Dân Chúa Âu Châu

Thầy trò ly biệt

Thứ Năm tuần 6 Phục Sinh.

"Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui".

Lời Chúa: Ga 16, 16-20

Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy về cùng Cha".
Bấy giờ trong các môn đệ có mấy người hỏi nhau: "Điều Người nói với chúng ta: 'Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy', và 'Vì Thầy về cùng Cha', như thế có ý nghĩa gì?" Họ nói: "Lời Người nói 'Một ít nữa' có ý nghĩa gì? Chúng ta không biết Người muốn nói gì?"
Chúa Giêsu nhận thấy họ muốn hỏi Người, nên Người bảo họ: "Các con hỏi nhau vì Thầy đã nói: Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy. Thật, Thầy bảo thật với các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu; nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui".

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

SUY NIỆM 1: Thầy trò ly biệt
Kinh điển Phật Giáo có ghi lại câu chuyện: một người đàn bà nọ có đứa con độc nhất qua đời, trong niềm đau tột cùng, người đàn bà đến hàng xóm và khẩn cầu: "Xin vui lòng chỉ cho tôi bất cứ thuốc nào để làm cho nó sống lại". Nhưng ai cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi. Cuối cùng có người mách cho người đàn bà biết có một người lương y có thể cải tử hoàn sinh đứa bé đó chính là Ðức Phật Thích Ca (Sakya: Thuỷ tổ Phật Giáo, ông sinh ở miền Bắc Ấn Ðộ, đã có vợ con, sau đi tu hành tại Tuyết Sơn).
Người đàn bà mang đứa bé đến cầu khẩn với ngài và xin ban cho đứa bé một liều thuốc. Ðức Phật Thích Ca liền nói: Ta cần một ít hạt cải. Người đàn bà liền tìm ít hạt cải mang lại cho Ðức Phật. Nhưng vừa thấy, Ðức Phật nói với người đàn bà: "Hãy đi mời nhà nào không có tang chế và hãy mời họ uống lấy những hạt cải này".
Tin lời Ðức Phật, người đàn bà đi gõ cửa từng nhà mời uống lấy những hạt cải này, nhưng tất cả đều từ chối vì thật ra không có nhà nào lại không có một người đã ra đi. Khi người đàn bà trở về nhà trời đêm đã buông xuống, bà đến ngồi bên xác con và nhìn ra phố phường đang lên đèn, càng về khuya màn đêm càng tối và đêm đen bao trùm vạn vật. Lúc ấy, người đàn bà mới bắt đầu nghĩ: đời là thế, sinh ra đau khổ rồi chết, vì thế bà đứng dậy mang xác con vào rừng chôn cất.
Như vậy, con người sinh ra rồi đến chịu đau khổ và tận cùng là cái chết. Ðó là phận số của kiếp người mà khi Nhập Thể Con Thiên Chúa cũng không thoát khỏi. Chúa Giêsu đã ba lần chính thức loan báo về cuộc khổ nạn mà Ngài đã trải qua, nhưng xem ra các môn đệ của Ngài không hiểu được và cũng không chấp nhận được, vì tại sao số phận nghiệt ngã như thế lại có thể xảy ra cho Thầy mình, một người có quyền phép trên tất cả sự chết và đang trên đường tiến tới một tương lai sáng lạn. Trong những giờ phút cuối cùng ngồi bên các ông, Chúa Giêsu nói đến cái chết một lần nữa, nhưng lần này Ngài nói đến cuộc tử nạn ấy như là cuộc ra đi mà không vĩnh biệt. Do đó, Chúa Giêsu đã nói: "Thầy ra đi, anh em sẽ buồn rầu, nhưng niềm vui của họ gấp bội khi Ngài sống lại" (Ga 16,20).
Cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu gắn liền với sự đau khổ và niềm vui của các môn đệ, đúng hơn cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu chiếu dọi ánh sáng vào mọi khổ đau của con người. Kitô giáo không chối bỏ cái chết và sự đau khổ, nhưng qua cái chết và sự Phục Sinh của Ðức Kitô, Kitô giáo không còn nhìn cái chết và khổ đau như một ngõ cụt của cuộc sống. Trái lại, trong ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô, cuộc sống con người mang một ý nghĩa thật tuyệt vời, mặc cho bao đau khổ mà con người vẫn phải trải qua "một ít nữa các con sẽ không xem thấy Thầy, rồi một ít nữa các con sẽ xem thấy Thầy" (Ga 16,16).
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ tham dự vào mầu nhiệm vượt qua của Ngài, có nghĩa là cả những lúc tăm tối nhất của cuộc đời, họ vẫn nhận thấy được Ngài, bám chặt lấy Ngài để tiến bước, cho dẫu khổ đau như thế nào đi chăng nữa, con người vẫn tìm được ý nghĩa đích thực cho cuộc sống. Tham dự vào mầu nhiệm của Ngài cũng có nghĩa là nhìn thấy người anh em đang đau khổ ở xung quanh chúng ta. Sự cảm thông phục vụ đối với người đau khổ sẽ cho chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu và niềm vui Phục Sinh tràn ngập tâm hồn chúng ta.
(Trích “Suy Niệm Hằng Ngày” – Radio Veritas Asia)

SUY NIỆM 2: Suy niệm của Giuse Nguyễn Hồ Điệp SDB
"Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui" (Ga 16,20)
Trong cuộc sống, chắc ai trong chúng ta cũng cảm nhận được đôi chút về sự mất mát, chia ly, đặc biệt là sự ra đi của người thân yêu.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu hiểu tâm lý của các môn đệ nếu như Ngài chịu chết nên trước khi chịu khổ hình, chịu chết, Chúa Giêsu đã báo trước để các ông chuẩn bị tâm lý khi nói "ít lâu nữa anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa anh em sẽ lại thấy Thầy". Nếu đặt tôi vào hoàn cảnh của các tông đồ năm xưa, tôi cũng giống như các ông chẳng hiểu gì, thậm chí có thể cho đó là một câu nói đùa, nói chơi của Chúa mà thôi. Nhưng mà nói đùa gì mà nghiêm túc quá vậy? Vì thế, các ông mới xầm xì với nhau xem thử ý Thầy là gì?
Qua câu nói "ít lâu nữa không thấy, rồi ít lâu nữa lại thấy" của Chúa Giêsu không chỉ nói cho các ông biết rằng Ngài sẽ đi vắng một thời gian, hay thậm chí là đi chịu chết để cứu nhân loại... nhưng sâu xa hơn, Chúa Giêsu tiên báo Ngài sẽ sống lại sau khi chết đi. Vì thế, các ông mới lại thấy được Ngài. Câu nói này ẩn ý Ngài sẽ chịu chết và sẽ sống lại nhưng chẳng ai hiểu. Ngài nói thêm cho các ông biết rằng các ông sẽ khóc lóc và than van nhưng nỗi buồn đó sẽ trở thành niềm vui. Lúc đó, các ông cũng vẫn chưa hiểu, chỉ sau khi Chúa Giêsu sống lại, các ông mới nhớ lại những lời Chúa Giêsu đã nói và các ông cảm thấy vui mừng. Niềm vui mừng đó đã đánh tan nỗi lo buồn, sợ hãi của các tông đồ. Để giờ đây, các ông ra đi loan truyền Tin Mừng Phục Sinh đó cho mọi người. Niềm tin và vui mừng đó giúp các tông đồ vượt mọi khó khăn, thử thách của những kẻ chống đối, điều cao cả hơn khi các ông dám hy sinh tính mạng để minh chứng cho một niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu, những ngày tháng lo buồn, sầu khổ đã qua rồi. Giờ đây, chúng con đang sống trong niềm vui phục sinh của Chúa. Ngài đã làm cho ma quỷ phải sợ hãi, kinh hoàng con chúng con thì vui mừng trong niềm vui chiến thắng. Lạy Chúa, chúng con tin chắc rằng khi cậy dựa và bước theo Chúa, chúng con cũng sẽ chiến thắng ma quỷ, chiến thắng con người ích kỷ của chúng con để chúng con sống là một con người mới, con người hạnh phúc và yêu thương. Amen.

SUY NIỆM 3: Không thấy rồi lại thấy
Nhiều mâu thuẫn nảy sinh trong đoạn Tin mừng này. Đức Giê-su nói: “Ít lâu nữa anh em sẽ không thấy Thầy, rồi ít lâu nữa anh em sẽ lại thấy Thầy. Thầy về cùng Chúa Cha”. Phải nghĩ gì về ẩn ngữ này ? Đức Giê-su đi du lịch một thời gian ngắn ư ? Sự vắng mặt của Người giống như một cuộc hành trình đến miền nhiệt đới ư ? Hay lời Người như trò chơi hú tim của trẻ em, lúc ẩn, lúc hiện bất ngờ ư ? Những lời này tàng chứa một mặc khải phong phú. Hôm nay, chúng ta nghe biết sự mặc khải trọn vẹn về sinh lực của Đức Ki-tô: Thầy về cùng Cha. Đức Ki-tô đang chuẩn bị sẵn sàng khởi hành về Đấng là nguồn sự sống, nguồn sinh lực.
Cuộc sống của Đức Ki-tô không ngừng ra đi và trở về. Không đi bằng con đường đất đá, nhưng bằng con đường huyền diệu sâu thẳm và gắn bó mộ mến. Đức Giê-su càng ngày càng hiệp thông sâu xa vào kế hoạch của Cha Người. Đó là con đường hiệp thông thực hiện cứu độ để lật ngược lại sức nặng bất phục tùng của con người.
Tuy nhiên, trở về cùng Cha, Đức Giê-su vẫn không xa lìa chúng ta. Càng hiệp thông với Chúa Cha sâu thẳm bao nhiêu, Đức Giê-su càng ban tặng sự sống dồi dào. Vì Chúa Cha là nguồn sự sống, đã ban sự sống lại và sự sống vinh quang cho Chúa Con để Chúa Con làm cho mọi người được sống và sống lại với Người.
Chúng ta cũng được mời trở về cùng Chúa Cha để tham dự vào chính nguồn sống đó. Nhờ đó, chúng ta càng ngày càng thực hiện được sứ vụ từ Chúa Cha trao cho để trở nên người thông truyền sự sống của Chúa Cha và ra đi hiệp thông với người khác trong Chúa Con.

Thánh lễ lôi cuốn chúng ta vào dòng sống trở về này. Trong dòng sống này chúng ta được liên kết với Đức Ki-tô, để thấy được nguồn vui về cùng Chúa Cha đang chờ đợi chúng ta ở tột đỉnh con đường trở về của Chúa Con.
C.G

SUY NIỆM 4: Ý nghĩa của thời gian
Ngày sống của mỗi người đều có 24 giờ. Thế nhưng thời gian có ý nghĩa và độ dài khác nhau tùy từng người: người đang chờ đợi sẽ thấy thời gian trôi quá chậm, còn kẻ đang sợ hãi thì thời gian lại đến quá nhanh. Cũng vậy, người đang trĩu nặng buồn phiền, thời gian dài lê thê, còn kẻ đang hưởng niềm vui, thời gian lại ngắn ngủi mau qua.
“Một ít nữa, anh em sẽ không thấy Ta, và một ít nữa, anh em sẽ thấy Ta”. Chúa Giê-su cho các môn đệ biết sẽ có một khoảng thời gian, họ sẽ không thấy Ngài vì Ngài về cùng Cha. Cũng chung một thời gian, nhưng các môn đệ sẽ khóc sẽ than, còn thế gian sẽ vui mừng. Thật ra, thời gian tự nó chẳng có ý nghĩa gì, nó chỉ là thước đo của lịch sử. Thời gian chỉ có ý nghĩa và giá trị khi con người đặt tình cảm vào đó. Quá khứ qua rồi nhưng có thể sống lại trong tình cảm, tương lai chưa đến nhưng đã thành tựu trong dự kiến bằng các hy vọng hoài bão. Bởi thế thời gian có thể là linh dược hay độc dược: một kỷ niệm đẹp, một viễn ảnh xán lạn vẫn luôn là liều thuốc làm phấn khởi lòng người.
Chúa Giê-su có thời gian của Ngài. Ngài kêu gọi các môn đệ đến với Ngài. Nhưng tới lúc Ngài phải từ giã các ông, các ông sẽ buồn sầu, tuy nhiên đó cũng là lúc để các ông nhớ lại những gì Chúa Giê-su đã nói, và nỗi buồn sẽ trở thành niềm vui, khi Ngài trở lại. Như thế, Chúa Giê-su đã trở thành ý nghĩa của thời gian: thiếu vắng Ngài, các môn đệ u sầu, nhưng có Ngài, các ông mừng vui.
Chúa Giê-su vẫn hiện diện trong thời gian, và tình yêu của Ngài trải dài trong lịch sử. Con người sở dĩ chưa gặp được Ngài vì còn chạy theo thú vui chóng qua mà chưa sống cho vĩnh cửu. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tìm kiếm Chúa Giê-su để Ngài trở thành ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta. Có Ngài, mọi u buồn sẽ trở thành niềm vui, được sống trong tình yêu của Ngài, chúng ta sẽ quên đi mọi nhọc nhằn của thời gian.

SUY NIỆM 5: Suy niệm của Lm. Trọng Hương
A. Hạt giống...
Đề tài giáo lý thứ 14: Về những buồn vui của đời kitô hữu:
Chúa Giêsu nói tới lúc Ngài ra đi: “Một ít nữa chúng con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa chúng con sẽ thấy Thầy”
Ngài cũng nói tâm trạng các môn đệ sau khi Ngài ra đi: “Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui”
B. ... nẩy mầm.
1. “Chúng con sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn chúng con sẽ biến thành niềm vui”: Chỉ khi nào ở trên trời thì chúng ta mới có thể hoàn toàn vui thôi, còn bao lâu còn ở trần gian thì vui buồn lẫn lộn. Và những vui buồn ở đời nay có những tính chất khác nhau và những hậu quả khác nhau.
- có nhiều cái vui không trọn vẹn, như lời một bản thánh ca lấy ý từ sách Giảng viên: “Hoa nào không phai tàn, trăng nào không khuyết, ngày nào mà không có đêm, yến tiệc nào không có lúc tàn ?”
- có những niềm vui chẳng mấy chốc lại biến thành nỗi buồn. Đó là những thứ vui tội lỗi. Thí dụ cái vui của thằng con hoang đàng trong sách Tin Mừng: Khi nó đang ngụp lặn trong những cuộc trụy lạc thì nó vui, khi nó còn tiền thì nó vui, nhưng sau khi cuộc trụy lạc đã tàn và khi tiền hết, nó rơi vào một sự trống rỗng, một nỗi buồn mênh mông.
- có những cái buồn cứ càng ngày càng buồn thêm, không dứt. Đó là cái buồn do hậu quả của một việc làm sai quấy. Thí dụ như cái buồn của Giuđa vì đã phản bội, đã bán đứng Thầy mình. Giuđa buồn đến nỗi phải đi thắt cổ chết. Hay như nỗi buồn của những người ở trong hỏa ngục: họ phải buồn muôn đời muôn kiếp vì họ biết rằng họ đã mất Chúa muôn kiếp muôn đời.
- Nhưng điều đáng chú ý hơn cả trong bài Tin Mừng này, là Chúa Giêsu nói đến thứ buồn sẽ biến thành niềm vui. “Ít lâu nữa chúng con sẽ không trông thấy Thầy”. Đó là cái buồn vì không được thấy Chúa. Ngày xưa các môn đệ suốt ba năm được ở gần bên Chúa, thế rồi Chúa ra đi về với Chúa Cha, các ông không thấy Chúa nữa nên các ông buồn. Còn đối với chúng ta, đó là cái buồn sám hối: khi chúng ta phạm tội mà còn biết sám hối thì chúng ta buồn bởi vì biết rằng tội làm mình mất Chúa, làm mình xa Chúa. “Nhưng rồi ít lâu nữa chúng con sẽ lại thấy Thầy... Chúng con sẽ buồn nhưng nỗi buồn của chúng con sẽ biến thành niềm vui”: Trong trường hợp các môn đệ, nỗi buồn xa Chúa đã biến thành niềm vui khi các ông gặp lại Chúa phục sinh. Còn đôi với chúng ta, nỗi buồn sám hối sau khi chúng ta phạm tội sẽ biến thành niềm vui được tha thứ. Như phần sau của chuyện đứa con hoang đàng lúc nó trở về: cha nó vui mừng vì, như ông nói, “con ta đã mất nay lại tìm thấy, đã chết nay sống lại”; chính nó vui mừng vì được cha tha thứ, được Cha cho trở lại mái ấm gia đình, trả lại cho nó thân phận làm con, cho nó đeo nhẫn, mang giày, mặc áo tốt.
Không phải cái vui nào ta cũng nên tìm kiếm, và không phải cái buồn nào ta cũng tránh xa:
. Đối với những thứ vui chóng tàn, chúng ta đừng quá bám víu vào, để khi nó tàn thì chúng ta không bị thất vọng.
. Đối với những thứ vui mà chẳng mấy chốc sẽ biến thành nỗi buồn, ta cũng đừng nên mất công tìm kiếm.
. Có những việc làm sẽ để lại hậu quả là một nỗi buồn dai dẳng, chúng ta đừng bao giờ làm.
. Nhưng chúng ta hãy biết buồn khi lỡ phạm tội, buồn đề sám hối ăn năn, buồn để quay gót trở về với Chúa. Có thể nói đây là nỗi buồn thánh vì nỗi buồn này sẽ biến thành niềm vui.
2. “Anh em sẽ lo buồn. nhưng nỗi buồn anh em sẽ trở thành niềm vui”
Đã hơn 3 tháng rồi mà những đứa trẻ của tôi vẫn không tiếp thu gì; chúng chỉ biết được mỗi chữ “o” và chữ “e”. Nhưng làm sao trách được khi cả ngày chúng phải lao vào những đống rác để nhặt từng bao nilon, những mảnh nhựa hay chai lọ bể; chúng đâu còn giờ để nghĩ đến bài học nữa.
Tôi nản quá và muốn bỏ dạy, cứ theo đà này thì tốn mất vài ba năm chúng mới biết đọc chữ. Tôi lại phí sức đổ thời gian vào một việc mà tôi không làm được. Tôi xuôi tay, và không biết cách giải quyết.
Tôi không thể nghỉ được, những đôi mắt háo hức đang chờ đợi tôi, những bàn tay đen đứa đang níu áo tôi. Chúng thương tôi và cần nơi tôi một Tình Yêu, cái mà chúng thiếu thốn nhất.
Lạy Chúa, Giê-su Phục Sinh xin ở lại trong con để niềm vui Phục Sinh của Ngài làm động lực giúp con chu toàn nhiệm vụ của mình, hăng hái tiếp tục con đường đã chọn. (Epphata)

*****************************************************
Một khởi đầu mới
20/05 – Thứ Năm tuần 6 PS. – LỄ CHÚA THĂNG THIÊN
"Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy".

Lời Chúa: Mt 28, 16-20
Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước.
Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con.
Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

SUY NIỆM 1: Ước mơ về trời
Hôm nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Ky-tô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang Phục Sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho kiếp người chúng ta.
Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: "Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Ðức Ky-tô nằm trên. Ðức Ky-tô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Ðức Ky-tô. Bác muốn trao Ðức ky-tô cho ai đang đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Ðức Ky-tô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Ðức Ky-tô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang ui sầu vì lầm than cơ cực, bác trao gởi cho họ Ðức Ky-tô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Ðức Ky-tô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Ðức Ky-tô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.
Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Ðức Ky-tô hiện diện. Nếu cuộc đời không có Ðức Ky-tô thì những hy sinh, những đau khổ, những gánh nặng trong cuộc đời này sẽ là một mất mát, một nỗi đau của kiếp người. Ðây cũng là tin mừng mà Ðức Ky-tô đã và đang trao phó cho giáo hội, cho mỗi người chúng ta: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ , loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo". Hãy loan tin vui đến cho những ai đang gặp u sầu, đang thất vọng, đang trải qua những ngày tháng bất hạnh, khổ đau. Hãy nói cho họ biết sau đêm dài là ánh bình minh. Cuộc đời này là một hành trình đi về thiên quốc. Một con đường có thập giá. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những tham sân si của dòng đời. Thập giá trong những dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân. Ðó chính là thập giá mà chúng ta đón nhận vì Ðức Ky-tô sẽ biến thành Thánh Giá của hồng ân cứu độ.
Người nông dân đang cố gắng mang Chúa đến cho những mảnh đời bất hạnh, là sứ vụ mà Chúa đã trao cho giáo hội và cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau mang Ðức Ky-tô đến muôn nẻo đường đời. Hãy mang Ðức Ky-tô đến cho những ai đang thất vọng u sầu, đang nặng trĩu những buồn đau. Hãy mời gọi họ biết đón nhận mọi biến cố đang diễn ra trong cuộc đời mình vì Ðức Ky-tô và trong Ðức Ky-tô.
Hôm nay, Chúa về trời. Chúa vẫn mang theo những dấu vết của thương tích trong cuộc khổ nạn. Không có vết thương nào đắt giá cho bằng sự chết. Như thể, Chúa về trời với những chứng tích đau thương, với những chống đối mà Ngài phải gánh chịu trong cuộc sống, với cơn hấp hối nơi vườn Cây Dầu, với những đau đớn của roi đòn, lỗ đinh. Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn vâng theo thánh ý Chúa. Và hôm nay, Chúa Giê-su muốn các môn đệ cũng như những ai muốn đi theo Ngài phải đi con đường này để lên trời. "Anh em hãy làm chứng cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới". Làm chứng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống theo gương Chúa Giê-su. Một cuộc sống luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc sống hằng ngày. Một cuộc sống yêu thương và phục vụ tha nhân để qua đó muôn dân sẽ ngợi ca Thiên Chúa. Một cuộc sống làm chứng không nhất thiết phải đổ máu, nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm: luôn bao dung, luôn kính trọng lẫn nhau, luôn bác ái và sống công bình với nhau. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người đời khinh chê, ghét bỏ, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Kính thưa, quý Ông Bà Anh Chị Em,
Hôm nay nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giê-su: "Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới". Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan, ngõ hầu "Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo - Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Xin Chúa Giê-su vinh thắng về trời giúp chúng ta luôn ước ao những sự trên trời và tìm kiếm Nước Chúa trong cuộc sống hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

SUY NIỆM 2: Một khởi đầu mới – Bài giảng của Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên
Một thời đại mới đã khai mở, đó là thời của các chứng nhân, cũng là thời của Giáo Hội. Qua các ông, mọi người nhận ra Đức Giêsu đang sống và đang hiện diện trong các cộng đoàn Đức tin.
Khi nói đến lễ Chúa Giêsu lên trời hay lễ Thăng Thiên, chúng ta thường chỉ nghĩ đó là thời điểm kết thúc sứ mạng cứu chuộc của Chúa Giêsu. Phụng vụ hôm nay, nhất là bài Tin Mừng, lại quy hướng chúng ta về với một khởi đầu mới, trong lạc quan và hy vọng. Không phải vô cớ mà cả ba bài Tin Mừng cho chu kỳ ba năm A,B,C đều là những đoạn kết của các Tin Mừng nhất lãm. Đây là những kết "mở", dẫn chúng ta sang một khởi đầu mới.
Trước hết, đó là khởi đầu của sứ mạng truyền giáo được Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ. Sứ mạng này có điểm xuất phát là Giêrusalem, là thành thánh và là trung tâm của Do Thái giáo. Sứ điệp mà các môn đệ được trao phó là lời kêu gọi sám hối. Chúng ta hãy nhớ lại, đây cũng là nội dung lời rao giảng đầu tiên khi Chúa Giêsu khởi sự loan báo Tin Mừng: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!". Có điều khác biệt là bây giờ Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mà Người hiện diện qua các chứng nhân. "Chính anh em là chứng nhân về những điều này". Một thời đại mới đã khai mở, đó là thời của các chứng nhân, cũng là thời của Giáo Hội. Qua các ông, mọi người nhận ra Đức Giêsu đang sống và đang hiện diện trong các cộng đoàn Đức tin.
Tuy Chúa Giêsu không hiện diện thể lý giữa các môn đệ, Người lại hứa ban cho các ông "quyền năng từ trời cao ban xuống". Quyền năng này là Chúa Thánh Thần. Vậy, đây là khởi đầu của một thời đại mà Thiên Chúa tuôn đổ Thần Khí của Ngài trên mọi tạo vật, để hướng dẫn và thánh hoá mọi xác phàm, nhất là những môn đệ. Điều này đã được thực hiện vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi các môn đệ đang cầu nguyện xung quanh Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. "Quyền năng từ trời cao" đã biến đổi các ông, ban cho các ông sức mạnh và nghị lực, nhờ đó, các ông không còn sợ hãi, mạnh dạn mở tung các cửa và can đảm rao giảng về Chúa Giêsu phục sinh.
Được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các ông đã lên đường. Đây là cuộc chia tay với Thày, đồng thời cũng là khởi đầu một cuộc lên đường mới. Tác giả Tin Mừng Luca diễn tả: "Các ông trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa". Sứ điệp mà các ông lãnh nhận để rao giảng phát xuất từ Giêrusalem, nơi có Thiên Chúa hiện diện theo quan niệm của người Do Thái. Từ nơi này, ánh sáng Lời Chúa lên đường cùng với các ông, với tư cách là nhân chứng của Đấng Phục sinh, để chiếu toả đến tận cùng thế giới. Lời căn dặn của Chúa được ghi trong sách Tông đồ Công vụ còn cho thấy "không gian" của sứ vụ tông đồ rất rộng lớn bao la: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thày tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).
Tác giả sách Công vụ Tông đồ, cũng là Thánh Luca, là một nhân chứng mắt thấy tai nghe, giờ phút chia tay giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Sau những lời căn dặn, Chúa Giêsu đã lìa họ mà về trời cao. Tác giả dùng chữ "được cất lên", cùng với chi tiết đám mây bao phủ. Trong truyền thống Cựu ước, đám mây là yếu tố diễn tả các cuộc "thần hiện" của Đức Giavê (x. Xh 13,21-22); của Con Người (x. Dn7,13). Đức Giêsu, mặc dù vắng bóng, vẫn luôn luôn hiện diện trong Giáo Hội. Như vậy, cuộc "lại đến" của Chúa được các sứ thần áo trắng diễn tả, không phải là một cuộc trở lại, nhưng đúng hơn, là sự tỏ mình lần cuối để minh chứng sự hiện diện ấy.
Xem ra có mấy vị trong số các tông đồ vẫn còn quan niệm lệnh lạc về sứ vụ thiên sai của Đức Giêsu. Vì vậy mà họ hỏi Chúa: "Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Israen không?". Xưa cũng như nay, độc giả không khỏi ngỡ ngàng trước câu hỏi đó. Thế mới thấy rằng để canh tân tư duy và quan niệm của con người không phải là điều dễ dàng. Bốn mươi ngày sau biến cố Phục sinh, các ông đã nhiều lần gặp Chúa, mà quan niệm về Đấng Thiên sai của các ông vẫn chưa thay đổi. Trước sự tăm tối của lòng trí con người, tác giả Thư Do Thái khích lệ chúng ta "Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín" (Bài đọc II).
Mười ngày sau lễ Thăng Thiên, Mùa Phục sinh sẽ khép lai. Như đã nói ở trên, Lễ Thăng Thiên không phải hồi kết thúc nhưng là một khởi đầu mới cho sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa của mỗi chúng ta, với tư cách là tín hữu. "Không ai cho người khác cái mình không có", chúng ta chỉ có thể trở thành chứng nhân can đảm của Chúa Giêsu, một khi chúng ta vững niềm xác tín nơi Người, nhận ra sự hiện diện của Người trong đời sống chúng ta. Lễ Thăng Thiên cũng nhắc cho chúng ta, quê hương đích thật của chúng ta là trên trời. Chúa Giêsu đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Tin yêu và gắn bó với Người ở đời này, chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc với Người ở đời sau.
Hãy cùng nhau lên đường trong hân hoan hy vọng, vì Chúa Phục sinh ở cùng với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế!

SUY NIỆM 3: Hành trình về Trời
Lễ Thăng Thiên không chỉ là lễ kính mừng Chúa Giêsu lên trời mà còn là dịp tái khẳng định tín điều mà chúng ta vẫn tuyên xưng: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, LÊN TRỜI ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng”. Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta vô ích, và chúng ta chỉ là những người hoang tưởng, nhưng Ngài đã thực sự sống lại và lên trời.
Chúa Giêsu lên trời là để minh chứng và xác định lời hứa Ngài đã nói trước: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3). Đối với phàm nhân chúng ta, chắc chắn không còn niềm hạnh phúc nào lớn lao hơn nữa!
Thật là kỳ diệu, Thiên Chúa mà hóa thành Con Người, Con Người mà là Thiên Chúa, vừa hữu hình vừa vô hình. Chắc chắn chẳng một thần linh nào như vậy. Chỉ có Thiên Chúa của chúng ta như vậy mà thôi, độc nhất vô nhị. Thánh Phaolô đã nói: “Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả, đó là: Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm, được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; Người được các thiên thần chiêm ngưỡng, và được loan truyền giữa muôn dân; Người được cả hoàn cầu tin kính, được siêu thăng cõi trời vinh hiển” (1 Tm 3:16).
Người ta chỉ nói LÊN trời, TỚI trời, hoặc VÀO trời, vì người ta không xuất phát từ trời. Nhưng Chúa Giêsu nói VỀ trời, vì Ngài xuất phát từ Trời, từ Chúa Cha: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14:28). Người ta chỉ có thể VỀ nơi mà mình đã từng ở, còn nơi mình chưa ở thì không thể dùng động từ VỀ. Thế mà chúng ta cũng được Ngài cho phép VỀ trời với Ngài, dù chúng ta không xuất phát từ trời, chỉ là bụi tro xuất phát từ đất. Thật kỳ diệu quá đỗi!
Thánh Luca viết trong sách Công Vụ: “Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngàyNgười được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1:1-5). Chúa Giêsu về trời, nhưng rồi Ngài lại gởi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, đồng hành và hoạt động với chúng ta mọi nơi, mọi lúc.
Tư tưởng loài người không cao hơn mặt đất, tầm nhìn không vượt qua cái bóng của mình, thế nên khi nghe Đức Giêsu nói vậy, những người đang tụ họp ở đó tưởng rằng Ngài sắp sửa khôi phục vương quốc Ít-ra-en. Nhưng Ngài đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8). Nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Họ ngơ ngẩn nhìn nhau rồi nhìn theo hút Ngài, chẳng hiểu thế là thế nào.
Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11). Lời giải thích này cho chúng ta biết chắc rằng Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai vào một lúc nào đó, bất kỳ thời điểm nào mà chúng ta không thể biết được, thậm chí có thể là ngày mai hoặc hôm nay. Vì thế mà ai cũng phải sẵn sàng và tỉnh thức. Không chỉ vậy, với mỗi người còn là cái chết, vì tử thần có thể đến bất cứ lúc nào, không ai có thể ngờ được!
Cuộc đời Kitô hữu là cuộc lữ hành trần gian, là hành trình đức tin, là hành trình về trời. Đức Kitô đã về trời trước, đó là bảo chứng cho chúng ta. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3).
Niềm vui quá lớn, nỗi mừng khôn tả. Nhưng chúng ta hữu hạn, chỉ biết thể hiện bằng tất cả khả năng phàm nhân: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:6-9). Thiên Chúa không đòi hỏi quá sức chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta chân thành với khả năng riêng của mỗi người.
Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu” (Ep 1:17-19a). Nhận biết Thiên Chúa là niềm hạnh phúc lớn lao, nhận biết Ý Ngài và vui mừng làm theo là niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Quả thật, chấp nhận và làm theo Ý Chúa là điều không dễ chút nào, vì chúng ta thường chỉ muốn “được như ý” mà thôi!
Thánh Phaolô giải thích: “Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:19b-23). Đức Kitô được Chúa Cha trao ban mọi thứ, nhưng Ngài không giữ riêng cho Ngài, mà Ngài lại muốn chia sẻ với chúng ta, làm cho chúng ta được viên mãn với Ngài, dù chúng ta không chỉ là phàm nhân mà còn là những tội nhân hoàn toàn bất xứng.
Niềm hạnh phúc như điệp khúc cứ lặp đi lặp lại trong cuộc đời chúng ta, trên suốt hành trình về trời. Không hạnh phúc sao được, vì chúng ta được Thiên Chúa ưu đãi quá nhiều, minh nhiên nhất là chúng ta được xóa án tử và được khôi phục cương vị làm con, đặc biệt là cũng sẽ được về trời.
Một hôm, mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Bản tính nhân loại là thế, tận mắt thấy bao phép lạ mà vẫn chưa đủ tin. Vả lại, họ cứ tưởng Đức Giêsu là chính khách, Ngài sẽ giành quyền cai trị Ít-ra-en từ bọn thực dân Rôma. Khi đó, Đức Giêsu đến gần họ và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18). Có lẽ nghe Ngài nói vậy thì họ càng cho rằng Chúa Giêsu đang làm chính trị thật, điều họ nghĩ không sai. Thế nhưng lại không phải vậy, Chúa Giêsu không bao giờ làm chính trị, và Phúc Âm cũng không là bản cương lĩnh chính trị.
Chúa Giêsu nói với họ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19-20a). Ngài biết Ngài sắp đến giờ về cùng Chúa Cha, nên Ngài căn dặn kỹ lưỡng. Ngài về trời nên Ngài bảo chúng ta vào đời làm chứng nhân về Ngài. Đó vừa là một tặng phẩm vừa là một mệnh lệnh, vừa là một đặc ân vừa là một trọng trách.
Trước khi về trời, lời cuối của Chúa Giêsu trên thế gian là một lời hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20b). Lời hứa đó đã được chứng tỏ rõ ràng nhất là Bí tích Thánh Thể, một phép lạ vĩ đại vẫn xảy ra hằng ngày ở khắp nơi trên thế giới. Biết rõ chúng ta yếu đuối nên Chúa Giêsu rất “tội nghiệp” chúng ta, Ngài cũng đã hứa: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Ga 14:8). Và lời hứa đó lại được thực hiện ngay lập tức: Ngài về trời rồi gởi Đấng Bảo Trợ đến ở với chúng ta (Ga 14:16). Thánh Thể và Thánh Thần luôn đồng hành với chúng ta trên suốt Hành Trình Về Trời.
Cái gì cũng có “mở” và “kết”. Cũng vậy, Hành Trình Về Trời được khởi đầu từ điểm SINH và kết thúc ở điểm TỬ. Hành trình đó có thể là “con đường” dài hoặc ngắn, không ai biết; “con đường” đó cũng có thể rộng hoặc hẹp, nhưng ai chọn đường hẹp thì tốt hơn đường rộng, càng thênh thang càng “dễ chết”, có thể “chết yểu”, “chết” trước kỳ hạn, “chết” ngay khi mình đang sống. Chết như vậy thì thật là nguy hiểm! Vì thế, chính Chúa Giêsu đã khuyên những ai thực sự muốn được trường sinh vĩnh phúc: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14). Không chỉ đơn giản như vậy, người ta còn phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp” (Lc 13:24). Rất “ngược đời”, nhưng phải dám “ngược” như vậy thì mới mong “xuôi” về vĩnh cửu.
Thánh nữ Faustina so sánh: “Như bệnh tật được đo bằng nhiệt kế, sốt cao cho chúng ta biết là bệnh nặng, đời sống tâm linh cũng vậy, đau khổ là nhiệt kế đo tình yêu Chúa trong linh hồn”(Nhật Ký, số 774). Đây là điều rất khó đối với bản chất phàm nhân, nhưng người ta có thể chấp nhận nếu cố gắng hiểu theo cách hiểu của Chúa và nhìn theo cách nhìn của Chúa.
Lạy Thiên Chúa, Con Chúa về trời là dấu bảo đảm về sự sống vĩnh hằng mà chúng con đang cố gắng chiến đấu để đạt được. Xin mau ban Chúa Thánh Thần để đổi mới chúng con, làm cho chúng con can đảm làm chứng về Chúa Ba Ngôi. Xin giúp chúng con đủ sức vượt qua chính mình để xứng đáng lãnh nhận những gì Ngài đã hứa ban. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

SUY NIỆM 4: Suy niệm của Lm. Dom. Trần Quang Hiền SDB
Câu hỏi thắc mắc mà con người ngày nay luôn phải đối diện đó là: Tôi sinh ra ở đời này để làm gì? tôi sẽ về đâu sau cái chết? chắc hẵn ai trong chúng ta cũng muốn mình được bình an, hạnh phúc, được chết lành và được phần thưởng thiên đàng sau khi chết. Nhưng ai có thể bảo đảm cho ta rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau? Lời Chúa tuần này Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên tường thuật lại việc Chúa Giêsu lên trời, đây là một minh chứng cho thấy rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau. Nhưng lên trời không phải là một di chuyển từ nơi chốn này đến nơi chốn khác. Trời ở đây không phải là nơi chốn có thể đụng chạm, sờ mó được nhưng sâu xa hơn đó là một trạng thái. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là Ngài về cùng với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần là nơi Ngài đã xuất phát. Trời ở đây có nghĩa là sống trong tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, việc Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới đi vào cõi xa vắng mịt mù, nhưng Ngài đi về thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, sống với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện với chúng ta nữa, trái lại Ngài sẽ ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Để có thể lên trời như Chúa Giêsu mỗi người chúng ta cần phải hoàn thành hành trình dưới thế của mình như chính Ngài. Dù phải sống ở trần thế này với muôn ngàn thánh giá, thử thách, khó khăn... nhưng chúng ta không quên mục đích tối hậu của chúng ta đó là về quê trời, nơi ấy chúng ta sẽ sống trong tình yêu viên mãn của Chúa Ba Ngôi. Nếu như cuộc đời của người kitô hữu chúng ta thiếu đi cùng đích của đời mình là hướng về sự sống đời sau thì chắc chắn những nỗ lực, cố gắng của chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa. Chúa Thăng Thiên cũng cố đức tin của mỗi người chúng ta vào niềm hy vọng tràn trề trong đó mỗi người chúng ta sẽ nếm cảm hạnh phúc thiên đàng sau này.
Trước khi Chúa Giêsu lên trời Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ rằng “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo". Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu và trở thành căn tính của mỗi người kitô hữu chúng ta , đó là làm chứng nhân tin mừng phục sinh, niềm vui của Chúa Giêsu cho tất cả mọi người không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm mang Đức Kitô đến với thế giới hôm nay đang sống trong đau khổ, chiến tranh, bất an, tội lỗi.... để xoa dịu hết tất cả những vết thương của họ.
Lễ Chúa Thăng Thiên muốn nhắn gởi cho chúng ta một thông điệp nữa đó là hãy xây dựng thiên đàng tại trần thế này, khi tất cả chúng ta đều xem nhau như là anh em cùng một Cha trên trời. Khi mỗi người chúng ta biết sống từ bỏ, hy sinh và phục vụ nhau.
Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: "Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đang đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang ui sầu vì lầm than cơ cực, bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.
Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết sống và đem Đức Kitô đến với hết tất cả mọi người đang vác thập giá để họ cũng biết biến thập giá thành thánh giá như Đức Kitô, để mai sau cũng được lãnh nhận phần thưởng vinh phúc đời sau mà Chúa hứa ban cho những ai trung tín bước theo Ngài. Amen.

SUY NIỆM 5: Khai mở trang sử mới của Giáo hội
(Suy niệm của Keith Witfield – Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (Mc 16,20)
Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi sự sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể Hội Thánh. Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.
Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng sâu xa nơi các môn đệ. Đối diện trước biến cố này, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó, các ông đã hiểu. Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn dặn. Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người. Các ông trở về Giêrusalem lòng đầy hân hoan và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa. (Lc 24,52-53).
Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi vấn. Đức Giêsu vừa “rời bỏ” các ông. Sự ra đi nào cũng để lại biết bao sầu thương và nỗi nhớ. Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại “ngập tràn niềm vui”. Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế? Chúng ta nhớ lại trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến. Nhưng sau đó Ngài trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý chữa trị những sầu buồn và tuyệt vọng (Ga 14-17). Ngài nói với các học trò của mình đừng lo lắng, các ông sẽ không mất Ngài, những Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.
Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui. Các tông đồ sớm nhận ra rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc. Trước hết, đó là quà tặng Thánh Thần. Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực hiện tròn đầy. Các tông đồ nhìn xem Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về “ Đấng sẽ đến”. Những nghi ngại và sợ hãi dần tan biến. Các tông đồ thâm tín rằng Ngài đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn đang sống. Qua sự phục sinh của Đức Kitô, các tông đồ trải nghiệm niềm vui và hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực tử thần. Họ tín thác vào Chúa. Vì thế, sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha đem lại cho họ niềm vui. Niềm vui đó được cắt nghĩa với những lý do sau:
1. Đức Giêsu lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Do Thái 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.
2. Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa con người với Chúa Cha. Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế giới thần linh cùng Chúa Cha (1Ga 2,1).
3. Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai mở. Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần. Thánh Phêrô đã viết: “ Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).
4. Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó. Khi nói về việc Đức Giêsu sống lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết : “ Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn thể hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn (Eph 1,22-23).
Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.
Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ ngập tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các tông đồ một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.
Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.