Dân Chúa Âu Châu

Chúa Cha hằng làm việc luôn.

Thứ Hai tuần 4 thường niên – MỒNG BA TẾT ĐINH DẬU. THÁNH HÓA CÔNG ĂN VIỆC LÀM.
"Chúa Cha yêu Chúa Con, và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm".

Lời Chúa: Ga 5,16-20
Khi ấy, các người Do thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã chữa bệnh trong ngày sabbat. Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy".
Bởi thế, các người Do thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Thật, Ta bảo thật cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì, nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu thương Chúa Con, và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục".

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

SUY NIỆM 1: Công lao và trách nhiệm
(Trầm Thiên Thu)
Mồng Ba Tết, ngày thánh hóa công ăn việc làm. Công lao và trách nhiệm không thể tách rời. Phần thưởng và bổn phận luôn có mối liên quan lẫn nhau. Có công mới được thưởng, được thưởng vì có trách nhiệm, biết làm tròn bổn phận.
Mồng Ba Tết là ngày cầu mùa, vì Việt Nam là nước nông nghiệp, cần thời tiết tốt, cần mưa thuận gió hòa. Ngày nay, Việt Nam đã công ngiệp hóa, nhân dân làm nhiều ngành nghề, thế nên không chỉ “cầu mùa” mà còn xin ơn “thánh hóa cả công ăn lẫn việc làm”.
Tại sao xin cho công việc xuôi xắn? Để mà an tâm tôn thờ Thiên Chúa.
Ngày xưa, đa số dân Việt làm nghề nông, ngày ngày bán lưng cho trời, bán mặt cho đất, đầu tắt mặt tối suốt tháng quanh năm, chưa qua nỗi gian nan này đã gặp nỗi cực nhọc khác, thế mà vẫn nghèo khổ. Tuy vậy, dân Việt vẫn giữ lòng tin và dâng trào “máu” văn chương, thế nên văn học bình dân rất phổ biến câu vè chứa đầy chất tâm linh:
Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Chỉ có Ông Trời mới cứu giúp được chúng ta, chứ chẳng phàm nhân nào làm được gì. Không có mưa từ trời thì lấy gì mà “vắt đất ra nước”? Có thể “thay trời làm mưa” được mấy phút trong một vùng nhỏ bé? Ảo tưởng quá, đúng ra là kiêu ngạo quá!
Ngày qua tháng lại, người ta thường ví von: “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”. Theo cách phân chia gia cấp thời xưa là: sĩ, nông, công, thương, binh. Kẻ sĩ coi mình là giới trí thức nên phải “ưu tiên” đứng đầu. Nhưng Việt Nam là nước nông nghiệp, thế nên nhà nông lại quyết coi mình trọng hơn nên mình phải là nhất. “Nhất sĩ” nhưng khi bụng đói thì còn “sĩ khí” được hay là phải “chạy rông” mà cầu mong nhà nông cho mượn gạo? Thế là lại “nhất nông, nhì sĩ”. Phải chăng kinh tế vẫn quyết định cuộc sống? Không ăn làm sao sống mà học hành để trở thành “kẻ sĩ” chứ? Có thể lắm, vì người ta nói: “Có thực mới vực được đạo”. Đạo còn phải nhờ kinh tế, huống chi đời! Cuộc sống như một vòng lẩn quẩn, khó xác định rạch ròi cái nào nhất hay nhì. Mỗi người và mỗi thứ đều có một vị trí riêng biệt, không thể tự mãn mà cho mình hơn người khác!
Thánh Phaolô nói rạch ròi: “Mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Kitô ban cho” (Ep 4:7). Thứ tự hoặc cấp bậc do con người đặt ra, chứ đối với Chúa thì ai cũng như ai: “Kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể. Kẻ trồng người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình” 1 Cr 3:7-8). Rõ ràng, không ai có thể ảo tưởng hoặc “chảnh”, nhưng ai cũng phải có TRÁCH NHIỆM (riêng và chung).
Tất cả thuộc về Chúa, là của Chúa, như Giáo hội đã xác định: “Chính NHỜ Người, VỚI Người và TRONG Người, mà mọi chúc tụng và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời”. Cầu xin Chúa ban cho mùa màng bội thu và công việc xuôi xắn để an tâm làm bổn phận kính thờ Thiên Chúa trong từng hơi thở của cuộc sống trần gian này.
Thiên nhiên giúp con người tạo phương tiện sinh sống, đó cũng là trách nhiệm với chính bản thân. Sách Sáng Thế nói về thời tiết và mùa màng: “Ngày Đức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Đức Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai. Nhưng có một dòng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt đất” (St 2:5-6).
Thiên Chúa chuẩn bị mọi thứ cho con người, Ngài tạo ra phương tiện sinh sống trước rồi mới tạo dựng con người: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2:7). Nhưng con người phải biết vâng lời, vì vâng lời là thể hiện lòng biết ơn: “Rồi Đức Chúa là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra. Đức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác” (St 2:8-9). Thiên Chúa biết mọi thứ, ngay cả khi con người có ý định, vì thế Ngài không cần thử thách (chứ không phải như chúng ta thường nói vậy), nhưng Ngài muốn con người biết rằng thụ tạo phải tuân phục Tạo Hóa (Tạo Vật), vì “vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9).
Thế nhưng thụ tạo lại “chảnh”, kiêu căng ngạo mạn, quá ngang ngược, coi thường trách nhiệm của mình. Đúng là vừa dại dột vừa ngu xuẩn vì “cóc mà muốn bằng bò”, như triết gia Pascal nói: “Con người không là thiên thần, cũng không là thú vật, nhưng ai muốn làm thiên thần thì sẽ trở thành thú vật”.
Thiên Chúa đã “đem con người đặt vào vườn Ê-đen để cày cấy và canh giữ đất đai” (St 2:15). Cơ ngơi bao la, cho làm chủ các thụ tạo khác, được sướng mà không biết hưởng. Nói về những người không muốn chịu trách nhiệm, ưa nhà hạ, chuyên gia lười biếng, Thánh Phaolô nói: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn!” (2 Tx 3:10).
Hãy tự kiểm điểm bản thân để có thể biết mình sai mà biết noi gương tác giả Thánh Vịnh thân thưa:“Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả! Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc, làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng” (Tv 104:1a & 14ab). Rõ ràng Chúa làm mọi thứ để chúng ta tận hưởng.
Có cực khổ mới quý sự thanh thản, có bị tù rồi mới hiểu rõ giá trị của tự do, có bị áp bức rồi mới chân nhận giá trị của công lý, có vất vả làm lụng thì mới cảm thấy ngon miệng khi ăn uống: “Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh, chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người, xức dầu thơm cho gương mặt sáng tươi, nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ” (Tv 104:14b-15). Mưu sinh nuôi thân là trách nhiệm, nhờ lương thực phần xác mà sống khỏe để thực hiện trách nhiệm về tâm linh.
Muông thú cũ là thụ tạo của Chúa, chúng cũng phải mưu sinh để sinh tồn và cầu xin Chúa: “Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối, chốn rừng sâu, muông thú tung hoành. Tiếng sư tử gầm lên vang dội, chúng săn mồi, gào xin Chúa cho ăn. Ánh dương lên, chúng bảo nhau về, tìm hang hốc, chui vào nằm nghỉ” (Tv 104:20-22). Tất nhiên con người cũng phải vậy, nghĩa là tích cực làm trọn trách nhiệm sống của mình: “Đến lượt con người ra đi làm lụng, những mải mê tới lúc chiều tà” (Tv 104:23).
Thánh Phaolô tâm sự: “Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, là lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến. Vàng bạc hay quần áo của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham” (Cv 20:32-33). Ham cái gì của người khác là tham lam, tức là liên quan giới răn thứ bảy: “Chớ lấy của người”.
Thánh Phaolô nói thêm về bổn phận và trách nhiệm giúp đỡ nhau: “Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: CHO thì có phúc hơn là NHẬN” (Cv 20:34-35).
Chúa Giêsu đã dặn dò: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15: 4a & 5). Có Chúa thì chúng ta có thể làm được cả những việc khó mà chúng ta ngỡ như không thể. Trách nhiệm với Thiên Chúa, trách nhiêm với tha nhân, trách nhiệm với bản thân, nào cũng khó, nhưng tất cả sẽ hóa đơn giản và dễ dàng nếu chúng ta làm chỉ vì sáng danh Chúa và cứu các linh hồn chứ không vì bất kỳ thứ gì khác.
Trình thuật Phúc Âm có nói rõ đến trách nhiệm qua dụ ngôn “những yến bạc” (Mt 25:14-30).
Có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ. Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây”. Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!”. Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây”. Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!”. Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói:“Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!”. Ông chủ đáp: “Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến”.
Có hai loại người: Người cần cù (có trách nhiệm) và kẻ lười biếng (vô trách nhiệm). Loại người thứ nhất cứ chăm chỉ làm việc, sinh lời nhiều hay ít cũng được, Chúa không đặt thành vấn đề, vì khả năng mỗi người khác nhau theo số “nén” Chúa trao. Đó cũng là “định mệnh” của mỗi người. Họ là những tôi trung đáng khen vì đã dùng hết khả năng. Còn loại người thứ nhì thì sống ung dung tự tại, quen thói lười biếng, thích “ngồi mát ăn bát vàng”, nhưng lại ưa “chỉ tay năm ngón”, khoái ra lệnh, muốn ra vẻ “ta đây”, bép xép, lẻo mép mà làm chẳng được tích sự gì. Loại người này làm băng hoại xã hội và Giáo hội, rất nguy hiểm. Hãy tránh cho xa!
Nghe có vẻ rất “nghịch lý” và “chói tai” khi Chúa Giêsu bảo: “Ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy đi” (Mt 25:29). Thế nhưng suy cho cùng, cái nghịch lý đó lại là thuận lý, nói cho gọn là nghịch-lý-thuận.
Thật tốt phúc nếu chúng ta là người sống có trách nhiệm, biết chăm chỉ và cần mẫn như loài ong, tất nhiên xứng đáng được hưởng công lao; nhưng nếu chúng ta lười biếng thì thật là vô phúc, vì chúng ta sẽ trở thành “tên đầy tớ vô dụng”, và chính Chúa sẽ thẳng thắn trừng trị ngay: “Hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 25:30).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin hết lòng cảm tạ Ngài đã ban mùa Xuân tuyệt vời cho chúng con tận hưởng. Một năm mới lại khởi đầu, xin Ngài thương ban cho mọi người có công ăn việc làm ổn định để an tâm thờ phượng Ngài, và xin thánh hóa công việc của chúng con để vinh danh Ngài. Xin giúp chúng con nhận biết Thánh Ý Ngài trong từng công việc, để chúng con có thể sinh lời theo số nén Ngài đã trao phó. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Emmanuel và Đấng Cứu Độ của chúng con. Amen.

SUY NIỆM 2: “MƯU SỰ TẠI NHÂN, THÀNH SỰ TẠI THIÊN”
“Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Ấy là câu nói cửa miệng của những ai tin vào Thiên Chúa, Đấng là chủ tể mọi loài.
Với thánh Phaolô, ngài xác tín mạnh mẽ và quy hướng mọi sự về Thiên Chúa. Ngài khẳng định: “Phaolô trồng, Apollô tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới làm cho mọc lên” (1Cr 3,6).
Hôm nay, ngày mồng ba tết, cộng đoàn quy tụ nơi đây, để cùng nhau xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm cho chúng ta trong suốt năm mới.
Tuy nhiên, đây còn là dịp để chúng ta bày tỏ thái độ tích cực về lao động cũng như tìm hiểu về ý nghĩa, giá trị của lao động trong nhiệm cục cứu chuộc của Thiên Chúa.
1. Trở về nguồn để hiểu giá trị của lao động
Ngay từ thủa ban đầu của xã hội loài người, chúng ta thấy Tổ tông Ađam và Eva đã được Thiên Chúa trao ban vườn Địa Đàng để: “Canh tác và giữ vườn” (St 2,15). Mặc dù nơi đây là một nơi đầy đủ và hạnh phúc dồi dào! Tuy nhiên, con người không được ở yên, mà vẫn phải giữ vườn và canh tác...
Sang thời Đức Giêsu, chính Ngài đã nói với dân chúng rằng: “Cho đến nay, Cha Ta vẫn làm việc, thì Ta cũng làm việc” (Ga 5,17).
Ngài không chỉ nói, mà chính Ngài đã kinh qua trong suốt thời gian sống ẩn dật 30 năm trường trong gia đình Nazareth. Ngài đã cùng thánh Giuse lao động để kiếm tiền lo cho gia đình... Điều này đã được chính những người đồng hương với Ngài chứng minh: “Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?”(Mc 6,3).
Với thánh Phaolô, ngài coi lao động là một việc làm có giá trị, nên một đàng thánh nhân loan báo Tin Mừng, đàng khác, ngài không ngừng lao động chân tay để tránh sự phiền hà cho tín hữu. Khi lời nói đi đôi với hành động, thánh nhân đã cất lên lời khuyên bảo: “Ai không làm việc thì đừng ăn. Thế mà chúng tôi nghe nói trong anh em có những người sống vô kỷ luật, ăn không ngồi rồi, lại dây mình vào đủ chuyện. Đối với những người ấy, chúng tôi kêu mời và khuyến khích họ trong Chúa Kitô, hãy bình tâm làm việc và hãy tự tìm cách sinh nhai” (2 Tx 3,10b-13).
Như vậy, lao động là một việc làm chân chính, đáng tôn trọng. Hơn nữa, lao động còn là điều kiện cần để làm người đúng nghĩa. Nếu không lao động, con người không thể thăng tiến!
Bởi vì, lao động là vinh quang và khi lao động sẽ làm cho chúng ta trở nên giống Thiên Chúa hơn. Lao động còn cộng tác với chính Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, bởi vì, nhờ lao động, con người không ngừng làm cho thế giới này ngày càng đổi mới, thăng hoa và tốt đẹp. Khi lao động, chúng ta làm cho bức tranh nhân loại đã được Thiên Chúa tác tạo trở nên sống động và khởi sắc từng ngày.
Nói như thế không có nghĩa là Thiên Chúa không thể làm cho hoàn thiện? Không! Ngài là Thiên Chúa quyền năng, nên Ngài làm được mọi sự. Tuy nhiên, Ngài muốn cho con người cộng tác để sinh ích lợi cho chính chúng ta.
Hơn nữa, khi lao động, con người có cơ hội làm cho tinh thần minh mẫn, trí óc hoạt động, và nhờ đó mà có thể có những phát minh hữu ích để phục vụ Giáo Hội và xã hội...
Thi hào Voltaire nói: Lao động xua đuổi xa ta 3 mối họa lớn lao ‘Buồn nản, thói hư và cùng túng’”. Sách Nho cũng nói: “Nhàn cư vi bất thiện”, và sách Tây thêm: “Sự ở nhưng là mẹ sinh ra các nết xấu”.
Với thánh Gioan Kim Khẩu thì: mỗi khi con người lao động, họ được tôn trọng hơn. Ngài ví von: “Con ong được quí trọng, vì nó làm việc không những riêng cho nó và cho cả mọi người nữa”.
Vì thế, chúng ta cần phải loại trừ quan niệm lệch lạc về lao động, coi lao động là bần tiện, khổ sai, nô lệ. Đây là cái nhìn nguy hại không chỉ cho đời sống thể xác, mà nó còn nguy hiểm cho đời sống tinh thần.
2. Ý nghĩa của ngày lễ thánh hóa việc làm
Ngày mồng ba tết được chọn để cầu nguyện xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm, Giáo Hội muốn mời gọi con cái mình hãy biết dâng cho Chúa và phó thác nơi Ngài tất cả. Tâm tình này đã được cha ông ta đúc kết thành câu đồng dao vừa để sống, vừa để răn dạy con cháu:
“Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cầy
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp”.

Chính niềm tin ấy, đã khiến cho tổ tiên ta luôn cậy dựa bám víu và biết ơn Ông Trời:
“Ơn Trời mưa nắng phải thì
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cầy sâu”.
Khi được mưa thuận gió hòa, và con người biết sống kết hợp với Ông Trời thì:
“Trời nào có phụ ai đâu!
Hay làm thì giầu, có chí thì nên”.
Tuy nhiên, vẫn có những người tưởng chừng như mọi sự là do mình, nên đã có thái độ kênh kiệu và ngạo mạn với Thiên Chúa. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, những người đó không sớm thì muộn, họ sẽ gặp những thất bại thê lương và sẽ chết trong sự ngu dốt của mình.
Vì thế, ngày mồng ba tết, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm là điều hợp lẽ vì: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” (Tv 127,1).
3. Thế nào là lao động trong công trình cứu chuộc?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn “các nén bạc” để cho thấy rõ giá trị của lao động. Vì thế, với Lời Chúa vừa nghe, ta hiểu rằng:
Con người hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa và phải có trách nhiệm trước mặt Người.
Vì yêu thương, nên Thiên Chúa ký thác cho ta những nén bạc, và đòi hỏi chúng ta phải sinh lời thêm. Vì thế, không được phung phí cũng như ích kỷ chôn vùi đi. Nhưng phải làm cho nó sinh lợi theo thánh ý Thiên Chúa.
Như vậy, điều quan trọng giờ đây, đó là chúng ta cần đặt ra câu hỏi: Lao động cách nào cho đẹp lòng Chúa và hữu ích cho linh hồn?
Câu trả lời, đó là: lao động bằng trí óc và bàn tay chân chính, lao động bằng mồ hôi, khó nhọc của chính mình...
Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận những chuyện làm ăn bất chính như: gian tham, hối lộ, bóc lột; buôn gian bán lận, lừa đảo; cờ bạc, số đề, cá độ; thiết lập những khu ăn trơi trác táng để làm giàu trên thân xác phụ nữ chốn lầu xanh...
Những thứ đó không phải là công khó của chính mình, mà là của người khác. Thế nên, không có ý nghĩa và giá trị cứu chuộc, vì không được Thiên Chúa chúc lành. Ngược lại, nén bạc Chúa trao cho chúng ta và đòi hỏi chúng ta phải sinh lời ra, đó là: từ bi, nhân hậu, công bằng, bác ái; liên đới, cảm thông, sống công chính...
Mong sao, mỗi khi xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta biết ý thức sự giới hạn của mình và biết cậy dựa vào quyền năng của Thiên Chúa, đồng thời, chúng ta cũng biết lựa chọn cách lao động chân chính, để qua đó, tâm hồn chúng ta được hướng thiện và đáng được hưởng ơn cứu chuộc. Amen.

SUY NIỆM 3: GỢI Ý GIẢNG LỄ
(Lm Antôn Trần thế Phiệt)
1/ Con người thường mắc vào sai lầm và cám dỗ là khi làm việc thì quên mất Thượng đế, quên mất Thiên Chúa:
a) có khi quên vì mải mê quá với công việc.
b) hoặc vì tự sức mình, tự tài cán mình đã làm được mọi chuyện, đã tự xoay xở được trong cuộc sống nên không cần đến Chúa nữa.
c) hoặc thành công quá trong việc làm thì đâm ra không cần Chúa, ngược lại thất bại quá cũng quên Chúa…

2/ Với lễ mồng ba Tết hôm nay, Hội thánh muốn nhắc người công giáo chúng ta là chính khi lao động, ta hãy nhớ đến Chúa, thậm chí càng lao động, ta hãy càng nhớ đến Chúa. Tại sao thế ?
a) vì ta biết rằng sức lực và tài năng mình có để làm việc là do Chúa ban – những kết quả có được là do Chúa – kể cả những thất bại ta gặp rất có thể cũng do một ý gì của Chúa. Vậy việc mình làm được là do Chúa. Mình càng giỏi, càng thán phục và biết ơn Chúa là Đấng ban sự giỏi giang cho mình
b) lý do thứ hai là vì ta biết những kết quả do công việc mình giúp thay đổi bộ mặt trái đất, khiến làm đẹp cho môi trường và giúp ích cho kẻ khác : những điều đó là do chính Chúa muốn, Chúa muốn mình nên cộng sự viên của Chúa
-- tiếp tay Chúa mà thực hiện việc tạo dựng còn dở dang
-- tiếp tay Chúa, nối dài cánh tay Chúa mà thể hiện tình thương của Chúa
c) lý do thứ ba khiến khi làm việc ta gần Chúa : đó là vì chính khi làm việc, ta đang giống Chúa, đang làm y như Chúa là Đấng hằng làm việc mọi lúc như Chúa Yêsu nói, làm việc vì muốn con cái hạnh phúc ngày một hơn, hưởng sự săn sóc của Người ngày một hơn

3/ Vậy hôm nay, ta xin Chúa chúc lành và thánh hoá công ăn việc làm của ta trong cả năm mới này, nghĩa là :
-- xin Chúa ban cho ta có sức khoẻ và sáng kiến, xin Chúa giúp ta khi ta lao động
-- xin Chúa giúp ta được nên thánh nhờ công việc :
-- nên thánh bằng cách khi làm việc thì không quên Chúa, nhưng nhớ Chúa
-- nên thánh bằng cách dùng công việc mình để cộng tác với Chúa và giúp ích cho kẻ khác, cho xã hội
-- nên thánh bằng cách khi làm việc thì rèn luyện mình, uốn sửa những cái sai cái xấu của mình, mà chính công việc tỏ lộ cho ta thấy.

Xin Chúa, xin thánh cả Giuse:
-- giúp mọi người chúng ta biết làm việc để không ăn bám xã hội, nhưng góp phần xây dựng xã hội
-- gíúp bậc cha mẹ tập cho con cái biết làm việc tay chân, hoặc chăm chỉ học hành là làm việc trí óc, chuẩn bị cho tương lai của bản thân và xã hội.

SUY NIỆM 4: MÙNG BA RA MẮT
(Lm Giuse Đinh lập Liễm)
I. CÔNG VIỆC BA NGÀY TẾT.
Người Việt nam chúng ta rất qúi trọng ba ngày Tết. Ba ngày này được coi như là linh thiêng. Mỗi ngày được phân chia cho một công việc. Công việc ba ngày Tết là :
Mùng một tết cha, Mùng hai tết mẹ, Mùng ba tết thầy.
Tại sao lại chia ra như vậy? Vì muốn cho ba ngày tết có đầy đủ ý nghĩa :
Nhà cha là nhà bên nội, ngày mùng một linh thiêng nhất nên ai cũng về từ đường bên nội cúng gia tiên, viếng thăm, mừng tuổi và chúc tụng họ hàng.
Cũng vậy, ngày mùng hai, lại kéo cả nhà về bên ngoại, cố thực hiện cho bằng được ý nghĩa đoàn tụ truyền thống trong mấy ngày Tết nhất.
Ai cũng hiểu, cha mẹ là đấng sinh thành, dưỡng dục, còn việc dạy dỗ cho nên người hữu dụng chính là thầy dạy học của mình; do đó, ngày mùng Ba thì học trò đồng môn rủ nhau đi viếng thầy (dạy chữ hoặc dạy nghề). Họ mang theo lễ vật để tỏ chút lòng thành. Thầy trò làm thơ, nói chuyện văn chương hoặc trao đổi chuyện làm ăn, nghề nghiệp trong bầu khí vui tươi, bổ ích.
Do mọi việc xã giao, chúc tụng được tập trung cho kịp trong ba ngày Tết, nếu để “ra ngoài ngày” (tức từ mùng bốn trở đi) sẽ giảm mất ý nghĩa, nhất là về mặt tình cảm, tôn kính, qúi trọng, cho nên người ta cũng sắp xếp có người trực ở nhà vừa để không trống vắng lạnh lẽo, vừa cũng để tiếp khách. Do đó có qui ước truyền thống “Mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy”, nên bạn bè muốn đến vui chơi trong ba ngày Tết đều nhất thiết phải hẹn trước. (Nguyễn hữu Thiệp, Dân ta ăn Tết, 1995, tr 135-136)

II. MÙNG BA RA MẮT.
Do “Mùng Ba tết Thầy” nên ngày này cũng là ngày ra mắt Tổ sư, Tiên sư nghề nghiệp mình.
Sáng sớm ngày ấy, ai làm nghề gì thì đem đồ nghề ra khởi động nghề ấy. Khởi động lấy lệ, mang tính hình thức. Đại khái, nhà nông thì mang lưỡi hái ra quơ cắt một ôm cỏ đem về cho trâu ăn (nhưng chưa làm động thổ). Người buôn bán thì mở cửa hàng bán tượng trưng vài món lấy ngày. Thợ thầy cũng đem kéo, búa ra cắt đập ít cái để “gọi là”. Nói chung, mọi công việc đều có tính cách tượng trưng, gọi là ra mắt Tổ nghề, mong Tổ sư và Tiên sư hộ độ suốt năm làm ăn phấn phát. Tất nhiên, trong những ngày này, bàn thờ các ông Thần tài, Thổ địa và Tổ nghề đều rất tươm tất, hương đăng không tắt, hoa trái lúc nào cũng đầy ắp.
Sau lễ ra mắt, người ta lại tiếp tục ăn Tết. Nhà giầu ăn tết đến hết ngày mùng 7 hoặc hơn. Người lao động nghèo tranh thủ khai trương sớm (Sđd , tr 137-138).
III. THÁNH HÓA CÔNG VIỆC LÀM ĂN.
Hội thánh Công giáo Việt nam luôn đồng hành cùng dân tộc cố gắng làm phát huy những gì tốt đẹp phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc. Nếu “Mùng Ba ra mắt”, các người thợ trình diện với Tổ sư ngành nghề của mình về công việc làm ăn trong năm, Hội thánh Việt nam cũng muốn dành ngày mùng ba Tết để thánh hoá công việc làm ăn. Chúng ta hãy trình lên Chúa công việc làm ăn trong năm, để xin Chúa chúc lành và ban ơn phù giúp để mọi công việc của chúng ta phù hợp với thánh ý Chúa.
Đọc chương đầu của sách Sáng thế, ta thấy Đức Chúa Trời đã dựng nên loài người “giống hình ảnh Ngài” (St 1,26). Các nhà chú giải Thánh kinh cho rằng loài người giống Thiên Chúa nhờ sự thông minh và tự do, giống Thiên Chúa ở điểm loài người có uy quyền bá chủ trên vạn vật:”Ta hãy dựng nên loài người giống hình ảnh Ta để họ làm chủ cá biển, chim trời, muôn thú vật trên đất và mọi côn trùng sống động trên địa cầu” (St 1,26).
Như vậy, theo nghĩa chung, lao động tinh thần hay vật chất đều mang ý nghĩa trọng đại :”cộng tác vào việc sáng tạo” của Thiên Chúa. Giữa ý niệm lao động và giáo thuyết về sáng tạo có một tương liên mật thiết.
E. Krebs đã không ngần ngại tuyên bố: ”Khái niệm căn bản về giá trị tuyệt đối của tất cả hoạt động nhân sinh đã được phú ban cho loài người nhờ lòng tin vào Thiên Chúa sáng tạo, Ngài là Đấng tự do và khôn ngoan, sau khi dựng nên loài người đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy để giao phó cho họ tiếp tục thực hiện chương trình sáng tạo của Ngài có từ đời đời” (Die wertprobleme, tr 43 ; theo J. Haessle, Le Travail, Paris, 1933, tr 350).
Mọi sự trên thế gian này là của Chúa, nhưng Ngài muốn cho con người quản trị, đổi mới và làm cho phong phú thêm. Chúng ta có thể nói Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất, còn chúng ta là nguyên nhân đệ nhị của vũ trụ. Ngay sự quan phòng hằng ngày của Thiên Chúa trên vạn vật cũng là một cuộc sáng tạo không ngừng. Chúng ta là nguyên nhân đệ nhị và chỉ có thể góp phần vào với nguyên nhân đệ nhất. Chính vì thế Haessle viết: “Nguời thợ là hình ảnh đặc biệt của Thiên Chúa... sản xuất và sản xuất trong niềm vui là con người đã đem năng lực của mình ra hành dộng để thực hiện một đời sống trọn vẹn hơn và làm cho mình nên giống Thiên Chúa dầu họ có ý thức hay không. Đời sống “làm việc” tức là hành động và phản ảnh sức hoạt động tuyệt đối... Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất tuyệt đối... người thợ là nguyên nhân kết thành xét như chính họ làm cho những sự vật trở thành chính nó và hoàn hảo hơn. Con người đã truyền sức lực, tư tưởng, nhân vị mình cho chúng. Nguyên nhân tương đối là phản ảnh trung thực của nguyên nhân tuyệt đối”. (J. Haessle, Le Travail, Paris, 1933, tr 63-64)
Công đồng Vatican 2 cũng xác quyết sự làm việc là góp phần sáng tạo và hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử :
“Thực vậy, trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình họ tiếp nối công trình của Tạo hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao của mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử” (Gaudium et Spes, bản dịch của GHHV Piô X, Đà lạt).
Nếu lao động là được cộng tác vào chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, thì đây là vinh dự lớn lao của con người, vì “nhân linh ư vạn vật”. Theo ý nghĩa đó, ta có thể kết luận mà không sợ sai lầm: ”LAO ĐỘNG LÀ VINH QUANG”.
KẾT LUẬN
Trong ngày mùng Ba Tết hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được biết thánh hoá công việc làm ăn của chúng ta, đặc biệt trong thánh lễ này.
Trước hết, ta hãy cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta những nén bạc cơ bản làm vốn: sự sống, sức khỏe, trí khôn, thiên hướng, những kinh nghiệm của cộng đồng, tri thức của người đi trước, những nhu cầu phát triển của thời đại...
Sau đó, xin Chúa ban ơn nâng đỡ tinh thần và nghị lực để chu toàn mọi trách nhiệm liên quan đến công việc.
Đồng thời cũng xin luôn ý thức công việc làm ăn của bản thân và của mọi người là thước đo về công bằng và phát triển của xã hội. Ai cũng có quyền được làm việc và quyền được chuẩn bị chu đáo để có việc làm phù hợp với nguyện vọng và khả năng.
Như vậy, khi nguyện ước công ăn việc làm của mình được Thiên Chúa thánh hoá, người Kitô hữu đang khao khát diễn tả, qua thực tiễn lao động của bản thân, hình ảnh một Thiên Chúa hoạt-động-không-ngừng và đã trao cho loài người quyền được làm giầu đẹp thêm cho cuộc sống.