Gương Thánh Nhân
Ngày 06/8 Lễ Hiển Dung
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lễ Hiển Dung
Phêrô, Giacôbê và Gioan đã thoáng được nhìn thấy thiên tính của Ðức Giêsu,... và Ðức Giêsu đã cảnh cáo cho họ biết, sự vinh hiển và sự thống khổ của Người liên hệ với nhau một cách chặt chẽ.
Lược sử
Cả ba Phúc Âm Nhất Lãm đều đề cập đến biến cố Hiển Dung (Mátthêu 17,1-8; Máccô 9,2-9; Luca 9,28-36). Với một sự tương đồng đáng chú ý, cả ba đều kể lại biến cố này.
Mặc dù cả ba văn bản đều rất giống nhau, theo các học giả Kinh Thánh, thật khó để diễn lại cảm nghiệm của các tông đồ. Và tất nhiên, Đức Giêsu đã cảnh cáo cho họ biết, sự vinh hiển và sự thống khổ của Người liên hệ với nhau một cách chặt chẽ -- đó là chủ đề mà Gioan lập đi lập lại trong Phúc Âm của ngài.
Truyền thống coi núi Tabor là nơi hiển dung. Đầu tiên, trong thế kỷ thứ tư một nhà thờ được dựng nên ở nơi đây để cung hiến cho biến cố này vào ngày 6 tháng Tám. Và cũng như một ngày lễ được thiết lập để tôn kính sự Hiển Dung.
Suy niệm 1: Hiển Dung
Cả ba Phúc Âm Nhất Lãm đều đề cập đến biến cố Hiển Dung.
Một trong những tường thuật về sự Hiển Dung được đọc vào Chúa Nhật II Mùa Chay hàng năm, để tuyên xưng thiên tính của Đức Kitô cho các người dự tòng. Phúc Âm của Chúa Nhật I Mùa Chay, ngược lại, là câu chuyện Đức Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc -- xác nhận nhân tính của Đức Kitô. Hai bản tính khác biệt nhưng không thể tách rời của Chúa Giêsu là một chủ đề gây nhiều tranh luận trong lịch sử Giáo Hội thời tiên khởi; ngày nay chủ đề ấy vẫn còn khó cho nhiều người thấu hiểu.
Thánh Tôma Aquinas, trong Tổng Luận Thần Học của ngài đã có một ý tưởng về biến cố này: Trong biến cố Hiển Dung, Đức Kitô cho các môn đệ thấy sự huy hoàng mỹ miều của Người, mà qua đó Người sẽ uốn nắn và tô điểm những ai thuộc về Người: "Người sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người" (Pl 3,21).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn bình tâm và lạc quan sống, vì trong vui luôn hàm chứa khổ và trong khổ luôn ẩn tàng vui.
Suy niệm 2: Tương đồng
Với một sự tương đồng đáng chú ý, cả ba đều kể lại biến cố này.
Cả ba Tin Mừng Mátthêu, Máccô và Luca thường được gọi là Tin Mừng Nhất Lãm, có nghĩa là bằng một cái nhìn có thể thấy được cả ba, vì cách chung cả ba tường thuật đều rất giống nhau về tiến trình cũng như nội dung. Dầu vậy trong đó cũng có một số tiểu tiết khác biệt nhau nhằm để bổ túc lẫn nhau, có thế mới là ba chứ không là một.
Tuy nhiên điểm tương đồng nổi bật đáng chú ý trong tường thuật về biến cố này, là cả ba đều ghi đậm sự kiện này xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế và sau lần đầu tiên Đức Giêsu nói về sự thống khổ và cái chết của Người. Sự hăng hái của Phêrô trong việc dựng lều nơi hiển dung đưa ra giả sử rằng, biến cố đó xảy ra trong dịp Lễ Lều kéo dài một tuần lễ trong mùa thu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cố phát hiện những sự khác biệt dầu là tiểu tiết để phong phú hóa sự hiểu biết của chúng con.
Suy niệm 3: Cảm nghiệm
Thật khó để diễn lại cảm nghiệm của các tông đồ.
Vì các Phúc Âm dựa rất nhiều vào Cựu Ước trong đoạn diễn tả cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa ở núi Sinai và những điều tiên tri về Con Người. Chắc chắn là Phêrô, Giacôbê và Gioan đã thoáng được nhìn thấy thiên tính của Đức Giêsu.
Ấn tượng ấy đủ mạnh để tạo nên sự sợ hãi in sâu trong tâm hồn họ. Một cảm nghiệm như vậy không thể nào diễn tả được, do đó các ngài dùng cách diễn đạt thông thường trong kinh sách để diễn tả.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vượt ra khỏi cách diễn đạt thông thường để thấy được ý nghĩa thâm sâu ẩn chứa bên trong.
Suy niệm 4: Chủ đề
Đó là chủ đề mà Gioan lập đi lập lại trong Phúc Âm của ngài.
Chủ đề nổi bật trong biến cố Hiển Dung là gì vậy, khiến Tin Mừng Gioan lập đi lập lại nhiều lần? Đó là việc Đức Giêsu cảnh cáo cho ba tông đồ và qua các ngài cho mọi người biết rằng: sự vinh hiển và sự thống khổ của Người liên hệ với nhau một cách chặt chẽ.
Sự thống khổ của người mù từ lúc bình sinh đã được Đức Giêsu giải thích là để thiên hạ nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa qua công trình tuyệt diệu của Người khi làm cho anh được sáng mắt (Ga 9,3). Nếu hiểu cái chết là nỗi đau tột cùng thì hạt lúa phải chịu mục nát đi mới trổ sinh được hoa trái (Ga 12,24). Cũng thế cái chết của Ladarô cũng nhằm xây dựng niềm tin vào sự phục sinh vinh quang (Ga 11,15.25). Nhất là cái chết thê thảm của Đức Giêsu trên thập giá là một hành vi tôn vinh Chúa Cha và chính Ngài (Ga 12,23;17,4-5.10).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống lời vàng của Chúa là phải qua đau khổ mới vào được vinh quang (Lc 24,26).
Suy niệm 5: Núi Tabor
Truyền thống coi núi Tabor là nơi hiển dung.
Địa danh núi thật rất quen thuộc đối với sinh hoạt của Đức Giêsu. Chẳng những Người thường chọn lên địa điểm thanh vắng đó để cầu nguyện như thói quen (Lc 6,12;22,39), mà Người cũng thường tìm đến đó vào các dịp quan trong trong hoạt động tông đồ của Người: Việc công bố bàng Hiến Chương Nước Trời (Mt 5,1), chọn các tông đồ (Lc 6,13), lập bí tích Thánh Thể (Lc 22,19-20), đi vào cuộc Tử Nạn (Mt 26,39), cũng như chịu chết trên thập giá (Ga 19,17).
Dĩ nhiên núi Tabor phải là nơi Chúa chọn để tiến hành một biến cố rất quan trọng, đó là hiển dung. Nhất là trong biến cố này lại xảy ra cuộc đàm thoại giữa Người với Môsê và Êlia vốn là những nhân vật đã từng được Thiên Chúa mời gọi lên núi để diện kiến Chúa (Xh 19,3;1V 19,12). Theo chí hướng đó, nhiều thánh nhân lừng danh cũng tìm lên rừng núi để gặp gỡ Chúa, như các vị Phaolô hoặc Antôn hay một Bênêđích.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tạo dựng bầu khí thinh lặng của núi trong tâm hồn để bất cứ lúc nào cũng gặp được Chúa.
Suy niệm 6: Ngày lễ
Một ngày lễ được thiết lập để tôn kính sự Hiển Dung.
Ngày lễ này được Giáo Hội Đông Phương cử mừng bắt đầu từ khoảng thời gian đó. Sự mừng kính của một vài giáo hội Tây Phương bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ tám.
Vào ngày 22 tháng Bảy 1456, Thập Tự quân đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Belgrade. Tin tức về cuộc chiến thắng được đưa về Rôma vào ngày 6 tháng Tám, và vào năm sau, Đức Giáo Hoàng Callistus III đã đưa ngày lễ này vào niên lịch phụng vụ của Rôma.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ mừng lễ mà nhất sống được chủ đề của ngày lễ.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 05/8 Lễ Cung Hiến Ðền Ðức Bà Cả
- Viết bởi HẠNH CÁC THÁNH
Sau khi được xây cất lần đầu tiên theo lệnh của Ðức Giáo Hoàng Liberius vào giữa thế kỷ thứ tư, Ðền Liberius được Ðức Giáo Hoàng Sixtus III cho xây cất lại vào năm 431 một ít lâu sau khi Công Ðồng Êphêsô xác định danh xưng của Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Sau khi được tái cung hiến cho Mẹ Thiên Chúa, Ðền Ðức Bà Cả là nhà thờ lớn nhất thế giới để vinh danh Thiên Chúa qua Ðức Maria.
Tọa lạc trên một trong bảy ngọn đồi ở Rôma, đền đã trải qua nhiều lần tu bổ mà vẫn giữ được đặc tính của một vương cung thánh đường thời xa xưa. Bên trong vẫn chia làm ba gian được ngăn cách bởi các cột lớn với đường nét trạm trổ thời hoàng đế Constantine. Những tấm khảm từ thế kỷ thứ năm vẫn còn hiển hiện trên các bức tường là chứng tích cho sự cổ kính của đền.
Ðền Ðức Bà Cả là một trong bốn thánh đường ở Rôma nổi tiếng là các thánh đường chính được xây cất để kính nhớ các trung tâm đầu tiên của Giáo Hội. Ðền Thánh Gioan Latêranô tượng trưng cho ngai toà Thánh Phêrô, Toà Rôma; Ðền Thánh Phaolô Ngoại Thành, Toà Alexandria, nghe nói do Thánh Máccô đứng đầu; Ðền Thánh Phêrô, Tòa Constantinople; và Ðền Ðức Bà Cả, Tòa Antiôkia, là nơi người ta cho rằng Ðức Maria sống ở đây lâu nhất.
Một truyền thuyết có từ trước năm 1000, bây giờ không còn giá trị, đã khiến ngày lễ này có một tên khác: Ðức Bà Sương Tuyết. Theo truyền thuyết, một vợ chồng quý tộc người Rôma hứa dâng tặng tài sản kếch sù cho Ðức Maria. Ðể xác nhận điều ấy, ngài làm phép lạ tuyết đổ giữa mùa hè, và bảo họ xây một đền thờ ở chỗ ấy. Vào ngày 5 tháng Tám hàng năm, truyền thuyết này thường được cử hành bằng cách thả hoa hồng trắng như tuyết rơi từ vòm đền thờ xuống đất.
Lời Bàn: Cuộc tranh luận thần học về bản tính của Ðức Kitô, vừa là Chúa vừa là người, đạt đến cực điểm trong đầu thế kỷ thứ năm, thời Constantinople. Ðức Athanasius, giáo sĩ thuộc quyền Giám Mục Nestorius, phản đối danh xưng Theotokos, "Mẹ Thiên Chúa," ngài cả quyết rằng Ðức Trinh Nữ chỉ là mẹ của Ðức Giêsu về phương diện nhân tính. Ðức Giám Mục Nestorius đồng ý và ra lệnh rằng, từ nay về sau trong giáo phận của ngài, Ðức Maria được gọi là "Mẹ Ðức Kitô". Dân chúng thành Constantinople chính thức nổi dậy phản đối sắc lệnh của đức giám mục. Khi Công Ðồng Êphêsô bác bỏ quyết định của Ðức Nestorius, người tín hữu đã tuốn ra đường phố, phấn khởi hô to, "Theotokos! Theotokos!"
Lời Trích: "Ngay từ thời tiên khởi, Ðức Trinh Nữ đã được vinh danh với tước hiệu Mẹ Thiên Chúa, và các tín hữu đã cầu khẩn và ẩn náu dưới sự che chở của ngài trong lời cầu nguyện khi họ gặp gian nan khốn khó. Vì vậy, sau Công Ðồng Êphêsô, Dân Chúa đã gia tăng lòng sùng kính Ðức Maria cách lạ lùng, trong sự kính mến, trong sự cầu khẩn và noi gương..." (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, 66).
Nguồn: Báo Người Tín Hữu
Ngày 04/8 Thánh Gioan Baotixita Vianney (1786-1859)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan Baotixita Vianney (1786-1859)
Khi mới chịu chức linh mục, ngài không được phép giải tội vì học lực quá kém. Mỗi ngày ngài đi thăm các giáo dân và lắng nghe những ưu tư của họ. Ngài không hiểu tiếng Latinh nhưng ngài rất hiểu các nỗi khó khăn của đời sống người dân.
Lược sử
Thật ít người có được sự quyết tâm mạnh mẽ để vượt qua các trở ngại và đạt được các kỳ công. Thánh Gioan Baotixita Vianney (còn được gọi là Cha Sở họ Ars) là một người có quyết tâm: Ngài muốn trở nên một linh mục. Nhưng trở ngại lớn nhất là ngài không có căn bản học vấn cần thiết.
Sau thời gian nhập ngũ và trở lại chủng viện, ngài không hiểu nổi các bài học bằng tiếng Latinh nên bị đuổi ra khỏi trường. Nhờ sự giúp đỡ kiên nhẫn của Cha Balley để dạy riêng ở nhà, sau cùng Gioan được nhận trở lại và được thụ phong linh mục với nhiều cay đắng. Hầu như chẳng giám mục nào muốn có một linh mục như Gioan, do đó, họ đưa ngài về một giáo xứ hẻo lánh, chỉ có 40 gia đình nhưng có đến 4 quán rượu. Khi ngài đến tỉnh Ars nước Pháp, lúc ấy đã 31 tuổi, hầu như chẳng ai thèm lưu ý. Tỉnh này nổi tiếng là nơi đầy ải các linh mục. Giáo dân thì thờ ơ với việc đạo đức và thoải mái với nếp sống cố hữu của họ.
Không bao lâu họ thấy có những thay đổi. Khi nhìn trộm qua cửa sổ họ thấy cha sở gầy gò ốm yếu cầu nguyện suốt đêm. Có người thấy ngài vất bỏ các bàn ghế đắt tiền và thay chiếc giường nệm êm ấm bằng các khúc gỗ sần sùi. Cũng có người thấy ngài chia sẻ quần áo cho người ăn xin, và chính ngài chỉ ăn có hai củ khoai mỗi ngày. Một vài người tò mò đến nhà thờ nghe giảng, và họ thấy tiếng nói của ngài như xé vào tai nhưng có sức đánh động tâm hồn. Từ tò mò dẫn đến nghi vấn. Có thể nào đây là một linh mục đích thực? Và nhà thờ bắt đầu đông người trở lại.
Cha Gioan đã trở nên một phần tử của cộng đồng nhỏ bé ấy. Mỗi ngày ngài đi thăm các giáo dân và lắng nghe những ưu tư của họ. Ngài không hiểu tiếng Latinh nhưng ngài rất hiểu các nỗi khó khăn của đời sống người dân. Do đó, sau mười hai năm, hầu như mọi người trong tỉnh đều tham dự Thánh Lễ hàng ngày và các nông dân vừa lần chuỗi vừa cầy cấy nơi đồng áng.
Sự thay đổi không phải dễ dàng. Những dèm pha, đàm tiếu, chụp mũ Cha Gioan cũng không thiếu. Đối phó với những người ấy, ngài chỉ im lặng và nhẫn nhục chịu đựng. Công việc giải tội là thành quả đáng kể nhất của Cha Gioan. Khi mới chịu chức linh mục, ngài không được phép giải tội vì học lực quá kém. Nhưng ở họ đạo Ars, điều giáo dân lưu tâm là ngài có khả năng thấu suốt linh hồn họ, khuyên bảo họ một cách chân thành với tấm lòng quý mến.
Dân chúng từ khắp Âu Châu đổ về tỉnh nhỏ xíu ấy chỉ để xưng tội. Trong những tháng mùa đông, ngài phải mất từ 11 đến 12 tiếng đồng hồ để đưa người ta về với Thiên Chúa. Trong mùa hè, thời gian giải tội lên đến 16 tiếng. Đó là chưa kể cảnh giáo dân, vì quá ái mộ ngài nên họ luôn rình rập để cắt áo, cắt tóc và lấy trộm mũ của ngài làm kỷ niệm. Nhưng các điều ấy không tệ hại cho bằng cứ phải nghe những câu chuyện đau lòng trong toà giải tội. Nếu một người không quyết tâm sống ơn gọi linh mục thì không thể nào chịu đựng nổi sự hy sinh bền bỉ như vậy.
Với thân hình mảnh khảnh nhưng gánh nặng quá lớn vì yêu quý các linh hồn, sức khoẻ của ngài ngày càng sa sút. Theo lời khuyên của các bác sĩ, ngài tìm cách trốn khỏi giáo xứ để có chút thời giờ tĩnh dưỡng, nhưng cả xứ biết tin đã tìm cách chặn đường ngài. Bất chấp điều ấy, ngài lên đường trở về quê nhà nhưng cả đoàn người hành hương lại theo ngài đến đó. Biết rằng không thể nào được yên thân, ngài trở về họ đạo.
Ngài từ trần ngày 4 tháng Tám 1859 sau cơn bệnh nặng, hưởng thọ 73 tuổi. Ngài được Đức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh năm 1925 và năm 1929, ngài được đặt làm quan thầy chính thức của các cha xứ.
Suy niệm 1: Quyết tâm
Thật ít người có được sự quyết tâm mạnh mẽ để vượt qua các trở ngại và đạt được các kỳ công.
Trong số ít ỏi này, xuất hiện Thánh Gioan Baotixita Vianney (còn được gọi là Cha Sở họ Ars) vốn là một người có quyết tâm. Quyết tâm của ngài là muốn trở nên một linh mục. Nhưng trở ngại lớn nhất là ngài không có căn bản học vấn cần thiết.
Sau thời gian nhập ngũ và trở lại chủng viện, ngài không hiểu nổi các bài học bằng tiếng Latinh nên bị đuổi ra khỏi trường. Nhờ sự giúp đỡ kiên nhẫn của Cha Balley để dạy riêng ở nhà, sau cùng Gioan được nhận trở lại và được thụ phong linh mục với nhiều cay đắng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn có quyết tâm, nhất là một quyết tâm chính đáng và miệt mài theo đuổi đến cùng, vì có quyết tâm như thế là đã đạt được hơn hai phần ba chặng đường.
Suy niệm 2: Linh mục
Hầu như chẳng giám mục nào muốn có một linh mục như Gioan.
Do đó, họ đưa ngài về một giáo xứ hẻo lánh, chỉ có 40 gia đình nhưng có đến 4 quán rượu. Khi ngài đến tỉnh Ars nước Pháp, lúc ấy đã 31 tuổi, hầu như chẳng ai thèm lưu ý. Tỉnh này nổi tiếng là nơi đầy ải các linh mục.
Khi nhìn trộm qua cửa sổ giáo dân thấy cha sở gầy gò ốm yếu cầu nguyện suốt đêm. Có người thấy ngài vất bỏ các bàn ghế đắt tiền và thay chiếc giường nệm êm ấm bằng các khúc gỗ sần sùi. Cũng có người thấy ngài chia sẻ quần áo cho người ăn xin, và chính ngài chỉ ăn có hai củ khoai mỗi ngày. Một vài người tò mò đến nhà thờ nghe giảng, và họ thấy tiếng nói của ngài như xé vào tai nhưng có sức đánh động tâm hồn. Từ tò mò dẫn đến nghi vấn. Có thể nào đây là một linh mục đích thực? Và nhà thờ bắt đầu đông người trở lại.
Cha Gioan đã trở nên một phần tử của cộng đồng nhỏ bé ấy. Mỗi ngày ngài đi thăm các giáo dân và lắng nghe những ưu tư của họ. Ngài không hiểu tiếng Latinh nhưng ngài rất hiểu các nỗi khó khăn của đời sống người dân. Với thân hình mảnh khảnh nhưng gánh nặng quá lớn vì yêu quý các linh hồn, sức khoẻ của ngài ngày càng sa sút. Ngài từ trần ngày 4 tháng Tám 1859 sau cơn bệnh nặng, hưởng thọ 73 tuổi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các linh mục không sống vì sự đánh giá của người, nhưng an tâm chu toàn chức vụ vì cái nhìn của Chúa.
Suy niệm 3: Giáo dân
Giáo dân thì thờ ơ với việc đạo đức và thoải mái với nếp sống cố hữu của họ.
Một giáo xứ hẻo lánh chỉ có 40 gia đình nhưng có đến 4 quán rượu, không lạ gì về tình trạng yếu kém và sa sút của dời sống đạo. Nhưng sau mười hai năm, hầu như mọi người trong tỉnh đều tham dự Thánh Lễ hàng ngày, và các nông dân vừa lần chuỗi vừa cầy cấy nơi đồng áng. Nhà thờ bắt đầu đông người trở lại.
Họ yêu quý ngài và muốn ngài hiện diện với họ.Vì thế, theo lời khuyên của các bác sĩ, ngài tìm cách trốn khỏi giáo xứ để có chút thời giờ tĩnh dưỡng, nhưng cả xứ biết tin đã tìm cách chặn đường ngài. Bất chấp điều ấy, ngài lên đường trở về quê nhà nhưng cả đoàn người hành hương lại theo ngài đến đó. Biết rằng không thể nào được yên thân, ngài trở về họ đạo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có được những linh mục thánh thiện để thánh hóa chúng con.
Suy niệm 4: Cầu nguyện
Khi nhìn trộm qua cửa sổ họ thấy cha sở gầy gò ốm yếu cầu nguyện suốt đêm.
Giờ đêm thông thường là giờ quy định để mọi người nghỉ ngơi. Nhưng với ngài, trước tình cảnh sa sút về mặt đạo đức của một xứ đạo cần phải vực dậy, ngài không thể nghỉ yên được. Ngài quan niệm chỉ được phép nghỉ ngơi khi được về nước trời, vì thế ngài chọn phương thức cầu nguyện để cầu xin sự trợ giúp của Chúa.
Với kinh nghiệm bản thân trong việc cầu nguyện, ngài có một nhận xét về sự cầu nguyện chung trong phụng vụ, ngài cho biết: "Cầu nguyện riêng giống như cọng rơm rải rác đó đây: Nếu bạn đốt lên nó chỉ tạo thành ngọn lửa nhỏ. Nhưng gom các cọng rơm ấy lại và đốt lên, bạn có được ngọn lửa lớn, vươn lên cao như một cột lửa đến tận trời xanh; cầu nguyện chung thì cũng giống như vậy".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ cầu nguyện riêng mà còn kết hợp với việc cầu nguyện chung, như là đôi cánh giúp chúng con vươn cao trên đỉnh trọn lành.
Suy niệm 5: Chụp mũ
Những dèm pha, đàm tiếu, chụp mũ Cha Gioan cũng không thiếu.
Bóng tối luôn không chấp nhận được sự sáng. Thấy việc ngài canh tân giáo xứ theo đường hướng xa lánh tội lỗi để mỗi ngày một đạo đức thánh thiện hơn. Nên có số người xấu đã nỗ lực chống đối ngài. Thậm chí họ vu khống ngài về việc lỗi đức trong sạch, như chuyện kể:
Một thiếu nữ trắc nết tại Ars đi hoang, sinh một đứa con và đổ tội cho Cha Gioan Vianê là tác giả. Đối phó với những người ấy, ngài chỉ im lặng và nhẫn nhục chịu đựng. Ngài vẫn trầm lặng chịu ô nhục và anh dũng chờ đợi thời gian trả lời. Sau cuộc điều tra, bề trên nhìn nhận cha Vianê vô tội. Bao nhiêu vu khống trở nên vô ích, nhưng cũng là một lưỡi gươm đâm thẳng vào trái tim ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín rằng thanh giả tự thanh, và thời gian sẽ trả lời. Điều quan trọng là chúng ta phải luôn vô tội.
Suy niệm 6: Giải tội
Công việc giải tội là thành quả đáng kể nhất của Cha Gioan.
Khi mới chịu chức linh mục, ngài không được phép giải tội vì học lực quá kém. Nhưng ở họ đạo Ars, điều giáo dân lưu tâm là ngài có khả năng thấu suốt linh hồn họ, khuyên bảo họ một cách chân thành với tấm lòng quý mến. Thậm chí có lần có một vị có thế giá trong xã hội nên tỏ ra ngại ngùng trong việc xưng thú; thấu hiểu tâm trạng đó, với ơn Chúa ban, chính ngài gợi lên tội lỗi của ông để ông chỉ cần gật đầu và trả lời thưa có thay cho phần thú nhận dài dòng.
Dân chúng từ khắp Âu Châu đổ về tỉnh nhỏ xíu ấy chỉ để xưng tội. Trong những tháng mùa đông, ngài phải mất từ 11 đến 12 tiếng đồng hồ để đưa người ta về với Thiên Chúa. Trong mùa hè, thời gian giải tội lên đến 16 tiếng. Nhưng các điều ấy không tệ hại cho bằng cứ phải nghe những câu chuyện đau lòng trong tòa giải tội. Nếu một người không quyết tâm sống ơn gọi linh mục thì không thể nào chịu đựng nổi sự hy sinh bền bỉ như vậy.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mạnh dạn và thật lòng xưng thú tội lỗi để xứng hưởng hiệu quả của bí tích Giải Tội.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 03/8 Vị Ðáng Kính Antôn Margil (1657-1726)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Vị Ðáng Kính Antôn Margil (1657-1726)
Cha Antôn ngang dọc khắp lãnh thổ rộng lớn ở Tân Tây Ban Nha. Ngài thiết lập các hội thừa sai ở Guatemala City và ở Zacatecas, Mễ Tây Cơ.
Lược sử
Antôn sinh ở Valencia, Tây Ban Nha. Sau khi gia nhập dòng Phanxicô và được thụ phong linh mục, ngài quyết định trở thành nhà truyền giáo. Khi hội thừa sai Santa Cruz ở Querétaro, Mễ Tây Cơ, được thành lập, Cha Antôn tình nguyện đến làm việc. Khi ngài đến Vera Cruz vào năm 1683, thành phố ấy tiêu điều vì hải tặc tấn công. Đời sống ở Tân Thế Giới không dễ dàng gì.
Trong 43 năm mục vụ, Cha Antôn ngang dọc khắp lãnh thổ rộng lớn ở Tân Tây Ban Nha. Ngài làm việc ở Costa Rica, Guatemala, Mễ Tây Cơ và Texas. Sau 13 năm làm giám đốc ở Querétaro, ngài thiết lập các hội thừa sai ở Guatemala City và ở Zacatecas, Mễ Tây Cơ.
Tuy Cha Antôn rất quen với sự hy sinh nhưng đời sống truyền giáo vẫn có nhiều cơ hội để hãm mình phạt xác. Ngài phải đi bộ hàng ngàn dặm và phải can trường đối phó với thái độ thù nghịch của người da đỏ.
Cha Antôn từ trần ở Mexico City ngày 6 tháng Tám 1726. Năm 1836, ngài được tuyên xưng là đấng đáng kính.
Suy niệm 1: Quyết định
Được thụ phong linh mục, Cha Antôn quyết định trở thành nhà truyền giáo.
Một tương lai dài đang rộng mở trước mắt ngài với nhiều cách thế thực thi chức vụ linh mục theo sự chọn lựa của ngài thuận với sự sắp xếp của bề trên. Ngài đã có một quyết định là lên đường đi truyền giáo. Sao vậy?
Ngài ý thức: ngày được vinh dự bước lên bàn thánh trong chức vụ linh mục là ngày khởi sự sống đời hiến tế thập giá. Niềm vui với bao vinh quang của ngày lễ tạ ơn mà mọi người dành trọn cho ngài hôm ấy sẽ kết thúc trong ngày. Từ nay ngài phải trải qua đau khổ mới được quang vinh (Lc 24,26). Con đường thích hợp nhất thời ấy chính là làm nhà truyền giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu rằng niềm vui đến là nhằm trợ lực để chẩn bí đón nhận khổ đau (Mt 17,1tt).
Suy niệm 2: Nhà truyền giáo
Được thụ phong linh mục, Cha Antôn quyết định trở thành nhà truyền giáo.
Một tâm lý thường tình của nhà truyền giáo là gặt hái được thành quả ngay. Vì thế sau khi nhận lệnh lên đường và hoàn thành công tác trở về, các tông đồ hí hửng báo cáo với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con". Đức Giêsu điều chỉnh ngay: "Anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời" (Lc 10,17.20).
Ghi nhận bài học này, Thánh Phaolô đã nói về vai trò thực sự của người rao giảng: "Vậy Apôlô là gì? Phaolô là gì? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin, mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban. Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể. Kẻ trồng người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình. Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên" (1Cr 3,5-9).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn đóng vai đầy tớ vô dụng sau mỗi công tác đã làm (Lc 17,10).
Suy niệm 3: Tình nguyện
Khi hội thừa sai Santa Cruz ở Querétaro, Mễ Tây Cơ, được thành lập, Cha Antôn tình nguyện đến làm việc.
Các tu sĩ Dòng thường lên đường truyền giáo một khi được bề trên sai đi, dù muốn hay không. Trường hợp này thật khá đặc biệt, ngoài lệnh truyền, bề trên bỏ ngỏ, nghĩa là cho phép sự tham gia của người thuộc quyền bằng việc tình nguyện.
Vì sao thế? Vì hội thửa sai vừa được thành lập, nên ngoài tâm hồn đạo đức được thể hiện qua đức vâng lời, cần có thêm một tinh thần nhiệt huyết bằng việc tình nguyện. Nhất là môi trường được sai đến lại đầy chông gai: một thành phố tiêu điều vì hải tặc tấn công, và đời sống ở Tân Thế Giới không dễ dàng gì với thái độ thù nghịch của người da đỏ, có thể bị nguy tử.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khi vâng lời thực hiện việc gì thì hãy mang thêm tinh thần tình nguyện để làm việc.
Suy niệm 4: Thiết lập
Cha Antôn thiết lập các hội thừa sai ở Guatemala City và ở Zacatecas, Mễ Tây Cơ.
Năm 1716, các nhà truyền giáo thuộc hội thừa sai Zacatecas thành lập trung tâm truyền giáo Guadalupe ở miền đông tiểu bang Texas. Còn Cha Antôn thì thiết lập các hội thừa sai ở Dolores và San Miguel cũng trong tiểu bang này.
Khi cuộc chiến với Tây Ban Nha khiến người Pháp đổ bộ vào miền đông Texas năm 1719, Cha Antôn và các nhà thừa sai rút về Trung Tâm San Antonio (sau này gọi là Alamô), được thành lập vào năm trước đó. Vào năm 1720, ngài bắt đầu thành lập Trung Tâm San José ở San Antonio.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ chú tâm thiết lập các cơ sở mà nhất cùng kết hợp bằng việc xây dựng nhân sự.
Suy niệm 5: Hy sinh
Tuy Cha Antôn rất quen với sự hy sinh nhưng đời sống truyền giáo vẫn có nhiều cơ hội để hãm mình phạt xác.
Với một thời gian dài 43 năm mục vụ, ngài lại phải ngang dọc khắp lãnh thổ rộng lớn ở Tân Tây Ban Nha theo trách nhiệm. Và phương tiện di chuyễn duy nhất là phải đi bộ và ngài phải đi bộ cả hàng ngàn dặm. Nhất là ngài phải can trường đối phó với thái độ thù nghịch của người da đỏ.
Các nhà truyền giáo như Cha Antôn có cuộc sống rất vất vả. Công việc thì khổ cực mà kết quả thì chưa thấy đâu. Cũng như các nhà thừa sai trước đó và sau này, Cha Antôn tin tưởng rằng, Thiên Chúa mới là người sau cùng đem lại kết quả tốt đẹp cho những hy sinh ấy.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được giá trị của việc hy sinh luôn có nhưng không với hiệu quả tức thời mà ở về sau để tích cực làm việc không nãn chí.
Suy niệm 6: Thù nghịch
Cha Antôn phải đi bộ hàng ngàn dặm và phải can trường đối phó với thái độ thù nghịch của người da đỏ.
Trước khi tình nguyện lên đường truyền giáo, chắc hẳn ngài đã thấu hiểu và định hướng đời mình theo lời tiên báo của Đức Giêsu: "Người ta sẽ bắt bớ và ngược đãi anh em; họ sẽ nộp anh em cho các hội đường và nhà tù, và anh em sẽ bị điệu đến trước vua chúa quan quyền vì danh Thầy...
Vậy anh em nhớ đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào; vì chính Thầy sẽ cho anh em tài ăn nói và sự khôn ngoan mà không đối thủ nào có thể chống lại hay phủ nhận được" (Luca 21,12.14-15).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ghi lòng tạc dạ lời hằng sống của Chúa để biết định hướng cuộc đời chúng con.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 02/8 Thánh Eusebius ở Vercelli (283?-371)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Eusebius ở Vercelli (283?-371)
Thánh Eusebius cộng tác với Thánh Hilary ở Poitiers để chống với lạc giáo Arian, lạc thuyết từ chối thiên tính của Ðức Kitô và bởi đó, họ cũng từ chối thiên tính của Chúa Thánh Thần.
Lược sử
Có người nói nếu không có lạc giáo Arian có lẽ thật khó để viết về cuộc đời của nhiều vị thánh tiên khởi. Thánh Eusebius là một trong những vị bảo vệ Giáo Hội trong thời kỳ nhiều thử thách.
Sinh ở đảo Sardinia, ngài là một thành viên của giáo sĩ Rôma và là giám mục đầu tiên của Vercelli thuộc Piedmont. Ngài cũng là người đầu tiên kết hợp đời sống đan viện với đời sống giáo sĩ, qua sự thành lập một cộng đoàn các tu sĩ trong giáo phận.
Ngài được Đức Giáo Hoàng Liberius sai đến gặp hoàng đế Constantius để thuyết phục nhà vua triệu tập một công đồng nhằm giải quyết các khó khăn giữa Công Giáo và Arian. Lúc đầu nhà vua đe dọa giết ngài, nhưng sau đó lưu đầy ngài đến Palestine.
Đức Eusebius tham dự Công Đồng Alexandria với Đức Athanasius và chấp thuận khoan hồng cho các giám mục trước đây theo phe Arian. Ngài còn cộng tác với Thánh Hilary ở Poitiers để chống với lạc giáo Arian.
Suy niệm 1 : Lạc giáo Arian
Có người nói nếu không có lạc giáo Arian có lẽ thật khó để viết về cuộc đời của nhiều vị thánh tiên khởi.
Nguyên lý căn bản của lạc thuyết Arian là từ chối thiên tính của Đức Kitô và bởi đó, họ cũng từ chối thiên tính của Chúa Thánh Thần. Được sự hậu thuẩn của Hoàng Đế Constantius, họ cũng mạnh dạn có những hành động đàn áp.
Chẳng hạn tại Palestine, phe Arian kéo Đức Eusebius lê lết trên đường phố và giam ngài trong một căn phòng nhỏ, và sau bốn ngày ngài tuyệt thực để phản đối họ mới thả ngài ra, nhưng được một ít lâu, họ lại tiếp tục hành hạ ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn kiên vững đức tin đừng xiêu theo các tà thuyết dầu gặp trăm bề gian khổ.
Suy niệm 2 : Bảo vệ
Thánh Eusebius là một trong những vị bảo vệ Giáo Hội trong thời kỳ nhiều thử thách.
Phải kể đến Thánh giám mục Athanasius. Ngài bảo vệ đức tin chân chính cho đàn chiên, bất kể giá phải trả: Nào là bị Hoàng Đế Constantine trục xuất đến miền bắc nước Gaul. Nào là bị truất phế vì sự liên hiệp của các giám mục theo phe Arian. Nào là bị lưu đầy mười bảy năm chỉ vì bảo vệ tín điều về thiên tính của Đức Kitô.
Còn Thánh giám mục Hilary chẳng những viết bản cáo trạng sắc bén lên án hoàng đế về tội bao che tà thuyết Arian, mà còn từ chối không ký vào bản kết án Đức Athanasius, nên bị trục xuất khỏi nước Pháp đến vùng Phrygia hẻo lánh. Giữa cảnh lưu đày, Đức Hilary vẫn không ngừng viết lách nhằm bảo vệ Giáo Hội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm tiếp nối sứ vụ bảo vệ Giáo Hội bằng đời sống của một chứng nhân đức tin.
Suy niệm 3 : Cộng đoàn
Đức Eusebius cũng là người đầu tiên kết hợp đời sống đan viện với đời sống giáo sĩ, qua sự thành lập một cộng đoàn các tu sĩ trong giáo phận.
Ngài tin tưởng rằng phương cách tốt nhất để thánh hóa giáo dân là để họ nhìn thấy các giáo sĩ được đào tạo trong một cộng đoàn nhân đức và sống động. Niềm tin tưởng này đã được xác minh trong một Sắc Lệnh:
"Để việc chăm sóc các linh hồn có hiệu quả, các linh mục được yêu cầu sống chung trong một cộng đoàn, nhất là những ai sinh hoạt trong cùng một giáo xứ. Nếp sống này không những khích lệ giáo dân hoạt động tông đồ, mà còn là một gương mẫu của lòng bác ái và sự hiệp nhất cho người tín hữu" (Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của Giám Mục, 30).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được giá trị của lối sống cộng đoàn, để vượt qua được mặt tiêu cực qua cách nói: chung đụng.
Suy niệm 4 : Công đồng
Nhà vua triệu tập một công đồng nhằm giải quyết các khó khăn giữa Công Giáo và Arian.
Khi công đồng được triệu tập ở Milan, vì cảm thấy khối Arian đang thắng thế, mặc dù người Công Giáo đông hơn nên Đức Eusebius không đến tham dự, mãi cho đến khi chính nhà vua ép buộc.
Khi nhà vua yêu cầu mọi giám mục phải ký vào bản án để buộc tội Đức Athanasius -- là người cương quyết chống với lạc thuyết Arian -- Đức Eusebius đã từ chối; thay vào đó, ngài đặt Kinh Tin Kính lên bàn hội nghị và yêu cầu mọi người ký tên vào đó trước khi bàn đến các vấn đề khác. Nhà vua dùng áp lực với Đức Eusebius, nhưng ngài quả quyết rằng Đức Athanasius vô tội, và nhắc nhở hoàng đế rằng không thể dùng thế lực ngoài đời để ảnh hưởng đến các quyết định của Giáo Hội. Lúc đầu nhà vua đe dọa giết ngài, nhưng sau đó lưu đầy ngài đến Palestine.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mạnh dạn bênh vực và dám chết cho chân lý.
Suy niệm 5 : Lưu đầy
Lúc đầu nhà vua đe dọa giết Đức Eusebius, nhưng sau đó lưu đầy ngài đến Palestine.
Ngài phải tiếp tục cuộc sống lưu đầy ở Tiểu Á và Ai Cập, cho đến khi tân hoàng đế cho phép ngài trở lại giáo phận ở Vercelli. Lưu đày là số phận chung dành cho các vị chống đối lạc giáo Arian vào lúc ấy. Có ba vị thời danh cần nêu bật, đó là Đức Eusebius, Đức Athanasius và Đức Hilary.
Dầu thân xác bị lưu đày, nhưng tinh thần bất khuất của các ngài vẫn được duy trì. Trong nghịch cảnh này, các ngài vẫn tiếp tục bảo vệ Giáo Hội trong cách sống chứng nhân cũng như bằng cách viết lách và dạy dỗ tín hữu tại địa phương.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng lệ thuộc môi trường, vì nếu có tinh thần và có lòng, thì ở đâu cũng có phương cách để làm việc cho Chúa và Giáo Hội được.
Suy niệm 6 : Khoan hồng
Đức Eusebius tham dự Công Đồng Alexandria với Đức Athanasius và chấp thuận khoan hồng cho các giám mục trước đây theo phe Arian.
Khoan hồng tha thứ cho kẻ làm khốn mình là một dấu chứng của bậc thánh nhân. Do đó vua Đavít dầu không được Giáo Hội chính thức phong thánh, nhưng vẫn luôn được gọi là vua thánh Đavít qua sự kiện: Trên đường lánh nạn đến Bakhurim thì Đavít bị Simy vừa đi ra vừa nguyền rủa và ném đá (2Sm 16,5-6), nhưng khi trở về, gặp lại y thì vua khoan hồng tha thứ (2Sm 19,23).
Nhưng mạng sống của vua thánh Đavít vẫn còn được bảo tồn, còn với trường hợp của thánh Têphanô thì không như thế. Bị xét là lộng ngôn, ngài bị đám người Do Thái lôi ra ngoài thành và bị ném đá. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ngài học lấy bài học khoan hồng tha thứ của Chúa trên thập giá, ngài cầu nguyện: "Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con... Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này" (Cv 7,59-60).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tâm niệm bài học Chúa dạy là hãy yêu kẻ thù (Mt 5,44) để dễ sống lòng khoan hồng tha thứ.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 01/8 Thánh Anphong Liguori (1696-1787)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Anphong Liguori (1696-1787)
Thánh Anphong được Ðức Piô XII tuyên xưng là quan thầy của các thần học gia luân lý. Ngài sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế năm 1732. Ðó là một tổ chức của các linh mục và tu sĩ sống chung với nhau, tận tụy theo gương Ðức Kitô và hoạt động chính yếu là tổ chức tuần đại phúc cho nông dân ở thôn quê.
Lược sử
Vào năm 1950, Thánh Anphong được Đức Piô XII tuyên xưng là quan thầy của các thần học gia luân lý, ngài thật xứng với danh hiệu ấy.
Vào năm 16 tuổi, ngài lấy bằng tiến sĩ giáo luật và dân luật của Đại Học Naples, nhưng sau đó đã bỏ nghề luật sư để hoạt động tông đồ.
Ngài sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế năm 1732.
Sự canh tân mục vụ lớn lao của Thánh Anphong là cách giảng thuyết và giải tội.
Ngài được tấn phong giám mục khi 66 tuổi và ngay sau khi nhậm chức, ngài đã cải tổ toàn diện giáo phận.
Vào năm 71 tuổi, ngài bị đau thấp khớp khủng khiếp. Ngài đau khổ trong 18 tháng sau cùng với "sự tăm tối" vì sự do dự, sợ hãi, bị cám dỗ đủ mọi khía cạnh đức tin và mọi đức tính.
Thánh Anphong nổi tiếng về nền tảng thần học luân lý, nhưng ngài cũng sáng tác nhiều trong lãnh vực tâm linh và thần học tín lý.
Ngài được phong thánh năm 1831, và được tuyên xưng Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1871.
Suy niệm 1 : Luân lý
Vào năm 1950, Thánh Anphong được Đức Piô XII tuyên xưng là quan thầy của các thần học gia luân lý, ngài thật xứng với danh hiệu ấy.
Công Đồng Vatican II xác định rằng, thần học luân lý phải được nuôi dưỡng bởi Phúc Âm, và chứng tỏ được sự cao quý của ơn gọi người Kitô Hữu, và nhiệm vụ của họ là trưng ra kết quả ấy trong đời sống bác ái giữa trần gian.
Trong cuộc đời ngài, thánh nhân phải tranh đấu để giải thoát nền thần học luân lý khỏi sự khắt khe của chủ thuyết Jansen. Thần học luân lý của ngài, đã được tái bản 60 lần trong thế kỷ sau khi ngài từ trần, chú trọng đến các vấn đề thực tiễn và cụ thể của các cha xứ và cha giải tội. Nếu có thói vụ luật và giảm thiểu hóa luật lệ xen vào thần học luân lý, chắc chắn nó không thuộc về mô hình thần học tiết độ và nhân từ của Thánh Anphong.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống luôn khắt khe với mình, nhưng thật quảng đại và nhân từ với người.
Suy niệm 2 : Dòng Chúa Cứu Thế
Ngài sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế năm 1732.
Đó là một tổ chức của các linh mục và tu sĩ sống chung với nhau, tận tụy theo gương Đức Kitô và hoạt động chính yếu là tổ chức tuần đại phúc cho nông dân ở thôn quê.
Như một điềm báo cho điều sẽ xảy ra sau này, sau một thời gian hoạt động, những người đồng hành với ngài ngay từ khi thành lập đã từ bỏ tu hội và chỉ còn lại có một thầy trợ sĩ. Nhưng tu hội cố gắng sống còn và được chính thức chấp nhận vào 17 năm sau, dù rằng khó khăn vẫn chưa hết.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín rằng việc gì làm đúng theo Thiên Ý thì sẽ luôn tồn tại dầu phải trải qua nhiều khó khăn.
Suy niệm 3 : Canh tân
Sự canh tân mục vụ lớn lao của Thánh Anphong là cách giảng thuyết và giải tội.
Thật sự ngay từ khi được thụ phong linh mục, ngài đã dồn mọi nỗ lực trong việc tổ chức tuần đại phúc ở các giáo xứ, cũng như nghe xưng tội và thành lập các đoàn thể Kitô Giáo.
Ngài thay thế kiểu hùng biện khoa trương, thùng rỗng kêu to, bằng sự giản dị dễ hiểu, và thay thế sự khắc nghiệt của thuyết Jansen bằng sự nhân từ. Tài viết văn nổi tiếng của ngài phần nào đã làm lu mờ công lao khó nhọc mà ngài đã ngang dọc vùng Naples trong hai mươi sáu năm trường để tổ chức tuần đại phúc.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị chủ chăn chú trọng đến khía cạnh giản dị dễ hiểu trong các bài giảng hơn là kiểu hùng biện khoa trương, cũng như thái độ sống nhân từ hơn là khắc nghiệt.
Suy niệm 4 : Giám mục
Ngài được tấn phong giám mục khi 66 tuổi và ngay sau khi nhậm chức, ngài đã cải tổ toàn diện giáo phận.
Một đường hướng cải tổ mà ngài thực hiện để mang lại thành quả trong việc cải tổ giáo phận, đó là cải tổ thái độ sống của chính ngài: không khắt khe nhưng nhân từ với người, đặc biệt khi sửa lỗi, như chuyện kể:
Khi Thánh Anphong làm giám mục, một trong các linh mục của dòng có cuộc sống rất trần tục, và cưỡng lại mọi biện pháp nhằm thay đổi lối sống ấy. Vị linh mục được Thánh Anphong mời đến, và ngay ở lối vào phòng của ngài, thánh nhân cho đặt một tượng thánh giá thật lớn. Khi vị linh mục do dự không dám bước qua, ngài ôn tồn nói, "Hãy bước vào đi, và nhớ đạp lên thánh giá. Đây không phải lần đầu tiên mà cha đạp Chúa dưới chân mình."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống nhân từ để dễ gần người và cũng giúp người dễ gần mình.
Suy niệm 5 : Tăm tối
Ngài đau khổ trong 18 tháng sau cùng với "sự tăm tối".
Sự tăm tối này không nhằm vào mặt thân xác khi vào năm 71 tuổi, ngài bị đau thấp khớp khủng khiếp, nhưng chủ yếu về mặt tinh thần vì sự do dự, sợ hãi, bị cám dỗ đủ mọi khía cạnh đức tin và mọi đức tính, nhất là anh em trong cộng đoàn khước từ vai trò thành viên của ngài dầu là Đấng sáng lập, khi ngài vâng lời nhận chức vụ giám mục.
Trên hết tất cả, Thánh Anphong nổi tiếng là một con người thực tế đối phó với các vấn đề cụ thể hơn là trừu tượng. Cuộc đời ngài quả thật là một gương mẫu "thực tiễn" cho Kitô Hữu ngày nay đang bị khó khăn, để nhận chân giá trị của đời sống Kitô Giáo giữa cơn lốc khó khăn, đau khổ, hiểu lầm và thất bại. Thánh Anphong đã trải qua tất cả những đau khổ ấy. Ngài là thánh bởi vì ngài luôn duy trì sự liên hệ mật thiết với Đức Kitô thống khổ qua tất cả những thử thách cuộc đời.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết tìm niềm an ủi và trợ lực nơi Thập Giá Đức Kitô trong mọi nghịch cảnh.
Suy niệm 6 : Sáng tác
Thánh Anphong nổi tiếng về nền tảng thần học luân lý, nhưng ngài cũng sáng tác nhiều trong lãnh vực tâm linh và thần học tín lý.
Cuốn Viếng Thánh Thể được tái bản đến bốn mươi lần trong đời ngài, đã ảnh hưởng nhiều đến sự sùng kính Thánh Thể trong Giáo Hội, và cách riêng trong nếp sống của Dòng. Vì thế trong chương trình của kỳ đại phúc, không bao giờ thiếu tiết mục quan trọng này mỗi ngày.
Ngoài ra văn bản Các Vinh Dự của Đức Maria là một trong những công trình vĩ đại về chủ đề này. Để hoàn thành tuyệt tác này, chắc hẳn ngài đã suy niệm lâu dài, cọng với lòng sùng kính đặc biệt của ngài đối với Đức Maria, vốn lan truyền mãi cho các hậu thế của Dòng và từ đó lan sang mọi tín hữu thuộc phạm vi các ngài đảm nhiệm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ghi đậm công trạng của thánh nhân bằng việc sống lòng sùng kính đối với Thánh Thể và Đức Maria.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 31/7 Thánh I-nha-xiô ở Loyola (Y Nhã) (1491-1556)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh I-nha-xiô ở Loyola (Y Nhã) (1491-1556)
Thánh Y Nhã đích thực là một vị thần bí. Linh đạo của ngài được tỏ lộ trong châm ngôn của Dòng Tên, ad majorem Dei gloriam -- "để Thiên Chúa được vinh danh hơn."
Lược sử
Vị sáng lập dòng Tên này đang trên đà danh vọng và quyền thế của một sĩ quan trong quân đội Tây Ban Nha đã trở về với Đức Kitô.
Trong khoảng thời gian một năm, ngài sống gần Manresa, có khi thì ở với các tu sĩ Đa Minh, có khi thì ở nhà tế bần, nhưng lâu nhất là sống trong một cái hang ở trên đồi để cầu nguyện. Chính trong thời gian hoán cải này ngài bắt đầu một công trình mà sau đó rất nổi tiếng, cuốn Những Thao Luyện Tâm Linh.
Vì lo sợ cho tính mạng của ngài các tu sĩ Phanxicô khuyên ngài trở về Barcelona. Tin tưởng rằng kiến thức uyên bác sẽ giúp đỡ tha nhân cách thiết thực hơn, ngài dành 11 năm tiếp đó trong việc học ở Alcalá, Salamanca và Balê.
Tu Hội của Đức Giêsu (Dòng Tên) được Đức Giáo Hoàng Phaolô III chuẩn nhận và Thánh Y Nhã được bầu làm bề trên đầu tiên.
Ngài thành lập Trường Roma (sau này là Đại Học Grêgôriô), với mục đích là trường này sẽ trở nên khuôn mẫu cho các trường của Tu Hội.
Linh đạo của ngài được tỏ lộ trong châm ngôn của Dòng Tên, ad majorem Dei gloriam - "để Thiên Chúa được vinh danh hơn."
Suy niệm 1: Sĩ quan
Thánh Y Nhã, Vị sáng lập dòng Tên này đang trên đà danh vọng và quyền thế của một sĩ quan trong quân đội Tây Ban Nha.
Là một sĩ quan trong quân đội, ngài đã trở về với Chúa và trở thành một hiệp sĩ cho Đức Maria. Chuyện xảy ra thế này: Một trái đạn đại bác đã làm ngài bị thương ở chân. Trong thời kỳ dưỡng bệnh, vì không có sẵn các cuốn tiểu thuyết để giết thời giờ nên ngài đã biết đến cuộc đời Đức Kitô và hạnh các thánh. Lương tâm ngài bị đánh động, và từ đó khởi đầu một hành trình lâu dài và đau khổ khi trở về với Đức Kitô.
Vào năm 1522, được thấy Mẹ Thiên Chúa trong một thị kiến, ngài thực hiện cuộc hành hương đến đan viện dòng Biển Đức ở Monserrat. Ở đây, ngài xưng thú tội lỗi, mặc áo nhặm và đặt thanh gươm trên bàn thờ Đức Maria thề hứa sẽ trở nên một hiệp sĩ cho Đức Mẹ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mỗi ngày mỗi làm mới lại cuộc trở về với Chúa, mãi đến khi đạt được chỉ tiêu là nên hoàn hảo như Cha trên trời (Mt 5,48).
Suy niệm 2: Hang
Y Nhã sống trong một cái hang ở trên đồi để cầu nguyện.
Để sống tinh thần sám hội bằng việc cầu nguyện, ngài đến ở với các tu sĩ Đa Minh, rồì ở nhà tế bần, nhưng chưa đạt hiệu quả, nên ngài đã tìm đến bầu khí thinh lặng và cô độc của một cái hang.
Đó là bài học đi trước của Thánh Phaolô Ẩn Tu. Dầu với mục đích trốn tránh cuộc bách hại, nhưng cái êm đềm của sự cô quạnh và cái sung sướng của sự chiêm niệm đã khiến ngài thay đổi ý định ban đầu, để rồi quyết định tiếp tục sống ở đó trong 90 năm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cảm nghiệm được giá trị của sự thinh lặng nhất là về mặt nội tâm trong việc cầu nguyện.
Suy niệm 3: Hoán cải
Chính trong thời gian hoán cải này ngài bắt đầu một công trình mà sau đó rất nổi tiếng.
Công trình nổi tiếng ấy chính là cuốn Những Thao Luyện Tâm Linh. Không dừng lại đó, thấy lợi ích của việc hoán cải bản thân, ngài cũng nhắm đến việc hoán cải người. Vào năm 1523, ngài rời Manresa đến Rôma và Giêrusalem, là nơi ngài sống nhờ việc khất thực và hăng say hoán cải người Hồi Giáo ở đây.
Ngài đề nghị lời nguyện sau đây cho các hối nhân: "Lạy Chúa, xin hãy chấp nhận mọi đặc quyền, mọi ký ức, mọi hiểu biết và toàn thể ý chí của con. Ngài đã ban cho con tất cả những gì con có, tất cả con người của con, và con xin phó thác chúng cho thánh ý của Ngài, để Ngài tùy ý sử dụng. Con chỉ xin Chúa ban cho con tình yêu và ơn sủng. Được như thế, con đã giàu sang đủ và không dám đòi hỏi gì nữa."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống tâm tình hóa cải, vì đó là cách hữu hiệu phục hồi nhân phẩm cũng như linh phẩm của mình.
Suy niệm 4: Tu Hội
Tu Hội của Đức Giêsu (Dòng Tên) được Đức Giáo Hoàng Phaolô III chuẩn nhận và Thánh Y Nhã được bầu làm bề trên đầu tiên.
Tu Hội được thành hình thế nào? Vào năm 1534, lúc ấy đã 43 tuổi, cùng với sáu người khác (trong đó có Thánh Phanxicô Xaviê) ngài thề sống khó nghèo và khiết tịnh và tất cả cùng đến Đất Thánh. Các ngài thề quyết rằng nếu không thể ở đây thì sẽ dâng mình cho công việc tông đồ của đức giáo hoàng. Và đó là điều đã xảy ra. Bốn năm sau, Thánh Y Nhã hợp thức hóa tổ chức của ngài với danh xưng Tu Hội của Đức Giêsu (Dòng Tên).
Vào năm 1517, Luther đã niêm yết các đề án của ông lên cửa nhà thờ ở Wittenberg. Mười bảy năm sau, Thánh Y Nhã sáng lập một tu hội góp phần quan trọng trong việc chống lại sự cải cách Tin Lành. Ngài là một kẻ thù bất khả tiêu diệt của Tin Lành. Tuy nhiên, trong lời lẽ của ngài người ta vẫn thấy tiềm ẩn sự đại kết: "Phải rất thận trọng khi đưa ra các chân lý chính truyền để nếu người lạc giáo có mặt ở đó, họ sẽ cảm nhận được lòng bác ái và sự ôn hòa Kitô Giáo. Không được dùng lời lẽ cứng rắn và cũng không được khinh miệt những sai lầm của họ." Một trong các khuôn mặt vĩ đại của phong trào đại kết hiện nay là Đức Hồng Y Bea, một linh mục dòng Tên.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn có thái độ hòa nhã khi tiếp chuyện với các tôn giáo bạn, kể cả các lạc giáo.
Suy niệm 5: Trường Roma
Ngài thành lập Trường Roma (sau này là Đại Học Grêgôriô), với mục đích là trường này sẽ trở nên khuôn mẫu cho các trường của Tu Hội.
Trong khi các bạn đồng hành được đức giáo hoàng sai đi truyền giáo thì Thánh Y Nhã vẫn ở Rôma, chăm sóc tổ chức mới của ngài nhưng vẫn dành thời giờ để thành lập các nhà cho cô nhi, cho người tân tòng. Ngoài các công tác bác ái từ thiện kể trên, ngài còn nỗ lực thực hiện một niềm ấp ủ từ lâu, đó là thành lập Trường Roma như một khuôn mẫu cho các trường của Tu Hội mà hiện nay đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới.
Cùng mang chung một tâm huyết và chí hướng giáo dục, Thánh Gioan La San khởi sự thiết lập một trường học dành cho các em trai nhà nghèo ở Raven, và sau đó là tu hội mà ngài đã thành lập: Các Thầy Trường Công Giáo (Sư Huynh La San). Thánh Gioan Bốtcô cũng quan tâm đến công việc này, nên đã khai mở nhà trường Thánh Phanxicô "de Sales" nhằm dạy nghề cho các em trai, trường dạy đóng giầy và dạy may quần áo, và sau này ngài tổ chức dòng Salesian nữ để giúp đỡ các thiếu nữ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp ban giám hiệu các trường học theo đuổi mục tiêu chính yếu là giáo dục chứ không phải là kinh tế.
Suy niệm 6: Linh đạo
Linh đạo của Thánh Y Nhã được tỏ lộ trong châm ngôn của Dòng Tên, ad majorem Dei gloriam - "để Thiên Chúa được vinh danh hơn."
Ngài đích thực là một vị thần bí. Ngài tập trung vào đời sống tâm linh dựa trên các nền tảng thiết yếu của Kitô Giáo - Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Kitô, Bí Tích Thánh Thể.
Trong quan niệm của ngài, sự tuân phục là một đức tính nổi bật nhằm đảm bảo cho thành quả và sự năng động của tu hội. Mọi hoạt động phải được hướng dẫn bởi lòng yêu mến Giáo Hội thực sự và tuân phục Đức Thánh Cha vô điều kiện, vì lý do đó, mọi thành viên của dòng phải khấn lời thề thứ tư, đó là phải đến bất cứ đâu mà đức giáo hoàng đã sai đi để cứu rỗi các linh hồn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết thực thi đức vâng lời như là một cách làm vinh danh Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 30/7 Thánh Phêrô Chrysologus (406-450?)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Phêrô Chrysologus (406-450?)
Thánh Phêrô có biệt danh là "Chrysologus" (lời vàng) bởi tài hùng biện ngoại hạng. Ngài được đặt làm Tiến Sĩ Hội Thánh vì các bài giảng đơn sơ, thực tiễn và rõ ràng của ngài.
Lược sử
Thánh Phêrô Chrysologus sinh ở Imola, nước Ý, ngài được rửa tội, được giáo dục và chịu chức phó tế bởi Đức Cornelius, là Giám Mục của Imola. Thánh Phêrô có biệt danh là "Chrysologus" (lời vàng) bởi tài hùng biện ngoại hạng của ngài. Vào năm 433, Đức Giáo Hoàng Sixtus III tấn phong ngài làm giám mục của Ravenna. Ngài thi hành nhiều công việc bác ái về thể xác cũng như tinh thần, và chăn dắt đàn chiên với sự cần cù và thận trọng.
Ngài tẩy sạch mọi vết tích của việc sùng bái ngẫu tượng cũng như các lạm dụng khác được phát sinh trong giáo đoàn, ngài cũng cảnh giác họ về việc khiêu vũ thiếu đứng đắn. Ngài nhận xét: "Ai muốn đùa giỡn với ma quỷ thì không thể hoan hỉ với Đức Kitô." Thánh Phêrô Chrysologus từ trần ở Imola năm 450, và năm 1729 ngài được đặt làm Tiến Sĩ Hội Thánh vì các bài giảng đơn sơ, thực tiễn và rõ ràng của ngài hiện còn lưu truyền đến ngày nay.
Suy niệm 1:. Giáo dục
Thánh Phêrô Chrysologus sinh ở Imola, nước Ý, ngài được rửa tội, được giáo dục và chịu chức phó tế bởi Đức Cornelius.
Hơn lúc nào hết, ngày nay ai cũng nhận ra được vai trò tối quan trọng của việc giáo dục. Nhìn vào các gánh xiếc, chúng ta phải trầm trồ khen ngợi và khâm phục các cách nhào lộn không tưởng được ngay cả đám thiếu nhi bé nhỏ. Đặc biệt các thú dữ cũng biểu diễn nhiều trò hấp dẫn theo sự điều khiển của người phụ trách. Nhờ đâu, tất cả đều đã được dày công khổ luyện.
Nhất là trong lãnh vực tinh thần và đạo đức, thân mẫu Môsê đã đạo diễn một tình huống tuyệt vời, để có thể trở thành một vú nuôi hợp pháp sống bên cạnh Môsê, nhờ đó giáo dục mặt gốc gác và tâm linh cho Môsê, trước khi vào hoàng cung được tiếp tục giáo dục về các mặt nhân bản khác, thích ứng được với sứ vụ Chúa trao (Xh 2,1-10).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con các nhà đảm trách việc giáo dục luôn ý thức trọng trách cao cả của mình, cũng như các thụ nhân phải biết tận hưởng hết mức.
Suy niệm 2: Biệt danh
Thánh Phêrô có biệt danh là "Chrysologus" (lời vàng) bởi tài hùng biện ngoại hạng của ngài.
Chắc chắn rằng thái độ của Thánh Phêrô Chrysologus đối với việc học đã đem lại cho ngài tài hùng biện. Theo quan điểm của thánh nhân, ngoài việc trau dồi đức tính, việc học hỏi là sự thăng tiến lớn lao cho trí óc con người và giúp hỗ trợ tôn giáo.
Sự ngu dốt không phải là một đức tính, và cũng không giúp gì cho trí óc. Kiến thức là nguồn hãnh diện không khác gì khả năng của thể xác, về hành chánh hay tài chánh. Là một con người đích thực thì phải phát triển kiến thức, dù kiến thức đạo hay đời, theo khả năng và cơ hội của mỗi người.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuyên tâm học hành không để đạt được hồng ân hùng biện, nhưng chủ yếu có những lời vàng ngọc hữu ích cho đời và cho người.
Suy niệm 3: Bác ái
Phêrô thi hành nhiều công việc bác ái về thể xác cũng như tinh thần.
Một khía cạnh bác ái ngài quan tâm. Ngài tẩy sạch mọi vết tích của việc sùng bái ngẫu tượng cũng như các lạm dụng khác được phát sinh trong giáo đoàn, ngài cũng cảnh giác họ về việc khiêu vũ thiếu đứng đắn. Ngài nhận xét: "Ai muốn đùa giỡn với ma quỷ thì không thể hoan hỉ với Đức Kitô".
Sau này, Cha Thánh Gioan Maria Vianê cũng đồng tình với đường lối sống bác ái ấy, khi về nhận một giáo xứ hẻo lánh mang tên Ars với chỉ 40 gia đình mà có tới 4 quán rượu cũng có sinh hoạt khiêu vũ thu hút khách cùng một số tệ đoan khác. Ngài nỗ lực đã phá và thâu lượm được kết quả.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tích cực sống đức ái bằng việc tẩy chay các sinh hoạt vui chơi thiếu lành mạnh.
Suy niệm 4:. Cần cù
Đức Phêrô chăn dắt đàn chiên với sự cần cù và thận trọng.
Để diễn tả phần nào bao khó khăn vị chủ chăn gặp phải trong việc chăn dắt đàn chiên năm người mười ý, thường có câu "làm dâu trăm họ". Chính các Vị Tông Đồ trụ cột của Giáo Hội tiên khởi như một Phêrô và Phaolô cũng không tránh được tình huống này khi phải đương đầu với các vụ tranh chấp tôn giáo.
Ngài đã chọn một đức tính để làm việc, đó là sự cần cù. Ngài hiểu rằng người lười biếng thì ước gì cũng chẳng được, nhưng người cần cù thì muốn chi cũng được thỏa mãn (Cn 13,4). Hình ảnh con ve và con kiến trong chuyện ngụ ngôn quả là một bài học để đời.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con học lấy đức tính cần cù để dễ hoàn thành mọi công việc.
Suy niệm 5: Thận trọng
Đức Phêrô chăn dắt đàn chiên với sự cần cù và thận trọng.
Để nói lên đức tính thận trọng của ngài trong cách làm việc, người ta thuật chuyện: Eutyches, người lãnh đạo lạc giáo từ chối nhân tính của Đức Kitô, sau khi bị Giáo Hội kết án, ông tìm sự hậu thuẫn của các nhà lãnh đạo trong Giáo Hội, trong đó có Thánh Phêrô Chrysologus.
Thánh nhân thành thật nói với ông ta: "Vì lợi ích cho đức tin và sự bình an, chúng ta không thể phán xét vấn đề mà không có sự đồng ý của vị giám mục Rôma." Ngài thúc giục Eutyches hãy đơn sơ chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể và ngài nhắc cho ông biết rằng, nếu sự bình an trong Giáo Hội khiến thiên đàng vui mừng thì sự chia cắt chắc chắn sẽ đem đến lo buồn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con giữ lấy lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô: Hãy thận trọng trong cách ăn nết ở và cả trong mọi sự (1Tm 4,16;2Tm 4,5).
Suy niệm 6: Bài giảng
Đức Phêrô được đặt làm Tiến Sĩ Hội Thánh vì các bài giảng đơn sơ, thực tiễn và rõ ràng của ngài hiện còn lưu truyền đến ngày nay.
Ngài là một con người thông thái và lại có tài hùng biện, nhưng các bài giảng của ngài luôn mang tính đơn sơ, thực tiễn và rõ ràng, chứ không cầu kỳ, không nặng phần giáo thuyết cao siêu như một lớp học, khiến đầu óc căng thẳng và khó nắm bắt.
Phải nói ngài thật khéo trình bày và dọn các món ăn lời Chúa thật khoái khẩu và hấp dẫn. Ngài nhận định rõ bài dạy ở lớp học thì khác với một bài giảng. Tinh thần đón nhận của sinh viên học sinh thì khác với người tín hữu tham dự buổi cử hành phụng vụ. Trình độ tiếp thu cũng không đồng đều như trong một lớp học. Chủ đích trực tiếp của bài giảng là giúp sống, vì thế chỉ cần trình bày đơn sơ, thực tiễn và rõ ràng để họ ghi nhận và sống là đủ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị hữu trách phân biệt rõ bài giảng không là diễn đàng để trình bày kiến thức mình mà là dịp giúp người sống.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 29/7 Thánh Mácta
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Mácta
Thánh Mácta không nổi bật, không thi hành những việc có tính cách phô trương, không được hưởng phép lạ kỳ diệu. Ngài chỉ hầu hạ Ðức Giêsu.
Lược sử
"Đức Giêsu yêu quý Mácta, Maria và Lagiarô".
Hiển nhiên, Đức Giêsu là người khách thường xuyên đến nhà Mácta ở Bêtania, một ngôi làng nhỏ bé cách Giêrusalem chừng hai dặm. Chúng ta thấy ba lần đến thăm của Đức Giêsu được nhắc đến trong Phúc Âm Luca 10,38-42, Gioan 11,1-53, và Gioan 12,1-9.
Nhiều người dễ nhận ra Mácta qua câu chuyện của Thánh Luca. Khi ấy, Mácta chào đón Đức Giêsu và các môn đệ vào nhà của mình, và ngay sau đó Mácta chuẩn bị cơm nước. Sự hiếu khách là điều rất quan trọng trong vùng Trung Đông và Mácta là điển hình. Đức Giêsu thấy Mácta lo lắng nhiều quá khiến cô không còn thực sự biết đến Người. Đức Giêsu nhắc cho Mácta biết, chỉ có một điều thực sự quan trọng là lắng nghe Người. Và đó là điều Maria đã làm.
Lần thăm viếng thứ hai cho thấy Mácta đã thấm nhuần bài học trước. Cuộc đối thoại của ngài với Đức Giêsu chứng tỏ đức tin và sự can đảm của ngài.
Hình ảnh sau cùng của Mácta trong Phúc Âm đã nói lên toàn thể con người của ngài. Chúng ta chỉ được nghe một câu rất đơn giản: "Mácta lo hầu hạ."
Thánh Mácta được đặt làm quan thầy của các người hầu hạ và đầu bếp.
Suy niệm 1:. Yêu quý
"Đức Giêsu yêu quý Mácta, Maria và Lagiarô".
Câu nói độc đáo này trong Phúc Âm của Thánh Gioan cho chúng ta biết về sự tương giao đặc biệt giữa Đức Giêsu và Mácta, người em Maria, và người anh Lagiarô của thánh nữ (Ga 11,3.36). Ngoài gia đình đặc biệt này, tông đồ Gioan cũng là người được Đức Giêsu yêu quý hơn hẳn các tông đồ khác (Ga 13,23;19,26;20,2).
Điều này cho thấy bản chất người của Đức Giêsu, nhưng đồng thời cũng nói lên bản tính Thiên Chúa của Ngài, vì mức độ thương yêu hơn này không gây ảnh hưởng xấu đến người khác, cách riêng nhóm các tông đồ. Không như bà Rêbêca vì thương Giacóp hơn đã khiến Êxau sinh lòng ganh ghét em và manh tâm giết em (St 27,41), hoặc cách Giacóp thương Giuse hơn cũng khiến các anh ganh ghét và bán em qua Ai Cập (St 37,4.28).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thận trọng trong việc thương riêng ai, kẻo cách vụng về của chúng con có thể gây nên hậu quả xấu.
Suy niệm 2: Khách thường xuyên
Đức Giêsu là người khách thường xuyên đến nhà Mácta ở Bêtania.
Dầu chỉ đến ba lần, nhưng Đức Giêsu cũng được xem là vị khách thường xuyên của gia đình, vì có lẽ vinh dự này chưa gia đình nào được hưởng nhiều như thế. Lý do Đức Giêsu đến vì được mời (Lc 10,38), nhưng đồng thời vì Người cũng yêu quý người anh Lagiarô của thánh nữ (Ga 11,3.36).
Dầu vậy, Đức Giêsu vẫn luôn coi trọng sứ vụ rao giảng hơn hẳn mối cảm tình thiêng liêng này. Thật thế, khi hay tin Ladarô bị lâm trọng bệnh có khả năng nguy tử, Ngài không tìm đến ngay mà vẫn tiếp tục ở lại hai ngày nữa để rao giảng (Ga 11,6). Và quả thật khi xong việc, Ngài đến nơi thì Ladarô đã chết và được chôn cất bốn ngày rồi (Ga 11,17).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn dành cho nhiệm vụ một địa vị ưu tiên hàng đầu.
Suy niệm 3: Hiếu khách
Sự hiếu khách là điều rất quan trọng trong vùng Trung Đông và Mácta là điển hình.
Thử tưởng tượng xem ngài bực mình biết chừng nào khi cô em Maria không chịu lo giúp chị tiếp khách mà cứ ngồi nghe Đức Giêsu. Thay vì nói với cô em, Mácta xin Đức Giêsu can thiệp. Câu trả lời ôn tồn của Đức Giêsu giúp chúng ta biết Người rất quý mến Mácta.
Tinh thần hiếu khách vốn tốt nên cần lưu ý để được tốt hơn lên. Đó là không chỉ lo việc bếp núc và dọn bữa, mà còn phải hầu chuyện với khách. Như thế cần biết phân chia trước phần việc cho mỗi thành viên trong gia đình cho phù hợp, để tránh những tiểu tiết nhỏ nhặt không đáng có.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thực thi đường hướng làm việc của thời đại văn minh hôm nay là phân quyền và phân việc.
Suy niệm 4: Lo lắng
Đức Giêsu thấy Mácta lo lắng nhiều quá khiến cô không còn thực sự biết đến Người.
Thái độ lo lắng của Mácta thật đáng khen thưởng vì cho thấy tâm tình của một người hiếu khách. Điều đáng tiếc là lo lắng nhiều quá về việc làm bếp mà không chú tâm đến việc tiếp chuyện. Hãy nhớ khách đến thăm không chủ để ăn mà thăm viếng. Thức ăn đồ uống luôn mang tính thứ yếu.
Tuy nhiên, thật an ủi khi thấy rằng Đức Giêsu cũng yêu quý Mácta như Maria. Nơi Mácta, chúng ta nhận ra chính chúng ta: thường lo lắng và bị sao nhãng bởi những gì của thế gian và quên dành thời giờ cho Đức Giêsu, vốn từng cảnh báo: hãy tìm kiếm Chúa trước (Mt 6,24-34).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn lo việc Chúa trước tất cả mối lo khác.
Suy niệm 5: Bài học
Mácta đã thấm nhuần bài học.
Khi ngài đang than khóc về cái chết của anh mình và nhà đang đầy khách đến chia buồn thì ngài nghe biết Đức Giêsu đang có mặt ở trong vùng. Ngay lập tức, ngài bỏ những người khách ấy cũng như gạt đi mọi thương tiếc để chạy đến với Đức Giêsu (Ga 11,20).
Trong cuộc đối thoại dịp này với Đức Giêsu, Mácta khẳng định rõ ràng là ngài tin vào quyền năng của Đức Giêsu, tin vào sự phục sinh, và nhất là tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Do đó Đức Giêsu đã cho Lagiarô sống lại từ cõi chết.
* Lạy Chúa Giêsu, bài học ở đời không thiếu, xin giúp chúng con thấm nhuần và thể hiện trong cuộc sống.
Suy niệm 6: Hầu hạ
Mácta lo hầu hạ.
Lúc ấy, Đức Giêsu trở lại Bêtania để ăn uống với các bạn thân của Người. Trong căn nhà ấy có ba người đặc biệt. Lagiarô là người mà ai cũng biết khi được sống lại. Còn Maria là người gây nên cuộc tranh luận trong bữa tiệc khi cô dùng dầu thơm đắt tiền mà xức lên chân Đức Giêsu.
Về phần Mácta, chúng ta chỉ được nghe một câu rất đơn giản: "Mácta lo hầu hạ." Ngài không nổi bật, ngài không thi hành những việc có tính cách phô trương, ngài không được hưởng phép lạ kỳ diệu. Ngài chỉ hầu hạ Đức Giêsu mà thôi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vui lòng làm việc gì cũng được miễn là việc phục vụ Chúa, vì nguyên việc này đủ làm nên giá trị chúng con.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 28/7 Thánh Leopold Mandic (1887-1942)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Leopold Mandic (1887-1942)
Mặc dù sức khỏe rất yếu kém và bị tật nguyền, ngay từ nhỏ ngài đã cho thấy một sức mạnh tâm linh và sự đoan chính.
Lược sử
Thánh Leopold sinh ở Castelnuovo, một hải cảng nhỏ ở Croatia và là người con thứ mười hai trong gia đình. Khi rửa tội, cha mẹ đặt tên cho ngài là Bogdan, có nghĩa "con-Chúa-ban."
Mặc dù sức khỏe rất yếu kém và bị tật nguyền, ngay từ nhỏ ngài đã cho thấy một sức mạnh tâm linh và sự đoan chính. Vào năm 16 tuổi, Bogdan từ giã quê nhà để sang Ý là nơi ngài theo học với các tu sĩ Capuchin ở Udine với khao khát được gia nhập Dòng này. Vào tháng Tư 1884, ngài được gia nhập đệ tử viện Dòng Capuchin ở Bassano del Grappa và lấy tên là Thầy Leopold. Bất kể sự khắc khổ của đời sống tu sĩ Capuchin, ngài vẫn can đảm theo đuổi và đắm chìm trong Linh Đạo Thánh Phanxicô mà nhờ đó ngài trở nên một trong những gương mẫu tốt lành nhất.
Sau khi chịu chức linh mục, Cha Leopold muốn thể hiện giấc mơ từ nhỏ là đi truyền giáo ở Đông Âu đang tan nát vì tranh chấp tôn giáo, nhưng bề trên từ chối vì sức khỏe yếu kém của ngài. Từ 1890 đến 1906, Cha Leopold làm việc tại một vài nhà dòng trong tỉnh Venetian. Năm 1906, ngài được bổ nhiệm về Padua là nơi ngài sống cho đến suốt đời, ngoại trừ một năm phải ở tù trong thời Thế Chiến I, vì không chịu từ bỏ quốc tịch Croatia.
Chính ở Padua là nơi ngài đảm nhận việc Giải Tội và Linh Hướng, một công việc mà Thiên Chúa đã dùng đến người tôi tớ Chúa là Cha Leopold trong gần bốn mươi năm trời, và cũng nhờ đó mà cha nổi tiếng. Mỗi ngày ngài dành cho công việc mục vụ đó có đến 15 giờ đồng hồ. Một vài giám mục cũng tìm đến ngài để xin hướng dẫn tâm linh.
Vào tháng Chín 1940, Cha Leopold mừng Kim Khánh Linh Mục. Nhưng sau đó, sức khoẻ của ngài tàn tạ dần. Ngài từ trần ở Tu Viện Padua ngày 30 tháng Bảy 1942. Sau đó không lâu, sự mến mộ ngài ngày càng gia tăng và đã đưa đến việc phong chân phước cho ngài vào năm 1976 và sau cùng, ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh năm 1983.
Suy niệm 1: Tên
Cha mẹ đặt tên cho ngài là Bogdan, có nghĩa "con-Chúa-ban".
Có hai vợ chồng Encana và Anna đã già mà không con (1Sm 1,1) nên sau thời gian cầu xin với nước mắt (1Sm 1,10) được Chúa nhậm lời ban cho mụn con thì đặt tên cho hài nhi là Samuen có nghĩa là Chúa nhận lời (1Sm 1,20). Không như tâm trạng của họ, gia đình phụ mẫu Bogdan là gia đình đông con, nhưng vẫn đặt tên cho con là Bogdan, có nghĩa "con-Chúa-ban", vì ý thức con cái vẫn luôn là một hồng ân Chúa ban (St 30,2), nhất là qua người con thứ mười hai này, Chúa đã ban cho gia đình có một vị thánh.
Thật ra qua Bogdan tức là Leopold, Chúa không chỉ ban cho gia đình nhỏ bé đó mà còn cả đại gia đình Giáo Hội. Thiên Chúa đã dùng đến người tôi tớ Chúa là Cha Leopold trong gần bốn mươi năm trời ở Padua là nơi ngài đảm nhận việc Giải Tội và Linh Hướng. Sau khi ngài qua đời, Kitô Hữu Tây Phương cũng nhờ lời cầu bầu của Thánh Leopold Mandic trong công việc nỗ lực hoạt động để thông cảm hơn với Kitô Hữu Chính Thống Giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhận ra ân huệ Chúa ban để đáp trả suốt đời.
Suy niệm 2: Sức khoẻ
Sức khỏe của Leopold rất yếu kém và bị tật nguyền.
Chính vì tình trạng thể xác này mà sau khi chịu chức linh mục, ngài muốn thể hiện giấc mơ từ nhỏ là đi truyền giáo ở Đông Âu đang tan nát vì tranh chấp tôn giáo, nhưng bề trên từ chối vì sức khỏe yếu kém của ngài.
Nhưng bù lại ngài có một sức mạnh tâm linh và sự đoan chính trổi vượt. Vì thế bất kể sự khắc khổ của đời sống tu sĩ Capuchin, ngài vẫn can đảm theo đuổi và đắm chìm trong Linh Đạo Thánh Phanxicô. Cũng nhờ đó ngài đã nổi danh, khi ngài đảm nhận việc Giải Tội và Linh Hướng ở Pađua.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có một ý chí kiên cường để không ngã gục trước một sức khoẻ yếu kém ngay cả lúc bệnh tật.
Suy niệm 3: Khao khát
Leopold khao khát được gia nhập Dòng Capuchin.
Cách thâm sâu hơn, ngài có giấc mơ từ nhỏ là đi truyền giáo ở Đông Âu. Một cầu nối để thể hiện, đó là Dòng Capuchin. Vì thế vào năm 16 tuổi, ngài chấp nhận từ giã quê nhà để sang Ý hầu theo học với các tu sĩ Capuchin ở Udine.
Vào tháng Tư 1884, ngài được gia nhập đệ tử viện Dòng Capuchin ở Bassano del Grappa rồi được chịu chức linh mục. Niềm khao khát xem ra được toại nguyện nhưng không được trọn vẹn. Do sức khoẻ yếu kém, thỉnh nguyện đi truyền giáo của ngài bị bề trên từ chối.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu rằng đời này luôn mang tính tương đối, tính tuyệt đối chỉ có trên thiên đàng thôi.
Suy niệm 4: Gương mẫu
Leopold trở nên một trong những gương mẫu tốt lành nhất.
Ngài xứng là một gương mẫu cho cộng đoàn khi sống trọn những lời Thánh Phanxicô khuyên nhủ các môn đệ "hãy theo đuổi điều mà họ phải khao khát trên hết mọi sự, đó là có được Thần Khí Thiên Chúa và cách làm việc thánh thiện của Chúa" (Quy Luật 1223, Chương 10).
Cha bề trên tổng quyền dòng Capuchin cũng minh xác, khi viết thư cho các tu sĩ nhân dịp phong chân phước cho Cha Leopold, ngài nói đời sống của Cha Leopold đã chứng tỏ "sự tiên quyết của điều được coi là thiết yếu".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống tinh thần nhân chứng chứ không phản chứng, để có thể trở thành mẫu gương cho mọi người.
Suy niệm 5: Tranh chấp
Cha Leopold muốn thể hiện giấc mơ từ nhỏ là đi truyền giáo ở Đông Âu đang tan nát vì tranh chấp tôn giáo.
Không phải chỉ vào thời kỳ của ngài mới có những vụ tranh chấp tôn giáo, mà ngay từ thời Giáo Hội sơ khai. Chẳng hạn việc cắt bì hay không cắt bì giữa các tín hữu gốc Do Thái và không cùng gốc ấy: Chính Phêrô đã từng bị giới cắt bì chỉ trích (Cv 11,2) và ngay cả Phaolô và Banaba cũng gặp khó khăn (Cv 15,2), để rồi phải được giải quyết tại hội nghị Giêrusalem (Cv 15tt;Gl 5,6;Cl 3,11).
Hoặc vấn đề dân ngoại trở lại đạo có được chấp nhận hay không? Chính Phêrô thoạt đầu đã tỏ ra lúng túng không dám (Cv 10,14) với trường hợp điển hình là gia đình của viên đại đội trưởng Conêliô (Cv 10-11), để rồi có quyết định: đây là Thiên Ý (Cv 11,18). Từ đó việc truyền giáo cho dân ngoại được tiến hành (Cv 13-18). Cũng thế đối với việc ăn của cúng (1Cr 8).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ghi nhận bài học là tìm Thiên Ý qua đức ái hơn là sự hiểu biết hạn chế của mình (1Cr 8,1).
Suy niệm 6: Nổi tiếng
Cha Leopold nổi tiếng.
Thiết tưởng điểm nổi tiếng tiên khởi của ngài để mở đầu cho tiến trình nổi tiếng về sau, đó là đức vâng lời. Ta vốn biết ước mơ từ nhỏ của ngài là muốn được lên đường truyền giáo. Để hiện thực niềm khao khát đó, ngài phải phấn đấu liên tục để dược làm linh mục. Dầu vậy khi ngài bày tỏ chí nguyện thì bị bề trên từ chối. Ngài vâng lời và nhận bài sai làm việc tại một vài nhà dòng trong tỉnh Venetian từ 1890 đến 1906, rồi được bổ nhiệm về Padua với việc Giải Tội và Linh Hướng trong gần bốn mươi năm trời. Mỗi ngày ngài dành cho công việc mục vụ đó có đến 15 giờ đồng hồ. Từ đó ngài nổi tiếng vang dội đến mức một vài giám mục cũng tìm đến ngài để xin hướng dẫn tâm linh.
Để động viên tinh thần làm việc, ngài thường hay tự nhủ: "Hãy nhớ rằng ngươi được sai đi là vì ơn cứu độ của nhân loại, không phải vì ngươi có công trạng gì, vì chính Chúa Giêsu chứ không phải ngươi đã chết để cứu chuộc các linh hồn... Tôi phải cộng tác với sự thiện hảo siêu phàm của Chúa là Người đã đoái hoài và chọn tôi, để qua sứ vụ của tôi, lời Chúa hứa sẽ được thể hiện, đó là: 'Sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên'" (Ga 10,16).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thực thi đức vâng lời bề trên ngay cả trong những điều nghịch ý.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 27/7 Chân Phước Antôniô Lucci (1682-1752)
- Ngày 26/7 Thánh Gioankim và Thánh Anna
- Ngày 25/7 Thánh Giacôbê Tông Ðồ (1461-1503)
- Ngày 24/7 Chân Phước Louise ở Savoy (1461-1503)
- Ngày 23/7 Thánh Bridget ở Thụy Ðiển (1303?-1373)
- Ngày 22/7 Thánh Maria Mađalêna
- Ngày 21/7 Thánh Lawrence ở Brindisi (1559-1619)
- Ngày 20/7 Thánh Kunigunde (1224-1292)
- Ngày 19/7 Tôi Tớ Thiên Chúa Phanxicô Garcés và Các Bạn (k. 1781)
- Ngày 18/7 Chân Phước Angeline ở Marsciano (1374-1435)