnh nặng thập tử nhất sinh, ông đến xin Chúa cứu chữa con ông. Lòng tin mạnh mẽ của ông được bộc lộ ra qua tất cả con người ông, nghĩa là qua các cử chỉ cũng như lời yêu cầu của ông. Thực vậy, khi đến trước mặt Chúa, ông quì sụp dưới chân Chúa, đây là một cử chỉ dành riêng cho Thiên Chúa trong Cựu ước, cử chỉ này chứng tỏ ông tin và nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai. Cử chỉ thứ hai là ông xin Chúa đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.
Chúng ta hôm nay đã có đức tin, chúng ta đã tin Chúa Giêsu nhờ Phép Rửa Tội. Điều quan trọng là sống lòng tin như thế nào trong cuộc sống hôm nay. Khi vui và hạnh phúc hay khi gặp thử thách, hoạn nạn, đau khổ tinh thần hay thể xác thì sao đây?
Niềm tin, lòng tin hay đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất nhưng nó là một cái gì đó có thật, nhưng thuộc về tinh thần. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Gia-ia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi lễ, thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài bằng hành động. Cho nên, Thánh Giacôbê nói: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,14.17). Còn thần học gia Arialdo Beni nói rằng: “Đức tin thật sự là đức tin dấn thân. Nó được thể hiện trong chiều kích qui Thiên Chúa và qui tha nhân. Chính trong cuộc sống thực tiễn và trong tương quan với tha nhân mà đức tin trở thành sống động”.
Vì thế, chúng ta cần phải thể hiện đức tin mạnh mẽ qua những hành động như ông Gia-ia vàngười phụ nữ hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi, dẻo dai và can đảm nhưng đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế trong từng biến cố, hoàn cảnh trong cuộc sống. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Niềm tin ấy, như Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: “Phải được biểu lộ và nuôi dưỡng, dù chỉ bằng một nụ cười hay một ánh mắt cảm thông”.
Cho nên, trong bài đọc 2 Thánh Phaolô dạy chúng ta phải trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái. Ước gì, Lời Chúa hôm nay xin cho mỗi người chúng ta luôn thể hiện đức tin của mình một cách mạnh mẽ qua việc sống thương người: Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Chôn xác kẻ chết. Rồi, lấy lời lành mà khuyên người. Mở dậy kẻ mê muội. Yên ủi kẻ âu lo. Răn bảo kẻ có tội. Tha kẻ dể ta. Nhịn kẻ mất lòng ta. Cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Amen.
17. Chú giải của William Barclay.
TRONG GIỜ CẦN KÍP (Mc 5,21-24)
Ở đây có đầy đủ các yếu tố của một thảm kịch. Khi có một đứa trẻ lâm bệnh, bao giờ cũng là chuyện đáng lo. Câu chuyện này cho chúng ta biết ông trưởng hội đường có đứa con gái mười hai tuổi ngã bệnh nặng. Theo tập tục Do Thái, một cô gái được kể là trưởng thành vào lúc được mười hai tuổi một ngày. Cô gái này đang đứng trước ngưỡng cửa để trở thành người lớn mà cái chết lại đến đúng vào lúc ấy thì bi thảm gấp bội.
Câu chuyện cho chúng ta biết đôi điều về ông trưởng hội đường này. Người này chắc phải là một nhân vật quan trọng, ông là chủ tịch Ban Quản Trị hội đường và là chủ tịch Hội đồng Kỳ mục có trách nhiệm thu xếp mọi việc trong hội đường cho tốt đẹp. Ông có trách nhiệm trong việc chỉ đạo các buổi hội họp, có trách nhiệm phân phối công việc và xem xét mọi việc thực hiện đúng khuôn phép và trật tự. Ông là nhân vật rất quan trọng và khả kính nhất trong cộng đồng, nhưng khi con gái ông ngã bệnh, ông nghĩ ngay đến Chúa Giêsu.
1/ Ông đã quên đi các thành kiến. Chắc trước đó ông đã coi Chúa Giêsu như một người xa lạ, một người giảng tà giáo rất nguy hiểm, bị các hội đường cấm cửa, một người mà bất luận người nào coi trọng chính thống giáo cũng phải xa tránh. Nhưng ông đủ khôn ngoan để biết từ bỏ các thành kiến của mình vào giờ cần thiết. Thật ra thành kiến có nghĩa là sự phê phán, xét đoán trước. Đó là một phán đoán đã hình thành trước khi xem xét bằng chứng, hoặc một án lệnh đưa ra vì không chịu xem xét những chứng cớ. Hầu như mỗi sự tiến bộ đều là một cuộc đấu tranh chống lại các thành kiến trước kia người ta đã có về nó. Lúc Sir James Simpson phát minh ra cách dùng Chloroform làm thuốc mê, nhất là khi sanh nở, người ta cho rằng đó là “mồi của Satan, thoạt nhìn dường như đem lại hạnh phúc đến cho phụ nữ nhưng rốt cuộc khiến họ cứng lòng và cướp mất của Thiên Chúa những tiếng kêu xin sâu xa, nhiệt thành đáng lẽ phải được dâng lên cho Ngài trong cơn hoạn nạn”. Một thành kiến ngự trị trong con người sẽ phải đóng chặt tâm trí làm mất khả năng lãnh nhận các phúc lộc.
2/ Ông đã quên đi phẩm giá của mình. Ông là trưởng hội đường mà lại đến hạ mình dưới chân Đức Giêsu, là một ông thầy giảng đạo nay đây mai đó. Lắm khi người ta phải quên đi phẩm giá của mình để cứu lấy một mạng sống, cứu lấy linh hồn của mình. Trong câu chuyện xưa được kể lại, có trường hợp của Naaman (2V 5). Ông ta phải đến thưa với Êlisê để được chữa khỏi bệnh phong. Đơn thuốc Êlisê kê ra là ông ta phải xuống sông Giođan tắm bảy lần. Thật là cách đối xử hết sức tồi tệ với ngài đại tướng nuớc Syri. Êlisê cũng không đích thân truyền thông điệp ấy, mà sai đầy tớ ra bảo Naaman như vậy. Hơn nữa, các sông nước bên Syri không tốt hơn nước của con sông Giođan bé nhỏ, ngầu đục hay sao? Đó là những ý nghĩ đầu tiên của Naaman, nhưng ông ta biết dẹp tánh kiêu ngạo của mình qua một bên và bệnh phong của ông ta được sạch.
Có một câu chuyện nổi tiếng kể lại về Diogenes một triết gia phái hoài nghi. Ông ta bị bọn cướp bắt và đem bán làm nô lệ. Khi quan sát đám người đứng chung quanh để trả giá mình, ông ta nhìn vào một người và nói “Hãy bán tôi cho ông này đi, ông ta đang cần một ông thầy (hay là chủ)”. Người ấy mua ông, giao cho ông làm quản gia và dạy dỗ các con mình. Ông ta thường nói “Ngày mà Diogenes đã đặt chân vào nhà tôi, đúng là một ngày tốt lành”. Điều đó quả đúng như vậy, nhưng nó đòi hỏi việc phải từ bỏ phẩm giá. Tiếc thay, con người thích khư khư giữ chặt phẩm giá của mình mà đành đánh mật ân huệ.
3/ Ông đã quên đi tính kiêu ngạo. Việc đến và xin Đức Giêsu, người Nazaret giúp mình là một nỗ lực ý thức về sự hạ mình mà người này phải làm. Thật chẳng ai muốn phải mắc nợ người khác cả. Chúng ta muốn tự lo liệu lấy cho đời sống mình. Nhưng bước đầu tiên của đời sống là nhận thức mình chẳng có thể làm gì khác hơn là chịu mắc nợ Thiên Chúa.
4/ Đến đây chúng ta bước vào địa hạt của suy luận, vì theo thiện ý, chúng ta có thể bảo người này đã quên hết bạn bè. Rất có thể họ sẽ chống đến cùng việc ông cầu cứu Chúa Giêsu. Điều khá lạ lùng là ông đích thân đến với Chúa Giêsu chứ không sai người nhà. Điều cũng khó hiểu là ông lại chịu bỏ mặc đứa con gái đang hấp hối nằm đó một mình. Có lẽ sở dĩ ông ta phải đi vì chẳng còn ai khác chịu đi. Người nhà ông đều tỏ ra nghi ngờ và bảo ông rằng đừng đi tìm ông Giêsu đó làm gì cho mất công. Theo tinh thần câu chuyện, nếu ông không đi tìm Chúa Giêsu để xin Ngài giúp đỡ, họ còn hài lòng hơn. Người này đã bất chấp dư luận và thách đố cả những lời khuyên bảo của người nhà khi ông ta đến kêu cứu Chúa Giêsu. Nhiều người đã trở thành khôn ngoan nhất khi các bạn bè khôn ngoan của họ trên đời này nghĩ họ đang hành động như người ngu dại.
Đây là một con người đã quên hết mọi sự, trừ việc muốn được Chúa Giêsu cứu giúp mình, chính vì ông biết quên hết cho nên ông nhớ mãi rằng Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế.
HY VỌNG CUỐI CÙNG CỦA KẺ ĐANG ĐAU KHỔ (Mc 5,25-29)
Người đàn bà trong câu chuyện này mắc một chứng bệnh hết sức thông thường nhưng rất khó chữa trị. Chính kinh Talmud đã đề ra không dưới mười một cách chữa trị bệnh ấy. Có vài phương pháp là tốt nhưng phần lớn hoàn toàn do mê tín, chẳng hạn như mang tro của một trứng chim đà điểu đựng trong miếng vải lãnh rách vào mùa hè và trong miếng vải bông rách vào mùa đông, hoặc mang theo trong người một bông lúa mạch lượm từ đống phân của con lừa cái lông trắng. Chắc chắn bà này đã khổ công làm thử mọi thứ thuốc, và ngay cả thử những cách trị liệu mê tín này. Điều rắc rối là chứng bệnh đó chẳng những làm hại sức khoẻ, mà còn khiến bà luôn luôn bị ô uế, ngăn trở việc thờ phượng Thiên Chúa, và giao thiệp với bè bạn của bà nữa (Lv 15,25-27).
Ở đây, Maccô có một câu chễ giễu nhẹ nhàng mấy ông thầy thuốc. Bà ta đã tìm đến đủ mặt các lương y rồi, nhưng tiền mất tật mang, chẳng những bệnh không thuyên giảm mà lại nặng thêm. Văn học Do Thái có nhiều ám chỉ lý thú về mấy ông y sĩ. Có một nhân vật bảo “Tôi thường đến với một thầy thuốc mong được chữa bệnh, nhưng ông ta càng xức dầu, bôi thuốc cho tôi, thì hai mắt tôi càng mờ, cho đến khi tôi đui hẳn” (Tb 2,10). Trong khi Mishnah có một đoạn tóm tắt luật truyền thống, đề cập đến những nghề mà người ta có thể truyền lại cho con trai mình. Rabbi Giuđa nói “Bọn “tài” lừa phần đông đều gian ác, bọn “tài” lạc đà đa số là dân thường, thuỷ thủ phần lớn là lương thiện, kẻ tốt nhất trong các thầy thuốc đáng ở địa ngục, còn tên đồ tể quê mùa hơn hết cũng là phe đảng của dân Amaléc”. Nhưng rất may và cũng công bằng, là cũng có những tiếng nói ngược lại. Một trong những sự bày tỏ lòng kính trọng vĩ đại nhất được dành cho các thầy thuốc được nêu trong “Sách của Sirach (một trong ccac1 thứ kinh được viết vào giữa Cựu Ước và Tân Ước)” chương 38,1-15 như sau:
“Hãy bồi dưỡng thầy thuốc tuỳ theo nhu cầu của ông ta, vì ông ta cũng được Thiên Chúa tấn phong. Chính từ nơi Thiên Chúa mà thầy thuốc nhận được sự khôn ngoan, và từ nơi nhà vua mà ông ta được bổng lộc.
Tài năng của người thầy thuốc khiến ông ta ngẩng đầu lên khỏi vai, có thể đứng trước mặt những người quý phái. Thiên Chúa đã khiến thuốc men ra từ đất, vậy người có nhận thức đừng chối từ chúng.
Nhờ thuốc men, thầy thuốc xoa dịu nỗi đau thương, cũng vậy, nhà làm thuốc chế ra dầu, để công trình của Ngài không bao giờ ngưng lại, cũng như sức khoẻ không bị cất khỏi mặt đất.
Hãy dành cho thầy thuốc một chỗ, cũng đừng để ông ấy ở xa vì chúng ta cần đến ông. Có lúc chỉ có tài năng của ông mới tạo được sự giúp đỡ cần thiết. Vì ông cũng cầu khấn Thiên Chúa, giúp cho việc chữa bệnh của mình thành công, và việc chữa trị sẽ khiến bệnh nhân bình phục”.
Nhưng về chứng bệnh của người phụ nữ này thì các y sĩ đều bó tay và bà có nghe nói về Chúa Giêsu. Nhưng bà gặp chuyện khó xử: chứng bệnh của bà thật rắc rối. Công khai ra trước đám đông là việc bà không thể làm được, do đó bà quyết định chỉ lén chạm vào Ngài mà thôi. Vào thời Chúa Giêsu, tất cả những người Do Thái ngoan đạo đều mặc một chiếc áo khoác ngoài có bốn cái tua, ở mỗi góc vạt áo có một cái. Đó là theo sách Dân số 15,38-40, để khi nhìn thấy chúng thì người khác và bản thân người mặc áo nhớ đây là một người thuộc tuyển dân của Thiên Chúa. Các tua đó là dấu hiệu của một người Do Thái tin kính. Người đàn bà nọ đã chen đám đông, lén đến rờ vào một trong các tua áo ấy, và sau khi đã rờ vào, bà kinh ngạc thấy mình được lành bệnh.
Đây là một phụ nữ đã tìm đến Chúa Giêsu như một lối thoát cuối cùng, sau khi đã thử tất cả những gì đời này có thể cung cấp, cuối cùng bà ta phải thử chính Chúa Giêsu. Biết bao người đã đến với Chúa Giêsu khi chính họ lâm vào bước đường cùng. Có lẽ họ từng chiến đấu với cám dỗ cho đến khi sức cùng lực tận, để chỉ còn đưa bàn tay lên và kêu lớn “Lạy Chúa, xin cứu lấy con, con sắp chết mất”. Có lẽ người ấy từng chiến đấu với một trọng trách nào đó cho đến khi kiệt sức, cho đến khi cuối cùng, người ấy chỉ còn có thể kêu cứu một sức mạnh không phải là sức lực riêng mình. Có lẽ người ấy từng khổ tâm nhọc sức để đạt được điều kiện vẫn ám ảnh mình, để thấy cái lý tưởng ấy cứ lùi xa dần cho đến khi thất vọng hoàn toàn. Không ai chịu đến với Chúa Cứu Thế bằng áp lực của hoàn cảnh, nhưng có nhiều người phải đến bằng con đường đó, và cả khi chúng ta đến với Ngài như thế, Ngài cũng chẳng bao giờ để chúng ta ra về tay không.
GIÁ PHẢI TRẢ ĐỂ CHỮA BỆNH (Mc 5,30-34)
Đoạn sách này có nói với chúng ta về ba hạng người.
1/ Chúa Giêsu. Nó cho ta biết giá trị phải trả để chữa bệnh. Mỗi lần Chúa Giêsu chữa lành cho một người, có cái gì đó ra khỏi Ngài. Đây là một định luật phổ quát cho đời sống. Chúng ta sẽ chẳng làm nên chuyện gì lớn lao, nếu không sẵn sàng đặt một cái gì của chính bản thân, chính đời sống và chính tâm hồn chúng ta vào đó. Không một nhạc sĩ nào có thể chơi đàn thật hay nếu chỉ trình tấu khúc nhạc với một kỹ thuật hoàn hảo, ngoài ra chẳng có thêm gì nữa. Sự trình tâú chẳng có gì là vĩ đại nếu cuối cùng nhạc sĩ không kiệt lực vì đã dốc đổ chính bản thân mình. Một kịch sĩ sẽ chẳng bao giờ thể hiện trình diễn cách xuất sắc, nếu anh chỉ lập lại các câu nói cho đúng, làm những động tác phải lẽ, như một người máy. Khi anh khóc trên sân khấu, nước mắt anh ta phải là nước mắt thật, các cảm xúc phải là cảm xúc thật, phải có một cái gì từ chính người anh ta tuôn đổ vào đó khi diễn xuất. Không có một nhà truyền giáo nào giảng một bài giảng có hồn, nếu người ấy không bước xuống khỏi toà giảng với cảm giác đã có một cái gì đó trong người mình như bị vắt cạn, vắt kiệt đi.
Nếu chúng ta sẵn sàng trợ giúp người khác, chúng ta cũng phải sẵn sàng chịu hao tốn, chịu mất đi một điều gì đó của bản thân ta. Mọi sự đều do thái độ của chúng ta đối với tha nhân. Mathew Arnold, nhà phê bình văn học nổi tiếng có lần đã nói về giới trung lưu “Hãy nhìn giới ấy mà xem, nhìn quần áo họ mặc, sách báo họ đọc và cái tạo thành các ý tưởng của họ, liệu có khoản tiền nào bù trừ nổi cho việc họ trở thành người như thế chăng?”. Ý của câu nói ấy có thể đúng, có thể không và vấn đề chính là lòng khinh ghét đã phát sinh. Ông đã nhìn những người này như một thứ đáng ghê tởm; và không một ai nhìn con người theo cách đó lại có thể giúp đỡ họ được.
Mặt khác, hãy nhớ xem tâm tình của Môsê khi thấy dân Israel đúc một con bò vàng lúc ông đang ở trên đỉnh núi. Hãy nhớ lại ông đã xin Chúa xoá tên ông khỏi sổ trường sinh, miễn sao dân được tha tội. Hãy nhớ lại, Phaolô đã nói thà ông chịu hư mất, miễn sao cả thế giới ngoại đạo đang hư mất kia được cứu.
Chỗ vĩ đại của Chúa Giêsu là Ngài sẵn sàng trả giá để chữa lành cho người khác, và giá ấy là một phần sự sống của Ngài bị tiêu hao. Chúng ta chỉ thật sự noi dấu chân Chúa khi phải sẵn sàng chịu hao phí vì kẻ khác, chẳng những là của cải vật chất mà cả đến sức lực, linh hồn nữa.
2/ Các môn đệ. Tại đây chúng ta thâý cách sống động về giới hạn của điều vẫn được gọi là lương tri. Các môn đệ của Chúa có quan điểm theo lương tri. Đi giữa một đám đông như thế làm sao Chúa Giêsu tránh khỏi bị chèn ép, đụng chạm? Đó là cách nhìn mọi sự việc bằng cảm giác. Ở đây đã nổi bật sự kiện lạ lùng và đau lòng là họ chẳng hề nhận thấy hay nhận thức được rằng khi chữa bệnh cho người ta, Chúa Giêsu đã phải trả giá nào đó.
Một trong những tấn thảm kịch ở đời là sự không nhạy cảm của tâm trí con người. Chúng ta thường chẳng nhận biết chút gì về chuyện người khác đang trải qua. Có lẽ bản thân ta chưa hề kinh nghiệm gì về việc đó, nên ta chẳng bao giờ nghĩ một ai đó đã phải trả một giá như thế nào. Có thể một việc gì đó đã đến quá dễ dàng cho ta, nên chẳng bao giờ ta hay biết rằng người khác phải nỗ lực đến mức nào đó mới có thể có được như thế. Chính vì thế lắm khi chúng ta gây tổn thương trầm trọng cho những người mà ta yêu mến. Người ta có thể cầu nguyện để biết cư xử theo lương tri, nhưng nhiều khi chúng ta phải cầu nguyện để có thể nhạy cảm, hiểu biết sáng suốt để thấy được những điều ẩn kín trong lòng người khác.
3/ Người đàn bà đã được chữa lành. Bài học này cho chúng ta biết về sự xưng tội cất được gánh nặng trên con người. Mọi sự trước đó thật khó biết bao, nhục nhã biết bao. Nhưng sau khi nói hết ra sự thật với Chúa Giêsu, nỗi kinh hoàng run rẩy đều tiêu tan, một đợt sóng thoải mái, nhẹ nhõm tràn vào lòng bà. Sau khi đã xưng nhận tình cảnh đáng thương của mình, người đàn bà đã nhận thấy sự nhân từ, dịu hiền của Chúa.
Xưng tội với Đấng vốn thương cảm với chúng ta như Chúa Giêsu chẳng có gì là khó khăn, nặng nề. Và chỉ một mình Ngài mới ban ơn tha thứ toàn diện, chữa lành kỳ diệu, cưú chuộc tâm linh trọn vẹn và phục hồi nhân phẩm nhanh chóng nhất.
THẤT VỌNG VÀ HY VỌNG (Mc 5,35-39)
Các tập tục về tang chế của người Do Thái rất sinh động, tỉ mỉ, nhưng thật ra mọi điều đó chỉ nhằm tăng thêm cô quạnh của sinh ly tử biệt.
Ngay sau khi có người qua đời, thì tiếng khóc vang lên để mọi người đều hay biết là thần chết vừa hành động. Việc than khóc sẽ tái diễn bên cạnh phần mộ. Những người than khóc vây quanh thi thể người chết, thỉnh cầu từ đôi môi im lặng đó một câu trả lời. Họ đấm ngực, bứt tóc, xé áo mình.
Việc xé áo được thực hiện chiếu theo một số luật lệ và quy tắc. Nó được thi hành trước giây phút cuối cùng, khi xác chết bị che khuất không còn nhìn thấy được nữa. Áo bị xé đến chỗ trái tim, cho đến khi da thịt banh ra nhưng không được xé sâu qua rốn. Với bậc cha mẹ, thì chỗ áo bị xé ở về phía bên trên chỗ quả tim về phía trái, còn đối với những người khác thì xé phía bên mặt. Phụ nữ xé áo trong chỗ riêng tư, sau đó, mặc ngược áo từ sau ra trước, tiếp theo là xé áo ngoài, để da thịt khỏi phơi bày ra. Áo bị xé được mặc luôn suốt ba mươi ngày tiếp theo đó. Sau bảy ngày chiếc áo được may sơ sài lại, sao cho chỗ khâu lại cũng được thấy rõ ràng. Sau ba mươi ngày, chiếc áo được may lại hẳn hoi.
Những kẻ thổi sáo đóng vai trò chính yếu trong tang lễ. Hầu như khắp nơi thuộc thế giới thời cổ từ Roma đến Hy Lạp, Phênixi, ASyri và Do Thái, than khóc bằng tiếng sáo, được kết hợp chặt chẽ với chết chóc và chuyện đau buồn. Luật quy định rằng dù người đàn ông nào nghèo đến đâu chăng nữa khi làm đám tang cho vợ, cũng phải có ít nhất hai người thổi sáo. W. Taylor trong bộ từ điển về “Chúa Cứu Thế và Phúc Âm” do nhà xuất bản Hastinh ấn hành, đã dẫn chứng hai thí dụ thú vị về việc sử dụng phường thổi sáo, cho thấy tập tục ấy đã được phổ biến rộng rãi đến mức độ nào. Trong tang lễ của Claudius, hoàng đế Roma có phường thổi sáo. Năm 67 SCN, khi tin Jotapata thất thủ vào tay quân đội Roma được đưa đến Giêrusalem, sử gia Josephus kể lại rằng: “Hầu hết dân chúng thuê phường thổi sáo để hướng dẫn việc than khóc của họ”.
Tiếng sáo kêu gọi người chết, áo xống bị xé rách, bứt đầu, tạo cho nhà tang thành một nơi khiến ai nấy phải xúc động đau lòng.
Khi có người trong nhà chết, kẻ chịu tang bị cấm làm việc, không xức dầu và không mang giày dép. Cả đến những người nghèo nhất cũng phải nghỉ việc ba ngày. Người ấy không được đi ra ngoài mà mang theo hàng hóa, lệnh cấm làm việc cũng lan cả đến tôi tớ của người ấy. Người ấy ngồi trùm đầu lại, không được cạo râu hoặc làm “Bất cứ việc gì để bản thân được thoải mái, dễ chịu”. Người ấy không được đọc sách luật và ngôn sứ, vì đọc các sách ấy là một niềm vui. Người ấy được đọc sách Gióp, Giêrêmia, Aica. Chỉ được ăn trong nhà mình, phải hoàn toàn kiêng cữ rượu thịt, cũng không được phép rời khỏi thành phố hay làng mình đang ở trong ba mươi ngày. Phong tục không cho phép người ấy ăn tại bàn ăn, phải ngồi bệt trên sàn nhà, dùng một chiếc ghế ngồi làm bàn ăn. Theo phong tục vẫn còn thịnh hành ngày nay, người ấy phải ăn trứng chấm tro với muối.
Cũng có một phong tục kỳ dị. Phải đổ hết mọi thứ nước trong nhà và cả ba nhà bên cạnh ở hai phía, vì người ta cho rằng thần chết gây ra cái chết bằng một lưỡi gươm nhúng trong nước lấy từ nơi gần tầm tay. Cũng có một tập tục rất cảm động, với người chết còn quá trẻ, chưa lập gia đình, thì một lễ cưới được thực hiện như một phần trong tang lễ. Suốt thời gian chịu tang, kẻ cư tang được miễn giữ luật, vì người ấy được kể như đang bị bối rối, bị điên đầu vì nỗi buồn khổ gây ra.
Kẻ chịu tang phải đến hội đường. Khi người ấy bước vào, tất cả sẽ nhìn thẳng mặt anh ta và nói “Đáng chúc phúc Đấng an ủi kẻ bị tang chế”. Sách Kinh của Do Thái giáo, có một bài cầu nguyện đặc biệt dùng trước bữa ăn nhà có tang: “Đáng chúc phúc Chúa là Chúa, là vua toàn cõi vũ trụ, Thiên Chúa của các tổ phụ chúng tôi. Đấng Taọ Hóa, Đấng Cứu Chuộc, Đấng khiến chúng tôi nên thánh, Đấng Thánh của Giacóp. Vua của sự sống, Đấng vốn thánh thiện và làm điều thánh thiện. Thiên Chúa của chân lý, Vị quan tòa chân chính, xét đoán trong sự công chính, Đấng đem linh hồn con người ra phán xét, một mình Ngài cai trị cả vũ trụ, làm việc đó theo ý Ngài và mọi đường lối Ngài đều dẫn đến phán xét, còn chúng tôi là dân Ngài, các tôi tớ của Ngài, trong mọi sự chúng tôi cảm tạ, tán tụng Ngài, Đấng che chở mọi tai họa cho dân Israel, sẽ che chở chúng tôi trong tai họa này và do việc tang chế này sẽ đem đến cho chúng tôi sự sống bình an. Lạy Thiên Chúa chúng tôi, xin an ủi toàn thể kẻ tang chế của Giêrusalem, đang khóc lóc vì nỗi đau buồn của chúng tôi. Xin an ủi họ trong tang chế của họ, khiến họ được vui vẻ trong cơn đau đớn như một người được mẹ mình vỗ về an ủi vậy. Đáng cảm tạ Ngài là Thiên Chúa, là Đấng an ủi của Sion, Đấng sẽ lập lại Giêrusalem.
Bài cầu nguyện ấy có từ trước thời Tân Ước cho nên chúng ta đọc câu chuyện về cô bé gái chết ở đây trong bối cảnh xa xưa, nhằm diễn tả trọn vẹn nỗi đau buồn đó.
CHỖ KHÁC NHAU MÀ ĐỨC TIN TẠO RA (Mc 5,40-43)
Có một điều thật đẹp đẽ ở đây. “Talitha kum” là tiếng Aram, có nghĩa là “Hỡi con gái nhỏ, hãy trỗi dậy”. Làm thế nào câu nói bằng tiếng Aram đó có thể chen vào quyển sách Phúc Âm viết bằng chữ Hy Lạp này? Chỉ có một lý do duy nhất, là Maccô đã nhận phần tài liệu này từ Phêrô. Ngay đến Phêrô, ít nhất, trong lúc sống ngoài xứ Palestine, ông cũng phải nói tiếng Hy Lạp. Nhưng Phêrô đã có mặt chính thức lúc xảy ra sự việc, ông vốn là một trong ba môn đệ thân cận đã được chọn để cùng đi với Chúa Giêsu đến đó. Hẳn ông đã không bao giờ quên được giọng nói của Chúa Giêsu. Trong tâm trí và ký ức ông vẫn nghe vang vọng “Talitha kum” suốt cả cuộc đời. Tình yêu thương, vẻ hiền từ, âu yếm trong câu nói ấy đã ở trong ông mãi mãi, cho nên ông không thể nào suy nghĩ về nó bằng tiếng Hy Lạp, vì ký ức ông chỉ nghe nó bằng giọng nói của Chúa Giêsu, bằng chính lời lẽ mà Chúa Giêsu từng thốt ra.
Đoạn sách này là một câu chuyện của những tương phản.
1/ Có tương phản giữa tuyệt vọng của những kẻ tang chế đang khóc than với niềm hy vọng của Chúa Giêsu. Họ bảo “Còn làm phiền thầy chi nữa? Bây giờ còn ai làm được gì nữa đâu? Chúa Giêsu phán “Đừng sợ, chỉ tin mà thôi”. Một bên là tiếng nói tuyệt vọng, bên kia là tiếng nói hy vọng.
2/ Có tương phản giữa cơn bối rối vô bờ bến của những kẻ than khóc và vẻ thanh thản bình tĩnh của Chúa Giêsu. Họ khóc lóc than vãn, bứt tóc, bứt đầu, xé áo trong cơn bối rối cực độ. Chúa thì hoàn toàn bình thản, tự chủ.
Tại sao có chỗ khác nhau ấy? Do Chúa Giêsu hoàn toàn tin cậy vào Thiên Chúa. Những điều bất hạnh tệ hại nhất con người có thể đối phó cách can đảm và nhẹ nhàng nếu chúng ta đối phó cùng với Thiên Chúa. Chúng cười nhạo Chúa Giêsu vì tưởng rằng niềm vui của Ngài vô căn cứ, và Ngài đã bình thản sai lầm. Nhưng sự kiện quan trọng trong đời sống Kitô hữu là điều xem như hoàn toàn bó tay đối với loài người thì Thiên Chúa làm được, điều mà xét trên lãnh vực con người là việc không hề dám mơ ước đã trở thành hạnh phúc thực sự khi có hiện diện của Chúa. Chúng cười nhạo Ngài, nhưng cười nhạo đó trở nên mối kinh ngạc sững sờ khi nhận biết được điều Thiên Chúa làm. Họ tin tưởng sai lầm. Họ nghĩ Chúa Giêsu thất bại, đứa bé đã vĩnh viễn ra đi. Bây giờ họ sửng sốt khi thấy Chúa Giêsu đã cứu sống, nó bước đi ngay truớc mặt họ. Chẳng có gì bất khả đối diện và chinh phục trong tình yêu Thiên Chúa được thể hiện trong Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
18. Lời kêu xin.
Đoạn Tin mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van xin của họ dường như bị sóng biển vùi lấp:
- Lạy Thầy, xin cứu chúng con.
Chúa Giêsu rất có thể lên tiếng trách cứ các ông:
- Bộ các con không hiểu rằng bao lâu Thầy còn ở với các con, thì không một tai ương hoạn nạn nào có thể xảy ra.
Thế nhưng lời van xin ấy lại rất bình thường và gần gũi với bản tính của chúng ta. Lời van xin xuất phát từ trái tim của một tạo vật nhỏ bé, như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật vô phương cứu chữa, chỉ mình Chúa mới có thể giúp đỡ.
Thế nhưng ngày hôm nay, liệu chúng ta có còn tìm thấy những lời van xin đầy tin tưởng và hy vọng như thế hay không? Nếu chúng ta hỏi những người lính chiến rằng: Vào những lúc nguy hiểm có bao giờ các bạn đã nghĩ tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Nếu chúng ta hỏi những người lái xe rằng khi xảy ra tai nạn có bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin Chúa phù trợ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Chiếc tàu Dora với một ngàn bảy trăm hành khách, chẳng may gặp nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã ghi nhận được một cảnh tượng thật trái ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các cô thì lo giữ lấy đôi giày của mình. Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của mình. Các ông thì lo giữ lấy ví tiền của mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã quỳ gối cầu nguyện.
Ngay cả bản thân chúng ta cũng thế. Mỗi khi gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta kêu gào, chúng ta làm mọi cách để thoát khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại không biết mở miệng kêu xin:
- Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp con kẻo con chết mất. Chỉ mình Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an toàn.
Chúng ta cũng giống như dân ngoại. Chẳng tìm thấy hướng đi cũng như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Ngày xưa mỗi khi mất mùa đói kém giặc giã xảy ra, người ta kêu cầu Chúa:
- Lạy Chúa xin giúp đỡ con.
Người ta tổ chức những cuộc rước kiệu, những cuộc hành hương để kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?
Ngày hôm nay, người ta có rất nhiều phương tiện, chẳng hạn như thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và người ta cảm thấy không còn cần đến sự trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa, người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội. Người ta muốn thay trời vắt đất làm mưa. Người ta sống như không còn sự hiện diện của Ngài nữa.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới kết luận: Bao lâu Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì không một tai nạn nào có thể xảy ra. Tuy nhiên con người thời nay lại không hiểu là như thế. Do đó, vấn đề cần phải đặt ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu có thực ở trong thuyền đời chúng ta hay không. Tôi đã phản ứng và hành động như thế nào trong những hoàn cảnh đen tối. Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không? Đó là những câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy lời giải đáp.
20. Hệ lụy tất yếu
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Cái gì cũng có hệ lụy riêng. Có khởi đầu thì có kết thúc; có sinh thì có tử; có tội thì bị phạt; có công thì được thưởng; có nguyên nhân thì có kết quả hoặc hậu quả, gọi là quy luật nhân quả. Và còn nhiều hệ lụy khác. Đó là những hệ lụy tất yếu của cuộc sống.
Thiên Chúa là Chúa của sự sống, Ngài chỉ có những ước muốn thánh thiện, và trao ban mọi điều tốt lành cho mọi người: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” (Kn 1:13). Tại sao? “Vì Ngài đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất huỷ hoại. Âm phủ không thống trị địa cầu” (Kn 1:14). Thật vậy, “đức công chính trường sinh bất tử” (Kn 1:13-15).
Ngài tốt lành nên Ngài cũng muốn chia sẻ những điều đó cho chúng ta: “Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Ngài dựng nên làm hình ảnh của bản tính Ngài” (Kn 2:23). Người ta tạo ra cái kia hay vật nọ, nhưng không ai làm ra cái gì giống mình. Vậy mà Thiên Chúa đã tạo nên chúng ta giống hình ảnh Ngài, và còn phú cho bản chất thiện hảo: Nhân chi sơ tính bổn thiện. Sinh ra ai cũng tốt lành, “nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian” (Kn 2:24a), và chắc chắn rằng “những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2:24b). Chúng ta đã lây nhiễm điều xấu, càng sống lâu càng tội nhiều, thế nên chúng ta luôn được “cảnh báo” bằng sự chết, vậy mà vẫn không ai sợ. Phàm nhân quá bướng bỉnh và ngang tàng. Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ!
Dù vậy, Thiên Chúa vẫn muốn chúng ta cải tà quy chánh, trở nên những người thực sự tốt lành: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Nhưng chúng ta vẫn cố chấp, ngang nhiên nghe lời xúi giục của ba thù (xác thịt, thế gian, ma quỷ) mà phạm tội. Chính chúng ta là “đại thù đệ nhất” của chính mình. Vậy mà Thiên Chúa vẫn xót thương, không nỡ làm ngơ, nên Ngài lại sai Con Một Giêsu nhập thể và chịu chết để cứu độ chúng ta. Còn hạnh phúc nào hơn! Vì thế, chúng ta phải thành tâm thân thưa: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 30:2).
“Ngài đã kéo chúng ta lên từ âm phủ, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” (Tv 30:4). Tác giả Thánh vịnh cảm nghiệm như vậy nên kêu gọi: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Ngài” (Tv 30: (Tv 30:5). Không cảm tạ Ngài sao được, vì Ngài quá tốt lành, vượt ngoài tầm hiểu của phàm nhân chúng ta: “Ngài nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30:6). Không vì lòng thương xót của Thiên Chúa thì chúng ta đừng hòng được gì. Vả lại, chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tôn sùng Thánh Tâm Ngài van xin Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Ngài đã “bật đèn xanh”, thế nên chúng ta đừng cố chấp và cũng đừng ngần ngại cầu xin: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ” (Tv 30:11). Khúc ai ca được Chúa đổi thành vũ điệu hoan ca, và cởi áo sô mà mặc cho chúng ta lễ phục huy hoàng. Vì thế, chúng ta không thể nín lặng mà không ca ngợi Ngài: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” (Tv 30:13), đồng thời loan truyền hồng ân thương xót ấy cho mọi người cùng nhận biết.
Kinh nghiệm đầy mình, Thánh Phaolô khuyên: “Cũng như anh em từng trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học được nơi chúng tôi, anh em cũng phải trổi vượt về lòng quảng đại” (2 Cr 8:7). Tốt về lĩnh vực này thì cũng cần tốt về lĩnh vực kia. Có “máu xấu” này cũng dễ “nhiễm” thói xấu khác. Mắc bệnh này rồi sẽ dễ mắc bệnh khác. Người tốt càng thêm tốt, người xấu càng thêm xấu. Cũng là hệ lụy tất yếu vậy. Cuộc sống đã và đang cho thấy ai mê đắm cái gì thì sẽ chết vì chính cái đó. Sinh nghề, tử nghiệp. Để cứu vãn, không gì hơn là phải tin theo Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã có lòng quảng đại vô cùng. Thánh Phaolô giải thích: “Ngài vốn giàu sang phú quý nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cr 8:9). Thật lạ!
Thánh Phaolô nói cặn kẽ hơn: “Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều” (2 Cr 8:13-14), y như lời đã chép: “Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu” (2 Cr 8:15). Đó mới là yêu thương thực sự, yêu thương triệt để, không yêu thương bằng lời nói suông mà bằng cả hành động. Hành động mới đủ sức thuyết phục và “nói” to hơn ngôn ngữ. Thiên Chúa rất thực tế khi Ngài đặt vấn đề: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá?” (Mt 7:9).
Chúa Giêsu thực tế trong từng lời nói, cử chỉ và hành động. Thánh sử Máccô kể rất tỉ mỉ, rõ ràng, dễ tửng tượng ra các diễn biến từng chi tiết: Một lần nọ, Đức Giêsu xuống thuyền trở sang bờ bên kia Biển Hồ. Một đám rất đông tụ lại quanh Ngài. Chợt có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Ngài và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống” (Mc 5:23). Chúa Giêsu đang vội, không rảnh, nhưng Ngài không do dự, không chần chừ, mà liền đi theo ông.
Khi đó, đám đông chen lấn đi theo xem sự thể ra sao. Trong đám đông đó có một bà kia bị băng huyết đã 12 năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Bà nghe đồn về Đức Giêsu, bà cố lách qua đám đông, tiến đến phía sau Ngài, và sờ vào áo của Ngài, vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Ngài thôi, là sẽ được cứu” (Mc 5:28). Lạ thay, máu cầm lại tức khắc, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi ngay chứng băng huyết. Lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Ngài liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi?” (Mc 5:30).
Nghe Thầy mình hỏi vậy, chắc là các môn đệ nghĩ Thầy mình quá lẩm cẩm và ngây ngô hết sức, nên họ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã sờ vào tôi?” (Mc 5:31). Hỏi thế thì… “bó tay”. Nhưng Đức Giêsu vẫn ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó khiến bà này sợ phát run lên vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Biết không thể giấu được, bà đến phủ phục trước mặt Ngài và nói hết sự thật với Ngài. Ngài nhẹ lời: “Này bà, lòng tin của bà đã cứu chữa bà. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5:34). Mắc chứng nan y mà được khỏi hẳn. Bà ta sướng rơn, sướng như người về từ cõi chết!
Chúa Giêsu luôn đề cao đức tin. Ngài không nói Ngài chữa lành mà chính niềm tin của chúng ta khả dĩ chữa lành chúng ta – cả tâm bệnh và thể bệnh.
Đang lúc đó, có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” (Mc 5:35). Nghe vậy, Đức Giêsu liền trấn an ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5:36). Một lần nữa, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đức tin. Rồi Ngài không cho ai đi theo mình trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan. Đến nhà ông trưởng hội đường, Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Ngài bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” (Mc 5:39). Chết mà bảo ngủ. Quái lạ! Ông Giêsu này “tâm thần” chắc! Thế nên người ta xầm xì chế nhạo Ngài.
Ngài bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Ngài vào nơi nó đang nằm. Ngài cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” (Mc 5:41). Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được. Ai nấy đều kinh ngạc sững sờ. Họ câm họng, hết dám xào xáo. Đức Giêsu không trách họ mà chỉ nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy. Ngài còn thực tế đến nỗi bảo người nhà cho con bé ăn.
Lạy Chúa, chúng con thật đắc tội với Ngài ngay từ những ý nghĩ hão huyền của chúng con. Cúi xin Ngài thương xót mà đại lượng ân xá. Xin Chúa mở lòng trí chúng con để chúng con cũng biết sống thực tế như Ngài, biết sẵn sàng hành động theo Ý Ngài và biết cương quyết khước từ những gì trái Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
21. Nhận ra phép lạ mỗi ngày – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Ngày 17/9/1961, máy bay chở ông Đavít Hamacon, Tổng thư ký Liên hiệp quốc, đã ngộ nạn trên không phận nước Congo, Phi Châu. Ông Hamacon không chỉ là người hoạt động cho hòa bình và là một nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là một nhà tu đức có chiều sâu. Sau khi ông qua đời, tại căn phòng của ông ở Nữu Ước, người ta đã tìm được tập tài liệu đánh máy, ghi lại những suy tư và cầu nguyện hằng ngày của ông. Trong tập tài liệu này người ta đọc thấy những dòng như sau: "Thiên Chúa sẽ không chết, ngày mà chúng ta không còn tin ở thần linh nào nữa. Nhưng chính chúng ta sẽ chết, ngày nào cuộc sống của chúng ta không còn thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ không ngừng xảy ra, phép lạ mà lý trí chúng ta không biết từ đâu tới".
Cái chết mà ông Đavít Hamacon nói trên đây chính là cái chết của tinh thần con người. Khi tinh thần con người không còn vượt qua khỏi chính mình để đi vào chiêm niệm, nghĩa là đi vào thế giới ở bên ngoài khả năng nắm bắt của lý trí, thì đó là lúc nó trở nên cằn cỗi và chết dần chết mòn.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới ấy, thế giới của những câu hỏi "tại sao", mà lý trí con người không thể lý giải được. Phép lạ một người đàn bà bị băng huyết được chữa lành nhờ chỉ chạm đến áo của Chúa Giêsu, và phép lạ một em bé gái chết được Chúa Giêsu cho sống lại; cả hai phép lạ đều phát xuất từ lòng tin của con người. Ông trưởng hội đường đã biểu lộ lòng tin bằng cách lặn lội tìm đến với Chúa Giêsu xin Ngài tới đặt tay trên con gái của ông; người đàn bà băng huyết tin một cách mãnh liệt nơi sức mạnh phát xuất từ con người Chúa Giêsu. Nơi ông trưởng hội đường, lòng tin được tuyên xưng tỏ tường; nơi người đàn bà băng huyết, niềm tin rụt rè kín đáo. Nhưng dù tỏ tường hay kín đáo, chính lòng tin đã giúp cho phép lạ xảy ra, như Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà: "Lòng tin của con đã cứu chữa con".
Niềm tin làm cho con người được sống, điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những thành công trong cuộc sống đều nhờ ở niềm tin, nhưng niềm tin tôn giáo thì quan trọng hơn, bởi vì chính sự sống tinh thần và tâm linh mới là điều cần thiết cho con người đạt được thành công. Có tất cả, nhưng thiếu đời sống tâm linh, con người vẫn như sống dở. Sống sung mãn, sống dồi dào, chính là sống nội tâm. Chỉ có một đời sống nội tâm sung mãn mới giúp con người thấy được, cảm nhận được những gì mà giác quan và lý trí không thể đạt được.
Cuộc sống vốn là một phép lạ, từng hơi thở con người là một phép lạ, mỗi ngày là một phép lạ, mỗi phút giây là một phép lạ. Chỉ có đôi mắt nội tâm mới cho con người cảm nhận được phép lạ triền miên ấy. Sống đích thực, sống dồi dào, là biết chiêm ngưỡng để đón nhận phép lạ từng ngày ấy.
Nguyện xin Chúa ban cho cuộc sống chúng ta luôn được thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ triền miên ấy.
22. Con chiên nhỏ bé, hãy chỗi dậy
(Suy niệm của Peter Feldmeier - Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” (Kn 1,13)
Trong giáo xứ tôi coi sóc trước đây, có một phụ nữ tên Irish đã trải qua một cơn ác mộng khủng khiếp: Con trai của chị vừa mới chết lúc tuổi đời còn rất trẻ. Chồng của chị cũng đã mất vài năm trước. Khi cậu con trai chết cách đột ngột, tâm hồn chị tan nát, và chị nói rằng trên đời này chẳng còn điều gì tồi tệ hơn thế.
Sau đám tang vài tuần, tôi gặp chị. Chị suy sụp và tuyệt vọng hoàn toàn. Khoảng một tháng sau, tôi không thấy chị đến nhà thờ nữa, và tôi lại phải đến thăm chị. Chị ta bực bội, tâm hồn rối bời và cảm thấy rất bất mãn với chính Thiên Chúa. Chị ta khó chịu và nói với tôi: “Cha xem, tôi đã cho Thiên Chúa rất nhiều. Suốt 50 năm, tuần nào tôi cũng đến nhà thờ, tôi đọc kinh cầu nguyện với Chúa mỗi ngày. Tôi gửi con cái vào học tại các trường công giáo. Thế nhưng, tôi nhận lại được những gì? Đứa con trai tôi đã chết một cách tức tưởi. Đó là điều Thiên Chúa đã tặng cho tôi một cách ác độc. Tôi nói với Chúa rằng sao Ngài lại dã tâm như thế, và tôi hoàn toàn thất vọng về Ngài.”
Lúc đó, có lẽ không cần tôi phải biện minh cho Thiên Chúa để bảo vệ Ngài. Chính Ngài có thể làm điều này. Tôi chỉ thinh lặng lắng nghe và để đồng cảm với nỗi đau của người phụ nữ khốn khổ kia. Nhưng tôi vẫn suy nghĩ mãi một điều: Tại sao Thiên Chúa vẫn để cho cái chết xảy ra? Tại sao Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ và con người chúng ta, lại để cho cái chết tự do tung hoành? Cái chết đến với chúng ta mang chở ý nghĩa gì?.. Câu trả lời giản đơn theo khoa học, thì tất cả vật thể đều sẽ tiêu tan hay biến đổi, và thân xác con người cũng không thoát khỏi định luật vật lý đó. Nhưng câu trả lời theo thần học được nhắc tới trong chính bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, trích từ sách Khôn ngoan. Tác giả viết “ Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong... Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường sinh bất tử. Họ được dựng nên làm hình ảnh của bản tính Ngài” (Kn 1,14; 2,23).
Vậy thì cái chết đến từ đâu? Phần cuối của bài đọc hôm nay đưa ra câu trả lời rất rõ ràng: “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian, và ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2,24). Thánh Phaolô đã đồng hóa quỷ dữ với con rắn mà sách khởi nguyên phác vẽ. Nó chính là căn nguyên gây nên cái chết, hay nói cách khác sự chết là hậu quả của tội Adam (Rm 5,12). Nhưng chúng ta đừng nên phóng tưởng và nghĩ rằng nếu nguyên tổ không sa ngã, thì sự chết đã không xảy ra. Định luật thiên nhiên luôn còn đó và vẫn mãi chi phối thân xác con người. Tác giả sách Khôn ngoan cũng xác nhận điều này, và còn minh giải thêm rằng ngay cả người công chính cũng sẽ phải chết. Thiên Chúa có là Thiên Chúa của sự sống hay không, thì sự chết vẫn luôn phủ trùm trên thân phận mọi người chúng ta.
Nhưng, sách Khôn ngoan xem cái chết của người công chính chỉ như là một khúc dạo đầu ngắn ngủi, đưa dẫn vào giai đoạn phục sinh vinh quang. Đó là lúc chúng ta được nghỉ ngơi an bình trong tay Chúa. Khi ấy, người công chính sẽ sống một cách sung mãn và ngập tràn hạnh phúc như thuở ban đầu lúc mới được tạo thành. “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và chẳng cực hình nào động tới được nữa... Họ đang hưởng an bình. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa... và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời (Kn 3,2.8).
Thánh giáo phụ Irênê đã viết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”. Thiên Chúa tạo nên sự sống. Ngài luôn muốn chúng ta sống và sống dồi dào, cho dù chính Đức Giêsu đã phải nếm trải khổ đau và kinh qua cái chết. Bài Tin mừng hôm nay cũng gợi mở cho chúng ta chân lý này.
Ông Giairô đã khấn xin Đức Giêsu đến nhà ông để chữa lành cho cô con gái đang ốm nặng sắp chết. Trên đường đi đến nhà ông, một phụ nữ bị bệnh loạn huyết suốt 12 năm đã sờ chạm đến áo của Chúa và bà đã được khỏi bệnh. Rõ ràng, Đấng Thánh của thiên Chúa (Mc 1,24) không bị nhiễm uế khi có người bệnh đụng đến mình, không giống như luật Moise đã viết (Lv 12,4). Ngài nói với người phụ nữ: “Lòng tin của con đã cứu con”. Vào thời điểm đó, cô con gái ông Giairô cũng đã tắt thở và không qua khỏi cơn nguy kịch. Đức Giêsu liền khơi dậy một niềm tin giống như đức tin của người phụ nữ nói ở trên. Ngài đến bên giường, cầm lấy tay đứa bé và nói “Talithakoum”. Marcô sử dụng hạn từ Aram này để nói lên sự thân thiết và lòng thương cảm sâu xa từ sâu tận đáy lòng của Đức Giêsu. “Talithakoum” có nghĩa là “Hỡi con chiên nhỏ bé, hãy trỗi dậy”. Đức Giêsu ám thị rằng Ngài như người chăn chiên nhân lành luôn phủ bóng yêu thương trên tất cả đàn chiên mà Ngài dẫn dắt. Vi mục tử tốt lành ấy muốn các con chiên của mình được sống và sống dồi dào.
Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và cả cô con gái ông Giairô sau này chắc chắn cũng đã chết, giống như tất cả mọi người chúng ta. Điều này xảy ra không phải vì Đức Giêsu đã thất bại trong việc chữa lành, hay Ngài chỉ tạm đình hoãn cái chết nơi cô gái, và cái chết là điều chắc chắn sẽ đến, không ai có thể trốn thoát. Nhìn sâu hơn, chúng ta sẽ nhận ra rằng, cả hai phép lạ trên nhằm khải thị một chân lý. Đó là Đức Giêsu muốn vén mở cho chúng ta một chân trời mới, một hoạch định mới trong vương quốc cánh chung sau cùng. Trong vương quốc đó, chúng ta sẽ được sống và sẽ sống mãi vì được kết hợp nên một với Thiên Chúa, đấng hằng sống và không bao giờ chết.
Những phép lạ được trình thuật hôm nay công bố cho dân chúng thời xưa cũng như cho chúng ta ngày hôm nay biết rằng Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong những bầm dập và khổ đau của phận người. Ngài sánh bước cùng chúng ta với một con tim thương cảm sâu xa. Ngài bảo đảm cho chúng ta rằng cái chết không phải là một dấu chấm kết tận, kết thúc lịch sử cuộc sống con người một cách vô nghĩa. Bởi vì, Thiên Chúa mãi luôn là Thiên Chúa của sự sống. Trong Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ phải chết.
23. Chúa Giêsu là Đấng Ban Sự Sống
Thiên Chúa là chủ sự sống. Ngài đã tạo dựng nên chúng ta và có quyền trên sự sống của chúng ta. Khi con người đánh mất sự sống đời đời, chính Chúa Giêsu đã đến để cứu con người khỏi sự chết bằng sự hy sinh trên thập giá, mang lại sự sống đời đời cho loài người.
Trong bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tỏ mình là Đấng ban sự sống, Đấng cứu chữa bệnh tật để con người được sự sống tròn đầy cho loài người chúng ta.
1. Chúa Giêsu chữa bà bị băng huyết 12 năm:
- Trên đường đi chữa bệnh cho em bé, có người phụ nữ bị xuất huyết 12 năm. Bà đã chịu cực khổ và chạy thuốc nhiều năm nhưng bệnh không thuyên giảm mà tiếp tục tăng nặng hơn, khiến bà lúc nào cũng ở trong tình trạng ô uế, phải tránh xa mọi người, sự sống của bà đang cạn kiệt dần dần. Nhờ chạm vào Chúa Giêsu là nguồn sống với niềm tin chân thật, sức mạnh từ Chúa đã chữa lành bà, đem lại cho bà sức sống mới.
2. Chúa Giêsu cho bé gái hồi sinh:
Khi nghe biết con gái ông trưởng hội đường hấp hối, Chúa Giêsu liền đi với ông, nhưng dọc đường, người nhà báo là con ông đã chết. Gia đình ông định bỏ cuộc nhưng Chúa Giêsu đã củng cố lòng tin của họ. Ngài không để đám đông đi theo nhưng cùng với 3 tông đồ thân tín đi đến nhà ông. Chúa Giêsu là Đấng có quyền trên sự sống nên Ngài không ngại đến nhà ông và ban sự sống cho em bé dù em đã tắt thở.
3. Chúa Giêsu tự mình sống lại:
Chúa Giêsu là chủ sự sống, từng ban sự sống chp người khác, dù là người đang bệnh hay đã chết nhiều ngày như Lazarô. Thế nên, khi Ngài cho đi mạng sống mình để cứu chuộc nhân loại như Chúa Cha đã định thì Ngài cũng có quyền chỗi dậy để chúng ta nắm chắc sự sống lại mai sau trên nước Ngài hiển trị.
Chúa Giêsu là sự sống, chúng ta là môn đệ của Ngài phải là những sứ giả đem Tin mừng sự sống đến cho mọi người. Ai gặp khó khăn trong cuộc sống như nghèo khó về vật chất hay tinh thần thì chúng ta phải giúp đỡ họ: bằng lời an ủi, khích lệ cho những ai gặp khó khăn tinh thần; bằng cơm bánh, của cải vật chất cho những ai gặp cảnh túng thiếu. Đó cũng là những gì mà thánh Phêrô trong Bài đọc II nhắn nhủ các tín hữu Corintô: anh em trổi vượt người khác về lòng tin, về hùng biện, sự hiểu biết, thì cũng phải trổi vượt trong việc phúc đức theo gương Chúa Giêsu. Ngài giàu sang đã trở nên thân phận nghèo khó vì chúng ta để nhờ đó, chúng ta trở nên giàu có, từ thân phân nô lệ trở nên con cái thiên Chúa. Vậy chúng ta cũng phải biết giúp đỡ nhau, đem Sự Sống là Đức Kitô ngự trong chúng ta cho thế giới được tràn đầy bình an đời này và nhất là hạnh phúc đời sau.
Lạy Chúa Giêsu là nguồn sức sống của chúng con, xin cho chúng con được đầy tràn sức sống của Chúa để chúng con trở nên những chứng nhân rao truyền sự sống của Chúa trên khắp địa cầu và nhiều người được ơn cứu độ.
24. Bí quyết thần diệu để đạt được điều mong ước
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có một ông vua rất đỗi giàu sang và vô cùng quảng đại. Nhà vua có một kho tàng đầy ắp những báu vật mọi người hằng mơ ước. Nhà vua tuyên bố với thần dân rằng bất cứ ai muốn lấy bất cứ thứ gì trong kho tàng vô tận của vua thì cứ lấy, miễn là phải dùng một loại chìa khoá rất đặc biệt mới mở được kho tàng. Chìa khoá ấy, vua cũng chỉ cho biết là đang nằm trong tầm tay mọi người. Tiếc thay, người ta không biết đó là chìa khoá thần kỳ và chưa mấy ai đem ra sử dụng.
Khi nghe tin nầy, nhiều người nao nức hỏi: Vị vua đại lượng đó là ai? Kho tàng nằm ở đâu? Chìa khoá nào mở được kho tàng, xin mau mau cho biết.
Đức vua đó chính là Thiên Chúa quyền năng. Kho tàng của Người là vô vàn phúc lộc không bao giờ vơi cạn. Chìa khoá để mở kho tàng ấy là lòng tin. Ai có lòng tin mạnh mẽ, người đó có thể mở được cửa kho tàng và chiếm lấy những gì mình muốn. Ai không có lòng tin, thì đành bó tay và chẳng thu lượm được gì.
Hai sự kiện thánh sử Mác-cô thuật lại trong Tin Mừng hôm nay minh chứng cho chân lý nầy:
- Trường hợp người phụ nữ bị bệnh băng huyết
Một người phụ nữ bị băng huyết đã mười hai năm, đã lắm phen tìm thầy chạy thuốc nhưng bệnh của bà vẫn vô phương cứu chữa. Nay gặp Chúa Giêsu, bà mừng như người sắp chết đuối vớ được tấm phao.
Vì luật cấm những người mang thứ bệnh nhơ uế như bà tiếp cận với người khác (Lv 15,25) nên bà không dám công khai gặp Chúa Giêsu, chỉ len lén tiến lại phía sau lưng Người, tự nhủ lòng rằng: "mình chỉ cần sờ được vào áo Người thôi là sẽ được cứu". Và điều nhiệm mầu đã xảy ra: bà vừa đụng vào áo Chúa Giêsu thì tức khắc huyết cầm lại và bà được chữa lành.
Chúa Giêsu biết có một năng lượng từ mình xuất ra nên quay lại tìm hiểu và khi người phụ nữ thú nhận việc bà vừa làm, Chúa Giêsu bảo: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh."
Chính Chúa Giêsu xác nhận lòng tin là chìa khoá thần kỳ mở ra cho người đàn bà kho tàng chứa đựng điều mà bà khao khát: được chữa lành chứng bệnh nan y.
- Trường hợp ông trưởng hội đường
Đang cùng Chúa Giêsu tiến vội về nhà để nhờ Chúa cứu chữa đứa con gái đang hấp hối, thì người nhà của ông trưởng hội đường chạy đến báo cho ông biết rằng con gái ông chết rồi, đừng phiền Chúa đến nhà làm gì mất công.
Nghe vậy, Chúa Giêsu động viên ông ta: "ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi". Tin là được. Thế rồi, nhờ lòng tin, con gái ông đã được cứu sống.
Một lần nữa, Tin Mừng chứng tỏ cho thấy lòng tin là chìa khoá đem lại ân sủng nhiệm mầu: đứa con gái thân yêu chết rồi nay được cứu sống!
Còn nhiều sự kiện khác được ghi lại trong Tin Mừng chứng tỏ cho thấy phải có lòng tin thì mới đạt được điều mong muốn và không có lòng tin thì chẳng được gì (Mt 13, 58). Lòng tin có thể chuyển núi dời non. Với lòng tin, người ta làm được tất cả như lời Chúa Giêsu dạy: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: "rời khỏi đây, qua bên kia!" nó cũng sẽ chuyển qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được" (xem thêm: Mt 17, 19-20; Mt 15, 28; Mt 21, 21-22)
Quả vậy, điểm lại những khuôn mặt đạt được thành công lớn lao trên thế giới, ta thấy rằng nguyên nhân chính giúp họ thành đạt là nhờ mạnh tin. Vững tin rằng mình sẽ làm được thì sẽ được như ý.
Như thế, lòng tin là bí quyết để thành công trên đường đời, và cũng là chìa khoá mở vào kho tàng ân sủng của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, lòng tin của chúng con còn yếu kém nên chẳng thu hoạch được gì. Xin ban thêm lòng tin để chúng con có thể mở được kho tàng ân sủng của Chúa.
25. Thiên Chúa quan tâm
(Suy niệm của Lm. Quốc Toản, CMC)
Một giáo sư đại học tự xưng mình là vô thần. Một hôm ông tuyên bố trước mặt các sinh viên rằng ông sẽ chứng minh được là không có Thiên Chúa. Ông chế diễu: "Này Chúa, nếu Chúa thật sự hiện hữu thì tôi muốn Chúa đánh ngã tôi văng khỏi bục giảng này. Tôi cho Chúa đúng 15 phút."
Cả phòng yên lặng, và mười phút trôi qua, ông lại ngạo mạn: "Tôi đang ở đây, và tôi đang chờ đợi."
Một anh lính mới giải ngũ rời khỏi chỗ ngồi đi lên gặp vị giáo sư và tặng ông một cú đấm thật mạnh vào mặt, khiến ông văng khỏi bục giảng, ngã xuống bất tỉnh. Sau đó, anh lính bình tĩnh về chỗ ngồi.
Vị giáo sư dần dần tỉnh lại, nhìn anh lính và hạch hỏi: "Có chuyện gì với anh vậy? Tại sao anh lại đánh tôi?"
Anh lính trả lời: "Thiên Chúa đang quá bận rộn, nên ngài gửi tôi tới." (God is too busy, so He sent me).
Thiên Chúa của chúng ta là Đấng như thế nào? Phải chăng Ngài tạo dựng vũ trụ và rồi thoải mái ngồi chơi xơi nước không để ý chuyện thế gian hay vẫn tiếp tục quan tâm đến cuộc sống của các thụ tạo? Phải chăng Ngài quá bận rộn chăm sóc những nhân vật quan trọng và vì thế không còn đủ thời giờ để săn sóc quan tâm đến những người tầm thường bé nhỏ?
Qua hình ảnh nhân loại của Chúa Giêsu, tin mừng hôm nay đã trình bày khuôn mặt sống động của một Thiên Chúa luôn yêu thương quan tâm:
Đám đông dân chúng đã đang tụ họp lắng nghe Chúa giảng dạy. Đây là dịp tốt thuận lợi để truyền bá giáo lý, nên chắc hẳn Chúa đã chuẩn bị cẩn thận bài nói chuyện. Đang chia sẻ, bỗng dưng chương trình của Chúa bị xáo trộn, khi ông Giairô trưởng hội đường, đến cắt ngang bài nói chuyện và xin Chúa chữa con gái ông sắp chết. Nhìn thấy nỗi khổ của người cha, Chúa đã sẵn lòng hy sinh bỏ chương trình kế hoạch riêng của Chúa để đáp ứng nhu cầu của người cần cứu giúp. Không thấy tin mừng ghi lại Chúa phàn nàn kêu ca vì phải cắt ngang bỏ dở chương trình.
Rồi trên đường đi, Chúa cảm thấy có người đụng chạm, người đó là một người đàn bà bị bệnh loạn huyết. Thật dễ hiểu nếu Chúa có trở nên bất nhẫn với bà: "Tại sao bà lại làm phiền tôi chứ? Bà không thấy rằng tôi đang phải cứu giúp con ông trưởng hội đường khỏi chết sao? Bà và chuyện của bà có thể đợi được mà?"
Nhưng thay vì bất nhẫn hay trách móc, Chúa Giêsu đã nhận thấy người đàn bà cũng đáng thương, và tuy dù bệnh tật của bà không quan trọng bằng chuyện đứa con sắp chết của ông Giairô nhưng cũng là điều thật quan trọng đối với bà. Với lòng thương cảm, Chúa bảo bà: "Này con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh."
Qua đoạn tin mừng hôm nay, chúng ta thấy được hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương quan tâm. Có người bảo: "Ngài không quá bận để điều khiển vũ trụ. Ngài có thời giờ cho những nhân vật quan trọng có tên tuổi như ông Giairô trưởng hội đường, nhưng Ngài cũng có thời giờ cho người tầm thường bé nhỏ như người đàn bà không tên tuổi bị bệnh loạn huyết. Ngài có thời giờ cho Đức Giáo Hoàng, cho các vị lãnh đạo, cho những người quan trọng, và Ngài cũng có thời giờ cho những người tầm thường như chúng ta."
Kiểm điểm lại cuộc sống, có lẽ chúng ta cần phải khiêm nhường xin ơn tha thứ vì rất có thể nhiều lần chúng ta không quá bận như Thiên Chúa nhưng đã không dành thời giờ cho anh chị em khi họ cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Hơn nữa, thay vì ân cần lắng nghe theo dõi đáp ứng những nhu cầu của anh chị em, chúng ta đã nhẫn tâm nhắm mắt bịt tai xua đuổi. Có lẽ còn lâu lắm và không biết đến bao giờ chúng ta mới học được ở nơi Chúa bài học cảm thông nâng đỡ, và được nên giống Chúa?
Nếu ngày hôm xưa Chúa đã có thời giờ cho dân chúng, đáp ứng những nhu cầu của họ, thì ngày hôm nay Ngài cũng có thời giờ cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có đi đến với Chúa, và kêu xin Người giúp đỡ?
Nếu Chúa đã có thời giờ cho chúng ta, phải chăng chúng ta cũng có thời giờ cho anh chị em chúng ta? Chúa và anh chị em đang chờ đợi câu trả lời của mỗi người chúng ta.
26. Gặp gỡ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
“Nếu tôi chạm vào gấu áo của Nguời thì tôi sẽ được khỏi bệnh” (Mc 5, 28). Sự đụng chạm này đã linh nghiệm. Người phụ nữ được chữa lành khỏi bệnh băng huyết. Sức khoẻ của bà được phục hồi. “Người cầm lấy tay em bé và nói: Talithakum …lập tức em bé đứng dậy và đi lại được” (Mc 5,41-42). Cái cầm tay này đã linh nghiệm. Em bé đã được hồi sinh. Ôi, có những cái đụng chạm tuyệt vời, những cái đụng chạm làm phát sinh điều tốt đẹp. “ Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã chạm đến Ta?” (c. 31). Quả thật, trong một ngày, một tuần… không biết bao lần ta đụng chạm, tiếp xúc với tha nhân cách này hay cách khác. Có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc hoá thành sự gặp gỡ và phát sinh hiệu quả tốt đẹp nhưng cũng có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc trở nên sự đụng độ và gây ra hậu quả chẳng hay. Khi sinh thời, rất nhiều người đã tiếp xúc với Chúa Giêsu và họ đã hưởng nhận biết bao ơn lành. Tuy nhiên cũng không ít người tiếp xúc với Chúa mà kết quả xem ra xấu xa và tồi tệ hơn chẳng hạn như phần lớn các luật sĩ, biệt phái… Có thể khẳng định cái yếu tố khiến cho những sự tiếp xúc phát sinh những kết quả trái ngược như thế, đó là ý hướng, thái độ của người tiếp xúc: tin tưởng hay hoài nghi vì đố kỵ.
“Này bà, lòng tin bà đã cứu chữa bà. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”. “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,34.36). Những lời của Chúa Giêsu nói với người phụ nữ bị băng huyết và với ông trưởng hội đường qua bài Tin Mừng hôm nay khiến ta liên tưởng đến lòng tin. Thật vậy, đọc Tin Mừng ta phải chân nhận rằng chính do bởi lòng tin của người ta mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ để chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ hay phục sinh kẻ chết... Hình như chỉ mỗi một lần Chúa biểu dương uy quyền để củng cố đức tin người ta như phép lạ hoá nước thành rượu tại Cana. Tuy nhiên xét cho cùng, phép lạ ấy cũng được xuất phát từ lòng tin của Mẹ Maria. Mẹ đã vững tin nên dù nghe câu trả lời như từ chối của Chúa Giêsu thì Mẹ vẫn biểu gia nhân: “ Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Niềm tin làm phát sinh nhiều hiệu quả tốt đẹp lạ thường. Niềm tin giúp ta vượt qua nhiều trở ngại, khó khăn. Niềm tin có sức chữa lành tật bệnh và khiến ta vui sống. Quả thật nếu không có lòng tin ở nhau thì ta thật khó mà tồn tại và phát triển. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đồ: Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì các con có thể lấp biển, dời non. Điều kiện có vẻ như tiên quyết mà Chúa Giêsu đòi hỏi ở những ai muốn Người thi ân giáng phúc đó là tin vào Người.
Tin Mừng còn dẫn chứng cho ta hay rằng những người không tin vào Chúa Giêsu có thể nói là các Thượng tế, luật sĩ và biệt phái. Dĩ nhiên không phải là tất cả nhưng hầu như đại đa số trong họ. Một trong những nguyên cớ khiến họ không tin vào Chúa Giêsu đó là lòng ganh tương đố kỵ. Bài đọc thứ nhất, sách Khôn ngoan nói rõ: “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2,24). Vì lòng ganh tương đố kỵ mà nhiều người đang lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ dù có tiếp xúc với Chúa thì cả “những cái họ đang có cũng sẽ bị lấy mất”.
Ganh đua và ganh tị xem ra gần giống nhau ở đích nhắm. Cả hai đều không muốn kẻ khác hơn mình. Trong khi người ganh đua thì tìm cách học hỏi, nỗ lực rèn luyện…để vươn lên cho hơn người thì kẻ ganh tị chỉ loay hoay tìm cách hạn chế, hạ bệ kẻ khác để họ phải thua mình. Dĩ nhiên, kẻ ganh tị sẽ không trừ một thủ đoạn nào. Đặc biệt khi kẻ ganh tị lại lợi thế hơn nhờ chức quyền, địa vị thì thủ đoạn sẽ tinh vi và nhiều khi đi đến chỗ bất nhân cách trắng trợn nếu không muốn gọi là vô liêm sỉ. Như lời tác giả sách Khôn ngoan thì đằng sau kẻ ganh tị luôn có bóng dáng của Thần Dữ và hậu quả là “sự chết” cho cả người bị ganh tị lẫn kẻ ganh tương đố kỵ.
Mẹ Hội Thánh, đặc biệt từ sau Công Đồng Vaticanô II luôn cổ võ con cái mình tích cực gặp gỡ, đối thoại với thế giới, với anh em khác đạo và với cả anh em vô thần. (x.MV 92; TG 12). Ai cũng mong cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa ta và tha nhân mang lại kết quả. Thánh Công Đồng dạy ta cần phải khiêm tốn lắng nghe trong chân thành và sẵn sàng đón nhận những khác biệt chính đáng của tha nhân. Để có được thái độ này tiên vàn ta phải có lòng tin vào tha nhân. Tin vào thiện ý và thiện chí của nhau là tiên đề của mọi cuộc tiếp xúc hay đối thoại.
Chúa Giêsu đã làm guơng cho ta về thái độ này. Ngoại trừ một số người mà Chúa Giêsu đã biết rõ lòng dạ chai đá của họ, thì để khơi gợi lòng tin nơi những người mà Người gặp gỡ, Người thường đi bước trước bằng cách tin vào họ. Chính nhờ tin vào một chút thiện hảo nơi tấm lòng thiếu phụ Samaria bên bờ giếng Giacop, Chúa Giêsu đã đốt lên niềm tin của chị. Tin Mừng thứ tư đặc biệt nhấn mạnh đến chủ đề lòng tin. Những bài tường thuật về công việc của Chúa Giêsu cũng như những bài diễn từ khá dài của Người thường xoay quanh chủ đề lòng tin. Mặc dù thấy rõ sự cứng lòng tin của nhiều người Do Thái thế mà Chúa Giêsu vẫn không ngừng rao giảng và dùng việc làm để minh chứng cũng đủ cho ta thấy Chúa luôn hy vọng, tin tưởng. Chúa ban ơn tha thứ vì Người tin ở ta. Chúa không ngần ngại sửa dạy cả những người có chức có quyền thời bấy giờ vì Người tin tưởng sẽ có ngày họ đổi thay.
Giữa Hội Thánh và Chính Quyền các cấp, giữa ta và anh chị em lương dân hay khác đạo, giữa ta với ta, bậc bề trên và người bề dưới trong đạo, điều lý tưởng là có sự tiếp xúc chứ không phải đụng độ, có sự đối thoại chứ không phải đối đầu. Để lý tưởng này được hiện thực, thiết nghĩ cần phải có lòng tin vào nhau. Những người biệt phái, tư tế, luật sĩ thời Chúa Giêsu, họ thiếu lòng tin thường là do bởi lòng ganh tị. Họ ganh tị vì không muốn cái anh thợ mộc Giêsu này hơn mình hay qua mặt mình.
Lòng tin thường phát xuất từ tình yêu. Hiện thực cuộc sống cho ta thấy điều này: tình yêu đến trước rồi đôi nam nữ dần tin nhau chứ không phải vì họ tin nhau trước rồi họ mới yêu nhau. Để xây dựng lòng tin, trước hết ta hãy có một chút tình. Ta hãy đi bước trước trong việc yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương. Nguời không chỉ chăm sóc các môn đệ mà còn tìm mọi cách để cho các ông sinh hoa kết trái và tạo điều kiện để các ông “làm được nhiều việc lớn lao hơn cả những việc Người làm” (x.Ga 14,11-12).
Nếu như Chính Quyền không sợ Hội Thánh gây ảnh hưởng hay ngược lại, nếu như các tôn giáo không sợ nhau chiêu mộ tín đồ, nếu như bề trên không sợ bề dưới tài giỏi hơn mình và nếu… thì sự tiếp xúc, đối thoại chắc chắn sẽ hiện thực. Khi đã có lòng tin ở thiện ý và thiện chí của nhau thì sự gặp gỡ sẽ ở trong tầm tay chúng ta và kết quả là nhiều điều tốt đẹp sẽ diễn ra trước mắt chúng ta..
27. Cộng tác với ơn Chúa – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chin ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn “chuyên trách” về bệnh này.
Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:
- Xin cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?
Vị linh mục nói:
- Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.
Bà già la lên:
- Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.
Thánh Antôn tự nhủ:
- Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi đến cho bà vị linh mục này. Thế mà!
***
Nếu bà già trong câu chuyện suy niệm bài Tin Mừng hôm nay, chắc bà sẽ không làm cho thánh Antôn phải thất vọng. Người phụ nữ xuất huyết trong bài Tin Mừng và bà già đau răng trong câu chuyện trên, cả hai đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.
Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta, và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Mc Kenzie nói: “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thể thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người.
- Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga 2,7).
- Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc 6,35-43).
- Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Ngạn ngữ Tây phương có câu: “Hãy tự giúp mình trước rồi Trời sẽ giúp sau”.
***
Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con với trái tim của người cha người mẹ, Chúa để chúng con hoàn toàn tự do đáp lại tình yêu Chúa. Xin cho chúng con luôn biết sống ngoan ngùy, thảo hiếu, đẹp lòng Chúa. Xin dạy chúng con biết cộng tác với ơn Chúa, để được Chúa ban ơn trợ giúp trong những cơn gian nan khốn khó. Amen.
28. Làm phiền Thầy chi nữa!
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Hai phép lạ lồng vào nhau được Tin Mừng Mác-cô tường thuật nêu lên một vấn nạn mà từ lâu nay tôi vẫn lởn vởn trong đầu: tôi có thật sự tin vào Chúa không, và thế nào là một niềm tin đích thực vào Chúa?
Hai phép lạ Đức Giêsu thực hiện rõ ràng là do lòng tin của các nhân vật trong cuộc: Ông trưởng hội đường Gia-i-a và người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm chắc chắn đã tin vào sức mạnh chữa lành của Thầy Giêsu, khi họ đồng loạt khẩn khoản nài xin Người thi thố quyền phép, tuy với những cách thức rất khác nhau - một người ‘sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin’, trong khi người kia rón rén ‘đến phía sau Người để sờ vào áo của Người’. Trong cả hai trường hợp Đức Giêsu đều xác định: “Lòng tin của con đã cứu chữa con... Chỉ cần ông tin thôi”. Thế nhưng toàn bộ câu chuyện hình như lại cho thấy một điều gì khác thâm sâu hơn; Đức Giêsu đòi bất cứ niềm tin nào đặt nơi Người, cho dầu tự nó đã là rất vững chãi đi nữa, vẫn còn phải được kèm theo một yếu tố không thể thiếu, đó là phó thác cậy trông dứt khoát và không lay chuyển! Người đàn bà có tin nhưng còn không dám, còn rụt rè và run sợ… gia đình ông trưởng hội đường tin đấy, nhưng còn ngại ngùng ‘làm phiền Thầy chi nữa!’ Rõ ràng tín thác cậy trông đã thiếu trong cả hai trường hợp.
Đối với Đức Giêsu, tin vào quyền năng của Thiên Chúa mà thôi là chưa đủ, nói cách khác, Người chờ đợi nơi Kitô hữu của Tân Ước một thái độ tin tưởng phó thác rất độc đáo, không hề tìm thấy nơi bất cứ một tôn giáo nào khác. Các Kitô hữu chúng ta đều biết, mục đích chính Đức Giêsu đến trần gian chắc chắn không nhằm biểu lộ quyền năng hùng mạnh của Thiên Chúa. Để làm được điều này Cựu Ước đã quá đủ; ‘Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh’ (Lc 1:51) qua không biết bao nhiêu là biến cố oai hùng, nhất là các can thiệp khủng khiếp trong biến cố Xuất Hành giải thoát dân riêng. Ngay cả khi Người thực hiện các phép lạ vĩ đại, Người vẫn cho thấy rằng biểu lộ quyền năng Thiên Chúa chỉ là điều rất thứ yếu. Mục tiêu chính của các phép lạ vẫn luôn là, như Người không ngừng khảng định rằng ‘Thiên Chúa yêu thương trần gian’. Chính vì thế mà, đối với người dàn bà rón rén ‘lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người’, cho dầu lòng tin của bà có mạnh thật đấy, ‘Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu’, nhưng Đức Giêsu vẫn muốn bà nhận ra: có một ‘năng lực tự nơi mình phát ra’ mà chưa ai từng nhận biết, đó là tình yêu xót thương của Thiên Chúa, một tình yêu phải mang đến cho bà tin tưởng và bình an, chứ không phải e dè sợ hãi. “Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”. Cũng vậy trường hợp ông trưởng hội đường (tương tự như cô Mát-ta trong chương 11 Phúc Âm Gio-an); chắc chắn ông đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa, nhưng ông vẫn có phần ngại ngùng rằng yêu cầu của ông đi quá xa, “Con gái ông chết rồi, còn làm phiền thầy chi nữa!” Ngại ngùng đó chứng tỏ ông không hiểu gì về lòng nhân lành thương xót của Đấng mà Đức Giêsu công bố là ‘Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho anh em sao?’ Người phải chấn an ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”, nhưng phải là niềm tin hoàn toàn phò thác và tin tưởng sâu xa nhất.
Tin không chút sợ hãi chắc chắn không phải là một niềm tin bình thường. Niềm tin đó không chỉ dựa vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa, mà quan trọng hơn, phải đặt trên tin tưởng vô hạn đặt cơ sở trên chính sự nhân lành của Thiên Chúa tới độ tín thác không chút e dè. Sự tin tưởng của người lính vào tài bầy binh bố trận của vị tướng cầm quân tài giỏi có thể là rất vững chắc, nhưng không thể nào sánh được với sự phó thác của em bé trong vòng tay âu yếm của mẹ nó; một đàng là tin tưởng đặt nền móng trên nắm bắt được sức mạnh của quyền lực, đàng khác là phó thác dựa trên cảm nghiệm được yêu thương. Niềm tin Kitô hữu, kể từ thời các Tông Đồ, không còn đặt nền tảng trên biến cố oai hùng như Xuất Hành qua Biển Đỏ, nhưng là trên cử hành Hiến Tế thập giá. Vì thế niềm tin này, để trưởng thành và vững chãi, sẽ không cần cầu xin một dấu lạ (xem Mt 12:38), nhưng cần cảm nghiệm được tình yêu của Đấng đã ‘chết cho người mình yêu’. Nói cách khác, ánh sáng đức tin Kitô hữu không giãi sáng từ trí óc nhưng từ con tim (hãy ngắm nhìn bức ảnh ‘Lòng Thương Xót Chúa’). Và do đó câu tuyên xưng đức tin đúng đắn nhất của mọi Kitô hữu sẽ không còn là ‘tôi tin kính một Thiên Chúa toàn năng!’ (I believe in God almighty), nhưng phải là ‘Con tín thác nơi Chúa’ (Jesus, I trust in you), vì chỉ mình Người mới là Đấng không những quyền phép, nhưng trên hết là từ nhân.
Tôi thiết nghĩ cốt lõi của phong trào ‘Lòng Thương Xót’ hệ tại ở việc biến đổi thâm sâu trong đức tin của mỗi Kitô hữu chúng ta.
Lạy Chúa Từ Nhân, như thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng, con xin Chúa cho con được nếm cảm sự an bình thư thái ‘như bé thơ trong vòng tay mẹ hiền’. Xin cho con một đức tin không vương chút âu lo sợ hãi, bất chấp những yếu hèn vô tận của con người mỏng dòn. Xin cho con luôn biết chiêm ngắm Thập Giá như nguồn cậy trông phó thác duy nhất đời con, bây giờ và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
29. Chúa là chủ tế sự sống
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta rất sợ sự chết, chúng ta đau buồn khi một người thân phải chết, và chúng ta sợ hãi khi nghĩ đến ngày chúng ta chết. Tuy nhiên, đức tin dạy chúng ta rằng Thiên Chúa tạo dựng chúng ta là để cho chúng ta được sống, và đàng sau cái chết thể xác là một cuộc sống vĩnh cửu.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa để củng cố niềm tin của chúng ta, đồng thời hãy sốt sắng cầu xin Chúa cho chúng ta biết sống ở đời này như thế nào để sau đó được sống hạnh phúc muôn đời với Chúa.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta quá lo lắng cho cuộc sống thể xác mà không chăm lo cuộc sống linh hồn.
Nhiều khi đức tin của chúng ta bị lung lay khi chứng kiến bệnh tật và cái chết của những người thân.
Chúng ta sớm quên những người thân đã qua đời.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kn 1,13-15; 2,23-24)
Sách Khôn ngoan được soạn khoảng thế kỷ thứ I trước công nguyên. Đây là một sưu tập những tư tưởng khôn ngoan của các bậc hiền triết của nhiều thế hệ.
Trích đoạn sách Khôn ngoan này chứa đựng chân lý nền tảng về sự sống và sự chết:
- Thiên Chúa tạo dựng loài người giống hình ảnh Ngài, để cho loài người được sống vĩnh viễn.
- Nhưng sở dĩ có sự chết là vì tội lỗi.
2. Đáp ca (Tv 29)
Tv này ca tụng Thiên Chúa như là chủ tể của sự sống. Những ai vì tội lỗi mà bị đẩy đến ngưỡng cửa sự chết nhưng biết kêu cầu Ngài thì sẽ được Ngài cứu sốnhg.
3. Tin Mừng (Mc 5,21-43)
Trích đoạn này gồm hai phép lạ, và cả hai đều liên quan đến sự sống:
Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống: máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục 12 năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Ngài trả lại sức sống cho bà.
Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.
Cả hai trường hợp được cứu sống đều nhờ đức tin: đức tin của người phụ nữ loạn huyết và đức tin của ông Giairô.
Trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta còn nghe một lời giáo huấn rất ý nghĩa của Đức Giêsu: Cái chết thể xác chỉ là một giấc ngủ.
4. Bài đọc II (2 Cr 8,7.9.13-15)
Mục đích của Phaolô khi viết đoạn thư này cho tín hữu Côrintô là nhằm lạc quyên giúp cho giáo đoàn Giêrusalem đang bị nạn đói.
Phaolô đưa những lý do động viên họ quảng đại bố thí:
- Hãy noi gương quảng đại của Đức Giêsu: dù giàu sang, Ngài đã tự ý trở thành nghèo khó để làm cho loài người được giàu có.
- Tín hữu phải biết chia xẻ cho nhau để ai nấy đều có mức sống đồng đều với nhau: sự dư dả của người này bù đắp sự túng thiếu của người kia. Có như thế, "Kẻ được nhiều thì cũng không dư, mà kẻ có ít thì cũng không thiếu".
IV. Gợi ý giảng
* 1. Đức tin nối lại nhịp cầu đã gãy
Giả sử như chúng ta đã đi hết nửa đoạn đường, sắp bước chân qua cầu để sang bờ bên kia đi tiếp đoạn đường còn lại, thì bỗng chiếc cầu sụp đổ rơi tòm xuống sông. Khi đó chúng ta làm thế nào? Chắc là muốn quay trở về đoạn đường cũ.
Người đàn bà mắc bệnh loạn huyết và Ông Giakêu cũng lâm vào một tình cảnh khó xử như vậy:
- Loạn huyết là một chứng bệnh dơ dáy. Người Do thái không chỉ thấy nó dơ dáy về mặt thể lý mà còn coi nó là một thứ ô uế luân lý. Cho nên có luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được đụng chạm tới người khác, chạm tới ai thì người ấy kể như bị lây ô uế đó. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết này cũng không dám cất tiếng kêu xin Đức Giêsu vì sợ người ta biết mình bệnh và xua đuổi mình. Bà định im lặng rờ vào mình Đức Giêsu. Nhưng vậy là phạm luật thánh, là có tội: thật là khó xử.
- Còn ông Giairô thì xin Chúa đến chữa trị cho con gái mình đang bệnh nặng. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì ông được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa!
Cả bà loạn huyết và ông Giairô đều như sắp bước qua cầu thì chiếc cầu sụp gãy. Thế nhưng họ không quay trở lại bỏ dở đoạn đường. Họ vẫn cố gắng tiến bước:
- Bà loạn huyết không dám rờ vào mình Đức Giêsu thì rờ vào cái tua áo của Ngài vậy.
- Còn ông Giairô thì trong lúc chới với đó đã nghe Đức Giêsu an ủi "Đừng sợ, cứ tin". Và kết quả là bà kia dứt bệnh, Con gái ông Giairô sống lại. Đức tin của họ đã nối lại nhịp cầu gãy.
Trên đây là 2 trường hợp giúp chúng ta hiểu bản chất của đức tin và sức mạnh của đức tin.
- Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin, đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi.
- Đức tin, một nhân đức căn bản của đạo, phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người, vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ, bởi vì trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa thì có thể là được hết mọi sự.
- Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai, nhưng vâng lệnh Chúa ông đưa con lên núi sát tế và lòng đau như cắt mà vẫn tin rằng Chúa sẽ thực hiện lời hứa làm cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và quả thực Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.
- Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước biển, và ông đã đi được bao lâu ông còn tin vào Chúa. Nhưng khi ông bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Chúng ta là những tín hữu, nghĩa là những kẻ tin Chúa. Bấy lâu nay chúng ta vẫn tin Chúa. Nhưng có lẽ bấy lâu nay tin Chúa là điều dễ dàng đối với ta, tin Chúa ta được bình an, tin Chúa đời ta thoải mái, gia đình ta yên vui, việc làm của ta xuôi chảy.
- Có một người mẹ kia có một đứa con nhỏ rất dễ thương, vừa biết nói chuyện dã học đọc kinh, hát thánh ca. Rồi nó lâm bệnh, người mẹ cầu nguyện hết sức, nhưng nó vẫn chết. Từ đó người mẹ không còn cầu nguyện nữa, hình như chị đã hết tin.
- Chúng ta cũng đã từng dự những đám táng: khi chiếc quan tài được hạ huyệt, người ta khởi sự lấp đất lại và trong lúc đó cũng khởi sự đọc kinh Tin Kính "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Biết bao người đã vừa đọc câu đó mà nước mắt ròng ròng.
- Cũng có một ông kia từ ngày gia đình làm ăn sa sút đã đem tượng Chúa quăng ra ngoài sân và từ đó không còn giữ đạo.
- Và biết bao người đã thành thật thú nhận cùng cha giải tội: "con đã ngã lòng rồi!" Cũng như có biết bao người những khi buồn khổ đời không cầu nguyện
Chúng ta hãy cầu xin Chúa thật nhiều cho những người đáng thương kể trên. Và cầu xin cho chính chúng ta được một đức tin vững chắc để không phải chỉ tin Chúa ngày hôm nay khi đời ta còn bình an, vui vẻ. Nhưng vẫn còn đủ sức để tin nếu mai ngày chúng ta rơi vào một hoàn cảnh khó khăn thử thách. Xin Chúa giúp chúng con vẫn cứ tin luôn, tin rằng chúa luôn thương yêu chúng con. Xin Chúa giúp chúng con vẫn cứ tin luôn cho dù gặp bao gian nguy.
* 2. Đừng sợ
Đức Giêsu nói với ông Giairô: "Đừng sợ. Chỉ cần tin thôi!"
Ông Giairô đã đi tìm Đức Giêsu khi con gái ông hấp hối. Khi mời được Ngài theo ông về nhà thì lòng ông tràn trề hy vọng, nhưng có lẽ cũng hồi hộp lo âu vì không biết về tới có còn kịp không. Đang lúc gấp như vậy thì kẹt chuyện người đàn bà loạn huyết khiến cuộc hành trình bị tạm dừng. Chắc ông Giairô sốt ruột thêm. Cuối cùng thì chuyện người đàn bà ấy cũng giải quyết xong và Đức Giêsu tiếp tục cùng ông về nhà. Hy vọng lại sáng lên. Đột nhiên, người nhà chạy đến báo tin: "Con gái ông chết rồi. Làm phiền Thầy chi nữa". Tất cả hy vọng chợt tắt! Thế là hết. Còn làm gì được nữa. Tiếp tục dẫn Đức Giêsu về nhà chỉ là làm phiền Ngài thêm thôi. Chắc lúc đó Ông Giairô định nói lời cám ơn Đức Giêsu để mau về nhà lo chuyện mai táng cho con gái.
Nhưng, đúng lúc đó, Đức Giêsu nói một câu rất là khích lệ: "Đừng sợ. Chỉ cần tin thôi". Nhờ câu này, Giairô tiếp tục đưa Đức Giêsu về nhà. Và sau đó là phép lạ. Sau nay nghĩ lại, Ông Giairô hẳn là rất vui mừng vì khi đó ông đã không tuyệt vọng.
Xin Chúa hãy thường xuyên nói vào tai con "Đừng sợ, Chỉ cần tin thôi". Con rất cần nghe lời động viên đó, vì rất nhiều lần con thấy không còn làm gì hơn được nữa nên muốn buông xuôi bỏ cuộc.
* 3. Hình thức lề luật
- Bài Tin mừng hôm nay thuật lại 2 việc làm của Đức Giêsu. Những việc này không chỉ nhằm chứng tỏ quyền năng của Chúa trên bệnh hoạn và sự chết, mà còn cho chúng ta thấy thái độ và lập trường của Chúa đối với những luật lệ khắc khe và khô cứng của đạo Do thái thời đó.
- Trước hết là việc Chúa chữa cho một người đàn bà mắc bệnh loạn huyết. Theo luật Do thái, người nào mắc chứng bệnh này thì đương nhiên bị liệt vào hàng dơ dáy, ô uế, cho nên không được vào Đền thờ, không được tham dự các lễ nghi phượng tự, và cũng không được đụng tới ai vì hễ ai mà bị người ô uế đụng phải thì cũng trở thành người ô uế luôn. Khỏi cần nói nhiều, chúng ta cũng hiểu bà này đau khổ như thế nào. Trong cơn đau khổ, bà đã nảy ra một ý tưởng táo bạo là tìm cách đụng vào gấu áo Đức Giêsu. Ý định này táo bạo ở chỗ là việc đó trái lề luật, và cũng chẳng ai chịu cho bà ta đụng vào mình đâu vì sợ bị lây nhiễm sự ô uế. Vì thế mà bà này phải làm một cách lén lút. Dù vậy Đức Giêsu vẫn biết. Khi Đức Giêsu hỏi "Ai đã đụng đến ta?" thì bà ta sợ hãi vì thấy việc làm của mình đã bị bại lộ. Nhưng bà ta ngạc nhiên hết sức vì Đức Giêsu chẳng hề quở trách bà một lời nào, trái lại còn làm cho bà khỏi bệnh, và còn an ủi bà "Con hãy đi bình an".
- Sang câu chuyện của ông Giairô. Ông là Trưởng Hội Đường, nghĩa là một viên chức tôn giáo, một người có trách nhiệm bảo vệ luật đạo. Trước đó ông đã đến xin Đức Giêsu đến nhà ông chữa trị cho con gái ông sắp chết. Đang khi Đức Giêsu cùng đi với ông về nhà thì xảy ra câu chuyện của người đàn bà mắc bệnh loạn huyết mà ta vừa nói ở trên. Bà này đã đụng vào Đức Giêsu nên theo luật thì Đức Giêsu đã trở thành người ô uế. Nếu Đức Giêsu mà vào nhà ông thì cũng theo luật đó, tới phiên nhà ông cũng bị lây nhiễm ô uế luôn. Và việc đó sẽ gây hậu quả to lớn bởi vì như ta đã biết, ông là Trưởng Hội đường, nếu ông không giữ luật mà còn để nhà ông bị Đức Giêsu làm thành ô uế thì có thể ông mất chức luôn. Đang lúc đó thì lại xảy thêm một diễn tiến nữa: Người nhà ông chạy đến cho hay là con gái ông đã chết rồi, đừng làm phiền Đức Giêsu nữa. Trước những sự kiện dồn dập như thế, ông Giairô không còn ý định mời Đức Giêsu về nhà mình nữa. Nhưng Đức Giêsu bảo ông: "Đừng sợ gì cả (nghĩa là: Ông đừng sợ làm phiền tôi, cũng đừng sợ bị lây ô uế), điều cần nhất là lòng tin". Giairô đã tin Chúa, không còn ngại sợ gì nữa, mời Chúa về nhà, Đức Giêsu cầm lấy tay đưa đứa bé đã chết và truyền cho nó sống lại. Thêm một chi tiết đáng lưu ý: Theo luật thì xác chết cũng là một thứ ô uế, ai đụng tới xác chết thì sẽ bị nhiễm ô uế. Nhưng ta đã thấy, một lần nữa Đức Giêsu đã tỏ ra bất chấp...
- Sau khi nghe giải thích 2 việc làm táo bạo của Đức Giêsu, chúng ta nghĩ sao về Chúa? Có phải Ngài chủ trương phá bỏ tất cả mọi lề luật không? Chắc chắn là không, bởi vì Ngài đã từng tuyên bố rõ: "Các ngươi tưởng là Ta đến để huỷ bỏ lề luật ư? Không, Ta không phá bỏ mà ta làm cho trọn lề luật. Ta nói thật: cho dù trời đất có qua đi, nhưng không một chấm một phết nào của lề luật sẽ qua đi, cho đến khi tất cả được nên trọn". Nghĩa là những việc là của Đức Giêsu, thoạt xem thì có vẻ như chống đối lề luật, thực chất là nhằm làm cho lề luật được kiện toàn. Thời đó, người ta chỉ giữ luật theo cái hình thức, Đức Giêsu muốn cho cái hình thức ấy có thêm cái tinh thần, chính đó mới là cái cốt tuỷ của lề luật, đó mới là điều quan trọng. Có lần Đức Giêsu đã nói thẳng với bọn luật sĩ và biệt phái chỉ biết chăm lo giữ cái hình thức khô cứng của lề luật mà không để ý gì đến tinh thần lề luật. Chúa nói rằng: "Các ngươi chỉ là những cái mồ mã. Bên ngoài thì sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì chứa toàn những sự thối tha". Khi bàn về sự tinh sạch và ô uế, Đức Giêsu đã khẳng định rằng tinh sạch hay ô uế thật là do lòng người chứ không do hình thức bên ngoài. Ngài nói: "Cái gì làm cho người ta ra ô uế? Không phải những cái từ bên ngoài vào (như đồ ăn, thức uống chẳng hạn), mà là cái từ bên trong bài tiết ra".
- Như vậy, lập trường của Đức Giêsu rất rõ ràng: Điều quan trọng cốt lõi của mọi khoản lề luật chính là cái tinh thần của nó. Kẻ nào chỉ bo bo lo giữ cái hình thức bề ngoài mà quên cái tinh thần cốt lỗi của lề luật thì cũng như những cái mồ mã tô vôi bề ngoài thì đẹp nhưng bề trong thì xấu xa hôi thối.
Bây giờ chúng ta đã hiểu ý Chúa rồi. Chúng ta sẽ sống làm sao?
- Thứ nhất là việc dự lễ: Bên các nước tiến bộ, ngày nay có một vấn đề được đặt ra, khá ngộ nghỉnh: người ta hỏi có được phép ngồi ở nhà dự Thánh Lễ được truyền qua màn ảnh vô tuyến truyền hình, khỏi cần đi đến nhà thờ được không? Giáo hội đã trả lời dứt khoát là không được. Bởi vì dự lễ kiểu đó chỉ là một hình thức cho có cho rồi, chẳng có một chút tâm tình tôn thờ, yêu mến, kết hợp với Thánh Thể. Chuyện bên Tây thì vậy, nhưng bên ta cũng có chuyện tương tự như vậy: Nhiều người đi dự lễ nhưng không muốn vào nhà thờ cho dù trong nhà thờ vẫn còn chỗ. Họ đứng ở ngoài, miễn sao là có hướng vào nhà thờ, mắt nhìn về phía bàn thờ. Vậy thì có khác gì xem lễ qua Tivi đâu? chỉ là hình thức, chẳng có tâm tình.
- Thứ hai là luật thánh hóa ngày Chúa nhật: Điều răn thứ ba dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Nhiều người nghĩ rằng thánh hóa ngày Chúa nhật chỉ là đi xem lễ. Từ quan niệm đó, ai mà có dự lễ gọi thì kể là xong hết bổn phận. Còn ai lỡ kẹt chuyện gì đó không đi xem lễ được thì cũng kể như mình đã lỡ, thôi đành vậy. Chúng ta hiểu điều răn thứ ba như vậy là hời hột quá, chỉ phớt qua một hình thức bề ngoài là dự lễ thôi. Thực ra điều răn này dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Thánh hóa là làm cho ngày đó nên thánh thiện. Mà muốn làm cho ngày đó nên thánh thiện thì dự lễ chỉ là một việc, ngoài ra còn dành nhiều thời giờ của ngày đó để làm những việc Chúa muốn, như đọc kinh cầu nguyện nhiều hơn, làm thêm những việc lành, lưu ý đến kẻ khác hơn bằng cách dùng ngày nghỉ đó để tới lui thăm viếng, truyện trò, an ủi nhau, giúp đỡ nhau v.v...
- Thứ ba là việc sống đạo giữa đời: Mọi lề luật được đặt ra không phải chỉ là để cho có "hình thức, mà để giúp cho con người có thể sống đạo tốt hơn. Nhưng sống đạo là gì? Không phải chỉ là chu toàn một số hình thức đạo đức như đọc kinh, dự lễ, chịu các bí tích. Sống còn là làm việc, là làm ăn buôn bán, giao tế, biết xử sự tốt, trước những và chạm, khó khăn xảy ra hàng ngày. Giáo Hội thường nói "Sống đạo giữa đời". HĐGMVN còn nói rõ hơn: sống đạo là "Sống Tin mừng giữa lòng dân tộc". Cho nên chỉ mới có đọc kinh xưng tội, dự lễ thì chưa phải là sống đạo, mà chỉ là giữ một số hình thức của luật đạo thôi. Khi nào chúng ta biết để ý làm ăn theo lương tâm của người Kitô hữu, cư xử với mọi hạng người theo tinh thần bác ái của Tin mừng thì mới đúng là chúng ta sống đạo thật sự.
10 điều luật Chúa và 6 điều luật Hội Thánh ai trong chúng ta cũng thuộc lòng từ nhỏ. Hình thức bề ngoài của những luật đó là đọc kinh, dự lễ, xưng tội, ăn chay v.v.... Nhưng tinh thần của chúng là "10 điều răn ấy tóm về 2 điều này thôi: mến Chúa và yêu người". Chúng ta hãy cố gắng đem tinh thần yêu thương ấy vào tất cả mọi sinh hoạt của chúng ta, không những chỉ có các sinh hoạt ở nhà thờ mà còn các sinh hoạt làm ăn, buôn bán, giao tế, buồn vui sướng khổ hằng ngày nữa. Đó mới thực sự là sống đạo giữa đời.
* 4. Cộng tác với ơn Chúa
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn "chuyên trách" về bệnh này.
Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:
- Xin Cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?
Vị linh mục nói:
- Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.
Bà già la lên:
- Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.
Thánh Antôn tự nhủ:
- Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!
*
Nếu bà già trong câu chuyện suy niệm bài Tin mừng hôm nay, chắc bà sẽ không làm cho thánh Antôn phải thất vọng. Người phụ nữ xuất huyết trong bài Tin mừng và bà già đau răng trong câu chuyện trên, cả hai đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.
Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: "Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa". Mc.Kenzie nói: "Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể".
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người.
- Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã "múc nước đổ đầy các chum" (Ga.2,7)
- Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi "có 5 chiếc bánh và 2 con cá" (Mc.6,35-43).
- Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga.9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Ngạn ngữ Tây phương có câu: "Hãy tự giúp mình trước rồi Trời sẽ giúp sau".
*
Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con với trái tim của người cha người mẹ. Chúa để chúng con hoàn toàn tự do đáp lại tình yêu Chúa. Xin cho chúng con luôn biết sống ngoan nguỳ, thảo hiếu, đẹp lòng Chúa. Xin dạy chúng con biết cộng tác với ơn Chúa, để được Chúa ban ơn trợ giúp trong những cơn gian nan khốn khó. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Chuyện minh họa
a/ Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: "Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng."
Bà cầu nguyện suốt ba ngày vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ: "Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai."
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện.
b/ Bà De Gaulle cho gọi một nhân viên mai táng đến, bảo tìm nơi an nghỉ cuối cùng cho người chồng quá cố. Người này thân hành chở bà đến một sườn đồi, trước mặt là một thung lũng tuyệt đẹp. Ông nói: "Đây là nơi an nghỉ rất xứng đáng với người chồng vĩ đại của bà, và cũng chỉ tốn 200.000 francs". Trong lúc bà còn đang phân vân, ông ta nói tiếp: "Ông nhà thật đáng hưởng sự ưu đãi đó". Bà đáp: "Nhưng ông chỉ cần nơi ấy 3 ngày thôi mà!"
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu có thể chữa mọi bệnh tật và làm cho kẻ chết sống lại nữa. Chúng ta hãy tin tưởng và cầu xin Người:
1. Lạy Đức Giêsu / Chúa luôn ở với Hội thánh mọi ngày cho đến tận thế / Xin cho giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân trong Hội thánh / luôn tin tưởng và duy trì sự hiệp thông với Chúa trong mọi nơi mọi lúc.
2. Lạy Đức Giêsu, nhiều nhà cầm quyền trên thế giới không tin có Chúa, không tin quyền năng của Chúa, mà còn chế giễu công việc của Chúa / Xin giúp họ thoát khỏi lầm lạc và tìm ra sự thật về Chúa.
3. Lạy Đức Giêsu, Chúa vẫn có mặt ở khắp nơi trên thế giới / nhưng còn rất nhiều người chưa nhận biết Chúa và chưa tin tưởng Chúa / xin Chúa tỏ quyền năng Chúa cho họ / để họ tìm đến với Chúa.
4. Lạy Đức Giêsu, anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng con đã được biết Chúa và biết quyền năng của Chúa / Xin giúp chúng con được đức tin mạnh mẽ hơn / để chúng con giới thiệu Chúa cho mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã sai Đức Kitô đến cứu thoát chúng con khỏi tội lỗi và chết đời đời, xin cho chúng con biết tin tưởng và chạy đến với Người, mỗi khi gặp bệnh tật và sự chết đe dọa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô...
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Theo chủ đề của Lời Chúa hôm nay, trong Kinh lạy Cha sau đây, chúng ta hãy xin Thiên Chúa là Cha giúp chúng ta luôn vâng theo ý Ngài trong lúc mạnh khoẻ cũng như khi bệnh tật, lúc còn sống cũng như khi sắp chết.
Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ phải chết muôn đời..."
Trước lúc rước lễ: Đức Giêsu đã phán "Ta là bánh hằng sống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời". Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn cho sốt sắng để rước lấy bánh hằng sống ấy. "Đây Chiên Thiên Chúa#"
VII. Giải tán
Anh em hãy ra đi, và bằng cách sống của mình mà loan báo cho mọi người biết rằng ngoài cuộc sống thể xác này còn có cuộc sống muôn đời đang chờ đợi chúng ta.
30. Chỗi dậy nhờ Đức Giêsu – Lm. An Phong.
Tin mừng hôm nay trình thuật câu chuyện Chúa Giêsu làm cho con gái của ông trưởng hội đường Giairô được “chỗi dậy” (Mc 5,40), cùng với việc người đàn bà bị bệnh xuất huyết 12 năm được khỏi bệnh sau khi chạm đến áo Người. Qua hai trình thuật này, chúng ta nhận thấy đức tin là một gặp gỡ, tương giao cá vị, và đem lại ơn giải thoát cho con người.
* Đứa trẻ 12 tuổi, con gái của ông Giairô đã “chết” (Mc 5,35). Nhưng đối với Đức Giêsu, “đứa bé không chết đâu, nó đang ngủ đó” (Mc 5,39) (Thực ra, đứa bé đã chết). Lời này của Đức Giêsu tiên báo việc Người sắp sửa làm, đó là một phép lạ. Như thế, phép lạ là một hồng ân Thiên Chúa khôi phục con người, làm cho họ chỗi dậy, làm cho họ sống, đồng thời đem lại niềm vui và hạnh phúc. Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn đang làm chỗi dậy những tâm hồn “đã chết”.
* Người đàn bà được chữa lành trong Tin mừng hôm nay cho thấy một quan niệm đã có vào thời bấy giờ là “năng lực chữa bệnh xuất phát từ nội lực”. Bà đã chạm đến Đức Giêsu, và bà nghĩ, chỉ cần chạm đến Người là bà được khỏi bệnh hoàn toàn. Nhưng Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình… và “hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh”. Người đã ban cho bà một sự bình an bên trong, Người đã cứu bà, cho bà thấy Thiên Chúa yêu thương bà, bà thật là quý báu đối với Thiên Chúa, và đời sống của bà có một ý nghĩa lớn lao. Như thế, khi chữa bệnh, Chúa Giêsu muốn cứu vớt con người tự bên trong, muốn giải thoát họ khỏi “run sợ”.
Cả hai phép lạ chữa bệnh hôm nay đều cho thấy Đức Giêsu là đấng chiến thắng sự chết và tội lỗi. Đứa bé đã chết được chỗi dậy, người đàn bà bị bệnh xuất huyết 12 năm – bệnh này là dấu hiệu của tội lỗi – được hồi phục. Đồng thời cũng cho thấy: nhờ đức tin, con người được cứu độ. Sau khi mọi hy vọng, biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Ông Giairô đã tin vào Chúa Giêsu khi con gái ông đang hấp hối, còn người đàn ba, sau 12 năm chữa trị, hầu như đã hoàn toàn tuyệt vọng. Hẳn là vào thời điểm gay go này, khi đứa con sắp chết, ông Giairô chỉ còn niềm hy vọng duy nhất vào Chúa Giêsu? Người đàn bà cũng vậy. Nhưng tất cả đã thay đổi nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu. Người đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông.
Đức Giêsu hẳn đã nói với mỗi người chúng ta: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Lời này gây cho chúng ta một sự ngạc nhiên. Thực vậy, đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu. Hẳn là Mẹ Têrêsa Calcutta đã chẳng hề nghĩ đến những giải thưởng cuộc đời ban tặng Mẹ, nhưng Mẹ đã có được những điều đó nhờ đức tin?
Liệu chúng ta có “dám tin vào những lời đầy thách thức” này không? Nhưng chúng ta biết rõ Thiên Chúa là tình yêu, Người sẽ không bỏ rơi những ai trông cậy, tin tưởng vào Người, nhất là những người đang gặp khó khăn và tuyệt vọng. Hãy mở toang cánh cửa tâm hồn cho Thiên Chúa hành động. Hãy tin, dù mọi sự chưa rõ ràng. Hãy chờ đợi Thiên Chúa hành động “ đúng lúc, kịp thời”, nhưng với đức tin.
Lạy Chúa,
Hoa trái của đức tin là cầu nguyện.
Để đức tin có thể triển nở,
xin cho chúng con biết cầu nguyện.
Xin cho chúng con biết tin tưởng và cậy trông,
ngay cả trong những lúc tuyệt vọng.
Lạy Thiên Chúa là Cha,
xin dạy cho chúng con biết
sống là sống trong niềm tin,
niềm cậy trông và tình yêu.
31. Tin tưởng vào Chúa khi gặp đau khổ
Trong thông điệp Spe Salvi của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, số 36, ngài đã nói đến đau khổ là thành phần của cuộc sống con người. Đối với những đau khổ thể lý, con người đã thực hiện được các tiến bộ đáng kể. Nhưng các khổ đau tinh thần lại gia tăng rất nhiều trong những thập niên vừa qua. Đứng trước hiện trạng như vậy, Đức Giáo Hoàng đã kêu gọi con người phải làm hết sức để vượt thắng đau khổ. Thế nhưng, ngài cũng nhấn mạnh việc loại bỏ hoàn toàn đau khổ ra khỏi thế gian này nằm ngoài tầm tay của con người, vì không ai có đủ khả năng khai trừ quyền lực của sự dữ, của tội lỗi vốn là nguồn gốc của đau khổ. Do đó, Đức Giáo Hoàng đã kêu gọi con người hãy đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa trước sự đau khổ của con người, bởi vì chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể chữa lành được những đau khổ của nhân loại.
Những lời kêu gọi chúng ta của Đức Giáo cũng là lời mời gọi trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Maccô đã cho chúng ta thấy hình ảnh người đàn bà bị bệnh băng huyết và ông trưởng Hội Đường tên là Giairô đã đến với Chúa Giêsu trong sự tuyệt vọng vì phải chịu những đau khổ về thể xác và tinh thần mà họ không thể kêu cầu với ai để cứu giúp họ.
Người đàn bà đã đến với Chúa Giêsu trong sự tuyệt vọng, vì đã 12 năm bà phải chịu đau khổ vì một chứng bệnh mà đã nhiều lần chữa trị đều vô hiệu trong đôi bàn tay của nhiều bác sĩ. Bà cũng đã trả tiền chữa trị cho đến những đồng bạc cuối cùng, bà đã tận dụng hết mọi khả năng chữa trị của con người, nhưng cũng không thể chữa lành bệnh cho bà. Tuy bà phải chịu nhiều đau khổ về thể xác như vậy, nhưng có lẽ không bằng sự đau khổ về tinh thần mà bà phải chịu khi sống trong xã hội, khi sống với những người xung quanh. Đối với người Do Thái, một người đàn bà bị bệnh băng huyết bị coi là ô uế và bị cấm đụng đến người khác, vì ai đụng chạm đến bà cũng sẽ trở nên ô uế. Cho nên, nỗi đau khổ của bà là một tình trạng cô độc vì bị mọi người xa lánh, bà không thể đến được với ai và cũng không ai dám đến với bà để có thể an ủi và cảm thông với sự đau khổ mà bà phải chịu trong một thời gian dài như vậy.
Đồng thời, cùng với sự đau khổ của người đàn bà bị băng huyết này, thì sự đau khổ của ông trưởng Hội Đường cũng không kém, ông rất đau khổ vì đứa con gái của ông đang trong cơn thập tử nhất sinh. Và khi ông đến kêu cầu Chúa Giêsu thì người nhà cho ông biết là con ông đã chết, do đó, sự đau khổ của ông đã tăng lên gấp bội vì phải vĩnh viễn mất đi đứa con yêu quý của mình.
Thế nhưng, trong sự đau khổ lớn lao như vậy, họ không thể kêu cầu đến bất cứ ai được nữa, không còn ai có thể giúp đỡ họ khi mà nhu cầu của họ vượt quá khả năng của con người, thì họ đã đặt trọn niềm tin tưởng vào Chúa và Chúa đã chữa lành cho họ. "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh".
Đau khổ là một thực tế mà không ai trong chúng ta trốn tránh được, không ai mà không có đau khổ trong cuộc đời của mình. Hay nói khác hơn, mỗi người đều mang trong lòng mình một nỗi đau, nỗi đau muôn hình vạn dạng, anh chị em đau vì chồng, khổ vì con, anh chị em đau đớn trong thân xác mà khổ sở trong tâm hồn. Đó là một thực tế chúng ta không thể phủ nhận được. Và việc loại trừ đau khổ này nằm ngoài tầm tay của chúng ta và không ai có đủ khả năng để khai trừ sự đau khổ này ngoài Thiên Chúa như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng ngày hôm nay, cũng như lời của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết trong thông điệp Spe Salvi.
Khi nói về vấn đề này, có một hình ảnh mà chúng ta cần phải noi gương trong cuộc sống của mình, đó là Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, trong suốt 13 năm giam cầm trong một tình trạng đau khổ về thân xác và tinh thần hầu như tuyệt vọng. Mặc dầu ngài chẳng có tội lỗi gì, một người hiền lành, đạo đức, cả cuộc đời yêu thương, phục vụ người khác mà cuối cùng phải vào nhà tù. Cái hình ảnh đó cho chúng ta thấy một thực tế, đó là không phải mình cố gắng sống đạo đức, sống yêu thương, sống tốt lành mà cuộc đời của mình không có đau khổ, có khi còn phải chịu đau khổ nhiều hơn người khác nữa. Thế mà Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận vẫn đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Chính vì vậy, khi mà Đức Giáo Hoàng nói về Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận trong thông điệp Spe Salvi ở số 32, ngài viết như sau: "Nếu không còn ai nghe tôi nữa, thì vẫn còn có Chúa lắng nghe tôi. Nếu tôi không còn có thể nói chuyện với ai, nếu tôi không còn có thể kêu cầu đến bất cứ người nào, tôi vẫn luôn có thể thưa chuyện với Chúa. Nếu không còn ai giúp đỡ, khi nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người, thì Thiên Chúa vẫn có thể giúp đỡ tôi".
Chúng ta có thể dùng những lời này làm châm ngôn để an ủi cho mỗi người chúng ta mỗi khi gặp đau khổ, lúc nào cảm thấy cô đơn quá, không ai hiểu mình, không ai nghe mình, không ai thông cảm với mình, thì đừng quên là vẫn còn có Chúa. Hơn nữa, ngay cả khi chúng ta phạm tội, cũng là một sự đau khổ trong tâm hồn của mình, mà không ai có thể chữa lành được cho chúng ta, thì chúng ta hãy mau mắn chạy đến Tòa Giải Tội, nơi đó, Chúa luôn chờ đợi chúng ta, lắng nghe chúng ta và chữa lành cho chúng ta khỏi mọi tội lỗi và đem lại sự bình an trong tâm hồn chúng ta.
Đau khổ là một yếu tố không thể tránh khỏi của nhân loại. Mặc dù con đường đau khổ có thể dẫn chúng ta đến sự tuyệt vọng trong đời sống. Thế nhưng, với niềm tin của chúng ta, chúng ta hãy đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, vì chỉ mình Chúa mới có thể giải thoát chúng ta khỏi mọi đau khổ.
Lạy Chúa, trong chương trình quan phòng cứu độ của Ngài, con tin rằng đau khổ không nhận chìm con, nhưng mời gọi con tỉnh thức trong sự cậy trông và tin tưởng. Đau khổ nhắc nhở con thân phận và kiếp sống mỏng manh của mình, để con không quá bám vào bất cứ điều gì hay bất cứ người nào mà chỉ hy vọng vào một mình Chúa mà thôi. Xin ban cho chúng con sức mạnh của lòng yêu mến Chúa để chúng con luôn bình tâm trong mọi nổi khổ đau của cuộc đời mình. Amen.
32. Bệnh nạn và niềm tin
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
Nói đến bệnh, có người cho đó là do hậu quả của tội lỗi. Chẳng hạn như: Ăn kẹo sún răng - Uống rượu sinh đau bao tử - Ăn nhiều bội thực - Hút thuốc ho lao....
Không phải thế, nhưng tại vì con bệnh đã có sẵn trong mình, khi gặp được môi trường thích hợp thì nó phát triển thêm. Thực ra đau khổ, bệnh, chết... là một vấn đề nan giải. Tất cả nhắc ta nhớ đến sự yếu hèn, mỏng manh của cuộc sống. Nhắc đến sự mất quân bình của thế giới, nhắc ta hướng lòng tìm sự đẹp đẽ hơn ở nơi Chúa.
Bệnh Lao hiện nay có khoảng từ 10 đến 30 triệu người mắc và mỗi năm chết tới 2 triệu người.
Bệnh cùi hơn một triệu. Đó là những bệnh nan y khó trị nhất.
Bài Phúc âm nói đến bệnh loạn huyết người đàn bà chịu 36 năm là một điển hình, nhưng thời Ngài cũng còn bệnh cùi, hủi, đui, điếc, què, liệt, quỉ ám, chết.... mà không vị lang cao tay nào trị được. Còn Chúa Giêsu ngài chữa được hết, nhưng không bằng thuốc mả bằng niềm tin "Tin sao được vậy". Ngài đã làm vì thương họ.
Đáp lại chúng ta có vì thương Chúa mà hiếu kính Chúa cho trọn đạo làm con? Có trọn nghĩa vụ kẻ thụ ân không? Có tôn nhận Chúa là Chúa và là Cha nhân hiền không? Hãy cảm tạ, hiếu kính, tôn nhận Chúa thực trong tâm hồn và trong hành động đáp đền.
Chuyện kể rằng: ông vua kia sinh được người con, ông gửi hoàng tử đi ngoại quốc từ nhỏ để học hành. Sau nhiều năm chiến tranh không liên lạc được và cũng chẳng còn biết con ở đâu. Khi chết vua trối lại cho các cận thần là ông truyền ngôi cho con ở ngoại quốc. Sau ít ngày vua cha chết, bỗng từ 3 nước có ba người con về khóc cha. Các vị cận thần không biết ai là con để truyền ngôi cho. Các vị liền lấy một tấm hình của vua cha vẽ một vòng tròn đen vào đúng trái tim rồi cho ba người nhận làm con bắn với chủ đích: "Ai bắn trung tim vua cha thì người ấy là con, sẽ được nối nghiệp vua cha và chiếm trọn gia tà".
Người thứ nhất dương cung bắn trật. Người thứ hai cũng trật luôn. Người thứ ba dương cung lên nhìn ngắm nhiều lần, nhưng rồi ại buông xuống. Lần cuối cùng chàng ném cung xuống đất rồi òa lên khóc và nói rằng: "Thà rằng tôi mất quyền làm vua, mất của cải chứ không chịu bắn cha tôi".
Mặc dù người con lạc mất, nhưng tâm tình vẫn nhớ đến đấng sinh thành. Người con dù biết làm vua là nối dõi tông đường, nhưng thà mất quyền làm vua và danh vọng để giữ được chữ hiếu, không mướn giết chết lương tâm và sự thật của mình.
Chúng ta cũng được Chúa thương gấp bội như câu chuyện trên, nhưng chúng ta xét lại thấy mình phản bội quá nhiều, yêu chiều ý riêng quá lớn, đam mê đủ thứ, có nhiều khi còn liều lĩnh cả trong luân thường đạo lý.... bắn Chúa đúng tim đem để mình làm chúa, không giống người con thứ ba chút nào. Chúng ta hãy sửa lại, hãy chạy đến với Chúa như viên bách quan biết mình chẳng đáng đón Chúa, hay như bà bị bệnh chỉ cần đụng đến áo Ngài. Chớ gì tấm gương sống động ấy giúp chúng ta suy nghĩ và sống xứng đáng con Chúa, đáng lãnh nhận mão vương nghĩa tử chân thật.
33. Thiên Chúa quan tâm
(Suy niệm của Lm. Louis M. Nhiên, CRM)
Một giáo sư đại học tự xưng mình là vô thần. Một hôm ông tuyên bố trước mặt các sinh viên rằng ông sẽ chứng minh được là không có Thiên Chúa. Ông chế diễu: "Này Chúa, nếu Chúa thật sự hiện hữu thì tôi muốn Chúa đánh ngã tôi văng khỏi bục giảng này. Tôi cho Chúa đúng 15 phút."
Cả phòng yên lặng, và mười phút trôi qua, ông lại ngạo mạn: "Tôi đang ở đây, và tôi đang chờ đợi."
Một anh lính mới giải ngũ rời khỏi chỗ ngồi đi lên gặp vị giáo sư và tặng ông một cú đấm thật mạnh vào mặt, khiến ông văng khỏi bục giảng, ngã xuống bất tỉnh. Sau đó, anh lính bình tĩnh về chỗ ngồi.
Vị giáo sư dần dần tỉnh lại, nhìn anh lính và hạch hỏi: "Có chuyện gì với anh vậy? Tại sao anh lại đánh tôi?"
Anh lính trả lời: "Thiên Chúa đang quá bận rộn, nên ngài gửi tôi tới." (God is too busy, so He sent me).
Thiên Chúa của chúng ta là Đấng như thế nào? Phải chăng Ngài tạo dựng vũ trụ và rồi thoải mái ngồi chơi xơi nước không để ý chuyện thế gian hay vẫn tiếp tục quan tâm đến cuộc sống của các thụ tạo? Phải chăng Ngài quá bận rộn chăm sóc những nhân vật quan trọng và vì thế không còn đủ thời giờ để săn sóc quan tâm đến những người tầm thường bé nhỏ?
Qua hình ảnh nhân loại của Chúa Giêsu, tin mừng hôm nay đã trình bày khuôn mặt sống động của một Thiên Chúa luôn yêu thương quan tâm:
Đám đông dân chúng đã đang tụ họp lắng nghe Chúa giảng dạy. Đây là dịp tốt thuận lợi để truyền bá giáo lý, nên chắc hẳn Chúa đã chuẩn bị cẩn thận bài nói chuyện. Đang chia sẻ, bỗng dưng chương trình của Chúa bị xáo trộn, khi ông Giairô trưởng hội đường, đến cắt ngang bài nói chuyện và xin Chúa chữa con gái ông sắp chết. Nhìn thấy nỗi khổ của người cha, Chúa đã sẵn lòng hy sinh bỏ chương trình kế hoạch riêng của Chúa để đáp ứng nhu cầu của người cần cứu giúp. Không thấy tin mừng ghi lại Chúa phàn nàn kêu ca vì phải cắt ngang bỏ dở chương trình.
Rồi trên đường đi, Chúa cảm thấy có người đụng chạm, người đó là một người đàn bà bị bệnh loạn huyết. Thật dễ hiểu nếu Chúa có trở nên bất nhẫn với bà: "Tại sao bà lại làm phiền tôi chứ? Bà không thấy rằng tôi đang phải cứu giúp con ông trưởng hội đường khỏi chết sao? Bà và chuyện của bà có thể đợi được mà?"
Nhưng thay vì bất nhẫn hay trách móc, Chúa Giêsu đã nhận thấy người đàn bà cũng đáng thương, và tuy dù bệnh tật của bà không quan trọng bằng chuyện đứa con sắp chết của ông Giairô nhưng cũng là điều thật quan trọng đối với bà. Với lòng thương cảm, Chúa bảo bà: "Này con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh."
Qua đoạn tin mừng hôm nay, chúng ta thấy được hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương quan tâm. Có người bảo: "Ngài không quá bận để điều khiển vũ trụ. Ngài có thời giờ cho những nhân vật quan trọng có tên tuổi như ông Giairô trưởng hội đường, nhưng Ngài cũng có thời giờ cho người tầm thường bé nhỏ như người đàn bà không tên tuổi bị bệnh loạn huyết. Ngài có thời giờ cho Đức Giáo Hoàng, cho các vị lãnh đạo, cho những người quan trọng, và Ngài cũng có thời giờ cho những người tầm thường như chúng ta."
Kiểm điểm lại cuộc sống, có lẽ chúng ta cần phải khiêm nhường xin ơn tha thứ vì rất có thể nhiều lần chúng ta không quá bận như Thiên Chúa nhưng đã không dành thời giờ cho anh chị em khi họ cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Hơn nữa, thay vì ân cần lắng nghe theo dõi đáp ứng những nhu cầu của anh chị em, chúng ta đã nhẫn tâm nhắm mắt bịt tai xua đuổi. Có lẽ còn lâu lắm và không biết đến bao giờ chúng ta mới học được ở nơi Chúa bài học cảm thông nâng đỡ, và được nên giống Chúa?
Nếu ngày hôm xưa Chúa đã có thời giờ cho dân chúng, đáp ứng những nhu cầu của họ, thì ngày hôm nay Ngài cũng có thời giờ cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có đi đến với Chúa, và kêu xin Người giúp đỡ?
Nếu Chúa đã có thời giờ cho chúng ta, phải chăng chúng ta cũng có thời giờ cho anh chị em chúng ta? Chúa và anh chị em đang chờ đợi câu trả lời của mỗi người chúng ta.
34. "Ai Chạm Đến Ta?"
(Suy niệm của Lm. Quốc Toản, CRM)
"Không ai có thế đến với tha nhân nếu chính mình không sẵn sàng chạm đến thân thể của họ. Nếu bạn không sẵn sàng chạm đến một người vô gia cư, một người say rượu hoặc một người thật dơ bẩn, thì chính bạn không sẵn sàng phục vụ cho những người đó." (Nhà Tâm Lý Học Charles Gerkin, Đại Học Emory)
Một cử chỉ chạm, một cái ôm và những cử chỉ êm dịu trực tiếp đụng đến thân thể của tha nhân bày tỏ tình yêu thương và chấp nhận họ cách mãnh liệt hơn những lời nói ngọt ngào có thể đem lại được. Cử chỉ chạm là con đường hai chiều: nó ảnh hưởng đến người thụ động cũng như người chủ động.
Trong cuộc sống, chúng ta, ai cũng đã từng đóng vai chủ động và thụ động; nghĩa là ta đã từng chạm đến người khác cũng như được người khác chạm đến. Tôi nhớ lại những lần viếng thăm nhà dưỡng lão cũng như những tháng làm Tuyên Úy trong nhà thương. Mỗi khi đến thăm những người cô đơn cũng như bệnh nhân, họ đều muốn nắm tay tôi khi nói chuyện. Có những lần tôi cầm tay họ cho đến hơn một tiếng mà họ vẫn chưa muốn buông thả. Qua đó, tôi nhận thấy rằng một cử chỉ nhỏ mọn như cầm tay hoặc xoa nhẹ trên vai đều mang lại cho người được chạm cũng như chính tôi một sự bình an, niềm vui và sức sống mới.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô cũng tả lại hai cử chỉ chạm. Trước hết, người đàn bà bị bệnh xuất huyết hành hạ 12 năm chạm đến Chúa Giêsu. Kế đến là Chúa Giêsu chạm đến em bé gái 12 tuổi. Cả hai cái chạm đều mang lại sự sống và niềm vui cho người chạm cũng như người được chạm. Người đàn bà bệnh đã 12 năm chạm đến Chúa và được chữa lành. Em bé 12 tuổi được Chúa chạm đến được hồi phục sự sống. Trong hai câu truyện, Marcô có đề cập đến một chi tiết giống nhau mà ta cần chú ý, đó là chi tiết 12 năm.
Theo phong tục thời đó, tuổi 12 là tuổi được lập gia đình. Cô bé đã chết trước khi được trở nên một người vợ và người mẹ. Người đàn bà bị bệnh hành hạ làm cho không thể sinh con. Cả hai đều có khả năng cộng tác với Chúa để mang sự sống vào thế gian, nhưng một người bị bệnh hành hạ và một người bị cướp mất chính sự sống. Nhưng, nhờ hai cử chỉ đụng chạm, Chúa Giêsu đã không chỉ cứu hai người nữ này khỏi chết, nhưng đã hồi phục chọ họ khả năng sinh con, một khả năng ban sự sống.
Ta cũng nên nhớ là không phải ai chạm đến Chúa cũng được khỏi. Đám đông chạm đến Chúa nhưng không gì xảy ra. Ngược lại, người đàn bà chạm đến Chúa đã mang lại một phép lạ. Điều khác biệt giữa hai cái chạm là mức độ ĐỨC TIN. Người đàn bà tin mạnh nên được khỏi và đám đông chỉ chạm đến Chúa vì hiếu kỳ nên không gì xảy ra.
Trong cuộc sống hằng ngày, ta chạm đến nhiều người cũng như được nhiều người chạm đến ta. Nhưng, thử hỏi ta chạm đến tha nhân bằng cách nào? Cử chỉ chạm của ta đem lại cho họ một niềm vui, sự bình an và an ủi hay chỉ là một cái chạm thông thường?
Đặc biệt hơn nữa, nếu Chúa Giêsu xuất hiện, đi ngang qua và ta có cơ hội để chạm đến gấu áo của Ngài, ta sẽ chạm đến Ngài với một thái độ hiếu kỳ như đám đông hay với một ĐỨC TIN, như của người đàn bà trong Tin Mừng, là mình sẽ được biến đổi? Thật sự, Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta và chúng ta có cơ hội không chỉ chạm đến gấu áo Ngài, nhưng là chính thân thể Ngài. Đây chính là đặc ân ta được hưởng mỗi khi dự Lễ và rước Chúa vào lòng. Chúng ta đã rước Chúa với thái độ nào?
Xin Lời Chúa hôm nay giúp ta ý thức được đặc ân này và tham dự Thánh Lễ chăm chỉ, dọn mình sốt sàng để rước Chúa vào lòng. Nguyện xin Mẹ Maria, người đã không chỉ được chạm đến Chúa nhưng còn được mang chính Chúa trong lòng, giúp ta luôn biết đặt hết tâm hồn và tấm lòng vào những lời ta đọc trước khi rước Chúa, "Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh".
35. Bàn tay thi ân
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Sau đệ nhị thế chiến, giáo dân thành phố Franfurt tại nước Đức đang trùng tu lại ngôi Thánh Đường đã bị tàn phá vì bom đạn chiến tranh. Tượng Chúa Chuộc Tội vĩ đại tại chính điện cũng là một công trình nghệ thuật cần phải sửa chữa. Người ta tìm được hết các phần của pho tượng đó, trừ ra hai bàn tay không sao thấy được. Sau nhiều phiên họp bàn tính có nên thuê thợ làm lại hai bàn tay giống hệt như cũ không? Toàn thể giáo dân đều đồng thanh quyết định: Cứ để tượng Chúa không có hai bàn tay; nhưng ở dưới pho tượng đó đề một hàng chữ lớn như sau: "Chúa Kitô không có hai bàn tay, ngoài hai bàn tay của chúng ta".
I. THIÊN CHÚA HẰNG THI ÂN GIÁNG PHÚC
Chúa là Cha Nhân Từ hằng thương yêu săn sóc và thi ân giáng phúc cho chúng ta. Chúa đã tạo dựng nên chúng ta như một thụ tạo đặc biệt tốt lành giống hình ảnh Chúa, được thông phần hữu thể và bản tính Chúa, có hồn thiêng bất tử, không nhiễm nọc độc sự chết, để rồi được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban trên Nước Hằng Sống. Nhưng vì ác quỉ ghen tương, cám dỗ nguyên tổ loài người phản nghịch, bất tuân lệnh Chúa, sa phạm giới răn Người, nên sự chết đã nhập vào trần gian.
Tình thương của Chúa vô cùng rộng lượng, hằng tha thứ mọi tội lỗi của loài người đã xúc phạm đến Chúa. Để thể hiện tình yêu thương tha thứ đó cách hữu hiệu và cân xứng với trọng tội ngỗ nghịch phạm đến Đấng cao cả vô cùng, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể xuống thế làm người, sống kiếp sống phàm nhân như chúng ta, lãnh chịu mọi định luật tự nhiên của con người, để cảm thông chia sẻ mọi nỗi thống khổ, rủi ro bất trắc, khó khăn nghịch cảnh, vất vả như chúng ta. Hơn nữa, Người còn gánh lấy mọi tội lỗi của chúng ta bằng cách lãnh nhận bản án bất công tử hình ô nhục trên Thập Giá, để đền tạ phép công bình Thiên Chúa, cứu chuộc chúng ta.
II. GIÁO THUYẾT BÁC ÁI THI ÂN
Thánh Phaolô trong thư gởi Giáo Đoàn Corintho đã nhắc lại cho chúng ta mẫu gương của Chúa: "Anh chị em đã biết lòng quảng đại của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta; mặc dù giầu sang, Người đã trở thành thân phận nghèo khó, để nhờ sự nghèo khó cùng cực của Người, anh chị em được nên giầu có" (2 Cor 8:9).
Qua gương mẫu cao cả đó, thánh nhân khuyến khích chúng ta, những người được dư giả bù đắp cho những người thiếu thốn, những người giầu có sung túc chia sẻ cho những người nghèo túng, những người khỏe mạnh nâng đỡ những người yếu đuối, những người thông thái khôn ngoan nâng đỡ những kẻ dốt nát quê mùa.
Giáo thuyết bác ái Thánh Tông Đồ dạy chúng ta đây, không chỉ dừng lại nơi những của cải vật chất ở đời này, mà ngài còn khuyên dục chúng ta chia sẻ lòng tin tưởng, sự hiểu biết Thiên Chúa và những ơn phúc chúng ta đã nhận lãnh bởi Chúa cho kẻ khác, để họ cũng được thông phần hạnh phúc của con cái Chúa như chúng ta nữa.
III. HẠNH PHÚC CỦA TÔI LÀ THI ÂN
Trong bài Tin Mừng hôm nay, nhắc lại một vài ơn phúc trong muôn phần, Chúa Cứu Thế đã thực hiện trong cuộc đời công khai truyền bá Tin Mừng lúc sinh thời trên trần gian. Đi tới đâu, Chúa cũng rộng tay thi ân giáng phúc cho nhân loại, Thánh Sử tường thuật biết bao phép lạ Ngài đã thực hiện, để cứu giúp những người cùng khổ nghèo nàn, những kẻ mù lòa, què quặt, câm điếc và mọi thứ bệnh tật... Nhất là Ngài luôn động lòng trắc ẩn thương cảm đến số phận đời đời của tất cả những ai chưa được Ánh Sáng Đức Tin chiếu soi; những kẻ bơ vơ như đoàn chiên không người chăn dắt, những kẻ còn ngồi trong bóng tối sự chết, trong sự tin vơ thờ quấy, trong mê tín dị đoan và tất cả những ai còn bị tội lỗi và quyền lực hỏa ngục cầm buộc.
Kết Luận
Việc làm và quyết định của người Giáo Dân thành phố Franfurt nước Đức trong câu truyện trên đây có một ý nghĩa sâu xa. Họ để cho tượng Chúa Chuộc Tội thiếu hai bàn tay với hàng chữ: "Chúa Kitô không có hai bàn tay, ngoài hai bàn tay của chúng ta", là có chủ ý để nhắc nhở cho họ rằng: Chúa cần dùng hai bàn tay của họ để Ngài tiếp tục sứ mạng Cứu Thế, thi ân giáng phúc cho nhân loại.
Vậy, chúng ta đã thực thi lòng Bái Ái như giáo lý Chúa dạy, như lòng Chúa khát mong và như mẫu gương Chúa đã thực hiện chưa?
- Chúng ta đã chia sẻ cơm bánh, áo quần cho người túng quẫn chưa?
- Chúng ta đã an ủi những người sầu buồn, nản chí thất vọng chưa?
- Chúng ta có thương cảm và cầu nguyện cho những ai chưa nhận biết Chúa để họ cũng được diễm phúc trở nên con cái Chúa như chúng ta chưa?
36. Sức mạnh niềm tin
Một tổng thống có những cuộc thăm viếng thường xuyên những người lính tại một bệnh viện. Ông đi từ phòng này tới phòng khác, khích lệ và cảm thông với những bệnh nhân. Ông đến cạnh một anh lính trẻ đang hấp hối và hỏi: "Này bạn, tôi có thể giúp gì cho bạn?"
Anh nhìn lên và diễn tả điều ao ước: "Ngài sẽ viết thư cho mẹ tôi giúp tôi được không?"
Ông đồng ý: "Tôi sẽ viết" và yêu cầu lấy giấy bút. Ông ngồi cạnh giường và viết những gì anh đọc cho. Viết xong, ông quay lại nói: "Tôi sẽ gởi thư này ngay sau khi rời khỏi văn phòng. Và bây giờ còn điều gì khác tôi có thể làm không?"
Anh ngước nhìn, ngập ngừng, và cuối cùng buộc miệng: "Ngài có thể ở lại với tôi? Tôi muốn ngài nắm tay tôi". Ông nắm tay anh cho đến khi anh chết vài giờ sau đó.
Trong truyện người bệnh dám đòi điều kiện với viên tổng thổng. Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm không dám mở miệng xin Đức Giêsu mà chỉ lén "sờ vào áo của Người". Còn ông Giaia thì đỡ hơn không phải e dè như người đàn bà bị băng huyết. Vì băng huyết là một chứng bệnh dơ dáy. Người Do thái không chỉ thấy nó dơ về mặt thể lý mà còn coi nó là một thứ ô uế luân lý. Cho nên có luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được đụng chạm tới người khác, chạm tới ai thì người ấy kể như bị lây ô uế đó. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết này cũng không dám cất tiếng kêu xin Đức Giêsu vì sợ người ta biết mình bệnh và xua đuổi mình. Bà định im lặng rờ vào mình Đức Giêsu. Nhưng vậy là phạm luật thánh, là có tội: thật là khó xử. Còn ông Giairô thì xin Chúa đến chữa trị cho con gái mình đang bệnh nặng. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì ông được tin con gái đã chết. Cả hai mới bắt đầu nhen nhúm hy vọng thì lề luật khắc khe đó như ngăn cản sự sống của hai con ngưòi khốn khổ này. Nhưng cuối cùng thì rào cảng đó đã bị phá bỏ nhờ tình yêu Đức Giêsu và đức tin của người bệnh.
1. Tình yêu với người bất hạnh
Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng cho tất cả mọi người nhưng Ngài đặc biệt quan tâm đến những người nghèo khổ, bệnh tật. Đôi lúc tự chúng thất vọng như bị Chúa bỏ rơi, có thể đó là những lúc chúng ta chưa cảm nhận được tình yêu Chúa, chứ ơn Ngài luôn đổ tràn và tình thương Người không bao giờ chấm dứt. Cũng tương tự, như người đàn bà bị loạn huyết và ông Giai-rô hôm nay chắc chắn khi Đức Giêsu chưa chữa lành bệnh thì họ vẫn chưa thấy được tình Chúa yêu. Họ đã gặp được Chúa mà họ vẫn còn chưa hoàn toàn tin, bằng chứng là những người xung quanh "chế nhạo Người" mà ông Giai-rô là chủ nhà mà lại không có một lời biện minh, vì ông ta chưa cảm nhận đủ tình yêu mà Thiên Chúa dành cho gia đình ông nên ông không đủ can đảm để làm chứng. Có câu chuyện kể rằng: Một người vô thần ngày nọ đứng giữa công trường, ngửa mặt thách Chúa trong 5 phút, xem có dám giết ông không. 5 phút trôi qua, chẳng có chuyện gì xảy ra. Anh ngạo nghễ ăn nói xúc phạm đến Chúa. Chợt một bà già hỏi:
- Này ông, ông có đứa con nào không?
- Ồ, sao bà lại hỏi thế?
- Nếu một đứa con anh cầm con dao đưa cho anh bảo anh giết nó, anh có làm không?
- Không, tôi thương chúng lắm.
- Chúa cũng vậy, Ngài thương anh lắm, đâu nỡ giết anh.
Cuối cùng chúng ta nhận ra rằng tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta luôn bao la nhưng nhận được bao nhiêu tùy ở mỗi người.
2. Đức tin
Người được biệt danh là "cha của những kẻ tin" là Abraham, khi đã lớn tuổi mới có được một đứa con trai, nhưng vâng lệnh Chúa ông đưa con lên núi sát tế và lòng đau như cắt mà vẫn tin rằng Chúa sẽ thực hiện lời hứa làm cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và quả thực Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin. Và mẫu gương thứ hai là Phêrô khi tin ông dám bước đi trên mặt nước biển, Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống. Khi có đức tin thì con người sẽ được múc lấy nguồn năng lực từ Đức Giêsu như chính người đàn bà bị bệnh hôm nay, chính nhờ đức mà bà đã được nhận nguồn năng lực từ Đức Giêsu "Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra". Thì ngày hôm nay, đức tin chính là điều kiện cần và đủ để chúng ta được sống và sống dồi dào, vì chính Đức Giêsu đã khẳng định "Ta là sự sống lại và sự sống. Ai tin vào Ta, cho dầu có chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không chết bao giờ".
Lạy Chúa, Xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, và biết chạy đến với Chúa xin Ngài chữa con lành chứng bệnh phần hồn và phần xác. Amen.
37. Lòng tin của con đã cứu con
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)
1. Thân phận con người
Đức Giêsu thực hiện hai phép lạ: phép lạ chữa bệnh và phép lạ làm cho sống lại. Hai phép lạ này liên quan đến hai nghịch cảnh của đời sống con người, trong đó có những người thân yêu của chúng ta và có khi, có cả chúng ta nữa.
- Người cha có đứa con gái mới 12 tuổi đã chết. Sự bất hạnh của em bé, nhưng cũng là nỗi đau của bố, của mẹ, của cả nhà. Theo sách Tin Mừng của thánh Mát-thêu, em bé đã chết rồi, còn theo thánh Mác-cô và thánh Luca, lúc người bố đến kêu xin Đức Giêsu, thì em bé chưa chết; nhưng lúc Ngài đang trên đường tới nhà, cháu bé mới chết. Chi tiết này làm bật lên nỗi đau của người bố và của cả gia đình là một nỗi đau kéo dài.
- Người phụ nữ, có lẽ đã lớn tuổi, mang một thứ bệnh kín đáo trong người đã 12 năm. Có những thứ bệnh ai cũng biết, nhưng cũng có những thứ bệnh chỉ có một mình biết, kéo dài, nỗi đau triền miên.
Hai nghịch cảnh của hai lứa tuổi nói cho chúng ta thật nhiều về thân phận và những vấn đề muôn thủa của con người: bệnh tật và cuối cùng là cái chết, có thể xẩy ra ở bất cứ lứa tuổi nào; bệnh tật và sự chết làm bật lên sự liên đới của nhiều người; bệnh tật và sự chết tất yếu đặt ra con con người vấn đề Thiên Chúa và buộc phải lựa chọn tin hay không tin.
Và Lời Chúa cũng mặc khải cho chúng ta biết cách Thiên Chúa, ngang qua Đức Giêsu-Kitô, liên đới với đau khổ và cả sự chết thuộc về thân phận con người như thế nào.
2. Lòng tin
a. Để được chữa lành, Chúa cần lòng tin và chỉ cần lòng tin mà thôi. Lòng tin của người phụ nữ thật đơn sơ, nhưng mạnh mẽ: “tôi chỉ cần đụng được vào áo của Người thôi, là sẽ được cứu”. Ở những nơi hành hương, người ta vẫn thể hiện lòng tin bằng cách đụng vào các bức tượng hay thánh tích.
Nhưng để được chữa lành thực sự, nghĩa là trọn vẹn, chúng ta được mời gọi đi vào tương quan mãi mãi với một ngôi vị, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Và đó chính là điều mà người phụ nữ được ban tặng, vượt xa nhu cầu chữa bệnh của bà. Được khỏe là một nhu cầu quan trọng, nhưng điều này vẫn chưa giải quyết được hết những vấn đề liên quan đến “sự sống” của một con người. Đời sống con người cần sức khỏe, nhưng khỏe thôi vẫn chưa đủ. Hơn nữa, xét cho cùng, người ta đâu có khỏe được mãi, và có rất nhiều phận người, sinh ra đã tật nguyền. Hơn nữa, Đức Giêsu còn nói: “lòng tin của con đã cứu con”. “Cứu” ở đây vượt xa vô hạn phép lạ hết bệnh.
b. Cái chết của đứa con, nhưng lòng tin lại là lòng tin của người cha: “con gái tôi mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên cháu, là nó sẽ sống”. Lòng tin của bố cứu được con mình. Điều kì diệu này được ghi lại khắp nơi trong các Tin Mừng. Chính vì thế mà chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho nhau, cho người sống và kẻ chết. Vì Chúa cũng yêu thương những người chúng ta thương yêu trong Chúa.
Đức Giêsu không quan tâm đến tiếng tăm của mình, nhưng quan tâm đến sức khỏe và sự sống của em bé: “Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm” (c. 40). Sau này trong cuộc Thương Khó, Ngài sẵn sàng mang vào mình cái chết đau đớn và sỉ nhục tận cùng, để hiện diện, cảm thông với mọi đau khổ và mọi cách chết của con người, để bày tỏ lòng thương xót và dẫn chúng ta vào niềm Hi Vọng. Biến cố cá biệt, nhưng đem lại cho nhân loại chúng ta niềm hi vọng thật lớn: tất cả người chết sẽ sống lại, nếu Đấng Phục Sinh “cầm lấy tay”.
3. Niềm hi vọng
Cách Đức Giêsu đến với mỗi người mỗi khác. Với người phụ nữ, bà cố để đụng được vào gấu áo của Đức Giêsu; nhưng với em bé, Ngài đến tận nơi: “Người đi vào, cầm lấy tay em bé, nó liền trỗi dậy”. Đó chính cũng là cách Chúa ban ơn cứu độ cho từng người, luôn luôn đích thân và duy nhất. Bởi lẽ người ta không thể công thức hóa ơn cứu độ, lề luật hóa lòng tốt của Thiên Chúa được.
Đức Giêsu quan tâm đến sự sống của mỗi người, của cả loài người. Những gì Ngài làm, thật lạ lùng, nhưng cũng thật giới hạn. Vì người phụ nữ cũng sẽ bệnh lại và chết; em bé lớn lên và cũng qua đi. Nhưng đó là những dấu chỉ làm cho chúng ta hướng tới và đặt hi vọng nơi ơn huệ còn lạ lùng hơn: đó ơn huệ sự sống vô hạn trong Chúa và cùng nhau, mà Đức Giêsu Kitô chết và phục sinh hứa ban cho chúng ta.
Chính niềm hi vọng đặt nơi ngôi vị của Đức Kitô phục sinh, làm cho chúng ta bình an và can đảm đảm nhận hôm nay phận người của mình và thân phận của cả những người khác nữa, nhất là những người thân yêu của chúng ta trong Gia Đình và trong ơn gọi dâng hiến.
38. Mắt nhìn tay chạm – Lm. Nguyễn Khoa Toàn
Người sống, khi phải nói về người đã chết, thường uất nghẹn và nước mắt chạy vòng quanh. Nghẹn ngào hơn khi đối tượng là một người thân mình hằng yêu dấu. Và lại càng tưởng chừng như không thể khi nói về người mẹ đã đứt ruột xé lòng chắt chiu nuôi nấng mình lớn khôn giờ không còn nữa...
Tôi đã làm điều tưởng chừng như không thể kia cách đây non hơn một tuần. Lệ tuôn trào làm nghẹn lại từng chữ từng lời. Mà chữ và lời cũng gần như vô nghĩa khi nói về nỗi đau sâu thẳm nhất trong mọi nỗi khổ đau này.
Đau đớn vì cái chết đã muôn đời miên viễn cách ngăn người ở bên này và kẻ ở bên kia. Chết! Nghe sao quá hãi hùng! Sao quá tang thương! Và sự hãi hùng tang thương càng tăng thêm cường độ khi chung quanh đầy những màu tang tím. Khi chỉ nghĩ đến khoảng không gian cách ly hiện tại mà quên bẵng đi một đời kiếp thiêng liêng hội ngộ tương lai. Khi niềm tin chỉ giới hạn đến những vật chất hữu hình và không thể đưa mắt nhìn sâu nhìn xa đến những gì tinh thần bao la vô tận.
Và thường khi phải cần đến một bàn tay chạm đến để niềm tin vào đời sống mai sau được muôn đời bừng lên thắp sáng. Như Beethoven một ngày nọ đến thăm một thiếu phụ kia đang gập cúi người nức nở khóc bên cạnh xác chồng. Cảm thông với nỗi đau đớn của người goá phụ tuổi còn đang xuân và nhan sắc còn hồng, Beethoven đến trước đàn dương cầm và thiên tài âm nhạc bậc nhất cổ kim kia đã đan tay chuyễn ngón tấu lên một nhạc khúc Phục Sinh rồi lẳng lặng ra về trước đôi mắt quá đỗi kinh ngạc của người thiếu phụ buồn. Và sự sững sờ kinh ngạc kia cũng chính là sự kinh ngạc sững sờ của các môn đệ Chúa trên thuyền giữa biển khơi cuồng nộ sóng.
Như những thương nhân vượt biển, “họ đã nhìn thấy những kỳ công của Chúa nơi chỗ thâm uyên”. Hạt giống đức tin chỉ có thể nẩy lộc đâm chồi khi tâm trí thấu hiểu vũ trụ Chúa tạo dựng cho con người và vì con người; khi không còn biên giới giữa bên này và bên kia sự chết vì “Thiên Chúa không tạo dựng sự chết” và vì “công chính thì vĩnh cửu và bất tử.”
Hal Lindsey đã viết là “con người chỉ có thể sống bốn mươi ngày không cần ăn, ba ngày không cần nước, tám phút không cần không khí, nhưng chỉ một giây thôi nếu không tin yêu và hy vọng.”
Đã chết khi không tin không hy vọng; khi không còn kinh ngạc khi không biết sững sờ và nhất là khi không chu toàn sứ vụ cai quản làm chủ vạn vật mà Thiên Chúa tín cẩn trao ban. Cũng không còn sống nữa khi tâm trí chỉ nghĩ đến mình mà quên bẵng tha nhân. Đức tin cần đôi mắt giương to nhìn thế giới. Và cần thật cần đôi tay chạm đến những tâm hồn đang ngóng chờ một chút hơi ấm thương yêu.
Như đôi mắt khẩn cầu của người cha cho đứa con gái vừa trút hơi thở cuối. Như đôi bàn tay yếu đuối khăng khiu của người đàn bà kinh niên bệnh hoạn. Đời sống đức tin đã biểu hiện vẹn toàn trong khoé mắt người cha. Trên đầu từng ngón tay người mẹ.
Johann Wolfgang von Goethe cảm thấy như đã chết khi mỗi ngày không nhìn một hình ảnh đẹp, ngâm một đoạn thơ hay hoặc nói vài lời có ý nghĩa. Chẳng còn gì chua xót và đau đớn hơn khi tiến dần về cái chết mà đôi mắt vẫn không buồn mở và đôi tay vẫn khư khư không sờ không chạm. Đến tận cùng thế giới. Và đến mỗi tha nhân...
39. Niềm tin thắp sáng hy vọng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay được cả ba tác giả trong Tin Mừng Nhất Lãm kể lại. Tuy nhiên, Máccô kể dài hơn, gồm 23 câu, do vậy nhiều tình tiết hơn, cảm động hơn khiến chúng ta bị cuốn hút một cách tự nhiên từ đầu đến cuối câu chuyện. Máccô đã lồng hai câu chuyện vào với nhau một cách khéo léo, tài tình, nhưng ý nghĩa vẫn là một: Đức Giêsu ban tặng sự sống cho những ai vững tin và biết cộng tác với Ơn Thánh.
1. Chúa ban sự sống, con người có lòng tin.
Phép lạ thứ nhất, Máccô kể rằng, giữa đám đông chen lấn chung quanh Đức Giêsu, có những người đụng vào áo Người. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Đó là cái đụng của một người phụ nữ, bất chấp lệnh cấm theo lề luật Do thái. Mười hai năm mắc bệnh băng huyết. Mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi. Mười hai năm bị coi là ô nhơ, không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Đền thờ. Người phụ nữ thận trọng và đầy can đảm đã đụng vào áo Đức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ "Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.". Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
Phép lạ thứ hai, Máccô kể, ông Giairô đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái ông đã mười hai tuổi. Ông là viên chức trưởng hội đường. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm. Ông sẵn sàng tin cậy vào một người xa lạ. Ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến. Ông chỉ mới nghe danh tiếng về người ấy. Ông đến gặp Chúa và "phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ". Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa! Đức Giêsu động viên ông "Đừng sợ, cứ tin". Khi đến nhà, thấy đông đảo bà con xóm làng đến, Người nói: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Cô bé đã chết rồi, nhưng đối với Đức Giêsu, cái chết chẳng có tính chung cuộc mà chỉ là một giấc ngủ thôi. Người có quyền năng đưa kẻ chết ra khỏi giấc ngủ ấy. Với cử chỉ đơn sơ cầm tay đứa bé và nói “Talithakum”, nghĩa là “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!” Đức Giêsu đã khiến cho đứa bé đứng dậy và đi lại được. Người còn bảo họ cho đứa bé ăn để chứng thực là nó đã sống lại thật.
Hai phép lạ đều liên quan đến sự sống. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống: máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục mười hai năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Người trả lại sức sống cho bà. Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin. Đức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con". Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Giarô: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi".
Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin. Đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi. Đức tin là một nhân đức căn bản của Đạo. Phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người. Vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ. Bởi lẽ, trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa quyền năng làm được mọi sự.
- Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai. Vâng lệnh Chúa, ông đưa con yêu quý lên núi sát tế mà lòng đau như cắt. Ông tin rằng, Chúa sẽ thực hiện lời hứa ban cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.
- Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước. Ông đã đi khi vững tin vào Chúa. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Đức Giêsu bày tỏ quyền năng trên thiên nhiên, trên ma quỷ, trên bệnh tật và trên sự chết, vì Người là Đấng ban sự sống. Tin vào Người, chúng ta luôn có được sự sống dồi dào.
2. Cộng tác với ơn Chúa
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn "chuyên trách" về bệnh này.
Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:
- Xin Cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?
Vị linh mục nói:
- Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.
Bà già la lên:
- Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.
Thánh Antôn tự nhủ:
- Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!
Người phụ nữ xuất huyết và bà già đau răng đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.
Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: "Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa". Mc.Kenzie nói: "Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể".
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người. Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã "múc nước đổ đầy các chum" (Ga 2,7)
Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi "có 5 chiếc bánh và 2 con cá" (Mc 6,35-43).
Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Cộng tác với Ơn Chúa bằng lòng tin là con đường của hy vọng.
3. Niềm tin thắp sáng hy vọng
Các phép lạ Đức Giêsu đã làm thường là điểm giao tiếp giữa quyền năng đầy tình yêu của Thiên Chúa và niềm tin của con người. Thiên Chúa giàu lòng xót thương nên ở đâu có niềm tin, ở đó có phép lạ. Chúa nói với người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”; và nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.
Đức tin là vị thuốc thần đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đức tin là bí quyết đem lại hy vọng cho nơi nào không còn gì để hy vọng! Sau khi mọi hy vọng, mọi biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông. Có lần Đức Giêsu đã nói: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu.
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội.
Mẹ Têrêxa nói với ông: Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin.
Người phóng viên hỏi: Tôi phải làm gì để có đức tin?.
Mẹ Têrêxa đáp: Ông hãy cầu nguyện.
Ông chống chế: Tôi không biết và không thể cầu nguyện.
Mẹ Têrêxa dịu dàng nói: Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta.
Đức tin thắp sáng niềm hy vọng và trổ sinh hoa trái bằng việc làm.
40. Tin và sờ – Guy Morin.
“Đừng sờ!” đó là điều cấm đoán đầu tiên trong thời thơ ấu của chúng ta. Những món đồ chưng bày mảnh mai, những đồ vật nguy hiểm bị cấm đụng tới, và người lớn đàn áp chúng ta, không muốn chúng ta tiếp xúc với chúng. Trái lại họ tìm cách dụ dỗ chúng ta khi bắt chúng ta sờ con chó khiến chúng ta sợ hãi. Trong cuộc sống, chúng ta có kinh nghiệm là xúc giác hủy bỏ khoảng cách giữa những con người. Người ta có thể nhìn và nghe thấy từ xa nhưng người ta chỉ sờ khi ở gần mà thôi, sờ tức là gần ai đó, thân mật với họ.
Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể, rất thường dùng đến việc tiếp xúc thể lý. Ngài dùng tay sờ mắt, lưỡi, lỗ tai, da thịt bệnh nhân. Ngài ôm hôn trẻ con. Hơn nữa Ngài để cho những người bệnh đụng tới mình và bảo thánh Tôma thọc bàn tay vào cạnh sườn Ngài. Để diễn tả sự thật không chối cãi được của nhân tính Ngài, thánh Gioan viết: “Những gì tay chúng tôi đã sờ nơi Ngôi Lời sự sống… chúng tôi đã loan báo cho anh em” (Ga 1,1). Trong Tin Mừng hôm nay, có hai trường hợp sờ: Một phụ nữ sờ gấu áo Chúa Giêsu; Ngài nắm tay một cô bé đã chết để làm cho cô được sống lại. Lúc ban đầu, người phụ nữ này cũng như ông Giairô không muốn trở nên thân thiện với Chúa Giêsu; họ chỉ muốn được Ngài chữa lành thôi. Tuy nhiên đối với Chúa Giêsu những việc tiếp xúc này không chỉ là hành động thể lý mà thôi; chúng phải dẫn đến một mối tương quan cá vị, mối tương quan của đức tin.
Từ tiếp xúc đến đức tin.
Trong đám đông có một phụ nữ băng huyết. Thất vọng về các y sĩ, bà đã nghe nói về Chúa Giêsu và thấy Ngài là cơ hội cuối cùng để bà được chữa lành. Bà táo bạo vì bệnh của bà hay lây và làm cho bà trở nên ô uế (Lv 15,25). Không sao! Bà vẫn len lỏi tới, sờ vào gấu áo Chúa Giêsu và bà được chữa lành. Chúa Giêsu là ai đối với bà? Bà xem Ngài như thế nào? Bà không nghĩ đến việc này nhưng cử chỉ của bà cho thấy Ngài là ai. Ngài là người chữa lành; còn bà là bệnh nhân. Ngài có thể thỏa mãn nhu cầu về sức khỏe của bà; nơi Ngài có những năng lực chữa lành. Bà muốn được đón nhận năng lực này. Hoàn toàn chỉ quan tâm đến bệnh tật của mình, bà không tìm kiếm tương quan cá vị với Chúa Giêsu. Sờ được vào gấu áo của Ngài là đủ cho bà rồi. Đối với bà, Chúa Giêsu trước hết là một phương tiện để được chữa lành.
Chúa Giêsu sẽ dẫn đưa bà đến một mối tương quan cá vị. Bà muốn lẩn trốn; Ngài kéo bà ra khỏi sự vô danh của bà khi đưa mắt tìm bà. Và này đây bà run rẩy sụp lạy dưới chân Ngài. Lúc này, Ngài chữa lành bệnh cho bà, bây giờ, là Ngài làm cho bà run sợ. Chúa Giêsu không để bà phải sợ hãi, Ngài bảo: “Hãy đi về bằng an. Đức tin của bà đã cứu bà”. Ngài trả lại sức khỏe cho bà nhân danh đức tin của bà. Bà được chữa lành không vì đã đụng tới áo Chúa Giêsu như bà tưởng, nhưng vì bà đã tin nơi Ngài. Từ nay, bà biết rằng chính đức tin đã cứu thoát bà. Chúa Giêsu đã dẫn đưa bà từ một tin tưởng ma thuật đến đức tin vào bản thân Ngài.
Trường hợp ông Giairô lại khác hẳn. Với niềm tin tưởng, ông xin Chúa Giêsu đến đặt tay lên con gái ông đang hấp hối để nó được sống. Dọc đường có người đến báo cho ông hay rằng cô bé đã chết và khuyên ông đừng làm phiền Chúa nữa: “…Phiền Thầy làm gì nữa?”. Tức khắc Chúa Giêsu đã hỗ trợ đức tin của ông Giairô, duy trì mối liên hệ của ông với Ngài và đồng hành với ông, giúp ông vượt qua nỗi sợ hãi: “Đừng sợ chỉ cần tin mà thôi”. Cứ tiếp tục tin, dù sao cũng cứ tin! Khi đến nhà ông, Chúa Giêsu nắm tay cô bé đã chết và cho cô sống lại như Ngài đã làm sống lại đức tin đang tàn lụi của ông Giairô để giúp ông niềm tin vào quyền năng của Ngài, quyền năng làm cho kẻ chết sống lại.
Tin, tức là gặp gỡ.
Người phụ nữ bênh hoạn và ông Giairô đã tin vì họ đã gặp Chúa Giêsu. Từ đó họ có những lý do riêng biệt để tin: Người phụ nữ tin vì bà được chữa lành, nhưng nhất là vì cách mà Chúa Giêsu đã dùng để làm cho đức tin của bà biến chuyển: Ông Giairô tin, vì việc con gái ông được sống lại, nhưng nhất là vì cách mà Chúa Giêsu đã dùng để nâng đỡ niềm tin của ông và giúp ông thắng vượt nỗi sợ hãi.
Bài tường thuật của thánh Marcô hôm nay cũng có liên quan đến Kitô hữu chúng ta: Đức tin của chúng ta có được nuôi dưỡng bằng việc gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Đó là luật của Tin Mừng: Chúng ta tin tùy theo mức độ chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô. Ta hãy nghiêm túc tự đặt câu hỏi này: Tôi đã gặp Chúa Giêsu khi nào? Tin Mừng sẽ chúng ta trả lời. Mỗi lần chúng ta xem Chúa Giêsu như Đấng Cứu Độ chứ không phải như kẻ chữa lành hoặc giúp đỡ điều nọ điều kia, mỗi khi lâm cảnh đau buồn hoặc nguy nan, chúng ta vẫn tiếp tục tin, đó là những khi chúng ta gặp gỡ Ngài.
41. Lòng tin
Bài Tin Mừng tường thuật hai phép lạ Chúa Giêsu đã làm: phép lạ cho một phụ nữ được khỏi bệnh băng huyết, và phép lạ cho con gái ông trưởng hội đường Gia-ia được sống lại. Chúng ta thấy hai phép lạ như có một số điểm tương đồng: người phụ nữ mắc bệnh đã 12 năm, bằng với số tuổi của em bé kia, vì Tin Mừng cho biết khi em chết em được 12 tuổi. Cả hai phép lạ xảy ra đều do hành động thể lý là chạm tay vào tua áo Chúa và Chúa cầm tay em bé đã chết. Chúa Giêsu ban phép lạ này do lòng tin.
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhận lời kêu xin của ông Gia-ia đi chữa bệnh cho con gái ông. Dân chúng đông đảo đi theo có vẻ háo hức và chen lấn, các môn đệ cùng đi bên Chúa. Gĩưa lúc ấy các môn đệ nhận ra một người đến quỳ trước Thầy mình, nhưng lúc ấy phép lạ đã xảy ra rồi, đó là một phụ nữ đầy lòng tin đã được Chúa cho khỏi bệnh. Thực vậy, giữa đám đông dân chúng dày đặc, phụ nữ này nhận ra một vị Thiên Chúa ẩn dật nhưng đầy quyền năng, bà không dám công khai trực tiếp xin Chúa trước mặt mọi người, có thể là vì xấu hổ hoặc ngại ngùng. Ngoài ra, bà cũng biết luật Lêvi cấm ngặt về loại bệnh này. Đối với người Do Thái, băng huyết là một bệnh được liệt vào số các chứng bệnh nan y và ô nhục, làm cho người bệnh ra dơ bẩn trước mặt Chúa và cộng đồng. Hơn nữa, chứng bệnh này còn làm cho người khác lây sự dơ bẩn của bệnh nhân, tức là họ đụng chạm đến ai hay ai đụng chạm đến họ đều trở thành dơ bẩn và phải dâng lễ tẩy uế mới được sạch. Đó là điều hết sức rắc rối.
Nên bà không dám đến trước mặt Chúa xin Chúa chữa lành, nhưng bà có một lòng tin chắc chắn vào sức mạnh uy quyền toàn năng của Chúa. Bà tự nhủ: "Không cần phải ra mặt, chỉ cần đụng chạm vào tua áo khoác ngoài của Ngài thôi thì chắc chắn sẽ được khỏi". Chúng ta thấy bà thật khiêm tốn. Vì thế, bất chấp tất cả luật lệ phiền phức và nghiêm ngặt, bà lén đến sau lưng Chúa, để thực hiện ý định rút ơn Chúa, và kết quả bà được toại nguyện. Bà thể hiện đức tin một cách sâu sắc, như chính Chúa xác nhận và thưởng công cho lòng tin của bà: "Lòng tin của con đã cứu chữa con".
Phép lạ thứ hai Chúa Giêsu làm là nơi nhà ông trưởng hội đường Gia-ia. Ông có đứa con gái mắc bệnh nặng thập tử nhất sinh, ông đến xin Chúa cứu con ông. Lòng tin mạnh mẽ được bộc lộ ra qua tất cả con người ông, nghĩa là qua các cử chỉ cũng như lời yêu cầu của ông. Thực vậy, khi đến trước mặt Chúa, ông quỳ sụp dưới chân Chúa, đây là một cử chỉ dành riêng cho Thiên Chúa Giavê trong Cựu ước, cử chỉ này chứng tỏ ông tin và nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai. Cử chỉ thứ hai là ông xin Chúa đến đặt tay trên con ông. Ông tin chắc chắn chứ không hồ nghi: "Thưa Thầy, con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống". Ông tin chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như thế, nếu Chúa muốn. Ngài động đến đâu thì sức mạnh và sự sống lan tràn tới đó. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.
Đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất, nhưng thuộc về tinh thần. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Gia-ia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài.
Vì thế, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Gia-ia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà không cần kêu xin mai như ông Gia-ia, bà chỉ có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa đang chờ đợi ở chúng ta cónhững tâm tình như thế.
Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta.
42. Đức tin khai mở quyền năng Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Sau phép lạ dẹp yên bão tố và phép lạ giải thoát người bị quỷ ám, hôm nay chúng ta được nghe trình thuật diễn tả hai phép lạ khác đan kết với nhau một cách chặt chẽ: phép lạ chữa người đàn bà loạn huyết và phép lạ phục sinh con gái ông Giaia. Qua các phép lạ này, ta thấy có một sự tăng trưởng dần dần trong niềm tin của các môn đệ vào quyền năng của Chúa Giêsu. Quyền năng trên các định luật thiên nhiên: làm cho sóng yên biển lặng. Quyền năng trên các thần ô uế: giải thoát người bị quỷ ám ở Ghêrasa. Quyền năng trên bệnh tật: chữa lành người đàn bà bị chứng xuất huyết. Và quyền năng trên sự chết: phục sinh con gái ông trưởng hội đường. Thế nhưng để quyền năng của Chúa Giêsu được biểu lộ, đòi hỏi con người phải có niềm tin. Nói cách khác, tin là điều kiện cần có để được Đức Giêsu thực hiện các phép lạ.
Chính nhờ đức tin mà người đàn bà loạn huyết được chữa lành. Chúa Giêsu đã xác nhận điều này: “Đức tin con đã cứu chữa con” (Mc 5,34). Đức tin đã khai mở quyền năng của Ngài, như thể Chúa Giêsu quy gán phép lạ cho khả năng của con người. Đức tin đã giúp bà tìm đúng địa chỉ để dứt điểm căn bệnh mà bà phải gồng mình chịu đựng trong suốt 12 năm trường. Trình thuật Marccô cho thấy người đàn bà bị loạn huyết đang đối diện với một căn bệnh được xem là nan y thời đó. Căn bệnh đang lấy dần đi sự sống nơi bà, vì máu là căn nguyên sự sống, trong khi bà đang bị băng huyết. Nhưng bà tin Chúa Giêsu có dư năng quyền để chữa bà lành bệnh. Bằng chứng là bà tự nhủ rằng chỉ cần một chút quyền năng phát ra nơi gấu áo của Chúa Giêsu thôi cũng bằng ngàn vạn thầy thuốc giỏi nhất trần gian. Quả đúng như thế. Bà vừa mới sờ vào gấu áo Chúa Giêsu, tức khắc căn bệnh đã “say goodbye” với bà. Kỳ diệu thay quyền năng của Thiên Chúa và cũng diệu kỳ thay đức tin của con người.
Cũng vậy, chính nhờ đức tin của ông trưởng hội đường mà con gái ông được cứu sống. Cứ xem diễn tiến của câu chuyện chúng ta sẽ thấy rõ sự kỳ diệu của đức tin.
Khi hay tin con gái cưng của ông đã chết và những người nhà của ông đã tuyệt vọng, ông vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Con gái của ông không còn là một bệnh nhân, mà đã trở thành một xác chết. Và điều ông nài xin Chúa Giêsu giờ đây đối với gia nhân của ông cũng không còn giá trị nữa, như lời họ khuyến cáo: Con gái ông đã là người thiên cổ rồi còn làm phiền Thầy chi nữa (x. Mc 5,35).
Sự kiện “người ta khóc than kêu la” là dấu chứng con gái ông đã chết. Thánh sử Matthêu còn thêm chi tiết là “đến nơi Chúa Giêsu thấy phường kèn và đám đông xôn xao” (Mt 9,23). Đang sống thì phường kèn không có lý do gì để có mặt ở đó. Điều này chứng tỏ con gái ông rõ ràng đã chết thật, và đức tin của ông lúc này đang bị thử thách nặng nề. Có thể nói được là thử thách đã lên tới đỉnh điểm. Tuy nhiên, khi được Chúa Giêsu khích lệ, ông đã một lòng tin tưởng và tín thác, mặc cho bầu khí kém lòng tin, do những người bà con lối xóm gây ra, đang bao trùm chung quanh. Kết quả là đức tin ấy đã được tưởng thưởng xứng đáng: người con gái yêu quý đã được tử thần trả lại cho ông. Nói cách khác, chính đức tin đã đem con gái ông trở về từ cõi chết. Chẳng phải Chúa Giêsu đã từng có lần nói: “Mọi sự đều có thể đối với người có lòng tin” (x. Mt 21,21-22).
Nói tóm lại, tin là điều kiện cần thiết để Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ. Thế nhưng việc Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ cũng không nằm ngoài mục đích là củng cố niềm tin cho những kẻ đi theo Ngài, để họ tin rằng Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, nhờ đó mà họ được ơn cứu độ. Không bao giờ Chúa Giêsu làm phép lạ để biểu diễn như lời dụ khị của Satan; hay là để cho nhân dân tán thưởng như các võ sĩ, các nhà ảo thuật, hoặc các diễn viên xiếc…
Qua phép lạ, Ngài kiện cường, thanh luyện niềm tin của những kẻ theo Ngài vốn còn nông cạn, thậm chí còn mang hơi hám ma thuật sơ đẳng, như đức tin của người đàn bà bị loạn huyết, hay còn đang bị chao đảo như đức tin của ông trưởng hội đường, trở thành một đức tin chân chính và sâu xa.
Niềm tin của tôi đang mang màu sắc nào? Tôi có để cho Chúa thanh luyện và “nâng cấp” để đức tin của tôi ngày càng trở nên tinh ròng và kiên vững hay không? Xin Chúa gia tăng lòng tin còn non yếu của chúng ta, hầu chúng ta có thể mở các kho tàng ân sủng trào tràn của Thiên Chúa. Amen.
43. Hãy chỗi dậy – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Thiên Chúa tạo dựng sự sống nơi thực vật, động vật, con người và thiên thần. Chúng ta thấy được sự sống gắn liền nơi các tao vật. Mọi tạo vật đều nhận hơi thở sự sống. Rút hơi thở, chúng sẽ tan biến. Ngay chương đầu của sách Khôn Ngoan, tác giả được linh lứng viết rằng: Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong (Kn 1,13). Sự sống ở mọi tạo vật sinh động sẽ tiêu vong, nhưng sự sống thật sẽ tồn tại muôn đời. Chúng ta có nhiều kinh nghiệm về sự sinh, lão, bệnh và tử. Con người sinh ra và từ từ đi về cõi chết. Đã là người, ai cũng bước qua lúc sinh lúc tử.
Từ muôn thế hệ, dòng dõi này nối tiếp dòng dõi kia để truyền sinh sự sống. Sự sống mà Thiên Chúa trao ban cho tổ tông của loài người vẫn được tiếp tục phát triển và sinh xôi nẩy nở. Sự sống của từng cá nhân sẽ chấm dứt ở đời này, nhưng sự sống của con người sẽ tiếp tục. Với niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh, chúng ta tin rằng sự sống thay đổi chứ không mất đi. Người ta thường nói: Sinh ký tử qui, sống gởi thác về và từ trần hay qua đời. Qua đời này để vào đời khác. Chết không phải là chấm hết mà bước qua một cuộc sống mới.
Sự sống và sự chết là một mầu nhiệm. Chúng ta không hiểu được mầu nhiệm của sự sống, mà chỉ chiêm ngắm và sống mầu nhiệm này. Biên giới giữa sự sống và sự chết là một hơi thở. Có những người được sống cả trăm năm. Có những thân phận bé bỏng chỉ được nương nhờ sự sống nơi cung lòng mẹ ít ngày tháng. Cuộc đời dài vắn của mỗi sinh linh đều khác nhau. Chúng ta không thể so sánh hay phân bì. Mỗi một sự sống là một huyền nhiệm. Sự sống như nhau, nhưng sự sống đi vào cụ thể trong những định mệnh hoàn toàn khác nhau. Mỗi một cá nhân được trao ban một số mệnh cuộc đời. Hạnh phúc biết bao khi chúng ta được mở mắt chào đời và được hiện hữu trên thế gian. Chúng ta hãy trân quí từng giây phút trong cuộc đời. Cuộc đời dù ngắn hay dài đều có một sứ mệnh, một ý nghĩa và cùng đích. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa để sống vĩnh viễn:Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người (Kn 2,23).
Chúa Giêsu là Ngôi Hai và là Con Thiên Chúa. Nhờ Chúa Ngôi Hai mà muôn vật được tạo thành.Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga 1, 3-4). Thánh Gioan đã thâu tóm chân lý sáng tạo vũ trụ muôn loài qua một lời tròn đầy ý nghĩa: Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành. Ngôi Lời là trung gian của tất cả vạn vật hữu hình và vô hình. Ngài có quyền năng sáng tạo, biến đổi và tái tạo. Chúa Giêsu đã chứng minh quyền năng bằng các phép lạ và lời uy quyền. Biến đổi vật chất như nước thành rượu, bánh cá hóa nhiều, cho sóng gió im lặng, mẻ cá đầy, chữa các loại bệnh hoạn tật nguyền, cải đổi tâm hồn và quyền cho kẻ chết sống lại.
Suy về cuộc đời vô thường, là người ai trong chúng ta cũng có lúc khỏe mạnh và khi yếu đau, khi vui vẻ và lúc buồn sầu, khi hạnh phúc và lúc bất hạnh, khi may mắn và lúc hiểm họa. Sự sống sự chết cận kề. Ai cũng sợ đau yếu bệnh họan và chết chóc. Ông trưởng hội đường tên Giairô đến sụp lạy và van xin Chúa Giêsu: Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống. Trên đường về nhà ông, có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết. Bà cũng cực khổ tìm thầy chạy thuốc. Bà tự nhủ: Miễn sao tôi được chạm tới áo Người thì tôi được lành. Bà đã chạm và bà đã cảm nhận sự chữa lành trong thân thể bà.
Chúa Giêsu chính là nguồn sự sống và có quyền trên sự sống. Con người là loài thụ tạo, khi đã tắt hơi thở hoàn toàn thì thân xác đi vào cõi tiêu diệt. Không có một quyền lực hay loại thuốc nào có thể cứu gỡ. Đã ra đi là ra đi vĩnh viễn. Con người đành bó tay trước sự chết. Chúa Giêsu nhìn vào sự chết như một giấc ngủ. Thánh Marcô diễn tả về quyền năng của Chúa:Người bước vào nhà và bảo họ: "Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy! (Mc 5, 39). Nhiều người cười nhạo Ngài vì họ đã biết em bé đã tắt thở và đã chết. Nhưng Chúa Giêsu cầm lấy tay nó và nói: "Ta-li-tha kum", nghĩa là: "Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!(Mc 5, 41).
Chỉ Đấng trao ban sự sống mới có quyền ban lại sự sống. Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho em gái sống lại trước mặt đám đông. Sự kiện cho kẻ đã chết được sống lại hoàn toàn mới lạ, vượt ra ngoài sự hiểu biết và suy nghĩ của con người. Đôi khi chúng ta nghe nói có những người đã chết nhưng được hồi sinh. Có những trường hợp con người đã chết lịm đi, hơi thở qúa yếu và các cơ quan lưu chuyển trong cơ thể hầu như ngưng đọng. Tin rằng sự sống vẫn còn hiện diện trong thân xác và họ từ từ được hồi sinh. Khi chúng ta có cơ hội chứng kiến những người trong lúc lìa trần, họ cố gắng hít khí vào phổi, nhưng chỉ thở hắt ra đôi lần. Sự cách biệt giữa sự sống và sự chết chỉ là hơi thở. Khi con người trút hơi thở là vĩnh viễn ra đi.
Chúng ta bước vào đời với hình hài một trẻ thơ bé bỏng. Chúng ta được nuôi nấng dưỡng dục, được học hỏi trau dồi kiến thức, được học làm người và học làm con Chúa. Mỗi người lãnh nhận những khả năng và nguồn vốn khác nhau. Điều quan trọng là chúng ta sinh lời không riêng cho chính mình mà chung cho đồng loại. Thánh Phaolô tông đồ trong thơ gởi tín hữu Corintô đã nhắc nhở rằng: Kẻ được nhiều thì cũng không dư, mà kẻ có ít, cũng không thiếu. Phaolô đã khích lệ tín hữu rằng anh chị em vượt trổi về mọi mặt về sự hiểu biết, lòng tin, sự nhiệt thành và lòng bác ái. Trồng người như trồng cây. Ai mà không mong cây trồng phát triển và sinh hoa trái. Con người có sứ mệnh cao qúi. Mỗi cuộc sống con người cũng phải sinh hoa kết trái cho đời. Người ta thường nói: Cọp chết để da, người chết để tiếng.
Chúng ta sẽ ra đi với hai bàn tay trắng nhưng không thể thiếu hành trang. Cuộc sống bên kia cần có nhiều phước báo và việc thiện như là hoa qủa cuộc đời. Phải tạo nhân tốt mới có qủa tốt. Có lòng bác ái vị tha, chúng ta mới có sự yêu thương ràng buộc. Sự sống rất quí giá và đáng sống. Mỗi giây phút sống trong cuộc đời đều là hồng ân. Chúng ta không có quyền tiêu diệt hay hủy hoại sự sống của người khác hay của chính mình. Ai cũng muốn sống hạnh phúc nhưng đôi khi chúng ta làm ngơ trước những hạnh phúc mà chúng ta đang thừa hưởng. Niềm vui và sự bình an nằm ngay trong cuộc sống hằng ngày. Hạnh phúc ví như một chiếc khăn tinh sạch, đôi khi có điểm vài vết nhơ sầu khổ. Vì quá chú trọng đến những chấm nhỏ buồn phiền của cuộc sống, để rồi có nhiều người bi quan cho rằng cuộc đời là bể khổ. Thực sự đời chỉ buồn khổ đối với những ai chấp ngã không dám buông bỏ.
Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống, xin cho chúng con biết sống xứng đáng với danh phận của con người. Chúa tác thành mọi sự cho có. Chúa tạo dựng con người để được sống hạnh phúc và thông phần sự sống vĩnh cửu.
44. "Ai chạm đến Ta?"
(Suy niệm của Lm. Louis M. Nhiên, CMC)
"Không ai có thế đến với tha nhân nếu chính mình không sẵn sàng chạm đến thân thể của họ. Nếu bạn không sẵn sàng chạm đến một người vô gia cư, một người say rượu hoặc một người thật dơ bẩn, thì chính bạn không sẵn sàng phục vụ cho những người đó." (Nhà Tâm Lý Học Charles Gerkin, Đại Học Emory)
Một cử chỉ chạm, một cái ôm và những cử chỉ êm dịu trực tiếp đụng đến thân thể của tha nhân bày tỏ tình yêu thương và chấp nhận họ cách mãnh liệt hơn những lời nói ngọt ngào có thể đem lại được. Cử chỉ chạm là con đường hai chiều: nó ảnh hưởng đến người thụ động cũng như người chủ động.
Trong cuộc sống, chúng ta, ai cũng đã từng đóng vai chủ động và thụ động; nghĩa là ta đã từng chạm đến người khác cũng như được người khác chạm đến. Tôi nhớ lại những lần viếng thăm nhà dưỡng lão cũng như những tháng làm Tuyên Úy trong nhà thương. Mỗi khi đến thăm những người cô đơn cũng như bệnh nhân, họ đều muốn nắm tay tôi khi nói chuyện. Có những lần tôi cầm tay họ cho đến hơn một tiếng mà họ vẫn chưa muốn buông thả. Qua đó, tôi nhận thấy rằng một cử chỉ nhỏ mọn như cầm tay hoặc xoa nhẹ trên vai đều mang lại cho người được chạm cũng như chính tôi một sự bình an, niềm vui và sức sống mới.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô cũng tả lại hai cử chỉ chạm. Trước hết, người đàn bà bị bệnh xuất huyết hành hạ 12 năm chạm đến Chúa Giêsu. Kế đến là Chúa Giêsu chạm đến em bé gái 12 tuổi. Cả hai cái chạm đều mang lại sự sống và niềm vui cho người chạm cũng như người được chạm. Người đàn bà bệnh đã 12 năm chạm đến Chúa và được chữa lành. Em bé 12 tuổi được Chúa chạm đến được hồi phục sự sống. Trong hai câu truyện, Marcô có đề cập đến một chi tiết giống nhau mà ta cần chú ý, đó là chi tiết 12 năm.
Theo phong tục thời đó, tuổi 12 là tuổi được lập gia đình. Cô bé đã chết trước khi được trở nên một người vợ và người mẹ. Người đàn bà bị bệnh hành hạ làm cho không thể sinh con. Cả hai đều có khả năng cộng tác với Chúa để mang sự sống vào thế gian, nhưng một người bị bệnh hành hạ và một người bị cướp mất chính sự sống. Nhưng, nhờ hai cử chỉ đụng chạm, Chúa Giêsu đã không chỉ cứu hai người nữ này khỏi chết, nhưng đã hồi phục chọ họ khả năng sinh con, một khả năng ban sự sống.
Ta cũng nên nhớ là không phải ai chạm đến Chúa cũng được khỏi. Đám đông chạm đến Chúa nhưng không gì xảy ra. Ngược lại, người đàn bà chạm đến Chúa đã mang lại một phép lạ. Điều khác biệt giữa hai cái chạm là mức độ ĐỨC TIN. Người đàn bà tin mạnh nên được khỏi và đám đông chỉ chạm đến Chúa vì hiếu kỳ nên không gì xảy ra.
Trong cuộc sống hằng ngày, ta chạm đến nhiều người cũng như được nhiều người chạm đến ta. Nhưng, thử hỏi ta chạm đến tha nhân bằng cách nào? Cử chỉ chạm của ta đem lại cho họ một niềm vui, sự bình an và an ủi hay chỉ là một cái chạm thông thường?
Đặc biệt hơn nữa, nếu Chúa Giêsu xuất hiện, đi ngang qua và ta có cơ hội để chạm đến gấu áo của Ngài, ta sẽ chạm đến Ngài với một thái độ hiếu kỳ như đám đông hay với một ĐỨC TIN, như của người đàn bà trong Tin Mừng, là mình sẽ được biến đổi? Thật sự, Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta và chúng ta có cơ hội không chỉ chạm đến gấu áo Ngài, nhưng là chính thân thể Ngài. Đây chính là đặc ân ta được hưởng mỗi khi dự Lễ và rước Chúa vào lòng. Chúng ta đã rước Chúa với thái độ nào?
Xin Lời Chúa hôm nay giúp ta ý thức được đặc ân này và tham dự Thánh Lễ chăm chỉ, dọn mình sốt sàng để rước Chúa vào lòng. Nguyện xin Mẹ Maria, người đã không chỉ được chạm đến Chúa nhưng còn được mang chính Chúa trong lòng, giúp ta luôn biết đặt hết tâm hồn và tấm lòng vào những lời ta đọc trước khi rước Chúa, "Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh."
45. Đừng sợ, chỉ hãy tin
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Hai câu chuyện chữa hai “con gái” (thygatèr) (5,34.35) được lồng vào nhau: một người được xem như đã chết (5,2-24. 35-43), một người mang bệnh băng huyết (5,25-35). Người con gái nhỏ ở tại nhà và người cha là trưởng hội đường đến cầu cứu Chúa Giêsu; trong khi, người phụ nữ bị bệnh băng huyết đích thân tìm đến Người và được Người chữa lành tại chỗ. Trong cả hai người, quyền năng phục hồi sự sống của Người đã tỏ hiện; và chỉ có họ - và những người rất thân thiết - được chứng kiến hiệu quả lạ lùng của quyền năng nầy (x. 5,29.40), tuy dân chúng ở bên Người rất đông. Cấu trúc của hai đoạn nầy: Câu chuyện chữa lành người phụ nữ bị bệnh băng huyết (5,25-34) được xen giữa câu chuyện Chúa Giêsu làm cho người con gái của ông Giairô chỗi dậy (5,21-24;35-43). Việc Chúa Giêsu chữa lành người phụ nữ bị băng huyết là dấu hiệu đi trước tiên báo Chúa sẽ cho người con gái của Giairô sống lại.
Bệnh tình của người phụ nữ bị băng huyết là vô phương cứu chữa. Đã “mười hai năm” bà “khổ sở nhiều”, “chạy nhiều thầy thuốc”, nhưng kết qủa là bệnh càng “thêm trầm trọng”. Con người đã bất lực. Điều nầy làm nổi bật quyền năng của Chúa Giêsu khi Người chữa bà lành bệnh. Người có thể làm điều không thể thực hiện đối với con người. Tuy nhiên, để được chữa lành, bà cần có hy vọng và lòng tin vào Người. “Nghe nói về Người” là hy vọng thúc giục bà tìm đến Người (c. 27). Việc bà chạm đến áo Người biểu lộ lòng tin của bà vào Người; rất khác và rất phân biệt với việc dân chúng chen lấn và đụng chạm vào áo của Người, mà các tông đồ không thể nhận ra (x. 5,31). Chúa Giêsu đã nhận ra điều nầy và biết cả quyền năng chữa bà lành bệnh phát xuất ra từ Người. Người đã không đặt tay trên đầu bà để chữa bà lành bệnh (x. 5,23; 3:10, 6,56), nhưng chính lòng tin của bà đã kéo đến trên bà quyền năng chữa lành bệnh từ Chúa Giêsu. Lúc nầy đức tin đã cứu bà một cách dứt khoát không phải là khỏi tội, mà khỏi hậu quả của nó. Cũng bởi lòng tin nầy mà bà được gọi là “con gái”, nghĩa là được kể như là một thành phần trong gia đình Thiên Chúa; chữ nầy cũng được dùng để nối kết phần tiếp theo.
Tình trạng của người con gái của ông Giairô cũng không thể cứu vãn được. Trên đường Chúa Giêsu đến nhà ông thì nghe tin về cái chết của người con gái. Câu “không muốn làm phiền Người” tỏ lộ sự thất vọng và bất lực của những người đến báo tin (c. 35). Điều ấy càng được thấy rõ hơn trong sự náo động và than khóc của họ (cc. 38-39). Chính vì thế mà Chúa Giêsu nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, nhưng hãy tin” (c. 36). Điều nầy hàm ý là ông trưởng hội đường vì đã chứng kiến người phụ nữ bị băng huyết đã được chữa lành nhờ tin vào Chúa Giêsu, ông cũng phải tin vào Người để người con gái của ông được chữa lành. Và bởi thấy ông bị xao động, Chúa Giêsu đã ra lệnh ông “hãy tin”. Thêm một lần nữa, quyền năng của Chúa Giêsu được tỏ hiện trong sự tuyệt vọng của con người. Người phục hồi lại sự sống cho đứa bé gái bằng cách cầm lấy tay và nâng dậy; như thể em vẫn còn sống. Người làm việc nầy cùng một cách thế như Người đã làm cho bà mẹ vợ của ông Phêrô (1,31), cho em bé trai bị quỷ ám (9,26-27). Việc phục hồi sự sống đầy quyền năng nầy có hiệu quả “tức thì”, không cần nhiều thời gian để được thực hiện (1,42; 2,12; 7,35). Đi lại được là dấu hiệu đã được chữa lành (x. 2,9). Kết luận cuối cùng của Marcô là những người chứng kiến phép lạ đều đầy kinh ngạc (c. 41; x. 1,27; 4,41).
Chúa Giêsu tiếp tục tỏ mình ra cho các môn đệ của Người bằng những việc quyền năng để họ có thể tin vào Người. Việc quyền năng lớn lao hơn cả là chính Người sống lại từ cõi chết; nhờ đó họ tin Người chính là Con Thiên Chúa.
46. Cái "sờ" của niềm tin
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Một trong những hình ảnh rất ấn tượng mà chúng ta thường thấy trong các kỳ World Cup hay Euro là các cầu thủ và những cổ động viên của các đội vô địch tìm mọi cách để được sờ, được chạm vào chiếc cúp vô địch của mình, hầu mong được may mắn và vinh quang. Có nhiều người còn ôm hôn chiếc cúp thắm thiết như ôm hôn người tình vậy.
Tin Mừng hôm nay nói đến một người phụ nữ cũng mong muốn “được chạm”, “được sờ”; song không phải là chạm hay sờ vào chiếc cúp vô địch, mà là sờ vào gấu áo Chúa Giêsu. Đây là cái sờ, cái chạm của niềm tin, một niềm tin đơn sơ chất phác, nhưng cũng rất mãnh liệt. Không phải sờ để cầu may, nhưng sờ để được chữa lành bệnh. Bà tin chắc như thế. Và sự thật căn bệnh băng huyết của bà đã được chữa lành. Chúa Giêsu đã xác nhận điều này: “Đức tin con đã cứu chữa con” (Mc 5,34).
Đức tin đã giúp bà tìm đúng địa chỉ để “dứt điểm” căn bệnh nghiệt ngã mà bà phải gồng mình chịu đựng trong suốt 12 năm trường. Trình thuật Marcô cho thấy người đàn bà bị loạn huyết đang đối diện với một căn bệnh được xem là nan y thời đó. Căn bệnh đang lấy dần đi sự sống nơi bà, vì máu là căn nguyên sự sống, trong khi bà đang bị băng huyết. Nhưng bà tin Chúa Giêsu có dư năng quyền để chữa bà lành bệnh. Bằng chứng là bà tự nhủ rằng chỉ cần một chút quyền năng phát ra nơi gấu áo của Chúa Giêsu thôi cũng bằng ngàn vạn thầy thuốc giỏi nhất trần gian. Quả đúng như thế. Bà vừa mới sờ vào gấu áo Chúa Giêsu, tức khắc căn bệnh đã “say goodbye” với bà. Kỳ diệu thay quyền năng của Thiên Chúa và cũng diệu kỳ thay đức tin của con người.
Hằng ngày, chúng ta chẳng những được chạm, được sờ vào Chúa qua Lời của Ngài và qua Thánh Thể của Ngài, mà còn ăn uống chính Mình Máu Ngài nữa. Tuy nhiên, chúng ta đang chạm hay đang ăn uống với lòng tin thực sự hay không?
Cách riêng với các anh chị em dự tòng, qua Bí tích Rửa Tội và Bí tích Thêm Sức mà các anh chị sẽ lãnh nhận, các anh chị sẽ được tháp nhập với Chúa Kitô và trở thành Đền thờ Chúa Thánh Thần. Và qua Bí tích Thánh Thể, các anh chị cũng sẽ được ăn được uống Mình Máu Thánh Đức Kitô. Các anh chị hãy ghi nhớ ngày trọng đại và thiêng thánh này. Giáo xứ và Giáo hội hân hoan chúc mừng và đón nhận các anh chị làm thành viên mới. Cầu chúc cho các anh chị lãnh nhận các bí tích khai tâm này với tất cả long tin và nhất là trở thành chứng nhân của niềm tin vào Thiên Chúa cho những người mà các anh chị gặp gỡ, cách riêng cho những người trong gia đình, gia tộc của mình. Amen.
47. Suy niệm của Charles E. Miller.
CHÚA GIÊSU DÀNH THỜI GIAN
VÀ SỰ QUAN TÂM CHO CHÚNG TA
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Mỗi tác giả Phúc Âm đều nhấn mạnh những điểm khác biệt riêng trong Phúc Âm của mình. Thánh Marco mà Phúc Âm của ngài đang được đọc suốt trong năm nay, nhấn mạnh đến nhân tính của Chúa Giêsu. Tác giả Phúc Âm đã nhấn mạnh đến những chân lý tiết lộ rằng, Con Thiên Chúa thực sự là con của Mẹ Maria, và ngôi vị thần linh đến với chúng ta trong vẻ đơn sơ của bản tính con người. Thánh Marco sung sướng trình bày Chúa Giêsu như một con người, một người hiểu chúng ta, thông cảm với chúng ta.
Trong bài Phúc Âm ngày hôm nay, lúc Ngài sửa soạn rao giảng Phúc Âm cho đám đông, Giairô, một viên trưởng hội đuờng đã yêu cầu Ngài đi với ông ta, đến nhà ông chữa bệnh cho đứa con gái đang bị ốm nặng. Đã để cho chúng ta tưởng tượng ra sự thất vọng của Chúa Giêsu khi bị gọi ra khỏi sứ vụ rao giảng của Người, nhưng thánh nhân trình bày Chúa Giêsu đã đáp trả với lòng thương xót khi nghe lời nài xin của viên trưởng hội đuờng. Tiếp đó, một người đàn bà trong đám đông đã đụng đến áo choàng của Ngài. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh là Ngài biết ai đang đụng đến Mình nhưng không hề khinh bỉ người đàn bà, Ngài nhìn thẳng vào người đàn bà một cách dịu dàng và nói: “Hỡi bà, đức tin của bà đã cứu chữa bà”.
Tiếp theo đó, Chúa Giêsu đã tiếp tục cuộc hành trình để đến chữa bệnh cho cô gái nhỏ, nhưng có người đến nói cô bé đã chết, không hề bối rối, Chúa Giêsu bước vào căn phòng nơi cô bé đang nằm, cầm tay cô bé và nói những lời sự sống: “Hỡi cô bé hãy chỗi dậy”. Cô bé liền chỗi dậy. Hãy tưởng tượng xem cảnh này, cha mẹ vừa khóc vừa cười cùng một lúc, họ ôm choàng lấy đứa con gái nhỏ và khiêu vũ chung quanh cùng với cô ta. Chúa Giêsu luôn luôn chú ý và ý thức đến những nhu cầu của con người, và trở nên rất thực tế. Ngài nói với cha mẹ của đứa bé: “Hãy cho đứa bé ăn cái gì”.
Trong đoạn Phúc Âm thời thơ ấu kể lại cho chúng ta rằng, Chúa Giêsu đã dành thời gian cho dân chúng, những người có địa vị quan trọng giống như Giairô là người trường hội đuờng cũng như người đàn bà nghèo khổ vô danh trước mọi người và hầu như thánh Marcô cũng không biết tên. Ngài đã trình bày cho chúng ta rằng, Chúa Giêsu đã quan tâm cách sâu xa đến nỗi đau của người cha và người mẹ có đứa con nhỏ. Nhưng Ngài cũng muốn chúng ta biết Chúa Giêsu không hề xao nhãng việc người đàn bà đang bị ốm, cơn ốm không phải là do số mệnh. Ngài cũng biết sự đau buồn vô vọng nơi người cha người mẹ, Ngài cũng nhận biết người đàn bà, và đã chia sẻ những nỗi khốn khổ của người đàn bà ấy nữa.
Thánh Marcô đã trình bày cho chúng ta rằng, Chúa Giêsu đã yêu mến với trái tim của con người. Thánh nhân nhấn mạnh về nhân tính của Chúa Giêsu, làm cho chúng ta nhận thấy chân lý quan trọng nữa, đó là Chúa Giêsu đã hành động xuyên qua nhân tính của Người trong sứ vụ công khai của Người và bây giờ Ngài hành động qua các thừa tác viên của Giáo Hội và đặc biệt là qua các ý nghĩa của các bí tích của Giáo Hội. Trong bí tích thanh tẩy, Chúa Giêsu đã cầm chúng ta bằng đôi tay của Ngài, gọi tên chúng ta và Phục Sinh chúng ta từ sự chết của tội lỗi và phục hồi cho chúng ta trở nên con cái của Chúa Cha. Chúa Giêsu đã nói với Giáo Hội hãy cho chúng ta một điều gì đó để ăn. Một điều gì đó là bí tích cao vời, Mình và Máu thánh Chúa.
Chúng ta sẽ nhớ rằng, Chúa Giêsu qua thừa tác của Giáo Hội đã dành thời gian cho tất cả chúng ta, dù chúng ta có địa vị quan trọng trong xã hội như Giairô là trưởng hội đuờng, hay làm một người nghèo khó vô danh chẳng ai biết đến tên như người đàn bà bị loạn huyết. Tất cả chúng ta đều quan trọng đối với Chúa Giêsu và tất cả nhu cầu của chúng ta được Ngài quan tâm đến. Chúng ta có một Thiên Chúa, Đấng dành thời gian cho tất cả chúng ta.
48. Giữa lòng dân Chúa – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đoạn sách thánh hôm nay cho ta thấy một lần nữa rằng các phép lạ của Đức Kitô là những dấu chỉ tình thương. Đức Kitô là tình thương của Thiên Chúa đi vào trong nỗi khốn cùng và đau khổ của nhân loại để mặc cho chúng niềm tin và hy vọng. Đức Giêsu không phải là một nhà thuyết giáo xa xôi về một lý tưởng cứu rỗi mà con người phải một mình ra sức thực hiện nhờ các ý thức hệ và cách mạng cơ cấu. Ngài chính là Thiên Chúa dấn thân vào đời sống nhân loại để cứu lấy nó. Đám đông dân chúng theo Đức Giêsu và chen lấn Ngài tứ phía. Ngài bị ngụp lặn trong đám đông. Nhưng về phía Ngài, đó không phải chỉ là một lúc, sau đó Ngài trở về lại với sự đơn độc của mình. Ngài luôn là Thiên Chúa hiện diện với quần chúng đông đảo nhân loại.
Một nữ bệnh nhân muốn lợi dụng cơ hội Đức Giêsu đi ngang qua để được chữa lành bà nghĩ chỉ cần chạm đến y phục Đức Giêsu để được lành, và bà đã không làm. Bà biết là Đức Giêsu có thể chữa lành bà bằng một lời nói, nhưng muốn thế phải kêu xin. Và giống bệnh của bà làm bà mắc cỡ. Bà không dám trình bày trường hợp của bà. Nhưng bà nghĩ là Chúa có thể chấp nhận lơi cầu xin của bà một cách khác. Chạm vào y phục của Chúa là một loại ngôn ngữ và cầu xin mà Ngài có thể hiểu được. Bà liền chạm vào gấu áo Đức Giêsu và bà được lành.
Người ta cho rằng bà này đã vâng theo sự thúc đẩy của niềm tin ma thuật. Nói thế có lẽ hơi nông cạn. Về vấn đề này, xin mở một ngoặc đơn thuộc phạm vi tổng quát. Dĩ nhiên nhà chú giải có thể có một thứ lo lắng là chỉ chấp nhận điều không thể chối cãi được trong các phép lạ Phúc Âm. Nhưng vô phúc thay, sự lo lắng này đôi khi lại được tiếp nhận do những đầu óc hấp tấp, hơi ngây ngô, lại quá chắc chắn về mảnh vụn kiến thức của mình, mà nội dung chỉ là sự thoả mãn để chiếu lên những Phúc Âm những khẩu hiệu và hình mẫu sẵn có nơi các “khoa học nhân văn”. Nói lên điều này, để nhắc nhở độc giả Phúc Âm đừng để cho mình bị lay động bởi một số quảng cáo trong thời gian sau này là muốn giản lược con người cao cả cuả Đức Giêsu vào chiều kích con người chúng ta. Người ta đến với Phúc Âm bằng cách để mình lôi kéo lên cao nhờ việc chiêm ngắm Con Thiên Chúa, chứ không phải bằng cách uốn nắn các văn bản để làm cho chúng phù hợp với các dữ kiện chưa tiêu hoá đựợc của việc phân tích ngôn ngữ…
1) Đoạn văn cuả thánh Marcô: ‘Đức Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình’. Từ lâu các nhà thần học đã đề ra những lời giải thích cho phúc hợp với điều họ tưởng có thể đoán được về tâm lý của Đức Giêsu. Về phần chúng ta, chỉ nên nhớ rằng Đức Giêsu luôn phản ứng với một lương tâm thấm nhuần sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, đối với mọi biểu lộ niềm tin nơi ngài.
2) “Hỡi bà, đức tin bà đã chữa bà”. Niềm tin của bà này như thế nào? Chắc hẳn là không cùng một niềm tin như niềm tin của chúng ta. Nhưng cũng đã là một khởi đầu niềm tin, một niềm tin đang khai mào. Đàng khác, nếu chúng ta khiêm tốn, chẳng phải, chúng ta cũng nhìn nhận rằng niềm tin của chúng ta hôm nay cũng chỉ là một niềm tin khai mào sau? Nhưng ngay cả niềm tin này, nếu có thành thật, cũng có thể lôi keó được một lời nói cứu độ. Và đó là điều tốt rồi.
49. Hai phép lạ về sự sống
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Nhờ tin, mọi sự đều có thể
Một đám người rất đông vây quanh Đức Giêsu, chờ đợi một lời nói hay một cử chỉ lạ thường. Bỗng nhiên, có một người, dáng vẻ vội vã, đẩy mọi người ra và tiến đến trước mặt Đức Giêsu. Ông có điều gì muốn thưa với Người. Ông tên là Gia-ia, trưởng hội đường.
Thoạt tiên, người đàn ông này biết rằng mình có thể tín nhiệm vào Đức Giêsu. Ông "phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ" Người đến chữa con gái ông vừa mới tắt thở. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm: ông sẵn sàng tin cậy vào một người qua đường, ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến, mà cho đến lúc này, ông chỉ mới nghe đồn. Sự sống của đứa con gái ông vẫn hằng bao bọc, nuôi dưỡng, nay không còn nữa, và ông đến xin lại từ một người khác, một người xa lạ.
Đức Giêsu yên lặng đi theo ông trưởng hội đường. Đám đông vẫn tiếp tục vây lấy Người. Họ chen lấn, xô đẩy như muốn đè bẹp Người. Trong đám đông hỗn độn ấy, có một người phụ nữ khốn khổ rất mong được đến gần Đức Giêsu, chạm vào Người, dù chỉ là gấu áo thôi cũng được. Bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu."
Bà biết là mình ô uế, bởi vì theo não trạng người Do-thái lúc bấy giờ, một người phụ nữ trong tình trạng như bà bị coi là "không được chạm đến". Không ai được chạm đến bà, và ngược lại bà cũng không được chạm đến ai. Bà là người ô uế và ai đến gần bà cũng bị ô uế.
Bà mong được đến gần, được chạm đến Đức Giêsu, để chấm dứt tình trạng ô uế của mình. Bà tin rằng Đức Giêsu là một con người nhưng không giống những người khác. Bà cảm thấy rằng từ con người này, bà có thể nhận được tất cả: nhận lại chính mình, được trả lại chính mình.
Bà biết rằng bà đang làm một việc liều lĩnh, bởi vì đó là một điều cấm kỵ. Nhưng chính sự đau khổ đã thúc đẩy bà, và bà đã đến với Đức Giêsu. Phần mình, Đức Giêsu không sợ những điều cấm kỵ, không coi thường những nỗi khổ sâu kín nhất, đáng xấu hổ nhất. Người là Đấng cứu độ đến trần gian để giải thoát mỗi người khỏi nỗi cô đơn và sự sợ hãi.
Ngay tức khắc "bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh"; và cũng ngay lúc ấy, Đức Giêsu "thấy có một năng lực từ nơi mình phát ra". Một cảm nghiệm sâu xa nảy sinh từ cuộc gặp gỡ cá vị giữa người tin và Thiên Chúa của mình.
Đức Giêsu ngừng lại, đưa mắt nhìn quanh. Bấy giờ người phụ nữ có thể bày tỏ chính mình. Bà phủ phục dưới chân Đức Giêsu và bày tỏ hết sự thật: một thái độ phó thác, tin cậy, hy vọng. Thái độ này chứng tỏ rằng, khi người ta được đón nhận cách trọn vẹn, người ta khám phá ra mình dễ thương, mình xứng đáng được yêu thương và có khả năng yêu thương.
Cũng như hai tác giả Mátthêu và Luca, thánh Máccô nối kết phép lạ này với câu chuyện chữa lành con gái ông Gia-ia.
Khi Đức Giêsu đang trên đường đến nhà ông Gia-ia, có người đến nói với ông: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?" Đối với người không tin, như thế là trễ rồi, không còn cứu vớt được nữa. Một khi không có lòng tin tưởng, cậy trông, thì lúc nào cũng trễ. Đức Giêsu nghe được những lời xầm xì, Người nói với ông trưởng hội đường: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!"
Và sau đó, Đức Giêsu đã gọi cô bé dậy. Người nói: "Này bé, chỗi dậy đi!" Cô bé liền chỗi dậy, vì có ai đó đã gọi cô, chính tên cô.
Những chi tiết về vượt qua
Trong bản văn dài này, người ta có thể rút ra được những chi tiết diễn tả một bước vượt qua, từ sự chết sang sự sống.
* Từ bờ bên này sang bờ bên kia.
Đức Giêsu sang bờ bên kia, và ông Gia-ia chen qua đám đông để đến gặp Đức Giêsu. Sau đó cả hai cùng vượt qua biển người. Cả một đám đông như sóng dậy vây lấy cả hai, dường như muốn nuốt chửng.
* Từ ngôi mộ động đậy đến Nhà sự sống
Căn nhà của ông Gia-ia giống như một ngôi mộ. Một đám đông vây quanh cô bé mới chết. Họ khóc lóc, vật vã, kêu gào. Đức Giêsu đuổi mọi người ra khỏi nhà tựa như làm cho ngôi mộ ra trống không. Người gọi cô bé đang thiếp ngủ dậy, và trong căn nhà nơi sự sống thiếp ngủ, không cần phải có tiếng khóc than.
* Tuổi của sự sống
Con gái ông Gia-ia được mười hai tuổi: tuổi dậy thì, tuổi có thể bắt đầu đem lại sự sống. Trong khi đó, người phụ nữ mắc bệnh đã mười hai năm, và bà trở thành người vô sinh: bà bị coi như đã chết. Cả cô bé lẫn người phụ nữ mắc bệnh đều từ cõi chết bước vào sự sống, nhờ năng lực từ nơi Đức Giêsu phát ra. Chính Người là sự sống.
* Từ đặt tay đến lời
Ông Gia-ia xin Đức Giêsu đến đặt tay trên con gái ông. Nhưng Đức Giêsu không làm đúng như ông yêu cầu. Người nói với cô bé: "Chỗi dậy đi"; trước đó Người cũng nói với người phụ nữ một lời tương tự. Nhờ lời Đức Giêsu, sự sống đã chỗii dậy, như một hạt giống, một mầm non.
* Phục sinh cho tương lai
Người đàn bà được chữa khỏi bệnh, cô bé được chỗi dậy từ cõi chết: cả hai vẫn chưa đạt được mục tiêu. Cuộc sống vẫn còn ở phía trước. Cô bé “sống lại"; còn người phụ nữ nghe Đức Giêsu nói: "Con hãy về."
Phục sinh là một cuộc sinh ra, nhưng mới chỉ là điểm khởi hành. Đức Giêsu bảo những người đang đứng đó cho cô bé ăn. Của ăn và sự sống đi liền với nhau.
Đánh thức niềm hy vọng
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được mời gọi suy niệm về sự sống và về niềm hy vọng một cuộc sống không hư hoại. Sự sống là một thực tại, và có lẽ chúng ta càng cảm nhận cách rõ rệt hơn, khi mắc bệnh hay đối diện với cái chết. Bất chấp mọi sự xảy ra như thế nào, chúng ta có dám tin và hy vọng?
Lòng tin tưởng chân thành và đơn sơ của ông Gia-ia cũng như của người phụ nữ chính là gương mẫu cho chúng ta.
Người phụ nữ có vẻ như mê tín, chỉ mong sờ đến áo Đức Giêsu là được khỏi bệnh. Đức Giêsu không khinh thường bà, trái lại, Người tạo cơ hội gặp gỡ, giúp bà thoát khỏi tình trạng bệnh tật và ban cho bà bình an.
Lòng tin của ông Gia-ia mãnh liệt hơn. Ông vẫn tin vào Đức Giêsu, trong khi đám đông dân chúng nghĩ rằng không ai có thể chống lại cái chết. Đối với Đức Giêsu, cái chết chỉ là một giấc ngủ. Nhờ lòng tin, giấc ngủ này sẽ mở ra một buổi sáng phục sinh.
Những từ ngữ được sử dụng làm cho người ta nhớ đến phép rửa, tức là tham dự vào cuộc phục sinh của Đức Kitô.
“Tỉnh giấc đi nào, hỡi người còn đang ngủ!
Từ chốn tử vong, chỗi dậy đi nào!
Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi." (Ep 5,14).
Trong mỗi chúng ta đều có một niềm hy vọng, nhưng nó đang ngủ như cô bé của bài Tin Mừng. Cần đánh thức nó dậy, và thúc đẩy nó tiến tới. Điều kỳ diệu chỉ có thể xảy ra khi chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Đức Giêsu, Đấng có thể mở ra một buổi sáng phục sinh, từ những đêm tối của riêng chúng ta, những đêm tối nhất.
***
"Đức Giêsu nói với ông Gia-ia:
"Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!"
Nhưng tin là gì?
Là đưa cánh tay ra,
vượt ra khỏi những xôn xao và sợ hãi,
để nắm lấy Bàn Tay của Thiên Chúa.
Chúng ta biết rằng, Bàn Tay ấy vẫn luôn giơ ra."
(theo A.M.Besnard)
50. Đức tin cứu sống.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Văn hào Tu-ghê-nít của Nga có kể lại một giai thoại sau:
Thời chiến tranh ông bị cảm nặng. Người ta mang ông vào một quân y viện để chữa trị. Khi tỉnh dậy, ông thấy nhà thương đầy người, không có một chiếc giường trống nào, mà bệnh nhân mỗi ngày một thêm đông. Bác sĩ trực phòng của ông đi một vòng đến các giường. Đến bên cạnh ông, bác sĩ dừng lại và hỏi người y tế:
- Hắn vẫn còn sống ư?
Người y tế trả lời:
- Tôi chưa kiểm lại. Nhưng sáng nay thì hắn vẫn còn sống.
Bác sĩ cúi xuống và đặt ống nghe trên ngực ông. Nghe biết tất cả mọi sự, cho nên ông cố gắng thở thật mạnh. Sau khi nhấc ống nghe lên, bác sĩ thở dài và nói:
- Thiên nhiên thật ngu đần, lẽ ra người này phải chết, nhưng không hiểu sao hắn vẫn còn thở và như vậy là hắn chiếm mất chỗ của người khác
Tu-ghê-nít lắng nghe được tất cả những lời ấy. Ông tưởng số phận của ông đã được quyết định, nhưng không ngờ sau đó ông đã được khỏi bệnh một cách lạ lùng trước sự ngạc nhiên của viên bác sĩ trực và nhiều y tá khác trong quân y viện.
Những bệnh nhân biết được những gì người ta làm cho mình và còn sống sót để kể lại kinh nghiệm của mình như văn hào Nga trên đây không phải là hiếm. Một viên thuốc ngủ, một mũi thuốc mê cực mạnh, nhiều người đã bị cướp mất mạng sống dễ dàng. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu goị con người ngày nay hãy xây dựng một nền văn minh của sự sống chứ không phải của sự chết. Tin Mừng hôm nay có thể được coi như một câu trả lời của lòng tin cho một vấn đề từng gây thắc mắc nơi con người thuộc mọi thời đại: vấn đề sự sống. Hai phép lạ: chữa lành bệnh người phụ nữ băng huyết và cho một bé gái 12 tuổi sống lại, đều minh chứng Đức Giêsu là chủ sự sống, là nguồn cội sự sống, vì Ngài là Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại.
Theo quan niệm của người Do Thái xưa, thì máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi chị mất dần đi, tiêu hao đi, nên coi như chị là người đã chết. Nhất là trong hoàn cảnh của chị, đau khổ không chỉ vì bệnh kéo dài, tiền mất tật mang, mà còn khổ về mặt tinh thần, vì tập quán tôn giáo xã hội coi những người mắc chứng bệnh này, cũng như bệnh cùi, bệnh hủi, khinh khi. Phải nói là người phụ nữ bị băng huyết này coi như đã chết hai lần, cả về mặt sự sống thể xác lẫn về mặt đời sống tinh thần. Phép lạ Chúa Giêsu làm đã cứu thoát chị, đã đem lại cho chị một cuộc sống dồi dào, cả trong ý nghĩa được sát nhập lại vào trong lòng cộng đồng tôn giáo.
Còn trong phép lạ Chúa Giêsu làm cho em bé sống lại, thì chúng ta thấy hành động của Chúa Giêsu vượt xa điều mà gia đình ông Giairô, trưởng hội đường, mong đợi: khi con gái duy nhất của ông hấp hối, ông đã chạy đi cầu cứu với Chúa Giêsu, vì ông tin rằng Ngài có thể cứu con ông khỏi cái chết. Nhưng khi hay tin con đã chết rồi, thì ông không còn hy vọng nào nữa, không còn muốn làm phiền Chúa Giêsu đến nhà làm gì nữa. Chúa Giêsu phải nâng đỡ tinh thần và niềm tin của ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Và phép lạ đã được thực hiện, trước nỗi kinh ngạc và hạnh phúc của gia đình ông. Trưởng hội đường, kinh ngạc và sung sướng đến nỗi ông và gia đình quên cả việc chăm sóc đến con gái của mình, khiến Chúa Giêsu phải nhắc khéo: “Hãy lo cho cô bé ăn đi!”.
Trong tất cả hai phép lạ, chúng ta đều thây nổi bật lên một yếu tố nối liền giữa Chúa Giêsu và người được phép lạ: đó là lòng tin. Người phụ nữ bị băng huyết, sau khi chạy thầy chạy thuốc không khỏi, mà lại nghe nói về quyền phép của Chúa Giêsu, thì dần dần trong lòng chị hình thành một niềm tin mạnh mẽ: “Tôi mà sờ được áo Ngài thôi, là sẽ được khỏi bệnh”. Chính lòng tin mạnh mẽ đó đã giúp chị vượt qua moị tập quán, mọi nếp suy nghĩ và quan niệm tôn giáo có tính trói buộc và cản trở con người, để mạnh dạn đến gần Chúa Giêsu. Chinh lòng tin mạnh mẽ đó đã như khiến quyền năng của Chúa Giêsu không thể từ chối được: “Chúa Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”.
Lòng tin của ông Giairô cũng là yếu tố quan trong để Chúa Giêsu là cho con ông sống lại. Chắc chắn lòng tin của ông đã được hỗ trợ bằng chính câu chuyện người phụ nữ lành bệnh, cũng như đã được nâng đỡ bởi lời khuyên chủ của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, ông ạ, cứ vững tin đi!”.
Qua hai phép lạ trên, Chúa Giêsu còn bộc lộ cho thấy thế nào là Thiên Chúa, thế nào là Đấng Kitô của Thiên Chúa và loan báo một thời đại mới, thời đại cứu độ mà các Ngôn Sứ đã loan báo. Trước hết, Thiên Chúa là chủ sự sống, ban phát sự sống cho con người và muôn loài vật. Riêng đối với con người, thì không chỉ là đời sống vật chất, tinh thần mà còn cả đời sống ân sủng, đời sống làm con cái Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình sáng tạo và cứu độ, Thiên Chúa đã hiến dâng cho loài người tất cả, kể cả Người Con yêu dấu, Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Đức Giêsu có sứ mạng bộc lộ về Thiên Chúa, thực hiện chương trình của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa những gì đã hư mất, là tìm đến với người đau ốm cần thầy thuốc. Ngài luôn quan tâm đến mọi nhu cầu cụ thể của con người. Ngài cúi mình ghé mắt nhì xem nhu cầu cụ thể của con người Ngài gặp: anh què, anh mù, chị phụ nữ bị băng huyết cũng như chị phụ nữ ngoại tình, người bị quỷ ám, con trai bà goá thành Naim, cũng như con gái ông Giairô. Tất cả những khổ đau, tật nguyền đều có âm hưởng mạnh mẽ trong tâm hồn Chúa Giêsu Kitô. Chính vì mang trong mình trái tim của Thiên Chúa, nguồn sống của Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã cứu chữa người này, bình phục người kia, hồi sinh người khác, đem lại phẩm giá và sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ, coi rẻ. Đối với Chúa Giêsu, không hề có một tiêu chuẩn nào để lại bỏ, vì tất cả thuộc về gia đình Thiên Chúa. Điều duy nhất ngài đòi hỏi là lòng tin của chúng ta nơi quyền năng và lòng thương của Ngài.
Lòng tin của chúng ta đối với Thiên Chúa là nguồn gốc, là chủ sự sống sẽ dẫn chúng ta đến một thái độ tất yếu này là: chúng ta phải biết tôn trọng sự sống, bảo vệ và phát triển sự sống. Không phải chỉ sự sống thể xác mà cả sự sống tinh thần và sự sống tâm linh nữa. Không chỉ sự sống nơi mình, mà còn sự sống nơi người khác, nơi dân tộc khác nữa.
Thế nhưng, chung quanh chúng ta không biết bao nhiêu sự sống con người đang bị xâm phạm, chà đạp, cách này hay cách khác. Bao nhiêu trẻ em không được quyền sinh ra, không có được những điều kiện thiết yếu nhất về vật chất, tinh thần, để sống một cuộc sống cho ra người.
Chúa Giêsu đã sinh ra làm người là để cho con người được sống và sống một cách dồi dào. Nhưng sự sống của chúng ta đón nhận từ nơi Chúa sẽ không trọn vẹn, nếu chúng ta chưa thực sự chia sẻ sự sống ấy cho những người chung quanh. Bao lâu nhiều người anh em chung quanh chúng ta chưa được sống xứng với phẩm giá con người, bao lâu niềm vui và quyền được sống như những con người vẫn còn bị khước từ nơi nhiều người đang sống bên cạnh chúng ta, thì có lẽ chính chúng ta cũng không thể nào hưởng được một cách dồi dào sự sống mà Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta.
51. Chúa Giêsu tiếp tục làm phép lạ
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Trái bom nguyên tử nổ ra vào lúc 8 giờ 10 phút, sáng ngày mồng 6 tháng 8 năm 1945. Biến cả thành phố Hi-rô-shi-ma thành tro bụi và giết chết 80.000 người cùng một lúc. Ngôi nhà của chúng tôi là một trong những ngôi nhà chưa bị sụp đổ, nhưng ở trong một điều kiện hết sức tồi tàn: không còn cửa ra vào, các cánh cửa đã bị cơn gió cực mạnh tạo ra do vụ nổ, cuốn đi hết. Chúng tôi chuyển sang ở bệnh viện, nơi tiếp đón, chăm sóc và giúp đỡ cho 200 nạn nhân.
Ngày hôm sau, mồng 7 tháng 8, vào lúc 5 giờ sáng, tôi đang dâng thánh lễ ở nhà, trước khi bắt đầu công việc cứu giúp những người bị thương và chôn cất những người chết. Trong những giây phút càng bi thảm, người ta càng gần Thiên Chúa hơn, người ta càng thấy cần thiết phải giúp đỡ nhau, khung cảnh thực không thích hợp cho việc sốt sắng thánh lễ. Nhà nguyện thì một nửa đã bị phá hủy, chật ních những người bị thương nằm chen chúc nhau trên mặt đất. Họ đau khổ ghê gớm và quằn quại vì đau đớn. Tôi bắt đầu dâng lễ như tôi có thể, giữa đám người không có chút ý niệm về những gì diễn ra trên bàn thờ: họ là những người ngoại đạo chưa bao giờ tham dự thánh lễ. Tôi không thể nào quên được cái cảm giác bàng hoàng khi quay lại phía họ để chúc: “Chúa ở cùng anh chị em.” Hồi đó, các linh mục làm lễ quay mặt lên bàn thờ. Không thể cử động được nữa, tôi đứng như người bất toại, hai tay dang ra, nhìn ngắm tấm thảm kịch này của nhân loại. Cảnh tượng thật hãi hùng! Vài phút sau, Đấng mà thánh Gio-an Tẩy Giả đã nói: “Ở giữa anh em có một Đấng mà anh em không biết”, ngự xuống bàn thờ. Chưa bao giờ tôi cảm nhận được sự cô độc của những người không biết Chúa Giê-su Ki-tô như lúc ấy. Cứu Chúa của họ đang hiện diện ở đó. Đấng đã hiến mạng sống cho họ… nhưng họ lại không biết “Không biết Ngài ở giữa họ” (Ga 1, 26). Lúc đó, chỉ có tôi biết Ngài. Tự nhiên tôi thốt lên lời nguyện cầu cho những kẻ tàn ác dã man đã ném bom nguyên tử: “Lạy Chúa, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”, và cho những người nằm xoài trước mặt tôi đang quằn quại vì đau đớn: “Lạy Chúa, xin ban cho họ niềm tin để họ thấy và xin ban sức mạnh để họ chịu đựng đau khổ”. Khi nâng tấm bánh lên trước mặt những thể xác đầy thương tích và rách nát này, tôi kêu lên tự đáy lòng: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa Con, xin thương xót đoàn chiên không có chủ chăn này!” (Mt 9, 36; Mc 6, 34). “Lạy Chúa, để họ tin vào Chúa, xin hãy nhớ họ cũng là những người cần phải nhận biết Chúa” (1 Tm 2, 4).
Những dòng thác ân sủng chắc chắn đã tuôn chảy từ tấm bánh và bàn thờ. Sáu tháng sau, khi đã được chữa lành, tất cả đã từ giã nhà dòng chúng tôi (chỉ có hai người đã chết ở đó), nhiều người trong số họ đã lãnh nhận bí tích rửa tội. Tất cả họ đều nhận ra đức ái Ki-tô giáo thì thông cảm, giúp đỡ, đem lại niềm an ủi vượt trên mọi nâng đỡ con người. (Phê-rô Arrupe, S.J, Thánh Thể trong đời tôi)
Tin Mừng Chúa nhật 13 thường niên hôm nay, thánh sử Máccô tường thuật người phụ nữ bị hoại huyết 12 năm, âm thầm chạm tay vào áo Đức Giêsu được chữa lành. Rồi con gái của ông Giaia, Trưởng hội đường đã chết, được Người cầm tay, truyền lệnh chỗi dậy, tức thì cô bé 12 tuổi sống lại. Cả hai phép lạ đều có chung mẫu số, đó là niềm tin vững chãi và mãnh liệt, niềm cậy trông hoàn toàn vào quyền năng Thiên Chúa.
Chạm tay
Giữa đám đông chen lấn đến với Đức Giêsu, biết bao người chạm tay vào vạt áo Người, thế mà chỉ có một mình người đàn bà đã chịu 12 năm băng huyết, vô phương cứu chữa, được khỏi bệnh tức thì. Trong khi biết bao người khác cũng có thể bị bệnh này chứng kia về thể xác hay tinh thần, cũng chạm tay vào áo Người, đều không được chữa lành. Chỉ vì người đàn bà bệnh hoạn đó đã hoàn toàn đặt niềm trông cậy, niềm hy vọng tột cùng vào Chúa: “ Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” Một sự khẳng định chắc nịch và dứt khoát, không mảy may cân nhắc, so đo, do dự, cũng không một chút nghi ngờ, lưỡng lự, cầu may.
Chạm tay vào áo Đức Giêsu là thể hiện công khai tâm tình phó thác, cùng tuyên xưng niềm tin, niềm cậy trông và tình mến vào Chúa. Không hề e ngại thế gian săm soi, dè bỉu, chê cười, không sợ những thế lực thù địch với Chúa hăm dọa, hãm hại, gây khó dễ, cấm cản, không lo sợ các thầy tư tế, luật sĩ, kinh sư, Biệt Phái mất lòng, kết án. Trước thái độ mau mắn khiêm nhường và cung kính của người đàn bà được chữa lành, Đức Giêsu hân hoan chứng nhận tấm lòng thành khẩn và ân cần chúc phúc: “Này con, lòng tin của con đã cứu con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”
Chạm tay vào áo Đức Giêsu, mỗi khi người Kitô hữu sốt sắng, chăm chú đọc và nghe Lời Chúa, mỗi khi kính cẩn đón rước Thánh Thể, hay tôn kính chầu Mình Thánh Chúa, mỗi khi thành khẩn lãnh nhận các phép Bí tích, mỗi khi thành tâm nghe giảng dạy Tin Mừng… Người Ki tô hữu cũng có thể noi gương người đàn bà bị bệnh kia, chủ động chạm vào áo Chúa Giêsu, khi cầm lòng, cầm trí cầu nguyện, suy gẫm, kinh nguyện, cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Lòng Thương Xót vô ngần của Thiên Chúa.
Tất cả những ai đặt trọn niềm tin vào Người đều được chữa lành khi cố gắng luôn gần gũi, tiếp cận bên Người. Có khi Người chữa lành thể xác, hay tâm hồn, hoặc nhiều khi cả hai. Điển hình, Chúa Giêsu vẫn còn đang phép lạ, đã cứu chữa cả thể xác lẫn linh hồn gần 200 nạn nhân bom nguyên tử kể trên, ban cho họ vinh hạnh trở nên con cái Thiên Chúa.
“Từng ngàn bệnh nhân trong nhà thánh Cottolengo có một nét đặc biệt trên khuôn mặt, lâu lâu máy vi âm lại dịu dàng nhắc: ”Chúng ta đang ở bên Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 232)
Cầm tay
Đức Giêsu vừa chữa lành và đang an ủi người đàn bà hoại huyết, thì người nhà ông Giaia, Trưởng hội đường, báo tin con gái ông đã chết, đừng làm phiền Người nữa. Đức Giêsu liền trấn an: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” Người đến tận giường, cầm tay cô bé ra lệnh: “Talithakum,” nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Chỗi dậy đi.” Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Thoạt đầu, ông Giaia chỉ cầu xin Đức Giêsu đến đặt tay lên, cứu chữa cháu bé đang hấp hối. Nay Người còn làm hơn thế nữa, ân cần, chủ động và thân thương cầm lấy tay để hồi sinh cháu.
Trong ba phép lạ cho sống lại, như Lazarô (Ga 11, 43-44), con trai bà góa thành Nain (Lc 7, 12-15) và con gái ông Giaia, (Mc 5, 41) thì chỉ có duy nhất lần này, Người cầm lấy tay cô bé cho hồi sinh, y như Người đã cầm tay nhạc mẫu ông Phêrô, chữa khỏi cơn sốt, (Mc 1, 31) cầm tay dắt anh mù ra khỏi làng, rồi cho anh sáng mắt, (Mc 8, 23) cầm tay đứa trẻ chữa khỏi quỷ ám. (Mc 9, 27)
Chạnh lòng cầm tay người hoạn nạn, Đức Giêsu chứa chan yêu thương, tràn trề lòng thương xót, ân cần cứu thoát khỏi bệnh tật, khỏi ma quỷ, khỏi cái chết. Người vẫn cầm tay từng người dẫn dắt khỏi chốn nguy khốn, khỏi cám dỗ xác thịt, khỏi tội lỗi bùn nhơ, khỏi án phạt chết muôn đời, những ai tin vào Người, không phân biệt thân sơ, không giới hạn sang hèn, chẳng kỳ thị dân tộc.
“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23).
Đức Giêsu cầm lấy tay cứu giúp những ai trông cậy, tin tưởng vào Người khỏi cơn gian nguy, chết chóc. Người làm gương cho những ai theo Người, biết cầm tay tha nhân an ủi, cứu chữa, giúp đỡ và phục vụ. Người dạy Kitô hữu biết chủ động dấn thân phục vụ bằng hành động cụ thể, thân thiện và trịnh trọng cầm lấy tay những người khó khăn, gặp nạn, bị xã hội bỏ rơi, khinh khi, oán nghét để ân cần chia sẻ, quan tâm, giúp đỡ, tương thân, tương ái.
“Đây là bằng chứng để ta biết được lòng mến: Là Đấng ấy đã thí mạng vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng vì anh em. (1Ga. 3,16). Con hỏi Cha: “Đâu là mức độ dấn thân?” “Hãy làm như Chúa Giêsu: Thí Mạng.” Nếu con tuyên bố rùm beng, hoạt động khơi khơi, sống đạo lè phè, con sợ cực, sợ nghèo, sợ tù, sợ chết… Nếu con dấn thân lối: “Cứu viện cho người thắng trận,” thì thôi, nên dẹp tiệm. Đó là “dấn thân trá hình,” “dấn thân thương mại.” (Đường Hy Vọng, số 612)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn chạm tay vào áo Người, để được an ủi và cứu chữa. Cũng xin Chúa dạy chúng con biết chạm tay phục vụ tha nhân, chứ không chỉ nói suông, hay a dua làm từ thiện theo phong trào.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, hướng dẫn chúng con noi gương Mẹ, luôn biết cần mẫn tìm đến Chúa, cũng như luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân trong suốt cuộc đời. Amen.
52. Kẻ ăn trộm phép lạ - AM Trần Bình An
Tại thành phố Pleiku, ngày 28/9/2004, một xác thai nhi đỏ hỏn đã tím tái, bọc sơ sài trong giấy báo, được đưa đến Lm Phêrô NVĐ, Quản xứ Thăng Thiên, để được chôn cất tại nghĩa trang Đồng Nhi. Khi Lm vừa mở gói giấy báo ra, dù mắt còn chưa kịp mở, thai nhi liền mừng rỡ giơ bàn tay bé xíu, nắm lấy ngón tay vị Chủ Chiên, tìm chút hơi ấm tình người,. Ngài thân thương đặt tên bé là Nguyễn Trung Thu, vì bé bị sát hại đúng vào ngày rằm Tháng Tám, mỉa mai thay Tết nhi đồng.
Câu chuyện đau xót này, gợi chúng ta liên tưởng đến bàn tay Chúa Giêsu, nắm lấy tay em bé cũng đã chết. Ngài truyền lệnh ”Talithakum” có nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con hãy chỗi dậy đi!” Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi.” (Mc 5, 41-42)
Trước đó, một bà cụ bị rong huyết đã mười hai năm, bao phen khốn khổ vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều, đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. (Mc 5, 25-26). Bà đã thừa cơ đông người chen lấn, đụng vào vạt áo Chúa Giêsu, liền được khỏi bịnh. Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã khéo léo ví von, bà đã lén lút như Kẻ Ăn Trộm Phép Lạ.
1- Khiêm hạ
Thái độ của ông Giaia, Trưởng hội đường, khiêm cung, sụp lạy cầu xin Chúa Giêsu cứu giúp con ông sắp chết, cũng như thái độ bà cụ bệnh mãn tính ao ước được chữa lành, đã phủ phục trước mặt Người, đều chứng tỏ lòng khiêm tốn sâu xa. Nhân đức luôn được Chúa đề cao và tưởng thưởng.
2- Phó thác
Không những tha thiết chạy đến với Chúa, hai người đó còn hoàn toàn phó thác, tin cậy vào Chúa Giêsu. Mặc dù được biết đứa con gái đã chết, ông Giaia vẫn một lòng trông cậy vào Chúa đến cứu giúp, không hề ngã lòng. Mặc dù không dám đối diện với Chúa, vì mặc cảm ô uế, bà cụ vẫn một mực ao ước được gần gũi, được chạm vào vạt áo Chúa, để được chữa trị.
3- Đức tin
Chính vì đặt hết niềm tin vững mạnh vào Chúa, bà cụ và ông Giaia đều được Chúa cứu giúp. “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi bệnh.” (Mc 5, 34) Với ông Giaia, cũng với điều kiện duy nhất, Chúa phán: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!” (Mc 5, 36)
4- Quyền năng Thiên Chúa
Trước bênh hoạn và cái chết, Chúa Giêsu đã tỏ ra quyền năng tuyệt đối trên những sự dữ. Ngài đã chống lại cái chết, cũng như tiên báo cho ngày Chúa chiến thắng sự chết, mà Phục Sinh vinh hiển. Ngài cũng giải phóng con người khỏi cái chết đời đời, nếu tin cậy vào Ơn Cứu Độ.
Lạy Chúa Giêsu nhân ái, xin mở lòng trí con, luôn biết gần gũi với Chúa mọi nơi, môi lúc, khi gặp tha nhân, khi nghe Lời Chúa, khi rước Thánh Thể, để đặt hết niềm tin cậy vào Ngài, hầu được Ơn Cứu Rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con luôn biết khiêm hạ, tin cậy, tín thác vào quyền năng vô biên của Chúa, để con được sống trong cõi phúc đời đời. Amen.
53. Nguồn sống
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Bệnh tật và chết là hai thực tại của cuộc sống. Không ai sống mạnh khoẻ suốt đời, ít nhiều gì cũng có bệnh. Có sinh tất có tử, không ai có thể tránh khỏi. Bệnh thể lí dễ nhận ra bởi nó xuất hiện trên khuôn mặt, có thể dò, đo, hỏi, tìm biết nguyên nhân gây mầm bệnh. Bệnh về tâm linh khó nhận ra bởi bệnh tâm linh tiềm ẩn bên trong nên không dễ nhận bằng quan sát. Thinh lặng, cầu nguyện và lắng nghe tiếng lòng là chìa khoá mở tìm kiếm bệnh tâm linh. Cuộc sống nào cũng cần đời sống tâm linh. Không tin Chúa thì tin thần thánh. Chối bỏ thần thánh thì tin vào con người, tin chủ thuyết, trường phái hay chế độ, vì thế phát sinh ra nhiều trường phái linh đạo khác nhau. Phổ thông và có nhiều thành viên hơn cả là trường phái linh đạo đòi ít cố gắng, vừa nhàn lại dễ dãi. Đúng với tên gọi của nó, trường phái linh đạo dễ dãi giúp cuộc sống an bình trong hoàn cảnh dễ dãi. Gặp hoàn cảnh khó khăn trường phái linh đạo dễ dãi không giúp giải quyết vấn nạn cuộc sống. Đây chính là kinh nghiệm của người phụ nữ bệnh loạn huyết và cũng là kinh nghiệm của người cha thương con khi con ông đối diện với cái chết. Cả hai cùng ra đi, dời khỏi nơi nương náu an toàn trước đây đến gặp Đức Kitô. Cả hai xin được cứu giúp và Đức Kitô đã ban cho cả hai được toại nguyện, thoả lòng. Khiêm nhường và chân thành là con đường dẫn đến Đức Kitô.
Cả hai đều đặt tin tưởng vào bác sĩ và cải hai đều nhận biết chính họ cũng có giới hạn. Người phụ nữ theo bác sĩ lòng, hết tiền, hết tài sản, không hết bệnh, đã vậy bệnh còn nặng thêm. Người con gái ông trưởng hội đường cũng không may mắn hơn, bệnh không khỏi, bác sĩ lắc đầu chào thua. Phó mặc em bé cho cái chết tiến gần. Cuối cùng cả hai dấn thân, ra đi, không còn người trần gian nào giúp được nên họ đến gặp Con Thiên Chúa, Đức Kitô. Cả hai đều biểu lộ lòng tin một cách đáng thán phục, đáng ca tụng. Mỗi người biểu lộ lòng tin của mình một cách khác nhau. Người phụ nữ tin là sờ vào gấu áo Đức Kitô sẽ khỏi bệnh. Ông trưởng hội đường không phải chỉ tin 'còn nước, còn tát' theo kiểu nói bình dân. Tin buồn đưa đến là con ông đã chết. Dẫu thế ông vẫn tin Đức Kitô là nguồn ban sự sống. Sự sống Ngài ban làm cho kẻ chết sống lại.
Người phụ nữ thầm cầu mong nếu không được chạm đến Ngài, chỉ cần sờ vào gấu áo Ngài cũng sẽ khỏi bệnh và bà ta được toại nguyện. Sờ vào gấu áo Đức Kitô bà cảm nhận ơn chữa lành tại chỗ. Đức Kitô biết có người âm thầm sờ gấu áo bởi Ngài biết ân sủng lan toả ra nên Ngài hỏi các môn đệ 'ai đã sờ gấu áo tôi' c.30. Các ông ngạc nhiên thưa 'Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: 'ai đã sờ vào tôi' c. 31. Biết không thể giữ kín điều đã làm người phụ nữ sợ hãi đến trước mặt Đức Kitô quì gối nhận chính bà đã sờ gấu áo và xin ơn khỏi bệnh. Đức Kitô nói với bà bởi do lòng tin bà được nguồn sống. Bà cùng lúc nhận được ba ơn Chúa ban đó là ơn chữa lành, ơn bình an và ơn giải thoát c.34.
Ông trưởng hội đường còn đang nói chuyện với Đức Kitô thì gia nhân đến thưa: 'Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa c.35. Đức Kitô an ủi ông: 'Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi' c.36. Vào đến nhà Đức Kitô nói với người đang khóc: 'Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy c.39' và người ta chế nhạo Người. Đức Kitô cầm tay kẻ chết và nguồn sống từ Ngài truyền sang em bé. Em đứng dậy đi lại bình thường. Ngày nay cũng có người chế nhạo khi Kitô hữu tin là Thiên Chúa tạo dựng đất trời, điều khiển mọi sinh hoạt trong trời đất và ban cho chúng sự sống. Chế nhạo lòng tin của Kitô hữu để tin vào khám phá tìm kiếm của khối óc con người, mệnh danh là khoa học. Thủ hỏi nếu Thiên Chúa không tạo dựng vũ trụ khoa học có gì để nghiên cứu không? Chắc chắn môn khoa học đã không ra đời.
Chữa bệnh cho người phụ nữ và cho con gái ông trưởng hội đường cho thấy Đức Kitô không loại trừ bất cứ ai, ân sủng Ngài ban cho bất cứ ai thành tâm. Ân sủng Chúa vượt biên giới, mầu da, sắc tộc và ngay cả chủ thuyết. Những ai thành tâm đến với Ngài đều không phải trở về tay không nhưng nhận được nhiều hơn điều mong ước.
54. Đời sống - Lm. Vũ Đình Tường
Mỗi sáng thức dậy chúng ta cảm nghiệm một ngày mới và rồi bắt đầu ngày mới với công việc cũ, một ngày bình thường như mọi ngày. Chúng ta ý thức ngày mới trong tuần, ngạc nhiên ngày đầu tháng đến mau và nghỉ làm để mừng ngày đầu năm mới. Đối với con người ngày đầu năm mang ý nghĩa đặc biệt nhưng với thiên nhiên có lẽ ngày đầu năm cũng chẳng khác chi bởi cứ theo chu kì, xoay vần của trời đất mà ngày này qua đi, ngày khác lại đến; mùa này qua mùa khác đến.
Thực ra mỗi ngày mới đều khởi đầu bằng cuộc sống mới bởi ngày cũ đã qua đi, không thể lập lại. Dù làm công việc cũ, việc thường ngày nhưng ngày mới vẫn có cái mới mẻ của nó. Mừng ngày mới mà quên mừng cuộc sống mới là một thiếu sót quan trọng bởi dù ta sống hay chết ngày mới vẫn đến. Ngày mới khởi đầu bằng cuộc sống mới nên cần đón mừng cuộc sống mới mỗi ngày. Không phải tất cả mọi người tối đến đi ngủ sáng mai đều thức dậy đón ngày mới cả đâu. Vì thế mỗi tối đi ngủ tương tự như ta đi vào cõi âm, bóng tối của sự chết và sáng hôm sau thức dậy ta bước ra từ bóng tối màn đêm tiến vào ánh sáng ban mai, huy hoàng. Bỏ lại ngôi mộ trống với chăn màn dùng qua đêm. Kitô hữu ý thức điều đó nên mỗi sáng thức giấc họ đều mừng ngày mới với cuộc sống mới. Việc đón mừng đời sống mới với lời kinh nguyện ban mai nghe rất đơn giản nhưng ý nghĩa của nó cao sâu, nhiệm màu. Cao siêu vì lời kinh đó nói lên tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho một đêm ngủ yên lành. Cao siêu vì chúng ta nhận biết mọi sự ta có là của Chúa ban, kể cả giấc ngủ đêm qua. Chúng ta không làm chủ đời mình và tài năng mà chỉ là người quản lí cuộc đời được Chúa tin tưởng, phó thác, trao ban cho chúng ta coi sóc, quản lí. Dâng ngày mới, đời mới cho Chúa giữ gìn, bảo vệ, hướng dẫn tư tưởng và bước đường ta đi đồng thời giúp ta tránh khỏi nguy hiểm, sa ngã cạm bẫy cuộc đời là tìm sự khôn ngoan, hướng dẫn, bảo vệ nơi Chúa của người Kitô hữu. Mỗi ngày chúng ta dâng Chúa tâm tình, tin yêu và cảm tạ mong ơn Chúa thánh hoá giúp chúng ta trở nên giống Chúa nhiều hơn. Chúng ta dâng ngày mới cho Chúa mỗi ngày, và long trọng hơn mỗi tuần một lần nơi thánh đường với anh chị em khác và hai lần tối long trọng hàng năm vào dịp Phục Sinh và mùa Giáng Sinh để cảm tạ Chúa ngày mới với cuộc đời mới Chúa ban và kết hợp với cuộc sống Phục Sinh và vinh quang của Đức Kitô sống lại từ cõi chết.
Jairus trường lãnh binh Đền Thờ tin Đức Kitô có quyền trên sự sống và người phụ nữ mắc bệnh kinh niên tin Đức Kitô có quyền trên các bệnh nan y mà con nguời bó tay không thể chữa trị. Cả hai đã đúng và cả hai tin mãnh liệt vào quyền phép Đức Kitô và cả hai đều được đúng ơn họ xin. Họ tin Đức Kitô quyền phép làm được những sự việc cao cả nhưng vẫn không biết Đức Kitô còn biết rõ tâm tư thầm kín họ. Vì thế người phụ nữ thầm tín nếu bà ta đụng vào gấu áo Đức Kitô bệnh của bà sẽ khỏi. Một mình bà biết điều đó. Bà thì run sợ còn môn đệ thì ngạc nhiên khi Đức Kitô nói ai đã chạm đến gấu áo Ngài.
Là môn đệ Đức Kitô với niềm tin mãnh liệt vào Ngài cũng được hưởng những đặc ân như vị lãnh binh đền thờ và như người phụ nữ bệnh kinh niên. Dù đôi khi không cảm nghiệm, dù không bao giờ nhìn thấy nhưng với lòng tin chúng ta biết Đức Kitô luôn đồng hành cùng ta trong mọi bước đường của cuộc sống và Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng trên đường đời.
55. Thầy thuốc tối cao – Arthur Tone.
Bác sĩ George Lewell đã nhiều năm làm nhà truyền giáo y khoa cho phái Tin lành Southern Baptist ở Trung Quốc. Truyền giáo y khoa là một bác sĩ, tá viên hay một người nào đó được huấn luyện để đầu tư thời giờ, tài năng vào việc chữa trị đau đớn thể xác như một phương thế để đem linh hồn người ta về cho Đức Kitô.
Bác sĩ Lewell nói về một bà lớn tuổi, bà được đem vào bịnh viện Stout Memorial ở Quảng Đông, mà ông là bác sĩ giải phẫu trưởng. Một ai đó đã nói với bà bệnh nhân rằng Đức Giêsu là bác sĩ sẽ chữa lành bà, nên khi bà thấy bác sĩ trong bộ đồ trắng cúi xuống trên bà, bà nhìn lên bác sĩ và hỏi: “Ông là Giêsu?”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô kể rằng: “Một người đàn bà bị băng huyết, đã 12 năm. Nàng đã chạy chữa nhiều thầy thuốc, và tốn kém hết tiền bạc mà không giảm bớt, nhưng còn trầm trọng hơn. Mặc dù đám đông chen lấn nhau quanh Chúa Giêsu, nàng cũng ráng chen vào gần, với tay đụng tới gấu áo của Chúa, với hy vọng được chữa khỏi. Đức Giêsu biết có sức mạnh từ người phát xuất. Người quay về phía người đàn bà mắc bệnh và nói: “Hỡi con, đức tin của con đã làm cho con tất cả. Con về bình an và khỏi bệnh”.
Người đàn bà này tượng trưng cho chúng ta, những người đã một vài lần phải đi bác sĩ, hay ít nhất chúng ta cũng dẫn một người thân thương đi bác sĩ.
Như những người theo Chúa Kitô, bạn và tôi có lợi và sự nâng đỡ đặc biệt khi phải cầu cứu bác sĩ hay thầy thuốc. Khi bạn hay một người thân yêu, hoặc người bạn phải đến bác sĩ, bạn hãy tín nhiệm, cộng tác và tin cậy họ như một dụng cụ của Chúa. Một bác sĩ giỏi, tài ba, cũng chỉ có giới hạn. Vì lý do đó, khi bạn phải tìm một bác sĩ, bạn phải đến với Chúa trước. Hơn nữa, trên mọi khả năng, tài khéo của một bác sĩ giỏi nhất, Đức Kitô vẫn còn chữa lành một cách mầu nhiệm.
Khi bạn phải đi bác sĩ, bạn nhớ dâng lời cầu nguyện lên Đức Kitô, Đấng chữa lành để bạn chọn đúng một bác sĩ. Để nhờ ơn Chúa. bác sĩ định bệnh và cho bạn liều thuốc hiệu nghiệm. Ngay cả trước khi bạn phải đi bác sĩ, bạn nhớ cám ơn Chúa về sức khỏe hằng ngày của bạn. Thường thường, người ta chỉ thấy sức khỏe là quý giá sau khi đã mất nó.
Không như người phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay. Bà đến với các thầy thuốc trước, chỉ sau cùng, thất vọng, bà buộc phải tìm đến và đụng tới Đức Kitô. Bạn và tôi sẽ đến với Đức Kitô trước và trong khi được bác sĩ chữa trị.
Chúng ta tiếp xúc với Đức Kitô trong mỗi phép bí tích, nhất là trong Thánh Lễ và Rước Lễ. Chúng ta không như những người tin càn dở, họ chối bỏ mọi phương pháp trị liệu y khoa. Trái lại chúng ta dùng mọi phương pháp y học nhưng không quên chạy đến Đấng có thể chữa lành mọi bệnh tật là Đức Giêsu Kitô, Chúa mọi thiện hảo, nhất là Chúa mọi sức khỏe linh hồn và thể xác.
Ước gì chúng ta có được niềm tin của người phụ nữ trong bài Tin Mừng. Ước gì Đức Giêsu khen thưởng niềm tin của chúng ta bằng ơn trợ giúp nhân từ và quyền năng của Người.
Xin Chúa chúc lành bạn.
56. Lòng tin của con đã cứu con.
Có chuyện kể rằng Đức Giêsu và một thanh niên đồng hành trên bãi biển. Bốn dấu chân in hằn trên cát. Nhưng lúc gặp chuyện khó khăn, chàng thanh niên nhìn xuống chỉ còn thấy có hai dấu chân thôi. Anh kinh ngạc kêu lên:
- Thưa Thầy, nãy giờ Thầy đi đâu mà để con bước một mình? Đức Giêsu nhỏ nhẹ bảo anh:
- Con nhìn kỹ xem đó là dấu chân của ai nào?
Nhìn kỹ lại, chàng thanh niên mới thấy đó là dấu chân của Chúa.
Anh la lên:
- Vậy thưa thầy, nãy giờ con ở đâu?
Đức Giêsu trả lời:
- Này con, những lúc gặp khó khăn, Thầy biết con không đủ sức chịu đựng, vì thế Thầy đã vác con trên vai đó.
Thực sự, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi kẻ tin cậy Người, nhất là khi thấy niềm tin của ta bị thử thách quá sức, Chúa liền tạo điều kiện để chúng ta vượt qua. Người vác ta trên vai, có nghĩa là triệt để nâng đỡ ta, ngoài sức tưởng tượng của ta.
Người phụ nữ bị hoại huyết trong Tin Mừng hôm nay được chữa lành hoàn toàn do lòng thương của Chúa. Dĩ nhiên, muốn được chữa lành, người ta phải biểu lộ lòng tin. Mà bệnh nhân này theo luật Môisê, là một người ô uế, không được ra trước công chúng, làm sao dám đến xin Chúa chữa bệnh cho mình. Chúa đã soi sáng cho bà, và bà hiểu chỉ cần biểu lộ lòng tin một cách nào đó, cũng hy vọng được ơn lạ. Nghĩ thế, bà đã len lỏi phía sau Chúa, lén chạm vào áo Chúa, và sự lạ đã xảy ra: bà được khỏi bệnh.
Người bệnh chạm vào Chúa là đã vi phạm luật cấm. Nhưng bà nghĩ rằng giữa đám đông chen lấn như thế ai mà biết được. Chính các môn đệ cũng ngạc nhiên khi nghe Chúa hỏi xem đã có ai đụng chạm vào Ngài. Còn Chúa, Ngài biết rõ mọi chuyện. Thay vì lặng thinh để khỏi bị tai tiếng vì đã chạm tới một phụ nữ ô uế, Chúa lại muốn đưa sự thật ra ánh sáng, để mọi người thấy lòng tin của bệnh nhân và thấy rằng Chúa hài lòng với một lòng tin như thế. Nhờ lòng tin, người bệnh chẳng những được chữa lành, lại còn được ơn cứu độ, đó là ơn cao quí hơn được lành bệnh thể lý, và đó là điều Chúa quan tâm hàng đầu. Nhân dịp này, Chúa đã dạy các môn đệ một bài học mà sau này Thánh Phaolô đã khai thác và viết thư khuyên dạy các Giáo đoàn: Nhờ đức tin mà có ơn cứu độ.
Khi Chúa đòi hỏi phải có lòng tin, Người không đòi hỏi quá đáng. Chỉ cần ta thực tâm và cố gắng rồi Chúa sẽ tạo điều kiện cho chúng ta biểu lộ lòng tin và ban thưởng cho lòng kiên trì của ta, dù đó là những phấn đấu nội tâm thầm kín.
Lạy Chúa, xin giúp con biết tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, biết âm thầm cố gắng biểu lộ lòng tin trong cuộc sống, mặc dầu chỉ mình Chúa biết mà thôi.
57. Cộng tác viên không phải bù nhìn – Lm. Mark Link
Một cơn lụt khủng khiếp đã tràn ngập cả một vùng rộng lớn. Một bà bị kẹt ở trong nhà. Khi đang đứng ở cửa sổ nhà bếp trông ra ngoài, bà thấy có một chiếc ca-nô tiến đến.
Người tài công nói với bà:
- “Bà leo lên đây và cứu lấy mình.”
- “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa, Người sẽ cứu tôi.”
Người tài công lắc đầu bỏ đi. Ngày hôm sau, nước dâng lên đến lầu hai. Khi đứng ở cửa sổ lầu hai nhìn ra biển nước, một chiếc tầu khác xuất hiện. Người lái tầu bảo,
- “Bà leo lên tầu đi để cứu lấy mình.”
- “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa, Người sẽ cứu tôi.”
Người lái tầu lắc đầu bỏ đi. Ngày sau nữa, nước đã dâng lên đến mái nhà. Khi ngồi trên nóc nhà, bà trông thấy một chiếc trực thăng xuất hiện. Phi công dùng máy phóng thanh nói với bà,
- “Tôi sẽ thả thang giây xuống. Bà leo lên và cứu lấy mình.”
- “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa, Người sẽ cứu tôi.” Phi công lắc đầu bay đi chỗ khác.
Ngày hôm sau nước ngập cả căn nhà, và bà bị chết chìm. Khi lên đến thiên đường, bà nói với Thánh Phêrô, “Trước khi tôi vào đây, tôi phải làm đơn khiếu nại. Tôi tin tưởng là Chúa sẽ cứu tôi khỏi bị lụt, nhưng Người đã bỏ tôi.”
Thánh Phêrô nhìn bà với ánh mắt khó hiểu và nói, “Tôi không biết Chúa có thể làm gì hơn cho bà. Người đã gửi đến cho bà hai con tầu và một chiếc trực thăng.”
Người đàn bà này chắc phải đọc bài Phúc Âm hôm nay kỹ càng hơn.
Trong bài có hai người cần sự giúp đỡ giống như bà. Và cả hai đều tín thác vào Chúa, cũng như bà. Nhưng có sự khác biệt lớn lao giữa sự tín thác của họ và của bà.
Hãy xem đó là gì.
- Người đầu tiên là một bà bị bệnh. Bà tin tưởng rằng Đức Giêsu có thể chữa lành cho bà. Nhưng bà cũng biết rằng bà có thể làm một điều gì khác hơn là chỉ tín thác nơi Đức Giêsu. Bà phải tiến thêm một bước nữa. Bà phải thi hành phần của bà. Bà không thể chỉ ngồi đó và chờ đợi Đức Giêsu đến với bà. Bà phải đứng lên, đi đến Đức Giêsu, và tự trình bầy với Người để được chữa lành.
- Điều này cũng đúng với câu chuyện thứ hai trong Phúc Âm hôm nay. Ông Giairút cũng tin tưởng rằng Đức Giêsu có thể chữa con gái đang đau nặng của ông. Nhưng ông cũng biết là phải làm điều gì đó hơn là chỉ tín thác vào Đức Giêsu. Ông biết là phải tiến thêm một bước nữa. Ông phải thi hành phần của ông. Ông phải cộng tác với Đức Giêsu. Vì con gái của ông quá đau yếu nên không thể đến với Người, ông phải xin Đức Giêsu đến với đứa con của mình.
Và vì thế cả hai người trong bài Phúc Âm hôm nay đều thi hành điều gì đó hơn là chỉ tín thác vào Đức Giêsu. Họ đã tiến thêm một bước. Họ đã thi hành phần của mình. Họ đã tận dụng các phương tiện bình thường mà Chúa ban để có được sự chữa lành họ cần.
Đây là điểm mà bà bị chết chìm đã sai lầm. Bà quên rằng Thiên Chúa thường hành động trong đời sống chúng ta qua các phương tiện thông thường. Bà quên rằng chúng ta phải thi hành phần của mình và cộng tác với Thiên Chúa qua việc sử dụng các phương tiện thông thường mà Người đã ban cho chúng ta.
Nói cách khác, chúng ta không thể ngồi lì một chỗ và mong Chúa làm phép lạ cho chúng ta. Trước hết chúng ta phải dùng mọi phương tiện thông thường Chúa ban để tự giúp đỡ chúng ta.
Để tôi minh họa bằng một câu chuyện có thật.
Một thầy giáo Anh Văn lớp trung học có một học sinh trong lớp chẳng chịu học hành gì cả. Vào ngày thi cuối năm, người học sinh này đến nói với ông thầy là anh rất tin tưởng rằng anh sẽ được điểm cao. Anh nói, trong tuần qua, hằng đêm anh cầu xin Chúa giúp anh làm bài thi Anh Văn.
Thiên Chúa không bao giờ cho rằng sự cầu nguyện có thể thay thế cho việc học hành. Người không bao giờ cho rằng sự cầu nguyện có thể thay thế cho sự chuyên cần. Nhận được sự giúp đỡ của Chúa là một con đường hai chiều. Nó bao gồm sự cộng tác của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta phải thi hành phần của mình, và Thiên Chúa sẽ thi hành phần của Người.
Thánh Y Nhã có diễn tả sự cộng tác với Thiên Chúa như sau: “Chúng ta phải làm việc như thể mọi thứ đều lệ thuộc vào chúng ta, nhưng chúng ta phải cầu nguyện như thể mọi thứ đều lệ thuộc vào Chúa.”
Nói cách khác, chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa và tận dụng các phương tiện thông thường mà Người ban cho chúng ta trước khi xin Người can thiệp trong một phương cách bất thường. Có câu châm ngôn nói rằng: “Thiên Chúa giúp những ai tự giúp mình.”
Nhiều năm trước đây có một tiểu thuyết bán rất chạy tên là Jonathan Livingston Seagull. Trong đó có một câu thật hay được dùng làm chủ đề cho bài hát. Câu ấy như sau: “Nếu bạn yêu mến điều gì đó, bạn phải để nó tự do. Nếu bạn để nó tự do và nó trở về với bạn, thì bạn biết nó là của bạn. Nhưng nếu bạn để nó tự do và nó không trở lại với bạn, lúc ấy bạn biết rằng nó đã không thuộc về bạn ngay tự đầu.”
Đó là phương cách Thiên Chúa đối xử với chúng ta khi cần giúp đỡ chúng ta. Người đã để chúng ta tự do. Người không ép buộc chúng ta phải nhận sự giúp đỡ của Người. Mọi sự đều sẵn sàng cho chúng ta và Thiên Chúa để chúng ta được tự do có muốn sử dụng điều đó hay không.
Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những tên bù nhìn. Người đối xử với chúng ta như những cộng sự viên. Nói cách khác, Thiên Chúa ban cho chúng ta mọi tài nguyên cần cho đời sống thường ngày của chúng ta.
Chỉ khi các tài nguyên này bị hao hụt trong những hoàn cảnh khẩn cấp chúng ta thường sẽ nghĩ đến việc quay về với Chúa để được trợ giúp. Khi chúng ta quay về với Thiên Chúa trong những hoàn cảnh này, chúng ta có thể biết chắc rằng Người sẽ giúp chúng ta, vì Người là Cha chúng ta và chúng ta là con cái của Người.
Hãy chấm dứt phần suy niệm với câu trong cuốn Jonathan Livingston Seagull: “Nếu bạn yêu mến điều gì đó, bạn phải để nó tự do. Nếu bạn để nó tự do và nó trở về với bạn, thì bạn biết nó là của bạn. Nhưng nếu bạn để nó tự do và nó không trở lại với bạn, lúc ấy bạn biết rằng nó đã không thuộc về bạn ngay tự đầu.”
Lạy Chúa, trong tình phụ tử của Ngài dành cho chúng con, Ngài đã để chúng con được tự do. Xin giúp chúng con chứng tỏ tình yêu của con cái đối với Cha hiền bằng cách quay về với Chúa khi chúng con cần sự giúp đỡ đặc biệt của Ngài.
58. Chúa là Sự Sống
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sống vui, sống mãi và sống hạnh phúc, nhất là chiến thắng cái chết, không chỉ trong tư tưởng, nhưng là một khát vọng của con người ở mọi nơi mọi thời. Sự sống lại của Chúa Giêsu khẳng định, khát vọng ấy thực sự có thể, vì cái chết không phải là một phần cấu trúc sáng tạo, về nguyên lý là không thể đảo ngược, Chúa là Sự Sống: "Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết…" (Kn 1,13).
Bởi ác quỉ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian (x. Kn 1, 13-15), nhưng Thiên Chúa "sẽ không thí bỏ mạng tôi cho âm phủ" (Tv 16,10). Lời Thánh Vịnh trên được Chúa Giêsu là đầu và là trưởng tử hoàn tất khi sống lại từ trong cõi chết. Sự chết dẫn Người xuống mồ, nhưng không tiêu tan. Người đã chiến thắng sự chết. Chỉ có Lời quyền năng Thiên Chúa Tình Yêu mới đủ mạnh để phá đổ những rào cản của sự chết.
“Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” là lời tuyên xưng vào sự hiện hữu thực sự của Thiên Chúa, cho phép chúng ta hát vang lời Alleluia ở giữa một thế giới, bóng tối tử thần đang đe dọa chúng ta.
Đoạn Tin Mừng thánh Marcô hôm nay như một dạng "phóng sự" được thánh Phêrô trực tiếp chứng kiến những sự kiện, chúng ta cần đọc với cái nhìn đơn giản mới thấy được sự phong phú của nó.
Chúa Giêsu đến và đặt tay lên đứa bé
Điều mà Giairô mong đợi nơi Chúa Giêsu là "đến đặt tay lên em bé để nó được khỏi và được sống" (Mc 5, 23). Thái độ của Giairô thật là ấn tượng. Đường đường là trưởng hội đường Do Thái, vậy mà ông "sụp lạy và van xin" Chúa Giêsu (Mc 5, 22), ông quên đi nhân cách, địa vị của mình trước đám đông nhiều người biết ông, ông tiên phong tin cậy vào Chúa Giêsu. Tất nhiên, vì cô gái diệu, ông làm tất cả.
Chúng ta cũng thế, trong lúc ốm đau bệnh tật, vô phương cứu chữa, hy vọng tiêu tan, thì lời kêu cầu vang lên tới Chúa thật tha thiết. Lời van xin của người cha: "Xin Ngài đến…để nó được khỏi và được sống!" Chúa Giêsu không nói một lời nào, lời trấn an Giairô cũng không. Đôi lúc Chúa vẫn im lặng đối với lời van xin của chúng ta, khi nhận lời chúng ta cầu nguyện. Chúa đồng hành và ở với chúng ta, ngay cả khi chưa nhận lời chúng ta.
Ai chạm đến Ta?
Một câu hỏi cất lên giữa đám đông khiến các môn đệ sửng sốt: "Thầy coi đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vầy mà Thầy con hỏi: Ai chạm đến Ta?" (Mc 5, 31) Thì ra "có một người đàn bà bị bệnh" (Mc 5, 25) đã đi lẫn vào trong đám đông đến sau Người. Có thể bà sợ đến với Chúa trước nhiều người. Sợ họ biết việc mình làm. "Mười hai năm trời sống với bệnh xuất huyết" (Mc 5, 25), nghe nói về Chúa Giêsu, Đấng đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền trong dân, cơ hội tuyệt vời đã đến, bà quyết định chạm tới áo Chúa.
Phản ứng của Chúa Giêsu không làm bà ngạc nhiên và xấu hổ. Không ai đụng đến áo Chúa mà Chúa không biết. Trước mặt Chúa, chúng ta không phải là người vô danh, mất hút giữa đám đông. Chúa thấy chúng ta kêu cầu, cả lúc chúng ta không thể hiện công khai. Chúa biết tất cả vì Người là Đấng toàn tri, là sức mạnh của Thiên Chúa, là Sự Sống. Người đàn bà đã nhận lại được sự sống qua việc chữa lành nhờ đụng chạm tới áo Chúa Giêsu (x. Mc 5, 33). Bởi trong chính cuộc đối thoại với người đàn bà nhút nhát đang tuyệt vọng này, từ việc chữa lành thể xác Chúa ban cho bà ơn cứu độ, bình an và sức khỏe xác hồn.
Dù đến với Chúa thế nào đi chăng nữa, lời thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta: "Bạn có biết sự hào phóng, ân hạn, nhưng không của các món quà của Chúa Giêsu Kitô" (2Cr 8, 9).
Họ liền chế diễu Người
Những "người nhà" Giairô là những người tốt. Với sự thận trọng, họ sẽ gặp người cha và báo cho ông biết về cái chết của con gái ông: "Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?" (Mc 5, 35). Nói thế, không phải họ thiếu lòng tin, nhưng là họ không thể tưởng tượng được một tình huống đã chết rồi có thể sống lại được.
Thoáng nghe lời họ nói, Chúa Giêsu bảo: "Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó" (Mc 5, 39). Họ thấy nực cười, vì chính lúc Giairô vắng nhà thì con gái ông trút hơn thở lần cuối. Chúa mời gọi ông Giairô: "Ông đừng sợ, hãy cứ tin" (Mc 5, 36) Giairô đã tin vào quyền năng chữa bệnh của Chúa. Ông được mời đi xa hơn sự tin tưởng là sống niềm tin vào Chúa.
Chúa Giêsu muốn chúng ta có một niềm tin sắt đá, một đức tin chuyển núi rời non, vượt trên sự chết. Kẻ có tội không bao giờ chết trước mặt Thiên Chúa. Người ấy có thể sống lại nhờ ân sủng Thiên Chúa trao ban, vì Chúa là Sự Sống. "Thiên Chúa không vui mừng khi người sống phải chết" (Kn 1,13).
Hãy cho em bé ăn
Giairô và vợ ông, cùng với ba tông đồ được Chúa mang theo. Chúa Giêsu không cầu xin Chúa Cha, không ban một lời chúc lành nào, vì Chúa là Sự Sống. Người có thể trả lại sự sống cho em bé một cách dễ dàng khi cầm tay nó. Người vẫn cầm tay chúng ta mà chúng ta không biết.
Những người chứng kiến không được chuẩn bị để đánh giá một cử chỉ như vậy có nghĩa gì. Còn quá sớm để giải thích cho họ ý nghĩa đầy đủ về sự sống lại của em bé. Nếu Đức Giêsu giữ bí mật, khác hẳn với việc Chúa chữa người đàn bà chạm vào Chúa, Người đã mang theo ba nhân chứng là những chứng nhân từ núi Chúa biến hình cho đến khi Chúa chịu Khổ Nạn và Phục Sinh. Im lặng là cần thiết, vì sự sống lại như thế được coi là dấu chỉ rõ ràng thời thiên sai.
Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy cho em bé ăn" (Mc 5, 43). Vì em mà Chúa Giêsu đến. "Ăn" là cử chỉ Chúa Giêsu báo trước sự phục sinh của Chúa, vào buổi chiều tối Chúa Phục sinh, Chúa hỏi các môn đệ: "các con có gì để ăn?" không phải là để ăn cho thể xác, nhưng là để họ có niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô.
Giờ đây, Tiệc Thánh chúng ta cử hành là dấu chỉ của niềm vui được chia sẻ trong đức tin trước Thiên Chúa hằng sống, với sự sống viên mãn tràn đầy chứng thực rằng sự sống mạnh hơn cái chết. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
59. Sống lại
Tôi trông đợi kẻ chết sống lại.
Đó là lời tuyên xưng cuối cùng của bản kinh Tin Kính, đó cũng là điều chúng ta cùng nhau chia sẻ giờ đây.
Qua hình ảnh người đàn bà mắc bệnh loạn huyết được chữa lành và hình ảnh đứa con gái của ông Giairô được sống lại, Giáo hội như muốn nói với chúng ta rằng:
- Người đàn bà chỉ cần đụng tới gấu áo của Ngài là đã được Ngài chữa lành, thì vào ngày sau hết mọi bệnh tật, mọi đau khổ của chúng ta cũng sẽ biến mất. Hơn thế nữa Chúa chỉ cần phán một lời, đứa con gái đã chết liền sống lại. Cũng vậy, trong ngày sau cùng, mọi kẻ chết trong mồ sẽ được chỗi dậy và mang lấy một bộ mặt mới.
Nếu một ngày nào đó ra viếng nghĩa địa, chúng ta có thể nghĩ rằng:
- Phải chăng cái chết chỉ là một giấc ngủ dài. Tới một lúc nào đó họ sẽ chỗi dậy.
Thế nhưng chúng ta sẽ sống lại như thế nào? Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, đã hé mở cho chúng ta thấy điều ấy. Thánh nhân viết như sau:
- Tất cả chúng ta, những Kitô hữu, chúng ta không thuộc về thế gian, nhưng chúng ta là những người công dân nước trời, và nước trời mới đích thực là quê hương của chúng ta.
Mặc dầu chân chúng ta đạp đất, nhưng đầu chúng ta phải đội trời. Hiện thời chúng ta đang mang lấy một thân xác đau thương, làm mục tiêu cho bệnh tật, đau khổ, tội lỗi và chết chóc. Nhưng tất cả những sự ấy chẳng kéo dài được bao lâu. Chúng ta đang trông chờ ngày Chúa trở lại để biến đổi thân xác tầm thường của chúng ta trở nên một thân xác quang vinh, giống như thân xác Phục sinh của Chúa, không còn đau khổ, không còn đổi thay, không còn chết chóc, nhưng sẽ trở nên thánh thiện vẹn toàn. Để được như vậy, thì ngay từ bây giờ, chúng ta phải ra sức hành động.
Người ta thường nói:
- Sống sao thì chết vậy.
Niềm vinh quang mai hậu lệ thuộc vào cuộc sống hiện tại của chúng ta. Nghĩa là cái tiến trình phục sinh, cái tiến trình vinh quang hóa thân xác phàm trần của chúng ta phải được bắt đầu ngay từ bây giờ. Như một con ngài phải dần dần cắn chiếc kén thì mới có thể hóa kiếp thành một con bướm xinh đẹp.
Nếu như đời sau, chúng ta không còn đau khổ, thì ngay từ giờ, chúng ta phải biết làm chủ những đòi hỏi của giác quan và biết thánh hóa những khổ đau gặp phải.
Nếu như đời sau, chúng ta không còn lệ thuộc vào vật chất, thì ngay từ giờ chúng ta phải biết siêu thoát với tiền bạc, gắn bó nhiệt thành với điều thiện.
Nếu như đời sau, chúng ta tỏa sẽ chiếu sáng bằng một vẻ đẹp tươi trẻ và thánh thiện, thì ngay từ giờ chúng ta phải biết trang điểm cho tâm hồn bằng những nhân đức.
Nói tóm lại, ngay từ giờ chúng ta phải biết uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi khuyết điểm và tẩy trừ tội lỗi ra khỏi cuộc sống, đồng thời chất đầy trên đôi tay chúng ta những công nghiệp là những hành động bác ái yêu thương.
Một trong những phương tiện giúp chúng ta có đủ nghị lực thực hiện những điều ấy, đó là Bí tích Thánh Thể, bởi vì khi rước lễ chúng ta không phải chỉ đụng tới gấu áo Chúa mà còn được tiếp xúc với chính thân xác vinh quang của Ngài.
Hơn nữa, chính Chúa cũng đã phán hứa với chúng ta:
- Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Có sống như thế và có chuẩn bị như thế, thì giờ chết mới là giờ chúng ta được sinh ra cho hạnh phúc vĩnh cửu, mới là giờ chúng ta được Thiên Chúa đón nhận vào quê hương nước trời trong vòng tay yêu thương của Ngài.
60. Đức tin
Trong một trình thuật dài, đôi khi thánh Marcô xen vào một đoạn ngắn, theo lối hành văn riêng của ngài, để nhấn mạnh đến một điểm chung, Chúa Giêsu là Đấng chữa lành.
Chúa Giêsu hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi”. Nhưng người phụ nữ khốn khổ vẫn im lặng, bà đang bối rối. Căn bệnh của bà làm bà trở nên nhơ uế, không được phép đụng đến bất cứ ai. Phải chăng Chúa Giêsu muốn tố giác bà đã chạm đến áo của Ngài? Dù sợ hãi, bà tin quyền năng chữa lành của Chúa Giêsu đã ban cho bà một sức sống mới. Bà cảm thấy trong thân xác mình quyền năng chữa lành của Chúa, và sự nhơ uế của bà theo luật trong sách Lêvi 15: 25 không còn nữa. Đức tin của bà vào Chúa Giêsu đã làm cho luật trở nên lỗi thời. Chúa Giêsu khẳng định điều này khi Người nói: “Này con, đức tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”.
Trung thành với lối hành văn của mình, thánh Marcô trở lại lời cầu xin của ông Giairô, một vị trưởng hội đường, để nhấn mạnh đến “đức tin vào quyền năng chữa lành của Chúa”. Ông trưởng hội đường cầu xin Chúa cứu giúp. Ông muốn con gái được Chúa chữa lành.
Nhưng trước hết Chúa Giêsu đã chữa lành cho ông trưởng hội đường. Người bảo ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Rồi Người đến với đứa bé, cầm lấy tay nó và nói: “Này bé, Thầy truyền cho con trỗi dậy đi”. Lập tức, con bé đứng dậy và đi lại được. Nó đã được sống lại nhờ bàn tay của Chúa Giêsu, Đấng cứu chữa.
Rõ ràng Chúa Giêsu cho thấy “nỗi sợ” là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Chúa. Nhưng chúng ta vượt thắng nỗi sợ nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu, Đấng chữa lành. Một khi nỗi sợ được thay thế bằng lòng tin vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ cảm nghiệm được sự chữa lành của Chúa, và sẽ được sống trong bình an.
Lạy Chúa, xin Chúa hãy nói với con một lần nữa: “Lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi bình an”.
61. Mạnh mẽ.
Bài Tin Mừng là hai phép lạ Chúa Giêsu đã làm gần nhau: phép lạ cho một phụ nữ được khỏi bệnh băng huyết, và phép lạ cho con gái ông trưởng hội đường Gia-ia được sống lại. Chúng ta thấy hai phép lạ như có một số điểm tương đồng: người phụ nữ mắc bệnh đã 12 năm, bằng với số tuổi của em bé kia, vì Tin Mừng cho biết khi em chết em được 12 tuổi. Cả hai phép lạ xảy ra đều do hành động thể lý là chạm tay vào tua áo Chúa và Chúa cầm tay em bé đã chết. Chủ đề của hai phép lạ này là ơn Chúa ban qua lòng tin.
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhận lời kêu xin của ông Gia-ia đi chữa bệnh cho con gái ông. Dân chúng đông đảo đi theo có vẻ háo hức và chen lấn, các môn đệ cùng đi bên Chúa. Giữa lúc ấy các môn đệ nhận ra một người đến quì trước Thầy mình, nhưng lúc ấy phép lạ đã xảy ra rồi, đó là một phụ nữ đầy lòng tin đã được Chúa cho khỏi bệnh. Thực vậy, giữa đám đông dân chúng dày đặc, phụ nữ này nhận ra một vị Thiên Chúa ẩn dật nhưng đầy quyền năng, bà không dám công khai trực tiếp xin Chúa trước mặt mọi người, có thể là vì xấu hổ hoặc ngại ngùng. Ngoài ra, bà cũng biết luật Lêvi cấm ngặt về loại bệnh này. Đối với người Do Thái, băng huyết là một bệnh được liệt vào số các chứng bệnh nan y và ô nhục, làm cho người bệnh ra dơ bẩn trước mặt Chúa và cộng đồng. Hơn nữa, chứng bệnh này còn làm cho người khác lây sự dơ bẩn của bệnh nhân, tức là họ đụng chạm đến ai hay ai đụng chạm đến họ đều trở thành dơ bẩn và phải dâng lễ tẩy uế mới được sạch.
Vì thế, bà thẹn thùng, e lệ không dám đến trước mặt Chúa xin Chúa chữa, nhưng bà có một lòng tin chắc chắn vào sức mạnh uy quyền toàn năng của Chúa. Bà tự nhủ: “Không cần phải ra mặt, chỉ cần đụng chạm vào tua áo khoác ngoài của Ngài thôi thì chắc chắn sẽ được khỏi”. Chúng ta thấy bà thật khiêm tốn, có thể so sánh với người đàn bà xứ Canaan, hoặc như người trộm lành. Vì thế, bất chấp tất cả những luật lệ phiền phức và nghiêm ngặt, bà lén đến sau lưng Chúa, để thực hiện ý định rút ơn Chúa, và kết quả bà đã được toại nguyện. Bà đã thể hiện đức tin một cách sâu sắc, như chính Chúa đã xác nhận và thưởng công cho lòng tin của bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm là nơi nhà ông trưởng hội đường Gia-ia. Ông có đứa con gái mắc bệnh nặng thập tử nhất sinh, ông đến xin Chúa cứu chữa con ông. Lòng tin mạnh mẽ của ông được bộc lộ ra qua tất cả con người ông, nghĩa là qua các cử chỉ cũng như lời yêu cầu của ông. Thực vậy, khi đến trước mặt Chúa, ông quì sụp dưới chân Chúa, đây là một cử chỉ dành riêng cho Thiên Chúa Giavê trong Cựu ước, cử chỉ này chứng tỏ ông tin và nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai. Cử chỉ thứ hai là ông xin Chúa đến đặt tay trên con ông, cử chỉ này về sau được Giáo hội dùng vào bí tích Thêm sức. Rồi trong lời kêu xin, chúng ta cũng thấy bộc lộ lòng tin vững chắc của ông. Ông tin chắc chắn chứ không hồ nghi như người cha có đứa con bị quỷ ám từ lúc còn nhỏ. Người cha này thưa với Chúa một cách ngập ngừng: “Nếu Thầy có thể làm gì được thì xin Thầy giúp đỡ chúng tôi”. Nghe thế Chúa kêu lên: “Sao lại nói nếu có thể, tất cả mọi sự đều có thể đối với người tin tưởng”. Còn ông Gia-ia thưa Chúa: “Thưa Thầy, con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”. Chúng ta thấy ông không hồ nghi gì, ông tin chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như thế, nếu Chúa muốn, vì Ngài là Chúa sự sống và sự sống lại. Ngài động đến đâu thì sức mạnh và sự sống lan tràn tới đó. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.
Niềm tin, lòng tin hay đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất, nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc về tinh thần. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Gia-ia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi lễ, thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa.
Vì thế, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Gia-ia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà không cần kêu xin nài nẵng như ông Gia-ia, bà chỉ có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế.
62. Đau khổ.
Chứng bệnh loạn huyết mười hai năm của người đàn bà, cái chết của đứa con gái yêu dấu, tất cả đều đem lại những khổ đau. Vậy thì khổ đau có ý nghĩa gì.
Giáo lý nhà Phật đã gọi đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là như một cánh bèo trôi dạt trên đó. Đồng thời bốn nguyên nhân chính sinh ra khổ đau, đó là: sinh, bệnh,lão, tử.
Trong kinh lạy Nữ Vương, chúng ta cũng thường đọc:
- Chúng con ở nơi khóc lóc than thở.
Vì thế nhiều người đã có lý khi nói:
- Đời là một thung lũng nước mắt. Bông hồng nào mà chẳng có gai, cuộc đời nào mà chẳng có những đắng cai của nó…
Hơn thế nữa, nhìn vào cách đối sử của Thiên Chúa, chúng ta thấy có một sự khác biệt căn bản.
Đúng thế, khi yêu thương ai chúng ta thường trao tặng cho họ những cánh hồng. Thiên Chúa thì trái lại, khi yêu thương ai, Ngài thường gửi đến cho họ những gai nhọn.
Điều này đã được chứng thực nơi con người Đức Kitô. Thực vậy, chúng ta có thể tự hỏi: Ai là người được Chúa Cha yêu dấu hơn cả nếu không phải là Đức Kitô. Đồng thời ai là người đã phải chịu nhiều khổ đau hơn cả, nếu không phải là Đức Kitô.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới một kết luận, đó là những người muốn bước theo Chúa, thì cũng phải vác thập giá và chấp nhận khổ đau.
Người tín hữu chấp nhận khổ đau sẽ là một hình ảnh trung thực nhất của Đức Kitô. Trái lại, người tín hữu chối từ đau khổ, thì chỉ là một bức vẽ tồi, làm sai lạc hình ảnh của Ngài mà thôi.
Chúng ta phải xác tín rằng:
- Chính khi đau khổ lại là lúc chúng ta được Chúa yêu thương, lại là lúc chúng ta gần gũi Chúa hơn cả.
Trái lại, khi gặp được may mắn và hạnh phúc, lại là lúc chúng ta phải đề cao cảnh giác, bởi vì rất có thể chúng ta đang xa lìa tình Chúa và đang chôn vùi tình người bằng những hành động bất công và gian tham của mình.
Hơn thế nữa, những giây phút hạnh phúc còn là những giây phút đáng sợ, còn là những giây phút ru ngủ chúng ta.
Trong đêm tối của đau khổ, chúng ta dễ dàng nhìn ra những ánh sao. Còn trong ngày nắng chói chang, những ánh sao ấy bị lấn át và biến mất.
Thánh Gioan đã định nghĩa:
- Thiên Chúa là tình yêu.
Và tình yêu dưới một góc cạnh nào đó cũng có nghĩa là đau khổ. Vì thế, đạo của Thiên Chúa phải là đạo của tình yêu và cũng phải là đạo của đau khổ. Người tín hữu sẽ không thể sống đạo nếu không chấp nhận thập giá.
Vậy thì những đau khổ sẽ đem lại lợi ích gì?
Tôi xin thưa lợi ích thứ nhất đó là cộng tác với Đức Kitô trong công cuộc cứu độ.
Thực vậy, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu không phải là đã chấm dứt, trái lại nó còn đang được tiếp nối nơi những chi thể của Ngài là các tín hữu như lời thánh Phaolô đã viết:
- Tôi hoàn tất những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Đức Kitô nơi thân xác tôi.
Những khổ đau chúng ta chấp nhận sẽ trở nên là một góp phần nhỏ bé vào thập giá Đức Kitô, để đền bù tội lỗi của bản thân cũng như của những người chung quanh.
Lợi ích thứ hai đó là thanh luyện tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, có một câu danh ngôn đã bảo:
- Con người là một anh học trò, còn đau khổ sẽ là một vị thầy tuyệt vời nhất.
Thoạt nhìn qua, đau khổ là một sự dữ khiến cho chúng ta tuyệt vọng và muốn chống lại Thiên Chúa. Thế nhưng, dưới con mắt đức tin, đau khổ sẽ thanh luyện tâm hồn, củng cố các nhân đức, như tục ngữ đã bảo:
- Lửa thử vàng, gian nan thử đức.
Chính nhờ những đau khổ, cuộc đời chúng ta mới sẽ đem lại những hoa trái:
- Hạt lúa mì gieo xuống đất, phải mục nát, thì mới sinh nhiều bông hạt.
Đau khổ là như một lưỡi kéo cắt tỉa cuộc đời, để cuộc đời được sai trái. Đau khổ là như một nhát búa đập xuống trên con người, để con người chúng ta trở nên một tác phẩm nghệ thuật trước mặt Thiên Chúa.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, đau khổ sẽ trở thành những sợi chỉ vàng, kết nên cuộc đời chúng ta.
Trong những giờ phút đen tối, chúng ta hãy ngước nhìn thập giá Đức Kitô, vì chính tại thánh giá Đức Kitô đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
63. Sống đức tin.
Khi chúng ta muốn xin ai hay thỉnh cầu ai điều gì, thì hoặc là chúng ta ưa thích điều đó, hoặc là chúng ta cảm thấy cần thiết điều đó, và chúng ta tin tưởng người kia sẽ đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Người đàn bà mắc bệnh băng huyết và người cha có đứa con gái bị bệnh nặng gần chết đã làm như thế. Cả hai đã tin Chúa Giêsu nên đến xin Chúa cứu chữa. Chính vì có lòng tin mạnh mẽ mà cả hai đã được hưởng phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng làm sao chúng ta thấy được hay biết được lòng tin của họ? Vì nó đã được biểu lộ ra qua thái độ, cử chỉ, lời nói và hành động của họ.
Chúng ta thấy người đàn bà này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà trước mặt mọi người. Bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa”. Thế là bất chấp tất cả những luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe, bà lén lút chen tới sau lưng Chúa, để thực hiện ý định rút ơn Chúa, và kết quả bà đã được toại nguyện. Đó, chúng ta thấy được, biết được đức tin của bà qua việc làm đầy tin tưởng của bà. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận và ban thưởng cho lòng tin ấy: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Trường hợp của ông trưởng hội đường Giaia cũng thế. Lòng tin của ông được biểu lộ qua tất cả con người của ông, nghĩa là qua cử chỉ, thái độ và lời nói của ông: Khi đến trước mặt Chúa Giêsu, ông đã quì sụp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Phải tin Chúa Giêsu là ai, phải tin Chúa có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ, thái độ và lời kêu xin như thế. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa Giêsu đã nhận lời đến nhà ông và làm phép lạ cho con gái ông sống lại.
Chúng ta hôm nay đã có đức tin, chúng ta đã tin Chúa Giêsu. Chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải sống niềm tin đó. Sống niềm tin có nghĩa là chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy trong đời sống hằng ngày. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Niềm tin ấy, như Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: “Phải được biểu lộ và nuôi dưỡng, dù chỉ bằng một nụ cười hay một ánh mắt cảm thông”.
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội. Mẹ Têrêxa nói với ông: “Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin”. Người phóng viên hỏi: “Tôi phải làm gì để có đức tin?”. Mẹ Têrêxa đáp: “Ông hãy cầu nguyện”. Ông chống chế: “Tôi không biết và không thể cầu nguyện”. Mẹ Têrêxa dịu dàng nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta”.
Đúng thế, những hành động cụ thể thường hùng hồn hơn, có khả năng thuyết phục hơn những lời nói suông. Những thực hiện trước mắt có giá trị hơn những dự án viễn vông. Đó là cách thẩm định thông thường trong cuộc sống của chúng ta. Những người chung quanh có lẽ cũng đánh giá niềm tin của chúng ta khi nhìn vào cách sống đạo của chúng ta, nghĩa là niềm tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể.
Vì thế, chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô, tin vào bản thân Ngài. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm, để mọi người có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.
64. Sờ vào áo.
Người đàn bà đến với Đức Giêsu đã tuyệt vọng, vì mười hai năm nay, bà chịu đau khổ vì một chứng bệnh và những lần chữa trị đau đớn và vô hiệu trong đôi tay của nhiều bác sĩ. Bà cũng đã trả tiền chữa trị cho đến những đồng bạc sau cùng. Bà đã tận dụng hết mọi khả năng chữa trị của con người.
Rồi bà nghe nói về Đức Giêsu. Bà tin rằng chỉ cần sờ vào áo của Người, bà sẽ khỏi bệnh (thời đó, người ta tin rằng chỉ cần sờ vào áo của một người thánh thiện sẽ được chữa lành). Bà tỏ quyết tâm khi chen qua đám đông. Tuy nhiên, bà không tìm cách gặp gỡ Đức Giêsu. Điều bà tìm là một sự “sờ lén”, “sờ vội”.
Thường thì, chúng ta cũng chọn cách “sờ lén” cho dù chúng ta biết rằng điều đó không làm chúng ta thỏa mãn và chúng ta bị đánh lừa. Chúng ta đi lễ vội vàng và xưng tội vội vàng (kể tội, đọc kinh ăn năn tội, nhận ơn tha thứ và chuồn!) Cũng thế khi đi khám bệnh – nhận toa thuốc và chuồn.
Vả lại, chúng ta không thích bị đối xử một cách hấp tấp và vô danh. Vậy tại sao chúng ta lại chọn cách “sờ vội”? Bởi vì trong chúng ta, phần nào có sự e thẹn muốn tránh một sự gặp gỡ riêng tư. Tại sao lại thế? Bởi vì chúng ta biết rằng điều đó là đòi hỏi hơi nhiều. Chúng ta muốn đạt được điều đó một cách mau lẹ và phiền toái vất vả càng ít càng tốt.
Niềm tin của người đàn bà được tưởng thưởng. Bà mau chóng được chữa lành. Tuy nhiên ngay khi bà định lẩn vào đám đông vô danh. Đức Giêsu đã tìm thấy bà. Người không ưa chuộng cách chữa bệnh ấy. Một vài người chữa bệnh giản lược đến mức tối thiểu sự tiếp xúc nhân bản. Nhưng Đức Giêsu thì không. Người luôn luôn đối xử với con người trên một bình diện cá nhân. Mặt khác, Đức Giêsu biết có năng lực từ Người phát ra, chứng tỏ có người sờ vào áo Người để được chữa bệnh và lấy năng lực đó từ Người.
Người khẳng định sự gặp gỡ mặt đối mặt với bà. Người không nghĩ đến mình nhưng nghĩ đến người đàn bà. Người biết sau đó bà sẽ lành bệnh; Người biết bà không những cần được chữa lành về thể chất và cả về mặt tâm lý và tinh thần. Sau bấy nhiêu năm bệnh tật bà cảm thấy mình xấu xa và Thiên Chúa cũng xa lánh bà.
Vì thế Người đã gặp bà. Trong cuộc gặp gỡ này, chúng ta thấy sự nhạy cảm và nhã nhặn của Đức Giêsu. Một người đàn bà bị băng huyết bị coi là ô uế về mặt nghi thức. Bà không được phép ở trong đám đông và khi sờ vào Đức Giêsu, bà đã làm cho Người cũng trở nên ô uế về mặt nghi thức, những người khác sẽ cho là thế. Đức Giêsu không quở trách bà về thái độ “đáng trách” ấy. Trái lại, Người khen ngợi đức tin của bà. Và đầy lòng yêu thương Người nói với bà: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”.
Nếu chỉ sờ vào Người không, chưa đủ. Những người khác cũng sờ vào Người. Bà sờ vào Người với đức tin, đức tin làm cho một người đàn bà nghèo nàn, nhút nhát, bệnh tật, hạ tiện có khả năng nhận ra quyền năng của Đức Giêsu, và làm cho quyền năng ấy tỏ hiện với một cái sờ.
Đức Giêsu muốn bà hiểu rằng Người hạnh phúc cho bà. Khi nói với bà “Lòng tin của con đã cứu chữa con”, Người muốn bà hiểu rằng bà có góp phần vào việc chữa lành cho mình. Người xác nhận sự kiện bà được chữa khỏi. Điều này đem đến cho bà sự an ủi và bảo đảm.
Điều ấy làm cho bà cảm thấy tốt đẹp biết bao. Điều ấy tốt đẹp hơn biết bao so với sự chữa lành, vô danh, hối hả và lén lút. Đức Giêsu làm cho bà cảm thấy như bà là người duy nhất trên thế gian này.
Trong việc trị liệu và chữa bệnh, vấn đề luôn luôn là con người toàn diện, chứ không bao giờ chỉ là triệu chứng. Người ta phải đặt ra những câu hỏi thách thức nhân cách toàn diện không phải chỉ có cái chân, hoặc cái tay được điều trị mà là một con người. Đức Giêsu không bao giờ chỉ chữa lành một bệnh, Người chữa lành một người bệnh. Lời Người chữa lành tinh thần: sự đặt tay của Người chữa lành thân xác.
65. Chữa lành.
Để thực hiện thành công một điều gì, chúng ta phải đặt vào đó một phần của chúng ta hoặc là đời sống hoặc là tâm hồn đến nỗi sau đó, chúng ta cảm thấy kiệt quệ. Điều này đặc biệt đúng đối với việc chữa trị.
Chữa trị có thể làm cho người chữa bệnh kiệt sức và đau đớn. Hành động chữa trị tự nó thường là một dịp để đau khổ. Chúng ta không thể cất đi sự đau đớn của một người mà không đi vào nỗi đau ấy một cách nào đó và ở một mức độ nào đó, dù chỉ là nỗ lực để hiểu người bệnh và làm cho người bệnh cởi mở với mình. Một cách nào đó, người chữa bệnh phải chịu đau khổ.
Một đôi khi, điều khiến người ta trở thành người chữa bệnh là một kinh nghiệm chính mình đã bị đau và đã được chữa lành. Người chữa bệnh cần ý thức về sự dễ bị tổn thương của mình. Chính họ dễ bị tổn thương và đó là một phần lý do khiến họ chữa bệnh. Đức Giêsu hoàn toàn dễ cảm thương cho người khác. Người nhận đau khổ của người khác cho mình: Người chịu đau khổ với mỗi người.
Dù khi ở giữa đám đông, nếu có người nào chạm vào Người và được chữa lành, Người biết ngay. Tại sao lại như thế? Bởi vì mỗi sự chữa lành đều lấy đi của Người một điều gì đó. Trong ngôn ngữ của Tin Mừng: “năng lực từ Người thoát ra. Và Người cảm thấy năng lực ấy thoát ra”. Chính năng lực ấy và đức tin của người bệnh tạo ra sự chữa lành.
Thỉnh thoảng Đức Giêsu chữa lành một người và để người ấy lấy đi bớt năng lực của Người. Sự cao cả của Người là Người sẵn sàng trả giá cho việc chữa lành những người khác. Chúng ta theo bước chân của Người khi chúng ta hiến dâng chính mình để giúp đỡ những người khác.
Mỗi người chúng ta có thể làm công việc chữa lành nào đó nếu chúng ta cho phép mình trở nên công cụ của Người. Chúng ta có thể không có khả năng chữa trị, nhưng có khả năng chăm sóc. Và chăm sóc cũng thuộc phần việc chữa trị. Chúng ta băng bó vết thương, nhưng chính Thiên Chúa làm vết thương lành.
Tuy nhiên, mỗi hành động chăm sóc cũng đòi chúng ta phải trả giá. Năng lực thoát ra khỏi chúng ta. Nhưng chúng ta chớ để mình kiệt sức. Nếu chúng ta luôn tiếp xúc với Chúa năng lực trong chúng ta được phục hồi liên tục.
Có những người luôn giữ được niềm tự tin và tính lạc quan. Tính cách này trở thành một thứ thuốc bổ cho người bệnh. Năng lực thoát ra từ họ và đi vào những người khác. Họ sung sướng khi giúp đỡ những người khác, và giúp đỡ những người khác là chữa lành.
Ở một mức độ nào đó, chúng ta đều bệnh tật. Nhưng chúng ta có xu hướng che giấu bệnh tật và thương tích của chúng ta. Người phụ nữ đến với Đức Giêsu mang bệnh nặng và trong trường hợp của bà, bệnh tật quá rõ ràng. Nhưng người ta có thể bị bệnh tật mà không xuất hiện ra bên ngoài. Họ mang những thương tật vô hình – cảm giác mình bị bỏ rơi, thất bại, không có phẩm giá, cô đơn, cay đắng, hờn giận… Vì thế, tất cả chúng ta cần được chữa lành.
Và tất cả chúng ta có thể là những người chữa trị. Đời sống chúng ta luôn luôn xúc phạm đến đời sống của những người khác. Với một chút thiện cảm, chúng ta có thể chữa lành những tâm hồn mang thương tích. Với một chút chăm sóc, chúng ta có thể làm cho một tâm trí, bối rối được nhẹ nhõm. Với một chút thời gian, chúng ta có thể làm vơi nhẹ nỗi đau của một người cô độc. Thỉnh thoảng mỗi người chúng ta nên dừng lại và tự hỏi: “Điều gì thoát ra từ tôi qua công việc, hành vi, và những mối quan hệ – điều gây tổn thương hay điều giúp chữa lành?”.
Chữa lành không chỉ là nhiệm vụ dành cho cá nhân. Nếu chúng ta có thể tạo ra những cộng đoàn ở đó mọi người có thể qui tụ, cùng làm việc và nâng đỡ nhau, lúc đó sự chữa lành trở thành một phần của đời sống hàng ngày.
66. Quyền năng.
Ông Giaia, ông trưởng hội đường đến gặp Đức Giêsu để xin Người chữa lành cho đứa con gái mười hai tuổi của ông. Mặc dù cô bé còn sống, nhưng giống như người đàn bà bị băng huyết rõ ràng không một quyền lực trần gian nào còn giúp được cô bé. Lời cầu xin của cha cô bé chứng tỏ rằng ông tin Đức Giêsu có một quyền lực siêu nhiên, đó là quyền lực chữa lành.
Đức Giêsu lập tức khởi hành đi đến nhà ông Giaia. Nhưng khi Người còn đi trên đường các người nhà ông trưởng hội đường đến báo tin con gái ông đã chết, và họ gợi ý không nên làm phiền Đức Giêsu nữa. Thực ra họ muốn nói rằng ngay cả quyền lực của Đức Giêsu không thể thắng nổi sự chết. Chúng ta thấy cùng một thái độ tuyệt vọng ấy được diễn tả trong sự than khóc của những người đưa đám. Nhưng Đức Giêsu không biết đến những lời của các người nhà đưa tin. Người quở trách và sau cùng đuổi họ ra ngoài. Niềm hy vọng trong sáng của Người tương phản rõ rệt với sự tuyệt vọng của những người ở xung quanh Người. Người thuyết phục ông trưởng hội đường Giaia phải có đức tin để tin rằng cả cái chết của con gái nhỏ của ông không nằm ngoài quyền lực của Người. “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Đức Giêsu vào phòng của cô bé cùng với cha mẹ và ba người môn đệ. Rồi Người cầm lấy tay em bé và nói: “Này bé, Thầy truyền cho con hãy đứng dậy”. Lập tức cô bé đứng dậy và đi lại được. Đức Giêsu bảo họ cho cô bé ăn. Có một sự dịu dàng và cảm động trong cảnh tượng ấy. Đức Giêsu bày tỏ tình yêu thương của Người đối với cô gái nhỏ và cha mẹ của cô bé. Chúng ta phải làm gì từ câu chuyện này? Chúng ta phải hỏi các Kitô hữu tiên khởi đã làm gì. Họ cũng chịu đau khổ vì bệnh tật và các thành viên trong cộng đoàn của họ đã qua đời.
Đối với Marcô và các độc giả của ông, câu chuyện là một biểu lộ quyền năng của Chúa Phục sinh chiến thắng chính sự chết. Đức Giêsu làm cho cô bé đã chết đứng dậy bởi vì Người là “Sự sống lại và là sự sống”. Tin vào Đức Giêsu có thể biến đổi đời sống và là chiến thắng trên cái chết. Đó là ý nghĩa câu chuyện này đối với các Kitô hữu tiên khởi.
Đối với những người tin Đức Giêsu, cái chết chỉ là một giấc ngủ mà Người có thể và sẽ đánh thức họ dậy. Trong trường hợp của hầu hết các Kitô hữu, sự đánh thức này sẽ không xảy ra trong đời này, nhưng trong thế giới sẽ đến. Vì thế các Kitô hữu tiên khởi đã mô tả người chết “đang ngủ” bởi vì họ tin rằng một ngày kia họ sẽ được đánh thức dậy, cũng như người đang ngủ được đánh thức. Các Kitô hữu đầu tiên đã dùng từ koimeterion để chỉ nơi an táng và có nghĩa là “nơi nằm ngủ”. Từ chữ koimeterion về sau xuất hiện chữ “cemetery” trong tiếng Anh. Cả hai câu chuyện Tin Mừng cho thấy khi không còn hy vọng, xét về mặt nhân tính thì quyền năng của Thiên Chúa có thể chiến thắng bệnh tật và cả sự chết, Marcô nói với chúng ta rằng quyền năng ấy hiện diện trong Đức Giêsu.
67. Đức tin.
Giả sử như chúng ta đã đi hết nửa đoạn đường, sắp bước chân qua cầu để sang bờ bên kia đi tiếp đoạn đường còn lại, thì bỗng chiếc cầu sụp đổ rơi tòm xuống sông. Khi đó chúng ta làm thế nào? Chắc là muốn quay trở về đoạn đường cũ.
Người đàn bà mắc bệnh loạn huyết và ông Giairô cũng lâm vào một tình cảnh khó xử như vậy:
. Loạn huyết là một chứng bệnh dơ dáy. Người Do thái không chỉ thấy nó dơ dáy về mặt thể lý mà còn coi nó là một thứ ô uế luân lý. Cho nên có luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được đụng chạm tới người khác, chạm tới ai thì người ấy kể như bị lây ô uế đó. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết này cũng không dám cất tiếng kêu xin Đức Giêsu vì sợ người ta biết mình bệnh và xua đuổi mình. Bà định im lặng rờ vào mình Đức Giêsu. Nhưng vậy là phạm luật thánh, là có tội: thật là khó xử.
- Còn ông Giairô thì xin Chúa đến chữa trị cho con gái mình đang bệnh nặng. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì ông được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa!
Cả bà loạn huyết và ông Giairô đều như sắp bước qua cầu thì chiếc cầu sụp gãy. Thế nhưng họ không quay trở lại bỏ dở đoạn đường. Họ vẫn cố gắng tiến bước:
. Bà loạn huyết không dám rờ vào mình Đức Giêsu thì rờ vào cái tua áo của Ngài vậy.
. Còn ông Giairô thì trong lúc chới với đó đã nghe Đức Giêsu an ủi “Đừng sợ, cứ tin”. Và kết quả là bà kia dứt bệnh, con gái ông Giairô sống lại. Đức tin của họ đã nối lại nhịp cầu gãy.
Trên đây là hai trường hợp giúp chúng ta hiểu bản chất của đức tin và sức mạnh của đức tin.
. Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin, đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi.
. Đức tin, một nhân đức căn bản của đạo, phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người, vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ, bởi vì trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa thì có thể là được hết mọi sự.
- Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai, nhưng vâng lệnh Chúa ông đưa con lên núi sát tế và lòng đau như cắt mà vẫn tin rằng Chúa sẽ thực hiện lời hứa làm cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và quả thực Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin. - Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước biển, và ông đã đi được bao lâu ông còn tin vào Chúa. Nhưng khi ông bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Chúng ta là những tín hữu, nghĩa là những kẻ tin Chúa. Bấy lâu nay chúng ta vẫn tin Chúa. Nhưng có lẽ bấy lâu nay tin Chúa là điều dễ dàng đối với ta, tin Chúa ta được bình an, tin Chúa đời ta thoải mái, gia đình ta yên vui, việc làm của ta xuôi chảy. - Có một người mẹ kia có một đứa con nhỏ rất dễ thương, vừa biết nói chuyện đã học đọc kinh, hát thánh ca. Rồi nó lâm bệnh, người mẹ cầu nguyện hết sức, nhưng nó vẫn chết. Từ đó người mẹ không còn cầu nguyện nữa, hình như chị đã hết tin.
Chúng ta cũng đã từng dự những đám táng: khi chiếc quan tài được hạ huyệt, người ta khởi sự lấp đất lại và trong lúc đó cũng khởi sự đọc kinh Tin Kính “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Biết bao người đã vừa đọc câu đó mà nước mắt ròng ròng.
- Cũng có một ông kia từ ngày gia đình làm ăn sa sút đã đem tượng Chúa quăng ra ngoài sân và từ đó không còn giữ đạo.
- Và biết bao người đã thành thật thú nhận cùng cha giải tội: “Con đã ngã lòng rồi!” Cũng như có biết bao người những khi buồn khổ đời không cầu nguyện.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa thật nhiều cho những người đáng thương kể trên. Và cầu xin cho chính chúng ta được một đức tin vững chắc để không phải chỉ tin Chúa ngày hôm nay khi đời ta còn bình an, vui vẻ. Nhưng vẫn còn đủ sức để tin nếu mai ngày chúng ta rơi vào một hoàn cảnh khó khăn thử thách. Xin Chúa giúp chúng con vẫn cứ tin luôn, tin rằng Chúa luôn thương yêu chúng con. Xin Chúa giúp chúng con vẫn cứ tin luôn cho dù gặp bao gian nguy.
68. Lề luật
- Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại hai việc làm của Đức Giêsu. Những việc này không chỉ nhằm chứng tỏ quyền năng của Chúa trên bệnh hoạn và sự chết, mà còn cho chúng ta thấy thái độ và lập trường của Chúa đối với những luật khắt khe và khô cứng của đạo Do thái thời đó.
- Trước hết là việc Chúa chữa cho một người đàn bà mắc bệnh loạn huyết. Theo luật Do thái, người nào mắc chứng bệnh này thì đương nhiên bị liệt vào hàng dơ dáy, ô uế, cho nên không được vào đền thờ, không được tham dự các lễ nghi phượng tự, và cũng không được đụng tới ai vì hễ ai mà bị người ô uế đụng phải thì cũng trở thành người ô uế luôn. Khỏi cần nói nhiều, chúng ta cũng hiểu bà này đau khổ như thế nào. Trong cơn đau khổ, bà đã nảy ra một ý tưởng táo bạo là tìm cách đụng vào gấu áo Đức Giêsu. Ý định này táo bạo ở chỗ là việc đó trái lề luật, và cũng chẳng ai chịu cho bà ta đụng vào mình đâu vì sợ bị lây nhiễm sự ô uế. Vì thế mà bà này phải làm một cách lén lút. Dù vậy Đức Giêsu vẫn biết. Khi Đức Giêsu hỏi “Ai đã đụng đến Ta?” thì bà ta sợ hãi vì thấy việc làm của mình đã bị bại lộ. Nhưng bà ta ngạc nhiên hết sức vì Đức Giêsu chẳng hề quở trách bà một lời nào, trái lại còn làm cho bà khỏi bệnh, và còn an ủi bà “Con hãy đi bình an”.
- Sang câu chuyện của ông Giairô. Ông là trưởng hội đường, nghĩa là một viên chức tôn giáo, một người có trách nhiệm bảo vệ luật đạo. Trước đó ông đã đến xin Đức Giêsu đến nhà ông chữa trị cho con gái ông sắp chết. Đang khi Đức Giêsu cùng đi với ông về nhà thì xảy ra câu chuyện của người đàn bà mắc bệnh loạn huyết mà ta vừa nói ở trên. Bà này đã đụng vào Đức Giêsu nên theo luật thì Đức Giêsu đã trở thành người ô uế. Nếu Đức Giêsu mà vào nhà ông thì cũng theo luật đó, tới phiên nhà ông cũng bị lây nhiễm ô uế luôn. Và việc đó sẽ gây hậu quả to lớn bởi vì như ta đã biết, ông là trưởng hội đường, nếu ông không giữ luật mà còn để nhà ông bị Đức Giêsu làm thành ô uế thì có thể ông mất chức luôn. Đang lúc đó thì lại xảy thêm một diễn tiến nữa: Người nhà ông chạy đến cho hay là con gái ông đã chết rồi, đừng làm phiền Đức Giêsu nữa. Trước những sự kiện dồn dập như thế, ông Giairô không còn ý định mời Đức Giêsu về nhà mình nữa. Nhưng Đức Giêsu bảo ông: “Đừng sợ gì cả (nghĩa là: ông đừng sợ làm phiền tôi, cũng đừng sợ bị lây ô uế), điều cần nhất là lòng tin”. Giairô đã tin Chúa, không còn ngại sợ gì nữa, mời Chúa về nhà, Đức Giêsu cầm lấy tay đưa đứa bé đã chết và truyền cho nó sống lại. Thêm một chi tiết đáng lưu ý: Theo luật thì xác chết cũng là một thứ ô uế, ai đụng tới xác chết thì sẽ bị nhiễm ô uế. Nhưng ta đã thấy, một lần nữa Đức Giêsu đã tỏ ra bất chấp…
- Sau khi nghe giải thích hai việc làm táo bạo của Đức Giêsu, chúng ta nghĩ sao về Chúa? Có phải Ngài chủ trương phá bỏ tất cả mọi lề luật không? Chắc chắn là không, bởi vì Ngài đã từng tuyên bố rõ: “Các ngươi tưởng là Ta đến để hủy bỏ lề luật ư? Không, Ta không phá bỏ mà Ta làm cho trọn lề luật. Ta nói thật: cho dù trời đất có qua đi, nhưng không một chấm một phết nào của lề luật sẽ qua đi, cho đến khi tất cả được nên trọn”. Nghĩa là những việc là của Đức Giêsu, thoạt xem thì có vẻ như chống đối lề luật, thực chất là nhằm làm cho lề luật được kiện toàn. Thời đó, người ta chỉ giữ luật theo cái hình thức, Đức Giêsu muốn cho cái hình thức ấy có thêm cái tinh thần, chính đó mới là cái cốt tủy của lề luật, đó mới là điều quan trọng. Có lần Đức Giêsu đã nói thẳng với bọn luật sĩ và biệt phái chỉ biết chăm lo giữ cái hình thức khô cứng của lề luật mà không để ý gì đến tinh thần lề luật. Chúa nói rằng: “Các ngươi chỉ là những cái mồ mả. Bên ngoài thì sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì chứa toàn những sự thối tha”. Khi bàn về sự tinh sạch và ô uế, Đức Giêsu đã khẳng định rằng tinh sạch hay ô uế thật là do lòng người chứ không do hình thức bên ngoài. Ngài nói: “Cái gì làm cho người ta ra ô uế? Không phải những cái từ bên ngoài vào (như đồ ăn, thức uống), mà là cái từ bên trong bài tiết ra”.
Như vậy, lập trường của Chúa Giêsu rất rõ ràng: điều quan trọng cốt lõi của lề luật chính là cái tinh thần của nó. Kẻ nào chỉ bo bo giữ cái hình thức bề ngoài mà quên cái tinh thần cốt lõi của lề luật thì cũng như mồ mả tô vôi, bề ngoài thì đẹp, nhưng bề trong thì xấu xa hôi thối.
69. Sống đạo.
Đối với Chúa Giêsu, điều quan trọng cốt lõi của mọi khoản luật chính là cái tinh thần của nó. Kẻ nào chỉ bo bo giữ cái hình thức bề ngoài mà quên cái tinh thần cốt lõi của lề luật thì cũng như những mồ mả tô vôi bề ngoài thì đẹp đẻ, nhưng bề trong thì xấu xa hôi thối. Vật chúng ta sẽ phải sống làm sao?
- Thứ nhất là việc dự lễ: Bên các nước tiến bộ, ngày nay có một vấn đề được đặt ra, khá ngộ nghĩnh: người ta hỏi có được phép ngồi ở nhà dự thánh lễ được truyền qua màn ảnh vô tuyến truyền hình, khỏi cần đi đến nhà thờ được không? Giáo Hội đã trả lời dứt khoát là không được. Bởi vì dự lễ kiểu đó chỉ là một hình thức cho có cho rồi, chẳng có một chút tâm tình tôn thờ, yêu mến, kết hợp với Thánh Thể. Chuyện bên Tây thì vậy, nhưng bên ta cũng có chuyện tương tự như vậy: nhiều người đi dự lễ nhưng không muốn vào nhà thờ cho dù trong nhà thờ vẫn còn chỗ. Họ đứng ở ngoài, miễn sao là có hướng vào nhà thờ, mắt nhìn về phía bàn thờ. Vậy thì có khác gì xem lễ qua Tivi đâu? Chỉ là hình thức, chẳng có tâm tình.
- Thứ hai là luật thánh hóa ngày Chúa nhật: Điều răn thứ ba dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Nhiều người nghĩ rằng thánh hóa ngày Chúa nhật chỉ là đi xem lễ. Từ quan niệm đó, ai mà có dự lễ thì gọi kể là xong hết bổn phận. Còn ai lỡ kẹt chuyện gì đó không đi xem lễ được thì cũng kể như mình đã lỡ, thôi đành vậy. Chúng ta hiểu điều răn thứ ba như vậy là hời hợt quá, chỉ phớt qua một hình thức bề ngoài là dự lễ thôi. Thực ra điều răn này dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Thánh hóa là làm cho ngày đó nên thánh thiện. Mà muốn làm cho ngày đó nên thánh thiện thì dự lễ chỉ là một việc, ngoài ra còn dành nhiều thời giờ của ngày đó để làm những việc Chúa muốn, như đọc kinh cầu nguyện nhiều hơn, làm thêm những việc lành, lưu ý đến kẻ khác hơn bằng cách dùng ngày nghỉ đó để tới lui thăm viếng, truyện trò, an ủi nhau, giúp đỡ nhau…
- Thứ ba là việc sống đạo giữa đời: Mọi lề luật được đặt ra không phải chỉ là để cho có “hình thức, mà để giúp cho con người có thể sống đạo tốt hơn. Nhưng sống đạo là gì? Không phải chỉ là chu toàn một số hình thức đạo đức như đọc kinh, dự lễ, chịu các bí tích. Sống còn là làm việc, là làm ăn buôn bán, giao tế, biết xử sự tốt, trước những va chạm, khó khăn xảy ra hàng ngày. Giáo Hội thường nói “Sống đạo giữa đời”. Hội đồng Giám mục Việt Nam còn nói rõ hơn: sống đạo là “Sống Tin mừng giữa lòng dân tộc”. Cho nên chỉ mới có đọc kinh xưng tội, dự lễ thì chưa phải là sống đạo, mà chỉ là giữ một số hình thức của luật đạo thôi. Khi nào chúng ta biết để ý làm ăn theo lương tâm của người Kitô hữu, cư xử với mọi hạng người theo tinh thần bác ái của Tin mừng thì mới đúng là chúng ta sống đạo thật sự.
Mười điều luật Chúa và sáu điều luật Hội thánh ai trong chúng ta cũng thuộc lòng từ nhỏ. Hình thức bề ngoài của những luật đó là đọc kinh, dự lễ, xưng tội, ăn chay v.v… Nhưng tinh thần của chúng là “mười điều răn ấy tóm về hai điều này thôi: mến Chúa và yêu người”. Chúng ta hãy cố gắng đem tinh thần yêu thương ấy vào tất cả mọi sinh hoạt của chúng ta, không những chỉ có các sinh hoạt ở nhà thờ mà còn các sinh hoạt làm ăn, buôn bán, giao tế, buồn vui sướng khổ hằng ngày nữa. Đó mới thực sự là sống đạo giữa đời.
70. Gặp Gỡ – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Nếu tôi chạm vào gấu áo của Nguời thì tôi sẽ được khỏi bệnh” (Mc 5, 28). Sự đụng chạm này đã linh nghiệm. Người phụ nữ được chữa lành khỏi bệnh băng huyết. Sức khoẻ của bà được phục hồi. “Người cầm lấy tay em bé và nói: Talithakum… lập tức em bé đứng dậy và đi lại được”(Mc 5,41-42). Cái cầm tay này đã linh nghiệm. Em bé đã được hồi sinh. Ôi, có những cái đụng chạm tuyệt vời, những cái đụng chạm làm phát sinh điều tốt đẹp. “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã chạm đến Ta?” (c. 31). Quả thật, trong một ngày, một tuần… không biết bao lần ta đụng chạm, tiếp xúc với tha nhân cách này hay cách khác. Có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc hoá thành sự gặp gỡ và phát sinh hiệu quả tốt đẹp nhưng cũng có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc trở nên sự đụng độ và gây ra hậu quả chẳng hay. Khi sinh thời, rất nhiều người đã tiếp xúc với Chúa Giêsu và họ đã hưởng nhận biết bao ơn lành. Tuy nhiên cũng không ít người tiếp xúc với Chúa mà kết quả xem ra xấu xa và tồi tệ hơn chẳng hạn như một số các luật sĩ, biệt phái… Có thể khẳng định cái yếu tố khiến cho những sự tiếp xúc phát sinh những kết quả trái ngược như thế, đó là ý hướng, thái độ của người tiếp xúc: tin tưởng hay hoài nghi vì đố kỵ.
“Này bà, lòng tin bà đã cứu chữa bà. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”. “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,34.36). Những lời của Chúa Giêsu nói với người phụ nữ bị băng huyết và với ông trưởng hội đường khiến ta liên tưởng đến lòng tin. Thật vậy, đọc Tin Mừng ta phải chân nhận rằng chính do bởi lòng tin của người ta mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ để chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ hay phục sinh kẻ chết... Hình như chỉ mỗi một lần Chúa biểu dương uy quyền để củng cố đức tin người ta như phép lạ hoá nước thành rượu tại Cana. Tuy nhiên xét cho cùng, phép lạ ấy cũng được xuất phát từ lòng tin của Mẹ Maria. Mẹ đã vững tin nên dù nghe câu trả lời như từ chối của Chúa Giêsu thì Mẹ vẫn biểu gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Niềm tin làm phát sinh nhiều hiệu quả tốt đẹp lạ thường. Niềm tin giúp ta vượt qua nhiều trở ngại, khó khăn. Niềm tin có sức chữa lành tật bệnh và khiến ta vui sống. Quả thật nếu không có lòng tin ở nhau thì ta thật khó mà tồn tại và phát triển. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đồ: Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì các con có thể lấp biển, dời non. Điều kiện có vẻ như tiên quyết mà Chúa Giêsu đòi hỏi ở những ai muốn Người thi ân giáng phúc đó là tin vào Người.
Tin Mừng còn cho ta hay rằng có không ít Thượng tế, luật sĩ và biệt phái không tin vào Chúa Giêsu. Một trong những nguyên cớ khiến họ không tin vào Chúa Giêsu đó là lòng ganh tương đố kỵ. Bài đọc thứ nhất, sách Khôn ngoan nói rõ: “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2,24). Vì lòng ganh tương đố kỵ mà nhiều người đang lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ dù có tiếp xúc với Chúa thì cả “những cái họ đang có cũng sẽ bị lấy mất”.
Ganh đua và ganh tị xem ra gần giống nhau ở đích nhắm. Cả hai đều không muốn kẻ khác hơn mình. Trong khi người ganh đua thì tìm cách học hỏi, nỗ lực rèn luyện…để vươn lên cho hơn người thì kẻ ganh tị chỉ loay hoay tìm cách hạn chế, hạ bệ kẻ khác để họ phải thua mình. Dĩ nhiên, kẻ ganh tị sẽ không trừ một thủ đoạn nào. Đặc biệt khi kẻ ganh tị lại lợi thế hơn nhờ chức quyền, địa vị thì thủ đoạn sẽ tinh vi và nhiều khi đi đến chỗ bất nhân cách trắng trợn nếu không muốn gọi là vô liêm sỉ. Như lời tác giả sách Khôn ngoan thì đằng sau kẻ ganh tị luôn có bóng dáng của Thần Dữ và hậu quả là “sự chết” cho cả người bị ganh tị lẫn kẻ ganh tương đố kỵ.
Mẹ Hội Thánh, đặc biệt từ sau Công Đồng Vaticanô II luôn cổ võ con cái mình tích cực gặp gỡ, đối thoại với thế giới, với anh em khác đạo và với cả anh em vô thần. (x.MV 92; TG 12). Ai cũng mong cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa ta và tha nhân mang lại kết quả. Thánh Công Đồng dạy ta cần phải khiêm tốn lắng nghe trong chân thành và sẵn sàng đón nhận những khác biệt chính đáng của tha nhân. Để có được thái độ này tiên vàn ta phải có lòng tin vào tha nhân. Tin vào thiện ý và thiện chí của nhau là tiên đề của mọi cuộc tiếp xúc hay đối thoại.
Chúa Giêsu đã làm guơng cho ta về thái độ này. Ngoại trừ một số người mà Chúa Giêsu đã biết rõ lòng dạ chai đá của họ, thì để khơi gợi lòng tin nơi những người mà Người gặp gỡ, Người thường đi bước trước bằng cách tin vào họ. Chính nhờ tin vào một chút thiện hảo nơi tấm lòng thiếu phụ Samaria bên bờ giếng Giacop, Chúa Giêsu đã đốt lên niềm tin của chị. Tin Mừng thứ tư đặc biệt nhấn mạnh đến chủ đề lòng tin. Những bài tường thuật về công việc của Chúa Giêsu cũng như những bài diễn từ khá dài của Người thường xoay quanh chủ đề lòng tin. Mặc dù thấy rõ sự cứng lòng tin của nhiều người Do Thái thế mà Chúa Giêsu vẫn không ngừng rao giảng và dùng việc làm để minh chứng cũng đủ cho ta thấy Chúa luôn hy vọng, tin tưởng. Chúa ban ơn tha thứ vì Người tin ở chúng ta. Chúa không ngần ngại sửa dạy cả những người có chức có quyền thời bấy giờ vì Người tin tưởng sẽ có ngày họ đổi thay.
Giữa Hội Thánh và Chính Quyền các cấp, giữa ta và anh chị em lương dân hay khác đạo, giữa ta với ta, bậc bề trên và người bề dưới trong đạo, điều lý tưởng là có sự tiếp xúc chứ không phải đụng độ, có sự đối thoại chứ không phải đối đầu. Để lý tưởng này được hiện thực, thiết nghĩ cần phải có lòng tin vào nhau. Những người biệt phái, tư tế, luật sĩ thời Chúa Giêsu, họ thiếu lòng tin thường là do bởi lòng ganh tị. Họ ganh tị vì không muốn cái anh thợ mộc Giêsu này hơn mình hay qua mặt mình.
Lòng tin thường phát xuất từ tình yêu. Hiện thực cuộc sống cho ta thấy điều này: tình yêu đến trước rồi đôi nam nữ dần tin nhau chứ không phải vì họ tin nhau trước rồi họ mới yêu nhau. Để xây dựng lòng tin, trước hết ta hãy có một chút tình. Ta hãy đi bước trước trong việc yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương. Nguời không chỉ chăm sóc các môn đệ mà còn tìm mọi cách để cho các ông sinh hoa kết trái và tạo điều kiện để các ông “làm được nhiều việc lớn lao hơn cả những việc Người làm” (x.Ga 14,11-12).
Nếu như Chính Quyền không sợ Hội Thánh gây ảnh hưởng hay ngược lại, nếu như các tôn giáo không sợ nhau chiêu mộ tín đồ, nếu như bề trên không sợ bề dưới tài giỏi hơn mình và nếu… thì sự tiếp xúc, đối thoại chắc chắn sẽ hiện thực. Khi đã có lòng tin ở thiện ý và thiện chí của nhau thì sự gặp gỡ sẽ ở trong tầm tay chúng ta và kết quả là nhiều điều tốt đẹp sẽ diễn ra trước mắt chúng ta.
71. Chỉ cần tin thôi
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Lòng tin của con đã chữa con
“Một bà bị băng huyết đã mười hai năm… Bà tự nhủ: Tôi mà sờ được áo Người thôi là sẽ được cứu” (Mc.5,28).
Sandra Hook là giáo viên người Canada đang làm công tác tự nguyện cho mẹ Têrêsa tại những khu ổ chuột Ấn độ. Một ngày kia cô được giao cho tắm rửa một phụ nữ bị ốm. Cô rùng mình sợ hãi khi nghĩ đến việc đó. Chợt cô nhớ lời mẹ Têrêsa:
“Khi chạm vào một người nghèo, bạn hãy làm như thể bạn đang chạm vào Chúa Giêsu tình yêu”.
Lúc đó, cô Sandra nhìn người nữ ốm đau với con mắt đức tin, và thấy chẳng khó khăn gì phải tắm rửa cho cô ta.
***
Đó cũng là cách biểu lộ đức tin đơn sơ đã chữa lành người đàn bà trong Tin mừng hôm nay: “Bà tiến đến phía sau Chúa Giêsu, chạm vào áo Người… Tức khắc máu cầm lại…”
Niềm tin đơn sơ như trẻ thơ là gì? Làm thế nào để đạt được và làm cho nó trở nên sâu sắc hơn? Cái gì ngăn cản tôi trở nên hơn trong đức tin?
“Đức tin là con mắt để nhìn thấy Ngài, là bàn tay để nắm lấy Ngài, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Ngài” (James Woodbridge) (Trích “Viễn tượng 2000”).
2. Cộng tác với ơn Chúa
Một bà mẹ đau nặng. Bà làm tuần cửu nhật xin Chúa chữa, vì bà biết trong lúc đi giảng đạo Chúa đã chữa cho người đàn bà bị loạn huyết khỏi bệnh.
Hết tuần 9 ngày, bà vẫn còn đau. Bỗng có một Linh mục đến thăm. Thấy bà bị đau nhức quá thì bảo:
- Tôi cho bà địa chỉ của ông nha sĩ tài giỏi đây. Bà chịu khó đến đó nói là tôi giới thiệu. Ông ấy sẽ chữa cho bà hết ngay.
Bà liền la lên:
- Cha vô thần à? Cha không tin Chúa chữa con hết sao?
***
Thật tội nghiệp cho bà. Bà cầu xin Chúa chữa bà. Chúa nhận lời cho vị Linh mục đến mà bà không chấp nhận.
Người đàn bà bị xuất huyết trong Tin mừng và bà cụ trên đây đều tin Chúa. Nhưng lòng tin của hai người hoàn toàn khác biệt. Người đàn bà bị xuất huyết nghĩ mình phải làm gì đó chớ không tin suông. Bà đã đến với Chúa, sờ vào áo Chúa và bà được chữa khỏi. Còn bà bị đau răng ngồi chờ phép lạ, không chịu làm gì, nên vẫn bị đau.
Cộng tác với Chúa là điều kiện tối cần để được Chúa cứu chữa. Thánh Inhaxiô Lôyôla đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ: “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta, và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”.
Và Mc Kenzie bảo:
“Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.
Ngạn ngữ Việt Nam có dạy:
“Tận nhân lực, tri thiên mạng”.
Và ngạn ngữ Tây phương cũng nói:
“Hãy tự giúp mình trước, rồi Trời sẽ giúp sau”.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người.
Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi các người giúp việc đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga.2,7).
Trong phép lạ hóa bánh ra nhiều, Người đã dùng “5 cái bánh và 2 con cá” của một em bé (Mc.6,35-43).
Khi chữa mắt cho người mù từ lúc mới sinh, Chúa chỉ thoa bùn vào mắt, và anh phải đi rửa ở hồ Silôê (Ga.9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết khả năng của mình, rồi Người sẽ cứu chữa hồn xác chúng ta. (Theo “Như Thầy đã yêu”).
3. Sứ điệp của tờ giấy
Một tờ giấy trắng nằm lì trên bàn với nhiều tờ khác. Một hôm nó được đem ra chịu cây viết vẽ lên nhiều dấu hiệu nó không biết gì. Nó phàn nàn với cây viết:
“Anh làm gì thế? Anh vẽ lên mình tôi những dấu gì làm tôi mất sự trong trắng. Anh làm nhục tôi quá vậy. Anh làm dơ bẩn cả đời tôi!...
Cây viết bình thản trả lời:
- Anh giấy hiểu lầm tôi rồi. Tôi không làm dơ bẩn thân anh đâu. Tôi vẽ lên anh những dòng chữ, để từ nay anh mang trên mình một sứ điệp, anh trở nên kẻ cộng tác với con người, lưu trữ những tư tưởng cao siêu đẹp đẽ của con người. Anh sẽ được mọi người nâng niu bảo vệ. Anh sẽ được sống mãi để trợ giúp con người.
Tờ giấy đó chưa kịp nói gì thêm thì nó thấy chủ nhà lấy các tờ kia đem đốt bỏ. Nó mới hiểu việc làm của cây viết, và nó lấy làm hãnh diện hạnh phúc vì được cộng tác với con người.
***
Tin mừng hôm nay thuật lại: “Ông trưởng hội đường Gia- ia đi tới… và khẩn khoản nài xin”… Người đàn bà bị loạn huyết “tách qua đám đông đến phía sau Chúa và sờ vào áo Người” (Mc.5,22-23.27). Nhờ đó mà Chúa Giêsu làm phép lạ cho họ.
Cuộc đời mỗi người chúng ta như tờ giấy trắng đó. Nếu không chấp nhận để cho Thiên Chúa viết vào những chương trình hành động thì không được diễm phúc trở nên cộng tác viên của Người.
Tờ giấy trắng không hiểu được hành động của cây viết. Chúng ta cũng không thể hiểu hết ý định của Thiên Chúa cho cuộc đời chúng ta.
Thái độ cúi đầu tuân phục và tin tưởng quyền năng của Thiên Chúa là thái độ khôn ngoan, để đưa chúng ta đến hạnh phúc chúng ta hằng mong ước… (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
4. Đức tin và việc làm
Một người Đức giàu có, trong lần đi nghỉ mát tại một làng nhỏ cạnh biển, dân chúng phần đông là người dân nghèo chất phát. Chiều đến, người khách lạ đi vào các hàng quán mua thức ăn và các thứ cần thiết. Ông nhờ chủ quán đổi cho tờ giấy bạc 1000 Đức mã. Đây là lần đầu tiên chủ quán thấy tờ giấy bạc lớn như thế. Ông lắc đầu nói với người khách:
- Với tờ giấy bạc này, ông không mua được thứ gì ở đây, vì chúng tôi chỉ sử dụng giấy bạc nhỏ thôi.
Nhiều người xúm lại coi tờ giấy bạc đó. Họ bảo nhau:
- Làm gì có tờ bạc 1000 Đức mã? Từ trước đến giờ, chúng ta chỉ thấy có giấy bạc 100 Đức mã thôi.
Thế là dân làng nghi ngờ ông khách này là người bất hảo. Và đáng sợ hơn nữa, đêm đó từ trong nhà trọ ông nghe có tiếng bàn tán:
- Hắn ta là tên bịp bợm. Tốt nhất chúng ta phải tống khứ hắn.
Thế là sáng hôm sau, ông đem tờ bạc đó đến thị trấn gần đó đổi ra những tờ bạc nhỏ và thuê xe chở về làng. Dân chúng thấy thế thì tin ông thực sự có tiền.
***
Những hành động cụ thể thường hùng hồn hơn lời nói suông. Những công trình trước mắt có giá trị hơn những dự án viễn vông.
Những người xung quanh chúng ta cũng đánh giá niềm tin và cách sống đạo của chúng ta như ngư dân nghèo nhìn vào người giàu trong câu chuyện trên đây. Tờ bạc 1000 Đức mã của người giàu này chỉ có giá trị khi được đổi thành những tờ bạc nhỏ. Cùng thế, niềm tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê xác quyết: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Trong Tin mừng hôm nay, nếu người đàn bà bị xuất huyết tin Chúa chữa khỏi mà không tìm đến Chúa, sờ vào áo Chúa, thì làm sao được lành bệnh?
Đứa con gái đã chết thế nào được sống lại, nếu ông Gia-ia là cha nó không đến “phủ phục dưới chân Chúa Giêsu và nài nỉ”.
“Chúng ta tin có cuộc sống mai hậu vĩnh cửu. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những hy sinh, phấn đấu ngay từ cuộc sống này không?
Cuộc sống mỗi ngày với những phiền toái thử thách của nó chính là nơi để chúng ta sống cụ thể niềm tin của mình. Những mối tương quan hằng ngày với những người chung quanh là môi trường để chúng ta diễn đạt niềm tin” (Theo “Maria, Mẹ tuyệt mỹ”).
72. Ngài đã toàn thắng sự chết.
"Ta truyền cho em chỗi dậy"
Đọc Cựu Ước chúng ta thấy từ đầu tới cuối những chuyện chết chóc, giặc giã, lưu đày, di tản: từ chuyện tháp Abel ở trang đầu sách Sáng Thế đến cuộc tàn sát ở Alexandria do tác giả sách Khôn Ngoan ghi lại. Thánh Kinh là pho sách tường thuật một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sự dữ, sự chết. Dân Chúa cảm nghiệm rằng lịch sử dân mình là lịch sử của một cuộc chiến đấu cho cuộc sống còn, sống mãi. Thiên Chúa Israel là Thiên Chúa của kẻ sống. Sự chết do tội lỗi gây nên, nhưng nhân loại sẽ được sống: "Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn".
Rồi một ngày kia, Con Thiên Chúa xuất hiện, trong đau khổ, ô nhục. Ngài đã chết nhưng Ngài đã toàn thắng sự chết. Ngài đã phục sinh, sống lại. Thánh Phaolô hô to niềm hy vọng đó: "Hỡi sự chết, chiến thắng người ở đâu?" Khi mà Chúa đã sống lại!
Xưa nay, các nhà hiền triết vẫn đi tìm câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi: "Sự dữ bởi đâu mà đến? Khoa học cố tìm ra thuốc trị bệnh, nhưng vẫn bó tay trước sự chết. Ai sẽ cho ta câu trả lời thỏa đáng? Thưa: Chỉ một mình Chúa Giêsu. Ngài là câu trả lời ngàn đời của Thiên Chúa. "Ta là sự sống lại và sự sống. Ai tin vào Ta, cho dầu có chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không chết bao giờ" (Ga 11,25-26).
Trong một trang dài, Marcô mô tả Chúa Giêsu hiện diện giữa người bệnh tật, đau khổ. Ngài đến "không phải để cất sự đau khổ mà để hiện diện với người đau khổ" (F. Mauriac).
Hôm nay, Ngài đang ở bờ biển, có đám đông dân chúng tụ họp xung quanh thì có ông trưởng hội đường tên là Giarô đến, sụp lạy van xin Ngài đến cứu con gái ông đang hấp hối. Chúa ra đi với ông. Đám đông dân chúng cùng đi theo, chen lấn Ngài tứ phía. Ngài không phải là một thầy thuốc tầm thường, "người ta vừa mất tiền, vừa không bớt bệnh". Đối với những người hèn mọn nhưng đầy tin tưởng vào Ngài, Ngài ban cho họ một dấu lạ, một sức sống từ nơi Ngài xuất phát ra, ban sự sống xua đuổi sự chết. Một người phụ nữ bị bệnh xuất huyết từ 12 năm nay, cố đến chạm tới áo Ngài, tức thì được khỏi bệnh.
Ngài vào nhà ông trưởng hội đường mà người con gái vừa tắt thở. Người ta kêu la khóc lóc om sòm, khóc thật, hay là khóc mướn, xung quanh thi hài của cô bé. Ngài cầm tay đứa nhỏ và nói: "Talitha, Koumi" – "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy". Và em bé 12, mở mắt chỗi dậy, bước đi. Em đòi ăn, đòi ăn là dấu chỉ sự sống đã tái nhập, đã phục hồi.
Mọi người đều sửng sốt, kinh ngạc.
Đứng trước những dữ kiện "phép lạ" Chúa làm mà Phúc Âm kể lại, (1/3 của Phúc Âm Marcô) chúng ta thấy ngày nay có hai phản ứng trái ngược nhau. Một số người khoa học cho rằng phép lạ chỉ gây rắc rối cho đức tin, dần hồi khoa học sẽ giải quyết nhiều bệnh lý. Trái lại, ngày nay, phong trào Thánh Linh đang phát triển mạnh làm cho người ta tin tưởng rằng trong một cộng đoàn có Chúa Thánh Linh hoạt động, phép lạ không còn là một sự phi thường. Kinh nghiệm bản thân và sự quan sát khách quan minh chứng (Đọc Des Miracles Aujourd" hui, Phép lạ ngày nay, của Sr. Briege Mckenna, O.S.C).
Chúng ta nên nhớ rằng Phúc Âm coi các phép lạ là những "dấu chỉ", "quyền năng", "lạ thường", và đã là dấu chỉ thì hướng về Đấng là dấu chỉ hơn là việc làm. Vậy các phép lạ Chúa làm là dấu chỉ ơn cứu độ đã đến: Sự dữ đã rút lui, satan bị đánh bại và Nước Thiên Chúa đã đến. Các phép lạ còn là dấu chỉ rằng Chúa là chân lý, là sự thật; lời nói của Ngài đi đôi với việc làm để minh chứng. Nhất là dấu chỉ sự phục sinh, phép lạ lớn lao hơn cả. Và sau này, các bí tích mà Chúa thiết lập là dấu chỉ nhờ sự sống lại, Chúa ban cho chúng ta được tái sinh trong đời sống mới.
"Chúa Giêsu không thay đổi, Ngài vẫn là Ngài, hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vẫn là Ngài khi Ngài chữa lành mọi bệnh tật tại Palestine. Ngài vẫn còn tiếp tục giữ lời phán hứa và đáp lại nguyện vọng, nhu cầu của dân Ngài" (Sr. Briege McKenna). Tại Portland tháng 7 năm 1992, một vị linh mục của Phong trào Thánh Linh được "ơn chữa bệnh" đã đến cầu nguyện và chữa bệnh. 14 ngàn người đã đến tham dự. Một người bị bệnh tim nguy ngập, được đặt tay cầu nguyện, đã ngất đi và đã được lành, đi làm việc như trước (theo một nhân chứng).
"Lạy Chúa, tôi ca tụng Chúa, vì đã giải thoát tôi".
73. Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh được bắt đầu từ Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Tuy nhiên, ba Chúa Nhật đầu tiên của giai đoạn Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh này lại được Giáo Hội cử hành thứ tự ba Mầu Nhiệm cao cả và hết sức quan trọng đối với đức tin Kitô giáo, đó là Mầu Nhiệm Thánh Thần, Mầu Nhiệm Ba Ngôi và Mầu Nhiệm Thánh Thể, những mầu nhiệm liên quan đến Sự Sống Thần Linh, vì chủ đề của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh là chủ đề về Mầu Nhiệm Chúa Kitô - Sự Sống Tái Sinh, tiếp theo chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tỏ Hiện của Mùa Vọng, Giáng Sinh và Thường Niên Hậu Giáng Sinh, và chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Thông Ban của Mùa Chay và Phục Sinh.
Chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh theo chu kỳ phụng vụ năm B cho thấy rõ ràng qua các bài đọc trong phần Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIII Thường Niên. Trước hết, ở bài đọc một, Sách Khôn Ngoan cho biết sự sống phát xuất từ Thiên Chúa, “Đấng không tạo nên sự chết, cũng không mừng ở tình trạng bị hủy hoại của sinh linh… Vì Thiên Chúa hình thành con người để được bất tử”, còn sự chết phát xuất từ ma quỉ là tên “ghen tương” đã làm cho “sự chết lọt vào thế gian”. Ở bài đáp ca, Thánh Vịnh 30 đã cảm nhận: “Ôi Chúa, Ngài đã đưa tôi lên từ âm phủ, Ngài đã bảo trì tôi khỏi thành phần lao xuống hố thẳm… Ngài đã biến nỗi than khóc của tôi thành niềm hoan hỉ….”. Ở bài đọc thứ hai, bức Thư Thứ Hai của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô đã cho thấy sự sống thực sự của người Kitô hữu là ở chỗ hiệp thông và chia sẻ: “Chính vì anh em được phong phú về mọi phương diện, về đức tin và tài diễn giải, về kiến thức, về tất cả mọi quan tâm cũng như về lòng ưu ái của chúng tôi đối với anh em, mà anh em cũng phải rộng lượng về công việc bác ái nữa… Tình trạng dồi dào của anh em lúc này đây phải đáp ứng các nhu cầu cần thiết của những người khác, để tình trạng dư dật của họ một ngày nào đó lại bù đắp cho cảnh thiếu thốn của anh em…”. Còn ở bài đọc chính là bài Phúc Âm thì sao?
Bài Phúc Âm Thánh Marcô thuật lại hai phép lạ một lúc. Phép lạ chữa cho một người đàn bà bị loạn huyết 12 năm và phép lạ hồi sinh cho đứa con gái của một viên chức hội đường. Tuy nhiên, phần thuật về phép lạ chữa lành bệnh loạn huyết của người đàn bà được Giáo Hội để trong ngoặc đơn, không cần đọc. Nghĩa là Giáo Hội muốn nhấn mạnh đến phép lạ hồi sinh mà thôi, một phép lạ trực tiếp liên hệ tới chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh. Dĩ nhiên Chúa Kitô đến, trước hết và trên hết, không phải là để hồi sinh phần xác con người, mà là phần hồn của họ. Vẫn biết khi cứu độ con người là Chúa Kitô cứu toàn thể con người của họ, tức cứu cả hồn lẫn xác, một thân xác sẽ được phục sinh vào ngày tận thế. Tuy nhiên, nếu cái làm cho con người ra dơ bẩn phát xuất từ bên trong con người mà ra, chứ không phải từ bên ngoài, từ thân xác (x Mt 15:18-20), thì linh hồn con người mới cần cứu trước nhất và trên hết; để rồi, là nguyên lý sống tự nhiên của thân xác, linh hồn chẳng những sẽ là nguyên tố làm cho thân xác sống lại trong ngày sau hết, mà còn là tác nhân sống siêu nhiên cho thân xác nữa, một sự sống thần linh của linh hồn và với linh hồn ngay khi con người con sống trong thời gian và không gian, đến nỗi, như được thấy nơi các vị thánh, thân xác của họ, của các ngài, nhờ được thông phần quyền lực phục sinh của Chúa Kitô, có thể làm được cả những việc phi thường về đức bác ái, (chưa kể đến những đặc sủng làm phép lạ, nói tiên tri v.v.), những việc con người phàm tục và tự nhiên không thể nào tự mình làm được, trái lại, nếu thành tâm, sẽ phải hết lòng cảm phục và nhận ra chân lý.
Thế nhưng, sự sống của linh hồn đây là gì, nếu không phải là “nhận biết” Thiên Chúa (x Jn 17:3). Ngay từ ban đầu sự chết đã lọt vào thế gian vào chính lúc con người phủ nhận Thiên Chúa của mình, tự động tách khỏi nguồn sống linh thiêng của mình, bằng việc làm theo ý riêng, phản ngược lại với ý muốn tối cao vô cùng chân thiện của Thiên Chúa. Đó là lý do, để hồi sinh sự sống thiêng liêng cho con người, “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) đã tỏ mình ra cho họ, để họ có thể thực sự nhận biết Ngài mà được sự sống, mà được tái sinh (x Jn 3:3,5). Chúa Kitô, Lời Nhập Thể, là tất cả những gì Thiên Chúa muốn tỏ cho loài người biết về bản thân toàn thiện Ngài cũng như về ý định toàn mỹ của Ngài, là tuyệt đỉnh Mạc Khải Thần Linh trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Cựu Ước. Người đến “để tỏ Cha ra” (Jn 1:18), để làm cho chung con người và riêng Giáo Hội, qua thành phần chứng nhân tiên khởi, “nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô” (Jn 17:3), nghĩa là để làm cho con người được sự sống, ở chỗ “nhận biết” Thiên Chúa qua Người và nơi Người. Và để làm cho con người, nhất là thành phần môn đệ làm nền tảng cho Giáo Hội của Người sau này, có thể nhận biết Người thực sự là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, Chúa Kitô đã tỏ mình ra cho họ, qua lời người nói và việc Người làm, lời vô cùng khôn ngoan và việc vô cùng quyền phép, những chứng từ được thành phần thiện tâm, dù bị mù từ lúc mới sinh cũng có thể nhận biết chân lý, nhận biết Người (x Jn 9:33,38).
Trong bài Phúc Âm theo Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật XIII Thường Niên năm B, Chúa Kitô đã tỏ mình ra cho riêng viên chức hội đường đến van xin Người chữa bệnh cho đứa con gái 12 tuổi của ông, cũng như cho chung dân chúng nhạo cười Người khi nghe thấy Người nói “con bé có chết đâu, nó chỉ ngủ thôi”, bằng cách hồi sinh đứa con gái vừa bị chết. Việc hồi sinh về phần xác của bé gái này chỉ là phương tiện để Người hồi sinh, đúng hơn, tái sinh sự sống thần linh nơi đám người Do Thái có mặt ở đó bấy giờ, nghĩa là làm cho họ tin Người hơn, chấp nhận Người thực sự là Đấng Thiên Sai, và qua Người, nhận biết Đấng đã sai Người. Đó là lý do, khi ông bố của em gái này được báo tin là em chết rồi đừng phiền đến Người nữa, Người đã trấn an ông bố: “Đừng sợ. Hãy vững tin”. Kết quả là, như bài Phúc Âm trình thuật, “thấy vậy, họ bàng hoàng sửng sốt”.
Thế nhưng, cho dù con người có tin tưởng nơi Người qua những phép lạ Người làm như thế, đức tin của con người vẫn có thể bị lung lay và thử thách, như thành phần môn đệ ở sát bên Thày, nghe thấy Thày, nhìn thấy Thày, đụng chạm Thày (x. 1Jn 1:2), nhưng vẫn bỏ rơi Thày như tất cả mọi môn đệ, nhất là đã cả gan dại dột phản bội Thày như Giuda, và trắng trợn phũ phàng chối bỏ Thày như Phêrô. Đó là lý do Chúa Kitô Phục Sinh, sau khi tái sinh con người bằng nước, tức tái sinh họ bằng những chứng từ Người thực hiện qua nhân tính của Người, Người còn cần phải tái sinh họ trong Thần Linh nữa (x Jn 3:5), sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết (x Jn 20:22; 7:37-39). Có thế, có được rửa trong Thần Linh, họ mới có thể trở thành nhân chứng của Người (x Lk 24:48), Vị Thần Linh sẽ làm chủ tác động họ như một Quyền Lực từ trên cao (x. Acts 1:8), khi Ngài hiện xuống vào ngày Lễ Ngũ Tuần tại Giêrusalem (x Acts 2:1-4). Bởi thế, đức tin trọn vẹn nhất và nguyên chính nhất là đức tin của thành phần nhân chứng tông đồ, một đức tin tông truyền qua hàng giáo phẩm, thành phần thừa kế Thánh Phêrô và tông đồ đoàn. Cũng là một đức tin đã đực rao giảng khắp thế giới cũng qua các vị thừa sai tông đồ, tiêu biểu nhất là Thánh Phaolô.
Chúa Nhật XIII Thường Niên năm nay 2003 theo chu kỳ phụng vụ năm B là ngày 29/6, tức trùng vào chính ngày Lễ Trọng kính hai Vị Đại Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Lễ hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô không phải là Lễ Buộc Obligation, (tức nếu bỏ không dự mà thiếu lý do chính đáng thì mắc tội trọng), như 1 lễ về Các Thánh 1/11, 2 lễ về Chúa là Lễ Giáng Sinh 25/12 và Lễ Thăng Thiên Thứ Năm sau Chúa Nhật Thứ Sáu Phục Sinh, và 3 lễ về Mẹ là Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12, Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1 và Lễ Mẹ Mông Triệu 15/8. Tuy nhiên, trong bốn bậc lễ của Giáo Hội, lễ tùy - optional, lễ nhớ -memorial, lễ kính – feast, lễ có kinh vinh danh như lễ kính từng vị tông đồ, và lễ trọng - solemnity, lễ có cả vinh danh và tin kính, như Lễ Thánh Giuse 19/3, Lễ Truyền Tin 25/3, Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả 24/6, và Lễ Hai Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ 29/6. Những vị được Giáo Hội cử hành ở bậc Lễ Trọng, dù không buộc, có một vai trò quan trọng trong nhiệm cuộc cứu độ, tức liên quan đến đức tin. Thánh Phêrô tiêu biểu cho quyền bính Chúa Kitô trong việc chăn dắt đàn chiên Giáo Hội (x Mt 16:16-18), còn Thánh Phaolô tiêu biểu cho ánh sáng Chúa Kitô chiếu tỏa trước muôn dân (x Acts 13:47).
Thật vậy, những mầu nhiệm của Kitô giáo không phải chỉ là những thực tại liên quan đến “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), như Mầu Nhiệm Ba Ngôi, Mầu Nhiệm Nhập Thể, Mầu Nhiệm Phục Sinh, Mầu Nhiệm Thánh Thể, Mầu Nhiệm Tiền Định, mà còn bao gồm cả những mầu nhiệm khác nữa, như Mầu Nhiệm Thánh Mẫu, Mầu Nhiệm Đau Khổ, Mầu Nhiệm Đức Tin, Mầu Nhiệm Giáo Hội v.v. Giáo Hội quả thực là một mầu nhiệm, ở chỗ, chẳng những Giáo Hội giống như một hạt cải đức tin nhỏ bé nhất, nhỏ bé đến nỗi giác quan không cảm thấy gì, nhỏ bé nhất trong các hạt giống tôn giáo, nhưng lại là một đức tin mọc lên thành một cây vĩ đại nhất, một tôn giáo vươn khắp nơi trên thế giới, mà còn là một tảng đá đầy những hèn yếu xác thịt, nhưng lại bất khuất trước bất cứ một quyền lực thế gian nào, đến nỗi càng bị bắt bớ sát hại từ đầu tới nay lại càng phát triển. Chính Mầu Nhiệm Giáo Hội bền vững là một bằng cớ hiển nhiên và sống động nhất chứng thực Chúa Kitô quả thực vẫn luôn ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế.
74. Sự chết.
Hai phép lạ được kể lại trong đoạn Tin mừng sáng hôm nay muốn chứng tỏ rằng: Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Thực vậy, trước hết là phép lạ chữa người đàn bà mắc bệnh xuất huyết. Bà là một người đau khổ, không phải chỉ vì bệnh tật kéo dài, tiền hết mà tật thì vẫn mang, mà còn đau khổ về mặt tinh thần. Kẻ mắc bệnh như ở trong một tình trạng bị rút phép thông công, vì luật Do Thái buộc họ phải ở nhà, vì hễ đụng đến ai hay đến vật gì, thì làm cho vật ấy và người ấy ra ô uế. Mặc dù quan niệm của bà, phần nào có vẻ mê tín nhưng lại biểu lộ một lòng tin chân thành nơi Chúa…
Ngài có thể là Đấng sẽ cứu chữa cho mình. Nhưng hành động của bà thì lại có tính cách liều lĩnh, bà đã dám xuất hiện giữa đám đông và đụng đến người chung quanh khiến họ phải ra ô uế theo như luật dạy. Bà đã vi phạm lề luật, mà lại vi phạm trước mặt viên trưởng hội đường, có thể là một luật sĩ hay một người Biệt phái. Bà đã hoảng sợ khi thấy Chúa Giêsu hỏi đến việc bà làm. Cử chỉ sụp lạy của bà phải chăng là một cử chỉ thất vọng. Bà đành phải thú nhận tất cả, mặc dù bà muốn mọi sự được diễn ra một cách thầm kín, chỉ mình bà biết mà thôi.
Nhưng Chúa Giêsu đã hỏi đến bà không phải để hạch sách hay lên án, mà trái lại là để cứu vớt bà. Ngài đã muốn đưa người mắc bệnh ra khỏi đám đông để trực diện với Ngài, đi vào cuộc đối thoại với Ngài, đặt mình trong mối quan hệ với Đấng có thể cứu chữa mình. Và trong bối cảnh này, phép lạ không còn mang tính cách mê tín… Bà đã được cứu khỏi bởi lòng tin, bởi sự gặp gỡ đích thân với Đấng cứu mình chứ không phải chỉ tiếp xúc với một sức thiêng vô hình.
Lời Chúa phán: Con hãy về bình an và được khỏi bệnh đã trở nên một lời tha thứ và chúc phúc.
Điều Chúa làm cho người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã đặt ông Giairô, một vị trưởng hội đường trước một sự lựa chọn. Ông là một người có thế giá vì ông nắm trong tay quyền điều khiển hội đường. Có thể ông thuộc nhóm Biệt phái. Ông đang ở trong một cái thế rất bí, không phải chỉ vì con ông đang hấp hối. Nếu con ông chết thì sự nghiệp của ông cũng khó đứng vững, vì chiếu theo quan niệm về thưởng phạt thông thường trong dân Do Thái: con cái chết là hình phạt, là bản án trên đầu cha mẹ vì một tội nào đó. Và một kẻ bị coi là có tội, thì làm sao có thể còn được giữ chức trưởng hội đường nữa.
Nhưng cái thử thách lớn đối với ông từ lúc xảy ra phép lạ chữa lành người mắc bệnh loạn huyết. Ông đã thấy được Chúa Giêsu là Đấng cứu chữa, gỡ nạn và tuyên bố ơn cứu giúp là do lòng tin. Nhưng ông cũng lại thấy Chúa Giêsu là một người tự do đối với lề luật Do Thái. Ông không thể không thắc mắc: Một trưởng hội đường như ông, có phận sự bảo vệ lề luật, có thể ngang nhiên dẫn Chúa Giêsu bị uế tạp vào nhà mình hay không. Nếu dẫn Chúa vào thì lại chẳng hóa ra ông cũng tán thành và trở nên tự do đối với lề luật?
Thế nhưng, thái độ của Chúa Giêsu đối với người đàn bà được chữa lành đã trở thành một lời kêu gọi ông hãy dẹp bỏ sự lo âu áy náy về một điều khoản của lề luật, để được đứng hẳn trong lòng tin. Ông đừng sợ, hãy cứ tin. Cuối cùng ông phải tin vì có người đến báo con ông đã chết. Ông còn biết tìm hy vọng ở đâu nữa. Phép lạ diễn ra. Cháu bé sống lại, và từ đó chúng ta đi tới kết luận:
Sự chết không còn là cái bế tắc vô phương cứu chữa, không còn là cái kết cục tuyệt đối của số mạng con người, bởi vì Đức Kitô đã đem đến cho chúng ta niềm hy vọng phục sinh, niềm hy vọng sống lại.
75. Trỗi dậy đi! – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Ở Việt nam hiện nay rất nhiều bạn trẻ đang vật lộn với với nghèo đói, bệnh tật, ngu dốt. Nhưng trầm trọng nhất vẫn là những bệnh xã hội và khủng hoảng tinh thần. Bao nhiêu thế hệ đang bị nhận chìm trong bóng tối tử thần.
Ai sẽ làm cho các bạn trẻ trỗi dậy?
Thực tế, bên cạnh những tâm hồn sa đọa, vẫn có những bạn trẻ khác quan tâm và nỗ lực cứu vớt những anh em đang sống bên bờ vực thẳm. Có những bạn sẵn sàng đi xin từng đồng, mua từng viên thuốc cho các bạn trẻ đang đối diện với những bệnh thời đại. Họ không phí thời giờ bàn những chuyện xưng hô “cha con” hay vấn đề đối kháng giữa giáo sỹ và giáo dân v.v. Họ chẳng cần ai chú ý hay ghi ơn. Cũng chẳng cần giai cấp, địa vị. Chỉ cần vực anh chị em mình trỗi dậy khỏi cơn nguy khốn hiện tại mà thôi. Họ là những người theo Chúa Giêsu đi tìm cứu những người đau khổ, bệnh tật. Tuy không có quyền năng làm phép lạ như Chúa, nhưng dõi theo bước chân Chúa, họ có thể tạo thành những kết quả tương tự.
Dĩ nhiên, đứng trước cái chết, mọi người phải bó tay. Các phương pháp y khoa hiện đại nhất cũng không thể vượt qua những giới hạn tử thần. Dù có thiện chí và giàu có tới đâu, con người cũng phải đầu hàng. Phải toàn năng mới có thể khiến con gái ông trưởng hội đường sống lại từ cõi chết (x. Mc 5,35-42). Nói khác, chỉ cần nói với cô gái: “Trỗi dậy đi!” (Mc 5,41) Chúa Giêsu đã chứng minh Người là Thiên Chúa toàn năng, vượt trên mọi sức mạnh khoa học tiến bộ nhất.
Chúa không đòi người môn đệ phải toàn năng như Chúa mới cứu được đồng loại. Chúa muốn họ vận dụng sức mạnh tình yêu và hồng ân sẵn có để chặn đứng bước chân tử thần. Thực tế, nhiều người không những không ngăn cản bước chân tử thần, mà còn manh tâm xô đẩy anh em mình vào chỗ chết. Phong trào phá thai chẳng hạn. Có khi họ “án binh bất động” trước sức tấn công vũ bão của tử thần để cầu an hay hèn nhát. Bởi vậy, nhiều người trở thành mồi ngon cho tử thần chỉ vì đồng loại mần thinh trước tiếng thét gào của các nạn nhân.
Không bao giờ Chúa “lạnh lùng” như thế trước nỗi thống khổ của con người. Người phụ nữ băng huyết là một điển hình. Tuy chưa chết, nhưng bà đã đứng trên bờ vực tử thần. Thấy thế, Chúa không xô bà xuống đáy. Sau mười hai năm đau khổ, bà cảm thấy hoàn toàn bất lực và đau lòng vì “tiền mất tật mang.” Cuối cùng, bà đã tìm được sức mạnh tình yêu Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Tình yêu là sức mạnh giải thoát. Nhờ lòng tin mãnh liệt, bà đã được cứu và bình an hoàn toàn (x. Mc 5:34).
Đức tin đã toàn thắng. ĐGH Bênêđictô XVI nhận định: “Cuộc chiến thắng này chỉ xảy ra vì có quyền năng sáng tạo của Lời Chúa và Tình yêu. Chỉ có Lời Chúa và Tình yêu mới đủ sức mạnh biến cải cơ cấu vật chất một cách tuyệt đối đến nỗi có thể vượt qua những chướng ngại của tử thần.” (www.archspm.org: 30.06.2006) Không có Lời Chúa và Tình yêu, chắc chắn họ đã không thoát khỏi nanh vuốt tử thần.
Không những thoát chết, hai người phụ nữ còn được Chúa phục hồi nhân phẩm và sứ mệnh cao cả. Trong cả hai phép lạ Chúa làm hôm nay, John R. Donahue (www.Americamagazin.org: 30.06.2006) nhận thấy một vài điểm thú vị. Trước hết, cả hai người lãnh ơn đều thuộc giới phụ nữ. Cô gái được phục sinh ở lứa tuổi mười hai, tuổi đã có thể thành hôn theo phong tục thời bấy giờ. Như thế, “cô bé” đã chết trước khi có thể trở thành vợ và mẹ. Người đàn bà băng huyết cũng mười hai năm. Bà không thể có con. Như thế, không những Chúa cứu cả hai khỏi chết, nhưng còn trả lại cho họ khả năng sinh sản, một vinh dự lớn lao vì được tham gia quyền sáng tạo của Thiên Chúa. Vinh dự đó góp phần làm chứng cho mọi người thấy, “Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt.” (Kn 2:23)
Trước tình trạng phụ nữ bị buôn bán và khinh miệt hôm nay, Giáo hội đang làm gì? Có động lòng trắc ẩn thực sự không? Có dám vượt qua những cấm kỵ và thành kiến để đem ơn giải thoát đến cho phụ nữ không?
Nhờ hồng ân Thiên Chúa, biết bao phụ nữ đang chứng tỏ một đức tin kiên cường và dũng cảm. Trong gia đình hay ngoài xã hội họ luôn sống với Chúa. Nhờ đó, chính họ có thể thoát hiểm và cứu vãn tương lai nhân loại. Hôm nay Giáo hội đang cần đến sức mạnh niềm tin nơi phụ nữ rất nhiều. Chính đức tin đã giúp họ chu toàn bổn phận làm mẹ, làm vợ trong gia đình. Họ còn muốn dấn thân làm chứng cho Chúa hơn nữa trong nhiều môi trường xã hội hôm nay. Nhưng Giáo hội có nhận ra đức tin kiên cường của phụ nữ trên toàn cầu để mời gọi họ hay không?
Lạy Chúa, xin thương giải thoát phụ nữ và cho mọi người biết tôn trọng phẩm giá và sứ mệnh cao cả của họ. Xin Chúa mở ra nhiều con đường và cơ hội cho phụ nữ được tham gia hơn nữa vào sứ mệnh làm chứng của Giáo hội giữa lòng đời hôm nay! Amen.
76. Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
ĐỨC GIÊSU CHỮA LÀNH BÀ BỊ BĂNG HUYẾT
VÀ CHO CON GÁI ÔNG GIA-IA SỐNG LẠI
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này tổng hợp hai truyện về chữa lành (con gái ông Gia-ia [Mc 5,21-24.35-43] và bà băng huyết [Mc 5,25-43]). Đây là một ví dụ nữa về cấu trúc “tháp ghép [sandwich construction]” của tác giả (x. 1,21-28; 2,1-12; 3,21-35; 6,7-33; 11,11-21; 14,1-11). Hai truyện này có nhiều điểm chung: những người đau khổ là những người nữ; con số 12 (5,25.42); và từ vựng (“lòng tin”, “sự sợ hãi”, “khỏi/lành mạnh”, “con [gái]…”). Tuy nhiên, giọng văn của hai truyện này không giống nhau, khiến phải cho rằng đây là hai truyện lúc đầu độc lập với nhau: Truyện con gái ông Gia-ia được kể bằng những câu ngắn, với ít phân từ (participles) và các động từ ở thì hiện tại lịch sử (historic present); còn truyện bà băng huyết được kể bằng những câu dài, dùng nhiều phân từ và ở thì quá khứ aorist và vị hoàn (imperfect).
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Mở: Khung cảnh, các nhân vật (5,21);
2) Hai truyện về chữa lành (5,22-42a):
a- Chữa con gái ông Gia-ia (cc. 22-24.35-42a),
b- Chữa bà băng huyết (cc. 25-34);
3) Kết: Phản ứng của dân chúng và lệnh của Đức Giêsu (5,42b-43).
3.- Vài điểm chú giải
- lại trở sang bờ bên kia (21): Đức Giêsu trở lại bờ biển phía tây (x. 4,35).
- một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia (22): Ít ra ta biết Gia-ia là một thành viên vị vọng của hội đường Do Thái, thuộc hàng kỳ mục có nhiệm vụ quan tâm đến những vấn đề tôn giáo và xã hội của cộng đồng. Tên Híp-ri Ya’ir (x. Ds 32,41; Tl 10,3-5; HL. IaĐros) có nghĩa là “ước gì Ngài (= Thiên Chúa) soi sáng”.
- sụp xuống… khẩn khoản nài xin (22-23): “Sụp xuống” (HL. piptei, x. 3,11; 5,33; 7,25) tương tự động từ proskyneô (“quỳ xuống”; x. 5,6; 15,19), là thái độ vâng phục bày tỏ với một người trên, và trong ngữ cảnh khác, là sự tôn kính bày tỏ ra với Thiên Chúa. Tác giả dùng hai động từ trên để giới thiệu Gia-ia như là một người cầu xin: vì ở trong một hoàn cảnh bế tắc, một bậc vị vọng Do Thái đã xin Đức Giêsu giúp đỡ.
- con bé: “con gái nhỏ” (HL. thygatrion, từ giảm nhẹ của thygater, “con gái”). Từ giảm nhẹ này nói lên tình âu yếm của người cha đối với con mình.
- gần chết rồi: Mt nói “vừa mới chết” (Mt 9,18), còn Lc thì nói “đã gần chết (đang hấp hối)” (NTT; Lc 8,42). Mc thì viết “đã gần lâm chung” (NTT) (HL. eschatôs echei).
- bà băng huyết (25): Chứng bệnh này làm cho người phụ nữ bị ô uế về phương diện tế tự (x. Lv 15,19.25), và do đó, tất cả những gì bà động chạm đến cũng trở nên ô uế.
- khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc (26): Lời kết án các thầy thuốc đây thuộc nguồn riêng của Mc. Tác giả Lc sẽ nói nhẹ nhàng hơn (x. Lc 8,43).
- sợ phát run lên (33): Bà sợ có lẽ vì thấy mình đã làm cho Đức Giêsu bị luỵ vào tình trạng ô uế theo luật. Nhưng cũng có thể bà sợ vì thấy điều vừa xảy ra cho mình. Sợ và run cũng là một phản ứng của con người khi Thiên Chúa tỏ mình ra (x. Xh 15,16; Đnl 2,25; 11,25; Gđt 15,2).
- lòng tin (34): Đây không phải chỉ là một cuộc chữa lành thể lý nhờ tiếp xúc bên ngoài với bản thân Đức Giêsu, nhưng là ơn cứu độ mà lời Người loan báo và ban cho tất cả những ai tin tưởng đến với Người. Vì thế động từ sesôken có thể dịch là “đã chữa con lành” hoặc “đã cứu con”.
- đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống: Việc đặt tay trên người đau ốm là một cử chỉ thường có trong các nghi thức chữa bệnh ngày xưa, dựa trên ý tưởng người chữa bệnh là một người đầy quyền lực (x. 5,27-30: một kiểu tiến hành ngược lại). Những từ ông Gia-ia nói ra (“được cứu thoát”, “được sống”) là những từ chuyên môn được các nhóm Kitô hữu tiên khởi sử dụng để nói về sự cứu độ và sự sống được phục hồi (sống lại). Như vậy, rất có thể các Kitô hữu tiên khởi đã coi câu truyện phục hồi sự sống cho con gái Gia-ia là một lời tiên báo hoặc một sự tiền dự vào sự sống lại của Đức Giêsu và của những ai tin vào Người.
- con gái ông chết rồi (35): Gia-ia chìm đi một lúc trong đám đông đang đi theo Đức Giêsu. Trong khoảng thời gian này, bà băng huyết được chữa lành. Đến lúc ấy, Gia-ia nhận được tin chẳng lành: con gái ông đã chết! Vậy thì “làm phiền Thầy chi nữa?”. Dưới mắt những người đưa tin, người cha đã đến gặp Đức Giêsu quá muộn. Chính họ vừa mới nói ra sự không tin của họ; chính thái độ này vừa như muốn giới hạn quyền năng Đức Giêsu lại vừa muốn lung lạc lòng tin của Gia-ia.
- Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi (36): Đức Giêsu đã trấn an ông, bởi vì ông cần phải thắng vượt được nỗi sợ hãi của ông, để sẵn sàng chứng kiến quyền lực thần linh của Đức Giêsu hiển lộ ra. Công thức “Đừng sợ” ở những chỗ khác thường được dành cho các hoạt cảnh mạc khải (x. 6,50; Mt 28,5; Lc 1,13.30); ở đây công thức này cũng đang chuẩn bị một cảnh thuộc loại đó. Tác giả Mc thường nhấn mạnh đến nỗi sợ hãi, kinh ngạc hoặc kinh hoàng nơi những người đã chứng kiến các phép lạ (x. 1,27; 2,12; 4,41; 5,15; …), nhưng những phản ứng này không đưa tới đức tin. Đức Giêsu khuyến khích Gia-ia đừng chao đảo trong đức tin, bởi vì, như Đức Giêsu sẽ nói với người cha của đứa bé động kinh, “cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin” (9,23).
- người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ (38): Tình trạng ồn ào, với sự hiện diện của những người khóc mướn, dường như chứng tỏ đứa bé đã chết thật rồi.
- nó ngủ đấy (39): Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, cái chết thường được tượng trưng bằng giấc ngủ (Đn 12,2; Ga 11,13; 1 Cr 15,20.51; Ep 5,14; 1 Tx 5,6.10). Bản LXX cũng thường dùng động từ “ngủ” để nói về cái chết. Bản văn Mt 9,18 và Lc 8,53.55 cũng theo ý nghĩa ấy. Nhưng động từ ấy, trong bản văn Mc thì còn có vẻ hàm hồ, lý do là ngay ở đầu, tác giả ghi nhận là đứa bé chưa chết. Dù câu truyện có vẻ là cuộc phục sinh một em bé, biết đâu chừng nó chưa chết, chỉ rơi vào tình trạng hôn mê thôi; và Đức Giêsu với cái nhìn thấu suốt, đã nhận ra tình trạng ấy của đứa bé, nên đã nói như thế? (x. Mann; NJBC). Khi đó, câu truyện này sẽ là truyện về một cuộc chữa lành ngược lại mọi hy vọng và ngược lại sự lượng định khôn ngoan của những người có mặt (x. 5,43).
- Họ chế nhạo Người (40): Phản ứng mạnh mẽ của đám đông được nhắc tới bằng câu này vừa cho thấy họ không tin vừa càng nêu bật tính cách phi thường của những gì Đức Giêsu sắp làm. Cha mẹ em bé ở vào vị trí chứng nhân cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan. Dường như mọi người đều đồng ý là đứa bé đã chết.
- nơi nó đang nằm: Đây là chi tiết của riêng Mc. Câu này chứng tỏ Đức Giêsu vào phòng lần đầu tiên.
- Talitha koum (41): (Aram tơlitha’ qum). Chi tiết này rất có thể chứng tỏ câu truyện đang được một người đã chứng kiến tận mắt kể lại.
- đứng dậy và đi lại được (42): Hai động từ này được dừng ở hai thì khác nhau. “Đứng dậy”, anestê, ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi vừa làm xong, còn “đi lại”, periepatei, ở thì vị-hoàn (imperfect), diễn tả một hành vi còn kéo dài.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở: Khung cảnh, các nhân vật (21)
Chúng ta gặp lại những yếu tố quen thuộc trong câu mở đầu này: đám đông qui tụ ở bờ Biển Hồ (x. 4,1), con thuyền (x. 4,1.36), vượt hồ (x. 5,1t).
* Hai truyện về chữa lành (22-42a)
Đức Giêsu đào tạo các môn đệ không những bằng lời nói mà còn bằng các hành động nữa. Một vài hành động nổi bật hẳn, bởi vì Người chỉ cho Phêrô, Giacôbê và Anrê tham dự thôi (5,35-43; 9,2-9; 14,32-42). Trong truyện cho con gái Gia-ia sống lại, tác giả nói hai lần là Đức Giêsu chỉ đưa ba môn đệ ấy theo thôi (cc. 37.40). Họ không có nhiệm vụ nào cả; họ chỉ phải có mặt mà trực tiếp chứng kiến một hoàn cảnh bế tắc về phương diện con người, nhưng cũng thấy sự tin tưởng người ta đăt vào Đức Giêsu và thấy quyền lực siêu phàm của Người.
Trong sự cố bà băng huyết được lành, họ đã thấy: bà hoàn toàn không mong dựa vào sức lực con người nữa, nhưng bà vẫn không mất hy vọng, bà đặt tin tưởng nơi Đức Giêsu (c. 28). Gia-ia thì hy vọng là nhận được sự trợ giúp cho con gái ông đang hấp hối (c. 23). Nhưng trên đường về có Đức Giêsu cùng đi, ông đã được tin chẳng lành. Đây là điểm gay cấn. Có tương quan nào giữa Đức Giêsu và cái chết? Phải chăng Đức Giêsu có là thầy thuốc tài giỏi nhất, cũng phải bó tay trước cái chết? Người đã kêu mời Gia-ia đừng sợ hãi và thất vọng, nhưng hãy đứng vững trong niềm tin (c. 36). Giữa lời khuyên của các sứ giả (c. 35) và lời khuyến khích của Đức Giêsu, ông đã nghe theo Đức Giêsu và đi với Người đến với đứa con gái vừa tắt thở. Đức Giêsu không rút lại sự giúp đỡ đã hứa và tiếp tục tiến bước, dù bây giờ là tiến bước đến với một người đã chết.
Đến đây, Đức Giêsu muốn ba môn đệ chọn lọc có măt, không phải để họ tích cực làm việc gì, nhưng để họ tham dự vào sự cố thật gần gũi. Khi Đức Giêsu nói rằng em bé chỉ “ngủ” thôi, mọi người đều chế nhạo Người, bởi vì họ chắc chắn em đã chết. Bây giờ, Người lại làm một cuộc phân rẽ nữa: chỉ cha mẹ em bé và ba môn đệ được đi với Người vào gặp em bé đã hết. Họ đã chứng kiến hành động hết sức đơn giản của Người: Người chỉ cầm lấy tay em và gọi em dậy. Thế là chuyện không thể tin nổi đã xảy ra: em đứng dậy và đi lại được. Tác giả còn ghi lại một chi tiết cho thấy Đức Giêsu rất tinh tế: Người bảo họ “cho con bé ăn”.
* Kết: Phản ứng của dân chúng và lệnh của Đức Giêsu (42b-43)
Hành vi của Đức Giêsu đã làm nổ tung các giới hạn của mọi niềm hy vọng, và cả những giới hạn của kinh nghiệm của các môn đệ. Họ phải nhìn nhận: Đức Giêsu mạnh hơn sự chết. Các môn đệ không còn như trước nữa; một thực tại mới vừa xuất hiện ở chân trời kinh nghiệm của họ. Đứng trước cái chết, các môn đệ có thể trả lời với nó không chỉ bằng các tiếng than van rỗng tuếch, nhưng bằng niềm tin tưởng vào quyền lực của Đức Giêsu. Họ không mạnh, nhưng họ biết rằng Đức Giêsu rất mạnh.
+ Kết luận
Nơi ông Gia-ia và bà băng huyết, tác giả Mc cho chúng ta thấy hai ví dụ tương tự về bước đi của người tín hữu và câu trả lời họ nhận được từ Đức Kitô. Bên kia phép lạ thể lý, tác giả muốn giúp chúng ta cảm nhận được sự sống viên mãn Đấng Cứu Thế ban cho người tín hữu, lúc này, khi Người đã được tôn vinh bởi cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người Kitô hữu cũng là người được Đức Giêsu tách riêng ra để trải nghiệm quyền lực của Người trên những hoàn cảnh gay go. Chắc chắn Đức Giêsu không muốn chúng ta nhắm mắt khi đứng trước các giới hạn của khả năng con người, hoặc chao đảo giữa ảo tưởng và thất vọng. Chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Là chứng nhân của Đấng là Chúa tể, chúng ta biết mời gọi người ta bình tĩnh giữ vững niềm tin? Hay là chỉ hùa theo số đông, buông xuôi theo hoàn cảnh khó khăn như một định mệnh khắc nghiệt?
2. Ông Gia-ia đã chứng tỏ một đức tin đáng phục. Bà băng huyết cũng có những suy nghĩ và chọn lựa nói lên lòng tín thác. Bởi vì Đức Giêsu có đó để khuyến khích, trấn an, mời gọi họ vững vàng đi tới. Niềm tin vào Đức Giêsu hôm nay có giúp các môn đệ của Người hiên ngang tiến đi và làm điểm tựa cho người khác trong hành trình đức tin của họ?
3. Cũng cần phải hiểu Đức Giêsu có uy quyền như thế, nhưng vì sao Người đã không cho mọi người chết sống lại, tức là hiểu ý nghĩa của việc Đức Giêsu cho em bé này sống lại, dù sau đó em sẽ lại chết. Bên kia phép lạ, Đức Giêsu mời gọi chúng ta khám phá ra mầu nhiệm bản thân Người. Bên kia cái chết thể lý, Người mời chúng ta hướng tới sự sống viên mãn.
4. Trong hành trình phục vụ, nếu tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu, chúng ta sẽ tiếp tục tiến bước, dù con đường trước mắt có vẻ đã khép lại. Trong trăm công nghìn việc nhằm phục vụ hạnh phúc của con người, chúng ta vẫn được mời học lấy cái nhìn tinh tế và ân cần của Đức Giêsu: “cho con bé ăn”. Đức Giêsu thấy nhu cầu nhỏ bé của từng con người, dù bé nhỏ. Người không bao giờ vì số đông mà quên từng cá nhân và coi thường nhu cầu của từng cá nhân.
77. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
CON GÁI ÔNG GIAIRÔ VÀ
NGƯỜI ĐÀN BÀ MẮC CHỨNG BỆNH BẤT TRỊ
Giống như Matthêu (9,18-26) và Luca (8,40-56) ở đây Maccô cũng gói ghém hai mẩu chuyện vào chung một trình thuật. Ngoài ra người ta cũng tìm thấy ở đây cách mô tả Maccô vẫn thường dùng (x.3,20-35). Trình thuật diễn tiến như sau: Giairô van nài (c.21-24); chữa lành người đàn bà mắc bệnh bất trị (c.25-34) Phục Sinh con gái ông Giairô (c.35-43).
Sở dĩ các trình thuật được nối với nhau như thế là vì chúng có những điểm chung với nhau. Trước hết hai khuôn mặt chính trong trình thuật này là phái nữ: một người đàn bà và một bé gái. Và ở cả hai trường hợp, đức tin vẫn đóng vai trò trọng tâm trong tiến trình đến gặp Chúa Giêsu.
Vậy là Chúa Giêsu và các môn đệ đã về lại bờ hồ ở mạn tây thuộc vùng đất Israel. Một lần nữa, đám đông đã chờ sẵn ở đó (c.21). Họ tụ lại để xem Chúa Giêsu biểu diễn quyền năng cứu độ của Ngài. “Một ông trưởng hội đường tên là Giairô tiến đến” (c.22a). viên chức sắc Do Thái này tỏ ra rất kính trọng và tin cậy Chúa Giêsu (c.22b). lời cầu xin của ông ta biểu lộ một lòng tin sâu xa. Con gái nhỏ của ông đang trong cơn thập tử nhất sinh (c.23). Chẳng cần thốt một lời, Chúa Giêsu đủ nhạy cảm trước nỗi đau của một con người mang trong lòng niềm tin vào Ngài lớn lao như thế. Ngài liền đi theo ông ta, đàng sau là đám đông chen lần nhau tò mò sấn tới…
Và trong đoàn người chen chúc này xuất hiện một người phụ nữ. Bà ta bị rong huyết mạn tính từ mười hai năm rồi (c.25). trong các tác giả Tin Mừng, chỉ mỗi Maccô nêu rõ tình trạng vô vọng của bệnh nhân, các y sĩ thời đại tiền khoa học ấy chỉ tổ làm cho bệnh của bà ta tệ hơn mà thôi (c.26). Tuy nhiên, điều cần chú ý hơn hết ở đây là theo luật Do Thái, người phụ nữ này bị rơi vào tình trạng ô uế xét về mặt luật pháp, và tuyệt đối cấm không ai được đụng chạm với chị (Lv 15,19-27). Thế mà niềm tin mạnh mẽ đã thôi thúc bà ta rán lấn tới đụng cho được vào áo Chúa Giêsu từ phía sau lưng Ngài, dù chỉ là trong chớp nhoáng (c.27). Đối với chúng ta ngày hôm nay, cử chỉ này xem ra có vẻ khôi hài, nhưng Maccô đã cho chúng ta rõ lý do tại sao bà ta lại làm thế (c.28).
Ở phương Đông thời xưa, y phục là biểu tượng của nhân cách. Chạm vào y phục ai tức là đụng vào chính kẻ ấy. Và thời xưa ấy thường thấy có sự đụng chạm giữa người bệnh và thân thể người điều trị. Ở đây sự đụng chạm này đã có kết quả, bệnh rong huyết của người phụ nữ này dừng lại lập tức. Chi ta cảm thấy mình đã được bình phục (c.29). Về phía Chúa Giêsu, Ngài nhận thức ngay quyền năng nơi Ngài hoàn toàn hữu hiệu (c.30a). Ở đây khía cạnh sinh lý của việc lành bệnh được nhấn mạnh, tuy nhiên màn kế tiếp lại lôi kéo người ta chú ý đến vấn đề tôn giáo có liên quan. Chúa Giêsu hỏi ai đã chạm vào Ngài (c.30b). Âm giọng và câu hỏi Ngài thốt ra nghe như có vẻ trách cứ. Các môn đệ xem ra chẳng chú tâm đến câu Ngài hỏi bởi vì giữa một đám đông đang chen lấn xô đẩy tứ phía như thế mà Thầy lại hỏi: “Ai đã chạm đến Ngài?” thì quả là tức cười! Tuy nhiên, như thường lệ, Chúa Giêsu đảo mắt dò xét đám đông. Ngài muốn biết chủ nhân của hành vi táo bạo ấy (c.32). Bấy giờ người phụ nữ run sợ, thú nhận với Ngài lý do bà ta được chữa lành (c.33). Bà ta cảm thấy ái ngại, chờ đón lời quở trách của vị Tôn Sư thượng tôn luật lệ. Thế mà Chúa Giêsu lại trao cho bà sứ điệp giải phóng: “Lòng tin của con đã chữa con, hãy đi về bình an” (c.34). Lời nói của Chúa Giêsu làm nổi bật ý nghĩa sự cố này, đức tin mang lại ơn cứu rỗi mới là điều quan trọng, còn hơn cả việc lành bệnh về mặt thể lý. Không phải tình cờ mà Chúa Giêsu lập lại thành ngữ người phụ nữ đã sử dụng khi bà ta cầu mong: “Tôi sẽ được chữa khỏi” (c.28b). Và toàn bản văn trên nhằm cho thấy rõ đức tin vào Chúa Giêsu có thể mang lại kết quả là được Ngài ban cho một phép lạ hoàn toàn bất ngờ. Kể từ đó, dù cho người phụ nữ vô danh này không bao giờ được nhắc tới nữa thì Maccô cũng vẫn đã thành công trong công việc chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng giải thoát khỏi mọi sự dữ. Bởi vì ở đây gồm hai chiều kích vừa là căn bệnh bất trị vào thời đó, và còn hơn thế nữa, vừa hầu như bị khai trừ “ra khỏi lề luật” của cộng đoàn tôn giáo khởi nguồn từ các tổ phụ.
Tiếp nối việc chữa lành cho người phụ nữ bị xuất huyết là câu chuyện dang dở về đứa con gái của ông Giairô (c.21-23), Chúa Giêsu đang theo ông ta để tới chữa trị cho con gái của ông đang hấp hối (c,24), thì người nhà chạy tới báo cho ông ta hay đứa bé đã qua đời. Thế thì “làm phiền Thầy chi nữa” (c.35). Lời họ cho thấy rõ họ thiếu đức tin. Chúa Giêsu đâu chịu đầu hàng trước trở ngại mới xảy đến này. Ngài nói với người cha đang chịu thử thách: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (c.36). Trong trường hợp thực sự bi đát này, đây quả là lời kêu gọi hãy cẩn trọng một cách thật phi thường. Và không chần chờ thêm, Chúa Giêsu đã bắt tay vào hành động (c.37). Bên cạnh Ngài là bộ ba môn đệ được Ngài mến chuộng, ba vị này sẽ được Ngài cho tham dự vào cuộc biến hình (9,2) và cơn hấp hối của Ngài (14,33). Điều này đủ nói lên tầm quan trọng của sự kiện Chúa Giêsu sắp làm. Sau khi tới nhà ông Giairô, Chúa Giêsu đụng ngay đám người đang than khóc (c.38). Ở phương Đông tang chế thường om sòm huyên náo như thế muốn khỏa lấp đi sự bất lực của con người trước cái chết. Chúa Giêsu bước vào và muốn thuyết phục đám người than khóc nín đi. Theo Ngài thì đứa bé không chết, nó chỉ ngủ thôi (c,39b). Nghe thế người ta liền chế nhạo Ngài (c.40a). Maccô cẩn thận ghi rõ sự “không tin” của đám người này. Thế rồi Chúa Giêsu đuổi họ ra (c.40b). Và Ngài bước vào trong căn phòng đứa bé đã chết, chỉ bố mẹ đứa bé và ba môn đệ đươc phép theo vào (c.40c). Ở đây, trong bầu khí đức tin thân mật, Ngài thực hiện một cử chỉ đơn giản và thốt ra một lời cứu độ (c.41). Maccô đã cẩn thận bảo tồn những lời chính Chúa Giêsu thốt ra bằng tiếng mẹ đẻ của Chúa, tức tiếng Aram đồng thời dịch lời đó ra cho các độc giả của ông. Nên nhớ kỹ thuật dụng ngữ “hãy chỗi dậy” – nghĩa văn chương là hãy thức dậy – chính là dụng ngữ sẽ được dùng để chỉ cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu (16,6). Em bé lập tức được hồi sinh (c.42). Em đứng dậy bước đi. Sau đó các nhân chứng ra về nhưng như thường lệ Chúa Giêsu yêu cầu họ phải giữ im lặng tuyệt đối (c.43a). Sở dĩ Chúa Giêsu thường đòi buộc các người thân của Ngài giữ bí mật về Đấng Mêsia là vì đám quần chúng không đủ khả năng nhận biết Chúa Giêsu có quyền năng siêu việt trên sự chết. Quyền năng ấy chỉ có thể được nhận biết và được loan báo cho mọi người sau khi Chúa Phục Sinh. Và Maccô đã kết thúc bức tranh đầy màu sắc này bằng một chi tiết thi vị nói lên được nhiều ý nghĩa (c.43b). Toàn thể gia đình Giairô sau khi xáo động về sự cố đứa bé vừa sống lại, có thể trở về cuộc sinh hoạt bình thường và chính cô bé (12 tuổi) nữa cũng thế, như thể không có việc gì xảy ra.
Dù vẫn mang nét rung động trước hành vi nhân đạo của Chúa Giêsu, trình thuật trên vẫn để lộ ra đặc tính truyền đạt giáo lý. Maccô đang ngỏ lời với các Kitô hữu Rôma khá lâu sau biến cố Phục Sinh. Được đọc lại dưới ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu, trình thuật trên giống như một dự báo về những sự cố sẽ đến. Người ta có thể hiểu câu nói “Họ chế nhạo Ngài” là câu ám chỉ đến những giễu cợt, nhạo báng mà sau này Chúa Giêsu sẽ chịu trước mặt các trưởng tế và luật sĩ khi Ngài bị treo trên thập giá (15,31). Và đồng thời người ta cũng nhận ra cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu đã được đề cập tới qua việc Chúa làm cho cô bé đứng dậy (c.41).
Trình thuật này kết thúc một chuỗi bốn hành vi quyền phép của Chúa Giêsu (4,35-5,43). Dẹp yên bão tố, chữa lành kẻ bị quỷ ám ở Giêrasa, chữa lành người phụ nữ vô danh và bé gái con ông Giairô là những bằng chứng về quyền năng tối thượng của Chúa Giêsu trên sự sống lẫn sự chết. Người ta có thể đặt đề tựa cho toàn bộ các hành vi quyền phép này bằng câu tuyên bố trong thư thứ nhất thánh Phaolô gởi Kitô hữu Côrintô: “Hỡi thần chết, chiến thắng ngươi ở đâu” (15,55).
Và sau lời giảng dạy dựa trên dụ ngôn (4,1-34), tiến trình trên đây đã trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là một vị tiên tri quyền năng không chỉ trong lời nói mà còn trong cả hành động. Ngài hoàn toàn chiến thắng sức mạnh Thần dữ và Thần chết. Qua đó các môn đệ hẳn phải suy nghĩ về nhân cách kỳ lạ của Thầy mình!
78. Chú giải của Noel Quesson.
Đông đảo dân chúng tụ lại quanh Người. Lúc đó Người đang ở trên bờ biển hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta phủ phục dưới chân Người, và năn nỉ: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đặt tay lên cháu, để nó qua khỏi và được sống". Đức Giêsu liền ra đi với ông. Đông đảo dân chúng đi theo và chen lấn Người.
Tôi bắt đầu đọc lại đoạn này, tả một cảnh rất sinh động. Thánh Maccô ghi lại những lời rao giảng của Thánh Phêrô, một con người thực tế và có óc quan sát đúng đắn. Tôi tưởng tượng khung cảnh; tôi nhìn ngắm con người, tôi ghi nhận những sự kiện như trong một phim xi nê, hay hơn nữa tôi tưởng tượng tôi là một trong những người tham dự, đang ở giữa đám đông.
Có hai chi tiết đáng lưu ý: ông Giairô "khẩn khoản nài xin, khá lâu. Đức Giêsu bề ngoài không đáp tiếng nào, nhưng liền ra đi với ông ấy" và chúng ta thấy hai người cùng sánh vai lên đường với đám đông.
Trong tiếng Hêbdrơ tên Giairô (Yair) có nghĩa là "người soi sáng" hay là "người đánh thức".
Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao năm khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người.
Thánh Maccô nhấn mạnh đến tình trạng tuyệt vọng của người đàn bà này: Bà đã đau đớn “rất nhiều”, chữa trị "lâu rồi", hao tổn "cả tài sản" mà "không thuyên giảm chút nào"; bệnh tình lại có phần "tệ hơn". Điều này muốn nhấn mạnh cho chúng ta rằng, Đức Giêsu có một quyền lực mà không một phương thế nhân loại nào có thế vượt qua được. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một đức tin sâu xa, ngõ hầu chúng con không bao giờ tuyệt vọng!
Vì bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ khỏi".
Theo tâm thức người Do Thái thời đó, người đàn bà này bị coi như "ô nhơ" theo luật Môisen (Lv 15,25) và bà có thể làm cho những người khác cũng bị nhơ chỉ vì tiếp xúc với bà. Tôi cố hình dung ra thái độ của người đàn bà đáng thương này, vừa xấu hổ vừa e sợ: Bà sờ vào áo choàng của Đức Giêsu và cảm nghĩ như mình đang làm một việc bị cấm. Người có thể khước từ sự đụng chạm nhơ bẩn này. Và nếu đám đông biết điều này, mọi người sẽ gớm giếc tránh xa bà.
Và tôi ngắm nhìn Đức Giêsu, Đấng "đã đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì bị hư mất". Người đón tiếp những kẻ nghèo nhất. Không có một sự khốn khổ nào, dù dấu kín, xấu hổ đến đâu mà bị Đức Giêsu xua đuổi. Không có một luật nào đứng vững trước Đức Giêsu, khi cần phải cứu một người.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi thói quen câu nệ lề luật, khỏi mọi sợ hãi và xấu hổ.
Tức khắc máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra. Người liền quay lại đám đông mà hỏi: "Ai sờ vào áo tôi vậy?" Các môn đệ thưa: Thầy coi dân chúng chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: "Ai đụng vào tôi?" Đức Giêsu ngó quanh để xem người phụ nữ nào đã làm điều đó".
Chúa không muốn chỉ tiếp xúc với đám đông vô danh.
Người muốn có một sự tiếp xúc cá biệt, Người cũng muốn cho người đàn bà vượt lên trên sự tin tưởng mang tính ma thuật dị đoan ("nếu tôi sờ được áo Người, tôi sẽ được lành mạnh"), để bước vào một đức tin đích thực là phải nhận biết con người Đức Giêsu - Chúng ta nên nhớ rằng, Đức Giêsu là một nhà sư phạm thật tài ba: Người lưu ý đến đức tin chưa hoàn hảo và hồn nhiên, nhưng Người cũng muốn chúng ta đạt đến một đục tin trưởng thành và hữu lý hơn.
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa thương yêu con với thực trạng của con. Xin Chúa giúp chúng con trở nên như Chúa muốn.
Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và trình bày hết sự thật. Người nói với bà ta: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi về bình an và khỏi hẳn bệnh".
Hai chữ "khỏi bệnh", "được cứu rỗi". Những phép lạ của Đức Giêsu, dưới cái nhìn của người Kitô hữu "Sau biến cố Phục sinh", là những điềm loan báo "sự cứu rỗi do đức tin" mà chúng ta được hưởng nếu ta nhận biết Người.
Vâng, đối với Đức Giêsu, điều cốt yếu không phải là điều "huyền diệu”, phép lạ, nhưng là sự cứu rỗi. Vậy tôi cầu xin Chúa những gì?
Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo ông: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?". Tình cờ nghe được câu nói đó, Đức Giêsu bảo ông trưởng hội đường: "ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi".
Đối với Đức Giêsu, chính đức tin mới quan trọng: ông Giai-rô đã chứng kiến sự hiện diện trước đó. Thánh Maccô kể lại cho chúng ta hai phép lạ này, như lồng vào nhau để cho chúng ta một cảm tướng về sự tăng trưởng trong đức tin: Tin rằng Đức Giêsu có thể chữa lành bệnh tật, tin rằng Người có thể làm cho kẻ chết sống lại.
“Ông còn phiền Thầy làm gì?". Đối với người đồng thời với Đức Giêsu. Họ không thể nghĩ rằng, xin Chúa làm cho người chết sống lại là một việc có thể được. Chữa bệnh thì được, nhưng hồi sinh kẻ chết thì không phiền Thầy làm gì vì điều đó không thể làm được. Điều này nhấn mạnh đến sự nghịch lý trong đức tin.
Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan. Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường.
Một lần nữa, Đức Giêsu không muốn làm điều gì bề ngoài dễ gây kích động. Mỗi lần có thể được, Người kín đáo làm phép lạ. Hôm nay, Người chỉ dẫn theo ba nhân chứng có đủ tư cách nhất. Ba vị này cũng sẽ là nhân chứng lúc Người biến hình (Mc 9,12) và lúc Người hấp hối (Mc 14,33). Chúa không muốn quyền lực của Chúa trở thành một quyền lực ma thuật: Chính Người cũng sẽ có kinh nghiệm đau thương về cơn hấp hối và cái chết. Nhưng điều này đã xảy ra cho cô bé gái. Sự cứu rỗi duy nhất và vĩnh viễn đó là cuộc vượt qua cuối cùng, để bước vào cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Người bước vào nhà và bảo họ: "Sao lại khóc lóc om sòm như vậy? Con bé có chết đâu nó ngủ đấy?". Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết.
Đức tin của ông Giai-rô và của ba Tông đồ bị thử thách nặng nề do thái độ không tin của đám đông chung quanh, và việc họ nhạo báng Đức Giêsu.
Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người vào nơi nó đang nằm, Người cầm lấy tay nó.
Ôi bàn tay của Đức Giêsu đang làm những điều kỳ diệu! Bàn tay Người đang nắm một bàn tay đã chết. Sự tiếp xúc với thân thể Chúa cũng thế. Khi chúng ta rước Chúa, mầu nhiệm sống động này được tái thực hiện.
Và Người nói: "Talitha Kum".
Chỉ mình Maccô ghi lại lời này bằng tiếng Aramên, tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu. Maccô biết được chuyện này do Thánh Phêrô, người hiện diện ở đó thuật lại. Chính những chi tiết nhỏ ấy cho thấy Phêrô là người đã mục kích. Những kỷ niệm này được một nhân chứng đã nghe, đã xúc cảm ghi giữ. Thực vậy, suốt đời Thánh Phêrô luôn nhớ hai chữ "Talitha Kum".
Nghĩa là "Này con, Thầy truyền cho con chỗi dậy đi!".
Thực ra, hai chữ tiếng Aramên này có thể dịch ngắn hơn nhiều: "Bé gái, đứng dậy". Nhưng Thánh sử Maccô đã muốn diễn dịch dài hơn và đã dùng một từ chủ yếu của những Kitô hữu đầu tiên. Sau “Phục sinh": "Hãy chỗi dậy", tiếng Hy Lạp là "egeiré", có nghĩa là “thức dậy". Đó là từ đã được dùng để nói về sự Phục sinh của Đức Giêsu. Chữ này có một ý vị Phục sinh. Đó là chữ đối nghĩa với "ngủ” mà Đức Giêsu đã dùng trước đây để nói về cái chết. Vâng, đối với Đức Giêsu, cái chết không còn thật sự là chết nữa, đó là một giấc ngủ.
Một bài Thánh ca rất xưa của những người Kitô hữu đầu tiên được hát trong nghi lễ rửa tội như sau: "Hỡi người đang ngủ thức dậy đi, ngày đã sáng lên rồi. Từ cõi chết hãy đứng lên. Chúa sẽ chiếu sáng trên ngươi". (Chúng ta đã nói là chữ faire, có nghĩa là "người soi sáng", "người đánh thức", đấy là biểu tượng của phép rửa tội) (Ep 5,14).
Đó là Phép rửa của tôi. Đó là sự sống của tôi, người đã được rửa tội. Tôi có tin thực rằng tôi đã nhận được cùng một ơn lành như cô bé này không? Qua phép rửa tội của tôi tôi đã đi từ cái chết đến sự sống. Cuộc sống vĩnh cửu của tôi đã bắt đầu. Phải chăng tôi là một người không ngừng "chỗi dậy", "thức dậy"? Tôi có nghe Đức Giêsu cũng nói lại với tôi: "Đứng lên", "chỗi dậy", "thức dậy", "sống lại" không? Nói những tình trạng chết chóc mà đức tin giải thoát cho tôi là gì?
Con bé liền đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười tuổi. Vừa thấy thế, người ta kinh ngạc sững sờ. Đức Giêsu căn dặn họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho đứa trẻ ăn.
Sự sống chiến thắng cái chết, đặt những người chứng kiến cảnh này vào trung tâm của huyền nhiệm: Họ bị “xuất hồn" kinh ngạc tột độ. Lệnh Chúa truyền phải im lặng lại càng nhấn mạnh cảm tưởng bí mật mà chúng ta đã có: Mầu nhiệm đích thực của Đức Giêsu không thể hiểu được đối với những người không có đức tin. Cho người ta thấy "phép lạ" bề ngoài là vô ích, người ta sẽ cho đó là "trò ma thuật", và Đức Giêsu không muốn người ta coi Người như một nhà phù thủy. “Người bảo cho cô bé ăn". Đó không chỉ là một sự chăm sóc ưu ái và cảm động. Trong biểu tượng của phép rửa, người "đi từ cõi chết đến cõi sống nhờ phép rửa, được đưa vào bàn Tiệc Thánh Thể: Một người sống thì phải ăn, một người đã được rửa tội phải ăn "Bánh hằng sống", Thánh Thể và Phép rửa tội liên kết mật thiết với nhau. Đó là Mầu nhiệm Đức Tin.
79. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
CHỮA LÀNH MỘT PHỤ NỮ BĂNG HUYẾT
VÀ PHỤC SINH CON GÁI GIAIRÔ
1) Ơn cứu rỗi được ban trong Chúa Giêsu Kitô.
Cả hai phép lạ đều cho thấy ơn cứu rỗi được ban cho con người. Giairô đến xin Chúa Giêsu cho con gái ông "được sống và được cứu”; bà băng huyết tìm cách sờ đến Chúa Giêsu vì tin chắc sẽ được cứu. Cả hai đã kinh nghiệm về sự bất lực của con người trong việc tìm lấy ơn cứu rỗi. Chính trong ý thức ấy đã vạch ra niềm tin vào Chúa Kitô, Đấng duy nhất có thể cứu con người ra khỏi tình thế tuyệt vọng mà trong đó họ đã chìm đắm. Nhưng đức tin không phải là một sự hiển nhiên, vì Chúa Kitô bị che dấu giữa đám đông đang mỉa mai Người và đang chuẩn bị từ bỏ Người. Người là Đấng duy nhất có thể cứu, nhưng cũng chỉ những ai tin mới phân biệt được trong sự yếu đuối phàm nhân của Người sức mạnh của Thiên Chúa và như thế mới nhận được ơn cứu rỗi. Trong Giairô và người đàn bà bị băng huyết, Maccô trình bày cho ta hai tấm gương giống nhau về thái độ tự ý của kẻ tin và việc Chúa Giêsu trả lại họ. Bên kia các phép lạ của thể lý, thánh sử cho ta cảm nhận sự sống tràn đầy mà Cứu Chúa ban cho Kitô hữu từ khi Người được tôn vinh nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Người.
2) Biến cố.
Nhưng nếu giáo huấn của hai trình thuật song song với nhau, thì độc giả ngày nay có thể thắc mắc: trường hợp sau phải chăng là một cuộc sống lại thực sự? Không thể chấp nhận rằng truyền thống Kitô giáo đã bày đặt toàn thể các phép lạ được gán cho Chúa Giêsu và óc khoa học vô tôn giáo chẳng triệt để từ chối sự có thể có nhiều hiệu quả phi thường do một vài mãnh lực huyền bí phát xuất từ những nhân vật ngoại hạng. Hiển nhiên óc khoa học đó không thể chấp nhận sự phục sinh của Chúa Kitô cũng như của một kẻ nào khác. Còn Kitô hữu tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô và vào quyền lực hiện tại của Người đối với sự chết, quyền lực mà Người sẽ thi thố trên thân xác chúng ta trong ngày cánh chung. Nhưng có phải trình thuật chúng ta quá rõ rệt đến nỗi phải kết luận rằng đây đúng là cuộc phục sinh con gái Giairô không?
Khi lấy lại trình thuật của Maccô, và hơn cả Luca, Matthêô đã nhấn mạnh đến thực tại cái chết của đứa bé; thật vậy nơi ông, Giairô đã minh nhiên đến cầu xin cho con gái sống lại. Ta phải chấp nhận rằng truyền thống Maccô là xưa nhất và cũng là phù hợp với thực tế nhất: thật vậy, người ta không thấy tại sao truyền thống Matthêô là truyền thống tường thuật rõ ràng một cuộc phục sinh, lại có thể đã bị Maccô che dấu đến nỗi trong trình thuật của Mc, lời Chúa Giêsu tuyên bố "Đứa bé không chết, nó ngủ đấy thôi" có thể cho hiểu là theo ông, nó không chết thật. Như cha Lagrange đã viết Maccô "không làm yếu đi những điểm xem ra dẫn đến giả thuyết một sự hôn mê" (Evangile selon saint Marc, Paris, 1942, tr. 146).
Khi thốt lên câu ấy, Chúa Giêsu chưa thấy đứa trẻ và sự vô tri mà Người vừa biểu lộ trong trường hợp người đàn bà băng huyết khiến ta nghĩ rằng Người không biết trạng thái chính xác của đứa trẻ. Không thể giải thích câu "Nó không chết, chỉ ngủ đấy thôi" như là lời khám bệnh của một bác sĩ. Vì thế phải tránh xác định câu đó, dầu trong nghĩa hôn mê hay chết thật. Chúng ta không thể biết điều mà Chúa Giêsu đã nghĩ trong trường hợp ấy và Maccô không cho phép ta trả lời câu hỏi nầy vì ông đã chẳng viết với một não trạng khoa học như não trạng chúng ta ngày nay. Đối với ông, sự khác biệt căn bản mà chúng ta đặt giữa cái chết và hôn mê không có vì trong não trạng tôn giáo của ông, cái chết và bệnh tật đều phát xuất từ ảnh hưởng của tội và của ma quỷ. Thành ra chúng ta không thể xác định lời tuyên bố của Chúa Giêsu, dù cho theo nghĩa chết thật hoặc hôn mê. Chúng ta sẽ không bao giờ biết điều Chúa Ciêsu đã nghĩ trong trường hợp ấy, vì những lời của người được truyền lại cho ta trong một bối cảnh thuần túy tôn giáo muốn loan báo ơn cứu rỗi được ban cho người tin hơn là xác định bản chất đích thực của phép lạ được thực hiện. Vì dù đề cập đến một cuộc chữa lành hay một sự phục sinh thật, thì trình thuật Maccô cũng chỉ muốn thúc giục ta trả lời câu hỏi sau đây: hôm nay chúng ta có tin là Chúa Kitô phục sinh có thể loan ơn cứu rỗi và sự chiến thắng cái chết cho chúng ta không?
Jean Potin, Assemblécs du Setgneur 44, tr.38-47.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Qua bài Tin mừng, ta thấy được thế nào là sức mạnh của đức tin. Đức tin giúp thắng vượt những nghi ngờ: Giairô mà không cần những hiển nhiên, những lý luận nhân loại. Đức tin giúp thắng vượt những rụt rè nhút nhát: nhờ tin mà người đàn bà băng huyết chế ngự được nỗi sợ hãi, sợ gây ô uế cho người ta, sợ đám đông phát giác; bà đã tin rằng năng lực chữa bệnh và cho sống lại của Chúa Giêsu còn mạnh hơn sự truyền nhiễm cơn bệnh mà bà đau khổ đã 12 năm. Thật là một niềm tin mạnh mẽ, mạnh mẽ như niềm tin của người bất toạt dám dỡ mái nhà để moi cho được lòng tốt của Chúa (Mc 2,1-12) như niềm tin của người trộm lành, trong một lần hành nghề cuối cùng, đã ăn trộm Thiên đàng khi tin vào lòng thương xót vô biên của Chúa Giêsu. Đức tin có thể chuyển núi dời non lay động được quả tim Thiên Chúa.
2) Nên chú ý tới hai khía cạnh trong câu hỏi của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ bị bệnh băng huyết. Chúa Giêsu dùng việc chữa lành bệnh mở đầu một cuộc đàm thoại. Thứ đến Người dạy: việc Người làm vượt xa hơn việc chữa lành thể xác: Người cứu được nếu người ta tin vào Người.
Bà ấy không lầm khi hy vọng rằng chỉ sờ vào gấu áo của Chúa Giêsu là sẽ được lành bệnh. Nhưng Chúa Giêsu không phải là một sức mạnh tác động nặc danh. Một thành phần bị quên lãng, bị khuất giữa đám đông đều là người mà Chúa Giêsu lưu ý đến. Tại đây chúng ta thấy Chúa nói với bệnh nhân: Đối với người, bà không phải là một con số giữa đám đông. Người đưa dịp cho bà trở lại, cho bà ý thức, cho bà đàm thoại. Người hành động như thế để cho bà hiểu: đối với Chúa, bà cũng có phẩm giá con người. Cuối cùng Người nói với bà: "Con ơi, đức tin đã cứu con". Trong kiểu nói của thánh Maccô, chữ Cứu có nghĩa là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã đưa chúng ta từ cảnh trụy lạc, tội lỗi đến sự sống lại với Người. Lúc đó bà băng huyết chưa hiểu nổi lời Người. Chúng ta nhờ Tin mừng hiểu được điều ấy.
Đức tin của tôi vào Chúa Kitô có sống động đến nỗi thấm nhiễm vào các nỗi đau khổ của tôi và sự chết của tôi, một sức mạnh, một sự sống cao độ không? Tôi có cảm thấy vui mừng khi thiết rằng Chúa Giêsu lưu ý đến một cách riêng không?
3) Bài Tin mừng hôm nay còn cho thấy đức tin có nhiều cấp độ. Đầu tiên là đức tin sơ khai của ông Giairô lúc mới đến gặp Chúa Giêsu. Bất lực trước đau khổ, ông đi tìm Chúa Giêsu vì nghe rằng Người có một quyền năng thần thông nào đó thứ đến là đức tin tính toán, vụ lợi, hơi mê tín của người đàn bà lén đến bên Chúa Giêsu, mong ăn cắp được sức mạnh kỳ diệu từ nơi Người, nhưng rồi khi bị phát giác, đức tin của bà tiến lên cao hơn, trở thành một cuộc gặp gỡ, đối thoại, tương giao với Chúa Giêsu; và sau cùng là đức tin trọn vẹn của Giairô tin vào Đấng phục sinh được kẻ chết.
Trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, hình như đức tin cũng vượt qua các cấp độ đó. Đầu tiên chúng ta đã tin vào Thiên Chúa vì thất vọng trước sức con người, vì tự bản năng cảm thấy phải bám víu, cầu khẩn một Đấng cao hơn. Rồi tới khi biết được quyền năng của Thiên Chúa, thấy bao kỳ công Ngài đã làm trong lịch sử, qua Thánh Kinh, ta lại có khuynh hướng lợi dụng Ngài, giữ đạo là chỉ mong được muôn ơn phúc hồn xác, bất mãn khi gặp thất bại hoạn nạn. Dần dần đức tin ta được thanh lọc, biến thành một cuộc gặp gỡ đối thoại với Thiên Chúa, gắn bó vào Ngài trải qua mọi thử thách. Nhưng rồi phải tiến lên cao hơn nữa, biến thành đức tin vào sự phục sinh, tin rằng dù bề ngoài có vẻ như tan vỡ, tận diệt, vẫn có một đời sống mới cả hồn lẫn xác chờ ta bên kia thế giới, bên kia cái chết, bên kia thời gian, tin rằng Thiên Chúa có quyền năng đổi mới mọi sự cho ta và cho mọi người.
80. Suy niệm của Nha Trang.
"Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy!"
I. Ý CHÍNH:
Phụng vụ hôm nay muốn chúng ta xác tín rằng cho được chấp nhận Tin Mừng cứu rỗi và hưởng các ơn lành của Nước Trời, thì phải có đức tin. Qua bài Tin Mừng hôm nay Thánh Maccô cho ta thấy hai mẫu đức tin: đức tin sáng suốt của ông Trưởng hội đường là Giairô và đức tin chất phác của người đàn bà loạn huyết.
II. SUY NIỆM:
1) "Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia":
Bỏ địa hạt Cêsarê. Chúa Giêsu lại trở về Capharnaum. Thấy Người trở lại, dân chúng đến đón Người rất đông. Họ xúm lại quanh Người, hy vọng Người tiếp tục giảng dậy và làm phép lạ.
2) "Bỗng có một ông Trưởng hội đường tên Giairô đến"
Giairô là Trưởng hội đường nghĩa là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm là một việc có ý thức và có thế giá.
3) "Trông thấy Người ông sụp lạy và van xin rằng":
Thái độ của Giairô trước Chúa Giêsu diễn tả niềm tin của ông: "ông sấp mình dưới chân Thầy".
Thái độ của những người đến cầu khẩn Người (Mc 1, 40; 7, 25) hoặc nhận ra Người là kẻ được Thiên Chúa sai đến (Mc 10, 17; 15, 19).
Thái độ này cũng giống như thái độ của ma quỷ đã nhờ óc thông sáng mà nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa (Mc 3, 11; 5, 6).
4) "Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống":
"Xin Ngài đặt tay trên nó": Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân là cử chỉ Chúa thường dùng khi cứu chữa bệnh nhân được khỏi bệnh (Mc 6,5; 7, 32; 8, 23). Xin Chúa đặt tay tức là tin rằng chỉ có Người mới chữa khỏi được bệnh cho con ông.
"Để nó được khỏi và được sống": Để nó được lành bệnh và được khoẻ mạnh, dù có hấp hối nguy ngập thì nó cũng được khỏi và được khoẻ mạnh. Thái độ này của Giairô biểu lộ một đức tin vững vàng, xác tín vào quyền năng của Chúa Giêsu.
5) Chúa Giêsu ra đi với ông:
Đây là thái độ Chúa Giêsu chấp nhận niềm tin của ông Giairô. Đám đông dân chúng đi theo là muốn được chứng kiến phép lạ Chúa sắp làm cho con ông Giairô.
6) "Vậy có người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã 12 năm":
Theo luật Môisen (Lv 15, 25) bệnh xuất huyết là thứ bệnh dơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng.
Ở đây nói lên tình trạng cô đơn, khốn khổ của bệnh nhân.
7) "Bà đã chịu cực khổ tìm thầy chạy thuốc..."
Đây là cách diễn tả nói lên nỗi khốn khổ của bà và sự bất lực của con người trước cơn bệnh cay nghiệt này.
8) "Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu..."
"Nghe nói về Chúa Giêsu": Nghe cũng là cách dẫn đến đức tin. Mới chỉ nghe nói mà bà đã tin Chúa Giêsu là Người có thể cứu chữa bà.
"Chạm đến áo Người": Đây là thái độ liều lĩnh của bà đã xé rào luật lệ ngăn cấm, là thái độ chứng tỏ đức tin vững vàng của bà, vì bà tự nhủ.
"Miễn sao tôi chạm vào áo Người thì tôi sẽ lành": Cử chỉ chạm tới áo Chúa Giêsu cũng như cử chỉ Chúa Giêsu đặt tay trên bệnh nhân đã nói lên rằng sự động chạm thể lý rất cần thiết để sức mạnh thiêng liêng tác dụng trên con bệnh. Ở đây ám chỉ Bí tích, cử chỉ bên ngoài biểu lộ ơn thiêng liêng bên trong.
9) "Lập tức bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh":
Đức tin đã dẫn bà đến với Chúa Giêsu và bà đã được khỏi bệnh. "Ai đến với Chúa Kitô thì được cứu rỗi".
10) "Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh phát xuất từ mình":
Con người Chúa Giêsu có một quyền lực ẩn dấu mà kẻ vô tín không thể nhận biết, chỉ được mạc khải cho ai có con mắt đức tin.
11) "Ai đã chạm đến áo Ta?":
Đặt câu hỏi này Chúa Giêsu không có ý hỏi cho mình vì Người biết rõ mọi sự, nhưng hỏi để hướng dẫn, để giáo huấn người khác.
Ở đây cho người đàn bà biết rằng việc bà được khỏi bệnh không phải do việc bà sờ vào áo Người vì đây chỉ là dấu bên ngoài, nhưng là do sức mạnh phát xuất từ Người, nghĩa là hoàn toàn bởi Chúa, và do ý Chúa muốn.
Cho đám dân chúng đang chen lấn chung quang, biết có phép lạ đó. Vì phép lạ này xẩy ra trong âm thầm không ai biết đến trừ chính người bệnh và Chúa Giêsu. Chúa cho họ đang theo Chúa để chứng kiến việc xẩy ra cho con gái ông Giairô.
Cho các môn đệ đang theo Người được biết là có phép lạ, để tin nhận vào quyền năng của Người.
12) "Bà liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người":
Đức tin chất phác khiến bà tìm cách sờ đến áo Chúa, bây giờ được tuyên xưng một cách đích thực, qua thái độ sụp lạy của bà.
13) "Hỡi con, đức con đã chữa con":
Lời này nói lên ý nghĩa của phép lạ đây không phải chỉ là sự lành bệnh thể lý do việc đụng chạm bên ngoài đến con người Chúa Giêsu, nhưng còn là ơn cứu rỗi, là sự sống vĩnh cửu, ban cho những ai lấy đức tin đến cùng Người.
14) "Con gái ông chết rồi còn phiền Thầy làm chi nữa":
Qua lời báo tin này, ta thấy thái độ không tin của người nhà ông Giairô và cũng là thử thách cho đức tin của ông Giairô.
15) "Ông đừng sợ, hãy cứ tin":
Sự im lặng không phản ứng của người cha trước lời về báo tin của người nhà và cái chết của đứa con gái đã cho thấy ông vẫn kiên trì trong đức tin. Chính vì thế Chúa Giêsu đã khích lệ ông "Hãy cứ tin". Qua lời khích lệ này cho thấy Chúa Giêsu muốn cho ông Giairô đừng để lòng tin mình bị chao đảo, vì mọi sự đều có thể cho kẻ tin (Lc 9,23) như Chúa Giêsu sẽ nói với cha đứa trẻ bị kinh phong sau này.
16) "Cô bé không chết đâu, nó đang ngủ đó":
Lời báo tin của người nhà cũng như thái độ cười nhạo của những người chung quanh không tin vào quyền năng của Chúa Giêsu cho thấy cô bé đã chết thật. Nhưng ở đây Chúa Giêsu lại bảo cô bé đang ngủ. Người nói thế là vì Người muốn tỏ ra rằng Người làm cho kẻ chết sống lại cũng dễ dàng như người ngủ thức dậy vậy, đồng thời để người khó tin được dễ hiểu.
17) "Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết":
Chúa đuổi dân chúng đi vì họ chế nhạo Người khi Người nói cô bé đang ngủ. Những người không tin thì không đáng được nhìn xem phép lạ Chúa làm.
Chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Được chứng kiến phép lạ chỉ có 5 người là cha mẹ cô bé và 3 môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê, cũng là 3 môn đệ sẽ chứng kiến việc Chúa Giêsu biến hình (Lc 9, 2) và việc Chúa đổ mồ hôi máu trong vườn Cây Dầu (Mc 14, 33). Đây là những người có thiện chí, có niềm tin nên được chứng kiến. "Đã có thì lại cho thêm".
18) "Người cầm tay đứa bé và nói: hỡi em bé Ta truyền cho em hãy chỗi dậy":
+ "Người cầm tay em bé": Cử chỉ này không những nói lên sự đụng chạm thể lý, nhưng còn ám chỉ sự can thiệp hùng mạnh của bàn tay Thiên Chúa trong việc cứu rỗi dân Người.
+ "Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy": Truyền lệnh cho ai là có quyền trên người đó. Ở đây tỏ ra Chúa có quyền trên sự chết và sự sống. Người làm chủ kẻ chết và người sống
19) "Họ sửng sốt kinh ngạc":
Đây là thái độ kinh ngạc linh thánh của những người được chứng kiến phép lạ tỏ uy quyền Chúa (Mc 1, 27; 2,12; 4,41).
20) "Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết":
Chúa muốn ngăn chân sự bồng bột của dân chúng trong quan niệm về Đấng Cứu Thế của họ. Đồng thời Người muốn tỏ ra chỉ có sự sống lại sau này của Người mới có thể soi chiếu hoàn toàn phép lạ này. Chính các môn đệ được chứng kiến phép lạ này sẽ là người làm chứng cho việc Chúa sống lại sau này.
21) "Và bảo họ cho em bé ăn":
Đây cử chỉ chứng thực em bé đã sống lại và khoẻ mạnh thực sự, đúng như sự khấn xin của người cha, và đây cũng là hiệu quả của niềm tin vào Chúa Kitô.
III. ÁP DỤNG:
1) Áp dụng theo Tin Mừng:
+ Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng này để củng cố niềm tin của chúng ta vào quyền năng của Thiên Chúa và biết tín thác vào Người trong mọi sự.
+ Qua gương tỏ bày niềm tin của ông Giairô và của người đàn bà bị bệnh loạn huyết, Giáo Hội muốn chúng ta thực sự tỏ bày niềm tin của mình vào quyền năng và tình thương của Chúa mỗi khi chúng ta đến cầu xin với Người.
+ Lời Chúa hôm nay dậy ta: Mọi ơn lành ta được là do quyền năng Chúa ban và đòi hỏi ở ta lòng tin kính biết ơn, đồng thời cũng bảo ta phải lấy đức tin mà đọc Lời Chúa và chịu các Bí tích là những trung gian làm cho ta được tiếp nhận, tiếp xúc với Chúa là nguồn mạch mọi ơn lành ơn.
2) Áp dụng thực hành:
* Nhìn vào Chúa Giêsu:
a) Chúa Giêsu ra đi với ông ấy: Chúa Giêsu sẵn sàng đáp ứng lời van xin của ông Giairô. chúng ta hãy quảng đại và sẵn sàng đáp ứng bằng sự phục vụ và giúp đỡ khi tha nhân cần đến mình.
b) Ai đã chạm đến áo Ta?: Chúa hỏi để gây sự chú ý và nhờ đó Người giáo huấn. Chúng ta cũng cần phải biết dùng mọi biến cố, mọi hình thức cụ thể trước mắt để giáo dục, hướng dẫn và thăng tiến tha nhân.
c) Họ cười chê Chúa: Kẻ có trách nhiệm thì phải kiên nhẫn, chịu đựng lời ra tiếng vào của thiên hạ, để chu toàn công việc của mình và nêu gương can đảm cho người khác.
* Nhìn vào ông Giairô:
a) Đức tin có nhiều cấp độ:
- Đức tin sơ khai: Đến với Chúa vì thấy mình bất lực.
- Đức tin trọn vẹn: Tin vào Đấng phục sinh được kẻ chết, tin vào Chúa làm cho con mình sống.
Đức tin của chúng ta cũng phải tiến lên, lớn mạnh:
- Tin vào Chúa vì thấy mình bất lực.
- Tin vào Chúa vì thấy quyền năng của Người được bày tỏ qua các kỳ công, qua Thánh Kinh.
- Tin vào Chúa đến độ khao khát muốn tìm gặp Chúa, đối thoại với Chúa, gắn bó với Chúa.
- Tin vào sự Phục sinh: Dù có trải qua thử thách ta vẫn tin Chúa có quyền năng đối với mọi sự cho ta và cho mọi người.
b) Sự thinh lặng của ông trước lời báo tin con ông chết: chúng ta cũng phải bình tĩnh và duy trì niềm tin vào Chúa trước mọi thử thách, mọi cám dỗ, mọi đe doạ.
* Nhìn vào người đàn bà bị bệnh xuất huyết:
Nhờ tin mà bà đã chế ngự được sự sợ hãi, sợ gây ô uế cho người ta, sợ đám đông phát giác.
Giữa đám đông, bà đã được Chúa lưu ý cách riêng, vì bà biết tin vào Chúa. Dù sống hoàn cảnh nào Chúa cũng lưu ý đến ta, miễn sao ta tin vào Người.
* Nhìn chung cả hai trường hợp:
Ông Giairô và người đàn bà bị bệnh xuất huyết:
+ Hành vi đức tin luôn là một quyết định liều lĩnh (un rissque)
+ Duy trì đời sống đức tin là một chuỗi liên tục những dấn bước liều lĩnh được vượt thắng.
+ Công nghiệp của người tín hữu bắt nguồn từ những dấn bước kiểu Abraham ấy.
* Nhìn vào ba môn đệ, nhìn vào đám dân chúng:
"Ai tin ở Người thì được sự sống đời đời" (Ga 3,15) lời hứa đầy phấn khởi.
Đức tin ngày hôm nay của bạn có hiệu lực chung quyết về hạnh phúc vĩnh cửu. Hạnh phúc đó đã có nơi bạn, đang biến đổi bạn và gia tăng mức độ đức tin của bạn.
Thời đại nào cũng vậy, nhiều người có thiện cảm với đạo công giáo nhưng không tin vì đủ loại lý do. Đó là tại chúng ta chưa giới thiệu đủ cho họ về Đức Kitô.
"Nhờ Người mà thế gian được cứu". “Nhờ Người mà được sống đời đời”.
Đời bạn phải như chuyến đò đưa khách sang sông. Chuyến đò tiếp đón mọi thành phần đến với mình, đưa tha nhân sang bến bờ để gặp Thượng Đế.
Khi khách tới nơi, chiếc đò không đòi cám ơn. Và hết ngày này qua ngày khác, nó kiên trì với công việc đến khi không làm được nữa.
26/06 Đầy tớ đại đội trưởng.
- Viết bởi Mt 8, 5-17
Đầy tớ đại đội trưởng.
Thứ Bảy tuần 12 thường niên.
"Những người từ phương đông và phương tây sẽ đến trong nước trời".
Lời Chúa: Mt 8, 5-17
Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó". Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!".
Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng". Ðoạn Chúa nói với viên sĩ quan rằng: "Ông cứ về, ông được như ông đã tin". Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh.
Khi Chúa Giêsu vào nhà ông Phêrô, thấy bà mẹ vợ ông đang sốt rét liệt giường. Chúa chạm đến tay bà và cơn sốt biến đi. Bà chỗi dậy tiếp đãi các ngài. Ðến chiều, họ đưa đến cho Chúa nhiều người bị quỷ ám: Chúa dùng lời đuổi quỷ, và chữa lành tất cả các bệnh nhân, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói rằng: "Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Từ phương đông phương Tây
Suy niệm:
Đức Giêsu mới chữa cho một người phong bằng một tiếp xúc gần,
nay Ngài lại chữa lành cho một người bị đau liệt ở xa.
Người được khỏi chính là đầy tớ thân tín của viên đại đội trưởng.
Con người sống gắn bó với nhau bằng những mối dây.
Viên đại đội trưởng là chủ, nhưng ông cảm được nỗi đau của anh đầy tớ:
“Đầy tớ của tôi bị liệt nằm ở nhà, đau đớn kinh khủng” (c. 6).
Người đầy tớ được khỏi là nhờ tình thương của chủ đối với anh,
chính ông đã đi gặp Đức Giêsu và xin Ngài chữa cho anh đầy tớ (c. 5).
Và chính lòng tin của ông đối với Đức Giêsu đã khiến anh được khỏi (c. 10).
Những điều tốt lành của Thiên Chúa vẫn đến với ta qua người khác.
Khi Đức Giêsu nghe lời kêu xin, thì Ngài sẵn sàng lên đường ngay (c. 7),
dù biết rằng nhà của viên đại đội trưởng là nhà dân ngoại, bị coi là ô uế.
Có thể vì sợ Ngài bị ô uế mà ông ta đã can ngăn bằng câu nói nổi tiếng :
“Tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời,
đầy tớ tôi sẽ được khỏi bệnh” (c. 8).
Ông ý thức về sự bất xứng của mình, của căn nhà mình ở.
Và ông xác tín vào sức mạnh của việc “Ngài chỉ nói một lời.”
Viên đại đội trưởng nhận mình là người có quyền.
Uy quyền của ông nằm trong lời ông ra lệnh cho cấp dưới (c. 9).
Ông tin lời của Đức Giêsu cũng có uy quyền như vậy.
Chỉ một lời ra lệnh của Ngài cũng đủ đẩy lui bệnh tật và thần dữ.
Đức Giêsu ngây ngất trước lòng tin của viên sĩ quan dân ngoại,
một lòng tin vừa mạnh mẽ, vừa khiêm tốn.
Một lòng tin như thế, Ngài chưa từng gặp nơi dân Ítraen (c. 10).
Đức Giêsu nghĩ đến ngày cánh chung, quanh bàn tiệc Nước Trời,
có bao người đến từ muôn phương, những kẻ không phải là người Do thái.
Họ làm nên một cộng đoàn mới gồm những kẻ tin vào Ngài.
Họ vui sướng được ngồi bên các tổ phụ và những người Ítraen chân chính.
Đức Giêsu cho thấy dòng lịch sử đang đi vào ngã rẽ quan trọng.
Ơn cứu độ phổ quát do Ngài đem lại được mở ra cho mọi người.
Chỉ ai cố tình chối từ Tin Mừng Nước Trời mới bị loại (c. 12).
Đức Giêsu không chỉ rao giảng Nước Trời bằng lời.
Ngài còn chứng minh Nước Trời đã đến bằng bao việc tốt lành, kỳ diệu.
Lời Ngài giảng cũng là lời chữa cho người phong, cho tên đầy tớ.
“Ngài nói một lời là trừ được các thần dữ” (c. 16).
Lời uy quyền khi giảng cũng là lời uy quyền khi chữa bệnh.
Nhưng Đức Giêsu cũng đụng chạm đến nỗi đau của con người.
Ngài đụng đến người phong, và đụng đến bàn tay mẹ vợ ông Phêrô (c. 15).
Hôm nay, Giáo Hội vẫn cần những người rao giảng như Giêsu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin chiếu tỏa trên con ánh sáng của Chúa
và dạy con bước đi
ngay trong đêm tối cũng như giữa ban ngày.
Xin truyền cho con sức mạnh của Người.
Ước gì những cánh tay rã rời vì thất bại của con
tìm lại được sức trẻ
để gieo trồng hàng ngàn cây xanh
cho một thế giới mới
Ước gì mồ hôi con
pha lẫn mồ hôi của Chúa trong Vườn Cây Dầu.
Ước gì máu con
hòa lẫn với Máu Chúa trên Núi Sọ
để tưới gội cho mảnh đất đã bị khô cằn
vì bất công và ích kỷ.
Chúc tụng Chúa là Cha,
đã dẫn con đi đến cùng,
đến tận Emmaus, nơi Chúa hiển dung
với tràn trề bình an và niềm vui. Amen. (ĐHY Roger Etchegaray)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Từ phương Đông phương Tây
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Áp-ra-ham là người công chính. Từ nhân loại tội lỗi Thiên Chúa đã tuyển chọn Áp-ra-ham để lập ra một dân riêng. Chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế giáng trần. Áp-ra-ham là vị Tổ phụ mẫu mực. Ngài có tấm lòng rộng mở đón nhận Lời Chúa. Ngài có tấm lòng trung tín luôn vâng theo ý Chúa. Cuộc đời ngài hoàn toàn dâng hiến cho thánh ý Thiên Chúa. Hãy xem cách ngài đón tiếp Thiên Chúa đến viếng thăm. Làm tất cả mọi sự vì Thiên Chúa. Tuyệt đối tin vào Lời Hứa. Dù đã trăm tuổi mà vẫn chưa có con. Nhưng vẫn tin vào Lời Chúa. “Tại sao Xa-ra lại cười và nói: ‘Có thật tôi già thế này mà còn sinh đẻ được chăng?’ Nào có điều gì kỳ diệu vượt sức Đức Chúa? Vào độ này sang năm, ta sẽ trở lại thăm người, và Xa-ra sẽ có một con trai”. Ông đã trở thành Tổ phụ lớn lao và gương mẫu (năm chẵn).
Tiếc rằng đến thời sau dòng dõi huyết tộc của ông không còn giữ được đức tin và lòng trung tín với Thiên Chúa. Vì họ đã nghe những tiên tri giả mà phạm sai lầm. Rơi vào ảo tưởng. Nên bị Thiên Chúa trừng phạt. “Mọi nơi cư ngụ của Gia-cóp, Đức Chúa huỷ diệt chẳng chút xót thương; nổi trận lôi đình. Người triệt hạ đồn luỹ của thiếu nữ Giu-đa….Ngôn sứ của ngươi tỏ cho ngươi thấy toàn điều hư ảo, toàn chuyện khói mây, còn lỗi lầm ngươi, chúng không vạch rõ để đảo ngược số phận của người”. Tiên tri kêu gọi họ sám hối, cầu xin để được Thiên Chúa tha tội: “Trước nhan Chúa hãy trút niềm tâm sự, giơ tay hướng về Người mà cầu cho sinh mạng của đoàn con đang lịm dần vì đói” (năm chẵn).
Đến khi Chúa Giê-su đi rao giảng, cũng kêu gọi sám hối. Nhưng dân chẳng tin. Trái lại có những người ngoại đạo tin. Như ông đại đội trưởng quân đội Rô-ma hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Lại có lòng khiêm tốn sâu xa: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh”. Chúa Giê-su đã ngạc nhiên và khen ngợi ông: “Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế. Tôi nói cho các ông hay: Từ phương ddoong phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗi tối tăm bên ngoài”. Như thế dòng dõi Áp-ra-ham có hai. Về huyết thống thì yếu lòng tin nên bị loại bỏ. Về đức tin. Bất cứ ai tin sẽ được gọi là con cháu Áp-ra-ham. Sẽ được vào dự tiệc Nước Trời.
Tinh thần quý hơn thể xác. Đức tin quý hơn huyết thống. Như Chúa Giê-su từng nói: “Ai nghe và tuân giữ Lời Chúa. Đó là anh em, chị em và là Mẹ Ta” (Lc 8,21). Xin cho con được thuộc về dòng dõi những kẻ tin. Để trở thành thân nhân của Chúa.
Suy Niệm 3: Tuyên xưng niềm tin
Tin Mừng hôm nay thuật lại câu truyện lòng tin của viên bách quản Rôma, một lòng tin đã khiến Chúa Giêsu phải ngạc nhiên. Nếu Chúa Giêsu đã khen lòng tin của người đàn bà bị bệnh loạn huyết khi bà nghĩ rằng chỉ cần đụng vào gấu áo Ngài cũng đủ để được khỏi, thì lòng tin của viên bách quản này còn mạnh hơn nhiều: Ông tin rằng Chúa Giêsu chỉ cần nói một lời, thì đầy tớ của ông, dù có ở xa đến đâu cũng sẽ được lành. Trước lòng tin ấy, Chúa Giêsu đã thốt lên: "Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế".
Lời tuyên xưng của viên bách quản là kết quả hiểu biết đúng đắn về bản thân và quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Ðể có sự hiểu biết đúng đắn cần phải có thái độ khiêm nhường và thành thật. Vì con người là một tinh thần kết hợp với thể xác: thể xác bị ràng buộc bởi các điều kiện không gian và thời gian, còn tinh thần chẳng bị một ràng buộc nào; thể xác đang nằm sát đất, nhưng tinh thần có thể vươn tới trời cao; thể xác đang ở hiện tại, nhưng tinh thần có thể lùi lại quá khứ hoặc hướng tới tương lai rất xa.
Óc tưởng tượng đưa con người viễn du khắp nơi, cả những vùng không tưởng. Óc tưởng tượng vẽ ra cho con người muôn vàn hình ảnh, mà nếu không khiêm nhường trong hiểu biết, con người sẽ bám víu mãi vào đó. Khiêm nhường đem tinh thần con người trở về với thân xác hạn hẹp yếu đuối; khiêm nhường chỉ cho con người thấy thực tại của thân phận làm người, đó là hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa; tất cả những gì con người có đều là do Thiên Chúa ban. Nhận thức được chân lý này, nên niềm tin của viên bách quản được Chúa Giêsu khen thưởng, và Giáo Hội đã mượn lời tuyên xưng này để hằng ngày trong Thánh Lễ, người tín hữu có thể dâng lên Chúa tâm tình khiêm tốn, bất xứng của mình.
Ước gì lời Chúa hôm nay là một nhắc nhở chúng ta trong công việc hằng ngày, giúp chúng ta vững tin và nhận ra mọi ơn lành đến từ Chúa và dâng lời cảm tạ Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Chúa Giêsu ngạc nhiên
Khi Đức Giêsu vào thành Ca-phát-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin: “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm.” Người nói “Chính tôi sẽ đến chữa nó.” Viên đại đội trưởng đáp: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi khỏi bệnh.” (Mt. 8, 5-8)
Lòng tin của người ngoại giáo
Chúng ta hay có thói quen rất chú tâm đến những lời Chúa phán cùng những việc Chúa làm. Còn những tình cảm, những xúc động, những gì rung động trong con tim Người thường ít nhiều không được để ý đến. Có lẽ cũng vì các thánh sử dẫu sao cũng khá kín đáo về vấn đề này.
Trích đoạn Phúc âm chúng ta đọc lại sáng nay, nói rõ ràng rằng Chúa Giêsu đã ngạc nhiên, sửng sốt. Ta đừng vội vã và bỏ qua chi tiết có tính rất mạc khải này.
Điều gì đã khiến Chúa Giêsu có tâm tình ngạc nhiên như vậy? Không phải chỉ vì sự kiện là viên đại đội trưởng người Rôma này bộc lộ một lòng tin đầy kính trọng, thật sâu xa và khiêm tốn đối với Người mà thôi, nhưng còn bởi tại ông ta là một người ngoại giáo. Qua tai nghe mắt thấy, Chúa Giêsu chưa hề gặp một người dân It-ra-en nào bộc lộ được một lòng tin như ông này. Ông là một người ngoại, có nghĩa là một người đã không được giáo dục theo văn hóa và tín ngưỡng Do thái, một người không biết đến Kinh thánh, và tất nhiên không biết có Đức Gia-vê là Thiên Chúa chân thật. Chính ông ta là một con người như thế mà lại đã thẳng thắn bộc lộ lòng tin vào Đức Giêsu là một người Do thái!
Chúa Giêsu phải sững sờ và ngạc nhiên là vì thế.
Biết cảm phục
Có nhiều điều tốt và đẹp nơi những người không cùng niềm tin, không cùng giáo dục, không cùng tập quán với ta. Ta có biết nhận ra điều ấy không? Nhiều người tuy không phải là Kitô hữu, mà vẫn sống lòng tin vào Chúa, một lòng tin mạnh và chân thành hơn của ta. Dó không phải là động cơ thúc đẩy ta ngạc nhiên và cảm phục sao?
Chúa Giêsu đã có ý thức về tâm tình ngỡ ngàng cảm phục. Người đã biết cảm phục những gì là đẹp, là tốt, là thiện. Người đã tìm được những cái đó ở bất cứ nơi nào, nơi bất cứ con người nào; người ấy là ai và ở đâu, không thành vấn đề đối với Người. Ta phải bắt chước Người về điểm này cũng như về nhiều điều khác.
SUY NIỆM 5: ƠN CỨU ĐỘ DÀNH CHO MỌI NGƯỜI (Mt 8, 5-17)
Câu nói của Đức Giêsu hôm nay đã làm cho không biết bao nhiêu người sững sờ, chưng hửng: “... nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Đây là nỗi băn khoăn, lo lắng, thắc mắc của bao nhiêu người, đặc biệt dân Dothái thời đó.
Thật vậy: “... những người không do lỗi của mình mà không biết đến Phúc Âm của Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và nhờ ơn sủng của Ngài mà hành động để làm trọn thánh ý Ngài theo như lương tâm của họ mặc khải và truyền dạy cho họ, thì những người này có thể đạt tới ơn cứu độ muôn đời” (x. SGLGHCG, số 847; LG, số 16; DS 3866-3872).
Còn: “Những ai đã biết rằng Giáo Hội Công Giáo, được Thiên Chúa thiết lập nhờ Chúa Giêsu-Kitô, như phương tiện cứu rỗi cần thiết, mà vẫn không gia nhập hoặc không muốn kiên trì sống trong đó thì không thể được cứu rỗi” (x. LG, số 14; SGLGHCG, số 846).
Như vậy, điều quan trọng là muốn được cứu hay không? Nếu muốn được hưởng ơn cứu độ của Chúa thì:
Trước tiên, “hãy phấn đấu qua cửa hẹp mà vào”. Cửa hẹp là những gian nan thử thách, dù gặp khổ cực đến đâu vẫn phải quyết tâm sống theo Lời Chúa dạy. Phải chịu rèn luyện mới được gặt hái những hoa trái; phải “có công mài sắt mới có ngày nên kim”; phải chịu “lửa thử vàng, gian nan thử đức”.
Thứ hai, hãy vào cho kịp thời: “Một khi chủ đã đứng dậy và khóa cửa lại mà anh còn đứng ngoài… thì chỉ còn ở đó, khóc lóc nghiến răng thôi”. Nước trời không dành cho những người khô khan lười biếng, thờ ơ, chểnh mảng, say sưa, ăn chơi, gian ác hay nước đến chân mới nhảy. Những người như thế, họ sẽ lãnh nhận lời than trách nặng nề của Đức Giêsu như xưa Ngài đã nói với dân chúng thời của Ngài: “Hỡi quân gian ác, đi cho khuất mắt Ta”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết làm theo ý Chúa muốn để được vào Nước Trời, chính là vào qua cửa hẹp và vào kịp thời để không bị loại ra ngoài. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Viên sĩ quan đầy lòng xác tín
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thiên Chúa đỡ nâng con người. “Những tật nguyền của chúng ta chính Ngài lãnh nhận. Ngài mang lấy những bệnh hoạn của chúng ta”. Hãy tin vào Chúa và trao phó những khốn khó của chúng ta cho Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm nhận được sức mạnh và hậu quả của tội lỗi ảnh hưởng nơi bản thân con. Tội lỗi dẫn đến bao thảm họa. Nó gây ra bao nỗi đau khổ đắng cay. Con biết Chúa đã dựng nên con và hằng yêu thương con, Chúa không thể hờ hững trước những thất bại khốn khó của con. Chúa là tình thương, chính Chúa đã cúi xuống với con để nâng con dậy. Chúa muốn cất đi những gánh nặng của phận người đang khốn khổ do tội lỗi gây ra.
Tuy thế, con cũng hiểu rằng, dù Chúa muốn nâng đỡ con, nhưng nếu con không tin và không phó dâng những khốn khổ của con trong tay Chúa, Chúa cũng đành bó tay chẳng cứu được con. Sự trao gởi đó đòi con phải có một lòng tin tuyệt đối vào Chúa.
Viên sĩ quan trong bài Tin Mừng hôm nay, dù là một người lương dân nhưng đầy lòng xác tín, ông đã thưa với Chúa một lời khiến Chúa vui và ngạc nhiên: “Chỉ cần Chúa phán một lời thì đầy tớ nhà tôi sẽ khỏi”. Nhờ lòng tin, ông đã được như ý ông xin. Cũng chính nhờ lòng tin ấy, ông sẽ được đón nhận vào Nước Trời.
Lạy Chúa, đời con với bao lo toan, bao thương đau, bao ưu phiền, bao vất vả, con xin phó dâng trong tay Chúa. Con quyết chứng tỏ lòng tin Chúa bằng cách quyết tâm giữ luật Chúa, quyết tâm sống lương thiện ngay chính trong những lúc gian nan. Con tin Chúa cũng sẽ nói với con: “Con về đi, con sẽ được như con đã tin”. Amen.
Ghi nhớ : “Những người từ phương đông và phương tây sẽ đến trong nước trời”.
Suy Niệm 7: Niềm tin khiêm nhường, đơn sơ nhưng mãnh liệt
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một cuộc nghiên cứu tại một trường đại học ở Hoa Kỳ thực hiện nơi 2800 người già cũng chứng minh rằng con số những người không bao giờ đến nhà thờ bị nhồi máu cơ tim cao gấp hai lần so với những người đi lễ hàng tuần. Bác sĩ Haberth, Giáo sư phụ khảo thuộc trường đại học y khoa ở Hoa Kỳ ghi nhận rằng: Từ 60 đến 90% những lần viếng thăm bác sĩ đều liên quan đến những chứng mất ngủ, huyết áp cao và bệnh tim, ông khẳng định rằng: Lời cầu nguyện thường xuyên có sức mạnh ngăn chặn lại nhịp tim và nhịp thở cũng như huyết áp.
Suy niệm
Nhà vật lý Archimède đã nói: “Nếu có thể tìm được một điểm tựa bên ngoài vũ trụ, thì với một đòn bẩy, người ta có thể nâng bổng cả vũ trụ lên”. Trên quan điểm của Archimède, văn hào Kierkegaard đã giải thích thêm: “Điểm tựa ấy chính là đức tin, tin vào Thiên Chúa có thể làm được mọi chuyện”.
Viên bách quản là người ngoại đạo mà ông tỏ ra khiêm tốn và tin tưởng cầu xin Ðức Giêsu chữa lành cho người đầy tớ đang bệnh nặng. Ông không dám đòi hỏi Chúa đến tận nơi, khi khiêm tốn nhận ra mình bất xứng và không dám rước Ngài vào nhà mình chỉ “xin Thầy phán một lời”. Trước niềm tin mạnh mẽ và khiêm tốn của viên đại đội trưởng, Chúa Giêsu tỏ ra hài lòng và thán phục niềm tin mạnh mẽ của một người ngoại giáo: Một niềm tin khiêm nhường, đơn sơ nhưng mãnh liệt!.
Phép lạ đã xảy ra như lòng ông mong ước… Chính lời tuyên xưng của ông: “Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh…”, lời nói đó đã được Giáo hội mượn và tuyên xưng trong cộng đoàn phụng vụ khi chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thể: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
Tại gia đình của Phêrô, Chúa cũng chữa lành cho bà nhạc gia ông đang sốt được khoẻ. Các bệnh nhân người bị quỷ ám cũng được người chữa khỏi để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: “Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta”.
Xin Chúa cho chúng ta đức tin chân thành mạnh mẽ… chúng ta cần phải không ngừng van xin: “Xin thêm lòng tin cho chúng con”. Chính vì với sức mạnh của niềm tin, chúng ta sống tâm tình phục vụ với hết cả tâm hồn, tất cả sức lực được thúc đẩy của lòng tin.
Ý lực sống”
“Ai có đức tin thì làm được mọi việc… Dù đức tin chỉ bằng hạt cải…” (x. Lc 17,5-6).
Suy Niệm 8: Chúa chữa lành người đầy tớ của viên đại đội trưởng (Mt 8,5-17)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Chúa Giêsu đến thành Capharnaum, thì một viên sĩ quan ngoại giáo đến van xin Ngài chữa cho đầy tớ ông bị bại liệt đau khổ. Ngài hứa sẽ đến cứu chữa, nhưng ông quá khiêm tốn, không dám rước Chúa về nhà, chỉ xin Chúa phán một lời cho đầy tớ ông lành bệnh. Chúa thấy ông ta có lòng tin và khiêm tốn như thế thì ngạc nhiên và hết lời khen ngợi. Ngài bảo viên sĩ quan: ông cứ về, ông tin thế nào thì được như vậy. Và ngay lúc đó đầy tớ ông được khỏi bệnh.
Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện lòng tin của viên sĩ quan đại đội trưởng Rôma, một lòng tin đã khiến Chúa Giêsu phải ngạc nhiên. Nếu Chúa Giêsu đã khen lòng tin của người đàn bà bị bệnh loạn huyết khi bà nghĩ rằng chỉ cần đụng vào gấu áo Ngài cũng đủ để được khỏi, thì lòng tin của viên đại đội trưởng này còn mạnh hơn nhiều. Ông tin rằng Chúa Giêsu chỉ cần nói một lời, thì đầy tớ của ông, dù có ở xa đến đâu cũng sẽ được lành. Trước lòng tin ấy, Chúa Giêsu đã thốt lên: “Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế”.
Viên đại đội tưởng này, tuy là người ngoại, nhưng ông đã có một niềm tin mạnh khiến Chúa Giêsu phải ngạc nhiên.
Đối với chúng ta ngày nay, cần phải hiểu rõ hơn thế nào là niềm tin và đức tin. Sách Giáo lý Công giáo viết: “Đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa, được trao ban cho tất cả những ai cầu xin với lòng khiêm hạ; đó là nhân đức siêu nhiên cần thiết để được cứu độ. Hành vi đức tin là một hành vi nhân linh, nghĩa là một hành động của lý trí con người, dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Ngoài ra, đức tin còn có đặc tính chắc chắn, vì được đặt nền tảng trên Lời Chúa; đức tin có đặc tính năng động “nhờ Đức ái” (Gl 5,6); đức tin luôn tăng triển, đặc biệt nhờ lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện. Trong hiện tại, đức tin cho chúng ta nếm trước niềm vui trên trời (số 28).
Ngoài niềm tin mạnh mẽ và sâu sắc, viên sĩ quan này còn có một sự khiêm tốn thẳm sâu trước mặt Chúa. Xét về thế giá và địa vị, viên sĩ quan đến xin Chúa chữa bệnh cho người đầy tớ hôm nay có quyền lực đại diện cho đế quốc Rôma để cai trị một vùng của người Do thái, ông có lính tráng và kẻ hầu người hạ, thậm chí xét về mặt chính trị, ông còn có quyền bắt, trục xuất hoặc ngăn cản Chúa Giêsu truyền đạo.
Thế nhưng, ông nhận ra con người Chúa Giêsu không đơn thuần là một thầy dạy như các luật sĩ, mà là một vị tiên tri của Thiên Chúa, nên ông đã cảm thấy bất xứng trước mặt Ngài. Ông nhìn nhận mọi chức vụ và địa vị đều dưới quyền của Thiên Chúa, và ông đã khiêm tốn nói lên: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh”.
Ngoài đức tin và lòng khiêm tốn, vị sĩ quan này còn có lòng thương người, bằng chứng là ông không xin gì cho ông mà lại xin cho người đầy tớ của ông được khỏi bệnh. Tin mừng còn cho thấy một bên là hình ảnh của con người đau khổ bệnh tật, một bên là tình yêu cứu chữa của Chúa Giêsu. Sợi dây nối kết con người khốn khổ với Chúa Giêsu chính là lòng tin của con người. Chúa Giêsu đã làm phép lạ chữa lành người đầy tớ của viên đại đội trưởng là do lòng tin của ông. Lòng tin của người này cần thiết để cho người khác được cứu chữa.
Ngày nay, Chúa Giêsu cũng cần lòng tin của chúng ta, để cứu chữa những người đau khổ chung quanh chúng ta. Lòng tin ấy được thể hiện bằng những cử chỉ cụ thể, những sự hiện diện để giúp đỡ ủi an. Lòng tin ấy cũng chính là một thể hiện của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Tin ở tình yêu Thiên Chúa ngay giữa những lúc ốm đau thử thách là thái độ cơ bản nhất của người Kitô hữu. Thiên Chúa yêu thương con người, tình yêu ấy vượt mọi suy nghĩ, mọi giới hạn của ngôn ngữ loài người, đó phải là sứ điệp mà người Kitô hữu mang lại cho người khác (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Nỗ lực rồi cậy trông
Nữ thủ tướng Margaret Hilda Thatcher sinh ra tại một thị trấn nhỏ của Anh. Từ nhỏ, bố của Margaret đã giáo dục cô rất nghiêm khắc. Ông thường xuyên nói với cô những câu như: “Cho dù làm bất cứ việc gì cũng phải tranh làm đầu tiên, tuyệt đối không được đứng sau người khác. Cho dù ngồi xe bus cũng phải ngồi hàng ghế đầu. Hơn nữa, tuyệt đối không được phép nói: “Khó quá” hay “Con không làm được”.
Quả thực đối với cô bé Margaret, yêu cầu như vậy là quá nghiêm khắc. Nhưng có điều cũng chính vì sự giáo dục nghiêm khắc của bố như vậy nên Margaret đã hình thành thái độ học tập tích cực. Mỗi khi làm chuyện gì, Margaret luôn mang trong mình niềm tin tất thắng, hơn nữa sẽ cố gắng hết sức để thực hiện mục tiêu của mình. Cô đã dùng hành động thực tế để chứng minh mình phải ”vĩnh viễn ngồi ở ghế hàng đầu”.
Hồi Margaret học đại học, nhà trường đề ra kế hoạch dạy tiếng Latinh trong vòng năm năm. Kết quả chỉ trong một học kỳ, Margaret đã học xong hết, hơn nữa thành tích thì lại rất cao. Cô đã xuất sắc đứng đầu. Margaret không chỉ có thành tích xuất sắc mà còn tích cực tham gia thể thao, ca hát, diễn thuyết và những hoạt động khác của trường. Cô đã trở thành học sinh ưu tú của trường. Giảng viên đại học của Margaret đã từng nói: “Margaret là học sinh xuất sắc nhất của trường chúng tôi từ khi thành lập đến nay. Cô bé lúc nào cũng tự tin, luôn làm tốt mọi chuyện”. Cô đã có một niềm tin mạnh vào cuộc sống và tương lai của mình.
Về sau, Thatcher trở thành một nữ thủ tướng đầu tiên trong lịch sử nước Anh, trở thành ngôi sao sáng chói trên vũ đài chính trị Châu Âu.
25/06 Chữa người phong cùi.
- Viết bởi Mt 8, 1-4
Chữa người phong cùi.
Thứ Sáu tuần 12 thường niên.
"Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch".
Lời Chúa: Mt 8, 1-4
Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người.
Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch".
Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: "Ta muốn. Anh hãy lành bệnh".
Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi.
Chúa Giêsu phán bảo anh ta: "Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Nếu Ngài muốn
Suy niệm:
Sau Bài Giảng trên núi thì đây là phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu
trong chuỗi mười phép lạ ở chương 8 và 9 của Tin Mừng Mátthêu.
Người phong chẳng rõ từ đâu đã dám lại gần Đức Giêsu,
dù lẽ ra anh không được phép làm như thế (Lv 13, 45-46).
Ai đã nói cho anh về Ngài, ai đã dạy anh bái lạy và khấn xin ?
‘Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi được sạch” (c. 2).
Một lời cầu xin mẫu mực đáng chúng ta suy nghĩ.
“Nếu Ngài muốn” : anh đặt ý muốn của Đức Giêsu lên trên ý muốn của anh.
Dù rất muốn được khỏi, nhưng anh vẫn để Ngài tự do làm theo ý của Ngài.
Chữ “nếu” thật đơn sơ, nhưng nói lên sự phó thác trọn vẹn của anh
cho ý muốn tốt lành của Đức Giêsu.
Ngài được tự do muốn hay không muốn, làm hay không làm.
Đức Giêsu không thấy mình bị áp lực phải chiều theo ý muốn của anh.
Sau này trong Vườn Dầu, Đức Giêsu cũng dùng chữ “nếu”
khi nài xin Cha cất chén đắng cho mình.
“Lạy Cha, nếu có thể được…” (Mt 26, 39. 42).
Nhưng trong trường hợp này, Cha đã không cất chén Khổ nạn của con.
“Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
Anh tin vào quyền năng phi thường từ nơi Ngài,
quyền năng có thể làm cho những nhơ uế trên người anh biến mất,
và da thịt anh phút chốc được lành sạch.
Khi con người tin vào Thiên Chúa như một đứa con thơ phó thác,
Thiên Chúa sẽ chọn cho con người điều tốt nhất.
Thái độ phó thác, tuy có vẻ liều lĩnh, vì Thiên Chúa có thể nói không,
nhưng thật ra lại rất khôn ngoan, vì biết mình sẽ được điều tốt hơn cả.
“Tôi muốn, anh hãy được sạch” (c. 3).
Đức Giêsu được tự do để muốn, thoải mái để bày tỏ lòng quảng đại.
Ngài chẳng những chữa lành bằng ý muốn được nói ra lời,
Ngài còn làm một điều không cần thiết và bị cấm (Lv 5, 3),
đó là đưa tay đụng đến người phong.
Cả tình yêu của Ngài diễn tả qua cái đụng nhẹ đó.
Da thịt của Ngài chạm vào da thịt không lành lặn của anh.
Ngài không bị nhiễm uế, trái lại Ngài làm cho anh được sạch.
Rõ ràng người phong ở rất gần Đức Giêsu và không làm Ngài kinh tởm.
Đức Giêsu muốn anh trở về với đời sống bình thường,
hội nhập trở lại với Đền thờ, gia đình và xã hội.
Vì thế Ngài sai anh đi trình diện với các tư tế và dâng của lễ (c. 4).
Dù không là người phong, nhưng ai trong chúng ta tránh được ô nhơ?
Ai trong chúng ta lại không có lần xin Chúa tẩy mình cho sạch?
Thân xác người phong bị tàn phá và làm cho dị dạng, đáng sợ.
Chỉ mong tâm hồn chúng ta tránh được bệnh phong.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa
in ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu lời Chúa
những kẻ khát không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật,
công bằng và tình thương
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương,
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính ta.” (Mẹ Têrêxa Calcutta)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm 2: Tôi muốn
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người “mắc bệnh phong tiến lại, bái lạy Người và nói: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Bệnh phong là bệnh nan y thời ấy. Không ai có thể chữa lành. Bệnh phong giống như người chết. Vì bị khai trừ ra khỏi cộng đoàn. Người bệnh phong này có đức tin mãnh liệt. Chỉ có Chúa mới có thể chữa ông. Chúa Giê-su “giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch”. Chúa là Thiên Chúa của sự sống. Chúa dựng nên sự sống. Không dựng nên sự chết. Chúa muốn sự sống cho con người. Chúa giơ tay đụng vào người bệnh. Bàn tay yêu thương đụng đến chỗ đau yếu nhất. Ngón tay thần linh ban sự sống. Như ngón tay Thiên Chúa chạm vào ngón tay A-đam. Thiên Chúa ban sự sống. Kỳ diệu hơn nữa. Thiên Chúa trả lại sự sống.
Thiên Chúa muốn sự sống. Nên đã tuyển chọn Ít-ra-en. Nhưng các vua chúa lại phản bội. Làm điều dữ trước mặt Chúa. Nên đi vào con đường sự chết. Xít-ki-gia-hu cũng đi vào đường tội lỗi như vua cha. Nên dẫn đến cái chết. Cái chết của một dân tộc. Tất cả phải đi lưu đày. Chỉ còn “lại một phần dân cùng đinh trong xứ để trồng nho và canh tác”. Vua chết dần mòn vì “vua Ba-by-lon đâm mù mắt vua Xít-ki-gia-hu, lấy hai dây xích đồng xiềng vua lại và điệu về Ba-by-lon”. Chết cả dòng họ. Tuyệt tự. “Chúng cắt cổ những người con của vua Xít-ki-gia-hu trước mắt vua cha”. Không còn sự sống (năm chẵn).
Áp-ra-ham thờ phượng Chúa nên Chúa ban sự sống qua dòng dõi trường tồn. Ông đã nản lòng. Vì chín mươi chín tuổi mà chưa có con. Ông muốn người quản gia thừa kế. Chúa không đồng ý. Ông muốn đứa con của nữ tỳ thừa kế. “Ước chi Ít-ma-en được sống trước nhan Ngài”. Chúa cũng không chịu. Vì Chúa sẽ ban cho ông người con chính ông sinh ra. “Không đâu! Chính Xa-ra, vợ ngươi, sắp sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ đặt tên cho nó là I-xa-ác. Ta sẽ lập giao ước của Ta với nó; đây sẽ là giao ước vĩnh cửu cho dòng dõi nó sau này” (năm lẻ).
Chúa là Thiên Chúa của sự sống. Chúa muốn ta được sống. Và sống đời đời. Nhưng sự sống chỉ có ở trong Chúa. Hãy ở lại trong Chúa. Bằng tuân giữ Lời Chúa. Như tổ phụ Áp-ra-ham. Ta sẽ ở trong sự sống. Sự sống yêu thương. Sự sống sung mãn. Sự sống trường cửu.
Suy Niệm 3: Chữa người phong cùi
Cho đến thế kỷ 20, bệnh phong cùi vẫn còn là một huyền thoại đối với con người. Một bác sĩ làm việc tại một trại Y khoa bên Ấn Ðộ đã tình cờ khám phá ra rằng người mắc bệnh phong cùi không cảm thấy đau đớn trong những tế bào đã bị vi trùng xâm nhập. Ngày nọ, ông không thể mở được cửa phòng, ông mới trao chìa khóa cho cô bé 12 tuổi. Ông không ngờ nó đã vặn chìa khóa một cách dễ dàng. Xem xét những ngón tay của nó, ông nhận thấy chìa khóa đã làm mất đi một mảng thịt trong lòng bàn tay và chạm đến xương, thế mà nó không cảm thấy đau đớn.
Nhờ khám phá này, viên bác sĩ đã giúp cho những người phong cùi biết cách đề phòng để tránh gây thương tích cho thân thể của họ. Ông đã giải phẫu những giây thần kinh của bàn tay và dạy họ cách điều khiển các cơ bắp của bàn tay. Ông cũng giải phẫu mũi của bệnh nhân để mang lại cho họ một gương mặt dễ coi hơn. Ngoài ra, ông cũng khám phá ra rằng những người mắc bệnh phong cùi dễ bị mù mắt, lý do vì họ không còn cảm nhận được đau đớn khi những chất dơ bẩn xâm nhập vào mắt, nhờ đó ông cũng giúp họ lo vệ sinh mắt một cách chu đáo hơn. Với những khám phá này, ông đã đánh đổ được huyền thoại cho rằng phong cùi là căn bệnh bất trị.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đánh đổ được huyền thoại của người đương thời với Ngài về bệnh phong cùi. Thật thế, trong quan niệm của người Do Thái lúc đó, bệnh tật là một hình phạt trực tiếp của Thiên Chúa đối với tội lỗi của con người. Người mắc bệnh phong cùi là người đã từng mắc tội ác khủng khiếp đến độ đã bị Thiên Chúa trừng phạt nặng nề. Thế nên, khi bị đẩy ra bên lề xã hội, người phong cùi không những chịu đớn đau trong thân xác, mà còn phải gánh chịu sự tủi nhục do người đồng loại gây ra. Khi chữa lành người phong cùi, Chúa Giêsu muốn nói rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và chính tình yêu là sức mạnh chữa trị bệnh tật cho con người.
Sứ điệp ấy của Chúa Giêsu, trải qua các thế hệ, đã có biết bao nhiêu người chuyển đạt và thực thi cho những người phong cùi trên khắp thế giới. Những bàn tay săn sóc, những lời nói an ủi, và nhất là sự hiện diện chia sẻ bên cạnh các người phong cùi. Tất cả những cử chỉ ấy là để khẳng định với những người phong cùi rằng Thiên Chúa yêu thương họ.
Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm được rằng những đau đớn thân xác không xâu xé và đè bẹp con người cho bằng nỗi cô đơn và bị bỏ rơi. Bệnh phong cùi là tột điểm của nỗi cô đơn mà con người có thể rơi vào. Tựu trung, cô đơn cũng đồng nghĩa với vắng bóng tình yêu.
Không có cơ hội hoặc không đủ can đảm để phục vụ những người phong cùi, thì ít ra chúng ta xin Chúa cho chúng ta có thể mang lại sứ điệp yêu thương của Chúa đến mọi người, nhất là những ai đang sống trong cô đơn thử thách.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Xin làm cho con được sạch!
Khi Đức Giêsu ở tên núi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. Và kìa một người bị phong hủi tiến lại, bái lạy Người và nói: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” (Mt. 8, 1-2)
Những lời nguyện đẹp
Thời ấy những người mắc bệnh phong hủi ý thức rất rõ về thân phận hẩm hiu của mình. Người phong hủi mắc một chứng bệnh nguy hiểm, nên không ai dám đụng chạm đến người họ. Phải mang chứng bệnh khốn khổ này, nên người phong hủi buộc phải sống biệt cư bên ngoài cộng đồng xã hội, điều này còn khiến họ phải đau xót và khổ tâm hơn. Bởi vậy lời người phong hủi ấy khẩn cầu Chúa Giêsu phải là lời cầu xin rất tha thiết và chân thành, phát ra tự đáy lòng anh. Lời ấy phải là một tiếng kêu van thật, một lời cầu nguyện thật.
Biết bao lần chúng ta cũng thưa với Chúa những lời nguyện xin tương tự như của người phong hủi. “Lạy Chúa, xin làm cho chúng con được sạch. Xin rửa chúng con sạch vết nhơ tội lỗi. Xin tha thứ cho chúng con. Xin cho chúng con được ơn sám hối. Xin thay đổi lòng chúng con.”. Chúng ta có biết bao những mẫu kinh thân quen như vậy. Phụng vụ còn không ngừng đặt trên môi miệng ta những lời kinh ấy để ta nói lên, để ta ca hát nữa.
Phải là những lời nguyện chân thành
Khi ngỏ lời với Chúa như vậy, lòng ta có hoàn toàn tha thiết và chân thành không? Đó có phải là những tiếng van xin phát ra tự lòng ta không? Ta có thật sự xác tín rằng mình cần được chữa lành, cần được thanh tẩy, cần được ơn sám hối?
Để cho mình mượn những mẫu kinh đẹp đẽ kia, cứ lặp đi lặp lại những lời của người khác mà không làm cho chúng thành lời của mình, thiết tưởng quá dễ dàng. Giả vờ hay có vẻ đóng kịch phần nào, cũng quá dễ thôi. Cầu nguyện liến thoắng như con vẹt, như cái máy, mà không đặt tâm trạng của mình vào đó, cũng là quá dễ dàng. Nên chăng đôi khi thà yên lặng còn hơn là nói đi nói lại những lời mà ta chỉ mới tin một nửa? Chúa không muốn nghe những lời không phát xuất từ nội tâm ta, những lời trống rỗng. Để gặp gỡ Chúa, ta không cần phải nhiều lời, không cần cả những lời hay ý đẹp. Mà phải có những lời thiết tha, những lời chân thực. Có thế thôi.
SUY NIỆM 5: LẠY NGÀI, XIN CHO TÔI ĐƯỢC SẠCH (Mt 8, 1-4)
Có một câu chuyện thật ấn tượng về một linh mục đã trọng tuổi thuộc dòng Phanxicô. Chuyện là thế này: ngài là một linh mục rất thương người, vì thế, sau lễ truyền chức linh mục cho ngài, có một người sẵn sàng tài trợ mọi mặt để tổ chức thánh lễ tạ ơn tại quê hương cho thật “hoành tráng”. Tuy nhiên, ngài đã từ chối, và không quên ngỏ lời xin toàn bộ số tiền đó để xây nhà, khoan giếng, thuốc thang cho anh chị em bị phong cùi mà ngài đã biết đến họ cách đó vài năm trong một khu rừng sâu thẳm không một bóng người qua lại.
Tại sao họ lại có một cuộc sống khổ đến vậy? Thưa! Chỉ vì bị kỳ thị và sợ liên lụy cũng như sợ bị lây nhiễm, nên người ta đã đẩy anh chị em đó vào trong một thế giới riêng, tách biệt khỏi xã hội bên ngoài.
Hôm nay, Đức Giêsu đã chữa lành cho người phong cùi vì anh ta có lòng tin: "Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch".
Tưởng cũng nên nhắc thêm: bệnh phong hủi, vào thời ấy, là một thứ bệnh ghê tởm, không có thuốc chữa mà tác hại của nó lại quá lớn và mức độ lây lan nhanh. Ai mắc thứ bệnh đó là đã cầm trong tay án tử.
Bệnh thể xác rất đau đớn, nhưng có lẽ không đau đớn cho bằng tinh thần. Người bị bệnh phong hủi bị ruồng bỏ, bệnh nhân muốn đi lại phải hô to mình bị ô uế để người khác biết mà tránh xa. Họ bị bỏ rơi ngay từ những người thân, xóm làng, xã hội và ngay cả tôn giáo thời bấy giờ.
Tuy nhiên, hình ảnh hiền từ và cử chỉ giơ tay chạm vào anh ta của Đức Giêsu hôm nay đã làm cho người phong hủi thêm niềm hy vọng, cậy trông và ấm lòng. Vì thế, anh ta đã can đảm tiến lại gần Đức Giêsu, mặc cho mọi lời dèm pha, khinh khi, nhục mạ. Anh ta tin và đi đến với Đức Giêsu. Còn Đức Giêsu đã giơ tay và chạm vào anh ta, khiếm anh ta được sạch.
Hành động này của Đức Giêsu đã xóa tan đi biết bao ngăn cách, đã trả lại cho anh một chỗ đứng trong xã hội, đã phục hồi nhân phẩm cho anh trong cuộc sống còn lại.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta, một mặt biết noi gương người phong cùi, can đảm, tin tưởng và bỏ qua mọi rào cản để đến với Chúa là mối lợi tuyệt đối và duy nhất của cuộc đời. Mặt khác, cũng mời gọi chúng ta hãy suy nghĩ đến bệnh cùi tâm linh của chúng ta là những ích kỷ, kiêu ngạo, bất nhân và ham danh, trục lợi... Đồng thời, như một lời mời gọi hãy bước theo Đức Giêsu trên con đường yêu thương, xóa bỏ ngăn cách do kỳ thị ...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tin tưởng vào tình thương của Chúa. Biết yêu thương anh chị em đồng loại như Chúa, nhất là những người thấp cổ, bé họng, khổ đau, nghèo đói chung quanh chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu chữa lành người phong hủi
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Khi chữa lành người phong hủi, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài có quyền chữa lành mọi bệnh tật và giải thoát người ta khỏi tội lỗi. Ta hãy tin tưởng và kêu cầu Chúa cứu chữa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, đối với chúng con, bệnh tật là một nỗi sợ. Đau đớn trên thân xác do bệnh tật gây ra thường kéo theo những khổ đau tâm hồn. Bệnh tật làm cho con thấy sự sống của thân xác mỏng manh biết bao, cuộc đời này ngắn ngủi mau qua biết bao.
Lạy Chúa, qua việc Chúa chữa lành người phong hủi, con hiểu rằng Chúa muốn con sống hạnh phúc, sống khoẻ mạnh. Ngày nay, tuy Chúa không hiện ra để làm phép lạ chữa bệnh, nhưng Chúa vẫn âm thầm hiện diện và giúp cho ngành y khoa tiến bộ, để qua đó Chúa chữa lành bệnh tật cho chúng con. Con xin tạ ơn Chúa vô cùng.
Chúa ơi, trên thế giới này có bao người mắc phải những thứ bệnh ngặt nghèo, tiền mất mà bệnh tật vẫn mang. Cũng có nhiều người quá nghèo, không đủ tiền chữa bệnh. Cuộc sống của họ lây lất khổ đau. Con nguyện xin Chúa cho họ gặp được những người có lòng tốt giúp đỡ. Con cũng nguyện xin cho các bác sĩ, y tá, là những người trực tiếp phục vụ bệnh nhân, xin cho họ có tinh thần phục vụ vô vị lợi để xoa dịu nỗi đau của nhân loại. Và con nguyện xin Chúa chữa lành những người đau ốm trong gia đình con. Xin cho chúng con được sống mạnh khoẻ an vui.
Lạy Chúa Giêsu là Chúa của con, con xin phó thác trọn vẹn đời con trong tay Chúa. Amen.
Ghi nhớ : “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch”.
Suy Niệm 7: Chúa chữa lành người phong
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Bệnh phong cùi là một loại bệnh do vi trùng lây nhiễm nghiêm trọng. Đây là một trong các căn bệnh cổ xưa của nhân loại khiến cho con người rất sợ hãi và khinh rẻ những người bị bệnh. Mãi vào năm 1873, bác sĩ Hansen khám phá ra vi trùng phong cùi, vì thế mà người ta đặt tên là vi trùng Hansen. Bệnh phong có thể bắt đầu bằng những mụn nhỏ và lở loét, những chỗ ung lở thì có mùi tanh hôi. Ở trên mặt thì lông mày rụng hết, mặt lộ ra, thanh quản bị lở, giọng nói trở nên khàn đặc, hơi thở khò khè... Vi trùng Hansen hủy hoại các dây thần kinh chung quanh nhiều phần trong cơ thể đặc biệt là chân tay, khiến cho chúng mất cảm giác, rồi gặm nhấm từ từ khiến cho chúng bị biến dạng rữa nát và rơi rụng. Trung bình bệnh này phát triển trong 9 năm, cuối cùng điên loạn, hôn mê và chết. Hiện nay bệnh phong cùi có thể chữa trị hữu hiệu bằng những loại y dược đặc trị.
Tuy nhiên y khoa vẫn chưa có thuốc chủng ngừa chống bệnh phong, nhưng kiểm soát bằng cách chặn bệnh và chữa sớm. Hiện nay trên thế giới đã có khoảng 15 đến 20 triệu người bệnh phong cùi.
Ở Việt Nam có 21 trại phong, số bệnh nhân phong cùi tiềm tàng có khoảng từ 120.000 đến 150.000.
Suy niệm
Với bệnh phong cùi, dân Do Thái từ xa xưa cho tới gần đây (khi chữa trị được bệnh phong) tin rằng chỉ có Thiên Chúa mới chữa được, bởi vì cũng giống như gọi một người chết về lại với cuộc sống hay chính Ngài ban quyền chữa bệnh phong cho những ngôn sứ lớn, như Môisê (x. Ds 12,9-14; Xh 4,6-8) và ngôn sứ Êlisa (x. 2V 5,9-14). Vì vậy người ta còn có thể chờ đợi Đấng Mêssia (x. Mt 11,5) có thể đến cứu chữa căn bệnh khủng khiếp này.
Cho nên, người phong cùi trong Tin Mừng nghe danh tiếng Đức Giêsu là Đấng Mêssia thay vì tránh xa như Luật quy định, anh lại gần và khẩn xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Anh cùi có một niềm tin tưởng phi thường vào Chúa Giêsu khi anh ta gán cho ý muốn của Đức Giêsu một quyền lực to lớn chỉ có nơi Đấng đến từ Thiên Chúa. Trông chờ Đấng có quyền năng từ Thiên Chúa và Đức Giêsu hành động như Thiên Chúa: Chỉ cần Người muốn điều ấy được thực hiện.
Trước lời cầu xin của anh phong hủi, Ðức Giêsu không thể làm ngơ vì nỗi khao khát được sạch của anh. Đức Giêsu giơ tay đụng vào anh ta – người cùi, Luật cũng đã cấm như thế. Ngài không sợ mình bị lây nhơ… Ngài phá đổ một điều cấm kỵ nguy hiểm khi Ngài đụng chạm đến người phong hủi, Ngài muốn phá bỏ bức rào ngăn cách giữa người bệnh và người lành bằng tấm lòng bao dung trong yêu thương.
Khi lành bệnh, bệnh nhân được giới thiệu đến các thầy tư tế để được chứng nhận lành bệnh và gia nhập lại vào xã hội, như mọi người khác và không bị mọi người xa tránh nữa…
Bệnh phong cùi cho đến hôm nay vẫn bị người đời cô lập phải sống tách biệt khỏi xã hội. Các nhà tu đức học và linh hướng luôn coi tội lỗi là một thứ bệnh cùi thiêng liêng, cũng khiến con người bị cô lập hoá về đời sống thiêng liêng. Tội làm cắt lìa khỏi Thiên Chúa, sự cắt lìa này làm họ trở nên như một cành nho khô héo lìa cây nho, như một bàn tay đứt lìa khỏi cơ thể, làm sứt mẻ tình bạn với Thiên Chúa và người anh chị em. Vì sự cắt lìa này con người không thể nhận được sự sống thiêng liêng của Thiên Chúa. Thân phận của người sống trong tội còn tệ hơn cả thân phận người phong hủi.
Như người bệnh phong trong Tin Mừng hôm nay nhận biết rất rõ tình trạng bệnh tình của mình, khao khát được lành sạch và tìm đến với Chúa Giêsu – Đấng Mêssia mà anh tin là Đấng mang quyền năng và xin được tẩy sạch, chúng ta cũng chạy đến với Đức Kitô xin thanh tẩy chúng ta khỏi mọi vết nhơ của tội lỗi vốn làm chúng ta phong cùi về tinh thần thiêng liêng… qua bí tích giải tội.
Ý lực sống:
“Con đã xưng tội ra với Ngài, chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con.
Con tự nhủ: Nào ta đi thú tội với Chúa, và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con”. (Tv 32,5)
Suy Niệm 8: Chúa chữa người phong cùi (Mt 8,1-4)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Trước lời cầu xin của anh phong cùi, Chúa Giêsu không thể làm ngơ vì nỗi khao khát được sạch của anh. Người đã đụng chạm đến anh và chữa lành mà không sợ mình bị nhiễm uế theo quan niệm người Do thái thời bấy giờ. Điều đó chứng tỏ Chúa Giêsu có quyền giải thoát con người khỏi tội lỗi. “Sạch” ở đây không chỉ có nghĩa là khoẻ về phần xác, mà còn được hiểu là sự đổi mới trong tâm hồn nữa.
Trong những chuyến đi diễn thuyết để kêu gọi giúp đỡ những người phong cùi trên khắp thế giới, vị đại ân nhân của họ là Raoul Folereau thường kể câu truyện như sau: Tại một thị trấn nọ, có một người đàn ông được mọi người yêu mến bỗng ngã bệnh. Sau khi chẩn đoán, bác sĩ nghi ngờ ông bị bệnh phong cùi. Từ đó, người ta không còn thấy ông ra đường nữa, và ngay cả trong nhà, ông cũng không còn được đi lại tự do nữa. Gia đình ông đã giam ông trên giường, khung trời còn lại của ông chính là tấm mùng. Một ngày nọ, người đàn ông trốn ra khỏi nhà, nhưng đã bị bắt lại. Và rồi một lần nữa, ông đã trốn thoát được, không phải để được sống tự do, mà là để tự vẫn. Người ta đưa xác ông đến giảo nghiệm, và kết quả cho thấy ông không hề mắc bệnh phong cùi.
Kể lại câu truyện trên đây, Raoul Folereau muốn nêu bật nỗi khổ tâm của những người mắc bệnh phong cùi. Nỗi đau đớn trong thể xác có lẽ chỉ là một phần nhỏ so với sự ruồng bỏ, mà xã hội ở bất cứ thời đại nào cũng dành cho người phong cùi.
Hôm nay, Chúa Giêsu đã chữa lành cho một người bị bệnh phong cùi vì anh có lòng tin. Anh tiến lại bái lạy Người và nói: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
Bệnh phong là bệnh nan y thời ấy. Không ai có thể chữa lành. Bệnh phong giống như người chết, vì bị khai trừ ra khỏi cộng đoàn. Người bệnh phong này có đức tin mãnh liệt. Chỉ có Chúa mới có thể chữa ông. Chúa Giêsu giơ tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch”. Chúa là Thiên Chúa của sự sống. Chúa dựng nên sự sống, không dựng nên sự chết. Chúa muốn sự sống cho con người. Chúa giơ tay đụng vào người bệnh. Bàn tay yêu thương đụng đến chỗ đau yếu nhất. Ngón tay thần linh ban sự sống. Như ngón tay Thiên Chúa chạm vào ngón tay Adong. Thiên Chúa ban sự sống. Kỳ diệu hơn nữa, Thiên Chúa trả lại sự sống (ĐC Ngô Quang Kiệt).
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đánh đổ được huyền thoại của người đương thời với Ngài về bệnh phong cùi. Thật thế, trong quan niệm của người Do thái lúc đó, bệnh tật là một hình phạt trực tiếp của Thiên Chúa đối với tội lỗi của con người. Người mắc bệnh phong cùi là người đã từng mắc tội ác khủng khiếp đến độ đã bị Thiên Chúa trừng phạt nặng nề. Thế nên, khi bị đẩy ra bên lề xã hội, người phong cùi không những chịu đớn đau trong thể xác, mà còn phải gánh chịu sự tủi nhục do người đồng loại gây ra. Khi chữa lành người phong cùi, Chúa Giêsu muốn nói rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và chính tình yêu là sức mạnh chữa trị bệnh tật cho con người (Mỗi ngày một tin vui).
‘‘Người giơ tay đụng vào anh” (Mt 8,3)
Hình ảnh hiền từ và cử chỉ giơ tay chạm vào anh của Chúa Giêsu hôm nay đã làm cho người phong cùi thêm niềm hy vọng, cậy trông và ấm lòng. Vì thế, anh ta đã can đảm tiến lại gần Chúa Giêsu, mặc cho mọi lời dèm pha, khinh khi, nhục mạ. Anh ta tin và đi đến với Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu đã giơ tay và chạm vào anh ta, khiến anh ta được sạch.
Hành động này của Chúa Giêsu đã xoá tan đi biết bao ngăn cách, đã trả lại cho anh một chỗ đứng trong xã hội, đã phục hồi nhân phẩm cho anh trong cuộc sống còn lại.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta, một mặt biết noi gương người phung cùi, can đảm, tin tưởng và bỏ qua mọi rào cản, để đến với Chúa là mối lợi tuyệt đối và duy nhất của cuộc đời. Mặt khác, cũng mời gọi chúng ta hãy suy nghĩ đến bệnh cùi tâm linh của chúng ta là những ích kỷ, kiêu ngạo, bất nhân và ham danh, trục lợi... Đồng thời, như một lời mời gọi hãy bước theo Chúa Giêsu trên con đường yêu thương, xóa bỏ ngăn cách do kỳ thị...
Truyện: Tôi muốn cho chị được hạnh phúc
Một buổi tối nọ, Mẹ Têrêsa Calcutta đến khu nhà của những người hấp hối do chính Mẹ thiết lập, để tạo điều kiện cho những người nghèo khổ tìm được cái chết xứng với nhân phẩm con người. Buổi tối hôm đó, người ta đưa đến một người đàn bà đói khát và bệnh tật. Mẹ đã đến thăm và săn sóc người đàn bà này với tất cả sự ưu ái, dịu hiền. Sau khi đã hồi sức, người đàn bà mở tròn đôi mắt đẫm lệ và thì thào nói với Mẹ:
- Thưa bà, tại sao bà săn sóc tôi như thế?
Mẹ Têrêsa trả lời:
- Bởi vì tôi muốn cho chị được hạnh phúc.
Trên khuôn mặt mà bóng tử thần đang chập chờn cướp lấy sự sống, đôi mắt người thiếu phụ bỗng sáng lên niềm vui. Người thiếu phụ cố gắng thì thào:
- Bà hãy lặp lại lần nữa đi.
Với tất cả âu yếm, Mẹ Têrêsa mỉm cười trả lời:
- Vâng, tôi muốn cho chị được hạnh phúc.
Như một điệp khúc không bao giờ ngừng, người thiếu phụ tiếp tục nói:
- Một lần nữa, xin bà hãy lặp lại điều đó một lần nữa.
Và người đàn bà khốn khổ nắm lấy tay Mẹ Têrêsa đặt trên ngực minh, như muốn níu kéo một chút hơi ấm của tình người, hơi ấm của niềm hạnh phúc mà chỉ có một tâm hồn quảng đại mới có thể ban phát.
24/06 Gioan Tiền Hô
- Viết bởi Lc 1, 57-66. 80
Gioan Tiền Hô.
Thứ Năm tuần 12 thường niên – SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ. Lễ Trọng.
“Nó sẽ gọi tên là Gioan”.
* Hội Thánh hân hoan mừng ngày thánh Gioan Tẩy Giả chào đời. Sứ mạng của người là “làm chứng cho ánh sáng” đang đến khai mạc thời đại mới: đó là Đức Giêsu Kitô. Khi đề cập đến vai trò có một không hai của vị tiền hô, chính Đức Giêsu đã nói: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả”.
Lời Chúa: Lc 1, 57-66. 80
Khi đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Dacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan”. Họ bảo bà rằng: “Không ai trong họ hàng bà có tên đó”. Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: “Tên nó là Gioan”. Và mọi người đều bỡ ngỡ.
Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: “Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó”. Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm LỄ SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ
Lời Chúa: Is. 49, 1-6; Cv. 13, 22-26; Lc. 1, 57-66.80
1. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy niệm
Giới trẻ ngày nay xem ra thích mừng sinh nhật hơn mừng lễ bổn mạng.
Ngày vui ấy thường đi với quà, tiệc mừng và những lời cầu chúc.
Thật ra mừng sinh nhật có thể là một hành vi mang nhiều tính tôn giáo.
Tôi nhớ đến ngày tôi được sinh ra,
một sinh linh bé nhỏ chào đời,
mang hình ảnh của Thiên Chúa, mang khuôn mặt của Đức Giêsu.
Ngày ấy quan trọng và đáng nhớ ngay cả đối với chính Thiên Chúa.
Dù thế giới có hơn 6,7 tỷ người thì một hài nhi mới sinh
cũng có một chỗ đặc biệt trong trái tim Thiên Chúa.
Thiên Chúa có những ước mơ và dự tính riêng về từng con người.
Chẳng ai chào đời một cách tình cờ và ngẫu nhiên.
Mỗi người đều cần cho kế hoạch lớn của Thiên Chúa.
Mừng sinh nhật một cách nghiêm túc lại trở thành một lễ tạ ơn.
Tạ ơn Chúa đã cho tôi được làm người ở đời.
Bất chấp những khổ đau vấp ngã, những thất bại đắng cay,
tôi vẫn xin được yêu mảnh đời Chúa dệt cho tôi.
Hôm nay Giáo Hội mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả.
Chỉ có Đức Giêsu và Mẹ Maria mới được mừng ngày sinh trong phụng vụ.
Điều đó cho thấy sinh nhật của Gioan là biến cố có ảnh hưởng lớn.
Bài Tin Mừng hôm nay nói vắn gọn về chuyện sinh hạ và cắt bì Gioan,
nhưng kể dài hơn về chuyện đặt tên cho em.
Chúng ta có thể cảm được niềm vui lớn lao của người mẹ là bà Êlisabét.
Niềm vui này đã bắt đầu từ khi bà có thai Gioan.
Chẳng biết bà bao nhiêu tuổi, chỉ biết là bà đã cao niên lại không sinh con.
Hiếm muộn thời xưa thường bị coi là do người vợ.
Đó là một sự sỉ nhục (St 30, 23) và là một hình phạt của Chúa (2 Sm 6, 23).
Nhưng bà Êlisabét lại là người công chính thuộc dòng tư tế Aharon,
“sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa,
không ai chê trách được điều gì” (Lc 1,6).
Bà đã sống với nỗi đau này trong nhiều năm, sau bao lần chờ đợi và thất vọng.
Khi biết mình có thai trong lúc tuổi già,
bà tự nhủ: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó,
khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước người đời (Lc 1,25).
Ngày sinh của Gioan là ngày vui đặc biệt cho bà, người làm mẹ lần đầu.
Niềm vui ấy còn được nhân lên vì bà sinh một cậu con trai.
Láng giềng, thân thích đến chung vui với bà vì bà được Chúa thương.
Chúng ta không rõ bởi đâu mà Êlisabét đòi phải đặt tên cho con mình là Gioan.
Chỉ biết bà đã phản ứng quyết liệt chuyện đặt tên con là Dacaria.
Nhưng quyết định của người cha mới là quan trọng,
vì người cha thường là người có quyền đặt tên cho con,
qua đó nhìn nhận người con ấy là của mình (x. Mt 1, 21).
Ông Dacaria chẳng những bị câm, lại còn điếc nữa,
nên người ta phải làm hiệu để hỏi ý ông.
Khi ông viết trên bảng tên “Gioan” thì mọi người chưng hửng.
Chính lúc ấy một phép lạ xảy ra: ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa.
Gioan là tên mà sứ thần đã dặn ông lúc dâng hương trong Đền thờ.
Gioan (Yôkhanan) có nghĩa là ĐỨC CHÚA thi ân.
Gioan thật là một ơn của Chúa và sẽ đóng một vai trò trong lịch sử cứu độ.
Chúng ta để ý đến vai trò của bà con láng giềng trong bài Tin Mừng này.
Họ đến chung vui, can thiệp ít nhiều vào chuyện đặt tên đứa trẻ.
Họ bỡ ngỡ với cái tên Gioan, và kinh sợ khi ông Dacaria nói lại được.
Việc sinh hạ Gioan quả đã được vây bọc bởi nhiều chuyện lạ lùng.
Tiếng vang không chỉ nơi láng giềng thân thích,
mà còn được loan truyền khắp vùng đồi núi xứ Giuđê (c. 65).
“Rồi đây đứa trẻ này sẽ ra thế nào?”
Đó là câu hỏi mà ai cũng để tâm suy nghĩ sau khi nghe câu chuyện.
Hẳn là em này sẽ có một định mệnh và ơn gọi đặc biệt.
Có thể sau đó mọi sự lại lắng xuống,
còn cậu Gioan thì vẫn lớn lên, tinh thần vững mạnh.
Cậu không lập gia đình và sống trong hoang địa, chờ ngày đến với Ítraen.
Mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả,
chúng ta thấy được sự khiêm tốn của Thiên Chúa.
Để giới thiệu Con của Người là Đức Giêsu cho dân Ítraen,
Thiên Chúa cần đến Gioan, một người dọn đường.
“Để dọn đường cho Đức Giêsu, ông Gioan đã rao giảng
kêu gọi toàn dân Ítraen chịu phép rửa tỏ lòng sám hối” (Cv 13, 24).
Và Thiên Chúa đã chuẩn bị rất kỹ cho cuộc sinh hạ của con người này.
“Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ,
lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi” (Is 49,1).
Hình ảnh người Tôi Trung trên đây trong Isaia khá hợp với Gioan.
“Người là đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ
để tôi trở thành người Tôi Trung đem nhà Giacóp về cho Người…” (Is 49,5).
Hóa ra việc Thiên Chúa chọn, gọi và giao sứ mạng
đã diễn ra ngay từ con người chỉ mới là phôi thai trong lòng mẹ.
Điều này đúng với Gioan:
“Em sẽ được đầy Thánh Thần ngay khi còn trong lòng mẹ.
Em sẽ đưa nhiều con cái Ít raen về với Đức Chúa…
và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1, 15-17).
Gioan đã được gọi để làm ngôn sứ cho dân tộc của ngài,
giúp cho dân Ítraen đón nhận Đấng đến sau ông nhưng lại có trước ông.
Ơn gọi ấy đã làm cho ông hiện hữu ở trên đời.
Cuộc sinh hạ của Gioan được coi là kỳ lạ.
Thật ra cuộc sinh hạ nào cũng là một màu nhiệm lạ lùng.
Khi rửa tội một em bé mới sinh,
chúng ta cũng vẫn đặt câu hỏi: Em này rồi sẽ ra sao?
Đâu là định mệnh tương lai của em?
Đâu là con đường riêng mà Chúa muốn em đi?
Chúng ta chỉ mong bàn tay Chúa ở với em (Lc 1, 66).
Những thai nhi, những hài nhi, những trẻ thơ hôm nay ở quanh ta
cũng được hiện hữu và được trao một sứ mạng.
Mừng sinh nhật một vị thánh, chúng ta thêm trân trọng sự sống nơi các em,
và thấy mình có bổn phận nâng đỡ để các em đi con đường Chúa muốn
và trở thành những người đưa dân tộc Việt Nam đến với Chúa.
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
2. Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
A. Vào một buổi trình diễn văn nghệ nọ; trong số đó có những người thợ mỏ, những người đàn ông, đàn bà, con trẻ…đang dự buổi trình diễn, người ta bỗng nghe thấy tiếng khóc của một đứa trẻ con. Nhưng từ trong đám người thợ mỏ, người ta thấy một người có thân hình vạm vỡ, đầu tóc rậm rì, ông đứng lên ghế la lớn:
- “Yêu cầu ban nhạc tạm ngưng một lúc, để chúng tôi nghe tiếng khóc của đứa bé. Biết bao nhiêu năm rồi tôi chưa được nghe những âm thanh kỳ diệu ấy”.
Thế là cả ban nhạc và các ca sĩ đều dừng lại và tiếng đứa bé khóc càng lớn hơn. Người ta thấy những giọt nước mắt lăn trên gò má của những người xa vợ, xa con, xa chồng…
Đại thi hào Victor Hugo của Pháp đã có lý khi nói: “Không gì buồn thảm cho bằng một ngôi nhà không có tiếng cười, tiếng khóc của những trẻ thơ”. Trẻ thơ là niềm vui, là hy vọng của con người. Người Mỹ thường nói: “Mỗi một trẻ thơ được sinh ra đều có thể làm Tổng Thống tương lai của Hoa kỳ”.
Thật thế, mỗi một đứa trẻ sinh ra đều là niềm vui, niềm hy vọng cho gia đình, cho dân tộc, cho quốc gia.
Hôm nay Giáo hội tưởng niệm ngày sinh của một con người mà đã có lần Chúa Giêsu ca ngợi là: “Người cao trọng nhất trong số những người sinh ra bởi người nữ” (Mt 11,11)
Quả thật! không kể Mẹ Maria, Thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh duy nhất được Giáo hội mừng ngày sinh nhật. Ngày sinh của thánh Gioan sẽ loan báo một kỷ nguyên mới cho nhân loại mà Chúa Giêsu sẽ khai mở. Cha của ngài là một người câm, mẹ ngài là một người đàn bà son sẻ. Trong bối cảnh đó, ngày chào đời của Thánh Gioan Tẩy giả loan báo rằng: thời của Đấng Cứu Thế đã đến, thời của sự câm lặng đã trở thành loan truyền của ơn cứu độ. Thời mà sự son sẻ đã trở thành đông con nhiều cháu. Ngày sinh của Gioan Tẩy giả là thời loan báo về ngày cứu độ. Lời loan báo ấy mà Thánh Gioan đã không ngừng hô lớn trong những ngày sau này, ngài chính là tiên tri của Chúa, ngài chính là đấng tiền hô của Chúa.
B. Mừng ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả, Giáo hội cũng muốn nhắc nhở mỗi người Kitô hữu chúng ta về sứ mạng làm tiên tri và sứ giả của mình. Ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi chúng ta nhớ lại ngày tái sinh của chúng ta.
Nhờ phép rửa, chúng ta đã trở thành ngôn sứ loan báo hồng ân cứu độ của Chúa. Ngọn nến Giáo Hội trao cho chúng ta trong ngày lãnh phép rửa là biểu trưng cho ánh sáng mà chúng ta phải không ngừng chiếu tỏa ra xung quanh. Dù sống trong hoàn cảnh nào, người tín hữu Kitô chúng ta cũng phải có sứ mệnh chiếu toả ánh sáng ấy (Mt 5,16).
Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.
C. Mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy giả, chúng ta cũng còn phải nhớ lại con đường Ngài đã đi qua, con đường ấy được Ngài góm tọn trong khẩu hiệu: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”.
Chúa Giêsu phải được lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Tạp chí “Truyền bá đức tin” có thuật lại câu chuyện một cụ già An Đo như sau. Lúc còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, rựơu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp nuôi chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đổi phân vân, một đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì cả!
Tuy nhiên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả...nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư tín với chàng mỗi lúc một nhiều...Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ tuyên bố trước mặt họ hàng: “ Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên đến 30 mươi người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế cho đến giờ Chúa gọi”.
Vâng cụ già đã biết làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa được lớn lên, lớn lên qua những cánh tay nối dài của Ngài.
Ước gì khẩu hiệu này cũng trở thành lý tưởng và luật sống của mỗi người chúng ta. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là sống cho Chúa. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là không ngừng khước bỏ và cắt xén đi những gì là thừa thãi trong cuộc sống, để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là suy nghĩ và hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của Ngài được chiếu sáng trong chúng ta, và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo cho mọi người.
C. Gioan còn có tước hiệu là Tẩy Giả. Ngài đã kêu gọi mọi người sám hối và làm phép rửa sám hối cho những kẻ thật lòng ăn năn.
Đến phiên chúng ta cũng vậy, không thể khác được. Cũng không cần chúng ta phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan Tẩy Giả, nhưng với tư cách là Tẩy Giả, là “những chuyên gia tẩy sạch vết bẩn” của ngày hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi để góp một chút bột giặt tình yêu và tha thứ mà làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ rác rưởi dầu mỡ của vụ lợi ích kỷ, của hưởng thụ sa hoa, của ghen tức hận thù, của dối trá lưu manh... Và như thế chính là giúp mở đường dọn lối cho Chúa đến với những mảnh hồn đang hạn hán đang cần đến những cơn mưa tình thương và Ơn Cứu Độ của Chúa.
Có một lần ông Ra-un cùng vợ đến thăm một trại cùi. Ông bà thường vẫn có thói quen bắt tay các anh chị em phong cùi vì họ biết bệnh phong cùi khó lây lan.
Ông giám đốc trại cùi dẫn hai ông bà đi thăm trại và giới thiệu với họ trường hợp của một nữ bệnh nhân tên là Tella. Ông Ra-un giơ tay ra định bắt tay Tella, nhưng bà này vội giấu tay lại phía sau lưng nhanh như chớp rồi nói:
- Luật cấm bắt tay.
Thấy ông giám đốc có vẻ ngượng ngùng, ông Ra-un hỏi:
- Thế ở đây có cấm ôm hôn người cùi không?
Ông giám đốc bối rối trả lời:
- Luật của chúng tôi không dự trù trường hợp này.
Ông Ra-un liền kết luận:
- Như thế là được phép ôm hôn người bệnh phải không? Nói rồi ông Ra-un ôm và hôn bà Tella với tất cả lòng thương mến chân thành. Cử chỉ yêu thương bất ngờ ấy của ông Ra-un như một tiếng sét đập tan và tiêu hủy tất cả mọi ngăn cách sợ sệt giữa hàng trăm anh chị em phong cùi đứng chung quanh và sau đó người cùi nào cũng muốn ôm hôn ông Ra-un, người tông đồ nhiệt thành và là bạn đáng yêu của hàng triệu anh chị em phong cùi trên khắp thế giới.
Ông thường nói: Tôi không phải là bác sĩ nên tôi không thể chữa cho họ lành bệnh được. Tôi chỉ có thể thương họ thôi, bởi vì họ cũng là con cái của Chúa.
Xin nhắc lại ở nơi đây một lời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã nói lời này để kết thúc một dụ ngôn nổi tiếng của Chúa. Đó là dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu: “Anh hãy đi và làm như thế” Chúng ta hãy đi và làm như thế. Amen.
3. Tên là Gioan – J.M
GIOAN TẨY GIẢ
Ngay từ trong lòng mẹ, Ngài đã được đặc ân riêng biệt. Ngài mặc áo lông lạc đà. Một hình ảnh nổi bật được nhà điêu khắc Rôbin tạc về Gioan là vị Tiền Hô! Một người đầy nhiệt huyết, mạnh mẽ: xông pha làm chấn động như một lực sĩ vô địch chạy nước rút. Một hình ảnh cường tráng, nhưng dịu dàng. Một đời sống ngắn ngủi, vì bạo lực đã kết thúc đời Ngài. Nhưng Ngài coi bình thường, một đời sống không khoan nhượng!
Đàng khác Ngài rất khiêm nhường, cảm thương mọi người, được kính trọng đồng thời bị ghét bỏ! người ta không lạ gì khi nghe Ngài tuyên bố: “Tôi không đáng cởi dép cho Người!”
Gioan hẳn đã biết Đức Giêsu, người anh em bà con mình, là Thiên Chúa là tổ phụ Abraham, Isaác và Israel, mà Ngài được gặp hằng ngày trong kinh nguyện và trong lời rao giảng? Gioan không phải là Thánh tử đạo (Người ta không xử tử ông vì đức tin), Ngài không phải là chứng nhân của Thiên Chúa, chỉ là tiếng kêu trong Samạc...
Vì đó là người nhập cuộc hành trình trên con đường trong Samạc.
Con người sống ngoại lệ.
Từ rất sớm, Gioan phải kham khổ, vì do sinh ra khác thường, bởi cha mẹ già cả, mang một tên không theo dòng họ. Ông bố bị câm, được nói như trước. Tất cả những thứ đó đè trên vai đứa trẻ, đứa thanh niên. Tiểu sử đó đã lan ra khắp xứ ngay sau khi đứa trẻ ra đời, nó phải chịu cái nhìn tò mò của mọi người, của bạn bè, chắc chắn nó đã chế nhạo ông bạn ngây thơ của chúng. Câu cuối của đoạn Tin Mừng này nói lên sự đau khổ lớn lao của Gioan: “Cậu bé càng lớn lên tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt Israel!”
Trong hoang địa...
Đó là một người được chiếu cố! không phải để trở nên ngôn sứ, không phải do Thiên Chúa lạm dụng, nhưng vì đồng hương từ chối cậu, cậu không được quyền sống như người khác! Họ muốn cậu phải trung thành với ơn gọi mình, họ không biết thánh ý Thiên Chúa, nhưng đẩy cậu đi vì sự tuyển chọn của Thiên Chúa....
4. Suy niệm của Lm Nguyễn Hồng Giáo
Trong Giáo hội, ngày lễ kính một vị thánh là ngày tử trần của vị ấy, quen gọi là "ngày sinh nhật trên trời" của người, ngày người sinh ra trên trời. Duy chỉ có thánh Gioan Tẩy Giả là được kính mừng cả trong ngày Người sinh ra lẫn trong ngày Người tạ thế. Tưởng không có gì lạ. Tất cả cuộc đời của thánh nhân từ lúc sinh ra, và ngay cả trước lúc sinh ra, chỉ là một lời chứng duy nhất cho Chúa Giêsu.
Con người của một sứ mạng
Có những người cho rằng người ta sinh ra ở đời là "bị vất vào đó”, một cách tình cờ, vu vơ, vô nghĩa. Thông thường hơn, người ta nói mỗi người có một định mệnh. Trước định mệnh ấy con người đành bó tay chịu đựng, không cách nào thoát ra được. Người Công giáo thì tin rằng mỗi người sinh ra là do ý muốn đầy yêu thương của Thiên Chúa, rằng không phải một sức mạnh mù quáng hay khắc nghiệt nào đó đã ném họ vào đời, nhưng chính tình Yêu của Chúa "gọi" họ vào cuộc sống và khi cho một con người sinh ra, Thiên Chúa có một ý định, một dự tính về người ấy, không phải như một kế hoạch áp đặt nhưng như một sứ mạng để hoàn thành trong tự do và trách nhiệm hầu cho con người được hạnh phúc và cuộc đời họ được thành tựu đích thực. Ta gọi sứ mạng đớ là một "ơn gọi". Về mặt này, trường hợp của ông Gioan Tấy Giả là tiêu biểu vả rõ ràng.
Qua tưởng thuật của Kinh Thánh, chúng ta thấy ý định của Thiên Chúa về Gioan đã được biểu lộ hiển nhiên ngay từ giây phút ông được thụ thai, rồi trong việc ông sinh ra, việc đặt tên cho ông, việc mẹ ông và mẹ Chúa Cứu Thế gặp nhau vv..Trong các biến cố đó, ta thấy có sự can thiệp lạlùng của Chúa vào trong cuộc đời của Gioan để định hướng cho nó. Điều đáng nới hơn là về phần ông, một khi đã khôn lớn và nhận ra sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, Gioan Tẩy Giả không còn biết gì khác hơn là sống trọn vẹn cho sứ mạng đó một cách lô-gic, kiên quyết, trọn vẹn, cho tới cùng. Ông rút lui sớm vào hoang địa, sống khắc khổ xa lánh mọi mời mọc, níu kéo của trần gian là để được sống trọn vẹn hướng về Đấng Cứu thế mà ông phải làm kẻ "dọn đường". Ông rao giảng bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc, mạnh mẽ để lôi kéo người ta sám hối đổi đời vì thời gian không còn nhiều, Nước Thiên Chúa sắp tới. Sau khi thiên hạ đã rời ông để quay sang Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, ông âm thầm rút lui vào bóng tối vì đã hoàn thành nhiệm vụ "Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi", ông tuyên bố như thế (Ga 3,30). Rồi cả cái chết của ông cũng là một phần không thể tách lìa của sứ mạng của một kẻ "dọn đường” và "làm chứng cho ánh sáng và sự thật”.
Gioan và Hêrôdê
Tôi thấy thánh Gioan Tẩy Giả Và Vua Hêrôđê, kẻ đã ra lệnh chém đầu Người, là hai khuôn mặt hoàn toàn tương phản. Gioan là người mạnh mẽ, chí khí, còn Hêrôđê là người yếu đuối, do dự. Một đàng thì sống khắc khổ, giản án dị, còn đàng kia lại thích xa hoa, hưởng thụ. Hêrôđê đã bắt giam ông Gioan vì ông mạnh mẽ tố cáo nhà vua đã lấy vợ của anh mình. Thật ra vua cũng tỏ ra kính phục nhà tiên tri, biết ông là người công chính và thánh thiện, nhiều khi ông đã bênh vực Gioan. Nhưng ông là người thiếu ý chí, bị bao vây bởi đam mê, dục vọng. Và tuy là người cai trị khôn khéo nhưng ông lại bị các khuynh hướng xấu xa làm chủ mình. Thế nên ông đã bắt Gioan tống ngục, chắc hẳn là dưới sức ép của bà Hêrôđiađê, người chị dâu mà ông ta đoạt làm vợ. Rồi trong một bữa tiệc, ông đã hài lòng về điệu múa của cô con gái của bà đến độ đã hứa ban cho cô ta bất cứ điều gì cô xin.
Một lời hứa bốc đồng. Đó không phải là tiếng nói của lý trí, của lương tâm mà là của cảm tính, của bản năng. Và thế là ông đã mắc mưu bà Hêrôđiađê rồi. Bà bảo con gái hãy xin cái đầu của Gioan. Đã lỡ hứa trước mặt các thực khách, nhà vua đành phải giữ lời, mặc dù trong thâm tâm không muốn giết con người công chính này.
Vua Hêrôđê tiêu biểu cho những con người để cho phần thú tính nơi mình lấn lướt; mặc dù đôi khi lý trí và lương tâm vẫn còn lóe lên nơi họ, kêu gọi họ hãy vươn cao lên, nhưng không đủ sức kéo họ ra khỏi vũng bùn lầy bởi họ đã quen sống trong những sự thấp hèn.
Đối diện với Hêrôđê, ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện như một con người có lý tưởng, sống nhất quán vì lý tưởng đời mình; một con người của bổn phận; con người biết chiến đấu cương quyết chống lại những lôi cuốn của bản năng thấp hèn; con người của những đỉnh cao.
Thánh Gioan Tẩy Giả và chúng ta.
Như Gioan, mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng, một ý định của Thiên Chúa về chúng ta. Nhưng làm sao biết được? Kinh Thánh và giáo lý của Hội Thánh cho ta biết rằng con người được dựng nên "theo hình ảnh của Thiên Chúa", "có khả năng hiểu biết là yêu mến Tạo Hóa" và "chỉ con người, nhờ sự hiểu biết và tình thương, được mời gọi chia sẻ sự sống của Thiên Chúa". Đó chính là mục đích của việc tạo dựng con người. Con người phát xuất từ Thiên Chúa, sẽ được trở về với Thiên Chúa. Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (năm 1992) trích dẫn lời thánh nữ Catarina thành Sienna như sau: "Vì sao Ngài đã dựng nên con người với phẩm giá cao trọng như vậy? Với tình thương vô biên, Ngài đã nhìn ngắm thụ tạo nơi chính mình và say mê nó. Vì thương yêu, Ngài đã tạo ra nó; vì yêu thương, Ngài cho nó khả năng hưởng phúc vĩnh cữu, (sđd, số 6).
Đó là ý định chung của Thiên Chúa là ơn gọi chung của chúng ta. Mỗi người sẽ phải thế hiện ơn gọi đó cho nên mình tùy theo diễn tiến cụ thể đời mình, theo những điều kiện và hoàn cảnh sống thực tế, khi ra sức tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa trong lề luật của Người và lời dạy của Giáo hội, trong việc bổn phận của bậc sống mình, trong lương tâm ngay thăng, trong luật lệ chính đáng của xã hội, trong các biến cố...
Không phải tự nhiên và dễ dàng mà chúng ta có thể thực hiện ý định của Chúa đối với chúng ta. Trong mỗi người đều có hai khuynh hướng: một nâng ta lên cao, một kéo ta đi xuống. Chúng ta thường xuyên kinh nghiệm rằng hai khuynh hướng thiện ác đó đấu tranh kịch liệt với nhau ngay trong ta. Muốn chiến thắng, phải tỉnh thức và cầu nguyện, phải tập nghe theo tiếng nói của lý trí, của lẽ phải và lương tâm, trong việc lớn cũng như việc nhỏ; đồng thời cũng phải tập sống khổ chế, nghĩa là sông có kỷ luật, biết hy sinh và từ bỏ. Làm sao có thể có một đời sống tinh thần phong phú nếu lúc nào cũng tìm kiếm và chiều theo những sự dễ dãi, thoái mái, nêu lúc nào cũng chạy theo vui thú vật chất và xác thịt?
Ít năm sau chiến tranh, tôi có dịp đi thăm một anh em tu sĩ chúng tôi ở Xuyên Mộc. Ngài phụ trách một giáo xứ khoảng 4.000 giáo dân và ba địa điểm cách giáo xứ từ 7 đến 20 cây số với số giáo dân khoảng 6.000 người nữa. Tôi đã đi thăm hai địa điểm lớn ở xa. Đó. là hai làng kinh tế mới. Tôi thấy giáo dân thật sốt sắng, đầy can đảm trong công việc làm ăn cũng như trong việc đạo. Đặc biệt tôi gặp một gia đình Dòng Ba Phanxicô gốc ở Phú Nhuận. Khi tôi đến, ông đang dạy giáo lý hôn nhân cho một chị độ 25 tuổi. Ông bà cho biết: họ có mấy người con trai, trong đó có đứa nghiện xì ke đã làm cho họ rất khổ tâm. Để tránh cho mấy đứa khác khỏi bị lôi kéo vào con đường hư hỏng đó, hai ông bà đã quyết định đưa cả gia đình tới đây sinh sống từ 1980. Bây giờ họ sống nghèo nhưng vui và bình an. Tinh thần đơn sơ, nghèo khó, vui tươi và phó thác của Dòng Ba đã giúp họ can đảm sống cuộc đời thiếu thốn vì lợi ích của con cái. Họ nói tuy họ không giàu có nhưng con cái họ không hư hỏng.
Theo "ơn gọi" và hoàn cảnh riêng của mình, hai người công giáo này đáng cho ta khâm phục không kém Gioan Tẩy Giả, và chắc chắn là gần gũi và dễ noi gương hơn noi gương vị Tiền Hô.
5. Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ)
Ngoài Lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu, nghĩa là lễ Chúa Giáng Sinh, trong lịch phụng vụ của Giáo Hội, chỉ có hai ngày lễ mừng sinh nhật: sinh nhật của Đức Maria (ngày 8/9) và sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả (ngày 24/6). Chúng ta có thể hỏi: tại sao cùng với Giáo Hội chúng ta chỉ mừng lễ sinh nhật của Đức Maria và của thánh Gioan mà thôi, chứ không mừng sinh nhật của các vị thánh khác?
Đó là bởi vì, sự sinh ra của Đức Maria và của thánh Gioan có liên quan đặc biệt đến sự sinh ra của Đức Giêsu: Đức Maria được Thiên Chúa chuẩn bị cách đặc biệt, ngay trong lòng mẹ, để sau này cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế; còn sự sinh ra của thánh Gioan nhắc nhớ cách Thiên Chúa hành động trong lịch sử cứu độ, và cách hành động này sẽ trở nên viên mãn nơi Đức Kitô, ngay từ biến cố Giáng Sinh của Người.
1. Thánh Gio-an và lịch sử cứu độ
Như chúng ta đều biết, theo lời kể của thánh Lu-ca, thánh Gioan là ơn huệ Thiên Chúa ban, khởi đi từ cung lòng hiếm muộn và già cỗi của mẹ Elizabeth, như chính ông Zacharia thú nhận: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng cao niên” (Lc 1, 18); và chính sứ thần Gabriel loan báo cho Mẹ Maria: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng” (c. 36).
Sự kiện bà Elizabeth với cung lòng vừa hiếm muộn và vừa già cỗi nhưng lại mang thai, đó là vì “Chúa đã rộng lòng thương xót bà” (c. 58). Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với bà Elizabeth nhắc nhớ lòng thương xót của Thiên Chúa trong toàn bộ lịch sử cứu độ: Thiên Chúa làm phát sinh sự sống ở nơi mà con người vẫn chưa xuất hiện và ở những hoàn cảnh mà con người hoàn toàn bất lực. Thật vậy, trong công trình sáng tạo, từ mặt đất trinh nguyên, Thiên Chúa làm trào vọt ra sự sống, sự sống phong nhiêu của muôn loài muôn vật, và nhất là sự sống của con người, được hình thành theo hình ảnh của Thiên Chúa; và trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn luôn làm trào vọt ra sự sống ở nơi không còn hi vọng gì: đó là cung lòng đã chết của tổ phụ Abraham và bà Sara, đó là biến cố Xuất Hành: “Đường của Chúa băng qua biển rộng, lối của Người rẽ nước mênh mông, mà chẳng ai nhận thấy vết chân Người” (Tv 77, 20), đó là sự sống, ngang qua ơn huệ lương thực, Chúa ban cho Israel trong hành trình trong sa mạc, đó là sự khai sinh ra vương quốc khởi từ những xung đột chết chóc, đó là niềm hi vọng, được nuôi dưỡng bằng lời ca tụng, khi không còn gì để hi vọng: “Tôi đã tin, cả khi mình đã nói: ôi nhục nhã ê chề…”. Và Đức Kitô sẽ đến để lấp đầy niềm hi vọng này.
Bà Elizabeth vừa già cỗi và và hiếm muộn, không thể sinh con, là hình ảnh nói lên chính tình cảnh bi đát của Israen, của nhân loại và của từng người chúng ta, bất lực trong việc xây dựng sự sống của chúng ta trong hiệp nhất và tình yêu, và vì thế để cho bầu khí chết chóc làn tràn và để cho Sự Dữ ngự trị. Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót đối với bà Elizabeth, khi cho bà cưu mang và sinh con, người con mang tên Gioan, nghĩa là “Thiên Chúa Thi Ân”, thì chắc chắn, Thiên Chúa cũng đã và đang thương xót nhân loại chúng ta, Hội Dòng và cộng đoàn chúng ta, gia đình chúng ta và từng người chúng ta.
2. Thánh Gioan và Đức Kitô
Sự sống của thánh Gioan là một tuyệt tác của Thiên Chúa, diễn tả quyền năng ban sự sống của Người; nhưng Đức Giêsu, sinh bởi Đức Maria, là tuyệt tác còn lớn hơn và là tuyệt tác duy nhất: Mẹ sinh con không phải từ cung lòng già cỗi hay hiếm muộn, nhưng là từ cung lòng trinh nguyên. Các Giáo Phụ nhìn ra đây là hình ảnh diễn tả công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi vì lúc khởi đầu, Thiên Chúa cũng làm phát sinh sự sống từ mặt đất trinh nguyên. Đó là vì, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được. Và đây đã là Tin Mừng cho loài người của chúng ta rồi: đó là Thiên Chúa có thể làm phát sinh sự sống, và làm phát sinh sự sống viên mãn là Đức Kitô, ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, ở nơi là tuyệt đối không thể đối với con người. Như thế mầu nhiệm Vượt Qua đã được loan báo ở đây rồi, trong ngày sinh nhật của thánh Gioan và nhất là của Đức Giêsu, bởi vì Thiên Chúa sẽ làm trào vọt sự sống từ sự chết, trong mầu nghiệm Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Trong đời sống dâng hiến, các nam nữ tu sĩ được mời gọi sống “trinh nguyên” (trinh nguyên, tiên vàn không phải thể lý, nhưng là một con tim ước ao sống bởi và sống cho một Thiên Chúa), chính là để cho Thiên Chúa làm phát sinh sự sống thần linh, bền vững và phong phú, bằng quyền năng sáng tạo của Ngài.
Ngoài ra, tên gọi “Gioan” nghĩa là “Thiên Chúa Thi Ân”; trong khi tên gọi “Giêsu” nghĩa là “Thiên Chúa Cứu Độ”, là Ơn Huệ của mọi ơn huệ, là Ơn Huệ mà mọi ân huệ khác hướng tới và chỉ là dấu chỉ, và là Ơn Huệ một lần cho tất cả. Như thế, thánh Gioan không chỉ loan báo Đức Giêsu bằng cuộc đời và cái chết của mình, nhưng còn bằng chính biến cố sinh ra và tên gọi nữa.
Xin cho chúng ta cũng hướng về Đức Kitô như thánh Gioan, từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, ngang tất cả những gì chúng ta là, được chất chứa trong “tên gọi” của chúng ta; và xin cho Người nổi bật lên trong cuộc đời, ơn gọi và từng ngày sống của chúng ta.
3. “Chúc tụng Đức Chúa…”
Về chuyện ông Zacharia, cha của thánh Gioan, bị câm, nhưng ngay sau khi đặt tên cho con là “Gioan”, thì ông nói được, cũng rất có ý nghĩa. Bởi vì, sự kiện ông không nói được, là một dấu chỉ nhắc nhớ ông rằng, có một lúc ông đã không tin vào quyền năng Thiên Chúa có thể thi ân ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, có thể làm phát sinh sự sống nơi cung lòng hiếm hoi và già cỗi của bà Elizabeth.
“Không nói được”, không chỉ là không nói được ngôn ngữ, nhưng nhất là không thể ca tụng Chúa được. Thật vậy, khi người ta không tin, không nhận ra ơn Chúa ban cho mình và người khác, thì không thể ca tụng Chúa được. Chính khi ông đặt tên cho con là Gioan, “Thiên Chúa Thi Ân”, thì ông “lưỡi ông lại mở ra, ông nói được” và lời nói đầu tiên là lời chúc tụng Thiên Chúa: Chúc tụng Đức Chúa, là Thiên Chúa Israel, đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người.
Đó là lời tán tụng Benedictus bất hủ, vang lên mỗi ngày trong Giờ Kinh Sáng của chúng ta. Ước gì, khi đọc hay hát lời chúc tụng này, chúng ta mặc lấy tâm tình của ông Zacharia, bố của thánh Gio-an. Xin cho chúng ta tin tưởng và nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban, để có thể cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài”. Nếu không, dù chúng ta có nói bi bô suốt ngày, thì cũng như là “người câm” vậy thôi!
Nhưng chúng ta được mời gọi đi xa hơn, bằng cách định hướng đời mình và từng ngày sống theo năng động chúc tụng Thiên Chúa. Và để được như thế, chúng ta cần tín thác và nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban, cần đặt đời sống, ngày sống và hành động trên nền tảng tâm tình biết ơn đối với tình yêu và lòng thương xót của Chúa, được bày tỏ cho chúng ta một cách thật hữu hình, có thể nhìn thấy được, đó là Thánh Tâm của Chúa bị đâm thâu.
“Lạy Thiên Chúa, là Cha của chúng con, xin thương xót chúng con, để chúng con đón nhận và xây dựng sự sống của chúng con như ân huệ và theo ơn gọi Chúa ban, bằng cách gắn bó mật thiết và nên một với Đức Giêsu Kitô, Con của Cha, từ lúc chúng con sinh ra cho đến lúc chúng lìa bỏ cuộc đời này, theo gương thánh Gioan Baotixita. Amen”.
6. Có bàn tay Chúa phù hộ
Phải thú thật là Thiên Chúa của chúng ta hay làm những chuyện... “ngược đời”. Cứ sự thường thì phải thế này hoặc thế kia, nhưng Chúa lại chọn một cách khác, hoàn toàn theo ý định nhiệm màu của Người. Người đảo lộn mọi toan tính lập trình cho dẫu hợp lý và quy mô đến đâu đi nữa của trần gian. Như trong một trò chơi cút bắt, Người vuột thoát khỏi vòng vây của con người chỉ những mong chộp lấy Người để huy động” Người theo ý muốn ích kỷ của mình.
Chúng ta cứ xem cách thức Thiên Chúa chọn Đức Ma-ri-a để làm thân mẫu của Đức Giêsu Nhập Thể. Chỉ là một thôn nữ nghèo, vậy thôi! Đến nỗi Đức Ma-ri-a phải thốt lên: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới... Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả...” Sao lại không chọn một mệnh phụ, một bà hoàng, một phu nhân tổng thống, một nữ viện sĩ Hàn Lâm, hay một siêu người mẫu? Vậy là tiêu chuẩn của Chúa trổi vượt mọi lượng giá tầm thường, thấp lè tè sát đất của con người.
Lại đến chuyện vợ chồng Da-ca-ri-a và Ê-li-da-bét. Dẫu ông cụ là một tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, dẫu bà cụ cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron (x. Lc 1, 5), nghĩa là cũng môn đăng hộ đối đấy chứ, nhưng đã đáng là gì đâu giữa một dân tộc Ít-ra-en chẳng thiếu gì kẻ vênh vang con ông cháu cha, em vua chị chúa? Lại còn thêm hiếm hoi son sẻ, gần đất xa trời rồi mà chẳng được một mụn con nối dõi tông đường! Vậy mà Thiên Chúa lại can thiệp để một Gioan Tẩy Giả vĩ đại sẽ được chào đời, “sẽ đi trước mặt Chúa,...để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”. (Lc 1, 17) Đến phiên bà cụ Ê-li-da-bét tự nhủ lòng: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1, 25).
Rồi sau này, tới phiên Đức Giêsu, Người cũng sẽ có đường lối tuyển chọn “ngược đời” y như thế. Hóa ra Thiên Chúa chỉ muốn “chấm” những con người hiền lành, khiêm tốn, có tấm lòng chất phác mộc mạc, có một nỗi khao khát cháy bỏng, một ngong ngóng chờ đợi khôn nguôi hướng về Đấng Mê-si-a.
Trước sự kiện em bé Gioan Tẩy Giả chào đời, rồi ông Da-ca-ria mở miệng nói được mà chúc tụng Thiên Chúa, hàng xóm láng giềng và dân chúng khắp miền núi Giu-đê, ai cũng phải “kinh sợ”, “để tâm suy nghĩ và tự hỏi: Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Còn tác giả sách Tin Mừng Lu-ca thì kết gọn một câu: “Quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em!” (Lc 1, 68)
Đối với chúng ta hôm nay thì sao nhỉ? Chẳng lẽ chúng ta chỉ biết mừng lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả chung chung hời hợt như vậy rồi xong chuyện hay sao? Giáo Hội muốn gửi cho chúng ta thông điệp nào đây, khi mà một năm Phụng Vụ chỉ có 3 Lễ mừng Sinh Nhật của 3 người?
Với Đức Giêsu thì đương nhiên phải mừng trọng thể tưng bừng bằng cả một mùa Noel rồi.
Với Đức Ma-ri-a vào ngày 8.9 hằng năm cũng không lạ.
Nhưng với Gioan Tẩy Giả thì đáng cho chúng ta lắng lòng suy niệm.
Trong khả năng hạn hẹp của mình, chúng tôi chỉ xin đề nghị dừng lại ở xác quyết “Có bàn tay Chúa phù hộ” để tự mỗi người tự đặt ra cho mình một câu hỏi: “Ấy vậy, bản thân tôi, có bàn tay Chúa phù hộ đời tôi hay không?” Hỏi là đã có sẵn trả lời được rồi đó...
Lại một câu hỏi khác không thể không được đặt ra tiếp: “Về phần mình, chúng ta sẽ đáp trả như thế nào đây khi đã xác quyết mình luôn được bàn tay Chúa hộ phù?” Cần phải nói ngay rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ có ý đồ đầu tư trước mắt để sẽ trục lợi về lâu về dài, một vốn mà bốn lời. Tất cả chỉ là do lòng yêu thương: Người tuyển chọn, rồi không ngừng hộ phù gìn giữ để chúng ta cứ thế mà tăng trưởng, đi cho đúng tuyến, sống cho đúng đạo.
Mọi sự đã rõ, được sinh ra và lớn lên trong bàn tay hộ phù của Thiên Chúa, chúng ta cứ nghiệm xem: sau này Gioan Tẩy Giả sống vai trò Ngôn Sứ và chết vì Chân Lý như thế nào, để rồi chính Đức Giêsu đã phải khẳng định về ông anh họ của mình là: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan...” (x. Lc 7, 28).
Đến phiên chúng ta cũng vậy, không thể khác được. Cũng không cần chúng ta phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan Tẩy Giả, nhưng với tư cách là Tẩy Giả, là “những chuyên gia tẩy sạch vết bẩn” của ngày hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi để góp một chút bột giặt tình yêu và tha thứ mà làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ rác rưởi dầu mỡ của vụ lợi ích kỷ, của hưởng thụ sa hoa, của ghen tức hận thù, của dối trá lưu manh... Và như thế chính là giúp mở đường dọn lối cho Chúa đến với những mảnh hồn đang hạn hán bằng những cơn mưa Ơn Cứu Độ.
Mà thôi, khoan hãy nói đến chuyện lớn lao cả thể mà chỉ cần nghiệm sinh về sự Quan Phòng của Thiên Chúa đối với những con người bé nhỏ nghèo hèn ngay trước mắt chúng ta đây cũng đã quá đủ.
Đã nhiều lần, ngồi trước computer, nhận về cho GOSPELNET những E-Mails từ khắp mọi nơi muốn chia sẻ trợ giúp bằng cả tấm lòng, scan những tấm ảnh chụp những em bé bị tim bẩm sinh, những em bé bị bại liệt, những học sinh nghèo ở nông thôn... và gõ lên bàn phím những giòng chữ thông tin về những thai nhi vừa được giành lại cho sự sống..., tự nhiên thấy thấm thía vô cùng, rằng: “Có bàn tay Chúa phù hộ!”
7. Sinh nhật Gioan
Mọi người ngạc nhiên và sợ hãi mà nói:
Thằng nhỏ này rồi sẽ ra sao, vì bàn tay Thiên Chúa ở cùng nó.
Bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, nghĩa là Thiên Chúa đã ban nhiều đặc ân cho Gioan:
- Đặc ân thứ nhất, là Thiên Chúa cho Gioan sinh ra bởi một người bà già, bà Elisabeth, mà bà già này lại mắc bệnh từ tuổi thanh xuân, đến nỗi chính ông Giacaria cũng không thể tin được là bà Elisabeth sẽ sinh con, nên ông đã bị Thiên Chúa phạt cho mắc bệnh câm.
- Đặc ân thứ hai: là chính Thiên Chúa đã đặt tên cho Gioan, mà thiên thần Gabriel đã phán với ông Giacaria tại bàn thờ dâng hương trong đền thánh Giêrusalem. Nhưng họ hàng lại nói với bà Elisabeth rằng: trong họ, có ai tên như thế đâu?
- Đặc ân thứ ba: đến khi Gioan sinh ra, đã được khỏi tội tổ tông ba tháng rồi. Vì thánh Ambrosiô giám mục thành Milan đã nói: các thánh khác chỉ được mừng lễ, sau khi đã lập nhiều công phúc ở thế gian mà về trời. Còn thánh Gioan lại được mừng lễ sinh nhật như Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria.
Vậy khi ban những đặc ân trên, Thiên Chúa cũng đòi Gioan phải đến đáp bằng cách chu toàn những nhiệm vụ Chúa đã trao phó
1. Nhiệm vụ thứ nhất là tiền hô, là người đi trước, loan báo cho dân chúng biết Chúa cứu thế sắp đến. Mà thực thế mùa thu năm 27 sau kỷ nguyên, trong miền rừng nuí Nam phần nước Do thái, thấy xuất hiện một thày tu hành đi truyền đạo, sống đời khắc khổ, mình khoác áo choàng rộng, bằng lông lạc đà, lưng thắt dây da, lương thực là châu chấu nướng, chấm với mật rừng, tức là nhựa cây thủy ty liễu, mọc ở bờ sông Giodanô, nên hội đồng cộng tọa của người Do thái đã cử mấy thày tư tế đến hỏi: ông có phải là đấng Kitô không?
Thày tu hành Gioan trả lời: tôi không phải là đấng Kitô, nhưng tôi chỉ là tiếng kêu trên rừng, có sứ mạng dọn đường cho Chúa cứu thế đến. Rồi hôm sau, thấy Chúa Giêsu đến với mình, Gioan liền nói: đây là đấng cất tội thiên hạ, người này là con Thiên Chúa (Gioan 1,34). Nghe thế, có hai môn đệ bỏ thày mà theo Chúa Giêsu. Đó là Anrê và Gioan
Hôm nay mừng kính sinh nhật thánh Gioan, Chúa cũng muốn ta trở nên tiền hô cho Chúa: rao giảng Chúa Giêsu cho người khác, đem Chúa Giêsu cho người khác, và đem người khác đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là mục đích đời ta, Chúa Giêsu cũng là mục đích của người khác. Còn tôi chỉ là người môi giới, là phương tiện Chúa dùng, để đem người khác đến với Chúa chứ không phải đem người ta đến với tôi mà quên Chúa, cũng không phải đem người ta đến với tôi mà xa Chúa.
2. Nhiệm vụ thứ hai Chúa cậy nhờ Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho Chúa. Vậy theo Tin mừng thánh Luca (3,1-18) Gioan có sứ mạng mạng dọn đàng cho Chúa cứu thế đến: là bạt đồi núi xuống, lấp thung lũng đầy, uốn thẳng đường quanh co, nghĩa là Gioan dạy người ta ăn năn hối cải và làm việc đạo đức bác ái,
Với những người biệt phái giả hình gian dối, thánh Gioan gọi họ là loài rắn độc, bò quanh co, không thể thoát cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Với những người có lòng ngay, Gioan khuyên họ phải giàu lòng thương xót, dùng việc bố thí tiền của mà rửa sạch tội lỗi.
Với bọn thâu thuế, Gioan bảo họ không cần phải đổi nghề, mà chỉ cần giữ đức công bình, đừng hối lộ, đòi lỡi ngãi, không được phù thu lạm hỗ.
Với quân nhân, Gioan kêu họ đừng hà hiếp bóc lột ai, đừng dọa nạt ai, nhưng phải bằng lòng về số lương của mình.
Với tất cả mọi người, Gioan khuyên họ chiụ phép rửa tỏ lòng khiêm tốn ăn năn để được ơn tha thứ, được thấy ơn cứu độ.
Bởi thế, khi thấy Gioan làm phép rửa, những người biệt phái đã đến hỏi: Nếu không phải là đức Kitô, tại sao ông lại làm phép rửa? Thày tu hành Gioan trả lời: “Tôi rửa người ta bằng nước, song có một đấng ở giữa các ông, mà các ông không biết. Đấng ấy sẽ rửa các ông bằng nước và Chúa Thánh Thần.
Hôm nay, mừng lễ sinh nhật thánh Gioan, Thiên Chúa cũng muốn tôi trở nên những tẩy giả. Vậy những người đến với tôi, tôi có làm cho họ trở nên trong sạch hơn không? Tôi có làm cho họ tới gần Chúa hơn không? Hay tôi lại làm cho họ dơ bẩn hơn, mà không đáng đến gần Chúa.
3. Nhiệm vụ thứ ba, Chúa cậy nhờ Gioan là làm cho mình nhỏ bé lại, để cho Chúa lớn cao hơn. Thánh Gioan thực hiện khi Gioan nói: tôi cần phải nhỏ đi, mà Chúa cần phải lớn lên. Nghĩa là Gioan phải bỏ mình, phải chịu thiệt thòi, để Chúa được vinh danh hơn. Gioan đã vui lòng mất hai môn đệ, để Anrê và Gioan theo Chúa.
Thánh Augustinô tiến sĩ, giám mục giáo phận Hippon còn thể tư tưởng này: Gioan phải thấp bé đi, là vui lòng chịu Herođê chặt đầu, để bắt chước Chúa Giêsu được lớn lên, là bị treo trên thánh giá. Còn tôi, tôi có sẵn sàng chịu nhục mạ để Chúa được vinh danh không? Tôi có sẵn sàng chịu tử đạo thiêng liêng bằng thiếu thốn về thể xác, bị hiểu lầm về phương diện tinh thần, để bắt chước Chúa đã được lớn lên bằng treo trên thập giá không?
Kết
Thằng nhỏ này sẽ ra thế nào, vì có bàn tay Thiên Chúa ở với nó. Lạy Chúa bàn tay Chúa đã ban đặc ân cho thánh Gioan tiền hô, thì bàn tay Chúa cũng đã nâng đỡ đời sống hy sinh của Gioan. Xin bàn tay Chúa cũng nâng đỡ chúng con như thế, vì xác thịt chúng con yếu đuối nặng nề.
8. Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả
* LỊCH SỬ
Ngoại trừ Đức Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria, chỉ còn có thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh được mừng vào ngày sinh nhật thật của mình, ngày sinh ra trong trần thế; các đấng thánh khác đều mừng vào ngày sinh nhật trên trời, tức là ngày chết. Lễ này đã có từ thế kỷ thứ V và đặt vào ngày 24.6, có nghĩa là 6 tháng trước ngày sinh của Chúa Cứu Thế.
Theo tường trình của Phúc Âm thánh Luca, Gioan Tẩy Giả đã được thánh hiến từ trong dạ mẹ, khi Trinh Nữ Mẹ Chúa Cứu Thế chào bà Ê-li-sa-bét, mẹ của Gioan. Sự kiện đặc biệt ở ngày sinh ra hướng ý cho chúng ta thấy ý nghĩa của Gioan trong lịch sử cứu độ.
So với Tân Ước, Gioan vẫn còn thuộc về Cựu Ước; ngài được Thiên chúa gọi để chuẩn bị dân chúng đón Đức Giêsu đến bằng các bài giảng nói về nước Thiên Chúa và lời kêu gọi sám hối. Chính Đức Giêsu lãnh nhận phép rửa thống hối từ tay ông ta và những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu cũng xuất thân từ đám môn đệ của Gioan. Chính Gioan tự giới thiệu mình là tiếng kêu trong hoang mạc, người Tiền Hô cho Đấng vĩ đại đang đến. Còn Đức Giêsu gọi ông là kẻ lớn nhất do người nữ sinh ra trong thời Cựu Ước và là ngôn sứ Ê-li-a đã trở lại (Mt 11,8.11.14). (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Tường thuật Gioan Tẩy giả sinh ra nhấn mạnh đặc biệt vào việc đặt tên:
- Đây là một cái tên đặc biệt (c 61: “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả”)
- Nhưng lại được cả bà Êlisabét và ông Dacaria nhất trí mặc dù trước đó Dacaria bị câm không nói chuyện được với vợ.
- Tên Gioan có nghĩa là “Chúa thương” và là tên do thiên thần bảo phải đặt (Lc 1,13).
Như thế, Gioan tẩy giả là kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn ngay từ trong bụng mẹ, để trở thành ngôn sứ loan báo tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
B.... nẩy mầm.
1. Khi cho một người sinh ra, Thiên Chúa đã có sẵn một sứ mạng dành cho người đó. Sứ mạng của Gioan là làm tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Và Gioan đã làm tròn sứ mạng đó, cho nên dù chết sớm, Gioan cũng hoàn thành tốt đẹp ý nghĩa và sứ mạng của đời mình.
Còn tôi, sứ mạng của tôi là gì? Sống bao nhiêu năm nay, tôi có nghĩ đến đều đó không? Có quan tâm thi hành sứ mạng ấy không? Nhà thơ Nguyễn công Trứ viết: “Đã mang tiếng sống trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Tôi không màng đến “danh”, chỉ muốn chu toàn sứ mạng Chúa giao cho đời mình.
2. Nhà kia có ba cậu con trai. Một cậu nổi tiếng là ‘phá gia chi tử’, tiêu xài phung phí, phá của. Cậu khác quanh năm làm ăn quần quật, không dám tiêu xài một xu nào. Cậu thứ ba tuy không phá của nhưng cũng chẳng chịu làm gì hết. Một ngày nọ ba cậu đều hấp hối. Trước khi chết ba cậu lần lượt nói rõ lý do tại sao mình sắp chết. Cậu ‘phá của’ nói rằng nhà này (ý nói cha mẹ cậu) kiếp trước nợ nần tôi nên kiếp này tôi đầu thai vô để đòi nợ. Nay đòi xong, tôi ra đi. Cậu ‘làm quần quật’ nói rằng kiếp trước tôi mắc nợ nhà này, nay đầu thai để trả nợ, đã trả xong nay tôi ra đi. Còn cậu cuối cùng nói rằng tôi chẳng dính dáng nợ nần gì với nhà này. Tôi đầu thai vô đây để làm nhân chứng. Nay chứng kiến hai đứa kia đã đòi xong nợ, đã trả hết nợ, vậy tôi ra đi.
Chúng ta không tin vào quan niệm đầu thai để đi vào một định mệnh nghiệt ngã, nhưng chúng ta tin vào một sứ mệnh riêng, có tính cách mời gọi và thôi thúc, mà Chúa gửi gắm cho mỗi người chúng ta.
3. “Khi con trẻ được 8 ngày, họ đến làm phép cắt bì (cho cậu)”: cắt bì là dấu chỉ từ nay đứa trẻ thuộc về Chúa và dân của Chúa. Hồi còn bé, mỗi người chúng ta cũng được lãnh nhận Phép Rửa và được dâng hiến cho Chúa, được thuộc về Giáo Hội. Hôm nay suy gẫm về phép cắt bì của Thánh Gioan, chúng ta hãy nhớ lại ngày mình được dâng hiến cho Chúa và Giáo Hội. Ngày ấy cha mẹ dâng hiến ta, hôm nay chúng ta hãy tự dâng hiến mình một cách ý thức và đầy lòng yêu mến.
4. Cô bé nói với anh trai: nhân ngày sinh nhật ba, em se tặng ba đôi dép. Người anh nói: “Nhưng em lấy tiền đâu mà mua?” Cô bé tròn mắt nhìn anh nói: “Ba cho em tiền mà!” Người anh lặng thinh nghĩ: ba cậu muốn có quà tặng trong ngày sinh nhật. Và vì yêu con gái, ông muốn nhận quà tặng từ tay đứa con yêu quí.
Chúng ta cũng chẳng có gì là của riêng mình để dâng cho Chúa. (Góp nhặt)
5. “Phải đặt tên cháu là Gioan” (Lc 1,60b)
Khi đặt tên cho con mình, bà Êlisabét và ông Dacaria đều muốn “đặt tên con là Gioan”. Cả hai đã chọn cho con một cái tên thật lạ trong họ hàng. Việc này cho thấy có sự can thiệp của Thiên Chúa. Gia đình Dacaria đã đón nhận sự can thiệp này trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.
Chúa cũng can thiệp vào đời sống của tôi. Nhưng tôi đã không nhận ra ý Ngài; hoặc tôi đã gạt Chúa ra khỏi đời mình chỉ vì ý Ngài ngược lại ý của tôi và đảo lộn cả cuộc sống của tôi.
Lạy Chúa, xin cho con lòng tin vững mạnh, để con có thể nhận ra sự can thiệp của Chúa trong đời con (Hosanna)
6. “Ngay lúc ấy, miệng ông mở ra, ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa”: Ông Dacaria đã bị phạt câm hơn 9 tháng. Hôm nay ông mở miệng, và lời đầu tiên của ông là chúc tụng Thiên Chúa. Ông chúc tụng vì ông hết câm, vì ông được có con, nhưng cũng còn vì Chúa đã sửa dạy ông, nhờ đó hôm nay ông không còn hồ nghi Chúa nữa nhưng vững tin hơn vào quyền năng Thiên Chúa.
Noi gương ông Dacaria, con cũng dâng lời chúc tụng Chúa vì những sự việc và biến cố Chúa dùng để sửa dạy con.
9. Bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
+ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II
1. "Thiên Chúa đa gọi tôi từ bụng mẹ, từ thân xác mẹ tôi, Người đa đặt tên cho tôi” (Is 49:1).
Hôm nay chúng ta mừng kính le sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Nhưng lời của tiên tri Isaia rất thích hợp để dien tả nhân vật trọng đại này của Thánh kinh, người là một gạch nối giưa Cựu Ước và Tân Ước. Trong hàng ngu các vị đại tiên tri và số nhưng người công chính thi Gioan “Phép Rửa” đa được sự quan phòng Thiên Chúa đặt để đi trước Đấng Thiên Sai (Messiah) hầu sửa soạn con đường trước cho Ngài bằng cách giảng dậy và làm chứng nhân cho cuộc sống của Đức Kitô.
Trong tất cả các thánh nhân, chỉ riêng có thánh Gioan Tẩy Giả mới được Lich Phụng Vụ của Giáo Hội mừng ngày sinh nhật mà thôi. Chúng ta nghe từ Sách Thánh, bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa kêu gọi Tôi Tớ của Ngài “từ trong bụng mẹ”. Lời xác nhận này trong ý nghĩa đầy đủ nhất nói về Chúa Kitô, nhưng trong một ý nghĩa rộng hơn cung có thể áp dụng vào trường hợp của Vi Tiền Hô đi trước Ngài. Cả hai đều được sinh ra do kết quả sự can thiệp từ Thiên Chúa: một Đấng được sinh ra bởi một Trinh Nư, Đấng khác sinh ra bởi một bà lao hiếm muộn. Ngay cả khi còn trong lòng mẹ, Gioan đa chỉ điểm cho thấy Đấng se mặc khải cho thế giới về chương trinh yêu thương của Thiên Chúa.
2. "Từ trong bụng mẹ Ngài đa kêu gọi tôi" (Thánh vinh đáp ca)
Hôm nay chúng ta có thể dùng câu của Thánh Vịnh này áp dụng vào chính chúng ta. Thiên Chúa biết và yêu thương chúng ta ngay cả trước khi chúng ta mở mắt chào đời để chiêm ngắm kỳ công của thọ tạo. Khi sinh ra con người nhận được một tên gọi trần gian. Nhưng ngay trước đó, moi người đa có một tên thần thánh: tên mà Thiên Chúa Cha biết và yêu thương họ từ thuở đời đời cho đến muôn thuở. Điều này đúng cho hết mọi người, không trừ ai cả. Không ai là người vô danh trước nhan Thiên Chúa! Tất cả đều có giá tri binh đẳng trước mắt Ngài: tất cả đều khác nhau, nhưng tất cả binh đẳng, và tất cả đều được gọi là con cái của Thiên Chúa.
"Tên con trẻ là Gioan" (Lk 1:63). Trước sự bơ ngơ và kinh ngạc của người thân và láng giềng, ông Zechariah xác nhận đây là tên con trai của ông ta, khi ông viết tên đó lên chiếc bảng nhỏ. Chính Thiên Chúa, qua trung gian thiên thần đa ban tên đó cho Gioan và tên đó theo nguyên nghĩa Do thái có nghĩa là: “Thiên Chúa có lòng từ tâm”. Thiên Chúa tốt lành với mọi người: Ngài muốn họ được sống; Ngài muốn họ được cứu chuộc. Thiên Chúa tốt với dân của Ngài: muốn họ trở nên sự chúc phúc cho toàn thể các quốc gia địa cầu. Thiên Chúa thương yêu nhân từ với nhân loại: Ngài hướng dan con cái Ngài trên con đường hành hương về đất hứa nơi mà hòa bình và công chính se thống trị. Tất cả nhưng điều này đều chứa trong tên của Gioan!
Anh chi em thân mến, thánh Gioan Tẩy Gỉa là một ‘người đưa tin’, một sứ giả, một người đi trước dọn đường: Người được sai đến để sửa soạn đường cho Đấng Kitô. Nhân vật Gioan Tẩy Gỉa se nói thế nào cho chúng ta tại đây, ở Kyiv này, ngay chính lúc khởi đầu của cuộc hành hương của tôi tới quê hương anh chi em? Đây lại không phải là do đường lối Chúa Quan Phòng mà nhân vật Gioan này nói với chúng ta đúng vào thời điểm hôm nay tại Kyiv này sao?
3. Chính Tại Kyiv mà phép Thanh Tẩy cho người Nga đa khởi điểm. Từ nơi này mà đời sống đức tin Kitô giáo đa bắt đầu lan tràn, Phúc Am đa được mang đến cho mảnh đất của Rus cổ xưa. Thế rồi nhưng lanh thổ của Đông Au và sau này qua vùng Urals, trong các lanh thổ của Châu Á. Trong một nghĩa nào đó, thi chính Kyiv đa đóng vai trò là “người tiền hô của Thiên Chúa” giưa nhiều dân tộc để rồi Phúc Am được tuyên giảng và phát xuất từ nơi đây.
Thánh Volodymyr và nhưng cư dân của nòi giống ‘Rus’ đa được rửa tội bởi các nhà truyền giáo từ thành Constantinople, một trung tâm vĩ đại nhất của thế giới Thiên Chúc giáo thuộc Đông phương thuở đó. Do vậy mà Giáo Hội mới khai sinh đa đi sâu và được sự che chở trong đức tin và văn hóa của Giáo Hội truyền thống Byzantine. Đó là thời kỳ cuối của thiên niên kỷ thứ nhất. Đang khi sống theo hai truyền thống khác nhau, Giáo Hội Constantinople và Giáo Hội Roma thời đó còn hiệp thông trọn vẹn. Như tôi đa viết trong tông thư “Đi vào thế giới” (Euntes in Mundum) rằng: "chúng ta phải cùng nhau cám tạ Thiên Chúa vi sự kiện này, mà hôm nay nó là một điềm báo tốt và là một hy vọng. Thiên Chúa đa muốn rằng Giáo Hội Mẹ, được hiệp nhất cách hưu hinh, cần chào đón vào lòng của Giáo hội người con mới sinh ra trên dòng bờ sông Dnieper đây, dù rằng Giáo Hội đa rất sung túc vi bao gồm rất nhiều quốc gia và dân tộc khắp nơi, và trong lúc mà sự lan rộng của cánh đồng tuyền giáo đang mở rộng tại Tây phương và Đông phương”. (No. 4).
Khi chúng ta cử hành Tiệc Thánh Thể hôm nay theo nghi thức truyền thống Roma, nếu chúng ta nhớ lại cái giây phút thật sâu đậm mà trước đây nó đa liên kết trước truyền thống Byzantine, nên chúng ta cử hành thánh le với lòng tri ân. Chúng ta hiện đang cử hành thánh le nhớ tới cùng một phép rửa, mà tất cả chúng ta đều chia sẻ, điều này se giúp chúng ta tái tạo trinh trạng thông công trước đây, khi đó dù có khác biệt truyền thống nhưng đa không là cản trở cho sự hiệp nhất đức tin và đời sống giáo hội.
4. Bí tích Rửa Tội đa xẩy ra tại Kyiv, đa khai mào lịch sử một ngàn năm Kitô giáo tại các lanh thổ mà ngày nay là quốc gia Ukraine và trong toàn vùng này. Hôm nay, có được ân huệ đi đến nơi lich sử này, tư tưởng của tôi đi ngược dòng về quá khứ hơn 10 thế kỷ, trong đó món quà mà Phép Rửa tiên khởi van còn tuôn chảy trên các thế hệ nối tiếp nhau, và trên con trai con gái nhưng người con của Đất Nước này. Thực là một cuộc sống tinh thần, phụng vụ và cuộc sống giáo hội cứ tiếp tục cuồn cuộn tuôn chảy biết bao! Nó đa hòa trộn từ nhưng nền văn hóa và truyền thống tín ngương khác biệt mà thành nên. Di sản sáng ngời này ngày nay đa được ký thác cho quí vi, các anh chi em thân yêu của Đất Nước này. Trong nhưng ngày tôi thăm viếng quí quốc, tôi cùng quí vi cầu nguyện cho thế hệ riêng của qúi vi hôm nay, từ khởi đầu của thiên niên kỷ mới này, quí vi se chứng tỏ xứng đáng với nhưng truyền thống vĩ đại của quá khứ.
Từ Thành Tri nôi sinh của đức tin Kitô giáo cho Ukraine và cho toàn vùng, tôi chúc mừng và với lòng quí yêu tôi ôm ấp mọi người đang sống trong giải đất này. Một cách đặc biệt tôi chào mừng các đức hồng y Marian Jaworski và Lubomyr Husar, cùng với đức giám mục quí yêu của Kyiv-Zhytomyr là đức cha Jan Purwiski, các huynh đệ đáng kính thuộc Hội Đồng Giám mục Ukrainia và Thượng Hội Đồng Giám Mục Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukrainia. Tôi chào mừng hàng giáo sĩ, các nam nư tu sĩ và giáo dân thuộc các Giáo Hội đa trải qua nhiều thách đố và nay khải hoàn; với một lòng can trường họ đa có thể nêu cao ánh sáng đức tin ngay cả trong nhương giờ phút đen tối của bách hại.
5. Hỡi toàn thể Dân Chúa, anh chi em là nhưng người có đức tin, hy vọng và tinh yêu đối với mảnh đất Ukraine, anh chi em hay một lần nưa hay hân hoan làm sống lại món quà Phúc Am mà anh chi em đa nhận lanh từ một ngàn năm trước đây! Hôm nay hay nhin vào thánh Gioan Tẩy Gỉa, một mau gương trung thành kiên quyết đối với Chúa và Lề Luật của Ngài. Thánh Gioan đa sửa soạn con đường cho Đức Kitô bằng chứng tá lời nói và đời sống của ngài. Hay bắt chước ngài với một lòng quảng đại tin tưởng và vâng phục.
Trên hết thánh Gioan là mau mục đức tin. Theo gương của vi đại tiên tri Elia, hầu có thể lắng nghe lời của Đấng ban sự sống, Ngài đa từ bỏ tất cả mọi sự và rút lui vào hoang đia, từ đó ngài đưa ra lời kêu gọi vang vọng là sửa soạn đường cho Thiên Chúa (xem Mt 3:3).
Ngài là mậu guơng khiem cung, bởi vi đối với nhưng ai coi ngài không nhưng chỉ là một vi Tiên tri mà còn là Đấng Thiên Sai (Messiah), ngài đa trả lời họ rằng: “Các bạn nghĩ tôi là ai? Tôi không phải là Ngài. Không, Đấng mà đến sau tôi, ngay cả việc cởi giây giầy cho Ngài tôi cung không xứng đáng” (TĐCV 13:25).
Ngài là mậu gương chính trực và can đảm trong việc bảo vệ sự thật, và sẵn sàng trả giá bằng chính con người minh, ngay dù bi tù tội và chính cái chết của minh.
Hơi mảnh đất Ukraine, thấm máu đào của các vi tử đạo, cám tạ các vi vi mau gương trung thành đối với Phúc Am mà quí vi đa dâng hiến cho các Kitô hưu khắp nơi trên hoàn cầu! Đa có biết bao nhiêu người con yêu của Đất Nước này đa tiến đi trên con đường hoàn toàn trung thành với Chúa Kitô; nhiều người còn kiên quyết dầu phải hy sinh đến tận cùng. Ước chi chứng tá của họ là mau gương và là sự htôi thúc cho các Kitô hưu của thiên niêm kỷ thứ ba.
6. Trong trường đào luyện của Chúa Kitô, theo chân thánh Gioan Tẩy Gỉa, các vi thánh nhân và các thánh Tử đạo của quốc gia này, ước chi cả anh chi em yêu qúi nưa, cung có can trường đủ mà luôn luôn đặt ưu tiên cho các giá tri tinh thần trong cuộc sống.
Các hiền huynh giám mục, các linh mục, nam nư tu sĩ, quí hiền huynh là nhưng người đa từng hành trinh trung thành cùng với dân chúng ở đây và sẵn sàng trả bất cứ giá hy sinh nào, quí hiền huynh đa nâng đơ họ trong nhưng giờ phút đen tối nhất của cơn hai hùng Cộng sản, tôi cám ơn qúi hiền huynh, xin quí hiền huynh tiếp tục làm c hứng nhân nhiệt tinh cho Đức Kitô và là nhưng mục tử tốt lành cho đoàn chiên của Người trong quê hương quí yêu Ukraine.
Các bạn trẻ thân mến, hay can trường và tự do! Đừng để lòng các bạn bi nhưng hinh ảnh hỏa mù của một hạnh phúc de dàng chiếm mất. Hau đi theo con đường của Đức Kitô: Chắc chắn là Người đòi hỏi nơi bạn nhiều, thế nhưng cung chỉ có Người là người duy nhất có thể giúp bạn cho bạn ý nghĩa đầy đủ về cuộc sống và thỏa man ước nguyện sự binh an của con tim.
Hoi các bậc làm cha mẹ thân mến, hay sửa soạn đường nẻo của Thiên Chúa cho con cái. Hay nuôi chúng lớn lên với tinh yêu, và là nhưng tấm gương tốt bằng cách sống theo nhưng nguyên tắc mà chính quí vi dậy con cái minh. Quí vi là nhưng bậc thầy và là lanh đạo của xa hội, hay đào sâu thêm sự dấn thân hầu khích lệ sự phát triển hoàn toàn về con người nhân bản, khích lệ nơi giới trẻ ý nghĩa sâu sắc về công lý và tinh liên kết đối với nhưng người kém may mắn trong cuộc sống.
Ước chi từng người và tất cả là “ánh sáng của muôn dân” (Is 49:6)!
7. Hơi thành Kyiv, ước chi thành này là "ánh sáng cho Ukraine".
Vi từ đây mà các vi truyền bá Phúc Am qua các thế kỷ đả là nhưng “Gioan Tẩy Gỉa” cho các dân tộc sống trong các mảnh đất nơi đây. Có biết bao các vi đó, như thánh Gioan, đa chiụ khổ để làm chứng cho sự thật, và với máu đào của họ đa trở thành hạt giống cúc các Kitô hưu mới. Ước chi các thế hệ tương lai không bao giờ thiếu các nam thanh nư tú nối tiếp truyền thống hào hùng theo gương các tiền nhân vinh quang của anh chi em.
Xin Đức Trinh Nư rất thánh, Quan Thầy của Ukraine, Mẹ luôn luôn hướng dan con cái trên đường lư hanh trần thế. Xin Mẹ tiếp tục để mắt đoái nhin đoàn con Mẹ. Xin giúp họ đừng bao giờ quên “tên”, cái danh xưng tinh thần mà họ đa nhận được trong Bí tích Rửa Tội. Xin giúp họ biết vui mừng luôn mai trong an huệ vô giá là nhưng người theo chân Chúa Kitô (Jn 3:29). Uớc gi Mẹ là người dan lối cho từng người một. Oi, Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng con!
10. Chứng nhân của cõi vĩnh hằng
(Đức cha GB. Bùi Tuần)
Khi nhìn thánh Gioan Baotixita, tôi thấy vẻ bề ngoài của Ngài không có gi hấp dẫn cả. Y phục thì khó nghèo. Ăn uống thi khổ cực. Cách sống thi khắc khổ. Cho ở thì thô sơ. Lúc thì ở rừng rú, lúc thì ở sa mạc, nay đây mai đó.
Thế mà, con người như vậy lại được Phúc Âm gọi là đấng dọn đường cho Chúa, là đấng làm phép rửa cho Đức Kitô, là đấng giới thiệu Chúa Cứu thế, là đấng trọng hơn mọi người nam trên thế gian này.
Điều đó chứng tỏ nhưng vẻ đẹp bề ngoài chưa hẳn là thước đo giá tri con người. Thước đo giá tri con người chính là cái đẹp bên trong, cái đẹp nội tâm, cái đẹp phản ánh nhưng chân thiện mỹ vĩnh hằng.
Riêng đối với tôi, thánh Gioan Baotixita lôi cuốn tôi do mấy điểm sau đây của Ngài.
Điểm thu hút thứ nhất là nếp sống tu thân. Việc tu thân của Ngài không phải chỉ là từ bỏ đời sống sung túc, dễ chịu, để chọn cuộc đời nghèo khó, khắc khổ. Nhưng nhất là ở chỗ Ngài rất khiêm nhường. Ngài ví mình như tiếng kêu trong sa mạc. Ngài coi mình chỉ là kẻ dọn đường cho Chúa. Ngài nhận mình hèn mọn thấp kém, đến nỗi không đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu thế. Ngài mong muốn bước xuống thực thấp thực sâu, để Đấng Cứu thế được nổi lên thực cao, sao cho mọi người biết đến mà tôn kính tôn thờ.
Nếp sống tu thân của thánh Gioan Baotixita rất xa lạ với lối tu thân nơi một lớp người tôn giáo thời đó và thời nay. Họ tu thân, mà vẫn lo tìm thăng tiến địa vịi, hưởng thụ quyền lợi, lạm dụng chức tước.
Khi phong hoá bi suy đồi, tôn giáo bị tha hoá, nhân tố có sức cải cách sẽ phải là người tu thân đích thực ở trình độ cao. Thánh Gioan Baotixita được đào tạo suốt mấy chục năm tu thân trong sa mạc. Với nét tu thân dày dạn đó, Ngài vào đời với đầy ơn Chúa Thánh Thần và một uy tín rất lớn. Chính nét tu thân đầy uy tín đó đã lôi cuốn những người thiện chí, để họ sẵn sàng nghe lời Ngài giảng. Đề tài giảng của Ngài là rất đơn sơ, nhưng rất căn bản. Đó cũng chính là một sức thu hút rất mạnh.
Vì thế, đối với tôi,
Điểm thu hút thứ hai là đề tài giảng của Ngài.
Đề tài giảng của Gioan Baotixita được tóm lại trong một lời thôi. “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2). Có sám hối, thì mới tránh được cơn thịnh nộ của Chúa (Mt 3,7). Có sám hối thì công việc ta làm mới sinh được kết quả tốt (Mt 3,8). Sám hối là một cách rửa tâm hồn cho sạch, để nên người tốt, để nên con Chúa, và để đón nhận Nước Trời đang tới. Nước Trời chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại.
Khi thấy Chúa Giêsu đang tiến lại về phía mình, thánh Gioan Baotixita nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian... Tôi đã thấy Thánh Thần từ trời xuống ngự trên Ngài... Ngài là Đấng mà Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,29-34).
Một điều đáng chú ý, là khi Đức Kitô đã xuất hiện công khai, thì thánh Gioan Baotixita tìm cách lui vào bóng tối. Ngài muốn dồn hết danh dự cho Đấng Cứu thế. Ngài như muốn mọi người quên Ngài đi, để tập trung vào một Đức Giêsu Kitô thôi.
Tôi thấy sám hối và tập trung vào Đức Kitô là đề tài giảng rất cần thiết, để cải cách tôn giáo thời đó. Thời nay thiết tưởng cũng rất cần đề tài như vậy. Nhất là khi lương tâm nhiều người đang mất dần ý thức về tội, và khi Công giáo nhiều nơi đang đặt trọng tâm vào quá nhiều thứ cứu độ, còn chính Đức Kitô, Đấng cứu độ duy nhất, thì bị lu mờ. Các thứ trung gian thi nhau che khuất Ngài. Sự kiện đáng buồn đó là một tiếng báo động. Chúng ta nên thức tỉnh trở về với gương thánh Gioan Baotixita.
Điểm thu hút sau cùng nơi thánh Gioan Baotixita là sự vững vàng phó thác trong những thử thách.
Thánh Gioan Baotixita đã gặp nhiều thử thách nặng nề, nhất là về mặt đức tin. Phúc Âm thánh Matthêu kể rằng: “ “Khi Gioan đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,2-3). Chi tiết trên đây cho ta thấy: Có thể Gioan Baotixita bị cám dỗ về con người của Đức Kitô cũng như về sứ mạng của chính Gioan. Sứ mạng của mình là giới thiệu Đấng Cứu thế. Mình đã giới thiệu Đấng đó. Nhưng Đấng đó có thực sự là Đấng Cứu thế không đây? Cơn cám dỗ như vậy có thể xảy ra cho Gioan. Trong cảnh tù cô đơn, cơn cám dỗ đó làm Gioan ray rứt, đắng cay. Nếu mình sai, thì mình sẽ bị coi như giả dối và vô dụng.
Nhưng Gioan đã vững vàng phó thác vào Chúa. Phó thác bằng cách sai môn đệ đến hỏi Đức Kitô. Phó thác bằng cách chấp nhận câu trả lời của Đức Kitô. Phó thác bằng cách vui lòng chết trong tù, mà không xin Đức Kitô làm phép lạ cứu Ngài ra khỏi cảnh bất công đó, để tiếp tục ra đi dọn đường phục vụ Đấng Cứu thế. Ngài dâng mình làm của lễ cho chính tình yêu.
Với ba nét thu hút trên đây, thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của cõi vĩnh hằng. Ngài nhìn về phía trước. Ngài sống cho phía trước. Phía trước có cõi đời đời. Trong cõi đời đời đó có Thiên Chúa hằng sống đang chờ đợi các con cái Người. Con cái Người sẽ đến được với Người nhờ tu thân, nhờ sám hối, nhờ tin cậy Đức Kitô, nhờ vững vàng vượt qua thử thách. Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân như thánh Gioan Baotixita, tại Việt Nam này, ở địa phương này, trong hoàn cảnh hiện nay. Chúng ta rất yếu đuối, nhưng chính trong sự yếu đuối đầy khiêm nhường và tin cậy, Chúa sẽ tỏ sức mạnh của Người.
Xin thánh Gioan Baotixita cầu bầu cho chúng ta.
11. Sứ điệp cứu nguy phần rỗi
(Đức cha GB. Bùi Tuần – ‘Để mừng lễ Thánh Gioan Baotixita’)
1. Thánh Gioan Baotixita biết mình có liên hệ với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đang đến sau Ngài. Liên hệ đó là đi trước dọn đường. Trách nhiệm đó rất cao cả. Chính Thiên Chúa đã gọi Ngài, đã chọn Ngài, đã thánh hóa Ngài, đã sai Ngài, đã trao trách nhiệm cho Ngài. Mục đích để cứu nguy phần rỗi.
Gioan Baotixita vâng theo thánh ý Chúa. Nhưng Ngài nói: “Tôi không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng Cứu Thế” (Ga 1,27).
2. Với lời trên đây, Gioan Baotixita muốn nói lên sự khó nghèo của Ngài.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết Chúa thì vô cùng cao sang, còn mình thì hết sức hèn hạ. Ngài cảm nhận mình không xứng đáng được Chúa chọn.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình sẽ phải giới thiệu một Đấng Cứu Thế yêu thương hết mực khiêm tốn. Hình ảnh đó khó được dân chúng chấp nhận. Chính Ngài cũng chẳng hiểu nổi. Ngài cảm nhận mình không có khả năng giới thiệu Đấng Cứu Thế như vậy.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình được sai đến với một xã hội tội lỗi cứng lòng. Mà Ngài thì không có chức tước địa vị, không có tiền bạc, không có hậu thuẫn. Ngài cảm nhận mình không có cơ may dọn đường cho Chúa.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình phải nói nhân danh Đấng thiêng liêng vô hình. Mà Ngài chỉ như là tiếng kêu trong sa mạc. Ngài cảm nhận mình không có tài đức.
Sự khó nghèo, mà Gioan Baotixita cảm nghiệm về mình, thực là sâu thẳm. Ngài nhận mình bất xứng khó nghèo, thế mà lại được Chúa yêu thương. Nên Ngài cảm tạ Chúa với tất cả lòng khiêm tốn.
Tuy nhiên, Chúa cho Ngài biết chính vì Ngài nghèo khó, nên Chúa đã chọn Ngài. Chúa dạy Ngài hãy thi hành ơn gọi một cách đơn giản, như một người nghèo khó.
3. Thi hành ơn gọi một cách đơn giản là đi vào những gì căn bản một cách đơn sơ.
Thực vậy, thánh Gioan Tiền Hô đã đơn sơ trong việc giới thiệu con đường phần rỗi linh hồn. Ngài giới thiệu bằng chính cuộc sống của Ngài. Một cuộc sống nhấn mạnh đến căn bản tu đức dựa trên Lời Chúa. Ngài sống cầu nguyện, nghèo khó, khổ hạnh, gần gũi với mọi người, vâng phục thánh ý Chúa.
Thánh Gioan Tiền Hô đã đơn sơ trong việc dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Đối với Ngài, dọn đường là bỏ tội lỗi. Ngài cho biết tội là làm sai luật Chúa, nhất là trong lãnh vực công bình bác ái đối với tha nhân. Phải bỏ đường tội bằng sám hối và sửa lại nếp sống. Nếu không, sẽ bị Chúa phạt. Hình phạt nặng nhất là mất linh hồn, phải sa hỏa ngục đời đời. Ngài nói về cơn thịnh nộ của Chúa (x. Lc 3,7). Ngài đưa ra hình ảnh cây xấu bị chặt đi và quăng vào lửa (x. Mt 3,10). Những gì Ngài nói về tội, thì rất căn bản và dễ hiểu. Đối với Thánh Gioan, biết sợ Chúa phạt là khởi đầu tốt cho việc bỏ đàng tội lỗi.
Thánh Gioan Tiền Hô đơn sơ trong việc giới thiệu Chúa Giêsu. Ngài nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Ngài nhấn mạnh đến việc phải tin cậy vào Chúa Giêsu, để được cứu khỏi tội. Nói thế là rất căn bản và dễ hiểu.
Thánh Gioan Tiền Hô đơn sơ trong niềm tin. Ngài biết mình chẳng là gì, chẳng đáng gì. Ngài không bám vào điểm tựa nào nơi trần thế. Ngài chỉ cậy tin vào lòng Chúa xót thương mà thôi. Ngài vững tin vào sức mạnh ân sủng của Chúa. Vững tin như thế là rất đơn sơ mà cũng rất căn bản.
4. Tóm lại, đơn giản của Thánh Gioan Baotixita là không đưa ra những lý lẽ cao siêu, không ôm đồm những tham vọng xa vời, mà chỉ nhấn mạnh đến những điều căn bản nhất, khuyên làm những việc cần thiết nhất, đưa người ta nhìn vào mục đích quan trọng nhất đời mình.
Tới đây, chúng ta có thể tóm lược chân dung Thánh Gioan Baotixita ở hai nét này: Một là khiêm nhường nghèo khó, hai là thi hành ơn gọi một cách đơn giản với những gì là căn bản nhất.
Với chân dung đó, Thánh Gioan Baotixita đã đem một sứ điệp Chúa gởi đến cho nhân loại nói chung và dân Chúa nói riêng, để cứu nguy phần rỗi.
Thánh Gioan Baotixita đã qua đời. Nhưng sứ điệp cứu nguy phần rỗi vẫn được Chúa gởi vào lịch sử mọi thời mọi nơi, bằng cách này hay bằng cách khác.
Đức Mẹ tại Fatima, khi thấy đời sống đức tin sa sút trầm trọng, cũng đã nhắc tới những gì căn bản nhất để cứu con người khỏi sa vào con đường đi xuống hỏa ngục.
5. Hôm nay, sứ điệp cứu nguy phần rỗi đang được Chúa gởi vào tình hình Việt Nam bằng nhiều cách. Vấn đề cần đặt ra là người ta có đón nhận sứ điệp đó hay không? Địa chỉ, mà câu hỏi quan trọng về sứ điệp cần gởi tới, không phải là người ta chung chung, mà là mỗi người con Chúa, nhất là mỗi người có trách nhiệm dẫn dắt cộng đoàn.
Có thể nói như Thánh Gioan Tiền Hô và như Đức Mẹ ở Fatima là: Tai họa khủng khiếp cho phần rỗi sẽ đổ xuống, nếu không sám hối, nếu không trở về với Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót ban ơn cho chúng con biết đón nhận sứ điệp cứu nguy phần rỗi. Bởi vì phần rỗi của chúng con rất dễ bị lâm nguy. Cũng xin Chúa xót thương nâng đỡ những người được Chúa sai đi rao giảng sứ điệp cứu nguy phần rỗi tại Việt Nam hôm nay. Bởi vì trách nhiệm của họ rất nặng nề rất khó khăn, rất khẩn cấp.
12. Lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
Gioan Tẩy giả là ai?
Ngài là con của thày tư tế Dacaria và bà Êlisabét, chị họ của Đức Maria. Hai ông bà đã lớn tuổi nhưng vẫn chưa có con. Cả hai không ngừng cầu khẩn xin Chúa ban cho một người con nối dõi tông đường. Nhận thấy lòng đạo đức của họ, Chúa dủ lòng thương sai sứ thần đến báo: "Này Dacaria! đừng sợ, Chúa đã nghe lời khẩn nguyện của ngươi. Vợ người sẽ sinh một con trai và người sẽ đặt tên là Gioan..."
Dacaria hoài nghi, vì thế Chúa để ông bị câm trong suốt 9 tháng trời, cho đến ngày đặt tên cho Gioan. Gioan lớn lên và được giáo dục trong bầu không khí đạo đức. Đến năm thứ 5 đời hoàng đế Tibêriô, tức năm 28 sau công nguyên, có tiếng Chúa gọi Gioan trong hoang địa, tức vùng đồi núi Giuđê Gioan sống khắc khổ: ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo lông lạc đà và ngang lưng thất dây da. Cuộc đời Gioan thật gương mẫu.
Có lần Chúa Giêsu đã công khai nói với dân Do thái: "Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả".
Gioan đã làm gì?
Ngài đi khắp vùng sông Giođan rao giảng và kêu gọi mọi người ăn năn sám hối. Lời nói và nếp sống khổ hạnh của ngài đã lay chuyển cả những tâm hồn cứng cỏi nhất. Họ đã đến với ngài thật đông đảo để được nghe giảng dạy và được nhận phép rửa. Có người đã lầm tưởng ngài là Đấng Thiên Sai mà dân Do thái hằng mong đợi, nhưng ngài khiêm tốn trả lời: "Phần tôi, tôi rửa anh em bằng nước, sẽ có một Đấng quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Ngài sẽ rửa anh em bằng Thánh Thần và lửa.
Thánh Gioan đã chết thế nào?
Trong khi ngài dang rao giảng sám hối thì một vụ tai liếng đã xảy ra tại cung điện Hêrôdê Antipa. Nhà vua đã cưới con gái của Arêta phương nam làm hoàng hậu. Thế nhưng, trong một chuyến đi Rôma, ghé thăm người em cùng cha khác mẹ là Hê-rô-đê Phi-lip-phê, nhà vua lại say mê sắc đẹp của Hêrôdia, người em dâu và tìm cách chiếm đoạt. Hêrôđia có một người con riêng là Salômê có tài múa hát. Câu chuyện tới tai vị Tẩy giả. Với tất cả lòng cương nghị của một người công chính, Gioan cảnh cáo Hêrôđê: "Nhà vua không được cướp vợ em mình” Câu nói đó đã khiến Hêrôđê phải giam Gioan vào ngục. Nhưng Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn là mối cản trở cho hành động ngang trái của bà. Bà lìm cách đế giết Gioan. Chính vì thế, trong bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê, lợi dụng khi nhà vua đã ngà ngà say, bà xúi Salômê xin chiếc đầu của Gioan.
Thế là Gioan đã phải chết.
Câu hỏi chia sẻ:
Anh chỉ em nghĩ gì về câu tin Mừng: "Cậu bé (Gioan) càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh?
Số phận của Gioan là số phận của các ngôn sứ, vì giảng dạy điều ngay chính mà phải chịu thiệt đến thân. Nhưng "Phúc cho ai phải chịu đau khổ vì sự công chính. Xin chia sẻ.
13. Thánh Gioan Tiền Hô- Tẩy Giả
1. Thưa anh chị em, bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, vì Gioan sẽ là đấng tiền hô của Chúa cứu thế. Sứ mệnh tiền hô của Gioan, đã được Giáo hội nhắc đến trong kinh tiền tụng II của mùa vọng, bằng vài tư tưởng sau đây:
“Gioan là đấng tiền hô,
Loan tin về Chúa Kitô giáng trần,
Chúa khi truyền đạo xuất thân,
Gioan lại chỉ cho dân thấy Ngài”
“Gioan là tiếng dẻo dai,
“Tiếng kêu” thánh thót lọt tai mọi người,
Rằng Chúa cứu chuộc tới nơi,
Đang sống trên đời, ở giữa chúng ta
Vậy mà kẻ đứng gần xa
Chẳng ai để ý nhận ra được Ngài”
Mà thực thế, mùa thu năm 27 sau kỷ nguyên, trong miền rừng núi Nam phần nước Do thái, thấy xuất hiện một thày tu hành đi truyền đạo, sống đời khắc khổ, mình khoác áo choàng rộng, bằng lông lạc đà, lưng thắt dây đang, lương thực là châh chấu nướng, châm với mật rừng tức là nhựa cây thủy ty liễu, mọc ở bờ sông Gior-đa-nô, nên hội đồng công tọa của người Do thái, đã cử mấy thày tư tế đến hỏi: ông có phải là Đấng Kitô không? Thày tu hành trả lời:
“Tôi không phải là đấng Kitô, nhưng tôi chỉ là tiếng kêu trên rừng, có sứ nạng dọn đàng cho Chúa Kitô đến“.
Nhưng người biệt phái cũng hỏi: “Nếu không phải là đấng Kitô, tại sao ông làm phép rửa? thày tu hành Gioan trả lời: “Tôi rửa người ta bằng nước, song có một đấng ở giữa các ông, mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi một tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài” (Gioan 1,19). Hôm sau, thấy Chúa Giêsu đến với mình, Gioan liền nói: “đây là chiên Thiên Chúa, đây là đấng cất tội thiên hạ”. “Người này là con Thiên Chúa” (Gioan 1,34). Nghe thế, có hai môn đệ đã xin phép bỏ thày là Gioan để đi theo Chúa Giêsu (Gioan 1,37). Vậy đọc lại những câu phúc âm trên đây, chúng ta thấy thánh Gioan đã chu toàn sứ mệnh tiền hô mà Thiên Chúa đã trao phó:
“Gioan là đấng tiền hô,
Loan tin về Chúa Kitô giáng trần,
Chúa khi truyền đạo xuất thân,
Gioan lại chỉ cho dân thấy Ngài.
Gioan là tiếng dẻo dai,
“Tiếng kêu” thánh thót lọt tai mọi người.
Rằng Chúa cứu chuộc tới nơi,
Đang sống trên đời, ở giữa chúng ta”
Vậy mà kẻ đứng gần xa,
Chẳng ai để ý nhận ra được Ngài”
2. Thưa anh chị em, bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, vì Gioan còn phải thi hành sứ mệnh tẩy giả nữa:
“Gioan cũng được gọi là tẩy giả,
Vì Ngài đã lấy nước sông Gio-dan,
Để rửa sạch, tội lỗi của dân gian,
Những con người, đã thành tâm thống hối”
Vậy Gioan, đã biến người có tội,
Trở nên người công chính có đức nhân,
Biết mến Chúa bác ái với nhân dân,
Để đón chờ, Chúa Kitô đang đến”
Vậy theo Phúc âm thánh Luca (3,1-18) Gioan có sứ mệnh dọn đường cho Chúa cứu thế đến: bạt đồi núi xuống, lấp thung lũng đầy, nắn thẳng đường quanh co. Nghĩa là Gioan tẩy giả dạy người ta ăn năn hối cải và làm việc đạo đức bác ái. Với những người biệt phái giả hình gian dối, thánh Gioan gọi họ là loài rắn lục, không thể thoát cơn thịnh nộ của Chúa, vì cái rìu đã đặt sát gốc cây, cây nào không sinh hoa trái, sẽ bị chặt và quăng vào lửa. Với những người lòng ngay, Gioan khuyên họ phải giàu lòng thương xót, lấy việc bố thí tiền của mà rửa sạch tội mình. Với bạn người thâu thuế, Gioan bảo họ không cần phải đổi nghề, nhưng phải giữ đức công bình, đừng hối lộ, đòi lỡi ngãi, không được phù thu lạm bổ. Với quân nhân, Gioan khuyên họ đừng hà hiếp ai, đừng dọa nạt ai, nhưng bằng lòng về số lương của mình. Với tất cả mọi người, Gioan khuyên họ chiụ phép rửa, để tỏ lòng khiêm tốn ăn năn được ơn tha thứ, được ơn sống một đời đạo đức bác ái hơn, và được thấy ơn cứu độ của Chúa cứu thế. Vậy
“Gioan cũng được gọi là tẩy giả,
Vì Ngài đã lấy nước sông Gior-dan
Để rửa sạch, tội lỗi của dân gian
Những con người, đã thành tâm thống hối,
Vậy Gioan, đã biến người có tội,
Trở nên người công chính có đức nhân,
Biết mến Chúa, bác ái với nhân dân,
Để đón chờ, Chúa Kitô đang đến”
Kết
Theo cha Basséville, ông Jeannet là người công giáo rất đạo đức, nhận thấy mình có bổn phận phải rao giảng Chúa cho người khác, nên đã tự nguyện trở nên tông đồ giáo dân cho Chúa và các linh hồn. Nhưng rồi ông bị người ta này chê là giả hình. Người kia chê là ông thiếu khả năng. Người nọ bảo là ông kém cỏi. Người khác lạ bảo lòng không xứng hợp. Đứng trước những lời chê bai đó, ông Jeannet mất tinh thần, thối chí định bỏ việc tông đồ. Đêm hôm ấy, Chúa cho ông nằm mơ là mình đã chết. Sau khi chết, thiên thần bản mệnh dẫn ông đến một gian phòng, để chờ Chúa đến phát xét. Ngay trước cửa gian phòng, ông thấy một tấm bảng kẻ hàng chữ lớn: “Phòng triển lãm đời sống ông Jeannet. Bước vào trong, ông thấy có nhiều bức vẽ rất đẹp. Bức thì vẽ lại những lần ông đang quì cầu nguyện ở gia đình cho các tội nhân và người ngoại. Bức thì vẽ những lần ông đang dự thánh lễ. Bức thì vẽ lại những lần ông đang lao động, để cầu nguyện cho tội nhân này. Bức thì vẽ lại những lần ông đi thăm viếng người ngoại kia. Bức thì vẽ lại người tội nhân và người ngoại được trở về với Chúa, do việc ông chịu đựng những lời chê bai trong khi làm việc tông đồ. Vừa mơ đến đây, thì ông giật mình thức dậy. Ông cho giấc mơ là lời Chúa an ủi và cảnh cáo mình. Ông liền quỳ lên giường cám ơn Chúa cho mình còn sống. Rồi ông quyết chí lại tiếp tục làm việc tông đồ để đưa các linh hồn về cho Chúa. Thưa anh chị em, hôm nay kính thánh Gioan là tiền hô và tẩy giả của Chúa, ta cũng bắt chước ông Jeannet làm việc tông đồ cho Chúa như ông Jeannet trên đây để bắt chước thánh Gioan là tiền hô tẩy giả của Chúa.
Lời nguyện giáo dân
Thưa anh chị em, hôm nay dạy chúng ta tôn kính thánh Gioan tiền hô và tẩy giả của Chúa, Giáo hội có ý khuyên chúng ta biết trở nên tông đồ đem các linh hồn về cho Chúa.
1. Vậy xin Chúa cho chúng ta biết cầu nguyện hàng ngày tại gia đình, để trở nên tiền hô loan báo cho tha nhân biết có Thiên Chúa, và Chúa cứu thế đã đến trong thế gian.
2. Xin Chúa cho chúng ta biết sốt sắng dự thánh lễ chủ nhật, để trở nên tiền hô loan báo cho tha nhân biết có Thiên Chúa và Chúa cứu thế đã đến chiụ tội loài người.
3. Xin Chúa cho chúng ta biết dâng lên Chúa những mồ hôi nước mắt của chúng ta khi lao động mà đền tội, để trở nên tẩy giả cầu cho các tội nhân và anh em ngoại giáo được trở về với Chúa.
4. Xin Chúa cho chúng ta biết siêng năng chiụ phép giải tội, nhất là mùa phục sinh, để trở nên tẩy giả làm cho tâm hồn ta nên trong sạch để cầu nguyện cho các tội nhân và anh em ngoại giáo được trở về với Chúa.
Chúng ta hãy cầu nguyện
Lạy Chúa trong ngày lễ hôm nay, Chúa đã đặt thánh Gioan tiền hô và tẩy giả làm gương mẫu cho chúng con bắt chước. Xin Chúa cho chúng con biết cầu nguyện hàng ngày tại gia đình, biết vui lòng lao động nuôi sống gia đình, biết giữ luật xưng tội rước Chúa mùa phục sinh để trở nên Gioan tiền hô.
14. Sống lời Chúa- Nói và làm
Nhân ngày sinh của Gioan Tiền hô, tôi muốn chia sẻ một điểm nổi bật trong cuộc sống của thánh nhân, đó là Gioan Tiền hô đã nói và đã làm.
Thực vậy, cách đây hơn mười năm với phong trào đổi mới tại Việt Nam, người ta thấy trên báo chí xuất hiện những bài viết ký tên NVL. Người ta bảo đó là của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Nhưng đồng thời, người ta cũng suy diễn ba chữ viết tắt ấy là nói và làm, chứ không phải là nói và lờ hay nghe và lỉnh. Việc làm mới thực sự là quan trọng, hơn hẳn những lời nói suông bội phần.
Nhìn vào cuộc sống của Gioan tiền hô, chúng ta thấy lời nói của thánh nhân luôn đi đôi với việc làm. Thánh nhân luôn làm những điều mình nói, thực thi những điều mình dạy. Lời nói và việc làm của Gioan tiền hô luôn đi đôi với nhau, luôn ăn khớp với nhau, chứ không trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, đúng như người xưa đã bảo:
- Ngôn hành hợp nhất.
Đồng thời, thánh nhân còn luôn chịu trách nhiệm về những điều mình đã nói, cho dù có phải chết.
Thực vậy, trên bờ sông Giócđan, thánh nhân đã rao giảng một cuộc sống khắc khổ, để sám hối ăn năn, hầu dọn đường đón mừng Chúa đến. Và chính bản thân thánh nhân cũng đã sống khắc khổ và sám hối ăn năn như vậy.
Phúc âm đã ghi lại: thánh nhân vào trong hoang địa, mặc áo da thú, ăn châu chấu với mật ong rừng. Chính vì thế, thánh nhân đã nhận ra Đấng Cứu Thế và giới thiệu Ngài cho mọi người.
Vai trò của thánh nhân là vai trò của một sứ giả, của một tiền hô chuẩn bị tâm hồn mọi người đón nhận Đấng Cứu thế và khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, thánh nhân đã không ngần ngại tuyên bố:
- Đây chiên Thiên Chúa, đây đấng gánh tội trần gian…Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi…tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.
Kể từ tuyên bố ấy, thánh nhân đã chìm vào quên lãng, chìm vào bóng tối và để cho chính những môn đệ thân tín của mình bước theo Chúa Giêsu.
Thánh nhân cũng đã mạnh dạn tố giác tội lỗi của Hêrôđê. Chính vì những lời nói thẳng thắn ấy, thánh nhân đã bị tống ngục và đã bị chém đầu.
Còn với chúng ta thì sao?
Kinh nghiệm cho thấy:
- Nói thì dễ mà làm thì lại khó.
- Nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Chúng ta nói xong rồi lờ đi, hay nghe xong rồi lỉnh mất, chẳng đoái hoài chi đến những gì mình đã nói hay đã nghe, như tục ngữ đã diễn tả:
- Trăm voi không được một bát nước xáo.
Chẳng hạn mỗi khi giáo xứ có dịp bàu ban hành giáo, chúng ta nói thì rất hay, nào là người ấy phải thế nọ thế kia. Thế nhưng, khi phiên họp được triệu tập để đề bạt những ứng cử viên, thì chúng ta lại tính chuyện lờ, chuyện lỉnh, chuyện lặn.
Và khi phên họp kết thúc, một người nhiều thiện chí, nhưng hơi thiếu khả năng về mặt này mặt khác, được đề cử, thì chúng ta lại vội vã khua môi múa mỏ, phê bình thế này, chỉ trích thế nọ. Quả thực, chúng ta đáng được người đời diễn tả:
- Trùm khu, trùm giáp thì chúng ta không dám, chứ trùm chăn, trùm mền thì chúng ta lại ăn đứt thiên hạ.
Hãy ra tay xây dựng bằng hành động, chứ đừng chỉ xây dựng bằng nước bọt, có nghĩa là hãy biểu lộ thiện chí của chúng ta bằng những việc làm cụ thể, nhờ đó lời nói và việc làm của chúng ta luôn đi đôi với nhau, như lời thánh Giacôbê tông đồ đã xác quyết:
- Đức tin không có việc làm, thì chỉ là một đức tin đã chết.
Hay như thánh Gioan tông đồ cũng đã viết:
- Anh hãy chỉ cho tôi một tình yêu không việc làm. Còn tôi, tôi sẽ dùng những việc làm để chỉ cho anh thấy một tình yêu đậm đà thắm thiết như thế nào.
Ngôn hành phải hợp nhất. Lời nói phải đi đôi với việc làm, chứ không phải là trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Nói một đằng làm quàng một nẻo. Thậm chí nói một chuyện, nhưng làm lại là chuyện khác. Nhiều khi còn làm ngược lại những điều mình đã nói. Nói vậy mà không phải vậy đâu.
Căn cứ vào những việc làm cụ thể ấy, người ta sẽ nhận biết thiện chí của chúng ta, cũng như đáng giá chúng ta có phải là những sứ giả, những tiền hô đích thực của Chúa hay không?
15. Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
"Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa" (Ga 1, 6-7; Lc 1, 17).
Hôm nay, Hội Thánh mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng cứu thế.
Thánh Luca thuật lại cuộc truyền tin cho Dacaria trong Luca 1, 5-25 với đầy đủ chi tiết.
Kinh Thánh kể lại rằng ông Dacaria và bà Êlisabét, vợ của ông, sống công chính trước mặt Thiên Chúa, nhưng vợ ông lại son sẻ, vả lại cả hai ông bà đều cao niên (Lc 1, 5-7). Thánh Luca kể tiếp:" Dacaria là tư tế, đã rút trúng thăm để tế tự cho Thiên Chúa trong đền thờ "(Lc 1, 8-9). Trong khi Dacaria dâng hương trong đền thờ, dân chúng tất cả đều đứng ở ngoài và cầu nguyện (Lc 1, 10). Sự lạ xẩy ra là có sứ thần của Chúa hiện ra với ông Dacaria,đứng bên phải hương án (Lc 1, 11). Dacaria bối rối, nỗi sợ hãi ập xuống trên ông (Lc 1,12) và sự việc đã xẩy ra là sứ thần trấn an Dacaria, bảo ông:" Này Ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời Ông cầu xin: bà Êlisabét, vợ Ông sẽ sinh cho Ông một đứa con trai, và Ông phải đặt tên cho con là Gioan (Lc 1, 13) và "Cậu bé này sẽ thành vĩ nhân trước mặt Chúa, và ngay khi còn trong lòng mẹ, Cậu đã đầy ơn Thánh Thần. Nhiều người sẽ được hoan hỷ ngày Cậu ấy chào đời"(Lc 1, 14-15). Tin Mừng của thánh Luca và của thánh Gioan đã cho nhân loại thấy cái lạ lùng của con trẻ Gioan. Đây quả là ơn nhiệm lạ, hồng ân cao quí Chúa ban cho nhân loại vì ngay khi còn trong bụng mẹ, thánh Gioan Tẩy Giả đã nhảy mừng lúc Đấng Cứu Độ trần gian ngự đến. Ngày chào đời, thánh nhân đã đem lại nhiều niềm vui. Thánh Gioan là vị ngôn sứ duy nhất đã chỉ cho nhân loại biết Đấng Cứu Thế là Đức Kitô, là Chiên Thiên Chúa đến cứu độ trần gian. Thánh Gioan và chỉ mình Người đã rửa tội cho Chúa Giêsu trong dòng sông Giorđan và sau cùng chính thánh Gioan Tẩy Giả đã chịu chết để minh chứng cho Đấng Kitô, Đấng cứu độ (Lc 1, 39-79 và xem Kinh tiền tụng lễ thánh Gioan Tẩy Giả).
Thánh Gioan Tẩy Giả đã nói lên điều đó vì Ngài hiểu rõ Ngài hơn ai hết. Ngài phải đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan Tẩy Giả sống đời sống rất khắc khổ: mặc áo lông, đồ ăn là châu chấu và mật ong rừng. Thánh nhân rao giảng sám hối và làm phép rửa. Đám đông dân chúng có nhiều người đã ngộ nhận Ngài là Đấng Mêsia, nhưng Gioan nói:" Tôi, Tôi làm phép rửa anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn Tôi đang đến, Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa (Lc 3, 16).Thánh Gioan đã phủ nhận vai trò Mêsia mà đám đông dân chúng gán cho Ngài vì gương sáng, lòng đạo đức, sự thánh thiện và những công việc Ngài đang làm. Thánh nhân đã gồm tóm cuộc đời của Ngài trong câu nói:" Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại ". Thánh đã sống đích thực con người của mình, Ngài ý thức rằng:"...Người đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi"(Ga 1, 15). Thánh Gioan được coi là vị ngôn sứ cao cả nhất trong dân Israen, đã qui tụ, thu hút được đám đông quần chúng nhân dân mà chưa có vị ngôn sứ nào làm được công việc ấy như Ngài. Tuy nhiên, để hoàn tất sứ mạng ngôn sứ cao cả Thiên Chúa trao phó cho Ngài, thánh Gioan Tẩy Giả đã để cho con người mình tan biến đi, nhỏ lại và mất hút trong kiếp tù đầy, trong cái chết chỉ vì Hêrođê, hứa với con gái:xin gì Ông cũng cho dẫu nửa nước đi nữa và thánh Gioan, vị ngôn sứ đã bị rơi đầu vì ích kỷ, thù hận của một người vợ loạn luân của vua Hêrôđê. Thánh Gioan đã tan biến trong cái chết phi nghĩa, tàn bạo của một ông vua tồi tàn, còn Chúa Giêsu lại lớn lên trong vinh quang, trong mầu nhiệm thập giá của Ngài.
Gương can đảm nói lên sự thật cho dù sự thật kéo theo sinh mạng của Ngài, thánh Gioan đã thật hiên ngang loan báo cái chết của Đức Kitô để cứu độ nhân loại. Nhân loại trong đó có mỗi người chúng ta liệu có nhạy cảm và quảng đại, can đảm làm chứng cho Chúa Kitô hay không? Thánh Gioan đã viết:" Sự thật sẽ giải phóng con người ". Mỗi người chúng ta có để cho Chúa lớn lên trong ta hay chúng ta để cho bóng tối, tội lỗi, ích kỷ xâm lấn đời sống chúng ta? Thập giá có là nguồn sống để chúng ta vươn tiến hay chúng ta tránh né và sợ thập giá? Đẩy lùi những cản trở của hận thù, của ích kỷ, của hờn căm, Chúa mới thực sự lớn lên trong ta.
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gioan tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân Chúa sẵn sàng đón Đức Kitô. Xin rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào con đường cứu độ và bình an (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioan Tẩy Giả).
16. Một con trẻ lạ lùng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Việc lạ lùng của Gioan Tẩy Giả đã được đánh dấu ngay từ lúc cha mẹ của Gioan đặt tên cho ông. Thường dân Do Thái tên của người cha, tên của họ hàng nội phải được đặt tên cho đứa bé mới sinh ra. Ở đây, cái huyền diệu, linh thánh đã xẩy ra ngay lúc cắt bì cho con trẻ. Lúc cắt bì cũng là lúc đặt tên cho đứa bé. Mọi người cứ tưởng lấy tên cha Giacaria đặt tên cho bé, nhưng bà Êlisabét lên tiếng:" Không, phải đặt tên cháu là Gioan " (Lc 1, 60). Đây là cái tên do chính Thiên thần đã báo trước cho Giacaria biết ông và vợ ông sẽ sinh được một cháu trai dù hai ông bà đã luống tuổi, cao niên không thể nào sinh con nếu không có bàn tay Thiên Chúa can thiệp...
Mở đầu Tin Mừng thứ tư, thánh Gioan viết: "Có một người Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng cho ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa"(Ga 1, 6-7). Địa vị và vai trò của Gioan Tẩy Giả rất quan trọng và lớn lao trong hàng ngũ các ngôn sứ của lịch sử dân Chúa. Bởi vì việc mang thai con trong lúc tuổi già củavợ chồng ông Giacaria và Elisabét đã nói lên việc kỳ diệu của Thiên Chúa nơi con trẻ Gioan. Tên con trẻ trong ngôn ngữ Do Thái là "Jehohanan". Chữ này có nghĩa " Thiên Chúa là ân sủng ". Vì con trẻ là hồng ân nhưng không,cao vời Thiên Chúa dành cho Gioan Tẩy Giả, cho toàn dân và cho ông bà Giacaria, nên ai nấy đều bỡ ngỡ (Lc 1, 63). Sau khi đứa trẻ được đặt tên, Giacaria dâng lên Thiên Chúa một lời ngợi khen tuyệt vời, Ông đã dâng con ông cho Thiên Chúa và nói: " Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người,bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên"(Lc 1, 76-77). Tới tuổi trưởng thành, khôn lớn Gioan Tẩy Giả từ giã gia đình đi vào hoang địa, đi vào rừng vắng để ăn chay cầu nguyện, chuẩn bị sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Tin Mừng thuật lại, đời sống của Gioan Tẩy Giả rất khổ hạnh: " Thức ăn của Người là châu chấu và mật ong rừng". Tuy thân xác khổ hạnh, nhưng tinh thần của Người tràn đầy niềm vui. Do đó, Gioan Tẩy Giả quả thực nắm một vai trò rất quan trọng trong lịch sử dân Chúa.
Mình Gioan được đặc ân dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Gioan Tẩy Giả đã trình bầy và giới thiệu Chúa Cứu Thế như là hồng ân cao quí tuyệt vời Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho nhân lọai, cho con người, cho mỗi người chúng ta. Chúa là chiên Thiên Chúa và là Đấng xóa tội gian trần. Tin Mừng viết:" Năm thứ mười lăm dưới triều Hòang Đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philipphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít...có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Giacaria là ông Gioan trong hoang địa...rao giảng,kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội và sửa sọan cho ngày Đấng Cứu Thế tới "(Lc 3, 1-6). Mọi người dân Do Thái tuôn đến để nghe Gioan rao giảng và tin vào Người nhưng Gioan đã vội minh xác:" Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, sẽ có một người đến sau tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giầy Người "(Lc 3, 16). Chính Chúa Giêsu cũng tới xin Gioan làm phép rửa cho mình. Thánh Gioan Tẩy Giả đã nhận ra Chúa Giêsu và chỉ cho các môn đệ của mình biết Đấng Cứu Thế. Thánh nhân đã đề cao vai trò cứu thế của Chúa:" Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại"(Ga 3, 30). Thánh Gioan Tẩy Giả đã thi hành sứ mạng dọn đường rất nghiêm ngặt và công minh. Ngài không sợ thế gian, nên Ngài đã quở trách nặng lời Hêrôđê vì vua đã lấy vợ em mình. Ngài đã bị tống giam vào ngục và bị chém đầu vì một lời hứa khờ dại của vua Hêrôđê.
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gioan Tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân Chúa sẵn sàng đón Đức Kitô. Xin rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào con đường cứu độ và bình an. Người hằng sống và hiển trị muôn đời (Lời nguyện nhập lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả).
17. Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả,
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
“Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa” (Ga 1, 6-7; Lc 1, 17). Hôm nay, Hội Thánh mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế.
TRUYỀN TIN CHO DACARIA LÀ MỘT SỰ LẠ LÙNG:
Thánh Luca thuật lại cuộc truyền tin cho Dacaria trong Luca 1, 5-25 với đầy đủ chi tiết.
Kinh Thánh kể lại rằng ông Dacaria và bà Êlisabét, vợ của ông, sống công chính trước mặt Thiên Chúa, nhưng vợ ông lại son sẻ, vả lại cả hai ông bà đều cao niên (Lc 1, 5-7). Thánh Luca kể tiếp: ”Dacaria là tư tế, đã rút trúng thăm để tế tự cho Thiên Chúa trong đền thờ“ (Lc 1, 8-9). Trong khi Dacaria dâng hương trong đền thờ, dân chúng tất cả đều đứng ở ngoài và cầu nguyện (Lc 1, 10). Sự lạ xẩy ra là có sứ thần của Chúa hiện ra với ông Dacaria, đứng bên phải hương án (Lc 1, 11). Dacaria bối rối, nỗi sợ hãi ập xuống trên ông (Lc 1,12) và sự việc đã xẩy ra là sứ thần trấn an Dacaria, bảo ông: “Này Ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời Ông cầu xin: bà Êlisabét, vợ Ông sẽ sinh cho Ông một đứa con trai, và Ông phải đặt tên cho con là Gioan (Lc 1, 13) và “Cậu bé này sẽ thành vĩ nhân trước mặt Chúa, và ngay khi còn trong lòng mẹ, Cậu đã đầy ơn Thánh Thần. Nhiều người sẽ được hoan hỷ ngày Cậu ấy chào đời” (Lc 1, 14-15). Tin Mừng của thánh Luca và của thánh Gioan đã cho nhân loại thấy cái lạ lùng của con trẻ Gioan. Đây quả là ơn nhiệm lạ, hồng ân cao quí Chúa ban cho nhân loại vì ngay khi còn trong bụng mẹ, thánh Gioan Tẩy Giả đã nhảy mừng lúc Đấng Cứu Độ trần gian ngự đến. Ngày chào đời, thánh nhân đã đem lại nhiều niềm vui. Thánh Gioan là vị ngôn sứ duy nhất đã chỉ cho nhân loại biết Đấng Cứu Thế là Đức Kitô, là Chiên Thiên Chúa đến cứu độ trần gian. Thánh Gioan và chỉ mình Người đã rửa tội cho Chúa Giêsu trong dòng sông Giorđan và sau cùng chính thánh Gioan Tẩy Giả đã chịu chết để minh chứng cho Đấng Kitô, Đấng cứu độ (Lc 1, 39-79 và xem Kinh tiền tụng lễ thánh Gioan Tẩy Giả).
NGÀI PHẢI LỚN LÊN, CÒN TÔI PHẢI NHỎ LẠI:
Thánh Gioan Tẩy Giả đã nói lên điều đó vì Ngài hiểu rõ Ngài hơn ai hết. Ngài phải đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan Tẩy Giả sống đời sống rất khắc khổ: mặc áo lông, đồ ăn là châu chấu và mật ong rừng. Thánh nhân rao giảng sám hối và làm phép rửa. Đám đông dân chúng có nhiều người đã ngộ nhận Ngài là Đấng Mêsia, nhưng Gioan nói: “Tôi, Tôi làm phép rửa anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn Tôi đang đến, Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa (Lc 3, 16).Thánh Gioan đã phủ nhận vai trò Mêsia mà đám đông dân chúng gán cho Ngài vì gương sáng, lòng đạo đức, sự thánh thiện và những công việc Ngài đang làm. Thánh nhân đã gồm tóm cuộc đời của Ngài trong câu nói: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại“. Thánh đã sống đích thực con người của mình, Ngài ý thức rằng: “...Người đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1, 15). Thánh Gioan được coi là vị ngôn sứ cao cả nhất trong dân Israen, đã qui tụ, thu hút được đám đông quần chúng nhân dân mà chưa có vị ngôn sứ nào làm được công việc ấy như Ngài. Tuy nhiên, để hoàn tất sứ mạng ngôn sứ cao cả Thiên Chúa trao phó cho Ngài, thánh Gioan Tẩy Giả đã để cho con người mình tan biến đi, nhỏ lại và mất hút trong kiếp tù đầy, trong cái chết chỉ vì Hêrođê, hứa với con gái: xin gì Ông cũng cho dẫu nửa nước đi nữa và thánh Gioan, vị ngôn sứ đã bị rơi đầu vì ích kỷ, thù hận của một người vợ loạn luân của vua Hêrôđê. Thánh Gioan đã tan biến trong cái chết phi nghĩa, tàn bạo của một ông vua tồi tàn, còn Chúa Giêsu lại lớn lên trong vinh quang, trong mầu nhiệm thập giá của Ngài.
THÁNH GIOAN TẨY GIẢ LÀM GƯƠNG CHO TA:
Gương can đảm nói lên sự thật cho dù sự thật kéo theo sinh mạng của Ngài, thánh Gioan đã thật hiên ngang loan báo cái chết của Đức Kitô để cứu độ nhân loại. Nhân loại trong đó có mỗi người chúng ta liệu có nhạy cảm và quảng đại, can đảm làm chứng cho Chúa Kitô hay không? Thánh Gioan đã viết: “Sự thật sẽ giải phóng con người“. Mỗi người chúng ta có để cho Chúa lớn lên trong ta hay chúng ta để cho bóng tối, tội lỗi, ích kỷ xâm lấn đời sống chúng ta? Thập giá có là nguồn sống để chúng ta vươn tiến hay chúng ta tránh né và sợ thập giá? Đẩy lùi những cản trở của hận thù, của ích kỷ, của hờn căm, Chúa mới thực sự lớn lên trong ta.
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gioan tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân Chúa sẵn sàng đón Đức Kitô. Xin rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào con đường cứu độ và bình an (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioan Tẩy Giả).
18. Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm Đaminh Thiệu)
Ngoại trừ Chúa Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria, chỉ còn có thánh Gioan Tẩy Giả là vị thánh được mừng ngày sinh nhật của mình, ngày sinh ra trong trần thế; các Đấng Thánh khác đều mừng vào ngày sinh nhật trên trời, tức là ngày qua đời. Lễ này đã có từ thế kỷ thứ V và đặt vào ngày 24/6, có nghĩa là 6 tháng trước ngày sinh của Chúa Cứu Thế.
Gioan Tẩy giả là ai?
Thánh Gioan Tẩy Giả là một nhà giảng thuyết người Do-thái. Tin Mừng theo Thánh Lu-ca cho biết, Ngài là con của tư tế Da-ca-ri-a, thuộc nhóm A-vi-a, dòng tộc A-ha-ron, và chào đời tại vùng Judea, Do-thái, chỉ trước Chúa Giêsu chừng sáu tháng (xc. Lc 1,5-36; 1,39-80). Khoảng năm 28 sau Chúa Kitô, Thánh Gioan đã xuất hiện công khai tại Galilea và tại Judea để rao giảng và mời gọi người ta thống hối. Bên cạnh việc rao giảng sám hối, Ngài còn cử hành nghi thức Thanh Tẩy cho tất cả những ai đến với Ngài, bằng cách dìm họ xuống nước. Vì thế, Thánh Nhân được gọi là Gioan Tẩy Giả. Thánh Nhân hoạt động trong cả vùng Do-thái lẫn Palestina, và cũng đã có nhiều người nhận mình là môn sinh của Ngài. Lịch sử tính của Ngài đã được xác nhận bởi sử gia người Do-thái Flavius Josephus.
Các Kitô hữu nguyên thủy đã trình bày Thánh Gioan Tẩy Giả như là vị Ngôn Sứ cuối cùng của Cựu Ước, và là người dọn đường cho Chúa Giêsu Kitô. Vì thế, Ngài cũng còn được gọi là Gioan Tiền Hô, tức vị tiền trạm của Chúa Kitô. Thánh Nhân không chỉ được tôn kính bởi Giáo hội Công giáo, nhưng còn được tôn kính bởi nhiều Giáo hội khác. Người Hồi giáo coi Thánh Gioan Tẩy Giả là một trong ba vị Ngôn Sứ cuối cùng, trước Chúa Giêsu và Mohammmed.
1. Các nguồn tài liệu xưa nhất về Thánh Gioan Tẩy Giả:
Các nguồn tài liệu xưa nhất cung cấp thông tin về Thánh Gioan Tẩy Giả, đó là 4 cuốn Tin Mừng của Tân Ước, sách Công Vụ Tông Đồ của Lu-ca, và chương XVIII 5, 2 trong tác phẩm Antiquitates Judaicae của sử gia người Do-thái Flavius Josephus. Các nguồn tài liệu này trình bày về Thánh Gioan theo những cách thức rất khác biệt, tùy theo quan điểm của mỗi tác giả.
Theo Mc 1,2-15, Thánh Gioan xuất hiện với tư cách là người tiền trạm cũng như là người dọn đường cho Chúa Giêsu.
Theo Mt 3,7 và Lc 3,7-9, Thánh Gioan xuất hiện với tư cách là nhà rao giảng sám hối.
Lc 1,5 – 2,29 đã trình bày một cách song song các biến cố trước hai cuộc sinh nhật của Thánh Gioan Tẩy Giả lẫn của Chúa Giêsu. Cuộc sinh nhật của hai vị đều được công bố bởi một Thiên Thần; và cả hai vị đều được công bố như là những người được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi để giải phóng toàn bộ dân Israel một cách chung cuộc. Nhưng những sự kiện liên quan đến Chúa Giêsu thì được trình bày là trổi vượt hơn hẳn so với những sự kiện liên quan đến Thánh Gioan Tẩy Giả.
Theo Ga 1,7-18.19-36, nói chung Thánh Gioan xuất hiện như là vị chứng nhân đầu tiên và quan trọng nhất của Chúa Giêsu – Ngôi Lời trở thành xác phàm.
Trong tác phẩm của sử gia Flavius Josephus, Thánh Gioan xuất hiện như một mẫu gương về đời sống khổ hạnh. Ông tuân giữ các mệnh lệnh của Kinh Tora dành cho một người Nasir, và là người chỉ cho người Do-thái cách thức thực hành nghi thức Thanh Tẩy.
2. Sinh nhật và thời niên thiếu của Thánh Gioan
Những trình thuật về cuộc sinh nhật và về thời niên thiếu của Thánh Gioan Tẩy Giả được tìm thấy trong chương 1 và chương 2 của Tin Mừng theo thánh Lu-ca không có trọng lượng lớn xét về khía cạnh sử tính. Một số chuyên gia giả định rằng, đó là những truyền thuyết xuất phát từ giới những người tôn sùng Thánh Gioan Tẩy Giả. Những người này muốn đặt tầm quan trọng của Thánh Nhân vào trong những biến cố xung quanh cuộc sinh nhật và thời niên thiếu của Ngài, cũng như muốn minh họa tầm quan trọng của Ngài bằng cách sử dụng các mô-típ của Cựu Ước để tô điểm thêm. Tuy nhiên, đối với một sự tái hiện lịch sử, những bản văn của Thánh Lu-ca vẫ có những giá trị hiển nhiên của chúng, tuyệt nhiên không bị coi là vô bổ. Có lẽ Thánh Gioan xuất thân từ giới tư tế. Theo cách trình bày của Tin Mừng theo Thánh Lu-ca, Ngài là con trai của tư tế Da-ca-ri-a, thuộc nhóm A-vi-a, cũng như là con của bà Elisabeth, thuộc dòng tộc A-ha-rôn (xc. Lc 1,5tt). Vì nhóm A-vi-a là một trong 24 nhóm tư tế không có tầm quan trọng (1 Sbn 24,19tt), nên những gì được công bố về Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca xem ra rất đáng tin cậy. Theo Lc 1,5tt, Thánh Gioan được sinh ra “dưới thời vua Hê-rô-đê, vua Giu-đa“. Vị vua này cai trị dân Do-thái từ năm 38 trước Chúa Kitô cho tới năm thứ 5 trước Chúa Kitô. Trong Lc 1,39, độc giả biết được nơi ở của bà Elisabeth: “Một thành miền núi thuộc chi tộc Giu-đa“. Dựa vào Lc 1,80: “Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Is-ra-el”, nhiều người đã suy đoán về một thời gian cư trú của Gioan lúc còn trẻ tại Qumran. Tuy nhiên, những suy đoán này không thể tự xác nhận về khía cạnh sử tính. Thực ra Lc 1,80 chỉ có ý trình bày Gioan như là một vị Ngôn Sứ đã từng cư ngụ và hoạt động tại sa mạc trong một thời gian trước khi Ngài được kêu gọi thực thi sứ vụ.
3. Thời gian và nơi hoạt động
Theo cách trình bày của Tin Mừng Lu-ca, hoạt động công khai của thánh Gioan bắt đầu vào “năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô“ (Lc 3,1tt), tức vào khoảng từ năm 26 tới năm 29 sau Chúa Kitô. Còn về nơi hoạt động của Thánh Gioan thì có nhiều công bố khác nhau. Theo Mc 1,3-5 thì Gioan hoạt động tại sa mạc Jordan. Nhưng theo Mt 3,1 thì Gioan lại hoạt động tại sa mạc Judea. Còn theo Ga 1,28 và 10,40, thì Gioan hoạt động tại Bê-ta-ni-a, phía bên kia sông Gio-đan; hay theo Ga 3,23 thì Gioan lại hoạt động tại Ê-nôm, gần Sa-lêm. Có lẽ lý chứng cho rằng, Gioan hoạt động ở phía Đông bờ sông Gio-đan là có lý hơn cả, vì Hê-rô-đê An-ti-pas – người đã ra lệnh tống giam Gioan vì bị Ngài chỉ trích cách dữ dội về lối sống – chỉ có quyền trên khu vực đó (xc. Mc 6,17–29; Jos Ant XVIII 5,2); truyền thống Cựu Ước xem ra cũng có vẻ ủng hộ việc Gioan hoạt động tại bờ Đông sông Gio-đan (xc. Gs 3 và 4; 2 V 2,1–18). Chỉ nhiều thế kỷ sau, nơi làm Phép Rửa của Gioan mới được xác định là thuộc bờ Tây sông Gio-đan; bằng chứng sớm nhất của truyền thống cho rằng, Gioan hoạt động tại bờ Tây sông Gio-đan, chính là bức tranh khảm nổi tiếng của Madaba (tk 6), nó được coi là bức bản đồ cổ nhất của Palestina.
4. Hoạt động công khai và bị hành quyết
a. Hoạt động công khai
Khoảng từ năm 26 tới năm 30 sau Chúa Kitô, Thánh Gioan Tẩy Giả đã bắt đầu những hoạt động công khai của mình. Khu vực hoạt động chính của Ngài là vùng Pê-rê hồi đó, tức bờ bên kia sông Gio-đan, nằm đối diện với Giê-ri-cô. Ngài thực hiện một cuộc sống đề cao sự khổ hạnh. Theo Mc 1,6tt, Thánh Gioan chỉ sống bằng châu chấu và mật ong rừng; còn theo Mt 11,18 thì Thánh Nhân không ăn và cũng chẳng uống gì cả. Thánh Nhân giảng dậy theo phong cách của các Ngôn Sứ Cựu Ước, và làm Phép Rửa. Trong các bài giảng của mình, Thánh Nhân kêu gọi người ta sám hối, và công bố cho mọi người biết rằng, Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần, cũng như công bố “một Đấng Quyền Thế hơn“ sẽ đến để thực hiện cuộc phán xét cuối cùng (xc. Mt 3,1-12< Lc 3,4-17). Vì thế, trong Kitô giới, Ngài được coi là người dọn đường trực tiếp cho cuộc xuất hiện của Đấng Messias, và được ví như Ngôn Sứ Ê-li-a.
Những người đến với Gioan Tẩy Giả khá đông, trong đó cũng có cả Chúa Giêsu thành Nazareth. Chính Ngài đã để cho ông thực hiện Phép Rửa cho mình (Mt 3,13-15). Với sứ điệp về ngày phán xét do các Ngài loan báo, cả Chúa Giêsu lẫn Gioan tẩy Giả đều thuộc về truyền thống Ngôn Sứ của Israel, và đứng ngoài các nhóm Do-thái khác trong thời các Ngài. Những nhóm đó không nhìn nhận Phép Rửa. Có vẻ như chính Chúa Giêsu, sau khi được Gioan làm Phép Rửa cho, cũng thực hiện nghi thức này cho những người khác với sự tán thành của Gioan (xc. Ga 3,25-36). Trong các câu chuyện sau này, người ta lại thấy các môn đệ của Gioan dưới danh xưng Man-đê. Một phần trong số các môn đệ của Thánh Gioan đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu sau khi Thánh Nhân bị giết (xc. Cv 19,1-7).
Một số người lính Do-thái phục vụ trong triều đình vua Hê-rô-đê đã đến với Thánh Gioan và hỏi Ngài rằng: Chúng tôi phải làm gì? Thánh Nhân trả lời: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình“ (Lc 3,14). Nhiều trong số những người lính này đã trở thành môn đệ của Thánh Gioan.
b. Hê-rô-đê Antipas và Aretas
Vua Hê-rô-đê Antipas đã kết hôn với bà Phasaelis, công chúa của vua Aretas, nước Nabate. Sau này ông còn kết hôn với bà Herodias, vợ của Herode Boethos, tức người anh cùng cha khác mẹ với ông, mà Tân Ước gọi là “Philippus“ (có lẽ là một biệt danh). Theo sử gia Flavius Josephus thuật lại trong Jud. Alt. XVIII,5,1-2, thì Hê-rô-đê Antipas đã có nhiều căng thẳng với bà vợ đầu của mình, tức bà Phasaelis. Vì thế bà này đã dời nơi ở tới Machaerus, tức một pháo đài biên phòng của Antipas tại Biển Chết. Và từ đó, bà trốn về nhà thân phụ của mình. Mối tương quan giữa Hê-rô-đê Antipas và Aretas đã sẵn bị ảnh hưởng xấu bởi những tranh chấp về lãnh thổ, nên cuộc hôn nhân của Hê-rô-đê với Herodias càng gây thêm tổn thương cho Aretas. Và vì thế, một cuộc xung đột vũ trang đã không thể tránh khỏi.
c. Thánh Gioan bị bắt giam
Theo các sách Tin Mừng, Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị tống ngục chỉ một thời gian ngắn sau khi Ngài đã làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu, có nghĩa là sau khi Chúa Giêsu bắt đầu hoạt động công khai (Mt 4,12; Mc 1,14; Lc 3,19-20). Sở dĩ Ngài bị tống ngục, là vì – theo các sách Tin Mừng – Ngài đã chỉ trích Hê-rô-đê Antipas về việc đã cưới người vợ của anh trai ông ta (xc. Mt 14,4; Lc 3,19). Nhưng theo sử gia Flavius Josephus thì nguyên nhân nằm ở chỗ là, Hê-rô-đê lo sợ trước “uy tín của người mà lời khuyên của người ấy có vẻ như rất được nhiều người nghe theo, nên có thể vì ông ta mà dân chúng sẽ thực hiện một cuộc nổi dậy“ (Ant. Jud. 18,5,2). Hê-rô-đê đã nhốt Thánh Gioan Tẩy Giả trong pháo đài Machaerus nằm bên bờ Biển Chết. Sau một thời gian tù đầy lâu dài, Thánh Gioan đã bị Hê-rô-đê hành quyết trong lúc Chúa Giêsu còn sinh thời (xc. Mt 14,6-12; Mc 6,21-29). Nhiều sử gia cho rằng, Thánh Gioan đã bị nhốt tù vào khoảng những năm từ 28 tới 31 sau Chúa Kitô, và bị hành quyết vào khoảng những năm từ 28 tới 32. Giống như các tác giả Tin Mừng, sử gia Flavius Josephus kể lại rằng, Hê-rô-đê Antipas đã ly dị vợ của mình để cưới người vợ của anh trai ông ta, nhưng người vợ bị ly dị đã trốn về được với thân phụ mình, tức vua Aretas của Nabate. Vì sự nhục nhã của con gái mình, và cũng vì đang có sẵn những tranh chấp về lãnh thổ, nên Aretas đã phát động một cuộc chiến để chống lại Hê-rô-đê sau khi thủ hiến Philippus qua đời (vào khoảng năm 33 hoặc 34 sau Chúa Kitô). Trong cuộc chiến này, quân đội của Hê-rô-đê đã bị thua trận, và người Do-thái coi cuộc thua trận này là một hình phạt của Thiên Chúa giáng trên Hê-rô-đê vì đã dám hành quyết Gioan Tẩy Giả. Như vậy, lý do Thánh Gioan bị tống ngục và bị chém đầu vì dám chỉ trích vua Hê-rô-đê về lối sống vô luân của ông ta, như các sách Tin Mừng đưa ra, xem ra có vẻ hợp lý hơn.
d. Thánh Gioan bị hành quyết
Theo Mc 6,17-29 và Mt 14,3-12, sở dĩ Thánh Gioan đã bị chém đầu là vì cô con gái của Herodias – vợ vua Hê-rô-đê – muốn có được cái đầu của Ngài như là phần thưởng do cô đã trình diễn một điệu nhảy khiến cả vua Hê-rô-đê lẫn toàn bộ triều đình lấy làm mãn nhãn. Cô ta đã được đáp ứng ngay lập tức, vì trước đó, vua Hê-rô-đê đã thề nguyền trước bá quan văn võ rằng, sẽ tặng cho cô bất cứ điều gì cô muốn, dù là một nửa quốc gia. Các sách Tin Mừng không nhắc tới tên của cô gái nhảy này, nhưng sử gia Flavius Josephus cho biết, cô ta có tên là Salome (Jud. Alt. XVIII 5,4), nhưng ông lại không cho biết, Thánh Gioan đã bị hành quyết vào dịp cụ thể nào. Về phía mình, dù cho biết Thánh Gioan bị trảm quyết vào dịp nào, nhưng các sách Tin Mừng đã không nhắc tới địa điểm Thánh Nhân bị trảm quyết, mà chỉ nói một cách chung chung rằng, viên thị vệ đã đi vào ngục và chặt đầu Ngài ở đó. Còn theo Josephus, cuộc hành quyết đã diễn ra tại pháo đài Machaerus nằm bên bờ Biển Chết. Đó là pháo đài biên phòng nằm tại biên giới giữa lãnh thổ của Antipas và lãnh thổ Aretas (Jud. Alt. XVIII 5,2). Các sách Tin Mừng cho biết rằng, cuộc hành quyết Thánh Gioan Tẩy Giả đã diễn ra nhân dịp mừng sinh nhật của vua Hê-rô-đê Antipas, vào khoảng năm 28/29 hoặc năm 31/32. Tuy nhiên, ngày sinh nhật của ông ta là ngày nào thì cho tới tận ngày nay, cũng vẫn chưa ai biết. Giáo hội cử hành Lễ Kính Nhớ “Cuộc trảm quyết của Thánh Gioan Tẩy Giả“ vào ngày 29 tháng 08. Tuy nhiên, không rõ ngày này nên tương ứng với ngày chết có tính lịch sử của Thánh Gioan Tẩy Giả hay tương ứng với ngày cung hiến Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Tẩy Giả theo lối kiến trúc Byzantin tại Samaria, mà trong ngôi Thánh Đường này được cho là có ngôi mộ của Thánh Nhân.
5. Việc tôn kính Thánh Gioan Tẩy Giả
Thánh Gioan Tẩy Giả được coi là một trong những vị Thánh có tầm quan trọng nhất trong cả Giáo hội Công giáo lẫn Chính Thống giáo. Ngài cũng được coi là vị Ngôn Sứ cuối cùng cũng như là vị Ngôn Sứ lớn nhất của Cựu Ước. Bên cạnh đó, Ngài còn được coi là người dọn đường cho Chúa Giêsu và là mẫu gương của những người sống đời khổ hạnh. Mỗi khi Mùa Vọng đến, hình ảnh Thánh Nhân lại được làm nổi bật một cách đặc biệt bởi các bản văn Phụng Vụ.
6. Đại Lễ kính Thánh Gioan Tẩy Giả
Đại Lễ mừng Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả được cử hành vào ngày 24 tháng 06. Đây là Đại Lễ được cử hành trong hầu hết các Giáo hội Kitô, chứ không phải chỉ riêng Giáo hội Công giáo. Ngoài Chúa Giêsu và Đức Mẹ ra, Thánh Gioan là vị Thánh duy nhất được Giáo hội Công giáo cử hành ngày Sinh Nhật với bậc Lễ Trọng. Sở dĩ Giáo hội mừng Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan vào ngày 24 tháng 06, là vì, Lễ Sinh Nhật của Chúa Giêsu được cử hành vào ngày 25 tháng 12, mà theo Tin Mừng Lu-ca, Thánh Nhân lớn tuổi hơn Chúa Giêsu đúng sáu tháng.
Ngày kính Thánh Gioan bị trảm quyết cũng nằm trong lịch cố định của hầu hết các Giáo hội Kitô. Nhưng ngày Lễ này có tầm quan trọng ít hơn so với ngày Lễ Sinh Nhật của Ngài. Giáo hội Công giáo cử hành Lễ Kính Nhớ cuộc trảm quyết của Thánh Gioan Tẩy Giả ở bậc Lễ Nhớ buộc vào ngày 29 tháng 08.
19. Lễ Sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Antôn Lương Văn Liêm)
Tháng sáu, tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động, Giáo Hội đã chọn ngày 24/6 hằng năm, để mừng kính một trong những biến cố quan trọng trong công cuộc cứu độ nhân loại của Thiên Chúa. Đó là lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Thánh Nhân đã được Thiên Chúa sắp đặt sinh ra trước Chúa Giêsu 6 tháng để trở thành người dọn đường và giới thiệu cho dân Do Thái hình ảnh và vai trò của Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Quả thật, trong muôn vàn vị thánh được Giáo Hội tôn phong, mừng kính theo niên lịch phụng vụ. Như ta đã biết, ngoại trừ Đức Kitô và Mẹ Maria, chưa có thánh nhân nào có lễ mừng sinh nhật như thánh Gioan Tẩy Giả. Vì sao thế? Xin thưa rằng:
Thứ 1: Sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại, được khởi đi từ chương trình và LTX vô biên của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ nhân loại của Ngài. Sau khi ông Adong và bà Eva nghe lời dụ dỗ đường mật của con rắn, hiện thân của quyền lực sự dữ lỗi nghịch cùng Thiên Chúa, từ sự lỗi nghịch ông Adong và bà Eva đã đánh mất đi mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa, đánh mất sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc đích thực. Thiên Chúa là đấng từ tâm, nhân hậu, Ngài không bỏ mặc con người do chính Ngài tác dựng, qua lời Ngài đã phán với con rắn: “ Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và giòng giống người ấy” (St.3,16). Thánh Gioan Tẩy Giả, một trong những thành viên sáng giá nhất, thuộc dòng giống người đàn bà là Đức Trinh Nữ Maria.
Thứ 2: Gia đình ông Dacaria và bà Êlisabét luôn sống trong sự tủi hổ với người cùng thời. Vì tuy đã cao niên, nhưng hai ông bà không có lấy một mụn con để “nối dõi tông đường”. Hai ông bà đã chuyên chăm cầu nguyện và luôn tín thác tuyệt đối vào tình thương của Thiên Chúa. Vì thế, sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình ông Dacaria và bà Êlisabét, là niềm vui cho hai ông bà trong lúc tuổi già, và cho toàn nhân loại như lời truyền tin của Sứ Thần: “ Bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời” (Lc.1,13-14). Là dấu chỉ Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương và lắng nghe lời cầu nguyện, như lời bộc bạch của bà Êlisabét: “ Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi khổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Lc.1,25). Đây là bài học quý giá cho nhân loại nói chung và cho người Kitô hữu nói riêng, trong đời sống cầu nguyện, đời sống tín thác vào tình thương của Thiên Chúa.
Thứ 3: Sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại, ứng với lời tiên báo của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia về thánh Nhân: “Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây, hỡi các dân tộc miền xa xăm hãy chú ý: Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi …” (Is. 49,1), và qua lời tiên tri của chính phụ thân ngài: “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết, Người sẽ cứu độ và tha cho họ hết mọi tội khiên” (Lc.1, 76-77). Đây là dấu chỉ Thiên Chúa quan phòng, hoạch định chương trình cho mỗi cá nhân con người theo Thánh Ý của Ngài.
Thứ 4: Sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại. Thiên Chúa dần tỏ lộ cho nhân loại mầu nhiệm “Chúa Ba Ngôi” và mầu nhiệm “Nhập Thể và nhập Thế” của Đức Kitô qua bài ca “Chúc Tụng” (Benedittus) của phụ thân ngài là ông Dacaria: “Bấy giờ, người cha của em, tức là ông Dacaria, được đầy Thánh Thần liền nói tiên tri rằng: Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ítraen đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần vua Đavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta…Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta…” (Lc.1,67-79).
Thứ 5: Sự hiện diện và đời sống khởi đầu của thánh Gioan Tẩy Giả như trình thuật của Tin Mừng của thánh sử Luca: “Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ítraen” (Lc.1,80). Đây là hành trang giúp cho thánh Nhân chu toàn sứ vụ mà Thiên Chúa đã chọn và mời gọi trong đời sống chứng nhân, đời sống dọn đường, mở lối cho Đấng Cứu Thế. Đời sống của thánh Nhân đã được chính Đức Kitô giới thiệu: “Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em xem gì? Một người mặc gấm vóc lục là ư?.... Thế thì anh em xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này ta sẽ sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho con đến” (Mt.11,7-10).
Trong ngày cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ Sinh Nhật Thánh Gioa Tẩy Giả. Ta cùng hiệp lòng dâng lời cảm tạ, tri ân Thiên Chúa đã yêu thương mời gọi con người nhân loại cộng tác vào công cuộc sáng tạo và cứu độ của Ngài. Với truyền thống “ uống nước nhớ nguồn ”, ta tri ân thánh Dacaria và Êlisabét, các ngài đã hiến dâng cho Thiên Chúa người con duy nhất, niềm vui duy nhất, để chương trình của Thiên Chúa được thành sự. Đặc biệt, ta tri ân Thánh Gioan Tẩy Giả đã hy sinh và dành trọn cuộc đời trai trẻ của mình cho Thiên Chúa trong sứ vụ giới thiệu Chúa cho mọi người, hiến thân bảo vệ “luân thường, đạo lý”, bảo vệ sự thật, chấp nhận gian khó, hiểm nguy, không chùng bước trước những áp đặt của quyền lực sự dữ…. Ta cũng xin Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Thánh Nhân giúp ta:
- Giữa một thời đại đầy những cạm bẫy, cám dỗ; đầy những lạc thuyết chống đối Thiên Chúa và Giáo Hội; đầy những thử thách, lo âu, buồn phiền do bệnh tật, đói nghèo, nợ nần, thất nghiệp, bất hòa, chia rẽ… Ta luôn biết noi gương song thân của thánh Gioan Tẩy Giả trong đời sống cầu nguyện, để nhờ ơn Chúa giúp, ta có sức mạnh lướt thắng và vượt qua.
- Là những bậc làm cha, làm mẹ. Ta biết noi gương song thân của Thánh Gioan Tẩy Giả trong nhiệm vụ hướng dẫn, giáo dục con cái theo đường lối của Thiên Chúa và Giáo Hội, hy sinh và hướng ý cho con cái hiến thân phụng sự Chúa, phục vụ Giáo Hội và tha nhân. Đặc biệt luôn quan tâm và nhắc nhở con cái biết dùng thời sức khỏe, tài trí cộng tác vào những hoạt động, sinh hoạt của cộng đoàn, giáo xứ và Gióa Hội.
- Trong hoàn cảnh luôn khát khao, ước mong, chờ đợi hoa trái của tình yêu đôi lứa là những đứa con để trở thành cầu nối, để “ nối dõi tông đường”. Ta biết noi gương bà thánh Êlisabét luôn tín thác vào Chúa trong đời sống kiên nhẫn cầu nguyện.
- Ta đang sống trong một xã hội ồn ào, náo động, giữa một xã hội luôn chạy theo chủ nghĩa“ hưởng thụ, hiện sinh và vô thần”. Ta biết noi gương thánh Gioan Tẩy Giả lui vào hoang địa trong chay tịnh và cầu nguyện. Để trong cõi thinh lặng, gặp được Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, bình an và hạnh phúc. Nhất là ta nhận ra được lời mời gọi của Thiên Chúa.
- Hiện nay rất nhiều người chưa nhận biết, khước từ và chối bỏ Thiên Chúa. Ta biết noi gương Thánh Gioan Tẩy Giả hy sinh, hiến thân, để trở thành những ngôn sứ, chứng nhân giới thiệu Chúa cho mọi người qua đời sống thường nhật bằng yêu thương, tha thứ, cảm thông và sẻ chia…
- Giữa một xã hội luôn nói sai sự thật, sống sai sự thật, khước từ và bưng bít sự thật, từ trong chính mái ấm gia đình trở đi. Ta noi gương Thánh Gioan Tẩy Giả luôn sống và nói sự thật, mạnh dạn là chứng cho sự thật…
- Giữa một thời đại đạo đức, nhân bản bị xem thường, tệ nạn xã hội lan tràn, đưa đến việc tước đoạt mạng sống của nhau một cách dã man, nạn phá thai lan tràn, nhiều người coi việc phá thai là mối lợi, là sự tự do, là thành tích, để cân bằng dân số…Qua sự hiện diện của Thánh Gioa Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại. Ta nhận thức và ý thức sự sống là do Thiên Chúa an bài sắp đặt, là quà tặng vô giá mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại. Từ đó ta mạnh dạn lên tiếng, hành động một cách cụ thể, để bảo vệ sự sống của con người, nhất là các thai nhi.
Lời Nguyện:
Lạy Chúa! Trong ngày mừng lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, con cảm tạ Chúa, vì Chúa đã yêu thương, an bài và sắp đặt ngài như một quà tặng và là tấm gương cho con và mọi người. Nhờ lời chuyển cầu của thánh Nhân, xin Chúa ban cho các chị em đang khao khát được làm mẹ được thỏa lòng ước mong, xin cho các cháu bé đã và sắp sinh ra được tràn đầy sức mạnh và tình yêu của Chúa. Xin Chúa cho con biết noi gương Thánh Nhân luôn hy sinh, khiêm nhường và hăng say trong sứ vụ loan báo tin Mừng mà Chúa đã yêu thương ban tặng và mời gọi. Amen.
20. Hãy trở nên lời chứng như Gioan
(Suy niệm của Huệ Minh)
Mỗi người chúng ta có cảm nghiệm khi gia đình, người thân của chúng ta có một trẻ thơ chào đời. Tiếng khóc oe oe của trẻ bao giờ cũng đem lại niềm vui lớn nhất định cho những ai có liên quan, dù đôi khi có thể niềm vui chen lẫn nỗi xót xa.
Được sinh ra, được cất tiếng khóc chào đời phải chăng đó là ân huệ lớn lao, và con người chào đón, nhận lãnh ân huệ này với tất cả sự trân trọng, nâng niu và lòng biết ơn. Chính vì lẽ đó, để kỷ niệm ngày sinh của mình, người thời nay thường thiết tiệc. Những bữa tiệc to có, nhỏ có, đơn sơ có, long trọng đình đám có... với mục đích ghi dấu ngày hồng phúc mình được hiện diện trong trần gian, được cái phúc làm người và với người Kitô hữu là được làm con Chúa.
Hôm nay, hết sức đặc biệt, Giáo hội mừng kính Trọng thể lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Ta có thể nói đây là một lễ của lòng từ bi thương xót chính là vì cuộc chào đời của Gioan loan báo cuộc chào đời của Đấng Mêsia, Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, được sai phái đền trần gian để cứu chuộc con người sa đọa từ tội nguyên tổ!
Qua Trang Tin mừng hôm nay, ta cảm nhận được niềm vui lớn lao của gia đình Giacaria và láng giềng thân thích (c.58) – Bởi vì không những một trẻ thơ đã sinh ra cho một gia đình hiếm muộn mà còn vì có biết bao sự kiện lạ lùng đã xảy ra được đồn đại trong sự hạ sinh này. Và “Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? "Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.” (c.66).
Được sinh ra trong một gia đình danh giá, nhưng ta đã biết, Gioan không ham sống trong nhung gấm lụa là mà từ rất sớm “ngài đã chọn hoang địa làm nơi dung thân cho tới ngày ra mắt toàn dân Israel” (c.80) để dọn đường cho Đấng Cứu Thế - Đức Giêsu Kitô.
Vị thế cao trọng của thánh Gioan, một địa vị then chốt trong lịch sử cứu chuộc, được nhận thấy qua tường thuật của thánh Luca về sự sinh hạ và các biến cố sau đó của thánh Gioan. Cả hai yếu tố này đều xảy ra song song với cuộc đời của Đức Giêsu. Thánh Gioan thu hút được rất nhiều người đến bờ sông Giođan, và một số người đã coi ngài như Đấng Thiên Sai, nhưng ngài luôn luôn chỉ đến Đức Giêsu, ngay cả một số môn đệ của ngài cũng được sai đến để trở thành các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu.
Như Gioan, mỗi người trong chúng ta được sinh ra cũng có một sứ mạng. Sứ mạng đó được Thiên Chúa chuẩn bị cho chúng ta qua những khả năng được phú bẩm và biết bao ân huệ. Sứ mạng đó được hoàn thành, kiện toàn nhờ biết bao những nâng niu, chăm sóc, vun đắp, xây dựng và yêu thương – Đó là sứ mạng dọn đường cho Đức Kitô ngự trị trong lòng con người, sứ mạng xây dựng nước Chúa – cho Vương Quốc của Cha được hiển trị, qua việc xây dựng làm cho thế giới ngày càng thêm đẹp, vũ trụ ngày càng thêm xinh, tình người mỗi ngày lan tỏa, con người ngày thêm hạnh phúc…
Gioan đã được sinh ra là con người bình thường như chúng ta. Nhưng “cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh” – Tinh thần vững mạnh bởi Gioan đã được hưởng một nền giáo dục chân chính trong một gia đình biết kính sợ Thiên Chúa, biết lấy “Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118) được chứng minh qua thân thế cũng như qua bài ca “chúc tụng” của Giacaria. Nhờ đó, Gioan đã hoàn thành sứ vụ là “tiếng hô trong sa mạc mời gọi con người dọn đường cho Đấng Cứu Thế.”
Và vì vậy, trong sứ vụ cộng tác với Đấng Cứu Thế để cứu độ trần gian, gia đình Kitô hữu phải là chiếc nôi, là môi trường cho con cái được lớn lên bằng đời sống yêu mến, kính sợ, tôn thờ Thiên Chúa và tâm tình yêu thương, hiếu thảo, kính trên nhường dưới chan hòa với mọi người; mỗi Kitô hữu cần được dưỡng nuôi bằng Lời Chúa, bằng ân sủng của ngài qua các bí tích và đời sống Giáo hội; ngoài ra họ còn cần được huấn luyện giáo dục để phát triển những khả năng, năng khiếu phú bẩm để trở thành những con người hữu ích, có khả năng phục vụ và làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp theo ý Thiên Chúa. Có như thế thì việc mừng sinh nhật của chúng ta mới thật ý nghĩa, vì con người đã được sinh ra ấy thực sự đã là quà tặng cho mỗi người trong cuộc sống.
Cuộc chào đời của Gioan đầy những chuyện lạ lùng bao quanh: sứ thần Gabriel loan báo cho ông Dacaria; bà Êlisabét gặp Đức Maria là cơ hội để cho thai nhi nhảy mừng. Và Gioan ra đời đã sống xứng đáng với các phép lạ đó. Nghĩ đến cuộc sống mình, chúng ta hẳn cũng thấy đời của mình đầy ắp phép lạ, hay là cả cuộc đời mình là một phép lạ kéo dài, bởi vì chúng ta cũng là những tiền hô của Đấng cứu thế. Chúng ta đang sống thế nào?
Mừng sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, mỗi người chúng ta cũng sống tâm tình cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương mời gọi chúng ta vào cuộc sống này, để cùng chung chia trách nhiệm dựng xây thế giới con người tươi đẹp. Chúng ta cũng xét lại thái độ sống của mình đối với sứ mạng Chúa trao để sống tích cực hơn trong sứ mạng ấy, hầu sau này xứng đáng được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng với Thiên Chúa.
Xin cho mỗi người chúng ta biết noi gương Thánh Gioan Tẩy Giả. Xin cho mỗi người chúng ta biết và sống sao trở nên chứng nhân của Lời, sẵn sàng đón nhận mọi gian nan thử thách cho Lời được tỏa sáng trong thế giới hôm nay và ngự trị mãi trong tâm hồn con người.
21. Lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Pt. Phêrô Đặng Phi Hùng)
Từ thế kỷ thứ 4 cả hai giáo hội Đông phương lẫn La tinh đều mừng lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả một cách trọng thể vào 6 tháng trước Lễ Chúa Giêsu Giáng Sinh. Gioan Tẩy Giả còn được gọi Gioan Tiền Hô hay Loan Tin (Forerunner/Herald), người đi trước dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Trong Giáo hội Công giáo, ngày lễ kính một vị thánh là ngày từ trần của vị ấy, quen gọi là "ngày tái sinh trên trời." Nhưng chỉ có Thánh Gioan Tẩy Giả được biệt kính vào cả ngày sinh nhật lẫn ngày lìa đời, vào Chúa nhật như Chúa nhật tuần nầy vì cuộc đời Thánh Gioan gắn liền với cuộc đời Ngôi Hai Thiên Chúa: Gioan loan tin nhưng Chúa Giêsu là thông điệp; Gioan là tiếng kêu mà Chúa Giesu là Sự Thật; Gioan nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa nhưng Chúa Giesu làm hoàn hảo lời hứa đó; Gioan rao giảng thống hối nhưng Chúa Giesu mang lại sự thứ tha; Gioan kêu gọi công bình và hoán cải nhưng Chúa Giêsu ban ân sủng tăng sức mạnh cho thay đổi và lớn lên; Gioan dọn đường nhưng Chúa Giesu chính là Đường.
Cuộc đời của Thánh Gioan và Chúa Giêsu rất lạ thường: Sự thụ thai của hai con trẻ được báo trước bởi cùng một Thiên Thần Gabriel; Cả hai được sinh ra bởi hai người nữ đáng lẽ không thể có con: bà Elizabeth tuổi đã già trong khi Đức Mẹ khấn trọn đời đồng trinh, không biết đến người nam; Cả hai con trẻ được đặt tên và trao nhiệm vụ từ lúc còn trong lòng mẹ: Gioan/Đấng Tiền Hô và Giêsu/Đấng Cứu Thế (Lk. 1:5 & 1:26); Cuối đời Thánh Gioan chịu chết vì đức tin và nhiệm vụ của Ông trước khi Chúa Giesu chịu chết vì tội nhân loại chúng ta trên Thánh Giá;
Chúa Giêsu cần Gioan loan báo trước khi đến như Thánh Gioan cần cha là Zachariah khỏi câm để xác nhận tên và nhiệm vụ Chúa giao phó cho mình (Lk. 1:64); Đức Mẹ cần thăm viếng bà Elizabeth để hài nhi Gioan giới thiệu hài nhi Giesu trong cung lòng các bà mẹ được chúc phúc.
Cuộc đời tiền hô và làm chứng của T. Gioan được tóm gọn lại trong 3 điểm:
1) Một Ngôn sứ đã làm phép rửa, rao giảng và giới thiệu Chúa Kitô đến với mọi người.
Sau khi xong nhiệm vụ giới thiệu, Ông tránh sang một bên để Chúa trực tiếp liên hệ với người ta.
2) Khiêm nhường nhưng cương quyết:
theo Phúc âm thuật lại sau khi làm phép rửa cho Chúa Giesu tại sông Jordan, chính mắt Ông đã thấy Chúa Thánh Thần với hình chim bồ câu đậu trên đầu Chúa Con và nghe trên trời có tiếng phán: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài." (Mk. 1:9) Ông giới thiệu đến toàn dân: "Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian....Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Ngài." (Jn. 1:15) Lần kia khi đứng với hai môn đệ thì bắt gặp Chúa Giesu đi qua, Ông chỉ cho môn đệ: "Đây chính là Đấng Messiah-Thiên sai." Sau đó hai môn đệ đã bỏ Ông và theo làm môn đệ Chúa Giesu (Jn. 1:35). Lần khác Ông tuyên bố: "Chúa Kitô phải được nâng lên, còn tôi phải hạ xuống." (Jn. 3:30) Ông cương quyết nhất định không nhượng bộ hành động trái luân lý và luật Chúa của vua Hêrođê dù việc đó dẫn đến cái chết (Lk. 3:19).
3) Tính cách nhân bản rất người của Gioan:
Sinh ra bởi một cặp vợ chồng rất già là một sự lạ; Cha bị câm suốt thời gian mẹ mang thai cũng lạ; Nhảy mừng trong lòng khi được hài nhi Giesu trong cung lòng Đức Mẹ tới thăm càng lạ hơn; Lớn lên được tràn đầy Chúa Thánh Thần khi chứng kiến biến cố rửa tội ở sông Jordan với Chúa Ba Ngôi, thế nhưng không vì thế mà Gioan không có những thao thức, trăn trở về đức tin, về tâm linh theo Thánh ý Chúa. Một hôm lúc đang bị giam trong tù chỉ vì dám nói lên sự thật đã chỉ trích Vua Herode cướp vợ của anh mình, sống với chị dâu tên Herodia, Gioan đã phái môn đệ đến hỏi Chúa Giesu: "Thưa Thầy, Thầy chúng tôi muốn biết Thầy có phải là Đức Kitô Đấng đến để cứu nhân loại hay chúng tôi còn phải chờ một Đấng nào khác?" Chúa Giesu đáp: "Yes! Hãy về nói cho Gioan biết những điều mà các con thấy: người mù được thấy, người què được đi, người cùi được sạch, người điếc nghe được, người chết trỗi dậy, người nghèo được nghe tin mừng..." (Lk. 7:19)
Suy nghĩ về cuộc đời Thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta tìm được 3 ý niệm để cùng nhau suy nghĩ trong những ngày tới:
1/ Sau khi được rửa tội, mỗi chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa Kitô, phải nói sự thật và cương quyết sống sự thật, cho dù điều đó đôi khi làm chúng ta thiệt thòi, đau khổ hoặc dẫn đến cái chết như Gioan. Thánh Gioan chỉ vì nói lên sự thật, cố gắng giúp đỡ cho vua Hêrôđê tốt hơn, nhưng hậu quả dẫn đến cái chết tức tưởi trong tù vì bị bà Herodia chị dâu sống bất hợp pháp với Herođe hãm hại.
2/ Là Kitô hữu chúng ta phải sống khiêm nhường: "Chúa phải lớn lên trong ta và cái tôi trong ta phải hạ xuống." Sau khi giới thiệu Chúa cho người ta rồi thì đừng có nhận làm "tổng đại lý" của Chúa mà hỏng việc Chúa! Bổn phận chúng ta gieo còn Chúa cho ai gặt tuỳ Chúa, đừng thắc mắc, cũng đừng kể công mà mất phúc.
3/ Trong đời sống đức tin đôi lúc chúng ta có thể đặt câu hỏi nhưng đừng ngã lòng mất lòng trông cậy nơi Chúa. Phó thác không có nghĩa là gặp cái gì cũng tin, hoặc gặp cái gì cũng đòi phải được chứng minh. Đức tin và Đời sống người Kitô hữu là một bí nhiệm mà chỉ có Tình thương và lòng trông cậy vào Lời Chúa như Thánh Gioan Tẩy Giả mới giải đáp được.
Xin Thánh Gioan Tiền Hô giúp Kitô Hữu chúng con dám can đảm Tin và cương quyết Làm Chứng cho Chúa cho dù nơi trần thế chúng con chưa thấy được Chúa tỏ tường. Amen.
22. Lễ Sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn)
Trong niên lịch Phụng vụ, nếu không nói đến ngày lễ Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, thì chỉ có hai đấng được nhắc đến ngày sinh của mình: một là Mẹ Maria, được mừng sinh nhật vào ngày 8/9, và người thứ hai là thánh Gioan Tiền Hô được toàn thể Giáo Hội mừng trọng thể ngày sinh nhật của ngài vào ngày hôm nay.
Tuy nhiên, không phải chỉ có Mẹ Maria và thánh Gioan mới có ngày sinh nhật, nhưng tất cả mỗi người trong chúng ta đây, ai cũng có một ngày sinh. Chúng ta đã được sinh ra và lớn lên trong vòng tay yêu thương của cha mẹ và sự quan phòng của Thiên Chúa. Việc chúng ta xuất hiện trên cõi đời này không phải là một sự ngẫu nhiên, nhưng cũng giống như thánh Gioan Tiền Hô, mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa gọi vào đời và giao cho một nhiệm vụ phải chu toàn.
Do đó, nhân ngày lễ Sinh nhật của thánh Gioan Tiền Hô, chúng ta cùng suy nghĩ về hai điểm: bổn phận của cha mẹ trong việc giáo dục con cái, và ơn gọi của mỗi người kitô hữu.
1. Bổn phận giáo dục con cái của cha mẹ:
Điều đầu tiên mà các bậc làm cha mẹ là giúp cho con cái mình can đảm sống theo hướng dẫn của Lời Chúa, cho dù điều đó có đi ngược lại với thói quen của mình, đòi hỏi chúng ta một sự cố gắng hy sinh. Chúng ta phải can đảm sống đúng với giáo huấn của Chúa trong mọi việc lớn nhỏ.
Các bậc cha mẹ cần giáo dục cho con cái một lương tâm ngay thẳng, để rồi trong bất cứ hoàn cảnh nào, gặp bất cứ điều gì, cho dù là một việc nhỏ và có được sự ủng hộ của nhiều người, nhưng nếu không đúng với Lời Chúa thì chúng ta vẫn không làm.
Tất cả những điều trên, các bậc phụ huynh chỉ có thể làm được không phải bằng lời nói mà bằng chính đời sống gương mẫu của cha mẹ. Chúng ta có thể học được bài học này từ cha mẹ của thánh Gioan Tiền Hô. Tin mừng thuật lại, khi con trẻ đã được tám ngày, bà con đến để chúc mừng và “cắt bì cho con trẻ, và họ đã lấy tên Giacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được tên nó là Gioan”. Cả ông Giacaria, dù không nói được, nhưng cũng đã ra hiệu đồng ý như vậy. Cả hai ông bà đã đặt tên con trẻ theo như ý của Thiên Chúa, chứ không phải theo phong tục tập quán hay ý riêng mình.
Sống đúng theo ý Chúa, chu toàn mọi bổn phận của mình, đó chính là lúc chúng ta đang sống trọn vẹn ơn gọi của người kitô hữu.
2. Ơn gọi của người kitô hữu
Trong nghi thức diễn giải sau khi đã được rửa tội, người đỡ đầu thay mặt cho em nhỏ đã nhận cây nến sáng được thắp lên từ cây nến Phục Sinh của Chúa Kitô, để rồi từ đây, theo dòng thời gian, em nhỏ này phải dùng chính cuộc sống của mình để chiếu toả ánh sáng Tin mừng của Chúa Kitô Phục Sinh cho mọi người. Trong bài đọc một, trích từ sách ngôn sứ Isaia nhắc lại lời của Giavê Thiên Chúa nói về người tôi tớ của Người rằng: “Con là tôi tớ Ta, để tái lập các chi họ Giacob, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về; nầy đây Ta làm cho con nên ánh sáng các dân tộc”.
Như thế, nhiệm vụ của mỗi người kitô hữu là phải trở nên ánh sáng để dẫn đưa mọi người đến với Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta phải chiếu giãi ánh sáng của yêu thương và tha thứ vào trong thế giới đang đầy dẫy những hận thù, ganh tỵ. Thông thường, chúng ta vẫn thường thích để người khác đến với mình, khen ngợi mình, nhưng đây không phải là mục đích cuối cùng của người kitô hữu. Một người kitô hữu chân chính phải luôn ý thức mình chỉ là người dọn đường để dẫn đưa con người đến với Thiên Chúa. Chúng ta phải hãm dẹp cái tôi ích kỷ, phải dùng chính cuộc sống tự hạ, khiêm tốn của mình để dẫn đưa mọi người đến gặp gỡ Thiên Chúa. Nhiệm vụ của chúng ta là dẫn đưa con người đến gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa, chứ không phải dừng lại ở nơi chúng ta.
Về điều này, thánh Gioan Tiền Hô mà chúng ta mừng kính hôm nay là một mẫu guơng hết sức sống động cho chúng ta. Lúc ấy, sau khi bắt đầu cuộc rao giảng của mình, toàn dân đã kéo nhau đến với thánh nhân rất đông. Nhiều người trong số họ, kể cả Chúa Giêsu cũng đã bước vào dòng sông Giođan để được ngài thanh tẩy. Danh tiếng của ngài đã vang dội khắp nơi. Mọi người đều coi ngài là một vị ngôn sứ đến từ Thiên Chúa. Thậm chí, họ còn lầm tưởng thánh nhân chính là Đấng Messia mà Thiên Chúa đã báo trước. Lúc đó, thánh nhân chỉ cần im lặng thôi là có thể tận hưởng bao vinh dự dân chúng dành cho ngài. Thế nhưng, thánh nhân đã không làm như vậy. Ngài ý thức rõ vai trò của mình. Mình chỉ là người dọn đường, chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế. Thánh nhân đã can đảm nói lên sự thật: “Tôi không phải là người anh chị em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi, mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người”.
Đây quả là bài học hữu ích cho mỗi người chúng ta. Trong cuộc sống thường ngày, nhiều khi chỉ vì để chứng tỏ mình, để biện hộ cho mình, chúng ta thường ngụy biện để che đậy lỗi lầm, lôi kéo mọi người về phe mình để chống đối người khác. Và chính những điều đó đã gây ra biết bao hiềm khích, chia rẽ trong cộng đoàn.
Bài học thánh Gioan để lại là mỗi người phải tự xoá mình, để cho Chúa lớn lên. Nhờ đó cộng đoàn được hiệp nhất. Thiên Chúa được tôn vinh. Hay nói theo cách nói của ngôn sứ Isaia trong bài đọc một, nhiệm vụ của người kitô hữu, đó là “đem Giacob về cho Người, và quy tụ Israel chung quanh Người” chứ không phải quy tụ mọi người chung quanh chúng ta. Chính vì sống như vậy, thánh Gioan đã được “vinh hiển trước mặt Chúa” và đã nhận được phần thưởng muôn đời “ở nơi Thiên Chúa”.
Thánh Gioan đã sinh ra trong niềm vui của cha mẹ và mọi người, thánh nhân đã sống trọn vẹn ơn gọi của mình, để rồi lúc ra đi, thánh nhân đã để lại một mẫu gương khiêm nhường, thánh thiện cho muôn đời. Phần mình, mỗi người chúng ta đã có một ngày được sinh ra. Trong ngày đó, chúng ta khóc, còn mọi người cười vui. Vậy thì giờ đây, chúng ta hãy sống thế nào để khi Chúa gọi chúng ta về, chúng ta có thể hân hoan mỉm cười, còn mọi người phải khóc vì thương, vì nhớ chúng ta. Amen.
23. Gioan Tiền Hô
Gioan Tiền hô là người của Thiên Chúa. Ông đã được sinh ra một cách lạ lùng từ một người mẹ thuộc hàng son sẻ và đã cao niên. Son sẻ là một nỗi, tủi nhục đối với người phụ nữ Do Thái vào thời bấy giờ. Bởi vậy, bà Êlisabéth khi biết mình mang thai đã thốt lên:
- Chúa đã làm cho tôi như thế, vào thời Ngài cất nỗi khổ nhục của tôi giữa người đời. Bởi vì lòng dạ không mang thai là một lòng dạ đã chết. Nhưng chính nơi những cái chết ấy mà Thiên Chúa thi thố quyền năng của Ngài.
Lịch sử cũng cho thấy từ những người đàn bà hiếm muộn, Thiên Chúa đã cho trỗi dậy những khuôn mặt lỗi lạc.
Tư tưởng và đường nẻo của Thiên Chúa thì khác với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Chẳng hạn từ cung lòng Đức Trinh nữ Maria, vị cứu tinh muôn dân mong đợi sẽ ra đời. Và từ cái chết trên thập giá, Thiên Chúa đã làm nảy sinh sự sống mới. Công trình cứu chuộc hoàn toàn là một sáng kiến của Thiên Chúa xuất phát từ tình thương bao la của Ngài.
Ông Giacaria, cha của Gioan Tiền hô, trong lúc hứng khởi vì được chứng kiến những việc lạ lùng Thiên Chúa làm khi khởi đầu thời cứu độ, đã nói về vai trò của Gioan trong bài ca chúc tụng:
- Con sẽ là tiên tri của Đấng Tối cao. Con sẽ loan báo việc Thiên Chúa và dọn đường cho Ngài.
Dọn đường để chào đón một nhân vật quan trọng là một hình ảnh quen thuộc. Đường sá thì ghồ ghề khó đi, dân làng được huy động để san bằng những chỗ lồi lõm. Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ đi trên những con đường xứ Palestine, mà Ngài còn muốn đến với cõi lòng của mỗi người. Và như thế, công việc dọn đường của Gioan có nghĩa là rao giảng sự hoán cải trong dân để được tha thứ: lưỡi rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh hoa kết trái thì sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa.
Tin mừng đã mô tả Gioan như một vị tiên tri. Ông được xức dầu một cách thiêng liêng ngay từ trong lòng mẹ để hiến dâng cho Thiên Chúa. Ông được đầy tràn Thánh Thần và có được những đặc điểm của một vị tiên tri. Và như các vị tiên tri khác, ông có nhiệm vụ rao giảng sự sám hối ăn năn. Và theo cái nhìn của Chúa Giêsu, ông còn hơn cả vị tiên tri nữa, bởi vì ông là sứ giả của Thiên Chúa:
- Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt ngươi.
Và Chúa Giêsu còn lớn tiếng khẳng định:
- Trong những kẻ bởi người nữ, thì không có ai lớn hơn Gioan. Nhưng người nhỏ hơn trong nước Thiên Chúa, lại lớn hơn ông.
Điều đó có nghĩa là Gioan thuộc về giai đoạn chuẩn bị và trong giai đoạn chuẩn bị này, thì ông là người lớn hơn cả. Nhưng người đến sau ông, tức là Đức Kitô Con Thiên Chúa làm người, vị cứu tinh của thời buổi sau hết, lại lớn hơn ông. Cái lớn lao của ông là cái lớn lao của công việc chuẩn bị, dẫn người ta đến với Đức Kitô, vì thế khi Đức Kitô bắt đầu xuất hiện trước công chúng để rao giảng Tin mừng, thì lập tức ông lui vào bóng tối vì vai trò của ông đã hoàn tất như lời ông đã nói:
- Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Còn chúng ta thì sao? Mỗi người chúng ta cũng phải là một Gioan Tiền hô giữa lòng cuộc đời, nghĩa là chúng ta cũng phải dẫn đưa mọi người đến tìm gặp Chúa. Bởi đó, với một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, chúng ta cũng sẽ là những tiền hô, giới thiệu khuôn mặt đích thật của Đức Kitô cho những người chung quanh chúng ta.
24. Sống cao đẹp, chết hào hùng
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Giáo Hội thường mừng lễ các thánh vào ngày các ngài qua đời. Đó là ngày các ngài được về với Thiên Chúa Tình Yêu, ngày sinh nhật trên thiên quốc.
Đối với thánh Gioan Tẩy Giả, Giáo hội mừng kính cả ngày ngài sinh ra và cả ngày ngài tử đạo. Ngày qua đời mừng ở bậc lễ nhớ. Ngày sinh nhật với bậc lễ trọng.
Trong năm phụng vụ chỉ có 3 lễ mừng sinh nhật. Đó là Giáng Sinh của Đức Giêsu (25.12). Sinh nhật của Đức Maria (8.9) và Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả (24.6). Như vậy trong hàng ngũ các thánh, chỉ có thánh Gioan được vinh dự lớn nhất là được mừng ngày chào đời của mình. Cuộc đời và sứ mạng của Gioan gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Chúa Giêsu nên Giáo hội có lý do để sắp đặt lễ mừng Sinh nhật Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế trở thành một Lễ Trọng trong niên lịch phụng vụ.
Gioan được sinh ra kỳ diệu và ơn gọi cũng kỳ diệu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Gioan ra đời là niềm hạnh phúc cho cha mẹ, người thân và láng giềng. Một niềm vui quá lớn vì ông bà son sẻ. Mọi người đến chúc mừng người mẹ sinh con lúc tuổi già mà được “mẹ tròn con vuông”. Ai cũng trầm trồ khen bé trai thật dễ thương thật đáng yêu. Ai cũng mỉm cười với bé, đặt nhiều hy vọng vào bé: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”.
Ông Bà Giacaria mong chờ con trai nối dõi tông đường và sẽ như cha, làm tư tế. Gioan có đủ điều kiện để tiến thân, giàu có, vinh dự thuộc giai cấp thượng lưu. Nhưng Gioan lại nghe tiếng gọi từ trời cao đi làm Ngôn sứ. Gioan vào hoang địa sống một mình. Cuộc sống khắc khổ, đơn sơ, nghèo nàn.
Từ đó, Gioan trở thành Ngôn sứ với đời sống cao đẹp và đã chết hào hùng.
1. Cuộc sống cao đẹp
Gioan sống đẹp trong cương vị sứ giả: “Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Êlia, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1,17), và là người tiên phong: “Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người” (Lc 1,76).
Sống đẹp vì Gioan đã từ bỏ đời sống giàu sang uy thế của gia đình, đi vào trong sa mạc hoang vắng sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện thánh ý Ngài.
Sống đẹp vì Gioan có một số môn đệ, nhưng khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã giới thiệu cho họ (Ga 1, 36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu.
Sống đẹp vì Gioan đã thu phục được đám đông, được dân chúng ngưỡng mộ, nhưng Gioan chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài (Ga 1, 27).
Gioan sống đẹp vì đã luôn tâm niệm rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3, 30).
2. Cái chết hào hùng
Cái chết của Gioan đau thương mà rất hào hùng.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than,Gioan cũng mang nặng những ưu tư những trăn trở yêu nước thương dân.
Vị vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân, lấy vợ của anh mình là Hêrôđiađê. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua,kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế Gioan đã bị vua chém đầu. Người theo Đạo Hồi giáo Islam rất sùng kính Thánh Gioan ở giáo đường bên Syria. Theo tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden có phần mộ chôn đầu của Gioan. Người Hồi giáo Syria gọi ngài bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với những người Hồi giáo tại đó.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ông không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù.Thế nhưng Chúa Giêsu đã nói về ông: “ Trong các con cái người nữ sinh ra,chưa từng một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả”(Lc 7,28). Như vậy điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.Sứ mạng ngôn sứ thời nào cũng thế.Chúa Giêsu, vị ngôn sứ làm chứng cho sự thật cũng bị bắt bớ, bị hành hạ và bị đóng đinh thập giá. Các Thánh Tử Đạo cũng đã làm chứng cho sự thật, tiếp nối con đường Thầy mình đã đi,cũng gánh lấy tù tội và cái chết, bởi lẽ: “Nếu thế gian đã ghét Thầy,thì thế gian sẽ ghét các con vì các con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian” ( Ga 15,18 - 19 ).
3. Hồng ân ngày sinh nhật
Được sinh ra và lớn lên trong bàn tay phù hộ của Thiên Chúa, Gioan đã sống vai trò Ngôn sứ, dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý.
Mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, mỗi người nhớ đến ngày sinh nhật của mình. Ngày đó, cha mẹ, ông bà, thân bằng quyến thuộc mừng vui. Ai cũng cười tươi nhìn trẻ thơ, ai cũng muốn bồng ẵm chúc lành và đặt nhiều hy vọng nơi con trẻ. Rồi mỗi người được cha mẹ đặt tên, được đưa đến Nhà thờ để nhận phép thanh tẩy với một tên Thánh và trở nên con của Thiên Chúa.Mỗi lần mừng sinh nhật của mình, mỗi người nhớ đến bao nhiêu là hồng ân Thiên Chúa ban tặng để tạ ơn và sống xứng đáng hơn.
Ngày nay, nhiều gia đình có truyền thống kỷ niệm và mừng ngày sinh nhật của các thành viên trong gia đình. Đó là một việc làm thật ý nghĩa và nhiều niềm vui. Bởi vì, đã sinh ra trong đời, dù ở cảnh ngộ nào, ai cũng được Đấng Tạo Hóa ban tặng chức phận quý giá, đó là làm người. Qua mạc khải Kinh thánh và dưới ánh sáng đức tin, chúng ta biết rằng, con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu. Như vậy, mỗi người trong nhân loại đều được mời gọi theo một hướng đi nhất định để hoàn tất một định mệnh tươi đẹp và một cuộc sống cao cả.
Là Kitô hữu, chúng ta vui mừng tạ ơn và hy vọng về ơn gọi, định mệnh, hướng đi của mình.Thánh Gioan là một mẫu gương tuyệt vời, sống cao đẹp và chết hào hùng.
25. Thánh Gioan Tiền Hô
Suy nghĩ về thánh Gioan Tiền Hô, tôi nhận thấy Ngài có một chỗ đứng quan trọng, một vị trí đặc biệt trong Kinh Thánh cũng như trong phụng vụ.
Trước hết là trong Kinh Thánh.
Thực vậy, không có một vị thán nào mà cuộc đời được Kinh Thánh diễn tả một cách đầy đủ cho bằng thánh Gioan Tiền Hô. Kinh Thánh đã kể lại từ việc ông Giacaria dâng hương trong đền thờ đến việc bà Isave thụ thai. Từ việc Đức Maria tới thăm viếng đến việc bà Isave sinh nở. Từ ngày mở mắt chào đời với những sự việc kỳ diệu của Chúa, đến những năm tháng xuất hiện công khai với một cuộc sống khắc khổ. Từ những lời rao giảng gắt gao cho đến lúc bị tống nục và cái chết anh dũng dưới lưỡi gươm của Hêrôđê. Ngài là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, nhưng đồng thời lại là một vị thánh lớn của Tân Ước. Ngài chính là một nhịp cầu thông cảm nối liền Cựu Ước với Tân Ước, đến nỗi Chúa Giêsu đã phải lên tiếng ngợi khen: "Trong số những kẻ được sinh ra bởi người nữ, không có ai cao trọng hơn Gioan".
Tiếp đến là trong phụng vụ.
Đối với tất cả các thánh, chúng ta thường mừng kính vào ngày chết, tức là ngày các ngài được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu, được bước vào quê hương Nước Trời. Ngoài Chúa Giêsu, thì Giáo Hội chỉ mừng kính ngày sinh của Mẹ Maria và thánh Gioan Tiền Hô mà thôi. Bởi vì tất cả chúng ta, dù là các thánh thì khi mở mắt chào đời, cũng đã mang lấy dấu vết nhơ bẩn của tội nguyên tổ, cũng đã sống trong một tình trạng thù địch với Thiên Chúa. Trong khi đó thì Mẹ Maria được đặc ân vô nhiễm, còn thánh Gioan thì được tẩy sạch nhờ sự thăm viếng của Mẹ Maria, khi còn là một thai nhi trong lòng bà thánh Isave.
Như thế Gioan Tiền Hô đã là thánh kể từ khi lọt lòng mẹ, kể từ khi bắt đầu cuộc sống trần thế. Sở dĩ như vậy vì Chúa muốn cho Gioan được chuẩn bị để báo trước sự xuất hiện của Ngài.
Đúng thế vai trò của Gioan là vai trò của người tiền hô, chuẩn bị cõi lòng mọi người đón nhận Đấng cứu thế, vai trò của người đi trước dọn đường Chúa đến. Nếu Đức Kitô là mặt trời rực sáng thì Gioan Tiền Hô là hừng đông và một khi mặt trời đã xuất hiện ngày mới khởi đầu thì hừng đông không còn nữa. Ý thức được vai trò của mình nên Gioan đã xác quyết với đám đông: "Ngài cần phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi".
Với chúng ta cũng vậy ngay từ khi chúng ta mở mắt chào đời, Thiên Chúa cũng đã nhìn chúng ta bằng một ánh mắt trìu mến, và nhất là Ngài đã dành cho chúng ta một ơn gọi, ơn gọi ấy là trở nên như những vị tiền hô, chuẩn bị và dọn đường Chúa đến trong tâm hồn những người chung quanh. Thế nhưng chúng ta đã thực sự là những vị tiền hô của Chúa hay là bằng một đời sống bê tha và tội lỗi, gian tham và thù oán, chúng ta đã nhẫn tâm dập tắt ngọn lửa nhỏ bé của những tâm hồn thiện chí, đang muốn tìm gặp Chúa.
26. Cái bóng
(Trích 'Lẽ Sống' - Radio Veritas Asia)
Có một người khờ nọ muốn thoát khỏi cái bóng của mình... Nhưng càng trốn thì cái bóng càng đeo đuổi anh. Anh lăn lộn trên đất, anh đâm xuống nước, dù anh đi đâu, dù anh làm gì, cái bóng của anh vẫn còn đó.
Có một người khôn ngoan nghe chuyện mới đến cố vấn cho anh khờ. Người khôn ngoan ấy nói như sau: "Để thoát khỏi cái bóng của anh, anh chỉ cần đến đứng dưới bóng của một cây lớn".
Có nép mình dưới bóng cây Thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể thoát được cái bóng của không biết bao nhiêu phù phiếm, hư ảo trong cuộc sống của chúng ta.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính trọng thể ngày sinh của một con người đã từng nép bóng dưới cây Thập giá của Chúa Giêsu. Con người ấy chính là Goan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế, nhưng đồng thời cũng là người luôn nép bóng trong Chúa Giêsu.
Thánh Gioan đã tóm tắt tất cả cuộc sống của Ngài trong câu nói: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại". Dưới cái nhìn của con người, như Chúa Giêsu cũng đã có lần khen tặng, Gioan là con người cao cả nhất được sinh ra từ người nữ. Ngày sinh của Ngài được đánh dấu bằng những biến cố khác thường. Sự chào đời của Ngài đã mang lại niềm vui và hy vọng cho mọi người xung quanh. Vị tiên tri được xem là là cao cả nhất trong lịch sử Isreal ấy đã lôi kéo được một đám đông mà chưa từng có vị tiên tri nào đã quy tụ được... Thế nhưng, cuối cùng, để hoàn tất sứ mệnh của mình, con người ấy đã nhỏ lại và mất hẳn trong kiếp tù đày và một cái chết bỉ ổi.
Gioan nhỏ lại trong cái chết ấy, nhưng Chúa Giêsu lớn lên trong Mầu Nhiệm của Ngài, bởi vì cái chết của Gioan là một loan báo về chính cái chết của Chúa Giêsu... Nhưng cũng chỉ trong cái chết của Chúa Giêsu, cái chết của Gioan mới có ý nghĩa... Trong bóng thập giá của Chúa Giêsu, Gioan đã tìm lại được chính mình.
Chúng ta cầu xin điều gì trong ngày sinh của thánh Gioan Tẩy Giả nếu không phải là bước đi trong từng bước nhỏ lại của Ngài. Trong từng bước ấy, chúng ta hãy đặt mình dưới bóng vĩ đại của Thập giá Chúa Giêsu. Chỉ trong chiếc bóng vĩ đại ấy của Thập giá Chúa Giêsu, những nghịch cảnh, những đau thương, những nghi ngờ và ngay cả những cái chết từng ngày sẽ mang lấy ý nghĩa. Và ý nghĩa ấy là gì nếu không phải là sự lớn lên của Đức Kitô trong chúng ta?
Chúng ta có nhỏ lại trong cái nhìn hẹp hòi ích kỷ của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong những ham muốn ganh tỵ bất chính của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong hận thù nhỏ nhen của chúng ta, thì lúc đó Đức Kitô mới thực sự lớn lên trong chúng ta.
27. Con mới là bào thai, mắt ngài đã thấy
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lễ Trọng Sinh Nhật Gioan Tẩy Giả là một lễ lâu đời từ Thế Kỷ thứ bốn. Câu hỏi "Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào?" được những người đương để bụng suy nghĩ, ngày hôm nay, con trẻ này vẫn còn nhiều câu hỏi, cụ thể như: Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6? Và lý do gì mà Giáo hội lại mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan cách trọng thể làm vậy?
Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6?
Lý do tại sao lấy ngày 24 tháng 6 thay vì ngày 25 tháng 6 là vì theo cách tính ngày xưa, tức là theo calends( ngày mùng 1), ides(ngày 15) và nones(ngày thứ chín). Dĩ nhiên, những niên hiệu này có một giá trị phụng vụ và biểu trưng hơn là một giá trị lịch sử. Chúng ta không biết chính xác ngày và năm Chúa Giêsu sinh ra, nên khi nào Gioan sinh ra chúng ta cũng không hay.
Dựa vào trang Tin Mừng, thánh Luca cho biết, khi loan báo sự sinh của Chúa Kitô cho Đức Maria, thiên thần cho ngài biết bà Elizabeth chị họ của ngài đang có thai trong tháng thứ sáu. Cho nên, Gioan Tẩy Giả phải được sinh ra sáu tháng trước Chúa Giêsu và như vậy bảng niên đại được tôn trọng cho đến ngày nay.
Giáo hội mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan
Thánh Augustinô nói: Giáo hội có thói quen lấy ngày qua đời của các vị thánh để mừng kính, vì đó là ngày sinh nhật của các thánh trên nước Trời. Riêng thánh Gioan Baotixita được miễn trừ khỏi qui luật bình thường đó, vì ngài đã được thánh hiến ngày từ trong lòng mẹ trước khi sinh ra, nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô, trong lòng Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh khi thăm Bà Thánh Isave, từ đó Giáo Hội tin rằng Gioan Tẩy Giả đã được thánh hoá trong bụng mẹ nhờ sự hiện diện của Chúa Kitô. Đó là lý do Giáo Hội cử hành lễ sinh nhật của ngài.
Bài Tin Mừng chính ngày lễ nói về sự chọn tên Gioan. Bài đọc thứ nhất trích sách Ngôn Sứ Isaia và Thánh Vịnh nói về giá trị cao cả của con người trước mặt Thiên Chúa: "Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người." (Is 49, 1-3) Thánh vịnh trở lại với ý niệm này, tức là, Chúa biết chúng ta từ trong lòng mẹ: "Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con...Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu. (Tv 138, 13). Như thế Thiên Chúa đã an bài sắp đặt mỗi người chúng ta ngay từ khi còn trong dạ mẹ.
Chúng ta phải tôn trọng và bảo vệ sự sống các thai nhi
Theo Kinh Thánh, con người là kẻ được Thiên Chúa nhận biết, gọi tên; và Thiên Chúa biết chắc chúng ta từ lòng mẹ. Mắt Ngài thấy chúng ta: "Con mới là bao thai, mắt Ngài đã thấy." (Tv 138,16)
Chúng ta có một ý niệm rất hẹp hòi và có tính pháp lý về con người, gây nhiều hoang mang trong sự bàn cãi về nạn phá thai. Xem ra một đứa bé chỉ được sở hữu phẩm giá con người khi nó được các thẩm quyền con người thừa nhận.
Khoa học nói với chúng ta rằng trong phôi thai, toàn diện hữu thể nhân bản đang thành hình, được phản chiếu trong mỗi chi tiết rất nhỏ; đàng khác, đức tin chúng ta thêm rằng, điều chúng ta có không phải là công trình vô danh của tạo vật, nhưng một công trình tình yêu của đấng Sáng tạo. Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả hoàn toàn được phác họa trước lúc sinh ra: "Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người." (Lc 1, 76)
Vấn đề nghiêm trọng ngày nay là hàng triệu trẻ em chết vì phá thai mà không được rửa tội. Chúng ta phải nói gì về chúng? Chúng có được thánh hoá cách nào đó trong bụng mẹ chúng không? Chúng có được cứu rỗi không?
Câu trả lời không do dự: Chắc chắn chúng được cứu rỗi. Theo một ý kiến đã trở nên phổ thông từ Trung Cổ, những trẻ con không được rửa tội thì xuống lâm bô, một nơi trung gian trong đó không có đau khổ cũng không được thấy mặt Chúa.
Chúa Giêsu đã thiết lập các bì tích như những phương tiện bình thường của việc cứu rỗi. Do đó, các bí tích là cần thiết, và những ai dầu có khả năng nhận lãnh bí tích, mà từ chối hay biếng nhác nhận lãnh bí tích đi nghịch lại lương tâm của mình, gây lâm nguy trầm trọng cho sự rỗi muôn đời của mình. Nhưng Thiên Chúa không bị ràng buộc bởi những phương tiện này. Ngài có thể cứu rỗi bằng những phương tiện bất thường, khi con người, không do lỗi mình, không được lãnh bí tích rửa tội. Chúa làm như vậy đối với các thánh Anh Hài, những em bé đã chết không được rửa tội.
Giáo Hội đã luôn luôn công nhận khả năng của một phép rửa tội bằng ý muốn và một phép rửa tội bằng máu, và nhiều em bé chắc chắn đã biết một phép rửa tội bằng máu, dầu thuộc về một bản tính khác.
Khi làm sáng tỏ vấn đề trên sẽ mang lại một sự thoải mái cho những kẻ tin, những kẻ mất bình thản trước số phận khủng khiếp của rất nhiều em bé trong thế giới ngày nay.
Chúng ta hãy trở lại ngày sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Khi loan báo sự sinh của con trẻ cho Giacaria, Thiên Thần nói với ông: " Elizabeth vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai ông sẽ gọi là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời" (Lk 1:13-14). Quả thật, nhiều người đã hỷ hoan vui mừng khi con trẻ sinh ra, bước sang thế kỷ 21, chúng ta ở đây đang mừng vui nói về con trẻ này.
Xin Chúa cho tất cả những người cha và bà mẹ, như bà Elizabeth và ông Giacaria, đang chờ đợi hay kinh nghiệm sự sinh con, có được niềm vui và hớn hở trong đứa con Chúa đã trao ban, và niềm vui sinh con, vì sự sống đã bừng lên nơi con cái. Xin cho mọi người tôn trọng các thai nhi ngay từ trong lòng mẹ. Amen.
28. Sứ mạng Tiền Sứ của Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
1. Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng hôm nay tập trung vào lễ nghi cắt bì và đặt tên con trẻ Gioan. Khi được chứng kiến những sự lạ lùng, nhất là sự kiện Da-ca-ri-a được khỏi bệnh câm, mọi người đều bỡ ngỡ và thắc mắc về sứ mệnh của em nhỏ sau này. Về sau Gioan đã vào sống trong hoang địa cho đến trước khi Đức Giêsu ra giảng đạo, Gioan đã đến vùng sông Gio-đan thi hành sứ mệnh tiền sứ để giúp dân Ít-ra-en chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai là Đức Giêsu sắp đến.
2. CHÚ THÍCH: Phép cắt bì trong đạo Do Thái
+ Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì: Cắt bì là một nghi lễ có từ lâu đời trong đạo Do thái, do lệnh Thiên Chúa truyền (x Gs 5,2). Đây còn là một dấu chỉ hữu hình của Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Do thái mà mọi bé trai đều phải mang trên da thịt mình (x Xh 4,26). Tuy nhiên, Ngôn sứ Giê-rê-mi-a lại cho thấy cắt bì trong tâm hồn mới là điều quan trọng (x Gr 9,24; 4,4). Cũng như Gioan, Đức Giêsu cũng đã chịu nghi lễ cắt bì và đặt tên (x Lc 2,21).
+ Về sau, trong thời Giáo hội sơ khai: Theo đề nghị của thánh Phao-lô, để các Kitô hữu gốc lương dân khỏi phải chịu đựng cái ách nặng nề của Luật Mô-sê mà họ không chu tòan được (x Gal 6,12.15), thì Công Đồng Giê-ru-sa-lem đã quyết định như sau: Không buộc lương dân muốn gia nhập đạo phải chịu phép cắt bì của đạo Do thái trước khi được lãnh bí tích Rửa tội (x Cv 15,5-6.10-11.28-29), mà chỉ đòi họ có một đức tin hành động nhờ đức ái trong Chúa Kitô là đủ (x Gl 5,6).
3. CÂU HỎI:
1- Tại sao bà Êlisabét không đồng ý đặt tên cho con trẻ là Da-ca-ri-a mà là Gioan?
2- Hãy cho biết những sự lạ nào đã xảy ra trong nghi lễ cắt bì và đặt tên của Gioan Tẩy giả?
3- Cắt bì là gì? Những ai được chịu phép cắt bì? Phép cắt bì nhằm mục đích gì?
4- Tại sao ngày nay khi theo đạo công giáo, lương dân không còn phải chịu phép cắt bì trước khi chịu phép rửa tội để gia nhập vào Hội thánh?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: "Đức Kitô phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi" (Ga 3,30).
2. CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM: Cuộc đời của Gioan Tiền Sứ
Gioan là vị Tiền hô của Chúa Giêsu (x.Mt 3,3). Gioan là con của ông Da-ca-ri-a và bà Êlisabét. Cả hai thuộc dòng tộc tư tế. Bà Êlisabét là chị họ của Đức Maria, nên Gioan là anh bà con của Đức Giêsu. Cha mẹ của Gioan sống ở miền núi xứ Giu-đê (x Lc 1,39). Từ nhỏ, Gioan đã sống cuộc đời ẩn tu khổ hạnh trong sa mạc. Đến năm thứ 15 thời Hoàng đế Tibêria, Gioan mới xuất hiện tại vùng hoang địa miền Giuđê cạnh sông Giođan để rao giảng và làm phép rửa sám hối cầu ơn tha tội (x.Mt 3,1). Phép rửa của ông là một nghi thức thống hối kèm theo việc xưng thú tội lỗi (x. Mt 3,6). Gioan đã nhận biết Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai khi giới thiệu Người với các môn đệ: "Đây là Chiên Thiên Chúa" (Ga 1,29). Có lần đức Giêsu gọi Gioan là Ê-li-a khác, là người lớn nhất trong Cựu ước, là tiên tri loan báo Nước Trời (x.Mt 11,2 -19; Lc 7,18-33).
Cuộc đời của Gioan kết thúc bằng hình khổ bị chém đầu trong nhà tù, do ông can đảm bênh vực cho công lý, dám lên tiếng can ngăn vua Hêrôđê không được lấy bà chị dâu Hêrôđiađê làm vợ. Do đó ông đã bị tống giam vào ngục và sau đó còn bị giết hại (x. Lc 9,7-9).
3. THẢO LUẬN: Chúng ta cần làm gì để noi gương các nhân đức của Gioan như: khiêm nhường (x Ga 3,30), khó nghèo (x Mc 1,6-8), vâng phục (x Mt 3,13-15), trung tín (x Ga 1,35-37), thật thà (x Ga 1,20-23), dũng cảm (x Mt 14,3-4; Lc 3,7-9).
IV. NGUYỆN CẦU
- Lạy Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã thực hiện sứ mệnh tiền hô kèm theo những dấu lạ, khiến mọi người phải bỡ ngỡ thán phục. Đời con chẳng có những dấu lạ như thánh Gioan. Cũng như bao người khác, Chúa muốn con trở thành chứng nhân cho tình thương của Chúa. Xin cho con trở thành dấu chỉ để người đời nhận biết Chúa, qua lối sống bác ái yêu thương tha nhân và khiêm nhường phục vụ, nhất là phục vụ những người nghèo đói noi gương Chúa xưa.
- LẠY CHÚA. Thánh Gioan Tẩy giả đã nêu gương khiêm tốn và làm chứng cho Chúa. Làm chứng trong cuộc sống hôm nay chính là: Tự làm mình lu mờ đi bằng việc ít nói về mình, không khoe khoang thành tích của mình, để Chúa được lớn lên nơi tha nhân. Làm chứng cho Chúa hôm nay cũng là: sống điều độ chừng mực, tránh thói tiêu xài xa hoa lãng phí và sự chè chén say sưa. Làm chứng cho Chúa hôm nay còn là chỉ đường giúp nhiều người nhận biết và theo làm môn đệ của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết sống đơn sơ khó nghèo, can đảm làm chứng cho sự thật và không bao giờ chịu lùi bước trước những khó khăn trở ngại gặp phải trong cuộc sống hằng ngày.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria - Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
29. Suy niệm của Giuse Nguyễn Viết Tâm
Ý Nghĩa Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả:
Trong lịch Phụng Vụ, ngoài Chúa Giêsu và Đức Maria, thì chỉ có Thánh Gioan Tẩy Giả được Giáo Hội mừng lễ Sinh Nhật; và đây là một vinh dự vô cùng to lớn mà Giáo Hội dành cho ngài.
Từ thế kỷ thứ 4 cả hai giáo hội Đông phương lẫn La tinh đều mừng lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả một cách trọng thể 6 tháng trước Lễ Chúa Giêsu Giáng Sinh, Lễ Sinh nhật sẽ rơi vào tháng 6, cụ thể 24/6. Gioan Tẩy Giả còn được gọi Gioan Tiền Hô hay Loan Tin, người đi trước dọn đường cho Chúa Cứu Thế.
Trong Giáo hội Công giáo, ngày lễ kính một vị thánh là ngày từ trần của vị ấy, quen gọi là “ngày tái sinh trên trời.” Nhưng chỉ có Thánh Gioan Tẩy Giả được biệt kính vào cả ngày sinh nhật lẫn ngày lìa đời,: Gioan loan tin nhưng Chúa Giêsu là thông điệp; Gioan là tiếng kêu mà Chúa Giêsu là Sự Thật; Gioan nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa nhưng Chúa Giesu làm hoàn hảo lời hứa đó; Gioan rao giảng thống hối nhưng Chúa Giêsu mang lại sự thứ tha; Gioan kêu gọi công bình và hoán cải nhưng Chúa Giêsu ban ân sủng tăng sức mạnh cho thay đổi và lớn lên; Gioan dọn đường nhưng Chúa Giesu chính là Đường.
Riêng thánh Gioan Tẩy Giả có 2 ngày Lễ kính trong năm:
+ Ngày 24/6: Mừng Sinh nhật Gioan Tẩy Giả.
+ Ngày 29/8: Lễ kính Gioan Tầy Giả bị chém đầu.
Khi nhắc tới Thánh Gioan Tẩy Giả là nhắc tới “người dọn đường”: Dọn đường cho chính Chúa, dọn đường cho các tâm hồn đến với Chúa và dọn đường cho Chúa đến với các tâm hồn. Và ngài đã chu toàn sứ mạng này cho đến chết.
Nhìn về cuộc đời thánh Gioan, với con mắt phàm trần, có thể nói rằng, ngài đã thất bại, một thất bại chua chát, một cuộc đời kết thúc không có hậu. Thế nhưng với cái nhìn đức tin và theo chương trình và ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa thì đây là một kết thúc quá mỹ mãn.
Cũng như Gioan, mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng, một ý định của Thiên Chúa về chúng ta. Nhưng làm sao biết được? Kinh Thánh và giáo lý của Hội Thánh cho ta biết rằng con người được dựng nên “theo hình ảnh của Thiên Chúa”, “có khả năng hiểu biết là yêu mến Tạo Hóa” và “chỉ con người, nhờ sự hiểu biết và tình thương, được mời gọi chia sẻ sự sống của Thiên Chúa”. Đó chính là mục đích của việc tạo dựng con người. Con người phát xuất từ Thiên Chúa, sẽ được trở về với Thiên Chúa.
Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (năm 1992) trích dẫn lời thánh nữ Catarina thành Sienna như sau: “Vì sao Ngài đã dựng nên con người với phẩm giá cao trọng như vậy? Với tình thương vô biên, Ngài đã nhìn ngắm thụ tạo nơi chính mình và say mê nó. Vì thương yêu, Ngài đã tạo ra nó; vì yêu thương, Ngài cho nó khả năng hưởng phúc vĩnh cữu.
Theo gương Gioan, ta hãy sống gắn chặt với sứ mạng của Chúa Giêsu, để làm cho sự kiện chào đời của mình trở thành thực sự là “hồng ân sự sống”. Amen.
LƯỚT QUA CÁC BÀI ĐỌC:
Các Bài Đọc trong ngày Sinh Nhật của Gioan Tẩy Giả cho chúng ta thấy sự sắp xếp nhiệm mầu của Thiên Chúa trong việc sửa soạn cho nhân loại một Người Tôi Trung để chuộc tội và mang lại ơn cứu độ cho con người.
TRONG BÀI ĐỌC I Trích sách Tiên tri Isaia, Bài Ca Thứ Hai của Người Tôi Trung Thiên Chúa, tiên tri Isaia tường thuật việc Thiên Chúa chuẩn bị cho nhân loại một Người Tôi Trung và trao cho Ngài một sứ vụ gồm hai phần: mang vinh quang cho dân tộc Israel và trở nên ánh sáng cứu độ cho các dân tộc.
TRONG BÀI ĐỌC II Trích sách Tông đồ Công vụ, Sách CVTĐ tường thuật một phần Bài Giảng của Phaolô tại Antiokia, Pisidia. Phaolô muốn cho khán giả biết Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa đã được tường thuật bởi các tiên-tri và Thánh Vịnh: Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại một Đấng Cứu Độ từ giòng dõi Vua David, và ông Gioan Tẩy Giả đã chuẩn bị, làm chứng, và chỉ đường cho mọi người đến với Đức Kitô để lãnh nhận ơn cứu độ.
TRONG BÀI TIN MỪNG theo thánh Luca, thánh-sử Luca tường thuật những biến cố lạ lùng xảy ra chung quanh việc chào đời của Gioan Tẩy Giả. Tất cả những biến cố này chỉ cho thấy Thiên Chúa đã dùng ông để đi tiên phong dọn đường cho mọi người đón nhận Đức Kitô, và Gioan đã dùng cả cuộc đời ông để chu toàn sứ vụ và làm chứng cho Đức Kitô.
ĐI VÀO BÀI TIN MỪNG:
“KHI ĐẾN NGÀY SINH, BÀ ÊLISABETH SINH HẠ MỘT CON TRAI”
Vâng, mọi sự diễn ra đúng như lời Sứ thần Gabrien đã truyền tin. Kế hoạch của Thiên Chúa phải được thực hiện vì Giờ cứu độ đã đến. Chương trình Cứu độ của Thiên Chúa như một dòng chảy, nó phải được liên tục, không một lực nào có thể cản được. Luca viết: “Khi đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai”.
Gioan là Vị Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế, ông phải đi trước Đấng Cứu Thế, đi trước về nhiều mặt: đi trước sự kiện truyền tin, mang thai và hạ sinh. Trên thực tế, ngày Gioan sinh ra cách ngày sinh của Hài nhi Giêsu 06 tháng.
“LÁNG GIỀNG BÀ CON NGHE BIẾT CHÚA ĐÃ TỎ LÒNG NHÂN HẬU LỚN LAO ĐỐI VỚI BÀ LIỀN ĐẾN CHÚC MỪNG BÀ”.
“Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà” có nghĩa, người ta không bao nghĩ đến việc bà Êlisabth có thai trong lúc tuổi già và lại sinh đẻ mẹ tròn con vuông, vì ai cũng nghĩ số phận của bà đã được an bài, không còn hy vọng gì nữa. Người ta thương hại bà, chứ không dám chì chiết, vì 02 ông bà là người công chính, không ai chê trách được điều gì. Luca viết: “Thời vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là Da-ca-ri-a; vợ ông là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì.” (Lc 1, 5-6).
Như vậy việc bà Êlisabeth có thai và sinh con, đó là hồng ân Chúa ban. Ta hãy để ý cụm từ “TỎ LÒNG NHÂN HẬU LỚN LAO”, Luca muốn nhấn mạnh, không phải là Thiên Chúa thương, mà là quá thương. Vâng từ “lớn lao” muốn nói đến một hồng ân vĩ đại, nó đã vượt qua mọi giới hạn và tuôn đổ xuống cho một con người, giải tỏa tất cả mọi bế tắc vẫn tồn đọng bấy lâu.
“Láng giềng và thân thích liền đến chúc mừng bà”. Đứng trước hồng ân vĩ đại này, mọi người, vâng tất cả mọi người (láng giềng + thân thích) đều đến chia vui, chia vui có nghĩa họ cũng muốn vui với niềm vui của bà, như thánh Phaolô đã viết trong thư Rôma: “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc.” (Rm 12, 15). Niềm vui của bà Êlisabeth đã lan tỏa cho mọi người, để ai cũng cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa ban cho mình.
“NGÀY THỨ TÁM, NGƯỜI TA ĐẾN LÀM PHÉP CẮT BÌ CHO CON TRẺ, VÀ HỌ LẤY TÊN DACARIA CỦA CHA NÓ MÀ ĐẶT CHO NÓ..”
PHÉP CẮT BÌ TRONG ĐẠO DO THÁI
+ Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì: Cắt bì là một nghi lễ có từ lâu đời trong đạo Do thái, do lệnh Thiên Chúa truyền (Gs 5,2). Đây còn là một dấu chỉ hữu hình của Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Do thái mà mọi bé trai đều phải mang trên da thịt mình (Xh 4,26). Tuy nhiên, Ngôn sứ Giê-rê-mi-a lại cho thấy cắt bì trong tâm hồn mới là điều quan trọng (Gr 9,24; 4,4). Cũng như Gioan, Đức Giêsu cũng đã chịu nghi lễ cắt bì và đặt tên (Lc 2,21).
+ Về sau, trong thời Giáo hội sơ khai: Theo đề nghị của thánh Phao-lô, để các Kitô hữu gốc lương dân khỏi phải chịu đựng cái ách nặng nề của Luật Mô-sê mà họ không chu tòan được (Gal 6,12.15), thì Công Đồng Giê-ru-sa-lem đã quyết định như sau: Không buộc lương dân muốn gia nhập đạo phải chịu phép cắt bì của đạo Do thái trước khi được lãnh bí tích Rửa tội (x Cv 15,5-6.10-11.28-29), mà chỉ đòi họ có một đức tin hành động nhờ đức ái trong Chúa Kitô là đủ (x Gl 5,6).
“Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì”. Khi Gioan được 08 ngày, họ (những người thi hành phận sự) đến để cắt bì cho con trẻ theo luật định.
“HỌ LẤY TÊN DACARIA CỦA CHA NÓ MÀ ĐẶT CHO NÓ”.
Tại sao những người làm việc cắt bì này lại có quyền làm việc đặt tên cho em? Quyền đặt tên phải thuộc về người cha, ông Dacaria. Họ muốn qua mặt ông Dacaria sao? thưa: Không phải vậy, vì ông Dacaria lúc này đang bị câm không nói được, họ muốn làm luôn việc này và lấy tên cha đặt cho con là điều hết sức bình thường. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp qua người mẹ. Cho dù người cha vì khiếm khuyết không thực hiện được việc đặt tên, thì còn người mẹ.
“NHƯNG BÀ MẸ ĐÁP LẠI RẰNG: “KHÔNG ĐƯỢC, NÓ SẼ GỌI TÊN LÀ GIOAN.”
Bà Êlisabeth đã am tường sự kiện ông Dacaria được Sứ thần truyền tin và những gì Sứ thần đã nói với ông, nên bà phải làm theo lời Sứ thần truyền, bà lên tiếng không đồng ý việc này. “nó sẽ gọi tên là Gioan”, có nghĩa mặc dù bà chỉ là phụ nữ, không có quyền đặt tên cho con khi người cha còn sống, nhưng bà có quyền lên tiếng phản đối trong việc này và đòi phải đặt tên là Gioan.
“HỌ BẢO BÀ RẰNG: “KHÔNG AI TRONG HỌ HÀNG BÀ CÓ TÊN ĐÓ”.” RỒI HỌ LÀM HIỆU HỎI NGƯỜI CHA, XEM ÔNG MUỐN ĐẶT TÊN CHO EM BÉ LÀ GÌ.”
Cái tên Gioan, nghĩa là “Chúa thương”. Luca thật sâu sắc khi viết: “Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy”, không ngờ cái tên Gioan lại nói lên tình thương của Thiên Chúa đã dành cho bà Êlisabeth, thật là sự trùng hợp có ý nghĩa.
Nhưng cái tên Gioan lại gây bất ngờ cho những người đang có mặt, nếu không lấy tên cha thì chí ít cũng phải lấy tên ai đó trong dòng họ, đàng này, cái tên Gioan rất xa lạ. Bây giờ tất cả sẽ do người cha quyết định, nhưng vì ông bị câm (có lẽ ông Dacaria cũng bị điếc luôn, vì thường câm đi với điếc) nên họ ra hiệu hỏi ông Dacaria.
“ÔNG XIN MỘT TẤM BẢNG VÀ VIẾT: “TÊN NÓ LÀ GIOAN”. VÀ MỌI NGƯỜI ĐỀU BỠ NGỠ.”
“Tên cháu là Gioan”, đó là quyết định cuối cùng và là quyết định của người cha. Ông đã đặt tên cho hài nhi đúng theo tên mà Sứ thần đã truyền cho ông. Như vậy, hài nhi Gioan là người Chúa thương.
Tên Gioan còn mang thêm một ý nghĩa nữa: Tên John (hay Gioan), là chữ viết tắt của tiếng kép Do-thái “Jeho-hannah;” có nghĩa “quà tặng của Jehovah,” hay “hồng ân Thiên Chúa.” Cả hai, ông Dacaria và bà Elisabeth, đều muốn đặt tên con như thế, vì ông bà biết đứa trẻ là quà tặng của Thiên Chúa ban cho họ.
TÊN LÀ NGƯỜI.
Tùy vào ước vọng cha mẹ muốn cho con ra sao, trở thành gì, hay kỷ niệm biến cố gì; họ sẽ đặt tên con như thế. Ngày xưa, người ta thường chọn tên cho con với cái tên khó nghe, vì họ quan niệm sai lầm và mê tín, tên càng xấu bao nhiêu thì thần thánh càng chê bấy nhiêu nên được sống lâu. Vấn đề có được sống lâu hay không, điều đó không thể khẳng định, nhưng rõ ràng nó có tác hại về mặt tâm lý, người ta sẽ không tự tin cho đủ khi bước vào đời sống xã hội với một cái tên khó nghe như vậy.
Ngày nay, người ta chú trọng việc đặt tên. Phần tên họ: thường có sự lắp ghép giữa họ cha và họ mẹ, còn tên gọi, người ta có khuynh hướng chọn tên nói lên: nhân nghĩa lễ trí tín, nói lên cái đẹp, hoặc hướng tới sự thành công. Dù là tên xấu hay tên đẹp, nguyên việc đặt tên, nó đã nói lên quyền của cha mẹ trên con cái. Đây là một trong những điều mà NGƯỜI CON KHÔNG CÓ QUYỀN CHỌN LỰA, cho dù xã hội có đề cao sự tự do đến đâu. Sau này người ta có thể chọn thêm cái tên khác cho mình, ví dụ bút hiệu, nickname (trên facebook) … nhưng cái tên cha mẹ đặt vẫn luôn đi với mình cho đến hết cuộc đời này, không ai có quyền thay đổi và cơ chế xã hội sẽ bảo vệ quyền hợp pháp của cha mẹ.
“AI NẤY ĐỀU BỠ NGỠ. NGAY LÚC ẤY, MIỆNG LƯỠI ÔNG LẠI MỞ RA, ÔNG NÓI ĐƯỢC, VÀ CHÚC TỤNG THIÊN CHÚA.”
“Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được”. Những người đang hiện diện muốn biết lý do ông Dacaria đặt tên con trẻ là Gioan, thì một sự lạ đã xảy ra trước mắt họ, ông Dacaria đã nói được. Ai nấy đều kinh ngạc..
Luca muốn lặp lại lời Sứ thần Gabrien đã nói với ông trong lúc truyền tin: “Sứ thần đáp: “Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.” (Lc 1, 19-20)
“Cho đến ngày các điều ấy xảy ra”, đó là ngày hài nhi được sinh ra và lúc Dacaria đặt tên cho con trẻ là Gioan. Như vậy, thời gian ấn định cho hình phạt của Sứ thần đã kết thúc.
“Và chúc tụng Thiên Chúa.” Khi ông Dacaria nói được, việc đầu tiên ông làm là chúc tụng Thiên Chúa, chứ không phải khoe khoang với mọi người. Luca không nói Dacaria đã chúc tụng những gì, nhưng ai cũng hiểu được: ông chúc tụng Thiên Chúa vì đã thương ông bà quá bội, Ngài đã ban cho 02 ông bà một người con trong lúc tuổi già, cất đi sự tủi nhục của họ, đàng khác đứa con này là sẽ là vị Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.
Ông nhớ lại lời Sứ thần đã nói với ông: “Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.” (Lc 1, 15-17).
Chúng ta cũng gặp nhiều ơn Chúa ban cho mình, ơn Chúa ban không thể nào kể hết, nhưng có bao giờ ta nhận ra chưa? Ơn Chúa rất nhiều và chúng đan xen vào nhau đến nỗi ta khó lòng nhận ra chúng. Chúa đâu có hiện ra để nói cho ta biết ơn này ơn nọ mà ta đã nhận. Chính vì Chúa không nói, nên Ta cứ nghĩ mình gặp may mắn. May mắn làm sao được, khi nó xảy ra quá trùng hợp và rất kịp lúc, phải có bàn tay vô hình nào đó nhúng vào. Nếu đời ta cứ cắt nghĩa là do may mắn, thì ta không thể tiến lên được trên đàng nhân đức, con người của ta cứ ì ạch, ẫu trĩ.
Có bao giờ ta biết chúc tụng Chúa chưa? Mà cứ ngửa tay xin hết ơn này đến ơn khác, cứ y như Chúa có bổn phận phải ban ơn cho ta. Ta hãy nhắm mắt lại để lắng đọng tâm tư mình, ta bất chợt nhớ lại những sự kiện xảy ra mà ta không thể nào cắt nghĩa được, cứ y như có bàn tay ai đó can thiệp vào đời ta vậy. Ta hãy học nơi ông Dacaria bài học hôm nay: “miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa.”
“LÁNG GIỀNG AI NẤY ĐỀU KINH SỢ. VÀ CÁC SỰ VIỆC ẤY ĐƯỢC ĐỒN RA KHẮP MIỀN NÚI GIU-ĐÊ. AI NGHE CŨNG ĐỂ TÂM SUY NGHĨ VÀ TỰ HỎI: “ĐỨA TRẺ NÀY RỒI RA SẼ THẾ NÀO ĐÂY?” VÀ QUẢ THẬT, CÓ BÀN TAY CHÚA PHÙ HỘ EM.”
“Láng giềng ai nấy đều kinh sợ”, vâng họ sợ vì chung quanh việc hài nhi Gioan sinh ra có quá nhiều sự lạ, liên kết nhau cách tuần tự, sự lạ này nối tiếp sự lạ kia. Trước hết là ông Dacaria bị câm khi từ Đền thờ bước ra khi xong việc tế tự. Không ai biết điều gì đã xảy ra vì ông bị câm (có lẽ cũng bị điếc luôn, vì câm và điếc là 02 bệnh phải đi với nhau do 02 dây thần kinh liên quan đến nhau). Thứ đến là việc bà Êlisabeth có thai trong lúc tuổi già. Thứ ba là việc đặt tên không theo truyền thống và cuối cùng ông Dacaria nói được sau khi đặt tên cho con là Gioan. Họ kinh sợ vì những sự lạ ấy không thể nào giải thích được.
Thử hỏi rằng có ai giải thích được việc Chúa làm chưa? Trước những sự lạ, hay còn gọi là phép lạ ta chỉ còn biết chiêm ngưỡng, chúc tụng, không giải thích. Vì khi giải thích, ta đã đưa mình vào chỗ kiêu ngạo và lố bịch. Ta chỉ còn biết kinh ngạc như những người trong nhà ông Dacaria hôm nay.
“Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê.” Nhà ông Dacari ở miền núi Giuđêa, nơi có Thành thánh Giêrusalem và Đền thờ Giêrusalem. Chắc chắn sẽ có ảnh hưởng rất lớn, và các phái lãnh đạo Do Thái: Kinh sư, Pharisêu sẽ để tâm đến.
“Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.” Vâng đã có nhiều sự lạ xảy ra cho hài nhi Gioan, nó cho phép người ta đặt dấu hỏi về tương lai của em. Chắc chắn em không thể là người bình thường được. Luca nhấn mạnh: “Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”, như vậy bàn tay Thiên Chúa sẽ dẫn dắt Gioan đi đúng hướng mà Thiên Chúa đã định. Tiền hô cho Đấng Cứu Thế.
Thật ra cuộc sinh hạ nào cũng là một màu nhiệm lạ lùng. Khi Rửa tội một em bé mới sinh, chúng ta cũng vẫn đặt câu hỏi: Em này rồi sẽ ra sao? Đâu là định mệnh tương lai của em?… Tất cả những câu hỏi đó đang nằm ở phía trước mà với thời gian sẽ lần lượt bóc trần thánh ý Chúa dành cho mỗi người.
Nhưng với Gioan Tảy Giả người ta đã thấy được phần nào trong ngày Sinh nhật này rồi, vì thế Luca viết: “Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”.
Câu chuyện ngày Gioan chào đời bắt đầu bằng niềm vui của láng giềng và kết thúc bằng một dấu hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Dễ hiểu niềm vui này: vui vì một con người được sinh ra, hơn thế nữa, vui vì em bé này là đứa con của lòng dạ son sẻ. Và còn một niềm vui nữa mà láng giềng chỉ mới cảm nhận lờ mờ: Em bé này có một sứ mạng gắn liền với Đấng Mê-si-a, trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Thế nhưng nếu như biết trước được rằng Gioan sẽ kết thúc cuộc đời bằng những ngày tăm tối và cái chết bi thảm trong tù ngục, thì liệu niềm vui chào đời này có trở thành vô duyên, hụt hẫng không? Câu hỏi “đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây” đưa chúng ta đến chỗ cảm nghiệm đầy đủ ý nghĩa của niềm vui trong toàn bộ đời sống và sứ mạng của Gioan: đó là sinh ra để thi hành sứ mạng ngôn sứ dọn đường cho Đức Kitô và chết đi cũng là để hoàn thành sứ mạng ấy.
Những người đang hiện diện hôm nay, sẽ đáp ứng mau lẹ lời kêu gọi của Gioan trong hoang địa: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” (Lc 3, 4-6).
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con chỉ biết sống và chết cho Chúa, vì đó là cách tốt nhất để con sống đời con. Amen.
30. Đứa trẻ này rồi sẽ thế nào đây
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Không những thánh Gioan sống đẹp mà chết cũng rất hào hùng...
Một người láng giềng của tôi thuật lại: Trong thời gian người vợ mang thai, anh cầu ngày cầu đêm cho được con trai. Tối 28 tết, anh chồng thấp thỏm chờ đợi thời khắc đứa con chào đời. Hy vọng sẽ là đứa con trai như lòng anh mong ước.
Thế rồi vào khoảng 10 giờ tối, khi nghe cô đỡ báo tin người vợ sinh con trai, anh quá đỗi vui mừng, vội chạy vào nhà lấy hai dây pháo thật dài, treo ngay dưới hai chuồng bồ câu giữa sân, bật quẹt châm ngòi. Hai tràng pháo nổ giòn vang dội cả xóm. Tất cả bồ câu đông đảo trong hai chuồng hoảng hốt vỗ cánh bay tán loạn không sót một con!
Niềm vui có đứa con chào đời quá lớn khiến người cha trót dại treo hai dây pháo ngay dưới chuồng bồ câu khiến chúng bay sạch, gây tổn thất không nhỏ cho kinh tế gia đình.
Một niềm vui còn lớn hơn nhiều đã đến với hai ông bà Da-ca-ri-a khi bé Gioan chào đời. Mọi người lân cận đến chúc mừng hai ông bà được Chúa thương cho sinh con trong tuổi già. Ai cũng chúc mừng mẹ tròn con vuông. Ai cũng trầm trồ khen đứa bé thật dễ thương đang nằm trong lòng mẹ. Ai cũng mỉm cười với bé, đặt nhiều hy vọng vào bé: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em" (Lc 1,66).
Thế rồi cậu bé Gioan lớn dần lên theo năm tháng mà không để cho bất kỳ ai thất vọng. Người đã sống đẹp và đã chết hào hùng.
Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi nơi gia đình lối xóm, rút vào trong hoang địa khô cằn để sống gắn bó với Thiên Chúa, chú tâm lắng nghe và thực hiện ý Người.
Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, thì người cũng không ngần ngại giới thiệu họ đến với Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa (Ga 1, 36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.
Gioan sống đẹp khi được dân chúng ngưỡng mộ, xem mình như một ngôn sứ cao cả, thì Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà Gioan không đáng cởi quai dép cho (Ga 1, 27), để cho đám đông thôi ngưỡng mộ Gioan mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.
Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: "Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi" (Ga 3, 30).
Đời sống cao đẹp của thánh Gioan đã được Chúa Giêsu nhìn nhận: "Trong các phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan" (Mt 11, 11).
Không những thánh Gioan sống đẹp mà chết cũng rất hào hùng. Thời bấy giờ không ai dám đả động đến hành vi loạn luân của vua Hê-rô-đê với người chị dâu là Hê-rô-đi-a-đê. Chỉ mình Gioan dám đứng lên tố cáo tội lỗi nhà vua cho dù phải lãnh lấy án chết. Gioan anh dũng chấp nhận chết để bảo vệ giềng mối đạo đức cho tôn giáo và xã hội. Đó là cái chết đẹp vô cùng.
Mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta hãy nhớ lại ngày sinh nhật của chúng ta. Đó là giây phút lịch sử đáng ghi nhớ nhất đời. Ngày ấy, cha mẹ, ông bà, cô bác đều mừng vui vì ta được sinh ra đời. Ai cũng muốn nhìn ta, ai cũng mỉm cười với ta, ai cũng muốn bồng ẵm ta... và ai cũng đặt nơi ta một niềm hy vọng: "Trẻ nầy rồi sẽ nên như thế nào?" Cha mẹ và bà con hy vọng ta sẽ có tương lai xán lạn, hy vọng ta sẽ đem lại danh giá cho gia đình và họ hàng. Nhưng mãi cho đến hôm nay, chúng ta đã đáp ứng được niềm hy vọng đó chưa?
Nguyện xin Thiên Chúa giúp chúng ta sống sao cho đẹp như Gioan để không làm cho gia đình họ hàng thất vọng đồng thời để dọn đường cho Chúa đến với mọi người.
Nguyện xin Thiên Chúa giúp ta chết sao cho đẹp, để lại tiếng thơm cho đời như thánh Gioan.
31. Sống đời công chính
“Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 1, 64).
Đời sống con người là một cuộc liên lỉ tìm kiếm sự thiện và quy hướng về sự thiện. Ai cũng muốn sự tốt lành và bình an trong đời. Mong ước đó luôn thôi thúc con người sống một đời tốt lành. Đối với người Kitô hữu, quy hướng về sự thiện là hướng về Thiên Chúa, Đấng là Sự Thiện Tuyệt đối, bằng một đời sống công chính và thánh thiện theo đường lối của Ngài. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta một mẫu gương về đời sống công chính của ông Dacaria và bà Elisabeth.
Hai ông bà được Tin mừng thánh Luca nhắc đến như những người có đời sống công chính vì đã “sống đúng theo mọi giới răn và mệnh lệnh của Thiên Chúa, không ai chê trách được điều gì”(Lc 1, 6). Trong Cựu ước, người công chính là người luôn chu toàn luật Chúa và làm việc bác ái, là người sống đời phó thác, tin yêu dù cho những khó khăn thử thách có làm cho chao đảo. Suốt cuộc đời phải chịu nỗi tủi hổ vì son sẻ, cùng những ánh mắt dèm pha của người đời, hai ông bà vẫn luôn trung thành tuân giữ luật Chúa và không xao lãng việc phụng thờ Thiên Chúa. Ngay cả khi phải đối diện với những truyền thống khắt khe của người đời, hai ông bà luôn lấy sự trung thành với luật Chúa làm kim chỉ nam cho mình. Kết quả như chúng ta được biết: Chúa đã cất đi nỗi tủi nhục cho hai ông bà, khi Ngài ban cho bà Elisabeth được thụ thai và hạ sinh thánh Gioan Tẩy Giả.
Là những người Kitô hữu, sống đời công chính phải là mục tiêu hàng đầu mà chúng ta hướng tới. Chỉ khi sống kiên trì trong đức tin vào Đức Kitô, chúng ta mới trở nên những người công chính và được sống trong bình an của Người (x.Rm 5, 1). Nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được tham dự vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô khi chết cho tội và được tham dự vào sự phục sinh của Người khi được sinh vào đời sống mới. Tất cả là do lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Chính vì thế, ơn công chính hoá đòi buộc nơi chúng ta sự tự do đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, qua việc tuân giữ những điều Chúa Giêsu đã dạy, hết lòng tôn thờ Thiên Chúa và yêu mến tha nhân, chu toàn tốt bổn phận của một Kitô hữu và bổn phận của công dân trần thế. Nếu chúng ta một lòng trung thành tuân giữ điều Chúa dạy, chắc chắn đời sống chúng ta sẽ tràn ngập niềm vui và bình an. Đó chính là phần gia nghiệp Chúa hứa ban cho những ai sống công chính trước Thánh nhan Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã chết và đã phục sinh để chúng con được sống một đời sống mới. Xin ban thêm sức mạnh giúp chúng con luôn kiên tâm tuân giữ lời Chúa chỉ dạy, để đời sống chúng con được nên công chính mỗi ngày, hầu xứng đáng lãnh nhận phần thưởng cao quý mà Chúa đã dành cho chúng con trên thiên quốc. Amen.
32. Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
A. Hôm nay Giáo hội tưởng niệm ngày sinh của một con người mà đã có lần Chúa Giêsu ca ngợi là: “Người cao trọng nhất trong số những người sinh ra bởi người nữ.” (Mt 11,11)
Vâng! Một con người đã được sinh ra trên trần thế.
Vào một buổi trình diễn văn nghệ nọ, trong số đó có những người thợ mỏ, những người đàn ông, đàn bà, con trẻ… đang dự buổi trình diễn, người ta bỗng nghe thấy tiếng khóc của một đứa trẻ con. Bỗng từ trong đám người thợ mỏ, người ta thấy một người có thân hình vạm vỡ, đầu tóc rậm rì, ông đứng lên ghế la lớn:
- Yêu cầu ban nhạc tạm ngưng một lúc, để chúng tôi nghe tiếng khóc của đứa bé. Biết bao nhiêu năm rồi tôi chưa được nghe những âm thanh kỳ diệu ấy.
Thế là cả ban nhạc và các ca sĩ đều dừng lại và tiếng đứa bé khóc càng lớn hơn. Người ta thấy những giọt nước mắt lăn trên gò má của những người xa vợ, xa con, xa chồng…
Đại thi hào Victor Hugo của Pháp đã có lý khi nói: “Không gì buồn thảm cho bằng một ngôi nhà không có tiếng cười, tiếng khóc của những trẻ thơ.” Trẻ thơ là niềm vui, là hy vọng của con người. Người Mỹ thường nói: “Mỗi một trẻ thơ được sinh ra đều có thể làm Tổng Thống tương lai của Hoa Kỳ”.
Thật thế, mỗi một đứa trẻ sinh ra đều là niềm vui, niềm hy vọng cho gia đình, cho dân tộc, cho quốc gia.
Quả thật! không kể Mẹ Maria, Thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh duy nhất được Giáo hội mừng ngày sinh nhật. Ngày sinh của thánh Gioan sẽ loan báo một kỷ nguyên mới cho nhân loại mà Chúa Giêsu sẽ khai mở. Cha của ngài là một người câm, mẹ ngài là một người đàn bà già nua son sẻ. Trong bối cảnh đó, ngày chào đời của Thánh Gioan Tẩy giả loan báo rằng: thời của Đấng Cứu Thế đã đến, thời của sự câm lặng đã trở thành thời của loan truyền ơn cứu độ. Thời mà sự son sẻ đã trở thành đông con nhiều cháu. Ngày sinh của Gioan Tẩy giả là thời loan báo về ngày cứu độ. Lời loan báo mà Thánh Gioan đã không ngừng hô lớn trong những ngày sau này, ngài chính là tiên tri của Chúa, ngài chính là đấng tiền hô của Chúa.
B. Mừng ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả, Giáo hội cũng muốn nhắc nhở mỗi Kitô hữu chúng ta về sứ mạng làm tiên tri và sứ giả của mình. Ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi chúng ta nhớ lại ngày được tái sinh của mỗi người chúng ta.
Nhờ phép rửa, chúng ta đã trở thành ngôn sứ loan báo hồng ân cứu độ của Chúa. Ngọn nến Giáo Hội trao cho chúng ta trong ngày lãnh phép rửa là biểu trưng cho ánh sáng mà chúng ta phải không ngừng chiếu tỏa ra xung quanh. Dù sống trong hoàn cảnh nào, Kitô hữu chúng ta cũng phải có sứ mệnh chiếu toả ánh sáng ấy (Mt 5,16).
Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.
C. Mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy giả, chúng ta cũng còn phải nhớ lại con đường Ngài đã đi qua, con đường ấy được Ngài tóm góm trong khẩu hiệu: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại.” (Ga 3,30)
Chúa Giêsu phải được lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Tạp chí “Truyền bá đức tin” có thuật lại câu chuyện một cụ già Ấn Độ như sau. Lúc còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, rựơu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp nuôi chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đổi phân vân, một đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì cả!
Tuy nhiên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả... nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư tín với chàng mỗi lúc một nhiều... Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ tuyên bố trước mặt họ hàng: “Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên đến 30 mươi người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế cho đến giờ Chúa gọi”.
Vâng cụ già đã biết làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa được lớn lên, lớn lên qua những cánh tay nối dài của Ngài.
Ước gì khẩu hiệu này cũng trở thành lý tưởng và luật sống của mỗi người chúng ta. Sống đối với Kitô hữu chúng ta là sống cho Chúa. Sống đối với Kitô hữu chúng ta là không ngừng khước từ, từ bỏ và cắt xén đi những gì là thừa thãi trong cuộc sống, để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Sống đối với Kitô hữu chúng ta là suy nghĩ và hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của Ngài được chiếu sáng trong chúng ta, và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo cho mọi người.
33. Suy niệm của Lm. Hoàng Xô Băng
“... Được Tạo Thành Cách Lạ Lùng…” (Tv 138,14a).
Theo lời Chúa Giêsu, ông Gioan là kẻ lớn nhất do người nữ sinh ra trong thời Cựu Ước và là ngôn sứ Ê-li-a đã trở lại (Mt 11,8.11.14).
LỊCH SỬ
Lễ kính thánh Gioan Tẩy Giả có từ thế kỷ thứ V, và được đặt vào ngày 24/6, 6 tháng trước lễ Giáng Sinh. Thánh Gioan là vị Thánh được đạc biệt mừng kính vào ngày sinh nhựt thực sự của mình. Toàn thể các Thánh khác đều được mừng vào ngày tứ trần, tức là ngày sinh nhựt trên nước trời.
Gioan Tẩy Giả đã được thánh hiến từ trong dạ mẹ, khi Trinh Nữ Mẹ Chúa Cứu Thế chào bà Ê-li-sa-bét, mẹ của Gioan. Sự kiện đặc biệt ở ngày sinh ra hướng ý cho chúng ta thấy ý nghĩa của Gioan trong lịch sử cứu độ.
So với Tân Ước, Gioan vẫn còn thuộc về Cựu Ước; ngài được Thiên chúa gọi để chuẩn bị dân chúng đón Đức Giêsu đến bằng các bài giảng nói về nước Thiên Chúa và lời kêu gọi sám hối.
Chính Đức Giêsu lãnh nhận phép rửa thống hối từ tay ông ta và những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu cũng xuất thân từ đám môn đệ của Gioan.
Chính Gioan tự giới thiệu mình là tiếng kêu trong hoang mạc, người Tiền Hô cho Đấng vĩ đại đang đến.
Còn Đức Giêsu gọi ông là kẻ lớn nhất do người nữ sinh ra trong thời Cựu Ước và là ngôn sứ Ê-li-a đã trở lại (Mt 11,8.11.14).
(Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
CHIA SẺ VÀ SUY NIỆM
Hôm nay Giáo Hội mừng kính trọng thể Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Khi cậu bé Gioan Tẩy Giả chào đời, người ta cũng đã hỏi tương tự: “Đứa trẻ này rồi sẽ ra thế nào đây?” ( Lc 1, 66 ). Với câu hỏi ấy chúng ta đã có câu trả lời. Cậu bé Gioan càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-el. Gioan đã đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu cho dân Do Thái khi nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
Thánh Gioan Tông Đồ đã tóm tắt cuộc sống của Thánh Gioan Tẩy Giả trong câu nói: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Dưới cái nhìn của con người, như có lần Chúa Giêsu đã khen tặng, Gioan là con người cao cả nhất được sinh ra từ người nữ. Ngày sinh của ngài được đánh dấu bằng những biến cố khác thường. Sự chào đời của ngài đã mang lại niềm vui và hy vọng cho mọi người xung quanh. Vị Ngôn Sứ được xem là cao cả nhất trong lịch sử Ít-ra-el ấy đã lôi kéo được một đám đông mà chưa từng có vị nào trước ngài đã quy tụ được… Thế nhưng, cuối cùng, để hoàn tất sứ mệnh của mình, con người ấy đã nhỏ lại và mất hẳn trong kiếp tù đày và chấp nhận bị chém đầu.
Gioan nhỏ lại trong cái chết, nhưng Chúa Giêsu lớn lên trong mầu nhiệm của Ngài, bởi vì cái chết của Gioan là một loan báo về cái chết của Chúa Giêsu… Nhưng cũng trong cái chết của Chúa Giêsu, cái chết của Gioan mới có ý nghĩa… Trong bóng thập giá của Chúa Giêsu, Gioan đã tìm lại được chính mình.
Bài Tin Mừng hôm nay tập trung vào việc mạc khải diệu kỳ của tên Gioan và biến cố cắt bì đặt tên, hơn là biến cố chào đời của ông Gioan Tẩy Giả. “Yôhannan” ( Gioan ) có nghĩa là: “Đức Chúa tỏ lòng nhân hậu”; “Đức Chúa tỏ lòng xót thương”; “Đức Chúa ban ơn”. Ngang qua cuộc đời của Thánh Gioan Tẩy Giả, Thiên Chúa tỏ cho chúng ta biết Ngài là Đấng từ bi nhân hậu và giàu lòng xót thương. Thiên Chúa đã, đang và sẽ thi thố quyền năng của Ngài cho mọi người chúng ta.
Mỗi người chúng ta đều được cha mẹ đặt tên, khi đặt tên cho con cái cha mẹ nào cũng muốn qua cái tên ấy con cái mình được dễ nuôi, khi lớn lên có cuộc sống thành đạt. Ngày chúng ta chịu phép Rửa Tội, chúng ta lại có một tên mới, gọi là tên Thánh. Khi chọn một vị Thánh làm bổn mạng là ta muốn vị Thánh ấy cầu bầu và che chở chúng ta và chúng ta noi gương bắt chước vị Thánh ấy trên đường nhân đức để nên Thánh.
- Vậy sự hiện diện của chúng ta đã thực sự là “niềm vui và hy vọng” cho chính mình và cho người khác hay chưa?
- Con cái có là niềm vui và hy vọng cho bố mẹ hay không?
- Bố mẹ có là niềm vui và hy vọng cho con cái hay không? Hay là bố mẹ vẫn còn ích kỷ chỉ biết lo cho chính mình, vẫn biện minh cho những hành động sai trái và tội lỗi của mình, sống buông thả theo rượu chè, cờ bạc, ngoại tình và hưởng thủ và nhất là nạo phá thai, tức là nhẫn tâm giết con của mình khi chúng mới được hình thành trong dạ mẹ. Vợ chồng ly dị để con cái bơ vơ. Ai là vợ là chồng đã biết mang lại niềm vui và hy vọng cho người bạn đời của mình chưa? Hay là vợ chồng trở thành gánh nặng cho nhau, bạo hành trong gia đình, lừa dối và phản bội nhau, không còn thuỷ chung.
Chúng ta là con cái Chúa, chúng ta có tên Thánh, nhưng thực sự cuộc sống của chúng ta đã soi lấy tấm gương vị Thánh bổn mạng của mình hay chưa. Hay nói cách khác cuộc sống của chúng ta đã nói lên được rằng: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu, Thiên Chúa tỏ lòng xót thương và Thiên Chúa ban ơn hay chưa? Để rồi mỗi người chúng ta cũng là món quà để trao ban cho người khác và nhất là chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu, ngõ hầu chúng ta là hiện thân của lòng nhân hậu, lòng xót thương của Thiên Chúa.
Chúng ta cầu xin điều gì trong ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy Giả nếu không phải là “tôi phải nhỏ lại để Ngài được lớn lên”. Chúng ta có nhỏ đi trong khiêm tốn để tránh được cái nhìn hẹp hòi ích kỷ của chính mình, chúng ta có chấp nhận teo tóp lại tất cả những ham muốn ganh tỵ bất chính của chính mình, chúng ta có mong muốn vỡ vụn tan biến tất cả những hận thù nhỏ nhen của chính mình, thì lúc đó Đức Kitô mới thực sự lớn lên trong chúng ta.
Chúng ta cầu nguyện sao cho bản thân và cho mọi người được luôn là cầu nối giữa Thiên Chúa với con người, là cầu nối giữa con người với nhau, như một bài hát đã diễn tả: “Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh, gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình, gặp gỡ Đức Kitô nẩy sinh tình đệ huynh”.
34. Gioan Tiền Hô
Thế nào là một người cao trọng? Để đánh giá sự cao trọng của bản thân, chúng ta thường có ba cách:
Cách thứ nhất là bằng cặp mắt của mình
Nghĩa là dựa trên những suy nghĩ và nhận định của chính con người chúng ta. Cách thức này thường không mấy xác thực, bởi vì cái nhìn của chúng ta thường chủ quan, chúng ta thường đưa ra 1001 lý do để biện minh cho những sai lỗi của chúng ta. Chúng ta thường rộng rãi với bản thân mà lại nghiêm khắc với những người chung quanh, vì tự thẳm sâu cõi lòng, ai trong chúng ta cũng có một chút khuynh hướng kiêu căng, muốn được ca tụng, muốn được để ý tới. Đánh giá bản thân bằng chính cặp mắt của mình là cân đo bằng một loại thước bị thiếu hụt, không chính xác...
Cách thứ hai là bằng cặp mắt của người khác
Nghĩa là dựa trên dư luận, dựa trên những phán đoán của những người chung quanh. Cách thức này cũng thường không đem đến sự thật, vì dư luận là dư luận. Cùng một sự kiện mà mỗi người nhìn một cách thức tùy theo cảm tình của mình:
- Yêu nên tốt, ghét nên xấu.
Chính vì thế mà dư luận thường thổi phồng và bóp méo, không mấy khi được thống nhất:
- Yêu nhau cau bảy bổ ba,
Ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười.
Cách thứ ba là bằng cách nhìn của Chúa
Đây mới là một cách thức vừa cần thiết vừa trung thực nhất. Vậy thì ai là người cao trọng dưới mắt Chúa. Tôi xin thưa, đó là người khiêm nhường không chút kiêu căng.
Sự khiêm nhường ấy được biểu lộ trước hết là trong tư tưởng, nhận đúng thân phận của mình chỉ là tôi tá của Chúa. Đây cũng là điều chúng ta phải lưu ý bởi vì nhiều khi sự khiêm nhường của chúng ta chỉ là một thứ khiêm nhường giả hiệu, che lấp thói kiêu căng của chúng ta.
Tiếp đến là biểu lộ qua lời nói. Không đề cao bản thân, bởi vì chúng ta chỉ là dụng cụ trong bàn tay Thiên Chúa, sở dĩ chúng ta làm được việc nọ việc kia, tất cả đều do ơn lành của Chúa.
Sau cùng, biểu lộ qua việc làm. Sẵn sàng chấp nhận những hy sinh gian khổ, những địa vị thấp kém, miễn sao phục vụ Chúa và anh em. Khiêm nhường như thế chính là mẹ của các nhân đức, chính là cội nguồn thánh thiện.
Với những tiêu chuẩn kể trên thánh Gioan Baotixita quả thực là một người khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa. Mặc dù không làm được việc chi vĩ đại, nhưng Gioan đã được Chúa Giêsu khen tặng:
- Trong số những người nam không có ai cao trọng hơn Gioan.
Sở dĩ như vậy là vì Gioan đã sống tâm tình khiêm nhường. Mặc dù được mọi người ngưỡng mộ, ông đã hạ mình xuống và nói:
- Tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu Thế.
Ông đã làm mọi việc để cho Chúa được nhận biết và tôn vinh. Ông đã để cho các môn đệ thân yêu bước theo Chúa Giêsu và đã giới thiệu Chúa Giêsu cho đám đông:
- Đây Chiên Thiên Chúa, đây đấng gánh tội trần gian. Ngài cần phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi.
Thân phận của ông chỉ là thân phận của một tiếng kêu trong sa mạc. Gioan càng khiêm nhường thì lại càng được Chúa mến yêu như lời Mẹ Maria đã nói:
- Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao mọi người phận nhỏ.
35. Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Giuse Phạm Quốc Văn, OP.)
Chúng ta vừa được nghe những bài đọc lời Chúa. Những bài đọc đó xác tín về ơn gọi của vị ngôn sứ. Bài đọc thứ nhất trích sách ngôn sứ Isaia. Qua bài đọc này, chúng ta bắt gặp cảm nhận cũng như kinh nghiệm về ơn gọi của Isaia. Isaia đã xác tín: Đức Chúa gọi tôi, từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời. Ơn gọi không phải là sự bất chợt nhưng là một sự xác tín sâu xa. Thiên Chúa đã chọn gọi vị ngôn sứ của Người, Thiên Chúa đã thánh hiến vị ngôn sứ bằng chính than hồng để ngôn sứ ra đi loan báo lời của Đức Chúa.
Chắc hẳn khi phụng vụ chọn lựa bài đọc này, muốn chúng ta nhìn về ơn gọi của vị tiền hô Gioan. Thánh Gioan cũng được chọn lựa ngay từ khi còn trong lòng mẹ để trở nên một đấng đi trước dọn lối cho Đấng Mesia. Thánh Gioan cũng xác tín vào ơn gọi của mình, để suốt cuộc đời của mình, Gioan đã trở nên tiếng hô loan báo Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan đã khắc họa hình ảnh của một vị ngôn sứ thật sống động trong lời nói và đặc biệt trong đời sống của mình. Ông đã giới thiệu Chúa Giêsu trong con người của mình. Qua cảm nhận về ơn gọi của Isaia, cảm nhận về ơn gọi của Gioan Tiền hô, mỗi chúng ta cũng được mời gọi để xác tín về ơn gọi của mỗi chúng ta trở thành nhân chứng của Lời. Để lời giảng của chúng ta có sức biến đổi, có sức diễn tả về Chúa cho anh chị em của mình. Xưa kia Isaia đã chuẩn bị những con đường cho Đức Chúa đến với dân. Hãy dọn con đường trong hoang địa, những con đường ấy dẫn Chúa đến với dân tộc lưu đầy.
Và rồi nếu ta đọc Tin Mừng Luca, ta cũng sẽ bắt gặp những lời như vậy được diễn tả cho Gioan. Trong hoang địa, có tiếng hô hay có tiếng người hô trong hoang địa hãy dọn con đường cho Đức Chúa. Thánh Gioan đã dọn con đường để giới thiệu Chúa Giêsu: đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Ngày hôm nay, chúng ta giới thiệu về Chúa như thế nào cho anh chị em của chúng ta? Làm sao ta có thể như Isaia, đem Chúa đến cho một dân tộc lưu đầy? Ngày hôm nay, chúng ta được mời gọi đến với anh chị em không phải trong hoàn cảnh lưu đầy về địa lý, mà có thể đang lưu đày trong những hoàn cảnh khác nhau: đang thiếu thốn tình thương, đang thiếu thốn sự công chính, đang thiếu thốn sự nhận biết Thiên Chúa. Đó phải là những biên cương mà ngôn sứ cần loan báo. Cũng như thánh Gioan đã chấp nhận trở nhận trở nên nhỏ bé, đã khiêm tốn:không đáng cởi dây dép cho Đấng Cứu Thế. Chính sự khiếm tốn ấy đã giúp Gioan hạ mình để cho Chúa được lớn lên.
Khi giới thiệu Chúa cho anh chị em của mình, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi mỗi ngày trở nên khí cụ sống động đẻ loan báo nước Chúa cho anh chị em. Xin Chúa củng cố lời giảng của mỗi người chúng ta bằng những chứng từ sống động. Amen.
36. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe tường thuật lại biến cố Thánh Gioan Tẩy Giả được sinh ra. Biến cố này không chỉ là niềm vui cho ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét, mà còn là niềm vui cho cả dòng tộc và làng xóm láng giềng xung quanh. Thánh sử Luca cho ta biết, khi Gioan được sinh ra,“láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà” (Lc 1,58). Đoạn Tin mừng hôm nay cũng kể lại việc đặt tên cho con trẻ sau biến cố Gioan được sinh ra tám ngày. Đây cũng là một việc lạ lùng và thể hiện sự quan tâm của ông bà và anh em họ hàng. Thánh Luca kể lại: “Họ lấy tên Da-ca-ri-a của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan. Họ bảo bà rằng: Không ai trong họ hàng bà có tên đó. Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: Tên nó là Gioan. Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó” (Lc 1,59-66). Sau đó, Thánh Luca tóm gọn cuộc sống ẩn dật của Thánh Gioan Tẩy Giả trong câu kết của đoạn Tin mừng: “Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel” (Lc 1, 80).
Cả hai biến cố trên đây (ngày sinh và ngày đặt tên) và việc “con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng” cho chúng ta thấy niềm vui mừng và sự quan tâm săn sóc không chỉ của vợ chồng ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét mà còn là niềm vui và sự quan tâm của cả dòng tộc, của láng giềng đối với sự chào đời và lớn lên của trẻ Gioan. Vậy, thử hỏi phải chăng con trẻ nào cũng được đón chào và quan tâm như thế không? Chắc chắn là không! Thời nào cũng vậy, chúng ta có thể thấy được điều này xuyên qua ba thái độ sau:
Thái độ vui mừng và đón nhận đầy tinh thần trách nhiệm: Mới đây có một đôi vợ chồng trẻ nói với tôi: Chúng con đã cưới nhau được mấy năm rồi mà chưa có “dấu hiệu” gì cả. Xin cha cầu nguyện cho vợ chồng con sớm có em bé. Ước mong của đôi vợ chồng trẻ trên đây cũng là mong ước của rất nhiều cặp vợ chồng khác. Khi mới cưới nhau họ mong muốn sớm có em bé. Vì thế, họ vui mừng khi biết có em bé đã hình thành trong lòng mẹ. Nhất là khi việc đó đến với những cặp vợ chồng hiếm muộn. Chính bà Ê-li-sa-bét, khi biết mình có thai đã vui mừng thốt lên rằng: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1,25). Tâm trạng của các bậc làm cha mẹ lúc này là: Họ vui mừng chờ đợi ngày em bé chào đời. Họ lo lắng làm thế nào để đứa trẻ chào đời được khỏe mạnh. Cũng vì thế, nên họ tạo mọi điều kiện cho đứa trẻ được lớn lên trong môi trường tốt nhất. Khi đứa trẻ được sinh ra, họ cho đứa trẻ được ăn uống điều độ. Họ giáo dục đứa trẻ một cách toàn diện: nhân bản, tri thức và đạo đức. Họ giúp đứa trẻ vui chơi lành mạnh. Nhờ thế, đứa trẻ lớn lên trở thành người tốt, có ích cho gia đình, cho Giáo hội và xã hội.
Thái độ vô trách nhiệm hoặc dửng dưng: Rất nhiều bậc cha mẹ thiếu trách nhiệm trong việc chuẩn bị cho đứa trẻ trước khi sinh ra. Vô trách nhiệm khi đứa trẻ được chào đời. Họ không sẵn sàng đón nhận đứa trẻ chào đời. Họ không quan tâm giáo dục đứa trẻ nên người. Họ không làm gương sáng. Thậm chí, họ còn làm gương mù gương xấu, đó là lối sống bất hòa, ly thân, ly dị…Để lại hậu quả là: có những đứa trẻ không được chào đời; có những đứa trẻ không được giáo dục về đời sống nhân bản, tri thức và đạo đức; có những đứa đứa trẻ phải trở thành bụi đời, bị băng hoại bởi môi trường xấu; có những đứa trẻ trở thành nạn nhân của sự lạm dụng: lạm dụng tính dục; lạm dụng sức lao động; lạm dụng để làm những điều bất chính. Cuối cùng, chúng trở nên ghánh nặng cho gia đình, Giáo hội và xã hội.
Thái độ khước từ sự sống: Nhiều cặp vợ chồng muốn hạn chế việc sinh con cái. Họ muốn theo chủ trương của xã hội là sinh 1 đến 2 con. Có nhiều lý do, nhưng có lẽ lý do trên hết là vì họ ích kỷ không muốn hy sinh. Vì thế, khi vỡ kế hoặch, họ quyết định phá thai. Ngoài ra, có những trường hợp phá thai vì hậu quả của những quan hệ bất chính. Theo thống kê của WHO mỗi năm trên thế giới có khoảng 46 triệu phụ nữ phải nạo phá thai, chỉ có 27 triệu ca nạo phá thai hợp pháp và số còn lại là 19 triệu ca bất hợp pháp. Riêng tại Việt Nam, tỷ lệ nạo phá thai đứng đầu Đông Nam Á và xếp thứ 5 trên Thế giới. Bình quân mỗi năm cả nước có khoảng 300.000 ca nạo phá thai, chủ yếu là ở độ tuổi từ 15 - 19, trong đó 60% - 70% là học sinh, sinh viên (Nguồn: internet). Thái độ của những người trên đây là thái độ từ chối sự sống. Thái độ của những người này cướp đi quyền sinh tử của Thượng Đế.
Thái độ của chúng ta thì sao? Giáo hội luôn mời gọi mọi người kitô hữu, nhất là những bậc làm cha mẹ phải biết tôn trọng sự sống ngay từ khi mới hình thành trong lòng mẹ. Không được phép phá thai dưới bất cứ hình thức nào. Vì phá thai là giết người và đó là một tội ác. Giáo luật dạy: “Ai thi hành việc phá thai, và việc phá thai có kết quả sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết” (Đ. 1398). Không chỉ tôn trọng sự sống ngay khi còn ở trong lòng mẹ, mà còn cần phải có trách nhiệm bảo vệ các trẻ em vị thành niên. Phải quan tâm giáo dục chúng nên người, không để chúng rơi vào các tệ nạn xã hội. Không để chúng bị lạm dụng tính dục, sức lao động hay bị lợi dụng để làm những điều bất chính. Thư chung của HĐGM Việt Nam năm 2013 dạy rằng: “Gia đình là cộng đoàn phục vụ sự sống, được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa Hằng Sống. Vợ chồng Kitô hữu yêu thương nhau bằng một tình yêu mở ra với sự sống, tôn trọng sự sống ngay từ lúc thụ thai, cộng tác với Thiên Chúa Tạo Hóa qua việc sinh con có trách nhiệm, giáo dục con cái nên người tốt và nên con cái Chúa. Gia đình phải là ngôi trường đầu tiên dạy các đức tính nhân bản và đức tin, là thành trì bảo vệ sự sống thể lý cũng như tinh thần của con cái trước sự tấn công của cái ác và cái xấu trong cuộc sống. Vì thế, các bậc cha mẹ phải ý thức trách nhiệm của mình là những nhà giáo dục đầu tiên và không thể thay thế, bằng chính gương sáng của mình”(x. số 6).
Người Mỹ thường nói: “Mỗi một trẻ thơ được sinh ra đều có thể làm Tổng Thống tương lai của Hoa kỳ.” Chúng ta có thể biến hóa câu nói trên thành: “Mỗi đứa trẻ sinh ra có thể là Giáo Hoàng, Hồng Y, Giám Mục, Linh mục, thầy dòng, bà Sr…của Giáo hội hay trở thành người kitô hữu tốt, một công dân tốt.” Khi có cái nhìn đầy lạc quan và hy vọng như thế, chắc hẳn ai cũng biết tôn trọng sự sống, biết bảo vệ và quan tâm săn sóc các trẻ em. Vì mỗi đứa con sinh ra không đơn giản chỉ là kết quả của tình yêu “tự nhiên”, nhưng là hoa trái, là món quà, và là tặng phẩm mà Thiên Chúa đã thương ban cho chúng ta trong đức tin. Mỗi đứa trẻ còn được Thiên Chúa giao phó cho một sứ mạng tương tự như trẻ Gioan mà chúng ta mừng sinh nhật hôm nay. Ước mong rằng, các bậc cha mẹ luôn biết tôn trọng sự sống của con cái ngay từ khi bắt đầu hình thành trong lòng mẹ. Đồng thời, tất cả các trẻ em ra đời được sự quan tâm và bảo vệ của mọi người.
Lạy Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cho mỗi người chúng con luôn biết tôn trọng sự sống, quan tâm bảo vệ các trẻ em và giúp chúng nên người. Amen.
37. Ngài phải lớn lên
Hẳn rằng nhiều người trong chúng ta đã được nghe câu chuyện ngụ ngôn của Lafontiane về con ếch và con bò. Câu chuyện ngụ ngôn ấy đại khái như thế này:
Ngày kia con ếch nhìn thấy một con bò thật to lớn và vĩ đại, thật cực kỳ và hết ý. Thế là con ếch liền mong sao cho mình cũng được to lớn và vĩ đại, cực kỳ và hết ý như vậy.
Từ tư tưởng biến thành hành động, từ ước muốn đi tới việc làm, con ếch bắt đầu uống nước cho bụng mình được phình to. Cứ thế, cứ thế, nó uống mãi uống hoài, nhưng vẫn chưa to được bằng con bò. Nó lại tiếp tục uống. Và rồi một tiếng nổ vang lên. Bụng nó vỡ tan thành từng mảnh nhỏ.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy tự thẳm sâu cõi lòng, ai cũng muốn được người khác để ý tới và lên tiếng ca tụng. Ai cũng muốn nâng mình lên chứ chẳng ai lại thích hạ mình xuống. Ai cũng ươm mơ giấc mộng của Adong Evà, đó là được trở nên bằng Thiên Chúa.
Có một câu danh ngôn đã xác quyết như sau:
- Tham vọng của các nhà chính trị là được để lại một vài dòng về mình trong lịch sử.
Nếu so sánh với Gioan Tiền hô, chúng ta thấy thái độ của chúng ta hoàn toàn trái ngược với thái độ của thánh nhân, bởi vì lập trường của thánh nhân đó là: Ngài cần phải lớn lên còn mình phải nhỏ đi.
Trong khi đó, chúng ta lại dồn mọi nỗi lực, mọi cố gắng vào việc làm cho bản thân mình được to lớn, được vĩ đại, được cực kỳ, được hết ý, còn Thiên Chúa thì bị nhỏ đi, bị cho ra rìa và bị đứng bên lề cuộc đời của chúng ta.
Thánh Gioan Tiền hô đã nói và đã làm. Trước hết, để Thiên Chúa được lớn lên trong tâm hồn mình, thì như Tin mừng đã ghi lại: ngay từ thời niên thiếu, thánh nhân đã vào trong hoang địa, sống một cuộc sống khắc khổ, ăn châu chấu với mật ong rừng, để có đủ thời gian và thinh lặng cần thiết hầu kiết hiệp với Thiên Chúa.
Một khi đã có Thiên Chúa ở trong lòng, thánh nhân còn đem Ngài đến cho người khác và muốn cho Ngài cũng được lớn lên trong tâm hồn của họ.
Chính vì thế, thánh nhân đã xuất hiện bên bờ sông Giócđan, rao giảng việc sám hối ăn năn, chỉ bảo cho dân chúng biết những sai lỗi và khuyết điểm của họ, để họ cố gắng uốn nắn sửa đổi, nhờ đó cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, cũng như nhờ đó dọn đường đón mừng Đấng Cứu Thế.
Và khi Đức Kitô đi ngang qua, thánh nhân đã long trọng giới thiệu Ngài cho đám đông:
- Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian.
Mặc dù đã qui tụ được nhiều môn đệ và đông đảo dân chúng, thánh nhân cũng đã sẵn sàng để cho họ bước theo Đức Kitô, không hề ngăn cản, không hề buồn phiền, không hề tức tối.
Và khi Đức Kitô bắt đầu rao giảng Tin mừng, thì vai trò của thánh nhân thực sự nhỏ đi, bản thân của thánh nhân thực sự chìm vào kiếp sống tù dày và tăm tối, để rồi cuối cùng đã kết thúc bằng một cái chết đau đớn.
Còn chúng ta thì sao?
- Là người Kitô hữu, chúng ta có bổn phận phải có Chúa trong tâm hồn và phải mang Chúa đến cho người khác.
- Là người Kitô hữu, chúng ta phải trở nên những tiền hô, dọn đường Chúa đến trong cuộc đời mình, cũng như trong cuộc đời người khác.
Vì thế, mỗi người chúng ta hãy hồi tâm xét mình, hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã làm được những gì để Đức Kitô thực sự lớn lên trong tâm hồn chúng ta cũng như thực sự lớn lên trong tâm hồn những người chung quanh?
38. Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Phêrô Dương Hải Văn SDB)
Chúa Giêsu đã gọi thánh Gioan Tẩy Giả là người cao trọng nhất trong tất cả mọi người và là người đến trước Ngài để kêu gọi mọi người ăn năn sám hối: “Tôi nói cho anh em biết, trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan; tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông” (Lc 7:28).
Thánh Gioan Tẩy Giả là con ông Dacaria (tư tế Do Thái) và bà Êlisabet. Hai ông bà không có con cái dù đã cao niên và quá tuổi sinh con. Thế nhưng Thiên Chúa đã ra tay uy quyền và thương ban cho hai ông bà một người con trai, là chính Gioan. Trong phiên trực của ông Dacaria ở Đền thờ Giêrusalem, thì Tổng lãnh Thiên thần Gabriel đã hiện ra với ông và thông báo rằng vợ chồng ông sẽ sinh con trai, tên con trẻ đó sẽ là Gioan. Ông không tin sứ điệp của Sứ thần Gabriel là sự thật, thế nên ông bị câm cho tới khi Gioan ra đời (Lc 1:5-25). Lúc đó, mọi người trong gia tộc muốn đặt tên cho con trẻ theo tên cha, nhưng ông Dacaria xin tấm bảng và ghi: “Tên cháu là Gioan” (Lc 1:63). Ai cũng thấy lạ. Rồi ông nói được như trước. Mọi người lại càng kinh ngạc hơn. Ông Dacaria liền dâng lời chúc tụng Thiên Chúa bằng bài ca Chúc tụng (Benedictus), nói về thiên chức tiên tri, sứ giả và tiên phong của con trẻ Gioan (Lc 1:67-79).
Thời gian đầu của cuộc đời rao giảng, thánh Gioan sống khổ hạnh trong hoang địa, sau đó ngài bắt đầu rao giảng Nước Trời và kêu gọi mọi người canh tân đời sống. Ngài là người dọn đường cho Chúa Giêsu đến qua việc làm phép rửa bằng nước để kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, còn Đấng sắp đến sẽ rửa với Thần Khí và lửa. Ngài tự nhận mình không đáng cởi quai dép cho Đấng đến sau ngài, là chính Đức Giêsu. Đồng thời ngài cũng đã tỏ thái độ của mình đối với Chúa Giêsu khi nói rằng: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3:30).
Sự cao trọng của thánh Gioan, một địa vị then chốt trong lịch sử cứu chuộc, được nhận thấy qua tường thuật của thánh Luca về sự sinh hạ và các biến cố sau đó của thánh Gioan. Cả hai yếu tố này đều xảy ra song song với cuộc đời của Đức Giêsu. Thánh Gioan thu hút được rất nhiều người đến bờ sông Giođan, và một số người đã coi ngài như Đấng Thiên Sai, nhưng ngài luôn luôn chỉ đến Đức Giêsu, ngay cả một số môn đệ của ngài cũng được sai đến để trở thành các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu.
Khi còn ở trong tù, thánh nhân đã sai một số môn đệ đến hỏi xem Chúa Giêsu có phải là Đấng Thiên Sai hay không. Và ngài đã nhận được câu trả lời rằng Đấng Thiên Sai là Người Tôi Tớ Đau Khổ trong sách tiên tri Isaia. Không chỉ vậy, chính thánh Gioan cũng đã thông phần đau khổ với Đức Giêsu khi ngài bị chém đầu vì sự trả thù của Hêrôđia.
Thánh Gioan sinh trước Chúa Giêsu khoảng 6 tháng, nên lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả vào ngày 24-6, trước lễ Giáng sinh đúng 6 tháng. Thánh Gioan Tẩy Giả là một trong số ít các thánh được Giáo Hội mừng sinh nhật; không chỉ vậy, ngài còn được Giáo Hội nhớ giỗ vào ngày 29-8 hàng năm.
Lạy Thánh Gio-an Tẩy Giả, xin ban cho chúng con lòng can đảm để chỉ biết nói lên sự thật và làm chứng cho sự thật và sống theo sự thật. Xin ban cho chúng con cũng biết nhỏ lại với sự yếu hèn và tội lỗi của mình, để Chúa được lớn lên trong chúng con mỗi ngày. Cũng như xin ban cho chúng con tâm hồn và sức sống của các vị ngôn sứ để chúng con biết làm chứng về Chúa trong cuộc đời chúng con.
39. Hiện diện để trở nên chứng nhân
(Suy niệm của Tu Sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
Trước lễ Chúa Giáng Sinh 6 tháng, tức ngày hôm nay, cả Giáo Hội hân hoan mừng kính sinh nhật vị thánh đặc biệt có tên là Gioan Tẩy Giả. Đây là điều ngoại lệ trong phụng vụ Giáo Hội, bởi lẽ, không có một vị thánh nào được mừng sinh nhật ngoại trừ Mẹ Maria và Đức Giêsu. Các vị thánh khác thường được mừng kính ngày sinh nhật của các ngài trên trời, tức là ngày mất. Sự kiện đặc biệt này cho thấy điều cao trọng nơi con trẻ có tên là Gioan. Bởi vì, chính con người, ơn gọi và sứ vụ của Gioan gắn liền với cuộc đời Chúa Cứu Thế, hay nói cách khác, sứ vụ ngôn sứ của ngài nối liền giữa Cựu Ước và Tân Ước. Chính vì điều này mà Giáo Hội mừng kính trọng thể lễ sinh nhật của ngài hôm nay.
Dấu gạch nối giữa Gioan và Đức Giêsu
Mang trong mình sứ vụ tiền hô, nên Gioan đã trở thành người loan tin, chuẩn bị và dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Sứ vụ của ông gắn liền với sứ vụ Đức Giêsu. Vì thế, Gioan đã trở thành người loan báo Tin Mừng cho nhân loại về Đức Giêsu, nhưng khi Đức Giêsu đến, Ngài chính là nội dung Tin Mừng. Gioan là tiếng hô trong hoang địa, còn Đức Giêsu chính là Đấng hiện diện như những gì đã loan báo. Gioan chuẩn bị lòng dân nhớ lại lời hứa bằng việc nhắc cho biết những điều đã được tiên báo về Đấng Mêsia, Đức Giêsu đến đã làm cho những lời tiên trưng về Ngài được ứng nghiệm. Gioan kêu gọi sống công bằng bác ái, khi Đức Giêsu đến, Ngài đã thực hiện rõ nét tình thương của Thiên Chúa trên dân của Ngài. Gioan làm phép rửa thống hối và kêu gọi người ta ăn năn, Đức Giêsu đến, Ngài ban ơn tha thứ và cứu chuộc hết mọi người bằng chính máu của Ngài đổ ra trên thập giá.
Tắt một lời, nếu Gioan là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế, thì khi Đức Giêsu đến, Ngài chính là con đường. Nếu Gioan là tiếng hô trong hoang địa, thì Đức Giêsu chính là nội dung tiếng hô đó.
Như vậy, cuộc đời và sứ vụ của Gioan gắn liền với con người và sứ vụ Đấng Cứu Thế. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi việc truyền tin cho Đức Maria và bà Êlisabét đều chung một sứ thần Gabriel; Gioan và Đức Giêsu là anh em họ hàng với nhau. Cả hai được sinh ra bởi những người phụ nữ rất đặc biệt đã được tiền định. Được đặt tên ngay khi mới truyền tin: Gioan, nghĩa là Tiền Hô; Giêsu nghĩa là Cứu Thế. Gioan chịu tử đạo vì sứ vụ làm chứng cho sự thật, công bằng. Đức Giêsu cũng chết vì lẽ công chính và sự thật để cứu chuộc nhân loại.
Tuy hai cuộc đời gắn liền với nhau, nhưng Gioan luôn ý thức mình chỉ là vai phụ trong một thước phim vĩ đại. Khi đã hoàn tất sứ vụ, ông đã khiêm nhường lui vào hậu trường để cho nhân vật chính xuất hiện.
Gioan là con người khiêm nhường
Chính vì sự khiêm nhường của Gioan đã làm cho ngài trở thành vĩ đại, bởi lẽ, nhân đức khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức. Nếu cuộc đời và sứ của Gioan luôn gắn liền với cuộc đời và sứ vụ của Đức Giêsu, thì đức tính khiêm nhường cũng luôn theo sát Gioan an như hình với bóng.
Chính vì điều này, mà mỗi khi nói về Gioan, người ta không thể không nhắc đến sự khiêm nhường nơi ông.
Điều này đã được chứng minh cách cụ thể như:
Sau khi đã hoàn tất việc loan báo, Gioan đã: “Để Chúa lớn lên, còn ông nhỏ lại”; bởi vì ông luôn ý thức: “Tôi chỉ là tiếng hô…”.
Hay khi uy tín của ông nổi lên như cồn, nhiều người đã thầm nghĩ đây phải là Đấng Cứu Thế mà bấy lâu dân đang mong ngóng đợi chờ… Lẽ ra ông phải tự hào và khẳng định thân thế, vai trò của mình một cách “hoành tráng!”. Không! Với ông, điều này không thuộc bản chất, vì thế Gioan đã tìm dịp thuận tiện để hướng sự kính trọng của dân về Đức Giêsu, vì thế, khi thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông đã nói cho các môn đệ của mình về Đức Giêsu rằng: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian….Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Ngài” (Ga 1,15).
Cũng chính vì sự khiêm nhường thẳm sâu, nên Gioan đã không sử dụng uy tín của mình để phục vụ hay đứng về điều bất chính, vì thế, ngài đã sống một cuộc đời ngay thẳng, cương trực, không chấp nhận nhu nhược trước tội lỗi cho dù có được trọng thưởng tiền bạc và chức quyền. Vì thế, Gioan đã chấp nhận chết dưới lưỡi gươm của Hêrôđê khi dám đứng lên phản đối hành vi bất chính của vị vua này.
Với tất cả những ưu điểm ấy, nên Gioan đáng được Đức Giêsu trọng thưởng khi nói: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11, 11).
Sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi mừng lễ sinh nhật thánh Gioan, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta về bổn phận ngôn sứ của mình đã lãnh nhận ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Ngày ấy, chúng ta được mời gọi trở nên Ánh Sáng cho mọi người, tức là chiếu dọi Ánh Sáng của Đức Kitô cho anh chị em chúng ta.
Vì thế, dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta đều được mời gọi trở nên sứ giả cho Đức Kitô.
Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.
Bên cạnh đó, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta hãy trở nên sứ giả Tin Mừng trong sự khiêm nhường. Nếu không khiêm nhường, sứ vụ bị phá hoại.
Mỗi người cần thuộc nằm lòng và đem ra áp dụng trong cuộc sống câu nói và lựa chọn của Gioan khi xưa: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”.
Hơn nữa, Giáo Hội cũng nhắc lại cho chúng ta sứ điệp mà Gioan đã loan báo, đó là: sám hối. Hành vi sám hối là động thái cho mọi người mọi nơi. Không sám hối thì không được cứu độ.
Cuối cùng, noi gương Gioan, chúng ta không có con đường nào khác để trở nên chứng nhân cho Chúa thực sự nếu không sống sự thật. Bởi vì Tin Mừng và con người Đức Giêsu chính là sự thật toàn vẹn. Nếu không sống sự thật, chúng ta loan báo lệch lạc sứ vụ Tin Mừng nếu không muốn nói là phản bội sứ vụ.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con ý thức được vai trò quan trọng của mỗi người khi được Chúa cho xuất hiện trên trần gian này. Xin cũng ban cho mỗi người chúng con biết chu toàn bổn phận trong lòng mến và khiêm nhường như Gioan khi xưa. Amen.
40. Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm. Gioakim Nguyễn Tấn Đạt)
Khi nhắc đến thánh Gioan Tẩy Giả, có thể điều đọng lại nơi tâm trí chúng ta là tâm tình của Mùa Vọng với tiếng kêu đầy chất vấn trong hoang địa và cuộc tử đạo hào hùng của một con người luôn đứng về phía chân lý.
***
Kính thưa cộng đoàn
Hai hình ảnh nhưng cùng một hướng đi và có cùng một điểm xuất phát. “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Is 1,5). Chúng ta đang muốn nói đến ngày sinh của Gioan Tẩy Giả, với bậc Lễ trọng mà hàng năm Giáo hội cử hành, bên cạnh lễ sinh nhật của Chúa Giêsu và Mẹ Maira.
Thưa cộng đoàn,
Không phải ngẫu nhiên mà Giáo hội lại cử hành trọng thể lễ sinh nhật của Thánh Gioan Tẩy Giả. Bởi lẽ chính biến cố này đem lại cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta muôn hồng phúc phát xuất từ Thiên Chúa. Thánh nhân là vị ngôn sứ cuối cùng, đúng hơn là ngôn sứ “gạch nối” giữa Cựu ước và Tân ước, là người trực tiếp chỉ cho muôn dân nhận biết Đấng là Chiên Thiên Chúa (x Ga 1,29), để ai tin sẽ được cứu độ. Hơn nữa, Thánh nhân gợi lại trong mỗi một kitô hữu chúng ta điểm xuất phát và hướng đi của cuộc đời mình.
Cả ba bài đọc trong thánh lễ hôm nay như là sợi chỉ xuyên suốt, không những cùng hướng về ơn gọi của Gioan mà còn xuyên suốt từ thời của Ngài đến thời đại chúng ta hôm nay. Bài đọc thứ nhất nói về ánh sáng của người tôi tớ Thiên Chúa. Bài đọc thứ hai cho ta thấy hình ảnh của một ngôn sứ. Và bài Tin Mừng, thi vị hơn, gần gũi hơn, khi nhắc đến cái Tên. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đặt tên cho ai thì cuộc đời người đó gắn liền với một sứ mạng cao cả. Gioan là cái tên được Thiên Chúa đặt cho đứa trẻ được sinh ra trong một hoàn cảnh đặc biệt khi cha mẹ đã cao niên, tức ông Giacaria và bà Êlisabet. Từ đó một vị ngôn sứ cao cả xuất hiện, một ngọn đèn luôn tỏa sáng.
Trong sách tiên tri Amốt có lời chép:
“Sư tử đã gầm lên: ai mà không sợ hãi
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã phán, ai chẳng nói tiên tri?” (Am 3,8)
Chúa đã đặt tên cho Gioan, cũng có nghĩa là Chúa mời gọi, Chúa đã phán. Và Gioan đã mở lời. Tiếng nói của Gioan không chỉ là tiếng nói của lương tâm cá nhân mà còn là tiếng nói của chính Thiên Chúa. Tiếng đó có thể kêu to như tiếng kêu trong hoang địa (x Lc 3, 4-5), nhưng cũng có thể âm thầm đi sâu, chạm thấu vào lòng người như cái ngày bên dòng sông Giođan (x Lc 3, 10-18). Tiếng đó có thể được mọi người kính trọng (x Mc 6, 17- 20; 11,32) mà cũng có thể đụng chạm đến sự ganh ghét, thù oán của người khác. Nhưng dẫu trong hoàn cảnh nào, tiếng đó phải được định hướng bởi một tiếng nói của ơn gọi, của cái tên: “Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3,30). Đúng vậy, cũng như tiếng kêu, ngọn đèn mang tên Gioan không bao giờ tắt nhưng chiếu sáng mãi mãi dù xung quanh tiềm ẩn nhiều bóng tối, dù còn đó những ngọn gió muốn thổi tung tất cả từ tứ phía. Ánh sáng đó vẫn chiếu tỏa cho nhân loại nhưng vẫn luôn hạ mình trước quyền năng Thiên Chúa: “Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người”.
Con người và tiếng nói của Gioan trong ngày mừng sinh nhật cách trọng thể hôm nay, đã vang vọng và đụng chạm đến mọi thời của nhân loại, đến cuộc sống của từng người chúng ta hôm nay. Cũng như Gioan, ai trong chúng ta cũng đều có một điểm xuất phát với cái tên, và theo đó là một ơn gọi và một đích nhắm để bước đi. Cái tên không hẳn theo nghĩa đen như mong muốn của cha mẹ nhưng tên mỗi người được Thiên Chúa khắc ghi, gắn liền với con người độc đáo, với ơn gọi, từ trước khi được thành hình trong dạ mẹ, trước khi chúng ta chào đời. Điều quý giá nơi con người không hệ tại ở cái họ CÓ, cái họ LÀM mà chính yếu nơi cái họ LÀ. Chúng ta là ánh sáng, là phát ngôn của Thiên Chúa. Ánh sáng của chúng ta không phải là ánh sáng nhân tạo, do chính ta hay ai đó làm ra nhưng là ánh sáng phát xuất từ Thiên Chúa chân thật. Tính cách ngôn sứ nơi chúng ta không là sự tùy hứng, không lập lờ nước đôi theo kiểu gió hướng nào ngả về hướng đó, cũng càng không phải là cái cớ để trục lợi nhưng được gắn liền với công lý. Có như thế tên của chúng ta được tinh tuyền từ khởi sự cho đến hoàn thành và mãi mãi được khắc ghi trong tình yêu của Thiên Chúa. Dẫu cho “tôi đã vất vả mất công vô cớ, tôi đã phí sức vô ích; nhưng công lý của tôi ở nơi Chúa, và phần thưởng của tôi ở nơi Thiên Chúa”. (Is 49, 3)
41. Gioan Tiền Hô: Tên gọi
Mỗi người sinh ra, đều được cha mẹ đặt cho một tên gọi. Trong Kinh Thánh, tên gọi các nhân vật lớn thường rất giàu ý nghĩa, tên gọi ấy có khi phản ánh tình trạng của tập thể gia đình, hoặc phản ánh tình trạng của chính cá nhân đương sự, hoặc nói lên số phận hay hoạt động của người mang tên. Thế nên, cùng với tên gọi là hàm ý một dự phóng cho tương lại, có khi chỉ một ước vọng, đôi khi gợi lên tình cảm lúc sinh ra hoặc tương lai mà cha mẹ thấy được, và thường khi là cả một sứ mạng, sứ mạng đó nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa muốn thực hiện giữa dân Người. Trường hợp của Gioan Tẩy Giả là một ví dụ, khi sinh ra được cha mẹ đặt tên theo lời Sứ thần đã loan báo. Danh xưng Gioan có nghĩa là Thiên Chúa biểu lộ tình thương.
Mừng lễ sinh nhật Gioan Tẩy Giả hôm nay, cũng là dịp đi từ tên gọi ấy, để mỗi người nhận ra hướng đi của tình thương Thiên Chúa, tình thương ấy bước xuống đời sống nhân loại, để rồi một khi con người nhận ra tình thương của Đấng đã yêu thương mình.
1. Tình thương Thiên Chúa bước xuống với con người. Nhìn vào lịch sử cứu độ, nhiều lần trong lịch sử, Thiên Chúa đã tỏ bày tình thương của Người qua những kỳ công sáng tạo hay những chiến tích lẫy lừng. Và hôm nay, Tin Mừng cho Chúng ta thấy tình thương ấy đã đi vào số phận đời thường của một con người để biến đổi họ nên dấu chỉ lạ thường cho ơn Cứu độ.
Tình thương ấy đã bước xuống nỗi sầu khổ của một gia đình, để biến nỗi tủi nhục ở đó trở thành niềm vui. Chính dấu ấn tình thương ấy đã biến đổi lòng dạ son sẻ của Elisabét thành tấm lòng hoan hỷ nhảy mừng của thai nhi ở tháng thứ sáu. Để rồi, cũng chính tình thương Thiên Chúa đã biến đổi gia đình Dacaria héo hon từ lâu, bổng trở nên rộn rã kẻ ra người vào với tiếng cười, lời chúc mừng ngày con trẻ cắt bì và đặt tên là Gioan, tên gọi ấy là dấu hiệu của tình thương Thiên Chúa.
Thế nhưng, tình thương Thiên Chúa không dừng lại, không chỉ bước xuống nơi gia đình Dacaria sầu khổ, mà còn đi xuống, xuống với một dân tộc và với toàn thể nhân loại. Có lẽ trong suốt thời gian câm lặng, ông Dacaria đã hiểu và khám phá ra được tình thương của Thiên Chúa muốn thực hiện nơi dân tộc của mình. Vì thế, khi người ta hỏi ông đặt tên cho con trẻ là gì, ông ra hiệu người ta mang bảng để ông viết, tên nó là Gioan. Khi ấy lưỡi ông mở ra và chúc tụng Thiên Chúa: "Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người". Như thế, chính trong tên gọi Gioan, tên gọi tình thương, cho ta thấy Thiên Chúa đã bước xuống với dân tộc và với toàn thể nhân loại.
2. Tình thương Thiên Chúa là sự sống con người. Thế nên, mừng ngày sinh nhật của Gioan Tẩy Giả hôm nay, không chỉ nhắc lại một khía cạnh quá khứ, mà còn là một lời mời gọi cho các thế hệ tương lai. Đây là dịp để mỗi Kitô hữu nhận ra mình đang sống trong tình thương của Thiên Chúa. Nhìn lại cuộc đời của mổi chúng ta, mỗi người từ khi hình thành dù mới ở dạng của một mầm sống, tất cả là ân huệ tình thương của Thiên Chúa.
Vả lại, trong ơn gọi làm người, mầm sống ấy có một vận mệnh, một sứ mạng dù không ai biết trước tương lai nó thế nào. Thế nhưng, nó cần được tôn trọng để sinh và sống trong những điều kiện phù hợp với phẩm giá con người. Do đó, bóp nghẹt một sự sống tự nhiên của một mầm sống đang hình thành là đi ngược lại với tình thương của Thiên Chúa.
Hơn thế nữa, trong đời sống làm con Thiên Chúa, qua Bí tích Rửa tội, chúng ta được lãnh nhận sự sống siêu nhiên từ Thiên Chúa và cả sứ mạng mà Thiên Chúa trao ban cho mỗi người. Sự sống đó cần được bộc lộ ra trong cả cuộc đời; thế nên, sự sồng ấy cần phải được kính trọng và kiện toàn hơn nữa. Nếu ta từ chối, hay bóp nghẹt sự sống siêu nhiên là ta đi ngược lại tình thương của Thiên Chúa.
3. Hãy vun trồng tình thương Thiên Chúa nơi gia đình. Mừng sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay là dịp để mỗi người chúng ta nhận ra rằng tình thương Thiên Chúa là sự sống con người. Đồng thời trang Tin Mừng hôm nay còn cho thấy khung cảnh gia đình đầm ấm, nơi đó mọi tương quan được thể hiện cách tích cực. Tương quan vợ chồng là một tình yêu chung thủy của hai ông là Dacaria và Elisabét, dù nhiều năm son sẻ vẫn trung tín sắt son. Tương quan cha mẹ con cái là một tình yêu biết trách nhiệm, để rồi, từ nơi đây sẽ tỏa ra môi trường lân cận, xóm giềng. Nên ở đó lộ ra một thông điệp về đời sống gia đình.
Gia đình như chúng ta vẫn thường nói là chiếc nôi của sự sống và tình yêu, nơi đó con người được sinh ra và lớn lên. Gia đình là một cộng đoàn, nơi đó mọi phần tử yêu thương tận hiến cho nhau. Gia đình là một trường học, nơi đó nhân cách được phát triển tự nhiên và lành mạnh nhất. Gia đình là nền tảng của xã hội, là nơi gặp gỡ của nhiều thế hệ, và gia đình tín hữu còn là một Giáo hội thu nhỏ, khi biết sống những giá trị Tin mừng, qua việc thường xuyên chu toàn những nhiệm vụ bổn phận bậc sống của mình.
Thế nên, tìm lại ý nghĩa đời sống gia đình, chúng ta hiểu rằng đó không chỉ là một định chế xây dựng xã hội loài người, mà còn là một cộng đoàn mang lấy ơn gọi trong sứ mạng vui trồng tình thương Thiên Chúa.
Nhận ra giá trị của sự sống và gia đình nhân ngày lễ sinh nhật Gioan Tẩy Giả hôm nay, cũng chính là lúc mỗi Kitô hữu nhận ra sứ mạng của chính mình trong tình thương của Thiên Chúa. Một sứ mạng bảo vệ và phát triển sự sống có trách nhiệm. Một sứ mạng biết thể hiện tình thươmg của Thiên Chúa bằng sự trung tín trong đời sống gia đình...Đồng thời xây dựng một tình thương huynh đệ trong khu phố, nơi công sở, để mọi người luôn nhận ra Thiên Chúa luôn yêu thương mình.
42. Chăm chỉ làm việc để tôn vinh chủ mình
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Trong ngôn ngữ phụng vụ, chữ sinh nhật có hai nghĩa trái ngược nhau. Dùng để nói về Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Gioan Tẩy giả, sinh nhật chỉ ngày các Ngài chào đời, tức là sinh ra ở trần gian. Còn khi nói về mọi thánh khác, sinh nhật lại là ngày các ngài ra khỏi đời này và sinh ra ở trên trời. Có sự phân biệt như vậy cũng là điều dễ hiểu. Vì có gì đáng mừng khi sinh ra trong tội lỗi; chính lúc chết đi cho thế gian mới là sinh ra cho sự sống muôn đời. Hết mọi thánh sinh ra ở đời đều mắc tội Ađam; nên ngày chào đời của các ngài không có gì đáng mừng. Ngược lại khi các ngài chết thánh thiện mới là lúc thật sự sinh ra cho hạnh phúc trường cửu và chúng ta phải vui mừng. Hội Thánh mừng ngày các ngài sinh ra ở thiên đàng chứ không tôn kính ngày các ngài sinh ra ở trần gian. Ngược lại, vì không dính bén nguyên tội hay vì được khỏi nguyên tội trước khi sinh ra, Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Gioan Tẩy giả là ba vị duy nhất được mừng ngày sinh ra ở đời, nên ngày đản sinh của các ngài là ngày đáng mừng vì nó tô đẹp cho thế giới và đem hân hoan cứu độ đến cho loài người. Nhất là khi chúng ta nghĩ đến vai trò đặc biệt của Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Gioan Tẩy giả trong mầu nhiệm cứu thế. Ngày các Ngài sinh ra đem hạnh phúc đến cho chúng ta nên chúng ta phải hân hoan.
Nhưng tại sao lại mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả vào ngày 24 tháng 6 này? Người ta có thể biết rõ ngày sinh tháng đẻ của người sao? Không phải như vậy! Ngày xửa ngày xưa mấy ai nhớ rõ được đúng ngày sinh của mình. Họa chăng một vài bậc quan vương nào đó sinh ra trong các đền vua đầy văn hào văn sĩ mới có người ngồi đó để ghi ngày sinh tháng đẻ. Chúa Giêsu, Đức Maria, thánh Gioan đều là dân nghèo về mặt xã hội làm sao có thể để lại ngày sinh rõ ràng. Chính việc các ngài đản sinh mới quan trọng. Còn các ngài sinh ra ngày nào, giờ nào thì hậu thế liệu mà đặt ra theo một vài tiêu chuẩn nào đó.
Đối với Gioan Tẩy giả, người ta đã căn cứ vào một câu người nói để tính ra ngày sinh của người. Người đã nói về Đức Giêsu rằng: "Ngài phải tiến lên; còn tôi phải suy đi". Vậy lúc Đức Giêsu tiến lên phải là lúc Gioan lui xuống. Đức Giêsu đã sinh ra ngày 25 tháng 12 là ngày Đông chí, ngày mặt trời bắt đầu tiến lên trong quỹ đạo của nó, thì tốt nhất nên đặt ngày sinh của Gioan vào ngày mặt trời bắt đầu đi xuống. Và đó là ngày 24 tháng 6, tức là nửa năm trước ngày Đông chí. Và hợp với lời sứ thần loan báo, bà Ysave thụ thai trước Đức Maria sáu tháng.
Những điều trên đây một đàng cho chúng ta thấy địa vị đặc biệt của Gioan Tẩy giả trong hàng ngũ các thánh. Nói đúng hơn người ở ngoài hàng ngũ này vì chỉ mình người khi sinh ra đã được khỏi tội Ađam (chỉ có Đức Giêsu và Đức Maria không mắc tội đó). Và đàng khác chúng ta được thấy cuộc đời của người gắn liền với cuộc đời của Đức Giêsu.
Ba bài Kinh Thánh hôm nay dường như muốn nhắc lại ba giai đoạn chính trong cuộc sống của Gioan. Bài sách Isaia gợi lên ơn gọi tiền định của người. Bài Tin Mừng nhắc đến hôm người sinh ra. Và bài sách Công vụ nói lên hoạt động chính Người đã làm theo sứ mạng.
A. Ơn gọi tiền định
Chúng ta đã biết truyện Gioan nên khi nghe đọc những câu: "Chúa đã gọi tôi từ dạ mẹ... Người đã nhắc đến tên tôi... Người nắn tôi từ dạ mẹ nên tôi tớ của Người...", chúng ta thấy dường như Isaia đã báo trước về việc sứ thần loan tin cho Zacarya biết ông bà sẽ có con và phải đặt tên con trẻ là Gioan; và con trẻ ấy khi còn ở trong dạ mẹ đã được ơn Chúa viếng thăm qua lời chào của Đức Maria; và đã được khỏi tội Ađam cùng trở nên tiên tri của Chúa. Chính Zacarya trong ngày sinh nhật của hài nhi đã được tháo gỡ miệng lưỡi để có thể nói được, cũng đã chúc tụng Gioan là tiên tri của Đấng Tối cao để làm cho Yacob và Israel trở lại với Chúa và để trở nên ánh sáng cho các dân tộc. Tức là Zacarya cũng đã lấy lại nhiều lời trong bài sách Isaia hôm nay để nói về Gioan.
Tuy nhiên chúng ta vẫn không được coi lời sấm của Isaia đã nhằm nói đến Gioan. Người ta có thể áp dụng những lời đó vào Gioan; nhưng Gioan không phải là đối tượng của những lời ấy. Và việc tìm hiểu ý nghĩa đích thực của những lời này còn làm tăng giá trị Gioan hơn nữa.
Thật vậy, đoạn tiên tri hôm nay nằm trong Isaia II (gồm các chương 40-55), là những lời của Chúa nói với Israel và nói về Israel Dân Chúa lúc được đưa ra khỏi cảnh lưu đày Babylon (năm 538). Chúa phán: mặc dầu Israel thất tín, Chúa vẫn trung thành với lời hứa. Người sẽ gửi đến một người Tôi tớ. Đoạn sách hôm nay nói đến ơn gọi của Người Tôi tớ đó. Nó là một trong bốn đoạn Isaia mà người ta quen gọi là bốn khúc ca về Người Tôi tớ. Và chúng ta biết chẳng ai trong lịch sử đã thể hiện những lời sấm về Người Tôi tớ này bằng chính Đức Giêsu Cứu thế. Chính Người sẽ là Người Tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa đến hy sinh cứu độ Dân Người. Do đó, lời sách Isaia hôm nay chủ yếu muốn nói về Đức Giêsu Kitô. Chỉ có Người mới thật là Vị Tiên tri của Đấng Tối cao sẽ làm cho Israel quay đầu về với Thiên Chúa; và Người sẽ là ánh sáng đích thực cho các dân tộc.
Nhưng Người đã được tất cả Cựu Ước chuẩn bị. Thành ra Người Tôi tớ đích thực cũng đã được nhiều người tôi tớ đi trước loan báo. Gioan là tiền hô của Đức Giêsu Kitô Cứu thế.
Người đáng được áp dụng những sấm ngôn kia. Và chúng ta đã thấy việc áp dụng này rất may mắn vì lời sách Isaia hôm nay quả thực có thể gợi lên nhiều sự kiện trong cuộc đời của Gioan: từ việc người được chọn từ trong lòng mẹ, đến việc được kêu tên từ ngày ấy và việc được chỉ định làm tiên tri.
Tuy nhiên, chính Isaia cũng đã không "dựng đứng" lên một hình ảnh về Người Tôi tớ từ hư vô, tức là không dựa vào các yếu tố đã có sẵn. Không, có thể nói ông đã dùng tất cả phần sách Cựu Ước có trước ông để xây dựng hình ảnh Người Tôi tớ này. Ông dùng những Lời Chúa nói về Israel và Yêrusalem tản mác trong tất cả các sách Cựu Ước để vẽ ra khuôn mặt Người Tôi tớ. Bởi vì Người Tôi tớ đầu tiên của Thiên Chúa chính là Israel Dân Người. Người đã gọi Israel từ trong dạ mẹ, đã đặt tên cho nó, đã săn sóc nó như mũi tên quý báu mà người chiến sĩ cẩn thận giữ gìn trong bao. Người dùng Israel để tỏ hiện vinh quang của Người. Người nhờ thánh điện Yêrusalem để quy tụ nhà Yacob. Người tỏa sáng vinh quang trên Dân Người để nó trở thành ánh sáng cho các dân tộc. Nói đúng ra, khi viết đoạn sách hôm nay, "Isaia" chỉ muốn nói đến Yêrusalem và Israel sắp được cứu độ để ra khỏi cảnh lưu đày, vì ơn gọi tiền định, để rồi nó sẽ chiếu tỏa ơn cứu độ của Chúa cho muôn dân. Có như vậy chúng ta mới hiểu được câu 4 ám chỉ đến thân phận lưu đày kiệt quệ... Và có như vậy chúng ta mới dễ được an ủi: bởi vì điều đã viết về Dân Chúa nói chung cũng có thể hiểu được về từng người con Chúa nói riêng, cho dù điều đó chỉ thể hiện hoàn toàn nơi Đức Giêsu Cứu thế là Dân Chúa đích thực và là Con Một Thiên Chúa. Và dĩ nhiên điều ấy áp dụng cho các thánh nhân sẽ đúng hơn khi áp dụng cho chúng ta. Nhưng chúng ta không được coi mình như đứng ở ngoài. Những lời nói về ơn gọi tiền định của Gioan cũng phải được hiểu về chúng ta để chúng ta tham dự hơn vào sự vui mừng trong ngày người đản sinh hôm nay.
B. Sinh Nhật Gioan
Tin Mừng theo thánh Luca viết rằng hôm Gioan chào đời, bà con láng giềng đã đến chung vui với ông bà Zacarya. Cả hai người đã già mà nay có con lại không đáng mừng sao? Lẽ ra chính hôm ấy người ta phải đặt tên ngay cho con trẻ (Kn 4,1; 21,3...). Nhưng từ thời sau Lưu đày, người ta bắt chước phong tục Hylạp để việc đó lại sau. Và như vậy cũng tôn vinh ngày làm lễ cắt bì hơn, cử hành 8 ngày sau sinh nhật.
Đó là ngày đánh dấu việc con trẻ từ nay thuộc Dân Chúa. Bạn hữu thân thích đến đông hơn. Người ta muốn gọi con trẻ bằng tên của cha nó để tôn trọng ông. Vì theo tục lệ, lẽ ra phải lấy tên của ông nội mà đặt cho đứa bé. Nhưng Zacarya cũng đã "lão rồi"; và nay ông mới có con; nên để ông vui, người ta muốn gọi đứa bé là Zacarya. Thế nhưng mẹ nó không chịu. Người ta nói thế nào bà cũng không nghe. Người ta phải nại đến cha nó. Nhưng ông lại câm. Phải lấy bút giấy cho ông. Ông viết: hãy đặt tên nó là Gioan. Thật là lạ lùng! Không ai bảo ai mà cả cha lẫn mẹ đều muốn gọi nó là Gioan, một tên không có trong họ hàng thân thuộc. Gioan có nghĩa là Chúa chạnh thương, Chúa đoái nhìn, Chúa muốn cứu độ. Cái tên thật hay, nhưng ai bảo hai ông bà biết mà chọn? Người ta chưa kịp hết ngạc nhiên thì Zacarya đã bật miệng hát lên bài ca chúc tụng. Phải chăng 9 tháng câm đã cho ông thời gian suy nghĩ về lòng Chúa nhân ái, chạnh thương, muốn nhìn lại Israel để ra tay cứu độ như lời đã hứa cùng tổ phụ Abraham và cho đến muôn đời?
Thánh Luca đã tỏ ra lỗi lạc trong bài tường thuật hôm nay. Người không chú ý đến ngày sinh nhật của Gioan. Người mời chúng ta tham dự nghi lễ cắt bì, tức là nghi thức tiến dâng hài nhi lên làm con Chúa. Nói đúng hơn, người chỉ nhắc đến tên lễ nghi này để đưa mắt chúng ta hướng về Chúa để thấy Chúa đang đoái nhìn, chiếu cố, chạnh thương và muốn cứu độ Dân Người. Thánh Luca dùng mọi yếu tố có thể tìm thấy để làm nổi bật tên Gioan khiến người ta thấy rõ Chúa đang thể hiện Lời hứa cho Israel và các dân tộc. Đó không phải là tên của ông nội đứa bé, cũng chẳng phải là tên của ai trong họ hàng thân thuộc. Làm sao cả cha lẫn mẹ không đồng ý trước mà lại nói ra cùng một tên? Và tên này chỉ có thể bắt nguồn từ mầu nhiệm Chúa đoái thương hai ông bà cũng như hài nhi và toàn dân.
Nếu được phép tìm hiểu thêm nữa, chúng ta hãy để ý: ở đây, chính uy quyền của người cha giải quyết vấn đề đặt tên cho con trẻ; còn trong trường hợp Hài nhi sẽ sinh ra ở Bêlem, chính Đức Maria là người trước hết có nghĩa vụ phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu. Phải chăng Gioan dù sao cũng còn là con cái của xác thịt nên thuộc quyền cha; còn Cha của Đức Giêsu là Thiên Chúa, nên quyền đặt tên cho Người tùy ở Đức Mẹ Đồng trinh?
Dù sao, hôm nay Giáo Hội rất vui mừng vì được Gioan, tức là được ơn Chúa chạnh thương, đoái nhìn, muốn cứu độ Dân Người. Chính người Dothái thời Gioan đã nghĩ như vậy, nên họ nóng lòng chờ đợi xem Chúa sẽ ra tay thế nào nơi hài nhi mới sinh.
C. Hành động của Gioan
Cũng một tác giả sách Tin Mừng thứ ba đã viết về Gioan như hôm nay chúng ta nghe đọc trong sách Công vụ các Tông đồ. Ông để cho Phaolô nói với những người kính giới Thiên Chúa và đang chờ đợi Lời cứu thoát. Dù không sống ở đất Dothái, nhưng họ chia sẻ mọi tâm tình tôn giáo của đồng bào nơi cố hương. Sống giữa dân ngoại và trong nền văn hóa Hylạp, những người Dothái "thiên cư" (diaspora) đang nghe Phaolô giảng trong hội đường vào ngày sabbat. Họ đã nghe biết về Gioan và đang chờ các hậu quả của việc người xuất hiện. Người đã rao giảng phép rửa thống hối. Nhưng nghe đâu người đã bị bắt và bị giết vì đã khẳng khái lên án tội loạn luân của vua Hêrôđê. Người là Đấng thánh chắc rồi. Các môn đệ của người đang hoạt động. Không biết rồi sẽ ra sao. Nay Phaolô đến cho họ biết: khi vận nghiệp gần mãn, Gioan đã nói: "Các người tưởng tôi là gì, thì không phải tôi đâu. Nhưng này đang đứng sau tôi, Đấng tôi không đáng cởi dép chân Người". Rồi Phaolô tiếp tục nói với người ta về Đức Giêsu. Người đã làm công việc của Gioan, vì tựu trung hoạt động của Gioan cũng là giới thiệu Đức Giêsu Cứu thế là tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Phép rửa mà Gioan đã làm, tuy quan trọng vì từ đó đã khiến người được mệnh danh là Tẩy giả, cũng chỉ nhằm mục đích giúp chúng ta thống hối tội lỗi để đón nhận Đức Giêsu Kitô. Gioan đúng thật là tôi tớ, khiêm tốn và chăm chỉ làm việc để tôn vinh Chủ mình. Ông không lợi dụng lòng phấn khởi lầm tưởng của người ta khi họ muốn coi ông như cứu thế. Ông công nhận không đáng cởi giầy cho Đấng ấy, tức là không đáng làm môn đệ của Người.
Chính vì Gioan đóng đúng vai trò của vị tiền hô mà ngày nay hơn hết mọi vị thánh, người còn sống động trong sinh hoạt của Hội Thánh. Hội Thánh không ngừng cử hành mầu nhiệm cứu độ, nên luôn luôn nhắc đến Gioan. Hội Thánh mừng sinh nhật của người để biết hừng đông ơn cứu thế đã nổi lên ở chân trời trong đời sống của Dân Chúa. Hội Thánh nghe tiếng người trong mùa vọng Phụng vụ để thanh tẩy tâm hồn và đời sống hầu chuẩn bị ngày Chúa đến. Hội Thánh kính nhớ sự chết của người để được báo tin về cuộc tử nạn cứu thế của Đức Kitô. Thánh Gioan là tiên tri được sai đi trước mặt Đức Giêsu Cứu thế thì người còn sống mãi trong tâm tư của Hội Thánh đang đi đón Đức Kitô trở lại. Có thể nói Hội Thánh phải gặp thánh Gioan trước, tức là phải thanh tẩy, chuẩn bị nên Dân tốt lành hầu đón nhận ơn Chúa đến viếng thăm. Và như vậy thiết tưởng đã đủ để nói lên điều này, là cho đến ngày Đức Giêsu Kitô trở lại, chúng ta phải nghe lời Gioan giảng, phải thi hành việc người truyền, phải hành động và trở nên như người.
Chúng ta hãy làm công việc này nhờ những bài Kinh Thánh hôm nay đã nói về thánh Gioan. Chúng ta luôn nhớ ơn gọi tiền định; chúng ta luôn suy ngày được hiến dâng cho Chúa và nhận tên là Kitô hữu, một danh hiệu nói lên tình thương cứu độ của Chúa. Nhất là chúng ta bắt chước thánh Gioan có đời sống thanh tẩy tội lỗi và luôn khiêm tốn giới thiệu Đức Giêsu Cứu thế cho mọi người.
Giờ đây chính Chúa sẽ đến gặp chúng ta trong thánh lễ. Chúng ta hãy có lòng thống hối như muốn cúi xuống cởi giầy cho Người... Chúng ta sẽ được Người nâng lên như có lần Người đã tôn vinh thánh Gioan trước mặt mọi người: Thầy bảo thật trong muôn vàn con cái mà đàn bà sinh ra không ai quý trọng hơn Gioan, nhưng kẻ bé nhất trong Nước Trời còn hơn ông. Vì Gioan chỉ là vị tiền hô, còn chúng ta từ nay là bạn hữu, là Kitô hữu. Ước gì chúng ta hiểu như vậy để từ nay sống xứng đáng hơn với danh hiệu này. Và như thế, chúng ta sẽ tôn vinh Chúa, sẽ tiếp tục làm công việc của thánh Gioan là giới thiệu Chúa cho mọi người.
43. Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm. Vũ Phan Long)
Đây là một lễ lớn, một đại lễ của niềm vui, nhưng nhất là một lễ của lòng từ bi thương xót!
1.- Ngữ cảnh
Giống như Tin Mừng Mt nhưng không lệ thuộc vào Mt, tác giả Luca mở đầu Tin Mừng bằng một trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu. Nhưng ngài là tác giả duy nhất đề cập đến thời thơ ấu của Gioan Tẩy Giả.
Phần tường thuật về Thời thơ ấu có hai cánh:
- Cánh các lời loan báo (1,5-56),
- Cánh các cuộc chào đời (1,57-2,52).
Truyện Gioan chào đời được đặt song song với biến cố Đức Giêsu giáng sinh.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Gioan chào đời (1,57-58);
2) Gioan được cắt bì và đặt tên (1,59-66);
3) Kết: Ghi nhận về Gioan lớn lên, vào hoang địa và ra mắt (1,80).
3.- Vài điểm chú giải
- Nghe biết (58): Khi biết mình có thai, bà Êlisabét đã ẩn mình (x. 1,24), nên láng giềng và những bà con khác (trừ Đức Maria) không biết gì về tình trạng của bà, cho đến khi đứa bé chào đời.
- cắt bì (59): Theo St 17,11, cắt bì là ghi "dấu giao ước" cho cậu bé trai. Thường người cha sẽ cắt bì cho con (x. St 21,4).
- lấy tên cha... mà đặt tên cho em (59): Theo bản văn Lc, em bé được đặt tên khi cắt bì. Tuy nhiên, người Do Thái Paléttina có thói quen đặt tên con ngay vào lúc chào đời (x. St 4,1; 21,3; 25,25-26), và thường do người mẹ (St 29,31-30,24; 1 Sm 1,20), đôi khi do người cha (x. St 16,15; Xh 2,22) (xem R. de Vaux). Do đó, có những nhà chú giải nghĩ rằng tác giả Lc đã đưa vào đây một cách thực hành của người Hy Lạp, bởi vì tại Hy Lạp cổ thời, người ta thường đặt tên cho con vào ngày thứ bảy hoặc thứ mười sau khi sinh.
- Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả (61): Tuy nhiên, "Gioan" đã từng là tên của các thành viên dòng họ tư tế thời hậu Lưu đày (x. Nkm 12,13.42; 1 Mcb 2,1-2).
- bàn tay Chúa (66): Đây là một kiểu nói như nhân của Cựu Ước (x. 1 Sb 28,19; 4,10) nhằm diễn tả rằng Thiên Chúa uy quyền che chở và hướng dẫn Gioan. Thế nhưng Ngài vẫn không tránh cho Gioan khỏi tù và khỏi chết bởi tay Hêrôđê Antipa (x. Lc 3,20; 9,8).
- lớn lên (80): Đây là một điệp khúc của tác giả Lc (x. 2,40.52). Câu văn được phỏng theo Tl 13,24-25 và 1 Sm 2,26.
- sống trong hoang địa (80): Dựa vào đây, các chuyên viên đề ra giả thuyết là Gioan đã qua thời trai trẻ tại cộng đoàn Êxêni tại Qumran. Đây là giả thuyết không bảo vệ được và cũng không phi bác được.
4.- Ý nghĩa bản văn
* Gioan chào đời (57-58)
Đoạn tường thuật ngắn ngủi này kể lại cuộc chào đời của Gioan và niềm vui do biến cố này đưa lại. Tác giả Lc kể lại truyện này với hai sắc thái. Trước tiên, biến cố cho thấy lòng từ bi thương xót của Đức Chúa đối với dân Ngài khi cất khỏi bà Êlisabét nỗi ô nhục son sẻ. Truyện cũng nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa tỏ lòng từ bi thương xót ra khi chơi chữ trên tên "Gioan". Ân huệ mà Ngài tỏ ra như thế không chỉ nhằm chiếu cố đến bà Êlisabét mà còn chiếu cố đến dân Ngài là Israel như một toàn thể. Đứa bé này, sinh ra từ những cha mẹ son sẻ, trở thành nguồn đưa lại niềm vui cho láng giềng và bà con thân thích, như sứ thần đã tiên báo.
* Gioan được cắt bì và đặt tên (59-66)
Đứa trẻ sinh ra được tám ngày thì phải làm phép cắt bì (x. Lv 12,3). Khi được cắt bì, em bé được ghi "dấu giao ước" (St 17,11) và được tháp nhập vào Israel (Gs 5,2-9). Từ nay, em được chia sẻ cách phúc lành Thiên Chúa hứa cho dân Ngài (Gs 5,6-7), nên có thể cử hành lễ Vượt Qua với họ (Xh 12,44-49). Cắt bì cũng có nghĩa là buộc phải tuân giữ Luật Môsê. Còn về việc đăt tên, đối với người Do Thái, cái tên rất quan trọng, vì nói lên tương lai của em bé. Có nhiều truyện trong Cựu Ước giải thích ý nghĩa của các tên: "Isaác", trong tiếng Híp-ri, có nghĩa là "sẽ cười / sẽ mỉm cười" và yếu tố "mỉm cười" này thường xảy ra: Sara mỉm cười trong lều; Isaác cười với Ítmaên. Tên "Giacóp" báo điềm gở là "sẽ hất cẳng", và sau này ông đã "hất cẳng" Exau. Khi Giacóp đã bỏ tính lọc lừa và trở nên đàng hoàng, Thiên Chúa đã cho ông một tên mới là "Israel", như một dấu chuẩn nhận và đón tiếp. Cũng thế, sau này Đức Giêsu đã cho Simôn một tên mới là "Phêrô", để dùng ông làm đá tảng xây dựng Hội Thánh.
Bà Êlisabét không đồng ý cho người ta lấy tên Dacaria mà đặt cho em bé, dù đây là tập tục; bà yêu cầu đặt là "Gioan". Người ta mới hỏi ý kiến ông Dacaria, lúc này vẫn bị câm. Ông "đã xin một tấm bảng nhỏ và viết" tên Gioan (1,63). Hai ông bà đang tỏ ra vâng lời sứ thần khi chọn một tên cho đứa con, bất chấp truyền thống của dòng họ. Sứ thần đã bảo tên bé là Gioan, thì bây giờ phải đặt tên bé là Gioan! Đây cũng là cách tác giả Lc cho thấy các lời ngôn sứ được hoàn tất: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Ngài sẽ thực hiện.
Tên "Gioan", Yơhô[k]anan (hoặc: Yô[k]hanan), có nghĩa là "Đức Chúa (ya = yhwh) đã tỏ lòng ưu ái (khanan = charis)" (x. 1,13). Tên này tạo thêm một đường nối giữa hai gia đình, vì nhắc lại lời sứ thần chào Maria, "bà được đẹp lòng (charis) Thiên Chúa" (1,30). Tên "Gioan" như thế có hiểu rằng Israel là đối tượng được Thiên Chúa đặc biệt chiếu cố, và Ngài có một sự quan tâm đặc biệt đến cũng như có một chương trình đặc biệt cho.
* Kết: Ghi nhận về Gioan lớn lên, vào hoang địa và ra mắt (80)
Sau khi chấm dứt bài Benedictus (chúng ta không đọc), tác giả Lc kết thúc hoạt cảnh bằng một ghi nhận nói rằng cậu bé ngày càng lớn lên mọi mặt, và báo trước việc Gioan vào sống trong hoang địa (3,2), chờ ngày "ra mắt dân Israel".
+ Kết luận
Khi đặt bản văn này vào ngữ cảnh, ta thấy rõ ý hướng của Tin Mừng Lc. Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu được so sánh và đạt đối nhau, nhưng sự cao trọng của Đức Giêsu được nêu bật trong từng chi tiết. Rõ ràng Đức Maria cao trọng hơn ông Dacaria, và con của Đức Maria vô cùng cao trọng hơn con của ông Dacaria. Cốt lõi đầu tiên là thời thơ ấu của Đức Giêsu, và rõ hơn, là truyện Truyền Tin. Rất có thể câu truyện về thời thơ ấu của Gioan Tẩy Giả chỉ là một phần mở do tác giả Lc sáng tác ra để vị Tiền hô giới thiệu Đấng Mêsia.
Chương 1-2 Lc có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đn 9-10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Ml 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài Benedictus và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm "sự hoàn tất các ngày" (đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo, được viết theo ngôn ngữ Kinh Thánh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đây là một lễ lớn, một đại lễ của niềm vui, nhưng nhất là một lễ của lòng từ bi thương xót! Bởi vì bà Êlisabét, mẹ của Gioan, bị hiếm muộn (x. Lc 1,7.36) và hoàn toàn nhưng-không - do ân sủng - mà bà đã được Chúa ban cho ơn phi thường là cưu mang một người con trong lúc tuổi già (x. Lc 1,36). "Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà".
Nhưng đây là một lễ của lòng từ bi thương xót chính là vì cuộc chào đời của Gioan loan báo cuộc chào đời của Đấng Mêsia, Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, được sai phái đền trần gian để cứu chuộc con người sa đọa từ tội nguyên tổ!
2. Cuộc chào đời của Gioan đầy những chuyện lạ lùng bao quanh: sứ thần Gabriel loan báo cho ông Dacaria; bà Êlisabét gặp Đức Maria là cơ hội để cho thai nhi nhảy mừng. Và Gioan ra đời đã sống xứng đáng với các phép lạ đó. Nghĩ đến cuộc sống mình, chúng ta hẳn cũng thấy đời của mình đầy ắp phép lạ, hay là cả cuộc đời mình là một phép lạ kéo dài, bởi vì chúng ta cũng là những tiền hô của Đấng cứu thế. Chúng ta đang sống thế nào?
3. Chúng ta suy niệm về thánh Gioan dựa theo ý kiến của một vài vị thánh. Trước tiên, ta có ý kiến của linh mục Origiênê (Các bài giảng về Tin Mừng Luca, số 4,4-6): "Phần tôi, tôi nghĩ rằng mầu nhiệm Gioan đang được hoàn tất trong thế giới cho tới nay. Người nào được nhắm cho tin vào Đức Kitô Giêsu, thì trước đó tinh thần và sức mạnh của Gioan phải đến trong tâm hồn người ấy để "chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa" (Lc 1,17) và trong những nơi lồi lõm của con tim, "khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho bằng" (Lc 3,5). Không phải chỉ vào thời đó các "khúc quanh co, mới phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, mới phải san cho bằng", nhưng hôm nay cũng còn như thế. Tinh thần và sức mạnh của Gioan đi trước việc Chúa Cứu thế hiển ngự".
4. Thánh Ephrem đã dạy (Bài thánh ca được gán cho thánh Ephrem [khoảng 306-373]: "Chính là ngài, thánh Gioan, mà chúng con nhìn nhận như là một Môsê mới, bởi vì ngài đã thấy Thiên Chúa, không phải trong dạng biểu tượng, nhưng hoàn toàn rõ ràng. Chính ngài mà chúng con coi như là một Giôsuê mới: ngài không đi từ bờ này sang bờ bên kia của sông Giođan, nhưng, với nước sông Giođan, ngài đã đưa người ta đi từ thế giới này sang thế giới khác... Chính ngài là Samuen mới đã không xức dầu cho Đavít, nhưng đã ban phép rửa cho con Đavít. Chính Ngài là Đavít mới, đã không bị vua Saun xấu xa bách hại, nhưng đã bị Hêrôđê giết chết. Chính ngài là Êlia mới, được nuôi dưỡng trong hoang địa không phải bằng bánh một con quạ mang đến, nhưng bằng châu chấu và mật ong do Thiên Chúa ban cho. Chính ngài là Isaia mới đã không nói: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và sinh con" (7,14), nhưng đã công bố trước mặt mọi người: "Này đây bà đã sinh ra Con Chiên Thiên Chúa, Đấng mang tội trần gian" (Ga 1,29)...
"Lạy thánh Gioan, Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn, ngài thật có phúc, vì ngài đã đặt tay trên Chủ của ngài, ngài đã nắm lấy trong tay ngọn lửa có ánh sáng làm các thiên thần phải run sợ! Là ngôi sao mai, ngài cho thế gian thấy Buổi Ban mai chân thật; là bình minh tươi vui, ngài đã cho thấy ngày vinh quang; là ngọn đèn cháy sáng, ngài đã chỉ cho thấy Ánh sáng có một không hai! Là sứ giả mang ơn hòa giải của Chúa Cha, tổng lãnh thiên thần Gabriel đã được cử đến trước mặt ngài để loan báo cho Dacaria về ngài, như là một hoa quả vượt quá sự chờ đợi của ông... Là người cao trọng nhất trong số các con cái loài người (Mt 11,11), ngài đến đón trước Đấng Emmanuel, ngài đón trước Đấng vượt quá mọi thọ tạo; là con đầu lòng của bà Êlisabét, ngài đi trước Trưởng Tử của toàn thể thọ tạo!"
5. Mỗi người có ơn gọi của mình. Gioan có ơn gọi của riêng ông, ơn gọi không mấy thông thường. Cũng như mỗi người được Thiên Chúa kêu gọi, Gioan đã chuẩn bị trong lòng sứ mạng được ký thác cho ông. Ông chuẩn bị bằng đời sống ẩn dật. Đó chính là đời sống của ông với Thần Khí Đức Chúa. Đó chính là điều bí mật của ông. Phải chăng đây là một sự mô phỏng, khá mờ nhạt, của sự chuẩn bị của Đức Maria hầu đón tiếp Đức Chúa đến với Bà vào ngày Truyền tin? Bởi vì Đức Maria cũng đã nhận một tên mới do Thiên Chúa ban: thiên thần Gabriel đã gọi Bà bằng cái tên "Đấng đầy ân sủng" (Lc 1,28).
44. Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lưu Ly Thảo)
Người đời thường hay quan niệm rằng mỗi người đều có một số phận hay định mệnh. Trước định mệnh ấy, người ta đành bó tay, may nhờ rủi chịu. Quan niệm này đã ăn sâu vào não trạng nhiều người, đến nỗi họ thường lấy nó để tự an ủi mình trong những lúc gặp gian truân và an ủi những người kém may mắn trong cuộc sống.
“Đứa Trẻ này rồi sẽ thế nào đây?”
Câu chuyện minh họa: Còn nhớ lần đầu tiên vào thăm mấy người bạn ở Long Khánh (Xuân Lộc), tôi được họ dẫn đi tham quan vườn sầu riêng. Đứng giữa vườn sầu riêng mênh mông, ngước nhìn lên những thân cây sầu riêng cao lớn đang đeo những chùm trái to tướng và đầy gai nhọn, tôi thốt lên với nhóm bạn:
- Trái sầu riêng này mà lỡ rụng xuống trúng đầu ai thì chắc là người đó... chết tươi ăn năn tội chẳng kịp quá!
Mấy đứa bạn nhìn tôi cười và giải thích thế này:
- Bạn đừng lo! Khi dựng nên cây sầu riêng, Thiên Chúa đã tính toán kỹ rồi. Ngài trao cho nó sứ mạng dâng tặng vị ngọt thơm cho đời. Còn việc rụng, Ngài chỉ cho phép trái của nó được rụng vào ban đêm thôi, nếu rụng ban ngày thì chắc gì ông bà Adam - Eva còn sống mà sinh ra con cháu tụi mình bây giờ!
Câu trả lời dí dỏm này khiến tôi suy nghĩ: Dựng nên một cây ăn trái mà Chúa còn tính toán lợi hại kỹ như vậy, thì khi dựng nên con người, chắc chắn là Chúa phải có chương trình hẳn hoi!
Kính thưa cộng đoàn!
Người đời thường hay quan niệm rằng mỗi người đều có một số phận hay định mệnh. Trước định mệnh ấy, người ta đành bó tay, may nhờ rủi chịu. Quan niệm này đã ăn sâu vào não trạng nhiều người, đến nỗi họ thường lấy nó để tự an ủi mình trong những lúc gặp gian truân và an ủi những người kém may mắn trong cuộc sống.
Tuy nhiên, người Công Giáo chúng ta tin rằng mỗi người sinh ra là do ý muốn đầy yêu thương của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã chọn gọi chúng ta vào cuộc sống, Ngài đã có ý định và chương trình cho từng người. Đây không phải là một kế hoạch để áp đặt, nhưng là một sứ mạng để mỗi người hoàn thành trong tự do và trách nhiệm, hầu được vui hưởng hạnh phúc. Trường hợp của Gioan Tẩy Giả là một minh chứng điển hình.
Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả là dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Vì ý thức sứ mạng cao cả này, Gioan đã can đảm chu toàn để làm chứng cho Ánh Sáng và Sự Thật, dù phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Phần chúng ta, khi cho chúng ta được hiện diện trên cõi đời này, Thiên Chúa đặt hết niềm tin và sự kỳ vọng nơi chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy nhìn ngắm cuộc đời và cách sống của Gioan để noi theo trong việc thi hành sứ mạng của mình giữa cuộc sống hàng ngày.
- Thứ nhất là tinh thần can đảm: Thánh Gioan Tẩy Giả đã dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến bằng cách chuẩn bị tâm hồn mọi người cho xứng hợp để tin nhận Người. Trong hành trình rao giảng, Gioan đã không ngần ngại, không sợ sệt khi lên tiếng phản đối sự sai trái của kẻ cầm quyền lúc bấy giờ là vua Hêrôđê, dù biết rằng mình phải chuốc lấy những hậu quả khôn lường, thậm chí bị chém đầu.
Là những Gioan Tẩy Giả của thời đại hôm nay, chúng ta có bổn phận góp phần làm cho xã hội được phát triển, cuộc sống con người được thăng tiến, phẩm giá con người được tôn trọng, công bình và bác ái được thể hiện; chúng ta có trách nhiệm cùng nhau xây dựng một nền văn minh tình thương và sự sống, làm giảm bớt sự hận thù, chia rẽ, bạo lực và chà đạp nhân phẩm, ngay trong môi trường mình đang sống.
- Thứ hai là sự khiêm tốn: Khi thi hành sứ mạng, thánh Gioan được mọi người rất kính nể, đến nỗi người ta cứ lầm tưởng Gioan là Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, Gioan không lợi dụng sự tin tưởng của họ để mạo danh. Ngược lại, Gioan khiêm tốn bộc bạch với dân chúng: “Đấng đến sau tôi thì cao trọng hơn tôi. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Người”.
Phần chúng ta, vừa can đảm thực thi sứ mạng của người Công Giáo trong cuộc sống, nhưng chúng ta cũng cần phải khiêm tốn nhìn nhận mình là “đầy tớ vô dụng”, được Chúa sai đi làm công việc của Chúa. Nhờ đó, chúng ta vừa tránh được tính khoe khoang tự mãn với những thành quả đạt được, vừa luôn phấn đấu để hoàn thiện con người của mình, hầu chu toàn sứ mạng được tốt hơn.
Lạy Chúa, cuộc đời của Thánh Gioan Tẩy Giả cũng như của mỗi người chúng con đều do bàn tay Chúa can thiệp, đưa dẫn và sai đi. Xin Chúa cho chúng con nên những chứng nhân Tin Mừng đích thực của Chúa giữa dòng đời, để những người chung quanh nhìn cách sống của chúng con mà tin vào Chúa. Amen.
45. “Tên nó là Gioan” (Lc 1:57-66)
(Suy niệm của Thế Tiến)
Hôm nay mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Bài Phúc Âm nói cho biết ngày thứ 8, làm lễ cắt bì và bà con lối xóm bàn định đặt tên cho em. Tên tuổi có gì quan trọng không? William Shakespear hỏi, nếu chúng ta gọi hoa hồng bằng một tên khác, hương hoa hồng có thay đổi không? Có lẽ nhiều người như Shakespear nghĩ rằng nội dung mới quan trọng chứ hình thức hay danh hiệu có gì quan trọng. Ngày nay nhất là tại Âu Mỹ, tên tuổi ít quan trọng và đôi khi chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt. Tên Bill hay tên Donald hay tên gì khác có gì khác biệt đâu. Quả thực, tên tiếng Tây thì rất ít ý nghĩa. Người ta bảo xưa Tây đâu có tên họ đâu. Đến khi nhà nước đòi phải có tên họ, thì đa số chọn ngay nghề nghiệp làm tên họ cho tiện lợi. Baker chỉ vì ông tổ nướng bánh mì, Farmer chỉ vì ông tổ làm nghề nông, Smith chỉ vì ông tổ làm các ổ khóa, Taylor có ông tổ làm thợ may. Muốn may quần áo thì cứ việc đến với ông Taylor là có ngay.
Tên tiếng Việt đôi khi còn có một ý nghĩa nào đó. Tôi nhớ hồi nhỏ có anh bạn mang họ Phạm. Anh ta thắc mắc tại sao lại họ Phạm bởi vì khi mang họ phạm tên càng hay, càng tốt đẹp lại càng xấu. Trung Thành là điều tốt nhưng Phạm Trung Thành là điều xấu rồi. Phạm chỉ có phạm tội trọng là nổi tiếng thôi …
Tên trong Thánh Kinh thường mang nhiều ý nghĩa hơn. Chúa nhấn mạnh con của ông Zacaria và bà Elizabeth phải được gọi là Gioan vì một lý do tốt lành dù điều này không đúng theo truyền thống gia đình, dù trong họ hàng chẳng có ai lấy tên Gioan đi nữa. “Gioan,” theo tiếng Do Thái Yohanan (hay y’hohanan), có nghĩa là “Đức Chúa khoan dung” “Thiên Chúa thương xót.” Gioan Tẩy Giả là Tiên Tri cuối cùng của Cựu Ước và theo một nghĩa ông tóm tắt trong mình mọi ơn lành Chúa dành cho dân riêng Do Thái. Mọi sự Chúa làm trong Cựu Ước hướng về Người mà Gioan làm tiền hô là Đức Giêsu. Gioan được thụ thai cách lạ và sinh ra là bước cuối cùng tiên báo Đức Kitô trong việc sửa dọn cho sứ mạng Cứu thế của Đức Kitô. Gioan với ý nghĩa cái tên là Chúa xót thương để loan báo Đấng Messia quả là hợp lý. Con trẻ Gioan là một biểu lộ lòng Chúa thương xót, cách riêng cho ông bà Zacharia và Elizabeth, vì Chúa đã cất đi sự tủi nhục cho người đàn bà son sẻ và cách chung cho toàn thể gia đình nhân loại. Ngay Việt Nam cũng có câu: “Cây khô không có lộc – Người độc không có con” hay” Cây khô không có trái – gái độc không có con.” Gioan xuất hiện để làm tiền hô dọn đường cho vị Vua trên hết các vua đến với dân Ngài, một niềm vui mà đã bao ngàn năm gia đình nhân loại ngóng chờ. Chẳng hồ nghi, những người có mặt bữa đó đều biết nghĩa chữ Gioan hay Yohanan có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”.
Tuy nhiên thực tế, họ không nhìn ra lòng Chúa thương xót trong biến cố nên đã từ chối không chịu nhận tên Gioan cho con trẻ. Họ bị ràng buộc bởi những suy nghĩ trần tục, của các thói đời, của tập quán cổ xưa: “Không ai trong họ hàng bà có tên này”.
Chúng ta có nhìn ra lòng Chúa xót thương trong thực tại của cuộc sống không? Một niềm vui nho nhỏ, một chuyện buồn vô lý nhưng Chúa chất vào đấy nhiều ý nghĩa của lòng Chúa xót thương. Lạy Chúa xin giúp con nhìn ra lòng Chúa xót thương trong biến cố nho nhỏ của đời con hôm nay.
46. Sứ mạng loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thánh Gioan được sinh ra trong ơn thánh với sứ mạng loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa. Mỗi Kitô hữu cũng được sinh ra trong ơn thánh để trở nên dấu chỉ của tình yêu Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hôm nay, cả Giáo Hội mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, con cũng nghĩ đến sứ mạng con đã lãnh nhận từ ngày con được rửa tội, được trở nên một người con trong Giáo Hội, được vinh dự thông phần vào sứ mạng của Giáo Hội. Con chính là dấu chỉ của tình yêu Chúa.
Thánh Gioan đã thực hiện sứ mạng tiền hồ với những sự kiện phi thường khiến mọi người xung quanh kinh ngạc, thán phục, khiến dư luận xôn xao lan rộng. Đời con chẳng có những sự kiện phi thường. Cứ xét bề ngoài thì con cũng giống như những anh em không công giáo, chẳng có gì trổi vượt. Nhưng chính Chúa đã xếp đặt điều đó. Con vẫn là dấu chỉ của tình yêu Chúa giữa mọi người. Tình yêu Chúa luôn hiện diện khắp nơi và đang hiện diện trong chính thân phận nhỏ bé của con.
Đôi khi con lãng quên vai trò chứng nhân của mình, và khi ấy con chỉ là một dấu chỉ lu mờ của tình Chúa. Mọi người không nhận ra dấu ấn của Chúa trong cách sống của con. Khi thiếu lòng nhân ái, là lúc dấu chỉ tình yêu bị xóa nhòa. Khi con sa ngã trong tội, là lúc dấu chỉ tình yêu tắt ngấm. Bản thân con vốn yếu đuối, con để mất liên lạc với Chúa nên không thể là dấu chỉ về Chúa.
Xin Chúa giúp con luôn ý thức vai trò chứng nhân của mình. Con đã được sinh ra trong ơn thánh, được mang tên thánh, ước gì tên thánh con nhận chính là tên gọi cho cả cuộc sống của con. Amen.
Ghi nhớ : “Vợ ngươi sẽ sinh hạ cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên con trẻ là Gioan”.
47. Sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả (Lc 1,57-66.80)
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Trong năm phụng vụ chỉ có ba lễ mừng Sinh nhật. Đó là giáng sinh của Đức Giêsu (25/12), sinh nhật của Đức Maria (8/9) và sinh nhật của Gioan Tẩy giả.
Như vậy, ngoại trừ Đức Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria, chỉ có thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh được mừng vào ngày sinh nhật của mình, ngày sinh ra trong trần thế: các đấng khác đều mừng vào ngày sinh nhật trên trời, tức là ngày chết. Lễ này đã có từ thế kỷ thứ V và đặt vào ngày 24/6, có nghĩa là 6 tháng trước ngày sinh nhật của Chúa Cứu Thế. Ngoài ra ngài còn được mừng một ngày nữa vào ngày 29/8 tức là ngày ngài bị chém đầu.
Nhân ngày sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả, chúng ta cùng kiểm điểm lại xem chúng ta đã làm chứng cho Chúa như thế nào.
Có người Kitô hữu nào lại không được mời gọi làm chứng cho Chúa Kitô? Và làm sao có thể làm chứng nhân cho Chúa Kitô, nếu không kiên trì sống chết cho Đấng mình rao giảng. Nếu Gioan Tẩy giả cũng như các tiên tri đã nhận một ơn gọi rõ rệt và trực tiếp của Thiên Chúa, thì mỗi người chúng ta sinh vào đời và được tái sinh làm con Thiên Chúa qua bí tích Thánh tẩy, đều có chung một ơn gọi, một sứ mạng như các ngài, là loan báo Chúa Kitô cho mọi người và dọn đường chuẩn bị cho mọi người đến với Chúa Kitô bằng một đời sống âm thầm cầu nguyện, khiêm tốn phục vụ và nhiệt thành trong hoạt động tông đồ. Chúng ta cũng cần nhớ rằng: sứ mạng tiên tri thời nào cũng thế. Đức Giêsu, vị tiên tri làm chứng cho sự thật cũng bị bắt bớ, bị hành hạ và bị đóng đanh vào thập giá. Các thánh Tử đạo cũng làm chứng cho sự thật, tiếp nối con đường Thầy mình đi, cũng gánh lấy tù tội và cái chết. Thánh Gioan Tẩy giả được sinh ra và lớn lên trong bàn tay của Thiên Chúa đã sống đúng vai trò tiên tri dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý.
Trong vai trò làm chứng nhân cho Chúa, chúng ta phải biết quên mình để chỉ tìm vinh quang Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho anh chị em đồng loại, làm cho Chúa lớn lên trong mọi người. Tất cả mọi hoạt động của chúng ta đều phải nhằm mục đích làm chứng cho tình thương của Thiên Chúa, cho sự giải phóng của con người. Điều này có nghĩa là phải làm sao cho mỗi hành động của chúng ta làm nổi bật lên khuôn mặt của Chúa Kitô, chứ không phải tư lợi, hư danh hay uy tín của bản thân.
Thi sĩ Nguyễn công Trứ là một người có chí khí hào hùng, thúc giục thanh niên phải phấn đấu không ngừng trong cuộc sống, phải lấy cái danh làm đích để ngắm, phải tạo lấy cái danh để lại cho hậu thế, đừng để uổng phí cuộc đời mình. Chính thi sĩ đã phải vật lộn với cuộc đời mình, từ ông quan đã phải xuống làm lính, rồi phấn đấu lại trở thành ông quan, mở mang ruộng đất giúp cho dân chúng miền Kim Sơn, Tiền Hải có một đời sống ấm no. Ông đã thành công. Danh của ông đã được vinh hiển và còn lưu lại mãi nơi người dân. Ông đã khẳng định:
Đã mang tiếng sống trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông (Nguyễn Công Trứ)
Trong việc phụng sự Chúa, chúng ta không cần làm vinh danh mình mà chỉ cần làm vinh danh Chúa. Thánh Inhaxiô Loyola, ông tổ của dòng Tên, đã nêu lên một khẩu hiệu rất ý nghĩa cho các tu sĩ của Dòng mình bằng mấy chữ viết tắt: AMDG (Ad Majorem Dei Gloriam): làm cho Chúa được vinh hiển hơn.
Trong khi rao giảng Chúa cho người khác, chúng ta phải giới thiệu chính Chúa cho anh chị em, chứ không phải để phô trương bản thân mình. Để được như vậy, đòi hỏi nơi chúng ta nhiều can đảm, kiên trì và hy sinh. Phải sẵn sàng sống chết cho sứ mạng đã lãnh nhận. Gioan Tẩy giả chính là gương mẫu của người làm chứng và người dọn đường cho Chúa Kitô, gương mẫu của mỗi người Kitô hữu, của toàn thể Giáo hội trong vai trò làm chứng và rao giảng Đức Kitô của mình.
48. Vị ngôn sứ, tiền hô và chứng nhân cho Thiên Chúa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Ngài là con của ông Dacaria và bà Êlizabet, sinh trước Chúa Giêsu chừng sáu tháng (x. Lc 1,5-36; 1,39-80). Ngài được sinh ra khi cha mẹ ngài đã cao niên, đây là một hồng ân mà Chúa ban cho gia đình ngài. Có một thời gian ngài sống trong sa mạc, mời gọi mọi người hoán cải đời sống để chuẩn bị cho nước Trời gần đến. Ngài là người chuẩn bị con đường cho Ðức Giêsu đến. Với lòng khiêm hạ, ngài nhận mình không xứng để xách dép cho Chúa... Ngài bị tống ngục và chém đầu, vì đã chỉ trích vua Hêrôđê Antipas về việc đã cưới người vợ của anh trai ông ta (x. Mt 14,4; Lc 3,19). Ngài có tầm ảnh hưởng trong Giáo hội Công giáo lẫn Chính Thống giáo. Ngài được coi là vị ngôn sứ cuối cùng cũng như là vị ngôn sứ lớn nhất của Cựu ước.
Câu chuyện
Chu Văn An, Tư nghiệp Quốc tử giám, là thầy giáo của nhiều vị vua nhà Trần, cảm thấy xót xa trước cơ nghiệp lừng lẫy của nhà Trần đang có nguy cơ ngày càng lụn bại bởi vua ham chơi, bởi bọn tham quan, nịnh thần. Trong lúc quân thần ai cũng sợ mất ghế, sợ bị chụp mũ là phản động, chống lại triều đình, nên không có ai dám nói gì, chỉ hèn nhát ấm ức trong lòng, chỉ có cụ Chu Văn An dám kháng nghị qua bản Thất trảm sớ, gửi lên vua Trần Dụ Tông xin chém bảy tên gian thần vì giang sơn đất nước. Vua Trần Dụ Tông chỉ xem qua mà không thi hành.
Cụ Chu Văn An xin treo mũ, từ quan, trả lại chức Tế tửu đầy quyền lực, bổng lộc, đó là khí tiết dũng cảm của người quân tử.
Suy niệm
Nhìn dưới góc độ văn hóa phương Đông, Gioan Tẩy giả được giới thiệu như là người quân tử xuyên suốt mọi thời đại, người mà Chúa Giêsu khen ngợi: Ngôn sứ “hơn cả ngôn sứ” (Mt 11,9), người được Thiên Chúa sai đến tiền hô dọn dường cho Đấng Cứu Thế đến với nhân loại. Người sống “tu thân” trong hoang địa và rao giảng sự sám hối. Thẳng thắn, dám tố cáo những sai phạm, can đảm đương đầu với quyền lực đen tối.
Chúa Giêsu đã xác nhận vai trò ngôn sứ của ông và là một ngôn sứ đặc biệt có mối tương quan gắn bó không thể chia tách với Đấng Cứu Thế: “Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến” (Mt 11,10). Vị sứ giả đó đã xuất hiện trong Thánh Kinh bằng một sinh nhật lạ kỳ mà Giáo hội mừng kính đặc biệt vào ngày 24/6 hàng năm.
Sự chào đời của Gioan như là tín hiệu báo trước sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Sự vui mừng hoan hỉ được thánh Luca ghi lại: Bà con láng giềng vui mừng hân hoan trước biến cố đứa trẻ mới được chào đời và chia sẻ cùng Êlisabéth: “Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà” (Lc 1,58). Bà con láng giềng muốn lấy tên cha mà đặt cho cậu bé sơ sinh, nói lên căn cội của cậu và nói lên mối liên hệ bà con với những người thân thuộc. Nhưng bà Êlisabéth và ông Dacaria xác tín rằng tên của cậu theo lời của Chúa truyền dạy cho, được thiên thần bảo cho trước đó: “Vợ ông sẽ sinh một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan” (Lc 1,13).
Gioan, cái tên được Thiên Chúa đặt cho là dấu chỉ thuộc về Thiên Chúa, căn tính quân tử của Gioan đã được ngôn sứ Isaia nói trước: “Chúa đã gọi tôi, từ khi tôi còn trong bụng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay Người... biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người” (Is 49,1-2).
Sứ mạng ngôn sứ và ơn thánh đã nuôi dưỡng Gioan: “Cậu bé càng lớn lên, thì tinh thần càng vững mạnh” (Lc 1,80). Vì thế, vị quân tử này không sợ trước bất kỳ quyền lực nào, luôn biết sống trung tín và loan báo những gì mà Thiên Chúa muốn ông nói và làm. Gioan bộc trực, thẳng thắn phê phán những quyền lực tôn giáo sống không đúng với chức danh (Mt 3,7), ông phê phán, đương đầu đối mặt với cả vương quyền khi họ thực hiện những điều bất nghĩa dù ông phải trả giá bằng cái chết. Gioan sống chính danh quân tử vì là người luôn sống trung thành và tỏa sáng với nhiệm vụ tiền hô. Có thời điểm, dân chúng suy tôn tung hô ông như là Đấng Cứu Thế nhưng ông đã minh xác: “Tôi không phải là Ðấng Cứu Thế, sẽ có một Đấng đến sau tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày Người” (Lc 3,16).
Chính Gioan xác nhận vai trò của ông trong tương quan với Đấng Cứu Thế: ”Ngài phải nổi bật lên; tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30). Ông chỉ là một ngôn sứ, là tiền hô và là chứng nhân cho Thiên Chúa như Tin Mừng thứ tư đã khẳng định: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, người đó tên là Gioan, ông đến để làm chứng cho ánh sáng” (Ga 1,6-7a).
Xã hội ngày nay nói chung và đất nước Việt Nam chúng ta nói riêng rất cần có những chính danh quân tử như Gioan, người sống chính danh phận sự, chức năng của mình trong công vụ để xây dựng đất nước và con người ngày càng thăng tiến. Chúng ta cần những Gioan của thời đại mới xuất hiện và loan báo tinh thần quân tử Phúc Âm và mong sao chúng ta cũng là những chính danh quân tử dấn thân xây dựng xã hội không vì quyền lợi bản thân như Gioan.
Ý lực sống :
Gioan quân tử Phúc Âm
Nên gương chói sáng cho đời noi theo.
23/06 Cây tốt trái tốt, cây xấu trái xấu
- Viết bởi Mt 7, 15-20
Cây tốt trái tốt, cây xấu trái xấu.
Thứ Tư tuần 12 thường niên.
"Hãy xem quả thì các con sẽ biết chúng".
Lời Chúa: Mt 7, 15-20
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé.
Hãy xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao?
Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Cứ xem quả thì biết họ
Suy niệm:
Thời nào Hội Thánh cũng có những ngôn sứ giả.
Họ mang dáng dấp là người của Chúa, người nói lời Chúa.
Họ hấp dẫn quần chúng và có nhiều người chạy theo.
Đức Giêsu dạy ta phải coi chừng họ (c. 15).
Ngài dùng một hình ảnh quen thuộc để nói lên mối nguy cơ này.
Các ngôn sứ giả đội lốt chiên tốt lành mà đến với dân Chúa.
Nhưng thực chất họ là sói dữ tham mồi.
Cái khó là nhận ra bộ mặt thật của họ để không bị đánh lừa.
Không nhận ra họ là sói, chúng ta có thể dễ làm mồi cho họ.
Đức Giêsu dùng một hình ảnh khác
để chỉ cho ta cách phân biệt chiên với sói: hình ảnh quả và cây.
Cây nào sinh quả ấy: đó là một nguyên tắc bất biến.
“Có ai hái được nho ở bụi gai, hay hái vả trên cây găng không?” (c. 16).
Hẳn là không rồi.
Cây tốt ắt sinh quả tốt, cây bị sâu ắt sinh quả chẳng ra gì (c. 17).
Hơn nữa, Đức Giêsu còn mạnh mẽ khẳng định:
cây tốt không thể sinh quả xấu,
và cây xấu không thể sinh quả tốt được (c. 18).
Chính vì thế cứ nhìn quả thì biết cây.
Cứ nhìn những công việc do một người làm,
ta sẽ biết người ấy là ai (cc. 16. 20).
Những môn đệ đích thực của Đức Giêsu hẳn sẽ sinh quả tốt,
đó là sống công chính như giáo huấn của Bài Giảng trên núi.
Còn những ngôn sứ giả bị lộ mặt nạ qua đời sống bất chính của họ.
Chuyện ngôn sứ giả đã có từ xưa trong Cựu ước.
Ở Côrintô, thánh Phaolô đã phải vất vả đối đầu
với những kẻ mà ngài gọi là tông đồ giả, đội lốt tông đồ của Đức Kitô.
Ngài còn thêm: “Lạ gì đâu!
Vì chính Xatan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2 Cr 11, 13-14).
Như thế các tín hữu phải cảnh giác để phân biệt chân và giả,
đặc biệt trong thời Hội Thánh gặp khủng hoảng khó khăn.
Họ phải tỉnh táo để khỏi bị dáng vẻ bên ngoài hay lý luận mê hoặc.
Điều cần lưu tâm là đời sống công chính của vị ngôn sứ.
Trong thư gửi tín hữu Galata, thánh Phaolô cho chúng ta một tiêu chuẩn
để nhận ra hoa quả nào là bắt nguồn từ Thần Khí (5, 22).
Đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín…
Những điều ngược lại, ngài gọi là những hành động của xác thịt,
như hận thù, bất hòa, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái… (5, 20).
Sống trong một thế giới phẳng và đa nguyên, người Kitô hữu hôm nay
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và nhanh chóng,
bởi nhiều nguồn thông tin, đến từ nhiều người.
Những tiêu chuẩn của Đức Giêsu hay của thánh Phaolô vẫn còn giá trị.
Nhưng chúng ta cần có thời gian để phân định quả xấu, quả tốt.
Và cũng cần có thời gian để nhận ra đâu là sói, đâu là chiên.
Cầu nguyện:
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Cây tốt sinh quả tốt
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi thời gian. Khi cây chưa ra quả chưa phân biệt được tốt xấu. Có những cây cành lá um tùm nhưng lại không có quả như cây vả bị Chúa chúc dữ. Có những cây khẳng khiu nhưng lại sinh hoa thơm trái ngọt. Vì thế phải kiên nhẫn. Kiên nhẫn chờ đợi và kiên nhẫn vun trồng. Khi ta xét đoán người hãy biết chờ đợi cho đến thời đến buổi, đừng sớm xét đoán. Khi ta xét mình ta hãy biết kiên nhẫn để không nản lòng nhưng vẫn luôn vươn lên dù những yếu đuối khiếm khuyết. Sẽ có ngày Chúa cho sinh hoa quả tốt lành.
Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi đức tin kiên vững như tổ phụ Áp-ra-ham. Ra đi khi tuổi đã cao nhưng vẫn tin lời Chúa hứa. Chưa thấy đất chẩy sữa và mật nhưng vẫn tiến bước trong sa mạc. Chưa thấy con cháu nối dõi, đã phải chọn gia nhân làm người thừa kế theo thói thế gian nhưng vẫn tin vào lời Chúa hứa. Và quả thật Chúa đã giữ lời hứa cho Áp-ra-ham thành tổ phụ những người tin ngày càng đông đúc và kéo dài cho đến tận thế. Đức tin kiên vững là một cây tốt sinh hoa trái xum xuê, như cây trồng bên bờ suối, cho hoa trái quanh năm và cây không bao giờ tàn úa (năm lẻ).
Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi sự trung thành với giao ước. Đã ký kết giao ước rồi Chúa luôn trung thành. Lời Chúa hứa là một thân cây có khi gai góc, có khi khẳng khiu, có khi èo uột tưởng chừng tàn lụi trong mùa đông lạnh giá. Đó là những thử thách từ hoàn cảnh khó khăn, từ những vấp ngã của con người, từ những thế lực trần gian luôn nhũng nhiễu quấy phá. Nhưng rồi đến thời điểm Chúa định, một mùa xuân bừng dậy, cây lời hứa đơm hoa kết trái phúc lộc man vàn. Chỉ cần con người kiên tâm, trung thành vượt qua mùa đông lạnh giá, Chúa trung thành chờ đón tôi trung vào mùa xuân vĩnh cửu.
Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi can đảm dấn thân ký kết giao ước như vua Khít-ki-gia. Biết Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống và sức mạnh. Biết tổ tiên đã sai lỗi khi phế bỏ giao ước nên đã đi vào tiêu vong. Vua thống hối và lập tức ký kết giao ước với Thiên Chúa. Đó chính là vun trồng cây tốt. Đó chính là trồng cây trên đất tốt. Đó chính là chọn mặt gửi vàng (năm chẵn).
Xin cho con biết phân biệt cây tốt với cây xấu. Xin cho con đừng trở thành cây xấu sống giả dối. Chỉ có hình thức bề ngoài đẹp đẽ nhưng linh hồn xấu xa. Chỉ có lời nói đẹp đẽ nhưng ý hướng đen tối. Xin cho con trở thành cây tốt. Sống chân thật. Nói lời chân thật. Để sẽ có hoa trái là hạnh phúc đích thật.
Suy Niệm 3: Xem quả biết cây
Nhà tu đức học nổi tiếng người Ấn Ðộ là cha Anthony de Mello có kể câu truyện ngụ ngôn:
Một vị giáo sĩ nọ đến gặp một tiên tri và xin ngài cầu nguyện cho một đôi vợ chồng trẻ: họ là những người rất mực đạo đức, nhưng không có con. Nghe thế vị tiên tri trả lời: "Ta rất lấy làm tiếc, Chúa không muốn cho họ có con".
Thế nhưng, 5 năm sau, vị giáo sĩ trở lại thăm đôi vợ chồng trẻ, lần này ông nghe thấy tiếng trẻ con cười đùa trong nhà. Người chồng giải thích rằng cách đây 5 năm, có một người hành khất lang thang trước nhà họ, người chồng mời người hành khất vào nhà, cho ăn uống và mặc quần áo mới cho. Trước khi từ giã, người hành khất đã chúc lành cho đôi vợ chồng trẻ và Chúa đã ban cho họ được hai đứa con.
Vị giáo sĩ trở lại gặp vị tiên tri để xin một lời giải thích. Vị tiên tri mỉm cười trả lời: "Ta chỉ có thể nói rằng có một vị thánh đã đến thăm đôi vợ chồng trẻ này, và nhờ lời chúc phúc của ngài, họ đã có được hai đứa con; các thánh có cách thay đổi chương trình của Thiên Chúa".
Một cuộc sống thánh thiện lúc nào cũng có âm hưởng trên người khác, một chứng tá đức tin luôn có sức đánh động người khác. Ðó có thể là ý tưởng nổi bật trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói đến trái tốt từ cây tốt. Qua kiểu nói này, hẳn Chúa Giêsu muốn nói đến những thể hiện đích thực của lòng tin: một đức tin chân thật luôn đi đôi với việc làm cụ thể. Chính Ngài đã nói: "Không phải những ai đã nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời, mà chỉ những ai thực hành ý Chúa mới được vào mà thôi". Thánh Giacôbê đã lấy lại giáo huấn này khi ngài viết: "Ðức tin không có việc làm là đức tin chết tận gốc rễ".
Chúa Giêsu tỏ lòng cảm thông và tha thứ cho những yếu hèn và vấp ngã của con người, nhưng Ngài không hề dung chấp cho thái độ giả hình của những người Biệt phái. Ngài gọi họ là những tiên tri giả, những người đội lốt chiên mà bên trong là lòng dạ của sói dữ. Họ trưng bày một bộ mặt đạo đức, nhưng cuộc sống của họ gồm toàn những hành động xấu xa.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước thói giả hình. Bao lâu giữa niềm tin và cuộc sống còn có khoảng cách, thì bấy lâu chúng ta vẫn còn là những kẻ giả hình; trên cây đức tin của chúng ta chỉ có những quả xấu; cuộc sống chỉ còn là những phản từ, hay nói theo ngôn ngữ quen thuộc: chúng ta làm ố danh sự đạo. Thánh Phaolô đã nhắn nhủ tín hữu Côrintô: Những người rước Mình Thánh Chúa mà vẫn tiếp tục sống trong chia rẽ và kỳ thị, là những người sống trong mâu thuẫn không thể chấp nhận được, và họ rước Mình Thánh Chúa một cách bất xứng. Bí tích Thánh Thể không thể tách rời khỏi giới răn yêu thương: người ta không thể rước Mình Thánh Chúa mà đồng thời lại sống xa lạ với anh em đang bị đói khát, đau yếu, tù đày. Từ việc rước lễ phải nẩy sinh trong chúng ta sức mạnh của niềm tin yêu khiến chúng ta cởi mở với tha nhân, có lòng từ bi đối với những người sống trong túng thiếu và quẫn bách.
Ước gì chúng ta luôn biết thể hiện đức tin của chúng ta bằng những hành động cụ thể. Ước gì hoa trái của đức tin chúng ta trở thành của ăn có sức nuôi dưỡng bồi bổ đối với những người xung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Biết tin vào ai?
“Anh em hãy coi chừng những ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt, thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu.” (Mt. 7, 15-17)
Những tiếng chào mời khắp nơi
Thời nay càng không thiếu những người nói hay nói khéo. Người ta gặp họ nhan nhản ở trong các nhà thờ. Nhưng họ cũng có mặt đông đảo ở những nơi công cộng, trên vô tuyến, trên truyền hình. Những kẻ ba hoa này thích được người ta coi mình là những thày dạy đời, những nhà tiên tri. Mỗi người đều có những ngón nghề riêng để nói hay về hạnh phúc. Vấn đề là họ không nói chung cùng một tiếng nói. Kẻ nói trắng, người nói đen.
Mỗi ngày, những người công dân bình thường đều bị chới với vì những làn sóng thông tin, sứ điệp ùa tràn từ mọi phía. Những Kitô hữu cũng được người ta mời chào đón nhận những lý thuyết mới lạ và chạy theo những con đường rất trái ngược nhau. Phải tin ai đây? Phải coi chừng ai? Có cách nào để biết được ai là tiên tri thật, ai không phải?
Cây tốt, trái tốt
Có một cách rất đơn sơ mà không sợ sai lầm. Đó là đừng để cho những lời nói hay nói khéo kia mê hoặc mình và phải xét xem đâu là hậu ý. Đó là để mắt kỹ coi xem những nhà “giảng thuyết” ấy sống điều họ giảng như thế nào. Ta còn phải kiểm chứng cụ thể để biết những lý thuyết hay ho kia gây được những hiệu quả thực tiễn nào
Cây tốt thì sinh trái tốt. Ý tưởng tốt chỉ có thể dẫn tới những hành vi tốt. Tiên tri thật thì giúp con người sống hạnh phúc hơn, hiệp nhất hơn, phát triển hơn. Nếu thực hành điều họ dạy chỉ làm ta chia rẽ, dẫn đến hận thù thay vì yêu thương, gieo rắc bạo lực và ương ngạnh thay vì hiền từ và hiểu biết, thì rõ ràng là chúng ta phải xem xét lại những vị tiên tri giả này. Cứ xem hoa trái của họ thì biết được ai là tiên tri tốt, ai là tiên tri giả. Không có gì đơn giản hơn vậy.
SUY NIỆM 5: HÃY TRỞ NÊN “QUẢ TỐT” (Mt 7, 15-20)
Nhiều người tỏ ra bị sốc khi nghe câu tuyên bố của Đức Giêsu: “... cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt”. Thật ra, trong thực tế, vẫn có nhiều người “gần mực mà không đen”, hay “gần đèn mà chẳng rạng”!
Tuy nhiên, điều mà Đức Giêsu nói ở đây đó là hãy biết cách nhận định khôn ngoan chứ không phải xét đoán hời hợt hay mang sẵn lòng hận thù hoặc tính kiêu ngạo. Nhận định tức là căn cứ vào kết quả để biết con người một cách khách quan. Tiêu chuẩn là: “Xem quả biết cây”.
“Cây” ở đây chính là mình, còn “hoa, lá, cành” chính là những việc đạo đức như: dâng lễ, kinh sách, cầu nguyện, tham gia các hội đoàn và những việc lành khác.... Còn “quả” ở đây chính là gương sáng, hy sinh, yêu thương, tha thứ..., tức là từ bi - bác ái, yêu Chúa hết lòng và thương yêu anh chị em cách chân thành.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người trong chúng ta lại có quá nhiều “hoa, lá, cành”, mà “quả” thì không có, hay có nhưng lại bị “sâu”. Tức là hăng say làm việc chỉ vì ham danh, huênh hoang, tự phụ, ích kỷ nên không thể sinh ra “quả” tốt được. Những người đó họ làm mọi việc vì thực dụng cá nhân, không vì yêu mến Chúa và tha nhân, nên họ chẳng khác gì chiếc phèng la kêu inh ỏi, nhưng bên trong thì rỗng tuếch.
Thánh Phaolô cũng khuyên dạy tín hữu thành Corintô như sau: "Giả như tôi nói được các thứ tiếng, giả như tôi được ơn tiên tri như tôi có đem hết tài sản mà bố thí mà không có đức mến thì cũng chẳng có ơn ích gì cho tôi" (x. 1 Cr 13,1-3). Vì thế: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời, mà chỉ những ai thực hành ý Chúa mới được vào mà thôi”.
Muốn làm được điều đó, chúng ta phải trở nên những tiên tri thật của lòng mến, chứ đừng trở nên tiên tri giả của tham sân si. Hãy trở nên con chiên hiền lành của Chúa chứ đừng trở nên sói dữ. Không được mang danh và hình ảnh của chiên, nhưng thực ra chỉ là mặt chiên, mà là dạ sói!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn gắn chặt cuộc đời của chúng con vào Chúa, để như một sự tác sinh, chúng con được trở nên giống Chúa, hầu trở nên những hoa trái tốt như lòng Chúa mong ước. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 6: Đề phòng những tiên tri giả
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Chúa Giêsu bảo các môn đệ phải coi chừng tiên tri giả: bề ngoài thì họ giả bộ hiền lành như con chiên, nhưng thật sự họ ác ôn như sói dữ. Muốn biết họ thật giả, cần phải xem cách sống họ có phù hợp với giáo huấn của Chúa không? Vì cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh trái xấu. Cũng vậy, người tốt thì lời nói việc làm của họ cũng tốt, còn kẻ bê tha thì lời nói việc làm của họ cũng bê bối. Vì lòng đầy tràn thì sẽ thố lộ ra bên ngoài bằng lời nói, việc làm và đời sống hằng ngày.
2. Lời Chúa hôm nay dạy cách nhận định khách quan. Nhưng trước hết ta cần lưu ý rằng lời dạy này không mâu thuẫn với lời dạy hôm thứ hai là đừng đoán xét người khác.. Đoán xét là chỉ mới thấy một số hiện tượng đã vội kết luận và kết án. Còn nhận định khách quan là căn cứ vào kết quả để biết con người. Đoán xét dễ chủ quan, còn nhận định thì phải khách quan. Đoán xét đưa đến việc lên án người khác, còn nhận định chỉ để rút ra suy nghĩ và chọn lựa cho chính mình. Trong cuộc sống, ta không nên đoán xét nhưng phải khôn ngoan nhận định cách khách quan.
Nhận định khách quan dựa trên tiêu chuẩn “Xem quả biết cây” (Carôlô).
3. Tiên tri theo đúng nghĩa là người nói thay Thiên Chúa, là người chỉ nói những gì Thiên Chúa truyền, và đôi khi biến cả đời mình thành sứ điệp của Thiên Chúa. Đó là trường hợp của Giêrêmia khi ông khoác vào người một cái ách và đi giữa phố chợ để gây ý thức nơi dân Israel về cái ách tội lỗi đang đè nặng trên họ. Đó cũng là trường hợp của Hôsê khi ông cưới một cô gái điếm để tố cáo sự bất trung của dân chúng.
Tiên tri giả là người nhân danh Thiên Chúa để nói những gì không phải là của Chúa và có cuộc sống không phù hợp với sứ điệp của Chúa. Chúa Giêsu đã so sánh tiên tri giả với một thứ cây xấu, cây xấu chỉ có thể sinh trái xấu, và người ta có thể xem quả để biết cây.
4. Để phân định ai là tiên tri giả, ai là tiên tri thật, chúng ta hãy dựa vào tiêu chuẩn này: Có tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa như đức tin tông truyền từ các Tông đồ dạy không? Càng ngày càng xuất hiện nhan nhản những kẻ xưng mình là “thị nhân”, là “con gái yêu”, là tiên tri thật”, là “được Chúa sai đi” rồi tự cho mình được “mạc khải” nhưng thực tế lại rao truyền điều đi ngược lại với đức tin tông truyền mà Chúa Giêsu giao cho các Tông đồ truyền lại cho Giáo hội. Chẳng hạn, trong những năm gần đây có cái gọi là “sứ điệp từ trời” của một phụ nữ tự xưng là “con gái yêu” của Chúa, rao truyền những điều nghịch đức tin, dựa theo những con số tượng trưng trong Thánh Kinh rồi giải thích theo nghĩa đen, lên án Giáo hội trong công đồng Vatican II, bất phục và không tin vào sự kế vị hợp pháp của Đức Thánh Cha... Như thế, chính cái gọi là sứ điệp ấy tự mâu thuẫn với lời Chúa dạy (Hiền Lâm).
5. Người Kitô hữu nhờ phép rửa cũng tham dự vào chức vụ tiên tri của Đức Kitô. Một cách nào đó, qua ngôn từ và hành động, cuộc sống của họ cũng phải là một sứ điệp của Thiên Chúa cho những người chung quanh. Nếu cuộc sống người Kitô hữu không đủ sức là một sứ điệp của Thiên Chúa, thì hẳn người đó cũng có thể bị coi là một tiên tri giả. Như vậy, tiên tri giả hay Kitô hữu giả là người thiếu sự thống nhất hòa hợp giữa niềm tin và cuộc sống. Người Kitô hữu giả là người mang danh hiệu Kitô, nhưng lại không sống những cam kết của mình. Đó là người chỉ đóng khung niềm tin của mình trong bốn bức tường nhà thờ, mà không thể hiện niềm tin ấy trong cuộc sống hằng ngày qua những gặp gỡ với tha nhân. Đó là người không muốn sống như Đức Kitô, nhưng chỉ buông theo con người cũ của những xu hướng tội lỗi (Mỗi ngày một tin vui).
6. Chúa Giêsu tỏ lòng cảm thông và tha thứ cho những yếu hèn và vấp ngã của con người, nhưng Ngài không hề dung chấp cho thái độ giả hình của những người Biệt phái. Ngài gọi họ là những tiên tri giả, những người đội lốt chiên mà bên trong là lòng dạ của sói dữ. Họ trưng bầy một bộ mặt đạo đức, nhưng cuộc sống của họ gồm toàn những hành động xấu xa.
Về vấn đề này, cha ông chúng ta đã có kinh nghiệm và thường nói:
Mua cá thì phải xem mang,
Mua bầu xem cuống, mới toan khỏi lầm.
Con người muốn biết thâm tâm,
Nhìn vào công việc, chẳng lầm mảy may.
7. Truyện: Xem quả biết cây.
Nước Kinh có người xem tướng giỏi, nói câu nào trúng câu ấy. Trong nước, xa gần ai ai cũng biết tiếng. Vua Trang Vương thấy thế vời lại hỏi:
- Nhà ngươi dùng thuật gì mà xem tướng giỏi như thế?
Người xem tướng thưa rằng:
- Thần không có thuật gì lạ cả. Thần chỉ xem “bạn người ta” mà biết được người ta hay hoặc dở. Như thần xem cho thường dân, mà thấy họ chơi với những người bạn hiếu, đễ, huấn, cần, biết giữ phép nước thì thần đoán người ấy là người hay, thân tất một ngày vẻ vang, nhà tất một ngày thịnh vượng.
Như thần xem cho quan lại, mà thấy chơi với những người bạn thành, tín, có phẩm hạnh, thích điều phải thì thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất mỗi ngày một cao thăng, giúp vua tất mỗi ngày một lợi ích.
Nếu thần xem cho vua chúa, mà thấy quan gần thì có lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc lỗi có nhiều người can ngăn thì thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày một tôn trọng, nước tất mỗi ngày một trị yên, thiên hạ tất mỗi ngày một qui phục. Thần quả không có thuật gì lạ, chỉ xem người mà biết được người hay hay dở.
Vua Trang Vương cho nói là phải. Bấy giờ liền kíp thu dùng những người tài giỏi, sau nước Sở cường thịnh nhất đời Chiên Quốc.
Chúng ta tự hỏi xem bạn bè chung quanh chúng ta là những người như thế nào? Từ đó mà chúng ta biết mình là ai?
22/06 Thi hành điều muốn người khác làm cho mình
- Viết bởi Mt. 7, 6. 12-14
Thi hành điều muốn người khác làm cho mình.
Thứ Ba tuần 12 thường niên.
"Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta".
Lời Chúa: Mt. 7, 6. 12-14
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Đừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con.
"Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Đấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy.
"Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Cửa hẹp và đường chật
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay gồm những câu rời rạc.
Câu đầu tiên là một câu khó hiểu đối với chúng ta ngày nay (c.6),
tuy có thể rất dễ hiểu đối với những người trực tiếp nghe Đức Giêsu.
“Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai chớ liệng cho heo…”
Heo là con vật nhơ uế, chó thường được dùng để chỉ dân ngoại.
Vào khoảng đầu thế kỷ thứ hai,
sách Điđakhê coi của thánh ở đây là Mình Thánh Chúa,
từ đó xác định rằng chỉ tín hữu mới được rước lễ (9, 5).
Tuy nhiên, có thể hiểu của thánh hay ngọc trai là Tin Mừng Nước Trời.
Tin Mừng này có thể được đón nhận hay bị từ chối một cách thô bạo.
Không hẳn chỉ dân ngoại mới có người từ chối và chà đạp viên ngọc quý.
Cả người Do thái cũng có kẻ bách hại những ai rao giảng (Mt 10, 17).
Thái độ của người môn đệ là không dừng lại, nản lòng khi bị chối từ.
nhưng là tiếp tục mang sứ điệp ấy đến cho người khác.
Câu 12 thường được coi là khuôn vàng thước ngọc.
Nó xuất hiện trong nhiều tôn giáo và văn hóa từ xưa.
“Làm cho người khác mọi điều mình muốn họ làm cho mình.”
Đây là một thái độ tích cực đòi chúng ta một chút tưởng tượng.
Tôi thử nghĩ xem mình muốn gì nơi người khác.
Cảm thông, bao dung, yêu mến, kính nể, trung thành, nâng đỡ…
Rồi tôi tìm cách trao cho họ những điều tốt lành mà tôi ước mong,
vì giữa con người với nhau, vẫn có chung những khát vọng.
Trong một thế giới mà người ta chỉ tìm làm điều tốt cho nhau,
thì thế giới đó là địa đàng, nơi sự dữ không còn đất đứng.
Như thế người Kitô hữu không chỉ yêu anh chị em trong cộng đoàn,
yêu người thân cận như chính mình (Mt 22, 39),
mà còn yêu mọi người đau khổ cơ nhỡ (Mt 25, 31-46),
thậm chí yêu cả kẻ thù (Mt 5, 44).
Cộng đoàn Kitô hữu là cộng đoàn yêu bằng hành động tích cực :
“chính anh em hãy làm cho người ta” (c. 12).
Người ta ở đây là mọi người, vượt quá mọi thứ biên giới.
Con đường mà Đức Giêsu đã đi là con đường hẹp, khó đi.
Nó hẹp vì nó là con đường tình yêu, mà yêu thì không dễ.
Ít ai tìm thấy con đường này, mà cũng ít người muốn đi (c. 14).
Chúng ta được mời chọn đi con đường Giêsu,
con đường tình yêu đòi hy sinh mạng sống,
con đường đòi ra khỏi mình để sống cho và sống với tha nhân.
Và chúng ta tin mình sẽ gặp được hạnh phúc.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy
chỗ đứng của con trong Hội Thánh:
nơi Trái tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện. Amen.
(dựa theo lời của thánh Têrêxa)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Vào cửa hẹp
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa chỉ cho ta con đường dẫn đến sự sống đó là phải vào qua cửa hẹp.
Cửa hẹp là chế ngự được thú tính. “Đừng quăng của thánh cho chó; đừng liệng ngọc trai cho heo”. Trong ta có của thánh và ngọc quí. Đó là đức tin, là ơn thánh, là tước hiệu con cái Chúa. Quí giá vì quyết định hạnh phúc đời đời. Vì thế phải bảo vệ trân trọng bằng bất cứ giá nào. Bằng cả mạng sống ta. Nhưng trong ta cũng có những con thú. Thú dữ như chó. Thú dơ bẩn như heo. Nếu ta không kềm chế, thả lỏng những con thú này. Chúng sẽ chà đạp hết những gì cao quí trong con người ta rồi quay lại cắn xé ta tan nát. Chế ngự thú tính là bắt mình đi vào cửa hẹp, không cho thú tính tự do tung tác. Như thế mới bảo vệ được ơn thánh và ngọc quí trong ta.
Cửa hẹp là biết quan tâm đến tha nhân sống chung quanh ta. Quan tâm để phục vụ: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta”. Đó là yêu người như mình. Khi muốn làm vui lòng tha nhân, phải từ bỏ mình. Phải chịu hẹp một chút. Đó là vào cửa hẹp yêu thương. Cửa hẹp này sẽ mở rộng cánh cửa tâm hồn của ta và của tha nhân.
Như Áp-ra-ham biết giữ những giá trị tinh thần cao quí. Giá trị đó là đức tin vào Chúa một cách tuyệt đối. Giá trị đó cũng là tình gia tộc. Phải phân chia nơi ở để gìn giữ hòa khí. Trong phân chia, Áp-ra-ham đã đi vào cửa hẹp là nhường nhịn. Dành cho Lót quyền ưu tiên chọn lựa. Dù Lót là phận dưới. Lại chỉ là người ăn theo lời hứa. Lót đã chọn thành Xô-đô-ma là một thành phố giầu sang thịnh vượng. Vừa dễ làm ăn vừa vui tươi. Còn Áp-ra-ham theo lời hứa đã chọn hướng ngược lại, vào sa mạc cắm lều dưới rặng sồi Măm-rê. Ông đã giữ được của thánh và ngọc quý. Ông được Chúa thưởng công gấp bội (năm lẻ).
Như Khít-ki-gia. Không cậy dựa vào sức mạnh của nhân loại. Cũng không hèn nhát hàng phục. Nhưng phó thác cho Chúa. Trước sức hung hãn của Át-sua. Giống như chó dữ. Và như heo dơ bẩn. Muốn cắn xé đức tin của ông. Muốn chà đạp sự linh thiêng của Chúa. Khít-ki-gia đi vào cửa hẹp. Lên Đền Thờ tỏ bày với Chúa. Và ông đã được Chúa cứu thoát khỏi ách xâm lược của Át-sua. “Chính đêm ấy, thiên sứ của Đức Chúa ra đánh chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Át-sua. Vua Át-sua là Xan-khê-ríp nhổ trại và lên đường. Ông rút về Ni-ni-vê” (năm chẵn).
Đường rộng thênh thang muôn lối nhưng dẫn đến diệt vong. Xin Chúa cho con biết đi vào đường hẹp, chỉ có một lối duy nhất của Chúa dẫn đến sự sống.
SUY NIỆM 3: Hãy qua cửa hẹp
Một cuốn phim Mỹ với nội dung như sau: Có đôi vợ chồng trẻ mới thành hôn đưa nhau đi nghỉ cuối tuần tại Las Vegas, một thành phố cờ bạc nổi tiếng nhất nước Mỹ. Ðang lúc thuận thời vận, hai người chia sẻ cho nhau ước muốn có được một căn nhà. Một nhà tỷ phú tình cờ theo dõi câu chuyện của đôi vợ chồng trẻ. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng cho họ một triệu Mỹ kim. Chỉ sau một đêm họ có thể trở thành triệu phú. Nghĩ thế, họ ra phòng luật sư để ký giao kèo. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỷ phú, người chồng cũng bắt đầu nghĩ lại, viễn ảnh mất vợ bỗng làm anh lo sợ. Thế nhưng đã quá muộn, sau một đêm để có được tất cả cũng chính là lúc họ mất nhau để rồi đi đến tan vỡ.
Câu chuyện phim trên đây có thể là một dụ ngôn cho chúng ta hiểu được giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: con đường dễ dãi là con đường dẫn đến hư mất, đó là định luật chung của cuộc sống. "Hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường rộng đưa đến diệt vong". Thái độ hững hờ không thể đi đôi với những đòi hỏi của Tin Mừng; cuộc sống dễ dãi, buông thả không có chỗ đứng trong nếp sống của những người theo Chúa. Ðã một thời cùng ăn, cùng uống, cùng nghe giảng dạy, chưa phải là giấy thông hành để vào Nước Trời: "Ai nghe những lời Ta dạy mà không đem ra thực hành, thì ví được như người ngu xây nhà trên cát". Nếu viện lý do mình là con dòng cháu giống, cũng chưa phải là lý do để được thâu nhận vào Nước Trời.
Trong lúc huấn đức cho đồ đệ, một người mới nhập viện lên tiếng hỏi vị Thiền sư:
- Thưa Thầy, con quyết chí tu cho đắc đạo dễ hay khó?
Thiên sư trả lời:
- Không dễ cũng không khó.
Người đồ đệ ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao lại không dễ cũng không khó? Con thật không hiểu, xin thầy giải thích.
Thiền sư dõng dạc trả lời:
- Vì tu đắc đạo không ở đó.
Người đồ đệ càng sửng sốt hơn:
- Con không thể nào hiểu được. Vậy làm sao để đạt đích?
Thiền sư trả lời:
- Vì đường tu không khoảng cách. Khi con ngưng bước là lúc con tới đích.
Xin Chúa cho chúng ta thực thi những gì Chúa đòi hỏi. Xin cho chúng ta luôn đi sát Chúa và hướng thẳng tới đích cao vời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Cửa hẹp
“Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng là đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua cửa đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt. 7, 13-14)
Những cánh cửa khép kín
Ta nghĩ đến cái gì khi nghe Phúc âm nói về cửa hẹp? Có lẽ ta cho đó là chuyện chẳng có gì đáng “tếu”, đáng phấn khởi cả. Trong đầu óc ta, đó là những tiếng gợi nên cảnh nhiệm nhặt, khổ chế, những điều răn, thập giá và đau khổ. Trong tất cả những điều này, chẳng có gì làm cho ta ham sống cả. Một phần nào đó cũng giống như muốn qua cửa hẹp, thì trước tiên là phải lo đóng chặt các cửa chung quanh, phải bận tâm nhiều đến những điều cấm đoán, phải thường xuyên ở thế phòng thủ, phải luôn luôn canh chừng để khỏi rơi xuống hố sâu vực thẳm.
Như vậy thiết tưởng cửa hẹp là một cái vòng xiềng cổ, là cái áo bó chặt vào người, là con đường khúc khuỷu gập ghềnh chẳng có nhiều ánh sáng, niềm vui sống và tự do.
Những cánh cửa mở rộng
Nghĩ tưởng như vậy đúng là không biết đánh giá cao điều Chúa Giêsu đề nghị cho ta. Để tỏ ra công bằng đối với Chúa, khĩ nghĩ đến cửa hẹp, thiết tưởng ta phải nghĩ nhiều đến những cánh cửa rộng mở hơn là những cánh cửa khép kín. Chúa Giêsu chẳng phải là con người dập tắt niềm vui, sự sống và tự do. Và chính cửa hẹp Chúa nói đến ở đây, sẽ đưa ta tới đó.
Nếu Chúa Giêsu có mời gọi ta sống nhiệm nhặt khắc khổ, chính là để nếp sống ấy đưa ta tới nguồn vui. Chúng ta sẽ phải đau khổ, nếu Chúa không giấu ta điều đó, chính là để nói với ta rằng hạnh phúc đang chờ ta ở cuối đoạn đường. Nếu Người thúc ép ta vác thập giá mình, chính la để dẫn ta đến sự sống.
Thế nên cửa hẹp được gọi là tình yêu thương, sự hiến thân, đức công bình, sự tha thứ lỗi lầm, lòng quảng đại, nhân từ, dịu hiền. Cửa hẹp này mở rất rộng rãi hướng về một thế giới tuyệt vời; thế giới chan hòa tự do và hoan lạc này chỉ mình Thiên Chúa mới có thể vun trồng ở thâm sâu của lòng ta.
SUY NIỆM 5: KHUÔN VÀNG THƯỚC NGỌC (Mt 7, 6. 12-14)
"Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta".
Đây là khuôn vàng thước ngọc để ta thi hành đức ái theo thánh ý Chúa.
Thật vậy, chẳng ai muốn điều xấu đến với mình bao giờ. Vì thế, không có lẽ gì lại mong muốn điều xấu đến với anh chị em mình. Chỉ có ai nuôi lòng hận thù, hay vì ích kỷ thì mới làm điều bất chính cho tha nhân và muốn điều tốt cho riêng mình mà thôi.
Hôm nay, Đức Giêsu đã đưa ra kim chỉ nam cho các môn đệ và cũng cho mỗi người chúng ta là: hãy muốn và làm điều tốt cho tha nhân trước khi thi hành điều tốt cho chính mình. Phải quên đi bản thân để mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân trước. Hãy đặt mình vào hoàn cảnh của anh chị em và hãy đối xử với họ như chính mình muốn được đối xử khi ở địa vị của họ.
Lời Chúa hôm nay không chỉ kêu mời chúng ta “hãy làm cho người khác những điều mình muốn họ làm cho mình” mà Ngài muốn chúng ta đi xa hơn nữa là hãy cư xử với tha nhân tốt hơn là họ đáng được cư xử. Không chỉ “yêu tha nhân như chính mình” mà hãy “yêu tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng ta”. Đó là yêu vô điều kiện, yêu đến mức hy sinh cả mạng sống.
Khi yêu như thế, ấy là lúc chúng ta đang đi trên con đường hẹp, con đường của hy sinh, từ bỏ, của yêu thương, quảng đại và vô vị lợi. Sẵn sàng từ bỏ con đường thênh thang là con đường của kiêu ngạo, ích kỷ, nhỏ nhen, trục lợi cho cá nhân mình.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay vạch ra cho chúng con con đường về trời. Con đường đó là hy sinh, yêu thương và bác ái vô vị lợi.
Xin cho chúng con biết chọn con đường hẹp ấy để tiến bước trên hành trình sứ vụ của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Cửa hẹp và đường chật
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Điều ta muốn người khác làm cho mình thì ta hãy làm cho họ. Đó là cửa hẹp và đường chật mà ta phải đi vào để gặp được sự sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn sống hạnh phúc viên mãn vì Chúa hoàn toàn sống cho Chúa Cha và cho chúng con. Chúa Cha cũng hạnh phúc viên mãn vì hoàn toàn trao ban chính mình cho Chúa và cho chúng con. Chúa cho con hiểu rằng hạnh phúc hệ tại cuộc sống quên mình và biết sống vì người khác.
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng muốn coi mình là trung tâm, ai cũng muốn sống cho mình, ai cũng muốn người khác hy sinh cho mình, mà chẳng bao giờ muốn sống cho người khác và hy sinh cho người khác. Chính vì thế nhân loại chẳng bao giờ gặp được hạnh phúc đích thực và lâu bền.
Chúa dạy con phải biết làm cho người khác điều mà con muốn họ làm cho con. Xin Chúa giúp con đi bước trước. Xin Chúa dạy con biết yêu mến và an ủi người khác hơn là mong được họ yêu mến và an ủi, biết giúp đỡ quan tâm và tế nhị với họ hơn là được họ giúp đỡ, quan tâm. Con mong được người khác tha thứ cảm thông, thì xin Chúa giúp con biết quảng đại tha thứ và cảm thông trước. Và sau đó Chúa sẽ cho con nhận lại tất cả.
Lạy Chúa, hạnh phúc của con là làm sao cho người khác được hạnh phúc. Con sẽ chẳng bao giờ hạnh phúc khi chỉ biết chờ đợi người khác hầu hạ khen tụng con, nhưng trái lại hạnh phúc sẽ bắt đầu khi con biết sống cho người khác. Điều này ngược với tính ích kỷ của con. Xin Chúa giúp con biết hy sinh đi vào cửa hẹp và con đường chật như chính Chúa đã dạy và làm gương cho con. Amen.
Ghi nhớ : “Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta”.
Suy Niệm 7: Phấn đấu qua cửa hẹp
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Có một khách bộ hành phải đi qua một cái làng để đến một nơi mà ông ta không biết đích xác còn bao xa nữa thì mới tới được. Dọc đường ông ta gặp một bác tiều phu, liền dừng lại hỏi xem khoảng bao lâu nữa thì tới nơi mình muốn tới. Bác tiều phu nhìn ông khách rồi đáp ngay: “Tôi không biết”.
Nghe thế, ông khách vội bước đi và nghĩ rằng người nhà quê đó không biết thật, chứ không phải khó tính khó nết. Nhưng khi vừa mới đi được vài bước thì bác tiều phu gọi với theo: “Này ông ơi, ông đi độ 15 phút nữa thì tới nơi đó”. Ngạc nhiên, ông khách quay trở lại hỏi bác tiều phu: “Tại sao khi nãy hỏi bác, bác trả lời không biết?”. Bác tiều phu thông cảm đáp: “Lúc ông hỏi tôi, ông chưa hành động nên chưa thấy bước đi của ông dài hay ngắn, mau hay chậm thì làm sao tôi có thể trả lời cho ông rõ ràng được”.
Suy niệm
Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Ngài với ba ý khác nhau:
“Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai chớ liệng cho heo”… Người Do Thái coi heo là con vật nhơ uế, chó thường được dùng để chỉ dân ngoại. Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh của thánh hay ngọc trai để nói về Tin Mừng nước Trời. Tin Mừng có thể được đón nhận hay bị từ chối một cách thô bạo từ dân ngoại. Ngay cả nơi người Do Thái cũng có kẻ bách hại những ai rao giảng (x. Mt 10,17). Sách Điđakhê vào khoảng đầu thế kỷ thứ hai, nhấn mạnh thêm coi của thánh ở đây là Mình Thánh Chúa, từ đó xác định rằng chỉ tín hữu mới được rước lễ.
Đức Giêsu đưa ra khuôn vàng thước ngọc về bổn phận của người tin vào Ngài: Luôn làm những điều tích cực, điều tốt cho anh em với tất cả lòng quảng đại và yêu mến. Cựu ước dạy: “Đừng làm cho người khác những điều chính mình không thích” (Tb 4,16). Giáo huấn của Chúa Giêsu mang tính cách tích cực hơn: “Hãy làm cho người ta trước”. Muốn người khác giúp đỡ, thì chính mình cũng phải giúp đỡ cho người khác.
Qua hình ảnh con đường hẹp, cửa hẹp. Ðức Giêsu dạy ta cần phải luôn cố gắng, phấn đấu hết sức để được vào nước Chúa. Ngài nói phải phấn đấu bước qua: “Hãy đi qua cửa hẹp”. Ngài nhấn mạnh: “Cửa hẹp dẫn đến sự sống” (Mt 7,14). Qua cửa hẹp, phải cố gắng, phải chiến đấu không ngừng để về quê Trời. Cho nên, Tin Mừng nói đến hình ảnh: “Chỉ những ai mạnh sức mới chiếm được nước Trời” (Mt 11,12; Lc 16,16).
Xin cho chúng ta luôn gìn giữ ơn thánh được trao ban qua Lời Chúa và Thánh Thể, đó là sức mạnh để chúng ta cùng nhau đi trên con đường mà Đức Giêsu đã đi - con đường hẹp, khó đi - con đường tình yêu đòi hy sinh mạng sống - con đường đòi ra khỏi mình để sống cho và sống với tha nhân.
Ý lực sống:
“Các con hãy vào qua cửa hẹp… cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp” (Mt 7,13-14)
Suy Niệm 8: Khuôn vàng thước ngọc (Mt 7,6.12-14)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Chúa Giêsu đưa ra khuôn vàng thước ngọc về bổn phận của mọi người đối với tha nhân. Sự độc đáo nơi nguyên tắc của Ngài: không chỉ không làm những điều tiêu cực, mà còn phải làm những điều tích cực, điều tốt cho anh em, nghĩa là sống bác ái, cho đi với tất cả với lòng quảng đại và yêu mến.
Qua hình ảnh con đường hẹp, cửa hẹp, Chúa Giêsu dạy ta phải khước từ những quyến rũ bất chính của cuộc sống để được vào Nước trời. Muốn theo Chúa Giêsu, chúng ta phải phấn đấu với chính mình và đi trên con đường Ngài đã đi, đó là con đường khổ giá.
Chớ phạm thánh: “Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé anh em”. Với lời dạy này Chúa Giêsu, trước hết, được hiểu là Bí tích không thể phát bừa bãi cho kẻ không tin và không có ý ngay lành. Lời này cũng là một sự nhắc nhở cho chúng ta sự cẩn trọng đối với đồ thánh, nơi thánh và tất cả những gì liên quan tới phụng tự. Vì những gì dành cho việc phụng thờ Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh thì cần được trân trọng và gìn giữ. Đặc biệt, mọi Kitô hữu luôn ý thức mình đã được hiến thánh khi chịu các Bí tích, thì hãy luôn giữ mình trong sạch để xứng đáng là nơi thánh cho Thiên Chúa ngự, và xứng đáng đến tham dự cử hành các mầu nhiệm thánh trong đạo (Hiền Lâm).
Khuôn vàng thước ngọc. Trước Chúa Giêsu, sách Tôbia cũng đã viết: “Điều gì con không thích thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,15). Khổng Tử cũng trả lời cho một đệ tử: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”, nghĩa là điều gì con không muốn thì đừng làm cho người ta. Triết gia Aristote cũng dạy: “Đừng làm lại những điều người khác làm cho ngươi nổi giận”.
Tuy nhiên, các hiền nhân xưa chỉ nói theo mặt tiêu cực. Còn Chúa Giêsu khuyên bảo theo cách tích cực: “Điều gì các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì chính các ngươi hãy làm cho họ trước”. Đó là khuôn vàng thước ngọc của Kitô giáo và là “kim chỉ nam” cho những ai theo Chúa. Thật vậy, đừng làm điều ác mà thôi thì chưa đủ, nhưng chỉ khi nào mọi người bắt tay làm điều thiện, làm điều mình muốn người khác làm cho mình, lúc đó xã hội mời hy vọng tốt đẹp được (Hiền Lâm).
Phải đi qua cửa hẹp. Có những con đường chẳng ai muốn đi, bởi vì nó chật hẹp, đầy chông gai. Bởi vì thường người ta muốn đi trên những con đường thênh thang, êm ái, muốn hưởng thụ một cuộc sống đầy tiện nghi, thoải mái. Biết bao nhiêu phát minh khoa học kỹ thuật đều nhằm thỏa mãn khát vọng đó. Thế mà Chúa Giêsu giới thiệu với chúng ta con đường hẹp, con đường ít người muốn đi: “Cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 6,14).
Cửa hẹp và đường chật chẳng ai thích đi, trừ phi họ được Thiên Chúa dẫn vào. Thời Xuất hành, nếu dân Israel không trải qua cảnh cùng cực bên Ai cập, làm sao họ chịu vào sa mạc để tìm về Đất hứa? Kể cả Chúa Giêsu, Ngài cũng từng được Thần khí dẫn vào sa mạc để chịu thử thách (Mt 4,1), Ngài cũng xin Chúa Cha cất cho Ngài khỏi chén đắng (Mt 26,42) (5 phút Lời Chúa).
Phải cộng tác với Chúa. Để có được những thiện hảo đời này hẳn nhiên không thể thiếu sự cố gắng nỗ lực. Cũng vậy để có hạnh phúc vĩnh cửu thì sự nỗ lực hoàn thiện bằng đời sống đạo đức càng phải trổi vượt hơn gấp bội. Thật thế, Thiên Chúa chuẩn bị cho ta ơn cứu độ, dọn sẵn cho ta Nước trời, nhưng Thiên Chúa muốn con người cộng tác để đạt cùng đích ấy, như thánh Augustinô nói: “Thiên Chúa dựng nên ta Ngài không cần ta, nhưng để cứu chuộc ta Ngài cần ta cộng tác”.
Dĩ nhiên để đạt tới ơn cứu độ và hưởng Nước trời không phải chỉ do sức riêng chúng ta tự nỗ lực, nhưng cần đến sự trợ giúp của Ơn Chúa (khác với tự thân nỗ lực giải thoát trong Phật giáo). Việc đi qua cửa hẹp chính là sự hy sinh mỗi ngày, vừa dành thời gian cho Chúa để được trợ lực, vừa thực hành sống đạo đức và bác ái giữa đời.
Truyện: Trên bước đường chông gai
Năm 1796, chiến tranh giữa Pháp và liên minh Ý-Áo, Đại tướng Bonaparte của Pháp đã đưa quân đội đến một địa điểm, có cây cầu bắc qua trận tuyến của địch.
Khi trận chiến đã đến hồi quyết định, Bonaparte hô quân tiến qua cầu, nhưng không một ai qua! Bonaparte xuống ngựa, giựt lá cờ quân đoàn, chân bước qua cầu, miệng hô to:
- Ai yêu tổ quốc thì theo ta.
Lịch sử kể lại rằng, lúc đó trên cầu người ta chỉ thấy có mình ông với lá cờ đã rách nhiều mảnh vì đạn của địch quân. Rất may sau đó có cậu bé 13 tuổi đánh trống thúc quân, hai tay đập mạnh vào trống, chân bước qua cầu theo đại tướng, quân sĩ thấy vậy liền tràn qua cầu. Bonaparte toàn thắng và chấm dứt chiến tranh.
8 năm sau, Bonaparte đã là hoàng đế Napoléon, trở lại chỗ cũ, có lễ nghi nghinh tiếp rất long trọng. Napoléon muốn bắt tay cậu bé Vidal đã 21 tuổi hiện ở trong quân đoàn tại đó. Hỏi đến Vidal thì cậu đã xin nghỉ phép để về đưa đám tang mẹ. Napoléon bãi bỏ tất cả nghi lễ quân đội, đi thẳng đến làng của Vidal, theo sau đám tang đến tận huyệt, đọc bài điếu văn rồi đi bộ cùng Vidal trở về. Vidal từ chối và mời Hoàng đế lên xe. Hoàng đế Napoléon đáp:
- Tám năm trước con đã liều chết theo ta trên con đường chết, nay trên con đường đau khổ, con cho ta theo con, cho có bạn!
21/06 Phương thế tốt để tự biết mình.
- Viết bởi Mt 7, 1-5
Phương thế tốt để tự biết mình.
Thứ Hai tuần 12 thường niên. – Thánh Lu-y Gôndaga, tu sĩ. Lễ nhớ.
“Hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã”.
* Sinh năm 1568, gần Man-tu-a miền Lom-bác-đi-a, trong một gia đình Cát-ti-di-ô-nê quyền quý, hấp thụ lòng đạo đức của thân mẫu. Lu-y sớm có khuynh hướng sống đời tu. Sau khi trao lại cho anh (em) phần đất người được tổ tiên giao cho để cai quản, người gia nhập dòng Chúa Giêsu. Trong khi phục vụ bệnh nhân đang kỳ dịch, thánh nhân bị lây và qua đời lúc mới 23 tuổi (năm 1591)
Lời Chúa: Mt 7, 1-5
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy.
Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy.
Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: “Để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh”, và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Đồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Lấy xà ra khỏi mắt
Suy niệm:
Mỗi ngày chúng ta đưa ra biết bao nhận xét về người khác.
Thầy cô phải nhận xét về học trò, cấp trên phải nhận xét về thuộc hạ.
Việc lượng giá về từng cá nhân thường rất cần thiết và hữu ích.
Trong đời sống tu trì, vẫn có chuyện anh em sửa lỗi cho nhau.
Nói chung, sống thì phải đưa ra những phán đoán về người khác.
Nhưng làm sao để phán đoán ấy không trở nên một xét đoán lệch lạc?
Đức Giêsu dạy ta biết cách xét đoán qua bài Tin Mừng hôm nay.
“Anh em đừng xét đoán”: thật ra Đức Giêsu không cấm mọi thứ xét đoán.
Ngài còn dạy các môn đệ biết cách phân biệt ngôn sứ giả và thật (Mt 7,15),
phân biệt người xứng đáng và người không xứng đáng (Mt 10, 11),
biết cách đề phòng thói xấu của nhóm Xađốc và Pharisêu (Mt 16, 6).
Đức Giêsu chỉ đòi các tín hữu sống trong cộng đoàn huynh đệ
phải tránh lối xét đoán thiếu bao dung, khắc nghiệt,
mà quên chính mình cũng có những lỗi lầm lớn hơn nhiều.
“Anh em xét đoán thế nào, thì cũng bị Thiên Chúa xét đoán như vậy” (c. 2).
Ngài muốn ta nhẹ tay và nhân từ khi cần phải xét đoán người anh em.
Vì cái đấu ta dùng để đong cho họ, Thiên Chúa sẽ dùng để đong cho ta.
Đấu đong đi càng lớn, đấu đong lại càng đầy.
Chỉ cần thay đổi cái đấu ta vẫn quen dùng, là cuộc đời của ta thay đổi.
Đức Giêsu dùng một hình ảnh liên quan đến nghề mộc của Ngài,
để nói về chuyện người đạo đức giả.
Đó là hình ảnh bụi mùn cưa trong mắt người khác và cái xà trong mắt mình.
Một cái thì thật bé, một cái thì to đến độ khó lòng ở trong mắt được.
Hình ảnh phóng đại này hẳn làm ai cũng phải buồn cười.
Tôi thấy lỗi bé nơi anh em, nhưng lại không để ý tới lỗi lớn nơi tôi.
Tôi hăng hái xin được lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em,
nhưng lại rất khoan dung với cái xà trong mắt mình.
Đức Giêsu hóm hỉnh khuyên chúng ta nên lấy xà ra khỏi mắt trước đã,
rồi mới thấy tỏ tường để lấy hạt bụi mùn cưa khỏi mắt anh em.
Điều khó vẫn là thấy được cái xà trong mắt mình.
Lẽ ra tôi phải thấy ngay vì nó quá lộ liễu, ai cũng thấy.
Nhưng nó khó thấy, vì tôi không muốn thấy cái xấu của mình.
Càng có quyền, có chức, có uy tín, có tuổi tác và kinh nghiệm,
càng khó chấp nhận nếp nhăn nơi khuôn mặt mình.
Giá mà tôi thấy được cái xà nơi mắt tôi,
chắc tôi đã không dám đòi lấy hạt bụi nơi mắt người khác,
hay nếu có được ai nhờ lấy đi nữa,
thì cũng chỉ lấy một cách khiêm hạ, nhẹ nhàng.
Trong bài hát “Chúa Hòa Bình” của Phạm Duy có câu:
“Nếu có ai lầm lỡ, rồi sinh ra khắt khe…”
Chỉ mong chúng ta, nhờ thấy mình lầm lỡ và đã được Chúa thứ tha,
nên sinh ra dễ cảm thông với lỗi lầm người khác.
Cầu nguyện :
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Xét đoán
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ai cũng thích xét đoán. Nhưng thường sai lầm. Có hai sai lầm cơ bản. Sai lầm vì chủ quan. Không xét mình nhưng luôn xét người. Xét mình thì nặng thành nhẹ. Xét người lại nhẹ thành nặng. “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: ‘Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn’. trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh?”. Sai lầm khác nguy hiểm hơn. Đó là quên Thiên Chúa mới có quyền xét đoán. Vì Thiên Chúa là chủ. Không chỉ xét đoán bâng quơ. Nhưng ấn định số phận đời đời của ta. “Anh đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán”. Nhưng Thiên Chúa rất công bằng và nhân hậu. Người xét đoán ta theo cách ta xét đoán anh em. “Vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em”. Chính ta tự tạo thước đo và bàn cân cho mình. Nên hãy cẩn thận.
Tổ phụ Áp-ra-ham không xét đoán ai. Và cũng chẳng coi trọng xét đoán của người đời. Chỉ quan tâm đến Thiên Chúa. Nhất nhất thi hành mệnh lệnh của Chúa không sai chạy. Vững tin vào Lời Chúa hứa. Dù trải qua những giây phút thật khó khăn. Vẫn tin cả khi không còn gì để tin. Luôn để Chúa làm chủ đời mình. Luôn cư xử hoà nhã tốt lành với đồng loại. Vì thế ông được chúc phúc. Và muôn dân cũng nhờ ông mà được chúc phúc. “Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc”. Nhờ trung tín với Chúa, Áp-ra-ham trở thành chuẩn mực. Phúc cho ai chúc phúc cho ông. Thiệt cho ai nguyền rủa ông (năm lẻ).
Ít-ra-en, đặc biệt vào thời vua Hô-sê thì không được như thế. Nên bị thua vào tay Át-sua. Và bị lưu đầy. Vì phản bội Chúa. “Sự việc đó xảy ra, vì con cái Ít-ra-en đã đắc tội với Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, là Đấng đã đem họ lên từ đất Ai-cập, đã giải thoát họ khỏi tay Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và vì họ đã kính sợ các thần khác”.
Chúa làm chủ lịch sử. Làm chủ thế giới. Làm chủ vận mệnh bản thân ta và dân tộc ta. Chúa mới có quyền phán xét. Và phán xét mới quyết định số phận. Hiểu biết như thế ta sẽ không còn e ngại những bậc quyền cao chức trọng. Sẽ biết kính sợ Thiên Chúa. Vì Chúa sẽ phán xét ta. Nhưng ta cũng tin tưởng. Vì Người phán xét ta theo cách ta đoán xét người khác. Sẽ khoan dung với ta. Nếu ta biết khoan dung với anh em.
SUY NIỆM 3: Một phương thế tốt để tự biết mình
Khi Chúa Giêsu bảo đừng xét đoán đó là một lệnh truyền khắt khe, có nghĩa: đừng bao giờ xét đoán không tốt cho kẻ khác, đừng kết án ai. Sự xét đoán này là công việc của một mình Thiên Chúa. Không ai được thay thế cho Thiên Chúa. Hơn nữa mỗi người phải xác tín rằng mình không được quyền lưu ý kẻ khác về tội của họ, vì ai nấy đều là kẻ có tội.
Chúng ta hãy đưa ra đây một nhận xét của khoa tâm lý cổ điển để làm sáng tỏ câu: người ta sẽ đong cho các ngươi đấu nào mà các ngươi đã đong cho họ. Lời nói này của Chúa vượt quá sự khôn ngoan của các giáo sĩ Do thái thời Ngài; chính họ cũng đã nói những điều tương tự. Người ta thấy trên kia lệnh truyền đặc biệt của Chúa là không được ‘đong đấu’ nào cả. Nhưng ở đây Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng: kẻ khác sẽ ‘đong đấu’ cho chúng ta, xét đoán chúng ta về tật xấu này nọ mà chúng ta có, và họ xem thấy nhưng chúng ta lại là những người duy nhất không trông thấy. Thật vậy, đặc tính của khuynh hướng xét đoán kẻ khác là làm cho con người hóa ra mù quáng về mình. Người ta biết rằng: tật xấu nào ta ghét nơi kẻ khác, tật xấu đó đáng ghét, vì người ta cũng có nơi mình. Kẻ xét đoán không ý thức rằng người khác cũng sẽ xét đoán lại họ căn cứ trên việc xét đoán họ làm. Người khác thấy điều mà chính họ không thấy. Người ta cũng có thể lật ngược lời của Chúa và quả quyết như sau: hãy tự xét đoán mình theo cách thức mình xét đoán kẻ khác.
Việc cấm xét đoán kẻ khác và việc kêu mời hãy tự xét mình, hãy lấy cái xà nơi mắt mình, quả là chính yếu trong lời rao giảng của Chúa Giêsu. Tại sao? Bởi vì khi ta xét đoán ai, ta tự tách lìa khỏi họ. Và tất cả chiều hướng của Phúc Âm là dẫn đến việc hợp nhất và thông hiệp. Hơn nữa, xét đoán là tự cướp đoạt cho mình cái thuộc về Chúa, điều này không chính trực.
Có những trường hợp người ta bị bó buộc phải phê phán về một người nào. Đó là vấn đề khác. Dầu sao đi nữa, sự phê phán này phải được lồng trong sự kính trọng và tình yêu.
Tôi có nghĩ tới cách tìm hiểu mình, căn cứ vào cái mà tôi chán ghét nơi kẻ khác không?
SUY NIỆM 4: Ðừng xét đoán
Augustin Goden trong khi còn là sinh viên trường nghệ thuật ở Paris đã nổi tiếng về tài điêu khắc. Có một người đàn bà giàu, nhưng chẳng biết gì về nghệ thuật đến nhờ Goden thiết kế một bức tượng để đặt ở giữa vườn nhà bà. Người đàn bà đến xem bức tượng nhằm lúc ông đang tiếp khách. Sau khi người đàn bà ra về, nhóm bạn hữu ra xưởng vẽ thấy Goden đang nhảy múa cuồng loạn trước bức tượng. Ðược hỏi tại sao, Goden trả lời: "Bởi vì người đàn bà không đồng ý về bức tượng, nên tôi vui mừng, vì biết rằng tác phẩm của tôi có giá trị".
Mỗi lần chấm thi một bộ môn nào đó, người ta thường mời những người chuyên môn về bộ môn ấy cho biết nhận xét. Phải biết rõ vấn đề, con người mới hy vọng có được nhận xét xác đáng, nếu không chỉ là những lời bâng quơ, thiên lệch. Chúa Giêsu đã không muốn những kẻ theo Ngài vấp phải sai lầm này. Tự bản thân, con người chưa hiểu được mình, vì con người có phần tinh thần ẩn khuất đằng sau thể xác. Những gì được phô diễn bên ngoài mới chỉ là hình thức. Không thiếu những trường hợp cái hình thức bên ngoài được dựng nên để che dấu cái sự thật bên trong, hoặc những tín hiệu gửi đi chỉ được đón nhận một cách sai lạc, do thành kiến và ác ý.
Bởi thế, con người không thể tự cho mình quyền xét đoán, phê phán người khác, mà chỉ có một mình Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt mọi sự. Ngài hiểu con người hơn chính họ và mời gọi con người hãy nhìn vào bản thân mình: hãy nhìn vào mắt mình để lấy cái xà đã đóng chặt vào đó, cái xà được kết tinh bằng bao lỗi lầm, thành kiến, ác ý. Lấy được cái xà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật.
Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng. Lêvi, người thu thuế, sẵn sàng bỏ mọi sự để theo Thầy; Zakêu, người thu thuế trưởng, đã thành tâm hoán cải; Mađalêna dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi. Tất cả đã chuyển hướng cuộc đời bởi cái nhìn từ ái bao dung của Chúa Giêsu.
Ước chi lời cầu nguyện của thánh Augustinô: "Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con" cũng là lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta. Biết Chúa để thấy lòng quảng đại yêu thương vô bờ của Chúa; biết mình để ý thức về sự yếu đuối, bất toàn của mình, nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác như Chúa đã đối xử các đại lượng với chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Cái xà và cọng rác
“Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu ấy. Sao anh thấy cái rác trong măt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình lại không để ý tới?” (Mt. 7, 1-3)
Không có những tiêu chuẩn
Chúa phán: “Đừng xét đoán”. Câu nói vắn gọn và rõ ràng. Câu nói có tính truyền lệnh. Câu nói không dành phần cho một tranh cãi nào hết. Ta không được xét đoán tha nhân về mặt luân lý. Định đọat ai tốt ai xấu không phải là việc của ta. Chuyện đó không liên hệ tới ta.
Lý do để biện minh rất đơn giản. Chúng ta không có được những tiêu chuẩn lẽ rá phải có để xét đoán. Chúng ta chỉ có những tiêu chuẩn yếu kém và ở mức thấp. Chỉ vì khi nói rằng: “Người này xấu. Điều anh đã làm là xấu”, ta chỉ có thể nói được cái bề ngoài mà thôi. Xét cho cùng, ta không biết rõ thật sự. Ta không thể nhìn thấy từ bên trong, nơi nội tâm con người. Ta không thể biết tại sao người ấy làm điều xấu; người ấy có làm điều xấu thật sự hay không, ta cũng chẳng biết được. Trước hết phải khẳng định rằng sự xấu tiềm ẩn trong lòng người. Và tim người ta rung động phập phồng điều gì, ta đâu có biết được. Chỉ mình Thiên Chúa biết được mà thôi. Thế nên chỉ mình Chúa mới có quyền xét đoán. Còn chúng ta thì không.
Trước khi xét đoán
Mặc dầu Chúa bảo ta “Đừng xét đoán”, Chúa biết rõ ta vẫn cứ xét đoán. Ta hay xét đoán người khác. Điều xấu có ở nơi người khác như cái gai đâm thẳng vào mắt ta và kích thích ta. Thế nên Chúa nói thêm: “Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em”.
Ta chẳng mấy tin vào chuyện cái xà ở trong mắt ta và cái rác ở trong mắt người anh em. Mà ta lại tin điều ngược lại. Ta đâu đến nỗi xấu như vậy. Không kể một vài điều ngoại lệ, người khác vốn xấu hơn ta. Đúng là ta thường có suy nghĩ như vậy đó.
Chúa Giêsu nghĩ gì về điều ta suy nghĩ ấy? Người chỉ đơn giản nghĩ rằng cách ta suy nghĩ như vậy là dấu chứng tỏ rõ ràng rằng chính trong mắt ta đang có cái xà đấy.
SUY NIỆM 6: KHÔN NGOAN KHI SỬA LỖI (Mt 7, 1-5)
Ở một đền thờ Hy lạp, ngay lối cổng vào, có khắc câu: “Hãy tự biết mình”. Tại sao lại có câu nói đó? Thưa, bởi vì biết mình là một điều khó, nhưng nếu khó mà không làm được thì làm sao biết được người khác? Không biết mình thì không thể tồn tại theo hướng tích cực, mà nếu có tồn tại thì cũng trở thành trò cười cho thiên hạ, bởi vì nhiều khi: “Ngôn hành bất tất”.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng lối nói ngoa ngữ để cho thấy tác hại của việc kiêu ngạo, háo danh nên không biết mình. Vì không biết, nên đâu thấy nơi mình có khuyết điểm, lỗi lầm trầm trọng, vì thế mới thích “lên mặt dạy đời”.
Trong thực tế, có rất nhiều người hăng say, vội vã sửa lỗi cho anh em, dù là lỗi nhỏ, nhưng thực tế, lỗi mình thì lớn hơn rất nhiều mà không thấy hay cố tình che lấp để như một ngụy biện nhằm khẳng định mình là người đạo đức hơn người.
Đức Giêsu không có ý cấm chúng ta sửa lỗi cho anh em, bởi vì sửa lỗi cho anh em bằng việc nêu gương sáng và chân tình thì đây là đức ái. Tuy nhiên, vì hiềm khích thì lại trở thành gương mù và phản tác dụng.
Vì thế, nguyên tắc hữu lý và đạt tình chính là bao dung với tha nhân, và nghiêm khắc với chính mình. Không thổi phồng tội người khác, không thu nhỏ lỗi của mình. Khiêm tốn sửa mình trước khi góp ý cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, theo Lời Chúa dạy hôm nay, chắc có lẽ chúng con sẽ bị xét đoán thật nhiều vì lối sống thiếu bác ái khi hay xét đoán anh chị em của chúng con. Xin cho chúng con luôn biết thưa với Chúa: xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Biết Chúa để yêu mến Chúa. Biết con để sống khiêm tốn. Chỉ khi nào chúng con biết sống như thế, chúng con mới yêu thương anh chị em cách thật lòng. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Bác ái là không xét đoán
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Một trong những đòi hỏi của lòng bác ái là đừng bao giờ xét đoán và lên án anh em mình. Hơn nữa, ta xét đoán anh em thế nào, thì Thiên Chúa cũng xét đoán ta như vậy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bản tính tự nhiên của con người là muốn hơn người khác, nên khi thấy ai hơn mình, thì tìm đủ mọi cách để hạ họ xuống: vạch trần những khuyết điểm hay thổi phồng những lỗi lầm của họ.
Lạy Chúa, bản tính tự nhiên đó cũng tồn tại trong con. Con vẫn nhìn anh em sống chung quanh con bằng một cái nhìn dò xét đầy nghi ngờ. Con đã đóng khung anh em con trong một cái nhìn đầy thành kiến và ghen ghét. Vì quá chủ quan, nên con không thấy cái xà trong mắt con, mà chỉ nhìn thấy cái rác trong mắt anh em. Con đã đeo một cái bị gồm những tật xấu của con ở đàng sau lưng, nên không thấy được những lỗi lầm to lớn của mình, nhưng lại dễ trông thấy những khuyết điểm nhỏ bé của người anh em. Con luôn dễ dãi với chính mình mà lại khắt khe với người khác.
Lạy Chúa, khi nhìn một sự việc, người ta có nhiều đoán xét khác nhau. Nếu tâm hồn con rộng lượng, con sẽ nhìn người khác với ánh mắt cảm thông. Nếu tâm hồn con xấu xa, con sẽ dễ kết án người khác cách bất công.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết sáng suốt nhận ra những lỗi lầm của mình. Xin ban cho con một tình yêu bao dung để con không bao giờ vạch lá tìm sâu hoặc phê bình người khác một cách ác ý. Xin cho con biết tha thứ để được Chúa thứ tha. Và xin cho con một tâm hồn quảng đại để luôn nghĩ tốt về người khác. Amen.
Ghi nhớ : “Hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã”.
Suy Niệm 7: Lấy được cái đà trong mắt mình
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Đang đi dạo, tôi ngạc nhiên nhìn thấy một người ngồi trên ghế cuốc vườn. Tôi nghĩ: “Quá lười biếng!”. Nhưng đột nhiên tôi thấy đôi nạng dựa ở ghế của anh. Anh làm việc dù bị tật nguyền.
Bài học tôi học được về sự phán đoán nông nổi vẫn khắc ghi trong tôi cho đến hôm nay: Thánh giá của người khác đôi khi là do cái nhìn hạn hẹp của ta.
Suy niệm
Chúa Giêsu phán: “…đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thế nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy” (Mt 7,1-2). Như thế, khi phải phán xét, chúng ta xét đoán trong bao dung thương mến như Ngài. Vì chúng ta sẽ “được” hay “bị” Thiên Chúa xét xử, đều do chính cách xét đoán của chúng ta đối với người khác: Quảng đại vị tha hay hẹp hòi ích kỷ, khoan dung độ lượng hay “bới lông tìm vết”, “chẻ sợi tóc làm tư” khi xét đoán người khác.
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường có khuynh hướng nhìn thấy lầm lỗi của tha nhân mà không biết nhận ra những khuyết điểm của mình. Có những khuyết điểm của bản thân mình rất lớn, công khai gây gương mù, gương xấu cho anh chị em. Thiên Chúa - Ðấng thấu suốt mọi sự, Ngài mời gọi chúng ta phải sáng suốt và khôn ngoan khi sửa lỗi cho anh chị em: Hãy nhìn vào bản thân mình trước như Chúa nhấn mạnh: “Trước hết phải lấy cây đà khỏi mắt mình đi”, cái đà được hình thành từ bao lỗi lầm, thành kiến, ác ý trong suốt chiều dài lịch sử của cá nhân. Lấy được cái đà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật. Chúa muốn chúng ta phải nhận ra khuyết điểm của mình và sửa đổi.
Sửa đổi bản thân là lấy được cái đà trong mắt mình. Không có cái đà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương tha thứ…
Thật thế, khi sửa đổi chính mình, ý thức được sự yếu đuối, bất toàn của mình, nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác mang niềm tin yêu, hy vọng cho các hối nhân. Chính Chúa đã và sẽ đối xử đại lượng với chúng ta.
Ý lực sống:
“Có một sáng suốt đáng buồn, khi chỉ nhìn thấy những điều xấu nơi người khác. Cũng có một xét đoán đầy yêu thương, khi đã nhìn thấy những điểm sáng tốt đẹp, ngay từ nơi bóng tối những điều không tốt đẹp của người anh em mình” (Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận).
Suy Niệm 8: Đừng xét đoán người khác (Mt 7,1-5)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: anh em không được xét đoán lên án kẻ khác, vì việc đó thuộc quyền của Thiên Chúa. Anh em xét đoán kẻ khác thế nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ xét đoán anh em như vậy. Sao anh em thấy cọng rác nhỏ trong con mắt kẻ khác, còn cái xà trong mắt anh em, mà anh em không thấy, nghĩa là lỗi lầm nhỏ mọn của người khác thì anh em thấy rõ rồi phê bình lên án đủ thứ, còn tội nặng nề của anh em, anh em lại không chịu thấy, không chịu nhận, không lo sửa chữa. Hãy lo từ bỏ sửa chữa tội lỗi của anh em trước đã rồi anh em mới giúp được kẻ khác chừa bỏ lỗi lầm của họ.
Xénophon, nhà hiền triết Hy lạp sống vào giữa thế kỷ thứ 5 TCN đã nói như sau: “Thượng Đế đặt trên vai con người hai cái bị: một cái đằng trước, một cái đằng sau. Cái bị đằng sau chứa đựng tất cả những cái xấu của chính con người mình, còn cái bị đằng trước thì đầy rẫy những cái xấu của người khác. Do đó, con người khó mà thấy được những thiếu sót của mình, nhưng lại dễ dàng nhìn thấy những khuyết điểm của người khác”.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là dễ dàng kết án người khác, nhưng lại tỏ ra dễ dãi với mình. Chúa Giêsu đến để chỉnh đốn khuynh hướng lệch lạc ấy. Ngài mời con người hoán cải, nghĩa là quay trở lại với mình, nhìn thẳng vào thực chất của mình, để từ những yếu đuối, bất toàn của mình để dễ dàng thông cảm và tha thứ cho người khác hơn. Đó là nội dung những lời khuyên của Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.
Dân gian có câu:
Chân mình thì lấm lê mê,
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Hay: Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê (Việc mình thì quáng, việc người thì sáng).
Chúa Giêsu vạch rõ tính cách của nhiều người trong chúng ta thường thì không thấy lỗi lầm của mình, nhưng lại soi mói dò xét cái lỗi của người khác mà lắm khi cái lỗi của chúng ta còn lớn gấp trăm lần cái lỗi của tha nhân.
“Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy?” Cái lỗi nhỏ như cái rác của tha nhân thì mình dễ nhìn thấy, nhưng cái lỗi lớn như xà nhà của mình thì lại không thấy. Chúng ta dễ dàng kết án cái lỗi nhỏ nhặt của tha nhân, nhưng lại không ý thức về những tội tầy đình của bản thân...
Con người không thể tự cho mình quyền xét đoán, phê phán người khác, mà chỉ có một mình Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự. Ngài hiểu con người hơn chính họ và mời gọi con người hãy nhìn vào bản thân mình: hãy nhìn vào mắt mình để lấy cái xà đã đóng chặt vào đó, cái xà được kết tinh bằng lỗi lầm, thành kiến, ác ý. Lấy được cái xà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật.
Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng. Lêvi, người thu thuế, sẵn sàng bỏ mọi sự để theo Thầy; Giakêu, người thu thuế trưởng, đã thành tâm hoán cải, Madalena đã dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi. Tất cả đã chuyển hướng cuộc đời bởi cái nhìn từ ái bao dung của Chúa Giêsu (Mỗi ngày một tin vui).
Tóm lại, như lời Chúa Giêsu dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng đong bằng đấu ấy cho anh em” (Mt 7,1-2), nghĩa là khi chúng ta dùng lăng kính chủ quan của mình để xét cho anh em thế nào, thì chúng ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa thể ấy. Vậy nên, nếu khi xét đoán, chúng ta cần biết nhìn lại chính mình, nhất là trong lời xét đoán về anh em có thực sự khách quan hay không, có thực sự vì yêu thương anh em và vì sự thật hay không.
Truyện: Biểu diễn trồng táo
Tại một xứ Hồi giáo, có một người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ, vì đã ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin nhà vua:
- Tâu bệ hạ, xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ không được truyền lại cho hậu thế.
Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau tử tội sẽ biểu diễn trồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:
- Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không thể trồng được.
Nhà vua vẫn chiều lòng tên ăn trộm, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:
- Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần nhận thấy không đủ điều kiện để trồng hạt táo này.
Nhà vua đưa mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần gian tham trong chuyện tiền bạc.
Không tìm được ai, nhà vua mới định cầm hạt táo đến bỏ vào lỗ. Nhưng ông cũng chợt nhớ ra lúc con nhỏ ông đã có lần đánh cắp báu vật của vua cha.
Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:
- Tâu bệ hạ, các ngài là những người quyền thế cao trọng, không thiếu thốn gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn hạ thần, một con người khốn khổ, chỉ vì lỡ lấy thức ăn của người khác cho đỡ đói, thế mà các ngài đã kết án treo cổ hạ thần.
Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xang trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.
20/06 Gió lẫn biển đều vâng lệnh Người
- Viết bởi Mc 4, 35-40
Gió lẫn biển đều vâng lệnh Người.
CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN năm B.
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người".
Lời Chúa: Mc 4, 35-40
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ".
Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người.
hợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"
Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: G 38,1.8-11; 2Cr 5,14-17; Mc 4,35-41
1. Thầy không lo sao?
(Trích trong ‘Manna’)
Các môn đệ gặp trận cuồng phong khi vượt biển.
Họ kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chửng.
Bất lực trước cơn cuồng nộ của sóng gió,
họ đã đánh thức Đức Giêsu, xin Ngài giúp đỡ.
Cuộc đời nào tránh được mọi cơn giông tố?
Ai trong chúng ta cũng thích biển lặng sóng yên,
nhưng giông tố lại giúp ta nhận ra mình:
yếu đuối, chao đảo, mong manh, bất lực,
không đủ khả năng đương đầu với bao thách đố.
Giông tố đưa ta đến với Đức Giêsu,
và phó thác cho sự trợ giúp của Ngài.
“Chúng con chết mất!”
Cái chết thể lý và cái chết tinh thần.
Cái chết của bản thân và của tập thể mình gắn bó.
Cái chết của những công trình mình xây dựng.
Chúa là sự sống, sao Chúa lặng yên để chúng con chịu chết?
Sao Chúa để sự dữ tung hoành trên thế giới?
“Mà Thầy không lo sao?”. Một lời trách móc?
Nhiều khi chúng ta cũng trách Chúa như vậy.
Có vẻ Chúa quá vô tư, lãnh đạm, hững hờ.
Chúa yên ngủ khi đời ta gặp cơn giông tố.
Đức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển:
“Câm đi! Im đi!”. Gió ngừng ngay và biển lặng xuống.
Sự lặng đi của biển đưa đến sự trầm lặng của lòng.
Nỗi kinh hoàng tan biến, nỗi sợ chết cũng bay xa.
Nhưng chúng ta không đòi phép lạ biển lặng trong đời.
Điều quý hơn, đó là lòng ta được lặng.
Lòng lặng không phải vì biển lặng,
mà lặng ngay giữa lúc biển động.
Đó là một phép lạ lớn hơn nhiều,
và đó cũng là thái độ Chúa muốn ta phải có.
Tại sao các anh lại kinh sợ?
Sóng gió làm gì được các anh
khi Thầy đang cùng các anh ở chung một con thuyền?
Đức Giêsu đòi các môn đệ không được khiếp sợ.
Thầy đã làm bao phép lạ trước mắt các anh,
vậy mà các anh vẫn chưa có lòng tin ư?
Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng như vậy.
Đức tin chỉ lộ ra khi biển động.
Và có thể nói, biển động giúp hình thành đức tin.
Đức tin lớn lên ít nhiều sau mỗi lần biển động.
Thuyền đời Kitô hữu chẳng bao giờ êm ả.
Nó chỉ êm ả khi về tới bến.
Nhưng lòng ta lại phải giữ cho bình yên,
ngay cả khi Ngài không thức dậy,
dù ta đã gọi Ngài nhiều lần giữa tiếng sóng gào thét.
Ta tin rằng Ngài sẽ cứu ta theo cách của Ngài.
Gợi Ý Chia Sẻ
Điều gì khiến bạn sợ hơn cả trong cuộc sống? (Sợ thất nghiệp, sợ thi rớt, sợ không được yêu, sợ mất uy tín, hay sắc đẹp...). Sự sợ hãi có làm đời bạn bớt vui không? Có làm bạn bớt tự do không?
Khi bạn bị căng thẳng, lo âu, mất bình an, bạn thường làm gì để trở lại bình thường? Cầu nguyện có giúp gì cho bạn không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản
ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được
con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
2. Thầy chẳng lo gì sao?
(Suy niệm của Huệ Minh)
Đọc qua trang Tin Mừng hôm nay, ta có thể nói: "Thầy chơi xấu!". Vì sao? Ai cũng hiểu rằng ngay lúc xảy ra sóng gió thì Thầy lại "vui vẻ"... nằm ngủ!
Thử hỏi, ta đặt ta trong tâm trạng, trong trạng thái như các môn đệ ắt hẳn ta sẽ giận lắm bởi lẽ người ta lo muốn chết mà ngủ như chết vậy. Giận quá nên hỏi luôn cho xong chuyện: "Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?" (Mc 4, 38).
Cũng dễ hiểu bởi lẽ ai cũng sợ sóng biển. Sóng biển đã làm cho bao nhiêu con người ra đi không trở lại.
Lần kia, tắm biển Mũi Né, sóng cũng không lớn lắm nhưng cũng không nhỏ. Những cơn sóng nhấp nhô đó làm chùn lòng du khách. Nhiều người ngại sóng nên không dám xuống biển lúc đó. Và, lúc đó chỉ còn ít người gọi là dám "chơi" với biển nên xuống tắm.
Đang tắm, có chàng trai kia ghé vào tai tôi nói: "Sóng như thế này đã thấy ớn! Nếu như sóng 5m thì sao?. Tôi trả lời anh: "chết chắc chứ sao nữa".
Cũng dể thấy hậu quả của những cơn sóng dữ. Nhiều cơn sóng dữ đến đã làm cho bao nhiêu căn nhà và bao nhiêu con người phải ra đi không bao giờ trở lại. Biển cũng cho con người nhiều hải sản, nhiều khoáng sản quý dưới đáy đại dương nhưng biển cũng đã chôn vùi bao nhiêu con người bằng những cơn sóng dữ của mình.
Chiều hôm ấy, có hai cha con nhà nọ tắm gần tôi. Đứa bé được cha đưa ra hơi quá đầu gối anh ta một tí nghĩa là tới khoảng ngực của đứa trẻ. Ban đầu, sóng xô cháu cũng ngại ngùng và không muốn ra nữa. Nhưng, sau đó nhờ có đôi bàn tay của cha, cháu tiếp tục vui đùa dưới sóng bởi lẽ khi ấy, cậu an tâm trước vòng tay của cha mình.
Nhớ lại hình ảnh của các môn đệ, khi Thầy Giêsu thức giấc và Thầy đã ra lệnh cho biển cả lặng yên thì khi đó các môn đệ an tâm và bình an.
Sau khi bảo sóng biển yên lặng thì Chúa Giêsu như trách yêu các môn đệ: "Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?"
Trang Tin Mừng hôm nay sao mà nó thích hợp hay nói đúng hơn là nó quá đúng với cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Trong hành trình vượt biển để về nhà Cha, về nước Chúa ta đã không ít lần hay nói đúng hơn là quá nhiều lần chúng ta hốt hoảng kêu la lên. Kêu la cũng dễ hiểu bởi lẽ ta gặp quá nhiều cơn sóng dữ trong cuộc đời mà dường như ta cảm thấy Chúa bỏ ta bơ vơ, chơ vơ giữa cuộc đời này thì phải? Ta thấy có những cơn sóng tưởng chừng như ập xuống đời ta và ta cảm như là chìm rồi.
Đời ta, không ít lần ta đối diện với sóng dữ là mất cha mất mẹ ở cái tuổi còn quá trẻ! Sóng dữ đến khi ta bị người khác hiểu lầm, bị chà đạp và bị hại. Sóng dữ đến khi ta phải đối diện với chứng bệnh nan y trong người. Sóng dữ khi ta bị chính người thân, ruột thịt... hại ta, loại trừ ta.
Ai đã hơn một lần sống trong cảm giác đó cũng cảm được như những cơn sóng dữ của cuộc đời. Đối diện với những điều đó ta cũng mất ăn mất ngủ, bất an và ta thầm trách Chúa như các môn đệ: "Thầy chẳng lo gì sao?".
Hẳn nhiên đó là bản tính của con người, là cảm nhận, là đức tin yếu đuối của con người. Ta tưởng chừng như ta chơi vơi, như Chúa đã bỏ ta nhưng khi đó ta đã lầm.
Nhớ lại tác phẩm "Dấu chân trên cát" thật hay và ý nghĩa:
Một đêm kia tôi nằm mơ thấy Chúa.
Ngài cùng tôi song hành trên bài biển hoang.
Cùng lúc ấy trên trời xanh đang diễn ra những cảnh đời tôi.
Mỗi cảnh vui buồn đều có đôi dấu chân ghi trên nền cát trắng.
Lòng lâng lâng tôi lặng nghe tiếng sóng vỗ, và xa xa chập chờn đôi cánh hải âu.
Chợt sóng gió chẳng biết từ đâu bồng bùng lên khiến tôi kinh hãi.
Quay mặt nhìn lui: "ôi kìa! Sao tôi chỉ thấy một dấu chân?"
Hốt hoảng thắc mắc tôi vội kêu: "Chúa hỡi! Chúa hỡi! Sao bỏ con.
Những lúc sóng gió là những lúc con cần đến Chúa hơn bao giờ hết!"
Chúa đã nói với con rằng: "Sẽ mãi yêu quý con, sẽ luôn nâng đỡ con suốt cuộc đời cho đến chết."
Chợt bên tai tôi nghe được tiếng Chúa nói: "Này con bé nhỏ của ta ơi, đừng hoảng hốt hãi sợ chi. Ta ở đây luôn bên con. Những dấu chân này là của Ta đó! Vì những lúc ấy Ta đang bồng bế con trên tay."
Vâng! Như Chúa nói đó: "Những lúc ấy Ta đang bồng bế con trên tay".
Nghiệm lại cuộc đời ta, trong những giây phút lắng đọng của cuộc đời, ta sẽ thấy Chúa luôn luôn, Chúa mãi mãi ẵm ta trên tay của Chúa. Chuyện quan trọng rằng ta có tín thác, tin tưởng phó thác cuộc đời của ta trong tay của Chúa hay không mà thôi.
Tâm tình Thánh Vịnh 131 thật hay:
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui.
Cậy vào Chúa, Israel,
từ nay đến mãi muôn đời muôn năm. (Tv 131, 2.3)
Xin Chúa cho ta luôn luôn sống tâm tình như trẻ nhỏ nép mình vào lòng Chúa để rồi ta vui vẻ bước đi giữa cuộc đời đầy sóng gió nhưng lòng vẫn an vui vì có Chúa ở cùng.
3. Ơn thánh lạ lùng
(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ)
John Newton là con của một thuyền trưởng người Anh. Khi John mười tuổi, mẹ chết và cậu đi biển với cha mình.
Cậu học nghề biển cách thành thạo. Nhưng khi 17 tuổi, John chống lại cha mình, bỏ tầu, và bắt đầu một cuộc sống phóng túng.
Sau đó John nhận việc trên một chiếc tầu chở hàng, đưa nô lệ từ Phi Châu sang Mỹ Châu. Anh được thăng chức mau chóng và không lâu được trở nên thuyền trưởng của chiếc tầu này.
John không bao giờ nghĩ đến việc buôn bán nô lệ là đúng hay sai. Anh chỉ thi hành công việc. Đó là một cách để kiếm tiền. Sau đó một điều xảy ra đã làm đảo lộn tất cả.
Một đêm kia, cơn bão dữ dội như thổi tung biển cả. Những ngọn sóng dâng cao như núi. Chúng nhồi dập con tầu của John như món đồ chơi. Mọi người trên tầu đều ngập tràn sợ hãi.
Sau đó John thi hành một điều mà chưa bao giờ anh làm kể từ khi rời chiếc tầu của cha mình. Anh cầu xin. Bằng cả sức lực, anh nói lớn, “Chúa ơn, nếu Ngài cứu chúng con, con hứa sẽ trở nên nô lệ cho Ngài muôn đời.” Thiên Chúa đã nghe tiếng anh kêu xin và con tầu được thoát nạn.
Khi John đặt chân lên đất liền, anh đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn bán nô lệ. Sau này anh học làm mục sư và đã trông coi một nhà thờ nhỏ ở Olney, Anh Quốc. Ở đây anh trở nên một nhà rao giảng nổi tiếng và là một người sáng tác thánh ca.
Một trong những bài thánh ca cảm động nhất mà John Newton viết là bài ca ngợi Thiên Chúa đã giúp anh hoán cải, với dòng chữ như sau: “Ôi ơn thánh lạ lùng! Dịu ngọt dường bao, đã cứu vớt một người tồi tệ như tôi! Trước đây tôi đã lạc lối, nhưng giờ đây tôi đã biết đường – đã mù, giờ đây đã thấy...
“Tôi đã từng kinh qua những hiểm nguy, lao nhọc, và cạm bẫy; ơn thánh đã đưa tôi đến sự an toàn, và ơn thánh sẽ dẫn tôi về nhà.”
Câu chuyện của John Newton rất tương tự như bài phúc âm hôm nay.
Cũng như Newton, các Tông Đồ cũng gặp một cơn bão dữ dội. Cũng như Newton, các ông đã lớn tiếng xin Chúa, “Hãy cứu chúng tôi với!” Cũng như Newton, các ông cũng đã thay đổi cuộc đời sau khi lời cầu xin được nhận lời.
Bài phúc âm hôm nay chấm dứt tường thuật cơn bão ở biển khi nói về các Tông Đồ: “Họ vô cùng kinh hãi và bắt đầu nói với nhau, ‘Người này là ai? Ngay cả sóng gió cũng phải vâng theo Người!’”
“Người này là ai?” Chắc chắn đó là câu hỏi quan trọng. Và dĩ nhiên, câu trả lời nằm trong bài đọc một và thánh vịnh đáp ca.
Bài đọc một diễn tả cách Thiên Chúa tạo nên biển và ra lệnh cho nó những gì có thể hay không thể làm.
Thánh vịnh đáp ca nói về các thủy thủ gặp nạn trong một cơn bão trên biển. Tác giả thánh vịnh nói về họ: “Trong cơn hoạn nạn, họ kêu cầu đến Chúa, và Người đã cứu họ... Người làm yên cơn bão lớn, và dẹp tan sóng cả.” (TV 107:6, 29).
Trong cả hai bài đọc thuộc Cựu Ước này, chúng ta thấy Thiên Chúa sử dụng quyền hành trên sóng gió. Thiên Chúa ra lệnh chúng và chúng tuân theo Người.
Đây chính là điều Đức Giêsu thi hành trong bài phúc âm. Chúng ta thấy Người sử dụng quyền hành trên sóng gió. Người ra lệnh và chúng tuân theo Người.
Do đó, các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu trong Tân ước sử dụng cùng một quyền hành.
Cả hai sử dụng cùng một quyền lực bởi vì cả hai giống nhau. Đức Giêsu nói: “Ai thấy ta là thấy Chúa Cha... Ta ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong ta.” (Gioan 14:9, 11). “Chúa Cha và ta là một.” (Gioan 10:30).
Câu chuyện về cơn bão ở biển trả lời câu hỏi “Người này là ai?” Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Chúng ta hãy trở về điểm thứ hai. Chúng ta hãy xem thử bằng cách nào cơn bão ở biển chứa đựng một thông điệp mỹ miều, thực tế cho các gia đình nhân Ngày Hiền Phụ.
Khi John Newton bỏ tầu của cha mình, cha của anh thật đau lòng. Chúng ta có thể hinh dung cha anh đứng trên sàn tầu đêm ấy và cầu xin Thiên Chúa với những lời như sau:
“Lậy Chúa, sao điều này lại xảy ra? Sao John không nhìn thấy là con thương nó? Sau nó không thấy là Ngài thương nó? Lậy Chúa, ngay cả khi John từ bỏ hai chúng ta, xin Chúa hãy bảo vệ nó. Hãy bảo vệ nó vì hai chúng ta.”
Hoàn cảnh bi thảm này, hay hoàn cảnh tương tự, đã lập lại nhiều lần, trong nhiều mái nhà. Nó không phải là một hiện tượng mới trong thời đại ngày nay. Nó cũ như câu chuyện của người con hoang đàng trong Phúc Âm Luca.
Nhưng ngay cả khi con cái không từ bỏ mái nhà về thể lý, chúng thường rời xa mái nhà về tinh thần.
Chúng không còn đồng lòng với cha mẹ khi đề cập đến Thiên Chúa hay tôn giáo.
Và sự xa lìa tinh thần này có thể đau lòng hơn từ giã mái nhà về thể lý.
Khi điều này xảy ra, cha mẹ không được nghĩ về mình hay về con cái như một thất bại. Đúng hơn, họ phải nhớ lại câu chuyện người con hoang đàng và câu chuyện của John Newton.
Trong cả hai câu chuyện, sau cùng người con đã trở về nhà. Và trong cả hai câu chuyện, khi trở về nhà người con đã tốt hơn là khi từ bỏ, người cha cũng trở nên tốt hơn khi con cái bỏ đi.
Lý do cả hai người – cha và con – trở nên tốt hơn là vì, ở một thời điểm nào đó khi xa cách, cả hai đã kêu cầu đến Chúa xin giúp đỡ. Và đó là khi cả hai trở nên tốt hơn.
Thật không may khi phải nhờ đến một cơn bão để khám phá ra, không chỉ người cha hay người con ở trần thế, nhưng còn biết đến Cha chúng ta ở trên trời và Đức Giêsu, Con của Người.
Do đó, chúng ta hãy hân hoan, và hôm nay hãy cảm tạ vì hai người cha: một người cha trần thế và một người Cha trên trời.
Chúng ta cũng hãy nhớ rằng khi tìm thấy một trong những người cha này, chúng ta cũng thường tìm thấy người cha kia.
Hãy kết thúc bằng cách lập lại những lời thánh ca mà John Newton đã viết để ca tụng Thiên Chúa.
“Ôi ơn thánh lạ lùng! Dịu ngọt dường bao, đã cứu vớt một người tồi tệ như tôi! Trước đây tôi đã lạc lối, nhưng giờ đây tôi đã biết đường – đã mù, giờ đây đã thấy...
“Tôi đã từng kinh qua những hiểm nguy, lao nhọc, và cạm bẫy; ơn thánh đã đưa tôi đến sự an toàn, và ơn thánh sẽ dẫn tôi về nhà.”
4. Bớt giỡn!
Trang Tin mừng hôm nay thật thú vị!
Đang trong cơn sóng dữ, anh em lo chèo chống thì Thầy lại ngủ. Hẳn nhiên là nể Thầy lắm đó để cho Thầy nằm trên đầu thuyền mà không phải làm gì. Nhưng rồi đâu phải thấu anh em nể Thầy rồi Thầy muốn làm gì làm, Thầy để mặc anh em.
Vừa lo, vừa sợ, vừa hờn nên các môn đệ hỏi luôn cho ra ngô ra khoai: "Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?" (Mc 4, 38).
Tưởng gì, làm cho biển im lặng! Tài thật! Dĩ nhiên là anh em biết quyền năng của Thầy chứ! Nhưng thôi, "của cho không bằng cách cho", cho biển im lặng rồi thôi, đàng này còn trả treo: "Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?" (Mc 3,40).
Nói thiệt với Thầy, giận Thầy lắm đó! Chúng con chưa áp dụng cái chiêu ngày xưa trong Cựu Ước là con cho Thầy xuống biển như cho ông Nôê là may lắm rồi! Thầy mà làm chúng con giận là chúng con cho Thầy xuống biển như xưa cho xong chuyện.
Thật ra, niềm tin của các môn đệ khi ấy cũng còn vững lắm là không bỏ Thầy xuống biển mà đến cầu cứu Thầy. Nếu sống với niềm tin Cựu Ước thời Nôê thì Thầy chết chắc.
Cuộc đời của chúng ta ắt hẳn cũng có quá nhiều lần nhiều lúc chúng ta cũng gặp sóng gió như các môn đệ ngày hôm nay. Thế nhưng, đứng trước trước những sóng gió của cuộc đời ta có bám vào Chúa, ta có chạy đến Chúa hay ta lại nại sức của ta hay tệ hại hơn là nhờ vào những thế lực của thế gian, của sự dữ.
Một gia đình kia tan nát cũng chỉ vì nại vào thế lực của sự dữ. Tưởng chừng nại vào thế lực của sự dữ thì sẽ bình an nhưng ngày mỗi ngày lại tụt dốc.
Chuyện là người vợ có vấn đề về tâm thần, về tâm lý... người chồng nghe người này người kia nói và bắt đầu tìm thầy bỏ Chúa. Người chồng loanh quanh đi tìm thầy cao tay để chữa cho vợ mình bất chấp điều đó là sai tín lý, sai lạc đức tin, sai lạc niềm tin vào Thiên Chúa mà họ đã tin theo. Khi đi theo thầy bùa chú và bỏ Chúa thì cuộc sống của vợ chồng đã đi vào bế tắc và cuối cùng chồng đi đường chồng, vợ đi đường vợ.
Lẽ ra trong gia đình có vấn đề thì họ nên và cần bám vào Chúa, đàng này họ bỏ Chúa để đi tìm thế lực khác để cứu mình. Hậu quả là gia đình đã bỏ Chúa và đi theo thế lực khác.
Cùng với kinh nghiệm bỏ Chúa là mất tất cả, bỏ Chúa là sẽ gặp sóng dữ của cuộc đời, tôi được một người thân quen chia sẻ về thế lực của sự dữ. Chuyện là chính bản thân chị, gần nhất là mẹ của chị đã có vấn đề về thần kinh, tâm lý mà theo như người ta nói là bị "ám". Đứng trước cảnh mẹ mình bị "ám" như vậy, chị và gia đình chỉ có 1 cách, 1 thế, 1 phương án duy nhất là bám vào Chúa và cầu nguyện.
Sau biến cố để đời đó, chị khuyên với những ai chị gặp gỡ, trong đó có bản thân tôi là dù cuộc đời thế nào đi chăng nữa cũng chỉ có bám vào Chúa và Chúa mà thôi.
Quả thật, niềm tin vào Chúa nói thì dễ nhưng khi đụng chạm bế tắt, đụng chạm với những khó khăn của cuộc đời ta vẫn thường đi tìm những người có thể giúp chúng ta. Theo kiểu người đời thường dùng đó là "chạy thầy chạy thuốc". Đó là cách nhìn, cách nghĩ, cách giải quyết theo kiểu thế gian vì dù cho có những người có thế lực có thể "gỡ" cho họ những khó khăn trong cuộc sống nhưng rồi tất cả rồi cũng qua đi chứ chẳng có ai mãi mãi và chẳng có ai vĩnh cửu.
Người đời, dù họ có quyền lực đến đâu đi chăng nữa, họ có thể chia sẻ quyền lực của họ cho những người theo phe nhóm của họ để đạt được nguồn lợi nhưng khi họ đối diện với thử thách phong ba của cuộc đời chưa chắc có người cứu được họ. Có khi ở trong đỉnh của vinh quang quyền lực nhưng rồi đến một lúc nào đó cũng ra đi, những người ngày xưa vui vẻ với họ dù muốn cứu họ nhưng cũng đành chịu.
Đó là cái nhìn của quyền lực, của thế gian. Người Kitô hữu thật sự lại được mời gọi vượt qua những sóng dữ của cuộc đời để đạt được Nước Thiên Chúa chứ không phải đạt được những lợi ích của thế gian.
Và, trong hành trình về nhà Cha, mỗi người Kitô ngày mỗi ngày đều phải đối diện với sóng dữ và tìm cách thoát sóng dữ. Ắt hẳn mỗi người cũng sẽ có cách lựa chọn khi đời mình gặp phải phong ba bão táp của cuộc đời. Có khi ta cũng sẽ có suy nghĩ là bám vào Chúa để xin Chúa đến trợ giúp nhưng cũng có khi ta muốn vất Chúa xuống khỏi tàu như ngày xưa trên chuyến tàu Nôê người ta đã sẵn sàng vất Nôê xuống biển.
Chính khi gặp sóng dữ, ta sẽ bám vào ai vẫn là sự tự do lựa chọn của mỗi người. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để dù bất cứ sống trong hoàn cảnh nào của cuộc đời ta cũng chỉ bám vào Chúa mà thôi.
Xin cho ta đừng bao giờ vất Chúa ra khỏi thuyền nhưng cứ mãi xin Chúa ở lại cuộc đời của chúng ta, trên thuyền đời của chúng ta.
Chúa ơi! Chúa bớt giỡn! Chúa cứ ở mãi trên thuyền của con và cứu đời con nha Chúa!
5. Khi Đức Giêsu ngủ say
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Đức Cha Agatho, Giám Mục Giáo phận Palermo, đi từ đảo Sicily đến Rome. Trong cuộc hành trình, ngài gặp nguy cơ chìm tàu. Một cơn giông tố hãi hùng nổi lên, sắp sửa đánh chìm con tàu ngài đang đi. Không còn hy vọng gì, ngoại trừ lòng thương xót nhân lành của Thiên Chúa toàn năng.
Khi ấy, tất cả mọi người bắt đầu cầu nguyện và dâng lên Chúa lời cầu xin hãy gìn giữ mạng sống cho họ. Trong khi họ cầu nguyện như thế, thì người thủy thủ đang cầm bánh lái, tuy được cột chặt vào tàu, nhưng một cơn giông mạnh mẽ đã làm đứt dây cột và kéo người thủy thủ xấu số kia xuống sóng nước, và Đức Cha Agatho coi anh ta như đã chết. Trong lúc đó, con tàu vẫn đi, sau những cơn hiểm nguy, đã đến được đảo Ostika. Tại đây, Đức Giám Mục dâng thánh lễ cầu cho người thủy thủ không may; nhưng ngay khi con tàu được sửa chữa xong, tiếp tục hành trình đến Rome. Khi vừa lên bờ, Đức Giám Mục đã thấy anh thủy thủ, người mà ngài tưởng rằng đã chết, đang đứng trên bờ. Tràn ngập niềm vui, ngài hỏi anh đã thoát những nguy hiểm dữ dằn suốt nhiều ngày như thế nào. Người thủy thủ khi ấy kể lại chiếc xuồng nhỏ bé của anh lúc nào cũng như sắp sửa lật úp, nhưng lại luôn luôn trồi lên trên những làn sóng, vô hại. Hết ngày lại đêm, anh ta mới thành công trong việc chinh phục những ngọn sóng; nhưng đuối sức vì đói và khát, chắc chắn anh cũng bị chết chìm nếu như không được phù giúp. Anh ta kể tiếp, “Thế rồi bỗng nhiên, khi tôi đã hoàn toàn vô vọng, như thể xuất thần, không biết mình đang ngủ hay thức, tôi nhìn thấy một người đứng trước mặt và cho tôi bánh. Vừa khi tôi lãnh nhận bánh ấy, sức lực của tôi liền hồi phục, và ngay sau đó, tôi được một con tàu cứu vớt và chở về đây.” Khi hỏi biết ngày giờ sự việc này xảy ra, Đức Giám Mục nhận thấy trùng với ngày giờ ngài dâng thánh lễ tại đảo Ostika để cầu cho người thủy thủ xấu số. (Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể)
Tin Mừng Thánh Máccô hôm nay thuật lại Đức Giêsu dẹp yên sóng gió, cứu các môn đệ khỏi cơn bão bất ngờ, xảy ra khi Người đang say ngủ. Với câu chuyện trên, Chúa Giêsu Thánh Thể đã cứu người tài công rơi xuống biển, theo lời cầu nguyện của Đức Giám Mục Agatho và toàn thể khách trên con tàu bị bão. Trong cuộc đời mỗi người, thường vẫn gặp những sóng gió, ba đào. Chúng càng dữ dội hơn mỗi khi thiếu vắng Thiên Chúa Quan Phòng che chở, ở cùng.
Khi Đức Giêsu ngủ say
Thực ra, Chúa Giêsu luôn ở cùng, mà con người không nhận ra Người luôn canh thức, che chở lúc nguy nan, tai ương, hoạn nạn, chỉ vì quên mất Người vô hình, chỉ vì sống quá thực dụng, quá dung tục, chỉ luôn biết trông cậy vào hữu hình, vào phương tiện thế gian, vào sức người, sức của, khoa học, kỹ thuật, dịch vụ. Nhưng những thứ hữu hình đó thường không thể giải quyết trọn vẹn như mong đợi, mà chỉ tạm bợ, chắp vá, lưng chừng, nửa vời, bế tắc, chia lìa, đổ vỡ, mất mát, đau khổ, chết chóc, như ly dị, điên loạn hay tự vẫn.
Vì thế, để kính mời Đức Giêsu thức cùng, sống cùng, an ủi, chăm sóc, chở che, Thánh Phaolô khuyên nhủ đừng bắt chước theo thế gian, mà sống theo Lời Chúa đã chỉ dạy, để được cứu giúp an toàn: “Tôi khuyên Anh Chị Em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. Tâm trí họ đã ra tối tăm, họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban.” (Ep 4, 17-18)
Khi Đức Giêsu ngủ say
Người vẫn còn say ngủ, khi con người kiêu căng, tự phụ, cậy vào sức mình, tài năng, tri thức, chuyên môn, phương tiện, không cần đến Chúa, không cần đến sức mạnh Chúa Thần Linh, không màng đến Lương Thực trường sinh Thánh Thể, không dựa vào Lời Chúa, ngọn đèn soi dẫn, ánh sáng đi đường, không chạy đến với Chủ Chiên, hay những tâm hồn dâng hiến giúp đỡ, chia sẻ.
Để kính mời Đức Giêsu thức dậy đồng hành, thì Thánh Phaolô ân cần khuyên bảo những ai còn do dự, luyến tiếc những phù phiếm, hãy đoạn tuyệt, để mưu cầu bình an và hạnh phúc vĩnh cửu: “Anh Chị Em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. (Cl 3, 1- 2)
Khi Đức Giêsu ngủ say
Người vẫn tiếp tục ngủ say khi người tín hữu Kitô còn thiếu các nhân đức Tin Cậy Mến, còn chưa đặt vào Người hết niềm tin, niềm trông cậy và nhất là tình yêu. Bởi vậy, sau khi dẹp yên bão tố, Đức Giêsu quay lại quở trách các môn đệ yếu niềm tin cậy: “Sao nhát thế? Làm sao anh em vẫn chưa có lòng tin?” (Mc 4, 40)
Lo sợ, thất vọng vì thiếu đức tin, bất an, khủng hoảng vì thiếu đức cậy, lạc lõng, bơ vơ vì thiếu đức mến, khi người tín hữu Kitô chưa sẵn sàng khẩn khoản, trọng kính mời Đức Giêsu ngự vào trung tâm điểm đời sống, để có thể quy chiếu mọi sự về với Người. Khi hoàn toàn nhờ Người, với Người và trong Người, thì Người sẽ thức dậy và truyền cho sóng gió, ba đào “im đi, câm đi,” tức thì tâm hồn tín hữu liền được bình an giữa biển đời đen tối.
Mặc cho sóng gió đe dọa tứ bề, mặc cho sự dữ hoành hành áp đảo, không sức mạnh thế gian nào uy hiếp được tín hữu Kitô, khi có Chúa cùng đồng hành. Chính các thánh, các người công chính và các chứng nhân đã trân trọng xác tín điều đó qua cuộc đời.“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? (Rm 8, 35)
“Người Công giáo là ánh sáng giữa đen tối, là muối sống giữa thối nát, là hy vọng giữa một nhân loại thất vọng,” (Đường Hy Vọng, số 950)
Con tưởng rằng con vững tin, tin vào Chúa là Cha nhân hiền, khi cuộc sống nhẹ trôi êm đềm với tháng ngày lặng lẽ bình yên. Nhưng khi đường đời gieo nguy khó, bên trời ngập tràn cơn giông tố. Con lo âu lạc bến xa bờ, con mới biết rằng con chưa vững tin.
ĐK. Thì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay, con luôn cần đến Chúa từng phút giây. Nhờ ơn Chúa, con kiên trì tín thác kể từ đây, khi yên vui cũng như khi sầu đầy. (Lm Nguyễn Duy, Cho con vững tin)
Lạy Mẹ Maria, Mẹ từng trải qua biết bao sóng gió từ khi thưa hai chữ “Xin Vâng,” nhưng Mẹ chẳng bao giờ nao núng, hoảng sợ, kinh hãi, thậm chí khi cùng Thánh Gia vượt biên, tránh quân Hêrôđê truy sát Hài Nhi, vì Mẹ luôn có Chúa ở cùng. Kính xin Mẹ an ủi, cầu bầu, che chở chúng con trên đường về Quê Trời. Amen.
6. Sóng gió
Con thuyền của các môn đệ trong bài Tin Mừng sáng hôm nay chính là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Thực vậy, cuộc đời chúng ta với bao nhiêu phong ba bão táp, đó là những thất bại của bản thân, những khó khăn của cuộc sống, của xã hội, những khổ đau của những người xunh quanh, làm cho chúng ta nhiều lúc chán nản tuyệt vọng.
Tại sao lại có những sóng gió trong cuộc đời? Phải chăng Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta? Có người cho rằng chính Thiên Chúa thử thách để rèn luyện và củng cố niềm tin nơi chúng ta. Có người lại cho rằng do trình độ hạn chế của con người trước sức mạnh của thiên nhiên. Nhưng có lẽ nguyên nhân trực tiếp nhất vẫn là do cách đối xử của con người đối với con người trong cuộc sống.
Thực vậy, chính thái độ vô trách nhiệm của những người làm cha làm mẹ đã dẫn đến tình trạng tuổi trẻ lang thang, bụi đời. Chính sự ích kỷ tàn nhẫn của một số người đã tước đoạt đi những phương tiện sống và phẩm giá của những người khác.
Nghịch cảnh và sóng gió như vẫn tồn tại song song với số phận và lịch sử con người. Các môn đệ cũng như chúng ta phải đương đầu, phải đối phó với cuồng phong. Thế nhưng chúng ta sẽ tìm thấy niềm an ủi nơi Thiên Chúa bởi vì dưới bàn tay quyền năng và yêu thương của Ngài, sóng gió cũng phải khuất phục và sự bình an sẽ trở lại với chúng ta.
Sự dữ tuy tràn lan, nhưng ơn sủng của Ngài vẫn dư đầy, bởi vì Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài không hề bỏ rơi con người. Bằng chứng là Đức Kitô đã đến, Ngài tìm mọi phương cách, thậm chí cả đến cái chết của mình để cho chúng ta thêm xác tín vào tình thương của Ngài. Một vị Thiên Chúa nhân lành như vậy, nhất định sẽ không bao giờ muốn cho con người phải đau khổ, nhất định Ngài sẽ cứu chúng ta.
Làm sao chúng ta có thể thất vọng và chán nản khi Ngài vẫn ở bên chúng ta và vẫn yêu thương chúng ta. Mặc dù ngày nay Thiên Chúa không còn trực tiếp làm phép lạ để truyền cho sóng gió phải yên lặng, nhưng Ngài dùng bàn tay của những người nhiệt tâm làm vơi giảm những nghịch cảnh, những bất công trong cuộc sống. Và cũng không ít những con người đang đấu tranh cho công bằng xã hội. Nhiều khi họ cũng đã phải trả giá cho những đấu tranh ấy bằng chính mạng sống của mình.
Còn chúng ta thì sao? Niềm tin vào một Thiên Chúa toàn năng và yêu thương lẽ nào lại để cho chúng ta phải buông xuôi và tuyệt vọng bởi vì Đức Kitô chính là niềm hy vọng, chính là sức sống trong cuộc đời chúng ta.
7. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI
Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu. Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm. Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện. Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết. Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.
Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế. Lần giả vờ được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường Emmaus. Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại. Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng khôn xiết. Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ bánh.
Hôm nay tuy Tin Mừng không minh nhiên ghi lại, nhưng ta có thể đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ. Vì sóng to gió lớn dập vùi làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào đến nỗi thuyền có nguy cơ bị chìm đắm, trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy ngược chạy xuôi, hò hét nhau tìm cách tát nước ra. Giữa khung cảnh như thế, làm sao có thể nằm ngủ ngon lành được. Chỉ có thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa phát xuất do tình yêu.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn ta đáp lại tình yêu thương của Chúa. Đó là định luật thông thường trong tình yêu. Khi yêu ai cũng muốn được đáp trả. Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó. Người tha thiết yêu ta. Người mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi Người giả vờ lãng quên để ta nhớ mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn. Như bà mẹ muốn đứa con tỏ ra cần đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi không thấy mẹ, Chúa cũng mong ta cần đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt hoảng lo âu khi thấy vắng bóng Chúa.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta nên người. Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới. Cuộc đời ví như mặt biển cả mênh mông. Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta trưởng thành ở ba phương diện.
Những thử thách giúp ta biết mình hơn. Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối. Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình cũng đi được. Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống. Các tông đồ là những bạn chài đã quen với sóng nước. Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố. Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.
Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.
Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Để từ nay các ngài không còn cuống quít lo sợ mỗi khi gặp gian nan nữa. Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.
Đời sống không thể thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Hơn nữa Chúa luôn ở bên ta. Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh. Thử thách rồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta. Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tại sao Chúa cho ta bị thử thách? Thử thách có cần thiết không?
2) Thử thách giúp ta trưởng thành thế nào?
3) Ta phải sống thế nào trong thử thách để vượt lên trên thử thách?
8. Người dựa vào chiếc gối mà ngủ
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?”
Cũng như hai dụ ngôn ‘hạt giống tự mọc’ và ‘hạt cải nhỏ bé’ được kể trước đó, sự kiện cuồng phong nổi lên và sóng nước ập vào làm cho con thuyền các môn đệ hòng chìm, trong khi đó Đức Giê-su ‘đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ’ buộc ta phải suy nghĩ khi giáp mặt với những nghịch lý đầy thách thức trong chính đời sống Tin Mừng. Tự nhiên, khi nghĩ về Thiên Chúa cũng như về vương quốc của Ngài, thì quyền năng và sức mạnh mới chính là điều mà mọi người thường nghĩ tới trước nhất. Chính vì vậy mà khi nhìn thấy đau khổ tràn lan, bất công ngập tràn và sự ác thống trị, trong khi sự thiện lại thoi thóp trong tuyệt vọng, nhiều người đã cho rằng, đó là một bằng chứng thuyết phục cho thấy không hề có Thiên Chúa; vì nếu Ngài thật sự hiện hữu, thì với tất cả quyền năng và thánh thiện như thế, tại sao lại không can thiệp, không giáng phạt bằng tất cả sức mạnh của Ngài? Thiên Chúa lẽ nào lại vô tâm tới mức đó sao? Giải đáp duy nhất mà người ta thường nại tới để giải quyết nghịch lý này là sự kiên nhẫn chịu đựng có giới hạn của Thiên Chúa, sự nhẫn nhục này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi của cuộc đời này, để rồi tới kiếp sau sự công thẳng và quyền bính của Ngài sẽ hiển trị qua việc nghiêm minh xét xử, với phần thưởng thiên đàng dành cho người thiện, hay hình phạt hỏa ngục dành cho người dữ. Giải đáp này trên thực tế hình như được hầu hết các tôn giáo trưng ra, tuy với những hình thái khác nhau, chẳng hạn như thuyết luân hồi của Phật Giáo.
Vẫn biết Thiên Chúa là quyền năng và quyền năng này vượt trên tất cả mọi sự, ‘Thức dậy, Người ngăn đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’. Thiên Chúa đương nhiên có quyền trên cả sự dữ! Trong trường hợp cụ thể này, theo lối suy nghĩ của các môn đệ, biển cả dậy sóng là hình ảnh quen thuộc của sức mạnh sự dữ, của tà thần (xem Mc 1:25). Có điều là ít tôn giáo nào dám nghĩ rằng quyền năng lớn lao nhất của Thiên Chúa (Thượng Đế…) lại chính là quyền năng buộc Ngài phải câm nín. Ngoài Ki-tô giáo, có tôn giáo nào dám nghĩ rằng có một Thiên Chúa mà quyền năng và bản chất tuyệt hảo nhất của Người lại chính là lòng nhân từ và thứ tha? Đặc tính ‘nhân từ và hay thương xót’ của Thiên Chúa, nếu có tìm thấy trong Do Thái giáo, Hồi giáo…, thì cũng chỉ mang tính tạm bợ và hạn hẹp, và chỉ dành cho một số đối tượng nhất định mà thôi (các tín hữu trung thành, những người công chính chẳng hạn). Chỉ riêng Tin Mừng của Đức Giê-su mới cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, và bản chất của Tình Yêu đó trước hết và trên hết là thứ tha và hay thương xót. Phải chăng từ muôn thuở yếu tính của Thiên Chúa chính là điều này… và sẽ còn tiếp tục mãi mãi cho tới muôn đời? Mạc khải lớn nhất của Đức Giê-su Ki-tô chính là đây: Thiên Chúa không lên án, Ngài không luận phạt, Ngài chỉ làm một điều duy nhất là cứu độ và xót thương. Luận phạt hay lên án là do chính con người tự quàng vào cổ mình “vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-21). Kể từ mạc khải vĩ đại này, thinh lặng trước sự dữ, thay vì là yếu đuối sợ hãi, lại biểu lộ sức mạnh vô địch nhất của Thiên Chúa. “Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?... Nhưng đức Giê-su vẫn làm thinh” (Mt 26:62-63).
Thần lực Người làm cho gió im biển lặng đã làm cho các môn đệ hoảng sợ, mối hoảng sợ này có lẽ lớn không kém lúc cuồng phong bão tố nổi lên, ‘Các ông hoảng sợ nói với nhau…’ Mô-sê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3:1), hoặc I-sai-a khi thoáng nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa (Is 6:5), hoặc bất cứ ai khác cũng đều run sợ trước mọi biểu hiện của quyền lực thần linh. Chỉ duy uy quyền tình yêu của Thiên Chúa là không gây sợ hãi! Và chỉ có sức mạnh tình yêu tha thứ mới làm cho con người được thư thái và an bình thực sự. “Bình an cho anh em… Thầy đây đừng sợ!” (Lc 24:36). Một khi được Đức Giê-su tỏ cho biết Thiên Chúa là ai trong thực chất của Ngài, và Thần Khí giúp ta khám phá ra Thiên Chúa thật gần gũi, thấu hiểu hết các yếu đuối lỗi lầm của con người cho dù họ có gian ác tội lỗi tới đâu đi nữa, bất cứ ai cũng sẽ cảm thấy tràn ngập một niềm an bình độc đáo, một thứ an bình không ai trên cõi đời này có thể ban cho. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy… không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi…” (Ga, 14:27)
Tuy nhiên, một khi khám phá ra và hiểu rõ hơn về sức mạnh tình yêu tha thứ và xót thương của Thiên Chúa, con người sẽ không khỏi cảm thấy một mối kinh ngạc thú vị, gần giống như một cảm giác ngất ngây. Hy vọng rằng các Ki-tô hữu chúng ta, một khi nghiệm thấy cảm giác tuyệt diệu đó, hãy để cho mối ‘kinh ngạc ngất ngây’ này tiếp tục tràn ngập tâm hồn mình… bây giờ và cho tới muôn đời!
Lạy Vua Tình Yêu nhân ái, cảm tạ Chúa đã một lần cho con nếm cảm được uy lực tình yêu nhân ái Chúa trong đời sống con. Xin cho con luôn nghiệm thấy Thiên Chúa tình yêu đang thinh lặng hiện diện trong con giữa mọi sóng gió cuộc đời. Xin đừng bao giờ cất khỏi lòng con sự bình an ngây ngất của Thần Khí hiện diện trong con, để con luôn có thể mở miệng kêu lên ‘Áp-ba’ giữa mọi nghịch cảnh. Amen.
9. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn
PHÓ THÁC VÀ TIN TƯỞNG VÀO CHÚA
KHI GẶP NGHỊCH CẢNH HAY ĐAU KHỔ?
Rất nhiều người trong chúng ta đã một lần lâm vào khó khăn, nghịch cảnh. Lúc ấy, chúng ta luôn tự chất vấn mình: “Sao cuộc đời lại đầy rẫy khó khăn, đau khổ?”; “Tại sao điều này lại xảy ra với mình?”; “Tại sao đời bất hạnh đến vậy?”; hay ““Tôi có làm gì đâu mà tôi ra như thế này?”. Nhưng nếu suy tư một chút, chúng ta thấy rằng nghịch cảnh hay đau khổ trong cuộc đời là điều không thể tránh được. Chẳng hạn, người thì bị mất việc, kinh doanh thất bại, mất đi người thân, khủng hoảng tài chính, người thì đổ vỡ trong các mối quan hệ, hoặc thậm chí sức khỏe sa sút và bệnh tật. Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay giúp chúng ta có cái nhìn và lối sống trước nghịch cảnh trong đời.
Bài đọc 1 kể Ông Gióp là người công chính, đạo đức và kính sợ Chúa vì thế ông được Chúa chúc phúc, con đàn cháu đống và của cải sung túc. Nhưng chẳng bao lâu ông gặp những cơn bão táp trong đời sống vật chất lẫn tinh thần: mất hết bà con bạn bè, tán gia bại sản, còn thân thể thì bị ung nhụt khủng khiếp. Thế nhưng, ông không nguyền rủa Thiên Chúa trái lại tin tưởng, phó thác và cậy trông vào Chúa. Cuối cùng Chúa thương ban cho ông có lại tất cả và phong phú hơn trước đây. Còn trong Bài Tin Mừng, Thánh Mác-cô kể khi gặp bão táp cuồng phong nỗi lên, các tông đồ hoảng sợ quá đến nỗi quên mất Chúa đang ở với mình. Các ông kêu Chúa và Chúa dẹp tan sóng gió.
Thật ra, mỗi khi thử thách đến trong đời, mỗi người đối diện và phản ứng một kiểu, chẳng ai giống ai. Có người thì quay lưng lại với chúng. Có người lại không dám tiến lên vì sợ thất bại. Lại có người không bao giờ hành động... vì lo không vượt qua nỗi. Có người kiên trì chịu đựng và can đảm vượt qua, nhưng có người thì nhụt chí thất vọng và tuyệt tự…
Khởi đi từ nguyên tắc cứu độ của Đức Giêsu trong nguyên lý của hạt lúa mì: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24); rồi chính Đức Giêsu đã đi trên con đường tự hủy đó để cứu độ con người. Đỉnh cao của mầu nhiệm này là cái chết trên thập giá như Ngài đã tiên báo: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8, 31). Tinh thần này đã được thánh Phanxicô Assisi lựa chọn và sống, ngài viết: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Quả thế, đằng sau sự mục nát của hạt lúa, chúng ta thấy trổ sinh nhiều cây và bông hạt khác. Cũng vậy, nếu không có thập giá hôm nào thì không có sự phục sinh của Đức Giêsu và niềm hy vọng của chúng ta. Chính Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận cũng đã nói: “Đừng nản lòng vì thất bại. Nếu con tìm ý Chúa thực sự, thì chính sự thất bại đó là thành công. Chúa muốn như vậy. Chỉ có một sự thất bại là không hy vọng vào Chúa. Con đã hy vọng vào Chúa và con sẽ không hổ thẹn đến muôn đời" (Đường Hy Vọng, số 41. 43).
“Lửa thử vàng, gian nan thử đức tin”. Trong hành trình sống đạo của chúng ta, hẳn không thiếu những nghịch cảnh, những sóng gió cuộc đời. Tuy nhiên, khi đối diện với chúng, mỗi người chúng ta hãy kiên trì và trung thành với ý Chúa. Mỗi khi khó khăn thử thách đến với chúng ta, đừng vì thất vọng mà buông xuôi nhưng biết chạy đến kêu cầu Chúa ra tay giúp đỡ như các Tông đồ hôm nay. Hãy trung thành, tin tưởng và cậy trông vào Chúa. Đừng than oán mỗi khi rơi vào nghịch cảnh nhưng nhớ rằng Chúa là Cha của chúng ta ở trên trời, Chúa luôn yêu thương chúng ta, Ngài biết trước những gì chúng ta cần, vì thế chúng ta nên phó thác trong tay Ngài. Hãy tin tưởng vào Chúa quan phòng (Mt 6,25-34).
Cuối cùng, mỗi khi gặp nghịch cảnh, khó khăn xảy đến, chúng ta đừng quá bận tâm cho câu hỏi tại sao? Mà hãy chú tâm và khám phá ra ý định của Thiên Chúa trong nghịch cảnh đó. Thật vậy, chính lúc ấy, Chúa sẽ cho biết lý do tại sao, hay cần phải làm gì để chúng ta nhận biết được những hồng ân quý báu Chúa ban cho trong nghịch cảnh đó. Mọi sự đều trở nên ích lợi cho những người yêu mến, tin tưởng và cậy trông ở Chúa. Vì thế, không còn chuyện than thân trách phận hay buồn bực, chán nản và thất vọng nữa. Ông Gióp là người đã sống mầu nhiệm đau khổ qua những nghịch cảnh một cách xuất sắc. Ông xin Chúa cho chịu thật nhiều đau khổ để đền vì tội mình. Ông sẵn lòng chịu khổ cực thay cho người khác vì lòng yêu mến Chúa. Ông luôn chiến đấu với sự yếu đuối bản thân, với những nghịch cảnh từng ngày từng giờ, từng phút, từng giây trong cuộc sống.
Xin hãy nhớ rằng những điều tốt đẹp ngày hôm nay là kết quả của những thử thách ngày hôm qua. Cho nên, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie nói: "‘Khổ’. Đúng vậy. Thương khó, bỏ dễ. Khó mới quí, bỏ là quỉ” (ĐHV, số 60). Ước gì, Lời Chúa hôm nay là động lực và nguồn an ủi và sức mạnh để chúng ta dám đương đầu và chiến đấu với với bao nghịch cảnh trong đời ngõ hầu nhờ ơn Chúa con thuyền đức tin của chúng ta về thiên đàng bình an. Amen.
10. Quyền năng của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta trong cuộc sống hiện tại có nhiều gian nan thử thách, hãy tin cậy vào Chúa quan phòng. Thực vậy, trong cuộc sống hằng ngày không thiếu gì những giông tố xẩy đến cho Giáo hội, quốc gia, thế giới và riêng của từng người chúng ta nữa. Trước những trạng huống đó, chúng ta cảm thấy hoang mang không biết phải xoay sở ra sao, có khi đã nản lòng trước những biến cố bất ngờ xẩy đến.
Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nói với chúng ta như đã nói với các Tông đồ xưa kia trên biển hồ Tibériade:”Việc gì phải sợ, người đâu mà kém tin thế”? Qua lời kêu cứu của các Tông đồ, Đức Giêsu đã truyền cho giống tố ngưng lại và biển trở nên phẳng lặng như tờ. Sở dĩ các Tông đồ chưa đủ tin tưởng vào Đức Giêsu và sợ hãi như vậy vì các ông chưa nhìn ra con người thật của Ngài, nên mới đặt câu hỏi:”Ngài là ai mà cả gió và biển phải vâng lời vậy”?
Trong suốt lịch sử của mình, Giáo hội đã trải qua những cảnh huống bi đát như bị bách hại, chia rẽ nội bộ, lạc giáo... nhưng Giáo hội vẫn đứng vững vì có Chúa “nằm ngủ” ở đó, Ngài sẽ ra tay khi cần thiết. Ngoài ra, trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người cũng không thiếu gì những gian nan thử thách, hãy tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, hãy vững tin và cầu nguyện, Ngài sẽ đến cứu giúp.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: G 38,1.8-11.
Ông Gióp gặp nhiều tai ương hoạn nạn mặc dầu ông là người công chính. Trước những đau khổ đó, ông biểu lộ những hoài nghi về sự công bằng của Thiên Chúa: ông muốn hỏi Thiên Chúa tại sao lại để cho đau khổ xẩy đến với ông cách bất công như vậy? Đâu là nguyên do những nỗi bất hạnh ấy?
Thiên Chúa không trực tiếp giải đáp thắc mắc của ông, Ngài chỉ cho ông biết Ngài là Chúa tể muôn loài, Ngài có thể làm được mọi sự theo ý Ngài: chính Ngài điều hành sức mạnh của nước, cho nó chảy đi đâu, Ngài dẹp yên sóng cả ngoài biển khơi.
Như vậy, Thiên Chúa gián tiếp trả lời cho ông Gióp: mọi sự lành hay sự dữ được Ngài cho phép mới xẩy ra, con người phải biết phó thác vào sự sắp xếp của Ngài, đừng nên mở miệng than trách.
+ Bài đọc 2: 2Cr 5,14-17.
Thánh Phaolô cho tín hữu Côrintô biết: Đức Kitô đến trần gian này để làm một cuộc tạo dựng mới nhờ sự chết và phục sinh của Ngài. Nhờ cái chết của mình, Đức Kitô làm cho nhân loại thực sự chết cho tội lỗi và nhờ sự sống lại của mình, Ngài làm cho con người hoàn toàn đổi mới, mặc lấy cuộc sống mới đã được biến hình đổi dạng, được trở nên một tạo vật mới tốt lành thánh thiện
Nếu Đức Kitô đã ban cho chúng ta một cuộc sống mới thì chúng ta cũng phải bỏ nếp sống của con người cũ để sống một cuộc sống mới hoàn toàn trong Đức Kitô để thông hiệp vào sự sống của Ngài.
+ Bài Tin mừng: Mc 4,35-41.
Buổi chiều, khi đã giảng dạy cho dân chúng xong, Đức Giêsu bảo các Tông đồ xuống thuyền vượt biển hồ Tibériade sang bờ bên kia. Biển hồ này thường có bão, nhất là vào buổi chiều. Khi ra giữa biển, một cơn bão táp nổi lên, nước đã tràn vào thuyền, các môn đệ cuống cuồng lên. Trong khi đó, Đức Giêsu, bị mệt mỏi vì rao giảng suốt ngày, nằm gối đầu ở đàng lái mà ngủ, như không có sự gì xẩy ra.
Các ông sợ hãi đánh thức Ngài và còn có sự trách móc:”Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm sao”? Đức Giêsu bình tĩnh đứng lên phán một lời vắn tắt:”Im đi, câm đi”, tức thì gió im, biển lặng như tờ. Sau đó Đức Giêsu vừa trách các môn đệ vừa khuyên họ hãy tin vào quyền năng của Ngài.
Các môn đệ chưa nhận ra con người thật của Đức Giêsu nên mới nói:”Ngài là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”? Có lẽ thánh Marcô thuật lại cảnh dẹp yên sóng gió trên đây nhằm trấn an và củng cố các Kitô hữu đầu tiên tại Rôma đang hoảng sợ trước cơn bách hại của hoàng đế Néron?
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đừng sợ, hãy vững tin.
I. SÓNG GIÓ TRÊN BIỂN KHƠI.
1. Gió và biển.
“Trong ngôn ngữ Do thái, cùng một tiếng “gió” cũng có nghĩa là “thần trí”. Ngoài ra trong Kinh thánh, biển thường là biểu tượng những thế lực gian tà mà Thiên Chúa phải đánh gục để kế hoạch của Người toàn thắng. Ở đây, biển động dữ dội do ảnh hưởng của cuồng phong. Ta phải hiểu là có “thần trí xấu” (Satan chăng?) đang tung những ma lực dưới quyền để ùa đến tấn công con thuyền, tức là tấn công các môn đệ”(Boismard, Jésus, un homme de Nazareth, 1966, tr 78).
Làm cho bão tố yên lặng là một dấu chỉ đặc biệt về quyền năng của Thiên Chúa, bởi vì biển và gió được coi như là những sức mạnh của xấu xa và hỗn loạn, mà chỉ Thiên Chúa mới có thể làm chủ, điều khiển chúng (Bài đọc 1).
2. Biển hồ Tibériade.
Biển hồ này cũng có tên gọi là biển hồ Galilê. Biển có chiều dài 21 km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibériade là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì thung lũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức gió mạnh dữ dội đến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thể, biển Tibériade hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.
II. CHÚA DẸP YÊN SÓNG GIÓ.
1. Câu chuyện giông tố.
Đức Giêsu cũng có một số môn đệ để giúp phổ biến giáo thuyết của Ngài. Các môn đệ này không phải là những nhà trí thức hay ít ra là những người học thức trung bình, nhưng thực ra họ là những người ít học: họ là những người chài lưới. Chúa cần phải giáo dục họ từng bước để trở thành những môn đệ kiên cường và trung thành trong việc rao giảng Tin mừng. Họ cần phải đặt tin tưởng vào Chúa nhất là trong những cơn gian nan khốn khó lúc này và về sau.
Ngài phải thử thách họ bằng những tình huống nguy hiểm. Vi thế, sau một ngày giảng cho dân chúng những dụ ngôn về Nước Trời. Đức Giêsu bảo các môn đệ xuống thuyền sang bờ biển bên kia, là vùng của dân ngoại để truyền giáo cho họ. Nhưng mục đích chính là để thử thách họ và cho họ thấy quyền năng của Ngài.
Vì thế, một cơn sóng gió nổi lên hầu nhận chìm con thuyền của các ông mà Đức Giêsu thì nằm ở đàng lái mà ngủ, coi như không có chuyện gì xẩy ra. Các môn đệ vừa cầu cứu vừa có vẻ hơi trách móc Ngài. Lúc ấy Ngài mời bình tĩnh đứng lên, truyền lệnh cho sóng gió phải ngưng hoạt động, tức thì gió im, biển trở nên lặng như tờ. Trước cảnh tượng này các môn đệ hết sức kinh ngạc và thán phục Đức Giêsu nên mới nói với nhau:”Ngài là ai mà cả gió và biển đều phải tuân lệnh Ngài”? Các ông đã nhìn ra quyền năng của Ngài và tin tưởng vào Ngài hơn.
2. Ý nghĩa câu truyện.
a) Củng cố niềm tin cho môn đệ.
Đức Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền ra biển là có ý tỏ quyền năng của Ngài để các ông tin tưởng vào Ngài. Sóng gió bão táp cũng có nghĩa là những thử thách và đau buồn mà người công chính phải chịu đựng và chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể cứu họ ra khỏi tình trạng ấy.
Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai”? Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa. Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của loài người. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.
Theo suy luận của J. Hervieux thì “khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi sợ hãi, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập” (Fiches dominicales, năm B, tr 207).
b) Chúa vẫn có mặt ở đó.
Cơn sóng gió nổi lên dữ dội, các môn đệ bất lực, không chèo chống nổi, nước tràn vào đầy thuyền và sắp ngập, khi đó Đức Giêsu lại đang nằm ngủ ở đàng lái! Ngài ở chỗ quan trọng nhất vì số phận con thuyền tùy ở tay lái. Thế mà đang lúc khó khăn nguy hiểm tột độ, Ngài lại nằm ngủ.
Đối với Marcô, Ngài nằm ngủ như thế là hình ảnh về Thiên Chúa như nhắm mắt làm ngơ và ngủ say quên mất rằng loài người chúng ta sắp chết rồi, con thuyền Hội thánh đang sắp chìm và bản thân chúng ta sắp bị vùi giập trong nguy hiểm. Thái độ lạ lùng này khiến loài người phải đặt ra nhiều câu hỏi về vấn đề đau khổ và sự dữ: có Thiên Chúa hay không? Ngài không biết chúng ta đang đau khổ sao? Ngài bất lực hay đa đoan như người ta thường nói về “Con Tạo”?
Bài đọc 1 cũng đặt ra cho chúng ta một câu hỏi, giống như thời ông Gióp; chúng ta cũng tra hỏi, chất vấn, sửng sốt, đòi hỏi Chúa phải giải thích và trình bầy cho ra nhẽ! Tại sao vẫn xẩy ra những vụ tàn sát những người vô tội, những cảnh chém giết nhau không nương tay, những cuộc bách hại đẫm máu, những trận dịch kinh hoàng, những bất công chỉ biết kêu trời báo oán, những cảnh chết đói khiến phải đào mồ chôn tập thể?
Thật ra, đường lối sư phạm của Thiên Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhằm giúp chúng ta tin tưởng rằng trong mọi nơi mọi lúc “Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn” (theo Tertullianô), nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ nhưng thực ra Ngài vẫn thức để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ.
Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xẩy ra. Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.
Một ngày kia, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngã tay chèo, được hoàng đế phán ra một câu bất hủ:”Anh không biết là anh đang chở hoàng đế César sao”?
Một vị hoàng đế sẽ bất lực trước cơn cuồng phong dữ dội, thế mà dám nói những lời như thế. Thì huống hồ ở đây, không phải là vị vua trần thế mà là vua cả trên trời Ngài làm cho sóng gió bão táp phải lặng yên sao? Thánh vịnh đã nói:
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng
Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.
Họ vui mừng vì trời yên bể lặng
Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ.
(Tv 107, 29-30)
III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA.
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay dạy chúng ta bài học: hãy tin cậy vào Chúa và cầu nguyện. Ai cũng thích sóng yên bể lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có giông tố? Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin. Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Ngài. Cũng chính giông tố sẽ giúp chúng ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố. Khi đã biết con người hoàn toàn yếu đuối và bất lực thì chỉ còn biết trông cậy vào Chúa và xin Ngài đến cứu giúp, không phải chỉ cầu xin khi gặp hoạn nạn, nhưng phải tin Chúa và cầu xin Ngài mọi nơi mọi lúc trong lúc được bình yên.
Truyện: Cầu nguyện khi bình yên.
Có câu chuyện về một đại úy hải quân, khi về hưu làm thuyền trưởng trên một chiếc tầu đưa khách đến đảo Shetland tham quan trong ngày. Trong một chuyến đi chơi, tầu chở toàn thanh niên. Họ cười nhạo ông đại úy gìa khi thấy ông này cầu nguyện trước lúc ra khơi, bởi vì đó là một ngày trời đẹp và biển êm.
Nhưng biển không êm lâu khi một trận cuồng phong bất ngờ thổi tới và chiếc tầu bắt đầu chồm lên chồm xuống dữ dội. Các hành khách hoảng sợ chạy đến ông đại úy thuyền trưởng để yêu cầu ông cùng cầu nguyện với họ. Nhưng ông đáp:”Tôi đã cầu nguyện lúc trời êm bể lặng. Khi sóng gió nổi lên, tôi phải lo cho con tầu của tôi”.
Đó là một bài học cho chúng ta. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn tìm đến Thiên Chúa trong những lúc yên tĩnh của đời mình thì chúng ta có lẽ sẽ không tìm thấy Người khi cơn rối loạn chụp xuống. Có lẽ chúng ta hoảng sợ nhiều hơn. Nhưng nếu chúng ta đã biết tìm đến Người và phó thác nơi Người trong những lúc bình yên thì hầu như chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy Người khi sóng gió nổi lên (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật B, tr 458).
Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chồng chềnh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người cha lái con tầu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của người Cha trên trời.
Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Lúc đó, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Truyện: Cha tôi câm lái tầu.
Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện như sau:
Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố ầm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi trên boong tầu như không có gì xẩy ra.
Lạ lùng, một thủy thủ giương to đôi mắt hỏi em:
- Em không sợ chết sao?
Cậu bé thản nhiên trả lời:
- Sao lại sợ? Chính ba cháu cầm lái con tầu này mà!
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay thách đố sự tin tưởng của chúng ta vào quyền năng của Thiên Chúa. Khi đã có đức tin, chúng ta không cần đứng ra chỉ huy mọi sự. Đã có Chúa Tình yều, Ngài sẽ làm tất cả.
11. Bão táp cuộc đời – Cố Lm. Hồng Phúc
Một phái đoàn quan khách đến thăm quan một trại cùi. Họ rất cảm phục vì thấy các nữ tu vui vẻ săn sóc cho bệnh nhân. Một người trong phái đoàn hỏi một chị: “Vì sao chị lại sống ở đây? Cho tôi một triệu tôi cũng không dám!” Người nữ tu trả lời: “Cho tôi hai triệu tôi cũng không ở. Sở dĩ tôi muốn ở đây và sống chết ở đây vì tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy tôi.” Với giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô cũng từng nói như vậy: “Lòng yêu mến Đức Kitô thúc bách tôi”. Từ ngày ngài được biết Chúa Kitô và cảm thấy tình thương của Chúa đến độ “hiến thân mình vì tôi” (Ga.2,20), Phaolô như bị đè nặng dưới khối tình yêu của Chúa. Từ trong thâm tâm, người nghe như có tiếng vọng lại: Hãy yêu mến Ta như Ta đã yêu mến ngươi. Hãy tiến lên nữa. Hãy để Ta dùng ngươi để yêu mến kẻ khác. “Chúa Kitô đã chết thay cho hết mọi người, để những ai đang sống không sống cho mình nữa, mà chỉ sống cho Đấng đã chết và sống lại vì ta.”
Đối với tất cả chúng ta, tình yêu Thiên Chúa cũng thúc bách và đè nặng như vậy.
Bài Phúc Âm hôm nay, dưới ngòi bút linh động của Marcô, là một bài phóng sự một cơn bão táp xảy ra trên mặt biển hồ Tiberiade hay có những cơn gió lốc về chiều do bầu khí bị dồn ép trong thung lũng sông Giordan. Sau khi giải tán đám đông, Chúa truyền cho các môn đệ chèo thuyền qua bên kia biển hồ. Ngài lên thuyền. Sau một ngày giảng dạy mệt nhọc, Ngài đến phía sau lái, dựa trên một chiếc gối và ngủ say. Một cơn gió lốc thổi đến, cuộn lên những ngọn sóng lớn làm cho thuyền đầy nước. Các môn đệ tay chống tay tát…, còn Ngài, Ngài vẫn ngủ. Các ông đến thức Ngài dậy: “Chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao?” Ngài bèn đe gió và phán với biển, như một người bị quỉ ám: “Hãy im đi!” Tức thì gió và biển lặng.
Tường thuật cơn bão táp im lặng có ý nghĩa gì? Đối với Chúa Giêsu, Ngài muốn dạy cho chúng ta phải có niềm trông cậy và phó thác nơi Chúa: “Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?” Trong mọi hoàn cảnh, mọi hiểm nguy, chúng ta đều nằm trong bàn tay của Cha trên trời. Trong một hoàn cảnh tương tự, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngã tay chèo, được nghe một câu nói bất hủ: Anh không biết là anh đang chở vua César? Thì huống hồ ở đây, không phải là một vị vua trần thế mà là Vua Cả trên trời, “Ngài làm cho bão táp dừng yên phăng phắc, sóng biển yên lặng như tờ” (Tv. 107, 29).
Đối với nhiều người đã chứng kiến, vì Marcô nói: “Có nhiều thuyền khác theo”, thì đây là một phép lạ nói lên quyền năng của Chúa Giêsu, Đấng chỉ cần phán lên một lời thì gió yên biển lặng, Đấng có quyền trên vạn vật, là Đấng tạo thành vạn vật. Các Thánh Giáo phụ nhìn thấy ở đây tác động của hai bản tính của Chúa Giêsu. Thánh Gioan Kim-Khẩu nói: “Họ vừa nhìn thấy Ngài, dựa trên gối, ngủ say, đó là một con người, họ nhìn thấy Ngài bắt biển cả phải lặng yên, đó là vị Thiên Chúa.” Trong khi các nhà thần học minh giáo lại đề cao ý tưởng “con thuyền Giáo hội” giữa sóng gió ba đào (Tertullien). Chúa Kitô vẫn ở trong con thuyền Giáo hội cũng như Ngài ở trong tâm hồn chúng ta. Một hôm Bà Thánh Catarina Sienna phải chiến đấu mãnh liệt với chước cám dỗ, Bà kêu lên: “Lạy Chúa, trong khi con phải chống lại những ý tưởng nhuốc nha thì Chúa ở đâu? Chúa phán: Ta đang ở trong tâm hồn con, để hỗ trợ con và để chia sẻ sự toàn thắng của con.”
“Lạy Thầy, xin cứu chúng con vì chúng con sắp chết mất!”
12. Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?
(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc’)
Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay thánh Maccô thuật lại một hành trình trên biển để “sang bờ bên kia” của Chúa Giêsu và các môn đệ. Hành trình này được ví như hành trình đức tin của mỗi chúng ta. Hành trình trên biển gặp sóng gió là chuyện không lạ lắm đối với những người thường xuyên đi biển và sống bằng nghề biển như các môn đệ. Tuy nhiên, chiếc thuyền của Chúa Giêsu và các môn đệ hôm nay không gặp những con sóng ngọn gió hiền lành bình thường, mà là gặp “cuồng phong”… “sóng ập vào”… “thuyền đầy nước”… Các môn đệ lo lắng như “chết đến nơi rồi”, còn Chúa Giêsu thì “chẳng lo gì”… Các môn đệ kêu cầu đến Chúa và Chúa đã ra tay uy quyền, Chúa mắng các môn đệ “làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Chúng ta ngắm nhìn xem, tại sao Chúa Giêsu lại mắng các môn đệ chưa có lòng tin?
Qua trình thuật này chúng ta có thể hiểu rằng, giữa Chúa Giêsu và các môn đệ đã có một tương quan rất thân thiện với nhau rồi. Cùng làm việc và cùng thi hành sứ vụ chung với nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng dễ dàng cảm nghiệm rằng, dường như tương quan ấy chỉ mới có ở bề mặt bên ngoài, có nghĩa là các môn đệ mới chỉ gặp gỡ, gần gũi làm việc chung, mới tương quan trên bình diện công việc và cuộc sống, chứ các môn đệ chưa đi vào tương quan sâu, chưa hiểu hết Chúa như thế nào, quyền năng của Ngài ra sao?
Chúa mắng các môn đệ “chưa có đức tin” quả thật là phải lẽ, vì hành trình của các ông đang có Chúa đó, nhưng các ông chẳng ý thức về sự hiện diện đồng hành của Ngài, các ông không nhận biết quyền năng của Chúa, các ông cũng chẳng trông cậy vào Ngài… Sóng gió ập đến, các môn đệ mới sực nhớ đến Chúa, và rồi các ông vội trách Chúa “chẳng lo gì”.
Cuộc sống thường ngày của chúng ta dường như cũng thế, chúng ta ít khi ý thức sự hiện diện của Chúa, chúng ta thường đi với Chúa cách vô ý thức, coi như Chúa không biết gì, Chúa chẳng quan tâm. Đến lúc nguy khó mới nhớ chạy đến Chúa và kêu la rối rít. Thái độ sống này, chắc chắn sẽ bị Chúa mắng là “chưa có lòng tin”. Tuy nhiên, một thái độ ngược lại cũng đáng quan tâm. Cuộc sống đôi lúc chúng ta cũng rơi vào tâm trạng thất vọng nặng nề, chúng ta cũng chẳng còn nhớ đến Chúa, và quên rằng Ngài ở bên chúng ta và chờ chúng ta khiêm tốn lên tiếng kêu cầu Ngài. Thái độ chỉ kêu đến Chúa khi gặp khó khăn, hoặc là thất vọng đến quên cả Chúa mà lầm lũi bước đi đó là thái độ “chưa có lòng tin”.
Thánh Maccô thuật tiếp, sau khi các môn đệ kêu đến Chúa, tin tưởng vào quyền năng của Chúa, Chúa bắt đầu ra tay. Nhưng sau khi Chúa ra tay truyền sóng biển im lặng, thì các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai…?”
Gặp sóng gió, các môn đệ hoảng sợ, không tin đủ vào Chúa. Sau khi Chúa tỏ quyền năng thì các ông lại thắc mắc “Ngài là ai?” Điều này chứng tỏ nền tảng đức tin của các môn đệ chưa vững chắc, đi bên Chúa, gặp gỡ Chúa nhưng không khao khát tìm biết Chúa là ai? Lẽ ra các ông phải tìm hiểu về Chúa, biết Chúa là ai khi bắt đầu cất bước theo Ngài! Còn nghi ngờ vào chính Thiên Chúa thì chắc chắn là chưa có lòng tin. Tin Chúa là phải học cho biết Ngài là ai và đi vào trong tương quan sâu để cảm nghiệm Ngài như ta đã được học biết. Tin vào Chúa là hiểu điều Chúa làm, mong điều Chúa muốn và phó thác cho Ngài cuộc sống của ta.
Sau phép lạ Chúa làm truyền sóng biển im lặng, chắc chắn các môn đệ phải tìm được câu trả lời Chúa là ai khi quan sát sự kiện và khi tương quan gần gũi song hành với Chúa. Vậy mà không hiểu sao các ông lại còn hoảng sợ và thắc mắc “ông này là ai?” Câu hỏi này chứng tỏ lòng tin của các ông chưa có và bị Chúa mắng thì cũng không oan uổng gì.
Bởi vì các môn đệ chưa có lòng tin, nên chưa ý thức sự hiện diện của Chúa. Chưa có niềm tin nên còn nghi ngờ “ông này là ai?”. Chưa có lòng tin nên còn dành quyền điều khiển và kiểm soát hành trình. Khi các môn đệ dành quyền kiểm soát và điều khiển hành trình đời mình, thì Chúa dành cho họ ưu tiên đó, Ngài nghỉ ngơi. Giả như chúng ta tin tưởng trao phó cho Chúa để Ngài điều khiển và an tâm nghỉ ngơi, thì chính lúc ấy Chúa sẽ giang tay ra hành động, Ngài chở che, bao bọc và cứu giúp.
Thái độ của những người “chưa có lòng tin” là thái độ của những người ưa thích đảo lộn tình thế, đứng vào vị trí điều khiển của Chúa, quên đi vai trò lệ thuộc của chính bản thân mình.
Có lòng tin là ý thức Chúa hiện diện trong mọi nẻo hành trình; Có lòng tin là trả lời xác tín với mọi người về chính Chúa, bằng sự cảm nghiệm của chính cá nhân mình; Có lòng tin là để Chúa điều khiển và kiểm soát cuộc sống của mình; Có lòng tin là khiêm tốn kêu xin khi gặp gian nan khốn khó.
Giờ đây, chúng ta khiêm tốn dâng lên Chúa lời nguyện xin ơn đức tin:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con cám ơn Chúa vẫn hiện diện trong cuộc sống chúng con.
Xin cho chúng con tin vào quyền năng Chúa vẫn hiển trị trong cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa, cuộc sống quanh chúng con có biết bao điều xảy đến.
Tất cả đều nằm dưới bàn tay tình thương quan phòng của Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con biết cùng với vạn vật dâng lời ca khen quyền năng Chúa.
Xin giúp chúng con biết đón nhận ân ban của Chúa trong sự khiêm tốn thẳm sâu.
Xin dạy chúng con biết chạy đến với Chúa khi gặp những gian nan thử thách,
Xin giúp chúng con biết bám vào Chúa để đi qua những giông bão trong cuộc đời.
Lạy Chúa, Chúa luôn nâng đỡ những ai kêu cầu Chúa.
Chúng con xin phó dâng cuộc sống trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
13. Sóng gió cuộc đời - Lm Anphong Trần Đức Phương
Tôi đã được nghe một câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (1881-1963). Ngài chỉ ở trên ngôi vị Giáo Hoàng trong vòng 5 năm (1958-1963), nhưng được nhiều người sùng mộ. Sau khi Ngài qua đời, rất nhiều người đã đến viếng mộ của Ngài, đến nỗi di hài của Ngài đã được đưa từ hầm mộ lên trên nền Đền Thờ Thánh Phêrô để dễ dàng cho giáo dân kính viếng. Ngài có một niềm ưu tư đặc biệt về việc hiện đại hóa Giáo Hội. Ngài cũng luôn quan tâm về nền hòa bình thế giới. Một trong những thông điệp nổi tiếng của Ngài là Thông Điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới” (Pacem in Terris), ra ngày 11-4-1963, trong đó Ngài kêu gọi mọi người có thành tâm thiện chí hãy chung tay xây dựng Hòa Bình và sự Công Chính trên thế giới, để “làm cho trái đất này trở nên nơi ở tốt đẹp hơn cho nhân loại!”(Lời kết Thông Điệp) Một đêm khi Ngài đang ngủ, Ngài chợt nghĩ đến bao nhiêu những điều cần phải thực hiện trong Giáo Hội. Ngài mong cho đến sáng để xin vào trình bày với Đức Giáo Hoàng về những việc cần phải làm ngay. Nhưng Ngài sực tỉnh và mới nhận ra chính Ngài đang là Giáo Hoàng! Lúc đó, Ngài cảm thấy hết sức sợ hãi! Nhưng như có tiếng Chúa nói với Ngài: “Giáo Hội là của Cha chứ không phải của con!” Bấy giờ Ngài mới lấy lại can đảm và cầu nguyện xin Chúa soi sáng cho Ngài biết phải làm gì để canh tân Giáo Hội. Rồi Ngài đã mở Đại Công Đồng Vatican II (1962-1965), mời các vị Hồng Y và Giám Mục từ các nơi trên thế giới trở về Rôma họp để cùng nhau đưa ra những ý kiến hiện đại hóa Giáo Hội.
Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay, trong Bài Phúc Âm (Mc 4, 35-41), chúng ta thấy các Thánh Tông Đồ đang chèo thuyền trên Biển Hồ Tibêriat trong đêm tối, thì sóng to gió lớn nổi lên, nước ùa vào trong thuyền đến nỗi thuyền sắp chìm, mà Chúa Giêsu cứ ‘ngủ yên’ trên mạn thuyền, như không biết gì cả. Các Tông Đồ phải đánh thức Chúa dậy: “Chúng con sắp chết đến nơi mà Thày không quan tâm đến sao?” Chúa Giêsu đã ‘thức dậy’ và làm phép lạ cho gió yên, biển lặng! Rồi Chúa trách các Tông Đồ: “Các con không có đức tin ư? Sao mà qúa sợ hãi như vậy!”
Trong cuộc đời mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta có nhiều lúc cũng gặp “bão tố nổi lên” và chúng ta có cảm tưởng Chúa cứ ‘ngủ yên’ mà không thương cứu giúp chúng ta. Y như trong trường hợp khổ đau của ông Gióp trong Bài Đọc I (Gióp 38, 1.8-11). Nhưng ông Gióp đã luôn vững tin nơi Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong Bài Đọc II (2Cr 5,14-17), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: Vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!..”, đem lại cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Chúa.
Là những tín hữu của Chúa, chúng ta hãy noi gương ông Gióp, luôn biết tin tưởng, phó thác nơi Chúa trong mọi biến cố xảy ra cho chúng ta, gia đình chúng ta, thế giới chúng ta và ngay trong Giáo Hội Chúa nữa; vì Chúa là Thiên Chúa toàn năng, và là Cha yêu thương của chúng ta. Trong Phúc Âm Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Chúa là Cha luôn yêu thương chúng ta và lo lắng mọi điều cần thiết cho chúng ta. (Mt 6, 25-34)
Trong thế giới ngày nay, người ta thường thiếu niềm tin nơi Chúa, và vì thế dễ lo lắng, sợ hãi trước những biến cố đau thương xảy ra trong cuộc đời, và trở nên khủng hoảng tinh thần, bất mãn với cuộc đời, tâm trí bị căng thẳng, rồi suy nhược (depressed) và có những trường hợp đưa đến loạn trí, hành động điên rồ gây nên những tội ác khủng khiếp: như tự hủy chính mình, có khi giết hại mạng sống cả gia đình, có khi giết hại những người vô tội, như những cuộc bắn giết tại các trường học, tiệm ăn, sở làm và các trung tâm thương mại v.v...
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho chúng ta được vững niềm tin phó thác nơi tình thương che chở của Chúa là Cha chúng ta. Xin cho chúng ta biết nhìn lên Thánh Giá Chúa để chấp nhận mọi đau khổ, thử thách xảy ra cho chúng ta, gia đình chúng ta. Chính những đau khổ, thử thách tôi luyện đức tin của chúng ta, làm cho đức tin của chúng ta trở nên vững chắc hơn. Đau khổ và thử thách cũng là những dịp để chúng ta được thông phần với sự đau khổ Chúa đã chịu để cứu chuộc chúng ta (Xin xem 1 Pr 1, 6-9; 2 Cr 4, 17-18; Rm 8,18).
“Anh em hãy phó thác mọi nỗi lo âu cho Chúa; vì Chúa luôn lo lắng cho anh em!” (1Pr 5,7).
“Hãy phó thác đường đời cho Chúa,
Người sẽ lo liệu mọi sự cho chúng ta!”
(TV 37).
“Tôi tin, tôi tin Chúa đã thương tôi, nên Người đã chết, chết vì tôi…
“Tôi tin Chúa vẫn thương tôi, cho dù đời tôi bao phen giông tố…”
(Bản Thánh ca “Tôi Tin” của Thành Tâm)
14. Tái tạo
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Để tái tạo vật mới từ vật cũ thì vật cũ cần phải tháo gỡ cho việc tái tạo. Hành động tháo gỡ mang í nghĩa chết và í nghĩa sống. Chết hiểu theo nghĩa từ nay hình dạng cũ thuộc về quá khứ, không còn nữa. Thay vào đó là hình dạng mới với đời sống mới. Thí dụ điển hình nhất là sau cơn hoả hoạn, cây cũ cháy rụi, chết đi nhường chỗ cho mầm non phát sinh.
Thiên tai tàn phá và tái tạo. Quan trọng hơn nữa thiên tai hi vọng giúp ta nhận biết thân phận nhỏ bẻ của con người. So với vũ trụ bao la con người nhỏ hơn hạt cát biển và tàn lụi nhanh hơn hạt sương trước ánh dương. Dù nhỏ bé như thế nhưng con người có tham vọng làm chủ tể của vũ trụ có trước con người nhiều tỉ năm. Tìm hiểu để biết hơn về vũ trụ là điều tốt nhưng tìm cách làm chủ, chối bỏ công trình sáng tạo của Thiên Chúa là việc hạt cát đòi làm chủ đại dương, sương sớm đòi làm chủ mặt trời.
Sóng gió trong đời là điều không thể tránh khỏi và khi chúng đến con người thường có hai chọn lựa. Người có đức tin mạnh mẽ thường chạy đến Chúa trong lời kinh. Khi bão tố đến họ bám chặt hơn vào Thiên Chúa, tìm an bình nơi Ngài. Đồng thời họ cũng tìm sự hỗ trợ của đồng loại. Các tông đồ khi gặp sóng gió các ông cũng vừa chèo chống vừa chạy đến cùng Đức Kitô và các ông kinh ngạc chỉ một lời phán bảo sóng gió im lặng nghe lời Ngài. Con người không có khả năng ra lệnh cho thiên tai. Con người chỉ có những nhà chuyên môn trong ngành có khả năng tiên đoán tai ương có thể sẽ xảy đến và chuẩn bị trước mong tránh càng nhiều thảm hại càng tốt. Con người chấp nhận khi các chuyên gia tiên đoán sai về thiên tai sẽ xảy đến nhưng khi Chúa không đáp đúng lởi chúng ta cầu xin chúng ta phàn nàn Chúa không thương con người. Vì sao lại có thái độ đó? Thưa vì chúng ta đặt í ta trên í Chúa.
Người có đức tin mạnh nơi Đức Kitô tin vào phép lạ và qua phép lạ giúp cho đức tin mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên khi không có phép lạ đức tin vẫn không yếu kém vì đức tin đặt nền tảng trên Đức Kitô, không phải dựa vào phép lạ để tin. Để có phép lạ cần có đức tin như thế đức tin phát sinh phép lạ, không phải phép lạ sinh ra đức tin. Trong Kinh Thánh Đức Kitô luôn khẳng định với người Ngài ban ơn: Đức tin con đã cứu con. Như thế Đức tin luôn đi trước, phép lạ theo sau.
Kitô hữu tin chúng ta sống nơi trần thế chỉ trong giai đoạn và khi đi trọn con đường chúng ta trở về với Chúa. Thời gian khi nào trở về không thuộc về khả năng con người nhưng do Chúa định đoạt. Kitô hữu mong sống hạnh phúc và sống lâu dài nơi trần gian nhưng Kitô hữu cũng biết rằng đó là í muốn của ta; ngoài í ta muốn còn có í Chúa mà ta luôn tôn trọngg và xin lắng nghe và chấp nhận như điều chúng ta tuyên xưng khi đọc kinh Lậy Cha.
Đức Kitô đón nhận sóng gió trong đời với môt niềm tin mãnh liệt nơi Chúa Cha và Ngài đã cảm thấy bình an trước sóng gió cuộc đời. Học từ Đức Kitô khi sóng gió đến chúng ta cũng xin ơn biết đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô, xin ơn khôn ngoan biết xử thế trước sóng gió và nhận ra ý Chúa mặc khải qua biến cố cuộc đời.
15. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Đồng bào chúng ta vẫn tin ở Ông Trời, coi Ông Trời là Đấng làm chủ gió mưa, thời tiết, mùa màng và nắm vận mạng của con người. Phần chúng ta, nhờ đức tin, chúng ta được biết Ông Trời ấy chỉ là một ý thức mơ hồ về Thiên Chúa. Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã cho chúng ta được biết Ngài và chúng ta hãy cố gắng yêu mến thờ phượng Ngài cho xứng đáng, nhất là trong Thánh lễ này.
II. Gợi ý sám hối
Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên. Đối với Ngài, chúng ta thường cầu xin ơn này ơn nọ, nhưng ít khi để ý tới việc thờ phượng Ngài.
Thiên Chúa là Đấng quan phòng chăm sóc mọi loài. Nhưng ít khi chúng ta trông cậy phó thác vào Ngài.
Ngày xưa, Đức Giêsu đã trách các môn đệ thiếu đức tin. Huống chi chúng ta, đức tin chúng ta cũng rất yếu kém.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (G 38,1.8-11)
Gióp là một người công chính nhưng phải gặp rất nhiều tai họa. Thân nhân ông trách móc Chúa và không tin vào Chúa nữa. Phần ông, ông không dám trách mà chỉ than thở và cầu xin Chúa cho ông một lời giải đáp về lý do những khổ sở ông đang chịu.
Trong trích đoạn này, Thiên Chúa đưa ra một lời giải đáp gián tiếp: Ngài là chủ tể của thiên nhiên. Chính Ngài điều hành sức mạnh của nước: Ngài tạo dựng ra nó, ấn định cho nó được chảy tới đâu, ngăn không cho nó tràn bờ...
Lời giải đáp hàm chứa trong Lời Chúa là: mọi sự lành hay sự dữ đều được Chúa cho phép mới xảy tới, con người phải biết phó thác vào sự sắp xếp của Ngài.
2. Đáp ca (Tv 106)
Tv này là một bài ca tụng uy quyền Thiên Chúa trên biển cả.
3. Tin Mừng (Mc 4,35-41)
Biển hồ Galilê thường có bão, nhất là vào buổi chiều. Chiều hôm ấy Đức Giêsu bảo các môn đệ dùng thuyền đi từ bờ bên này sang bờ bên kia. Xem ra Ngài cố ý để cho họ gặp bão.
Khi bão đến, Đức Giêsu lại bình thản dựa vào chiếc gối sau lái mà ngủ. Đây lại là một việc làm cố ý để thử xem các môn đệ phản ứng thế nào trong cơn bão.
Phản ứng của họ là "kinh hãi", lại còn trách Chúa "Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm sao!"
Đức Giêsu đứng lên, và chỉ cần phán một lời, bão liên ngưng. Một bằng chứng rõ ràng Ngài là chủ tể của thiên nhiên.
Sau đó, Đức Giêsu vừa trách các môn đệ vừa kêu gọi họ hãy tin vào uy quyền của Ngài.
4. Bài đọc II (2 Cr 5,14-17)
Chúng ta có thể tóm tắt ý tưởng của Phaolô trong trích đoạn này là: Đức Giêsu Kitô là tất cả.
Sau đây là các chi tiết trong lập luận của thánh Phaolô:
Vì Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, nên đáp lại chúng ta phải sống cho Ngài chứ đừng sống cho mình nữa.
Chúng ta cũng chẳng cần biết ai khác ngoài một mình Đức Kitô.
Đức Kitô đã ban cho chúng ta một cuộc sống mới, vậy từ nay chúng ta phải bỏ hết những gì thuộc cuộc sống cũ để sống một cuộc sống hoàn toàn mới trong Đức Kitô.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Chúa tể thiên nhiên
Bài đọc thứ I của Thánh Lễ hôm nay trích từ sách Gióp, trong đó có một hình ảnh hơi lạ: Chúa đã đóng cửa và gài chốt để ngăn không cho nước chảy tràn lan khắp mặt đất. Đó là một lối diễn tả, dựa theo vũ trụ quan của thời kỳ quyền sách này được biên soạn, tức thế kỷ thứ V trước Công nguyên, nghĩa là cách đây đến 2.500 năm. Thời đó người ta nghĩ rằng trái đất như một cái đĩa nổi bồng bềnh trên mặt đại dương. Chung quanh trái đất và bên dưới trái đất toàn là nước. Phía trên trái đất là vòm trời như một cái chụp tròn úp xuống, và cũng chứa đầy nước. Tất cả lượng nước trên vòm trời và dưới biển ấy được chặn lại bằng những cánh cửa. Khi cửa trời mở ra thì nước mưa rơi xuống; khi cửa biển mở ra thì nước thuỷ triều dân lên; còn khi cả cửa trời và cửa biển đều đóng kín lại trong một thời gian lâu dài thì đó là hạn hán. Và người giữ quyền đóng hay mở các cửa đó chính là Thiên Chúa. Đây quả là một lối nhìn vũ trụ rất là đơn sơ và có phần ngây ngô nữa. Tuy nhiên chúng ta có thể thông cảm với tác giả, vì ông sống cách chúng ta đến 2.500 năm, làm sao ông có thể diễn tả chính xác như các nhà khoa học thế kỷ 21 này được. Chúng ta chỉ cần ghi nhận tư tưởng của ông, đó là: chính Thiên Chúa là Đấng làm chủ thiên nhiên, và điều khiển thiên nhiên vận hành để giúp có thể sinh sống.
Có một điều hay, là tư tưởng ấy được chính các nhà khoa học ngày nay xác nhận. Mặc dù không trực tiếp nói đến Chúa như là Chúa tể thiên nhiên, nhưng các nhà khoa học đã cho thấy thiên nhiên đã vận hành theo một trật tự xít xao, nhờ đó mà loài người mới có thể sinh sống được. Thí dụ như trật tự vận hành của trái đất, mặt trời và mặt trăng. Cả 3 đều di chuyển không ngừng, mỗi cái theo quỹ đạo riêng của nó. Nhưng khoảng cách của chúng thì hình như đã được tính toán và điều khiển thật xít xao: chỉ cần mặt trời và trái đất gần nhau hơn một chút nữa thì trái đất sẽ nóng khủng khiếp, do đó loài người sẽ chết cháy; ngược lại chỉ cần trái đất và mặt trời xa nhau thêm một khoảng nữa thì mặt đất, sẽ giá lạnh, loài người sẽ chết cóng. Còn khoảng cách giữa mặt trăng với trái đất cũng thế: xích gần hơn chút nữa thì thuỷ triều sẽ dâng phủ ngập mặt đất, loài người chết chìm; còn dang xa hơn một chút thì không còn thuỷ triều, mọi loài trên mặt đất sẽ chết khô.
Ngay cả một hiện tượng thiên nhiên mà người ta thường coi là tai hoạ, đó là giông bão, nhưng khoa học cũng xem là có lợi. Khi nào có giông bão? Thưa là khi một vùng quá nóng, không khí bốc lên cao tạo thành một khoảng trống. Không khí ở các vùng khác liền ùa về để lấp đầy khoảng trống đó. Dĩ nhiên, khi mà không khí di chuyển như thế với một tốc độ nhanh thì sẽ tạo ra những luồng gió mạnh, có thể làm gãy cây cối, sập nhà, và có người chết. Nhưng nếu nhìn hiện tượng ấy một cách bao quát thì sẽ thấy giông bão là có lợi, và cần thiết nữa, vì nhờ đó mà không khí trên mặt đất được điều hoà.
Rõ ràng thiên nhiên đã được điều khiển theo một trật tự diệu kỳ bởi một Đấng đầy quyền năng. Đấng quyền năng ấy là ai? Nhiều người chưa được biết, nhưng từ xưa tác giả sách Gióp đã biết và gọi đó là Thiên Chúa. Hôm nay Tin mừng lại nói cho chúng ta biết thêm một lần nữa. Chúng ta hãy nói đến cơn giông bão trên biển hồ Gênêzarét. Vị trí của Biển hồ này hơi đặc biệt: nó giống như một cái lòng chão dưới thấp, chung quanh được bao bọc bởi những rặng núi. Như đã nói ở trên giông bão là do không khí di chuyển đổi vùng với một tốc độ nhanh mạnh. Vậy thì cái Biển Hồ này, do địa thế đặc biệt của nó nên nó rất thường gặp giông bão. Bởi vì khi những luồng gió mạnh thổi qua, gió bị núi ngăn chặn nên không lướt ngay đến vùng khác được., nhưng chạy vòng vòng giữa các rặng núi tạo thành những cơn lốc xoáy, và thế là có bão trên mặt biển. Tuy nhiên những cơn bão này cũng chóng tan. Hôm ấy, Đức Giêsu và các tông đồ đang di chuyển bằng thuyền trên mặt Biển Hồ thì gặp giông bão. Đức Giêsu vì đã nắm rõ bản chất của những cơn bão loại đó nên an tâm cứ nằm ngủ. Còn các tông đồ thì hoảng sợ cuống cuồng. Các ông còn trách móc Chúa "Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi rồi mà Thầy không quan tâm sao?" Đức Giêsu bình tĩnh đứng dậy ra lệnh cho gió và biển, lập tức bão yên, biển lặng. Sau đó Chúa trách lại các tông đồ "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Qua sự kiện này, Đức Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài chính là chúa tể của thiên nhiên, và mời gọi chúng ta hãy tin vào Ngài.
Thế nào là tin vào Chúa là chúa tể thiên nhiên?
- Trước hết là đừng kiêu căng: có một số người có chút ít kiến thức về khoa học, hay có được một vài công trình khoa học ứng dụng trên thiên nhiên, rồi tưởng mình đã là giỏi lắm, đã hoàn toàn điều khiển được thiên nhiên, và từ đó tự coi mình là chúa tể, phủ nhận cả Thiên Chúa. Thực ra khoa học không tạo ra thiên nhiên, khoa học cũng không sửa đổi được những quy luật điều khiển thiên nhiên. Tất cả những gì mà khoa học có thể làm được chỉ là nghiên cứu thiên nhiên có sẵn, tìm hiểu những quy luật có sẵn trong thiên nhiên, rồi ứng dụng để mưu lợi ích cho loài người. Thí dụ như khoa học làm ra được một chiếc tàu chạy trên mặt biển, thì cũng nhờ dựa vào những quy luật thiên nhiên có sẵn, như luật về sức đẩy Archimède khiến cho thân tàu có thể nổi trên mặt nước, luật về sức đẩy của gió được ứng dụng để thổi những cánh buồm v.v. Có gì là ghê gớm lắm đâu? có gì mà đã lên mặt coi mình giỏi hơn cả Thiên Chúa? Có gì mà kiêu căng?
- Thứ hai là đừng mê tín dị đoan: nếu như người kiêu căng là người quá tự phụ vì những hiểu biết khoa học của mình đến nỗi phủ nhận vai trò của Chúa, thì người mê tín dị đoan là người vì không có những kiến thức cơ bản của khoa học và của giáo lý nên không đủ tin vào Chúa mà lại tin những điều nhảm nhí. Ngày xưa vì ngu dốt nên người ta nhìn đâu đâu cũng cho là có thần: như thần sấm sét, thần gió, thần lửa, thuỷ thần, hà bá... Còn ngày nay cũng có người coi các thứ bệnh tật như là do tà ma, do quỷ ám, do bị thư, bị bùa, bị ngãi... Thực ra bệnh tật là gì? Theo giáo lý, đó là thân phận tự nhiên của loài người kể từ sau tội nguyên tổ. Còn theo khoa học, bệnh là do cô thể suy yếu mà ra. Có bệnh thì phải chữa trị bằng vệ sinh, bằng y dược, chứ không phải chỉ cầu xin, khấn vái hay uống bùa uống ngãi mà hết được, vừa không hết bệnh, lại vừa phạm tội thiếu lòng tin vào Chúa.
- Điều thứ ba để tỏ lòng tin vào Chúa là Chúa tể thiên nhiên là an tâm vui sống dưới ánh mắt Chúa Quan phòng: Chúa đã tạo dựng muôn loài, Chúa còn tiếp tục chăm sóc cho muôn loài, trong đó đương nhiên và hơn hết là loài người chúng ta. Đức Giêsu đã phán "không một sợi tóc nào trên đầu chúng con rụng xuống mà không do ý của Chúa". Vì thế cho dù sự đời có lúc suy, cuộc đời có lúc thăng lúc trầm, nhưng nếu ta biết mọi sự đều năm trong tay Chúa quan phòng thì chúng ta hãy an tâm phó thác đời mình cho Chúa, không có gì phải sợ hãi quá "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"
* 2. Quyền năng Thiên Chúa và phát minh khoa học.
Trong vài thế kỷ gần đây, loài người đã có nhiều phát minh khoa học rất to lớn:
Cuối thế kỷ 19, Lilienthal làm ra chiếc máy bay có 2 cánh rộng để lượn theo chiều gió. Sau đó Ader đã cải tiến cho chiếc máy bay chạy bằng động cơ.
Cũng trong thế kỷ 19 đó, Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn điện. Phát minh đó đã khiến cho người ta mừng rỡ và nhiều người đã coi ông như là Thần Ánh Sáng.
Đến thế kỷ 20, người ta đã bước lên cung trăng và còn đang tiếp tục đi đến các hành tinh khác.
Cách đây vài năm, người ta đã biết phương pháp "nhân bản" sinh vật (cloning), nghĩa là lấy một tế bào của một sinh vật rồi làm cho thụ tinh để sinh ra một hoặc nhiều sinh vật giống y sinh vật gốc.
Và hiện nay người ta đang giải mã bộ gien của người và các sinh vật. Kết quả này sẽ giúp trị được rất nhiều chứng bệnh nan y.
Những thành công to lớn ấy của khoa học đã khiến cho một số người nghĩ rằng loài người có thể làm được mọi sự, không cần đến Thiên Chúa nữa... Có kẻ còn cho rằng chẳng có Thiên Chúa nữa. Có đúng như vậy không?
- Xét kỹ những phát minh khoa học chúng ta sẽ nhận ra rằng loài người thực ra chẳng làm gì hơn là khám phá ra những quy luật có sẵn trong thiên nhiên và áp dụng những quy luật ấy để phục vụ cho đời sống. Chẳng hạn như những phát minh mà chúng ta vừa nói ở trên:
Chiếc máy bay: đây không phải là sáng kiến mới mẻ gì, mà chỉ là bắt chước khả năng của loài chim thôi.
Còn về dòng điện: cũng không phải là do con người sáng tạo ra. Điện đã có sẵn trong thiên nhiên từ khi mới có vũ trụ. Đến cuối thế kỷ 18, Benjamin Franklin mới khám phá ra nó có trong sấm sét. Về sau người ta mới đưa điện vào sử dụng trong nhiều việc.
Và việc người ta tạo ta những bào thai trong ống nghiệm cũng không phải là vượt quyền Chúa sáng tạo nên một con người. Người ta vẫn phải dùng đến những tế bào nam nữ có sẵn và cho kết hợp trong ống nghiệm thay vì kết hợp trong bụng mẹ thế thôi.
Tóm lại, Khoa học chỉ là bắt chước thiên nhiên, làm lại những gì mà thiên nhiên đã từng làm từ ngàn triệu năm trước. Do đó, nếu ai biết nhìn xa cho tới Đấng đã sáng tạo nên thiên nhiên thì người đó càng đi sâu vào khoa học chừng nào thì càng ngưỡng mộ Thiên Chúa bấy nhiêu. Chỉ có những kẻ thiển cận mới tưởng những khám phá ấy là do chính mình sáng tạo và phủ nhận quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta thấy có 2 thái độ nơi những nhà khoa học: một là thái độ khiêm tốn của một nhà thiên văn kia, ông nói "Tôi đã nhìn ra Thiên Chúa qua ống kính viễn vọng của tôi"; và một nhà du hành vũ trụ khác thì ngạo mạn tuyên bố "Tôi đã bay lên tận trời, nhìn khắp nơi mà chẳng thấy có Thiên Chúa đâu cả". Hai thái độ khác nhau ấy xuất phát từ hai lối nhìn khác nhau: một nhìn xa và một nhìn gần; xuất phát từ hai tâm trạng khác nhau: một là khiêm tốn, hai là kiêu căng.
- Bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta xác định rõ ai là chủ thực sự của thiên nhiên: chỉ có Chúa mới là chủ thiên nhiên đích thực và đúng nghĩa. Con người chẳng làm gì hơn là khám phá những bí mật của thiên nhiên. Nếu có nói con người là chủ thiên nhiên thì chỉ là theo nghĩa con người được Thiên Chúa ban quyền quản lý thiên nhiên và ban cho những khả năng để khám phá những bí mật trong thiên nhiên ấy. Con người biết suy nghĩ chín chắn và khiêm nhường không thể nào phủ nhận vai trò của Thiên Chúa được. Con người chỉ khám phá những gì có sẵn thôi. Chừng nào con người không cần dùng tới những gì có sẵn ấy, chỉ nói một lời mà có được mọi sự (như Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay chỉ phán một lời thì gió liền yên, biển liền lặng) thì khi đó con người mới có quyền tuyên bố mình là chủ thực sự của thiên nhiên.
Chúng ta phải nhìn nhận rằng khoa học kỹ thuật ngày nay đang tiến những bước thật xa thật nhanh đến nỗi có thể khiến chúng ta say sưa khâm phục. Sự say sưa khâm phục ấy có thể giúp con người suy nghĩ xa hơn, tìm đến chính Đấng là tác giả của những việc kỳ diệu ấy trong thiên nhiên. Nhưng cũng sự say sưa khâm phục ấy có thể làm choáng mắt con người khiến con người chỉ thấy tài năng của mình mà ngạo mạn phủ nhận vai trò của Thiên Chúa.
- Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi không làm chúng ta xa Chúa nhưng khiến chúng ta càng tới gần Chúa hơn. Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi của chúng ta không biến chúng ta thành những kẻ kiêu căng, nhưng giúp các bạn càng khiêm nhường hơn, như lời của một danh nhân nọ "Càng học thì thấy mình càng dốt".
* 3. Cha em là người cầm lái.
Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu.
Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu những ánh vàng cuối cùng của một ngày còn sót lại.
Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một vùng trời. Sấm chớp đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc càng thét gào dữ dội.
Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về phòng mình. Duy chỉ có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận cuồng phong.
Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố?
Em thản nhiên đáp lại:
- Vì cha em là người cầm lái con tàu!
***
Giống như khách du lịch trong câu chuyện trên, các môn đệ cũng gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp, các ngài đã vội đánh thức Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp: "Thưa Thầy, chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao" (Mc. 4,38). Người liền đe gió và phán với biển như một người bị quỉ ám: "Hãy im đi". Tức thì sóng yên biển lặng.
Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông? Đại dương nào mà không có những bão tố?
Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin.
Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ giúp ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố.
Thánh Phaolô viết: "Thiên Chúa không ban cho ta một thần khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ" (2Tm.1,7),
Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin ở Thiên Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Có Chúa trong đời, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Thánh Phanxicô Salêsiô dạy: "Phải ở lại trong con thuyền mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời này về chốn đời sau. Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản".
***
Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ được êm ả, nó chỉ êm ả khi tới bến thiên đường. Xin cho lòng chúng con luôn bình an ngay cả khi Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính là thuyền trưởng của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Vượt tầm kiểm soát
Chiều hôm ấy, Đức Giêsu và các môn đệ đi thuyền vượt biển. Một cơn bão nổi lên. Ban đầu, các môn đệ còn chèo chống và giữ được con thuyền vẫn còn đứng vững trước phong ba bão táp. Đó là tình trạng còn trong tầm kiểm soát. Khi mọi sự còn trong tầm kiểm soát nghĩa là chúng còn nằm trong khả năng xoay sở của ta. Khi đó ta rất dễ nghĩ rằng mình có đức tin. Lèo lái con thuyền đời mình cũng thế. Khi ta còn kiểm soát được những sự việc xảy ra cho đời mình thì ta cảm thấy hạnh phúc. Ta xác định những mục tiêu, ta hoạch định chương trình, ta làm chủ tình thế. Những khi đó, ta không thực sự cảm thấy cần đến Chúa.
Nhưng giông tố ngày càng lớn. Các môn đệ dù đã làm hết sức mình nhưng vẫn không giữ được con thuyền, nó sắp chìm. Các ông chợt nhận ra rằng tình thế đã vượt tầm kiểm soát của họ. Trong đời chúng ta cũng có những lúc tương tự như thế. Đó là khi ta gặp một hoàn cảnh quá khó khăn, hay khi ta bệnh nặng, ta sắp chết. Những khi đó ta thấy mình như không còn sức lực, ta hoang mang, sợ hãi. Chính những khi đó ta mới biết đức tin của mình còn quá yếu kém, thậm chí không có đức tin thực sự. Ta nghĩ rằng không có Chúa hoặc Chúa đã bỏ ta. Trong bài Tin Mừng này, các môn đệ cũng cảm thấy như thế. Họ chạy đến tìm Đức Giêsu nhưng họ thấy Ngài đang ngủ. Họ còn trách Ngài nữa.
Giữa phong ba bão táp, Đức Giêsu vẫn ngủ. Đó là dấu chỉ một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Ngược hẳn với đức tin yếu kém của các môn đệ. Khi họ kêu cầu Ngài, Ngài thức dậy, và chỉ một lời thôi, Ngài dẹp yên bão táp.
Con thuyền trong bão táp, đó là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Nên nhớ là trong thuyền có Đức Giêsu. Mặc dù Ngài ngủ nhưng Ngài không ở xa và không bỏ chúng ta một mình. Ngài ngủ để thử đức tin của chúng ta đó thôi, để chúng ta biết được đức tin của mình đã vững mạnh hay vẫn còn yếu kém. Chỉ cần chúng ta nhớ đến Ngài, kêu xin Ngài thì Ngài sẵn sàng thức dậy và dẹp yên bão táp đang đe dọa chúng ta.
5. Chuyện minh họa
a/ Câu chuyện của cây vả
Một cây vả kia đã đứng vững suốt mùa đông trước bao cơn gió mạnh. Nhưng đến đầu mùa hè, khi gặp một cơn gió trung bình thôi, nó đã ngã sập xuống. Nhiều người lấy làm lạ.
Thực ra cũng chẳng có gì lạ lắm: Trong mùa đông, cũng như hầu hết các cây khác, cây vả này bị rụng trụi lá. Gió đông có thổi đến thì cũng lọt qua các cành trơ trụi khẳng khiu của nó và bay đi. Bởi thế bao nhiều cơn gió mùa đông cũng không làm cho nó nhúc nhích. Nhưng đông tàn, xuân tới, cây vả bắt đầu đâm chồi nẩy lộc. Đến mùa hè thì cành lá đã xum xuê. Khi gió thổi đến, lá cây cản lại làm sức tấn công của gió càng mạnh hơn. Chính vì thế mà cây vả không còn đứng vững được nữa.
Câu chuyện này giúp ta hiểu thế nào là "giông tố mùa đông" và "giông tố mùa hè". "Giông tố mùa hè" gây hại nhiều hơn "giông tố mùa đông". "Mùa hè" nói đây là lúc cuộc đời ta đang đầy đủ, thoải mái, sung sướng.
b/ Loại máy bay đầu tiên
Ngày kia, tôi đang ngồi trong phòng, một con ruồi vo ve bay vào. Nó bay dập dờn và vù xuống ăn những thức ăn thừa....Nó làm bất cứ điều gì nó thích và bất cứ khi nào nó muốn.
Một con ruồi chỉ là một sinh vật. Nó hơn hẳn chiếc máy bay.... Nó cất cánh mà không cần chạy như máy bay. Nó đáp xuống ngay tức khắc. Nó không bao giờ rơi và không bao giờ đâm vào bất cứ vật gì hoặc gặp một tai nạn nào. Phi hành đoàn của nó không phải học cách lái hoặc kiểm tra. Nó không có những động cơ trục trặc hay hết nhiên liệu. Và hơn thế nữa: nó có thể sản xuất ra những chiếc máy bay tương tự mà chỉ cần một chút sức lực.
Thật khó có thể kiếm được một thiết bị điện tử hoặc động cơ nào sánh với tất cả những gì một con ruồi có thể làm.
Nó chỉ là một trong nhiều sinh vật của Chúa.....và cho ta thấy rằng có ai đó đã tạo ra nó.
c/ Điều huyền bí.
Một thanh niên đi du lịch tới một thành phố lớn. Đến một nhà thờ, cậu ngả mũ cung kính cúi chào. Thấy điều này, một hành khách vẻ trí thức bên cạnh cậu nhận định:
- Ồ, tôi biết bạn có đạo. Bạn học gì ở đó?
- Tôi học những điều huyền nhiệm của tôn giáo.
- Huyền nhiệm? Bạn không biết rằng chúng ta chẳng bao giờ tin những gì chúng ta không hiểu? Ít ra đó là nguyên tắc của tôi.
- Vậy anh hãy nói cho tôi biết tại sao ngón tay anh cử động khi anh ngoáy nó?"
- Nó cử động vì sự sống trong tôi làm nó cử động.
- Nhưng tại sao nó cử động?
- Vì tôi muốn thế.
- Tại sao tai của anh không cụp lại khi anh muốn?
Lúc đó cuộc đối thoại chấm dứt.
6. Tin vào quyền năng Thiên Chúa
Một sinh viên y khoa người Tây Ban Nha đi viếng trung tâm hành hương kính Đức Mẹ tại Lộ Đức. Ở đại học Madrid, người sinh viên này đã từng nghe các giáo sư vô tín ngưỡng nói về Lộ Đức như xuất xứ của những thứ mê tín dị đoan vẫn còn được loan truyền đi nhiều nơi. Ba tháng ở Lộ Đức, anh muốn theo dõi việc làm của văn phòng xác minh các phép lạ xảy ra tại trung tâm này.
Vậy thời gian ba tháng ở Lộ Đức, người sinh viên này đã được chứng kiến ba phép lạ. Cả ba trường hợp đều có các bác sĩ vô thần theo dõi để xác minh tính đích thực của phép lạ.
hãy nghe người sinh viên này chia sẻ điều mắt thấy tai nghe về một trong ba phép lạ đó.
Tại Lộ Đức
"Hôm đó tôi đang ở tiền đường vương cung thánh đường Lộ Đức cùng với các chị của tôi hiện có đó chỉ mấy phút trước khi Kiệu Mình Thánh Chúa đi qua. Khi ấy một người đàn bà tuổi trung tuần đang đẩy chiếc xe lăn qua trước mắt chúng tôi. Một người chị tôi lưu ý chứng tôi khi nói "Kìa hãy coi cậu con trai đáng thương trên chiếc xe lăn!" Đó là một chàng trai chừng 20 tuổi bị bệnh bại liệt làm biến dạng. Mẹ của chàng khi ấy lần chuỗi to tiếng, lúc lúc lại thở dài thưa với Đức Mẹ "Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin giúp đỡ chúng con!" Quả là một cảnh tượng cảm động gợi nhớ lại bệnh nhân xưa đã thưa với Đức Giêsu: "Lạy Chúa, xin cho con được sạch khỏi bệnh phong." Người đàn bà đẩy xe lăn không muốn chậm trễ nhưng đã tới ngay chỗ những người đang chờ Đức Giám Mục rước Mình Thánh đi ngang qua.
Đã đến lúc Đức Giám Mục sắp ban phép lành Mình Thánh cho chàng thanh niên bại liệt. Khi ấy chàng thanh niên nhìn thẳng mặt nhật đựng Mình Thánh Chúa. Đó xem ra là cách anh biểu lộ niềm tin của anh. Thế rồi khi Đức Giám Mục ban phép lành với dấu thánh giá bao quát, cậu thanh niên bại liệt liền chỗi dậy, ra khỏi xe lăn, hoàn toàn khỏi bại liệt! Dân chúng liền hô to trong niềm vui: "Đó là một phép lạ! Đó là một phép lạ!"
Nhờ có giấy phép đặc biệt, tôi được chứng kiến những xác minh tiếp theo để thấy quả thật, Chúa đã chữa lành người thanh niên. Tôi không thể nào diễn tả hết được những điều tôi cảm nhận và tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đến từ trường Y Khoa Đại Học Madrid, nơi có nhiều giáo sư vô tín (và nhiều vị nổi tiếng). Nhiều sinh viên bạn học tôi luôn nhạo báng các phép lạ. Và giờ đây, tôi được thấy tận mắt một phép lạ. Đây là một phép lạ do Đức Giêsu Thánh Thể thực hiện, cũng Đức Giêsu xưa đã từng chữa lành bao người bại liệt và bệnh nhân khác. Tôi nghiệm được một niềm vui lớn lao. Tôi có ấn tượng tôi được ở ngay bên cạnh Chúa. Khi ấy tôi cảm nhận sức mạnh vô song của Chúa và cảm thấy thế giới bao quanh tôi bỗng trở nên cực kỳ nhỏ bé. Tôi đã trở về Madrid, Tây Ban Nha. Những chồng sách, những bài học, những cuộc thí nghiệm tôi đã từng thực hiện với bao là hứng khởi nay không còn là sức nặng lôi kéo tôi nữa. Các bạn tôi hỏi tôi: "Điều gì đã xảy ra cho cậu trong niên học này vậy? Điều gì khiến cậu sững sờ?" Quả thật tôi bị sững sờ do kỷ niệm khiến tôi bị khuynh đảo mỗi ngày. Duy hình ảnh Mình Thánh Chúa được giơ lên để ban phép lành khiến cậu thanh niên bại liệt kia nhảy vọt ra khỏi chiếc xe lăn, hình ảnh ấy in sâu vào ký ức và vào trái tim tôi. Ba tháng sau đó tôi nhập Tập Viện Dòng Tên. Đó là ngày 15 tháng 1, 1927."
Tại Nhật Bản
Chàng sinh viên ấy tên là Pedro Arrupe. Suốt đời chàng sẽ không bao giờ quên được phép lạ Chúa làm trước mắt anh. Được củng cố mạnh mẽ do phép lạ như dấu chỉ về quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, anh sẽ không bao giờ lùi bước trên đường dấn thân phục vụ Người:
+ Bị trục xuất khỏi quê hương Tây Ban Nha ngày 13 tháng 02, 1932 cùng với tất cả các tu sĩ Dòng Tên.
+ Nhận thừa tác vụ Linh Mục ngày 30 tháng 7, 1936 tại Hà Lan.
+ Được phái đi truyền giáo tại Nhật Bản ngày 15 tháng 10, 1938
+ Phục vụ nạn nhân bom nguyên tử giáng trên Hiroshima ngày 6 tháng 8, 1945.
+ Được bầu làm Tổng Quyền thứ 29 Dòng Tên ngày 22 tháng 5, 1965 sau nhiều năm làm giám đốc Tập Sinh và làm giám tỉnh Dòng Tên ở Nhật.
Quả thật phép lạ xưa cũng như nay chỉ có ý nghĩa khi là dấu chỉ về Nước của Thiên Chúa như lời Đức Giêsu tuyên bố với người Pharisêu: "Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông" (Mt 12,28). Ai nhận ra dấu lạ Chúa làm cũng được thúc đẩy dấn thân hết mình để phục vụ Nước Thiên Chúa.
Câu chuyện phép lạ chàng thanh niên bại liệt được chữa lành tại Lộ Đức khiến chàng sinh viên Pedro Arrupe được hoán cải như thế nào trên con đường phục vụ Nước Chúa. Cuộc hoán cải ấy không thấm vào đâu so với cuộc hoán cải của Simon Phêrô và các bạn một khi nhận biết quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Phục Sinh. Họ đã hy sinh cả mạng sống mình để phục vụ Nước Thiên Chúa. Họ đã thực sự trở nên giềng cột của Hội Thánh Chúa nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Trong niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên, chúng ta hãy dâng lên Ngài những lời cầu xin của chúng ta:
1. Hội Thánh có sứ mạng rao giảng cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là chủ tể của thiên nhiên. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho nhân loại đón nhận lời rao giảng của Hội Thánh.
2. Khoa học kỹ thuật ngày nay rất tiến bộ, phát minh ra nhiều điều kỳ diệu. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những phát minh đó không làm cho loài người kiêu căng chối bỏ Chúa, trái lại giúp loài người càng nhận biết và khâm phục Chúa hơn.
3. Mặc dù y học đã tiến bộ rất nhiều, nhưng cũng đành phải bó tay trước cái chết, nghĩa là không thể làm cho con người thành bất tử được. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người mang những chứng bệnh ngặt nghèo và nhất là những người hấp hối, để họ biết bình an phó thác mạng sống của mình trong tay Chúa.
4. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta thực sự là một cộng đoàn đức tin, một cộng đoàn phượng tự, nghĩa là luôn tin tưởng vào Chúa và thờ phượng Chúa như chủ tể mọi loài.
CT: Lạy Đức Giêsu, ngày xưa Chúa đã trách các môn đệ rằng "Sao các con sợ hãy thế? Các con không có đức tin ư?". Ngày nay cũng vì thiếu đức tin mà chúng con phải sợ hãi nhiều điều. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con, để trong mọi hoàn cảnh chúng con biết hoàn toàn cậy dựa vào Chúa và phó thác trong tay Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta có một người Cha "ở trên trời", nghĩa là một người Cha uy quyền, làm chủ mọi loài mọi vật. Chúng ta hãy tin tưởng cầu nguyện với Ngài.
Chúc bình an: Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an, bình an vì biết mình đang sống trong vòng tay yêu thương của Chúa.
VII. Giải tán
Cuộc sống ví như một cuộc đi thuyền giữa biển cả cuộc đời nhiều phong ba bão táp. Nhưng có Chúa trên thuyền thì mọi sự đều bình an. Chúng ta hãy trở lại cuộc sống với tâm tình trông cậy phó thác tất cả trong tay Chúa. Chúc anh chị em luôn bình an.
16. Lời kêu xin.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van xin của họ dường như bị sóng biển vùi lấp:
- Lạy Thầy, xin cứu chúng con.
Chúa Giêsu rất có thể lên tiếng trách cứ các ông:
- Bộ các con không hiểu rằng bao lâu Thầy còn ở với các con, thì không một tai ương hoạn nạn nào có thể xảy ra.
Thế nhưng lời van xin ấy lại rất bình thường và gần gũi với bản tính của chúng ta. Lời van xin xuất phát từ trái tim của một tạo vật nhỏ bé, như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật vô phương cứu chữa, chỉ mình Chúa mới có thể giúp đỡ.
Thế nhưng ngày hôm nay, liệu chúng ta có còn tìm thấy những lời van xin đầy tin tưởng và hy vọng như thế hay không? Nếu chúng ta hỏi những người lính chiến rằng: Vào những lúc nguy hiểm có bao giờ các bạn đã nghĩ tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Nếu chúng ta hỏi những người lái xe rằng khi xảy ra tai nạn có bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin Chúa phù trợ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Chiếc tàu Dora với một ngàn bảy trăm hành khách, chẳng may gặp nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã ghi nhận được một cảnh tượng thật trái ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các cô thì lo giữ lấy đôi giày của mình. Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của mình. Các ông thì lo giữ lấy ví tiền của mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã quỳ gối cầu nguyện.
Ngay cả bản thân chúng ta cũng thế. Mỗi khi gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta kêu gào, chúng ta làm mọi cách để thoát khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại không biết mở miệng kêu xin:
- Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp con kẻo con chết mất. Chỉ mình Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an toàn.
Chúng ta cũng giống như dân ngoại. Chẳng tìm thấy hướng đi cũng như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Ngày xưa mỗi khi mất mùa đói kém giặc giã xảy ra, người ta kêu cầu Chúa:
- Lạy Chúa xin giúp đỡ con.
Người ta tổ chức những cuộc rước kiệu, những cuộc hành hương để kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?
Ngày hôm nay, người ta có rất nhiều phương tiện, chẳng hạn như thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và người ta cảm thấy không còn cần đến sự trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa, người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội. Người ta muốn thay trời vắt đất làm mưa. Người ta sống như không còn sự hiện diện của Ngài nữa.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới kết luận: Bao lâu Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì không một tai nạn nào có thể xảy ra. Tuy nhiên con người thời nay lại không hiểu là như thế. Do đó, vấn đề cần phải đặt ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu có thực ở trong thuyền đời chúng ta hay không. Tôi đã phản ứng và hành động như thế nào trong những hoàn cảnh đen tối. Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không? Đó là những câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy lời giải đáp.
17. Tin cậy Thiên Chúa toàn năng
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Bám sát vào Chúa
Blondin là một tay xiếc nổi danh. Ông đi nhiều lần trên sợi dây căng qua thác Niagara độ cao khoảng 500 thước, tay đẩy chiếc xe cút kít.
Ngày nọ ông mời ai dám ngồi trên xe đó, để ông đẩy qua sợi dây căng. Nhiều người muốn nhưng không ai dám, vì sợ té xuống thác nước là chết. Sau cùng có người chấp nhận. Ông liền cho anh ngồi trên xe và đẩy đi. Trong khi đó nhiều người đánh cá với nhau. Thấy ông ta đi được nửa đường cách dễ dàng, người đánh cá nhiều tiền sợ bị thua nên lén cắt đức một sợi trong số các dây căng. Tức thì dây căng rung chuyển dữ dội. Ông Blondin biết nguy hiểm sắp đến, nên bảo người trong xe:
- Hãy đứng dậy và bám sát vào tôi.
Nhưng người đó quá sợ hãi, không dám làm theo lời ông. Ông liền ra lệnh:
- Hãy đưa hai tay ôm cổ tôi, hai chân kẹp vào hông tôi, bằng không, chúng ta sẽ ngã xuống thác nước mà chết.
Người đó liền bám chặt vào ông. Và ông đã đưa anh ta qua bờ bên kia an toàn…
***
Câu chuyện trên minh họa Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay tuyệt vời. Lúc các tông đồ trên thuyền sang biển hồ, thấy sóng to gió lớn thì sợ chết, kêu cầu Chúa, Chúa phán một lời biển yên gió lặng.
Tin cậy vào quyền năng Chúa là bám sát vào Chúa mỗi khi gặp gian nan thử thách. Tin cậy vào quyền năng Chúa là biết kêu cầu Chúa cứu giúp mỗi lần gặp sóng to gió lớn, để Người dẫn dắt chúng ta qua bờ bên kia.
Nói “tin cậy vào quyền năng Chúa” rất dễ, ai nói cũng được. Nhưng có mấy ai không nhát đảm sợ sệt khi để cho Người đưa qua biển cả sóng to gió lớn của cuộc sống như người để cho ông Blondin dẫn đi trên sợi dây căng qua thác Niagara. Chúa Giêsu đã trách các môn đệ: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em chưa có lòng tin?” Các môn đệ hoảng sợ vì “chưa có lòng tin”, còn chúng ta thì sao?... (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).
2. Cha tôi là người cầm lái
Người ta tổ chức cuộc du lịch xuyên qua Đại tây Dương.
Trong lúc tàu chạy yên hàn, mọi người ra bong tàu khoan khoái nhìn ngắm cảnh hoàng hôn tươi thắm. Bỗng sóng to gió lớn nổi lên làm cho chiếc tàu nghiêng ngửa dữ dội. Mọi người hoảng sợ chạy vào phòng, duy chỉ còn một cậu trai vẫn tiếp tục ở lại xem cảnh. Thấy vậy, nhiều người lo sợ nguy hiểm cho em, nên gọi em vào phòng trú ẩn, nhưng em không vào. Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố hãi hùng như thế. Em thản nhiên trả lời:
- Vì cha tôi là người cầm lái con tàu.
***
Như khách du lịch sợ hãi trên tàu khi phong ba bão táp, trong Tin mừng hôm nay chúng ta cũng thấy các tông đồ khiếp đảm sợ chết trong trận cuồng phong khi vượt biển hồ. Cùng ở trong thảm cảnh đó, cậu trai thản nhiên không sợ, vì “cha em là người cầm lái con tàu, còn các Tông đồ khiếp vía, đang khi có Chúa Giêsu ở bên các ông. Thế nên Chúa quở các ông: “Chưa có lòng tin” là đáng.
“Ai cũng thích sóng biển yên lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông tố? Đại dương nào mà chẳng có những cơn sóng to? Chính giông tố mới giúp chúng ta nhận biết bất lực yếu đuối, nhát đảm kém tin của chúng ta. Chính bão tố mới đưa chúng ta đến với Chúa, tin tưởng phó thác vào quyền năng cao cả của Người. Và chính nhờ bão tố của cuộc đời, mà lòng tin cậy của chúng ta sẽ lớn lên, sẽ vững vàng, sẽ kiên cố…” (Theo “Như Thầy đã yêu”).
3. Tin nhưng không dám theo
Nhà làm xiếc thời danh Blondin đã băng qua thác nước Niagara trên dây căng nhiều lần mà không cần dùng lưới an toàn.
Ngày nọ, đông đảo dân chúng đến xem cuộc thử nghiệm nguy hiểm nhất của ông. Ông tuyên bố vừa đi trên dây căng vừa đẩy chiếc xe cút kít chở một bao xi măng nặng trên sợi dây căng đó, để đi từ bờ vực này sang bờ vực bên kia thác nước.
Lúc ông bắt đầu đi như thế, mọi người nín thở theo dõi nhưng ông cứ bình tĩnh đẩy xe đi, bất chấp tiếng gầm thét của thác nước dưới chân ông. Khi ông sang đến bờ bên kia, mọi người đều thở phào và reo vang:
-Thật là một kỳ công!...
Ông Blondin mới hỏi một phóng viên gần đó:
-Anh có tin rằng: thay vì chở một bao xi măng, tôi có thể chở một người trên xe cút kít này, đi sang bờ bên kia thác nước mà không cần giăng lưới an toàn không?
-Tôi tin! Tôi tin chớ.
Ông Blondin liền nói:
-Vậy tôi xin mời anh ngồi vào.
Anh phóng viên xanh mặt, vội vàng biến mất trong đám đông.
***
Tin Thiên Chúa quyền năng là một việc, nhưng sống đức tin ấy lại là việc khác. Có người nói tin Thiên Chúa toàn năng nhưng không đi theo Chúa, mà theo ma quỷ xác thịt thế gian, theo của cải danh vọng, lạc thú ở đời.
Thánh Phaolô khuyên bảo chúng ta: Anh em hãy mặc lấy tâm tình của Đức Kitô, hết lòng tin kính Thiên Chúa là Đấng toàn năng, để anh em đứng vững trong mọi nghịch cảnh và thử thách, để Người cứu giúp anh em mỗi khi gian nan khốn khó, để Người đưa tay hùng mạnh của Người nắm lấy anh em, khi anh em gặp sóng to gió lớn trong cuộc đời.
Phải chăng thánh Phaolô mời gọi chúng ta noi gương các tông đồ trong Tin mừng hôm nay? Các ông thấy “trận cuồng phong nổi lên sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước gần chìm”. Các ông kêu lên Chúa Giêsu: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi” Người ngâm đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!”. Gió liền tắt và biển lặng như tờ” (Mc.4,38-39) (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).
4. Người này là ai?
John Newton là thuyền trưởng chiếc tàu buôn nô lệ từ Phi châu đến Mỹ châu. Cậu không bao giờ nghĩ đến việc buôn bán nô lệ là đúng hay sai, là tốt hay xấu; cậu chỉ làm việc để kiếm tiền, để xài phí cho thỏa thích thôi.
Một đêm nọ, cơn bão dữ dội xuất hiện trên mặt biển. Sóng dâng cao như thác núi xô đẩy và quay vòng chiếc tàu của cậu. Cậu và mọi người trong tàu đều kinh khiếp! Lúc đó cậu lại buột miệng cầu xin. Điều mà cậu chưa bao giờ làm. Cậu kêu to: “Lạy Chúa, xin thương cứu vớt chúng con. Con nguyện sẽ mãi làm nô lệ cho Ngài”.
Chúa đã nhận lời cậu cầu xin. Khi được vào bờ, cậu đã giữ lời hứa: bỏ nghề buôn bán nô lệ, và sau đó cậu đi tu, trở thành nhà truyền giáo và soạn thánh ca trứ danh.
***
Câu chuyện trên đây có nhiều điểm tương tự với diễn biến bài Tin mừng hôm nay.
Như Newton, các tông đồ cũng gặp bão tố dữ dội. Các ngài đã kêu cầu Chúa và Chúa cũng đã cứu giúp; và như Newton, các ngài cũng biến đổi: từ những kẻ “chưa có lòng tin” trở thành những người hoàn toàn tin tưởng phó thác vào quyền năng vô cùng của Chúa; “Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người này là ai? Mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?” (Mc.4,41).
“Người này là ai?” Đây là câu hỏi quan trong. Và câu trả lời nằm ngay trong bài đọc thứ nhất, khi ông Gióp đau khổ kêu xin Chúa cứu giúp. Đặc biệt câu trả lời ở trong bài Tin mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu thực thi quyền năng của Người trên sóng gió: “Im đi! Câm đi! Gió liền tắt, và biển lặng như tờ”.
Như thế, câu chuyện bão biển trong Tin mừng đã trả lời cho chúng ta câu hỏi: “Ông này là ai?” “Là Con Thiên Chúa toàn năng. Tin cậy phó thác vào Người sẽ được Người giải thoát khỏi mọi sự dữ phần hồn phần xác”. (Theo “Sunday Homilies”).
18. Muốn có đức tin mạnh - Cần phải thử thách
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin Mừng Lc 1: 57-66.80: Người tài là người được lớn lên trong thử thách. Người có đức là người biết vượt qua thử thách, trung thành và can đảm trong lòng mến.
Có một câu chuyện kể rằng: đêm nọ, có một người thấy giấc mơ lạ. Anh ta thấy mình đang đi trên bãi biển với Chúa. Những lúc vui, thành công, anh thấy có hai đôi chân in trên cát, một của Chúa và một của anh. Nhưng lúc anh gặp khó khăn, đau buồn thì khi nhìn lại, anh chỉ còn thấy một đôi chân!
Anh trách Chúa rằng: “Tại sao những lúc khó khăn, thất bại, Chúa lại bỏ con?” Chúa trả lời: “Ta không bỏ con đâu, vì những lúc đó, Ta đã cõng con trên vai, vì thế, con chỉ còn thấy có một đôi chân của Ta nữa mà thôi”.
Hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại câu chuyện Đức Giêsu và các môn đệ gặp phải sóng gió trên biển hồ. Ngay trong lúc gặp sóng gió, Đức Giêsu vẫn ngủ yên, còn các môn đệ thì vất vả vì chèo trống. Sứ điệp Tin Mừng chỉ bắt đầu có ý nghĩa lớn khi các ông trách Thầy của mình vô cảm trước sự vất vả của các ông, và, ngược lại, Đức Giêsu quở trách các ông kém lòng tin và ra lệnh dẹp yên bão tố, ban lại sự bình an cho mọi người trên thuyền.
1. Địa lý của Biển Hồ Galilê và nỗi hoang mang sợ hãi của các môn đệ
Để thấy được nỗi sợ hãi của các môn đệ và quyền năng của Đức Giêsu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu đôi nét về Biển Hồ này để thấy được đâu là nguyên nhân dẫn đến trận cuồng phong dữ dội như vậy.
Khi nói đến biển hồ, chắc có lẽ nhiều người trong chúng ta nghĩ ngay đến độ rộng lớn, mênh mông, nhìn không thấy bờ…. Tuy nhiên, với Biển Hồ Galilê lại hoàn toàn khác! Khác ở chỗ Biển Hồ này chỉ vỏn vẹn 21km chiều dài và 13km chiều rộng. Địa thế nằm ở thung lũng vùng Giodan do một vết nứt sâu trên mặt đất, có thể do núi lửa tạo nên! Biển Hồ Galilê là một phần của vết nứt đó.
Nó thấp hơn mặt biển 210 mét, vì thế, khí hậu rất ấm áp và dễ chịu, nhưng cũng tạo nên tiền đề cho những nguy hiểm bất ngờ ập đến. Lý do: bên phía tây có núi non cao hiểm trở kết hợp với thung lũng và nhiều khe suối. Vì thế, khi có gió nổi lên, thì khu vực trũng của Biển Hồ này giống như cái phễu lớn thu hút những làn gió từ trên cao và nơi các khe suối thổi về. Gió bị dồn nén trong đó và thổi mạnh xuống hồ cách bất thình lình như vũ bão, khiến mặt hồ đang phẳng lặng, bỗng chốc trở nên hung thần, dữ tợn và có thể vùi lấp mọi thứ trên mặt hồ.
Khi các môn đệ và Đức Giêsu có một chuyến vận hành trên Biển Hồ Galilê sau một ngày làm việc mệt nhọc để sang bờ bên kia thì cũng là lúc trận cuồng phong ập tới. Các môn đệ của Đức Giêsu là những nhà ngư phủ chuyên nghiệp và hẳn các ông có rất nhiều kinh nghiệm trong việc chống chọi với những bất trắc xảy ra trên biển, thế nhưng, trận cuồng phong hôm nay vừa bất thình lình vừa vượt quá khả năng của các ông, nên họ rất hốt hoảng, lo sợ và kêu la ầm ĩ: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38). Câu nói này chứng tỏ cho thấy sự nguy hiểm đã lên tới tột độ và vượt sức cũng như kinh nghiệm của các ông. Ngay sau đó, sự nguy hiểm của Biển Hồ và nỗi lo sợ của các ông đã động đến lòng trắc ẩn của Đức Giêsu, vì thế, Ngài đã truyền lệnh dẹp yên bão tố qua lời nói: “Im đi! Câm đi! " ‘Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’” (Mc 4, 39), khiến các ông không khỏi ngỡ ngàng là bảo nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?" (Mc 4, 41).
2. Có Chúa, chúng ta sẽ sang “bờ bên kia” cách an toàn
Từ câu chuyện Tin Mừng trên, liên tưởng đến đời sống đức tin của chúng ta:
Trong cuộc sống đời thường, người ta thường nói: tư cách thật của một con người chỉ được bộc lộ thật khi gặp gian nan. Lúc bình thường thì ai cũng như ai, khó thấy được tư cách ấy.
Đức tin của mỗi người cũng thế. Muốn biết ai vững vàng trong đức tin phải đợi tới lúc đức tin đó chịu thử thách. Điều này cho thấy, “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Chỉ khi gặp khó khăn, bất trắc, lúc ấy mới có thể lượng định được phẩm chất của đức tin.
Khó khăn, trở ngại là một thứ “kiểm tra chất lượng”. Có kiểm tra thì mới thấy cái gì tốt, cái gì xấu, cái gì thật, cái gì giả.
Một mẫu số chung cho nhiều người, đó là: đức tin phải được rèn luyện, gọt giũa để đứng vững trước mọi thử thách, giông tố của cuộc đời. Khi có được nền tảng này, lúc gặp thử thách, chúng ta sẽ can đảm, trung thành, vững vàng hơn. Sẵn sàng đối phó với chúng và cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Lúc đó, chúng ta sẽ coi những thử thách ập đến là điều kiện cần thiết để thanh lọc những thứ không phù hợp với giá trị Tin Mừng, nó giống như: “Bão tố quật ngã cây cối, bẻ gẫy cành khô, cành sâu. Nhưng không thể nhổ được cây thánh giá đã cắm vào lòng đất. Đừng tiếc những cành kia, dù không gió cũng gẫy, không gẫy cũng phải chặt vì nó làm hại” (ĐHV. số 691), có thế, mới có những cành cây khác trưởng thành hơn khi chúng đủ sức mạnh đâm trồi nảy lộc.
Từ những nguyên lý trên, chúng ta liên tưởng đến đời sống hôn nhân của người Công Giáo. Lúc mới cưới, ai dám nói là mình không chung thủy! Lúc du ngoạn tuần trăng mật, ai dám bảo mình không vui và hạnh phúc! Chỉ khi nào ốm đau, bệnh tật, thất bại trong công việc, thiếu sự chung thủy, lúc đó mới thực sự có vấn đề! Hay trong đời sống đạo đức cũng thế: lúc xin gì được đấy, hay xin một được mười, đâu cần ai phải nhắc đi lễ, đọc kinh hay chia sẻ bác ái! Chỉ khi xin hoài không được, làm ăn thất bát, lúc đó có đẩy cũng không đi. Hoặc trong đời tu cũng thế: mới khấn, mới chịu chức, sức khỏe dồi dào, chúng ta giống như những vị thánh. Tuy nhiên, lâu ngày, giá trị và ý nghĩa đời dâng hiến bị nhạt phai, sự hiểu lầm, cô đơn, đau bệnh, việc phụng vụ nhàm chán, lúc ấy mới thực sự thấy con người thật của chúng ta. Những trạng thái này, một lần nữa sách Đường Hy Vọng có viết: “Đường con đi, có hoa thơm, cảnh đẹp, có chông gai, có hùm beo, có bạn hiền, có trộm cướp, lúc mưa sa, lúc nắng cháy, chuyện không thể tránh được. Con cứ đi, miễn lòng con đầy Chúa, đi như Phanxicô, như Cyrillô, Athanasiô... đừng mất thì giờ đứng lại, đừng sợ tiếng chửi, đừng ăn mày tiếng khen” (ĐHV. số 693).
Nếu không bền chí cũng như đức tin mạnh thì không phải là người tài đức song toàn. Người tài là người được lớn lên trong thử thách. Người có đức là người biết vượt qua thử thách, trung thành và can đảm trong lòng mến.
Giuđa và Gioan chỉ khác nhau ở lòng mến mà thôi. Trong tâm hồn chúng ta cũng vẫn còn đó hai hình ảnh và hai lối sống lẫn lộn: Gioan và Giuđa. Bao lâu chúng ta còn yêu mến, sẵn sàng hy sinh, kiên trung, bền chí, và hy vọng, ấy là dấu chỉ ta theo Gioan để đi trọn con đường tình yêu dưới chân thập giá. Còn giờ phút nào chúng ta nhát đảm, sợ sệt, ham tiền, ham danh, ấy là lúc chúng ta đã chọn Giuđa làm quan thầy và thắp hương tôn thờ vị "quan thầy phản bội".
Cần xác tín rằng: Chúa vẫn còn đó. Ngài không bỏ chúng ta. Ngài sẽ lên tiếng, can thiệp, làm sóng gió im lặng, trả lại cho chúng ta niềm hy vọng, qua đó, ta và Ngài, cả hai cùng “sang bờ bên kia” được trọn vẹn trong bình an.
Lạy Chúa Giêsu, con thuyền của cuộc đời chúng con luôn gặp phải những sóng to vũ bão của tội lỗi, hưởng thụ, trụy lạc và những chân lý nửa vời, khiến đôi khi cuộc đời chúng con bị nước ập đầy thuyền làm cho đức tin bị lung lay và tưởng mình đơn côi giữa dòng đời. Xin Chúa ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ và xác tín chắc chắn rằng: Chúa luôn còn đó trên con thuyền cuộc đời của mỗi người, để chúng con vững tin bám chặt lấy Chúa. Amen.
19. Tình cha
(Suy niệm của Huệ Minh)
Phương tiện di chuyển cơ bản của con người có thể là đường bộ, đường sông, đường biển... hay đường hàng không.
Với những phương tiện đó, phải chăng phương tiện đường sông, đường biển có thể nói là làm cho con người có"cảm giác" nhất bởi lẽ nếu bình thường, thời tiết không có gì quan ngại thì không sao nhưng nếu có bất trắc con người sẽ rất sợ hãi. Ai đã một lần ngồi trên chiếc thuyền chòng chành giữa trời dông bão sẽ có cảm nghiệm hơn ai hết.
Với những người đi biển, họ được trang bị kiến thức hay có những khả năng hay kỹ năng để đi trên nước. Có thể có gió, có thể có sóng đó nhưng họ không sợ bằng những người không có kinh nghiệm cũng như không có khả năng với sóng dữ.
Những người dân Việt tị nạn vì lý do nào đó bằng đường biển chắc có kinh nghiệm hơn ai hết. Chính người dì ruột của tôi khi kể lại tình sử vượt biên của bà làm cho nhiều người kinh ngạc. Khi đặt chân lên bờ, dì chỉ còn đúng 1 bộ đồ dính người chứ không hơn không kém. Dì kể lại hành trình vượt biển với biết bao nhiêu sóng gió trên hành trình. Chuyế đi của dì lần đó chỉ còn một số ít người thoát khỏi cơn sóng dữ để đến bến bờ bình an.
Kinh nghiệm đó, hôm nay ta bắt gặp nơi các môn đệ trên chính chiếc thuyền của các ông. Kinh nghiệm nhiều, thuyền của mình để rồi cứ tưởng là "chắc ăn như bắp" như kiểu nhiều người nói nhưng rồi bỗng nhiên có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước.
Bi đát ở chỗ là cái "anh chàng" đi ké lại dựa gối ở đàng lái mà ngủ! Mê ngủ đến độ sóng gió đó không làm chàng ta thức giấc. Các môn đệ hoảng quá nên đành đánh thức anh ta: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?"
Giật mình chỗi dậy và Chúa Giêsu đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi".
Trước lời phán đó, gió ngừng biển lặng như tờ. Sau đó, Chúa mới nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"
Đùa vui! Bớt giỡn đi chứ! Sóng to biển dữ như thế mà bảo là sợ hãi thế! Thầy vừa phải thôi chứ! Chẳng lẽ chúng con lại vất Thầy xuống thuyền như ông Noe ngày xưa trong Cựu Ước.
Giận lắm nhưng cơn kinh hãi vẫn còn chưa tan trong các ông và các ông thầm thì với nhau: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
Thật ra mà nói, kinh nghiệm về những trận cuồng phong như thế trong hành trình người Kitô hữu không phải là hiếm. Những cơn sóng xô của cuộc đời cứ mãi giật trên con đường về quê, trên con đường lữ thứ trần gian của thân phận làm người.
Một anh bạn tri kỷ, khi ngồi lại với nhau, anh không ngần ngại kể lại cuộc đời tưởng chừng như không còn gì để mất của anh nữa nhất là với biến cố cụt 2 chân sau tai nạn nhớ đời. Mẹ góa, con côi với cái nách mang 4 đứa con trong mình và đặc biệt đứa con trai lớn nhất nhà đã làm cho mẹ con mất phương hướng.
Anh kể lại có những lúc anh muốn buông xuôi vì với cái thân phận tật nguyền của anh chỉ có nước đi ăn xin hay cùng lắm cạp đất mà ăn chứ làm nên cái trò trống gì. Thế nhưng, Thiên Chúa đã ra tay để cứu gia đình anh, bản thân anh thoát khỏi những cơn sóng dữ của cuộc đời.
Trong sâu lắng, anh cảm nhận được tình yêu bao la mà Thiên Chúa trao ban cho anh, cho cuộc đời anh, cho gia đình anh.
Ngay như bây giờ cũng vậy! Cuộc sống tưởng chừng yên dù anh muốn yên nhưng vẫn còn đó thử thách của hành trình làm người, là người và nhất là hành trình đức tin. Có những lúc chán nản vì sóng dữ, dường như muốn buông xuôi nhưng rồi anh lại thấy Chúa Giêsu bên đời đang ở cạnh anh để nâng đỡ anh.
Khi đối diện với những sóng xô của cuộc đời như cơn sóng lớn ngày hôm đó. Chúa Giêsu chỉ giản đơn trách các môn đệ kém lòng tin!
Một lần nữa, Chúa lại mời gọi niềm tin của mỗi người chúng ta vào quyền năng của Chúa.
Cũng trong tình thân, anh nói rằng anh cũng như các em có được như ngày hôm nay đó là nhờ anh và các em thụ hưởng gia tài cao quý của mẹ, của cha anh để lại, đặc biệt nơi người cha dù đã khuất mấy chục năm trời. Cha anh ra đi không để lại tài sản gì to lớn cả, chỉ để lại lòng đạo đức và sự hiền lành. Chính đời sống hiền lành và đạo đức cũng như niềm tin vào Chúa mà gia đình anh được như ngày hôm nay.
Ngày hôm nay Chúa nhật thứ 3 trong tháng 6, Chúa nhật mà người ta đặc biệt kính nhớ đến người cha thân yêu của mỗi người.
Tôi với anh cùng may mắn như nhau, cùng được thừa hưởng một người cha hiền lành, khiêm nhường và đạo đức.
Tôi thầm nghĩ, để đối diện với tất cả những cơn sóng dữ của cuộc đời, không có cách nào khác là đặt niềm tin vào Thiên Chúa là Cha nhân lành trên cuộc đời ta. Khi ta đặt cuộc đời của ta trong tay Chúa thì dù cho phong ba bão táp đi chăng nữa, ta vẫn không sợ gì vì có Chúa kề bên.
Trang Tin Mừng ngày hôm nay có phần am hợp với ngày mừng người Cha. Thiên Chúa là người cha luôn luôn yêu thương che chở chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Chuyện quan trọng là ta có tin tưởng, tín thác cuộc đời của ta trong tay Chúa hay không mà thôi.
20. Chất vấn
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Hai từ “chất vấn” xem ra ít gây thiện cảm hơn là các từ “hỏi” hay là “đặt vấn đề”. Dù là đặt vấn đề hay đặt câu hỏi hay chất vấn thì mục đích nhắm đều là để được sáng tỏ một vấn đề nào đó mà người chất vấn chưa nắm rõ hay chưa đồng thuận. Dĩ nhiên ở các xã hội độc tài, chuyên chế thì ít có ai dám to gan chất vấn người cầm quyền, vì sợ mang vạ vào thân. Lại có những thể chế muốn chứng tỏ rằng có sự dân chủ nên “cho phép” người ta chất vấn nhưng thực chất vẫn không muốn người bị trị có quyền chất vấn.
Nhân dịp mẹ Hội Thánh dọn cho đoàn tín hữu bài đọc thứ nhất và bài Tin Mừng trong Chúa Nhật XII TN B, xin đặt câu hỏi làchúng ta có được phép chất vấn Thiên Chúa không? Một trận cuồng phong trên biển cả xem ra là chuyện thường tình của giới tự nhiên. Thế nhưng, khi gió lớn, sóng to ập vào thuyền của tôi, thì đó không còn là chuyện bình thường. Những tai ương, hoạn nạn, dịch bệnh do thiên tai hay do nhân họa vẫn mãi là những sự dữ đối với những người trực tiếp hay gián tiếp gánh chịu. Chúng ta có quyền hỏi Thiên Chúa không hay chúng ta có nên đặt vấn đề không, nhất là những vấn đề liên quan đến sự dữ?
Trước vấn nạn sự dữ thì dường như không chỉ khó hiểu mà còn khó chấp nhận. Người làm sự lành mà phải gánh sự dữ thì vẫn có đó trước mắt chúng ta, không riêng gì mình ông Gióp thuở nào. Về vấn đề này, sách Gióp và Cựu ước nói chung, thường có câu trả lời rằng như chiếc bình sànhkhông thể và không có quyền chất vấn người thợ gốm, thì con người trong kiếp thụ tạo hữu hạn không có quyền chất vấn Thiên Chúa, Đấng dựng nên vũ trụ vạn vật, dựng nên con người từ hư vô. Ông Gióp cuối cùng đã biết phận để rồi “lấy tay che miệng” (x.G 40,4) và “xin rút lại những gì đã nói” (x.G 42,6).
Tân ước lại cho chúng ta một cái nhìn có vẻ như ngược lại nhưng thực ra là bổ túc, là hoàn thiện cái nhìn của Cựu ước. Đến thế gian, Chúa Kitô không ngại ngần trước các vấn nạn người ta đặt ra. Người còn gợi ý để cho các môn đệ chất vấn bằng việc đặt câu hỏi trước. “Người ta bảo Con Người là ai?... Còn các con, các con bảo thầy là ai? (Mt 16,13). Cáctông đồ, các môn đệ đã không ngại ngần “chất vấn” Thầy chí Thánh. “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38). Chúa ơi, Chúa ở đâu khi con đang trong cảnh khốn cùng? Con biết Chúa không vui thích gì khi con người phải khổ, phải chết, thế mà sao cái khổ, cái chết vẫn mãi đe dọa chúng con? Saocon làm người trong cái hình hài này, ở một thời đại, một hoàn cảnh không chút gì thuận lợi? Tại sao những người độc tài, độc quyền, độc ác cứ mãi nhởn nhơ trong nhung lụa? Nhiều câu hỏi tại sao thỉnh thoảng lại đến mà như không có lời giải đáp, đúng hơn là khó làm thỏa lòng thỏa trí chúng ta.
Điểm tới của những lời chất vấn là lòng tin. “Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Dù như khiển trách, nhưng Chúa Giêsu đãbiết các môn đệ vốn có lòng tin vào Người nhưng lòng tin ấy đang còn non yếu. Không tin vào Thầy thì cớ sao các ngài lại đánh thức Thầy dậy để xin cứu giúp. Đức tin không phải là một thực tại đã hoàn thành mà là một quá trình dấn thân. Niềm tin của Kitô hữu là tiến trình bước theo Đức Kitô. Tiến trình ấy không luôn trơn tru, thẳng tắp, kiểu thuận buồm xuôi gió. Có khi chững lại vì gặp vật cản, có khi chệch hướng, thậm chí có lúc bị giật lùi. Những câu hỏi, những lời chất vấn xuất hiện là một trong những động lực hay là cách thế để ta vượt qua vật cản, chỉnh hướng và tiến lên. Như thế, các câu hỏi hay những lời chất vấn trở thành một phương thế củng cố niềm tin, thanh luyện đức tin.
Ðức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thời làm HồngY đã từng khẳng định: “Chúng ta đã học biết, đã sống, và đáng khác chúng ta đã thấy đức tin được xây dựng hết sức hoàn hảo và được hệ thống hoá quá đáng, tới độ người ta không còn dễ dàng đến được với đức tin nữa. Vậy tôi nghĩ rằng chúngta cần một thứ cách mạng đức tin, theo một nghĩa phức hợp. Trước hết chúng tacần đến một cuộc cách mạng này để có được lòng can đảm nói ngược lại với những xác tín tổng quát” (Muối cho đời – trang 42). Khi trên ngai giáo hoàng, mở đầu cho tập sách “Đức Giêsu thành Nagiarét”, ngài cũng thẳng thắn và sẵn sàng đón nhậnnhững ý kiến “chống lại” những “tìm hiểu” của ngài về “diện mạo của Chúa”(x. Phần I - trang 31).
Chúa Kitô không ngần ngại trước những lời chất vấn của người Do Thái và các câu hỏi của các môn đệ, vì nhờ chúng mà căn tính và sứ mạng của Người ngày càng được tỏ bày, và qua đó đức tin của nhiềungười được hình thành và vững mạnh. Quả thật, chẳng có ai dám to gan cho rằng mình đã nắm trọn chân lý hay đã vững vàng trong đức tin. Thế mà đã có lúc chúng lại ngại ngần và có khi lại sợ người đồng đạo, sợ người “ngoại đạo” chất vấn niềm tin của chúng ta. Cần thú nhận rằng chính chúng ta cũng rất ngại ngùng chất vấn niềm tin của mình, đúng hơn là đặt vấn đề về một vài nội hàm của đức tin vì sợ rằng sẽ có nguy cơ lạc đạo hay bị gán ghép là rối đạo. Trong tình bạn thì các câu hỏi hay những lời chất vấn là chuyện thường tình như lẽ đương nhiên. Chúng chỉ là bất thường trong mối quan hệ chủ tớ. Chúa Kitô đã khẳng định Người không muốn chúng ta làm người tôi tớ mà là bạn hữu (x. Ga 15,15).
Chúa Kitô mãi là dấu hỏi cho con người đến tận cùng lịch sử. Hiện nay, chúng ta chỉ thấy lờ mờ như trong gương, sau này chúng ta sẽ thấy Người như chính Người là. Ngưòi thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy (x.1Cor 13,12). Chính vì thế, vị trí, vai trò của những câu hỏi luôn còn đó. Và một trong những vai trò chính yếu của chúng là dẫn chúng ta đến với niềm tin. Mỗi khi chúng ta không còn biết đặt vấn đề thì rất có thể là chúng ta đang ở trong tình trạng “cuồng tín” hay là vô tín. Khi chúng ta ngần ngại tha nhân đặt vấn đề hay chúng ta thấy khó chịu khi tha nhân, khi người dưới quyền chất vấn chúng ta thì có lẽ chính chúng ta đang có vấn đề. Một trong những vấn đề thật khó chối cãi, đó là chúng ta chưa thực sự tin vào sự ngay chính của bản thân hay của công việc mình đang thực hiện. Và một điều khá chắc chắn nữa, đó là người ta cũng chưa tin vào chúng ta. Mong sao những lời sau đây của ngài Hồng Y J.Ratzinger mà nay là Đức Bênêđictô XVI có điều kiện thành hiện thực: “Chúng ta phải có can đảm đứng lên chống lại cái được coi như chuẩn mực cho conngười vào cuối thế kỷ XX này, và tái khám phá đức tin nguyên tuyền” (Muối cho đời – trang 43).
21. Ai có thể trở nên một người như thế?
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tng’ – Charles E. Miller)
Chiếc tàu Titanic được chào hàng như một chiếc tàu không bao giờ chìm. Và sau đó là đụng một tảng băng ngay trong cuộc hành trình đầu tiên của nó, chiếc Titanic đã chìm xuống đáy của Đại Tây Dương với hầu hết những người đi trên con thuyền đó trong vài phút. Đại dương quyền năng hơn bất cứ một con tàu nào, đã nuốt trọn con tàu Titanic giống như nó đã nuốt một hộp cá mòi vậy.
Đó là một mầu nhiệm sâu xa về biển cả, và đó không có gì là ngạc nhiên về quyền năng của nước được xem là một thuộc tính của thần linh. Trong sách Gióp chính Thiên Chúa đã làm chứng về quyền năng thần linh của Ngài, bằng việc biểu dương quyền năng của Ngài là chủ tể của nước sâu. Những tông đồ là những người đánh cá, hơn ai hết họ không cần ai nói cho họ biết về việc phải sợ hãi cái vẻ bề ngoài đáng sợ của biển Galilê. Thình lình, tai họa có thể xảy ra một cách bất thường. Biển thì ở 685 bộ bên dưới mực nước biển và bao quanh bởi những ngọn núi. Với một làn không khí lạnh thổi xuống từ những ngọn núi hầu như nhanh chóng biến đổi làn nước đại dương thành những con sóng nguy hiểm cao đến bảy hoặc tám bộ.
Thật chính xác những gì đã xảy ra vào buổi chiều hôm đó, khi Chúa Giêsu vào thuyền của các môn đệ ở trên biển Galilê. Đó giống như một ngày của sáng tạo, những yếu tố tự nhiên đang chờ đợi khoảnh khắc khi mà Chúa là chủ tể của chúng xác quyết quyền năng và tỏ hiện sự thần linh của Ngài. Sau khi Chúa Giêsu làm cho biển bình yên bởi những lời của Ngài, các tông đồ đã kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Người này là ai mà làm cho gió biển phải vâng lời?”
Gió và biển đã biết Chúa Giêsu là ai và cả chúng ta cũng như thế. Chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi của các tông đồ. Nếu chúng ta không có đức tin, chúng ta xem Người một cách giới hạn bởi xét đoán của con người nhưng bởi đức tin mà chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu là Chúa, là Đấng Cứu Độ. Vì Chúa là Đấng cứu độ của chúng ta, Ngài ước ao giải thoát chúng ta khỏi những tai họa của đời sống trên biển. Sự sợ hãi những căn bệnh như ung thư hoặc Siđa, lo lắng về tận cùng của tương lai một cách bất an, những lo lắng về con cái trong một xã hội say sưa và hỗn tạp, sự không vững chắc hay gãy đổ của đời sống hôn nhân, sự khủng hoảng hay sự cô độc, bị bỏ rơi, sự khủng khiếp mà viễn cảnh của sự chết có thể phát sinh.
Trong lời tuyên xưng Thánh Thể chúng ta đã kêu lên: “Bởi thánh giá và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta”. Sau kinh Lạy Cha chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ và ban cho chúng con bình an trong ngày hôm nay, bởi lòng thương xót Chúa sẽ giữ gìn chúng con khỏi tội lỗi và bảo vệ chúng con khỏi mọi lo âu”. Lời nguyện này muốn nói lên lời diễn tả đức tin của chúng ta nhưng cấp độ bình an và quang đãng của chúng ta không tùy thuộc và sự diễn tả đức tin của chúng ta nhưng ở chiều sâu của nó. Đức tin của chúng ta phải sâu như biển cả vậy.
Khi chiếc Titanic chìm xuống, số người bị lâm nạn đã tăng lên gấp bội bởi vì thuyền đã không trang bị đủ những thuyền cứu sinh. Chúng ta còn được hơn thuyền cứu sinh cứu nữa. Chính Chúa Giêsu đã cứu chúng ta khi chúng ta bị chìm trong biển cám dỗ sâu nhất của cuộc đời. Chúng ta có con người của Chúa Giêsu Kitô, luôn luôn hiện diện với chúng ta trong Giáo Hội và hướng về Người, chúng ta có thể cầu nguyện một cách tin tưởng. Trong cơn bão trên biển hồ, các tông đồ đã phàn nàn: “Lạy Thầy chúng con sắp chết mà Thầy không quan tâm đến sao?” Với đức tin chúng ta biết rằng, không có vấn đề gì với Chúa Giêsu. Vấn đề là sự cứu độ của chúng ta không đến từ những lời nói, tuy nhiên ở nơi. Lời quyền năng của Ngài: “Hãy yên lặng, hãy im đi”. Sự cứu độ của chúng ta đến từ hy tế nơi thánh giá. Đức tin của chúng ta là: “Lạy Chúa bởi thánh giá của Người, và sự Phục Sinh của Người xin giải thoát chúng con, Người là Đấng cứu độ chúng con”.
22. Suy niệm của Achille Degeest.
NỖI KINH HOÀNG CỦA CON NGƯỜI
VÀ SỰ YÊN TĨNH CỦA THIÊN CHÚA
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Giai thoại bão táp yên lặng là một cơ hội tốt cho những ai ngã theo khuynh hướng “giải huyền thoại” trong phúc âm (khuynh hướng này ngày nay đã giảm). Để giản lược biến cố vào một sự kiện tự nhiên, họ chỉ cần tưởng tượng và rồi sau khi đã chiều theo sức ép của trí tưởng tượng, quả quyết rằng bão táp tự nó ngưng lại, vừa lúc Đức Giêsu ra lệnh cho biển; và như thế là do tình cờ. Có một loại não trạng tự gọi là khoa học, chủ trương ngay từ đầu chối bỏ mọi can thiệp của Thiên Chúa trong vũ trụ và giải thích một số sự kiện bằng một định kiến như thế thật dễ dàng. Trong trường hợp này chúng ta có thể bám vào lời này: Ở khởi điểm của truyền thống Phúc Âm, có thật là biến cố, nhưng liền được giải thích trong môi trường của Giáo Hội sơ khai, dựa trên một não trạng Kinh Thánh và một niềm tin vào sự Sống Lại” (X.L. Dufour, Etudes d’Evangile, Paris, 1965).
Ưu tư của Giáo Hội sơ khai là minh chứng: Đức Giêsu có cùng một quyền năng trên tạo vật như Thiên Chúa (não trạng Kinh Thánh) và dẫn đưa người tín hữu đến một niềm tin nơi Đức Giêsu Phục Sinh, một niềm tin trọn vẹn, truyền giáo (Hãy sang bên kia bờ) và có khả năng đương đầu với mọi nghịch cảnh.
Giải quyết xong điều trên, câu chuyện bão táp yên lặng gợi cho chúng ta một vài suy nghĩ rất đơn sơ:
1) ‘Thưa Thày, chúng con chết mất mà Thày không quan tâm đến sao?’
Lời trách móc này cho thấy rõ sự mâu thuẫn giữa nỗi kinh hoàng của các môn đệ và sự yên tĩnh của vị Thày. Một bên sóng gió nguy hiểm, một bên Đức Giêsu vẫn ngủ. Biển hồ Giê-nê-sa-rét, như các biển hồ được núi đồi bao phủ khác, thường có những cơn bão táp đột ngột và dễ sợ. Con thuyền bị sa vào một trong các cơn bão táp như thế. Chúng ta hiểu Đức Giêsu sau một ngày trọn rao giảng mệt nhọc, đã ngủ thiếp đi. Các môn đệ không hiểu được sóng gió mạnh mẽ như thế, lại tràn ngập vào thuyền mà không làm cho Ngài tỉnh dậy. Họ không mường tượng được rằng: chỉ duy có sự hiện diện của Đức Giêsu với họ, đã là một sự bảo đảm an toàn vững chắc.
Họ có lỗi vì đánh thức thày dậy không? Chắc là không. Đó chỉ là phản ứng bình thường của con người hoảng hốt, sự yếu hèn của họ (nhưng họ chưa có niềm tin sau Phục Sinh) ở chỗ họ không đặt sự an toàn của mình nơi con người Đức Giêsu. Chúng ta cũng gặp phải những giây phút thử thách nghiêm trọng. Chúng ta không có lỗi khi kêu đến Thiên Chúa, khi đánh thức Người dậy. Chúng ta không thể chế ngự một số âu lo tự nhiên. Ít là chúng ta nên nhớ Đức Giêsu đang ở với chúng ta để giữ vững niềm tin của chúng ta.
2) Hình ảnh con thuyền gợi lên con thuyền Giáo Hội, theo như ngôn từ của các thánh phụ.
Trong thời đại của chúng ta, cũng như trong mọi thời đại, Giáo Hội tựa con thuyền bị lay động và cản trở mạnh mẽ do các lầm lạc, bách hại, thao túng của thế gian. Một vài lầm lỗi hình như xâm chiếm cả Giáo Hội. Những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi thuyền đầy nước. Điều này có lẽ tạo nên nỗi lo âu lớn nhất cho nhiều người ưu tú trong nhóm môn đệ Đức Kitô. Hãy nhớ rằng chỉ một lời của Chúa vào lúc ngài muốn, có khả năng cứu thoát tất cả. Ngài nói: “Im đi….”, tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Điều quan trọng là hãy giữ niềm tin cho sống động và mạnh mẽ. ‘Các con không có đức tin ư?’.
23. Đức tin trưởng thành.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
John Newton là con trai một đại uý hải quân người Anh. Khi John lên 10 tuổi, mẹ cậu qua đời. Từ đó cậu bé thường theo bố đi biển. Nhờ vậy mà cậu rành rẽ đường lối ngoài biển khơi. Tuy nhiên vào năm cậu 17 tuổi, cậu bé bất mãn với bố. Cậu bỏ thuyền ra đi lao vào cuộc đời gió bụi. Cuối cùng cậu nhận được việc làm trên chiếc tàu hàng buôn nô lệ từ Phi Châu đến Mỹ Châu. Cậu thăng quan tiến chức rất lẹ và chẳng bao lâu đã trở nên thuyền trưởng. Chẳng bao giờ Newton bận tâm suy nghĩ đến việc buôn nô lệ là đúng hay sai. Cậu chỉ làm công việc của mình nhằm mục đích kiếm tiền mà thôi. Thế nhưng một biến cố quan trọng đã xẩy đến thay đổi tất cả cuộc đời cậu.
Một đêm nọ một cơn bão dữ dội xuất hiện trên mặt biển. Sóng dâng cao như thác núi xô đẩy và quay vòng chiếc thuyền của Newton như món đồ chơi trẻ con. Mọi người trên thuyền vô cùng kinh khiếp. Lúc bấy giờ bỗng dưng Newton buột lời cầu nguyện. Đây là điều cậu không hề làm kể từ khi rời khỏi thuyền của bố cậu, cậu kêu to: “Lạy Chúa, nếu Ngài thương, xin cứu vớt chúng con, con nguyện sẽ mãi mãi làm nô lệ cho Ngài”.
Chúa nhậm lời cầu xin của cậu và cứu vớt con thuyền. Thế rồi sau khi vào được bờ, Newton đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn nô lệ. Sau đó cậu đi tu, và một thời gian sau trở thành mục sư coi sóc một nhà thờ nhỏ ở Olney, nước Anh. Ở đây vị mục sư trở nên một nhà giảng thuyết kiêm nhà soạn thánh ca lừng danh. Một trong những bản thánh ca cảm động nhất mà Newton đã sáng tác là bản nhạc ca ngợi Chúa về cuộc trở lại của cậu.
Giống như Newton, các Tông đồ cũng gặp phải bão biển dữ dội. Giống như Newton, các ông đã kêu to lên cùng Chúa: “Xin hãy cứu chúng con”. Giống như Newton, các ông cũng đã được biến đổi hoàn toàn sau khi Chúa nhậm lời cầu xin. Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Ông này là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”.
“Ông này là ai?”. Đây chắc chắn là một câu hỏi căn bản. Dĩ nhiên câu trả lời đã có sắn trong bài đọc 1 và trong Thánh Vịnh đáp ca hôm nay. Bài đọc 1 mô tả Chúa là Đấng Tạo Hoá, chính Ngài đã tạo dựng biển cả, đã đặt ranh giới cho chúng và truyền lệnh cho chúng tuân theo ý muốn của Ngài. (x.G 38,1.8-11). Thánh Vịnh đáp ca là lời kêu cầu Chúa của những thuỷ thủ gặp bão biển. Và Chúa đã ra tay cứu họ. Họ vui sướng, vì trời yên biển lặng. Và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Họ tạ ơn Chúa, vì Chúa từ nhân (x. Tv 107).
Trong cả hai bài đọc Cựu Ước này, chúng ta thấy Chúa đang thi hành chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh cho chúng và chúng tuân phục Ngài. Đây cũng là điều chúng ta thấy Chúa Giêsu đang thực hiện trong Tin Mừng hôm nay.ngài đang biểu lộ chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh và chúng tuân phục ngay. Như thế các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu của Tân Ước là một. Ngài đang thực thi quyền năng của một Thiên Chúa. Thánh Marcô không chỉ muốn nói lên quyền năng của Chúa mà còn muốn khẳng định Ngài chính là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, và mời gọi chúng ta hãy hoàn toàn tin vào Ngài.
Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa quyền năng, có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ.
Đời tự nó đã là khó. Đi trong cuộc đời với niềm tin theo cách Chúa dạy lại càng khó hơn. Chúng ta đã vâng lệnh Chúa mà nhổ neo ra khơi, đã tin tưởng vì có Chúa ở đàng lái, ở vị trí hoa tiêu, nhưng có thể đã có lần chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong ba. Điều đó có thật, là kinh nghiệm muôn đời của những ai tin Chúa. Niềm tin không phải là giải đáp dễ dãi, không miễn trừ những khó khăn. Cần phải dày công học tập mới chấp nhận được thực tế đó. Người có niềm tin trưởng thành là người “giữa phong ba khốn cùng ngàn nỗi vẫn luôn thành tín ngợi khen Chúa là thuẫn đỡ, là khiên che, là đồn luỹ”. Phải dám ra đi dù trời đã về chiều, dù có thể gặp phong ba. Nếu không thì chẳng bao giờ sang được “bờ bên kia” của cuộc sống. Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn thức vào lúc quyết định để trợ giúp những ai bằng lòng để cho “Chúa ở đằng lái”.
Bão lớn, nước sắp đầy thuyền thì ai mà không sợ? Vậy mà Chúa còn trách: “Sao các con sợ thế, các con không có đức tin ư?”. Các môn đệ lâm nguy thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng những nên kêu cứu Chúa, mà đúng là phải kêu cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với tâm trạng sợ hãi đến tuyệt vọng như vậy. Phải kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong niềm cậy trông tín thác tuyệt đối. Lời trách cứ của Chúa Giêsu khai mở cho chúng ta một kinh nghiệm đức tin quý báu: niềm tin vững vàng làm chúng ta thêm can đảm lắm mới có thể tin. Vì tin Chúa, thực tế chính là “ trao thân gởi phận” cho Chúa. Người tin Chúa thực sự thì không sợ, còn người sợ thực sự thì không tin. Trong rất nhiều trường hợp, “yếu tin” đồng nghĩa với “hèn tin”!
Câu hỏi của các môn đệ sau khi được Chúa cứu nguy: “Ngài là ai mà cả gió lẫn biểu cũng đều vâng lệnh?” phải là câu hỏi căn bản cho những ai muốn tin và muốn đạt tới niềm tin trưởng thành vào Chúa Giêsu. Phải trả lời cho thật, cho đúng, cho sâu và sát với hoàn cảnh đời mình. Tin không phải chỉ là xác tín về một chân lý lý thuyết cho thoả trí óc, nhưng là “trao thân gởi phận” cho Chúa, nên phải biết rõ Chúa là ai, đáng tin đến mức nào. Thánh Phaolô là chứng nhân đức tin kiệt xuất, đã trải qua bao gian nan mà vẫn tín trung với Chúa, vì thánh nhân “biết mình đã tin vào ai” (2Tm 1,13). Nếu thực sự muốn tin, chúng ta cũng phải biết: Chúa Giêsu Kitô là ai? Tin Mừng cho chúng ta biết: Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa. Chân lý ấy quá đơn sơ, chúng ta đều đã biết. Nhưng có thể chúng ta mới biết bằng “cái đầu”, bằng trí óc, chứ chưa biết bằng “con tim”, bằng lòng yêu mến. Tin cuối cùng là yêu, là trung thành gắn bó với Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Vậy lòng ta cần phải biết Ngài là Chúa, nghĩa là không chỉ biết rằng Ngài quyền trên cuộc đời mình, Ngài là Chúa của mình. Khi lòng ta chưa biết điều đó, thì dù không nói hay không dám nói ra, tự thâm tâm ta vẫn nghĩ: Lời Chúa chói tai quá! Lệnh Chúa truyền khó khăn qúa! Và sẽ bỏ đi như người Do Thái, vì thầy tin Chúa là phải là phiêu lưu và quá khó khăn! Người có đức tin trưởng thành là người “biết điều”: họ nhận ra Đấng mời gọi là Đấng có quyền, nên họ dấn thân theo lời mời gọi của Ngài vì đó là đòi hỏi của tình yêu.
Hãy vận dụng đức tin để dấn thân vào đời, lấy sức chèo chống, ngăn chận sự ác đang hoành hành. Hãy chạy đến Chúa và phó thác cho Ngài mọi lo lắng của cuộc đời, kiên trì tin tưởng Chúa sẽ cứu thoát chúng ta.
24. Các con không có lòng tin sao? – Noel Quesson.
Một sĩ quan người Anh cùng gia đình xuống tầu đi tới một miền xa lạ. Đang lênh đênh trên biển thì bỗng có giông bão khủng khiếp ập tới. Hành khách trên tầu cuống cuồng lo sợ, nhất là bà vợ của viên sĩ quan. Bà thấy ông vẫn bình thản thì bực bội và trách ông không quan tâm đến nỗi lo lắng của bà và các con. Ông này ra khỏi phòng một lát rồi trở lại, ông nghiêm nét mặt, rút kiếm ra dí vào ngực vợ. Bà vợ hơi tái mặt, nhưng lát sau bà phá lên cười. Viên sĩ quan hỏi: - Thấy mũi kiếm sắp đâm vào người mà em không sợ sao? - Việc gì em phải sợ? Em biết anh vẫn thương em mà.
- Thế tại sao em bắt anh phải sợ khi anh biết Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta? Và cơn bão này cũng ở trong bàn tay Thiên Chúa?
Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ. Chính vì thế, Chúa nhắc bảo ta luôn nhớ cầu nguyện để xin ơn tăng cường đức tin. Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa có quyền năng có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa tin vào Chúa hoàn toàn. Chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa làm ra vẻ ngủ say để thử lòng tin của các môn đệ. Nhưng cũng có thể Chúa ngủ thực, vì Chúa cũng mang bản tính con người như ta. Chúa mệt mỏi vì bao công chuyện dồn dập mấy bữa qua: đi lại, giảng dạy, chữa bệnh cho bao nhiêu người. Sự mệt mỏi đã đưa Chúa vào giấc ngủ say.
Có những bất trắc, những tai nạn, rủi ro xảy tới cho đời ta, ta kêu cầu hoài mà không thấy Chúa đáp cứu. Những nhà duy vật thời nay thường nói: “Thiên Chúa đã chết”. Đôi khi, chính chúng ta là tín hữu Kitô, cũng có cảm tưởng như vậy. Chúng ta bị đe dọa, bị xô đẩy, bị chèn ép, chúng ta bất lực mà Thiên Chúa cứ làm thinh cho thiên nhiên hoành hành, cứ để cho bạo động xảy tới, xem ra Thiên Chúa đang ngủ quên. Tuy hoảng sợ, các môn đệ cũng còn chút tin tưởng ở Chúa, các ông tới đánh thức Chúa: “Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi mà Thầy không quan tâm sao?”. Chúa thức dậy, đứng lên, quát nạt sóng gió và sóng gió trở lại yên tĩnh tức thì.
Sau khi trời yên biển lặng, Chúa bảo các môn đệ: “Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?”. Chúa trách các môn đệ thiếu lòng tin. Không tin rằng có Chúa đang ở với mình trong thuyền. Không tin rằng Chúa vẫn yêu thương săn sóc các ông. Nhiều khi chúng ta còn đáng trách hơn các môn đệ, vì những lần chúng ta than thân trách phận, oán trời, trách Chúa: Sao Chúa để chúng ta đau khổ, kêu mãi kêu hoài mà Chúa vẫn làm ngơ.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh để chúng con lướt thắng mọi thử thách trên đường đức tin. Xin giúp chúng con luôn nhận ra Chúa trong những biến cố cuộc đời để chúng con an tâm phục vụ Tin Mừng. Quyền năng và tình thương của Chúa luôn làm cho con vững dạ an lòng (Tv 23,4).
25. Mời gọi qua sông – Jean-Yves Garneau.
Chúng ta phải liên lỉ băng qua bờ bên kia. Thường thường biển động. Nhưng Chúa Kitô ở với chúng ta. Việc băng qua hồ Tibêriát, như thánh Marcô kể lại, mang một ý nghĩa tượng trưng, cho ta thấy một kinh nghiệm quan trọng và sâu sắc mà các môn đệ đã có được. Kinh nghiệm này có một giá trị gương mẫu đối với chúng ta. Thường thường chúng ta phải sống những kinh nghiệm tương tự.
Sang bờ bên kia.
Chúa Giêsu bảo bạn hữu của Chúa sang bờ bên kia. Vấn đề không phải chỉ đơn giản là đi từ nơi này đến nơi khác, nhưng là sống một biến cố sẽ giúp họ lớn lên. Lúc đó họ chưa biết được điều này.
Nhiều lần cả chúng ta nữa, chúng ta đứng trước một tiếng gọi của Chúa Kitô. Gọi vươn lên, gọi sống đời sống Kitô hữu của chúng ta mãnh liệt hơn, gọi dấn thân một cách mới mẻ… Nếu chúng ta đáp trả tiếng gọi ấy chúng ta không biết trước những gì sẽ xảy ra cho mình hoặc nó sẽ đưa mình đến tận đâu.
Từ biển lặng đến sóng gió.
Không chút do dự các tông đồ chấp nhận qua bờ bên kia, thậm chí họ còn có sáng kiến chuẩn bị nữa. Lúc khởi hành, mọi sự diễn ra suôn sẻ. Biển hồ yên lặng. Họ là những tay chèo giỏi. Chúa Kitô nằm ngủ ở mạn thuyền.
Rồi gió nổi lên. Đó là giông bão. Các môn đệ hoảng hốt. Từ đáy lòng họ la lên: “Lạy Thầy, chúng con chết mất!”.
Sự kiện này có thể áp dụng vào chính cuộc sống của chúng ta. Nhiều lần chúng ta phải đáp lại những lời mời gọi của Thiên Chúa. Không thể nghi ngờ thiện chí của chúng ta: Như các môn đệ, chúng ta thưa vâng trước những tiếng gọi này. Nhưng việc thực hành những gì tiếng gọi ấy thường có vẻ khó khăn và gắt gao hơn ta tưởng. Các khó khăn nhất thiết sẽ xảy đến. Chúng rất thường nhiều hơn và lớn hơn điều ta dự tính.
Thế giới này trong đó chúng ta sống cũng giống như mặt biển động vậy. Sống đạo trên một mặt biển như thế không dễ dàng, không đơn giản! Không dễ dàng lớn lên về mặt Kitô hữu trong một xã hội như xã hội của chúng ta, đang loan truyền đủ mọi thứ khác trừ sứ điệp của Chúa Kitô và lôi cuốn đến mọi nơi khác trừ những con đường của Tin Mừng.
Lúc đó ta bị cám dỗ buông xuôi hết. Trở thành những kẻ không dấn thân. Không đi nhà thờ nữa, chỉ còn sống cho mình, chỉ còn mang tên là tín hữu mà thôi. Người ta vớt vát cho bộ mặt bên ngoài nhưng trong lòng thì không còn gì nữa.
Phải làm một hành vi đức tin.
Giữa cơn giông tố, các tông đồ có ý tưởng rất hay là quay về với Thầy của mình và cầu cứu Ngài. Kết quả thật lạ lùng. Chúa Kitô ra lệnh cho biển. Biển lặng như tờ. Ngài trách họ: “Sao lại sợ? Tại sao các con không có lòng tin?”. Phản ứng của các môn đệ có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Thay vì kêu lên: “Lạy Chúa, chúng con tin”, họ lại tự hỏi: “Ngài là ai mà ngay cả đến phong ba và biển cả cũng phải vâng phục Ngài?”.
Không phải một sớm một chiều mà ta có được một niềm tin vững chắc và sâu xa. Cần thời gian. Phải trải qua nhiều kinh nghiệm trong cuộc đời làm Kitô hữu.
Ba điểm cần nhớ.
Những gì cần nhớ trong bài Tin Mừng hôm nay có thể tóm tắt trong ba điểm.
Một là: đừng sợ qua bờ bên kia. Đây là một điều kiện phải có để lớn lên. Khi cứ ở lại mãi trên bờ yên tĩnh của thế giới bé nhỏ an toàn của mình, người ta không bao giờ trở thành một Kitô hữu biết nhìn xa thấy rộng được Chúa Kitô luôn luôn mời gọi đi xa hơn, cao hơn.
Hai là: đừng ngạc nhiên về những khó khăn gặp phải khi muốn sống một cuộc đời Kitô chân chính. Biển động là thành phần của cuộc sống ấy, đó là dịp để tiến bộ.
Ba là: không nghi ngờ về sự hiện diện và quyền năng của Chúa Kitô. Ngài ở với chúng ta. Cùng với Ngài, chúng ta luôn luôn tới được những bến bờ khác. Chính Ngài đã đi qua cái chết… và đã tới bờ của một cuộc sống mới. Những lần chúng ta phải đi từ bờ bên này sang bờ bên kia trong cuộc sống hằng ngày đó là chúng ta được chuẩn bị cho cuộc vượt qua cuối cùng.
Coi chừng những cuộc sống Kitô quá yên ổn, quá an toàn. Chúa Kitô chờ đời chúng ta trên biển động. Thường thường đó chính là nơi mà Ngài tự mặc khải cho chúng ta cách mạnh mẽ. Và chính ở đó, ở ngoài khơi mà rất thường đức tin của chúng ta có thể được thức tỉnh hơn hết và có thể lớn lên.
26. Giông bão.
Qua hình ảnh mặt biển dạy sóng Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta những gì?
Mặt biển dạy sóng trước hết là hình ảnh của tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, nhiều lúc chúng ta đã cảm thấy: những quyến dũ bất chính, những đam mê mù quáng, những cám dỗ nặng nề, quả thực đã trở nên như những ngọn sóng ngầm. Những quyến dũ ấy, những đam mê ấy, những cám dỗ ấy như muốn đè bẹp con thuyền nhỏ bé là tâm hồn chúng ta, nhận chìm nó xuống đáy nước tội lỗi, nếu như Chúa Giêsu, Đấng có quyền làm cho gió yên biển lặng đã không đến can thiệp và giúp đỡ chúng ta. Vì thế chúng ta hãy kêu xin Chúa như các tông đồ ngày xưa:
- Lạy Chúa, xin hãy cứu giúp chúng con không thì chúng con chết mất.
Mặt biển dạy sóng còn là hình ảnh của thế gian.
Đúng vậy, thế gian là một mặt biển dạy sóng, trong khi đó Giáo hội chỉ là một con thuyền nhỏ bé, mà người cầm lái, là Đức Kitô thì dường như lại đang ngủ say. Những phong ba bão táp và những ngọn sóng trào dâng là những cấm cớ bách hại, là những lập trường bài bác vu khống và chụp mũ, khiến cho chúng ta, những môn đệ của Chúa cũng phải bàng hoàng kinh hãi, nếu không muốn nói là đã đi đến chỗ tuyệt vọng.
Tại sao chúng ta lại sợ hãi? Phải chăng là vì yếu đức tin. Chúng ta nên nhớ rằng, tình thương và sự quan phòng của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Chỉ một cái nhìn của Ngài cũng đã đủ để làm cho sóng yên biển lặng, tất cả trở lại trật tự.
Kinh nghiệm của Giáo hội, cũng như của bản thân mỗi người cũng làm chứng như vậy. Điều quan trọng, chúng ta phải luôn xác tín rằng: Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta. Mặc dù đôi lúc Ngài dường như có vẻ ngủ say, nhưng thực sự thì tình thương của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Và một khi Ngài đã ở với chúng ta thì không ai có thể chống lại chúng ta.
Thánh nữ Cartarina Sienna ngày kia đã hỏi Chúa, sau khi đã thoát khỏi sự cám dỗ nặng nề:
- Lạy Chúa, Chúa ở đâu khi con phải chiến đấu. Chúa Giêsu đã trả lời:
- Ta ở bên cạnh con để giúp đỡ con.
Chính vì thế, giữa những gian nguy thử thách, giữa những cám dỗ đe dọa, chúng ta hãy biết chạy đến và kêu van:
- Lạy Chúa, xin cứu chúng con, không thì chúng con chết mất.
Điều quan trọng là làm thế nào để Chúa Giêsu thực sự ở trong chúng ta với tất cả tình thương của Ngài?
Tôi xin đưa ra một pháp đó là hãy xa tránh tội lỗi. Vì tội lỗi sẽ đẩy chúng ta xa lìa tình Chúa và làm dấy lên trong tâm hồn cũng như xã hội một trận cuồng phong thảm khốc.
Chính vì thế muốn trấn áp cuồng phong, muốn tái lập trật tự, chúng ta phải biết hãm dẹp những dục vọng xấu xa, những khuynh hướng tội lỗi. Tuy nhiên, để bảo đảm sự thành công, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ đã kêu lên với Chúa giữa cơn phong ba bão táp:
- Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con, không thì chúng con chết mất.
27. Điều khiển.
Rufus Jones có thuật lại câu chuyện sau đây: “Một cậu bé đang chơi trên boong tàu, khi đó một cơn bão tố đang nổi lên. Một hành khách tiến lại hỏi cậu bé: Này cháu, cháu không sợ cơn bão đang đến hay sao? Cậu bé trả lời: “Không, cháu không sợ. Bởi vì cha cháu đang điều khiển con tàu”.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại một câu chuyện xảy ra trong một cơn bão tố. Nhưng nó chỉ giống ở khung cảnh mà lại khác hẳn về nội dung. Nỗi sợ hãi của các môn đệ hoàn toàn trái nghịch với lòng tín thác của cậu bé trong câu chuyện của Jones, một lòng tín thác xuất phát từ một niềm tin vững mạnh.
Không có gì ngạc nhiên khi chúng ta nghe Chúa Giêsu quở trách: “Tại sao các con nhát gan thế? Các con vẫn chưa có lòng tin sao?” Chúng ta cần nhớ lại lời Kinh Thánh đã chép: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”.
Chúng ta không luôn luôn thấy những đối tượng đức tin của chúng ta, đặc biệt khi niềm tin của chúng ta bị che phủ bởi nỗi sợ hãi và lo âu xao xuyến, và nhất là khi chúng ta bị những cơn giông tố trong cuộc đời vùi lấp một cách phũ phàng. Trong những cơn thử thách mãnh liệt như vậy, chúng ta hãy đặt tất cả niềm tin tưởng phó thác vào chính Thiên Chúa. Vào thế kỷ 19, tiểu thuyết gia kiêm thi sĩ người Tô Cách lan George MacDonald đã viết: “Con người hoàn hảo về đức tin là kẻ có thể đến với Thiên Chúa trong sự trống rỗng về cảm giác, không có một chút cảm hứng và an ủi nào, chỉ có những thất bại nặng nề, bị bỏ rơi, bị quên lãng hoàn toàn, và vẫn nói với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là nơi con náu ẩn, là thành lũy che chở con”.
Lạy Chúa Thánh Thần, Chúa là Trạng Sư và là bạn thân thiết của con. Xin Chúa dạy con biết từ bỏ bản thân mà lệ thuộc hoàn toàn vào Chúa Giêsu. Con không muốn trốn tránh trách nhiệm của con đối với cuộc đời của mình, nhưng con muốn để Chúa Giêsu chi phối toàn bộ cuộc sống của con.
28. Bão tố.
Hồ Tibêria nằm ở mạn bắc Palestine, còn gọi là hồ Gênêsarét hay biển Galilê, nhưng quen gọi là Biển Hồ, có hình bầu dục, chiều dài 21 km, chiều ngang 12 km, thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải 208m, lại nằm bên rặng núi Hemon cao ngất, luôn có tuyết phủ, vì thế, các luồng gió mạnh đều dốc đổ vào hồ, gây nên những cơn giông và bão tố bất thường.
Cựu Ước ít nhắc tới Biển Hồ này, nhưng trong Tân Ước, hồ này nổi tiếng, vì nơi đây Chúa Giêsu đã làm một số phép lạ và giảng dạy nhiều điều. Phép lạ kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay xảy ra ở Biển Hồ này, vào một buổi chiều đầy kỷ niệm của một ngày tháng chạp, năm thứ nhất công khai giảng dậy của Chúa.
Hôm ấy, sau khi dùng thuyền làm tòa giảng dạy dân chúng nhiều dụ ngôn, Chúa Giêsu giải tán cho họ ra về, rồi bảo các môn đệ kéo buồm ra khơi sang bờ bên kia đến thành Gêrasa. Khi thuyền ra gần giữa khơi thì gặp biển động mạnh, gió thổi dữ dội, sóng nước quật mạnh vào thuyền khiến thuyền chòng chành, chồm lên chồm xuống muốn chìm. Các môn đệ ra sức chèo chống, tuy là những ngư phủ đã quen với những cơn giông bão trên biển, mà lần này các ông cũng hoảng sợ, vậy mà Chúa Giêsu vẫn nằm ngủ ngon lành ở cuối thuyền như không có sự gì nguy hiểm đang xảy ra.
Các môn đệ không còn biết xoay sở làm sao đưa thuyền vào bờ, trở lui không được vì bị sóng gió cản lại, mà tiến sang bờ bên kia thì còn xa quá. Thật là tiến thoái lưỡng nan, các ông chỉ còn biết cầu cứu đến Chúa, mà Chúa thì lại đang ngủ. Các ông đánh thức Chúa dậy và xin Chúa cứu giúp. Lời kêu cứu này chứng tỏ các môn đệ tin Chúa có quyền phép. Nhưng Chúa đã quở trách các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Chúa trách các môn đệ như vậy là vì mấy tuần qua các ông đã được chứng kiến Chúa làm nhiều phép lạ tỏ ra Chúa là Đấng có quyền phép, nên đáng lẽ các ông phải tin tưởng nơi Chúa mà không hoảng sợ trước cơn giông bão. Nhưng đức tin của các ông còn yếu kém, gặp cơn giông bão, tuy có Chúa ở trong thuyền mà các ông vẫn hốt hoảng sợ hãi, nên Chúa mới quở trách như vậy. Tuy nhiên, Chúa vẫn đứng dậy, truyền cho sóng gió yên lặng, tức khắc biển trở lại bình thường.
Qua phép lạ này, Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ thấy uy quyền Thiên Chúa toàn năng của Ngài, đồng thời cũng cho họ biết: họ phải vững tin vào Ngài, có Ngài ở bên, họ không được sợ hay không phải lo sợ gì cả, vì không có gì Ngài không làm được, mọi sự đều tùy thuộc uy quyền toàn năng của Ngài.
Khi tìm hiểu về cơn bão tố xảy ra trên Biển Hồ, một nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích: “Chúa Giêsu đã muốn đem các môn đệ của mình đi trên biển, giữa bão tố kinh hoàng để cho họ thấy trước những bão tố sau này là những bắt bớ, những hành hạ mà họ sẽ gặp trên đường tông đồ. Đối với họ, là những người sẽ cầm lái thế giới sau này, con thuyền nhỏ bị sóng gió dữ tợn đánh chòng chành sắp chìm, là hình ảnh của những trận bão tố sau này sẽ tấn công Giáo hội mà họ phải kiên gan chống đỡ”.
Các nhà giảng thuyết thường áp dụng việc Chúa Giêsu làm cho sóng gió yên lặng vào việc Chúa luôn ở cùng Giáo hội, và bênh vực gìn giữ Giáo hội trải qua những cơn sóng gió trần gian. Chiếc thuyền của Phêrô là tượng trưng cho con thuyền Giáo hội của Chúa mà Phêrô là đầu. Những cơn sóng gió là những cơn thử thách bách hại mà Giáo hội luôn gặp phải. Cũng như khi xưa các tông đồ trên thuyền đã được an toàn qua cơn sóng gió vì có Chúa Giêsu ở với các ông, thì ngày nay cũng nhờ có Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Giáo hội mà trải qua bao cơn thử thách bách hại, Giáo hội vẫn đứng vững và trường tồn.
Nhìn vào lịch sử Giáo hội, qua dòng thời gian, trải qua các thời đại, chúng ta thấy Giáo hội đã gặp phải bao cơn gió bão, thuyền Phêrô, tức là Giáo hội, đã vượt biển được hai ngàn năm, thuyền đó ra đi, mặc dầu gặp bao sóng gió, nhưng vẫn luôn đứng vững, lý do là vì Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Giáo hội như Ngài có mặt trên thuyền của các môn đệ xưa kia. Đôi khi xem ra Ngài ngủ và có vẻ buông xuôi tay lái, nhưng thực ra đó chỉ là những cơ hội để nêu cao sự hiện diện đầy quyền năng của Ngài.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa toàn năng cai trị những bão tố bên ngoài, thì Ngài cũng thống trị những cơn bão, những sóng gió trong tâm hồn, trong cuộc sống, trong cuộc đời thăng trầm của mỗi người. Cuộc đời chúng ta là một đời lữ khách, vui buồn chen nhau. Là thân lữ khách, chúng ta biết phận mình là thế, và trong muôn cảnh ngộ, chúng ta luôn có hy vọng về tới bến. Đức tin vững chắc là bánh lái thuyền đưa chúng ta về tới bến cứu độ. Chúa Giêsu luôn ngồi đàng sau con thuyền để trợ giúp chúng ta. Chúng ta cứ yên trí lớn chèo thuyền ra đi, điều cần thiết nhất là chúng ta có luôn tin tưởng vững chắc vào Chúa hay không?
Vì thế, giữa những bão tố, những sóng gió của biển đời, chúng ta cần bắt chước gương các tông đồ, chạy lại với Chúa Giêsu và xin Ngài cứu giúp: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng con chết mất. Tin tưởng và cầu xin Chúa, chúng ta sẽ được bình an.
29. Cha em là người cầm lái. – Thiên Phúc
(Trích trong "Như Thầy đã yêu")
Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu.
Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu những ánh vàng cuối cùng của một ngày còn sót lại.
Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một vùng trời. Sấm chớp đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc càng thét gào dữ dội.
Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về phòng mình. Duy chỉ có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận cuồng phong.
Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố?
Em thản nhiên đáp lại:
- Vì cha em là người cầm lái con tàu!
***
Giống như khách du lịch trong câu chuyện trên, các môn đệ cũng gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp, các ngài đã vội đánh thức Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp: "Thưa Thầy, chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao" (Mc. 4,38). Người liền đe gió và phán với biển như một người bị quỉ ám: "Hãy im đi". Tức thì sóng yên biển lặng.
Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông? Đại dương nào mà không có những bão tố?
Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin.
Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ giúp ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố.
Thánh Phaolô viết: "Thiên Chúa không ban cho ta một thần khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ" (2Tm.1,7),
Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin ở Thiên Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Có Chúa trong đời, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Thánh Phanxicô Salêsiô dạy: "Phải ở lại trong con thuyền mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời này về chốn đời sau. Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản".
Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ được êm ả, nó chỉ êm ả khi tới bến thiên đàng. Xin cho lòng chúng con luôn bình an ngay cả khi Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính là thuyền trưởng của đời chúng con. Amen.
30. An tâm – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Sau một ngày giảng dạy dân chúng, Chúa Giêsu bảo các môn đệ chèo thuyền đưa Ngài sang bên kia Biển Hồ. Biển Galilê dài 21km, rộng 12km, xung quanh có những rặng núi bao bọc. Nhiệt độ ở Galilê thuộc miền Bắc Israel và ở Biển Chết thuộc miền Nam chênh lệch nhau, thỉnh thoảng tạo ra những cơn gió mạnh. Biển Galilê nổi sóng dữ dội vì hình thể lòng chảo với núi non bao quanh. Vì thế, người xưa quan niệm rằng, biển là biểu hiện cho những gì nguy hiểm, tối tăm và sợ hãi. Biển động sóng gào biểu trưng cho một thế giới hỗn loạn và phường tội lỗi (x. Is 57, 20). Ý định băng qua bên kia Biển hồ lúc trời đã về chiều quả là một ý định táo bạo, liều lĩnh, bất chấp hiểm nguy.
Tuy vậy, Chúa Giêsu quyết định ra đi và thực hiện phép lạ trên biển với mục đích củng cố đức tin cho các môn đệ, đồng thời biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa vượt trên mọi thế lực sự dữ.
Chúa Giêsu cùng với các môn đệ và có một số thuyền khác vượt biển giữa trời đêm. Thuyền lướt sóng ra khơi giữa màn đêm. Bão tố cuồng phong bỗng dưng ập đến. Các môn đệ, dù nhiều trải nghiệm về biển cả vẫn hốt hoảng lo lắng hoang mang. Chỉ mình Chúa Giêsu vẫn an nhiên tự tại, vẫn ngủ như không có gì xảy đến. Lạy Chúa, đến nước này mà Ngài vẫn ngủ sao? Trong dòng lịch sử, không ít lần dân Do thái thấy như Chúa ngủ quên: “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới bao giờ? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ? Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo lắng và lòng con ủ rũ đêm ngày? Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi?” (Tv 13,1-2).
Các môn đệ cuống cuồng lo sợ và hỏi: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng. Gặp bão tố cuồng phong trên biển cả, không lẽ những dân chài thứ thiệt như các ngư phủ lại phải cậy đến sự trợ giúp của một bác thợ mộc ư? Kinh nghiệm thợ mộc giúp được ích gì cho các ông lúc này? Ở đây rõ ràng là các ông cần sự trợ giúp thần linh, cần một phép lạ. Khi con người đối diện với những gian nan khốn khó, với những mãnh lực ác thần, họ mới thấy sức người quá hèn yếu, nhỏ bé. Bài đọc 1 cho thấy con người yếu đuối tìm đâu được một chỗ dựa vững vàng ngoài niềm tin vào Thiên Chúa toàn năng: “Bấy giờ, giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp như sau: Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân?” (G 38,1.8-9). Đứng trước số phận ngàn cân treo sợi tóc, họ mới thấy cần biết bao quyền năng Thiên Chúa trợ giúp. Thiên Chúa sẽ ra tay đúng lúc để đáp ứng tiếng van nài của họ.
Không phải bằng một kỹ năng hàng hải mà bằng uy quyền của trời cao, Chúa Giêsu thức dậy và ra lệnh cho sóng biển: “Im đi! Câm đi!”. Cử chỉ và lời nói của Chúa giống như lúc Ngài trừ quỉ. Lập tức, gió ngừng thổi và biển yên lặng như tờ. Rồi Chúa quở các môn đệ: sao các con lại sợ hãi thế? Đức tin của các con như thế nào? Rõ ràng, Chúa không nói các môn đệ không có đức tin; Chúa cũng không nói các môn đệ có đức tin bé nhỏ; ở đây đức tin của các môn đệ giới hạn quyền năng của Thiên Chúa, thua sức mạnh thiên nhiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không thể cứu nguy cho những người cùng thuyền được nên họ phải đánh thức Chúa dậy.
Khi Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên gió bão, các môn đệ ngạc nhiên và hỏi: "Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?". Thông cảm với các môn đệ vì các ông chưa biết rõ Chúa là ai, quyền năng thế nào để phó thác mạng sống mình cho Chúa. Nhờ phép lạ này, các ông nhận ra Thầy có quyền trên cả gió và biển, có quyền như Thiên Chúa vậy. Từ đó, các ông suy nghĩ, tìm hiểu con người Thầy hơn.
Những trắc trở đến từ thiên nhiên chỉ nói lên một phần nhỏ sự yếu đuối của con người khi phải đối diện với trăm ngàn đợt sóng mãnh liệt từ các dục vọng làm xáo động tâm hồn họ. Những sự ác dữ dội như sóng biển ấy chẳng để ai ngủ yên, mà bắt người ta phải đặt niềm tin vào Chúa trong khi chống cự để có được sự sống muôn đời: “Xin Chúa thấy cho: thù địch con đông vô kể, chúng ghét thân này, ghét cay ghét đắng. Xin bảo toàn sinh mạng và giải thoát con, đừng để con tủi nhục, bởi vì con ẩn náu bên Ngài” (Tv 25,19-20).
Giông bão bắt người ta phải tin, nhưng niềm tin lại cần đến thử thách của giông bão, vì niềm tin cần được thử thách để lớn lên. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta giúp ta biết mình hơn, biết yêu mến cậy trông vào Chúa hơn và giúp đức tin vững mạnh hơn. Chúa phán với ông Gióp trong gió bão, dạy dỗ ông những lẽ khôn ngoan. Ông Gióp đã luôn vững tin vào Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Các Tông đồ cũng gặp bão táp trên biển cả. Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên giông bão. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn, từ nay các ngài không còn cuống quít sợ hãi mỗi khi gặp gian nan nữa. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng hơn. Thánh Phaolô nhắc nhở: vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!” đem đến cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Thiên Chúa.
Tàu thuyền một khi đã lênh đênh trên mặt biển rồi thì không thể nào tránh được những cơn sóng to nhỏ và chẳng có cách chi thoát khỏi những chao đảo, bập bềnh và lắc lư do bão táp và cuồng phong gây nên. Cũng vậy, mọi người không ai tránh khỏi những sóng gió và bão tố to nhỏ do biển đời này gây ra!
- Khi tôi lâm vào cảnh hoang mang, sợ hãi, lúng túng, lo lắng, bất an, phiền muộn, chán chường, thất vọng…
- Khi gia đình tôi chạm trán với những biến cố đau thương như tai nạn xe cộ, tai nạn nghề nghiệp, thất nghiệp, vợ chồng con cái bất hòa xung đột với nhau, đau ốm, tang chế…
- Khi trong cộng đoàn giáo xứ của tôi xảy ra những gương mù, gương xấu: đố kị, ghen tương, kèn cựa, tranh giành quyền lợi, chia bè, kéo phái, tố cáo nhau, mạt sát, thù ghét nhau …
- Khi trong cộng đoàn dòng tu của tôi phải đương đầu với những khủng hoảng về mặt nhân sự, tài chánh, huấn luyện, đào tạo, kỳ thị, chia rẽ, phân biệt, thiên vị…
- Khi Giáo Hội bị bêu xấu, hạ nhục, và bị công kích bởi gương mù gương xấu do một số nhỏ giáo sĩ gây ra…
Thuyền trên biển gặp sóng gió, bão táp là chuyện rất bình thường. Khi thuyền đời của mình không thể tránh được sức va chạm và những ảnh hưởng của sóng gió, bão táp giông tố của cuộc đời này thì tôi phải làm gì để giữ cho thuyền khỏi bị lật úp?
Cách hay nhất là bắt chước các môn đệ, chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài dẹp tan sóng gió và bão tố bảo vệ thuyền của mình khỏi bị nhận chìm. Chỉ khi nào tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô, Đấng có quyền năng trên sóng gió mưa bão và mở miệng van xin Ngài ra tay cứu giúp thì lúc đó thuyền đời mới được bình an, bởi lẽ “Không có Thầy thì các con không thể làm gì được!” (Ga 15,5).
Tin mừng hôm nay giúp chúng ta luôn sống an tâm. An tâm, bởi con thuyền cuộc đời chúng ta ra khơi, giữa phong ba bão táp, giữa những thử thách gian truân vẫn luôn có Chúa là thuyền trưởng hướng dẫn thuyền vượt sóng. An tâm, bởi Chúa luôn xuất hiện đúng lúc đúng thời để ra tay nâng đỡ chúng ta trước những khó khăn. An tâm, bởi chúng ta biết chúng ta tin vào Đấng chiến thắng mọi thế lực ác thần và sự chết. An tâm, bởi từ nay, cuộc đời chúng ta đã trao vào tay Chúa, tín thác mọi sự trong sự quan phòng của Thiên Chúa, vì như thánh Phaolô, “tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm 1,12).
Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta vững tin vào sự hiện diện của Chúa, để trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, chúng ta luôn có Chúa ở vị trí hoa tiêu để hướng dẫn và can thiệp kịp thời, giúp chúng ta đến bến bờ bình an.
31. Biển đời và biển khơi – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
Cuộc ra khơi nào cũng chứa đựng những bất trắc, những hiểm nguy. Dòng đời nào cũng có biết bao cạm bẫy giăng ngang. Biển khơi luôn làm cho con người sợ hãi. Dòng đời luôn làm cho con người lo âu. Con người luôn cảm thấy mình quá nhỏ bé trước biển khơi và biển đời. Biển đời và biển khơi mãi mãi làm cho con người cảm thất bất lực. Sóng gió vẫn thét gào. Sự dữ vẫn tung hoành. Con người luôn phải đối phó trước những tình huống rủi ro có thể xảy đến.
Thời gian qua báo chí nói nhiều về những nguy hiểm của các ngư dân Việt Nam đánh cá xa bờ. Lênh đênh trên biển. Không được bảo vệ. Một mình đối phó với biết bao hiểm nguy do thiên nhiên đưa đến, và ghê sợ hơn là do chính con người gây ra. Sự táo bạo của bọn cướp biển. Sự tranh giành phần biển đánh cá của các nước lân bang. Nhiều ngư dân cảm thấy sợ hãi khi phải rời bến xa bờ. Họ cảm thấy bất lực trước gian nguy trước mặt. Họ không dám mạo hiểm đánh đổi tính mạng mình để đổi lấy một vài con cá. Họ đành rút lui. Họ sợ không thể đương đầu với bao sóng gió nghi nan. Kẻ bán thuyền. Người để thuyền nằm bờ chờ đợi thời cơ. Có mấy ai đủ can đảm ra khơi lúc này? Họ biết rằng ở nhà thì đói. Nhưng ra đi càng thêm nợ nần, có khi còn mất cả tính mạng!
Năm xưa các tông đồ đã từng hoảng loạn, sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên, của giông bão. Giông bão như muốn nhấn chìm tất cả: con người và tài sản. Con thuyền của họ thật mong manh! Họ đâu nghĩ rằng đêm nay biển dậy sóng trào. Họ đâu lường hết được những rủi ro có thể đến với họ đêm nay. Họ phải đối đầu với nguy nan, với bất trắc, với rủi ro. Một chiếc thuyền nan mong manh trên biển cả biết bám víu vào đâu? Làm sao họ có thể vào bờ an toàn trước gió biển và cuồng phong lồng lộng. Họ bất lực. Họ muốn buông xuôi cho dòng đời xô đẩy. Nhưng may thay, họ đã nhớ đến Thầy. Thầy vẫn hiện diện bên họ. Có Thầy hiện diện tại sao không cầu cứu? Thầy có thể làm cho kẻ chết sống lại. Thầy có thể đẩy lùi sự dữ. Thầy có thể làm mọi sự. Tại sao không chạy đến cùng Thầy? Dầu sao Thầy cũng là một cái phao duy nhất để các ông bám víu trong lúc nguy nan của dòng đời.
Các ông đã chạy đến kêu cầu Thầy: “Thầy ơi, chúng con chết mất!”. Đó là tiếng kêu từ thẳm sâu tâm hồn cần đến sự trợ giúp từ Thầy Chí Thánh. Đó là tiếng cầu cứu nói lên sự bất lực của con người trước sóng gió ba đào.
Đó cũng là tiếng kêu cứu của con người hôm nay khi đứng trước biết bao nghịch cảnh xảy đến trong đời. Biển đời vẫn đưa đẩy những sóng gió nghi nan, những bất trắc đau thương. Thiên tai vẫn ập xuống địa cầu. Sự dữ vẫn đang tung hoành. Có nhiều người như muốn thất vọng buông xuôi vì không tìm được lối thoát. Có nhiều người oán trời oán đất vì quá sức chịu đựng. Có nhiều người ôm phiền muộn trong đau thương một mình vì chẳng tìm được sự an ủi, cảm thông và tin tưởng nơi tha nhân. Dòng đời vẫn còn đó tiếng kêu van tha thiết dâng lên Đấng tối cao. “Xin cứu chữa chúng con, Chúa ơi!”.
Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết bao sóng gió nổi trôi. Cuộc đời tựa như chiếc thuyền nan chòng chành trước bao cám dỗ mời mọc, bao sự dữ bủa vây. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy kêu cầu Chúa. Hãy đưa tay để Chúa dìu chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Dòng đời đâu mấy khi bình yên. Con người mãi chơi vơi trong bể khổ trần gian. Nhưng có Chúa vẫn đang đi trong cuộc đời chúng ta. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy tin tưởng vào tình thương quan phòng của Chúa, Ngài sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho con cái của Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng luôn hiện diện bên cạnh các tông đồ và bên cuộc đời chúng ta, xin thương đến những cảnh đời đầy khó khăn thử thách của kiếp người chúng ta. Amen.
32. Vẫn chưa có lòng tin?
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Nằm trong văn mạch 4:35-5:43, trình thuật 4:35-41 là một trong những đoạn trình bày quyền năng của Chúa Giêsu được biểu lộ cho các môn đệ sau khi Người đã giảng dạy (4:1-34): giải thoát khỏi nguy hiểm sự chết (4:35-41); khỏi quyền lực thù nghịch với Thiên Chúa (5:1-20), khỏi bệnh tật (5:25-34), và khỏi sự chết (5:21-24.35-43). Điểm chung của các trình thuật nầy là: - sự hiện diện của các môn đệ ( 4:35; 5:13; 5:31.37); - sự bất lực của con người - cầu cứu ở Chúa Giêsu (4:38; 5:3; 5:23; 5:26); - Chúa Giêsu giải thoát mọi sự dữ (4:39; 5:12-13; 5:29; 5:41tt); - Người đòi hỏi lòng tin (4:40; 5:34.36). Cấu trúc của đoạn 4:35-41 có thể phân ra như sau: 1- Nhập đề: bối cảnh và nhân vật (cc. 35-36); 2- Chúa Giêsu làm sóng gió lặng yên (cc. 37-29); 3- Kết luận: Thắc mắc của cả Chúa Giêsu và các môn đệ (cc. 40-41).
Câu 4:34 là móc nối giữa hai đoạn 4:1-34 và 4:35-5:43. Như khi ở riêng với các môn đệ, Chúa Giêsu đã thường cắt nghĩa mọi sự cho họ, Người cũng sẽ tỏ chân dung của Người qua những việc quyền năng Người thực hiện khi Người và họ đã tách khỏi dân chúng (x. 3:9.20.32; 4:1). Họ cần “ở với Người” (c. 36) như lần đầu tiên họ được kêu gọi để có thể có kinh nghiệm sâu đậm về Người (3:14; x. 5:37). “Buổi chiều” trong Marcô thường là khung cảnh của những việc không tốt lành sẽ xảy đến (4:35; x. 6:47; 11:11; 14:17; 15:42). Đây là lần duy nhất Marcô nói là các môn đệ “đem Người theo” (paralambano). Động từ nầy nói đến quan hệ giữa Chúa Giêsu-môn đệ. Thông thường Người đem các môn đệ theo để tỏ cho họ chân tính của Người (9:2), cho họ hiệp thông vào cuộc thương khó của Người (10:32; 14:33). Ngược lại, các môn đệ đem Người theo và cuối cùng tỏ lộ cho Người thấy sự yếu đuối của họ (4: 40).
Trong hành trình sang bờ bên kia, các môn đệ kinh nghiệm ba điều: vũ lực của gió bão kéo theo nguy hiểm chết người, sự bất lực của con người và quyền năng của Chúa Giêsu (cc. 37-39). Gió bão được kể là quyền lực thù nghịch gây hại cho con người. Chúa Giêsu ngăm đe và ra lệnh “Im đi!” cho ma quỷ và gió bão (x. 1:25; 3:12; 4:38; 8:33; 9:25). Các môn đệ thấy lâm nguy cho tất cả “chúng ta”, nhưng lại tỏ ra bất lực chế ngự gió bão, nên phải làm Người chỗi dậy (egeirò). Mỗi lần Chúa Giêsu “làm ai chỗi dậy” là Người đã chữa lành người đó (x. 1:31; 5:41; 9:27). Trái lại, các môn đệ chờ đợi sự can thiệp từ phía Người. Việc Người ngủ trong khi thuyền gặp bão tố cho thấy Người không sợ bị hại do những gì có thể xảy ra (x. 13:36; 14:37.40tt). Không cần ngăn ngừa và tránh né, vì Người làm chủ trên gió bão.
Khi gió bão đã biến mất, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với các môn đệ, cũng như họ cũng tự hỏi về Người là ai. Hai câu hỏi của Người không mâu thuẫn nhau; trái lại, mở một con đường. Trong tình huống gió bão có thể gây chết người, vì đã để mình cuốn lôi bởi vũ lực vô nhân tính, nên các môn đệ đã cảm nghiệm cách thâm sâu sự bất lực mà biểu hiện của nó là sự sợ hãi. Trái lại, cũng trước nguy hiểm ấy, nếu để Chúa Giêsu và sự hiện diện của Người dẫn dắt vô điều kiện, sẽ không cảm thấy bị đe dọa và không sợ hãi. Đó là đức tin vô điều kiện Người muốn nơi môn đệ của Người (x. 11:22). Còn câu tự hỏi của các môn đệ rất giống với những câu hỏi của dân chúng trước đây, chỉ sự kinh ngạc và thán phục trước công cuộc cao cả tỏ hiện quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu (x. 1:27).
Biết Chúa Giêsu không chỉ bằng tri thức, mà cả kinh nghiệm bản thân. Đức tin cần thiết để nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đang thực hiện những điều không thể cho con người, và để sống hiệp thông với Người (x. 4:11).
33. Lạy Thầy cứu chúng con với, chết mất
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
1. Lo sợ và tin tưởng
Kinh nghiệm cho thấy Sợ hãi vẫn đi theo đời sống của con người và mỗi chặng đường cuộc sống là một cái gì đó làm cho con người sợ hãi.
Từ cái sợ mơ hồ của thời còn nhỏ như:
* Sợ người lớn, sợ bóng gió, sợ con vật.
Đến cái sợ chính đáng của tuổi trưởng thành:
* Sợ thất nghiệp, sợ gia đình phân tán, sợ thiên tai, sợ chiến tranh, sợ chết...
Câu chuyện của Phêrô đi trên biển hôm nay gợi lại cho chúng ta thấy phần nào cái sợ của con người và niềm tin mỏng manh vào Chúa.
a. Sợ hãi chiếm một địa vị khá lớn trong cuộc sống:
- Đứng trước một nghịch cảnh, ta thấy lòng nao nao rung động.
- Nhìn núi cao hùng vĩ, ngó vực thẳm hun hút, chân đứng trên đá vững chắc cũng vẫn thất run run trong lòng.
- Gặp một con thuyền lạ tiến đến với súng ống lăm le chĩa vào thuyền, ta thấy nguy cho tính mạng.
- Một tiếng động trong đêm hoang vắng làm ta lạnh xương sống.
- Nhìn vào thực tại cuộc sống còn biết bao nhiêu cái lo cái sợ khác nữa: Thất nghiệp lấy gì mà trả tiền nhà? Sợ thiếu thuốc men, sợ bệnh tật, sợ con hư thân, sợ cả bà nội tướng la nữa... Sợ hãi chỉ vì lúc đó cái ý tưởng nguy nan ám ảnh làm ta mất bình tĩnh, tâm thần rối loạn.
b. Ngước nhìn về lịch sử con người từ thời thượng cổ:
- Ađam Evà cũng đã mang cái sợ khi lỗi luật Chúa: Ăn trái cấm, trần truồng nên không dám bước ra khỏi bụi cây (Gen 3:9-10).
- Con trẻ sơ sinh vừa lọt lòng mẹ đã cảm thấy sợ hãi mà khóc.
c. Sợ có nhiều cấp bậc và nhiều phương diện:
- Kẻ bạo động giết người vì sợ người khác giết mình.
- Kẻ độc tài như Tần Thủy Hoàng tàn sát, đốt làng vì sợ dân hại mình.
- Các cường cuốc trên thế giới võ tranh ráo riết cũng vị sợ mình bị tiêu diệt.
- Tóm lại, thế giới này là thế giới sợ hãi, ngoại trừ kẻ điếc không sợ súng còn chúng ta ai cũng sợ cả.
Nhưng phải nhận thực: Chỉ nên sợ cái nào đáng sợ, lại phải biết trấn át sợ hãi để mình bình yên.
- Chúa Kitô sau khi truyền cho sóng gió im lặng, Ngài bảo các môn đệ: "Sao các con sợ? Các con không có đức tin ư?" Điều đó không khác gì Ngài nói: "Các con không biết Thầy ở cùng thuyền sao? Các con không biết Thầy có quyền năng lấn át gió biển sao? Thầy đã chẳng cho Phêrô đi trên mặt biển đến với Thầy sao? Vậy sao các con sợ chìm thuyền?"
2. Có Chuyện kể rằng:
a. Một người làm xiệc rất giỏi, ông đi trên một sợi dây từ nóc nhà này qua nóc nhà kia, hai tay kẹp thêm hai người nữa. Ông vừa đi vừa nhảy mà không sao cả. Hai người hai bên còn cười và dẫy dụa mua vui cho khán giả.
Nhìn xuống dưới đất, ông làm xiệc thấy em bé đứng há hốc miệng nhìn lên cách thú vị. Ông hỏi: "Em có tin tôi cũng bế em trên dây được không?" Em trả lời: "Tôi tin chứ". Nhưng khi ông làm xiệc tới gần, em bé liền chạy mất. Đó là tin tưởng ngoài miệng nhiều hơn là tin tưởng trong lòng. Còn kẻ tin tưởng thật vào Chúa thì khác.
Một Chuyện khác:
b. Một cậu bé 5 tuổi đang ngủ ngon trên thuyền, bỗng thức giấc vì bão nổi lên. Cậu mở mắt thấy mọi sự đang chìm trong bóng tối. Tiếng gió lách qua khe cửa rít lên từng cơn. Bỗng bé xao động, cậu hoảng hốt goị cha:
- Cha ơi. Cha ơi! Con sợ quá.
Người cha nghe tiếng con hối hả đáp lời:
- Cha đây con. Nghe tiếng cha cậu đáp vọng lại: Cha đâu? Con không thấy?
Cậu đưa tay quờ quạng lung tung. Đụng được vào cha, cậu níu lất cha. Cha ôm con vào lòng, vỗ về và ru cậu ngủ lại trong giấc ngủ lại.
Mặc dù trời vẫn mưa, bão vẫn lớn, màn đêm vẫn dầy đặc, nhưng sợ hãi trong lòng cậu bé không còn nữa.
Trong những ngày đau khổ của cuộc sống trần gian, những lúc hiểm hoạ cuộc đời, chớ gì chúng ta cũng biết cầu cứu Chúa với niềm tin, một niềm tin phó thác. Chỉ vậy thôi, không cần gì hơn nữa, chúng ta sẽ cảm thấy an tâm với cuộc sống.
Chúa sẽ không cất lấy sự lo lắng của chúng ta cho tới khi ta quyết định phó thác cho Ngài.. Lăng xả vào lòng Ngài và Ngài sẽ vỗ về ta vào trong giây phút bình an. Chúa không chịu thua chúng ta khi chúng ta biết phó thác nơi Ngài.
34. Bão tố yên lặng
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Lịch sử tường thuật một phép lạ sau đây: Khi Đô Đốc Magella hướng dẫn đoàn tầu thám hiểm Phi Luật Tân, vừa ra giữa biển khơi thì gặp cơn bão dữ dội, khiến đoàn tầu đắm chìm hầu hết, chỉ còn duy chiếc tầu của Đô Đốc đang bồng bềnh trôi dạt trên sóng nước. Mọi người đều kinh hoàng khiếp sợ, tụ họp lại trên bong tầu để chờ đợi tử thần. Nhìn thấy bên cạnh mình, một thiếu phụ ẵm đứa con thơ, Đô Đốc xin được ẵm đứa bé. Rồi ông bồng nó trên tay, dâng lên trời cao và dâng lời cầu nguyện thống thiết lên Chúa: "Lạy Chúa, chúng con là những kẻ tội lỗi, đáng chết chìm dưới vực thẳm này, nhưng xin Chúa hãy đoái thương nhìn đến em bé thơ ngây vô tội này, mà tha thứ tội lỗi cho chúng con". Lịch sử xác nhận sự kiện lạ lùng này bằng lời chứng: "Lời ông nguyện vừa dứt thì cơn bão tố yên lặng" (Trích sách "Gặp Gỡ Chúa" trang 94).
I. TẠI SAO CHÚNG CON SỢ HÃI
Cũng một tâm trạng hoảng sợ như đoàn thám hiểm của Đô Đốc Magella trên đây, các Tông Đồ cũng hãi hùng kinh khiếp khi thấy phong ba nổi lên dữ dội, khiến các ngài tới đánh thức Chúa dậy và có vẻ trách giỗi Chúa: "Thưa Thầy, chúng con hầu chết chìm mà Thầy cứ làm ngơ, không quan tâm gì sao?" Chúa chỗi dậy ngay và quát bảo giông tố: "Hãy im đi! Hãy im đi!" Với lời uy quyền đó của Chúa, lập tức giông tố ngừng và biển lặng như tờ. Quay lại nhìn các môn đệ, Chúa hỏi như quở trách các ông: "Tại sao các con sợ hãi? Các con không có Đức Tin ư?" Thấy phép lạ Chúa làm, lại được nghe lời Chúa khiển trách, các Tông Đồ tự cảm thấy hổ thẹn vì thiếu lòng tin nơi Thầy, nên các ngài kinh hãi nói với nhau: "Người là ai mà gió bão và giông tố cũng đều phải vâng lệnh Người?"
II. TRẦN GIAN LÀ BIỂN KHƠI
Trần gian là biển khơi, lúc phẳng lặng, lúc gợn sóng, lúc phong ba giông tố. Nhân loại như đoàn lữ hành vượt biển, cầu mong tới bến bình an.
Trần gian lúc được sánh ví như là biển khổ, như thung lũng nước mắt; như nơi giao chiến với biết bao kẻ thù, phải vật lộn vất vả, đổ mồ hôi sôi nước mắt vì sinh kế.
Nhưng với cái nhìn hy vọng và lạc quan, Thánh Tông Đồ Phaolô đã nói với chúng ta: "Đây là thời thuận tiện, đây là ngày cứu độ" (1 Cor 6:2). Như thế, thời gian Chúa ban cho chúng ta được sống trên trần gian này, lại không phải là một ơn ban, một cơ hội thuận tiện giúp chúng ta lập công luyện đức, để thánh hóa bản thân và cứu độ tha nhân, cùng nhau phụng sự tôn thờ và yêu mến Thiên Chúa để đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã sắm sẵn cho chúng ta là con cái Chúa trên Quê Trời sao?
Toàn thể nhân loại, nhất là con cái Chúa, sống trên trần gian này là như đoàn lữ hành đang trên đường tiến về Quê Hương vĩnh cửu, lòng luôn khát mong đạt tới bến bình an, nơi hạnh phúc, nơi mà lòng chúng ta được toại nguyện, được thỏa mãn trong Chúa là cùng đích tối chung của chúng ta.
Kết Luận
Để đạt tới cùng đích mong chờ của ơn gọi làm con cái Thiên Chúa, chúng ta cần phải đặt trót niềm tin cậy phó thác nơi một mình Chúa. Có Chúa hiện diện nơi cuộc sống, được Chúa ngự trong tâm hồn, chúng ta còn sợ hãi gì? Chúa đã chết thay cho chúng ta, để tái sinh chúng ta trong ơn thánh, cho chúng ta được phục hồi ơn làm con cái Chúa nhờ công nghiệp Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô Con Chúa, chúng ta còn sợ hãi gi?
Vậy chúng ta hãy sống cho Chúa, hãy biến đổi và trở nên một tạo vật mới của Chúa. Nếu chúng ta có tâm hồn trong sạch thánh thiện, luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, giông tố bão táp có nổi lên mạnh mẽ thế nào đi nữa, đời sống chúng ta cũng sẽ luôn được an bình và được thưởng nếm niềm vui sướng hạnh phúc chân thật của Chúa ngay trên trần gian này.
35. Suy niệm của Lm Trọng Hương.
A. Hạt giống...
Phép lạ dẹp yên bão tố này chứng tỏ uy quyền của Chúa Giêsu trên sức mạnh thiên nhiên:
- Những chi tiết mô tả sức mạnh của thiên nhiên: một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, thuyền đầy nước, các môn đệ hoảng sợ.
- Những chi tiết mô tả sức mạnh ưu việt của Chúa Giêsu: Ngài vẫn ngủ, Ngài hăm đe gió và truyền lệnh cho biển, sau chỉ một lời truyền của Ngài gió liền tắt và biển lặng như tờ; sau phép lạ các môn đệ hỏi nhau “Người này là ai mà cả đến gió lẫn biển cũng tuân lệnh”.
B.... nẩy mầm.
1. Vì Chúa là chúa tể của thiên nhiên nên khi nhìn thiên nhiên, chúng ta phải dâng lời ca tụng Chúa. “Chúc tụng Chúa đi, nguồn nước tận cao xanh; Chúc tụng Chúa đi mọi cơ binh thượng giới; Chúc tụng Chúa đi mặt trời với mặt trăng; Chúc tụng Chúa đi hỡi tinh tú muôn ngàn; Chúc tụng Chúa đi nào mưa sương tất cả; Chúc tụng Chúa đi mọi luồng gió cơn giông; Chúc tụng Chúa đi sức nóng với lửa hồng; Chúc tụng Chúa đi trời nồng và khí lạnh; Chúc tụng Chúa đi nào sương đọng mưa tuôn; Chúc tụng Chúa đi kìa thời đông tiết giá; Chúc tụng Chúa đi nào băng phủ tuyết rơi; Chúc tụng Chúa đi hỡi đêm ngày đắp đổi; Chúc tụng Chúa đi ánh sáng và bóng tối; Chúc tụng Chúa đi chớp giật với mây trôi...” (Tv 62: Kinh Sáng Chúa nhựt Tuần I).
2. Sức mạnh thiên nhiên cũng là những hiện tượng tự nhiên xảy đến trong cơ thể ta. Thí dụ: lúc ta khoẻ khi ta bệnh, khi ta trẻ lúc ta già... Có lúc sức khoẻ suy sụp làm ta tưởng mình đang trên một chiếc thuyền gặp cuồng phong bão táp. Và khi đó hình như Chúa vẫn ngủ. Nhưng thực sự Ngài không ngủ, Ngài vẫn là người lèo lái dẫn dắt thuyền đời của ta. Hãy phó thác cho Ngài dẫn dắt.
3. Thi sĩ Lord Tennyson và một người bạn đang đi dạo trong vườn hoa và cùng nhau trao đổi về những chủ đề thời thượng của quần chúng. Là một Kitô-hữu, người bạn muốn biết thái độ của thi sĩ đối với đức Kitô. Sau mấy giây thinh lặng, người bạn hỏi: “Anh có khi nào nghĩ về đức Kitô không?” Tennyson đưa tay ngắt một bông hoa rực rỡ toả hương bên đường, nói: “Như mặt trời đối với đoá hoa thế nào, thì đức Kitô đối với tôi cũng vậy.” (Góp nhặt)
36. Bão biển – Lm VIKINI
Cơn bão số hai đổ bộ vào tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng từ chiều 24 đến 25 tháng 05 năm 1989, sức gió giật cấp 12 kèm theo mưa to đổ xuống như thác. Đây là cơn bão mạnh nhất từ trước đến nay ở tỉnh này. Thống kê đầu tiên cho biết gần 500 người bị chết và mất tích. Hàng trăm người bị thương, hàng vạn ngôi nhà, nhiều trường học, bệnh viện, trạm trại, kho tàng … bị sụp đổ, hàng nghìn tầu thuyền bị chìm, hư hỏng, thất lạc. Trên 50.000 mét khối kinh mương thủy lợi bị vỡ lở … Bị tổn thất rất to lớn chưa thể tính hết được.
Chỉ một cơn bão ở một miền nhỏ so sánh với cả nước, và nếu sánh với cả địa cầu nó chỉ là một chấm nhỏ đã phải chịu một cơn bão khủng khiếp như thế, thì trên trái đất này còn phải chịu bao nhiêu cơn bão khủng khiếp đến chừng nào! Biển cả đối với loài người vẫn là mối nguy cơ lớn đe dọa ghê gớm, một mãnh lực không thể chế ngự được. Trước nguy cơ của biển, con người quá bé nhỏ mong manh không ai dám cậy tài, cậy sức vào bất cứ một con tàu nào, dù nó là con tàu khổng lồ như Titan, hay tối tân như con tàu nguyên tử, chỉ đụng sơ vào tảng băng, đá ngầm đều vỡ tan, chìm mất tích dưới đáy đại dương.
Biển hồ Tibêria xưa tới nay vẫn nổi tiếng sóng gió đột ngột nổi lên dữ dội do những luồng gió thổi từ cao nguyên Giôlăng tới. Thêm vào đó, thời các tông đồ, thuyền bè chỉ là mấy miếng gỗ, tre, nứa thô sơ, khi gặp bão biển, chỉ còn cách nộp mình cho thần chết. May cho các môn đệ, các ông đã biết Đức Giêsu, Đấng đã trừ khử quỷ dữ (Mc. 1, 25), Đấng chế ngự thần chết (Mc. 5, 35-43), Ngài đang ngủ ở đàng sau thuyền, chắc chắn sẽ khắc phục được bão biển.
Nhưng sao Ngài vẫn ngủ yên trước cuồng phong dữ dội? Thật lạ lùng! Các ông không thể kiên nhẫn chờ Ngài thức dậy. Sóng đã ập vào thuyền đầy tràn nước rồi, mau mau chạy đến kêu gào Ngài cứu nguy: “Lạy Thầy, xin Thầy cứu vớt, chúng con chết mất”.
Chìm thuyền, chết đến nơi rồi, thế mà Ngài còn than trách: “Sao nhát đảm, hỡi kẻ yếu lòng tin?”. Lòng tin quá yếu, nhưng các ông vẫn còn một chút tin tưởng cầu xin Ngài, nhờ đó, Thầy đã quát bảo bão biển phải im lặng ngay. Kinh ngạc bao nhiêu, Ngài là ai mà bão tố, sóng gió biển cả phải tuân lệnh. Thứ mãnh lực vô tri, vô giác, sao biết nghe lời Ngài? Sao những thứ có tri, có giác, không biết nghe lời Ngài mà lặng yên đi, đừng nổi loạn nữa? Tại sao loài người dám nổi loạn chống lại Ngài? Phải chăng họ cậy có tri, có giác, có tài? Vì cậy có tri, có giác, có tài nên đã bị những thứ vô tri, vô giác, vô tài nổi loạn chống lại loài người. Chừng nào loài người mới biết mở mắt ra thấy mình quá yếu đuối, quá bất lực trước thiên nhiên vô tri giác, lúc đó loài người mới biết chạy đến cầu cứu Đấng đã dựng nên và an bài mọi sự. Thiên Chúa nhiều lần đã dạy cho loài người những bài học đích đáng như đại hồng thủy, động đất, cháy rừng, hạn hán, bệnh tật để đừng bao giờ dám cậy mình đòi bằng Thiên Chúa hay chối bỏ Ngài.
Các môn đệ, phải chăng lúc ra khơi cũng tự mãn cho mình là dân biển lành nghề, chẳng sợ chi ai, mặc kệ Thầy nằm đó, Thầy đang nhờ cậy ta vượt biển! Viết đoạn Phúc Âm này, Marcô không phải chỉ giản dị kể lại một phép lạ, mà chủ đích làm nổi bật câu hỏi: “Ngài là ai mà bão và biển phải tuân lệnh?”. Không phải Ngài vô tình dẫn môn đệ sang bờ biển đối diện bên kia, miền đất của lương dân thù địch với Galilê, miền đất của dân Do thái. Suốt cuộc đời Ngài phải trải qua những cuộc chiến gay go chống lại kẻ tin ma thờ quấy, sự dữ, tội lỗi, bệnh tật và cái chết khốc liệt. Những sự dữ đó Kinh thánh thường gọi đêm tối, vực sâu biển cả, Ngài ngủ trong đêm tối giữa biển cả trần gian, bao nhiêu cuồng phong bão lực đang phá xiềng, phá xích, xổ lồng tung hoành khủng khiếp. Giấc ngủ kinh hoàng của Ngài là cuộc thương khó; Ngài ở đàng lái, cuối thuyền, dựa đầu vào gối mà ngủ giữa đêm bão biển. Cuối đời Ngài, Ngài cũng phải dựa đầu vào cây thập giá mà chết giữa những địch thù khát máu. Hôm nay, giữa bão biển đêm tối, Ngài muốn thao dượt đức tin non yếu của các ông, để ngày mai giữa cơn khủng hoảng thương khó của Ngài, các ông “đừng sợ”. Nhưng các ông vẫn khiếp sợ chạy trốn. Phúc cho các ông, Ngài thức dậy, dẹp yên sóng gió. Ngài chỗi dậy từ trong kẻ chết cho các ông được bình an! được chỗi dậy với Ngài trong vinh quang, Ngài bảo trước cho Phêrô: “Khi con chỗi dậy, con hãy làm cho anh em con nên vững mạnh” (Lc. 22, 32).
Giờ đây Phêrô đang kể lại kinh nghiệm sống chết này cho giáo đoàn Rôma đang lâm cảnh cuồng phong bão táp gây nên cảnh chết chóc tử đạo khốc liệt để họ kiên trì vững mạnh trong đức tin mà biết dựa đầu vào Đức Giêsu mà chỗi dậy trong “Đấng đã chết và sống lại vinh quang vì họ” (2Cr. 5, 17).
Lạy Chúa, biển đời đầy dẫy những nguy hiểm: “nguy hiểm về sông ngòi, nguy hiểm về trộm cướp, nguy hiểm về đồng bào, nguy hiểm về dân ngoại, nguy hiểm nơi thành thị, nguy hiểm chốn hoang vu, nguy hiểm trên biển cả, nguy hiểm vì anh em giả dối … nào ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối? Ai vấp ngã mà tôi không bỏng xót!” (2Cr. 11, 26-29).
Lạy Chúa xin cho chúng con biết dựa đầu vào Chúa mà chỗi dậy luôn luôn.
37. Những đợt sóng
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Có lẽ chẳng ai lạ gì với câu ca dao này: “Người ta đi biển có đôi, còn tôi đi biển mồ côi một mình”. Đó là nói về tình trạng một phụ nữ có chồng nhưng chẳng nhờ chồng được gì, cứ phải mình ên lo toan mọi thứ cho gia đình.
Nói đến sóng là nói đến nước, sông và biển. Sóng có nhiều loại: Sóng lớn (to), sóng nhỏ, sóng cao, sóng thấp, sóng cồn, sóng cả, sóng bạc đầu, sóng thần,… Sóng còn mang nghĩa khác như sóng truyền hình, sóng phát thanh, sóng điện từ,… thậm chí còn gọi là làn sóng người. Chắc hẳn nguy hiểm nhất và đáng sợ nhất là sóng cám dỗ, sóng tội lỗi, sóng mê đắm, sóng thù hận,… Các xu hướng xấu càng ngày càng xuất hiện nhiều, đó cũng là những “con sóng” nguy hiểm cần phải lưu ý!
Về điện tử, sóng còn gọi là bước sóng, có chuyển động với tần số dài hoặc ngắn, và có tác dụng khác nhau. Ví dụ: Sóng phát thanh có tần số ngắn thì có thể phát đi xa, sóng phát thanh có tần số dài thì có thể phát đi gần. Trong vật lý, sóng là sự lan truyền của dao động, sóng có thể mang theo năng lượng, lan truyền trong nhiều môi trường khác nhau, cũng có thể bị đổi hướng (bởi khúc xạ, phản xạ, tán xạ, nhiễu xạ,...), và có thể thay đổi năng lượng (bởi hấp thụ, bức xạ,...), thậm chí là thay đổi cấu trúc (như thay đổi tần số, môi trường phi tuyến tính,...).
Trong ca khúc “Sóng Về Đâu”, cố NS Trịnh Công Sơn đã từng nói với biển: “Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người; biển sóng biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng về đâu?”.
Sóng là hình tượng của nỗi gian truân, cực khổ của con người. Không ai muốn gặp đau khổ, nhưng chính đau khổ mới làm cho người ta thành nhân. Vả lại, thử thách càng lớn, cơ hội càng lớn. Ngạn ngữ Phi châu có câu: “Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba”. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Chính gian khổ cho chúng ta biết ai là người đáng là thầy ta hay không.
Thomas Carlyle (1795-1881, triết gia, nhà văn châm biếm, nhà viết luận, sử gia và nhà giáo người Tô Cách Lan) đã nhận định: “Tai ương là bụi kim cương mà Thiên Đường dùng để đánh bóng châu báu” (Adversity is the diamond dust that Heaven polishes its jewels with).
Từ cổ chí kim – và có thể cho đến tận thế, có lẽ không ai phải lao đao chịu khốn khổ như Thánh Gióp, thậm chí còn bị Satan thử thách đủ kiểu (Sách Gióp, chương 1). Nhưng dù thế nào thì ông Gióp vẫn một niềm tín trung. Và rồi ngay giữa cơn bão táp, Đức Chúa đã lên tiếng trả lời ông: “Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân? Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài” (G 38:8-10). Rồi Thiên Chúa nói với ông Gióp: “Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (G 38:11).
Trong tâm tình tạ ơn vì được Thiên Chúa giải thoát, tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Họ vượt biển ngược xuôi nghề thương mãi, giữa trùng dương lèo lái con tàu, mắt đã tường việc Chúa làm nên và kỳ công Người thực hiện giữa dòng nước lũ. Chúa truyền lệnh khiến bùng lên bão táp, lớp sóng xô cuồn cuộn dập dồn. Họ nhô lên tận trời, nhào xuống vực sâu, lúc nguy hiểm, hồn xiêu phách lạc, bị quay cuồng, lảo đảo như say, khéo cùng khôn đã chìm đâu mất” (Tv 107:23-27). Thiên Chúa là Tạo Hóa, là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài có quyền “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1 Sm 2:6). Quả thật, đúng như ông Gióp nhận định: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21). Xác định được như ông Gióp thì không gì phải lo. Nhưng muốn được vậy, vấn đề quan trọng là chúng ta có dám chấp nhận thân phận mình mà vẫn chúc tụng Chúa hay không. Điều này không dễ chút nào!
Có tin tưởng thì mới trung thành, và ai trung thành thì chắc chắn không phải thất vọng. Tác giả Thánh Vịnh nói về những người thành tín với Thiên Chúa: “Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa, Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân. Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng, họ vui sướng, vì trời yên bể lặng và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần” (Tv 107:28-31).
Thánh Phaolô cho biết: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người thì mọi người đều chết. Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:14-15). Tình yêu có sức mạnh hơn cả tử thần, khả dĩ khiến người ta làm được những điều lạ lùng, ngỡ như không bao giờ làm được. Tình yêu biến đổi tất cả. Vì yêu thương mà người mẹ liều lấy thân mình che cho đứa con dù biết mình sẽ bị thương hoặc thiệt mạng. Vì yêu thương mà Thánh Lm Maximilian Maria Kolbe (1894-1941, Dòng Phanxicô) đã dám chết thay cho một tử tù. Đó là tình yêu vị tha (vì người khác) chứ không hề có chút gì vị kỷ (vì mình).
Loại tình yêu cao thượng như vậy được Đức Kitô gọi là “tình yêu vĩ đại nhất” (Ga 15:13). Và chính Ngài đã thể hiện tình yêu này vì yêu thương và để cứu độ các tội nhân chúng ta: Ngài bị đóng đinh vào Thập Giá và chết trên đồi Can-vê. Thật hợp lý khi Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải “sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”.
Và vì thế, Thánh Phaolô xác định: “Từ đây, chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa. Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 5:16-17). Người ta luôn thích mọi thứ đổi mới (quần áo, vóc dáng, giày dép, điện thoại, xe cộ,…), nhưng có lẽ người ta chưa thực sự quan tâm việc đổi mới tâm hồn, đặc biệt là tâm linh. Chúng ta đã được Đức Kitô đổi mới, nhưng chúng ta chưa tích cực duy trì sự đổi mới đó nên tâm hồn chúng ta vẫn có cái gì đó “cũ” lắm!
Mỗi khi con sóng duyềnh lên, nó không chỉ “đổi mới” mà còn đem theo phù sa bồi đắp cho vùng đất đó. Tâm hồn chúng ta cũng cần có những đợt sóng mới để đổi mới, để hoàn thiện. Các đợt sóng đó vẫn hằng ngày như thủy triều: Sóng tình yêu, sóng ân sủng, sóng thứ tha, sóng thương xót,… Ước gì “vùng đất” chúng ta để cho Sóng Tình Chúa biến đổi bất cứ lúc nào!
Trình thuật Tin Mừng hôm nay là đoạn Mc 4:35-40, nói về việc Đức Giêsu dẹp yên sóng gió (tương đương Mt 8:23-27 và Lc 8:22-25).
Hôm ấy, khi chiều đến, sau khi giảng dạy cho dân chúng về một loạt các dụ ngôn (người gieo giống, ngọn đèn, cái đấu, hạt giống tự mọc, hạt cải), Đức Giêsu bảo các môn đệ cho thuyền sang bờ bên kia. Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Ngài đi, có những thuyền khác cũng chèo đi theo Ngài. Bỗng dưng một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ thấy Thầy “vô tư” thế không biết, nên họ vội đánh thức Ngài, gọi giật dậy và hốt hoảng la toáng lên: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”.
Có lẽ chúng ta cũng như các môn đệ xưa, chứ chẳng “ngon lành” gì hơn ai, ở ngay bên Thầy Giêsu mà vẫn chưa thấy an tâm khi gặp giông tố cuộc đời. Gọi như điện giật thế thì ai mà chợp mắt nổi. Ngài thức dậy, rồi ngăm đe gió, và truyền cho biển phải “im ngay và câm ngay”. Thế là gió liền tắt, và biển lặng như tờ.
Đâu vào đấy rồi, Ngài nghiêm mặt và nghiêm trách các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”. Họ chỉ có nước ngậm tăm chứ nói chi được. Đúng quá mà! Cãi gì nổi? Các ông hoảng sợ – vừa sợ vì thấy phép lạ vừa sợ vì Thầy mắng thẳng, rồi họ xì xầm với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Theo Thầy vì tin Thầy hay thích điều gì ở Thầy mà giờ này còn hỏi nhau “người này là ai” vậy chứ?
Vâng, thật buồn! Buồn cho họ và buồn cho chính chúng ta, vì chúng ta cũng vẫn “thắc mắc” như vậy, dù chúng ta không nói ra thôi. Chúa Giêsu cũng buồn, Ngài không buồn vì Ngài chưa được chúng ta tin thật, mà Ngài buồn cho đức tin của chúng ta còn non nớt, còn ấu trĩ, chỉ chạy theo “sự lạ” chứ chưa “bén rễ sâu” vào đất-ân-sủng và chưa lưu thông “nhựa” của Cây Nho.
Kinh Thánh đã cho chúng ta biết chắc rằng Thiên Chúa là “Đấng gìn giữ chúng ta, không để chúng ta lỡ chân trật bước”, chắc chắn “Ngài không ngủ quên” và cũng “không chợp mắt ngủ quên” bao giờ (Tv 121:3-4). Thiên Chúa không hề vô tâm vô tính như chúng ta tưởng, đừng suy bụng ta ra bụng người! Miệng thì nói tin, nhưng khi gặp sóng đời duyềnh lên là chúng ta hốt hoảng ngay, mà sóng đời đâu đã to gì cho cam, chỉ mới “lăn tăn” thôi! Chúng ta có đáng trách không nhỉ?
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vững tay chèo, chống, bát, cậy,... dù sóng đời nhỏ hay to. Chúng con không dám xin Ngài đưa thuyền của chúng con ra khỏi vùng biển động hoặc nước xoáy, nhưng xin Ngài làm Hoa Tiêu hướng dẫn chúng con chèo lái để có thể vượt qua mọi con sóng dữ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
38. Bão tố – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Hôm qua ngồi nghe sư huynh Phong giảng tĩnh tâm tại giáo xứ Lộ Đức, Hoa Kỳ, tôi thấy rùng mình khi thấy những cô bé Việt nam bị bán sang các lầu xanh bên Cambodia. Có những em mới chỉ hơn mười tuổi. Kết quả một số em bị mắc bệnh liệt kháng và đã sớm kết thúc cuộc đời trong hoang lạnh. Có cảnh bé thơ Việt nam bị bán đi với giá hai trăm đô. Nhưng em bị trả lại vì có bệnh liệt kháng. Suýt nữa em đã bị giết ngay trước mặt người mua. May thay, đứng trước cảnh đau lòng đó, người mua đành hy sinh mất hai trăm để cứu mạng em.
Những cảnh tang thương đó đã đập vào mắt các bạn trẻ Việt nam hải ngoại. Sư huynh lạc quan về giới trẻ Việt nam Hải ngoại. Chỉ cần năm ngàn đô để cứu các cô gái kém may mắn. Nhưng các bạn trẻ ở Los Angeles đã lạc quyên được mười lăm ngàn. Với số tiền lớn gấp ba như thế, sư huynh đã hết sức cảm động và đầy tin tưởng xông pha đi tìm đường cứu sống những cô gái đó. Nhiều nơi các bạn trẻ, như tại Lộ Đức, tự động đứng ra rửa xe, lạc quyên, hớt tóc giúp người nghèo khổ, bệnh tật, già nua, xây trường học v.v.
Tất cả những khốn cùng của dân tộc đều do sự nghèo đói. Đứng trước biển cả nghèo đói bao la của dân tộc, nhiều người đã tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Chúa có biết gì về những khốn cùng của kiếp người không? Chúa đang ngủ hay thức? Thất vọng tràn trề. Thất vọng như những môn đệ của Chúa trên khoang thuyền năm xưa.
Hôm ấy, sau khi rời đám đông sang bờ bên kia (x. Mc 5:35), Chúa Giêsu đã lôi cuốn một số thuyền theo Người. Chắc lúc đó trời yên bể lặng nên các thuyền mới có thể nối đuôi nhau như thế. Các thuyền đi đông vừa vui vừa cảm thấy an toàn khi hữu sự. Chúa Giêsu cũng chỉ là một người ngồi trong khoang thuyền nào đó mà thôi. Gió biển thổi lên mát quá. Chúa chìm vào giấc điệp bao giờ không hay. Chắc Chúa phải ngủ say lắm mới không nghe tiếng các môn đệ đang thi nhau thét gào cùng sóng biển.
Gió rít mạnh. Các con thuyền lắc lư quá đến nỗi nước trào vào đầy khoang thuyền (x. Mc 5:38). Mạnh đến thế mà sóng gió cũng không kéo Chúa ra khỏi giấc nồng. Đó là dấu chứng tỏ, sau một ngày hoạt động mục vụ, Chúa bị dân chúng “quần thảo” dữ dội lắm. Nhưng như thế mới biết tâm hồn Chúa bình an chừng nào! Quả thế, “ai có tâm hồn trong sạch, mới ngủ được. Và ai ngủ được đều có tâm hồn trong sạch.”(Péguy 1962:27) Đố ai ngủ được như Chúa!
Nhưng Chúa càng bình an, các môn đệ càng bấn loạn lên. Bao nhiêu chiếc thuyền vẫn không thể nương dựa nhau trong cơn sóng bão. Bao nhiêu ngư phủ lành nghề vẫn không đủ tài trí bảo đảm an toàn cho bấy nhiêu sinh mạng đang treo sợi mành. Vận dụng hết năng lực vẫn không tát hết nước ra khỏi các khoang thuyền. Tình hình càng lúc càng nguy ngập. Bí quá, các môn đệ mới chợt nhớ đến Thày như giải pháp cuối cùng. Các ông vội vàng đến kéo Chúa ra khỏi giấc nồng. Các ông không ngại gài thêm một lời trách móc: “Thày ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thày chẳng lo gì sao?” (Mc 5:38) Đối với các ông, Thày thuộc loại người “vô ăn vô lo.” Sao Thày vô tư đến thế?!
Choàng tỉnh khỏi giấc nồng, Thày liền bắt tay vào việc. Các ông nghĩ, nếu mình không đánh thức, chắc chìm xuống đáy biển Thày vẫn còn ngủ. Nhưng thực ra, họ đánh thức Thày, hay Thày đánh thức họ? Thực tế, họ còn ngủ sâu hơn Thày nữa. Họ ngủ vùi trong sự hèn nhát và vô tín (x. Mc 5:40). Bởi vậy, sau khi dẹp tan biển cả, Chúa lôi các ông ra khỏi cảnh tối tăm. Té ra, chính họ mới cần đánh thức, chứ không phải Chúa. Chứng kiến cảnh Chúa ra tay uy quyền trên biển cả, họ mới ngạc nhiên về quyền năng vô biên của Chúa. Từ đó, họ mới biết Chúa là ai.
Nếu chỉ là người phàm, hẳn Chúa không thể nào có quyền năng lớn lao như vậy. Trước sức mạnh biển cả, họ mất bình tĩnh. Nhưng trước quyền năng của Chúa, họ mới “hoảng sợ.” (Mc 5:41) Biển cả có gầm thét cũng chỉ làm cho các ông đâm lo vì sự bất lực của mình. Nhưng quyền năng Chúa mới thực sự làm cho các ông phải đứng trước một thần lực lớn lao trổi vượt hơn thủy thần như Bơhêmốt, Giao long, Raháp. Biển cả vẫn là nơi quỷ dữ hoành hành. Như thế, “Chúa Giêsu chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.” (Các Giờ Kinh Phụng Vụ 2005:184) Nếu không là Thiên Chúa, làm sao Chúa Giêsu có thể có quyền toàn năng đến như vậy?!
Đứng trước những thống khổ mênh mông như biển cả của hàng triệu người Do thái đã bị Đức Quốc Xã tiêu diệt hồi thế chiến thứ hai, ĐGH Bênêđictô XVI cũng đã ngạc nhiên về sự im lặng của Chúa. Có lẽ cũng như các môn đệ trên biển cả, ĐGH cũng thắc mắc: “Thày chẳng lo gì sao?” (Mc 5,38) Câu hỏi đó đã dẫn nhiều người xa Chúa. Nhưng cũng chính thắc mắc đó lại đặt môn đệ trước một mầu nhiệm vô cùng lớn lao. Mầu nhiệm này vượt quá khả năng con người. Bởi thế, muốn đi sâu vào mầu nhiệm đó, con người phải có đức tin. “Chỉ có lòng tin tưởng vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đã chiến thắng quyền lực sữ dữ, mới cho phép họ vượt qua sự sợ hãi.” (Các Giờ Kinh Phụng Vụ 2005:184) Đức tin trở thành sức mạnh khiến ta đứng vững trước tất cả mọi giông tố cuộc đời. Chỉ có đức tin mới là câu trả lời đích xác nhất cho những gì chúng ta đang quan tâm lo lắng hôm nay. Đức tin sẽ không trình bày một Chúa Kitô theo quan điểm loài người (x. 2 Cr 5:16), nhưng một Chúa Kitô đã chết cho mọi người theo đúng ý định Thiên Chúa.
Cám ơn Chúa vẫn cho đức tin sống mạnh trong các bạn trẻ Việt nam hôm nay. Nhìn kỹ vào niềm tin tuổi trẻ chúng ta sẽ thấy tất cả sức mạnh của niềm tin. Bạn trẻ đã mở ra một lối thoát mới cho những bế tắc hôm nay. Chúng ta có quyền hy vọng và học hỏi nơi các bạn!
39. Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin.
Trên con đường theo Chúa Giêsu, mặc dù các môn đệ đã được Người đào tạo, dậy dỗ, uốn nắn… các ông vẫn chưa hiểu gì về đường lối của Chúa: Người đã giảng dậy, đã làm nhiều phép lạ nhưng các môn đệ vẫn sống trong sự mờ ảo của cuộc sống, các ông vẫn chưa làm sao hiểu được ý của Thầy Giêsu. Do đó, đã có lúc các ông tưởng Thầy mình là ma, đã có lúc các ông lánh xa Chúa, đã có lúc các ông phản ứng lại những lời nói, cách sống, cử chỉ, thái độ của Thầy mình. Đức tin của các môn đệ nhiều lúc tưởng như lu mờ, hay nói một cách khác các ông chưa có lòng tin. Tin Mừng Mc 1, 35-41 là một bằng chứng nói lên quyền năng vô biên của Chúa giống như sách Gióp khẳng định:” Chỉ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo quyền năng, chủ tể muôn loài, muôn vật, chủ tể mọi sự”. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho sóng to, gió lớn phải im bật nói lên quyền uy của Chúa. Đáng lẽ các môn đệ phải vui mừng vì Thầy có quyền năng khiến gió to, biển động im hơi lặng tiếng, các môn đệ lại hoảng hốt sợ sệt. Chúa Giêsu đã phải lên tiếng:” Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin sao?”.
CÁI TRỚ TRÊU CỦA CÁC MÔN ĐỆ
Theo Chúa gần ba năm, các môn đệ đã được Chúa dậy bảo nhiều điều: Người đã nói thực tế, đã làm những phép lạ, đã dùng những dụ ngôn, những ví dụ xẩy ra chung quanh các môn đệ để làm sáng tỏ lòng tin của các ông, nhưng các ông vẫn còn u tối, các ông vẫn chưa cảm nghiệm được quyền năng và tư cách thần linh của Chúa Giêsu. Các môn đệ luôn tỏ ra không hiểu hay tỏ ra hiểu lờ mờ về Thầy mình. Các ông luôn mơ tưởng đến việc Chúa Giêsu sẽ khôi phục lại nước Israen và rồi các ông được ăn trên ngồi trốc trước mọi người khi Chúa Giêsu đăng quang làm vua theo ý nghĩ trần gian của các ông. Điều đó không lấy gì làm lạ khi phép lạ hôm nay xẩy ra. Bối cảnh phép lạ được Chúa Giêsu thực hiện vào một buổi chiều trên biển hồ. Thuyền của các môn đệ rời bến để qua bờ bên kia. Chi tiết này giúp chúng ta hiểu phép lạ diễn ra trong đêm. Chúa Giêsu ngồi ở đằng lái, gối đầu mà ngủ. Bỗng gió to, sóng lớn nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Các môn đệ hoảng hốt, xôn xao, nhốn nháo đánh thức Chúa: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo sao?”(Mc 4, 38). Chúa Giêsu liền can thiệp bằng một lời và chỉ một lời truyền của Người: “Im đi! Câm đi!”(Mc 4,39). Gió liền im. Biển lặng như tờ. Điều làm chúng ta ngạc nhiên không phải là phép lạ, nhưng là cách Chúa Giêsu thực hiện phép lạ: “Tại sao Chúa biết trước sẽ có cuồng phong, biết trước việc Người sẽ làm?. Tại sao Người không can thiệp liền, tại sao Người cứ gối đầu mà ngủ?
Thực ra khi gió to, biển động, sóng gào, các môn đệ xốn xáo, chạy lại đánh thức Chúa dậy, các ông xin Chúa can thiệp hai điều xem ra như là một tối hậu thư: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi”. Điều thứ hai: “Thầy chẳng lo gì sao?”. Câu nói thứ hai của các môn đệ hàm ý sao Thầy vô tư quá, chúng con sắp chết mà Thầy cứ tỉnh bơ ngủ say. Chúa Giêsu đã trả lời cả hai điều các môn đệ yêu cầu. Điều thứ nhất, Chúa truyền cho biển yên, gió lặng. Điều thứ hai, Người khiển trách: “Sao nhát thế? Anh em chưa đủ đức tin hay sao?” (Mc 4, 40). Cái trớ trêu hầu như khờ khạo của các môn đệ ở chỗ Chúa luôn có mặt, luôn hiện diện dù Người đang ngủ, Người hay biết mọi sự nhưng các môn đệ đâu có nhận ra điều ấy. Vậy, khi Người khiếm diện, khi Người không có mặt ở đấy, các môn đệ sẽ ra thế nào!: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”(Mc 4, 40). Anh em để đức tin ở đâu? Ở đây, trong tình huống này, các môn đệ có thể nghĩ đến những can thiệp của Thiên Chúa đối với số mệnh của dân tộc các ông. Thiên Chúa đã cứu thoát cha ông của các ông, đã giữ lời Giao Ước của Ngài cho dù có lúc Thiên Chúa hầu như im lặng. Thiên Chúa đã không bỏ rơi dân tộc. Bốn mươi năm sau, dân lưu đầy bên Ai Cập đã được Thiên Chúa giải thoát, đoàn người lưu đầy kéo về Giêrusalem được thanh luyện và lớn lên trong thử thách.
CHÚA MỜI GỌI CÁC MÔN ĐỆ VÀ NHÂN LOẠI TIN VÀO CHÚA:
Đối diện với quyền lực của sự dữ, của ma quỷ vì theo não trạng của người Do Thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Các môn đệ cuống quýt đã quên cả lòng tin của mình vào Chúa Giêsu. Vậy phải chăng Tin Mừng hôm nay mời gọi con người, nhân loại hãy tin vào Chúa, hãy bám chặt lấy Chúa, hãy tin vào uy quyền tuyệt đối của Chúa trên mọi loài, mọi vật, mọi sự. Tiếng la hoảng hốt của các môn đệ trước trận cuồng phong bão táp, phải chăng đang là thử thách của con người, của mỗi người khi họ gặp cơn cám dỗ, gặp sự thử thách gian nan giữa cuộc đời, giữa hành trình đức tin đầy cam go? Liệu Chúa có bỏ con người hay con người chỉ ngờ ngợ, yếu tin chưa có lòng tin mạnh mẽ và gắn chặt vào Chúa Giêsu? Chúng ta hãy đọc lại nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy nhiều lòng tin làm ta ngạc nhiên. Và khi ta tin thật sự vào Chúa, chắc chắn sự an bình sẽ đến với chúng ta. Thiên chúa không ở xa ta, Ngài ở bên ta, Ngài yêu thương ta, Ngài sẵn sàng can thiệp vào mọi biến cố của đời ta. Nhưng chắc chắn chúng ta cũng có thái độ như các môn đệ hoảng hốt, như ông Môsê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3,1), như ngôn sứ Isaia khi nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa trong đền thờ (Is 6,5). Tất cả đều tùy thuộc vào lòng mến và vào sự phó thác tuyệt đối của mỗi người chúng ta trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn bám chặt lấy Chúa vì Chúa là Đấng uy quyền và hay thương xót.
40. Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Thiên Chúa ở đâu nơi Trại Tử Thần Đức Quốc,
nơi Sóng Thần Nam Á v.v.
Vẫn biết Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là thời điểm mở đầu cho Mùa Thường Niện Hậu Phục Sinh, tiếp Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh bị cắt quãng bởi Mùa Chay, Tuần Thánh và Mùa Phục Sinh. Tuy nhiên, Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh thường được Giáo Hội mở màn bằng các Lễ Trọng vào 3 Chúa Nhật Liên, trước hết là Lễ Thánh Thần Hiện Xuống, Đấng ban sự sống, sau đó là Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn mạch Sự Sống, tiếp tới là Lễ Mình Máu Thánh Chúa, bí tích Sự Sống, (chưa kể đến Lễ Trọng Thánh Tâm Chúa, động lực Sự Sống, bao giờ cũng được cử hành vào Thứ Sáu sau Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa). Chiều hướng Mầu Nhiệm Chúa Kitô Là Sự Sống mở đầu Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh bằng ba Lễ Trọng như thế, cũng được thể hiện ở bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật hay tuần lễ XII Thường Niên, ở chỗ, “caœ gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người”?, một quyền lực phục sinh của Chúa Kitô, Lời Nhập Thể, một quyền lực, dù trong trường hợp được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại Người chưa Vượt Qua, vẫn tiềm tàng nơi Người nhờ Mầu Nhiệm Ngôi Hiệp.
Đó là lý do việc Người chẳng những tỏ mình ra trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy trước biến cố phục sinh, mà còn cho thấy cả trong đó việc Người tỏ ra câm nín bất lực trên cây thập tự giá, việc Người âm thầm nằm trong lòng đất ba ngày, việc Người gieo giống rồi đi ngủ để cho kẻ thù chẳng những lợi dụng gieo cỏ lòng vực mà còn nhất định không cho nhổ những thứ cỏ rất nguy hại cho lúa tốt này cho tới mùa gặt cánh chung (x Mt 24-30). Đây là Mầu Nhiệm Quan Phòng Thần Linh theo đức tin Kitô Giáo, một mầu nhiệm mà chỉ có đức tin mới có thể giải mã và chấp nhận, ở chỗ, tin rằng Thiên Chúa là Chủ Tế muôn loài và cai quản mọi sự, tới giờ của Ngài thì mọi sự sẽ xẩy ra, tới lúc của Ngài thì Ngài sẽ ra tay (mà thường là lúc cuối cùng, lúc con người cảm thấy bất lực, trần gian bó tay, Ngài mới xuất hiện để cứu độ, hầu con người tin vào Ngài hơn, và không cảm thấy rằng họ là Chúa chứ không phải là Ngài). Chính vì Ngài ngủ (chứ không phải chết) mà Ngài mới nghe được tiếng kêu cứu của họ, như các vị tông đồ trong bài Phúc Âm đã hoảng hốt la lên: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao”?
Tuy nhiên, thực tế đặt ra vấn đề ở đây là, việc Thiên Chúa quá im hơi lặng tiếng, nhất là trong những lúc quá khủng khiếp đối với niềm tin của con người, dường như đối với nhiều người và thật sự đối với một số người, Ngài là Vị Thiên Chúa đã chết, nếu không muốn nói chẳng có chúa bà nào cả, vì tại sao có Ngài, một vị Thiên Chúa, qua Mạc Khải Thánh Kinh Kitô Giáo, là Đấng toàn thiện và toàn năng, mà lại có thể để cho sự dữ xẩy ra, để cho bao nhiêu nạn nhân vô tội bị thảm sát như thế chứ, chẳng hạn như đã xẩy ra ở các Trại Tử Thần Đức Quốc trong Thế Chiến Thứ Hai thuộc thế kỷ 20, hay ở cuộc Sóng Thần Nam Á vào ngày 26/12/2004?
Trước hết, về việc câm nín lặng thinh đến kinh hoàng của Thiên Chúa ở các trại tử thần Đức Quốc Xã hồi Thế Chiến Thứ II, chúng ta hãy đọc lại những lời của chính vị Giáo Hoàng đương kim Đức Quốc của chúng ta cảm nhận và diễn tả trong cuộc tông du mục vụ Balan cuối tháng 5/2006, khi ghé thăm trại tử thần Auschwitz, nơi đã có hai vị thánh Công Giáo là Thánh Maximilian Kolbe người Balan và Thánh Edith Stein, Theresia Benedicta a Cruce, người Đức gốc Do Thái, trước khi ngài lên đường về Rôma Chúa Nhật 28/5, nguyên văn như sau:
“Không thể nào nói được bất cứ điều gì ở nơi kinh hoàng này đây, ở nơi đã xẩy ra vô vàn tội ác chưa từng có phạm đến Thiên Chúa và con người, nhất là lại nói bởi một Kitô hữu, bởi một vị Giáo Hoàng xuất thân từ Đức. Ở một chốn như thế này thì lời nói đành câm nín; để rồi chỉ còn duy nỗi lặng thinh kinh hãi – một thứ lặng thinh tự mình là một lời kêu gào chân tình lên Thiên Chúa: Lạy Chúa, tại sao Chúa lại cứ thinh lặng chứ? Làm sao Chúa lại có thể chịu đựng được tất cả những thứ này? Bởi vậy, trong thinh lặng, chúng ta cúi đầu trước vô tận những ai đã chịu khổ cực và bị sát hại ở nơi đây; tuy nhiên việc thinh lặng của chúng ta lại trở thành một lời van xin tha thứ và hòa giải, một lời van nài Vị Thiên Chúa hằng sống đừng bao giờ để điều này tái diễn nữa.
“Hai mươi bảy năm trước đây, vào ngày 7/6/1979, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đứng ở nơi này. Ngài đã nói rằng: ‘Hôm nay tôi đến đây như một người hành hương. Như anh chị em biết, tôi đã đến đây nhiều lần rồi. Rất nhiều lần rồi! Và nhiều lần tôi đã đi xuống tới ngục thất tử thần của Maximilian Kolbe, dừng lại trước bức tường hành quyết, và bước đi giữa những đổ nát hoang tàn của các lò thiêu Birkenau. Tôi không thể nào không tới đây như một vị Giáo Hoàng’. Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tới đây như là một người con của một dân tộc, cùng với dân Do Thái, đã chịu khổ nhất ở nơi chốn này, nói chung suốt cả cuộc chiến. ‘Sáu triệu người Balan đã bị mất mạng trong Thế Chiến Thứ II, tức 1/5 dân số của quốc gia này, ngài đã nhắc nhở chúng ta như thế. Cũng ở nơi đây, ngài đã trang trọng kêu gọi tôn trọng các thứ nhân quyền và quốc quyền, như các vị tiền nhiệm của ngài là Gioan XXIII và Phaolô VI đã làm trước ngài, và thêm rằng: ‘Con người đang nói những lời lẽ này đây là … người con của một quốc gia theo lịch sử của mình đã bị khổ đau rất nhiều bởi kẻ khác. Ngài nói điều này, không phải là để cáo tối mà là để tưởng nhớ. Ngài nói nhân danh tất cả những quốc gia có quyền lợi bị vi phạm và bị gạt bỏ ra ngoài…’
“Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến đây như là một người con của nhân dân Balan. Tôi đến đây hôm nay như là một người con của nhân dân Đức quốc. Chính vì lý do ấy mà tôi có thể làm vang vọng và cần phải làm âm vang những lời của ngài, đó là tôi không thể nào không tới đây. Tôi cần phải tới nơi đây. Đó là một nhiệm vụ trước sự thật và công lý đối với tất cả những ai đã phải chịu khổ ở nơi đây, một nhiệm vụ trước Thiên Chúa, mà đối với tôi cần phải đến đây như là vị thừa kế của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và là một người con dân Đức quốc – một người con thuộc dân tộc bị một nhóm những tay tội ác nổi lên nắm quyền hành bằng những hứa hẹn liên quan tới cái cao cả mai hậu cùng với việc phục hồi vinh dự, nổi nang và thịnh vượng cho dân tộc , nhưng qua việc khủng bố và đe dọa, hậu quả dân tộc chúng tôi đã phải hứng chịu đó là bị sử dụng và làm dụng như công cụ cho khát vọng hủy diệt và quyền bính của họ. Phải, tôi đã không thể nào không tới nơi đây. Vào ngày 7/6/1979, tôi đã đến đây với tư cách là một vị Tổng Giám Mục ở Munich-Freising, cùng với các vị Giám Mục khác đi hộ tống Đức Giáo Hoàng này, lắng nghe những lời ngài nói và liên kết với việc nguyện cầu của ngài. Vào năm 1980, tôi đã trở lại với nơi chốn rùng rợn này với một phái đoàn đại biểu những vị Giám Mục Đức quốc, những vị cảm thấy kinh hoàng trước sự dữ xẩy ra cho nó, nhưng lại lấy làm biết ơn trước sự kiện xuất hiện một vì tinh tú hòa giải ở bên trên các tầng mây mù vây phủ nó. Đó cũng chính là lý do tại sao hôm nay tôi đã đến đây để xin ơn hòa giải thứ tha – trước hết từ Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể mở lòng chúng ta và thanh tẩy tâm can của chúng ta, từ những con người nam nữ đã chịu khổ đau ở nơi đây, và sau cùng nguyện xin ơn hòa giải cho tất cả những ai, vào chính giây phút lịch sử này đây đang chịu khổ đau một cách mới mẻ bởi quyền lực của hận thù và bởi bạo lực do thù hận gây ra.
“Biết bao nhiêu là vấn đề được xuất phát ở nơi chốn này! Vấn đề liên lỉ hiện lên đó là Thiên Chúa ở đâu trong những ngày ấy? Tại sao Ngài lại thinh lặng chứ? Làm sao Ngài lại có thể để xẩy ra cuộc tàn sát khôn cùng này chứ, cuộc chiến thắng của sự dữ ấy chứ? Những lời của bài Thánh Vịnh 44 đã hiện lên trong tâm trí, đó là lời than vãn của dân Yến Duyên về các kẻ thù địch của họ: ‘Ngài đã vùi dập chúng tôi trong hang động chó rừng, và phủ chụp tăm tối kín mít lên chúng tôi… vì Ngài chúng tôi đá bị sát hại suốt ngày, và đã bị coi như con chiên mang đi làm thịt. Xin Ngài hãy ra tay! Ôi Chúa, tại sao Ngài lại ngủ chứ? Xin hãy tỉnh giấc, đừng mãi mãi bỏ mặc chúng tôi! Tại sao Ngài lại cứ ẩn mặt đi? Tại sao Ngài lại chẳng lưu ý gì tới nỗi đau thương và tình trạng bị đàn áp của chúng tôi chứ? Vì chúng tôi bị dìm xuống cát bụi; thân thể chúng tôi dính liền với mắt đất. Xin hãy vùng lên và ra tay cứu giúp chúng tôi! Xin hãy cứu chúng tôi vì tình yêu trung kiên của Ngài!’ (19,22-26). Tiếng kêu thống khổ này, tiếng kêu được dân Yến Duyên dâng lên Thiên Chúa trong cảnh khổ đau của họ, trong giây phút hết sức sầu thương của họ, cũng là tiếng kêu cứu giúp của tất cả những ai thuộc mọi thời đại – hôm qua, hôm nay và ngày mai – chịu khổ vì tình yêu Thiên Chúa, vì lòng yêu chuộng chân lý và sự thiện hảo. Họ nhiều biết bao, thậm chí ở cả thời đại của chúng ta đây!
“Chúng ta không thể nào nhìn thấu được dự án huyền nhiệm của Thiên Chúa – chúng ta chỉ thấy được một phần nào, và chúng ta có thể sai lầm một khi cho mình là những kẻ thẩm phán của Thiên Chúa và lịch sử. Bấy giờ chúng ta không phải là kẻ đang bênh vực con người mà chỉ góp phần vào việc sụp đổ của con người mà thôi. Không – một khi tất cả những gì đã nói và đã làm, chúng ta cần phải tiếp tục khiêm nhượng song cương quyết kêu lên cùng Thiên Chúa rằng: Xin hãy đứng lên! Đừng quên nhân loại là tạo vật của Ngài! Và lời chúng ta kêu lên Thiên Chúa cũng phải là một tiếng kêu xuyên thấu chính tâm can của chúng ta, một tiếng kêu đánh động trong chúng ta sự hiện diện âm thầm của Thiên Chúa – nhờ đó, quyền năng của Ngài, một quyền năng Ngài đã cấy trồng nơi tâm can của chúng ta, sẽ không bị chôn vùi hay chết nghẹt trong chúng ta bởi bùn lầy của lòng vị kỷ, của tính nhu nhược, của thái độ lạnh lùng hay của chủ trương thời cơ. Chúng ta hãy kêu lên Thiên Chúa bằng tất cả tâm can của mình, vào giờ khác hiện tại này đây, khi đang đổ xuống trên chúng ta những bất hạnh mới, khi tất cả mọi mãnh lực của tối tăm dường như đang xuất phát một cách mới mẻ từ tâm can nhân loại của chúng ta: một là việc lạm dụng danh Thiên Chúa như phương tiện để biện minh cho việc bạo động vô nghĩa phạm tới những con người vô tội, hai là tỏ ra chủ trương yếm thế chối bỏ việc nhận biết Thiên Chúa và nhạo cười niềm tin tưởng vào Ngài. Chúng ta hãy kêu lên Thiên Chúa, để Ngài làm cho con người nam nữ biết hoán cải và giúp họ thấy được rằng bạo động không phải là những gì mang lại hòa bình song chỉ gây thêm bạo loạn mà thôi – gây ra một cuộc sa lầy tàn hại mà cuối cùng tất cả moị người đều là những kẻ thua cuộc. Vị Thiên Chúa mà chúng ta tin tưởng là một Thiên Chúa của lý trí – một lý trí chắc chắn không phải là một thứ toán học lạnh lùng về vũ trụ này mà là một lý trí biết yêu thương và thiện hảo. Chúng ta hãy dâng lời nguyện cầu lên Thiên Chúa và chúng ta kêu gọi nhân loại, để lý trí này, tức lý lẽ của yêu thương và việc nhìn nhận quyền lực hòa giải và bình an, được thắng vượt những thứ đe dọa xuất phát từ khuynh hướng vô tri hay từ một thứ lý trí sai lạc và phi thần linh”.
Sau nữa, về việc câm nín lặng thinh đến kinh hoàng của Thiên Chúa ở biến cố thiên tai Sóng Thần Nam Á ngày 26/12/2004.
Về nguyên tắc, Thiên Chúa thực sự chủ động muốn sử dụng sự dữ để làm ích cho nhân loại. Thần học Kitô giáo rất cẩn thận về điểm này. Ở chỗ, thường sử dụng chữ “để”, “để sự dữ xẩy ra”, nghĩa là thái độ “mần ngơ” thụ động, chứ không chủ động nhúng tay vào, chủ động sử dụng chính sự dữ, nên tránh cả việc sử dụng chữ “gửi”, “gửi sự dữ đến cho”. Thật ra, như những xác tín đầu tiên trên đây cũng công nhận rằng “Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện không dựng nên sự dữ và không thể nào tạo nên sự dữ”, và “sự dữ phát xuất từ tội lỗi của con người, bắt nguồn từ nguyên tội, từ việc con người có tự do đã tự ý chấp nhận sự dữ”. Tuy nhiên, một khi sự dữ đã xuất hiện như cỏ lùng do kẻ thù của Ngài gây ra (x Mt 13:25,28), Thiên Chúa phải chủ động và tích cực ra tay diệt trừ nó cho con người, bằng cách, nơi Chúa Giêsu Kitô Con Mình, Ngài đã trở thành tội lỗi (x 2Cor 5:21), thành một thứ đồ bị nguyền rủa (x Gal 3:13). Và, chỉ trở thành sự dữ như thế Vị Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng mới làm cho con người thấy được sự chết nơi họ và của họ đã được sự sống của Ngài và nơi Ngài nuốt đi (x 1Cor 15:54).
Việc Thiên Chúa chủ động muốn sử dụng sự dữ để làm ích cho chung nhân loại là những gì rất hiển nhiên trong Thánh Kinh. Trước hết là câu Ngài tuyên bố qua miệng Tiên Tri Isaia: “Ta làm nên ánh sáng và tạo ra bóng tối, Ta làm nên phúc hạnh và gây ra khốn nạn” (45:7). Sau nữa, việc Ngài muốn (bằng cách ra lệnh cho) tổ phụ Abraham sát tế đứa con duy nhất của mình là Isaac (x Gen 22:2), trước con mắt của Dân Ngoại, không phải là một điều quái ác hay sao, không phải là một hành động của một vị ác thần, một vị thần linh ăn thịt người hay sao, tìm vinh danh nơi khổ ải và chết chóc của tạo vật? Cả trong việc Ngài lệnh cho vua Saolê bắt buộc phải sát hại tất cả người lẫn vật của Amalek vì đã cản đường đi của Dân Chúa cũng không quá tàn ác hay sao (x 1Sam 15:2-3,18-19; Ex 17:8)? Thật ra, Chúa ra tay dữ dằn với các Dân Ngoại, như dân Ai Cập, Amalek hay các dân vốn ở Đất Hứa là để cho cả Dân Ngài lẫn Dân Ngoại nhận biết Ngài qua những việc Ngài làm theo quyền năng và phép công bằng của Ngài. Trong trận lụt Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa Hóa Công “để” cho thiên tai vô tiền khoáng hậu này xẩy ra, hay Ngài cố ý muốn gây ra biến cố ấy để thanh tẩy loài người đã quá băng hoại làm ô uế cả mặt đất (x Gen 6:5-7)?? Nếu bảo rằng Thiên Chúa được quyền dùng tai ương để trừng phạt con người tội lỗi thì phải nói làm sao khi Ngài cố tình bắt chính Người Con vô tội vô cùng thánh thiện của Ngài phải uống cạn chén đắng khổ đau (x Mt 26:39 và Rm 8:32), chứ không phải chỉ “để” thập giá xẩy ra cho Người.
Tuy nhiên, việc Thiên Chúa thực sự chủ động sử dụng sự dữ để làm ích cho nhân loại đây, điển hình là trường hợp tử nạn của Chúa Giêsu Kitô, không phải là Ngài chủ động xui bẩy kẻ dữ làm bậy hay phạm tội. Không. Hoàn toàn không phải là như thế. Ở chỗ này đúng là Ngài “để” cho kẻ dữ làm bậy hay phạm tội tùy theo tự do của họ. Sở dĩ Ngài “để” xẩy ra như thế, trước hết, là vì tự do của con người, thành phần chịu trách nhiệm về hành vi cử chỉ của họ; sau nữa, là vì Ngài thấy rằng Ngài có thể lợi dụng sự dữ do họ gây ra để tạo nên một thiện ích lớn hơn; bằng không, sau hết, nếu sự dữ do con người gây ra không mang lại hay chưa tới lúc mang lại lợi ích hơn ít là cho chính đương sự, thì Đấng làm chủ lịch sử con người như Ngài không để cho những sự dữ ấy xẩy ra, như nơi những vụ tự tử không thành hay những vụ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.
Trong trường hợp tử nạn của Chúa Kitô, thành phần cố tình nhúng tay vào việc giết Con Thiên Chúa, như hầu hết Hội Đồng Do Thái bấy giờ, cũng như thành phần trực tiếp ra tay sát hại Người, như thẩm quyền đế quốc Rôma qua Tổng Trấn Philatô và lực lượng quân đội của họ, đã được Thiên Chúa “để” cho họ phạm đến Con của Ngài, hay cho phép họ thi hành được hành động phạm thượng đáng lẽ họ không làm được (về quyền năng thể lý) và không được làm (về quyền hạn luân lý), bằng cách “để” cho “họ lầm không biết việc mình làm” (Lk 23:34; x Acts 3:17), nhờ đó, chính họ, cũng có thể nhờ chính việc xấu họ làm, nhận ra Chân Lý (x Lk 23:47-48), bằng không, nếu họ biết được mầu nhiệm của Thiên Chúa, họ sẽ không dám làm như họ đã làm (x 1Cor 2:8). Đó là lý do Chúa Kitô đã minh nhiên tuyên bố: “Khi nào Tôi được treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi” (Jn 12:32). Ôi, Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và thượng trí là dường nào! Ôi, Ngài toàn thiện và toàn năng biết bao!!
Phải, chỉ có một mình Thiên Chúa mới là Đấng duy nhất, về phương diện luân lý, chẳng những có quyền hạn (right/authority) được làm, mà còn có cả quyền năng (power/ability) làm được, trong việc sử dụng phương tiện biện minh cho mục đích, tức trong việc sử dụng ngay chính sự dữ để mang lại sự lành thôi. Nếu thấy nhà của mình bị hư hại không thể ở được nữa, chẳng lẽ chúng ta không có quyền phá nó đi để xây lại ngôi nhà mới. Cũng thế, việc Thiên Chúa “phá” con người cũ của nhân loại đã bị băng hoại, như ở thời Noe, bằng những sự dữ, như trận đại hồng thủy bấy giờ, dù là việc dữ hay sự dữ Ngài vẫn muốn làm và cần làm cho họ, để nhờ đó, họ mới được nên tốt hơn, mới được tái sinh bởi trời (x Jn 3:3).
Ngoài ra, bất cứ ai muốn nên ngang hàng với Thiên Chúa hay nên bằng Thiên Chúa (x Gen 3:3-5), trong việc tự mình quyết định lành dữ (như việc hợp thức hóa vấn đề hôn nhân đồng tính chẳng hạn), cũng như trong việc tự động biến sự dữ thành sự lành (như trong việc triệt sinh an tử hay tạo sinh sao bản trị liệu chẳng hạn), họ sẽ thấy rằng những gì họ làm chỉ khiến cho chính họ nói riêng và xã hội của họ nói chung dần dần đi đến chỗ hỗn loạn và diệt vong mà thôi, như hiện trạng thế giới văn minh về vật chất (khoa học và kỹ thuật) cũng như về nhân bản (văn hóa và quyền lợi) ngày nay thê thảm cho thấy.
Chính vì con người văn minh càng ngày càng tội lỗi và băng hoại mà Thiên Chúa đã phải sử dụng đến nhiều sự dữ khủng khiếp, không phải để trừng phạt con người cho bằng để lay tỉnh con người đang quay cuồng say men tự do thái quá của mình, hay nói một cách dung hòa hơn, để trừng phạt con người cho con người có thể bừng tỉnh. Đó là lý do, trong phần Bí Mật Fatima thứ hai, Mẹ Maria cũng đã nói đến vấn đề tai ương liên quan đến việc trừng phạt của Thiên Chúa để cứu độ con người như sau:
“Các con vừa thấy hỏa ngục, nơi tội nhân khốn nạn rơi xuống. Để cứu họ, Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới. Nếu những điều Mẹ dạy được thi hành thì nhiều linh hồn được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình. Chiến tranh sắp chấm dứt, nhưng nếu người ta không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến khốc liệt hơn sẽ bùng nổ trong đời Đức Piô XI. Khi các con thấy ánh sáng lạ lùng chiếu giữa ban đêm, thì các con hãy biết rằng đó là điềm lạ vĩ đại Thiên Chúa muốn cho các con hay Ngài sắp sửa trừng phạt thế giới tội lỗi, bằng chiến tranh, đói khát và việc bắt bớ Giáo Hội cùng Đức Thánh Cha. Để ngăn ngừa điều này, Mẹ sẽ đến để xin dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ và xin rước lễ đền tạ các ngày Thứ Bảy Đầu Tháng. Nếu người ta nghe lời Mẹ yêu cầu, Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình. Bằng không, Nước Nga sẽ truyền bá lầm lạc khắp thế giới, gây chiến tranh và bách hại Giáo Hội. Nhiều người lành bị giết, Đức Thánh Cha sẽ khổ; nhiều nước sẽ biến mất, nhưng cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình”.
Như thế, con người nạn nhân gặp tai ương hoạn nạn về thiên tai hay nhân tai có thể là vì chính tội lỗi của họ, như trường hợp thành Sôđôma và Gômôra trong Cựu Ước (x Gen 18:20-21, 19:4-11,24-25), cũng có thể là vật hy sinh cho việc Thiên Chúa tỏ hiện như trường hợp người mù từ lúc mới sinh (x Jn 9:3).
Chính Chúa Giêsu đã xác nhận tính cách lưỡng đôi của sự dữ gây ra cho cả người vô tội lẫn có tội, khi Người trả lời cho những kẻ báo tin về vụ một số người Galilêa đã bị Tổng Trấn Philatô lấy máu của họ hòa với các lễ tế của họ, như sau: “Quí vị có nghĩ rằng những người Galilê này tội lỗi nhất ở Galilê vì họ phải chịu như thế hay chăng? Không phải đâu! Nhưng Tôi nói cho quí vị nghe là nếu không xám hối tất cả quí vị cũng sẽ phải chịu y như thế thôi. Hay vụ 18 người bị thác Siloe đè chết. Quí vị cho rằng họ là những người tội lỗi hơn các người ở Giêrusalem hay chăng? Chắc chắn không! Thế nhưng, tôi nói cho quí vị hay, nếu quí vị không hoán cải, tất cả quí vị cũng chịu y như thế thôi” (Lk 13:1-5).
Qua câu huấn đáp này, Chúa Giêsu muốn nói rằng, thành phần nạn nhân của vụ nhân tai bị Philatô đổ máu hay của vụ thiên tai bị tháp Siloe đè chết là những người vô tội, nhưng cũng có thể là hình phạt cho ai có tội, cho ai không biết ăn năn hối cải. Qua câu huấn đáp này, Chúa Giêsu còn có ý muốn nói rằng, sự dữ nhân tai hay thiên tai là những gì được Thiên Chúa dùng để cảnh giác con người về đời sống luân lý của họ, nhất là thành phần nghĩ mình công chính hơn người, không có tội nên không bị tai ương hoạn nạn như thành phần tội lỗi xấu số.
Những nạn nhân của thiên tai và nhân tai, nếu là thành phần vô tội thì là vật hy sinh được Chúa dùng để cảnh giác phần rỗi nơi anh chị em đồng loại của họ, (tất nhiên sự hy sinh của họ sẽ được Ngài đền bù cân xứng như trường hợp các Thánh Anh Hài chết thay cho Người được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 2 câu 16, chẳng hạn nhờ sự hy sinh vô tội của họ mà nhiều người còn sống sợ chết nghĩ lại sống tốt lành hơn), và nếu nạn nhân may mắn còn sống là thành phần thực sự có tội thì tai ương họ trải qua chính là một thứ hình phạt được Thiên Chúa dùng để cứu độ họ, nếu họ biết nhìn ra dấu chỉ thời đại mà giác ngộ trở về với Ngài.
Từ những suy tư được căn cứ vào Mạc Khải Thần Linh trên đây, chúng ta cảm nhận được rằng: Qua biến cố nhân tai khủng bố tấn công ngày 11/9/2001 ở Hoa Kỳ, và thiên tai biển động sóng thần ở Nam Á ngày 26/12/2004, Thiên Chúa muốn lay tỉnh loài người càng ngày càng duy vật vô thần hiện đại nhớ rằng: Ngài vẫn còn hiện diện trong lịch sử loài người đấy, chứ chưa có chết như họ tưởng bở đâu, và Ngài là Đấng rất công thẳng, nếu không biết ăn năn thống hối, Ngài sẽ làm hết sức, kể cả bằng các thứ sự dữ do chính con người gây ra, như khủng bố và chiến tranh, để cho họ nhận biết Ngài mới thôi, chỉ vì Ngài yêu thương họ, muốn họ nhận biết chân lý để được cứu độ.
Tóm lại, vì phần rỗi của loài người, và chính vì phần rỗi của loài người là vấn đề hệ trọng trên hết mọi sự trên thế gian này mà Thiên Chúa toàn thiện và toàn năng vô cùng khôn ngoan làm mọi cách, thậm chí sử dụng cả sự dữ, để cứu độ con người yếu đuối và mù tối vô cùng đáng thương. Đó là lý do, trong Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu gửi Các Hồn Nhỏ, Chúa Giêsu đã tâm sự với người nữ sứ giả giáo dân biệt danh Magarita ở Bỉ của mình vào ngày 19/12/1973 như sau:
• “Một Thiên Chúa báo oán chỉ là một người Cha tội nghiệp, khi phải trừng phạt con cái mình để buộc chúng phải hồi tâm nghĩ lại”.
41. Trong vòng tay Chúa
(Suy niệm của Br. B.M.Thiện Mỹ CRM)
SUY NIỆM:
Blondin là một tay xiếc nổi danh. Ông đi nhiều lần trên sợi dây căng qua thác Niagara, độ cao khoảng 500 thước, tay đẩy chiếc xe cút kít.
Ngày nọ ông mời ai dám ngồi trên xe đó, để ông đẩy qua sợi dây căng. Nhiều người muốn nhưng không ai dám, vì sợ té xuống thác nước là chết. Sau cùng có người chấp nhận. Ông liền cho anh ngồi trên xe và đẩy đi. Trong khi đó nhiều người đánh cá với nhau. Thấy ông ta đi được nửa đường cách dễ dàng, người đánh cá cược nhiều tiền sợ bị thua, nên lén cắt đứt một sợi trong số các dây căng. Tức thì dây căng rung chuyển dữ dội. Ông Blondin biết nguy hiểm sắp đến nên bảo người trong xe:
- Hãy đứng dậy bám sát vào tôi.
Nhưng người đó quá sợ hãi, không dám làm theo lời ông. Ông liền ra lệnh:
- Hãy đưa hai tay ôm cổ tôi, hai chân kẹp vào lòng tôi, bằng không, chúng ta sẽ ngã xuống thác nước mà chết.
Người đó liền bám chặt vào ông. Và ông đã đưa anh ta qua bờ bên kia an toàn ….
Cuộc đời là bể dâu, cho dù có đề phòng đến mấy cũng không sao có thể tránh được bão tố: Hết thiên tai rồi đến hiểm họa do con người gây ra cho nhau. Những đau thương bên ngoài cũng đã quá ghê gớm, thế nhưng những thù nghịch của tâm hồn mới đáng sợ, nhiều lúc nó muốn nhận chìm chúng ta vào vực thẳm tội lỗi khốn nạn. Tuy nhiên đó lại là điểm đáng yêu của mối tình Giêsu, nhờ vậy chúng ta có dịp chạy đến cầu xin sức mạnh vạn năng của Đấng Cửu Trùng như Phúc Âm thuật lại hôm nay:
Biển Ga-li-lê chỉ dài độ 21 km theo chiều từ bắc chí nam, và chỗ rộng nhất là 13 km theo chiều từ đông sang tây, thung lũng Gio-đan là một vết nứt sâu trên mặt đất, và biển Ga-li-lê là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 210 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì những chỗ trũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức mạnh dữ dội, đến nỗi mặt hồ đang phẳng lặng, trong giây lát biến thành sóng gió gầm thét. Những cơn bão biển Ga-li-lê vừa bất ngờ vừa mãnh liệt độc đáo.
Cảnh tượng trong bài Tin Mừng kể lại là cảnh thường xảy ra trên biển Ga-li-lê. Chúa Giêsu đang ngủ, Ngài ngủ vì mệt mỏi sau khi dùng thuyền làm giảng đài dạy dỗ dân chúng. Các môn đệ là các ngư phủ chuyên nghiệp, và vùng biển này là địa bàn hoạt động của các ông, thế mà lúc này các ông hoảng sợ kêu cứu: “Thưa Thầy, chúng con chết mất”.
Chắc ai trong chúng ta cũng hiểu rằng theo Chúa không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió hay được hưởng thái bình thịnh vượng. Ngay cả lúc chúng ta gần Ngài nhất, giông tố vẫn có thể nổi lên. Chúa không hứa cho chúng ta được thư thái an nhàn, nhưng là chiến đấu và thậm chí phải hy sinh cả đến tính mạng.
Hôm nay chúng ta hãy đặt tâm hồn vào hoàn cảnh hôm đó: Vào lúc chiều đến, tức là màn đêm bắt đầu buông xuống, đây là thời gian của sự tăm tối, hình bóng của những sự dữ hoành hành. Chúa Giêsu nhắc nhủ các môn đệ chuẩn bị một cuộc vượt qua những thử thách và nguy hiểm, Ngài nói: “Chúng ta hãy sang bên kia Biển Hồ”. Theo ý nghĩa của Kinh Thánh thì biển được trình bày như một sự hỗn mang, từ đó phát sinh những quyền lực chống lại Thiên Chúa và con người. Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể bắt ba đào hung hăng phải tuân nghe và cứu con người khỏi cơn bão tố. Ở đây bối cảnh diễn tả việc Thiên Chúa giải thoát con người khỏi mọi sự dữ của ma quỉ để đưa họ đến bến bình an là sự sống đời đời. Như vậy chúng ta luôn sẵn sàng đón nhận mọi tình huống tăm tối của cuộc đời bằng cách:
1. Khẩn cầu xin Chúa:
- Cho dù ai có là vĩ nhân đối với con người, thì đối với Thiên Chúa họ vẫn chỉ là rất nhỏ bé. Cho nên chẳng có gì phải ngại ngùng đến van xin ơn Chúa cho bản thân, nhất là những lúc éo le của cuộc đời.
- Tiên vàn trong việc cầu xin là chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, Ngài là Đấng thống trị địa cầu, là vua cả trời đất.
- Chúng ta có thể kêu xin Chúa bằng nhiều cách, như các tông đồ đã đánh thức Chúa, và thắc mắc “sao Thầy không quan tâm đến ….”. Lời trách yêu này biểu lộ một tâm trạng khát mong được Chúa cứu thoát hơn là sự nghi ngờ vào sức mạnh của Ngài.
- Khi theo Chúa chúng ta có cảm tưởng như Chúa có nhiệm vụ che chở cho các mọn đệ của Ngài. Tuy nhiên chúng ta vẫn luôn phải lấy lòng con thảo khiêm tốn nài xin Chúa, chứ không được đòi hỏi theo ý riêng một cách thiếu tế nhị.
2. Bình an tâm hồn:
- Trong cơn bão tố tâm hồn, tự nhiên chúng ta sẽ tự đặt nhiều thắc mắc: Tại sao Chúa lại để cho sự dữ xảy ra? Tại sao Chúa lại để cho nghĩa tử yêu dấu của Ngài phải tan nát tâm tư? Giữa nghịch cảnh khốn khó đau thương, chúng ta còn tìm được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn không?
- Đứng trước ngã rẽ cuộc đời, chẳng biết phải làm gì, chúng ta hãy thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Trốn tránh đau khổ theo ý riêng, có phải là sự bình an nội tâm không? Theo gương Chúa Giêsu, trước giờ chiến đấu quyết liệt nhất, Ngài đã thưa lên cùng Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa Con. Tuy nhiên, xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha” (Lc.22.42).
Ước gì trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn phó thác nơi tay Chúa như em thơ nương náu ở cung lòng mẹ hiền. Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn nhìn đến những giọt lệ cần thiết nơi con cái loài người. Sự sợ hãi chỉ làm phiền lòng Chúa, nhưng tin tưởng vào Ngài là dịp Chúa tỏ uy quyền trên sự dữ, cứ mỗi lần như thế chúng ta có dịp gần gũi Ngài. Ngày xưa Chúa nói với các tông đồ sang bên kia Biển Hồ trải qua nhiều sóng gió, ngày nay Chúa mời gọi mọi người vượt qua biển thương đau của trần gian để về đến bến bình an đời đời trên Thiên Quốc. Chúng ta hãy mạnh dạn đáp lại tiếng Chúa mà tiến bước: “Có Chúa đi với ta, ta sẽ không còn sợ chi; có Chúa đi với ta, ta sẽ không lo lắng gì……”.
42. Gợi ý suy niệm của Hiền Lâm
Câu chuyện thầy trò Chúa Giêsu và các môn đệ vượt biển đã gặp phải cuồng phong đe dọa, cho chúng ta hình ảnh một Đức Giêsu Con Thiên Chúa đầy quyền năng trừ phong dẹp vũ, trong một con người Giêsu mệt mỏi nằm ngủ trên thuyền sau một ngày làm việc vất vả.
Câu chuyện này gợi lại hình ảnh được nói tới trong Thánh Vịnh 78:
“Bấy giờ Chúa như người đang ngủ,
như tướng hùng đã thấm men say,
bỗng tỉnh giấc, đánh cho quân thù quay lưng chạy,
phải thảm thê nhục nhã muôn đời”.
(Tv 78,65-66).
Kẻ thù ở đây là biển cả cuồng phong. Theo não trạng người Do-thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Mỗi ngày, biển cũng nhắc mọi người nhớ lại thời hỗn mang nguyên thủy: tại đây hải thần thủy quái vẫy vùng và chỉ có một mình Thiên Chúa Toàn Năng mới thách thức và chế ngự được chúng. Khi Chúa Giêsu thức dậy “ngăm đe gió và biển” như khi Người truyền cho ma quỷ ( x. Mc 1,25), cho thấy Chúa Giêsu chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.
Chúa Giêsu chứng minh sức mạnh và sự phát triển không có gì chống lại được của Nước Thiên Chúa. Người chứng tỏ điều này bằng một dấu chỉ quyền năng là phép lạ dẹp tan sóng gió trước khi đi vào miền đất dân ngoại, nghĩa là chiến thắng của Tin Mừng trên ma quỷ vượt ra ngoài biên giới Israel.
Khi đối mặt với mọi hình thức sự dữ đang tấn công con người trong các trận cuồng phong nó gây nên, đôi khi chúng ta tự hỏi: Phải chăng Thiên Chúa đang ngủ?
Thật vậy, cảm nhận của con người giữa biển đời lắm khi như Thiên Chúa ẩn mình hay vắng bóng. Và rồi giữa phong ba bão tố cuộc đời, con người lựa chọn đương đầu ít nhất với 3 cách:
- Dùng sức mình để vật lộn với sóng gió để rồi thất bại tuyệt vọng,
- Chạy đến với Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc nên không bao giờ sợ hãi,
- Gặp khi khó khăn mới chạy đến kêu cứu Chúa, nghĩa là coi Chúa chỉ như một phương thế giải quyết tức thời, mà thiếu đi đức tin thật sự và lòng yêu mến nồng nàn.
Trường hợp thứ ba này là trường hợp của dân Do-thái xưa, sách Xuất Hành và đặc biệt là sách Thủ Lãnh là một câu chuyện lặp đi lặp lại khi dân bị quân thù ức hiếp thì kêu cứu Chúa, Chúa giải cứu rồi lại tiếp tục phản nghịch Ngài…
Và có thể nói, đây cũng là thái độ của các môn đệ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, khi họ chưa có niềm tin và lòng yêu mến Thầy cho đủ, đến nỗi ngay khi chứng kiến phép lạ rồi vẫn ngỡ ngàng không hiểu Thầy là ai. Thầy Giêsu đang ở trên thuyền nhưng có vẻ như không có Người hiện diện, cho đến khi sóng gió bủa vây mà kinh nghiệm chống đỡ của dân làng chài như mấy ông đã bất lực mới chạy đến cầu cứu Thầy.
Đó cũng là cách sống và giữ đạo của không ít người trong chúng ta ngày nay. Khi an vui hạnh phúc chúng ta quên mất sự hiện diện của Thiên Chúa, đến khi gặp khó khăn thất bại mới tìm về cầu cứu Chúa. Sống đạo như thế là hời hợt, thiếu niềm tin đích thật và thiếu lòng lòng mến Chúa Giêsu. Cũng không thiếu những người ỷ lại vào khả năng mình mà thiếu đi lòng tín thác vào Chúa nên khi gặp sóng gió đã dễ ngã lòng kêu trách Người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người chúng con luôn tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa trên con thuyền cuộc đời chúng con giữa biển đời sóng gió. Để chúng con không bao giờ nao núng vì Chúa đã chiến thắng nên chúng con cũng sẽ chung phần chiến thắng và cập bến Nước Trời. Amen.
43. Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Thế
“Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
* Vài hàng sơ lược
- Từ đoạn thánh kinh này Mc 4,35-41 đến 5,43, Mác-cô bắt đầu kể về những phép lạ của Chúa Giêsu. Qua đó những hành động quyền năng của Chúa được nêu bật. Vì vậy mà sau đó người ta bắt đầu thắc mắc về Giêsu: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6, 2)
Ngoài ra, tất cả những phép lạ này đều có một khung cảnh chung, đó khung cảnh biển hồ Ga-li-lê-a. Và hình ảnh thuyền đều xuất hiện trong mỗi phép lạ (x. 4, 36.37; 5,2.18.21)
Một điều luôn được nhấn mạnh trong chuỗi phép lạ này. Đó là niềm tin tưởng. (x. 4, 40; 5. 34.36) Thêm vào đó có thể nhắc đến việc thiếu lòng tin trong 6,6. Ngoài ra, một thái độ đi đôi với niềm tin tưởng được nhắc lại 3 lần trong chuỗi phép lạ này. Đó là thái độ bái lạy, sụp xuống và phủ phục trước Đức Kitô (x. 5, 6.22.33) Điều này làm nổi bật sự “chào thua” của những quyền lực đe dọa trước Chúa Giêsu: quyền lực thiên nhiên (4, 35-42), quyền lực ma quỷ 5, 1-20, quyền lực của bệnh hoạn (5, 24-34) và quyền lực của sự chết (5, 21-23 và 35-43)
- Liên quan đến những đoạn thánh kinh về các dụ ngôn trước đó, chúng ta thấy đoạn thánh kinh này nối kết với đoạn 4,1, mở đầu cho các bài giảng với các dụ ngôn: “Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ”. Như vậy, khung cảnh biển hồ đức Giêsu giảng dạy vẫn là khung cảnh của câu chuyện phép lạ này, chỉ khác là giờ đây Giêsu lên thuyền và đi trên biển hồ. Ngoài ra, theo Adolf Pohl thì sau những bài giảng bằng lời nói của Giêsu, thì tiếp nối bằng những hành động của Ngài, để qua đó chứng thực về một Thiên Chúa không chỉ nói hay mà còn làm giỏi nữa. Lời nói và hành động đi đôi với nhau.
- Ngoài ra, khi đọc đoạn Thánh Kinh này, người ta có thể liên hệ ngay với đoạn thánh kinh ở Giona chương 1. Theo Rudfolf Pesch thì đoạn thánh kinh là câu chuyện kể lại câu chuyện của Giona, với sự phụ họa của thánh vịnh 107, 23-30. Mục đích chính là sự tuyên xưng: Giêsu lớn hơn tiên tri.
Ở đây, chúng ta có thể so sánh hai câu chuyện với nhau:
(a) Trong Giona 1, 4 ĐỨC CHÚA tung ra một cơn gió to trên biển. Còn ờ trong đoạn phúc âm của Mác-cô thì gió bão đến như là quyền lực muốn chống lại Thiên Chúa.
(b) Trong Giona 1, 5 Giona đi ngủ vì không muốn tuân phục Thiên Chúa. Còn theo Mác-cô thì Giêsu ngủ vì mệt mỏi sau những ngày tuần phục Thiên Chúa làm việc phục vụ mọi người.
(c) Trong Giona 1, 14 mọi người trên tàu sợ hãi và kêu cầu Thiên Chúa. Còn ở Mác-cô thì chính Giêsu là Thiên Chúa đã lên tiếng.
(d) Trong Giona 1, 14 các người dân ngoại trên tàu có niềm tin vào Chúa, còn các môn đệ trong đoạn Mác-cô này lại là những người thiều niềm tin.
(e) Trong Giona 1, 15 Biển dừng cơn giận dữ, vì Giona đã vâng lời Chúa và đồng ý để người ta quăng xuống biển. Ở Mác-cô thì biển hồ và cuồng phong vâng lệnh Giêsu.
- Trong đoạn Thánh Kinh Mc 4, 35-41 này tích cách Kitô học và Giáo Hội học được nêu bật, trong khi những sự kiện lịch sử cụ thể không đóng vai trò quan trọng.
- Ngoài ra, theo Johannes Bours, trong câu chuyện mà Mác-cô kể lại ở trên, có hai câu hỏi đã đụng độ nhau. Câu hỏi đầy sợ hãi của các môn đệ đã gặp gỡ câu hỏi đầy trách cứ của Giêsu. Khi đọc câu chuyện này, tôi cảm nhận rằng, câu chuyện đang kể về chính cuộc đời của chúng ta. Và câu hỏi sống còn của các môn đệ cũng liên hệ đến chính câu hỏi sống còn của mỗi người chúng ta: Cái gì có thể chiến thắng sự sợ hãi? Ai là người mạnh hơn? Thần Dữ, kẻ muốn nhấn chìm chúng ta xuống biển sâu, hay là Đấng mà trong đoạn Thánh Kinh này đã nhắc đến: “Người thức dậy.”
- Biển hồ Genesareth được người Ả-rập gọi là “Ajn Allah” – Mắt của Chúa”. Biển hồ này theo Adolf Pohl, nằm 212 m dưới mặt nước biển và ba phía của biển hồ được bao bọc bởi ba vách núi cao đến 300 m. Và biển hồ này có khí hậu bán nhiệt đới. Giữa tháng 5 và tháng 6 nhiệt độ nóng đến 40 độ C. Sự điều hòa nhiệt độ nhờ luồng khí lạnh trong miền cao, kết hợp với nhiệt độ nóng nực ở trên biển hồ, có thể được những trận gió lớn kéo theo một cách bất ngờ, như Luca diễn tả: “Một trận cuồng phong ập xuống hồ; các ngài bị ngập nước và lâm nguy” (8,23). Vì sự bất ngờ không thể dự đoán trước của các trận cuồng phong tại biển hồ này, mà các ngư dân ở đây rất sợ hãi. Và để tránh sự bất ngờ này nên các con thuyền đều cố gắng hướng về phía đông, nơi mà các ngư dân qua tiếng gió thổi, có thể đoán được xem có cuồng phong hay không.
* Suy niệm
- “35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!”
“Hôm ấy, khi chiều đến” Câu chuyện được bắt đầu như vậy. Chiều đến nghĩa là ngày sống từ từ chào tạm biệt, công việc từ từ được gác xuống, giờ đây là thời gian để nghỉ ngơi. Ngày sống vừa qua của Giêsu là một ngày làm việc miệt mài. Ngài đi giảng dạy ở ven Biển Hồ. Ngài đã giảng gì vậy? Đọc lại các đoạn trước đó, chúng ta nhận ra rằng, Giêsu đã giảng dậy nhiều dụ ngôn khác nhau: Dụ ngôn người gieo giống; dụ ngôn cái đèn và đấu đong, dụ ngôn hạt cải. Từ ở trên thuyền Giêsu đã giảng dạy những điều đó cho dân chúng. Giờ đây khi bóng dương từ từ ngả xuống, Giêsu cũng từ từ muốn ngả lưng, Ngài cũng cần giờ cho mình, cần giờ để nghỉ ngơi, để ngủ nữa chứ. Vì thế, các môn đệ đã chở thầy mình qua bờ bên kia. Trên thuyền Giêsu mệt nhoài đã thiếp ngủ. Theo sau thuyền của Giêsu là rất nhiều thuyền khác nữa.
- 36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người.
Giêsu bỏ đám đông ở lại mà không chia tay gì với họ, là dấu hiệu Ngài mệt mỏi lắm rồi. Điều này được chứng minh qua câu 38 qua sự thiếp ngủ của Chúa. Thuyền mà Giêsu đang ở sẵn trên đó theo Adolf Pohl thì chắc không nhỏ, vì trên đó có cả một nhóm người. Ngoài ra, có những thuyền khác theo Người. Động từ “theo với, ở với” trong Mác-cô luôn hướng về Giêsu (x. 1, 13; 2,19; 3, 14; 5, 18; 14,57). Điều này nói lên tương quan chặt chẽ với Chúa Giêsu. Không chỉ là nhóm 12 thôi, mà còn cả những môn đệ khác nữa (ss. 4, 10)
- 37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Hôm ấy, khi chiều đến cũng còn là thời gian ánh dương từ từ lặn dần để nhường bước cho đêm đen.
Và đêm càng đen hơn nữa, khi những con thuyền lênh đênh trên mặt hồ bao la kia. Phải chăng đêm đen này như đang dẫn đời người vào trong cái vòng ma quái? Hay đêm đen kia đang như muốn nuốt chửng không chỉ ánh mặt trời, mà tất cả những con người đang ở trên thuyền kia, những con người mệt mỏi sau một ngày vất vả với công việc?
Không chỉ đen, mà thêm vào đó là một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Ở đây cần nhắc đến một yếu tố. Trong bản gốc của Hy-lạp, câu chuyện này được kể tiếp nối với nhau trong thì hiện tại và quá khứ. Ngoài ra, chữ “Kai” trong tiếng Hy-lạp, có nghĩa là “Và”, được nhắc đến tất cả 12 x. Theo Johannes Bours, thì điều đó làm cho câu chuyện ly kỳ hơn. Cái thảm cảnh trong câu chuyện theo đó được diễn tả thảm não hơn. Thêm vào đó, trong thời cổ đại, thì thần dữ luôn gắn liền với cuồng phong bão táp của biển khơi. Phải chăng đại dương là nơi chốn của thần dữ với sức mạnh tàn phá và nuốt chửng?
Vâng, sự ly kỳ và thảm não của câu chuyện trong Thánh Kinh bắt tôi phải dừng bước một chút, để lật lại những trang sách kể về các chuyến vượt biển của người Việt thân thương. Lênh đênh trên mặt biển chứ không phải là mặt hồ đâu. Đêm đen không chỉ làm đen cả bầu trời xanh ngát, mà còn làm đen cả bao tâm hồn chan chứa hy vọng, khi xuống thuyền ra đi. Rồi chiếc thuyền có lớn lao bao nhiêu đâu. Xăng dầu cũng đã gần cạn rồi. Thuyền nào chẳng may bị bọn hải tặc “ghé thăm” một lần hay nhiều lần, thì còn thê thảm hơn nữa. Có một số thuyền không chỉ đầy nước mà còn bị vỡ tan tành, giờ đây chỉ là những mảnh gỗ của thuyền, làm bè cho một vài thân xác mệt nhoài, lực đã tàn sức đã kiệt, thả cuộc đời trôi theo sóng, trôi theo biển, trôi theo bóng đen, mà không còn nhìn thấy một tia hy vọng, không còn nhận ra một bến bờ để tấp vô. Mà có bờ đâu để tấp để đậu. Phải làm sao đây? Không lẽ đứng chết chân một chỗ? Hay chấp nhận một cái chết thê thảm trong bóng đêm, trong lòng biển? Không, ít nhất cần phải hò hét! Nhưng “hò” thì ai “thưởng thức” và hét thì có ai nghe giữa đại dương mênh mông này không? Đó là câu hỏi của những con người đụng tới đường cùng của cuộc sống. Truớc đường cùng này, tôi cũng xin không chỉ dừng bước, mà với tất cả tấm lòng xin cầu nguyện cho bao người Việt đã qua đời trên biển cả. Xin Chúa thương nhìn đến và đón nhận tất cả vào Nước của Chúa.
Vâng, chúng con dù sao vẫn tin vào lòng nhân từ và ơn giải thoát của Chúa, như Chúa đã nói:
“1 Bấy giờ, giữa cơn bão táp, ĐỨC CHÚA lên tiếng trả lời ông Gióp như sau:
8 Cửa đại dương, ai ra tay khép lại
khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu,
9 khi Ta giăng mây làm áo nó mặc,
phủ sương mù làm tã che thân?
10 Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn,
lại đặt vào nơi cửa đóng then cài;
11 rồi Ta phán: “Ngươi chỉ tới đây thôi,
chứ không được tiến xa hơn nữa,
đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (Gióp 38, 1.8-11)
Dù tin đấy, nhưng không dậm chân tại chỗ. Niềm tin cũng cần biết tạo sáng kiến. Niềm tin cũng cần phải lên tiếng. Vâng, lên tiếng để đánh thức Chúa dậy. Một hành động tuyệt vời. Đến đường cùng rồi, vì thế cần phải đánh thức Ánh Dương, cần phải đánh thức Thiên Chúa đang ngủ dậy. Bóng đêm kia không thể mạnh hơn Ánh Sáng. Cuồng phong kia không thể mạnh hơn Thần Khí Thiên Chúa được. Cuồng phong và biển cả đều phải có ranh giới. Chúng phải ở đàng sau cánh cửa kia. Thiên Chúa chính là người không chỉ vạch ranh giới, không chỉ đặt then cài, mà Ngài còn là người có đủ quyền năng để gài then cửa.
- 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Và quyền năng của Thiên Chúa cũng được trao cho Giêsu, Người con dấu ái. Vì thế, các môn đệ đã đánh thức thầy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Một câu hỏi chất chứa sợ hãi và âu lo, một câu hỏi mang chút trách cứ và hờn giận Thiên Chúa. Joachim Gnilka, một nhà chú giải thánh kinh đã cắt nghĩa rằng, câu hỏi của các môn đệ đã diễn tả thái độ sai lầm của họ: Khi gặp hiểm nguy họ chỉ nghĩ về mình và về sự an toàn của mình mà thôi. Một cách nào đó họ đã không chia sẻ nỗi hiểm nguy của họ với Thiên Chúa. Họ không để cho Thiên Chúa cùng gánh vác nỗi hiểm nguy của họ. Thái độ này được nhắc lại rất rõ ràng trong biến cố họ chạy trốn trước thánh giá tử nạn của Giêsu. Còn với Rudolf Pesch thì lòng yếu tin của các môn đệ nằm ở chỗ, là họ không hiểu được và chấp nhận được một Thiên Chúa ẩn mình. Và trên con đường thương khó, các ông cũng đã ngựa quen đường cũ, không hiểu được tại sao Giêsu thầy mình phải chịu bắt bớ, tra khảo, kết án và chết tất tưởi trên thập tự.
Đâu rồi niềm tin và sự cậy trông vào một Thiên Chúa đã sinh ra làm người nghèo khổ trong hang lừa, để chia sẻ và gánh vác với đời người những âu lo, những khổ đau? Đâu rồi sứ điệp và tin mừng Phục Sinh của một Giêsu chiến thắng sự chết? Giêsu đó, Thiên Chúa đó ngay từ đầu và mãi mãi nói với con người chúng ta rằng: “Đừng sợ!”
Hay sức mạnh của bóng đêm và sự đe dọa của cuồng phong bão táp đã làm tắt lịm đi chút ánh sáng của niềm tin, và chút hơi ấm của niềm hy vọng? Không, ngay từ ngày đầu tiên, khi Thiên Chúa sáng tạo con người, Thiên Chúa đã thấy rằng, hành động sáng tạo này là hành động tuyệt vời nhất. Còn tạo vật nào hơn con người mà Thiên Chúa yêu thương nữa. Vì thế, dù biển sâu hay cuồng phong, dù bão táp hay đêm đen, dù thần dữ hay lòng người gian dối, không có gì có thể làm cho tình yêu của Thiên Chúa phai nhòa.
Thiên Chúa vẫn hiện diện. “Emmanuel - Thiên Chúa luôn ở cùng với chúng ta”.
Ngay cả trong những đêm tăm tối nhất của cuộc sống, Ngài vẫn không hề bỏ mặc chúng ta một mình. Ngay cả trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời, Ngài vẫn luôn hiện diện với chúng ta. Và thậm chí, ngay cả trong đêm cuối đời, trong giây phút cô đơn hiu quạnh cuối cùng của cuộc sống, vốn dĩ không ai có thể đồng hành cùng với chúng ta, trong đêm cuối cùng trước giờ lâm tử đó, Thiên Chúa vẫn không hề từ bỏ chúng ta.... (Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI)
Lời của Đức Thánh Cha chất chứa niềm hy vọng. Niềm hy vọng này cũng chính là nguồn sống cho Alfred Delp, một linh mục dòng Tên bị phát xít Đức giam cầm trong ngục tù đen tối. Cha Alfred kể lại rằng: “Vào một buổi tối tôi cảm thấy tâm hồn mình chao đảo. Tôi bị hành hạ rất dã man và sau đó bị tống trở lại vào ngục. Những tên lính phát xít giải tôi vào ngục đã nói những lời như sau: “Như vậy là đêm nay mày không thể nhắm mắt được đâu. Mày sẽ cầu nguyện, nhưng không có một Thiên Chúa và cũng chẳng có một thiên thần nào đến, để cứu thoát mày. Phần chúng ta sẽ đánh một giấc ngon lành, và sáng sớm ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục hành hạ mày.’
Alfred kể tiếp: Thiên Chúa đã thử thách tôi. Giờ đây làm thế nào để có thể bền bỉ đứng vững được thôi. Tôi vẫn luôn tin tưởng vững vàng và hy vọng nơi Bàn Tay nhân từ, Bàn Tay đã đón nhận chúng ta và hướng dẫn chúng ta.... và Thiên Chúa đã ban tặng cho tôi một không gian thật đẹp với sự bình tâm thẳm sâu. Tôi cảm thấy lúc này Chúa thật gần và thương tôi thật nhiều....Với tôi có những lúc thật là khó khăn. Tôi đã trải qua những giờ phút rất đau thương với nước mắt và máu. Nhưng tôi đã luôn luôn cố gắng đưa những giọt nước mắt và máu của mình vào trong hai hành động thật nhỏ bé, để nhờ đó có thể đứng vững được. Hai hành động đó là: Cầu Nguyện và Yêu Thương. Tất cả mọi hành động khác trong lúc đó đều sai cả.... Hôm nay là một ngày tồi tệ. Thiên Chúa như đang thử thách tôi, xem tôi có giữ những lời mà tôi đã từng xác tín không: Chỉ với Chúa thì cuộc sống mới tồn tại và phận người mới đứng vững được.
Giờ phút của Phêrô lại đến. Gió bão và sóng lớn lại đe dọa... Phêrô bắt đầu run lẩy bẩy... Giờ đây mọi sự nằm trong bàn tay của Chúa... Ngài có nhiều cách để vực chúng ta dậy và dìu chúng ta tiếp tục tiến bước. Tôi đã thường cảm thấy điều này trong những tuần lễ thê thảm đầy sợ hãi và dài đằng đẵng. Tôi luôn hy vọng vào Thiên Chúa, và vào tình yêu cùng sự trung thành của Ngài...Tôi muốn đốt lên những ngọn lửa cho các bạn. Các bạn đã cùng đi với tôi trong những đêm đen của cuộc đời. Các bạn cũng đã từng bị gió bão và cuồng phong đe dọa, và các bạn đã đứng vững. Vai kề vai chúng ta cùng gánh vác chung với nhau nhé... Giữa đêm đen Ánh Sáng sẽ bừng lên!”
Hành động của Cha Alfred chắc chắn là một bài học thật quý giá cho chúng ta. Thực vậy, trên con thuyền của cuộc đời, chúng ta chỉ cần tin thôi. Chúng ta hãy cứ an tâm. Dù cho Giêsu có ngủ, nhưng ngủ ở đàng lái đấy! Và không chỉ ngủ ở đàng lái, mà theo Hans Urs von Balthasar, thì Giêsu còn nằm nghỉ trong lòng của Chúa Cha, Đấng canh giữ cuộc sống của Giêsu và sứ mạng của Giêsu, không bao giờ cho phép sức mạnh của thiên nhiên ảnh hưởng đến sứ mạng của Giêsu.
Nhưng sứ mạng của Giêsu là gì? Là yêu thương mọi người, là trao ban tình yêu của Cha cho mọi người, là chở che mọi người trước bao nỗi hiểm nguy, là giải thoát con người khỏi mọi nỗi sợ hãi, và đưa mọi người về với bờ bến của bình an, của hạnh phúc. Vâng, chúng ta hãy an tâm và đừng sợ, Giêsu luôn gìn giữ chúng ta, và không bao giờ để cho chúng ta mất đi. Như người mục tử nhân lành, chính Ngài chứ không ai khác sẽ che chở đoàn chiên trước thú dữ đang nhâm nhe đe dọa.
Vì thế, dù gió có lớn, bão có to đến mấy, thì Giêsu vẫn vững tay lái, vững mái chèo trên con thuyền của cuộc đời. Và dù Ngài đang ngủ, nhưng Ngài vẫn hiện diện. Dù vì mệt mỏi đang nghỉ ngơi, nhưng Ngài nghỉ ngơi trên con thuyền của chúng ta, của con người yếu đuối, chứ ngài không nằm nghỉ trên giường êm nệm ấm. Và kìa Ngài đã nghe tiếng kêu của các môn đệ. Chúng ta hãy nhìn xem. Ngài đứng dậy. Rồi Giêsu làm gì? Ngài sẽ mắng các môn đệ chăng? Không, điều đầu tiên là:
- “39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.”
Tuyệt vời quá sức! Tuyệt vời như từ thuở xa xưa:
“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng CHÚA,
Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân.
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng,
sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng,
họ vui sướng, vì trời yên bể lặng
và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ.” (Tv 107, 28-30)
Vâng, dù tiếng sóng có gầm vang, có thét lên đến long trời lở đất, thì cũng cần phải im tiếng đi, cần phải nhường bước cho Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, Đấng từ thuở đời đời luôn ở đó bên người con nhỏ yêu dấu của Ngài:
“Sóng nước đã gầm lên, lạy CHÚA,
sóng nước đã gầm lên tiếng thét gào.
Sóng nước đã gầm lên, long trời lở đất.
Nhưng hơn hẳn tiếng nước ngàn trùng,
hơn hẳn sóng oai hùng ngoài biển cả,
CHÚA oai hùng ngự trị chốn cao xanh.” (Tv 93, 3-4)
Sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa đã làm cho biển phải câm lặng. Quyền năng này các môn đệ ngày xưa không thể hiểu được. Có lẽ chính vậy mà niềm tin của các ông còn nhỏ lắm. Và có lẽ Giêsu hiểu thấu được niềm tin của môn đệ mình, nên Ngài chỉ mắng:
- “40 Rồi Người bảo các ông: Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Ở đây một điều thú vị là, trước hết Giêsu ra lệnh cho biển phải im lặng, sau đó Ngài mới mắng các môn đệ. Vâng, ngài đã hiểu thấu sự sợ hãi của các ông, nên điều đầu tiên cần làm không phải là trách mắng người đang sợ hãi, mà ra tay giúp đỡ giải thoát họ ra khỏi sự sỡ hãi trước, sau đó muốn nói gì thì nói, muốn mắng gì thì cũng không sao.
Lời mắng các môn đệ nhát sợ được Giêsu lập lại nhiều lần khác (x. Mc 4, 13.40; 7,18; 8,17tt.21.33; 9, 19). Nhưng khi mắng các môn đệ như thế, Giêsu có ý chống lại sự nghi ngờ của các môn đệ vào chính Ngài, Thầy của họ, cũng như chống lại sự nhát sợ của người được chọn, người môn đệ Chúa. Như vậy lời mắng của Giêsu như là lời tỉnh thức giúp cho những ai theo Chúa cần dừng bước lại, để nhận ra sự yếu đuối rất hay nhát sợ của con người mình, và ý thức bám vào Chúa nhiều hơn. Vâng, ai càng bám vào Chúa và sống trong tình thân với Ngài, thì sẽ chẳng sợ gì, họ càng ngày càng bình tâm hơn. Một sự bình tâm tín thác và tin tưởng hoàn toàn vào Chúa, đến nỗi không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả, và cái gì đúng theo thánh ý của Chúa mà thôi (ss. Sách Linh Thao số 23)
Điều thứ hai mà Giêsu mắng các môn đệ là việc yếu lòng tin của các ông. Về điều này chúng ta cũng thấy Máccô nhắc đến nhiều lần. Vâng, dù cho các ông đã theo Giêsu và ở với Người (ss. Mc 3, 14), dù cho mầu nhiệm Nước Trời đã được trao cho các ông (ss. Mc 4, 11), và giải nghĩa cho các ông cặn kẽ (ss. Mc 4, 34b), nhưng các ông vẫn chưa có lòng tin. Adolf Pohl chú ý chúng ta về từ ngữ “chưa có lòng tin”. Với từ ngữ này chúng ta có thể nhận ra rằng, sự chậm hiểu và thiếu lòng tin của các môn đệ là dấu hiệu của sự thiếu kinh nghiệm thiêng liêng về Thiên Chúa và về niềm tin.
Phải chăng niềm tin không chỉ là một món quà của Chúa ban tặng một lần là xong, mà niềm tin còn cần phải được chăm bón, cần phải được thử sức và tôi luyện, cần phải luôn luôn được lấy ra khỏi “kinh tin kính”, để đem vào cuộc sống, để nhìn lại và để rút ra thêm kinh nghiệm. Và cũng thật quan trọng, khi ý thức như Luca cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, con tin Chúa, nhưng xin Chúa tăng thêm lòng yếu tin của con.” Thực vậy, không ai dám nói rằng, khi tôi bước theo Chúa và trở thành môn đệ của Ngài, thì niềm tin của tôi vào Ngài đã vững vàng 100%, đến nỗi tôi không cần phải “vào nhà tập lại”, không cần phải đi tĩnh tâm năm, không cần phải cầu nguyện hằng ngày, không còn phải ra sức học hành và trau dồi Lời Chúa nữa.
Ai dám nghĩ như thế, thì thật là “tuyệt”, vì họ là con người hoàn hảo rồi. Mà đã hoàn hảo rồi thì đi tu để làm gì nữa? Vì vậy, thật hay từ ngữ “tu” của Việt Nam ta: Tu là để sửa chữa, để ngày ngày học biết tinh thần của Giêsu và ý thức sửa đổi bắt chước Giêsu mỗi ngày nhiều hơn một chút. Hay theo thiển ý của tôi, có thể nói theo kiểu của Linh Thao: Tu là một chuỗi ngày tập thể thao cho linh hồn của mình, bằng cách ngày ngày ý thức dọn dẹp và chuẩn bị linh hồn để xa bỏ những quyến luyến lệch lạc và sau đó tìm kiếm ý Chúa trong cách xếp đặt cuộc sống để mưu ích cho linh hồn mình (ss. Linh Thao số 1)
- 41 Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Sau khi chứng kiến quyền năng của Giêsu trên thiên nhiên, thì các môn đệ hoảng sợ. Ở đây, Adolf Pohl so sánh một điều rất hay. Trong câu 37 nói về một trận cuồng phong lớn. Và sau đó ở câu 39 là “biển lặng như tờ” nghĩa là sự thinh lặng lớn. Và ở câu 41 này thì các môn đệ “hoảng sợ”, nghĩa là nỗi sợ thật lớn. Như vậy, nỗi sợ thật lớn này không còn là sự nhát sợ mà Giêsu mắng các ông ở câu 40, mà là sự sợ hãi lớn trước sự mạc khải của Thiên Chúa. Sự sợ hãi này cũng là sự công nhận của con người nhỏ bé trước quyền năng phi thường của Thiên Chúa. Vâng, nỗi sợ lớn lao trước Thiên Chúa này không trói buộc con người lại, mà thúc đẩy con người biết ý thức phủ phục, biết ý thức tỏ lòng thờ lạy Chúa của mình, như trong Giona 1, 16: “Những người ấy sợ ĐỨC CHÚA, sợ lắm; họ dâng hy lễ lên ĐỨC CHÚA và khấn hứa.” Như vậy, trong sự sợ hãi này chứa đựng những điều thật tích cực: Tin tưởng và thờ lạy. Vâng, sau khi biển và cuồng phong đã phải tuân phục và bái lạy Thiên Chúa, thì giờ đây đến lượt con người chúng ta.
Nỗi sợ hãi lớn lao này cũng thúc đẩy con người đi vào trong giao động mới, đó là đi tìm căn tính của Đức Kitô: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Theo R. Pesch thì những ai chứng kiến cảnh tưởng này chỉ có thể trả lời rằng: Đấng mà cả gió và biển phải tuân lệnh thì lớn hơn tiên tri Giona. Ngài hành động với sức mạnh của chính Gia-vê Thiên Chúa. Ngài là Đấng lớn hơn cả sức mạnh và bạo lực của hỗn mang. Phần bạn và tôi, chúng ta hãy luôn để câu hỏi này đi với mình trong cuộc đời: “Đức Kitô là ai đối với tôi vậy?” Chắc chắn rằng, mỗi thời điểm câu trả lời sẽ khác, vì kinh nghiệm về niềm tin và về Giêsu của chúng ta cũng sẽ khác đi và dồi dào hơn.
44. Đức Giêsu dẹp yên bão tố
(Chú giải và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
TM Máccô theo một cái khung quen thuộc để kể truyện này: một trở ngại phải vượt qua (một trận cuồng phong trên biển), hành động quyền năng của Đức Giêsu (lệnh truyền im lặng), và sự xác nhận (sự yên lặng hoàn toàn và nỗi sợ hãi của các môn đệ). Bối cảnh của câu truyện này rất có thể là quan niệm cổ xưa của Cận Đông về biển: đây là biểu tượng của những quyền lực của hỗn mang và sự dữ đấu tranh chống lại Thiên Chúa. Các độc giả đầu tiên của Mc nắm được ý nghĩa của biểu tượng này đến mức nào, thì khó mà biết. Nhưng chắc chắn câu hỏi của các môn đệ (“người này là ai?”) cho thấy là tác giả muốn nhấn mạnh trên chân tính của Đức Giêsu. Câu hỏi ấy trở thành một lời tung hô mặc nhiên mang tính Kitô học nhìn nhận bản tính thần linh của Đức Giêsu, bởi vì Người làm được những việc Thiên Chúa làm.
Ở đầu bản văn, rõ ràng Mc bận tâm tạo ra một móc nối với những phần đi trước. Ngày sắp tàn là ngày đã có bài giảng dài trên hồ (x. 4,1). Chiếc thuyền Đức Giêsu dùng để qua hồ vẫn là chiếc thuyền Người đã dùng làm bệ giảng trên hồ (x. hình ảnh con thuyền trong Mc: 5,1.21; 6,45; 8,31). Bỏ đám đông ở đầu c. 36 cũng là một điểm móc nối. Riêng với chiếc thuyền: Chuyến vượt hồ bằng thuyền tương ứng với việc dừng lại nơi một ngôi nhà; và cũng như có những giáo huấn đặc biệt Đức Giêsu ban cho các môn đệ được nối kết với lần dừng lại nơi một ngôi nhà (x. 7,17-23; 9,28t; 9,33-50; 10,10-12), thì cũng có những hành vi quyền lực đặc biệt được liên kết với chuyến vượt hồ bằng thuyền. Chiếc thuyền là nơi để Đức Giêsu mạc khải đặc biệt cho các môn đệ (4,35-41; 6,45-52) và là nơi Người chờ đợi các ông tỏ ra hiểu biết các hành vi quyền lực của Người (8,17-21). Chiếc thuyền là nơi có sự hiệp thông đặc biệt chặt chẽ giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Và chính là trong sự hiệp thông rất chặt chẽ này và không thiếu hiểm nguy, mà các hành vi cứu độ và mạc khải quan trọng của Đức Giêsu được thực hiện.
2.- Bố cục
Sau khi đã giản lược một số chi tiết, chúng ta có thể xác định bố cục như sau:
1) Đức Giêsu và các môn đệ trước khi gặp sóng gió (4,35-37);
2) Đức Giêsu và các môn đệ trong sóng gió (4,38-39);
3) Đức Giêsu và các môn đệ sau sóng gió (4,40-41).
3.- Vài điểm chú giải
- Hôm ấy, khi chiều đến (35): Tác giả quen dùng hai thành ngữ đi liền nhau để chỉ thời gian, trong đó vế thứ hai xác định vế thứ nhất (x. 1,32.35).
- sang bờ bên kia: nghĩa là sang bờ phía đông của Hồ Galilê. Tại sao Đức Giêsu muốn sang đó: để tránh sự chống đối? để tìm một vùng đất mới mà rao giảng? Ta không được rõ.
- ngủ (38): Giữa trận cuồng phong dữ dội, Đức Giêsu vẫn có thể ngủ, có lẽ vì Người quá mệt, nhưng cũng chắc chắn vì Người vừa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa (x. Tv 4,9; 3,24-26) vừa chứng tỏ Người luôn làm chủ mọi tình huống.
- Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? (38) Câu hỏi này của các môn đệ đã được làm nhẹ đi rất nhiều trong Mt 8,25 (“Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”) và Lc 8,24 (“Thầy ơi! Chúng ta chết mất!”).
- truyền cho biển (39): x. 1,25. Đức Giêsu có thể kiểm soát biển, đây là mặc nhiên khẳng định rằng Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa, bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể điều khiển biển (x. Tv 73/74,13-14; 88/89,10-12).
- Câm đi! x. 1,25: động từ phimoô. Cơn bão được coi như một thú dữ. Động từ này cho hiểu rằng Đức Giêsu đang chứng tỏ Người có thể kiểm soát các mãnh lực của tà thần.
- Gió liền tắt và biển lặng như tờ: Nhận định này cho thấy Đức Giêsu hoàn toàn kiểm soát được biển.
- nhát (HL. deiloi, 40): Nhiều lần các tác giả Tân Ước đã cảnh giác về deilia (“sự nhát đảm”). Ở Kh 21,8, những người nhát đảm được kể ra cùng với những người không tin (x. 2 Tm 1,7; Ga 14,1).
- Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Lời trách này rất nặng, do nhắm thẳng vào các môn đệ (x. 8,14-21). Phải chăng họ đã mất niềm tin vào Thiên Chúa hoặc vào Đức Giêsu? Nếu họ đã mất niềm tin vào Thiên Chúa, chính là vì họ đã không chịu noi theo Đức Giêsu đặt hết tin tưởng vào Thiên Chúa (4,38). Nếu họ đã mất niềm tin vào Đức Giêsu, chính là họ vì họ đã không cậy dựa vào quyền lực của Đức Giêsu.
- Vậy người này là ai? (41): Bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể chế ngự gió và biển, câu hỏi này của các môn đệ hàm chứa một lời tuyên xưng mặc nhiên rằng Người làm được những việc mà truyền thống Cựu Ước thường trình bày là chỉ Thiên Chúa mới làm được.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn vừa cho thấy tương quan mật thiết giữa Đức Giêsu và các môn đệ vừa diễn tả lộ trình các môn đệ khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu: họ bước theo Người, họ chứng kiến các biến cố trong đó Người can thiệp, họ khám phá ra mầu nhiệm bản thân Người. Chi tiết “có những thuyền khác cùng theo” chỉ được nêu ra ở câu đầu, rồi sau đó cho đến cuối, không xuất hiện nữa.
* Đức Giêsu và các môn đệ trước khi gặp sóng gió (35-37)
Sáng kiến vượt hồ là sáng kiến của Đức Giêsu. Các môn đệ luôn thinh lặng bước theo Người và tận tình thực hiện những việc Người đề nghị. Đức Giêsu luôn tỏ ra là chủ, nắm vững mọi hướng đi.
* Đức Giêsu và các môn đệ trong sóng gió (38-39)
Nguy hiểm được mô tả bằng các chi tiết về sóng to gió lớn. Nhưng Đức Giêsu vẫn tỏ ra là chúa tể, làm chủ tình hình: Người ngủ. Bình thường các môn đệ chờ đợi Đức Giêsu phản ứng và dạy bảo rồi mới làm theo; nhưng ở đây, thấy bão táp quá nguy hiểm, các ông bị chao đảo trong đức tin, các ông đã phản ứng trước Thầy, các ông thúc bách Thầy bằng giọng hốt hoảng và trách móc. Người đã trỗi dậy, dẹp yên sóng gió. Ở đây, bão và biển được truyền lệnh như những sinh vật; chúng được yêu cầu “im đi!”, “câm mõm lại!”. Quả thật, từ vựng của bản văn là từ vựng của một truyện trừ quỷ.
* Đức Giêsu và các môn đệ sau sóng gió (40-41)
Dù sao chúng ta thấy phản ứng của các môn đệ (hoảng sợ và đánh thức Thầy) là chuyện hợp lý. Khó hiểu hơn, đó là những câu hỏi của Đức Giêsu: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (c. 40). Làm sao có thể cấm các môn đệ sợ hãi khi gặp nguy hiểm chết người? Đức tin này là loại đức tin nào, mà ngay trong nguy hiểm cùng cực vẫn loại trừ được nỗi sợ hãi? Đức Giêsu trách các môn đệ là chỉ nhìn đến nguy hiểm và những sức mạnh đe dọa của thiên nhiên chứ không hiểu biết ai là người đang cùng ở trên thuyền với họ.
Chỉ sau khi đã thực hiện phép lạ, Đức Giêsu mới ngỏ lời với các môn đệ; lúc này, họ lại trở về đúng vị trí là những người bước theo, đón nhận giáo huấn. Câu nói: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” chứng tỏ các môn đệ đã được sống với Đức Giêsu khá lâu rồi. Câu hỏi “Vậy người này là ai…?” vừa nhìn nhận quyền lực của Đức Giêsu vừa như muốn tìm ra câu trả lời nơi những người nghe kể lại sự cố. Ta sẽ gặp câu trả lời được đề nghị trên môi Phêrô ở 8,29.
+ Kết luận
Đoạn văn nêu bật sự cần thiết của đức tin trong đời sống người môn đệ. Nếu chúng ta hiểu rộng ra rằng trận bão trên biển ấy là một hình ảnh báo trước cuộc Khổ Nạn mà Đức Giêsu sẽ đi vào, thì bước theo Đức Giêsu, dù ngày hôm qua hay ngày hôm nay, luôn luôn là bước theo Người xuyên qua Khổ Nạn. Và như thế, cần phải có đức tin. Chỉ với giá ấy, người môn đệ mới được tham dự vào cuộc Phục Sinh vinh quang với sự an bình thẳm sâu được.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hình ảnh con thuyền trong đó các môn đệ sống chung với Đức Giêsu là biểu tượng cho cộng đoàn gồm những môn đệ hôm nay vẫn đang muốn bước theo Người. Đó chính là một cuộc “cộng đồng sinh mệnh”, sống chết có nhau. Phản ứng của các môn đệ trong biến cố này là một tấm gương và một lời nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô hữu là đừng rơi vào một thái độ không tin như thế. Nếu chúng ta gắn bó với Đức Giêsu, thì không có hoàn cảnh nào có thể tiêu diệt chúng ta, bởi vì không có hoàn cảnh nào mà Người không chế ngự được.
2. Sai lầm của các môn đệ là chỉ nghĩ đến mình chứ không sẵn sàng chia sẻ nguy hiểm với nhau và với Đức Giêsu. Hoàn cảnh này sẽ được lặp lại khi họ chạy trốn trong đêm Đức Giêsu bị bắt và bị đưa đi đóng đinh. Cơn sóng gió cuối cùng chúng ta sẽ gặp, và không có cách nào tránh được, đó là cái chết. Mỗi người chúng ta đều sẽ phải đương đầu với cái chết; cái chết có thể đến bất ngờ một trận cuồng phong hay chậm chạp từ từ. Nhưng cho dù cái chết đến bằng cách nào đi nữa, chúng ta cũng lo sợ. Bài Tin Mừng này cho chúng ta biết là chúng ta phải tin rằng Đức Giêsu luôn nghĩ đến chúng ta, Người sẽ không để chúng ta phải lo sợ quá mức. Chúng ta tin rằng khi chúng ta cần, Người sẽ lên tiếng bảo cơn sóng gió “Câm đi! Im đi!”
3. Lời mời gọi “Hãy sang bờ bên kia” có nhiều ý nghĩa đối với chúng ta. Với Giáo Hội, “bờ bên kia” mang ý nghĩa là những người hiện giờ không ở trong cộng đoàn chúng ta, họ đang ở “bờ bên kia”, có thể họ là những người vừa di chuyển đến trong xã hội chúng ta, những người “bên phía kia”, là người cao niên, người tàn tật, người bệnh chờ chết, hay người di dân vì chiến tranh trong trại di cư... Đức giáo hoàng Phanxicô dạy trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng: “Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đồng phải phân định đường đi nước bước mà Chúa vạch ra, nhưng tất cả chúng ta đều được yêu cầu vâng theo tiếng gọi của Người là ra đi khỏi khu vực tiện nghi của mình để đến mọi vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng” (s. 20).
4. Lời Đức Giêsu trách các môn đệ: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” rất đúng cho chúng ta là những người đã biết Đức Giêsu từ lâu, đã sống với Người, đã được chứng kiến biết bao nhiêu việc kỳ diệu Người làm trong đời sống chúng ta, mà vẫn không biết phản ứng hay lấy những quyết định tương hợp với kinh nghiệm ấy. Nhận biết đúng đắn chân tính của Đức Giêsu thì sẽ có một thái độ đúng đắn đối với bản thân Người.
5. Các cộng đoàn chúng ta phải đưa Đức Kitô đến cho người ngoại, nên không thể nào tránh khỏi những khó khăn và đối kháng. Chẳng hạn, không phải mọi nhóm tôn giáo đều tôn trọng tự do của cá nhân; những sứ giả Tin Mừng có thể gặp những nguy hiểm chết người… Tuy nhiên, vì loan báo Tin Mừng là sứ mạng làm nên bản chất Kitô hữu, chúng ta không thể tránh né.
45. Chú giải của Noel Quesson.
Giáo huấn bằng dụ ngôn của Đức Giêsu đã nói lên sự phân biệt rõ ràng giữa hai loại người: Đối với những “người ở ngoài”, thì tất cả đều bí hiểm. Còn đối với các “môn đệ”, thì mọi sự đều sáng tỏ trong các mạc khải về mầu nhiệm mà “vị Thầy “ đã thông tỏ riêng cho họ. Trong Tin Mừng theo Thánh Mác-cô, tiếp theo một chuỗi những dụ ngôn là bốn phép lạ. Những phép lạ này có đặc tính rõ ràng: Không được thực hiện trước công chúng, nhưng chỉ “trước mặt các môn đệ”. Phải chăng những phép lạ này là những dụ ngôn bằng hành động, phải được hiểu trên bình diện biểu tượng cũng như bình diện thực tế? Các tông đồ giữa cơn bão tố được kể lại hôm nay, gọi Đức Giêsu là “Thầy” (tiếng Hy Lạp là didaskalos có nghĩa là “Thầy dạy dỗ”), việc này phải chăng có một giá trị mạc khải lớn? Vậy chúng ta hãy lắng nghe giáo huấn của Người trong biến cố này. Đọc một biến cố để nêu ý nghĩa thần học, không làm cho biến cố đó mất tính cách lịch sử, nhưng mang lại cho nó chiều kích sâu xa hơn.
Chiều hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi?”. Vì Người đang ở trên thuyền, các ông cứ thế chở Người đi bỏ dân chúng ở lại; có những thuyền khác cùng theo Người”.
Trên bình diện thực tế lịch sử, tôi tưởng tượng một buổi chiều hè đẹp trời, Đức Giêsu mượn chiếc thuyền của Simon Phêrô và từ từ rời xa bờ biển Ca-phác-na-um. Sau một ngày nóng bức, bây giờ là buổi chiều tà mát mẻ. Sau khi đã tiếp xúc với đám đông ồn ào, bây giờ là lúc thân mật ân tình với nhóm bạn hữu trên biển. Chính Đức Giêsu đã có sáng kiến tạo ra những giây phút yên tĩnh này:
“Chúng ta hãy qua bờ bên kia”. Gió tốt, cánh buồm căng phồng đang nhẹ rung - Người ta chỉ nghe tiếng nước vỗ nhẹ vào mạn thuyền đang rẽ sóng và tiếng kêu của một vài con chim biển. Sau một ngày giảng dạy bằng dụ ngôn, Đức Giêsu mệt mỏi thiếp ngủ nơi cuối thuyền. Bên cạnh Người là Phêrô đang cầm bánh lái. Nhưng nếu chỉ dừng ở những trang này thì thật đáng tiếc. Chúng ta biết rằng, từng câu, từng chữ trong trình thuật Tin Mừng, đều được khoa Giáo lý ban đầu chú giải. Do đó chúng ta cũng phải đọc và hiểu theo nghĩa tượng trưng, như những chú giải của các Giáo phụ minh chứng.
“Ngày hôm đó”: Đây không phải là một kiểu nói thông thường, có nghĩa là: Ngày giảng dạy bằng dụ ngôn đã chấm dứt. Đối với Thánh Maccô “sự trình bày cán sự kiện nối tiếp nhau là một cấu trúc thần học hơn là một phóng sự “Ngày hôm đó” sẽ không phải một ngày thường. Phêrô sẽ nhớ ngày đó suốt đời. Vì ông gợi nhớ những hình ảnh Thánh kinh: “Ngày hiển hách của “Giavê”, “Ngày Thiên Chúa quyền năng can thiệp mạnh mẽ”, ngày đó có những tai họa cánh chung đi trước (Ga 2,3).
“Chiều tối đến”: Không chỉ là màn đêm buông xuống, mà còn “giờ của bóng tối”, giờ thử thách (Mc 14,17; Ga 9,4-13.30).
“Bờ bên kia”: Không chỉ là bờ hồ đối diện mà còn là bước đi vĩ đại sang bên kia thế giới. Đó là số kiếp của mỗi người vào lúc hoàng hôn của cuộc đời. Đó là ngày trọng đại Ngày của Thiên Chúa”... Tất cả những ngày khác đều phải chuẩn bị cho ngày đó.
Bỗng nổi lên một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Bão tố thực sự. Ngày nay hồ Tibêria vẫn nổi tiếng về những cơn bão bất ngờ và mãnh liệt từ đồi Gôlăng thổi xuống. Hơn ai hết, vì nghề nghiệp Phêrô đã biết rõ điều này. Những cơn gió thổi mạnh đập vào cánh buồm và làm nghiêng ngả chiếc tàu thật nguy hiểm. Nhưng không cần phải đi biển mới bị những cơn bão tố như thế. Tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều dùng chữ bão tố để ám chỉ “một cơn thử thách bất ngờ đổ xuống trên con người”. Trong Thánh Kinh, đề tài bão tố thường được dùng để nói về sức mạnh của sự dữ. Công cuộc tạo dựng ta được hiểu như sự chiến thắng của Thiên Chúa trên cảnh hỗn loạn của biển khơi nổi dậy (St 1,2). Theo khoa huyền thoại xưa của Do Thái. Biển cả là “vực thẳm vĩ đại”, nơi những con rồng, những thủy quái, Lêviathan, biểu tượng của Satan, thống trị (Is 27,1; Tv 74,13; G 9,13; Đn 7; Kh 12,13).
Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ.
Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu đang ngủ, đôi mắt nhắm, hơi thở đều đặn, vẻ bình thản, ở đằng lái thuyền, trong cớn bão tố. Chi tiết này gợi cho tôi tâm tình cầu nguyện nào? Lạy Chúa, Chúa đưa chúng con đi đến đâu? Chúa làm cho chúng con bối rối biết bao? Trong Thánh kinh, có một người khác cùng ngủ trong cơn bão táp, đó là Giona. Người ta phải đến đánh thức ông dậy (Gn 1,3-16). Có phải tình cờ, mà Đức Giêsu nói về “dấu lạ của Gio-na” như một dấu hiệu duy nhất để diễn tả về: Cái chết và sự Phục sinh của Người? (Mt 12,39-40; Lc 11,29-30; Mc 8,12-13). Vả lại các tác giả Kinh thánh thường nói về “cái chết” bằng từ “giấc ngủ” (Tv 13,4; Đn 12,2; Ep 5,14; Ga 11,11; Mc 5,39-41). Hình ảnh này cũng dùng để diễn tả sự “lãnh đạm của Chúa”, sự “vắng mặt của Chúa”: Lạy Chúa, xin Chúa chỗi dậy đi, tại sao Chúa lại ngủ? Chúa hãy thức dậy đi (Tv 44,24; 45,23; 59,6; 78,65; Is 51,9-10). Vâng, đúng vậy trong những cơn bão tố cuộc đời chúng con, dường như Chúa vẫn ngủ. Lạy Chúa, không phải chỉ có con người hiện đại nghĩ ra đề tài “cái chết của Thiên Chúa”, nhưng đó là tình cảm tự nhiên của thân phận con người, khi thấy mình bất lực, bị đe dọa trước một Thiên Chúa không can thiệp để cho lực lượng của thần chết hành động, một Thiên Chúa dường như đang ngủ.
Các môn đệ đánh thức Người dậy, và nói: “Thầy ơi! chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Đây là một lời cầu tuyệt diệu, đáng cho chúng ta bắt chước, trước những bão tố cuộc đời.
Người thức dậy, ngăn đe gió, và truyền cho biển: “Im đi? Câm đi?” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.
Ở đây chữ được dịch là “thức dậy”, “diégertheis” cũng chính là chữ được dùng để nói “được sống lại, Phục sinh” (Mc 5,41- 16,6.14).
Qua tình tiết có thực mà Maccô kể lại (đó là bài giảng của Phêrô), chúng ta có lý do chính đáng để nhận ra cuộc khổ nạn của Đức Giêsu là một cơn bão dữ dội: Nó làm lắc lư con thuyền nhỏ bé của cộng đoàn tông đồ, vào lúc Đức Giêsu đã ngủ yên trong cái chết của Người. Nhưng đối đầu với lực lượng thần chết được tượng trưng là “biển cả” Đức Kitô đã Phục sinh. Chúng ta gặp lại kiểu nói của người Do Thái về biển cả, hình ảnh những lực lượng thù địch với con người, vì ở đây, Maccô dùng chính những từ như khi Đức Giêsu “hăm dọa” quỷ dữ để “bắt chúng im lặng” (Mc 1,25; 9,25).
Đức Giêsu nói với họ: “Tại sao lại sợ? Tại sao các người không có đức tin?”
Câu nói rất nghiêm khắc: “Các anh không có đức tin”, “các anh đã mất lòng tin”, thực sự đã được áp dụng vào lúc Đức Giêsu chịu khổ nạn, lúc này tất cả các tông đồ chạy trốn, chối bỏ, hoài nghi. Chúng ta sẽ nghe lặp lại ba lần rằng, các tông đồ “đã không tin”: “Chúa trách sự cứng lòng tin của họ, vì. họ đã không tin những người đã thấy Chúa Phục sinh” (Mc 16,11-13).
Những cơn bão tố đời tôi thế nào? Chúa có làm nhẹ bớt những cơn bão đó không?
Nếu đọc Thánh kinh một cách ngây ngô, chúng ta có thể tin điều đó. Sự bình lặng của hồ Tibêria làm chúng ta mơ tưởng một cuộc sống an bình, trong đó Chúa sẽ thường xuyên can thiệp vào những nguyện nhân tự nhiên để tránh cho chúng ta sự thử thách và cái chết.
Nhưng đọc Thánh kinh cách đúng đắn, sẽ dẫn chúng ta đến sự “thanh tẩy đức tin” theo lời mời gọi của Chúa. Chính qua giấc ngủ của sự chết, Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi những thế lực của hỏa ngục và sự chết.
Không phải đức tin nào cũng dẹp yên được bão tố, mà chỉ đức tin nới “Đức Kitô tử nạn và Phục sinh” mới có khả năng. Sự cứu độ mà chúng ta tin, không làm cho chúng ta thoát khỏi những đau khổ gắn liền với bản chất con người cách lạ lùng và đặc biệt.
Sự xác tín vào quyền lực của Chúa đã không ngăn cản Chúa Kitô trải qua, giấc ngủ ở trong hồ. Chính chúng ta cũng phải trả qua thử thách mới đến được “bến bờ bên kia”. Nhưng Đức Giêsu đang ở đó với chúng ta trong những thử thách. Quả thật trang Tin Mừng này có một biểu tượng đáng phục.
Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Người là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”
Đây là lần đầu tiên Thánh Maccô ghi lại câu hỏi này của các môn đệ. Câu hỏi chủ yếu nhắm đến lai lịch sâu xa của vị “Thầy” trẻ trung. Người phải chăng chỉ là một ông “Thầy” (Rabbi) như bao ông thầy khác? Người là ai? Người sẽ đưa họ đến đâu? Một ngày gần đây, Đức Giêsu sẽ hỏi Phêrô: “Đối với anh, Thầy là ai?” (Mc 8,29).
Không người nào có thể tự miễn cho mình khỏi phải đặt câu hỏi đó. Và nếu không trả lời thì đó là chấp nhận rằng, những cơn bão trong cuộc đời sẽ kết thúc bằng một sự chìm đắm vào hư vô. “Nhưng nếu người nào ở trong Đức Giêsu, người đó sẽ là một tạo vật mới” (1Cr 5,7). Đức tin được thanh luyện đưa chúng ta vào cuộc sống mới. Lạy Chúa, Chúa đã nói: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia”.
46. Chú giải của Fiches Dominicales.
ĐỨC GIÊSU DẸP YÊN SÓNG GIÓ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1. Một trình thuật giống kiểu trừ tà
Đức Giêsu rời bỏ ven Biển Hồ Galilê, nơi Người đã dùng dụ ngôn mà giảng dạy cho dân chúng (x. Tin Mừng CN.11 TN) để phiêu lưu sang “bờ bên kia”, nơi có đông dân cư' là người ngoại. Trình thuật Maccô ta đọc hôm nay nằm trong bối cảnh đó.
Đọc trích đoạn trên, người đọc chỉ có thể thấy cái hời hợt bên ngoài, nếu không biết gió và biển trong Kinh Thánh có ý nghĩa biểu tượng gì, và nếu không để giờ đối chiếu đoạn văn này với câu chuyện Chúa gặp người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum. Thực vậy, “gió” và “biển” đối với người am tường Kinh Thánh, mang rất nhiều ý nghĩa. M.E.Boismard giải thích: “Trong ngôn ngữ Do Thái, cùng một tiếng “gió” cũng có nghĩa là “Thần trí”. Ngoài ra trong Kinh Thánh, biển thường là biểu tượng những thế lực gian tà mà Thiên Chúa phải đánh gục để kế hoạch của Người toàn thắng. Ở đây, biển động dữ dội do ảnh hưởng của cuồng phong. Ta phải hiểu là có một “thần tríxấu (Satan chăng) đang, tung những ma lực dưới quyền để ùa đến tấn công con thuyền, “tức là tân công các môn đệ” (“Jésus, un homme de Nazareth”, Cerf, 1996, trang 78). Quả là một trở ngại lớn lao cho việc loan báo Tin Mừng trên miền đất dân ngoại!
Còn nếu đối chiếu với phép lạ giải thoát người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum (Mc 1,23-27) ý nghĩa lại càng rõ.
+ Nơi Mc 1,25: Đức Giêsu đã quát mắng “thần ô uế”. “Câm đi” hãy xuất khỏi người này!”. Còn ở đây, sau khi được các bạn đồng hành đánh thức dậy, vì Người đang ngủ ở đàng lái, Đức Giêsu ngăm đe gió và truyền cho biển: “Im đi, câm đi”.
+ Nơi Mc 1,26: thần ô uế, sau khi đã lay mạnh người ấy, thì thét lên một tiếng và xuất khỏi anh ta. Còn ở đây, gió và biển đều tuân phục Đức Giêsu: “ Gió liền tắt và biển lặng như tờ”.
+ Nơi Mc 1,27: cảnh kết thúc với lời bàn tán của những người chứng kiến: Mọi người đều kinh ngạc và bàn tán: Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh. Còn ở đây, các môn đệ cũng bàn tán: các ông hoảng sợ và nói với nhau. Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”.
Thế nên, trong chuyện kể về bão táp được dẹp yên, không chỉ đơn thuần là việc Đức Giêsu biểu dương quyền lực đối với thiên nhiên mà chính là vấn đề trữ quỷ đích thực: Đức Giêsu có quyền trấn áp Satan và những thế lực của sự ác đang hoạt động song hành với Người.
Còn về lời bàn tán của các môn đệ “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”, thì rõ ràng là lời mạc khải. J.Potin chú giải: theo cách nhìn của Kinh Thánh, bão táp là biểu hiện của những ma lực tiềm ẩn trong biển cả. Chỉ mình Thiên Chúa hoặc kẻ được Chúa ban quyền mới có thể chế ngự được những ‘thế lực ấy’. Ở đây các môn đệ được mời gọi khám phá ra chân lý tiềm ẩn đàng sau cảnh dẹp yên sóng gió là: Đức Giêsu được Thiên Chúa trao ban quyền lực để thu hồi mọi lực lượng về phục tùng Thiên Chúa. Nhờ thế lực của Đức Giêsu mà các môn đệ đã khắc phục được hiểm nguy lớn lao. Việc hồi tưởng lại một biến cố rõ rệt đã trải qua, sự hộ phù che chở của Chúa trong chuyến vượt biển nguy hiểm ấy. Đều là biểu tượng ơn nâng đỡ người sẽ ban cho các ông trong lúc con thuyền Giáo Hôi lâm cảnh lênh đênh sóng gió “Jésus, l’histoire vaie”, Centurion, 1994, trang 256-257).
2. Khi đọc lại câu chuyện dưới ánh sáng phục sinh.
Một sự đối chiếu khác không kém phần lý thú và chứa đựng nhiều giáo huấn. Đó là cảnh khởi đầu của sách Giona mà trích đoạn Tin Mừng này coi như đã sao họa lại.
Trong cả hai trường hợp, câu chuyện đều cùng mở đầu bằng việc hành khách xuống thuyền (Ga 1,31 Mc 4,35-36).
+ Nếu Giona xuống thuyền để đi Taxê là vì ông nghĩ mình có thể trốn lánh mặt Chúa, Người đã lệnh cho ông phải đi tới Ninivê, một thành phố lớn của dân ngoại để kêu gọi dân thành ở đây trở lại.
+ Còn Đức Giêsu xuống thuyền là để tới ven bờ bên kia của Biển Hồ, miền đất thuộc dân ngoại, cũng là để rao giảng Tin Mừng ở đây. Đây là một khúc quanh quan trọng trong sứ vụ của Người.
Trong cả hai trường hợp đều có một trận cuồng phong nổi lên khiến biển động dữ dội.
Trong khi đó, Giona và Đức Giêsu đều cùng ngủ mệt: Giona ngủ vùi dưới lòng tàu, còn Đức Giêsu thì dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ ở đàng lái, chỗ thường dành cho người thủy thủ cầm lái (T.O.B). Tất cả đều “cùng sợ hãi”: các thủy thủ trong Giona 1,5, các môn đệ Đức Giêsu trong Mc 4,40. Cùng xoay sở và cùng buông lời trách móc. Nói với Giona: “Ông làm nghề gì”? Sao ngủ mê mệt như vậy? Hãy chỗi dậy cầu khẩn cùng Thiên Chúa của ông, may ra Người sẽ đoái đến chúng ta, và chúng ta khỏi chết chăng? Nói với Đức Giêsu trong Mc 4: “Thầy ơi chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao?”.
- Cùng cảnh êm ả trở lại.
+ ở Giona 1: Sau khi các thủy thủ đã kêu cầu Chúa, trước khi ném Giona xuống biển theo yêu cầu của ông.
+ Nơi Mc 4: Theo lệnh truyền của chính Đức Giêsu.
- Cùng một phản ứng từ phía những người chứng kiến sự việc:
+ Nơi Giona 1: “Mọi người đều rất kính sợ Chúa, họ làm lễ tế dâng lên Chúa cùng với lời khân hứa”.
+ Nơi Mc 4: “Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”.
Ở đây “dấu chỉ Giona” há chẳng phải là một lối ám chỉ và là một biểu tượng loan báo cuộc đối đầu quyết liệt của Ngày Thứ Sáu Thánh (nhất nữa, giấc ngủ theo Kinh Thánh thường là biểu ttượng của sự chết và động từ chỗi dậy” được trình thuật sử dụng vốn là một trong những động từ thế hệ Kitô giáo ban đầu dùng để chỉ sự phục sinh)?.
J.Hervieux đưa ra nhận xét: “Câu chuyện Chúa dẹp yên sóng gió không chỉ đơn giản là một tường thuật về một phép lạ. Câu chuyện đó được coi như một biểu tượng nói lên một cách cô đọng số phận nghiệt ngã của Đức Giêsu. Nếu Người có đưa các môn đệ vào trận cuồng phong, thì cũng không phải do ngẫu nhiên! Toàn bộ cuộc đời Người là một cuộc chiến cam go với những thế lực của sự ác. Người phải tiến lên đối đầu với một cuộc chạm trán khốc liệt nhất: đối đầu với chính cái chết của mình. Việc Người ngủ - chẳng ai lại ngủ giữa lúc phong ba bão táp - lại là điều rất có ý nghĩa. Trong Kinh Thánh, giấc ngủ thường là biểu tượng sự chết. Ở đây cuộc khổ nạn của Đức Giêsu như được diễn trước bằng kịch câm. Đức Giêsu thiếp ngủ đi như chết giữa cảnh xôn xao náo động của hỏa ngục được gợi hình bằng những đợt sóng lồng lộng điên cuồng. Trong một tình huống như vậy, mà Thầy vẫn ngủ, thì chuyện các môn đệ hoảng sợ cũng là điều dễ hiểu. Trước cảnh tượng của thập giá sau này, cũng như ở đây lúc này, các ông sẽ mất lòng tin là điều hiển nhiên” (“Evanglle de Marc”, Centurion, trang 75).
Cũng tác giả J.Hervieux kết luận: “Khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Maccô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo Hội thời ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi sợ hãi, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa, đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc người: “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè, sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập?
Cuối cùng ta đừng quên, bão táp xảy đến trong lúc Đức Giêsu đã quyết đinh đem các bạn hữu theo mình đi truyền giáo ở phía bên kia Biển Hồ, nơi các dân ngoại. Người ta có thể nghĩ bụng phải chăng các tín hữu đầu tiên ở Rôma không linh cảm việc loan báo Tin Mừng cho những người đương thời của họ là một công việc đáng dễ sợ sao?” (Sđd)
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Vậy người này là ai”.
“Có một thứ mâu thuẫn trong cách phản ứng của các môn đệ: khi sợ hãi trong lúc gặp sóng gió, các ông liền lên tiếng kêu cứu Chúa, đánh thức Người dậy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? Thế nhưng khi Chúa truyền cho gió yên bể lặng rồi, thì các ông lại kinh ngạc: “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Đức Giêsu biết rõ lòng các ông còn lẫn lộn bán tín bán nghi: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Lắm lúc chúng ta cũng mang một tâm trạng như vậy. Ta cậy dựa vào Chúa, biết rõ mình có thể kêu cầu Chúa, chẳng cần phải đánh thức Người dậy! Cùng lúc ấy, tâm trí ta lại vương nỗi do dự này: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, mà Thầy những lo gì sao? Chúa liền ra tay để củng cố lòng tin cho ta. Tin như vậy là tiếng kêu gọi thiết tha, là niềm cậy trông còn nhỏ bé và mong manh thúc đẩy ta chạy đến với Chúa. Rồi lòng tin ấy trở nên tâm tình cảm phục, vững tin khi Chúa cho ta biết Người là ai, Người có thể làm gì cho những ai dám đến cùng Người. “Vậy người này là ai? Lời đó phải vừa là câu hỏi, vừa là tiếng kêu bày tỏ lòng suy tôn vậy”.
2. “Từ sợ hãi đến tin tưởng”
“Hãy xem ông Gióp, bị điêu đứng vì những thử thách trăm bề, về mặt vật chất cũng như tinh thần, mặt đạo đức cũng như thiêng liêng. Một người chính trực như ông mà đã phải gánh chịu bao bất công, phải chao đảo vì những tai ương dồn dập, và vì sự thinh lặng của Chúa. Ông tố cáo Chúa, Chúa sẽ chẳng đưa ra lời giải thích nào, và sẽ chẳng vén lên bức màn bao trùm mầu nhiệm khôn dò về sự ác. Thế nhưng chỉ giữa lúc phong ba bão táp thì Chúa mới nhắc nhở cho ông biết rằng Người là Chúa tể của bão, Người có quyền đặt ranh giới và ngăn chặn những đợt sóng kiêu hùng của bão. Thế là ông Gióp nghiêng mình bái phục Chúa với lòng tin, đồng thời thú nhận sự ngu muội của mình.
Maccô dùng cũng thứ ngôn ngữ ấy để nói với các tín hữu của giáo đoàn Rôma đang hốt hoảng và bị chấn thương vì cơn bách hại. Ngài để lại cho họ một kinh nghiệm bản thân: chính các tông đồ cũng đã từng biết đến một Đức Giêsu ấy nằm ngủ và tỉnh bơ trước thảm cảnh của những bạn đồng hành, hoảng hốt thấy mình sắp “đi đời” rồi, dù họ là những tay ngư phủ dày dạn. Thực tế là các ông đã chỉ thiếu lòng tin mà thôi, hay nói cách khác là lòng tin tưởng và yêu mến, vì theo kiểu nói của thánh Phaolô, họ đã chỉ biết Đức Kitô theo quan điểm loài người (Bài đọc 2).
Đường lối sư phạm của Chúa vẫn trước sau như một. Những lớp sóng vẫn liên lì và ồ ạt vập vào thuyền khiến thuyền đầy nước. Vậy mà Đức Kitô luôn có mặt ở đó, vẫn cứ ngủ. Giống như thời ông Gióp, ta cũng thường tra hỏi, chất vấn, sửng sốt, đòi hỏi Chúa phải giải thích và trình bày. Tại sao vẫn xảy ra những vụ tàn sát những người vô tội, những cảnh anh em chém giết nhau không nương tay, những cuộc bách hại đẫm máu, những trận dịch kinh hoàng, những bất công chỉ biết kêu trời báo oán, những cảnh chết đói khiến phải đào mồ chôn tập thể.
Ta đừng chờ đợi phép lạ, có chăng chính là phép lạ của lòng tin, cậy, mến. Thực ra “Đức Kitô hôm qua, hôm nay và ngày mai” cũng vẫn là một. Hằng ngày ta vẫn còn thấy Người thực hiện những điều kỳ diệu khi làm nẩy sinh những tạo vật mới, khi tạo dựng một thế giới mới. Đó là mỗi lần mà tha thứ thay thế cho hận thù, ích kỷ nhường chỗ cho quảng đại và lòng can đảm quét sạch đi những hèn nhát.
Còn một câu hỏi và nỗi sợ hãi khác từ phía những tín hữu vốn khư khư với những tập quán, quan niệm hẹp hòi, với những chương trình và kế hoạch tương lai cho Giáo Hội do họ suy luận ra, nên họ la ó lên rằng: những hết cả rồi, khi họ nhìn thấy những bảng thống kê sụt giảm, những cơ cấu rạn nứt, những hình thức đổi thay và những cánh cửa canh tân mở toang. Câu trả lời của Chúa vẫn không thay đổi: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Há các bạn không nhìn thấy trong “cơn gió chướng mạnh” Thần Khí vẫn đang thổi hơi, làm nổi lên cho mãi tới những gốc cây cổ thụ đang chết một giải đất. bao la đầy những chồi non đang vươn lên ngợi ca sự sống và hy vọng. Bởi lẽ “cái cũ đã biến mất, và cái mới đã có đây rồi” (Bài đọc 2)
47. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
BÃO TỐ DẸP YÊN
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Người tín hữu thường quên chiều kích vũ trụ trong hành động của Chúa Kitô, trong khi thời đại này, các khoa học kỹ thuật nói nhiều đến việc khai thác, nhân hóa, bảo tồn, chinh phục thiên nhiên, các khoa học nhân văn nói nhiều đến mối liên quan giữa con người và vật chất, thiên nhiên, vũ trụ, môi trường sống. Kitô hữu phải hiểu cùng làm cho người khác hiểu rằng Chúa Kitô không xa lạ với vật chất đã làm nên vũ trụ. Trái lại qua việc nhập thể và phục sinh trong thân xác, Người đã mở rộng ơn cứu rỗi tới cho tất cả những gì hiện hữu. Chúa Giêsu đã đến không phải chỉ để cứu linh hồn con người mà thôi, nhưng cứu toàn thể con người xác hồn, và qua thân xác con người, Người biến đổi sâu xa cả vũ trụ vật chất (x. Rm 8,19): chính vũ trụ vật chất đang trên đường về với Thiên Chúa.
2. Câu chuyện xảy ra được Maccô kể lại theo lời chứng nhân tận mắt là Phêrô nên có nhiều chi tiết. Nhưng một trong những điểm quan trọng, chủ yếu của trình thuật là chính thắc mắc của các sứ đồ sau khi bão yên: “Người là ai mà gió cùng biển phải tuân phục Người?”. Ngày nay với phát minh khoa học kỹ thuật, con người khắc phục được thiên nhiên rất nhiều đã từng nghiêng đồng đổ nước, thay trời làm mưa, bắt sông uốn khúc, ép núi cúi đầu, nên dễ quên Đấng Tạo Hóa. Kitô hữu phải biết khám phá thấy trong mọi chuyển động tự nhiên của vũ trụ cũng như trong mọi khắc phục thiên thiên của con người bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
3. “Xảy đến một trận gió táp thổi mạnh, và sóng ập tràn vào đò, làm đò đã hòng ngập đầy”. Ngày nay, đâu là cơn bão tố lớn đang vùi dập con đò Phêrô? Là trào lưu vô thần, là sự tục hóa, là thái độ tấn công tinh vi hay dửng dưng với tôn giáo. Nhưng Kitô hữu đừng lo! Giáo Hội đã trải qua nhiều cơn bão lớn hơn trong lịch sử rồi, như những sa đọa trong hàng ngũ lãnh đạo, sự cấu kết thái quá với thế quyền, sự chểnh mảng trong việc trau dồi đức tin, những xâu xé nội bộ, thế mà Giáo Hội vẫn không chìm đắm. Vì Chúa Kitô và Thánh Thần luôn ở với Giáo Hội.
4. “Tại sao sợ hãi? Các ngươi không có đức tin ư”. Lời chất vấn và trách cứ của Chúa Giêsu cũng như lời mời gọi hãy tin tưởng đang được gởi đến những tín hữu mà niềm tin vào Thiên Chúa hôm nay đang bị lung lay vì bao bão tố, đau khổ. Kitô hữu hãy nhớ: tin trước hết là xác tín rằng dù gặp phải bao yêu thương, là hiểu rằng mọi chướng ngại chỉ là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa, là phương tiện giúp ta về với Thiên Chúa.
5. Chúa Giêsu không hứa với Giáo Hội là sẽ che chở cho khỏi cơn bão tố, trái lại người hứa là Giáo Hội sẽ thắng bão tố, sẽ không bị chìm ngập và con thuyền Giáo Hội, cho dầu có xảy ra gì chăng nữa, sẽ đến bờ như đã hứa. Chúa Kitô đã chẳng trải qua cơn bão tố Tử nạn để rồi đạt đến bờ Phục sinh ư? Cuộc sống Giáo Hội và cuộc sống mỗi Kitô hữu chúng ta không thoát khỏi định luật này, là định luật của tất cả những ai, những gì muốn về với Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đây không phải là định luật Thiên Chúa ra một cách độc đoán, như thể Ngài muốn ta phải trả giá Nước Trời, hành hạ ta đã rồi mới cho được nghỉ ngơi. Bão tố, gian nan, thử thách chính là những gì xảy ra khi ta quyết tâm trung thành với Thiên Chúa, khi ta từ bỏ chính mình, từ bỏ mọi sự để chiếm đoạt cho được Thiên Chúa là hạnh phúc đích thực của ta.
48. Chú giải của William Barclay.
BÌNH AN CỦA SỰ HIỆN DIỆN
Biển hồ Galilê nổi tiếng về bão tố. Những cơn bão từ nguồn đến hết sức thình lình với sự tàn phá kinh khủng. Một tác giả đã mô tả chúng như vậy: “Các trận cuồng phong khủng khiếp lồng lộn trên mặt nước mà bình thường rất phẳng lặng, ngay cả khi bầu trời hoàn toàn trong trẻo, thình lình cơn bão đến không phải là điều không thường thấy. Vô số các thung lũng từ hướng đông bắc và hướng đông trải ra ở phần trên của hồ tạo thành rất nhiều hẻm núi nguy hiểm bọc gió từ cao nguyên Hauran, vùng đồi Tracônít và đỉnh núi Hetmôn tạo thành một sức nén, ào đến với một lực kinh khủng qua một khoảng trống hẹp rồi thình lình thoát ra làm xao động hồ Giênêdarét bé nhỏ trong một tình trạng kinh hoàng nhất. Những khách vượt hồ luôn luôn có cơ hội phải đối diện với những cơn bão thình lình như vậy”.
Chúa Giêsu đang ở trong thuyền, tại chỗ dành cho bất cứ một vị khách quý nào. Chúng ta được biết, “Trong những thuyền này, tại đó có sắm sẵn một tấm thảm và gối. Người lái thuyền đứng cách đó một chút gần bánh lái thuyền để có thể dễ dàng nhìn phía trước”.
Thật thú vị khi ghi nhận được những lời của Chúa Giêsu truyền cho gió và sóng hoàn toàn giống như điều Người đã truyền cho người bị quỷ ám trong Maccô 1,25. Sức mạnh phá huỷ của bão tố cũng như sức mạnh tàn phá của ma quỷ khi nó nhập vào con người, vì vậy dân chúng tại Palestine vào thời ấy tin rằng quyền lực xấu xa của ma quỷ cũng đang hoạt động trong lãnh vực thiên nhiên.
Thật thiếu công bằng khi chúng ta chỉ suy nghĩ câu chuyện này theo nghĩa đen. Nếu nó chỉ thuật lại một phép lạ vật chất trong đó một cơn bão thực sự yên lặng thì đó là một điều rất lạ lùng và là điều đáng cho chúng ta kinh ngạc, nhưng đó là điều xảy ra một lần. Trong trường hợp đó nó hoàn toàn ở bên ngoài đối với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta đọc nó theo ý nghĩa biểu tượng thì sẽ thấy giá trị hơn. Khi các môn đệ nhận thức được sự hiện diện của Chúa ở với họ thì cơn bão yên lặng. Một lần nữa họ kinh nghiệm sợ hãi tan biến và bình an vào trong lòng họ. Ra khơi với Chúa Giêsu là ra khơi an toàn ngay cả trong bão tố. Giờ đây là sự thật cho mọi trường hợp. Đó không phải là điều chỉ xảy ra một lần, nhưng vẫn còn đang xảy ra và có thể xảy ra cho chúng ta. Trong sự hiện diện của Chúa Giêsu chúng ta có được bình an ngay cả trong bão tố khủng khiếp nhất của cuộc sống.
1/ Ngài ban cho chúng ta bình an trong bão tố của sầu muộn.
Khi sầu muộn đến, Ngài nói với chúng ta về vinh quang của cuộc đời sẽ đến. Ngài biến đổi bóng tối của sự chết thành ánh sáng của sự sống vĩnh cửu. Ngài nói với chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa. Một câu chuyện cổ nói về một người làm vườn, nơi ấy có một đoá hoa mà ông rất yêu quý. Một ngày nọ khi ra vườn thấy bông hoa đó đã mất. Ông ta vô cùng phật ý, bực tức và phàn nàn. Trong lúc đang bực tức ông gặp chủ vườn và phàn nàn với chủ. Chủ vườn nói “Anh yên tâm! Chính tôi đã hái nó cho tôi”. Giữa bão tố của sầu muộn, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những người chúng ta thương yêu đã đi ở với Thiên Chúa và Ngài đảm bảo rằng rồi đây chúng ta sẽ gặp lại những người thân thương mà chúng ta đã thiếu vắng họ một thời gian.
2/ Ngài ban cho chúng ta bình an khi những nan đề của cuộc sống cuốn hút chúng ta vào trong cơn bão của nghi ngờ, căng thẳng và không chắc chắn.
Rồi có những lúc chúng ta chẳng biết phải làm gì, khi chúng ta đứng trước ngã ba của cuộc sống không biết đi đường nào. Lúc ấy chúng ta quay sang Chúa Giêsu và thưa cùng Ngài rằng “Lạy Chúa, Ngài muốn con làm chi?”. Con đường sẽ được khai thông. Thảm kịch không phải là chúng ta không biết phải làm gì, nhưng chính là chúng ta thường không hạ mình tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Giêsu. Câu hỏi ý Ngài và tuân phục ý đó là đường dẫn đến bình an trong những lúc như vậy.
3/ Ngài ban cho chúng ta bình an trong bão tố của lo âu.
Kẻ thù hàng đầu của bình an là lo lắng, lo lắng cho chính mình, lo lắng về tương lai ngoài sự hiểu biết, lo lắng về những người mình yêu. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta về một người Cha không bao giờ làm đổ những giọt lệ không cần thiết nơi con Ngài, và về một tình yêu vượt trội giữa chúng ta và những người thân yêu của chúng ta khỏi trôi giạt. Trong bão tố của lo âu, Ngài đem đến cho chúng ta bình an của tình yêu Thiên Chúa.
49. Bão táp cuộc đời mỗi người
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Đời người là một cuộc hành trình lâu dài và khó khăn, bởi vì cuộc đời con người không phải lúc nào cũng xuôi chảy,có lúc giống như mặt nước êm ả, chảy trôi nhưng có lúc không thiếu giông ba bão táp…Với ngòi bút thật linh động của thánh Marcô, thánh sử mô tả một cơn bão tố trên biển hồ Tibêriat hay gió mênh mông, thổi mạnh vào những buổi chiều trong thung lũng sông Giorđăn. Dân chúng đi theo Chúa, nghe Chúa giảng dạy và khi họ được Chúa làm phép lạ nuôi họ, Ngài giải tán dân chúng và ra lệnh cho các môn đệ qua bờ bên kia để nghỉ ngơi một chút…
Chúa lên thuyền bởi vì mệt mỏi sau một ngày giảng dạy không ngơi nghỉ, Ngài xuống cuối mạn thuyền và nằm ngủ. Các môn đệ vẫn cần mẫn chèo thuyền để qua phía kia biển hồ…Các môn đệ đâu có tưởng được bỗng dưng gió thổi mạnh, sóng dâng cao…nước vào đầy thuyền,các môn đệ vẫn tay chèo, tay tát nước. Thế mà, Chúa vẫn ngủ say như không hề để ý gì đến cơn lốc, cơn bão táp. Thực tế, Chúa Giêsu muốn đưa các môn đệ của Người đi trên biển hồ mênh mông, giữa bão táp, sóng to, gió lớn, là để cho các môn đệ thấy trước những bão tố trong cuộc đời sau này sẽ xẩy đến cho các môn đệ là những thử thách, gian nan như bắt bớ, bách hại, tù đầy, hy sinh cả mạng sống mà các môn đệ sẽ gặp phải trên đường loan báo Tin Mừng. Các môn đệ sẽ phải đối diện với nhiều thử thách trên đường truyền giáo. Họ sẽ lèo lái con thuyền Giáo Hội và Giáo Hội sẽ gặp nhiều thử thách, các môn đệ và các tông đồ phải kiên trì, can đảm, mạnh mẽ chống đỡ.Cái trớ trêu là khi Chúa Giêsu đang có mặt, các môn đệ vẫn lo âu, sợ sệt, phải chăng các ngài chưa tin tưởng vào Chúa? Chúa Giêsu nói tại sao các con sợ sệt? Sợ sệt đang lúc Chúa đang có mặt chung trong con thuyền? Sợ như thế thật vô lý! Chúa muốn, Chúa đòi hỏi các môn đệ không được sợ, không được khiếp đảm! Chúa Giêsu đã làm biết bao phép lạ trước mặt các môn đệ! Tại sao các môn đệ lại cuống cuồng lên như thế? Nếu các ngài có lòng tin, chắc chắn các ngài không sợ sệt như thế! Các môn đệ chỉ hoàn hồn khi Chúa truyền cho biển im, gió lặng…Đức tin chỉ hình thành khi con người phó thác và hiểu quyền năng của Chúa Giêsu.
Vâng, phép lạ Chúa Giêsu làm cho sóng to, gió lớn, biển động im lặng giúp chúng ta hiểu được rắng Giáo Hội trải qua thời gian trong lịch sử, đã gặp biết bao thử thách, đã gặp biết bao sóng to, gió lớn. Tuy nhiên, con thuyền Giáo Hội, cầm đầu là các Đức Giáo Hoàng, đứng đầu là Phêrô, đã vượt qua
Đối với chúng ta, cuộc đời mỗi người là một cuộc hành trình đầy sóng gió, có lúc đức tin chúng ta vững, nhưng cũng cói lúc đức tin chúng ta yếu, không vững vàng. Có lúc chúng ta như thấy Chúa đang hiện diện với ta, nhưng cũng có lúc xem ra chúng ta không còn thấy Chúa nữa. Những lúc đó đức tin của chúng ta thực yếu, thực mệt mỏi, chúng ta như muốn buông xuôi tất cả. Trong những lúc như thế, chúng ta phải bắt chước các môn đệ, đến với Chúa Giêsu, xin Ngài cứu giúp vì Ngài đã hứa:” Ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế “.
Xin mượn lời Cha Christophe Husson,A.a. để kết luận bài chia sẻ này:” …Con thuyền cũng là Giáo Hội của chúng ta, mà chúng ta là thành phần liên đới.Thuyền lướt êm trên biển lặng và thuyền quay cuồng muốn lật úp dưới sóng gió hung tàn. Chúng ta đều thấy rõ, dù là tín hữu, cuộc đời không nhân nhượng với chúng ta, nhưng giữa những thử thách của niềm tin, chúng ta phải giữ vững mũi tàu trong niềm hy vọng, chỉ đơn giản vì Thiên Chúa đang nắm giữ mũi tàu của chúng ta:” Tại sao các con lại sợ? “.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con vững mạnh, can đảm lướt thắng những thử thách, khó khăn vì tin rằng Chúa đang hiện diện với chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao Chúa lại nói các môn đệ chèo thuyền qua bên kia biển hồ Tibêriat?
2.Tại sao Chúa lại ngủ?
3.Trước sóng to gió lớn thái độ của các môn đệ như thế nào?
4.Các môn đệ có tin vào Chúa đang có mặt trong thuyền với các ngài không?
5.Chúa mắng các môn đệ làm sao?
50. Quyền uy trên thiên nhiên
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng của Người trên gió và biển, tượng trưng cho những thế lực của ma quỉ muốn chống lại Thiên Chúa. Người đã dùng lời quyền năng dẹp yên sóng gió để củng cố đức tin yếu kém của các môn đệ. Đồng thời cũng để các ông vững tin khi gặp phải những cơn thử thách bách hại sau này.
CHÚ THÍCH:
- C 35-36: + Chúng ta sang bờ bên kia đi": Biển hồ ở đây là hồ Galilê, cũng có tên Giê-nê-sa-rét hay Ti-nê-ri-a. Đây là một các hồ lớn nằm bên trong đất liền xứ Ga-li-lê, dài 21 km và rộng 13 Km. Hồ thấp hơn mặt biển 210 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng thương hay có những trận cuồng phong. Biển hồ theo nghĩa của Thánh Kinh là một thế lực gian ác chống lại Thiên Chúa và con người. Đức Giê-su đã làm nhiều phép lạ tại vùng biển hồ này như: Hóa bánh ra nhiều (x Mt 14,14-31); Đi trên mặt nước (x Mt 14,25); Chữa nhiều bệnh nhân (x Mt 15,29-31); Hiện ra sau khi sống lại (x Ga 21,1); Mẻ cá lạ lùng (x Ga 21,4-8).
- C 37-38: + Và một cơn cuồng phong nổi lên: Cơn cuồng phong đe doạ sẽ nhấn chìm thuyền của các Tông đồ xuống lòng biển, tiên báo những nguy hiểm thử thách mà Hội Thánh sẽ phải trải qua sau này. +Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ: Trong khi chiếc thuyền và những người trên thuyền lâm nguy vì bị bão tố trù dập thì Đức Giê-su vẫn nằm ngủ để thử thách đức tin của các môn đệ. Giấc ngủi còn là hình ảnh ám chỉ về sự chết của Người (x Tv 13, 4; Ep 5, 14).. +Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao?”: Đánh thức là hành động của các môn đệ kêu cầu Đức Giệ-su cứu giúp trong cơn nguy hiểm. Điều này cho thấy lòng tin yếu kém của các ông vì chưa tín vào quyền năng và tình thương của Thầy mình. +Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao?”: Các môn đệ hốt hoảng khi thấy thuyền của các ông sắp bị chìm đắm giữa biển khơi mà xem ra thầy các ông không hay biết.
- C 39-41: +Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!”: Đức Giê-su bày tỏ uy quyền trên gió bão và biển động. Khi ra lệnh cho ai là chứng tỏ mình có quyền trên người đó. Khi truyền cho sóng gió yên lặng, Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng trấn áp các thế lực gian ác. +Lập tức gió ngưng biển lặng: cho thấy sự dữ đã phải tùng phục uy quyền của Con Thiên Chúa. +”Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?: Đức Giê-su quở trách sự hèn tin của các môn đệ như nhiều lần khác Người đã trách các ông chậm tin vào Người: “Hỡi những kẻ ngu muội và trí lòng chậm tin”(Lc 24, 25); “Người quở mắng sự cứng tin chai đá của họ, bởi họ không tin những kẻ đã thấy Người sống lại” (Mc 16,14). +Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?: Các môn đệ ngạc nhiên và đầy lòng thán phục Đức Giê-su, khi họ được chứng kiến lời phán đầy uy quyền của Người trên thiên nhiên là gió và biển..
CÂU HỎI: 1-Biển hồ Ga-li-lê còn có những tên gọi nào? Dài rộng bao nhiêu? 2-Đức Giê-su đã làm các phép lạ nào tại vùng biển hồ này? 3-Cơn cuồng phong tượng trưng cho điều gì? 4-Đức Giê-su ngủ ở đàng lái trong khi cuồng phong nổi lên nhằm mục đích gì? 5-hành động đánh thức Đức Giê-su nói lên điều gì về đức tin của các môn đệ? 6-Đức Giê-su bày tỏ quyền năng Con Thiên Chúa qua lời nói và hành động nào? 7-Ngoài lần này, Đức Giê-su còn trách các môn đệ hèn tin trong những hoàn cảnh nào nữa không? 8-Các môn đệ đã biểu lộ đức tin thế nào khi chứng kiến phép lạ Đức Giê-su thực hiện trên thiên nhiên?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Môn đệ liền nói:”Người là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”(Mc 4,41).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Tín thác vào tài năng của cha:
Trong một chuyến du hành vượt Đại Tây Dương, nhiều du khách đang đứng trên boong ngắm cảnh hoàng hôn mặt trời đang dần lặn xuống biển. Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, chẳng mấy lúc làm tối sầm cả vùng trời. Rồi sấm chớp đổ xuống liên hồi, trên mặt biển giông tố cuồn cuộn nổi lên, gió càng lúc càng thét gào dữ dội. Mọi người trên boong chen lấn nhau đi về phòng mình, duy chỉ một bé trai là tiếp tục chơi trên boong khi trận cuồng phong sắp ập xuống.
Khi có người hỏi “Em không thấy sợ khi cơn giông tố đang ập đến sao?” Em thản nhiên đáp lại: “Em không sợ, vì ba em chính là thuyền trưởng cừ khôi đang cầm lái con tàu này!”.
Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình đang cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin Thiên Chúa là Cha đầy tình yêu và quyền năng. Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời chúng ta bước theo đường lối của Ngài để tới bến bình an.
2) Con ruồi: một tạo vật tinh xảo của Thiên Chúa:
Ngày kia khi tôi đang ngồi ăn trong phòng thì một con ruồi từ bên ngoài bay vào. Nó bay mấy vòng trên bàn rồi nhẹ nhàng hạ cánh xuống miếng chuối ăn dở trên bàn.... Con ruồi đã có thể làm bất cứ điều gì nó thích và bay đến bất cứ nơi nó muốn.
Con ruồi chỉ là một sinh vật nhỏ bé và không chứt giá trị, thế nhưng hoạt động của nó lại trổi vượt hơn hẳn một chiếc máy bay tinh xảo đắt tiền.... Ruồi cất cánh mà không cần lấy đà như máy bay. Đang bay nhưng nó vẫn có thể đáp xuống ngay. Ruồi không bị rơi, không va chạm vào vật nào khác và cũng không bị tai nạn mjuw máy bay. Nó không cần phải học bay và động cơ cũng không bao giờ bị trục trặc hay gặp sự cố. Và cuối cùng nó có khả năng sản xuất ra ngàn vạn con ruồi tương tự mà không phải tốn bao nhiêu công sức.
Con ruồi cho chúng ta thấy quyền năng vô biên của Thiên Chúa trong vũ trụ thiên nhiên.
3) Tận mắt chứng kiến phép lạ Tại Lộ Đức:
Một sinh viên y khoa người Tây Ban Nha đi viếng trung tâm hành hương Đức Mẹ tại Lộ Đức bên Pháp. Ở đại học Madrid, chàng sinh viên này đã nghe các giáo sư vô tín ngưỡng nói về Lộ Đức như là nơi sản xuất của những mê tín dị đoan trong tôn giáo. Nên trong thời gian ba tháng này, anh sinh viên muốn điều tra thực hư về các phép lạ. Tại đây anh đã được tận mắt chứng kiến một phép lạ như sau:
"Hôm đó tôi đang ở sân Vương cung Thánh đường Lộ Đức cùng với các bà chị của tôi chờ Kiệu Mình Thánh Chúa sắp đi qua. Bấy giờ một bà tuổi trung tuần đang đẩy một chiếc xe lăn đi tới ngay trước mắt chúng tôi. Bà chị tôi chỉ chiếc xe lăn nói: "Kìa hãy coi cậu con trai đáng thương của bà ta!" Đó là một anh chàng khoảng 20 tuổi bị bại liệt và toàn thân biến dạng. Mẹ của anh ta đang lần chuỗi to tiếng, kèm theo lời cầu nguyện "Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin hãy giúp đỡ chúng con!".
Khi Đức Giám Mục ban phép lành Mình Thánh cho chàng thanh niên bại liệt, đang lúc anh ta nhìn vào mặt nhật có đựng Mình Thánh Chúa. Đột nhiên chàng thanh niên bại liệt trỗi dậy, từ từ bước ra khỏi chiếc xe lăn và đã hoàn toàn bình phục! Dân chúng thấy vậy liền hô to trong niềm vui hân hoan: "Phép lạ! Phép lạ!"
Sau đó nhờ có giấy phép, nên tôi được xem các bằng chứng xác minh phép lạ này. Tôi không thể diễn tả hết những điều tôi cảm nhận và về tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đến từ trường Y Khoa Đại Học Madrid, nơi có nhiều giáo sư vô tín nổi tiếng và nhiều sinh viên bạn học của tôi luôn miệng nhạo báng phép lạ. Thế mà giờ đây, tôi đã được chứng kiến tỏ tường một phép lạ do Chúa Giê-su Thánh Thể thực hiện. Khi ấy tôi đã cảm nhận được một sức mạnh vô song của Chúa và thấy thế giới chung quanh tôi thật nhỏ bé. Tôi đã trở về Madrid, Tây Ban Nha và ba tháng sau tôi chính thức được gia nhập vào Tập Viện Dòng Tên”.
4) Sức mạnh vô song của lời cầu nguyện:
Xác Inh-Lít (Charles Inglis), một nhà truyền giáo nổi tiếng thánh thiện đã kể lại câu chuyện như sau: trên một chuyến đi biển kia có một nhà truyền giáo tên là Gioóc-Dơ Mu-Lơ ở Bớ-Rai-Tơn, dự định sẽ đến nhà thờ lớn ở Quê-Béc giảng đạo vào chiều thứ Bảy cuối tuần. Nhưng do bị sương mù quá dầy khiến vị thuyên trưởng phải cho tàu chạy chậm và như thế khiến nhà truyền giáo sẽ bị trễ hẹn. Bấy giờ nhà truyền giáo mới nói với thuyền trưởng mình có cách sẽ sớm làm tan làn sương mù kia đi. Thuyền trưởng nghĩ ông này bị mát dây thần kinh nên không thèm để ý. Bấy giờ nhà truyền giáo liền yêu cầu thuyền trưởng cùng quỳ gối cầu nguyện với mình. Rồi ông một mình quỳ gối xuống dâng một lời cầu nguyện sốt sắng, đang khi viên thuyền trưởng vẫn đứng nhìn với con mắt không mấy tin tưởng. Chờ cho nhà truyền giáo cầu nguyện xong, vị thuyền trưởng mới nói: “Ngài có biết độ dày của sương mù kia đến cỡ nào không?”. Nhà truyền giáo trả lời:”Không biết! Nhưng tôi không nhìn vào sương mù. Tôi chỉ nhìn vào Đấng dựng nên sương mù mà thôi”. Viên thuyền trưởng định quỳ gối xuống cầu nguyện thì nhà truyền giáo đã ngăn lại và nói: “Nếu lòng ông không tin thì cầu nguyện nào có ích gì? Hơn nữa, tôi tin chắc Chúa đã nhận lời cầu của tôi rồi nên ông chẳng cần phải cầu thêm làm chi! Tôi đã nhận biết Chúa được 57 năm rồi, và trong suốt thời gian đó không ngày nào mà tôi không thưa chuyện với Người. Bây giờ ông hãy mở cửa ra mà xem việc Chúa làm”. Quả nhiên khi mở cửa ra thì viên thuyền trưởng thấy làn sương mù dày đặc trước đó đã tan biến hết, con tàu lại tiếp tục tăng tốc và cuối cùng đã cập bến đúng theo lịch trình.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đức tin mạnh mẽ của nhà truyền giáo. Chính Chúa Giê-su đã luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha và hoàn toàn tín thác cậy trông nơi Cha. Ngày nay, vì thiếu lòng tin nên người ta coi thường việc cầu nguyện. Mỗi khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn hay gặp gian nan thử thách, người ta thường chỉ biết dựa vào sức riêng mình, đang khi lẽ ra vừa phải xin Chúa ban ơn soi sáng để tìm ra giải pháp tốt nhất, lại vừa phải cố gắng làm hết sức mình để giải quyết các khó khăn trở lực ấy.
3. SUY NIỆM:
Tin Mừng kể lại cảnh tượng xảy ra trên biển hồ Ga-li-lê: Đức Giêsu đang ngủ. Ngài ngủ vì mệt mỏi sau khi dùng thuyền làm giảng đài để dạy dỗ dân chúng. Các môn đệ đều là các ngư phủ chuyên nghiệp, và vùng biển này là điạ bàn hoạt động quen thuộc của các ông, thế mà lúc này các ông lại đang trong tâm trạng hoảng loạn.
1. Chúa ngủ trong thuyền giữa cơn bão: Theo Chúa không phải lúc nào cũng thuận buồn xuôi gió hay được hưởng thái bình thịnh vượng. Ngay cả những lúc chúng ta gần Người nhất, khi không có tội lỗi hay nghi ngờ nào làm ta cách ly Người, thì giông tố vẫn có thể xảy tới. Chúa không hứa cho chúng ta được thư thái an nhàn, nhưng đòi ta phải sẵn sàng chiến đấu, từ bỏ, thậm chí có khi còn phải chịu chết vì danh Người…
2. Chết đến nơi rồi mà Thầy không lo gì sao?: Câu nói biểu lộ sự kinh hãi tột độ và ngụ ý trách móc Chúa đã không quan tâm giúp đỡ khi môn đệ đang gặp nguy nan. Ngày nay một bộ phận tín hữu chúng ta cũng có tư tưởng này mỗi khi bị cơn bão cuộc đời vùi dập. Từ khi tin theo Chúa chúng ta thường nghĩ rằng chúng ta sẽ đương nhiên được Chúa che chở và cứu khốn phò nguy như đó là trách nhiệm Chúa phải chu tòàn, đang khi lẽ ra ta phải luôn cầu xin Chúa giúp ta vượt qua thử thách và phó thác cuộc đời trong bàn tay Chúa quan phòng.
3. Gió liền tắt và biển lặng như tờ: Chúa Giêsu đã lệnh cho sóng gio yên lặng. Ngày nay cũng có người tự hỏi: “Tại sao Chúa lại không ra tay can thiệp cứu giúp các tín hữu mà lại mặc họ phải bị chết chìm trong biển cả cuộc đời?” Nếu chúng ta hiểu câu chuyện chỉ vỏn vẹn là sự dẹp yên bão tố của thời tiết thì chắc chắn sẽ phát sinh nhiều vấn đề làm chúng ta phải nặng lòng. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện này còn lớn hơn thế nữa:
4. Chúng tôi phải làm gì?: Trong cuộc sống, các tín hữu chúng ta phải thể hiện đức tin bằng cách:
- Khi sự sầu muộn đến như nó phải đến: Ta tin rằng Chúa sẽ biến đổi bóng tối của sự chết thành ánh sáng phục sinh vĩnh cửu. Người sẽ giúp chúng ta tin cậy vào tình yêu vô cùng của Ngài. Chằng hạn khi ta bị nất đi một người thân yêu, thì chúng ta nên biết rằng: Chết không phải là hết, nhưng là bườc vào một đời sống mới vình hằng và mai ngày chúng ta sẽ gặp lại người thân của chúng ta trên Thiên đàng.
- Khi chúng ta gặp phải một hoàn cảnh nan giải: Khi ta không biết phải làm gì, phải giải quyết thế nào mới đúng, chúng ta hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa, nếu Chúa ở trong hoàn cảnh của con bây giờ thì Chúa sẽ làm gì?” hoặc: “Lạy Chúa Chúa muốn con làm gì?” Bấy giờ Chúa sẽ nói trong lương tân để giúp chúng ta nhận biết con đường phải đi và ta sẽ có thể mạnh dạn thưa cùng Chúa:”Này con xin đến để thi hành thánh ý Cha”.
- Khi gặp cơn lo âu bối rối: Khi ta phải lo cho bản thân, lo về một tương lai bất định, lo cho con cái sau này… Chúng ta hãy ý thức về lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa để trông cậy phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng. Người sẽ luôn giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc đời đời. Bấy giờ tâm hồn chúng ta sẽ được bình an như lời Chúa Giê-su phán:”Hỡi những ai lao nhọc và gồng gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.… Và tâm hồn các con sẽ được bình an” (Mt 11,29).
4. THẢO LUẬN: 1) Một người có đức tin vững mạnh có bị thất bại hay gặp phải những sự gian nan khốn khó trong cuộc đời hay không? 2) Một người chỉ biết cầu xin Chúa giúp mà không cố gắng làm việc để tự giải quyết những khó khăn gặp phải thì có phải là người có đức tin vững mạnh không? Tại sao? 3) Vậy khi gặp gian nan thử thách, người tín hữu phải làm gì để chứng tỏ đức tin vững mạnh của mình?
5. CẦU NGUYỆN:
- Lạy Chúa Giêsu. Ngày nào chúng con cũng gặp phải nhiều gian nan thử thách. Nhiều khi những sự sui sẻo hoạn nạn lại cứ dồn dập đổ xuống làm con thuyền đức tin của chúng con như sắp bị chìm đắm. Trong những lúc ấy, xin cho chúng con ý thức rằng Chúa vẫn đang ở trong thuyền linh hồn chúng con, để chúng con yên tâm và không còn bị nao núng sợ hãi nữa. Xin cho chúng con biết vừa làm hết sức mình, vừa tín thác cậy trông vào ơn cứu độ của Chúa. Nhờ đó chúng con sẽ có thể vượt qua các cơn gian nan sóng gió và tới bến bình an.
- Lạy Chúa. Xin cho chúng con luôn tin vào tình thương quan phòng của Chúa. Cho chúng con biết xử dụng những ơn lành Chúa ban để giải quyết những trở ngại gặp phải trên đường đời. Mỗi khi gặp phải điều gì trái ý, xin cho chúng con biết cầu nguyện như Chúa khi xưa: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho con khòi uống chén này. Nhưng đừng theo ý riêng con, một xin vâng ý Cha” (Mt 26,39). Xin cho chúng con vừa làm việc vừa cầu xin Chúa trợ giúp như lời bài hát:“Có Chúa đi với con, con sẽ không còn sợ chi. Có Chúa đi với con, con sẽ không còn thiếu gì”. Xin cho con năng dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa về muôn ơn lành Chúa đã thương ban, cho con biết noi gương Mẹ Ma-ri-a mà dâng lên lời ngợi khen cảm tạ tình thương bao la của Chúa, vì Chúa đã làm cho con biết bao điều lớn lao kỳ diệu (x Lc 1,46-55).
19/06 Hãy làm tôi tớ Thiên Chúa
- Viết bởi Mt 6, 24-34
Hãy làm tôi tớ Thiên Chúa.
Thứ Bảy tuần 11 thường niên.
"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".
Lời Chúa: Mt 6, 24-34
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được. Vì thế, Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?
"Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì?
Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đoá hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin.
Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Người sẽ thêm cho
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chế độ nô lệ tưởng như đã không còn trên thế giới.
Nhưng ngày nay người ta vẫn nói đến những hình thức nô lệ mới.
Nước nghèo mất chủ quyền, chịu nô lệ cho nước giàu,
các phụ nữ trở nên nạn nhân của nô lệ tình dục,
trẻ em nô lệ cho chơi game, thanh niên nô lệ cho ma túy.
Xem ra khó tránh được chuyện bị làm nô lệ,
giữa một thế giới đề cao tự do và giải phóng.
Khi không muốn làm nô lệ cho ai,
con người lại trở nên nô lệ cho cái tôi ích kỷ.
Khi không chấp nhận lệ thuộc Đấng Tạo Hóa cao vời,
con người lại trở nên nô lệ cho các thụ tạo do mình tạo ra.
Đức Giêsu đặt chúng ta trước một chọn lựa.
“Anh em không thể đồng thời làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được.”
Nếu có hai chủ thì thế nào cũng yêu mến người này hơn người kia.
Giữa Thiên Chúa và Tiền Của, tôi sẽ gắn bó với ai hơn, tôi sẽ chọn ai?
Tôi không thể giả vờ thỏa hiệp để chọn cả hai, để được cả hai.
Thần Tài hứa hẹn cho tôi sự an toàn và hạnh phúc giả tạo,
còn Thiên Chúa hứa cho tôi hạnh phúc đích thực, vững bền.
Chỉ khi đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự, tôi mới thật sự tự do.
Có sáu động từ lo trong bài Tin Mừng trên đây.
Đức Giêsu nhiều lần khuyên các môn đệ đừng lo (cc. 25. 31. 34).
Nhưng làm người ai lại không lo về ngày mai, trừ phi là trẻ thơ?
Trên thế giới bao người vẫn phải vật vã từng ngày với cơm ăn, nước uống?
Con người có thể sống vô tư như chim trời không
khi chim trời ngày nay cũng bị đe dọa không nơi trú ẩn?
Chúng ta cần hiểu cho đúng chữ lo của Đức Giêsu.
Ngài không dạy chúng ta sống vô trách nhiệm, phó mặc hay lười biếng.
Cái lo mà ta nên tránh là cái lo âu, lo sợ của người kém lòng tin (c. 30),
không tin rằng Thiên Chúa quý con người hơn mọi thụ tạo khác.
hơn giống chim trời, hơn hoa ngoài đồng nội.
Lo âu đó chi phối quá khiến người ta cứ loay hoay, bối rối tự hỏi:
ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? (c. 31).
Lo âu này khiến người ta bất an và sợ hãi, vì là lo âu một mình,
quên rằng mình có Người Cha biết rõ những nhu cầu thiết yếu (c. 32),
và sẵn sàng lo cho mình những điều cần dùng (c. 33).
Lo âu này cũng khiến người ta tìm kiếm thỏa mãn nhu cầu của mình
hơn là ưu tiên tìm kiếm xây dựng Nước Thiên Chúa (c. 33).
Kitô hữu không phải là người ngây thơ, sống không lo ngày mai.
Kitô hữu là người biết lo liệu, lo toan cho cuộc sống của họ.
Nhưng họ không căng thẳng vì phải bơ vơ lo một mình.
Họ lo như một người con trưởng thành, cùng lo với Thiên Chúa Cha.
Họ lo một cách thư thái nhẹ nhàng như loài chim buổi sớm đi tìm thức ăn.
Kitô hữu nắm được chìa khóa của hạnh phúc, của no đủ và bình an.
Đó là cứ tìm kiếm Thiên Chúa trước tiên, mọi sự khác sẽ được ban dư dật.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin cho con luôn vui tươi.
dù có phải lo âu và thống khổ,
xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,
những người - cũng như con -
đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật
như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng cuối cùng.
Và con về nhà Chúa,
để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
Suy Niệm 2: Không thể làm tôi hai chủ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su dứt khoát nói với ta: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được”. Ai lo tìm những giá trị đời này sẽ bỏ quên Thiên Chúa. Ai tìm Thiên Chúa sẽ không màng gì những lợi lộc đời này. Vì Thiên Chúa đã ban cho ta điều cơ bản nhất: sự sống. Thế mà ta cứ lo tìm những gì phụ thuộc. “Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?” Chúa đưa ra ví dụ cụ thể. Chim trời không gieo không gặt vẫn được Chúa nuôi dưỡng. Bông hoa ngoài đồng không dệt không may mà áo đẹp còn hơn vua chúa. Huống chi chúng ta là con cái của Chúa. “Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” Vì thế Chúa khuyên ta cứ an tâm phục vụ Thiên Chúa. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Gio-át là người hai lòng hai dạ. Ông đã thờ phượng Chúa. Nên được Chúa phù hộ. Qua thầy cả Giơ-hô-gia-đa. Nhưng nghe lời xiểm nịnh của các thủ lãnh Giu-đa ông đã thay lòng đổi dạ. Bỏ “Đền Thờ của Đức Chúa là Thiên Chúa tổ tiên họ, mà phụng sự các cột thờ và các ngẫu tượng”. Tư tế Da-ca-ri-a, là con tư tế Giơ-hô-gia-đa, đứng lên ngăn cản. “Họ liền toa rập chống lại ông và, theo lệnh vua, họ ném đá giết ông trong sân Đền Thờ Đức Chúa”. Vì thế Chúa đã từ bỏ ông. Một số ít quân đội A-ram tiến đánh. Nhưng số đông Giu-đa thua trận. “Vua bị giết ngay trên giường. Vua đã chết,…nhưng không được chôn nơi phần mộ hoàng gia” (năm chẵn).
Thánh Phao-lô là người chỉ chọn phụng sự Thiên Chúa. Ngài đã từ bỏ mọi lợi lộc trần gian. Tuy được Thiên Chúa yêu thương ban tràn đầy ân sủng. Một ân huệ lớn lao là được đưa lên tầng trời thứ ba. Nhưng ngài vẫn còn chịu đau khổ. “Thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi”. Đó là thiệt thòi ngài chịu nơi trần gian. Ngài tha thiết xin Chúa “cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. Và điều lạ lùng xảy ra. “Tôi tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi… Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”. Khi hoàn toàn không còn trông cậy gì ở trần gian. Chỉ trông cậy vào Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ làm việc. Và thánh nhân “cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô”. Từ bỏ trần gian. Chỉ phụng sự Chúa. Sẽ có tất cả (năm lẻ).
Suy Niệm 3: Thiên Chúa quan phòng
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng cho mạng sống mình: sẽ ăn gì? mặc gì? ngày mai sẽ ra sao?, mà phải tin cậy vào sự quan phòng chăm sóc của Thiên Chúa. Ngài đưa ra hai hình ảnh chứng minh sự quan phòng liên lỉ của Thiên Chúa: chim trên trời, bông huệ ngoài đồng, chúng có đáng gì đâu, thế mà Thiên Chúa vẫn hằng nuôi nấng, để ý đến, huống chi con người, vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa và được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc bằng chính giá máu Ngài.
Ðọc kỹ bản văn của Matthêu, chúng ta thấy có bốn lần Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến nỗi mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói như thế, Ngài muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm nơi của cải nay còn mai mất, mà phải tìm cái cốt yếu cho cuộc đời trước đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng quá cũng chẳng giải quyết được gì: "Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình thêm được một vài gang tấc không?". Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho.
Thiên Chúa biết rõ chúng ta không phải là những con chim hay bông hoa ngoài đồng, mà là những con người phải làm việc để nuôi thân và góp phần xây dựng gia đình và xã hội. Chúa dạy chúng ta "trước hết hãy tìm" nghĩa là hẫy đặt đúng chỗ công việc: việc nào trước, việc nào sau. "Trước hết hãy lo tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài", lời này đặt nền tảng cho người Kitô hữu trong việc chọn lựa: Thiên Chúa phải chiếm chỗ ưu tiên trong con người và công việc của chúng ta, rồi đến việc cứu rỗi bản thân và đưa người khác về với Chúa; đảo lộn trật tự này tức là đi ngược thánh ý và chương trình của Thiên Chúa.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta tự kiểm thảo xem từ trước đến giờ, chúng ta đã chọn Chúa hay chọn tiền bạc? Ðã quá lo lắng đến vật chât hay đã luôn tín nhiệm vào Thiên Chúa quan phòng? Xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm trước hết Nước Chúa và sự thánh thiện, và tin chắc rằng Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi sự khác mỗi khi chúng ta cần đến, vì Chúa là Cha chúng ta và hằng yêu thương săn sóc chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Như loài chim
“Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” (Mt. 6, 25-26)
Chim trời và hoa huệ ngoài đồng
Sống như loài chim. Chẳng phải lo đến cơm ăn áo mặc. Sống như vậy thật thảnh thơi tuyệt vời và không thiếu những vần thơ. Có những ngày nào đó, ta mong ước được sống như vậy. Nhưng cuộc sống còn đó với lắm đòi hỏi nhiêu khê. Chúng ta đâu phải là những cánh chim trời. Phải có tiền để mua lương thực và còn dành dụm đôi chút. Và mọi cái đều đắt đỏ, mỗi ngày lại đắt hơn. Những kẻ có đồng lương tối thiểu, hoặc những ai đành phải hưởng trợ cấp của chính phủ, thì ít có thích thú mơ ước được sống như loài chim. Chỉ những người giầu có, có lẽ có thể thực hiện được giấc mơ tương tự và có thể biến ước mơ thành hiện thực. Những người bình thường thường phải chắt chiu từng xu và cố dành dụm lấy vài đồng, bởi lẽ những ngày xấu và những tai ương biết đâu lại chẳng ập tới và thường nhanh hơn không ngờ.
Chúa Giêsu tỏ ra nghiêm chỉnh
Tất cả những điều trên đều đúng. Thế nhưng Chúa Giêsu không chế nhạo ai, khi Người mời gọi người ta sống như chim trời và hoa huệ ngoài đồng. Hãy hiểu cho đúng. Chúa không đòi hỏi ai phải tỏ ra hoàn toàn vô lo về những của cải vật chất. Điều Người mong muốn, chính là sự lo lắng kiếm tiền, và lo luôn luôn kiếm được nhiều tiền hơn, không được là nỗi bận tâm hàng đầu của ta. Ngoài chuyện ăn ngon mặc đẹp, còn có những chuyện khác quan trọng hơn trong cuộc đời. Ngoài chuyện bảo đảm tài chánh cho ngày mai, còn có chuyện khác bắt ta phải chú ý tới.
Sống cho một điều khác, chứ không phải sống vì tiền bạc. Sống không quá cồng kềnh. Sống luôn tin tưởng vào ngày mai. Sống hiến dâng từng giờ và từng giờ cho lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người. Đó chính là lối sống Chúa Giêsu muốn đề nghị cho ta. Thật sự có kiểu sống nào tuyệt hảo hơn không?
Suy Niệm 5: Đâu là ‘trục’ của việc chúng ta kiếm tìm?
Nếu ta đọc đoạn Tin Mừng tuyệt diệu này, sau khi nghe tin tức hoặc nhìn xem sự lưu thông của một xa lộ qua khung cửa sổ, ta sẽ cảm thấy một tương phản gắt gao đến độ tự hỏi: cái gì là thật và cái gì là không thật? Trong thế giới chúng ta sống, đâu là sự tìm kiếm ưu tiên cho Nước Chúa và sự công chính của Người? Một thế giới sai trục đi về đâu, bởi vì “tỷ số tăng trưởng” của nó đã bị rối loạn? Trong suốt lịch sử đời sống nhân loại, con người đã chiều theo cám dỗ kiếm tìm không ngừng sự thụ hưởng vật chất, trong khi định mệnh con người lại là thiêng liêng. Ở đây, Chúa Kitô, bằng những từ ngữ bóng bẩy, mời gọi con người đi tìm cái chính yếu. Ngài không khuyên dạy sự phó thác thụ động nơi Chúa quan phòng, cũng không dạy việc khinh chê các nhu cầu thể xác và tinh thần, cũng không cổ võ một thứ lạc quan thuyết vô tư. Ngài chỉ nói lên điều nào cần trước nhất và điều nào phụ thuộc vào. Người môn đệ Chúa Kitô, đã trở nên con Thiên Chúa trong Đức Kitô, đương nhiên phải tìm kiếm trước nhất Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người; công việc dưới đất phải được suy tư, sắp xếp theo sự công chính của Nước này, và hoa quả của nó sẽ được Cha trên trời ban thêm cho.
Từ ngữ của thánh Mátthêu và thánh Gioan gặp nhau ở đây để nói lên rằng: phải đặt ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời. Nó phải được ưu đãi, và nếu cần, phải loại bỏ những gì làm cản trở bước tiến của nó. Cũng như Đức Kitô miệt mài trong việc tìm kiếm chuyên nhất Ý Chúa Cha và tìm thấy nơi đó niềm an vui, cũng thế, người Kitô hữu, noi gương Đức Kitô, phải tìm kiếm cũng một Thánh Ý này, vì đó là vận mệnh, là mức viên mãn của mình, và đồng thời cũng là sự thành đạt của xã hội loài người. Kiếm tìm Nước Chúa không phải là một việc làm giữa bao việc làm khác. Đây là việc làm chính. Nó liên lụy toàn con người. Hơn nữa sự kiếm tìm này giải thoát tâm hồn khỏi những lắng lo và bận tâm, vì Thiên Chúa chắc chắn sẽ ban cơm ăn áo mặc cho kẻ nào, sau khi đã làm việc cách bình thường, biết đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa về những sự còn lại.
Đối với những nhu cầu vật chất, tôi có thái độ của người ngoại giáo hay Kitô giáo?
Suy Niệm 6: “Không ai có thể làm tôi hai chủ”
Vở kịch “Con người của mọi mùa” là một câu chuyện có thật về thánh Thomas More.
Trong một màn, một người bạn gây áp lực buộc thánh nhân phải ký giấy xác nhận rằng cuộc hôn nhân giữa vua Henry VIII và Anne Boleyn là hợp pháp. Nếu không chịu ký, vua sẽ buộc tội ngài là phản quốc.
Thánh nhân từ chối, vì Ngài nghĩ rằng cuộc hôn nhân này là bất hợp pháp. Người bạn của ngài giận dữ nói: “Anh cứ làm rối tung mọi thứ. Thực ra, tôi không biết cuộc hôn nhân này có hợp pháp không. Nhưng quỷ quái thật, Thomas, hãy nhìn vào danh sách này, anh biết chứ! Anh không thể thỏa hiệp vì tình bạn sao?”. Thomas More vẫn từ chối, ngài không thể làm tôi hai chủ được.
Chỗ nào trong cuộc đời tôi bị áp lực làm tôi hai chủ?
“Này con, đừng bao giờ tạo ra một tình bạn hoặc giữ một tình bạn bằng cách làm một điều sai trái”. (Robert E. Lee).
Suy Niệm 7: TIN VÀO CHÚA QUAN PHÒNG (Mt 6, 24-34)
Xem lại CN 8 TN A, Lễ mùng một Tết.
Khi nói đến khái niệm “Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng”, ấy là lúc chúng ta nói đến sự can thiệp của Thiên Chúa cách nhiệm mầu, khiến con người không thể ngờ cũng như không thể hiểu được.
Tuy nhiên, sự quan phòng của Thiên Chúa không giống như kiểu quan niệm của những người không có niềm tin. Những người đó thường hay coi đó như là một định mệnh, hay số mệnh đã được ấn định trước cho mỗi người phải chịu một kiếp sống tốt hay xấu, sướng hay khổ, thành công hay thất bại giống như kiểu rút thăm, rút số ghi sẵn cái gì thì phải lãnh cái đó.
Nhưng quan phòng theo mặc khải của Thánh Kinh có hai vế: về phía Thiên Chúa, Người là Đấng Khôn Ngoan, đầy tình thương mến, hy sinh tận tụy lo toan cho con cái, luôn tìm dịp để ban phát cho con của mình những điều tốt đẹp nhất, đồng thời luôn bảo vệ để chúng được an lành; còn về phía con người, được mời gọi tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, vì không thể nào một người con xin cá, mà cha hay mẹ của mình lại cho rắn hay bọ cạp, xin bánh lại cho đá...
Hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ và cũng là mời gọi mỗi người chúng ta: hãy tin tưởng vào một mình Thiên Chúa, không được “bắt cá hai tay”, tức là làm tôi hai chủ. Thiên Chúa, Đấng Yêu Thương luôn chăm sóc anh em mọi lúc. Hãy xem chim trời, hoa huệ ngoài đồng thì sẽ thấy được tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người là dường nào!
Tuy nhiên, sự tin tưởng vào Chúa không có tính cách thụ động, khoanh tay ngồi chờ theo kiểu: “Trời sinh voi, Trời sinh cỏ”, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. “Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm”, càng tin, càng phải đem “hết sức mình, hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn” cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu thế của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, ước gì tâm hồn chúng con được như em bé nằm gọn trong vòng tay Chúa để được Chúa yêu thương. Xin cho chúng con tin tưởng tuyệt đối vào tình thương của Chúa và biết cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ mà Chúa đang thực hiện trong trần thế hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 8: Thiên Chúa thương yêu quan phòng
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thiên Chúa là Cha chúng ta, nên ta phải biết cậy trông phó thác. Đừng sống như kẻ không có Cha trên trời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa vì Chúa thương nhận con là con cái Chúa và hằng thương yêu quan phòng cho cuộc đời con.
Lạy Chúa, mỗi người mỗi phận. Con cũng như bao người phải lo phận mình. Sống vô lo như chim trời, cây cỏ, mà chẳng dùng trí khôn Chúa ban để tính toán làm ăn, đó là sống thiếu trách nhiệm. Chúa không dạy con sống vô trách nhiệm. Nhưng ngược lại có lắm người và đôi khi cả con nữa quá lo lắng đến độ quên Chúa là Cha Toàn Năng và hằng thương yêu con người.
Khi con lo lắng cào cấu sao cho có nhiều của cải tiền bạc mà quên luật công bình bác ái…, chính là lúc con đang quên Chúa là Cha và quên mọi người là anh em. Nếu tiền của trở thành ông chủ đời con, nó dắt con đến tình trạng mất nghĩa cùng Chúa và mất tình với anh em.
Xin giúp con luôn cố gắng làm việc với tất cả trí khôn Chúa ban để thăng tiến bản thân và giúp đỡ mọi người. Tiền của phải làm công cụ phục vụ con dưới sự hướng dẫn của lề luật Chúa. Con sẽ chỉ được tự do khi biết chọn Chúa làm chủ đời mình.
Xin giúp con biết làm tôi Chúa cách trung thành, không vì đồng tiền của cải mà sao lãng bổn phận thờ phượng Chúa, không vì công ăn việc làm mà từ chối giữ luật Chúa. Xin Chúa ban ơn để con luôn trung thành với Chúa: lúc vui và cả khi buồn, khi thành công và cả khi thất bại.
Lạy Chúa, con xin phó thác đời con nơi Chúa. Xin Chúa giúp con luôn sống như một người con đẹp lòng Chúa. Amen.
Ghi nhớ : “Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai”.
Suy Niệm 9: Phó thác trong tay Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo hoàng của lòng nhân hậu. Một ngày kia, có một vị Giám mục đến gặp Ngài và chia sẻ những lo âu, nhọc nhằn, mất ngủ… vì trách nhiệm chủ chăn, rồi xin ngài cho một lời khuyên. Sau khi nghe những tâm sự của vị Giám mục, Đức Giáo hoàng mỉm cười và nói: “Khi mới được bầu làm Giáo hoàng, tôi cũng lo âu và mất ngủ như Đức Cha vậy. Thế rồi một hôm trong giấc ngủ, có một thiên thần hiện đến vỗ vào cái bụng to của tôi và nói: “Gioan ơi, ngươi chớ lo lắng thái quá, hãy phó thác trong tay Chúa và nghỉ ngơi cho khỏe”. Kể từ hôm đó, tôi không bị mất ngủ nữa”.
Suy niệm
Lo âu đó là sự thương tình của con người, đặc biệt là trước những sự việc quan trọng, trách nhiệm nặng nề và lao công vất vả trong cuộc sống để mưu sinh…
Thế nhưng, Chúa Giêsu muốn con người sống trong bình an hạnh phúc, Ngài muốn con người “đừng lo lắng”.
Chúa Giêsu đã khuyên dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những sự khác, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,33-34). Ngài đưa ra hình ảnh chim không lo gieo trồng và làm lụng vất vả vẫn được nuôi sống, hoa đồng nội không dệt may vẫn được mặc sắc màu đẹp tươi, tất cả được đặt dưới sự quan phòng của Tạo hóa. Hình ảnh quá ấn tượng, tuyệt vời diễn ra chung quanh mỗi ngày mà ta chưa nghiệm ra tình yêu quan phòng của Thiên Chúa cho vạn vật của vũ trụ. Hình ảnh cũng dễ làm chúng ta có thể hiểu sai ý của Đức Kitô: Đừng làm gì cả, sống vô tư như anh chàng ngồi dưới gốc cây chờ sung rụng. Thật thế, Đức Giêsu đã không nói rằng không nên làm việc. Ngài cũng không bao giờ khuyến khích con người lười biếng, vô tư ỷ vào lòng bố thí của bá tánh khi đi ăn xin, vô nghề nghiệp.
Thiên Chúa luôn khuyến khích con người lao công, vì chính Ngài đã truyền cho con người ngay từ thuở tạo dựng vũ trụ: “Hãy thống trị đất và bắt nó phục tùng” (St 1,28). Đức Giêsu khẳng định của ăn có được là do lao công: “Vì thợ đáng được nuôi ăn” (Mt 10,10).
Lo lắng làm việc là trách nhiệm của con người với Thiên Chúa với anh em với vũ trụ vạn vật nhưng Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa”, gợi lên ý nghĩa Kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu dạy cầu nguyện nước Chúa và danh Cha trước hiển trị trên trời và dưới đất rồi mới đến cơm bánh nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
“Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” cũng có nghĩa là một lối sống phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa theo yêu cầu và luật lệ của nước Ngài.
Cho nên, việc tìm kiếm nước Thiên Chúa không phải là một sự chờ đợi tiêu cực, không chỉ là một thái độ tôn giáo nội tâm, nhưng là một lối thực hành đức công chính, là sự dấn thân như bài giảng bát phúc đã trình bày (x. Mt 5,1-12).
Tuy nhiên, sự nỗ lực của con người không chỉ là sự cố gắng của bản thân mà cùng đồng hành với Thiên Chúa, Đấng luôn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế như lời hứa của Ngài (x. Mt 28,20), Đấng tỏ ra với con người qua lời ngôn sứ Isaia: “Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi” (Is 49,15).
Chúa Giêsu khuyên dạy: “Đừng lo lắng cho mạng sống, lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể, lấy gì mà mặc…” (Mt 6,25). Tin mừng Matthêô dùng 6 lần động từ “lo lắng” cùng với lời khuyên nhủ: “đừng lo” để nói lên lời khẩn bách mời gọi từ bỏ mọi âu lo thái quá, vì cả cuộc sống của ta đã được đặt trước mặt Thiên Chúa Cha là Đấng “biết rõ điều ta cần” (x. Mt 6,8.32). Thánh Phêrô mời gọi chúng ta: Mọi lo âu, hãy trút cả cho Chúa, vì Người chăm sóc anh em (x. 1Pr 5,7).
Cuộc sống hằng ngày vốn nhiều lo lắng: Lo lắng và ám ảnh một quá khứ vất vả, thất bại khiến chúng ta không dám bước vào hiện tại và tiến tới tương lai. Lo lắng về một hiện tại chưa thành công, còn nhiều vất vả, không đủ nương tựa vào cuộc sống, khiến ta luôn mệt mỏi không dám dấn thân; lo lắng về việc cơm áo gạo tiền, khiến chúng ta rơi vào trạng thái lo âu triền miên. Vì thế, sẽ lo lắng về một tương lai mịt mù không có chút ánh sáng để tiếp tục bước đi. Giữa biển đời ngập tràn lo âu, lời thánh Âugustinô chia sẻ cho chúng ta: “Phó thác quá khứ cho lòng thương xót của Chúa, hiện tại cho tình yêu của Ngài, và tương lai cho sự quan phòng của Ngài”.
Ý lực sống:
“Tin vào Người, thì Người sẽ nâng đỡ con. Đường con đi, hãy giữ cho ngay thẳng và trông cậy vào Người” (Hc 2,6).
Suy Niệm 10: Tin vào Chúa quan phòng (Mt 6,24-34)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
“Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”. Đó là một lời cảnh giác cho những ai quá coi trọng, suy tôn tiền của mà bỏ quên Thiên Chúa. Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy cậy trông, tin tưởng vào Cha đầy quyền năng và tình thương. Hãy phó thác cuộc đời chúng ta cho Cha, Cha sẽ làm cho chúng ta tất cả những gì tốt đẹp nhất.
“Không ai có thể làm tôi hai chủ”. Dù trong địa vị nào, con người vẫn muốn “bắt cá hai tay”, đối với họ thì Chúa cũng muốn mà xa hoa cũng muốn. Thật ra, tiền của không có gì là xấu xa mà là rất cần thiết cho cuộc sống, nhưng nó sẽ xấu khi ta trở thành nô lệ chúng, để rồi vì tiền mà không ngại bất cứ thủ đoạn nào phạm đến Chúa và tha nhân. Nhất là vì lo chạy theo tiền bạc mà quên mất việc đạo đức rồi dần dần tiền của lấn át cả Thiên Chúa, tiền và những lo toan vật chất ngự trị trong tâm hồn ta thay cho Thiên Chúa.
Đọc kỹ bản văn Mátthêu, chúng ta thấy có sáu lần Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói thế, Ngài muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm vào của cải nay còn mai mất, mà phải tìm cái cốt yếu cho cuộc đời trước đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng quá cũng chẳng giải quyết được gì: “Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình thêm được một vài gang tấc không ?” Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: hãy giúp mình rồi trời sẽ giúp cho.
Đừng quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác (của ăn, áo mặc, tuổi thọ), vì đã có Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Sở dĩ con người lo lắng thái quá mà mất đi cả hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ. Con người còn hơn chim trời cũng như hoa cỏ đồng nội bội phần. Nếu con người biết tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, biết đón nhận từng giây phút hiện tại Ngài ban cho, thì con người sẽ tìm được niềm vui và hạnh phúc cho cuộc sống của mình. Ngược lại, con người sẽ phải vất vả cực nhọc và cuối cùng, cũng chỉ là người bắt bóng.
Hãy tin vào Chúa quan phòng
Chúa Giêsu không chủ trương cho chúng ta lười biếng hay ỷ lại, mà là muốn chúng ta đừng quá tin cậy vào sức mình, nhưng cần đến sự tin tưởng phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Sự tin tưởng vào Chúa quan phòng không có tính cách thụ động, khoanh tay ngồi chờ “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy theo ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho.
“Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm”, càng tin, càng phải đem “hết sức mình, hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn” cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu thế của Thiên Chúa: Biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Người dựng nên mọi sự tốt đẹp, biết xây dựng Nước trời cho tình thương của Thiên Chúa trải rộng khắp mọi nơi (Hiền Lâm).
“Chỉ có một đường đến hạnh phúc, đó là ngừng lo lắng về những gì vượt khả năng ý muốn của mình” (Triết gia Epictetus). Trong Tin mừng hôm nay, kiểu nói đừng lo được lặp lại đến 6 lần, điều đó cho thấy Chúa Giêsu lưu ý ta đừng để những nỗi lo về nhu cầu của cuộc sống này khiến ta quên đi, - hoặc gạt qua một bên, hoặc coi như chuyện nhỏ, - việc tìm kiếm Nước trời cũng như việc nên thánh trong cuộc đời ta. Ngài không bảo ta vô trách nhiệm với bản thân và gia đình, lười biếng làm việc mưu sinh, vô lo về ngày mai. Trái lại, Ngài dạy ta tin tưởng, cậy trông nơi Thiên Chúa là Cha quan phòng yêu thương. Cha lo liệu cho chim trời, hoa huệ, huống chi con người được Cha yêu thương, đến nỗi ban Con Một cho ta, dẫn ta đến Nước trời (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Đừng quá lo cho ngày mai
Một thương gia giàu có nọ đi dạo trên bờ biển, tình cờ ông thấy có những ngư phủ nằm ngủ một cách ngon lành trên thuyền, mặc cho sóng nước chòng chành. Tò mò ông đến hỏi một ngư phủ:
- Sao anh không đi đánh cá?
Chàng ngư phủ trả lời:
- Tôi đã đánh bắt số cá đủ cho ngày hôm nay rồi.
Thấy câu trả lời chưa được thoả mãn, thương gia hỏi tiếp:
- Sao anh không tiếp tục đi đánh, để bắt thêm nhiều cá hơn?
Thay vì trả lời, chàng ngư phủ hỏi lại:
- Nhưng thưa ông để làm gì ?
Với đầu óc kinh doanh sẵn có, thương gia kia như muốn vạch đường hướng làm ăn cho anh chàng ngư phủ, nên đã trả lời:
- Càng đánh bắt được nhiều cá, anh càng kiếm được nhiều tiền. Có nhiều tiền anh có thể mua được chiếc thuyền lớn hơn, để có thể ra xa hơn, bắt được nhiều cá hơn. Rồi từ một thuyền, anh sẽ có thể có hai, ba, bốn chiếc... và như thế anh sẽ là một người giàu có.
Chàng ngư phủ xem chừng như không thiết tha với kế hoạch làm giàu của thương gia kia nên hỏi tiếp:
- Giàu có rồi làm gì nữa?
Thấy như người đối thoại với mình quá chất phác, nên thương gia trả lời:
- Rồi anh sẽ được vui hưởng cuộc sống.
Lúc ấy, chàng ngư phủ mỉm cười nói:
- Thế tôi nằm đây để ngắm nhìn trời biển như thế này không phải là vui sướng cuộc đời hay sao?