Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
17/02 Hoán cải nội tâm
- Viết bởi Mt 6, 1-6. 16-18
Hoán cải nội tâm.
Thứ Tư LỄ TRO. – Giữ chay và kiêng thịt.
“Cha ngươi, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi”.
Lời Chúa: Mt 6, 1-6. 16-18
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.
Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Các con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Cha hiện diện nơi kín ẩn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Cứ đến Thứ Tư Lễ Tro là chúng ta lại được nghe bài Tin Mừng này.
Đức Giêsu nói đến ba việc đạo đức quan trọng của người Do Thái:
cầu nguyện, bố thí, ăn chay.
Chẳng phải cứ đợi đến Mùa Chay chúng ta mới làm ba việc đó.
Nhưng Mùa Chay là thời gian thuận lợi để ta tập trung chú ý hơn.
Tập trung vào cầu nguyện là làm mới lại tương quan với Thiên Chúa,
từ bỏ những gì làm tôi xa Chúa và dứt bỏ mọi tội lỗi quen phạm.
Tập trung vào bố thí là chia sẻ của cải cho những người nghèo hơn,
tự nguyện bỏ bớt một phần tiện nghi để giúp những ai đói khổ.
Tập trung vào chay tịnh là làm cho thân xác, tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng,
thoát khỏi những kéo xuống nặng nề, những cám dỗ sống hưởng thụ, ích kỷ.
Cả ba việc này có tương quan chặt chẽ với nhau.
Khi làm tốt một việc, ta sẽ dễ làm hai việc còn lại hơn.
Ăn chay giúp chúng ta hàn gắn lại tình bạn với Chúa,
và lớn lên trong sự thân mật đối với Ngài.
Ăn chay giúp ta tránh tội và tránh mọi thứ dẫn đến tội.
Ăn chay là thoát ra khỏi sự thèm muốn tự nhiên về cơm bánh vật chất,
để nếm cảm sự cần thiết của tấm bánh tinh thần.
Nhờ ăn chay con người thấy mình được tự do hơn để sống theo ý Chúa.
Khi chịu đói nơi thân xác, chúng ta sẽ thấy tim mình đói khát Thiên Chúa
và mong Ngài đến với ta để làm ta mãn nguyện.
Nhưng ăn chay cũng giúp ta mở mắt trước tình cảnh thiếu thốn của tha nhân.
Nhờ ăn chay, chúng ta không còn sống cho chính mình nữa,
nhưng biết sống cho Chúa và tha nhân.
Ăn chay giúp ta chế ngự được tính ích kỷ làm ta co lại,
nhờ đó ta có thể mở lòng ra trước nhu cầu của anh chị em mình
và chia sẻ cho họ điều mình đã tiết kiệm được từ ăn chay.
Ngay cả một người có hai áo cũng có thể chia sẻ được cho người trần trụi.
Người chỉ còn vài lon gạo cũng có thể chia cho người đang đói.
Chúng ta đã bắt đầu cuộc hành trình 40 ngày Mùa Chay.
Không phải chỉ là ăn chay, mà là sống chay.
Chay tịnh phải là một thái độ thấm vào cuộc sống.
Khi bớt nuông chiều những đòi hỏi ngày càng nhiều của thân xác,
chúng ta sẽ thắng được những cám dỗ của thèm muốn vô độ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
SUY NIỆM 2: HÃY XÉ LÒNG
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do Thái. Trong Cựu Ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do Thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Cựu Ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân thành Ninivê. Ninivê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên Chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước khi phạt, Chúa sai ngôn sứ Giona đến báo động. Ngh vị ngôn sứ này nói Chúa sắp trừng phạt, dân thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn, đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới đẹp, hôm nay đã cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.
Như thế, việc xức tro và xé áo có một nội dung ý nghĩa rất sâu xa. Nhưng với thời gian, do những cử hành máy móc, các việc này dần dần rơi vào thái độ hình thức bên ngoài. Người ta làm cho qua lần chiếu lệ, chẳng còn có ý thức thống hối. Chính vì thế, ngôn sứ Giôen đã kêu gọi dân chúng: “Hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2,12b-13a).
Nghi thức phải diễn tả tâm tình thì việc cử hành mới có ích lợi. Việc xức tro sẽ vô ích nếu trong lòng ta không dâng lên tâm tình sám hối. Việc xé áo sẽ trở thành giả dối nếu tâm hồn ta không tan nát vì hối hận tội lỗi.
Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn cho tâm hồn xót xa đau đớn vì tội lỗi. Hãy xức tro vào thói kiêu căng để nó biết hạ mình xuống trong khiêm nhường bé nhỏ. Hãy xức tro vào thói phô trương để nó biết chìm vào âm thầm nghèo hàn. Hãy xức tro vào thói hận thù ghen ghét để nó đau đớn vì đã không biết yêu thương. Hãy xức tro vào những mối chia rẽ bất hoà để tẩy sạch vết thương, hàn gắn tình hiệp nhất. Hãy xức tro vào tính ích kỷ để nó biết mở ra chia sẻ. Hãy xức tro vào thói lười biếng để nó tỉnh thức chăm lo việc đạo đức. Xức tro như thế có khác gì xát muối vào lòng, sẽ gây nên đau đớn xót xa, nhưng sẽ tẩy rửa linh hồn nên trong trắng.
Xé áo chẳng có ích lợi gì nếu ta không xé lòng ra. Lòng ta bấy lâu đã gắn bó với tội lỗi. Tội lỗi ăn sâu dính chặt hầu như trở thành một phần của tâm hồn. Muốn dứt lìa tội lỗi, phải xé nó ra. Hãy xé lòng ra khỏi những đam mê dục vọng bất chính. Hãy xé lòng ra khỏi thói tham lam tiền bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói nô lệ danh vọng chức quyền. Hãy xé lòng ra khỏi thói ham mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói tự mãn tự tôn. Biết bao thứ đã trở thành thiết thân. Những quan hệ, những tiền bạc của cải, những chức tước danh vị, những thú ăn chơi, những tự ái, những giận hờn, tất cả đã gắn chặt vào đời ta. Giờ đây phải xé nó ra. Đau đớn lắm. Vết thương sẽ nặng lắm. Máu sẽ chảy nhiều lắm. Nhưng khi đã cắt bỏ được hết những ung nhọt độc hại, linh hồn sẽ nhẹ nhàng, trong sạch và lớn mạnh vì được đầy tràn ơn phúc và tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban thêm sức mạnh cho con, để mùa Chay năm nay con thực sự biết xức tro vào tâm hồn, biết xé tâm hồn trong đau đớn vì tội lỗi. Lạy Chúa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Mỗi lần dự lễ tro, bạn có ý thức ý nghĩa sâu xa của việc xức tro không?
2. Mỗi khi mùa Chay về, bạn có quyết tâm đổi mới đời sống không?
3. Hôm nay nếu phải xức tro vào tâm hồn, bạn sẽ xức vào nết xấu nào trong bạn?
4. Hôm nay nếu phải xé lòng mình, vết thương nào sẽ làm bạn đau đớn nhất. Bạn có dám xé nó ra không?
SUY NIỆM 3: Một chương trình mùa chay
Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. (Mt. 6,1)
Mùa chay là thời kỳ ăn năn trở lại và chuẩn bị mừng lễ Phục sinh. Thời kỳ ăn năn nghĩa là thời gian chúng ta cần phải đổi mới con tim và sửa đổi những thói hư tật xấu không phù hợp với yêu cầu của Tin mừng. Đó không phải là điều dễ dàng!
Chúng ta đã sống qua nhiều mùa chay với lòng chân thành mà vẫn không có kết quả, không làm cho chúng ta hoàn toàn đổi mới. Nếu chúng ta bắt đầu vào mùa chay với cảm nghĩ sẽ biến đổi hoàn toàn từ đầu tới đến ngày Phục sinh, chúng ta sẽ bị thất vọng. Ăn năn sám hối, thay đổi con tim của mình là công việc suốt đời. Cần phải cố gắng từng bước từng bước, không nóng vội. Phải tiến bước thế nào?
Tin mừng lưu ý chúng ta chú trọng về ba việc phải làm này: bố thí, ăn chay, cầu nguyện. Không có gì mới, không có gì cách mạng. Đó là lời khuyên có trong hầu hết các tôn giáo trước khi Đức Giê-su đến trần gian. Đức Giê-su không bãi bỏ các việc thực hành đó, mà còn khuyên làm.
Làm việc bố thí là chia sẻ cái gì mình có, chia sẻ tiền của, cơm áo dĩ nhiên nhưng còn chia sẻ thời giờ, trí thức, trái tim. Dùng thời giờ để đem yêu thương đến cho mọi người, nhất là người xấu số, dùng thời giờ làm việc giúp đỡ người khác.
Cầu nguyện: cầu nguyện ở nhà thờ, ở nhà mình. Hiến dâng thời giờ cho Chúa, tiêu hao thời giờ vì Chúa. Chúng ta không siêng năng cầu nguyện, thế là mất nhiều mối lợi to lớn rồi. Đức Giê-su thấy đó là mối lợi to lớn đối với Người, khi Người luôn luôn cầu nguyện với Đức Chúa Cha. Sao chúng ta không cậy trông Người để cầu nguyện.
Ăn chay: Không phải chỉ tinh luyện đời sống mình, mà còn tác tạo, bồi đắp cho ta lòng khao khát mến Chúa vô bờ. Ăn chay để khám phá, phát triển lòng ham thích cầu nguyện. Ăn chay để giúp cho những người khác những gì họ đang thiếu.
Đó là chương trình mùa chay xin đề nghị với chúng ta. Nó đã được ứng nghiệm bằng nhiều chứng nhân. Nó giản dị và vừa tầm tay mọi người. Không còn phương thế nào tốt hơn nữa. Thật vô ích khi tìm việc nào khác.
SUY NIỆM 4: Hãy thay đổi cách hành động
(Lm Tạ duy Tuyền)
Ngày 22/01/2008, Omar Osama Bin Laden, con trai thứ tư của ông trùm khủng bố, nhắn cha hãy tìm con đường khác. Anh công khai nói ra ý muốn chấm dứt bạo động mà thân phụ của anh kích động. Loại bạo động của al-Qaeda đã tàn sát thường dân vô tội trong hàng loạt vụ khủng bố khắp thế giới, gồm trận tấn công tại Hoa Kỳ ngày 11-9-2001.
Omar nói rõ "Bom là không tốt để dùng với bất cứ ai. Hãy thay đổi cách hành động". Ðó chính là thông điệp mà người con của Bin Laden muốn nhắn gửi cha mình. Anh không muốn chiến tranh. Anh không muốn thế giới này cứ tiếp tục nhuốm máu bởi lối sống quá khích của cha mình. Anh muốn cha mình hối cải và cải tà quy chính để sống đúng với phẩm giá con người là "nhân chi sơ tính bản thiệt".
Thế nhưng nhiều người vẫn còn tiếp tục hành động như Bin Laden. Người ta thường dùng roi dòn để đè bẹp người khác. Người ta dùng quyền bính để chèn ép người khác. Ở đời có mấy khi tìm được tiếng nói chung. Tiếng nói của cảm thông. Tiếng nói của tôn trọng nhân quyền, của sự tôn trọng lẽ phải. Người ta thường ỷ lớn bắt nạt bé. Người ta thường chà đạp lên nhau theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé". Người ta thường xuyên tạc tả đột hữu xung để lừa dối dư luận, để lấn át kẻ yếu, kẻ cô thế cô thân. Nếu cuộc đời không còn tiếng nói của lẽ phải, của công bằng thì chỉ còn tiếng than khóc của lầm than, của ai oán cơ hàn. Nếu ở đời người ta không còn lắng nghe nhau, không còn phân biệt phải trái, đó là nỗi bất hạnh cho kiếp người chúng ta.
Hôm nay chúng ta bước vào mùa chay với 40 ngày chay thánh, chúng ta lại được nghe những lời mời gọi tương tự: "Hãy sám hối". Hãy sửa lại lỗi lầm. Hãy canh tân đời sống. Lời mời gọi đó không chỉ là tiếng gọi mời của Chúa hay của Giáo hội mà còn là tiếng gọi mời của những người thân thương nhất của mình. Ðừng vì lối sống ẩu thả, lười biếng, tội lội của mình mà gây nên đau khổ cho cha mẹ, cho anh em, bạn bè. Ðừng vì những đam mê bất chính của mình để rồi phá hoại hạnh phúc gia đình của mình. Ðừng vì lối sống thiếu trách nhiệm của mình mà chồng chất những gánh nặng khổ đau cho chồng, cho vợ, cho con cái của mình. Ðừng vì lợi ích cá nhân hay băng nhóm của mình mà chà đạp kẻ yếu, mà gây nên oán than bởi công lý và nhân phẩm bị chà đạp. "Hãy thay đổi cách hành động" cho xứng với nhân tính của một con người. Hãy thay đổi cách sống theo đúng với phẩm giá của những người mang danh là kytô hữu. Ðừng hành động mà không ý thức về hậu quả tai hại do việc làm của mình gây nên. Ðừng hành động nông nổi nhất thời, thiếu suy nghĩ để rồi làm khổ bản thân và gia đình của mình.
Vâng, có thể chúng ta không thảm sát người vô tội như Bin Laden, nhưng có thể vì đời sống phóng túng, vô nại, lười biếng của mình đã phá huỷ cuộc sống hạnh phúc của biết bao con người. Có thể chúng ta không quá khích như Bin Laden nhưng với lối sống độc tài, bảo thủ, gian ác của mình cũng là nỗi sợ hãi của những người đang sống bên cạnh chúng ta. Có thể chúng ta không huấn luyện một đội binh hùng hậu chuyên đi giết người, nhưng có thể vì gương xấu của chúng ta đã lôi kéo biết bao tâm hồn trong trắng, thơ ngây thành mồi ngon cho ma quỷ dẫn dắt. Tại sao mỗi ngày chúng ta đều cầu nguyện "xin gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ", thế mà sự dữ ấy lại do chính chúng ta gây nên cho anh em? Tại sao sự dữ lại là chính chúng ta? Chính chúng ta đã giết hại anh em của mình. Chính chúng ta đã gieo khổ đau cho anh em của mình. Chính chúng ta đã và đang nuôi dưỡng sự dữ trong lòng chúng ta là những hận thù, ghen ghét, nói hành, bỏ vạ cáo gian anh em của mình. Phải chẳng chúng ta phạm tội mà chúng ta chẳng hay biết? Phải chăng vì phạm tội thành thói quen đến nỗi đánh mất ý thức về tội? Như vậy chúng ta phải cầu nguyện "xin gỡ chúng con ra khỏi sự dữ". Sự dữ không ở ngoài chúng ta. Sự dữ ở trong chính tâm hồn chúng ta.
Giờ đây, khởi đầu cho hành vi sám hối, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy xức tro trên đầu để nhớ rằng mình là cát bụi. Cát bụi cuộc đời chẳng đáng là gì, chỉ "một cơn gió thoảng cũng đủ làm biến tan đi". Thế nên, hãy khiêm tốn để sống đúng với thân phận thọ tạo phải vâng phục Ðấng Tạo Hoá. Là hạt bụi nhưng được Chúa yêu thương tạc vẽ nên hình hài một con người giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên, hãy sống đúng với phẩm giá cao quý của mình. Xức tro trên đầu còn là hành vi sám hối ăn năn, vì những tham vọng kiêu căng, sống bất tuân lệnh Chúa đã gây nên biết bao sự dữ cho nhân gian. Xức tro trên đầu là nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến tình thương và ân sủng của Chúa gìn giữ hồn xác chúng ta luôn trong sạch vẹn tuyền. Xin đừng để chúng ta tan biến đời mình bằng đời sống tội lỗi và bán rẻ linh hồn của mình cho danh lợi thú trần gian. Nhưng xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh thoát khỏi những quyến luyến tội lỗi trần gian. Amen.
SUY NIỆM 5: GIỮ CHAY THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA? (Mt 6,1-6.16-18)
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc xức tro và ăn chay để khởi đầu Mùa Chay Thánh. Mùa Chay được bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào thứ Sáu Tuần Thánh. Mùa Chay kéo dài năm tuần lễ để chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh là đỉnh cao của niềm tin Kitô Giáo.
Tuy nhiên, ý nghĩa của việc xức tro và ăn chay nhiều khi chúng ta chỉ dừng lại ở hành vi bên ngoài, mà không có tâm tình bên trong.
Nhân ngày thứ tư Lễ Tro, chúng ta hãy làm mới lại tinh thần về ngày lễ này.
1. Xức Tro
Việc xức tro lên đầu nhắc chúng ta về thân phận hữu hạn, tro bụi của kiếp người. Vì thế, Tổ Phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18, 27).
Thật vậy, con người được hiện hữu trên trần gian này là do tình thương của Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, tình thương ấy đã bị con người lạm dụng và hướng chiều về tội lỗi thay vì biết ơn! Mỗi khi xức tro, Giáo Hội nhắc chúng ta: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 14) để được Thiên Chúa tha thứ.
Những ý nghĩa này được khởi đi từ những câu chuyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, điển hình như: tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi” (Gr 6, 26). Không chỉ dừng lại ở lời khuyên, tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Itrael, và nêu gương cho họ khi nói và hành động: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9, 3). Đến thời Giona, Đức Chúa truyền cho ông loan báo về tai ương mà Người sẽ giáng xuống trên dân, nếu dân không ăn năn sám hối. Ông đã loan báo công khai, mãnh liệt, ráo riết, nên: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro” (Gn 3, 6).
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của việc xức tro. Tuy nhiên, Ngài hối thúc và cảnh báo sự chai lỳ cứng cỏi của dân khi nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” (Mt 11, 21 - 22; x. Lc 10, 13).
Như vậy, hành động xức tro lên đầu ngoài việc công khai nhận mình là người có tội và tỏ lòng sám hối chân thành, để xin ơn thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn thể hiện sự quyết tâm trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn để xứng đáng là con Chúa.
Một trong những điều thể hiện sự trở về, đó là việc chay tịnh. Tuy nhiên, giữ chay thế nào mới đúng với tinh thần mà Chúa mong muốn?
2. Ăn Chay
Ăn chay khởi đi từ tinh thần thờ phượng Thiên Chúa và làm đẹp lòng Người (x. Ds 29,7; Cv 13,2), (x. Tl 20,26; Gđt 8,6). Ăn chay còn có ý nghĩa nữa là thể hiện lòng đạo đức để được Thiên Chúa nhận lời (x. 2Sm 12,16-22; Er 8,21; để đền tội, xin Thiên Chúa tha thứ (x. Lv 23,27; Hc 34,26; Đn 10,2); hỗ trợ việc trừ Quỉ... (x. Mt 17,21).
Ăn chay còn nói lên tính vị tha là thực hiện công lý và tình thương (x. Is 58,6-7), thánh hóa bản thân, siêu thoát tinh thần để được hưởng sự sống đời đời. Không bám vúi vào của cải, sức riêng cách thái quá, vì: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4, 4).
Thật vậy, nếu không ăn chay với những mục đích đã kể trên thì sẽ trở thành công dã tràng! Điều này đã được thánh Phaolô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).
3. Cách giữ chay của người Công Giáo hiện nay
Ngày nay, tinh thần ăn chay của người Công Giáo xem ra đã bị lạm dụng, hay hướng chiều về những hành vi tiêu cực.
Có những người ăn chay, bố thí... chỉ vì mục đích được khen là đạo đức, họ ủ dột, thê lương, cốt để làm sao cho mọi người biết mình là người nghiêm chỉnh giữ chay.
Lại có những người ăn chay chỉ vì vụ luật hay sợ Chúa phạt! Vì thế, nếu trong ngày, lỡ cách nào đó mà phạm luật, họ hoang mang đến bất an chỉ vì trót ăn vặt, không đúng giờ, đúng bữa...
Cũng có những người tính toán đến độ ngày mai ăn chay, hôm nay ăn uống cho đã để ngày mai đỡ thèm, hoặc ăn trực nằm chờ cho qua thời gian luật định, tức là qua 24h, sau đó nhậu nhẹt hả hê. Họ làm như thế và an tâm vì đã giữ trọn ngày chay theo đúng luật. Vì thế, không lạ gì khi có những người mỉa mai cách thức ăn chay của chúng ta rằng: “thứ ba béo”; “thứ năm sung sướng”.
Đáng buồn hơn nữa là: có nhiều gia đình ngày chay kiêng thịt thì lại đi mua những thứ cao lương mỹ vị như: hải sản, tôm hùm hay những thứ khác đắt tiền hơn thịt nhiều... mà không hề nghĩ rằng: tiền bớt chắt được trong ngày chay là để chia sẻ bác ái, đóng góp cho công cuộc truyền giáo và các nhu cầu khác của Giáo Hội!
Tinh thần ăn chay như thế, hẳn chúng ta thua xa nơi anh chị em các tôn giáo khác về việc giữ chay! Mặt khác, điều chúng ta dè bỉu người Pharisêu hình thức khi xưa, khi họ lo giữ cho sạch chén bát bên ngoài, còn trong lòng toàn sự hận thù, ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo (x. Mc 7,1-8a.14-15.21-23), thì nay, chúng ta lại đi vào chính vết xe đổ của họ. Như vậy, chúng ta chỉ là cỗ máy không hồn, hay giống chiếc thùng kêu to, nhưng thực chất nó rỗng, và đôi khi chúng ta trở thành “danh hài” hay “con hề” trên sân khấu.
Thái độ khiển trách nặng nề những người Pharisêu của Đức Giêsu: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7, 6), không chừng cũng chính là lời trách móc nặng nề cho những ai hôm nay giữ chay hình thức, hời hợt.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo" (Ge 2, 12-18); “Hãy làm hoà cùng Thiên Chúa ... vì bây giờ là cơ hội thuận tiện" (x. 2 Cr 5, 20 - 6, 2).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống tinh thần của ngày lễ hôm nay đó là: “Xé tâm hồn chứ đừng xé áo". Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 6: Hoán cải nội tâm
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Tiên tri Joel đã kêu gọi: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”, hãy phản đối lại chính tà dâm của mình. Nói khác đi, cần phải thay đổi cái nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của Thiên Chúa. Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, như từ bỏ tập quán xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả là để tái lập thế quân bình giữa hồn và xác.
Do tội lỗi, con người đã bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống và bị dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết. Màn tang chế đã bao trùm lên con người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở về với Ngài để Ngài cất khỏi chúng ta tấm màn tang chế ấy và ban cho chúng ta niềm hoan lạc giao hoà. Sự giao hoà này trước tiên phải là một lời cầu nguyện khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã xúc phạm đến Chúa”. Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa vì diễn tả tâm tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, và chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời.
Tuy nhiên, người ta không thể giao hoà với Thiên Chúa mà lại không hoà giải với tha nhân. Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết: “Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hoà với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi”. Bởi vậy, nếu chúng ta cầu mong ơn giải hoà với Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xoá đi những xích mích, bất hoà hờn giận với người khác.
Không những là mùa hoà giải, mùa chay còn tưởng niệm 40 ngày Đức Kitô chay tịnh nơi sa mạc trước khi thi hành sứ mệnh cứu độ. Truyền thống Giáo Hội từ lâu vẫn giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Dù vậy tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ qua được. Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng những ngày thánh này để gột rửa những sơ xuất trong các mùa khác, bằng cách chế ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối, để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh”. (Tu luật Biển Đức).
Mùa chay là những ngày thánh, vì là thời thuận tiện, là ngày cứu độ. Thiên Chúa lúc nào lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận. Cùng với Giáo Hội, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con bắt đầu cuộc chiến thiêng liêng này bằng ngaỳ chay tịnh hôm nay. Ước gì những kiêng khem, hãm mình của chúng con giúp chúng con nên dũng mạnh để chiến đấu với sự dữ. Amen.”
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 7: HOA VÀ RÁC
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Những ngày gần Tết, hoa và cây cảnh được bày bán khắp mọi nẻo đường phố thị. Đủ mọi loại hoa kiểng, lắm màu hương sắc. Gia đình nào cũng mua hoa chưng Tết. Tôi cũng mua cây mai nhiều nụ và mấy chậu hoa hồng hoa cúc để làm đẹp phòng khách. Nâng niu, chăm sóc thật kỹ lưỡng. Đến Mồng Ba Tết, hoa đã héo rụng đầy phòng. Phải quét rác thôi, gom cả mai cả hoa đi đốt. Ôi Hương sắc của hoa! Hôm qua tươi đẹp, hôm nay héo tàn rụng úa. Hôm qua “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”, hôm nay quét bỏ như rác rưởi.
Thứ Tư Lễ Tro, nghĩ về hoa và rác như nghĩ về thân phận tro bụi của kiếp người theo lời Thánh Vịnh 102:
Đời sống con người giống như hoa cỏ
Như bông hoa nở trên cách đồng
Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi
Nơi nó mọc không còn mang vết tích.
Đời người cũng tựa đời hoa. Khi tươi nở, hoa rực rỡ khoe sắc, hoa ngào ngạt toả hương, ai cũng yêu cũng quý. Khi ủ rũ héo tàn, hương sắc của hoa rụng úa tàn tạ, chỉ mau vứt vào thùng rác. Hôm trước nâng niu, hôm sau vứt bỏ. Một đời hoa chóng tàn phai như lời sách Giảng viên:
“Phù hoa nối tiếp phù hoa,
chi chi chăng nữa cũng là phù hoa” (Gv 1,2).
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Linh mục đọc "Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro” và xức tro trên trán tín hữu. Đây là lời Thiên Chúa báo cho Ađam biết khi ông vừa phạm tội. Giáo Hội cũng sẽ lặp lại những lời ấy trong phần xức tro đễ nhắc nhở về thân phận cát bụi của con người.
Nghi thức xức tro bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra. Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích.
Sách Giảng Viên viết rằng: "Tất cả chỉ là phù vân". Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân. Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo:
"Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau"(Nguyễn Du).
Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định:
”Lênh đênh duyên nổi phận bèo.
Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi”(Ca dao).
“Bèo dạt, mây trôi đành với phận”(Chu Mạnh Trinh)
Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến?
Cuộc đời tuy có là bèo bọt. Phận người dù phù hoa, mau chóng tàn phai trở về bụi đất. Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do.
Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (x.Mt 6,1-6).
Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Canh tân nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.
Nói một cách hình tượng, thì con người của Mùa Vọng là một con người ÐI, con người hành hương, lòng tràn trề hy vọng đang tiến về cùng đích tối hậu của cuộc đời; con người của Mùa Phục Sinh là một con người ÐỨNG, tự do, chủ động và tự tín đối diện với thế giới, còn con người của Mùa Chay thì NGỒI trong thái độ chiêm nghiệm, trầm tư. (Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống).
Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: "Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi". Ý nghĩa của lời đó quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui..., anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng v.v. nhưng khi chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Ðâu là bậc thang giá trị đời anh?
Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời.
Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!
Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích.
Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.
Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu. Chúa Giêsu khuyên chúng ta “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” bằng cách “ Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức của Mùa Chay.
Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về: tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Tỉnh thức để đợi chủ về. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ. Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.
Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.
Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “ phù vân, bèo bọt” vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình.
Biết rằng mình được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, người Kitô hữu luôn có đựơc điểm tựa an toàn cho hạnh phúc đích thực.
Con người là “hoa” và cũng là “rác”, nhưng với tình yêu Chúa Kitô, con người không còn là bèo bọt, không là phù hoa mà là con người của thần khí, trổ sinh những hoa quả của Thánh Linh (Gal 5,22). Làm việc thiện, luôn bình an, thư thái, tự chủ. Nhờ đó, chúng ta sống một Mùa Chay thánh thiện.
SUY NIỆM 8: SỨ ĐIỆP CỦA TRO - Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Lễ Tro mọi người tín hữu tiếp nhận tro xức trên trán, trên đỉnh đầu. Ðây là tập tục tôn giáo đạo đức có từ thời xa xưa trong Cựu ước.
Nhưng tro nói lên dấu chỉ ý nghĩa gì cho đời sống niềm tin đạo giáo?
1. Sau buổi lửa trại một đống củi được đốt thắp sáng lên lúc chiều tối, sáng hôm sau chỉ còn lại một nắm tro tàn nguội.
Ngày tháng đời sống con người cũng như vậy. Những lời chân tình trao cho nhau như than hồng nồng cháy, những ước vọng nhiệt huyết hăng say làm sưởi ấm lòng người, sau cùng cũng biến thành tro tàn.
Lời kinh Thánh nhắn nhủ: Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro!
2. Tro tàn còn lại sau trận hỏa hoạn
Tro tàn từ đống sách báo bị thiêu đốt hủy diệt.
Tro tàn sau trận chiến chém giết nhau bên Sarajevo, bên Irak, bên Haiiti, bên Congo, bên Hiroshima, bên Afghanistan...
Tro tàn gắn liền với lịch sử đời sống con người: tro tàn của tội lỗi.
Và tro tàn cũng do tội lỗi, thiếu xót của lịch sử từng cá nhân còn lưu lại: một tâm hồn tan hoang chán chường thất vọng, đổ vỡ không còn muốn nhìn về đằng trước. Vì niềm tin, niềm hy vọng đã cạn, như lời Ðức Mẹ Maria nói với Chúa Giêsu: Họ hết rượu rồi!
Lời kinh Thánh nhắn nhủ. Hỡi người hãy nhớ mình là người tội lỗi. Tội lỗi là đống tro tàn trong tâm hồn đời sống.
3. Sau mùa gặt hái, rơm rạ cây khô cỏ dại ngoài đồng ruộng được đốt cháy chỉ còn lại tro bụi. Bụi tro đó thẩm thấu xuống lòng đất, và biến thành chất phân bón sức sống cho cây lúa, cho hạt giống nẩy mầm đời sống mới của mùa gieo trồng kế tiếp.
Trong lò lửa, than củi bị đốt cháy, tạo nên sức nóng cực mạnh làm nung chảy vàng bạc kim loại và từ đấy lọc tẩy ra, đúc thành khuôn mẫu hình thù mới.
Ðời sống con người cũng bị thử thách trôi luyện như vậy, để trở thành một „người mới khác“.
Hỡi người hãy biết mình được tạo dựng sinh ra cho sự sống, cho tốt lành thiện hảo. Hãy trở về với niềm tin và đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, Ðấng là nguồn sự sống đời mình!
SUY NIỆM 9: Ý NGHĨA CỦA LỬA VÀ TRO - Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
Lửa và tro là hai biểu tượng ghi dấu để bước vào Mùa Chay. Nhúm tro tàn một cách bột phát gợi lên sự sầu khổ thiêng liêng, sự điêu tàn. Nhưng ở đây, người ta thấy sự khởi đầu một sự bắt đầu lại, một sự sám hối. Đó là nội dung bài chia sẻ của Đức Hồng Y Pierre Eyt cho các bạn trẻ về ý nghĩa Mùa Chay tại nhà thờ chính tòa Thánh Anrê, giáo phận Bordeaux, Pháp.
Thứ Tư lễ Tro không phải chỉ là ngày hôm sau của Thứ Ba Béo. Trước tiên, nó không phải là một ngày mang nét dân gian. Thứ Tư lễ Tro đối với các Kitô hữu là dịp bước vào Mùa Chay. Nó diễn tả một con đường thiêng liêng, được biểu hiện và hỗ trợ bởi những dấu chỉ, những biểu tượng như lửa và nhúm tro xức trên trán.
Hình ảnh lửa mà chúng ta sẽ lại thấy trong đêm Vọng Phục Sinh có ý nghĩa là chúng ta muốn thiêu đốt những gì cản bước chúng ta, và rồi chúng ta muốn hủy diệt tội lỗi vốn làm cho con người bị tổn thương và dị dạng. Thánh Phaolô nói rằng cần phải phá bỏ trong chúng ta con người cũ để mang lấy con người mới (x. Col 3,1-11). Lời gọi thật rõ ràng. Nó chứa đựng lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu là: « Hãy sám hối ». Điều này còn có nghĩa là thay đổi tinh thần, thay đổi tâm hồn, thay đổi não trạng. Tất cả những ích kỷ, lười biếng, lề mề, tham lam, giận dữ, bạo hành, kiêu ngạo là những thứ cần phá hủy và thiêu rụi.
Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về tội. Làm thế nào để dũ bỏ nó? Chúa Giêsu dạy bảo trong Tin Mừng rằng chúng ta sẽ là những kẻ chiến thắng tội lỗi khi biết thay thế lửa của sự xấu bằng lửa của Tình Yêu. Bởi vì, trước tiên lửa ở đây bừng cháy để thiêu hủy, nhưng cùng lúc nó còn chiếu sáng, sưởi ấm, củng cố, hướng dẫn và động viên. Như một ngọn lửa sống động, Đức Kitô là ánh sáng, là hơi ấm, là tiếng gọi, là sự an ủi. Ước chi ngọn lửa này tiếp tục bừng cháy trong tâm hồn chúng ta.
Tro được xức trên trán đối với chúng ta còn minh nhiên kêu gọi sám hối, nói cách chính xác là bằng con đường khiêm nhường. Nắm tro là những gì còn lại sau khi ngọn lửa thiêu rụi chất liệu mà nó đã chiếm lĩnh hoàn toàn. Chúng ta nhận thấy rằng khi có những nắm tro tàn, điều đó hẳn là không còn gì nữa từ cái mà đã bị lửa thiêu hủy. Đó còn là hình ảnh về sự nghèo khó của chúng ta. Nhưng tro cũng còn có thể làm cho đất đai màu mỡ, giúp tái tạo thiên nhiên và sự sống có thể tái sinh dưới đống tro tàn.
Khi chúng ta lưu ý đến những gì mang ý nghĩa từ tro tàn là chúng ta được dẫn vào bí tích giao hòa và thống hối. Nói rằng mình có tội là để được đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nói rằng chúng ta hung bạo và hối tiếc về điều ấy, rồi ăn năn hối lỗi là để đến lượt mình chúng ta cũng biết bắt chước Thiên Chúa trong việc tha thứ. Bí tích giao hòa định hướng nội tâm, cũng giống như ngọn lửa có thể soi tỏ cho chúng ta từ bên ngoài trước bóng đêm tội lỗi. Do đó, con đường Phục Sinh nhìn bề ngoài gồm sáu tuần lễ và bốn mươi ngày của Mùa Chay, nhưng cách đặc biệt còn là con đường của trái tim, con đường của nội tâm, con đường của sám hối.
Lửa, tro, thống hối…nói lên sự phá bỏ và thiêu rụi « con người cũ », nhưng một điều rất rõ ràng, người ta chỉ hủy bỏ và thiêu rụi để thay thế bằng cái khác. Vậy thì tất cả nghĩa cử, hành động, và dấn thân mà Giáo Hội đề nghị thực hành cho Mùa Chay mà trong Tin Mừng chính Đức Giêsu đã giảng giải cho chúng ta về tính khẩn thiết như: bố thí, cầu nguyện, ăn chay. Điều này đề cập đến việc xây dựng lại những gì đã bị phá hủy. Đó chính là xây dựng bằng ân sủng của Đức Kitô, và bằng cách đưa bàn tay của mình cho Ngài dẫn dắt. Đó còn là xây dựng bằng Thần Khí của Đức Kitô tác tạo nên con người mới. Ở đó hội tụ ba phương hướng mà Tin Mừng nói với chúng ta: bố thí, cầu nguyện và chay tịnh.
SUY NIỆM 10: CON LÀ THÂN TRO BỤI - Lm. Giuse Đinh lập Liễm
Hôm nay là Thứ Tư lễ Tro, ngày khai mạc Mùa Chay thánh. Theo lời thánh Phaolô: ”Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2Cr 6,2b)). Mùa Chay giúp chúng ta thực hành tinh thần thống hối, điều chỉnh lại hướng đi của mình và biết quay trở về với Chúa.
Mỗi người được xức tro trên đầu để chỉ sự khiêm nhường thống hối. Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa việc xức tro, đồng thời cầu xin Chúa giúp sức để thi hành trong Mùa Chay này những lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.
I. TÓM TẮT VỀ LỄ TRO
Ngày Thứ Tư lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ sách Sáng thế: ”Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về bụi tro”. Lời Kinh Thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người, biểu hiệu “bụi tro” được dùng trong Kinh Thánh và trong lễ nghi Thứ Tư đầu Mùa Chay.
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng ngày xưa. Theo đó, những người đã phạm một số tội nặng công khai, mà mọi người biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình… là những người bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng: vào ngày thứ tư trước Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, họ tập trung tại nhà thờ chính tòa để, sau khi xưng thú tội mình, Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhâm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình.
Sau đó họ bị đuổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thư Năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập tại nhà thờ chính tòa, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành sám hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ dây, họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích.
Sau một thời gian lễ nghi tiếp tục biến chuyển. Vào năm 1091, công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ xức tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi xức tro, vị Linh mục đọc: ”Ta là thân cát bụi và sẽ trở về cát bụi” (St 3,19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Lễ Lá năm trước để lại.
Trước công cuộc canh tân phụng vụ của công đồng Vatican II, lễ nghi làm phép tro và xức tro được cử hành trước lễ. Vào năm 1970, khi công bố sách lễ Rôma được tu chỉnh, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ Lời Chúa. Ngoài câu trích từ sách Sáng thế, còn có thêm một công thức khác dùng khi xức tro, lấy từ Phúc âm: ”Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1,15).
II. Ý NGHĨA VIỆC XỨC TRO
1. Tro chỉ sự thống hối.
Trong Cựu ước, việc xức tro và mặc áo nhâm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel.
Ngày xưa, khi ai làm việc gì không chính đáng, họ thường xức tro trên đầu để tỏ dấu chỉ ăn năn hối lỗi, quyết tâm làm điều lành, lánh sự dữ.
Tro là tập tục biểu hiệu của lòng ăn năn sám hối bên Trung Đông. Theo tập tục bên Do thái, trong Kinh Thánh còn ghi lại: Tro được dự trữ làm nước tẩy uế (Ds 19,9). Ông Abraham đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa nhận mình là thân tro bụi (St 18,27). Rắc tro trên đầu cũng là lễ nghi sám hối trong niềm tin đạo giáo văn hóa thời xa xưa bên Do thái (2Sm 13,19; Mac 3,47). Mặc áo vải thô và rắc tro trên đầu là dấu chỉ lòng ăn năn thống hối của con người với Thiên Chúa (Eth 4,1; Mt 11,21).
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con ngươi sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.
2. Tro chỉ sự chóng qua.
Việc xức tro mời gọi chúng ta ý thức về thân phận nhỏ nhoi mỏng dòn nơi bản tính con người của mình, vốn dễ bị tội lỗi thống trị. Nghi thức xức tro chính là nghi thức khai mạc Mùa Chay, nó là hành động hữu hiệu và cụ thể nhất nhắc nhở ta về thân phận và kiếp người mỏng dòn ấy: thân phận con người là tro bụi.
Trong lễ an táng, chúng ta thường hát bài thánh vịnh đáp ca 102. Bài thánh vịnh nói lên sự mong manh của kiếp con người, đời sống con người giống như loài hoa sớm nở chiều tàn, không có gì là bền vững:
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình. (Tv 102, 15-16)
Thi sĩ Nguyễn Khuyến, nhìn cuộc đời chóng qua của kiếp người cũng phải kêu lên bằng những hình ảnh sống động:
Ôi! nhân sinh là thế ấy!
Như bóng đèn, như mây nổi,
Như gió thổi, như chiêm bao!
Trong bài “Cát bụi” nhạc sĩ Trịnh công Sơn cũng nói lên kiếp mong manh của con người: Cát bụi, con người chỉ là cát bụi. Hạt bụi tuyệt vời khi hóa kiếp thân tôi. Hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Một vòng quay. Trăm năm một kiếp người có là mấy: ”Chợt một chiều tóc trắng như vôi”…
Trịnh công Sơn không bi quan. Ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người. Cuộc đời đẹp biết bao! Sự sống cao quí biết bao! Nhưng cũng chỉ như một “đóa hoa vô thường” như tên gọi của một bài hát khác của ông. Đó là thực tế, nhìn nhận đúng thực tế đó, đối diện với nó một cách can đảm có thể đưa đến một cuộc sống tốt đẹp và hữu ích hơn.
Tro không những chỉ được dùng trong lễ nghi thống hối xức tro hằng năm, mà còn được dùng trong nghi lễ nhậm chức đăng quang của Đức Giáo hoàng mới được bầu lên. Theo tập tục lễ nghi, vị hồng y niên trưởng đốt những sợi chỉ ra tro để nhắc nhở vị tân Giáo hoàng với câu: ”Sic transit mundi gloria”: vinh quang thế gian cũng mau qua như thế.
3. Tro nhắc nhở về sự chết.
Trong Cựu ước, tro chỉ thân xác chúng ta là tro bụi và sẽ phải chết: ”Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19. x. Gb 34,4; Gr 6,26; Is 58,5).
Chết là án lệnh của Thiên Chúa sau khi nguyên tổ phạm tội: ”Người sẽ trở về với bụi đất”(St 3,19). Vì thế không ai có thể tránh được cái chết.
Người Á Đông quan niệm: con người phải trải qua 4 giai đoạn là sinh, lão, bệnh, tử. Có người thoát được lão và bệnh vì chết quá sớm, còn không ai thoát được tử, vì đã có sinh thì phải có tử, sinh tử luôn nối kết với nhau.
Kinh nghiệm ngàn đời đã giúp ông Văn Thiên Trường suy nghĩ về cuộc sống mong manh của con người nên đã phát biểu ý kiến bằng một câu để đời:
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Ngàn xưa, người thế ai không chết,
Chết, để lòng son rạng sử xanh.
Vì thế, trong truyền thống các đan sĩ và tu viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Do đó, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martinô thành Tours ở bên Pháp đã nói: ”Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó con trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết.
Chớ gì việc xức tro trên đầu khiến cho chúng suy nghĩ về sự chết để biết dọn mình sẵn sàng vì giờ chết đến như kẻ trộm, luôn có tinh cách bất ngờ như người ta nói:
Sinh hữu hạn, tử bất kỳ.
Ai cũng mong đời sống của mình được trở thanh “cây bách niên” (agavé). Người ta cho biết: cứ một trăm năm một lần nở hoa, nhưng hoa đẹp lạ lùng. Trong một thế kỷ cây ấy đã sửa soạn cho cái ngày tươi đẹp ấy, nó dồn sức lực, nó trang điểm, nó làm cho đẹp, bằng công việc kín đáo, không ai trông thấy. Cả một thế kỷ! Và khi đã hết thời nó nở những cánh hoa trắng muốt để làm đẹp lòng người đến xem cái phi thường của nó.
III. MÙA CHAY VÀ THÂN TRO BỤI
Trong việc xức tro hôm nay Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người lìa xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế, phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.
Để thể hiện sự thống hối trong Mùa Chay, chúng ta phải làm gì? Chắc chắn có nhiều việc phải làm và mỗi người có một chương trình riêng, nhưng thiết tưởng chúng ta phải thực hiện 3 điều mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thực hành theo bài Tin Mừng hôm nay: đó là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.
1. Hãy cầu nguyện.
Cầu nguyện là một việc làm đẹp ý Chúa, mà ai cũng có thể làm được, ở đâu ta cũng có thể cầu nguyện được; chính vì thế Chúa Giêsu đã dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Mà không những Chúa chỉ dạy chúng ta cầu nguyện, mà Chúa còn làm gương cầu nguyện nữa, nhiều chỗ trong Tin Mừng đã nói rõ (Lc 22,42; Ga 11,41-42). Còn rất nhiều đoạn khác trong Tin Mừng nói về việc Chúa Giêsu cầu nguyện, đặc biệt Chúa dạy chúng ta kinh Lạy Cha (Mt 6,9-13).
Cầu nguyện là một vấn đề cần thiết và rất quan trọng, nó là vấn đề sinh tử.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã so sánh sự cần thiết của lời cầu nguyện với chuyện cá trong nước. Bao lâu cá ở trong nước, nó vẫn sống, hoạt động và tăng trưởng, nhưng nếu nó bị bắt ra ngoài, chắc chắn nó sẽ chết. Cũng vậy, con người muốn sống siêu nhiên thì phải cầu nguyện, nếu không cầu nguyện họ sẽ mất ơn Chúa giúp, rồi dần dà họ sẽ mất sự sống siêu nhiên không khác nào cá phải chết vì không có nước.
Thánh Bênađô cũng đã so sánh sự hô hấp cần thiết cho con người như thế nào, thì lời cầu nguyện cũng cần thiết cho con người như vậy. Đối với linh hồn, cầu nguyện cần thiết cũng như hô hấp cần cho cơ thể con người. Nếu con người hô hấp khó khăn thì thân xác sẽ trở thành tiều tụy, và nếu hô hấp đình chỉ thì con người sẽ chết. Cũng thế, khi ta ít cầu nguyện, thì linh hồn biến thành bạc nhược, và khi ta không cầu nguyện tí nào, thì linh hồn ta sẽ chết trước mặt Chúa.
Thế nào là cầu nguyện?
Các nhà tu đức học thường định nghĩa cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa, hay cầu nguyện là cuộc trò chuyện giữa ta với Chúa. Thật thế, cầu nguyện là tâm tình với Chúa, thưa truyện với Chúa bằng tâm tư và ngôn ngữ của chính ta, như con cái thỏ thẻ với cha mẹ những tình cảm yêu mến, những nhu cầu xin Chúa thương ban, hoặc kể cho Chúa nghe những tâm sự vui buồn, lòng biết ơn…
Có những khi ta vui quá, hay buồn quá tự lòng ta không biết nói gì với Chúa, hoặc khi có đông người muốn có chung một lời cầu nguyện thì Giáo hội mới lập nên những lời kinh chung giúp chúng ta cùng nhau cầu nguyện. Do đó, cầu nguyện không chỉ là đọc kinh, đọc những công thức một cách máy móc, còn lòng trí thì để vào chuyện đâu đâu. Với kinh nguyện thì miệng đọc lòng ta phải kết hợp với lời kinh để suy gẫm với Chúa, với Đức Mẹ, các thánh… theo nguyên tắc “khẩu tụng tâm suy”.
Chúng ta thường nghe rất nhiều, đôi khi đã tham dự buổi cầu nguyện nhờ những kỹ thuật như: thiền, yoga, cầu nguyện theo cách của cộng đoàn Taizé, Béatitude (cộng đoàn Phúc thật), Chemin neuf (Con đường mới)… Những buổi tổ chức cầu nguyện như thế càng ngày càng được nhiều nơi tổ chức và hấp dẫn nhiều người vì những lợi ích sau: làm cho chúng ta “dễ nâng lòng lên với Chúa”, tạo cho chúng ta những bầu khí và tâm tình sốt sắng, ham thích cầu nguyện và thấy như Thiên Chúa ở bên chúng ta, lắng nghe chúng ta và an ủi chúng ta thật nhiều. Tóm lại, những kỹ thuật này góp phần tích cực vào cho buổi cầu nguyện. Điều này không ai có thể chối cãi được.
Nhưng nếu, cầu nguyện là trò chuyện với Chúa như bạn bè, cũng như tình bạn bè không cần kỹ thuật, thì cầu nguyện cũng không cần theo một kỹ thuật nào mà nó phải phát xuất tự trong lòng với những tâm tình riêng tư một cách tự nhiên và chân thành.
Truyện: Con chỉ nghe.
Một cụ già có thói quen ngồi bất động hằng giờ ở cuối nhà thờ. Một ngày nọ, cha xứ hỏi cụ là Chúa đã nói gì với cụ. Cụ trả lời:
- Thưa cha, Chúa chả nói gì cả, Ngài chỉ nghe con.
- Vậy à? Thế thì cụ nói gì với Chúa?
- Dạ, con cũng chẳng nói gì, con chỉ nghe Chúa!
Thực ra, đỉnh cao của cầu nguyện là hoàn toàn kết hợp với Chúa, lúc đó không còn ai nói ai nghe mà chỉ có sự im lặng, để con tim nói với nhau. Chúng ta có thể nói đây là một sự thinh lặng hùng biện, không nói gì mà lại nói rất nhiều. Vì thế cầu nguyện có 4 mức độ:
- Tôi nói, Chúa nghe.
- Chúa nói, tôi nghe.
- Không ai nói, cả hai cùng nghe.
- Không ai nói, không ai nghe. Đây là sự thinh lặng tuyệ đối.
Phải chăng người đời cũng hiểu sự thinh lặng hùng biện là thế nào:
Nước mắt nói lời của mắt,
Hương hoa nói lời của hoa,
Lặng im nói lời đôi ta!
Ngoài ra chúng ta còn thực hiện lời Chúa dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện luôn khi chúng ta có trăm ngàn công việc phải làm? Cầu nguyện ở đây là biến mọi công việc thành lời nguyện.
Cầu nguyện đẹp lòng Chúa nhất là trong mọi công việc hằng ngày, ta hãy có tâm lòng cùng làm việc với Chúa, và làm vì yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân. Qua đó những việc ta làm, những lời ta nói luôn luôn hướng về Chúa, cho Chúa và cho tha nhân… biến những lời nói việc làm của ta thành những việc lành, việc thiện như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng nhặt một cọng rác, khâu một mũi kim cũng làm vì mến Chúa. Chúa muốn ta cầu nguyện liên tục là như vậy, chứ Chúa không bảo ta đọc kinh liên tục để khỏi sa chước cám dỗ đâu!
2. Hãy ăn chay
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay, đã là Mùa Chay thì phải ăn chay. Nhưng phải ăn chay như thế nào thì mới đúng cách và hữu ích?
Mùa Chay gợi nhớ 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, mà Ngài đã trải qua trước khi đi vào sứ vụ công khai. Chúng ta đọc thấy trong Tin mừng: ”Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào trong hoang địa, để chịu quỉ cám dỗ. Ngài ăn chay ròng rã 40 đêm ngày, và sau đó, Ngài thấy đói” (Mt 4,1-2).
Giống như ông Maisen đã ăn chay trước khi đón nhận những tấm bia lề luật (x.Xh 34,28), và việc ông Êlia ăn chay trước khi gặp Chúa ở núi Horép (x. 1V 19,8). Đức Giêsu cũng vậy, qua việc cầu nguyện và ăn chay, đã chuẩn bị cho sứ vụ đặt trước mặt Ngài, sứ vụ được đánh dấu vào lúc khởi đầu, bằng một cuộc chiến đấu nghiêm trọng với kẻ cám dỗ.
Tôn giáo nào cũng có ăn chay như Do thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo… nhưng phương cách và mục đích của họ lại khác nhau.
Người Do thái ăn chay bằng cách nhịn ăn từ sáng đến chiều (Giona 3,7-8; Samuel 14,24). Tập tục ăn chay bằng cách nhịn ăn từ rạng đông cho đến khi mặt trời lặn, ngày nay vẫn còn được anh chị em Hồi giáo tuân giữ trong suốt tháng Ramadan. Trong khi ấy, anh chị em Phật giáo lại ăn chay vào mồng một và ngày rằm, bằng cách vẫn ăn no, nhưng kiêng không ăn thịt của bất cứ động vật nào, chỉ ăn thực vật.
Ngày xưa, người Công giáo cũng ăn chay giống như người Do thái là nhịn ăn từ sáng cho đến chiều. Ngày nay người Công giáo chúng ta ăn chay một năm có hai lần vào ngày thứ Tư Lễ Tro và Thứ sáu Tuần thanh, và chỉ cần ăn ít đi vào buổi sáng và buổi chiều, đồng thời kiêng thịt vào hai ngày đó.
Chúng ta thấy việc ăn chay ngày nay rất đơn giản, đơn giản hơn các tôn giáo khác, nhưng việc ăn chay này có ý nghĩa nào đối với người Kitô hữu? Thánh Tôma tiến sĩ đã giải thích cho chúng ta:
- Thứ nhất: để kềm chế sự thèm muốn của xác thịt. Nhờ chay tịnh, sẽ giữ được sự trong sạch. Trong Cựu ước cũng đề cập đến: ”Sự thèm muốn bị kềm chế lại bởi kiêng rượu, thịt”.
- Thứ hai: nhờ vào sự chay tịnh để tâm hồn chúng ta gia tăng một cách tự do, hướng đến sự chiêm niệm về những điều thiện hảo của thiên đàng. Tiên tri Daniel cũng được Thiên Chúa mạc khải sau khi ăn chay ba tuần lễ.
- Thứ ba: ăn chay để đến bù cho những tội lỗi của mình. “Hãy đến với ta bằng cách thay đổi hoàn toàn tâm hồn ngươi, trong chay tịnh và trong khóc lóc”.
Thánh Augustinô cũng đã nhấn mạnh trong một bài giảng về cầu nguyện và ăn chay: ”Chay tịnh làm sạch sẽ tâm hồn, gia tăng trí khôn, hướng xác thịt đến thần linh, thể hiện con tim thống hối và khiêm nhường, chẻ nhỏ những đám mây thèm muốn, dập tắt đám lửa dâm dục và đốt lên ánh sáng thật sự của đức ái”.
Từ xa xưa, tiên tri Isaia đã có ý kiến về việc ăn chay và đã vạch vẽ cho dân Do thái biết cách ăn chay cho đẹp lòng Thiên Chúa: ”Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các người kêu tới trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày các ngươi phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa”?
“Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành”(Is 58,4-8).
Trong sứ điệp Mùa Chay 2009, Đức Thánh Cha bênêdictô XVI đã nói: ”Trong thời đại chúng ta, chay tịnh dường như đã đánh mất điều gì thuộc về ý nghĩa thiêng liêng, và trong một nền văn hóa có đặc điểm là tìm kiếm hạnh phúc vật chất, nó đảm nhiệm vai trò chữa bệnh để chăm sóc thân thể. Chắc hẳn chay tịnh đem lại lợi ích cho hạnh phúc thể lý, nhưng đối với người tín hữu, trước tiên nó là “một phương thế chữa trị” để chữa lành tất cả những gì ngăn cản họ sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Trong tông hiến Paenitemini năm 1966, Người Tôi Tớ Thiên Chúa Phaolô VI thấy nhu cầu trình bầy chay tịnh trong khuôn khổ ơn gọi của mọi Kito hữu “không còn sống cho chính mình, nhưng cho Đấng đã yêu thương và hiến thân vì mình, và sống cho anh chị em của mình”(x. Ch. 1).
Như vậy ăn chay thể xác không quan trọng bằng ăn chay tinh thần, nghĩa là từ bỏ ý riêng của mình để sống theo ý Chúa, loại bỏ tính ích kỷ và mở rộng con tim để yêu mến và đón nhận tha nhân, phục vụ anh chị em và đem hạnh phúc đến cho mọi người. Đúng là:
“Ăn mặn nói ngay, còn hơn ăn chay nói dối” (Tục ngữ).
3. Hãy làm phúc bố thí.
Mùa Chay là thời gian khám phá ra các nhu cầu của anh chị em mình và nhắc nhở chúng ta tìm mọi cách để gặp gỡ và giúp đỡ những người đau khổ thể xác cũng như tinh thần.
Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2002, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trích dẫn câu nói của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho tín hữu Côrintô: ”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận (1Cr 4,7). Và ngài tiếp: ”Một khi đã nhìn nhận như thế thì bạn phải yêu mến anh chị em và hy sinh cho họ”.
Làm phúc bố thí và ăn chay là những phương thế liên hệ mật thiết với nhau để giúp chúng ta ăn năn hối cải. Làm phúc bố thí có nghĩa là chia vui sẻ buồn với người khác, giúp đỡ người ta, nhất là những ai lâm cảnh thiếu thốn, phân phát cho người ta không nguyên của cải vật chất mà cả tinh thần nữa. Chính vì thế, chúng ta phải tỏ ra cởi mở đối với người khác, biết nhận ra những nhu cầu của họ và cảm thông những nỗi đau buồn của họ, đồng thời tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó và làm cho những đau thương của họ vơi nhẹ đi.
Như vậy, cầu nguyện để kết hợp với Thiên Chúa đồng thời cũng hướng chúng ta tới tha nhân. Khi chúng ta đòi hỏi đối với bản thân và quảng đại đối với tha nhân, nhất là đối với những ai đau khổ và thiếu thốn là chúng ta sống kết hợp với Đức Kitô chịu đau khổ và bị đóng đinh vì Người tự đồng hóa với họ như Người nói: ”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han”(Mt 25,35-36).
Truyện: Cho đi tất cả.
Một người kia rất nghèo và vẫn thường nghĩ mình là người nghèo khổ nhất trên khắp mặt đất này. Thế rồi, một hôm ông ta lên đường và gặp một người hành khất khác còn nghèo khổ hơn mình hơn nữa. Ông dừng lại chào hỏi và nói:
- Từ trước tới nay tôi vẫn tưởng mình là người nghèo khổ nhất trong thiên hạ, thế mà hôm nay gặp anh tôi thấy anh còn nghèo hơn tôi nữa, vì đến cái che nắng che mưa trên đầu anh cũng không có.
Người hành khất đáp:
- Này ông bạn ơi, xin ông đừng quên rằng mỗi người nghèo trên đường đi của mình đều gặp thấy những người khác còn nghèo khổ hơn nữa. Đó là điều duy nhất an ủi chúng ta hơn cả, bởi vì mình vẫn còn có thể cho đi người khác một cái gì đó.
Nghe vậy, người ấy liền giơ tay lên đầu lấy mũ trao cho người nghèo không có mũ. Dọc đường, người ấy lại gặp một người khác nghèo hơn nữa không có manh áo che thân, và người ấy liền cởi áo mình ra trao cho người kia. Tiếp tục con đường hành trình, người ấy lại gặp những người khác nghèo hơn nữa và trao cho mỗi người một chút cái mình có. Sau cùng, người ấy chỉ còn đôi dép trong chân và cảm thấy hài lòng sung sướng vì còn có thể tiếp tục đường đi.
Khi hoàn tất cuộc hành trình, người nghèo ấy thấy mình đến trước cửa thiên đàng và nhận ra mình chỉ còn hai bàn chân đi đất, thân mình hoàn toàn ở trần
Mẩu truyện trên đây nói lên ý nghĩa sâu xa của tinh thần nghèo khó là gì. Thật vậy, chúng ta thường nghe nói: ”Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để cho đi và cũng không ai giầu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm nữa”.
Cái phải cho đi khó hơn là chính bản thân mình, khi nào chúng ta chưa biết cho đi chính mình chúng ta vẫn chưa phải là người nghèo khó nhất. Cho đi chính bản thân mình mới là điều kiện căn bản không thể thiếu sót để nhận lãnh tất cả, tức là nhận lấy tình yêu và chọn con đường yêu thương.
Làm sao có thể chọn yêu thương khi chúng ta cảm nghiệm được tình thương quá ít ỏi, khi chung quanh chúng ta vẫn còn nhiều hận thù và mọi hình thức ích kỷ?
Phải, chúng ta vẫn có thể chọn yêu thương bắt đầu từ những bước nho nhỏ có thể được. Có thể bắt đầu từ một nụ cười, từ một lời nói âu yếm, một lời khích lệ cảm thông, một lời chào hỏi thân tình, một sự quan tâm chú ý, một đồng tiền nhỏ bé, một món quà đơn sơ. Đó là những bước tiến nho nhỏ trên con đường yêu thương, như những cái chấm nối lại thành một đường thẳng. Cũng vậy, những hành động yêu thương nho nhỏ sẽ ghép lại thành con đường yêu thương dài cho đến khi đạt tới nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa (R. Veritas).
Mùa Chay đòi hỏi chúng ta thống hối để kết hiệp mật thiết vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, để cùng hưởng sự Phục sinh vinh hiển của Người. Vì vậy, cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí là thực hành sống những điều cốt yếu của tinh thần Mùa Chay.
SUY NIỆM 11: Các việc đạo đức
Tại nhiều nơi, cứ vào mùa tranh cử, người ta lại dễ dàng nhìn thấy những bảng hiệu ghi ơn dân biểu này, nghị sĩ nọ, hoặc loan báo những công trình xây dựng của các nhân vật chính trị. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đó là những vận động gián tiếp, những hứa hẹn với dân chúng để hy vọng được bầu vào những chức vụ công quyền. Tâm thức và lối hành xử thường tình của con người là như thế đó: làm việc tốt để kể công, để được trọng vọng, khen thưởng. Người Kitô hữu cũng dễ bị cám dỗ để có tinh thần khoe khoang kể công như trên vào đời sống đạo đức.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Môsê, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quý, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia.
Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người đời khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác.
Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta đề phòng thứ đạo đức vụ hình thức. Nhưng việc đạo đức tự nó rất ích lợi cho bản thân, cho tha nhân và đáng được Thiên Chúa ban thưởng, với điều kiện chúng được thực hiện với ý ngay lành.
Chúng ta cần thực hành các việc lành với ý hướng này, vì đó là lẽ sống, là niềm vui và là động lực cho cuộc đời hy sinh phục vụ của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 12: LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THỨ TƯ LỄ TRO
LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THẦN HỌC PHỤNG VỤ
Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu "bụi tro" được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.
1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro
Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: "Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay" (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.
Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là "Đầu Mùa Chay" (Caput ieiunii), hay " Đầu Mùa ăn chay 40 ngày" (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Đức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hoà giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi người đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình... Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhặm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưởi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hoà với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Đại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Đức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.
Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Đầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Đức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.
Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Đức Giáo hoàng tập họp các giáo sĩ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Đức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhặm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Đức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ mọi tội khiên" (Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Đó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Đức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).
Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: "Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi" (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: "Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng" (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu "tro" đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời" (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).
2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro
Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhặm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).
Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Đó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải "quay trở lại" một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ "canh tân" trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Đàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tuỳ thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thứ tư Lễ Tro.
Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.
Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Đồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.
Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhặm, như đi chân không trong cuộc hành hương, vv. không còn được thực hiện như xưa, vì hoàn cảnh xã hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro.
SUY NIỆM 13: MÙA CHAY VÀ ƠN CỨU ĐỘ - ĐGM. Bùi Tuần
Mùa Chay là thời gian nhắc nhở đặc biệt đến ơn cứu độ.
Hầu như ngày nào Phụng vụ cũng có lời giục giã. Thí dụ:
Hãy khát khao tìm ơn cứu độ,
Hãy sốt sắng cầu xin ơn cứu độ,
Hãy khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ,
Hãy tích cực cộng tác vào công trình cứu độ,
Hãy cảm tạ Chúa vì ơn cứu độ,
Hãy xin Chúa thương ban ơn cứu độ cho thế giới vv…
Tất cả chứng tỏ ơn cứu độ là hết sức quan trọng.
Vậy ơn cứu độ là gì?
Tôi không đưa ra một định nghĩa thần học. Chỉ xin nêu lên một số yếu tố gần gũi, vừa rút ra từ Kinh Thánh, vừa sát với kinh nghiệm cuộc đời.
Yếu tố thứ nhất là con người cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi. Tội lỗi bám vào con người. Tội lỗi đeo đẳng cuộc đời. Tội lỗi tước đoạt tự do con người.
Đây là một kinh nghiệm bản thân, mà mỗi người đều có thể nói lên cách này hay cách khác. Riêng thánh Phaolô dám viết ra kinh nghiệm của mình một cách khiêm nhường và xác thực. Thiết nghĩ đây là một sự thực mà mỗi người nên coi là của chính mình. Ngài viết: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.
Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25). Nói lên được sự thực bi đát đó như thánh Phaolô là điều đáng mừng. Phải nhận sự thực này một cách khiêm nhường mới hiểu được sự cần thiết đi tìm ơn cứu độ.
Hiện nay, ý thức về tội đã và đang suy giảm một cách mau lẹ và rất đáng lo ngại. Có người mất hẳn ý thức về tội. Vì thế mà tình hình đạo đức xuống dốc rõ ràng. Nguy cơ đe doạ phần rỗi là rất trầm trọng.
Do đó, Mùa Chay nói về ơn cứu độ, mà nếu quên nhắc đến xiềng xích tội lỗi, thì sẽ là một thiếu sót lớn. Đối với những ai có trách nhiệm loan báo ơn cứu độ, sự thiếu sót đó sẽ là một bất trung đối với Đấng Cứu độ, làm lạc đi ý nghĩa mùa chay.
Yếu tố thứ hai là con người cần được cứu khỏi nguy cơ làm tôi ma quỉ. Quyền lực ma quỉ trên thế gian này là rất lớn, rất rộng.
· Có trường hợp con người vâng phục ma quỉ một cách ngoan ngoãn và tự nhiên như thể họ là con cái đối với ma quỉ là cha mẹ họ. Chúa Giêsu có lần đã nói rõ về một đám đông: “Cha các ông là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thực, vì sự thực không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).
· Có trường hợp con người phải vâng phục ma quỉ một cách miễn cưỡng như kẻ bị xiềng xích dưới quyền bạo lực.
Thánh Luca thuật lại hình ảnh kẻ bị quỉ ám tại Ghêraxa như một người bị cả một cơ binh hành hạ khống chế một cách ác độc. “Chúa Giêsu hỏi: “Tên anh là gì? Anh thưa: Đạo binh. Vì rất nhiều quỉ nhập vào anh” (Lc 8,30-31).
· Có trường hợp con người đi theo sự dụ dỗ của ma quỉ, như một người liên minh thân thích vốn cùng chung mưu tìm sự tội. Kinh Thánh nói: Khi Giuđa vừa ăn xong tấm bánh Chúa Giêsu trao cho, “Satan liền nhập vào y” (Ga 13,27).
Sự ma quỉ luôn mưu tìm cách lôi kéo con người vào đường tội lỗi là điều chắc chắc. Chúa Giêsu phán: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31).
Chính thánh Phêrô sau này cũng đã trải qua kinh nghiệm đó, nên đã khuyên bảo giáo đoàn mình: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ là thù địch anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em” (1 Pr 5,8).
Trước một nguy cơ đáng sợ như thế đang xảy ra xung quanh chúng ta, chúng ta rất cần đến Đấng cứu độ. Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu đã nhiều lần trừ quỉ, và ma quỉ rất sợ Ngài. Chính Ngài là Đấng cứu độ con người khỏi quyền lực ma quỉ.
Yếu tố thứ ba là con người cần được hiệp thông với Thiên Chúa. Hai yếu tố trên chỉ là mặt tiêu cực. Mặt tích cực của ơn cứu độ là được hiệp thông với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. Thiên Chúa thường được trình bày như nguồn sự sống. Chúa Giêsu phán: “Quả thực, Chúa Cha có sự sống nơi mình thể nào, thì cũng ban cho người con được sự sống nơi mình như vậy” (Ga 5,26). Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,2).
Tham dự vào sự sống đời đời của Chúa được hiểu là được cứu độ. Vì thế, Chúa Giêsu hay nói về sự tham dự này nơi chính Ngài: “Ta là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). “Ta đến để họ được sống và sự sống dồi dào” (Ga 10,10). Theo chính Chúa Giêsu giải thích, thì tham dự sự sống của Chúa là nhận biết Thiên Chúa. Trong bữa tiệc ly Ngài nói với Chúa Cha: “Sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
Theo Kinh Thánh, nhận biết Chúa thường mang một ý nghĩa riêng biệt, đó là tiếp xúc trực tiếp với Ngài, đón nhận Ngài, dấn thân theo Ngài, chọn Ngài một cách dứt khoát như chọn sự sống.
Như thế nhận biết Chúa cũng là một cách xin vâng trọn vẹn ơn gọi Chúa gởi đến cùng với mọi trách nhiệm đi kèm ơn gọi đó. Nhận biết Chúa là chọn điều Chúa chọn, nghĩ điều Chúa nghĩ, muốn điều Chúa muốn, cảm điều Chúa cảm. Nhận biết Chúa như thế là một cách cảm nghiệm được sự Chúa ở bên mình, ở trong mình, ở với mình. Ngài sống động như một tình yêu tác tạo và cứu độ, an ủi và đỡ nâng.
Ba yếu tố tôi vừa nêu lên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi hy vọng, với ơn Chúa, những người thiện chí sẽ có thể dùng như một gợi ý đơn sơ dễ hiểu, để đi vào Mùa Chay theo phương hướng rõ ràng. Họ sẽ cầu nguyện, sám hối, hãm mình, sửa tính theo ý Chúa một cách có ý thức hơn.
Tôi cầu mong: Những tâm hồn bé nhỏ, con cái Đức Mẹ, trong Năm Mân Côi này, sẽ đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, biến Mùa Chay này thành khí cụ bình an, mang ơn cứu độ đến cho một mảng lớn nhân loại, đầy những xung khắc, đầy những sợ hãi, đầy những bất ổn, đầy những ảo tưởng đang chuẩn bị cho những chết chóc tang thương và những hận thù sâu sắc lâu dài.
SUY NIỆM 14: BỤI TRO
Hôm nay, khi bỏ tro trên đầu chúng ta, vị linh mục chủ sự đọc:
- Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro.
Cũng một lời ấy được lặp lại cho mọi người, không phân biệt nam nữ, tuổi tác và địa vị.
Trong ngày đăng quang, trước đông đảo quần chúng từ khắp nơi kéo về công trường thánh Phêrô, vị Hồng Y niên trưởng tiến tới trước mặt Đức Tân Giáo Hoàng, tay cằm một miếng vải mỏng, vừa đốt vừa nói:
- Thưa Đức Thánh Cha, mọi chức sang quyền trọng cũng sẽ qua đi như thế.
Đó là một sự thật, mà không ai có quyền chối cãi.
Ngoài nghĩa địa có biết bao nhiêu ngôi mộ, cái thì to, cái thì nhỏ, cái thì đơn sơ một nắm đất, cái thì được xây cất lộng lẫy như một biệt thự, nhưng bên trong cũng chỉ là xương khô và tro bụi. Người đi trước thế nào, thì chúng ta những kẻ đi sau cũng thế, một ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu vâng theo định luật chung ấy mà thôi:
- Danh vọng là mây khói và con người là bụi tro.
Bởi đó chúng ta phải nhìn rõ con người bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu? Mục đích của cuộc đời chúng ta là gì?
Đức tin trả lời cho chúng ta rằng: cuộc đời là một chuyến đi tìm về cùng Thiên Chúa, mục đích cuối cùng của chúng ta phải là chính Thiên Chúa. Và để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, Giáo Hội trong mùa chay luôn kêu gọi chúng ta hãy hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, đó là những cái chúng ta có thể đem theo trong cuộc hành trình cô đơn là cái chết.
Tuy nhiên, trong khi chấp nhận hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, chúng ta cần phải tránh đi thói kiêu căng và háo danh. Có nghĩa là chúng ta phải âm thầm và kín đáo, để chỉ mình Chúa biết và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta mà thôi.
Jacopone là một luật sư nổi tiếng, trong cuộc chạy đua vào thượng viện, ông trúng ghế nghị sĩ. Vào ngày ăn khao, đang lúc xem trình diễn văn nghệ thì rạp hát bị sụp đổ, khiến bà Jacopone bị vùi dưới đống gạch vụn. Người ta phải đào bới mãi mới kéo được bà lên. Khi ấy bà đã bị thương nặng và đang thoi thóp gần chết. Lúc bấy giờ người ta mới khám phá ra, bên trong chiếc áo dạ hội, bà mặc một chiếc áo nhặm, kết bằng lông ngựa cứng.
Ông Jacopone phàn nàn trách bà là đã đày đoạ thân xác, nhưng bà trả lời:
- Tôi khuyên răn mà ông không nghe. Ông vẫn cứ sống bê tha. Vì thế, tôi mặc áo này, để hy sinh và cầu nguyện cho ông.
Bà đã hy sinh hãm mình một cách âm thầm lặng lẽ để cầu nguyện cho ông và chỉ có một mình Chúa hay biết mà thôi.
Việc bỏ tro trên đầu nhắc cho chúng ta nhớ rằng mình chỉ là tro bụi, nhưng đừng trở về bụi tro với hai bàn tay trắng.
Bởi đó, ngay từ giây phút này chúng ta hãy lo thực thi tình bác ai yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời. Bởi vì, đứng trước cái chết thì: Những gì chúng ta ta có hôm nay, ngày mai sẽ thuộc về người khác. Những gì chúng ta mua sắm hôm nay, ngày mai người khác sẽ hưởng dùng. Chỉ những gì chúng ta cho đi mới mãi mãi thuộc về chúng ta mà thôi.
SUY NIỆM 15: HOÁN CẢI
Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.
Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hàng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.
Rồi một ngày kia người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.
Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh:
- Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.
- Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.
- Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi: có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa: sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.
Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế: muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa. Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục. Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.
Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc. Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp:
- Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi? Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi? Vị ẩn sĩ trả lời: quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng: tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó. Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó. Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.
- Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp? Vị ẩn sĩ cũng trả lời: cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng: phải quí chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ảnh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.
Người anh trong câu chuyện trên phản ảnh tâm trạng của chúng ta:
- Cuộc sống của chúng ta có thể nói là cứ mãi mãi ở thế bình bình: chúng ta không đến nỗi xấu lắm mà cũng không được tốt lắm. Cái thế lình bình đó khiến chúng ta giống như một thân cây bị chai: không chết khô mà cũng không có sức sống vươn lên.
- Tại vì mỗi ngày chúng ta không biết cố gắng loại bớt khỏi ta những gì là xấu, là khuyết điểm, là tội lỗi và đồng thời cũng không cố gắng đón nhận những gì là tốt, là cao, là lý tưởng hơn. Nghĩa là vì chúng ta không chú ý thực hiện sự hoán cải hằng ngày cho nên hết ngày này sang ngày khác cuộc đời của chúng ta vẫn cứ chai lì, tầm thường, vô vị.
- Muốn cho cuộc sống có đà vươn lên thì phải thực hiện sự hoán cải ấy:
Mỗi ngày loại dần những cái xấu bằng cách đừng nghĩ tới nó, đừng tiếp xúc với nó, đừng mơ tưởng tới nó. Mỗi ngày đón nhận thêm những điều tốt bằng cách đi tìm nó, chú trọng tới nó, mơ ước nó và cố gắng chiếm đoạt nó.
Bấy nhiêu thôi xét ra cũng đủ là một chương trình dài hạn cho chúng ta chẳng những trong mùa chay này mà còn trong suốt cả cuộc đời chúng ta.
(Trích trong Sợi Chỉ Đỏ)
SUY NIỆM 16: ĂN CHAY CÁCH NÀO MỚI ĐẸP LÒNG THIÊN CHÚA? - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong các tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, ăn chay có những ý nghĩa và tác dụng nào?
2. Ăn chay như thế nào mới đẹp lòng Thiên Chúa? Mới đem lại ích lợi đích thực cho tâm linh ta? Hình thức ăn chay và tinh thần chay tịnh, cái nào quan trọng hơn?
3. Tại sao nên ăn chay và cầu nguyện một cách kín đáo?
Suy tư gợi ý:
1. Ăn chay trong đời sống tâm linh và tôn giáo
Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.
a. Trước hết, ăn chay - thường đi đôi với hãm mình - là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hoà với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ninivê là một điển hình (x. Gn 3,1-10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá huỷ thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã từ bỏ dự định phá huỷ thành ấy.
b. Ăn chay - phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái - là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giêsu hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội…
c. Ăn chay - phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm - để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giêsu đề cập đến qua câu nói: «Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện» (Mt 17,21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.
Chính Đức Giêsu đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.
2. Tinh thần chay tịnh
Cốt yếu của việc ăn chay không hệ tại việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà hệ tại tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh… Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: «Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương» (Gr 14,12).
Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Điều này phù hợp với lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: «Khi ăn chay, hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh». Ngôn sứ Giôen trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh cái cốt tuỷ bên trong của việc chay tịnh: «Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em» (Ge 2,13). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.
Ngôn sứ Isaia lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài: «Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?» (Is 58,3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.
Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng «các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung. Tuy nhiên, ta cần biết là tâm tình thâm sâu bên trong làm cho hình thức thể hiện bên ngoài có giá trị. Nếu chỉ có hình thức bên ngoài, thì hình thức đó hoàn toàn vô giá trị.
3. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.
Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là «tình yêu biểu diễn», «có vẻ yêu thương», mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giêsu khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: «Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo».
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ Isaia, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ… trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.
SUY NIỆM 17: HÃY XÉ LÒNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên.
Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thày trò hăng hái lên đường. đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày.
Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình. Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.
Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt. Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh? Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.
Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình. Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.
Xức tro là để tỏ lòng sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.
Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ. Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm. Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em. Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2 ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác. Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em. Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau. Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc. Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.
Chính vì thế mà tiên tri Dô-el đã kêu gọi dân chúng: "Hãy xé lòng chứ đừng xé áo". Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra. Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối. Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.
Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể. Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai. Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.
Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa. Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay. Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.
Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi. Amen.
SUY NIỆM 18: MẦU TÍM TRONG PHỤNG VỤ MÙA CHAY
(Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long)
Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.
Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.
Mầu tìm có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin chúng ta?
Mầu tím là hỗn hợp pha trộn của hai mầu đỏ và xanh chung nhau.
Mầu tím nói về sự ăn năn thống hối trở về đường ngay lối chính.
Mầu tím dùng trong Phụng vụ cho mùa Vọng chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giáng sinh nhập thể làm người, cho mùa chay chuẩn bị đón mừng lễ Chúa sống lại từ cõi chết, cho nghi lễ cử hành bí tích hòa giải thống hối, cho lễ nghi rước kiệu cầu mùa ba ngày trước lễ Chúa Giêsu lên trời, và cho nghi lễ an táng người qua đời.
Trong mùa chay, phẩm phục phụng vụ dùng mầu tím muốn diễn tả: đời sống cũ của con người sụp tàn qua đi, và đời sống mới trong con người nẩy mầm mọc lên.
Đúng như vậy, mầu tím diễn tả sâu xa khía cạnh sụp đổ suy tàn, sự qua đi, sự cởi bỏ của con người cũ, nó khơi lên sự sầu buồn, nhớ nhung mong chờ.
Nhiều người nghĩ rằng mầu tím gợi lên tâm tưởng bất an, gây suy nghĩ bối rối. Có người cho rằng mầu tím đóng vai trò trung gian trình bày giữa trời và đất, giữa đam mê khát vọng và thông minh của trí khôn, giữa tình yêu mến và sự khôn ngoan.
Giáo Hội nhìn nơi mầu tím là mầu nối kết giữa mầu xanh và mầu đỏ. Mầu xanh nói chỉ về trời, còn mầu đỏ nói chỉ về con người.
Mầu tím dùng trong phụng vụ mùa chay muốn nói lên ý nghĩa: Thần linh Thiên Chúa liên kết với con người, cùng tìm cách thấm nhập vào thân xác máu mủ của họ.
Mùa chay không chỉ nguyên là thời thời gian hãm mình kiêng khem, nhưng còn là thời gian tinh luyện tẩy rửa cho trở nên tinh ròng thanh sạch, thân xác hướng về Thiên Chúa nơi trời cao, như mầu đỏ hoà lẫn chung hợp với mầu xanh.
Trong lễ an táng người qúa cố vị chủ tế mặc phẩm phục lễ nghi mầu tím muốn nói lên niềm hy vọng, người qúa cố với cả thân xác linh hồn đi về với Thiên Chúa, trời và đất liên kết lại với nhau, đất được cất nhắc đưa lên trời cao.
Mầu tím trong phụng vụ mùa chay nói lên ý nghĩa cánh cửa mầu nhiệm chết, sự đau buồn mở sang nếp sống mới: sự sống lại của Chúa Giêsu là ơn cứu chuộc cho con người.
Suy Niệm 5: Tro bụi
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Người cha rất đau khổ vì đứa con trai theo bạn bè phung phí hết tiền của. Cùng đường, chàng ta viết thư thống thiết xin lỗi cha và ngỏ ý xin cha thương xót. Người cha gửi cho cậu bức điện tín, chỉ có một chữ “về” và kí tên cũng chỉ một chữ “cha”.
Tin Mừng của Chúa cũng là bức điện tín gửi cho thế giới đầy tội lỗi này, với một chữ “về” và một chữ kí “cha”. Mùa Chay, mùa trở về cùng Chúa là Cha...
Suy niệm
Bụi thường được dùng kết hợp đồng hóa với tro… tro bụi. Bản Kinh Thánh Bảy Mươi nhiều lần các học giả dùng từ “bụi” để nói và đồng hóa “tro”. Trong Kinh Thánh tro bụi là biểu tượng tội lỗi (x. Kn 15,10; Ed 28,18), sự mỏng giòn của con người, sự khiêm tốn (St 18,2), nỗi đau khổ (x. G 42,6; Gn 3,6; Gdt 4,11-15; Ed 27,30; Mt 11,21) và cả sự thống hối ăn năn (x. Gn 3,6; G 42,6).
Mùa Chay Thánh bắt đầu bằng thứ Tư Lễ Tro - ngày được gọi là ngày “bụi tro” bởi vì trong ngày này, người tín hữu lãnh nhận tro được ghi hình thánh giá trên trán. Nghi thức xức tro trong ngày đầu Mùa Chay đã bắt đầu vào thời Ðức Giáo Hoàng Grêgrôriô Cả (590 - 604). Ngày “bụi tro” có nguồn gốc từ “Dies Cinerum” trong sách Lễ Rôma và được tìm thấy trong quyển sách Lễ Grêgôriô. Với tất cả ý nghĩa của tro bụi trong Thánh Kinh, việc lãnh nhận tro trên trán là dấu chỉ nhắc nhở sự chết và sự ăn năn, ý thức thân phận mỏng giòn như bụi đất, sám hối vì những lầm lỗi mà mình phạm. Nghi thức xức tro được đưa vào phụng vụ Tây phương vào thế kỷ X, và được phổ biến rộng rãi trong Giáo hội tại Công đồng Bênêventô năm 1091.
Khi xức tro lên trán người tín hữu, thừa tác viên kêu gọi sự sám hối của người muốn nhận lãnh tro và khiêm tốn nhìn nhận mình thấp hèn: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19), hay thừa tác viên dùng lời kêu gọi ý thức mình tội lỗi, sám hối và canh tân đời sống theo Tin Mừng với lời mà Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
Con người dù trong thân phận thấp hèn yếu đuối như tro bụi, nhưng qua cử chỉ khiêm tốn nhận tro với dấu thánh giá được ghi trên trán, dấu tượng trưng cho ấn tín thánh mà người tín hữu lãnh nhận khi lãnh phép rửa tội. Dấu giải phóng khỏi tội, qua dấu đó, người tín hữu được trở nên con cái của Thiên Chúa (x. Rm 6,3-18). Đó là dấu chỉ con người trở về với bụi đất. Nhưng trong bụi đất, nhờ Đức Kitô qua cái chết trên thập giá và phục sinh, con người sẽ tham dự vào vinh quang với Ngài. Cho nên, việc lãnh tro cũng được coi như là dấu chỉ của sự trở về trong vinh quang khi chúng ta được lãnh nhận làm con cái của Thiên Chúa đã được diễn tả trong sách Khải Huyền, vinh quang với Chiên chiến thắng là Đức Giêsu Kitô khải hoàn.
Vì thế, xức tro trên trán là nhận mình yếu đuối, sám hối lỗi lầm, nhưng cũng tuyên tín rằng sẽ được tìm thấy, gắn liền lại tình yêu, tình bạn hữu với Tạo Hóa bởi dấu thánh giá… với tro bụi, chúng ta nhìn nhận thân phận bất toàn, sám hối lầm lỗi, tro bụi với dấu thập giá - trở nên dấu vinh quang…
Mang tâm tình sám hối trong Mùa Chay, người tín hữu làm việc bác ái, cầu nguyện và chay tịnh. Nhưng Chúa dạy hãy làm với sự khiêm nhường và làm cách kín đáo chỉ mong làm vui lòng Cha trên trời.
Ý lực sống: Vâng, đón nhận tro chúng ta ý thức rằng: “Lửa tình yêu Thiên Chúa đã thiêu rụi tội lỗi, đốt cháy bởi lòng thương xót của Ngài… hãy nhìn tro, mang ý nghĩa tuyên xưng Đức tin vào mầu nhiệm Pascale – Phục sinh: Một ngày chúng ta sẽ là tro bụi, nhưng được dành để Phục sinh”
(Enzo Bianchi, Donner sens au temps, Bayard, 2004).
16/02 Phó thác cho tình yêu Thiên Chúa
- Viết bởi Mc 8, 14-21
Phó thác cho tình yêu Thiên Chúa.
Thứ Ba tuần 6 thường niên.
"Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái và men Hêrôđê".
Lời Chúa: Mc 8, 14-21
Khi ấy, các môn đệ quên mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh trong thuyền. Và Chúa Giêsu dặn bảo các ông rằng: "Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê". Các môn đệ nghĩ ngợi và nói với nhau rằng: "Tại mình không có bánh".
Chúa Giêsu biết ý liền bảo rằng: "Sao các con lại nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các con không nhớ sao?" Các ông thưa: "Mười hai thúng". - "Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?" Họ thưa: "Bảy thúng".
Bấy giờ Người bảo các ông: "Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Không nhớ sao?
Suy niệm:
Tin Mừng Máccô kể ba câu chuyện về việc Thầy trò vượt Biển hồ.
Lần đầu, Thầy Giêsu đã ra lệnh cho sóng gió yên lặng
khiến các môn đệ tự hỏi: Người này là ai…? (Mc 4, 35-41).
Lần thứ hai, sau khi hóa bánh ra nhiều, Thầy đã đi trên mặt nước mà đến với họ.
Nhưng lòng các môn đệ còn chai đá,
họ không hiểu được chuyện bánh hóa nhiều (Mc 6, 45-52).
Bài Tin Mừng hôm nay là lần cuối Thầy trò vượt biển qua bờ bên kia,
sau khi Thầy Giêsu đã hóa bánh ra nhiều lần thứ hai (Mc 8, 1-10).
Có một sự cố xảy ra khiến các môn đệ lo âu.
Các ông quên mang bánh khi vượt biển.
Trên thuyền chỉ có một cái bánh duy nhất (c. 14).
Không rõ tại sao trong bối cảnh này Thầy Giêsu lại cảnh báo các ông
về thứ men xấu làm hư hỏng con người (x. 1 Cr 5, 6-8),
đó là thứ “men của người Pharisêu và men của người theo Hêrôđê (c. 15).
Có lẽ vì cuộc đụng độ vừa qua với người Pharisêu (Mc 8, 11-13).
Nhưng lời cảnh báo của Thầy Giêsu có thể đã bị các môn đệ hiểu sai.
Các ông tưởng Thầy trách về chuyện họ không mang đủ bánh.
Từ đó xảy ra một cuộc tranh cãi giữa họ với nhau về chuyện này.
Thầy Giêsu chắc là giận lắm.
Chưa khi nào chúng ta thấy Ngài đặt nhiều câu hỏi liên tiếp như vậy.
Tùy lối chấm câu, có thể có từ sáu đến chín câu hỏi.
Qua các câu hỏi, Ngài bày tỏ sự thất vọng về các môn đệ.
Họ chậm hiểu, chậm nắm bắt; tim của họ bị chai (c. 17).
Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe (c. 18).
Trí nhớ và lòng tin của họ khá kém,
vì dù đã chứng kiến hai lần phép lạ bánh hóa nhiều,
một lần, năm chiếc bánh cho năm ngàn người,
lần khác, bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người,
họ vẫn lo âu khi thấy trong thuyền chỉ có một chiếc bánh dự trữ.
“Vậy mà anh em vẫn còn chưa hiểu sao?” (c. 21).
Chúng ta cũng nghe Chúa hỏi câu hỏi này khi chúng ta xao xuyến âu lo
trước những khó khăn của cuộc sống.
Các môn đệ vượt biển mà không mang đủ lương thực cần dùng.
Họ lo âu vì sợ lỡ ra có bão hay sự cố gì thì làm sao đây.
Thực ra điều họ quên không phải là bánh,
mà là quên Thầy Giêsu đang ở cùng thuyền với họ.
Chúng ta cần ôn lại những điều lạ lùng Chúa đã làm cho đời ta từ nhỏ,
để sống mỗi ngày trong bình an.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con. (Charles de Foucauld)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm 2: Anh em không nhớ sao?
Suy niệm:
Ít khi Đức Giêsu giận các môn đệ đến thế.
Ngài đặt cho họ dồn dập bảy câu hỏi liên tiếp (cc. 17-21),
và Ngài chỉ cho họ hai cơ hội trả lời (cc. 19, 20).
Câu chuyện xảy ra khi Thầy trò đang ở trên thuyền đi qua bờ bên kia.
Các môn đệ quên đem bánh theo,
hay đúng ra trên thuyền chỉ có một chiếc bánh (c. 14).
Hẳn các ông đã cảm thấy lo âu, bất an,
vì lỡ ra cuộc hành trình kéo dài,
một chiếc bánh làm sao đủ ăn cho cả nhóm?
Chính vì thế họ mới bàn tán với nhau về chuyện thiếu sót này (c. 16).
Chẳng rõ cuộc bàn cãi giữa họ có lớn tiếng không,
nhưng chắc chắn Thầy Giêsu đã biết được (c. 17).
“Tại sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không có bánh?” (c. 17).
Tại sao anh em lại có vẻ lo sợ, không yên?
Thầy Giêsu rõ ràng không chấp nhận thái độ bất an đó.
“Anh em chưa hiểu, chưa thấu sao?
Anh em có trái tim cứng cỏi như thế sao?” (c. 17; Mc 6, 52).
Đối với người Do Thái, trái tim là nơi phát sinh mọi suy nghĩ và hiểu biết.
Một trái tim cứng cỏi ắt không còn khả năng thấu hiểu.
Khi đường vào trái tim bị nghẽn, mọi lối vào qua giác quan cũng bế tắc:
“Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe sao?” (c. 18).
Người có trái tim cứng cỏi thì trở nên mù lòa và điếc lác.
Để các môn đệ thấy rằng nỗi lo âu của họ là vô lý,
Thầy Giêsu đã gợi cho các ông nhớ lại hai lần Ngài làm bánh hóa nhiều.
“Anh em không nhớ sao?” (c. 18).
Với năm chiếc bánh Thầy bẻ cho năm ngàn người ăn,
anh em còn thu về được mười hai thúng bánh vụn (c. 19; Mc 6, 31-44).
Với bảy chiếc bánh Thầy bẻ cho bốn ngàn người ăn,
anh em còn thu được bảy giỏ đầy (c. 20; Mc 8, 1-9).
Thầy có thể nuôi được số đông người như thế một cách dư dật,
vậy mà anh em còn lo vì thấy cả nhóm chỉ có một chiếc bánh khi qua hồ.
Câu hỏi cuối cùng của Thầy: “Anh em vẫn chưa hiểu sao?”
Con người là con vật hay lo, quay quắt vì lo.
Có khi lo vì dễ quên những gì Chúa đã làm cho đời mình.
Nếu ta dành giờ để suy nghĩ về những kỳ công Chúa làm trong quá khứ,
ta sẽ được giải thoát khỏi những nỗi lo hiện tại chẳng đáng gì.
Hãy để cho trái tim mình mềm lại, trí hiểu được thông suốt,
mắt sáng lên và tai nhạy bén, trí nhớ minh bạch rõ ràng.
Như thế là hãy để cho toàn bộ con người mình mở ra trước Thiên Chúa,
tín thác vào sự quan phòng của Ngài khi ta băng qua biển đời.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn hỏi chúng ta: Anh em không nhớ sao?
Nhớ là hành vi quan trọng trong đời sống thiêng liêng.
Nhớ sẽ làm chúng ta bình an ra khơi với Thầy, dù chỉ có một chiếc bánh.
Nhớ sẽ làm chúng ta dám chia sẻ số bánh nhỏ nhoi của mình cho đám đông.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 3: ,,,
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Suy Niệm 4: Tín thác vào tình yêu của Chúa
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu ngồi trên thuyền với các môn đệ để đi về hướng Betsaiđa; Ngài lợi dụng những giây phút rảnh rỗi để trắc nghiệm phản ứng của các ông về những phép lạ Ngài đã thực hiện, đặc biệt là phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều.
Khi cảnh giác các môn đệ phải tránh men của Biệt phái và men của Hêrôđê, Chúa Giêsu có ý ám chỉ đến sự mù quáng và những thành kiến của những nhóm người này. Chúa Giêsu đã dùng chữ "men" để nói đến tinh thần kiêu ngạo và thái độ mù quáng ấy. Thế nhưng, các môn đệ đã không hiểu được kiểu nói bóng bẩy ấy, đầu óc các ông còn đầy những bận tâm về vật chất.
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy ra khỏi những bận tâm vật chất ấy để hiểu được ý nghĩa các phép lạ và sứ điệp của Ngài. Ðó cũng chính là nội dung của chương trình huấn luyện mà Ngài đeo đuổi trong ba năm rao giảng của Ngài. Mãi đến lúc Ngài bị bắt và chịu treo trên Thập giá, xem chừng các môn đệ vẫn chưa hiểu được chiều sâu sứ điệp của Ngài. Mơ tưởng của những người dân chài này là được trở thành công hầu khanh tướng trong vương quốc trần gian mà họ nghĩ là Chúa Giêsu đã đến để thiết lập.
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ Ngài hãy vượt lên những bận tâm vật chất để đi vào chiều sâu sứ điệp của Ngài. Ðiều đó cũng có nghĩa là tin vào quyền năng của Ngài, hoàn toàn phó thác cho Ngài. Giữa những khó khăn thử thách của cuộc sống, con người dễ dàng chạy đến với Chúa: đó là thái độ rất chính đáng, bởi vì qua cử chỉ ấy, con người tuyên xưng niềm tin vào tình yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy có một thái độ vô vị lợi hơn, hoàn toàn tín thác vào tình yêu của Ngài. Một thái độ như thế sẽ cho chúng ta nhận ra tình yêu của Ngài, và cho chúng ta thốt lên như các vị thánh: "Tất cả đều là hồng ân của Chúa" bởi vì tình yêu của Ngài vượt trên mọi tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta một niềm tin như thế, để trong mọi sự, chúng ta luôn biết dâng lời cảm tạ Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Quên mang theo bánh
Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh? Các ông đáp: “Thưa được mười hai.” “Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu bánh?” Các ông nói: “Thưa được bảy.” (Mc. 8, 19-20)
Khi thuyền đã ra tới gần giữa Biển Hồ, các môn đệ mới nhận thấy là chỉ có một cái bánh cho bữa ăn. Một cái bánh cho mười hai người mà phần lớn đều là những tay chài thì thật quá ít, chẳng bõ nhét kẽ răng cho mỗi người. Vì thế cuộc cãi vã nổi lên có lẽ để dò tìm cho biết ai là người đã gây nên cớ sự này, ai là người phụ trách lo lương thực cho nhóm? Chẳng lẽ người ấy không có thể mang theo cả thúng bánh thừa sau phép lạ sao? Thấy vậy, Chúa liền can thiệp mạnh mẽ và nghiêm nghị đến độ ta phải ngạc nhiên. Tại sao rầy rà nhau vì đã quên mang bánh theo? Tại sao cãi cọ nhau vì một sự cố tầm thường như thế? Thường khi người ta quên sót một điều chi, thì hay bực bội. Nhưng Chúa Giêsu nắm lấy cơ hội này để huấn luyện các môn đệ của mình, và qua đó Người cho ta thấy rằng tư chất cuộc sống thưòng ngày bộc lộ cái tâm cúa ta rõ hơn ta tưởng.
Thực ra không phải vì chuyện quên mang theo bánh khiến Chúa Giêsu bực mình mà vì chuyện quên sót này làm cớ cho các tông đồ cãi cọ nhau và gây lo lắng cho các ông; vả lại cuộc cãi cọ này còn cho thấy các tông đồ hiểu biết về bản thân Chúa còn quá ít. Quên bánh đưa các ông tới điều quên Người là Đức Giêsu Kitô.
Căn nguyên của sự quên xót
Chúa Giêsu còn đi xa hơn. Chúa cảnh báo các môn đệ về căn nguyên sự quên lãng chính bản thân Người, tức là thái độ không tin. Men Pharisiêu và men Hêrôđê chính là những ý xấu, những thái độ từ chối và thù địch đối với Chúa Giêsu và là sự cố chấp không chịu tin các dấu lạNgười làm. Những tâm hồn cứng cỏi này có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe. Đã hẳn các tông đồ không phải là những con người như vậy: các ông đã không đòi hỏi những dấu lạ từ trời, không tích cực tỏ ra không tin. Tuy nhiên các ông đã không nắm bắt được ý nghĩa việc Chúa làm trước mắt các ông, và do đó có nguy cơ dẫn đến thái độ không tin. Bởi lẽ các ông sống và suy nghĩ như thể đã không được nhìn thấy phép lạ hóa bánh vậy. Chúa bảo các ông phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisiêu là có ý như vậy. Quên Đức Giêsu Kitô nơi tư chất sống của Người có thể dẫn đến việc công kích Đức Giêsu Kitô vậy.
Chúng ta sợ hãi gì? Sợ thiếu những sự cần, sợ phải rủi ro xui xẻo, sợ ốm đau, sợ chết. Sợ những điều đó là chuyện thường tình của con người … người tín hữu đâu phải là siêu nhân. Nhưng khi ta sợ hãi như vậy, chẳng phải là đã có sự quên lãng Chúa ư, và thậm chí đã không tin Chúa một cách nào đó sao?
Suy Niệm 6: ANH EM CHƯA HIỂU Ư? (Mc 8,14 -21)
Qua những ngày làm việc mệt nhọc với đám đông dân chúng và sau khi Đức Giêsu bị những người Pharisêu đòi hỏi về dấu lạ..., Đức Giêsu đã không những không làm mà Ngài đã bỏ họ mà đi nơi khác.
Thánh Máccô kể: Đức Giêsu và các môn đệ đã trèo thuyền để ra đi hướng về Betsaiđa. Khi Ngài và các ông đang ở trên thuyền, thì đây là lúc riêng tư để thầy trò tâm sự. Đức Giêsu đã lên tiếng căn dặn các môn sinh của mình: “Anh em phải coi chừng, hãy đề phòng men Pharisêu và Hêrôđê!”. Tại sao Đức Giêsu lại cẩn trọng nhắc các môn đệ như vậy? Thưa là vì Ngài thấy rõ sự mù quáng do thành kiến và xuất phát từ thói kiêu ngạo, ghen tỵ, hình thức gây ra cho hai nhóm này, nên lòng họ khô cứng, trai lỳ, không còn nhạy bén với lương tâm nữa. Chính vì thế mà Đức Giêsu cảnh báo các môn đên dừng đi vào vũng lầy đó của họ.
Mặt khác, qua những lời thầm thì thể hiện sự lo lắng của các môn đệ về chuyện các ông không mang bánh theo, Đức Giêsu đã khiển trách các môn đệ và Ngài tiếp tục dạy cho các ông bài học về sự phó thác. Đức Giêsu đã dùng phương pháp hồi tưởng để gợi lại cho các môn sinh về sự quan phòng của Thiên Chúa khi con người tin tưởng vào Ngài qua hai phép lạ hóa bánh ra nhiều. Nhắc lại như thế, Đức Giêsu còn đi xa hơn để củng cố lòng tin của các ông vào chính Ngài, đó là: có Chúa là có tất cả. Chúa là kho báu mà không gì có thể sánh bằng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn, tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc, nhất là những lúc khó khăn, thử thách.
Khi phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài sẽ ra tay phù trợ, che trở và đỡ nâng chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con phó thác cuộc đời của mình vào bàn tay từ ái của Chúa để được Ngài yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Men Pharisiêu và Hêrôđê
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Con mèo bề ngoài trông có vẻ hiền lành, mềm mại. Khi muốn ăn, nó đến sát cạnh ta, cọ mình vào chân ta, ve vẩy đuôi, kêu meo meo, gừ gừ tỏ vẻ tình tứ, nhưng khi đã ăn rồi nó đi thẳng một lèo, gọi mấy cũng không đến. Khi rình chuột thì nó đi lại rất nhẹ, thu mình vào một xó tối, nằm im không cử động để chuột mất cảnh giác chạy ra tung tăng. Khi đó, anh mèo mới giở thủ đoạn chồm lên bắt mồi, ngoạm cổ đem đi cắn xé ăn thịt.
Người giả hình cũng tương tự như vậy.
Suy niệm
Trước phép lạ hóa bánh ra nhiều và các phép lạ của Chúa Giêsu, người biệt phái giả hình cố chấp vẫn không tin Chúa Giêsu. Họ còn đòi Ngài làm một dấu chỉ từ trời (x. Mc 8,11-13). Những người phái Hêrôđê thì lo chuyện quyền bính chính trị và quyền lợi vật chất nên cũng không lưu tâm đến giáo lý Chúa Kitô. Họ cứng lòng cố chấp. Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ phải tránh men giả hình của biệt phái và men quyền bính và ham vật chất của phái Hêrôđê. Hình ảnh “men” chỉ những gì gây nên tình trạng biến chất, hư hại do kiêu ngạo và thành kiến, làm cho người Pharisiêu và Hêrôđê cố chấp mù quáng không nhận ra ý nghĩa phép lạ.
Chính các môn đệ lòng trí hẹp hòi, con mắt thiển cận, chỉ nghĩ đến những cái trước mắt, những cái vật chất của thế giới trần tục nên dễ bị nhiễm thứ men này. Cho nên, Ðức Giêsu cảnh giác các đồ đệ, Ngài hướng các ông đến sự khát khao thần thiêng: Cuộc sống vĩnh cửu mới, đòi hỏi sự cố gắng mỗi ngày. Chúa Giêsu nhắc các môn đệ nhớ lại hai lần hóa bánh ra nhiều và giúp họ nhận ra ý nghĩa của các phép lạ Chúa làm. Ðiều đó cũng có nghĩa khẳng định tin vào quyền năng của Ngài, hoàn toàn phó thác cho Ngài.
Ước chi mỗi người chúng ta cũng có thái độ vô vị lợi, hoàn toàn tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa và nhận ra tình yêu của Ngài, tình yêu vĩ đại vượt trên mọi tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Ý lực sống: “Chúa Giêsu bảo các môn đệ: Anh em phải coi chừng,
phải đề phòng men Pharisiêu và men Hêrôđê”(Mc 8,15).
Suy Niệm 8: Hãy tránh men biệt phái
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu xuống thuyền đi với các môn đệ. Nhưng các ông quên mang bánh theo, trong thuyền chỉ có một cái bánh. Dọc đường, Chúa căn dặn các ông cẩn thận lo tránh “men những người biệt phái và Hêrôđê”, tức là lo tránh thói tự mãn, cứng đầu cứng cổ của họ. Nhưng các ông không hiểu ý Chúa muốn nói, mà cứ tưởng là Chúa quở vì không mang bánh theo ăn, nên Chúa trách các ông chậm hiểu kém tin. Chính mắt các ông đã thấy hai phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều cho mấy ngàn người ăn no nê mà còn dư thừa, chính tai các ông đã nghe bao nhiêu lời Chúa dạy mà cũng chưa hiểu chưa tin.
2. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu ngồi trên thuyền với các môn đệ đi về hướng Betsaiđa; Người lợi dụng những phút rảnh rỗi để trắc nghiệm phản ứng của các ông về những phép lạ Người đã thực hiện, đặc biệt là phép lạ bánh và cá ra nhiều.
Khi cảnh giác các môn đệ phải tránh men của biệt phái và men của Hêrôđê, Chúa Giêsu có ý ám chỉ đến sự mù quáng và những thành kiến của những nhóm này. Chúa Giêsu đã dùng chữ “men” để nói đến tính kiêu ngạo và thái độ mù quáng ấy. Thế nhưng, các môn đệ đã không hiều được kiểu nói bóng bẩy ấy, đầu óc các ông còn đầy những bận tâm về vật chất.
3. Từ thời Ai cập cổ đại, người ta đã dùng men để làm bánh mì, làm rượu. Mãi đến năm 1857 nhà khoa học Louis Pasteur mới khám phá ra rằng men thực ra là một thứ vi sinh vật thuộc loài nấm, âm thầm mọc rễ đam chồi trong các chất hữu cơ và làm biến chất chúng. Có những loài men hữu ích loài người biết được và sử dụng, nhưng cũng có hàng ngàn thứ men có hại như men chua, men thối làm hư hỏng thức ăn, thậm chí gây nhiễm độc chết người.
Chúa Giêsu cho biết về mặt thiêng liêng cũng có nhiều thứ “men”. Có thứ “men Nước Trời” mà người môn đệ Kitô đem thấm nhập vào trong thúng bột thế giới và âm thầm làm nó dậy men. Cũng có thứ men mà Chúa cảnh giác các môn đệ phải coi chừng, phải loại bỏ men biệt phái và men Hêrôđê (5 phút Lời Chúa).
4. “Anh em phải coi chừng, phải đề phong men biệt phái và men Hêrôđê” (Mc 8,150.
Khi xuống thuyền vội vàng, các ông quên mang bánh theo, trên thuyền chỉ có một chiếc thì không đủ cho mọi người. Các ông bàn tán việc đi mua bánh. Nhân dịp này, Đức Giêsu răn dạy các môn đệ hãy dè giữ cho khỏi men người biệt phái và men Hêrôđê.
Như chúng ta đã biết “Men” là hình ảnh những gì gây nên tình trạng biến chất, làm hư hại các chất hữu cơ). Các rabbi coi đó là những những hướng chiều xấu nơi con người. Ngày nay men biệt phái và men Hêrôđê vẫn còn sinh sôi nảy nở trong thời đại của chúng ta. Đó là thói kiêu căng giả hình, đánh mất lòng nhân nghĩa. Đó là “men” thực dụng, nặng về tiền bạc và vật chất, sống hưởng thụ và ích kỷ, men dâm ô, qua sách báo phim ảnh xấu khiến chúng ta vì đam mê chúng mà trở nên lãnh đạm thù nghịch với tình yêu Chúa và ơn cứu độ của Người. Vậy chúng ta đang “say” thứ men nào, “men trần tục” hay “men Kitô”?
5. “Người bảo các ông: “Anh em chưa hiểu ư”?
Câu hỏi này là lời Chúa trách móc các môn đệ. Họ là những người đã chứng kiến những phép lạ Chúa làm, họ đã phân phát bánh hóa nhiều mà họ còn lo lắng để tiếp tế lương thực, trong lúc Chúa Giêsu còn ở bên cạnh họ! Thế nhưng họ đã không ý thức rằng có Chúa Giêsu ở với họ, là họ có tất cả.
Điều này thật đúng tâm lý chúng ta. Chúng ta dễ dàng chấp nhận rằng: dĩ vãng, Thiên Chúa đã can thiệp cứu giúp chúng ta, ở với chúng ta. Nhưng hiện tại, khi chúng ta gặp khó khăn, gặp thử thách, phản ứng đầu tiên của chúng ta là lo lắng hốt hoảng, nghi ngờ, bối rối, chứ chúng ta có giữ bình tĩnh và tin chắc rằng Chúa vẫn tiếp tục ở với chúng ta không?
6. Truyện: Hãy nhìn ra dấu chỉ của thời đại.
Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người Tây phương, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước... Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ gặp một xác người. Một người thốt lên “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành”.
Tại sao lại có chuyện thế này? Nhưng người bạn lắc đầu giải thích: “Ông ta là người Tây phương. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng”.
Thảm trạng của con người thời đại: con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại (Mỗi ngày một tin vui).
15/02 Xin điềm lạ
- Viết bởi Mc 8, 11-13
Xin điềm lạ.
Thứ Hai tuần 6 thường niên.
"Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ?".
Lời Chúa: Mc 8, 11-13
Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người.
Người thở dài mà nói: "Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1a: Tìm một dấu lạ từ trời
Suy niệm:
Ai cũng dễ bị hấp dẫn bởi cái lạ thường, cái khác thường.
Còn cái bình thường, như thường, thì ít hấp dẫn, lắm khi tẻ nhạt.
Chỉ cần nghe đâu đó có hiện tượng khác thường là người ta đổ xô đến,
lắm khi chẳng cần suy nghĩ để biết có thực không, có đáng tin không.
Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ trong mấy năm sứ vụ.
Những phép lạ đó không nhằm ra oai biểu diễn quyền uy,
cũng không nhằm lôi kéo sự tôn vinh của dân chúng.
Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc đền thờ:
một cám dỗ làm điều ngoạn mục để thu hút quần chúng.
Ngài cũng từ chối xuống khỏi thập giá:
một hành vi đủ làm bẽ mặt những kẻ giết Ngài.
“Cứ xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy và tin” (Mc 15, 32).
Đức Giêsu không mua niềm tin của đám đông bằng sự phản bội Cha.
Ngài đã ở lại trên thập giá như một người có vẻ thua cuộc…
Kitô giáo không đặt nền trên những chuyện dị thường, ma quái.
Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ
vì Ngài chạnh lòng thương trước nỗi khổ đau của con người,
vì Ngài muốn đáp lại lòng tin quá lớn của bệnh nhân,
và vì Ngài muốn cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến rồi.
Phép lạ lớn nhất của Đức Giêsu là Tình Yêu.
Các ông Pharisêu không phủ nhận chuyện Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ.
Sau này các thượng tế cũng nhìn nhận:
“Hắn đã cứu được người khác…” (Mc 15, 31).
Nhưng họ thấy điều đó vẫn không đủ hoành tráng và gây ấn tượng.
Họ đòi một dấu lạ từ trời, một dấu lạ lớn hơn để họ tin vào Ngài.
Đức Giêsu đã mạnh mẽ từ chối đòi hỏi ấy.
Làm sao chúng ta nhìn ra được những điều bình thường, nho nhỏ
mà Chúa vẫn làm cho chúng ta mỗi ngày?
Nhiều khi chúng ta vẫn đòi những điều lạ lùng hơn, lớn lao hơn.
Như người Pharisêu, chúng ta chẳng hề mãn nguyện.
Chúng ta vẫn muốn thử Thiên Chúa, bởi lẽ chúng ta không tin Ngài.
Xin cho tôi thấy được sự kỳ diệu của Tình Yêu
nơi những điều tưởng như là tự nhiên của cuộc sống.
Cầu nguyện:
Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa nhân từ,
xin cho chúng con thấy sự hiện diện của Cha
trong vũ trụ vô cùng lớn, trong những hạt tử vô cùng nhỏ,
và trong bộ óc vô cùng phức tạp của con người.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy mầu sắc.
Mầu xanh cỏ non, mầu hồng trái chín, mầu vàng mặt trời xế chiều.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy âm thanh.
Tiếng suối róc rách, tiếng chim hót véo von,
tiếng gió rì rào qua kẽ lá.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.
Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,
hương thơm của nắng xuân dìu dịu.
Chúng con ca ngợi đôi tay khéo léo của Cha
khi tạo nên sự trong ngần ngời sáng của viên ngọc,
sự lộng lẫy phong phú của muôn loài hoa lan,
sự rực rỡ hài hòa nơi đôi cánh của loài bướm,
và nhất là sự đẹp đẽ cao cả nơi con người.
Dưới lòng đất, trên núi cao,
giữa biển sâu, trong rừng vắng,
chỗ nào chúng con cũng thấy bóng dáng Cha.
Xin cho chúng con
biết chung sống với thiên nhiên này
như một người bạn, một quà tặng Cha ban,
biết giữ gìn ngôi nhà trái đất
để nó khỏi hư hỏng, cạn kiệt,
và biết chia sẻ cho nhau bao tài nguyên còn tiềm ẩn.
Ước gì đến ngày cả trái đất, cả vũ trụ này
và muôn loài Cha đã dựng nên
được cùng với cả nhân loại chúng con
vui hưởng tự do và vinh quang trong Nước Cha. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm 2: Đòi một dấu lạ
Suy niệm:
Trong Tin Mừng Máccô, ngay sau phép lạ bánh hóa nhiều lần thứ hai,
các ông Pharisêu đã đến và tranh luận với Đức Giêsu.
Đơn giản họ muốn đòi Ngài làm một dấu lạ từ trời.
Có vẻ phép lạ nuôi đám đông vừa qua và những phép lạ trước đó
không đủ để thuyết phục họ tin vào con người Ngài.
Họ vẫn muốn thử thách Đức Giêsu (c. 1).
Chẳng trách Đức Giêsu đã thở dài não nuột
và quyết liệt từ chối một cách trịnh trọng: “Tôi bảo thật cho các ông biết:
thế hệ này sẽ không được cho một dấu lạ nào cả.” (c. 12).
Toàn bộ cuộc sống của Đức Giêsu đã là một dấu lạ từ trời rồi.
Trong nỗi muộn phiền, Ngài đặt câu hỏi với các ông Pharisêu:
“Tại sao thế hệ này lại đòi một dấu lạ?” (c. 12).
Hóa ra họ lại vấp vào tội của cha ông họ thời xưa trong hoang địa:
“Tổ phụ các ngươi đã từng thách thức
và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.
Suốt bốn mươi năm, dòng giống này làm Ta chán ngán.” (Tv 95, 8-11).
Bất chấp bao việc lạ Chúa làm (Ds 14, 10-12. 22),
dân Chúa hôm qua cũng như hôm nay vẫn không ngớt đòi thêm.
Các vị lãnh đạo Do Thái giáo đòi thêm vì họ không muốn tin Đức Giêsu.
Chính vì lòng họ chai đá, không muốn tin,
nên các phép lạ lớn lao trước mắt chẳng ảnh hưởng gì trên họ.
Họ mong một phép lạ lớn hơn nữa, rõ hơn nữa, ấn tượng hơn nữa.
Nhưng dù dấu lạ manna rơi xuống từ trời có xảy ra lại
thì chưa chắc họ đã tin Đức Giêsu.
Thay vì đòi Ngài làm thêm phép lạ để minh chứng,
con người cần ra khỏi sự chai đá của lòng mình
Cần có mắt sáng để thấy được ý nghĩa sâu xa của phép lạ.
Cũng như cần có tai tốt để hiểu được các dụ ngôn của Đức Giêsu.
và đi vào mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (Mc 4, 11).
Phép lạ của Đức Giêsu không chỉ hấp dẫn vì yếu tố kỳ diệu, lạ lùng,
nhưng vì chúng khai mở Nước Thiên Chúa
và vén mở cho ta thấy Đức Giêsu là ai.
Chẳng phải chỉ người Do Thái mới đòi hỏi những dấu lạ (1 Cr 1, 22).
chúng ta cũng dễ đặt đức tin mình trên nền tảng dấu lạ, phép lạ.
Chúng ta không thích cái bình thường, cái đều đặn xảy ra mỗi ngày,
vì chúng ta không tin Chúa hiện diện và hoạt động trong thầm kín.
Thay vì quá tìm kiếm và đòi hỏi những dấu lạ,
chúng ta được mời gọi nhận ra những dấu chỉ của thời đại mình sống.
Qua những thao thức và khát vọng của con người hôm nay,
chúng ta nghe được tiếng gọi mời của Thiên Chúa.
Qua dấu chỉ của một thế giới đang biến chuyển từng ngày,
chúng ta thấy Giáo hội cần thích nghi và đáp ứng những nhu cầu mới.
Người Pharisêu không đọc được ý nghĩa những dấu lạ Đức Giêsu làm.
Chúng ta xin ơn đọc được những dấu chỉ của Thiên Chúa cho thời hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 3: ĐỨC TIN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su buồn và than phiền về thế hệ này. Họ chỉ đòi dấu lạ. Nhưng không có đức tin. Có đức tin thì không cần dấu lạ. Không có đức tin thì dấu lạ cũng vô ích. Nên Chúa quyết định: “Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả. Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền qua bờ bên kia”. Chúa Giê-su bỏ họ lại đó với sự cứng lòng chết chóc của họ. Chúa sang bờ bên kia của đức tin. Chỉ có đức tin mới nối kết được con người với Thiên Chúa.
Nhưng đức tin luôn gặp thử thách vì những khó khăn trong đời sống. Những thử thách Chúa gửi đến có mục đích thanh luyện đức tin, kiểm nghiệm đức tin và ban thưởng đức tin.
Người có đức tin có Thiên Chúa ở cùng. Nên vui tươi trong mọi hoàn cảnh. Vui tươi khi gặp khốn khó. “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn”. Vui tươi chấp nhận mọi thăng trầm thành bại trong đời. Vì biết rằng mọi sự mau qua. “Người anh em phận hèn hãy tự hào khi được Chúa nâng lên; còn người giầu có hãy tự hào khi bị Chúa hạ xuống, vì họ sẽ qua đi như hoa cỏ”. Vì thế người có đức tin không do dự. Luôn cầu xin ơn khôn ngoan để biết phân định trong đời sống. Nhờ đó sống trung tín trong mọi hoàn cảnh. Luôn trung tín (năm chẵn).
Người không có đức tin sống như không có Chúa. Ca-in giết em, tưởng Chúa không biết. Nên chối “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?”. Không có đức tin nên không chiến đấu để vượt qua cám dỗ. Dù đã được cảnh báo: “Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn người; nhưng ngươi phải chế ngự nó”. Không chế ngự được mình. Không có đức tin. Nên Ca-in sống trong buồn rầu, thất vọng. “Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi,... Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa” (năm lẻ).
Đức tin như thế là một cuộc vượt qua. Vượt qua những gì khả giác để thấy thế giới siêu nhiên. Vượt qua những giá trị mau qua để chiếm được vương quốc vĩnh cửu. Vượt qua được những cám dỗ rình rập. Vượt qua chính mình để đạt tới Chúa.
Suy Niệm 4: Dấu lạ của tình thương
Thánh Marcô đặt cuộc tranh luận giữa Chúa và những người Biệt phái, sau một loạt phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện khi bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài. Phép lạ mới nhất là việc hóa bánh và cá ra nhiều cho đám đông theo Ngài. Những người Biệt phái đã bắt đầu nghe nói đến hoặc chính mắt họ chứng kiến các phép lạ của Chúa Giêsu, nhưng họ không tin.
Ở đây, chúng ta thấy rõ tương quan giữa phép lạ và lòng tin của con người. Chúa Giêsu không làm phép lạ như một trò ảo thuật; Ngài làm phép lạ trước hết là để biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa, loan báo những dấu chỉ của Nước Trời và kêu gọi lòng tin nơi con người, do đó phép lạ là một lời mời gọi hơn là một cưỡng bách.
Khi những người Biệt phái đòi hỏi một dấu lạ, thái độ đó gợi lại sự thử thách mà người Do thái trong thời kỳ lang thang trong sa mạc cũng đã đòi hỏi nơi Thiên Chúa; thái độ đó cũng tương tự thái độ của Satan khi đến cám dỗ Chúa Giêsu. Thật thế, Satan đã bảo Chúa Giêsu hãy gieo mình xuống từ thượng đỉnh Ðền thờ như một cử chỉ vừa ngoạn mục vừa cả thể. Nhưng Chúa Giêsu đã mượn lời của chính Thiên Chúa nói với dân Do thái trong Cựu Ước để khước từ cám dỗ của Satan: "Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi". Trước sự cứng lòng tin của những người Biệt phái, Chúa Giêsu đã khước từ mọi phép lạ, hay đúng hơn, Ngài không làm phép lạ nào để nói với họ hơn là cái chết của Ngài trên Thập giá, bởi vì chỉ cái chết ấy mới có thể lôi kéo mọi người về với Thiên Chúa.
Giáo Hội tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Chúa Kitô; qua cuộc sống của mình, Giáo Hội cũng đang lặp lại những phép lạ của Chúa Giêsu như một lời mời gọi. Thế nhưng, đâu là dấu chỉ đáng tin cậy nhất mà Giáo Hội có thể chứng tỏ cho con người thời nay? Với những phát minh mỗi ngày một tân tiến, con người thời nay dường như vẫn đang tự hào thực hiện được nhiều phép lạ trong mọi địa hạt. Do đó, đối với con người ngày nay, không một dấu lạ nào đáng tin hơn nơi Giáo Hội cho bằng chính cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mà Giáo Hội có thể lặp lại nơi chính mình. Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội khước từ vẻ hào nhoáng bên ngoài, để mặc lấy thái độ vâng lời và phục vụ của Chúa Kitô; Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội là thể hiện của một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu của Ðấng sẵn sàng hy sinh và chết cho người mình yêu.
Dấu lạ cả thể mà có lẽ con người thời nay đang chờ đợi nơi Giáo Hội chính là dấu lạ của tình thương. Nói như Staline, thế giới này chỉ cần mười người như thánh Phanxicô Assisi, thì cũng đủ để thay đổi bộ mặt. Người ta mãi mãi vẫn nhớ khuôn mặt từ tốn, nhân hậu của một Gioan XXIII; hoặc chỉ như một ánh sao băng, người ta khó mà quên được nụ cười hiện thân của lòng nhân từ nơi Ðức Gioan Phaolô I; lòng hy sinh quảng đại của Mẹ Têrêsa Calcutta cũng là một dấu lạ cả thể mà con người thời đại đang tìm thấy nơi Giáo Hội.
Trong sự đóng góp khiêm tốn của mình trong cuộc sống hiện tại, xin Chúa cho mỗi Kitô hữu chúng ta luôn ý thức rằng mình đang là một dấu hỏi, một lời mời gọi đối với những người chưa nhận biết Chúa Kitô.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Chúa Giêsu thở dài
Những người Pha-ri-sêu kéo ra và bắt đầu tranh luận với Đức Giêsu, họ đòi Người một dấu lạ từ trời để thử Người. Người thở dài não nuột và nói: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả.” (Mc. 8, 11-12)
Than vắn thở dài là chuyện thường tình. Có ai đã không nghe tiếng thở than của một người bệnh, một người hấp hối? Ai trong chúng ta đã không bao giờ buông ra tiếng thở dài não nuột? Khi lòng ta gặp chuyện trái ý, đau buồn, thất vọng, hoặc thân xác ta phải đau đớn, thở dài một tiếng, ta cũng cảm thấy được vợi bớt phần nào. Chính nỗi đau thái quá ta phải chịu, khiến ta bộc lộ những phản ứng thái quá. Làm như thế ta coi như tâm hồn được giải thoát phần nào.
Trong Phúc âm hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu cũng phải buông tiếng thở dài. Người cảm thấy chán quá rồi. Ngay khi Người vừa mới ở dưới thuyền lên, những người Pharisiêu đã xấn lại và bắt đầu chất vấn Người. Họ đòi Người làm cho họ một dấu lạ từ tròi, bởi lẽ theo họ quan niệm, một vị ngôn sứ phải chứng tỏ mình có sứ mệnh Chúa trao bằng một dấu lạ từ trời. Họ đòi một điều như thế đó, khi mà Chúa Giêsu vừa mới làm phép lạ hóa bánh rá nhiều cho bốn ngàn người ăn no. Họ còn muốn được thấy từ trời đổ xuống một trận mưa những miếng bánh mì, như dấu chỉ có giá trị và chứng minh cho sứ mạng chân chính về ngôn sứ của Chúa Giêsu.Trước một yêu sách như thế, chứng tỏ họ cứng lòng và ngoan cố không tin, nên Chúa Giêsu phải thở dài não nuột.
Một thái độ cự tuyệt
Trong những điều kiện như vậy, để phản đối những người Pharisiêu, Chúa Giêsu tỏ một thái độ cự tuyệt, một sự từ chối thẳng thừng: “Thế hệ này sẽ khong được một dấu lạ nào cả”. Biết được lòng dạ xấu xa của họ, Chúa Giêsu không tranh luận, không tự biện bạch, Người từ chối điều họ yêu cầu. Và như để tỏ rõ lập trường hơn nữa, Người nói là làm ngay: Người để họ đứng trơ ra đó, xuống thuyền, đi ngược chiều về phía bờ bên kia. Nguyên sự có mặt của họ cũng đủ làm cho Người bực mình rồi, nên Người muốn thoát đi cho mau lẹ. Chúa Giêsu tỏ ra rất cương nghị, Người tàn nhẫn xua đuổi những kẻ đến trò chuyện với mình. Vì đây là trường hợp hi hữu, trái với thái độ thường xuyên của Người là vốn niềm nở tiếp đón và hiền từ với mọi người: xưa nay Người vẫn hay để cho dân chúng chen lấn xô đẩy, trẻ em “quấn quýt”, bệnh nhân tràn ngập.
Là những tín hữu, chúng ta có thể bắt chước thái độ ngoan cường, cứng rắn đó của Chúa không? Tất nhiên là có, khi danh dự của Chúa – chứ không phải của ta – bị coi thường. Người ta vẫn tố cáo là Kitô giáo đã làm cho con người trở nên nhu nhược, mất tính nam nhi, ta cần phải chứng minh điều ngược lại, khi biết tỏ thái độ cương quyết, lúc cần phải tỏ. Người Kitô hữu là người có khả năng chọn lựa, thì cũng phải có khả năng từ chối. Nhưng người Kitô hữu cũng phải biết cho người ta những dấu lạ ở trần gian khi người ta đòi mình những dấu lạ từ trời.
Suy Niệm 6: CẦN CÓ ĐỨC TIN ĐỂ ĐÓN NHẬN TÌNH THƯƠNG (Mc 8,11-13)
Chúng ta thấy trong Tin Mừng, gần như đã trở thành quy luật để Đức Giêsu thi hành phép lạ, đó là đức tin và lòng mến. Nếu không có đức tin thì ắt không thể có lòng mến, mà không có lòng mến thì làm sao có thể hoán cải? Như thế sẽ không bao giờ có phép lạ!
Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy những người Pharisêu cũng đến để nghe Đức Giêsu giảng và họ đã chứng kiến rất nhiều phép lạ cả thể Đức Giêsu đã làm. Một trong những phép lạ mới nhất, đó là phép lạ hóa bánh ra nhiều cho bốn ngàn người từ bẩy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ. Tuy nhiên, thay vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, thì họ lại trai cứng và tiếp tục đi vào vết xe đổ như Tổ tiên họ đã thách thức Thiên Chúa trong Samạc; hay đi theo con đường của Satan khi chúng thử thách Đức Giêsu sau khi Ngài ăn chay 40 đêm ngày! Trước sự chai lỳ và u mê do thói kiêu ngạo, ghen tỵ và sự giả dối nơi họ, nó đã làm cho lương tâm những người Pharisêu bị phủ lấp và không còn nhạy bén để nhận ra tình thương của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu. Vì thế, Đức Giêsu đã phải thốt lên: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ?” Và Ngài đã không làm phép lạ theo như yêu cầu của những người Pharisêu, bởi vì họ không tin và phép lạ không thể diễn ra trong sự thách thức và cưỡng bách được.
Trong đời sống đức tin của chúng ta thường ngày cũng vậy. Nhiều khi cũng thách thức Thiên Chúa khi chúng ta đem Ngài ra để so sánh với ông nọ, thần kia; hoặc có lúc chúng ta cũng ra những điều kiện cho Ngài khi nhủ rằng: nếu Chúa có mặt thực sự, thì Chúa làm cho con được thế này hay thế kia thì con sẽ tin? Những lúc như thế, chúng ta đã bị sự kiêu ngạo thúc bách và khi đó trong ta chỉ còn những yêu cầu phát xuất từ sự tham vọng và thực dụng thuần túy mà không hề nghĩ đến ơn cứu chuộc là hạnh phúc vĩnh cửu!
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con ơn khiêm tốn và lòng yêu mến Chúa để chúng con nhận ra tình thương của Thiên Chúa và luôn sống trong sự an bài của Ngài. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Một dấu lạ từ trời
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước... Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?”. Nhưng người bạn lắc đầu giải thích “Ông ta là một người phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.
Thảm trạng của con người thời đại: Con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
Suy niệm
Theo văn mạch của Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu vừa làm nhiều phép lạ trong đó có những phép lạ lớn (x. Mc 4,35-5,43): Dẹp yên bão táp, trục xuất quỷ ám ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại. Phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ hai (x. Mc 8,1-10). Thế mà những người pharisiêu vẫn chưa tin Ngài, họ lại thách Ngài làm một “dấu lạ từ trời”, nghĩa là một phép lạ xuất phát từ chính Thiên Chúa.
Họ không chú ý tìm chân lý nhưng chỉ để thử Ðức Giêsu, họ thiếu thiện chí, họ không tin là vì họ ngoan cố. Nơi lòng dạ những người cứng tin này, Ðức Giêsu buồn lòng, Ngài không làm gì được cho họ.
Trong phần tiếp theo của Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục làm thêm những phép lạ khác. Những phép lạ đó không phải làm cho những người pharisiêu cứng lòng, nhưng cho những người tin. Phép lạ không sinh ra đức tin mà chỉ là những dấu chỉ dẫn chúng ta tới đức tin. Bởi thế, nếu sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ chưa phải là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin.
Xin cho chúng ta biết tin vào Chúa một cách vô điều kiện, đức tin soi chiếu từng bước chân đi vào đời.
Ý lực sống: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).
Suy Niệm 8: Biệt phái xin Chúa phép lạ từ trời
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều (8,1-10) lần thứ hai ở phía đông biển hồ Bétsaiđa, Chúa Giêsu cùng môn đệ xuống thuyền sang phía tây hồ. Nhưng vừa cập bến được ít lâu, một nhóm biệt phái, có cả nhóm sađucêu nữa, kéo nhau đến rình mò , tranh luận và thử thách Ngài.
Trước đó Người cũng đã làm nhiều phép lạ, trong đó có những phép lạ lớn (Mc 4,35 – 5,43: dẹp yên bão táp, trục xuất quỉ ám ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại). Thế mà những người biệt phái vẫn chưa tin Người. Hôm nay họ lại thách thức Người làm một “dấu lạ từ trời” nghĩa là một phép lạ phát xuất từ chính Thiên Chúa.
2. “Người thở dài não nuột mà nói...”
Thực ra những phép lạ Người làm, nhất là những phép lạ lớn vừa kể trên, đã đủ minh chứng Người là Đấng có quyền phép “từ trời”. Sở dĩ họ không tin là chỉ vì họ ngoan cố. Bởi đó Chúa Giêsu nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa .
Trong phần tiếp theo, Tin Mừng Mc vẫn tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu làm thêm nhiều phép lạ khác. Tuy nhiên những phép lạ đó cũng chẳng phải làm cho những người biệt phái ấy. Nói cách khác, những phép lạ ấy chỉ có ý nghĩa và giá trị cho những người khác chứ không cho những người biệt phái cứng lòng.
3. Vấn đề phép lạ - dấu lạ.
Đành rằng trong công cuộc truyền giáo, Chúa ban cho một số chứng nhân của Người có khả năng làm một số phép lạ hay dấu lạ để minh chứng lời rao giảng và nâng đỡ niềm tin cho người nghe, nhưng phép lạ hay dấu lạ không là điểm chính yếu và đóng vai trò quyết định cho việc đón nhận Lời Thiên Chúa. Vì thế, sẽ tầm thường hóa niềm tin và hậu quả là sự hời hợt không có chiều sâu cũng như không có sự yêu mến đích thực.
Thánh Phaolô từng dạy rằng, đã trông thấy rồi mới tin thì không còn là đức tin nữa. Nói cách khác, chỉ là sự bất đắc dĩ phải chấp nhận khi chuyện đã tỏ tường mà thôi. Thiên Chúa ban phép lạ hay dấu lạ là do lòng nhân hậu của Người và có giá trị trong chương trình cứu độ, chứ không chiều theo sở thích của con người đòi hỏi Người phải ban dấu lạ điềm thiêng.
Thật vậy, một đức tin trưởng thành không hệ tại ở dấu lạ, mà kiên trì trong thử thách và sự trung tín bền vững vào Chúa. Đó mới là điều hữu ích cho linh hồn tín hữu.
4. Những phép lạ kể trên đã đủ chứng minh Chúa Giêsu là Đấng có quyền phép từ trời rồi. Thế nhưng, họ không tin là vì họ ngoan cố, bởi đó Ngài nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa.
Chúng ta phải nói lại, phép lạ Chúa như vậy, Tin Mừng hôm nay cho thấy phép lạ “không sinh ra đức tin” mà chỉ là “dấu chỉ dẫn người ta tới đức tin”. Bởi thế, Sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ (như Lộ Đức, Fatima, La Vang...) thì chưa hẳn là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin. Ngược lại, người có đức tin thật thì nhìn thấy phép lạ trong tất cả mọi việc, kể cả việc nhỏ và tầm thường nhất.
5. Niềm tin thì chúng ta dễ có, và có thể tạo ra niềm tin, còn Đức tin thì phải đến từ Thiên Chúa, đó là một hồng ân Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải con người tạo ra Đức tin. Trong hành vi đức tin, Thiên Chúa vừa cho có ánh sáng, vừa cho bóng tối. Đức tin, vì thế đòi hỏi phải có sự khó nhọc, chọn lựa, hy sinh và dấn thân. Một Đức tin mà đòi hỏi một chứng cớ rõ ràng, thì không phải là Đức tin nữa. Vả lại, Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình thương, mà trong tình yêu thì không có sự ép buộc hay cưỡng bức, nhưng là sự tự do, tự nguyện.
6. Truyện: Hãy cho tôi thấy Thiên Chúa.
Một ông vua thông minh tài giỏi, nhưng rất ngạo ngược. Ngày kia, ông bèn nảy ra ý kiến hiểm độc. Ông cho triệu các nhà lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần lễ phải cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu.
Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm sao có thể thực hiện cho nhà vua được? Vì không thiếu phép lạ, nhưng phép lạ không phải để đáp lại cái ý muốn điên rồ và thách thức ấy.
Biết được nỗi lo âu ấy, một kẻ chăn chiên đến xin các vị lãnh đạo cho phép để chỉ cho nhà vua thấy Thiên Chúa. Họ không tin tưởng lắm, nhưng cũng đành lòng chấp nhận.
Buổi sáng ngày ấn định, anh chăn chiên dẫn nhà vua đến cánh đồng cỏ nơi anh thường thả đàn vật. Họ cùng nhau đi bộ. Lúc đến nơi thì mặt trời đã gần lên tới đỉnh đầu. Người chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và nói: “Tâu bệ hạ, xin hãy nhìn”.
Nhà vua tức giận quát lớn: “Thằng điên! Ngươi muốn ta mù sao? Ai có thể nhìn vào mặt trời chói chang như vậy”?
Lúc ấy, người chăn chiên liền quì gối xuống trước mặt vua mà nói: “Muôn tâu bệ hạ, với một vật Chúa làm ra và ánh sáng của nó còn chói chang, đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy chính Thiên Chúa được?
14/02 Xin Chúa sáng soi
- Viết bởi Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
XIN CHÚA SÁNG SOI CHO BIẾT VIỆC PHẢI LÀM
SUY NIỆM LỄ MÙNG BA TẾT
(Ga 20, 19-31)
Để thánh hóa ba ngày Tết Nguyên Đán, Hội Thánh Việt Nam đã chỉ định Ngày mồng ba Tết, Ngày Cầu Mùa, để xin Chúa chúc lành cho công việc làm ăn được phát đạt.
Sau khi đã vui chơi ăn Tết, đến lúc phải bắt tay vào làm việc. Lời nguyện nhập lễ giao thừa chúng ta cúi xin Chúa rộng ban cho chúng ta một năm mới dồi dào phúc lộc và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh.
Thánh Phaolô đã có một kinh nghiệm tuyệt vời khi chia sẻ: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Điều này có nghĩa là, chúng ta không thể điều khiển được chính mình, chúng ta không đủ nghị lực để dám chắc mọi điều ta làm đều tốt. Vì thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc “Kinh Sáng Soi” để xin Chúa hướng dẫn, nhất là thánh hóa trước khi bắt đầu việc làm trong năm mới. “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen”.
Lời kinh này chất chứa niềm tin tưởng và lòng cậy trông vững vàng của những người con Chúa.
Quả thật, khi chúng ta: “Xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm” là chúng ta khơi lên niềm khát mong được nguồn ánh sáng của Chúa soi dẫn tâm trí, lời nói, việc làm… cho chính bản thân ta và đồng thời xin Chúa thánh hóa. Bởi đã có không ít lần chúng ta bắt đầu làm việc mà không biết phải làm gì hoặc phải bắt đầu từ đâu. Vì thế, khi giục lòng cậy trông xin ơn Chúa soi sáng là ta nhận biết về uy quyền của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta suốt năm tháng ngày giờ.
Thiên Chúa đặt con người làm chủ
Sau khi đã tạo dựng vạn vật muôn loài, Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất” (St 1, 26). Thế là “Thiên Chúa lấy bù đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống. Thiên Chúa lập một vường tại Eđen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên” (St 2, …). Việc con người được dựng nên từ bùn đất cho thấy tính chất yếu hèn, mỏng giòn của thân phận. Nhưng Thiên Chúa lại tạo nên con người và ban cho con người hình ảnh Chúa, cho con người được chia sẻ sự sống của Chúa, phú ban cho con người sự sống siêu nhiên và nhiều đặc ân như trí khôn minh mẫn, ý chí hướng thiện, không phải đau khổ và không phải chết và nhất là đặt con người làm chủ công trình Chúa sáng tạo, làm chủ chính mình trong ơn sủng mà Thiên Chúa đã ban cho.
Việc làm trong chương trình của Thiên Chúa
Công ăn việc làm là một phần trong chương trình của Thiên Chúa Sáng Tạo. Trong sách Sáng Thế, đề tài trái đất như là nhà – vườn được trao phó cho con người săn sóc và canh tác (x. St 2,8.15) đã đuợc diễn tả như sau: “Ngày Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai, và Người làm trào lên từ đất nước của các con kinh để tưới” (St 2,4b-6). Vẻ đẹp của trái đất và phẩm giá của công ăn việc làm được làm ra để nối kết với nhau. Cả hai song hành cùng nhau: trái đất trở nên xinh đẹp, khi nó được con người canh tác.
Hình ảnh địa đàng, nơi con người là chủ, sống, cày cấy và canh giữ đất đai (x. St 2,4-15), cho thấy con người nguyên thủy sống trong mối hiệp thông thân tình với Thiên Chúa, hài hòa với chính mình, với nhau và với cả vạn vật chung quanh. Trong tình trạng hạnh phúc và công chính nguyên thủy đó, con người làm chủ chính mình, không phải đau khổ và không phải chết. Lao động không là gánh nặng nhưng là sự cộng tác của con người với Thiên Chúa, nhằm kiện toàn chính bản thân và cả công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Vì “khi chúng ta làm việc là chúng ta cộng tác với Đấng đang làm việc…bởi vì không có Chúa chúng ta không thể làm được gì” (Thánh Augustino – GL HTCG Số 2001). Ý thức được giá trị ấy, con người phải có nghĩa vụ sinh lời từ những ân phúc do Chúa tặng ban.
Làm gì với nén bạc Chúa trao
Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện ba người đầy tớ được ông chủ tin tưởng trao phó tài sản của mình trước khi ông bắt đầu một cuộc hành trình dài. Hai trong số họ đã làm rất tốt công việc của mình, vì họ đã làm sinh lợi gấp đôi cái nhận được. Nhưng người thứ ba thì không: “Người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình” (Mt 25,18). Anh đào lỗ chôn giấu, vì sợ ông chủ, không biết làm thế nào để sinh hoa lợi. Đây có lẽ là trung tâm của dụ ngôn.
Việc gì đến cũng sẽ đến, chủ trở về, ông gọi các đầy tớ lại để tính sổ những gì ông đã trao phó cho họ. Ông hoan nghênh hai người đầu tiên, và tỏ sự thất vọng đối với người thứ ba. Trong thực tế, người thứ ba đã sai lầm khi chôn kín số tiền nhận được, anh hành xử như thể sẽ không có ngày anh sẽ bị hỏi về những việc anh đã làm. Với dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta cách sử dụng tốt những gì chúng ta đã được ban tặng.
Ý nghĩa của dụ ngôn này thật rõ ràng. Ông chủ trong dụ ngôn này là Chúa Giêsu, những đầy tớ là chúng ta và những nén bạc là tài sản mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta. Khi thông ban cho chúng ta sự sống, Thiên Chúa cũng phú ban cho chúng ta những nén bạc, có thể là khả năng nhiều hay ít. Các nén bạc tượng trưng cho những ơn ban của Chúa để phát triển cá nhân, đạo đức và tôn giáo. Các nén bạc ấy, Ngài đã ủy thác để chúng ta làm cho chúng sinh lời. Cái hố được đào dưới đất bởi người “đầy tớ xấu xa và biếng nhác” (Mt 25, 26). Chúa không yêu cầu chúng ta phải bảo quản ân ban của Ngài trong két sắt! Nhưng mong muốn rằng, chúng ta sử dụng nó để sinh lợi cho tha nhân.
Những nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít. Nhiều hay ít, số lượng không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người làm việc với những nén bạc đó. Chúa chú ý tới cố gắng của mỗi người. Bởi thế, người đã lãnh năm nén và người đã lãnh hai nén mà xử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ” (x. Mt 25, 21.23). Bạc Chúa trao cho chúng ta phải ra sức làm việc để sinh lời. Việc sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ, người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa sáng soi, để chúng ta biết việc phải làm. Đồng thới luôn ý thức về sứ mạng Chúa trao ban là làm chủ, để chúng ta mến yêu lao động, cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Chúng ta không làm việc một mình, nhưng có Chúa cùng hoạt động.
Xin Chúa chúc phúc cho công ăn việc làm của chúng con trong suốt cả năm mới này. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
13/02 Mừng xuân với những liên hệ.
- Viết bởi Lc 1,67-75
Mừng xuân với những liên hệ.
Thứ Bảy tuần 5 thường niên.
MỒNG HAI TẾT TÂN SỬU. KÍNH NHỚ TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ.
"Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta".
Lời Chúa: Lc 1,67-75
Khi ấy, Dacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: "Chúc tụng Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Chúa đã gầy dựng cho chúng ta một uy quyền cứu độ. trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa, như Người đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa; để giải phóng chúng ta khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng ta; để tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta, và nhớ lại lời thánh ước của Người: lời minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta, rằng: Người cho chúng ta không còn sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù, được phục vụ trước tôn nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời chúng ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Cầu cho cha mẹ
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Suy niệm
Đã có lúc người ta cho rằng theo đạo Công giáo là bỏ ông bà,
nhất là khi Hội thánh chưa cho phép bày tỏ lòng hiếu thảo
bằng cử chỉ vái lạy tổ tiên đã khuất.
Ở đất nước ta, thờ cúng tổ tiên là chuyện quan trọng,
đến độ người ta có thể nói đến đạo thờ ông bà, đạo hiếu.
Ai không giữ đạo hiếu thật đáng khinh.
Nhiều người tin khi chết thì con người đi về thế giới bên kia,
và thế giới bên kia cũng không khác lắm với thế giới bên này,
người chết cũng có những nhu cầu vật chất cần thỏa mãn.
Tết là thời gian mời ông bà đã khuất về ăn Tết với con cháu.
Như thế ông bà và con cháu được gần nhau, thông hiệp với nhau.
Đạo Công giáo tin có thế giới bên kia,
nhưng không quan niệm thế giới ấy một cách vật chất.
Người chết không cần ăn uống, không cần xài tiền vàng mã,
nhưng lại rất cần lời cầu nguyện để sớm hưởng nhan Chúa.
Thảo kính cha mẹ là điều răn đặc biệt trong 10 điều răn,
vì không cấm làm một điều xấu, nhưng buộc làm một điều tốt.
Các sách Cựu Ước đều coi trọng mệnh lệnh này (Xh 20,12; Đnl 5,16).
Thậm chí một người con có thể bị xử tử bằng cách ném đá
nếu không vâng lời hay nguyền rủa cha mẹ (Xh 21,17; Lv 20,9; Đnl 21,21).
Còn ai hiếu thảo sẽ được Chúa cho sống thọ trên đất hứa (Xh 20,12).
Thảo kính cha mẹ là kính trọng và yêu mến kẻ đã sinh dưỡng mình,
Thăm viếng khi khỏe mạnh, chăm sóc khi yếu đau, hầu hạ khi cao tuổi.
Thảo kính cha mẹ cũng là làm cho cha mẹ được vinh danh.
Nhờ con cháu mà “danh thơm mãi lưu truyền hậu thế” (Hc 44,14).
Có thể nói Đức Giêsu đã giữ điều răn này một cách nghiêm chỉnh.
Khi nghe Ngài giảng, có người đã kêu lên để ca ngợi Mẹ Ngài:
“Phúc cho người đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm” (Lc 11,27).
Bà Êlisabét đã ca ngợi Mẹ Maria là có phúc hơn mọi phụ nữ,
vì Người Con mà Mẹ đang cưu mang là Đấng có phúc tuyệt vời (Lc 1,42).
Đức Giêsu hằng vâng phục cha mẹ khi lớn lên ở Nadarét (Lc 2,51),
Và lo liệu cho Mẹ Ngài trước khi nhắm mắt (Ga 19,25-27).
Mồng Hai Tết, Giáo Hội mời ta nhớ lại nguồn cội tổ tiên đã xa ta,
và cũng nhớ đến nguồn cội đang ở gần ta với lòng biết ơn.
Đạo thờ ông bà, dù khác, nhưng cũng rất gần với đức tin Công giáo.
Thảo kính cha mẹ là “lời”, là “điều răn”của Thiên Chúa (Mt 15,3.6).
Không ai được phép bỏ qua hay coi nhẹ.
Qua tổ tiên, Thiên Chúa tạo dựng nên con người chúng ta.
Qua ông bà cha mẹ, Thiên Chúa cho chúng ta nên người thành toàn.
Tri ân tổ tiên là tri ân chính T. Chúa, Nguồn Cội của mọi nguồn cội.
Sách Nhị Thập Tứ Hiếu kể lại 24 gương hiếu thảo đối với mẹ cha.
Lão Lai tuy đã già vẫn nhảy múa như con nít để giúp vui cho cha mẹ.
Lục Tích là đứa bé ăn cắp quýt ở bữa tiệc để đem về, vì biết mẹ thích.
Ngô Mãnh, tám tuổi, cởi trần cho muỗi đốt mình để khỏi đốt cha mẹ.
Diễm Tử có cha mẹ già, thèm sữa hươu, nên ông khoác bộ da hươu,
giả làm hươu con vào rừng, để đến gần hươu mẹ vắt sữa.
nên suýt nữa bị các thợ săn nhắm bắn.
Nếu không hiếu thảo đến mức cao như các gương trên đây
thì ít là hôm nay ta biết ngước lên trời cầu nguyện cho cha mẹ:
“Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, sau hơn 30 năm
sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn và trưởng thành,
Sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh Ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con, xin biến nó thành nơi sản sinh con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn, Giáo Hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
2. Thờ cha kính mẹ
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Suy niệm:
Giáo Hội dành Mồng Hai Tết để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Người Công Giáo thường bị coi là bỏ rơi việc thờ cúng ông bà tổ tiên,
như thế họ có thể bị coi là bất hiếu.
Thật ra thảo kính cha mẹ là điều răn thứ bốn Thiên Chúa đòi chúng ta phải giữ.
Cha Đắc Lộ trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày (1651) cho rằng
thảo kính cha mẹ gồm bốn phần, đó là yêu mến, kính sợ, chịu lụy và giúp đỡ.
Cha còn ghi nhận một tập tục đặc biệt vào thời đó.
Ngày Mồng Một Tết, người dân và cả những quan lớn,
sau khi theo vua chúa đi tế Nam Giao về,
“ai nấy về nhà mà lạy cha mẹ ông bà ông vải.”
Vào năm 1625, các thừa sai cho phép cúng giỗ các vị đã khuất.
Trong các gia đình, ngoài bàn thờ kính Chúa, còn có “bàn thờ” tổ tiên
Chỉ có hai điều không được phép,
đó là đốt vàng mã và tin tổ tiên về ăn đồ cúng.
Thật ra, người Công Giáo nhớ đến người quá cố
không qua những nghi lễ giỗ chạp hàng năm,
cho bằng qua việc cầu nguyện và dâng lễ hàng ngày.
Nhà Vua tế Trời ở đàn Nam Giao, nhà sư thờ Phật tại Chùa,
các bậc chức sắc trong làng xã thờ Thành Hoàng tại đình làng,
còn việc cầu nguyện, cúng giỗ tổ tiên được cử hành tại gia đình,
nơi người sống và người đã qua đời vẫn thông hiệp với nhau chặt chẽ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu bênh vực quyền lợi của cha mẹ.
Ngài đòi người ta phải giữ điều răn thứ tư của Thiên Chúa.
Thảo kính cha mẹ hàm chứa việc săn sóc và phụng dưỡng cha mẹ.
Cụ thể người con phải giúp cha mẹ về mặt tài chánh.
Đức Giêsu phản đối một truyền thống được bày đặt bởi người Pharisêu,
đó là khi một người con lấy số tiền lẽ ra dành để nuôi cha mẹ
mà dâng cúng cho đền thờ làm lễ phẩm
thì anh ta khỏi phải dùng tiền đó mà nuôi cha mẹ nữa (cc. 5-6).
Đối với Đức Giêsu, làm thế là nhân danh một truyền thống con người
mà “vi phạm điều răn của Thiên Chúa”và “hủy bỏ lời của Thiên Chúa” (cc. 3.6).
Khi suy nghĩ về tương quan giữa cha mẹ và con cái,
chúng ta cần tự hỏi:
Làm sao để có sự cảm thông giữa những thế hệ?
Làm sao để con cái biết vâng phục và tôn kính cha mẹ?
Làm sao để cha mẹ biết giáo dục con cái bằng khuyên răn và sửa dạy?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn
và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
3. “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ”
(Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc)
Các môn đệ đã không rửa tay trước khi dùng bữa, nhưng người ta lại đi chất vấn vị Thầy của họ, là Đức Giê-su: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?”(c. 2)
Như thế, các môn đệ làm điều không đúng dưới mắt của những người tuân giữ và bảo vệ Truyền Thống, nhưng người nghe lời than trách, lại là vị Thầy. Điều này có nghĩa là lời giảng của Thầy, cung cách hành xử của Thầy và chính bản thân của Thầy có vấn đề !
Đối với người Do Thái, rửa tay trước bữa ăn không phải là vấn đề vệ sinh, nhưng là một nghi thức thanh tẩy. Bởi vì, lương thực là ân huệ Thiên Chúa ban, nên phải chuẩn bị mình đển đón nhận. Hiểu như thế, nghi thức thanh tẩy này thật là có ý nghĩa trên bình diện thiêng liêng và cũng là một nghi thức tôn giáo nên bảo tồn. Và thật ra, chính chúng ta cũng làm như thế: trước bữa ăn, chúng ta làm dấu Thánh Giá, đọc lời nguyện xin Chúa chúc lành; khởi đầu Thánh Lễ, chúng ta xin Chúa thanh tẩy để trở nên xứng đáng lãnh nhận Lời và Mình của Đức Ki-tô như là lương thực; và theo Phụng Vụ Thánh Lễ, linh mục phải rửa tay trước khi cử hành nghi thức truyền phép, đồng thời đọc thầm: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con đã phạm xin Ngài thanh tẩy”» (x. Tv 51, 4).
Như thế, những người Pha-ri-sêu và Luật Sĩ thật có lí, khi lưu ý Đức Giê-su rằng, các môn đệ của Ngài đã không rửa tay trước bữa ăn. Cũng tương tự như các nhà chuyên môn về phụng vụ của chúng ta, hay những người yêu thích phụng vụ vẫn thường lưu ý hay góp ý người này người kia đã làm sai hoặc không làm một qui định chữ đỏ nào đó trong Sách Lễ Roma. Tuy nhiên, Đức Giê-su lại bênh vực các môn đệ của mình. Vậy, đâu là vấn đề của những người Pha-ri-sêu và Luật sĩ ? Và phải chăng, vấn đề của họ cũng có thể là vấn đề của chúng ta ?
Nghi thức thanh tẩy dù có ý nghĩa và quan trọng, nhưng cũng chỉ là một cách diễn tả của con tim, là một lời mời gọi hướng tới một thái độ nội tâm. Thật vậy, giữ nghi thức và giữ thật đúng qui định nói lên điều gì hay sẽ đem lại hoa trái nào, khi mà trong lòng trống rỗng, hay có những tâm tình hay cảm nghĩ bất xứng hay không phù hợp ? Như Đức Giê-su đã nói trong Bài Giảng Trên Núi: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24). Sai lầm là ở chỗ, người ta bị xét đoán là thanh sạch hay nhơ uế tùy theo việc giữ hay không giữ nghi thức rửa tay hay những nghi thức khác ; như thế, nghi thức trở thành tiêu chuẩn xét đoán về tương quan giữa con người và Thiên Chúa, và do đó, giữa con người với nhau, bởi vì người ta sẽ cư xử đặc biệt với những « người nhơ uế », những « người tội lỗi ».
Đối với Đức Giê-su, điều làm cho người ta trở nên thanh sạch hay nhơ uế không phải là điều ở bên ngoài, nhưng là điều trong nội tâm. Trước đó, Đức Giê-su đã trích lời Kinh Thánh này : « Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân » (Mt 15, 8-9). Và trong các Mối Phúc, Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (5, 8).
Ước gì chúng ta có được một con tim biết sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa ; vì đó là con đường duy nhất làm cho con tim của chúng ta trở nên gần gũi với Thiên Chúa, làm cho các việc làm, các thực hành đạo đức của chúng ta trở nên đáng yêu dưới mắt Chúa. Nhưng ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự bất lực trong nỗ lực điều khiển con tim, trong việc làm chủ những diễn biến nội tâm, và nhất là những diễn biến ở những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn. Chỉ có Thiên Chúa, ngang qua Lời và Mình của Đức Giê-su, mới có thể làm cho con tim của chúng ta nên thanh sạch, mới có thể tái tạo và làm cho con tim của chúng ta nên mới. Xác tín này làm cho chúng ta bình an và khiêm tốn.
Truyền thống và Lời Chúa
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa được nghe công bố, Đức Giêsu nói hai lần về cùng một điều, đó là tương quan giữa truyền thống và Lời Chúa. Lần thứ nhất về chuyện rửa tay trước khi dùng bữa: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”(c. 3)
Lần thứ hai, nghiêm trọng hơn, vì liên quan đến luật thảo kính cha mẹ của Mười Điều Răn: “Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa.”(c. 6b)
Trong câu nói này, Đức Giêsu coi giới răn như là lời Thiên Chúa. Trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giê-su còn thêm: “Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa !” (Mc 7, 13) Truyền thống là một giá trị qui chiếu quan trọng, hơn nữa là một ơn huệ, bởi vì đó là một cách sống giới răn của Chúa, sống Lời Chúa của một cộng đoàn trong một thời gian và nơi chốn đặc thù. Nhưng với thời gian, các việc thực hành tốt đẹp này trở thành máy móc, nghĩa là nghi thức tự động tạo ra sự thanh sạch, trở thành quan trọng hơn so với chính Lời Thiên Chúa, trở thành ngẫu tượng.
Chúng ta cũng có rất nhiều truyền thống ở mọi cấp độ: Giáo Hội, Dòng tu, tu hội, dân tộc, cộng đoàn, nhóm… Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhận định lại toàn bộ dưới ánh sáng của Lời Chúa ban sự sống và diễn tả lòng thương xót.
Giới răn “Thờ cha kính mẹ”
Tại sao, giới răn “thờ cha kính mẹ” mang tầm mức Lời Chúa, vượt trên mọi lề luật, thói quen, tập quán phát xuất từ Truyền Thống?
Bởi vì, năng động sống « uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu », thuộc về nhân tính, vốn được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như thế, đạo hiếu từ ngàn xưa của Dân Tộc Việt Nam đã phát xuất và chất chứa Lời Thiên Chúa. Ngoài ra, giới răn này không chỉ có nền tảng nhân bản, nhưng còn có nền tảng thiêng liêng nữa. Bởi vì:
“Thờ cha kính mẹ” là con đường dẫn con người đến việc tin nhận Thiên Chúa. Thực vậy, tổ tiên ông bà và cha mẹ sinh ra chúng ta, nhưng các vị không phải là nguồn sự sống; hơn nữa, sự sống rất nhiệm mầu và chỉ có thể đến từ Thiên Chúa mà thôi, như chúng ta vẫn nói: cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Nhất là trong việc giáo dục đức tin ngày nay, giáo dục lòng biết ơn là con đường tốt nhất dẫn người trẻ đến kinh nghiệm tin nhận Thiên Chúa: biết ơn, biết ơn đối với cha mẹ, đối với cuộc đời, đối với Giáo Hội, và đối với chính Thiên Chúa, cội nguồn và điểm tới của mọi sự.
“Thờ cha kính mẹ” là con đường dẫn đến hiểu biết khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, một khuôn mặt rất dễ bị bóp méo bởi những hệ thống tư tưởng, khuynh hướng tuyệt đối hóa những điểm tùy phụ và bởi chính luật lệ. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và “Đấng Hay Thường Xót”; và khuôn mặt này được phản ánh tốt nhất nơi cha mẹ. Đức Giê-su cũng đã khởi đi từ tình yêu của cha mẹ, để giúp chúng ta hiểu đúng về Thiên Chúa: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7, 11).
Và cuối cùng, một thái độ “thờ cha kính mẹ” sẽ khơi dậy nơi chúng ta lòng ước ao Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới làm thỏa mãn niềm hi vọng gia đình tái đoàn tụ mãi mãi bên nhau trong tình yêu thương mà thôi.
4. Mừng xuân với những liên hệ
Dịp Tết, ta thường gửi thiệp chúc Tết, thăm viếng và tặng quà cho nhau. Những sinh hoạt ngày Tết như thế là những sinh hoạt của các mối quan hệ. Nếu không có nhưng liên hệ, ngày Tết sẽ mất đi ý nghĩa của nó. Tết là của người khác chứ không phải của riêng mình. Vì thế, đối với trẻ em,Tết là những ngày hội vui. Nhưng đối với người trưởng thành, Tết là một trách nhiệm:
Người ta sống được ở đời là nhờ những liên hệ. Không ai có thể sống một mình. Ta cần có cha mẹ để mặt ở đời. Ta cần có thầy cô để khai thông trí hoá. Ta cần có bạn bè để chia sẻ buồn. Ta cần người nông dân để có lúa gạo, rau trái. Ta cần có thợ may để có quần áo. Ta cần người quét đường để đường phố được sạch sẽ. Có thể tất cả những gì ta có được: từ sự sống đến kiến thức, từ cơm ăn áo mặc đến xe cộ, thuốc men, tất cả đều nhờ người khác.
Những mối liên hệ giống như những con đường chuyên chở đến cho ta những chất liệu nuôi dưỡng cuộc sống. Những mối liên hệ là những mạch máu đem máu đỏ đến tận những tế bào bé nhỏ nhất trong thân thể ta. Những mối liên hệ chính là chiếc tay vịn giúp ta leo lên những bậc thang làm người và thành đạt.
Đời ta có nhiều liên hệ. Có những liên hệ chiều rộng giúp cho cuộc đời thêm tươi đẹp phong phú. Có những liên hệ chiều sâu tạo bản chất cuộc đời. Gia đình với ông bà cha mẹ tổ tiên nằm trong mối liên hệ chiều sâu của đời ta. Không có ông bà cha mẹ tổ tiên, ta không có mặt ở đời. Ông bà cha mẹ là những hạt giống chịu vùi chôn dưới những lớp đất vất vả nhọc nhằn để cho cây đời ta được mọc lên xanh tươi. Ông bà cha mẹ đã tư nguyện quên bản thân mình, chịu mục nát như lớp phân bón cho cây đời chúng ta đơm bông kết trái. Ta là điểm tới của một quá trình phấn đấu gian nan dài đằng đẵng của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời sống ta như một bông hoa thì những bông hoa ấy đã được tưới bằng những giọt mồ hôi và cả những giọt nước mắt của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời ta như một toà nhà cao tầng thì ông bà cha mẹ chính là lớp nền móng chịu vùi chôn dưới lòng đất, còng lưng gánh chịu mọi sức nặng cho toà nhà đứng vững, phô trương vẻ đẹp với đời. Hạt mầm hiện hữu vì bông hoa sắp nở. Nền móng có mặt vì ngôi nhà sắp xây. Trọn một đời ông bà cha mẹ đều dành cho hạnh phúc của con cháu.
Đời sống mỗi người, vì thế, đều có một lịch sử rất dầy và rất sâu. Bề dầy ấy không chỉ đo bằng những trang sách của cuốn gia phả, nhưng còn đo bằng những tranh đời của bao thế hệ tổ tiên. Độ sâu ấy không chỉ đo bằng những cố gắng của bản thân, mà còn đo bằng bề sâu ân nghĩa của biết bao hi sinh vất vả của ông bà cha mẹ.
Ngày Tết là ngày của những mối liên hệ. Mùng Một Tết, chúng ta đã sống mối liên hệ với Chúa, nguồn gốc và cứu cánh của đời ta. Mùng hai Tết, Giáo hội muốn chúng ta sống mối liên hệ với ông bà cha mẹ, những người thay mặt Chúa, trực tiếp ban sự sống cho ta.
Sự sống là món quà nhất nên mối liên hệ với người ban sự sống cũng là mối liên hệ sâu nhất.
Tục lệ lập bàn thờ và kính nhớ tổ tiên trong ngày Tết là một nét văn hoá rất cao của người Việt Nam. Hình ảnh của ông bà cha mẹ trong nhà không chỉ nói lên sự sum họp của một gia đình đầm ấm, hình ảnh ấy còn nhắc ta về lòng biết ơn, cho ta nhìn thấy bề sâu bề dầy của lịch sử đời mình. Và vì thế giúp ta ý thức về trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đối với bản thân, và đối với những thế hệ kế tiếp.
Muốn xây một căn nhà thật cao thật đẹp, trước hết phải xây dựng nền móng vững chắc. Muốn xã hội tiến nhanh tiến mạnh, phải xây dựng gia đình vững chắc. Thờ kính tổ tiên, nhớ ông bà cha mẹ là nền tảng giúp xã hội tiến bộ vững mạnh.
Nếu những mối liên hệ là những con đường chuyển tải sự sống thì những liên hệ chiều sâu chính là những xa lộ huyết mạch. Nếu những mối liên hệ là những mạch máu nuôi dưỡng sự sống thì mối liên hệ chiều sâu chính là những động mạch chủ. Sửa chữa, củng cố và tăng cường những liên hệ gia đình chính là phát triển sự sống, phát triển xã hội.
Chính trong ý hướng đó mà Giáo hội, muốn ta sống tình gia đình, lòng biết ơn ông bà cha mẹ trong ngày mùng Hai Tết.
5. Lòng hiếu thảo với tiên nhân (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Sách khải huyền có viết:” Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi”(Kh 14, 13). Lời Kinh thánh giúp ta hiểu rõ của những người đi trước đã nhắm mắt lìa đời trong ân nghĩa Chúa. Niềm tin Kitô giáo dậy nhân loại, dậy mỗi người Kitô hữu rằng bổn phận của người còn sống có bổn phận và nghĩa vụ đối với những người đã khuất, đặc biệt đối với các bậc tiền nhân, tiên tổ, ông bà, cha mẹ. Đây cũng là điều răn thứ bốn trong mười thập giới của Đạo công giáo. Riêng đối với người Việt Nam vấn đề đạo hiếu có một tầm quan trọng đối với cá nhân, gia đình và họ hàng thân tộc.
NGƯỜI VIỆT NAM MANG NẶNG CHỮ HIẾU:
Đối với người Việt Nam chữ hiếu luôn đứng đầu trong mọi đức tính sẵn có của con người. Người Việt Nam vốn lấy đạo đức làm căn ban cho cuộc sống, cho bản thân, cho gia đình và cho dòng tộc của mình. Con cái thảo hiếu với cha mẹ lúc còn sống, khi cha mẹ đã khuất, người con hiếu thảo là người con luôn tưởng nhớ tới cha mẹ bằng việc cầu nguyện, xin lễ cho những người thân đã mất. Người Việt thường có bàn thờ gia tiên để tôn kính tổ tiên, ông bà cha mẹ đã qua đời. Sự hiếu thảo của con cái được thể hiện bằng nhiều cách như khi cha mẹ còn sống, con cái kính trọng, nuôi dưỡng, vâng phục cha mẹ và khi các vị đã mất, con cái cháu chắt lại tưởng nhớ tới các bậc tiền nhân trong những ngày giỗ, ngày kỵ, này tết nơi gia đình, nơi dòng tộc của mình. Người Việt Nam cũng không chỉ đóng khung trong gia tộc, gia đình mà họ còn đi xa hơn biết ơn cả đối với những người đã hy sinh để xây dựng quê hương, bảo vệ đất nước.
Tấm lòng tốt, sự biết ơn là một nét độc đáo trong nền văn hóa và đạo đức của người Việt Nam. Chính vì thế, người Kitô hữu Việt Nam đã cảm nghiệm sâu xa giới luật thứ bốn của đạo công giáo và hài hòa với truyền thống tôn kính, tưởng nhớ, ghi ơn những người đã có công với đất nước, quê hương, dân tộc.
NIỀM TIN KITÔ GIÁO:
Người Kitô hữu thể hiện chữ hiếu Kitô giáo bằng nhiều cách:khi cha mẹ còn sống, con cái chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ, khi cha mẹ đã khuất lòng hiếu thảo được thể hiện bằng việc cầu nguyện, dâng lễ, làm việc lành dành riêng cho cha mẹ đã qua đời. Việc chăm sóc mồ mả, nhớ ngày giỗ, ngày kỵ, hương nhang, nến đèn cho người chết cũng là một cách biểu tỏ lòng biết ơn đối với những kẻ đã khuất, đã chết. Xưa có quan niệm theo Chúa, theo đạo công giáo là bỏ tổ tiên, bỏ ông bà cha mẹ, quan niệm ấy đã lỗi thời vì xưa kia đã có ngộ nhận như thế. Nay, người công giáo là người nhận mọi người là anh em. Theo Chúa, theo đạo, người Kitô hữu như được dọn trước để mở rộng vòng tay đón nhận mọi người. Người Kitô hữu không chỉ đóng khung trong gia đình, gia tộc, họ hàng của mình mà họ còn có nhiều tổ tiên, ông bà, cha mẹ vì đạo Chúa bao gồm tất cả mọi người không loại trừ bất cứ ai. Trong tình yêu của Chúa mọi người đều là anh em với nhau. Đức ái Kitô giáo không phân biệt, không loại trừ bất cứ người nào.
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội Việt Nam dành ngày này để kính nhớ tổ tiên, ông bà cha mẹ, đây là một việc làm thật đáng trân trọng và hữu ích vì trong những ngày tết, mọi người đều vui vẻ, hạnh phúc sum vầy, êm ấm để ăn tết, tưởng nhớ, dâng lễ và cầu nguyện cho những bậc tiền nhân là một nghĩa cử cao đẹp và là một nhắc nhớ cho mọi người hãy sống hiếu thảo, hãy thực hành giới luật thứ bốn của thập giới Kitô giáo. Sống đạo hiếu là nét son văn hóa và nét nổi bật đức tin của người Kitô hữu Việt Nam.
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, Chúa dậy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo. Hôm nay, nhân dịp đầu năm mới, chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các Ngài (Lời nguyện nhập lễ, lễ Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ).
6. Sống thảo hiếu (Lm. Tạ Duy Tuyền)
Theo tục lệ Việt nam, ngày Tết là ngày con cháu dù ở nơi xa cũng sum họp cùng gia đình để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ. Đồng thời nói lên lòng yêu mến, biết ơn của con cháu đối với các bậc sinh thành.
Nhiều bài ca dao, tục ngữ, nhiều bài hát, câu chuyện, đã kể về công cha nghĩa mẹ và răn dạy con cái cần sống đáp đền công ơn ấy:
“Công cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao
Đội ơn chín chữ cù lao
Sinh thành kể mấy non cao cho vừa”.
Khi nhận ra công cha nghĩa mẹ, thì đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta:
“Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng”
Thế nên,
Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm
Lòng hiếu thảo quả là một tấm lòng thơm tho, đáng yêu. Lòng hiếu thảo làm cho con người thêm thanh cao, giá trị. Bởi được người đời kính trọng, yêu thương những ai có hiếu với mẹ cha.
Thế nhưng, giữa dòng đời hôm nay vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn nơi các bậc cha mẹ vì thiếu tình thương của con. Ở đâu đó, trong nhiều mái gia đình, ông bà cha mẹ lại là gánh nặng cho con cái. Ở đâu đó, vẫn còn những tiếng nghẹn ngào của những bậc sinh thành bị bỏ rơi ngay giữa đàn con cháu của mình.
Thiết tưởng, ngày đầu xuân chúng ta cùng lắng đọng tâm hồn để nghe lời bộc bạch chân thành từ lá thư của một người cha viết cho con.
Lá thư ấy viết rằng:
Con thân mến,
Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và hiểu giùm cho bố mẹ. Nếu như bố mẹ ăn uống rớt vun vãi… Nếu như bố mẹ gặp khó khăn ngay cả đến cái ăn cái mặc… Xin con hãy bao dung!
Con hãy nhớ những ngày giờ mà bố mẹ đã trải qua với con, để dạy cho con bao điều lúc thuở bé.
Nếu như bố mẹ cứ lập đi lập lại hàng trăm lần mãi một chuyện, thì đừng bao giờ cắt đứt lời bố mẹ… mà hãy lắng nghe!
Khi con còn ấu thơ, con hay muốn bố mẹ đọc đi đọc lại mãi một câu truyện hằng đêm cho đến khi con đi vào trong giấc ngủ… và bố mẹ đã làm vì con.
Nếu như bố mẹ không tự tắm rửa được thường xuyên, thì đừng quở trách bố mẹ và đừng nên cho đó là điều xấu hổ.
Con hãy nhớ… lúc con còn nhỏ, bố mẹ đã phải viện cớ bao lần để vỗ về con trước khi tắm.
Khi đôi chân của bố mẹ không còn đứng vững như xưa nữa… hãy giúp bố mẹ, nắm lấy tay bố mẹ như thể ngày nào bố mẹ đã tập tềnh con trẻ những bước đi đầu đời.
Và một ngày như một ngày sẽ đến, bố mẹ sẽ nói với con rằng… bố mẹ không muốn sống, bố mẹ muốn từ biệt ra đi.
Con đừng oán giận và buồn khổ… vì con sẽ hiểu và thông cảm cho bố mẹ khi thời gian sẽ tới với con.
Hãy giúp bố mẹ trong từng bước đi vào chiều…
Cách duy nhất còn lại mà bố mẹ muốn cảm ơn con là nụ cười và cả tình thương để lại trong con.
Thương con thật nhiều
Là người Ki-Tô, chúng ta cũng được mời gọi sống giới răn: “hãy thảo hiếu cha mẹ”. Đây là lệnh truyền chứ không phải lời khuyên. Lời khuyên thì có thể không làm nhưng lệnh truyền thì buộc phải thi hành.
“Phải thờ cha kính mẹ” còn là lễ dâng đẹp lòng Thiên Chúa. Ngược lại, Kinh Thánh còn ví kẻ khinh rẻ cha mẹ là chọc giận Thiên Chúa: ”Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai khinh rẻ mẹ, là chọc giận Đấng tạo thành ra nó” (Hc 3, 16). “Phải thờ cha kính mẹ” đó là điều răn duy nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).
“Phải thờ cha kính mẹ” còn phải được thể hiện qua những lời khuyên nhủ thật chân tình trong sách Huấn Ca: “Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dễ người” (Hc 3, 12-16).
Người ta nói: ”Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó". Việc thất đức mình làm cho tiền nhân cũng có thể tái diễn ngay chính cuộc đời chúng ta. Nếu chúng ta không muốn con bất hiếu với mình thì chính chúng ta hôm nay cũng phài làm gương sáng về hiếu thuận với mẹ cha. Nếu chúng ta muốn con cái đối xử tốt với mình thì hôm nay chúng ta cũng phải ân cần săn sóc mẹ cha.
Nguyện xin Chúa Xuân chúc lành cho buổi họp mặt gia đình hôm nay. Xin Chúa Xuân cư ngụ đến từng gia đình, mang ơn lành đến cho muôn nhà để mọi người được hưởng nếm những giây phút bình yên nhất bên gia đình và người thân. Amen
7. Kính Nhớ Ông Bà Tổ Tiên – Lm Đinh Lập Liễm
I. Ý NGHĨA BA NGÀY TẾT
Theo tục lệ Việt nam, ngày Tết là ngày con cháu dù ở nơi xa cũng xum họp cùng gia đình để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ. Đồng thời nói lên lòng yêu mến, biết ơn của con cháu đối với các bậc tiền bối.
Giáo hội Việt nam cùng đồng hành với dân tộc cũng muốn đề cao ba ngày Tết để giúp giáo dân thánh hóa ngày Tết với ý chỉ:
* Mùng một : cầu bình an cho năm mới.
* Mùng hai: kính nhớ ông bà tổ tiên.
* Mùng ba: thánh hoá công việc làm ăn.
Hôm nay mùng hai Tết, Giáo hội muốn cho giáo dân tỏ lòng hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên bằng cách dâng thánh lễ đặc biệt để cầu cho các ngài còn sống hay đã qua đời, tuy đã khuất nhưng còn luôn ở bên cạnh chúng ta.
II. ĐẠO HIẾU CỦA TA
1. Luật của Chúa.
Hằng tuần chúng ta vẫn đọc kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời, khi đọc đến giới răn thứ bốn, ta nhớ ngay đến nghĩa vụ phải thảo kính cha mẹ. Thảo kính cha mẹ là gì? Thưa là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và khi đã qua đời. Ta phải hiếu thảo ngay cả khi cha mẹ đã qua đời, vì tuy các ngài đã khuất nhưng vẫn còn ở bên chúng ta.
2. Chữ hiếu của người Á đông.
a) Người Á đông đề cao chữ hiếu, coi như cội rễ của mọi đức. Người con bất hiếu là người con bỏ đi, và tội nặng nhất là tội “bất hiếu”.
b) Người Phật giáo cũng có một lễ riêng vào ngày rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân mà ta gọi là lễ Vu lan. Ngày này, người ta có những nghi lễ đặc biết để nhớ đến ông bà tổ tiên.
c) Người ta còn có lệ “cúng cô hồn”, tặng cho các cô hồn thức ăn cho khỏi đói, một nghĩa cử cao qúi đối với những hồn cô đơn không ai nhớ tới. Bên Công giáo chúng ta gọi là cứu giúp các linh hồn mồ côi trong luyện ngục.
3. Sự tử như sự sinh.
Những người thờ cúng tổ tiên có vẻ sống gần gũi với ông bà cha mẹ đã khuất. Người ta coi “sự tử như sự sinh” (phụng dưỡng người chết cũng như người sống). Do đó, người ta khấn vái, nói chuyện với cha mẹ đã chết giống như nói chuyện với người còn sống. Họ dâng cho cha mẹ hoa quả, nén hương, thậm chí cả mâm cơm để tỏ tấm lòng thành với các ngài.
Truyện: Đôi đũa thứ năm.
Bác Năm Hớn có một vợ và hai con. Chẳng may vợ mất sớm. Một hôm bác mời cha Piô Ngô phúc Hậu đến dùng cơm với bác. Trong mâm chỉ có bốn người mà sao lại thắp những 5 đôi đũa bát. Cha Piô Ngô Phúc Hậu ngạc nhiên hỏi: ”Bát đũa này dành cho ai”? Bác trả lời: ”Dành cho vợ bác”. Tuy vợ bác đã khuất nhưng bác vẫn mời vợ về cùng dùng cơm.
III. Ý NGHĨA NGÀY MÙNG HAI TẾT
Giáo Hội Việt nam luôn đồng hành với dân tộc, không những phải giữ lấy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn nâng cao lên, cho nó một ý nghĩa cao qúi. Vì thế, Giáo hội Việt nam muốn dùng ngày mùng hai Tết để chúng ta kính nhớ ông bà tổ tiên, vì
Người ta có cố có ông,
Như cây có cội, như sông có nguồn. (ca dao)
Không có ông bà tổ tiên thì không có ta, tất cả những cái ta có là do ông bà cha mẹ để lại. Không ai đuợc quên công ơn lớn lao đó:
Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm (ca dao)
Truyện: Con kiện mẹ.
Tại bang New Jersey bên Hoa kỳ, một bà mẹ 78 tuổi bị đứa con trai kiện vì bà không trả tiền công cho chàng đã sửa chiếc xe vận tải của bà.
Bà đã đệ đơn tố ngược lại con mình, với đề nghị là chàng phải bị đánh đòn vì lúc chàng còn nhỏ, bà đã không áp dụng câu:”Thương con cho roi cho vọt”.
Trả lời đơn người con trai kiện mình, bà đã viết:”Nguyên cáo mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một người mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, một nhà tâm lý để cố vấn khuyên bảo… Tất cả những dịch vụ trên nguyên cáo đã không trả tiền công cho bị cáo”.
Bà mẹ viết tiếp:”Như một người mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh con tôi, những roi vọt cần thiết cho nó mà tôi đã không dành cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con, thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi”. (R. D. Warhreit, Ánh sáng hy vọng, tr 226)
Ngược lại câu truyện cười ra nước mắt trên đây, một PHONG TRÀO vô danh đã gợi ý các thành viên mình suy nghĩ về câu châm ngôn:”Những cụ già là một hồng ân”, với những tư tưởng như sau:
Phúc cho anh chị khi hiểu rằng tay tôi đã khởi sự run rẩy và chân tôi bắt đầu yếu dần.
Phúc cho anh chị khi nhớ rằng tai tôi không còn nghe rõ như xưa và dù muốn hay không những người lớn tuổi cũng phải chấp nhận câu:”Trẻ khôn ra, già lú lại”.
Phúc cho anh chị nếu biết rằng mắt tôi không còn sáng được như xưa.
Phúc cho anh chị nếu không giận dữ vì tôi đánh rơi một cái tách đắt tiền, khi tôi năm lần bảy lượt thuật lại cùng một câu truyện.
Phúc cho anh chị nếu anh chị biết trao cho tôi những nụ cười thông cảm, nếu anh chị hỏi tôi về quãng đời quá khứ, những kinh nghiệm của tuổi thanh xuân, nếu anh chị hiểu được những dòng nước mắt cô đơn của tôi, nếu anh chị dành cho tôi chút tình yêu thương kính trọng.
Phúc cho anh chị nếu ở lại với tôi thêm giây lát dù trời sắp tối.
Phúc cho anh chị nếu nắm lấy tay tôi khi tôi phải giã từ cõi đời để một mình đi vào bóng đêm, bóng đêm của sự chết.
Phải, phúc cho anh chị, vì khi lên thiên đàng, tôi sẽ thắp cho anh chị những vì sao.
KẾT LUẬN
Chúng ta có hiểu câu thành ngữ tha thiết và trách móc này không:
Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.
Để dễ dàng lấp đầy hố sâu chia cách hai thế hệ, giới trẻ chúng ta phải ghi nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ mà giữ trọn chữ hiếu. Đấy là bài học hữu hiệu để giữ được mãi trong xã hội chúng ta nét đặc thù mà xã hội Âu Mỹ đã đánh mất từ lâu.
Hôm nay chúng ta hãy làm hai việc khẩn thiết trong ngày kính nhớ ông bà tổ tiên
1. Sốt sắng hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các ngài vì Thánh lễ là một phương thế hiệu nghiệm nhất chúng ta có thể kéo ơn Chúa xuống cho ông bà cha mẹ chúng ta khi các ngài còn sống cũng như đã qua đời.
2. Khơi lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với các ngài bằng những việc làm cụ thể nhất là trong những ngày Tết này. Hãy ghi nhớ lại điều răn Chúa đã dạy chúng ta trong kinh Mười điều răn:”Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.
Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng. (Ca dao)
8. Hiếu kính Cha Mẹ
Có một chàng trai sắp thi tốt nghiệp đại học. Trước đó, anh đã nói với cha về ước muốn có chiếc xe thể thao xinh đẹp và mong rằng nó sẽ là quà tặng của cha nhân ngày tốt nghiệp.
Người cha nghe xong im lặng, không có ý kiến gì.
Sau ngày chàng trai tốt nghiệp, người cha đã gọi anh vào phòng, nói rằng ông rất yêu thương và hãnh diện có được đứa con như anh. Sau đó, ông trao cho anh một hộp quà được gói cẩn thận. Ngạc nhiên, chàng trai mở hộp quà và nhìn thấy đó là một quyển sách thể loại “rèn nhân cách” được đóng gáy và bọc bìa da rất đẹp. Chàng trai nhíu mày, “với tất cả tài sản mà cha mình đã có… và món quà tặng cho con tốt nghiệp đại học chỉ là một quyển sách tầm thường này hay sao?”.
Chán nản và buồn phiền với ý nghĩ đó, chàng trai không nói lời nào với cha mình, rời khỏi phòng, để lại quyển sách trên bàn. Sau đó anh bỏ nhà ra đi…
Trong một thời gian dài, chàng trai không liên hệ với cha mình. Cho đến một ngày anh nhận được tin cha mình đã qua đời và để lại toàn bộ tài sản cho anh ta.
Khi anh về đến căn nhà cũ xưa, sự buồn phiền và hối hận tràn ngập trong lòng chàng trai khi anh nhớ đến sự cư xử lạnh nhạt mà anh đã có với cha trước đây. Anh tìm đọc những giấy tờ quan trọng của cha mình và nhìn thấy cuốn sách “rèn nhân cách” vẫn còn nguyên vẹn trên bàn như ngày anh từ bỏ nó. Chàng trai mở cuốn sách ra, lật từng trang và thấy một bao thư được ép chặt trong đó. Anh đã nhẹ nhàng mở bao thư ra, và bỗng dưng nước mắt anh tuôn trào khi nhận ra đó chính là một chìa khóa xe hơi và tờ hóa đơn của chính chiếc xe mà anh ta yêu thích ngày trước. Tờ hóa đơn ghi đúng ngày anh ta tốt nghiệp với dòng chữ đã thanh toán đầy đủ…
Trong cuộc sống của chúng ta, không ai mà không mắc những sai lầm. Có những sai lầm thì sau đó được sửa chữa và trở nên bình thường. Nhưng có những sai lầm sau khi khắc phục rồi, nó vẫn còn để lại “một vết sẹo” mà khó có thể phai mờ được.
Có thể nói, “vết sẹo” mà chúng ta đã gây ra đối với đấng sinh thành, là đáng trách nhất. Vết sẹo đó sẽ mãi mãi ở bên chúng ta, khiến chúng ta luôn bị nhức nhối lương tâm mỗi khi nhớ đến nó. Như trong câu chuyện trên, chàng trai sau khi thức tỉnh, đã vô cùng ân hận, nhưng người cha đã không còn nữa để anh ta làm một cái gì đó, dù chỉ là một lời xin lỗi…
Ngày Tết là dịp để chúng ta về đoàn tụ bên các đấng sinh thành để xin lỗi, để cầu chúc các đấng an khang trường thọ.
Ngày Tết là dịp để con cái nhìn nhận tình thương của cha mẹ là tình thương không thể thiếu cho con bước đi trong cuộc đời.
Dầu rằng, Tình Cha, Tình Mẹ có khác nhau nhưng nhờ Ơn Cha, nhờ Nghĩa Mẹ mà con cái mới đứng vững trước những sóng gió cuộc đời.
Thực vậy, tình cảm của người cha không bao giờ như người mẹ.
Tình thương của cha luôn giấu kín trong lòng, đôi khi còn tỏ ra nghiêm nghị, cứng rằn mỗi khi dạy con. Cha giống như một thân cây vững chắc, bám rễ thật sâu dưới lòng đất để hút nhựa nuôi dưỡng cành lá, hoa, quả.
Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ mềm lòng, cha phải giữ kỷ cương, mẹ chín bỏ làm người, cha phải cầm cân nảy mực. Cuộc sống đòi buộc cha lăn lộn với đời để kiếm tìm miếng cơm manh áo cho gia đình.
Cha thường xuyên phải xa gia đình, xa con cái, nên tình cảm đôi khi cũng lạt hơn mẹ.
Cha còn thẳng tay trừng phạt những đứa con thiếu ý chí vươn lên, lười biếng, vô dụng.
Cha luôn đòi đứa con phải tự bước đi trên đôi chân của mình, cho dù có té ngã, vẫn phải một mình đứng dậy. Đó chính là một tình thương mà chỉ có người cha mới rèn nên cho con tính đoan trang, tính mực thước và nghị lực khi bước vào đời vốn dĩ luôn ngập tràn những khó khăn.
Nhưng đáng tiếc, chỉ khi nào mất cha, người con mới cảm thấy mất núi Thái Sơn, mất đi cái nóc cột trụ gia đình.
Mất cha, người con mới ngậm ngùi nói rằng:
Còn cha, gót đỏ như son
Mất cha, gót mẹ, gót con đen sì.
Hay:
Thương cha lam lũ một đời,
Tìm trong xa vắng những lời xa xưa.
Bồng bềnh gió đẩy mây đưa,
Bơ vơ con đứng, bóng mưa ngập lòng. (Nguyễn Ánh Hồng)
Vâng, đời của những người làm con sẽ trở nên trống vắng lạc lõng vô cùng nếu như một ngày kia cha mẹ vĩnh viễn ra đi, bỏ lại thân xác trong nấm mồ cô đơn lạnh lẽo. Lúc đó, lòng con lại dâng trào một nỗi buồn mênh mông sâu lắng:
Thấy bơ vơ lạc lõng dấy trong lòng
Khi chợt nhớ mẹ già không còn nữa.
Bởi vì:
Mẹ ơi, trên vạn nẻo đường
Con đi, mới hiểu tình thương mẹ hiền.
Đời con xuôi ngược bao miền
Nhưng tình của mẹ là nguồn yêu thương.
Bởi thế, đạo làm con luôn mời gọi chúng ta hãy thờ cha kính mẹ, để mai này, chúng ta khỏi phải xót xa mà nói rằng:
Tình thương xuôi chảy một miền
Nhưng con nào biết giữ niềm kính yêu
Con nay hầu mẹ tuổi chiều
Nuôi cha dưỡng mẹ, ít nhiều kể công.
Và với lòng hiếu kính đang trào dâng trong ngày Mồng Hai Tết, có lẽ ai trong chúng ta cũng thầm mong ước cho cha mẹ mãi mãi ở cùng chúng ta:
“Ngày đêm khấn nguyện cầu Trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”.
Cầu cho cha mẹ sống đời với con, đó là tâm nguyện của tất cả những người con dành cho cha mẹ. Bởi lẽ không có một tình con người nào sâu đậm, gắn bó, chân thành bằng tình cha mẹ yêu con, và càng không có một tình yêu nào trên trái đất này có thể thay thể được tình phụ mẫu yêu con, mà bài cầu cho cha mẹ của Linh mục Nguyễn Duy đã lột tả.
“Này chúng con sinh vào đời nhờ có tay của mẹ cha. Là Thái Sơn cao xa cao xa, là Biển Đông bao la bao la, như một rừng hoa ngát hương cả bốn mùa. Ôi tình mẹ cha nói lên tình Chúa. Đời chúng con yên vui hân hoan, nhờ mẹ cha gian nan lo toan, trong giọt mồ hôi có chung cả máu hồng, luôn dạy lòng con biết câu mặn nồng.
Rồi lớn lên, con vào đời, gặp biết bao nhiêu người thương. Dù có ai hy sinh cho con. Dù được ai cho mâm cơm ngon, đi gần về xa, thấy đâu một mái nhà, như nhà mẹ cha thiết tha từ ấy. Rồi lớn lên, con xây non cao, vượt biển khơi bay lên trăng sao. Khi về nhà xưa với cha và với mẹ, vẫn là trẻ thơ bé như ngày nào”
Vâng, lời ca như muốn mời gọi chúng ta hãy sống trọn tình con thảo ngay từ hôm nay. Hãy sống ngoan hiền bên những người cha mẹ đang còn trẻ để hưởng nếm giây phút ngọt ngào mà ai đó nói rằng: là chùm khế ngọt cho con trèo hái mỗi ngày.
Hãy sống thảo hiếu, quan tâm chăm sóc các đấng sinh thành khi đã còng lưng vì một đời lam lũ cho đoàn con.
Vâng, hãy tạ ơn Chúa đi, hãy sống cho trọn vẹn đạo làm con, trọn nghĩa tình với cha mẹ mình, vì cha mẹ là món quà thiêng liêng và quí giá nhất, tình cha mẹ là cái gì rất cao siêu lành thánh, mà lại thật thân mật gần gũi, được Chúa dành cho chúng ta.
Nguyện xin Chúa chúc lành và trả công cho các bậc sinh thành và ước gì những ngừơi con hôm nay đang vinh dự được chúc mừng tuổi mới của cha mẹ, thì cũng biết sống hiếu thảo để đền đáp ân nghĩa cù lao chín chữ mà cha ông ta đã từng khuyên răn rằng:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.
Amen.
+++++++++
Note: Chín chữ cù lao, tức là chín điều khó nhọc của cha mẹ sanh dưỡng con cái.
Chín chữ cù lao gồm:
1. Sinh: Sanh đẻ.
2. Cúc: Nâng đỡ.
3. Dục: Dạy dỗ.
4. Phủ: Vuốt ve triều mến.
5. Xúc: Cho bú sữa.
6. Trưởng: Nuôi cho khôn lớn.
7. Cố: Trông nom.
8. Phục: Ôm ấp.
9. Phúc: Bảo vệ.
9. Hiếu kính cha mẹ (Lm Giuse Đinh lập Liễm)
Hôm nay Mồng Hai Tết Kỷ Sửu. Hội thánh Việt nam muốn dùng ngày này cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà cha mẹ với mục đích nhắc nhở và khuyến khích con cháu hãy tỏ lòng hiếu kính với ông bà cha mẹ. Nhân ngày đầu năm, chúng ta hãy cùng nhau suy niệm về giới răn thứ bốn của Chúa và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, nhất là trong dịp đầu năm này.
I. LỜI CHÚA DẠY.
1. Điều răn thứ bốn.
Trong mười điều răn, Thiên Chúa đã dành hẳn điều răn thứ bốn nói về lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ, trước các điều răn hướng về con người. Đây không phải là lời khuyên mà là một luật buộc phải thi hành như các điều răn khác.
Vậy hiếu kính cha mẹ là gì? Theo giáo lý Công giáo, hiếu kính cha mẹ là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và đã qua đời (Theo cuốn Giáo lý Tân định). Hôm nay Giáo hội Việt nam muốn chúng ta hãy tỏ lòng hiếu kính đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ trong cuộc sống, nhất là trong dịp Tết nguyên đán này.
2. Sách Huấn ca dạy.
Sách Huấn ca đã đề cập đến lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Theo tác giả# Ben Sira, lòng hiếu thảo đối với cha mẹ đem lại nhiều lợi ích:
– Được đền bù tội lỗi.
– Được con cái cháu chắt thảo hiếu lại.
– Sẽ được Chúa nhận lời.
3. Gương Chúa Giêsu.
Thánh Luca cho chúng ta biết Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta về lòng hiếu thảo đối với thánh Giuse và Đức Maria tại Nazareth, mặc dù chỉ bằng một câu rất vắn tắt:”Rồi Ngài theo cha mẹ trở về Nazareth và vâng lời các Ngài”(Lc 2, 51)
4. Lời khuyên của thánh Phaolô.
Trong thư gửi cho tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô khuyên bảo con cái:”Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”(Ep 6, 1-3).
II. CHỮ HIẾU NGÀY XƯA.
Theo truyền thống Đông phương, chữ Hiếu được đề cao trong đời sống gia đình và ngoài xã hội, vì xã hội này chịu ảnh hưởng sâu xa nền luân lý Khổng Mạnh. Đức Khổng Tử đã dạy môn sinh của mình phải phụng dưỡng cha mẹ, quạt nồng ấp lạnh, tối sớm chăm nom:
Tử viết:”Phụ mẫu tại bất viễn du,
Du tất hữu phương”.
Đức Khổng Tử nói: cha mẹ còn sống không nên đi chơi xa, và đi đâu thì phải cho biết có nơi có chốn.
Ngài còn đặt ra nhiều phong tục rất tỉ mỉ và phiền toái để tỏ lòng hiếu với cha me như việc ma chay, tang chế, kiêng kỵ… Ngày nay nhiều điều không còn phù hợp nữa.
Theo tục lệ ngày Tết, con cháu dù ở nơi xa xôi cũng phải về họp mặt cùng ông bà cha mẹ vì ngày này được coi là linh thiêng. Ai vắng mặt không có lý do chính đáng bị coi như là bất hiếu.
III. CHỮ HIẾU NGÀY NAY.
Xưa nay, chữ Hiếu rất quan trọng đối với người Việt nam. Theo học thuyết Khổng Mạnh, chữ Hiếu là nhân đức làm đầu của đạo con cái. Và trong các tội phạm đến cha mẹ thì bất hiếu là tội lớn nhất. Người Việt nam đã tôn phong chữ Hiếu lên thật cao, thành một đạo khi người ta nói:
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho trọn chữ Hiếu mới là ĐẠO CON.
Hai từ ngữ THỜ và KÍNH là hai từ dùng trong những việc làm của tôn giáo. Thờ kính cha mẹ là có hiếu với cha mẹ, và người ta nâng chữ Hiếu lên thành ĐẠO, đạo làm con. Do đó, chúng ta phải ý thức rằng thảo kính cha mẹ không còn là những tình cảm chủ quan tùy tiện, cũng không phải chỉ là lẽ công bằng mà là một ĐẠO. Mà lỗi đạo là phạm tội chứ không phải chỉ là một sự sơ sót.
Theo điều răn thứ bốn thì con cái phải thảo hiếu cha mẹ, nhưng ngày nay người ta coi thường điều răn này, có người cho là lỗi thời trong thời đại tiến bộ, văn minh và dân chủ này. Con cái đến tuổi khôn là đã muốn sống độc lập đối với cha mẹ, không cần sự hướng dẫn bảo ban của các ngài. Người ta quên rằng:
“Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già” (Tục ngữ)
Cha mẹ có tuổi thì già yếu thật, nhưng kinh nghiệm và khôn ngoan thì nhiều hơn tuổi trẻ. Vì thế người ta mới nói:
“Người 70 còn phải học người 71″(Tục ngữ)
Ngày nay, cha mẹ già trở nên gánh nặng cho con cái, không muốn nuôi dưỡng cha mẹ trong tuổi già. Để bớt gánh nặng, con cái chỉ việc gửi cha mẹ đến viện dưỡng lão, nếu tốt thì ít lâu gửi cho một số tiền, hay một món quà. Do đó, cha mẹ phải sống cô đơn. Thực ra cha mẹ cần tình thương hơn là tiền bạc, sự viếng thăm cần hơn của cải.
Công ơn cha mẹ như trời như bể,
Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày.
Truyện: Tờ hóa đơn.
Có một bà mẹ nọ, vì muốn khuyến khích đứa con nhỏ của mình chăm lo việc nhà, nhất là những công việc nhỏ nhặt, nên hầu như lúc nào bà cũng thưởng cho nó một món tiền nhiều ít tùy theo công việc nặng nhẹ.
Lần kia, suốt cả một tuần, bà mẹ đau liệt giường. Thế là em nhỏ phải giúp mẹ trong nhiều công việc, nhưng không thấy mẹ tính thù lao. Cuối tuần, em nhỏ viết một cái hóa đơn ghi những công tác chưa được nhận tiền thưởng gồm: xách nước 2 đồng, nấu cơm 3 đồng, giặt quần áo 5 đồng… Tất cả các thứ tính chung trong một tuần lễ là 80 đồng. Xong, em rón rén bước vào phòng, dúi tờ hóa đơn vào tay bà mẹ.
Ba phút sau, bà mẹ đưa cho em bé 80 đồng kèm theo một tờ hóa đơn khác, trong đó ghi: công sinh, công nuôi dưỡng, công dạy dỗ, công học hành, công thầy thuốc mỗi khi đau bệnh… x 10 năm: chưa có mục nào được thanh toán cả. !
Cầm tờ hóa đơn trong tay, em nhỏ chợt hiểu, vội chạy vào xin lỗi mẹ.
Lại còn cách xưng hô với cha mẹ!
“Cha mẹ” hai từ ấy linh thiêng và cao quí dường nào. Thế nhưng nhiều người trong chúng ta cố ý hay vô tình quên đi ý nghĩa cao quí đó. Không ít bạn đã gọi các bậc sinh thành của mình bằng từ “ông già, bà già, ổng, bả”… thậm chí còn có bạn gọi là “ông bô, bà bô”.
Phần lớn những ngôn từ này thường phát ra từ miệng của phái nam. Tuy nhiên ở nữ cũng không kém. Chúng ta hãy nghe một bạn nữ nói:”Ông già mình chịu khó lắm. Suốt đời chỉ lo cho mình ăn học không à”! Nghe xong, thấy có điều chẳng xuôi. Có cái gì đó mâu thuẫn giữa lời nói và tấm lòng của người con ấy.
Thật tội nghiệp! Nếu cha mẹ còn trẻ măng đã bị “lão hóa” bởi chính cái miệng của đứa con mình rứt ruột sinh ra.
IV. QUYẾT TÂM CỦA CHÚNG TA.
Truyền thống của cha ông chúng ta rất coi trọng chữ hiếu. Để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ ngày xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ, anh chị em theo tinh thần “Hiếu đễ”. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu. (Ca dao)
Mặt khác, đối với người Kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại bản thập giới, chúng ta thấy ngay sau ba giới răn nói về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “Thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau. Điều đó cho thấy, việc hiếu thảo với cha mẹ là bổn phận hàng đầu của mỗi người Kitô hữu.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đã lặp lại giới răn này và khẳng định đó chính là ý muốn từ ban đầu của Thiên Chúa và con người không có quyền thay đổi, Ngài nói:”Thiên Chúa dạy:”Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử”.
Truyện: Ý kiến của tù trưởng.
Trong quyển tiểu thuyết nhan đề “Cội rễ”, tác giả E. Heili viết như sau:
Ở một bô lạc bên Phi châu, người thanh niên khi đến tuổi trưởng thành sẽ được gọi là “chiến sĩ”. Tuy nhiên, muốn được mang danh hiệu này, anh phải trải qua một cuộc sát hạch, thường là thả vào rừng sâu một thời gian.
Năm ấy, có ba thanh niên đến tuổi trưởng thành và rất muốn được gọi là “chiến sĩ”. Ba chàng đã đến trình diện vị tù trưởng. Vị tù trưởng chúc mừng và hỏi người thứ nhất:”Trong một tháng qua, anh đã làm được những gì”? Người thanh niên thưa:”Tôi đã giết được một con hổ dữ”.
Tù trưởng khen “tốt” rồi bảo anh đứng sang một bên và hỏi người thứ hai:”Trong tháng qua, anh đã làm được những gì? Anh có giết được con hổ dữ nào không”? Người thanh niên đáp:”Thưa ngài, hổ dữ thì tôi không giết được, nhưng tôi cũng đã chém được một con trăn to”.
Tù trưởng khen “tốt”, bảo anh đứng sang một bên và hỏi người thứ ba:”Một tháng qua, anh đã làm được những gì? Anh có chém được một con hổ dữ hay một con trăn nào không”? Người thanh niên đáp:”Thưa ngài, hổ hay trăn thì tôi không chém được”. Tù trưởng hỏi tiếp:”Thế anh làm được gì”? Anh đáp:”Thưa tôi kiếm được một tảng mật ong to”. Tù trưởng hỏi:”Ngươi kiếm mật ong để làm gì”? Người thanh niên đáp:”Thưa ngài, tôi có mẹ già, mà nhà tôi lại nghèo, nên tôi kiếm mật ong để cho mẹ tôi bồi dưỡng”.
Nghe xong, vị tù trưởng rút con dao ra trao cho anh và nói:”Ta phong anh làm chiến sĩ, bởi là người thì phải biết sống hiếu thảo với cha mẹ”.
Hôm nay Giáo hội Việt nam kính nhớ ông bà tổ tiên nhân dịp đầu năm. Kính nhớ các tiền nhân chính là thể hiện tinh thần đạo hiếu của dân tộc Việt nam “Uống nước nhớ nguồn”, “Aên quả nhớ kẻ trồng cây”. Các ngài đã tận tụy nuôi dưỡng, giáo dục chúng ta nên người, đặc biệt là giúp chúng ta biết Chúa là Đấng đáng tôn thờ và yêu mến. Công ơn của tổ tiên ông bà cha mẹ đòi hỏi chúng ta phải báo hiếu bằng cách cầu nguyện cho các ngài trong ngày đầu Xu6n này, đồng thời tiếp tục những gì các ngài đã làm: hãy tận tâm săn sóc dạy dỗ con cháu chúng ta nên người
Để khích lệ chúng ta tỏ lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ, thiết tưởng chúng ta nên nhắc lại một câu rất hay trong sách Huấn ca:”Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu”.
10. Xuân Đẹp Ngời Đạo Hiếu (Mt 15, 1-6) (J. B. Nguyễn Quốc Tuấn)
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm luôn thơm phức hương thảo hiếu của chúng ta khi chu toàn bổn phận của người con, người cháu với ông bà, cha mẹ.
“Biển cả mênh mông đong sao đầy tình mẹ
Gió trời lồng lộng ngăn không nổi công cha” (Danh ngôn đạo đức)
Đạo hiếu, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Nó được thể hiện rõ nét trong mỗi dịp Tết cổ truyền. Những ngày vui tươi đầu xuân cũng là thời điểm thuận tiện để con cháu bày tỏ lòng biết ơn, hiếu kính đối với các đấng bậc đã có công sinh thành dưỡng dục mình cả về thể lý và tâm linh. Người Kitô hữu ý thức Đạo hiếu mang một chiều kích sâu xa hơn trong mối tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại và giữa con người với nhau. Do đó, khi chúng ta sống trọn chữ Hiếu cũng đồng thời ta đáp trả lời mời gọi của Tin Mừng trong thái độ yêu mến và tôn phục Thiên Chúa.
1. Đạo hiếu theo Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội
Tiếp sau bổn phận của con người đối với Thiên Chúa được nêu lên trong Thập giới (mười điều răn), Kinh Thánh đã coi thái độ hiếu thảo với cha mẹ là nền tảng thứ nhất và quan trọng nhất trong những tương quan giữa con người với con người (Is 49, 15; 63, 16…).
“Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).
Đạo hiếu đối với bề trên được khởi đi từ việc thấu hiểu và đáp trả xứng hợp công ơn của các ngài là những cánh tay nối dài của Thiên Chúa ở dưới thế, đã hy sinh, nâng đỡ ta trên đường trọn lành. “Hãy hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ cha mẹ, con mới sinh ra. Làm sao con báo đền được điều cha mẹ cho con” (Hc 7, 27-28). “Hỡi những người con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa” (Cl 3, 20).
Biểu lộ của lòng hiếu thảo thể hiện qua sự chú tâm lắng nghe lời chỉ bảo của cha mẹ trong sự vâng phục, khiêm kính. “Hỡi con, hãy giữ lấy lời huấn hụ của cha, và đừng ruồng rẫy giáo huấn của mẹ… Chúng sẽ hướng dẫn con khi con đi, canh giữ con khi con nằm, và khi con thức dậy, chúng chuyện trò với con” (Cn 6, 20-22). “Con ngoan mến chuộng lời cha quở mắng, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời khiển trách” (Cn 13, 1).
Lòng hiếu thảo là một hành vi nhân linh đặc biệt quan trọng có giá trị kiện toàn bản thân ta nên công chính thánh thiện hơn mỗi ngày. “…Vì của dâng cho cha sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi…” (Hc 3, 14-15).
Tân ước đề cao Đạo hiếu qua mẫu gương của Chúa Giêsu. Ngài đã chu toàn trọn hảo bổn phận làm con với cha mẹ trong suốt ba mươi năm sống cùng Thánh Gia (Lc 2, 51-52). Trong thời gian thi hành sứ vụ, lòng hiếu thảo được Ngài đề cập như một trong những chuẩn mực nền tảng của luật Thiên Chúa. “Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải xử tử”.
Thư 1Tm 5, 8 xác quyết bổn phận sống đạo hiếu là đòi buộc của đức tin: “Ai không biết lo lắng đến người thân và nhất là gia quyến mình, thì nó đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn là người không tin” (1Tm 5, 8).
Công đồng Vatican II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (MV, số 48).
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nêu lên vai trò của cha mẹ và bổn phận đáp trả của chúng ta: “Thiên Chúa muốn rằng sau Ngài, chúng ta phải tôn kính cha mẹ vì đã sinh thành và dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa” (GLHTCG, số 2197).
2. Niềm vui chưa trọn vẹn
Trong ngày đầu xuân, thật hạnh phúc khi chúng ta được đoàn tụ trong bầu khí yêu thương của gia tộc để bày tỏ đạo hiếu với tổ tiên. Nhưng niềm vui của chúng ta chưa thể trọn vẹn được, khi vẫn còn đó bao cụ già neo đơn, bao bậc làm cha, làm mẹ phải đau xót khốn cùng vì bị con cái hắt hủi, bỏ rơi giữa ngày đời tàn hơi, xế bóng…
Chúng ta vui sao được trước thực trạng xã hội, trong đó, một bộ phận đông đảo những người trẻ đang chạy theo lối sống tự do mất định hướng, cố tình ngoảnh mặt trước các chuẩn mực truyền thống và quan niệm sự vâng phục các đấng bậc sinh thành như một thứ bó buộc tiêu cực đối với họ.
Nếp sống đề cao tính cố kết gia tộc trong bản sắc văn hóa của các làng xã Việt Nam dường như đang bị phai nhạt dần. Các cặp vợ chồng trẻ mới thành hôn có xu hướng thích “ra riêng” (gia đình độc lập) hầu có thể thoát ra ngoài “chiếc vòng kim cô” của đại gia đình nhiều thế hệ. Điều này đang có nguy cơ dẫn tới việc các thế hệ sau ngày càng có biểu hiện xem nhẹ vai trò của những người đi trước. Và hậu quả là, họ cố tình “bỏ ngoài tai” những giáo huấn vốn được kết tinh từ kinh nghiệm sống của ông bà, cha mẹ, thầy cô.
Ngày Tết là thời điểm thật thuận tiện để những người con, người cháu cháu chúng ta tự vấn lại bổn phận và thái độ sống cần thiết đối với các bậc tiền nhân. Năm cũ qua đi, có biết bao lần ta đã làm phiền lòng những người đã phải vật lộn một nắng hai sương, lam lũ giữa dòng đời cay đắy với bao nhiêu mồ hôi nước mắt chỉ vì mong muốn, dìu dắt ta nên người. Biết bao lần ta đã vi phạm trầm trọng chuẩn mực đạo hiếu chỉ vì muốn được tự do sống theo ý riêng mình…
Năm mới, ta hãy sống sao cho đẹp Chữ Hiếu.
3. Sống đẹp Chữ Hiếu
Nhiều giáo xứ đang phát huy truyền thống tốt đẹp, đó là tổ chức long trọng thánh lễ kính nhớ tổ tiên tại nghĩa trang giáo xứ vào ngày Mồng Hai Tết. Trong ngày này, con cháu, dâu rể… dù ở phương xa phải bận bịu trăm công nghìn việc, vẫn cố gắng sắp xếp quy tụ về bên phần mộ gia tộc, cùng nhau thắp lên nén hương lòng kính hiếu và chung lời nguyện xin cho người quá cố được sớm an nghỉ trong Chúa. Thật là nghĩa cử đẹp đẽ, nói lên Đức ái Kitô giáo được biểu lộ qua đạo hiếu.
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm sẽ cháy mãi và bừng lên nơi tâm hồn của những người con hiền, cháu thảo như một lời tri ân đáp trả nồng nhiệt công ơn của các đấng bậc đã sinh thành, dưỡng dục ta.
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm cho tổ tiên sẽ lan tỏa trong đời bạn, đời tôi để chúng ta luôn sống xứng với truyền thống Đức tin rạng ngời của tiền nhân.
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm luôn thơm phức hương thảo hiếu của chúng ta khi chu toàn bổn phận của người con, người cháu với ông bà, cha mẹ.
Ước mong nén hương lòng đầu năm trước người quá cố đang và sẽ thức tỉnh những ai có biểu hiện xem thường chuẩn mực đạo hiếu.
Và nguyện ước cho nén hương lòng đầu năm trước tổ tiên là tất cả tâm thành của ta hướng về Chúa, cảm tạ Ngài đã ban cho ta có được tổ tiên ông bà cha mẹ. Nhờ sống trọn, sống đẹp Đạo Hiếu, chúng ta góp phần tôn vinh Thiên Chúa, tôn vinh Đạo Trời.
11. Thảo kính cha mẹ (Mt 15, 1-6) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Mỗi năm vào ngày mồng hai tết, Giáo Hội luôn dành một ngày để con cái cháu chắt có dịp báo hiếu tưởng nhớ tới ông bà tổ tiên. Đây là hình thức rất có ý nghĩa, Giáo Hội giúp mỗi người còn được diễm phúc sống dưới trần gian này hiểu được thế nào là công lao của ông bà tổ tiên. Có tổ tiên, có ông bà mới có cha mẹ rồi mới có chúng ta: đây là một điều hiển nhiên ai cũng phải hiểu và cảm nghiệm một cách sâu sắc công ơn trời biển của tổ tiên ông bà, của cha mẹ vv…” Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra “, ca dao Việt Nam quả có lý khi đề cập tới nghĩa vụ của con cái đối với mẹ cha. Do đó, hôm nay, mọi người dâng thánh lễ này cầu nguyện cho các bậc sinh thành rất hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam chúng ta, đồng thời cũng rất thực tế với dạy của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu.
CUỘC TRANH LUẬN GIỮA CÁC NGƯỜI PHARISÊU, CÁC KINH SƯ VÀ CHÚA GIÊSU: Trong đoạn Tin Mừng thánh Matthêu xoay quanh cuộc tranh luận của Đức Giêsu với các người Pharisêu, các Kinh sư về bổn phận của con cái đối với cha mẹ. Đối với các người Pharisêu, các kinh sư họ cho rằng theo lời của tiền nhân thì tất cả những gì họ làm cho cha mẹ đều là tế phẩm dâng lên Thiên Chúa, do đó, họ làm như thế là vừa đủ rồi, không cần phải thờ cha kính mẹ nữa. Người Pharisêu và Kinh sư giới hạn bổn phận con cái dựa trên hoàn toàn vật chất, một nghĩa vụ vật chất được họ gán cho nghĩa vụ đạo đức. Đối với Đức Giêsu, Ngài nhắc nhở cho các Pharisêu, các Kinh sư và mọi thế hệ, mọi người chúng ta rằng:” Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử “. Ngay trong điều răn thứ bổn của thập giới cũng viết:” Thảo kính cha mẹ “. Như thế rõ ràng Thiên Chúa dạy con người phải thảo hiếu với mẹ cha không chỉ dừng ở của cải vật chất nhưng phải hiếu thảo bằng cả tấm lòng yêu thương, tôn kính, mến yêu đến nỗi ai nguyền rủa cha mẹ tức là đụng đến nhân phẩm, đụng đến quyền làm người của cha mẹ, thì phải bị xử tử. Chính vì thế, lập trường của Chúa Giêsu hoàn toàn khác với người Pharisêu và các Kinh sư. Chúa Giêsu mở ra một giá trị mới, một đạo hoàn toàn dựa trên tình thương.
VẤN ĐỀ HIẾU THẢO BỊ LUNG LAY: Nếu lược qua các nơi, các nước chúng ta như nhận ra được cái yếu của nhiều gia đình. Bởi vì đời sống của nhiều gia đình hiện nay đang vấp phải khủng hoảng về đức tin, về đạo lý, Nhiều con cái chỉ dừng trên nghĩa vụ, bổn phận lo lắng cho cha mẹ của cải vật chất, mà quên đi cha mẹ còn phải được kính trọng và yêu mến. Vật chất chỉ là giá trị bề ngoài nhưng chính giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mới quan trọng cho đời sống cha mẹ. Ngày nay có nhiều gia đình con cái đối với cha mẹ không ra làm sao cả. Nên, giá trị đạo đức bị đảo lộn, con cái coi vật chất là trên hết, có nhiều đứa con đặt tiền tài trên nghĩa vụ làm con. Ở nhiều nước văn minh có nhiều gia đình con cái sẵn sàng gửi cha mẹ vào các nhà dưỡng lão đầy đủ tiện nghi nhưng lại thiếu thái độ”thờ cha kính mẹ ” theo ý của Thiên Chúa là ” Hãy thảo kính cha mẹ “. Các Giám mục Việt Nam trong năm 2007 và 2008 đã ra hai thư mục vụ nói về gia đình. Điều này nói lên sự quan trọng của nền tảng gia đình. Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2008 viết về gia đình Nagiarét:” Các Ngài là những bậc cha mẹ gương mẫu, luôn biết đón nhận thánh ý Chúa và đem ra thực hành. Trong gia đình Nagiarét mọi thành viên đều tôn trọng nhau, mong muốn cho nhau điều tốt và cùng nhau thực hiện ý của Cha trên trời. Thánh Giuse và Đức Maria là những nhà giáo dục tài giỏi đã chu toàn sứ mạng được trao phó trong sự khôn ngoan và trung tín. Xin các Ngài chuyển cầu và luôn phù trợ cho các gia đình chúng ta”. Gia đình thánh gia là gia đình gương mẫu cho mọi gia đình bởi vì Chúa luôn hiếu thảo đối với thánh Giuse và mẹ Maria.
ÁP DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG: Cha mẹ là người sinh ra chúng ta, chúng ta phải hết lòng tôn kính, yêu thương cha mẹ. Ai cũng có cha có mẹ. Cha mẹ sinh ra chúng ta, cha mẹ nuôi dưỡng chúng ta, chúng ta phải hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Chúa nói: ” Hãy thảo kính cha mẹ “. Bổn phận của con cái là nuôi dưỡng, thăm hỏi khi cha mẹ còn sống, lúc qua đời phải xin lễ, cầu nguyện cho cha mẹ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng Chúa cũng có một gia đình, có cha có mẹ, Chúa đã hiếu thảo với cha mẹ, xin cho chúng con luôn biết báo đáp mẹ cha. Amen.
12. Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ (Mt 15, 1-6) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giáo Hội Việt Nam luôn dành ngày mồng hai tết mỗi năm để cầu nguyện cho tổ tiên và ông bà cha mẹ đúng như đoạn Sách Cách ngôn 6, 29-23abc viết trong ca nhập lễ:
” Con ơi giữ lấy lời cha,
Chớ quên lời mẹ nhớ mà ghi tâm.
Đèn soi trong chốn tối tăm,
Ấy là chính những lời răn, lệnh truyền.
Nhớ cầu cho bậc tổ tiên,
Khắc ghi công đức một niềm tri ân“.
Vâng, Giáo Hội là người Mẹ luôn âu yếm, nâng niu đoàn con và dạy dỗ con cái hãy sống điều răn Chúa phán truyền:” Hãy thảo kính cha mẹ ” (Điều răn thứ 4 của Thập Giới Đạo Công Giáo).
Từ ngàn xưa nhân loại luôn ghi nhớ công ơn tổ tiên, ông bà cha mẹ. Bởi vì, nước có nguồn, sông có cội, con người phải có tổ tông. Tổ tiên sinh ra ông bà nội ngoại và rồi nội ngoại sinh ra con cái, sinh ra chúng ta. Công ơn tổ tiên, công ơn ông bà, ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ luôn luôn phải được đền đáp cho cân xứng. Chỉ cần đọc lại kinh tiền tụng lễ mồng hai tết, chúng ta sẽ thấy Giáo Hội chủ tâm tới những Đấng Bậc sinh thành, dưỡng dục như thế nào:” Quả thực, khi ngẫm xem muôn loài trong vũ trụ, tự nhiên chúng con thấy vạn sự đều có cội rễ căn nguyên: chim có tổ…. Nhưng phải nhờ ơn Cha mạc khải, chúng con mới nhận biết Cha là nguyên lý sáng tạo muôn loài, là Cha chung của tất cả chúng con. Cha đã ban sự sống cho tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con, để các ngài truyền lại cho con cháu. Cha cũng đã ban cho các ngài ơn huệ dư đầy, để chúng con được thừa hưởng mà nhận biết, tôn thờ và phụng sự Chúa “. Do đó, con người phải có hiếu đễ, lúc cha mẹ còn sống phải thăm nom, chăm sóc, khi cha mẹ khuất bóng, phải cầu nguyện, lo ngày giỗ ngày chạp vv…Đó là ơn nghĩa con cái phải đáp trả báo đền. Thánh vịnh 111, 1-2 viết rất rõ:” Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban. TRên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường, dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc “. Thánh Phaolô khuyên nhủ giáo đoàn Êphêxô:” Kẻ làm con, hãy vânbg lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này “. Thánh Matthêu còn nhấn mạnh hơn:” Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải xử tử “.
Vâng, đạo hiếu vẫn là đạo mà mọi nước, mọi dân tộc trên thế giới này đều khuyên nhủ con người thực hiện. Còn sống phụng dưỡng cha mẹ, không được làm phật lòng cha mẹ để cho cha mẹ buồn. Khi qua đời phải hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…”. Bởi vì như Sách Khải Huyền viết: ”Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả. Giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi“.
Những ngày đầu năm mới trong khi mọi người ăn uống, sum vầy, Giáo Hội luôn khuyên dạy chúng ta hãy nhớ tới công ơn của tổ tiên, ông bà và cha mẹ. Chính là các bậc tiên tổ, bậc cha ông mà chúng ta mới có ngày hôm nay…
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,
Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.
Hôm nay nhân dịp đầu năm mới … Nhâm Thìn
Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Amen (lời nguyện nhập lễ, lễ mồng hai tết).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tại sao ngày mồng hai tết, Giáo Hội lại dành để cầu cho tổ tiên, ông bà và cha mẹ?
2. Tổ tiên là ai?
3. Ông bà là ai?
4. Tại sao chúng ta lại phải trả ơn cho tổ tiên, ông bà và cha mẹ?
13. Kính nhớ tổ tiên (Lc 1, 67-75) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Truyền thống Dân tộc Việt Nam chúng ta luôn đề cao chữ hiếu. Bởi vì, dù có đi đạo hay không, người Việt Nam từ ngàn xưa đã biết thờ Cha kính Mẹ. Như thế, quả rất thích hợp với điều răn thứ tư trong mười điều răn của Thiên Chúa. Ngày mồng hai tết bao giờ, Giáo Hội cũng dành riêng để kính nhớ ông bà cha mẹ, tổ tiên. Đây là nét son của Giáo Hội.
Vâng, ngay từ khi khởi đầu công cuộc truyền giáo ở đất nước chúng ta, Cha Alexandre de Rhodes đã luôn quan tâm và dạy dỗ con người hãy trung thành, hiếu thảo với Thiên Chúa, với Vua và với Cha mẹ. Đây là giáo lý nói về tam phụ. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, dựng nên con người. Nên, con người phải biết ơn Thiên Chúa, trung thành với Ngài. Cha mẹ thừa lệnh Thiên Chúa sinh ra chúng ta, do đó, chúng ta phải hiếu thảo và trung thành với Cha mẹ. Con người có đất nước, có tổ quốc. Đứng đầu nước là Vua, nên con người phải trung với Vua vv…Đây là đạo lý của con người. Tuy nhiên, lúc đó vì chưa hiểu rõ các địa phương, các đất nước. Giáo Hội đã có những thông tư nghịch lại với nghi lễ Trung Hoa. Nên, một thời gian dài đã có những hiểu lầm và nghi kỵ đối với đạo Công giáo.
Ngày nay, với Công Đồng Vatỉcanô II, Giáo Hội đã có cái nhìn phù hợp với hoàn cảnh, truyền thống của các đất nước, các địa phương. Nên, mọi Kitô hữu đều cảm thấy thoải mái hơn với việc tôn kính tổ tiên vv…Giới răn bốn trong thập giới đã viết:” Hãy tháo kính Cha mẹ “. Điều này rất phù hợp với các đoạn Sách Thánh như Cn 6, 20, 23abc:” Con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm. Đèn soi trong chốn tối tăm, ấy là chính những lời răn, lệnh truyền. Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân “. Hoặc Sách Khải Huyền 14, 13 viết:” Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi, vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi “.
Người công giáo Việt Nam bao giờ cũng có lòng biết ơn và kính nhớ ông bà tổ tiên cha mẹ. Hầu như nhà nào cũng có bàn thờ ông bà tổ tiên với những hoa nến, nhang hương tỏa hương thơm ngát, nghi ngút khói bay…Thật đúng như lời Sách Đức Huấn Ca viết:” Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên, mả đẹp, và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài, và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen “. Thánh Augustinô cũng viết một đoạn đáng ghi nhớ:” Các ngài thấy, các thế hệ loài người trên mặt đất cũng giống như những chiếc lá trên cành cây, luôn luôn xanh tươi. Trái đất này cũng mang những con người, như cây mang những chiếc lá. Trái đất đầy dẫy những con người kế tiếp nhau, người này chào đời, trong khi người kia vẫy tay giã biệt. Cây không bao giờ cởi bỏ bộ áo màu xanh của mình, nhưng hãy nhìn xuống gốc cây: các ngài đang đạp trên một tấm thảm dầy những chiếc lá khô mục “. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô đã khuyên nhủ:” Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ…”.
Thảo kính cha mẹ, tôn kính tổ tiên là truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam. Cài bông hồng đỏ trên áo để chứng tỏ cha mẹ còn sống. Đó là cách biểu lộ tình thương đối với cha mẹ, do đó, phụng dưỡng cha mẹ, an ủi cha mẹ là tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Cài bông hồng trắng trên áo để tưởng nhớ cha mẹ đã khuất. Con người nhớ để cầu nguyện, dâng lời kinh, tạ lễ cầu cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã mất là cách tỏ lòng tôn kính, thảo hiếu đối với các bậc sinh thành…
Xin Chúa cho chúng con luôn biết hiếu thảo với ông bà tổ tiên cha mẹ và quyết tâm nối tiếp sự nghiệp của các ngài, để luôn luôn làm rạng rỡ dòng họ và làm rực sáng gia phong.
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,
Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.
Hôm nay nhân dịp đầu năm mới,
Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Xin Chúa trả công bội hậu
Cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con,
Và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. (Lời nguyện nhập lễ, lễ Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tại sao lại phải hiếu thảo đối với Ông bà cha mẹ và tổ tiên?
2. Chúa dạy sao về hiếu thảo?
3. Cài bông hồng đỏ trên áo có nghĩa gì?
4. Cài bông hồng trắng trên áo có ý nghĩa gì?
14. Thảo kính mẹ cha (Mt 15, 1-6) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Hôm nay Hội Thánh dành riêng ngày mồng hai tết để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Giáo Hội quả thực là người Mẹ rất khôn ngoan dậy con cái đủ điều. Thảo kính cha mẹ và các bậc tổ tiên là việc làm vừa phù hợp với tập tục, truyền thống hiếu thảo của dân tộc Việt Nam, vừa phù hợp với điều răn thứ tư trong thập giới của Chúa, đồng thời thực hiện lời Chúa trong đoạn Tin Mừng Mt 15, 1-6 hôm nay.
CUỘC TRANH LUẬN CỦA PHARISIÊU VỚI CHÚA GIÊSU: Đọc Tin Mừng hôm nay chúng ta nửa khóc nửa cười với các ông Pharisiêu và kinh sư bề ngoài xem ra đạo mạo, đạo đức nhưng bên trong lại toàn dao găm. Họ sống cái vỏ bên ngoài chứ thực ra họ chẳng sống cái lõi của Tin Mừng là bác ái yêu thương. Cuộc tranh luận của nhóm Pharisiêu và các kinh sư xoay quanh vấn đề rửa tay trước bữa ăn để rồi họ muốn tránh điều căn bản nhất là thảo kính cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Kinh sư và Pharisiêu giới hạn việc làm con trong bổn phận thuần túy thế tục, vật chất, một nghĩa vụ vật chất được họ gán cho ý nghĩa tôn giáo, ý nghĩa đạo đức. Đức Giêsu nhắc lại, nói lại với Pharisiêu, với kinh sư và với con người muôn thời:” Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15, 4). Rõ ràng, đối với Chúa Giêsu, nghĩa vụ đối với cha mẹ không chỉ dừng lại ở vật chất, nhưng còn đi tới cả nghĩa vụ tinh thần, thái độ đối với cha mẹ, đến nỗi ai nguyền rủa cha mẹ sẽ bị xử tử.
CUỘC SỐNG HÔM NAY VÀ MUÔN THỜI ĐỐI VỚI LỜI DẬY CỦA CHÚA GIÊSU: Ông bà cha mẹ, tổ tiên là những người có công sinh ra, dưỡng dục và xây dựng cuộc đời cho chúng ta. Các Ngài tận tụy dậy dỗ chúng ta sống đời sống làm người, đặc biệt nhờ các Ngài mà chúng ta được biết Chúa và yêu mến Ngài. Công lao của các bậc tiền nhân, ông bà, cha mẹ thật bao la trời biển. Ca dao Việt Nam đã viết:” Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Chữ hiếu đối với chúng ta rất có giá trị hợp với đạo lý làm người. Hiếu là yêu thương. Chúa là tình yêu. Do đó, đạo công giáo chúng ta là đạo yêu thương. Chính vì thế, mà tục ngữ ca dao đã viết rất dí dỏm, nửa khóc, nửa mếu vì nếu khi cha mẹ ông bà còn sống mà chẳng cho ăn, chẳng chăm sóc: vật chất cũng như tinh thần sẽ mang cái tội tầy trời:” Khi sống mà chẳng cho ăn, đến khi thác xuống làm ma tế ruồi “. Cuộc sống của chúng ta hôm nay và mãi mãi đang vấn nạn chúng ta hay đang hạch xét chúng ta về chữ hiếu, về nền tảng của gia dình. Các giá trị của đời sống gia đình hình như bị lung lay khá nhiều, nếu nói được là đang bị giao động đến tận gốc rễ, đến tận cuộc sống của nhiều người, của nhiều gia đình. Ngày nay, có nhiều người định mức cuộc sống bằng việc làm ra vật chất, làm ra của cải. Người ta định mức số tiền, của cải làm ra được bao nhiêu. Người trẻ không thích cha mẹ sống lâu, người già sống thọ. Muốn tiến thân người trẻ phải loại trừ người già vv…Nhiều nước trên thế giới, con cái đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão cho xong, vì viện dưỡng lão nhiều tiện nghi vật chất, nhưng lại thiếu thái độ cần thiết nhất là ‘ thờ cha, kính mẹ “. Chính vì thế, con người ngày nay cũng na ná như Pharisiêu và kinh sư tưởng rằng mình biện minh được cho thái độ bất hiếu của mình cũng như nhóm Pharisiêu và kinh sư xưa đã nhân danh lời của tiền nhân để lại. Lời của Đức Giêsu nhắc lại trong đoạn Tin Mừng Mt 15, 1-6 không cho phép ai được biện hộ cho thái độ bất kính, bất hiếu đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên, ngay cả khi họ nại ra lý do tôn giáo nữa.
Ngày đầu xuân Giáo Hội nhắc lại cho mỗi người, mọi người sự đáp trả, báo ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên là việc làm rất ư cần thiết. Ngày đầu xuân mới, chúng ta nhớ đến các Ngài. Chúng ta xin lễ, cầu nguyện cho các Ngài, xin Chúa là Đấng từ bi thương xót xóa hết lỗi lầm các Ngài đã trót phạm và mau đưa các Ngài về hưởng nhan thánh Chúa mãi mãi, muôn đời.
Lạy Chúa, xin thương ban thiên đàng cho tất cả những người đã nuôi nấng, lo lắng và giáo dục chúng con. Amen.
15. Từ đạo Hiếu đến đạo Chúa (Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Ngày Tết Việt nam luôn có một ý nghĩa gia đình rất sâu đậm. Dù đi đâu xa người ta vẫn cố gắng về quê ăn Tết. Ngày xuân gia đình đoàn tụ, con cái chúc tuổi cha mẹ, học trò chúc tuổi thầy cô, kẻ dưới chúc tuổi người trên, bà con bạn bè thăm viếng nhau. Ngày Tết mọi người được liên kết trong niềm vui yêu thương chia sẻ. Ngày Tết còn liên kết người sống với người chết, hiệp thông con cháu với tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời. Nhiều người có thói quen đi tảo mộ những ngày trước Tết. Người ta tin rằng dịp đầu năm ông bà tổ tiên về sum họp với con cháu. Niềm tin đó có tác dụng tích cực giúp người sống luôn nhớ tới cội nguồn, sống hiếu thảo, ăn ở xứng đáng với dòng tộc của mình.
Người Việt nam rất trọng lễ giáo, coi trọng sự bền vững gia đình với những tôn ti trật tự, với cung cách ứng xử theo mỗi bậc người. Theo đó người Việt nam có nét đặc trưng trong cách thức chào hỏi, xưng hô giao tiếp mà những ngôn ngữ của các dân tộc khác dù văn minh cũng không có được. Linh mục F. Buzomi, dòng Tên, nhà truyền giáo đã đặt chân lên đất Việt nam khá sớm vào ngày 18. 1. 1615, có nhận xét chí lý: “Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình Việt nam đã có một tổ chức rất cao, người dân Việt nam có những đức tính, phong tục rất đáng khâm phục, nó đã giúp rất nhiều vào công việc truyền giáo” (Nguyễn Hồng “Lịch sử truyền giáo ở Việt nam”, Sài gòn 1959, tr. 55).
Trong lễ giáo thì ân nghĩa là đầu tiên. Tôn kính tổ tiên là một cách tỏ ân nghĩa đối với các vị tiên nhân, ông bà cha mẹ. Lúc ông bà cha mẹ còn sống, con cháu phải kính mến, phụng dưỡng các ngài thì lòng phải vui, vâng lời chiều ý các ngài, ăn ở sao cho các ngài hài lòng. Khi các ngài qua đời, lo an táng tử tế, con cháu thờ kính, giỗ chạp hàng năm. Khi tam giáo (Phật, Khổng, Lão) chưa du nhập Việt Nam thì người Việt đã biết kính thờ tổ tiên, trọng kính cha mẹ, thương yêu anh, chị, em và hầu như mọi gia đình đều lập bài vị ông bà, cha mẹ để thờ cúng. Những ngày giỗ kị thì thắp nhang, dâng hoa quả, cơm nước đặt trên bàn thờ để mong ông bà, cha mẹ (những người đã khuất) về hưởng. Nhà nghèo nhất cũng có chén cơm trắng với quả trứng luộc dâng lên với tất cả lòng thành. Tuy người đã khuất không hưởng được, nhưng lễ nghi ấy lại cần thiết để giáo hóa con cái để sau này chúng cũng nhớ đến ông bà, cha mẹ như vậy. Người Việt vốn hiền hoà, tình cảm, lại chung sống cộng đồng với nhau, suốt đời quanh quẩn bên luỹ tre làng; cho nên dù sống, dù chết, họ vẫn gần gũi bên nhau, ấm áp tình người. Việc thờ cúng tổ tiên là mạch nước ngầm trong mát vẫn mãi nuôi sống và nối kết những tâm hồn Việt Nam giàu tình trọng nghĩa.
Mỗi người Việt nam đều có một đạo rất gần gũi, đó là Đạo Ông Bà hay Đạo Hiếu. Trong mỗi gia đình người Việt, dù sang hay hèn cũng dành một nơi trang trọng nhất để đặt bàn thờ gia tiên. Ông bà cha mẹ dù có khuất đi nhưng vẫn luôn hiện diện gần gũi với con cháu. Những ngày đầu tháng, ngày rằm, ngày tết, gia đình làm mâm cơm cúng ông bà. Tấm lòng của con cháu tỏ bày lòng hiếu kính biết ơn. Mỗi khi trong gia đình có việc gì quan trọng như dựng vợ gả chồng cho con cái, hoặc con cái thi cử đỗ đạt… cha mẹ đều dẫn con cái đến trước bàn thờ gia tiên để trình diện với các ngài, bày tỏ mọi việc để các ngài chứng giám. (x. Gia đình Việt nam, mảnh đất phì nhiêu cho hạt giống Tin mừng, Thời sự thần học số 32 tháng 06/03).
Đạo Hiếu là cốt tuỷ của nền văn hoá Á châu trong đó có Việt nam. Hiếu là gốc của đức. Người ta có 100 nết nhưng hàng đầu vẫn là Hiếu. Chưa từng có người nào hiếu thảo lại bất trung, cũng như chưa từng có người hiếu thảo nào lại bất nhân.
Cốt lõi của Hiếu bắt đầu bằng: tôn kính cha mẹ lúc còn sống, thờ phượng cha mẹ lúc qua đời. Biết ơn cha mẹ phải được nói lên bằng đạo hạnh, bằng thờ cúng tổ tiên. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng, là phẩm chất tối cao của con người.
Việc hiếu lễ từ ngàn xưa đã in sâu vào tâm linh mỗi người. Dân tộc Việt nam từ nam chí bắc dù ai theo tín ngưỡng nào, dù có bài bác thần linh, nhưng với ý niệm “Cây có cội, nước có nguồn” đều coi trọng gia lễ.
Ca dao đã đúc kết lòng hiếu nghĩa ấy:
Cây có gốc mới nở ngành sanh ngọn.
Nước có nguốn mới bể rộng sông sâu.
Người ta có gốc từ đâu.
Có cha có mẹ rồi sau có mình.
Đạo Hiếu chính là đạo của lòng biết ơn. Biết ơn trời đất, biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ. Ơn cha nghĩa mẹ sinh thành, ơn chín chữ, đức cù lao, ơn võng cực biển trời “Ai ai phụ, mẫu sinh ngã cù lao, dục báo chi đức, hạo thiên võng cực”. Cha mẹ sinh ra ta, nâng đỡ ta từ cung lòng, vỗ về âu yếm, nuôi dưỡng bú mớm, bồi bổ cho lớn khôn, dạy ta điều hay lẽ phải, dõi theo mỗi bước đường đời của ta, tuỳ tính tình mỗi đứa con mà khuyên dạy, che chở bảo vệ con. Ơn đức cha mẹ như trời biển “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Đạo Hiếu là nền tảng văn hoá gia đình Việt nam. Người Việt yêu chuộng những gì là tình, là nghĩa, coi tình nghĩa hơn lý sự “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình”; chấp nhận “bán anh em xa mua láng giềng gần”; thích “dĩ hoà vi quý”, độ lượng “chín bỏ làm mười”; quý trọng con người, không tôn thờ của cải “người là vàng , của là ngãi; người làm ra của chứ của không làm ra người”; mong muốn anh em bốn biển một nhà “tứ hải giai huynh đệ”; đề cao tinh thần khoan dung “đánh kẻ chạy đi, ai đánh người chạy lại”. Đỉnh cao của lòng nhân ái là “thương người như thể thương thân”.
Gia đình Việt nam có nhiều thế hệ sống với nhau “tứ đại đồng đường”. Người Việt quan niệm “một mẹ già bằng ba hàng dậu”. Cha mẹ già không còn lo việc đồng áng, ở nhà chăm nom giữ cháu. Bầu khí gia đình luôn ấm cúng. Tuổi thơ con trẻ được ươm đầy tiếng ầu ơ của bà, câu chuyện cổ tích của ông. Từ lúc chưa rời vành nôi, trẻ thơ đã được trau dồi cái nhân cái nghĩa. Khi lớn lên, con cái lập gia thất, cha mẹ cho miếng đất dựng căn nhà, con cháu sum vầy bên ông bà cha mẹ, tối lửa tắt đèn có nhau. Chính gia sản tinh thần gia đình là chất keo nối kết tầm hồn con người lại để rồi ai ai cũng cảm thấy “quê hương mỗi người chỉ một…. đi đâu cũng phải nhớ về” (Quê hương, Đỗ trung Quân). Dù đi học xa, đi làm xa, đi đâu xa cũng phải về với gia đình sum họp những ngày cuối năm, ngày đầu năm. Ngày Tết là những ngày thiêng liêng ấm áp tình gia đình. Con cháu quy tụ chúc Tết với cử chỉ thành kính chắp tay chào lạy, dâng quà lễ mừng thọ.
Gia đình Việt nam là môi trường đào tạo con người toàn diện, tỉ mỉ và hiệu lực nhất. Dưới mái trường này, con người được đào tạo cả về kiến thức, tâm hồn, tư duy, nhân cách, lối sống để rồi có đủ bản lãnh và khả năng bước vào đời sống xã hội. Gia đình là nơi đào tạo căn bản nhất lòng đạo đức, giúp phát triển cái tài, nhân rộng cái đức cho con cái vào đời.
Đạo Hiếu chính là sợi chỉ vàng nối kết mọi người, mọi sinh hoạt gia đình. Đạo Hiếu làm nên bản sắc văn hoá người Việt. Như thế, tâm thức dân Việt rất gần với Tin mừng Đạo Chúa. Điều răn thứ bốn dạy thảo kính cha mẹ được đặt ngay sau ba điều răn về Thiên Chúa đủ nói lên tính cách quan trọng của nó. Sách Giảng Viên dạy: “thảo kính cha mẹ là thảo kính Chúa, tôn kính cha mẹ là tôn kính Chúa”. Chính Chúa Giêsu là mẫu mực hiếu thảo với Cha, yêu mến Cha, vâng ý Cha, luôn làm đẹp lòng Cha. Chúa Giêsu đã lên án bọn người lấy cớ để tiền của dâng cúng vào đền thờ mà trốn tránh bổn phận giúp đỡ cha mẹ. Đạo Chúa cũng là Đạo Hiếu. Hiếu với cha mẹ, đấng bậc sinh thành dưỡng dục. Hiếu với Thiên Chúa và thờ phượng Người, Đấng sáng tạo muôn loài, dựng nên con người giống hình ảnh Người. Như vậy Đạo Chúa cũng chỉ gồm chữ Hiếu. Thờ lạy Thiên Chúa là chân nhận Người chủ tể muôn loài, con người có bổn phận tôn vinh thờ phượng tỏ bày lòng hiếu thảo. Đối với tha nhân, Đạo Chúa dạy phải sống hiếu, phải thể hiện hiếu. Điều răn trọng nhất “kính Chúa, yêu người” là điều răn của Đạo Hiếu. Không một tôn giáo nào khai triển Đạo Hiếu cho bằng Đạo Chúa. Hiếu với Chúa, hiếu với tha nhân, đặc biệt hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Vì hiếu với Chúa nên phải tu thân tích đức để làm vui lòng Chúa, xứng đáng làm con cái của Người. Vì hiếu với ông bà cha mẹ nên phải sống đạo làm con, giữ nề nếp gia phong lễ nghĩa, làm vinh dự cho gia đình, gia tộc.
Chính từ tổ tiên ông bà cha mẹ mà người Việt nam có thể tìm đến với Đấng là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. Đạo Hiếu là một điểm tựa, một bước đi khởi đầu thuận lợi, một lối đi dễ dàng, gần gũi, một mãnh đất phì nhiêu để đưa con người vào Đạo Chúa. Loan báo Tin mừng của Đạo Chúa chính là làm sáng lên những nét tinh tuý tiềm tàng trong mỗi nền văn hoá. Đối với môi trường gia đình Việt nam, đó chính là “minh minh đức”, làm sáng cái đức sáng trong môi trường gia đình. Tin mừng chính là nguồn nước thẩm thấu qua mọi lớp ngăn văn hóa và tôn giáo, Tin mừng là ánh sáng các dân tộc (LG), là ánh sáng trần gian (Ga 8, 12). Tin mừng và văn hóa giao thoa và hoà điệu với nhau. Phụng vụ Giáo hội dành ngày Mồng Hai Tết để cầu cho tổ tiên. Hằng ngày trong mọi thánh lễ, Giáo hội đều có lời cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.
Đạo Chúa dạy, có một Cha trên trời mà con người phải tôn kính hiếu thảo;dạy yêu thương nhau “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”;dạy sống chan hoà, bình dị “anh em hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, dạy yêu quý sự sống “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào”. Tin mừng làm sáng lên những giá trị sáng ngời có sẵn trong môi trường văn hoá Việt nam, mang đến cho các giá trị văn hoá ấy chiều kích siêu việt, chiều kích cứu độ. (Quốc Văn, OP).
Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã đề cao vai trò gia đình, lòng thảo hiếu của con cái “chủng viện thứ nhất, đệ tử viện thứ nhất, trường sư phạm thứ nhất là gia đình công giáo. Không vị giám đốc tài ba, chuyên môn đến đâu có thể thay thế cha mẹ được. Nếu cơ sở bậc nhất ấy bị hỏng, tương lai Hội thánh và xã hội nhân loại cũng rung rinh sụp đổ. Đức Gioan XXIII biên thư cho cha mẹ ngày ngài được ngũ tuần: “Thưa thầy mẹ, hôm nay con được 50 tuổi. Chúa thương ban cho con nhiều chức trong Hội thánh, đi nhiều nơi, học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con hơn hồi con được ngồi trên chân thầy mẹ” (ĐHV 505).
Tinh thần hiếu hoà, lòng thảo hiếu của người Việt là điểm son đậm đà bản sắc dân tộc. Tin mừng bén rễ sâu vào nền văn hoá ấy làm xanh lên chồi lộc sự sống tình yêu rồi kết thành hoa trái tốt lành cho con người và cuộc đời.
16. Hiếu thảo với cha mẹ (Mt 15, 1-6) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Truyền thống dân tộc Việt Nam quả rất cao quí khi ông bà tổ tiên, cha mẹ luôn được mọi người kính yêu, hiếu thảo. Tuy nhiên, Hội Thánh Việt Nam luôn dành ngày mồng hai tết để con cái cháu chắt tưởng nhớ tới tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Giáo Hội luôn cho con cái hiểu rằng việc hiếu thảo có giá trị rất cao và là một trong những điều Chúa dạy. Bởi vì, trong mười điều răn của Chúa, giới răn thứ bốn:” Hãy thảo kính cha mẹ ” là một giới răn được xếp trong mười điều Chúa dạy bảo. Chính vì thế, hôm nay, con cái của Chúa dâng thánh lễ này để cầu nguyện cho ông bà tổ tiên, cha mẹ là một điều thích hợp, phải lẽ đồng thời cũng rất hợp với lời dạy của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 15, 1-6.
Ngược lại với quan niệm, suy nghĩ của dân Do Thái, đặc biệt là các Kinh sư, Pharisêu về vấn đề báo hiếu, Chúa Giêsu luôn đề cao việc hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên, cha mẹ, các bậc sinh thành, dưỡng dục. Kinh sư và Pharisêu cho rằng theo lời của tiền nhân thì tất cả những gì họ làm cho cha mẹ đều là tế phẩm dâng lên Thiên Chúa, do đó, họ làm như thế là đủ rồi, là tròn bổn phận và trách nhiệm rồi, không cần phải thờ cha kính mẹ nữa. Họ giới hạn bổn phận và nghĩa vụ dựa trên vật chất, và họ gán cho nó tính chất đạo đức. Đối với Chúa Giêsu, Ngài nói cho các Pharisêu, các Kinh sư và mọi người biết rằng:” Phải thảo kính cha mẹ…” theo đúng giới răn thứ bốn trong thập giới của Thiên Chúa đã trao cho ông Môsê:” Thảo kính cha mẹ “. Chúa nói :” Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử “. Chúa Giêsu mở ra cho thế giới, cho con người, cho mỗi người một chân trời mới về nghĩa vụ và bổn phận đối với các bậc sinh thành. Vật chất cần thật nhưng tấm lòng, con tim, tinh thần còn có giá trị cao vời hơn. Thật vậy, xưa cũng như nay, vấn đề hiếu thảo đối với các bậc sinh thành luôn được đặt ra với nhiều quan niệm và suy nghĩ khác nhau. Ngày nay, tại nhiều đất nước, việc truyền bá tự do luôn được đề cao, nhiều nơi xem sự tự do là chính mà quên đi giá trị đạo đức. Do đó, giá trị truyền thống hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ bị coi nhẹ. Nhiều nước, luật pháp bảo vệ tự do quá đáng: cha mẹ không được nói nặng tới con cái, chứ chưa nói tới quát nạt, to tiếng hay đánh sửa dạy. Nhiều nước, con cái tới 18 tuổi được luật pháp bảo hộ theo ý của mình. Cha mẹ luôn phải dè chừng với con cái. Nên, giá trị đạo đức bị lung lay: con cái muốn làm gì thì làm. Luân lý bị coi nhẹ. Cha mẹ được xem như gánh nặng đối với con cái. Con cái thích tự lập, ở riêng. Người già đã có nhà xã hội, nhà dưỡng lão vv…Việc hiếu thảo đối với cha mẹ được xem nhẹ. Cha mẹ già thường cảm thấy cô đơn, buồn tủi. Có người đã nói cay chua, mỉa mai:” Ước gì mình được con cái chăm sóc như con chó mà con mình đang nuôi “. Đó là sự thực nhưng sự thực thật cay đắng và mỉa mai. Thiết tưởng, mọi gia đình phải nhìn vào mẫu của gia đình thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu để noi gương bắt chước. Chúa là Chúa nhưng làm người, Ngài luôn vâng lời, tuân phục và sống thảo hiếu với cha mẹ của mình.
Dân tộc Việt Nam luôn còn giữ được truyền thống thảo hiếu và giáo dân Việt Nam còn biết lắng nghe lời Chúa và thực hành lời Chúa. Do đó, nghĩa vụ, bổn phận đối với các bậc sinh thành, tổ tiên luôn được trân trọng giữ gìn.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng mến cho chúng con để chúng con luôn biết thảo hiếu với tổ tiên, cha mẹ: sống thì thăm hỏi, giúp đỡ, nuôi dưỡng, khi các Ngài khuất bóng thì biết xin lễ, cầu nguyện và làm những việc phúc đức dâng cho cha mẹ, tổ tiên. Amen.
177. Suy Niệm Lời Chúa (Mt 15, 1-6)
Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng trên cho thấy, cuộc đụng độ giữa Chúa Giêsu và những người lãnh đạo Do Thái. Trọng tâm chính của lần này, không phải là cuộc chạm trán trực tiếp có tính cách cá nhân giữa Chúa Giêsu và các rapbi nữa, nhưng là sự đụng độ giữa hai quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa, hai hình thức giữ luật. Các luật sĩ thắc mắc: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân?…” Chúa Giêsu trả lời họ cũng bằng một câu hỏi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”
Theo người Do Thái, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được ghi trong luật. Luật gồm hai phần: Luật thành văn là luật Chúa chứa đựng trong Kinh Thánh, và luật truyền khẩu được các kinh sư triển khai qua nhiều thế hệ, và được xem như là truyền thống của tổ tiên. Luật này có tính cách bắt buộc tuân giữ, nếu không muốn nói là hơn cả luật thành văn. Đối với người Do Thái, tất cả những luật truyền thống là lệnh truyền của Chúa, thực thi những điều luật truyền thống là làm vừa lòng Chúa, là trở nên một người công chính. Tuân giữ luật Chúa là tuân thủ những luật lệ, những nguyên tắc và những lễ nghi bề ngoài, nghiêm ngặt phần hình thức như “rửa tay trước khi ăn”, “dâng lễ phẩm cho Chúa thay thế sự hiếu kính cha mẹ”.
Đối với Chúa Giêsu, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được thể hiện lớn nhất bằng luật yêu thương. Ngài xem giữ luật là một cảm nghiệm sống ở trong lòng, một biểu hiện liên đới, nhân từ, vượt trên hình thức, là tấm lòng trong sạch và đời sống yêu thương.
Hôm nay, Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của Pharisêu và các kinh sư cách trực tiếp. Nhưng Ngài lấy một ví dụ về việc thực hành luật truyền khẩu để cho họ thấy, chẳng những đây không phải là luật Chúa mà còn có thể đi ngược lại Luật Chúa. Luật Thiên Chúa đã đặt ra là phải “hiếu thảo với cha mẹ của mình”. Nhưng những người Do Thái lại nói: “Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi”. Những người Do Thái này, đã dùng nghi lễ bề ngoài, để thoái thác một bổn phận căn bản là hiếu kính cha mẹ. Họ đã lấy quy ước của các kinh sư để xóa bỏ đi điều răn của Thiên Chúa.
Quý vị và các bạn thân mến,
Hôm nay ngày mùng hai Tết, Giáo Hội Việt Nam dành để nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa về lòng hiếu thảo, biết ơn tổ tiên – ông bà – cha mẹ. Trong 10 điều răn Chúa truyền dạy, sau ba điều dành cho Thiên Chúa thì đến điều thứ tư dành cho ông bà, cha mẹ. Thánh Phaolô đã làm cho điều răn thứ tư này mạnh mẽ hơn khi nói: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này (Ephêsô 6, 1-3)”.
Vâng, thảo kính cha mẹ không phải là chuyện gởi những món quà to, nhưng lỡi tết nặng, nhưng thảo kính cha mẹ là về bên các ngài trong những ngày nghỉ, thăm hỏi, chăm sóc, hiện diện, an ủi, đỡ đần và yêu thương. Thảo kính cha mẹ không phải là chuyện khoe thành tích, cũng chẳng là chuyện dâng cúng ít nhiều, nhưng là biết vâng nghe nhưng lời dạy dỗ bảo ban; biết kính trên nhường dưới; biết ghi lòng tạc dạ đền đáp công ơn:
Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Lời Chúa hôm nay mạnh dạn nhắc nhở, không thể có một sự thỏa hiệp nào giữa hai quan niệm luật hình thức và luật yêu thương; không thể san bằng nghi thức bên ngoài với lệnh truyền của Chúa. Những kinh sư đã lẫn lộn mọi luật lệ của Chúa với những nguyên tắc bên ngoài, và họ đã biến những nguyên tắc ấy thành một thứ luật mà họ coi là điều Thiên Chúa đòi hỏi cho riêng họ.
Thảo kính cha mẹ là điều Thiên Chúa muốn, Giáo Hội nhắc nhở, đạo làm người mong khắc ghi:
Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
Đố ai đếm những vì sao,
Đố ai đếm được, công lao mẹ thầy.
Lạy Chúa,
Xin chúc lành cho cha mẹ của chúng con.
Xin ban muôn ơn lành hồn xác cho các ngài.
Xin chúc phúc cho những người con thảo hiếu như Chúa đã hứa.
18. Suy niệm Lời Chúa
Giáo hội dành ngày mùng hai tết để cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ, và cũng là để nhớ đến công ơn của các ngài. Giáo hội nhớ đến và cầu nguyện cho các ngài là bởi vì, tổ tiên, ông bà, cha mẹ là những người có công sinh thành, dưỡng dục và xây dựng cuộc đời cho chúng ta. Các ngài tận tụy dậy dỗ mình sống đời sống làm người, và đặc biệt nhờ các ngài mà mình được biết Chúa và yêu mến Ngài. Công lao của các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ thật bao la trời biển.
“Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Quả thật, truyền thống cha ông chúng ta rất coi trọng chữ hiếu. Chính vì vậy mà để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ ngày xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ của mình như thế nào. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:
“Tu đâu cho bằng tu nhà,
thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu”.
Và hơn nữa, đối với người kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại bản thập giới, ngay sau ba giới răn nói về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô cũng nhắc: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo”.
Và đặc biệt trong bài Tin mừng, Đức Giêsu nhắc lại với Pharisiêu, với kinh sư và với con người mọi thời rằng: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử”. Rõ ràng, đối với Chúa Giêsu, việc hiếu thảo đối với cha mẹ là điều hết sức quan trọng và là bổn phận hàng đầu của mỗi người kitô hữu.
Như thế, việc thảo kính cha mẹ không còn tùy thuộc vào ý thích cá nhân, nhưng đó là thánh ý của Thiên Chúa, đó là lệnh truyền của Thiên Chúa, và đó là đòi buộc của Thiên Chúa.
Ngày đầu xuân Giáo hội nhắc lại sự đáp trả, báo ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên là việc làm rất ư cần thiết. Thế nhưng, ta phải có những thái độ nào, phải có những cách hành xử như thế nào, để đạo “thờ cha, kính mẹ” cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa? Đó có phải chỉ là cấp tiền nuôi dưỡng cha mẹ? Hay đó có phải chỉ là đến ngày, đến tháng vào xin một thánh lễ cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên là xong?
Trong sách xưa có một bài về đạo hiếu rất hay và cũng phù hợp với tinh thần Kitô giáo:
“Hiếu hữu tam:
Đại hiếu tôn thân
Kỳ thứ phất nhục
Kỳ thứ năng dưỡng”
Tạm dịch là:
Đạo hiếu có ba điều:
Hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ
Hai là không làm nhục cha mẹ mình
Ba là có thể nuôi dưỡng cha mẹ mình.
Vậy, thế nào là tôn vinh cha mẹ? Thế nào là không làm nhục cha mẹ? Và thế nào là dưỡng nuôi cha mẹ mình?
1. Tôn vinh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và con người
Theo quan niệm của Kitô giáo, thì sự tôn vinh cha mẹ ở cấp độ cao nhất đó là sự tôn vinh cha mẹ, làm rạng rỡ cha mẹ ở trước mặt Thiên Chúa. Niềm vinh dự lớn lao của cha mẹ đó là được tôn vinh trước mặt Thiên Chúa. Thành ra, người có hiếu lớn nhất đó là người sống ngay lành, làm điều tốt trước mặt Thiên Chúa: sống theo thánh ý Chúa, sống theo luật Chúa đó là tốt nhất. Do đó khi sống đạo tốt, đó là mình thể hiện cái hiếu lớn nhất đối với cha mẹ.
Mặt khác, tôn vinh cha mẹ không chỉ trước mặt Thiên Chúa mà còn là tôn vinh, làm rạng danh cha mẹ trước mặt người đời. Mình không thể nói là có hiếu với cha mẹ khi mà đời sống của mình bê bối đủ điều. Mình không thể nói là có hiếu nếu mình cứ sống một cuộc sống mua gian bán lận, một cuộc sống thiếu yêu thương bác ái đối với người khác, một cuộc sống muốn loại trừ những người khác. Do đó, cái hiếu đối với cha mẹ, đó còn là việc thể hiện một đời sống tốt trước mặt người đời. Bởi vì khi mình sống tốt trước mặt người đời là mình đang làm rạng danh, đang tôn vinh cha mẹ mình.
Hơn thế nữa, cái hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ, không chỉ là tôn vinh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và tôn vinh cha mẹ trước mặt người đời, nhưng còn là thể hiện cái hiếu qua việc tôn vinh cha mẹ trước mặt chính mình. Tôn vinh cha mẹ trước mặt chính mình đó là khi mình biết vâng lời cha mẹ, tôn kính cha mẹ. Do đó, mình không thể nói là có hiếu trong khi mình cứ luôn cãi lời cha mẹ, không biết tôn kính cha mẹ.
2. Cái hiếu thứ hai đó là không làm nhục cha mẹ
Trước hết chúng ta xét đến tương quan với Thiên Chúa, đó là đừng làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa. Nghĩa là, khi xa lánh tội lỗi, không làm điều xấu đó là mình thể hiện cái hiếu đối với cha mẹ. Chúng ta không thể là người có hiếu nếu cứ sống trong tình trạng lầm lạc, trong những đam mê, những thú vui tội lỗi. Khi chúng ta phạm tội đó là mình đang làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, và như thế thì không thể nói là mình đang sống trọn chữ hiếu với cha mẹ được. Và chúng ta không chỉ đừng làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa mà còn không làm nhục cha mẹ trước mặt người đời. Mình đừng để cho người đời vì mình mà chửi cha mẹ mình. Con cái đi làm điều bậy bạ để rồi cha mẹ phải lãnh lấy hậu quả, bị người đời coi thường, khi đó chúng ta không thể là người sống có hiếu được.
3. Và cái hiếu thứ ba đó là có thể nuôi dưỡng cha mẹ
Nuôi dưỡng hay chu cấp cho cha mẹ ở đây không chỉ là về những nhu cầu vật chất nhưng là còn về tinh thần.
Trước mặt Thiên Chúa, mình cầu nguyện cho cha mẹ đó là nuôi dưỡng cha mẹ. Khi cha mẹ còn sống hay đã qua đời, lời cầu nguyện của chúng ta cho cha mẹ thể hiện lòng hiếu thảo đối với cha mẹ.
Trước mặt người đời, người có hiếu là người có thể phụng dưỡng cho cha mẹ về vật chất cũng như tinh thần, đem lại niềm vui, đem lại niềm hạnh phúc cho cha mẹ.
Như vậy, cái hiếu lớn nhất của mỗi người đó là tôn vinh cha mẹ, làm rạng danh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, trước mặt người đời và trước mặt chính mình.
Cái hiếu thứ hai đó là không làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, không làm nhục cha mẹ trước mặt người đời.
Cái hiếu thứ ba đó là nuôi dưỡng cha mẹ, phụng dưỡng cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, trước mặt người đời.
Làm được như thế đó là mình sống trọn lòng hiếu thảo đối với cha mẹ như lòng Chúa mong muốn.
Lắng nghe lời Chúa trong ngày đầu năm này, ước gì mỗi người một lần nữa ý thức hơn về những hồng ân Thiên Chúa đã ban cho mình qua ông bà cha mẹ, để hết lòng tri ân và cảm tạ các ngài. Đồng thời, đây cũng là cơ hội thuận tiện để mình duyệt xét lại lòng thảo hiếu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Việc thảo kính này, không chỉ là dâng một ít quà hay một lời cầu chúc trong ngày đầu năm, nhưng lòng thảo hiếu này, cần được kéo dài trong suốt cuộc đời mỗi người.
Xin Chúa cho mỗi người có được lòng mến yêu, có được một tinh thần thảo hiếu, để chúng ta có thể luôn biết thể hiện lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ.
Sưu tầm
19. KÍNH NHỚ TỔ TIÊN
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Ngày Mồng Một tết chúng ta dâng lên Thiên Chúa tâm tình tạ ơn và những ước nguyện cho ngày đầu năm mới, hôm nay ngày Mồng hai, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn và thảo kình đối với ông bà tổ tiên những người còn sống cũng như đã qua đời. Tuy nhiên với thời buổi người ta đặt lợi nhuận kinh tế lên hàng đầu, thì hình như bổn phận thảo hiếu đối với tổ tiên nơi nhiều người, nhiều gia đình cũng đang bị tính toán thiệt hơn. Nhiều câu chuyện xảy ra trong năm qua đã kiến cho cộng đồng bức xúc, vì có những đứa con giàu có nhưng đùn đẩy không ai muốn đón bố về chăm sóc, nên họ đã để bố của mình năm ở vỉa hè trong lúc sắp chết, có người con thì kiện mẹ ra tòa để đòi mấy trăm triệu tiền công chăm sóc trong mấy năm trời. Đọc và nghe những mẩu tin như thế thật đau lòng khi thấy tình nghĩa đạo lý trong gia đình đã xuống cấp trầm trọng.
Những ngày cuối năm gặp nhau câu hỏi đầu tiên có lẽ là câu: Năm nay có về quê ăn tết không? Ai đã từng phải đón cái tết xa quê thì mới thấm thía thế nào là nỗi nhớ nhà trong những ngày này. Nỗi nhớ nhà của ngày tết nó thôi thúc mọi người bằng mọi giá phải trở về với cha mẹ với tổ tiên để thắp một nén nhang trước bàn thờ tổ tiên, để được ngả đầu vào bờ vai cha mẹ, để ăn một bữa cơm đầu năm, dù là bữa cơm thật đạm bạc, nhưng trong bữa cơm ấy nó chứa đựng bao nỗi vất vả của cha, bao sự chờ đợi lo lắng của mẹ, bao tình yêu thương để chia sẻ. Sau một năm bận rộn vất vả chỉ có những ngày này trở về với gia đình, người ta mới cảm thấy thư thái bình an, vì không có nơi nào an toàn cho bằng trái tim của người mẹ, và không nơi nào vững chắc cho bằng bờ vai của cha. Vì thế những người không còn cha không còn mẹ sẽ thấm thía đến tận cùng sự trống vắng thiếu thốn trong ngày tết này, sẽ cảm nhận sự đau đớn sự buồn bã, lạc lõng khi mình đi không ai nhớ, về không ai mong.
Nhớ ơn cha mẹ, ông bà trong dịp đầu năm là giúp chúng ta trở về cội nguồn, với dòng tộc, giúp mỗi người sống đúng với con người của mình và sống trọn bổn phận với cha mẹ tổ tiên. Biết ơn mẹ cha là nhớ đến công sinh thành dưỡng dục. Các ngài đã trải qua bao gian lao vất vả, mang nặng đẻ đau, bao tháng ngày bú mớm chăm sóc, kể làm sao hết những gọt mồ hôi của cha, những sư lo lắng của mẹ khi chúng ta đau ốm, bao nhiêu hy sinh vất vả nắng mưa sớm hôm để cho ta được bằng người. Kể làm sao hết sự hy sinh thầm lặng nhịn ăn nhịn mặc để cho con không thua kém bạn bè, để cho con được đến trường thì mỗi ngày cha mẹ lại phài vất vả nhiều hơn.
Việc thảo hiếu với tổ tiên ông bà không chỉ là bổn phận của đạo hiếu, đạo làm người, của lòng biết ơn, mà nó còn là giới răn và đòi buộc của đạo Chúa. Tuy nhiên người ta sẽ không thể chu toàn được đạo Chúa nếu không chu toàn đạo làm con và đạo làm người. Sách Huấn Ca dạy chúng ta sống sao để làm rạng danh cha mẹ tổ tiên, và đừng bao giờ quên công đức của các ngài, và vì các ngài chính là gia tài quý giá nhất mà người ta không thể tìm kiếm hoặc mua ở đâu được, và chính chúng ta đang được hưởng phúc đức và dòng máu các ngài để lại cho chúng ta.
Ngày xưa các thày tiến sĩ Do Thái đã đưa ra một thứ luật, mà sau này Chúa Giêsu đã cực lực phản đối sự trốn tránh trách nhiệm của luật ấy. Luật dạy rằng: Ai nguyền rủa và đối xử tệ bạc với cha mẹ thì bị xử tử. Còn các ông lại nói: Ai nói với cha mẹ rằng: của phụng dưỡng cha mẹ đã được dâng cho Thiên Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa. Các ông dựa vào truyền thống của các ông để chối bỏ luật Thiên Chúa và Thiên Chúa không chấp nhận một của lễ được dâng lên do sư bất hiếu, trốn tránh trách nhiệm như thế. Sách Khôn Ngoan còn nhấn mạnh: Của dâng cho cha sẽ không bị quên lãng, của biếu cho mẹ sẽ đền bù được tội lỗi. Như thế, có thể nói việc thảo hiếu với cha mẹ được Thiên Chúa đón nhận như việc thảo hiếu đối với Ngài vậy.
Thánh Phaolô còn khuyên rằng: Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tình thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo, và ai tôn kính thảo hiếu cha mẹ thì được trường thọ trên mặt đất. Thế nhưng ngày nay đang diễn ra bao cảnh trái ngang: Con cái hất hủi coi thường, chửi mắng đánh đập cha mẹ là đấng sinh ra mình, đùn đẩy trách nhiệm báo dưỡng vì sợ phiền phức tốn kém, sợ bẩn nhà, nhiều người đối xử với cha mẹ như đầy tớ. Dịp tết này, hãy điều chỉnh lại cách sống thảo hiếu của mình với cha mẹ để còn làm gương cho con cái, vì sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy, chúng ta bắc cầu tới đâu, con cái sẽ đi tới đó. Hôm nay chúng ta đối xử với cha mẹ thế nào, thì ngày mai con cái chúng ta cũng sẽ đối xử với chúng ta y như vậy.
Trong Năm Gia đình Sống và Loan Báo Tin Mừng, trong sư mới mẻ của đất trời mùa xuân, Giáo Hội mời gọi chúng ta làm mới lại tương quan trong gia đình. Sự đổi mới phải bắt đầu từ mỗi thành viên của gia đình, nhưng trước hết vẫn là cha me. Người cha người mẹ hãy nỗ lực vươn lên, sẽ là niềm vui hạnh phúc cho con cái, mọi thành viên trong gia đình cố gắng canh tân, sẽ là niềm vui hạnh phúc cho cả gia đình.
Hãy bắt đầu từ nơi người cha, người chồng: các ông hãy là mùa xuân cho gia đình bằng một đời sống đạo hạnh, hãy vì vợ, vì tương lai gia đình mà đem niềm vui về cho gia đình, hãy dẹp bỏ những đám mây u ám trong gia đình là những cuộc nhậu nhẹt rượu chè, bài bạc, chửi bới đánh đập vợ con…, đừng biến gia đình thành địa ngục cho nhau. Đừng để con cái sơ hãi, mặc cảm với bạn bè về cha của mình, vì con cái không chỉ cần tình thương, mà nó còn cần danh dự phẩm giá của cha mẹ để có thể tự hào hãnh diện với bạn bè. Cuộc sống đạo đức thành thật của người cha sẽ là tia nắng ấm mùa xuân cho gia đình, hãy trở nên người chồng người cha có trách nhiệm với gia đình, nuôi sống gia đình bằng mồ hôi lương thiện, bằng nỗ lực của chính mình. Hãy là một người cha cương nghị. trở nên hàng rào bảo vệ gìn giữ con cái trên con đường lương thiện và là trụ cột vững chắc cho gia đình những khi sóng gió. Hãy biết chia sẻ trách nhiệm với vợ mình và hết lòng chăm lo cho cha mẹ khi các ngài luống tuổi.
Phúc đức tại mẫu, các bà vợ, người mẹ hãy có một cuộc sống đạo hạnh dịu hiền bao dung, hãy trở thành cành mai cành đào tô điểm cho gia đình thêm tươi thắm bằng sự dịu dàng khả ái, bằng đời sống nết na đạo đức. Người mẹ là người có trái tim nhạy bén, hãy thông cảm và chia sẻ những lo toan với chồng và hãy bao dung tận tụy với con cái. Người mẹ hãy trở nên mùa xuân cho gia đình bằng sự cần mẫn, hãy làm cho gia đình trở nên ấm cúng sạch sẽ ngăn nắp gọn gàng, làm cho những bữa cơm thêm thân mật, cho gia đình đầy ắp tiếng cười. Hãy dùng trái tim nhạy cảm của một người vợ, người mẹ để làm cho gia đình thực sự trở thành một tổ ấm, là nơi cư ngụ tốt nhất cho chồng con sau những ngày mệt mỏi với công việc, thông cảm với chồng, chia sẻ với những khó khăn của con cái bằng sự nhẫn nại dịu hiền.
Còn những người làm con hãy trở thành mùa xuân cho gia đình, cho cha mẹ, khi biết tôn kính mến yêu vâng lời các ngài, đừng để cha mẹ phải đau khổ hơn nữa vì sư lêu lổng ngỗ nghịch của mình, đừng để cho tệ nạn ăn chơi, nghiện hút cá độ làm tan nát gia đình. Hãy làm vơi đi sư nhọc nhằn của cha mẹ, đem lại sư hãnh diện cho cha mẹ, bằng việc chăm chỉ rèn luyện học hành, bằng tư cách đạo đức tốt. Hãy trở nên một thanh thiếu niên Công giáo tốt nơi gia đình nơi công ty xí nghiệp trường học, hãy thảo hiếu và biết ơn cha mẹ và làm cho tình anh em trong gia đình thêm mặn mà hạnh phúc vui tươi hơn. Nếu cha mẹ già yếu, hãy kiên nhẫn yêu thương kính trọng và chăm sóc cho các ngài, vì chúng ta sẽ không thể tìm được cha mẹ nữa một khi các ngài đã không còn.
Cầu chúc cho mọi người, mọi gia đình noi gương gia đình Thánh Gia xây dựng gia đình êm ấm thuận hòa con cái thảo hiếu, chúc cho mọi người biết chu toàn bổn phận của mình như lời Chúa dạy hôm nay, và hãy dành cho nhau tình yêu thương, hãy yêu thương nhau hết lòng và hãy làm tất cả những gì tốt đẹp cho nhau, để khi cha mẹ hay người thân có mất đi, chúng ta không phải hối tiếc vì chưa làm gì cho họ. Amen.
20. CẦN CÓ MỘT TẤM LÒNG
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Trong tác phẩm “Để gió cuốn đi” nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã đặt một câu hỏi: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em có biết không?” Nhạc sĩ đã trả lời: “Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi”. Có người thắc mắc tại sao lại cần có một tấm lòng để gió cuốn đi như vậy? Có lẽ, nhạc sĩ họ Trịnh này muốn dùng hình ảnh “gió cuốn đi” không phải là một cơn bão xóa sổ một ngôi làng, nhưng đây là một cơn gió mát giữa trưa hè oi bức, một ngọn gió thu lúc buổi sớm, mang theo hương cau, mùi lúa mới, làm nhẹ lòng người, khiến lòng con người cảm thấy thanh thản và yêu cuộc sống hơn. Như thế, theo Trịnh Công Sơn, tấm lòng chân thành là điều cần thiết giúp lòng người có thể gặp nhau và làm vui lòng nhau.
Thiên Chúa khi dựng nên con người, Ngài ban cho con người có một dáng vẻ bên ngoài và một thế giới bên trong được gọi bằng ngôn ngữ bình dân đó là lòng người. Thế nhưng, không phải lúc nào dáng vẻ bên ngoài của một người cũng đồng nhất với cái lòng bên trong. Có nhiều lúc, bên ngoài có vẻ thành thật nhưng cái lòng lại gian dối, bên ngoài có vẻ tươi cười vui vẻ, nhưng lòng lại đau thắt. Ngược lại, có những lúc trong lòng rất yêu rất thương, nhưng bên ngoài lại tỏ ra giận dỗi. Thông thường, người ta thường lấy cái vẻ bên ngoài, để che đây cái lòng bên trong. Nhưng khi có một tấm lòng thành, lòng thật, thì sự thành thật sẽ thể hiện ra bên ngoài qua ánh mắt, cử chỉ lời nói. Khi có một người tấm lòng thành, người khác sẽ dễ dàng cảm nhận được điều đó qua các cử chỉ bên ngoài.
Thiên Chúa là Đấng thấu suốt cả bên ngoài lẫn trong lòng của mỗi người. Ngài thấu tỏ từ ý nghĩ, lời nói và tấm lòng của con người, cho dù con người chưa tỏ lộ ra bên ngoài. Thiên Chúa muốn mỗi chúng ta đến với Chúa và sống với Chúa, bằng một tấm lòng thành thật chứ không chỉ là những hình thức bên ngoài. Chúa muốn chúng ta làm việc tốt với một tấm lòng tốt, không tính toán, không gian dối, Chúa cũng muốn chúng ta đối xử với nhau bằng tấm lòng chân thành, không hình thức, không chiến thuật. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho thấy, những người Biệt Phái đã sống và thực hành đạo chỉ có hình thức bên ngoài mà không có tấm lòng bên trong, họ đến với Chúa bằng áo quần lượt thượt và nghi lễ dài dòng, nhưng lại không có tấm lòng. Những người Biệt Phái trách Chúa Giêsu và các môn đệ không rửa tay trước khi ăn theo tập tục của tiền nhân. Việc rửa tay của người Do Thái không phải là việc giữ vệ sinh như ngày nay, nhưng là một nghi lễ thanh tẩy. Tuy nhiên, do trở thành thói quen, người Do Thái không còn biết mình rửa tay trước khi ăn để làm gì. Chúa Giêsu đã trách họ, vì họ chỉ còn hình thức mà không có nội dung, giữ các tập tục, hình thức bên ngoài mà không có tấm lòng. Chúa muốn đưa họ trở về với ý nghĩa đích thực của tập tục này, đó là việc thanh tẩy bên ngoài, rửa tay rửa bình, nhắc cho mỗi người phải không ngừng tẩy rửa lòng mình khỏi mọi thói quen xấu từ bên ngoài và thanh tẩy những vết nhơ tính xấu và tội lỗi từ bên trong. Chúa Giêsu đã trích lời tiên tri Isaia cảnh cáo lối sống giả dối của họ: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa ta”. Hơn nữa, Chúa còn cảnh cáo lối sống hai lòng hai dạ của họ: Thay vì những Biệt Phái và Luật Sĩ phải có bổn phận dạy cho dân chúng Lời và Ý của Chúa thì họ lại không làm như vậy. Họ đã khéo đánh tráo vào công việc và lời nói của mình, thay vì nói Lời của Chúa, họ lại nói lời của họ; thay vì làm việc làm của Chúa, họ lại làm việc theo ý riêng cá nhân và dạy người khác làm. Họ đã đánh tráo cả vị trí của Thiên Chúa để thay thế mình vào chỗ của Thiên Chúa.
Điểm thứ hai Chúa trách các Biệt Phái về lòng gian của họ. Họ đã bẻ quẹo Lời Chúa để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Luật Chúa đòi mọi người phải thờ cha kính mẹ, hết lòng thảo hiếu phụng dưỡng các Ngài nhất là khi tuổi già sức yếu. Tuy nhiên, các Luật Sĩ lại mượn Thiên Chúa để bẻ quẹo luật Chúa, khi họ dạy người khác rằng: Ai tuyên bố dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì không phải nuôi dưỡng phụng kính cha mẹ nữa. Như thế, có nhiều kẻ không muốn phụng dưỡng cha mẹ, kẻ ấy chỉ cần tuyên bố sẽ dâng hết tài sản cho Chúa. Chắc chắn Chúa không chấp nhận của lễ dâng cho Ngài từ một kẻ bất hiếu như thế. Chúa cũng không muốn một cái lòng gian dối, quanh co, luồn lách trách nhiệm như vậy. Chúa mong muốn, trước hết mỗi người phải có một tấm lòng thành đối với cha mẹ và lòng trung đối với Thiên Chúa, không thể bỏ qua bên nào, cũng không thể chỉ chọn một trong hai. Đồng thời, Chúa cũng không chấp nhận con người tìm cách thay thế luật Chúa bằng những tập tục gian dối của mình, hoặc chỉ chú trọng đến tập tục truyền thống mà làm lu mờ luật Chúa. (Dựa theo ý bài chia sẻ của Đức Cha Giuse ngày thường huấn 06/2/2018)
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận thảo hiếu với ông bà tổ tiên. Việc nhớ đến ông bà tổ tiên cũng phải đặt trên một tấm lòng thành. Lời Chúa hôm nay soi rọi cho Chữ Hiếu của người Việt Nam, việc hiếu thảo phải được thể hiện một cách đặc biệt qua các dịp lễ tết, bằng việc trân trọng gìn giữ nét đẹp truyền thống của gia đình. Kế đến, là việc thảo kính vâng lời và làm vui lòng các bậc sinh thành và tiền nhân.
Bài đọc một khuyên chúng ta: “Hãy ca tụng công đức của các bậc tiền nhân vì bao công lao khó nhọc và phúc ấm các ngài để lại cho con cháu”. Hãy gìn giữ và làm phát huy những giá trị tốt đẹp, là tài sản quý giá mà cha ông để lại. Gần đây, có một vài tiến sĩ đề nghị bỏ cái tết cổ truyền, với lý do là nghỉ tết nhiều, sẽ ảnh hưởng đến kinh tế. Nói như thế chứng tỏ, những nhà tiến sĩ này đã quên các giá trị đạo đức gia đình, truyền thống và văn hóa dân tộc, để chỉ nghĩ đến tiền (kinh tế). Ngày tết không đơn thuần là ngày nghỉ, vì ngày tết còn là ngày mỗi người có thể đụng chạm đến hồn dân tộc và cảm nhận được văn hóa lâu đời của một dân tộc, là dịp để mọi người sống, cảm nhận và vun đắp cho truyền thống gia đình. Vì vậy, không có ngày nào trong năm mà mỗi người cảm thấy thiêng liêng, quan trọng như đêm ba mươi và sáng mồng một tết. Cũng vì sự thiêng liêng quan trọng này, mà cha mẹ ở nhà mong con cháu về xum họp, mọi người đi xa đều mong về đến nhà, để xum họp với ông bà, mẹ cha và nhất là để thắp cho ông bà, tổ tiên một nén hương, thể hiện tấm lòng thảo hiếu biết ơn. Như thế, có bài học biết ơn nào hay hơn bài học thực tế này trong ngày tết; có tình cảm nào thiêng liêng, ấm cúng cho bằng tình cảm của gia đình xum họp trong ngày đầu năm. Chính trong dịp xum họp đầu năm này, mà các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình được lưu truyền cho con cháu. Cha mẹ, ông bà hạnh phúc vì con cháu thành đạt, xum họp đông đủ, con cháu tự hào, trân trọng, duy trì và làm phát huy truyền thống gia đình. Tuy nhiên, lòng thảo hiếu biết ơn, tình cảm gia đình, cuộc xum họp ngày xuân chỉ thực sự trở nên có ý nghĩa, khi mỗi người trở về với mẹ cha và gia đình bằng một tấm lòng thành. Thiếu tấm lòng thành, sự thảo hiếu chỉ còn là hình thức, thiếu tấm lòng, ngày xum họp gia đình, anh em chỉ còn là một màn kịch, bằng mặt mà không bằng lòng. Có nhiều gia đình ngày tết cha mẹ anh em gặp nhau mà không mừng, gần nhau mà không quý, còn có sự hiện diện của cha mẹ, anh em mà không biết trân trọng.
Thư Ephêsô dạy chúng ta duy trì bầu khí ấm cúng, truyền thống của gia đình mọi ngày trong đời sống bằng cách: “Hãy vâng lời và thảo hiếu cha mẹ, để ngươi cũng được trường thọ trêm mặt đất này”. Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho, thảo hiếu cha mẹ trước hết bằng sự tôn kính và vâng lời các ngài, vì các Ngài thay mặt Chúa, cộng tác với Chúa để sinh thành, nuôi dưỡng dạy dỗ và yêu thương chúng ta. Vì vậy, đạo làm con là phải biết vâng nghe lời dạy của mẹ cha, vì các ngài luôn muốn điều tốt và làm điều tốt cho ta. Ta yêu mến kính trọng các ngài, đừng hắt hủi khinh dể khi các ngài tuổi cao sức yếu, vì các ngài đã một đời hi sinh vất vả cho ta ngày hôm nay và vì các ngài hết mực yêu thương không tiếc gì với ta. Nay cha mẹ tuổi cao, ta có bổn phận phải làm cho tuổi già của các ngài được an vui hạnh phúc. Đừng khi nào tỏ ra bội nghĩa vong ân, hỗn láo hay cử xử tệ bạc với cha mẹ vì đó là điều đáng bị nguyền rủa và bị Thiên Chúa kết án.
Lời Chúa ngày tết hôm nay nhắc cho những người đang lơ là với cha mẹ và gia đình, cần biết điều chỉnh lại lòng mình. Gạt bỏ những gì là ấm ức tức tối, bất hòa bất đồng, những gì là bằng mặt mà không bằng lòng, để vun đắp lại tình nghĩa gia đình và tình cảm mẹ cha anh em. Vì, các thứ khác trên đời này có thể mua bằng tiền, nhưng cha mẹ, anh em và hạnh phúc gia đình không thể mua bằng tiền, mà phải đổi bằng hy sinh có khi là của cải, kể cả công danh sự nghiệp mới có được thứ hạnh phúc ấy - hạnh phúc gia đình. Amen.
21. Suy niệm Lời Chúa Mồng Hai Tết—Kính nhớ Tổ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ.
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Ngày tết là dịp để chúng ta đoàn tụ với gia đình. Ai cũng mong được về cùng chung với gia đình bên mân cơm. Cùng dâng cho nhau ly rượu chúc mừng năm mới. Bữa cơm tết với gia đình thật ấm cúng, thật đáng quý biết bao. Vì ở giữa cuộc đời bon chen, không ở đâu bình yên bằng gia đình. Không ở đâu có tình yêu chân thật bằng cha mẹ con cái yêu thương nhau. Gia đình là tổ ấm, là điểm tựa của mỗi người, dù đi đâu thì gia đình vẫn luôn sẵn sàng là bến đỗ để ta trở về.
Thế nhưng, để hiểu điều này đôi khi phải chờ đến khi rời xa gia đình, lúc ấy chúng ta mới nuối tiếc về mái ấm gia đình mà chúng ta đã từng làm lơ hay hững hờ:
Khi rời xa mới biết ý nghĩa của gia đình
Mới biết niềm vui trong từng cử chỉ
Mới biết hạnh phúc phải đâu nào xa xỉ
Vì chỉ một nụ cười cũng đủ ấm con tim…(Kim Liên)
Có những người khi xa gia đình mới cảm thấy thương cha thương mẹ. Họ mới cảm nhận được “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Xa cha, nhớ mẹ, họ chỉ mong cho các ngài bình yên hạnh phúc trong lời kinh nguyện mà thôi:
Giữ mãi gia đình trong một góc riêng
Để nhớ để mong để âm thầm cầu nguyện:
- Xin nỗi buồn đừng hằn trên mặt mẹ
Và nụ cười đừng chia cách môi cha… (Kim Liên)
Khi rời xa khỏi vòng tay nồng ấm của cha mẹ, người ta mới thấy hụt hẫng, bâng khuâng. Tuy trong đời họ có tiền, có địa vị nhưng lại thiếu một tình yêu ôm ấp bảo ban. Thế nên, có những người thầm ước được trở về tuổi thơ, để nơi đó họ được sống trong vòng tay yêu thương của mẹ cha:
Thời gian thấm thoắt trôi đi,
Tìm đâu một vé trở về tuổi thơ?
Một thời lém lỉnh ngây ngô,
Sống trong đùm bọc bến bờ yêu thương. (ST)
Tuổi thơ ai cũng hạnh phúc. Cái hạnh phúc là được ở trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Cái hạnh phúc nồng ấm khi được cha mẹ “Nâng như nâng trứng – Hứng như hứng hoa”. Cái hạnh phúc được làm nũng, được ăn vạ và được mẹ vỗ về. Đó cũng là món nợ ân tình mà những người làm con phải trả cho các bậc sinh thành đến suốt cuộc đời.
Con nợ mẹ cha những ngày vui bất tận
Rong ruổi suốt cuộc đời không định hướng tương lai
Con nợ những chiếc hôn còn nóng hổi vành môi
Trong cơn điên loạn giữa bạc tiền mến mộ
Nợ ân nghĩa mẹ cha đòi hỏi chúng ta phải trả cho suốt cuộc đời. Nếu các ngài đang trong tuổi già lầm lũi cô đơn thì hãy chăm nom, săn sóc, phụng dưỡng tuổi già. Nếu các ngài là những cha mẹ trẻ đang bươn chải một nắng hai sương thì phận làm con, hãy chia sẻ gánh nặng với các ngài trong khả năng của mình. Và nếu các ngài đã qua đời thì xin dành cho các ngài những nén hương với lời nguyện cầu tha thiết cho các ngài sớm hưởng phúc thiên đàng bên Chúa.
Một nén hương nồng nàn lặng lẽ
Nỗi lòng con gửi gắm những niềm thương
Dù bao năm dù có hóa vô thường
Công sinh dưỡng vẫn là công lớn nhất.
Nhưng dù muốn dù không khi nói đến tình nghĩa mẹ cha, ai cũng cảm thấy mình còn thiếu sót, còn nhiều lỗi lầm với mẹ cha. Có những người đã từng cãi lời mẹ cha. Có những người đã từng quên lãng mẹ cha để mải miết đi tìm danh vọng. Có những người còn bất hiếu với mẹ cha qua những việc làm thất đức, đáng xấu hổ với “liệt tổ, liệt tông”. Đó là lý do khiến bao người khi nghĩ đến mẹ cha lại cảm thấy nuối tiếc về thời gian bên cha mẹ, nuối tiếc vì những việc làm đã gây đau khổ cho cha mẹ. Thế nên, có ai đó nói rằng:
Bài học đầu đời thật vất vả mẹ cha ơi!
Xin cho con im lặng để mắt con cay
Xin cho con lạnh lùng để con không bật khóc
Xin cho con góp nhặt để còn chút lương tâm
Xin cho con chuộc lỗi dù biết đã muộn màng.
Hôm nay Mồng Hai Tết, ngày cầu cho ông bà cha mẹ. Ai cũng phải nợ ân, nợ nghĩa ông bà cha mẹ. Hãy dùng thời gian hôm nay để nói lên lòng hiếu kính của chúng ta với các ngài. Hãy dâng cho các ngài lời nguyện cầu với lòng biết ơn mong sao các ngài luôn hạnh phúc bên đàn con cháu. Chúng ta hãy dành thời gian hôm nay để sum vầy bên các ngài quanh cầu chuyện đầu năm. Cùng chúc mừng các ngài vạn sự cát tường.
Xin cầu chúc cho các gia đình một ngày ngập tràn niềm vui sum vầy bên những người thân yêu nhất. Cầu chúc cho mọi nhà rộn ràng tiếng cười vui bên mâm cơm gia đình. Xin Chúa chúc lành cho ngày sum họp hôm nay được trọn niềm trong Chúa và bên nhau. Amen.
22. MỒNG HAI TẾT KỶ HỢI 2019: KÍNH NHỚ TỔ TIÊN ÔNG BÀ CHA MẸ
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Ngày xưa, với nền văn hóa nông nghiệp, có nhiều thời gian nông nhàn, việc nghỉ tết, ăn tết, vui xuân kéo dài cả tháng. Ngày nay xã hội công nghiệp, mọi sự đều phải rút ngắn thời gian, vì thế những ngày nghỉ tết, vui tết cũng bị rút ngắn lại. Cùng với sự rút ngắn thời gian, các giá trị văn hóa, tập tục truyền thống ngày tết cũng bị đơn giản lại hoặc bị bào mòn. Ví dụ: Trước đây ngày ba mươi và mồng một tết hầu như không ai ra khỏi nhà, mọi người dành trọn vẹn cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và gia đình. Đêm ba mươi cùng với việc tạ ơn trời, người Việt nam còn mời tổ tiên về ăn tết. Vì vậy đêm ba mươi, mọi người đều phải quy tụ trước bàn thờ tổ tiên để đón ông bà. Ngày mồng một, nén nhang, hoa trái, bánh kẹo đầu tiên được dâng lên tạ ơn trời, kế đến là cúng ông bà với lòng biết ơn để xin trời đất, ông bà phù hộ. Sau đó trọn ngày mồng một dành để chúc tuổi ông bà nội ngoại hai bên. Từ mồng hai trở đi sẽ là ngày đi chúc tuổi chú bác cô dì, họ hàng.
Ngày nay, các sự kiện được tổ chức vào đêm ba mươi để kéo mọi người ra khỏi nhà, cướp mất giờ phút linh thiêng giao thừa bên gia đình. Có nhiều người còn “trốn tết” bằng những cuộc du lịch dài ngày ngay từ ngày mồng một; những cuộc thăm viếng ông bà cha mẹ, họ hàng chỉ còn là thủ tục phải làm cho qua lần. Cứ như thế, tương quan gia đình ngày càng lỏng lẻo, liên hệ họ hàng ngày càng mờ nhạt, dẫn đến tình cảm và bổn phận thảo hiếu cũng bị vơi cạn, lâu dần các giá trị đạo đức cũng bị bào mòn. Có lẽ vì thế, thỉnh thoảng trên mạng lại loan truyền những đoạn clip con cái bạo hành cha mẹ, bất hiếu đuổi cha mẹ ra đường, đùn đẩy trách nhiệm chăm lo cho cha mẹ.
Ngày mồng một chúng ta được mời gọi hướng tâm hồn lên Chúa với tâm tình tạ ơn và phó dâng năm mới cho Chúa, cầu xin cho gia đình được an vui. Bước qua mồng hai tết, Giáo Hội nhắc chúng ta bổn phận kính nhớ và bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người còn sống và những người đã qua đời.
Sách Huấn ca dạy chúng ta bày tỏ lòng biết ơn bằng việc học hỏi thực hành những điều cha ông truyền dạy và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp các ngài để lại: Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi các vị danh nhân cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ. Công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Như thế, lòng biết ơn đối với tiền nhân là tiếp nối truyền thống đạo đức của cha ông mà các ngài đã dày công xây dựng, vun đắp cho gia đình và dòng họ. Là hậu sinh, chúng ta được mời gọi lưu giữ và bảo vệ thanh danh cho gia đình và dòng họ, giữ gìn nếp sống đạo hạnh mà cha ông đã tạo lập nên. Trong xã hội hiện đại, gia đình nào duy trì và vun đắp được những giá trị đạo đức truyền thống, như việc thảo hiếu, lễ phép, kính trên nhường dưới, trên thuận dười hòa, gia đình xum họp, con cháu thảo hiền, gia đình dòng họ đó sẽ êm ấm hạnh phúc. Cũng theo sách Huấn Ca: Khi các gia đình sống thư thế là chúng ta thể hiện lòng biết ơn đối với tiền nhân cách tốt đẹp nhất và cũng là cách chúng ta làm vẻ vang tổ tiên của gia đình hơn là xây các mồ mả cho to cho đẹp.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu phản đối lối sống bất hiếu vô ơn đối với cha mẹ của những người Do Thái. Những người Biệt phái đến trách Chúa Giêsu vi phạm truyền thống của tiền nhân khi không thanh tẩy chén bát, đồ dùng trước khi dùng bữa. Chúa Giêsu chỉ cho những người này thấy giá trị truyền thống đích thực, không phải là các tập tục rửa tay, rửa bình, nhưng là phải chu toàn bổn phận thảo hiếu với ông bà cha mẹ. Chính việc thảo hiếu, tôn kính, biết ơn ông bà cha mẹ mới là giá trị truyền thống tốt đẹp và hơn nữa đó còn là giới răn lề luật của Thiên Chúa. Các luật sĩ và biệt phái đã đưa ra một điều luật thay thế bổn phận thảo hiếu là: Khi một người tuyên bố dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì được miễn mọi bổn phận phụng dưỡng báo hiếu, thờ cha kính mẹ. Việc dâng tặng lại cho nhà Chúa hoa trái và thành quả lao động của mình là điều tốt, đáng khuyến khích, nhưng Thiên Chúa không chấp nhận lễ dâng với sự vô ơn bất hiếu với cha mẹ như thế.
Chúa Giêsu đã phản đối điều luật này vì nó vi phạm trầm trọng đến giới răn thứ bốn của Thiên Chúa: Hãy thảo kính cha mẹ. Theo quan điểm của Chúa Giêsu, không có bất cứ thứ gì có thể đánh đổi hoặc thay thế được giới răn này của Thiên Chúa. Vì cha mẹ chính là những người được Thiên Chúa cho cộng tác với Chúa để sinh ra chúng ta. Cũng qua cha mẹ, Thiên Chúa tiếp tục yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ chúng ta. Vì thế, tất cả mọi người đều có bổn phận hiếu thảo, thờ cha kính mẹ, ai không chu toàn bổn phận này thì cũng là lỗi giới răn Thiên Chúa.
Qua thư Ephêsô, thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta bổn phận đối với cha mẹ: Hỡi những người làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ, đó là điều răn thứ nhất kèm theo lời hứa: Để ngươi được hưởng thọ trên mặt đất này. Vâng lời cha mẹ không chỉ thể hiện sự thảo hiếu ngoan hiền đối với cha mẹ, mà vì cha mẹ là những người luôn yêu thương ta, hy sinh cả cuộc đời cho ta, chỉ dạy ta những điều tốt lành. Cha mẹ nhiều kinh nghiệm hơn ta và luôn muốn điều tốt cho ta. Nghe lời cha mẹ, chúng ta sẽ học được sự khôn ngoan và trưởng thành.
Mỗi người chúng ta mắc nợ cha mẹ về công sinh thành dưỡng dục. Kể sao hết công cha nghĩa mẹ vì chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và nhiều năm dài nuôi ta khôn lớn; đong sao hết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, sức lực các ngài đã phải hao mòn vì con cái; đếm sao được biết bao đêm mất ngủ, biết bao ngày lo toan khi ta đau yếu bệnh tật vv. Phận làm con, khi khôn lớn, ta có bổn phận phải chia sẻ gánh nặng gia đình với cha mẹ, chia sẻ với các ngài những lo toan của cuộc sống kinh tế gia đình, để các ngài bớt phần vất vả. Khi cha mẹ lớn tuổi, chúng ta phải chăm sóc, yêu thương, kính trọng và phục vụ các ngài. Khi các ngài yếu đau, trí nhớ giảm sút, con cái phải hết sức kiên nhẫn và lễ phép với cha mẹ, vì khi ta còn nhỏ, các ngài cũng đã hết sức kiên nhẫn và quảng đại với chúng ta. Cha mẹ đã đổ biết bao nước mắt vì chúng ta, khi cha mẹ về già, chúng ta phải đem niềm vui đến cho các ngài đừng để các ngài phải đổ thêm những giọt nước mắt khổ đau buồn tủi nữa.
Thưa quý OBACE, ngày tết là ngày đoàn viên xum họp gia đình, ông bà, cha mẹ, con cháu quây quân bên nhau. Gia đình nào cũng mong ước có một bầu khí ngày tết xum vầy như thế. Tuy nhiên, không phải tất cả các ông bà, cha mẹ đều có được niềm vui hạnh phúc trọn vẹn bên con cháu. Thời nay, con người trọng tiền hơn trọng tình. Vì thế, nhiều người con đã rất thiết sót bổn phận với cha mẹ, bổn phận thảo hiếu phụng dưỡng cha mẹ được tính toán theo giá đất, được quy ra thành tiền. Có nhiều người phụng dưỡng cha mẹ không phải vì biết ơn, mà vì ngóng trông phần hơn, khi chia tài sản của cha mẹ. Khi cha mẹ nghèo khó, hết tiền, hết của, con cái đùn đầy nhau trách nhiệm trông coi, nuôi dưỡng. Có những người con đem cha mẹ mình quăng ra đường hoặc hắt hủi cha mẹ như con ăn đầy tớ trong nhà.
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội nhắc lại bổn phận kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ, để mỗi người rà soát lại xem mình đang chu toàn bổn phận thảo hiếu cách vuông tròn chưa. Chắc chắn cha mẹ sẽ không sống mãi với chúng ta, vì thế ai còn cha mẹ hãy làm cho cha mẹ cảm thấy an vui hạnh phúc trong tuổi già. Những ai đã không chu toàn hoặc đã từng đối xử tê bạc với cha mẹ, cần điều chỉnh lại thái độ của mình với cha mẹ.
Ngày hôm nay cũng nhắc cho chúng ta nhớ đến các bậc đã qua đời bằng việc chu toàn việc đọc kinh, cầu nguyện, xin lễ và nhắc cho con cháu cầu nguyện thường xuyên cho ông bà. Nhắc cho con cháu biết ơn ông bà cách riêng các dịp giỗ chạp; chăm sóc cho bàn thờ tổ tiên trong gia đình, đừng để tắt hương lạnh khói vì sự vô ơn hay vô tình của mình. Hôm nay ta chu toàn bổn phận thảo hiếu, biết kính trong cha mẹ ông bà, sau này con cái cũng theo gương đó mà kính trọng biết ơn ta.
Xin Chúa ban niềm vui và bình an xuống trên tổ tiên, ông bà cha mẹ của chúng con, vì các ngài dã một đời hy sinh vất vả vì chúng con. Xin Chúa ban cho các gia đình được anh phúc trên thuận dưới hòa, con cháu thảo hiền Amen.
23. Ngày Mồng hai Tết Giáp Ngọ: Sống Chữ Hiếu
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện.
Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng: “ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba “. Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối: ” Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”. Một cậu con trai khác cau cau lông mày: “Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao ? “. Cô con dâu trưởng phán một câu: “Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện “.
Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ. Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn. Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người, nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.
Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ. Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời. Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang ?… Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời: ” Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền ?”.
Đám người đang khóc mếu, cãi nhau… đột nhiên im bặt. Rồi từng người một lẻn ra ngoài…
Đúng là “một mẹ nuôi được 10 con nhưng 10 con lại không nuôi được một mẹ”. Cho dù câu ca dao xưa dạy rằng:
Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
Thế nhưng, lời dạy ấy dường như chỉ dừng lại nơi môi miệng mà rất khó mang ra thực hành. Dẫu biết rằng đi khắp thế gian cũng không có tình nghĩa nào cao sâu cho bằng tình cha tình mẹ yêu con. Dẫu biết rằng không ở đâu có tình yêu chân thành cao cả như tình cha mẹ yêu con.
Con đi khắp vạn nẻo đường
Giờ con mới hiểu tình thương mẹ hiền
Người con yêu quý nhất trên đời
Chính là mẹ đó tuyệt vời tình sâu
Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu. Ngày xuân là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:
Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy
Núi rất cao và biển rất tuyệt vời
Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở
Và trái tim nhân ái làm người
Đây là dịp con cái biểu lộ chữ hiếu qua những hành vi không chỉ dâng hương kính bậc tổ tiên mà còn khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành.
Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ
Phong sắc hồng hào tâm thể khang an
Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng
Nên quá ít thời gian hầu cận mẹ
Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể
Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây
Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây
Mừng tuổi mẹ kính dâng thêm một tay
Như thế, mùa xuân còn là mùa của đoàn tụ, của sum họp. Mùa xuân không chỉ có không gian rạng ngời mà lòng người cũng tràn ngập niềm vui vì có nghĩa tình đằm thắm của tình cha mẹ, ông bà, anh em một nhà sum vầy bên nhau. Ước chi mùa xuân mãi ở lại đây để tình nghĩa gia đình mãi hòa hợp yêu thương, để con cháu mãi sum vầy bên cha mẹ và anh em hòa hợp bên nhau.
Xin Chúa làm chủ thời gian xin ban cho nhân gian một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Amen
24. MỒNG HAI TẾT ĐINH DẬU 2017 – KÍNH NHỚ TỔ TIÊN
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Một vài năm gần đây, vào dịp cuối năm, trên mạng có nhiều đoạn clip để nhắc cho mọi người trở về xum họp gia đình trong dịp tết. Có những đoạn film rất xúc động với hình ảnh cha mẹ già, ngày ngày đợi con đi làm ăn xa trở về đoàn tụ. Cũng có nhiều lời kêu gọi: Cha mẹ ngày càng già, hãy trở về xum họp với mẹ cha trong ngày tết. Ngày tết là ngày của gia đình, ngày xum họp không chỉ với mẹ cha, anh em để bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn, nhưng người Việt Nam còn tin rằng: Ngày tết cả ông bà tổ tiên, những người đã khuất cũng trở về gia đình xum họp với con cháu. Ngày nay, xã hội có xu hướng tổ chức những tụ điểm vui chơi vào đêm giao thừa và mồng một, để kéo mọi người ra đường đón tết. Việc làm này có lẽ đi ngược lại với truyền thống Việt Nam, đêm ba mươi và mồng một, mọi người luôn gắn liền với gia đình. Không biết có phải vì sự thay đổi này dẫn đến sự lỏng lẻo trong tương quan các gia đình? Bên cạnh đó, có những người đã trốn tết bằng cách đi du lịch vào đúng ngày ba mươi mồng một, với lý do cả năm bận rộn, tranh thủ những ngày tết để đi nghỉ ngơi.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa có đăng một đoạn nhận xét rằng: Ngày tết bỏ nhà đi du lịch không ở với mẹ cha là bất hiếu. Đoạn nhận xét này đã có phản ứng mạnh từ nhiều thành phần. Có người ủng hộ, có người phản đối. Người phản đối cho rằng, nhu cầu nghỉ ngơi là cần thiết, đưa cả gia đình đi chơi cũng là điều hay… Dù đồng tình với nhận xet trên hay không đồng tình, người ta cũng thấy rằng, mối tương quan gia đình ngày nay đang bị rạn nứt, tình cảm gia đình bị lỏng lẻo, các giá trì văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình đang bị mai một.
Giáo Hội công Giáo Việt Nam đã đón nhận những tập tục và những giá trị văn hóa tốt đẹp của truyền thống để đưa vào phụng vụ ngày tết. Giáo hội dạy giúp chúng ta duy trì và phát triển những giá trị tốt đẹp về gia đình trong truyền thống văn hóa cho phù hợp với Tin Mừng. Ngày Mồng một tết, chúng ta hướng về Thiên Chúa là cội nguồn của vũ trụ và sự sống, để tạ ơn tôn vinh Chúa, cũng như xin ơn bình an cho năm mới. Hôm nay mồng hai tết, Giáo hội hướng chúng ta về cội nguôn của gia đình để kính nhớ tổ tiên ông bà và các đấng sinh thành dưỡng dục, đồng thời làm sáng tỏ và vun đắp cho các giá trị tốt đẹp của đời sống mỗi gia đình.
Bài đọc sách Huấn Ca mời gọi chúng ta giữ gìn nề nếp truyền thống tốt đẹp của gia đình qua lời văn rất hay: Chúng ta hãy ca tụng các vị danh nhân cũng là cha ông chúng ta qua các thế hệ, công đức các ngài không chìm vào quên lãng, dòng dõi các ngài là lũ cháu đàn con. Đọc những lời dạy của Kinh Thánh trong bầu khí ngày tết, mời gọi chúng ta luôn sống tâm tình biết ơn đối với ông bà cha mẹ. Các ngài là những người đã dày công sinh thành dưỡng dục chúng ta nên người hôm nay. Kể sao hết được sự vất vả của người cha dầm mưa dãi nắng, lo cơm, kiếm gạo về cho gia đình, nuôi cho con khôn lớn; nói sao cho vừa với sự hy sinh đêm ngày để lo cho con học hành bằng anh bằng chị. Diễn tả sao hết sự vất vả tần tảo của người mẹ, thân cò lăn lội, mang nặng đẻ đau, lo cho con từng li từng tí, từng ngày từng giờ. Cho dù con còn nhỏ hay khôn lớn, thì trong mắt mẹ cha, nó vẫn luôn là đứa bé cần được yêu thương chăm sóc. Cho dù vất vả truân chuyên trăm bề, mẹ cha không bao giờ kể lể, tính toán với con cái, các ngài luôn dành cho con lòng bao dung độ lượng. Cho dù con cái ngỗ nghịch phá phách, làm đau lòng mẹ cha, bất hiếu bất kính với cha mẹ, cha mẹ vẫn sãn lòng để yêu thương tha thứ và ôm con vào lòng. Vì tất cả những công lao hy sinh vất vả ấy, phận làm con không bao giờ được phép quên và cũng không bao giờ được vô ơn bạc hiếu với các ngài.
Cha mẹ không mong đợi gì nhiều nơi con cái, các ngài chỉ mong muốn được nhìn thấy con cháu lớn khôn, thành nhân, thành đạt. Niềm vui của cha mẹ ông bà là được nhìn thấy con cái cháu chắt xum vầy, thấy con cháu yêu thương nâng đỡ lẫn nhau. Không gì đau khổ bất hạnh cho bậc cha mẹ, khi thấy các con kèn cựa, cãi vã, giận hờn lẫn nhau. Ngày tết là ngày của xum họp gia đình, các bậc ông bà tuổi cao sức yếu không mong đồng quà tấm bánh, nhưng chỉ mong được gặp con cháu xum họp và lấy niềm vui tiếng cười của con cháu, làm niềm vui và hạnh phúc cho tuổi gìa của mình. Chính vì thế, ngày tết đừng để cha mẹ mòn mỏi đợi chờ, cũng đừng gây đau khổ cho cha mẹ bằng những chuyện anh em bất hòa, nhưng hãy lấy tình yêu thương tha thứ để cư xử với nhau, đó là cách đem đế hạnh phúc an vui cho ông bà cha mẹ.
Thánh Phaolô trong thư Ephesô khuyên dạy: ‘‘Các kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ, đó là điều răn thứ nhất. Cha mẹ chính là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng và sinh thành, đưa chúng ta vào đời. Con cái là hoa trái tình yêu của cha mẹ. Mỗi chúng ta được cưu mang trong tình yêu, nuôi dưỡng không chỉ bằng sữa hoặc cơm bánh, nhưng được lớn lên trong tình yêu. Vì thế, việc tôn kính vâng lời trong yêu mến, chính là thái độ đền đáp tình yêu thương cha mẹ đã dành cho chúng ta. Khi tôn kính vâng lời cha mẹ, là chúng ta tôn kính vâng lời Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa đã cậy nhờ cha mẹ để sinh thành và dưỡng dục chúng ta. Trái lại bất kính và không vâng lời, không chỉ là bất hiếu, làm tổn thương đến tình yêu của cha mẹ, mà còn là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Ngày nay, con cái dường như được học hành nhiều hơn thế hệ cha mẹ ngày xưa, hiểu biết nhiều về khoa học và công nghệ nhiều hơn các ngài, nhưng lại cư xử rất tệ với cha mẹ, khinh chê, bất kính bất hiếu với cha mẹ. Các ngôi nhà của các gia đình, sang trọng, đẹp đẽ, có đầy đủ tiện nghi, nhưng dường như không có chỗ cho cha mẹ. Họ sợ cha mẹ già bôi bẩn ra nhà, sợ hôi nhà, không cho ông bà gần con cháu, vì sợ bẩn, sợ hôi, họ hắt hủi khinh dể cha mẹ già, chỉ mong ông bà ra khỏi nhà.
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay cảnh báo về thái độ bất hiếu bất kính nhân danh bất cứ lý do gì, kể cả nhân danh việc đạo đức. Những người Do Thái ngày xưa đã nhân danh Thiên Chúa để từ chối bổn phận nuôi dưỡng chăm sóc cho cha mẹ. Họ tự đặt ra một truyền thống cho rằng: Những người tuyên bố dâng cúng của cải cho Thiên Chúa, thì không phải phụng dưỡng cha mẹ nữa. Chúa Giêsu đã phản đối và chỉ trích truyền thống vô đạo đức này và lặp lại giáo huấn của Thiên Chúa: Ngươi phải thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ sẽ bị xử tử. Khi nhấn mạnh bổn phận thờ cha kính mẹ, có thể nói Chúa Giêsu nâng bổn phận của con cái thảo hiếu với ông bà cha mẹ, trở thành một đạo, đó là đạo hiếu, đạo làm người. Ai không chu toàn được bổn phận đạo hiếu, đạo làm người, thì cũng không thể chu toàn đạo với Thiên Chúa. Cũng vậy, chỉ những ai chu toàn đạo hiếu với cha mẹ trần gian thì mới có thể biết và chu toàn bổn phận thảo hiếu với Thiên Chúa là Cha trên trời.
Thưa quý OBACE, tôn kính thảo hiếu, biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ là điều giáo hội dạy, là đạo lý của người Việt chúng ta. Tuy nhiên, trong cuộc sống xã hội, chúng ta vẫn còn thấy nhiều cảnh trái tai gai mắt, khi con cháu đối xử tệ bạc với ông bà, bất hiếu bất kính và hành hung đánh đập ông bà cha mẹ, là những Đấng bậc sinh thanh dưỡng dục mình. Chúng ta vẫn thấy những gia đình đông con, nhưng con cháu đùn đẩy bổn phận phụng dưỡng cha mẹ già, họ tính toán thiệt hơn với ông bà cha mẹ từng đồng. Ngày xưa cha mẹ đã hết sức kiên nhẫn để yêu thương dậy dỗ chúng ta nên người, không hề tính toán thiệt hơn, nhưng đến nay dường như con cái lại không kiên nhẫn yêu thương khi cha mẹ tuổi cao sức yếu, khi trí khôn trí nhớ các ngài giảm sút.
Cử hành ngày Tết kính nhớ tổ tiên hôm nay, nhắc mỗi chúng ta biết ơn ông bà cha mẹ của mình và cũng xét lại bổn phận và lòng thảo hiếu của mỗi chúng ta đối với các ngài. Nếu chưa chu toàn vuông tròn, thì hãy tận dụng thời gian này, để đền đáp công ơn cha mẹ, vì các ngài không còn ở với chúng ta lâu nữa. Đồng thời mỗi người cũng cần vun đắp cho gia đình mình bằng tình yêu, sự quảng đại và tha thứ, để gia đình thực sự đầm ấm yên vui không chỉ trong những ngày tết mà là suốt đời.
Cầu chúc cho mọi gia đình được được an vui thuận hòa, con cháu ngoan hiền, gia đình êm ấm và là dấu chỉ lòng thương xót Chúa cho xã hội hôm nay Amen.
25. MỒNG HAI TẾT ẤT MÙI 2015: BIẾT ƠN TỔ TIÊN – ÔNG BÀ CHA MẸ
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Kính thưa quý OBACE, tết là ngày xum họp gia đình, là dịp mọi người dù đi làm ăn nơi phương xa thì cũng thu xếp để kịp về nhà vào những ngày này để quây quần bên nhau. Có dịp đi dọc quốc lộ trong những ngày vừa qua có thể thấy được sự khao khát trong ánh mắt của anh chị em công nhân chờ đón những chuyến xe cuối năm đề trở về nhà. Chính vì khao khát bằng mọi giá phải có mặt ở nhà dịp tết mà nhiều khi họ chấp nhận bị nhồi nhét trên những chiếc xe chật chội, cũ kỹ. Trở về nhà trong dịp đầu năm là về với gia đình, về với mẹ cha, dù nhiều người cha mẹ, ông bà đã không còn, nhưng họ vẫn muốn trở về ngôi nhà tổ, nơi ông bà cha mẹ đã từng sinh sống để thắp lên một nén nhang, để bày tỏ tấm lòng thành của con cháu biết ơn mẹ cha.
Giáo Hội đã dành ngày mồng hai tết để dạy chúng ta biết ơn các bậc sinh thành, dưỡng dục; nhắc chúng ta nhớ đến các bậc tổ tiên, những người đã khuất và bày tỏ lòng hiếu kính đối với ông bà cha mẹ là những người còn đang sống. Đã từ lâu, do cách sống và giải thích sai của người có đạo, khiến nhiều người ngoại đạo nghĩ rằng : người Công giáo là những người bất hiếu, không thờ cúng ông bà tổ tiên. Chúng ta nghĩ gì khi người ngoại trách chúng ta như thế ? Và, chúng ta cần phải sửa lại cách sống thế nào để giải thích cho mọi người về giáo lý của đạo chúng ta?
Người Công giáo có được “thờ cúng ông bà tổ tiên” hay không ? Tức là, cúng giỗ ông bà có được phép hay không ? Thưa - thờ cúng ông bà là bổn phận thảo hiếu buộc tất cả mọi người có đạo cũng như không có đạo phải chu toàn. Việc thờ cúng ông bà hoàn toàn khác với việc thờ phượng Thiên Chúa. Thờ cúng công bà là đòi buộc của đạo làm con, đạo làm người. Vì đạo làm người, đạo hiếu, đạo làm con là đạo đức căn bản trong đời sống nhân bản của con người. Ai không chu toàn bổn phận đạo hiếu, đạo làm người, thì không thể chu toàn đạo nào khác được. Vì thế, việc thờ cúng ông bà, việc tổ chức cúng giỗ tổ tiên là việc bổn phận phải làm của mọi người, còn cách thức làm như thế nào thì tùy thuộc vào tập tục văn hóa của mỗi vùng, mỗi gia đình.
Đối với người Công Giáo, việc thờ cúng tổ tiên và chu toàn đạo hiếu, đạo làm con còn là đòi buộc của giới răn thứ bốn : Thảo kính cha mẹ. Trong mười giới răn của đạo Chúa, ba giới răn đầu là những đòi buộc về những bổn phận đối với Thiên Chúa, còn bảy giới răn sau là những đòi buộc trong tương quan đời sống con người thì giới răn thứ bốn đứng đầu trong bảy giới răn này. Điều đó cho thấy bổn phận thảo kính cha mẹ là bổn phận đầu tiên của con người. Cũng như các giới răn khác, khi xúc phạm đến giới răn thứ bốn này, thì cũng là một trọng tội trước mặt Thiên Chúa và là sự xúc phạm trực tiếp đến chính Thiên Chúa.
Chính vì thế, ngày mồng hai tết hôm nay, các bài đọc nhắc cho chúng ta về những đạo lý và bổn phận căn bản của con người, đó là thảo hiếu, biết ơn ông bà cha mẹ, những người còn sống và đã qua đời. Bài đọc một sách Huấn Ca nhắc nhở rằng : Chúng ta hãy ca tụng các bậc tiền nhân, có những người đã ra đi mà không được con cháu nhớ đến nữa, nhưng có những người vẫn còn lưu danh cho hậu thế vì công phúc của họ đã để lại. Người Việt nam nói rằng : Cha mẹ hiền lành để đức cho con, và nhiều người vẫn tin rằng, họ đang được hưởng phúc lộc của ông bà. Như thế, trong chúng ta ngồi đây, ai cũng được thừa hưởng phúc lộc từ nơi cha mẹ ông bà của mình, ai cũng đang mang trong mình một món nợ ân tình của mẹ cha.
Kể sao hết được những món nợ ân tình ấy. Trước hết, chúng ta đang mang trong mình dòng máu và sự sống của cha mẹ. Thiên Chúa đã cho cha mẹ chúng ta cộng tác với Ngài trong việc sinh ra chúng ta, trao tặng chúng ta sự sống. Vì món quà sự sống mà mỗi người đang có là từ Thiên Chúa được trao qua mẹ cha nên ơn sinh thành là ơn trời biển mà phận con cái không sao có thể đáp đền mẹ cha cho cân xứng. Kế đến là sự dưỡng dục và tình yêu thương cha mẹ dành cho con cái. Chính vì tình yêu thương, vì lo cho con cái có cơm ăn áo mặc mà cha mẹ phải lặn lội, vất vả sớm hôm. Kể sao hết những nỗi nhọc nhằn, những giọt mồ hôi vất vả người cha phải chịu. Đong sao hết những tháng ngày vất vả của mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và cả một đời yêu thương con. Những lúc con ốm con đau, những khi con đói vì khát sữa, những đêm con quấy vì mọc răng, biết lẫy, là những đêm mẹ cha mất ngủ. Để nuôi con khôn lớn nên người bằng anh bằng em, thì người mẹ đã phải tần tảo một nắng hai sương, thân cò lặn lội sớm hôm ; người cha phải còng lưng vất vả lo cho con có cái áo, quyển vở đến trường, và bao nhiêu nỗi nhọc nhằn khác nữa.
Vì thế, trong thư gửi cộng đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô khuyên nhủ mọi người : Hỡi những bậc làm con, hãy vâng phục cha mẹ trong Chúa, hãy thảo kính cha mẹ, đó là giới răn thứ nhất kèm theo lời hứa: để ngươi được phần phúc và sống lâu trên địa cầu. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa chúc lành và ban ơn cho những ai biết thảo hiếu với cha mẹ ông bà mình. Yêu mến và kính trọng cha mẹ ông bà bằng việc vâng nghe những lời dạy bảo, vì cha mẹ là người thương chúng ta nhất và có kinh nghiệm nhiều hơn chúng ta, nên lời dạy bảo của các ngài là những lời dạy bảo khôn ngoan. Hãy yêu mến thảo hiếu ông bà cha mẹ khi các ngài về già, khi sức khỏe và trí khôn của các ngài giảm sút. Hãy kính trọng, thông cảm, phục vụ và chăm sóc các ngài, vì khi xưa chúng ta còn bé, cha mẹ cũng đã thông cảm, đã ân cần săn sóc chúng ta từng miếng ăn, giấc ngủ như vậy. Khi cha mẹ qua đời, hãy nhớ đến cha mẹ bằng việc đọc kinh cầu nguyện, dâng lễ cho các ngài, vì khi xưa các ngài cũng đã đêm ngày cầu nguyện và âm thầm hy sinh cho chúng ta. Đừng bao giờ tỏ ra vô lễ, bất hiếu với mẹ cha, đừng bao giờ để tuổi già của mẹ cha phải buồn tủi vì những lời nói hay cử chỉ coi thường, xúc phạm.
Cuối cùng, mỗi người hãy sống thảo hiếu hết lòng, đừng nại vào bất cứ lý do gì để từ chối mẹ cha, từ chối bổn phận phụng dưỡng các ngài, để các ngài có thể hưởng một tuổi già hạnh phúc. Mỗi người chỉ có một mẹ một cha mà thôi, đừng để tuổi già của các ngài phải rơi nước mắt vì tủi nhục, vì con cháu bỏ bê, đùn đẩy cho nhau. Những người Do Thái ngày xưa đưa ra một điều luật vô trách nhiệm đối với cha mẹ và đã bị Chúa Giêsu cảnh cáo. Họ đã bỏ giới răn của Thiên Chúa để tuân giữ những tục lệ của nhau. Trong khi Chúa đòi phải thảo kính cha mẹ, thì những thầy luật sĩ lại dạy rằng : Nếu ai tuyên bố với cha mẹ rằng những của tôi có để giúp cha mẹ đã được dâng cho Thiên Chúa rồi, thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Chúa Giêsu đã không chấp nhận thứ tục lệ ấy, vì nó đi ngược lại với đạo làm người, đi ngược lại giới răn Thiên Chúa, và Thiên Chúa cũng không chấp nhận một của lễ dâng tiến bất hiếu như thế.
Thưa quý OBACE, ngày tết là ngày của gia đình, là ngày đoàn tụ, ngày trở về với cội nguồn của gia đình là ông bà cha mẹ. Song ngày nay, dường như nét đẹp văn hóa này đang bị mai một bởi cuộc sống kinh tế và lối sống thực dụng. Nhiều gia đình đã vì đồng tiền, tấc đất, mà anh em đánh lộn, chửi bới, mất tình mất nghĩa, không nhìn mặt nhau. Cha mẹ và con cái chỉ vì phân chia chút tài sản mà đi đến giận hờn, hỗn láo. Có nhiều gia đình ngày tết mà cũng không thể tổ chúc được bữa cơm chung xum họp ông bà cha mẹ con cháu. Nhiều cảnh con cái bất hiếu, chửi bới, khinh thường cha mẹ đang xảy ra mà chúng ta có thể chứng kiến. Tất cả những điều ấy đang làm tổn thương các gia đình và làm đổ vỡ các tổ ấm. Nguy hiểm hơn nữa là nó đang tạo ra những gương xấu cho các thế hệ trẻ sau này.
Các bậc làm cha mẹ hãy cố gắng vun đắp cho gia đình mình thực sự trở thành một tổ ấm yêu thương, là nơi mọi thành viên có thể cảm nhận được sự nâng đỡ và cảm thông, chia sẻ. Đừng vì mải mê lo tìm kiếm cơm áo gạo tiền mà quên tìm hạnh phúc cho gia đình. Đừng biến gia đình mình trở thành một nhà trọ sáng đi tối về. Đừng để cho khó khăn cuộc sống cướp đi tiếng cười, tiếng nói trong gia đình. Nhất là các bậc làm cha mẹ đừng để cho rượu chè, cờ bạc, số đề, say sưa làm cho gia đình mình tan nát, làm cho con cái hoảng sợ; Trái lại, hãy dùng tình yêu thương, lòng đạo đức để vun đắp hạnh phúc và sự ấm cúng cho gia đình.
Còn các bậc làm con, hãy hết lòng yêu mến, kính trọng cha mẹ mình. Đừng để cha mẹ đã khổ sở nhọc nhằn vì cơm áo, lại phải khóc thầm khóc vụng vì ta. Hãy góp phần làm cho gia đình thêm hạnh phúc bằng việc siêng năng học tập và làm việc để chia sẻ gánh nặng với cha mẹ. Hãy trở thành nhưng người con ngoan và đạo đức để làm yên lòng mẹ cha, để cho tuổi già các ngài được vui trọn vẹn.
Xin Chúa, Đức Maria ban cho các gia đình mỗi ngày một thêm ấm cúng, thuận hòa, hạnh phúc hơn. Amen.
26. Mồng Hai Tết Bính Thân 2016: Tri Ân Ông bà cha mẹ
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Đạo truyền thống Việt Nam được coi là đạo hiếu. Cốt tuỷ của Đạo hiếu là Đức Hiếu thảo được thể hiện qua hai điều: Tôn kính cha mẹ lúc còn sống và thờ kính cha mẹ, ông bà khi các ngài qua đời.
Nhiều bài ca dao, tục ngữ, nhiều bài hát, câu chuyện, đã kể về công cha nghĩa mẹ và răn dạy con cái cần sống đáp đền công ơn ấy:
“Công cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao
Đội ơn chín chữ cù lao
Sinh thành kể mấy non cao cho vừa”.
Bởi đó khi cha mẹ về già, con cái phụng dưỡng cha mẹ với của ngon vật lạ, sáng viếng tối thăm:
“Muốn cho gần mẹ gần cha
Khi vào thúng thóc, khi ra quan tiền.”
Suốt dọc dài lịch sử, cha ông đã để lại rất nhiều mẫu gương sáng ngời về đạo hiếu. Lòng hiếu thuận ấy sâu đậm đến nỗi khóc thương mẹ mà mù cả đôi mắt như chuyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
Chuyện kể rằng:
Lục Vân Tiên đang trên đường đi thi, nghe tin mẹ mất, quá thương xót mẹ, chàng khóc lóc thảm thiết. Chàng đã bỏ thi - bỏ dở cả con đường công danh sự nghiệp sáng lạn đang ở phía trước, quay về quê để chịu tang mẹ. Trên đường về khóc thương mẹ đến thành bệnh mà mù mắt. Mắt đã mù nhưng nỗi sầu vẫn chưa nguôi ngoai:
Ôi thôi ! Con mắt đã mang lấy sầu
Mịt mù nào thấy gì đâu.
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã nêu bật chữ Hiếu nơi Lục Vân Tiên để rồi răn bảo người đời:
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình
Vào những ngày đầu Năm Mới, Giáo hội Việt Nam dành trọn ngày Mồng Hai Tết để con cái dâng thánh lễ đặc biệt cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ, tổ tiên . Đây là dịp để con cái tri ân công ơn trời bể của cha mẹ. Cuộc đời chúng ta được dệt nên từ những giọt mồ hôi lao công vất vả của ông bà cha mẹ. Các ngài đã hy sinh một nắng hai sương cho cuộc đời ta tươi vui, hạnh phúc. Công ơn của các ngài thật lớn lao, lớn lao đến nỗi ca dao cũng từng nói:
“Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha.
Cho tròn Chữ Hiếu mới là Đạo con”
Lời ca dao thật đơn sơ, mộc mạc nhưng biểu lộ một giá trị bất hủ của Đạo hiếu trong lòng người Việt Nam. Điểm nổi bật của lòng hiếu nghĩa là lòng biết ơn và sống báo đáp công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Hiếu nghĩa khi còn ở với cha mẹ thì vâng lời kính yêu các ngài. Hiếu nghĩa khi ở xa thì luôn biết thăm hỏi, dành đồng quà tấm bánh cho các ngài. Hiếu nghĩa cả khi các ngài qua đời thì cầu kinh dâng lễ.
Hôm nay trong ngày mừng xuân là dịp con cái quây quần bên cha mẹ ông bà để tỏ lòng tri ân. Thật hạnh phúc trong ngày xuân chúng ta được cha mẹ ông bà chúc lành cho ngày xuân của chúng ta. Thật hân hoan khi ngày xuân được sum họp bên nhau trong tình nghĩa ruột thịt. Đúng như thánh vịnh nói:
“Anh em sum họp một nhà
Bao là tốt đẹp, bao là tốt tươi”.
Xin Chúa là Chúa của mùa xuân, là cùng đích của mọi vạn vật chúc lành cho ngày sum họp của các gia đình luôn nồng nàn mến thương. Xin cho chúng ta luôn biết trân trọng mái ấm gia đình, vì chẳng ở đâu có người yêu thương, lo lắng cho ta bằng những người thân trong gia đình. Hãy trân trọng gia đình bằng việc sống có trách nhiệm với bổn phận của mình. Đừng vì thói lười biếng, trốn tránh trách nhiệm của mình mà mang lại những nỗi đau cho người thân. Xin đừng bao giờ vui xuân mà bán hết gia tài, gây nên đau khổ cho gia đình chỉ vì đam mê cờ bạc, rượu chè, trai gái, …
Xin cho ngày xuân luôn thắt chặt tình ruột thịt để cùng nhau xây dựng gia đình trong yêu thương nồng ấm và mỗi ngày an khang thịnh vượng hơn. Amen.
27. MỒNG HAI TẾT: ÔNG BÀ TỔ TIÊN
Hc 44, 1.10-15; Ep 6, 1-4.18-23; Mt 15, 1-6
(Lm. Đaminh Nguyễn Thành Tiến)
Trong mồng một tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta -trước hết- dâng lời tạ ơn Chúa, cầu bình an, thì trong ngày mồng hai tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Mừng lễ hôm nay là dịp nhắc nhở chúng ta nhớ đến nguồn cội của mình và công ơn sinh thành dưỡng dục của tổ tiên, ông bà, cha mẹ chúng ta...
Người Á Đông nói chung, đặc biệt người VN nói riêng rất đề cao chữ HIẾU và nâng chữ Hiếu lên thành ĐẠO, đó là ĐẠO HIẾU.
“Mẹ cha vất vả nuôi mình//Từ khi trứng nước công trình biết bao./ Làm con phải nhớ công lao,/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Kẻ làm con phải “Dĩ hiếu vi tiên” nghĩa là lấy hiếu làm đầu. Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất.
Bởi vậy, từ thuở mới cắp sách tới trường, bài học đầu tiên của ta là: Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra / Một lòng thờ mẹ kính cha / Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Sự hiện diện của mỗi người trên cõi đời này không phải là một sự xuất hiện ngẫu nhiên, nhưng là mắt xích của cả một công trình vĩ đại, một chuỗi dài những liên hệ yêu thương từ Adam đến các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và giờ đây là chúng ta,… Người ta thường nói: “Con người có cố có ông,/ Như cây có cội như sông có nguồn”. Người ta có cha có mẹ/ Không ai ở chỗ nẻ chui lên (Tục ngữ).
Trong đời sống người Kitô hữu, chữ Hiếu càng được quý trọng hơn. Hiếu thảo đối với cha mẹ không phải chỉ là một cảm tình tự nhiên hay là một qui định xã hội mà còn là một điều răn Chúa dạy trong 10 điều Chúa truyền qua ông Môsê: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”. 10 điều răn được khắc vào 2 bia đá; và nếu để ý một chút ta sẽ thấy không phải là mỗi bên 5 điều nhưng một bên 3, một bên 7; bia đá thứ nhất gồm 3 điều ghi lại bổn phận của con người đối với Thiên Chúa; bia đá thứ hai 7 điều ghi lại bổn phận giữa con người với nhau; và như thế ta mới thấy điều răn mà ta gọi là thứ tư lại là điều răn thứ nhất trong đạo làm người.
Các bài đọc Lời Chúa thánh lễ hôm nay, có chung chủ đề là chữ Hiếu.
Bài đọc thứ nhất trích sách Huấn ca nhắc chúng ta không chỉ biết ơn mà còn tôn vinh những bậc vĩ nhân và các tổ phụ chúng ta qua các thời đại.
Bài đọc 2, thánh Phaolô nói với chúng ta qua thư gửi tín hữu Ephêso: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).
Đúng ra, Phaolô đã viết lại lời Chúa trong sách Xuất Hành: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12).
Bài tin mừng, Chúa Giêsu cũng nhắc lại lời trong sách Xuất Hành và Lêvi: “Ngươi phải thờ cha kính mẹ, kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử”. Đặc biệt, Chúa Giêsu khiển trách những luật sĩ và biệt phái về việc áp dụng sai luật Chúa. Đối với họ, lễ vật gọi là ‘Coban’, tức là những gì họ dâng cho Chúa rồi thì họ không còn bổn phận giúp cha mẹ nữa.
Ngày hôm nay cũng còn có những người con như thế: đưa cha mẹ vào trại dưỡng lão, đóng tiền cho người ta nuôi; hay cho cha mẹ tiền, quà rồi cho đó là thảo hiếu, nhưng không hề về thăm hay hỏi han cha mẹ mạnh khỏe ra sao? Đau yếu thế nào?
Chúa Giêsu không chỉ nhắc nhở con người về đạo làm con mà chính Ngài từ muôn thuở đã luôn là Người Con đẹp lòng Chúa Cha. Hơn nữa, khi nhập thể làm người, Ngài cũng luôn thảo kính, vâng phục Đức Maria và thánh Giuse.
Theo truyền thống tốt lành của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, ngày mồng hai tết là ngày con cháu kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Hôm qua, ngày mồng một tết, trước hết ta thờ kính Chúa, tạ ơn Ngài và xin Ngài ban bình an; hôm nay, ngày mồng 2 tết, ta thảo kính OBTT, cha mẹ chúng ta. Trong ngày mồng hai Tết này chúng ta hãy nhìn lại lòng thảo kính của chúng ta đối với cha mẹ.
Vậy thảo kính cha mẹ là gì ?
Thảo kính cha mẹ (theo sách giáo lý Tân định) là yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi [các ngài] còn sống và [cũng như] đã qua đời.
1. Khi cha mẹ còn sống.
Khi cha mẹ còn sống nếu con cái chỉ tỏ lòng yêu mến và biết ơn thì chưa đủ, còn phải thực hiện bằng việc làm là giúp đỡ cha mẹ, nhất là khi các ngài đã về già. Nuôi cha mẹ già không phải là dễ. “Mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày”; bởi vậy, người ta nói: “Có nuôi con mới hiểu lòng cha mẹ”.
Tiếc thay, rất nhiều người -dù đã đang nuôi con- đã có kinh nghiệm vất vả vì con nhưng lại quên ơn nghĩa sinh thành. Họ coi việc chăm sóc cha mẹ già là một gánh nặng nên đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Tục ngữ VN có câu: “Sống không cho ăn, chết thì làm văn tế ruồi” là lời nhắc nhớ con cháu phải cần kíp chăm sóc cha mẹ bao nhiêu có thể khi các ngài còn sống với ta trong cõi đời này. Ngày hôm nay, có những người con tuy vui tết, nhưng vẫn cứ ân hận vì mình đã không lo chu toàn bổn phận chữ hiếu với cha mẹ mình, bây giờ cha mẹ không còn nữa; trái lại, ngày hôm nay, chúng ta vẫn thấy có những người con trước khi đi làm đã tranh thủ đút cháo và sếp giường chiếu cho cha mẹ; có những người con dìu dắt cha mẹ già lọm khọm bước lên bực cấp nhà thờ để dự lễ. Hình ảnh này làm cho tất cả chúng ta cảm động và thấy mình cần có trách nhiệm hơn nữa đối với song thân sinh thành dưỡng dục mình. Hơn nữa: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Nếu ta không trọng cha mẹ ta, khi ta về già, sao con cháu có thể trọng ta được!
2. Khi cha mẹ đã qua đời.
Người ta thường nói: “Cách mặt xa lòng”. Điều đó rất đúng trong đời sống thực tế hằng ngày bởi vì xa nhau thì mối tình dễ bị nhạt nhòa, dễ bị quên lãng. Nếu ông bà cha mẹ còn sống mà ta còn ít nhớ đến thì làm sao ta có thể nhớ đến các ngài hằng ngày khi các ngài đã qua đời? Thật ra, các ngài qua đời/khuất núi nhưng vẫn hiện diện [Chứ không phải trở về hư vô]. Giữa âm và dương thật gần gũi. “Người chết nối linh thiêng vào đời” là vậy.
Bởi thế, mỗi dịp giỗ chạp, đặc biệt là tháng 11 và mồng 2 tết là dịp thuận tiện để chúng ta hâm lại lòng yêu mến của chúng ta đối với các ngài: “Ai mà phụ nghĩa quên công/ Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”.
Hôm rồi, lễ an táng 1 bà cụ Anna Nguyễn Thị Đẫm [bà Tộ], một cha già nhắc tôi: đối với cha mẹ và ân nhân, các cha phải nhớ: “Sống thì phải tết, chết thì phải lễ”. Lời cha già nhắc tôi cũng là lời nhắc tất cả chúng ta vì ai trong chúng ta ra đời cũng có cha có mẹ.
Vậy, mồng Hai Tết hôm nay, chúng ta được nhắc nhớ về bổn phận hiếu thảo với các bậc tổ tiên, ông bà cha mẹ. Hãy chăm sóc, phụng dưỡng khi cha mẹ còn sống; Hãy dâng một nén hương, một lời nguyện cầu lên Thiên Chúa để cầu nguyện cho linh hồn tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời, để ngày Xuân của chúng ta không chỉ là mùa xuân của ân nghĩa đối với nhau mà còn là mùa xuân của lòng báo hiếu với người đã khuất. Amen.
28. UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN
(Trầm Thiên Thu)
Mồng Hai Tết là ngày cầu cho tiền nhân, những người đã “ra đi” trước chúng ta, mang tính cách cầu hồn. Tuy nhiên, dù cầu nguyện cho những người đã khuất bóng, nhưng lại vẫn liên quan chuyện hiếu nghĩa – tức là liên quan những người thân còn sống với chúng ta dịp Xuân này. Hãy nghe Thánh Phaolô nói: “Ai không chăm sóc người thân, nhất là người sống trong cùng một nhà, thì đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn người không có đức tin” (1 Tm 5:8). Cách so sánh thật “mạnh” khiến chúng ta phải “giật mình”.
Nói đến hiếu nghĩa, nhiều người ngoại giáo thường nghĩ rằng đạo Công giáo không cho thờ kính tổ tiên. Đúng và sai. Đúng vì “không ai được thờ kính (tôn thờ) bất kỳ thụ tạo nào” (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 32:39), kể cả tổ tiên, nhưng họ nghĩ sai vì Công giáo không chỉ “cho phép” (được) mà còn “bắt buộc” (phải) kính nhớ tổ tiên, các thân nhân và người có công trạng. Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Uống nước nhớ nguồn”. Như vậy, đừng vội “kết án” Công giáo khi chưa hiểu rõ!
Cổ thư nói về đạo hiếu rất hay, tất nhiên cũng phù hợp với tinh thần Kitô giáo: “Hiếu hữu tam: Đại hiếu tôn thân, kỳ thứ phất nhục, kỳ thứ năng dưỡng”. Nghĩa là “Đạo hiếu có ba điều: Hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ, hai là không làm nhục cha mẹ, ba là có thể phụng dưỡng cha mẹ”.
Liên quan đạo hiếu vào dịp Tết, chúng ta nhớ tới chuyện An Tiêm: Vào đời Hùng Vương, ở một vùng quê cách xa kinh đô Phong Châu, có một cậu bé mồ côi thường theo người lớn đi săn thú và đánh cá. Năm tám tuổi, cậu được lên kinh đô gặp vua Hùng. Thấy cậu thông minh, nhà vua nhận làm con nuôi và đặt tên là Mai An Tiêm.
Vua Hùng cưới vợ cho An Tiêm và cho cả hai vợ chồng đi phá rừng, làm rẫy trồng trọt. Chỉ ít lâu sau, An Tiêm đã dựng được nhà cửa và gặt được nhiều thóc lúa chứa đầy kho. Thấy thế, bọn người ghen tị tâu nịnh với vua vì cho rằng An Tiêm coi thường ơn vua. Vua Hùng giận lắm, không cần tìm hiểu thực hư ra sao, và đày hai vợ chồng ra hoang đảo.
Cây ngay không sợ chết đứng, vì “người công chính được Chúa độ trì” (Tv 37:17). Ở hoang đảo, có con chim trắng bay tới làm rơi hạt đen xuống bãi cát trắng. An Tiêm đem trồng thử hạt này. Chúng mọc thành những dây bò lan trên mặt cát. Cây có nhiều trái màu xanh thẫm to bằng đầu người. An Tiêm hái một trái đem về cho cả nhà ăn thấy ruột đỏ mà ngọt, lại có nhiều nước. Loại trái “xanh vỏ, đỏ lòng” đó chính là trái dưa hấu.
Bài học về chữ hiếu: Dù bị Phụ vương đày ra hoang đảo, nhưng An Tiêm vẫn giữ trọn đạo hiếu với cha, không hề trách hờn ai. Về sau, vua Hùng hối hận và phục chức cho An Tiêm.
Và chắc hẳn nhiều người (tuổi trung niên trở lên) còn nhớ sách “Nhị Thập Tứ Hiếu”, tác phẩm văn học của tác giả Quách Cư Nghiệp, kể lại gương hiếu thảo của 24 người con đời nhà Nguyên (Trung Hoa). Chính tác giả cũng là người con chí hiếu.
Sách Huấn Ca dạy: “Hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ” (Hc 44:1). Đồng thời xác nhận: “Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế” (Hc 44:10-14). Do đó, nhân dân sẽ “kể lại đức khôn ngoan của họ và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen họ” (Hc 44:15).
Thánh Vịnh ca tụng những thành quả của gia đình: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Tuy nhiên, phúc lộc đó không phải ai cũng có được: “Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4). Đúng nhu Chúa Giêsu đã nói chắc: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Thánh Phaolô phân tích lý do mà con cái phải tuân giữ đạo hiếu: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6:1-3). Tuy nhiên, không phải là làm lớn thì có thể làm láo, là cha mẹ thì có thể độc đoán, muốn làm gì thì làm, mà cũng phải tuân giữ nghiêm luật và thể hiện tình yêu thương đúng nghĩa: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6:4).
Cuộc sống đời thường và tâm linh đều có những điều phức tạp, cần phải biết kết hợp và cân bằng. Thánh Phaolô nói: “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh. Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng, tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi phải nói” (Ep 6:18-20).
Về đạo hiếu, sách Huấn Ca nhắc nhở những người con: “Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng?” (Hc 7:27-28).
Và Công đồng Vatican II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (Hiến chế Gaudium et Spes – Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Ngày nay, số 48).
Hãy ghi nhớ và noi theo tấm gương tột đỉnh: Dù là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng khi mặc xác phàm và làm con trong một gia đình, Chúa Giêsu đã chu toàn bổn phận làm con với cha mẹ trong suốt 30 năm (x. Lc 2:51-52).
Không chỉ vậy, Chúa Giêsu còn có phong cách hoàn toàn không giống ai khác. (Mt 15:1-6)
Một hôm, có mấy người Pha-ri-sêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và nói: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?” (Mt 15:2). Đúng là lũ người xấu bụng, chuyên thọc gậy bánh xe, thích phá rối, ưa gài bẫy, chuyên gia sử dụng loại phần mềm về “dấu trừ” và “dấu chia”, chứ không rành (hoặc không thích) sử dụng “dấu cộng” và “dấu nhân”.
Chọc vào ổ kiến lửa thì sẽ “đỏ người”, chọc tổ ong vò vẽ thì “sáng mắt” ngay thôi. Họ vừa hỏi xong, Chúa Giêsu liền trả lời một hơi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15:4-6).
Tất nhiên là họ chỉ có nước ngậm bồ hòn và im như thóc thối. Ai bảo ngu dốt mà lại chảnh, dám vênh váo “ta đây”, muốn chứng tỏ mình là “ngon” lắm! Thùng càng rỗng càng kêu to, kêu càng to càng mau… xẹp. Phải thế mới đáng đời bè lũ Pha-ri-sêu hèn nhát!
Lạy Thiên Chúa, chúng con chúc tụng Ngài là Chúa Tể càn khôn! Chúng con xin lỗi Chúa về mọi lỗi lầm năm cũ, xin ban Thánh Linh để chúng con biến đổi nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn. Chúng con xin tán dương Ba Ngôi Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết một lòng hướng về Mùa Xuân Vĩnh Hằng trên Thiên quốc; xin Chúa lì xì nhiều Hồng Ân để chúng con sống trọn vẹn năm mới; và chúng con cũng xin lì xì cả cuộc đời của chúng con cho Chúa, xin Ngài thương thánh hóa và hướng dẫn chúng con đi đúng Đường Chân Lý của Ngài.
Xin Đức Mẹ Maria, Đức Thánh Giuse, chư Thần và chư Thánh nguyện giúp cầu thay cho chúng con luôn, để mai đây chúng con cũng được hợp đoàn và chung lời với các ngài mà ca tụng Thiên Chúa muôn đời. Nguyện xin Chúa thương cho mọi người đã hoàn tất đường lữ hành trần gian được niềm vui Xuân Trường Sinh nơi Thiên Quốc.
Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người và cứu độ chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
29. Suy niệm Lời Chúa
Câu chuyện
Dù ai buôn bán nơi đâu
Nhớ đến ngày Tết rủ nhau mà về
Vào dịp Tết Nguyên đán, người dân ở phương xa về quê sum họp gia đình và dành thời gian để thăm viếng thân nhân, cúng bái tổ tiên, thờ phượng đất trời. Vì Tết là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri ân tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn”.
Biết ơn trời, nhớ nguồn gốc tổ tiên thật là một tục lệ tốt đẹp và mang đầy nét nhân văn của lòng biết ơn được văn hóa Việt Nam trân trọng và được chính Chúa Kitô đánh giá cao (x. Lc 17,11-19).
Ngày mùng hai tết, người Trung Quốc (gồm cả Đài Loan) có một truyền thống rất tốt đẹp là: Tất cả những người con gái đã xuất giá (lấy chồng) đều cùng với chồng và con trở về nhà cha mẹ ruột của mình, để cùng ăn cơm, cùng vui Tết, cùng chúc tuổi cha mẹ, đó cũng là một cách báo hiếu của con gái đã lấy chồng.
Suy niệm
Mùng hai tết, tuy không khí ngày tết vẫn rộn ràng vui tươi của ngày xuân, những người Công giáo Việt Nam đến nhà thờ và viếng nghĩa trang với tâm trạng bồi hồi xúc động, vì hôm nay kính nhớ tổ tiên, những người con dâng thánh lễ với tấm lòng hiếu thảo cầu nguyện cho gia tiên và hồi tưởng về tổ tiên, ông bà cha mẹ và những người thân đã qua đời. Những ánh nến lung linh soi hồi ức của người con về những kỷ niệm đẹp với ông bà cha mẹ và người thân khi họ còn sống bên cạnh, những nén hương thơm tựa như lời cầu nguyện chân thành dành cho người đã khuất bay tới trời cao như Thánh Vịnh có nói: “Ước chi lời con nguyện, tựa hương trầm bay tỏa trước Thánh Nhan” (Tv 141,2), những bông hoa muôn sắc dâng tiến như tâm tình biết ơn đẹp mãi không phai và luôn thắm như hoa xuân.
Nhớ về tổ tiên, chúng ta làm sống lại tâm tình của sách Huấn ca về sự nghiệp của tổ tiên luôn sống động mãi: “Miêu duệ họ sẽ tồn tại đến muôn đời, và vinh quang của họ không bao giờ bị lu mờ. Thân xác họ được chôn cất bình an, tên tuổi họ sẽ sống đời này qua đời nọ. Sự khôn ngoan của họ cộng đoàn truyền tụng, và công hội thuật lại lời ngợi khen họ” (Hc 44,12-15).
Thảo hiếu với cha mẹ còn sống và kính nhớ ông bà tổ tiên đã khuất bằng lời cầu nguyện trong ngày mùng hai Tết, chúng ta sống tâm tình của thánh Phaolô về chữ hiếu trong gia đình luôn làm phần phúc cho người con thảo mà ngài đã viết khuyên nhủ cộng đoàn tín hữu Êphêsô: “Hãy thảo kính cha mẹ ngươi, đó là giới răn thứ nhất kèm theo lời hứa để ngươi được phần phúc và sống lâu dài trên địa cầu” (Ep 6,1-2).
Hôm nay ngày cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời, chúng ta càng thêm xác tín: “Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại”, tin vào lời Thầy Giêsu đã phán dạy: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết bao giờ, cả những ai tin vào Người Con thì được sống muôn đời” (Ga 11,25-26). Được sống muôn đời là sống trong mùa xuân vĩnh cửu với Chúa trên thiên đàng.
Cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ là hành động của niềm tin vào Đấng Phục Sinh - Chúa Xuân vĩnh cửu sẽ ban cho chúng ta hạnh phúc thật trường tồn. Kính nhớ ông bà tổ tiên còn là “đạo làm người” trong tư cách con người, biểu hiện lòng biết ơn các đấng sinh thành dưỡng dục.
Ngày xuân nhớ đến gia tiên, với cây nến, nén hương trong tay chúng ta tin rằng: Mừng xuân hôm nay nói về mùa xuân Thiên quốc: Tất cả đều trổ bông với một sức sống mới: Con người cũng sẽ phục sinh, nở hoa khi theo bước chân của Đức Kitô, như thánh Phaolô đã tuyên xưng: “Chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Ðức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Ðức Giêsu” (1Tx 4,14). Tất cả sẽ cùng Đức Kitô đi vào trong Giáo hội Chiến Thắng - Mùa Xuân Cứu Độ.
Ý lực sống
“Người kính mẹ khác nào kẻ tích trữ kho tàng…
Kẻ kính cha sẽ được trường thọ” (Hc 3,4.6).
30. MỒNG HAI TẾT. KÍNH NHỚ TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ.
(http://www.simonhoadalat.com //Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)
Nhân ngày tết, theo truyền thống dân tộc VN, chúng ta luôn tỏ lòng biết ơn và hiếu thảo với tổ tiên, ông bà, cha mẹ còn sống cũng như đã qua đời. Người công giáo Việt Nam ngay từ thưở ban đầu, tuy không theo những nghi thức nơi dân ngoại, nhưng luôn kính viếng các phần mộ cha ông, và dâng lễ cầu nguyện cho các Ngài. Sau nhiều cố gắng HĐGMVN trước 1975 cũng đã được Tòa Thánh chấp thuận những khẩn cầu để có thể thiết lập bàn thờ tổ tiên trong gia đình, để hằng ngày có thể hiệp thông với các ngài trong cầu nguyện.
Thực sự, ngay từ thời Cựu Ước, tương quan với tổ tiên không chỉ là tương quan nghi lễ, mà còn là tương quan gắn liền với Giao Ước của Thiên Chúa. Theo đó “Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con” “Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước” nhờ đó mà “Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại”.
Đến thời Tân Ước, tương quan đó được đẩy lên mức cao tuyệt đối, vì thánh Phaolô đặt tương quan ấy “theo tinh thần của Chúa” mà thánh sử Luca gói trọn trong lời “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” và trước khi từ giã cõi đời, Chúa đã trối Mẹ mình cho người môn đệ Ngài yêu để thay Ngài chăm sóc Mẹ, và Hội Thánh đã nhận lời trối của Chúa để luôn có lòng đón nhận Mẹ Ngài như là mẹ của mình. Thật ra phải nói rằng theo tinh thần của Chúa, thì đời sống đặt nền tảng trên đức hiếu thảo không chỉ với Chúa Cha mà cả với cha mẹ trần gian nữa. Và đức hiếu thảo này chính là nền tảng cho sự thánh thiện của Dân mới.
Thánh Phaolô nhìn vào đức Hiếu Thảo của Chúa là một tương quan 2 chiều : Cha mẹ - con cái. Về phần con cái thì phải “tôn kính cha mẹ” như là “điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”. Về phần cha-mẹ “đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.”.
Bài Tin Mừng cho thấy người làm cha là Giacaria đã nhìn thấy nơi người con của mình là Gioan tiền hô, có một sứ mạng mà Thiên Chúa trao cho, sứ mạng làm cho mọi người nhận biết “Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người” theo “lời minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta”. Sứ mạng gắn liền với Giao Ước. Mỗi người cha, người mẹ, người con đều phải “phục vụ trước tôn nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời”.
Tương quan hai chiều này suốt theo dòng lịch sử luôn bị khủng hoảng, nhiều khi rất khủng khiếp : cha mẹ-con cái nhiều khi trở thành thù hận, thậm chí chém giết như thấy trên các báo ngày nay. Vì thế muốn giữ được tương quan theo tinh thần của Chúa thánh Tông Đồ khuyên chúng ta “Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh”, nghĩa là cho mọi người được Thánh Thần nâng đỡ để chu toàn giới răn này.
Và tôi mượn lời của Thánh Tông Đồ “Nguyện xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ơn bình an và lòng mến cùng với lòng tin.”
31. MÙNG HAI TẾT Mt 15,1-6---HÃY HIẾU KÍNH ÔNG BÀ CHA MẸ
(LM ĐAN VINH – HHTM)
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Thiên Chúa đã dạy : Ngươi hãy thờ cha kính mẹ. Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: Ai nói với cha với mẹ rằng: Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa” Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15,4-6).
2. CÂU CHUYỆN:
Một người đàn ông kia sống chung với người cha cao niên và đứa con trai mới năm tuổi của anh ta. Một hôm người cha của anh do tuổi già nên tay thường bị run, và có lần đã làm bể bát chén kiểu đắt tiền khi đang ăn cơm, nên anh ta ra vườn nhặt một chiếc gáo dừa mang về gọt dũa làm thành một cái chén bằng gáo dừa để bố anh ta dùng. Đứa con trai của anh ta thấy vậy liền hỏi lý do tại sao thì anh trả lời con rằng: Để ông nội con dùng chén này ăn cơm nếu có run tay làm rơi cũng không bị bể.
Một hôm anh ta thấy đứa con trai của anh đang loay hoay dùng dao chơi với một chiếc gáo dừa. Sợ con bị đứt tay anh liền ngăn cản. Khi được hỏi tại sao làm như vậy thì được đứa con trả lời: “Con thấy bố cho ông nội ăn cơm bằng chiếc gáo dừa để khỏi bị bể, nên con cũng chuẩn bị trước cho bố một cái, để sau này khi bố già dùng sẽ không bị bể nếu bị run tay giống như ông nội bây giờ!”.
3. THẢO LUẬN: Bạn sẽ làm gì để thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ ông bà trong dịp Tết và trong thời gian sắp tới?
4. SUY NIỆM:
1) Bổn phận thảo kính cha mẹ:
Ba ngày Tết, sau ngày Mùng Một dành Tạ Ơn Chúa xin ơn bình an năm mới, thì ngày Mùng Hai dành để Kính nhớ Tổ Tiên và Ông Bà Cha Mẹ. Có lẽ không ai trong chúng ta lại không biết câu thơ đã trở thành câu ca dao và bài hát bất tử về đạo làm con: “Uống nước nhớ nguồn. Làm con phải hiểu. Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…”. Hay: “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ hơn là đi tu”…
Và chắc không ai trong chúng ta lại không biết nhạc phẩm Lòng mẹ của cố nhạc sĩ Y Vân: “Lòng mẹ bao la như biển thái bình…”
Với người Ki-tô hữu, ai cũng nằm lòng Mười Điều Răn, trong đó, ba điều răn đầu tiên dành cho Chúa, ngay sau đó, điều răn thứ tư dành cho cha mẹ. “Thứ bốn: Thảo kính cha mẹ”. Người Công Giáo có tháng 11, tháng cầu cho các tín hữu đã qua đời, cũng là dịp đặc biệt nhớ về ông bà cha mẹ đã an nghỉ. Hằng ngày, người Công Giáo tham dự Thánh Lễ luôn kính nhớ nguyện cầu cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ: “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt là các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ…” (Kinh Nguyện Thánh Thể).
Ngày Tết cũng là ngày hội vui của đại gia đình. Ai cũng mong ngày Tết được đoàn tụ với người thân trong gia đình. Mọi người Việt Nam đều muốn được đón giờ phút thiêng liêng ngày đầu xuân bên cha mẹ, ông bà và con cháu.
2) Phương cách tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ:
Sự hiếu thảo không chỉ được biểu lộ trong những ngày Lễ Tết, nhưng còn phải thể hiện trong suốt thời gian sống chung với ông bà cha mẹ trong gia đình.
Phải sống thế nào cho tròn chữ hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Nếu cha mẹ chúng ta còn khỏe, con cái phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta cha mẹ là lá chắn che chở suốt đời mình.
Nếu cha mẹ già yếu, con cháu không được xem thường và coi các ngài như gánh nặng. Hãy nói với các ngài bằng những lời thưa gởi hiếu kính, cảm thông với những sự lẩm cẩm của các ngài và đừng bao giờ tỏ thái độ vô lễ to tiếng cãi lại hoặc khinh thường cáu gắt với các ngài. Hãy luôn tôn trọng các ngài vì chính các ngài cũng đã từng phải kiên nhẫn ân cần chăm sóc, cho bú mớm và lau dọn vệ sinh khi ta còn thơ bé.
Khi cha mẹ qua đời, con cái hãy năng đọc kinh cầu nguyện, xin lễ và làm các việc lành để các ngài sớm được về thiên đàng. Hãy lập bàn kính nhớ tổ tiên bên cạnh và thấp hơn bàn thờ Chúa. Hãy năng đọc kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ vào giờ kinh tối gia đình hằng ngày hoặc trong những ngày Giỗ Tết.
3) Làm gì trong những ngày này?:
Xin đừng phụ công ơn dưỡng dục của các bậc sinh thành. Hãy sống sao cho đúng phận làm con, vì như câu ca dao người xưa dạy:
“Công cha như núi thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
“Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó”. Chúng ta cư xử với cha mẹ mình thế nào thì con cái của chúng ta sau này cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.
Dịp Xuân Mới, bạn sẽ mua biếu quà gì cụ thể để tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ ông bà còn sống và những đấng bề trên đã qua đời?
5. LỜI CẦU:
Lạy Thiên Chúa là Chúa của Mùa Xuân đất trời.
Xin chúc lành cho ngày họp mặt của gia đình chúng con hôm nay.
Xin liên kết mọi người chúng con trong tình yêu của Cha.
Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con biết trân trọng giây phút xum vầy trong ngày đầu Xuân, coi đó là hồng ân Cha ban để sống trọn tình con thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ và sống yêu thương huynh đệ với anh chị em trong gia đình ruột thịt của chúng con.
Xin cho chúng con một Năm Mới an lành và hạnh phúc trong bàn tay quan phòng của Cha.- Amen.
12/02 Phó thác cho Chúa của mùa xuân.
- Viết bởi Mt 6,25-34
Phó thác cho Chúa của mùa xuân.
Thứ Sáu tuần 5 thường niên.
MỒNG MỘT TẾT TÂN SỬU. CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI.
"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".
Lời Chúa: Mt 6,25-34
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con. Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?
Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư?
Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đóa hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin? Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc?"
Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó.
Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con.
Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Đừng lo lắng gì cả (Mc 6, 25-34)
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm:
Ngày Tết báo hiệu một năm cũ đã qua và một năm mới đang đến.
Chúng ta cần nhìn lại một năm qua với cái nhìn của Chúa
để thấy tất cả là hồng ân,
kể cả những gì người đời coi là xui xẻo, bất hạnh.
Chúa đã cho chúng ta sống thêm một thời gian, thêm một năm trên đời.
Chúng ta nhận ra thời gian một ngày nhờ mặt trời mọc lên rồi lặn xuống.
Nhà nông nhận ra thời gian một tháng nhờ mặt trăng tròn rồi lại khuyết.
Tạ ơn Chúa vì hai nguồn sáng quý báu như vậy trên bầu trời.
Thời gian theo Kitô giáo không đi theo đường xoắn ốc, nhưng theo đường thẳng.
Thời điểm nào cũng là duy nhất, đi rồi không trở lại, nên rất đáng quý.
Con Thiên Chúa làm người đã đằm mình trong dòng thời gian như ta.
Nhờ Ngài, dòng thời gian này sẽ đưa ta vào vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Ngày Tết người ta thường hay chúc nhau.
Chúc sức khỏe, chúc làm ăn phát đạt, chúc mọi sự như ý…
Chúng ta có thể học được một cách chúc rất đẹp trong sách Dân Số (6, 22-27).
Đức Chúa chỉ dạy cho ông Môsê
để ông này chỉ lại cho ông tư tế Aaron biết cách chúc lành cho dân.
Có ba lời chúc, mỗi lời đều bắt đầu bằng chủ từ là Đức Chúa:
“Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em.
Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em.
Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn anh em và ban bình an cho anh em.”
Ơn bình an là ơn bao gồm mọi ơn về sức khỏe, sống lâu, an ninh, thịnh vượng…
Rốt cuộc chính Đức Chúa mới là Đấng chúc lành cho dân Israel (c. 27).
Chính Đức Chúa đóng ấn Danh của Ngài trên họ để bảo trợ họ.
Và hôm nay chính Ngài cũng ban muôn ơn cho ta nhờ Danh Đức Giêsu.
Trước thềm Năm Mới, con người không tránh khỏi nỗi lo về tương lai.
Có nhiều nỗi lo rất hữu lý, vì khó khăn trước mắt là có thật.
Có nhiều nỗi lo âu chỉ vì con người thấy mình quá đỗi mong manh.
Nỗi lo quấn lấy con người và làm tâm con người không yên.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu bốn lần nhắc chúng ta “Đừng lo.”
Nếu Kitô hữu không bị quay quắt vì lo âu
thì không phải vì họ là người vô lo, hay vì họ tự tin, giỏi giang hơn người khác.
Đơn giản chỉ vì họ có một Người Cha quan tâm đến mọi nhu cầu của họ.
Kitô hữu tận tụy hết mình cho công việc, nhưng lại không bất an, lo âu.
Tín thác như một đứa con ngồi trong lòng cha,
họ đặt vinh quang Thiên Chúa lên trên hết,
và tin mọi sự khác sẽ được Ngài lo liệu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
Cha đã cho chúng con sống thêm một năm,
đi thêm một đoạn đường đời.
Nhìn lại đoạn đường đã qua,
chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân thành,
vì Cha vẫn cho chúng con sống,
và sống trong tình yêu.
Mọi biến cố vui buồn của năm qua
đều là những lời mời gọi kín đáo của Cha
để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên cao.
Tạ ơn Cha
vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con,
và những gì chúng con đã làm được cho cuộc đời.
Xin cho chúng con sống những ngày Tết dân tộc
trong tinh thần vui tươi, hòa nhã,
và không quên những ai nghèo khổ, cô đơn.
Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau
là những lời chúc lành
xuất phát từ trái tim yêu thương.
Và lạy Cha, năm mới đã đến,
trái đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời,
chúng con cũng muốn
ở lại trong quỹ đạo của Cha,
nhận Cha là trung tâm cuộc sống,
và nhận mọi người là anh em. Amen.
2. Thời gian (Mt 6,25-34)
Một năm mới đã bắt đầu, nhưng cũng một năm cũ đã qua đi trong dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là ý nghĩa của thời gian, của cuộc đời chúng ta đang sống?
Người xưa đã bảo: thời giờ thấm thoát thoi đưa. Một khi đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Cũng như chẳng ai tắm hai lần ở cùng một dòng sông. Cuộc đời chúng ta trải dài 60 năm hay 100 năm là cùng. Thế nhưng 60 năm ấy, 100 năm ấy có là gì so với khoảng thời gian bao la của vũ trụ. Bởi đó, người xưa đã phải thốt lên một cách não nề khi nghĩ đến cuộc đời ngắn ngủi: Ôi nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười. Và Thánh Vịnh cũng đã sánh ví: Cuộc đời như cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn.
Bởi đó, tự ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã tìm mọi cách để kéo dài cuộc sống và khát vọng được sống vĩnh cửu vẫn là niềm day dứt nhất của con người. Ngày xưa, có những người đã phải vào tận rừng sâu để tìm cho được trái đào trường thọ. Có những người đã phải khổ công tu luyện để chến biến cho được những viên thuốc bất tử. Có một ông vua, đã phải xây những ngọn tháp cao vút để hứng lấy những giọt sương thuần khiết nhất mà uống vì nghĩ rằng những giọt sương thuần khiết ấy có sức kéo dài sự sống con người. Ngày nay y khoa luôn cố gắng tìm ra những phương thuốc hiệu nghiệm tăng thêm tuổi thọ cho con người. Tuy nhiên cái chết vẫn là một thách thức, một thực tại ngàn đời không thể lẩn trách và ước vọng được sống mãi vẫn còn ở ngoài tầm tay của chúng ta, nếu không muốn nói là một huyền thoại, một ảo vọng như câu chuyện dưới đây đã minh chứng:
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người đó bưng thuốc vào thì viên canh cửa bèn hỏi: Vị thuốc này có ăn được không? Người ấy đáp: Ăn được. Tức thì viên canh cửa bèn giật lấy vị thuốc ấy mà ăn. Nhà vua biết được câu chuyện thì giận lắm, bèn truyền bắt viên quan ấy mà đem đi chém đầu. Viên quan ấy kêu lên rằng: Thần đã hỏi người đem dâng và được biết đó là một vị thuốc bất tử, nghĩa là ăn vào thì sẽ không chết nữa. Thế mà thần vừa mới ăn, thì đã phải tội chết. Như vậy, đây là thuốc tử thuốc chết, chứ sao lại gọi là bất tử cho được. Nhà vua giết thần là bắt lỗi một con người vô tội, đồng thời tỏ ra rằng thiên hạ dối gạt nhà vua mà nhà vua vẫn tin. Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha cho viên canh cửa.
Câu chuyện trên muốn chứng tỏ rằng: Có sinh thì phải có tử. Thuốc bất tử chỉ là chuyện bịa đặt mà thôi. Tuy nhiên, ước vọng được sống mãi, được sống đời đời vẫn còn đó. Mỗi độ xuân về, chúng ta thường cầu chúc cho nhau được trường thọ khang an, bách niên giai lão. Và những bức tranh bình dân của mấy ngày tết là gì, nếu không phải là diễn tả ba niềm vui lớn của con người, là Phúc Lộc Thọ. Cho dù cuộc đời có cay đắng thì sự sống vẫn là một cái gì quý giá cần phải bảo vệ. Còn sự chết vẫn là một cái gì đáng lo sợ.
Chúng ta bất lực trước khát vọng được sống mãi và người khác cũng không thể thực hiện cho chúng ta lời chúc trường thọ. Chỉ mình Chúa mới là Đấng dư quyền năng và tình thương để làm cho chúng ta được sống như lời Ngài đã phán: “Ta là Đường, là sự thật và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời. Ta đến để họ được sống và được sống dồi dào”. Thực vậy, Thiên Chúa đã xuống thế làm người để chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến sự sống. Đạo của chúng ta là đạo của Tin Mừng, của niềm vui, của sự sống. Vậy muốn được sống, chúng ta phải đi trên con đường Chúa đã chỉ vẽ. Phải tuân giữ những điều Ngài đã truyền dạy, phải thực thi cái đạo mà Ngài đã tỏ lộ. Con đường ấy, cái đạo ấy gồm hai chiều kích: hàng dọc và hàng ngang.
Trước hết, hàng dọc là phải kính mến Chúa vì đó chính là bổn phận của một kẻ nhận ơn đối với Đấng đã ban ơn, của thụ tạo đối với Đấng tạo hoá, của kẻ làm con đối với người cha của mình: Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn như Chúa đã dạy. Tiếp đến, hàng ngang đó là phải yêu thương mọi người như chính mình, không trừ một ai, kể cả kẻ thù địch như Chúa đã dạy: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Phải đủ cả hai mới là đạo. Vì nếu chỉ mến Chúa mà không yêu người, thì chúng ta là kẻ nói dối. Còn nếu chỉ yêu người mà không mến Chúa, thì mọi hành động của chúng ta đều trống rỗng và vô nghĩa như tiếng não bạt ầm vang. Người vô thần không tin thờ Chúa, chúng ta gọi họ là kẻ vô đạo. Còn chúng ta, mặc dù đã tin Chúa, nhưng lại không yêu thương anh em, thì chúng ta cũng chỉ là một thứ vô đạo mà thôi.
Hãy mến Chúa và yêu người, để nhờ đó, lời cầu chúc trường thọ của chúng ta sẽ được Chúa thực hiện cho cá nhân chúng ta cũng như cho những người mà chúng ta cầu chúc.
3. Nhìn lại và nhìn đi (Mt 5,1-12)
Chúng ta đã bước qua ranh của năm cũ và đang đứng ở đầu ranh của năm mới. Năm cũ là một chặng đường dài và năm mới cũng sẽ là một chặng đường dài. Đứng ở giáp ranh hai chặng đường dài ấy, chúng ta thường có hai hướng nhìn. Một là nhìn lại, hai là nhìn đi. Nhưng đâu là ý nghĩa mà hai cái nhìn ấy muốn gửi đến với chúng ta trong giây phút linh thiêng này?
Trước hết khi nhìn lại, chúng ta nghe vọng lên nỗi niềm biết ơn. Đúng thế, hãy biết ơn những gì đã lãnh nhận. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy trong năm qua chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều mà cho đi chẳng bao nhiêu, vì chúng ta là những kẻ thiếu thốn luôn cần đến người khác. Cần để sống, cần để nên người, cần để thắng lợi. Từ đồng bạc cắc đến một sản nghiệp. Từ nụ cười đến tình thương, từ lời chào đến tiếng khuyên. Tất cả những gì chúng ta nhận lãnh đều là những viên gạch xây dựng cuộc đời chúng ta. Đừng chỉ coi những gì sung sướng hay lớn lao mới là ơn. Dù cuộc đời chúng ta có như chiếc xe đò ồn ào, đông đảo, chen lấn, nhưng sau cùng xe lại trống trơn, thì chúng ta cũng đừng cho mình là cô đơn vì thực sự chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều.
Dù cuộc đời chúng ta có như một cành mai báo hiệu mùa xuân, nhưng chính mình lại không có mùa xuân vì mau tàn vội héo, thì cũng đừng cho mình là phù hoa chẳng chịu ơn, vì thực sự chúng ta cũng đã lãnh nhận rất nhiều. Dù cuộc đời chúng ta có như một khúc sông, nuôi dưỡng bao nhiêu ruộng đồng, thì cũng đừng kiêu hãnh cho rằng chỉ có mình, vì khúc sông này bao giờ cũng mắc nợ những khúc sông khác, nhất là mắc nợ với nguồn mạch yêu thương. Dù cuộc đời chúng ta có như một ngôi nhà lộng lẫy, thì cũng đừng tự đắc cho rằng tất cả là do ở mình, vì ngôi nhà vẫn mắc nợ với từng hạt cát, từng viên gạch, từng giọt mồ hôi và biết bao những công lao vất vả. Dù cuộc đời chúng ta có như Saolô ngã ngựa thì cũng đừng cho rằng mình vô phước, vì thực sự chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều, và biết đâu chính sự ngã ngựa ấy, lại là một ơn huệ.
Tóm lại, cuộc đời của chúng ta là kết tinh của biết bao công ơn. Mà đã chịu ơn thì phải biết ơn. Còn biết ơn những ai, thì mỗi người có thể tự trả lời. Hãy biết ơn, đó là tiếng vọng chúng ta nghe được khi nhìn lại quá khứ. Còn khi nhìn đến tương lai, chúng ta ghi nhận những gì?
Tôi xin thưa, đó là hãy tiến bộ, hãy phát triển, bởi vì sống là tiến bộ, sống là phát triển. Không tiến tức lùi, không cố gắng bơi thì sẽ bị giòng nước cuốn trôi. Phát triển không phải chỉ về phần xác, to bề ngang, cao bề đứng, nhưng còn về tinh thần. Tiến bộ không phải chỉ về sản xuất mà còn về đạo đức. Cặp mắt phải biết nhìn cuộc đời một cách thực tế hơn, không để mình bị ru ngủ bởi những ảo vọng hão huyền. Con tim phải biết khử trừ những nghi kỵ hận thù, để đoàn kết và mở rộng cánh cửa thương yêu. Trí khôn phải biết tin tưởng vào Chúa và rút ra từ lòng cuộc đời những bài học bổ ích cho tâm hồn. Bản thân phải biết bấu víu vào Đấng có thể an ủi mình ở đời này và ban cho mình hạnh phúc ở đời sau, cũng như phải biết thu tích những sự thiêng liêng không bao giờ hư mất.
Dĩ vãng kêu gọi chúng ta hãy biết ơn, tương lai kêu gọi chúng ta hãy tiến bộ, đó là sứ điệp mà chúng ta ghi nhận trong dịp đầu xuân, khi chúng ta đứng giáp ranh giữa năm cũ và năm mới vậy.
4. May mắn (Mt 5,1-10)
Trong dịp đầu xuân, người ta thường gửi cho nhau những tấm thiệp với lời nguyện chúc tốt đẹp nhất. Rồi trong những ngày tết, bước chân ra đường, chúng ta sẵn sàng nở một nụ cười thật tươi và không ngần ngại cầu chúc cho nhau một năm mới nhiều may mắn. Đó cũng là lời cầu chúc tôi xin thành thật gửi đến cho anh chị em. Thế nhưng chúng ta cần phải tìm hiểu xem sự may mắn là gì? Bởi vì năm người thì mười ý, mỗi người hiểu sự may mắn theo một quan niệm riêng.
Thực vậy, nếu tôi hỏi bác nông dân:
– Một năm mới nhiều may mắn là gì?
Bác sẽ vuốt chòm râu bạc hay lau khô những giọt mồ hôi trên trán và trả lời:
– Đó là một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, lúa thóc đầy bồ.
Nếu tôi hỏi một cô gái đi buôn:
– Thế nào là một năm mới nhiều may mắn?
Chắc hẳn cô ta sẽ trả lời:
– Đó là một năm trúng mánh, đi chuyến nào trót lọt chuyến ấy, không bao giờ bị bắt và nếu có bị bắt, thì cũng gãi đầu gãi tai, năn nỉ ỉ ôi mà xin lại được.
Nếu tôi hỏi đôi vợ chồng trẻ:
– Năm mới nhiều may mắn là gì?
Họ sẽ trả lời:
– Đó là một năm không bao giờ xảy ra cái cảnh nồi niêu xoong chảo, chổi cùn rế rách bay ra ngoài sân, hay thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau. Rồi đầu năm sinh con trai và không chừng cuối năm sinh con gái. Hay là trúng số cặp hai, đẻ sinh đôi, nuôi luôn một thể.
Cái được gọi là may mắn của nhiều người thời nay là gì, nếu không phải là những thành công, những tiến bộ. Và nhất là tiền bạc phải rủng rỉnh. Bởi vì trong mọi sinh hoạt, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng là vấn đề tiền đâu.
Dĩ nhiên chúng ta phải nghĩ đến sinh kế làm ăn và mong ước có được một cuộc sống tương đối đầy đủ. Thế nhưng thành công trong nghề nghiệp, chiếm được một địa vị khả quan ngoài xã hội, lãnh được một số lương hậu hĩnh, tạo được những thành tích sáng chói mà thôi chưa đủ để nói được rằng: đó là một năm mới nhiều may mắn. Điều quan trọng hơn hết là phải biết kết hiệp với Chúa, phải biết làm việc cho Ngài, để mỗi hành động của chúng ta có được một giá trị vĩnh cửu. Những việc còn lại sẽ không mấy quan trọng, vì tất cả rồi sẽ qua đi.
Thực vậy, Chúa đã phán:
– Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi.
Phúc âm đã kể lại câu chuyện về ông phú nông như sau: Năm đó, mưa thuận gió hòa, mùa màng trúng lớn. Ông ta thu tích không biết cơ man nào lúa thóc. Cho nên ông ta đã quyết định phá kho lẫm cũ nhỏ bé, để xây kho lẫm mới to lớn hơn nhiều. Rồi đưa mắt nhìn về tương lai giữa lúc ông cảm thấy được bảo đảm thì lời Chúa vang lên:
– Hỡi kẻ điên khùng và dại dột, nếu như đêm hôm nay người ta đến đòi linh hồn ngươi, thì ngươi sẽ ăn nói làm sao bây giờ, và những của cải ngươi chắt chiu thu tích sẽ để lại cho ai?
Thánh nữ Têrêxa Avilla đã nói:
– Tất cả sẽ qua đi, chỉ mình Chúa mới tồn tại muôn đời.
Với Chúa, chúng ta sẽ có được mọi sự. Một mình Chúa mà thôi, thì cũng đã đủ. Giữa những lao công vất vả, giữa những giọt mồ hôi và nước mắt, giữa những quyến dũ trần gian, thì đôi mắt chúng ta vẫn hướng nhìn về Chúa. Chỉ có một sự cần đó là sống cho Chúa để cứu rỗi linh hồn mình.
Ngày kia quận công Toscane đi tham dự thánh lễ tại nhà thờ chính tòa. Ông ta nhìn thấy những em bé được rước lễ lần đầu đang quỳ cầu nguyện thật sốt sắng, nên sai một tên cận vệ bí mật trèo lên nóc thánh đường, rỡ một viên ngói, rồi từ đó ném xuống những đồng tiền vàng. Những đồng tiền vàng rơi trên nền gạch, tạo thành những tiếng động trong bầu khí thinh lặng, trang nghiêm và thánh thiện này, rồi lăn đi khắp mọi nơi… Tuy nhiên, không một em nhỏ nào đã cúi xuống lượm những đồng tiền vàng ấy. Không một em nhỏ nào đã chia trí và lo ra.
Chút nữa đây trong thánh lễ vị linh mục sẽ mời gọi chúng ta:
– Hãy nâng tâm hồn lên.
Và chúng ta đáp lại:
– Chúng con đang hướng về Chúa.
Đúng thế, mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi việc làm của chúng ta phải qui hướng về Chúa, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:
– Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì bản thân và cuộc đời chúng ta cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy. Nghĩa là chúng ta phải sống cho Chúa, bởi vì Chúa là hạnh phúc, Chúa là tất cả. Một khi mất Chúa thì cũng sẽ mất mọi sự và chẳng còn lại gì nữa.
Và như thế, một lần nữa, tôi xin cầu chúc mỗi người chúng ta một năm mới nhiều may mắn.
5. Tin tưởng vào Chúa Quan Phòng (Mt 6, 25-34)
Ngày Tết là ngày ai nấy đều no đủ, kể cả những người nghèo nhất trong xã hội, vì theo truyền thống văn hóa của dân tộc, dù quanh năm có đói khát, túng thiếu thì ngày Tết cũng phải là ngày no say, đầy đủ nhất. Thế có nghĩa là đối với nhiều người, vấn đề cơm-áo-gạo-tiền vẫn còn là vấn đề nhức nhối và ưu phiền nhất. Sau hơn hai ngàn năm, dù khoa học tiến bộ đã đưa con người lên không gian và sống trên đó một thời gian dài, thì con người vẫn chưa giải quyết được vấn đề ăn và uống cơ bản của mình. Thế giới vẫn đang phải vật lộn với vấn đề nước sạch, lương thực tối thiếu và thuốc men cần thiết.
Tại sao vậy? Tại vì có tình trạng quá chênh lệch về sở hữu của cải trần gian trong các xã hội: một số người lòng tham không đáy, tìm hết mọi cách – kể cả những cách ô nhục và thấp hèn – để chiếm đoạt tài sản chung của xã hội và nhân loại. Còn một số người khác không làm sao có được các điều kiện tối thiểu để sống cho ra người. Ở Việt Nam chúng ta hãy nghĩ đến những số tiền thất thoát trong các công trình xây dựng hạ tầng cơ sở ở khắp cả nước và con số chạy vào túi riêng cán bộ thuộc các sở, ban, ngành, công ty, tỉnh, huyện, xã v.v… thì chúng ta hiểu tại sao dân Việt Nam vẫn còn bị xếp vào loại các nước nghèo nhất trên thế giới dù chiến tranh đã chấm dứt gần 28 năm rồi!
Vậy thử hỏi việc tin tưởng vào Thiên Chúa Quan Phòng mà Đức Giêsu dạy chúng ta hôm nay có ý nghĩa gì trong một bối cảnh xã hội và thế giới như thế? Chắc đối với những người có “của ăn của để” thì không thành vấn đề vì họ đâu có bao giờ phải lo ngày mai sẽ sống ra sao, ngày mốt sẽ lấy đâu ra tiền để mua gạo cho gia đình, để trả tiền học phí cho con hoặc trả tiền bệnh viện cho cha hay mẹ già! Nhưng đối với những người tối ngày phải vật lộn với cuộc sống (chỉ để sống, chưa nói đến làm giầu) thì quả là vô cùng khó mà tin vào lời của Đức Giêsu! Lời ấy có xa vời và viển vông không? Lời ấy có sức ru ngủ không? Lời ấy chỉ để đánh lừa những kẻ nhẹ dạ dễ tin? Hay Lời ấy là Lời hằng sống và chân thật?
Nếu đi sâu vào đời sống của giáo dân và kể cả lương dân, chúng ta sẽ thấy có không ít người nghèo xác tín rằng họ được Thiên Chúa hay Trời Phật chăm lo cho cuộc sống gia đình của họ. Họ là những người chịu thương chịu khó làm việc chứ không phải là những hạng ươn lười biếng nhác. Nhưng cứ nói theo cách bình thường thì họ không thể có đủ tiền đủ bạc để lo cho vợ chồng con cái vì hoàn cảnh eo hẹp và công ăn việc làm thu nhập chẳng là bao. Thế mà trên thực tế họ vẫn sống. Họ vừa lao động vừa cậy trông vào Chúa, vào Trời Phật. Và gia đình họ vẫn bình yên hạnh phúc, vì họ dám liều mà giao phó mọi sự cho Thiên Chúa, cho Trời Phật (trời sinh voi trời sinh cỏ) nên họ cảm nghiệm được là có một bàn tay vô hình thu xếp, giải quyết mọi khó khăn cho họ.
Ngày đầu năm mà suy nghĩ một chút về vấn đề vật chất trong cuộc sống chắc không phải là vô bổ. Nếu chúng ta không phải chạy ăn chạy uống thì chúng ta đừng quên cảm tạ Thiên Chúa Quan Phòng. Cách thể hiện lòng biết ơn tốt nhất, đẹp lòng Thiên Chúa nhất, là chúng ta biết chia sẻ một phần của cải mà mình đã nhận được cho những người túng thiếu hơn chúng ta. Còn nếu chúng ta đang sống trong cảnh nghèo túng, thì chúng ta hãy mạnh dạn phó dâng và tin tưởng ở Lời của Thiên Chúa. Chỉ cần Đức Tin nhỏ bằng hạt cải là chúng ta sẽ chứng kiến chuyện động trời và bất ngờ thú vị: Thiên Chúa không bỏ ai phải đói, phải khổ! Bình an cho Năm Mới không phải được bảo đảm bằng của cải vật chất mà bằng sự tin tưởng phó thác vào Đấng Thiên Chúa là Cha yêu thương biết chúng ta cần gì và không bao giờ làm ngơ trước các nhu cầu đích thực của chúng ta.
6. Hạnh phúc (Mt 6,25-34)
Trong giờ phút giao thừa, nghĩa là trong lúc năm cũ sắp qua đi, nhường bước cho năm mới, chúng ta hướng về Đức Kitô, Đấng vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời, đồng thời trao phó cho Ngài vận mạng của chúng ta, của loài người và của cả vũ trụ. Chúng ta phó thác cho Ngài cuộc đời và những dự phóng của chúng ta: Tất cả những gì chúng ta đang thực hiện và muốn tiếp tục hoàn thành, tất cả những gì chúng ta muốn làm nhưng chưa muốn hay chưa dám kởi công, cũng như tất cả những gì mới chỉ là những mơ ước, những nguyện vọng. Chúng ta phó thác cho Ngài tất cả mọi người thân yêu, bè bạn.
Chúng ta xin Ngài bảo đảm cho những lời nguyện chúc của chúng ta được trở thành sự thật. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng phải biết noi gương Chúa Giêsu, nghĩa là đừng chỉ chúc suông cho nhau hạnh phúc mà phải thực sự chia sẻ hay ít ra nếu chúng ta chưa có hạnh phúc để chia sẻ, thì cũng biết cùng nhau xây dựng hạnh phúc cho nhau.
Chúng ta đừng chỉ chúc hay hứa cho nhau hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng, tuy đó là hạnh phúc thật nhưng có lẽ vẫn còn xa. Chúa không chỉ hứa cho chúng ta hạnh phúc thật đời sau, nhưng đàng khác, Ngài cũng không muốn chúng ta phải khổ cực ở đời này, hay là muốn chúng ta mua sắm hạnh phúc tương lai bằng cách trả giá quá đắt là những đau khổ hôm nay.
Thiên Chúa là Cha của chúng ta ngay từ bây giờ, ngay hôm nay, chứ không là người Cha của tương lai mà thôi. Vì thế, Ngài muốn chúng ta ngay từ hôm nay phải được hạnh phúc. Chỉ có điều là hạnh phúc đó, hạnh phúc của hôm nay, hạnh phúc tại đời này cũng chỉ có thể xây dựng bằng mồ hôi nước mắt, bằng sự nhọc nhằn, thậm chí bằng đau khổ. Thế nhưng, tình yêu sẽ làm vơi bớt đau thương và còn có thế biến đổi gánh nặng của chúng ta thành nhẹ nhàng êm ái.
Một cách cụ thể, chúc cho nhau được hạnh phúc trong ngày đầu xuân, không nên chỉ là phát biểu trên đầu môi chót lưỡi, mà là tự thâm tâm, tự đáy lòng, chúng ta cam kết đem lại hạnh phúc đó bằng cách quyết tâm sống đơn sơ, nghèo khó, hiền từ, biết xót thương, biết sẵn sàng chịu đau khổ vì Chúa, vì anh em đồng loại.
Chúng ta không thể cầu chúc cho nhau hạnh phúc, nếu cứ tiếp tục sống ích kỷ, để mạc anh em phải đói khổ. Chúng ta không thể cầu chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu cứ tiếp tục sống tàn bạo, độc ác, hay sống bất chính, bất công với một tâm hồn khô cằn sỏi đá, chẳng biết xót thương. Chúng ta không thể chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu không sẵn sàng chịu gian khổ để giúp đỡ, giải thoát họ khỏi tình trạng đói nghèo, khỏi cảnh bị bóc lột, hay không tìm cách gỡ họ ra khỏi cảnh chia rẽ và thù oán.
Đừng để những lời giả dối thốt ra từ môi miệng chúng ta trong những giờ phút đầu tiên của năm mới. Trái lại hãy đem trót cả tâm tình mà cầu chúc cho nhau biết đón nhận hạnh phúc mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đem lại cho chúng ta.
Lời cầu chúc đầy ý nghĩa nhất đối với người Kitô hữu đó là cầu chúc cho nhau biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, và đó chính là chiếc chìa khoá đem lại cho mỗi người hạnh phúc đích thực.
7. Niềm vui và nỗi buồn (Mt 6, 25-34)
Không gì cần thiết cho chúng ta bằng niềm vui. Phải, niềm vui cũng cần thiết như cơm để ăn, áo để mặc và khí trời để thở. Niềm vui được biểu lộ nơi ánh mắt, nơi nụ cười, phản ảnh cho một tâm hồn trong sạch và một trái tim nhiệt thành. Vì thế mà người ta đã bảo:
– Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn vậy.
Thế nhưng đâu là chiếc chìa khóa đem lại niềm vui cho chúng ta?
Sau khi Chúa Giêsu sống lại, vấn đề quan trọng đối với các tông đồ chính là niềm vui, bấy giờ tâm hồn các ông ngập tràn hạnh phúc, bởi vì Chúa Giêsu vẫn còn đó, bên cạnh các ông. Nhưng rồi các ông sẽ phải buồn phiền vì Chúa Giêsu sẽ từ giã các ông mà về cùng Chúa Cha. Điều cần thiết cho các tông đồ cũng là điều cần thiết cho chúng ta, những người tín hữu, đó là niềm vui được kết hiệp với Chúa.
Thực vậy, bao lâu xa cách Chúa, tâm hồn chúng ta sẽ phải khắc khoải u sầu. Tại sao lại như thế?
Trước hết vì Chúa Giêsu là Đấng đem lại cho chúng ta niềm vui đích thực. Có một gia đình giàu sang, chuẩn bị cho cô gái út của mình trong ngày rước lễ lần đầu. Bà mẹ đã may cho cô bé những bộ quần áo lộng lẫy. Cô bé yên lặng suy nghĩ, rồi với cặp mắt long lanh, cô bé nói:
– Xin mẹ cứ mặc cho con những bộ quần áo bình thường như những nhỏ bạn nghèo khổ của con. Niềm vui của con chính là được gặp gỡ và kết hiệp với Chúa trong ngày trọng đại ấy.
Phải, một khi ngự vào tâm hồn chúng ta, Chúa sẽ đem đến niềm vui và sự bình an. Vì thế, chỉ có một nỗi buồn day dứt, đó là chúng ta bị xa cách Chúa bởi tội lỗi mà thôi.
Vua thánh Louis hồi còn nhỏ, thường ngồi dưới chân mẹ là hoàng hậu Blanche de Castille, ngước mắt nhìn mẹ và chăm chú lắng nghe những lời mẹ dạy. Ngày kia, người mẹ đặt một tay lên vai con rồi nghẹn ngào nói:
– Hẳn con biết rằng mẹ yêu con nhiều lắm, nhưng thà rằng mẹ thấy con chết dưới chân mẹ còn hơn là thấy con phạm một tội trọng mất lòng Chúa.
Cậu bé yên lặng và suy nghĩ, rồi trên khuôn mặt cậu bé biểu lộ một điều dốc quyết thật can cảm:
– Thà chết chẳng thà phạm tội.
Với các tông đồ ngày xưa, hẳn rằng Chúa Giêsu đã chiếm một địa vị quan trọng. Các ông không thể sống thiếu vắng Ngài. Và Ngài đã là tất cả cho các ông. Thế nhưng ngày nay, không thiếu gì những tín hữu và ngay cả chúng ta nữa, chỉ vì một lợi lộc nhỏ mọn, chỉ vì một vui thú tầm thường, chúng ta đã bỏ Chúa như các môn đệ, đã bán Chúa như Giuđa và đã chối Chúa như Phêrô. Mặc dù trong ngày chịu phép Rửa tội và hằng năm trong đêm thánh vọng Phục sinh chúng ta đã thề hứa: Từ bỏ ma quỉ, từ bỏ những công việc và những quyến dũ của nó, để kết hiệp với Chúa mãi mãi. Nhưng rồi chúng ta lại mau quên đi những lời thề hứa ấy, bỏ mặc Chúa trong sự quên lãng.
Nếu chẳng may tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Chúa, thì hãy mau mắn chạy đến nơi tòa cáo giải với tâm tình sám hối ăn năn, để được tha thứ, để được hòa giải với Ngài hầu lấy lại sự bình an và niềm vui.
Chúng ta không biết mình sẽ sống được bao lâu: Bảy tám chục năm hay chỉ một vài bữa nữa mà thôi. Tuy nhiên, những tháng ngày hiện tại không thể nào sánh với cuộc sống vĩnh cửu, khi chúng ta được trở về nhà Chúa, được nhìn thấy Ngài mặt đối mặt. Lúc đó, niềm vui của chúng ta sẽ tràn đầy, hạnh phúc của chúng ta sẽ trọn hảo, và chẳng một ai có thể lấy mất được.
Đạo của Chúa là đạo của niềm vui. Tin mà Chúa đem đến là Tin mừng. Vì thế, xin cầu chúc cho mỗi người chúng ta luôn gắn bó mật thiết với Chúa, để hiện tại chúng ta được hưởng một năm mới ngập tràn niềm vui và mai ngày chúng ta sẽ được hưởng một mùa xuân vĩnh cửu trong tình thương của Chúa.
8. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
PHẤN ĐẤU TẠO MÙA XUÂN
Mùa Xuân là màu của hoa. Những bông hoa góp phần làm thành nét đẹp của ngày Tết. Ngày Tết mà thiếu hoa sẽ mất đi rất nhiều vẻ đẹp đẽ vui tươi.
Tại Việt nam, hai loại hoa tiêu biểu cho ngày Tết là mai và đào. Trong Nam, mai rộ nở như ganh đua với nắng vàng rực rỡ. Ngoài Bắc, trong cái buốt giá của mùa Đông kéo dài, những cành đào tươi thắm chen giữa đám lộc non xanh biếc là một cánh thiệp báo tin vui mùa Xuân đến.
Nhìn những cánh hoa tươi thắm như đang cười đùa với nắng Xuân, mấy ai nghĩ rằng những cánh hoa kia đã phải trải qua một quá trình phấn đấu gian nan.
Thật vậy, trước khi mùa Xuân đến, những cây đào trơ trụi như những xác chết không hồn. Những cây mai cũng bị tuốt sạch lá để trơ những cành khẳng khiu nom đến tội nghiệp.
Nhưng ai đã trồng hoa đều có kinh nghiệm là càng tuốt sạch lá càng có nhiều hoa. Chính những thân cây khẳng khiu trơ trụi ấy đã góp phần làm nên những bông hoa tươi đẹp trang điểm cho mùa Xuân, đem niềm vui đến cho con người, trở thành dấu hiệu của hạnh phúc, của thành công.
Mùa Xuân, ta thường chúc nhau thành công, hạnh phúc. Đã thấy những cành cây trơ trụi mùa đông, rồi nhìn những bông hoa rực rỡ hôm nay, tôi hiểu rằng thành công và hạnh phúc ta đạt được cũng phải trải qua những phấn đấu như loài hoa. Để đạt được những thành công thiêng liêng và hạnh phục vĩnh cửu, ta càng phải noi gương loài hoa mà phấn đấu rất nhiều.
Phấn đấu loại bỏ những gì xưa cũ. Nếu những cây hoa không chịu tước bỏ lớp lá cũ già nua xấu xí thì làm sao có được những cánh lá non mơn mởn và nhất là làm sao có được những nụ hoa lộng lẫy vào mùa xuân?
Tương tự như thế, muốn đời sống thiêng liêng sinh hoa kết quả, ta cũng phải từ bỏ những gì xưa cũ trong bản thân. Những gì xưa cũ là những gì không phù hợp với Phúc Âm, những gì ngăn cản ta tiến bước như thói lười biếng, thói giận hờn ganh ghét, thói ích kỷ, thói chia rẽ bất hoà, thói tự kiêu tư đại.
Phấn đấu dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mùa đông, người làm vườn tuốt lá, tỉa cành để khi mùa đến, nhựa cây phong phú không phải tốn phí nuôi dưỡng những chiếc lá già nua, những cành cây thừa thãi vô bổ, nhưng dồn hết sức sống cho hoa, cho lá mới. Nhờ thế hoa càng thêm tươi, lá càng thêm xanh.
Con người cũng thế, muốn thành công và hạnh phúc, phải loại bỏ những gì tiêu phí năng lực, để dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mục tiêu chính của ta là tập luyện lòng mến Chúa yêu người, là sống theo Tám mối phúc thật. Chuyên tâm vào mục tiêu chính, ta sẽ dễ thành công.
Sau cùng, phải phấn đấu vượt qua mọi gian khổ. Khi tuốt lá những cây mai, tôi thầm nghĩ: Nếu cây mai biết nói, chắc nó sẽ kêu lên đau đớn. Tuốt lá, tỉa cành làm cho cây đau đớn, mất mát, xấu xí khó coi. Nhưng chính nhờ vượt qua được những gian nan thử thách ấy mà cây hoa mới đạt đến mùa xuân tươi đẹp đem hương sắc cho đời.
Để loại bỏ những gì xưa cũ và dồn hết năng lực vào mục tiêu chính, con người cũng phải phấn đấu rất nhiều. Phấn đấu từ bỏ mình. Không hành động theo bản năng, dục vọng. Không hành động theo ý riêng. Chỉ tìm thánh ý Thiên Chúa. Những phấn đấu từ bỏ mình làm cho ta đớn đau. Nhưng chính những đớn đau đó góp phần tạo nên mùa xuân tươi đẹp.
Năm Mới, tôi cầu chúc tất cả anh chị em được nhiều ơn chúa để có sức phấn đấu, tạo nên một mùa xuân tươi đẹp cho gia đình, cho đất nước và cho nước Trời.
9. Năm mới bình an và hạnh phúc (Mt 6,25-34)
Một năm cũ đã qua và một năm mới đã tới,trong giây phút linh thiêng này, chúng ta thường làm gì? Tôi xin thưa: Chúng ta thường gửi đến cho nhau những lời cầu chúc. Thế nhưng, nhiều người đã không ý thức được tập tục tốt đẹp này. Họ không hề nghĩ tới những điều họ nói, để rồi những lời cầu chúc ấy trở thành bôi bác.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cầu chúc cho nhau những gì? Và chúng ta nghĩ sao về những lời cầu chúc ấy? Tôi xin thưa: Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới hạnh phúc. Vậy thế nào là một năm mới hạnh phúc?
Khi em bé nhặt được một tờ giấy bạc trên hè phố, tụi bạn sẽ bảo em là một người hạnh phúc và may mắn. Khi chúng ta trúng số độc đắc, bà con lối xóm cũng bảo chúng ta là người hạnh phúc và may mắn. Tại sao lại như thế? Vì đối với nhiều người, hạnh phúc hệ tại giàu sang, tiền nhiều bạc lắm.
Nhưng theo tôi, đó mới chỉ là một thứ hạnh phúc giả hiệu và thời gian của nó kéo dài không quá một kiếp của con thiêu thân, như lời một câu danh ngôn đã bảo:
– Hạnh phúc của người giàu cũng dễ bể như một chiếc ly thủy tinh.
Chẳng hạn vì chiến tranh, vì bệnh tật, vì tai ương hoạn nạn…mà nhiều người đã mất đi tất cả sản nghiệp đã được chắt chiu gầy dựng: Bừng con mắt dậy thấy mình tay không. Điều đó chứng tỏ rằng giàu sang không đủ đảm bảo và đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc.
Đối với nhiều người khác, một năm mới hạnh phúc sẽ là một năm mới khỏe mạnh, gặp nhiều may mắn trong công ăn việc làm. Đúng thế, khỏe mạnh và may mắn cũng là những điều chúng ta thường cầu chúc cho nhau, nhưng vẫn chưa phải là niềm hạnh phúc đích thực.
Nếu sức khỏe là niềm hạnh phúc, thì chắc hẳn những lực sĩ sẽ là những người hạnh phúc nhất. Thế nhưng, không phải vậy. Bởi vì có những người đau yếu, sức khỏe thì èo uột, thế mà nụ cười vẫn tươi nở trên cặp môi khô héo của họ.
Còn về sự may mắn trong công ăn việc làm, nếu quả đúng như vậy, kẻ nào càng kiếm được nhiều tiền, thì càng hạnh phúc. Thế nhưng, trong cuộc sống, những người kiếm được ít tiền chưa chắc đã là những kẻ khổ đau, vì như chúng ta thường bảo:
– Lòng tham thì vô đáy…Đứng núi này trông núi nọ…Được voi đòi tiên…
Và như thế, khát vọng này nảy sinh ra khát vọng khác và sẽ chẳng bao giờ được thỏa mãn. Rất nhiều người đã mong ước có được một việc làm dễ dãi, khả dĩ kiếm được nhiều tiền, nhiều bạc để rồi sống một cuộc sống an nhàn và hạnh phúc, vì họ thầm nghĩ:
– Có tiền mua tiên cũng được.
– Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Có tiền là sẽ có nhà lầu xe hơi, là sẽ có Tv tủ lạnh và nhất là sẽ được mọi người kính nể. Thế nhưng, họ đã lầm. Tôi xin đưa ra một thí dụ đẻ chứng minh cho sự thật trên.
Paul Getty là ông chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Khu đất ông ở rộng bốn mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng tỷ mỹ kim. Thế mà mỗi ngày ông đều phải làm việc từ ba giờ sáng. Chung quanh ông có tới mười cảnh sát bảo vệ. Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm bức thư hăm dọa sẽ ám sát và ông đã phải thốt lên:
– Tôi là người chẳng bao giờ biết đến hạnh phúc.
Thí dụ trên cho chúng ta thấy: Hạnh phúc thật không hệ tại nơi tiền bạc vật chất. Vậy chúng ta phải đi tìm hạnh phúc ở đâu bây giờ?
Hẳn chúng ta đã biết: Con người không phải chỉ có thân xác, mà còn có linh hồn. Bởi đó, không phải chỉ cần có của cải vật chất bên ngoài, mà còn cần phải có những nhu cầu thiêng liêng, xuất phát tự bên trong. Và như thế, niềm hạnh phúc đích thật hệ tại sự bình an trong tâm hồn.
Nhìn vào đời sống các thánh, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Chẳng hạn thánh Giuse và Mẹ Maria. Chắc hẳn các ngài không có nhiều tiền bạc, không ở trong những tòa nhà tráng lệ và tiện nghi. Trái lại, các ngài sống rất nghèo nàn, đến nỗi không tìm được một chỗ trú chân. Dầu vậy, các ngài vẫn hạnh phúc. Tại sao lại như thế? Tôi xin thưa: Vì Chúa Giêsu luôn ở với các ngài.
Thực vậy, nơi nào có Chúa, nơi ấy có hạnh phúc. Và ai yêu mến Chúa, người ấy sẽ được hạnh phúc thực sự. Bởi vậy, muốn được hạnh phúc, chúng ta cần phải có Chúa ở cùng, nghĩa là tâm hồn chúng ta phải trong sạch, xứng đáng làm nơi cho Chúa ngự trị.
Nếu trót sai lỗi vấp phạm, chúng ta hãy chạy đến với bí tích của lòng khoan dung với tâm tình sám hối, để được tha thứ, bởi vì sự bình an phải là kết quả của việc hòa giải giữa chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau.
Niềm hạnh phúc của một tâm hồn trong sạch và có Chúa ở cùng, cũng chính là niềm hạnh phúc chúng ta cần phải cầu chúc cho nhau trong năm mới này.
Thực vậy, dù năm mới này có nhiều khổ đau và cay đắng, nhưng nếu tâm hồn chúng ta thực sự có Chúa ở cùng, chúng ta vẫn cảm thấy vui mừng và hy vọng. Chính trong ý nghĩ ấy mà trong giây phút linh thiêng này, tôi xin cầu chúc cho anh chị em một năm mới bình an và hạnh phúc.
10. Tôi là người hạnh phúc nhất – Mt 6,25-34
Một ông vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều do sự miễn cưỡng đóng góp của thần dân. Ông tự so sánh mình với những người hành khất: người hành khất nhận được tiền của do lòng thương của người khác, còn ông, ông nhận được tiền do sự cưỡng bách.
Ngày nọ, ông vua giàu có đã quyết định làm một việc táo bạo: đó là cải trang thành người hành khất để cảm nghiệm được những đồng tiền bố thí… Thế là mỗi ngày Chúa Nhật, ông biến mình thành một người ăn xin lê lết trước cửa giáo đường. Ông cho tất cả những tiền ăn xin được vào một chiếc hộp nhỏ. Tuy không là bao so với cả kho tàng của ông, nhưng có lẽ nó vẫn có giá trị hơn… Ông tự nghĩ: bây giờ ta nới thực sự là người giàu có nhất trên đời, bởi vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót của con người, chứ không do một sự cưỡng bách nào.
Khi đã gom góp được một số tiền khá lớn sau những năm tháng ăn xin trước cửa các giáo đường, ông đã xin từ chức khỏi ngai vàng và đi đến một phương xa, nơi không ai có thể nhận ra ông. Ông mua một mảnh đất, và tự tay cất được một ngôi nhà tranh đơn sơ. Không mấy chốc, do sự hòa nhã, vui tươi của ông, mọi người trong lối xóm đều mến thương ông, nhất là các em bé. Ông kể chuyện cho chúng nghe, ông đem chúng đi câu cá, ông dạy chúng ca hát.
Trong đám trẻ nhỏ, có một cậu bé gia đình còn nghèo hơn cả ông nữa. Cậu bé chỉ có vỏn vẹn một con chim họa mi. Nghe tin ông đau nặng, cậu bé đã vội vàng mang con chim đến tặng ông, với hy vọng rằng con chim sẽ hót cho ông được khuây khỏa.
Đón nhận món quà, con người đã từng là vua của một nước mới thốt lên: “Từ trước đến nay, tất cả những gì tôi có, tôi đều lãnh nhận do lòng thương xót của người khác. Người ta cho tôi, nhưng không phải là cho tôi mà là cho một người hành khất. Giờ đây, với món quà tặng là con chim này, người ta tặng cho tôi với tất cả tấm lòng yêu thương… Chắc chắn, tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian”.
Một thời gian sau đó, trong vùng, có một người táđiền nghèo bị người chủ đe dọa lấy nhà và trục xuất ra khỏi mảnh vườn đang canh tác. Nghĩ đến cảnh hai vợ chồng và 7 đứa con dại bị đuổi ra khỏi nhà, ông vua không thể nào ăn ngủ được… Cuối cùng, ông quyết định tặng chính mảnh vườn và ngôi nhà của mình cho gia đình người tá điền nghèo… Và một lần nữa, không một đồng xu dính túi, ông lên đường trẩy đi một nơi khác.
Bùi ngùi vì phải chia tay với những người quen biết trong vùng, nhưng ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên ông cảm nghiệm được niềm vui của sự ban tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có phúc hơn là nhận lãnh… Lần này, ông thốt lên với tất cả xác tín: “Tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian này”.
Câu chuyện của ông vua đi tìm hạnh phúc trên đây có thể gợi lên cho chúng ta về hình ảnh của chuyến đi cuộc đời của chúng ta… Người Kitô là một người lữ hành đi tìm hạnh phúc. Và hạnh phúc đích thực của chúng ta là gì nếu không phải là trao tặng, trao tặng cho đến lúc trống rỗng, nhưng bù lại, chúng ta được lấp đầy bằng chính Chúa.
11. Thiên Chúa hay thần tài? (Suy niệm của Lm Nguyễn Hồng Giáo)
Trong bài Phúc Âm Mt 6, 24-34 mà chúng ta nghe đọc trong Chúa Nhật 8 Thường Niên năm A, và trong dịp tết nguyên đán, Đức Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm để chỉ cho chúng ta thấy một sự lo lắng thái quá về đời sống vật chất là vô lý nếu như chúng ta còn tin có Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ví dụ thứ nhất: chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống. Ví dụ thứ hai: cuộc đời của mỗi người chúng ta có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, – điều đó chúng ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc! Và cuối cùng: hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó”
Chúng ta đồng ý rằng lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay thật là hấp dẫn. Có gì đáng mong ước hơn là có Cha Trên Trời lo lắng cho ta? Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi sâu vào thực tế, chúng ta càng thấy mọi sự chẳng đơn giản chút nào.
Những lo lắng chính đáng
Con người thời đại ta cũng như mọi thời đại, đều có trăm ngàn nỗi lo, và những nỗi lo chính đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ nguyên những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống đã làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ gia đình: lo sao cho có cái ăn, cái mặc, cho căn nhà ở khỏi giột nát khi tới mùa mưa, cho con cái được học hành, cho có thuốc thang khi bệnh tật, cho giá cả đừng tăng vọt, mùa màng không thất thoát… Những nỗi lo như thế phát xuất từ trách nhiệm của mỗi người, đều chính đáng và đẹp lòng Chúa.
Chúa Giêsu không muốn cho chúng ta lười biếng hoặc sống vô trách nhiệm. Chim trời cũng phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim phải bay thật xa mới tới chỗ có thức ăn. Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải đâm rễ len lỏi giữa sỏi đá để tìm chất nuôi sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói rằng: “Ngày nào có cái khó, cái khổ của ngày đó”. Vậy khó nhọc, gian khổ là điều có thực, gắn vào thân phận con người.
Không những Chúa không muốn ta sống lười biếng, vô lo, vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải làm việc để cùng với Người hoàn hiện thế giới này và góp phần vào công cuộc cứu độ thế giới. Ngay lúc vừa mới dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu đã hỏi mỗi người đã dùng tài năng Chúa ban mà làm lợi cho Người được bao nhiêu, chứ không phải đã chôn giấu nó an toàn như thế nào. Thế thì ta có quyền và có bổn phận phải lo lắng, tính toán, phải có kế hoạch, phải phòng xa. Điều Chúa không chấp nhận là chúng ta lo lắng về đời sống vật chất như thể đó đã là cùng đích của đời sống, là tuyệt đối cho đời mình.
Thiên Chúa hay Thần Tài?
Câu then chốt nhất của bài Phúc Âm hôm nay là: “Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và đời sống công chính như Nguời đòi hỏi, còn các thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho.” Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa: đây mới là vấn đề ưu tiên.
Nỗi lo số một của người môn đệ Chúa Giêsu là nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết. Nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.
Lời dạy của Chúa Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Người ta thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Nhưng thực tế luôn luôn chứng minh rằng suy nghĩ và hành động như thế là sai lầm. Xã hội tư bản lấy sự sản xuất của cải hàng hoá dư dật và sự hưởng thụ tự do làm mục tiêu, và bắt mọi sự khác phải phục vụ cho mục tiêu ấy, nên đã rơi vào khủng hoảng về tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì mục tiêu ấy, người ta khai thác các tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ và ngày nay thiên nhiên quay lại “trả thù” con người, đe dọa cuộc sống trên trái đất. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta coi kinh tế là yếu tố quyết định mọi sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục vụ con người, nhưng trên thực tế con người và các giá trị đạo đức bị chà đạp trầm trọng… Sau khi hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những nước khác đã quay sang kinh tế thị trường và cũng đang phát triển theo hướng phương Tây, liệu có tránh nổi những tiêu cực gắn liền vào tư bản chủ nghĩa không? Của cải vật chất là ông chủ không dễ gì khuất phục nổi. Tinh thần thường tỏ ra yếu đuối và không hấp dẫn bằng của cải giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa “thời mở cửa”, điều đó cũng đang được chứng minh.
Của cải là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào.
“Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi”: Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất.
Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
12. Xin ơn bình an – ĐGM. J.B. Bùi Tuần
Để mừng Xuân mới, theo thông lệ, tôi xin Chúa ban cho đại gia đình chúng ta một Lộc thánh.
Lộc thánh nói đây là Lời Chúa. Lời Chúa sẽ mang lại cho ta nguồn ánh sáng và hy vọng. Đó là lợi lộc tốt nhất cho hành trình cuộc sống ta trong năm mới.
Vậy, Lộc thánh mà Chúa gởi chung cho chúng ta đầu năm nay là Lời nào của Chúa? Thưa là lời Chúa Giêsu đã chào chúc các môn đệ yêu dấu của Người chiều Phục sinh. Lời đó là: “Bình an cho các con” (Ga 20,20).
Theo tôi, bình an là điều mà chúng ta luôn rất cần. Bình an là món quà tặng quý nhất cho mọi hoàn cảnh đời ta.
Nhưng, để lời chào chúc bình an của Chúa trở thành một mùa Xuân thiêng liêng thực sự cho ta, ta nên đón nhận ý Chúa đi liền với ơn bình an.
Ý Chúa là thế này:
Ngay sau lời chào chúc bình an cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã thân mật truyền đạt rõ ràng quyết định của Người: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21).
Như vậy, ơn bình an luôn gắn liền với ơn gọi sai đi. Phải sống đúng ơn gọi sai đi, mới đón nhận được ơn bình an. Xin nói ngay rằng: Mọi người chúng ta, ai cũng được Chúa sai đi. Sai vào đời. Sai vào nơi mình ở và làm việc. Sai vào lịch sử của Đất Nước và của Hội Thánh đang cưu mang mình.
Chúa sai ta đi để làm gì? Chúa phán: “Các con hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Tin Mừng Chúa bảo chúng ta loan báo là “Sám hối, để được ơn tha tội” (Lc 24,53), và đi theo Người “là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6) hầu được về với “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8).
Chúng ta loan báo Tin Mừng đó ít ra bằng cách chúng ta thực hiện Tin Mừng đó nơi bản thân ta. Nếu ta hiểu ơn gọi là như vậy, thì, ngay ngày đầu năm, ta đã có một cái nhìn đúng về hướng đi đời ta trong năm Ất Dậu này.
Năm Ất Dậu này, cho dù đang được mở đầu với những vẻ đẹp huy hoàng và với những hứa hẹn tốt, nó vẫn không che giấu được nhiều băn khoăn, nhiều lo lắng, nhiều trăn trở của biết bao người, nhất là của những người thiện tâm, thiện chí.
Thực tế cho thấy:
Có những cái mong manh bên cạnh những cái ổn định. Những mối đe doạ sát liền với những thành công. Những cái ta tự chọn có thể bị lung lay và tan vỡ bởi những gì vượt khỏi ý muốn và khả năng của ta.
Trên đây là chút nhìn xa. Không bi quan, nhưng là sự thực. Nhận thức sự thực này, để biết sống ơn gọi của mình, theo thánh ý Chúa, đó là cách ta đón nhận ơn bình an của Chúa. Một sự bình an không đồng nghĩa với nghỉ ngơi, nhưng là phấn đấu, là làm việc, là tin cậy, theo ơn gọi của mình. Chúa Giêsu phán: “Như Cha Thầy luôn làm việc, thì Thầy cũng luôn làm việc” (Ga 5,17). Chúng ta cũng làm việc và phấn đấu, trong thánh ý Chúa như vậy.
Với vài tâm tình trên đây, tôi xin cùng với Đức Cha Cố Micae và Đức Cha Giuse Giám mục giáo phận xin tha thiết cầu chúc anh chị em một năm mới đầy bình an của Chúa.
13. Bình an
(Bài đọc 1: St 1, 14-18; Bài đọc 2: Pl 4, 4-8; Tin mừng: Mt 6, 25-34)
Một trong những nét đẹp của nền văn hoá Á Đông nói chung và của Việt Nam chúng ta nói riêng, đó là phong tục đi chúc Tết trong những ngày đầu năm. Trong những ngày đầu năm này, chúng ta luôn cầu chúc cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Chúng ta ước mơ và chúc cho nhau trong năm mới này được thịnh vượng, may mắn, làm ăn phát tài…và nhiều điều may mắn khác nữa, nhưng có lẽ điều mà tất cả từng người chúng ta đây ước mơ nhiều nhất và cũng được cầu chúc nhiều nhất là sự bình an trong năm mới. Vâng, hai chữ “bình an” chính là ước vọng sâu xa nhất của từng người chúng ta. Nếu suy xét kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng tất cả mọi việc chúng ta làm tựu trung cũng là để có được sự bình an. Thế nhưng, thực tế, chúng ta vẫn chưa có được sự bình an thực sự.
Do đó, trong giờ chia sẻ này, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em dựa vào ánh sáng của Lời Chúa để tìm ra phương thế đạt được sự bình an đích thực trong năm mới này.
1. Thiên Chúa, nguồn bình an:
Trước khi nói đến sự bình an, có lẽ chúng ta cũng cần nhìn qua những lý do làm cho chúng ta mất bình an. Lý do thì nhiều, nào là làm ăn thất bại, bị hiểu lầm, gặp tai ương, bệnh tật…, nhưng xâu xa hơn, có lẽ vì mọi việc không xảy ra đúng với ý muốn, dự định của chúng ta nên chúng ta bất an. Hay nói một cách khác, chúng ta nghĩ rằng mình là chủ cuộc sống của mình và mình có thể kiểm soát được tất cả mọi việc, nên khi có một điều gì đó không đúng với chương trình của mình, chúng ta liền khó chịu bất an.
Do đó, tôi thiết nghĩ để có sự bình an thật sự, từng người chúng ta cần xác tín với nhau một điều: Thiên Chúa là Đấng quan phòng, làm chủ mọi sự. Chính Ngài là Đấng tạo dựng muôn loài, như trình thuật của sách Sáng Thế: “Thiên Chúa phán: Phải có những vầng sáng trên vòm trời…. Liền có như vậy…. Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp”. Không chỉ là Đấng Sáng Tạo, Thiên Chúa còn là người Cha đầy yêu thương sẵn sàng lo cho chúng ta mọi sự. Chính Đức Giêsu đã khẳng định với chúng ta điều này như chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cũng cần tất cả những thứ đó”. Cha chúng ta thừa biết chúng ta cần gì và Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta điều chúng ta cần. Điều quan trọng là chúng ta có dám đặt mình vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, và để cho Ngài lo hay không mà thôi. Thật vậy, kinh nghiệm hàng ngày cho thấy: trong thân phận làm con thì điều quan trọng nhất là ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ, rồi cha mẹ sẽ lo cho con tất cả mọi sự. Và lúc đó, chúng ta sẽ có bình an, vì mọi chuyện đã có cha mẹ lo cho rồi.
Như thế, để có được sự bình an, điều đầu tiên mỗi người chúng ta cần thực hiện đó là hướng tâm hồn và con người chúng ta lên Thiên Chúa, nhận Ngài là chủ mọi sự kể cả cuộc đời của mỗi người chúng ta. Đây là một sự thật căn bản đầu tiên làm nền tảng cho một tâm hồn bình an.
2. Con đường bình an:
Hướng tâm hồn lên với Thiên Chúa, chính là luôn gắn bó với Chúa là nguồn bình an, lúc đó chúng ta sẽ nhận được sự bình an. Tuy nhiên, thánh Phaolô nhắc nhở mỗi người chúng ta: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em”. Điều đó cho thấy, niềm tin tưởng và phó thác của chúng ta nơi Chúa không miễn trừ cho chúng ta các khó khăn, trở ngại trong cuộc sống hiện tại, nhưng sẽ giúp chúng ta có được sức mạnh nội tâm và làm cho tâm hồn chúng ta được thanh thản để vượt qua những khó khăn đó. Như vậy, cho dù ngoại cảnh bên ngoài không làm cho chúng ta vui, nhưng trong Chúa, chúng ta vẫn có thể vui được. Đây chính là kinh nghiệm của Đức Maria: giữa những khó khăn của cuộc sống nghèo khổ, và án tử có thể đến vì mang thai trong lúc chưa về nhà chồng. Mẹ vẫn cất tiếng ca vang: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”. Mẹ đã vui vì Mẹ luôn tin tưởng vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ tin chắc rằng, Chúa sẽ có cách để giải quyết vấn đề của Mẹ. Tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng xác tín như thế khi nói: “Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”. Vịnh gia còn mời gọi chúng ta: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”.
Kế đến, sự bình an thật sự chỉ có nơi những tâm hồn thanh sạch, bởi vì “cây ngay không sợ chết đứng”. Những người công chính luôn cậy trông vào Chúa có thể vẫn còn phải gặp những khó khăn bên ngoài, nhưng chắc chắn họ không cùng đường, tuyệt vọng, tâm hồn họ vẫn luôn bình an, vì họ tin vào lời hứa của Đức Giêsu: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người; còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”. Thật vậy, với kinh nghiệm của mình chắc hẳn mỗi người trong chúng ta có cùng xác tín của tác giả Thánh vịnh: “Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ”. Do đó, để có bình an thật sự trong tâm hồn, chúng ta cần lánh xa tội lỗi và thực hành những điều công chính như lời dạy của thánh Phaolô: “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và mang lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen thì xin anh em hãy để ý”.
14. Chúng ta là người hành khất
“Chúng ta là người hành khất!” lời tâm sự này Martinô Lutherô, cha đẻ của đạo Tin lành Thệ Phản bên Đức, đã thốt lên năm 1546 vào những ngày cuối cùng cuộc sống trên trần gian của ông. Lời tâm sự này của ông biểu lộ niềm tin mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người. Người có tâm hồn niềm tin vào Thiên Chúa trông mong chờ đợi đón nhận từ nơi Ngài, những sự cần thiết cho đời sống. Và đồng thời cũng nói lên tâm tình niềm tin: Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ân đức tặng phẩm cho đời sống, con cám ơn Ngài! “Chúng ta là người hành khất!” tâm tình này cũng có thể là một suy tư gợi ý vào những giờ phút cuối cùng của năm hiện tại đang đi vào qúa khứ. Nhưng tại sao lại đem tâm tình này vào đời sống ngày cuối năm?
Khi nghe đến “hành khất” ta nghĩ ngay tới nghèo khổ, đói khát, túng thiếu, yếu đau, bơ vơ không nhà cửa… Không lẽ cuộc sống chỉ tiêu cực như thế sao? Không, chúng ta không dừng lại ở điểm tiêu cực đó. Ngày nay, nơi nhiều quốc gia tình trạng xóa đói, giảm nghèo, vệ sinh bệnh tật đang dần dà được đẩy mạnh bài trừ cải tiến. Và mức sống no cơm ấm áo dần được nâng cao, cho xứng với phẩm gía con người. Trong cuộc sống, lẽ dĩ nhiên rất nhiều người, nhất là ở trong xã hội văn minh đầy đủ hay đang mở cửa phát triển, đã đạt được những thành công rực rỡ về mặt chính trị, kinh tế, học hành, nghề nghiệp, y tế, của cải tài sản, cuộc sống gia đình hòa hợp êm ấm… Những điều đó đối với người có lòng tin vào Thiên Chúa, khi nhìn lại cũng có tâm tình gần giống như của Martinô Lutherô: Vâng, chúng con là người hành khất!
Tâm tình này muốn nói lên: Con cám ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng con cơ hội sống, cơ hội góp phần vào cuộc sống. Những gì con có hay đạt được, là những ân đức qùa tặng Thiên Chúa ban cho. Cuộc sống xã hội và đời sống từng người không chỉ có mặt sáng đẹp đó. Nhưng còn có mặt với nhiều bóng tối tiêu cực nữa: chiến tranh, thiên tai, lo âu, tai nạn, đau khổ bệnh tật, chạy loạn tỵ nạn tha hương … Trước những cảnh tượng đó, không ai muốn, nhưng chúng xảy ra đó và mọi người phải đối diện với! Trong cơn tuyệt vọng như thế, đâu đâu vào thời đại nào, hầu như bất cứ ai cũng đều cúi đầu hướng tâm hồn lên cao, thành tâm khấn vái xin Thiên Chúa, xin Thượng Đế, xin Trời phù hộ cho đời sống, cho thế giới khỏi cơn khốn khó đó.Tâm tình này càng vẽ rõ nét hơn “Chúng ta là người hành khất!” Người tin vào Thiên Chúa, khi nhận lãnh một tin lành bằng an, một tin vui, họ đều thắp sáng cây nến lòng biết ơn cho Đấng đã ban cho mình ân đức cao qúi đó và cho người nào đó đã liên đới trao tặng giúp đỡ mình. Cung cách sống đạo đức tình người này muốn nói lên: “Chúng ta là người hành khất!”
Trước ngưỡng cửa Năm Mới đang tiến dần vào hiện tại, niềm vui mừng đang khơi dậy trong lòng. Nhưng nào ai có thể biết đươc tương lai ngày mai trong năm mới sẽ đến như thế nào. Rồi trong đời sống vào nhiều hoàn cảnh giai đoạn cuộc sống, chúng ta thường lâm vào ngõ bí đường cùng, không biết nên làm sao nữa… Là người có niềm tin, ta đặt niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, Đấng biết sự gì cần thiết cho đời sống của ta. Chúng ta thường cầu nguyện cùng Đức Chúa Thánh Thần: lạy Cha kẻ khó khăn bần hàn, xin đến trợ giúp ban cho chúng con ân đức gìn giữ cuộc sống hôm nay và ngày mai! Đó cũng là tâm tình: “Chúng ta là người hành khất!”
15. Lễ Tân Niên- Cầu Bình An Cho Năm Mới
ĐỊNH HƯỚNG
Năm hết tết đến, ai trong chúng ta mà lại chẳng cảm thấy một chút gì náo nức: trẻ em thì mong đợi những bộ quần áo mới và những đồng tiền lì xì mừng tuổi, người lớn thì tính sổ công việc làm ăn trong năm qua và hoạch định chương trình cho thời gian sắp tới. Mọi người đều tạm gác những âu lo thường ngày để thăm viếng, để gặp gỡ và chúc mừng nhau một năm mới nhiều may mắn và hạnh phúc.
Thế nhưng giờ đây, chúng ta hãy bỏ qua những náo nức ấy để suy nghĩ một chút. Năm cũ đã trôi qua như một giấc chiêm bao và năm mới lại trở về. Chúng ta sống thêm một năm, nhưng cũng mất đi một năm trong dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là hướng đi, đâu là ý nghĩa, đâu là trọng tâm của cuộc đời, để nhờ đó chúng ta sẽ đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu?
Có lẽ chúng ta đã đánh mất phần nào cái trọng tâm của cuộc đời. Trọng tâm ấy chính là Thiên Chúa. Thực vậy, chúng ta từ bỏ Thiên Chúa để chạy theo những thần tượng giả trá, do những đam mê, những ước vọng riêng tư của mình tạo nên. Bởi đó, chúng ta bôn ba vất vưởng trên dòng thời gian, như thuyền không lái, như ngựa không cương. Khi thì chúng ta tìm cái này, lúc thì chúng ta kiếm cái kia. Vì thế, cuộc đời chúng ta chất đầy như bồn chồn và lo lắng. Chúng ta lo sợ tương lai có nhiều bất trắc, vì thế mới cầu chúc cho nhau được may mắn. Có người còn cẩn thận kiêng cữ để khỏi rước cái xui vào nhà.
Tuy nhiên, những may mắn và niềm hạnh phúc chúng ta cầu chúc cho nhau lại không treo trên đỉnh cây nêu, cũng không nằm trong những tấm thiệp. Ngay cả những lời cầu chúc chân thành và nồng hậu nhất cũng không phải là những vị sứ giả mang lại hạnh phúc.
Thực vậy, hạnh phúc không do những tiện nghi vật chất đem đến, vì những tiện nghi này nay còn mai mất. Hạnh phúc không do bản thân chúng ta gầy dựng nên, vì bản thân chúng ta vốn đã chìm ngập trong khổ đau và nghèo túng. Hạnh phúc ấy cũng không do người khác tạo thành vì người khác không có đủ quyền năng và tình thương để thực hiện những mộng ước của họ và của chúng ta.
Như thế, chúng ta nhận ra rằng chỉ mình Chúa mới là Đấng có thể đem lại hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Chỉ mình Chúa mới là Đấng có thể thực hiện được những lời mừng chúc của chúng ta mà thôi. Thực vậy, thánh Augustinô đã nói:
– Linh hồn tôi chỉ được nghỉ yên khi nó nằm gọn trong lòng bàn tay của Chúa.
Bao lâu chúng ta còn chạy theo những ảo ảnh của đam mê và dục vọng, thì bấy lâu cuộc đời chúng ta vẫn còn vất vưởng và xao xuyến. Khát vọng như một thứ rượu nồng, càng uống lại càng khát. Chúng ta sẽ đi từ khát vọng này đến khát vọng khác và chẳng bao giờ được no thỏa.
Niềm hạnh phúc đích thực chính là sự bình an trong tâm hồn. Và sự bình an này chỉ có được khi chúng ta đã ở trong tình thương của Chúa, khi chúng ta đã hòa giải với Ngài. Vì thế, Thiên Chúa phải là trọng tâm của cuộc đời chúng ta, phải là cùng đích của mọi vệc chúng ta làm. Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của chúng ta cũng phải xoay quanh Thiên Chúa như vậy. Có nghĩa là suốt dọc cuộc đời, chúng ta phải bước đi trong quĩ đạo của Thiên Chúa.
Ngài là Đấng nhân từ và hay thương xót. Sống trong Ngài, chúng ta sẽ không còn lo âu và sợ hãi, như một câu danh ngôn đã bảo:
– Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành, còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Dưới mắt Ngài, không có gì là may mắn hay xui xẻo. Những điều chúng ta gọi là hên hay xui, thực ra chỉ là hai tên gọi của cùng một thực tại, đó là tình yêu của Chúa. Hay nói một cách khác: tất cả đều là hồng ân của Ngài.
Hướng đi và ý nghĩa, trọng tâm và hạnh phúc của cuộc đời chúng ta là chính Thiên Chúa. Bởi vì Ngài là ơn cứu độ, là tình yêu, là sức sống của chúng ta. Ý thức được như vậy, nên các thánh bao giờ cũng bắt đầu công việc bằng thái độ cầu nguyện, kêu xin Chúa.
Một ngày sống được khởi đầu như thế, chắc chắn sẽ hạnh phúc hơn nhiều so với khi chúng ta bắt đầu bằng một điếu thuốc lá, bằng một ly rượu mạnh hay bằng cách lo láng đưa mắt nhìn lên tờ lịch và nghĩ ngay đến những món nợ phải trả, những công việc phải làm hay những vui thú phải kiếm.
Giả như trong đêm giao thừa, khi chuông đồng hồ vừa đổ mười hai tiếng cuối cùng của năm cũ, mọi người chúng ta hãy tuyệt đối yên lặng trong giây lát, rồi sau đó mới mở tiệc và mừng chúc nhau. Trong khoảng khắc thinh lặng này, chúng ta sẽ nhận ra đâu là mục đích, đâu là hướng đi chúng ta cần phải thực hiện và theo đuổi cho năm mới, cũng như cho suốt cả cuộc đời chúng ta.
Chính trong ý nghĩa ấy, tôi xin thành thực cầu chúc cho mỗi người một năm mới ngập tràn hạnh phúc trong tình yêu thương của Chúa.
16. Lời hứa năm mới
Đứng trước thềm ngưỡng cửa Năm Mới, niềm vui mừng hân hoan bừng lên từ trong tâm hồn trái tim ta, lộ hiện ra nơi khuôn mặt ánh mắt. Đàng sau niềm vui mừng hân hoan đó ẩn dấu niềm trông mong chờ đợi: lời cầu chúc tốt đẹp, qùa tặng và lời hứa. Niềm tin tôn giáo nói cho ta: Thiên Chúa là Đấng làm chủ, trao tặng thời gian năm mới cho con người vũ trụ.Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, từ trời cao hạ sinh làm người là lời cầu chúc bình an tốt đẹp cho nhân loại: Bình an dưới thế cho người Chúa thương.Lời Chúa đã được loan tuyền qua Chúa Giêsu cho con người trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Lời Ngài là lời hứa, là thức ăn cho cuộc sống tâm hồn niềm tin con người.
Với Bạn Trẻ lời hứa của Chúa nói với họ: Các Bạn thân yêu, thời gian Năm Mới là cơ hội tốt đẹp cho cuộc sống của tuổi trẻ đang vươn lên. Các Bạn là niềm hy vọng, là tương lai của xã hội, của Hội Thánh, của gia đình, của nhân loại, của phát triển. Các Bạn hãy cùng Thầy bước đi vào Năm Mới với những mơ ước, đích điểm mong chờ, với lòng khao khát và cả với những lo ngại áy náy hay cả với nỗi niềm lo âu sợ sệt của các Bạn. Cho dù thế nào đi chăng nữa, các Bạn không đi một mình và đó chưa phải là tất cả đâu!Thầy hằng cùng đồng hành bên cạnh trợ giúp Bạn!
Với những người lớn tuổi, lời hứa của Chúa cũng là hành trang cho họ cùng bước vào năm mới: Các Ông, các Bà là những người đã sống trải qua nhiều chặng đường đời sống từ hăng chục năm, có người gần thế kỷ với nhiều thăng trầm buồn vui, thành công thất bại, cay đắng nọt bùi, đau khổ bệnh tật khoẻ mạnh, gánh nặng lo âu và được an ủi… Nhưng các Ông Bà đã sẵn có kinh nghiệm một đời sống thản nhiên, hãy cùng con cháu, cùng mọi người và với niềm tin vào Thiên Chúa bước đi vào thời gian năm mới. Xin các Ông Bà đừng quên những gì đã xảy ra trong đời mình, cho dù là cay đắng thất bại. Vì đó là những ân đức giúp xây dựng cuộc sống qúa khứ để có ngày hôm nay và ngày mai.
Thầy đến mang sự an ủi và ơn cứu rỗi cho con người. Thầy thông cảm và luôn hằng cùng ở bên cạnh trợ giúp niềm tin tinh thần cho con người: Hỡi những ai gánh nặng mệt nhọc, hãy đến cùng Thầy, để sẽ an ủi bồi bổ sức lực cho tâm hồn. Với mọi người lời hứa của Chúa nhắn gửi: Hãy đạt niềm tin tưởng phó thác vào Thầy. Trong đời sống thời gian năm mới cũng như những năm tháng đã qua, chúng ta, mọi người sẽ sống trải qua cảnh hầu như cô đơn, nhìn xung quanh đâu có thấy gì ngoài mình, tâm hồn chán nản. Lúc đó sao chẳng thấy Thiên Chúa đồng hành Cha không để con một mình!
“Có đêm tôi nằm mơ: thấy mình cùng Chúa đi dọc bờ biển. Những hình ảnh đời tôi hiện dần ra trước mắt, hình ảnh nào tôi cũng thấy có những dấu chân in trên cát. Thường thường tôi thấy rõ dấu chân của hai người, nhưng đôi lúc lại chỉ thấy dấu chân một người.Tôi phân vân, vì những lúc chỉ thấy dấu chân của một người như thế là những lúc đời tôi gặp thất bại, lo âu và piền muộn. Vì thế tôi quay sang hỏi Chúa: Lạy Cha, Cha đã hứa với con là nếu con theo Cha, Cha luôn luôn ở bên con. Nhưng sao trong những lúc khó khăn nhất đời con, con chỉ thấy dấu chân một người. Những khi con cần Cha như vậy, sao Cha không ở bên con? húa quay sang bảo tôi: “Con ơi! dấu chân của một người đó là dấu chân Cha. Vì trong những lúc con gặp khó khăn, chịu đau khổ, Cha đâu có bỏ con một mình, nhưng Cha đã cõng con trên vai Cha!”. Niềm tin vào lời hứa của Chúa đồng hành trong Năm mới, tất nhiên không làm ta giàu có thêm tiền bạc của cải, nhà cửa vườn tược. Nhưng lời hứa cùng đồng hành trợ giúp của Chúa trong Năm mới làm tinh thần tâm hồn ta phấn khởi, vui tươi hăng hái vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Điều này cần thiết cho cuộc sống con người với Chúa và con người với nhau.
17. Xin cho tất cả đều mới (Lm. Jos Nguyễn Hưng Lợi)
Đêm giao thừa khởi đầu một năm mới. Người Việt Nam có tục xông nhà, xông đất các gia chủ mong có người hiền, nhanh nhẹn, tử tế đến xông nhà đầu tiên để gia đình có người tốt đặt chân đầu tiên sẽ gặp những điều mới, điều tốt lành trong năm mới. Người Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất quí quá là dâng ngày đầu năm cho Thiên Chúa. Dâng những giây phút đầu của một năm, người Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới.
NHỮNG ƯỚC NGUYỆN MỚI CHO MỘT NĂM MỚI:
Ngay ca nhập lễ thánh lễ minh niên đã viết:” Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài”(Tv 66, 2-3). Từ cái giây phút linh thiêng của đêm giao thừa khi trời đất giao hòa, năm cũ bàn giao cho năm mới.
Con người trước bàn thờ nghi ngút hương trầm bay đã cầu xin Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn phúc cho năm mới và qua những chén trà, ly rượu chúc mừng, con người đã muốn cầu chúc cho nhau sức khỏe, điều lành, điều tốt. Và chính ngay lúc khởi đầu của những ngày mới, con người quả đã muốn mọi sự cũ phải được qua đi, cái mới, cái đẹp phải loé rạng, tỏa sáng. Trong thánh lễ tân niên, người Kitô hữu luôn đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác. Mọi sự đều do Chúa, đều bởi Ngài vì thế như lời thánh vịnh viết:” Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, công lý bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ” và như Tin Mừng đọc trong thánh lễ này, thánh sử Matthêu đã viết:” Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”. Ngày mồng một và suốt cả năm mới, người Kitô hữu luôn ước nguyện làm theo ý Chúa và tin tưởng, phó thác cho Chúa vì mọi sự sự đều do Ngài, bởi Ngài. Thánh Phaolô nhấn mạnh:” Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!”. Nguyện ước cho mọi sự được mới, cho tất cả tỏa sáng trong Chúa, cho mọi người được an lành, vui khỏe. Đó là những ước nguyện chân thực của con người…
TRÊN HẾT MỌI SỰ HÃY VUI LÊN:
“Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”(Tv 36).Để có được lòng tin tỏa chiếu, người Kitô hữu ngoài những nguyện ước bình thường cho cuộc đời thường ngày, họ còn phải có lòng tín thác tuyệt đối cho Thiên Chúa, Đấng tác sinh nên họ và họ phải đi đến chỗ tin tưởng phó thác:” …ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy”. Năm mới, người Kitô hữu cầu xin cho được sức khỏe, an bình và thịnh vượng, nhưng điều chính yếu họ sống tin, yêu, cậy trông và phó thác:” Vì Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó “(Mt 6, 32).
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lòi chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm 2004 này được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào”(Lời nguyện nhập lễ, thánh lễ minh niên).
18. Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thánh vịnh 66, 2-3 có viết:” Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài “. Một năm mới tới: 365 ngày cứ xoay đổi vần xoay, luân chuyển không ngừng. Khắp nơi trên quê hương Việt Nam thân yêu, giờ này người ta đang hân hoan mừng năm mới Quí Mùi. Năm mới, tôi nghiệm ra xuân hay nói nôm na là Ân Huệ, là Phúc, là Lộc, là Thọ.
XUÂN LÀ MỘT ÂN HUỆ CHÚA TRAO BAN
Gọi là Ân Huệ vì con người có cơ hội nghỉ ngơi, giãn xả và sống cái tâm tình cảm tạ, biết ơn Thiên Chúa, Đấng tạo hóa vô cùng diệu vợi, vô cùng thánh thiêng, vô cùng quyền phép. Nói theo một cách nào đó, Thiên Chúa là Đấng cực kỳ quyền năng. Vậy, sống ngày đầu xuân, con người hướng trọn tâm tình và cuộc đời của mình để tạ ơn Thiên Chúa vì một năm qua đi trong tình thương che chở của Chúa. Tạ ơn, biết ơn vì những thất bại, những chua cay, đau khổ tưởng rằng sẽ vùi dập con người, cuộc đời trong bể dâu, thê lương, nhưng tạ ơn vì Chúa cho qua đi những ngày đen tối và cả những ngày hạnh phúc tràn đầy. Biết ơn Chúa để quên đi quá khứ mà lao tới tương lai mà tương lai có thể sẽ vô cùng vô tận, sẽ kéo dài mãi trong những ngày sắp tới và trong cả đời người. Nên, đời là một cuộc tri ân, biết ơn liên lỉ đối với Chúa của mùa xuân vĩnh cửu là Đức Giêsu Kitô.
Gọi là Ân Huệ vì con người có dịp, có giây phút gọi là thảnh thơi để dừng lại dẫu chỉ là một thoáng để nhìn lại quãng đường đã đi trong cuộc hành trình cuộc đời để xem những gì cần nhân lên, cần làm cho tỏa sáng hay những gì cần phải khắc phục sửa đổi và như thế cuộc đời là một cuộc quay trở về không ngừng để hoán cải, ăn năn và làm mới nội tâm để sống tốt hơn, đẹp hơn.
Gọi là Ân Huệ vì con người sẽ có cơ hội sống tình thân, tình máu mủ ruột thịt, sống cái tình đầm ấm gia đình: trở về với cội nguồn, ông bà, cha mẹ, anh em, họ hàng để tỏ tình hiếu thảo, báo đáp nghĩa tình với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Và như thế rất thích hợp với điều 04 của 10 thập giới:” Hãy thảo kính cha mẹ”. Sống tâm tình ấy là phù hợp mãi mãi với Đạo của Chúa và làm tỏa sáng năm thánh hóa gia đình.
Gọi là Ân Huệ vì con người có dịp sống tâm tình chia sẻ, làm quen, sống tình làng nghĩa xóm hài hòa để nâng cao tình người và sống trọn kiếp người như Chúa đã sống với các tông đồ xưa. Đó là hồng ân cao cả Thiên Chúa trao ban cho con người để con người sống niềm vui, sự hạnh phúc và lòng quảng đại hầu con người mãi mãi sống con đường làm người của Con-Thiên-Chúa là Đức Giêsu Kitô.
Sống Ân Huệ Chúa ban là con người sống cái Phúc, cái Lộc, cái Thọ mà Thiên Chúa dành riêng cho con người.
Nhân dịp năm mới, xin cho mọi người được ấm cái lòng, no cái bụng, đẹp cái mặt, mát cái dạ và như thế là con người sống mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân múc từ ngọn nguồn Tình Yêu là Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Mùa Xuân bất diệt.
LỜI CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới, chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Quí Mùi này được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào(Lời nguyện nhập lễ, lễ Minh Niên).
Lạy Chúa, xin cho mọi người chúng con biết ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay(Tv 36,3-4.5-6.23-24.25-26).
19. Hãy tìm Nước Thiên Chúa (Mt 6, 25-34) (Lm Jos Nguyễn Hưng Lợi)
Lại một mùa xuân qua đi nhường chỗ cho những ngày mới khai mở một năm mới với biết bao ước vọng, với biết bao dự kiến, biết bao mơ ước và những kế hoạch, dự phóng cho một năm mới. Ngày xuân với bao lời chúc tụng cho nhau, chúc nhau an bình, thịnh vượng, may mắn. Đối với người Công giáo, ngày xuân ngoài những lời nguyện chúc bình thường mà bất cứ người nào cũng có thể chúc tụng nhau được thì người Kitô hữu còn chúc cho nhau được tràn đầy ơn Chúa, giữ vững đức tin và luôn sống đời sống của Chúa như Thầy đã yêu (Ga 15, 12).
ĐỔI MỚI VÀ MÃI MÃI ĐỔI MỚI: Năm cũ đã qua: năm con chuột đi vào quá khứ với những niềm vui, nỗi buồn. Năm con chuột có nhiều biến cố tốt đẹp nhưng cũng có những điều chưa được đối với từng người, đối với mọi người. Nhưng phải công nhận năm Mậu tý qua đi bình dị và vui tươi, hạnh phúc.Năm mới hy vọng với những ước mơ, với những dự tính xem ra sáng sủa và tốt đẹp hơn. Con người sẽ đẹp nếu họ biết quay trở về với chính mình để sửa đổi, để vươn tiến. Cuộc đời chỉ đẹp khi con người biết vươn lên, biết sửa đổi, biết làm cho cuộc đời sáng tươi, trong sáng. Năm con trâu với sự cần cù của loài vật đã có nhiều thập kỷ trở thành công cụ lao động quí hóa và mang lại nhiều lợi ích cho con người khi con người biết dùng sức lao động của con vật này trở nên bạn với người nông dân. Đã có một thời ” Con trâu đi trước, cái cầy đi sau ” luôn luôn gần gũi với người lao động Việt Nam. Bây giờ với thời đại khoa khoa, văn minh đi lên, con trâu không còn là công cụ duy nhất để cùng với người nông dân làm ra của cải. Ngày nay đã có máy móc, đã có khoa học kỹ thuật, người ta luôn đổi mới và luôn mãi mãi đổi mới để làm cho việc lao động mang lại nhiều của cải cho con người, cho loài người.
HÃY TÌM KIẾM NƯỚC TRỜI: Bài Tin Mừng của thánh Mathêu 6, 25-34 trình bầy cho mọi người một quan niệm. một tư tưởng, một lối đi chúng ta phải chọn lựa: ” chọn Chúa hay tiền của “. Đã chọn rồi, chúng ta phải sống theo điều đã chọn lựa. Nếu chúng ta chọn Chúa, chúng ta phải lo phụng sự Chúa, lo lắng làm những điều Chúa dạy, Chúa làm. Tuy nhiên, nếu đã chọn tiền của, con người sẽ làm tôi ma quỉ, làm tôi Mammôn và như thế con người sẽ xa Chúa và mất Chúa. Con người chọn Chúa sẽ được hai phần: được Chúa và Chúa ban cho con người tùy theo nhu cầu của con người. Do đó, suốt bài Tin Mừng, Chúa dạy con người đừng lo lắng thái quá về những điều phụ thuộc, không chính yếu lắm như của ăn, của mặc, nhưng phải tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Để làm nổi bật ý tưởng này, Chúa dùng hai hình ảnh rất thực tế như chim trời và hoa huệ ngoài đồng. Chim trời và hoa huệ ngoài đồng không lo lắng gì cả nhưng Thiên Chúa vẫn luôn chăm sóc chúng. Chúa dạy chúng ta hãy nhìn vào chim trời và hoa huệ để bắt chước, để học bài học quan phòng của Thiên Chúa. Chúa minh chứng và xác nhận con người cao quý hơn chim trời hơn hoa huệ nhiều vì con người có trí khôn, lý trí, có lương tâm, có đạo đức để phân biệt lành và dữ, biết phân biệt hạnh phúc và sự xấu số vv…Chim trời, hoa huệ vẫn làm việc vì không bay đi để kiếm ăn, không hút nước, hút tinh hoa trong lòng đất, hoa huệ sẽ chết. Chính vì thế, Chúa không khuyên chúng ta đừng làm việc, nhưng Ngài dạy chúng ta phải cần mẫn làm việc và phó thác tất cả cho Chúa để Chúa hướng dẫn và chỉ bảo.
NĂM MỚI VỚI NHỮNG ƯỚC MƠ MỚI: Năm mới mở ra cho con người, cho mỗi người hãy sống và hãy phục vụ với tình yêu, với đức tin. Chúa luôn yêu thương con người và dạy con người phải yêu thương như Ngài đã yêu. Bởi vậy, năm mới ai cũng có dự phóng, cũng có những ước mơ nhưng tất cả còn tùy thuộc nơi sự quan phòng của Chúa. Điều gì Chúa thấy cần, Ngài sẽ ban cho con người chúng ta. Chúa bảo”đừng lo ” không có nghĩa là Chúa bảo đừng làm việc, đừng lao động, đừng lo cho nhu cầu phần xác và trần gian, nhưng Ngài nói hãy cần cù lao động theo ý Chúa và phó thác thành công và thất bại nơi Chúa.Ước mơ luôn là mơ ước nhưng chính Chúa mới là người định đoạt:” Bạn hãy ký thác đường đời cho Chúa. Chúa, Chúa chính Chúa Ngài sẽ ra tay “.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: Xuân đem lại những gì tốt đẹp cho con người nếu con người biết thánh hóa những ngày xuân và năm mới.Tuy nhiên, còn nhiều người chưa chắc đã được hưởng một ngày xuân ấm áp, đẹp tươi: những mảnh đời tang thương, những mảnh đời rách nát. Chúng ta được diễm phúc hơn những hạng người nghèo khổ.Chúng ta hãy mở lòng để giúp đỡ những mảnh đời đau thương và cố gắng sưởi ấm tâm hồn họ.Năm mới, chúng ta cầu xin Chúa ban bình an để cuộc đời mỗi người, mỗi gia đình luôn đầy ắp tình thương và ân huệ của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Mùa Xuân vĩnh cửu, xin ban cho chúng con luôn biết phó thác nơi bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.
20. Chúa Giê-su là mùa xuân của nhân loại (Lm Ignatio Trần Ngà)
Nguyện xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu biến đổi chúng ta nên những người có phẩm chất cao đẹp.
Tết đến, xuân về, ai ai cũng hân hoan đón mừng năm mới; nhà nhà rộn rã sửa soạn mừng xuân.
Bầu trời ảm đạm của mùa đông đã được Xuân về nhuộm màu thắm tươi rực rỡ.
Xuân xua tan băng giá của mùa đông và đem lại ấm áp cho con người.
Xuân tô điểm cảnh vật, cho hoa trổ hương sắc, cho cây cối đâm chồi nẩy lộc, chim chóc ríu rít vui ca.
Xuân đổi mới vạn vật, xuân làm phấn chấn lòng người nên mọi người đều tưng bừng mừng xuân, chào đón xuân và cầu mong xuân sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp cho bản thân, cho gia đình mình, cho đất nước mình trong năm mới.
Thế nhưng còn có một Mùa Xuân khác tuyệt vời hơn mùa xuân của thời gian. Đó là Mùa Xuân Giê-su.
Chúa Giê-su chính là Mùa Xuân tươi đẹp đã và đang đến với nhân loại. Mùa Xuân Giê-su đi đến đâu thì tô đẹp cuộc đời và thăng hoa con người đến đó.
Mùa Xuân Giê-su hôm xưa đã hồi sinh những người đã chết: cho La-da-rô đã chết bốn ngày rồi được sống lại, cho con trai bà goá thành Na-im và cô con gái ông Giai-rô được hồi sinh.
Mùa Xuân Giê-su đã làm cho những người đau bệnh được chữa lành, người mù tối được sáng mắt, cho người điếc được nghe, cho kẻ què đi được, người phong được sạch.
Mùa Xuân Giê-su đã hồi sinh những tâm hồn héo hắt trong tội và giúp họ trở về nẻo chính đường ngay: hoán cải Gia-kêu bóc lột trở thành người quảng đại dám đem nửa gia tài bố thí cho người nghèo, đền gấp bốn những thiệt hại đã gây ra; biến người đàn bà tội lỗi trở thành người loan tin vui, biến người thu thuế thành tông đồ, biến Sao-lô bách hại trở nên chiến sĩ anh dũng loan Tin Mừng…
Nhưng điều đáng tiếc là mặc dù Mùa Xuân Giê-su đã đến trong cuộc đời chúng ta từ lâu nhưng chúng ta không chịu để cho Mùa Xuân Giê-su đổi mới đời mình. Vì thế, hôm nay, chúng ta hãy tha thiết cầu xin Mùa Xuân Giê-su tô điểm cuộc đời chúng ta nên tươi đẹp hơn.
Quý trọng nét đẹp tâm hồn
Ai ai cũng quý trọng sắc đẹp phần xác. Ngược lại, người ta cảm thấy buồn tủi nếu mình không được xinh đẹp duyên dáng.
Nhưng hãy nhớ rằng vẻ đẹp của tâm hồn đáng quý hơn vẻ đẹp thân xác. Vì thế, người ta thường nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người” hoặc: “Cái nết đánh chết cái đẹp.”
Đúng vậy, nét đẹp của tâm hồn, nét đẹp phát xuất từ phẩm chất cao quý của con người đáng trân trọng và quý mến hơn vẻ đẹp thân xác.
Bằng chứng là Mẹ Tê-rê-xa Calcutta, một nữ tu già nua, nghèo nàn, thấp bé và không có nhan sắc, vậy mà nhờ Mẹ có một thái độ tôn trọng mọi người như tôn kính Chúa, có một trái tim nhân ái đầy ắp yêu thương, có một tâm hồn quảng đại quên mình vì mọi người, có một tinh thần sẵn sàng phục vụ những người bần cùng khốn khổ khắp nơi trên thế giới… nên Mẹ được thế giới kính trọng và xem như là người phụ nữ cao quý nhất. Đúng là “xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.”
Trang điểm tâm hồn
Muốn trở nên xinh đẹp, cần phải tẩy xoá đi những gì làm cho đời ta hoá nên xấu xí.
Trong giao tiếp hằng ngày, phải loại trừ những lời nói thô lỗ, những ngôn từ thô bỉ, thiếu văn hoá… vì nó làm mất thanh danh phẩm giá của người thốt ra những lời đó.
Cố gắng loại trừ những hành động vũ phu, những hành vi côn đồ, thiếu văn hoá, thiếu văn minh và đạo đức… vì ai thực hiện những hành vi đó là tự làm hại chính mình, đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đồng thời chúng ta cố gắng trang điểm đời mình bằng cung cách lịch sự, bằng những hành vi cao thượng, bác ái, vị tha… Chính những hành vi cao đẹp nầy làm cho bản thân chúng ta thực sự trở nên cao cả.
Ngôi nhà chúng ta ở đã được nâng cấp (trước đây ở nhà tranh nay lên nhà ngói), phương tiện đi lại của chúng ta đã được nâng cấp (trước đi xe đạp nay lên xe máy), các mặt hàng tiêu dùng trong nhà đều đã được nâng cấp thì lẽ nào bản thân chúng ta lại không được nâng cấp sao?
Nguyện xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu biến đổi chúng ta nên những người có phẩm chất cao đẹp, càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và nhân đức, được Thiên Chúa và mọi người yêu mến (theo Luca 2,39).
21. Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Hãy ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Xem ra con người chúng ta thường vất vả, bon chen để sinh sống và để kiếm cho được một chỗ đứng nào đó trong xã hội. Đó là lẽ thường tình của con người. Tuy nhiên, đường của những môn đệ của Chúa lại khác bởi vì Chúa nói:” Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho “.
Những giây phút đầu năm mới là những giây phút thật đẹp Chúa trao ban cho nhân loại, cho con người, cho mỗi người. Chúa trao cho mỗi người, người năm nén, người ba nén, người một nén và Chúa đòi hỏi con người phải làm lợi ra cho Chúa. Mỗi ngày có 24 tiếng, 365 ngày một năm là món tiền Chúa trao ban cho mỗi người đồng đều để mỗi người làm lợi ra cho Chúa. Vâng, Chúa tạo dựng nên vũ trụ, con người, Chúa giao cho con người làm chủ vũ trụ, làm đẹp công trình sáng tạo của Chúa. Con người có đức tin, nên thánh Phaolô khuyên nhủ mỗi người hãy vui luôn trong Chúa. Như thế, con người chẳng lo lắng gì vì Chúa luôn quan phòng. Một sợi tóc trên đầu rơi xuống cũng nằm trong bàn tay quan phòng của Chúa. Con chim sẻ, hoa huệ là tạo vật, Chúa vẫn an bài huống chi là con người…Do đó, mỗi người hay tín thác vào Chúa và đặt hết sinh mạng, đời sống của mình nơi bàn tay an bài của Chúa:” Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”.
Chúa là Đấng chí công, Ngài là Đấng giầu lòng nhân hậu và giầu tình thương, Ngài sẽ ban ơn phù giúp cho mỗi người chúng ta. Đầu năm mới, chúng ta tiến thêm một bước nữa trong cuộc hành trình đức tin. Chắc chắn, mỗi người cần sự an bình bởi vì sự bình an là điều rất cần thiết để con người lãnh nhận ân huệ của Chúa. Sự bình an mà các thiên thần năm xưa hát vang trên không trung ngày Chúa giáng trần:” Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm “. Chúng ta phải có sự an bình trong tâm hồn, mới hiểu được những nấc thang giá trị của cuộc sống. Của cải vật chất cần thật để sinh tồn nhưng xin Chúa là sự khôn ngoan, sự bình an ban cho mỗi người chúng ta biết sáng suốt khước từ những gian tà, những bất chính, những thỏa hiệp để chỉ biết làm giầu cho cá nhân, cho bản thân mình. Chúng ta phải luôn tín thác nơi Chúa vì có Chúa mới giúp chúng ta biết quảng đại, chia sẻ với những người khổ đau, đói nghèo.
Tiết Đông nay đã qua rồi, mưa phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên thềm. Ngàn hoa rực rỡ vươn lên, tỏa hương ngào ngạt khắp miền đồng quê. Mùa vui hát lại trở về, tiếng chim gáy đã vẳng nghe thôn làng (Dc 2, 11-12). Cuộc đời con người giống như Xuân, Hạ, Thu, Đông cứ xoay chuyển vần xoay và rồi năm này tiếp qua năm nọ. Con người rồi cũng có lúc tàn phai. Nhưng Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, Chúa là Chúa của muôn xuân. Ngài hôm qua, hôm nay và mãi mãi muôn đời vẫn tươi xinh, tốt đẹp. Con người chỉ biết cúi đầu trước Đấng tạo hóa tối cao:” Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài ” (Tv 66, 2-3).
Và rồi con người chúng ta luôn hiểu lời này:” Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh. Công lý ban, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ “.
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Nhâm Thìn được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào (Lời nguyện nhập lễ, lễ Mồng Một Tết).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Ngày đầu năm có ý nghĩa gì?
2. Thánh Lễ Minh Niên để làm gì?
3. An bình có cần thiết cho con người không?
4. Phúc Lộc Thọ là gì?
5. Tại sao lại gọi Chúa là mùa xuân vĩnh cửu?
22. “Những Dấu lặng của Mùa Xuân”!
Năm cũ đi. Năm mới đến. Người ta lại bắt tay vào những công việc quen thuộc. Người thì lo tính toán sổ sách, hoàn tất công việc. Kẻ thì đi sắm sửa quần áo, giày dép, hoa kiểng, bánh mứt, quà cáp … Người khác lại lo chuẩn bị các mặt hàng để buôn bán ở chợ Tết. Năm nào cũng vậy, Mùa Xuân nào cũng thế. Nhưng thử hỏi nếu không có Mùa Xuân? Thì…?
Chuyện kể rằng:
“Ngày kia, có vài người đến thưa với Thượng Đế rằng: Tết năm nào cũng có bấy nhiêu việc. Chán quá! Chỉ có bọn con nít vô tư ham Tết chứ người lớn như chúng con chẳng ham gì Tết vì còn vất vả, tốn kém hơn ngày thường. Xin Ngài xem xét cho”! Suy đi nghĩ lại, Thượng Đế quyết định gọi Mùa Xuân trở về Thiên Quốc.
Thế là ba trăm sáu mươi lăm ngày này trôi qua, lại đến ba trăm sáu mươi lăm ngày khác tiếp nối nhau liên tục. Trẻ con cứ vùi đầu vào sách vở. Người lớn thì miệt mài chạy theo công việc làm ăn. Nhà cửa chẳng bao giờ được trang hoàng bởi những nhánh mai vàng rực rỡ và những chậu hoa kiểng xinh xắn, dễ thương. Các ông bà cụ mỏi mòn bên song cửa ngày này qua tháng nọ mà bóng dáng con cháu vẫn biền biệt. Bạn bè không có dịp họp mặt nhau bên ly rượu, mâm cơm để gặp gỡ, chia sẻ tâm tình … Và rồi dần dần, hoa cỏ nhợt nhạt vì thiếu làn gió xuân ấm áp và những đôi tay chăm sóc. Con người cũng dần dần xa cách nhau vì thiếu sự quan tâm và tình thương nồng nàn.
Chịu hết nổi, một ngày nọ, con người lại đến van xin Thượng Đế: “Xin Ngài đem Mùa Xuân trở về với chúng tôi. Không có Mùa Xuân, có ngày chúng tôi phát điên lên mất”.
Khi Mùa Xuân trở lại, sức sống và niềm vui lại chan hòa trên cảnh vật và con người …”
Có lẽ Mùa Xuân là một quà tặng tuyệt vời mà Thượng Đế gửi đến cho vũ trụ và con người. Quà tặng đó là thời gian, là những vẻ đẹp được kết tinh từ cả một chiều dài lịch sử văn hóa dân tộc, và sâu xa hơn, đó là một “món ăn” bổ ích cả thể xác lẫn tinh thần cho con người.
Có lẽ tùy vào hoàn cảnh và tâm trạng của mình mà mỗi người có những cảm xúc khác nhau trước Mùa Xuân.
Tôi rất thích Mùa xuân! Bao năm rồi vẫn vậy. Ngày xuân! Chợ và siêu thị nào cũng đầy ắp các loại bánh mứt, trái cây … được trưng bày đủ kiểu, đủ dáng thật đẹp; tấp nập kẻ bán, người mua. Bước ra hội chợ Hoa Xuân dường như … hoa cả mắt bởi các loại hoa kiểng xinh xắn, rực rỡ và mới lạ – đủ các dáng kiểu. Các Hội Xuân tưng bừng các trò chơi vui nhộn. Đường phố “dập dìu tài tử giai nhân” rạng rỡ trong những bộ quần áo thật đẹp và “model”. Trong các nhà thờ thì càng vui hơn nữa: mọi người hăng hái quét dọn, treo lộc xuân và những câu đối. Cảnh đẹp và người đẹp! Nhất là được trở về xum họp với gia đình và những người thương mến sau những tháng ngày xa cách, vì thế mà tôi vẫn cứ thích Mùa Xuân!
Đón mừng Xuân Mới. Ai cũng cũng có nhiều công việc phải làm: những chương trình vui xuân và những dự tính mới cho ba trăm sáu mươi lăm ngày sắp tới. Giữa những ồn ào náo nhiệt ấy, cần lắm một chút lắng đọng lại để lắng nghe “lời thì thầm của Mùa Xuân”!
Sau một năm dài bôn ba, mỏi mệt bởi công việc và tất bật chạy đua với thời gian, tôi cần có những giây phút dừng lại để nghỉ ngơi và “nạp năng lượng”; để đọc lại những bài học may, rủi, thành công và thất bại đã qua; để vun tưới cho những tương quan và tình cảm tốt đẹp với bao người thân yêu mà nhiều khi vì vô tình và vội vã, tôi đã đi lướt qua họ và bỏ mặc họ.
Đón Xuân không chỉ là dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa cho đẹp và mặc những bộ quần áo mới, hay có những kế hoạch vui chơi giải trí cho thật hấp dẫn, mới mẻ và thỏa thích. Điều quan trọng hơn, đón xuân là làm mới lại tất cả: tâm hồn, cách sống, công việc và đời sống gia đình, cũng như các mối tương quan xã hội. Khi đã “gạn đục khơi trong” con người mình bằng cách loại bỏ tư tưởng và những điều tiêu cực, đồng thời chắt lọc những giá trị tích cực và bổ ích, tôi sẽ có được sức mạnh và nghị lực mới để bước tiếp chặng đường mới một cách tự tin và vững vàng hơn.
Mùa Xuân mở đầu cho một năm mới. Hoa lá khoe sắc mới và gió xuân thổi vào lòng người niềm vui và hy vọng của những may mắn mới. Người người phơi phới niềm vui, hân hoan trao nhau những lời chúc tốt đẹp nhất: Phúc, Lộc, Thọ … và gửi biếu nhau những món quà thể hiện lòng biết ơn, sự trân trọng, quý mến và chia sẻ. Xin đừng quên nói lời cảm ơn những người bạn thân thiết đã chia sẻ cùng mình những niềm vui, nỗi buồn, thành công và thất bại. Hãy nói lời cảm ơn người cha, người mẹ, người chồng, người vợ và những người bà con thân quyến … đã gắn bó và nâng đỡ mình trong những ngày tháng qua. Hãy cảm ơn chính mình về những nổ lực và nhiệt tâm … Và đừng quên cất lời cảm tạ Thượng Đế về bao ơn lành Ngài đã ban cho ta trong một năm qua nơi mọi biến cố vui, buồn, may, rủi …
Có thể ví cuộc đời mỗi người như một bản nhạc được dệt bởi những cung bậc trầm bổng của thời gian. Giữa những cung bậc tưng bừng và náo nhiệt của Mùa Xuân, có “những dấu lặng” thật tuyệt vời để ta nghe lại âm hưởng của đoạn nhạc phía trước và bắt đầu những giai đoạn mới ở phía sau. Khi ấy, Mùa Xuân mới thật sự là “một phần tất yếu của cuộc sống” chúng ta. Cuộc đời chúng ta sẽ là Khúc Nhạc Mùa Xuân mà Thượng Đế ban tặng để làm phong phú hơn cho vẻ đẹp của con người.
23. Vạn sự như ý… Chúa
Dịp tết tôi có nhận được lá thư của người thân ở nước ngoài, cầu chúc cho tôi “vạn sự như ý” được nhắc đi nhắc lại gần ba lần Tôi hiểu người thân của tôi rất thương mến tôi, quan tâm nhiều tới tôi, mong ước cho tôi được may mắn điều này điều kia, không muốn tôi phải khổ, không muốn tôi gặp những khó khăn… Vạn sự đây chắc không phải chỉ có mười ngàn lần mà là mọi việc xẩy ra đều tốt đẹp như ý muốn, và đó là hạnh phúc nhất của con người, rất là tự nhiên thôi. Thử hỏi trên đời này có ai lại “mát” đến cỡ muốn đau khổ, muốn phiền toái, muốn thất bại, mọi việc xẩy ra đều ngoài ý muốn bao giờ đâu. Các tôn giáo này các giáo phái kia đều muốn giúp con người cách này cách khác thoát khỏi khổ, vì không được như ý muốn là khổ, muốn giầu mà cứ nghèo mãi chẳng khổ là gì? Muốn bình yên mà cứ gặp tai nạn hoài chẳng khổ là gì?
Xưa nay người ta vẫn hiểu công khai hoặc hiểu ngầm là Ý Chúa thì luôn ngược với ý người ta nên người ta phải khổ. Khi phải khổ thì người ta chẳng còn tha thiết gì với Đấng ấy, càng xa càng tốt, càng dửng dưng càng khỏe, càng tránh được bao nhiêu càng đỡ phiền toái bấy nhiêu… Bởi vì đấng ấy có nhiều quyền hành muốn sao nên vậy, mọi vật đều phải tuân thủ. Khi nổi cơn ngông lên thì giáng họa, đánh phạt, răn đe đủ điều, có khi dùng tạo vật làm những trò tiêu khiển; Ngài như con muỗi sốt rét lâu lâu chích cho ta một phát chơi đỡ buồn. Gặp đường cùng con người quay lại chống đối, giơ nắm đấm, vênh mặt lên nghênh hoặc con người không tìm được lối thoát thì đành phải ngậm bồ hòn chịu vậy. Có người gắng công gồng mình tập chịu vậy, rồi cho đó là một nhân đức, lập công; khi chịu vậy đã quen thì cho đó là đỉnh cao của đời sống đức tin, và đi đến đâu cũng khuyên bảo người khác một cách rất sốt sắng là “Ý Chúa đấy, hãy… chịu vậy”. Gặp người chịu vậy thì họ lại chịu vậy, gặp người không chịu vậy thì họ dù không tỏ thái độ ra bên ngoài nhưng bên trong cũng giận điên lên!!!
Có điều con người muốn nhận diện rõ ràng đâu là ý Chúa, đâu là ý người ta, đâu là ý Bề trên? Hay bị lẫn lộn. Ý Chúa thì ráng cúi đầu chịu vậy, chứ còn ý người ta thì….. không thể chịu được, ăn thua đủ, sòng phẳng. Ông muốn gà bà muốn vịt, ông muốn không bà muốn có, muốn có điện lại bị cúp điện, muốn làm hòa mà nó lại chẳng cần… như thế có phải ý Chúa không?
24. Hạnh phúc đích thật
Tai nạn giao thông ở ngoại ô thành phố Paris năm nào đã cướp đi mạng sống của công nương Diana. Cái chết của bà làm hàng triệu người xúc động. Người ta thương bà vì bà xinh đẹp, bà nhân từ và vì bà phải mất đi cuộc sống này khi tuổi đời còn qúa trẻ, chưa được hưởng trọn vẹn niềm vui hạnh phúc. Hạnh phúc là niềm khát khao của mọi người. Con người sinh ra là để được sống hạnh phúc. Cả đời người là cuộc hành trình kiếm tìm hạnh phúc. Vậy hạnh phúc ở đâu? Hạnh phúc là gì?
Bạn thân mến! Thiên Chúa cũng bận tâm đến hạnh phúc của con người. Những gì Ngài làm cho ta như tạo dựng, nhập thể, cứu chuộc, thánh hóa..v..v.. Tất cả đều nhằm đem lại hạnh phúc cho ta trong cuộc đời này và cả cuộc đời mai sau nữa. Hạnh phúc của Thiên Chúa như gắn liền với hạnh phúc của con người. Thiên Chúa vui khi thấy con người hạnh phúc.
Định nghĩa hạnh phúc là điều không dễ làm, vì mỗi người có một quan niệm khác nhau về hạnh phúc, và nơi mỗi người, quan niệm này cũng biến đổi theo thời gian. Thường ta hay chạy theo những cái bóng của hạnh phúc, để rồi vỡ mộng, nhưng nhờ đó ta dần dần hiểu hơn thế nào là “hạnh phúc đích thật”: Hạnh phúc đích thật không nằm nơi của cải; kiến thức hay quyền uy. Hạnh phúc đích thật không do chiếm đoạt những gì mình muốn, nhưng do trao hiến những điều quý nhất của mình. Hạnh phúc đích thật là mãn nguyện với những gì mình được ban tặng; là niềm vui nhẹ nhàng, là bình an sâu lắng. Hạnh phúc đích thật là sự an bình ổn thỏa giữa tôi với Chúa, giữa tôi với anh em, và giữa tôi với chính tôi…
Sống ở đời, con người thấy mình không hạnh phúc trọn vẹn. Hạnh phúc bao giờ cũng được pha trộn với mồ hôi và nước mắt. Nhưng có hạnh phúc thật nào lại không mua bằng khổ đau? Chỉ ai biết yêu thực sự, mới cảm thấy hạnh phúc thực sự.
Chúng ta cần nhiều thời gian để suy đi nghĩ lại, và nhất là cần nhiều ơn ban từ trời cao giúp ta thấu hiểu được các mối phúc. Cũng như trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, những điều người đời coi là bất hạnh, Đức Giêsu bảo đó là hạnh phúc đích thật: nghèo, đói, khóc than, bị oán ghét, bị khai trừ, bị sỉ vả..v..v.. những điều đó tự chúng chẳng có giá trị gì. Nhưng nếu ta nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét bỏ vì nói lên dự thật, bị sỉ vả vì Chúa..v..v..thì ta thật là người có phúc. Hạnh phúc đó xảy ra ngay trong hiện tại, nơi một lương tâm thanh thản. Ta thấy mình giàu lên trong cảnh nghèo khó, no thỏa khi đói khát, vui tươi khi rơi lệ, và nhảy mừng khi bị bách hại.
Trải qua bao nhiêu thế hệ, có biết bao Kitô hữu đã sống các mối phúc thật trong đời mình. Họ cảm nghiệm được cái nghịch lý dễ thương; cái thâm sâu cao cả của Lời Chúa đã khắc ghi trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.
Không phải chỉ có bốn hay tám mối phúc trong Tin Mừng. Phúc cho ai nghe và giữ Lời Chúa, phúc cho ai không thấy mà tin… Đức Giêsu có thể kéo dài các mối phúc đến vô tận, để các mối phúc đi vào mọi ngõ ngách của đời thường. Ước gì mỗi người trong chúng ta biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, biết viết lên những mối phúc mới, cậy dựa vào những niềm vui và ơn ban Chúa dành cho ta trong cuộc sống hàng ngày.
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ trên đường Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa luôn ẩn hiện trong Tin Mừng. Nụ cười ấy hòa lẫn với niềm vui trào dâng của người được lành bệnh; của người chết sống lại và của người đàn bà tội lỗi được ơn tha thứ …
Lạy Chúa, có những niềm vui Chúa muốn trao cho con hôm nay, có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại trong con. Xin dạy con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với con. Xin cho con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều là màu hồng. Con hay lo âu và chản nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi của con. Xin cho con luôn cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Chúa yêu thương, và được sai đi để thông truyền tình thương ấy cho anh chị em của con. Amen.
25. Ngày đầu năm – R. Veritas
Tâm tình tạ ơn và phó thác trong cuộc sống.
Một nhà tư tưởng người Đức sống vào thế kỷ thứ 14 được tôn làm bậc tôn sư đưa ra khuôn vàng thước ngọc như sau:
– Người quan trọng nhất trong lúc này là người đối diện với ta.
– Giờ phút quan trọng nhất đối với ta lúc này là giờ phút hiện tại.
– Công việc quan trọng nhất là công việc bác ái yêu thương.
Chỉ chú ý vào người đối dịện, vào giờ phút hiện tại vào công việc ta đang làm. Đó là bí quyết sống hạnh phúc.
Người Nga cũng có một châm ngôn tương tự:
– Chỗ quan trọng nhất là chỗ bạn đang đứng này đây.
– Con người quan trọng nhất là con nguời đang đứng trước mặt bạn và đang cần bạn.
Đầu năm mới, có lẽ ai trong chúng ta cũng có một quyết tâm. Có người quyết tâm bỏ thuốc lá. Có người quyết tâm bỏ uống rượu. Có người quyết tâm dành thêm tiền bạc để đi buôn, để xây nhà,v.v… Có người quyết tâm hăng hái học hành để chuẩn bị cho một tương lai sáng lạn. Có quyết tâm và có quyết tâm, nhưng lắm khi sức người có hạn, chúng ta lại bỏ cuộc giữa đàng, đâu lại vào đó, con sâu của chán nản, của thất vọng lúc nào cũng chực sẵn để gậm nhấm tâm hồn chúng ta.
– Hãy sống giây phút hiện tại với tất cả tâm tình lạc quan và phó thác. Đó phải là quyết tâm mà chúng ta có thể làm tức khắc trong giây phút này.
– Hãy hưởng nếm những niềm vui nhỏ trong cuộc sống như ân tình diệu vợi của Chúa.
– Hãy trao vào tay Ngài mọi sầu muộn lắng lo. Chúng ta hãy để cho mọi lo âu lắng đọng xuống.
Chúng ta hãy chấm dứt mọi bài ca than vãn của thất vọng để chỉ còn lại một tâm tình duy nhất xứng hợp với người có lòng tin: Đó là tâm tình phó thác và tri ân.
– Tạ ơn Chúa đã ban cho ta chào đón năm mới.
– Tạ ơn Chúa đã luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta để dẫn dắt chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống.
– Tạ ơn Chúa đã giữ vững chúng ta trong niềm tin vào Tình Yêu của Ngài.
– Tạ ơn Chúa cho riêng chúng ta. Tạ ơn Chúa cho tất cả mọi người.
– Tạ ơn Chúa chúng ta cũng không quên tạ ơn người:
– Tạ ơn ông bà tổ tiên đã cho chúng ta được sinh ra làm người Việt Nam. Tạ ơn cha mẹ đã sinh ra và giáo dục chúng ta nên người. Tạ ơn những người thân thương ruột thịt đã đùm bọc chúng ta. Tạ ơn những người bạn tốt đã nâng đỡ chúng ta bằng muôn nghìn cách thể hiện của tình yêu. Tạ ơn những người vô danh mà sự hiện diện và âm thầm đồng hành đã giúp chúng ta được sống như con người. Tạ ơn tất cả những người khốn khổ kém may mắn hơn chúng ta: Nhờ đó tiếng gọi sống yêu thương huynh đệ liên đới còn vang vọng trong tâm hồn chúng ta. Tạ ơn nhiều người mà chúng ta thù ghét. Tạ ơn những người thù ghét chúng ta. Tạ ơn tất cả bởi vì cách này hay cách khác họ vẫn luôn luôn là tiếng gọi để chúng ta sống tinh thần Kitô hữu nhiều hơn.
Với tất cả tâm tình tạ ơn. Chúng ta hãy dâng lên Chúa một năm mới.
Xin đâng lên Ngài tất cả niềm cảm mến tri ân của chúng ta.
26. Năm mới cầu gì? – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Năm mới, mọi người thường trao tặng nhau những lời cầu chúc thật tốt đẹp. Một trong những lời chúc được ưa chuộng nhất đó là lời chúc: Phúc – Lộc – Thọ. Lời chúc này được tạo nên bởi một hình tượng khá rõ nét với bộ Tam Đa: ông Phúc bế đứa trẻ; ông Lộc mặc phẩm phục đeo đai, trên đầu đội mão cánh chuồn; ông Thọ, người lùn thấp, đầu nhẵn bóng trán dô lên, một tay chống gậy, một tay cầm quả đào
. Cả ba ông đều có chòm râu dài bạc trắng, nét mặt hồng hào, cười tươi rạng rỡ.
Vậy, Phúc- Lộc- Thọ: Các ông là ai?
Ông Phúc là Quách Tử Nghi – Thừa tướng thời nhà Đường. Ông là một vị quan thanh liêm nên cũng nghèo. Đổi lại nhà ông ngũ đại đồng đường, con cháu đề huề. Lúc ông mất, con cháu năm đời đều có đủ.
Ông Lộc là Đậu Tử Quân, làm Thừa tướng thời nhà Tấn. Trái ngược với Quách, Đậu là quan tham, tiền của như núi nhưng khi trăm tuổi không có người nối dõi.
Ông Thọ là Đông Phương Sóc, làm Thừa tướng thời nhà Hán. Ông này giỏi xu nịnh, được lòng vua nên hưởng nhiều bổng lộc. Ông mang lộc vua ban mua nhiều gái đẹp làm thê thiếp, mục đích dưỡng sinh. Và cũng sống dai, trên trăm tuổi. Khi chết thì chỉ có đứa chút bốn đời lo tang ma, còn cháu chắt chết hết cả.
Ba vị đó được người Trung Quốc dựng lên ba hình tượng, không phải để thờ mà để người đời nhìn gương đó mà lựa chọn cách sống cho phù hợp. Phúc –Lộc – Thọ có lối sống khác nhau. Phúc thì tử tế, còn cầu như Lộc Thọ là cầu cái vô phúc, liệu có ai muốn không?
Xem ra lời cầu chúc “Phúc – Lộc – Thọ” đã được hiểu sang một ý khác không còn mang ý nghĩa ban đầu của hình tượng Tam Đa. Nhưng thực tế, có lộc mà không có an bình, có Thọ mà không có niềm vui cũng là điều bất hạnh cho con người. Thế nên, không cần cầu cho có nhiều tiền, không cần cầu cho sống dai mà là cầu cho có phúc được hưởng niềm vui trong cuộc sống mới là quan yếu.
Có ai đó đã nói rằng: ” Ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao. Tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao”. Có được niềm vui thanh cao là hạnh phúc. Đây mới là mục đích tìm kiếm của đời người. Con người sinh ra để đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là điều ai cũng khao khát, tìm kiếm suốt cả cuộc đời.
Tóm lại, Phúc – Lộc – Thọ là ước nguyện lớn nhất của mọi người. Thế nhưng, trong ba điều ước Phúc – Lộc – Thọ thì Phúc mới là điều chính yếu mà chúng ta cần cầu mong. Vì được đông con, có tiền, sống dai mà không có hạnh phúc thì cũng là những tháng ngày bất hạnh cho cuộc đời chúng ta.
Chúa Giê-su ngay trong bài giảng đầu tiên Ngài cũng nhắc đến cái Phúc của con người. Cái phúc của Chúa Giê-su không phải là con cháu đầy nhà. Cũng không phải là nhiều tiền nhiều của. Cũng không phải là sống lâu đến độ “bách niên giai lão”. Cái phúc mà Chúa mời gọi chúng ta ao ước, tìm kiếm là có Chúa ở cùng. Có Chúa làm gia nghiệp. Hay được Chúa xót thương….
Những mối phúc này hoàn toàn lệ thuộc vào sự tự do chọn lựa của chúng ta. Chọn Chúa để sống khó nghèo, thanh sạch, hiền lành, nhẫn nại, hy sinh…; Đổi lại người ấy được nhìn xem Thiên Chúa và có Chúa làm gia nghiệp đời đời.
Nhưng ở đời hôm nay người ta ít chọn Chúa khi mà nhu cầu hưởng thụ mỗi ngày một cao hơn. Người ta cần tiền để thoả mãn nhu cầu vật chất của mình lên không chịu sống khó nghèo. Có tiền người ta rải tiền trong các cuộc truy hoan trụỵ lạc. Thế nên, người ta ít sống thanh sạch. Cuộc sống luôn tất bật, bon chen, xô đẩy con người, khiến có mấy ai hiền lành, nhẫn nại, hy sinh…?
Hôm nay ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới chứa chan ơn Phúc từ Trời. Xin cho chúng ta luôn là người có Phúc khi chọn Chúa làm gia nghiệp, khi chọn Chúa hơn những của cải mau qua trần gian. Xin cho chúng ta luôn tìm được niềm vui có Chúa ở cùng khi biết sống phụng sự Chúa với hết cả tấm lòng. Amen
27. Bình An Năm Mới – Mt 6, 25-34 (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi – Tết Quý Tỵ 2013)
Cả trời bỗng diêu diêu như báu vỡ:
Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta ngỡ Đấng Tiên Tri muôn thuở
Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm.
Đó là những câu thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, đã viết lên để ca ngơi Đấng Tiên Tri muôn thuở, xin Ngài giáng phúc thi ân, ban phước lộc cho muôn người, muôn nhà trong năm mới. Bởi vì năm cũ Nhâm Thìn đã qua đi nhường chỗ cho năm Quý Tỵ.Mọi Kitô hữu hãy ngước mắt lên trời, xin Thiên Chúa chúc lành cho năm mới này, để muôn người, muôn nhà được sống trong sự an bình của Chúa…
Tiết Đông nay đã qua rồi,
Mưa phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên thềm.
Ngàn hoa rực rỡ vươn lên,
Tỏa hương ngào ngạt khắp miền đồng quê.
Mùa vui hát lại trở về,
Tiếng chim gáy đã vẳng nghe thôn làng (Tv 66,2-3).
Sự an bình, vui nhộn của đồng quê, làng mạc, thôn xóm trong những ngày xuân nói lên rằng Thiên Chúa yêu thương con người, quan tâm đến con người cả tinh thần đến vật chất. Đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay nói đến sự quan phòng của Thiên Chúa: chim trời, hoa huệ và mọi sự đều được Chúa an bài, ngay cả sợi tóc trên đầu rơi xuống đất cũng do Thiên Chúa định liệu. Con người quý trọng hơn hoa huệ, chim trời biết bao! Người Kitô hữu hãy ký thác đường đời cho Chúa, tín thác nơi Chúa:” Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn.Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng “.
Suốt một năm qua, chắc chắn mỗi người đã được Thiên Chúa ban cho những ân huệ đặc biệt tùy theo lòng thương xót của Ngài…Năm mới tới, chúng ta luôn tin như thánh Phaolô viết:” Anh em đừng lo lắng gì cả.Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu “.
Năm mới, chúng ta luôn xác tín rằng Thiên Chúa sẽ luôn ở cùng chúng ta. Nên, Lời Chúa:” Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế ” (Mt 28, 20) an ủi, nâng đỡ và giúp chúng ta tin tưởng tiến bước vì chúng ta cảm nghiệm sâu xa Chúa ở cùng chúng ta trong mọi hoàn cảnh của đời sống chúng ta.
Ngày lại ngày, chúng con ca ngợi Chúa, mãi ngàn năm, xin chúc tụng danh Ngài, lời Thánh Vịnh là động lực giúp chúng con luôn bám chặt vào Chúa và tôn vinh, ca ngợi Chúa. Kinh tiền tụng lễ Minh Niên nhắc nhở chúng ta:”…Riêng con người, Cha đã tạo nên giống hình ảnh Cha và cho điều khiển mọi công trình kỳ diệu trong hoàn vũ trụ, để họ thay quyền Cha làm chủ mọi loài, và khi chiêm ngưỡng những kỳ công Cha đã thực hiện, họ hát mừng ca tụng Cha luôn mãi, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con “. Chúng ta vững bước, tin tưởng ký thác nơi Chúa, chính Người sẽ hướng dẫn và điều khiển cuộc đời của mỗi người.
Lạy Chúa, Chúa đã trao cho loài người chúng con trách nhiệm trông coi vũ trụ. Nay chúng con hoan hỷ dâng lên Chúa những lễ vật đầu xuân, chọn lựa trong tinh hoa của ruộng vườn.Xin cho chúng con không ngừng cảm tạ tri ân, và chu toàn sứ mệnh làm chủ trái đất (Lời nguyện tiến lễ, lễ Minh Niên).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tết có ý ngjĩa gì?
2. Tại sao chúng ta lại ký thác đường đời cho Chúa?
3. Bình an của Chúa có khác với hòa bình của con người?
4. Phúc Lộc Thọ là gì?
5. Tại sao lại gọi Chúa là Mùa Xuân vĩnh cửu?
28. Tết cho mọi người – Lm Jos Nguyễn Hữu An
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa với nền văn minh lúa nước vốn có những ngày Tết truyền thống, những ngày lễ hội dân gian đầy ý vị và vui tươi. Từ Tết cơm mới cuối vụ mùa cho đến lễ mở rừng đi săn. Đến như lễ tết ra giêng để vào hè thì có Tết Thượng Nguyên, Tết Hàn Thực, Tết Đoan Ngọ. Đặc biệt để tiễn mùa đông người Việt đã ăn Tết Nguyên Đán. Bên cạnh đó còn có nhiều tết khác như Tết Trung Nguyên (rằm tháng bảy) của Phật Giáo, Tết Trung Thu (dành cho thiếu nhi), Tết Trùng Dương, Tết Ông Táo… Tất cả đều có sự tính toán dựa theo sự chuyển đổi của thời tiết trong năm và căn cứ vào nông lịch phương Đông.
Chữ “Tết” ngày nay đã được một số quốc gia sử dụng như là một “Lễ” hết sức độc đáo của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng chữ “Tết” bắt nguồn từ “Lễ Tiết” bên Trung Quốc. Tết do Tiết đọc chệch đi. Từ chữ Tết người ta còn ghép theo từ Nhứt nữa nghe thật thú vị, như ‘Tết Nhứt’ là do đọc chệch đi từ hai âm Hán Việt “Tiết Nhựt”, có nghĩa là ngày Tết. Còn Nguyên Đán, theo chữ Nôm: Nguyên là bắt đầu, Đán là buổi sớm mai, Nguyên Đán là sớm mai đầu năm. Nguyên Đán còn gọi là “Chính Đán” tức là “Chính Nguyệt Chi Đán” (buổi sớm mai tháng giêng), ngoài ra còn sử dụng từ tam chiêu, là ba cái sớm mai (sớm mai đầu năm, sớm mai đầu mùa, sớm mai đầu tháng).
Tự xưa nay, là người Việt Nam, dẫu ở bất cứ nơi đâu vẫn xem trọng ngày Tết Nguyên Đán. Một năm làm lụng vất vả mưu toan cho cuộc sống; một năm xa gia đình bôn ba mọi nơi, ba ngày Tết Nhứt vui vẻ, đoàn tụ, mọi chuyện buồn phiền lo toan đời thường tạm gác sang một bên để mọi người cùng hưởng niềm vui đón xuân về, tết đến.
Người Việt Nam vui hưởng Tết và luôn nhớ về Tổ tiên ông bà cha mẹ, nhưng không quên nghĩ đến người nghèo, thương đến những người đã khuất núi.
Tết cho người trần
“Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết”, câu nói ấy đủ cho thấy người Việt chú trọng đến ngày Tết như thế nào. Dù khốn dù khó thì ngày Tết cũng phải có cặp bánh chưng, khoanh giò lụa, nải chuối, hộp mứt. Nhà có điều kiện thì mua sắm đủ thứ, nào là mâm ngũ quả thật đẹp, các loại bánh mứt thật hảo hạng, cây giò thật to, gà, thịt thật nhiều, bánh chưng và nhiều loại bánh khác. Cùng với những thứ ăn, là những chậu hoa, cây cảnh, chậu quất sai qủa, gốc mai cành đào đầy đủ lộc, nụ, hoa…
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ” là cái Tết truyền thống của người Việt Nam. Ý nói cái Tết có cả phần vật chất lẫn tinh thần. “Câu đối đỏ” ngày nay được cải tiến rất nhiều. Bên cạnh những đôi câu đối viết bằng mực đen trên nền giấy điều, giấy lụa là những câu đối in trên loại giấy bóng tốt, nhiều nhà còn sắm về những hoành phi câu đối bằng gỗ, khảm trai hay những đôi câu đối thêu… Quan niệm của người Việt, ngày Tết tiễn cái cũ đi, đón cái mới về. Chính vì vậy, cùng với việc mua sắm, nhiều nhà có điều kiện, những tháng cuối năm thay đổi những cái cũ trong nhà như thay đổi tivi mới to hơn, đổi cái tủ lạnh, cái máy giặt hay thay xe… nhà không có điều kiện thì cũng cố gắng làm cho căn nhà mới hơn bằng việc quét vôi lại hoặc kê dọn đồ đạc trong nhà, lau chùi đánh bóng lư hương bát đèn, dọn dẹp sân vườn sạch sẽ…
Ngày Tết, còn là dịp để người người vui chơi. Bên cạnh việc “Ăn Tết”, người ta nghĩ đến việc “Chơi Tết”. Chơi Tết có thể kéo dài từ những ngày áp Tết 27, 28, 29 Tết với những cuộc đi ngắm chợ hoa, đi chợ Tết và ngày nay còn cả việc đi vào các siêu thị. Có thể mua hoặc có thể chẳng mua gì, song việc đi chợ như là niềm vui của ngày Tết, đặc biệt đối với giới nữ. Vì vậy, chợ là nơi thu hút đông người. Chợ vốn dĩ đã ồn ào, náo nhiệt thì những ngày áp Tết chợ càng thêm tưng bừng, rộn rã hơn. Nói đến “Chơi Tết” thì không thể không nói đến chuyện đi thăm hỏi, chúc Tết nhau, con cái đi chúc Tết cha mẹ, anh em, họ hàng, thân bằng cố hữu đến chúc Tết nhau. Trong nhà, ngoài đường vui như trẩy hội. Việc “Chơi Tết” không chỉ dừng lại ở ngày Mùng Một, Mùng Hai. Nó có thể kéo dài hết tháng giêng, tháng hai và cả tháng ba với những lễ hội, đình đám. Vì thế mà người ta có câu: Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai đình đám, tháng ba hội hè. Có lẽ người người chờ đón Tết, thích Tết cũng vì lẽ đó.
Tết cho người âm
Người Việt rất trọng chữ “Lễ nghĩa – trước sau”. Ngày Tết nhà ai cũng phải có mâm ngũ quả, mâm cơm thắp hương tổ tiên. Quan niệm “Trần sao, âm vậy” nên dễ thấy những ngày trước Tết, trong các chợ, quầy bán hàng mã cũng rất đông người. Người ta mua tiền, vàng, mua quần áo, có nhà chu đáo còn mua cả tivi, tủ lạnh, xe đạp, xe honda hay cả xe hơi, điện thoại di động, toà nhà nhiều tầng về đốt cho người thân ở cõi âm.
Ở nhiều làng quê, người ta còn nghĩ về người âm, lo Tết cho những người âm không có nhà cửa bằng việc nấu cháo hay cơm nát đơm từng thìa cho vào lá sung hoặc lá ổi đã được cuộn tròn như cái phễu đem để bụi tre, dọc đường vào đêm ba mươi. Và cũng trong đêm ba mươi, ngày mùng một chủ nhà nào cẩn thận còn bảo con cháu ra mở cửa, mở cả cửa trước, cửa sau, ngoài ý niệm trần thế đón Xuân vào nhà còn hàm ý mở cửa mời ông bà, tổ tiên về cùng vui đón Tết.
Tết cho người âm còn thể hiện ở việc người trần đi tảo mộ. Thường người ta đi tảo mộ vào sáng sớm mùng hai hoặc mùng ba Tết với mâm cơm nhỏ để ông bà, cụ kị chứng cho con, cho cháu, hoặc với những người trẻ xấu số thì mâm cơm tảo mộ còn để cho hương hồn họ không cảm thấy cô quạnh.
Tết cho hai phần thế giới… giao thoa
Ngày Tết, đất trời giao hòa, người người gần gũi nhau hơn. Trong cái không khí ấm áp lạ thường của ngày Tết, người đi xa lại thêm nhớ về nhà, về quê hương, nơi đó có những người thân yêu, ruột thịt. Bên mâm cơm gia đình, gợi nhớ những người ở xa, ngậm ngùi nghĩ về những người thân đã khuất. Trong cái khối đất trời hoà quyện, người người muốn tìm và gặp nhau có lẽ cũng xuất phát từ những ước nguyện ấy.
Những ngày Tết, người ta đến với cửa chùa, cửa đền nhiều hơn. Tuỳ từng điều kiện của mỗi gia đình, tuỳ vào lòng thành của mỗi người song hầu hết đến chùa ai cũng có được lễ vật để dâng. Ở nơi này, trong bảng lảng của khói hương, người người cầu ước và hy vọng những ông quan với bộ mặt hiền từ ngồi kia cùng những linh hồn quanh đó nghe được và giúp họ thực hiện những điều ước tốt đẹp trong năm mới. Trong dân gian, người ta cũng truyền miệng nhau rằng, ngày Tết, các quan trông coi các chùa cũng rất bận rộn. Họ phải cắt cử nhau ở chùa để ghi lại những điều mong ước của người trần. Sau đó báo cáo lên thiên đình, rồi căn cứ vào những việc làm thiện, ác của từng người, của từng gia đình mà thiên triều cho người đó được hưởng hạnh phúc hay khổ đau trong năm đó. Những vong hồn cũng quanh quẩn cửa chùa thường là những vong hồn phiêu dạt không cửa nhà, họ tìm đến đây để xin được ăn. Và cửa chùa chính là nơi giúp người âm và người dương gần nhau hơn. (Tổng hợp từ các báo xuân: tuổi trẻ, phụ nữ, nhân đạo, kinh tế, công giáo dân tộc).
Tết nơi xứ đạo
Những ngày giáp Tết mọi nhà tất bật bận rộn công việc bán mua, sắm sửa cho ngày Tết. Chợ búa đông vui nhộn nhịp.
Xứ đạo tôi thuộc miền quê, rộn ràng bao lo toan đón Tết. Chuẩn bị quà Tết cho người nghèo. Năm nay mất mùa, người nghèo nhiều hơn. Quà Tết cho người nghèo là lương thực cứu đói. Huy động hết mọi đoàn thể, mọi giới trong xứ đi lạc quyên giúp người nghèo được “Ăn Tết” cùng với mọi nhà, bởi lẽ “giàu thì ngày ăn ba bữa, nghèo thì cũng đỏ lửa ba lần”. Quà cho các cụ già trên 70 tuổi như tấm lòng biết ơn cùng với lời chúc thọ của con cháu trong thánh lễ Mồng Hai Tết.
Năm nào giáo xứ cũng tổ chức hội thao cho giới trẻ, thiếu nhi, bóng đá bóng chuyền. Thêm ba đêm hội chợ, văn nghệ vui xuân. Vì thế khuôn viên Nhà thờ tấp nập mọi đoàn thể ngày đêm tập luyện, chuẩn bị cho ba ngày Tết. Vui Tết lành mạnh, ở làng quê giảm đi bao tệ nạn cờ bạc rượu chè say sưa.
Đất Thánh cũng đông người đến tảo mộ, sửa soạn cho Thánh Lễ sáng Mồng Hai Tết. Những ngày cận Tết, nghĩa trang lung linh ánh sáng đèn nến, nhập nhoà hương khói.
Chuyện Tết cho người trần, Tết cho người âm, Tết cho người nghèo chính là cuộc sống mà người người đang hối hả khi cái Tết bắt đầu gõ cửa.
29. Hạnh phúc trường sinh (Lm. Jos Tạ duy Tuyền)
Người đời vẫn coi ba hạnh phúc lớn nhất của con người là Phúc – Lộc – Thọ. Phúc là công danh chức tước – Lộc là con cháu đông đảo – Và thọ là tuổi già.
Có công danh, sinh con cái là những dịp để người ta khao vọng, mừng rỡ, và khi hưởng tuổi già người ta lại càng cần phải mừng rỡ hơn để tạ ơn trời đất tiên tổ đã phù hộ cho được sống lâu. Vì đây là nỗi khao khát của con người vượt qua mọi thời đại. Dân tộc nào cũng ước mơ trường thọ, thời đại nào cũng mong được trường sinh bất tử. Dân tộc Việt Nam cũng biểu lộ sự khao khát trường sinh bất tử qua câu truyện Từ Thức lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh. Nỗi khao khát này còn được biểu lộ nơi chúng ta trong những dịp lễ tết đầu năm thường chúc nhau mạnh khỏe sống lâu, và trong đám cưới người ta vẫn thường cầu chúc cô dâu chú rể trăm năm hạnh phúc.
Vâng, sống hạnh phúc và trường thọ là nỗi khao khát nhất của đời người. Người đời không chỉ mong sống lâu mà còn mong được sống hạnh phúc và bình an. Hôm nay ngày đầu năm, mỗi người chúng ta đều chúc nhau hạnh phúc. Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm an khang thịnh vượng. Chúng ta mong ước cho nhau luôn mạnh khoẻ sống lâu và làm ăn phát đạt. Đây chính là những ước mơ rất chính đáng của con người. Là người ai cũng mong được sống trường sinh và hạnh phúc.
Chính Chúa Giê-su cũng định hướng cho chúng ta một con đường dẫn tới bến bờ hạnh phúc và trường sinh. Đó chính là con đường của tám mối phúc. Đây là con đường đòi hỏi sự dấn thân quên mình, đòi hỏi phải hy sinh những cái nhỏ để được cái lớn hơn. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, có tấm lòng hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, giữ lòng trong sạch, và biết xây dựng hoà bình. Đây cũng là một đòi hỏi kiên quyết của người môn đệ Đức Kytô. Họ phải là những người nghèo trước mặt Thiên Chúa. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Chúa và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người. Cho dù mình có bị thiệt thòi một chút, đau khổ một chút nhưng họ lại có ích cho gia đình, cho xã hội và đồng loại. Cuộc sống của ta chỉ có niềm vui trong những gì chúng ta cho đi. Cho thì có phúc hơn nhận lãnh. Một con người không bao giờ biết cho đi, không bao giờ biết hy sinh vì người khác, hay không bao giờ sống thanh sạch lòng thanh – gìn giữ công lý và xây dựng hoà bình, họ chỉ là một ốc đảo xa xăm, tự nhốt kín đời mình trong ngục tù cô đơn. Họ là những con người vô dụng, vô tâm, sống xa rời tình Chúa – tình người nên họ chỉ là những cây xanh thiếu lá, xem ra trơ trụi, trơ trẽn giữa cuộc đời.
Năm nay được gọi là Năm Con Rồng. Con Rồng là linh vật đứng thứ 5 trong 12 con giáp, rồng được coi là là sản phẩm của truyền thuyết và các huyền thoại, biểu tượng của sự may mắn, thịnh vượng cũng như quyền lực mạnh mẽ. Rồng còn là biểu tượng của lòng bái ái bao dung. Theo truyền thuyết, khi Rồng vừa bay tới vừa nhả lửa trên bầu trời. Thượng Đế thắc mắc tại sao một con vật mạnh mẽ như Rồng lại không đến đích đầu tiên, Rồng trả lời vì nó còn phải dừng lại giữa đường, làm mưa giúp dân dưới trần thế.
Năm Rồng chúng ta cầu chúc nhau nhiều điều may mắn đến với chúng ta trong năm, đồng thời cũng cầu chúc nhau biết xây dựng hạnh phúc đời mình như con Rồng bằng việc thi ân cứu đời. Sống thanh cao như Rồng. Sống vươn lên khỏi những đam mê xác thịt thấp hèn. Sống thanh thoát khỏi những bon chen vật chất tầm thường, những danh lợi thú mau qua, và biết tìm niềm vui trong đời sống hiến dâng phục vụ cho đời.
Nguyện xin Chúa Xuân ban cho chúng ta một năm mạnh mẽ như rồng và nhiều điều may mắn đến với chúng ta. Xin Chúa Xuân chúc lành cho chúng ta một năm vạn sự như ý. Xin Chúa giúp chúng ta biết vươn lên trong nhân đức và mạnh mẽ trong đức tin đức cậy và đức mến. Amen
30. Hạnh phúc đầu năm (Mt 5,1-10) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Mỗi năm vào ngày đầu năm mới người ta vẫn chúc tụng nhau và cầu chúc cho nhau những điều may mắn, những điều tốt đẹp nhất, những điều hạnh phúc nhất.Hôm nay ngày 01 tết Canh Dần, phụng vụ cho chúng ta đọc lại tám mối phúc thật của Chúa Giêsu để chúng ta hiểu được thế nào là hạnh phúc thật, thế là là những người được Chúa chúc phúc.
Sống nơi cõi trần, con người ai cũng muốn mình được may mắn, được tốt đẹp, đặc biệt được hạnh phúc. Do đó, con người tranh đấu để sinh tồn, con người phấn đấu để vượt khó, vượt lên cả số phận của mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã hứa ban Nước Trời là hạnh phúc đích thật cho các môn đệ Chúa. Chúa cũng đảm bảo cho những con người hiền lành, sầu khổ, có tâm hồn trong sạch, bị bách hại sẽ được” đất nước làm cơ nghiệp ” được ” Thiên Chúa xót thương” được ” nhìn thấy Thiên Chúa ” được ” gọi là con Thiên Chúa “. Và để những lời chúc phúc của Chúa trở nên hiện thực cho đời sống, cho con người, Chúa mời gọi các môn đệ Chúa phải trải qua đau khổ, vác thập giá và trải qua cái chết với Ngài trên thập giá. Đối với Chúa phải qua thập giá mới tới được vinh quang. Chính vì thế, người môn đệ Chúa sẽ không thể nhận được lời chúc phúc, sẽ không thể nào được hạnh phúc nếu không trải qua cuộc hành trình thập giá. Không có đau khổ không có vinh quang. Không có cái chết, không có sự phục sinh. Chúa muốn dạy chúng ta rằng muốn có hạnh phúc, muốn được tài lộc phải hy sinh, chịu khó, đổ mồ hôi sôi nước mắt. Bởi vì, không ai nằm chờ sung rụng rồi sẽ được giầu có nếu họ không chịu khó, phấn đấu, cực nhọc. Không ai muốn sống lâu mà cứ luôn phung phí sức khỏe, không biết tập luyện, kiêng khem vv…
Ngày đầu năm mới, chúng ta cảm tạ hồng ân Thiên Chúa vì Người đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh của Người và còn hứa ban ” Nước Trời ” cho chúng ta.
Chúng ta cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta một năm qua được lãnh nhận nơi Ngài biết bao hồng ân, Ngài yêu thương và thành tín với chúng ta dù rằng nhiều khi chúng ta phản bội Ngài.
Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài luôn là người Cha đầy tình thương xót, luôn tha thứ mỗi lần chúng ta xúc phạm đến ngài và chẳng trách cứ chúng ta.
Đầu năm mới chúng ta hãy sống và chúc cho nhau một năm mới đầy yêu thương, đầy ý nghĩa vì Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân không bao giờ tàn úa, nhạt phai.
Chúa là mùa xuân, chúng ta hãy mở tung cõi lòng để đón nhận những lời chúc phúc của Thiên Chúa, đồng thời, chúng ta phải sống yêu thương như Ngài yêu thương chúng ta và Ngài đã hy sinh mạng sống vì yêu thương chúng ta.
Tạ ơn Chúa vì lời chúc phúc của Chúa vẫn luôn hiện thực trong đời sống của mọi người.
Tạ ơn Chúa vì hạnh phúc được làm con Chúa trong tin yêu và hy vọng và như thế lời chúc đầu năm mới: an bình, tuổi mới và sống lâu vẫn là những điều quí hóa bởi vì đó là hoa quả của tình yêu của Chúa là mùa xuân vĩnh cửu.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một năm mới vui tươi và hạnh phúc. Amen.
31. Bình an và hạnh phúc (Giuse Nguyễn Hữu Duyên – Lm Quản Xứ Bảo Lộc)
Anh Chị em rất thân yêu,
Ngày đầu năm đâu đâu cũng rộn rã tiếng cầu chúc bình an và hạnh phúc. Xuyên qua những lời chúc xuân ấy, chúng ta có thể nắm bắt được những ý nghĩ căn bản của nhân thế về hạnh phúc và bình an:
Sức khoẻ và tuổi thọ, tiền tài và thịnh vượng, công danh và thành đạt, tình yêu và đại gia đình, đó là những gì làm nên an bình và hạnh phúc cho con người.
Lời Chúa chúng ta mới nghe cũng là những lời cầu chúc bình an và hạnh phúc. Nhưng Lời Chúa có một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ và dường như trái nghịch với ước mơ thường tình của con người:
Trước hết nền tảng của hạnh phúc và bình an chính là sự bảo trợ của Danh Thiên Chúa và Chúc Lành của Người. Dân Chúa khi còn ở Ai Cập cũng thường nghĩ chính công ăn việc làm, chính đất đai nhà cửa, chính những tài sản tích lũy là sự bảo trợ của hạnh phúc và an bình. Cho nên 40 năm trong sa mạc, khi phải vứt bỏ tất cả, thậm chí ngay đến những gì gồng gánh đem theo cũng phải tiêu tán trong cát bụi, không ít lần họ đã nổi loạn chống lại Môsê… nhưng Thiên Chúa không khoan nhượng… Ngài đã chôn vùi và lột trần tất cả trở thành những con người sống từng bữa bởi lòng thương xót của duy mình Thiên Chúa. Những kẻ đã ra khỏi Ai Cập phải phơi xương trên biển cát mênh mang, và còn lại chỉ là một lớp người mới sinh ra trong hoang điạ, chỉ lúc ấy Dân Chúa mới chiếm được Đất hứa và trở nên Dân Ưu Tuyển và hùng cường.
Chúa Giêsu đã rút từ lịch sử Thánh ấy điều cốt lõi khi công bố Hiến Chương Nước Trời cho Dân Mới: Phúc cho ai có tinh thần khó nghèo: Phải xây dựng Hạnh Phúc của mình, của gia đình, của xã hội dựa vào hành động yêu thương của Chúa Dù sao Israel vẫn còn được cưng chiều hơn, giữa sa mạc, họ vẫn còn khí trời, vẫn còn cột mây che mát, vẫn còn cột lửa sáng soi…và vẫn còn tình huyết tộc bao bọc chở che, Hội Thánh của Đức Kitô phải chôn vùi sự sống của mình trên 300 năm trong các hang toại đạo, phải phiêu dạt tứ xứ nơi đất lạ…chịu muôn vàn bách hại và truy sát… Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa không khoan nhượng trong đòi buộc vứt bỏ tất cả để hoàn toàn chỉ sống nhờ sự bảo trợ của Người. Sau này, khi hòa bình bên ngoài được thiết lập, không thiếu thành phần con cái Hội Thánh quên đi cái nôi sự sống của mình chính là Khó Nghèo ấy, Thiên Chúa đã làm nẩy sinh phong trào ẩn tu, và Hội Thánh đã được tái sinh chung quanh những trung tâm ẩn tu ấy. Gần chúng ta hơn, khi Hội Thánh sa lầy trong nhung lụa và quyền bính thời Trung Cổ, là cái cớ của sự phân hóa của những giáo phái Tin Lành, Chúa đã một lần nữa tái sinh Giáo Hội như một Bà Chúa Nghèo của Phanxicô thành Assisie… Lịch sử Dân Chúa chính là lịch sử đầy tính hiện sinh của cái nghèo chân thực. Hạnh Phúc được neo trong sự nghèo khó ấy.
Thánh Phaolô đã không làm giảm thiểu tính quyết liệt ấy khi xác định cách chắc chắn rằng, không phải là sự khó nghèo luân lý đạo đức nào đó là nền tảng của Hạnh Phúc và bình an, nhưng chính là con người nghèo của Đức Giêsu Kitô, và vì vậy trong mọi hoàn cảnh sự nghèo khó của Người Kitô chính là được kết hiệp với Đức Giêsu Kitô. Và qủa thực, những ai thuộc về Đức Kitô thì luôn sẵn sàng đi từ hang BeLem cho tới Núi Sọ và cách riêng là trở thành Tấm Bánh bị bẻ ra cho những con người nghèo.
Anh Chị Em rất thân yêu,
Đứng trước đòi hỏi của Hiến Chương Hạnh Phúc Nước Trời, và sự đòi hỏi phải trở nên Tấm Bánh bị bẻ ra ấy, tôi có thể nào trong lúc này không nhận ra tính nghịch thường ấy giữa một quang cảnh nhộn nhịp của ngày tết. Tuy nhiên, bên dưới lớp vỏ vui xuân, lại chỉ là những con tim khô quạnh và nhức nhối. Còn nơi bàn thờ này sự nghèo khó cô đơn đến lạnh lùng lại là con tim rộn ràng sức sống yêu thương.
Ngày đầu năm, tôi kính chúc Qúy Cha rất đáng yêu mến của tôi, kính chúc Thầy Phó Tế, Quý Tu Sỹ nam nữ, Qúy Chủng Sinh, Quý Cố Ông, Cố Bà, và toàn thể Anh chị em thân yêu được chính Thiên Chúa bằng Thánh Thần trong Đức Giêsu thánh hóa và gìn giữ vẹn toàn trong năm mới, để chúng ta tất cả trở nên nhân chứng của Hạnh Phúc đích thật cho mọi người, mọi gia đình và toàn thể xã hội.
Kính Chúc
32. Xuân Tạ Ơn (Mt 5, 1-10) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giây phút linh thiêng của những giờ phút của đêm giao thừa luôn có một ý nghĩa nhiệm mầu. Giây phút mà Hàn Mặc Tử đã viết:” Đây phút linh thiêng đã khởi đầu…”Giây phút giao thoa giữa năm cũ và năm mới. Giây phút mà những cái cũ được đẩy qua một bên để nhường cho những giây phút linh thiêng nhất, quí hoá nhất. Giây phút dành để cho Thiên chúa vì chỉ có mình Người là Đấng tạo dựng vũ trụ, tạo dựng con người. ” Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời ” như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do Thái 13, 8 đã viết. Do đó, những giờ phút quan trọng của đêm giao thừa là để tạ ơn Thiên Chúa.
TẠ ƠN LÀ ĐIỀU TỐI CẦN THIẾT: Sống trên gian trần, chúng ta mọi người đều mang ơn nhau, nặng nợ với nhau. Do đó, việc tri ân cảm tạ là điều cần thiết mọi người phải có với nhau. Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa chúng ta trả ơn không bao giờ cho cân xứng, Thiên Chúa không cần chúng ta cảm ơn Ngài, nhưng cảm tạ lại cần thiết và sinh ơn cứu độ cho chúng ta vì như lời nguyện nhập lễ chúng ta đọc thấy:” Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh”. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, chúng ta phải biết ơn Ngài và luôn luôn hướng về Ngài để cảm tạ tri ân Ngài và cầu khẩn Ngài vì ” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời “.Chính vì thế, giây phút giao thừa là giây phút huyền nhiệm, linh thiêng để chúng ta dừng lại tạ lỗi với Chúa vì những thiếu xót trong năm vừa qua và kính dâng Chúa năm mới với những cố gắng của mỗi người chúng ta với sự bảo trợ của Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Một phút quay lại với tâm tình thống hối và những quyết tâm với những ước mơ mới. Tạ ơn Thiên Chúa là điều tối cần thiết vì những hồng ân vô giá Thiên Chúa trao ban cho con người, cho loài người, cho mỗi người:” Lạy Thiên Chúa chí nhân chí thánh, Chúa là Đấng tạo thành vạn vật. Thời gian không gian là của Chúa, Chúa ban cho chúng con được hưởng dùng. Nay, trước thềm một mùa xuân mới, chúng con đến dâng lời tán tụng. Cùng với lời cảm mến tri ân. Năm cũ vừa qua được an bình, năm mới sắp tới muôn phần tốt đẹp. Chúng con xin cúi đầu cảm tạ”.
LỜI CẦU NGUYỆN TRI ÂN: Lạy Chúa, trước thềm năm mới, năm Đinh Hợi, chúng con cầu xin cho ánh sáng của Chúa chiếu toả khắp nơi trên vũ trụ, trần gian. Xin ơn hòa bình ngự trị mọi tâm hồn của những con người thành tâm thiện chí ” Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương “. Xin cho Quê Hương, Đất Nước chúng con luôn được niềm hạnh phúc của mùa xuân vĩnh cửu ngự trị và muôn dân được ấm no hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin cho mọi tâm hồn của con người luôn được thanh luyện trong Thánh Thần. Xin cho tất cả mọi người có niềm tin và không có niềm tin đều ước nguyện một mùa xuân vĩnh cửu không bao giờ tàn úa.
Xin cho những Kitô hữu luôn biết sống lời Chúa và yêu thương phục vụ.
Xin cho chúng con luôn biết hiếu đễ để mọi người luôn biết nói lời cảm tạ tri ân. Xin cho chúng con luôn là những dòng suối mát vun tưới cho cành xuân của chúng con được nở rộ trong mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân như ý, mùa xuân cứu độ.
Lạy Chúa, trước thềm năm mới Đinh Hợi, chúng con xin cảm tạ tri ân Chúa vì những ân huệ quí báu Thiên Chúa ban cho chúng con nhưng không. Xin cảm tạ Chúa vì mùa xuân bất diệt Chúa tặng ban cho nhân loại, cho con người, cho gian trần.
Xin cho giây phút giao thừa của xuân Đinh Hợi mang lại cho chúng con ơn bình an và hạnh phúc.
33. Việc gì phải lo, có Chúa an bài (Mt 6, 25-34) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Trong muôn loài được Thiên Chúa dựng nên, con người là hình ảnh Chúa. Do đó, con người có nhiều đặc ân mà không loài nào trên trần thế có thể so ví với con người.Loài người có suy tư, suy nghĩ và tư duy biết phán đoán, ưu tư, quan tâm đến người khác và quay lại với chính mình. Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, Ngài luôn yêu thương săn sóc, lo lắng, quan phòng. Hoa huệ ngoài đồng, chim se sẻ Chúa cũng còn quan tâm huống chi con người. Chính vì thế, Chúa nói:”…Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì?…”.
CHÚA NÓI ĐỪNG QUÁ LO LẮNG NHỮNG CÁI PHÙ PHIẾM: Nghĩ cũng nực cười khi con người hết thế hệ này qua thế hệ khác, chẳng có gì mới mẻ, vẫn cứ ngựa y đường cũ nghĩa là cứ đầu tắt mặt tối lo lắng cơm, gạo, bạc, tiền vv…Có người suốt đời cơm vẫn thiếu, áo vẫn không đủ mặc ấm. Tại sao lại như vậy? Nghĩ cũng buồn và cười ra nước mắt, thật là thê lương. Tuy nhiên, đọc lại Tin Mừng của thánh Matthêu 6, 25-34, Chúa nói:” Đừng lo “. Con người là loài thụ tạo cao hơn mọi loài Chúa dựng nên. Hoa huệ đẹp ngoài đồng mà vua Salomon tuy vinh sang như thế nhưng cũng không mặc đẹp như đóa hoa đó. Con chịm se sẻ, Chúa cũng nuôi. Hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin (Mt 6, 30). Loài người, con người họa lại hình ảnh vô song, toàn mỹ của Thiên Chúa. Do đó, con người được Chúa quan phòng, lo toan vì họ trọng hơn hoa, quí hơn muông thú. Ngài quan tâm đến từng nhu cầu của mỗi người theo cách thức tế nhị nhiệm mầu cao sâu của Ngài. Thánh Phaolô đã viết rất chí lý rằng:” Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào!…Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời.Amen. “(Rm 11, 33-36).
CỨ TIN TƯỞNG, KÝ THÁC CHO CHÚA: Thánh vịnh 13 có câu:” Hãy ký thác đường đời cho Chúa.Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”. Chúa bảo” đừng lo”, không có nghĩa Chúa nói chúng ta lười biếng, ỷ lại, không chịu làm việc, đừng lo cho nhu cầu thể xác và trần thế này. Chúa không hề nương chiều con người, cũng như ủng hộ cho những con người lười biếng, liều lĩnh. Thánh Phaolô đã từng nói:” Không làm việc thì đừng ăn…”. Đúng sự đời là như thế, con người quả tuyệt vời vì có lý trí để suy luận, có đạo đức để biết phân biệt điều phải, điều ác, điều ngay, điều gian và có hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Loài chịm, loài thú, chúng ta cứ tưởng chúng không vất vả, kỳ thực ra chúng vất vả nhiều, chúng phải bay đi hoặc đi xa để kiếm mồi, kiếm thức ăn nuôi sống…Loài hoa, loài cây cũng phải nhờ rễ đâm sâu, nhờ hút nước ở dưới đất, nhờ hấp thụ sương, mặt trời vv…Con người Chúa luôn khuyên nhủ hãy phó thác, nghĩa là hãy để tâm hồn bình an, đừng bôn ba quá đáng, đừng lạc quan đến bất cần, nhưng ” Hãy lấy Chúa làm niềm vui…Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”(Tv 36). Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philipphê 4, 4-8 cũng đã viết:” Anh em đừng lo lắng gì cả…”.
Tết là dịp để con người dừng lại, chiêm ngắm những kỳ công hết sức tuyệt vời của Thiên Chúa: chim chóc, thú rừng, cây cỏ, hoa lá vv… ngắm lại chính bản thân của mình: ” Con người là hình ảnh của Thiên Chúa Giavê”. Và đã là hình ảnh của Thiên Chúa, con người sẽ sống sự sống của Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa vĩnh cửu, trường sinh. Do đó, sự phó thác luôn là cần thiết của mọi người…
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết phó thác vào bàn tay uy quyền của Chúa. Amen.
34. Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Năm mới đang đến, mở ra một giai đoạn mới của cuộc sống. Và ở thời khắc linh thiêng này, có lời của Thiên Chúa nói với chúng ta qua Tin Mừng mà Hội Thánh công bố.
Vài phút suy niệm về lời được công bố ấy, tưởng cũng là điều rất cần thiết cho chúng ta lúc này. Vậy ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại mà đối diện với lời Chúa.
1. Mt 6,25-32: Đừng lo lắng khi phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống
Những của cải trần gian có thể chiếm trọn trái tim, chi phối hành động và biến thành một thứ thước đo giá trị của con người. Con người bị các thực tại phàm trần tác động và điều kiện hoá, vì ai cũng phải đối diện với những nhu cầu rất căn bản của cuộc sống như cái ăn, cái mặc… Các thực tại vật chất là rất cần thiết để con người có thể sống được: chúng ta không thể chỉ sống bằng suy tưởng hay bằng ý chí và không cần bất cứ thứ gì khác. Để sống, người ta buộc phải ăn, phải uống, phải mặc; và chính trong sự tuỳ thuộc vào các thực tại vật chất như thế mà mối tương quan của người ta với của cải trần gian được thực hiện. Không ai có thể tránh né được mối tương quan này. Vấn đề là chúng ta phải sống sự tuỳ thuộc đó như thế nào. Phần thứ nhất của bài tin mừng hôm nay (cc.25-32) trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy.
Với một loạt những quan sát và suy tư, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa biết rất rõ chúng ta và Người luôn sẵn sàng bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta. Người đã ban cho chúng ta món quà lớn lao hơn tất cả: thân thể và mạng sống, lẽ nào Người lại chẳng sẵn sàng ban cho chúng ta những món quà nhỏ hơn, tức là những phương tiện giúp chúng ta gìn giữ quà tặng lớn lao kia? Chim trời vẫn tìm được của ăn, cho dù không gieo không gặt. Đoá huệ ngoài đồng vẫn được trang điểm diễm lệ, cho dù không làm lụng canh cửi. Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, luôn lo liệu mọi sự cho chúng. Há Người lại chẳng làm như thế cho con người, vốn là những con cái mà Người quý hơn tất cả và hằng ấu yếm lấy tình phụ tử mà chăm nom gìn giữ? Và cuối cùng là một suy tư đơn giản: Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? (c.27). Chúng ta được mời gọi đón nhận những thực tại căn bản, ví dụ như độ dài của cuộc sống trần gian của mỗi người, như Thiên Chúa đã ấn định.
Đức Giêsu không có ý nói rằng chúng ta đừng làm lụng canh cửi, đừng gieo gặt trồng cấy, đừng để ý lưu tâm hay đừng xây dựng những dự phóng tương lai… Người muốn nói rằng tất cả những điều đó phải được thực hiện nhưng không phải là với một sự lo lắng bận tâm thái quá và mù quáng, mà là với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho con người bàn tay và khối óc, tức là Người đã lo liệu trước để chúng ta có thể xây dựng cuộc sống cho phù hợp với phẩm giá cao cả của mình.
Đức Giêsu biết rõ sự vận hành bình thường của cuộc đời. Người không phủ nhận rằng đôi khi chim trời và con người vẫn phải chết vì đói. Nhưng ngay cả trong những trường hợp cực đoan đó, sự lo lắng thái quá cũng không hề giúp chúng ta tiến bước bình an và chắc chắn trong cuộc sống trần gian này. Trái lại, trong những trường hợp cực đoan bi đát đó, chúng ta càng có lý do để trông cậy và hy vọng nơi Thiên Chúa, không chỉ hy vọng về những thực tại trần gian mà thôi, mà nhất là hy vọng về những thực tại Nước Trời, là nơi duy nhất có cuộc sống viên mãn thật sự.
Sự “không lo lắng” của chúng ta, như vậy, theo lời của Đức Giêsu, không đặt cơ sở trên một sự lạc quan ngây thơ hay trên khả năng làm chủ cuộc sống của chúng ta (khả năng ấy quá bé nhỏ). Sự “không lo lắng” đó được đặt cơ sở trên sự thực vững chắc, rằng Thiên Chúa quyền năng và thông biết mọi sự, rằng Thiên Chúa luôn luôn nhân lành yêu thương ta, rằng Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời sáng tạo của Người.
2. Mt 6,33-34: Chọn lựa căn bản của cuộc sống: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người
Sau khi đã dạy chúng ta đừng lo lắng, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết đâu là thực tại phải chi phối ước muốn của chúng ta, lấp đầy con tim của chúng ta, xác định thước đo giá trị của chúng ta và đòi hỏi những hoạt động của chúng ta: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Đó là những giá trị cao cả nhất và sâu xa nhất; và chúng ta được mời gọi hoàn toàn quy hướng tất cả con người của mình về những thực tại đó.
Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa đang tỏ mình hoàn toàn cho chúng ta trong tư cách là Đức Chúa quyền năng và tràn đầy ân nghĩa, Đấng luôn đón nhận và yêu thương che chở chúng ta trong sự hiệp thông vào sự sống của chính Người. Tất cả lòng tin của chúng ta, tất cả niềm hy vọng của chúng ta và tất cả lòng yêu mến của chúng ta đều phải được quy hướng về Người trong một ý hướng hoàn toàn thuần khiết. Đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Sự công chính của Thiên Chúa là sự công chính đến từ chính Thiên Chúa. Đó là cách hành xử của người công chính, phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và được Đức Giêsu nói rõ trong bài giảng trên núi. Tất cả nỗ lực của chúng ta và tất cả sức mạnh của chúng ta, đều phải được huy động để thực hiện sự công chính ấy.
Nếu chúng ta trước hết chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người như thế, thì những điều khác sẽ được ban cho chúng ta như những phương tiện để chúng ta thực hiện chọn lựa căn bản đó của cuộc đời. Ý nghĩa của sự hiện hữu của chúng ta không tuỳ thuộc vào những mối bận tâm về cuộc sống hiện tại này, mà là ở sự hoàn toàn quy chiếu của chúng ta, ngay trong cuộc sống thế tạm hôm nay, vào Thiên Chúa, và ở sự chuẩn bị của chúng ta, nhờ những hành động công chính, cho cuộc hiệp thông viên mãn vĩnh cửu với chính Thiên Chúa.
Đó mới là tương lai đích thật mà chúng ta hướng tới, chứ không phải là cái ngày mai trong cuộc đời thế tạm này. Vì thật ra, cái ngày mai thế tạm vẫn sẽ là cái ngày mai vất vả: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (c.34). Nhưng sự vất vả trong ngày mai thế tạm sẽ rất khác nhau. Đó sẽ là sự vất vả nhọc nhằn và cay đắng, nếu chúng ta vất vả vì những lo lắng cho cuộc sống thế tạm và vật chất này. Trái lại, đó sẽ là vất vả phúc lạc và bình an, nếu chúng ta tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, tức là nếu chúng ta hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa và sống theo những mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi (5,3-12).
Ngày Tết, chúng ta cầu chúc cho nhau một cuộc sống bình an và hạnh phúc, bởi biết rằng tất cả chúng ta đều chịu tác động của các thực tại thế tạm. Nhưng lời Chúa nhắc cho chúng ta rằng: ngay trong mối tương quan của chúng ta với những thực tại cần thiết cho cuộc sống thế tạm, Thiên Chúa vẫn phải chiếm vị trí mang tính quyết định. Ta được mời gọi đừng để cho những lo toan về các nhu cầu (cho dù là khẩn thiết nhất) của cuộc sống, hoàn toàn chi phối tâm trí chúng ta, đến nỗi chúng ta đánh mất sự tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Quan trọng hơn tất cả những bận tâm lớn nhỏ của cuộc sống, là lòng tin và niềm xác tín rằng: “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (c.32). Nếu lòng tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa và xác tín mạnh mẽ về sự nhân lành vô biên của Người, làm người bạn đồng hành với những mối bận tâm về cuộc sống vật chất của chúng ta, thì chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và chúng ta sẽ đối diện với cuộc sống (có khi rất khắc nghiệt) này với một sự tự do nội tâm đích thực. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 5,33).
35. Tám Mối Phúc (Mt 6,25-34) (Lm. Trần Bình Trọng)
Tư tưởng cũng như văn chương bình dân Việt Nam hàm chứa những quan niệm về thời giờ như: Thời giờ là vàng bạc; thời giờ thấm thoắt tựa thoi đưa, cứ đi đi mãi, không chờ đợi ai. Thường khi người ta nhìn tới thì thấy lâu dài, nhưng khi nhìn lại thì thấy mau lẹ. Người ta nói mới ngày nào đó, chúng mình thế nọ thế kia, mà nay đã hai mươi năm, ba mươi năm rồi. Khi bận rộn với công việc làm hay chương trình hoạt động, người ta cảm thấy thời giờ đi mau lẹ. Những lúc nhàn rỗi hay không bị hoàn cảnh thúc ép, người ta lại cảm thấy thời giờ đi chậm. Cho dù người ta cảm thấy thời giờ đi mau hay chậm, thời giờ vẫn xoay đều không thay đổi. Người ta không thể đi trước thời giờ, cũng không thể kéo dài thời gian.
Cho dù Tết đến sớm hay muộn, mùa Xuân đến mau hay chậm, người ta cũng phải theo chu kì tuần hoàn của vũ trụ mà đón nhận giây phút bàn giao của thời giờ mới cũ ở lúc không giờ của đêm giao thừa, là giây phút tống cựu nghinh tân. Người Việt xưa kia coi đêm giao thừa là giây phút linh thiêng, giao hoà giữa trời và đất. Gần đến giây phút giao thừa, người ta cứ ngồi đợi để hoà nhịp với giây phút giao hoà của trời đất, không được nói hay làm gì. Vừa tới lúc giao thừa thì họ vỗ tay vang động hay cho nổ pháo: đạch, đạch… đạch, đùng. Đạch, ĐÙNG… ĐÙNG… Đốt pháo để mừng xuân mới sang. Đốt pháo theo quan niệm của nhiều người Việt trước đây còn để xua đuổi ma qủi. Có người còn nghĩ: pháo nổ càng lớn, ma quỉ càng sợ. Vậy phải đốt pháo cối.
Người Công giáo thì coi ông trời là Thượng Đế, là Thiên Chúa và chỉ có Chúa mới làm chủ được thời giờ và thời gian. Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chúa có quyền trên mưa nắng, sóng gió, bão táp… như trong lời nguyện đầu lễ Giao thừa, linh mục chủ tế cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Đấng vô thuỷ vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc.
Bài Tin Mừng lễ Giao thừa bàn về Tám mối Phúc thật. Vào dịp Tết, mọi người đều chúc cho nhau những điều tốt đẹp, thì Giáo Hội cũng dùng những lời Thánh Kinh có chứa đựng những lời chúc phúc của Thiên Chúa. Trong khi thiên hạ chúc cho nhau mọi sự giàu sang phú quí và may mắn, thì Thiên Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật trong đó có một lời chúc cho những ai sống tinh thần nghèo khó. Thật là một điều nghịch lý và mâu thuẫn! Có một người dự tòng kia hỏi linh mục chánh xứ nọ: Thưa cha khi cha giảng về Tám mối Phúc thật, con không thể chấp nhận được bởi vì những điều Chúa dạy trong Tám mối Phúc thật đi ngược lại với quan niệm của người đời và ngược lại với những gì con đã sống. Nhưng rồi con vẫn tiếp tục đi lễ, nghe cha giảng Lời Chúa. Bây giờ thì con đã chấp nhận. Mỗi lần sau khi dâng thánh lễ, con cảm thấy được bình an trong tâm hồn.
Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật. Và không phải họ chỉ được hạnh phúc đời sau, nhưng còn được hưởng hạnh phúc ngay tại đời này. Hạnh phúc đó là một tâm hồn bình an, thư thái. Được Chúa chúc phúc là được tất cả: đời này cũng như đời sau. Có những người có thể hiểu lầm cho rằng Chúa muốn người ta sống nghèo khó, khắc khổ. Thực sự thì Chúa đến giải thoát con người khỏi cảnh nghèo đói. Chúa bảo: Nào những kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa, Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống (Mt 25,34-35).
Người đời còn cho rằng Giáo Hội dùng mối Phúc thật thứ nhất để cổ võ đời sống nghèo khó. Sự thực thì Giáo Hội không chủ trương như vậy. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lần đã tố cáo chính sách cấm vận của Hoa kỳ khiến cho dân nghèo Cuba càng nghèo, thiếu những phương tiện tối thiểu cho nhân phẩm con người. Trước đó ngài còn kêu gọi dịp Tết dương lịch 1998 hoàn cầu hoá việc phát triển kinh tế và phát triển kinh tế phải nằm trong vòng liên đới các quốc gia chứ không nhắm đến việc ăn mảnh và đánh lẻ. Đức Thánh Cha còn khuyến khích những quốc gia giàu mạnh xoá nợ cho những quốc gia nghèo đói. Như vậy Giáo Hội không khuyến khích thực tại nghèo khó, nhưng là sống tinh thần nghèo khó, nghĩa là tinh thần siêu thoát, không để lòng dính bén vào của cải trần thế.
Trong thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô chúc cho họ như sau: Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn (1Tx 5,23). Trong bài trích sách Dân Số, Chúa dạy Môsê chúc phúc cho dân chúng như sau: Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện xin Thiên Chúa tươi nét mặt gìn giữ anh em, và dủ lòng thương anh em! Nguyện xin Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em (Ds 6,24-26).
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, ta thấy dân được chọn kêu cầu đến Chúa mà chúc lành lẫn cho nhau. Bố cũng chúc lành cho con cái như ông Raguên chúc lành cho con rể là Tôbia và con gái là Xara như sau: Con đi mạnh giỏi và bình an! Xin Chúa trời cho con và Xara vợ con thành đạt, và ước gì cha được nhìn thấy con cái của chúng con trước khi nhắm mắt (Tb 10,11). Bà Étna cũng nại đến Chúa để chúc lành cho con gái và con rể như sau: Trước mặt Chúa, mẹ kí thác Xara cho con, con rể của mẹ! Suốt đời con, đừng bao giờ làm cho nó phải buồn (Tb 10,13).
Chúc Tết và chúc tuổi cho nhau mà nại đến Thiên Chúa và kêu cầu đến ân sủng và quyền năng của Chúa là đặt người mà mình cầu chúc dưới sự che chở và bảo vệ của Chúa. Việc cầu chúc cho nhau mà nói ra tiếng để người được cầu chúc có thể nghe thấy còn có tác dụng tâm lý là khiến cho người được chúc phúc cảm động và tự cố gắng thế nào để lời cầu chúc được thực hiện nơi mình.
Để áp dụng thực hành, ta nguyện xin Chúa chúc lành cho ông bà cha mẹ, anh chị em họ hàng. Và nguyện xin Chúa chúc lành lẫn cho nhau trong năm mới. Ta cũng không quên xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu sót trong năm cũ, những lúc ta phí phạm thời giờ Chúa ban, cũng như việc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa tha thứ những lần ta không dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình: cha mẹ, vợ chồng và con cái; những lần ta không dành thời giờ cho chính mình để suy tư về thân phận làm người trong mối tương quan với Đấng tác thành nên mình.
Lời nguyện xin Chúa chúc lành cho Năm mới:
Lạy Chúa, Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân Hạ Thu Đông. Chúng con xin tạ ơn Chúa cho thời giờ, năm tháng Chúa ban trong năm cũ. Xin Chúa tha thứ những lần chúng con phí phạm thời giờ hoặc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa thánh hoá thời giờ chúng con xử dụng để chúng con biết dùng thời giờ làm vinh quang nước Chúa. Amen.
36. Ơn Bình An (Mt 6,25-34)
Mùa xuân đang đến với quê hương, gia đình và mỗi tâm hồn.
Mùa xuân đến mang thêm tuổi đời, niềm vui và hy vọng.
Mùa xuân đến làm tươi nở cuộc đời với hương trời, gió xuân, hoa thắm.
Mùa xuân đến đem niềm an bình và hạnh phúc cho con người.
Vâng, tất cả chúng ta đang được tận hưởng tràn trào hương xuân trong ngày đầu năm mới với muôn ngàn lời chúc tốt đẹp. Chúng ta chúc nhau năm mới an khang hạnh phúc, an bình phúc lộc, an mạnh trường thọ, an lành thánh đức… Những lời cầu chúc thân thương ấy đã diễn tả phần nào nguyện ước sâu xa của cõi lòng con người. Hơn hẳn những nhu cầu thiết thực khác của cuộc sống, chúng ta mong ước được an bình từ nội tâm đến cuộc sống ngoại tại, từ mối tương giao thân tình giữa người với người đến sự hòa hợp thích ứng với thiên nhiên và các tạo vật.
Thế nhưng, đâu là phương thức chính đáng nhất để chúng ta có được sự bình an đích thực như lòng mình mong muốn? Câu trả lời được tìm thấy trong bài Tin Mừng mà Giáo hội đã chọn đọc trong ngày đầu năm mới hôm nay.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa quan phòng, để đừng quá bận tâm vào những nhu cầu của cuộc sống thực tại, vì chính Chúa Cha sẽ ân ban cho chúng ta tất cả. Điều quan trọng và cần thiết nhất trong lúc này là chúng ta hãy ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (x.c.33). Đó là thái độ mà chúng ta cần kiên quyết thực hiện ngay trong ngày đầu năm mới này. Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người chính là trạm dừng chân lý tưởng nhất để chúng ta có được sự bình an như lòng mình mong ước. Trong sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm nay, Đức Thánh Cha Bênêđictô cũng xác nhận: “Một xã hội được hòa giải với Thiên Chúa thì gần gũi với hòa bình hơn… Hòa bình là kết quả của một tiến trình thanh tẩy…” (số 15).
Quả thật, sự bình an đích thực mà chúng ta đang khát khao chính là việc thiết lập được mối tương giao thuận thảo giữa chúng ta với Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta cho Ngài, nên tâm hồn chúng ta còn mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi nào được an nghỉ trong Chúa (thánh Augustin). Thánh nhân đã nói lên được tâm tư nguyện vọng nơi thẳm sâu tâm hồn của mỗi người chúng ta. Thật vậy, chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có được sự bình an đích thực. Chính sự an bình tràn ngập tình yêu thương này, khiến chúng ta luôn luôn muốn sống thân tình với Thiên Chúa, kết hiệp thâm sâu với Ngài trong tình yêu, chu toàn thánh ý Ngài trong cuộc sống, tận tâm giới thiệu Chúa cho người khác, mong cho Danh Ngài tỏa lan đến mọi người mọi nơi. Đây cũng chính là phần ưu tiên mà chúng ta phải chọn lựa theo giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng. Bởi lẽ, một khi có Chúa trong cuộc đời, ta sẽ được tận hưởng một sự bình an vô hạn. Với Chúa, chúng ta cùng đi gieo rắc niềm an bình đến mọi nơi. Và vì Chúa, chúng ta cũng sẽ biết trân trọng, gìn giữ và bảo vệ sự bình an mà Ngài đã ân ban.
Hôm nay, ngày đầu năm mới, chúng ta cùng nguyện cầu ơn bình an được tỏa lan đến khắp mọi nhà và mọi tâm hồn. Cầu mong ơn bình an được chan hòa trên khắp miền quê hương đất nước. Chúng ta ước nguyện quê hương được thái bình thịnh vượng, nhà nhà an hòa, người người an lòng, để cùng chung tay xây dựng quê hương ngày một tốt đẹp hơn. Thế nhưng, để có được sự bình an như lòng mong ước, chúng ta phải biết ngước nhìn lên Đấng là chính nguồn cội sự bình an. Xin Ngài thương ban tặng cho chúng ta niềm an bình và hạnh phúc đích thực trong năm mới này.
Tuy nhiên, sự bình an không chỉ dừng lại nơi bản thân của mỗi người, mà cần phải được chia sẻ đến mọi người và mọi nơi. Chúng ta cần trao tặng cho tha nhân sự bình an của Chúa qua thái độ biết quảng đại tha thứ để sống yêu thương hơn, biết trân trọng người khác với những khả năng và khác biệt nơi họ, biết ân cần quan tâm đến nhau nhiều hơn, biết nhiệt tâm phục vụ với tất cả lòng từ tâm và nhân ái, biết cảm thông trước những nỗi khổ đau hay giới hạn của người khác… Vâng, trong mùa xuân này, Thiên Chúa đang ngỏ lời với chúng ta, đang mong chờ một vòng tay yêu thương rộng mở của chúng ta để đón nhận, để sẻ chia cho những tâm hồn bé nhỏ là hình ảnh thân thương của Ngài. Những hiện thân ấy đang ở chung quanh chúng ta, bên lề đường, trong những túp lều ẩm thấp, trong những cơn bệnh thập tử nhất sinh, hay trong những mái nhà xiêu vẹo vắng bóng tiếng cười, vắng luôn cả miếng cơm manh áo… Chúng ta cần đáp trả thế nào trước tiếng kêu than của người anh em chúng ta? Đó chính là tiếng kêu gào của một vị Thiên Chúa đang nhập thể từng ngày trên quê hương này, ngay trong mùa xuân này.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một mùa xuân an bình hạnh phúc. Quê hương con giờ đây không còn chiến tranh, không còn bạo lực, chúng con được thoải mái vui chơi và tận hưởng mùa xuân an bình trên quê hương dấu yêu. Thế nhưng, Chúa thấy đấy, khung cảnh bên ngoài thì bình an thư thái, nhưng bên trong chiều sâu thăm thẳm của lòng người, của xã hội, thì cũng còn đầy dẫy những kiểu “chiến tranh không đổ máu”. Từ những lối sống ích kỷ, thụ hưởng với những đam mê khoái lạc, rồi những thái độ gian dối lừa lọc, cư xử bất công, hành xử đầy tính cách bạo lực… đã tạo nên những hố sâu ngăn cách giữa người với người. Để rồi còn tìm đâu ra sự bình an trong những cảnh tượng như thế? Một điều làm cho Chúa đau lòng hơn cả là từ nội tâm con người đã tự nguyện giết chết sự bình an của một lương tâm trong sáng, khi sẵn sàng ngăn cản sự ra đời của một thai nhi bé bỏng vô tội. Thật xót xa cho Chúa khi từng ngày và mỗi phút giây trên quê hương con, hàng chục thai nhi bị giết chết mà không kịp tận hưởng một chút hương vị mùa xuân cuộc đời.
Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con, xin canh tân đổi mới tâm hồn chúng con, đặc biệt là tâm hồn các bà mẹ trẻ, để trong năm mới này, mọi người đều biết duy trì được sự bình an đích thực trong tâm hồn mà Chúa đã ban tặng.
Xin cho mùa xuân này đem lại nhiều niềm vui và sự an bình cho mọi tâm hồn, nhất là những tâm hồn đang cô đơn sầu khổ.
Xin cho mùa xuân này là lời động viên, nhắc nhở hay cảnh báo cho tất cả mọi người, để cùng với ơn thánh, chúng con luôn biết nỗ lực sống yêu thương và an bình trong tình Chúa và tình người chân thành. Amen.
37. Quê hương thật (Ga 14,23-27)
Trong những ngày Tết, chúng ta thường cầu chúc cho nhau được khoẻ mạnh, được nhiều may mắn, được gặt hái những thành quả tốt đẹp. Thế rồi khi năm mới bắt đầu, chúng ta thường ra sức làm việc, nhưng phần lớn là để tìm lấy những vinh quang, những lợi ích cho riêng mình. Và nếu có lỡ thất bại, chúng ta cảm thấy buồn chán, và nhất là chúng ta hậm hực tức tối khi người khác trổi vượt hơn chúng ta. Chính vì thế, đây là lúc chúng ta phải đặt lại vấn đề, phải xác định phương hướng cho cuộc đời chúng ta. Chúng ta sống là để làm gì? Và đâu mới là quê hương thật của chúng ta? Trả lời cho những câu hỏi này chúng ta mới có thể đi đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta đi cũng như mới có thể tìm thấy được những giá trị trường tồn và vĩnh cửu.
Khi ông Roosevelt còn làm tổng thống nước Mỹ, có lần đã đi nghỉ hè tận Phi Châu để săn những con hươu cao cổ. Trên chuyến bay từ Phi Châu trở về Hoa Kỳ, có một nhà truyền giáo đã hy sinh phục vụ những dân Phi Châu suốt 40 năm trời. Khi phi cơ hạ cánh, nhà truyền giáo ấy chứng kiến đông đảo dân chúng cùng một phái đoàn cao cấp trong chính phủ ra đón mừng tổng thống trở về bằng yên, không ai để ý tới nhà truyền giáo đang lủi thủi một mình. Bấy giờ nhà truyền giáo than thở với Chúa trong cõi lòng của mình: Lạy Chúa, Chúa biết không, một vị tổng thống đi nghỉ hè trở về mà được nhiều người đón rước như vậy. Còn con đây, con đã hy sinh vì Chúa để phục vụ những người anh em cùng khổ tại Phi Châu suốt 40 năm thế mà giờ đây, khi trở về, lại không một ai thèm nhớ đến con. Quả là bất công và tủi hổ cho thân phận của con. Thế nhưng lúc đó, dường như có tiếng Chúa trả lời trong tâm hồn nhà truyền giáo: Này con, đừng vội thất vọng, vì con chưa trở về quê hương thật của con cơ mà.
Có thể đôi lúc chúng ta cũng than phiền với Chúa như thế. Và câu trả lời của Chúa cho nhà truyền giáo cũng là câu trả lời cho mỗi người chúng ta: Con chưa trở về quê hương thật của con. Trần gian chỉ là nơi tạm gởi và vinh quang của nó tựa cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn. Vì thế, đừng quá bận tâm tới tiền bạc vật chất, địa vị danh vọng, cũng đừng ganh tỵ với những may mắn của kẻ khác, nhưng hãy cố gắng tạo cho mình một kho tàng thiêng liêng, có giá trị trường cửu, để nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Với những chia sẻ ngắn ngủi trên, tôi xin cầu chúc anh chị em một năm mới bình an và hạnh phúc trong tình yêu thương của Thiên Chúa.
38. Cầu bình an trong năm mới
Không biết có ai trong chúng ta thắc mắc “tại sao Giáo hội lại chọn đọc bài Tin Mừng này vào ngày đầu năm mới? Ngày cầu bình an?” Thiết tưởng Giáo hội là mẹ cũng muốn dạy con cái mình những điều thật hữu ích. Vì thế, có lẽ chúng ta cũng nên đặt thêm một vài câu hỏi: Tại sao lại phải cầu bình an trước tiên ngay trong ngày đầu năm mới? Điều gì đem lại bình an? Điều gì làm mất bình an? Lời Chúa hôm nay có giúp gì cho việc giải quyết những vấn nạn này không?
Xin thưa câu trả lời chắc chắn là có. Lời Chúa hôm nay sẽ giúp cho mỗi người tìm được bình an. Vì bình an là gốc của mọi điều tốt lành khác. Có bình an con người sẽ có được những thứ khác. “Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?”.
Lời Chúa thật là chí lý: xét đi xét lại chúng ta thường lo cho mình “của ăn, áo mặc”, mà cái lo này thường làm cho chúng ta quên đi cái chính yếu mình đang có đó là “mạng sống và thân thể”. Chúa nhắc chúng ta nhìn về điều chính yếu Chúa ban cho, Chúa đã trao cho chúng ta mạng sống, cái mà chúng ta không thể làm gì trên nó được, không kéo dài cũng không rút ngắn, không sớm cũng không muộn… mạng sống của chúng ta tùy thuộc vào tay Chúa. Nhưng ngay cả điều quý giá nhất là mạng sống thì Chúa cũng đã ban cho và được đặt vào trong một thân thể rồi. Thân thể cũng vậy, một món quà quý giá không ai có thể làm cho mình cao hơn lên, hoặc đầy đủ hơn. Chúng ta không can thiệp được về thân thể của chúng ta, có chăng chúng ta chỉ có thể giúp mạng sống và thân thể an toàn và tốt đẹp thêm như nó đã được trao tặng. Vậy mà nhiều khi trong cuộc sống chúng ta lại quên, đánh mất, hoặc làm tổn hại cái chính mà mình đang có để lo tìm cái phụ. Những cái phụ thuộc ấy nếu lo lắng quá đáng chúng ta sẽ làm cho mất bình an.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng cuộc sống ngày hôm nay có quá nhiều khó khăn và thử thách. Công ăn việc làm hết sức bấp bênh. Việc học hành và tương lai của con cái đáng phải lo nghĩ. An sinh xã hội không được bảo đảm. An ninh chính trị thì luôn bất ổn. Xung đột và khủng bố diễn ra khắp nơi. Những điều ấy đã làm cho cuộc sống chúng ta đôi khi mất bình an và luôn phải lo nghĩ để tìm cách ứng phó. Chúng ta vẫn có quyền lo nghĩ và sắp xếp tương lai của mình cho tốt đẹp nhất nhưng đừng để những thứ ấy làm ảnh hưởng đến sự bình an mà Chúa đã ban cho mỗi một người.
Chúng ta là những người đã dám tin vào vào quyền năng và ân sủng của Chúa, chúng ta phải có một lối sống và cách hành xử khác, dám để cho Lời Chúa hướng dẫn vì “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó”. Không phải ỉ nại vào sự quan phòng của Chúa, nhưng là cộng tác với Chúa, và khi đã nỗ lực hết sức để cộng tác với Chúa, thì tin tưởng Chúa sẽ chúc lành.
Như vậy điều đem lại bình an là vui với những hồng ân mà mỗi chúng ta được nhận lãnh hằng ngày cách nhưng không: mưa thuận gió hòa, mặt trời mọc và lặn đúng thời đúng buổi, không khí trong lành và những dòng nước mát, những người thân yêu và tình bằng hữu… Và điều làm mất bình an là chúng ta lo lắng tìm kiếm những cái phụ quá đáng, đôi khi lo lắng tìm cái phụ mà chúng ta tranh giành làm tương tổn nhau, đôi khi lo tìm những cái phụ mà đánh mất cả những giây phút hạnh phúc hiện tại mà mỗi chúng ta đang có.
Cầu xin bình an trong năm mới, là cầu xin cho chúng ta cảm nghiệm những hồng ân Thiên Chúa ban cách nhưng không. Cầu xin bình an trong năm mới là cầu xin cho có lòng tin vào bàn tay Chúa quan phòng. Cầu xin bình an trong năm mới là cầu xin cho biết lượng giá và tìm kiếm những điều chính yếu, tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, giữa cuộc sống có quá nhiều bề bộn và lo toan hôm nay, xin cho con được giữ mãi trong lòng hơi ấm bình an của Chúa. Nhiều khi cơm, áo, gạo, tiền đã làm chúng con quá mỏi mệt mà quên đi sự hiện diện nhiệm mầu của Tình Yêu Chúa.
Chúa biết đó, chúng con đang còn phải vật lộn mỗi ngày với cuộc sống nhiều cam go và thử thách hôm nay. Những khó khăn và thử thách từ ngoài tác động vào lòng chúng con và có những thử thách tự chúng con gây ra cho chính mình. Trong tất cả những vấn đề ấy, xin cho chúng con tìm ra được hướng giải quyết và tháo gỡ. Nhưng trên hết, xin cho chúng con luôn biết đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa và trao đời mình trong vòng tay yêu thương quan phòng của Chúa luôn.
Amen
39. Bình An – Quà Tặng Năm Mới
(J.B. Nguyễn Quốc Tuấn)
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô.
Bình an, đó là điều mà chúng ta mong ước và cầu chúc cho nhau mỗi dịp Tết đến xuân về. Bình an là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người kể cả trên bình diện xã hội và tâm linh. Bình an như là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đồng hành giữa nhân loại và thái độ đáp trả của con người bằng đời sống yêu thương. Vì khi sống yêu thương, chúng ta cũng đồng thời được tận hưởng một thế giới an bình.
1. Thiên Chúa là nguồn mạch bình an
Nguồn bình an đích thực đến từ Thiên Chúa. Từ tạo thiên lập địa, chính Thiên Chúa đã khai thông nguồn bình an ấy đến tận muôn loài. Riêng đối với con người, Ngài đã ưu ái đặc biệt khi cho chúng ta được cộng tác với Ngài trong việc tạo lập bình an cho thế giới. Nhưng chúng ta đã khước từ tình yêu của Thiên Chúa, lạm dụng quyền tự do Ngài ban theo chiều hướng xấu dẫn đến bất an, đau khổ.
Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Khi nhân loại bị tước mất nguồn bình an vì phải xa lìa Thiên Chúa, thì chính Ngài lại tiếp tục nâng đỡ và kêu mời chúng ta trở về nhận lại ơn bình an nơi Con Một Người là Đức Giêsu Kitô.
“Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1Tx 5, 23-24).
Một khi ý định của Thiên Chúa đã được thành toàn nơi Đức Kitô, nhân loại thực sự được mời gọi bước vào sống trong thế giới của nguồn bình an vô tận. Khi đã được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm của Đức Kitô, chúng ta không còn phải bất an vì lo sợ quyền lực sự dữ thống trị.
“Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó” (Cl 3, 15).
Cuộc lữ hành trong Đức tin của người môn đệ dù phải đối diện với muôn vàn mối hiểm nguy luôn rình rập đe doạ, nhưng đó sẽ là cơ hội quý giá cho chúng ta tận hưởng bình an chân thật do chính Thập giá mang lại.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi” (Ga 14, 27).
2. Không có bình an nếu thiếu tình yêu
Như vậy, bình an là quà tặng vô giá do bởi tình yêu mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Điều này cho thấy bản chất của bình an được khởi đi từ tình yêu. Tình yêu vừa là động lực, vừa là cốt tuỷ của sự bình an. Bình an mà Đức Kitô đã dành trọn cho nhân loại trong công cuộc cứu độ của Ngài, chính là nguồn bình an mà nhờ đó con người được sống trong tình yêu Thiên Chúa và anh em.
Kitô giáo đã mở ra cho chúng ta một hướng nhìn toàn diện khi nghiệm xét điều mà nhân loại hôm nay không ngừng vươn tới: Bình An. Đích điểm mà con người bao đời vẫn kỳ vọng là được sống trong một thế giới hoà bình sẽ trở thành ảo tưởng, nếu thế giới ấy thiếu đi tình thương.
Vẫn còn đó những bất an khi con người chưa đáp ứng lời mời gọi của Đức Kitô: hoà giải, thứ tha.
Vẫn còn đó những bất an khi những nhóm, hay cá nhân bất chấp các nguyên tắc luân lý nền tảng của sự sống và nhân phẩm con người.
Vẫn còn đó những những bất an khi người ta nhân danh quyền lực để xâm hại quyền lợi đồng bào vô tội.
Vẫn còn đó những bất an khi đồng tiền được đặt trên tình thương…
Vẫn còn đó những bất an khi chúng ta chưa chịu xả thân hết mình để chia sẻ những mất mát, đau thương của bao người…
3. Bình an – quà tặng năm mới
BÌNH AN - Món quà thiêng liêng nhất mà chúng ta trao đến nhau trong ngày đầu năm mới. Nó không là một lời chúc suông hoa mỹ, mà hàm chứa một thái độ sống, một nỗ lực sống của chúng ta trên chặng đường những tháng ngày mới đang mở ra.
Món quà BÌNH AN chỉ thực sự sinh động và và có ý nghĩa khi chúng ta gói gém vào trong đó những nguyện ước chân thành và thiện chí xây dựng một cuộc sống êm ấm tốt đẹp cho nhau.
Món quà BÌNH AN chỉ có thể đem lại bầu khí an bình đích thực khi nó được khắc vào đó dấu ấn Thân Ái – Thứ Tha.
Một năm mới bình an khi mỗi người dành cho nhau nhiều thời giờ trao đổi, chia sẻ, nâng đỡ và cùng nhau thăng tiến trong hiệp nhất.
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô. Do vậy, thực chất của ơn bình an chính là một cuộc sống luôn kết hiệp với Đức Kitô trên tinh thần tôn trọng sự thật và xây dựng một xã hội công bình, yêu thương.
“Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3, 14).
40. Những nét đẹp Tin Mừng của ngày tết
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Xuân đến làm đẹp đất trời. Những cành đào đua nhau khoe sắc. Những chồi non bụ bẫm nhú ra khỏi cành cây khô khẳng. Chợ búa đông vui và đẹp đẽ với những hàng hoá đủ mọi loại. Những tà áo mới tha thướt làm đẹp phố phường. Trong khung cảnh vui tươi tấp nập ấy, khuôn mặt mọi người như rạng rỡ tươi cười. Mùa Xuân đem đến nhiều vẻ đẹp. Cao quý nhất là những nét đẹp văn hoá dân tộc đậm đà mầu sắc Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của lòng biết ơn. Năm hết Tết đến, người Việt nam thường nhớ đến công ơn của những người đã giúp đỡ mình trong năm qua. Biết ơn là một nét đẹp văn hoá đáng trân trọng và cũng là một điều hợp lý. Năm 2000 phải biết ơn 1999 năm qua. Dòng sông lớn phải mang ơn những con suối nhỏ. Hạt lúa phải nhớ ơn những hạt mưa, hạt nắng, hạt phân. Ngày hôm nay phải biết ơn ngày hôm qua. Thế hệ này phải nhớ ơn thế hệ trước. Đời sống ta chịu ơn biết bao người. Cảm nghiệm sâu xa chân lý này, nên mỗi dịp Tết đến, người Việt nam ta thường bày tỏ lòng biết ơn với ông bà, cha mẹ và các ân nhân. Những món quà nho nhỏ nhưng thắm đượm tình nghĩa làm vui cả người nhận lẫn người cho. Riêng với người Công giáo, bày tỏ lòng tri ân đối với Thiên chúa là một bổn phận không thể thiếu. Vì Thiên chúa chính là tổ tiên đã sinh thành nên ta. Vì Thiên chúa là ân nhân lớn nhất đời ta. Chính Người đã ban cho ta món quà cao quý nhất: đó là sự sống. Chính Người tiếp tục chăm sóc gìn giữ ta từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây. Biết ơn là việc làm của lương tri, cổ võ cho một thế giới mới chan chứa tình người. Biết ơn cũng là một giá trị đạo đức được Chúa Giêsu đề cao trong Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của sự cho đi. Ta gửi đi những cánh thiệp như những sứ giả của tình cảm yêu thương. Ta gửi đi những lời cầu chúc như tâm tình mến yêu tha thiết dành cho nhau. Ta sửa sang quét dọn nhà cửa để đón tiếp nhau. Ta dành thời giờ viếng thăm nhau để xiết chặt thêm tình thân ái. Ta ăn mặc tề chỉnh để tỏ lòng kính trọng nhau. Ta nói năng tế nhị để làm vui lòng nhau. Ta rộng rãi tặng tiền mừng tuổi cho con cháu. Tóm lại, tất cả những gì ta làm trong ngày Tết đều vì người khác và cho người khác. Đặc biệt trong lãnh vực ăn uống. Ngày Tết, nhà nào cũng chuẩn bị sẵn đồ ăn thức uống cho gia đình, nhưng nhất là để mời khách. Khách vào nhà bao giờ cũng được mời thưởng thức ấm chè mới, nếm kẹo bánh ngon. Sự chiếu cố của khách làm vui lòng cho chủ. Sự vui vẻ của người nhận là hạnh phúc của người cho. Có niềm vui cho đi và có niềm vui lãnh nhận. Những niềm vui ấy tạo cho ngày Tết một nét đẹp đầy mầu sắc Tin Mừng: nét đẹp của sự quên mình, của sự quảng đại cho đi, của sự khiêm tốn đón nhận, của tình liên đới.
Ngày Tết có nét đẹp của sự đổi mới. Thiên nhiên đổi mới với sự hồi sinh của cây cỏ. Phố phường đổi mới với những căn nhà mới, với những gian hàng mới và với quần áo mới. Hoà vào cái mới của đất trời, của xã hội, lòng người cũng nôn nao trong niềm hy vọng đổi mới bản thân và cuộc đời. Ai cũng mong tống tiễn những điều xấu vào quá khứ. Ai cũng mong đón nhận một tương lai tươi đẹp. Niềm mong ước đổi mới được thể hiện qua những cố gắng giữ vẻ mặt tươi cười, không tức giận, không nói những lời thô tục, những điều rủi ro, nhưng chỉ nói những điều tốt đẹp, đối xử hoà nhã với mọi người trong những ngày Tết. Phút giao thừa thật thiêng liêng. Nó đánh dấu một khởi đầu mới. Người ta tin rằng sống tốt đẹp những giây phút đầu tiên sẽ có ảnh hưởng tốt đến cả năm. Nên mỗi dịp Tết là một lần khuyến khích ta cố gắng đổi mới đời sống, đổi mới bản thân.
Đổi mới đời sống là điều Chúa Giêsu tha thiết mong muốn nơi ta. Người không ngừng mời gọi ta hãy từ bỏ con đường tội lỗi xưa cũ, bước vào con đường mới, con đường tự do, thánh thiện của con cái Thiên chúa. Người không ngừng mời gọi ta trở thành bầu da mới để có thể chứa đựng thứ rượu mới là giáo lý của Người. Ngày Tết chính là một cơ hội cho ta thực hành Lời Chúa dạy, tích cực đổi mới đời sống nên tốt đẹp hơn.
Với tất cả những nét đẹp trên đây, tinh thần ngày Tết cổ truyền dân tộc rất gần gũi với Tin Mừng. Rõ ràng nét đẹp văn hoá Việt nam đã chất chứa những giá trị Tin Mừng. Rõ ràng Tin Mừng đang đi vào cuộc sống của người Việt nam.
Vì thế, người Việt nam Công giáo không những có trách nhiệm gìn giữ những nét đẹp văn hoá của ngày Tết cổ truyền mà còn phải biến những nét đẹp ấy thành những trang Tin Mừng sống động. Khi ta sống tâm tình biết ơn trong ngày Tết, đừng chỉ giữ hình thức bề ngoài hay chỉ chú ý tới khía cạnh vật chất. Hãy có tâm tình biết ơn sâu xa. Hãy nhìn thấy ơn Chúa ban qua mọi ân huệ nhận được. Khi ta cho đi trong ngày Tết, đừng chỉ cho đi như một hình thức xã giao hay như một thói tục bắt buộc. Hãy cho đi với tâm tình yêu mến, kính trọng thực sự. Hãy đón tiếp khách thăm viếng như đón tiếp chính Chúa. Khi ta muốn đổi mới đời sống, đừng chỉ giữ như một hình thức và không chỉ giữ trong những ngày Tết, nhưng duy trì sự cố gắng đổi mới trong suốt cả đời với quyết tâm thực sự đổi mới đời sống.
Khi ta sống tinh thần Tin Mừng trong những phong tục ngày Tết, ta góp phần xây dựng một mùa Xuân mới, một mùa Xuân dân tộc, một mùa Xuân tình thương. Mùa Xuân ấy sẽ vĩnh cửu vì sẽ dẫn đến mùa Xuân Nước Trời.
Lạy Đức Kitô là mùa Xuân đích thực, không bao giờ tàn úa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen
41. Một năm mới tốt đẹp
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
I. NĂM MỚI VỚI LỜI CHÚA
Bài đọc 1: St 1,14-18.
Thiên Chúa là Alpha và Oméga, nghĩa là Khởi Nguyên và Cùng Tận của vũ trụ muôn loài. Ngài sáng tạo thời gian và không gian, chính Ngài ấn định năm tháng ngày giờ và đặt ra các chu kỳ đại lễ.
Một năm mới bắt đầu là một khoảng thời gian nữa được ban cho chúng ta. Có thời gian là một ơn rất quí. Chúng ta có thời giờ để làm ăn sinh sống, nhưng cũng có thời giờ để chuẩn bị cho đời sống vĩnh cửu.
Bài đọc 2: Pl 4,4-8
Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Không phải ngẫu nhiên mà thánh Phaolô lại thêm chữ niềm vui của Chúa, vì niềm vui của Chúa thì khác với niềm vui của người ta. Niềm vui của người ta thì tùy ở nhiều yếu tố vật chất bên ngoài; còn niềm vui của Chúa thì nhẹ nhàng thanh thoát và tùy thuộc những điều kiện bên trong nhiều hơn như: tính hiền hòa, lòng quảng đại và tinh thần cầu nguyện. Có được những điều kiện đó là chúng ta có thể vui luôn trong Chúa.
Bài Tin mừng: Mt 6,25-34
Bài Tin mừng mời gọi chúng ta an tâm bước vào năm mới với niềm tin tưởng phó thác cho Chúa. Chúng ta phải biết cái gì đáng lo, đó là sống công chính, lo xây dựng Nước Trời. Xây dựng Nước Trời, có nghĩa là thực thi công bình bác ái, kiến tạo hòa bình và tạo dựng hạnh phúc cho mọi người. Có được Nước Trời như thế, thì còn gì phải lo lắng cho vấn đề cơm ăn áo mặc nữa: tất cả những cái mà chúng ta cho là thiết yếu nhất, chẳng qua chỉ là những cái được “thêm cho” mà thôi.
II. XUÂN ĐẾN XUÂN ĐI, XUÂN BẤT TẬN
Người ta thường nói:
Xuân khứ xuân lai, xuân bất tận,
Nhân hòa nhân thỉnh, nhân trường sinh.
Xuân đến xuân lại đi và sang năm xuân sẽ tới vì quả đất tròn quay mãi không ngừng. Dù có ai yêu hay ghét xuân thì xuân vẫn đến, không phụ thuộc ai dù già trẻ, lớn bé, giầu nghèo, trí thức hay dốt nát, xuân đến một cách nhẹ nhàng, đều đặn.
Chúng ta hãy trở lại với sách Sáng thế. Sách cho biết Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật và Ngài đã tách ánh sáng ra khỏi bóng tối để làm ra ngày và đêm phân biệt. Ngày và đêm thay đổi nhau để làm nên năm tháng. Ngày đêm thay đổi nhau 365 lần làm nên một năm (x. St 1,14-18)
Sau 365 ngày lại có một năm khác mà ta gọi là “Năm Mới” mà năm nay là năm Tân Mão. Ai trong chúng ta cũng gọi năm nay là năm mới, nhưng có thật là mới không vì có người cho rằng chả có gì là mới cả, năm nào cũng vậy thôi và năm nay có thể cũ hơn năm ngoái.
Trước đây, thi sĩ Trần Tế Xương có cái nhìn khác không giống như mọi người, khi ông nói:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Thực ra, nếu xét theo xuân cảnh vật thì càng ngày càng cũ đi như 70 tuổi thì phải cũ đi hơn là 20 tuổi. Nhưng nếu xét theo xuân trong tâm hồn, tức là xuân của ơn thánh thì có thể gọi là năm mới.
Francis Bacon đã có cái nhìn sâu sắc về vấn đề này khi ông nói: “Con người thời nay đã già cỗi, cần phải trở lại “thời thanh xuân” của con người nguyên thủy”.
Đúng vậy, con người trẻ trung ngày xưa đã bị vật dục làm hư hỏng đã trở nên già khọm. Phải làm sao canh tân con người già cả của chúng ta để trở nên người trẻ trung tươi mát vì nó phải trở nên trẻ thơ mới được vào Nước Trời (x. Mt 19,13-15).
III. NGƯỜI TA CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Chúng ta cứ coi năm Tân Mão này là Năm Mới đi và cùng mọi người chúc nhau. Vậy người ta thường chúc nhau những gì? Người ta thường chúc nhau một : Năm Mới Tốt Đẹp, Bonne année hay Happy new year. Câu chúc cổ điển nhất của xã hội chúng ta vừa súc tích vừa vắn gọn nhất bằng 3 chữ là: PHÚC, LỘC, THỌ.
Cũng có người chúc nhau nhiều hơn bằng 5 chữ: PHÚ, QUÍ, THỌ, KHANG, NINH. Nhưng có lẽ chữ Phúc luôn đứng hàng đầu vì nếu được tất cả mà thiếu Hạnh phúc thì cuộc đời trở nên vô nghĩa. Chúng ta hãy xem thi sĩ Trần tế Xương nói chuyện với chúng ta về lời chúc Năm Mới như thế nào:
1. Chúc cho sống lâu.
Có người cho rằng năm mới tốt đẹp là ở tại chỗ sống thật lâu thật bền cho đến lúc đầu phủ tuyết, da đồi mồi. Thi sĩ nói:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Nhưng sống lâu có hạnh phúc không? Tại sao người ta thường nói:”đa thọ, đa nhục” hoặc thành ngữ có câu:”Trẻ khôn qua, già lú lại”. Đã “lú lại” sẽ bị con trẻ chê bai! Đã “lú lại” tất không thể trốn đâu được cái nhục. Không thiếu gì các ông già bà cả bị bỏ rơi, đang sống tủi sống nhục trong tuổi già. Ít có người già nào nói: mình được hạnh phúc trong tuổi già.
Ngắm nhìn ngày tháng dần trôi, người già mới thấm thía câu ca dao:
Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa.
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa… một mình.
Trước cảnh tượng phũ phàng ấy, người ta tự nhiên cảm thấy ù tai chóng mặt. Để cứu vãn tình thế, tranh thủ thời gian, họ đâm ra ăn chơi phóng đãng:
Ai ơi, chơi lấy kẻo già,
Măng mọc có lứa, người ta có thì.
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già xống xộc nó thì theo sau.
2. Chúc cho giầu có.
Có người cho rằng: năm mới tốt đẹp là ở chỗ làm ăn phát tài phát lộc, tiền chảy vào túi như nước như non. Người ta chúc nhau:”Nhất bản vạn lợi” hay “Một vốn bốn lời”:
Nó lại chúc nhau cái sự giầu
Trăm ngàn vạn mớ để vào đâu?
Người ta chúc nhau giầu có, nhưng thử hỏi giầu có đến đâu là đã thỏa mãn? Chắc chẳng bao giờ ngươi ta thỏa mãn với cái lòng tham vô đáy, nên chẳng bao giờ người ta đạt được sự giầu có như lòng mong ước?. Người ta vẫn khát khao sự giầu có mà không được.
Nhiều người đã tôn vinh tiền của lên hàng thần thánh: thần MAMMON (thần Tiền Của). Vị thần này rất quyền năng, trở thành ông chủ khắc nghiệt tuyệt đối chi phối con người họ, bắt họ làm nô lệ cho mình, và có ai thấy mình được hạnh phúc khi phải sống kiếp nô lệ không?
Ngày 06/06/1976 ông Paul Getty, một người giầu có, đã qua đời. thọ 83 tuổi. Ông để lại khoảng 4 tỉ Mỹ kim. Sau 5 lần ly dị, trong một cuộc phỏng vấn, ông đã tuyên bố:”Tôi đã mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ mình không thành công. Tôi sợ không thể tạo được hạnh phúc hôn nhân ấy”.
Một lần khác, ông đã phải thú nhận với một phóng viên là ông đã không đạt được hạnh phúc gia đình.
Một lần khác nữa, ông Paul Getty xác nhận: tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Hơn nữa, ông còn tin rằng tiền bạc có bà con với nỗi bất hạnh.
3. Chúc cho vinh sang
Có người cho rằng một năm tốt đẹp là được mọi người ca tụng, tiếng tăm được vang khắp bốn bể, được thiên hạ nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa:
Nó lại chúc nhau cái sự sang
Đứa thì buôn tước, đứa buôn quan.
Danh tiếng vang lừng bốn bể có làm cho người ta được hạnh phúc không? Đây là một chứng từ mà người ta đã biết: ông Anatole France là một người giầu có, được mọi người hoan nghênh, được nếm đủ các thứ khoái lạc trên đời, đã phải thú nhận rằng: “Nếu anh có thể đọc được trong tâm hồn tôi, anh sẽ rùng mình. Trong trời đất không có vật nào vô phúc bằng tôi: người ta tưởng tôi sống hạnh phúc. Thật ra, không bao giờ được sung sướng cả, dầu trong một giờ, dẫu trong một ngày”.
Còn một chứng từ khác của một người còn sang hơn quan nữa, tiếng tăm lừng lẫy khắp muôn phương, được thiên hạ học từ lời ăn tiếng nói, được theo dõi, từ chân tơ kẽ tóc như cô đào minh tinh màn bạc Brigitte Bardot mà cũng không thấy được hạnh phúc.
– ?
– Mộng tôi bây giờ không phải là thủ vai tài tử quan trọng. Mộng tôi bây giờ là làm thế nào có đủ can đảm rút lui khỏi màn bạc.
– Thế thì tất cả những công danh của cô xưa rầy là mây, là khói hay sao?
– Phải! Brigitte Bardot đáp lại những câu hỏi bồi hồi của một ký giả báo Văn Đàn. Phải! Tất cả là mây khói, là hư vô.
IV. CHÚNG TA NÊN CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Nếu chúc cho ông bà anh chị em được sống lâu, giầu có, được vinh sang… thì thấy không ổn vì tất cả những cái đó chưa làm nên hạnh phúc vì nó vẫn là mây khói. Xin được lấy lại câu chúc của thi sĩ Trần Tế Xương một lần nữa:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Câu chúc của thi sĩ “Sao được cho ra cái giống người” xem ra có vẻ hài hước và mang tính cách châm biếm. Nhưng cái nhìn của ông về con người cũng giống như cái nhìn của nhà hiền triết Diogène ngày xưa. Đang giữa trưa ông cầm đèn ra giữa thành phố Athènes để đi tìm cài gì đó. Người ta hỏi tìm gì. Ông trả lời: đi tìm người! Thiếu gì người ở giữa thành phố mà phải đi tìm? Nhưng ông cho rằng những đám người này chưa phải là người đúng nghĩa, ông đi tìm một con người chính danh, con người xứng đáng “linh ư vạn vật” kia!
Năm mới chúng ta chúc nhau hãy trở nên con người đúng nghĩa, phải “linh ư vạn vật ” mới được.
Đối với người Việt nam Công giáo chúng ta, thời gian được ban cho chúng ta trong Năm mới này là để chúng ta “làm người” và “làm con Chúa”. Chúng ta không tự nhiên là người hay là con Chúa được, có là hay không còn tùy thuộc ở chỗ chúng ta có “làm” và có “làm” được hay không. Hạt giống không tự nhiên có thể nở thành cây và sinh hoa kết quả: nó cần phải được gieo cấy trong ruộng trong vườn, và cần phải có thời gian để phát triển. Con người chúng ta cũng vậy, chúng ta là những cái “nhân” được gieo cấy trong ruộng đồng là thế gian này và thời gian được ban cho chúng ta làm nên đời mình bằng cách cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa: ân sủng này cũng ví như ánh sáng và sương mưa cần thiết cho sự sinh trưởng của cây.
Chúng ta sẽ trở nên người con có Thiên Chúa là Cha, để chúng ta có thể thưa với Chúa là “Abba, Cha ơi” (Mc 14,36), và chúng ta có mọi người là anh chị em, và đây là một vinh dự lớn lao đối với con người hèn mọn chúng ta, như người ta nói:
Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Cha chúng ta điều khiển muôn loài muôn vật, Ngài nuôi chim trời cá biển, săn sóc từng cây cỏ nơi đồng nội. Ngài lại càng săn sóc chúng ta hơn nhiều vì chúng ta là con của Ngài. Vì thế, chúng ta đừng quá bồn chồn lo lắng về đời sống vật chất cho có cơm ăn áo mặc, hãy tin vào Chúa quan phòng.
Có một điều khác biệt nơi người tin và người không tin là người tin thì một đàng ra sức xây dựng và phát triển những giá trị trần gian (trong đó có sự tích lũy tiền của), một đàng vẫn hướng mắt, hướng lòng, hướng lời cầu về với Thiên Chúa là Cha, là Nguồn Mạch mọi sự giầu có và hạnh phúc.
Nhân dịp Năm Mới, xin chúc ông bà anh chị em một năm mới tốt đẹp và một năm mới tốt đẹp như lời Chúa dạy:”Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và ăn ở công chính như Người đòi hỏi; còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho”(Mt (Mt 6,23). Còn ăn ở công chính đây là sống Tám mối Phúc thật như Chúa đã dạy trong bài giảng trên núi (x. Mt 5,3-12).
42. Mùa Xuân là Mùa của Hy Vọng
(Lm Giuse Nguyễn Văn Thành)
Mùa xuân lại về trên quê hương đất nước chúng ta. Người người náo nức. Chúng ta thường chúc nhau những lời tốt đẹp nhất.
Theo qui luật của Tạo hóa, thời tiết thay đổi nối tiếp nhau theo một chu kỳ: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa nào mang tính độc đáo của mùa ấy, nhưng Xuân vẫn được gọi là mùa của sự đâm chồi nảy lộc, mùa hoa đua nở, cảnh khoe sắc, bởi thời tiết ấm áp hơn. Phong cảnh xinh tươi báo hiệu sức sống dồi dào. Xuân cũng báo hiệu nhiều niềm vui, nhất là các bạn trẻ.
Xuân nào xuân tuổi nhỏ
Trong trắng ấy xuân ơi.
Hầu như tất cả các nước trên thế giới đón mừng năm mới, vào ngày mồng một của tháng đầu năm. Riêng Việt Nam và những nước Châu Á đón Tết theo giờ, ngày của lịch Can Chi năm đó. Lịch Can Chi là Nhân lịch. Sự vận động của thời gian tương ứng với các vị trí không gian trong vũ trụ được thể hiện qua năm, tháng, ngày, giờ. Tết Nguyên Đán là quan trọng nhất đối với chúng ta.
Tết Nguyên Đán được tổ chức rất long trọng cả về tinh thần lẫn vật chất. Nó đã đi vào thói quen của người Việt Nam và đã trở thành nét đẹp văn hoá.
Ngay cả khi nền kinh tế của chúng ta vẫn còn eo hẹp thì ngày Tết vẫn được coi là “no ba ngày Tết, đói ba tháng hè”. Cho dù thiếu thốn đến đâu, người ta cũng sẵn sàng làm Tết trong ba ngày cho thịnh soạn. Vì thế, gia đình nào cũng phải mua sắm ngũ quả, gói mứt, chai rượu, trước hết để thắp hương kính tổ tiên, sau để tết ông bà, cha mẹ…. Ngày xưa, nhiều người còn quan niệm những thứ làm nên ngày Tết:
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”.
Người ta vẫn coi ngày Tết là ngày rất thiêng liêng, nên trong gia đình có điều gì khúc mắc thì cha mẹ, con cái hay vợ chồng sẽ xin lỗi nhau để hi vọng một năm mới sẽ có nhiều sự may mắn.
Đối với người Công Giáo, chúng ta hãy vui và đón Tết với tất cả tâm tình của người con Đất Việt, cùng đồng hành với dân tộc. Những hành vi thảo hiếu, tình bằng hữu cũng như tình làng nghĩa xóm cần phải được giữ cho trọn. Bởi Chúa chính là chủ của mùa xuân. Ngài đến ban sức sống dồi dào cho muôn loài thụ tạo. Mọi hoạt động của vũ trụ vạn vật đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cho nên, Ngài là hi vọng của thế giới.
“Bốn mùa Chúa đổ hồng ân,
Ngài cho mầu mỡ ngập tràn lối đi”.(Tv 64,12)
Vì thế, nó rất hợp với ý Chúa và Giáo Hội kêu mời. Đây là thời gian thuận tiện để chúng ta thi hành những công việc của người con cái Chúa. Chúng ta làm chứng cho Chúa trước mặt người khác bằng đời sống vui Tết nhưng không quên bổn phận thiêng liêng và chơi Tết mà không sa vào những tệ nạn xã hội.
Hơn nữa, với người Kitô hữu, Tết cổ truyền còn được gọi là dịp biết ơn và báo hiếu, mùa của đổi mới và hi vọng nữa.
Chúng ta cầu nguyện cho hoà bình trên quê hương đất nước.
Chúng ta quan tâm đến những người kém may mắn để họ cũng được hưởng một cái Tết vui vẻ, khoẻ mạnh và tràn đầy hồng ân Chúa.
43. SUY NIỆM MỒNG MỘT TẾT Mt 6,25-34
(Lm Thaddaeus. M. Lê Văn Ý)
Một mùa xuân nữa lại về trên quê hương Việt Nam. Nói đến mùa xuân, Tết cổ truyền ai nấy cũng đều háo hức vì đó là ngày lễ hội truyền thống của dân tộc. Vào những ngày cuối năm cũ, người ta lo trang hoàng nhà cửa, sắm sửa mọi thứ đều mới để vui chơi trong những ngày đầu xuân.
Những ngày Tết là những ngày vui. Người ta vui mừng vì gia đình được đoàn tụ, được sum họp sau những ngày tháng làm lụng vất vả: con trẻ vui vì được lì xì, người già vui vì được mừng tuổi và chúc thọ. Bao người đi xa, dù Bắc hay Nam, dù tận phương trời Tây cũng tìm về với gia đình, dòng họ để chung vui.
Ngày đầu năm còn là dịp để người ta xích lại gần nhau hơn, quên đi những điều không may trong năm cũ, đến với nhau và chúc mừng năm mới cho nhau: chúc cho nhau sống lâu trăm tuổi, an khang thịnh vượng và hy vọng mọi việc sẽ được an lành mỹ mãn.
Theo truyền thống của người công giáo Việt Nam, ngày đầu năm mới ngày cầu xin Chúa ban bình an. Ai ai cũng mong được bình yên trong tình yêu quan phòng của Chúa. Khởi đầu năm mới, mọi người đều cảm thấy cần khẩn cầu cho những ngày sắp tới được bình yên thịnh vượng. Đang khi đó ai ai cũng tự hiểu tương lai không ai nắm chắc được điều gì. Người Việt Nam cho rằng “Vạn sự khởi đầu nan”. Khởi đầu năm mới, bên cạnh những niềm vui sum họp, nhưng cũng cảm thấy nỗi lo lắng dâng tràn cho một năm mới đang đến. Vì thế, những người sống niềm tin, chạy đến với Ông Trời, người công giáo tìm đến Chúa để cầu xin được bình an, mong sao được Chúa phù hộ chở che, như trong thánh vịnh 121 đã nói:
“Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi,
Ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?
Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa
Là Đấng dựng nên cả đất trời,
Xin Đấng gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước,
Xin Người chớ ngủ quên.
Đấng gìn giữ Israel, lẽ chợp mắt ngủ quên cho đành!
Chính Chúa là Đấng gìn giữ bạn,
Chính Chúa là Đấng vẫn chở che,
Người luôn luôn ở gần kề.
Ngày sáu khắc, vầng ô không tác họa,
Đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại.
Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh,
Gìn giữ cho sinh mệnh an toàn.
Chúa gìn giữ bạn lúc ra vào lui tới,
Từ giờ đây cho mãi muôn đời”.
Đông qua, xuân lại đến. Dù muốn hay không, qui luật vận hành của đất trời cứ thế mà xoay chuyển, và đó là điều người ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng làm ra và nắm giữ mọi điều, thời gian là của Chúa ban cho con người trên mặt đất này.
Thiên Chúa là Chúa của mùa xuân, là Chúa của trời đất vạn vật. Chính Người là Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật ngay từ thuở ban đầu, “từ những vật sáng trên vòm trời, đến những vầng sáng lớn và các tinh tú” (St 1,14-18). Mùa xuân đầu tiên ngập tràn hạnh phúc được Thiên Chúa tạo lập trong vườn Địa Đàng năm xưa chính là mùa xuân tình yêu dành cho Ađam - Evà. Tuy nhiên, hai ông bà đã để mùa xuân yêu thương ấy kết thúc trong sự sa ngã nuối tiếc.
Ngày Tân Niên, chúng ta đến với Thiên Chúa để mừng tuổi Chúa, đến với Đấng làm chủ thời gian để xin Người chúc phúc cho chúng ta:
“Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,
xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con,
cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa,
và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài”. (Tv 66,2-3).
Điều mà ai cũng ao ước trong những ngày đầu xuân đó là sự bình an. Một khi có sự bình an thực sự, con người sẽ có được những thứ khác. Một khi có sự bình an thực sự, chúng ta sẽ luôn vui mừng trong Chúa: “Bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô” (Pl 4,7).
Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu trong ngày Tân Niên, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta một phương thế để có được sự bình an, đó là tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, qua hai cách nói “đừng lo” và “hãy lo”:
"Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?... Tiên vàn, anh em hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,25.33).
Không lo sao được vì với những người có dư thừa vật chất thì không có vấn đề. Nhưng đối với những người mà mỗi ngày phải lo tìm kế sinh nhai cho đủ ăn đủ mặc, sống lây lất qua ngày, chứ chưa nói đến làm giàu thì rõ ràng đây lại là một vấn đề to lớn. Giữa thế giới tục hóa của thời đại cơm áo gạo tiền này, vấn đề vật chất tiền của đã chiếm chỗ rộng lớn trong tâm trí. Vì thế, nhiều người mãi mê tự mình đi tìm kiếm kinh tế, tiền tài để tiêu dùng và hưởng thụ.
Tuy nhiên, điều Chúa muốn nơi mỗi người là: chúng ta không được phép ỷ lại vào sự quan phòng của Chúa một cách quá đáng, nhưng cũng đừng lo lắng thái quá về tiền của, cái ăn cái mặc cho ngày mai, như kiểu của người không có niềm tin: Chúng ta sẽ ra sao, sẽ ăn gì, uống gì, mặc gì? Kinh thánh khuyên bảo chúng ta sống tín thác vào tình yêu của Chúa:
“Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện
Thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn.
Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn,
Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng.
Hãy ký thác đường đời cho Chúa,
Chính người sẽ ra tay” (Tv 37; 4 – 5)
Hạnh phúc đích thực chỉ có cho những ai biết tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước tiên. Chúa không muốn con cái của Chúa lo lắng quá nhiều, Chúa chỉ muốn chúng ta tin cậy vào tình yêu của Người, bởi lẽ “ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34b). Còn sự công chính của Thiên Chúa được tỏ lộ qua lời giảng dạy của Người (x.Mt 5,6.10.20).
Cùng đích của đời người không hệ tại ở vật chất, tiền bạc của cải, quyền lực,... mà là cuộc sống mai hậu. Chúa biết chúng ta cần gì muốn gì và chính Người sẽ bảo đảm cuộc sống cho chúng ta. Vì thế, chúng ta “hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37,5).
Trong giờ phút linh thiêng của ngày đầu năm, thiết nghĩ tâm tình của người Kitô hữu trong Thánh Lễ Tân Niên phải là tâm tình phó thác, trông cậy cầu xin những ơn lành từ lòng thương xót của Chúa cùng với tâm tình tạ ơn. Đặc biệt chúng ta mừng đón tết trong khung cảnh của Năm thánh giáo phận Qui Nhơn mừng kỷ niệm bốn trăm năm loan báo Tin Mừng, càng làm cho mỗi người suy gẫm về sự quan phòng, yêu thương của Chúa đã ban xuống cho chúng ta biết bao hồng ân. Một năm đã qua với biết bao biến cố vui buồn trong cuộc sống, chúng ta đều cảm tạ Chúa vì muôn phúc lành mà Chúa đã thương ban. Tình yêu thương mà chúng ta có thể cảm nghiệm là ngay trong giây phút này đây mình vẫn đang sống, vẫn đang hiện diện, để được cùng sum họp với gia đình, với cộng đoàn giáo xứ. Đồng tiền mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày đầu xuân tượng trưng cho lòng thành tri ân cảm tạ của chúng ta.
Đồng thời mỗi người chúng ta cũng xin lỗi Chúa vì những do dự, yếu đuối, thiếu sót, vì những phận sự mà mình chưa chu toàn với trách nhiệm làm cha mẹ, vợ chồng, con cái,... trong gia đình và bổn phận truyền giáo của người Kitô hữu.
Và sau cùng, bước sang Năm Mới, ai trong chúng ta cũng mơ ước cho mình và cho người khác mọi điều may mắn tốt đẹp. Chúng ta hy vọng một năm Mậu Tuất sẽ đầy thuận lợi hơn năm Đinh Dậu đã qua với nhiều ân sủng Chúa. Việc hái lộc lời Chúa trong ngày đầu năm sẽ giúp chúng ta suy niệm và thực hành trong một năm mới dưới sự soi sáng và nâng đỡ của Chúa quan phòng, giúp ta luôn trông cậy vào Chúa, vượt qua lo lắng thái quá cho ngày mai. “Hãy vui lên anh em!” (Pl 4,4), chính cái vui này giúp chúng ta sống đời phó thác “ngày mai, cứ để ngày mai lo” (Mt 6,34) để sống tròn đầy giây phút ân huệ hiện tại.
Chúng ta cùng cầu chúc cho nhau một mùa xuân nhiều PHÚC LỘC THỌ, một mùa xuân đầy AN BÌNH VUI TƯƠI HY VỌNG, một mùa xuân thêm lòng TIN CẬY MẾN. “Càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và thêm ân nghĩa với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).
44. TIN VÀO TÌNH YÊU QUAN PHÒNG CỦA CHÚA Mt 6,25-34
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Một trong những thực hành mê tín của dân ngoại đang ảnh hưởng đến đời sống của người tín hữu, đó là sự tin kiêng mù quáng và phong thủy sai lầm. Những người này, mặc dù vẫn tin Chúa, nhưng đồng thời họ lại tin kiêng vào những lời lẽ của ông thày và những thói quen của người ngoại. Ví dụ như chọn người xông nhà, chọn ngày khởi công, khai trương, xây nhà phải đếm bậc, đếm đòn tay. Người dân ngoại, vì không biết Chúa, họ cho rằng sự may mắn trong năm là do ông thầy hướng dẫn; sự thành công của công việc là do chọn đúng ngày, gia đình hạnh phúc là do phong thủy.
Người Công giáo khi tin và thực hành như thế, có nghĩa là chối bỏ quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa, và cho rằng sự thành công hay thất bại, khỏe manh hay đau ốm, may mắn hay bắt hạnh, là do tài khéo của bản thân hoặc do một sức mạnh nào đó không phải là Thiên Chúa. Khi cố tình tin và thực hành như vậy, chúng ta xúc phạm trầm trọng đến Thiên Chúa và đức tin của mình.
Trong giây phút đầu năm hôm nay, chúng ta đến đây để dâng lên Thiên Chúa những giây phút đầu xuân, cầu xin Chúa ban cho một năm mới thuận lợi trong công việc, gia đình bằng an, mạnh khỏe, hạnh phúc, con cháu ngoan hiền. Trong ngày đầu năm này, Lời Chúa mời gọi chúng ta tái khăng định niềm tin của mình vào quyền năng, tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa.
Bài đọc một cho chúng ta thấy: Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ mọi vật mọi loài, không có một thần linh nào khác ngoại trừ Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa dựng nên vũ trụ trời đất, Ngài dùng lời quyền năng, chỉ phán: hãy có, mọi vật, mọi loài liền có. Ngài là Đấng quan phòng, sắp xếp thời gian, cho mặt trời soi sáng ban ngày và mặt trăng soi đường ban đêm; Ngài chi phối hướng dẫn vũ trụ và điều khiển cuộc đời của từng con người. Vì thế, tất cả những việc cúng bái tin kiêng vào các thần linh theo kiểu của dân ngoại đều là phản bội lại niềm tin vào Thiên Chúa tạo dựng.
Thánh Kinh không chỉ khẳng định cho chúng ta về một Thiên Chúa tạo dựng quyền năng, nhưng trước hết, và trên hết, Thiên Chúa thực sự là một người Cha giàu lòng thương xót. Thiên Chúa yêu thương các tạo vật Ngài đã dựng nên, nhưng Ngài vẫn dành cho con người một tình yêu thương đặc biệt. Vì yêu thương cách đặc biệt, nên đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Thiên Chúa giống như Thiên Chúa. Con người được nâng cao và trao ban một phẩm giá đặc biệt trên tất cả mọi loài. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến độ, Ngài trở nên bạn hữu với con người; mỗi buổi chiều, Thiên Chúa ngự xuống đi dạo với con người, trò chuyện với con người.
Tình thương của Thiên Chúa dành cho con người thật cao cả lớn lao, Ngài đã chấp nhận cho Con của Ngài là Chúa Giêsu xuống thế làm người, để ở với con người. Chúa Giêsu là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài đến thế gian để nói cho mọi người biết rằng: Con người được Chúa yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã quả quyết về tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Ngài nói cho mọi người biết rằng, Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn muốn và làm điều tốt đẹp cho con người. Vì thế, con người đừng cậy dựa vào sức lực khả năng của mình, nhưng hãy tin tưởng, cậy dựa và phó thác cuộc sống mình cho Thiên Chúa.
Đừng lo cho mạng sống lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho thân xác lầy gì mà mặc…hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, vậy mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Căn dặn chúng ta như thế, Chúa Giêsu không khuyến khích chúng ta lười biếng, thụ động, cũng không ù lỳ, lười suy nghĩ tính toán. Nhưng nói như thế, để nhắc chúng ta nhớ rằng: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Chúng ta tính toán làm ăn, nhưng vẫn phải biết trông cậy và cầu xin cùng Thiên Chúa và phó thác công việc cùng toan tính của ta cho Chúa. Vì cho dù chúng ta lên kế hoạc, đầu tư làm ăn, nếu Chúa không trợ giúp, không ban, chúng ta cũng không thể thành công được.
Cũng vậy, cơm ăn áo mặc hằng ngày, chúng ta vẫn phải vất vả lào động để tìm kiếm, nhưng đừng vì quá lo chuyện ngày mai ăn gì mặc gì, mà quên Thiên Chúa là Cha yêu thương, Ngài không ngừng chăm sóc cho chúng ta. Vì thế, đừng bao giờ mất niềm tin vào Thiên Chúa, cho dù cuốc sống có muôn vàn khó khăn, Thiên Chúa vẫn tìm cho ta một giải pháp tốt nhất. Do đó, hãy lao động làm việc trong tư cách là con của Thiên Chúa, làm với lòng tin tưởng và yêu mến. Đừng biến mình trở nên như một kẻ nô lệ, lệ thuộc vào công việc và lệ thuộc vào miếng cơm manh áo, đến độ, làm giảm phẩm giá làm người làm con Chúa. Vì là con của Thiên Chúa, nên dù có gian lao vất và, chúng ta vẫn phải ưu tiên tìm kiếm Thiên Chúa và hạnh phúc đời đời cho linh hồn của ta và của người thân trong gia đình. Vì thế, Chúa căn dặn chúng ta: Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác Người sẽ ban cho.
Một khi đã cảm nhận được tình Chúa yêu thương, quan phòng, chăm sóc cho từng người chúng ta, thánh Phaolô mời gọi: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi. Điều đó có nghĩa là, mỗi chúng ta đón nhận được Tin Mừng yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta không thể để mình sống trong u bồn sầu não, cũng không bi quan chán nản, nhưng trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn vui. Vui, vì dù trong đau khổ, khó khăn nhất, chúng ta vẫn thấy Chúa hiện diện bên cạnh nâng đỡ; vui vì biết mình luôn được Chúa yêu thương, Chúa chia sẻ và nâng đỡ.
Thánh Phaolô căn dặn: Trong mọi hoàn cảnh, anh em hãy tạ ơn Thiên Chúa và giãi bày trước Thiên Chúa mọi điều anh em khẩn nguyện. Vì vậy, trong giờ phút đầu năm quy tụ trong nhà Chúa đây, nhìn lại một năm qua, không phải tất cả mọi người đều thành công thành đạt, nhưng tất cả cùng chung một lời để tạ ơn Thiên Chúa. Tạ ơn Chúa vì món quà thời gian, năm mới, Chúa ban tặng; tạ ơn vì bao thăng trầm cũng đã trôi qua, bao khó khăn phía trước, xin Chúa giải gỡ; tạ ơn vì Chúa luôn quan phòng chở che bênh đỡ.
Ngày nay, nhiều người không hề biết phong thủy là gì nhưng vẫn tin kiêng một cách mù quáng vào phong thủy và nhiều thứ khác nữa. Họ tin như thể rằng, mọi sự họ đang có, đang hưởng là do phong thủy, do tin kiêng, do hên, hơn là do Thiên Chúa. Điều này đang là một cám dỗ và là nguy cơ phá vỡ đức tin của chúng ta.
Phong thủy theo nghĩa của người Hoa, có nghĩa là gió và nước. Hợp phong thủy, là sự hòa hợp của đất trời, của nắng của gió, sự hòa hợp của thiên nhiên. Khi con người biết tôn trọng thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên, con người sẽ mạnh khỏe. Phong thủy có nghĩa như thế.
Theo cái nhìn của Kitô giáo, khi con người sống hòa hợp với Thiên Chúa, với tha nhân và với thiên nhiên vũ trụ, con người sẽ đạt được hạnh phúc. Tỗi lỗi và ma quỷ, chính là kẻ gây sự bất hòa giữa con người và Thiên Chúa, cũng như với tha nhân và vũ trụ. Vì thế, chỉ khi loại trừ tội lỗi, ma quỷ trong tâm hồn, chúng loại trừ được nguyên nhân gây xáo trộn bất hòa.
Ngày tết, mọi người đều muốn có một bầu khí hòa hợp vui tươi, quảng đại, dễ dàng bỏ qua cho nhau những xích mích. Vì vậy, hãy tận dụng những ngày tết này, để giao hòa với Thiên Chúa, đem lại cho gia đình nhiều niềm vui tiếng cười. Hãy chủ động bước đến thăm nhau và thật lòng mong muốn, cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp. Quan trọng hơn, là hãy làm những điều tốt đẹp cho gia đình, cho nhau, không chỉ trong ngày tết, mà kéo dài tâm tình hòa thuận vui tươi của ngày tết trong suốt cả năm mới này.
Cầu chúc cho mọi người năm mới Đinh Dậu sống hòa hợp vui tươi, luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh vui buồn, xin Chúa giúp ta nhận ra sự hiện diện đồng hành của Chúa. Amen.
45. LỄ MINH NIÊN--TIN VÀO TÌNH YÊU QUAN PHÒNG CỦA CHÚA Mt 6,25-34
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Kính thưa quý OBACE, có lẽ trong chúng ta ai cũng cảm nhận được sự thay đổi của đất trời khi bước vào năm mới. Vẫn là ánh nắng ấy, ngọn gió ấy, nhưng hôm nay dường như nó mang một hương vị khác hơn của ngày hôm qua. Ngày hôm nay đất trời chuyển mình từ mùa đông qua mùa xuân, vũ trụ dường như khoác trên mình một bộ áo mới, cây cối đâm chồi nảy lộc, ngàn hoa khoe sắc. Sự chuyển vận của đất trời cũng làm cho tâm hồn con người thêm vui tươi, phấn khởi và hy vọng. Mọi người đều mong chờ năm mới đến sẽ đem theo sự đổi mới không chỉ của vũ trụ, mà còn là sự đổi mới của con người, của gia đình và của xã hội. Chính vì sự khát khao đổi mới, mà chúng ta dành những giây phút đầu tiên của năm mới để đến với Thiên Chúa, bày tỏ lòng biết ơn và cầu xin cho một năm mới an lành.
Các bài đọc của ngày đầu năm hôm nay gợi lên nhiều điểm giáo lý quan trọng: Bài đọc một nhắc nhớ rằng, tất cả vũ trụ và trật tự lạ lùng trong đó, cùng muôn vật muôn loài là do Thiên Chúa dựng nên. Chính Chúa làm chủ thời gian không gian, và cả mọi vật mọi loài. Sách Sáng Thế chúng ta vừa nghe giới thiệu cho chúng ta một Thiên Chúa quyền năng, tạo dưng nên trời đất và tinh tú chí bằng một mệnh lệnh: Hãy có … thì mọi sư liền có. Điều này diễn tả rằng Thiên Chúa là Đấng quyền năng, làm chủ vũ trụ, các thần linh của dân ngoại không thể sánh ví được với Thiên Chúa. Chính Ngài làm chủ thời gian, phân chia ngày đêm và bốn mùa thay đổi nối tiếp nhau. Thánh kinh khẳng định: Thiên Chúa thấy mọi sự là tốt đẹp. Khẳng định như thế để cho chúng ta xác tín một cách chắc chắn rằng Thiên Chúa luôn muốn điều tốt đẹp cho con người và làm mọi điều tốt đẹp cho chúng ta. Vì thế con người phải đặt trọn niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Khẳng định như vậy, để loại trừ những tập tục của dân ngoại, tin kiêng những điều vớ vẩn, coi ngày coi giờ, hoặc là gán cho vũ trụ thiên nhiên những sức mạnh như thần thánh.
Ngày nay, nhiều người mang danh là Kitô hữu, nhưng họ không tin vào sự quan phòng xếp đặt của Thiên Chúa. Họ không tin Thiên Chúa luôn làm điều tốt cho con người, nên khi gặp khó khăn thử thách họ muốn tìm giải pháp của người đời, tìm đến sức mạnh của ma quỷ qua việc bói toán bùa ngải. Nhiều người không tin Thiên Chúa là Đấng làm chủ thời gian và không gian, nên mỗi khi làm việc gì họ tìm thầy coi ngày coi giờ, coi hướng coi tuổi, coi ngày khai trương… thay vì tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Những việc làm ấy ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống đạo, thể hiện sự yếu kém trong đức tin của người tín hữu.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy mỗi người chúng ta tin tưởng hoàn toàn vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa: Các con chớ lo lắng sẽ ăn gì uống gì, lấy gì mà mặc? Vì chưng dân ngoại cũng tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần những điều đó. Tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, không có nghĩa là lười biếng ỷ nại và không làm việc gì, nhưng biết tính toán sắp đặt công việc và làm việc với hết khả năng của mình trong sự tin tưởng và biết phó thác kết quả công việc cho Chúa.
Lời Chúa còn dạy ta phải biết xếp đặt thứ tự ưu tiên trong chọn lựa mục tiêu đời mình, biết phân biệt đâu là điều chính yếu, đâu là điều tùy phụ. Dù có bận rộn với cuộc sống thì cũng biết đặt ưu tiên tuyệt đối cho việc tìm kiếm nước Trời và hạnh phúc đời đời. Vì hạnh phúc nước trời mới là mục đích cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta. Không đạt được công danh, con người vẫn có thể sống, nhưng không có Thiên Chúa, và không đạt được Nước Trời đó điều thất bại và bất hạnh lớn nhất. Chúa Giêsu nhấn mạnh: Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các sự khác Thiên Chúa sẽ ban cho. Đừng để sự lo âu sợ hãi gặm nhấm cuộc đời và làm lung lạc đức tin của chúng ta; cũng đừng để đau khổ đè bẹp và làm cho chúng ta mất lòng cậy trông nơi quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Vì trong mọi đau khổ, ơn Chúa vẫ đủ để chúng ta có thể vượt qua những đau khổ ấy.
Thánh Phaolô là người đã trải qua biết bao gian lao thử thách song Ngài vẫn kiên trì trong đức tin, chính từ kinh nghiệm sống đức tin ấy thánh nhân đã khuyên các tin hữu Philipphê: Anh em hãy vui luôn trong Chúa, tôi nhắc lai một lần nữa: anh em hãy vui lên. Niềm vui là một trong những nét đặc trưng của người Kitô hữu, vì chúng ta là những người đang sống tin mừng của Đức Giêsu và đang rao truyền tin mừng ấy, thì cuộc sống của mỗi người phải la cuộc sống ngập tràn niềm vui. Tuy nhiên niềm vui của chúng ta phải là niềm vui khác với những thú vui của trần gian. Thế gian vui những cái vui hời hợt bên ngoài, vui với thỏa mãn dục vọng xác thịt ăn uống say sưa, còn chúng ta vui với một niềm vui sâu xa phát xuất từ trong tâm hồn. Đó là niềm vui được hưởng ơn cứu độ, được làm con cái Chúa, được hưởng hạnh phúc đời đời, được gọi Thiên Chúa là Cha.
Khác với dân ngoại, đời sống của người tín hữu còn phải được thể hiện ra bên ngoài bằng sự ôn hòa nhẫn nại, bằng sự tin tưởng cầu nguyện và không ngừng tạ ơn Thiên Chúa. Điều này có nghĩa rằng dù khi vui cũng như khi buồn, dù thành công hay thất bại chúng ta vẫn được mời gọi nhận ra bàn tay của Thiên Chúa đang điều khiển cuộc đời chúng ta.
Ngày nay vật chất và các lối sống hưởng thụ đang tấn công người tín hữu, đang bào mòn và có nguy cơ làm lung lạc đời sống đức tin của chúng ta. Nhiều người lấy lý do: có thực mới vực được đạo, họ đã đặt của cải vật chất ở trên Thiên Chúa, biến của cải vật chất trở thành thần linh và là mục đích cuộc đời của mình. Nhiều người chỉ còn biết tìm tiền bạc của cải và gạt Thiên Chúa qua một bên. Trong bối cảnh ấy chúng ta được mời gọi tin vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa, Đấng quyền năng quan phòng và an bài mọi điều tốt lành cho con người. Việc làm chứng cho lòng thương xót Chúa, không chỉ là những lời kinh đọc trên môi, mà phải được thể hiện qua việc cử hành mỗi ngày, tức là cùng nhau cử hành thánh lễ và các bí tích. Vì thánh lễ và các bí tích là nơi chúng ta đón nhận lòng thương xót Chúa. Khi ý thức và tích cực siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ mỗi ngày là chúng ta đang đón nhận lòng xót thương và cùng với mọi người chúng ta làm chứng cho tình yêu của Chúa. Người đời sẽ không thể đụng chạm được lòng thương của chúng ta, họ chỉ có thể cảm nhận qua thái độ yêu thương của chúng ta mỗi ngày.
Trong giờ phút đầu năm xum họp nơi đây để tạ ơn Thiên Chúa và để cầu xin ơn phúc lành và sư bình an cho năm mới. Trong Năm Thánh Lòng Thương xót Chúa, xin Chúa đổ tràn lòng thương xót xuống trên chúng ta và biến chúng ta trở thành hiện thân lòng thương xót của Chúa cho anh em. Amen.
46. CHÚC NHAU MỌI ĐIỀU TỐT LÀNH
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Ngày tết của người Việt hoàn toàn với ngày tết dương lịch, và cách đón tết của người Việt cũng khác với các dân tộc khác. Ngày tết của người Việt là ngày của tình thân, ngày của gia đình và là dịp ước nguyện, vì mọi người tin rằng ngày đầu năm khi có nguyện ước tốt đẹp thì cả năm sẽ tốt đẹp. Chính vì thế, ngày tết người ta tránh nói là làm những gì mích lòng nhau, và dù rất quen tai với lời chúc xuân, nhưng khi gặp nhau ngày tết dù quen hay lạ, mọi người luôn cầu chúc cho nhau và cho gia đình những điều chúc tốt đẹp, nào là gia đình hạnh phúc, sức khỏe dồi dào, an khang thịnh vượng…đó là nét văn hóa rất tốt đẹp của người Việt chúng ta.
Tuy nhiên dầu có nhiều lời cầu chúc và những ước mơ tốt đẹp, nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận tình hình cuộc sống kinh tế xã hội được dự báo cho năm mới còn rất nhiều khó khăn đòi mỗi người mỗi gia đình phải nỗ lực hết mình. Cũng vì thế ai cũng tin rằng những điều tốt đẹp chúng ta cầu chúc cho nhau, chỉ là bày tỏ ước nguyện điều tốt lành cho nhau, còn điều quan trọng là tất cả ơn lành là do Trời ban, mà người Công Giáo gọi là ơn do Thiên Chúa ban.
Chúng ta tin rằng chính Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và làm chủ vũ trụ và con người, Ngài còn tiếp tục quan phòng và điều khiển vũ trụ này cho nó xoay vần thời tiết thay đổi nối tiếp nhau hết mùa hạ, đến mùa thu, mùa đông rồi sang xuân để phục vụ cho con người, và tất cả mọi sự tốt lành mà chúng ta cầu chúc cho nhau đều đến từ Thiên Chúa.
Lời Chúa của ngày Mồng Một tết nhắc lại cho chúng ta giáo lý quan trọng: Thiên Chúa là Đấng tao dựng nên vũ trụ, Ngài lại là người Cha yêu thương chúng ta và luôn muốn và làm điều tốt đẹp cho chúng ta là con cái Ngài. Sách Sáng Thế đã nhắc lại “Bài ca Tạo dựng” của Thiên Chúa để khẳng định về một Thiên Chúa quyền năng vượt trội trên tất cả, không có một thần linh nào sánh kịp Ngài, Ngài đã chỉ cần phán một lời: Hãy có, thì mọi vật liền từ không nên có. Thánh Kinh còn cho thấy Thiên Chúa tạo nên vũ trụ này không phải như một vật vô hồn, mà là một tuyệt tác kỳ công của Ngài, và Ngài thấy thế là tốt đẹp. Nó tốt đẹp không chỉ vì nó thỏa mãn cái nhìn của con người, mà Ngài còn thấy tất cả công trình Ngài tạo dựng nó tốt đẹp và mang lại lợi ích cho con người là tạo vật được Chúa yêu thương và nâng niu nhất. Điều quan trọng hơn nữa, Thiên Chúa giống như một nghệ nhân đã trao tặng tác phẩm của mình cho con người để con người làm chủ.
Con người được Thiên Chúa yêu thương, Ngài trao tất cả mọi loài mọi vật và cả vũ trụ này cho con người, và Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục chăm sóc và mời gọi con người tin tưởng vào tình yêu thương quan phòng của Ngài. Hôm nay trước những lo lắng của cuộc sống của con người Chúa Giêsu đã khuyên chúng ta: Đừng lo lắng cho mạng sống: lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho thân thể lấy gì mà mặc, hãy xem chim trời nó không gieo không gặt mà Cha anh em vẫn nuôi nó… Có ai nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được một gang nữa không? Khuyên chúng ta như thế trong ngày đầu năm, không có nghĩa là Chúa muốn chúng ta lười biếng thụ động không suy nghĩ, không tính toán, ngồi chờ sung rụng, nhưng Chúa muốn chúng ta vẫn phải làm việc hết mình hết khả năng, và còn phải làm trong sự tin tưởng và phó thác cho quyền năng và tình thương của Chúa, vì mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên, việc tính toán là của con người còn thành quả là do Chúa ban. Khi làm việc với tinh thần như thế, chúng ta sẽ không trở thành nô lệ cho công việc, nhưng trong tư cách là cộng tác viên của Thiên Chúa, cùng với Thiên Chúa làm cho cuộc sống thêm tốt đẹp hơn.
Cái ăn và cái mặc là những nhu cầu căn bản của cuộc sống, nó khiến cho con người phải vất vả tất bật sớm hôm, mỗi ngày mở mắt ra con người đều phải nghĩ đến việc ngày hôm nay mình sẽ ăn gì mặc gì? Tuy nhiên Chúa Giêsu đã cho chúng ta những hình ảnh làm ví dụ về bông hoa ngoài đồng được Chúa tô điểm cho thật rực rỡ dù nó không phải may vá gì, cũng vậy lũ chim sẻ không gieo không cấy mà Thiên Chúa vẫn nuôi nó, để cho chúng ta thấy một ý nghĩa cao hơn nữa, đó là khi chúng ta sống và làm việc trong sự phó thác hoàn toàn cho Chúa thì Chúa sẽ lo liệu cho ta còn tốt hơn rất nhiều lần chúng ta tự lo cho mình. Thiên Chúa làm tất cả điều tốt đẹp cho con người chỉ vì Ngài là Cha yêu thương chúng ta.
Điều này làm cho chúng ta khác với những người không có đức tin, người không có đức tin làm việc trong sự lẻ loi một mình, còn người có đức tin làm việc trong sự hiện diện và trợ giúp của Thiên Chúa, và khác với người không có đức tin, vì chúng ta biết Thiên Chúa yêu thương ta và trợ giúp ta. Vì thế Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta: Đừng để cho công việc và những lo toan cuộc sống chiếm hết chỗ trong cuộc sống, nhưng hãy biết dành lại chỗ cho Thiên Chúa, hay nói đúng hơn, là dù có bận rộn với cuộc sống và công việc thì đừng quên tim kiếm Nước Trời và hạnh phúc đời đời. Vì chúng ta sẽ không mãi ở trên mặt đất này, mà chúng ta sẽ phải trở về với Thiên Chúa, thì ngay hôm nay chúng ta phải làm việc trong tư thế của một người sẽ phải trở về, đừng để mình lệ thuộc vào trần gian này.
Trong niềm xác tin như thế, thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa,… sao cho mọi người thấy anh em ăn ở hiền hòa rộng rãi. Trong mọi hoàn cảnh cứ cầu khẩn, vàn xin và tạ ơn mà giải bày trước mặt Thiên Chúa điều anh em thỉnh nguyện. Như thế niềm vui phải là nét đặc trưng và luôn được thể hiện trên cuộc đời và gương mặt người tín hữu. Chúng ta luôn vui vì chúng ta sống trong sự chở che của Thiên Chúa, vui vì có Chúa là bạn và là Đấng cùng chia sẻ gánh nặng cuộc đời với chúng ta và luôn tạo mọi điều tốt đẹp cho ta. Đồng thời thể hiện niềm vui qua cuộc sống tin tưởng, vui tươi, hiền hòa nhân ái, đó phải là những nét đặc trưng của người tín hữu chúng ta.
Thưa quý OBACE, trong ngày đầu năm này, chúng ta mang trong mình bao nguyện ước cho mình cho gia đình và người thân, đừng ngại ngần bày tỏ những ước nguyện ấy với Chúa, hãy nói với Chúa về toan tính của mình để xin Chúa chỉ bảo cho chúng ta biết phải làm gì và làm thế nào. Mong điều tốt lành cho nhau đã là điều tốt, song mỗi người còn phải đem đến cho nhau, cho gia đình những điều tốt lành.
Ngày tết không chỉ tránh cho nhau những điều không hay không đẹp, mà hãy tránh cho nhau tất cả những điều không hay không đẹp trong suốt cả năm. Các bậc cha mẹ chính là người tạo nên sự may lành tốt đẹp cho gia đình. Hãy mang về cho gia đình nhiều niềm vui, nhiều nụ cười thân thương, nhiều bữa cơm ấm cúng tình gia đình. Hãy làm việc và nuôi sống gia đình trong sự tin tưởng và cậy trông phó thác nơi Chúa. Hãy nuôi gia đình không chỉ bằng cơm gạo mà còn cần phải được nuôi bằng tình yêu thương, sự hy sinh và sư ân cần dành cho nhau. Các bậc làm cha mẹ đừng xả xui cho mình bằng cờ bạc rượu chè, đề đóm, tất cả những điều đó không những không xả xui, mà còn đem đến đổ vỡ cho gia đình. Trái lại hãy hiện diện nhiều hơn bên vợ chồng bên con cái, hãy dành những ngày tết này để chuyện trò để hiểu nhau và thông cảm cho nhau hơn.
Cũng vậy những người làm con không chỉ bày tỏ lòng thảo hiếu bằng tấm bánh hay một vài lời cầu chúc, mà hãy đem đến cho cha cha mẹ niềm vui bằng sự ngoan ngoãn, thảo hiếu, biết ơn và vâng lời. Con cái là mùa xuân của gia đình, hãy làm cho gia đình mình rộn rã tiếng cười vui, hãy làm cho cha mẹ vơi đi sự nhọc nhằn bằng việc chăm chỉ học hành, đem về cho cha mẹ những kết qua học tập thật tốt và những thành công nho nhỏ, đó là những món qua mà các bậc cha mẹ nào cũng cảm thấy hạnh phúc và tự hào để đón nhận.
Xin Đức Maria ở mãi với các gia đình, đem đến cho các gia đình và mọi người người một mùa xuân mới đầy tràn ơn Thánh Chúa và cho các gia đình được tràn đầy niềm vui và hạnh phúc. Amen
47. CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Bước vào năm mới, mỗi khi gặp nhau dù quen hay lạ, mọi người đều chúc cho nhau sự bình an. Điều đó cho thấy, bình an là khao khát sâu thẳm trong tâm hồn con người. Con người sống trong xã hội dù có được xem là an toàn đến mấy, vẫn cảm thấy cần sự bình an, vì chỉ khi có bình an cuộc sống mới an vui, hạnh phúc. Thực tế từ xã hội và thế giới cho thấy, nhân loại dường như luôn phải sống trong chiến tranh bạo lực, thiên tai, nhân tai có thể ập xuống bất cứ lúc nào trên con người. Con người cảm thấy cuộc sống của mình thật mong manh, giới hạn trước sự xoay vần của vũ trụ, trước những tai họa từ thiên nhiên hoặc từ con người gây ra cho nhau. Vì vậy con người luôn cầu xin và cầu chúc cho nhau được bình an.
Tại sao con người cầu mong bình an mà không được, chờ đợi hòa bình mà không thấy? phải chăng Thiên Chúa đã giữ độc quyền sự bình an trong tay Ngài? - Thiên Chúa không giữ độc quyền sự bình an. Sách Sáng Thế cho thấy, ngay từ đầu khi tạo dựng nên vũ trụ và con người, Thiên Chúa đã an bài cho chúng có một trật tự hài hòa rất đẹp, mặt trời chiếu sáng ban ngày để sưới ấm cho vũ trụ, cung cấp năng lượng cho muôn loài và soi đường dẫn lối cho con người, mặt trăng nhẹ nhàng trong mát để soi sáng ban đêm và ru giấc ngủ ngon cho vũ trụ cùng muôn loài, các tinh tú khác tô điểm cho vũ trụ thêm xinh đẹp hơn. Tất cả muôn loài, mặt trăng, mặt trời và các tinh tú đều chuyển động hài hòa theo một quỹ đạo đã được bàn tay Thiên chúa chỉ vẽ. Từ những chuyển động này đã làm nên thời tiết, mùa màng cho trái đất: xuân, hạ, thu, đông, nắng, mưa cân bằng. Tuy nhiên sự hài hòa tốt đẹp ban đầu Thiên Chúa ban tặng đã bị phá vỡ bởi sự tham lam, ích kỷ và kiêu ngạo của con người. Con người đã muốn tôn mình làm Chúa, muốn thống trị người khác, giành về cho mình thật nhiều của cải, tài nguyên thiên nhiên, đã phá vỡ sự cân bằng hài hòa, gây bất ổn, bất thuận và dẫn đến những thảm họa cho con người.
Như thế, thủ phạm gây ra bất hòa bất ổn, lo âu cho con người lại chính là tội lỗi của con người cùng với sự hợp tác của Satan. Ngay từ đầu, Satan đã đánh lừa con người để gieo tội và sự chết vào thế gian. Tội lỗi là nguyên nhân đem đến sự bất an trong tâm hồn và làm đảo lộn trật tự của cuộc sống. Chúng ta có thể thấy, chỉ vì tham vọng quyền lực cá nhân mà con người không ngần ngại chém giết loại trừ lẫn nhau: Hitler đã gây ra cái chết cho hàng triệu người Do Thái; Polpot đã gây ra cuộc diệt chủng cho người Campuchia...
Mọi người cầu chúc cho nhau sự bình an trong ngày đầu năm mới là điều rất tốt, nhưng tốt hơn và quan trọng hơn là phải cùng nhau xây dựng sự bình an và đem bình an đến cho gia đình và mọi người. Thư Philiphê dạy chúng ta phải tái lập lại sự trật tự trong tâm hồn, sống niềm vui thánh thiện xuất phát từ trong tâm hồn. Đây là bước căn bản để ta đem bình an đến cho mình và người khác. Tác giả kêu gọi chúng ta: “anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em” sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi. Trong mọi hoàn cãnh hãy cầu nguyện và trải lòng ra trước mặt Thiên Chúa. Như thế có nghĩa là khi mỗi người cố gắng sống ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa, xây dựng một tương quan tốt đẹp thuận thảo với Thiên Chúa, thì chính Chúa sẽ là bình an và nguồn vui trong tâm hồn. Nói cách khác đó là mỗi người cần tẩy rửa khỏi mình tình trạng tội lỗi, giữa một lương tâm ngay thẳng trong sáng trước mặt Chúa, chúng ta sẽ cảm nhận được bình an và niềm vui. Thánh Phaolô còn nói thêm: Khi mỗi người sống trong bình an Thiên Chúa như thế, chúng ta sẽ phải sống tích cực hơn để đem bình an đến cho người khác bằng cách: Những gì là chân thật là cao quý, những gì là đáng mến đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen thì hãy có mà gìn giữ và thực hành.
Hiểu được tâm trạng bất an của con người trước sự bấp bênh của cuộc sống, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta vượt lên trên những lo âu thường ngày để dám sống phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Sống phó thác cho sự quan phòng, không có nghĩa là ỷ nại, lười biếng, lười suy nghĩ, lười làm việc. Trái lại, làm việc, suy nghĩ tình toán trong sự quan phòng trợ giúp của Thiên Chúa.
Đừng lo lắng cho mạng sống lấy gì mà ăn, lấy gì mà mặc, vì mạng sống chẳng trọng hơn của ăn và thân thể chẳng quý hơn áo mặc sao? Nhắc điều này vì có nhiều người dồn cả cuộc đời công sức của mình để tìm kiếm những điều hết sức tùy phụ và bỏ qua điều chính yếu. Nhiều người tìm kiếm của ăn, tiền bạc vật chất mà không quan tâm đến mạng sống sức khỏe của mình; lo tìm kiếm thật nhiều vật chất của cải mà không lo đến mạng sống thiêng liêng, tức là sự sống của linh hồn mình. Cũng vậy, con người ngày nay tiêu tốn rất nhiều tiền của cho sắc đẹp và mỹ phẩm, quần áo và các đồ trang sức bên ngoài, nhưng lại không quan tâm tô điểm nhân cách tác phong, phẩm giá của mình. Tương tự như thế, nhiều người cung cấp cho cơ thể đủ mọi chất dinh dưỡng và phụ kiện đắt tiền, nhưng lại để tâm hồn mình bẩn thỉu, hôi thối bởi một đời sống tội lỗi bê tha.
Chúa muốn mỗi người biết đâu là mối lo chính yếu, đâu là điều cần quan tâm nhất trong cuộc đời. Điều quan trọng nhất trong cuộc đời là có một tâm hồn khỏe mạnh trong sáng, vì loại trừ được tội và những thói xấu, không để mình bị lạm dụng và lợi dụng của ma quỷ. Khi có một đời sống tinh thần thoải mái thanh thản như thế, chúng ta sẽ cảm nhận được sự bình an hạnh phúc vì chính Chúa ở trong những tâm hồn như thế.
Chúa Giêsu cũng cho một ví dụ minh họa về sự quan phòng của Thiên Chúa dành cho vũ trụ và con người. Về vũ trụ, Chúa so sánh một bông hoa ngoài đồng, không may không dệt, nhưng Thiên Chúa vẫn tô điểm cho nó màu sắc hương thơm theo từng loại. Có loài có sắc thì không có hương, có loài có hương thì không có sắc để chúng bổ xung cho nhau, cũng có những loại được ưu ái hơn, Thiên Chúa ban cho nó cả hương lẫn sắc. Tất cả là do tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, Thiên Chúa muốn cho nó tốt đẹp để tô điểm cho vũ trụ. Chúa Giêsu nhấn mạnh, đến hoa cỏ ngoài đồng còn được Chúa quan phòng cho mọi sự tốt đẹp như vậy, huống hồ là con người là con của Thiên Chúa, chẳng lẽ Chúa không quan phòng cho nó tốt đẹp hơn bội phần những loài khác sao?
Trong những giờ phút đầu tiên của năm mới, chúng ta đến với Chúa nơi đây, được Lời Chúa soi sáng, mỗi chúng ta biết đặt mối lo của chúng ta vào đúng nơi, đúng việc. Chúng ta mong ước sự bình an và cầu chúc cho nhau được bình an, thì trước hết hãy cầu xin Thiên Chúa là Chúa của sự bình an ban bình an xuống trên những người chúng ta cầu chúc. Kế đến chúng ta phải trở thành người xây dựng và đem bình an đến cho người chung quanh.
Hãy bắt đầu từ nơi bản thân: Tìm kiếm sự bình an đích thực trong tâm hồn qua bí tích Giải tội, tẩy rửa khỏi mình tội lỗi và những sự dày vò do tội gây ra; gạt bỏ khỏi mình sự kiêu căng ích kỷ cũng như tham lam thu vén tích góp cho cá nhân mình. Kế đến, chúng ta đem bình an và niềm vui đến cho người khác bằng sự chân thành, cảm thông. Cần gạt bỏ khỏi mỗi người sự say sưa rượu chè, nóng nảy, bài bạc gây bất an, bất ổn cho gia đình vợ chồng, con cái. Hãy bước đến với những gia đình hành xóm láng giềng, gạt bỏ những giận dỗi khó chịu với nhau để chân thành cầu chúc và cầu nguyện cho nhau, đem đến cho nhau niềm vui và bình an.
Bước vào năm mới với lòng tin tưởng phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Chúng ta cố gắng vận dụng hết khả năng, trí tuệ, sức khỏe và những điều kiện hiện tại để đem đến cho gia đình và cộng đoàn một cuộc sống an vui hạnh phúc, còn kết quả như thế nào, chúng ta phó dâng cho Chúa. Chắc chắn, dù một năm mới sắp tời sẽ thành công hoặc không được như ý muốn, chúng ta vẫn tin rằng đó cũng là ý Chúa muốn để chúng ta thêm lòng tin tưởng vào chúa hơn.
Cầu chúc cho mọi người, mọi gia đình năm mới Mậu Tuất này được luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh. Amen.
48. TẠ ƠN VÀ CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Người Việt Nam chúng ta có một tập tục rất đẹp, đó là sáng sớm mồng một tết, chuẩn bị ít thức ăn hoặc trái cây và một ít hoa tươi, đứng trước Bàn Thiên ở cửa nhà hoặc Bàn thờ Tổ tiên trong gia đinh để thắp lên một nén nhang với lòng thành biết ơn trời đất và tổ tiên ông bà.
Kính thưa quý OBACE, đối với người Việt Nam Công Giáo, tập tục tốt đẹp ấy được thể hiện trong giờ phút đầu tiên của năm mới này. Chúng ta họp nhau nơi đây không phải trước Bàn Thiên mà là trước tôn nhan Thiên Chúa, để dâng lên Chúa tâm tình Tạ Ơn và cầu xin Chúa ban cho một Năm Mới bình an; đồng thời, nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng điều khiển cả vụ trụ này và tất cả mọi việc xảy ra đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cũng vì thế, con người luôn luôn cảm thấy mình nhỏ bé và hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Sự lệ thuộc vào Thiên Chúa không làm hạ thấp giá trị con người, nhưng lại làm gia tăng phẩm giá của con người. Vì mỗi chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng, cứu chuộc, được nhận làm con và Thiên Chúa còn quan phòng ban cho muôn điều kỳ diệu, tốt đẹp cho mỗi người.
Các bài đọc được chọn cho ngày Mồng Một Tết nhắm đến các ý tưởng ấy. Trước hết, bài đọc sách Sáng Thế nhắc lại cho chúng ta về công trình tạo dựng của Thiên Chúa: Chính Ngài dựng nên trời đất, tinh tú muôn loài và cũng chính Ngài là Đấng điều khiển bốn mùa luân chuyển, thay đổi nối tiếp nhau, làm nên nhịp sống cho con người và phân định thời gian cho vũ trụ. Cũng mặt trời ấy, cũng ánh nắng ấy, nhưng những ngày đầu năm này, mọi sự dường như khác, từ vạn vật đến con người như đang khoác lên mình một bộ áo mới, một sức sống mới của mùa xuân sau những ngày mùa đông lạnh giá. Cũng chính vì thế, mọi người đều muốn bắt đầu một năm mới với một sự đổi mới, một kế hoạch mới và một quyết tâm mới. Song vì con người ý thức được rằng “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, kế hoạch là của mỗi người đưa ra, song sự thành hay bại còn do trời ban hay nói theo ngôn ngữ nhà đạo của chúng ta đó là: Con người cố gắng với hết khả năng của mình, còn kết qủa thì phó dâng cho Chúa. Ý thức như thế để chúng ta không quá cậy dựa vào sức mình, nhưng biết khiêm nhường tạ ơn Thiên Chúa về những thành quả chúng ta đã đạt được và bằng lòng với những gì Chúa ban, đồng thời cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho những dự tính của chúng ta trong năm mới.
Trong bài đọc hai, Thánh Phaolô đã khuyên cộng đoàn Philipphê hãy luôn vui mừng và tín thác vào Thiên Chúa. Niềm vui cũng là ước nguyện của ngày đầu năm: Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: Anh em hãy vui lên… Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, hãy trình bày ước vọng lên cùng Chúa. Như thế có nghĩa là chúng ta sẽ vẫn phải sống và làm việc, vẫn gặp những thành công và thất bại, vui và buồn, nhưng khác ở chỗ là dù trong những hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn giữ được niềm vui và sự bình an trong tâm hồn. Niềm vui và sự bình an này là bình an vì có Chúa ở trong chúng ta, và tin rằng Chúa đang điều khiển cuộc đời mình. Chúng ta cũng vẫn phải lo toan cho cuộc sống, song chúng ta không lo lắng theo kiểu của những người không có niềm tin, nhưng lo liệu công việc trong sự trợ giúp của Thiên Chúa và làm mọi công việc thường ngày trong tinh thần cầu nguyện, tin tưởng, phó thác. Khi sống và làm việc như thế, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm vui trong chính công việc của mình và sẽ thấy tâm hồn mình thực sự bình an.
Ước nguyện Bình an cho gia đình là một trong những ước nguyện đầu tiên của năm mới. Thế nhưng, để có bình an, mỗi người phải nỗ lực thật nhiều. Trước hết là phải tìm được sự bình an trong tâm hồn. Sự bình an này đến từ Thiên Chúa và chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng. Đó là sự bình an của một tâm hồn thanh thản trước mặt Thiên Chúa, một tâm hồn được thứ tha và chữa lành nhờ Bí tích Giải tội, luôn sống thuận thảo với Chúa. Chúng ta chỉ thực sự bình an khi không để mình sống trong tình trạng thù nghịch tội lỗi trước mặt Thiên Chúa, siêng năng gặp gỡ Thiên Chúa trong công việc, trong cầu nguyện và trong các việc phụng thờ Thiên Chúa.
Kế đến là sự bình an đối với nhưng người chung quanh, tức là phải dám gỡ khỏi tâm hồn mình những bất hòa, những bất đồng và xung khắc đối với vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, láng giềng. Bước đến với nhau trong sự tha thứ, làm hòa và thông cảm, đây cũng là nét đẹp của người Việt Nam. Năm mới, cũng cần phải đổi mới lại tương quan tình nghĩa giữa những người thân và anh em, gạt bỏ đi những tranh chấp để đến với nhau và nhìn nhau một cách chân tình hơn, hãy can đảm nói với nhau một lời xin lỗi và tha thứ.
Ước nguyện bình an trong công việc là một ước nguyện thật tốt, vì ai làm nghề gì thì cũng mong muốn được thuận lợi, bình an. Bình an ở đây không chỉ là tránh khỏi rủi ro tai nạn, mà còn ước mong bình an trong mọi việc. Sự bình an này chỉ có ở những con người có những cách làm việc tôn trọng sự công bằng và bác ái, tôn trọng sự thật, không gian dối, không lừa đảo và biết tôn trọng quyền lợi của người khác. Kinh doanh buôn bán với một lương tâm ngay thẳng như thế thì mới có được sự bình an trong công việc và bình an trong tâm hồn.
Thịnh vượng là một trong những ước nguyện đầu năm, giàu có sung túc là một ước muốn tốt đẹp. Theo truyền thống của Kinh Thánh thì sự giàu sang còn là dấu chỉ chúc lành của Thiên Chúa. Thế nhưng làm giàu bằng cách nào và sử dụng sự giàu sang Chúa ban như thế nào mới là điều quan trọng.
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ cho chúng ta cách thế sống và vui hưởng những của cải Chúa ban, đó là tin tưởng và phó thác tất cả cho Chúa : Đừng lo lắng cho ngày mai vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Nói như thế không có nghĩa là chúng không lo lắng và không suy nghĩ đầu tư. Chúng ta không được phép ỷ nại vào sự quan phòng của Chúa để lười biếng, nhưng cũng đừng lo lắng quá mức về cái ăn cái mặc cho ngày mai, như kiểu của người không có niềm tin: Chúng ta sẽ ăn uống gì mặc gì? Trái lại, chúng ta biết lo liệu và tin rằng Thiên Chúa là cha, Ngài biết những nhu cầu, những ước muốn của chúng ta ngay trước khi chúng ta mở miệng cầu xin và Ngài sẽ trợ giúp chúng ta. Vì thế, hãy sống thật tốt giây phút hiện tại của ngày hôm nay và vui hưởng những gì Chúa ban cho ngày hôm nay.
Chúa vẫn lưy ý chúng ta rằng dù ăn gì, uống gì và làm gì thì cũng vẫn cần có một ưu tiên tuyệt đối đó là: Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều khác Chúa sẽ ban cho. Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính có nghĩa là lo tìm kiếm và làm giàu trước mặt Thiên Chúa; đừng chỉ làm giàu của cải vật chất, nhà cửa xe cộ mà để mình nghèo nàn công phúc trước mặt Chúa. Nhiều người cầu nguyện đầu năm cho gia đình mình thịnh vượng vật chất, mà quên cầu xin cho mình và gia đình được giàu có thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa. Làm giàu trước mặt Thiên Chúa là làm nhiều việc lành và công phúc, việc lành ở đây chính là những việc tông đồ, bác ái, là công việc phục Chúa và phục vụ anh em. Làm giàu trước mặt Chúa còn là những việc hy sinh thầm lặng, hy sinh tiền của, thời giờ, sức khỏe cho Chúa. Những công việc cụ thể như thế sẽ làm cho chúng ta trở nên giàu có, thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa.
Cầu chúc cho mọi người, mọi gia đình một Năm Mới đầy tràn Bình an của Chúa và sự Thịnh vượng, không chỉ của cải vật chất mà là thịnh vượng, giàu có của cải thiêng liêng trước mặt Thiên Chúa. Cầu chúc cho mọi gia đình luôn hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Amen.
49. Ngày Mồng Một Để Có Niềm Vui Xuân
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Ngày đầu năm chúng ta hướng về Đấng tạo thành. Đấng đã làm cho con tạo xoay vần, cho trời đất luân chuyển Xuân – Hạ – Thu – Đông. Hướng về Ngài để phó dâng về một năm mới bắt đầu. Một khởi sự mong được vẹn toàn nhờ ơn trên phù hộ. Hướng về Đấng tạo thành cũng mời gọi con người nhìn nhận sự quan phòng che chở, phù trì của Ngài để dâng lời tạ ơn về những ơn lành Ngài ban.
Đó là lý do mà người Việt Nam đi lễ hội đầu năm rất đông. Họ đi vì lòng tạ ơn. Họ đi vì mong muốn được Trời phù hộ chúc phúc cho một năm an bình. Đây cũng là một truyền thống tốt đẹp của người dân Việt Nam. Cha ông ta luôn tin vào vận Trời. Cha ông ta luôn phó thác cho Trời. Và ngày đầu năm là dịp thuận lợi nhất để tri ân và cầu xin với Đấng tạo hóa đã làm nên muôn loài.
Điều này ta có thể thấy qua sự tích bánh chưng bành dày. Chuyện kể rằng: Đời Hùng Vương thứ Sáu, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân bên Tàu, vua có ý định truyền ngôi cho con.
Nhân dịp đầu Xuân, vua họp các hoàng tử lại, bảo rằng: - "Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho".
Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng.
Trong khi đó, người con trai thứ 18 tên là Tiết Liêu có tính tình hiền hậu, lối sống đạo hạnh, hiếu thảo với cha mẹ, nhưng vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào tìm được của ăn ngon và có ý nghĩa.
Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo:
- "Này con, trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy lấy gạo nếp làm 2 thứ bánh: bánh dầy và bánh chưng. Thần còn dặn kỹ càng cách làm.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Trời ơi! đầy các món ăn vừa thơm ngon vừa lạ mắt. Hoàng tử Tiết Liêu trên mâm chỉ có 2 tấm bánh Chưng và bánh Dầy. Vua cha lấy làm lạ hỏi lý do. Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng dạy cách làm, giải thích ý nghĩa của 2 thứ bánh. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu.
Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, theo lệnh vua, dân chúng làm bánh Dầy và bánh Chưng để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.
Bánh chưng bánh dầy tượng trưng cho Trời Đất. Trời Đất ở đây không hiểu theo nghĩa vật chất mà là tượng trưng cho Đấng tạo thành trời đất. Con người phải biết ơn Đấng tạo thành. Con người dâng cho Đấng tạo thành hạt gạo là tinh hoa của đất trời, là ân lộc trời ban. Con người dùng hạt gạo trời cho để kết thành tấm bánh như nói lên tấm bánh là ân lộc trời ban và cũng là công sức con người làm nên.
Đấng tạo hóa càn khôn mà nhân loại hướng về với lòng biết ơn chính là Thiên Chúa toàn năng. Ngài đã làm nên hoàn vũ. Ngài đã cho định luật bốn mùa vần xoay như tình yêu của Ngài vẫn đong đầy cho nhân gian vượt mọi thời gian. Chính Ngài làm chủ vận mạng của lịch sử nhân loại. Chính Ngài mới có thể phù hộ, che chở gìn gìn con người, vì Ngài là Đấng quyền năng.
Thiên Chúa lại không xa lạ với con người. Ngài là Cha muôn loài và cũng là Cha của loài người chúng ta. Ngài là một người Cha rất tốt lành. Ngài luôn cho mưa thuận gió hòa. Không phân biệt lành dữ. Không phân biệt màu da. Ngài luôn cho mưa ơn trên xuống cho kẻ lành người dữ.
Lời Chúa ngày đầu năm hôm nay mời gọi chúng ta hãy tín thác đường đời cho Thiên Chúa. Hãy để Chúa chúc phúc cho một năm bình an. Hãy để Chúa làm chủ vận mệnh của mình theo thánh ý Chúa. Vả lại, cuộc sống đâu mấy khi theo ý chúng ta, vì “Mưu sự tại nhân – Thành sự tại thiên”. Sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy để Chúa khởi sự và hoàn tất mọi việc theo ý Ngài. Điều này không có nghĩa là ta phó mặc cho Thiên Chúa, còn mình thì “ngồi chờ sung rụng”. Điều này chỉ nhắc nhở chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận sự bất toàn của mình để trông cậy vào sự phù hộ của Thiên Chúa cho công việc của mình được mọi sự như ý.
Hãy nhìn xem muôn triệu đóa hoa chỉ đẹp xinh khi hướng về mặt trời. Hãy nhìn xem vạn vật vần xoay chung quanh mặt trời để tạo nên muôn điều kỳ diệu đẹp xinh. Đó là quy luật của vạn vật. Đó cũng là quy luật của loài người khi biết quy hướng về Thiên Chúa, và chỉ trong Thiên Chúa con người mới hạnh phúc bình an. Xin cho mỗi người chúng ta biết quy phục Thiên Chuá, biết dành cho Ngài vị trí tôn thờ tuyệt đối trong lòng chúng ta. Và với lòng tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, chúng ta hãy phó dâng mọi sự cho Chúa. Xin Chúa chúc phúc cho chúng ta một năm bình an và vạn sự cát tường. Amen.
50. TẾT KỶ HỢI 2019 - LỄ MINH NIÊN: CẦU XIN MỘT NĂM MỚI AN VUI
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Cuộc sống xã hôi ngày nay dường như tạo ra quá nhiều sự bất an lo lắng cho con người: Lo có công ăn việc làm ổn định, lo cho gia đình bằng an, êm ấm, hạnh phúc, mọi người khỏe mạnh. Bước ra ngoài lo lắng về an toàn giao thông, an toàn xã hội, lo những chuyện bất ưng, tai bay vạ gió xảy ra cho mình vv. Chúng ta hình dung, một gia đình bỗng dưng nghe tin con cái bị quẹt xe, bị tai nạn, vợ chồng phải cấp cứu… tâm trạng mọi người trong nhà sẽ bất an và cả gia đình lo lắng. Chúng ta đặt mình trong hoàn cảnh của các gia đình tại Lộc Hưng, Sài Gòn: trong không khí tưng bừng mọi người đang chuẩn bị đón tết, xum họp gia đình, thì bỗng dưng một ngày đi làm về, thấy cả ngôi nhà và đồ đạc bị chính quyền ủi tan hoang, tâm trạng của chúng ta sẽ thế nào?
Thưa quý OBACE, xã hội tiềm ẩn nhiểu rủi ro bất trắc, khiến cho con người lắng bất an, lo sợ; đời sống nhiều cá nhân và gia đình thiếu vắng niềm vui, khiến cho cuộc sống trở nên nặng nề mỏi mệt. Vì thế, ngày đầu năm mới ai trong chúng ta cũng mong ước, cầu chúc cho nhau, cầu xin cho mình và gia đình được bình an, vui tươi. Lời Chúa trong ngày đầu năm mới mời gọi chúng ta luôn sống trong niềm vui, như lời kêu gọi của thánh Phaolô: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần đến.
Kêu gọi như thế không phải là thánh Phaolô không hiểu gì về tình hình thực tế của cuộc sống. Ngày xưa dân Philipphê cũng sống trong tình trạng lo âu khắc khoải như chúng ta hôm nay, khi chứng kiến sự nhiễu nhương của cái xấu và bất công trong xã hội; đời sống của cộng đoàn có nhiều vấn đề, cuộc sống gia đình gặp nhiều khó khăn. Thánh Phaolô thấu hiểu, nhưng vẫn mời gọi cộng đoàn Philipphê hãy vượt qua những lo âu sợ hãi bất an đó, để sống vui, để chờ đợi Chúa trở lại. Chúa sẽ trả lại sự công bằng và đem đến niềm vui đích thực. Niềm vui mà thánh Phaolô mời gọi không phải bất cứ niềm vui nào, mà phải là niềm vui của Chúa, niềm vui vì có Chúa và hy vọng nơi Chúa.
Thánh Phaolô còn chỉ cho chúng ta sống niềm vui của Chúa bằng cách, trong mọi hoàn cảnh, cho dù gặp phải sự bất công, bất trắc, chúng ta vẫn phải cư xử hiền hòa rộng rãi. Không dùng ác báo ác, không gây thù gây oán, không đồng lõa với điều xấu, nhưng phải chống lại bất công và cái ác bằng sự hiền hòa quảng đại. Đó là cách cư xử của người con Chúa. Trên hết, thánh nhân mời gọi chúng ta, trong mọi hoàn cảnh cứ tin tưởng và giãi bầy với Chúa về nỗi lòng của mình, vì Thiên Chúa là Cha Ngài sẽ lắng nghe lời con cái nài van; Thiên Chúa là nguồn Bình an sẽ ban lại bình an cho chúng ta. Vì là con của Chúa, chúng ta luôn phải thể hiện mình là những người công minh chính trực, chân thật ngay thẳng. Khi dám sống và cư xử như thế, Thiên Chúa sẽ ban niềm vui và bình an xuống trong tâm hồn chúng ta.
Bài đọc sách Sáng Thế cho chúng ta một lý do quan trọng để chúng ta gạt bớt những lo âu, sống trong niềm vui, đó là: hết lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và quan phòng. Thiên Chúa dùng quyền năng để sáng tạo nên mọi vật, mọi loài trong sự tốt đẹp. Ngài cho vũ trụ thiên nhiên và vạn vật xoay vần để hỗ trợ cho nhau, loài này giúp cho loài khác phát triển. Thiên Chúa là Cha, Ngài tiếp túc quan phòng chăm lo và xếp đặt mọi sự tốt đẹp cho con người, vì muốn cho con người được hạnh phúc. Mỗi người có mặt trên trần gian này không phải là sự ngẫu nhiên, nhưng là do tình yêu thương quan phòng của Chúa. Từng ngày qua đi là từng ngày Thiên chúa chăm sóc và yêu thương ta, như cha mẹ lo liệu, xếp đặt cho con cái. Vì thế, chúng ta được mời gọi sống trong sự tin tưởng phó thác cho tình yêu và sự quan phòng của Chúa.
Cuộc sống dường như ai cũng có mối lo riêng, nhưng nhiều khi chúng ta biến cái lo, thành lo lắng, lo âu, lo sợ, đến độ quên sự hiện diện quan phòng của Chúa. Qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết phải lo những gì là quan trọng và chính đáng. Chúa dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến cái ăn, cái mặc, nhưng biết lo điều chính yếu là phát triển con người và sự sống của mình: Vì mạng sống chẳng trọng hơn của ăn và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Thực tế có nhiều người chỉ chăm sóc cho áo quần, tóc tai và chuyện ăn uống bên ngoài, nhưng lại thiếu quan tâm làm cho con người, sức khỏe và phẩm giá của mình được nâng cao và phát triển. Con người chúng ta được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa và được trao ban phẩm giá là con Thiên Chúa. Vì thế, khi chăm lo cho mình có một cuộc sống lành mạnh và khỏe mạnh, trí tuệ, nhân cách và phẩm giá được nâng cao, được tôn trọng, đó là là sự lo liệu chính đáng. Nếu chỉ lo cái ăn cái mặc và dáng vẻ bên ngoài mà quên chăm lo đời sống thiêng liêng, đạo đức của mình và sự lớn mạnh của linh hồn, thì chúng ta vẫn chưa hơn được những động vật khác. Do đó, lo liệu cho sự sống thiêng liêng và phần rỗi đời đời của linh phải là mối lo chính yếu của chúng ta.
Chúa Giêsu cũng cảnh báo chúng ta đừng để mình rơi vào lối sống của dân ngoại hoặc người vô thần. Cùng đích cuộc đời của họ là thế gian này, chúa của họ là của cải vật chất, danh vọng. Vì thế, nhiều người trong họ đã bất chấp tất cả, chỉ để giành giật cướp bóc, thâu tích thật nhiều tiền bạc, của cải, đất đai, địa vị. Mục tiêu và lo lắng của họ chỉ là vật chất và hưởng thụ mà thôi. Chúng ta là con Thiên Chúa, ưu tiên tìm kiếm và cùng đích cuộc đời của chúng ta phải là Thiên Chúa và sự công chính thánh thiện, còn những thứ khác, Thiên Chúa là Cha sẽ lo liệu cho chúng ta: Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, người sẽ thêm cho. Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai cứ để ngày mai lo, ngày nào có cái khổ của ngày ấy.
Khi dạy như thế, Chúa Giêsu không bảo chúng ta sống ỷ nại, lười biếng, lười suy nghĩ, không làm việc. Trái lại, Thiên Chúa ban cho con người có trí óc và đôi bàn tay, chúng ta phải phát huy khả năng của trí óc, suy nghĩ và làm việc hết khả năng hết sức mình. Chúng ta cũng tin rằng, mỗi người Chúa ban cho có sức khỏe, khả năng khác nhau, vì thế tất cả mỗi người đều phải suy nghĩ, tính toán và làm việc theo khả năng Chúa ban và biết nâng đỡ trợ giúp người kém khả năng hơn. Nhưng trong tất cả mọi công việc, chúng ta làm trong sự trợ giúp và hướng dẫn của Thiên Chúa, làm việc hết mình và phó dâng kết quả công việc cho Thiên Chúa vì: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Biết như vậy để dù thành công như ý muốn, chúng ta không kiêu ngạo và không được như ý, ta không thất vọng oán trách Chúa.
Thưa quý OBACE, sự lo âu và buồn chán đang gặm nhấm nhiều tâm hồn và nhiều gia đình. Nhiều người đang lo buồn đến héo hắt vì chồng, vì vợ, vì con; nhiều gia đình từ lâu đã trở nên u ám tăm tối không còn ánh sáng, không còn niềm vui tiếng cười. Nhiều gia đình trong những ngày tết này, bầu khí gia đình vẫn rất nặng nề, căng thẳng, thiếu sự xum họp, thiếu bữa cơm chung. Vì thế, trong lúc này chúng ta đang khẩn xin Chúa ban lại cho tâm hồn và gia đình tìm lại được bình an và vui tươi. Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn lắng nghe và thấu hiểu, Ngài trợ giúp ta bằng ơn soi sáng trong tâm hồn, và hướng dẫn ta bằng Tin Mừng. Nhiều người đã không dám làm theo sự hướng dẫn của Chúa, để ngòai tai những giáo huấn của Tin Mừng. Vì thế, chúng ta không thoát ra được những lo lắng thế gian và ưu tư cuộc sống, để phó thác cho Chúa và sống trong niềm vui của Chúa. Sở dĩ sự lo âu buồn bã cứ mãi đeo bám trong cuộc đời ta, vì ta không chấp nhận sự thay đổi bản thân, thay đổi tình trạng hiện tại của gia đình.
Thiên Chúa còn ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần, là Thầy dạy sự khôn ngoan, là thần sức mạnh ở với chúng ta, để trợ giúp và hướng dẫn chúng ta trong mọi việc. Xin Chúa Thánh Thần gạt bỏ khỏi chúng ta sự lo âu, lo lắng, lo buồn và ban cho chúng ta ơn Biết Lo Liệu của Ngài, để nhờ ơn soi sáng của Thánh Thần chúng ta bắt đầu một năm mới trong niềm vui tươi phấn khởi. Amen.
51. Mồng Một Tết Kỷ Hợi 2019: Trời Ban Heo Đất Trong Nhà
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay ngày đầu năm Con Lợn tôi xin kể một câu chuyện cười ra nước mắt của tôi về con lợn.
Một buổi chiều trước khi tắm tôi mở tivi, thấy con bé trên ti vi nói: da hồng hào, lông tơ mịn màng là dấu chỉ khỏe mạnh. Tôi liền ngó vào gương thấy mặt cũng hồng, xoa vào tay thấy lông cũng mịn, lòng mừng phấn khởi, tôi mỉm cười một mình thì nghe con bé nói tiếp: “kính thưa, quý bà con cô bác, chương trình chăn nuôi lợn tới đây là hết”! Hoá ra nó nói con lợn các bác ạ! Xâu hổ quá thôi đành đi tắm vậy!
Nói gì thì nói: con lợn vẫn là hình ảnh của sự nhàn hạ, có của ăn của để và là dấu chỉ sự khỏe mạnh:
"Trông mặt mà bắt hình dong
Con lợn có béo thì lòng mới ngon"
Lợn còn làm biểu tượng cho sự giàu có sung túc qua các lễ hội, đám đình vì thế dân gian Việt đã đặt ra bài ca dao sau đây:
Thịt lợn nấu với măng hầm
Chờ ba ngày Tết, bà… quằm với ông.
Đối với người Việt Nam con lợn còn là vốn liếng để dành mà nhà nào cũng cần có để khi hữu sự mang ra dùng. Nhưng nuôi thì nuôi chứ cũng phải nhờ Trời chúc phúc mới có của dư của để, bằng không lại ế dài như câu ca dao đùa cợt cảnh mấy bà gánh heo đi rồi lại gánh về:
"Ba bà đi bán lợn con
Bán đi chẳng được lon ton chạy về
Ba bà đi bán lợn sề
Bán đi chẳng được chạy về lon ton"
Ngày đầu năm chúng ta hay thăm hỏi nhau bạn làm ăn thế nào? Cuộc sống của bạn có bình an không? Dường như ai cũng khiêm tốn trả lời: nhờ ơn Trời mà năm nay làm ăn tốt hơn. Nhờ ơn Chúa mà được bình an mọi sự. Như năm nay nhiều nhà không bị dịch tai xanh thì nói : nhờ ơn Trời mà nhà con không bị một con nào.
Nhà thơ Nguyễn Du năm xưa cũng từng tin vào Trời. Ông Trời định đoạt mọi sự cho nhân gian.
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
Quả thực, “Trời còn để có hôm nay” để sống, để nhìn thấy nhau, là ân ban bởi Trời. Mỗi ngày là một tặng phẩm của đất trời. Dầu không biết ngày mai sẽ ra sao nhưng vẫn phải trân quý giây phút hiện tại để cám tạ ơn Trời đã ban cho chúng ta được đoàn viên hôm nay. Dẫu rằng có những lúc : “Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”, thế nhưng sau những rủi ro, cùng cực, khổ đau, thao thức, ba đào... Trời vẫn cho chúng ta có ngày hôm nay để có thề sum vầy bên nhau.
Với tâm tình mùa xuân không chỉ hướng lòng con người đến với nhau trong hội hè, đoàn tụ gia đình hay dòng tộc. Mùa Xuân còn hướng chúng ta đến Đấng tạo thành. Chính Ngài đã làm cho con tạo xoay vần có Xuân – Hạ – Thu - Đông. Chính Ngài đã tô điểm cho mùa xuân thêm rạng ngời với ánh nắng lung linh, với gió nhè nhẹ lượn quanh người. Ngài là chủ mùa Xuân. Ngài đã ban mùa xuân đến cho nhân trần. Ngài đã chúc phúc cho mùa xuân với biết bao niềm vui của hội hè đình đám. Chính Ngài đã tạo dựng mùa xuân đầu tiên nơi vườn địa đàng để Adam – Eva ngập tràn hạnh phúc yêu thương. Đó là một mùa xuân bất tận. Một mùa xuân trường sinh. Mùa xuân ấy đã kết thúc khi Adam – Eva quay lưng lại với Đấng tạo thành. Vườn xuân cũng khép lại. Cỏ dại và sự dữ đã đi vào trần gian.
Thế nên, hướng về mùa xuân con người được mời gọi giữ mãi mùa xuân trong lòng mình. Một mùa xuân ngập tràn niềm vui hạnh phúc khi con người sống trong ân nghĩa với Đấng tạo thành. Một mùa xuân ngập tràn yêu thương khi con người sống hòa thuận với nhau, tránh xa những đố kỵ ghen tương và cùng nhau xây dựng hòa bình. Đó chính là cách chúng ta gìn giữ mùa xuân trong cuộc đời chúng ta. Đừng như Adam đã đánh mất mùa xuân khi phạm tội quay lưng lại với Đấng tạo thành.
Hôm nay ngày đầu xuân chúng ta cũng cám ơn Ngài đã ban cho một Mùa Xuân với bao hương tình nồng ấm. Cám ơn Ngài đã dẫn dắt cuộc đời chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Một dòng đời có xen lẫn buồn vui sướng khổ. Có nước mắt và nụ cười nhưng bàn tay quan phòng của Đấng tạo hóa luôn làm chủ mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời con người. Đồng thời cũng phó dâng lên Ngài một năm mới vừa mới bắt đầu. Xin Ngài lì xì cho chúng ta một năm mới thuận buồm xuôi gió, vạn sự như ý. Một năm mới ngày nào cũng có “Thịt heo nấu với măng hầm” với của ăn của để như tích được heo đất trong nhà. Xin Ngài làm chủ cuộc sống của chúng ta hôm nay và mãi mãi.
Ước gì mùa xuân mãi ở lại đây trong tâm hồn chúng ta khi có Chúa đồng hành, khi trung thành với giáo huấn của Chúa. Ước gì cuộc đời chúng ta luôn tươi trẻ vì có Chúa Xuân hiện diện chúc phúc cho cuộc đời chúng ta. Amen
52. MỒNG MỘT TẾT MẬU TUẤT 2018: ƯỚC MƠ NGÀY XUÂN
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Mùa Xuân luôn mang lại cho ta một niềm vui, một hạnh phúc. Mùa Xuân cho ta một hy vọng ngày mai sẽ tốt hơn. Đó là lý do mọi chữ ghép vào chữ Xuân đều biểu lộ sự hồi sinh và tràn đầy sự sống như: Xuân thì, Xuân tình, Xuân nồng, Xuân ngời . . . Dẫu dòng đời luôn vần xoay cứ xuân đến rồi xuân đi nhưng mỗi mùa xuân đến lại cho ta một niềm hy vọng, một ước mơ mới trong cuộc đời.
Ước mơ thì ai cũng có. Ước mơ cho mình đẹp. Ước mơ được đóng góp phần mình tô thắm cho đời đẹp hơn. Ước mơ lớn dần theo từng lứa tuổi. Ước mơ cũng thay đổi theo thời gian. Bài hát “tuổi mộng mơ” dường như đã diễn tả thật gần gũi điều đó.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười hɑi, tuổi mười bɑ?
Em ước mơ ℮m là, ℮m được là tiên nữ
ßɑn ρhéρ tiên cho hoɑ biết nói cả tiếng người
ßɑn ρhéρ tiên cho người chắρ cánh bɑу giữɑ trời.
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ tiên!
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ tiên!
Ước mơ của tuổi thần tiên thật đẹp. Đẹp trong tâm hồn và thể xác. Cái đẹp của thiên thần không có giận hờn ghen ghét chỉ có niềm vui và hạnh phúc đón nhận và trao ban.
Qua cái tuổi dậy thì ai cũng mơ mộng xa xăm, sống thiếu thực tế nhưng vẫn mang hoài bão xây dựng cho đời tươi đẹp hơn.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười bɑ, tuổi mười bốn?
Em ước mơ mɑng hồn, ℮m mɑng hồn thi sĩ
Ƭh℮o gió mưɑ ℮m đi, hát xâу mộng cho người
Ƭrên cánh thơ tuуệt νời, hát уên νui cõi đời.
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ hoɑ!
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ hoɑ!
Rồi tới tuổi trăng tròn trông ai cũng xinh xắn, luôn nở nụ cười tươi và dáng đi đầy kiêu hãnh làm thổn thức bao trái tim rung nhịp tình yêu.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười tư, tuổi mười lăm?
Em ước mơ ℮m đẹρ như trăng rằm tươi tắn
Ƭhoɑ ρhấn son ℮m mɑng chiếc áo dài ƙhăn hồng
Em sẽ thi đuɑ cùng νới hoɑ ƙhôi ƙhắρ νùng.
Rồi khi cái tuổi mộng mơ không còn thì ước mơ của người ta thực tế hơn, gần gũi hơn với cuộc sống.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười lăm, tuổi mười sáu?
Em ước mơ ƙhông nhiều, xin một điều уêu dấu
ĸhông ước mơ xɑ xôi, ước mơ được nên người
Ϲô gái уêu nước Ѵiệt bước chân th℮o giống nòi.
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ ngoɑn!
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ ngoɑn!
Ngày đầu xuân, theo thói quen của nhân gian người ta thừơng rủ nhau đi hái lộc xuân. Gọi là hái lộc nhưng thực ra người hái đã có sẵn những ước mơ, những ước nguyện trước khi đón nhận lộc xuân. Lộc xuân như là dấu chỉ ân lộc trời ban hay như là sự chúc lành của Đấng hoá công tạo dựng đất trời cho ước nguyện ngày xuân.
Ước mơ ngày xuân luôn là những ước mơ chân thực nhất, vì nó chính là nỗi khát khao từ trong sâu thẳm của từng người, là nỗi niềm riêng mà người ta muốn đổi thay cuộc đời hoà nhịp với sự đổi thay của đất trời.
Ước mơ có thể là những dự định mà ta muốn thực hiện trong cuộc đời. Nhưng dầu sao, ước mơ vẫn là những điều vượt ngoài tầm tay, là những hoài bão, mong ước nhưng chưa đạt được hay chưa có cơ hội thực hiện.
Ngày xuân chúng ta trao gởi nỗi niềm ước mơ của mình cho Đấng Tạo hoá – Đấng Càn Khôn. Ngài là Đấng làm cho đất trời thay đổi theo bốn mùa: Xuân – Hạ – Thu – Đông. Và chỉ có Ngài mới làm cho ước mơ ngày xuân trở thành hiện thực. Vì “mưu sự tại nhân – thành sự tại thiên”. Sự toan tính là của con người, nhưng điều đó có thành hiện thực hay không lại tùy thuộc vào ơn ban của Trời. Đây cũng là niềm tin của người kytô hữu, vì mọi sự đều nhờ bởi ơn Chúa, chính Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành, là Đấng phù trợ và bảo vệ cuộc đời chúng ta. Niềm tin này không phải là niềm tin mông lung, nhưng dựa trên chính lời hứa của Chúa Giêsu: “Các con đừng lo chi ngày mai sẽ ra sao. Hãy xem chim trời, hãy nhìn xem hoa huệ ngoài đồng, chúng không hề lo lắng ngày mai sẽ ra sao”.
“Hãy trút mọi nỗi lo âu cho Người và Người sẽ lo cho anh em”. Chúng ta hãy dâng lên Chúa Xuân những ước mơ, những hoài bão của chúng ta trong niềm tín thác vào Chúa. Xin cho ước mơ ngày xuân của chúng ta được Thiên Chúa chúc phúc cho một năm an khang thịnh vượng. với hai câu đối:
Sống tu thân tích đức, mở rộng lòng, Sống sao cho đáng sống
Xuân phúc lộc bình an, tràn muôn lối, Xuân mãi vẫn là xuân
Amen.
53. MỒNG MỘT TẾT NHÂM THÌN 2012: TẠ ƠN VÀ CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Người Việt Nam chúng ta có một tập tục rất đẹp trong ngày đầu năm mà những người thờ Trời hay thờ Ông Bà họ thường làm đó là sáng sớm ngày mồng một, người ta làm một ít đồ ăn hoặc là trái cây và một ít hoa tươi đứng trước Bàn Thiên ở cửa nhà hoặc Bàn thờ Tổ tiên trong gia đinh để thắp lên một nén nhang với lòng thành biết ơn trời đất và tổ tiên ông bà.
Kính thưa quý OBACE, đối với người Việt Nam Công Giáo, tập tục tốt đẹp ấy được thể hiện trong giờ phút đầu tiên của năm mới Nhâm Thìn này, chúng ta họp nhau không phải trước bàn thiên mà là trước tôn nhan Thiên Chúa, để dâng lên Chúa tâm tình Tạ Ơn và cầu xin Chúa ban cho một Năm Mới bình an, đồng thời cũng là nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng điều khiển cả vụ trụ này và tất cả mọi việc xảy ra đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cũng vì thế con người luôn luôn cảm thấy mình nhỏ bé và hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Sự lệ thuộc vào Thiên Chúa không làm hạ thấp giá trị con người, nhưng lại làm gia tăng phẩm giá của con người vì con người chúng ta đã dược Thiên Chúa yêu thương tạo dựng, cứu chuộc, được nhận làm con và Thiên Chúa còn quan phòng ban cho muôn điều kỳ diệu tốt đẹp cho con người.
Các bài đọc được chọn cho ngày Mồng Một Tết nhắm đến các ý tưởng ấy- Trước hết bài sách Sáng Thế nhắc lại cho chúng ta về công trình tạo dựng của Thiên Chúa, chính Ngài dựng nên trời đất tinh tú muôn loài và cũng chính Ngài là Đấng điều khiển để cho bốn mùa luân chuyển thay đổi nối tiếp nhau, để làm nên nhịp sống cho con người và phân định thời gian cho vũ trụ. Cũng mặt trời ấy, cũng ánh nắng ấy, nhưng những ngày đầu năm này, chúng ta nhìn thấy mọi sự đều khác, từ vạn vật đến con người như đang khoác lên mình một bộ áo mới một sức sống mới của mùa xuân sau những ngày mùa đông lạnh giá. Cũng chính vì thế, mà mọi người đều muốn bắt đầu một năm mới với một sư đổi mới, một kế hoạch mới và một quyết tâm mới. Song vì con người ý thức được rằng: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” kế hoạch là của mỗi người đưa ra, song sự thành hay bại còn do trời ban hay nói theo ngôn ngữ nhà đạo của chúng ta đó là: Con người cố gắng với hết khả năng của mình còn kết qua thì phó dâng cho Chúa. Ý thức như thế để chúng ta không quá cậy dựa vào sức mình, nhưng biết khiêm nhường tạ ơn Thiên Chúa về những thành quả chúng ta đã đạt được và bằng lòng với những gì Chúa ban đồng thời cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho những toan tính của chúng ta trong năm mới.
Trong bài đọc hai Thánh Phaolô đã khuyên cộng đoàn Philipphê hãy luôn vui mừng và tín thác vào Thiên Chúa, niềm vui cũng là ước nguyện của ngày đầu năm: Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên… Anh em đừng lo lắng gì hết nhưng trong khi cầu nguyện hãy trình bày ước vọng lên cùng Chúa. Như thế có nghĩa là chúng ta sẽ vẫn phải sống và làm việc, vẫn gặp những thành công và thất bại, vui và buồn, nhưng khác ở chỗ là dù trong những hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn giữ được niềm vui và sự bình an trong tâm hồn, niềm vui và sự bình an này là bình an vì có Chúa ở trong chúng ta, và tin rằng Chúa đang điều khiển cuộc đời chúng ta. Chúng ta cũng vẫn phải lo toan cho cuộc sống, song chúng ta không lo lắng theo kiểu của những người không có niềm tin, nhưng lo liệu công việc trong sự trợ giúp của Thiên Chúa và nhất là làm mọi công việc thường ngày trong tinh thần cầu nguyện tin tửơng phó thác. Khi sống và làm việc như thế, chúng ta sẽ càm nhận được niềm vui trong chính công việc của mình và sẽ thấy tâm hồn mình thực sự bình an.
Ước nguyện Bình an cho gia đình là một trong những ước nguyện đầu tiên của năm mới, thế nhưng để có bình an đòi mỗi người phải nỗ lực thật nhiều. Trước hết là phải tìm được sự bình an trong tâm hồn, sự bình an này đến từ nơi Thiên Chúa, và chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng, đó là sự bình an của một tâm hồn thanh thản trước mặt Thiên Chúa, một tâm hồn được thứ tha và chữa lành nhờ Bí tích Giải tội, một tâm hồn luôn sống thuận thảo với Chúa, tức là không để mình sống trong tình trạng thù nghịch tội lỗi trước mặt Thiên Chúa, siêng năng gặp gỡ Thiên Chúa trong công việc, trong cầu nguyện trong các việc phụng thờ Thiên Chúa.
Kế đến là sự bình an đối với nhưng người chung quanh, tức là phải dám gỡ khỏi tâm hồn mình những bất hòa những bất đồng và xung khắc đối với vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, láng giềng, hãy bước đến với nhau trong sự tha thứ, làm hòa và thông cảm, đây cũng là nét đẹp của người Việt Nam, mỗi dịp tết gặp nhau, người ta thường xin lỗi nhau về những gì làm mất lòng nhau trong năm cũ, cũng vậy, năm mới, chúng ta cũng cần đổi mới lại tương quan tình nghĩa giữa những người thân và anh em, gạt bỏ đi những tranh chấp để đến với nhau và nhìn nhau một cách chân tình hơn hãy can đảm nói với nhau một lời xin lỗi và tha thứ.
Ước nguyện bình an trong công việc là một ước nguyện thật tốt, vì ai làm nghề gì thì cũng mong muốn được thuận lợi bình an. Bình an ở đây không chỉ là tránh khỏi rủi ro tai nạn, nhưng sự bình an thật sự chỉ có ở những con người có những cách làm việc trong tôn trọng sự công bằng và bác ái, tôn trọng sự thật, không gian dối không lừa đảo, và biết tôn trọng quyền lợi của người khác. Kinh doanh buôn bán với một lương tâm ngay thẳng như thế thì mới có được sự bình an trong công việc và bình an trong tâm hồn.
Thịnh vượng là một trong những ước nguyện đầu năm, giàu có sung túc là một ước muốn tốt đẹp và theo truyền thống của Kinh Thánh thì sự giàu sang còn là dấu chỉ sự chúc lành của Thiên Chúa, thế nhưng làm giàu bằng cách nào và sử dụng sự giàu sang Chúa ban như thế nào mới là điều quan trọng.
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ cho chúng ta cách thế sống và vui hưởng những của cải Chúa ban đó là tin tưởng và phó thác tất cả cho Chúa: Đừng lo lắng cho ngày mai vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Nói như thế không có nghĩa là chúng không lo lắng và không suy nghĩ đầu tư. Chúng ta không được phép ỷ nại vào sự quan phòng của Chúa để lười biếng, nhưng cũng đừng lo lắng đến quá mức về cái ăn cái mặc cho ngày mai, lo như kiểu của người không có niềm tin: Chúng ta sẽ ăn uống gì mặc gì? Trái lại chúng ta biết lo liệu và tin rằng Thiên Chúa là cha chúng ta Ngài biết những nhu cầu những ước muốn của chúng ta ngay trước khi chúng ta mở miệng cầu xin, và Ngài sẽ trợ giúp chúng ta, vì thế hãy sống thật tốt giây phút hiện tại của ngày hôm nay và vui hưởng những gì Chúa ban cho ngày hôm nay.
Thế nhưng Chúa vẫn lưy ý chúng ta rằng dù ăn gì, uống gì và làm gì thì cũng vẫn cần có một ưu tiên tuyệt đối đó là: Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều khác Chúa sẽ ban cho. Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính có nghĩa là lo tìm kiếm và làm giàu trước mặt Thiên Chúa, đừng chỉ làm giàu của cải vật chất nhà cửa xe cộ mà để mình nghèo nàn công phúc trước mặt Chúa. Nhiều người cầu nguyện đầu năm cho gia đình mình thịnh vượng vật chất, mà quên cầu xin cho mình và gia đình được giàu có thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa, và không làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Làm giàu trước mặt Thiên Chúa là làm nhiều việc lành và công phúc, việc lành ở đây chính là những việc tông đồ, bác ái, là công việc phục Chúa và phục vụ anh em, và còn là những việc hy sinh thầm lặng, là hy sinh tiền của thời giờ, sức khỏe cho Chúa; Công phúc trước mặt Chúa chính là sự bác ái, tình yêu thương giúp đỡ, sự chia sẻ cụ thể với những người bất hạnh, những người đang cần đến chúng ta. Vì chỉ những công việc cụ thể như thế mới làm cho chúng ta trở nên giàu có thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa mà thôi.
Cầu chúc cho mọi người mọi gia đình một Năm Mới đầy tràn Bình an của Chúa và sự Thịnh vượng không chỉ của cải vật chất và là thịnh vượng, giàu có của cải thiêng liêng trước mặt Thiên Chúa, cầu chúc cho mọi gia đình luôn hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Amen.
54. THÁNH LỄ MINH NIÊN MỒNG MỘT TẾT (Năm Canh Tý)
1. “Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày và đêm, và trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm trời và giãi sáng mặt đất” “Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp.”
Bước vào đầu năm mới một câu hỏi tự nhiên đến với mỗi người chúng ta cùng sống trong một thời gian mà tại sao nó lại mang những ý nghĩa vô cùng khác biệt nơi người này và nơi người khác? Thời gian có thực sự là tốt đẹp như “Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp” mà bài sách Sáng Thế vừa công bố? Trải qua giòng đời, người thì thấy nó quý báu đến nỗi phải tranh thủ từng giây phút, người thì lại thấy nó như là một gánh nặng đến nỗi mong nó mau chấm dứt.
Câu trả lời đến từ những suy nghĩ của chúng ta về SỰ SỐNG, và tùy theo ý nghĩa về sự sống mà thời gian có ý nghĩa thế nào.
Để cho sự sống, và đặc biệt là sự sống của con người xuất hiện trong vũ trụ, Thiên Chúa đã phải tạo dựng không gian, thời gian với sự hoàn mỹ thế nào để có thể làm cho SỰ SỐNG nên giống Hình Ảnh Ngài. Nói khác đi khi SỰ SỐNG không còn là Hình Ảnh Thiên Chúa ở những mức độ khác nhau thì nó cũng hủy hoại luôn sự tốt đẹp của không gian và thời gian ở những mức độ khác nhau. Và đó chính là điều chúng ta cảm nghiệm được ngày hôm nay, khi con người không chấp nhận Thiên Chúa trong lòng mình, thì họ cũng đang ra sức tàn phá môi trường sống của mình.
2. Để trả lại cho thời gian vẻ tốt đẹp ban đầu, Thiên Chúa đã phải sai CON MỘT Ngài sinh ra trong thời gian để như thánh Phaolô nói “giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô”, cũng là gìn giữ lòng trí chúng ta về SỰ SỐNG trong Chúa Giêsu. Bởi vì với Chúa Giêsu thì thời gian đã đi đến sự viên mãn như chính Người công bố "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,15). Chính SỰ SỐNG của Chúa Giêsu là ý nghĩa, là ánh sáng cho thời gian một ý nghĩa tốt đẹp nhất, như Người đã tuyên bố “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối. ”. Vì thế Thánh Phaolô mới nói “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi.” Nhưng điều này không thật dẽ dàng, vì vậy thánh Tông đồ mời gọi “Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ.”
3. Cầu nguyện để chúng ta không dùng thời gian để tìm kiếm những gì “dân ngoại tìm kiếm” nhưng “tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người”. Và đó là ý nghĩa đích thật của thời gian. Đức Ki-tô là hiện thân của nước Thiên Chúa. Đức Kitô đã đến. Người không những ở trong chúng ta mà còn ở giữa chúng ta nơi những người anh chị em sống chung quanh ta. Và hơn nữa, Người còn đồng hóa mình với những người nghèo nàn, bất hạnh. Vì vậy, chúng ta không thể chỉ tìm Chúa trong nhà thờ hay khi đọc kinh cầu nguyện mà còn phải tìm và phục vụ Người trong cuộc sống, nơi tha nhân, nhất là những người chúng ta có bổn phận và trách nhiệm. Chúng ta khát khao ước ao nước Cha hiển trị bởi vì đó là lẽ sống đích thực của chúng ta – sống trong nước tình yêu. Vì thế ý nghĩa thời gian của chúng ta còn phải là thời gian để xây dựng Giáo Xứ thành cộng đoàn của Đức Kitô vậy.
4. Xin cầu chúc quý Cha, Quý Thầy, Quý Soeurs và mọi gia đình anh chị em NĂM MỚI LUÔN TRÀN ĐẦY SỰ SỐNG CỦA ĐỨC KITÔ.
55. MÙNG MỘT TẾT Mt 6,25-34--PHÓ THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34).
2. CÂU CHUYỆN:
1) HỌA PHÚC KHÓ LƯỜNG:
Có một người đi biển, gặp cơn bão lớn, chìm tàu, anh may mắn sống còn và trôi dạt vào một hoang đảo. Muốn tồn tại, anh phải tự lo tất cả từ hai bàn tay trắng. Một cái nhà nhỏ trú mưa trú nắng, hàng rào chống thú dữ, tự làm quần áo che thân, tìm kiếm thức ăn. Khó nhất là lửa. Khó khăn lắm anh mới dùng đá đập vào nhau để có được lửa. Anh nuôi lửa cẩn thận, không để lửa tắt. Một đêm nọ, khi anh đi tìm săn tìm thức ăn về, thì anh thấy ngôi nhà của mình đã cháy rụi! Một cơn gió lốc làm ngọn lửa bùng lên và cháy rụi căn nhà anh. Bao nhiêu công khó gầy dựng cái “gia sản” tối thiểu để được sống còn bây giờ ra tro bụi! Anh ngửa mặt lên trời than trách sao Chúa lại có thể đối xử với anh tệ bạc đến thế!
Mệt mỏi và chán nản, anh ngủ thiếp đi trong đêm thảm họa ấy!
Bừng con mắt dậy, trong ánh nắng bình minh rực rỡ của ngày mới trên hoang đảo, anh chợt thấy một vết chấm to xa xa trên bờ biển. Nhìn kỹ, anh nhận ra đó là một con tàu.
“Chúng tôi đã thấy ngọn lửa làm hiệu của anh. Chúng tôi đến cứu giúp anh đây!”. Những người trên tàu đã tìm gặp anh và nói với anh như thế.
Anh chắp tay ngửa mặt lên trời, nghẹn ngào nói: “Tạ ơn Chúa! Xin tha thứ cho con!”
2) TÁI ÔNG THẤT MÃ, AN TRI HỌA PHÚC
Sách Hoài Nam Tử có ghi lại một câu chuyện dạy đời như sau:
Một ông lão ở gần biên giới giáp với nước Hồ phía Bắc nước Tàu, gần bên Trường thành có nuôi một con ngựa. Một hôm con của ông lão dẫn ngựa ra gần biên giới cho nó ăn cỏ, vì lơ đễnh nên con ngựa vọt chạy qua bên nước Hồ mất dạng. Những người trong xóm nghe tin đến chia buồn với ông lão. Ông lão bình tỉnh nói: “Các ông bà đừng lo cho tôi. Biết đâu con ngựa chạy mất kia sau này sẽ đem lại những điều tốt cho tôi”. Vài tháng sau, con ngựa chạy mất tự nhiên quay về nhà, dẫn theo một con ngựa của nước Hồ, cao lớn và mạnh mẽ. Người trong xóm hay tin liền đến chúc mừng ông lão và nhắc lại lời ông đã nói trước đó. Ông lão không tỏ vẻ vui mừng mà nói: “Ông bà đừng vội chia vui với tôi. Biết đâu việc được ngựa Hồ nầy về sau sẽ dẫn đến tai họa cho tôi”.
Quả nhiên con trai của ông lão rất thích cưỡi ngựa, thấy con ngựa Hồ cao lớn mạnh mẽ thì thích lắm, liền nhảy lên lưng cỡi nó chạy đi. Con ngựa Hồ chưa thuần nết, chưa quen người nên nhảy loạn lên, khiến đứa con trai ông lão bị ngựa Hồ hất xuống đất, bị gãy một xương đùi thành ra bị què chân mang cảnh tật nguyền. Người trong xóm vội đến chia buồn với ông lão vì không ngờ con ngựa không tốn tiền mua nầy lại gây ra tai họa cho con trai của ông như thế. Ông lão thản nhiên nói: “Xin các vị cũng đừng lo cho tôi, con tôi bị ngã gãy chân, tuy bất hạnh đó, nhưng biết đâu nhờ cái họa nầy mà về sau sẽ biến thành phúc đó”.
Một năm sau, nước Hồ kéo quân sang xâm lấn Trung nguyên. Các trai tráng trong vùng biên giới đều phải sung vào quân ngũ để ngăn chặn giặc Hồ. Quân Hồ thiện chiến, đánh tan đạo quân mới nhập ngũ và nhiều trai tráng đều bị tử trận, riêng con trai ông lão vì bị què chân được miền đi lính, nên còn sống sót.
3. THẢO LUẬN: 1) Qua câu chuyện “Tái ông thất mã, an tri họa phúc” nghĩa là: Lão ông mất ngựa, họa hay là phúc?, bạn suy nghĩ thế nào về các điều phúc họa trong cuộc sống của bạn? 2) Tin Mừng trong thánh lễ Mùng Một Tết hôm nay dạy thế nào về sự quan phòng của Thiên Chúa trước những điều may rủi gặp phải giữa đời thường?
4. SUY NIỆM:
1) Nội dung Tin Mừng ngày đầu Năm Mới:
Tin Mừng thánh lễ ngày đầu Năm Mới hôm nay, Đức Giê-su đã dạy môn đệ đừng quá lo lắng về đời sống cho bản thân nhưng phải tin cậy vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa qua ba ví dụ cụ thể như sau:
Một là loài chim trời không gieo không gặt nhưng Cha trên trời vẫn nuôi sống chúng.
Về việc sống lâu thì dù lo lắng cũng không thể kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc!
Về cơm ăn áo mặc: Như loài hoa huệ ngoài đồng không kéo sợi may mặc, thế mà Cha trên trời vẫn cho chúng mặc áo đẹp hơn long bào của vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc.
Từ đó Đức Giê-su dạy các môn đệ phải biết phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa: Nếu loài chim trời chẳng đáng giá là bao, và loài hoa đồng nội chỉ sớm nở tối tàn mà Cha trên trời còn chăm sóc cho như thế, phương chi con cái loài người chúng ta còn đáng giá hơn muôn phần lại không được Thiên Chúa quan phòng gìn giữ sao? Và Đức Giê-su kết luận: "Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó".
2) Phân biệt lo liệu với lo lắng:
“Đừng quá lo lắng” không có nghĩa là “không cần lo liệu”. Người biết lo liệu là người khôn ngoan. Tùy sự tính toán lo liệu mà người ta có thể thấy mức độ khôn ngoan của một người. Chúa phán: “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cái tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa”. (Lc.14,28).
Biết lo liệu không chỉ để làm tốt công việc thường nhật, mà còn thăng tiến trong Đức Tin, trong đàng Nhân Đức. Đó không chỉ là nỗ lực bình thường của con người mà còn là ơn Chúa Thánh Thần. như lời cầu xin ơn Thánh Thần trong lễ ban phwps Thêm Sức:
“Lạy Chúa, xin ban Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi đến trong những người này. Xin ban cho nhứng người này thần trí khôn ngoan và thông hiểu; thần trí lo liệu và sức mạnh; thần trí suy biết và đạo đức; xin ban cho người này đầy ơn kính sợ Chúa. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con”
3) Phải tránh thói ỷ lại lười biếng và vô trách nhiệm:
Chim trời tuy không phải vất vả gieo gặt như loài người, nhưng chúng cũng phải bay đi đó đây để tìm mồi. Hoa huệ ngoài đồng tuy không phải dệt may nhưng cũng phải đâm rễ tìm chất bổ dưỡng. Đàng khác chính Đức Giê-su đã nói: "Ngày nào có cái khổ của ngày ấy" (Mt 6,34).
Không những Đức Giê-su không muốn chúng ta rơi vào thói hư lười biếng vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải chịu khó làm việc để góp phần làm cho môi trường mình đang sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, cho thế giới này ngày một hoàn thiện hơn. Ngay từ khi dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25,15-25), Đức Giê-su đã đòi mỗi đầy tớ phải làm lợi cho chủ gấp đôi các nén bạc được trao, chứ không được mang đi chôn giấu. Như vậy, chúng ta có bổn phận phải lo lắng, tiên liệu cho tương lai. Điều Chúa không chấp nhận là quá lo lắng về vật chất, coi nó là cùng đích đời mình.
4) Tiên vàn phải lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa:
Người môn đệ Đức Giê-su phải coi trọng Nước Thiên Chúa. Những điều khác cũng cần phải quan tâm, nhưng không được coi chúng hơn Nước Thiên Chúa. Người ta thường coi tiền bạc vật chất là số một và có khả năng giải quyết được mọi vấn đề của con người. Nhưng thực tế chứng minh suy nghĩ ấy thật sai lầm. Thực ra tiền bạc của cải là phương tiện cần để giúp con người có đời sống tốt hơn như người ta thường nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc”. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc. Nó chỉ tốt khi chúng ta biết dùng nó như phương tiện, như đầy tớ của chúng ta. Nhưng tên đầy tớ tiền bạc này lại rất có uy, rất dễ tự coi mình là ông chủ lúc nào không hay. Khi nó đã nắm quyền làm chủ, nó sẽ bắt chúng ta là đầy tớ phải phụng sự nó với bất cứ giá nào.
Ưu tiên tìm nước Thiên Chúa là phải chịu khó làm việc với hết khả năng, tìm kiếm đối sách và nhìn xa trông rộng để giải quyết các vấn đề mới phát sinh theo khả năng của mình. Cần tránh thái độ ỷ lại vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Khi gặp sự khó, chúng ta tránh thụ động, nhưng phải biết chủ động xin ơn Thánh thần soi sáng để tìm ra cách giải quyết theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su trong Tin Mừng. Cần thực hành lời người xưa dạy: “Hãy làm hết sức mình, rồi trời sẽ giúp”, hoặc : “Hãy thắp sáng lên ngọn đèn, chứ đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Hôm nay Chúa đã dạy chúng con phải biết ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính, còn những thứ khác như ăn gì mặc gì, thì phó thác vào tình thương quan phòng của Chúa Cha trên trời. Xin cho chúng con ý thức rằng: “Đồng tiền chính là đầy tớ tốt nhưng lại là ông chủ xấu”. Nhờ biết sử dụng đồng tiền phụng sự cho Nước Chúa và phục vụ tha nhân, mà chúng con sẽ có bình an nội tâm và sẽ nên chứng nhân của Chúa trước mặt người đời, góp phần xây dựng một thế giới mới là Nước Trời đời sau.- AMEN.
11/02 Chúa Giêsu và bà mẹ ngoại giáo
- Viết bởi Mc 7, 24-30
Chúa Giêsu và bà mẹ ngoại giáo.
Thứ Năm tuần 5 thường niên.
"Những con chó ở dưới gầm bàn cũng ăn những mụn bánh rơi của con cái"
Lời Chúa: Mc 7, 24-30
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt Tyrô và Siđon. Vào một nhà kia, Người không muốn ai biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được.
Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người. Bà đó là người dân ngoại, dòng giống Syrô-Phênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà.
Người nói: "Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó". Nhưng bà trả lời và thưa Người rằng: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái".
Người liền nói với bà: "Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi". Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Những mảnh vụn
Suy niệm:
Để có được cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với người phụ nữ,
hai bên đã phải vượt qua nhiều đường ranh, nhiều rào cản.
Đức Giêsu đã bỏ đất Ítraen để đến vùng Tia, vùng đất ô uế của dân ngoại.
Người đàn bà dân ngoại đã vượt qua sự ngăn cách với người đàn ông Do thái.
Qua câu đáp của bà, bà cũng vượt qua được sự lụy phục thường gặp nơi phụ nữ
sống trong một nền văn hóa do đàn ông làm chủ ở thế kỷ đầu.
Trong Tin Mừng Máccô, đây là phép lạ duy nhất nhắm đến dân ngoại.
Rõ ràng Đức Giêsu không có ý làm phép lạ trừ quỷ này,
Chúng ta ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu từ chối giúp bà ta, rồi lại đổi ý.
Nhiều người không tin đây là cách cư xử vốn có của Đức Giêsu
trước nỗi đau của trái tim người mẹ có đứa con bị quỷ ám.
Tuy nhiên, nên nhớ rằng sứ vụ của ngài không bao gồm dân ngoại.
Ngài chỉ được sai đến với dân Ítraen,
để rồi chính môn đệ ngài sẽ chịu trách nhiệm đến với dân ngoại.
Hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ.
Bà nài xin ngài đuổi quỷ ra khỏi con gái của bà,
nhưng bà đã phải nghe một câu trả lời rất khó chịu và có thể gây tổn thương.
“Hãy để con cái ăn trước,
vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con” (c. 27).
Đức Giêsu ví dân Do thái với những đứa con trong nhà,
còn dân ngoại là mẹ con bà, được ví với những chó con.
Con cái dĩ nhiên là có quyền ưu tiên rồi, được ăn bánh trước.
Bánh của con cái đương nhiên không nên ném xuống đất cho chó con.
Với người khác, câu trả lời gây sốc của Đức Giêsu có thể khép lại mọi hy vọng.
Nhưng đối với bà, chính câu này lại mở ra niềm hy vọng mới.
“Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn
cũng được ăn những mảnh vụn của lũ trẻ nhỏ” (c. 28).
Bà khiêm tốn nhận mình là chó con,
được nuôi trong nhà, nằm dưới gầm bàn lúc mọi người ăn uống,
nên thỉnh thoảng cũng được đám con cái cho ăn những mảnh bánh vụn.
Như thế những đứa con cũng chẳng giữ riêng tấm bánh cho mình.
Chúng cũng biết chia sẻ, thậm chí cho mấy chú chó con.
Hôm nay bà chẳng xin ngài cho tấm bánh trên bàn dành cho con cái,
Bà chỉ xin ngài cho vụn bánh dành cho chó con nằm dưới bàn.
Đức Giêsu hẳn hết sức bất ngờ với câu trả lời này,
vừa tin tưởng, hy vọng, vừa khiêm tốn, khôn ngoan.
Chính câu trả lời này đã chinh phục và làm cho Đức Giêsu đổi ý.
“Vì bà nói thế, bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” (c. 29).
Phép lạ này rất “lạ” vì Đức Giêsu đã đuổi quỷ từ xa,
và ngài cũng chẳng đưa ra một lời uy quyền nào để đuổi quỷ.
Khi người mẹ này về nhà, thì thấy con gái mình đã được bình an.
Chúng ta học được gì nơi cách cư xử của người phụ nữ?
Chúng ta học được gì nơi thái độ của Đức Giêsu?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
có những ngày con cảm thấy
đời sống thật nặng nề;
có những lúc con muốn buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa đẩy;
có những khoảng thời gian dài,
con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.
Xin cho con ánh sáng của Chúa
để con biết lối mà đi.
Xin cho con tấm bánh của Chúa
để con có sức mà dấn bước.
Xin cho con Lời của Chúa
để con vững một niềm tin.
Xin cho con sự sống của Chúa
để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,
niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu,
con thấy mình cần Chúa
trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp được sự hiện diện của Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: AN VÀ LOẠN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa tạo dựng tất cả vì con người và cho con người. Đặt mọi vật dưới chân con người. Cho con người đặt tên cho mọi sinh vật. Theo quan niệm Do thái, đặt tên trên ai là có quyền trên người đó. Thấy con người vẫn chưa vui, Thiên Chúa tạo dựng nên phụ nữ để làm bạn ngang hàng với người nam. Thuở ban sơ mọi thứ đều đẹp đẽ, ổn định trong trật tự: Thiên Chúa – con người – vạn vật. Mọi loài thanh thản an vui vì sống trong tự do, trong Thiên Chúa. Nam nữ không là đối tượng để chiếm đoạt hay thống trị. Nhìn nhau với tâm hồn thiên thần. Nên không hề xấu hổ (năm lẻ).
Nhưng ma quỉ đến phá vỡ tình trạng bình an trong tự do. Trật tự bị đảo lộn. Con người không còn vâng phục Thiên Chúa. Vạn vật nổi loạn muốn thống trị nhau. Nam nữ trở thành đối tượng chiếm đoạt. Nhìn nhau với ánh mắt thèm muốn. Vì thế trở thành ngẫu tượng. Sa-lo-mon khôn ngoan là thế mà cũng rơi vào lầm lạc khi để cho dục vọng chi phối. Để cho phụ nữ điều khiển. Vì thế rơi vào tôn thờ ngẫu tượng. Vì thế mất hết ơn nghĩa với Thiên Chúa. Mất hết quyền trên vạn vật. Đang là con cái trong nhà được ngồi trên bàn ăn bỗng nhiên trở thành chó con phải ngồi dưới gầm bàn. Đang tự do trở thành nô lệ. Đang giầu có bỗng mất tất cả (năm chẵn).
Muốn chuộc lại phải có đức tin mạnh mẽ. Như người phụ nữ Ca-na-an. Vượt qua hết mọi chướng ngại. Từ bỏ tất cả để trở về với Chúa. Tin nhận Chúa trên hết. Tất cả chỉ là phụ thuộc. Kể cả bản thân cũng chỉ là chó con dưới gầm bàn. Chúa là tất cả. Chúa là tuyệt đối. Nhờ đó thân phận được phục hồi. Từ chó con dưới gầm bàn trở thành con cái trong nhà. Được đồng bàn với Thiên Chúa. Được hưởng mọi ơn lành Chúa ban. Khi trật tự được vãn hồi, bình an trở lại. Ma quỉ phải ra đi. Bệnh tật chấm dứt. Và Thiên Chúa ngự trị.
Suy Niệm 3: Ơn cứu độ đại đồng
Trong nhật ký của mình, Mahatma Gandhi cho biết khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất say mê đọc Kinh Thánh, nhất là Bài Giảng Trên Núi, đến nỗi ông xác tín rằng Kitô giáo chính là câu trả lời cho nạn kỳ thị giai cấp đã từng hành hạ dân Ấn suốt bao thế kỷ, thậm chí ông còn muốn trở thành Kitô hữu nữa. Thế nhưng, một ngày nọ, khi đến nhà thờ dự lễ, ông bị người giữ cửa chặn lại và bảo ông phải đi lễ ở nhà thờ dành cho người da đen, kể từ đó, ông không bao giờ quay trở lại nhà thờ nữa.
Chúa Giêsu không bao giờ tỏ ra kỳ thị con người như thế. Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng. Cũng như các tác giả Tin Mừng khác, thánh sử Marcô cho thấy phần lớn hoạt động và thời giờ của Chúa Giêsu được dành cho người Do thái; chỉ sau khi sống lại, Ngài mới chính thức sai các Tông đồ truyền giảng Tin Mừng cho mọi người, bất luận là Do thái hay không Do thái. Thật ra ngay những năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã hé mở cho thấy chiều kích phổ quát của giáo lý và của ơn cứu độ mà Ngài mang lại. Ngoài những giáo huấn về tình huynh đệ đại đồng và thái độ không bài ngoại của Chúa Giêsu, Tin Mừng còn thuật lại các chuyến đi của Ngài tới vùng đất ngoại giáo, tại đây, Ngài cũng đã làm nhiều phép lạ, như trừ quỷ cho một thanh niên ở Gêrasa, cho một người câm ở miền Thập tỉnh nói được, và lần này trừ quỷ cho con gái của một phụ nữ Hy lạp gốc Phênixi.
Dựa vào những yếu tố trên, câu nói của Chúa Giêsu: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con" không thể giải thích đó là dấu biểu thi sự khinh miệt của Ngài đối với người khác đạo và khác tổ quốc; đúng hơn, Chúa muốn mọi người đừng quên ưu thế của người Do thái trong việc thừa hưởng ơn cứu độ, bởi vì Thiên Chúa đã chọn cha ông họ và muốn tỏ lòng trung thành với cha ông họ. Người Do thái được ưu tiên, chứ không phải là những người duy nhất được hưởng ơn cứu độ; vì thế, dù quan tâm săn sóc người Do thái nhiều đến đâu, Chúa Giêsu cũng không để trở thành vật sở hữu độc quyền của họ, Ngài vẫn có tự do bày tỏ tình thương đối với người khác.
Chúng ta chấp nhận sự tự do của Thiên Chúa trong việc ban phát ơn huệ và tình thương của Ngài. Dù ý thức mình chẳng là gì, chúng ta hãy tin rằng mình luôn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa. Với một Ðấng vô biên như Thiên Chúa, thì bất cứ hành vi nào của Ngài cũng có chiều kích vô hạn và quà tặng của Ngài cũng tràn trề sung mãn. Xin cho chúng ta cảm nhận được rằng Chúa đang yêu thương chúng ta và như thế là đủ cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Thế giới tha nhân
Thật vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người. Bà ta là người Hy-lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri-a. bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà. (Mc. 7, 25-26)
Để hiểu rõ câu chuyện gặp gỡ này, đừng quên rằng Chúa Giêsu là người Do thái. Theo tâm thức của người Do thái, chuyện gặp gỡ một người ngoại là điều không ổn, cũng giống như ta gặp một người nào đó không cùng chủng tộc với ta vậy.
Nhưng ở đây lòng khiêm tốn tháo gỡ tất cả, bởi lẽ lòng khiêm tốn là cánh cửa mở rộng. Trước tấm lòng cởi mở của người phụ nữ này, tâm hồn của Chúa Giêsu cũng mở rộng ra. Bà ta không phải là thành phần của dân giao ước, nhưng lòng tin của bà tiếp nối lòng tin của Áp-ra-ham. Bà ta đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đã làm thay đổi hoàn cảnh lịch sử lúc đó mà trở thành con cái của Chúa Cha. Nhờ Chúa Giêsu, Chúa Cha nhậm lời bà cầu xin. Thiên Chúa mở đường cho việc rao giảng tin mừng sau này.
Và để loan báo tin mừng này, chỉ cần yêu thương, trung thực cho đến cùng. Chỉ cần sống say mê nhiệt tình: khi người ta thực tâm thực tình để chỉ lo cho một chuyện, mọi chuyện khác đều thấy là tương đối thôi.
Qua bai Phúc âm hôm nay, Chúa muốn mở mắt mở lòng ta để hướng về thế giới những người ngoại. Họ là những con người biết thu lượm những mảnh vụn từ bàn ăn khi họ đòi hỏi ta phải tôn trọng sự thật, công bằng, khi họ lo lắng cho việc phục vụ những người nghèo, khi họ muốn dỡ đi những hàng rào ngăn cách do những đặc quyền đặc ân của ta đã dựng lên.
Cuộc sống của ta có loan báo điều mới lạ này không, một điều làm cho ta có được trái tim nhân lành, thực nhân lành, theo đúng nghĩa của lời “không có ai nhân lành cả trừ một mình Thiên Chúa”?
Suy Niệm 5: NIỀM TIN CẦN ĐƯỢC TÔI LUYỆN QUA THỬ THÁCH (Mc 7,24-30)
Trong đời sống đức tin của mỗi người, nhiều khi chúng ta phải mần mò đi trong đêm tối! Có những lúc tưởng chừng như Chúa đang bỏ rơi chúng ta! Có khi cuộc đời chúng ta đi vào ngõ cụt với biết bao thách đố mà chúng ta khó hòng vượt qua.
Tuy nhiên, khi chúng ta không còn biết cậy dựa vào ai, thì lúc đó Chúa có mặt và giải thoát chúng ta cách nhiệm mầu. Điều quan trọng là chúng ta có dám lỳ trong đức tin hay không mà thôi.
Tin Mừng hôm nay thuật lại gương sáng của người đàn bà dân ngoại. Một mẫu gương về niềm tin tuyệt đối vào Đức Giêsu. Bà thừa biết mình là người dân ngoại, nên không thể có lý do gì để xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà. Thế nhưng, niềm tin và sự hy vọng đã làm cho bà vượt qua hàng rào ngăn cách đó, nên bà đã mạnh dạn đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà.
Quả thật, Đức Giêsu đã không chữa ngay, mà ngược lại, Ngài đã nói một câu rất nặng để thử thách đức tin của bà, Ngài nói: “Phải để con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà mà nén cho lũ chó con” (Mc 7,27). Người phụ nữ này đã không nản lòng, nhưng qua câu nói đó, bà lại càng khiêm tốn và đức tin mỗi lúc lại mãnh liệt hơn, bà thưa với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”(Mc 7, 28).
Chính đức tin mãnh liệt như thế, nên phép lạ đã xảy ra. Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và cứu thoát con gái bà khỏi Quỷ ám.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên trì, trung thành và vững tin nơi Chúa. Bởi lẽ đức tin chỉ có thể trưởng thành khi chúng ta trải qua đau khổ và được tôi luyện bằng nghịch cảnh. Nhờ thế, chúng ta mới có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa, đồng thời xứng đáng trở nên chứng nhân về niềm hy vọng cho con người hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con vững tin vào quyền năng của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Kiên nhẫn - khiêm nhường trong đức tin vững mạnh
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là ông lấy hết sức lực, và la lớn: “Lạy Chúa”.
Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế”. “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất”. Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra”. Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!” (Trích “Món quà giáng sinh”).
Suy niệm
Người phụ nữ đau khổ vì hằng ngày chứng kiến cảnh quỷ dữ hành hạ con gái bà. Bà đã tìm thầy chạy thuốc khắp nơi rồi nhưng con bà vẫn không khỏi...
Chúa Giêsu đang ở vùng đất Tyrô và Siđon, rất xa quê hương bà. Thế nhưng bà đã tìm đến gặp Ngài. Tuy nhiên có sự ngăn cách giữa bà và Chúa Giêsu vì Người là người Do Thái mà người Do Thái lại không tiếp xúc với dân ngoại như bà, dòng giống Syrôphênixi. Tuy nhiên bà đến và phục lạy Ngài. Phục lạy là thái độ chỉ dành cho thần minh, như vậy có nghĩa là bà đã tôn vinh Ngài là vị thần.
Chúa Giêsu hiền lành, luôn chạnh lòng trước nỗi khổ của người dân (x. Mc 6,30-34) và sẵn sàng đáp trả… Thế nhưng Ngài có vẻ dửng dưng, thoái thác trước nỗi khổ tâm của người đàn bà đau khổ này. Thái độ của Chúa Giêsu đáp lại làm cho chúng ta bị “sốc”: “Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó” (Mc 7,27). Nhưng bà càng tỏ ra cương quyết và đặt trọn niềm phó thác vào tình thương cùng với quyền năng của Ðức Giêsu: “Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái” (Mc 7,28).
Với cách đối xử có vẻ phân biệt chủng tộc, giai cấp… và dường như dửng dưng khinh miệt, nhưng trước niềm tin mạnh của bà, Ngài vẫn ban cho bà điều mà bà kêu xin. Ngài muốn dạy cho bà và qua đó cũng dạy cho chúng ta sự kiên nhẫn và khiêm nhường trong một đức tin vững mạnh trải qua gian nan thử thách.
Xin Chúa cho chúng ta một đức tin kiên trung, đức cậy trông vững vàng, để không khó khăn thử thách nào có thể tách chúng ta ra khỏi đức tin vào Ngài.
Ý lực sống: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ” (Mt 24,13).
Suy Niệm 7: Chúa trừ quỉ ở miền Tyrô
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu chữa trừ quỉ cho người đàn bà xứ Phênixi. Qua phép lạ này chúng ta thấy người đàn bà ngoại giáo này được Chúa chữa bệnh cho con bà nhờ bà có những đặc tính này:
- Bà là một người ngoại, nên lẽ ra theo kế hoạch hành động của Chúa Giêsu, bà không được hưởng những ơn phúc của Chúa Giêsu, bởi vì theo kế hoạch ấy, Ngài đến ban ơn cho người Do thái trước. Vì thế, ban đầu Ngài đã từ chối bằng những lời rất nặng “Phải để cho con cái ăn no trước đã. Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”.
- Nhưng lòng tin kiên trì cùng với lòng khiêm nhường của bà đã biến bà thành “con cái trong nhà” nên Chúa Giêsu đã ban ơn theo lời bà xin.
2. Người đàn bà dân ngoại trong câu chuyện hôm nay có nhiều đức tính đáng chúng ta chú ý và bắt chước:
- Chúng ta thấy bà là người rất khiêm tốn, dám chịu nhận mình là “chó con: “Thưa Ngài đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những mảnh vụn trên bàn rơi xuống”.
- Bà có một đức tin kiên trì: dù bị khước từ ngay từ lúc đầu bằng những lời rất nặng nề nhưng bà vẫn không nản lòng. Lòng tin của bà không hề lay chuyển.
- Bà có một lòng phó thác mạnh mẽ nơi Chúa: Chúa Giêsu bảo bà “Cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” Mc 7,29). Dù chưa thấy hiệu quả trước mắt, nhưng vì tin lời Chúa nên bà ra về trong tin tưởng.
3. Trước sự cầu xin của người đàn bà ngoại giáo (không thuộc Do thái giáo), lời trả lời đầu tiên của Chúa Giêsu nghe có vẻ nặng nề và miệt thị, nhưng cũng qua đó cho thấy niềm tin của người đàn bà rất mạnh vượt lên trên mọi ngăn cách tôn giáo, sự kỳ thị và có thể cả sự khinh khi.
“Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”. Câu nói này có vẻ mang dáng dấp của một sự khinh miệt và xúc phạm danh dự, nhưng thật không ngờ người đàn bà không nao núng theo tính tự ái mà còn thân thưa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”. Trước đức tin cao độ như thế, Chúa Giêsu đành chào thua mà ban cho bà điều bà xin. Bà tin lòng thương xót của Chúa bao la, chắc chắn cũng vượt ra bên ngoài dân Do thái, nên bà có thể hưởng được những mảnh vụn của lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa thương yêu mọi người, muốn cứu rỗi mọi người. Lòng tin khiêm tốn bền vững của con người càng chiếm được tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa.
4. Tại sao một số người có đức tin mạnh mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém? Tại sao một số người thấy đức tin là điều dễ dàng đang khi số khác lại thấy đó là điều khó khăn? Người đàn bà ngoại giáo này biết mình là người ngoại, không hy vọng được Chúa đoái nghe vì người Do thái không ưa người Canaan, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm khó chịu và muốn xua đuổi của các Tông đồ đối với bà? Nhưng bà tin rằng thế nào Chúa cũng phải thương bà. Bà có lòng tin như một người ngoại khác là viên bách quan kia: “Thưa Thầy, tôi chẳng đáng Thầy vào nhà tôi, song xin Thầy chỉ phán một lời”(Mt 8,8). Nghe vậy, Chúa Giêsu bỡ ngỡ nói với các kẻ theo Ngài: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin như thế nơi một người nào trong Israel’(Mt 8,10).
5. Đọc Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu là người không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài chỉ muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào trong lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành hơn. “Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết (Mc 7,24).
Chúa sống như vậy, còn chúng ta thì sao? Hãy tập cho mình biết sống âm thầm như Chúa.
Newton, một nhà vật lý học và thiên nhiên học trứ danh, sau những thành công hiển hách của sự tìm tòi, ông đã viết: “Không biết thế giới nghĩ về công việc của tôi như thế nào, nhưng tôi, trong tất cả các sự tìm tòi của tôi về khoa học, tôi chỉ như một đứa trẻ con chơi ngoài bãi biển. Có lẽ, đôi khi cũng đã tìm được những hạt sỏi tròn hơn, những vỏ hến đẹp hơn những cái bạn tôi tìm, nhưng biển mênh mông của chân lý, dưới con mắt tôi vẫn còn mầu nhiệm quá”.
Văn sĩ Walter Scott người Anh đã nói một cách rất nhũn nhặn, sau bao nhiêu năm làm việc chuyên cần: “Trong đời sống của tôi, cái dốt đã ngăn tôi lại và dày vò tôi. Người ta càng biết nhiều bao nhiêu thì lại phải khiêm nhường bấy nhiêu, người ta càng học nhiều thì lại càng thấy mình còn dốt”.
Truyện: Giữ vững lòng tin sắt đá.
Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị linh mục Hungari và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.
Khi cửa nhà khách được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị linh mục rằng: “Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các linh mục bầy ra để làm mê hoặc đám dân nghèo để giúp những người giầu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa”.
Vị linh mục cười và trả lời rằng: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật”.
“Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi”, vị sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào đầu linh mục và hăm dọa: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng”.
Vị linh mục điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa”.
Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuông sàn và chạy đến ôm vị linh mục. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi không thể tin rằng có những người dám chết vì Đức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được”.
*****************************
Thứ Năm: Lc 17,11-19
Thứ Năm 11/02/2021 – Tạ ơn Chúa.
11/02 – Thứ Năm tuần 5 thường niên.
NGÀY TẤT NIÊN. TẠ ƠN THIÊN CHÚA.
"Người ấy đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người".
Lời Chúa: Lc 17,11-19
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi ngang qua biên giới Samaria và Galilêa.
Lúc Người vào một làng kia, thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch.
Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này".
Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
GIAO THỪA. CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI.
Lời Chúa: Mt 5,1-10
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mátthêu.
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ".
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an.
Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp.
Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả.
Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương.
Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.
Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".
1. Thánh Lễ Tạ Ơn tất niên (Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
(Is 63,7-9; 1Co 1,3-9; Lc 1, 39-45)
Dẫn nhập đầu lễ:
Anh chị em thân mến,
Chiều hôm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn nhân ngày Tất Niên, ngày kết thúc một năm cũ, năm Giáp Thân 365 ngày của năm cũ sắp đi qua mang theo bao nhiêu vui buồn sướng khổ, những giọt mồ hôi lẫn nước mắt, những nụ cười hoan vui lẫn xót xa cay đắng. Chúng ta xin dâng lên Thiên Chúa tất cả để hiệp cùng của lễ cực thánh là chính hiến Tế của Chúa Kitô làm thành Lời Ca Tụng Tạ Ơn tôn vinh Thiên Chúa, như chính Đức Kitô đã hiến dâng của lễ Tạ Ơn Chúa Cha là cả cuộc đời trong Hy Tế Thập Giá mà chúng ta đang tái diễn qua Thánh Lễ nầy.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng cử hành Thánh Lễ.
Giảng Lời Chúa:
Đã lắm phen và bằng nhiều cách, Thiên Chúa đã dạy bảo loài người chúng ta phải biết sống thái độ tạ ơn. Qua bao nhiêu bài Thánh Vịnh, thánh thi trong cựu ước chúng ta gặp không biết bao nhiêu lời tạ ơn đã được cất lên: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv 136)
Lạy Chúa xin dâng lời cảm tạ
Ngài dã nghe lời miệng con xin (Tv 138)
Hãy dâng Chúa bài ca cảm tạ
Gảy khúc hạc cầm mừng Thiên Chúa chúng ta (Tv 147)
Ngay trong Bài Đọc 1 hôm nay, sứ ngôn I-sa-i-a đã thay lời Thiên Chúa nói với muôn thế hệ nhân loại rằng:
Tôi xin nhắc lại ân nghĩa Chúa, dâng lời ca tụng Chúa, vì tất cả những gì Chúa thực hiện cho chúng tôi, vì lòng nhân hậu lớn lao của người đối với nhà Ít-ra-en, vì những gì Người đã thực hiện, bởi lòng Người đầy lòng thương xót và lắm nghĩa giàu ân”.
Nhưng để có một lời Tạ ơn cao cả nhất, trọn vẹn nhất phải đợi đến khi Thiên Chúa sai Con Một mình! Vâng, chỉ có người Con nhân loại và chính là Con Thiên Chúa, đã đến để dẫn dắt con người đi vào quỹ đạo của tình yêu tạ ơn, đi vào thái độ hiếu nghĩa tin yêu dành cho Thiên Chúa một cách trọn hảo qua chính cuộc đời Ngài.
1. Đức Kitô thiết lập nghĩa cử tạ ơn bằng cuộc đời vâng phục:
Nếu dân tộc của Giao ước cũ đã minh chứng niềm tin và lòng tri ân hiếu thảo đối với Thiên Chúa qua những của lễ chiên bò, hy sinh và tạ tội; thì trong trật tự của Giao Uớc Mới, của lễ tuyệt hảo nhất, lời tạ ơn trọn vẹn nhất dành cho Thiên Chúa lại chính là Con Người của Đức Kitô, là cuộc đời và toàn bộ cuộc sống của Ngài, một cuộc đời trọn vẹn vâng phục thánh ý Chúa Cha:
Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô đã nói: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: lạy Thiên Chúa, nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.” (Dt 10,5)
Thật vậy, Đức Kitô đã đến giữa trần gian và đã biến cả vũ trụ trở nên một “đền thờ vĩ đại” và đã qui tụ toàn nhân loại chung quanh Ngài để làm nên một cuộc “đại thờ phượng”, một cuộc tạ ơn và phụng thờ Thiên Chúa vượt qua mọi biên giới không gian, xuyên suốt mọi thời gian. Bởi vì đó là cuộc thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và Chân lý:
“Nầy chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi nầy hay tại Giê-ru-sa-lem…..Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc nầy đây – giờ những người thờ phượng đích thức sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.” (Ga 4,21-24)
Qua những chỉ dẫn của Tin Mừng, chúng ta còn biết được rằng: thái độ tạ ơn, tâm tình tri ân cảm tạ lại chính là thái độ cốt yếu của tinh thần “Tám mối Phúc thật”, tinh thần “nghèo khó, khiêm hạ, yêu thương…”, tinh thần luôn biết đưa tay hướng mắt về phía Thiên Chúa với niềm tin yêu phó thác của những con người như Bà Góa bị loạn huyết 18 năm xứ Canaan, của người phung hủi ngoại bang được chữa lành, của viên sĩ quan có người tôi tớ đau nặng, của người đàn bà tội lỗi khóc lóc ăn năn, của những người thu thuế bị loại trừ như Gia-kê, Lê-vi, của các trẻ thơ xúm quanh để chờ được chúc lành hay của người kẻ trộm sắp sửa đi về bên kia thế giới với hy vọng sẽ được cứu độ trong Vương quốc phục sinh…
Rồi cũng chúng ta cũng biết được rằng: trên môi miệng của Đức Kitô luôn vang lên lời tri ân cảm tạ: “Lạy Cha, con tạ ơn Cha, vì Cha đã dấu…”
Và còn hơn thế nữa Ngài đã tạ ơn bằng chính 1 cuộc đời vâng phục mà chỉ trọn vẹn khi Ngài nói lời “Con phó thác hồn con trong tay Cha”. Đó chính là lời tạ ơn trọn hảo nhất bằng Hy Tế Thập Giá mà hôm nay trên mọi bàn thờ chúng ta đang tái diễn mỗi ngày.
2. Đức Trinh Nữ Maria và lời Tạ Ơn Magnificat:
Cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô và với Đức Kitô chính là con đường đức tin của Dân Chúa hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Và may mắn thay, trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại suốt 2000 năm nay, đã có một “bài ca tạ ơn”, đã có một “cuộc đời tạ ơn” theo cung cách ấy. Đó chính là bài ca “Magnificat”, đó chính là “cuộc đời của Trinh nữ Maria”. Quả thật cuộc đời của Đức Mẹ được phản ảnh qua bài Magnificat mà Tin Mừng hôm nay vừa nhắc đến là mô hình sống động, là mẫu gương sáng ngời để nhân loại bước đi trong “con đường tạ ơn” Thiên Chúa, trên nẽo đường đáp trả hồng ân.
– Tạ ơn: trước hết là như Đức Maria dâng lên lời ngợi khen Thiên Chúa và hân hoan vì hồng ân cứu độ Ngài đã ân ban: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa….”
– Tạ ơn: phải chăng như Đức Maria nhận ra “những việc lạ lùng Thiên Chúa đã thực hiện nơi tôi”.
– Tạ ơn phải chăng như Đức Maria luôn biết nhận ra bàn tay Thiên Chúa đưa ra nâng đỡ thân phận yếu hèn, lòng quảng đại Chúa mở ra để ban cho dư đầy ơn phúc.
-Tạ ơn phải chăng là luôn xác tín mãnh liệt và đầy lòng trông cậy vững vàng trước lời hứa và kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa: “Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”.
Và Mẹ đã hoàn tất lời tạ ơn tuyệt diệu đó vào Chiều Thứ Sáu trên đồi Can-vê khi Mẹ thay cho nhân loại dâng hiến lễ Tạ Ơn đầu tiên cùng với Con yêu dấu trên bàn thờ Thánh Giá.
3. Sống chiều kích Tạ Ơn trong nhỏ nhặt đời thường:
Qua lời kinh Tạ Ơn Magnificat của Đức Maria, và nhất là, qua cuộc đời đã trở nên Hy Tế TẠ Ơn của chính Đức Kitô, chúng ta cảm nhận được rằng:
– Thái độ Tạ Ơn, cuộc sống Tạ Ơn không chỉ là một hành vi mang tính “thời sự’, “cơ hội” đột xuất (như được khỏi cơn bệnh hiểm nghèo, thoát qua cơn hoạn nạn, tránh được hiểm nguy, làm ăn buôn bán trúng mánh, trúng số độc đắc…), nhưng “Tạ Ơn” phải là một thái độ, một nhịp sống, một cử hành thường xuyên, từng phút giây, mọi biến cố, trên mọi nẽo đường cuộc sống. Đó chính là cách ứng xử mà mấy ngàn năm trước, ông thánh Gióp đã từng nêu gương: “Chúa cho, Chúa cất lấy, xin cảm tạ ơn Chúa!”. Dĩ nhiên, có những thời điểm, có những biến cố dễ gợi mở tâm tình chúng ta hướng về Thiên Chúa trong thái độ tạ ơn đặc biệt…Nhưng không phải, chỉ tạ ơn trong những hoàn cảnh, những thời điểm đặc biệt thôi, còn ngoài ra thì “bàn tay ta làm nên tất cả”, có nhờ vả ai đâu, có khấn xin gì nào mà phải tạ ơn cám ơn…
– Bởi vì, chính khi chúng ta cử hành cuộc sống trong thái độ tạ ơn, chúng ta sẽ thấy cuộc đời mình nhỏ lại, khiêm hạ hơn, khó nghèo hơn, trái tim kiêu căng hợm hĩnh sẽ được biến đổi để trở nên nhỏ bé hiền lành, và từ đó con mắt tâm hồn sẽ khám phá ra muôn vạn hồng ân của Cha trên trời vây bọc xung quanh. Ngày hôm nay, hơn lúc nào hết, cái nảo trạng ‘đương nhiên” của chủ nghĩa duy vật vô thần đang âm thầm hay mãnh liệt len lỏi vào mọi ngỏ ngách của cuộc sống. Vì đã lý luận như thế: “đương nhiên trái cấm nầy thuộc về tôi, địa đàng nầy là của tôi, tôi cóc cần Thiên Chúa với những luật lệ của Ngài…” mà A-đam và E-Va đã đẩy nhân loại vào vũng lầy nguyên tội. Cũng vì lý luận như thế: tôi khỏi phung cùi chắc là do số phận run rủi, là tới lúc phải được như thế, chứ ông Giêsu nào có can thiệp gì đâu… nên chín người phung cùi được khỏi bệnh đã không thèm trở lại tạ ơn Chúa Giêsu! Còn chúng ta hôm nay thì sao. Có thấy được “phép lạ tình yêu của Thiên Chúa” ghi dấu ấn trên đời thường cuộc sống mỗi ngày để ngước mắt tạ ơn, hay chỉ là những thở dài oán trách Chúa vì đã van xin bao điều mà sao vẫn cứ hoài vô vọng. Có thấy bàn tay quan phòng của Thiên Chúa tế nhị ấp yêu trên mọi biến cố cuộc đời để cảm tạ tri ân, hay chỉ thấy mọi sự là “đương nhiên” để cóc cần phải tính sổ với Thiên Chúa.
Trong giờ phút thiêng liêng khi trời đất sắp sửa giao mùa, chúng ta có dịp ngồi lại với nhau trước mặt Chúa để nhờ ánh sáng của Lời Ngài mà nhìn lại cuộc sống, mà cảm nhận muôn vạn hồng ân Chúa đã ân ban trong suốt một năm. Và điều quan trọng hơn hết, phải chăng là chúng ta được cùng với Đức Kitô dâng Hy Tế Tạ Ơn nầy như một nghĩa cử của lòng hiếu thảo mến yêu, của tâm tình tri ân cảm mến; và cũng chính qua sứ điệp của lời kinh tạ ơn Magnificat của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta được gọi mời từ hôm nay, biết mở lòng đón nhận và khám phá muôn điều kỳ diệu Chúa đã làm, để từ đó biến cuộc sống trở thành “Lời ca khen cảm tạ Magnificat”:
Hồn tôi tán tụng Chúa Trời,
Lòng tôi hoan hỷ dâng lời tạ ơn,
Tạ ơn Chúa chuộc khoan nhân,
Thương người tỳ nữ, thương thân phận hèn.
Từ nay thiên hạ ca khen,
Rằng tôi có phúc, có duyên lạ lùng.
Rằng tôi bé mọn khiêm cung,
Được bàn tay Chúa oai hùng điểm trang,
Cho tôi nên trọng nên sang,
Cho Danh Thánh Chúa hiển vang muôn đời (SĐTT, NXV)
2. Thánh Lễ Giao Thừa
(Bài đọc 1: Ds 6, 22-27, Bài đọc 2: 1 Tx 5, 16-26. 28, Tin mừng: Mt 5, 1-10)
Lời tạ ơn
Vậy là chúng ta đang ở vào những giờ phút cuối cùng của năm Giáp Thân, chuẩn bị bước vào năm mới Ất Dậu. Và cũng theo lệ thường không biết đã có từ bao giờ, đây là giây phút để tất cả chúng ta cùng nhìn lại cuộc sống của chúng ta trong suốt một năm qua. Đồng thời, cũng là lúc chúng ta hướng một cái nhìn vào năm mới.
Nhìn lại những gì đã lãnh nhận trong năm cũ và hướng về những điều sẽ được ban trong Năm mới, có lẽ tâm tình thích hợp và đúng đắn nhất của mỗi người tín hữu chúng ta là tâm tình tạ ơn như lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em hãy vui mừng luôn… Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.
1. Nhìn về năm cũ:
Cha ông chúng ta vẫn thường nói: “Ôn cố, tri tân”. Do đó, để có thể bước vào năm Mới một cách thành công, điều đầu tiên chúng ta cần làm là “ôn cố”, nghĩa là nhìn lại cuộc sống chúng ta trong suốt một năm qua. Trong suốt 365 ngày vừa qua, chắc hẳn đã xảy ra biết bao nhiêu chuyện trong cuộc đời của mỗi người chúng ta: chuyện vui cũng có, mà chuyện buồn chắc cũng không thiếu. Một năm với nhiều thành công và chắc cũng có nhiều vấp váp lỗi lầm. Nhưng cho dù vui hay buồn, thành công hay thất bại, thì đó cũng là chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Giờ đây, khi nhìn lại cuộc sống của mình trong năm cũ, Giáo Hội mượn lời thánh Phaolô khuyên bảo con cái mình: “Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa”.
Vâng, điều gì tốt thì giữ lại và phát huy, điều gì xấu thì loại bỏ và lánh xa, đó chính là thái độ của những người khôn ngoan, thức thời, đó là thái độ cần có của mỗi người chúng ta trong giờ phút Giao thừa này.
Nhìn lại một năm, có lẽ điều mà mỗi người chúng ta có thể cảm nhận được, đó là hồng ân Thiên Chúa đang bao phủ cuộc đời của từng người và cả giáo xứ chúng ta. Vâng, khi nhìn lại một năm qua, có lẽ nhiều người chúng ta phải rùng mình vì không biết tại sao chúng ta lại đứng vững và vượt qua được nhiều thử thách gian nan đến thế. Có những biến cố chúng ta không ngờ, những tai nạn tưởng chừng như không thể tránh khỏi. Vậy mà không biết bằng cách nào, chúng ta đã vượt qua tất cả. Đối với những người không tin, đó có thể là sự may mắn, nhưng thật ra, chẳng có cái gì là vô tình. Chính vì thế, trong giờ phút cuối năm này, Giáo Hội mượn lời Thánh vịnh nhắc bảo từng người chúng ta: “Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh mệnh an toàn. Chúa gìn giữ bạn lúc ra vào lui tới, từ giờ đây cho đến mãi muôn đời”. Như thế, mọi sự xảy ra trong đời sống chúng ta chẳng phải là vô tình, nhưng tất cả đều nằm trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Và đó chẳng phải là hồng ân tuyệt vời mà Thiên Chúa ban cho chúng ta đó sao?
Chính vì cảm nghiệm được hồng ân Thiên Chúa trong cuộc đời mình, tác giả Thánh vịnh đã cất tiếng ca khen Thiên Chúa: “Ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa, là Đấng dựng nên cả đất trời”. Và nếu quả thật “ơn phù hộ của chúng ta đến từ Đức Chúa, Đấng dựng nên cả đất trời”, thì thánh Phaolô có lý khi mời gọi chúng ta: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu Kitô”.
Tóm lại, khi nhìn về năm cũ, không phải để chúng ta chán nản bởi vì đã không được như ý của chúng ta, hay tự mãn vì những điều xem ra thành công, nhưng đây là giây phút để chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời mình và hết lòng dâng lời cảm tạ Ngài, vì những gì Ngài đã làm cho chúng ta trong một năm qua.
2. Nhìn về tương lai:
Mặt khác, Giao thừa không chỉ là dịp để chúng ta suy gẫm việc đã qua, nhưng còn là thời gian để chúng ta chuẩn bị hướng tới tương lai. Có lẽ với năm tháng trôi qua, càng ngày chúng ta càng cảm nghiệm rõ hơn về giới hạn của chính bản thân và của những người chung quanh, nói chung là giới hạn của con người. Con người giới hạn phần vì “lực bất tòng tâm”, phần vì tính ích kỷ của mỗi người. Trong năm qua, đã biết bao lần chúng ta hứa hay nhận được lời hứa, nhưng rốt cuộc chẳng thực hiện được là bao. Lắm khi những người chúng ta tin tưởng nhất lại là những người làm chúng ta thất vọng nhất. Do đó, tin tưởng nơi Chúa quả thật là điều cần thiết và là một bảo đảm chắc chắn nhất cho hạnh phúc của mỗi người chúng ta. Chính Đức Giêsu khi nghe người ta khen ngợi: “Phúc cho lòng dạ cưu mang ông, và vú ông đã bú!”, thì Ngài đã lập tức tuyên bố: “Hạnh phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc 11, 27-28).
Hướng về năm mới, chúng ta cần có một cái nhìn tươi vui và tin tưởng vào Thiên Chúa. Đây không phải là sự vui mừng hay là một niềm tin mù quáng, dễ dãi của những tâm hồn yếu đuối, nhưng là niềm vui và niềm tin của những tâm hồn mạnh mẽ. Đó là niềm vui của những người biết rõ những khó khăn, thử thách vẫn còn đó, nhưng vì tin có Chúa ở cùng, nên họ vẫn luôn vui vẻ, nhìn ra mặt tích cực của các sự kiện để bước tới trong tin tưởng. Nhìn lên bầu trời đầy mây đen u ám, họ không buồn vì mây che mất mặt trời, nhưng vẫn vui vì ánh sáng của mặt trời vẫn đủ để họ nhìn thấy được đám mây đen. Chính trong niềm tin đó, Giáo Hội đã muốn chúng ta suy niệm về các mối phúc trong Thánh lễ Giao thừa hôm nay. Thật vậy, trong năm mới sắp tới, cho dù có nghèo khổ, đói khát, hay bị bách hại đi chăng nữa, thì gia nghiệp Nước Trời đang dành sẵn đó cho những ai hết lòng tin tưởng cậy trông.
Đồng thời, không chỉ là thụ động đón nhận những thử thách, Đức Giêsu còn mời gọi chúng ta sống hiền lành, biết cảm thương và sẵn sàng chia sẻ với những nỗi bất hạnh của anh chị em mình để rồi đến lượt mình, chúng ta cũng được Thiên Chúa xót thương. Ngài còn muốn chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa và được Thiên Chúa nhận làm con, khi mời gọi chúng ta sống trong sạch và kiến tạo hòa bình cho thế giới hôm nay. Và nhờ luôn ở trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ được hạnh phúc. Chính trong niềm tin này, thánh Phaolô đã cầu xin cho chúng ta: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an thánh hóa toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta quang lâm”.
Cuối cùng nhờ “Ôn cố tri tân”, mà chúng ta nhận ra rằng: Thành quả mà giáo xứ chúng ta có được ngày hôm nay chính là kết quả của biết bao thế hệ cha ông, những người còn sống cũng như đã qua đời xây dựng nên. Do đó, giờ phút Giao Thừa cũng là cơ hội thuận tiện để mỗi người chúng ta cầu nguyện cho các ngài. Đồng thời, đây cũng là dịp nhắc nhở mỗi người chúng ta hôm nay cần phải chung sức góp công của mình, để vun đắp cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta ngày càng trở nên một cộng đoàn sống yêu thương và hiệp nhất trong tình yêu của Thiên Chúa. Và không chỉ dừng lại ở cộng đoàn Giáo xứ, cách tốt nhất để chúng ta tỏ lòng biết ơn ông bà, cha mẹ, đó là tiếp bước các ngài, loan truyền Tin mừng của Thiên Chúa cho tất cả mọi người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống thường ngày.
Để kết thúc bài chia sẻ này, tôi xin mượn lại lời Chúa trong bài đọc một để cầu chúc cho quý OBACE: “Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh chị em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em!” trong suốt Năm Mới này. Amen.
3. Giây phút linh thiêng (Lm Jos. Nguyễn Hưng Lợi)
Thi sĩ Hàn Mạc Tử đã viết một câu thơ rất ý nghĩa:” Giây phút linh thiêng đã khởi đầu…”. Xuân về được bắt đầu bằng giây phút giao thừa. Người người, nhà nhà, mọi gia đình, mọi người đón chào giây phút linh thiêng khởi đầu một năm mới trước bàn thờ hương trầm nghi ngút bay. Giây phút kết nối giữa những ngày đã qua và những ngày mới bắt đầu. Người Kitô hữu tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi vì bao hồng ân Chúa ban và cầu sự an bình cho một năm mới đã ló rạng. Đây là khởi điểm của thời gian khiến con người gợi nhớ về sự sáng tạo mà Thiên Chúa trao ban cho vũ trụ, cho con người.
GIAO THỪA, ĐẤT TRỜI GIAO CẢM:
Thời gian đêm giao thừa rất linh thiêng, huyền nhiệm. Người ta nâng cốc chúc nhau sức khỏe, may mắn và bình an trong lúc đón chào Chúa xuân đến với hy vọng năm mới sẽ có những điều mới, an lành và hạnh phúc hơn. Năm mới đến có liên quan đến vận mệnh của từng con người. Riêng đối với người Kitô hữu, giây phút giao thừa, thời điểm bàn giao giữa năm cũ và năm mới còn mang ý nghĩa cao vời: con người sẽ nhớ tới Đấng là Mùa Xuân vĩnh cửu, Đấng tạo dựng đất trời, dựng nên con người. Đấng ấy là Thiên Chúa, là tình yêu. Đêm giao thừa làm cho người Kitô hữu nhớ đến Đấng Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng nhân loại, ở với con người, ở với mỗi người. Thiên Chúa đã sai Con của Người là Đức Giêsu tới trần gian cũng vào một đêm, đêm mà Con Thiên Chúa và loài người hợp nghĩa kết giao. Đêm mà các thiên thần loan báo cho các mục đồng, đại diện cho toàn nhân loại tin vui về việc Con Thiên Chúa đến với họ và ở lại với họ để ban an bình, và hứa với họ sẽ ở với họ cho tới ngày tận cùng thế giới.
VẪN LÀ GIÂY PHÚT LINH THIÊNG:
Giây phút giao thừa là thời điểm của một năm mới, là lúc trời đất giao hòa, là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người. Chính trong giây phút huyền diệu của đêm giao thừa, con người chỉ có thể nói lên:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion”(Tv 133, 3) hoặc ” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời”. Đón xuân về, trong giây phút giao thừa uy linh và huyền nhiệm, con người vẫn nhớ tới cảnh đoàn tụ, ấm cúng của gia đình, nhưng vẫn còn những gia đình, những kẻ thiếu may mắn không có điều kiện, cơ hội để đón giao thừa. Chúa là mùa xuân vĩnh cửu. Người Kitô hữu được mời gọi sống tin, yêu và sứ mạng của họ là loan báo Mùa Xuân vĩnh cửu cho mọi người.
Chúa là mùa xuân vĩnh cửu. Con người biết chia sẻ, biết quảng đại, biết cảm thông và loan báo Đức Giêsu Kitô, Đấng là mùa xuân bất tận cho người khác là họ đã sống giây phút linh thiêng nhất của một năm vì họ có Chúa ở cùng, và như vậy khi một tâm hồn có Chúa ở cùng là một trời xuân bất tận (thánh Gioan Vianney).
Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh (Lời nguyện nhập lễ, thánh lễ giao thừa)
4. Lời cảm tạ tri ân (Lm. Jos. Nguyễn Hưng Lợi)
Ngày cuối của một năm, thường con người vẫn có thói quen ngồi lại để tính sổ với Chúa, với đời xem mình đã làm được gì, chưa làm được gì và rồi con người dù thế nào đi nữa vẫn phải nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa vì do tình thương của Ngài mà con người vẫn còn tồn tại.
CUỘC ĐỜI PHẢI LÀ LỜI CẢM TẠ:
Nhìn lại một năm với bao biến cố xẩy ra trong đời: buồn có, vui có, khó khăn có, may mắn có, con người vẫn tự nhủ tại sao mình còn hiện diện? Tại sao mình còn thở, còn sinh hoạt được, còn đi dứng, ăn uống, ngủ nghỉ được? Chắc chắn với lòng tin sẵn có, người Kitô hữu luôn ý thức Thiên Chúa đang tiếp tục làm phép lạ trong cuộc đời của mình. Như vậy, tâm tình của con người là tạ ơn. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô đã viết:” Đàn hát lên! Nhờ Thánh Thần linh hứng, trót tâm tình, dâng Thiên Chúa là Cha. Luôn cảm ta Người, nhân danh Thánh Tử vì Người ban muôn phúc lộc chan hòa”(Eph 5, 19-20). Vâng, Thiên chúa đã ban cho nhân loại, cho mỗi người muôn vàn hồng phúc. Những ân huệ cao quí, Thiên Chúa tặng ban cho con người quả không kể xiết. Con người chỉ có thể hiểu được những điều quí hóa ấy khi họ biết hồi tỉnh, suy nghĩ và cầu nguyện. Hồi tỉnh để thấy mình đã lãnh nhận quá nhiều ân phúc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể trao ban. Suy nghĩ để con người nhận ra họ được hạnh phúc có Thiên Chúa là Cha nhân từ không nỡ cho con người con bọ cạp hoặc hòn đá khi họ xin bánh ăn. Cầu nguyện để thân mật trao đổi và cám ơn Thiên Chúa vì tình thương vô biên Chúa đã tặng ban cho con người. Chính vì thế, con người phải luôn có tâm tình như Chúa Giêsu vì cuộc đời của Ngài là bài ca cảm tạ tri ân Thiên Chúa Cha. Chúa luôn cảm tạ Chúa Cha trong mỗi biến cố cuộc đời: khi làm phép lạ cho cá và bánh hóa nên nhiều, khi lập bí tích Thánh Thể, khi chọn các môn đệ và nhiều việc Chúa Giêsu làm trong đời của Ngài. Bao giờ, Chúa cũng nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa Cha. Tạ ơn là điều tối hệ trọng trong đời Chúa Giêsu. Mẹ Maria cũng thế, Mẹ đã nói lên lời xin vâng và tạ ơn trong cả cuộc đời của Mẹ. Bài kinh Magnificat Mẹ cất lên hôm nay là một lời cảm tạ Thiên Chúa Cha. Mẹ mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy cùng Mẹ hát bài tạ ơn vì chính Mẹ và con cái của Mẹ đã được Thien Chúa trao ban quá nhiều hồng phúc.
NGÀY CUỐI NĂM LUÔN LÀ LỜI TẠ ƠN:
Nhìn lại một quãng đời, suy nghĩ về một chặng đường đã qua, con người chỉ biết thốt lên như Mẹ:”…Đấng toàn năng đã làm cho Tôi biết bao điều kỳ diệu”. Đời con người là một huyền nhiệm. Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, Ngài lại ban cho con người biết bao hồng phúc khiến con người không thể nào hiểu hết sự lạ lùng của Thiên Chúa. Con người chỉ có thể cùng với tác giả thánh vịnh:’ Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Đức Chúa”(Tv 115, 12-13)
Ngày cuối năm, người Kitô hữu luôn phải ngồi lại để suy nghĩ, điều chỉnh tâm hồn và nói lời tạ ơn Thiên Chúa. Đây là dịp rất tốt để con người hồi tỉnh xem điều gì mình đã làm được tốt, điều gì mình chưa làm tốt và điều còn thiếu xót để rồi chấn chỉnh điều chưa tốt và nhân lên càng nhiều càng tốt điều tốt lành mình đã làm được. Điều quan trọng con người cần phải xét tới xem mình đã có quan hệ thế nào đối với Thiên Chúa và có thái độ ra sao đối với tha nhân? Chúa luôn mời gọi mỗi người quay trở về với Thiên Chúa và làm hòa với anh em. Như thế, ngày cuối năm là dịp để hồi tỉnh, trở về với Chúa và thắp sáng đức tin cho anh em. Những việc làm tỏa sáng vẫn là những việc Chúa mời gọi con người thực hiện để làm vinh danh Chúa và nối kết anh em. Ngày cuối năm cũng là ngày tạ lỗi Chúa và tạ lỗi mọi người. Tạ lỗi là nói lên lòng sám hối, ăn năn và tạ ơn.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong suốt cả năm nay, Chúa đã thương ban phù trợ cho hồn xác chúng con an toàn. Giờ đây năm cũ sắp qua, chúng con cùng họp nhau dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân, và xin Chúa thứ tha tội lỗi, để chúng con được thư thái bình an trước thềm năm mới (Lời nguyện nhập lễ, lễ tất niên).
5. Hạnh phúc theo Tám Mối Phúc Thật (Martin Lê Hoàng Vũ)
Giao thừa, đêm trừ tịch, đêm 30 tháng chạp âm lịch là thời khắc thiêng liêng nhất trong năm. Bởi vì đêm nay có một sự chuyển giao của thời gian: Một năm cũ ra đi và năm mới lại đến. Chính vì vậy người Việt Nam dù quanh năm đi làm ăn xa cũng cố gắng thu xếp trở về với gia đình trước đêm nay để cùng với người thân đón một năm mới lại đến. Đêm giao thừa còn là thời khắc “ngừng chiến” để con người tận hưởng bầu khí ấm áp của tình nghĩa gia đình, giữa anh chị em với nhau và giữa cha mẹ với con cái, họ tạm quên đi cuộc sống đầy dẫy điều ích kỷ, bon chen, sự vội vã, vất vả. Trong giờ phúc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới ai trong chúng ta cũng hy vọng năm mới tới mọi sự sẽ tốt đẹp hơn, điều hạnh phúc sẽ đến với mình và gia đình.
Cùng hòa chung với niềm vui đón năm mới của dân tộc, đêm nay người Kitô hữu Việt Nam hướng lòng về Thiên Chúa là nguồn mạch của mọi sự Thiện hảo, cầu xin Ngài ban mọi điều tốt lành trong năm mới. Trong niềm tin ở Chúa là chủ thể của thời gian, là Đấng điều khiển mọi vận hành của thời vũ trụ, là An-pha và Ô-mê-ga, nghĩa là khởi đầu và tận cùng của lịch sử, thì đối với chúng ta giây phúc giao thừa là dịp của tri ân và cảm tạ. Chúng ta cảm tạ Chúa vì suốt một năm qua đã cho chúng ta được sống, đã gìn giữ chúng ta trước mọi nguy biến của cuộc đời và đã tặng ban muôn vàn ơn phúc dư đầy. Thiên Chúa luôn quảng đại ban ơn cho con người. Hạnh phúc cũng là một ân ban của Thiên Chúa.
Đặc biệt thánh lễ đêm giao thừa được cử hành theo truyền thống dân tộc là dịp đoàn tụ của một gia đình rộng lớn hơn, gia đình con cái Thiên Chúa, họ cùng tin Thiên Chúa là Cha và cùng nhận mọi người là anh chị em với nhau, họ ngồi lại bên nhau để ôn lai những việc đã qua trong năm cũ và hướng đến năm mới.
Bài Tin Mừng được đọc trong đêm hôm nay thánh sử Matthiêu ghi lại bài giảng Tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu đã công bố trện một ngọn núi. Lắng nghe đoạn Tin Mừng này và cùng suy nghĩ trước giờ phút thiêng liêng khi bước sang một năm mới chúng ta sẽ hiểu được thế nào là hạnh phúc.
Tám mối phúc thật được công bố ở trên một ngọn núi. Điều này gợi cho chúng ta nhớ đến Thập Giới mà Thên Chúa ban cho dân Israel qua Môsê. Tám mối phúc thật là Bản Hiến Chương của Nước Trời, là lời mời gọi trong đời sống của mỗi người tín hữu phải biết vươn lên. Cho nên tất cả những ai đi theo Chúa Giêsu, và muốn vào Nước Trời thì không thể không đi qua con đường của Tám mối phúc thật.
Giờ đây cùng nhau suy niệm về hạnh phúc dưới ánh sáng của Lời Chúa chúng ta nhận ra được nhiều điều.
Ngày nay trong cuộc sống có rất nhiều thứ hạnh phúc giả tạo hay còn được gọi là thứ hạnh phúc ảo đang lôi cuốn chúng ta, Chúng có nhiều hình dạng, có vẻ đẹp, có sức quyến rũ và hứa hẹn một cuộc sống dễ dãi, luôn muốn được thỏa mãn, muốn hường thụ cuộc sống với những đam mê thấp hèn theo bản năng, sẵn sàng quên người để chỉ tìm sự sung sướng cho riêng mình. Họ nhất định phải “hạ gục nhanh tiêu diệt gọn” người khác, nhất là đối thủ của mình để có được địa vị, danh vọng, nhưng xem ra khi đạt được tất cả những điều đó hạnh phúc vẫn là điều xa với. Nhiều người cũng cho rằng một gia đình hạnh phúc là trong đó những thành viên phải có mức lương cao, quan hệ rộng, có tiếng tăm, có thế lực,nhà cửa đầy đủ tiện nghi, nhiều tiền,nhưng chưa chăc hạnh phúc lại ở trong gia đình đó. Hạnh phúc không bao giờ được xây đắp bằng vật chất.
Theo Chúa Giêsu dạy trong Tám mối phúc thì hạnh phúc chính là dám sống nghèo, sống hiền hòa, sống ngay thẳng, sống yêu thương, xây dựng hòa bình, và có thể vì Chúa mà chịu khổ đau. Tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta sống theo không phải là một lý thuyết suông hay không phải là điều không thể thực hiện mà đó là việc cần làm ngay trong năm mới tới đây, là bản tự kiểm cho chúng ta trong suốt một năm qua. Chính khi sống theo những điều ấy chúng ta lại tìm được hạnh phúc đích thực.
Cuối cùng vế thứ hai của những lời chúc phúc nói về phần thưởng mà Thiên Chúa ban cho những người sống theo Tám mối phúc. Hạnh phúc là được vào trong Nước Trời. Hạnh phúc là được nhìn thấy Thiên Chúa. Hạnh phúc là được thiên Chúa ủi an. Hạnh phúc là được Thiên Chúa yêu thương.Hạnh phúc là được làm con Thiên Chúa …. Tất cả những điều đó phải là mối lo lắng của chúng ta trong đêm giao thừa này.Mỗi người cần tự hỏi liệu: năm mới tới đây chúng ta có được những điều Chúa hứa ban như trong Tám mối phúc thật hay không?
Tới đây để kết bài, chúng ta cùng để tâm suy nghĩ một lời chúc của một tác giả người Pháp không rõ tên được đăng trên CG và DT những ngày gần đây như sau:
“Nhân dịp năm mới đang đến,
Tôi xin chúc bạn.
Không phải là sự thành công trong công ăn việc làm.
Nhưng là tiếp rước đón nhận.
Trong trái tim và trong cuộc sống.
Từng ngày một và từng bước một,
Tình yêu của Chúa đang mang đến ý nghĩa cho sự hiện hữu.
Tôi chúc bạn không phải là không gặp những thất bại,
Nhưng biết đón nhận như một món quà bất xứng.
Sức mạnh giúp bạn đứng vững, dù cho những gian lao nặng nề,
Tôi chúc bạn không phải những ngày êm ả, nhưng là khả năng để cho người khác quấy rầy,
Và đón nhận người khác biệt với mình như một sứ giả của Chúa.
Tôi chúc bạn không phải là có câu trả lời cho mọi vấn nạn.
Nhưng là biết đón nhận những câu hỏi của người khác,
Biết mang trong lòng bạn những khó khăn âu lo, những xung đột bế tắc của họ.
Để được gần gũi họ như một người chị, một người anh em biết liên đới.
Như một người biết chia sẻ và reo rắc an bình”.
Lạy Chúa Giêsu trong giờ phút giao thừa này chúng con xin hết lòng cảm tạ tình yêu thương của Chúa đã ban muôn ơn lành và gìn giữ chúng con trong suốt một năm qua. Xin cho chúng con trong năm mới biết hoàn toàn sống cho Chúa và vì Chúa mà sẵn sàng từ bỏ mọi thứ lợi lộc trần thế,bởi không điều gì hạnh phúc cho chúng con bằng phần thưởng Nước Trời và được ở với Chúa. Xin Chúa chúc lành cho năm mới Giáp Thân 2004. Amen
6. Thánh Lễ Giao Thừa (Mt 5, 1-10) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thế là 365 ngày đã qua đi. Đêm nay trời và đất như giao hòa, kết duyên. Giây phút mà thi sĩ Hàn Mạc Tử đã nói:” Giây phút thiêng liêng đã khởi đầu”. Giờ này, nhân loại, con người đối diện với Thiên Chúa, Đấng là chủ thời gian, là Chúa của vũ trụ, của nhân loại, của con người. Vào phút giây huyền diệu này, thời gian cũ như ngừng lại, bàn giao cho một thời gian mới, một năm mới. Con người chỉ còn biết dâng lên Thiên chúa, vua mùa xuân lời cảm tạ sâu xa và tha thiết xin Chúa giáng phúc lành cho năm mới được phúc lộc miên trường.
GIÂY PHÚT LINH THIÊNG
Con người trong đêm thiêng liêng của sự giao hòa đất trời, luôn cảm nghiệm có một cái gì đó rất đời thường nhưng cũng vô cùng linh thiêng. Cái giờ phút những ngày cũ của một năm cũ đã qua đi. Thời gian như đi mãi, đi hoài và hầu như không dừng lại. Nhưng giữa cái mốc điểm của đêm giao thừa huyền nhiệm: đêm đẩy lùi quá khứ hướng về tương lai, đêm linh thánh báo hiệu những ngày mới của một năm mới đã ló rạng. Đêm mà con người đối diện với Thiên Chúa, Chúa của mùa xuân, Chúa của lịch sử, Chúa của loài người, đêm giao thừa, con người chỉ có thể khẩn cầu Thiên Chúa như thánh vịnh 133, 3 đã viết:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion” và như ca nhập lễ đêm giao thừa đã thốt lên: “trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh”. Đêm hôm nay, trong cõi u tịch của sự bàn giao thời gian, con người chỉ có thể hiểu được: Vũ Trụ, Xuân, Hạ, Thu, Đông luôn vần xoay, xoay chuyển và con người có là gì đều do Thiên Chúa. Nên, tâm tình đầu tiên trong giây phút linh thánh của đêm giao thừa là sám hối, tạ ơn. Sám hối để luôn đón nhận Chúa và tạ ơn để hiểu mọi sự đều bởi Chúa. Sách dân số 6, 22-27 đã viết:”.khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!”. Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của Danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng. Đêm giao thừa trong giây phút thiêng liêng nhất: phút giây trời đất giao hòa, con người hãy hướng cả tâm hồn của mình lên Thiên Chúa, Chúa của mùa xuân vĩnh cửu để tạ ơn và xin Chúa chúc lành:” Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em, gìn giữ mọi người”(Dân số 6, 22-27).
HÃY TẠ ƠN VÀ CẦU NGUYỆN KHÔNG NGỪNG
Thánh Phaolô đã viết:” Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”(1thes. 5, 16). Con người và nhân loại trong giây phút thiêng liêng của đêm giao thừa hãy tạ ơn Chúa, kết hiệp mật thiết với Chúa bằng lời cầu nguyện liên lỉ. Những ngày tháng năm cũ, chắc chắn có lúc ta gặp những điều thuận lợi, nhưng có nhiều lúc ta gặp những sự bất trắc, thử thách khó khăn. Tất cả những điều đó là những thánh đố của mỗi người. Con người dù có thêm tuổi, dù gánh nặng chồng chất trên vai, dù có sự thay đổi của tuổi tác, của trí tuệ, của khả năng, của sức khỏe. Nhưng, tất cả đều là ân huệ của Chúa. Tất cả đều làm vinh quang cho Ngài. Và rồi, con người chỉ có thể đứng vững khi họ biết bước trên từng nấc thang của tám mối phúc thật. Và như thế, con người sẽ vĩnh viễn ở trước mặt Chúa cho dù thời gian có đi qua. Con người không chỉ sống đơn độc một mình, họ còn có một mái ấm gia đình. Giờ phút linh thiêng của một năm mới đã khởi đầu: xin Chúa thánh hóa các gia đình và để các gia đình có thể gần gũi Chúa, phương thế các gia đình phải thực hiện là lần chuỗi mân côi. Xin cho từng người và mọi người, mọi gia đình biết tạ ơn Chúa không ngừng và cầu nguyện liên lỉ để ý Chúa được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Có như thế, thời gian sẽ trở thành vĩnh cửu và xuân sẽ là cái mốc cho con người càng lúc càng gần Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Chúa xuân vĩnh cửu:” Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời”(Tv 120,1.).
Xin Chúa ban cho chúng con biết biến giây phút linh thiêng đêm giao thừa này trở nên lời ca ngợi tình thương vô biên của Chúa.
Lạy Chúa, xin nhìn đến lòng tin của chúng con mà luôn luôn che chở giữ gìn, hầu suốt cả năm nay chúng con được sống trong tình thương của Chúa (lời nguyện hiệp lễ, lễ giao thừa).
7. Giây phút thiêng liêng (Mt 5, 1-10)
Cứ mỗi giao thừa, tôi lại có những cảm nghiệm về giây phút linh thiêng, giây phút bàn giao giữa năm cũ và năm mới. Mà sao không lạ lùng và hồi hộp khi năm cũ nhường bước cho những giây phút linh thiêng nhất, giây phút đẹp nhất cho một năm mới khởi đầu. Và Hàn Mạc Tử đã không ngần ngại viết những câu thơ thật truyền cảm, nhẹ nhàng như đưa hồn cao người vào chốn linh thiêng, tuyệt diệu:” Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu. Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ! Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt. Như đón từ xa một ý thơ “.
GIÂY PHÚT LINH THIÊNG CỦA MỘT ĐÊM KHAI MÀO NĂM MỚI: Sự linh thánh của đêm giao thưa như gợi trong trí của mỗi người về giây phút hết sức huyền diệu, giây phút hết sức linh thánh, giây phút đong đưa giữa cái cũ và cái mới. Lời thánh vịnh:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion ” (Tv 133, 3).
Lời thánh vịnh này là lời khẩn cầu Thiên Chúa tưới xuống muôn hồng ân để con người, mỗi người được sống trong niềm vui, hạnh phúc và sự an bình.Giây phút giao thừa vẫn là giây phút đẹp, giây phút thiêng liêng, giây phút mà mỗi người đều cảm thấy như có một cái gì đó thôi thúc, như có một cái gì đó níu kéo con người và làm cho con hướng tâm hồn lên cao, hướng tâm hồn lên Thiên Chúa để xin Thiên Chúa gia ân giáng phúc cho cho mọi người, mọi nhà hầu con người được sống trong hòa bình và sống trong yêu thương. Đêm giao thừa, người ta vẫn có tục lệ khấn vái cầu xin ơn trên đổ muôn ơn hồng phúc xuống cho con người. Đối với với người công giáo, đêm giao thừa sẽ là đêm người Kitô hữu ngước mặt lên Chúa và cầu khẩn nguyện xin:” Trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh “. Giây phút giao thừa là giây phút trời đất giao hòa: Năm cũ nhường cho năm mới. Một năm mới đã mở ra và mọi người sống giây phút này trong niềm tin, trong hy vọng và sống trong sự yêu thương bởi chính Thiên Chúa là tình yêu.
GIÂY PHÚT GIAO HÒA GIỮA THIÊN CHÚA VÀ CON NGƯỜI: Trong đêm giao thừa, trong giây phút linh thiêng, con người đứng trước bàn thờ, dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân vì muôn vàn hồng ân Thiên Chúa đã ban cho con người, đã ban cho từng người trong suốt một năm qua. Giây phút giao hòa trời đất là giây phút con người gặp gỡ Thiên Chúa, con người gặp gỡ Đấng vô cùng thánh thiện. Thiên Chúa đang ở với con người, sống với con người và sống vì con người.Trong giây phút Thiên Chúa gặp con người và con người đối diện với Thiên Chúa. Con người hiệp với Hội Thánh ca tụng tình thương vô biên của Thiên Chúa:” Lạy Cha Chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Trong Cha chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn nhận bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết”
(Lời Tiền Tụng Chúa Nhật IV thường niên). Giây phút Thiên Chúa và con người là giây phút thánh thiêng, giây phút hạnh phúc nhất vì Thiên Chúa là Tình Yêu, là Mùa Xuân vĩnh cửu.
MUÔN ĐỜI VẪN LÀ LỜI CẢM TẠ: Cảm tạ là một hồng ân. Chính vì thế, con người, mỗi người luôn phải nói lời tri ân cảm tạ. Bởi vì, Thiên Chúa không cần lời cảm tạ của chúng ta, nhưng nói lên lời cảm tạ lại là một hồng ân Chúa ban.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa ban sự sống cho chúng ta.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì phép lạ lớn nhất Thiên Chúa đang làm cho chúng ta là cho chúng ta còn sống tới giờ phút này.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta thấy ngày khởi đầu của một năm mới.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta gặp gỡ mọi người.
Tình thương của Chúa đời con ca tụng (Tv 88). Lời Thánh vịnh này luôn thúc bách chúng ta hãy tạ ơn tình thương vô biên, tình thương tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút giao thừa linh thiêng đêm nay, xin củng cố đức tin cho chúng con, để chúng con luôn nhìn ra tình thương tuyệt vời của Chúa và để chúng con nhận ra những giây phút mở đầu của ngày mới là giây phút quý hóa nhất cho một năm mới tốt đẹp và trong lành. Amen.
8. Cầu bình an cho năm mới – Mt 5, 1-10 (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thánh lễ giao thừa là những giây phút thật cảm động, linh thiêng, bởi vì đây là giờ phút năm cũ và năm mới giao thoa, là giây phút năm cũ sắp sửa bàn giao cho năm mới.Vị chủ tế dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân của Ngài và của toàn thể bà con giáo dân trong xứ đạo bởi vì suốt một năm cũ mọi người đã nhận lãnh biết bao ân huệ từ nơi Thiên Chúa. Thi sĩ Hàn Mạc Tử đã viết một câu thơ thật chí lý, thật ý nghĩa:” Đây phút linh thiêng đã khởi đầu…”.
Trong giờ phút thật linh thiêng, Chủ tế và bà con giáo dân cùng nhau dâng lời tạ ơn. Thánh vịnh đáp ca viết:” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời “. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Thessalonica:” Hãy cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh”. Thánh vịnh 133,3 lại viết:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion “. Giây phút linh thiêng nhà thơ họ Hàn viết là giây phút huyền diệu, giây phút linh thánh. Trời và đất giao hòa. Những giây phút này là giây phút cảm tạ ngợi khen. Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi. Giây phút linh thiêng như Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận là giây phút Ngài muốn thưa với Chúa rằng:” Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa, cuộc sống của con sẽ luôn luôn là ” một giao ước mới và giao ước vĩnh cửu ” với Chúa.
Mỗi giây phút con muốn hát lên cùng với toàn thể Giáo Hội:” Vinh danh Cha, và Con và Thánh Thần ‘. Giây phút linh thiêng, giây phút mới của những giây phút đầu tiên sẽ là khoảnh khắc đầu tiên, khoảnh khắc cuối cùng, khảnh khắc duy nhất.
Vâng, những giây phút khởi đầu của một năm mới mở ra những giây phút ân lộc. Và chúng ta hãy ký thác đường đời cho Chúa. Giây phút giao thừa là giây phút mở ra một chân trời mới, mở ra niềm tin, niềm hy vọng và cậy trông bởi vì tất cả đều là hồng ân, đều là ân lộc của Chúa như lời nguyện nhập lễ diễn tả:” Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh danh Chúa “.
Như Đức cố Hồng y Phanxicô Xavie Thuận, chúng ta hãy tín thác cho Chúa những gì thuộc về quá khứ.
” Ôi phút hiện tại, ngươi hoàn toàn tùy thuộc ở nơi ta.
Ta ước muốn sử dụng ngươi trong quyền hạn của ta.
Vì thế, con tín thác nơi lòng nhân từ Chúa,
Con tiến bước trong đời con như một trẻ em.
Và mỗi ngày con dâng cho Chúa trái tim con
Nồng cháy tình yêu để danh Chúa được cao cả hơn”
Giờ linh thiêng là những giây phút hiện tại, Giờ con mèo lui đi để con rồng hiện diện. Đó là nói theo cách thông thường của người trần. Còn xét theo mặt linh thiêng. Giây phút giao thừa là giây phút Chúa đang nhìn ngắm con người và ngược lại con người đang cầu khẩn Chúa. Kinh tiền tụng thánh lễ giao thừa viết: ” Trong Cha, chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con nghiệm hằng thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn được nhận lãnh bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng muôn đời được hưởng ơn Phục Sinh “.
Trong Đức Giêsu, chắc chắn mùa xuận Nhầm Thìn sẽ mang lại nhiều hạnh phúc bởi vì Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời (Dt 13, 8)
Lạy Chúa, trong đêm giao thừa này, Chúa đã cho cộng đoàn chúng con được tham dự tiệc thánh. Xin nhìn đến lòng tin của chúng con mà luôn luôn che chở giữ gìn hầu suốt cả năm nay, chúng con được sống trong tình thương của Chúa (Lời nguyện hiệp lễ, lễ Giao thừa, cầu bình an cho năm mới).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Thánh lễ Giao thừa nói lên gì?
2. Giây phút linh thiêng là giây phút gì?
3. Tại sao lại nói Trời Đất giao hòa?
4. Đầu năm mới người ta thường chúc cho nhau những gì?
5. Ân lộc là gì?
9. Thánh Lễ Giao Thừa
Trong những ngày này và cách riêng trong những giờ phút linh thiêng của năm cũ sắp qua đi, nhường chỗ cho thời gian năm mới đến, tự nhiên mỗi người, mỗi gia đình và toàn xã hội đều muốn có cái nhìn tổng kết mọi mặt về một năm đã qua. Tất nhiên anh chị em cũng muốn chúng tôi trình bày một bản báo cáo tổng kết về Giáo Xứ để định hướng cho tương lai. Nhưng những báo cáo tổng kết chúng ta thường thấy dường như không phản ảnh những gì mà Lời Chúa đòi hỏi.
Trước hết Bài Sách Dân Số, chúng ta vừa nghe công bố, muốn khẳng định cuộc sống mỗi người, mỗi gia đình và của cả Dân Tộc, tất cả đều tùy thuộc vào CHÚC LÀNH của Thiên Chúa. Nói cách khác thời gian là HỒNG ÂN Thiên Chúa trao ban cho con người. Và vì thế cũng là Thời Gian mà con người phải công bố Phúc Lành của Thiên Chúa cho mọi người. Hơn thế nữa, Lời Chúa còn xác định thật rõ ràng: Chúc Lành của Thiên Chúa chính là việc “Chúa tỏ Nhan Thánh Chúa”, là việc “Chúa ghé mặt lại”. Nhan Thánh Chúa là Nhan Thánh của lòng thương xót, khuôn mặt Chúa là khuôn mặt của bình an. Tất nhiên, những công trình vật chất như nhà cửa, ruộng vườn, công ăn việc làm, những ngày lễ, ngày hội… tất cả đều có thể là những dấu chỉ của hồng ân, nhưng không phải là chính Hồng Ân nếu chúng không vén mở cho chúng ta thấy NHAN THÁNH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ KHUÔN MẶT CỦA BÌNH AN của Chúa. Với quan điểm ấy, chúng ta thấy trong năm đã qua, Chúa đã tỏ Nhan Thánh Lòng Thương Xót Chúa qua rất nhiều cơ hội cách đặc biệt dành cho Giáo Xứ chúng ta. Nhưng khi đón nhận Hồng Ân Nhan Thánh, chúng ta cách nào đó lại đã che lấp Nhan Thánh mà phô trương khuôn mặt trần tục vinh vang của xác thịt. Chúng ta đã xúc phạm Nhan Thánh.
Để thấy rõ sự sai lạc của mình, chúng ta hãy nghe Thánh Phaolô minh giải về các Hồng Ân Chúa ban. Theo thánh Tông Đồ, mọi Hồng Ân đều đã được ban tặng cho chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô. Và Hồng Ân trong Đức Giêsu chính là Thánh Thần và Lời Thiên Chúa. Hồng ân Thánh Thần và Lời Thiên Chúa nhằm thanh tẩy chúng ta, biến đổi chúng ta nên một thân thể trong Đức Kitô. Lẽ ra khi đón nhận những dấu chỉ của Hồng Ân, thánh Phaolô nói chúng ta phải tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức, và giữ lại những điều gì tốt, nhưng thực tế xem ra không được như thế: khi sự dữ càng ngày càng xâm chiếm cuộc sống chúng ta.
Hồng ân Chúa nhằm đưa cuộc sống của Chúa Giêsu Kitô vào trong cuộc sống chúng ta để chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với Người. Con người mà chính Người đã diễn tả trong bài Tin Mừng: đó là một người nghèo, một người hiền lành, một người than khóc, một người đói khát công chính, một người biết thương xót, một người trong sạch, một người kiến tạo hòa bình, một người chấp nhận bị bách hại vì lẽ công chính. Thế nhưng, mặc dù có thể được qúa nhiều dấu chỉ của hồng ân, nhưng chúng ta lại biến những dấu chỉ trở thành quyền lực của bản thân, để tự cao tự đại, để áp bức và khinh khi tha nhân! Và nhất là làm suy giảm sự hiệp nhất trong Giáo Xứ.
Vậy làm sao tôi có thể làm bản tổng kết của Giáo Xứ này trong năm qua. Thánh Phaolô cũng từng nói với giáo dân của mình “Anh chị em chính là triều thiên của tôi, anh chị em chính là chứng thư của tôi trước Nhan Thánh Chúa”. Nhưng triều thiên tôi có, chứng thư tôi cầm trong tay là gì đây?
Nhìn lại năm cũ thực tế là như vậy, nhưng tôi không bi quan, tôi vẫn hướng về năm sắp tới với tâm tình tri ân và đền tạ, đồng thời vẫn kiên vững trong niềm hy vọng Chúa là Đấng Trung Tín, chính Người sẽ thực hiện điều Người muốn cho Giáo Xứ.
Dẫu sao trong tư cách là chủ chăn riêng của Giáo Xứ, tôi nhận mình có phần trách nhiệm chính yếu về những yếu kém của Giáo Xứ, do những thiếu sót và tội lỗi của chính mình. Vì vậy lẽ ra như thư Do Thái đã viết, hằng ngày tôi phải dâng của lễ đền tội bản thân đã lỗi phạm và cũng đền tội cho dân chúng nữa. Nhưng có lẽ chính những lễ dâng đền tội này chưa đủ đẹp lòng Chúa, vậy tôi xin anh chị em tha thiết cầu nguyện cách riêng cho tôi ngay từ giây phút này và trong năm mới biết dâng lên những lễ tế xuất phát từ “tấm lòng tan nát giày vò” để Chúa chẳng khinh chê mà ban cho Giáo xứ rực rỡ ánh Tôn Nhan Thương Xót và Bình An của Người, để Giáo Xứ trở nên dấu chỉ và thực tại của sự hiệp nhất yêu thương của Chúa giữa lòng xã hội hôm nay. Amen
10. Giao Thừa Đoàn Tụ – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Tết là khởi đầu của một năm, là dịp lễ quan trọng và linh thiêng nhất trong một năm. Ngày Tết ai cũng ao ước khởi đầu lại. Ai cũng muốn rũ bỏ những gì không tốt đẹp của năm qua để đón nhận một luồng sinh khí mới. Thế nên, mọi người đều cố gắng vui vẻ độ lượng với nhau, bỏ qua hiềm khích cũ. Sống tình thân ái trong những ngày Tết. Lòng người ai cũng tràn đầy hoài bão về hạnh phúc và thịnh vượng cho năm mới.
Ngày tết với những giờ phút rất linh thiêng gọi là giao thừa. Một thời khắc giao thoa giữa cũ và mới. Giữa quá khứ và hiện tại. Một thời khắc con người như muốn chuyển mình cùng vạn vật, hoà mình vào chốn tâm linh, bỏ lại phía sau bao nỗi ưu tư, vất vả truân chuyên trong cuộc sống. Một thời khắc tràn đầy niềm lạc quan hy vọng cho một năm mới an bình, hạnh phúc và thịnh vượng.
Ngày Tết còn là dịp để gia đình dòng tộc sum họp. Dù ai đi ngược về xuôi cũng muốn trở về đoàn tụ với gia đình trong giây phút linh thiêng ấy. Quây quần bên bàn thờ, thắp lên nén hương trầm trên bàn thờ tổ tiên để tưởng nhớ tới ông bà, cha mẹ những người đã nuôi nấng sinh thành ra mình nay đã khuất. Vì cây có cội, nước có nguồn. Con người cũng phải nhớ về tổ tiên để tỏ lòng tri ân và cầu mong các ngài chúc phúc cho một năm mới bình an.
Trong giây phút giao thừa, mỗi thành viên trong gia đình thường lần lượt chúc tuổi nhau. Con cháu chúc mừng ông bà mạnh khoẻ sống lâu. Ông bà cha mẹ mừng tuổi lại con cháu chăm ngoan, học giỏi, thảo hiếu, vâng lời. … Ngày tết người lớn thường không quên lì xì cho con cháu với một ý nghĩa tượng trưng, mong sang một năm mới con cháu sẽ gặt hái được nhiều điều tốt đẹp.
Một việc làm trong Ba ngày tết có lẽ không thể thiếu chính là lễ hội tâm linh. Ngày tết người Phật Giáo rủ nhau đi Chùa. Người Công Giáo đến Nhà Thờ như muốn hoà vào dòng người đi lễ để cảm nhận được sự giao hoà của trời đất. Để gởi gắm vào chốn linh thiêng những ưu từ hoài bão lên Đấng Tạo Thành. Chính nơi đây, con người cũng tìm thấy sự thanh thoát, nhẹ nhàng cho tâm hồn như những làn khói nhẹ bay vào chốn không trung.
Người Công Giáo chúng ta luôn nhìn nhận Thiên Chúa là chủ thời gian. Thiên Chúa sắp đặt mọi vận hành của trời đất và con người. Thế nên, gửi gắm tâm tình lên Đấng Tạo Thành trời đất là lẽ thường tình. Chỉ có Ngài mới làm cho “con tạo xoay vần” theo chu kỳ của nó. Chỉ có Ngài mới giúp con người đạt được ước nguyện của mình.
Thế nên, hôm nay trong giây phút giao thừa, mỗi người hãy để lòng mình thanh thản nương theo thánh ý Chúa. Hãy trao vào tay Chúa những ưu phiền lắng lo. Hãy đặt niềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa có thể xoay vần cuộc đời theo như ý Ngài. Xin phó thác mọi sự trong tay Ngài. Và trước thềm một năm mới, chúng ta cùng kính chúc nhau:
Vừa đủ HẠNH PHÚC để giữ tâm hồn luôn ngọt ngào
– Vừa đủ THỬ THÁCH để luôn kiên nhẫn trung kiên
– Vừa đủ HY VỌNG để luôn hạnh phúc
– Vừa đủ THẤT BẠI để luôn khiêm nhường
– Vừa đủ THÀNH CÔNG để luôn nhiệt tâm
– Vừa đủ BẠN BÈ để được an ủi
– Vừa đủ VẬT CHẤT để đáp ứng mọi nhu cầu
– Vừa đủ NHIỆT TÌNH để đời thêm hân hoan
– Vừa đủ NIỀM TIN để xua tan thất bại
Xin cầu chúc cho nhau một đêm giao thừa ấm áp Tình Chúa – Tình Người. Amen
11. Bàn giao năm cũ – Mt 5, 1-10 (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giây phút huyền nhiệm của đêm giao thừa như có một sự gì đó hết sức linh thiêng vì năm cũ chuyển giao cho năm mới. Đây là giây phút trời với đất gặp nhau, trời và đất giao hòa như lời Thánh vịnh 133,3 viết:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion “. Lời khẩn cầu ấy phải là lời nguyện xin của mỗi người, mỗi gia đình khấn van Chúa tưới đổ muôn hồng ân xuống năm mới để người người, nhà nhà được an bình, thịnh vượng và hạnh phúc.
Với truyền thống của người Việt Nam, đêm giao thừa là đêm thánh thiêng, đêm con người gặp gỡ thần linh, đêm con người gặp gỡ trời và đất. Thường người lớn trong gia đình đứng trước bàn thờ tổ tiên, ông bà để khấn vái tổ tiên, khấn xin người trên ban cho gia đình được nhiều hồng phúc, ban cho gia đình được dồi dào sức khỏe, may mắn và bình an. Đối với các Kitô hữu, giây phút giao thừa là giây phút con người gặp gỡ Thiên Chúa để nói lời cảm tạ tri ân Ngài vì muôn ân phúc Ngài đã ban cho con người, cho mỗi người, cho gia đình trong suốt một năm qua. Do đó, giây phút giao thừa là giây phút linh thiêng nhất: Thiên Chúa gặp gỡ con người và con người gặp gỡ Thiên Chúa. Giây phút linh thánh trời và đất gặp nhau, Thiên Chúa đang ở với con người và con người đang đối diện với Thiên Chúa. Giây phút huyền diệu này con người không biết diễn tả sao cho hết tình Chúa thương yêu con người. Trong giây phút ấy, con người chỉ biết hợp cùng Giáo Hội ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa:” Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Trong Cha chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn nhận bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết ” (Lời Kinh Tiền Tụng Chúa Nhật IV Thường niên). Chúng ta có thể nói không ngoa vì giây phút này là giây phút tuyệt hảo, giây phút hạnh phúc nhất con người gặp gỡ Đấng vô cùng chí thánh, giống như giây phút trên núi Sinai, Môsê không dám nhìn vào bụi gai đang cháy khi Thiên Chúa đang ở đó. Môsê phải cúi mặt xuống, không dám nhìn vào Chúa.
Vâng, mỗi nước, mỗi dân tộc có một tập tục, một cách thể hiện để đón năm mới, nhưng dù với cách nào, với tập tục nào, truyền thống nào, người môn đệ Chúa luôn coi giây phút giao thừa là giây phút linh thiêng, giây phút năm cũ sẽ nhường chỗ cho một năm mới tới. Người môn đệ Chúa luôn ước mong năm mới sẽ đẹp hơn, tốt hơn năm cũ. Người môn đệ Chúa sẽ xua đi tất cả những gì được coi như xui xẻo, coi như không được may mắn của năm cũ và đón chào những gì tốt hơn, quí hơn của năm mới mà Thiên Chúa sẽ trao ban cho họ.
Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút linh thánh của đêm giao thừa, xin cho mọi người môn đệ Chúa luôn biết nói lời cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì những ơn huệ đã nhận lãnh và nhận ra những hồng ân mà Ngài sẽ ban cho nhân loại, cho con người, cho mỗi gia đình trong năm mới bắt đầu này. Amen.
12. Xuân Tạ Ơn (Mt 5, 1-10) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giây phút linh thiêng của những giờ phút của đêm giao thừa luôn có một ý nghĩa nhiệm mầu. Giây phút mà Hàn Mặc Tử đã viết:” Đây phút linh thiêng đã khởi đầu…”Giây phút giao thoa giữa năm cũ và năm mới. Giây phút mà những cái cũ được đẩy qua một bên để nhường cho những giây phút linh thiêng nhất, quí hoá nhất. Giây phút dành để cho Thiên chúa vì chỉ có mình Người là Đấng tạo dựng vũ trụ, tạo dựng con người. ” Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời ” như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do Thái 13, 8 đã viết. Do đó, những giờ phút quan trọng của đêm giao thừa là để tạ ơn Thiên Chúa.
TẠ ƠN LÀ ĐIỀU TỐI CẦN THIẾT: Sống trên gian trần, chúng ta mọi người đều mang ơn nhau, nặng nợ với nhau. Do đó, việc tri ân cảm tạ là điều cần thiết mọi người phải có với nhau. Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa chúng ta trả ơn không bao giờ cho cân xứng, Thiên Chúa không cần chúng ta cảm ơn Ngài, nhưng cảm tạ lại cần thiết và sinh ơn cứu độ cho chúng ta vì như lời nguyện nhập lễ chúng ta đọc thấy:” Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh”. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, chúng ta phải biết ơn Ngài và luôn luôn hướng về Ngài để cảm tạ tri ân Ngài và cầu khẩn Ngài vì ” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời “.Chính vì thế, giây phút giao thừa là giây phút huyền nhiệm, linh thiêng để chúng ta dừng lại tạ lỗi với Chúa vì những thiếu xót trong năm vừa qua và kính dâng Chúa năm mới với những cố gắng của mỗi người chúng ta với sự bảo trợ của Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Một phút quay lại với tâm tình thống hối và những quyết tâm với những ước mơ mới. Tạ ơn Thiên Chúa là điều tối cần thiết vì những hồng ân vô giá Thiên Chúa trao ban cho con người, cho loài người, cho mỗi người:” Lạy Thiên Chúa chí nhân chí thánh, Chúa là Đấng tạo thành vạn vật. Thời gian không gian là của Chúa, Chúa ban cho chúng con được hưởng dùng. Nay, trước thềm một mùa xuân mới, chúng con đến dâng lời tán tụng. Cùng với lời cảm mến tri ân. Năm cũ vừa qua được an bình, năm mới sắp tới muôn phần tốt đẹp. Chúng con xin cúi đầu cảm tạ”.
LỜI CẦU NGUYỆN TRI ÂN: Lạy Chúa, trước thềm năm mới, năm Đinh Hợi, chúng con cầu xin cho ánh sáng của Chúa chiếu toả khắp nơi trên vũ trụ, trần gian. Xin ơn hòa bình ngự trị mọi tâm hồn của những con người thành tâm thiện chí ” Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương “. Xin cho Quê Hương, Đất Nước chúng con luôn được niềm hạnh phúc của mùa xuân vĩnh cửu ngự trị và muôn dân được ấm no hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin cho mọi tâm hồn của con người luôn được thanh luyện trong Thánh Thần. Xin cho tất cả mọi người có niềm tin và không có niềm tin đều ước nguyện một mùa xuân vĩnh cửu không bao giờ tàn úa.
Xin cho những Kitô hữu luôn biết sống lời Chúa và yêu thương phục vụ.
Xin cho chúng con luôn biết hiếu đễ để mọi người luôn biết nói lời cảm tạ tri ân. Xin cho chúng con luôn là những dòng suối mát vun tưới cho cành xuân của chúng con được nở rộ trong mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân như ý, mùa xuân cứu độ.
Lạy Chúa, trước thềm năm mới Đinh Hợi, chúng con xin cảm tạ tri ân Chúa vì những ân huệ quí báu Thiên Chúa ban cho chúng con nhưng không. Xin cảm tạ Chúa vì mùa xuân bất diệt Chúa tặng ban cho nhân loại, cho con người, cho gian trần.
Xin cho giây phút giao thừa của xuân Đinh Hợi mang lại cho chúng con ơn bình an và hạnh phúc.
13. Tám Mối Phúc (Mt 6,25-34) (Lm. Trần Bình Trọng)
Tư tưởng cũng như văn chương bình dân Việt Nam hàm chứa những quan niệm về thời giờ như: Thời giờ là vàng bạc; thời giờ thấm thoắt tựa thoi đưa, cứ đi đi mãi, không chờ đợi ai. Thường khi người ta nhìn tới thì thấy lâu dài, nhưng khi nhìn lại thì thấy mau lẹ. Người ta nói mới ngày nào đó, chúng mình thế nọ thế kia, mà nay đã hai mươi năm, ba mươi năm rồi. Khi bận rộn với công việc làm hay chương trình hoạt động, người ta cảm thấy thời giờ đi mau lẹ. Những lúc nhàn rỗi hay không bị hoàn cảnh thúc ép, người ta lại cảm thấy thời giờ đi chậm. Cho dù người ta cảm thấy thời giờ đi mau hay chậm, thời giờ vẫn xoay đều không thay đổi. Người ta không thể đi trước thời giờ, cũng không thể kéo dài thời gian.
Cho dù Tết đến sớm hay muộn, mùa Xuân đến mau hay chậm, người ta cũng phải theo chu kì tuần hoàn của vũ trụ mà đón nhận giây phút bàn giao của thời giờ mới cũ ở lúc không giờ của đêm giao thừa, là giây phút tống cựu nghinh tân. Người Việt xưa kia coi đêm giao thừa là giây phút linh thiêng, giao hoà giữa trời và đất. Gần đến giây phút giao thừa, người ta cứ ngồi đợi để hoà nhịp với giây phút giao hoà của trời đất, không được nói hay làm gì. Vừa tới lúc giao thừa thì họ vỗ tay vang động hay cho nổ pháo: đạch, đạch… đạch, đùng. Đạch, ĐÙNG… ĐÙNG… Đốt pháo để mừng xuân mới sang. Đốt pháo theo quan niệm của nhiều người Việt trước đây còn để xua đuổi ma qủi. Có người còn nghĩ: pháo nổ càng lớn, ma quỉ càng sợ. Vậy phải đốt pháo cối.
Người Công giáo thì coi ông trời là Thượng Đế, là Thiên Chúa và chỉ có Chúa mới làm chủ được thời giờ và thời gian. Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chúa có quyền trên mưa nắng, sóng gió, bão táp… như trong lời nguyện đầu lễ Giao thừa, linh mục chủ tế cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Đấng vô thuỷ vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc.
Bài Tin Mừng lễ Giao thừa bàn về Tám mối Phúc thật. Vào dịp Tết, mọi người đều chúc cho nhau những điều tốt đẹp, thì Giáo Hội cũng dùng những lời Thánh Kinh có chứa đựng những lời chúc phúc của Thiên Chúa. Trong khi thiên hạ chúc cho nhau mọi sự giàu sang phú quí và may mắn, thì Thiên Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật trong đó có một lời chúc cho những ai sống tinh thần nghèo khó. Thật là một điều nghịch lý và mâu thuẫn! Có một người dự tòng kia hỏi linh mục chánh xứ nọ: Thưa cha khi cha giảng về Tám mối Phúc thật, con không thể chấp nhận được bởi vì những điều Chúa dạy trong Tám mối Phúc thật đi ngược lại với quan niệm của người đời và ngược lại với những gì con đã sống. Nhưng rồi con vẫn tiếp tục đi lễ, nghe cha giảng Lời Chúa. Bây giờ thì con đã chấp nhận. Mỗi lần sau khi dâng thánh lễ, con cảm thấy được bình an trong tâm hồn.
Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật. Và không phải họ chỉ được hạnh phúc đời sau, nhưng còn được hưởng hạnh phúc ngay tại đời này. Hạnh phúc đó là một tâm hồn bình an, thư thái. Được Chúa chúc phúc là được tất cả: đời này cũng như đời sau. Có những người có thể hiểu lầm cho rằng Chúa muốn người ta sống nghèo khó, khắc khổ. Thực sự thì Chúa đến giải thoát con người khỏi cảnh nghèo đói. Chúa bảo: Nào những kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa, Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống (Mt 25,34-35).
Người đời còn cho rằng Giáo Hội dùng mối Phúc thật thứ nhất để cổ võ đời sống nghèo khó. Sự thực thì Giáo Hội không chủ trương như vậy. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lần đã tố cáo chính sách cấm vận của Hoa kỳ khiến cho dân nghèo Cuba càng nghèo, thiếu những phương tiện tối thiểu cho nhân phẩm con người. Trước đó ngài còn kêu gọi dịp Tết dương lịch 1998 hoàn cầu hoá việc phát triển kinh tế và phát triển kinh tế phải nằm trong vòng liên đới các quốc gia chứ không nhắm đến việc ăn mảnh và đánh lẻ. Đức Thánh Cha còn khuyến khích những quốc gia giàu mạnh xoá nợ cho những quốc gia nghèo đói. Như vậy Giáo Hội không khuyến khích thực tại nghèo khó, nhưng là sống tinh thần nghèo khó, nghĩa là tinh thần siêu thoát, không để lòng dính bén vào của cải trần thế.
Trong thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô chúc cho họ như sau: Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn (1Tx 5,23). Trong bài trích sách Dân Số, Chúa dạy Môsê chúc phúc cho dân chúng như sau: Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện xin Thiên Chúa tươi nét mặt gìn giữ anh em, và dủ lòng thương anh em! Nguyện xin Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em (Ds 6,24-26).
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, ta thấy dân được chọn kêu cầu đến Chúa mà chúc lành lẫn cho nhau. Bố cũng chúc lành cho con cái như ông Raguên chúc lành cho con rể là Tôbia và con gái là Xara như sau: Con đi mạnh giỏi và bình an! Xin Chúa trời cho con và Xara vợ con thành đạt, và ước gì cha được nhìn thấy con cái của chúng con trước khi nhắm mắt (Tb 10,11). Bà Étna cũng nại đến Chúa để chúc lành cho con gái và con rể như sau: Trước mặt Chúa, mẹ kí thác Xara cho con, con rể của mẹ! Suốt đời con, đừng bao giờ làm cho nó phải buồn (Tb 10,13).
Chúc Tết và chúc tuổi cho nhau mà nại đến Thiên Chúa và kêu cầu đến ân sủng và quyền năng của Chúa là đặt người mà mình cầu chúc dưới sự che chở và bảo vệ của Chúa. Việc cầu chúc cho nhau mà nói ra tiếng để người được cầu chúc có thể nghe thấy còn có tác dụng tâm lý là khiến cho người được chúc phúc cảm động và tự cố gắng thế nào để lời cầu chúc được thực hiện nơi mình.
Để áp dụng thực hành, ta nguyện xin Chúa chúc lành cho ông bà cha mẹ, anh chị em họ hàng. Và nguyện xin Chúa chúc lành lẫn cho nhau trong năm mới. Ta cũng không quên xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu sót trong năm cũ, những lúc ta phí phạm thời giờ Chúa ban, cũng như việc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa tha thứ những lần ta không dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình: cha mẹ, vợ chồng và con cái; những lần ta không dành thời giờ cho chính mình để suy tư về thân phận làm người trong mối tương quan với Đấng tác thành nên mình.
Lời nguyện xin Chúa chúc lành cho Năm mới:
Lạy Chúa, Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân Hạ Thu Đông. Chúng con xin tạ ơn Chúa cho thời giờ, năm tháng Chúa ban trong năm cũ. Xin Chúa tha thứ những lần chúng con phí phạm thời giờ hoặc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa thánh hoá thời giờ chúng con xử dụng để chúng con biết dùng thời giờ làm vinh quang nước Chúa. Amen.
14. Những nét đẹp Tin Mừng của ngày tết (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Xuân đến làm đẹp đất trời. Những cành đào đua nhau khoe sắc. Những chồi non bụ bẫm nhú ra khỏi cành cây khô khẳng. Chợ búa đông vui và đẹp đẽ với những hàng hoá đủ mọi loại. Những tà áo mới tha thướt làm đẹp phố phường. Trong khung cảnh vui tươi tấp nập ấy, khuôn mặt mọi người như rạng rỡ tươi cười. Mùa Xuân đem đến nhiều vẻ đẹp. Cao quý nhất là những nét đẹp văn hoá dân tộc đậm đà mầu sắc Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của lòng biết ơn. Năm hết Tết đến, người Việt nam thường nhớ đến công ơn của những người đã giúp đỡ mình trong năm qua. Biết ơn là một nét đẹp văn hoá đáng trân trọng và cũng là một điều hợp lý. Năm 2000 phải biết ơn 1999 năm qua. Dòng sông lớn phải mang ơn những con suối nhỏ. Hạt lúa phải nhớ ơn những hạt mưa, hạt nắng, hạt phân. Ngày hôm nay phải biết ơn ngày hôm qua. Thế hệ này phải nhớ ơn thế hệ trước. Đời sống ta chịu ơn biết bao người. Cảm nghiệm sâu xa chân lý này, nên mỗi dịp Tết đến, người Việt nam ta thường bày tỏ lòng biết ơn với ông bà, cha mẹ và các ân nhân. Những món quà nho nhỏ nhưng thắm đượm tình nghĩa làm vui cả người nhận lẫn người cho. Riêng với người Công giáo, bày tỏ lòng tri ân đối với Thiên chúa là một bổn phận không thể thiếu. Vì Thiên chúa chính là tổ tiên đã sinh thành nên ta. Vì Thiên chúa là ân nhân lớn nhất đời ta. Chính Người đã ban cho ta món quà cao quý nhất: đó là sự sống. Chính Người tiếp tục chăm sóc gìn giữ ta từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây. Biết ơn là việc làm của lương tri, cổ võ cho một thế giới mới chan chứa tình người. Biết ơn cũng là một giá trị đạo đức được Chúa Giêsu đề cao trong Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của sự cho đi. Ta gửi đi những cánh thiệp như những sứ giả của tình cảm yêu thương. Ta gửi đi những lời cầu chúc như tâm tình mến yêu tha thiết dành cho nhau. Ta sửa sang quét dọn nhà cửa để đón tiếp nhau. Ta dành thời giờ viếng thăm nhau để xiết chặt thêm tình thân ái. Ta ăn mặc tề chỉnh để tỏ lòng kính trọng nhau. Ta nói năng tế nhị để làm vui lòng nhau. Ta rộng rãi tặng tiền mừng tuổi cho con cháu. Tóm lại, tất cả những gì ta làm trong ngày Tết đều vì người khác và cho người khác. Đặc biệt trong lãnh vực ăn uống. Ngày Tết, nhà nào cũng chuẩn bị sẵn đồ ăn thức uống cho gia đình, nhưng nhất là để mời khách. Khách vào nhà bao giờ cũng được mời thưởng thức ấm chè mới, nếm kẹo bánh ngon. Sự chiếu cố của khách làm vui lòng cho chủ. Sự vui vẻ của người nhận là hạnh phúc của người cho. Có niềm vui cho đi và có niềm vui lãnh nhận. Những niềm vui ấy tạo cho ngày Tết một nét đẹp đầy mầu sắc Tin Mừng: nét đẹp của sự quên mình, của sự quảng đại cho đi, của sự khiêm tốn đón nhận, của tình liên đới.
Ngày Tết có nét đẹp của sự đổi mới. Thiên nhiên đổi mới với sự hồi sinh của cây cỏ. Phố phường đổi mới với những căn nhà mới, với những gian hàng mới và với quần áo mới. Hoà vào cái mới của đất trời, của xã hội, lòng người cũng nôn nao trong niềm hy vọng đổi mới bản thân và cuộc đời. Ai cũng mong tống tiễn những điều xấu vào quá khứ. Ai cũng mong đón nhận một tương lai tươi đẹp. Niềm mong ước đổi mới được thể hiện qua những cố gắng giữ vẻ mặt tươi cười, không tức giận, không nói những lời thô tục, những điều rủi ro, nhưng chỉ nói những điều tốt đẹp, đối xử hoà nhã với mọi người trong những ngày Tết. Phút giao thừa thật thiêng liêng. Nó đánh dấu một khởi đầu mới. Người ta tin rằng sống tốt đẹp những giây phút đầu tiên sẽ có ảnh hưởng tốt đến cả năm. Nên mỗi dịp Tết là một lần khuyến khích ta cố gắng đổi mới đời sống, đổi mới bản thân.
Đổi mới đời sống là điều Chúa Giêsu tha thiết mong muốn nơi ta. Người không ngừng mời gọi ta hãy từ bỏ con đường tội lỗi xưa cũ, bước vào con đường mới, con đường tự do, thánh thiện của con cái Thiên chúa. Người không ngừng mời gọi ta trở thành bầu da mới để có thể chứa đựng thứ rượu mới là giáo lý của Người. Ngày Tết chính là một cơ hội cho ta thực hành Lời Chúa dạy, tích cực đổi mới đời sống nên tốt đẹp hơn.
Với tất cả những nét đẹp trên đây, tinh thần ngày Tết cổ truyền dân tộc rất gần gũi với Tin Mừng. Rõ ràng nét đẹp văn hoá Việt nam đã chất chứa những giá trị Tin Mừng. Rõ ràng Tin Mừng đang đi vào cuộc sống của người Việt nam.
Vì thế, người Việt nam Công giáo không những có trách nhiệm gìn giữ những nét đẹp văn hoá của ngày Tết cổ truyền mà còn phải biến những nét đẹp ấy thành những trang Tin Mừng sống động. Khi ta sống tâm tình biết ơn trong ngày Tết, đừng chỉ giữ hình thức bề ngoài hay chỉ chú ý tới khía cạnh vật chất. Hãy có tâm tình biết ơn sâu xa. Hãy nhìn thấy ơn Chúa ban qua mọi ân huệ nhận được. Khi ta cho đi trong ngày Tết, đừng chỉ cho đi như một hình thức xã giao hay như một thói tục bắt buộc. Hãy cho đi với tâm tình yêu mến, kính trọng thực sự. Hãy đón tiếp khách thăm viếng như đón tiếp chính Chúa. Khi ta muốn đổi mới đời sống, đừng chỉ giữ như một hình thức và không chỉ giữ trong những ngày Tết, nhưng duy trì sự cố gắng đổi mới trong suốt cả đời với quyết tâm thực sự đổi mới đời sống.
Khi ta sống tinh thần Tin Mừng trong những phong tục ngày Tết, ta góp phần xây dựng một mùa Xuân mới, một mùa Xuân dân tộc, một mùa Xuân tình thương. Mùa Xuân ấy sẽ vĩnh cửu vì sẽ dẫn đến mùa Xuân Nước Trời.
Lạy Đức Kitô là mùa Xuân đích thực, không bao giờ tàn úa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen
15. Giao Thừa--XUÂN 2015
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Thời gian vẫn dần trôi. Như chiếc kim đồng hồ mãi vần xoay. Thời gian chẳng đợi chờ ai bao giờ. Ngày hôm qua đã thành quá khứ. Ngày mai còn chưa tới. Chỉ có ngày hôm nay đang trong tầm tay. Có thể nói món quà quý báu nhất mà Thượng Đế ban cho chúng ta hưởng thụ chính là thời gian. Thời gian lại qua đi rất nhanh nếu chúng ta không biết hưởng thụ thì thật uổng phí! Thời gian sẽ không chờ, thế nên, đừng chờ sau này mới làm những việc mà đáng lý mình phải làm. Nếu không làm ngày hôm nay thì không biết ngày mai chúng ta còn có cơ hội hay khả năng để thực hiện ước mơ của mình hay không?
Có những người con nghĩ rằng khi lớn lên sẽ phụng dưỡng cha mẹ, thế nên tuổi nhỏ thì vẫn lười biếng, sống thiếu trách nhiệm với gia đình, nhưng khi lớn lên thì cha mẹ đâu còn để mà thảo hiếu.
Có những người cha người mẹ tưởng rằng mình còn nhiều thời gian để xây mộng ước, thế nên, vẫn cứ trì trệ, không lo tương lai, đến khi già vẫn chưa có một mái nhà nương thân.
Có những bạn trẻ tưởng rằng thời gian còn dài, thế nên, vẫn vui chơi, có khi sa đọa, đến khi bệnh tật mới biết mình không còn cơ hội cho tương lai.--------Có biết bao nhiêu mộng ước, dệt thật nhiều nhưng vẫn dở dang vì chẳng đủ thời gian để hoàn thành.
Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.
Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:
- Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.
- Không được. - Thần Chết lắc đầu.
- Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không? - Anh ta tiếp tục van xin.
- Không được. - Thần Chết vẫn không đồng ý.
Anh ta vội nói:
- Vậy... tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?
- Không được. - Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.
Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:
- Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.
Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:
- Xin hãy ghi nhớ: "Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày".
Thời gian thật quý hóa. Quý hóa vì nó một đi mà không quay trở lại. Thời gian cho ta làm việc, cho ta hưởng niềm vui nhưng chúng ta đã để lỡ thời gian khi lao vào những đam mê lầm lạc, khi hăng say tranh chấp bon chen với cuộc đời. Chúng ta đã đánh mất niềm vui của thời gian hiện tại. Đây mới là thời gian thực. Thời gian để sống và hưởng thụ. Vì quá khứ đã vuột qua. Tương lai còn mù tối. Hiện tại mới quan trọng với chúng ta. Hãy sống thật vui vẻ, lạc quan với hiện tại, vì đó là cách chúng ta không lãng phí thời gian.
Theo niềm tin ky-tô giáo, thời gian là ân ban của Thiên Chúa. Thời gian Chúa ban cho con người dài ngắn khác nhau. Điều đáng tiếc là ít ai bằng lòng với hiện tại. Không bằng lòng với hiện tại, nên con người thường hay lo lắng, bon chen, dùng đủ mọi khả năng, sức lực, tâm trí mong sống dài hơn, giàu có hơn, danh vọng và quyền lực hơn. Khi đã đạt đến mục tiêu rồi con người lại cảm thấy một khoảng trống vắng trong tâm hồn mà tất cả những lạc thú trần gian không thể lấp đầy. Dường như cuộc đời chẳng có gì vừa ý, toại nguyện mãi mãi với con người, vì ‘‘Được voi đòi tiên” là vậy.
Chúa Giê-su phán: “Có ai trong các ngươi lo lắng mà làm cho đời mình dài thêm một khắc không? Vậy nếu đến việc rất nhỏ các ngươi cũng không có thể được sao các ngươi lo việc khác? Hãy xem hoa huệ mọc lên thể nào: nó chẳng làm khó nhọc, cũng không kéo chỉ; song ta phán cùng các ngươi, dầu vua Sa-lô-môn sang trọng đến đâu, cũng không được mặc áo như một hoa nào trong giống ấy” (Lc 12, 25-26)
Trong giây phút giao thừa, là thời gian chuyển tiếp giữa cũ và mới. Một thời khắc chuyển sang một năm mới với nhiều âu lo, trăn trở. Chúng ta hãy gác mọi lo âu trăn trở để sống giây phút hiện tại thật bình yên và hạnh phúc. Hãy phó dâng cho Chúa như muôn chim, muôn hoa để cho Chúa thực hiện theo sự quan phòng của Ngài. Chúng ta hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quyền năng, một Thiên Chúa nhân từ sẽ làm mọi sự tốt nhất cho con người, vì chúng ta là hình ảnh của Ngài, là con cái của Ngài, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta.
Xin Chúa chúc phúc cho chúng ta một đêm giao thừa an bình. Xin cầu chúc cho quý ông bà và anh chị em được những giây phút hiện tại này tràn đầy niềm vui trong tình Chúa tình người đầy ắp hôm nay. Amen.
16. LỄ GIAO THỪA 2020: Tha Thứ Để Có Niềm Vui Xuân
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Ngày 03/10/2019, một thanh niên da đen 18 tuổi đã làm rúng động nước Mỹ, và có thể còn xa hơn nữa, với thông điệp tha thứ của anh.
Trong phiên tòa xét xử cô Amber Guyger, 31 tuổi, cảnh sát viên người da trắng.
Vì mải nói chuyện điện thoại cho nên cô đã đi nhầm vào phòng của anh Botham Jean, và ngạc nhiên khi thấy anh Botham đang ngồi ăn kem trong phòng khách, cô liền rút súng ra. Cô tưởng anh tấn công mình nên cô đã bắn hai phát súng trúng vào tim anh. Botham Jean, 26 tuổi, người da đen, đã chết trong căn phòng của mình một cách bất ngờ, ngỡ ngàng không hiểu tại sao mình phải chết!
Trong bối cảnh căng thẳng vì vấn đề màu da và vì tình trạng bạo hành của cảnh sát, phiên tòa xử cô Amber Guyger đã diễn ra hết sức căng thẳng.
Kết thúc 4 ngày xét xử, bồi thẩm đoàn đã nhất trí kết tội cô là ‘sát nhân’. Và kết án 10 năm tù.
Người em trai của Botham tên là Brandt Jean, 18 tuổi, khi được cho phép nói lên lời cuối với tội nhân, đã sử dụng thời gian đó tại tòa án để đưa ra một thông điệp tha thứ:
“Tôi không muốn nói hai lần hoặc hàng trăm lần cô đã lấy đi những gì, và bao nhiêu từ chúng tôi.
Tôi nghĩ rằng cô biết điều đó. Nhưng tôi chỉ hy vọng rằng cô đến với Chúa với tất cả mọi tội lỗi và tất cả những gì tôi nghĩ là xấu xa mà cô đã từng làm trong quá khứ.
Ai trong chúng ta cũng có thể đã làm một cái gì đó chúng ta không nên làm.
Nếu cô thực sự hối hận. Tôi biết tôi có thể nói về phần tôi là tôi tha thứ cho cô.
Và tôi biết nếu cô đến với Chúa và xin Ngài tha thứ thì Ngài sẽ tha thứ cho cô. Thực tâm tôi không muốn cô phải ngồi tù. Tôi không muốn bất cứ điều gì xấu cho cô’’.
Ngập ngừng một lúc, anh quay sang phía chánh án hỏi:
‘‘Tôi không biết tôi có thể dành cho cô ấy một cái ôm không? Xin vui lòng cho phép tôi’’.
Bà chánh án Tammy Kemp rất bối rối trước đề nghị này. Sau một lúc suy nghĩ bà nói “Được”.
Chứng kiến cảnh này bà chánh án Tammy Kemp đã rơi lệ.
Đây “Thật là một tấm gương đáng kinh ngạc về tình yêu và sự tha thứ Kitô giáo, chàng trai 18 tuổi đã thay anh tha thứ cho người sát hại anh và khuyến khích cô ấy hiến dâng cuộc sống của mình cho Chúa Kitô để bù đắp tội lỗi mình.
Hôm nay đêm giao thừa, nhắc lại sự kiện này như muốn mời gọi tất cả chúng ta “điều gì tha thứ được thì hãy tha thứ”, “điều gì có thể quên đi được thì hãy quên đi”, nhất là hãy quên đi oán giận, hận thù ganh ghét để cho tâm hồn thanh thản bước vào một mùa xuân mới của đất trời. Và nếu chúng ta là người đã nhận được sự tha thứ của anh em thì hãy hiến dâng cuộc sống mình phụng sự cho Chúa để bù đắp lại tỗi lỗi của mình.
Và giây phút giao thừa đã gần tới. Giây phút “tống cưu nghinh tân” là tống bỏ đi những điều không tốt để đón điều tốt đẹp đến với chúng ta. Giây phút này chúng ta hãy can đảm bỏ đi những đố kỵ, giận hờn, ghen ghét. Hãy làm mới tình người qua tinh thần hòa giải yêu thương. Giây phút này không ai muốn ưu phiền, càng không muốn những điều bực dọc đến với mình. Hãy gác lại những bất đồng ý kiến, những thành kiến cố chấp để cùng nhau đón một mùa xuân yêu thương và hạnh phúc.
Nhưng điều mà Chúa muốn chúng ta là phải dấn than để “hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Vạn vật vào xuân để thay đổi thì con người muốn thăng tiến cũng phải vươn lên để hoàn thiện hơn.
Xin Chúa giúp chúng ta tống bỏ đi những điều xấu để mặc lấy con người mới. Con người đầy ân sủng của Chúa sẽ mang về cho nhân gian niềm vui và hạnh phúc. Xin Chúa chúc lành cho đêm giao thừa chúng ta tràn ngập tiếng cười vui và muôn lời cầu chúc tốt đẹp dành cho nhau. Amen
17. GIAO THỪA KỶ HỢI 2019: HÃY TẠ ƠN CHÚA TRONG MỌI HOÀN CẢNH
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Các báo đài và facebook luôn có mục điểm lại các sự kiện quan trọng nổi bật trong năm. Những thành công, thất bại, những niềm vui, nỗi buồn như những trang sách được lật qua từng ngày. Sau những ồn ào tất bật của ngày cuối năm, bước vào những giờ phút cuối cùng của năm cũ, chúng ta có dịp đến đây để nhìn lại, lật qua những biến cố xảy ra trong cuộc đời dưới cái nhìn đức tin và để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Nhìn lại ba trăm sáu mươi lăm ngày đã qua có những lúc niềm vui ngập tràn và cũng có những lúc mây mù u ám, nhưng tất cả 365 ngày là chuỗi ngày có bàn tay Thiên Chúa dắt dìu.
Thánh Phaolô trong bài đọc hai mời gọi tất cả mọi người: Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh, vì đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô muốn nhắc chúng ta rằng, chúng ta không chỉ tạ ơn Chúa những khi vui, lúc thành công, nhưng trong mọi hoàn cảnh hãy tạ ơn. Điều đó có nghĩa là chúng ta còn phải tạ ơn Chúa cả khi buồn và khi không thành công. Xét cho cùng trong những lúc đau buồn, Chúa vẫn dùng nhiều người và nhiều cách để an ủi chúng ta; Chúa ban cho chúng ta sức mạnh và nghị lực để vượt qua nỗi buồn. Cũng vậy, có nhiều khi thất bại tối tắm mặt mũi, nhưng trong những thất bại ấy, Chúa vẫn trợ giúp bằng ơn soi sáng và nhiều ơn nâng đỡ khác để giúp ta vượt qua. Chúa gìn giữ chúng ta để trong cái rủi vẫn có nhiều điều may và trong những cái mất vẫn có nhiều cái được, trong thất bại, vẫn có nhiều điều tích cực và cơ hội.
Điều quan trọng mà thánh Phaolô nhắc chúng ta tạ ơn Chúa, là vì Thiên Chúa hằng ban Thánh Thần trên chúng ta. Thánh Thần hoạt động trong chúng ta qua các ơn của Ngài: Khôn ngoan, sức mạnh, can đảm, hiểu biết, soi sáng, kính mến Chúa, vv. Hơn nữa có chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an thánh hóa toàn diện con người và tâm trí chúng ta. Ơn bình an của Chúa là ơn được ban trong tâm hồn, để khi tâm hồn bình an, chúng ta sẽ được sáng suốt để xử lý và giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Ơn bình an trong tâm hồn là hoa quả của ơn tha thứ tội lỗi mà Chính Đức Giêsu đem lại cho chúng ta qua bí tích Hòa Giải. Chính Thiên Chúa là đấng gìn giữ và ban bình an cho chúng ta qua mỗi giây phút của cuộc sống. Vì thế, nhìn lại những ngày đã qua, Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: Anh em hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Đó là điều Thiên Chúa muốn chúng ta thể hiện trong lúc này và suốt cuộc đời.
Tụ họp nhau nơi nhà Chúa trong giờ phút giao thừa này còn là thời khắc để chúng ta tạ lỗi với Chúa và xin Chúa chúc lành cho năm mới sắp tới. Xin lỗi Chúa vì những lần chúng ta vô ơn, bất tín với Chúa. Chúng ta đón nhận được ơn Chúa, nhưng vẫn chưa bày tỏ lòng biết ơn, trái lại nhiều khi chúng ta đã coi những thành công là do khả năng và sự khéo léo của mình. Mỗi ngày qua đi là mỗi ngày chúng ta đón nhận được ơn bình an và sự trợ giúp của Chúa, nhưng cả ngày sống chúng ta đã không dành lại cho Chúa một khoảng thời gian thờ phượng tạ ơn cho tương xứng. Nhìn lại trong tâm hồn, mỗi người đã nhiều lần đón nhận được ơn tha thứ và chữa lành, ơn bình an và sức mạnh và nhất là ơn cứu độ của Chúa ban cho, nhưng chúng ta vẫn chưa sử dụng ơn Chúa một cách hiệu quả, vẫn để mình bị trì kéo nghiêng chiều về điều xấu. Vậy mà Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc chúng ta trong đau khổ và sự chết, Ngài vẫn luôn ghé mắt nhìn đến chúng ta.
Ngày xưa dân Do Thái đã nhiều lần bất trung với Thiên Chúa. Có những lần Thiên Chúa đã toan bỏ mặc họ cho quân thù giày xéo, nhưng Thiên Chúa đã không nỡ bỏ con người, Ngài vẫn thương nhìn đến họ. Từ kinh nghiệm được Thiên Chúa yêu thương ngoảnh mặt lại nhìn đến dân Người mà hôm nay, ông Mose đã chúc lành cho dân chúng cùng với lời cầu xin: Xin Đức chúa thương chúc lành và gìn giữ anh em. Xin Đức Chúa tươi nét mặt mà nhìn đến và dủ lòng thương anh em. Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em. Đó là những điều Mose cầu xin cho dân Chúa và cũng là điều Giáo Hội cầu xin cho con cái mình trong giờ phút linh thiêng này, để mọi người, mọi gia đình đều được đón nhận ơn phúc lành và sự bình an của Chúa; xin Chúa tươi nét mặt nhìn đến từng người từng gia đình. Vì, Chúa ghé mắt nhìn đến ai thì người ấy sẽ được đặt dưới sự bảo trợ của chính Thiên Chúa.
Nghe lại Tám Mối Phúc trong bầu khí của đêm giao thừa hôm nay, chúng ta cảm thấy lời nhắc nhở của Chúa dành cho chính mình. Đây chính là kim chỉ nam, là định hướng mọi dự định và toan tính cho năm mới. Có thể nhiều người cũng đã có những kế hoạch và dự định riêng cho năm mới, nhưng kế hoạch nào thì cũng cần phải đặt dưới sự hướng dẫn của các mối phúc này làm ưu tiên. Có thể nói, ai cũng mong muốn một cuộc sống sung túc, giàu sang về của cải vật chất, đó là mong ước chính đáng. Tuy nhiên, Chúa muốn chúng ta, dù giàu hay nghèo về vật chất, chúng ta vẫn phải giữ được một tinh thần nghèo khó như mối phúc đã nói. Người có tinh thần nghèo khó là người có lòng khiêm nhường trước mặt Chúa và mọi người, biết đặt trọn cuộc đời nơi Thiên Chúa, lệ thuộc vào Thiên Chúa và để cho Thiên Chúa hướng dẫn từ lời nói đến việc làm và những toan tính của mình. Sống như thế sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và sẽ hạnh phúc trong cuộc sống.
Mối phúc hôm nay chúc phúc cho những người hiền lành sẽ giành được đất, nhưng không phài là đất đai, mà là Đất Hứa tức là hạnh phúc Nước trời: Phúc cho những ai hiền lành vì họ sẽ Đất Hứa làm gia nghiệp. Người hiền lành là người không để cho những tình cảm, phản ứng nóng nảy chi phối, nhưng biết cư xử và giải quyết mọi vấn đề trong tình yêu thương và bác ái. Người hiền lành sẽ bộc lộ ra cuộc sống bên ngoài cách ăn nói nhẹ nhàng dễ nghe, nói những lời hay, lời tốt đẹp, mang tính xây dựng và cách cư xử từ tốn. Người hiền lành sẽ không gieo điều xấu điều ác cho người khác, lời nói luôn chân thật cho dù cuộc sống xã hội bên ngoài vẫn đầy dẫy những dối gian xảo trá, lọc lừa.
Các mối phúc không quên nhắc đến những người đang sầu khổ cả tinh thần và mệt mỏi về thể xác, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. Thiên Chúa đến là để chia sẽ thân phận đau khổ của kiếp người. Đau khổ do bệnh tật nghèo đói ngày nay là do chính con người gây ra cho nhau và đau khổ tột cùng là sự chết do ma quỷ và tội lỗi gây ra cho nhân loại. Chúa Giêsu thấu hiểu nỗi đau khổ đang dằn vặt trên con người, Ngài đã đến để ở với con người, nếm trải sự yếu đuối bệnh tật, giới hạn của kiếp người. Chúa Giêsu đã dùng cái chết và sự phục sinh của Ngài để giải thoát con người khỏi đau khổ của sự chết, cho con người được sống và còn được chia sẻ vinh quang với Chúa. Chúa Giêsu đã an ủi bà góa Naim: Đừng khóc nữa; Ngài nói với ông trưởng hội đường: Ông cứ an tâm, con ông không chết đâu; Ngài nói với các môn đệ trong lúc đau khổ: Bình an cho các con; lúc các ông gặp sóng gió: Thầy đây, đừng sợ. Chúa cũng sẽ an ủi chúng ta lúc chúng ta buồn chán, đau khổ hoặc thất bại khi chúng ta đến với ngài, để cho Ngài yêu thương, an ủi vỗ về.
Tất cả các mối phúc đểu nhắc cho chúng ta biết chọn lựa cách sống và làm ăn trong năm mới theo tinh thần của Tin Mừng. Chúng ta đừng lập kế hoạch làm ăn một mình, nhưng hãy bàn bạc với Chúa, lắng nghe Chúa tư vấn. Chúa sẽ chỉ cho chúng ta biết phải làm như thế nào tốt nhất cho phần linh hồn, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho cuộc sống thường ngày. Khi dám sống và làm việc theo các mối phúc, chúng ta sẽ được Chúa chúc phúc ngay tại đời này và gia nghiệp Nước trời chắc chắn sẽ được dành cho chúng ta mai sau trên Nước Trời.
Thưa quý OBACE giây phút giao thừa này là dịp để mỗi người tạ ơn Chúa vì một năm đã qua, mọi biến cố vui buồn cũng đã qua. Những gì đã qua, niềm vui nỗi buồn, cả những sai lỗi và bất toàn, chúng ta phó dâng cho lòng thương xót Chúa. Chúng ta dâng những toan tính dự định của mình trong năm mới cho Chúa, xin Chúa chúc lành và giúp chúng ta dù làm việc gì, luôn biết đặt ưu tiên tìm kiếm hạnh phúc nước trời cho mình, cho gia đình. Vì giàu có của cải vật chất, nhiều nhà cửa, xe cộ, ruộng vườn mà gia đình không bằng an, không hạnh phúc, thì đó là thất bại; nhất là: lời lãi cả và thế gian mà thua thiệt mất linh hồn thì chẳng có ích gì. Mất linh hồn sẽ là mất tất cả và là thất bại lớn nhất.
Xin Chúa đón nhận tâm tình tạ ơn và tạ lỗi của chúng con trong giây phút giao thừa này và chúc lành cho năm mới sắp tới của chúng con. Amen. (Nên dành một ít phút thinh lặng).
18. GIAO THỪA XUÂN MẬU TUẤT 2018: ĐÊM TẠ ƠN
(Lm. Jos Tạ duy Tuyền)
Anh chị em thân mến
Một năm cũ sắp trôi qua và một năm mới sắp đến. Trong khoảng khắc giao thừa giữa cũ và mới này, chúng ta đến với Chúa, Đấng Tạo dựng muôn loài, Đấng làm chủ thời gian, để tạ ơn Ngài về 365 ngày sắp qua, và xin Ngài giúp chúng ta biết sử dụng 365 ngày sắp đến theo đúng thánh ý Ngài.
Đêm nay người ta vẫn gọi là đêm giao thừa, là nhịp cầu chuyển tiếp giữa cũ và mới. Ai ai cũng mong muốn trút khỏi lòng mình mọi lo âu phiền muộn, không ai dám nhắc tới những rủi ro bất hạnh của ngày hôm qua, dường như ai cũng thầm mong ước cho đêm nay như là một khởi đầu tốt đẹp cho hành trình mới của tương lai. Ai cũng gác lại quá khứ để bước vào năm mới trong niềm vui và hy vọng như câu ca dao xưa:
“Đêm ba mươi co cẳng đạp thằng bần ra cửa.
Sáng mồng một giang tay bồng ông phước vào nhà”.
Thực vậy, mùa xuân, ngày tết, ai cũng mong nhận được nhiều phước lộc, nên ai cũng chúc cho nhau nhiều tài lộc, nhiều tiền, nhiều của. Những người có tín ngưỡng thì tin rằng may mắn, tiền của là ân lộc trời ban. Nhưng phước hạnh đời người mà chúng ta cầu chúc cho nhau không chỉ là nhắm đến tài lộc mà là hạnh phúc miên trường, hạnh phúc của người có tâm hồn bình an.
Nhìn lại một năm qua, có những người được hạnh phúc vì làm ăn thuận buồm xuôi gió, công thành danh toại, có những người hạnh phúc vì tìm được chân lý, tìm được lẽ sống, tìm được bình an trong tâm hồn. Nhưng vượt lên trên tất cả cái may mắn đó, chính là sự sống, là sự bình an của đời người. Sự sống luôn ở bên ngoài khả năng của chúng ta, sự sống của chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa.
Hạnh phúc là ân ban của Thiên Chúa. Con người không thể kiến tạo hạnh phúc cho mình bằng thủ đoạn, bằng gian dối hay sự ác. Con người phải sống ngay lành nhờ đó mà Thiên Chúa mới ban phúc lộc là bình an. Một năm qua với những vụ trọng án cho ta thấy con người không thể tạo dựng hạnh phúc cho mình bằng quyền lực để tham nhũng hại dân mà phải bằng tấm lòng luôn đi theo chân thiện mỹ. Đâu ai ngờ một ông Đinh La Thăng dám nói dám làm đầy quyền thế lại phải hầu tòa? Đâu ai ngờ một Trịnh Xuân Thanh luôn sống trong nhung lụa giầu có quyền thế lại phải thân tàn ma dại? Đâu ai ngờ một đại gia Vũ Nhôm khuynh đảo Tp đáng yêu Đà Nẵng lại có kết cục trong tù tội . . .?
Hạnh phúc đến từ lộc Trời ban xuống thì con người phải sống theo lẽ Trời. Phải sống ăn ở ngay lành và làm việc thiện phúc đức. Quy luật của trời đất là “Xởi lởi trời gửi của cho -Co ro trời co của lại”. Càng gieo nhân nghĩa con người lại càng tìm được niềm vui hạnh phúc tự trong tâm hồn. Đây gọi là tích đức để Trời sẽ ban hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và cho mọi người thân nhờ công đức của ta.
Nếu hiểu rằng hạnh phúc – bình an là lộc ban từ Trời thì giây phút này là giây phút tạ ơn về quá khứ đã qua. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta 365 ngày bình an. Tạ ơn Chúa vì những biến cố xảy ra trong cuộc đời giúp ta nhận ra tình yêu của Chúa luôn bao bọc gìn giữ chúng ta. Có thể đó là những đau khổ, là những mất mát nhưng chúng ta lại được bàn tay Chúa dìu dắt và bồng ẵm chúng ta qua những thăng trầm cuộc đời. Tạ ơn Chúa đã cho chúng ta niềm tin tưởng vào Chúa, nếu không, biết đâu giờ này chúng ta đang rơi vào tâm trạng tuyệt vọng vì không đủ can đảm đối diện trước gian nan.
Nguyện xin Chúa Xuân đang về trên quê hương ban cho chúng ta những giây phút đầu xuân tràn đầy bình an và hoan lạc. Xin Chúa Xuân chúc lành cho giây phút giao thừa này được vơi đi những ưu phiền để người người hưởng một mùa Xuân thánh ân hạnh phúc dư tràn. Amen.
19. GIAO THỪA NHÂM THÌN 2012: TẠ ƠN TRỜI ĐẤT
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Ai đã có những lần, xa nhà, xa quê và đón giao thừa năm dương lịch ở nơi xứ người thì sẽ thấy khác biệt giữa giao thừa dương lịch và giao thừa âm lịch của chúng ta, những giao thừa tết tây, mặc dù pháo hoa bắn rợp trời, mà lòng người như vẫn thấy xa xôi, trái lại mỗi năm người Việt Nam chúng ta ai chũng chờ đợi giây phút linh thiêng của đêm giao thừa này; Mỗi người như cảm nhận, như đụng chạm được đến thời khắc thiêng liêng chuyển giao của năm cũ và năm mới; Tiễn năm cũ qua đi với bao buồn vui tiếc nuối lẫn lộn, đón năm mới đến với lo âu và hy vọng,.. tất cả những tình cảm ấy đang đan xen trong mỗi chúng ta.
Giây phút này là giây phút thảnh thơi nhất trong năm, vì lúc này đây mọi người như tạm gác lại mọi lo toan của năm cũ đế đón chào một năm mới với hy vọng đổi mới tốt hơn, mọi người cũng có dịp nhìn lại trách nhiệm của mình với gia đình, với cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè và có thể nói rằng, nếu ngày cuối năm dương lịch là ngày người ta tổng kết công việc, thì ngày cuối năm âm lịch là dịp mọi người tổng kết lại các mối tương quan trong cuộc sống.
Có lẽ thiết thân nhất là mối tương quan trong gia đình, ai cũng muốn cho gia đình mình giàu sang và hạnh phúc, đó là mơ ước thật chính đáng, thế nhưng làm thế nào để cho gia đình mình giàu sang và hạnh phúc thì mỗi người lại có những suy nghĩ và cách thực hiện khác nhau và ưu tiên khác nhau. Cụ thể có nhiều người đặt hạnh phúc làm ưu tiên số một, còn có nhiều người lại lấy sự giàu sang làm chính. Vì chỉ quan tâm đến tìm kiếm sự giàu sang, nên nhiều người đã lơ là việc xây dựng và vun trồng hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là điều tự nhiên mà có, nó cũng không đương nhiên xuất hiện trong gia đình cùng với sự giàu sang, mà nó là hạt giống, là cây mầm đòi mỗi người phải vun tưới mỗi ngày. Hoa trái hạnh phúc phải là kết quả của sự chung tay đóng góp của mọi thành viên. Tuy nhiên, vì lo tìm kiếm sư giàu sang, nên nhiều người đã quên mất yêu tốhạnh phúc, đã để tình cảm yêu thương giữa cha mẹ và con cái trở nên lỏng lẻo, thiếu quan tâm thiếu thông cảm và lắng nghe, đã để cho tình yêu vợ chồng trở nên nhạt nhẽo và bầu khí gia đình trở nên lạnh giá, thiếu vắng nụ cười thiếu vắng niềm vui.
Lúc này chính là lúc mỗi người cần nhìn lại và tìm cách, cũng như quyết tâm đặt lại thứ tự ưu tiên cho gia đình; có thể gia đình mình chưa giàu sang, nhưng gia đình ấm cúng thì vẫn hạnh phúc hơn gia đình giàu sang nhiều tiền nhiều của mà nghèo nụ cười, thiếu niềm vui, bầu khí gia đình lạnh lẽo. Chúng ta cũng cần nhìn lại tương quan của chúng ta với cha mẹ, nhất là với cha mẹ già, đôi khi vì sư thiếu kiên nhẫn với các ngài, trong lúc các ngài tuổi cao sức yếu, mà chúng ta đã có những lời lẽ bất kính, những thái độ coi thường hoặc khinh khi các ngài, chúng ta cần điều chỉnh lại để sống cho tròn chữ hiếu, để cho các ngài được hạnh phúc trong tuổi già, không phải khóc vì tủi thân. Là cha mẹ chúng ta cũng cần xem lại thái độ của chúng ta với từng đứa con để đem đến cho con cái một môi trường an toàn và hạnh phúc.
Kế đến chúng ta cũng cần nhìn lại mối tương quan anh em họ hàng bạn bè, dường như cuộc sống của mỗi người ngày nay quá bận rộn khiến anh em họ hàng chẳng mấy khi có dịp đến thăm nhau, thậm chí một năm cũng chỉ được ngày tết đến với nhau mà cũng vội vàng như làm nghĩa vụ… cứ như thế, thì chỉ một thời gian ngắn nũa thôi, anh em họ hàng sẽ như người xa lạ, con cháu, họ hàng gặp nhau cũng như người dưng, chẳng còn thân thiết nữa. Dịp tết này là dịp để chúng ta làm cho tình nghĩa anh em họ hàng xóm ngõ thêm đậm đà, gắn bó, hiểu nhau hơn, quý mến nhau hơn bằng việc thăm viếng nhau, hàn huyên tâm sự với nhau trong bầu khí ấm áp của những ngày xuân này, vì mỗi người sống là sống trong tình liên đới với nhau.
Nhưng mối tương quan quan trọng nhất mà giây phút giao thừa này chúng ta cần nhìn lại đó là tương quan của chúng ta với Trời Đất để biết sống tâm tình trân trọng và biết ơn, đất trời trước hết là môi trường sống của tất cả mọi người, là môi trường thiên nhiên xung quanh mà chúng ta cần trân trọng và bảo vệ và làm cho trong lành tốt đẹp hơn; hai chữ Tạ ơn Trời Đất, dù có nghĩa dân gian, song với người Kitô hữu đó còn là kiểu nói để diễn ta lòng biết ơn của chúng ta với Đấng Tạo Hóa là Thiên Chúa của chúng ta, Đấng làm chủ và điều khiển cả vũ trụ này.
Tạ ơn vì phúc lành Chúa hằng thương ban, tạ ơn vì mưa thuận gió hòa, vì tai qua nạn khỏi vì buôn bán làm ăn thuận lợi thành công, vì gia đình ấm cúng, tạ ơn Chúa vì Chúa thương gìn giữ mỗi người và mỗi gia đình, đó là lời Thánh Phaolô đã mời gọi trong bài đọc hai: Anh em hãy cầu nguyện không ngừng và hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh, điều gì tốt thì giữ lại và điều gì xấu hãy tránh cho xa. Tâm tình này cũng là tâm tình Mose nói với Aaron và con cháu ông rằng: Các ngươi hảy chúc lành cho con cái Israel, hãy nói với chúng thế này: Xin Chúa chúc lành cho con và gìn giữ con, xin Chúa tỏ thánh nhan Chúa cho con và thương xót con. Xin ghé mặt lại cùng con và ban bằng yên cho con. Thiên Chúa là Đấng tốt lành, Ngài luôn muốn và làm điều tốt cho con người, khi Chúa ghé mắt nhìn đến ai là Ngài yêu thương quan phòng che chở và bảo vệ người ấy giống như Ngài đã ghé mắt đến Apbraham, Isaac và Giacóp để làm cho các ông trở thành các tổ phụ vĩ đại, Ngài đã ghé mắt đến vua Đavít từ khi ông còn là một đứa trẻ theo sau đàn vật để dẫn đưa ông trở thành một vị vua của Israel, Ngài đã ghé mắt đến Đức Maria để làm cho mẹ trở thành một tạo vật tuyệt hảo nhất trong mọi tạo vật.
Để được Chúa ghé mắt đến, để được Chúa chúc lành, đòi mỗi người phải dám sống những đòi hỏi của các mối phúc mà chúng ta vừa nghe trong bài tin Mừng. Ngày hôm nay con người dường như tìm kiếm và chạy theo tiền bạc của cải, họ muốn phô trương sự giàu sang phú quý, thì Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì nước trời là của họ. Lời chúc phúc này cho thấy rằng của cải vật chất ở trần gian nó cần thiết cho cuộc sống nhưng nó lại hoàn toàn không thể đem đến hạnh phúc thật cho con người, chỉ có Thiên Chúa và nước Trời mới là hạnh phúc thật mà chỉ những người có một tâm hồn khiêm nhường nghèo khó, khao khát tìm kiếm thì mới tìm được. Ngày hôm nay cuộc sống cạnh tranh khốc liệt, kẻ mạnh là kẻ thắng thế, kẻ giàu có là người có tiếng nói, kẻ nắm giữ quyền lực là người chi phối người khác thì Chúa Giêsu lại chúc phúc cho những người sống hiền lành, vì chỉ những người hiền lành, trong lòng không chất chứa sự gian ác, sống ngay thẳng thật thà đặt trọn niềm tin tương nơi Chúa, không chạy theo danh vọng quyền lực, mới là những người xứng đáng được ở trong vương quốc của Chúa …cũng như thế nhưng người hương được phúc lành của Thiên Chúa là người đau buồn đói khát điều công chính, là những người được Chúa ghé mắt nhìn đến, vì những người này không còn cây dựa vào quyền lực sức mạnh thế gian nhưng tìm đến với sự an ủi vỗ về của Thiên Chúa.
Thưa quý OBACE, hơn lúc nào hết trong giây phút giao thừa này Giáo Hội cũng xin Chúa ghé mắt nhìn đến dân Chúa là những người đang thành tâm chạy đến với Chúa, đến với chúa với lòng biết ơn, đến với Chúa trong giờ phút này là chúng ta đang muốn nói lên tâm tình tin tưởng và phó thác, biết ơn vì từng hơi thở, từng nhịp sống của ta là do bởi Chúa điều khiển và quan phòng, dẫn dắt chúng ta vượt qua bao trở ngại thăng trầm.
Đến với Chúa trong giờ phút này để mỗi người khi đã nhận ra tình yêu của Chúa, thì cũng biết điều chỉnh lại cuộc đời của mình, sống thân thiết với Chúa hơn trong năm mới, đến với Chúa thường xuyên hơn qua việc dâg lễ tạ ơn Chúa mỗi ngày, qua việc xưng tội rước lễ.
Đến với Chúa trong giờ phút linh thiêng này để mỗi người nhìn lại gia đình của mình và dám nhận trách nhiệm về mình, để rồi vợ chồng, cha mẹ, con cái cùng chung tay làm mới lại bầu khí của gia đình, thay đổi lại cách sống cách cư xử với nhau, tái lập lại những bữa cơm thân mật xum vầy, tái lập lại những giờ phút bên nhau cùng tạ ơn Chúa bằng việc đọc kinh cầu nguyện mỗi tối. Vì, hạnh phúc và niềm vui chỉ đến với những gia đình nào kiên trì với Chúa mà thôi.
Chúc mọi người mọi gia đình ngập tràn niềm vui và nụ cười, bình an và hạnh phúc của Chúa trong Năm mới này. Amen.
20. THÁNH LỄ GIAO THỪA – TẠ ƠN CHÚA VÌ MUÔN PHÚC LÀNH
(https://thanhcavietnam.net // Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Người Việt nam có một nét văn hóa rất đẹp trong đêm giao thừa: Vào đêm ba mươi, gia đình tụ họp trước bàn thờ tổ tiên hoặc trước Bàn Thiên để cùng nhau tạ ơn trời đất một năm qua mưa thuận gió hòa; tạ ơn ông bà vì một năm phù hộ, độ trì cho con cháu làm ăn tốt đẹp. Thời khắc giao thừa cũng là lúc mọi người muốn loại bỏ những gì là muộn phiền của năm cũ, để bắt đầu năm mới với hy vọng một khởi đầu mới sáng tươi.
Đón nhận truyền thống văn hóa tốt đẹp đó, đêm giao thừa người Công giáo Việt Nam cùng nhau quy tụ nơi nhà của Chúa, nhìn lại một năm đã qua, để tạ ơn Thiên Chúa về tất cả mọi sự tốt lành Chúa đã ban tặng, cho cuộc sống cá nhân, gia đình và cầu xin Chúa ban một mùa xuân và một năm mới được may lành hạnh phúc. Vì thế, các bài đọc Lời Chúa đêm nay đều nhắc tới phúc lành của Thiên Chúa như là quà tặng Chúa đã ban cho con người.
Bài đọc một kể lại việc ông Mose đứng lên chúc lành cho dân chúng theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Phúc lành quan trọng nhất được nhắc đến, không phải là sự giàu sang phú quý, cũng không phải là sự may mắn trong làm ăn theo kiểu thế gian, nhưng là sự gìn giữ và quan phòng của Thiên Chúa: Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em. Nói đến việc Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ, dân Israel đã có kinh nghiệm được Thiên Chúa chúc phúc và dùng cánh tay hùng mạnh để gìn giữ, giải thoát và bảo vệ họ. Ước mong được Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ, là ước mong được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Nguyện ước tiếp theo là xin Thiên Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an của Ngài cho anh em. Lời nguyện ước này, dân Israel đặt mình như một đứa con thơ sống dưới ánh mắt chăm sóc và che chở của Thiên Chúa là Cha. Khi được Thiên Chúa nhìn đến, con người sẽ được sống trong hạnh phúc an vui dưới sự bảo vệ của Ngài.
Bài đọc hai thánh Phaolô mời gọi : Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Đó cũng là tâm tình chúng ta cần có trong giờ phút này và suốt cuộc đời. Vì cầu nguyện, chính là lúc chúng ta sống tâm tình con thảo, đặt hết niềm tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa là Cha, Đấng yêu thương và quan phòng, luôn muốn và làm điều tốt cho ta là con của Ngài. Hãy tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, vì trong một năm qua và suốt cả cuộc đời, có những lúc thăng trầm biến đổi, thành công xen lẫn thất bại, niềm vui xen lẫn nỗi buồn. Nhưng trong tất cả những bước thăng trầm đó, chúng ta luôn cảm nghiệm một cách cụ thể, Thiên Chúa luôn ở với ta, Ngài vẫn luôn ra tay kịp thời, để giúp giải gỡ những khó khăn, an ủi khi ưu sầu và dẫn qua những đoạn đường chông gai.
Suốt một năm trôi qua, tất cả mọi người đều bận rộn với công việc, các toan tính của mình, của gia đình. Có những người công việc thành công, đem lại lợi nhuận kinh tế, nhưng cũng có những người không được như mong đợi. Tuy nhiên, dù lo toan rất nhiều việc, nhưng có nhiều người vẫn không xác định được mục tiêu của gia đình là gì và mục đích chung cuộc của cuộc đời mình là gì? Vì thế, họ để mình đi lạc hướng và dù có thành công nhưng vẫn không tìm thấy hạnh phúc.
Tin Mừng đêm giao thừa chỉ cho thấy, mục đích cuối cùng của đời người chúng ta là tìm kiếm hạnh phúc. Tuy nhiên nhiều người đã dừng lại ở việc tìm kiếm niềm vui và hạnh phúc ở đời này, mà quên tìm kiếm hạnh phúc cho đời sau. Niềm vui và hạnh phúc đời này là điều cần, nhưng chưa đủ. Chỉ khi đạt được hạnh phúc ở đời này và hạnh phúc đời sau, chúng ta mới hạnh phúc thật. Kinh nghiệm cuộc sống cho thấy, tiền bạc của cải, danh vọng, địa vị, có thể thỏa mãn niềm vui, nhưng không chắc đem đến hạnh phúc cho mình và gia đình.
Trong bài diễn từ về Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu chỉ cho ta những con đường và những cách sống, để đạt được hạnh phúc ngay ở đời này và là bảo đảm cho hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Những con đường và cách sống này, đòi chúng ta phải dám sống khác với những khuynh hướng và trào lưu của xã hội. Đây là một con đường khó, nhưng là con đường chắc chắn, bảo đảm chúng ta sẽ đạt được cùng đích cuộc đời và mục tiêu của gia đình. Cuộc sống và nền kinh tế thị trường hôm nay cám dỗ mọi người lao vào làm giàu bằng mọi giá, thì mối phúc thứ nhất lại mời gọi chúng ta phải có một tâm hồn khó nghèo. Người có tâm hồn khó nghèo trước hết là một người khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa và với mọi người. Có tâm hồn khó nghèo, để không vênh vang, nhưng biết cậy dựa vào Thiên Chúa và biết sống tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Người sống khó nghèo là người không cậy dựa vào thế lực của tiền bạc, để chèn ép người khác, không để mình bị lệ thuộc hoặc yêu thích tiền của, khiến họ khép lòng từ chối anh chị em, biến mình trở thành nô lệ tiền của. Khi sống thanh thoát như vậy, họ sẽ có được niềm vui và hạnh phúc ngay ở đời này và nhất là họ được Nước Trời làm gia nghiệp.
Sống trong xã hội đầy dẫy bạo lực bạo hành, ganh đua ghen tị, mạnh được yếu thua, chúng ta được Chúa mời gọi sống hiền lành và biết xót thương những người chung quanh. Sống hai mối phúc này gíup chúng ta loại trừ được sự nóng nảy cãi vã, biết cư xử với nhau bằng tình yêu thương và lòng quảng đại vị tha. Người sống hiền lành sẽ là người đem lại bình an cho mình và cho người khác. Hiền lành không phải là nhu nhược, cũng không thụ động nhắm mắt làm ngơ trước sự dữ và bất công, nhưng hiền lành, để dù có phản ứng chống lại bất công, chúng vẫn phản ứng trong ôn hòa, đúng mực. Cũng vậy, khi có tâm hồn biết xót thương, chúng ta sẽ có một trái tim rông mở, một tâm hồn bao dung, để đồng cảm và thông cảm với anh chị em. Khi sống hiền lành và biết xót thương, chúng ta sẽ đón nhận được lòng xót thương của Thiên Chúa và được Chúa làm gia nghiệp.
Bước qua năm mới, mọi người đếu muốn những điều cũ không vui, không tốt sẽ qua đi, để bắt đầu năm mới với bình an và niềm vui mới. Nhưng để có được hạnh phúc, bình an, niềm vui, Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta phải trở thanh người xây dựng hòa bình. Nhìn lại một năm qua, chúng ta đã làm gì để đem lại hòa bình, bình an và niềm vui cho mình, cho gia đình và cho giáo xứ ? Muốn trở thành người xây dựng hòa bình, trước hết chúng ta phải tạo nên sự hòa bình trong tâm hồn, phải dẹp bỏ cuộc nội chiến trong tâm hồn và trong gia đình. Cuộc chiến trong tâm hồn trước tiên, là cuộc chiến với ma quỷ, ham muốn và tội lỗi. Chỉ khi chúng ta tẩy trừ khỏi mình tội lỗi và sự chi phối của ma quỷ, tâm hồn ta mới có thể được bình an. Hãy dùng Bí tích giải tội để tẩy trừ tội lỗi và dùng Bí tich Thánh Thể để xua trừ ma quỷ khỏi tâm hồn. Chỉ khi tâm hồn có Chúa, tâm hồn sẽ bình an và ngập tràn niềm vui, từ đó chúng ta mới có thể đem bình an và niềm vui cho gia đình và cho người khác.
Nếu chúng ta chỉ chúc cho nhau, hoặc chỉ mong điều tốt đẹp mới mẻ cho mình và cho gia đình trong năm mới, thì chưa đủ, nhưng mỗi người cần phải thay đổi và bắt tay xây dựng điều tốt, làm điều tốt trong năm mới, cho mình và gia đình, thì mới có thể thay đổi được gia đình, xã hội và thế giới.
Trong giờ phút linh thiêng này, chúng ta cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa vì muôn phúc lành Chúa đã thương ban cho từng người, từng gia đình và cộng đoàn giáo xứ trong năm qua; đồng thời cũng nhìn lại trách nhiệm tìm kiếm hạnh phúc cho mình và gia đình. Chúng ta cùng tạ ơn Chúa về những gì đã đạt được, xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau về những điều thiếu sót, cùng bắt đầu năm mới với một tinh thần và quyết tâm mới.
Ngày tết là ngày của gia đình, trong năm Gia đình là dấu chỉ lòng thương xót của Chúa này, hãy đem về cho gia đình thật nhiều niềm vui, tiếng cười, không chỉ trong những ngày xuân, nhưng trong suốt năm này; hãy loại trừ sự say sưa, cờ bạc, cãi vã, lấy tình yêu thương, lòng trắc ẩn để vun đắp cho gia đình.
Dưới sự soi sáng, nhắc bảo của Lời Chúa trong đêm giao thừa này, chúng ta mạnh dạn nhìn lại, để xác định mục đích cuộc đời và mục tiêu của gia đình, cho phù hợp với sự hướng dẫn của Lời Chúa, để mỗi người, mỗi gia đình tìm được niềm vui ngay hôm nay và nhất là niềm vui và hạnh phúc Nước Trời sau này. Amen.
21. CẦU XIN PHÚC- LỘC-THỌ - Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Đã thành một nét đẹp trong truyền thống văn hóa Việt Nam, đêm giao thừa người Việt thường đến chùa, đến nhà thờ hoặc ra đình làng để cầu xin phúc - lộc và hái lộc đầu năm. Các phật tử hái những cành lá ngọn cây mới nhú ở trên chùa, họ tin rằng nhửng cành lá non đem đến cho họ sư may mắn, mới mẻ trong năm mới. Trong các gia đình thờ trời, thờ ông bà, người ta chuẩn bị một mâm cúng gồm xôi, gà hoặc trái cây được đặt ở Bàn Thiên trước cửa, vào giây phút giao thừa họ cúng bái trời đất đã ban cho mọi sư tốt đẹp một năm qua, và cầu xin cho mưa thuận gió hòa trong năm mới. Người Công Giáo chúng ta trong giây phút giao thừa, đến nhà thờ để tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho ta một năm qua bằng an và cũng cầu xin Thiên Chúa chúc lành, ban phúc lộc cho cả năm mới. Chúng ta không hái lá cây để cầu may, nhưng mỗi gia đình sẽ nhận một câu Lời Chúa như là một một lời nhắc nhở, một kim chỉ nam hướng dẫn đời sống cho cả một năm.
Tạ ơn là thái độ cần phải thể hiện của con người trước sư quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ngài đã thương dẫn đưa bước đường đời của mỗi người chúng ta bình an. Có những người một năm qua nhiều thuận lợi may lành, song cũng có nhiều người một năm qua long đong, sóng gió, thử thách, buồn nhiều hơn vui. Có những khi gặp khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua được, thế mà bàn tay Chúa vẫn dẫn đưa chúng ta đến ngày hôm nay. Tạ ơn vì sự bình an Chúa ban cho từng người từng gia đình, cho công việc được thuận buồm xuôi gió, dù cũng có nhiều bão tố. Một ví dụ cho thấy: Gia đình làm nghề xe ngày nào cũng chạy trên đường, một năm qua Chúa gìn giữ không bị một va quẹt nào. Chỉ nhìn như thế thôi thì cũng đã thấy không có Chúa giữ gìn làm sao có thể an toàn trên đường được.
Dù buồn dù vui, dù thành công hay thất bại, thì Lời Chúa trong bài đọc một hôm nay cũng mời gọi chúng ta: Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Qua Mose Thiên Chúa muốn dạy cho Dân Do Thái thấy rằng: Phúc lành lớn nhất mà Thiên Chúa hằng ban cho con người đó là sự gìn giữ của Ngài. Có Thiên Chúa gìn giữ chúng ta thì không gì có thể làm hại chúng ta, và có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta thì không ai có thể làm hại chúng ta. Khi ban phúc lành cho dân chúng Mose còn cầu xin Thiên Chúa tươi nét mặt, nhìn đến và dủ thương dân Người đồng thời ban bình an cho dân Người. Quả thật như thế, Thiên Chúa nhìn đến ai thì Người đổ muôn phúc lành xuông trên người ấy. Hình ảnh Thiên Chúa tươi nét mặt nhìn đến dân người, là hình ảnh nói lên tình yêu thương của Thiên Chúa, như người cha yêu thương để mắt trông nom con cái, bảo vệ từng bước đường đời con đi. Những hình ảnh đó đã diễn tả Thiên Chúa không phải là một vị thần hung dữ, cũng không phải là một ông vua khiến người ta khiếp sợ, mà là một người Cha nhân từ, ân cần yêu thương con cái. Vì Thiên Chúa là cha yêu thương, Ngài luôn muốn và làm điều tốt nhất cho chúng ta. Nhìn thấy như thế, để mỗi người biết sống tâm tình tạ ơn và lòng hiếu thảo của những người con đối với cha mình.
Thiên Chúa đã ghé mắt nhìn đến thân phận chúng ta, trong khi đáng lẽ chúng ta đã phải chết vì tội lỗi. Thiên Chúa đã cho Con của Ngài là Đức Giêsu đến thế gian và làm người như chúng ta. Ngài trở thành một thành viên trong cộng đồng nhân loại, để chia sẻ với lo âu đau khổ của con người và để cứu chuộc con người. Vì thế, chúng ta tạ ơn Chúa vì hồng ân cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện và ban tặng qua Đức Giêsu Kitô. Hơn thế nữa qua cái chết thập giả của Ngài, Đức Giêsu cho chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, và được Thiên Chúa tiếp tục quan phòng săn sóc từng giây phút. Vì thế chúng ta không ngừng tạ ơn Thiên Chúa.
Chúng ta tụ họp nơi nhà Chúa trong giờ giao thừa này là để cầu xin Chúa ban phúc lành xuống trên mỗi người và mỗi gia đình. Tuy nhiên phúc lành của Thiên Chúa không giống với những cái mà thế gian mong đợi. Thế gian mong đợi những cái phúc vật chất, thì Thiên Chúa lại hứa ban phúc thiêng liêng; thế gian mong đợi phúc ở trần gian thì Chúa hứa ban phúc Nước trời.
Tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu công bố là những mối phúc đích thực, mà chỉ có những ai thành tâm tìm kiếm và khiêm tốn cầu xin, thì mới có thể hiểu và đón nhận được.
Trong ngày tết, người ta cầu mong phúc lộc tiền tài, thì Đức Giêsu lại ban phúc cho những tâm hồn nghèo khó. Chúa Giêsu đã không hứa cho họ tiền bạc mà là hứa Nước Trời là của họ. Mối phúc này được Chúa Giêsu đưa lên đầu tiên, điều đó cho thấy rằng: Nước trời mới là hạnh phúc thật của con người. Chỉ có Nước trời mới là điều đáng để con người khao khát tìm kiếm và chỉ những người đạt được Nước trời thì mới là người hạnh phúc thật. Thế nhưng mối phúc này chỉ dành cho những người có tâm hồn nghèo khó, tức là những người không cậy dựa vào sức riêng mình, nhưng biết cậy dựa vào Thiên Chúa, tin tưởng phó thác và cầu xin. Chỉ khi biết đặt Chúa làm chủ cuộc đời thì mới có thể đón nhận được mối phúc lớn lao này. Vì thế hôm nay chúng ta cầu xin phúc lộc của Thiên Chúa, tức là chúng ta không chỉ xin phúc lộc vật chất, mà điều cần thiết là cầu xin phúc lộc Nước Trời.
Mối phúc thứ hai mà Chúa nói đến đó là sống hiền lành. Hiền lành là một trong những đức tính căn bản của con người. Người hiền lành không phải là người cù lần, cam chịu, nhưng là người có lòng quảng đại rộng lượng. Người hiền lành là người nhân ái trong cách cư xử, nhẹ nhàng kiêm tốn trong lời nói, và là người đem đến sự bình an vui tươi cho người khác. Chính vì thế ai sống hiền lành thì được Thiên Chúa chúc phúc và ai gặp gỡ người hiền lành thì cũng được hưởng phúc của Thiên Chúa ban cho.
Ngày nay do ảnh hưởng của xã hội, do sức ép của công việc, khiến nhiều người đã trở nên nóng nảy hung dữ, con người dường như cư xử với nhau độc ác hơn, bạo lực hơn và mang nhiều thú tính hơn. Vì thế cầu xin cho gặp người hiền lành cũng là một trong những ước mơ của cuộc sống con người ngày nay.
Chắc chắn ai cũng mong muốn và cầu xin một Năm Mới phúc lộc chan hòa, khang an hạnh phúc. Nhưng nhiều người chỉ mới dừng lại ở việc cầu xin phúc lộc ở trần gian, mà quên cầu xin cho mình phúc lộc của Chúa, là hạnh phúc Nước Trời. chúng ta cầu xin gặp những điều may lành, thì trước hết chúng ta được mời gọi trở thành những người đem điều may lành đến cho anh em. Sự may lành ở đây không phải là việc xông nhà lấy may, mà là sự gặp gỡ thăm viếng chân tình, đem đến cho nhau niềm vui không chỉ trong những ngày xuân mà là mọi ngày trong năm. Ngày tết hãy tránh cho nhau những chuyện không may không lành, như rượi chè say sưa quá độ gây cãi vả bất hòa, hãy tránh đi nỗi buồn cho gia đình do đam mê bài bạc đỏ đen, đua xe gây tai nạn. Nhất là để có được Phúc-Lộc-Thọ thì đừng quên đến với Thiên Chúa, đến với Thánh lễ mỗi Ngày, vì chí có Thiên Chúa mới là Đấng ban những phúc lộc ấy cho chúng ta mà thôi.
Cầu chúc cho tất cả mọi người được đầy tràn Phúc - Lộc của Thiên Chúa trong Năm Mới này. Amen.
22. TẠ ƠN TRỜI ĐẤT - Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ai đã có những lần xa nhà, xa quê và đón giao thừa dương lịch ở nơi xứ người thì sẽ thấy khác biệt giữa giao thừa dương lịch và giao thừa âm lịch của chúng ta. Có thể giao thừa tết tây, dù pháo hoa bắn rợp trời nhưng lòng người xa quê vẫn thấy xa xôi. Trái lại mỗi năm, người Việt Nam chúng ta ai cũng chờ đợi giây phút linh thiêng của đêm giao thừa âm lịch. Mỗi người như cảm nhận, như đụng chạm được đến thời khắc thiêng liêng chuyển giao của năm cũ và năm mới. Tiễn năm cũ qua đi với bao buồn vui, tiếc nuối lẫn lộn, đón năm mới đến với lo âu và hy vọng,… Tất cả những tình cảm ấy đang đan xen trong mỗi chúng ta.
Giây phút này là giây phút thảnh thơi nhất trong năm, vì lúc này đây, mọi người như tạm gác lại những lo toan của năm cũ để đón chào một năm mới với hy vọng đổi mới tốt hơn. Lúc này cũng là dịp mỗi người nhìn lại trách nhiệm của mình với gia đình, với cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè. Có thể nói rằng, nếu ngày cuối năm dương lịch là ngày người ta tổng kết công việc, thì ngày cuối năm âm lịch là dịp mọi người tổng kết lại các mối tương quan trong cuộc sống.
Sang năm mới, ai cũng muốn gia đình mình giàu sang và hạnh phúc, đó là mơ ước thật chính đáng. Thế nhưng, làm thế nào để cho gia đình mình giàu sang và hạnh phúc thì mỗi người lại có những suy nghĩ, cách thực hiện và ưu tiên khác nhau. Cụ thể có nhiều người đặt hạnh phúc làm ưu tiên số một, còn có nhiều người lại lấy sự giàu sang làm chính. Vì chỉ quan tâm đến tìm kiếm sự giàu sang, nên nhiều người đã lơ là việc xây dựng và vun trồng hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là điều tự nhiên mà có, nó cũng không đương nhiên xuất hiện trong gia đình cùng với sự giàu sang, mà nó là hạt giống, là cây mầm, đòi mỗi người phải vun tưới mỗi ngày. Hoa trái hạnh phúc phải là kết quả của sự chung tay đóng góp của mọi thành viên. Tuy nhiên, vì lo tìm kiếm sự giàu sang, nên nhiều người đã quên yếu tố hạnh phúc, đã để tình cảm yêu thương giữa cha mẹ và con cái trở nên lỏng lẻo, thiếu quan tâm, thiếu thông cảm và lắng nghe. Nhiều gia đình đã để cho tình yêu vợ chồng trở nên nhạt nhẽo và bầu khí gia đình trở nên lạnh giá, thiếu vắng nụ cười, thiếu vắng niềm vui.
Lúc này chính là lúc mỗi người cần nhìn lại và quyết tâm đặt lại thứ tự ưu tiên cho gia đình. Có thể gia đình mình chưa giàu sang, nhưng gia đình ấm cúng thì vẫn hạnh phúc hơn gia đình giàu sang. Nhiều tiền nhiều của mà nghèo nụ cười, thiếu niềm vui thì bầu khí gia đình lạnh lẽo. Chúng ta cũng cần nhìn lại tương quan của chúng ta với cha mẹ, nhất là với cha mẹ già, đôi khi vì sự thiếu kiên nhẫn với các ngài, trong lúc các ngài tuổi cao sức yếu, mà chúng ta đã có những lời lẽ bất kính, những thái độ coi thường hoặc khinh khi các ngài. Chúng ta cần điều chỉnh lại để sống cho tròn chữ hiếu, để cho cha mẹ được hạnh phúc trong tuổi già, không phải khóc vì tủi thân. Là cha mẹ, chúng ta cũng cần xem lại thái độ của chúng ta với từng đứa con. Chúng ta đã đem đến cho con cái một môi trường gia đình an toàn và hạnh phúc chưa?
Kế đến, chúng ta cũng cần nhìn lại mối tương quan với anh em họ hàng, bạn bè. Dường như cuộc sống ngày nay quá bận rộn khiến anh em họ hàng chẳng mấy khi có dịp đến thăm nhau, thậm chí một năm cũng chỉ được ngày tết đến với nhau mà cũng vội vàng như làm nghĩa vụ. Như thế, thì chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, anh em họ hàng sẽ như người xa lạ ; con cháu, họ hàng gặp nhau cũng như người dưng, chẳng còn thân thiết nữa. Dịp tết là dịp để chúng ta làm cho tình nghĩa anh em họ hàng xóm ngõ thêm đậm đà, gắn bó, hiểu nhau hơn, quý mến nhau hơn. Hãy dành giờ thăm viếng nhau, hàn huyên tâm sự với nhau trong bầu khí ấm áp của những ngày xuân này, vì mỗi người sống là sống trong tình liên đới với nhau.
Mối tương quan quan trọng nhất mà giây phút giao thừa này chúng ta cần nhìn lại, đó là tương quan của chúng ta với Trời Đất. Nhìn lại để biết sống tâm tình trân trọng và biết ơn. Trời Đất, trước hết là môi trường sống của tất cả mọi người, là môi trường thiên nhiên xung quanh mà chúng ta cần trân trọng, bảo vệ và làm cho trong lành, tốt đẹp hơn. Cụm từ “Tạ ơn Trời Đất”, dù mang nghĩa dân gian, song với người Kitô hữu, đó còn là kiểu nói để diễn tả lòng biết ơn của chúng ta với Đấng Tạo Hóa là Thiên Chúa của chúng ta, Đấng làm chủ và điều khiển cả vũ trụ này.
Tạ ơn Chúa vì phúc lành Chúa hằng thương ban, tạ ơn vì mưa thuận gió hòa, vì tai qua nạn khỏi, vì buôn bán làm ăn thuận lợi, thành công, vì gia đình ấm cúng. Tạ ơn Chúa vì Chúa thương gìn giữ mỗi người và mỗi gia đình, đó là lời Thánh Phaolô đã mời gọi trong bài đọc hai : Anh em hãy cầu nguyện không ngừng và hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh, điều gì tốt thì giữ lại và điều gì xấu hãy tránh cho xa. Tâm tình này cũng là tâm tình Môse nói với Aaron và con cháu ông: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel, hãy nói với chúng thế này : Xin Chúa chúc lành cho con và gìn giữ con, xin Chúa tỏ thánh nhan Chúa cho con và thương xót con. Xin ghé mặt lại cùng con và ban bằng yên cho con. Thiên Chúa là Đấng tốt lành, Ngài luôn muốn và làm điều tốt cho con người. Khi Chúa ghé mắt nhìn đến ai là Ngài yêu thương, quan phòng, che chở và bảo vệ người ấy, giống như Ngài đã ghé mắt đến Apbraham, Isaac và Giacóp để làm cho các ông trở thành các tổ phụ vĩ đại. Ngài đã ghé mắt đến vua Đavít từ khi ông còn là một đứa trẻ theo sau đàn vật để dẫn đưa ông trở thành một vị vua của Israel. Ngài đã ghé mắt đến Đức Maria để làm cho Mẹ trở thành một tạo vật tuyệt hảo nhất trong mọi tạo vật.
Để được Chúa ghé mắt đến, được Chúa chúc lành, mỗi người phải dám sống những đòi hỏi của các mối phúc mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng. Ngày hôm nay, con người dường như tìm kiếm và chạy theo tiền bạc, của cải. Trong khi chúng ta muốn phô trương sự giàu sang phú quý, thì Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ. Lời chúc phúc này cho thấy của cải vật chất ở trần gian cần thiết cho cuộc sống, nhưng nó lại hoàn toàn không thể đem đến hạnh phúc thật cho con người. Chỉ có Thiên Chúa và Nước Trời mới là hạnh phúc thật, mà chỉ những người có tâm hồn khiêm nhường, nghèo khó, khao khát thì mới tìm được. Ngày hôm nay, cuộc sống cạnh tranh khốc liệt, kẻ mạnh là kẻ thắng thế, kẻ giàu có là người có tiếng nói, kẻ nắm giữ quyền lực là người chi phối người khác. Chúa Giêsu lại chúc phúc cho những người sống hiền lành. Chỉ những người hiền lành, trong lòng không chất chứa sự gian ác, sống ngay thẳng thật thà, đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa, không chạy theo danh vọng quyền lực, mới là những người xứng đáng được ở trong vương quốc của Chúa. Cũng thế, những người được hưởng phúc lành của Thiên Chúa, được Chúa ghé mắt nhìn đến là những người đau buồn, đói khát điều công chính. Những người này không còn cậy dựa vào quyền lực, sức mạnh thế gian nhưng tìm đến sự an ủi, vỗ về của Thiên Chúa.
Thưa quý OBACE, hơn lúc nào hết, trong giây phút giao thừa này, Giáo hội cũng xin Chúa ghé mắt nhìn đến dân Chúa là những người đang thành tâm chạy đến với Chúa. Đến với Chúa trong giờ phút này là chúng ta đang muốn nói lên tâm tình tin tưởng, phó thác và biết ơn vì từng hơi thở, từng nhịp sống của ta là do bởi Chúa điều khiển và quan phòng.
Đến với Chúa trong giờ phút này, để mỗi người khi đã nhận ra tình yêu của Chúa, thì cũng biết điều chỉnh lại cuộc đời của mình để sống thân thiết với Chúa hơn trong năm mới. Quyết tâm đến với Chúa thường xuyên hơn qua việc dâng lễ tạ ơn Chúa mỗi ngày, qua việc xưng tội rước lễ.
Đến với Chúa trong giờ phút linh thiêng này để mỗi người nhìn lại gia đình của mình và dám nhận trách nhiệm về mình. Trong ngày đầu năm này, vợ chồng, cha mẹ, con cái cùng chung tay làm mới lại bầu khí của gia đình. Hãy thay đổi cách sống, cách cư xử với nhau, tái lập lại những bữa cơm thân mật xum vầy, tái lập lại những giờ phút bên nhau cùng tạ ơn Chúa bằng việc đọc kinh, cầu nguyện mỗi tối. Vì, hạnh phúc và niềm vui chỉ đến với những gia đình nào kiên trì với Chúa mà thôi.
Chúc mọi người, mọi gia đình ngập tràn niềm vui và nụ cười, bình an và hạnh phúc của Chúa trong Năm nới này. Amen.
23. Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa
(http://giaophanthaibinh.org // Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên)
Có thể nói Phụng vụ Lời Chúa trong Thánh Lễ Giao thừa hôm nay là tổng hợp của những lời chúc phúc.
Theo truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, vào những dịp lễ tết, người ta thường cầu chúc cho nhau những điều may lành, đặc biệt là trong dịp Tết Nguyên Đán là Tết lớn nhất trong năm. Bởi vì người ta quan niệm rằng, vào những thời khắc thiêng liêng của một năm, nếu nhận được những lời chúc lành, thì cả năm đó, gia đình sẽ được bình an thịnh vượng, người người sẽ được hạnh phúc, ấm no.
Không chỉ người Việt Nam chúng ta, mà từ xa xưa, trong Cựu Ước, dân Do Thái cũng đã có thói quen người trên chúc phúc lành cho người dưới, như Giacop và Exau phải tranh nhau để hưởng lời phúc lành từ cha là Tổ phụ Ixaac.
Trong bài đọc thứ nhất trích sách Dân Số hôm nay, Đức Chúa qua môi miệng của Môsê đã chúc phúc cho toàn thể dân tộc Israel với những lời cầu chúc thật ý nghĩa: “Nguyện ĐỨC CHÚA chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện ĐỨC CHÚA tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện ĐỨC CHÚA ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em !' Chúc như thế là đặt con cái Ítraen dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng." (Ds 6, 24-27).
Bài Tin Mừng hôm nay cũng là những lời chúc phúc đầy yêu thương mà Chúa dành cho những người nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, sống công chính, biết xót thương người, có lòng trong sạch, có công xây dựng hòa bình và bị bách hại vì chính đạo. (x.Mt 5,1-10).
Thử hỏi còn gì vui mừng và hạnh phúc hơn khi được chính Chúa là Thiên Chúa chúc phúc cho, bởi lời chúc phúc từ Thiên Chúa, không chỉ mang tính xã giao, nhưng là lời hiệu nghiệm. Vì Ngài là Đấng toàn năng và rất mực yêu thương con người, nên lời cầu chúc của Ngài cũng chính là phúc lành mà Ngài ban cho dân.
Đối với người Việt Nam, Giao thừa là thời khắc hết sức thiêng liêng và cao quý. Theo nguyên ngữ: "giao" là trao, còn "thừa" là nhận lãnh để tiếp tục. Năm cũ trao thời gian lại cho năm mới đón nhận và tiếp nối. Bởi vậy, khoảnh khắc giao thừa này là lúc rất thích hợp để chúng ta suy nghĩ về thời gian.
Chắc chắn lúc này, mỗi người trong chúng ta đều mang một suy nghĩ khác nhau với những cảm xúc không giống nhau, nhưng tất cả đều có một điểm chung, đó là tâm tình Tạ ơn và phó thác. Tạ ơn, vì Chúa đã cho chúng ta sống đến giờ phút này. Gia đình chúng ta vẫn còn được sum vầy bên nhau quanh mâm cơm ngày Tết, trong khi có rất nhiều gia đình trong năm qua đã phải chia lìa, li tán, mất đi những người thân yêu. Biết bao cuộc hỏa hoạn, những tại nạn giao thông, những thiên tai địch họa xảy đến cướp đi sinh mạng của bao người dân vô tội, trong khi đó, chúng ta vẫn sống bình an.
Trong năm qua, công ăn việc làm có thể không như chúng ta mong đợi, nhưng ngày ba bữa cơm, Chúa vẫn ban cho đầy đủ, trong khi nhiều người còn lâm vào cảnh thất nghiệp và nghèo đói. Mùa Đông với cái rét cắt da cắt thịt, ta vẫn có cái để mặc, trong khi ngoài kia còn có biết bao người chẳng có lấy một mảnh áo để che thân.
Một năm qua, ta gặp gỡ thêm biết bao nhiêu con người mới, thiết lập thêm bao mối tương quan, nhờ những sự trợ giúp cách nào đó của họ, mà chúng ta có thêm tin tưởng để bước tiếp hành trình dương thế này.
Suốt một năm qua, đã biết bao lần Chúa đã che chở cho ta cách âm thầm mà ta không hề biết. Đó là những khi Ngài giải thoát ta khỏi căn bệnh hiểm nghèo mà đáng lý ra chúng ta đã không qua khỏi; đó là những khi gia đình ta gặp những bất hòa, lục đục, cãi vã, tương quan vợ chồng đang trên bờ vực thẳm, nhưng rồi dưới sự chở che của Ngài, mọi sự đều đã qua đi.
Một năm qua, biết bao lần vì vô tình hay hữu ý, ta đã làm tổn thương đến người khác, lỗi nghĩa cùng Chúa, khiến cho cuộc sống của ta chẳng mấy khi bình an. Dường như ta thiếu sốt sắng trong việc đạo nghĩa, dường như ta có phần chểnh mảng trong việc tham dự Thánh lễ hay các giờ kinh nguyện… Nhiều khi, vì ích kỷ mà đã có những lúc ta chỉ chăm lo cho bản thân mình hơn là lo cho người bạn đời hay cho những đứa con yêu dấu; Biết đâu đã có vài lần ta đã nói những lời khiến cha mẹ phải phiền lòng; lắm khi vì mải chơi, mà chúng ta chưa cố gắng học tập cho nghiêm túc, còn sa đà vào những trò chơi vô bổ làm ảnh hưởng đến bản thân cũng như gia đình… Có lúc ta không kim nén được cảm xúc của mình mà gây gổ, to tiếng với người hàng xóm, khiến mối tương quan giữa hai gia đình trở nên căng thẳng, nặng nề… ; đã bao lần ta bỏ lỡ cơ hội làm một việc tốt, đã không dám đưa tay ra để giúp đỡ cho những anh chị em đau khổ, những người cần đến sự trợ giúp của chúng ta… Ta vẫn còn co cụm trong thế giới của riêng mình mà chưa dám mở lòng mình để nói một lời an ủi, một lời yêu thương với những người khổ đau, bất hạnh…
Nhìn lại một năm đã qua, đó không phải là khoảnh khắc ta lôi tất cả những gì chưa tốt đẹp trong quá khứ để dày vò bản thân hay để than trách một ai đó, nhưng là cơ hội để thêm một lần nữa, ta nhận ra hình ảnh của Chúa vẫn song hành bên ta trong từng bước đi của cuộc sống.
Trong thời khắc thiêng liêng này, còn gì thích hợp và ý nghĩa hơn khi chúng ta mặc lấy tâm tình của thánh Phaolô trong lời ngài nhắn nhủ với tín hữu Thêxalônica rằng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu.” (1 Tx 5, 16-18).
Tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cũng là điều mà chúng ta không chỉ làm trong giờ phút Giao thừa này, mà là làm trong suốt cuộc đời. Bởi lẽ, tạ ơn là thái độ căn bản của người Kitô hữu đối với Thiên Chúa, vì tất cả những gì con người có đều là hồng ân Thiên Chúa ban cho.
Vậy giờ đây, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của Mẹ Maria để hát lên bài ca Chúc tụng Chúa (Magnificat) rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Ngài quyền năng và Danh Ngài là Thánh” (Lc 1, 29-55).
24. PHÚT LINH THIÊNG – TRẦM THIÊN THU
Giao thừa là “phút linh thiêng”, là khoảnh khắc chuyển giao lại năm cũ để đón nhận năm mới. Người ta có nhiều tục lệ đón giao thừa gọi là Lễ Giao Thừa hoặc Lễ Trừ Tịch, cúng tổ tiên, bói Kiều,…
Ngoài tục lệ đời, người Công giáo còn có thói quen tốt lành là tham dự Thánh lễ Giao thừa để tôn kính Thiên Chúa Ba Ngôi và kính nhớ Đức Mẹ.
Người ta cầu mong nhiều điều cho năm mới, thể hiện qua mâm ngũ quả. Mỗi vùng miền có thể dùng những loại trái khác nhau. Nhưng kiêng kỵ là các loại trái có tên gọi “na ná” với từ có nghĩa xấu như cam (cam chịu), chuối (chúi đầu, chúi mũi, tức là vất vả). Ngược lại, các loại trái ở Nam bộ được ưa thích như trái thơm (dứa, ý nói thơm tho, danh thơm tiếng tốt), trái sung (sung túc). Đủ một câu thể hiện sự mong ước khiêm tốn gồm mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài (cầu vừa đủ xài); hơn mức đầy đủ thì gồm mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (cầu vừa đủ xài sung).
Với các Kitô hữu, Thiên Chúa mới chính là Chúa Xuân đích thực. Ngay từ đầu Thánh lễ, Giáo hội dùng lời Kinh thánh để cầu chúc mọi người trong giây phút giao thừa: “Cúi xin Đấng tạo thành trời đất xuống cho bạn muôn vàn phúc cả từ Núi Thánh Sion” (Tv 134:3).
Nghi thức nhằm phục vụ con người, cũng như luật là để phục vụ con người. Đừng câu nệ hình thức mà “bắt” con người phải phục vụ nghi thức hoặc luật lệ! Đức Chúa truyền cho ông Môsê phải nói với A-ha-ron và các con về “công thức” chúc lành cho con cái Ít-ra-en:“Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìnđến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” (Ds 6:24-26). Sao lại phải chúc như vậy? Chính Thiên Chúa giải thích: “Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng” (Ds 6:24-27).
Thật tuyệt vời vì chúng ta luôn được Thiên Chúa quan tâm, chăm sóc, nâng đỡ, bảo vệ, chúc lành,… Tác giả Thánh vịnh đã từng thắc mắc: “Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? (Tv 121:1), nhưng tác giả lại xác định ngay: “Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa, là Đấng dựng nên cả đất trời” (Tv 121:2).
Năm cũ vừa giã từ, năm mới vừa sang. Chúng ta hãy thành tâm cầu chúc nhau những điều tốt lành nhất: “Xin Đấng gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước, xin Người chớ ngủ quên. Đấng gìn giữ Ít-ra-en, lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành! Chính Chúa là Đấng canh giữ bạn, chính Chúa là Đấng vẫn chở che, Người luôn luôn ở gần kề. Ngày sáu khắc, vầng ô không tác hoạ, đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại chi. Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh mệnh an toàn. Chúa giữ gìn bạn lúc ra vào lui tới, từ giờ đây cho đến mãi muôn đời” (Tv 121:3-8).
Giao thừa nhắc nhở chúng ta xin lỗi Chúa và tha nhân về những lỗi lầm trong năm cũ, đồng thời cũng phải biết tạ ơn về bao ơn lành từ Thiên Chúa trao ban suốt năm qua và xin ơn cho năm mới. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5:16-18). Và rồi thánh nhân cũng nhắc nhở: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1 Tx 5:19-22).
Tiếp theo là lời chúc: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó. Chúc anh em được đầy ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Tx 5:23-24 & 28).
Trong cuộc sống, ai cũng khao khát được tận hưởng niềm hạnh phúc viên mãn. Có nhiều dạng hạnh phúc theo quan niệm của mỗi người, mỗi vùng, mỗi miền, mỗi dân tộc. Tuy nhiên, có một điều phúc thật mà đôi khi chúng ta hay quên hoặc chưa thực sự lưu tâm, đó chính là điều mà Chúa Giêsu đã mặc khải cho mọi người: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:28).
Tin Mừng đêm Giao thừa là trình thuật Mt 5:1-10, nói về Bát Phúc (Tám Mối Phúc Thật, Hiến Chương Nước Trời, Bài Giảng Trên Núi) đã được Chúa Giêsu công bố lần đầu tiên:
1. Phúc thay ai có tâm hồn NGHÈO KHÓ, vì Nước Trời là của họ.
2. Phúc thay ai HIỀN LÀNH, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
3. Phúc thay ai SẦU KHỔ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
4. Phúc thay ai KHÁT KHAO nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
5. Phúc thay ai XÓT THƯƠNG người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
6. Phúc thay ai có tâm hồn TRONG SẠCH, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
7. Phúc thay ai XÂY DỰNG HOÀ BÌNH, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
8. Phúc thay ai BỊ BÁCH HẠI vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Với 8 điều khoản ngắn gọn mà súc tích, Bát Phúc còn được coi là Đệ Nhất Tuyên Ngôn, tức là bản tuyên ngôn đầu tiên đối với nhân loại. Người không có niềm tin vào Thiên Chúa thì không thể nào “chịu nổi” vì cả 8 điều mà Chúa Giêsu cho là PHÚC như vậy, vì tất cả đều “nghịch nhĩ”. Sao mà “ngược đời” quá! Để có thể sống theo kiểu “ngược đời” của Chúa Giêsu thì phải cần đến ĐỨC TIN. Và chính ĐỨC TIN chắc chắn sẽ cứu thoát chúng ta nhờ Danh Đức Giêsu Kitô.
Được trở thành Kitô hữu là một ơn gọi, là vào đời làm NHÂN CHỨNG cho Tin Mừng của Đức Kitô. Tất nhiên chúng ta có thể bị ghen ghét và bị hại – đa dạng, lắm kiểu, nhiều dạng. Thật vậy, Ngài biết trước nên Ngài căn dặn: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Hãy khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10:16). Con Rắn là loài vừa khôn ngoan vừa xảo quyệt nhất trong các loài động vật. Chính nó đã lừa được Bà Eva bằng lời đường mật, và rồi Ông Adam lại “chết” vì mỹ nhân kế của một phụ nữ “yếu đuối” là chính vợ mình. Chúa Giêsu muốn chúng ta học cái khôn ngoan của con Rắn chứ đừng nham hiểm như nó!
Xuân về, Tết đến, ai cũng “khác” từ tinh thần đến thể lý, cả trong lẫn ngoài. “Khác” là đổi mới, là canh tân tích cực để tốt hơn chứ không “biến chất”, và phải mãi mãi như Chúa Xuân: “Đức Giêsu Kitô vẫn là MỘT, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13:8).
Lạy Chúa, chúng con chúc tụng Cha là Chúa Tể càn khôn! Chúng con xin lỗi Chúa về mọi lỗi lầm năm cũ, xin ban Thánh Linh để chúng con biến đổi nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn; chúng con xin chúc Tết Ba Ngôi Thiên Chúa, xin giúp chúng con hướng về Mùa Xuân Vĩnh Hằng trên Thiên quốc; chúng con xin Chúa lì xì nhiều Hồng Ân để chúng con sống trọn vẹn năm mới; và chúng con cũng xin lì xì cả cuộc đời của chúng con cho Chúa, xin Ngài thương thánh hóa và hướng dẫn chúng con đi đúng Đường Tốt Lành của Ngài.
Xin Đức Mẹ Maria, Đức Thánh Giuse, chư Thần và chư Thánh nguyện giúp cầu thay cho chúng con luôn. Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và ban cho mọi người đều có được niềm vui Xuân trọn vẹn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người cứu độ chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
25. ƯỚC ĐƯỢC TRỞ VỀ TUỔI THƠ
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Có người hỏi tôi: cha có vui khi tết đến không?
Tôi trả lời: tết nay đâu vui bằng tết xưa mà thích.
Người ấy nói: Tết xưa nghèo có gì mà vui.
Tôi nói: Vâng, vì nghèo nên nó mới vui. Vì nhà nghèo nên tết đến đồng nghĩa với việc tôi sẽ có được những điều mà ngày thường tôi không có. Có tiền lì xì, có quần áo mới, được ăn dưa hấu, được ăn mứt, ăn bánh kẹo thỏa thích . . . .
Thế nên, nếu bây giờ trời cho tôi điều ước, tôi sẽ ước được trở về như xưa. Được trờ về với tuổi thơ, được sống với bầu khí tết thuở nào tuy nghèo nhưng đầy ắp tiếng cười. Nhưng thời gian cứ phũ phàng trôi đi. Thời gian tiến chứ không lùi. Con người thì cứ lớn lên, già đi cũng đồng nghĩa lo toan nhiều và niềm vui bớt đi.
Có một người khi bước qua tuổi thơ đã ước rằng:
Ước gì mình có thật nhiều tiền!
Mua chiếc vé về tuổi thơ
Chơi với búp bê, siêu nhân và gấu bông với đàn trẻ con hàng xóm.
Những đứa trẻ ngây ngô ngày nào giờ khôn lớn,
Chẳng hiểu vì sao xa lạ một góc trời…
Ước gì có điều kỳ diệu trên đời!
Một sớm mở mắt ra có mẹ, có bà, có tiếng nói cười thân thương quen thuộc.
Người lớn thức dậy với chiếc bóng dưới chân giường đơn độc,
Tự mỉm cười: Lại thêm một ngày nữa sắp sửa trôi qua…
Hôm nay, khi bóc tờ lịch cuối cùng của năm cũ chúng ta mới bàng hoàng sao thời gian đi nhanh thế?Liệu mình có thể níu kéo được thời gian? Mới mừng đó năm Tỵ mà giờ đây ngày cuối của năm Tỵ đã hết. Con ngựa đang tung tăng bước vào thời gian. Thời gian như chẳng chờ chẳng đợi ai.
Người ta thống kê rằng: tuổi thọ của con người trung bình chỉ kéo dài được 4,000 tuần tức là xấp xỉ với 77 năm cuộc đời. Nếu mình đang bước vào tuổi trung niên, nghĩa là đã đi được nửa chặng đường đời, chỉ còn khoảng 2,000 tuần nữa để sống, để thực hiện những ước mơ, hoài bão, nhưng liệu thời gian có còn đủ để ta thực hiện ước mơ?
Một điều kỳ lạ của thời gian là hiện tại dường như trôi qua nhanh hơn thời gian trước đó, dường như tuần này trôi nhanh hơn tuần đã qua và chắc tuần sau sẽ trôi nhanh hơn tuần này.
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ. Nó rất vô tình. Hãy dùng nó cho có ý nghĩa. Hãy tận dụng từng thời khắc cuộc sống kẻo thật uổng phí thời gian. Có lẽ, không có cụm từ nào tai hại cho bằng ba chữ “Giết – thời – gian”. Nhiều người tìm những thú vui, tìm những việc làm để chỉ mong giết thời gian. Có người giết thời gian trong đam mê cờ bạc. Có người trong tửu sắc. Có người hoang phí trong những tiệc tùng thâu đêm vô bổ hay rong chơi đàn ca hát sướng.
Thật ra chúng ta được ban cho thời gian để sử dụng chứ không phải để giết chúng.
Lời Chúa trong thơ của thánh Phaolo gởi tín hữu Ê-phê-sô (5,16) đã đề cao giá trị về thời gian như sau: “Thế thì anh chị em hãy cẩn thận về cách sống của mình; đừng sống như kẻ dại dột, nhưng như người khôn ngoan. Hãy tận dụng thì giờ, vì thời buổi nầy thật đen tối”
Thời gian là một tài sản vô giá. Nó giúp chúng ta có thời gian giúp người giúp đời. Thời gian không bao giờ quay ngược trở lại được. Hãy trân trọng thời gian. Hãy sống từng giờ cho có ý nghĩa. Hãy tận dụng nó để sống có ích cho đời, cho gia đình và bạn bè. Hãy luôn nhớ rằng thời gian không chờ đợi bất cứ ai.
Giờ đây trong giây phút giao thừa chúng ta lại càng thấy thời gian trân trọng biết bao. Đây là thời gian giao thoa giữa mới và cũ. Giữa con Rắn và con Ngựa. Giữa quá khứ và tương lai. Thế nên, hãy sử dụng thời khắc hiện tại này thật ý nghĩa. Hãy sống như thể đây là giây phút cuối đời. Hãy trân trọng những người đang sống bên ta. Hãy dùng nó để xây dựng tình người, để kiếm tìm hạnh phúc. Hãy khai mở mùa xuân trong nụ cười rạng ngời, trong cái bắt tay yêu thương. Và hãy mang mùa xuân yêu thương gieo vào nhân thế hôm nay.
Lạy Chúa, Chúa là chủ thời gian. Chúng con là người quản lý. Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con đã không quản lý thời gian cho đúng. Xin giúp chúng con biết trân trọng thời gian, biết dùng thời gian để làm việc thiện, để tôn vinh Chúa và sống có ích cho tha nhân.
Chúng con xin dâng lên Chúa giây phút giao thừa nay. Xin Chúa chúc lành cho những giây phút hiện tại này trần ngập niềm vui. Xin cho những ngày xuân là những ngày họp trong yêu thương hạnh phúc. Amen
26. PHÚT DỪNG CHÂN
(Lm. Đỗ Đức Trí)
Sau 365 ngày vừa trôi qua, có lẽ giờ phút này là giờ phút chúng ta cảm thấy thảnh thơi nhất. Trong những ngày cuối năm vừa qua ai cũng tất bật để lo tổng kết sổ sách, dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị quà bánh cho dịp Tết này, mọi nỗ lực của cả năm như dồn tất cả cho ngày Tết. Giờ phút giao thừa này cũng là dịp dừng chân để chúng ta nhìn lại bản thân, gia đình, trách nhiệm, công việc và các mối tương quan xã hội, chúng ta đã làm gì cho gia đình, gia đình của chúng ta hiện nay như thế nào ? Điều gì tốt, điều gì chưa tốt ? Điều gì là chính yếu, điều gì là tùy phụ ? Giờ đây trút bỏ mọi lo toan của năm cũ, ngồi trước mặt Chúa trong bầu khí giao thừa này, chúng ta cũng được mời gọi nhìn lại đời sống đạo của bản thân, tương quan của chúng ta đối với Chúa xem hiện đang ở trong tình trạng nào ? Trách nhiệm của ta với gia đình như thế nào ?
Trong đời sống xã hội và kinh tế, năm vừa qua vẫn là năm khó khăn chung cho cả nước, càng ngày của càng khó người càng khôn. Chính vì kinh tế làm ăn khó khăn kiến cho nhiều cha mẹ thêm lo lắng hơn cho gia đình, gánh nặng trên vai càng nặng hơn, chi tiêu trong gia đình phải cân nhắc hơn cho việc mua sắm, những khoản chi cố định như việc ăn uống học hành của con cái, khoản phát sinh khi ốm đau.., tất cả những lo toan ấy đang đè nặng trên vai của các bậc cha mẹ. Những lo lắng ấy thật là chính đáng, thế nhưng cứ thử bình tâm nhìn lại, để xét xem chúng ta lo lắng cho gia đình cho con cái như vậy đã đủ chưa ? Điều gì còn lại cho gia đình sau một năm vất vả ?
Ai bước vào đời sống gia đình cũng mong cho gia đình hạnh phúc, thế nhưng nhiều người đã không biết làm thế nào để cho gia đình hạnh phúc, mà chỉ nghĩ rằng cứ đi kiếm tiền về cho gia đình là xong trách nhiệm. Nhưng thực ra không phải như thế, kiếm tiền cho gia đình là quan trọng, là điều cần, nhưng chưa đủ, vì thực ra tiền bạc không thể thay thế cho hạnh phúc của gia đình. Để gia đình hạnh phúc thì cha mẹ và các thành viên phải đầu tư vào gia đình mình bằng tình yêu, sự hy sinh, phục vụ và quan tâm đến nhau. Vì thực tế cho thấy chính vì sức ép của công việc khiến cho nhiều gia đình rơi vào cảnh: mạnh ai nấy sống, việc ai nấy làm, đã đánh mất những giờ phút gặp gỡ trong gia đình. Có những gia đình ngày Tết này cũng không tổ chức được bữa ăn chung với nhau, bởi vì họ không thể nói chuyện với nhau, vợ chồng ngồi gần nhau là cãi vã, con cái không thể ngồi chung với cha mẹ, vì toàn là những chửi bới không thể chịu nổi. Có những gia đình khác, những ngày này bố mẹ con cái chẳng gặp nhau, vì còn vùi đầu từ sáng đến tối vào các canh bài, sòng bạc, cá độ.
Một khía cạnh quan trọng mà mỗi người cần nhìn lại trong lúc này đó là đời sống đạo của gia đình mình như thế nào ? Con cái ra sao, có ngoan hay không ? Tác giả bộ phim “Chuyện tử tế” đã có mộ câu bình luận chua chát về gia đình như sau : Một căn nhà bề ngang được ba bốn mét, chiều sâu được năm bảy mét mà đến bốn năm con người ở, thì còn chỗ đâu cho đạo đức nó ở. Câu nhận định ấy có khi nó cũng đúng với nhiều gia đình chúng ta. Nhiều nhà hôm nay có đầy đủ máy móc ti vi xe cộ, đồ đạc, chỉ thiếu mỗi đạo đức là không có. Trách nhiệm đó thuộc về ai ? Một khi gia đình thiếu đời sống đạo đức, thì gia đình không thể hạnh phúc.
Là cha mẹ, trước mặt Chúa trong giờ phút này, mỗi người phải dám nhìn lại đời sống đạo đức của bản thân, và có quyết tâm điều chỉnh lại nếp sống đạo của gia đình. Hãy bắt đầu từ chính cha mẹ, hãy dành giờ mỗi ngày cho việc đến với Chúa qua việc tham dự Thánh Lễ, qua việc cầu nguyện riêng tư, lãnh nhận các bí tích Giải tội và Thánh Thể, hãy làm cho các giờ kinh chung của gia đình thêm sốt sắng và là giờ thiêng liêng nhất của gia đình mỗi ngày, gặp gỡ trò chuyện với Thiên Chúa và lắng lòng để nghe Chúa nói với mỗi người. Vì qua các giờ kinh mỗi ngày Thiên Chúa sẽ giúp ta giải gỡ được những căng thẳng trong gia đình, tìm ra giải pháp cho những khó khăn trong cuộc sống.
Kế đến chúng ta cũng cần nhìn lại mối tương quan anh em họ hàng bạn bè, dường như cuộc sống của mỗi người ngày nay quá bận rộn khiến anh em họ hàng chẳng mấy khi có dịp đến thăm nhau, thậm chí một năm cũng chỉ được ngày Tết đến với nhau mà cũng vội vàng như làm nghĩa vụ… Cứ như thế, thì chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, anh em họ hàng sẽ như người xa lạ, con cháu, họ hàng gặp nhau cũng như người dưng, chẳng còn thân thiết nữa. Dịp Tết này là dịp để chúng ta làm cho tình nghĩa anh em họ hàng xóm ngõ thêm đậm đà, gắn bó, hiểu nhau hơn, quý mến nhau hơn bằng việc thăm viếng nhau, hàn huyên tâm sự với nhau trong bầu khí ấm áp của những ngày xuân này, vì mỗi người sống là sống trong tình liên đới với nhau.
Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã chỉ cho chúng ta những phương cách đem đến hạnh phúc cho gia đình: Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng, hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh, vì đó là điều Thiên Chúa muốn. Qua đó thánh Phaolô muốn mời gọi chúng ta tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, vì tất cả mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống dù vui hay buồn, thì Thiên Chúa vẫn có thể biến những điều đó nên những điều có ích cho chúng ta. Vì thế tâm tình cần có đó là tâm tình tạ ơn, biết ơn Thiên Chúa, mà cách thể hiện lòng biết ơn tốt đẹp nhất là việc thờ phượng Chúa.
Phương cách thứ hai đó là: Đừng dập tắt Thánh Thần, đừng coi thường các lời ngôn sứ dạy bảo, hãy giữ lấy những điều tốt và điều dữ thì tránh cho xa. Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong mỗi người và hằng soi sáng nhắc nhở và thúc đẩy chúng ta làm điều tốt và tránh điều xấu. Thánh Thần cũng nhắc bảo chúng ta qua tiếng lương tâm trong mỗi quyết định, hãy lắng nghe và làm theo tiếc nhắc bảo ấy, đừng cố tình làm ngơ, thì tâm hồn chúng ta sẽ được bằng an, và gia đình ta sẽ ấm cúng thuận hòa.
Xã hội ngày nay đưa ra cho con người nhiều tiêu chuẩn hạnh phúc để lôi kéo con người chạy theo nó, khiến nhiều người quên mất rằng, hạnh phúc mà thế gian ban tặng chỉ là hạnh phúc ảo, là đồ giả mà thôi. Hạnh phúc đích thật là hạnh phúc phát xuất tư nơi Thiên Chúa và được trao tặng trong tâm hồn, đó mới là hạnh phúc có thể giúp con người vượt qua mọi sóng gió thử thách. Hạnh phúc đó hoàn toàn khác, có khi còn trái ngược lại với hạnh phúc của thế gian.
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã công bố cho chúng ta tiêu chuẩn và điều kiện để đạt được hạnh phúc đích thật. Trong khi người đời đang lao đầu tìm kiếm sự giàu sang phú quý, và người ta còn đánh giá nhau trên tiêu chuẩn giàu sang phú quý, thì Chúa Giêsu lại đưa ra một tiêu chuẩn khác: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Nói như thế chắc chắn không phải trong Nước Trời toàn những kẻ đói rách, nhưng nghèo khó ở đây là sự nghèo khó trong tâm hồn. Điều đó có nghĩa là người hạnh phúc ở đời này và đời sau là người có một tâm hồn khiêm tốn phó thác cho Thiên Chúa, để mình lệ thuộc vào Thiên Chúa. Như thế dù người có nhiều của cải vật chất hoặc người thiếu thốn, nhưng có tâm hồn nghèo khó, biết sống tin tưởng gắn bó với Chúa không để mình làm nô lệ cho vật chất không lệ thuộc vào nó và biết sử dụng nó đúng theo ý Chúa, đó là những người được Chúa chúc phúc.
Phúc cho ai hiền lành vì họ sẽ được đất nước làm gia nghiệp. Đòi hỏi này dường như hoàn toàn đi ngược với khuynh hướng của xã hội, trong khi xã hội hôm nay mạnh được yếu thua, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, người ta giải quyết với nhau bằng bạo lực, bằng cơ bắp, bằng sự nóng nảy thì Chúa lại muốn chúng ta là những người hiền lành. Hiền lành ở đây không phải là sự nhu nhược hèn kém, cũng không phải là cù lần, nhưng hiền lành ở đây là giữ cho mình có được cái tâm bình an trong mọi nghịch cảnh. Người hiền lành thì giải quyết mọi công việc mọi căng thẳng trong ôn hòa và nhân ái, trong thông cảm và tha thứ. Vì họ tin rằng chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng hoàn hảo và là Đấng phân xử công minh cho mọi người tùy theo việc kẻ ấy đã làm.
Trong đêm giao thừa nhìn lại trách nhiệm của mình đối với Chúa với gia đình như thế để mỗi người hãy có một quyết tâm mới cho gia đình cho bản thân, để năm mới này gia đình và đời sống nên tốt đẹp hơn, gia đình ấm cúng thuận hòa hơn. Xin Chúa qua sự bầu cử của Mẹ Maria, mẹ của các gia đình, thương ghé mặt nhìn đến những cố gắng và quyết tâm của mỗi chúng ta. Amen.
27. GIAO THỪA --Mt 5,1-10
Câu chuyện
Lẽ trời đất có khởi thủy phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết thúc, bắt đầu vào lúc giao thừa, kết thúc cũng vào lúc giao thừa. Giao thừa có nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy (Theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh). Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm lúc giao thoa giữa hai năm cũ - mới này có lễ trừ tịch.
Ý nghĩa của lễ này là chúng ta bỏ đi hết điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để “Khử trừ ma quỷ” cử hành vào lúc giao thừa.
Suy niệm
Trong đêm giao giữa năm cũ và năm mới, chúng ta họp mặt trong thánh lễ giao thừa hôm nay (hoặc giờ phút linh thiêng này), rất có ý nghĩa: Chúng ta vui ca tạ ơn Chúa những gì đã làm được và chưa làm được cũng như làm mất lòng Chúa trong năm cũ vừa qua và mặc lấy tâm tình của thánh Phaolô mời gọi: “Anh em thân mến, anh em hãy vui mừng luôn. Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc, hãy cảm tạ Chúa” (1Tx 5,16-18).
Cũng đêm giao thừa, trong tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta trừ khử những gì thuộc về bóng tối, ma quỷ, mặc lấy ân sủng để tiến vào năm mới với tâm hồn vui hạnh phúc như tục ngữ của cha ông ta: “Nghinh xuân tiếp phúc”. Thật thế, chữ phúc mà chúng ta khẩn cầu với Chúa Xuân, để Ngài chúc phúc như lời cầu chúc tha thiết của thánh Phaolô cho những người anh em thành Thêxalônica: “Xin chính Thiên Chúa bình an thánh hóa anh em toàn diện, để thần trí, linh hồn và thể xác anh em được gìn giữ toàn diện trong ngày Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta ngự đến. Đấng đã kêu gọi anh em, chính Người là Đấng trung tín” (1Tx 5,23-24).
Vào giờ phút giao thừa, người ta dâng tiến mâm ngũ quả dâng lên bàn thờ Thiên Chúa, bàn thờ tổ tiên, ông bà. Mâm ngũ quả ở miền Bắc thường có nải chuối xanh, quả bưởi, quả cam (hoặc quít), hồng, quất. Ở miền Nam là dừa xiêm, mãng cầu, đu đủ, xoài xanh, nhành sung hoặc một loại trái cây khác. Ngũ quả là lộc của trời, tượng trưng cho ý niệm khát khao của con người vì sự đầy đủ, sung túc. Mâm ngũ quả bên cành đào, câu đối đỏ, bức tranh Tết, bánh chưng xanh… tạo nên khung cảnh ấm áp của mỗi gia đình khi Tết đến xuân về. Phong tục này ra đời từ ngàn xưa, có lẽ vì đất nước ta bốn mùa hoa trái, nhất là vào mùa xuân hoa quả nở rộ. Hoa quả là lộc của thiên nhiên, đất trời. Dâng lộc xuân, lộc của trời cho chính trời như là lời tuyên xưng tạ ơn: “Tất cả những gì Chúa ban, con có dâng về cho Chúa”, và khẩn cầu: “Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc” (Lời nguyện năm mới). Dâng lộc trời để nhớ ơn và cúng bái ông bà, tổ tiên trong những ngày đầu xuân, như để tỏ lòng biết ơn. Biết ơn trời, nhớ nguồn gốc tổ tiên thật là một tục lệ đẹp và mang đầy nét nhân văn của lòng biết ơn được văn hóa Việt Nam trân trọng và được chính Chúa Kitô đánh giá cao (x. Lc 17,11-19).
Trong giờ phút linh thiêng này, chúng ta chúc phúc cho nhau như Chúa Giêsu gửi lời chúc cho chúng ta qua bát phúc, trong đó, Ngài chúc con người trở nên hiền lành, xót thương người, tâm hồn trong sạch và xây dựng hòa bình để được hạnh phúc. Ngài còn chúc phúc chúng ta dù sống giữa những hoàn cảnh cơ cực nhất: nghèo khó, sầu khổ, đói khát, bị bách hại vì sống công chính (x. Mt 5,1-10), cũng cảm nghiệm hạnh phúc mà Thiên Chúa mang lại.
Giờ phút giao thừa, chúng ta dùng lời phúc của Chúa chúc cho nhau, mong mỗi người sở hữu một niềm vui tâm hồn, không bị ảnh hưởng bởi những hoàn cảnh bên ngoài chung quanh tác động. Mỗi mối phúc mà Chúa Giêsu đề cập, không được con người quan tâm như là những điều may mắn hạnh phúc, trái lại họ coi đó là những khổ đau mà họ luôn phải tránh. Những hoàn cảnh này Chúa Giêsu tuyên bố: Họ hạnh phúc thật. Chính sứ mạng của Chúa Giêsu là đến thế gian để trao cho con người chìa khóa để mở hạnh phúc, một niềm vui nội tại không bị chi phối khi ta sống giữa những hoàn cảnh khó khăn nhất.
“Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa” (Tv 40,5). Hạnh phúc được sinh ra khi chúng ta biết đặt trong tim mình những công trình và thực hiện với sự vui mừng và hoan hỉ trong Thiên Chúa, bất chấp mọi hoàn cảnh. Cầu mong chúng ta có được tinh thần tám mối phúc, để luôn tiến mạnh mẽ.
Chúng ta xin Chúa Kitô, Người là ánh sáng tỏ rạng hơn mọi ánh sáng đốt lên trong tâm hồn chúng ta ánh sáng tình yêu nuôi dưỡng cuộc sống chúng ta. Chúng ta mở lòng mình ra với niềm hy vọng vào ánh sáng rạng ngời của Người. Chắc chắn rằng sẽ không còn bóng đêm của năm cũ nhưng là ánh sáng tình yêu của Chúa viếng thăm trong năm mới:
“Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn,
Cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta” (Lc 1,78).
28. THÁNH LỄ GIAO THỪA Năm Canh Tý 2020
(http://www.simonhoadalat.com // Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)
Anh chị em thân mến,
Trong Thánh Lễ cuối cùng của Năm Cũ, dĩ nhiên chúng ta muốn hợp ý cùng mọi gia đình, mọi cá nhân để dâng lên Chúa Lễ Tạ Ơn vì các hồng ân Chúa đã ban, nhưng nhìn lại năm cũ chúng ta thấy đâu là Hồng Ân Chúa để Tạ Ơn.
Theo cách suy nghĩ của chúng ta thì hầu như chúng ta không nhận được Hồng Ân nào, bởi vì một năm qua dù chúng ta hết sức cố gắng nhưng cá nhân và gia đình vẫn chỉ thấy những khốn khổ và túng quẫn. Rồi thời tiết nắng hạn kéo dài…chưa kể những vấn đề tình vợ chông, cha mẹ và con cái, bạn bè một năm qua nhiều sóng gió khiến cho tình cảm sứt mẻ…Và chúng ta thật khao khát đổi đời khiến cho rơi vào những cảnh huống tan nhà tan cửa vì nợ nần, vì bị lừa đảo… và mất niềm tin vào mọi người, và mất niềm tin vào cả Thiên Chúa Đấng Giàu Lòng Thương Xót. Chúng ta đã gào thét lên bao lần tiếng TẠI SAO VẬY? Chúng ta không có câu trả lời.
Câu trả lời chỉ có thể tìm thấy trong chính SỰ CHÚC LÀNH của Thiên Chúa, khi Ngài ban cho chúng ta Con Một Người : Đức Giêsu Kitô để nói như thánh Phaolô NGƯỜI LÀ ĐẤNG TRUNG TÍN, CHÍNH NGƯỜI SẼ THỰC HIỆN. Thiên Chúa thực hiện “thánh ý về tất cả anh em trong Chúa Giêsu Kitô”. Người thực hiện bằng việc làm cho Đức Giêsu trở nên mẫu mực của con người được chúc lành : Đó là:
- Một con người có “tinh thần nghèo khó”. Không chỉ là nghèo vật chất, mà cả tâm hồn Ngài đã từ bỏ mọi sự để chỉ còn lại duy nhất một ý muốn “Này Con xin đến để làm theo ý Cha”.
- Một con người “hiền lành” luôn đối xử không chỉ là với mọi người mà cả muôn vật trong sự trân trọng vì tất cả đều là công trình tốt đẹp trong sự quan phòng yêu thương của Cha cho mọi sự mọi loài đều là VINH QUANG của Cha.
- Một con người cũng đã từng “than khóc” để ủi an những người đau khổ. Và “than khóc” trước thảm họa của loài người bị hư đi và xa rời tình yêu của Cha.
- Một con người biết làm cho những “kẻ đói khát công chính” được no đủ.
- Một con người luôn “biết thương xót” những con người bị loại trừ vì bệnh tật, vì vấp ngã, vì sợ hãi để họ được hội nhập lại trong xã hội, được đứng dậy và can trường.
- Một con người có “lòng trong sạch”, và luôn sống để kiến tạo sự “hoà thuận”.
- Một con người “bị bắt bớ vì sự công chính” để đem lại ơn cứu độ cho mọi người.
Khi nhìn vào mẫu người trong Đức Giêsu mà Thiên Chúa muốn chúng ta noi theo để có được hạnh phúc, chúng ta có thể thấy câu trả lời cho mọi điều chúng ta thấy là bất hạnh trong năm cũ, chỉ vì chúng ta không muốn và không sống những điều Chúa Giêsu đã sống được tóm tắt trong kinh Tám Mối Phúc ấy.
Cuộc sống của Chúa có thể sống tám mối phúc ấy vì Ngài luôn nhắm tới “phần thưởng sung mãn … trên trời”, phần thưởng trở về địa vị vinh quang là CON THIÊN CHÚA.
Người kitô hữu chúng ta nhờ các bí tích, cách riêng bí tích Thánh Thể cho chúng ta dần được chính Chúa Giêsu biến đổi chúng ta nên giống Người để cảm nhận được điều Chúa từng nói với các môn đệ “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”, và đó mới là Chúc Lành của Thiên Chúa.
Chúng ta cùng Tạ Ơn và cầu xin cho chúng ta trong NĂM MỚI được biết mở lòng đón nhận CHÚC LÀNH CỦA CHÚA.
29. GIAO THỪA Mt 5,1-10 : LỜI CHÚC HẠNH PHÚC ĐẦU XUÂN – 8 MỐI PHÚC THẬT
1. LỜI CHÚA:“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3)
2. CÂU CHUYỆN:
1) HẠNH PHÚC ĐÒI TA LUÔN PHẤN ĐẤU:
Vào một buổi sáng đẹp trời, chú cún con chạy đến bên mẹ và hỏi:
- Mẹ ơi, hạnh phúc ở đâu?
Mẹ cún con mỉm cười đáp:
- Hạnh phúc nằm ở chiếc đuôi xinh xắn của con đó!
Cún con thích lắm, ngày nào chú cũng ngắm nghía chiếc đuôi của mình, vừa nhảy vừa vẫy vẫy chiếc đuôi! Nhưng rồi bỗng một hôm, chú cún con buồn bã chạy đến bên mẹ:
- Mẹ ơi, tại sao con chẳng bao giờ nắm giữ được hạnh phúc vậy?
Mẹ khẽ vuốt ve cún con và đáp:
- Chỉ cần con tự tin bước về phía trước, hạnh phúc sẽ tự đi theo con thôi!!!
2) HẠNH PHÚC Ở TRONG LÒNG CHÚNG TA:
Ngày xưa, có một bầy yêu tinh tập hợp lại với nhau để lên kế hoạch làm hại con người. Một con yêu tinh lên tiếng: "Chúng ta nên giấu cái gì quý giá của con người. Nhưng mà cái đó là cái gì?"
Một con yêu tinh khác lên tiếng: "Chúng ta nên giấu hạnh phúc của con người. Không có nó, ngày đêm con người sẽ phải khổ sở. Nhưng vấn đề là chúng ta sẽ giấu hạnh phúc nơi nào mà con người không thể tìm thấy được."
Một con yêu tinh cho ý kiến: "Chúng ta sẽ quẳng hạnh phúc lên đỉnh núi cao nhất thế giới."
Con yêu tinh khác phản đối: "Con người rất khỏe mạnh, chuyện trèo lên đỉnh núi đối với họ không có gì khó khăn."
"Vậy thì chúng ta sẽ đem hạnh phúc ném xuống đáy biển sâu."
"Không được, con người rất tò mò. Họ sẽ chế tạo ra những con tàu hiện đại để đi xuống tận đáy biển. Rồi tất cả mọi người sẽ biết."
Một con yêu tinh trẻ có ý kiến: "Hay là chúng ta đem giấu hạnh phúc ở một hành tinh khác."
Con yêu tinh già phản đối: "Không được, con người rất thông minh. Càng ngày họ càng thám hiểm nhiều hành tinh khác đấy thôi."
Suy nghĩ hồi lâu, có một con yêu tinh già lụ khụ lên tiếng: "Tôi biết phải giấu hạnh phúc ở đâu rồi. Hãy giấu nó ở chính bên trong con người. Đa số con người đi tìm hạnh phúc ở khắp chốn, khắp nơi và bao giờ họ cũng thấy người khác hạnh phúc hơn mình. Bản thân họ thì chẳng bao giờ quan tâm. Giấu nó ở đó thì con người không bao giờ tìm thấy!!!"
Tất cả các con yêu tinh đều đồng ý. Và kể từ đó, rất nhiều người mãi miết kiếm tìm hạnh phúc ở những nơi nào khác mà không biết rằng nó đang nằm ngay trong lòng mình.
3) NGƯỜI GIÀU CŨNG KHÓC:
PAUL GETTY là ông chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Khu đất ông ở rộng bốn mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng tỷ mỹ kim. Thế mà mỗi ngày ông đều phải thức dậy làm việc từ lúc ba giờ sáng. Chung quanh ông lúc nào cũng có tới mười người cảnh sát bảo vệ. Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm cú điện thoại và những lời đe dọa ám sát… Ông đã phải thốt lên rằng: “Tôi là người đau khổ nhất và chẳng bao giờ cảm nghiệm được thế nào là hạnh phúc !”.
3. THẢO LUẬN: 1) Hạnh phúc thực sự là gì? 2) Làm thế nào để đạt được hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại và mai sau?
4. SUY NIỆM:
Năm cũ sắp qua nhường chỗ cho năm mới đang tới. Trong dịp này, chúng ta thường chúc cho nhau những điều tốt đẹp. Chẳng hạn: Chúc cho đông con nhiều cháu, phát tài phát lộc, khỏe mạnh sống lâu… Những lời cầu chúc thường qui về ba chữ: Phúc, Lộc, Thọ. Tóm lại là chúc nhau được hạnh phúc trong Năm Mới. Nhưng thế nào là hạnh phúc thực sự?
1) Hạnh phúc là gì?
Hạnh phúc là tình trạng thỏa mãn khi đạt được những điều mong ước mà người đời thường mong ước như Phúc, Lộc và Thọ. Tuy nhiên không nhất thiết cứ có đông con nhiều cháu, cứ sở hữu nhiều nhà cửa tiền bạc, chức cao quyền trọng hoặc được sống lâu trăm tuổi là đương nhiên có hạnh phúc… Vì lòng tham con người vô đáy như người đời thường nói: “Được voi đòi tiên”, “Đứng núi này trông núi nọ”…
Người ta cũng thường chúc nhau khỏe mạnh. Nhưng khỏe mạnh vẫn chưa phải là thứ hạnh phúc thực sự. Vì nếu sức khỏe là hạnh phúc, thì chắc hẳn những nhà lực sĩ sẽ là người hạnh phúc nhất. Thế nhưng, không phải vậy. Bởi vì có những người dù đau yếu, sức khỏe èo uột, thế mà nụ cười vẫn tươi nở trên môi, đang khi những nhà vô địch Ô-lim-pic sức khỏe vô địch lại thường âu lo có ngày sẽ bị soán ngôi vô địch như người ta thường nói: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”.
Rất nhiều người đã mong ước kiếm nhiều tiền để được sống an nhàn như người ta thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được: Đồng tiền là Tiên là Phật; Là sức bật của tuổi trẻ; Là sức khỏe của tuổi già; Là cái đà của danh vọng; Là cái lọng để che thân; Là cán cân của công lý; Là triết lý của cuộc đời”... Nhưng thực ra “Người giàu cũng khóc!” Biết bao gia đình nông dân việt Nam đang sống vất vả trên mảnh đất ruộng nhưng gia đình hạnh phúc. Rồi đột nhiên có dự án làm đường đi qua khu đất nhà của họ, biến đất ruộng trở nên quý giá “Tấc đất tấc vàng”, tiền bạc rủng rỉnh. Nhưng từ khi bán đất lấy tiền lấy vàng, gia đình được ở nhà cao cửa rộng, có đủ xe máy xịn, tivi màu, máy lạnh máy giặt… nhưng gia đình con cái bỏ học ăn chơi sa đà vào nghiện hút xì-ke ma túy, vợ ngày ngày chơi đề, chồng thì nhậu nhẹt vợ nọ con kia… gia đình xào xáo dẫn đến chỗ ly hôn và bất hạnh.
2) Hạnh phúc thực sự do đâu ?
Hạnh phúc thật sự không nhất thiết do tiền bạc, chức quyền, sắc đẹp, sức khỏe... dù rằng những điều đó đều là ưu điểm có thể mang lại cho chúng ta niềm vui trong một lúc nào đó. Vậy hạnh phúc đích thật ở đâu?
Thực ra: Con người chúng ta không những gồm thân xác mà còn có linh hồn nữa. Cơm áo gạo tiền hay tiền bạc vật chất, địa vị chức quyền, sắc đẹp, tài năng, sức khỏe, sống lâu… chỉ đáp ứng được những nhu cầu về thể xác bên ngoài và không bền lâu, nên đã không thực sự mang lại hạnh phúc. Điều quan trọng để có hạnh phúc là một tâm hồn bình an và nhiều niềm vui như Đức Ma-ri-a, sau khi được bà chị Ê-li-sa-bét khen là người có phúc, đã dâng lời ca tụng Thiên Chúa như sau: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-47).
Dù thân xác chúng ta có gặp những tai nạn rủi ro và những điều trái ý, nhưng người có đức tin vẫn luôn phó thác vào Thiên Chúa và gặp được niềm vui hạnh phúc trong sự nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân, quảng đại tha thứ cho những kẻ thù ghét bách hại mình, như Phó tế Tê-pha-nô khi bị kết án ném đá sắp chết, vẫn mở miệng cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7,60), hoặc như Đức Giê-su khi bị treo trên thập giá sắp chết cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Như thế, hạnh phúc phải bắt nguồn từ Thiên Chúa là nguồn mạch mang lại hạnh phúc đích thực. Nơi nào có Chúa hiện diện thì nơi ấy sẽ có bình an hạnh phúc như Người đã hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29).
3) Cho thì có phúc hơn là nhận (Cv 20,35):
Trong một buổi hội thảo về hạnh phúc gồm 50 người tham dự. Diễn giả khởi đầu bằng một hoạt động tập thể. Ông đưa cho mỗi người một quả bóng và yêu cầu họ viết tên của mình lên trái bóng bằng chiếc bút lông. Sau đó, số bóng được thu hết lại trong giỏ rồi được đưa sang một phòng khác.
Rồi 50 người này lại được tập trung sang phòng chứa bóng và được yêu cầu hãy tìm quả bóng có ghi tên mình trong thời hạn 5 phút. Mọi người đều lao vào giỏ xô đẩy nhau để tìm kiếm quả bóng tên mình và căn phòng trở nên hỗn loạn, khi hết 5 phút mà ít có người tìm được quả bóng tên mình.
Sau đó, vị diễn giả lại yêu cầu mỗi người tự nhặt lên một quả bóng bất kỳ rồi tìm chuyển cho người có tên ghi trên bóng. Chỉ trong vòng 5 phút, ai nấy đều đã có được quả bóng tên mình.
Lúc này, vị diễn giả mới dẫn vào đề tài về hạnh phúc: Trong cuộc sống, mỗi người đều hối hả đi tìm hạnh phúc của mình, nhưng thực ra lại không biết chúng nằm ở đâu.
Hạnh phúc của chúng ta nằm xen lẫn với hạnh phúc của người khác. Hãy tìm cách làm cho người xung quanh có được hạnh phúc của họ, rồi chúng ta cũng sẽ được người khác mang lại hạnh phúc cho ta. Cũng như câu chuyện trên cho thấy: khi náo loạn đi tìm bóng thì sẽ không tìm thấy. Còn khi mỗi người cầm bóng trao cho kẻ khác thì chính họ cũng sẽ được người khác trao quả bóng hạnh phúc cho mình. Hãy cứ cho đi rồi sẽ được nhận lại: “Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy" (Lc 6,38).
4) Phương thế để được hạnh phúc thực sự là sống Tám Mối Phúc:
Hạnh phúc không ở đâu xa, nó luôn ở bên cạnh mình hoặc ở trong lòng mình. Có điều chúng ta quên điều này nên cứ đi tìm hạnh phúc ở nơi đâu khác và cuối cùng đành chịu mất nó.
Để luôn có hạnh phúc nghĩa là có Chúa ở cùng, là luôn có tình yêu của Chúa trong lòng, thì chúng ta phải thực hành Tám Mối Phúc bằng cách quên mình vị tha, ứng xử công bình nhân ái, như lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay: Sống khiêm hạ nghèo khó, luôn ăn ở hiền lành, chấp nhận đi con đường hẹp: “qua đau khổ vào trong vinh quang”, luôn khát khao nên người công chính, biết chạnh thương những kẻ bất hạnh, có tâm hồn trong sạch, luôn ăn ở thuận hòa, sẵn sàng chịu bách hại vì sống công chính, chấp nhận bị sỉ nhục vì danh Chúa...
Niềm hạnh phúc luôn có Chúa ở cùng, cũng chính là hạnh phúc mà chúng ta cần phải cầu chúc cho nhau trong giờ phút đón Giao Thừa và trong Năm Mới này. Dù chúng ta ít nhiều vẫn còn chịu đau khổ và gặp những điều trái ý, nhưng nếu thực sự có Chúa ở cùng, chắc chắn chúng ta vẫn cảm thấy vui mừng và hy vọng, bình an và hạnh phúc như thánh Phao-lô đã chia sẻ: “Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2 Cr 7,4b).
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Xin cho chúng con quyết tâm thực thi tinh thần Tám Mối Phúc của Chúa trong Tin Mừng hôm nay, thể hiện qua cách suy nghĩ, nói năng và cách ứng xử khiêm tốn, vị tha, luôn nhẫn nhịn chịu đựng, từ bi nhân hậu, sẵn sàng tha thứ cho tha nhân noi gương Chúa khi xưa, để tâm hồn chúng con luôn được bình an, lạc quan vui vẻ từ giờ phút đón Giao Thừa này, như dấu chỉ chúng con sẽ được an bình hạnh phúc trong suốt năm nay và hạnh phúc ấy sẽ kéo dài mãi ở đời sau.- AMEN.
LM ĐAN VINH-HHTM
09/02 Điều chính yếu của Tin Mừng
- Viết bởi Mc 7, 1-13
Điều chính yếu của Tin Mừng.
Thứ Ba tuần 5 thường niên.
“Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân".
Lời Chúa: Mc 7, 1-13
Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng.
Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy".
Và Người bảo: "Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử". Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)", và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi huỷ bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lòng chúng thì xa Ta
Suy niệm:
Trong Bài Tin Mừng hôm nay có năm từ truyền thống (cc. 3, 5, 8, 9, 13).
Đó là truyền thống của tiền nhân, truyền thống của người phàm,
truyền thống mà các ông Pharisêu nắm giữ và muốn người khác phải theo.
Sông song với truyền thống này là điều răn của Thiên Chúa (cc. 8, 9)
Đức Giêsu tố cáo người Pharisêu đã gạt bỏ, đã coi thường điều răn này
chỉ vì muốn khư khư giữ lấy truyền thống của họ (cc 8, 9, 13).
Đây là một điều đáng tiếc,
vì mục tiêu của người Pharisêu không phải là hủy bỏ lời của Thiên Chúa (c. 13).
Trái lại, họ muốn dân Do thái sống nghiêm túc hơn ơn gọi của mình,
sống như một dân tộc thánh thiện giữa một xã hội vàng thau thời Đức Giêsu.
Chính vì thế họ chẳng những muốn tuân giữ điều được viết trong Luật Môsê
mà còn muốn sống theo những truyền thống
dựa trên luật truyền khẩu được ban cho Môsê nữa.
Họ đòi cả dân chúng cũng phải sống theo các luật về thanh sạch của các tư tế.
Bởi vậy, họ than phiền chuyện vài môn đệ của Đức Giêsu
đã không rửa tay trước khi ăn.
Thật ra chẳng phải người Do thái nào cũng giữ luật rửa tay trước khi ăn.
Các sách Cựu Ước cũng không hề đòi hỏi chuyện này (x. Lêvi 11-15).
Đáng tiếc là khi tập trung vào chuyện sạch sẽ bên ngoài,
người Pharisêu có nguy cơ bỏ rơi hay lơ là chuyện trong sạch nơi trái tim.
Đây mới là điều quan trọng mà Đức Giê su muốn nhấn mạnh.
Theo truyền thống hội đường Do Thái, có cả thảy 613 điều răn,
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Cả một rừng điều răn này chi phối toàn bộ đời sống của người Do thái giáo.
Người Pharisêu cho rằng sự thánh thiện nằm ở chỗ chu toàn hết mọi luật này.
Còn Đức Giêsu coi sự thánh thiện nằm ở sâu nơi trái tim thuộc trọn về Chúa.
Ngài trích lời của ngôn sứ Isaia (29, 13):
“Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta.”
Làm thế nào để trái tim của chúng ta gần với Chúa?
Làm thế nào chúng ta khỏi trở thành những kẻ đạo đức giả?
Làm thế nào chúng ta giữ luật Chúa và Giáo Hội với sự mềm mại, tự do, vui tươi?
Ước gì từng hành vi giữ luật của ta được chi phối bởi trái tim đầy yêu mến.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: HÌNH VÀ BÓNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình”. Thật trân trọng biết bao. Thật yêu thương biết bao. Nhưng cũng phải biết vị trí giới hạn. Dù được nâng lên hàng cao quí, con người cũng chỉ là bóng mãi mãi thuộc về hình. Hình có tồn tại thì bóng mới hiện hữu. Thiên Chúa như mặt trời tỏa ánh sáng. Con người chỉ như mặt trăng. Dù có đẹp đẽ sáng láng. Nhưng cũng chỉ sáng bằng ánh sáng mặt trời. Không có mặt trời mặt trăng chìm vào đêm tối (năm lẻ).
Nhưng con người không hiểu điều đó. Ngay từ khởi đầu bà Evà đã muốn thoát khỏi Thiên Chúa. Vì thế lâm vào khốn cùng. Các Pha-ri-sêu và Kinh sư cũng không hơn gì. Tuân giữ truyền thống của con người hơn tuân thủ Lời Chúa. Bóng muốn thoát khỏi hình sao được. Thế mà ở đây mặt trăng còn muốn lấn át mặt trời. Con người muốn lấn át Thiên Chúa khi đặt thói lệ của tiền nhân lên trên Lời Chúa dạy.
Thế giới hôm nay không khác gì. Người ta coi trọng con người hơn Thiên Chúa. Sợ hãi con người hơn Thiên Chúa. Chạy theo dư luận, lợi nhuận, chức quyền, danh vọng, và cả dục vọng. Nên phải chối từ Thiên Chúa. Con người muốn lấn át Thiên Chúa. Muốn tự mình trở thành mặt trời. Muốn điều hành cả vũ trụ lẫn Thiên Chúa. Vì thế lâm vào cảnh khốn cùng.
Hãy noi gương Sa-lo-môn, người khôn ngoan nhất trần đời. Khi xây xong ngôi đền thờ nguy nga tráng lệ, Sa-lo-mon đã nhận biết đền thờ chẳng xứng đáng với Thiên Chúa: “Này trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây”. Ngôi nhà không chứa đựng Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa ấp ủ ngôi nhà. Sa-lo-mon giầu sang tuyệt đỉnh, quyền uy ngập trời. Nhưng ông không dám trông nom Thiên Chúa. Trái lại ông cầu xin Thiên Chúa “xin Ngài để mắt nhìn đến ngôi nhà này đêm ngày”. Dù cao sang nhất trần đời nhưng ông không bao giờ dám ra lệnh cho Thiên Chúa. Trái lại ông luôn khiêm nhường cầu nguyện: “Xin Chúa đoái đến lời tôi tớ Chúa cầu xin khẩn nguyện, mà lắng nghe tiếng kêu cầu của tôi” (năm chẵn).
Con chỉ là bóng. Chính Chúa là hình. Xin cho con biết luôn đi theo Chúa, vâng nghe Lời Chúa, thực thi ý Chúa. Như bóng luôn đi theo hình. Có thế bóng mới tồn tại.
Suy Niệm 3: Tìm cái cốt yếu
Nhiều tôn giáo lấy việc tẩy rửa làm một trong những nghi thức linh thiêng của Ðạo. Chẳng hạn người Ấn giáo tắm ở sông Hằng trước khi vào tế tự ở đền thờ, hoặc các thành viên Cộng đoàn Qumrân thời Chúa Giêsu lấy việc tắm rửa hằng ngày để diễn tả thái độ sẵn sàng của mình cho ngày Ðấng Mêsia đến; ngay cả Gioan Tẩy giả cũng coi việc dìm người xuống dòng sông Giođan rồi trồi lên khỏi nước như cử chỉ nói lên sự hoán cải tâm hồn, sẵn sàng gia nhập đoàn dân mới của Thiên Chúa khi Ngài ngự đến. Người Do thái còn đi xa hơn đến mức đưa nghi thức tẩy rửa ấy vào từng chi tiết đời sống thường ngày, như rửa tay trước khi ăn, rửa chén đĩa, bình lọ...
Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái về vấn đề tập tục của tiền nhân. Ðối với người Do thái, việc rửa tay, rửa chén đĩa, rửa thực phẩm, không chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm phòng bệnh, mà còn là một nghi thức tôn giáo nói lên ước nguyện trở nên thanh sạch để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Ðấng Thánh. Ðây là điều tốt, nhưng người Biệt phái đã quá vụ hình thức mà bỏ quên điều thiết yếu, họ phán đoán một người tốt hay xấu dựa trên những hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu đã trả lời cho thái độ vụ hình thức ấy như sau: "Các ông gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa qua một bên, mà duy trì truyền thống của người phàm". Chúa Giêsu muốn cho thấy các việc làm bên ngoài ấy, dù có tính cách tôn giáo đến đâu, cũng không thể thay thế cho một việc khác quan trọng hơn. Ðiều quan trọng là sự thanh sạch của tâm hồn, chứ không phải việc rửa tay, rửa vật dụng bên ngoài; đừng lẫn lộn tập tục của truyền thống phàm nhân với lề luật do chính Thiên Chúa ban bố.
Chúa Giêsu nhắc đến trường hợp những người Do thái nhân danh tập tục dâng cúng một số của cải vào Ðền thờ, gọi là copan, nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa, để rồi biện minh cho sự thiếu sót bổn phận đối với cha mẹ. Tập tục dâng cúng là do con người, thảo kính cha mẹ là lệnh truyền của Thiên Chúa, thế nhưng trong trường hợp vừa kể, vì tinh thần sống vụ hình thức, những người Biệt phái đã bỏ luật của Thiên Chúa để tuân giữ tập tục loài người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta trở về với điểm căn bản: hãy đặt Chúa vào chỗ thứ nhất và tuân giữ giới răn của Ngài. Chúa không chủ trương phá bỏ hình thức lễ nghi cơ cấu, nhưng chỉ muốn đặt chúng vào đúng vị trí. Xin cho chúng ta biết trân trọng và thực hiện điều chính yếu mà Chúa đang chờ đợi chúng ta, thay vì cứ loay hoay với những điều phụ thuộc do loài người đặt ra.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Sống đạo?
Vậy người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” Người trả lời họ: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng:
“Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,
còn lòng chúng thì lại xa Ta.” (Mc. 7, 5-6)
“Dân này tôn kính Ta bằng môi, bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta… Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của các ông”. Chúa Giêsu phản đối chính những tập tục và truyền thống của người Do thái, bởi vì những tập tục và truyền thống ấy đi tới chỗ che khuất đi tính đơn sơ mà Chúa đòi hỏi nơi con người.
Trong Kitô giáo phải chăng lời ăn tiếng nói và cách sống đạo của ta không làm mất đi vẻ đơn sơ trong sáng sao?
Đúng là chúng ta thường nói nhiều mà thực ra lại không sống thực điều răn của Chúa.
Chúa dạy ta trước tiên phải yêu mến Chúa Cha, yêu thương anh em và mọi người. Giáo hội tiên vàn là môi truờng thuận lợi nhất để Chúa dạy và ta thực hành điều răn này.
Nhân dịp này Chúa Giêsu cũng tra vấn ta về cách ta thực hành những việc đạo đức, đọc kinh, xem lễ… về tất cả những việc ta làm cốt để cho yên lương tâm. Có những ngày có lẽ Chúa muốn nói với ta rằng: “Hãy ngưng lại đi thôi, lòng ngươi xa Ta rồi.”
Tôi sẽ trả lời Chúa rằng nếu tôi không làm những việc đạo đức ấy, tôi sẽ còn xa cách Chúa hơn. Đừng bắt người khác làm điều gì khi chính mình lại không sống sâu xa điều ấy. Đó mới chính là điều quan trọng.
Hãy hiểu rằng Chúa Giêsu không đòi hỏi tôi phải giữ đạo theo kiểu duy tâm, không việc làm, không cử chỉ.Tôi cần phải có những biểu tượng, những nghi thức. Nhưng tôi không được nấp sau những nghi thức này để mà không thực hành lòng yêu mến anh em, không lắng nghe Lời Chúa.
Những thực hành đạo đức này có thể là phương thế giúp ta lượng giá mình xem đã tìm kiếm Chúa thế nào, đã trung tín với Tình yêu của Người đến đâu.
Lạy Chúa, xin ban cho con Thần Khí Chúa, để Phúc âm Chúa nâng dậy đời con.
Suy Niệm 5: ĐỪNG VỤ LUẬT MÀ XA LẠ VỚI TIN MỪNG! (Mc 7, 1-13)
Tại đất nước Philippines hay tại Ấn Độ, người ta có thói quen ăn cơm bằng tay thay vì dùng muỗng nĩa như người Tây Phương hay đũa như người Việt Nam.
Khi dùng tay để ăn, họ buộc phải dùng tay phải để lấy cơm và thức ăn đưa vào miệng. Tay trái là điều cấm kỵ vì họ cho rằng tay trái là biểu tượng của sự dơ bẩn; hay tay trái là dấu chỉ của những người khó có thể được cứu độ! Chính vì vậy, mà những người thuận tay trái thường bị cho rằng sau này khó có thể được vào Nước Trời!
Tin Mừng thánh Máccô được trích đọc hôm nay ghi lại cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và những người Pharisêu về vấn đề rửa tay trước khi ăn.
Theo luật, buộc khách dự tiệc phải rửa tay trước khi ăn. Việc rửa tay trước khi ăn có ý nghĩa tôn giáo rất tốt lành, đó là ý muốn nói hay nhắc nhở mỗi người về sự trong sạch trong tâm hồn. Trước khi họ dâng lời chúc tụng, tạ ơn Chúa thì họ phải thanh tẩy tâm hồn cho xứng đáng. Còn về mặt xã giao, thì đây là biểu lộ sự kính trọng với người đồng bàn với mình.
Tuy nhiên, trải qua thời gian, khi người ta chỉ còn biết hình thức bên ngoài mà không hề khám phá hay sống ý nghĩa, giá trị bên trong, thì tập tục này trở nên thuần túy phô trương, hình thức. Chính vì lý do này mà khi thấy các môn đệ của Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn, nên những người Pharisêu đã thắc mắc!!! Nhân cơ hội này, Đức Giêsu nhắc lại lời ngôn sứ Isaia nói về sự giả hình nơi những người này, vì họ chỉ thờ Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, còn lòng họ thì không. Vì thế, họ như cái thùng rỗng. Những lời dạy của họ trở nên trò hề khi họ chỉ cậy dựa vào tập quán của phàm nhân.
Ngày nay, nơi nhiều cộng đoàn, vẫn còn đó những lối suy nghĩ như những người Pharisêu khi xưa, đó là: tập trú vào hình thức bên ngoài quá nhiều mà không để ý đến ý nghĩa, sứ điệp ngang qua những hoạt động tôn giáo.
Nhiều khi chỉ biết đọc kinh mà không hề biết ý nghĩa của lời kinh! Hoặc nhiều khi giữ đạo từ nhỏ, nhưng nói về tinh thần huynh đệ, bác ái thì xem ra quá xa vời, bởi bấy lâu nay ta sống theo kiểu: “Đèn ai nấy rạng”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta thấy rằng: lời nói phải đi đôi hành động. Việc bề ngoài chỉ có giá trị khi nó được toát ra từ bên trong. Đừng chỉ lo loay hoay hình thức mà đánh mất đi nét đẹp của tâm hồn. Mất đi ý nghĩa này, mọi sự trở nên giả dối, trống rỗng và vô ích.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa vì đã dạy cho chúng con bài học về việc giữ luật. Xin cho chúng con ngày càng gắn bó với Chúa mật thiết để được sống trong tình yêu và chiếu tỏa tình yêu ấy cho tha nhân cách chân thành. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chúa khuyên đừng vụ hình thức
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái về vấn đề tập tục của tiền nhân. Đối với người Do Thái, việc rửa tay, rửa chén đĩa, không chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm phòng bệnh, mà còn là một nghi thức tôn giáo nói lên ước nguyện trở nên thanh sạch để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Đấng Thánh. Đây là điều tốt, nhưng người biệt phái đã quá vụ hình thức mà bỏ quên điều thiết yếu, họ phán đoán một người tốt hay xấu dựa trên những hình thức bên ngoài. Điều quan trọng là sự thanh sạch của tâm hồn, chứ không phải việc rửa tay, rửa vật dụng bên ngoài; đừng lẫn lộn tập tục của truyền thống với lề luật do chính Thiên Chúa ban bố.
2. Thực hành lề luật không có nghĩa là chỉ thi hành những nghi thức bên ngoài và coi đó là xong nhiệm vụ. Những hình thức bên ngoài là cần thiết, nhưng chúng chỉ là những yếu tố bổ sung và phụ thuộc, mà cái cần thiết nhất là tấm lòng. Hay nói cách khác, cần nhất là cái động lực thúc đẩy chúng ta làm: nếu động lực tốt thì việc làm sẽ tốt, nếu động lực xấu thì việc làm sẽ xấu. Nếu việc làm mà thiếu động lực tốt thì việc làm chỉ là giả tạo và người làm việc ấy chỉ là giả hình: “Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, mà lòng chúng thì xa Ta” (Is 29,13).
3. “Dân này kính Ta bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6).
Chẳng cần phải nói nhiều, chúng ta cũng thấy, ngày nay người ta sống giả dối với nhau rất nhiều. Cái gì ngày này người ta cũng có thể làm giả được. Nếu như trước đây chỉ mới có chân giả, da giả thì ngày nay có hàng loạt những thứ giả khác như tóc giả, lông mi giả, hoa giả trái cây giả, gạo giả... Gần đây chúng ta còn được nghe rất nhiều thứ giả khác: bẳng giả, chứng chỉ giả, tiến sĩ giả... Những thứ ấy còn đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mâm quả, hoa nến, nhang, đèn giả. Mức độ “giả” rất tinh vi nên nhiều khi cái giả xem ra còn đẹp hơn những cái thật, khó mà phân biệt được. Ở đây, Chúa Giêsu chỉ mới nói đến “Giả hình”. Ngày nay, còn một thứ giả tệ hơn. Đó là “Giả nhân giả nghĩa”. “Giả hình” mà còn đáng trách thì giả nhân giả nghĩa còn đáng trách hơn chừng nào.
4. Chúa Giêsu khiển trách những người biệt phái và luật sĩ thờ phượng Chúa trên đầu môi chót lưỡi, còn tấm lòng lại xa cách Người. Họ chăm chăm tuân giữ các truyền thống xa xưa, còn điều răn yêu thương là cốt lõi cũa Lời Chúa dạy thì họ lại không tuân giữ. Chúa Giêsu cũng đả kích các nhà thông luật Do thái vì họ quá tôn trọng hình thức bề ngoài, qua đó, Người mời gọi chúng ta hãy sống thật với lương tâm của mình. Để sống đạo tốt, chúng ta cần chu toàn các lề luật của Giáo hội, nhưng đồng thời còn phải sống tình mến với Chúa và mọi người.
5. Những người giả hình này đáng người ta tặng cho cái nhãn hiệu “Tốt mã dẻ cùi”. Chim dẻ cùi là một giống chim đẹp, mỏ đỏ, đuôi dài, lông mã, lông đuôi sặc sỡ ngũ sắc, coi giống chim phượng. Người ta đã gọi là phượng hoàng Nam (phượng hoàng của nước Nam) hay phượng hoàng đất. Nhưng chim dẻ cùi phải cái tật hay ăn cứt chó, cứt lợn. Người ta đã có câu:
Dẻ cùi tốt mã dài đuôi,
Hay ăn cứt chó, ai nuôi dẻ cùi.
Dẻ cùi tiếng hót lại không hay, vì vậy dẻ cùi tuy đẹp mã thật, nhưng người ta không quí mà lại khinh. Người ta thường dùng câu “Tốt mã dẻ cùi” để chế riễu người bề ngoài đẹp đẽ sáng sủa, ăn vận diêm dúa mà bụng dạ bẩn thỉu không tốt mà lại vô tài (Văn Hòe, Tục ngữ lược giải, 1957, tr 198).
6. Ngày nay thật đáng lo ngại là cho sự khủng hoảng đạo lý nơi nhiều gia đình. Có những người con chỉ dừng trên nghĩa vụ, bổn phận lo lắng cho cha mẹ của cải vật chất, mà quên đi cha mẹ còn phải được kính trọng và yêu mến. Vật chất chỉ là giá trị bề ngoài nhưng chính giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mới quan trọng cho đời sống cha mẹ. Giá trị đạo đức bị đảo lộn bởi có những đứa con coi vật chất là trên hết, đặt tiền tài trên nghĩa vụ làm con, sẵn sàng gửi cha mẹ vào các nhà dưỡng lão mà quên rằng bổn phận của con cái là nuôi dưỡng, thăm hỏi khi cha mẹ còn sống, và cầu nguyện xin lễ cho các ngài khi đã qua đời.
7. Truyện: Sư máy.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/08/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “sư máy”. Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi giơ lên, một tay thì gõ mõ, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật.
Sáng kiến này đưa ra nhằm đáp ứng cho ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ có một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
07/02 Chúa Giêsu chữa bệnh – rao giảng
- Viết bởi Mc 1, 29-39
Chúa Giêsu chữa bệnh – rao giảng.
Chúa Nhật 5 Mùa Thường Niên năm B.
"Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau".
Lời Chúa: Mc 1, 29-39
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài.
Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.
Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy".
Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: G 7,1-4.6-7; 1Cr 9,16-19.22-23; Mc 1,29-39
1. Bà phục vụ các ngài
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm:
Sau khi chữa người bị quỷ ám tại hội đường Caphácnaum,
Đức Giêsu trở về một căn nhà của một gia đình quen biết,
gia đình của hai anh Simon và Anrê,
những người mới bỏ nhà để theo ngài.
Không may bà mẹ vợ của Simon lại đang lên cơn sốt.
Đức Giêsu đã lại gần giường bà nằm,
cầm lấy tay bà và nâng bà dậy.
Lập tức cơn sốt lui khỏi bà và bà phục vụ các ngài.
Đây là phép lạ chữa bệnh đầu tiên của Đức Giêsu
cho một phụ nữ, tại một ngôi nhà.
Sốt chẳng phải là một bệnh quá nặng và nguy hiểm,
nhưng cũng đủ để làm người bệnh không hoạt động được,
gây cản trở những sinh hoạt bình thường trong gia đình.
Đức Giêsu đến đem lại sự chữa lành, niềm vui và sức sống.
Khi người phụ nữ được khỏi bệnh, mọi sự như sống lại.
Bếp lại có lửa, bàn lại có thức ăn,
và người ta ngồi quanh cười nói rôm rả.
Hạnh phúc gia đình có khi chỉ tùy thuộc vào những điều be bé.
Hạnh phúc bị sứt mẻ lắm khi chỉ vì những chuyện không đâu.
Hãy nhìn cách Đức Giêsu chữa bệnh cho người phụ nữ này.
Thật gần gũi và thân tình, ngài chẳng nói lời nào để đuổi cơn sốt.
Khi nắm tay người bệnh nặng,
ngài chấp nhận nguy cơ bị nhiễm nhơ uế.
Nhưng Đức Giêsu chẳng hề bị nhiễm gì,
trái lại ngài đem đến bình an.
Ngài đã nâng bà dậy (êgeiren),
có nghĩa là ngài làm bà phục sinh.
Sau khi được phục sinh thì bà đi phục vụ các vị khách.
Phục vụ hiểu theo nghĩa đơn sơ nhất là đi chuẩn bị bữa ăn.
Các thiên thần cũng đã phục vụ Đức Giêsu
sau khi ngài thắng các cơn cám dỗ (Mc 1, 13).
Tuy nhiên có thể hiểu phục vụ theo nghĩa rộng hơn nhiều.
Sau khi Đức Giêsu chết trên thập giá,
chỉ còn các phụ nữ ở lại đến cùng.
“Họ đã đi theo ngài và phục vụ ngài
từ hồi ngài còn ở Galilê và họ đã cùng ngài lên Giêrusalem” (Mc 15, 40-41).
Như vậy không phải chỉ các ông môn đệ mới là người phục vụ (Mc 10, 43).
Các bà cũng đã trung tín phục vụ đến cùng,
phục vụ như Thầy Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ” (Mc 10, 45).
Xin cho mọi người biết nhìn nhận
vai trò quý báu của người vợ, người mẹ trong nhà,
và vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội.
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
2. Chiều và sáng
(Lm Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Sốt không phải là một bệnh nan y.
Nhưng người bị sốt cao không dậy nổi, chỉ nằm thôi.
Khi Đức Giêsu và các môn đệ đến thăm nhà ông Simon
thì bà mẹ vợ ông đang sốt, nằm trên giường.
Đức Giêsu đem niềm vui đến cho gia đình ông.
Ngài lại gần, nhẹ nhàng cầm lấy tay bà và nâng dậy.
Cơn sốt lui ngay khiến bà có thể đi lại phục vụ.
Một cơn bệnh đơn giản, một cách chữa bệnh đơn giản.
Đức Giêsu chẳng nói một lời, chỉ làm một cử chĩ thân ái.
Ngài cầm lấy tay bà và nâng dậy,
như sau này Ngài cầm tay đứa con ông trưởng hội đường,
một cô bé mười hai tuổi đã chết lại đứng dậy được (x. Mc 5,41),
như sau này Ngài cầm tay cậu bé bị động kinh nằm trên đất,
nâng cậu dậy và cho cậu đứng lên (x. Mc 9,27).
Cầm tay, nâng dậy, để một người nằm có thể đứng lên.
Sức sống nào truyền qua cử chỉ cầm tay ấy?
Quyền năng nào nâng con người chỗi dậy?
Chúng ta cũng cần được Chúa cầm tay khi không dậy nổi,
cần được Chúa đưa tay ra nắm lấy khi gần chìm như Phêrô.
Khi mặt trời lặn là lúc kết thúc ngày sabát.
Người ta đem đến cho Đức Giêsu bao người yếu đau đủ loại.
Căn nhà ông Simon hẹp quá khiến nhiều người phải đứng ngoài.
Không rõ bao nhiêu người được chữa lành chiều tối hôm đó.
Nhiều người đã có thể tự về nhà một mình...
Đức Giêsu đụng chạm đến biển khổ của nhân loại.
Ngài không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi,
chỉ mong cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa.
Thế giới hôm nay vẫn phải đối đầu với bệnh tật.
Những bệnh nan y như ung thư, tim mạch, sida (aids), siêu vi...
Cần có những người làm vơi nhẹ nỗi đau như Đức Giêsu.
Sau một ngày bận bịu và mệt mỏi,
Đức Giêsu đã thức dậy sớm, khi các môn đệ còn ngủ say.
Ngài tìm được một chỗ cầu nguyện khá kín đáo.
Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Đức Giêsu.
Ngài cần có thời gian rút lui, sống riêng tư một mình.
Ngài cần sống bên Cha, tâm sự về gánh nặng công việc,
về nỗi đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống Satan.
Đức Giêsu thấy mình cần được Cha cảm thông và nâng đỡ,
cần ánh sáng và nghị lực để làm tròn sứ mạng.
Ngài cần gặp Cha vì Ngài là Con, và vì Ngài được Cha sai.
Ngài sống hết mình cho con người, cho đám đông,
nhưng Ngài cũng say sưa cầu nguyện và hoạt động.
Cầu nguyện đưa Ngài đến với con người,
hoạt động đưa Ngài đến với Cha.
Thành công ở Caphácnaum không làm Ngài dừng chân.
"Mọi người đang tìm Thầy", mọi người vẫn cần Thầy.
Nhưng Ngài biết còn nhiều chỗ khác cũng đang rất cần.
"Hãy đi nơi khác", Tin Mừng cần được gieo vãi ở mọi nơi.
Giữ được tính tự do và cơ động, Đức Giêsu lại lên đường.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, thế nào là một đời sống quân bình? Cần hội đủ những yếu tố nào để được coi là một đời sống Kitô hữu quân bình?
Mẹ Têrêxa Calcutta đã trở nên khuôn mặt rạng ngời của lòng bác ái, nhờ khả năng nhìn thấy Chúa Kitô nơi người nghèo khổ. Bạn thường làm gì để giúp đỡ những người cùng khốn ở gần nhà bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,
xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,
trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt,
biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân,
biết quay đi truớc những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,
để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,
để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,
để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,
tránh mọi lời nói gây đớn đau, đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,
để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,
để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ghen ghét,
để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên mọi sự. Amen.
(theo Mẹ Têrêxa Calcutta)
3. Gắn kết với Chúa trong đời sống cầu nguyện
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Mc 1: 29-39: Và đặc biệt, chúng ta thấy Tin Mừng ghi lại: sáng sớm lúc trời tối mịt Người đã dậy, đi ra nơi hoang vắng và cầu nguyện...
Ngày hôm nay, chúng ta bắt gặp một ngày làm việc của Chúa Giêsu.
Tin Mừng vừa thuật lại cho chúng ta:
Vừa ra khỏi hội đường thì Chúa Giêsu đến nhà ông Simôn và Anrê. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simôn nằm sốt trên giường và Chúa Giêsu đã chữa cho bà dứt ngay cơn sốt. Rồi chiều đến, khi mặt trời lặn người ta đem đến cho Chúa Giêsu mọi kẻ ốm đau bệnh tật và rồi Chúa Giêsu cũng chữa lành, cũng như trừ khỏi ma quỷ.
Và đặc biệt, chúng ta thấy Tin Mừng ghi lại: sáng sớm lúc trời tối mịt Người đã dậy, đi ra nơi hoang vắng và cầu nguyện.
Và chúng ta bắt gặp được khuôn mặt, hình ảnh của Chúa Giêsu, một ngày làm việc. Ta có thể nói rằng là Chúa Giêsu quân bình, trong cái đời sống của Ngài. Ngài gần Chúa Cha và rồi Ngài gần con người.
Khi Ngài trong cô tịch, trong thanh vắng để mà cầu nguyện, để mà gắn bó cuộc đời của mình, để mà chìm đắm cuộc đời của mình với Chúa Cha, kết hợp với thánh ý của Chúa Cha, thì Chúa Giêsu lại gặp con người nơi những mảnh đời đau khổ bệnh tật, và tác giả đặt cho đoạn Tin Mừng hôm nay là: «Một ngày ở Ca-phac-na-um».
Và rồi chúng ta có cơ hội nhìn thấy một ngày làm việc của Chúa Giêsu cũng là biểu trưng cho cả cuộc đời của Chúa Giêsu.
Một ngày sống của Chúa Giêsu đã diễn tả một năm sống và cả cuộc đời của Chúa Giêsu là: gắn bó với Chúa Cha, và gắn bó đời mình với con người. Càng gắn bó với Chúa Cha bao nhiêu thì Chúa Giêsu lại càng gắn bó với con người bấy nhiêu.
Và ngày hôm nay cũng là những ngày khép lại một năm qua đi. Và rồi chúng ta cũng dừng lại để nhìn lại một năm qua của chúng ta. Chúng ta sống đời sống gắn bó của chúng ta với Chúa Giêsu, với Thiên Chúa như thế nào? Và chúng ta có gắn bó cuộc đời của chúng ta với anh chị em của chúng ta hay không?
Chúa Giêsu đi ra rao giảng, sau khi gắn bó cuộc đời của mình với Chúa Cha, Chúa Giêsu không khép kín lại với cái tương quan với Chúa Cha mà Chúa Giêsu lại mở ra cái tương quan với con người.
Từ sáng sớm tinh sương cho đến chiều một cái định vị của không gian cho ta thấy: Chúa Giêsu trong cái cảnh tỉnh mịch, CHÚA Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, gắn bó với Chúa Cha Và lòng Ngài kết hợp với Chúa Cha, để rồi Ngài lại gắn bó với con người bằng thái độ chạnh lòng thương với những người nghèo, với những người đau khổ, với những người bị quỷ ám.
Và khi đó chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu với khuôn mặt gắn bó với Chúa Cha thì Ngài lại gắn bó với con người. Nhưng mà đáng tiếc thay, người ta không nhìn ra một Chúa Giêsu sống với con người nghèo khổ, đồng hành với con người nghèo khổ.
Bởi vì, người ta nhìn vào Chúa Giêsu như khuôn mặt của một Đấng Mêsia đến, để mà giải thoát người ta khỏi kiếp sống nghèo, để cho đời sống kinh tế người ta cao lên và người ta hơn người khác chứ người ta không cảm nhận được một Đấng Mêsia đến để mà đồng hành, để mà đồng lao cạm khổ với con người trong cuộc sống. Và rồi, Chúa Giêsu mở ra một con đường bác ái với con người đồng loại. Và rồi chúng ta thấy: càng gắn bó với Chúa, thì cái công việc bác ái của Chúa Giêsu với con người nó càng mật thiết hơn. Khi mà Chúa Giêsu lắng nghe tiếng của Chúa Cha thì đồng thời Chúa Giêsu cũng lắng nghe tiếng của những con người nghèo khổ.
Và ngày hôm nay, chúng ta thấy sống giữa một cái xã hội Quá ồn ào náo nhiệt để rồi người ta không lắng đọng, người ta không cảm nhận được một tình thương của Chúa làm sao người ta có thể san sẻ được cho người khác.
Cách đây không lâu, khi đi lên Sài Gòn khám bệnh thì đi vào bệnh viện thấy có hai mẹ con đang loay hoay, bà mẹ mang xăng đan cho thằng bé. Gọi là thằng bé nhưng mà thực ra, nó cũng là 20 tuổi ngoài. Nhìn nó thấy thương, bà mẹ nó nói:
Hôm nay nó mới 20 tuổi. Cách đây mấy tháng nó bị tai biến đã nằm ở Bệnh viện Chợ Rẫy tốn mấy chục triệu rồi, mà bây giờ là như thế. Nhìn khuôn mặt tiều tụy của hai mẹ con, nhìn thằng bé thấy tội lắm! Mới có 20 tuổi đầu thôi bị tai biến thấy thương, chẳng làm được gì cho họ và nói: thôi, cầu mong cho bé nó gặp thầy, gặp thuốc để được mau bình.
Và rồi đến chiều đến gặp bác sĩ để mà chữa bệnh. Và đang khi chờ thì thấy hai vợ chồng đang bế đứa bé khoảng chừng 3 tuổi tới. Khi nó vừa vào phòng mạch thấy bác sĩ nó khóc thét lên đau lắm và rồi tí xíu nữa cha mẹ nó và bác sĩ dỗ nó và mẹ nó mới bế nó đi ra ngoài dụ nó cho nó qua cơn đau. Ba nó ở trong phòng để nghe Bác sĩ giải thích.
Thấy tội nghiệp, hình ảnh của hai vợ chồng bế đứa bé tội nghiệp lắm! Mình cũng chẳng làm gì được cả bởi vì mình cũng trong cái thân phận bệnh nhân đứa bé mới 3 tuổi thôi Nó đau đớn lắm!
Mình cũng thế mình cũng chẳng hơn gì nó, nhưng mình may mắn hơn mình vẫn còn có khả năng đi lại để mà mình chạy chữa cho mình.
Tạ ơn Chúa trong cái cơn bệnh để mình nhìn thấy mình hạnh phúc hơn người khác! Đôi khi cuộc đời của mình nó bằng phẳng quá! Mình không khám phá ra một Thiên Chúa thương mình, một Thiên Chúa yêu thương mình và mình cứ lăn tăn mình cứ loay hoay mình lại trách Chúa: Tại sao Chúa không cho mình điều này điều kia?
Bởi vì cái căn cốt nhất của cuộc đời đó là gắn bó mật thiết đời mình với Chúa Cha, để rồi mình: Mở lòng ra với người khác, và mình băng bó vết thương cuộc đời người khác, và mình chia sẻ niềm vui niềm hạnh phúc của mình cho người khác.
Nhưng mà chỉ vì ngày hôm nay người ta quá ồn ào người ta đã không còn giờ, người ta không còn dành cho Chúa nữa!
Chúng ta thấy, Chúa Giêsu một ngày tất bật làm việc, nhưng mà sáng sớm Ngài đã cầu nguyện. Chính cái đời sống cầu nguyện gắn bó mật thiết với Chúa Cha đó, Chúa Giêsu lại kín múc được tình thương từ Chúa Cha. Và Chúa Giêsu lại san sẻ cho những người nghèo khổ, người đau yếu, những người bệnh tật mà Chúa Giêsu gặp gỡ.
Khi chúng ta gắn kết đời chúng ta với Chúa Còn khi chúng ta không gắn kết với Chúa thì chúng ta không cảm nhận được.
Nhiều khi cuộc đời của chúng ta ồn ào quá! chúng ta loay hoay quá! Nhiều chuyện quá! như Chúa nói với Matta đó: “Matta ơi con lo nhiều chuyện quá và Maria đã chọn phần tốt nhất“
Mỗi người chúng ta không phải là cứ ngồi dưới chân Chúa như Maria, nhưng chúng ta cũng phải biết quân bình đời sống, cũng có những lúc chúng ta phải cầu nguyện gắn bó với Chúa. Và rồi chúng ta lại kín múc cái tình thương đó, và lại lên đường ra đi loan báo Tin Mừng tình thương cho anh chị em đồng loại.
Điều quan trọng là: ngày mỗi ngày, chúng ta có gắn bó với Chúa hay không?
Như Chúa Giêsu, chúng ta có tìm nơi hoang vắng và cầu nguyện hay không?
Cầu nguyện chính là cái chất, cái cốt lõi của đời sống chúng ta. Và rồi chúng ta thấy: cả một ngày làm việc như thế!
Chúa Giêsu lại bảo các môn đệ: Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã xung quanh để thầy còn rao giảng nữa! bởi vì, thầy ra đi cốt để làm những chuyện đó!
Và rồi, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi bước chân theo Chúa Giêsu để đi loan báo Tin Mừng.
Chúa Giêsu đã làm việc không nghỉ, Chúa Giêsu đã làm việc không có tính toán. Chúa Giêsu đã mang tình thương đến cho những người nghèo khổ. Và rồi chúng ta là người môn đệ của Chúa, chúng ta cũng được mời gọi bước chân theo Chúa đi lên trên cái con đường truyền giáo, bằng cái con đường bác ái yêu thương, bằng cái con đường chia sẻ với người khác.
Nhưng chuyện quan trọng rằng: chúng ta phải gắn kết đời của chúng ta với Chúa bằng đời sống cầu nguyện.
Nếu không, chúng ta sẽ đi làm việc bác ái đó: nhưng chúng ta lại đánh bóng tên tuổi chúng ta. Chúng ta chia sẽ cho người khác đó, nhưng chúng ta lại khắc tên chúng ta nơi món quà, nơi những đồ vật mà chúng ta dành tặng cho người khác. Và khi ấy chúng ta cho đi: chúng ta lại huênh hoang, chúng ta lại đánh bóng tên tuổi chúng ta, chúng ta lại muốn người khác biết chúng ta cho người khác cái gì, thì lúc đó chúng ta đã mất ơn rồi.
Xin Chúa cho chúng ta nhìn lên Chúa Giêsu, kết hợp mật thiết đời của chúng ta với Chúa Cha. Và càng kết hợp mật thiết với Chúa Cha, chúng ta càng chia sẻ, càng lên đường loan báo Tin Mừng loan báo tình thương cho người khác, trong cái trầm lắng, trong cái lặng lẽ, trong cái kín đáo:
Bởi vì khi bố thí, anh em hãy đừng làm tay trái biết việc tay phải làm, để rồi chúng ta được Chúa Cha ân thưởng cho chúng ta. Còn nếu như chúng ta huênh hoang, chúng ta khoe khoang thì đã được hưởng ơn rồi.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để ngày mỗi ngày chúng ta cũng lên đường để loan báo tình thương, chia sẻ tình thương cho người khác.
Nhưng, chuyện quan trọng rằng chúng ta phải tìm nơi hoang vắng để ở lại đó, cầu nguyện và gắn kết cuộc đời của chúng ta với Chúa. Khi và chỉ khi chúng ta có Chúa thì tất cả lời nói, việc làm và hành động của chúng ta mới mang một ý nghĩa đích thực, như Chúa Giêsu đã kết hợp với Chúa Cha và ra đi loan báo Tin Mừng cho anh chị em đồng loại. Amen.
4. Chúa Giêsu là Tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa
MINH HỌA LỜI CHÚA
(Hiếu Nguyễn sưu tầm -thanhlinh.net)
1. Bài giảng biết đi
Một chiều năm 1953, một số ký giả và nhân viên chính phủ Hoa Kỳ đến ga xe lửa Chicagô đón người được giải thưởng Noben Hoà bình năm 1952.
Người vừa xuống xe lửa là một người đàn ông cao lớn, vạm vỡ. Các máy ảnh chớp lia lịa, các nhân viên cao cấp của thành phố đưa tay cao đón chào vị thượng khách. Bỗng vị thượng khách đưa mắt nhìn về sân ga, rồi xin lỗi mọi người đi thẳng về hướng đó. Ai nấy tưởng là ông còn quên hành lý, nhưng ông băng qua đám đông, đến với một người đàn bà da đen đang khệ nệ hai chiếc va li nặng trên tay. Ông cầm lấy hai chiếc va li, mỉm cười nói với người đàn bà và đưa bà lên chiếc xe bus gần đó. Khi quay lại với những người đón rước, ông xin lỗi họ vì đã bắt họ chờ lâu.
Người được giải thưởng Noben Hòa bình đó không ai khác hơn là bác sĩ Ampere Soiyer, nhà truyền giáo nổi tiếng đã hy sinh trọn đời cho người nghèo Phi châu. Chứng kiến cử chỉ của ông, một người trong ban tổ chức đón tiếp ông nói với các ký giả: “Đây là lần đầu tiên tôi thấy một bài giảng biết đi…”
--------
Cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu chính là lời tỏ tình trọn vẹn và sau cùng của Thiên Chúa đối với con người. Cái chết đó là lời loan báo Tin mừng sống động nhất.
Tình yêu luôn mời gọi đáp trả bằng tình yêu. Nhưng tình yêu đích thực không chỉ được nói lên bằng môi miệng mà còn phải được diễn tả bằng hành động cụ thể, bằng tất cả cuộc sống.
Cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa qua cái chết của Chúa Giêsu, người Kitô hữu chúng ta cũng được mời gọi loan truyền và san sẻ tình yêu ấy cho mọi người. Chúng ta không chỉ loan truyền bằng lời nói suông mà bằng cả cuộc sống yêu thương của chúng ta, như Chúa Giêsu qua cái chết của Người, qua các lần chữa bệnh trừ quỷ của Người mà Tin mừng hôm nay kể lại cho chúng ta biết; và như bác sĩ Ampere Soiyer qua cuộc đời hy sinh phục vụ người nghèo và kẻ yếu thế của ông.
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
2. Cầu nguyện
Frédéric Ozanam, một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin lúc còn là sinh viên đại học.
Một hôm, để tìm chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi nhà thờ cổ ở Paris. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện một cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Anh đứng lặng lẽ trong gốc nhà thờ theo dõi cử chỉ của người này. Và khi người đó vừa đứng lên để ra khỏi giáo đường, chàng sinh viên nhận ra người đó chính là nhà bác học vĩ đại Ampere. Lòng đầy thắc mắc, anh theo nhà bác học về đến phòng làm việc của ông. Thấy chàng sinh viên đứng trước cửa phòng với vẻ rụt rè, nhà bác học lên tiếng hỏi:
- Bạn đang cần gì? Tôi có thể giúp bạn giải một bài toán vật lý chăng?
Chàng sinh viên nhỏ nhẹ đáp:
- Thưa ông, tôi là sinh viên khoa văn, tôi dốt khoa học lắm. Xin ông cho tôi hỏi một số vấn đề có liên quan đến đức tin.
Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn:
- Đức tin là môn tôi yếu nhất. Nhưng nếu giúp anh được gì, tôi sẵn sàng.
- Thưa ông, có thể vừa là nhà bác học vĩ đại vừa là tín hữu nhiệt thành cầu nguyện không?
Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh. Nhưng ông cũng gượng gạo trả lời:
- Anh ơi! Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện thôi.
--------
Nhà bác học kiêm triết gia nổi tiếng Pascal nói một câu thời danh: “Con người vĩ đại khi họ cầu nguyện”.
Cầu nguyện tức là đi vào tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Sự cầu nguyện làm cho con người vĩ đại vì nó thể hiện đúng đắn đạo làm người. Con người chỉ nhận ra phẩm giá cao cả của mình khi nó thấy được thân phận thụ tạo và mối dây liên kết nó với Đấng Tạo Hóa.
Được tạo dựng bởi và cho Thiên Chúa, con người chỉ nhìn thấy ơn gọi và định mệnh của mình trong Thiên Chúa. Biết mình bởi đâu mà ra, biết mình sống để làm gì, biết mình sẽ đi về đâu, đó chẳng phải là sự vĩ đại của con người sao?
Nhưng chỉ trong cầu nguyện nghĩa là trong sự kết hợp mật thiết thâm sâu với Thiên Chúa, con người mới có thể cảm nhận được ơn gọi và định mệnh ấy.
Trong Tin mừng hôm nay, chúng ta đọc thấy: “Sáng sớm lúc trời còn tối, Người đã dậy đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc.1,35). Đó là một trong những nét nổi bật trong cuộc đời Chúa Giêsu. Người đã không ngừng bày tỏ sự kết hợp Ngài với Thiên Chúa Cha. Đó chính là cách Ngài dạy cho con người sống thế nào cho phải đạo làm người. Sự cao cả của con người, sức mạnh vĩ đại của con người chính là sự cầu nguyện, nhất là cầu nguyện đi đôi với việc làm, như Chúa Giêsu vừa cầu nguyện vừa loan báo Tin mừng, vừa “chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ khử nhiều quỷ” (Mc.1,34). Nhờ cầu nguyện mà việc truyền đạo được kết quả phong phú hơn. Chính đời sống cầu nguyện của các nhà truyền giáo đã chứng minh điều đó. (Trích “Sám hối và canh tân”).
3. Tìm nơi thanh vắng cầu nguyện
Tiếng động và sự ồn ào ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Một giáo sư Hy lạp cố vấn tổ chức y tế thế giới quả quyết: “Tiếng ồn ào là một trong những tác nhân chính làm con người mắc bệnh thần kinh”. Các nhà nghiên cứu người Hòa Lan đã khám phá: “Những người sống trong các khu phố ồn ào thường bị áp huyết cao”. Không chỉ người già mới phàn nàn khó chịu về sự ồn ào mà ngay cả tuổi trẻ cũng không thoát khỏi anh hưởng của tiếng ồn. Một nghiên cứu của đại học Rhusdho bên Đức cho thấy học sinh học trong những trường ồn ào bị áp huyết cao hơn học sinh ở các trường trong nơi yên tịnh. Nhất là kinh nghiệm cho chúng ta biết chúng ta thường dễ cau có nóng giận khi sinh sống trong những vùng có nhiều tiếng động.
----------
Sa mạc được xem là nơi ưu biệt của Kinh Thánh. Chính trong sa mạc mà lòng tin của dân Do thái được thanh luyện. Chính trong sa mạc mà các ngôn sứ thường nhận được sứ điệp của Thiên chúa. Chính trong sa mạc mà Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày để chuẩn bị cuộc đời công khai rao giảng Tin mừng. Và Tin mừng hôm nay thuật lại, sau khi Người trừ quỷ chữa bệnh cho nhiều người: “Sáng sớm trời còn tối, Người đã dậy đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc.1,35). Người thường lui tới nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Người cũng khuyên các môn đệ tìm nơi vắng vẻ nghỉ ngơi.
Sự cầu nguyện đòi hỏi sự thinh lặng. Thinh lặng của cõi lòng mới là điều quan trọng. Một cõi lòng thinh lặng cốt yếu là cõi lòng đầy tràn sự hiện diện của Chúa. Khi con người được Chúa ngự trong tâm hồn thì họ luôn cảm nghiệm được sự thinh lặng. Dù sống giữa chốn ồn ào náo nhiệt con người được Chúa hiện diện trong tâm hồn luôn cảm thấy an vui thanh thản. Như thế, qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện, cầu nguyện trong thinh lặng bằng cách tiếp xúc thân mật với Chúa, để Người hiện diện trong chúng ta. Người ban cho sống an bình hạnh phúc. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập II).
4. Niềm vui được chữa lành
Đầu năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh có tên ngộ nghĩnh: bệnh bò điên. Người mắc bệnh này vì ăn nhằm bò điên. Khi mắc phải bệnh, bộ não họ bị hư hoại dần, tay chân run rẩy và đi lần đến cái chết.
Lúc đầu người ta phát hiện có 10 người mắc bệnh tại Anh quốc, 8 người trong số đó đã chết…
Pháp là nước đầu tiên tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò của Anh quốc. Các nước Âu châu lần lượt làm theo nước Pháp. Cộng đồng Âu châu khuyến cáo Anh quốc phải triệt hạ tất cả các con bò mắc bệnh. Việc này đã làm cho Anh quốc thiệt hại cả tỷ đô la.
----------
Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Xóa sổ được bệnh này thì bệnh khác xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và có những thứ bệnh hiện đang bất trị!...
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon-Phêrô. Bà bị cơn sốt liệt giường. Chúa cầm tay bà dậy, bà liền khỏi bệnh và đi tiếp đãi Chúa.
Theo quan niệm của Người Do thái, bệnh tật là hình phạt của Thiên Chúa đối với kẻ tội lỗi và do ma quỷ gây ra. Việc Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon-Phêrô và các bệnh nhân khác biểu lộ quyền năng Thiên Chúa trên ma quỷ và tội lỗi. Đó là sứ mạng Thiên sai của chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người đem đến cho họ niềm vui và hạnh phúc. Người tín hữu Kitô cũng hãy đem niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân trong môi trường sinh sống. E.Lamy khẳng định: “Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Vì niềm tin tự nó là một lời rao giảng” (Trích “Như Thầy đã yêu”).
5. Chúa chữa người quỷ ám
Ngày 29 tháng 08 năm 1999, người dân Don Timor đã đi bỏ phiến để quyết định về tương lai của xứ sở họ. Thế giới không những quan tâm đến số phận của 800.000 dân sống trên đảo này, mà còn đặc biệt chú ý đến vai trò của Giáo hội tại đây. Giáo hội tại Don Timor được xem là sức mạnh thống nhất giúp cho dân chúng ở đây.
Quả thực, trong 23 năm dưới quyền cai trị của Inđônêsia, Giáo hội đã lãnh đạo cuộc tranh đấu nhân quyền và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập hòa bình cho người dân. Ảnh hưởng của Giáo hội được nhìn nhận qua sự kiện hầu như người dân Don Timor nào cũng sinh ra trong bệnh viện do Giáo hội điều khiển, được giáo dục trong trường của Giáo hội, cưới hỏi trong nhà thờ, được chữa bệnh trong bệnh viện Công giáo, cuối cùng cũng được an nghỉ trong nghĩa trang của đạo. Nhất là mỗi khi gặp tai biến, người dân Don Timor không có nơi nào an toàn hơn là nhà thờ. Đối với 90% dân Don Timor. Hội thánh có uy tín hơn hết. Như thế, khi Hội thánh sống đúng với sứ mệnh của mình. Hội thánh là sức mạnh tinh thần vững chắc cho con người.
----------
Tin mừng hôm nay ghi lại phản ứng của dân chúng khi Chúa chữa bệnh trừ quỷ cho họ. Họ thán phục Người, tìm kiếm Người, vì họ tin vào quyền năng và đức độ của Người. Người quyền năng và đức độ thì lời nói và việc làm thường đi đôi với nhau, sẽ thuyết phục và lôi cuốn người khác.
Chúa Giêsu chỉ giảng dạy những gì Người đã sống và sống những gì Người đã rao giảng. Lời nói của Người củng cố bằng việc làm của Người. Đây chính là sứ mạng Người đã lãnh nơi Chúa Cha và Người cũng trao sứ mạng đó lại cho Hội thánh là tất cả các Kitô hữu chúng ta. Chúng ta chỉ thực hiện được sứ mạng đó khi chúng ta sống và rao giảng những gì Người đã sống và rao giảng. Nói thể khác, chúng ta chỉ có thể chu toàn sứ mạng Chúa phú giao bằng cách hy sinh phục vụ mà thôi. Điều đó chính các Kitô hữu ở đảo Don Timor đã thực hiện và kết quả thật tốt đẹp. Phải chăng đó là gương mẫu cho chúng ta?
(Theo “Lẽ sống”, tập 2).
5. Hãy tìm kiếm Chúa - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nếu như Chúa nhật thứ Bốn Mùa Thường niên, Chúa Giêsu đã thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình tại Capharnaum, thì bước vào Chúa nhật thứ Năm Mùa Thường niên, sứ vụ Thiên sai của Người được tiếp tục thi hành. Là Thiên Chúa quyền năng trong lời nói cũng như trong hành động. Chúa chữa lành những người bị quỉ ám, Danh tiếng Người nhanh chóng lan truyền khắp mọi nơi. Uy quyền của một Vì Thiên Chúa được tỏ lộ trong hành động, Chúa mở mắt cho người mù, làm cho kẻ què đi được, người điếc nghe được, nói chung là họ sung sướng vui mừng; mọi người đều...thán phục ; các thần ô uế phải vâng lệnh. Cụ thể hơn, Chúa Giêsu hiện diện ở đâu thì ở đó người ta ngỡ ngàng và thán phục. Họ hỏi nhau: Người này là ai vậy, mà ngay cả thần ô uế cũng phải tuân lệnh? Quyền năng của Chúa xác nhận thẩm quyền lời Người giảng. Người không chỉ nói mà còn làm. Công trình của Thiên Chúa được thể hiện cả bằng lời nói lẫn việc làm nơi Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu thực thi sứ mạng, bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa Cha qua việc rao giảng và các hành động quan tâm, giúp đỡ người đau bệnh, người nghèo đói, các trẻ em và người tội lỗi.
Hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đang ở Capharnaum, trung tâm thi hành sứ vụ của Chúa, đúng hơn là nhà ông Simon Phêrô: "Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê" (Mt 1,29). Ở đây, chúng ta khám phá ra một gia đình lắng nghe và thực hành Lời Chúa (Lc 8,21). Bà nhạc gia ông Phêrô bị cảm sốt đang nằm trên giường, Chúa Giêsu tiến lại gần, Người cầm tay bà, một cử chỉ vượt quá những gì mà sách Tin Mừng đã trình bày như: Chúa đưa tay ra và đụng lên người bệnh, tại nhà ông Simon Phêrô, Chúa cầm tay bà và nâng đỡ bà dậy.
Cử chỉ này khiến mọi người phải thốt lên: Thiên Chúa thật quá đỗi hạ mình xuống để tìm kiếm chúng ta, và vì thế mà phẩm giá con người được tìm kiếm được nâng lên!... "Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa để ý lưu tâm? " (G 7,17). Tôi muốn biết tại sao Thiên Chúa lại muốn đích thân đến với chúng ta và tại sao chúng ta không phải là những người đến với Thiên Chúa trước? Việc Chúa Giêsu làm trong Tin Mừng hôm nay, không phải là thói quen của người giàu đi đến người nghèo, ngay cả khi họ có ý tốt lành.
Phần chúng ta, chúng ta đến với Chúa Giêsu. Nhưng có một trở ngại ngăn cản chúng ta: mắt chúng ta bị mù lòa, không thể tiếp cận được Chúa là Áng Sáng; chúng tôi đã bị liệt trên giường bệnh, khiến chúng ta không thể đạt tới sự vĩ đại của Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao Đấng Cứu Độ chúng ta, một lương y tốt lành và là bác sĩ của tâm hồn chúng ta đã từ trời cao hạ mình xuống, đến với con người, làm cho đôi mắt ốm yếu của con người thấy được ánh vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu, hiện thân của Thiên Chúa Cha đã đến gần với người nghèo và những người đau khổ mà người ta đưa đến với Chúa để được chữa lành. Bằng cử chỉ đưa bàn tay, Chúa đụng chạm tới họ, nguồn mạch sự sống tuôn trào, họ được giải thoát và được cứu.
Hết thảy mọi người đều tìm kiếm Chúa Giêsu, chỉ có một số người bị buộc đưa đến, vì "lòng chúng ta còn khắc khoải cho tới bao giờ được nghỉ ngơi trong Chúa" (Thánh Augustinô).
Nhưng, cùng một cách thức chúng ta tìm kiếm Chúa vì chúng ta cần đến với Chúa để Người giải thoát chúng ta khỏi sự ác và Sự Xấu, Người đến với chúng ta và đến gần hơn để có thể làm điều mà chúng ta không thể làm được một mình. Người đã trở nên yếu đuối để cứu chuộc chúng ta là những người yếu đuối, "Tôi đã tự cứu mình bằng mọi giá" (1Cr 9,22).
Vẫn có một bàn tay đầy sức mạnh vô hình đang chìa về phía chúng ta, những người đang bị bủa vây bởi muôn điều xấu, chúng lôi kéo chúng ta và giữ chân chúng ta lại. Chúng ta có thể "vươn lên và bước tới" bằng lời cầu nguyện, cụ thể như Chúa: "Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó"(Mc 1,35).
Hơn nữa, mỗi Thánh lễ Chúa nhật là một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng đến đưa tay ra để nâng chúng ta khỏi giường tội lỗi và chán nản, làm cho chúng ta sống vui, sống hạnh phúc trong Chúa và với mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con kêu cầu Chúa, xin Chúa đưa tay ra nâng đỡ và lôi kéo chúng con lên. Amen.
6. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Nếu sắp xếp cho có thứ tự, chúng ta sẽ có một ngày sống của Đức Giêsu được Tin mừng Thánh Marcô hôm nay tường thuật lại. Từ một ngày sống của Đức Giêsu, chúng ta nhìn lại một ngày sống của chúng taphải như thế nào?
1. Một ngày sống của Đức Giêsu
Thứ nhất, Ngài cầu nguyện: Đức Giêsu bắt đầu ngày sống của mình bằng việc cầu nguyện. Tin mừng hôm nay cho biết: “Sáng sớm tinh sương, Ngài chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó.”(Mc 1,35).Ngài cầu nguyện để sống thân mật với Chúa Cha. Ngài cầu nguyện để lắng nghe và thực hiện ý Chúa Cha muốn. Việc Ngài cầu nguyện nói lên sứ mạng của Ngài phát xuất từ Thiên Chúa và luôn có Chúa Cha đồng hành. Đọc Tin mừng chúng ta thấy, đây không phải là lần duy nhất Đức Giêsu cầu nguyện, mà Ngài cầu nguyện luôn, cả sớm mai và chiều tối, có khi Ngài cầu nguyện suốt đêm. Cách riêng, Ngài cầu nguyện trước những biến cố quan trọng, như trước khi Ngài chọn các Tông đồ, trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá. Ngài cầu nguyện cho Ngài, cầu nguyện cho các môn đệ, cho những người nhờ Ngài mà tin và cho thế gian. Ngài không những cầu nguyện mà còn dạy cho các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha và Ngài khuyên bảo các Tông đồ và mọi người chúng ta hôm nay: Hãy cầu nguyện luôn kẻo phải sa chước cám dỗ; Cầu nguyện như vũ khí để xua trừ quỷ dữ: “Giống quỷ đó chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi.” (Mc 9,29).
Thứ hai, Ngài rao giảng Tin mừng: Tại Caphácnaum, vào ngày sabát, Ngài vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài, vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. (x. Mc 1,21-22). Tại Nazarét, là nơi Ngài sinh trưởng. Ngài vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày sabát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Sau đó, Ngài cắt nghĩa cho dân chúng về ý nghĩa của đoạn Kinh thánh mà họ vừa nghe (x. Lc 4,16-30). Ngài không chỉ rao giảng trong hội đường mà còn rao giảng nhiều nơi khác nữa: tại tư gia (x. Mc 2, 2), ngoài bờ biển (Mc2, 13), trên núi (x. Mt 5,1-12). Rồi Ngài đi giảng khắp mọi nơi vì Ngài đến là để làm công việc đó. Cho nên, khi các môn đệ đi tìm Ngài, Ngài nói với họ rằng: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.”(Mc 1,38).
Thứ ba, Ngài chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ: Tin mừng hôm nay cho biết, ra khỏi hội đường, Ngài cùng với ông Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê, Ngài chữa cho bànhạc gia của Simon khỏi bệnh cảm sốt (x. Mc 1,29-31). Không dừng lại ở đó, đọc Tin mừng chúng ta biết, Ngài dành nhiều thời gian để chữa bệnh và trừ quỷ. Ngài chữa lành hết tất cả các người bệnhđược đưa đến với Ngài: Bệnh phong cùi, bệnh bất toại, bệnh loạn huyết, bệnh mù, bệnh câm điếc, bệnh què quặt…Ngài dùng nhiều cách thế để chữa bệnh nói lên quyền phép của Ngài trên bệnh tật: chữa bệnh từ xa, phán một lời, Ngài lấy nước miếng trộn vào đất bôi lên mắt bệnh nhân được khỏi, người bệnh đụng đến Ngài, Ngài đụng đến người bệnh thì người bệnh được khỏi... Tin mừng hôm naylàm chứng cho chúng ta biết điều đó: “Lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến với Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.” (Mc 1,32-34).
Đức Giêsu không giới hạn việc chữa lành vào một số người bệnh hay một số vùng miền, nhưng đối tượng được Ngài cứu chữa là hết tất cả mọi người bệnh và các vùng miền. Như thế, chúng ta thấy một ngày sống của Đức Giêsu thật ý nghĩa: cầu nguyện, rao giảng, chữa lành. Còn một ngày sống của chúng ta thì sao?
2. Một ngày sống của chúng ta
Nếu một ngày sống của chúng ta giống như ngày sống của Đức Giêsu thì tốt biết mấy, nhưng có lẽ khó có ai thực hiện được như Ngài.Vậy, để ngày sống của chúng ta có ý nghĩa và phần nào họa lại ngày sống của Đức Giêsu, xin được gợi ý một số thực hành sau đây:
Thứ nhất, chúng ta hãy bắt đầu ngày sống bằng việc cầu nguyện: Tùy vào hoàn cảnh cho phép, sau khi thức dậy chúng ta có thể đi tham dự thánh lễ hoặc đọc kinh chung với cộng đoàn hay với các thành viên trong gia đình. Những hoàn cảnh đặc biệt khác, chũng ta có thể cầu nguyện, đọc kinh riêng hay đọc và suy gẫm Lời Chúa một mình. Nghĩa là phải cố gắng bắt đầu ngày sống bằng việc cầu nguyện. Cầu nguyện để xin ý Chúa. Cầu nguyện để kết hợp với Chúa trong công việc. Cầu nguyện để dâng tất cả các công việc trong ngày cho Chúa để Chúa lo liệu, nhờ đó, mọi công việc chúng ta làm trong ngày mang lại lợi ích hồn xác. Thực tế, trong cuộc sống hôm nay do công ăn việc làm và nhiều nguyên nhân khác nên rất nhiều kitô hữu đã không cầu nguyện đầu ngày, thậm chí bỏ cầu nguyện trong ngày. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta đừng quên cầu nguyện đầu ngày, thậm chí còn cần phải dành thời gian để cầu nguyện trong ngày và kết thúc ngày sống cũng phải bằng việc cầu nguyện.
Thứ hai, chúng ta làm việc trong ngày theo bổn phận trao phó với ý thức làm sáng danh Chúa: Có người làm việc đời, có người làm việc đạo; Có người làm việc tri thức, có người làm việc chân tay; Có người đi chợ bán hàng, có người đi chợ mua hàng; Thầy cô đi dạy, học sinh đi học; Có người đi cày, có người đi cấy; có người làm bác sỹ, có người là bệnh nhân; có người làm kỷ sư, có người làm công nhân…và biết bao nhiêu công việc khác. Nhưng dù làm bất cứ việc gì cũng không được gian dối, không được lỗi công bằng, không được lỗi bác ái yêu thương. Trái lại, hãy làm trọn phận vụ, hãy làm việc cho sáng danh Chúa. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời.” (Cl 3,23). Ngài còn khuyên: “dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31).
Thứ ba, chúng ta cần dành thời gian nhiều hơn để quan tâm chăm sóc các bệnh nhân: Hiểu theo nghĩa chặt thì bệnh nhân là những người mắc các chứng bệnh về phần xác nhưng hiểu theo nghĩa rộng thì bệnh nhân là những người đau khổ cả về phần xác lẫn tinh thần: đói, khát, trần truồng, tù đày... Đó là đối tượng chúng ta cần phải quan tâm. Vì trong ngày phán xét, Đức Giêsu sẽ phán xét và thưởng phạt chúng ta dựa vào việc chúng ta có quan tâm hay không đối với các đối tượng trên.
Bài Tin mừng cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã dành nhiều thời gian để chữa lành bệnh tật và vì thể Ngài đã đem đến niềm vui và niềm hy vọng cho họ. Ngược lại, Bài đọc I, kể lại câu chuyện ông Gióp. Mặc dầu, ông là người thánh thiện, nhưng khi ông bị bệnh tật, thiếu sự quan tâm của người thân, ông vẫn cảm thấy bi quan.
Ngày hôm nay, những trường hợp như ông Gióp hay như bà nhạc mẫu Simon cũng đầy dẫy trong xã hội chúng ta đang sống. Họ ở bên cạnh chúng ta, có thể họ là người thân của chúng ta. Họ đang cần sự quan tâm giúp đỡ của chúng ta. Nếu không giúp họ được khỏi bệnh thì chúng ta có thể góp phần làm xoa dịu họ bằng cách quan tâm giúp đỡ, thăm hỏi, động viên khích lệ, không được để người mắc bệnh phải cô đơn, thất vọng.
Nếu một ngày sống của chúng ta bắt đầu bằng việc cầu nguyện, sau đó làm tốt việc bổn phận với ý thức làm sáng danh Chúa, nhất là biết quan tâm giúp đỡ các bệnh nhân thì chúng ta đang họa lại ngày sống của Chúa Giêsu. Lạy Chúa Giêsu, xin cho ngày sống của chúng con giống như ngày sống của Chúa. Amen.
7. Xoa dịu nỗi đau khổ
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi nhận thấy cuộc đời của Chúa Giêsu là một sự dung hoà tốt đẹp giữa đạo và đời. Thực vậy Ngài không phải chỉ hăng say rao giảng Phúc Âm, cứu rỗi phần hồn của chúng ta mà hơn thế nữa, bằng những hành động bác ái yêu thương, Ngài còn xoa dịu những nỗi đớn đau và thống khổ của chúng ta. Ngài đã đẩy lui cơn sốt cho bà mẹ vợ của Phêrô, Ngài đã chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền và dân chúng tuốn đến với Ngài thật đông đảo. Phải chăng đây cũng là điều chúng ta cần noi gương bắt chước và thực hiện trong cuộc sống của chúng ta, để nhờ đó bản thân chúng ta trở nên những chứng nhân sống động của Chúa và mọi người cũng nhờ đó mà nhận biết tình thương của Ngài.
Tại một trung tâm y tế thuộc mạn đông nam bang Carolina bên Hoa Kỳ, hình ảnh đầu tiên mà các bệnh nhân ghi nhận được, đó là nụ cười của cụ bà Florence. Từ 6 giờ sáng, bà cụ lái xe khoảng 10 cây số đến bệnh viện và ở lại đó 8 giờ trong một ngày và 7 ngày trong một tuần. Bà cụ có mặt bên cách bệnh nhân để chăm sóc họ và an ủi những thân nhân của họ. Còn những lúc rảnh rỗi, bà cụ lại cặm cụi đan những đôi vớ cho các bệnh nhân. Năm vừa qua, bà cụ đã đan được 395 đôi. Bà cụ không phải là một người có trình độ văn hoá cao, bởi vì lúc còn nhỏ, thân phụ bà cụ không muốn cho các con gái của mình được học hỏi nhiều. Lập gia đình, bà cụ có 7 người con và làm việc trong một tiệm thuốc tây. Tháng 4 năm 1983, sau một cuộc giải phẫu, bà cụ bắt đầu xuất hiện trong bệnh viện với chiếc nạng gỗ nhưng vẫn vui vẻ giúp đỡ mọi bệnh nhân. Trong năm 1988, với 365 ngày bà đã có mặt tại bệnh viện 2920 giờ. Bà nói: Năm nay tôi đã 92 tuổi, nếu được khoẻ mạnh thì tôi vẫn còn đến đây với nụ cười trên môi.
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy nỗi đau khổ của bản thân sẽ được vơi nhẹ nếu chúng ta cố gắng xoa dịu nỗi khổ của người khác. Đúng thế, đau khổ không được chữa trị bằng sự chấp nhận đã đành, mà còn bằng những nghĩa cử chúng ta làm cho người khác. Bà cụ trong câu chuyện hẳn không phải là người không đau khổ. Tuổi già, bệnh tật, cô đơn, có ai mà lại thoát khỏi phần số đâu. Thế nhưng với nụ cười trên môi, với đôi chân khập khiễng bà cụ đã ra khỏi chính mình để đến với người khác. Ra khỏi chính mình đó là bước đầu tiên giúp chúng ta thắng vượt nỗi khổ đau riêng tư. Có ai sống mà lại không có khổ đau, không có thập giá, thế nhưng sức nặng của thập giá sẽ vơi nhẹ nếu như chúng ta biết ra khỏi chính mình để đến với tha nhân, giúp đỡ và xoa dịu nỗi khổ đau của người khác. Không ai quá nghèo để không thể cho đi. Một nụ cười cảm thông, một ánh mắt khích lệ, một bàn tay nâng đỡ, một chén cơm nhỏ bé được chia sẻ với tất cả tấm lòng yêu thương, phải chăng đó là những cái chúng ta có thể cho đi, phải chăng đó là những cái mà nhiều người đang mong đợi nơi chúng ta. Chính trong lúc cho đi như thế chúng ta cảm nghiệm được một niềm vui trong lành, vì cho đi thì vui sướng hơn là lãnh nhận và lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô còn vang vọng như một câu kết luận: Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
8. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúng ta hãy theo dõi Chúa Giêsu trong ngày sống của Ngài ở Capharnaum. Ngài đến nhà của Phêrô và chữa cho bà mẹ vợ của ông khi bà đang lên cơn sốt. Chiều đến, khi mặt trời lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những kẻ bị quỷ ám đến xin Ngài chữa cho họ.
Sáng hôm sau, Ngài thức dậy thật sớm, tìm một nơi thanh vắng và cầu nguyện. Các môn đệ đi tìm Ngài vì mọi người đến tìm Ngài. Nhưng Ngài không ở lại và đi đến các vùng khác để rao giảng và trừ quỷ.
Tường thuật của thánh Maccô cho chúng ta thấy gì? Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài bằng những việc chữa bệnh và trừ quỷ. Ngay trong chương đầu mà thôi, thánh sử đã kể cho chúng ta nhiều phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ, và hình như thánh sử chú trọng đến việc trừ quỷ. Đối với người Do Thái thời bấy giờ, bệnh tật cũng là do ma quỷ gây nên. Như thế, chúng ta thấy vẽ lên sứ mệnh chính yếu của Chúa Giêsu là diệt trừ ma quỷ và những ảnh hưởng của nó.
Ngài chữa cho bà mẹ vợ của Simon bằng một cử chỉ đơn thường: Ngài đỡ bà dậy và cơn sốt biến mất. Ngài không đòi hỏi im lặng, vì ngoài người nhà và các môn đệ, không có ai khác. Nhưng đây cũng chứng minh cho mọi người trong nhà thấy quyền năng độc đáo của Ngài và cũng cho thấy một nét của nhân cách Ngài. Ngài luôn giúp đỡ mọi người khi cần. Đi đến đâu, Ngài cũng ban bố ơn lành.
Cả ngày hôm ấy, Chúa Giêsu làm gì? Thánh Maccô không nói, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu rằng Ngài dùng cơ hội đó để dạy dỗ các môn đệ đầu tiên của Ngài. Trong khung cảnh ấm cúng đó, Thầy trò có thể dễ dàng bàn luận với nhau.
Chiều đến, cả làng tập trung trước nhà, họ mang đến cho Ngài nhiều thứ bệnh nhân, kể cả những người bị quỷ ám. Ngài chữa lành nhiều người, và trừ nhiều quỷ và cấm không cho quỷ nói vì chúng biết Ngài là ai. Ngài cấm quỷ nói vì Ngài không muốn người ta hiểu sai về sứ mệnh của Ngài. Tại sao người ta lại đem bệnh nhân đến cho Ngài? Phải chăng vì Ngài đã chữa bệnh và trừ quỷ trong Hội đường và danh tiếng Ngài đồn ra khắp miền đó. Ngài không muốn cho người ta nhìn Ngài như một thầy chữa bệnh hay một người có ý đồ chính trị. Đám đông là một thứ rơm dưới ánh nắng, dễ tin và thường phản ứng một cách đột xuất và mù quáng. Sứ mệnh của Ngài sâu xa hơn. Chữa bệnh hay trừ quỷ chỉ là một dấu hiệu ban đầu mà thôi. Ngài đến để khai mở Nước Trời, mang lại ơn cứu độ cho con người, giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Sáng sớm, Chúa Giêsu tìm một nơi thanh vắng và cầu nguyện. Điều này như một việc làm thường xuyên của Chúa. Có lúc Ngài cầu nguyện suốt đêm. Nhiều người tự hỏi, tại sao Ngài là Thiên Chúa lại cần phải cầu nguyện? Nhiều cách trả lời, nhưng đa số các nhà chú giải đều cho rằng, Ngài đã nhập thể và là người thật, Ngài mang lấy sự yếu đuối của con người, Ngài cũng cần sự thân mật với Chúa Cha như mãnh lực cần thiết để thi hành ý Cha Ngài. Trước những lúc phải quyết định một điều gì quan trọng, các thánh sử đều kể lại là Ngài luôn cầu nguyện. Ngài cũng muốn cho thấy rằng Ngài với Cha Ngài là một. Ngài không làm gì mà không theo ý Cha. Đó cũng là một gương sáng cho chúng ta, và chính Ngài cũng dạy chúng ta cầu nguyện không ngừng. Chúng ta có thích cầu nguyện như thế không? Chúng ta có cảm thấy cần cầu nguyện không? Hay chúng ta chỉ tin vào sự khôn khéo của mình mà không cần đến Chúa?
Mọi người đi tìm Ngài. Dân trong thành muốn giữ Ngài lại vì Ngài có thể giúp họ nhiều hơn nữa, còn biết bao bệnh nhân chưa được chữa lành. Thế nhưng Chúa Giêsu không dừng lại để tìm sự ủng hộ của dân chúng. Ngài còn một công việc lớn và quan trọng hơn là rao giảng Nước Trời cho mọi người. Còn biết bao nhiêu người cần đến ơn cứu độ: “Chúng ta hãy đi nơi khác… để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Chúng ta cũng thấy có một mối liên hệ giữa việc rao giảng và cầu nguyện. Ngài cầu nguyện rồi mới ra đi. Ngài cầu nguyện vì cuộc hành trình của Ngài còn dài, rất dài và cũng không kém gay go. Ngài cũng xác quyết rõ ràng, sứ mệnh của Ngài là rao giảng: “Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.
Việc đó chính là rao giảng Nước Trời, Nước tình yêu, nước sự sống. Con người tìm đâu ra sự sống? Con người có giới hạn và sự chết là giới hạn cuối cùng, không ai thoát được. Chỉ có một lối thoát duy nhất là Ngài, Ngài là sự sống và là sự sống vĩnh cửu. Ngài rao giảng để mọi người biết và tìm được sự sống qua cái chết. Ngài cũng qua cái chết để sống lại và đem lại sự sống vĩnh cửu cho con người.
Ngài đã đăng trình rao giảng Tin Mừng không mõi mệt, bận bịu với đám dân bơ vơ như đàn chiên không người chăn, đến nỗi Ngài và các môn đệ không có giờ dùng bữa. Những con đường nắng cháy của vùng Palestine đã quen thuộc với bước chân Ngài. Và bài giảng cuối cùng kết thúc trên đỉnh đồi Canvê thống khổ.
Theo vết chân Ngài, Phêrô và các Tông đồ, cũng như Phaolô đã không mỏi mệt rao giảng khắp cùng thế giới thời bấy giờ, và bài giảng cuối cùng cũng kết thúc bằng cái chết. Chết cho Tin Mừng họ rao giảng, như Thầy chí thánh của họ.
Thánh Phaolô dám nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” Không ai bó buộc Ngài cả, Ngài cũng nói: “Tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi trở thành nô lệ cho mọi người…” Tại sao? Chỉ vì tôi yêu mến Đấng đã yêu thương và đã liều mạng cho tôi, vì tôi không để ơn Chúa ra vô ích, vì tôi cũng muốn cho mọi người được hạnh phúc với Đấng đã chết để cứu vớt họ.
Và từ hơn hai mươi thế kỷ cho đến hôm nay, Tin Mừng vẫn được rao giảng qua những người đã đón nhận, giáo sĩ cũng như giáo dân. Và Giáo hội luôn kêu mời mọi tín hữu không trừ ai, tất cả những người đã đón nhận Tin Mừng phải công bố trên mọi mái nhà kho tàng Tình Yêu của Thiên Chúa.
Nhưng cho đến hôm nay, số người biết Chúa vẫn còn là thiểu số. Ở Việt Nam người Công giáo chỉ chiếm được ba phần trăm. Chỉ có ba con chiên ở trong chuồng và còn chín mươi bảy con chiên ở ngoài. Chúng ta nghĩ sao?
Theo vết chân của Chúa Giêsu, của các tông đồ và các thánh, chúng ta cũng ra đi, rao giảng Tin Mừng cho anh em chúng ta, những người chưa được phúc như chúng ta. Có lẽ chúng ta còn ngại ngùng, nhưng với ơn Chúa và thiện chí, chúng ta cố gắng hơn. Chúa đang chờ những tâm hồn thiện chí, những người dám ra đi, vì Chúa, vì anh em. Thánh Thần Chúa sẽ hỗ trợ, Ngài không để chúng ta một mình.
Có lẽ chúng ta chưa biết làm gì, hay làm thế nào, nhưng khi chúng ta dám bước ra, đi vào công việc, Chúa Thánh Thần sẽ soi dẫn chúng ta biết phải làm gì.
Nhưng trước hết phải cầu nguyện như Chúa Giêsu đã cầu nguyện. Phải cùng một ước muốn như Chúa, ước muốn cho danh Cha cả sáng, muốn mang lại hạnh phúc cho anh em. Và trên hết, hãy ăn lấy Chúa để được Ngài nuôi dưỡng bằng chính Thịt Máu Ngài, để cùng với Ngài ra đi. Chúng ta mới có can đảm loan báo Tin Mừng dù lúc thuận lúc nghịch, dù sẽ bị nhạo cười hay từ chối. “Tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta”. Chỉ có tình yêu Chúa mới giúp chúng ta dám nói lên những gì phải nói, không phải chỉ bằng lời mà bằng cả cuộc sống với những lao nhọc của nó.
“ Đừng sợ! Ơn Ta đủ cho ngươi”.
9. Cứu vớt con người
Quang cảnh náo nhiệt ngày hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc sống con người biết mấy. Thực vậy, Ngài vừa mới rao giảng ở hội đường xong, liền đi về nhà của Phêrô và Andrê. Không một hoàn cảnh đau thương nào mà không gởi lên nơi cõi lòng Ngài một nỗi cảm thông chia sẻ. Vì thế, Ngài đã tiến lại gần, cầm tay và chữa lành cho bà mẹ vợ của Phêrô đang lên cơn suốt. Rồi từ đó, mọi người trong thành đã tuốn đến với Ngài, xin Ngài cứu chữa đủ mọi chứng bệnh phần xác.
Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ dừng lại ở những ốm đau phần xác, mà hơn thế nữa, Ngài còn muốn cứu chữa những tật bệnh phần hồn. Đây mới là điểm quan trọng trong sứ mạng của Ngài. Chính vì thế mà Ngài đã phán với các môn đệ: Chúng ta hãy đi tới những nơi khác để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở đó nữa.
Trải qua dòng thời gian Giáo Hội đã noi gương bắt chước Chúa Giêsu, đẩy mạnh hai cố gắng, hai hoạt động, đó là xoa dịu những đớn đau cho những người bất hạnh và dẫn đưa họ trở về cùng Chúa. Để xoa dịu những đớn đau phần xác Giáo Hội đã lập nên biết bao nhiêu nhà thương; biết bao nhiêu viện dưỡng lão, biết bao viện cô nhi. Nhưng đồng thời Giáo Hội cũng ý thức bổn phận chính yếu của mình là đem Chúa đến cho mọi dân tộc. Vì thế, từ xa xưa cho đến ngày hôm nay, Giáo Hội không ngừng gởi các môn đệ, các thừa sai, các tông đồ của mình tới những vùng đất xa lạ để rao giảng Tin Mừng cho tất cả những ai chưa nhận biết Chúa. Chữa lành những tật bệnh phần xác đã là điều tốt, huống nữa là chữa lành những tật bệnh phần hồn, bởi vì chính linh hồn mới là một kho tàng quý giá, chúng ta có bổn phận phải gìn giữ, phải bảo toàn, phải cứu độ như lời Chúa Giêsu đã nói: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi gì?
Ringhoff là một thuỷ thủ người Đức. Trong dịp mừng thượng thọ 80 tuổi người ta tới tấp đến thăm viếng và gởi lời chúc mừng. Trong số những người gởi lời chúc mừng có Bộ trưởng Công Chánh. Trong bức thư, ông Bộ trưởng hết lời khen ngợi ông thuỷ thủ già, bởi vì trong suốt thời gian hành nghề, ông thuỷ thủ già đã vớt được tất cả 126 người khỏi chết đuối.
Câu chuyện này hẳn phải làm cho chúng ta suy nghĩ. Đúng thế, cứu vớt người khỏi chết về phần xác là một hành động cao cả và tốt đẹp. Vậy thì cứu vớt người khỏi chết về phần hồn lại càng cao cả và tốt đẹp hơn biết chừng nào? Và trong ngày sau hết chính Chúa sẽ gởi lời chúc mừng đến cho bản thân họ. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta làm được những gì để xoa dịu những đớn đau của người khác và hơn thế nữa, chúng ta đã làm được những gì để góp phần vào công việc truyền bá Phúc Âm, dẫn đưa người khác trở về cùng Chúa.
10. Đi gieo Tin Mừng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đoạn Tin Mừng hôm nay tóm tắt một ngày làm việc của Chúa Giêsu. Qua những hoạt động của một ngày làm việc, Chúa Giêsu đưa ra những chỉ dẫn khuôn mẫu cho người đi gieo Tin Mừng.
Chỉ dẫn thứ nhất: Tin Mừng phải được rao giảng. Ngày Sabbát, Chúa Giêsu vào Hội đường, đọc Sách Thánh và giải nghĩa. Việc đọc và diễn giải Lời Chúa là một phần quan trọng của đời sống người môn đệ. Vì Tin Mừng phải được rao giảng. Lời Chúa phải được công bố. Người môn đệ phải say mê rao truyền để cho Lời Chúa trở thành ánh sáng soi đường cho con người, hướng dẫn tư tưởng, lời nói, hoạt động của con người. Chính Lời Chúa hướng dẫn con người đi trên đường Sự Thật để đạt được Sự Sống.
Chỉ dẫn thứ hai: Tin Mừng phải chứng tỏ bằng yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục. Chúa Giêsu đã làm chứng về điều đó. Ra khỏi Hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon. Bà nhạc của ông đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà để chữa bà khỏi bệnh. Thực ra Chúa có quyền năng chỉ cần đứng ngoài cửa phán một lời cũng có thể chữa bệnh cho bà nhạc ông Simon. Hơn nữa ở vào thời phong kiến với quan niệm nam nữ thọ thọ bất thân, việc cầm tay phụ nữ có gây nên dị nghị. Nhưng Chúa Giêsu đã đến tận giường cầm tay bà. Điều này nói lên lòng yêu thương kính trọng. Chúa không chỉ chữa bệnh mà còn muốn bày tỏ tình người, sự quan tâm âu yếm đối với người bệnh và cả sự kính trọng đối với phụ nữ nữa.
Chỉ dẫn thứ ba: Tin Mừng phải đem đến tự do. Mà quỉ luôn muốn giam cầm con người trong vòng nô lệ. Bị ma quỉ trói buộc con người mất hết ý chí, không còn làm được việc lành, chỉ có thể làm theo mệnh lệnh ma quỉ. Tin Mừng của Chúa có sức giải phóng con người. Giải phóng khỏi sự trói buộc của ma quỉ. Giải phóng khỏi những mặc cảm. Giải phóng khỏi những thói tục hủ lậu, những mê tín cấm ky. Nhờ đó con người có thể vươn lên, sống xứng đáng với phẩm giá và có thể làm việc lành phục vụ Nước Chúa. Bà nhạc của Simon là một thí dụ điển hình. Khi được khỏi bệnh, bà liền đi đứng và làm việc phục vụ Chúa.
Chỉ dẫn thứ tư: Tin Mừng phải được kín múc từ cội nguồn Thiên Chúa. Sáng sớm, Chúa Giêsu đến nơi vắng vẻ cầu nguyện. Suốt ngày bận rộn với con người, Chúa Giêsu phải dành buổi sáng sớm để cầu ngyện. Điều đó cho thấy, đối với Chúa, việc cầu nguyện là quan trọng biết bao. Chúa Giêsu cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với Chúa Cha. Chúa Giêsu cầu nguyện để tìm thánh ý Chúa Cha, tìm sự hướng dẫn sáng suốt cho cuộc đời. Vì thế trước khi bắt tay vào làm việc, Chúa cầu nguyện với Đức Chúa Cha để múc lấy nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.
Người môn đệ muốn dẫn thân rao giảng Tin mừng, mở rộng Nước Chúa không thể đi ra ngoài những chỉ dẫn khuôn mẫu của Thày Chí Thánh. Phải biết múc lấy nguồn sức mạnh ở nơi Chúa Cha qua việc cầu nguyện. Coi việc cầu nguyện như cội nguồn của hoạt động, như điểm mấu chốt để đi đến thành công. Chuyên tâm học, đọc, suy gẫm Lời Chúa để có thể thấu hiểu và trình bày cho người khác. Nhất là phải làm chứng cho lời rao giảng bằng chính đời sống yêu thương bác ái. Sự yêu thương kính trọng sẽ đưa con người tới tự do, có thể lam những việc tốt đẹp, góp phần vào việc phục vụ Tin Mừng.
Lạy Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin hưỡng dẫn chúng con đi trên đường của Chúa Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý
1- Bạn hãy thử tóm tắt những việc Chúa Giêsu làm trong một ngày.
2- Bạn tha thiết với việc rao giảng Tin Mừng, bạn sẽ làm gì để cho việc rao giảng Tin Mừng có kết quả tốt đẹp?
3- Lời nói phải đi đôi với việc làm. Bạn áp dụng câu nói này thế nào trong đời sống đạo của bạn.
11. Giải phóng đau khổ - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
1. Ông Gióp kêu rên thảm thiết: “Cuộc sống con người là một khổ dịch... Là chuỗi ngày làm thuê... Số phận tôi là những đêm đau khổ... ngay từ chiều tối, tôi trằn trọc đến hừng đông”.
Lời than thở đó diễn tả đủ loại đau khổ chồng chất trên đời người: Đau khổ thể chất thì ít, đau khổ tinh thần thì quá nhiều.
Cuộc sống thể chất là “một khổ dịch”. Khổ dịch vì bao nhiêu công việc nặng nhọc. Con người sống như nô lệ, không còn thời giờ hóng mát. Mệt mỏi về làm lụng, mệt mỏi về ăn uống, mệt mỏi về chơi bời giải trí! Còn biết bao nhiêu khổ dịch của bệnh tật, già cỗi, nghèo đói, loạn lạc, chiến tranh, thiên tai luôn vùi dập con người.
Đau khổ thể chất còn đổ lỗi cho trời đất. Những đau khổ tinh thần ghê sợ gấp bội, lại do chính con người gây ra. Đó là những đau khổ tâm lý, đau khổ đạo đức, đau khổ siêu hình (siêu nhiên).
Đau khổ tâm lý là những mặc cảm về “cuộc sống chỉ là chuỗi ngày làm thuê”, mặc cảm về thân phận hèn hạ tôi đòi, ở đậu. Không đâu là nhà, luôn luôn bị trôi dạt, bị chao đảo, bị o ép, nên dễ bất mãn, chống đối người khác, chống đối xã hội, chống đối Thiên Chúa, cuộc sống đầy những tâm trạng nổi loạn, ghen ghét, hận thù, phản bội, chứng tỏ một tâm lý ấu trĩ, tự ti mặc cảm, thiếu tự tin, tự chủ, cái đau khổ của Ađam Evà thân phận bùn đất nhưng lại muốn bằng Thiên Chúa, thân phận là con ếch dưới đáy giếng lại đòi bằng con bò để căng da phình bụng nổ tan bành mà chết, như trong ngụ ngôn của Lafontaine. Chừng nào ta thấy được vinh phúc Thiên Chúa đã ban cho mình từ bùn đất nên con người và từ con người nên con Thiên Chúa, ta mới được hạnh phúc thật.
Đau khổ đạo đức: “Ngay từ chiều tối, tôi trằn trọc đến hừng đông”. Con người bối rối âu lo, bị ray rứt về những dục vọng đen tối. Những đam mê sai trái, những dằn vặt ấy đã làm thánh Phaolô phải kêu lên: “Điều tôi không muốn, tôi lại làm!”. Bao nhiêu thiếu sót, bê trễ bổn phận cũng là những tác nhân gây ra đau khổ: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. “Nỗi ray rứt hàng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội thánh” (2Cr. 11, 28). Sau cùng, thứ đau khổ cùng cực nhất của con người là thấy “số phận của tôi là những đêm tối đau khổ”, đêm tối là số phận tôi, không ánh sáng, không tương lai, không hy vọng. Tất cả gia tài, sự nghiệp ky cóp, bon chen, giành giựt, chèn ép, chạy chọt như con thoi, đều tan ra như mây khói: “Đời con chỉ là một hơi thở”, một cái thở hắt ra là chấm dứt cuộc đời, con người câm lặng nhắm mắt lìa đời. Thật ghê sợ, rợn rùng “Mắt con sẽ không được thấy hạnh phúc bao giờ”. Đó là thứ đau khổ siêu hình, thứ đau khổ về hư vô. Thứ đau khổ mất niềm tin vào Thiên Chúa hằng sống, mất hy vọng vào Đấng Cứu Độ đời đời.
2. Ai ai có thể cứu chữa tôi thoát khỏi những thứ đau khổ này? Tất cả nhân loại đều bó tay, chỉ còn có Đức Giêsu thôi. Chính vì để giải phóng đau khổ này, Đức Giêsu đã đến trần gian. Người đến để chữa lành đau khổ thể xác và tinh thần. Cụ thể, hôm nay, Đức Giêsu đến nhà hai ông Simon và Anrê. Họ liền nói cho Người biết bà nhạc mẫu của ông Simon đang đau liệt. Đức Giêsu đến gần, cầm tay nâng bà dậy. Bà liền hết sốt. Một cử chỉ thân tình xoa dịu mọi lo âu thống khổ của gia đình. Người đến làm cho cảnh gia đình sầu khổ được sống lại hân hoan.
Cơm chiều đã dọn sẵn, chỉ vài món ăn thanh đạm, nhưng vị thượng khách chẳng kể chi. Cùng ngồi quây quần với mọi người, Người thanh thoát niềm nở kể chuyện. Câu chuyện trong sáng, giản dị. Mọi người đón nghe Tin mừng chan chứa niềm vui và hy vọng vào tương lai vinh phúc bất diệt của con người. Mọi xao xuyến, sầu khổ biến tan. Những nụ cười tươi nở, những ánh mắt sáng lên. Họ nhìn Người xiết bao trìu mến và đầy tin tưởng. Hoàng hôn buông xuống, chấm dứt ngày nghỉ lễ Sabbat, cả thành ùn ùn kéo đến nhà ông Simon. Ông mở rộng cửa, dọn dẹp sân vườn đón tiếp bà con xa gần. Simon mở cửa nhà càng rộng, Đức Giêsu càng giang rộng đôi cánh tay âu yếm, thương mến đón tiếp mọi hạng người: nghèo hèn, sang giàu, đau khổ, bệnh tật, đủ loại quỷ ám và tội lỗi. Nhà Simon thành đại gia đình tình thương của Chúa. Suốt tối hôm đó, Người chữa lành mọi vết thương tâm hồn và thể xác. Người luôn tay chúc phúc cho tất cả toàn dân. Trời về đêm cũng không cản nổi giòng thác người sầu khổ tuôn đến với Người. Người không biết mệt, tay vẫn giơ lên chạm đến từng người, miệng luôn đọc lời chúc lành bình an. Trái tim Người rung động cảm thương dân chúng vô biên, không gì có thể làm tê liệt được, như lời tiên tri Isaia đã loan báo: “Người coi bệnh hoạn của chúng ta như của riêng Người. Người mang hết mọi tai ương của chúng ta” (53, 4).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã gánh lấy mọi khổ dịch của loài người và đưa Tin mừng nước Trời cho khắp mọi nơi, từ thánh đường đến gia đình, từ thành phố đến mọi nẻo đường xã ấp. Xin cho muôn dân mau mau đến xum họp chung quanh Chúa đoàn tụ thành đại gia đình tình thương vinh phúc của Chúa. Amen.
12. Ơn Chữa Lành – Lm. Vũ Đình Tường
Đức Kitô mang lại nhiều an ủi, hy vọng và tình thương lại cho những ai may mắn đón nhận lời Ngài mời gọi trong cuộc sống. Phúc Âm thánh Marcô thuật lại rất nhiều trường hợp Ngài gặp gỡ, an ủi và chữa lành họ. Một người trong số đó là bà nhạc gia của ông Phêrô mắc bệnh sốt rét, nằm trên giường.
Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài c.31
Tiếng đồn lan nhanh, ngay tối hôm đó người ta kéo đến đông đảo xin Người chữa bệnh.
Đức Kitô chữa nhiều kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỉ, nhưng không cho quỉ nói, vì chúng biết Người là ai c.34
Đức Kitô chữa lành không phải chỉ khỏi bệnh mà còn ban cho họ ơn đặc biệt, biết mình không những được bình phục và còn khoẻ hơn trước, tự tin hơn trước. Chương thứ hai Phúc Âm thánh Marcô ghi lại câu chuyện một người bị liệt giường nhiều năm, không thể di chuyển được phải nhờ bốn người bạn thương khiêng cả giường đến cho Đức Kitô chữa bệnh. Đến nơi người ta ngồi đông không thể chen vào được. Bốn người bàn nhau dỡ mái nhà thả chiếc giường có người bại liệt nằm trên đó. Đức Kitô chữa lành người bại liệt bằng cách ra lệnh cho anh đứng dậy vác chõng mà về. Ngay sau câu nói của Đức Kitô anh không cần thời gian hồi phục, lập tức đứng ngay dậy vác chõng ra về trước mặt mọi người chứng kiến. Anh không những được khỏi bệnh mà còn sạch tội trước mặt Chúa. Anh cảm thấy một sức mạnh nội tâm vươn lên như suối nguồn vô tận đến từ trong tâm hồn.
Không cần thời gian hồi phục đó cũng là kinh nhgiệm của bà nhạc gia ông Phêrô. Bà yếu liệt do sốt rét hành hạ, ngay sau khi được chữa khỏi bà đứng dậy phục vụ các ông, thực hành nhân đức bác ái. Bà là người phụ nữ đầu tiên trong Phúc Âm thánh Marcô thực hành nhiệm vụ tông đồ - phục vụ người khác. Có nhiều thứ bệnh không phải chỉ làm cho con người suy nhược mà có khi nguy hiểm đến tính mạng, làm mất tự tin, bế tắc sinh hoạt bình thường trong cuộc sống, tự mình không thể tiếp tực công việc kiếm sống, không tự lo cho mình mà phải nhờ đến người khác giúp đỡ. Bệnh tật cắt đứt mọi sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trong cộng đoàn. Đức Kitô chữa không những cho họ khỏi bệnh mà còn giúp họ nối kết lại với những gì trước đây bị gián đoạn, ngăn trở. Tiếp tục lại công việc, tự mình lo cho mình và lo cho tha nhân, nối lại sinh hoạt với cộng đoàn đức tin mà có thời họ tích cực sinh hoạt.
Đức Kitô có thói quen tốt lành là sau một ngày làm việc mệt mỏi sáng sớm hôm sau Ngài luôn tìm nơi vắng vẻ cầu nguyện. Ngài bắt đầu một ngày mới bằng việc cầu nguyện, liên kết với Chúa Cha, hội í với Chúa Cha về chương trình cứu độ nhân loại. Nhớ lại trước khi bắt đầu rao giảng công khai Đức Kitô cũng đã ở trong hoang địa một thời gian lâu. Thời gian trong hoang địa là thời gian cầu nguyện. Thời gian trong hoang địa để nhìn lại mối liên kết với Chúa Cha, nhìn lại bước đường đã qua và hoạch định cho bước đường kế tiếp, là thời gian chuẩn bị cho chương trình chữa lành và quan trọng hơn là chương trình cứu độ.
Khác với các thế lực trần thế, họ dựa vào sức mạnh của vũ khí, vũ khí càng tân tiến, sức công phá càng mạnh họ càng có lợi thế trong cuộc chiến. Đức Kitô không nhờ vào sức mạnh của vũ khí chiến tranh. Vũ khí của Ngài chính là tình yêu, cải hoá con tim người ta bằng tâm tình yêu mến, và thực thi bác ái với tha nhân. Ngài thắng con tim người ta và ban cho con tim đó một sức sống mới, sức sống phát xuất tự tâm, thay đổi lối suy nghĩ và tìm nguồn vui trong phục vụ.
13. Cầu nguyện trong đời thường
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 1: 29-39: Đoạn Tin Mừng hôm nay, cho thấy một ngày sinh hoạt của Chúa Giêsu: Ban ngày giảng dạy, chữa bệnh và “Sáng tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện”...
Mấy năm trước đây tạp chí Thế Giới Ngoài Trời (Outdoor World) có đăng một bài của Barry Lopez như sau: "Vào một buổi sáng mưa phùn, Barry thức dậy một mình đi dạo trong rừng trước buổi điểm tâm. Vừa rảo bước giữa những dãy thông và bá hương.
Barry vừa nhớ lại một buối sáng y hệt sáng hôm nay, khi còn là chú bé con, chàng đã được nhìn thấy ông nội một mình bước ra khỏi nhà đi dạo ngang qua chính những hàng cây này. Khi ông nội trở về chú bé Barry hỏi ông nội đã đi đâu và làm gì.
Ông nội mỉm cười, ôm choàng Barry rồi nói: "Nào chúng ta hãy cùng đi dùng điểm tâm, cháu nhé!"
Tiếp tục bước đi dưới cơn mưa phùn, Barry gặp một quãng rừng trống. Chàng liền quỳ xuống và đặt đôi tay lên mặt đất ẩm ướt. Điều này gây cho chàng cảm giác rằng chàng đang hiệp nhất với toàn thể vũ trụ.
Barry nhớ lại lời ông nội đã từng dạy bảo chàng: Khi nào cảm thấy cô đơn thì nên đi bách bộ vào rừng tìm yên tĩnh, đoạn làm bất cứ điều gì đang được thôi thúc trong lòng, chẳng hạn như quì gối xuống đặt tay lên mặt đất.
Nửa giờ sau, khi Barry trở về nhà, ông cảm thấy như được đổi mới, được hồi phục sức lực. Bấy giờ ông mới hiểu được lý do ông nội thường hay đi dạo trong rừng vào buổi sớm mai. Bà của Barry có lần nói cho ông hay đấy chính là cách thức ông nội cầu nguyện.
Ông ấy luôn luôn đi sang tận mé rừng bên kia, đứng trên bờ biển, tay thọc vào túi, lắng nghe đại dương reo.[1]
Đoạn Tin Mừng hôm nay, cho thấy một ngày sinh hoạt của Chúa Giêsu:
Ban ngày giảng dạy, chữa bệnh và “Sáng tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện”.
Lý do khiến Đức Giêsu làm điều này cũng chính là lý do Barry thường làm, đó là tự đổi mới chính mình, tự hồi phục lại năng lực cho chính mình.
Chúng ta có thể đánh mất chính mình trong khi làm việc. Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy chính mình trong công việc. Đây là lý do tại sao trong cuộc sống, chúng ta cần có một nơi yên tĩnh.
Chúng ta cần phải học nơi Đức Giêsu, về cách kết hợp giữa hoạt động và chiêm niệm.
Ra đi cầu nguyện không phải là cách thế trốn thoát, nhưng điều này đưa đến sự tái cam kết. Cần có thời gian để cống hiến, và cần có thời gian để tiếp nhận. Để có được một cuộc sống lành mạnh, chúng ta cần phải quan tâm đến cả hai lối sống trên.
Sau một ngày học hành mệt nhọc, người bạn trẻ thường có thói quen ghé ngang qua nhà thờ để viếng Chúa, và lần nào cũng bắt gặp một cụ già ngồi yên lặng trước Thánh Thể trong nhà tạm.
Ngày kia, một người bạn trẻ chờ cho cụ cầu nguyện xong, tiến đến gần và hỏi:
- Cụ ngồi lâu giờ như vậy, có nghe Chúa nói gì với cụ không?
- Cụ già chậm rãi trả lời:
- Chúa không nói gì hết, Ngài chỉ nghe thôi.
- Vậy thì cụ nói những gì với Chúa?
- Lão cũng chẳng nói gì cả, chỉ nghe thôi.
Thấy người bạn trẻ có vẻ ngỡ ngàng, cụ nói tiếp:
- Lão thấy có bốn giai đoạn trong đời sống cầu nguyện.
Thời gian đầu thì lão nói, Chúa nghe, sau đó thì Chúa nói, lão nghe.
Giai đoạn kế tiếp thì không ai nói hết vì cả hai cùng nghe
và giai đoạn cuối là lúc không ai nói mà cũng không ai nghe.
Tất cả chỉ là một sự thinh lặng tuyệt đối.
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,
- Xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài, trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
- Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi truớc những dịp tội gây xao xuyến.
- Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai, để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,
để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
- Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi, để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người, tránh mọi lời nói gây đớn đau, đổ vỡ.
- Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn, để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
- Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim, để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ghen ghét, để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên mọi sự. Amen.[2]
------------------
[1] Cha Mark Link, SJ, CN 5B TN
[2] Lời nguyện của Mẹ Têrêxa Calcutta
14. Đời sống thường nhật – An Phong, OP
Thánh Máccô trình bày một ngày làm việc của Chúa Giêsu, một ngày bận rộn với công việc chữa bệnh, rao giảng Tin mừng, nhưng vẫn dành thì giờ cho việc cầu nguyện; một ngày lo chuyện "gia đình" của những người thân thuộc, nhưng không quên ra đi "đến các làng xã chung quanh". Một bản văn tóm tắt như thế cho ta thấy những khía cạnh chính yếu của cuộc đời Đức Giêsu. Cuộc đời phong phú của Chúa Giêsu bao hàm nhiều khía cạnh: chiêm niệm và hoạt động, việc nhà và việc nước, với Chúa Cha và với con người... Đời sống đó trở nên nguồn mạch mẫu mực cho nhiều lối sống khác nhau, những ơn gọi khác nhau.
Ngày nay, trong Hội thánh, chúng ta thấy có nhiều ơn gọi khác nhau: ơn gọi gia đình, đơn gọi tu trì, ơn gọi giáo sĩ; chúng ta cũng thấy có nhiều linh đạo khác nhau, linh đạo chiêm niệm, linh đạo hoạt động, linh đạo bác ái, linh đạo rao giảng Tin mừng.... Tất cả những bậc sống và những linh đạo ấy đều bắt nguồn từ chính đời sống của Chúa Giêsu và đều phải lầy Chúa Giêsu làm mẫu mực cho mình. Như thế, nếu ta có nhận ra một ơn gọi, một tác vụ nào được Chúa kêu gọi và trao phó cho mình, thì đồng thời ta cũng phải hiểu rằng còn có nhiều ơn gọi và linh đạo khác trong Hội thánh của Chúa. Nhất là ta phải hiểu rằng những bậc sống ấy gắn bó chặt chẽ với nhau, những tác vụ khác nhau ấy tương tác lẫn nhau cách mật thiết. Do vậy, những con đường khác nhau ấy cần tìm thấy mối liên đới hữu ích và sung mãn trong sự hiệp thông của Hội thánh Chúa.
Hội thánh là Nhiệm Thể của Đức Kitô, chính Thánh Thần của Đức Kitô là nguyên lý sống của Hội thánh và Thánh Thần làm cho Nhiệm Thể cũng được liên kết, thống nhất với Đầu là Chúa Kitô, trong cách thức hiện hữu cũng như trong hoạt động. Như thế, có thể nói được rằng một bậc sống nào mà muốn loại trừ hoặc khinh thường bậc sống khác là không có Thánh Thần của Chúa; một linh đạo nào không thể chấp nhận hoặc không liên kết với một linh đạo khác thì chẳng thể xuất phát từ Thánh Thần của Chúa Kitô được.
Trong "một ngày sống" của Chúa Giêsu Kitô, có tất cả đời sống và hoạt động của Hội thánh Chúa; có tất cả mọi hoạt động và linh đạo của mỗi người và mỗi đoàn thể của Hội thánh hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã sống một cuộc đời phong phú
và hữu ích cho con người biết bao.
Ngày hôm nay, Chúa ngự vào lòng con,
Chúa ở với con và làm việc trong con,
xin cho con được cùng với Chúa
để sống, sống phong phú
và hữu ích cho anh chị em của con
như Chúa đã từng sống.
15. Sống hết mình vì mọi người
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chúa Giêsu không sống vì mình hoặc sống cho mình, nhưng luôn luôn sống vì Chúa Cha và vì nhân loại.
Chúa Giêsu sống hết mình vì Chúa Cha
"Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa" nhưng vì yêu mến Chúa Cha và để cứu rỗi nhân loại, Người đã "hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ" (Pl 2, 6-7) sẵn sàng hoá thân làm người hèn mọn sống giữa nhân loại lầm than.
Người hiến thân trở thành một hiến lễ mới thay cho dê và bò, một hiến lễ rất đẹp lòng Chúa Cha để đền tội thay cho muôn người. Thư Do-Thái khẳng định điều đó:
"Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài." (Dt 10, 4-7)
Sở thích riêng, ước muốn riêng của mình, Chúa Giêsu sẵn sàng vứt bỏ, cốt để thực hiện ý Chúa Cha, sao cho đẹp lòng Chúa Cha:
"Ta từ trời xuống, không phải để làm theo ý Ta, mà là ý của Đấng đã sai Ta" (Ga 6, 38)
Người coi việc thi hành ý Chúa Cha quan trọng và cần thiết như lương thực của Người. Người nói với các môn đệ: "Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta và chu toàn công việc của Người" (Ga 4, 34)
Người quý trọng ý muốn của Chúa Cha hơn cả mạng sống mình. Vì thế, Người chấp nhận hy sinh mạng sống mình để ý muốn của Chúa Cha được thực hiện. Trong vườn Dầu, Ngài đã cầu xin cùng Chúa Cha trong van lơn và nước mắt, trong khổ đau đến toát mồ hôi máu:
"Abba, lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén nầy xa con. Nhưng đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi." (Mt 26, 39)
Chúa Giêsu sống hết mình vì mọi người
Không chỉ sống hết mình vì Thiên Chúa là Cha của Người, Chúa Giêsu còn sống hết mình vì nhân loại là anh em của Người.
Tin Mừng Máccô hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu luôn cúi xuống trên những lầm than khốn khổ của kiếp người:
"Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai."
Và khi trời chưa kịp sáng, khi chưa có ai đến quầy rầy, Chúa Giêsu tranh thủ thời gian tĩnh lặng để gặp gỡ Chúa Cha.
"Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó."
Cầu nguyện chưa được bao lâu, "Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!"
Chúa Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Người trong phạm vi nhỏ hẹp. Người muốn vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của Người cho một thiểu số, nhưng ban phát cho hết mọi người.
Thế nên "Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó." Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ."
* * *
Người đời thường đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống và tất cả mọi hoạt động của người ta đều quy về mình, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Trái lại, Chúa Giêsu chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của Người hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho cuộc đời phục vụ tận tuỵ của Người và Người làm tất cả những gì có thể để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Người chỉ biết sống vì người khác, sống cho phần rỗi của người khác đến độ hiến trao cả mạng sống mình.
* * *
Là một bộ phận trong cơ thể, quả tim không sống cho mình nhưng sống cho toàn thân, không ngừng bơm máu nuôi sống toàn thân. Phổi, gan, bao tử#cũng không sống cho mình, vì mình, nhưng là sống cho toàn thân, làm tròn chức năng được trao phó để phục vụ và nuôi sống toàn thể thân mình. Lẽ sống của mọi bộ phận trong cơ thể con người đều như thế cả.
Nếu một ngày nào đó, tim, gan, thận, phổi# không phục vụ cho toàn thân nữa mà chỉ quy hướng về mình, chỉ lo phục vụ riêng mình thì đó là ngày tận cùng của chúng.
Mỗi chúng ta cũng là những tế bào, những bộ phận của một Thân Thể lớn lao là nhân loại. Chúng ta không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải sống hết mình, phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống hết mình vì Chúa Cha và vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho họ, vì hạnh phúc chỉ thật sự đến với chúng con khi chúng con biết đem lại hạnh phúc cho nhiều người.
16. Đức Giêsu mẫu gương tuyệt vời
Trong cuộc sống, con người luôn phải vất vả khó khăn chỉ nhằm mục đích đơn giản chính là đi tìm hạnh phúc. Nhiều khi hạnh phúc đó không tìm được mà lại bị đau khổ, vì "sinh - bệnh - lão - tử" không ai có thể thoát được trên cõi đời này. Đặc biệt là thời Đức Giêsu y học chưa được phát triển, mỗi căn bệnh có thể nói là một "cực hình" về thể xác lẫn tinh thần. Cực hình về thể xác làm cho họ đau khổ, không thuốc men, bị bệnh tật hành hạ. Nhưng so với đau khổ về tinh thần thì chưa thấm vào đâu. Vì quan niệm của người Do Thái cho rằng những người bị bệnh chính lò do họ tội lỗi, do bị phạt... cho nên bị cộng đoàn tránh xa và ruồng bỏ. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đã làm việc thật vất vả, chỉ nhằm cho con người được hạnh phúc, Ngài đã phá tan những bệnh tật ngăn cách con người với Thiên Chúa và với nhau. Ngài đã làm việc và cầu nguyện từ sáng sớm đến chiều hôm. Do đó, có thể nói Đức Giêsu là con người của công việc và cầu nguyện:
1. Con người làm việc.
Trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta dễ dàng nhận ra các mốc thời gian trong ngày mà Đức Giêsu sử dụng, Người không để một phút giây nào trôi qua mà không có ý nghĩa, không có ích lợi. Một điều hay là chính Đức Giêsu không phải sử dụng thời gian nhằm lợi ích cho mình nhưng Ngài đã sử dụng cho người khác. Ngài làm việc chỉ nhằm đem lại hạnh phúc cho con người, tiêu biểu chính là đem lại hạnh phúc cho bà mẹ vợ ông Simon "Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt, nằm trên giường". Chắc chắn bà sẽ rất đau khổ. Lúc khách đến nhà bà rất muốn để phục vụ nhưng không thể phục vụ, bà bị một lực cản bệnh hoạn không thể làm cho bà đến được với Chúa, để phục vụ Người. Đức Giêsu không những đã phá tan lực cản đó mà qua công việc làm của mình Ngài còn làm tăng thêm lòng tin và động lực cho bà mẹ vợ ông phêrô, để chính khi hết bệnh bà cũng đã biết làm việc như chính Đức Giêsu đã làm "Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài". Bà đã cộng tác với Chúa qua việc làm của bà để đem đến chút lợi ích nào đó cho người khác. Việc làm của đó nếu chỉ nhằm trả công cho Đức Giêsu thì nó thật không ý nghĩa. Điều mà Đức Giêsu muốn chính là phải biết phục vụ và làm trong tình yêu chứ không phải đặt trên bàn cân để so đo, để trả công, đó chỉ là những công việc tiêu cực chưa có ý nghĩa cao thượng. Vì trên trần gian này rất hiếm khi chúng ta gặp người nào lại tự ôm lấy vất vả, đón nhận vất vả, và làm bạn với vất vả. Cuộc đời người ấy từ lúc sinh ra đến khi nhắm mắt lìa đời được dệt bằng những vất vả triền miên. Đó là Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc nhân trần. Định mệnh của ngài là sinh ra và chịu vất vả như chính Ngài đã nói: "Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mc10,45)
Hơn nữa, ông bà ta thường hay dạy con cháu "Nhàn cư vi bất thiện", khi mà người ta ở không thì dễ nghĩ đến điều xấu, từ đó sẽ đưa đến hành động xấu. Chắc chắn điều này không phải hoàn toàn đúng, nhưng phần lớn ai cũng chấp nhận nó. và chính chúng ta những người Kitô hữu lại càng phải theo gương Đức Giêsu vì Người chính là mẫu gương tuyệt vời trong công việc. "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". Do đó, theo gương Chúa Giêsu. Vâng! Chỉ khi nào chúng ta biết nhìn lên Chúa Giêsu để bằng lòng với cuộc sống của mình, thánh hóa nó và cho nó một giá trị cứu độ, thì lúc đó con người mới nhận được giá trị và yêu mến những vất vả của mình. Và lạ lùng thay, chính khi con người biết nhận ra những vất vả của mình, thì cũng là lúc những vất vả ấy biến thành niềm vui và hạnh phúc. Vì nó đã được thánh hoá và ban cho một giá trị cứu độ nhờ vào những vất vả của Chúa Giêsu.
2. Con người cầu nguyện.
Khi còn rất nhỏ, tôi vẫn còn nhớ như in câu giáo lý trong sách "Bổn đồng ấu" dành cho các em chuẩn bị rước lễ:
Hỏi: Đức Giêsu cầu nguyện khi nào và ở đâu?
Thưa: Đức Giêsu cầu nguyện mọi lúc và mọi nơi.
Thú thật ngày đó tôi vẫn chưa hiểu gì về việc cầu nguyện, nhưng chính cái hiểu đơn sơ đó đã khắc ghi vào trong tâm trí tôi hình ảnh cầu nguyện của Đức Giêsu rất đẹp. Tôi biết Ngài cầu nguyện là nói chuyện luôn mãi với Chúa Cha, mà ngày nay tôi tôi nhận ra sự cầu nguyện liên lỉ của Ngài với Chúa Cha. Thánh Marcô đã tường thuật: "Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó". Đó là một nét nổi bật trong cuộc đời Chúa Giêsu. Người luôn luôn cầu nguyện với Thiên Chúa Cha. Người cầu nguyện để cho các việc làm của Người đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, trong việc loan báo Tin mừng, trong việc "chữa nhiều kẻ ốm đau bệnh tật, trong việc xua trừ ma quỷ". Vì vậy, mỗi người chúng ta cũng hãy biết cầu nguyện như Chúa Giêsu đã từng làm, Ngài cầu nguyện trước mỗi công việc xin Thiên Chúa ban ơn nâng đỡ, soi sáng. Trong công việc cầu nguyện xin Thiên Chúa ban sức mạnh, sự kiên trì. Và cuối cùng khi hoàn thành thì cầu nguyện tạ ơn. Đúng là một bài học cầu nguyện tuyệt vời mà không có nơi đâu chúng ta có thể học được.
Lạy Chúa, khi bước theo Chúa Giêsu chúng con nhận ra được mẫu gương làm việc và cầu nguyện, xin cho mỗi người chúng con nhận ra sự vất vả trong công việc chính là ơn Chúa ban, để từ đó chúng con luôn biết cầu nguyện và làm việc phục vụ Chúa và tha nhân. Amen.
17. Con người trở nên vĩ đại nhờ cầu nguyện
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.)
Pascal là một nhà bác học nổi tiếng và cũng là một nhà triết gia lỗi lạc, ông đã có một câu nói thời danh để đời như sau: “Con người chỉ vĩ đại khi họ cầu nguyện”.
Thật vậy, con người là loài thụ tạo cao quý nhất mà Thiên Chúa dựng nên. Con người có giá trị trổi vượt trên các loài thụ tạo khác. Tuy nhiên, con người chỉ có thể trở nên vĩ đại nhờ có một mối tương quan mật thiết với Đấng là chủ tể của mình ngang qua đời sống cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện là chiếc cầu nối liền giữa Thiên Chúa và con người. Cầu nguyện làm cho con người tìm ra được nguồn cội, cùng đích của cuộc đời. Cầu nguyện cũng giúp cho con người biết mình phải làm gì và khước từ điều gì.
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu ngay từ sáng sớm, người lánh sang một nơi thanh vắng để cầu nguyện sau một ngày làm việc mệt nhọc với sứ vụ và tiếp tục với hành trình rao giảng Tin Mừng mới. Điều này cho thấy: cầu nguyện là việc vô cùng cao quý và quan trọng trong hành trình loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu cũng như người môn đệ.
1. Cầu nguyện không ngừng
Đã có lần, Đức Giêsu nghe các môn đệ của mình kể về thành tích mà các ông đạt được sau những ngày vất vả vì sứ vụ. Các ông trở về trong hân hoan và khoe với Ngài về thành tích đạt được, nào là: thành công trong việc chữa lành bệnh tật, nhiều người nghe lời các ông giảng và ngay cả ma quỷ cũng phải khuất phục (x. Mc 6, 30-31).
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không khen ngợi các ông, Ngài cũng chẳng đề nghị các ông tiếp tục thi hành. Và hoàn toàn không mở tiệc linh đình để tuyên dương kết quả! Nhưng Ngài nói với các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31). Nghỉ ngơi ở đây có nghĩa là trở về với Thiên Chúa và với bản thân trong sự thinh lặng nội tâm sâu xa.
Còn khi dạy các Tông đồ cầu nguyện, Ngài nói: “Phải cầu nguyện luôn mãi không ngừng nghỉ” (Lc 18,1); chỗ khác Ngài truyền lệnh: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc 14,38). Hơn nữa, khi nói về giới hạn của con người và tầm quan trọng của cầu nguyện, Ngài mặc khải: “Không có Thầy, chúng con không thể làm được gì” (Ga 15,5) Hay để khơi lên niềm tín thác vào Thiên Chúa là Đấng xót thương, Đức Giêsu khẳng định: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).
Như vậy, đời sống cầu nguyện là nền tảng để xây dựng đời sống Tông đồ nơi người môn đệ. Cầu nguyện chính là hồn sống, là thước đo để biết được người Tông đồ thi hành sứ vụ vì ai, cho ai và mục đích gì! Cầu nguyện còn để xác định rõ: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Nói cách khác, đời sống cầu nguyện được ví cá cần nước, cây cần ánh sáng, con người cần hơi thở.
2. Mẫu gương cầu nguyện nơi Đức Giêsu
Khi thấy được tầm quan trọng không thể thiếu của đời sống cầu nguyện, nên Đức Giêsu không chỉ dạy các môn đệ cầu nguyện, nhưng chính Ngài đã làm gương về đời sống cầu nguyện.
Thật vậy, Ngài luôn luôn cầu nguyện trước, trong và sau khi làm bất cứ việc gì. Ngài cầu nguyện trong sa mạc; nơi hội đường; trên triền núi; ngoài bãi biển....
Hôm nay, thánh Máccô một lần nữa cho ta thấy Đức Giêsu coi trọng và ưu tiên hàng đầu trong việc cầu nguyện, tác giả viết: "Sáng sớm lúc trời còn tối, Người đã dậy đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó" (Mc l,35).
Khung cảnh “sáng sớm” cho chúng ta thấy một đêm dài đã kết thúc và một ngày mới khởi đầu. Thái độ cầu nguyện ngay từ khi trời còn tối báo cho chúng ta biết, Đức Giêsu chắc chắn tạ ơn, chúc tụng quyền năng của Thiên Chúa qua những việc Ngài đã làm trong ngày hôm trước như: thăm viếng, chữa bệnh, trừ quỷ…. Mặt khác, trải qua một đêm có lẽ nhiều thao thức, trăn trở và lựa chọn để làm trong ngày mới, nên ngay từ sáng sớm, Ngài đã xin ý của Thiên Chúa qua việc cầu nguyện, để mọi việc được diễn ra trong thánh ý của Người. Chính vì điều này mà mọi hoạt động của Đức Giêsu đều quy hướng về Thiên Chúa và mang lại vinh quang cho Người.
Như vậy, giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa có một sự gắn kết mật thiết đến độ không thể tách rời đến nỗi đã có lần Đức Giêsu tuyên bố: “Ta và Cha ta là một”; hay "lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34 ).
3. Cầu nguyện là nền tảng cho mọi hoạt động
Ngày nay, chúng ta thấy có rất nhiều sự rạn nứt qua các mối tương quan như: rất nhiều cuộc hôn nhân đổ vỡ, vợ chồng không còn tin tưởng nhau, thiếu sự chung thủy. Nạn phá thai diễn ra như cơm bữa. Lương tâm, chân lý không còn được lưu tâm hay bị lệch lạc. Con cái vô cảm, bất hiếu và hỗn xược với đấng sinh thành. Anh chị em trong gia đình loại trừ nhau. Hàng xóm láng giềng không còn chuyện “tối lửa tắt đèn có nhau”! Thầy cô giáo và học trò ít quan tâm đến chuyện: “Tiên học lễ, Hậu Học văn”; vì thầy chẳng ra thầy, trò chẳng ra trò! Bạn bè với nhau không còn tính trung thực, mà thay vào đó là lợi dụng nhau, thanh toán nhau bằng nắm đấm, song sắt, lưỡi lê….
Nguyên nhân lớn nhất đó là thiếu hay coi thường hoặc không có đời sống cầu nguyện. Bởi vì, không cầu nguyện, con người sẽ không nhận ra Thiên Chúa là ai cũng như không biết coi trọng nhân phẩm của mình và của nhau. Không có đời sống cầu nguyện, người ta cũng không tìm ra lý tưởng và không thể trả lời được về mục đích của sự hiện hữu nơi mình trên trần gian. Đàng khác, khi đời sống cầu nguyện bị sao nhãng, người ta cũng chẳng cần quan tâm đến sự thật và lòng trung thành, từ đó, họ có thể làm bất cứ điều gì mà không sợ áy náy! Họ sẵn sàng “dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt”; hay cả phương tiện và mục đích đều xấu, nhưng lương tâm đã bị trai lỳ, vô cảm nên họ vẫn sẵn sàng làm cho kỳ được để thỏa mãn điều mong muốn một cách bất nhân.
Hơn nữa, nhiều người có cầu nguyện, nhưng sự hời hợt, qua lần chiếu lệ đã làm cho họ chẳng khác gì như hạt giống gieo nơi vệ đường, trên bụi gai và nơi đá sỏi. Hãy nhớ lại câu chuyện Tổ Tông sa ngã chỉ vì hiểu có một nửa sự thật!
Chính vì thiếu đời sống cầu nguyện sâu xa như thế, nên việc sống đạo của chúng ta bị nhàm chán, hờ hững và hình thức bên ngoài, khiến cho những công việc chúng ta làm bị phản tác dụng khi nó quy chiếu về bản thân mình chứ không hướng về Chúa.
Muốn khắc phục tình trạng trên, chúng ta cần chuẩn bị tinh thần thật minh mẫn, sốt sắng, vui tươi như thể mình đang chuẩn bị đi gặp “người yêu”. Phải thực sự có kinh nghiệm cá vị về Thiên Chúa. Mặt khác, chúng ta phải tin tưởng chắc chắn rằng, chúng ta đang ở bên Chúa, Chúa đang ở bên ta, vì thế, cần có thái độ của đức tin để phó thác, thái độ khiêm tốn để lắng nghe. Bởi vì: “Cầu nguyện là hô hấp của tâm hồn”.
Chỉ có thế, chúng ta mới có thể xóa đi cái “tôi” ích kỷ, hư ảo, kiêu ngạo, để thay vào đó là sự khiêm tốn, hiền lành và khiêm nhường như Chúa. Như vậy, nhờ đời sống cầu nguyện, chúng ta mới nhận ra: “Con người vĩ đại nhờ cầu nguyện”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đặt mình bên cạnh Chúa, được sống với Chúa, được nhìn ngắm Chúa, được lắng nghe tiếng Chúa, được gặp gỡ Chúa, và được chìm sâu trong Chúa, Đấng cứu độ chúng con ngang qua đời sống cầu nguyện. Amen.
18. Cầu nguyện, yêu thương và phục vụ
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Tháng 8 năm 1995, Liên Hiệp Bệnh Viện Phong Quốc Tế (International Leprosy Union) của Ấn Độ bầu chọn Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn lãnh giải thưởng quốc Tế Ghandi. Bộ Trưởng Y Tế liền lệnh cho Bác Sĩ và các cơ quan nhanh chóng làm hồ sơ để kịp đi. Bác Sĩ Ngoạn trả lời trong một bức thư đề ngày 9 tháng 10 năm 1995: “Tôi công tác phục vụ bệnh nhân phong đã lâu, thấy người bệnh đang còn bao nỗi khổ mà bản thân mình vì nhiều lý do cũng chưa phục vụ họ được nhiều lắm. Từ nay đến cuối đời, tôi sẽ để tâm trí phục vụ họ nhiều hơn nữa. Khi nào thấy mình xứng đáng với giải thưởng lấy tên là Gandhi, lúc đó được Bộ cho phép làm hồ sơ nhận giải thưởng thì tôi vô cùng sung sướng và thanh thản.” Sau đó qua các cơ quan y tế và Vụ Hợp Tác Quốc Tế, Bác Sĩ Bộ Trưởng gởi kèm ít chữ sau đây cho Bác Sĩ Ngoạn: “Rất thông cảm với sự khiêm tốn của anh. Đề nghị anh làm hồ sơ để nhận vì vinh dự của đất nước, ngành và cá nhân. Sau này anh dùng số tiền đó cho cá nhân hoặc cho sự nghiệp đều có lợi cả. Nên làm sớm cho kịp.” Với bức thư này, Bác Sĩ đã rất ưu tư, tìm đến gặp tôi mong được soi sáng. Tôi chân thành góp ý nên đi, để nhiều bệnh nhân được nhờ. Bác Sĩ bèn nổi nóng, cho tôi biết: “Quỳnh Giao có biết Bộ Trưởng nói gì với tôi không? Anh nhận đi, một phần dành cho anh và phần còn lại cho Bộ.” (Giải thưởng là 30.000 USD). Tôi buộc phải trả lời: “Người đáng nhận giải thưởng này nhất, là các Nữ Tu Phan Sinh và các bệnh nhân của họ.” Và Bác Sĩ đã không làm hồ sơ nhận giải thưởng trên. Nhiều nhà báo sau đó đến phỏng vấn Bác Sĩ và muốn biết vì lý do gì mà Bác Sĩ không nhận. Bác Sĩ trả lời: “Nhiều năm sống và làm việc bên cạnh những người tu hành của dòng tu này mới biết họ có một lẽ sống đặc biệt. Họ chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, tự nguyện làm những việc thiện một cách âm thầm để phục vụ những người bất hạnh. Họ không muốn những lời ca tụng. Cuộc sống của họ tuân theo một nguyên tắc thật đơn giản: “bàn tay trái không được biết việc làm của bàn tay phải và ngược lại.” Nhiều tấm gương của dòng tu này đã được nhiều bệnh nhân truyền tụng. Họ kể về soeur Charles Antoine, nguyên là giám đốc trại, có lần đến thăm nơi ăn ở của bệnh nhân, thấy một hố xí bị tắc mà không ai dám dọn, Bà liền thọc tay xuống và moi từ dưới lên những mảnh giẻ mà họ đã vô ý vứt xuống. (Trần Thị Quỳnh Giao – FMM, Một con người, một bác sĩ, một tín hữu)
Trích đoạn trên thuật lại thời gian Bác sĩ Trần Hữu Ngoạn bỏ tương lai, bỏ phố xá, bỏ cả gia đình, vợ con, để chuyên tâm phục vụ trại phung xa xôi, hẻo lánh. Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Marcô tường thuật một ngày trong đời rao giảng của Đức Giêsu. Vừa chữa xong nhạc mẫu ông Phêrô khỏi cơn sốt rét, Người còn tiếp tục chữa nhiều bệnh nhân và trừ quỷ. Sáng sớm hôm sau, Người đã ra nơi thanh vắng cầu nguyện. Rồi mời gọi các môn đệ tiếp tục lên đường rao giảng Tin Mừng.
Cầu nguyện
Suốt cuộc đời Đức Giêsu luôn kết hiệp mật thiết, gặp gỡ Thiên Chúa Cha, luôn lắng nghe Thánh Ý qua những giờ cầu nguyện hằng ngày. Để chuẩn bị cho sứ mạng loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã vào hoang mạc trọn 40 ngày đêm chay tịnh và cầu nguyện (Mt 4, 2). Bước vào cuộc đời công khai rao giảng, Người cũng thường xuyên sớm tối cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.” (Mc 1, 35)
Người còn sốt sắng cầu nguyện nhiều đêm liền trước khi quyết định chọn các Tông Đồ: “Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông, gọi là Tông Đồ.” (Lc 6, 12-13)
Sau khi làm phép hóa năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người đàn ông no nê, “lập tức, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia, về phía thành Betsaiđa trước, trong lúc Người giải tán đám đông. Sau khi từ biệt các ông, Người lên núi cầu nguyện.” (Mt 6, 45-46) Vì thế, Người luôn làm đẹp lòng Chúa Cha: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Mc 1, 11) Đức Giêsu hiệp nhất với Chúa Cha đến nỗi Người đã phán: "Bất kỳ ai thấy Ta là thấy Cha Ta" (Ga14, 9).
“Con hãy cầu nguyện luôn, bất cứ ở đâu. Chúa Giêsu đã nói: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.” (Đường Hy Vọng, số 123)
Yêu thương & khiêm tốn phục vụ
Đức Giêsu không chỉ ân cần giảng dạy, mà còn thương yêu, gần gũi, chữa trị, phục vụ những ai đau yếu, bệnh hoạn tìm đến, hoặc chính Người tìm thấy: “Lập tức họ nói cho Người về tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.” (Mc 1, 30-31) Không cần lời van xin, không chần chừ e ngại đụng chạm, cứu nhân như cứu hỏa, Đức Giêsu hành động ngay, bằng một cử chỉ thân thương, gần gũi, nhân ái, giải thoát bà nhạc mẫu của ông Phêrô khỏi cơn sốt rét. Người cũng giải thoát mọi người khỏi ma quỷ ám hại, khỏi sự dữ, khỏi tội lỗi và sự chết: "Này con, con đã được tha tội rồi." Người đã phán khi chữa lành người bất toại ở Capharnaum. (Mc 2, 5)
Hoàn toàn xả kỷ, vị tha, hy sinh, hiến mình cho tha nhân, Người chẳng nề hà liên tục chữa bệnh, trừ quỷ cho tất cả bệnh nhân nào tìm đến cả suốt buổi chiều cho đến tận tối khuya: “Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.” (Mc 1, 31-34) Khiêm tốn ẩn mình đằng sau những phép lạ, Đức Giêsu tránh khoa trương tự mãn theo thói đời. Cũng như không muốn các môn đệ nhiễm thói kiêu căng, tự phụ, tự đắc, Người bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia, ngay sau phép lạ hóa bánh ra nhiều.
“Con đừng nghĩ dấn thân là lao mình vào những hoạt động hăng say náo nhiệt. Con hãy hiểu dấn thân sâu hơn: “Theo gương Chúa, yêu thương đến mức độ quên mình hoàn toàn vì người khác, hiến mình hoàn toàn, hiến mình nhưng không, để hiệp nhất với kẻ khác, hầu họ được phong phú và công việc Chúa nơi họ được thành công.” (Đường Hy Vọng, số 605)
Quảng đại đi gieo
Ơn cứu độ vốn phổ quát cho mọi người, Không dành riêng độc quyền cho ai hay nhóm nào, cộng đoàn nào, hoặc dân tộc nào, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ nhanh chóng tiếp tục lên đường đến các cánh đồng mới. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ. (Mc 1, 38-39)
Ơn gọi truyền giáo là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn thể Dân Chúa. Hồng ân nhận biết Chúa được lãnh nhận nhưng không, thì cũng phải cho đi nhưng không.“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,” (Mt 28, 19)
“Chúa bảo con: “Hãy đi rao giảng Phúc Âm.” Chúa không ra thời khóa biểu, không vạch kế hoạch, Chúa để con sáng kiến thực hiện, niễn là con mang Phúc Âm.” (Đường HY Vọng, số 74)
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chữa bệnh tật chúng con, xin giải thoát chúng con khỏi tội lỗi, xin dạy chúng con cầu nguyện liên lỷ và xin ban chúng con can đảm rao giảng Tin Mừng đến với mọi người, mọi nơi và mọi lúc.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu chúng con biết ăn năn, sám hối, canh tân cuộc đời. Xin Mẹ nhắc nhở chúng con siêng năng cầu nguyện, để luôn được sống bên Chúa, cũng như được trở nên ngọn đuốc giữa thế gian đen tối. Amen.
19. Cầu Nguyện và Đi Gieo
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Bài Tin Mừng hôm nay tuy vắn gọn, nhưng rất rành mạch và súc tích, để mô tả khái quát một ngày tất bật và vất vả trong sứ vụ của Chúa Giêsu. Những ai tình nguyện đi theo Người, thì không thể không tuân thủ theo thời khóa biểu khít khao và tận tụy đến như thế.
Việc đầu tiên: Cầu nguyện.
Ngay sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi thanh vắng và cầu nguyện ở đó. (Mc 1, 35) Khởi đầu cho môt ngày rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu lặng lẽ cầu nguyện, để kết hợp mật thiết với Chúa Cha., để tìm hiểu và đón nhận Thánh Ý nhiệm mầu, để bổ sung nguồn lực yêu thương, để bù đắp thêm sức mạnh Thánh Thần.
Khi siêng năng chạy đến cùng Chúa Cha mỗi sáng sớm tinh mơ, Người muốn nhắn nhủ và dạy bảo các môn đệ, giờ phút cầu nguyện quan trọng biết dường nào trong sứ vụ Đi Gieo. Không cầu nguyện thì tựa như đánh mất mối giao hảo thánh thiêng với Thiên Chúa, các môn đệ sẽ dần xa cách Chúa, sẽ dần xa rời nguồn lực nuôi dưỡng và bổ sung quan trọng cho Ơn Gọi.
Việc thứ nhì: Đi Gieo
Sau khi đã thỉnh Thánh Ý, gia tăng thần lực, Chúa Giêsu mới đến với con người, tận tâm rao giảng Tin Mừng. Người không chỉ dùng lời nói xuông, mà còn cả thái độ khiêm tốn và hành vi ân cần, để gần gũi chăm sóc đoàn chiên. Khi được biết bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường, Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. (Mc 1, 31)
Như thế, Đi Gieo còn có ý nghĩa là tri hành hợp nhất. Dùng ngay hành động để minh chứng cho lời nói. mới phù hợp với nhu cầu cấp bách hiện đại. Thời nay, người ta cần những chứng nhân hơn thầy dạy, hoặc nếu cần thầy dạy thì trước tiên người ấy phải là chứng nhân. (Đức Phao-lô đệ lục)
Việc thứ ba: Phục vụ
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, chẳng kịp nghỉ ngơi Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ. (Mc 1, 34) Chúa Giêsu luôn quên cả bản thân, luôn lắng nghe, luôn đáp ứng và phục vụ những nhu cầu của mọi người, để giúp đỡ, an ủi, chữa lành những vết thương thể xác lẫn tinh thần. Noi gương Người, thánh Phaolô sau này, đã chia sẻ với tín hữu Cô rin tô: Phải, tôi là người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ cho mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để được thông chia phần phúc của Tin Mừng. (1Cr 9, 19, 22-23)
Lạy Chúa Giêsu giàu lòng thương xót, xin giúp con luôn gần gũi với Chúa hằng ngày bằng lời cầu nguyện, để con được thêm sinh lực theo đuổi Ơn Gọi mà Chúa trao phó.
Lạy Mẹ chí ái, xin đốt lửa mến trong lòng con, để con siêng năng tâm tình với Chúa, cũng như ban cho con thêm đức ái, để luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân. Amen.
20. Sống vì mọi người
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nhìn vào xã hội loài người, chúng ta nhận thấy có hai hạng người mang hai tính cách khác nhau rõ rệt: một là hạng người vị kỷ, hai là hạng người vị tha.
Người vị kỷ
Người vị kỷ là hạng người chỉ biết sống vì mình, đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống. Tất cả mọi hoạt động của họ đều quy về bản thân, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình mà không hề quan tâm giúp đỡ người khác, thậm chí còn làm hại người khác để kiếm lợi cho mình.
Người vị tha
Người vị tha là người quên mình để quan tâm chăm lo, phục vụ người khác. Chúa Giêsu là tiêu biểu cho hạng người nầy. Ngài chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của Ngài hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho sự phục vụ tận tuỵ của Ngài và Ngài làm tất cả những gì có thể, để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Ngài chỉ biết sống vì người khác, sống để cứu độ người khác đến độ hiến trao cả mạng sống mình.
Tin Mừng Mác-cô (1, 29-39) hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu, một người hoàn toàn vị tha, luôn cúi xuống trên những mảnh đời lầm than khốn khổ để giúp đỡ cứu vớt họ.
Hôm ấy, “Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Ngài. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ.”
Sáng hôm sau, “lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.”
Cầu nguyện chưa được bao lâu, “Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”
Chúa Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Ngài trong phạm vi nhỏ hẹp. Ngài muốn vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của Ngài cho một thiểu số, nhưng ban phát cho hết mọi người. Thế nên “Ngài bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Ngài đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ.”
Nói tóm lại, không một người đau khổ nào đến với Chúa Giêsu mà không được Chúa quan tâm chăm sóc. Không một kẻ bất hạnh nào gặp Chúa mà chẳng được Chúa dủ lòng thương. Chúa đến trần gian để sống cho mọi người, yêu thương hết mọi người và hiến thân phục vụ tất cả không trừ ai.
Sống vị tha theo gương Chúa Giêsu
Mỗi người là một tế bào, là một bộ phận trong một Thân Thể lớn lao là nhân loại. Mỗi cá nhân được tồn tại và tăng trưởng là nhờ xã hội và xã hội được phát triển cũng là nhờ vào từng cá nhân.
Vì thế, mỗi người không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Một cây cam được xem là đáng quý khi nó cống hiến nhiều quả ngon trái ngọt cho chủ vườn. Cũng thế, người nào có nhiều cống hiến tốt đẹp cho đời sẽ làm cho bản thân mình trở nên cao quý hơn.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa luôn vị tha và đã sống hết mình vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng ích kỷ chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho người khác.
Nếu hôm nay chúng con chỉ biết chăm lo phục vụ bản thân mình mà không dấn thân phục vụ người khác, thì vào lúc từ giã đời này, chúng con sẽ cùng chịu án phạt đời đời với lão phú hộ không biết thương xót La-da-rô khốn khổ (Lu-ca 16, 19-31), hoặc như những người bị Chúa lên án trong dụ ngôn “Phán xét cuối cùng” vì đã không yêu thương phục vụ tha nhân chung quanh mình. (Mt 25, 31-46).
21. Sống hết mình vì mọi người
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chúa Giêsu không sống vì mình hoặc sống cho mình, nhưng luôn luôn sống vì Chúa Cha và vì nhân loại.
Chúa Giêsu sống hết mình vì Chúa Cha
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa” nhưng vì yêu mến Chúa Cha và để cứu rỗi nhân loại, Người đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” (Philip 2, 6-7) sẵn sàng hoá thân làm người hèn mọn sống giữa nhân loại lầm than.
Người hiến thân trở thành một hiến lễ mới thay cho dê và bò, một hiến lễ rất đẹp lòng Chúa Cha để đền tội thay cho muôn người. Thư Do-Thái khẳng định điều đó:
“Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài.” (Do-Thái 10, 4-7)
Sở thích riêng, ước muốn riêng của mình, Chúa Giêsu sẵn sàng vứt bỏ, cốt để thực hiện ý Chúa Cha, sao cho đẹp lòng Chúa Cha:
“Ta từ trời xuống, không phải để làm theo ý Ta, mà là ý của Đấng đã sai Ta” ( Ga 6, 38)
Người coi việc thi hành ý Chúa Cha quan trọng và cần thiết như lương thực của Người. Người nói với các môn đệ: “Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta và chu toàn công việc của Người” (Ga 4, 34)
Người quý trọng ý muốn của Chúa Cha hơn cả mạng sống mình. Vì thế, Người chấp nhận hy sinh mạng sống mình để ý muốn của Chúa Cha được thực hiện. Trong vườn Dầu, Ngài đã cầu xin cùng Chúa Cha trong van lơn và nước mắt, trong khổ đau đến toát mồ hôi máu:
“Abba, lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén nầy xa con. Nhưng đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi.” (Mt 26, 39)
Chúa Giêsu sống hết mình vì mọi người
Không chỉ sống hết mình vì Thiên Chúa là Cha của Người, Chúa Giêsu còn sống hết mình vì nhân loại là anh em của Người.
Tin Mừng Mác cô hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu luôn cúi xuống trên những lầm than khốn khổ của kiếp người:
“Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.”
Và khi trời chưa kịp sáng, khi chưa có ai đến quầy rầy, Chúa Giêsu tranh thủ thời gian tĩnh lặng để gặp gỡ Chúa Cha.
“Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.”
Cầu nguyện chưa được bao lâu, “Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”
Chúa Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Người trong phạm vi nhỏ hẹp. Người muốn vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của Người cho một thiểu số, nhưng ban phát cho hết mọi người.
Thế nên “Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.”
***
Người đời thường đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống và tất cả mọi hoạt động của người ta đều quy về mình, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Trái lại, Chúa Giêsu chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của Người hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho cuộc đời phục vụ tận tuỵ của Người và Người làm tất cả những gì có thể để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Người chỉ biết sống vì người khác, sống cho phần rỗi của người khác đến độ hiến trao cả mạng sống mình.
***
Là một bộ phận trong cơ thể, quả tim không sống cho mình nhưng sống cho toàn thân, không ngừng bơm máu nuôi sống toàn thân. Phổi, gan, bao tử…cũng không sống cho mình, vì mình, nhưng là sống cho toàn thân, làm tròn chức năng được trao phó để phục vụ và nuôi sống toàn thể thân mình. Lẽ sống của mọi bộ phận trong cơ thể con người đều như thế cả.
Nếu một ngày nào đó, tim, gan, thận, phổi… không phục vụ cho toàn thân nữa mà chỉ quy hướng về mình, chỉ lo phục vụ riêng mình thì đó là ngày tận cùng của chúng.
Mỗi chúng ta cũng là những tế bào, những bộ phận của một Thân Thể lớn lao là nhân loại. Chúng ta không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải sống hết mình, phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống hết mình vì Chúa Cha và vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho họ, vì hạnh phúc chỉ thật sự đến với chúng con khi chúng con biết đem lại hạnh phúc cho nhiều người.
22. Nỗi niềm phàm nhân - Trầm Thiên Thu
Không ai lại không có nỗi niềm. Đó là mối tâm sự riêng, đôi khi khó nói ra. Nỗi niềm còn gọi là “khúc nhôi” (*). Là phàm nhân, mỗi chúng ta có nhiều nỗi niềm lắm, bởi vì “đời là bể khổ” mà!
Đã đành người đời cảm thấy đời người đầy gian khổ, mà Kinh Thánh cũng công nhận như thế. Thật vậy, sách Huấn ca gọi kiếp phàm nhân là “kiếp khốn khổ”: “Kể từ khi từ lòng mẹ sinh ra cho đến lúc trở về lòng đất mẹ, mang thân phận con người, ai cũng canh cánh bên lòng một nỗi lo, là con cháu Ađam, nợ phong trần đương nhiên phải trả. Điều không ngừng ám ảnh khiến lòng người sợ hãi âu lo là cứ phải nghĩ rằng mình đang chờ chết. Từ bậc vua chúa trên ngai vinh hiển đến kẻ cùng đinh chân lấm tay bùn, từ người cân đai áo mão đến kẻ khố rách áo ôm, ai cũng đều giận dữ, ghen tương, băn khoăn, lo lắng, rồi sợ chết, rồi hận thù cãi cọ” (Hc 40:1-4).
Ôi chao, nghe sao mà “não lòng” quá! Tuy nhiên, “Chúa vẫn xót thương, thứ tha, không tiêu diệt, nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí. Người vẫn nhớ thân phận chúng bọt bèo mỏng mảnh, gió thoảng qua, không hẹn ngày về” (Tv 78:38-39). Thế thì lại không buồn, mà vẫn tín thác, mặc dù cuộc đời vẫn ngổn ngang bao nỗi niềm của kiếp phàm nhân.
KHÓ KHĂN KÈM KHỐN KHỔ
Có lẽ chẳng ai khốn khổ bằng ông Gióp. Ông đã lâm cảnh khó khăn đến tột cùng, và chịu khốn khổ quá đỗi, vì ngay cả người vợ cũng nguyền rủa ông. Là con người nên ông cũng cảm thấy buồn, nên ông đặt vấn đề: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?” (G 7:1), và đó cũng chính là câu trả lời. Rồi ông so sánh: “Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công. Gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề” (G 7:2-3). Đó là thực tế của kiếp người, vì ai sinh ra cũng tay trắng và khi chết ai cũng trắng tay, thế mà người ta vẫn tìm cách giành giật và kèn cựa nhau đủ cách – thậm chí có thể giết người để mình hưởng lợi!
Có thể ví giọt nước mắt là “biểu tượng” của kiếp người, bởi vì cuộc đời buồn nhiều hơn vui, và luôn bị giằng co dữ dội, như Thánh Phaolô đã từng thú thật: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:19). Trong ca khúc “Một Cõi Đi Về”, cố Ns Trịnh Công Sơn cũng trăn trở: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về”. Và rồi ông lại tự nhủ: “Tôi ơi, đừng tuyệt vọng!”. Hoặc như cố Ns Y Vân đã than thở: “Buồn như ly rượu đầy, không có ai cùng cạn. Buồn như ly rượu cạn, không còn rượu để say”. Còn thi sĩ Cao Bá Quát có cái nhìn khác: “Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy? Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”. Thi sĩ trào phúng có khác. Đúng là người có máu khôi hài có thể làm cho nỗi khổ bớt “cay nghiệt” hơn.
Giữa gọng kềm Khó Khăn và Khốn Khổ, giống như trên đe dưới búa, ông Gióp tiếp tục băn khoăn: “Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: ‘Khi nào trời sáng?’. Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ chiều buông?’. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng” (G 7:4). Tại sao vậy? Ông cho biết rằng “thịt tôi chai ra, dòi bọ lúc nhúc, da tôi nứt nẻ, máu mủ đầm đìa. Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng” (G 7:5-6). Dù thất vọng nhưng ông không tuyệt vọng, mà vẫn không ngừng tín thác và cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7:7). Thực sự tín thác vào Chúa thì mới khả dĩ an tâm mà sống, và khả dĩ cảm tạ Chúa trong mọi sự:
Cảm tạ Ngài đã để con sống nghèo thê thảm
Nhờ đó con mới cảm nhận đêm Chúa giáng trần
Cảm tạ Ngài đã để con bị hàm oan
Nhờ đó con mới cảm nhận lúc Ngài bị xét xử
Cảm tạ Ngài đã để con bị người ta ghét bỏ
Nhờ đó con mới thấy cảm thương những người cô đơn
Cảm tạ Ngài đã để con là người bình thường
Nhờ đó con mới cảm nhận thế nào là mơ ước
Cảm tạ Ngài đã để con bị thua thiệt
Nhờ đó con mới biết khao khát vươn lên
Cảm tạ Ngài đã để con không hiểu thấu những điều cao siêu hơn
Nhờ đó con mới không sa vào hố kiêu ngạo
Cảm tạ Ngài đã để con được là người Công giáo
Nhờ đó con mới cảm nhận mầu nhiệm Lòng Chúa Xót Thương
Cảm tạ Ngài đã để con tha phương
Nhờ đó con mới có thể hòa đồng với người xa, kẻ lạ
Cảm tạ Ngài đã để con con mồ côi cả Cha lẫn Mẹ
Nhờ đó con mới biết trân quý tình cảm gia đình
Cảm tạ Ngài đã để con “lạc loài” giữa cuộc đời loanh quanh
Nhờ đó con mới cảm nhận thế nào là bóc lột, áp bức
Đường đời không như tấm thảm nhung, chính Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua gian khổ mới tới vinh quang. Tất cả đều là hồng ân (Rm 4:16), luôn nhờ Lòng Chúa Xót Thương, nếu Chúa chấp tội thì chắc chắn chẳng có ai đứng vững (x. Tv 130:3). Bởi vì “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta” (Ep 2:4), thế nên “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136). Đó là mầu nhiệm của tình yêu thương, của Lòng Chúa Thương Xót.
Đã là mầu nhiệm thì chúng ta không thể hiểu thấu, chỉ hiểu được phần nào mà thôi. Do đó, “hãy ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào! Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy!” (Tv 147:1). Chính Chúa “chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, và băng bó cho lành những vết thương” (Tv 147:3). Chúa đã “ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một” (Tv 147:4). Chúa còn “nâng đỡ kẻ thấp hèn và hạ bọn gian ác xuống đất đen” (Tv 147:6).
TIN TƯỞNG TIẾP TẶNG THƯỞNG
Tin tưởng là điều cần thiết trong cuộc sống – tin người và tự tin. Về tâm linh, niềm tin còn cần thiết hơn, và đó chính là đức tin – một trong ba nhân đức đối thần. Với kinh nghiệm đầy mình, Thánh Phaolô nói: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Vì “tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công, còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” (1 Cr 9:17).
Đối với Thánh Phaolô, phần thưởng là “rao giảng Tin Mừng không công”, và chân thành chia sẻ: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23). Như vậy mới thực sự hành động vì sáng Danh Chúa, vì nếu không khéo thì chỉ sáng danh chúng ta mà thôi. Tôi tìm tiếng tăm thì tôi thật tồi tệ!
Có câu chuyện về Thánh Tôma Tiến sĩ (Thomas Aquinas, 1225-1274) thế này: Có tiếng nói từ Thập Giá: “Tôma, con đã viết hay về Ta. Con muốn phần thưởng gì cho công việc của con”. Thánh Tôma trả lời: “Lạy Chúa, con chỉ muốn chính Ngài”. Và đó mới thực sự là phần thưởng tuyệt vời nhất – cả đời này và đời sau.
Thánh sử Mác-cô cho biết rằng nhạc mẫu của ông Simôn đang lên cơn sốt và nằm trên giường. Chúa Giêsu lại gần, “cầm tay bà mà đỡ dậy”, thế là “cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài” (Mc 1:31). Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Chúa Giêsu chữa. Ngài đã chữa khỏi đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ. Ngài không cho quỷ nói, vì chúng biết Ngài là ai.
Chuỗi sinh – lão – bệnh – tử là quy trình tự nhiên của đời người. Thích Ca Mâu Ni là một hoàng tử sống sung sướng trong hoàng cung, nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi ra khỏi hoàng cung và nhìn thấy thực tế của cuộc đời trần gian, thế là ông có tứ diệu đế: Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, và tử là khổ. Thế đấy, khổ là… khổ. Mà khổ thật!
Tin Mừng cho biết rằng ngay từ sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã thức dậy, đi ra chỗ tĩnh mịch và cầu nguyện ở đó (Mc 1:35). Tĩnh lặng và cầu nguyện là hai điều cần thiết, nhất là khi thức dậy mỗi sáng, nếu thực sự muốn giao tiếp mật thiết với Thiên Chúa. Trước khi làm gì thì phải đắn đo suy nghĩ. Tương tự, trước khi hành động thì phải cầu nguyện. Không thấy Thầy nên các môn đệ kéo nhau đi tìm Ngài, nhưng Ngài bảo: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1:38). Và rồi Ngài đã đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường, chữa bệnh và trừ quỷ.
Mỗi chúng ta – không trừ ai – cũng có trách nhiệm rao giảng về Chúa mọi nơi và mọi lúc, tùy theo hoàn cảnh và cương vị của mình, chính cách sống của chúng ta sẽ “nói” nhiều và có tác dụng hữu hiệu nhất. Nói ít mà làm nhiều luôn tốt hơn nói nhiều mà làm ít. Thiên Chúa cũng rất muốn người ta phải thể hiện ngôn hành song song: “Hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em, nhưng bên trong họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai. Ở bụi gai làm gì có nho mà hái? Trên cây găng làm gì có vả mà bẻ? Hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu” (Mt 7:15-17; Lc 6:43-45). Sự phân tích và dẫn chứng rất cụ thể!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con không ngừng cố gắng vẽ bức-tranh-cuộc-đời-con bằng chính nét-cọ-số-phận của chính con theo Thánh Ý Ngài và vì Ngài, thực sự mong làm sáng danh Ngài, và có thể sinh hoa kết trái tốt. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
---------------------
(*) Khúc Nhôi hoặc Khúc Nôi là danh từ cổ, thường chỉ dùng trong văn chương, nghĩa là đầu đuôi của câu chuyện lòng, của nỗi lòng, của tâm sự thầm kín. Trong phần điệp khúc của bài thánh ca “Dâng Hồn Xác”, cố NS Hùng Lân có sử dụng từ này: “Con kính dâng Cha cùng bánh và rượu nho, Hồn con đây với xác con đây, Ðền vì bao tội lỗi xưa nay. Con dám trông mong thành áng trầm thơm tho, Bay tới trước dung nhan thánh Người, cảm mến Cha lành tự tình khúc nhôi”.
23. Kiếp khổ - Trầm Thiên Thu
Đời là bể khổ. Đó là câu nói “cửa miệng” khi người ta nói tới cuộc đời. Khi sinh ra, ai cũng cất tiếng khóc chào đời. Chào đời là vui mà không cười, sao lại khóc? Phải chăng “định mệnh” đã an bài? Chúa Giêsu cũng đã nói: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34). Ông Thích Ca Mâu Ni vốn là một hoàng tử, sống sung sướng an nhàn, nhưng sau khi tham quan bốn cửa thành, ông đã nhìn thấy dân chúng đau khổ, rồi “giác ngộ” và nhận định: “Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, và tử là khổ”. Phật giáo bốn chân lý cao cả làm nền tảng, đó là Tứ Diệu Đế (còn gọi là Tứ Thánh Đế): Khổ đế (chân lý về sự đau khổ), Tập đế (chân lý về sự phát sinh đau khổ), Diệt đế (chân lý về sự diệt khổ), và Đạo đế (chân lý về đường dẫn tới sự diệt khổ).
Quả thật, cái khổ bao vây tứ phía, mở mắt ra là thấy khổ, khổ suốt ngày cho tới khuya, đôi khi nằm ngủ cũng chưa yên. Vì thấy khổ quá nhiều, Chúa Giêsu đã luôn chạnh lòng thương khi người ta chịu sự kìm kẹp của đau khổ. Ở đâu cũng có đau khổ: Ở trên, ở dưới, ở trước, ở sau, ở bên phải, ở bên trái. Chẳng tránh đâu cho khỏi nắng. Càng tránh đau khổ thì càng đau khổ. Muốn tránh khổ, chỉ có cách “đi xuyên qua nó”, tức là coi nó như không có, chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23). Đau khổ là mầu nhiệm. Dù không tỳ vết tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu vẫn PHẢI chịu đau khổ (Mt 16:21; Mt 17:22; Mc 8:31; Lc 9:22; ; Lc 17:25). Ngài chịu đau khổ để cứu độ nhân loại.
Đau khổ như ma quỷ, nó cứ “ám” chúng ta suốt ngày đêm. William Arthur Ward (1921-1994, ký giả và thi sĩ Mỹ) rút ra kinh nghiệm: “Người khôn ngoan là người học được những sự thật này: Rắc rối là tạm thời, thời gian là thuốc bổ, đau khổ là ống nghiệm” (Wise are they who have learned these truths: Trouble is temporary, time is tonic, tribulation is a test tube). Dù sao thì cũng phải ráng thôi!
Đau khổ xuất hiện ở mọi nơi và mọi lúc, từ khi Nguyên Tổ nghe lời xúi dại của Con Rắn. Thiên Chúa thấy sự ác lan tràn mặt đất nên Ngài buồn rầu (St 6:5-6). Thiên Chúa không gây ra điều ác, vì Ngài tốt lành, từ bi và nhân hậu, chính dục vọng của con người gây ra tội lỗi, và tội lỗi sinh ra cái chết (x. Gc 1:13-15). Đó là quy trình của đau khổ trên thế gian này.
Trong dịp ĐGH Phanxicô tông du Phi Luật Tân hồi trung tuần tháng 1-2015, bé gái mồ côi Glyzelle đã khiến ngài và cả thế giới mủi lòng khi em hỏi trong niếng nấc nghẹn ngào: “Tại sao Thiên Chúa cho phép chuyện này xảy ra? Trẻ em không có lỗi chi. Tại sao chúng con chỉ được một số ít người giúp đỡ?”. Một câu hỏi hóc búa quá! ĐGH Phanxicô cũng không biết phải nói gì hơn là ôm chặt em trong vòng tay yêu thương và cảm thông.
Ông Gióp là hiện thân của đau khổ, dù ông sống tốt lành. Ông nhận xét: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công; cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: ‘Khi nào trời sáng?’. Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ chiều buông?’. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng!” (G 7:1-4). Cả cuộc đời hầu như phàm nhân không được ngơi nghỉ, lo rồi sợ, sợ rồi hoang mang. Cứ thế, kiếp người bị đày đọa trong kiếp khổ triền miên, cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng!
Thất vọng rồi hầu như tuyệt vọng. Ông Gióp tha thiết cầu xin: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7:6-7). Buồn quá! Não nề quá! Thế nhưng bị đau khổ có khi lại là cái may, vì sung sướng quá có thể hóa rồ dại, lúc đó còn nguy hại hơn là chịu đau khổ.
Cái mình bảo là hên nhưng lại có thể là xui, cái mình cho là xui lại có thể là hên, giống như chuyện Tái Ông mất ngựa vậy. Nhưng tất cả đều là Thánh Ý Chúa nhiệm mầu, chúng ta không thể hiểu thấu. Vậy thì chúng ta lại phải tạ ơn Ngài mà thôi, như tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào! Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy! Chúa là Đấng xây dựng lại Giêrusalem, quy tụ dân Ítraen tản lạc về” (Tv 147:1-2).
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài đã từng mủi lòng và bật khóc khi thấy người khác chịu mất mát, đau khổ (Lc 11:35). Kinh Thánh cho biết: “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành. Người ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một. Chúa chúng ta thật là cao cả, uy lực vô biên, trí tuệ khôn lường! Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy, bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen” (Tv 147:3-6). Thiên Chúa của chúng ta luôn trắc ẩn, đặc biệt là đối với những người hèn mọn. Chính người đời còn biết nhận xét: “Cánh cửa này khép lại, cánh cửa khác mở ra”. Chắc chắn không ai phải cùng đường hoặc không lối thoát giữa những nỗi đau khổ hằng ngày trên đường lữ hành trần gian.
Dù chịu bao gian khổ, nhưng Thánh Phaolô vẫn kiên trì và tự nhủ: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Không làm điều đó thì khốn, nhưng nếu làm điều đó thì phúc. Thánh Phaolô lý luận: “Tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1 Cr 9:15-19). Chấp nhận và tự nguyện làm nô lệ tức là chấp nhận và tự nguyện chịu đau khổ. Ngược đời thế đấy!
Thánh Phaolô nói và làm thật, không nói suông: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).
Sinh, lão, bệnh, tử là bốn “mũi nhọn” chĩa vào con người. Đánh vần chữ KHỔ là “ca hát ô khô hỏi Khổ”, “ca hát” thì vui, thế mà chả vui tí ti nào. Khổ thật! Có lẽ vì thế mà ngày nay người ta đánh vần là “khờ ô khô hỏi Khổ”, khổ quá nên “khờ” phải rồi! Và Tin Mừng hôm nay (Mc 1:29-39) nói về việc Chúa Giêsu diệt trừ một trong bốn cái khổ đó.
Một hôm, vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Đây là hai “cặp bài trùng” được Chúa Giêsu gọi làm các môn đệ đầu tiên. Lúc đó, nhạc mẫu của ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. Lạ thay, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Tin lành hoặc tin dữ luôn được người ta đồn rất nhanh. Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Ngài. Thánh sử Mác-cô cho biết rõ ràng: “Cả thành xúm lại trước cửa”. Thế thì đông lắm, đông như kiến, vì ai cũng muốn tận mắt chứng kiến “sự lạ” nhãn tiền. Hôm đó, Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Ngài là ai. Ngài không cho quỷ tiết lộ bí mật vì “giờ của Ngài chưa đến”.
Hôm sau, mới sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Hành động của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng cầu nguyện là điều vô cùng cần thiết, nhất là khi mới thức dậy. Không thấy Sư Phụ Giêsu đâu, ông Simôn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Cà phê cà pháo chi sớm rứa? Ăn sáng thì càng phải từ từ chứ!
Nghe mấy đệ tử nói vậy, Ngài lại bảo họ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Chúa Giêsu luôn quan tâm và chú trọng việc cầu nguyện và làm việc. Sau đó, Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ – tức là diệt khổ cho những người đang phải chịu đau khổ.
Sai lầm dẫn tới phạm tội, tội lỗi sinh ra đau khổ. Kinh Thánh cho biết: “Có sáu điều làm Đức Chúa gớm ghét, có bảy điều khiến Ngài ghê tởm: Mắt kiêu kỳ, lưỡi điêu ngoa, tay đổ máu người vô tội, lòng mưu tính những chuyện xấu xa, chân mau mắn chạy đi làm điều dữ, kẻ làm chứng gian thốt ra lời dối trá, người gieo xung khắc giữa anh em” (Cn 6:16-19). Tránh được những điều đó thì chúng ta khả dĩ tránh được sai lầm, tránh sai lầm thì tránh được tội lỗi, tránh tội lỗi thì tránh được đau khổ.
Đau khổ có giá trị đặc biệt. Chịu đau khổ là vác thập giá, chịu đau khổ để thông phần đau khổ với Đức Kitô, để đền tội của chính mình và đền tội thay cho người khác. Cuộc đời các thánh cho chúng ta thấy rằng các ngài đều đã từng đau khổ nhiều – đau khổ tinh thần, đau khổ thể lý, hoặc cả hai dạng. Như vậy, đau khổ là điều kỳ diệu. Đau khổ càng lớn thì hạnh phúc càng nhiều!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chân nhận giá trị của đau khổ mà không than thân trách phận. Chúng con không dám xin Ngài kéo chúng con ra khỏi đau khổ, nhưng xin Ngài đừng bỏ mặc chúng con trong đau khổ. Tất cả xin vì sáng danh Chúa và cứu các linh hồn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
24. "Xin cho con một tấm lòng như Chúa"
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Văn hoá Việt Nam với bốn ngàn năm văn hiến, vẫn đề cao tình làng nghĩa xóm: "tối lửa tắt đèn có nhau". Sự liên đới yêu thương đùm bọc lẫn nhau tha thiết đến độ: "Một con ngựa đau cả tàu bỏ co". Sự liên đới đó không chỉ dừng lại ở thôn xóm, dòng tộc mà bao quát cả dân tộc trong tình thương giữa người với người như câu ca dao ngày nào vẫn phảng phất du dương: "Bầu ơi thương lấy bí cùng - Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn". Thế nhưng, truyền thống đó đang mất dần trong thế giới hôm nay. Một thế giới ích kỷ và hưởng thụ. Một thế giới theo chủ trương "Mackeno" đang làm tan rã tỉnh người. Người ta lo cho bản thân. Người ta sẵn sàng vì quyền lợi của mình mà chà đạp lên người khác, mà chồng chất nỗi đau lên tha nhân. Con người hôm nay chỉ nghĩ đến mình nên nhẫn tâm bỏ rơi đồng loại trong khổ đau và tuyệt vọng. Sống bên nhau, nhưng thương nhau thì ít mà đầy đoạ nhau thì nhiều. Sống với nhau nâng đỡ nhau thì ít mà loại trừ nhau thì nhiều. Đỉnh cao của sự tàn nhân, vô tâm trước khổ đau của đồng loại chính là thái độ thiếu trách nhiệm với nỗi khỗ của anh em.
Có một tai nạn xảy ra trên quốc lộ 1 A, một chiếc xe vận tải chở gỗ tràm đi theo hướng từ Bắc vào Nam, đã đâm trực diện một chiếc xe vận tải chở trái cây, chạy theo hướng từ Nam ra Bắc. Vụ tai nạn này đã khiến buồng lái của chiếc xe Bắc vào Nam bị bẹp dúm, còn chiếc xe từ Nam ra Bắc thì bị lật ngang, trái cây đổ tung tóe trên đường. Đáng lưu ý là trong khi cả hai tài xế và hai phụ xe của hai chiếc xe cùng bị trọng thương, cần cấp cứu thì dân chúng quanh đó lại đổ đến để... cướp trái cây. Mặc người bị nạn. Điều người ta quan tâm chính là hôi của, là ăn cắp hội đồng.
Xem ra cuộc sống hôm nay quá vô tâm! Có phải vì đói, vì thèm khát một quả trái cây mà hành động như vậy chăng? Chắc chắn là không. Chắc chắn là không ai nghèo đói đến độ không có một quả trái cây mà ăn. Có chăng là vì họ thiếu vắng tình người, sự liên đới và trách nhiệm với tha nhân! Không ai nghĩ rằng mình phải có trách nhiệm trước sự sống còn của tha nhân. Không ai bận tâm trước những rủi ro bất hạnh của anh em. Tình người xem như đang mất dần trong xã hội đề cao vật chất và hưởng thụ hôm nay.
Phải chăng cách hành xử thiếu tình người đó đang là vấn đề cần phải cải thiện của xã hội hôm nay? Phải chăng khi người ta đề cao vật chất thì tình người lại bị coi thường và chà đạp? Dường như là vậy. Nhiều người quá đau khổ vì không tìm được sự nâng đỡ cùa anh em trong những lúc gian nan. Nhiều người quá tuyệt vọng vì sự lạnh lùng, thờ ơ và bỏ rơi của gia đình và bạn bè.
Lời Chúa hôm nay mô tả một ngày làm việc thật bận rộn của Chúa Giêsu. Ngài giảng dạy trong Hội đường. Ngài cứu chữa một người bị quỷ ám. Ngài đến tận nhà nhạc mẫu Phê-rô để chữa lành cho bà. Ngài còn dành thời giờ đón tiếp rất đông khách thập phương đến để cầu cứu Ngài. Ngài đã đặt tay và chữa lành bệnh tật cho họ. Cả ngày dường như Ngài chẳng nghỉ ngơi. Ngài đã dùng cả thời giờ của một ngày để phục vụ cho lợi ích tha nhân.
Vâng, nếu cuộc đời hôm nay có nhiều tấm lòng vị tha như Chúa, thì dòng đời sẽ không còn những cái khổ triền miên như ông Gióp. Nếu cuộc đời ai cũng biết có trách nhiệm với nhau, sẽ không còn những nỗi đau của cô đơn và tuyệt vọng như ông Gióp. Ông Gióp khi đối diện với nghịch cảnh của dòng đời đã không tìm được sự nâng đỡ từ bạn bè và người thân, ông còn bị người đời chế giễu và vợ con bỏ rơi. Nỗi khổ đau và sự cô đơn đã khiến ông kêu lên trong u buồn, sầu thảm: "Số phận của tôi phải chăng là những đêm đau khổ ê chề?".
Vâng, số phận của ông Gióp và số phận của hàng vạn người quanh ta vẫn đang cô đơn và tuyệt vọng vì lối sống ích kỷ và thiếu trách nhiệm của chúng ta. Vẫn còn đó những người chồng, người vợ đang tuyệt vọng vì đời sống thiếu trách nhiệm của người bạn đời. Vẫn còn đó những người con mặc cảm, tủi hận vì cha mẹ bỏ rơi, thiếu quan tâm. Vẫn còn đó những giọt nước mắt buồn đau của phận người bị ngược đãi, bị xúc phạm, bị chà đạp lên danh dự và phẩm giá làm người. Vẫn còn đó tiếng khóc than cho phận số nghèo đói, bệnh tật, già nua đang bị anh em đồng loại bỏ rơi.
Ước gì mỗi người chúng ta có được trái tim như Chúa để có thể chạnh lòng thương xót những mảnh đời khổ đau của anh em. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm lòng như Chúa để sẵn lòng dấn thân quảng đại vì hạnh phúc tha nhân. Xin cho mỗi người chúng ta luôn có trách nhiệm với nhau, với cuộc đời. Xin đừng để ai đau khổ, thất vọng vì sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm của chúng ta. Amen.
25. Phục vụ theo gương Thầy Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Nhìn vào thực tế của nhiều đôi vợ chồng, người ta phải công nhận rằng cuộc sống lứa đôi không luôn luôn dễ dàng. Hạnh phúc gia đình luôn bị đe doạ bởi những áng mấy đen bất ngờ xông tới. Khiến cuộc sống chung luôn cảm thấy buồn nhiều hơn vui. Khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. Đến nỗi ca dao đã từng nói:
Chồng gì anh, vợ gì tôi?
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây!
Mỗi người một nợ cầm tay,
Đời xưa nợ vợ, đời nay nợ chồng.
Con đường tình yêu không êm xuôi nhưng luôn lên xuống gập ghềnh, suối thác. Vì, cuộc “trăm năm” nào cũng đầy những thử thách. Biềt bao cặp vợ chồng đang hạnh phúc rồi bỗng dưng cả hai cùng phàn nàn về nhau: không ngờ người ta đổi thay đến thế. Lúc đầu thì thế nào cũng được, miễn là yêu nhau. Nhưng rồi người ta thấy thế này là bất công, thế kia là khó chấp nhận: lẽ nào mình cứ phải quét nhà rửa bát mãi! Tại sao mình cứ phải nấu cơm đi chợ?
Rồi luôn nghĩ thiệt hơn và luôn tìm lợi cho mình mà chẳng ai chịu ai.
Khi mà không còn yêu nhau, người ta thường dễ tố cáo nhau là ích kỷ, là hẹp hòi, chẳng bao giờ làm cho mình được như ý. Quả đúng như lời nhà tâm lý Jacques Dyssord: “Tình yêu thường mở đầu bằng khoa hùng biện và rồi đổi dần ra khoa triết lý”. Từ chỗ nói cho hay trở thành cãi cho hăng. Từ chỗ chín bỏ làm mười đến chỗ kết án hờn ghen.
Thế là đời sống gia đình trở nên như một nhà tù. Có khi vì danh dự gia đình, hay để tránh không cho con cái biết, hai vợ chồng cố gắng đóng kịch, một bi kịch rất não nề thê thảm, thường tệ hại hơn cả những cuộc cãi vã lớn tiếng. Vì cãi vã xong còn nói chuyện được với nhau nhưng khi không còn gì để nói với nhau thì cuộc sống dài lê thể trong đau khổ.
Sở dĩ hôn nhân thất bại là vì họ hết còn hy sinh cho nhau, hết quan tâm chăm sóc nhau. Nhiều người khi chiếm được nhau thì họ không còn quan tâm người bạn đời, có khi còn hắt hủi, bỏ rơi nhau, khiến người bạn đời cô đơn trong chính mái ấm gia đình mình.
Đây là lúc người ky-tô hữu cần sống tinh thần phục vụ quên mình của Đức Giêsu. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng. Tình yêu Ngài không so đo tính toán. Ngài chỉ dồn hết tâm sức để mang lại niềm vui, bình an cho người mình yêu.
Lời Chúa hôm nay mô tả một ngày làm việc thật bận rộn của Chúa Giêsu. Ngài giảng dạy trong Hội đường. Ngài cứu chữa một người bị quỷ ám. Ngài đến tận nhà nhạc mẫu Phê-rô để chữa lành cho bà. Ngài còn dành thời giờ đón tiếp rất đông khách thập phương đến để cầu cứu Ngài. Ngài đã đặt tay và chữa lành bệnh tật cho họ. Cả ngày dường như Ngài chẳng nghỉ ngơi. Ngài đã dùng cả thời giờ của một ngày để phục vụ cho lợi ích tha nhân.
Vâng, nếu cuộc đời hôm nay có nhiều tấm lòng phục vụ như Chúa, thì gia đình sẽ hạnh phúc biết bao! Nếu cuộc đời ai cũng sống có trách nhiệm với nhau, sẽ không còn những nỗi đau của cô đơn và tuyệt vọng. Nếu vợ chồng biết hy sinh cái tôi của mình để hy sinh cho nhau thì hạnh phúc sẽ ngập tràn trong mái gia đình.
Thế nhưng, dòng đời vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn và tuyệt vọng vì lối sống ích kỷ và thiếu trách nhiệm của người bạn đời. Vẫn còn đó những người con mặc cảm, tủi hận vì cha mẹ bỏ rơi, thiếu quan tâm. Vẫn còn đó những giọt nước mắt buồn đau của phận người bị ngược đãi, bị xúc phạm, bị chà đạp lên danh dự và phẩm giá làm người. Vẫn còn đó tiếng khóc than cho phận số nghèo đói, bệnh tật, già nua đang bị anh em đồng loại bỏ rơi.
Ước gì mỗi người chúng ta có được trái tim như Chúa để có thể chạnh lòng thương xót những mảnh đời khổ đau của anh em. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm lòng như Chúa để sẵn lòng dấn thân quảng đại vì hạnh phúc tha nhân. Xin cho mỗi người chúng ta luôn có trách nhiệm với nhau, với cuộc đời. Xin đừng để ai đau khổ, thất vọng vì sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm của chúng ta. Amen.
26. Cúi xuống với người khổ đau
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người xưa có câu: “ngước lên chẳng bằng ai nhưng cúi xuống vẫn còn hơn nhiều người”. Câu này không hàm ý để tự an ủi mình và xem thường người hèn yếu hơn mình. Câu này cha ông chỉ muốn nhắc nhở chúng ta được như vậy là tốt lắm rồi, hãy cúi xuống mà chia sẻ với những anh em nghèo khó hơn ta.
Trong hạnh các thánh ta thấy một con người đã sống như thế, đó là thánh Martino. Ngài sinh ra trong một hoàn cảnh chẳng bằng ai, một người da mầu trong một xã hội kỳ thị chủng tộc, một đứa con bị bỏ rơi, một hoàn cảnh gia đình khó khăn… thế nhưng thay vì nhìn lên để phẫn uất vì hoàn cảnh “đen đủi” của mình, Martino lại biết nhìn xuống những người nghèo khó hơn mình, và luôn thể hiện một tấm lòng bác ái, quảng đại. Nhiều lần được mẹ sai đi mua đồ lặt vặt hay đi chợ, cậu bé Martino đã giữ lại một ít tiền để bố thí cho những người nghèo khổ; cũng thế, khi là một người giúp việc trong nhà Dòng, một vị thế rốt bét nhất trong một tập thể, Martino lại vẫn biết nhìn xuống để khám phá thấy có nhiều người nghèo khổ cần giúp đỡ, nhiều người bệnh tật cần được chữa trị và chăm sóc…
Martin đã cúi xuống để khám phá ra sứ vụ của đời mình chính là chăm sóc cho những người nghèo khổ hơn. Chính vì thế mà cuộc đời của Martin trở thành cuộc đời của một người sống lòng bác ái, lòng bao dung với thái độ sẵn sàng giúp đỡ tha nhân.
Martino đã họa lại chân dung đầy yêu thương nơi Thầy Chí Thánh Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã luôn cúi xuống mọi phận người khổ đau. Ngài thấy và chạnh lòng thương xót. Ngài cúi xuống để xoa dịu nỗi đau cho họ. Phúc âm hôm nay tường thuật việc Ngài cúi xuống với người phong hủi với lòng thương cảm sâu xa. Ngài đưa tay chạm vào thân thể lở loét của anh. Một thân thể hôi hám và dơ bẩn mà người đời đã xa tránh. Hành động này không chỉ nhằm mục đích chữa bệnh cho anh mà còn xoa dịu nỗi đau trong lòng của anh. Anh bị người đời khinh chê. Anh bị xã hội loại trừ. Người đời xếp anh vào hàng tội nhân bị Thiên Chúa giáng hoạ. Khi chạm đến thân thể anh, Chúa Giêsu cũng chạm đến tâm hồn anh. Anh được chữa lành cả hồn lẫn xác. Thân xác anh khoẻ mạnh. Danh dự của anh cũng được phục hồi. Tâm hồn anh cũng bình an và tươi vui. Từ nay anh không bị người đời xa lánh, khinh chê. Từ nay anh không còn tủi hổ vì phận số bất hạnh của mình. Qua Chúa Giêsu, anh được cộng đồng đón nhận. Nhờ Chúa Giêsu, anh được xã hội nhìn nhận. Xã hội không còn lý do để khinh chê hay loại bỏ anh ra bên lề xã hội. Giờ đây anh có thể sống tươi vui như bao con người khác trong xã hội. Anh không còn mặc cảm về bệnh tật. Anh không còn mặc cảm bị khinh chê. Anh được quyền sống như bao con người khác, được tôn trọng và yêu thương.
Trong thời đại hôm nay người ta đang nói đến hiệu ứng cách sống của Đức Thánh Cha Phanxico. Nơi Đức Thánh Cha ta thấy dường như ngài không thích ngồi trên ngai tòa của mình mà lại thích cúi xuống, đến với những con người nghèo. Ngài không ngại tiếp xúc với những người khổ đau bởi bệnh tật, nghèo đói. Ngài cúi xuống ôm hôn từng phận người bất hạnh lầm than.
Chúa Giêsu năm xưa đã đưa tay chạm đến người bệnh để chữa lành cho anh. Ngài có thể phán một lời thì bệnh tật có thể tan biến. Thế nhưng, Chúa đã sử dụng đôi tay để trao ban tình yêu và sự quan tâm trìu mến dành cho anh. Ước gì từng người chúng ta hãy biết dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương, những lời nói dịu dàng, những hành vi bác ái và vị tha. Ước gì người ky-tô hữu luôn ân cần cúi xuống để xoa dịu mọi nỗi đau cho anh em qua việc phục vụ, bác ái dấn thân đến mọi hoàn cảnh cuộc sống, hầu xây dựng một thế giới tràn đầy tình yêu và hạnh phúc. Amen.
27. Đức Giêsu: con người và hành động
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Với Kitô hữu, Đức Giêsu là Đấng rất đặc biệt, Ngài là trung gian giữa con người và Thiên Chúa, Ngài là đường dẫn con người tới với Thiên Chúa, và Ngài cũng chính là sự sống. Trong cuộc sống bình thường của Ngài, hàm chứa sự sống vĩnh cửu mà mỗi Kitô hữu được mời gọi để nhận ra mầm sống vĩnh cửu nơi cuộc đời mình.
1) Đức Giêsu giảng dạy nơi hội đường Do Thái
Đức Giêsu giảng dạy ở bất cứ đâu: ở hội đường (Mc. 1, 21), tại tư gia (Mc. 2, 2), ngoài bờ biển (Mc.2, 13). Đức Giêsu rao giảng ở bất cứ chỗ nào Ngài có thể rao giảng được. Có thể nói, nghề của Đức Giêsu là rao giảng (Mc. 1, 38).
Đức Giêsu giảng gì? Đâu là nội dung điều Đức Giêsu rao giảng? Đức Giêsu rao giảng cho người ta biết Thiên Chúa là ai. Ngài là Đấng yêu thương mọi người, và mời gọi người ta tin tưởng phó thác cuộc đời họ cho Thiên Chúa tình yêu (Mt. 6, 25tt). Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nên mọi người hãy yêu thương nhau (Mt. 5, 43-48). Hãy trở nên trọn lành như Thiên Chúa là Đấng trọn lành (Mt. 5, 48).
Nếu chỉ căn cứ vào Tin Mừng, chúng ta thấy những điều Đức Giêsu rao giảng không nhiều lắm. Có thể vì các tông đồ không có tài nhớ, nên không kể lại được nhiều; nhưng cũng có thể chỉ vì nội dung Đức Giêsu rao giảng cũng đơn sơ, vì điều quan trọng thì không nhiều. Biết là điều rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn lại là sống điều mình biết. Một khi người ta biết Thiên Chúa là ai một cách chân thực, người ta sẽ sống trong an bình và hạnh phúc hơn.
2) Người ta tuôn tới với Đức Giêsu để được chữa lành
Tin Mừng hôm nay cho thấy dân chúng tuốn tới với Đức Giêsu để được Ngài chữa lành mọi thứ bệnh tật. Có lẽ với dân chúng, nghe rao giảng cũng là một điều quan trọng, nhưng quan trọng hơn là những gì thật cụ thể và liên hệ đến chính bản thân con người. Đức Giêsu cũng hành xử một cách rất “người”. Làm được gì, Ngài làm cho con người. Một cách cụ thể, Ngài thương cảm và chữa lành tật bệnh của những người tin vào Ngài, đến với Ngài.
Bệnh tật, là cái gì rất tự nhiên và tuân theo luật lệ thiên nhiên. Những gì thuộc vật chất hữu hình đều biến đổi với thời gian, có trẻ có già, có sinh có tử. Đây là ý định của Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu chữa lành bệnh tật, là Ngài diễn tả lòng thương cảm của Ngài đối với con người. Hơn nữa, khi chữa lành bệnh tật, Ngài mặc khải cho con người chân tướng của Ngài. Một thầy thuốc chữa lành người khác, là người biết vận dụng những dược chất nơi những cây cỏ để chữa trị bệnh tật; còn Đức Giêsu Ngài chỉ dùng lời, nghĩa là, Ngài dùng quyền năng được ban cho Ngài hoặc chính Ngài có.
Bệnh tật cũng là yếu tố giúp con người tới gần Thiên Chúa hơn; bệnh tật cũng là cơ hội để giúp con người nhận ra Thiên Chúa luôn quan tâm và săn sóc con người. Trong nhãn quan của những người thuộc về Thiên Chúa, bệnh tật hay sức khỏe không có giá trị tuyệt đối, nên mỗi người hãy bình tâm với bệnh tật. Điều quan trọng là, qua sức khỏe hay bệnh tật, con người vẫn nhận ra sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người.
3) Đức Giêsu cầu nguyện
Cuộc sống của Đức Giêsu dường như bị chi phối đặc biệt bởi tình yêu đối với con người. Vì lợi ích của con người, Ngài rao giảng về Thiên Chúa cho dân chúng. Đứng trước nỗi khổ của dân, Ngài chữa lành bệnh tật cho họ, như một dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương dân Người. Nhưng chỉ như vậy thôi chưa đủ, Ngài đi tới nơi hoang vắng cầu nguyện từ sáng sớm (Mc.1, 35).
Hội Thánh dạy Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể, là Thiên Chúa; thế nhưng, chúng ta phải hiểu đúng giáo huấn của Hội Thánh. Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu là một Đấng khác với Thiên Chúa qua việc Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa. Đức Giêsu là một với Thiên Chúa, nhưng lại là Đấng khác với Thiên Chúa. Cái khác ở đây các nhà thần học dùng từ ngữ “ngôi vị” để diễn tả. Đức Giêsu không bao giờ LÀ Chúa Cha. Đức Giêsu là Ngôi Hai, hay Ngôi Lời Thiên Chúa, nhưng ở đây chữ ngôi vị khác với chữ “ngôi vị, bản vị” (person) được dùng cho con người. Tôi và bạn, chúng ta là hai ngôi vị độc lập và tách biệt tuy dù chúng ta cùng một bản tính con người; nhưng điều này không đúng khi nói về Đức Giêsu- “ngôi hai” Thiên Chúa và Thiên Chúa Ngôi Cha. Nếu chúng ta hiểu Đức Giêsu và Chúa Cha là hai ngôi vị, tương tự như tôi và bạn là hai ngôi vị độc lập nhưng cùng một bản tính (một đàng là bản tính người, và một đàng là bản tính Thiên Chúa) thì lúc đó chúng ta hiểu Đức Giêsu và Chúa Cha là hai chúa khác nhau; điều này không đúng giáo huấn của Giáo Hội. Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha là hai ngôi vị, nhưng cả hai không chỉ là cùng bản tính Thiên Chúa mà Đức Giêsu còn tùy thuộc Thiên Chúa đến độ không thể nói là hai Chúa, mà phải nói là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, chỉ có một hiện hữu Thiên Chúa duy nhất. Điều này Giáo Hội diễn tả bằng từ ngữ “không có ngôi nào có trước ngôi nào tuy dù Chúa Cha sinh Chúa Con, không có ngôi nào hơn kém ngôi nào.” Đây là những từ ngữ để diễn tả về mầu nhiệm Giêsu, con người vô cùng đặc biệt mà dường như không từ ngữ nào diễn tả hoàn toàn được. Hội Thánh cũng cố gắng diễn tả hết sức mình, để các tín hữu hiểu hơn về Đức Giêsu Kitô thôi.
Đức Giêsu cần cầu nguyện, vì dường như cầu nguyện làm Ngài là Ngài hơn, giúp Ngài kết hợp với Thiên Chúa hơn, làm Ngài triển nở và trọn vẹn hơn. Cầu nguyện diễn tả Ngài là một với Thiên Chúa tuy dù lúc nào Ngài cũng kết hợp với Thiên Chúa. Cầu nguyện diễn tả Ngài tùy thuộc hoàn toàn Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa muốn gì Ngài sẽ thực hiện như vậy. Qua cầu nguyện, Ngài là Ngài, Ngài triển nở và hạnh phúc. Chính khi Đức Giêsu tùy thuộc Thiên Chúa hoàn toàn, cho thấy Ngài là một với Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta khi cầu nguyện, chúng ta được được nên giống Đức Giêsu hơn, làm một với Thiên Chúa hơn, trở nên con của Thiên Chúa hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, cầu nguyện có được lợi ích gì không? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa hoặc những lợi ích bạn được qua việc cầu nguyện.
2. Có điểm nào cuộc sống của bạn giống cuộc sống của Đức Giêsu? Đức Giêsu và bạn, giống nhau và khác nhau ở những điểm nào?
28. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy
NHỮNG HOẠT ĐỘNG VÀ CẦU NGUYỆN CỦA ĐỨC GIÊSU
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay tường thuật cho chúng ta về những hoạt động và những giờ phút yên tĩnh của Đức Giêsu khi Người bắt đầu đời sống công khai ở Ga-li-lê-a. Suốt cả một ngày Người đã luôn năng nỗ và không bao giờ mỏi mệt chu toàn sứ mệnh mà Chúa Cha đã giao phó. Sứ mệnh chính yếu của Người là việc rao giảng Nước Thiên Chúa cho hết mọi người: “Chúng ta hãy đi sang các làng bên cạnh; Thầy cũng muốn rao giảng ở những chỗ đó nữa, bởi vì Thầy được sai đến là để làm chuyện đó”. Lời nói này của Đức Giêsu đã giúp chúng ta hiểu được chính xác hơn mục đích của những phép lạ Người đã làm: Tất cả đều nhắm phục vụ cho công cuộc thuyết giáo của Đức Giêsu về “Nước Trời sắp đến gần”. Mọi lời giảng dậy và mọi việc Người làm đều hoàn toàn nhắm tới sứ mệnh rao giảng Tin Mừng như mục đích duy nhất. Trước hết những lời nói và việc làm của Người là mạc khải cho những người có đức tin mầu nhiệm về Nước Thiên Chúa (x. Mc 2,10-12; 4,11). Như có lần thánh Augustinô đã viết: “Các phép lạ cũng có ngôn ngữ riêng, nếu như người ta hiểu được chúng: Chúng nói về Đức Kitô” (In Johann. Tr. 24,2)
Bởi vậy, Phúc Âm nhắc lại cho chúng ta về Đức Giêsu, Đấng đã chữa lành cho bà mẹ vợ của Simon, cho những bệnh nhân và những người bị quỉ ám mà vào cuối ngày người ta đã khiêng tới đặt trước cửa nhà Simon và Anrê để xin Người chữa cho. Nhưng việc quan trọng không phải là để mong được chữa lành bệnh, nhưng là để lắng nghe Đức Giêsu thuyết giáo về Nước Trời. Tiếp đến, ngày xưa cũng như hôm nay, điều người ta cần phải làm là dứt khoát đáp lại lời kêu mời của Đức Giêsu và sống như Người đã sống.
Tuy nhiên, một khi người ta đã không muốn tin và không đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu thì cũng không thể hiểu biết được lời giảng và việc làm của Người (x. Mc 8,11). Dù cho họ có chứng kiến hay nghe nói về các phép lạ Người đã làm bao nhiêu lần đi nữa, thì con mắt tâm hồn họ vẫn trong cảnh mù lòa (x. Mc 4,12).
Do đó Đức Giêsu đã dứt khoát và mạnh mẽ từ chối chứng nhân của ma quỉ. Người chỉ muốn thức tĩnh đức tin nơi mỗi người bằng chính lời nói và việc làm của mình. Do đó Người đã bỏ thành Ca-pha-na-um để đi sang các thôn xóm kế cận rao giảng. Đức Giêsu giảng thuyết cho dân chúng về Nước Thiên Chúa và trừ khử ma quỉ. Vì Người đến trong thế gian là để thực thi chuyện đo.
Những hoạt động hăng say cho Nước Trời như thế của Đức Giêsu chỉ bị gián đoạn bằng những giờ phút cầu nguyện hàn huyên với Chúa Cha trong nơi thanh vắng. Đó chính là những giờ phút nghĩ ngơi yên tĩnh của Người. Nơi Đức Giêsu: cuộc sống và sự cầu nguyện, cầu nguyện và cuộc sống hoàn toàn đan kết chặt chẽ với nhau: “Vào buổi sáng sớm, khi trời còn tối, Đức Giêsu đã chỗi dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó”. Đây là lần đầu tiên thánh sử Mác-cô tường thuật về sự cầu nguyện của Đức Giêsu. Trong những phần kế tiếp của bản Phúc Âm, thánh nhân còn trình bày chân dung Đức Giêsu như là gương mẫu trong sự cầu nguyện, và đồng thời thánh nhân cũng đã nhắc đến lời cảnh giác của Đức Giêsu là phải cầu nguyện thế nào cho đúng đắn.
Trong bốn thánh sử ghi chép Phúc Âm chỉ có thánh Mác-cô nhấn mạnh đến việc Đức Giêsu đã đi tới một nơi thanh vắng để Người cầu nguyện. Vâng, đoạn Phúc Âm ghi lại là sau khi làm phép lạ đầu tiên khiến bánh hóa nhiều để nuôi dân chúng, Đức Giêsu đã đi lên Núi một mình “để cầu nguyện” (6,46). Trong Phúc Âm thánh Mác-cô người ta còn đọc được lời cầu nguyện tha thiết của Đức Giêsu cùng Chúa Cha trong cơn sầu khổ tột độ: “Áp-ba, Cha ơi” (14,36). Kiểu nói “Áp-ba, Cha ơi” trong tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu là kiểu nói đầy trìu mến của một đứa trẻ nói với cha ruột của mình. Kiểu nói “Áp-ba, cha ơi” vào thời Đức Giêsu chưa một ai dám xử dụng để xưng hô với Thiên Chúa. Chỉ có Đức Giêsu là người đầu tiên duy nhất đã xử dụng kiểu nói đó. Đúng vậy, như một đứa bé lúc gặp phải nguy tử đã chạy đến ôm chặt vào cha mình, Đức Giêsu đã chạy đến cùng Chúa Cha và tin tưởng van nài: “Áp-ba, Cha ơi, đối với Cha tất cả mọi sự đều có thể. Xin Cha cho con khỏi uống chén đắng này. Tuy nhiên, xin Cha đừng làm theo ý con, nhưng hãy làm theo ý Cha” (14,36). Tình con thảo và lòng tin tưởng phó thác tuyệt đối của Đức Giêsu trong khi câu chuyện trao đổi với Chúa Cha trên đã giúp cho chúng ta hiểu rõ được lời cầu nguyện của Người trong lúc hấp hối trên thánh giá: “Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ rơi con?” (15,14). Đây không phải là lời kêu hốt hoảng vô ý thức hay một sự bộc lộ thất vọng cay đắng. Trái lại, trong cơn hấp hối đầy sợ hãi, Đức Giêsu đã xướng lên câu đấu của một thánh vịnh (Tv 22,2) như một lời nguyện thầm, mà kết cấu là sự phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa: “Chúa đã nhậm lời con xin” (Tv 22,22)
Đức Giêsu cầu nguyện luôn và người mời gọi chúng ta cũng hãy cầu nguyện không ngừng. Thánh sử Mác-cô đã ghi lại những lời nhắc nhở của Đức Giêsu về sự tĩnh thức cầu nguyện. Vâng, con người luôn phải siêng năng và tĩnh thức cầu nguyện, vì cuộc đời con người là một cuộc chiến đấu dằng co với đủ mọi thứ thù địch, trong đó gay cấn nhất là cuộc “nội chiến” trong chính mình: Con người phải chiến đấu chống trả những cám dỗ (14,38), những xu hướng và những đòi hỏi quá độ của thân xác. Tiếp đến, con người phải đề phòng những nghịch cảnh và những hoạn nạn sẽ xảy đến trong những ngày sau hết (13,18tt). Nhưng theo Phúc Âm Mác-cô, muốn cho lời cầu xin của mình được chấp nhận, con người cần phải thỏa mãn được hai điều kiện tiên quyết mà Đức Giêsu đã đặt ra, đó là sự tin tưởng phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa (11,22-24) và sự luôn sẵn sàng tha thứ, hòa giải với đồng loại (11,25; Mt 6,14-15).
Trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu, những giờ phút cầu nguyện yên tĩnh trong nơi thanh vắng thực sự là thời gian tĩnh dưỡng, là thời gian “lấy lại sức” để tăng cường cho các hoạt động thuyết giáo của Người. “Ora et labora” - Cầu nguyện và làm việc - đã được Đức Giêsu bắt đầu ở Na-da-ret trong suốt 30 năm trời và nay lại được tiếp tục trong cuộc sống công khai của Người. Điều đó đã đủ nói lên rằng: Cầu nguyện và hoạt động là hai điều kiện tất yếu cho cuộc sống của tất cả mọi Kitô hữu và nhất là của những ai dấn thân làm việc Tông đồ rao giảng Nước Thiên Chúa.
Một điểm khác đáng ghi nhận trong phần cuối bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay là thánh sử Mác-cô đã nhắc đến thánh Phêrô. Với tính bộc phát và hăng hái sẵn có của mình, Simon Phêrô đã dẫn các bạn đồng nghiệp đi lục soát tìm kiếm Đức Giêsu khắp nơi, và khi gặp được Người đang cầu nguyện trong một nơi hoang vắng liền thối thúc Người: “Thưa Thầy, ai nấy đều đi tìm Thầy đó”, chứ ông không hề nghĩ đến chuyện phải tôn trọng “giờ cầu nguyện” của Thầy. Chắc chắn rằng vào lúc bấy giờ Simon Phêrô chưa hiểu được việc cầu nguyện đối với Đức Giêsu quan trọng như thế nào! Ông cũng chưa biết đánh giá được sự yên tĩnh, sự lắng đọng của tâm hồn, hầu có thể nghe được tiếng Chúa, hầu có thể chìm sâu vào trong cầu nguyện!
Phải chăng trong cuộc sống hằng ngày đã có biết bao lần chúng ta cũng đã tư duy và hành động tương tự như Simon Phêrô xưa? Thật sự, đời sống đức tin, đời sống Kitô hữu của chúng ta đang phải đứng trước những mối đe dọa nguy hiểm trầm trọng, nếu chúng ta - vì bất cứ lý do gì - coi thường hay rút ngắn những giờ phút cầu nguyện yên tĩnh trong sự lắng đọng của tâm hồn, để lao mình vào đủ thứ công việc - công việc sinh nhai cũng như công việc tông đồ. Vì đời sống một người mà thiếu cầu nguyện, những hoạt động tông đồ mà không có sự cầu nguyện kèm theo thì chỉ là cái xác không hồn hay chỉ là những chiếc xe thiếu xăng dầu.
Vâng, bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay tường thuật về các hoạt động và cầu nguyện của Đức Giêsu, đã đặt ra cho lương tâm mỗi người Kitô hữu một vấn nạn thực tiễn: Liệu trong suốt chuỗi ngày sống, tôi còn dành cho mình có được giây phút nào đó để cầu nguyện nữa không? Ước gì gương sống của Đức Giêsu - Ora et labora - có được “tiếng dội” trong những ngày sống sắp tới của chúng ta.
29. Tiếp xúc với Cha trên trời
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Không tôn giáo nào mà không chú trọng đến sự cầu nguyện, tuy cách thức có khác nhau. Dân Do thái ngày xưa, mỗi khi đi chinh phạt các dân ngoại hay dân phản động chung quanh, thì ông Maisen phải lên đỉnh núi giang hai tay ra cầu nguyện. Lúc nào ông giang hai tay ra cầu nguyện thì lúc đó quân Do thái thắng, trái lại lúc nào ông hạ tay xuống thì dân Do thái thua. Nên dân Do thái phải cắt người đỡ hai tay để ông Maisen có thể giang tay cầu nguyện mãi mãi cho dân để đánh thắng các quân địch.
Đức Giêsu cũng làm gương cho chúng ta về sự cầu nguyện. Ngài đã tận dụng những giờ phút tĩnh lặng, những nơi thanh vắng, nhất là ban đêm để tiếp xúc với Cha Ngài. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng phải chuyên cần cầu nguyện, tiếp xúc với Chúa trong mọi hoàn cảnh. Hãy tập cho có thói quen biến những công việc thường ngày của chúng ta thành những lời kinh sống động dâng lên Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: G 7,11-.6-7.
Đoạn sách Gióp hôm nay cho ta thấy cái nhìn bi quan của người Do thái trước đau khổ: con người sẽ phải chết, mọi chân trời đều bị bít lại, tất cả đều ê chề, tuyệt vọng, vô nghĩa. Ông Gióp là một người thánh thiện, không thể hiểu được tại sao ông lại bị phạt trong khi ông không ý thức được rằng mình đã phạm tội. Tuy nhiên, ông không quay lưng lại với Chúa, ông âm thầm chịu đdựng và đợi trông...
Cái nhìn bi quan này sẽ được sửa sai bằng gương làm việc của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay,
+ Bài đọc 2: 1 Cr 9,16-19,22-23.
Thánh Phaolô tự nhận là mình có nhiệm vụ phải rao giảng Tin mừng:”Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Ngài cố gắng thi hành nhiệm vụ này một cách vô vị lợi, không tìm vinh danh cho mình nhưng chỉ dành cho Chúa. Chính vì thế, Ngài đã cố gắng trở nên mọi sự cho mọi người, chia sẻ những sự yếu đuối của anh em, sống cuộc sống của họ, tự đặt mình làm tôi tớ phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo hèn, và mục đích của Ngài là tranh thủ đem về cho Chúa Kitô nhiều linh hồn.
Thánh nhân cho biết Ngài rao giảng Tin mừng một cách tự nguyện chứ không phải do một động lực nào khác bó buộc Ngài.
+ Bài Tin mừng: Mc 1,29-39.
Thánh Marcô cho chúng ta biết một ngày làm việc tiêu biểu của Đức Giêsu ở thành phố Capharnaum, thành phố của Phêrô và Anrê. Ngài giảng dạy ở hội đường, chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon cho khỏi cơn sốt, chữa nhiều bệnh nhân và trừ qủi từ chiều cho đến tối. Sáng sớm tinh sương đi cầu nguyện nơi thanh vắng, và tiếp tục đi rao giảng ở những nơi khác. Tóm lại, Đức Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày và trừ qủi.
Những công việc bận rộn như vậy cũng không hề làm cho Ngài mất tiếp xúc với Cha của Ngài ở trên trời. Ngài sẽ dùng nhiều thời giờ nghỉ ban đêm để sống thân mật với Cha Ngài ở trền trời. Ngài sẽ dành nhiều thời giờ ban đêm để sống mật thiết với Cha Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Cầu nguyện và làm việc.
I. ĐỨC GIÊSU VỚI SỰ CẦU NGUYỆN.
1. Đức Giêsu làm việc và cầu nguyện.
Đức Giêsu là gương mẫu của sự cầu nguyện. Cách đây không lâu, Đức Giêsu đã lên rừng ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày. Thánh Marcô hé mở cho ta biết Đức Giêsu một mình sáng sớm lên nơi thanh vắng để cầu nguyện. Suốt ngày Ngài bận rộn với công việc rao giảng Tin Mừng: giảng dạy ở hội đường, chữa bệnh, trừ qủi, tiếp xúc với mọi người, trưa về nhà tiếp xúc với môn đệ. Trong khi mọi người còn ngon giấc thì Đức Giêsu đã lên núi cầu nguyện một mình. Đây không phải là lần cuối, mà luôn luôn như vậy. Ngài đã tỏ ra rất ham mộ cầu nguyện, nhất là trước những việc trọng đại.
Đọc Tin mừng, chúng ta thấy rất nhiều lần Đức Giêsu đã đi cầu nguyện và cầu nguyện nơi thanh vắng:
Vừa khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả, Chúa lắng sâu trong cầu nguyện và đồng thời cửa mở ra (Lc 3,21 ; Ga 1,32-34).
Năm đầu cuộc đời công khai, ngày sabat Chúa vào hội đường cầu nguyện (Lc 5,16).
Đêm áp ngày Chúa chọn 12 tông đồ, Chúa đã lên núi và cầu nguyện suốt đêm(Lc 6,12).
Trước khi Chúa hỏi các tông đồ về dư luận dân chúng về Ngài, Chúa đã tìm nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Lc 9,18).
Trước khi biến hình Chúa đã lên núi cầu nguyện (Lc 9,28) và trong khi cầu nguyện thì Ngài biến hình.
Lần kia, sau khi thấy Chúa rời các ông để cầu nguyện, các Tông đồ xin Chúa dạy các ông cầu nguyện như Gioan đã dạy các môn đệ của ông. Và Chúa đã dạy các ông kinh Lạy Cha (Lc 11,1-4).
Hơn nữa, nhất là trong giờ hấp hối trong vườn Cây Dầu, Chúa đã cầu nguyện thống thiết tới 3 lần (Lc 22,40-45).
Tại sao Đức Giêsu lại hối hả đi cầu nguyện như vậy? Trước hết là vì Ngài khao khát sống một mình với Cha Ngài, và lấy làm sung sướng khi ở riêng với Cha Ngài.
2. Đức Giêsu dạy ta cầu nguyện.
Đức Giêsu đã cầu nguyện và đã làm gương cho ta về sự cầu nguyện. Rất nhều lần Ngài đã khuyên các môn đệ cầu nguyện. Ta chỉ ghi ra đây một số trường hợp:
. Cầu nguyện trong thinh lặng: vào phòng đóng cửa lại và cầu nguyện với Cha nơi kín ẩn (Mt 6,6).
. Cầu nguyện với lòng tin: Thiên Chúa có thể ban mọi sự (Mc 11,23-24).
. Cầu nguyện với Cha chúng ta ở trên trời (Lc 11,13).
. Cầu nguyện không nhiều lời (Mt 6,7).
. Biết tha thứ cho người khác để Cha trên trời có thể tha thứ cho chúng ta (Mc 11,25).
. Với lòng khiêm tốn và thống hối như người thu thuế tội lỗi (Lc 18,9-14).
. Cầu nguyện không ngừng (Lc 19,1).
. Cầu nguyện chung với người khác (Mt 1118,119).
. Nhận biết ân huệ của Thiên Chúa (Ga 4,10).
. Xin những sự trên trời (Ga 6,27).
. Kinh Lạy Cha (Lc 11,2t ; Mt 6,9-13).
Đức Giêsu đã cảnh báo Phêrô về nguy cơ ma qủi làm cho ông bị sa ngã, phải luôn tỉnh thức và đề cao cảnh giác:”Phêrô, ma qủi nó sàng con như sàng gạo”. Sức riêng của loài người không thể chống lại được sức mạnh của ma qủi, nên phải cậy nhờ vào ơn Chúa, đừng cậy vào sức riêng mình.
Về điểm này, Đức Cha Tihamer Toth đã nói chuyện với thanh niên như sau:
”Bạn không muốn sao lãng những công việc bề bộn, thế thì, bạn ơi, hãy nghe tôi: Đây là chiếc tầu vượt đại dương bắt đầu mở máy giữa lúc giông tố nổi to, và một đoàn hải điểu theo bên như những tầu khác khởi hành. Chiếc tầu nọ mở hết tốc lực mà không vượt được những làn sóng dữ dội. Gió ngược mạnh vô cùng, chiếc tầu nghiêng ngả. Cả bộ máy rung chuyển, nhưng chiếc tầu chỉ tiến khó khăn được đôi chút. Một hành khách thương hại nói:”Khốn nạn đàn hải điểu. Mở máy tới hàng trăm, hàng ngàn mã lực thế mà chúng ta chỉ tiến được đôi chút thôi. Chim ơi, chim làm được gì với đôi cánh mong manh và bắp thịt yếu đuối”?
Nhưng người hành khách thương hại bỗng nói và cảm động vô ngần:”Đàn hải điểu nhẹ nhàng bay lượn với đôi cánh Đức Chúa Trời ban cho. Chúng gối lưng lên gió vật. Và trong khi chỉ còn một việc, chỉ trông cậy có máy móc, người ta tiến rất khó khăn, rất vất vả, thì đàn hải điểu vượt nhẹ nhàng lên trước chiếc tầu với đôi cánh khéo léo, bay lượn thay cho sức yếu đuối của mình”.
Bạn ơi, chiếc tầu đó là hình ảnh kẻ muốn thắng bằng sức riêng mình. Đôi cánh chim hải điểu là hai tay người ta giơ lên trong lúc cầu guyện. Bạn có còn cho rằng thời giờ bạn nguyện ngắm là thời giờ bỏ phí không? Bạn có còn nói rằng bạn không có thời giờ cầu nguyện không”? (Tihamer Toth, Chúa Cứu thế với Thanh niên, tr 209).
3. Giáo huấn của Giáo hội.
Việc cầu nguyện phát xuất do chức Linh mục vương giả:”Phần tín hữu nhờ chức Linh mục vương giả, cộng tác dâng Thánh lễ, và thi hành chức vụ đó trong việc lãnh nhận các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn. Bằng đời sống chứng tá thánh thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực” (Hiến chế về Giáo hối, số 10).
“Mọi người phải nhớ rằng nhờ phụng vụ và cầu nguyện, nhờ sám hối và tự ý chấp nhận công việc cũng như những khổ cực của cuộc đời làm cho nên giống Chúa Kitô đau khổ, họ mới có thể ảnh hưởng tới mọi người và đem ơn cứu độ cho toàn thế giới” (Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, số 16).
II. CHÚNG TA VỚI SỰ CẦU NGUYỆN.
1. Nói về sự cầu nguyện.
a) Cầu nguyện là gì?
Chúng ta không muốn định nghĩa sự cầu nguyện như các nhà tu đức học mà chỉ nói đơn sơ như thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nói:”Con đã ở như một đứa trẻ không biết chữ: con cứ đơn sơ thật thà than thở cùng Chúa những điều con ước muốn, bao giờ con cũng được Chúa hiểu thấu tình.
Với con, cầu nguyện chỉ là một cơn lòng sốt sắng, một liếc mắt nhìn lên trời, một tiếng kêu tri âm, một lời nói tình giữa lúc phải gian nan khốn cực, cũng như khi được bình an vui sướng. Và nữa, cầu nguyện là một cái gì cao thượng, siêu nhiên cởi mở lòng, phơi giãi linh hồn, trao đổi lại tâm tình, để được kết hợp cùng Chúa cách chí thiết” (Trích Một tâm hồn, Kim Thiếu dịch, tr 204).
Cầu nguyện có thể ví như tình yêu. Chúng ta không thể học yêu qua sách vở được. Phải có phần thực hành. Cầu nguyện ví như học bơi lội. Muốn biết bơi thì phải nhào xuống nước, không thể vừa khô ráo trên bờ vừa lại biết bơi. Cầu nguyện cũng như việc học gia chánh. Muốn thực tập làm các món ăn thì phải lăn vào bếp. Cầu nguyện cũng giống như việc chăm sóc mảnh vườn. Muốn có hoa đẹp thì phải trồng, phải phân bón, phải có nắng, phải tưới nước và phải chăm làm cỏ. Cầu nguyện không là một đề tài để bàn luận, nhưng là một thực tại để sống. Chúa Kitô là thầy dạy chúng ta, và tất cả chúng ta đều là học trò trong lớp “cầu nguyện”. Muốn có một đời sống sung mãn trong Chúa Kitô, chúng ta phải cầu nguyện (Thanh Thủy, Con đường tình yêu, tr 197).
b) Cấp độ của sự cầu nguyện.
Có nhiều cách cầu nguyện. Thường thường người ta cho rằng cầu nguyện là chuyện vãn với Chúa, là một cuộc đối thoại, mình phải nói với Chúa, nói cho nhiều cho Chúa nghe. Cũng có người có ý kiến cao hơn: cầu nguyện là lắng nghe tiếng Chúa, cầu nguyện chỉ là cơ hội để Chúa nói với ta. Tất cả đều đúng.
Nhưng cầu nguyện cao nhất là sự thinh lặng tuyệt đối, trong đó chẳng ai nói mà cũng chẳng ai nghe vì lúc đó giữa Chúa và ta có một sự kết hợp mật thiết rồi, một sự kết hợp cao độ đến nỗi không còn phân biệt giữa Chúa và ta nữa. Tư tưởng này đã được Cha Anthony de Mello diễn tả trong câu chuyện sau đây:
Truyện: Sự im lặng tuyệt đối.
Sau một ngày học hành mệt nhọc, người bạn trẻ thường có thói quen ghé ngang qua nhà thờ để viếng Chúa, và lần nào cũng bắt gặp một cụ già ngồi yên lặng trước Thánh Thể trong nhà tạm. Ngày kia, người bạn trẻ chờ cho cụ cầu nguyện xong, tiến đến gần và hỏi:
- Cụ ngồi lâu giờ như vậy, có nghe Chúa nói gì với cụ không?
Cụ già chậm rãi trả lời:
- Chúa không nói gì hết, Ngài chỉ nghe thôi.
- Vậy thì cụ nói những gì với Chúa?
- Lão cũng chẳng nói gì cả, chỉ nghe thôi.
Thấy người bạn trẻ có vẻ ngỡ ngàng, cụ nói tiếp:
- Lão thấy có 4 giai đoạn trong đời sống cầu nguyện. Thời gian đầu thì lão nói, Chúa nghe, sau đó thì Chúa nói, lão nghe. Giai đoạn kế tiếp thì không ai nói hết vì cả hai cùng nghe và có lẽ giai đoạn cuối là lúc không ai nói mà cũng không ai nghe. Tất cả chỉ là một sự thinh lặng tuyệt đối (Dựa theo truyện của Anthony de Mello, Taking Flight).
Một trong những yếu tố quan trọng trong việc cầu nguyện là sự thinh lặng. Chúng ta cần sự thinh lặng, vì chính trong sự thinh lặng này – một sự thinh lặng mà người “hướng ngoại” không thể nào chịu nổi – Chúa Cha sẽ nói với ta lời của Ngài, Chúa Kitô sẽ chia sẻ với chúng ta ý nghĩa của mầu nhiệm Chết và Phục sinh của Người, và Chúa Thánh Thần sẽ thôi thúc để chúng ta tìm ra đường hướng Chúa muốn chúng ta đi. Ngày nay, con người dường như rất sợ sự thinh lặng, do đó con người tạo ra trăm ngàn cớ để chạy trốn cái giây phút tĩnh lặng trước mặt Chúa, Đấng lột trần cho thấy sự hư vô tột cùng của kẻ từ chối chấp nhận mình nghèo khó và yếu đuối. (Thanh Thủy, op.cit. tr 203-204)
c) Cầu nguyện rất cần thiết.
Việc cầu nguyện có thể ví được như cách điều chỉnh radio và vô tuyến truyền hình. Chúa và ân sủng của Ngài lúc nào cũng sẵn sàng, bàng bạc khắp không gian như luồng điện. Con người nào không cầu nguyện cũng ví như máy thu thanh và vô tuyến truyền hình không bao giờ dùng tới. Muốn cho các máy đó bắt đúng luồng sóng, đúng tần số, ta cần điều chỉnh nhẹ nhàng, trong thinh lặng để các máy đó bắt đúng tần số; bằng không, vẫn chơ vơ một mình, đơn chiếc, lẻ bóng và chẳng ích lợi gì.
Hơn nữa, việc cầu nguyện còn có thể ví như “xạc” bình điện. Chúng ta ưa phóng ngoại, để chạy theo những cái hào nhoáng, những hấp dẫn bên ngoài, thích chạy trên chính mình chẳng khác gì bình điện xài luôn nên hết điện, hết năng lực. Thế nên cần phải có thời gian nghỉ ngơi, thinh lặng để “xạc” lại bình, để hấp thụ và để bắt liên lạc với chính nguồn điện lực.
Giờ cầu nguyện là lúc bồi dưỡng, chuyển hóa, thăng hoá chính bản thân mình như bắt lại với chính nguồn là Thiên Chúa, chính Thánh Thần là Tình Yêu, để ta được gọi Thiên Chúa là Cha (Rm 8,1-5 ; Gl 5,22-26). Nhờ đó con người được đổi mới (Cl 3,9-11) tìm lại được con người nội tâm (Rm 7,22) của chúng ta. Tìm gặp, biến thể và hoà đồng với chính Tình yêu.
Thật vậy, ta có thể nhận ra và cảm nghiệm được kết quả của việc cầu nguyện qua biến thể tâm hồn và đổi mới của thiếu phụ Samaria bên bờ giếng Giacóp; hoặc như hai môn đệ đi Emmau trong lúc lòng buồn và chán nản, xa rời tập thể, thế mà sau khi đã tâm sự với Chúa cải trang thành bộ hành, các ông đã nhận ra Chúa, tìm lại niềm tin vui và vội vã trở về với cộng đoàn (Lc 24,13-35) (Thái Hoà, Cải tiến Công giáo VN, số 7-8, tr 130-131).
Truyện: Luther bỏ cầu nguyện.
Tại bảo tàng viện ở Wittenberg (Đức) người ta còn lưu giữ một lá thư của một tu sĩ dòng Augustinô rất thời danh, mới 35 tuổi, đã làm tới chức Giám tỉnh. Bức thư như sau:”Tôi quá bận rộn, phải đi dạy học, giảng thuyết, viết sách, tôi làm quản lý, bắt cá ở hồ... nên không có giờ đọc kinh, không có giờ nguyện gẫm, không có giờ dọn mình dâng Thánh lễ, có lúc phải bỏ luôn cả lễ...” Vị cựu tu sĩ thời danh ấy là ai? Là Luther, người đã khởi xướng lên chủ thuyết Tin lành, ly khai khỏi Giáo hội, ra khỏi dòng, lập gia đình, lôi kéo nhiều người theo, đi vào con đường ly khai.
Tuy thế, có những người vẫn chưa công nhận sự cầu nguyện là cần thiết, mà còn bác bỏ và chê trách sự cầu nguyện. Thi sĩ Alfred de Vigny đã nói:”Thở than khóc lóc, cầu khẩn là hèn nhát”.
Phải phân biệt hai lối cầu nguyện: thụ động và chủ động. Cầu nguyện thụ động là thái độ của kẻ ươn hèn, muốn được điều lành mà không cố gắng, không làm gì cả: họ chỉ há miệng chờ sung rụng hay ôm gốc cây chờ thỏ. Trái lại cầu nguyện chủ động là tính cách của người vừa cầu nguyện vừa làm việc để đi tới mục đích mình cầu xin: Aide-toi, le Ciel t’aidera (Tục ngữ Pháp): (Anh hãy tự giúp mình rồi trời sẽ giúp anh).
Câu nói trên của Alfred de Vigny chỉ đúng cho những kẻ cầu nguyện thụ động. Còn chính nhà khoa học lừng danh Alexis Carrel đã nói:”Dẫu có vẻ lạ lùng, người ta vẫn phải nhận là đúng rằng kẻ nào cầu xin sẽ được và cửa sẽ mở cho kẻ gõ”. Một nhà khoa học đã từng được giải Nobel vào năm 1912 còn tin tưởng như vậy, thì sự cầu nguyện đã rõ ràng không phải là sự mơ hồ.
Văn hào Cronin đã than thở cho những kẻ mất lòng tin tường, những kẻ không cầu nguyện:”Địa ngục là khi lòng mất hy vọng”. Sống là hy vọng, mà mất hy vọng thì còn sống làm sao? Chính vỉ vậy, những kẻ tự tử là những kẻ không còn tin tưởng, những kẻ không biết có sự cầu nguyện.
d) Ích lợi của sự cầu nguyện.
Cầu nguyện đem lại cho con người rất nhiều lợi ích cho linh hồn. Điều đó chúng ta đã nói nhiều ở trên. Cầu nguyện cũng còn lợi ích nhiều cho đời sống tâm lý và thể lý nữa. Chính những nghiên cứu của các nhà khoa học thời danh đã chứng minh điều đó.
Môt hôm, một bệnh nhân trạc tuổi 40, đến gõ cửa phòng mạch bác sĩ. Người bệnh nói:
- Đã lâu rồi tôi mắc bệnh mất ngủ. Tôi đã uống nhiều loại thuốc an thần, thuốc ngủ. Ban đầu uống một viên, sau đó uống hai viên. Hiện giờ tôi uống những ba viên mà cũng chẳng tài nào ngủ được. Hết muốn sống.
Bác sĩ là một người Công giáo, liền cho một toa thuốc an thần, thật bất ngờ, lại không mất tiền mua:
- Từ nay ông đừng uống thuốc ngủ nữa. Thế vào đó, trước khi lên giường, ông hãy đọc một câu kinh sốt sắng, và dâng phú những lo lắng của ông vào lòng Thượng Đế.
Đã lâu lắm, bệnh nhân chẳng hề đọc kinh chiều. Tối hôm ấy, chàng áp dụng toa thuốc của bác sĩ đã cho một cách nghiêm chỉnh.
Một tuần lễ sau, thần kinh bớt căng thẳng, chàng được lành mạnh, ăn ngon ngủ ngon và làm việc như thường lệ.
Bác sĩ Carl Jung cho biết:”Trong 30 năm trời gần đây, có nhiều người từ các nước văn minh tới phòng mạch của tôi. Tôi nhận thấy rằng những bệnh nhân trên 35 tuổi, rút cuộc người nào cũng phải tìm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh. Họ đau vì mất quân bình, mất tin tưởng”.
Giải pháp ông nói đây rõ ràng là CẦU NGUYỆN.
(Viết theo Vũ minh Nghiễm, Sống sống, tr 44-45)
2. Thực hành cầu nguyện.
Đức Giêsu đã cầu nguyện rất nhiều trong công cuộc truyền giáo. Tuy rất bận rộn với công việc rao giảng, chữa bệnh, trừ qủi và tiếp xúc với mọi hạng người, nhưng Ngài không quên cầu nguyện, Ngài tranh thủ những lúc vắng vẻ, những đêm tĩnh lặng để tiếp xúc với Cha Ngài. Ngài đã làm gương cho chúng ta về sự cầu nguyện và còn thúc giục chúng ta cầu nguyện. Do đó, chúng ta không còn hoài nghi về sự cần thiết và ích lợi của sự cầu nguyện.
Hãy theo gương Đức Giêsu mà cầu nguyện trong đời sống hằng ngày, mặc dầu chúng ta rất bận rộn với công việc. Trong khi cầu nguyện chúng ta hãy lưu ý đến hai điểm này:
a) Cầu nguyện đơn sơ.
Chúa không đòi chúng ta phải cầu nguyện bằng những lời lẽ hoa mỹ hay bằng những hình thức gò bó, mất tự nhiên, nhưng hãy cầu nguyện đơn sơ như một em bé nói chuyện với cha mình, nói lên tất cả tâm tình của mình, nói lên những việc lớn cũng như việc nhỏ trong cuộc sống, cầu nguyện như thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã làm. Về điểm này Cha Charles khuyên:
“Khi bạn qùy gối trước nhan Chúa, bạn đừng xua đuổi những cái khác ra ngoài, nhưng hãy làm ngược lại. Khi bạn thưa chuyện với Chúa Giêsu Kitô, bạn đừng bỏ bớt ba phần tư từ ngữ quen dùng của bạn đi, bạn đừng dùng những từ ngữ ít gặp và đừng tránh không nói đến những chuyện tầm thường. Đừng giả vờ biến thành một người khác. Bạn hãy dám thưa với Chúa Giêsu rằng:”Bạn bị nhức đầu, bạn bị bực mình khó chịu, bạn làm bữa cho gia đình trễ quá rồi”.
(Charles, La prière de toutes les heures, tr 10)
Cũng cần lưu ý thêm khi cầu nguyện trong những biến cố quan trọng:
“Dĩ nhiên rằng khi một biến cố quan trọng xẩy ra, nhất là một thử thách xẩy đến trong đời bạn, bạn đem ra thưa với Chúa trong kinh nguyện của bạn, nhưng đàng khác cũng có một nguy hiểm. Nguy hiểm ở chỗ không đưa vào kinh nguyện của bạn hàng ngàn chuyện lặt vặt xẩy ra hàng ngày, nhưng quan trọng đối với bạn và làm thành những đường chính yếu dệt nên đời sống độc điệu của bạn” (Gaston Dutil, Đạo trong đời bạn, tr 29).
b) Làm việc và cầu nguyện.
Thường người ta quan niệm rằng làm việc và cầu nguyện là hai việc khác nhau, có khi đối chọi nhau. Người ta tưởng rằng cầu nguyện là phải chu chu chăm chắm, nhắm mắt nhắm mũi lại mà cầu nguyện, chứ còn làm việc nữa thì làm sao mà gọi là cầu nguyện được? Thực ra, với lòng yêu mến, chúng ta có thể biến tất cả công việc làm của chúng ta thành kinh nguyện. Như thế, suốt ngày làm việc của chúng ta là một lời kinh nguyện dâng lên Chúa. Cần nhất ban sáng khi thức dậy, chúng ta đã dâng lên Chúa mọi công việc trong ngày, thì mọi việc trong một ngày có thể trở thành kinh nguyện liên miên.
Truyện: Cầu nguyện và làm việc.
Một ông cụ già dẫn một thanh niên xuống thuyền của mình. Thuyền này có hai mái chèo: một cái đề chữ “cầu nguyện”, một chiếc khác có đề hai chữ “làm việc”.
Người thanh niên nói kháy cụ già:
- Ông cụ ơi, chèo thế này chậm lắm. Người đã làm việc thì không cần cầu nguyện nữa (có ý nói: chỉ cần chèo một chiếc chèo có chữ “làm việc” thôi).
Ông cụ không nói gì, chỉ buông chiếc chèo có hai chữ “cầu nguyện” ra thôi, rồi cứ chèo chèo chiếc có hai chữ “làmviệc” kia.
Ông cụ cứ cố sức chèo nhưng thuyền không đi được bước nào, chỉ quay tròn đi thôi.
Thấy thế người thanh niên kia mới hiểu rằng, ngoài chiếc chèo làm việc ra, còn cần phải có chiếc chèo cầu nguyện nữa, thuyền mới đi được.
(GM Tihamer Toth, Dieu, La Providence, Sermons, tr 81)
Gaston Dutil nói một cách quả quyết:”Ngày nào mà bạn đem tất cả đời sống bạn vào lời cầu nguyện, thì bạn sẽ thấy ngày ấy bạn say mê cầu nguyện”.
30. Được chữa lành và phục vụ
Để hiểu được ý nghĩa của việc Chúa Giêsu chữa cơn bệnh sốt của bà mẹ vợ ông Simon, ta cần phải biết rằng vào thời đó, bệnh sốt được coi như là một trong những hình phạt đối với những người mắc tội bất trung: "Nếu các ngươi gạt bỏ các quy tắc của Ta và chán ghét các quyết định của Ta, mà không đem ra thực hành các mệnh lệnh của Ta, lại huỷ bỏ giao ước của Ta, thì Ta cũng vậy, Ta sẽ làm cho các ngươi như thế này: Ta sẽ trút xuống các người nỗi kinh hoàng, sự suy mòn, cơn nóng sốt, khiến mắt các ngươi mờ đi và các ngươi mờ đi và các ngươi phải kiệt sức" (Lv 26,15-16a). Chúa Giêsu "lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy", người bệnh lập tức được chữa lành, sức khoẻ được hồi phục hoàn toàn và bà đi phục vụ Chúa Giêsu và những người đi theo Ngài. Dưới ánh sáng Phục Sinh, cử chỉ này mang một ý nghĩa biểu tượng: loài người đã từng bị nằm liệt do cơn sốt là tội lỗi. Nhờ Phép Rửa tội, Chúa Giêsu "lại gần, cầm lấy tay mà đỡ dậy" có nghĩa là Ngài đến giải thoát con người khỏi tội lỗi, chữa lành họ, giúp họ trở thành những kẻ phục vụ Chúa và Giáo Hội. Chính Chúa Giêsu đã làm cho việc được chữa lành và phục vụ đi đôi với nhau.
Chúng ta là những người đã được Chúa Giêsu chữa lành, nhưng để biết được mình lành mạnh ra sao là nhờ vào những việc phục vụ mà mình đang làm. Tuy nhiên, những công việc phục vụ hữu hiệu luôn đòi hỏi sự quan tâm, biết chia sẻ thời giờ, tiền bạc và của cải, lại là những việc mà chúng ta hay nghi ngại và không thích làm. Nhưng nếu chúng ta ích kỷ, chỉ biết sống cho bản thân mình, đóng khung trong gia đình mình hay nơi một vài người mà mình thương mến, mà thiếu tinh thần phục vụ Chúa, phục vụ Họ Đạo, phục vụ Giáo Hội, phục vụ tha nhân, thì linh hồn mình vẫn còn bệnh hoạn, tâm hồn mình còn đang suy yếu. Khi chúng ta sống đúng tinh thần phục vụ vô vị lợi của Chúa, của Giáo Hội, thì ngay lúc đó, tâm hồn chúng ta mới thực sự được chữa lành và đến ngày sau hết, chúng ta mới được "đỡ dậy", được Phục Sinh với Chúa Kitô.
31. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.
Hằng ngày chúng ta đối diện trước những hình ảnh tàn khốc trên TV, nào là chiến tranh, nạn đói, nào là trẻ em đang hấp hối. Đứng trước những nỗi đau khổ khôn cùng như thế của nhân loại không lạ gì nhiều người đã đi đến chỗ kết luận rằng một là do hình phạt của Thiên Chúa, hai là không có Thiên Chúa nào hết. Không sao hiểu nổi những con người ăn ngay ở lành lại phải chịu đựng nhiều nỗi khổ đau và vác những thập giá nặng nề đến thế! Không gì đe dọa niềm tin cậy chúng ta vào một Thiên Chúa yêu thương quan phòng hơn là phải chứng kiến những cảnh khổ đau trên đời này.
Sách Gióp là một nỗ lực tiếp cận trực diện vơí vấn đề đau khổ của con người. Ông Gióp, một người đạo hạnh ăn ngay ở lành, bị Thiên Chúa đem ra thử thách. Ông bị mất tất cả vợ con và tất cả mọi tài sản, rồi sau cùng bị ngã quỵ vì đủ thứ bệnh tật. Ông bị buông xuôi bỏ cuộc đến nỗi cảm thấy rằng ngoài cái nỗi khốn cùng này ông không còn gì đáng sống nữa. Nghĩ tới nghĩ lui tại sao ông phải chịu đau khổ, hay tại sao Thiên Chúa giáng xuống quá nặng tay, ông Gióp không tìm thấy một câu trả lời thuyết phục nào có thể đem lại ý nghĩa cho nỗi tuyệt vọng hiện thời của ông. Sự thật là không dễ gì có ngay câu trả lời. Gióp không phải là người đầu tiên cũng chẳng phải là người cuối cùng bị dày vò và bế tắc trước vấn nạn đau khổ con người. Bệnh tật và cái chết có thể là những thời khắc quan trọng nhất và đòi nhiều nỗ lực nhất trong cuộc đời.
Chúng ta thường quên lãng hay chối từ Thiên Chúa cho tới khi chúng ta bị một cơn khủng hoảng nào đó đánh gục và ngã quỵ tới chỗ cảm thấy bất lực. Khi chúng ta chỗi dậy thoát khỏi cơn tuyệt vọng ấy, chúng ta tất tả tìm đến Ngài tìm ơn sủng chữa lành. Chúng ta được đưa đẩy đến chỗ hoàn toàn tín nhiệm vào Thiên Chúa, vì không có cách nào khác để đối diện với đau khổ hơn là nhận thức rằng đau khổ là một phần của chương trình Thiên Chúa. Bệnh tật có thể giúp thúc đẩy chúng ta gạt sang một bên những hoạt động sôi nổi cuồng nhiệt của cuộc sống thường nhật để thay vào đó tập trung tâm tư vào ngôi nhà vĩnh cửu mà Thiên Chúa Cha đã dọn sẵn cho chúng ta trên trời. Đây là những cơ hội đặc biệt đúng lúc để chúng ta giáp mặt với hy vọng và thất vọng của cuộc sống. Không cần gì mà nghĩ ngợi rằng chúng ta sẽ làm gì nếu hoàn cảnh của chúng ta có thay đổi khác đi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Chúa Giêsu đến với bà nhạc của ông Simon, giơ tay ra chữa lành cho bà ấy. Đức Kitô không trao cho chúng ta câu trả lời về vấn đề đau khổ cũng không giải thích tại sao con người phải chịu đau khổ nhưng Ngài cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc biến đau khổ thành niềm vui. Bằng cách đồng hóa mình với bệnh nhân hay người hấp hối Đức Chúa Giêsu khi hấp hối trên Thập Giá đã mặc khải cho chúng ta thấy rõ ràng đau khổ là một phần trong chương trình của Thiên Chúa. Tất cả đều tùy thuộc cách chúng ta vác thập giá của mình bởi lẽ một khi kết hợp những gian nan thử thách của chúng ta với những gian nan thử thách của Đức Kitô, chúng ta có thể vui hưởng chiến thắng của Ngài. Cho dù bất cứ điều gì xảy ra, đối với những ai yêu mến Thiên Chúa và sẵn sàng chung phần thương khó với Chúa Giêsu, tất cả mọi việc đều có ý nghĩa. Tin Mừng không bảo đảm cho chúng ta thoát khỏi những nỗi khổ đau nhưng đoan chắc với chúng ta rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta cho dù những nỗi khổ đau của chúng ta có lớn đến đâu đi chăng nữa.
32. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
RAO GIẢNG VÀ CHỮA LÀNH
Mới đọc đoạn Tin Mừng này tôi có ấn tượng Đức Giêsu coi việc chữa lành các người bệnh tật ốm đau chỉ là công tác phụ, trong khi sứ mệnh chính của Người là rao giảng. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Lý thuyết là như thế, nhưng đứng về phía đám quần chúng bình dân thì rõ ràng, phần đa họ tìm đến với Người trước hết để được chữa lành khỏi bệnh hoạn tật nguyền. “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” Và cũng chính vì được chứng kiến các việc chữa lành mà dân chúng tin vào lời Người giảng dạy; ‘Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền’ (c.22).
Hình như hơn ai hết chính Đức Giêsu đã ý thức rất rõ điều này: không lời giảng dạy nào về một Thiên Chúa nhân ái từ bi đối với một nhân loại đau khổ lại hữu hiệu và hùng hồn cho bằng khi nhân danh Người mà rộng tay chữa lành các thương đau phần xác cũng như phần hồn của con người cùng khốn. Ngay cả đối với các môn đệ mới chiêu mộ, Đức Giêsu cũng đã hoàn toàn chủ động trong việc này; do đó Người đã chữa bà mẹ vợ ông Si-mon khỏi cơn sốt, cho dù không ai yêu cầu. Phải chăng đó chính là để ‘các môn đệ tin vào Người’, theo cách nói của Gio-an sau phép lạ nước hóa thành rượu tại tiệc cưới Ca-na (Ga 1:8)? Khi dài dòng thuật lại rất nhiều phép lạ Đức Giêsu đã thực hiện, chắc hẳn tác giả Mác-cô muốn tô đậm nơi Người nét ông thầy thuốc tốt lành tới chữa lành bệnh nhân tật nguyền; Người ‘chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật’; và hình như đó cũng chính là hình ảnh mà Người sẽ dùng để tự giới thiệu mình: “Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mc 2:17).
Như vậy đối với Đức Giêsu, rao giảng và chữa bệnh không phải là hai công việc tách rời nhau. Bởi nếu nội dung cốt lõi của sứ điệp Tin Mừng chính là ‘Thiên Chúa nhân ái quan tâm đến số phận của con người yếu hèn trong cả lãnh vực thể lý lẫn tinh thần’ thì chắc chắn lời rao giảng hùng hồn và sắc bén nhất sẽ phải là ‘chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền’ và ‘sua trừ ma quỉ’. Đức Giêsu hẳn có ý nói điều này khi bảo các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa.” Mác-cô còn ghi nhận thêm: ‘Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ’ (nên lưu ý là người Do Thái thời Đức Giêsu cho rằng mọi bệnh tật đều do ma quỉ mà ra). Qua các việc chữa lành này Người chỉ muốn cho mọi người được biết: Thiên Chúa từ nhân đã đến với họ, đang thật sự ở giữa họ, đang đồng hành với họ, cảm thông nỗi thống khổ yếu đuối của họ, và tích cực can thiệp theo cách thức của riêng Người.
Suy niệm trên xem ra chẳng có gì là quan trọng cho lắm, tuy nhiên nó sẽ giúp ta tránh được điều mà nhiều tín hữu thường mắc phải khi cho rằng Tin Mừng hệ tại ở việc lãnh hội các tín điều cao siêu (điển hình các công thức tuyên tín phức tạp chứa đựng trong Kinh Tin Kính Ni-cê chẳng hạn…); và cho rằng làm bác ái chỉ là việc phụ, tiểu tiết tùy nghi theo khả năng mỗi người, có mục đích duy nhất làm gia tăng công nghiệp trước mặt Chúa hầu đảm bảo phần rỗi linh hồn; rồi khi đọc Phúc Âm sẽ cho rằng việc Đức Giêsu làm các phép lạ chẳng qua là để chứng tỏ quyền phép vượt trội hầu thúc ép dân chúng tin lời Người giảng dạy…; rằng những học thuyết cao siêu gồm các qui định luân lý và giới luật tân kỳ mới thật là điều Người xuống thế để dạy dỗ. Suy niệm trên hơn bao giờ hết giúp tôi nhận ra Lời Tin Mừng thật nhất quán, chặt chẽ và đầy thuyết phục: ‘Đức Giêsu - Lời’ đến trần gian để tuyên bố sứ điệp tình yêu của ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…’ và tình yêu đó cũng thật cụ thể: ‘Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ’ (Ga 3:16.17). Thế đấy, toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu chỉ là một ‘Lời tình yêu cứu độ’, Lời trong sứ điệp, Lời trong hành động, Lời trong các phép lạ, thậm chí Lời trong cái chết tự hiến trên thập giá và Lời trong sự Phục Sinh chứa chan niềm hy vọng. Tóm lại tôi nhận ra rất rõ nội dung duy nhất của sứ vụ Đức Giêsu trên trần gian chính là để quảng bá và thể hiện mọi nơi mọi chốn một ‘Thiên Chúa yêu mến thế gian’ bằng trọn cả con người Ngài.
Vì là một tu sĩ Sa-lê-diêng, tôi nhiều lần đã áp dụng cho Đức Giêsu câu nói mà chúng tôi vẫn thường dùng để nói về Don Bosco: “Người không đi một bước, không nói một lời, không bắt tay vào bất cứ việc gì, mà không phải vì…phần rỗi giới trẻ!” Ở đây phải là, trong Tin Mừng ‘Đức Giêsu đã không hề đi một bước, không nói một lời, không bắt tay vào bất cứ việc gì mà không phải vì… muốn chứng tỏ và thể hiện rằng Thiên Chúa yêu mến trần gian cách tuyệt đối tới độ…!’
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được chia sẻ khát vọng Chúa muốn cho Tin Mừng tình yêu nhân ái được thể hiện và nhận biết ‘ở các nơi khác… các làng xã chung quanh nữa’. Con, một linh mục của Chúa, ước mong rằng: mình sẽ không chỉ giảng dạy sứ điệp Tin Mừng này bằng lời nói suông, nhưng phải bằng cả thái độ sống và hành động. Xin cho con biết rao giảng Lời Chúa qua các dấn thận phục vụ quảng đại, mọi nơi và cho hết thảy mọi người. Amen.
33. Hãy siêng năng làm việc theo gương Chúa
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Làm việc không phải là gánh nặng mà là ý nghĩa của cuộc đời. Ngày xưa Thiên Chúa dựng nên các nguyên tổ rồi đặt họ trong vườn địa đàng để họ "canh tác và giữ vườn". Chính Đức Giêsu cũng làm việc bận rộn từ sáng tới tối.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta ý thức giá trị của việc làm, đồng thời giúp chúng ta siêng năng làm việc theo gương Chúa.
II. Gợi ý sám hối
- Xin Chúa tha thứ những lần chúng ta lười biếng không chịu làm việc.
- Xin Chúa tha thứ vì chúng ta không biết thánh hóa những công việc mình làm.
- Xin Chúa tha thứ cho những việc làm sai trái của chúng ta.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (G 7, 1-4. 6-7)
Đoạn sách Gióp này đưa ra một cái nhìn bi quan về công việc con người phải làm trong cuộc sống:
Làm việc là cực nhọc như "nô dịch"
Con người giống như một người làm công.
Và cuộc đời với những công việc như thế được coi là buồn thảm, bất hạnh.
Cái nhìn bi quan này sẽ được sửa sai bằng gương làm việc của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng.
2. Đáp ca (Tv 146)
Thánh vịnh này đặc biệt ca tụng một loại "công việc" đặc biệt của Thiên Chúa, đó là việc "cứu chữa": Ngài là Đấng "cứu chữa những kẻ dập nát tâm can".
3. Tin Mừng (Mc 1, 29-39)
Đoạn Tin Mừng này mô tả một ngày làm việc tiêu biểu của Đức Giêsu:
* Giảng dạy ở hội đường
* Giảng vừa xong thì đến nhà nhạc mẫu của Simon để chữa cho bà này khỏi bệnh sốt.
* Tiếp tục chữa bệnh và trừ quỷ từ chiều cho đến tối.
* Sáng tinh sương hôm sau, Ngài cầu nguyện ở một nơi thanh vắng.
* Người ta lại tìm đến với Ngài để được chữa bệnh. Nhưng Ngài đành phải ra đi, bởi vì còn phải rao giảng Tin Mừng ở những nơi khác nữa.
Tóm lại, Đức Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày. Việc làm của Ngài là rao giảng Tin Mừng, chữa bệnh và trừ quỷ.
4. Bài đọc II (1 Cr 9, 16-19. 22-23) (chủ đề phụ)
Thánh Phaolô trình bày quan niệm của ngài về việc rao giảng Tin Mừng:
* Đó là một nhu cầu: "Nếu tôi rao giảng Tin Mừng thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi"
* Đó là nguồn hạnh phúc: "Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng"
* Vì thế phải làm việc rao giảng Tin Mừng một cách tự ý tự nguyện chứ không phải do bị bó buộc.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Lao động là vinh quang
Ông Lafontaine có kể một câu chuyện như thế này: có một tiều phu vác củi từ trong rừng về nhà. Củi thì nặng mà sức thì yếu cho nên ông ta cứ than thở hoài. Sau hết vì quá chán nản, ông đã kêu thần chết đến đem mạng sống mình đi phứt cho rồi. Vừa kêu dứt tiếng thì thần chết bỗng hiện ra, mặt mày khủng khiếp, tay cầm sẵn lưỡi hái. Thần chết hỏi: "Mi gọi ta đến để làm gì?" Ông tiều phu mặc dù vừa mới đòi chết nhưng khi thấy thần chết thì hoảng sợ và không muốn chết nữa, bèn nói trớ: "Xin ông làm ơn đặt bó củi này lên vai hộ tôi". Thần chết bỏ lưỡi hái xuống và đem bó củi chất lên vai người tiều phu. Ông này vội vàng cám ơn và nhanh chân rảo bước, không còn thấy nặng nhọc gì nữa.
Câu chuyện ngụ ngôn trên có thể giúp ta hiểu được phần nào Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe. Tất cả 3 bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều bàn đến những việc lao động nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi dương thế. Cuộc sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm lụng từ sáng tới chiều, quần quật hết ngày này sang ngày khác, hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Kẻ thì lao động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải làm việc vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm-ăn, ăn-làm như một cái vòng lẩn quẩn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nỗi, ăn không vô thì cũng là lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Trước kiếp sống đó, những kẻ bi quan và những người lười biếng thì than thở như trong sách Gióp được trích đọc trong bài đọc thứ nhất: "Lao động nhọc nhằn là kiếp sống của con người trên mặt đất. Ngày của họ giống như ngày của một kẻ làm công, như một người nô lệ. Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối và mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc". Thái độ đó cũng giống như người tiều phu trong chuyện ngụ ngôn của Lafontaine, làm việc cực nhọc quá nên cứ đòi chết cho rồi. Khi người ta làm việc cực nhọc mà không hiểu được ý nghĩa và giá trị của việc mình làm thì người ta dễ có thái độ bi quan như thế.
Chính để giúp cho loài người thấy được ý nghĩa và giá trị của lao động nhọc nhằn mà Đức Giêsu Kitô đã sinh xuống trần gian, mang lấy thân phận làm người lao động vất vả. Bài Tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa: Chúa vừa giảng dạy trong Hội đường và cứu chữa một người bị quỷ ám xong, vừa mới đi ra thì hay tin bà Nhạc mẫu của Phêrô đang bị sốt nặng. Người liền đến nơi cầm tay nâng bà dậy, bà liền khỏi sốt. Liền sau đó có cả một đám đông tụ họp trước cửa nhà, đó là những người đau đớn vì đủ thứ bệnh tật, Chúa lại phải cứu giúp họ. Mãi tới chiều tối Chúa mới có chút ít giờ nghỉ ngơi. Người tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Vừa tảng sáng hôm sau thì các môn đệ lại đi tìm Người và cho hay dân chúng lại tấp nập tuôn đến xin Người cứu chữa. Nhưng Đức Giêsu đành phải từ chối và nói "Chúng ta còn phải đi đến những làng, những thành phố khác để rao giảng Tin Mừng nữa".
Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả từ sáng tới tối, hết ngày này sang ngày khác, không chỉ làm việc để lo cho bản thân Người mà làm việc để cứu giúp người khác, không phải chỉ lo phần xác người ta mà còn lo rao giảng để cứu giúp linh hồn người ta nữa. Qua tấm gương đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của việc lao động nhọc nhằn: lao động là bổn phận của mọi người, lao động giúp ích cho bản thân và cho người khác, lao động sinh ích lợi cả phần xác lẫn phần hồn.
Vì hiểu được như thế cho nên Thánh Phaolô đã hăng hái chu toàn những công việc nặng nhọc Chúa giao như chúng ta đã nghe trong bài trích thư gởi tín hữu Côrintô. Là một tông đồ, công việc chính của Ngài là rao giảng Tin mừng. Ngài đã hăng hái làm trọn công việc đó, thậm chí Ngài còn nói "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng". Ngài còn nói thêm: "Giả như tôi tự ý đảm nhận công việc ấy thì tôi mới có công. Còn nếu tôi làm vì bị ép buộc thì tôi còn mang phần thưởng ở đâu nữa! Tôi đã nên mọi sự cho tất cả mọi người để làm cho mọi người được cứu rỗi. Thánh Phaolô đã hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của việc mình làm nên đã tự nguyện hăng hái làm việc không ngơi nghỉ.
Những bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay thật ích lợi vì vạch cho ta thấy phương hướng sống trước những công việc bề bộn cực nhọc.
- Trước tiên chúng ta hãy dâng lên cho Chúa tất cả những công việc ấy.
- Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ thể xác và tinh thần để có thể đảm nhận những công việc ấy.
- Chúng ta hãy xin Ngài chúc lành cho việc làm của chúng ta sinh ra những kết quả tốt đẹp.
- Xin Chúa giúp chúng ta làm việc không phải chỉ cầu lợi ích cho bản thân mình, mà còn để giúp ích cho những người khác.
- Và đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta biết để ra một phần thời giờ, một phần sức lực để làm việc mở mang Nước Chúa nơi trần gian.
* 2. Vấn đề đau khổ
Bài Tin mừng cho thấy một ngày bận rộn của Đức Giêsu.
- Giảng xong trong hội đường thì đến chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô.
- Đến chiều còn cả đám đông bệnh nhân đủ loại.
- Đêm đến đi cầu nguyện còn được môn đệ mời về chữa bệnh.
- Và còn phải đi đến nhiều thành nhiều vùng khác nữa.
- Đức Giêsu như một chiếc phao giữa biển khổ cuộc đời mà vô số người bám. 20 thế kỷ qua rồi, nhưng ngày nay đau khổ nhân loại vẫn còn chồng chất: cả thể xác lẫn tinh thần. "Đời là bể khổ" câu giáo lý nhà Phật vẫn còn là một nhận xét thật đúng.
Nhưng từ nhận xét đó ta chớ vội kết luận.
- Hoặc theo kiểu bi quan như những người chán đời tự tử.
- Hoặc theo kiểu thả trôi ăn chơi kẻo hết đời "chơi xuân kẻo hết xuân đi". Mà hãy bình tỉnh nhận định về vấn đề đau khổ.
. Có những cái khổ tự mình gây ra: tham ăn đau bụng.
. Có những cái khổ do người khác xấu bụng gây ra cho mình: thằng ăn cắp làm cho người ta mất của.
. Có những cái khổ là do quy luật thiên nhiên như thế: trước khi sinh con thì phải mang nặng đẻ đau. Muốn được mùa thì phải cực nhọc cầy cấy.
- Trước cái khổ cũng có nhiều thái độ:
+ Có thứ khổ sinh buồn chán: nhậu nhẹt, tự tử.
+ Có thứ khổ làm cho con người trưởng thành: người lao động biết quý trọng đồng tiền, người lính chiến trở nên anh dũng.
+ Có thứ khổ người ta sung sướng chịu đựng: khổ vì yêu mà lo cho người yêu.
Sau khi phân tích như thế, ta thấy cái khổ mặc khải 3 vấn đề:
+ Trần thế không phải là nơi hoàn hảo.
+ Tội lỗi là một nguyên nhân lớn của khổ đau.
+ Khổ đau chứng minh cho tình yêu.
Lạy Chúa, xin cho con có một nhận định sáng suốt trước đau khổ.
+ Cho con đừng tự gây đau khổ cho con hay cho người khác do tính ích kỷ của con.
+ Cho con kiên trì đấu tranh làm giảm những đau khổ cho con và cho người khác.
+ Cho đau khổ đừng làm con gục ngã nhưng giúp con vươn lên cao hơn cõi đời này hướng về quê hương không đau khổ trên cao.
+ Cho con biết chịu khổ vì yêu.
* 3. Nan đề đau khổ
Vấn đề đau khổ của loài người, đặc biệt của người lành, là một nan đề. Gióp đã vật lộn với nan đề này mà không tìm được lời giải đáp thỏa đáng.
Ngày nay đau khổ cũng vẫn là một nan đề. Ngày nay có rất nhiều người cùng cảnh ngộ với ông Gióp ngày xưa. Đó là những người đau khổ vì nghèo, đói, bệnh, bất công, áp bức v. v. Thời Cựu Ước, người ta nghĩ rằng đau khổ là hình phạt của Chúa.
Phần Đức Giêsu, Ngài không chấp nhận quan niệm coi đau khổ là hình phạt của Chúa, bởi Chúa không làm điều xấu, mà đau khổ là điều xấu. Đức Giêsu không trả lời cho câu hỏi "Tại sao đau khổ" nhưng Ngài dạy phải làm gì trước đau khổ.
Trong bài Tin Mừng này, chúng ta thấy những người đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần bao quanh Đức Giêsu. Ngài không tránh xa, nhưng hòa mình với họ, xả thân để cứu chữa họ.
Gặp người đau khổ, Đức Giêsu không chỉ khuyên họ hãy nhẫn nhục chịu đựng như chúng ta quen khuyên. Ngài ra tay hành động, cứu người bệnh tật, xua trừ ma quỷ.
Vần đề đau khổ còn là cơ hội để Đức Giêsu tỏ cho người ta biết Thiên Chúa. Qua cách Ngài tận tuỵ cứu giúp người đau khổ, Đức Giêsu cho người ta thấy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những kẻ đau khổ.
Sự đau khổ của người khác cũng là cơ hội cho chúng ta. Tuy chúng ta không có khả năng cứu chữa nhưng chúng ta luôn có khả năng chăm sóc. Mà chăm sóc cũng là một cách cứu chữa. Chỉ cần ở bên người đau khổ thôi cũng là một điều gì đáng quý rồi. Nhưng ở bên người đau khổ mà với hai bàn tay không thì có thể làm gì được? Được chứ, vì với hai bàn tay, chúng ta có thể an ủi họ. Điều họ cần nơi chúng ta nhất là chúng ta đừng bỏ rơi họ. Khi chúng ta ở bên họ thì cũng giống như ngày xưa Đức Maria ở bên Thập giá Đức Giêsu.
Còn đối với những đau khổ của bản thân chúng ta, đó cũng là điều không thể tránh của thân phận làm người. Tuy nhiên thật là an ủi cho chúng ta vì chính Đức Giêsu cũng đi con đường đau khổ như chúng ta, và Ngài đi tới cùng. Và cũng thật vui mừng khi chúng ta biết rằng sau khi đi đến tận cùng đau khổ thì Đức Giêsu đã tới vinh quang. Như thế, đối với kitô hữu, đau khổ là cơ hội cho chúng ta chia xẻ cuộc chịu nạn của Đức Giêsu, trong hy vọng cũng sẽ được chia xẻ vinh quang phục sinh của Ngài (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Niềm vui được chữa lành
Đầu năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh có tên thật ngộ nghĩnh: Bệnh bò điên (Mad-Cow disease). Người những mắc bệnh này vì họ ăn nhằm những con bò điên. Khi mắc phải, bộ não người bệnh sẽ bị hư hoại dần dần, tay chân run rẩy và đi dần đến cái chết.
Lúc đầu người ta phát hiện có mười người mắc bệnh này ở Anh Quốc, tám người trong số đó đã chết. Ngày 21 tháng 3 năm 1996, Bộ trưởng Y tế của Anh là ông Stephen Dorell đã phải tuyên bố: "Có thể có sự liên quan giữa bệnh bò điên và bệnh Creutzfeldt - Jacob nơi con người"
Sau đó, Pháp là nước đầu tiên tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò của Anh Quốc. Các nước Âu Châu lần lượt làm theo Pháp. Cộng đồng Âu Châu còn khuyến cáo Anh quốc phải triệt hạ tất cả mọi con bò mắc bệnh. Việc này đã khiến Anh Quốc thiệt hại hàng tỷ đôla.
*
Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng, Người ta xóa sổ được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và dường như là bất trị. Có những bệnh tật tưởng chừng đã biến mất, nhưng nay lại quay trở về với con người.
Hôm nay Đức Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon - Phêrô. Bà đang bị cảm sốt liệt giường. Đức Giêsu cầm tay bà nâng dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi lại tiếp đãi các Ngài.
Người Do thái cho rằng cảm sốt là hình phạt của Thiên Chúa, cũng giống như bệnh dịch (x. Ds. 5, 3). Sau này người ta còn gán cho cảm sốt là do ma quỉ. Trong cái nhìn đó, bệnh tật được coi như bắt nguồn từ ma quỉ và việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng quỉ ma. Vì thế, việc Đức Giêsu chữa bệnh cảm sốt cho nhạc gia ông Simon biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi ách tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Đức Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người mang đến cho họ niềm vui và nụ cười. Người tín hữu Kitô cũng hãy đem niềm vui, niềm hạnh phúc đến cho tha nhân trong môi trường mình sinh sống. E. Lamy khẳng định: "Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng".
Sau khi được chữa lành, bà nhạc ông Simon đã đứng dậy đi phục vụ mọi người. Qua bí tích Rửa tội, chúng ta được xua trừ ma quỷ, được chữa lành bệnh tật, linh hồn, và được trở nên con cái Chúa, chúng ta cũng hãy ra đi phục vụ anh em đồng loại, nhất là những người cô thân cô thế, những kẻ bệnh hoạn tật nguyền. V. Ghika có viết: "Thiên Chúa cho kẻ biết cho, hiến thân cho kẻ hiến thân. Nếu bạn biết gánh lấy niềm đau kẻ khác, thì Thiên Chúa sẽ gánh lấy nỗi khổ của bạn và biến nó thành của Người".
Dường như gánh lấy nỗi đau của kẻ khác, chúng ta cảm thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Dường như hy sinh cho tha nhân bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Dường như sống yêu thương sẽ thấy lòng thanh thản, cuộc đời nhẹ thênh thang.
*
Lạy Chúa, thế giới ngày nay vẫn còn các tà thần ám ảnh: thần của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn còn các bệnh tật lan tràn: bệnh trong lối nghĩ, lối nhìn và lối sống. Xin Chúa thương chữa lành cho tất cả chúng con. Nhất là xin cho các tín hữu chúng con cũng biết xoa dịu, băng bó và chăm sóc những vết thương thể xác và tâm hồn của anh chị em xung quanh. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Cực nhọc
Ba bài đọc hôm nay đều nói về làm việc. Nhưng bài đọc Cựu Ước (trích sách Gióp) thì than rằng làm việc là một gánh nặng quá cực nhọc. Còn 2 bài đọc Tân Ước thì nêu gương Đức Giêsu và thánh Phaolô làm việc cách hăng say và vui vẻ.
Cũng là làm việc, nhưng người thì thấy nặng nhọc, kẻ thì thấy vui vẻ. Tại sao?
- Thánh Phaolô cho biết lý do thứ nhất: làm việc vì bó buộc hay làm vì tự nguyện: "Tôi mà tự ý làm việc thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công"
- Thánh Augustinô đưa ra lý do thứ hai: Ubi amatur, non laboratur (Khi nào người ta yêu thì người ta không cảm thấy nhọc mệt)
6. Phép lạ chữa lành như là dụ ngôn về sự sống lại.
"Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào lòng con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh".
Câu kinh đọc trước rước lễ có thể soi sáng một vài suy tư sau đây về phép lạ chữa bệnh.
Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ chữa bệnh, đó là điều rõ ràng ai cũng biết. Chúng có mặt hầu như ở từng trang Tin mừng. Đàng khác, nếu không chữa bệnh làm sao Đức Giêsu chứng tỏ mình là Đấng Mêssia được? Đó là điều đòi hỏi phải có vào thời của Người, mà người ta còn gặp thấy lại nơi mọi lãnh tụ tôn giáo thời nay.
Nhưng Đức Giêsu không chỉ là một người chuyên chữa bệnh. Chắc chắn không! Người không đến để chữa bệnh nhưng để cứu con người. Nếu có chữa bệnh đi nữa thì cũng là để cứu độ. Người không bảo: "Đức tin đã chữa lành con" nhưng: "Đức tin đã cứu con". Thế mà ơn cứu độ là gì nếu không phải là được sống nhờ sự sống của Đức Kitô, dù khi khỏe mạnh hay ốm đau, cả sau khi chết cũng như lúc còn sống. Phép lạ chữa bệnh chỉ là một thứ dụ ngôn về sự sống lại. Một nhà chú giải hiện nay đã có một nhận định, mà theo sự đánh giá của tôi, đã soi sáng cho tôi rất nhiều. Trong Phụng vụ, vị ấy nói, ngay từ ban đầu người ta chưa hề bao giờ đọc một bài tin mừng về phép lạ Đức Giêsu chữa bệnh để cầu cho bệnh nhân được lành (như thế chẳng khác nào đọc thần chú) nhưng chỉ để công bố sự Phục sinh của Chúa". (H. Denis, trong "100 mots pour dire", Desclée de Brouwer, trang 183. Trích dịch bởi Fiches dominicales, năm B).
7. "Ngài đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện"
Người kia có thói quen một mình đi vào một khu rừng hẻo lánh. Một hôm, người bạn của người đó tò mò đi theo. Khi thấy người này ngồi im trong rừng thì ngạc nhiên hỏi:
- Anh làm gì ở đây thế?
- Tôi cầu nguyện.
- Nhưng cần gì phải đến một nơi xa xôi hẻo lánh như thế này để cầu nguyện chứ?
- Vì ở đây tôi thấy mình gần Chúa hơn.
- Nhưng Chúa ở khắp mọi nơi kia mà. Ở đâu mà Chúa chẳng gần ta.
- Chúa thì như thế thật, nhưng tôi thì không như thế.
Đành rằng Chúa ở khắp mọi nơi nên ở đâu ta cũng có thể gặp Chúa, tuy nhiên nếu thỉnh thoảng ta lui vào một nơi yên tĩnh nào đó thì ta sẽ cảm thấy Chúa gần gũi hơn và thân thiết hơn. Ở những nơi yên tĩnh như thế, một mặt tất cả mọi sự đều nhắc chúng ta nhớ đến sự hiện diện của Chúa, từ một làm gió, một cánh hoa, một dòng nước, một tiếng chim hót cho đến cả sự im lặng; và mặt khác con người chúng ta thư thái hơn, bình lặng hơn nên dễ cởi mở tấm lòng ra với Ngài hơn. (Viết theo Flor Mc Carthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Lao động là nhọc nhằn, nhưng lao động cũng là nguồn vui, là tiền đề cho cuộc sống ấm no hạnh phúc, và nhất là lao động tạo dịp cho chúng ta góp phần vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây:
1. Ngày xưa Đức Giêsu đã bảo các môn đệ rằng "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành thị lân cận để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Ngày nay Hội Thánh tiếp tục làm theo lời dạy ấy của Chúa. Chúng ta hãy cầu xin cho công cuộc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh được nhiều thuận lợi và nhiều kết quả.
2. Đất nước chúng ta còn nghèo. Rất nhiều người chưa có công ăn việc làm xứng đáng và đủ nuôi sống gia đình mình. Chúng ta hãy cầu xin cho các vị lãnh đạo đất nước có những đường lối chính sách đem lại công ăn việc làm cho mọi công dân, để cuộc sống mọi người đều ấm no hạnh phúc.
3. Chúng ta hãy đặc biệt nhớ đến những người thất nghiệp và những người vì hoàn cảnh bó buộc phải làm những công việc không xứng với nhân phẩm và đạo đức. Xin Chúa giúp cho những anh chị em ấy sớm thoát khỏi tình trạng khốn khổ hiện tại.
4. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho mọi người trong cộng đồng giáo xứ chúng ta biết siêng năng làm việc, để vừa nuôi sống bản thân mình, vừa góp phần xây dựng xã hội và Giáo Hội.
CT: Lạy Chúa, Chúa đã nêu gương cần cù làm việc từ sáng đến tối; Chúa làm việc không phải vì bản thân Chúa mà còn để cứu giúp mọi người. Chúng con xin dâng lên Chúa những việc làm vất vả hằng ngày của chúng con. Xin Chúa thánh hóa những việc làm ấy và cho chúng sinh nhiều hoa quả tốt lành. Chúng con cầu xin nhờ công nghiệp Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy cầu xin với Thiên Chúa là Cha chúng ta, xin Ngài thêm sức cho chúng ta có thể chu toàn mọi công việc chúng ta phải làm trong cuộc sống, đồng thời cũng xin Ngài cứu chúng ta khỏi mọi bệnh tật và mọi sự dữ.
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin thêm sức cho chúng con gánh vác những lao nhọc hằng ngày, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an..."
VII. Giải tán
Với ý thức rằng làm việc là cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, và với sự trợ giúp của Ngài, chúng ta hãy hăng hái trở về với cuộc sống và tích cực chu toàn những công việc của chúng ta.
34. Suy niệm của Lm. Vinh Sơn Nguyễn Tuấn Dương
Tin mừng Mc 1: 29-39: Đoạn Tin Mừng khá ngắn gọn mà chúng ta vừa nghe đã vẽ lên tất cả hoạt động của Chúa Giê su trong ngày sống của Ngài. Ngài làm việc một cách hăng say nhiệt tình. Ngài làm việc không quản thời gian nghỉ ngơi. Ngài làm tất cả mọi việc để chu toàn thánh ý Chúa cha và để mưu ích cho con người...
Kính thưa quý ông bà anh chị em!
Đoạn Tin Mừng khá ngắn gọn mà chúng ta vừa nghe đã vẽ lên tất cả hoạt động của Chúa Giê su trong ngày sống của Ngài. Ngài làm việc một cách hăng say nhiệt tình. Ngài làm việc không quản thời gian nghỉ ngơi. Ngài làm tất cả mọi việc để chu toàn thánh ý Chúa cha và để mưu ích cho con người.
Chúng ta đã thấy, Ngài giảng dậy không chỉ nơi hội đường mà còn tại tư gia. Ngài không chỉ giảng bằng lời mà còn chứng minh lời giảng bằng hành động yêu thương: trừ quỷ và chữu các bệnh nhân. Ngài làm việc miệt mài bất kể thời gian. Ngài làm việc chu đáo bằng chính con tim thổn thức yêu thương của mình. Đúng như lời Ngài đã nói: Cha ta làm việc liên lỉ, ta cũng làm việc liên lỉ.
Sở dĩ Chúa Giê su có thể làm việc liên lỉ không mệt mỏi như thế bởi vì: ngay từ sáng sớm lúc trời còn tối, Người đã dậy đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Cầu nguyện để gặp gỡ Chúa Cha. Cầu nguyện để đón nhận thánh ý Chúa Cha. Cầu nguyện để kín múc nguồn năng lực siêu nhên từ Chúa Cha làm sức mạnh cho cả ngày sống phục vụ của mình. Cầu nguyện để biết những việc phải làm và biết lối đường phải theo.
Đời sống của Chúa Giê su luôn là những nhịp đan xen giữa cầu nguyện và hành động. Cầu nguyện để biết cách hành động và hành động là sự kết tinh của cầu nguyện. Chúa Giê su đã làm như thế và trở thành mẫu gương cho đời Kitô hữu chúng ta.
Thưa quý ông bà anh chị em!
Là những người Kitô hữu, Chúng ta đã làm gi?
Về đời sống cầu nguyện, chúng ta đã sống thế nào? Cầu nguyện có trở thành hơi thở của đời sống chúng ta. Cầu nguyện có đi vào tưng ngõ ngách cuộc đời chúng ta. Hay chúng ta chỉ dừng cầu nguyện ở việc đi lễ chủ nhật, hoặc tốt hơn là việc đi lễ mỗi ngày và đọc một vài giờ kinh sáng tối. Rồi chúng ta bỏ Chúa lại nhà thờ và chúng ta lại tất bật với những công việc mưu sinh hằng ngày của mình mà lãng quên Chúa.
Không, Chúng ta phải mang Chúa vào trong cuộc đời của chúng ta, để Ngài đồng hành với chúng ta. Ngài hướng dẫn từng hành động của chúng ta và Ngài giúp đỡ chúng ta trong từng việc làm của mình. Chúa Giê su cũng vậy, Ngài không chỉ cầu nguyện vào sáng sớm ở nơi hoang vắng. mà nhiều chỗ khác trong tin mừng đã thuật lại Ngài cầu nguyện: đang khi rao giảng, trước lúc làm phép lạ, trong vườn cây dâu, kể cả trên thập giá…Vui thì dâng lời cảm tạ, buồn thì cất tiếng nỉ non, khi thành công ca khúc tạ ơn, lúc thất bại dâng niềm phó thác.
Cầu nguyện là như thế, là sống với Chúa trong từng giây phút cuộc đời.
Đối với đời sống hoạt động, Chúa Giê su đã làm việc miệt mài liên lỉ và làm tất cả mọi việc nhằm vinh danh Chúa Cha và để đem hạnh phúc cho con người. Còn chúng ta, dừng lại một chút để nhìn lại đời sống mình. Chúng ta đã làm việc vì Chúa vì anh em hay chỉ vì chính bản thân mình? Có lẽ cuộc sống quá bận rộn, lam lũ cuồng quay với công việc muu sinh làm chúng ta quên mất Chúa và anh em. Cũng có lẽ vì chủ nghĩa thực dụng, ích kỷ, hưởng thụ đã khiến ta gạt Chúa và anh em ra khỏi cuộc sống của mình. Những điều đó đã làm chúng ta nhiều lần lỗi hẹn với Chúa, khiến chúng ta cứ khất lần với Ngài và không biết đến khi nào chúng ta mới có thời gian đáp tiếng gọi của Chúa.
Lời Chúa và mẫu gương Chúa Giêsu hôm nay như một lời nhắc nhở mỗi người chúng ta. Hãy sống với Chúa trong từng giây phút cuộc đời. Hãy đặt Chúa làm trung tâm điểm cuộc đời của mình và hãy làm tất cả với Chúa, trong Chúa và vì Chúa. Được như thế, tâm hồn chúng ta sẽ bình an và chúng ta sẽ trở thành những khí cụ đem tình thương của Chúa đế cho mọi người. Amen.
35. Huyền nhiệm đau khổ
(Suy niệm của Phanxicô Xaviê)
Mỗi người mỗi cảnh, đi tìm kế sinh nhai cách khác nhau, nhiều khi họ phải bán rẻ cả nhân phẩm của mình. Nhưng dù sao tất cả họ, vẫn là những người biết kiếm tiền dựa trên chính sức lao động của mình, không như một nhóm người bán nước cầu vinh, chỉ biết lợi dụng lòng nhân ái của người khác để kiếm tiền thông qua tham nhũng, ăn hối lộ, bớt xén của công hay buôn lậu....và làm nhục quốc thể như vụ một nhân viên ngoại giao buôn lậu sừng tê giác bị bắt quả tang, hay vụ công ty tư vấn Thái Bình Dương (PCI) hối lộ quan chức cộng sản, dẫn tới Nhật quyết định ngừng cung cấp viện trợ phát triển ODA cho Việt Nam. Cũng theo BBC, cho hay các cựu quan chức PCI nhận đã chuyển 820.000 đôla cho ông Huỳnh Ngọc Sỹ, nguyên phó giám đốc Sở Giao thông Công chính thành phố Hồ Chí Minh, để giành thầu trong các dự án hạ tầng có sử dụng vốn vay ODA tại đây. Phe công tố thì nói số tiền lên tới hai triệu đôla. (nguồn BBC)
Đường phố Sài gòn có vẻ tấp nập hơn vào những ngày cuối năm. Người qua kẻ lại, hối hả đi về mong cho kịp giờ đón giao thừa trong mái ấm gia đình, bên những người thân yêu. Nhưng khi bước qua những ngày đầu của năm mới, thì đường phố trở nên vắng vẻ lạ thường. Chỉ còn đây đó xuất hiện những con người lam lũ sống bằng nghề bán hàng rong hay bán vé số dạo, đa phần họ là những người nhập cư. Hỏi ra mới biết vì không có đủ tiền mua vé tàu xe về quê ăn tết, nên đành phải đón tết xa quê. Cũng trong số họ, có người vốn là dân thành phố, giàu có một thời, nhưng chỉ sau lần "đánh tư sản mại bản" của chế độ cộng sản vào những năm đầu mới giải phóng, đã trở thành một người vô gia cư. Đó là trường hợp của bà Ba bán vé số. Họ nhìn ngắm những gian hàng bánh mứt được trang trí cho đẹp mắt, mà chẳng dám mơ tưởng. Bởi cuộc sống của họ vốn đã eo hẹp, thì nay càng khó khăn hơn vào những ngày giáp tết Kỷ Sửu.
Cũng có ông lão nọ, tuổi đã ngoài bảy mươi, chẳng mấy bận tâm đến cái vẻ nhộn nhịp, hào nhoáng bên ngoài khi ngày tết đang đến gần. Ông dửng dưng trước cái tết, không phải là ông không biết ăn ngon mặc đẹp, nhưng vì "cái khó nó bó cái khôn", cái nghèo đã không cho phép ông nghĩ đến những chuyện xa xôi hơn cái việc kiếm cho mình một bữa cơm sống qua ngày. Ông chẳng hề quan tâm đến bộ quần áo cũ đang mặc, mà có lẽ đã lâu không được giặt. Thấy tội nghiệp, ngưòi ta cho tiền, nhưng ông từ chối, bởi vì ông sống bằng nghề bán vé số dạo. Mỗi khi bán cho ai được tờ vé số nào, ông đều dặn người ta: nếu có trúng giải đặc biệt, thì hãy giúp cho ông một chiếc xe đạp để ông làm phương tiện đi lại, vì tuổi cao, phải đi bộ nhiều nay ông đã mỏi chân. Trong khi đó, ngày càng có nhiều người tìm đến cái nghề mất ít vốn nhưng lại dễ kiếm tiền, nên ông muốn có chiếc xe đạp để đi bán ở những nơi khác xa hơn, lắm lúc bị người ta xua đi như đuổi tà, vì họ nghĩ người bán vé số dạo thường là những người nghèo kiết xác, nên họ khinh rẻ, dù đó là một người lớn tuổi.
Khi ánh đèn đường đã sáng rõ, cũng là lúc bắt đầu buổi làm việc của một nhóm nghề khác: buôn phấn bán hương. Họ là những cô gái trẻ, chỉ khoảng mười tám đôi mươi, ăn mặc sang trọng, mang dáng vẻ như những tiểu thư đài các. Từng nhóm hai ba người, có khi lên đến bốn hay năm người, chạy trên những chiếc xe tay ga đời mới, nghe nói họ thuê lại của một "má mì ", chạy từ hướng cầu Thị Nghè về phía mũi tàu, đến trước cổng Trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm II của hiệp hội người khuyết tật thành phố, thì quay đầu lại. Cứ như vậy, họ chạy đi chạy lại từ lúc 20h - 21h mỗi buổi tối, mong tìm được khách làng chơi. Có hôm họ còn chủ động chạy xe kè theo những người đi xe trên đường, trong số đó có không ít người đáng tuổi cha chú của họ. Và đương nhiên họ chỉ nhận được những cái lắc đầu bỏ đi.
Đau khổ vốn là một trong những vấn nạn nhân sinh, một huyền nhiệm không dễ gì giải thích thấu đáo. Tại sao con người phải chịu nhiều đau khổ? Sinh ra đã là khổ, khi mới sinh đứa bé nào mà chẳng phải khóc thét lên vì cái tát của bà mụ. Lớn lên càng khổ hơn vì phải đổ mồ hôi và nước mắt mới có được miếng ăn mong sống qua những ngày tháng dài tưởng chừng như vô vọng. Rồi còn phải chịu đựng ốm đau, bệnh tật, già yếu và cuối cùng phải chết. Thế nên, theo quan niệm của nhà Phật, thì đời là bể khổ. Và muốn thoát khỏi đau khổ, con người phải tự diệt duc, tức diệt lòng ham muốn nơi mình. Kinh Thánh chỉ rõ hơn: con người đau khổ là do hậu quả của tội lỗi, của sự ác và của ác thần. (x. St 3, 1-7; 3, 17-19)
Dưới ánh sáng của Tin Mừng, vấn đề càng được khai tỏ. Vì trước mọi đau khổ của cuộc đời, người Kitô hữu luôn được mời gọi hãy ứng xử theo gương Chúa Giêsu, là Đấng Thiên Sai mà tiên tri Isaia đã loan báo, Người đến để giải thoát con người khỏi đau khổ (Is 29, 18-19). Theo gương Chúa: không thất vọng, nhưng đón nhận và hoàn toàn phó thác trong bàn tay nhân từ của Chúa Cha.
Tin Mừng Mc 1, 29-39 ghi lại một ngày sống vất vả của Chúa Giêsu ở Caphacnaum. Người giảng dạy, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ cho mọi người từ sáng đến tối, nhưng vẫn dành thời gian sống với Chúa Cha bằng cầu nguyện. Một ngày làm việc của Chúa Giêsu với biết bao nhọc vhằn vì lòng thương người, muốn giải thoát con người khỏi đau khổ của bệnh tật, của ma quỷ. Chính vì vậy, chỉ có niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng giải thoát đau khổ mới có thể giúp con người nhận ra ý nghĩa đích thực của đau khổ và có sức mạnh để đón nhận nó. Chúa Giêsu đến không phải để tiêu diệt hết mọi đau khổ, nhưng Người đến để giúp con người chịu đụng đau khổ cách có ích.
Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của Chúa nhật V mùa thường niên này được mô tả là một người hết lòng vì người khác, tận tâm phục vụ hết thảy mọi người. Một ngày sống của Người trôi qua cách hữu ích cho tha nhân. Từ sáng đến tối lúc nào cũng tấp nập người bệnh, người bị quỷ ám đến xin cứu chữa. Người đã sử dụng thời gian thật hợp lý để gắn bó với Chúa Cha và để phục vụ tha nhân. Chính nhờ cầu nguyện với Chúa Cha mà Người đã luôn thực hiện đúng thánh ý Chúa Cha.
Hạnh phúc thật chỉ có nơi Thiên Chúa, bí quyết của hạnh phúc là khám phá và thực thi thánh ý Ngài. Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết noi theo gương Chúa, mà sử dụng thời gian sống của mình cách hữu ích cho bản thân qua việc gắn bó với Chúa bằng cầu nguyện, và sử dụng thời gian cách hữu ích cho tha nhân qua việc sống yêu thương, phục vụ và chu toàn bổn phận trần thế của mình.
36. Sống tình liên đới
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống cần sự liên đới. Vạn vật cũng liên đới với nhau để tồn tại. Con người cũng phải liên đới với nhau để phát triển và đem lại hạnh phúc cho nhau. Đó là chân lý, là lẽ sống của muôn loài.
Đó cũng là điều mà nhà thơ Hữu Thỉnh đã nói:
Tôi hỏi đất:
– Đất sống với đất như thế nào?
– Chúng tôi tôn cao nhau.
Tôi hỏi nước:
– Nước sống với nước như thế nào?
– Chúng tôi làm đầy nhau.
Tôi hỏi cỏ:
– Cỏ sống với cỏ như thế nào?
– Chúng tôi đan vào nhau làm nên những chân trời.
Tôi hỏi người:
– Người sống với người như thế nào?
Thật khó để trả lời cho chân lý sống của con người. Con người dường như chẳng đi theo một quy luật nào. Đất sống với nhau luôn bồi đắp cho nhau để tạo thành những đồi núi trùng điệp thơ mộng. Những con nước luôn liên kết với nhau mới tạo thành những dòng chảy quanh xóm làng thanh bình. Từng nhánh cỏ đan xen với nhau mới làm nên một thảm cỏ xanh tươi bát ngát. Nhưng con người lại ích lỷ, thích sống cho bản thân hơn là liên đới tồn tại.
Dẫu biết rằng cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi con người biết sống bồi đắp cho nhau, biết sống làm đầy cho nhau những nghĩa cử yêu thương, và biết sống liên kết với nhau tạo nên một thế giới màu xanh của yêu thương và hòa bình. Cuộc đời sẽ bất hạnh nếu con người sống chia rẽ, hiềm khích và tranh giành nhau. Nhưng đáng tiếc con người sống với nhau chỉ toan tính lợi lộc cho bản thân hơn là chia sẻ nhường nhịn lẫn nhau. Vì thế, câu trả lời con người sống với nhau thế nào thật đa dạng.
- Người buôn bán thì bảo phải cạnh tranh để tồn tại, để kiếm lợi nhuận.
- Người làm chính trị thì bảo phải khôn ngoan để chiến thắng, để đẩy lui đối thủ.
- Những ca sĩ, những bác sĩ thì thích chê nhau nhiều hơn là khen nhau, thích loại trừ nhau nhiều hơn là liên đới với nhau.
Xem ra con người vẫn chưa liên đới đủ để tạo nên một sức sống hùng vĩ như đất đã tạo nên những dãy núi trùng điệp. Xem ra con người vẫn chưa xan xẻ với nhau đủ để tạo thành một dòng chảy tình yêu cho mát rượi lòng nhau. Xem ra con người vẫn con xa cách nhau khiến không thể gần nhau để cùng chung xây thế giới an bình thịnh vượng.
Thế giới sẽ đẹp biết bao nếu con người biết liên đới với nhau. Sự liên đới sẽ làm giầu có cho nhau. Sự liên đới sẽ mang lại no ấm cho nhau. Sẽ không còn tiếng khóc lẻ loi trong cô đơn tuyệt vọng. Sẽ không còn những tranh chấp thị phi nếu con người biết tôn cao nhau và cùng dìu nhau đi tới.
Chúa Giêsu đã sống một cuộc sống yêu thương như thế. Ngài rất bận rộn. Cái bận rộn không phải của công việc cho bản thân mà là bận rộn làm việc cho tha nhân. Ngài sống liên đới với mọi người. Ngài liên đới với tội nhân để thay họ dâng hy lễ đền tội với Chúa Cha. Ngài liên đới với những mảnh đời lao động vất vả khi chính Ngài đã sống ẩn dật tại mái nhà Nagiaret. Nơi đó, Ngài sống như người nghèo khi kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động. Ngài liên đới với mọi cảnh cơ hàn của con người khi Ngài dùng đôi tay để xoa dịu mọi nỗi đau của con người. Đôi chân trần của Ngài đã đến với mọi hạng người để nâng đỡ và ủi an họ.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy sống tình liên đới với nhau. Hãy ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình để đến với tha nhân. Con người sống là sống với ai đó để tồn tại thì hãy sống liên đới, xan xẻ và yêu thương nhau. Có như vậy chúng ta mới làm lên những kỳ công cho cuộc đời khi không còn những kẻ cơ hàn, đói rách bên cạnh chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta biết sống yêu thương như Chúa. Xin cho đôi chân của chúng ta luôn mau lẹ đến với tha nhân, và đôi tay luôn quảng để nâng đỡ, ủi an những ai đang mang gánh nặng nề vì cuộc sống lầm than. Amen.
37. “Đức Giêsu, Thầy thuốc của tâm hồn”
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Quốc Phong SDB)
Đoạn Tin Mừng theo Thánh Marcô giới thiệu cho chúng ta chân dung một vị Thầy thuốc tài ba và tốt lành. Chúa Giêsu chữa tất cả những người bệnh đến với Ngài. Chúng ta biết rằng, theo văn hóa của người Do Thái, bệnh tật được gắn liền với tội lỗi, nghĩa là người Do Thái quan niệm và tin rằng bệnh tật là một hình phạt từ Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi. Những người bệnh tật bị cộng đồng loại trừ và bị nhìn với con mắt khinh bỉ, miệt thị. Chính vì vậy, mỗi khi Chúa Giêsu chữa bệnh, Ngài hay nói với họ rằng “Tội của con đã được tha” hay “Đức tin của con đã cứu con”. Chúa Giêsu không chỉ là bác sĩ thể lý, mà quan trọng hơn, Ngài là một bác sĩ của tâm hồn, chữa hết những vết thương tâm hồn, đưa họ trở lại với nhân phẩm của con người, đưa họ trở lại với vai trò làm con của Thiên Chúa, và ban cho họ niềm vui - bình an - hi vọng để họ sống và sống dồi dào. Người được Chúa Giêsu chữa lành, có khả năng hoán cải, và trở thành nhân chứng cho Ngài.
Những ai mắc bệnh về thể lý, họ tìm đến bệnh viện để chữa bệnh với những cách thức và phương thuốc thích hợp và họ có cơ hội được chữa lành là rất lớn, vì y học hiện nay rất phát triển và hiện đại. Nhưng trong thời đại ngày nay, có những căn bệnh rất nguy hiểm, đó là bệnh về lương tâm đạo đức, bệnh về ý thức hệ, … là hậu quả của các chủ nghĩa sai lạc, của các lối sống thiên về hưởng thụ, ích kỷ, cá nhân … đang ảnh hưởng cách rộng rãi và sâu xa tới chúng ta, nhất là giới trẻ.
Ở đây, xin trưng dẫn một căn bệnh của giới trẻ, đó là tình trạng tự tử của giới trẻ trên thế giới. Theo ước tính của Tổ chức y tế thế giới (WHO), trên toàn thế giới mỗi giây có một người tự tử, mỗi năm con số này là 1 triệu người, số người có ý định tự tử nhiều gấp 10-20 lần. Mỗi năm tại Trung Quốc có tới 250.000 người tự tử + 2 triệu người có ý định tự tử; tại Nhật mỗi năm có khoảng trên 30.000 người tự tử, …
Một căn bệnh khác của giới trẻ đó là “sống không lý tưởng” hay lý tưởng sống quá thực dụng thiên về vật chất. Căn bệnh này kéo theo hàng loạt các căn bệnh khác, gây ra những cơn bão đánh sập hệ thống luân thường đạo lý của người việt, làm sản sinh ra các thế hệ giới trẻ sống thực dụng và ích kỷ, lấy vật chất làm nền tảng cho suy nghĩ và hành động.
Đây là những căn bệnh không đơn giản tí nào, không dễ gì để tìm ra thuốc ngừa và thuốc chữa…Trong tình trạng dường như bế tắc này của thế giới, Chúa Giêsu mời gọi tất cả chúng ta hãy chạy đến với Ngài để tìm ra phương cách chữa chị và phòng ngừa. Ngài chữa bệnh cho chúng ta không cần điều kiện, với cung cách của một người cha yêu thương: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay… ” (Mc 8,31). Ngài cũng đang chữa bệnh cho tất cả chúng ta, là những người ý thức mình đang mang bệnh, với ước muốn được sống và sống dồi dào.
Chúa Giêsu đã từng nói: “Ta đến thế gian để kêu gọi những người tội lỗi […] chỉ người bệnh mới cần thầy thuốc”. Mỗi người chúng ta cũng nên tự hỏi rằng: “Chúa Giêsu đến để kêu gọi và chữa bệnh cho tôi chăng?” hay “Tôi là một giáo lý viên gương mẫu và nhiệt tình, tôi là một tu sinh tốt lành, hay tôi là một linh mục mẫu mực, được nhiều người cảm mến và ngưỡng mộ” … rằng “Tôi rất là ok, cuộc sống của tôi rất bình an và hạnh phúc” có lẽ tôi chẳng có bệnh gì!!!
Chúa Giêsu thích “đến gần, cầm tay, nâng dậy” những ai ý thức mình tội lỗi, bị bệnh và cần đến Ngài. Và đây chính là cơ hội thúc đẩy chúng ta đến “gặp gỡ” Ngài. Ngược lại, những ai cảm thấy mình “tất cả đều ok”, thì cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu trở nên rất khó khăn: “Lạy Chúa con cảm ơn Chúa vì con là người công chính … không như cái thằng thu thuế bên kia”.
Chúng ta vui sướng cảm tạ Chúa mỗi ngày không phải vì chúng ta là những người thánh thiện, đáng được hưởng hồng ân bình an và ân sủng của Thiên Chúa, nhưng chúng ta vui sướng hân hoan vì chúng ta là “những tội nhân được tha thứ” một cách vô điều kiện. Chúng ta được thừa hưởng một cách “miễn phí” kho tàng Bình An - Hi Vọng, kho tàng Sự Sống – Ơn Cứu Độ từ Thiên Chúa, vì thế chúng ta cũng phải ra đi rao giảng kho tàng đó cho mọi người cách “miễn phí”, như thánh Phaolo đã nói trong bài đọc II: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16), bởi vì “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở” (Gp 7,7), con cần có Chúa, con ao ước được gặp gỡ Ngài mỗi ngày trong các Bí Tích và trong anh chị em con, vì Ngài là Bác Sỹ cho tâm hồn con, vì “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa” (Augustino, Tự thuật I, 1, 1).
38. Một ngày sống – Lm. Phêrô Trịnh
Nếp sống đơn điệu thường ngày với những bon chen cơm, áo, gạo, tiền, dễ làm cho con người rơi vào mệt mỏi, chán nản và không ít người đã đánh mất ý nghĩa của cuộc sống. Nhưng đối với người Kitô hữu, mỗi ngày sống lại là một quà tặng mà Thiên Chúa ban. Để nhận ra ân ban này và sống với tất cả niềm hạnh phúc, ta được mời gọi nhìn ngắm và noi theo một ngày sống của Chúa Giêsu.
1. Chúa Giêsu cầu nguyện
Khởi đầu ngày sống mới, Chúa Giêsu ưu tiên cho việc cầu nguyện. Tin mừng Marcô cho thấy Chúa Giêsu luôn cầu nguyện khi rao giảng, khi chữa lành các bệnh nhân, khi gặp gỡ đối thoại, khi bị chống đối... Cầu nguyện là một nhu cầu thật sự của Chúa Giêsu. Đó là phương thế hữu hiệu để Ngài kết hiệp mật thiết với Cha và tìm ý Cha. Chúa Giêsu cần thời gian thinh lặng để sống riêng tư bên Cha, tâm sự với Cha về gánh nặng của sứ vụ, về những khổ đau của con người, về những cuộc chiến chống lại sự dữ. Mang trong mình bản tính nhân oại, chắc hẳn Chúa Giêsu cũng cần được Cha nâng đỡ, cảm thông và sẻ chia. Cầu nguyện sẽ đưa Chúa Giêsu đến với con người để đồng cảm, chữa lành những khổ đau và hoạt động với con người lại đưa Chúa Giêsu đến gần Cha Người hơn.
2. Chúa Giêsu làm việc lành
Rời hội đường ở Capharnaum, Chúa Giêsu đến nhà Simon và Anrê. Nhạc mẫu của ông Simon đang bị cơn sốt hành hạ và nằm trên giường. Sốt không phải là loại bệnh nan y, khó chữa trị. Nhưng người Do Thái lại xem cảm sốt như là một hình phạt của Thiên Chúa, đi theo với chứng kiệt sức (Đnl 28, 22; Lv 26, 16) khiến người bệnh chỉ có thể nằm. Người ta gán cho căn bệnh này là do ma quỷ. Vậy mà cách Chúa Giêsu chữa lành cơn sốt cho bà mẹ vợ ông Simon thật đơn giản: Ngài cầm lấy tay bà và nâng bà dậy, lập tức cơn sốt biến mất và bà có thể đi lại để phục vụ mọi người. Chúa Giêsu đã nâng một con người dậy bằng quyền năng nào? Sức sống mãnh liệt nào đã truyền qua cử chỉ cầm tay này? Chắc hẳn đó là từ chính Thiên Chúa. Ngày nay, nhân loại cũng cần biết bao được Chúa nắm lấy tay và nâng dậy khi bị sức nặng của những khổ đau, những mải mê trần thế đang ghì kéo con người xuống.
Rồi chiều đến, người ta đem đến cho Đức Giêsu biết bao kẻ đau ốm và bị quỷ ám. Ngài đã chữa lành tất cả. Mọi bệnh tật đều do ma quỷ gây nên. Chữa lành là dấu chỉ chiến thắng ma quỷ. Chúa Giêsu đến cứu chữa và giải thoát con người khỏi sự thống trị của ma quỷ. Ngài mạc khải cách tiệm tiến cho dân chúng bằng cách cho họ thấy dấu chỉ chứng tỏ quyền lực của Ngài trên tội lỗi, ma quỷ và trên sự sống, để từ đó dẫn họ tới đức tin. Đức tin vào Chúa Giêsu chỉ thật sự có giá trị khi hiểu biết đầy đủ về sứ mạng và công việc của Chúa Giêsu, đặc biệt hiểu Ngài phải chết và sống lại để hoàn tất chương trình cứu độ.
Như vậy, Chúa Giêsu đến nhà Simon không chỉ để dùng bữa, nhưng điều quan trọng là để phục hồi sức sống nơi những con người đau khổ, bệnh tật. Chứng tỏ Ngài đến trần gian để tìm kiếm con người chứ không phải của cải của con người và Ngài muốn ban cho con người của cải cao quý từ trời cao là lòng thương xót và sự sống của Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu muốn những ân ban này được trao tặng cho mọi người.
3. Chúa Giêsu tiếp tục lên đường
Sau một ngày thành công tại Capharnaum với việc giảng dạy, c hữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ, Chúa Giêsu nhận được sự khen ngợi và kinh ngạc của dân thành. Người ta muốn giữ Chúa Giêsu lại cho họ. “Mọi người đều đi tìm Thầy”, chứng tỏ mọi người ở đây vẫn cần đến Đức Giêsu. Thế nhưng Ngài phải lên đường để tiếp tục sứ vụ theo ý Cha Ngài. “Hãy đi đến những làng, những thành lân cận”, Chúa Giêsu biết rằng nhiều nơi khác cũng đang rất cần sự hiện diện yêu thương của Ngài. Như thế, tình thương bao giờ cũng là sự thúc đẩy lên đường và biết mở rộng con tim cho hết mọi người mà không dừng lại ở những vinh quang ca tụng. Do đó, không ai được quyền chiếm hữu và giữ riêng Chúa Giêsu, nhưng có sứ mạng đem Chúa đến cho mọi người.
Đó là một ngày sống của Chúa Giêsu, đầy ắp những hoạt động vì con người, nhưng cũng không thiếu những phút giây sâu lắng bên cha. Hoạt động và cầu nguyện là những nhịp luôn đong đưa, hòa quyện, làm thành cuộc sống sung mãn của Chúa Giêsu nơi trần gian. Một ngày làm việc của Ngài với bao vất vả, nhọc nhằn nhưng lại làm vơi đi đau khổ và đem niềm vui đến cho nhiều người. Theo gương Chúa Giêsu, mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi hãy biết sử dụng thời gian sống của mình cách hữu ích cho bản thân qua việc gắn bó với Chúa, dành thời gian cầu nguyện với Chúa; đó là động lực để thúc đẩy ta dùng thời gian có ích cho tha nhân bằng việc sống yêu thương và phục vụ.
39. Người còn rao giảng ở nơi khác
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Cùng văn mạch với tin mừng tuần trước, đoạn 1,29-39 kể tiếp những công việc khác của Chúa Giêsu: chữa bệnh cho bà gia của Simôn (1,29-31), chữa các thứ bệnh người ta mang đến trước nhà Simôn vào ban chiều (1,32-34), và hôm sau, Người đi cầu nguyện và đi rao giảng ở các vùng khác của Galilê (1,35-39).
Một khía cạnh khác trong những hoạt động của Chúa Giêsu là chữa bệnh. Trong lần đầu tiên nầy, Người chữa lành một phụ nữ, trong khung cảnh và tương quan của một gia đình. Người còn chữa thêm những lần khác nữa, theo sự khẩn nài của cha mẹ xin cho con cái (5:21-43; 7:24-30; 9,14-27). Ở đây, con rể xin Chúa chữa cho bà gia. Trong mọi trường hợp, Chúa đều chữa lành hoàn toàn, đến nỗi người phụ nữ nầy có thể tiếp đãi Chúa Giêsu và các môn đệ tức thì.
Tiếng tăm của Chúa Giêsu lan ra rất nhanh, đến nỗi cả thành Capharnaum đều biết. Họ đã mang đến cho Người đủ mọi thứ bệnh nhân ngay chiều hôm đó (1,32-34). Dân chúng đặt hy vọng vào Người và Người đã giúp họ bằng quyền năng của Người. Tuy nhiên, Người không phải là bác sĩ chuyên nghiệp, mà là sứ giả của Thiên Chúa, đến để loan báo Nước Thiên Chúa đang đến (1,15). Vì thế, việc chữa bệnh là dấu hiệu quyền năng của Nước Thiên Chúa đang biểu hiện giữa con người. Quyền năng ấy sẽ biệu hiện cách viên mãn trong việc đánh bại sự chết - nguồn gốc mọi đau khổ, và trong việc phục sinh Chúa Giêsu. Hoán cải và tin vào Chúa Giêsu (1,15), thì sẽ được tham dự vào sự sống hoàn hảo của Người.
Sáng sớm, Chúa Giêsu bỏ thành Capharnaum ra đi cách âm thầm, để cầu nguyện và để đi nơi khác (1,35-38). Người là Con được yêu mến của Chúa Cha (1,10-11.24), nên luôn gắn bó mật thiết với Cha của Người. Người tìm mọi dịp để cầu nguyện trong thanh tịnh với Cha của Người (6,46), nhất là khi Người sắp làm một thay đổi lớn: khởi đầu, lúc mở rộng hoạt động (1,38), cuối cùng, lúc sắp sửa nộp mình chịu chết (14,32-42).
Chúa Giêsu nói rõ lý do tại sao Người ra đi nơi khác: “Vì điều nầy mà Thầy đã đi ra” (1,38). Không có một bổ ngữ nào để xác định Chúa Giêsu đã đi ra từ đâu. Tuy nhiên, có thể hiểu là Người đã đi ra từ Chúa Cha. Nói cách khác, “Vì điều nầy mà Cha đã sai Thầy đến”. Sứ mạng của Chúa Giêsu là đến và đi rao giảng Nước Thiên Chúa. Không bị giới hạn một nơi nào cả. Người đến để tiêu diệt quyền lực ma quỉ và bệnh tật (1,24), đến để kêu gọi người tội lỗi (2,17), và đển để phục vụ và hiến mạng sống để cứu chuộc mọi người (10,45).
Chúa Giêsu đã thiết lập cách hành động của Người: Sứ mạng rao giảng mà Thiên Chúa giao phó quyết định hành trình của Người.
40. Cách thế Chúa chữa lành
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Đa số loài người đều có lúc mang bệnh tật: bệnh thể lý, bệnh tâm lý, bệnh thiêng liêng.. Và mỗi người đều muốn được chữa lành. Vì thế ta có thể đồng hoá với dân chúng trong Phúc âm hôm nay, vây quanh Chúa để xin được chữa lành bệnh tật. Chúa đến không những để giải thoát con người khỏi tội lỗi, nhưng còn chữa họ khỏi bệnh tật, và giải thát họ khỏi quỉ thần ám ảnh, nghĩa là đem lại tự do cho con người. Chúa dùng loài người như là bác sĩ, nha sĩ, y tá với thuốc men để chữa trị bệnh tật. Tuy nhiên Chúa cũng chữa trị bệnh tật loài người cách trực tiếp mà không cần bác sĩ, nha sĩ và thuốc men. Cách thế chữa trị đó được gọi là phép lạ.
Có những trường hợp Chúa không chữa trị loài người khỏi bệnh ngay, nhưng Chúa chữa trị dần dần để thử đức tin và lòng kiên nhẫn của loài người. Lại có những trường hợp Chúa muốn loài người cộng tác với đường lối chữa trị tự nhiên, bằng cách soi sáng cho người ta biết cách săn sóc bản thân mình như ăn ngủ điều độ, tập thể thao dưỡng sức. Cái vấn nạn ở đây là sự thể đã không xẩy ra như vậy. Có những người đi bác sĩ thường xuyên, nằm nhà thương lâu ngày, cầu nguyện liên tục mà bệnh tật vẫn không thuyên giảm. Nhiều người phải mang bệnh tật suốt đời. Như vậy bệnh tật có phải là do hậu quả của tội lỗi gây ra không? Hình như Thánh kinh cựu ước có ám chỉ như vậy, nghĩa là những tai hoạ cho loài người được coi là hình phạt của Thiên Chúa. Tuy nhiên tội lỗi không cắt nghĩa được hết. Sách Gióp trong Thánh kinh đã chứng minh điều đó. Ông Gióp phàn nàn về những tai hoạ xẩy đến cho ông và gia đình ông như việc mất của cải, vợ con. Các bạn ông nghĩ rằng những bất hạnh đó là hình phạt cho tội lỗi của ông. Tuy nhiên ông Gióp không thể chấp nhận lối giải thích đó vì ông sống đời công chính và cảm thấy lương tâm không có gì trách móc. Vậy thì phải có lý do nào khác, điều mà ta không hiểu được. Bằng chứng là ta thấy trẻ em vô tội cũng phải mang bệnh tật.
Là người Công Giáo, ta phải tin rằng Chúa có thể giải thoát ta khỏi bệnh tật, nếu điều đó có ích lợi cho tâm hồn. Tuy nhiên đức tin của người công giáo không dựa trên việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác mà thôi. Xét về phương diện nào đó thì loài người, loài vật cũng như cỏ cây hoa lá được sinh ra, lớn lên, rồi chết. Việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác là một niềm vui, một ân huệ. Tuy nhiên đó không phải là điều quan trọng nhất trong cái ước muốn của người Kitô giáo.
Chúa Cứu Thế đến với mục đích chính là để chữa lành bệnh tật thiêng liêng của loài người, giải phóng con người khỏi tội lỗi, để phục hồi sự sống thiêng liêng bằng cách giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao khi ta cầu nguyện, xin ơn chữa lành bệnh tật phần xác mà Chúa lại ban ơn chữa lành bệnh tật phần hồn. Có những trường hợp mà việc mang bệnh tật phần xác có thể mang lại lợi ích cho đời sống thiêng liêng. Có những người nếu được chữa khỏi bệnh tật phần xác người ta có thể lầm tưởng rằng đời sống thiêng liêng của họ là tốt lành, không gì đáng trách. Nếu Chúa ban ơn ngay cho mỗi người, họ có thể chóng quên ơn Chúa, không đánh giá được tầm quan trọng của ơn chữa lành, khiến họ bớt tuỳ thuộc vào Chúa. Vì thế bệnh tật có thể là một đường lối Chúa dùng để đưa người ta xích lại gần Chúa, khiến người ta tuỳ thuộc vào Chúa nhiều hơn. Đó là lý do giải thích tại sao trong Phúc Âm hôm nay Chúa tách biệt khỏi đám đông dân chúng để đi cầu nguyện một mình, trong khi còn nhiều người đau yếu bệnh tật cần được chữa lành mà Chúa vẫn bỏ đi. Lý do là vì Chúa còn cái sứ mệnh quan trọng khác để thi hành là truyền bá tin mừng cứu độ, đem ơn chữa lành cho cả tâm hồn.
Để đi đến kết luận thực hành, thái độ người công giáo phải có là khi đau ốm bệnh tật, ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị, đồng thời ta cầu xin cho được ơn chữa lành. Tuy nhiên bao lâu ta còn mang bệnh tật, ta cần cầu xin để được ơn can đảm chịu đựng vì yêu mến Chúa. Người công giáo chấp nhận đau khổ bệnh tật không phải như một đường cùng không lối thoát. Người công giáo chấp nhận đau khổ bệnh tật vì tin yêu và phó thác để tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa. Chỉ bằng việc chấp nhận đó mới đem lại bình an và ơn phúc cho tâm hồn.
41. Xin ơn chữa lành bệnh tật hồn xác
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Gần đến tuổi xế chiều thì cơ thể con người khó thích ứng được với một số đồ ăn, thức uống và những yếu tố ảnh hưởng bên ngoài. Do đó cơ thể phát ra những chứng bệnh tật, đau yếu khác nhau. Như vậy thì ta có thể đồng hoá với dân chúng trong Phúc âm hôm nay, gồm bà nhạc mẫu của thánh Phêrô, vây quanh Chúa để xin được chữa lành bệnh tật. Hôm nay Chúa đến chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỉ (Mc 1:34) nghĩa là đem lại tự do cho con người. Chúa dùng nhiều cách thế khác nhau để chữa trị bệnh tật loài người.
Chúa dùng loài người như là bác sĩ, nha sĩ, y tá cùng với thuốc men để chữa trị bệnh tật. Tuy nhiên Chúa cũng chữa trị bệnh tật loài người cách trực tiếp mà không cần sự cộng tác của loài người, cùng với thuốc men. Cách thế chữa trị đó được gọi là phép lạ. Có những trường hợp Chúa không chữa trị loài người khỏi bệnh ngay, nhưng Chúa chữa trị dần dần để thử lòng tin và lòng kiên nhẫn của họ. Lại có những trường hợp Chúa muốn loài người cộng tác với đường lối chữa trị tự nhiên, bằng cách soi sáng cho người ta biết cách giữ gìn sức khoẻ như ăn uống, ngủ nghỉ điều độ, tập thể thao dưỡng sức. Vấn nạn ở đây là sự thể đã không xẩy ra như vậy. Có người đi bác sĩ thường xuyên, nằm nhà thương lâu ngày, cầu nguyện liên tục mà bệnh tật vẫn không thuyên giảm. Nhiều người còn phải mang bệnh tật lâu dài. Như vậy bệnh tật có phải là do hậu quả của tội lỗi gây ra không?
Hình như Thánh kinh Cựu ước có ám chỉ như vậy, nghĩa là những tai hoạ xẩy ra cho loài người được coi là hình phạt của Thiên Chúa. Đạo lí nhà Phật thì cho là tại nghiệp chướng: kiếp trước làm bậy thì kiếp sau phải gánh chịu hậu quả tai hại. Đạo lí nghiệp chướng cũng giống ý nghĩa trong câu ngạn ngữ: Đời cha ăn mặn, đời con khát nước. Có điều khác biệt là trong thuyết nghiệp chướng thì cùng một cá nhân phải chịu hậu quả trong kiếp luân hồi; còn quan niệm cha ăn mặn, con khát nước là hai cá nhân khác nhau: cha có liên hệ huyết nhục với con, nhưng không phải là con.
Quan niệm trong câu ngạn ngữ Việt Nam trên đây còn giống quan niệm trong câu ngạn ngữ mà người ta truyền tụng trong dân Ít-ra-en (Do thái): Đời cha ăn nho xanh (chua), đời con phải ghê răng (Gr 31:29; Ed 18:2). Để sửa sai quan niệm đó, Thiên Chúa dùng miệng nhị vị ngôn sứ Giêrêmia và Êdêkien để trách dân Do thái sao cứ truyền tụng câu ngạn ngữ đó và dạy họ rằng mỗi thế hệ hay mỗi cá nhân chịu trách nhiệm về hành động của thế hệ đó hay cá nhân mình (Gr: 31:30; Ed 18:3). Quan niệm trong câu ngạn ngữ trên của dân dân Do thái chỉ đúng khi áp dụng vào một số bệnh di truyền nào đó dựa vào lí do sinh thể lí mà thôi.
Theo giáo lí Do thái giáo là đạo Cựu ước và giáo lí Kitô giáo là đạo Tân ước thì tội lỗi không cắt nghĩa được hết tại sao người ta phải mang tai họa. Sách Gióp đã chứng minh điều đó. Ông Gióp phàn nàn về những tai họa xẩy đến cho ông và gia đình ông như phải mất của cải, vợ con (G 7:1-4,6-7). Các bạn ông cho rằng những bất hạnh đó là hình phạt cho tội lỗi của ông. Tuy nhiên ông Gióp không thể chấp nhận lối giải thích đó vì ông sống đời ngay lành, công chính và cảm thấy lương tâm không bị trách móc. Vậy thì phải có lý do nào khác, điều mà người ta không hiểu được hay chưa hiểu được ở đời này. Người ta không hiểu được tại sao có những người hiền đức, ăn ngay ở lành mà phải chịu bệnh tật đau khổ? Người ta cũng không hiểu được tại sao một số trẻ em vô tội cũng phải mang bệnh hoạn tật nguyền?
Là người Kitô giáo, ta phải tin rằng Chúa có thể giải thoát loài người khỏi bệnh tật, nếu điều đó có ích lợi cho linh hồn. Tuy nhiên đức tin của người công giáo không dựa trên việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác mà thôi. Xét về phương diện nào đó thì loài người, cũng như loài vật, cỏ cây hoa lá, đều trải qua tiến trình của kiếp sống con người: sinh, lão, bệnh, tử. Việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác là một ân huệ và là niềm vui. Tuy nhiên đó không phải là điều quan trọng nhất trong ước muốn của người Kitô giáo.
Chúa Cứu Thế đến với mục đích chính là để chữa lành bệnh tật phần hồn của loài người, giải thoát con người khỏi tội lỗi, để phục hồi sự sống thiêng liêng bằng cách giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Đó là lí do tại sao khi ta cầu nguyện, xin ơn chữa lành bệnh tật phần xác mà Chúa lại ban ơn chữa lành bệnh tật phần hồn, mà ta không hay biết.. Có những trường hợp mà việc mang bệnh tật phần xác, có thể mang lại lợi ích cho đời sống thiêng liêng, khiến người ta tuỳ thuộc vào Chúa. Nếu được chữa khỏi bệnh tật phần xác, người ta có thể lầm tưởng rằng đời sống thiêng liêng của họ là tốt lành, không gì đáng trách. Vì lợi ích thiêng liêng cho loài người, Chúa cũng có thể trì hoãn việc chữa lành. Nếu Chúa ban ơn ngay cho mỗi người, họ có thể chóng quên ơn Chúa, không đánh giá được tầm quan trọng của ơn chữa lành, khiến họ bớt tuỳ thuộc vào Chúa.
Đó là lý do giải thích tại sao trong Phúc âm hôm nay Chúa tách biệt khỏi đám đông quần chúng để đi cầu nguyện, rao giảng trong các hội đường và trừ quỉ (Mc 1:35-39). Trong khi còn nhiều người đau yếu bệnh tật cần được chữa lành mà Chúa vẫn bỏ đi. Lý do là vì Chúa còn một sứ mệnh quan trọng hơn để thi hành là truyền bá tin mừng cứu độ, đem ơn chữa lành cho tâm hồn nữa. Chúa cũng không dùng quyền năng để tự cứu mình khỏi đau khổ và sự chết. Chúa tự ý chấp nhận đau khổ và sự chết vì Người ý thức được giá trị của đau khổ và sự chết vì yêu mến Chúa và tha nhân để mang lại ơn cứu độ cho loài người.
Để đi đến kết luận thực hành, thái độ người tín hữu phải có là khi đau ốm bệnh tật, người ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị, đồng thời phải cầu xin cho được ơn chữa lành. Tuy nhiên bao lâu người ta còn mang bệnh tật, người ta cần cầu xin để được ơn can đảm và nhẫn nại chịu đựng vì yêu mến Chúa. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật không phải như một đường cùng không lối thoát. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật vì tin yêu và phó thác để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa. Chỉ bằng việc chấp nhận như vậy mới đem lại bình an và ơn phúc cho tâm hồn khi phải mang bệnh tật đau khổ về phần xác. Để khỏi ngã lòng trông cậy Chúa và khỏi trở nên gánh nặng cho người săn sóc, có linh mục kia vẫn cầu nguyện xin Chúa đừng để mình phải nằm trên giường bệnh lâu dài.
Lời cầu nguyện xin cho được khỏi bệnh phần xác phần hồn:
Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến,
chữa lành bệnh tật hồn xác loài người.
Xin Chúa ban ơn chữa lành cho bệnh nhân
đau yếu, bệnh tật trong thời đại chúng con.
Xin Chúa soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia,
tìm ra thuốc men và phương pháp chữa trị bệnh tật.
Xin Chúa cũng chữa lành bệnh tật của chính con:
phần xác, phần hồn, phần tâm trí, phần tình cảm
để con có thể phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân
với hồn xác an vui và lành mạnh. Amen.
42. Động lực của việc tông đồ – Radio Veritas Asia
Tin Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những giây phút gặp gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương diện thiên tính, Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên Ngài luôn kết hiệp với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật thái độ sống của Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời cầu nguyện.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: "Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa Giêsu đã chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện". Mặc dù bận rộn với rất nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện. Nhưng đây không phải là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Ngài lấy hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tầm quan trọng của cầu nguyện: "Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì".
Chúng ta hãy noi gương Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại, chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như Ngài đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt tới việc cầu nguyện như thế, chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu mến Thiên Chúa như người con đối với người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Cầu nguyện là việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện. Hãy đến với Chúa như đứa con đến với cha mình".
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận lợi để bắt đầu một ngày sống tốt đẹp hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện, nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu hơn.
43. Hãy ra công làm việc như Chúa Giêsu - Huệ Minh
Tâm trạng, cảm xúc của con người thật khó nói. Có những lúc lòng người cảm thấy hứng thú khi làm việc nhưng rồi có những lúc lòng cảm thấy buồn rười rượi bởi lẽ có khi thầy cuộc đời này chẳng là gì cả.
Jean-Paul Sartre - một triết gia, phê bình gia, tiểu thuyết gia và một kịch tác gia nắm một vị trí cao cả, ít ai có trong thế giới văn chương Pháp. Những tác phẩm của Sartre, đặc biệt La Nausée (Xb đầu tiên 1938) đã thu hút một số lượng khổng lồ về triết thuyết hiện sinh của Sartre như một tư tưởng mới và có một ý nghĩa quan trọng. La Nausée/Buồn Nôn là một tiểu thuyết mang tính hiện thực vừa đương đại vừa hiện thực cho một chủ nghĩa hiện sinh mà Sartre chủ xướng một cách trung thực và đầy sáng tạo giữa đời này.
Buồn Nôn là một câu chuyện hư cấu nhưng có thực và sống thực qua nhân vật Antoine Roquentin. Tác giả đã làm kinh ngạc người đọc về triết thuyết hiện sinh. Một tiểu thuyết đầy ấn tượng dưới một thể thức nhật ký mà ông đã diễn tả được cái sâu sắc nội tâm của con người, cái ray rứt, cái tàn nhẫn trong sự cảm nhận giữa thế giới với con người dường như xảy ra quanh đời ông. Tư tưởng của Sartre đạt tới cực điểm và lan tỏa, vượt qua được sức mạnh của cảm giác, tức nỗi đau khổ không cùng của con người đứng trước hiện hữu; tất cả được thể hiện rộng rãi từ dưới thể tính bầy nhầy, nhão quẹt (vicous) trộn lẫn với loãng chất (puddle) của cái thời đầy rẫy bóng tối vây quanh và lan trải như vết dầu loang; những hiện tượng đó là cơ hội dành cho Sartre phát triển chủ nghĩa hiện sinh, mà nhân tố hiện sinh chính là nhân bản, là yếu tố tâm lý và sinh lý giữa hiện thể và hiện vật xẩy ra cùng một lúc.
Buồn Nôn không còn là hư cấu, nó trở nên một luận cứ triết học của học thuyết hiện sinh mà Jean-Paul Sartre là kẻ đưa đường. Tác phẩm Buồn Nôn của ông đã để lại hậu thế những giá trị tuyệt đối, vượt thời gian qua những án văn chương bất hủ, một phạm trù triết học đầy nhân tính trong thuyết hiện sinh của ông. Jean-Paul Sartre là nhân vật thời thượng qua mọi thời đại của nền văn học sử hiện đại.
Tâm tình nhìn thấy cuộc đời này đầy chán nản ta cũng bắt gặp trong cuộc đời của một người rất thân quen trong Thánh Kinh đó là ông Giob. Ta vừa nghe ông Giob ai oán: "Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ giống như ngày của người làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như người làm công ước mong lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn rỗi, có những đêm người ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại nói: "Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối". Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc".
Sau khi nghe Giob ai oán như thế, ta cũng giật mình tỉnh giấc vì lẽ đôi khi cuộc đời ta cũng rơi vào cảm giác như thế. Bằng chứng rõ nét là ta vẫn thấy quanh ta có những cuộc tự vẫn, có những người tìm đến cái chết bởi vì họ cảm thấy cuộc đời này chán nản. Trong những người tìm đến cái chết đó cả những người có chức có quyền, các minh tinh màn bạc, ca sĩ... Cũng dễ hiểu vì lẽ những người đó đã không tìm được niềm vui trong cuộc sống.
Vậy, cuộc sống của ta, cuộc đời của mỗi người chúng ta vui khi nào? Khi chúng ta ra công làm việc và tất cả những việc lớn bé to nhỏ trong đời ta ta đều kết hiệp với Chúa và dâng hết cho Chúa.
Trang Tin Mừng theo Thánh Máccô hôm nay gợi cho ta một hình ảnh của một con người lao động. Con người ấy là ai? Thưa là chính Chúa Giêsu.
Thánh Máccô cho chúng ta biết một ngày làm việc tiêu biểu của Chúa Giêsu ở thành phố Capharnaum, thành phố của Phêrô và Anrê. Ngài giảng dạy ở hội đường, chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon cho khỏi cơn ssốt, chữa nhiều bệnh nhân và trừ qủi từ chiều cho đến tối. Sáng sớm tinh sương đi cầu nguyện nơi thanh vắng, và tiếp tục đi rao giảng ở những nơi khác.
Tóm lại, ta thấy Chúa Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày và trừ qủi.
Những công việc bận rộn như vậy cũng không hề làm cho Ngài mất tiếp xúc với Cha của Ngài ở trên trời. Ngài sẽ dùng nhiều thời giờ nghỉ ban đêm để sống thân mật với Cha Ngài ở trên trời. Ngài còn dành nhiều thời giờ ban đêm để sống mật thiết với Chúa Cha nữa như ở những nơi khác ta thấy Ngài thức suốt đêm để cầu nguyện.
Rõ ràng rằng đời sống làm việc của Chúa Giêsu được kết nối hay nói cách khác là đan xen trong lời cầu nguyện của Ngài. Lao động và cầu nguyện để ngày mỗi ngày càng gần Chúa hơn qua những công việc của Chúa Cha trao phó. Cha trao phó cho Chúa Giêsu công việc chính yếu nhất đó là loan báo Tin Mừng Nước Trời, loan báo niềm vui Tin Mừng.
Nếu như những người bình thường khác, Chúa Giêsu sẽ cảm thấy chán ngán vì ra sức làm việc mà chẳng được gì cả, thậm chí còn bị giới luật sĩ và biệt phái soi mói đủ thứ đủ điều. Thế nhưng, vì Tin Mừng, vì Cha và với Cha, Chúa Giêsu không bận tâm những lời ra tiếng vào nữa và vì làm việc nhiều quá mệt để rồi khi đặt lưng xuống là ngủ chứ không còn thời giờ để suy nghĩ vu vơ.
Ngày hôm nay, trong cuộc sống hiện tại, ta vẫn thấy có nhiều người vẫn còn đó những chán ngán của cuộc đời do họ suy nghĩ cuộc đời này vô nghĩa, cuộc đời này không đáng sống. Thật ra, cuộc đời này đáng sống lắm đấy bởi lẽ ai ai sinh ra cũng chỉ một lần và chết cũng có một lần mà thôi. Và vì thế, hãy ra công làm việc
Đâu đó ta vẫn nghe Chúa Giêsu nói: "Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu" (Ga 6, 27)
Trong hành trình làm người ở trần gian, cần lắm của ăn nuôi sống cái xác thịt 5,6, 7 chục ký này nhưng cần hơn nữa đó chính là của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời.
Chúa ban cho mỗi người một khả năng, một ơn gọi, một biệt tài nhưng có khi con người không nhận ra để rồi khi không nhận ra thì cuộc sống cảm thấy chán càng chán thêm.
Có một người đến tuổi trung niên. Bỗng nhiên anh bị tai biến và khả năng đi lại thật khó khăn. Lẽ ra trong cái buồn, trong cái hạn chế của bệnh tật và nhất cả của kiếp người, anh cũng có quyền ai oán nhưng bao người khác nhưng ngược lại, anh cảm thấy anh còn làm được gì thì anh cố làm. Thế là anh chuyên chăm vào chuyện suy gẫm là lắng nghe lời Chúa. Chỉ là một giáo dân bình thường như bao nhiêu người khác nhưng anh đã cố gắng loan báo Tin Mừng bằng suy nghĩ, bằng sẻ chia Lời Chúa hàng ngày của anh. Thật trân trọng tâm hồn và cách lao động làm việc của anh. Cách nào đó anh loan báo Tin Mừng thật tuyệt vời.
Một cô kia cũng đang ở cái tuổi gần 60. Gia đình tương đối đủ ăn đủ mặc và hàng xóm vài người trêu rằng sao không nghỉ ngơi đi mà cứ lo buôn bán. Vui miệng, cô trả lời: "Đủ ăn, đủ mặc rồi nhưng làm thêm để kiếm tiền rải đường đi lên thiên đàng!". Cô đùa vui thôi. Trong tâm tình, cô chia sẻ với tôi rằng: "Tôi còn sức còn làm và dư ra để tôi lại chia sẻ với người nghèo hơn tôi". Mà thật! Tôi vẫn thấy cô xuất hiện trong những chuyến từ thiện, những chuyến thăm viếng người nghèo, người tâm thần.
Phải chăng cô không làm việc để tích lũy làm giàu như người khác nhìn vào nhưng cô lao công để chia sẻ cho người khác. Đây là cách sống loan báo Tin Mừng bằng chính sự chia sẻ của cô, của gia đình cô.
Trong thư chúng ta vừa nghe Thánh Phaolô tự nhận là mình có nhiệm vụ phải rao giảng Tin mừng:”Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Ngài cố gắng thi hành nhiệm vụ này một cách vô vị lợi, không tìm vinh danh cho mình nhưng chỉ dành cho Chúa. Chính vì thế, Ngài đã cố gắng trở nên mọi sự cho mọi người, chia sẻ những sự yếu đuối của anh em, sống cuộc sống của họ, tự đặt mình làm tôi tớ phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo hèn, và mục đích của Ngài là tranh thủ đem về cho Chúa Kitô nhiều linh hồn.
Khi ta nghe xong lời ấy, ta có thể trách móc và "đấu" lại với Thánh Phaolô rằng con chẳng có gì để loan báo Tin Mừng cả! Thế nhưng, trong sâu lắng của cuộc đời, ta vẫn còn sống là ta vẫn còn loan báo Tin Mừng bằng đời sống lao động, cầu nguyện của ta đó.
Như Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, trong hoàn cảnh hiện tại, đời sống cầu nguyện của Ngài phải chăng là một đời sống lao động tuyệt vời. Không còn làm việc công khai, không còn lao nhọc công khai nữa nhưng Đức Tổng vẫn kết hiệp mật thiết đời mình với Chúa hơn qua lời cầu nguyện.
Có thể ta già nua tuổi tác, có thể ta bị tai biến như người trung niên đã nói ở trên và có khi ta nghèo nhưng ta vẫn lao động, vẫn cầu nguyện được trong hoàn cảnh của ta. Xin Chúa thêm ơn cho ta để ngày mỗi ngày ta biết lao động như Chúa đã từng lao động để rồi ta thấy cuộc đời ta có ích hơn, ý nghĩa hơn nhất là khi ta kết hợp mật thiết hơn với Chúa qua lời cầu nguyện của ta.
44. Làm việc cho Vương quốc Nước Trời
(Suy niệm của John. W. Martens – Lm. GB. Văn Hào chuyển ngữ)
“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (Mc1,38)
Có nhiều thái độ khác nhau khi chúng ta thẩm định về những công việc thường ngày. Một người không có công ăn việc làm, cuộc sống sẽ bấp bênh, đời sống kinh tế sẽ không được bảo đảm. Rơi vào tình trạng thất nghiệp, người ta dễ chán nản và mất tự tin. Ngược lại, những ai có việc làm ổn định, sẽ an tâm khi về hưu trí. Cho dù, đôi lúc công việc làm ăn là cả một gánh nặng với bao vất vả, nhưng nó rất cần thiết để đảm bảo nhu cầu vật chất cho cuộc sống mỗi người. Giữa hai trạng huống, một đàng cần có việc làm, đàng khác, lại ước muốn thoát khỏi gánh nặng đó, là một thực tại vẫn luôn giằng co căng thẳng, ẩn sâu nơi cuộc sống hiện sinh của chúng ta ngày hôm nay.
Tác giả John Hughes đã viết “ Trải dài theo truyền thống Kitô giáo, người ta vẫn nhìn vào công việc với nhiều ý nghĩa khác nhau. Đôi khi người ta xem việc lao động như là một hình thái gắn kết chặt chẽ với bản tính nhân loại trong chính thiện ích của nó ngay từ thưở nguyên sơ. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phân định rằng đã có lúc, thân phận người lao động cùng khổ cũng gắn liền với kiếp nô lệ, và họ phải luôn đấu tranh mong thoát khỏi để sinh tồn (trích trong sách The end of Work)”
Gióp đã phản hồi với Chúa, khi ông gợi nhắc đến những công việc vất vả trong cuộc sống thường ngày của kiếp người “ Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày làm lụng vất vả có khác gì đời kẻ làm thuê?” (Gióp 7,1). Gióp đã than vãn cách bi quan khi nhìn vào những vất vả lao động như một gánh nặng, cho dù nhìn ở góc cạnh khác, công việc thường ngày của kiếp nhân sinh vẫn hàm ngậm một chiều kích tích cực hơn. Ngày Sabbat mà Kinh thánh nói tới, là ngày nghỉ ngơi, cho thấy công việc hằng ngày vẫn chỉ mang tính tương đối. Sự nghỉ ngơi đó, theo tác giả Hughes, hướng chúng ta đến một thực tại cao cả hơn, đó là sự an nghỉ cuối cùng trong Chúa. Cùng đích của cuộc nhân sinh chính là sự nghỉ ngơi an bình trong bàn tay của Thiên Chúa, nhưng cuộc sống con người trên trần gian ngày hôm nay vẫn đòi hỏi phải có công ăn việc làm để mưu sinh.
Chúng ta cần phân định giữa những công việc thường ngày để sinh nhai với công việc phục vụ Vương quốc Nước trời mà Tân ước hay nói đến. Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta nói rằng những công việc lao động trong thực tại trần thế này không quan trọng. Những công việc đời thường chúng ta làm, vẫn luôn hàm ngậm những sự tốt lành và thiện ích một cách nội tại. Nhưng chúng ta cần phải tránh hai thái cực: Một là, xem công việc như một thần tượng mà chúng ta cần phải tôn thờ, phải đeo bám bằng bất cứ giá nào, hai là chúng ta lại cố né tránh mọi việc làm để ở không một cách lười biếng.
Có lẽ, chúng ta sẽ nhận ra những thiện hảo nơi công việc chúng ta thực hiện hằng ngày, khi đọc lại các bản văn trong kinh thánh. Thánh Phaolô cũng đã từng làm việc để mưu sinh với nghề dệt lều (Cv 18,13). Nhưng công việc phục vụ cho Tin mừng vẫn ý nghĩa hơn, và quan trọng hơn đối với Ngài.
Dầu sao, Thánh Phaolô luôn từ chối mọi thù lao khi Ngài thực hiện sứ mạng tông đồ. Ngài viết “Đối với tôi, rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng. Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công. Còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa trao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin mừng, tôi rao giảng không công chẳng hưởng quyền lợi Tin mừng dành cho tôi (1 Cor 16-18). Công việc của Thánh Phaolô để phục vụ Vương quốc Nước Trời là một việc làm mang chiều kích linh thánh, và những ai thực thi sứ vụ này sẽ được vào hưởng sự nghỉ ngơi vĩnh hằng trong tay Chúa.
Chính Đức Giêsu cũng nhận thức được những thiện ích và sự cần thiết của công việc, cùng với sự nghỉ ngơi đi kèm theo. Đó không phải chỉ là sự nghỉ ngơi để chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như mục đích tối hậu của cuộc sống con người mà chúng ta vươn hướng tới. Đức Giêsu muốn đề cập đến sự nghỉ ngơi sau những lao nhọc vất vả của cuộc sống nhân sinh. Ngài đến trần gian để thực hiện sứ mạng xây dựng Nước Trời, và chúng ta cũng thấy Ngài thực hiện sứ mạng đó, rất quân bình giữa công việc và sự ngơi nghỉ. Sau khi Đức Giêsu chữa lành cho nhạc mẫu của Thánh Phêrô, như Tin mừng Marcô thuật lại, bà trỗi dậy ngay sau đó và phục vụ các ngài. Cũng vậy, sau khi Đức Giêsu vất vả chữa lành các bệnh nhân với nhiều chứng bệnh khác nhau, và trừ nhiều quỷ, Ngài cũng kiếm tìm một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, và Ngài cầu nguyện ở đó. Đức Giêsu cũng cần những phút giây tĩnh lặng để thư giãn sau những mệt nhọc vất vả với bao công việc bề bộn thường ngày.
Tuy nhiên, như Marcô trình thuật lại, Phêrô và các bạn đi tìm kiếm Đức Giêsu, lúc Ngài ẩn tránh, lui vào một nơi thanh vắng và ở đó một mình. Ngài không khiển trách các tông đồ cho dù có vẻ như họ đang quấy rầy, xen vào sự tĩnh dưỡng của Ngài. Đức Giêsu nói với họ “ Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt là để làm công việc này.” Đức Giêsu có những công việc cần phải làm và điều căn bản ở đây, là Ngài đã chu toàn những công việc ấy rất tốt đẹp để phục vụ cho Vương quốc Nước Trời. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có làm việc hay không? chúng ta đã và đang làm những công việc gì, làm cho ai, và làm như thế nào?
45. Niềm vui vì được chữa lành – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Đầu năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh có tên thật ngộ nghĩnh: bệnh bò điên (Mad-Cow discease). Những người mắc bệnh này vì họ ăn nhằm những con bò điên. Khi mắc phải, bộ não người bệnh sẽ bị hư hoại dần dần, tay chân run rẩy và đi dần đến cái chết.
Lúc đầu, người ta phát hiện có mười người mắc phải bệnh này ở Anh quốc, tám người trong số đó đã chết. Ngày 21 tháng 3 năm 1996, Bộ trưởng Y tế của Anh là ông Stephen Dorell đã phải tuyên bố: “Có thể có sự liên quan giữa bệnh bò điên và bệnh Creutzfeldt – Jacob nơi con người”.
Sau đó, Pháp là nước đầu tiên tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò của Anh Quốc. Các nước Âu Châu lần lượt làm theo nước Pháp. Cộng đồng Âu Châu còn khuyến cáo Anh Quốc phải triệt hạ tất cả mọi con bò mắc bệnh. Việc này đã khiến Anh Quốc thiệt hại hàng tỉ đô la.
***
Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Người ta xóa sổ được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và dường như là bất trị. Có những bệnh tật tưởng chừng đã biến mất, nhưng nay lại quay trở về với con người.
Hôm nay Đức Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon – Phêrô. Bà đang bị cảm sốt liệt giường. Đức Giêsu cầm tay bà nâng dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi lại tiếp đãi các Ngài.
Người Do thái cho rằng cảm sốt là hình phạt của Thiên Chúa, cũng giống như bệnh dịch (x.Ds 5,3). Sau này người ta còn gán cho cảm sốt là do ma quỉ. Trong cái nhìn đó, bệnh tật được coi như bắt nguồn từ ma quỉ và việc lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng quỉ ma. Vì thế, việc Đức Giêsu chữa bệnh cảm sốt cho nhạc gia ông Simon biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi ách tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Đức Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỉ đến đó. Người mang đến cho họ niềm vui và nụ cười. Người tín hữu Kitô cũng hãy đem niềm vui, niềm hạnh phúc đến cho tha nhân trong môi trường mình sinh sống. E. Lamy khẳng định: “chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng”.
Sau khi được chữa lành, bà nhạc ông Simon đã đứng dậy đi phục vụ mọi người. Qua Bí tích Rửa tội, chúng tôi được xua ma quỷ, được chữa lành bệnh tật linh hồn, và được trở nên con cái Chúa, chúng ta cũng hãy ra đi phục vụ anh em đồng loại, nhất là những người cô thân cô thế, những kẻ bệnh hoan tật nguyền. V. Ghika có viết: “Thiên Chúa cho kẻ biết cho, hiến thân cho kẻ hiến thân. Nếu bạn biết gánh lấy niềm đau của kẻ khác, thì Thiên Chúa sẽ gánh lấy nỗi khổ của bạn và biến nó thành của Người”.
Dường như gánh lấy nỗi đau của kẻ khác, chúng ta cảm thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Dường như hy sinh cho tha nhân bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Dường như sống yêu thương sẽ thấy lòng thanh thản, cuộc đời nhẹ thênh thang.
***
Lạy Chúa, thế giới ngày nay vẫn còn các tà thần ám ảnh: thần của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn còn các bệnh tật lan tràn: bệnh trong lối nghĩ, lối nhìn và lối sống. Xin chúa thương chữa lành cho tất cả chúng con. Nhất là xin cho các tín hữu chúng con cũng biết xoa dịu, băng bó và chăm sóc những vết thương thể xác và tâm hồn của anh chị em xung quanh. Amen.
46. Sống tâm tình biết ơn
Chúa Giêsu vừa mới từ nhà hội Caphácnaum, nơi Ngài đã phụng sự Chúa bằng cầu nguyện và rao gảng lời Ngài, lại phục vụ nhân loại qua việc chữa lành người bị quỷ ám. Và trên đường về nhà Phêrô Ngài đã chữa lành người đầy tớ của thầy đội (Mt 8,5-13). Khi Chúa Giêsu ở Ca-phác-na-um, Ngài không có nhà riêng, trụ sở Ngài đặt là nhà của Phêrô, nơi đây mẹ vợ của Phêrô đang bị sốt.
Có ba loại sốt thường thấy ở Paléttin. Một loại được gọi là malta có đặc điểm làm suy nhược, mất máu, thường kéo dài nhiều tháng và chết. Một loại khác là sốt cách nhật giống như sốt rét định kì. Nhưng nặng nhất là sốt rét da vàng. Nơi gần sông Giođan đổ vào biển hồ có nhiều vùng sình lầy là môi trường lý tưởng cho giống muỗi sinh sôi nảy nở. Cả Caphácnaum và Tibêria là điạ bàn hoạt động cho giống muỗi gây bệnh sốt rét. Chứng này thường kèm theo bủng da và nóng lạnh, gây khốn khổ cho bệnh nhân, chắc chắn đây là chứng mà mẹ vợ ông Phêrô mắc phải.
Chúa Giêsu vừa từ nơi công cộng về, mệt mỏi vì giảng dạy và chữa bệnh, chắc cũng muốn nghỉ ngơi. Tuy vậy, vừa vào đến nhà đã lại có lời cầu xin được giúp đỡ, và Ngài lại dấn thân vì người khác.
Phép lạ này nói cho chúng ta vài điều về ba hạng người:
1. Cho chúng ta biết về Chúa Giêsu.
Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng, Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng như giữa đám đông trong nhà hội. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không cứu giúp, nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của chính Ngài. Nhưng trên hết, tại đây cũng như trong nhà hội. Chúng ta thấy các phương pháp có một không hai của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa Giêsu có nhiều người thầy trừ quỷ, họ hành nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái công phu, những hình thức bùa chú, những tiếng kêu la, hò hét với nhiều đồ nghề ma thuật. Trong nhà hội Chúa Giêsu chỉ phán một câu đầy uy quyền và việc chữa bệnh được hoàn tất ngay. Ở đây cũng có một sự việc như thế xảy ra. Bà nhạc gia của Phêrô đang đau chứng bệnh mà kinh Talmud gọi là “một cơn sốt thiêu đốt”. Kinh Talmud cũng chỉ ra phương pháp chữa trị chứng bệnh này. Người ta lấy một con dao bằng sắt đen cột vào một bụi gai bằng một lọn tóc. Suốt nhiều ngày liên tiếp, người ta đọc sách Xuất Hành 3, trước nhất là câu 2,3 rồi đến câu 4,5. Rồi có một công thức ma thuật được đọc lên, như thế họ xem phần chữa trị đã xong. Chúa Giêsu hoàn toàn bất chấp những câu thần chú ma thuật thông thường, chỉ bằng một dáng điệu và một tiếng duy nhất đầy quyền năng, Ngài đã chữa lành cho bà cụ. Bác sỹ Paul Tournier có viết: “bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều tôi kể. Đó chẳng phải là sự kiên nhẫn, mà là sự quan tâm”. Với Chúa Giêsu, việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín, giúp người không phải là nhiệm vụ khó nhọc, Ngài chỉ giúp người một cách tự động, tự nhiên vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần đến sự cứu giúp của Ngài.
2. Cho chúng ta biết về môn đệ của Ngài.
Họ chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng ngay trong giờ phút gặp gỡ ngắn ngủi này, họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho Ngài. Bà nhạc gia của Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, việc các môn đệ Ngài trình mọi việc cho Chúa Giêsu nghe là điều tự nhiên nhất trên đời.
Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một vị mục sư lão thành và ông cụ chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Ông hết sức kinh ngạc vì cách cầu nguyện đơn sơ của vị mục sư nọ. Nó giống hệt phần tiếp tục câu chuyện thân mật mà vị thánh tông đồ lão thành ấy luôn trò chuyện với Chúa Giêsu. Bác sỹ Tournier “về đến nhà, tôi sẽ kể cho vợ tôi nghe chuyện ấy và chúng tôi cùng cầu xin Thiên Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cụ mục sư nọ vậy. Từ đó, Ngài trở thành trung tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi làm và cũng quan tâm về việc đó. Ngài là người bạn thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời tôi ra thảo luận. Ngài sẽ chia sẻ những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự với tôi. Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người ấy”. Mấy lời trên đây bao gồm yếu tính sinh hoạt của Kitô hữu. Thế là các môn đệ nguyên thủy đã học được điều trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp đỡ mình.
3. Cho chúng ta biết vài điều về bà nhạc gia của Phêrô.
Ngay sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục vụ. Bà cụ đã dùng phần sức khoẻ hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Ta đã xử dụng ơn Chúa ban như thế nào?
Nhà văn Oscar Wilde viết “chuyện hay nhất Thế Giới” trong đó ông kể: “Đấng Cứu Thế đi từ miền thôn quê tầm thường lên một thành phố muôn phần sặc sỡ. Khi đi qua một phố đầu tiên Ngài nghe có tiếng nói phiá trên đầu, nhìn lên thấy một thanh niên nằm vắt ngang thành cửa sổ. Chúa hỏi sao ngươi lại bỏ phí linh hồn trong say sưa? Hắn đáp: thưa Chúa, tôi là người phong đã được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn? Đi xa hơi một chút nữa, Ngài thấy một thanh niên đang lẽo đẽo theo sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: Tại sao ngươi bỏ phí cuộc đời của ngươi trong trác táng? Chàng đáp: Thưa Chúa, tôi là người mù được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn? Cuối cùng ở giữa thành phố, Ngài thấy một người già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi được Chúa hỏi ông đáp: Lạy Chúa tôi là người chết được Chúa cho sống lại, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn là khóc?
Đó là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã tàn nhẫn, vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Bà mẹ vợ của ông Phêrô đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là cách chúng ta sử dụng mọi hồng ân Chúa ban.
Không ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng rể như thế nào, để sau này, với tư cách là lãnh tụ Giáo hội, Phêrô đã viết thư khuyên giáo dân: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô”(1Pr 4,10-11).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, Chúa đã đụng chạm đến đời sống chúng con, mỗi người mỗi cách. Mỗi lần Chúa chạm đến đời con là mỗi lần con được đổi mới, được chữa lành. Xin Chúa tiếp tục chữa lành không chỉ thể xác con mà cả tinh thần của con, để con luôn biết diễn tả tâm tình biết ơn: Biết ơn Chúa và biết ơn mọi người qua đời sống hy sinh phục vụ như Chúa. Amen.
47. Chúa Nhật 5 Thường Niên
Chúa Giêsu đến trần gian đem tình thương cho nhân loại. Ngài chữa bệnh và giúp chúng ta thấy được ý nghĩa của đau khổ và bệnh tật.
Sống trong thế trần, con người phải trải qua nguyên lý là "sinh, lão, bệnh, tử". Nguyên lý ấy chi phối mạnh mẽ đến nỗi không ai có thể thoát khỏi nó. Một trong những đau khổ đeo bám con người là bệnh tật. Bệnh tật làm cho con người "đau" về thể xác và hơn thế nữa nó còn làm cho họ "khổ" về tinh thần. Hơn nữa vào thời Chúa Giêsu, người Do Thái cho rằng bệnh tật của con người là do tội lỗi của họ, bệnh tật là do bị Thiên Chúa phạt. Do đó, những người mắc bệnh thường bị cách ly, họ bị cộng đoàn tránh xa và ruồng bỏ. Họ đau về thể xác rồi nhưng còn phải khổ hơn về tinh thần vì phải đối diện với quan niệm này.
Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian nhằm mang đến hạnh phúc cho con người. Bên cạnh việc rao giảng Tin mừng, Ngài còn chữa bệnh và cứu sống cho con người. Ngài đã phá tan những bệnh tật ngăn cách con người với Thiên Chúa và với nhau giúp cho con người sống hạnh phúc. Hôm nay Phúc âm ghi lại việc Ngài trả lại sức khoẻ cho bà mẹ vợ ông Simon. Ngài đem lại hạnh phúc cho bà và cho những người chứng kiến. Bởi vì Ngài có quyền năng trên bệnh tật và sự chết. Ngài chính là nguồn vui, là niềm hạnh phúc của nhân loại. Thông qua việc chữa lành Ngài còn hướng chúng ta đến cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chính nhờ mầu nhiệm Vượt qua này mà đau khổ của con người có được ý nghĩa tích cực: đau khổ không phải là hình phạt. Ngài khai sáng cho người ta con đường mới: trong đau khổ người ta có thể kết hợp mật thiết với Chúa, gia tăng lòng tin và trông chờ vào Đấng có quyền năng giải thoát. Như thế, Chúa Giêsu còn hơn vị lương y. Ngài chính là vị cứu tinh của nhân loại. Bởi Ngài không những chữa lành những bệnh tật, đau khổ nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của tội lỗi đang tác động trên đau khổ, để đem đến cho con người một sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào sự sống đời đời, một niềm hạnh phúc bất tận. Nhờ đó, đau khổ sẽ là một sự hiện diện của tình yêu. Mặc dù đau khổ vẫn còn là một mầu nhiệm khôn dò, một vấn nạn chưa được giải quyết thoả đáng nhưng đã có tình yêu của Thiên Chúa, mầu nhiệm ấy trở nên ý nghĩa hơn.
Hôm nay chúng ta nhận ra ân huệ Chúa Giêsu đem đến cho con người. Ngài rao giảng Tin mừng và chữa lành. Ngài giúp chúng ta xác tín rằng dù con người có phải vất vả đối điện với đau khổ và bệnh tật nhưng con người vẫn có Thiên Chúa hằng quan tâm chăm sóc và chữa lành. Con người vẫn luôn có Thiên Chúa ở ngay bên để thông cảm, chia sẻ và nâng đỡ. Con người sẽ được khoẻ mạnh và sống bình an. Nhờ đó con người có thể sống vui tươi hơn, hạnh phúc hơn.
Nếu Chúa Giêsu là vị Bác sĩ tài giỏi và nhân từ thì chúng ta hãy chính là những người y tá bác ái, sẵn sàng cộng tác với Chúa Giêsu trong việc chữa lành bệnh nhân. Chúng ta hãy là những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu, có thể giúp đỡ tha nhân, chúng ta có thể xoa dịu phần nào nỗi khổ đau của nhân loại mang lại niềm vui cho mọi người. Ngoài ra, đứng trước nỗi đau khổ của kẻ khác, có khi chúng ta cảm thấy bất lực, không biết làm cách nào để giúp đỡ họ. Những lúc đó, có thể người ta cần chúng ta cảm thông, chia sẻ với họ bằng thái độ thinh lặng, lắng nghe họ tâm sự, ánh mắt cảm thông. Ngay cả khi chúng ta không thực hiện được điều đó, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ. Cùng tất cả tấm lòng yêu thương chân thành của chúng ta, chúng ta hãy hiện diện với họ cả con tim và đức tin của mình.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã đến trần gian loan báo Tin mừng và chữa bệnh cho con người. Ngài cho chúng con thấy tình thương của Thiên Chúa và giúp chúng con thấy được mặc dù chúng con gặp đau khổ và bệnh tật, Thiên Chúa vẫn ở bên chúng con và đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Xin cho chúng con luôn tin yêu và phó thác vào Thiên Chúa tình thương và xin cho mỗi người Công giáo chúng con cũng biết đem niềm vui và hạnh phúc cho những ai mà chúng con gặp gỡ trong môi trường mình đang sống. Amen.
48. Tránh nhưng không trốn sự đau khổ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Ông Gióp than thở: "Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?...Gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề." (G 7,1-3). Vấn nạn đau khổ là vấn nạn muôn thuở của kiếp người. Không riêng gì các trang của sách Gióp, kho tàng văn chương của nhân loại từ cổ chí kim vẫn đầy dẫy các hình thái khổ đau của con người được trình bày, mô tả. Nói đến chuyện đau khổ, bàn đến chuyện đau khổ qua các trang sách hay phim ảnh thì như rất dễ thu hút lòng người. Có nhiều nguyên cớ nhưng cần chân nhận lý do chung này: người ta thấy có chút đồng cảm nào đó, vì chính họ cũng khổ đau. Đồng bệnh thì tương liên, chuyện đời là vậy.
Bài Tin Mừng Hội thánh cho trích đọc trong Chúa Nhật V TN B này tường thuật một ngày làm việc của Chúa Giêsu là chữa lành nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật về tinh thần lẫn thể xác. Sau khi chữa cho bà mẹ vợ ông Phêrô khỏi cơn sốt nặng thì "chiều đến, khi mặt trời đã lặn, ngưòi ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ." (Mc 1,32-34). Khó có thể chối cãi sự thật này là Chúa Giêsu tìm mọi cách xoa dịu khổ đau của con người. Thế nhưng tại sao khi người ta kéo nhau đến cùng Người thì Người lại đi nơi khác? Phải chăng Chúa Giêsu muốn "nhổ cỏ tận gốc", tức là tìm cách diệt trừ căn nguyên của sự đau khổ?
Vì sao có đau khổ? Một câu hỏi rất khó tìm được câu trả lời cách rõ ràng và có tính thuyết phục. Anh em Phật tử thì chủ trương rằng đau khổ có căn nguyên nơi cái "dục" của con người. Vì ước muốn mà không được toại nguyện nên phải chịu đau khổ. Chính vì thế con đường thoát khỏi khổ đau được đề ra là " diệt dục". Nếu nhìn cuộc đời con người với vòng đời "sinh - lão - bệnh - tử là bể khổ thì làm sao giải thích được việc một người được sinh ra là khổ, cho dù " thoặt sinh ra thì đà khóc choé". Người ta có thể muốn trẻ mãi không già, muốn mạnh khoẻ, không bệnh tật, muốn trường sinh bất tử, nhưng không một ai trên trần gian có thể tự mình "muốn" được hay không đựơc hoài thai trong dạ mẹ cũng như tự mình muốn được hay không được chào đời làm người.
Lão tử thì quan niệm đau khổ có ra là vì con người sống không hợp với Đạo, vói lẽ trời, với sự vận hành của giới tự nhiên. Khi con người không làm chủ ước vọng của mình, để cho tham muốn của mình đi thái quá cũng gây ra khổ đau. Chính vì thế để diệt khổ đau không gì hơn là tiết chế tham muốn của mình theo kiểu cách của thi nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Tri túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.
Và sống thuận theo lẽ trời tự nhiên như:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá.
Xưân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Các triết gia, các nhà đạo đức học phân biệt đau đớn với đau khổ. Các loài vật vì không có lý trí và ý chí tự do nên chỉ có đau đớn mà không có đau khổ. Đau khổ là một phạm trù thuộc lý trí. Biết được chuyện chẳng may, chẳng lành mà không tránh được thì mới có khổ đau. Người ta thường dí dỏm rằng người điên không hề có khổ đau, vì không biết. Tuy nhiên, ngoại trừ một vài nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh...thì người ta đều chân nhận rằng chính tội lỗi con người là nguyên nhân lớn gây ra đau khổ cho đồng loại. Và Kitô giáo ủng hộ lập trường này, mặc dù vẫn quan niệm đau khổ là một huyền nhiệm.
Để có cái nhìn tương đối khách quan về đau khổ, thiết tưởng chúng ta cần xem xét bản chất đau khổ là gì? Đau khổ là tâm trạng khó chịu khi gặp phải sự dữ hay khi thiếu một điều thiện hảo nào đó. Rất khó và dường như không thể xem xét đau khổ như là hiện tượng độc lập, tự thân nó. Đã nói đến đau khổ là nói đến một ai đó đau khổ. Như thế sự đau khổ luôn gắn liền với nhận thức và ước muốn của con người. Con người cảm thấy đau khổ khi các hiện tượng khách quan lẫn chủ quan như cưỡng lại ý muốn của mình.
Đến thế gian, Chúa Kitô không giải thích cặn kẻ về khổ đau cũng như các nguyên nhân của nó. Tuy nhiên qua các hành vi, lời nói và chính cuộc sống của Người, Người dẫn chúng ta đi trên con đường kinh qua đau khổ để sống yêu thương. Dù rằng vẫn cố gắng đến quên ăn, quên ngủ để làm dịu cơn khổ đau của nhân loại, nhưng Người đã biết rõ cuộc đời con người khó có thể thoát được mọi nổi khổ đau, cả về thể lý lẫn tinh thần. Người đã tự nguyện chọn con đường đối diện với với đau khổ bằng một tình yêu vị tha bao la. Không phải diệt dục là hết khổ đau, vì chính hành vi diệt dục cũng là một cách muốn, cho dù các bậc minh triết trong Phật giáo diệt dục bằng sự "tri kiến". Không phải cứ thuận theo lẽ tự nhiên là khổ đau biến mất vì sự vận hành của giới tự nhiên lắm khi quá nghiệt ngã. Biết dừng cái ham muốn của mình trong sự trung dung, vừa đủ thì hết khổ chăng? Cũng thật cam go vì biết thế nào là đủ, là vừa.
Trong niềm tin, với lời mạc khải, đặc biệt là qua con đường Chúa Kitô đã đi, chúng ta có thể quả quyết rằng chính khi hướng cái dục là lòng muốn đến tha nhân với các mục tiêu tốt đẹp kiểu "hãy thực hiện cho tha nhân những gì ta muốn tha nhân làm cho mình", thì sẽ có cơ may vượt qua đau khổ. Thánh Âugustinô đã từng chỉ dạy: Hãy yêu đi thì bạn sẽ vơi hết khổ đau. Nếu có đau khổ thì cái đau khổ ấy cũng đã được yêu rồi".
Cần phải diệt trừ tội lỗi là một nguyên nhân lớn gây ra đau khổ, đồng thời cần phải tránh các khổ đau cho bản thân cũng như cho tha nhân và tích cực xoa dịu khổ đau cho đồng loại hết khả năng có thể, vì đó là điều chính đáng và phải đạo. Tuy nhiên, nếu gặp phải sự đau khổ không như ý hay chẳng đặng đừng thì hãy can đảm đón nhận nó để sống yêu thương. Tình yêu vị tha mà kinh qua đau khổ là tình yêu thật đáng giá và đượm đầy tính vô cầu. Như thế không phải là tìm cách diệt dục hay hạn chế sự dục mà là hướng cái dục của chúng ta theo thánh ý Cha trên trời, Đấng tốt lành và nhân hậu. Là Kitô hữu, chúng ta tránh khổ đau, nhưng không lẫn trốn đau khổ.
49. “Chúa Giêsu chữa lành và rao giảng”
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
Tin mừng Chúa nhật 5 Thường niên ghi lại những hoạt động chữa lành và rao giảng của Đức Giêsu để nói lên sứ mạng Thiên Sai của Ngài như lời ngôn sứ Isaia đã loan báo:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19).
Sứ mạng Thiên Sai của Chúa Giêsu được trình bày qua 3 điểm chính trong bài tin mừng hôm nay:
- Chúa chữa bệnh cho bà nhạc gia của Simon và mọi bệnh tật khác nhau, trừ quỷ, để nói lên sứ mạng của Chúa là đến để cứu chuộc con người khỏi ách thống trị của tội lỗi. ma quỷ.
- Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện biểu lộ sứ mạng Thiên Sai phát xuất từ Thiên Chúa Cha, Ngài được Chúa Cha sai đến.
- Chúa Giêsu đi rao giảng ở các thành lân cận, loan báo Tin mừng cho mọi người. Điều này nói lên sứ mạng Thiên sai có tính phổ quát cho hết mọi người. Thiên Chúa muốn con người được cứu độ.
Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải là Thiên Chúa của tình yêu, Người là Đấng giải phóng chúng ta khỏi mọi sự dữ. Phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu là những dấu chỉ nói lên tình yêu đầy quyền năng của Thiên Chúa, dẫn chúng ta đến sứ điệp của Đức Kitô, hướng chúng ta về với Thiên Chúa và làm cho chúng ta hiểu rằng căn bệnh nặng nề nhất của con người hôm nay là sự thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng nguồn suối chân lý và tình yêu. Duy chỉ có sự hòa giải với Thiên Chúa mới có thể mang lại cho chúng ta sự chữa lành thật sự, sự sống thật sự, bởi vì một cuộc sống mà không có tình yêu và chân lý thì chẳng phải là cuộc sống… Do đó sự rao giảng và chữa lành bệnh tật của Đức Giêsu luôn liên hệ mật thiết với nhau, tạo nên một sứ điệp duy nhất về niềm hy vọng và ơn cứu độ (Trích bài giảng của ĐGH Benêđictô).
Tóm lại, bài Tin mừng hôm nay ghi lại một ngày làm việc bận rộn của Đức Giêsu: rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ, cầu nguyện. Việc rao giảng và chữa lành đã chiếm hầu hết thời gian của Chúa Giêsu:
“Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ… Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong khắp hội đường”.
Chúng ta thấy những người đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần bao quanh Đức Giêsu, Ngài hòa mình với họ, xả thân để cứu chữa họ. Ngài ra tay hành động cứu người bệnh tật, xua trừ ma quỷ… Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Theo quan điểm của người Do Thái, bệnh tật bắt nguồn từ ma quỷ, mọi sự dữ trên đời là do tội lỗi mà ra. Việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng ma quỷ, tội lỗi. Vì thế, việc chữa lành của Chúa Giêsu biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Đức Giêsu đi tới đâu, Ngài rao giảng Tin mừng cứu độ cho mọi người. Đó là sức mạnh chính yếu của Đức Giêsu mà Ngài đã xác định: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.
Loan báo Tin mừng cũng là sứ mạng của lọi người Kitô hữu hôm nay.
Thần học gia Maurice Zundel quả quyết: “Chúng ta không phải là Kitô hữu cho riêng mình, mà là cho Đức Kitô, cũng như chúng ta thuộc về Giáo hội và Đức Kitô, hầu mở đường cho tính công giáo của tình yêu Ngài được lan rộng và cho ơn cứu chuộc của Ngài trải ra trên khắp hoàn cầu. Đức Kitô còn dở dang và chưa thành toàn bao lâu toàn thể nhân loại chưa tháp nhập vào Ngài” (À L’éoute de Silence).
Đức Giêsu đi đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người mang niềm vui, nụ cười đến cho những người đau khổ, xoa dịu những vết thương đau của con người. Noi gương Đức Giêsu, người Kitô hữu cũng phải đem niềm vui, hạnh phúc cho tha nhân trong môi trường mình sống, đặc biệt cho những anh chị em đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ bằng sự an ủi, giúp đỡ, thăm viếng, chia sẻ vật chất cho anh em đang cần sự tiếp tay của chúng ta. E. Lamy đã nói: “Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng”.
50. Ngôn hành hợp nhất – Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Kinh nghiệm của những lần đi thăm viếng bệnh nhân tại bệnh viện cho tôi thấy: Nhiều lúc, mình chỉ cần ngồi thinh lặng, lắng nghe họ kể những tâm sự buồn, từ chuyện gia đình đến chuyện con cái, từ chuyện buôn bán đến chuyện đau ốm thế là ta đã làm được điều mà người bệnh muốn và cần đó là sẻ chia, cảm thông và cầu nguyện. Bởi vì, để cho bệnh nhân nói hết là họ đã giải tỏa được những tâm sự buồn ấy, họ cảm thấy nhẹ nhõm và tìm lại được niềm vui sống vì còn có người đồng hành với họ.
Chúa Giêsu hôm nay đã làm được điều đó. Ra khỏi Hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon. Bà nhạc mẫu của ông đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay và chữa bà khỏi bệnh. Thực ra Chúa chỉ cần đứng ngoài cửa phán một lời cũng có thể chữa bệnh cho bà. Hơn nữa, vào thời phong kiến với quan niệm “nam nữ thọ thọ bất thân”, việc cầm tay phụ nữ có thể bị dị nghị. Nhưng Chúa Giêsu đã đến tận giường cầm tay bà. Điều này nói lên lòng yêu thương kính trọng. Chúa không chỉ chữa bệnh mà còn muốn bày tỏ tình người, sự quan tâm âu yếm, sự kính trọng đối với phụ nữ nhất là đồng hành với người bệnh những lúc bệnh tật gây ra những cơn đau xé lòng.
Người ta nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Quả thế, lời nói phải luôn đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục nhất. Các Sách Phúc âm cũng như bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu là con người nhất quán, vì việc làm của Chúa luôn song hành với lời Ngài rao giảng; Ngài chữa trị cho người bị quỷ ám giữa cử tọa đông đúc ở hội đường, cũng như chữa lành cho bà nhạc mẫu ông Simon trong căn nhà nhỏ bé, ban ngày đi rao giảng, chiều tối người chữa lành bệnh cho biết bao nhiêu kẻ ốm đau đến với người. Chúa Giêsu làm được như thế bởi vì Ngài chính là Thiên Chúa quyền năng và là Người đầy lòng nhân ái. Còn với chúng ta thì sao?
Dĩ nhiên chúng ta không thể làm phép lạ để cứu chữa lành bệnh cho bệnh và cho người khác. Tuy nhiên chúng ta có thể dự phần vào việc chữa lành của Chúa Giêsu, cũng như vào việc xoa dịu phần nào nỗi đớn đau của bệnh nhân bằng cách thăm viếng an ủi họ. Đây cũng là điều Chúa Giêsu hằng mong mỏi chúng ta thực hiện. Và nếu chúng ta thực hiện được, hẳn Ngài sẽ chúc phúc cho chúng ta. Chúng ta còn nhớ, Lời Chúa mô tả về ngày phán xét rằng đến ngày ấy, Ngài phán với những người bên hữu: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han" (Mt 25,34-26).
Trong kinh “Thương người có mười bốn mối, thương xác bảy mối”, chúng ta đọc: “Thứ bốn: viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc”. Đọc mãi kinh này, có bao giờ chúng ta đã viếng thăm một bệnh nhân nào đó chưa? Nếu có, chúng ta thăm bệnh nhân ấy vì cái gì? Vì trách nhiệm và bổn phận hay vì “hòn đất ném đi hòn chì ném lại”? Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu siêng năng thăm viếng, an ủi, trao bình an và tình yêu Tin Mừng của Chúa đến người bệnh nhân hầu chúng ta được chúc phúc ngay đời này và đời sau. Cho nên, Lời Chúa trong bài đọc hai, Thánh Phaolô quả quyết: “Khốn cho thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Đây quả là một nghệ thuật, bởi vì nó đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và chịu đựng, nhất là trước những câu chuyện chúng ta đã nghe đi nghe lại nhiều lần về bệnh tình, đau khổ và buồn khổ. Ngoài ra, chúng ta còn có thể đem đến cho họ một tin vui, một câu chuyện lượm lặt, một nụ cười cảm thông, một thái độ ân cần và chăm sóc. Bên cạnh đó, chúng ta còn có thể mang theo những quà tặng như trái cây và các loại đồ ăn thức uống cũng giúp bệnh nhân phần nào vơi đi cơn đau và nỗi sầu trong lúc chờ đợi bệnh bình phục. Thêm vào đó, một cú điện thoại, một bức thư, một tin nhắn thăm hỏi cũng sẽ giúp cho bệnh nhân cảm thấy phấn khởi và vui vẻ hơn nhiều.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay vào những ngày cuối năm, chúng ta thường lo sắm sửa đủ thứ cho gia đình mình thì cũng nhớ để dành chút thời gian thăm viếng, biếu quà nếu được cho người ông bà cha mẹ hay bà con của chúng ta đang trong tuổi già yếu đau. Và nếu được trong phạm vi và khả năng của mình, hãy quan tâm giúp đỡ ngay những người đau yếu khác như ngày xưa Chúa Giêsu đã làm. Anh chị em ơi, Đừng để: 1) “Khi tôi lầm lỡ, mới biết sớt chia với người lỡ lầm. Khi tôi nghèo đói, tôi sẽ hiểu nỗi đau người lầm than. Khi tôi gian nan mới biết sớt chia với người khốn cùng. Khi tôi đau khổ, đời tôi mới biết cảm thông”. Như vậy, khi tôi thánh thiện, tôi giàu, tôi sung sướng, tôi chưa làm được cho họ, tôi quá hỡ hờ với việc bác ái này. Anh chị em ơi, đừng để: 2) “Khi tôi buồn chán mới biết nỗi đau nơi người thất vọng. Khi tôi mù lòa tôi sẽ hiều bóng đêm bao sợ hãi. Khi tôi cô đơn mới biết xót xa với người cô hoạnh. Khi tôi thất vọng đời tôi hay nỗi chờ mong”. Như vậy, khi tôi vui, tôi sáng đôi mắt, tôi hạnh phúc, tôi chưa làm được cho họ, tôi quá hỡ hờ với việc bác ái này. Anh chị em ơi, đừng để: 3) “Khi tôi quỵ ngã mới biết đỡ nâng những người sa đọa. Khi tôi òa khóc tôi sẽ hiểu nước mắt sao buồn quá. Khi tôi lang thang mới biết đắng cay với người không nhà. Khi tôi đơn độc thì thương ai mất mẹ cha”. Như vậy, khi tôi đứng vững, khi tôi hạnh phúc và đầy đủ nhà cửa, tôi chưa làm được cho họ, tôi quá hỡ hờ với việc bác ái này
ĐK: Lạy Chúa ban yêu thương vào trái tim con, đã bao lần con đây hờ hững. Lạy Chúa dạy con yêu thương, dạy con yêu thương cho hòa binh sáng ngời muôn phương.
Lạy Chúa, xin mở trí con, mở miệng con, mở tim con, mở tay và đôi chân con để con đến với anh chị em yếu đau để họ nhận được sự tình thương Chúa và của chúng con bây giờ và mãi mãi. Amen.
51. Sống là chiến đấu
Trong chuyện ngụ ngôn của Lafontaine có kể một câu chuyện như thế này: có một tiều phu vác củi từ trong rừng về nhà. Củi thì nặng mà sức thì yếu cho nên ông ta cứ than thở hoài. Sau hết vì quá chán nản, ông đã kêu thần chết đến đem mạng sống mình đi phứt cho rồi. Vừa kêu dứt tiếng thì thần chết bỗng hiện ra, mặt mày khủng khiếp, tay cầm sẵn lưỡi hái. Thần chết hỏi: "Mi gọi ta đến để làm gì?" Ông tiều phu mặc dù vừa mới đòi chết nhưng khi thấy thần chết thì hoảng sợ và không muốn chết nữa, bèn nói trớ: "Xin ông làm ơn đặt bó củi này lên vai hộ tôi". Thần chết bỏ lưỡi hái xuống và đem bó củi chất lên vai người tiều phu. Ông này vội vàng cám ơn và nhanh chân rảo bước, không còn thấy nặng nhọc gì nữa.
Câu chuyện ngụ ngôn trên có thể giúp ta hiểu được phần nào Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe. Tất cả 3 bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều bàn đến những việc lao động nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi trần gian này. Cuộc sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm lụng từ sáng tới chiều, quần quật hết ngày này sang ngày khác, hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Kẻ thì lao động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải làm việc vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm-ăn, ăn-làm như một cái vòng lẩn quẩn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nỗi, ăn không vô thì cũng là lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Trước cảnh sống cơ cực đó, những kẻ bi quan thì than thở như trong bài đọc thứ nhất của sách ông Gióp: "Lao động nhọc nhằn là kiếp sống của tôi. Ngày của tôi giống như ngày của một kẻ làm công, như một người nô lệ. Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối và mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc". Thái độ đó cũng giống như người tiều phu trong chuyện ngụ ngôn Lafontaine, làm việc cực nhọc quá nên bác tiều phu cứ đòi chết cho rồi. Khi người ta làm việc cực nhọc mà không hiểu được ý nghĩa và giá trị của việc mình làm thì người ta dễ có thái độ bi quan như thế.
Bài Tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa: Chúa vừa giảng dạy trong Hội đường và cứu chữa một người bị quỷ ám xong, vừa mới đi ra thì hay tin bà Nhạc mẫu của Phêrô đang bị sốt nặng. Người liền đến nơi cầm tay nâng bà dậy, bà liền khỏi sốt. Liền sau đó có cả một đám đông tụ họp trước cửa nhà, đó là những người đau đớn vì đủ thứ bệnh tật, Chúa lại phải cứu giúp họ. Mãi tới chiều tối Chúa mới có chút ít giờ nghỉ ngơi. Người tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Vừa tảng sáng hôm sau thì các môn đệ lại đi tìm Người và cho hay dân chúng lại tấp nập tuôn đến xin Người cứu chữa.
Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả từ sáng tới tối, hết ngày này sang ngày khác, không chỉ làm việc để lo cho bản thân Người mà làm việc để cứu giúp người khác, không phải chỉ lo phần xác người ta mà còn lo rao giảng để cứu giúp linh hồn người ta nữa. Qua tấm gương đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của việc lao động: lao động là bổn phận của mọi người, lao động giúp ích cho bản thân và cho người khác, lao động sinh ích lợi cả phần xác lẫn phần hồn. Những bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay vạch cho ta thấy phương hướng sống trước những công việc bề bộn cực nhọc.
. Trước tiên chúng ta hãy dâng lên cho Chúa tất cả những công việc lao động của chúng ta.
. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ thể xác và tinh thần để có thể đảm nhận những công việc ấy.
. Chúng ta hãy xin Ngài chúc lành cho việc làm của chúng ta sinh ra những kết quả tốt đẹp.
. Xin Chúa giúp chúng ta làm việc không phải chỉ cầu lợi ích cho bản thân mình, mà còn để giúp ích cho những người khác.
. Và đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta biết để ra một phần thời giờ, một phần sức lực để làm việc mở mang Nước Chúa nơi trần gian...
Xin Chúa ban cho tất cả chúng con một khối óc biết sáng tạo, một đôi tay biết làm nên những bát cơm đầy để xoa dịu những cơn đau do đói khát đem lại, một đôi tay biết xây dựng một mái ấm gia đình nên tươi đẹp. Xin Chúa nâng đỡ những lao công vất vã của chúng con, và xin Chúa ban cho chúng con những ơn lành hồn xác. Amen.
52. Đi ra vùng ngoại biên
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin mừng Mc 1: 29-39: Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện, rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Một ngày thật bận rộn với biết bao công việc...
1. Ngày làm việc của Chúa Giêsu
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện, rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Một ngày thật bận rộn với biết bao công việc: Giảng dạy trong hội đường rồi đến nhà chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô; Buổi chiều cho đến tối mịt, Chúa chữa lành dân chúng đủ loại bệnh hoạn tật nguyền; Sáng sớm tinh mơ, Chúa dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha.
Công việc bề bộn mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong nhịp sống thường ngày.
a) Cầu nguyện:
“Sáng sớm, Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện” (1,35). Suốt ngày lo toan với bao nhiêu là công việc, tiếp xúc đủ thứ hạng người, Chúa Giêsu dành buổi sáng tinh mơ để tâm sự trao đổi với Cha. Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Chúa Giêsu. Người cần có thời gian sống riêng tư một mình. Người cần sống bên Cha, tâm sự về gánh nặng công việc, về nổi đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống Satan. Người thấy mình cần được Cha cảm thông và nâng đỡ, cần ánh sáng và nghị lực để làm tròn sứ mạng.Người cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với Cha. Một ngày mới khởi đầu như thế để múc nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.
b) Rao giảng
Việc quan trọng thứ hai là rao giảng Tin mừng. “Ngày Sabát, Chúa Giêsu vào hội đường giảng dạy”(1,21). Người đọc Sách Thánh và giải nghĩa. “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền” (1,22). Cả phương pháp và bầu khí giảng dạy của Người đều như một sự mạc khải mới mẻ. Chúa giảng với một uy quyền vượt xa các luật sĩ kinh sư thời đó. Chúa giảng như Đấng có thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao. Chúa hoàn toàn độc lập khi giảng dạy. Người không trích dẫn, không dựa vào thế giá một chuyên viên nào. Vì thế, giáo lý của Chúa mới mẻ, người nghe đón nhận như luồng gió mát dịu từ thiên đàng thổi tới, lòng người cảm mến hân hoan, tâm hồn rộng mở hướng về trời cao với Chúa Cha.
Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô nói đến bổn phận rao giảng Phúc Âm mà ngài đã lãnh nhận. Thánh nhân đã chu toàn và để công cuộc rao giảng được kết quả, “tôi đã trở nên yếu đuối với người yếu đuối… trở nên mọi sự cho mọi người.”
c) Chữa lành thể xác tâm hồn.
Lời giảng dạy thể hiện bằng hành vi yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục. “Ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon… Bà nhạc của ông Simon đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà mà đỡ dậy;cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài” (1,29-31).Chúa Giêsu làm một cử chỉ thân ái là cầm lấy tay bà và nâng dậy, như sau này Người cầm tay đứa con gái ông trưởng hội đường, một cô bé mười hai tuổi đã chết lại đứng dậy được (Mc 5,41), như sau này Người cầm tay cậu bé bị động kinh nằm trên đất, nâng cậu dậy và cho cậu đứng lên (Mc 9,27).
“Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người” (1,32). Căn nhà ông Simon nhỏ hẹp, các bệnh nhân phải đứng thành nhiều vòng bên ngoài chờ đợi đến lượt mình. Tất cả đều được Chúa chữa lành.
Tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng có cùng một cảm nghiệm đó khi nói: “Chính Người chữa những kẻ dập nát tâm can, và băng bó vết thương tâm của họ”. Thánh Phêrô trong sách Công vụ Tông đồ cũng đã làm chứng: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10,38).
Bệnh tật đeo đuổi con người như hình với bóng. Người ta tìm ra phương cách chữa được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện. Càng ngày nhiều căn bệnh mới càng khó trị và bất trị cho dù y học hiện đại tiến bộ vượt bậc. Chúa Giêsu đụng chạm đến biển khổ của nhân loại. Người không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, chỉ mong cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa.
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu đầy ắp yêu thương trong mọi công việc phục vụ. Người có một trái tim rung động luôn “chạnh lòng thương”, có một tấm lòng bao dung vô bờ bến. Rao giảng Tin Mừng yêu thương, làm phép lạ chữa lành, mở rộng vòng tay đón nhận và tha thứ những kẻ tội lỗi. Chúa chữa lành bệnh tật thể xác và tâm hồn con người.
Gặp Chúa, những ai sống ích kỷ đều trở nên quãng đại, những ai ghen ghét hận thù đều trở thành yêu thương tha thứ. Gặp Chúa, con người tìm được mùa xuân cuộc đời.
Ngày làm việc bận rộn của Chúa Giêsu đều đầy ắp niềm vui cầu nguyện và hoạt động. Đó chính là khuôn mẫu cho mọi tín hữu.Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu nói đến đời sống cầu nguyện và hoạt động của mọi tín hữu: Muốn có một đời sống Kitô hữu đích thực, mọi người cần xác tín rằng: việc truyền giáo vừa là một hoạt động có chiêm niệm, vừa là một chiêm niệm có hoạt động (số 23). Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo xác định: “cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” (số 2725).
Một ngày sống khởi đầu với kinh nguyện, thánh lễ, chúng ta được gia tăng lòng Tin Cậy Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng danh Chúa.
2. Chúa Giêsu đi về vùng ngoại biên.
“Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: Mọi người đang tìm Thầy!”. Chúa Giêsu muốn đi đến nhiều nơi. Vì vậy “Người bảo các ông : Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó. Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ”.
Galilê là vùng ngoại biên xa trung tâm Giêrusalem. Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi các Tông đồ, tuyên bố Luật mới.
Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình làm nghề mộc, thuộc dạng nghèo. Như vậy, Người mang thân phận kẻ nghèo để chia sẻ với thế giới những người ngoại biên. Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người ưu tiên để ý đến những người nghèo, người người tội lỗi và những người cùng khổ. Người áp dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,17-20). Người cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13). Người muốn dạy cho mọi người thấy: Trước mặt Chúa không có vấn đề ưu đãi cho trung tâm và bỏ quên hoặc loại trừ những ngoại biên. Người nói rõ ràng với người phụ nữ ngoại giáo xứ Samaria: “Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem... Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,21-24). Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi những người ngoại biên, đến với họ chia sẻ những nỗi đau của họ. Chúa Giêsu cho họ thấy Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người.Người hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá, mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Người muốn các môn đệ hãy theo gương Người, đem Tin Mừng đến cho người nghèo khổ như vậy. Hiện nay, Mẹ thánh Têrêxa Calcutta đang được đề cao như một gương mẫu rao giảng Tin Mừng cho người ngoại biên. Mẹ không làm việc gì khác ngoài đi theo đường lối mà Chúa Giêsu đã đi trước. Điều đáng ngợi khen nhất nơi Mẹ là làm chứ không chỉ nói. (x.Tin Mừng cho người ngoại biên, ĐGM Bùi Tuần).
3. Giáo Hội đi ra vùng ngoại biên
Thời nay, nói theo ngôn ngữ của Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân, những biên cương mới mà Giáo Hội đang quan tâm không chỉ trên phương diện địa lý nhưng còn là những con người. Chúng không chỉ có nghĩa là mới, nhưng còn có nghĩa là bị lãng quên, bị bỏ rơi, chưa đụng chạm đến. Các biên cương cần quan tâm chính là sự cộng tác của mọi thành phần trong giáo xứ, là mục vụ hôn nhân gia đình, mục vụ sau khi kết hôn, chăm sóc và bảo vệ thai nhi, mục vụ bác ái truyền giáo, mục vụ truyền thông và mục vụ di dân.
Chúa đến với những biên cương mới dẫu cho khó khăn hay thập giá.Truyền giáo ngày nay trong thế giới nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng không nhắm trước tiên hay chủ yếu vào việc "chinh phục các linh hồn" cho Chúa càng nhiều càng tốt, (chúng ta không chạy theo số lượng) nhưng đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần vào con người và vào mọi thực tại nhân sinh. Vì thế, để thi hành sứ mạng cao cả đó, chúng ta không nhất thiết phải đi tới một vùng địa lý nào khác, mà lấy chính môi trường sống của mình làm "vùng đất ngoại bang", và noi gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chúng ta hãy coi các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là những vùng giáp ranh, những vùng biên giới mà Chúa sai chúng ta đến.
Cảm nghiệm sâu xa bước chân Chúa Giêsu đi về vùng ngoại biên, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Tôi thích một Giáo Hội bị bầm dập, bị thương tích và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, hơn là một Giáo Hội yếu nhược vì tự giam mình và bám víu vào sự an toàn riêng của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội quan tâm đến việc được ở vị thế trung tâm và rồi rốt cuộc bị vướng mắc vào một mạng lưới của những nỗi ám ảnh và thủ tục” (EG 49).
Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ các mục tử: Nếu một linh mục học nhiều về thần học và có nhiều bằng cấp, mà chưa học vác Thập giá Chúa Kitô, thì chưa phải là phục vụ. Người đó có thể là một học giả tốt, có thể là một giáo sư tốt, nhưng người ấy không phải là một linh mục. Các con thân mến, các con làm ơn đừng trở thành những “quý ông”, cũng đừng trở thành những “giáo sĩ kiểu công chức”; nhưng các con hãy trở thành người mục tử, những mục tử của Dân Chúa. (x. bài giảng phong chức linh mục cho 10 thầy Phó tế tại Đền Thờ Thánh Phêrô, ngày Chúa nhật Chúa Chiên Lành, 07 tháng 05 năm 2017).
“Đi Ra Vùng Ngoại Biên” đã trở thành câu nói quen thuộc của nhiều tín hữu kể từ khi Đức Thánh Cha Phanxicô đề cập trong Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng”. Ngài khuyến khích mọi người bước ra khỏi sự quen thuộc hằng ngày của mình để đi đến những nơi, với những người xa lạ ở vùng ven, vùng ngoại biên ...Đây không chỉ là một lối sống thích ứng tích cực trong khuynh hướng toàn cầu hóa hiện nay, nhưng còn là một phương thế, một giải pháp để Tin Mừng Chúa Kitô được rao giảng rộng rãi hữu hiệu hơn. Chính những chuyến “đi ra vùng ngoại biên” đã neo lại nơi tâm hồn người khác nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Ngày nay, nhiều người đã đi ra ngoài khu vực an toàn của mình để “đến vùng ngoại biên” và đã chạm đến những bất công, bất minh, bất chính của trần thế. Từ nơi đó, họ thắp lên ánh sáng của Tin Mừng, của lẽ phải và công lý cho những người “còn ngồi trong bóng tối sự chết” (Lc 1,70).
Chúa Giêsu đến thế gian với thân phận con người, làm con người, yêu thương con người và cứu độ con người. Người tận tụy phục vụ mọi người. Hãy cùng với Chúa “đi ra vùng ngoại biên”, ra khỏi những khung cảnh quen thuộc hằng ngày loan báo Niềm Vui Tin Mừng.
-------------------
Một ngày làm việc của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI
5:30 sáng: Khi công trường Thánh Phêrô còn đang yên tĩnh trong bầu khí buổi sáng sớm của thành Rôma và chờ đợi những đoàn du khách sẽ lần lượt kéo đến, trên tầng thứ ba của tòa nhà nơi Đức Giáo Hoàng cư ngụ và làm việc, người ta thấy ánh sáng đèn bắt đầu chiếu lên; đó là lúc Đức Giáo Hoàng thức dậy và bắt đầu một ngày mới với những giờ phút cầu nguyện và tĩnh tâm sáng.
7:00 sáng: Đức Giáo Hoàng dâng Thánh Lễ tại nhà nguyện riêng cùng với sự hiện diện của hai Đức Ông Goerg Gaenswein và Alfred Zuereb (hai vị Thư Ký của Đức Giáo Hoàng) và bốn người giúp việc. Thời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thì thường có thêm một số khách được vào cùng dâng lễ.
8:30 sáng: Đức Giáo Hoàng làm việc tại Văn phòng riêng. Nếu trời tốt, cửa sổ nhìn ra công trường Thánh Phêrô sẽ mở (chính từ cửa sổ này, vào mỗi trưa Chúa Nhật, Đức Giáo Hoàng nguyện kinh Truyền Tin cùng với các khách hành hương tụ tập tại công trường Thánh Phêrô phía dưới). Một trong hai Đức Ông Thư ký sẽ đem đến cho Đức Giáo Hoàng tập các văn kiện, bản tóm lược các tin tức quan trọng trên thế giới, chương trình làm việc trong ngày, những người Ngài sẽ gặp và những đề tài chính sẽ đề cập đến.
11:00 Trưa: Đức Giáo Hoàng xuống phòng tiếp tân ở tầng hai để tiếp các vị thủ lãnh các quốc gia, các vị Giám Mục, các nhân vật quan trọng… đã được sắp xếp theo chương trình. Sau đó Ngài tiếp các khách đến viếng thăm tại thư viện riêng.
1:30 Trưa: Đức Giáo Hoàng dùng bữa trưa đơn giản tại phòng ăn ở tầng ba với các viên chức hoặc đôi khi có khách được mời. Sau đó Đức Giáo Hoàng thường chơi Piano, đặc biệt những bản của Mozart, rồi đi dạo một chút trước khi nghỉ trưa.
3:30 Chiều: Đức Giáo Hoàng lại làm việc tại văn phòng để duyệt lại các văn kiện và các bài diển văn.
Vào Mùa Đông từ 4:00 đến 4:45 chiều (vào mùa Hè từ 6:45 đến 7:30), Ngài ra vườn để đi dạo với hai vị thư ký.
6:00 Chiều: Ngài gặp gỡ tại văn phòng riêng, các vị cố vấn thân cận, như các Đức Hồng Y, các Giám Mục Tổng Trưởng, Tổng Thư Ký các Bộ tại Tòa Thánh.
7:30 Tối: Đức Giáo Hoàng ăn bữa tối, xem tin tức trên truyền hình. Sau đó Ngài vào Nhà Nguyện để cầu nguyện trong yên lặng ban đêm.
Khi chuông Đại Thánh Đường Thánh Phêrô điểm 11 giờ đêm, đèn phòng ngủ của Đức Giáo Hoàng tắt và Ngài bắt đầu nghỉ đêm. (x.Vietcatholic, 19/06/2008, Lm Anphong Trần Đức Phương Phỏng theo Isabelle de Gaulmyn, “A day in the life of the Pope” trong Catholic Digest April 2008).
Ngày làm việc bận rộn của Chúa Giêsu, ngày làm việc của Đức Giáo Hoàng đều đầy ắp niềm vui cầu nguyện và hoạt động. Đó chính là khuôn mẫu cho mọi tín hữu.
Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia, 1999) nói đến đời sống cầu nguyện và hoạt động của mọi tín hữu: Muốn có một đời sống Kitô hữu đích thực, mọi người cần xác tín rằng: việc truyền giáo vừa là một hoạt động có chiêm niệm, vừa là một chiêm niệm có hoạt động (số 23).
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo xác định: “cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” (số 2725).
Một ngày sống khởi đầu với kinh nguyện, thánh lễ, chúng ta được gia tăng lòng Tin Cậy Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng danh Chúa.
53. Ngôn ngữ của con tim – Jean Ralté
Từ cuộc sống
Thật dễ nhận ra rằng càng ngày người ta càng đi tìm kiếm một cái gì đó, một lời gần gũi mình trong cuộc sống. Không ai còn thích nghe những diễn từ bóng bẩy, những lời hay ý đẹp cao siêu, như những đám mây. Chúng ta hết thảy đều tìm kiếm một lời nhanh chóng đưa đến hành động. Thế giới chúng ta khao khát những gì cụ thể. Đây là một thế giới đòi hỏi có những người biết làm chứng bằng chính cuộc đời mình trước khi làm chứng bằng lời nói.
Ngôn ngữ của con tim.
Cuộc sống của Chúa Giêsu đáp ứng sự mong chờ của loài người. Ngài không nói ngôn ngữ của những triết gia nay của những nhà thần học hoặc của các tư tế và ký lục ở thời đại của Ngài. Người con trai bác thợ mộc nói ngôn ngữ của con tim. Khi Ngài đến với con người, Ngài gặp họ trong toàn bộ con người của họ, thân xác và tinh thần. Ngài không tách rời giữa lời nói và hành động. Trước khi đến hội đường Caphanaum, Chúa Giêsu đã đến nhà ông Simon và Anrê. Ngài vừa mới đến thì người ta nói với Ngài về một người bệnh. Nhạc mẫu của ông Simon lên cơn sốt. Có lẽ nếu Chúa Giêsu chấp nhận nói chuyện với bà thì điều này sẽ an ủi bà chăng? Nhưng Chúa Giêsu còn làm nhiều hơn thế nữa: Ngài nói với bà bằng ngôn ngữ của con tim. Không một lời, Ngài đến bên cạnh bà, nắm tay và làm cho bà chỗi dậy. Ngài không cần lời nói. Cử chỉ của Ngài nói đủ rồi. Ngài chữa lành bà cả hồn lẫn xác.
Được khỏi sự dữ đã giam hãm bà, nhạc mẫu của ông Simon liền phục vụ những người khách của ông. Cử chỉ của bà làm chứng cho niềm tri ân đối với việc loan báo Tin Mừng vừa được thể hiện. Đến lượt bà, bà cũng nói ngôn ngữ của Chúa Giêsu, ngôn ngữ của con tim.
Như một vệt thuốc súng.
Và này đây, tin đồn lan khắp cả thành phố. Có một người đáp ứng được sự mong chờ của những con tim bị bệnh tật, bị tan vỡ, bị giam cầm. Lời của Thiên Chúa đã trở nên hành động trước mắt loài người. Vậy nên dân chúng tuôn đến, mỗi người tìm đến một luồng khí mới cho cuộc đời của mình. Và này đây, trong những phong trào của chúng ta, người ta khám phá ra hành động của Thiên Chúa và của Lời Ngài. Một nhóm được hình thành, rồi một nhóm khác nữa… Chúa hiện diện ở giữa chúng ta. Ngài hành động vì chúng ta. Sứ điệp loan đi như một vệt thuốc súng. Chúa ở nơi chúng ta, trong phong trào Thánh Linh, Chúa ở trong nhóm trẻ của chúng ta, v.v… Nhưng chúng ta lại nghĩ rằng để nhìn thấy Ngài, phải thuộc về nhóm chúng ta, thuộc về “thành phố” nơi Chúa đã tỏ mình ra.
Vì chúng ta hay vì thế giới?
Hôm nay, Chúa cũng tỏ mình ra giữa chúng ta. Nhưng chúng ta làm gì trước sự kiện này? Đôi khi chúng ta giống những người trong thành phố. Chúng ta tìm cách lợi dụng tối đa sự hiện diện của Chúa mà quên để cho Ngài được tự do hành động. Chúng ta nghĩ rằng Ngài chỉ là Chúa của chúng ta, Vua của chúng ta, Ngài thuộc về chúng ta. Còn những kẻ không thuộc về nhóm chúng ta không thể gặp Ngài. Chúng ta cũng tìm cách làm cho Ngài thành Vua của chúng ta, tìm cách giam hãm Ngài trong những cơ cấu của chúng ta, làm cho Ngài trở thành nô lệ của chúng ta, thành đồ vật của chúng ta. Nhưng không phải Chúa chỉ đến cho chúng ta mà thôi đâu.
Vì thế chúng ta cũng có thể hành động như nhạc mẫu ông Simon. Nếu Chúa tỏ hiện ở giữa chúng ta là để chúng ta giúp Ngài loan truyền sứ điệp của Ngài cho thế giới, bên ngoài thành phố của chúng ta. Lúc đó, Chúa không còn đến chỉ phục vụ chúng ta nữa. Chính chúng ta trở thành đầy tớ của Ngài. Lúc đó, các nhóm của chúng ta không còn là những nhóm khép kín, nhưng là những điểm chiếu tỏa, từ đó phát xuất đời sống đức tin để mang Tin Mừng đến những làng mạc lân cận.
Đối với chúng ta là những Kitô hữu, những tín hữu. Thiên Chúa giao cho nhiệm vụ loan báo cho loài người Tin Mừng mà Ngài đã để lại cho chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta làm việc này theo cách của Ngài, bằng lời nói và bằng hành động, nói ngôn ngữ của con tim chứ không phải ngôn ngữ của sự khôn ngoan con người. Chính với những anh em đang đau khổ của chúng ta mà Ngài sai chúng ta đến để nhân danh Ngài chúng ta cầm tay họ, giúp họ đứng lên. Bây giờ phận sự của chúng ta là trở thành tôi tớ mọi người để cứu được nhiều người. Amen.
54. Không có nghỉ ngơi cho việc tốt
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Mẹ vợ là đối tượng của nhiều chuyện vui cười, nhiều chuyện diễu cợt và một số châm biếm suốt một thời gian dài. Một nhà phê bình đã quan sát và nhận xét rằng: “Đằng sau mỗi người đàn ông thành công có một bà mẹ vợ đang ngạc nhiên”, có lẽ mẹ vợ của thánh Phêrô ngạc nhiên về sự chọn lựa của Chúa Giêsu khi chọn Phêrô làm đầu tông đồ, chúng ta thì không biết điều đó. Bà đã được chú ý chỉ một lần duy nhất trong toàn bộ Phúc Âm, nhưng điều đã được chú ý đó thì rất quan trọng đối với chúng ta. Và thánh Phêrô lúc đó vẫn còn được gọi là Simon, đã lo lắng cho người mẹ vợ của mình. Bà đã ngã bệnh bởi cơn sốt. Khi Simon nói với Chúa Giêsu về bà, Chúa Giêsu cầm tay bà thì cơn sốt liền rời khỏi bà. Hành động này của Chúa Giêsu không có gì phải ngạc nhiên. Nhưng sau đó thì và hoàn toàn ngạc nhiên, ngay lập tức bà ta dọn bữa phục vụ Chúa Giêsu và các môn đồ của Ngài. Các bạn nghĩ rằng đúng ra bà phải dành một ít thời gian để nghỉ ngơi, nhưng điều đó đã không phải là cách làm của người đàn bà này.
Một số những nhà hoài nghi đã vẽ bức tranh châm biếm người đàn bà được tiền định này, “phụ nữ trong vị trí xã hội thời bấy giờ” là để phục vụ người đàn ông. Sự thật bà đã là tấm gương của chính Chúa Giêsu. Bà đã suy nghĩ về sự quảng đại, về tinh thần bỏ mình trong sứ vụ của Chúa Giêsu.
Sau bữa ăn tối tại nhà của Phêrô, Chúa Giêsu không nghi ngờ gì là đã kiệt sức sau một ngày lao động vất vả, Người vẫn gây nên bất ngờ là chừa lành cho tất cả những người bệnh trong thành phố, những người đau bệnh và những người bị quỷ ám. Ngài đã đáp trả theo đặc tính riêng của Ngài. Sáng hôm sau, mặc dù rất mệt mỏi nhưng Ngài đã dậy rất sớm như mẹ vợ của ông Phêrô đã dậy sớm sau cơn ốm của mình. Chúa Giêsu tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện, nhưng đó không phải là tránh làm công việc tốt. Simon và những người khác đã tìm thấy Người, các ông biết rằng những khoảnh khắc an bình đó của Ngài không phải là tận cùng của một ngày sống. Sứ vụ của Ngài đang vẫy gọi Ngài và Ngài nhận biết rằng Cha đang kêu gọi Ngài, đưa những người cùng khổ thoát khỏi cảnh khổ của mình, điều mà ông Gióp đã cảm thấy khi ông tuyên bố: “Tôi sẽ không còn nhìn thấy hạnh phúc nữa”. Chúa Giêsu đã đi đến những làng mạc để tuyên bố và rao giảng Tin Mừng.
Thánh Phaolô đã làm viên mãn những ý thức quen thuộc của sự phục vụ. Để xác định sự dâng hiến của ngài trong việc rao giảng Phúc Âm mà ngài đã được kêu gọi, ngài viết: “Tôi đã bị thúc đẩy và không có một chọn lựa nào khác”. Đó là sự nhiệt tình để diễn tả tâm tình bổn phận sâu xa của ngài. Ngài không do dự làm nổi bật sự quảng đại khi ngài nhắc nhở Corintô: “Tôi hiến tặng Phúc Âm một cách nhưng không”. Trong sự so sánh ơn kêu gọi đáng khen ngợi của thánh Phaolô thì việc phục vụ đơn giản được dâng bởi mẹ vợ của thánh Phêrô cũng được xem không phải là vô nghĩa. Tuy nhiên, quan điểm của hai người phản ánh sự quảng đại tinh thần vô vị lợi trong việc phục vụ chính Chúa Giêsu, Phêrô có cách của ngài và mẹ vợ của Phêrô có cách của bà. Còn chúng ta, con đường của chúng ta là gì? Chúng ta có thể trở nên giống Chúa Giêsu trong việc chu toàn bổn phận ơn kêu gọi trong đời sống của chúng ta, những gì mà chúng ta có thể trở thành. Ngoài mẹ vợ của thánh Phêrô mà thánh Phaolô tông đồ đã trình bày cho chúng ta, có một sự xếp đặt rộng rãi trong việc phục vụ cho những môn đồ của Chúa Giêsu đã được kêu gọi. Chúng ta cần phải suy nghĩ về sự quảng đại và tinh thần vô vị lợi mà chúng ta thực hiện trong cuộc sống của chúng ta như là cha mẹ, vị hôn phu, thầy dạy, công nhân, những người tự nguyện, một sinh viên, một linh mục, một tu sĩ, những gì chúng ta được kêu gọi để trở thành.
Có sự nghỉ ngơi thì xấu khi chúng ta chỉ nghĩ về mình và những tiện nghi cho chính mình. Không có sự nghỉ ngơi cho công việc tốt, những người theo gương mẫu của Chúa Giêsu. Họ biết rằng hạnh phúc và sự viên mãn trong cuộc sống sẽ đến bằng việc bắt chước sự quảng đại và tinh thần vô vị lợi của Chúa Giêsu.
55. Lương y từ mẫu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Anh chị em thân mến,
Không ai trong chúng ta đã không ít là một một lần ngã bệnh hoặc có người thân đau ốm hay được thấy những bệnh nhân điều trị tại một bệnh viện, để thấy được bệnh tật quả là một nỗi khổ đau của con người… Mọi người đều phải chạm trán với đau khổ dưới muôn hình vạn trạng. Các triết gia đã suy nghĩ và bàn giải nhiều về đau khổ, nhưng không có một giải đáp nào thỏa đáng trước sự đau khổ của người hiền đức và của trẻ thơ vô tội.
Ông Gióp, nhân vật chính trong tác phẩm mang tên ông, là một người hiền đức nhưng gặp phải nhiều nỗi gian truân, đâm ra hoang mang và vô vọng: “Xin Chúa nhớ cho: đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ không được thấy lại hạnh phúc bao giờ”.
Thật vậy, “đời người là một khổ dịch, như cảnh nô lệ, tựa kiếp làm thuê”. Tuy thế, tuyệt đối ông không bao giờ coi đau khổ như là dấu chỉ hay hình phạt của tội lỗi. Bản thân ông Gióp không tài nào hiểu được: Tại sao người hiền đức lại phải đau khổ? Đối với ông, đau khổ thật là một huyền nhiệm khôn dò. Tốt hơn hết là tin chắc vào Chúa, hướng về Ngài và xin Ngài giải đáp cho.
Vậy thời Đức Giêsu nghĩ thế nào về đau khổ của con người?
Trước hết, Đức Giêsu không thuyết giảng về đau khổ nhưng Ngài quan tâm, lo lắng cho những người đau khổ, cảm thông và chữa lành kẻ ốm đau, tật nguyền, hoặc bị quỷ ám. Được biết bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nằm trên giường. “Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay bà và đỡ dậy…”. Với triết gia, đau khổ là một vấn đề. Còn với Đức Giêsu, cần chiến đấu và chiến thắng đau khổ: Trước người mù từ thuở mới sinh, mọi người tìm cách giải thích để kết án kẻ khác và chạy tội, để đổ trách nhiệm cho kẻ khác và phủi trách nhiệm cho mình. Nhưng theo Đức Giêsu, làm như thế có lợi gì, người đau khổ vẫn đau khổ. Tốt hơn là làm một cái gì đó, làm “cái phải làm” để biểu lộ công trình yêu thương của Chúa Cha.
Kế đến, khi cầm lấy tay bà mẹ vợ ông Simon đang nằm trên giường vì sốt mà cho bà “chỗi dậy”, Đức Giêsu như hướng chúng ta đến cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Chính nhờ mầu nhiệm Vượt Qua này mà đau khổ của con người có được một ý nghĩa tích cực: Đau khổ dứt khoát không phải là một hình phạt mà là một thay đổi, một nổ tung nảy sinh một sự sống mới, tương tự như hạt lúa phải thối đi để có mùa gặt, quả trứng phải nứt ra để có chú gà con, và con sâu phải lột xác để thành cánh bướm bay vào cõi trời bao la.
Như vậy, Đức Giêsu đến trong trần gian không phải để xóa đi mọi đau khổ nhưng để đem lại cho đau khổ một ý nghĩa cứu độ, cho người đau khổ một niềm vui giải thoát. Ngài đã giải thoát họ khỏi những chán chường thất vọng và đưa họ vào lại trong sự hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa cũng như với mọi người trong xã hội. Phải đợi đến sau khi Đức Giêsu Phục Sinh, người ta mới nhận ra rằng: còn hơn một Thầy Thuốc, Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh của cả nhân loại. Bởi vì Ngài đã không chữa lành những nỗi đau nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của tội lỗi đang tác động trong đau khổ, để đem đến cho con người một sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào trong vinh quang và sự sống. Đây mới thật là mối bận tâm sâu xa của Đức Giêsu: bận tâm rao giảng Tin Mừng hay mạc khải tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người. Nhờ đó, đau khổ thay vì là sự vắng mặt của Thiên Chúa, sẽ là sự hiện diện của một tình yêu. Dù đau khổ vẫn còn là một mầu nhiệm khôn dò, một vấn đề chưa có giải đáp trọn vẹn, nhưng đã có tình yêu, một mầu nhiệm vĩ đại hơn.
Thưa anh chị em,
Đức Giêsu đem Tin Mừng đến cho loài người bằng những thái độ cụ thể, rõ ràng: Ngài ra tay cứu chữa những ai đau ốm bệnh tật, cho họ được lành mạnh, thuyên giảm, hầu làm chứng một cách thỏa đáng tin rằng, quả thật Thiên Chúa yêu thương người ta, dùng con người cứu chữa con người, để ốm đau không thành đau khổ, tật nguyền không phải tất nhiên đau khổ. Khi con người được yêu thương chăm sóc thì dầu có mang bệnh tật cũng có thể cảm thấy vui tươi, hạnh phúc, nghĩa là không đau khổ, như một em bé mù –Trường Hy Vọng –Nguyễn Đình Chiểu, vẫn có thể đàn hát về cảnh bình minh của đời mình, vẫn sáng tác những vần thơ trong sáng, vì em được yêu thương, được chăm sóc tận tình.
Đức Giáo Hoàng Phaolô II trong Tông thư về “Ý Nghĩa Đau Khổ Của Con Người, theo Kitô giáo” (1984) đã nói: “Con người bước đi cách này hay cách khác, trên con đường đau khổ”, và tất cả chúng ta được đưa tới gặp gỡ con người trên con đường đó. Ngài trích dẫn dụ ngôn người Samari nhân hậu để cho thấy rằng mỗi người chúng ta phải có mối liên đới như thế nào đối với người đồng loại đang đau khổ. Chúng ta không được “dửng dưng” bỏ qua, nhưng phải “dừng lại” bên kẻ đau khổ. Người Samari nhân hậu là tất cả những ai dừng lại bên bất cứ đau khổ nào của người khác. Dừng lại không phải vì tò mò mà là để sẵn sàng giúp đỡ. Thái độ này là sự sẵn sàng nội tâm biết mở lòng và xót thương, thúc đẩy chúng ta ra tay hành động và trợ giúp những người đau khổ, dù thuộc loại nào” (x. số 28).
Trong suốt dòng lịch sử, Giáo Hội đã luôn quan tâm chăm sóc và cứu chữa các bệnh nhân, nhất là những người mắc bệnh hiểm nghèo và khó chữa, những kẻ tàn tật. Sự tận tụy của các tu sĩ, các đội ngũ bác sĩ, y tá Công giáo tại các trại phong cùi, các bệnh viện luôn được xã hội ghi nhận và đã là nguồn an ủi không nhỏ đối với những con người đau khổ. Nhiều giáo dân tại các họ đạo, các đoàn thể, có thói quen thăm viếng, chăm sóc những người già cả tại gia đình, tại các viện dưỡng lão… Như vậy, sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những con người đau khổ vì bệnh tật được tiếp tục trong xã hội hôm nay của chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Nhân ngày Thế Giới Bệnh Nhân sắp đến, ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức (11/2), nơi các bệnh nhân đã được Đức Mẹ chữa lành một cách lạ lùng, nhờ lòng tin tưởng, cậy trông và yêu mến Đức Mẹ.
Trước nỗi đau khổ của kẻ khác, nhiều khi chúng ta cảm thấy bất lực, không biết phải nói gì, không biết phải làm gì. Những lúc đó, trong giới hạn của mình và đầy tình thương, chúng ta vẫn có thể làm một cái gì đó để xoa dịu tinh thần cũng như trợ lực cho thể xác của họ. Rất có thể người ấy chỉ cần chúng ta im lặng và cảm thông với nỗi đau của họ, hoặc lắng nghe họ tâm sự. Cũng có thể họ chờ đợi được nghe một tin vui, chờ đón một nụ cười… Ngay cả khi không thể thực hiện các việc đó, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ. Bằng tất cả những việc yêu thương nhỏ bé của đời thường đó, chúng ta nói với họ về Chúa Giêsu của chúng ta. Đó cũng là cuốn Tin Mừng sống động viết bằng chính cuộc đời chúng ta vậy.
56. Chúa Giêsu, người Công Giáo đầu tiên.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest.)
Thánh sử Marcô trình bày cùng chúng ta Chúa Giêsu đang thi hành chức vụ như: loan báo Nước Trời, chữa kẻ bệnh tật, trừ ma quỷ, cầu nguyện. Cảnh tượng được mô tả hôm nay nhấn mạnh cho ta thấy Chúa Giêsu lo lắng dấn thân vào cuộc đời bình thường của con người đến thế nào. Người mới giảng dạy ở Nhà Hội là nơi thường để hội họp xong Người lại mau mắn theo Phêrô và Anrê về nhà họ. Phêrô biết có chuyện không hay trong nhà mình, song điều đó cũng không ngăn cản Chúa cứ đến.Chúa chữa lành cho nhạc mẫu Phêrô. Chúa dùng bữa mà chính tay bà đã dọn. Vào buổi chiều, hẳn là vào lúc mà ngày Sa-ba chấm dứt, Người chữa lành cho nhiều bệnh nhân được mang tới. Người biểu dương quyền năng Người trên sự dữ bằng cách đẩy lui bệnh tật và xua đuổi tà thần. Người lưu lại nhà Phêrô và Anrê để qua đêm, nhưng sau khi đã chia sẻ những thực tế tầm thường ấy của đời sống nhân loại, Chúa đã thức dậy trước bình minh để hoàn toàn chìm đắm vào sự thân mật của Chúa Cha. Người trở về nguồn. Người không giây phút nào mất liên lạc với Cha Người. Người trở lại cùng với loài người, với những tư tưởng và ý muốn của Chúa Cha. Người không để bị lôi cuốn đến chỗ sa lầy, vào những kêu gọi tức thời và ích kỷ của những người ở Caphanaum. Người không hề rời khỏi tầm mắt những kích thước của sứ mạng mình. Ngoài Caphanaum, Người rảo qua khắp hết miền Galilê, trong lúc đợi chờ sai môn đệ đi khắp cùng thế giới. Chúng ta hãy lưu tâm đến hai câu nhỏ, song gợi ý trong bài này.
1) Tiến lại gần, Người cầm lấy tay bà. Thánh sử Marcô ghi rõ chi tiết này, khi nói đến việc Chúa Giêsu chữa lành nhạc mẫu của Phêrô. Qua cung cách xử sự ấy của Chúa Giêsu, người ta có thể nhận ra nỗi quan tâm của Chúa, muốn gần gũi với con người. Tự biết mình là Con Thiên Chúa, Người rất có thể, tự đàng xa, chữa mọi bệnh tật, tiêu diệt tội lỗi, thanh tẩy con người sạch mọi sự dữ. Vậy mà, Chúa đã làm gì? Chúa cầm lấy tay loài người. Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, không chỉ để cho các nguyên nhân siêu việt thi hành vai trò mà Người đã trang bị từ đầu. Cư xử với con người, con người trong nhân cách riêng và như phần tử của cộng đoàn nhân loại rộng lớn, Thiên Chúa đã nắm lấy tay con người; Chúa Giêsu là Con Người tuyệt hảo, là Con Người của Thiên Chúa Con nhập thể, đã đến để cứu chữa nhân loại bằng cách “cầm lấy tay” từng người, bất luận họ ở trình độ lương tâm và kiến thức nào. Không một con người nào, dầu là sơ khai đến mấy, mà không được chính Đức Kitô chú ý riêng. Con Thiên Chúa tự mặc lấy nhân tính để chiếm đoạt được nhân loại, Người tự cho mình đôi tay để cầm lấy từng người. Trong giây phút chúng ta đang lâm cơn bị cám dỗ, phạm tội, buồn phiền, thất vọng, chúng ta có nghĩ tới bàn tay nào đó, đang giơ ra để nâng đỡ không?
2) Chúng ta hãy đi đến khắp mọi nơi để Ta cũng rao giảng ở đó nữa, bởi chính vì mục đích đó mà Ta được sinh ra. Chúa Giêsu, từ Thiên Chúa mà ra, không để cho mình bị giam hãm trong thực thể này hay thực thể nọ. Chức vụ Người thi hành tại Caphanaum đã đem đến cho Người nhiều cảm tình nồng nhiệt. Người ta bao vây Người, người ta muốn chiếm đoạt Người. Nhưng Chúa Giêsu đã tự tháo gỡ. Tại sao vậy? Tại vì con người của Chúa bị hai chiều kích vô biên lôi cuốn. Trước hết là kích thước vô biên của Chúa Cha, sau là chiều kích vô biên sâu thẳm của nhân loại. Người kitô hữu đừng quá sở noi gương ấy của Chúa Giêsu một cách nghiêm túc. Chính đó là nguồn gốc tinh thần công giáo. Chúng ta là công giáo trong tư tưởng của mình, khi mà chúng ta từ chối không để cho trí óc của mình bị giam hãm trong một hệ thống tư tưởng nào, dầu cho đó là một nền thần học thật hấp dẫn. Vì trí óc con người thật hữu hạn, nó bị bó buộc suy tư trong lòng một hệ thống này hay hệ thống nọ, nhưng tinh thần công giáo ngăn cản nó khỏi bị giam cầm trong đó. Người ta được phổ quát trong hành động, khi nào người ta lo giữ mình luôn được tự do, nghĩa là luôn luôn sẵn sàng cho Thiên Chúa, ngay cả bên trong những cam kết của mình. Chúng ta là công giáo trong việc tông đồ này hay việc tông đồ nọ, khi người ta biết lo liên kết nó với “nơi khác”, tức là đời sống của toàn Giáo Hội. Nguồn gốc tinh thần công giáo là sự hướng lòng mình, vừa lên với Thiên Chúa vô tận lại vừa về với nhân loại vô biên, chính là đức ái thần linh vậy.
57. Đau khổ
Cho đến ngày hôm nay, đau khổ vẫn mãi mãi là một vấn đề nan giải trong số kiếp của con người. Thực vậy, tại sao chúng ta lại đau khổ? Phải chăng đau khổ là một hình phạt do tội lỗi của chúng ta… Nếu vậy thì tại sao những người công chính cũng gặp phải nhiều khổ đau? Hay là Thiên Chúa đã bất công khi cư xử với chúng ta?
Từ câu chuyện của ông Gióp, chúng ta rút ra được một bài học đức tin, đó là trong những giờ phút khổ đau, chúng ta đừng vội kêu trách Thiên Chúa, bởi vì Ngài là nguồn sự sống, không bao giờ muốn cho con người phải khổ, phải đau. Rất nhiều khi khổ đau là do con người gây ra cho nhau, vì thiếu yêu thương, thiếu cảm thông, thiếu giúp đỡ.
Cùng với ông Gióp, là người tín hữu, chúng ta phải có thái độ đúng đắn đối với Thiên Chúa trong những giờ phút đen tối, cũng như phải sống Tin Mừng thế nào trong mối liên hệ với những người đau khổ.
Đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người, nhưng đồng thời lại là cơ hội để con người đến với nhau một cách đặc biệt hơn, bằng sự cảm thông, an ủi và giúp đỡ, bởi vì chúng ta tin rằng Chúa yêu thương mọi người, cho nên không thể nghĩ rằng đau khổ và bệnh tật là hình phạt của tội lỗi.
Một quan niệm sai lạc và méo mó về Chúa sẽ dẫn chúng ta tới một lối sống đạo đức một cách thụ động, bởi vì Chúa để cho những khổ đau xảy ra, cho nên chúng ta hãy kiên nhẫn đón nhận để đền tội và lập công. Cách thức suy nghĩ như thế sẽ khiến chúng ta coi nhẹ mối quan tâm cứu chữa những kẻ bất hạnh. Mọi thái độ cam chịu ở đời này để được Chúa thưởng ở đời sau.
Chúa Giêsu đem Tin Mừng đến cho nhân loại bằng một thái độ tôn giáo hoàn toàn trái ngược lại với sự cam phận. Thực vậy, thấy bà mẹ vợ của Phêrô lên cơn sốt, Ngài liền giúp cho bà được khỏi bệnh. Và dân chúng đưa những kẻ đau yếu đến với Ngài và Ngài đã chữa lành cho họ. Thái độ của Ngài thật là cụ thể, rõ ràng và đó là thái độ tôn giáo.
Vì tin vào Chúa của tình thương mà phải ra tay cứu chữa những kẻ đau yếu tật nguyền, cho họ được khỏe mạnh, hầu làm chứng một cách đáng tin rằng quả thật Chúa yêu thương con người và Ngài đã dùng con người để cứu chữa con người. Bởi vì khi con người được yêu thương và giúp đỡ, thì dù có bệnh tật và khổ đau, thì vẫn có thể cảm thấy được hạnh phúc.
Trước những khổ đau bất hạnh của người khác, chúng ta đã có thái độ như thế nào? Cảm thông và giúp đỡ hay đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ, cháy nhà hàng xóm bình chân như vại.
58. Cách đáp ứng
Vấn nạn về nỗi đau khổ của nhân loại, đặc biệt là nỗi đau khổ của người công chính, là một vấn nạn lớn trong Kinh Thánh qua các thời kỳ. Đây là một vấn nạn mà Gióp đã bị day dứt. Gióp là một người tốt, tuy nhiên, ông vẫn phải chịu đựng những thảm cảnh khủng khiếp. Hậu quả là ông có một cái nhìn ảm đạm về cuộc sống.
Nỗi đau khổ vẫn còn là một vấn nạn lớn. Ngày nay rất nhiều người có thể có cùng một quan điểm với Gióp. Bạn hãy nghĩ đến tất cả những người đau khổ vì cảnh nghèo nàn, đói khát, đau yếu, bất công, áp bức, thảm cảnh… Trong thời Cựu Ước, đau khổ bị coi như là một sự trừng phạt đến từ Thiên Chúa, vì tội lỗi của con người.
Câu trả lời của Đức Giêsu đối với vấn nạn về nỗi đau khổ là gì? Người không chấp nhận quan điểm rằng đau khổ là một sự trừng phạt đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa không làm điều ác. Thiên Chúa luôn muốn sự tốt lành. Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy khi Đức Giêsu phản ứng trước nỗi đau khổ thực sự, điều đó chẳng khác gì một câu trả lời đối với câu hỏi “tại sao có đau khổ?”.
Phản ứng đó rất thực tiễn – như chúng ta nhận thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Ở đây, chúng ta nhận thấy đám đông những người bị đau yếu về thể xác hoặc tâm trí đến vây quanh Đức Giêsu. Và Đức Giêsu đã tự hiến thân mình cho mỗi người, chữa lành cho từng người một. Người không tự cô lập khỏi đau khổ của nhân loại. Người đã tự mình trở nên hoàn toàn nhạy cảm, trước những người bị thương tích và đau yếu.
Nỗi đau khổ là một tình trạng cô độc. Đức Giêsu đã không ủy mị trước nỗi đau khổ. Người cũng không giảng dạy sự cam chịu như chúng ta thường làm. Người không thích nhìn thấy con người đau khổ. Đau khổ là một trong những sự dữ mà Người đến để kháng cự lại. Người có lòng thương xót đối với những kẻ đau khổ, và mang lại điều tốt lành cho họ. Người xua đuổi những sự dữ do tội lỗi, sợ hãi, xấu hổ, thất vọng… đã ràng buộc con người.
Vấn nạn đau khổ đã trở nên một cơ hội cho Đức Giêsu – một cơ hội để chứng tỏ về Thiên Chúa. Bằng cách tự hiến thân cho kẻ bị đau yếu, Người mặc khải cho chúng ta về lòng thương xót của Thiên Chúa, trước nỗi đau khổ của nhân loại.
Nỗi đau khổ của những người khác cũng là một cơ hội cho chúng ta nữa. Chúng ta không có khả năng chữa lành, nhưng chúng ta luôn có khả năng chăm sóc người khác. Và chăm sóc chính là một công việc có tác dụng chữa lành. Chỉ cần hiện diện bên cạnh người đau khổ, tự thân điều đó rất có giá trị rồi. Nhưng đây không phải là một việc dễ dàng, bởi vì điều đó có nghĩa thay vì giải tỏa được nỗi đau đớn của người đó, chúng ta phải chuẩn bị chia sẻ nỗi đau đó.
Chúng ta đến với những người đau khổ với đôi bàn tay trống rỗng. Chúng ta có thể làm được gì cho họ? Chúng ta có thể sử dụng đôi bàn tay trống rỗng đó, để an ủi họ. Những người đau khổ mong mỏi rằng chúng ta không bỏ rơi họ, rằng chúng ta giữ vững lập trường đứng dưới chân thánh giá, giống như Đức Maria đã làm tại Canvê. Đơn giản chỉ cần có mặt ở đó mà thôi – mà trong một số chừng mực nào đó, đã là gay go lắm rồi. Điều duy nhất mà người đau khổ khát khao, chính là thông truyền cho họ sức mạnh của sự ấm áp tình người. Một người vẫn có thể được lành mạnh, mặc dù không hề được chữa lành.
Còn đối với nỗi đau khổ của riêng chúng ta thì sao? Đau khổ là một yếu tố không tránh khỏi của tình trạng nhân loại, mặc dù con đường đau khổ là một con đường chật hẹp và tối tăm. Thật ra một niềm an ủi lớn lao cho chúng ta, khi biết rằng chính Đức Giêsu cũng đã đi trên con đường này, và Người đã đi cho đến tận cùng. Từ khi Đức Giêsu đi qua con đường đau khổ, thì nó không còn giống như trước nữa. Một ánh sáng rạng rỡ đã chiếu tỏa trên đó. Người chứng tỏ cho chúng ta rằng mặc dù con đường này dẫn tới đồi Canvê, nhưng nó không kết thúc ở đó, mà kết thúc ở sự Phục sinh. Do đó, đối với người Kitô hữu, nỗi đau khổ trở thành một cơ hội để chia sẻ cuộc thương khó của Đức Kitô, trong niềm hy vọng được chia sẻ trong vinh quang Phục sinh của Người.
59. Dành thì giờ
Lần kia, có một người đàn ông đang cưỡi một con ngựa. Khi con ngựa và người cưỡi ngựa ầm ầm phóng qua, một người nông dân già đang đứng ở cổng cất tiếng hỏi: “Anh đang đi đâu đấy?”
Người đàn ông la lớn trong khi phóng vụt qua “Đừng hỏi tôi, hãy hỏi con ngựa ấy”.
Người đàn ông cưỡi ngựa tiêu biểu cho người có cuộc sống với cách sinh hoạt hối hả không ngừng. Người đó không hề có tự do; anh bị nô lệ cho công việc của mình. Nhưng vấn đề của anh ta còn sâu xa hơn. Anh ta không kiểm soát được cuộc sống của mình. Dường như có một sức mạnh nào đó đã nhập vào anh ta, đang dẫn dắt anh đi. Đây không phải là một lối sống hay ho gì.
Người ta có thể quá muộn để bắt kịp công việc, đến nỗi họ không dành ra được lấy một phút nào cho bản thân mình. Hoạt động có thể trở thành một thứ bệnh tật. Đây là một tình trạng nguy hiểm. Có thể người ta phải chịu đựng sự hủy hoại và suy sụp. So với những kẻ ích kỷ, thì những người quảng đại dễ gặp rủi ro này hơn. Chúng ta phải biết chăm sóc bản thân mình. Đây không thể là cung cấp, và cũng không phải là thu nạp vào tất cả. Chỉ bằng cách chú tâm cẩn thận đến những nhu cầu thể lý, tình cảm, tâm trí, và tinh thần của bản thân, thì chúng ta vẫn có thể tiếp tục luôn là những người vui vẻ cống hiến.
Như chúng ta nhận thấy trong đoạn Tin Mừng hôm nay, ngay cả Đức Giêsu cũng cần dành thì giờ cho bản thân mình. Những kẻ đau yếu về thể xác và tâm trí luôn vây quanh Người. Tất cả mọi người đều đang kêu la với Đức Giêsu. Người đang có nguy cơ bị hao mòn. Tuy nhiên, giữa bối cảnh cuồng nhiệt đó, chúng ta vẫn đọc được rằng “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã thức dậy, đi ra một nơi hoang vắng, và cầu nguyện ở đó”. Đức Giêsu cầu nguyện không chỉ vì bổn phận, mà còn vì nhu cầu nữa.
Nơi hoang vắng làm được gì cho Người? Nơi đó tạo cho Người khả năng để phục hồi năng lực đã bị mất đi, giúp cho Người tiếp tục tập trung. Nhưng nhất là trong suốt những giây phút cô tịch này, Người duy trì và củng cố được một điều quan trọng nhất trong cuộc đời của Người – mối tương quan với Chúa Cha. Đây là bí quyết cho sự thành công trong sứ vụ của Người.
Lời cầu nguyện hữu ích nhất, chính là có được sự hiện diện của Thiên Chúa mà không cần phải nói hoặc làm bất cứ việc gì. Chỉ khi được ngồi với sự hiện diện của Thiên Chúa, là người ta có thể được ngồi bên cạnh lò lửa nồng ấm. Điều này nghe có vẻ dễ dàng, nhưng trong thực hành, quả thật rất khó khăn. Bởi vì ngay khi dừng chân lại, thì chúng ta liền cảm thấy trống rỗng, thậm chí có lẽ còn cho rằng đó là giây phút vô dụng nữa. Hầu hết người ta đều cho rằng bản thân mình có giá trị qua công việc. Họ cho rằng giá trị của con người tùy thuộc vào ích lợi của người đó. Họ không biết cách đương đầu với sự nhàn rỗi và tĩnh mịch. hậu quả là cuộc sống của họ có thể bị nông cạn và hời hợt. Mặt khác, khi nhận chìm mình vào sự thinh lặng và tĩnh mịch với sự hiện diện của Thiên Chúa, thì những kế hoạch của chúng ta mất đi sức mạnh nơi bản thân mình, và chúng ta cảm nhận được giá trị đích thực của mình, không hệ tại ở sự làm việc, mà ở sự hiện diện.
Cách thế quan trọng nhất để yêu mến Thiên Chúa, chỉ đơn giản là sống với sự hiện diện của Người, để chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà thôi. Rất nhiều người có khuynh hướng cho là lòng yêu mến Thiên Chúa ngang hàng với công tác xã hội. Tất nhiên, lời cầu nguyện có thể trở thành một điều ích kỷ, tránh né và trốn tránh. Nhưng lời cầu nguyện cũng có thể có tác dụng. Công việc có thể là một cách tránh né khỏi phải cầu nguyện, khỏi phải tìm kiếm Thiên Chúa. Và nếu không có lời cầu nguyện, thì người ta có thể dễ dàng trở thành người hoàn toàn qui hướng về bản thân mình, tự mình hành động, hơn là trông cậy vào Thiên Chúa.
Chúng ta có thể đánh mất chính mình trong khi làm việc. Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy chính mình trong công việc. Đây là lý do tại sao trong cuộc sống, chúng ta cần có một nơi yên tĩnh. Chúng ta cần phải học hỏi từ gương mẫu của Đức Giêsu, về cách kết hợp giữa hoạt động và chiêm niệm. Ra đi cầu nguyện không phải là cách thế trốn thoát, nhưng điều này đưa đến sự tái cam kết. Cần có thời gian để cống hiến, và cần có thời gian để tiếp nhận. Để có được một cuộc sống lành mạnh, chúng ta cần phải quan tâm đến cả hai lối sống trên.
60. Chúa Nhật 5 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Nhìn những công nhân trong ngành xây dựng: họ chịu khó, cực nhọc, đổ rất nhiều công sức vào các công trình. Họ làm nên những ngôi nhà thật đẹp. Họ dùng hết khả năng mình có để tạo nên những nét thẩm mỹ cho đời. Khi kết thúc một công trình, họ không ở lại đó để nhận những lời khen thưởng, họ cũng không lưu luyến nơi mình làm việc mà không thể rời xa được. Cũng không có người nào đòi ở lại hay muốn làm chủ công trình mà mình đã khó nhọc làm nên. Nhưng mọi người đều vui vẻ ra đi khi kết thúc công việc, để đi đến nơi khác và tiếp tục công việc của mình và cũng kết thúc rồi lại ra đi, tìm công việc mới. Đó là nghề của họ, công việc họ phải làm như thế. Họ không bao giờ đòi làm chủ công trình mà họ làm nên, vì họ biết mình chỉ là người thợ, công việc của họ chỉ là công việc của người thợ, họ chỉ có trách nhiệm là hoàn thành công việc của mình thật tốt.
Chúa Giêsu là một người thợ, không chỉ để xây dựng những ngôi nhà bình thường, nhưng để xây dựng những ngôi nhà tâm hồn cho Thiên Chúa. Ngài làm việc cả ngày lẫn đêm, Ngài đem niềm vui, đem sức mạnh đến cho nhiều người. Những ngôi nhà tâm hồn đã bị hư hoại, Ngài đến làm cho nó tốt hơn. Những ngôi nhà không đứng vững được, Ngài nâng đở dậy và làm cho nó hoạt động. Những ngôi nhà tưởng chừng như bỏ đi, có bàn tay của Ngài, nó trở nên hữu dụng. Những ngôi nhà mọi người đều muốn tránh xa vì sợ nguy hiểm, nhưng bàn tay của Ngài chạm tới, nó trở nên mỹ miều và đạt được mức độ nghệ thuật cần thiết. Khi mọi người tìm đến để ca tụng, yêu cầu Ngài ở lại thì Ngài lại ra đi. Ra đi để tiếp tục xây dựng, để làm đẹp cho đời. Ngài không chiếm hữu cũng không đòi hỏi một sự đáp trả nào. Ngài ra đi để tiếp tục công việc mình phải làm. "Ta phải ra đi và đến nơi khác để rao giảng, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó".
Một công việc hết sức bình thường của một người thợ, không có gì khác thường, công việc mà biết bao người của mọi thời đại đều làm như thế. Nhưng công việc bình thường như thế lại có những người không làm như thế. Chúng ta những người được mời gọi theo chân Chúa Giêsu, được mời gọi để làm người thợ như Ngài.
Những người thợ của thời đại mới có khi không rành nghề cho bằng thợ của ngày xưa, nhưng lại đòi hỏi yêu sách nhiều hơn: nào là phải có điều kiện thuận tiện, phải được phục vụ chu đáo theo ý riêng, phải được đáp ứng những nhu cầu cần thiết và phải làm sao cho mọi người biết đến nữa chứ. Nếu cứ âm thầm lặng lẻ mà làm việc thì những người thợ của ngày hôm nay không thể chấp nhận được.
Nhu cầu được đáp ứng, nhưng người thợ không thể hoàn thành được công việc của mình, mà làm cho mọi người phải thất vọng vì tay nghề quá kém mà lại thiếu chữ tín.
May thay cũng còn có những người thợ hoàn thành tốt công việc của mình. Nhưng khi mọi người vui mừng tán thưởng, vây quanh chúc tụng, thế là anh ta chiếm ngay công trình mà mình vừa hoàn thành làm của riêng, không muốn rời xa nó. Càng không muốn ra đi để tiếp tục công việc mà nghề nghiệp đòi buộc. Người thợ đã bỏ nghề nghiệp của mình, giờ đây anh chỉ còn biết sống trong mơ, xa rời thực tế, một ngày nào đó anh phải trả giá cho giấc mơ của mình.
Cũng có được những người thợ của Chúa Kitô trong thời đại mới nầy. Họ noi gương Ngài thật chính đáng, nhìn thấy công việc mình phải làm, chu toàn thật tốt, đem niềm vui cho người và cho đời. Nhưng điều quan trọng là họ biết ra đi, biết tiếp tục công việc cần thiết mà nhiều người đang chờ đợi họ.
Chúng ta là những người thợ của ngày hôm nay, hiện tại chúng ta đang làm việc như thế nào? Là những người khó khăn hay thắc mắc không chấp nhận được hoàn cảnh hiện tại, hay chúng ta đang sống trong giấc mơ của những thành công và không muốn từ bỏ những gì mình đang có. Nếu như thế chúng ta không phải là người thợ chân chính.
Nếu trong đời sống hằng ngày mà biết chu toàn trách nhiệm, chấp nhận hoàn cảnh sống, biết tìm mọi cách để đem niềm vui cho đời và cho người với tất cả những gì có thể làm được. Đó là chúng ta đang bước chân theo Chúa Giêsu, biết ra đi rao giảng Tin Mừng.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn can đảm, để mỗi người nhìn thấy được những việc cần phải làm và thi hành trọn vẹn.
61. Nơi hoang vắng
Một người đàn ông kia có thói quen tự mình ra đi, vào một khu rừng hẻo lánh. Ngày kia, vì tò mò muốn biết anh ta đi đâu, nên có người bạn đã đi theo anh vào rừng. Khi đuổi kịp anh ta, người bạn đó thấy anh đang ngồi yên lặng trên một khúc gỗ.
Người bạn đó hỏi: “Anh đang làm gì thế?”
Anh trả lời “Tôi đang cầu nguyện”.
“Nhưng tại sao anh phải đi đến nơi xa xôi này để cầu nguyện?”
“Bởi vì tôi cảm thấy là Thiên Chúa hiện diện ở đây”.
“Nhưng phải chăng chúng ta có thể tìm thấy Thiên Chúa ở tất cả mọi nơi, và phải chăng ở bất cứ nơi đâu cũng chỉ có một Thiên Chúa đó sao?”.
“Thiên Chúa vẫn thế, nhưng tôi thì không”.
Mặc dù chúng ta có thể tìm thấy Thiên Chúa, và cầu nguyện với Người ở bất cứ nơi nào và tất cả mọi nơi – trong nhà bếp, ngoài đường phố, trên xe hơi, tại nông trại, ở nơi làm việc – tuy nhiên, thật là một ý tưởng hay, khi có một nơi đặc biệt – bờ biển công viên, núi non, nhà thờ, hoặc ở bất cứ nơi đâu – mà tại đó, đôi khi chúng ta có thể rút lui khỏi những bận rộn của cuộc sống. Tại những nơi này, chúng ta cảm thấy rằng dường như Thiên Chúa gần gũi hơn và thân thiện hơn. Toàn thể bầu khí ở đó dường như tràn ngập sự hiện diện thần thánh của Người. Thiên Chúa nói với chúng ta qua làn gió thổi, qua âm thanh của giòng suối, qua tiếng chim hót, nơi nét đẹp của một bông hoa dại, trong chính sự thinh lặng.
Tại những nơi này, chúng ta cũng trở nên khác hẳn. Chúng ta trở nên trầm tĩnh hơn, yên lặng hơn, và do đó, chúng ta cởi mở hơn với những gì mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, trong tất cả mọi lúc và tất cả mọi nơi.
Quả thật là rất tốt, nếu chúng ta có được một nơi đặc biệt, một nhà nguyện nhỏ bé, một không gian của riêng mình, tách biệt khỏi tất cả mọi chuyện khác. Một nơi như vậy đặc biệt hữu ích trong việc yên lặng suy niệm, và nói chuyện với Thiên Chúa từ tận thẳm sâu tâm hồn mình, trong một tương quan giữa cá nhân với cá nhân. Ngay cả khi chỉ được ngồi trong một căn phòng đặc biệt cũng là một điều tốt đẹp. Tại nơi thần thánh này, bạn không chỉ tìm thấy Thiên Chúa, mà còn tìm thấy chính mình nữa. Khi quá bận rộn, quan hệ của chúng ta với bản thân mình trở nên lỏng lẻo. Người ta không thể nhìn thấy khuôn mặt của mình, khi soi mình xuống những giòng nước bị khuấy động.
Mặc dù người ta có nhận ra điều đó hay không, thì tất cả mọi người vẫn đều cần đến một không gian như vậy. Nếu muốn có một cuộc sống nội tâm, chúng ta tuyệt đối cần đến khoảng không gian đó. Khi càng đi vào nơi cô tịch, chúng ta càng được bình an, dù với bất cứ điều gì xảy ra. Điều tốt nhất chính là nơi đó giúp cho chúng ta tìm thấy, hoặc tạo ra được một không gian thánh thiêng, ngay bên trong con người của mình. Ngay cả trong khi duy trì tương quan với thế giới bên ngoài, thì chúng ta vẫn có thể sống từ trung tâm đó.
Để được thư giãn, chúng ta cần có một không gian – một không gian của riêng mình, một nơi cô tịch mà tại đó, chúng ta có thể thực sự có quan hệ với con người sâu xa nhất của mình. Nếu chúng ta không có được điều đó, nếu không gian của chúng ta bị tước đoạt hoặc xâm phạm, nếu chúng ta chịu sức ép, hoặc có quá nhiều việc phải làm, thì chúng ta có nguy cơ bị rơi vào sự hỗn loạn. Đây là điều mà Đức Giêsu đang làm, khi Người thức dậy sớm, và đi đến một nơi hoang vắng để cầu nguyện.
62. Thăm viếng
Kinh nghiệm của những lần đi thăm viếng bệnh nhân tại nhà thương hồi còn ở Đàlạt cho tôi thấy: Nhiều lúc, mình chỉ cần ngồi thinh lặng, lắng nghe họ kể những tâm sự buồn, từ chuyện gia đình đến chuyện con cái, từ chuyện buôn bán đến chuyện đau ốm. Giải tỏa được những tâm sự buồn ấy, họ cảm thấy nhẹ nhõm và tìm lại được niềm vui sống. Thì ra điều họ cần thiết đó là sự chia sẻ và cảm thông.
Từ kinh nghiệm kể trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Chúa Giêsu chữa lành nhiều bệnh nhân, với những chứng bệnh khác nhau. Sở dĩ Ngài làm được điều ấy vì Ngài chính là Thiên Chúa quyền năng. Còn với chúng ta thì sao?
Dĩ nhiên chúng ta không thể làm phép lạ, không thể cứu chữa họ. Tuy nhiên chúng ta có thể dự phần vào việc chữa lành của Chúa Giêsu, cũng như vào việc xoa dịu phần nào nỗi đớn đau của họ, bằng cách thăm viếng an ủi họ. Đây cũng là điều Chúa Giêsu hằng mong mỏi chúng ta thực hiện. Và nếu chúng ta thực hiện được, hẳn Ngài sẽ chúc phúc cho chúng ta.
Chúng ta còn nhớ, trong hoạt cảnh về ngày phán xét, Ngài phán với những người bên hữu:
- Hãy vào lãnh nhận phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thuở đời đời, vì khi Ta đói các ngươi đã cho ăn, khi Ta khát các ngươi đã cho uống, khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, khi ta đau yếu và bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm. Vì khi các ngươi làm những việc ấy cho một trong những kẻ hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Trong Cựu Ước chúng ta cũng thấy như thế:
- Đừng chậm trễ trong việc thăm viếng người bệnh, vì nhờ đó mà con được quý mến.
Tại gia đình hay tại bệnh viện, chúng ta đều có thể xoa dịu những đớn đau tinh thần, cũng như thể xác của họ. Vậy thì chúng ta làm phải những gì cho các bệnh nhân? Tôi xin thưa:
- Hãy lắng nghe họ tỏ lộ tâm sự với một thái độ chia sẻ và thông cảm.
Đây quả là một nghệ thuật, bởi vì nó đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và chịu đựng, nhất là trước những câu chuyện chúng ta đã nghe đi nghe lại nhiều lần. Ngoài ra, chúng ta còn có thể đem đến cho họ một tin vui, một câu chuyện lượm lặt, một nụ cười cảm thông, một thái độ ân cần và chăm sóc.
Tuy nhiên, chúng ta phải chuẩn bị trước để biết mình sẽ nói những gì và sẽ nói như thế nào? Ngoài ra chúng ta còn có thể mang theo những quà tặng như trái cây và các loại đồ ăn cũng giúp bệnh nhân phần nào trong việc bình phục. Tuy nhiên khi chọn quà tặng, chúng ta cũng cần phải tế nhị, chọn quà tặng nào phù hợp với sở thích hay nhu cầu của bệnh nhân. Những món quà đơn giản, không xa xỉ lại thường là những món quà quý giá. Ngoài ra, một cú điện thoại, một bức thư thăm hỏi cũng sẽ giúp cho bệnh nhân rất nhiều.
Trong phạm vi và khả năng của mình, hãy quan tâm giúp đỡ những người đau yếu như ngày xưa Chúa Giêsu đã làm.
63. Đau khổ
Sơ Maureen Cahill dòng Thánh Mân Côi, làm việc truyền giáo trong một bệnh viện ở phía bắc Transvaal, Nam Phi gửi cho tác giả cuốn “Story Power”, linh mục James A. Feehan một dụ ngôn Sơ đặt tên là “Dụ Ngôn Cây Viết Chì”.
Thực sự chúng ta không biết được ai là người đã làm nên cây bút chì. Nhưng sau khi phát minh ra cây viết chì rồi, người chủ đã ngỏ lời với sản phẩm của mình như sau: Tôi muốn các bạn nhớ đến bốn điểm:
1. Sự tốt lành hay phẩm giá đích thật nằm ở bên trong con người của bạn.
2. Bạn sẽ cần phải được vót cho nhọn, gọt dũa đi khi bạn sống trong cuộc đời.
3. Bạn sẽ được sử dụng trong tay một người nào đó, nếu không tự bạn, bạn sẽ chẳng làm nên cái tích sự gì cả!
4. Người ta sẽ yêu cầu bạn phải để lại ít nhất là một dấu vết gì đó.
Đời sống con người giống như cây viết chì. Mẹ Têrêsa Calcutta đã áp dụng trường hợp thứ ba cho Mẹ khi Mẹ nói: “Tôi là cây viết chì trong bàn tay của Thiên Chúa”. Còn tác giả cuốn sách “Story Power”, cha Feehan áp dụng dụ ngôn này trong thánh lễ trên đài phát thanh cho những người ốm đau. Cha đã áp dụng sự đau khổ của con người vào trường hợp thứ hai của cây viết chì, là phải được thanh tẩy, chuốt nhọn bởi những khổ đau trong cuộc sống. Cây viết chì mà không bị vót, chuốt, gọt, dũa thì không thể nào sinh lợi cho người khác được. Ngạn ngữ Pháp có lời khuyên như sau:
Con người là kẻ học nghề,
Mà thầy là nỗi ê chề đớn đau.
Không ai hiểu nổi mình đâu,
Nếu chưa từng bước nhịp sầu mênh mông.
Trong các bài đọc hôm nay có đau đớn và cũng có chữa lành. Có hai người chịu đau khổ vì ốm đau bệnh tật và cũng có hai người được chữa lành. Cả hai đều giống nhau. Một người là ông Gióp và người kia là bà nhạc mẫu của Phêrô. Cả hai đều gửi cho chúng ta một cái sứ điệp giống như sứ điệp trong dụ ngôn của cây viết chì. Nói về đau khổ và phục vụ. Họ tỏ cho chúng ta thấy rằng qua đau khổ họ thông cảm và hiểu biết tha nhân, rồi dẫn tới yêu thương và phục vụ tha nhân.
Bài đọc thứ nhất đưa ta vào những đau khổ của ông Gióp phải chịu đến độ hầu như tuyệt vọng: “Xin Ngài nhớ cho cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ”. Ông tuyệt vọng lắm rồi! Ông mất tất cả mọi sự. Tài sản, của cải, gia đình, uy tín và sức khoẻ. Bạn bè nói rằng ông bị thử thách vì ông đã phạm tội. Vợ ông xúi ông nguyền rủa Thiên Chúa mà chết cho rồi! Nhưng ông Gióp lại là một ứng viên tuyệt vời trong tuyệt vọng. Ông nhấn mạnh rằng ông đã không hề phạm tội, không hề xúc phạm tới Thiên Chúa. Nhưng ông không biết tại sao ông phải đau khổ. Đau khổ là một mầu nhiệm đối với ông. Ông trở thành con người của hy vọng. Ông vẫn tin tưởng nơi Thiên Chúa mặc dù đời ông có quá nhiều đau khổ: “Thiên Chúa ban cho, Ngài lại lấy đi, xin chúc tụng danh Ngài”. Ông không hiểu, nhưng vẫn tin tưởng, và sau cùng ông đã nhận ra tình yêu thương nhân hậu của Thiên Chúa.
Một mẩu chuyện xứ Phi Châu kể lại rằng một người Ả Rập sống ở sa mạc có thói quen nằm sát xuống đất, úp tai trên cát ở sa mạc. Một người bạn hỏi anh ta: “Bạn làm gì đó?” Anh trả lời: “Tôi nghe sa mạc khóc vì nó rất muốn được là một khu vườn”.
Không ai thích đau khổ, ngay cả sa mạc cũng mong muốn thoát khỏi khổ đau. Câu chuyện này làm tôi nghĩ đến cuốn “Đường Hy Vọng” của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận. Ngài viết cuốn sách nổi tiếng này vào năm 1975, ngay sau khi bị quản thúc, bắt đầu cho 13 năm tù, trong đó 9 năm bị biệt giam. Sau này ngài viết thêm “Đường Hy Vọng dưới Anh Sáng của Lời Chúa và Công Đồng Vatican II” (1979), “Những Người Lữ Hành trên đường Hy Vọng” (1980), cuốn “Chứng Từ Hy Vọng” đã được nhà xuất bản Pauline Books & Media ở Hoa Kỳ xuất bản. Ngài được thế giới biết đến như một “Chứng nhân Tình Yêu và Hy Vọng”. Trong dịp Đại hội Đệ Tam Thiên Niên Kỷ 2000, ngài kể lại với các linh mục, tu sĩ và giáo dân về những năm tù đày của ngài:
“Trong những năm khốn đốn bị biệt giam, những năm đau buồn nhất trong đời tôi, tôi chỉ nhìn thấy hai người lính canh và họ được lệnh không được nói với tôi một lời nào. Tôi cảm thấy bị mọi người bỏ quên, tôi thấu suốt nỗi đau khổ tuyệt đỉnh của Chúa Giêsu, cô đơn trên thánh giá. Tôi nghĩ đến những giáo dân, những tín hữu, đến các linh mục, tu sĩ, chủng sinh đang ở ngoài kia, họ cũng bị ruồng bỏ, bị đau khổ tù đày và bị bách hại. Trong sâu thẳm của yếu đuối, tinh thần lẫn thể xác, tôi nhận được ân sủng của Đức Mẹ Maria.
Tôi không được phép dâng thánh lễ, nhưng tôi đã đọc hàng trăm kinh Kính Mừng, và Đức Mẹ đã ban cho tôi sức mạnh kết hợp với Chúa Giêsu trên thánh giá. Tôi cảm thấy Chúa Giêsu đã cứu chuộc nhân loại khi Ngài cô đơn trên thánh giá, trong sự bất lực hoàn toàn.
Các người lính canh dần dần hiểu biết tôi. Chúng tôi trở thành bạn hữu. Họ đã giúp đỡ tôi. Họ cho phép tôi làm một cây thánh giá bằng gỗ. Tôi đã giấu trong một cục xà bông. Tôi dùng một đoạn dây điện để làm dây đeo và họ đã cho tôi mượn chiếc kềm nhỏ để làm và họ còn làm giúp với tôi nữa. Chiếc thánh giá mà tôi mang đây làm bằng gỗ và dây điện từ nhà tù. Chiếc thánh giá này luôn luôn nhắc nhở: Hãy yêu thương mãi! Hãy tha thứ mãi! Sống với hiện tại để truyền bá Tin Mừng! Mỗi giây phút sống là để yêu mến Thiên Chúa”.
Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, một nhân chứng của tình yêu và hy vọng trong đau khổ chính là hình ảnh của “Dụ Ngôn Cây Viết Chì”.
Bài Phúc âm đưa ta vào hoàn cảnh của gia đình Phêrô – một gia đình đang có việc lo buồn. Maccô cho ta biết, “Lúc ấy bà nhạc mẫu của Simon cảm sốt nằm trên giường”. Theo William Barclay, đối với người Do Thái thời đó, bệnh là do ma quỷ, và họ gọi bệnh cảm sốt này là “talmud”. Để chữa bệnh này, họ dùng một con dao bằng sắt, cột một nắm tóc vào con dao, rồi đưa vào bụi gai, đang khi đọc một câu bùa chú. Cách chữa này mang một ý nghĩa khác hơn là nhiệt độ của cơ thể nóng lên vì bệnh. Nó có nghĩa như trừ quỷ trừ ma. Do đó, bà nhạc mẫu của Simon bị bệnh, đồng nghĩa với sự hiện diện của sự dữ trong gia đình – sự hiện diện của ma quỷ nơi người đàn bà. Trong hoàn cảnh bi đát này, Chúa Giêsu ra tay cứu chữa: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài”.
Từ ngữ của đoạn Phúc âm này, đã được Máccô chọn lựa rất cẩn thận. Từ “egeiro” có nghĩa là “nâng lên” diễn tả việc Chúa Giêsu nâng bà lên giống như sự sống lại của Chúa Giêsu từ cõi chết, được nâng lên đưa về trời. Sau khi được nâng lên rồi, bà bắt đầu phục vụ các ngài. Từ “diekonei” có nghĩa là “phục vụ”, nguồn gốc của chức phó tế “diaconatus”, mà Tân ước dùng để diễn tả chức vụ phó tế.
Bà đã được Chúa Giêsu gọi cũng như Ngài đã gọi Phêrô, Anrê, Gioan... và các môn đệ khác. Chỉ trong một giây phút được chữa lành, bà đã tin tưởng và nhận biết Chúa, rồi bà bắt đầu làm việc phục vụ người khác ngay. Người bệnh được chữa lành, và được gọi trở nên thừa tác viên đi thoa dịu, an ủi khổ đau, cực nhọc của người khác. William Barclay đã trích dẫn một câu châm ngôn trong những gia đình người Scottish như sau: “Được cứu để phục vụ”. Chúa Giêsu đã cứu chữa chúng ta. Vậy chúng ta phải đi giúp đỡ người khác.
Chuyện cổ Trung Hoa kể câu chuyện về một người đàn bà có người con trai duy nhất đã chết. Trong đau thương buồn khổ, bà đến năn nỉ vị thánh hiền: “Xin ngài hãy dạy cho con biết những lời cầu khấn, hay những câu thần chú nào làm cho con trai của con được sống lại?” Thay vì lý luận dài dòng với bà, vị thánh hiền trả lời: “Bà hãy đi tìm cho tôi một hạt rau cải từ một gia đình chưa từng bao giờ biết buồn khổ là gì. Tôi sẽ dùng nó làm thuốc chữa cho con bà sống lại”.
Người đàn bà bắt đầu đi lang thang khắp nơi tìm kiếm hạt cải kỳ diệu đó. Trước hết, bà đến gõ cửa một lâu đài vô cùng sang trọng: “Tôi đang đi tìm kiếm một nhà chưa bao giờ biết buồn khổ là gì. Xin cho hỏi có phải nhà này không ạ? Chủ nhà trả lời: “Thưa bà chắc chắn là bà đã đi lộn nhà rồi! Chồng tôi đang hấp hối nằm trên giường bệnh. Con trai tôi bỏ nhà ra đi. Tôi sợ rằng tôi sẽ sống trong cô đơn góa bụa!”
Nghe xong bà nói: “Ai là người may mắn hơn tôi để có thể giúp đỡ cho những người bất hạnh đáng thương này, cho dù tôi cũng có những rủi ro của riêng mình?” Sau đó, bà ở lại để an ủi chủ nhà trước khi lên đường đi tìm cho ra một nhà chưa bao giờ biết buồn khổ là gì. Nhưng bất cứ nơi nào bà ghé vào, cho dù là lâu đài sang trọng, dinh thự giàu có đến đâu, bà cũng đều nghe kể về những chuyện buồn bã và bất hạnh. Cuối cùng, đi tới đâu bà cũng đều khuyên răn, an ủi và khích lệ người khác cho tới nỗi chính bà đã trở nên một thừa tác viên phục vụ cho những người buồn phiền đau khổ. Trong công tác mục vụ này bà đã quên việc đi tìm hạt cải kỳ diệu làm thuốc cứu chữa con bà. Bà quên đi nỗi buồn của chính bà.
Khi nào bạn đau khổ, chán nản, tuyệt vọng... hãy nhớ rằng Chúa Giêsu cùng hiện diện với bạn cũng như Thiên Chúa ở bên cạnh ông Gióp. Hãy nhớ rằng Chúa Giêsu sẽ không bao giờ bỏ rơi bạn. Hãy nhớ rằng bạn đang được yêu thương. Hãy tiếp tục tin tưởng, hy vọng, yêu thương và phục vụ.
Khi nào bạn đau ốm về thể xác, tinh thần hay tình cảm, hãy cởi mở tâm hồn ra đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ chữa lành bạn, nắm chặt lấy tay bạn và giúp bạn đứng dậy. Ngài sẽ chữa lành bạn như Ngài đã chữa bệnh cho bà nhạc mẫu của Phêrô. Hãy lắng nghe tiếng Ngài mời gọi, bước theo Ngài và phục vụ tha nhân, vì ơn sủng của Ngài sẽ ban xuống đầy đủ cho bạn.
64. Chúa Giêsu, niềm hy vọng của loài người.
Ở một phòng thí nghiệm, người ta thử 10 con chuột cho lội trong hồ kiếng không chỗ bám. Lúc đầu cho năm con vào, khoảng 8 giờ sau thì chúng chìm. Họ cho một đợt 5 con kế tiếp vào, khoảng 7 giờ thì vớt ra cho nghỉ. Sau đó lại cho vào hồ tiếp. Ngạc nhiên thay, chúng lội suốt 20 giờ mới bắt đầu chìm. Lý do nào mà chúng có sức lội hơn gấp đôi đồng bạn? Các nhà khoa học nghiệm ra rằng: sở dĩ chúng lội được như vậy là vì chúng có niềm hy vọng nhờ vào kinh nghiệm được cứu thoát lần trước. Cuộc sống của chúng ta cũng vậy. Sở dĩ chúng ta vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống là nhờ biết hy vọng. Ai không có hy vọng thì sẽ bị đau khổ và thử thách của cuộc sống nhấn chìm.
Người kitô hữu của chúng ta có niềm hy vọng rất lớn lao: niềm hy vọng này không phải hảo huyền, tạm bợ, không phải hy vọng nơi vật chất mau qua chóng tàn nhưng là hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng rất yêu thương chúng ta và đã hy sinh mạng sống vì chúng ta. Cuộc sống trần thế này luôn có những khó nhọc, cam go theo từng giai đoạn, theo từng hoàn cảnh của con người. Chẳng hạn: trẻ phải tập đi vất vả, phải đến trường, lo học hành, lớn phải lao động cực khổ để có miếng cơm manh áo để lo cho gia đình và xã hội. Đó là chưa nói đến những khó khăn đột xuất khác.
Trong bài đọc I, chính thánh Gióp cũng phải chịu nhiều đau khổ, cuộc sống con người cũng chẳng phải là là thời khổ dịch sao, số phận ê chề, ngày đời thấm thoát như thoi đưa, cuộc đời con người chỉ là hơi thở chẳng thấy hạnh phúc. Niềm hạnh phúc thánh Gióp trông chờ chỉ có được nơi Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đem lại niềm hy vọng cho dân Israel. Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa hứa ban để cứu nhân loại. Cụ thể trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đi đến đâu là đem tin mừng và cứu chữa tới đó. Vừa mới giảng dạy và trừ quỷ ở hội đường Caphanaum, Chúa Giêsu đến nhà Phêrô để chữa cho bà mẹ vợ của ông đang lên cơn sốt. Ngày hôm đó, vì là ngày Sabat nên ngườI Do thái nghỉ ngơi theo luật định. Nhưng khi vừa hết ngày Sabat ngườI ta lạI tuôn đến với chúa giêsu, đem theo mọi kẻ ốm đau bệnh tật và những kẻ bị quỷ ám để Chúa Giêsu chữa lành và giải thoát họ.
Sáng sớm hôm sau, khi Đức Giêsu còn đang cầu nguyện thì người ta đã kéo đến tìm, nhưng Chúa Giêsu biết nhiệm vụ của mình là đem Tin mừng, đem niềm hy vọng, niềm hạnh phúc đến cho mọi người nên Ngài không ở lại một chỗ đó mà tiếp tục đi đến những hội đường khác ở những miền khác nữa.
Trong bài đọc II thánh Phaolô rao giảng Tin mừng, đem niềm hy vọng và sự sống cho thế giới. Niềm hy vọng và sự sống đó phát xuất từ Đức Kitô. Ngài không chỉ đem hạnh phúc cho con người ở đời này mà còn cho cả đời sau nữa. Vì Tin mừng đó mà thánh Phaolô sẵn sàng hy sinh tất cả để ngườI ngườI được hạnh phúc.
Chúng ta là người kitô hữu, chúng ta có đặt hết niềm hy vọng đời mình vào Chúa Giêsu hay chưa, hay chúng ta đặt hy vọng nơi của cải, danh vọng địa vị. Nếu chúng ta đặt hy vọng nơi Chúa rồi, chúng ta hãy tiến thêm bước nữa là hàng ngày xét mình xem chúng ta đã sống với niềm hy vọng đó như thế nào, có sống vì Chúa Giêsu như thánh Phaolô chưa, có luôn nhớ tới Chúa, sống cho Chúa và nói về Chúa cho những người mình gặp gỡ hay chỉ giữ luật cho khỏi bị phạt thôi! Mỗi người chúng ta hãy quyết tâm đi lễ thường xuyên và đối xử tốt với những người xung quanh để họ nhận ra niềm hy vọng và hạnh phúc thật mà người kitô hữu đang theo đuổi để họ cũng được niềm hy vọng ấy và cùng chúng ta thờ phượng một Thiên Chúa tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu là hy vọng của đời con, là niềm trông cậy, là nguồn hạnh phúc cuộc đời con. Xin Chúa ban ơn giúp con sống niềm hy vọng thật trọn hảo để mai sau được về cùng Chúa hưởng phước Thiên đàng. Amen.
65. Tình thương
Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng dạy và làm phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc khải rõ ràng Ngài là ai, cho nên, trước con người của Ngài, nhiều người ngỡ ngàng, không biết xếp Ngài vào hạng người nào: Ngài có phải là một nhà chuyên môn làm phép lạ không? Là một ngôn sứ, là Elia hay là một Mêsia, cứu tinh của dân tộc Do Thái? Trong khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, vì Ngài biết người Do Thái đang quan niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị dùng việc làm để minh chứng dần dần sứ mệnh của Ngài, một trong những việc làm đó được kể lại trong bài Tin Mừng: Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông Phêrô và tất cả những bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những việc Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu trên các bệnh nhân.
Thiên Chúa tạo dựng con người và Ngài có quyền trên thân xác và linh hồn con người, có quyền trên thân xác tức là có quyền trên bệnh tật, Ngài có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật dễ dàng, giống như một kỹ sư chế tạo ra một cái máy, chắc chắn ông là người hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ dàng sửa chữa những trục trặc nơi con người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi con người.
Riêng phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của Phêrô khỏi bệnh sốt rét có ý nghĩa gì? Chúng ta khó hiểu được ý Chúa muốn gì khi làm phép lạ này. Nếu hiểu rằng mỗi phép lạ Chúa làm thường là để tăng cường lòng tin, thì ở đây cũng thế, Chúa muốn tăng cường lòng tin của gia tộc Phêrô và nhất là đối với Phêrô. Đàng khác, nếu xét về quan niệm của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là hình phạt của Thiên Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ làm, thì Chúa Giêsu làm phép lạ này để minh chứng cho mọi người biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, là Đấng đến để cứu gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ bởi tội lụy, bởi điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét tượng trưng cho nhân loại đã bị thần dữ làm kiệt quệ đến sống dở chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được. Hơn nữa, phép lạ này cũng diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào của Chúa cũng là tình yêu, nhưng ở đây thể hiện rõ hơn: nơi đâu Chúa Giêsu đến rao giảng thì ở đó những con người khổ đau đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu và được cứu chữa. Đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.
Phần đông chúng ta không thể mang lại sức khoẻ thể xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn cho những anh em bệnh tật, điều đó đã có các bác sĩ, y tá, nhưng chúng ta có một cái gì sâu xa hơn, quý giá hơn để mến tặng những anh em ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta đem lại cho họ một niềm hy vọng, cống hiến cho họ một chân lý khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại cho họ sự an ủi chân thật.
Chẳng hạn như lời tự thuật của một người kia đã kể cho linh mục Samsông và linh mục này đã kể lại trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”, chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đồng hồ thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi con người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Một thí dụ khác, bác sĩ Longghê là một người Pháp đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đulây, người Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương bệnh nhân như vậy? Vì sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết? Ông trả lời: “Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh”. Mỗi sáng khi đi dưlễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Longghê trở về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.
Nếu chúng ta không bắt chước được bác sĩ Longghê, thì chúng ta có thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên, cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hãy đi thăm hỏi, an ủi những bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và giảm sút lòng tin... chúng ta hãy cảm thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng không hề bệnh tật gì, đã mang lấy bệnh tật của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi hay làm cho họ phải thất vọng, đau khổ, nhưng Chúa đã an ủi, thương yêu cứu chữa họ, vì thế, chúng ta hãy đến với các bệnh nhân, họ rất cần đến tình thương, chúng ta hãy đem tình thương đến cho họ.
66. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Có phải Đức Giêsu đến trần gian để cứu chữa những người bệnh hoạn, tật nguyền, quỷ ám không? Sứ mạng của Ngài là gì? Tại sao Ngài làm những việc ấy?
2. Bạn có nghĩ rằng: nếu mình mà làm được phép lạ như Đức Giêsu, mình cũng sẽ chữa bệnh, trừ quỉ… và đi tới đâu cũng sẽ thi ân giáng phúc tới đó y như Ngài vậy? hiện nay mình chỉ kém Ngài vì không có bản tính Thiên Chúa thôi?
3. Theo bạn thì tình thương làm nên phép lạ, hay phép lạ làm nên tình thương? Nói cụ thể hơn, muốn giúp người, điều quan trọng nhất là có tình thương hay có tài năng? Tình thương làm nên tài năng, hay tài năng làm nên tình thương?
Suy tư gợi ý:
1. Dù quan tâm hàng đầu là loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu luôn cứu giúp mọi người theo sự thúc đẩy của tình thương
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu chữa các bệnh tật, các chứng quỷ ám. Trong cuộc đời công khai, Ngài đã từng chữa lành biết bao nhiêu con bệnh thuộc đủ mọi loại, biết bao người bị quỷ ám, và làm một số người chết sống lại, v.v... Điều đó khiến nhiều người có cảm tưởng rằng Ngài là một chuyên gia chữa bệnh, chữa quỷ ám. Thật ra không phải như vậy! Ngài đến thế gian chủ yếu không phải để làm những việc ấy, mà để cứu chuộc toàn nhân loại và loan báo Tin Mừng cho họ. Tuy nhiên, khi thực hiện sứ mạng ấy, Ngài đã phải đối diện với biết bao nhiêu cảnh đau thương của con người, về tinh thần cũng như thể chất. Tình thương chan chứa của Ngài đối với con người khiến Ngài biết bao lần “chạnh lòng thương” và ra tay cứu giúp (x. Mt 9,36; 14,14; 15,32; Mc 1,41; Lc 7,13). Sách Công vụ Tông đồ còn cho biết: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người “ (Cv 10,38).
Điều chúng ta cần noi gương Ngài không phải là việc chữa bệnh hay làm điều gì, mà chính là khả năng “chạnh lòng thương” trước những đau khổ của tha nhân. Khi đã biết “chạnh lòng thương”, thì tình thương sẽ thúc đẩy và dần dần tạo cho ta khả năng hành động phù hợp với sự đòi hỏi của tình thương. Thiết tưởng tất cả mọi Kitô hữu muốn thật sự là Kitô hữu đều phải biết “chạnh lòng thương”, biết nhạy cảm trước những đau khổ, trước những cảnh thương tâm đang xảy ra cho những người chung quanh, đồng thời quyết tâm ra tay hành động theo sự thúc đẩy của tình thương. Sự nhạy cảm do tình thương ấy chính là dấu hiệu chắc chắn cho biết Thiên Chúa đang thật sự ở với chúng ta, trong chúng ta. Ai không nhạy cảm như thế là dấu chứng tỏ họ không có Thiên Chúa - là Tình Thương - ở nơi mình: “Ai không yêu thương anh em mình thì không thuộc về Thiên Chúa” (1Ga 3,10; x. 3,17; 4,8).
2. Vì yêu thương và dấn thân hết mình mà Ngài làm nên những phép lạ
Có phải vì Ngài làm phép lạ dễ dàng, nên Ngài tỏ tình thương với mọi người cũng dễ dàng chăng?
Nếu ít hiểu biết về Đức Giêsu, chúng ta có thể nghĩ rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có quyền năng làm phép lạ, có khả năng chữa bệnh, đuổi quỷ, nên Ngài tha hồ mà “thi ân giáng phúc” ở bất cứ nơi nào Ngài đến. Đối với Ngài, việc “thi ân giáng phúc” quả là quá dễ dàng, Ngài có mất mát hay thiệt thòi gì đâu? Còn ta, hễ giúp đỡ ai, làm cho ai hạnh phúc hơn là ta phải mất mát, hy sinh, phải chịu thiệt thòi, phải chấp nhận đau khổ. Nếu Ngài cũng bị hạn chế như ta, làm sao Ngài có thể “thi ân giáng phúc” không cần tính toán như thế được? Nếu ta cũng làm được phép lạ như Ngài, ta cũng sẽ “thi ân giáng phúc” cho mọi người đâu kém gì Ngài!
Hay vì Ngài yêu thương tha nhân hết mình, nên Ngài mới có nhiều khả năng cứu giúp người khác như vậy?
Nghĩ như thế quả cũng có lý! Nhưng theo thiển ý tôi, người viết bài này, nghĩ ngược lại có thể có lý hơn. Nghĩa là: không phải vì Ngài có khả năng làm phép lạ nên Ngài tỏ tình yêu thương một cách dễ dàng; mà ngược lại, chính vì Ngài yêu thương hết mình, và cũng hết mình muốn ra tay cứu giúp người khác, nên Ngài mới làm được những phép lạ như thế. Cách nghĩ sau có vẻ hợp với Kinh Thánh hơn.
Đức Giêsu, Thiên Chúa Nhập Thể, có những giới hạn của Ngài
Rất nhiều người nghĩ: Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, mà đã là Thiên Chúa thì ắt Ngài phải biết hết, làm được hết, có đầy đủ mọi nhân đức, ở trong tình trạng hoàn hảo, chẳng cần tập tành khổ luyện gì hết. Nghĩ như thế không phải là không có lý. Nhưng rất có thể họ quên rằng Đức Giêsu là một “Thiên Chúa Nhập Thể”, nghĩa là một “Thiên-Chúa-làm-người”. Khi nhập thể thì Thiên Chúa vô hạn và tuyệt đối đã mặc lấy thân phận hữu hạn và tương đối của con người (x. Pl 2,6-9). Chẳng hạn, là Thiên Chúa vô hạn, Ngài có thể hiện diện cùng một lúc ở khắp nơi, nhưng cũng chính Thiên Chúa ấy, khi nhập thể, mặc lấy thân phận hữu hạn của con người, thì Ngài không thể ở khắp nơi cùng một lúc như thế. Thiên Chúa và Đức Giêsu chỉ là một Thiên Chúa duy nhất, nhưng Thiên Chúa ấy đã mặc lấy hai cách hiện hữu khác nhau: một đằng là thần linh, vô hạn, bất biến, tuyệt đối; một đằng là con người, hữu hạn, vô thường và tương đối... Nếu không như thế thì đâu còn là nhập thể nữa!
Kinh Thánh nói về Đức Giêsu
Thánh Phao-lô đã nói về sự giới hạn và yếu đuối của Đức Giêsu như sau: Ngài “mang thân phận yếu hèn” (2Cr 13,4; x. 1Tm 3,16); “Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện” (Dt 2,17); “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). Thiên Chúa đã “sai chính Con mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền tội chúng ta” (Rm 8,3b). Ngài phải chịu ma quỉ cám dỗ (x. Mt 4,1-11) và chắc chắn cũng phải chiến đấu để thắng nó. Trong việc Ngài cảm thấy sợ hãi đến đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến cuộc tử nạn sắp tới, ta thấy ngay thân phận yếu hèn của một con người ở nơi Ngài, và thấy Ngài cũng phải chiến đấu rất cam go mới thắng vượt được bản thân yếu đuối mà vâng theo thánh ý Chúa Cha (x. Lc 22,41-44).
Khi Ngài còn nhỏ, rất có thể Mẹ Maria cũng phải tập cho Ngài ăn, nói, đi đứng và dạy cho Ngài biết đọc, viết, tính toán như bao người mẹ khác tập cho con mình. Ngài cũng phải cố gắng vất vả khi phải học cho thuộc những bài học, khi làm những bài luyện tập... Ngài cũng phải học thánh Giu-se mới biết làm thợ mộc, và khi làm việc cũng cảm thấy mệt mỏi và vất vả. Những gì Ngài có được - như sự hiểu biết, các nhân đức, sự hoàn hảo - không phải sẵn có nơi Ngài do bản tính thần linh vô hạn của Ngài, mà theo thánh Phao-lô, Ngài cũng phải học, phải luyện tập với bao gian lao cực khổ không khác gì chúng ta: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8); “Thiên Chúa (...) đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2,10). Cũng thế, Ngài có được những giá trị cao quý ấy phần nào do quyết tâm thực hiện bằng ý chí yếu đuối của con người ở nơi Ngài.
Những phép lạ Ngài làm rất có thể là do tình thương cao độ của Ngài
Trong chiều hướng ấy, ta cũng có thể nghĩ rằng những phép lạ Ngài làm được để cứu giúp người khác một phần đến từ Thiên Chúa, nhưng một phần khác là do tình yêu cao độ và sự dấn thân hết mình của Ngài cho tha nhân. Điều này phù hợp với kinh nghiệm bình thường của con người: chẳng hạn biết bao người mẹ bất tài mà chỉ vì tình thương bao la đối với con mà làm được những chuyện phi thường; những người có tình thương bao la rộng rãi thường phát triển khả năng nhiều hơn những người khác.
3. Đừng sợ mình không có khả năng, hãy sợ mình không đủ tình thương
Vậy thấy Đức Giêsu cứu giúp biết bao người, chúng ta đừng vội cho rằng: nếu tôi có tài năng như Ngài, tôi cũng sẽ cứu giúp được nhiều người như Ngài. Nghĩ như thế hóa ra Ngài chẳng hơn gì chúng ta! hóa ra nếu có ai cứu giúp ai thì do người cứu giúp ấy có khả năng cứu giúp mà thôi! Nghĩ như thế, đời sống tâm linh và tình thương của chúng ta không bao giờ phát triển được! Muốn làm được những việc như Đức Giêsu, thiết tưởng điều quan trọng nhất là chúng ta phải có tình thương thật sự và cao độ như Ngài. Khi đã có tình thương rộng lớn, bao trùm, tình thương ấy sẽ thúc đẩy chúng ta hành động, thúc đẩy chúng ta luyện tập để có nhiều khả năng cứu giúp người khác. Tại sao ta có thể làm được biết bao chuyện cho cha mẹ, vợ con, anh em ta, mà lại không thể làm như vậy cho người khác? Chính vì ta có rất nhiều tình thương đối với người thân, nhưng lại không đủ tình thương đối với người khác. Vậy, đừng sợ mình không có khả năng cứu giúp người khác, hãy sợ rằng mình không có đủ tình thương đối với họ.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, con cảm thấy con chưa hữu ích lắm cho tha nhân chung quanh con không phải vì con không có tài năng cho bằng vì con chưa đủ tình thương đối với họ. Biết bao người ít tài năng hơn con, nhưng họ lại hữu ích cho tha nhân hơn con, chính vì họ đã yêu thương nhiều hơn con. Vì tình yêu có khả năng khiến người ta làm được tất cả. Điều con thiếu hơn cả chính là tình yêu, xin Cha hãy ban cho con.
67. Đến đem sự giải thoát
Một trong những sứ mạng quan trọng của Chúa Giêsu khi đến trần gian này là loan báo Tin mừng cho con người. Người không loan báo bằng lời nói suông nhưng bằng những việc làm đem lại sự giải thoát cho con người. Người giải thoát con người khỏi những bệnh hoạn tật nguyền phần xác. Hơn thế nữa, Người đem đến cho con người sự giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết.
Trong quá trình đi rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu không dừng lại ở bất cứ nơi nào. Vì Người luôn muốn cho tất cả mọi người đều được hưởng nhờ sự giải thoát ấy. Cho nên, sau khi đã đem sự giải thoát ấy cho những người ở thành Capharnaum mặc dù được các Tông đồ báo: "Mọi người đang tìm Thầy đấy" (Mc 1, 37) Chúa Giêsu đã trả lời với họ: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó" (Mc 1, 38)
Đoạn Tin mừng tuần trước chúng ta thấy dân chúng đã quá đỗi kinh ngạc về những lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Bởi lẽ, Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư (Mc 1, 22).Thẩm quyền của Chúa Giêsu không phải để cai trị hay để đàn áp con người nhưng hoàn toàn để phục vụ và hiến mạng sống vì và cho con người.
Cảm nhận được điều ấy nên Thánh Phaolô trong thư thứ hai gởi tín hữu Côrintô đã viết: "Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (2Cr 1, 16). Sau khi trở lại thánh nhân đã thấy rằng chính Chúa Giêsu đã giải thoát ông khỏi những điều không đúng. Do đó, suốt cả đời còn lại thánh nhân không ngại khó miễn sao cho Tin mừng của Chúa Giêsu được càng nhiều người biết đến càng tốt.
Mỗi người chúng ta không nhiều thì ít cũng đã và đang được đón nhận sự giải thoát cao quý của Chúa Giêsu. Ước gì qua cách sống đạo của chúng ta mỗi ngày được tiến bộ hơn. Sự tiến bộ nhờ biết gắn bó nhiều với Chúa Giêsu qua việc trung thành tham dự Thánh lễ Chúa nhật và các giờ Kinh sáng tối. Được như vậy là chúng ta đang cùng với Chúa Giêsu loan báo Tin mừng cho nhiều anh chị em xung quanh.
68. Đổi mới bản thân
Một triết gia bên Ấn độ, ngồi kiểm điểm lại cuộc đời, đã ghi lại như sau:
Thoạt tiên ở tuổi thanh xuân đầy nhiệt huyết, tôi đã sốt sắng kêu xin thượng đế cho tôi có đủ nghị lực và cơ hội để thay đổi cả thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi bỗng nhận ra nửa đời trôi qua, mà chẳng thay đổi được một ai, tôi liền điều chỉnh lời cầu của tôi với thượng đế.
Khi ấy tôi chỉ xin Ngài cho tôi đủ khả năng hoán cải những người tôi gặp thường ngày, khởi đi từ những người thân yêu trong gia đình cũng như những người bạn tôi hằng tiếp xúc.
Thế rồi đến nay, tôi thấy mình đầu tóc bạc phơ và mộng đẹp không còn nữa. Tôi chỉ xin với thượng đế:
- Lạy Chúa, ít nữa xin ban cho con ơn biến đổi chính mình con.
Tiếc rằng tôi đã không xin với thượng đế điều đó ngay từ tuổi thanh xuân, khiến tôi bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội để đạt được sự hoàn thiện nơi chính bản thân mình.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta nhận thấy: Chúa Giêsu là một nhân vật hết sức đặc biệt.
Trước hết trong phong cách giảng dạy.
Phúc âm đã ghi lại Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, chính vì thế mà Ngài đã lôi cuốn hấp dẫn được đông đảo quần chúng đến nghe Ngài.
Tiếp đến là những phép lạ Ngài làm.
Đoạn Phúc âm hôm nay cho hay: Bà mẹ vợ Phêrô đang sốt nặng, thế mà Ngài chỉ cần động tới là bà liền được khỏi, trỗi dậy tiếp đãi Ngài. Hơn thế nữa,Ngài còn chữa lành mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền, cũng như xua trừ ma quỉ.
Tất cả những phép lạ đều nói lên rằng: nơi Ngài có một uy quyền tuyệt đối và uy quyền tuyệt đối này thuộc về Thiên Chúa. Hay nói cách khác: Ngài chính là Thiên Chúa quyền năng.
Thế nhưng, nếu suy nghĩ một chút, chúng ta còn nhận thấy: Ngài không phải chỉ là một vị Thiên Chúa quyền năng mà còn là một người như chúng ta, một người như mọi người.
Trước hết, Ngài cũng đã gặp phải những cám dỗ, những thử thách.
Chẳng hạn tại hoang địa, sau khi đã ăn chay 40 đêm ngày, ma quỉ đã cám dỗ Ngài biến những hòn đá trở nên bánh để ăn, rồi Ngài còn bị cám dỗ thử thách Thiên Chúa, cũng như chiếm hữu những vinh quang phù phiếm. Thế nhưng Ngài đã chiến thắng tất cả để làm gương cho chúng ta.
Tiếp đến, Ngài còn là một người khiêm nhường.
Chính Ngài, mặc dù không hề vướng mắc một chút bùn nhơ tội lỗi nào cả, nhưng Ngài cũng đã đến để xin Gioan làm phép rửa để biểu lộ tâm tình sám hối.
Nhưng quan trọng hơn cả, Ngài còn có một trái tim biết rung động, một tấm lòng nhân hậu bao dung.
Chính vì thế, Ngài đã thực hiện những phép lạ để xoa dịu những đớn đau của những người mà Ngài có dịp tiếp xúc với. Cũng như đã mở rộng vòng tay đón nhận và tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Hãy cố gắng sửa đổi bản thân, để nhờ đó chúng ta trở thành những chứng nhân sống động cho tin mừng, đồng thời nhờ đó, lôi cuốn người khác trở về cùng Chúa.
69. Yêu bệnh nhân
Trong một giai thoại về Đức Thích Ca, người ta kể lại rằng: một hôm, ngài rơi vào tay một tên cướp khét tiếng. Sau khi hành hung ngài, tên cướp dọa sẽ giết ngài. Trước khi chết, ngài xin tên cướp một ân huệ. Hắn đồng ý. Ngài bảo hắn: “Ngươi hãy chém đứt một cành cây”. Thoáng một cái, tên cướp vung kiếm chém đứt một cành cây. Đức Thích Ca liền nói: “Nào, ngươi hãy tháp cành cây cho liền vào thân cây”. Tên cướp nói: “Ngươi quả là tên khùng nên mới nghĩ rằng ta có thể làm được điều đó”. Đức Thích Ca liền dạy cho tên cướp một bài học: “Ngươi mới là tên khùng khi ngươi nghĩ rằng sức mạnh của con người là gây thương tích và phá hủy. Người có sức mạnh thật sự là người chỉ biết sáng tạo và chữa lành”.
Lời nói trên đây của Đức Thích Ca quả thực đã ứng dụng cho chính Chúa Giêsu. Ngài đến trần gian để phục hồi lại những gì đã hư mất. Các sách Tin Mừng đã ghi lại rất nhiều phép lạ của Ngài. Thường thấy hơn cả là những phép lạ chữa lành bệnh tật. Chẳng hạn như bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng những phép lạ chữa lành bệnh tật Ngài thực hiện không chỉ nhằm chữa trị những đau thương nơi thân xác con người mà còn nói lên một thực tại cao siêu hơn. Đó là bày tỏ tình yêu thương của Thiên Chúa và mời gọi con người đón nhận và trao ban tình yêu thương ấy.
Quả thực, tất cả đều do lòng nhân từ thương yêu của Chúa. Chúa làm phép lạ không phải để tạo cho mình một uy thế trong xã hội, cũng không hẳn là để tỏ uy quyền Thiên Chúa của Ngài, nhưng là để chứng tỏ tình yêu thương của Ngài. Nói rõ hơn, với tư cách là Đấng Cứu Thế, Chúa đến trần gian để giải thoát con người khỏi mọi khốn khổ phần hồn cũng như phần xác. Vì thế, Chúa cảm thông với những đau yếu tật bệnh của con người. Thấy họ, Chúa không xa tránh nhưng đến gần họ và chữa cho họ.
Hơn nữa, Chúa Giêsu không chỉ chữa lành bệnh tật, Ngài còn chữa trị tâm hồn con người. Ngài muốn biến tâm hồn ích kỷ của con người thành tâm hồn quảng đại biết yêu thương. Đó là ý nghĩa sâu xa của những phép lạ Chúa Giêsu làm. Trong suốt thời gian Chúa rao giảng, các bệnh nhân và những kẻ tật nguyền luôn thu hút được sự chú ý và tình thương của Ngài. Khi làm những phép lạ để chữa lành họ, Chúa luôn có những cử chỉ, những lời nói an ủi, khuyến khích để gợi lên hay củng cố niềm tin của họ. Bài học “Hãy trao tặng những người bệnh tật và những kẻ xấu số những cử chỉ và những lời nói yêu thương chân tình” chúng ta có thể học nơi Chúa Giêsu.
Tại một trung tâm y tế ở miền nam tiểu bang Ca-rô-lai-na, Hoa Kỳ, hình ảnh đầu tiên mà các bệnh nhân có thể thấy được trong ngày, đó là nụ cười của cụ bà Phờ-lo-ren Hớt (Florence Hert). Từ 6 giờ sáng, cụ đến bệnh viện thăm hỏi các bệnh nhân và an ủi thân nhân của họ. Ngày nào cũng thế trong suốt nhiều năm trời. Cụ thường nói với các bệnh nhân: “Năm nay tôi đã 90 tuổi, nếu tôi còn có thể đến đây mỗi ngày với nụ cười trên môi, thì các bạn cũng thế, các bạn cũng có thể cười như tôi. Nào, các bạn hãy thử đi”.
Một trong những cách thế hữu hiệu nhất để xoa dịu nỗi đau khổ của chính mình, đó là ra khỏi chính mình để tìm cách làm cho người khác bớt đau khổ. Đau khổ được chữa trị bằng sự chấp nhận đã đành, nhưng còn được xoa dịu bởi những nghĩa cử mà chúng ta làm cho người khác. Cụ bà trong câu truyện trên, hẳn không phải là một người không đau khổ. Tuổi già, bệnh tật, cô đơn, đau khổ… có ai thoát khỏi phần số đâu. Thế nhưng với nụ cười luôn nở trên môi, với đôi chân dù phải bước đi khập khiễng, với tấm lòng chia sẻ chân thành… cụ đã biến ra khỏi chính mình để đến với tha nhân…
Ra khỏi chính mình, đó là bước đầu tiên giúp chúng ta thắng vượt được nỗi khổ đau riêng tư của mình. Có ai trong chúng ta thoát khỏi những dằn vặt, bất an của khổ đau? Mỗi người là một nỗi khổ. Mỗi ngày qua đi là một cơn đau. Ai trong chúng ta cũng có một thập giá để vác. Sức nặng của thập giá ấy sẽ vơi đi, sẽ nhẹ bớt đi, nếu chúng ta biết ra khỏi chính mình để đến với tha nhân, xoa dịu nỗi khổ đau của họ. Một cụ già 90 tuổi, chân đi khập khiễng, vẫn có thể ngày ngày mang nụ cười và niềm an ủi lại cho người khác. Anh chị em và tôi, chúng ta có thể hé mở, dù chỉ một nụ cười hay không?
Thế giới của chúng ta, xã hội của chúng ta, có lẽ đang cần đến những cái mỉm cười ấy hơn bất cứ một cuộc truyện trò tào lao nào. Sự giúp đỡ nhân đạo có thể sẽ không bao giờ đến với những người đang cần đến, hoặc nếu có đến cũng chỉ đến như một quà tặng vô danh. Điều thiết thực nhất đang ở trong tầm tay mỗi người chúng ta, và mọi người đều chờ đợi, có lẽ chỉ là một nụ cười, một lời an ủi, một mẩu bánh nhỏ… nhưng được trao ban với tất cả lòng yêu mến. Đó là những điều tất cả chúng ta ai cũng có thể làm được.
Giữa biết bao nhiêu con người đau khổ, xin cho sự hiện diện của người Kitô trở thành dấu chỉ của tình thương Thiên Chúa đối với con người. Xin cho mỗi người Kitô trở thành bàn tay đưa ra nối kết con người với tình thương Thiên Chúa.
70. Chúa Giêsu chữa lành các bệnh tật
"Kiên nhẫn như ông Gióp" là câu nói đầu lưỡi của thế giới công giáo, phổ thông nhất là ở ngôn ngữ các nước tây Âu. Nó ngụ ý tán thưởng những ai kiên cường chịu đựng nghịch cảnh lâu dài. Nhưng chắc chắn bài đọc một hôm nay không chứng minh được điều đó. Ngược lại, bài đọc cho thấy trong đau khổ, ông cũng phẫn uất như ai: "Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?" Hoá ra ông Gióp chẳng kiên nhẫn chút nào! Cứ như sự khôn ngoan bình dân thời đó thì khổ đau là hình phạt của những điều dữ người ta đã phạm. Nhưng xét trong lương tâm, ông có làm gì xấu đâu? Vậy tại sao ông phải gánh chịu số phận long đong thế này: Con cái chết hết, của cải tiêu tan, mình đầy ghẻ chốc, bạn bè xa lánh, cả đến người vợ thân yêu cũng không tiếc lời khiển trách: "Ông còn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi" (G 2,9). Ông Gióp đã không hiền lành chấp nhận số phận. Ông phản kháng và lý lẽ của ông có phần thuyết phục. Lời cầu khẩn đó xem ra khuyến khích những ai đang chịu đựng cuộc đời gian truân, túng quẫn được phép ta thán trước Thiên Chúa.
"Kiên nhẫn như ông Gióp" xem ra không còn mấy ý nghĩa. Vô số người dám gán cho Thượng đế là nguyên nhân gây nên những bất hạnh của mình, bởi mặc dầu đã cố gắng hết sức ăn ngay ở lành, đáng được Thiên Chúa thương gởi tới điều may mắn. Thì thực tế không phải vậy, toàn gian truân, khổ dịch. Lại có những người khác không dám mở miệng kêu ca, mà giữ im lặng khó hiểu với tâm can uất ức. Lâu dần họ trở nên lạnh lùng, thù địch cùng Thiên Chúa. Trong thánh kinh Cựu ước chúng ta cũng thấy vô số lời phàn nàn trước tôn nhan Thiên Chúa, nhất là trong các Thánh vịnh: "Ngày con kêu cứu không lời đáp ứng, đêm van nài mà cũng chẳng được yên" (Tv 22,3). Suy nghĩ kỹ, những lời than vãn như trên không phải để trách móc Thượng đế mà để bày tỏ cảm xúc chân thực của lòng mình. Chúng có khả năng làm tan biến thái độ đạo đức giả hình, dồn ép, sơ cứng. Càng trung thực bao nhiêu thì càng đạo đức bấy nhiêu. Chúng ta có quyền giải bày lòng mình trước Thượng đế, Đấng có thể thay đổi sự việc, bằng không, chúng ta là những kẻ thụ động nhu nhược.
Trong quá trình sống, nhiều lúc tình hình xem ra vượt khỏi tầm kiểm soát, có bàn tay nào đó điều khiển cuộc đời chứ không phải đương sự. Chúng ta tự hỏi: "Ai chịu trách nhiệm ở đây?" những khổ dịch, những sự dữ chúng ta kinh nghiệm chắc chắn không phải do bàn tay Thiên Chúa yêu thương. Ông Gióp cũng cảm nhận như vậy khi nói: "Chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?" Thuê mướn là công việc của người khác, làm sao chúng ta có quyền kiểm soát? Ngày của một người nô lệ là khổ dịch dưới sức nóng ghê gớm của ánh nắng mặt trời. Người nô lệ luôn khát khao bóng mát. Ấy cũng là tâm trạng của ông Gióp, của mỗi người chúng ta. Nhưng vấn đề là điều chi đã sui khiến nên như vậy? Ông Gióp đã phạm lỗi gì? Còn tội của mỗi người chúng ta thì đã rõ. Vì vậy những lời ta thán của tác giả sách Gióp cho độc giả biết tính mỏng dòn của thân phận con người. Chúng ta cảm thấy như đi trên mặt hồ đóng lớp băng mỏng, có thể chìm xuống nước lạnh bất cứ lúc nào! Trước tình thế như vậy, dù có sống tốt thì cũng không thể tránh khỏi hoạn nạn. Và khi nghe đọc bài sách thánh chúng ta có khuynh hướng bịt tai, la lớn như đứa trẻ khi nghe cha mẹ doạ nạt, hoặc nói về những điều chúng không ưa thích. Dĩ nhiên bây giờ chúng ta đã lớn, ý thức được những hành động mình làm. Nhưng chúng ta lại có những thái độ để khỏi phải nghe điều mình không ưa, như thay đổi đề tài, nói lảng sang chuyện khác. Chúng ta né tránh những điều mình không muốn nghe: bệnh tật, tuổi già, ly dị và các hậu quả tai hại v.v... chỉ thích nghe những điều lạc quan, như tuổi trẻ, sắc đẹp, thể thao, kỹ thuật mới v.v... Cho nên lời của ông Gióp trong Phụng vụ hôm nay khó mà lọt thủng tai. Dầu sao một ngày nào đó trong tương lai, mỗi người đều phải thốt lên: "Gia tài của tôi là những ngày tháng khốn cùng, số phận của tôi là những đêm khắc khoải ê chề."
Tôi đã cố gắng tìm ra khía cạnh lạc quan, ơn thánh trong đoạn văn này - nó kết thúc quá ư buồn thảm: "Tôi sẽ chẳng được trông thấy hạnh phúc nữa đâu!"- Khi trước ông Gióp đã là người giầu có, phát tài, của cải nhiều vô kể mà nay rơi vào cảnh khốn cùng, thì lời yếm thế của ông thức tỉnh tinh thần tôi, không thể cậy nhờ vào vật chất chóng qua mà phải trông mong vào một mình bàn tay Thiên Chúa mà thôi. Tôi phải rút ra từ cuộc đời ông Gióp một bài học quí giá, không chi so sánh nổi. Đó là vững tin vào lượng hải hà của Thiên Chúa. Ngài chẳng bao giờ nỡ bỏ quên chúng ta để chúng ta thất vọng trong vòng kiểm toả của tử thần. Trong lúc khốn cùng ông Gióp đã cố gắng khơi dậy niềm tin. Ông kêu lên: "Lạy Đức Chúa, xin nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở..." Ông không phải là nguồn gốc sự sống của mình, ông hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, Đấng đã dựng lên ông, ông như thể muốn nói với Thượng đế: "Lạy Ngài xin nhớ lại, Ngài đã dựng nên con bằng gì! Con hoàn toàn mỏng dòn, chỉ là hơi thở, một cơn gió thoảng cũng có khả năng làm nó tiêu tan. Xin nhớ lại con chẳng là chi cả, là hư vô, con hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài để được sống, được tồn tại!" Ông Gióp muốn gợi lại tương quan giữa Đấng tạo hoá và tạo vật. Hơi thở trong nguyên bản là "ruah". Nó có hai nghĩa, vừa là gió thổi, vừa là thần lực phát xuất từ Thiên Chúa thâm nhập vào các tạo vật để ban cho chúng sự sống. Cuộc sống con người đúng thực mỏng manh như gió thổi, như mây nổi, như chiêm bao, như bóng ngựa qua cửa sổ, nhất là trước những khổ đau và hoạn nạn. Nhưng cuộc sống con người cũng đến từ hơi thở của Thiên Chúa tức là từ nguồn mạch bền vững và đời đời. Thiên Chúa không thể nào bỏ quên hơi thở của mình. Do đó ông Gióp hy vọng vào sự cứu giúp của Thượng đế. Hy vọng của ông Gióp cũng là hy vọng của mỗi linh hồn tín hữu chúng ta.
Tin mừng hôm nay có cả thảy bốn nội dung. Hợp với Phúc âm tuần vừa rồi, chúng làm nên "một ngày hoạt động của Đức Giêsu". Có rất nhiều điều xảy ra trong ngày đó. Chúa Giêsu rất bận rộn, Ngài hoạt động liên tục. Thiên Chúa cũng rất bận rộn, tất bật. Đó là ngày thứ bảy- ngày nghỉ của con cháu loài người, và xúc vật. Nhưng Thiên Chúa lại liên tục thi ân, giáng phúc trên những tạo vật của Ngài. Sự việc xảy ra ở thành phố cảng Capharnaum (người ta gọi là thành phố của Chúa Giêsu), không phải ở Giêrusalem. Thời ấy Giêrusalem là nơi duy nhất có hy lễ hiến tế. Tín hữu bình thường hoạ hiếm mới được đến đấy. Thường thì họ đi thờ phượng ở các hội đường trong làng mạc hay thành thị. Họ đến để cầu nguyện và nghe giáo huấn.
Chúa Giêsu rời hội đường Capharnaum, nơi Ngài đuổi quỉ ô uế, chữa lành một người điên khùng và bước vào nhà hai anh em Anrê và Phêrô. Lập tức người ta nói cho Ngài hay về bệnh tình của bà mẹ vợ ông Simon Phêrô. Ngài tiến lại chỗ bà nằm "cầm lấy tay bà và đỡ dậy. Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài." Nghe như một câu chuyện bình thường, nhưng thực ra thánh Marcô đã dùng ngôn ngữ Tân ước để mô tả câu truyện khỏi bệnh. Chúa Giêsu nâng bà dậy. Đó là từ ngữ để diễn tả Chúa làm cho kẻ chết sống lại. Người được chữa lành có sức sống mới. Sự sống của kẻ Phục sinh. Chỉ một mình Chúa Giêsu có quyền ban cho, ngoài ra không ai làm được việc đó cả.
Sự sống mới đó thế nào? Kinh Thánh nói khi bà mẹ vợ ông Phêrô được chữa khỏi, bà liền đi phục vụ các ngài. Phục vụ trong gia đình là bổn phận của nữ giới. Nhưng thánh Marcô lại dùng từ "diakoneo" từ này chỉ công việc phục vụ trong Hội thánh. Tiếng Anh gọi là "deacon". Tiếng Việt nam mình gọi là phó tế. Rõ ràng ám chỉ phục vụ cộng đoàn. Khi người ta kinh nghiệm được Chúa Giêsu ban ơn phục sinh, họ lập tức bị thúc đầy phục vụ Giáo hội, phục vụ các linh hồn. Họ muốn chia sẻ những ơn đã lãnh nhận với người khác. Không muốn phục vụ hội thánh là dấu chỉ chắc chắn chưa nhận được ơn phục sinh của Chúa Giêsu. Một tư tưởng đáng sợ cho mọi tín hữu. Ngược lại những linh hồn hồ hởi làm việc tông đồ là những người đã được lãnh nhận ơn Chúa sống lại. Theo kinh nghiệm thì những tín hữu hăng say việc tông đồ thường nói rằng: Họ được lợi rất nhiều khi hết mình phục vụ Hội thánh. Không ca thán, không đòi hỏi. Họ đã được sung mãn trong cộng việc của mình. Họ còn cho biết rằng khi làm công việc ấy hình như Chúa Giêsu đang cầm lấy tay họ nâng đỡ dậy.
Tóm lại, chẳng có câu trả lời dễ dãi cho vấn đề người vô tội phải chịu đau khổ, kiểu như ông Gióp. Thực ra đau khổ là một mầu nhiệm, vượt quá sức hiểu biết của chúng ta. Nhưng ông Gióp chỉ là câu chuyện tưởng tượng, tác giả đặt ra để thử giải quyết vấn đề. Quyền năng của Chúa Giêsu chữa lành các đau khổ bệnh tật của nhân loại là điều có thực. Không ai chối cãi được. Chúa Giêsu, Đấng vô tội đã tự nguyện gánh tội loài người để giải phóng chúng ta, cho chúng ta đựơc tự do. Đó cũng vẫn là điều nhiệm mầu không thể hiểu thấu. Chúng ta cử hành và dấn thân vào mầu nhiệm đó. Điều mà Chúa làm cho bà mẹ vợ ông Phêrô ngày xưa, Ngài cũng còn thực hiện cho chúng ta hôm nay. Xin ý thức rõ ràng về điều này. Ngài giơ tay nâng chúng ta dậy khỏi tội lỗi, đau khổ và sự chết, ban cho chúng ta sức sống phục sinh để chúng ta trông thấy các nhu cầu của anh chị em đồng loại và đáp ứng những nhu cầu đó trong nghị lực và niềm vui. Amen.
71. Kiếp sau xin chớ làm người
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
“LAO NHỌC LÀ CUỘC SỐNG CỦA CON NGƯỜI”
Khi gặp những khổ đau, vất vả, bội bạc… trong cuộc sống, cha ông chúng ta có câu:
“Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm con chim nhạn tung trời mà bay…”
Hoặc: “Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo…”
Khi gặp những khổ đau chồng chất, Ông Gióp cũng phải kêu lên: “Lao nhọc là kiếp sống của con người!” Đó là tư tưởng chúng ta đọc thấy trong Bài Đọc I, Chúa Nhật này (Giop 7, 1-4, 6-7). Trong Bài Phúc Âm (Mc. 1,29-39), Thánh Matcô ghi lại việc Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân, và họ kéo đến thật đông đảo để xin được chữa lành. Còn trong Bài Đọc II (1Cr. 9, 16-19, 22-23), Thánh Phaolô nói đến bổn phận rao giảng Phúc Âm Ngài đã lãnh nhận mà Ngài đã chu toàn, và để công cuộc rao giảng được kết quả, “Ngài đã trở nên yếu đuối với người yếu đuối… trở nên mọi sự cho mọi người.”
Cuộc sống của mỗi người đều phải trải qua những lúc khổ đau, bệnh hoạn; đó là kiếp người qua những giai đoạn “sinh, lão, bịnh, tử.” Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng chấp nhận kiếp sống như vậy để trở nên ‘giống con người chúng ta mọi đàng, chỉ trừ tội lỗi…” Mặc dầu công việc chính của Ngài trong thời gian sống công khai là rao giảng Tin Mừng cứu độ, nhưng Ngài cũng không quên chú ý an ủi và nâng đỡ những con người đau khổ, bịnh hoạn kéo đến với Ngài.
Noi gương Chúa Giêsu, ở mọi thời đại, Giáo Hội cũng luôn làm những gì có thể để giúp đỡ những con người nghèo khó, bệnh tật trên khắp thế giới. Đó là nhờ sự dấn thân hy sinh của các linh mục, tu sĩ và giáo dân. Ngoài việc lập các trường học, các xưởng dạy nghề để mở mang văn hóa và huấn nghệ, Giáo Hội cũng mở các trại phong cùi, các nhà thương, viện tế bần, viện dưỡng lão v.v… ở các vùng hẻo lánh bên Phi Châu, Á Châu, Nam Mỹ và ngay tại Việt Nam chúng ta trước đây, dù hiện nay thì gặp nhiều khó khăn và hạn chế hơn.
Chúng ta đã đọc nhiều sách, nghe nhiều bài chia sẻ về ý nghĩa của sự đau khổ. Chính Chúa Giêsu khi xuống thế làm người, ở giữa chúng ta, Ngài cũng dạy chúng ta giá trị của sự đau khổ trong công cuộc cứu chuộc nhân loại. Ngài đã chấp nhận mọi khổ đau trong cuộc sống, chịu đóng đinh, và chịu chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta, trước khi sống lại, lên trời vinh hiển. Hiểu được giá trị của đau khổ là để thanh luyện và đem lại ơn cứu rỗi, chúng ta sẽ không chán nản, bi quan, uất ức khi gặp đau khổ, bội bạc; trái lại, chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô: “Nhờ ơn Chúa toàn năng nâng đỡ, chúng tôi có thể vui mừng chấp nhận bất cứ điều gì xảy ra cho cuộc đời chúng tôi.” (Cl 1, 11). Khi các Thánh Tông Đồ bị bắt, bị sỉ nhục và đánh đòn, các Ngài ra về và “lòng rất vui mừng vì đã được coi là xứng đáng chịu xỉ nhục vì danh Chúa Giêsu (Cv. 5,40). Thánh Phêrô cũng căn dặn chúng ta “được chịu đựng mọi đau khổ vì Chúa Kitô, anh chị em hãy vui mừng...” (1Pr 4, 13). Ông Gióp cũng là một gương mẫu để cho mọi người hiểu được ý nghĩa của sự đau khổ và lòng can đảm của những người tin kính Chúa khi chịu đựng đau khổ.
Rồi mọi sự cũng qua đi mau chóng. Mọi khổ đau cũng tiêu tan. Rồi cuộc đời của mỗi người cũng qua đi.
Những người biết noi gương Chúa chấp nhận những biến cố đau thương của cuộc đời mới có thể “bỏ mình đi, vác Thánh Giá hàng ngày theo chân Chúa” (Mt. 16,24…) đi đến ngày sống lại và về trời vinh hiển. “Qua Thánh Giá mới có thể đến Ánh Sáng!”
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu nguyện cho những người đang phải chịu nhiều đau khổ ở khắp nơi trên thế giới: đau khổ tinh thần, đau khổ thể xác, đau khổ vì chiến tranh, vì thiên tai, vì già yếu, bệnh hoạn. Cũng xin Chúa cho chúng ta luôn biết nhìn lên Thánh Giá, suy gẫm cuộc tử nạn của Chúa, để chính chúng ta cũng biết chấp nhận mọi đau khổ hàng ngày, trong khi vẫn cố gắng để nâng đỡ những con người đau khổ chung quanh chúng ta.
72. Con đã viếng thăm Ta - Athur Tonne
Vị linh mục dừng lại nghé thăm một gia đình nghèo ở vùng núi Kentucky. Vừa khi linh mục chào bà mẹ. Bà ứa nước mắt kêu lên: "Ôi thưa cha, con vừa được biết cha đến thăm hôm nay. Con tin cha có thể giúp con." Bà dốc bầu tâm sự; bao lo âu, bao rắc rối. thỉnh thoảng vị linh mục chêm vào một vài lời khích lệ; nhưng ngài cảm thấy hoàn toàn bất lực trước khổ tâm của bà. Kể xong, bà ngừng một lát rồi kêu lên: "Ôi thưa cha, cha giúp con nhiều quá. Cha đã giải quyết cho con mọi vấn đề". Vị linh mục bối rối, ngài chẳng giải quyết vấn đề nào cả. Rồi ngài bắt đầu hiểu ra: Bà chỉ cần và mong được thông cảm.
Bài Tin Mừng hôm nay kể rằng; Chúa Giêsu chữa nhiều bệnh nhân, những chứng bệnh khác nhau. Người làm được vì Người là Thiên Chúa. Làm sao chúng ta có thể làm đuợc như Chúa? Chúng ta không thể làm phép lạ, không thể chữa bệnh đụng tới bệnh nhân, bằng lời nói hay bằng cử chỉ. Tuy nhiên, chúng ta có thể dự phần vào việc chữa bệnh của Đức Kitô.
Chúng ta có thể thăm người bệnh, như vị linh mục trong câu chuyện, chúng ta cảm thấy bất lực, đến ngớ ngẩn trước sự đau đớn, khổ tâm, thiếu thốn mà chúng ta không thể làm thuyên giảm hay chữa bệnh.
Đức Giêsu hứa Thiên đàng cho những ai viếng thăm người bệnh. "Ta đau các con đã viếng thăm… Hãy đến. " Ngay Cựu ước cũng thúc dục chúng ta: "Đừng chậm trễ thăm người bệnh vì nhờ thế con được quí mến." Thăm viếng người bệnh một cách thân tình, vui vẻ tại nhà hay trong bệnh viện; có thể xoa dịu tinh thần, trợ lực thể xác. Chúng ta có thể làm gì cho người bệnh; lắng nghe khi họ cần biểu lộ tâm sự. Thông cảm khi lắng nghe là một nghệ thuật cần trau dồi, phát triển, một người đến thăm biết thông cảm khi họ đem nổi đau của nạn nhân vào lòng mình. Họ biết chia sẻ niềm đau xót dẫu rằng họ đã nghe câu chuyện cả ngàn lần.
Chúng ta có thể đem đến một tin vui một sự kiện xây dựng hoặc nụ cười, một câu chuyện trên Tivi hay báo chí. Cắt một bài vắn trong báo hay tạp chí và đọc cho bệnh nhân nghe. Nhưng nhớ, bạn phải chuẩn bị trước, bạn sẽ nói gì và nói làm sao.
Bông, trái cây, các loại đồ ăn cũng giúp bệnh nhân mạnh tinh thần. Khi chọn quà bạn cần dùng óc tưởng tượng cố gắng để món quà thích hợp với tư cách, khung cảnh, nghề nghiệp và sở thích của bệnh nhân. Món quà đơn giản, không xa xỉ lại thường là quí giá.
Bạn đừng nói suông: "Tôi sẽ cầu nguyện cho." Tốt hơn nên nói; "Tôi sẽ cầu nguyện cho anh (chị) trong Thánh lễ hôm nay… "Sáng mai tôi sẽ cầu nguyện cho anh (chị)". Đừng nói dài dòng. Hãy giữ giờ thăm, nội qui của bệnh nhân. Hãy tế nhị, hãy biết quan tâm lo lắng cùng Chúa Kitô trong giới hạn của bạn, nhưng đầy tình thương.
Xin Chúa chúc lành cho bạn.
73. "Người đến gần cầm tay nâng bà dậy".
(Suy niệm của Noel Quesson)
Bác sĩ Tissot người Thuỵ sĩ rất nổi tiếng. Ông theo đạo Tin Lành nhưng luôn tôn trọng nếp sống của người Công Giáo. Một hôm ông tới chữa bệnh cho một bà ngoại quốc, bà đang sốt nặng và tỏ ra hoảng hốt cáu kỉnh. Là người Công giáo, bà đòi gặp một linh mục trước rồi mới chịu để bác sĩ chích thuốc chữa bệnh. Sau khi được giải tội và xức dầu, bác sĩ Tissot thấy bệnh nhân bình tĩnh dịu dàng khác thường. Sáng hôm sau, bác sĩ Tissot trở lại, thấy bà giảm sốt và bắt đầu bình phục bác sĩ Tissot thường nói chân thành: "Nhiều bệnh nhân Công giáo đã lành bệnh nhờ bí tích xức dầu."
Tin Mừng hôm nay cho ta thấy Chúa đến giường bà mẹ vợ ông Simon đang sốt nặng, cầm tay đỡ bà dậy. Được khỏi ngay, bà chỗi dậy lo việc phục vụ Chúa và các môn đệ. Chúng ta có thể nghĩ tới Chúa Giêsu đã thực hiện bí tích xức dầu cho bà. Mọi bí tích đều do Chúa thiết lập và cử hành trước. Cử hành bí tích là làm lại cử chỉ của Chúa Giêsu. Kèm theo một lời của Chúa hay lời cầu nguyện của Giáo hội. Hai yếu tố ấy làm thành bí tích, đem lại ơn ích cho người lãnh nhận. Riêng bí tích xức dầu chủ yếu giúp người tín hữu trong cơn đau yếu, để họ trung thành với niềm tin không nao núng trong thử thách cả và thể xác lẫn tinh thần, vì xác hồn liên hệ mật thiết với nhau.
Khi thiết lập bí tích này, Chúa để ý tới những bệnh nhân, Chúa cảm thông nỗi đau buồn của họ. Chúa muốn chữa lành tâm hồn tội tình con người "bệnh" bằng bí tích Hoà giải, chữa lành và tăng sức con người đau yếu bằng bí tích xức dầu. Chỉ khi nào con người trải qua cái chết, đi vào vinh quang phục sinh, lúc đó mới hết những khuyết tật nơi thân xác và tinh thần. Chúa đã đến với những người đau khổ để nhắc cho họ nhớ chuyện đó.
Bà mẹ ông Simon được chữa lành bệnh. Bà chỗi dậy và phục vụ mọi người. Hậu quả của căn bệnh phần xác là nằm liệt, không làm việc được, không phục vụ được ai. Thế mà Chúa lại luôn đòi chúng ta phải phục vụ anh em, làm đầy tớ, hy sinh vì người khác. Để giúp chúng ta có lại khả năng phục vụ, Chúa đã ban cho ta bí tích Xức Dầu. Có những lúc thân xác ta không mang bệnh nạn, nhưng mất khả năng phục vụ, chính là lúc chúng ta thiếu tinh thần phục vụ, thiếu tinh thần bác ái, ta phải mau mắn chạy đến cầu xin Chúa chữa trị.
Tương đương với bệnh tật là những ám ảnh do tà thần được phép Chúa, thử thách lòng trung kiên của chúng ta với Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa xức dầu Thánh Thần cho chúng con, chữa lành tâm hồn và thân xác chúng con, cho chúng con luôn luôn có đủ khả năng và lòng nhiệt thành phục vụ anh chị em chúng con.
74. Nghỉ ngơi và yên tĩnh – Lm. Mark Link
Chủ đề: "Giữa những bận rộn của cuộc sống, Chúa Giêsu vẫn tìm thời gian nghỉ ngơi và cầu nguyện. Chúng ta cũng nên làm như thế"
Tạp chí Thế Giới Bên Ngoài (Outdoor World) có đăng một bài rất hay của Barry Lopez.
Vào một buổi sáng mưa phùn, Barry thức dậy một mình đi dạo trong rừng trước buổi điểm tâm. Vừa rảo bước giữa những dãy thông và bá hương. Barry vừa nhớ lại một buối sáng y hệt sáng hôm nay, khi còn là chú bé con, chàng đã được nhìn thấy ông nội một mình bước ra khỏi nhà đi dạo ngang qua chính những hàng cây này. Khi ông nội trở về chú bé Barry hỏi thăm nội đã đi đâu và đã làm gì. Ông nội mỉm cười, ôm choàng Barry rồi nói:
"Nào chúng ta hãy cùng đi dùng điểm tâm, cháu nhé!"
Tiếp tục bước đi dưới cơn mưa phùn, Barry gặp một quãng rừng trống. Chàng liền quỳ xuống và đặt đôi tay lên mặt đất ẩm ướt. Điều này gây cho chàng cảm giác rằng chàng đang hiệp nhất với toàn thể vũ trụ. Barry nhớ lại lời ông nội đã từng dạy bảo chàng: Khi nào cảm thấy cô đơn thì nên đi bách bộ vào rừng tìm yên tĩnh, đoạn làm bất cứ điều gì đang được thôi thúc trong lòng, chẳng hạn như quì gối xuống đặt tay lên mặt đất.
Nửa giờ sau, khi Barry trở về nhà, ông cảm thấy như được đổi mới, được hồi phục sức lực. Bấy giờ ông mới hiểu được lý do ông nội thường hay đi dạo trong rừng vào buổi sớm mai. Bà của Barry có lần nói cho ông hay đấy chính là cách thức ông nội cầu nguyện. Ông ấy luôn luôn đi sang tận mé rừng bên kia, đứng trên bờ biển, tay thọc vào túi, lắng nghe đại dương reo.
Bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy Đức Giêsu cũng thường một mình đi đến nơi vắng vẻ để cầu nguyện như vậy. Lý do khiến Đức Giêsu làm điều này cũng chính là lý do Barry thường làm điều ấy, là tự đổi mới chính mình, tự hồi phục lại năng lực cho chính mình.
Phúc Âm thánh Maccô thuật lại Đức Giêsu đã chữa bệnh cho dân chúng suốt ngày hôm trước khiến Ngài như kiệt lực về mặt tâm linh. Về sau trong Phúc Âm của mình, thánh Maccô giúp cho chúng ta có một cái nhìn về giá trị tâm linh mà Đức Giêsu phải trả để có thể chữa bệnh cho dân chúng. Một phụ nữ bệnh đã 12 năm xô lấn đám đông để chạm cho được Chúa Giêsu. Ngay khi đụng được vào Ngài, bà ta lập tức được chữa lành, tức thì, theo lời kể của thánh Maccô Chúa Giêsu biết được năng lực ấy đã xuất ra khỏi mình (Mc 5: 30)
Việc chữa lành bệnh đã làm cạn đi năng lực của Chúa Giêsu. Tương tự như thế, khi làm việc cho tha nhân, chúng ta cũng bị hao tổn sinh lực, thế nên chúng ta cần phải làm như Chúa Giêsu, tức là cần phải biết hồi phục sức lực cho mình về mặt tâm linh. Có thể chúng ta không thể làm được vịêc này bằng cách đi một mình vào rừng. Có thể chúng ta cũng thể kiếm được chỗ yên tĩnh để ở một mình ngay trong nhà chúng ta. Nhưng chúng ta vẫn có thể làm một điều gì đó; ít là thỉnh thoảng chúng ta dừng lại nghỉ ngơi khỏi dòng công việc để hồi tâm và lắng nghe tiếng Chúa trong tâm hồn chúng ta. Tôi xin chứng minh điều này quan trọng như thế nào.
Một con tàu của hải quân Anh bị tai nạn. Trong khi bị nạn, con tàu vang lên một tín hiệu được gọi là tín hiệu "Lặng Yên". Tín hiệu này có nghĩa là: "Hãy ngưng tất cả những gì bạn đang làm. Hãy nghỉ ngơi và xem xét lại tình hình của mình, và chuẩn bị làm những gì thật khôn ngoan".
Trước khi tín hiệu vang lên, ít có thuỷ thủ nào biết được điều nào là điều khôn ngoan để mà làm đây. Nhưng trong thời gian nghỉ ngơi, họ đã biết được điều gì cần làm. Tín hiệu "Lặng Yên" đã cứu được hàng ngàn mạng sống quân Anh và hàng triệu bảng Anh.
Trong đời sống thường nhật chúng ta thường bị rơi vào tình trạng khẩn cấp và chúng ta cũng chả biết làm gì ngay lúc đó. Thế rồi chúng ta la toáng lên; "chúng ta có thể làm gì đây?". Thực sự, điều tốt nhất chúng ta có thể làm là nghỉ ngơi và yên lặng. Sự nghỉ ngơi thường tạo nên điều kiện để ta thành công và tránh cho ta những thất bại.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm xem chúng ta có biết noi theo những gương Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta khi Ngài còn ở dương trần không? Chúng ta có biết thỉnh thoảng nghỉ ngơi để hồi tâm xét mình lại không? Thỉnh thoảng chúng ta có biết dừng lại để lắng nghe tiếng Chúa trong lòng chúng ta không?
Một hôm, nhạc sĩ André Kostelanetz đến thăm nghệ sĩ Pháp Henri Matisse. Khi Kostelanetz đến nhà Matisse, thần kinh ông bị suy nhược và ông gần như kiệt sức. Matisse nhận ra tình trạng sức khoẻ người bạn, ông vừa đùa vừa nói; "Này ông bạn, ông phải tìm ra những cây Áctisô cho đời sống của ông." Nói xong, ông ta nắm tay dẫn Kostelanetz ra khu vườn nhà ông. Khi cả hai đến gần một đám cây Áctisô, Matisse dừng lại. Ông nói với Kostelantz là mỗi buổi sáng sau khi làm việc một lúc ông thường đến với đám Astisô này để nghỉ ngơi yên tĩnh. Ông chỉ đứng đó ngắm nhìn đám Acstisô. Đoạn Matisse nói thêm: "Dầu tôi đã vẽ được trên 200 bức tranh tôi cũng vẫn luôn luôn nghiên cứu tổng hợp những màu sắc mới cũng như tìm những bức mẫu tân kỳ. Không ai được phép quấy rầy tôi khi tôi lặng yên đứng ngắm… điều này mang lại cho tôi nguồn hứng mới, một sự xả hơi cần thiết cũng như một triển vọng mới cho công việc của tôi".
Mỗi người chúng ta nên ghi vào lòng lời Matisse khuyên nhủ André Kostelanetz. Chúng ta phải tìm những đám Actisô cho đời chúng ta, hoặc nói cách khác chúng ta phải làm giống như Barry Lopez đã làm. Chúng ta cũng phải thỉnh thoảng một mình đi dạo vào rừng buổi sáng. Chúng ta nên làm điều các thủy thủ Anh Quốc đã làm trong những tình trạng khẩn cấp, nghĩa là phải nghỉ ngơi và yên lặng. Chúng ta nên làm điều Đức Giêsu đã thường làm. Thỉnh thoảng chúng ta phải dậy sớm dùng lời cầu nguyện để tăng cường sức mạnh cho mình.
Đó là sứ điệp của bài Phúc Âm hôm nay. Sứ điệp này thực là quan trọng. Chúng ta có thể tóm tắt như sau;
Dù bận rộn rất nhiều trong cuộc sống, Chúa Giêsu vẫn tìm thời giờ nghỉ ngơi và cầu nguyện. Chúng ta cũng nên làm như thế.
Chúng ta hãy kết thúc với lời khẩn nguyện:
Lạy Chúa,
Xin dừng bước chân con,
Xin dừng bước chân con;
Xin cho trái tim con trĩu nặng được thư thái,
Tâm trí xôn xao được lặng yên.
thần kinh rã rời được dịu lại
gân cốt mệt nhoài được giãn ra.
Xin dạy cho con nghệ thuật
Dùng những lúc nghỉ ngơi đôi ba phút,
trở lại tiếp xúc với lòng mình,
lắng nghe tiếng Chúa và từ đó rút ra
nguồn sáng mới, sức mạnh mới và lòng dũng cảm mới.
lạy Chúa,
xin hãy dừng bước chân con,
xin hãy dừng bước chân con.
75. Suy niệm của Anmai, CSsR
KHỐN THÂN TÔI NẾU TÔI KHÔNG RAO GIẢNG TIN MỪNG
Thánh lễ hôm nay, bài đọc thứ nhất đưa ta về hình ảnh rất quen thuộc, rất dễ thương trong Cựu Ước đó là ông Giob. Nếu có giờ, chúng ta đọc lại toàn bộ tác phẩm của ông, chúng ta sẽ thấy ông thật dễ thương trước mặt Chúa. Tại sao gọi là dễ thương trước mặt Chúa? Là vì, dù cuộc đời ông "ba chìm - bảy nổi - chín lênh đênh nhưng ông đã tin tưởng vào Chúa một cách lạ lùng. Cảm xúc của ông Giob chắc có lẽ cũng là xúc cảm của mỗi người chúng ta.
Ông Giob giới thiệu về nhân thân của ông: "Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác.2 Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất trong số các con cái Phương Đông. Các con trai ông có thói quen luân phiên tới nhà nhau tiệc tùng và cho người đi mời ba cô em gái đến ăn uống với họ. Mỗi khi hết vòng tiệc tùng, ông Gióp cho gọi họ đến để thanh tẩy họ; rồi ông dậy thật sớm, dâng lễ toàn thiêu cho mỗi người trong họ, vì ông tự nhủ: "Biết đâu các con trai ta đã chẳng phạm tội và nguyền rủa Thiên Chúa trong lòng! " Lần nào ông Gióp cũng làm như thế. (G 1, 1-5)
Cuộc sống của ông là như thế nhưng có mãi được như thế đâu? Chúng ta chờ xem:
"Vậy một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh cả của họ, thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp: "Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: "Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người này còn đang nói thì một người khác về thưa: "Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người ấy còn đang nói, thì một người khác về thưa: "Con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè trên đám trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." (G 1, 13-19)
Cuộc đời nó không như người ta tưởng, người ta nghĩ. Mà cũng đúng, vì có những lúc lòng chúng ta cảm thấy trống rỗng và chán ngán. Thi thoảng chúng ta cũng thấy cuộc đời này nó vô nghĩa như ông Giob vậy. Nhất là mỗi khi chúng ta bị thiệt hại, bị mất mát về tiền của, về vật chất như ông Giob.
Buồn tủi, đau đớn nên ông Giob đã bộc bạch:
Cuộc sống con người nơi dương thế
chẳng phải là thời khổ dịch sao?
Và chuỗi ngày lao lung vất vả
đâu khác gì đời kẻ làm thuê?
Tựa người nô lệ mong bóng mát,
như kẻ làm thuê đợi tiền công,
cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng,
số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề.
Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: "Khi nào trời sáng? "
Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: "Bao giờ chiều buông? "
Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng.
Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa,
và chấm dứt, không một tia hy vọng.
Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài nhớ cho,
cuộc đời con chỉ là hơi thở,
mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ. (G 7, 1-4.6-7)
Nhìn lại sao mà chúng ta giống ông Giob quá. Thế nhưng ông Giob không chỉ bị tổn thương về vật chất nhưng còn tổn hại về tinh thần, về lòng tin nữa. Ông cam chịu mất mát, tưởng chừng người thân thương nhất của ông, người chung chia với ông những đau khổ của cuộc đời sẽ an ủi, sẽ nâng đỡ ông, nhưng nào ngờ vợ ông lại bảo ông nguyền rủa Thiên Chúa vì Thiên Chúa mà ông tin theo sao mà kỳ thế! Thiên Chúa đã để cho cuộc sống của ông ra nông nổi này. Kèm thêm bà vợ cay nghiệt còn có ba người "hàng xóm tốt bụng" khuyên ông hãy rời bỏ Thiên Chúa mà suốt cuộc đời ông đã theo. Thế nhưng, chúng ta thấy giữa biết bao nghịch cảnh của cuộc đời ông Giob vẫn một mực tin tưởng vào Thiên Chúa mà ông suốt cuộc đời đi theo.
Nhìn lại cuộc đời của ông Giob, quả là một bản trường ca về tin mừng. Cuộc đời ông đã cao rao về tình thương của một Thiên Chúa mà ông tin tưởng theo.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe, Thánh Máccô thuật lại cho chúng ta công việc của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó." (Mc 1, 38) Chúa Giêsu khẳng định cho các môn đệ cũng như chúng ta đó là Chúa đến để đi rao giảng Tin mừng của Nước Trời, Tin mừng của Thiên Chúa.
Thoáng nhìn cuộc đời của Chúa Giêsu, trong hành trình rao giảng Tin mừng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy thấp thoáng hình bóng của cây Thập Tự cứ đi theo cuộc đời của Chúa Giêsu. Và thực tế là như thế, cuộc đời của Chúa Giêsu buồn nhiều hơn vui. Thế nhưng tại sao Chúa Giêsu lại hăng say, mạnh mẽ lên đường loan báo Tin mừng như vậy? Bởi lẽ Chúa Giêsu, suốt cuộc đời đã tin tưởng, đã tín thác vào Thiên Chúa nên cho dù cuộc đời của Chúa thế nào đi chăng nữa Chúa vẫn loan báo Tin mừng.
Và rồi, qua thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô mà chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy Ngài khẳng định cho chúng ta lập trường của Ngài về Tin Mừng: "Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi."
"Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng." (1 Cr 9,16-19.22-23)
Nhìn lại một chút cuộc đời của Phaolô chúng ta cũng thấy na ná như ông Giob, như Chúa Giêsu vậy. Cuộc đời của ông cũng đã quá đau khổ, ông phải trả một giá quá đắt khi tin theo Chúa. Thoạt đầu, ông là người Pharisiêu "chính hiệu Con Nai Vàng" nên ông nào tin vào Chúa và thậm chí ông con bắt, còn bách hại những người theo Chúa nữa. Thế nhưng, chính khi ông "giác ngộ" ra Đấng mà xưa nay ông bắt bớ chính là Đấng Cứu Độ của ông cũng là lúc mà người ta khinh bỉ ông, người ta không tin tưởng ông nữa vì ông xoay hẳn 1 góc 180o. Từ người ghét, bách hại, bắt bớ nhưng nay lại trở thành người nhiệt thành rao giảng Tin mừng thì làm sao mà người ta có thể tin được. Thế nhưng, vì lòng tin son sắt vào Chúa, Phaolô vẫn miệt mài rao giảng Tin mừng, bất chấp mọi thành kiến, mọi dị nghị, mọi lời đàm tiếu của người đời.
Phaolô đã "ngộ" ra cuộc đời của ông từ cái ngày ngã ngựa trên đường Đa-mát rằng: có một Thiên Chúa yêu thương ông, quan phòng, chăm sóc ông nên cuộc đời của ông thay đổi từ đấy.
Chúng ta là những người luôn luôn mở miệng tin Chúa và đọc Kinh Tin Kính mỗi Thánh Lễ Chúa nhật, mỗi khi có dịp, nhưng lòng tin vào Chúa của chúng ta như thế nào? Chúng ta có can đảm rao giảng Tin mừng, rao giảng về một Thiên Chúa yêu thương cho những người xung quanh chúng ta hay không?
Thật sự, đây không phải là chuyện dễ vì lẽ cuộc đời của chúng ta có quá nhiều đau khổ như ông Giob, như Chúa Giêsu, như Thánh Phaolô vậy. Thế nhưng, chúng ta lại nhớ đến lời của Thánh Phaolô "chính khi tôi yếu là lúc tôi mạnh." Thánh Phaolô xác tín điều ấy vì chính khi cuộc đời của Ngài gặp phong ba bão táp, gặp khó khăn, yếu đuối, Ngài phó thác vào tay Chúa thì Chúa sẽ nâng Ngài dậy như Chúa đã từng nâng đỡ Ngài trên đường Đa-mát vậy.
Rơi vào hoàn cảnh bi đát của cuộc đời như ông Giob, như Chúa Giêsu, như thánh Phaolô đấy nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi ai cả. Chuyện quan trọng là chúng ta có tin để phó thác hay không mà thôi? Sau khi tin tưởng, phó thác Thiên Chúa đã ban cho ông Giob và thánh Phaolô không biết bao nhiêu ân huệ của Ngài và khi nhận ra ân huệ mà Thiên Chúa ban đấy, ông Giob và thánh Phaolô đã cao rao tình thương của Chúa.
Thật sự ra, trong cuộc đời chúng ta, chúng ta thấy Chúa ban cho chúng ta quá nhiều ơn lành như Chúa đã ban cho ông Giob và thánh Phaolô nhưng chúng ta không nhận ra để chúng ta cứ khư khư giữ ơn lành và thậm chí còn chôn kín ơn lành đó để cất giấu một mình chúng ta xài thôi. Xin Chúa mở lòng chúng ta để chúng ta nhìn thấy những ân huệ mà Thiên Chúa đã trao ban để rồi chúng ta cũng cao rao Tin mừng của Chúa cho anh chị em đồng loại như Phaolô, như ông Giob trong mọi hoàn cảnh của chúng ta.
76. Chúa Nhật 5 Thường Niên
Cả 3 bài đọc hôm nay đều nói đến việc lao động. Con người sinh ra trong trần gian này và chấp nhận qui luật của nó. Đó là phải lao động. Cuộc sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm việc quần quật từ sáng đến tối, làm cực khổ hết ngày này sang ngày khác, làm quần quật hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Người thì lao động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải lao động vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm - ăn, ăn - làm như một cái vòng lẫn quẫn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nổi, ăn không vô thì cũng là lúc con người sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một ngày làm việc vất vả của Chúa Giêsu: Người vừa giảng dạy trong Hội đường Do Thái và cứu chữa một người bị quỉ ám xong, Người vừa mới đi ra thì hay tin bà nhạc mẫu của Phêrô đang sốt nặng. Lập tức, Người liền đến nhà bà ấy và chữa lành cho bà. Rồi cũng liền sau đó có cả đám đông đang tụ họp trước cửa nhà, trong đó có nhiều người đau bệnh, cần tới Chúa Giêsu chữa trị. Mãi cho đến chiều tối Người mới có thời giờ nghỉ ngơi.
Chúng ta đã thấy đó, Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả từ sáng đến chiều tối. Người không phải làm việc để có lợi cho bản thân mình, nhưng Người làm việc để giúp đỡ cho người khác. Người không những chữa lành, là lo cho họ phần xác mà còn lo về phần thiêng liêng, là rao giảng, dạy dỗ cho họ, cứu giúp linh hồn người ta. Qua công việc đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của công việc lao động: lao động là cần thiết, lao động là bổn phận của mọi người, lao động chẳng những giúp ích cho bản thân mà còn giúp đỡ cho tha nhân, lao động sinh ích lợi cho cả phần xác lẫn phần hồn nữa.
Từ các bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay vạch ra cho chúng ta thấy phương hướng sống:
Trước các công việc làm, chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả những công việc lao động của chúng ta.
Chúng ta hãy xin Chúa chúc phúc cho công việc chúng ta làm. Khi làm việc chúng ta ý thức mình làm vì sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi tha nhân
Xin Chúa cho chúng ta có sức khỏe thể xác và tinh thần để ta hoàn thành công việc cách tốt đẹp
Xin Chúa cho chúng ta biết sống hết mình và làm việc hết mình vì lòng mến Chúa, để góp phần cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ. Và xin Chúa nâng đỡ những công lao vất vả của chúng ta. Amen.
CÂU CHUYỆN MINH HỌA VỀ VIỆC CẦU NGUYỆN
Vào cuối thế kỷ 19, nhà hoạt động nổi tiếng người pháp tên Frédéric Ozanam, đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin rất là nghiêm trọng. Một hôm,để tìm chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi nhà thờ ở Paris. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện một cách sốt sắng ở hàng ghế đầu. Anh đứng lặng lẽ trong góc Nhà Thờ theo dõi cử chỉ của người này. Và khi người này vừa đứng lên để ra khỏi Nhà Thờ, thì anh nhận ra ngay đó chính là nhà bác học Pascal. Lòng đầy thắc mắc, anh theo nhà bác học về đến phòng làm việc của ông. Thấy anh đứng trước cửa phòng với vẻ rụt rè, nhà bác học lên tiếng hỏi:
Bạn đang cần gì? Tôi có thể giúp bạn giải một bài toán vật lý phải không? Chàng ta đáp: Thưa ông, tôi là sinh viên khoa văn, tôi dốt khoa học lắm. nhưng xin ông cho tôi hỏi một vấn đề đến đức tin.
Nhà Bác học trả lời:Đức tin là môn tôi yếu nhất. Nhưng nếu giúp anh được việc gì tôi sẳn sàng. Thưa ông có thể vừa là bác học vĩ đại vừa là tín hữu nhiệt thành cầu nguyện không?
Nhà Bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh. Ông ta trả lời: Anh ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện thôi.
Nhà bác học kiêm triết gia nổi tiếng Pascal nói một câu rất thời danh: " con người chỉ vĩ đại khi họ cầu nguyện".
Vậy cầu nguyện tức là thiết lập mối tương quan mật thiết với Chúa. Sự cầu nguyện làm cho con người vĩ đại vì nó thể hiện đúng đắn đạo làm người. Sự cầu nguyện làm cho con người nhìn thấy những giá trị của chính mình, thấy những yếu đuối, bất toàn trong đời sống của mình. Biết mình bởi đâu mà có, biết mình sống để làm gì, biết mình sẽ đi về đâu và biết mình phải sống làm sao cho tốt đẹp!
77. Cái tình của Chúa Giêsu - Lm. Thu Băng
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại những việc Chúa Giêsu đã làm cho người ta: như chữa cho bà mẹ vợ của ông Phêrô được khỏi cơn sốt. NgàI lại chữa lành nhiều bệnh nhân nào là kẻ què, kẻ mù, người điếc, người câm, kẻ xấu nết, và người chết được sống lại....
Tại sao người ta thích đến với Chúa Giêsu? Tại vì Chúa Giêsu người ta thấy có "cái tình", có niềm thương cảm đối với những người xấu số, sầu khổ. Có bài ca rằng: "Đẹp thay những bước chân tiến vào giữa lòng thế giới, đem tình thương (2) Chúa trời, đem niềm vui cứu đời cho mọi người và mọi nơi".
Trong con người Chúa Giêsu chất chứa đầy cái tình người. Ngài không ngồi yên được, mà phải đi đến với người ta để thi ân, để giúp đỡ. Ngài cũng còn truyền cho các môn đệ đi từng hai người một đến với họ để thi hành việc bác ái.
Ngày nay loài người còn cần đến tình thương không? Ai là người ban cái tình đó cho nhân loại? Phải chăng chỉ có các Linh Mục, Giám mục, Đức Thánh Cha? Phải chăng sứ mạng tông đồ rao truyền "cái tình của Chúa Giêsu" chỉ có giới tu sỹ? Các ngài đã và đang làm rồi.
Số báo Dân Chúa tháng 2 năm 1985, có đăng tin Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ Nhị đã thể hiện tình thương của Chúa qua các cuộc viếng thăm có vụ: Ngày 5 tháng 12 năm 1984 ngài tiếp ông Antôn Magalhaes Martin 72 tuổi, người Ba Tây bị cùi lở loét suốt 52 năm, từ khi ông được 25 tuổi. Và cha Mario Gerlin Tuyên úy người cùi 10 năm. Ông cảm động vì lời khuyên của Ngài. Ông nhân danh người cùi thế giới cám ơn Đức Thánh Cha. Cha Gerlin tuyên bố: "Việc Đức Thánh Cha tiếp ông Martin là một phấn khích lờ lao cho 350.000 người cùi Ba Tây, và 20 triệu người cùi thế giới. Nghĩa cử đó xoá bỏ thành kiến sợ người cùi của nhiều người".
Cha Vincent làng thượng đi thăm một gia đình nghèo: Bà khóc lóc kể lể sự cơ cực xơ xác, rách rưới của gia đình. Bà xin giúp đỡ. Bà nói luôn miệng, thỉnh thoảng cha mới xen vào được một câu an ủi. Cuối cùng bà nói: "Con cám ơn cha đã giúp con". Cha ngạc nhiên vì chưa giúp bà được cái gì. Nhưng bà nói ngay: "Con cám ơn cha nhiều nhất vì cha thông cảm được sự đau khổ của gia đình con. Đã an ủi con chịu khó theo Chúa, nên con thấy vui khi nghèo".
Sứ mệnh của chúng ta ra sao? Chúng ta không đủ khả năng để chữa bệnh phần xác nhưng chữa bệnh tâm hồn, bằng lời cầu nghuyện, bằng tâm tình quảng đại hướng về người nghèo khổ. Thăm nom là phần thưởng lớn đối với người nghèo khổ. Khích lệ bệnh nhân, một lời an ủi tại nhà, tại bệnh viện. Nhiều khi chỉ nghe người ta bày tỏ cũng là đủ an ủi rồi. Hoặc gọi điện thoại khích lệ cũng là một lời thăm hỏi rất tốt.
Câu chuyện cảm động về "Nụ cười khích lệ" tôi muốn kể cho anh chị em nghe:
Trong vùng có một quân nhân xấu ai thấy cũng chế diễu, bửu môi, đánh đập, không ai làm bạn với anh cả. Anh sống đời cô đơn uồn tủi. Khi anh chết, người ta thấy một tờ di chúc trong tay anh:"Xin trao số tiền 10,000 đồng của tôi cho cô bé Kitty, vì suốt cuộc sống của tôi không nhận được nụ cười nào của bất cứ ai, ngoại trừ nụ cười của bé Kitty trong một lần tôi gặp cô đi học về. Đó là niềm an ủi nhất đời tôi, khiến tôi can đảm sống trọn cuộc đời cô đơn".
Cũng một câu chuyện nữa về một "Lời nói thân tình".
Tại một góc hè phố, người hành khất bại tay, nằm co quắp mở miệng xin ăn. Người thì ném tiền vào nón của ông. Người thì cho cách khinh bỉ. Một người sang trọng đi qua, ông xỏ tay vào túi rồi chẳng tìm được gì, ông nói: "Này bác, rất tiếc tôi muốn giúp bác nhưng bất ngờ tôi không có đồng xu nào trong túi mình cả". Người ăn xin trả lời: "Cám ơn ông, ông đã cho tôi nhiều hơn cả mọi của bố thí. Ông đã gọi tôi bằng "Bác" thành thật chưa bao giờ trong đời tôi nhận được danh xưng đó trên môi miệng một người sang trọng bố thí cho tôi".
Thời đại nào, thế kỷ nào, ai ai cũng cần đến "Cái tình" của con người, cần đến sự nâng đỡ, khích lệ trong cuộc sống. Xin Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu được niềm thương cảm khổ đau và ân tình của Chúa, để chúng con biết "Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm".
78. Một đời thương cảm
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
Người ta vốn tóm gọn cuộc đời vào bốn chữ sinh, lão, bệnh, tử. Đã có ngày đem tiếng khóc chào đời thì cũng có ngày xuôi tay nhắm mắt từ giã cuộc đời. Đã có thời thanh xuân thì cũng có thời già lão. Đã có lúc khoẻ mạnh sung sức thì cũng có lúc bệnh tật, thập tử nhất sinh. Trước thân phận con người như thế, đã có những thái độ khác nhau, hoặc chấp nhận vì cuộc đời là như thế, hoặc phản kháng vì thấy cuộc đời như vậy là phi lý, là không thể chấp nhận được.
Tiếng kêu thương
Đoạn văn Cựu Ước Chúa nhật hôm nay kể được là một trong những đoạn văn bi ai nhất sách Gióp, một tác phẩm cỗ xưa đặt vấn đề về đau khổ của con người. Ông Gióp, một người công chính, lâm bệnh. Vợ con ông bêu rếu, phê bình, bạn bè không thông cảm, một mình đương đầu với bệnh tật và khổ đau không dứt... Nhưng thực ra, ông Gióp chỉ là điển hình cho bất cứ con người nào đang phải đương đầu với những khổ đau và nghiệt ngã của cuộc nhân sinh. Người ta vẫn cứ phải gánh chịu những tai hoạ khổ đau, oái oăm nhất là không phải người ta tự gây ra cho mình. Lại càng khó hiểu hơn nữa khi người ta không có gì đáng phải gánh chịu những khổ đau như thế: chiến tranh, tai hoạ trong thiên nhiên như bão lụt, động đất, những hậu quả do một thiểu số gây ra... tất cả vẫn đang tiếp tục nối dài dòng người đau khổ. Cũng như ông Gióp, rất nhiều khi người ta không thể lý giải được tại sao lại có đau khổ như thế. Nhưng lời than vãn của ông Gióp dầu không giải quyết được những đau khổ riêng của ông, cũng đã nói lên được niềm trông cậy: ông xin Thiên Chúa cứu giúp.
Vị Thượng Tế biết thương cảm
Cuối cùng, lời hứa của Thiên Chúa đã hoàn thành. Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, đã đến để cứu chữa những đau khổ nhân loại phải gánh chịu. Khi loan báo Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu đương đầu với quyền lực Ác Thần. Và tiếp theo sau đó, Người đã thuyên chữa bệnh tật cho nhiều người trong suốt một ngày. Tác giả Mác-cô trình bày một ngày trừ quỷ và chữa bệnh này như thể đó là ngày mẫu cho một đời thương cảm của Đức Giêsu. Một ngày chữa bệnh cho bà nhạc ông Phê-rô là một đời kiên trì và thương xót Hội Thánh, xua đuổi sức mạnh của Ác Thần ra khỏi Hội Thánh để Hội Thánh tiếp tục phục vụ. Một ngày chữa bệnh cho mọi người chen lấn đến xin sẽ là một đời đi khắp nơi chữa trị những khổ đau thể xác và mở mắt tâm hồn cho con người nhận ra ơn cứu thoát.
Nhưng cần đi xa hơn để thấy Đức Giêsu không phải là thầy lang chữa bách bệnh. Người đến cứu thế gian không phải bằng cách dứt khoát loại trừ mọi đau khổ ra khỏi trần gian, để từ nay trở đi không còn một khổ đau nào động đến con người nữa. Trái lại, Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta (Is 53,14; Mt 8,17) và dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục... (Dt 5,8). Người ta có lẽ chẳng bao giờ giải thích cặn kẽ được tại sao Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã đến cứu vũ trụ và con con người bằng cách dang hai tay ra trên thập giá. Tại sao Đấng cứu loài người khỏi khổ đau và chết chóc lại đón nhận một đau khổ nhục nhã nhất như thế?
Để thiết lập một cộng đoàn biết cảm thương
"Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45). Suốt đời dong duỗi đây đó, chữa lành những người bệnh tật đau khổ, nhưng cũng là một đời không ngừng in sâu hình ảnh phục vụ theo gương Người: hy sinh mạng sống vì người khác. Khi chữa lành bà nhạc của ông Phê-rô, Đức Giêsu chứng tỏ Người có quyền trên Ác Thần và nâng cộng đoàn những người tin dậy để có khả năng phục vụ theo gương Người.
Đức Giêsu muốn cộng đoàn những người tin tiếp tục công trình loan báo Tin Mừng Người đã thực hiện. Người muốn cộng đoàn ấy nối dài lòng thương cảm của Người cho các người khác. Thánh Phao-lô đã thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng như thế. Người đã trở thành nô lệ mọi người để phục vụ Tin Mừng. Mội tín hữu cũng được mời gọi như thế. Dẫu rằng ngày nay, ta không thể cầm tay một người bệnh và chữa lành người ấy ngay tức khắc như Đức Giêsu đã làm, nhưng ta không phải là không thể dùng lòng thương cảm, một lòng thương cảm mà Đức Giêsu đã kín mức từ nơi Chúa Cha, để làm cho một người bệnh cảm thấy được an ủi, một người sầu khổ cảm thấy vơi đi nỗi sầu, một người hèn kém cảm thấy mình được sống đúng giá trị của một con người. Những khi người ta làm được như vậy tức là ngày mẫu được thánh Mác-cô nói về Đức Giêsu lại được tiếp tục thực hiện, lòng thương cảm của Đức Giêsu lại tiếp tục tuôn chảy và cộng đoàn những người biết cảm thương như Đức Giêsu lại lan rộng để trở thành một cộng đoàn yêu thương như Thiên Chúa muốn.
Lời nguyện của người được sai đi
Lạy Chúa,
Việc loài người biết nhận ra Ngài khi Ngài tự trao ban trong nước của bí tích Thánh Tẩy, trong Thánh Thể, trong Thánh Kinh... điều đó cũng dễ quan niệm được thôi. Nhưng còn việc Ngài lại cũng muốn đi sâu vào cõi thâm cung của lòng người mà lại qua trung gian của con, thì quả là khó tưởng nghĩ được.
Làm sao con người có thể nhận ra Ngài nơi con, ít ra là làm sao họ lại có thể hiểu ra rằng con là người được Ngài sai đi, là sứ giả của Chân lý Ngài, là kẻ đem lại lòng thương xót của Ngài? Mỗi lần con tự đặt ra vấn nạn này cho mình, thì hình như sứ điệp hạnh phúc mà con thông chuyển lại cho anh em con đã biến thành một gánh nặng khủng khiếp đè trên chính con.
Thật thế, con biết rõ điều đó. Chính Ngài đã sai con đi. Con là sứ giả của Ngài, dù con khốn khổ và nghèo hèn. Con là sứ giả của Ngài, đã được Ngài chọn, bất chấp mọi sự. Con loan báo Chân lý Ngài thì đó không phải là điều làm chân lý Ngài ra suy suyển. Ân sủng của Ngài vẫn tinh tuyền cho dù đi qua đôi tay trần tục của con. Phúc Âm của Ngài vẫn thực sự là một Tin Mừng, cho dù sứ giả của Ngài không sao để lộ được vẻ hân hoan trong Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình. Lòng thương xót của Ngài vẫn bao la mặc dù được biểu lộ qua tấm lòng nhỏ bé của con. Ánh sáng của Ngài vẫn chiếu dọi, vẫn biến đỗi bóng đêm âm u của cõi chết thành ánh dương ngày cứu độ, cho dù ánh sáng ấy phải dọi qua những khung kính mờ đục của đời con, của tâm trí phàm trần khốn khổ....
Lạy Chúa, Con là người được sai đi, là sứ giả của Con Chí Ái Ngài, của Chúa chúng con. Không còn gì vĩ đại hơn, không còn danh hiệu nào vinh dự hơn....
Để đem lại Ánh sáng, để thông chia tình thương, con phải nhóm lên chất dầu của cuộc đời con....
Lạy Chúa,
Xin để cho con biết ngỡ ngàng khi thấy có những người nhận ra được lòng thương xót của Ngài, nhận ra Ngài đã sai con đi và đã đón nhận con với tư cách là sứ giả. Xin cho con cảm nhận được niềm vui chân thật và hết lòng biết ơn Ngài mỗi khi con đứng trước phép lạ ấy, mỗi khi anh em con sẵn sàng đón nhận con trong chốn thâm sâu tâm hổn họ, bất chấp sự bất xứng của con. (K. Rahner)
79. Hối lộ quan toà
Đối với Chúa Giêsu, sáng hôm đó quả thật là một ngày thật vất vả. Ngài đã giảng dậy trong hội đường với một quyền bính làm cho mọi người phải kinh ngạc. Trong khi Ngài giảng dậy thì bị gián đoạn bởi tiếng kêu cầu do một người bị quỷ ám. Chúa Giêsu đã làm cho dân chúng kinh ngạc khi Ngài chữa lành cho người đàn ông bị quỷ ám đó. Khi Ngài rời khỏi hội đường đến nhà ông Simon và Anrê. Ở đó Chúa Giêsu chữa lành cho mẹ vợ của ông Simon khỏi bịnh. Khi trời tối, dân chúng trong làng tuôn đến với Ngài để xin chữa bệnh về tâm thần cũng như thể lý. Mọi người đều nhìn xem và kêu lên rằng: "Ngài đã chữa lành nhiều người mắc bịnh nan giải và trừ được nhiều người bị quỷ ám."
Trong bài Phúc Âm hôm nay, khi trời vừa hừng đông, Chúa Gisêu đã thức dậy thật sớm, tìm một nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Ngài biết rằng trong ngày hôm nay Ngài sẽ vất vả vì nhiều sự đòi hỏi của dân chúng nơi ngài như đám đông dân chúng sẽ chen lấn Ngài khi Ngài vào trong làng. Ngài cũng biết cho dù Ngài ở đâu đi nữa, dân chúng sẽ kêu tên Ngài và xin cứu chữa cho họ. Và chắc chắn trong đó sẽ có những người Luật Sĩ và Pharisiêu sẽ thách thức về quyền giảng dậy của Ngài, đặt những câu hỏi và tìm mọi cách để làm cho danh tiếng của Ngài bị ô danh. Dĩ nhiên Ngài cũng biết rằng các môn đệ sẽ hiểu lầm về Ngài và muốn Ngài làm vài điều theo ý của họ. Chính vì những sự đó nên Chúa Giêsu cần có những giây phút để cầu nguyện.
Một nhà thơ ẩn danh đã làm một bài thơ như sau:
Tôi thức thật sớm và chạy ngay đến chỗ ẩu đả.
Với quá nhiều việc cần phải làm, tôi không có giờ để cầu nguyện.
Những khó khăn vây quanh tôi và tôi thấy thật nặng nề trong mọi công việc.
Tôi tự hỏi Chúa ở đâu sao không giúp con? Chúa trả lời, "Con không kêu cầu Ta."
Tôi cố tìm lối thoát nhưng tất cả đều đen tối.
Tôi hỏi Chúa tại sao, Ngài trả lời, "Con không tìm kiếm nơi Ta."
"Xin thì sẽ được, tìm thì sẽ gặp," đó chính là lời Chúa Giêsu đã tuyên bố trong bài giảng trên núi (Mt 7:7). Nhưng chúng ta có thể sai lầm khi tưởng tượng rằng Chúa Giêsu đã tán dương những lời cầu nguyện thầm thĩ của chúng ta. Ngay khi vào đầu bài giảng, Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta cảm thấy mâu thuẫn: Thầy bảo các con biết chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình lấy gì mà ăn, hay lo cho thân xác mình lấy gì mà mặc. Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu lẫm. Ngay cả Salômôn trong tất cả vinh quang của ông, cũng không trang phục được bằng chúng. Nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn mai mất mà còn được Chúa gần gủi huống chi con người, Ngài còn yêu thương chúng ta biết mấy. Hỡi những kẻ kém lòng tin, đừng lo lắng quá, hãy tìm Nước Chúa trước còn những điều khác Chúa sẽ ban cho các ngươi (Mt 6:25,28-31,33).
Hãy tìm Nước Chúa trước! Hãy tìm ý muốn của Chúa trước! Cầu nguyện không phải là để kéo Chúa tới những cảnh huống khó khăn của chúng ta, vì Chúa biết mọi sự sẽ xẩy đến cho chúng ta. Cầu nguyện cũng không phải là việc chúng ta nói với Chúa về những điều chúng ta muốn cho chúng ta, vì Ngài đã biết chúng ta cần những gì. Cầu nguyện chính là chúng ta vui lòng để cho Chúa thực hiện điều Chúa muốn nơi chúng ta như trong Thánh Vịnh đã viết: "Hãy bình thản và biết rằng Ta là Chúa" (Tv 46:10). Cầu nguyện là việc chúng ta lắng nghe tiếng Chúa nói trong thẩm cung lòng của chúng ta. Đừng xin những gì Chúa có thể làm cho chúng ta. Hãy xin, những gì chúng ta có thể làm cho Chúa. Đừng xin những gì Chúa có thể ban cho chúng ta, nhưng hãy xin cho chúng ta có thể cho Chúa được gì.
Nhà khoa học nổi tiếng Isaac Newton là một con người cầu nguyện. Ông ta nói rằng: Tôi có thể dùng kính thiên văn để nhìn không gian xa hằng triệu triệu cây số được. Và tôi cũng có thể bỏ nó vào một góc nhà để tôi quỳ xuống và cầu nguyện với Thiên Chúa, Đấng gần gũi tôi hơn những vật chất trần gian.
Là con người, chúng ta thường hay cầu nguyện khi chúng ta gặp phải những gian nan khốn khó xảy đến như: chiến tranh, tranh chấp trong đời sống hôn nhân. Và những lời cầu đó thường là xin cho được hoà bình, xin cho được sống thân mật với vợ con. Nhưng chúng ta không để ý đến điều chúng ta cần phải làm gì để cho chóng chấm dứt chiến tranh, hay làm cách nào để có thể thương vợ thương con.
Một người đàn ông bị đưa ra toà để xét xử về tội giết người. Ông ta đến vị thẩm phán và nói rằng: nếu ông có thể xét cho tôi vô tội, tôi sẽ đưa cho ông một số tiền thật lớn; và ông ta trao cho vị quan toà một gói tiền. Khi vụ xử án xong, vị quan toà đã kết tội bị can là kẻ giết người. Sau đó, ở ngoài phòng tòa, bị can đã hỏi vị phẩm phán rằng: "Ông có thấy khó khăn trong việc đó không?" Ông ta trả lời: "Có! vì khi bắt đầu ai cũng cho là vô tội."
Khi cầu nguyện, chúng ta thường hay hối lộ với Chúa, "Lạy Chúa, nếu Chúa ban cho con điều con xin, con sẽ làm điều gì Chúa muốn. Cho dù có điều gì xảy ra, cũng đừng thay đổi, nhưng hãy làm theo ý con muốn." Nhưng thật ra Chúa không bao giờ nhận sự hối lộ của chúng ta, vì mục đích của Chúa không bao giờ bị chúng ta đánh đổ.
Nếu chúng ta cảm nghiệm được rằng chúng ta đang thăng tiến trong cuộc lữ hành trần gian để về quê trời, thì chắc chắn rằng cuộc sống Kitô hữu của chúng ta phải được nuôi sống bằng chính việc cầu nguyện. Khi chúng ta nhận thấy sự cầu nguyện ăn sâu vào trong tâm hồn chúng ta, lúc đó chúng ta mới biết được Chúa là Thiên Chúa. Chúng ta sẽ luôn vững tâm và nghe được tiếng nói của Ngài trong tâm hồn chúng ta. Chúa thường đến với chúng ta cách bất ngờ và chúng ta sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa trong tin tưởng, yêu thương và đầy hy vọng. "Hãy thi hành ý muốn Chúa muốn nơi chúng con. Không theo ý chúng ta, nhưng theo ý Ngài."
80. Phục vụ tha nhân
Chúa Giêsu vừa mới từ Hội Đường Caphácnaum, nơi Ngài đã phụng sự Chúa bằng cầu nguyện và rao gảng lời Ngài, lại phục vụ nhân loại qua việc chữa lành người bị quỷ ám. Và trên đường về nhà Phêrô Ngài đã chữa lành người đầy tớ của thầy đội (Mt 8, 5-13). Khi Chúa Giêsu ở Caphácnaum, Ngài không có nhà riêng, trụ sở Ngài đặt là nhà của Phêrô, nơi đây mẹ vợ của Phêrô đang bị sốt.
Có 3 loại sốt thường thấy ở Palestine. Một loại được gọi là Malta có đặc điểm làm suy nhược, mất máu, thường kéo dài nhiều tháng và chết. Một loại khác là sốt cách nhật giống như sốt rét định kỳ. Nhưng nặng nhất là sốt rét da vàng. Nơi gần sông Gio-đan đổ vào biển hồ có nhiều vùng sình lầy là môi trường lý tưởng cho giống muỗi sinh sôi nảy nở. Cả Caphácnaum và Tibêria là địa bàn hoạt động cho giống muỗi gây bệnh sốt rét. Chúng này thường kèm theo bủng da và nóng lạnh, gây khốn khổ cho bệnh nhân, chắc chắn đây là chứng mà mẹ vợ ông Phêrô mắc phải.
Chúa Giêsu vừa từ nơi công cộng về, mệt mỏi vì giảng dạy và chữa bệnh, chắc cũng muốn nghỉ ngơi. Tuy vậy, vừa vào đến nhà đã lại có lời cầu xin được giúp đỡ, và Ngài lại dấn thân vì người khác.
Phép lạ này nói cho chúng ta vài điều về 3 hạng người:
1. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VỀ CHÚA GIÊSU:
Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng, Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng như giữa đám đông trong Hội Đường. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không cứu giúp, nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của chính Ngài. nhưng trên hết, tại đây cũng như trong Hội Đường. Chúng ta thấy các phương pháp có một không hai của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa Giêsu có nhiều người thầy trừ quỷ, họ hành nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái công phu, những hình thức bùa chú, những tiếng kêu la, hò hét với nhiều đồ nghề ma thuật. Trong Hội Đường, Chúa Giêsu chỉ phán một câu đầy uy quyền và chữa bệnh được hoàn tất ngay.
Ở đây cũng có một sự việc như thế xảy ra. Bà nhạc gia của Phêrô đang đau chứng bệng mà Kinh Talmud của người Do-thái gọi là "một cơn sốt thiêu đốt". Kinh Talmud cũng chỉ ra phương pháp chữa trị chứng bệnh này. ngưới ta lấy một con dao bằng sắt đem cột vào một bụi gai bằng một lọn tóc. Suốt nhiều ngày liên tiếp, người ta đọc sách Xuất Hành 3, trước nhất là câu 2, 3 rồi đến câu 4, 5. Rồi có một công thức ma thuật được đọc lên, như thế người ta xem phần chữa trị đã xong.
Chúa Giêsu hoàn toàn bất chấp những câu thần chú ma thuật thông thường, chỉ bằng một dáng điệu và một tiếng duy nhất đầy quyền năng, Ngài đã chữa lành cho bà cụ. Bác sĩ Paul Tournier có viết: "Bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều tôi kể. Đó chẳng phải là sự kiên nhẫn, mà là sự quan tâm".
Với Chúa Giêsu, việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín, giúp người không phải là nhiệm vụ khó nhọc, Ngài chỉ giúp người một cách tự nguyện, tự nhiên, vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần đến sự cứu giúp của Ngài.
2. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VỀ MÔN ĐỆ CỦA NGÀI:
Họ chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng ngay trong giờ phút gặp gỡ ngắn ngủi này, họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho Ngài. Bà nhạc gia của Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, việc các môn đệ Ngài trình mọi việc cho Chúa Giêsu nghe là điều tự nhiên nhất trên đời.
Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một vị Mục Sư lão thành và ông cụ chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Ông hết sức kinh ngạc vì cách cầu nguyện đơn sơ của vị Mục Sư nọ. Nó giống hệt phần tiếp tục câu chuyện thân mật mà vị tông đồ lão thành ấy luôn trò chuyện với Chúa Giêsu.
Bác sĩ Tournier viết tiếp: "Về đến nhà tôi sẽ kể cho vợ tôi nghe chuyện ấy và chúng tôi cùng cầu xin Thiên Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cụ Mục Sư nọ vậy. Từ đó, Ngài trở thành trung tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi làm và cũng quan tâm về việc đó. Ngài là người bạn thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời tôi ra thảo luận. Ngài sẽ chia sẻ những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự với tôi. Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người ấy".
Mấy lời trên đây bao gồm yếu tính sinh hoạt của người Kitô hữu. Thế là các môn đệ nguyên thủy đã học được điều trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp đỡ mình.
3. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VÀI ĐIỀU VỀ BÀ NHẠC GIA CỦA PHÊRÔ:
Ngay sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục vụ. Bà cụ đã dùng phần sức khỏe hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Ta đã sử dụng ơn Chúa ban như thế nào?
Nhà văn Oscar Wilde viết tuyển tập "Chuyện Hay Nhất Thế Giới" trong đó, ông kể:
"Đấng Cứu Thế đi từ miền thôn quê tầm thường lên một thành phố muôn phân sặc sỡ. Khi đi qua một phố đầu tiên Ngài nghe có tiếng nói phía trên đầu, nhìn lên thấy một thanh niên nằm vắt ngang thành cửa sổ. Chúa hỏi: "Sao ngươi lại bỏ phí linh hồn trong say sưa?" Hắn đáp: "Thưa Chúa, tôi là người phong đã được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn"? Đi xa hơi một chút nữa, Ngài thấy một thanh niên đang lẽo đẽo theo sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: "Tai sao ngươi bỏ phí cuộc đời của ngươi trong trác táng?" Chàng đáp: "Thưa Chúa, tôi là người mù được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn?" Cuối cùng ở giữa thành phố, Ngài thấy một người già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi được Chúa hỏi, ông đáp: "Lạy Chúa, tôi là người chết được Chúa cho sống lại, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn là khóc?"
Đó là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã tàn nhẫn, vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Bà mẹ vợ của ông Phêrô đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là cách chúng ta sử dụng mọi Hồng Ân Chúa ban.
Không ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng rể như thế nào, để sau này, với tư cách là lãnh tụ Giáo Hội, Phêrô đã viết thư khuyên giáo dân: "Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô" (1Pr 4, 10-11).
81. Con đường nào Chúa đi
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Hạnh phúc như gần mà như xa. Làm sao thực hiện được những lời cầu chúc đầu xuân giữa một nhân loại còn đầy những người nghèo khổ, bị áp bức và bị gạt ra ngoài lề xã hội? Làm sao hạnh phúc khi con người chưa được làm người vì bị đè bẹp dưới những cơ chế bất công và truyền thống lỗi thời?
THỰC TẾ CON NGƯỜI VÀ SỨC MẠNH THIÊN CHÚA
Ngoài Thiên Chúa, không ai có thể đem lại mùa xuân cho nhân loại. Đức Giêsu đã mạc khải cho mọi người thấy sức mạnh phá tan mọi đau khổ, đem lại hạnh phúc cho muôn người, phát xuất tự nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu chính là sức mạnh đó. Người biết rõ đau khổ xuất phát tự mối tương quan bị đổ vỡ giữa Thiên Chúa và con người. Nguyên nhân chính của sự đổ vỡ đó là ma quỉ. Nhưng ma quỉ cũng không làm gì được nếu con người không muốn. Cuối cùng chính vì lòng tham dục của con người, tội lỗi đã lọt vào trần gian và gây nên đau khổ, chết chóc. Như vậy, thực sự không có gì mâu thuẫn giữa quan điểm Phật giáo và Kitô giáo về đau khổ. Chỉ khác nhau một điểm, Kitô giáo phân biệt những dục vọng tốt và xấu. Dục vọng xấu xa nhất chính là tính kiêu ngạo đã đẩy con người lên cõi mơ ngang hàng với Thiên Chúa. Con người đã vỡ mộng. Do đó có đau khổ. Hạnh phúc trở thành giấc mơ.
Nhưng có những đau khổ không tùy thuộc vào dục vọng hay ý muốn con người. Có những nạn nhân vô tội chịu đựng những thiên tai khủng khiếp. Biết bao sinh linh đã bị chìm ngập trong dòng nước lũ tại miền Trung hay tại Venezuella. Chính ông Job đã kinh nghiệm sâu xa về nỗi oan ức đó. Ông không thể hiểu nổi chương trình quan phòng của Thiên Chúa. Cuộc đời như chìm trong sự nhàm chán, tuyệt vọng. Giữa đau khổ, ông đã thốt lên: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hi vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (Jb 7,6-7).
Đức Giêsu cũng là nạn nhân vô tội của một cơ chế bất công. Nhưng Người đã tìm thấy ý nghĩa và niềm hi vọng ngay trong những đau khổ. Người không thể chịu đựng nổi trước những đau khổ của con người. Bởi thế, Người đã ra tay hành động để trấn át ác thần đang hoành hành trong thân xác và tinh thần con người. Điển hình, Người đã chữa lành “bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường” (Mc 1,30). Khắp nơi “Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ” (c.34). Người đi ngang qua những khổ đau như giới hạn nhốt chặt thân phận con người. Chính vì thế, quyền năng Thiên Chúa đến như một sức mạnh giải thoát. Nếu đời là bể khổ, Đức Giêsu đã lặn ngụp xuống bể khổ đó và đẩy nhân loại lên bằng chính sức mạnh Tin Mừng. Người đã dùng chính những cay đắng của bể khổ đó để tẩy rửa những vết thương trần gian. Nhờ sức mạnh Thánh Linh, nước bể khổ đó cũng có sức mạnh thanh tẩy những bụi bặm và hôi hám thế tục. Nhờ đó, hình ảnh Thiên Chúa xuất hiện nguyên vẹn trong con người và cuộc đời Kitô hữu.
SỨ MỆNH GIẢI THOÁT
Đức Giêsu đã dùng quyền năng Thiên Chúa để đẩy mạnh công cuộc rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa. Tự bản chất, Tin Mừng là một sức mạnh giải thoát con người. Thế nên, Tin Mừng được rao giảng tới đâu, niềm vui dâng cao tới đó. Bằng chứng sau khi khó nhọc tìm Đức Giêsu, các môn đệ reo lên: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (c.37).
Nhưng chính lúc mọi người tìm Thầy, Thầy lại không muốn dừng lại để hưởng trọn lòng ngưỡng mộ đó. Thầy không bằng lòng với những gì đã làm. Thầy muốn đi xa hơn những thành công hôm qua. Còn nhiều nơi khác, nhiều người khốn cùng khác đang chờ đợi bước chân Thầy. Chính Thầy đánh thức các ông khỏi cơn mê ngủ với danh vọng của Thầy: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (c.38). Tin Mừng phải hướng tới những nơi đang phủ đầy bóng đêm tội lỗi. Cảnh nhân loại khổ đau đã thôi thúc Thầy tiến tới không ngừng:“Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ” (c.39).
Đó là cách Người thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Nói khác, “đối với thánh Marcô, Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Thiên Chúa bao gồm toàn thể biến cố, lời nói và hành động” (Dupuis 1995:279). Thật vậy, Người hành động khi làm phép lạ, tiếp xúc với quần chúng, dẹp yên những ảnh hưởng tà thần. Ngay những dụ ngôn cũng đầy dẫy những hình ảnh linh động. Ngang qua hành động, Tin Mừng đã được công bố cho muôn dân. “Phép lạ là Tin Mừng đang hành động” (Dupuis 1995:280). Cộng thêm với lời Đức Giêsu nói, các phép lạ thúc đẩy con người chấp nhận Nước Thiên Chúa. Nhất là khi trừ quỷ, Đức Giêsu càng tỏ rõ uy quyền Thiên Chúa vàsức mạnh Tin Mừng giải thoát. Lực lượng thần dữ đã đến ngày tàn. Đức Giêsu đã mở ra một chân trời mới, phóng tầm nhìn nhân loại tới Nước Trời, nơi chan chứa niềm vui và tự do. Từ nay con người sẽ không còn phải gò bó trong những đòi hỏi luân lý cứng ngắc, nhưng hoàn toàn sống tự do theo Tin Mừng vì Nước Trời đã đến nơi con người Đức Giêsu Kitô.
Tin Mừng Đức Giêsu đã đem lại nguồn an ủi và hi vọng lại cho bao người sầu khổ và thất vọng. Vì Đức Giêsu đã hoàn toàn đồng hóa với những người nghèo và Tin Mừng đã được rao giảng cho họ trước tiên. Tất cả những người nghèo khổ, bị áp bức và bị gạt ra ngoài xã hội đều góp phần xây dựng Nước Thiên Chúa. Vì chính họ sẽ được hưởng trọn niềm vui giải thoát nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Người không chấp nhận đối xử phân biệt với những người kém may mắn về vật chất. Người muốn chống lại những cơ cấu xã hội và tôn giáo bất công, nguyên nhân gây nên cảnh khốn cùng cho con người cả về vật chất lẫn tinh thần. Bởi vậy Tin Mừng có một chiều kích giải phóng toàn diện con người. “Người không phải là một nhà cách mạng chính trị, nhưng cuộc sống và cái chết của Người có một chiều kích chính trị, vì Người có những thái độ thách thức và đe dọa những nhà cầm quyền tôn giáo và chính trị” (Dupuis 1995:281).
Cũng thế, Giáo hội không phải là một tổ chức chính trị. Nhưng Giáo hội không thể im lặng trước những cảnh người nghèo bị đàn áp bất công. Vì “thúc đẩy thực hiện công lý và tham gia vào việc biến đổi thế giới là một “chiều kích cốt yếu” của sứ mệnh Phúc Âm hóa của Giáo hội.” (Dupuis 1995:282) Bao lâu còn người nghèo, bấy lâu sứ mệnh Giáo hội càng cấp thiết. Nhân loại hôm nay đang quằn quại dưới những cơ chế tôn giáo và xã hội bất công, người môn đệ Đức Kitô có nghe thấy những tiếng rên siết của bao người bất hạnh đó không? Rao giảng Tin Mừng là đang đem lại mùa xuân cho nhân loại. Mùa xuân đang đến trên quê hương, vì các môn đệ Đức Kitô đang xông pha đem Tin Mừng đến cho tất cả những ai nghèo khổ. Tôi có được kể vào số những môn đệ đó không? Tôi có sẵn sàng đối thoại với mọi người thiện chí và can đảm đối diện với những thách đố thời đại để đem lại hạnh phúc ấm no cho mọi người không?
82. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Hiền
Chúa Giêsu Kitô, "trọn một ngày đời" vì mọi người và cho mọi người.
"Hôm ấy", (chúng ta có thể khẳng định đó là ngày sabbat), các tín đồ Do Thái giáo tập trung đến hội đường để nghe giảng sách Luật. Đó là dịp để Chúa Giêsu thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Chúa Giêsu cũng đến hội đường để chu toàn bổn phận Do Thái giáo, và hơn thế nữa, để chính Thiên Chúa trực tiếp nói với loài người, Thiên Chúa trực tiếp giảng dạy loài người, dựa theo những gì Chúa đã nói trong Kinh Thánh. Như vậy từ sáng đến trưa, Chúa ở trong hội đường để giảng dạy kinh thánh, để giúp mọi người hiểu biết Kinh Thánh.
Chúa nhật, "hôm ấy" của Kitô giáo, mọi tín hữu đến nhà thờ tham dự thánh lễ, nghe giảng Lời Chúa. Xin cho chúng ta hiểu Lời Chúa, thực hành Lời Chúa và giúp anh chị em mình sống Lời Chúa.
Sứ vụ của Chúa Giêsu còn là cứu chuộc nhân loại: "Người lại gần, cầm tay bà mà đỡ dậy". Con người bị mất cuộc sống an nhàn, đời sống yêu thương và phục vụ (Bà mẹ vợ ông Phêrô lên cơn sốt, phải nằm giường). Chúa Giêsu đến gần ngay bên, cầm tay nâng đỡ dậy: Chúa có quyền năng khôi phục lại những gì thiện hảo mà loài người đã đánh mất. Chúa Giêsu có quyền năng Cứu chuộc. Bà lành bệnh và tiếp tục phục vụ anh chị em. Bà sống lại cuộc sống an nhàn, yêu thương và phục vụ.
Chúa cứu chuộc không chỉ một người, mà nhiều người và mọi người ở mọi thời. Thật vậy, "Chiều đến, khi trời đã lặn", người ta mới đem mọi kẻ đau ốm, mắc đủ thứ bệnh tật, kể cả bị quỷ ám... Chúa chữa lành tất cả.
Ước gì tất cả mọi người đã được Chúa Giêsu cứu chuộc, những người đến vào buổi chiều, tất cả chúng ta nữa, sau khi lành bệnh, sau khi được cứu chuộc, cũng biết sống lại cuộc sống an nhàn, yêu thương và phục vụ.
Chúa Giêsu đi đến nơi hoang vắng và cầu nguyện.
Chúa Giêsu rất quan tâm đến giờ cầu nguyện, ví như không thể thiếu trong đời sống của Chúa. Trước khi đi rao giảng: Chúa dùng 40 đêm ngày để cầu nguyện; trước khi chọn 12 Tông đồ: Chúa cầu nguyện thâu đêm; và ở đây, trước khi đi nơi khác: Chúa cũng cầu nguyện suốt đêm. Giờ cầu nguyện của Chúa, ví như việc tiếp thêm nhiều nhiên liệu cho chiếc xe khi phải đi xa, càng xa càng nhiều xăng dầu...
Xin cho chúng ta siêng năng và sốt sắng cầu nguyện: Trước sự việc càng khó, càng cầu nguyện nhiều; càng đương đầu với những tấn công của ma quỷ, chúng ta càng cầu nguyện nhiều hơn. Và trong đời thường cũng biết dành thời gian cầu nguyện: cầu nguyện như nguồn sức sống của chúng ta.
"Mọi người đang tìm Thầy!"
Các môn đệ bày tỏ cái nhu cầu của nhân loại: "Mọi người đang tìm Thầy". Nghe lời giảng dạy của Chúa, chứng kiến việc làm của Chúa, cùng sống chung với Chúa, các môn đệ nhận định: chỉ mình Chúa Giêsu, duy nhất chỉ có Thầy đây mới là Đấng Cứu chuộc nhân loại, không thể là ai khác. Và nếu mất Thầy, thiếu vắng Thầy, người ta không thể làm gì được.
Chúng ta cũng phải khám phá ra trong đời mình: Không thể thiếu vắng Chúa Giêsu. Xin cho mọi người đi tìm gặp Chúa Cứu Thế.
Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác"
Chúa Giêsu ý thức sứ vụ của mình "vì mọi người và cho mọi người". Chúa Cứu thế không phải chỉ cho những người môn đệ Chúa, ở Capharnaum,... Chúa còn phải đi đến những nơi khác, khắp nơi trên thế giới, ở mọi thời đại nữa. Chúa đi và dẫn các môn đệ cùng đi: "Chúng ta hãy đi nơi khác".
Chúng ta là Kitô-hữu, là môn đệ của Chúa, chính chúng ta phải là hiện thân của Chúa, phải nói những lời Chúa nói, phải làm những việc Chúa làm cho những người đang sống ở đây và trong ngày hôm nay.
83. Từ thán phục đến đức tin – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Đoạn này có một phần thuộc về một toàn bộ gọi là “ngày ở Caphácnaum” (1,21-34; xin coi bài CN tuần trước). Nhưng “một ngày ở Caphácnaum” lại thuộc về toàn bộ rộng lớn hơn (1,14-39), trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra tại miền Galilê, đến bờ Biển Hồ, vào thành Caphácnaum, đi đến hội đường, ra khỏi đó, đến chiều thì ra cổng thành, sáng hôm sau thì rời thành để rảo khắp miền Galilê, và cứ thế, “rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ” (1,39). Nói cách khác, Người làm khắp nơi những gì Người đã làm tại hội đường Caphácnaum: giảng dạy và trừ quỷ.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Việc chữa lành mẹ vợ Simôn (1,29-31);
2) Một “bản tóm tắt” về các cuộc chữa bệnh (1,32-34);
3) Một bước đi tới nhằm thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu (1,35-39).
3.- Vài điểm chú giải
- Vừa ra khỏi… (euthys, “tức khắc”) (29): Trạng từ này chỉ có vai trò chuyển mạch, chứ không chỉ về thời gian chính xác, bởi vì từ phép lạ trừ quỷ đến việc chữa bệnh cho bà mẹ vợ Simôn, hẳn là đã có một khoảng thời gian khá dài thì “danh tiếng Người mới đồn ra khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (c. 28). Tác giả thường dùng trạng từ này mà không gán cho nó một ý nghĩa chính xác nào cả (chỉ trong ch. 1 đã có 11 lần: cc. 10.12.18.20.21.23.28.29.30.42 và 43). Ở đây Người đang tìm cách giới thiệu một ngày mẫu trong sứ vụ của Đức Giêsu: “Ngày ở Capharnaum”. Do đó, ta không nắm được thời điểm chính xác của các sự kiện. Nhưng ta có thể cho rằng chuỗi “chữa bà mẹ vợ Simôn – các cuộc chữa bệnh cbuổi chiều” đã có trước cả khi các TMNL được soạn ra, bởi vì chi tiết “chiều đến” đã có cả trong Mc và Mt. Lc đã bỏ trạng từ “tức khắc” (euthys) nhưng giữ lại chi tiết “(rời) hội đường”. Ngài sẽ triển khai chi tiết này thành một đề tài thần học quan trọng và sẽ lặp lại trong sách Cv: khi Đức Giêsu giảng dạy trong một thành phố hay làng mạc nào, Người luôn bắt đầu bằng giảng dạy tại hội đường. Phaolô cũng sẽ làm như thế.
- ra khỏi hội đường (29): Đức Giêsu ra khỏi hội đường không những vì đã đến giờ đóng cửa, nhưng còn vì những người nghe chưa hiểu gì. Họ còn đang hỏi: “Thế nghĩa là gì?” (c. 27), như các môn đệ sau này khi chứng kiến trận bão được dẹp yên: “Vậy người này là ai?” (4,41). Nhưng họ chưa có câu trả lời. Có lẽ đây là một biểu tượng: bao lâu người ta còn ở trong hội đường, người ta không thể trở thành môn đệ của Đức Giêsu được; phải ra khỏi đó như thể thực hiện một cuộc xuất hành mới. Ở c. 39, tác giả dùng một tính từ để phân biệt: “các hội đường của họ”. Ở xa hơn, ngài kể rằng sau khi Đức Giêsu đã làm phép lạ trong hội đường, nhóm Pharisêu bàn tính với nhóm Hêrôđê để tìm cách giết Người (3,1-6). Chính vì thế, Người lánh về phía Biển Hồ: Người đi ra và người ta lũ lượt đi theo Người (3,7). Trước khi xảy ra sự cố bánh hoá ra nhiều, Đức Giêsu cũng lánh riêng ra một nơi và người ta kéo đến với Người (6,32-33). Người còn ra khỏi Đền Thờ và thành Giêrusalem (11,11; 11,19; 13,1). Lc còn nói rõ hơn: lần đầu tiên giảng dạy tại hội đường Nadarét, Đức Giêsu đã phải tránh đi để khỏi bị giết (Lc 4,16-30).
- Đến nhà hai ông Simôn và Anrê (29): Phải chăng tác giả muốn đối lập hội đường với nhà Simôn, được coi như hình ảnh của Hội Thánh? Thật ra, Mc chưa nhắm đến tên “Phêrô” với sắc thái Hội Thánh như Mt và Lc: hai tác giả này chỉ còn nói đến Phêrô mà thôi (x. Mt 8,14; Lc 4,38), nên trong hai bản văn này, ý nghĩa “Hội Thánh” rõ ràng hơn.
- Có ông Giacôbê và Gioan (29): Bốn môn đệ đầu tiên, những người thân tín nhất, được chứng kiến phép lạ. Câu này hẳn là có giá trị như một ngoặc đơn, do chính Phêrô kể cho tác giả Mc.
- Bà lên cơn sốt (30): Pyressousa là phân từ nữ tính của động từ Hy Lạp pyressô, “bị sốt” (trong động từ này, có từ pyr, “lửa”. Trong bản văn song song, Mt 8,15 dùng danh từ hL pyretos, “sức nóng của lửa; sốt cao”). Đối với người xưa, “sốt” không phải là một triệu chứng mà là một bệnh. Sốt, đôi khi đưa đến tử vong, là một trong các hình phạt Đức Chúa (Yhwh) dành cho dân thất trung của Người (x. Lv 26,16). Cũng như cho các chứng bệnh khác, người ta thích gán cho “sốt” một nguồn gốc thuộc ma quỷ (so sánh Lc 4,39 và Mt 8,15 (= Mc 1,31), mà chỉ có việc cầu nguyện và một phép lạ mới thắng được (x. Ga 4,52; Cv 28,8).
Theo viễn tượng này, dân Caphácnaum hẳn là hiểu rằng phép lạ giới thiệu Đức Giêsu là vị sứ giả của Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia đã hứa; vị này sẽ cứu loài người khỏi những nỗi đau buồn, hậu quả của sự dữ luân lý (x. Is 26,19; 29,18t; 33,3; 35,5…). Vậy phép lạ này là dấu cho thấy đã đến thời cánh chung, thời thiên sai: Đức Giêsu đang hành động với chính quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng con người còn phải mất một thời gian mới khám phá ra và chấp nhận được ý nghĩa của dấu chỉ này.
- Người cầm lấy tay bà mà đỡ dậy (êgeiren) (31): Câu này dịch sát là: “Và lại gần, Người đỡ bà dậy sau khi đã cầm lấy tay bà”. Muốn diễn tả một cách thông thường, hẳn là nên viết: “Đức Giêsu cầm lấy tay bà và cơn sốt biến mất; bà trỗi dậy …”. Đấy là kiểu nói của hai tác giả Mt (Mt 8,15: “bà trỗi dậy”, êgerthê, aor. pass. của động từ HL egeirô) và Lc (Lc 4,39: “bà trỗi dậy”, anastasâ, aor 2 của động từ HL anistêmi). Động từ egeirô được Mc dùng ở dạng ngoại động (transitive) có nghĩa là “giúp trỗi dậy”, đã trở thành một từ ngữ chuyên môn để nói về sự sống lại.
- bà phục vụ các ngài (31): Trong bối cảnh của phép lạ hoặc đúng hơn trong bối cảnh của sự tiếp đón Đức Giêsu nhận được tại nhà Simôn, “phục vụ” (HL. diakoneô) trước tiên có nghĩa là chiêu đãi ăn uống (x. Mc 1,13; Lc 8,55). Nhưng ở đây, có thể tác giả Mc đang nghĩ đến chính lời Đức Giêsu nói: “Con Người đến không để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ (diakonêsai)” (10,45). “Phục vụ” không chỉ hệ tại việc phục dịch bàn ăn, nhưng nếu cần, còn hệ tại việc “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (c. 45). Đó là lý tưởng Đức Kitô đề nghị cho những ai Người đã cho sống lại từ cái chết do tội lỗi gây nên.
Riêng Mt lại viết ở dạng số đơn: “bà chỗi dậy phục vụ Người” (Mt 8,15). Câu này đã nới rộng ý nghĩa của động từ: “Phục vụ Đức Giêsu” chính là bước theo Người (x. Mt 25,44: phục vụ những kẻ nghèo hèn bé mọn chính là phục vụ Đức Kitô).
- người ta đem (32): Epheron là động từ Hy Lạp pherô ở thì vị-hoàn (frequentative imperfect), có nghĩa là “người ta vẫn cứ đem, tiếp tục đem”.
- mọi kẻ ốm (32): Rõ ràng không thể hiểu theo nghĩa đen những câu khẳng định tuyệt đối như thế (x. Mt 8,16; Lc 4,40). Chúng ta biết là Đức Giêsu không chữa tất cả mọi người đau ốm; Người đòi hỏi đức tin. Cũng vì thế mà Mc không đi xa hơn nữa, Người viết: “Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau” (c. 34). Tuy nhiên, theo não trạng Sê-mít, “nhiều” cũng có nghĩa là “tất cả”.
- Cả thành (33): Có lẽ đây cũng là một kiểu nói phóng đại, tổng quát hoá. Tuy nhiên cũng có một sự kiện thường xảy ra: truyền thống nhiều lần kể rằng người ta không thể đi qua cửa nhà bởi vì người quá đông, đành phải kéo người bệnh lên mái nhà mà thòng xuống (2,1-4) hoặc phải nhờ người báo tin vào trong (3,32).
- Quỷ (34): Từ daimôn xuất hiện 3 lần trong Mc 1,32-34 và thêm một lần nữa ở c. 39. Đây là mối bận tâm lớn của Mc. Đức Giêsu đã đến để đánh đuổi quỷ và giải thoát loài người khỏi quyền lực chúng. Ngay từ đầu, vị Tẩy Giả đã giới thiệu Đức Kitô như Đấng “mạnh hơn” (1,7). Người đã khởi đầu sứ vụ bằng một chiến thắng trực tiếp trên Satan (1,12-13). Ngay khi Người lên tiếng rao giảng, một kẻ bị quỷ ám đã tìm cách ngăn chận Người, nhưng quỷ đã bị trục xuất (1,23-27). Trong phần Kết (“Kết dài”), dấu chỉ đầu tiên thuộc về người môn đệ hệ tại việc “trừ quỷ” (16,17). Trong viễn tượng này, mọi bệnh tật đều do ma quỷ gây nên, mọi cuộc chữa lành bệnh tật đều là một chiến thắng trên quỷ. Chúng ta cũng ghi nhận là Mc không cung cấp một định nghĩa nào về ma quỷ, cũng không nói chúng là loại hữu thể nào; nhưng đọc các mô tả của ngài, ta ghi nhận ba nét tiêu biểu của ma quỷ: 1) chúng có thể chi phối loài người; 2) chúng biết chân tính của Đức Giêsu và biết Người là kẻ thù của chúng; 3) chúng vâng phục Satan (3,22-26) là kẻ ở trong sa mạc đã cám dỗ Đức Giêsu (1,13) và hành động chống lại hoạt động của Đức Giêsu (4,15).
- không cho quỷ nói (34): Tác giả Mc trở lại với lệnh giữ bí mật (thiên sai) như trở lại với một đề tài ưa chuộng. Quỷ tức khắc nhận ra đối thủ của chúng, nên chúng đã gầm thét lên có thể vì muốn chiếm thế “thượng phong”, nhưng chắc chắn vì sợ hãi, vì đã thấy trước thất bại, khi đứng trước Đấng Thiên Chúa sai phái đến (x. 3,22-27). Đối với dân chúng, Đức Giêsu tự mạc khải ra cho họ cách tiệm tiến bằng cách cho họ thấy những dấu chỉ chứng tỏ quyền lực của Người trên những chứng nan y (1,40-45), trên tội lỗi (2,5-12), trên ngày sa-bát (2,28), và cuối cùng trên sự sống (ch. 15–16). Tuy nhiên, người ta tiến rất chậm.
Như vậy, một hành vi đức tin đặt nơi Đức Giêsu chỉ thực sự có giá trị khi nó hàm chứa một hiểu biết đầy đủ về sứ mạng và công việc của Người, đặc biệt hiểu rằng Người phải chết và sống lại để hoàn tất công việc này.
- Người đi cầu nguyện (35): Tác giả Lc sẽ nói nhiều hơn về điểm này. Mc không cho biết đối tượng hoặc nội dung của lời cầu nguyện của Đức Giêsu, nhưng mẩu đối thoại sau đó hé cho chúng ta thấy được chiều hướng Đức Giêsu theo khi cầu nguyện: đối thoại với Cha Người về sứ mạng Người đang thực hiện.
- vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó (38): Phải chăng đây là ra đi khỏi Caphácnaum hay là rời cung lòng Chúa Cha mà đến trần gian (nghĩa Ga: Ga 16,28; x. Lc 4,43)? Chắc là Mc vẫn còn đang ở gần các sự kiện đã xảy ra: Đức Giêsu không muốn mình bị cuốn hút bởi thành công. Sau này cũng thế, sau khi nhân bánh ra nhiều, Người lại rút lui vào cô tịch để tránh dân chúng và để đặt mình vào trong kế hoạch của Chúa Cha (Mc 6,46; x. Mt 14,23; Ga 6,15b). Cơn hấp hối tại vườn Ghếtsêmani cho thấy rõ điều này. Các môn đệ, và đặc biệt Phêrô, tỏ ra ngỡ ngàng, vì các ông chưa hiểu sứ mạng của Thầy.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Việc chữa lành mẹ vợ Simôn (29-31)
Tại nhà Simôn, Đức Giêsu đã chữa mẹ vợ ông khỏi sốt cao. Như thế, Người cho thấy Người làm Chúa tể trên một thứ tai họa khác của loài người, đó là bệnh tật. Nhưng trong nhãn quan của TM II, bệnh tật cũng là do ma quỷ, nên chữa lành bệnh tật cũng là chiến thắng trên ma quỷ. Ở đây, chúng ta ghi nhận là lần đầu tiên Đức Giêsu chữa lành bệnh tật là cho một phụ nữ, trong khung cảnh đơn sơ và thân tình của một ngôi nhà và của một gia đình. Bằng chứng cho thấy bà này đã thực sự được lành bệnh là bà đã ân cần chu đáo phục vụ các khách quý. Cũng như Đức Kitô đã đỡ bà mẹ vợ Simôn trỗi dậy khi mà bà đang bị cơn sốt bắt nằm bất động như một người đã chết, Người cũng nâng chúng ta dậy, cho chúng ta sống lại, để chúng ta có thể phục vụ Người (x. thêm 9,27).
* Một “bản tóm tắt” về các cuộc chữa bệnh (32-34)
Hành vi đó của Đức Giêsu trong ngày đầu tiên hoạt động công khai đưa tới hậu quả là dân chúng hiểu là khi ở trong tình trạng quẫn bách, họ có thể trông mong được ai giúp đỡ. Khi chiều đến, họ đưa tất cả mọi bệnh nhân và những người bị quỷ ám đến với Người. Đức Giêsu như bị cả một đại dương đau thương và bần khốn vây quanh và tấn công; toàn thể niềm hy vọng được đặt để nơi Người. Người có thể đương đầu với tình trạng quẫn bách này. Người có khả năng giúp đỡ và trong thực tế Người đã giúp đỡ.
* Một bước đi tới nhằm thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu (35-39)
Vì Đức Giêsu đã đánh thức và củng cố lòng tin tưởng của dân chúng, không lạ gì khi chúng ta thấy họ muốn giữ Người lại và như thế chắc chắn là luôn luôn có sự trợ giúp của Người. Nhưng Đức Giêsu tránh khỏi tay họ: từ sáng sớm, Người đã vào nơi hoang vắng để cầu nguyện. Và Người không để cho người ta cầm giữ lại. Người biết rằng nhiệm vụ của Người không phải là trợ giúp thường xuyên dân Caphácnaum, nhưng là loan báo trong toàn miền Galilê rằng Triều Đại Thiên Chúa đã gần kề.
+ Kết luận
Tuy các nhà chuyên môn vẫn nhìn nhận TM Mc là một bản kêrygma hơn là một sách huấn giáo, điều này không có nghĩa là tác giả nói về đức tin cách hời hợt. Trái lại, ngài rất đòi hỏi. Chính vì thế, ngài đã có một khoa sư phạm đáng phục: giúp độc giả tiếp cận với mầu nhiệm Đức Giêsu tiệm tiến. Ngài hiểu rất rõ là đức tin sẽ đưa người ta đến sự đổi đời với những dấn thân quan trọng. Phải chăng Phêrô đã nhấn mạnh như thế, sau khi trải qua kinh nghiện đau thương? Nhưng cũng chắc chắn là bởi vì vào lúc TM II được soạn thảo, các hoàn cảnh trong đó các Kitô hữu đang sống là những hoàn cảnh rất khắc nghiệt, đòi hỏi người ta phải cương quyết gắn bó với Đức Kitô cho đến chết.
Đoạn Tin Mừng này cũng nhắc các Kitô hữu nhớ đến sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng, bên ngoài những lãnh thổ quen thuộc.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Cũng như ở Caphácnaum, Đức Giêsu đã tiếp nối lời giảng dạy uy quyền bằng việc trừ quỷ, Người tiếp tục nối tiếp lời loan báo bằng việc dùng uy quyền trục xuất các sức mạnh đang đối kháng lại Thiên Chúa và hành hạ loài người. Lời nói của Người được chứng thực bằng việc làm của Người.
2. Liên kết giữa loan báo và hành vi quyền lực nhằm chữa lành cũng là đặc điểm của hoạt động của các tông đồ (3,14t; 6,12t). Việc loan báo Triều Đại Thiên Chúa được củng cố bằng hành động hữu hiệu dựa trên sức mạnh vô song của Thiên Chúa.
3. Gương Đức Giêsu đi cầu nguyện khiến chúng ta phải xem lại cách chúng ta đánh giá ý nghĩa của việc cầu nguyện cũng như những tiêu chuẩn giúp chúng ta sử dụng thì giờ. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn dùng thì giờ mà làm cho mình được tự do để sống cho Thiên Chúa, các động lực đang nâng đỡ hoạt động của chúng ta rất có thể cần được xét lại. “Nếu Đấng không có tội mà còn cầu nguyện như thế, những lẻ tội lỗi còn phải cầu nguyện đến thế nào. Nếu Người đã thức qua đêm mà cầu nguyện liên lỉ, chúng ta phải cầu nguyện liên lỉ và cũng phải canh thức đến độ nào” (Thánh Xýprianô).
4. Cũng nên coi lại giá trị chúng ta gán cho sự thinh lặng, sự yên tĩnh, sự cô tịch. “Chính Đức Giêsu, với sức mạnh không cần được nâng đỡ trong một cuộc tĩnh tâm, cũng không bị ngáng trở bởi xã hội loài người, đã quan tâm để lại cho chúng ta một gương sáng. Trước khi thực hiện sứ vụ rao giảng và làm phép lạ, Người đã vào nơi cô tịch chịu thử thách cám dỗ và nhịn đói (Mt 4,1t). Kinh Thánh kể lại cho chúng ta rằng, Người đã bỏ lại đó đám đông môn đệ, mà leo lên núi để cầu nguyện (Mc 6,46). Rồi khi giờ Thương Khó đã đến gần, Người bỏ các môn đệ, và ra đi cầu nguyện một mình (Mt 26,36): gương sáng này giúp chúng ta hiểu sự cô tịch có lợi cho việc cầu nguyện đến thế nào, bởi vì Người không muốn cầu nguyện bên cạnh các bạn đường, ngay cả các tông đồ.
Không được bỏ qua một mầu nhiệm liên hệ đến tất cả chúng ta như thế. Là Đức Chúa, là Đấng Cứu Độ loài người, Người đã cung cấp nơi bản thân một gương sáng sống động. Một mình nơi hoang địa, Người chỉ lo cầu nguyện và tập tành đời sống nội tâm – ăn chay, canh thức và những hoa trái khác của việc sám hối – nhờ đó thắng vượt các cám dỗ của Đối Thủ bằng vũ khí của Thánh Thần.
Lạy Chúa Giêsu, con chấp nhận rằng ở bên ngoài, không có ai ở với con; nhưng là để cho ở bên trong, con ở với Chúa hơn nữa. Khốn cho con người ở một mình, nếu bạn không ở một mình với Người! Và có biết bao người ở trong đám đông mà lại thật sự cô độc, bởi vì họ không ở với Chúa. Con mong muốn rằng, không bao giờ cô độc, nhờ ở với Chúa. Vào lúc này, không có ai ở với con, thế nhưng con không cô độc: con là một đám đông với chính con” (Guigues le Chartreux, 1083-1136).
84. Tình thương cứu chữa
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng dạy và làm phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc khải rõ ràng Ngài là ai, cho nên, trước con người của Ngài, nhiều người ngỡ ngàng, không biết xếp Ngài vào hạng người nào: Ngài có phải là một nhà chuyên môn làm phép lạ không? là một ngôn sứ, là Ê-li-a hay là một Mê-si-a, cứu tinh của dân tộc Do Thái? Trong khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, vì Ngài biết người Do Thái đang quan niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị dùng việc làm để minh chứng dần dần sứ mệnh của Ngài, một trong những việc làm đó được kể lại trong bài Tin Mừng: Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông Phê-rô và tất cả những bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những việc Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu trên các bệnh nhân.
Thiên Chúa tạo dựng con người và Ngài có quyền trên thân xác và linh hồn con người, có quyền trên thân xác tức là có quyền trên bệnh tật, Ngài có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật dễ dàng, giống như một kỹ sư chế tạo ra một cái máy, chắc chắn ông là người hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ dàng sửa chữa những trục trặc nơi con người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi con người.
Riêng phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của Phê-rô khỏi bệnh sốt rét có ý nghĩa gì? Chúng ta khó hiểu được ý Chúa muốn gì khi làm phép lạ này. Nếu hiểu rằng mỗi phép lạ Chúa làm thường là để tăng cường lòng tin, thì ở đây cũng thế, Chúa muốn tăng cường lòng tin của gia tộc Phê-rô và nhất là đối với Phê-rô. Đàng khác, nếu xét về quan niệm của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là hình phạt của Thiên Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ làm, thì Chúa Giêsu làm phép lạ này để minh chứng cho mọi người biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ I-sai-a đã loan báo, là Đấng đến để cứu gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ bởi tội lụy, bởi điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét tượng trưng cho nhân loại đã bị thần dữ làm kiệt quệ đến sống dở chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được. Hơn nữa, phép lạ này cũng diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào của Chúa cũng là tình yêu, nhưng ở đây thể hiện rõ hơn: nơi đâu Chúa Giêsu đến rao giảng thì ở đó những con người khổ đau đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu và được cứu chữa. Đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.
Phần đông chúng ta không thể mang lại sức khỏe thể xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn cho những anh em bệnh tật, điều đó đã có các bác sĩ, y tá, nhưng chúng ta có một cái gì sâu xa hơn, quý giá hơn để mến tặng những anh em ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta đem lại cho họ một niềm hy vọng, cống hiến cho họ một chân lý khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại cho họ sự an ủi chân thật.
Chẳng hạn như lời tự thuật của một người kia đã kể cho linh mục Sam-sông và linh mục này đã kể lại trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quì gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quì làm gì thế?”, chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi con người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Một thí dụ khác, bác sĩ Long-ghê là một người Pháp đã từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đu-lây, người Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương bệnh nhân như vậy? vì sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết? Ông trả lời: “Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh”. Mỗi sáng khi đi dự lễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Long-ghê trở về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.
Nếu chúng ta không bắt chước được bác sĩ Long-ghê, thì chúng ta có thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên, cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hãy đi thăm hỏi, an ủi những bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và giảm sút lòng tin…chúng ta hãy cảm thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng không hề bệnh tật gì, đã mang lấy bệnh tật của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi hay làm cho họ phải thất vọng, đau khổ, nhưng Chúa đã an ủi, thương yêu cứu chữa họ, vì thế, chúng ta hãy đến với các bệnh nhân, họ rất cần đến tình thương, chúng ta hãy đem tình thương đến cho họ.
85. Chú giải của Noel Quesson
Hôm nay, chúng ta tiếp tục suy niệm về “Ngày hoạt động của Chúa tại Caphácnaum”. Đó là ngày đầu tiên trong đời sống công khai thi hành tác vụ của Đức Giêsu: ta thấy Người giảng dạy, giải thoát con người khỏi quỷ ám hại, chữa lành người bệnh và cầu nguyện. Đó cũng là bản tóm lược toàn thể hoạt động của Kitô hữu.
Vừa ra khỏi Hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê, có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo.
Sau khi đã giảng dạy và làm mọi người ngạc nhiên, sau khi đã giải phóng cho một người bị quỷ ám đáng thương, Đức Giêsu rời khỏi Hội đường, ndi họp mặt chung, để đi đến một tư gia, nhà hai anh em Simon và Anrê. Tôi hình dưng ra Đức Giêsu đang bước đi trên đường phố, cùng với bốn môn đệ đầu tiên của Người, vì hai ông Giacôbê và Gioan cũng có mặt ở đó, ngày nay cũng vậy, tác động của Thiên Chúa được thể hiện khắp nơi, trong mọi lãnh vực của cuộc sống: Tôn giáo cũng như trần thế, công cộng cũng như tư riêng. Lạy Chúa, Chúa ở với chúng con trong nhà thờ, Chúa hiện diện cùng chúng con ngoài đường phố, trên các quảng trường, và ngay trong nhà chúng con.
Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt, nằm trên giường.
Người ta lấy làm ngạc nhiên, vì trong Tin Mừng, có rất nhiều lần Đức Giêsu chữa lành người bệnh. Ngày xưa, bệnh tật mang một ý nghĩa tôn giáo và người chữa trị thuộc lãnh vực y khoa. Tuy nhiên, dù trước mọi tiến bộ về y học, bệnh tật và đau khổ vẫn đeo bám con người và tiếp tục đặt con người vào một tình trạng rất đáng sợ. Ngay giữa nền văn minh kỹ thuật của chúng ta, một "dấu hiệu” biểu lộ sự yếu đuối của thân phận con người vẫn còn luôn như trước: đó là con người có thể chịu những rủi ro xảy đến cách đột ngột bất ngờ. Trong thâm tâm, ai mà không sợ một số những chứng bệnh mà người ta không dám nhắc đến tên? Bệnh tật luôn mâu thuẫn với ý muốn sống yên ổn và bền vững trong tâm lý mọi người. Chỉ cần một cơn sốt nặng cũng đủ quật ngã con người mạnh nhất và buộc họ phải ngưng làm việc không còn trầm trọng hơn, khi mọi người chúng ta đều thừa biết rằng, một ngày nào đó ta sẽ gặp một bệnh mà không thầy thuốc nào chữa nổi.. Mọi bệnh tật đều mang "dấu” của tử thần: đó là biểu tượng của thân phận con người mỏng dòn và ta không thể tránh được.
Họ liền nói cho Người biết bà đang đau ốm. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy.
Thái độ cầu nguyện đầu tiên trước cảnh trên, đó là cần chiêm niệm, như thế chúng ta đang hiện diện tại đó. Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu bước vào nhà. Tôi lắng nghe những gì người ta đang trình bày với Người. Tôi hình dung ra Người đang tiến gần tới người bệnh, cầm tay bà ta. Đó là những cử chỉ đầy thân tình, nghĩa thiết và nhân ái. Thần học quả quyết với ta rằng, mỗi bí tích là một "cử chỉ của Đức Kitô". Một bài thánh ca thường ngợi khen bàn tay của Đức Giêsu đã "làm những việc kỳ diệu”. Đúng vậy, đặc tính hiện thực của việc nhập thể đã đi đến mức độ đó. Hôm nay, tôi thích chiêm ngắm bàn tày của Đức Giêsu đang nằm bàn tay nóng ran vì cơn sốt của người bệnh. Lạy Chúa, nơi một cách biểu tượng, Chúa- cũng đang nắm bàn tay con như thế, để chữa lành các "cơn sốt". Khi rước lễ, con cầm Chúa trong bàn tay con. Nhưng thính Chúa cũng đang nắm tay con.
Người đỡ bà dậy. Bà liền hết sốt và lo tiếp đãi các Người.
Khi đọc câu này trong bản văn Hí Lạp, cũng do Máccô trước tác, ta cần lưu ý Máccô đá sử dụng ở đây, từ "ègeire", có nghĩa là "làm cho sống lại". Ong cũng dùng một từ đó để diễn tả việc Chúa cho con gái ông Giarô sống lại: "Hãy chỗi dậy!" (Mc 5,41), và kể lại việc phục sinh của Đức Giêsu (Mc 12,26, 16,6). Do đó, đối với Mác-cô, việc chữa bệnh cách cụ thể trên là một “dấu chỉ" theo nghĩa mạnh, một thứ- biểu trung ngôn sứ báo trước nước Thiên Chúa vĩnh cửu. Khi sẽ chẳng còn "tang chế, kêu than, đau khổ, khi Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ và chiến thắng sự chết" (Kh 21,1-4) Ngay trong thời Người, tại Galilê, chắc chắn Đức Giêsu đã không chữa lành hết mọi bệnh nhân. Người chỉ chữa lành một số người tiêu biểu, như một thứ việc làm trước cho "Thời cánh chung": chỉ khi đó con người mới được "cứu độ" thực sự, nghĩa là không còn sự chữa lành tạm thời một cơn sốt thoáng qua, mà chính là sự sống lại. Việc chữa lành đích thực mà Đức Kitô muốn cống hiến, đó là đi từ tình trạng "không tin" đến tình trạng "tin": kẻ nào đón nhận đức tin nơi Đức Giêsu, thì đã biết rằng mình sẽ được cứu thoát khỏi sự chết rồi. Lúc đó, họ sẽ "chỗi dậy" để "phục vụ”.
Sự dữ mà Đức Giêsu nhắm theo đuổi còn thâm sâu hơn là bệnh tật tác hại trên thân xác. Đó là tâm hồn, đó là trung tâm" của người bị bệnh... khi họ không "phục vụ” anh em mình. Khi nói người bệnh chỗi dậy và bắt đầu "tiếp đãi” Máccô muốn nói với ta nhiều hơn là những cử chỉ bề ngoài ông diễn tả. Ong nhớ đến từ “phục vụ” mà ngày nào đó Đức Giêsu đã gán cho ý nghĩa là “thí ban mạng sống mình": "Con Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45). Lạy Chúa, xin Chúa dùng Mình Chúa chữa lành tâm hồn con người hôm nay. Xin cứu giúp con để con biết đặt Thiên Chúa lên trên hết, biết đặt "kẻ khác" lên hàng đầu, xin cứu giúp con để con biết "phục vụ', "hiến dâng mạng sống" và yêu thương!
Chiều tối, khi mặt trời đã lặn, dân chúng đem một kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người chữa. Cả thành xúm lại trước cửa nhà. Đức Giêsu chữa đủ thứ bệnh và trừ rất nhiều quỷ.
Có thể nói, cùng một tác động, Đức Giêsu vừa chữa bệnh, vừa biểu dương quyền năng của Người trên Sa-tan, hiện thân của sự dữ. Vâng, đối với Đức Giêsu, sự dữ chủ yếu là phải xa cách Thiên Chúa: do đó, chính tội lỗi mới là bệnh tật thật sự của chúng ta. Bệnh viện được trang bị đầy đủ nhất nhân viên y tế tài năng nhất, cũng không bao giờ thay thế được tình yêu, một yếu tố mà người bệnh còn cần hơn cả thuốc thang.
Ngày nay, cũng như thời Đức Giêsu, trong tâm hồn con người luôn có một điều gì đó cần phải được chữa trị, và trong công cuộc văn minh hóa người ta cần phải thực hiện một sự điều chỉnh đúng đắn.. Không có căn bệnh nào trầm trọng đối với việc phát triển "đô thành trần thế" (bệnh viện cũng như mọi công trình khác) hơn là thứ "chất độc" do tội lỗi đem vào thế gian. Điều đó không có nghĩa là phủ nhận tiến bộ, hay những kỹ thuật chữa bệnh! Nhưng chỉ muốn nói lên, cần phải cho chúng một tâm hồn: Đó là tình yêu. Và Đức Giêsu đã thể hiện điều này tại đó! Lạy Chúa, xin dùng Mình và Máu Chúa, chữa lành tâm hồn con người hôm nay.
Người trừ rất nhiều quỷ, nhưng lại cấm quỷ không được nói gì, vì chúng biết Người là ai.
Đề tài “Bí mật thiên sai" lại xuất hiện ở đây lần thứ hai trong cùng một ngày (Mc 1,25 và 1,33). Đức Giêsu không muốn người ta làm sai đi ý nghĩa sứ vụ của Người.
Người buộc mọi người phải giữ im lặng, không được nói quá sớm Người là "Con Thiên Chúa". Đã có quá nhiều ý kiến sai lầm về Đấng Mê-si-a, về Thiên Chúa đang được phổ biến. Người ta quá để ý kiếm tìm vẻ kỳ diệu bề ngoài.
Người ta chỉ chạy đến với Chúa, như với một "người chữa bệnh" đến thuần. Tuyên bố quá sớm Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a, là con Đấng Toàn năng, mà không biết chính Người sẽ phải chịu đau khổ và phải chết, thì kể như nói mà không biết điều mình phát biểu, và như thế có nguy cơ sẽ chối Đức Giêsu, khi chứng kiến thực tế của thập giá. Thiên Chúa không phải là "toàn năng" theo nghĩa chúng ta thường hiểu.. Vì yêu thương, Chúa đã tự trở thành “hoàn toàn yếu đuối" đối với chúng ta... bởi vì Người là "tình yêu toàn năng". Nếu ông là Con Thiên Chúa, ông hãy xuống khỏi thập giá đi... Chúng ta luôn nghĩ rằng, chắc hẳn Thiên Chúa phải chứng tỏ Người là "Ai" chứ! Đúng vậy Người đã minh chứng điều đó: Người là Tình yêu vô biên, tình yêu đi đến tận cùng của thái độ "phục vụ”... Tôi đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống! Trong khi chờ mọi giây phút Thiên Chúa tỏ mình ra trên thập giá, cần phải im hơi lặng tiếng.
Lạy Chúa, xin giúp con chấp nhận Chúa đúng như con người của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con hiểu rằng, Chúa không muốn "quyền năng" theo nghĩa trần gian... "bởi vì cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người, và cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người" (l Cr 1,25).
Sáng sớm hôm sau, lúc trời còn tối mịt, Đức Giêsu đã dậy, đi ra một nơi vắng vẻ mà cầu nguyện.
Ngay đêm đầu tiên mà Simon Phêrô trải qua bên cạnh Đức Giêsu, ông đã khám phá ra điều "cốt yếu” sau đây: đó là đối với Đức Giêsu, điều quan trọng là "Gặp gỡ Chúa Cha".
Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm Người...
Vào sáng sớm; khi bóng đêm còn mù tối, trước lúc rạng đông, Đức Giêsu đã ra khỏi căn nhà mà Người đã nghỉ đêm. Người rời thành Caphácnaum. Hãy ngắm nhìn Người bước đi trên cánh đồng, dưới bóng đêm. Người tìm bầu khí cô tịch, sự yên lặng người lánh mình, đi đến "một nơi hoang vắng". Người dừng chân. Người phủ phục. Người cầu nguyện. Đức Giêsu đang hiện diện ở đó, chính là nhân loại đang ở "bên cạnh Chúa Cha", chính là nhân loại đang ở “gặp gỡ Thiên Chúa". Chính trong khung cảnh đó các bạn hữu cần đến tìm kiếm Người.
Câu Tin Mừng trên đây không phải là một chi tiết bình thường. Đó là một bí quyết, một kết luận, một điểm nóng bỏng của "ngày sống đầu tiên trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Nhờ đó, Người đang "kêu gọi" ta, nhưng "trong yên lặng": ý nghĩa của đời sống bạn là ở nơi Thiên Chúa... Căn bệnh trầm trọng nhất của bạn, là bệnh tật làm bạn xa rời Thiên Chúa.
Kẻ nào biết "ẩn mình trong Thiên Chúa" nơi hoang địa là một người được cứu độ.
Lúc đó, mọi cơn sốt và ngay cả sự chết, cũng không thể tác hại được họ nữa.
Này bạn, người anh em đang mang bệnh của tôi...
Này bạn, người anh em đang gặp thử thách trong tâm hồn... bạn có biết nhận ra "tin vui" được chữa lành, ngay giữa cơn thử thách của bạn không?
Khi gặp Người, họ thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy"' Người bảo họ: “Thôi chúng ta đi nơi khác, đến các làng xã xung quanh, để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở những nơi đó nữa, vì Thầy đến cốt để làm việc đó.
Vâng, lạy Chúa Giêsu, xin hãy nói lại cho chúng con, xin hãy nói lại cho mọi người Tin Mừng của Chúa. Xin cứu giúp chúng con. Xin chữa lành chúng con. Và xin hãy làm cho chúng con, cùng với Chúa, trở nên những sứ giả, những người phục vụ cho công cuộc Phục sinh.
86. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
Chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô (1,29-31)
Hoạt động thứ hai này của Chúa Giêsu có thể được xem như một sự kiện “nho nhỏ” mà do tính cách vắn gọn Maccô đã lồng vào tiếp theo trình thuật đi trước. Quang cảnh này đã được Maccô tháp vào chuỗi trình thuật mang tựa đề “Cái ngày Chúa Giêsu rao giảng ở Caphanaum” khởi đầu nơi chương 1,21 và kết thúc ở chương 1,32-34. Câu chuyện xảy ra bên cạnh hội đường nơi Chúa Giêsu vừa tham dự nghi thức phụng vụ, đây là một ngày Sabbat. Theo quy định của luật, vào ngày này, người ta chỉ được phép di chuyển trong phạm vi luật cho phép. Chính tại căn nhà của Simon và Anrê, trong bầu khí thân mật gia đình của bốn người môn đệ đầu tiên, Chúa Giêsu sẽ thực hiện hành vi chữa trị của Ngài (1,16-20). Các tình huống được ghi lại thật gọn gàng: nhạc mẫu của Simon bị sốt đang nằm tại giường (c. 30a). Maccô không mô tả chính xác bà cụ sốt vì lý do gì. Tình trạng có lẽ xem ra không nặng, dầu vậy cũng gây phiền hà bởi vì rõ ràng không thể chờ đợi lâu hơn, “họ liền nói cho Ngài biết bà đang đau ốm” (c. 30b). Không thấy đề cập rõ đến người can thiệp cũng như cách thức can thiệp, tuy nhiên ở đây hàm ẩn tiến trình của đức tin: Chính vì biết Chúa Giêsu có quyền phép trị bệnh nên đám bạn hữu Ngài đã xin Ngài can thiệp. Chẳng nói một lời, Chúa Giêsu chỉ làm một cử chỉ đơn giản là nắm tay bà cụ giúp bà chỗi dậy (c. 31b). Thật khác xa với các trình thuật thời đó, các thầy trị bệnh ít nhiều thuộc dạng phù thủy, thường dùng sức mạnh của lời nói hoặc các công thức nghe rất kỳ quái. Ở đây, sự việc xảy ra hoàn toàn kín đáo, cơn bệnh tan biến ngay tức khắc (c.31c). Bà cụ lập tức hồi phục hoàn toàn, bởi vì Tin Mừng ghi nhận bà cụ có thể bắt đầu phục vụ Chúa Giêsu và các bạn Ngài.
Vì thiếu khía cạnh huyền diệu, trình thuật này xem ra khó hiểu đối với não trạng người thời nay. Để nắm rõ được đây là hành vi có liên quan đến sứ mệnh “Mêsia” của Chúa Giêsu, chúng ta phải biết rằng, theo tâm thức của người xưa, bệnh tật được quan niệm như là một dấu chứng của tội lỗi. Nói chính xác hơn, suốt lịch sử Cựu Ước, cơn sốt luôn được nga hình dung như những một trong những hình phạt Chúa đe sẽ gởi đến cho đám dân bất tín bất trung của Ngài: “Nếu các ngươi phế bỏ Lề Luật của Ta, nếu các ngươi đi ngược các tập tục Ta ban, không mang ra thực hành các huấn lệnh của Ta và như thế là cắt đứt Giao Ước với Ta thì này đây Ta sẽ giáng cho các ngươi sự kinh khủng, bệnh hoạn và sốt rét làm hư mòn con mắt và nhọc mệt tâm hồn” (Lv 25,15-16a, xem thêm Đnl 28,22).
Vào thời Chúa Giêsu, người ta dễ dàng gán cho cơn sốt tính cách quỷ nhập. Chính vì thế mà sử gia Luca đã tường thuật việc chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô giống như một cuộc trừ quỷ (Lc 4,39). Như thế, theo Maccô, chắc chắn cử chỉ Chúa Giêsu đối với bà cụ này minh họa quyền năng của Ngài trên các quyền lực Sự Dữ và Sự Chết. Đây chính là Đấng Mêsia mang đến các dấu chỉ về Vương Quốc của Thiên Chúa đang đến.
Tuy nhiên cần phải đi xa hơn. Nhằm mục đích ngỏ lời với cộng đoàn Kitô hữu của mình, Maccô đã đọc lại biến cố này dưới nah sáng của Chúa Giêsu Phục Sinh. Chính cách dùng một công thức diễn đạt của Maccô đã hé lộ cho thấy điều đó. Trong tiếng Hy Lạp, động từ trong câu Maccô sử dụng khi viết: “Ngài đỡ bà ấy dậy” (c.31b) cũng chính là động từ sau này Maccô sẽ dùng để nói về Chúa Giêsu: “Ngài đã chỗi dậy (sống lại) (16,6)”. Quả thế, phải đặt mình trong bối cảnh các Kitô hữu ấy, Chúa Giêsu không phải chỉ là một người chữa bệnh lừng danh khi Ngài mới bắt đầu sứ vụ. Qua việc Ngài sống lại, Ngài còn được nhìn nhận như “Đức Kitô và như vị Chúa Tể” (Cv 2,36) Đấng hằng ngày tiếp tục cứu vớt kẻ tội lỗi, lôi họ ra khỏi cõi chết. Ngài là Đấng Cứu Độ làm cho kẻ từng bị sự ác đè xuống được đứng dậy. Và khi cho thấy bà cụ được khỏi bệnh lập tức ấy liền bắt đầu phục vụ các vị khách của bà (x. c. 31c), chắc chắn Maccô nghĩ ngay đến việc các Kitô hữu được mời gọi “phục vụ” Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế không ngừng giải thoát các tín hữu Ngài khỏi sự dữ để sắp đặt họ vào công việc của Ngài.
Chúng ta được mời gọi thường xuyên đọc lại trang Tin Mừng này dưới hai cấp độ. Trước hết đây là hành vi có tính lịch sử của Chúa Giêsu. Người ta cảm nhận rõ ràng chiều kích lịch sử của biến cố được tường thuật. Tuy nhiên cấp độ thứ hai còn quan trọng hơn. Chúng ta phải đọc lại các hành vi cử chỉ của Chúa Giêsu được ghi chép cho cộng đoàn Kitô hữu, dưới ánh sáng Phục Sinh của Ngài, lúc bấy giờ, chúng ta sẽ luôn đặt niềm tin vào vị “Chúa Tể” hiện vẫn đang hoạt động nhằm cứu độ Giáo Hội cũng như trần gian.
Câu chuyện chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô đã gây thú vị rất nhiều cho những sử gia muốn tìm kiếm các chi tiết thấy nơi trình thuật trên một “kỷ niệm tận mắt” của nhân chứng Phêrô. Qua câu chuyện này người ta biết được vị thủ lãnh tương lai của nhóm Mười Hai (3,16) lúc ấy đã có vợ. Chẳng biết là hành động phục vụ Chúa Giêsu và các bạn Ngài của nhạc mẫu Phêrô lúc đó vắng mặt hay đã qua đời không? Chúng ta không thể biết được; và cũng không thể dựa vào chứng lý của Phaolô (trong 1Cr 9,5) là Phêrô có dẫn theo vợ Ngài trong khi thi hành sứ vụ, để giải đáp vấn nạn được nêu ra.
Một thành công rực rỡ (1,32-34)
Đoạn văn ngắn gọn này được ví như “bản tóm tắt” các hoạt động của Chúa Giêsu kể từ khi Ngài khởi đầu sứ vụ. Nó kết thúc một chuỗi sự kiện được Maccô chú ý ghi lại dưới tựa đề “Cái ngày tại Caphanaum” (bắt đầu với 1,21). Maccô muốn nhấn mạnh sự thành công rực rỡ trước đám đông của Chúa Giêsu với tư cách người chữa bệnh và trừ tà (c. 32-33). Hẳn người ta ngạc nhiên vì số lượng đông đúc người tuốn đến. Khi nói rằng “cả thành”, Maccô chắc chắn đã khuếch đại biến cố này để mang lại cho nó trọn vẹn mọi chiều kích. Thông qua các nguồn tài liệu liên quan đến dân Do Thái cũng như dân ngoại thời Chúa Giêsu, người ta được biết rõ là đám quần chúng bình dân rất háo hức xem phép lạ. Ngoài các loại thuốc thang thông thường rất đắt mà lại không hiệu quả cao (x. 5,26), dân chúng còn tìm đến đủ thứ thầy trị bệnh, thầy trừ tà, thầy pháp…
Nhờ khả năng điều trị phi thường nên Chúa Giêsu đã mau chóng được lừng danh (c.34a), chẳng một ai dám nghi ngờ Đức Giêsu Nadaret là một mẫu người đặc biệt có tài hấp dẫn, mê hoặc kẻ khác. Một truyền thống sau này của Do Thái có ghi nhận rằng sở dĩ Chúa Giêsu bị chết treo là vì “Ngài dùng trò ma thuật, quyến rũ và mê hoặc dân chúng”.
Tuy nhiên nếu Maccô ghi nhận rõ ràng Chúa Giêsu đã thực hiện vô số việc chữa bệnh và trừ ta thì ông vẫn cẩn thận cho thấy các hành vi cứu độ này được thực hiện ngay giữa sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu không phải là một tay chuyên làm phép lạ. Ngài chỉ trưng ra “các dấu chỉ” cho thấy Vương Quốc Thiên Chúa đã đến qua bản thân Ngài (1,15). Đàng khác, Maccô đã kết thúc bản tóm tắt hoạt động chữa bệnh của Chúa Giêsu bằng lệnh cấm các thần dữ không được phổ biến cho mọi người biết Ngài là ai (c.34b).
Đây là một lối diễn tả mới mẻ về “Bí mật Đấng Mêsi” từng được nhiều người lưu tâm. Chúa Giêsu rất muốn đáp lại lời kêu cầu đáng thương của đám đông, thế là Ngài mang đến ơn cứu độ cho họ.
Tuy nhiên Ngài buộc phải ngăn cấm ma quỷ không được tiết lộ quá sớm tư cách Mêsia của Ngài (1,24). Thực ra, ngay lúc này đây, tiết lộ điều đó là không hợp thời, là vô tình khiến dân chúng hiểu lầm rằng Chúa Giêsu đến tiêu hủy mọi sự dữ đang bủa vây họ bằng một cây đũa thần. Quả thực trong cơn nóng lòng chờ đợi “thời sau cùng”, đám người đương thời của Chúa Giêsu rất náo nức đón nhân “các dấu chỉ và phép lạ” được các tiên tri loan báo (x. 13,22). Tuy nhiên, Đấng Mêsia đặc biệt không muốn chiều theo những dụ dỗ của ma quỷ mà đám người hâm mộ Ngài đòi hỏi (x. Các cơn cám dỗ theo Matthêu 4,1-11). Các tước hiệu “Đức Kitô” và “Con Thiên Chúa” chỉ có thể được cắt nghĩa đúng đắn dưới ánh sáng cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài. Vì vậy trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của ông, Maccô đã tự gán cho mình bổn phận nhắc đi nhắc lại lệnh Chúa Giêsu truyền giữ kín về Ngài (1,44; 3,12; 5,43; 7,24b.36; 8,30; 9,9.33).
Như thế, Maccô mời gọi độc giả tự hỏi về thân thế và sứ vụ đích thực của Chúa Giêsu mà ông chưa đưa ra câu trả lời. Câu trả lời vẫn cứ lửng lơ đấy. Cho đến khi rõ ràng ai nấy đều biết là Đấng Mêsia đã chỉ cứu độ loài người qua con đường tử nạn (8,29-33). Từ đó, mới lộ ra quy tắc ngộ nghĩnh của Tin Mừng này –mọi “bí mật” về thân thế Chúa Giêsu chẳng qua là để lôi kéo độc giả chú ý đến câu hỏi nền tảng Maccô đặt ra cho họ: “Vậy Đức Giêsu Nadaret là ai?” và rồi người ta sẽ trả lời ngay: “Hãy đi theo người dẫn đường…”.
Cầu nguyện và thi hành sứ vụ (1,35-39)
Maccô có khuynh hướng đưa ra các tương phản sau khi trình bày hoạt động sôi nổi của Chúa Giêsu qua việc phục vụ đám đông (1,32-34), giờ đây Maccô đưa ra hình ảnh đối chọi về vị đạo sư thèm được sống trong cô tịch và kết hợp với Thiên Chúa (c.35). Chắc hẳn là sau bao mệt mỏi của ngày hôm trước, giờ đây phải khá can đảm Chúa Giêsu mới có thể dậy sớm lén các bạn bè đang còn say giấc nồng để tìm một chốn cô liêu cầu nguyện. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu sẽ còn được Maccô đề cập tới (6,46; 14;35-39) ở mỗi chặng đường quan trọng trong sứ vụ của Chú. Ở đây người ta dễ dàng nắm được nội dung bản văn: Chúa Giêsu không muốn để cho mình bị cuốn trôi bởi cơn sóng của đám quần chúng đang mê mẩn vì bao phép lạ Ngài đã làm. Ngài cần suy nghĩ về tính cách nghiêm trọng của sứ mệnh Ngài.
Rõ rànglà các môn đệ đi tìm kiếm Chúa Giêsu (c.36). Họ chẳng hề cảm thấy sự mơ hồ mà việc chữa trị thành công của Chúa Giêsu gây ra cho đám quần chúng (1,32-33). Sự kiện đám quần chúng đang mê mẩn chạy theo Chúa Giêsu đã mang một dạng thức khẩn trương đầy nguy hiểm. Vị đạo sư phải cảnh giác các bạn hữu mình chớ có đưa ra một cắt nghĩa lệch lạc nào về vai trò của Ngài (c. 38).
Nêu ra cho họ điểm trọng yếu là điều tối quan trọng. Chúa Giêsu nhắc họ những gì là then chốt trong sứ mệnh của Ngài. “Chúng ta hãy đi chỗ khác…” điều này có nghĩa là sứ vụ đòi hỏi phải “lên đường” đi đây đi đó. Mục đích của Ngài đâu phải là phô diễn phép lạ. Đó chẳng qua chỉ là dấu chỉ về quyền năng đi kèm, theo tin vui về Ơn Cứu Độ. Chính tin vui này mới là điều thiết yếu. Ngay từ khi khởi đầu sứ vụ rao giảng. Chúa Giêsu đã không hành động vì một lý do nào khác. Bổn phận của Ngài rất rõ ràng là bằng lời nói và việc làm, công bố cho mọi người “Nước Thiên Chúa đã kề bên họ”, phải nhờ đức tin mà đón nhận Tin Mừng (1,14-15). Lời xác nhận cho ý định ấy của Chúa Giêsu rất rõ ràng: “Vì Thầy đến cốt để làm việc đó” (c. 38d). Câu nói: “Vì Thầy đến” mang đầy ý nghĩa cao với. Trong Phúc âm Gioan, để diễn tả sứ mệnh bao quát của mình, Chúa Giêsu sau này sẽ nói rằng “Ngài đến từ Thiên Chúa”, đây là một lời xác nhận về thiên tính của Ngài (Ga 8,42; 13,3; 16,27-28).
Bản văn đã kết thúc bằng một hành vi mang đặc tính phổ quát (c.39). Người ta nhận ra Caphanaum chỉ là một điểm tựa trong hành trình thi hành sứ vụ. Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng “trong toàn xứ Galilê thuộc mạn bắc của Palestin, không có biên giới phân cách rõ rệt với các dân ngoại sống chung quanh. Đây là một mảnh đất tuyệt vời để thi hành một sứ vụ mở rộng cho tất cả mọi người. Ở đây, Chúa Giêsu rao giảng trước tiên trong các nguyện đường Do Thái là nơi dân chúng thường tập trung cầu nguyện và nghe giảng dạy Kinh Thánh (1,21). Ngài bổ sung lời rao giảng bằng các hành vi trừ quỷ để minh họa cho dân chúng quyền uy tối thượng của Ngài (1,27). Chương này rất quý báu vì nó xác nhận rằng vị Đạo Sư đã biết liên kết thật kỳ diệu mọi đòi hỏi liên quan đến việc trình bày cho mọi người sứ mệnh “Mêsia” của Ngài, nghĩa là Ngài biết liên kết việc cầu nguyện với việc loan báo Tin Mừng và với các “dấu chỉ” minh xác về thân thế Ngài.
87. Chú giai của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
TỪ CẢM PHỤC ĐẾN LÒNG TIN
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay liên kết ba bản văn khác nhau: trình thuật chữa lành mẹ vợ Phêrô (Mc 1,29-31), một bảng tóm tắt các phép lạ chữa lành (cc.32-34) và một bước tiến trong việc hoàn thành sứ mệnh (cc.35-39). Muốn phân tích ba bản văn, phải lưu tâm đến văn thể khác biệt của chúng.
Bài đọc thứ nhất (G 7,1-4.6.7) là phần nhập đề cho các cuộc chữa lành của Chúa Giêsu: ta đọc thấy trong ấy hình ảnh con người bị đau khổ vì thân phận trần thế, hay đúng hơn vì bệnh tật. Bà mẹ vợ Phêrô một cách nào đó hiện thân cho thân phận này, và những đám đông đi tìm Chúa Giêsu (cc.32.33.37) cụ thể hóa cái phản ứng đầu tiên của con người đứng trước kẻ có thể chữa lành họ. Con người thời đại hôm nay phải chăng đã được giải phóng khỏi thân phận nói trên nhờ và các khoa học và tiềm lực kinh tế? phải chăng họ đã vượt qua phản ứng của những người đồng thời với Chúa Kitô?
I. TỪ HỘI ĐƯỜNG ĐẾN NHÀ SIMON (c.29)
Trình thuật chữa lành một kẻ bị quỷ ám đã đặt chúng ta tại hội đường Capharnaum (1,23-28), vì thế Mc viết tiếp: "Và lập tức ra khỏi hội đường...". Thật vậy thánh sử hình như vẫn giả thiết một khoảng thời gian khá dài giữa lai phép lạ, bởi vì danh tiếng Chúa Giêsu đã có thời giờ lan xa khắp xứ Galilê. Hiển nhiên Mc đã giản lược. Ta biết ông thường dùng trạng từ “lập tức” nhưng chẳng gán ý nghĩa gì đích xác (11 lần nguyên trong chương một: Cc. 10, 12, 18, 20, 21,23,28, 29, 30, 42, 43). Vì ông không mấy quan tâm đểu tính cách liên tục hợp lý, mà chỉ muốn trình bày ở đây (cc.21-39) một ngày mới về sứ vụ Chúa Giêsu: “Ngày Capharnaum" theo thành ngữ cổ điển. [như Luca, nơi ch.24 đã cô đọng trong một ngày tất cả các sự kiện từ Sống lại đến Thăng thiên: "Vừa tang tảng bình minh (c.1):.. Đi thăm mộ về (c.9)... Cũng ngày hôm ấy (c.12)... Ngay giờ đó (c.33)... Họ còn đang trò chuyện (c.36)... Đoạn (c 44)..: Rồi (c.50)..."]. Mátthêô và Luca đã bỏ khung cảnh nói trên và để qua một bên tiếng "lập tức" giả tạo vừa nói. Chúng ta không biết thời biểu thật sự của các sự kiện ra làm sao. Tuy nhiên có thể quả quyết rằng cặp trình thuật chữa lành mẹ vợ Phêrô - chữa lành khi chiều đến" bắt nguồn từ một truyền thống có trước các Tin mừng Nhất lãm vì chi tiết "chiều đến" nằm trong Mc lẫn Mt. Nếu Lc đã bỏ qua trạng từ "lập tức" thì trái lại ông đã lưu giữ chi tiết "hội đường". Ông sẽ khai triển ý nghĩa chi tiết này đến độ làm thành một chủ đề thần học, sẽ nhắc tới nhắc lui trong sách Công vụ của ông: khi rao giảng trong một thành hay một thị trấn, thì Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Phaolô cũng sẽ làm như vậy.
Chúa Giêsu "ra khỏi hội đường" không chỉ vì đã đến giờ đóng cửa, nhưng vì các thính giả chưa hiểu được Người. Như các môn đồ khi chương kiến cơn bão dẹp yên, họ cũng đặt câu hỏi về bản thân Chúa Giêsu: "Cái gì vậy? (1,27), "ông này là ai thế? (4,41). Nhưng họ chưa trả lời được. Chắc hẳn phải coi đó là một hình ảnh biểu trưng: bao lâu còn ở trong hội đường, ta chưa thể trở nên môn đồ Chúa Giêsu; cần phải ra khỏi đó như một cuộc xuất hành mới. Nơi c.39, Mc sẽ viết với một đại danh từ độc hữu: "hội đường của họ". Xa hơn ông kể rằng sau một phép lạ làm trong hội đường do Chúa Giêsu các biệt phái mới họp với phe Hêrôdê để chống Người. Chính vì thế mà người rút lui về bờ "biển": Người đi ra và có nhiều kẻ đi theo (3,7). Chúa Giêsu cũng sẽ đi xa khi làm phép lạ hóa bánh và nhiều đám đông sẽ đến với Người (6,32-33). Người sẽ còn ra khỏi Đền thờ (11,11) và khỏi Giêrusalem nữa (11,19; 13,1). Về đề tài này, Luca lược đồ hóa rõ ràng hơn Mc: theo Lc Chúa Giêsu rao giảng lần đầu tiên tại hội đường Nadarét. Và ngay từ hội đương này, không những người đã chẳng được hiểu và bị bó buộc phải rời khỏi đó mà còn phải lẩn trốn để khỏi bị giết đi (Lc 4, 16-30).
Chắc Mc đã nghĩ đến chủ đề bất biến này trong Tân ước. Nhưng ta có nên đi xa hơn và xác quyết rằng ông đã muốn đối nghịch hội đường với nhà của Simon-Phêrô, hình ảnh Hội Thánh không? Chưa nên. Vì vẫn biết ngôi nhà này chiếm một chỗ quan trọng trong Tin mừng thứ hai (x. Assemtlées du Seigneur 38, tr.81 và 41, tr.40), nhưng ở đây Lc chưa nói đến Phêrô cách đặc biệt; ông chỉ bảo: "Người đến nhà của Simon và Anrê, cùng với Giacôbê và Gioan.
Bốn môn đồ đã được gọi đầu tiên (1,16-22) và vẫn luôn là những kẻ thân tín nhất này, là chứng nhân của phép lạ. Việc thiết lập nhóm Mười hai chỉ xảy đến về sau.
II. CHỮA LÀNH MẸ VỢ SIMON (cc.30-31)
1. Sự kiện:
Người ta đã đề nghị phân biệt các phép lạ của Chúa Giêsu thành hai: các phép lạ thương xót và các phép lạ chiến đấu (E.Trocmé, La formation đe Levangile de Marc, Paris, 1963, tr.123). Dù không tuyệt đối hoàn toàn, cách phân chia này vẫn giúp làm nổi bật hơn chiều hướng của các trình thuật. Những lần trừ quỷ có thể gọi là các phép lạ chiến đấu: Mc muốn nhân mạnh như vậy (1,23-28.29). Việc chữa lành mẹ vợ Phêrô có thể xem như một "phép lạ thương xót": người ta đã nài xin Chúa Giêsu chữa cho bà (c.30). Tuy nhiên trong tư tưởng Mc, mọi việc chữa lành đều cũng tượng trưng một cuộc chiến thắng ma quỷ; ở giữa việc trừ quỷ và chữa lành tật bệnh, chẳng có phân biệt rõ rệt nào (x. 1,39; 3,15; 6,7 và 13). Còn Lc thì rõ ràng trình bày chuyện chữa lành mẹ vợ Phêrô như một việc trừ quỷ: Chúa Giêsu "hăm dọa cơn sốt" (Lc 4,39)
Theo Mc thì bệnh nhân cảm sốt. Nhưng ta không thể xác định đó là bệnh gì và nặng nhẹ ra sao.
Trong trình thuật của Mc, người ta thường nhận ra được chứng từ của chính Phêrô, là chẳng nhân trực tiếp của quang cảnh. Hình như thánh sử chỉ lấy chữ "chúng tôi" của Phêrô bằng chữ "họ". Một vài lỗi ngữ pháp hoặc chi tiết văn thể chỉ giải thích được nếu cho rằng chính Phêrô đã kể lại các biến cố: chẳng hạn như chi tiết về Giacôbê và Gioan, vốn có vẻ như một câu ngoài đề.
Việc so sánh với bản văn song song của Mt giúp ta thấy được cách diễn tả phong phú của Mc: Mt không nói đến các môn đồ, họ có vẻ- như vắng mặt: Chúa Giêsu vào, thấy bệnh nhân, cầm tay và và bà cảm thấy "điều đó” (Mt 8,15). Sự đối diện này có lẽ làm cho bài giáo lý của Mt ra rõ ràng và sâu xa hơn, nhưng lại giảm đi tính cách có vẻ thực của trình thuật. Bản văn của Mc thì lại rất đơn giản. Người ta có thể viện dẫn tính cách đơn giản này để biện hộ cho xác thực tính của phép lạ, bởi vì các trình thuật chữa lành bệnh của lương dân thường rất phóng đại chi tiết.
2. Ý nghĩa của phép lạ theo Mc.
Các trình thuật Tin mừng về việc chữa lành. mẹ vợ Phêrô không giúp ta xác định đúng chủ ý của Chúa Giêsu. Khi Người làm hành vi đó, cũng như ý nghĩa đích thực mà các chứng nhân đầu tiên gán cho việc này. Tuy nhiên ta biết người Do thái đã thường xem cảm sốt như là một hình phạt của Thiên Chúa, đi theo với chứng kiệt sức (Đnl 28,22; 32,24; Lv 26,16) hay với bệnh dịch (Hb 3, 5). Về sau, người ta năng gán cảm sốt cho một con quỷ. Trong nhãn giới đó, phép lạ ở Capharnaum, đối với mọi người, hẳn muốn bảo rằng Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa sai mà Isaia đã loan báo là sẽ đến cứu con người khỏi đau khổ, hậu quả của sự ác luân lý (Is 26,19; 29,18t; 33 3; 35,5...). Mc đã lấy việc chữa lành mẹ vợ Phêrô làm một trong các yếu tố của “ngày Capharnaum” ngày mẫu của giai đoạn đầu sứ vụ Cứu Chúa; phép lạ minh giải, bằng một ví dụ, các bảng "toát yếu” về bao cuộc chữa lành mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Như thế phép lạ này là một dấu chỉ cho thấy thời đại cánh chung hay thiên sai đã đến trong bản thân Chúa Giêsu: Người hành động với chính quyền lực của Thiên Chúa. Nhưng đây vẫn còn là một đấu chỉ. Cần phải mất nhiều thời gian con người mới khám phá và chấp nhận ý nghĩa của dấu chỉ đó (x. Mt 11,4-6). Dẫu sao dự định riêng của Mc sẽ hiện ra rõ ràng hơn khi ta khảo sát kỹ lưỡng câu 31 và câu song song với nó trong Mt 8,15.
3. Chúa Giêsu nâng dậy con người.
Cách đặt câu 31 có một điểm dị thường, ta hãy thử giải thích. Theo nguyên tự, ta có: "Tiến lại, Chúa Giêsu cho bà chỗi dậy bằng cách nắm lấy tay bà, và cơn sốt đã biến khỏi bà". Bình thường lẽ ra phải viết: Chúa Giêsu cầm lấy tay bà và cơn sốt biến khỏi bà; bà chỗi dậy...”. Dĩ nhiên Mc trước tiên không lưu tâm đến tính cách thuận lý, nhưng một chi tiết khác tăng cường chú ý của ta: động từ ogeirô Mc sử dụng ở đây đã trở thành một hạn từ chuyên môn chỉ việc sống lại. Mấy chữ “Người cho bà chỗi dậy”, hình như đã được thánh sử chèn vào trong một câu đơn giản hơn của Phêrô khi kể lại biến cố, vì là chỉ có nơi ông (Mt và Lc chỉ nói: bà chỗi dậy) Thành thử có lẽ Mc đã đưa những chữ này vào với mục đích giáo lý, và việc chọn động từ ogeirô nói lên ý hướng biểu tượng của ông. Như đã làm cho mẹ vợ Phêrô chỗi dậy khi cơn sốt đã biến bà bất động như chết trên giường, thì Chúa Kitô cũng đến cho ta chỗi dậy, cho ta phục sinh, để ta có thể phục vụ người. Chữ ogeirô cũng còn gặp trong trình thuật chữa lành em bé kinh phong (Mc 9,26-27), nơi lối biểu trưng còn rõ ràng hơn nữa. Thành thử chẳng lạ gì khi Mátcô đã muốn ám chỉ biểu tượng đó ở đây (x. P.Lamrarche, La guérison de la bolle-mère de Pirre ét le gent'e littéraire des Evangiles, trong NRT (1965) tr.518-520).
4. Chỗi dậy dể phục vụ
Trong bối cảnh phép lạ, hay đúng hơn trong khung cảnh tiếp đón Chúa Giêsu tại nhà Phêrô, phục vụ trước tiên là cho ăn uống. Trong cùng ý nghĩa đó, sau những cuộc thử thách ở hoang địa, các thiên thần đã phục vụ Chúa Giêsu (Mc 1, 13), như Người cũng đã truyền cho con gái của Giairô ăn uống sau khi cho nó sống lại (Mc 5,43). Chúa Giêsu không bỏ qua thực tại trần thế giản đơn này, Người còn đi xa hơn nữa. Có lẽ ở đây Mc đã liên tưởng đến lời Chúa Giêsu: "Con người chẳng đến để được phục vụ nhưng là để phục vụ (diakonesai)" (Mc 10,45). Phục vụ không chỉ có nghĩa là hầu bàn, nhưng nếu cần, là "thí mạng làm giá chuộc nhiều người" (c45). Đó là lý tưởng mà Chúa Kitô đã đề ra cho những ai Người phục sinh từ cái chết của tội lỗi.
Trong bản văn ngắn gọn và đặc thù hơn của Mt, ta đã thấy Chúa Giêsu xuất hiện một mình. Số ít của phần cuối câu 15 (bà phục vụ Người) đã làm cho ý nghĩa của động từ được mở rộng. Không còn là vấn đề dọn bữa ăn cho Thầy và cho môn đồ đói mệt vì miệt mài với sứ vụ nữa, song là một chuyện tổng quát hơn. Tình trạng trước của bệnh nhân tượng trưng thân phận con người tội lỗi bao lâu chưa được Chúa Kitô cứu vớt và việc chữa lành thân xác biểu hiệu công trình thiêng liêng Chúa Giêsu hoàn thành. Tin mừng thứ 4 sẽ khai triển cùng lối biểu tượng này trong trình thuật người bất toại ở hồ tắm Bêthesđa (5, 1-18).
III. BẢNG "TOÁT YẾU" (cc.32-34)
a. Các đặc tính của văn thể “toát yếu": ý nghĩa và việc tổng quát hóa.
Hiển nhiên là ta không nên hiểu theo mặt chữ những lời xác quyết tuyệt đối như: "Người ta đã đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám" (c.32), nhất là câu của Mt: Mọi kẻ ốm đau, Người đều chữa lành" (Mt 8,16; x. Lc 4,40). Ta biết rằng Chúa Giêsu đã không chữa lành hết mọi bệnh nhân; Người đòi hỏi đức tin của họ. Vì thế Mc đã viết: “Chúa Giêsu đã chữa nhiều kẻ ốm đau” (c.34). Cũng có thể có một thái quá trong kiểu nói: Tất cả thành đều tụ tập trước cửa" (c.33): hình như đây là một sự tổng quát hóa, nhưng chắc chắn cũng là kỷ niệm về một sự kiện có thật đã hơn một lần xảy ra và đã đánh vào trí tưởng tượng của lắm người: truyền thống nhiều lần kể lại rằng người ta đã không thể qua cửa mà vào nhà được vì dân chúng quá đông: nên phải chuyền miệng vô lời nhắn gởi (3,32), hoặc đưa bệnh nhân lên mái nhà thòng xuống (2,1-4).
b. Lũ quỷ
Danh từ hay tĩnh từ quỷ được dùng ba lần trong Mc 1,32-34 và một lần nữa ở c.39. Ta thấy rõ đó là một trong những ưu tư lớn của Mc. Chúa Giêsu đến chiến đấu với ma quỷ và giải phóng con người khỏi quyền lực của nó. Ngay từ đầu, Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Kitô như là kẻ mạnh hơn" (1,7); Người khai mạc sứ vụ bằng một cuộc tấn công trực tiếp Satan và hắn bị bại trận (1,12-13). Ngay khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng thì một kẻ ma ám thử cản trở Người, nhưng quỷ đã bị trục xuất (1,23-27); và trong đoạn kết của Mc", dấu chỉ đặc trưng đầu tiên của người môn đồ là "xua trừ ma quỷ" (16,17) (x. G. Gaide, Les deux maisons, trong Assemblées du Seigneur 41, tr.41-45). Trong nhãn giới này, mọi bệnh tật đều bắt nguồn từ ma quỷ và mọi cuộc chữa lành nhờ trục xuất- ma quỷ đều là một chiến thắng trên quỷ ma.
c "Bí mật thiên sai (c.34b).
Kết luận của bản toát yếu này thường được xem như là do Mc biên soạn. Mc không để mất một cơ hội trở lại với lời căn dặn giữ bí mật thiên sai như với một chủ đề ưa thích (G. Minettè. de Tillesse, le secret messianique danh l'evangile de Marc, paris, 1968). Câu này sẽ dễ hiểu hơn nếu đặt sau việc trừ quỷ ở hội đường, vì lúc đó người bị quỷ ám kêu lên: “Chúng tôi với Ngài nào có việc gì?... Tôi biết Ngài là ai: Đấng Thánh của Thiên Chúa" (1,24). Để nhắc lại những lời này, Mc hẳn đã thêm một giải thích vào câu 34: "Bởi vì chúng (lũ quỷ) biết Người là ai". Lc muốn rõ hơn nên đã lặp lại những lời của quỷ (4,34-41).
Lũ quỷ này sáng suốt hơn con người đã tức khắc nhận ra được địch thủ của chúng và gào to lên (1,24; 5,7...). Dĩ nhiên tiếng la hét của chúng chẳng phải là những hành vi đức tin, nhưng là những dấu hiệu sợ hãi và thảm bại trước kẻ mà chúng nhận ra là người được Thiên Chúa sai đến, đầy quyền lực thần hình mà chúng không thể đương cự nổi (x. 3,22-27). Đối với con người, Chúa Giêsu tự mặc khải một cách tiên tiến bằng những dấu chỉ về quyền lực của Người trên các bệnh tật nổi tiếng là nan y.(1,40-45), trên tội lỗi mà chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha thứ (2,5-12), trên ngày của Chúa là ngày hưu lễ (2,28), và cuối cùng là trên sự sống (ch. 15-16).
Tự hỏi "Giêsu là ai?" tức là đã làm một bước đầu trên con đường đưa đến sự hiểu biết hoàn hảo về bản nhân Người, đưa đến đức tin. Vậy mà Mc muốn từng bước dẫn đưa độc giả (hay thính giả) đến chỗ khám phá Chúa Giêsu Kitô như thế.
Khi nhìn thấy những kỳ công đầu tiên Chúa Giêsu đã làm, trong đó có việc chữa lành mẹ vợ Phêrô, con người chỉ nghĩ đến những hồng ân vật chất tức thời mà họ có thể chờ đợi cho chính họ hay cho thân thuộc họ. Ví dụ như dân làng Nadarét theo Lc (4,23). Khi đó Chúa Giêsu liền lánh mặt.
Ta không cần nhắc lại ở đây những gì đã nói về bí mật thiên sai, chỉ cần nhấn mạnh đến một khía cạnh giáo dục của chủ đề nầy: một hành vi đức tin vào Chúa Giêsu sẽ chỉ thực sự có giá trị khi gói ghém một sự hiểu biết đầy đủ về sứ mệnh và công việc Người, đặc biệt về sự cần thiết phải chết và sống lại để hoàn thành công việc đó. Người thứ 4 diễn tả điều này như sau: "Có lắm kẻ đã tin vào danh Người bởi được chứng kiến các dấu lạ Người làm, nhưng Chúa Giêsu không tín nhiệm vào họ" (Ga 2,23-24).
Tuyên bố Chúa Giêsu là Đấng Messia mà chẳng tin rằng Người phải chết và sống lại, đó là nói mà không biết mình nói gì, và có thể liều mình chối Chúa Kitô một khi khám phá được thực tế.
IV. HƯỚNG CẢ VỀ XỨ GALILÊ (cc. 35-39).
Trình thuật nơi cc. 35-39 là một bản lề (trình thuật chuyển tiếp): cho đến bây giờ Chúa Giêsu xem ra giới hạn chân trời và hồng ân Người cho dân vùng Capharnaum; từ đây sứ vụ của Người sẽ lan rộng khắp miền Galilê hết thảy (c.39).
Trước lúc hừng đông, khi các môn đồ còn ngủ vì mỏi miệt sau một ngày truyền giáo, Chúa Giêsu đã thức dậy. Sự giao tiếp với con người và niềm vui chữa lành vài bệnh nhân chưa làm Người thỏa mãn. Người lui ra nơi thanh vắng để cầu nguyện, nghĩa là để đặc biệt tìm gặp sự thân mật với Cha Người. Lc sẽ nhấn mạnh điểm này xa hơn.
Simon còn chưa hiểu ý nghĩa sứ mệnh Chúa Giêsu: tựa như ông muốn khai thác thành công của Thầy. Ông chỉ thấy những phép lạ đã được thực hiện và tưởng rằng sẽ còn nhiều phép lạ khác, có lợi cho dân Capharnaum. Ông hy vọng đưa Chúa Giêsu lui về nhà. Đám dân đã tản mác đêm qua bây giờ trở lại, cũng với kỳ vọng thấy nhiều phép lạ mới: họ mong chờ những cuộc chữa bệnh, trong khi đối với Chúa Giêsu, loài ân huệ này chỉ là bước chuẩn bị cho việc đón nhận Tin mừng và mặc khải về mầu nhiệm bản thân Người thôi.
Mc không ghi lại đối tượng lẫn nội dung của lời Chúa Giêsu cầu nguyện nhưng mẩu đối thoại tiếp theo cho ta thoáng thấy được ý nghĩa của lời cầu nguyện đó. Đối với Chúa Giêsu, đấy không hẳn là xin ơn cho bằng là nói về sứ mệnh của người với Đấng đã sai Người đến. Trước đây lúc chịu phép rửa Chúa Giêsu đã nghe tiếng nói Cha Người (Mc 1,11; x Lc 3,21), đã nhận Thánh Thần là đã được Thánh Thần thúc dẩy tấn công ma quỷ (1,12-13).
Thành ngữ chính vì thế mà “Ta đã ra đi" có nghĩa là gì? Phải chăng là đi ra khỏi Capharnaum (nghĩa tự nhiên) hai đi ra khỏi Chúa Cha để đến trong trần thế (nghĩa của Gioan 16,28)? (x. A. Feuillet, Le Logion suy la rancon, trong Rev. Sc. Phil. Théo. (1967), tr.372). Luca đã hiểu câu nói Chúa Giêsu theo nghĩa thứ hai, vì ông đã viết lại: "chính vì thế mà Ta đã được sai đến" (4,43 hiểu là từ nơi Chúa Cha). Tuy vậy ta có thể nghĩ rằng đây là kết quả việc Lc suy ngắm về sứ mệnh Chúa Giêsu, và có chủ đích soi sáng sứ mệnh của Giáo Hội cùng của các môn đồ: qua từng giai đoạn, các môn đồ phải vượt ra khỏi mọi biên giới và đem Tin mừng đến tận cùng thế gian (Cv 1,8). Mc đã chẳng đẩy suy tư về sứ mệnh Giáo Hội xa như thế, ông gần với những sự kiện như đã xảy ra hơn: Chúa Giêsu không muốn bị kéo lôi bởi thành quả của Người. Về sau cũng vậy, sau khi làm phép lạ hóa bánh, Người lui ra nơi cô tịch để tránh sự cuồng nhiệt của đám đông và để đặt mình trong ý định của Thiên Chúa (Mc 6.46; Mt 14,23; Ga 6, 15b). Cơn hấp hối tại vườn Ghetsêmani có thể đem đối chiếu với hai giai thoại này. Trong cả ba trường hợp, Chúa Giêsu lui ra để cầu nguyện ban đêm; các môn đồ, đặc biệt là Phêrô, đều tỏ vẻ kinh ngạc, vì họ chưa hiểu sứ mạng của Thầy.
NHỮNG KẾT LUẬN CHO THỜI NAY
Cuối bài khảo cứu này, ta thấy bản văn Chúa Nhật hôm nay, có một tính cách thời sự đặc biệt, dĩ nhiên không phải ở điểm gán cho ma quỷ các chứng bệnh, nhưng vì giải tỏa được nhiều ưu tư của ta về phương pháp giáo dục đức tin và về nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội.
1. Sự dấn thân của đức tin.
Người ta đã có lý khi bảo Tin Mừng thứ hai là một lời rao giảng hơn là một bài giáo lý. Tuy nhiên điều ấy không có nghĩa là để theo Mc, chỉ cần một đức tin tối thiểu mà rồi sau đó sẽ đào sâu với giáo lý của Mátthêô, đoạn với thần học của Phaolô hay của Tin mừng thứ tư. Không! Mátcô rất đòi hỏi. Ông chẳng muốn một sự dấn thân khơi khơi bên ngoài. Chính vì thế mà ông không đặt ngay vấn đề dứt khoát. Ý nghĩa của mệnh lệnh giữ bí mật thiên sai là vậy, và đó là một phương pháp giáo dục tuyệt hảo: kẻ rao giảng Tin mừng luôn luôn nói về Chúa Kitô, nhưng cẩn thận mặc khải, bản thân và mầu nhiệm Người cách tiệm tiến, bằng nhiều "dấu chỉ nhiều lời ẩn bí (mashal). Thỉnh thoảng ông cũng kín đáo để lộ cái cốt yếu của mầu nhiệm nhưng lại che dấu ngay lệnh giữ bí mật), nhưng chính Chúa Giêsu khi Người trốn khỏi quần chúng hoặc khi chỉ tỏ lộ vinh quang trong chốc lát lúc biến hình. Vị thánh sử cũng là giáo lý viên có trách nhiệm về các tân tòng. Đã biết nhận ra thính giả của mình chưa sẵn sàng mấy còn cần phải tiến bước lâu dài và thong thả. Mầu nhiệm của Chúa Giêsu quá vĩ đại, khó mà khám phá trong một ngày, trừ phi được ơn đặc biệt như Phaolô.
Chính nhóm Mười hai cũng đã trải qua nhiều thời gian dài mới tin vào Chúa Giêsu thực sự, mới biết Người đúng như bản chất Người. Chắc hẳn họ đã gắn bó với Người rất sớm, nhưng chỉ đạt được đức tin sung mãn sau tiến cố Tử nạn, Phục sinh và Ngũ tuần thôi. Cho tới lúc đó, đức tin của họ vẫn còn bất toàn và mỏng manh, như ta thấy rõ vào giờ Chúa Giêsu bị bắt và bị xử án.
Tại sao có sự đòi hỏi, sự tiệm tiến nơi Mc như vậy. Chắc chắn là vì ông ctã hiểu đức tin lôi kéo sâu xa con người đến mức nào. Có lẽ Phêrô, được soi sáng bởi kinh nghiệm riêng của mình (những lần chối Chúa) đã nhấn mạnh đặc biệt về điểm này chăng? Rồi chắc cũng là vì lúc Tin Mừng Mc được biên soạn dứt khoát thì Giáo Hội Rôma đang sống trong những hoàn cảnh đòi buộc thái độ trên: trong trường hợp bị bách hại, người ta chỉ có thể nhận vào Giáo Hội những tân tòng đã được chuẩn bị kỹ càng và đã quyết tâm theo Chúa Kitô, dù phải mất mạng sống.
Ngày nay đòi hỏi này vẫn còn có giá trị, chứ không chỉ dành riêng cho thời hoặc miền đã bị bách hại mà thôi. Người ta đã không luôn luôn chú ý cho đủ giáo huấn của Mc về điểm này. May thay, thời nay, nhờ nhiều đường lối khác nhau, người ta đã khám phá nó lại.
2. Lời mời gọi truyền giáo.
Như mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu đã yêu quê hương làng nước của Người (Nadarét, Capharnaum). Người đã khởi đầu sứ vụ tại đó, nhưng Chúa Cha đã gọi Người đi xa hơn. Trong một đoạn ngắn ngủi, Lc cho thấy làm sao Chúa Giêsu đã bỏ Nadarét. Mc kể lại làm sao Người đã rời Capharnaum. Ngày hôm nay, người ta nhấn mạnh nhiều và không phải không có lý do đến nghĩa vụ truyền giáo ngay bên trong những vùng đất được gọi là Kitô giáo từ lâu đời, và cũng nói đến rất nhiều khó khăn mà những người đem Tin mừng đi xa gặp phải, khiến có nguy cơ làm giảm số lượng những nhà truyền giáo phương xa này. Nhưng như vậy là đã bỏ quên một khía cạnh quan yếu của sứ mệnh Hội Thánh. Bài Tin mừng hôm nay nhắc cho ta nhớ khía cạnh đó lại.
3. Đứng trước bệnh tật và những đau khổ trần gian khác.
Phản ứng của người dân Capharnaum vẫn tiếp tục bày tỏ. Biết bao nhiêu người, hôm nay vẫn còn, chỉ đến xin Chúa Kitô và Giáo Hội giúp đỡ vật chất và họ phê phán Chúa Kitô cùng Giáo Hội chỉ qua thái độ đáp ứng nỗi chờ mong đó. đây là phản ứng một phần bị thúc đẩy bởi khuynh hướng đã có từ lâu trong Giáo Hội là chỉ giới hạn trong sứ vụ thiêng liêng. Nhưng đàng khác cũng là phản ứng muôn thuở có thể khiến người ta đi từ cực đoan này đến cực đoan khác. Trước một sự chờ đợt như vậy, Chúa Giêsu lánh mình đi. Dĩ nhiên Người đã ngang qua thi ân giáng phúc và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ áp bức khống chế (Cv 10,38). Và Người cũng muốn các môn đồ làm như Người, một cách thích nghi hơn cho thời của họ. Nhưng Người không hề để nình bị giam hãm trong cái vòng đó Môn đồ và Giáo Hội Người cũng phải như vậy.
Gilles Gaide, Assemblées du Seigneur 36, tr.39-48.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Bài đọc1: Gióp hay là "đau khổ trong đức tin”. Gióp sống trong đức tin. Có hai điểm ông cho là cốt yếu và phải giữ vững: đó là có một sự đau khổ bất công và Thiên Chúa thì luôn luôn nhân ái và công bình. Ông không hiểu được làm sao có thể dung hòa hai xác quyết tương phản ấy nhưng vẫn giữ vững cả hai. Trước một đau khổ, mọi lối an ủi như: "Chúa nhân từ yêu bạn! Đời sau sẽ đẹp hơn! Bạn chuẩn bị Thiên đàng! Bạn đền thay cho tội nhân!" đôi khi có vẻ thừa thãi. Sự đau khổ không thể thỏa mãn với một lời giải thích giản đơn. Sự đau khổ, nhất là khi xảy đến cho những kẻ vô tội hoặc khi quá sức lớn lao, là một trong những mầu nhiệm lớn của con người. Trước đau khổ, thái độ đích thực chỉ có thể là một đức tin sâu xa. Thiên Chúa đã phán: tư tưởng các ngươi không phải là tư tương của Ta và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta" (Is 55,8).
2. Chúa Giêsu không đến trần gian để tiêu diệt hết mọi khổ đau, bệnh tật. Ngay lúc sinh tiền, Người chẳng chữa lành hết mọi bệnh nhân Người gặp, giải quyết hết mọi vấn đề sinh tồn của con người. Người chỉ ra tay cứu giúp một số ít, đặc biệt những ai có lòng tin để cho họ tin vào sứ điệp Người, thấy lòng nhân ái của Thiên Chúa và hy vọng một tương lai trong đó quyền năng của người sẽ dẹp tan mọi đau khổ. Đúng ra Người đến để mang lại cho đau khổ một ý nghĩa đích thực, một công dụng siêu nhiên. "Sự cao cả tuyệt vời của Kitô giáo là ở chỗ nó không tìm một phương dược siêu nhiên để chống lại đau khổ, nhưng là tìm ra một công dụng siêu nhiên cho đau khổ” (Simone Weii). "Từ khi Chúa Kitô đến, chúng ta được giải phóng không phải khỏi việc đau khổ, nhưng là khỏi việc chịu đau khổ cách vô ích" (P.Charles SJ).
3. Thiên Chúa không dẹp tan đau khổ cho con người đang sống trong thời gian bởi vì đau khổ cần cho con người. Đau khổ là giá của tự do, là trường rèn luyện nhân cách, là động lực tiến bộ xã hội, là dấu chứng minh tình yêu, là phương tiện để giúp ta từ bỏ hầu chọn lựa được Thiên Chúa. Xét một cách tiêu cực, còn đau khổ trong trần gian là vì con ngươi còn thiếu tình yêu đối với anh em, còn đau khổ trong bản thân là vì con người còn bám chặt lấy hay chưa dứt bỏ nổi cái không phải là hạnh phúc đích thực. "Ngàn lần chúc tụng sự đau khổ đã đưa tôi về với Thiên Chúa” (Francois Coppée). "phương pháp làm nhẹ đau khổ của mình là giảm bớt đau khổ của tha nhân" (P.Charles SJ).
4. Chúa Giêsu không chỉ loan báo Tin mừng, Người còn cụ thể hóa Tin mừng đó bằng các hành vi cho thấy Vương triều Thiên Chúa (mà Người là nhân chứng và là Messia) đang đến. Trong thế giới này, Kitô hữu chúng ta cũng phải là những người kế tục sứ mệnh Chúa Giêsu Kitô. Làm chứng cho Vương triều Thiên Chúa. Sứ mệnh đó sẽ không chỉ nằm trong lời nói, mà còn trong hành động: đức tin chúng ta phải thúc giục chúng ta cụ thể hóa lời rao giảng bằng một hành động tấn công mọi quyền lực của sự ác như Chúa Giêsu. Kitô hữu là người muốn minh chứng Nước Trời đang đến bằng việc tích cực chống lại những gì là xấu xa, bệnh tật, đàn áp, bóc lột, bất công, đau khổ, tội lỗi. Đó là cách duy nhất để làm cho Nước Trời mau đến. Đó cũng là cách duy nhất mà Giáo Hội - dấu chỉ bí tích của Nước Trời gây niềm tin cho thế gian. Phải làm những hành vi có ý nghĩa như Chúa Giêsu đã làm.
5. Thính giả của Chúa Giêsu rất khó chấp nhận giáo lý phổ quát, đại đồng của Người. Họ vấp phạm, họ thắc mắc khó chịu về tính cách phổ quát ấy. Luôn luôn họ vẫn nghĩ họ là dân riêng duy nhất được ưu đãi, chứ không còn nơi nào khác. Đồng ý là Thiên Chúa tự chọn: Giáo Hội Ngài, nhưng việc chọn lựa đó chỉ là điểm khởi hành để đi đến "nơi khác". Với Giáo Hội ngày nay, cả với tôi nữa, Chúa Giêsu vẫn còn nhắc: Chúng ta lên đường đi nơi khác". Lời đó có nghĩa gì cho tôi? Thưa nghĩa là tôi không được bo bo giữ kín Tin mừng để thỏa mãn cho tôi thôi, song phải làm sáng tỏa cho mọi người".
88. Chú giải của Fiches Dominicales
TỪ HỘI ĐƯỜNG CAPHÁCNAUM ĐẾN KHẮP MIỀN
GALILÊ. LỜI CẦU NGUYỆN CỦA CHÚA GIÊSU
NGAY GIỮA LÚC THI HÀNH SỨ VỤ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ âm thầm trong “nhà”
Ba câu chuyện nhỏ xảy ra liên tiếp trong bài Tin Mừng Chúa nhật thứ V hôm nay. Cả ba tương phản nhau như được tượng trưng qua những địa điểm chúng xảy ra: bắt đầu từ một chỗ âm thầm trong “nhà của ông Simon" (Phêrô); rồi đến "ngoài cửa”, nơi "cả thành xúm lại”, sau cùng là "một nơi hoang vắng” ở đó, trong lúc Chúa đang cầu nguyện, vang lên lời Người gọi mời phải mở rộng cánh đồng truyền giáo.
Đức Giêsu, có các môn đệ đầu tiên cùng đi theo, ra khỏi hội đường Caphácnaum, đến "nhà hai ông Simon và Anrê “. Luật Do Thái có qui định nghiêm ngặt trong ngày Sabát như ngày hôm đó, người ta được phép đi lại bao xa. Kết quả những công trình đào xới khảo cổ học gần đây cho thấy, quãng đường phải đi từ hội đường đến "căn nhà mà Đức Giêsu và các ông định đến, quả thực rất gần. Căn nhà này hình như là địa điểm họp mặt, đồng thời là cứ điểm truyền giáo của Đức Giêsu. Nó đóng một vị trí quan trọng trong Tin Mừng thứ hai này.
Máccô thuật tiếp: "Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt”. Để hiểu được ý nghĩa câu chuyện, cần phải nhớ rằng vào thời đó, bệnh sốt được xem như là một trong những hình phạt mà Thiên Chúa doạ sẽ giáng xuống trừng phạt dân tộc bất trung: "nếu các ngươi khinh thường các luật điều của Ta, và hồn các ngươi ớn ghét các phán quyết của Ta, không làm theo rất cả các lệnh truyền của Ta, đến thủ tiêu giao ước của Ta, thì chính Ta, Ta sẽ làm điều này cho các ngươi. Ta sẽ giáng xuống trên các ngươi kinh hoàng, tiêu hao, cảm sốt làm cho mắt đờ, hơi kiệt” (Lv 26, 15-16a).
J. Pótin chú thích thêm: "người bị bệnh sốt, là kẻ bị tình nghi phạm một tội nào đó, khiên tuỳ mức nặng nhẹ của cơn sốt mà không được tham dự, hoặc tất cả hoặc một phần; vào sinh hoạt chung tôn giáo và xã hội" ("Jésus, lhistoire vraie", Centurion, trang 162).
Câu chuyện được tiếp tục kể, giọng điệu mau lẹ, ngắn gọn, không thấy một lời nói nào.
Trước tiên là sự thỉnh cầu của các thân nhân người bệnh: "Lập tức họ nói cho Người biệt tình trạng của bà”.
Tiếp đó là cử chỉ chữa lành: "Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay mà đỡ dậy”.
Dưới ánh sáng Phục Sinh, cử chỉ này của Đức Giêsu mang một ý nghĩa biểu tượng đối với Máccô và cộng đoàn Kitô hữu của ông. J.Hervieux lưu ý chúng ta: “ Đó là điều được ám chỉ một cách kín đáo, qua việc sử dụng một kiểu nói đặc biệt. Tro ng tiếng Hy Lạp, động từ "đỡ dậy" cũng là động từ Máccô dùng để nói về Đức Giêsu: "Người đã chỗi dậy rồi" (16,6). Chúng ta cần phải đặt mình trong khung cảnh những Kitô hữu tiên khởi khi đọc trang Tin Mừng này. Đối với họ, Đức Giêsu không chỉ là Đấng có quyền phép chữa bệnh lạ lùng trong giai đoạn đầu của sứ vụ. Với cuộc Phục sinh, Người được suy tôn là "Đức Chúa và Đấng Kitô" (Cv 2,36), nghĩa là Đấng qua từng ngày vẫn tiếp tục cứu chữa loài người khỏi tội lỗi tiếp tục giải thoát họ khỏi sự chết" ("LEvangile de Marc", Centurion, trang 33).
Người bệnh bỗng phút chốc được lành bệnh, sức khoẻ được hồi phục hoàn toàn, bằng chứng là sau đó bà bắt đầu phục vụ Đức Giêsu và các người đi theo Chúa. Đó cũng là hình ảnh người Kitô hữu đã từng bị nằm liệt, do bị hành hạ bởi cơn sốt là tội lỗi Nhưng Đức ki tô đã đến "cầm lấy tay mà đỡ dậy”; nhờ đức tin và phép Rửa tội, để một khi đã được chữa lành, họ sẽ trở thành kẻ phục vụ Chúa và anh ern mình: "Cơn sốt dứt ngay, và bà phục vụ các ngài”. J. Hervieux tiếp tục: “Khi trình bày cho thấy, người đàn bà đã được chữa khỏi, bắt đầu phục vụ các vị khách của mình, Máccô chắc chắn nghĩ đến việc "phục vụ " Đức Kitô mà mỗi Kitô hữu được mời gọi phải làm Đấng Cứu Thế không ngừng giải thoát các tín hữu của người khỏi sự dữ để họ bắt tay vào công việc phục vụ đó " (Sđd).
2. Rồi đến “trước cửa” có “cả thành xúm lại”:
Khi mặt trời lặn, đối với người Do Thái, đó là lúc kết thúc ngày Sabát, và bắt đầu một ngày mới.
Hết bị ràng buộc bởi những khoản cấm đoán liên can đến ngày hưu lễ, mọi người từ lúc này ai nấy trở lại với sinh hoạt bình thường, và họ dẫn đến cho Đức Gtêsu "mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám”. Chẳng mấy chốc, theo lời của Máccô, "cả thành xúm lại trước cửa”. Phép lạ chữa lành bà mẹ vợ ông Phêrô diễn ra âm thầm giữa một nhóm vài ba người, nay đã bung ra cho niềm khát mong của bao kẻ bên ngoài: "Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ”.
- Người ra lệnh cho chúng không được nói gì cả lần này cũng nghiêm khắc không kém gì lúc ở trong hội đường (c.25): "Người không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai”.
M.E.Boismard đặt câu hỏi: "Tại sao lại có bệnh cấm đoán đó ở đây cũng như chỗ khác, trong ch. 1 câu 5, khi Đức Giêsu bị thần ô uế phải im tiếng mà xuất ra khỏi nạn nhân?…Vào thời đó cũng chính ông trả lời, đất nước Palestin đã bị mất chủ quyền, và rơi vào ách đô hộ của người La mã. Do vậy, dân tộc Do Thái ngày đêm mong mỏi một vi anh hùng giải phóng đến để "khôi phục lại vương quốc Israel" (Cv 1, 6; Lc 1, 58-73). Nhưng Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến không phải thực hiện công cuộc khôi phục có màu sắc chính trị đó. Chính Đức Kitô rồi đây sẽ giải thích thực chất vương quyền của Người là gì, khi triển khai giáo huấn của Người bằng những dụ ngôn (Mc 4, 1 và tiếp theo). Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn sự sai biệt giữa vi vua mà dân Do Thái mong đợi và vị vua mà Thiên Chúa gởi đến cho họ. Chính vì muôn tránh sự hàm hồ đó mà Đức Giêsu đă không cho phép quỷ xưng Người là ai, cũng như sau này Người chỉ thị cho những kẻ được chữa lành phải thinh lặng. Đó là lý do của cái quen gọi là "bí mật Mêsia" (“Jésus, un homme de Nazareth", Cerf, trang 46-47).
Danh hiệu "Đấng Kitô" và "Con Thiên Chúa" chỉ được giải nghĩa chính xác sau ngày dưới ánh sáng của Khổ Nạn và Phục Sinh. Phải giữ thinh lặng cho đến khi thật sự sáng tỏ rằng Đấng Messia chỉ đến cứu loài người qua con đường hy sinh chịu chết.
3… Và “những nơi khác" phải đến để rao giảng:
Các câu từ 35 đến 39 đóng vai trò chuyển tiếp giữa sứ vụ của Đức Giêsu được khai trương ở Caphácnaum và mở rộng ra khắp miền Galilê.
Trái ngược hoàn toàn với công việc bề bộn của Người để phục vụ đám đông ở Caphácnaum, giờ đây Đức Giêsu chỉ có một mình trong một nơi thanh vắng”.
- Chúng ta đang ở vào lúc sáng sớm, lúc trời còn tối mịt”, hôm sau ngày Sabát, ngày thứ nhất trong tuần, sau này sẽ là Chúa nhật của người Kitô hữu, "ngày của Chúa". Đức Giêsu cầu nguyện, như Người từng làm như thế vào mỗi khoảng khắc quan trọng của sứ vụ (x. Mc 6,46 và 14,35-39). Chắc chắn trước sự ồn ào nô nức của đám đông vây quanh mình, Người cảm thấy nhu cầu được đắm chìm lại trong sự thân mật với Chúa Cha, cũng như xác định lại vị trí của mình trên con đường sứ vụ. P.E. Boismard chú giải, "Trong nơi hoang vắng, tất cả đều im tiếng, chỉ có sự tĩnh lặng tràn ngập ánh sáng, chỉ có con người và Thiên Chúa. Bởi vì mọi sự đều lặng thinh nên con người mới nghe được tiếng Thiên Chúa" (Sđd, trang 49).
Các môn đệ thì chạy đi tìm Chúa, mong mời cho được Người trở về Caphácnaum, ở đó "mọi người đang tìm Thầy". Nhưng Đức Giêsu cương quyết nhắc cho họ biết cái cốt lõi trong sứ vụ của Người là: loan báo Tin Mừng. "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xă chung quang, Người trả lời họ, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.
Từ đó, "Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ”. Đoạn Tin Mừng chấm dứt ở giai đoạn mở màn của sứ mạng truyền giáo ấy.
Vài câu Tin Mừng ở trên có những nét đặc trưng của Máccô: Đức Giêsu ra đi trước, một mình, cầu nguyện. Lúc đó là đêm thứ bảy bước sang ngày Chúa nhật, quãng thời gian của sáng sớm ngày Phục Sinh (x. 16, 1-8). Các môn đệ ra đi sau, tìm Chúa để cố lôi kéo người lại. Thế nhưng trong Tin Mừng Máccô, không bao giờ có điểm dừng, người ta luôn luôn được gởi đi đến một nơi khác: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quang, vì Thầy ra đi cối để làm việc đó". Các phụ nữ đi viếng mộ Chúa sau này cũng được gởi đi lên một "nơi khác như thế ("Người không còn đây nữa. Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng người sẽ đến Galilê trước các ông). Bài tường thuật ngắn ngủi này có thể được dùng làm tấm gương soi cho cộng đoàn Kitô hữu đang họp nhau trong đêm thử bảy vọng sáng Chúa nhật, để cầu nguyện và tìm Chúa. Họ cũng sẽ được gởi đi đến một nơi các: "Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc" (13,10) ("L'evangile se lon saint Marc", Cerf, trang 37).
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. “ Cầu nguyện và truyền giáo"
(Mgl. L.Daloz, trong "Qui dong est-il?", Desclée de Brouwer, trang 17).
"Cuộc đời của Đức Giêsu luôn xáo động. Người thường không được ở yên. Thế nên Người phải ra đi để cầu nguyện, giữa đêm tối, ở một nơi hoang vắng. Simon và các bạn chạy đi tìm Chúa và quấy rầy Người: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Trong cuộc sống luôn bị xáo trộn như thế, Đức Giêsu tận dụng thời gian để cầu nguyện. Người cầu nguyện cách kín đáo, thường là một mình. Người lắng nghe Chúa Cha, trong thinh lặng, và nói với Chúa Cha. “ Thầy phải lo việc của Cha Thầy". Người là Người Con Chí ái, hằng yêu mến Cha, và luôn sống thân mật với Cha. Khi đi rao giảng cũng là lúc Người lo việc của Cha. Mọi người tìm Người, đợi Người. Nhưng Người đi nơi khác, "đến các làng xã chung quanh, theo tiếng gọi của sứ vụ truyền giáo của Người: "Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó". Mối tương quan thân mật giữa Đức Giêsu và Chúa Cha ảnh hưởng trực tiếp đến sứ vụ, lời rao giảng của Người. Người làm điều Cha muốn và tìm kiếm thời gian để ở với Cha. Đó cũng là điều kiện phải có của mọi sứ vụ. Nó đòi hỏi phải có sự gặp gỡ thân tình với Chúa Cha trong cầu nguyện, và lắng nghe ý Người".
2. “Một bài giáo huấn về vài khía cạnh trong Bàn Tiệc ngày Chúa nhật"
(F. Deleclos, trong: "Prends ét mang La Parole, "Centurion - Duculot, trang 137-138).
"Đoạn Tin Mừng kể về phép lạ chữa lành bà mẹ vợ của ông Phêrô không chỉ đơn giản là “chuyện nhỏ”, nó xứng đáng được xem như (một bài giáo huấn về vài khía cạnh trong Bàn Tiệc ngày Chúa- nhật”. Là những kẻ tội lỗi, chúng ta được qui tụ bởi đức tin, làm nên cộng đoàn Hội Thánh tìm kiếm Đức Kitô và kêu cầu Người. Giống như bà mẹ vợ của ông Phêrô, chúng ta bị nằm liệt giường và lên cơn sốt, chẳng được vui hưởng cuộc sống đích thực. Chúng ta bị hành hạ bởi bệnh sốt của những kẻ không chịu lắng nghe tiếng Chúa và chăm chú thực hành những điều răn của Người (Tl 28,15 và 22). Đức Giêsu đến làm cho chúng ta được bình phục, đủ sức khoẻ để phục vụ bàn tiệc thánh Thể và dấn thân vào cuộc chiến chống lại mọi hình thức của đau khổ".
3. "Phép lạ chữa lành như là dụ ngôn về sự sống lại"
(H. Denis, trong "100 mots pour dire Jésus", Desclée de Brouwer, trang 183).
"Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào lòng con. Nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh”.
Câu kinh đọc trước Rước lễ có thể soi sáng một vài suy tư sau đây về phép lạ chữa bệnh.
Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ chữa bệnh, đó là điều rõ ràng ai cũng biết. Chúng có mặt hầu như ở từng trang Tin Mừng. Đằng khác, nếu không chữa bệnh, làm sao Đức Giêsu chứng tỏ mình là Đấng Mêsia được? Đó là điều đòi hỏi phải có vào thời của Người, mà người ta còn gặp thấy lại nơi mọi lãnh tụ tôn giáo thời nay.
Nhưng Đức Giêsu không chỉ là một người chuyên chữa bệnh. Chắc chắn không! Người không, đến để chữa bệnh nhưng để cứu con người. Nếu có chữa bệnh đi nữa thì cũng là để cứu độ Người không bảo: "Đức Tin đã chữa lành con”, nhưng: "Đức Tin đã cứu con”. Thế mà ơn cứu độ là gì nếu không phải là được sống nhờ sự sống của Đức Kitô, dù khi khoẻ mạnh hay ốm đau, cả sau khi chết cũng như lúc còn sống. Phép lạ chữa bệnh chỉ là một thứ dụ ngôn về sụ sống lại. Một nhà chú giải hiện nay đã có một nhận định mà theo sự đánh giá của tôi, đã soi sáng cho tôi rất nhiều. Trong Phụng vụ, vị ấy nói, ngay từ ban đầu người ta chưa hề bao giờ đọc một bài Tin Mừng về phép lạ Đức Giêsu chữa bệnh để cầu cho bệnh nhân được lành (như thế chẳng khác nào đọc thần chú!), nhưng chỉ để công bố sự Phục sinh của Chúa".
89. Hoạt động & cầu nguyện trong đời sống của ĐGS
(Mc 1, 29-39)
Kính thưa Quý Bề trên và Chị em,
Chúng ta vừa trải qua những ngày đầu Xuân Nhâm Thìn 2012 với biết bao niềm vui. Trong những ngày đầu năm mới, mỗi người chúng ta đều nhận được rất nhiều lời chúc thật hay, thật ý nghĩa, nhưng có lẽ chỉ một lời Chúc chúng ta cần và mong đợi đó là mỗi ngày trong Năm Mới chúng ta được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Kitô. Chúng ta sẽ nên giống Đức Kitô như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một đáp án, đó là: hoạt động và cầu nguyện như Đức Kitô.
I. LỜI CHÚA: CHÚA NHẬT 5 TN B (Mc 1, 29-39)
(29) Vừa ra khỏi hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. (30) Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. (31) Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
(32) Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. (33) Cả thành xúm lại trước cửa. (34) Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.
(35) Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (36) Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. (37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (38) Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” (39) Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.
II. SUY NIỆM
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một ngày sinh hoạt của Đức Giêsu tại Caphanaum. Ngay sau khi chữa lành anh chàng bị thần ô uế ám trong hội đường (Mc 1, 23-28), Đức Giêsu tiếp tục thực hiện một chuỗi những phép lạ: chữa lành bà nhạc ông Simon Phêrô và nhiều bệnh nhân khác, đồng thời xua trừ ma quỷ ra khỏi nhiều người. Dù trải qua một ngày tất bật trong việc chữa bệnh và trừ quỷ, nhưng Đức Giêsu vẫn dành thời gian riêng để cầu nguyện với Chúa Cha. Thánh Marcô ghi rõ: Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, đi ra một nơi thanh vắng và cầu nguyện (c.35). Chính Đức Giêsu đã dùng phương thức sống “hoạt động và cầu nguyện” này để đi trọn hành trình cứu độ mà Chúa Cha đã ủy thác cho Ngài. Là môn đệ Đức Kitô, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Đức Giêsu đã đi qua việc hết mình phục vụ anh chị em, nhưng đồng thời vẫn giữ trọn mối tương giao thân tình với Thiên Chúa.
1. Hoạt động—Chúa chạnh lòng thương dân Ngài
Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô miêu tả thật sống động hình ảnh một Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đến để phục vụ, để chia sẻ và đem lại sự sống đích thực và sung mãn cho con người. Nơi Đức Giêsu, một “Thiên Chúa chạnh lòng thương” đang hiện diện giữa dân Người. Sách Công Vụ Tông Đồ cho biết: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10, 38).
Mở đầu cho đoạn Tin Mừng hôm nay là việc Giêsu chữa lành “bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường” (c.30). Ngài lại gần, nhẹ nhàng cầm lấy tay bà và nâng dậy. Cách Đức Giêsu chữa bệnh thật đơn giản, và thân tình. Với cử chỉ “cầm tay và nâng dậy,” Đức Giêsu đã truyền sức sống Thiên Chúa cho bà và Ngài đã dùng quyền năng Thiên Chúa mà nâng bà dậy. Ngài đã khôi phục lại nơi bà những gì mà “cơn sốt” lấy đi, để bà tiếp tục phục vụ Chúa và anh chị em trong công việc thường ngày.
Sự “chạnh lòng thương” của Đức Giêsu không dừng lại nơi “bà mẹ vợ ông Simon,” nhưng còn trải rộng đến tất cả những ai đang cần đến Ngài. Thật vậy, “chiều đến, khi mặt trời đã lặn,” người ta mới đem mọi kẻ đau ốm, mắc đủ thứ bệnh tật, kể cả bị quỷ ám… Chúa đón nhận hết, và chữa lành tất cả. Chính cuộc sống và hoạt động của Đức Giêsu đã minh chứng sứ mạng của Ngài, được công bố nơi Tin Mừng Thánh Gioan: “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Suy niệm đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đưa tay ra để Ngài “cầm và nâng” chúng ta dậy khi gặp thử thách trong đức tin, trong đời sống cộng đoàn, và trong khi đương đầu với những căn bệnh về thể lý. Chúng ta cũng cần được Chúa cầm tay khi không dậy nổi; cần được Chúa đưa tay ra nắm lấy khi gần chìm như Phêrô! Để khi được Chúa chữa lành, được Chúa nâng dậy, chúng ta sống cho đúng với căn tính và phẩm giá của mình là những người đã được Chúa phục hồi và chữa lành. Để sau khi được chữa lành, chúng ta biết trỗi dậy và hăng hái phục vụ anh chị em mình như mẹ vợ ông Simon. Được Chúa chữa lành, là được Chúa tăng sức để hội nhập lại với đời sống cộng đoàn, và cùng chung tay xây dựng để cộng đoàn chúng ta trở thành dấu chỉ của Nước Trời giữa trần gian.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng là một tiếng chuông gióng lên thức tỉnh người Kitô hữu và đặc biệt người tu sĩ, trước căn bệnh “vô cảm” của thời đại. Như chúng ta đã biết, thời gian gần đây các trang mạng đều đề cập đến một căn bệnh của thời đại, đó là bệnh vô cảm. Vào lúc 5 giờ 30 phút chiều ngày 13 tháng 10 vừa qua, tại huyện Phật Sơn thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc xảy ra một sự việc đau lòng khiến toàn thế giới nhìn vào đều rùng mình và phẫn nộ. Đó là sự vô cảm của 18 con người dửng dưng trước sự quằn quại trên vũng máu của bé Duyệt Duyệt (Yue Yue) 2 tuổi, bị 2 chiếc xe tải cán qua. Rồi tiếp đến ngày 3-11-2011, chàng thanh niên có nick name là kẹo mút chơi bời đã khoe “chiến tích” tông xe làm chết người của mình với những từ ngữ đùa cợt phản cảm mang “máu lạnh” trên mạng Facebook, đã làm dấy lên làn sóng giận dữ kết án của dân cư mạng. Và mới đây, hôm 23-11-2011, dân cư mạng lại xôn xao bàn tán về câu chuyện cô gái lái xe buýt bị hãm hiếp trước sự bàng quan của hầu hết những người khách trên xe, duy chỉ có một người lên tiếng chống đối hành vi đồi bại của ba tên yêu xanh… Trước những sự kiện đau lòng này, người tu sĩ chúng ta phải làm gỉ?
Ước mong Lời Chúa hôm nay giúp chữa lành căn bệnh “vô cảm” của chúng ta và của con người thời đại này. Xin Chúa giúp chúng ta biết “chạnh lòng thương,” biết nhạy cảm trước những đau khổ, trước những cảnh thương tâm đang xảy ra chung quanh chúng ta, đồng thời cho chúng ta sức mạnh để quyết tâm đứng lên hành động theo sự thúc đẩy của tình thương Thiên Chúa.
2. Cầu nguyện
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (c.35). Mặc dù bận rộn với việc chữa bệnh, trừ quỷ, giảng dạy… nhưng Đức Giêsu vẫn không quên dành giờ để cầu nguyện, để tâm sự với Chúa Cha. Dù không ai gần Chúa Cha, không ai biết Chúa Cha bằng Đức Giêsu, nhưng Ngài vẫn cần gặp Chúa Cha mỗi ngày, mỗi lúc.
Thật vậy, cầu nguyện được coi là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống của Đức Giêsu. Ngài cầu nguyện mọi nơi, mọi lúc: Trước khi khởi đầu sứ vụ rao giảng, Ngài đã dành 40 đêm ngày để cầu nguyện (Mc 1,12-13); trước khi chọn 12 Tông đồ, Ngài cầu nguyện thâu đêm (Lc 6,12); và ở đây, trước khi khởi sự một ngày mới, Ngài cũng tìm đến Chúa Cha để cầu nguyện. Ngài tìm Cha để tâm sự về gánh nặng công việc, về nỗi đau khổ của nhân loại, về cuộc chiến chống lại sự dữ–chống lại Satan. Trong thân phận con người, Đức Giêsu thấy mình cần được Chúa Cha nâng đỡ, cảm thông, và tăng lực để làm tròn sứ mạng. Chính cầu nguyện đã đưa Đức Giêsu kết hiệp với Cha, lãnh nhận sức sống, và quyền năng nơi Cha để phục vụ con người tốt hơn.
Như Đức Giêsu cần gặp Cha như thế nào, thì chúng ta—những môn đệ ngày nay cũng cần gặp Chúa Cha như vậy. Là người được Chúa Cha tuyển chọn để làm chứng nhân Tin Mừng, chúng ta được sai đi đến với mọi người, để chia sẻ cuộc sống, để phục vụ và đem bình an và niềm vui của Chúa đến cho họ. Nhưng việc loan báo Tin mừng, việc phục vụ anh chị em của chúng ta chỉ đem lại hoa trái đích thực và vĩnh cửu, khi chúng ta biết gắn kết với Chúa—Nguồn mạch Tình Yêu và Sự Sống, như Đức Giêsu dạy: “Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì” (Ga 15,5).
Như thế, đối với người môn đệ Đức Kitô, cầu nguyện chính là lẽ sống, là nguồn mạch, là sức mạnh cho lời rao giảng, cho sứ mạng tông đồ, vì chỉ có cầu nguyện mới làm cho ta trở nên môn đệ đích thực trước mặt Thiên Chúa. Trong ngày tĩnh tâm này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy rút lui khỏi ngững bận rộn thường ngày, để dành những giờ phút thật riêng tâm giao với Chúa. Chính đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện sẽ giúp chúng ta chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách tốt đẹp và hữu hiệu hơn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết học nơi Chúa để biết vừa dấn thân hết mình phục vụ nhu cầu của anh chị em, nhạy cảm trước những nỗi đau của họ, đồng thời luôn giữ trọn mối liên lạc thân tình với Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết trân quý những giây phút cầu nguyện, những thời khắc được dành riêng cho cuộc trao đổi thân tình giữa con và Chúa, để con có đủ sức mạnh phục vụ anh chị em con mỗi ngày tốt hơn. Amen.
III. CÂU HỎI THẢO LUẬN CỘNG ĐOÀN
Duyệt quyết tâm tháng 1.2012.
Noi gương Chúa Giêsu, chị và cộng đoàn của chị đã “chạnh lòng thương” trước những người đang cần sự giúp đỡ của chị và cộng đoàn như thế nào? Chị có cảm thấy thấy bị quấy rầy trước những nhu cầu cấp bách của chị em trong cộng đoàn và của những người chung quanh không? Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta phải làm gì để có quân bình trong đời sống cầu nguyện và hoạt động như Đức Giêsu mong ước?
Chọn quyết tâm tháng 2.2012.
90. Chú giải của William Barclay
MỘT PHÉP LẠ TẠI TƯ GIA
(Mc 1,29-31)
Chúa Giêsu đã giảng dạy và làm nhiều việc kiến mọi người phải kinh ngạc. Sau buổi họp tại hội đường, Ngài cùng các bạn đến nhà Phêrô. Theo thói quen Do Thái, bữa ăn chính trong ngày Sabát là sau buổi nhóm họp ở hội đường vào giờ thứ sáu, nghĩa là 12 giờ trưa (ngày của dân Do Thái bắt đầu vào 6 giờ sáng, các giờ cứ theo đó mà tính). Có thể Chúa Giêsu muốn được nghỉ ngơi sau những công việc căng thẳng và mệt nhọc trong buổi nhóm họp tại hội đường. Nhưng một lần nữa, có người đang cần đến quyền năng của Ngài, và Ngài lại dấn thân vì người khác. Phép lạ này nói với chúng ta vài điều về ba hạng người.
1/ Chúng ta biết Chúa Giêsu, Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng, Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng như giữa đám đông người trong hội đường. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không chịu cứu giúp. Nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của Ngài. Nhưng trên hết, tại đây cũng như trong hội đường, chúng ta lại thấy các phương pháp có một không hai của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa Giêsu có nhiều thầy trừ quỉ, họ hành nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái, những hình thức bùa chú, những tiếng kêu la hò hét với nhiều đồ nghề và ma thuật. Trong hội đường, Chúa Giêsu chỉ phán một câu đầy uy quyền và việc chữa bệnh được hoàn tất ngay. Ở đây cũng có một sự việc như thế xẩy ra. Bà mẹ vợ của Phêrô đang đau chứng bệnh mà kinh Talmud gọi là “một cơn sốt thiêu đốt”. Bệnh này từ xưa đến nay vẫn lan tràn tại vùng đất ấy của xứ Galilê. Kinh Talmud cũng có kể ra các phương pháp chữa trị chứng bệnh này. Người ta lấy một con dao bằng sắt đem cột vào một bụi gai bằng một lọn tóc. Suốt nhiều ngày liên tiếp, người ta đọc sách Xuất Hành 3, trước nhất là câu 2.3 rồi đến 4.5. Rồi có một công thức ma thuật đọc lên, như thế người ta xem phần chữa trị đã xong. Chúa Giêsu hoàn toàn bất chấp những câu thần chú theo ma thuật thông thường, chỉ bằng một dáng điệu và một tiếng duy nhất đầy quyền năng, Ngài đã chữa bệnh cho bà cụ. Từ Hy văn được dùng chỉ quền phép trong đoạn sách trên đây là exousia và exousia được định nghĩa là tri thức, cùng với quyền năng độc nhất vô nhị, đó chính là điều Chúa Giêsu vốn có và là việc Ngài sẵn sàng thi thố ngay trong một căn nhà tranh. Paul Tournier có viết “bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: Tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều tôi kể. Đó chẳng phải là kiên nhẫn, mà là sự quan tâm”. Với Chúa Giêsu việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín, giúp người không phải là một nhiệm vụ khó nhọc. Ngài chỉ giúp người một cách tự động, tự nhiên vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần Ngài giúp.
2/ Chúng ta biết về các môn đệ của Ngài. Họ chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng ngay trong giờ phút gặp gỡ ngắn ngủi này họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho Ngài. Bà mẹ vợ của ông Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, việc các môn đệ Ngài trình bày mọi việc cho Chúa Giêsu nghe là điều tự nhiên. Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một tu sĩ lớn tuổi và ông cũng chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Ông hết sức kinh ngạc về cách cầu nguyện vô cùng đơn giản của vị tu sĩ đó. Nó giống hệt phần tiếp tục câu chuyện thân mật mà vị tu sĩ lão thành ấy luôn luôn trò chuyện với Chúa Giêsu. Ông Paul Tournier nói tiếp: “về đến nhà tôi kể cho vợ tôi nghe chuyện ấy, và chúng tôi cùng cầu xin Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp thân mật với Chúa Giêsu như vị tu sĩ nọ vậy. Từ đó, Ngài đã trở thành trọng tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi đã làm và cũng quan tâm về những việc đó. Ngài là bạn thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời sống mình ra thảo luận. Ngài chia sẻ những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự với tôi, Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người ấy”. Mấy lời trên đây bao gồm bản chất của sinh hoạt Kitô hữu. Như lời một bài thánh ca: Hãy trình bày dâng mọi sự cho Chúa bằng lời cầu nguyện. “Thế là các môn đệ đã học được điều đã trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp mình”.
3/ Chúng ta biết vài điều về bà mẹ vợ ông Phêrô. Ngay sau khi được chữa lành, bà cụ liền bắt tay phục vụ. Bà cụ đã dùng sức khỏe được hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Có một gia đình danh tiếng tại Tô cách lan vẫn dùng khẩu hiệu này “được cứu để phục vụ”. Chúa Giêsu cứu giúp chúng ta là để chúng ta giúp đỡ người khác.
NHỮNG ĐÁM ĐÔNG BUỔI ĐẦU
(Mc 1,32-34)
Những việc Chúa Giêsu đã làm tại Caphácnaum không thể nào giấu kín được. Một người mới xuất hiện, có uy quyền, có quyền năng là chuyện không tài nào dấu kín được. Cho nên ngay chiều đó, căn nhà của Phêrô bị một đám đông người mong được Chúa Giêsu chữa lành vậy chặt. Sở dĩ họ phải chờ đến lúc mặt trời lặn là vì luật cấm mang môt vật nặng đi trong thành phố vào ngày Sabát (Gr 17,24), mang một vật nặng như thế là làm việc mà làm việc thì bị cấm. Dĩ nhiên thời bấy giờ họ không có đồng hồ. Ngày Sabát kéo dài từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều và theo luật thì một ngày kết thúc khi có ba ngôi sao mọc trên trời. Cho nên người trong thành phải chờ đến khi mặt trời lặn, sao đã mọc, họ mới ra khỏi nhà và đưa người bệnh đến với Chúa Giêsu để Ngài chữa lành cho họ.
Chúng ta đã thấy Chúa Giêsu chữa bệnh cho người ta ba lần. Lần thứ nhất Ngài chữa bệnh trong hội đường, lần thứ hai trong nhà một bạn thân của Ngài và giờ đây, lần thứ ba, Ngài chữa bệnh ở ngoài đường phố. Chúa Giêsu nhận biết ngay nhu cầu của bất kỳ ai muốn khấn xin Ngài. Có người nói về tiến sĩ Johnson rằng, gặp bất hạnh là điều chắc chắn để được ông kết bạn và trợ giúp. Bất cứ ở đâu có rắc rối, hoạn nạn thì Chúa Giêsu sẵn sàng sử dụng quyền năng của Ngài, Ngài không hề kén chỗ hay kén người. Ngài nhận biết nhu cầu phổ quát mà mọi người cần đến.
Sở dĩ đông người kéo theo Chúa Giêsu vì họ nhận thấy Ngài là con người có thể làm nhiều việc lạ. Có nhiều người biết nói chuyện, giải thích, thuyết giảng. Nhưng đây là một người không chỉ nói suông mà còn giải quyết mọi sự bằng hành động. Có người bảo rằng “Nếu ai đó biết làm một chiếc bẫy chuột tốt hơn người láng giềng của mình, thì dù người ấy có sống giữa rừng, dân chúng cũng tìm được đường đến nhà người ấy”. Người mà dân chúng cần đến là người có hiệu năng. Chúa Giêsu đã và đang tạo nhiều kết quả.
Nhưng tấm thảm kịch cũng bắt đầu từ đây. Đám đông đã kéo đến, nhưng họ kéo nhau đến là vì họ muốn Chúa Giêsu làm một việc gì đó cho họ. Họ đã không đến vì yêu mến Ngài hoặc vì được thấy một mặc khải mới mẻ, nói cho cùng, họ muốn lợi dụng Ngài. Đó là điều mà hầu như tất cả mọi người đều muốn nơi Thiên Chúa và Con Ngài. Với một lời cầu nguyện được dâng lên cho Chúa trong những ngày thịnh vượng, thì có đến một ngàn lời cầu xin dâng lên trong những lúc gặp khó khăn. Nhiều người không hề cầu nguyện lúc mặt trời đang chiếu sáng, lại bắt đầu cầu nguyện khi có các luồng gió mạnh thổi đến. Có người bảo đã có quá đông người xem đạo giáo như “một đội cấp cứu chứ không phải như một tuyến lửa của cuộc đời”. Với họ thì gặp khủng hoảng, cùng cực lắm, họ mới chạy đến với đạo giáo, chỉ khi họ gặp bước đường cùng trong cuộc sống hoặc khi họ bị cuộc đời cho đo ván, họ mới bắt đầu nhớ đến Chúa. Điều vẫn luôn luôn đúng là tất cả chúng ta phải đến cùng Chúa Giêsu và chỉ một mình Ngài mới có thể cung ứng các nhu cầu của đời sống cho chúng ta. Nhưng nếu việc đi đến và các tặng phẩm đó không làm phát sinh một tình yêu, lòng biết ơn để đáp lại thì thật là một sai lầm thảm khốc. Thiên Chúa không phải là Đấng để chúng ta lợi dụng trong những ngày gặp bất hạnh. Ngài là Đấng phải được chúng ta yêu mến và mong nhớ mỗi ngày trong đời sống chúng ta.
GIỜ YÊN TỊNH VÀ HÀNH ĐỘNG THÔI THÚC
(Mc 1,35-39)
Chỉ cần đọc qua các sự việc xảy ra tại Caphácnaum cũng đủ thấy Chúa Giêsu không còn chút thì giờ nào để ở riêng một mình. Nhưng Chúa Giêsu biết rất rõ: Ngài không thể sống không có Thiên Chúa. Nếu Ngài cứ phải luôn luôn ban phát thì ít nhất thỉnh thoảng Ngài cũng phải nhận vào. Nếu Ngài tự ban chính mình cho tha nhân thì Ngài cũng luôn luôn cần cầu xin để trợ giúp mình. Chúa Giêsu biết Ngài không thể sống mà không cầu nguyện. Trong một quyển sách nhỏ nhan đề “Cầu Nguyện Thực Hành”, tiến sĩ A.D. Belden đưa ra một trong những câu định nghĩa quan trọng về cầu nguyện “Cầu nguyện có thể được định nghĩa là tiếng kêu của linh hồn”. Không cầu nguyện là mắc phải một lỗi lầm điên rồ vĩ đại, đó là bỏ qua, không biết đưa Chúa vào số tài nguyên sẵn có của chúng ta. Trong cầu nguyện, chúng ta tạo cơ hội cho Chúa nuôi dưỡng các khả năng tinh thần của chúng ta. Chúa Giêsu biết việc đó, Ngài biết nếu phải gặp con người, trước tiên Ngài cần phải gặp Thiên Chúa. Nếu cầu nguyện cần thiết cho Chúa Giêsu đến thế, nó còn cần thiết cho chúng ta biết bao?
Nhưng ngay đến trong những giờ phút đó họ vẫn đi tìm Ngài. Chúa Giêsu không có cách gì để đóng cửa lại đối với họ. Nhà văn chuyên viết truyện ngắn là Rose Macaulay bảo rằng tất cả những gì bà đòi hỏi nơi đời sống là “một phòng riêng của mình”. Đó chính là điều Chúa Giêsu chẳng bao giờ có được. Một bác sĩ lừng danh nhận định nhiệm vụ của y học là “thỉnh thoảng chữa lành, thông thường trấn an và luôn luôn là an ủi, vỗ về”. Nhiệm vụ ấy luôn luôn đặt trên Chúa Giêsu. Có người bảo nhiệm vụ của một bác sĩ là “giúp người ta sống và chết”, mà con người thì bao giờ cũng vừa sống vừa chết. Bản tính con người là cố tạo nên những hàng rào để có thì giờ và bình an cho riêng mình, đó là điều Chúa Giêsu chẳng bao giờ làm. Tuy ý thức được sự mỏi mòn suy kiệt của chính mình, Ngài lại ý thức rõ hơn tiếng kêu cứu bất biến của nhu cầu con người. Cho nên khi họ đến với Ngài, thì Ngài đã từ chỗ đang quỳ gối phải đứng lên để đối diện với thách thức của nhiệm vụ. Cầu nguyện chẳng bao giờ lại thay thế việc này việc nọ của chúng ta, điều nó có thể làm là thêm sức để chúng ta có thể làm những việc chúng ta phải làm.
Vậy, Chúa Giêsu lại ra đi, thực hiện một vòng rao giảng trong các hội đường xứ Galilê. Trong sách Maccô, vòng đi này chỉ được thu gọn trong một câu, nhưng chắc nó phải kéo dài nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Trong chuyến đi này, Ngài vừa giảng dạy vừa trừ quỷ. Có vài sự việc vẫn gắn liền nhau mà Chúa Giêsu không bao giờ tách rời.
1/ Ngài không bao giờ tách rời lời nói với hành động. Ngài chẳng bao giờ nghĩ mình đã làm xong một việc khi công việc ấy đang bị đình chỉ. Ngài chẳng bao giờ nghĩ mình đã xong nhiệm vụ sau khi đã khuyên dạy người ta đến với Thiên Chúa và sống thánh thiện. Những vấn đề được trình bày, và lời khuyên bảo của Ngài luôn luôn biến thành hành động. Fosdick kể chuyện về một sinh viên thường tìm mua những sách hay nhất, những học cụ tốt nhất, sắm một chiếc ghế đặc biệt để ngồi, có giá để sách hầu học hỏi nghiên cứu cho thuận tiện, rồi anh ngồi vào chiếc ghế ấy mà… ngủ. Người chỉ nói giỏi mà không làm giống như thế.
2/ Ngài không bao giờ phân rẽ linh hồn với thân xác. Có ý kiến cho rằng thân xác dường như chẳng có gì quan trọng, nhưng con người là cả hồn lẫn xác. Nhiệm vụ của Kitô giáo là cứu chuộc con người toàn diện chứ không phải chỉ cứu một phần con người mà thôi. Dĩ nhiên có người dù sống thiếu thốn trong một căn nhà lụp xụp, gặp hoạn nạn, đau khổ, nhưng luôn cảm nhận được phúc lộc qua những ngày tháng ngọt ngào với Chúa, nhưng đó không phải là lý do để cứ bỏ mặc con người ấy như vậy. Các hội truyền giáo cho người bán khai không phải chỉ đem đến cho họ quyển Kinh Thánh mà thôi, nhưng đem giáo dục và thuốc men nữa, họ cũng đem đến trường học và bệnh viện. Thông điệp của Kitô giáo là thông điệp nhằm rao giảng và làm ích cho cả thân xác lẫn linh hồn người ta.
3/ Chúa Giêsu chẳng bao giờ tách rời đất với trời. Có những người quá bận tâm đến cõi trời đến nỗi quên hết mọi sự thuộc về đất, do đó trở thành những nhà duy tâm, chỉ mơ toàn chuyện lý tưởng không thực tế. Nhiều người khác lại quá bận tâm đến những điều thuộc về đất đến nỗi quên hết những điều thuộc về trời, để chỉ giới hạn cái hay, cái tốt vào cái hay, cái tốt vật chất mà thôi. Giấc mơ của Chúa Giêsu là thời kỳ mà ý Chúa sẽ thành tựu ở dưới đất cũng như ở trên trời (Mt 6,10). Giấc mơ của Chúa Giêsu là thời đại mà đất với trời chỉ là một.
91. Ma quỷ
Nghĩ tới ma quỷ, chúng ta thường mường tượng ra một thằng người, vừa đen đủi lại vừa xấu xa, vừa có sừng lại vừa có đuôi. Nhưng đó chỉ là một hình ảnh ấu trĩ mà thôi. Trong bức thư gởi tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô đã vẽ về nó bằng một đường nét khác, ngài gọi nó là quyền lực của đêm tối, quyền lực của tội ác.
Đúng thế, nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy nó đang mở rộng ảnh hưởng, đang bành trướng thế lực trong mọi lãnh vực. Từ khoa học kỹ thuật, cho đến sách báo phim ảnh. Chúng ta hãy nghĩ đến sách báo phim ảnh khiêu dâm, trình bày những tình cảm bệnh hoạn cùng với những vụ giết chóc dã man. Chúng ta hãy nghĩ tới những cuộc chạy đua vũ trang. Chỉ nguyên chương trình phòng thủ không gian của Mỹ, cũng đã tốn tới hằng tỉ mỹ kim, trong khi đó trên thế giới biết bao nhiêu người túng đói, chén cơm không có mà ăn, manh áo không có mà mặc. Chúng ta làm được những gì để ngăn chặn làn sóng tội ác, hay là chúng ta để mặc cho quyền lực của đêm tối cứ mỗi ngày một lan rộng.
Tội ác đã có từ lâu, nhưng ngày hôm nay, nó được tăng lên với một vận tốc kinh khủng, khiến cho con người như không còn ý thức về nó nữa. Người ta huỷ bỏ án tử hình vì cho đó là một hình phạt quá nặng nề. Thế nhưng khi được hỏi về những vụ phá thai, thì họ lại bảo đó là chuyện khác. Rồi khi được hỏi về những vụ ngoại tình, và ly dị, thì họ lại bảo con người có quyền được sống hạnh phúc. Dường như là cái nền văn minh vật chất, chỉ đem lại cho chúng ta một cái bộ mặt bên ngoài hào nhoáng, nhưng lại đánh mấy cái ý nghĩa, cái nền tảng bên trong. Vậy thì phải chăng quyền lực của đêm tối cứ tiếp tục trải dài. Và ai sẽ chiến thắng được nó?
Tôi xin thưa, người duy nhất đã chiến thắng được nó là Đức Kitô. Còn chúng ta, muốn chia sẻ phần chiến thắng, thì chúng ta phải mang lấy vũ khí của Ngài. Vũ khí ấy là gì? Tôi xin thưa đó là đức tin. Không phải chỉ là một đức tin được thực hành ở trong nhà thờ, nhưng là một đức tin mạnh mẽ và sống động, một đức tin vô điều kiện có nghĩa là ở mọi nơi và trong mọi lúc, gặp bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn chấp nhận Thiên Chúa là Chủ tể tuyệt đối, đồng thời cố gắng biểu lộ đức tin ấy bằng những việc làm cụ thể.
Ma quỷ không thể tác động trên chúng ta nếu như chúng ta đã không giao nộp cho nó tâm hồn và thể xác. Đồng thời niềm tin vào Đức Kitô sẽ là sức mạnh duy nhất làm cho ma quỷ phải khiếp sợ và bỏ chạy. Nhờ đó mà chúng ta được giải thoát khỏi quyền lực của đêm tối, quyền lực của tội ác.
06/02 Dung mạo yêu thương của Chúa Giêsu
- Viết bởi Mc 6, 30-34
Dung mạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 4 thường niên. – Thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo. Lễ nhớ.
"Họ như đàn chiên không người chăn".
* Ngày 05 tháng 02 năm 1597, hai mươi sáu Kitô hữu đã bị đóng đinh thập giá ở Nagasaki (Nhật Bản). Trong số đó có những nhà truyền giáo từ châu Âu đến như các tu sĩ dòng Tên và dòng Phanxicô, nhưng còn có cả các tu sĩ Nhật Bản, như thánh Phaolô Miki (sinh khoảng năm 1564/1566) và mười bảy giáo dân gồm: các giáo lý viên, các người thông ngôn, hai bác sĩ, và cả các trẻ em nữa. Tất cả đều tươi cười, nhiều người còn ca hát khi chịu chết để làm chứng cho Chúa Kitô.
Lời Chúa: Mc 6, 30-34
Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy.
Người liền bảo các ông: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút". Vì lúc ấy dân chúng đến tấp nập đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài.
Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đến một nơi thanh vắng
Suy niệm:
Các môn đệ trở về gặp lại Thầy Giêsu
sau cuộc hành trình tông đồ đầu tiên nhiều thú vị.
Họ cùng nhau tụ họp chung quanh Thầy
và thi nhau kể cho Thầy nghe tất cả những gì họ đã làm và đã dạy.
Thầy Giêsu thấy họ vui vì đã có thể đuổi được quỷ, chữa được bệnh.
Những ông đánh cá ít học, nói năng bỗ bã,
trở thành người rao giảng mạnh bạo Tin Mừng về Nước Trời.
Nhưng Thầy Giêsu cũng thấy nét mêt mỏi nơi khuôn mặt họ.
Các tông đồ không có giờ ăn uống vì bị đám đông bao vây.
“Anh em hãy lánh riêng ra,
đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (c.31).
Lời mời trên cho thấy mối quan tâm của Thầy đối với các môn đệ,
những người thợ cần được nghỉ ngơi cả thân xác lẫn tinh thần.
Họ cần tách mình ra khỏi đám đông, khỏi công việc,
để đến nơi hoang mạc mà tĩnh tâm.
Tĩnh tâm là nghỉ ngơi bên Thầy trong sự ấm áp của tình thầy trò,
không bị vướng bận bởi công việc phục vụ.
Tĩnh tâm là dành một thời gian để lòng mình lắng xuống,
đọc lại những biến cố đã xảy ra trong đời mình,
nhìn lại những kinh nghiệm mình đã trải qua bằng cái nhìn của Chúa,
cả những khó khăn và thất bại, những bất trung và vấp ngã…
Nhưng tĩnh tâm không phải chỉ để nhìn lui, mà còn để nhìn tới.
Các tông đồ cần vượt qua những hứng khởi nhất thời do thành công.
Họ cần trầm lắng để chuẩn bị cho những khó khăn sắp đến.
Lời mời của Thầy Giêsu vẫn đụng đến chúng ta hôm nay,
những con người tất bật, vội vã, lo âu và căng thẳng,
những con người kiệt sức vì đòi hỏi của công việc hay vì nghiện việc.
Lánh riêng, nghỉ ngơi ở nơi hoang vắng, tĩnh tâm,
đó không phải là những điều dành riêng cho giới tu sĩ.
Đó là nhịp bình thường của những người bỗng thấy mình đang bị cuốn đi,
trôi đi, mất hướng, mất chính mình, trở nên con rối ngờ nghệch.
Tuy nhiên, không dễ tìm được nơi hoang vắng, để cách ly mình khỏi công việc.
Khi Thầy và các môn đệ đến được nơi hoang vắng ưng ý,
thì chỗ đó chẳng còn vắng nữa, vì dân chúng đã đến trước rồi.
Chúng ta vẫn cứ phải tìm chỗ vắng riêng cho mình với Chúa suốt đời.
Cầu nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: LỜI BAN SỰ SỐNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành. Mục tử ban sự sống cho đoàn chiên. Sự Sống đến từ Lời Chúa. Vì Lời Chúa là Ngôi Lời, là chính Thiên Chúa. Chính vì thế khi thấy đám đông tất tưởi bơ vơ thì Chúa dậy dỗ họ. Chính vì thế mà dân chúng say mê nghe Lời Chúa đến quên ăn quên ngủ, quên cả đường về.
Con người là một tổng thể phức tạp với những khát vọng vô biên. Những con người, phương tiện, lý thuyết, tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội của loài người chẳng thể nào thỏa mãn được khát khao của con người. Từ xa xưa biết bao người nghĩ tưởng có thể giải quyết được mọi vấn đề trên thế giới, đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Nhưng tất cả đều chỉ là ảo tưởng, có khi còn tha hóa, hạ nhục con người. Thế kỷ 20 chứng kiến sự sụp đổ của hai lý thuyết lớn là Phát xít và Cộng sản. Hai lý thuyết này khi mới xuất hiện từng đưa ra ảo tưởng xây dựng thiên đường nơi trần thế. Nhưng 1 thế kỷ trôi qua, họ đã xây dựng những địa ngục trần gian với tất cả sự chết chóc qua 2 cuộc thế chiến, qua các trại học tập cải tạo. Sự nghèo đói. Và khủng khiếp hơn, sự suy thoái đạo đức. Tất cả chỉ là bánh vẽ. Tệ hơn nữa là những trái cây bên ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong chứa thuốc độc chết người. Tất cả chỉ là những người chăn thuê bóc lột đoàn chiên cho lợi ích riêng tư.
Chỉ có Chúa là mục tử nhân lành. Chúa ban lương thực nuôi sống đoàn chiên. Lương thực đó không chỉ là vật chất. Nhưng còn là lương thực thiêng liêng. Dẫn con người đi trên đường ngay nẻo chính. Đến sự thật toàn vẹn. Đến sự sống muôn đời. Chính Chúa chịu chết để minh chứng điều đó. Thịt Máu Chúa trở thành lương thực nuôi đoàn chiên (năm lẻ). Đường Chúa đi trở thành con đường dẫn ta đến hạnh phúc thiên đàng. Chính vì thế Salomon không xin điều gì khác ngoài biết lắng nghe và biết theo Lời Chúa mà phân biệt phải trái. Vì thế ông trở thành người khôn ngoan nhất trong các kẻ khôn ngoan (năm chẵn).
Ta hãy noi gương dân chúng thời Chúa Giêsu. Hâm mộ tìm nghe Lời Chúa. Say mê suy niệm Lời Chúa. Và nhiệt thành thực hành Lời Chúa. Đó chính là Con Đường ngay thẳng. Đó chính là Sự Thật toàn vẹn. Đó chính là Sự Sống viên mãn. Sẽ lấp đầy mọi khát vọng thâm sâu của con người. Sẽ giải quyết mọi vấn đề của thế giới. Sẽ đem đến hạnh phúc cho nhân loại.
SUY NIỆM 3: Dung mạo Chúa Giêsu
Manio Flajano, văn sĩ, ký giả kiêm đạo diễn người Italia, qua đời năm 1972, đã để lại những trang nhật ký thật cảm động: năm 1942, đứa con gái 8 tuổi của ông bị bệnh sưng màng óc và kéo lê cuộc sống tàn tật đó cho đến năm 1992. Nhìn đứa con mà lòng đau xót, nhưng người cha vẫn đặt tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa. Trong một trang nhật ký, ông viết: "Một người đàn ông nọ dẫn đến cho Chúa Giêsu đứa con gái bệnh tật và nói với Ngài: "Con không muốn chữa lành nó, nhưng chỉ xin Chúa yêu thương nó mà thôi". Chúa Giêsu cúi xuống hôn đứa bé mà nói: "Ta nói thật, người đàn ông này đã xin điều mà có thể cho được". Nói xong, Chúa Giêsu biến đi trong ánh sáng chói ngời bỏ lại một đám đông tiếp tục bàn tán về các phép lạ, còn các nhà báo thì cố gắng mô tả các phép lạ".
Những dòng trên đây của Flajano đưa chúng ta vào trọng tâm của Tin Mừng. Thật thế, Tin Mừng không phải là một mớ lý thuyết hay giáo điều, Tin Mừng cũng không phải là một Thiên Chúa cao xa trừu tượng. Tin Mừng thiết yếu là một con người bằng xương bằng thịt, với một trái tim dễ rung động và biết yêu thương. Ðọc lại các sách Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không làm phép lạ như một phù thủy múa may cây đũa thần của mình, Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm lóe mắt thiên hạ. Phép lạ là dấu chỉ của ơn cứu độ, là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, một Thiên Chúa yêu thương đến độ hóa thân làm người và sống thiết thân với con người.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô như tóm tắt tất cả dung mạo của Chúa Giêsu trong câu nói: "Chúa Giêsu thấh đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương". Ðây là tất cả mạc khải về tình yêu Thiên Chúa đối với con người: thay cho một Thiên Chúa ở trên cao, thưởng phạt chí công, lạnh lùng nghiêm khắc, Chúa Giêsu đã bày tỏ cho chúng ta một Thiên Chúa đi vào lịch sử con người, một Thiên Chúa sinh ra như một em bé, một Thiên Chúa có trái tim cảm thông và tha thứ, một Thiên Chúa gần gũi với con người, có mặt trong từng nhịp thở của con người.
Chiêm ngắm một Thiên Chúa như thế qua con người Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng nhận ra được một chân lý về con người, bởi vì như Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến chế "Vui mừng và Hy vọng" đã nói: Chỉ trong ánh sáng của Ngôi Lời Nhập Thể, chân lý về con người mới được sáng tỏ. Con người bởi đâu mà đến? sẽ đi về đâu? chúng ta nhận ra điều đó trong Chúa Giêsu đã đành, mà trong Ngài, chúng ta còn phải biết sống thế nào cho phải đạo làm người. Qua cung cách của Ngài, chúng ta thấy phải đối xử thế nào với người đồng loại. Qua cuộc sống yêu thương và yêu thương đến chết trên Thập giá, chúng ta hiểu được rằng hiến thân cho tha nhân là ơn gọi của con người, chỉ có con người mới được mời gọi để sống cho tha nhân mà thôi.
Tin mừng của chúng ta là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không ngừng được mời gọi để sống kết hiệp với Ngài, để đón nhận sức sống của Ngài và sống theo lý tưởng của Ngài. Ước gì chúng ta luôn được củng cố trong niềm xác tín rằng Ngài đang hiện diện và đồng hành với chúng ta trong từng phút từng giây cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Hãy nghỉ ngơi đôi chút
Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi việc các ông đã dạy. Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông chẳng có thì giờ ăn uống nữa. (Mc. 6, 30-31)
Tuần làm việc đã kết thúc. Thế là ngày thứ bảy. Mặc dầu một số lớn các công nhân phải trực ca ở sở, sinh hoạt phố xá vẫn thay đổi nhịp độ kể từ năm giờ chiều thứ sáu đến tám giờ sáng thứ hai. Người ta muốn lấy hơi thở, dù rằng cứ thứ bảy và chủ nhật nào ai nấy lại thường không phải hết cả hơi, vì những công chuyện như: đi chợ mua thực phẩm, đi tiệm sắm đồ, công việc nội trợ, chơi thể thao, thăm viếng gia đình, bạn bè, họp mặt liên hoan…
Nhưng tất cả những hoạt động đầy ắp những ngày cuối tuần này thật ra có giúp ích gì cho việc nghỉ ngơi không? Phải chăng những hoạt động ấy chỉ là tiếp nối cuộc chạy đua với thời gian làm việc trong tuần? Những hoạt động này có tăng thêm sinh khí cho con người, trí tuệ và đời sống thiêng liêng của ta không? Chúng ta có thực sự đạt được việc dành cho mình những giây phút để trở về với lòng mình, mặt đối mặt với Thiên Chúa, hoặc để thưởng thức một công trình âm nhạc hay văn chương, nhờ đó ta tiến gần tới sự thật, sống có bề sâu, sống thánh thiện và mang vẻ đẹp của một con người luôn đổi mới và biết xây dựng mình? Chúng ta có biết bố trí thời giờ dành để tập thể dục giúp cho thân thể được khỏe mạnh để làm việc không?
Những việc kể lại trong Phúc âm hôm nay chứng tỏ rằng Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ của Người, sau khi đi truyền giáo về, cần nghỉ “ngày thứ bảy cuối tuần”, cần được nghỉ ngơi. Dầu rằng quanh các ông, dân chúng vẫn tấp nập, kẻ lui người tới, hỏi han thì Chúa vẫn dưa các ông lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và có thì giờ ăn uống.
Làm việc và nghỉ ngơi thay phiên nhau vẫn là luật căn bản của con người, ai coi thường người ấy làm việc kém năng xuất, nếu không sẽ ốm đau và suy giảm tinh thần. Quá mệt mỏi, lúc nào cũng tù túng trong cùng một bầu khí, hoặc thường xuyên bận bịu với cũng một công việc, con người phải sống trong cái vòng lẩn quẩn hoặc tệ hơn, ta đánh mất ý thức về việc làm của mình.
Vậy thì “Anh em hãy nghỉ ngơi đôi chút”.
Suy Niệm 5: LÁNH SANG NƠI THANH VẮNG (Mc 6, 30- 34)
Sự quan tâm của Đức Giêsu với các môn đệ hôm nay làm cho chúng ta thấy một hình ảnh đẹp tuyệt vời về thái độ liên đới và nghĩ đến môn sinh của mình nơi vị Thầy khả ái.
Sau khi sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng, hôm nay, các ông về hối hả kể cho Đức Giêsu nghe những thành tích của mình. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã khuyên các ông: “Anh em hãy lánh đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút".
Nghỉ ngơi đôi chút, đây là cách nói thể hiện sự quan tâm của Đức Giêsu đến sức khỏe thể xác, nhưng không dừng lại ở chỗ bề ngoài, mà nó còn đi sâu xa hơn để thấy được ý nghĩa, giá trị của sự nghỉ ngơi tâm linh.
Nếu người môn đệ của Đức Giêsu quá quan tâm đến những thành quả bên ngoài, đến những kết quả bằng con số, thì e rằng họ đang bám víu vào công việc của Chúa hơn là chính Chúa, tức là cậy dựa vào những điều phụ thuộc hơn là chính yếu.
Tuy nhiên, Kinh Thánh kể tiếp, Đức Giêsu và các môn đệ đi sang bờ bên kia, nhưng khi các Ngài tới thì dân chúng đã đến trước rồi, nên Đức Giêsu đã chạnh lòng thương họ như đàn chiên không người chăn dắt, vì thế Ngài đã dạy họ nhiều điều.
Sống trong một xã hội tân tiến như hiện nay, mọi sự trở nên gần gũi khi ngôi nhà thế giới được xích lại nhờ những phương tiện truyền thông. Người ta có thể ngồi trong một căn phòng chỉ mấy mét vuông, nhưng có thể nhìn ra cả thế giới bên ngoài. Nhưng lại chớ trêu thay, những điều đó tưởng chừng như làm cho người ta gần nhau, quan tâm đến nhau hơn thì lại làm cho người ta chỉ biết nghĩ đến mình trong khi biết bao người kêu gào tình yêu, đói khát sự liên đới!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta một mặt hãy tập trung vào đời sống thiêng liêng, coi đời sống thiêng liêng như là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống đạo. Mặt khác, luôn biết quan tâm đến những người xung quanh, để lời nói và hành động của chúng ta được thiết thực khi chúng đi đôi với nhau.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết sống tình liên đới với anh chị em, nhất là với người nghèo. Xin Chúa cũng ban cho chúng con biết coi trọng đời sống nội tâm để chúng con tìm thánh ý Chúa và thực thi điều Chúa muốn chúng con làm. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Sự cần thiết của sự nghỉ ngơi thánh
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Người ta đồn rằng thánh Gioan tông đồ thích chơi với chim sẻ nuôi trong nhà. Ngày kia, một thợ săn đến thăm và rất ngạc nhiên thấy một người nổi tiếng như vậy mà lại vui chơi. Ông nghĩ có thể dùng thời giờ đó làm một việc tốt lành và quan trọng. Nên ông hỏi: “Tại sao ngài lãng phí thì giờ vui chơi? Sao ngài lại dành thì giờ cho một chú chim sẻ vô dụng thế?”.
Thánh Gioan nhìn anh với vẻ ngạc nhiên. Tại sao ông ta không vui chơi? Vì thế, ngài hỏi ông: “Tại sao dây cung của ông không kéo căng ra?”.
“Nó không thể kéo căng, vì như thế dây cung sẽ mất độ đàn hồi và không thể bắn tên”.
Thánh Gioan bảo ông: “Này bạn, anh cần thả lỏng dây cung, nghĩa là anh cũng phải giải thoát sự căng thẳng trong anh và nghỉ ngơi. Nếu tôi không nghỉ ngơi và giải trí, tôi sẽ không có sức cho bất kỳ công việc hệ trọng nào. Tôi cũng sẽ không có sức làm những việc tôi phải làm và cần làm, đòi hỏi sự chú tâm hoàn toàn của tôi”.
Suy niệm
Ngay từ thời tạo dựng trời đất, Thiên Chúa đã ấn định thời gian nghỉ ngơi bằng ngày thứ Bảy (x.St 2,2). Trong Giao ước với dân Chúa tuyển trọn, Ngài cũng truyền cho dân phải tôn trọng ngày nghỉ thứ Bảy (x.Xh 23,12).
Tin Mừng Mc 6,30-34 một lần nữa xác quyết cho chúng ta sự cần thiết của sự nghỉ ngơi thánh, các tông đồ sau những ngày làm việc trong bước rao giảng Tin Mừng quay về bên Chúa Giêsu, Ngài đã truyền lệnh cho các ông đi vào thời gian nghỉ ngơi: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi…” (Mc 6,31), Đức Kitô đã thấu hiểu nguyên tắc làm việc và nghỉ ngơi phải luôn đi đôi với nhau. Ngài xác lập một cách gián tiếp cho các tông đồ biết việc nghỉ ngơi là một giai đoạn quan trọng trong đời sống thường ngày sau những giây phút làm việc và trực tiếp hơn nữa, nghỉ ngơi tâm linh là một giai đoạn quan trọng trong công tác tông đồ và cuộc sống tâm linh.
Theo lời dạy của Đức Kitô, chúng ta đặt cuộc sống mình trong ánh sáng của Tin Mừng về làm việc và nghỉ ngơi:
Nơi đời sống thường ngày, để làm việc có hiệu quả và cuộc sống thêm phát triển trong công việc, tôi đã thu xếp cho mình một giấc nghỉ ngơi, giải trí thật hợp lý. Một khi có giấc ngủ sâu và những giây phút giải trí lành mạnh, bạn sẽ cảm nghiệm được hiệu quả của thời gian tĩnh dưỡng và thời gian giải trí đối với cuộc sống mỗi ngày. Xin hãy thử, rồi bạn sẽ thấy…
Về đời sống tâm linh, tôi đã làm việc tông đồ, đã tích cực tham gia những hoạt động mục vụ của cộng đoàn, Gx, đã đến nhà thờ để cầu kinh dâng thánh lễ, tất cả đều tốt cho đời sống tinh thần, đó là biểu hiện hoa trái của đời sống tôn giáo. Nhưng đời sống tâm linh tôi có để những giây phút tĩnh tâm, thinh lặng thánh để được nghỉ ngơi trong bàn tay của Thiên Chúa. Như sách Khôn Ngoan viết: “Trở về nhà, tôi nghỉ ngơi bên cạnh Đức Khôn Ngoan, vì làm bạn với Đức Khôn Ngoan, không bao giờ cay đắng, và chung sống với Đức Khôn Ngoan, chẳng khi nào đau khổ, mà luôn luôn thích thú, hân hoan” (Kn 8,16).
Nơi giây phút thinh lặng và nghỉ ngơi đó, tôi được tâm sự với Chúa về gia đình tôi, về những khó khăn nặng nhẹ của công ăn việc làm về tất cả những gì trong đời sống tôi. Trong những giờ phút nghỉ ngơi linh thiêng đó tôi có tha thiết:
“Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong,
hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa” (Tv 42,2).
Hãy dành những giây phút thinh lặng thánh trong đời sống, có thể đó là thời điểm của đầu ngày hay là những giây phút trước giấc ngủ, trong những giờ phút nghỉ ngơi này, chúng ta cùng nhau gặp gỡ tâm sự với Chúa. Chính Ngài bồi dưỡng thêm sức cho như Ngài đã khẳng định:
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề,
hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng…” (Mt 11,28).
Ý lực sống:
“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
hồn con mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2).
Suy Niệm 7: Hãy nghỉ ngơi một chút
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Thánh Marcô cho biết: sau khi vâng lệnh Chúa đi giảng đạo, các Tông đồ trở về bên Chúa, tường trình về các việc đã làm, các lời đã giảng dạy. Và vì Chúa thấy dân chúng kéo theo các ông đồng đảo quá, đến nỗi không có thời giờ ăn uống, nên Chúa bảo các ông tìm nởi vắng vẻ nghỉ ngơi một chút. Thế là thầy trò xuống thuyền đi... nhưng dân chúng đoán biết nơi Chúa và các Tông đồ định đi, nên kéo nhau đến đó trước.
Vì thế, khi vừa bước lên bờ Chúa đã thấy họ ở đó đợi rồi, nên Người cảm động và thương xót dạy dỗ họ lâu giờ, vì họ bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt giúp đỡ.
2. Chúa quan tâm đến các Tông đồ.
Trước hết, Chúa Giêsu cảm thông với nỗi vất vả của các Tông đồ khi làm việc truyền giáo nên cần có thời gian nghỉ ngơi để hồi phục sức khỏe cả về thể xác cũng như tâm hồn. Nghỉ ngơi để lấy lại sức, để nhìn lại những việc đã làm, để sống thân tình với Chúa và với nhau. Đây là nhu cầu chính đáng và rất bổ ích nhằm quân bình cuộc sống.
Lại nữa, Chúa Giêsu muốn các Tông đồ cần có sự quân bình giữa đời sống cầu nguyện và truyền giáo, giữa chiêm niệm và hoạt động, giữa việc đạo đức kết hợp với Chúa và công việc mục vụ. Đó cũng là một điều hết sức cần thiết cho các vị lo việc truyền giáo và mục vụ ngày nay. Có những vị “quá dấn thân” cho việc “mục vụ” và “xây dựng” đến nỗi không còn thời giờ để đọc kinh Phụng vụ, không còn những phút thinh lặng cầu nguyện và dần dần đời sống đạo đức èo uột, nói về Chúa mà không sống với Chúa và cuối cùng chỉ còn công việc mà không có Chúa đồng hành nữa.
3. Truyện: Nghỉ ngơi cần thiết và có lợi.
Trong một buổi thuyết trình về vấn đề thư giãn trong cuộc sống, người dẫn chương trình giơ cao một ly nước lên và hỏi khán giả:
- Quý vị thử đoán xem ly nước này nặng bao nhiêu?
- Điều đó còn tùy thuộc vào chuyện anh cầm nó trong bao lâu chứ? Một khán giả nói.
- Đúng vậy – Người dẫn chương trình trả lời – Nếu tôi cầm nó trong một phút thì không có gì đáng nói. Nhưng nếu tôi cầm nó trong một tiếng đồng hồ thì tay tôi sẽ mỏi. Còn nếu tôi cầm nó cả một ngày, quý vị sẽ phải gọi xe cấp cứu cho tôi. Cùng một khối lượng, nhưng mang nó càng lâu thì nó càng trở nên nặng hơn.
Trong cuộc sống cũng vậy. Nếu chúng ta cứ liên tục chịu đựng gánh nặng, nó sẽ càng ngày càng trở nên trầm trọng. Không sớm thì muộn chúng ta gục ngã. “Điều quý vị phải làm là đặt ly nước xuống nghỉ một lát, rồi lại tiếp tục cầm nó lên”.
Thỉnh thoảng, chúng ta phải biết đặt gánh nặng cuộc sống, nghỉ ngơi lấy sức để còn tiếp tục mang nó trong quãng đời tiếp theo. Mỗi ngày, chúng ta đều cần phải có giây phút nghỉ ngơi, không bận tâm đến bất kỳ một gánh nặng nào.
4. Chúa Giêsu quan tâm đến dân chúng.
Họ giống như đàn chiên đang bơ vơ không có mục tử chăn dắt. Đây là hình ảnh đáng thương của dân Isrsel thời bấy giờ. Không phải dân không có các vị lo việc phụng tự và dạy dỗ, bởi vì trong 12 chi tộc thì đã có cả một chi tộc Lêvi làm tư tế, trung bình 1/12. Họ còn có những tầng lớp lãnh đạo, các luật sĩ, biệt phái... Thế nhưng, những đầu mục, các tư tế và các luật sĩ chỉ lo tìm kiếm tư lợi hơn là dạy cho dân nghe Lời Chúa. Họ tìm cách chú giải những điều luật theo ý mình và có lợi cho mình hơn là Lời Chúa. Chính vì thế mà sự xuất hiện của Tin Mừng mà Chúa Giêsu và các môn đệ rao giảng làm họ phấn khởi đi theo. Chính điều này đã đạt ra một sự cấp bách truyền giáo, mà Chúa Giêsu và các môn đệ phải xả thân đến nỗi không còn thời giờ để nghỉ ngơi vì sự khao khát của dân chúng.
5. Truyện: Tổng thống Abraham Lincoln.
Abraham Lincoln là vị tổng thống Hoa kỳ đã phải đương đầu với cuộc nội chiến tang thương nhất trong lịch sự đất nước. Ngày nọ, căng thẳng gần như điên cuồng, ông đã nhờ người về nơi sinh quán của mình là Kentusky để mời cho được người bạn già đến thủ đô Washington cho ông tham khảo ý kiến. Hai người bạn mừng mừng tủi tủi khi gặp nhau. Sau những giờ phút tâm tư, tổng thống Lincoln cảm thấy tươi vui hẳn lên.
Về sau có người hỏi ông đã làm gì để tổng thống phấn khởi lên như thế. Người bạn già của tổng thống cho biết: tổng thống không bàn hỏi với ông bất cứ điều gì có liên quan đến chiến tranh hay chuyện đất nước. Ông cũng cho biết là ông chỉ ngồi thinh lặng để lắng nghe tổng thống trút hết nỗi lòng của mình (Chờ đợi Chúa).
- 05/02 Gioan Tẩy giả bị trảm quyết
- 04/02 Chúa Giêsu sai đi mười hai tông đồ
- 03/02 Chúa Giêsu tại quê hương Nadarét
- 02/02 Dâng con trẻ
- 01/02 Người bị quỷ ám và đàn heo
- 31/01 Ðấng có uy quyền
- 30/01 Chúa Giêsu quyền năng
- 29/01 Nước Thiên Chúa phát triển
- 28/01 Đèn đặt trên đế cao
- 27/01 Dụ ngôn gieo hạt giống