Gương Thánh Nhân
Ngày 18/08 Thánh Jane Frances Chantal, Nữ tu (1562-1641)
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
Thánh Jane Frances Chantal, Nữ tu (1562-1641)
Jane Frances là vợ, là mẹ, là nữ tu và sáng lập dòng. Bà mồ côi mẹ khi mới được 18 tháng tuổi. Cha bà là nghị sĩ trưởng ở Dijon, Pháp, có ảnh hưởng nhiều tới việc giáo dục cô con gái Jane Frances. Bà phát triển thành một phụ nữ đẹp, khéo léo, hoạt bát và vui vẻ. Lúc 21 tuổi, bà kết hôn với nam tước Chantal, rồi sinh 6 đứa con, nhưng 3 đứa chết từ nhỏ. Sống trong lâu đài sang trọng nhưng bà vẫn giữ thói quen đi lễ hàng ngày, và làm nhiều việc bác ái. Sau 7 năm kết hôn, chồng bà bị giết chết, bà thu mình trong vỏ ốc ưu sầu 4 tháng tại nhà mình. Cha chồng dọa không cho các con bà thừa hưởng thừa kế nếu bà không trở về nhà chồng. Lúc đó cha chồng bà đã 75 tuổi nhưng vẫn tự phụ, hung dữ và phung phí. Bà vãn vui vẻ dù cha chồng là người ngược ngạo.
Lúc 32 tuổi, bà gặp thánh giám mục Phanxicô Salê, người linh hướng cho bà. Bà muốn đi tu nhưng thánh Phanxicô Salê thuyết phục bà trì hoãn ý định đó. Bà thề không tái hôn và vâng lời cha linh hướng.
Sau 3 năm, thánh Phanxicô Salê cho bà biết về kế hoạch của ngài là thành lập một dòng nữ. Dòng này chuyên chăm thực hành các nhân đức của Đức Mẹ khi thăm viếng thánh Êlidabét, do đó dòng có tên là Dòng Đức Mẹ Thăm Viếng, sống khiêm nhường và hiền lành, theo tu luật của thánh Augustinô.
Thánh Phanxicô Salê viết một cuốn sách nổi tiếng cho dòng này là cuốn Treatise on the Love of God (Luận thuyết về Tình yêu Thiên Chúa). Khi lập dòng chỉ có 3 nữ tu, thánh Jane Frances lúc đó 45 tuổi. Bà chịu đựng nhiều điều mất mát: Thánh Phanxicô Salê qua đời, con trai bà bị giết chết, đại dịch hoành hành nước Pháp, con dâu và con rể bà cũng qua đời. Bà động viên chính quyền địa phương nỗ lực vì các nạn nhân bị dịch bệnh và bà phân phát tài sản của nhà dòng cho những người bệnh.
Có những lúc bà đã phải chịu đựng về tinh thần: đau khổ nội tâm và khô khan tâm linh. Bà qua đời khi đang đi thăm các nhà dòng thuộc hội dòng của bà.
Ngày 17/8 Chân Phước Joan Delanoue (1666-1736)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Joan Delanoue (1666-1736)
Joan bắt đầu chăm sóc các gia đình nghèo cũng như các trẻ mồ côi, rồi ngài đóng cửa tiệm để có thời giờ chăm sóc họ. Sau này, ngài thuyết phục các phụ nữ khác đến giúp đỡ. Cuối cùng, họ trở thành các Nữ Tu của Thánh Anna của Ðấng Quan Phòng ở Saumur, nước Pháp.
Lược sử
Joan Delanoue sinh năm 1666 và là con út trong gia đình mười hai người con. Gia đình ngài có một cơ sở thương mại nhỏ. Khi người mẹ goá bụa từ trần, bà đã để lại cơ sở cho Joan trông coi. Ngài không phải là một cô gái có tâm địa xấu xa, nhưng Joan chỉ nghĩ đến cách làm tiền. Và cũng chỉ vì thích làm tiền, ngài đã phạm nhiều lỗi lầm.
Với lối sống đó, Joan không có hạnh phúc. Sau cùng, khi ngài hai mươi bảy tuổi, một linh mục thánh thiện đã giúp ngài khởi đầu cuộc sống đức tin một cách chân thành và hăng say. Dần dà, ngài thấy rằng cơ sở thương mại của ngài là để cho đi, chứ không phải để tích trữ. Joan bắt đầu chăm sóc các gia đình nghèo cũng như các trẻ mồ côi. Sau cùng, ngài phải đóng cửa tiệm để có thời giờ chăm sóc họ.
Sơ Joan sống một cuộc đời rất hy sinh. Ngài thi hành nhiều việc đền tội nặng nhọc. Thánh Grignon de Montfort đến gặp sơ Joan. Lúc đầu thánh nhân nghĩ rằng sự kiêu ngạo đã khiến sơ Joan quá khó khăn với chính mình. Nhưng sau đó, thánh nhân nhận ra rằng tâm hồn sơ Joan thực sự ngập tràn tình yêu Thiên Chúa. Thánh nhân nói: "Hãy tiếp tục con đường mà con đã khởi sự. Thần Khí Chúa luôn ở với con. Hãy nghe theo tiếng Người và đừng sợ."
Sơ Joan từ trần ngày 17 tháng Tám 1736 lúc bảy mươi tuổi.
Vào năm 1947, Sơ Joan được Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên phong chân phước, cùng năm với Thánh Grignon de Montfort khi thánh nhân được tuyên phong hiển thánh.
Suy niệm 1 Thương mại
Gia đình ngài có một cơ sở thương mại nhỏ.
Nghề thương mại dầu lớn dầu nhỏ miễn là mang tính hợp pháp và chính đáng thì tự bản chất vốn tốt. Tuy nhiên tùy người hành nghề mà nó có thể giúp chủ nhân trở nên tốt hơn hoặc xấu đi. Thật vậy khi mẫu thân của Joan vận dụng lợi nhuận để thực hành đức bác ái đối với người ăn xin thì bà là người tốt với nghành nghề của mình.
Ngược lại sau khi mẹ mất, Joan trở thành chủ nhân của cơ sở thương mại này, thì do lòng tham tiền, ngài phạm nhiều lỗi lầm. Trước đây, ngài là một người ngoan đạo nhưng bây giờ tâm hồn ngài không có chút bác ái. Mẹ ngài thường rộng lượng với người ăn xin. Nhưng Joan, thường chỉ mua thực phẩm khi đến giờ ăn. Vì như vậy, ngài mới có thể nói với những người đến ăn xin rằng: "Tôi không có gì để cho cả."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết chọn nghề tốt, và nhất là biết vận dụng tốt để càng được trở nên tốt hơn.
Suy niệm 2 Tiền
Joan chỉ nghĩ đến cách làm tiền.
Đồng tiền đi liền khúc ruột, tức liên quan rất mật thiết đến cuộc sống mỗi người. Tiền giúp con người làm được nhiều việc đến mức mua tiên cũng được, nhưng nếu bị chi phối bởi tính tham lam thì sẽ dẫn đến hậu quả rất xấu cho người không biết làm chủ nó.
Quả vậy, vì ba mươi đồng bạc mà Giuđa Ítcariốt đã phạm tội bội phản Thầy mình (Mt 26,15;Ga 6,71). Ngược lại bà góa nghèo dùng tiền dâng cúng đền thờ thì được Chúa khen (Lc 21,3-4). Cũng như Phêrô đủ bản lĩnh để không bị đồng tiền người phù thủy Simon mua chuộc mà vấp phạm (Cv 8,18-20).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết làm chủ đồng tiền chứ đừng làm nô lệ nó để tránh được nhiều sai lỗi
Suy niệm 3 Không có hạnh phúc
Với lối sống đó, Joan không có hạnh phúc.
Cũng như Joan, một gia đình trúng số cũng không tìm được hạnh phúc với số tiền mình có, như được đề cập đến trong cuốn phim với nhan đề: Trúng số đem lại hạnh phúc hay bất hạnh. Hai vợ chồng nghèo cùng sống bằng nghề bán vé số. Dầu nghèo nhưng rất đầm ấm hạnh phúc.
Vô tình được trúng số, để bù đắp sự túng thiếu bấy lâu, người chồng dùng tiền đi đến các quán nhậu và cặp bồ với cô khác. Người vợ lao vào việc đánh bạc và trở thành con nợ lớn. Tình cảnh này đã làm gia đình đổ vỡ tan thương và bất hạnh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chạy tìm hạnh phúc đích thực ở Bảng Hiến Chương Nước Trời của Chúa (Mt 5,3-12).
Suy niệm 4 Bác ái
Joan bắt đầu chăm sóc các gia đình nghèo cũng như các trẻ mồ côi. Sau cùng, ngài phải đóng cửa tiệm để có thời giờ chăm sóc họ.
Dân chúng gọi căn nhà đầy trẻ mồ côi của ngài là: "Nhà Đấng Quan Phòng." Sau này, ngài thuyết phục các phụ nữ khác đến giúp đỡ. Cuối cùng, họ trở thành các Nữ Tu của Thánh Anna của Đấng Quan Phòng ở Saumur, nước Pháp.
Lúc ngài từ trần, dân chúng ở Saumur nói rằng: "Bà chủ tiệm buôn nhỏ bé đó đã giúp đỡ người nghèo ở Saumur còn nhiều hơn tất cả các hội viên thành phố gọp lại. Thật là một phụ nữ phi thường! Thật là một người thánh thiện!"
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận chân giá trị của đức bác ái như là con đường dẫn đến đời hoàn thiện.
Suy niệm 5 Đền tội
Sơ Joan thi hành nhiều việc đền tội nặng nhọc.
Theo Công Đồng Trentinô, "ơn tha tội xóa sạch mọi tội lỗi, nhưng không sửa chữa được những xáo trộn mà tội đã gây ra" (Sách Giáo Lý số 1459). Vì thế hối nhân cần được thanh tẩy mọi hậu quả của tội qua việc "đền tội" để xóa được cái gọi là "hình phạt hữu hạn" sau khi tội được tha nhờ bí tích hòa giải. Việc đền tội này, nếu không làm đầy đủ khi còn sống thì phải được thanh luyện sau khi chết trong nơi gọi là "Luyện Tội".
Việc đền tội này không nên chỉ dừng lại ở một số việc hoặc một số kinh phải đọc theo lời chỉ dạy của Vị Giải Tội, mà nên tiếp tục tiến hành thêm bằng các việc lành phúc đức tự nguyện khác. Có thế chúng ta mới hiểu được vì sao ngoài việc sống đức ái đối với người bất hạnh, Sơ Joan còn sống một cuộc đời rất hy sinh với việc thi hành nhiều việc đền tội nặng nhọc.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ đền tội cho mình mà còn hướng lòng đến các linh hồn đang được thanh luyện nơi Luyện Tội.
Suy niệm 6 Nghe theo tiếng Người
Hãy nghe theo tiếng Người.
Lời mời gọi này vang vọng lại chính lời của Chúa Cha đã lên tiếng đối với ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trong cuộc biến hình của Đức Giêsu trên núi Tabo (Mt 17,5). Nhờ các ngài thực thi hết mình đến cùng bằng cái chết chứng nhân, nên các ngài đã trở nên những thánh nhân cao cả.
Joan cũng sống được tinh thần này. Nhờ nghe lời một linh mục thánh thiện, ngài đã khởi đầu cuộc sống đức tin một cách chân thành và hăng say qua việc chăm sóc các gia đình nghèo cũng như các trẻ mồ côi, để trở thành một sơ. Cũng như vâng theo lời Thánh Grignon de Montfort chỉ dạy, sơ Joan đã trở thành một phụ nữ phi thường! một người thánh thiện! như lời xưng tụng của dân chúng ở Saumur.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết mau mắn vâng nghe lời Chúa qua các vị bề trên của chúng con.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 16/8 Thánh Stêphanô ở Hung Gia Lợi (975-1038)
Thánh Stêphanô ở Hung Gia Lợi (975-1038)
Ai ai cũng có thể đến với ngài, nhất là những người nghèo.
Lược sử
Giáo Hội thì phổ quát, nhưng dáng vẻ bên ngoài thì luôn luôn bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa địa phương - dù tốt hay xấu. Không có Kitô Hữu nào được coi là "cùng đặc điểm" cả; có người là Công Giáo Mễ Tây Cơ, hay Công Giáo Ba Lan, hay Công Giáo Việt Nam. Dữ kiện này được nhận thấy hiển nhiên trong cuộc đời Thánh Stêphanô, vị anh hùng dân tộc và quan thầy của nước Hung Gia Lợi.
Sinh trong một gia đình ngoại giáo, ngài được rửa tội khi lên 10 cùng với cha của mình là thủ lãnh nhóm Magyar, là những người khai phá đã đến Danube trong thế kỷ thứ chín. Khi 20 tuổi, ngài kết hôn với Gisela, người em của hoàng đế tương lai là Thánh Henry. Khi kế vị cha mình, Stêphanô theo chính sách của một quốc gia Kitô Giáo vì các lý do chính trị cũng như tôn giáo. Ngài triệt hạ được các cuộc nổi loạn của giới quý tộc ngoại giáo và thống nhất người Magyar thành một tổ chức lớn mạnh trong nước. Ngài đến Rôma để xin Giáo Hội phê chuẩn và cũng để xin đức giáo hoàng phong ban tước vua cho mình. Vào lễ Giáng Sinh 1001, ngài được đội vương miện.
Stêphanô đã thiết lập một hệ thống thuế thập phân để hỗ trợ các nhà thờ và cha xứ, cũng như giúp đỡ người nghèo. Cứ 10 thành phố thì một thành phố phải xây một nhà thờ và cấp dưỡng cho một linh mục. Ngài bãi bỏ các tục lệ ngoại giáo với ít nhiều sự ép buộc, và ra lệnh tất cả mọi người phải kết hôn, ngoại trừ giáo sĩ và tu sĩ. Ai ai cũng có thể đến với ngài, nhất là những người nghèo.Vào năm 1031, con trai trưởng của ngài là thái tử Emeric từ trần và quãng thời gian kế đó đầy dẫy những tranh chấp quyền kế vị. Ngay cả người cháu cũng mưu toan ám sát ngài. Stêphanô từ trần năm 1038 và được phong thánh năm 1083.
Suy niệm 1 Phổ quát
Giáo Hội thì phổ quát, nhưng dáng vẻ bên ngoài thì luôn luôn bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa địa phương--dù tốt hay xấu.
Thuật ngữ Catholic bắt nguồn từ chữ Katholikos trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "phổ quát" hoặc "công cộng". Thuật ngữ này lần đầu tiên được sử dụng để mô tả về một giáo hội kitô giáo duy nhất từ những năm đầu thế kỷ II. Chữ Katholikos là biến thể từ chữ Katholou do sự kết hợp giữa hai từ Kato Holou có nghĩa là tôn giáo mà "ai cũng theo được". Từ nguyên nói trên được dịch sang tiếng Việt là "Công Giáo". Như vậy tên gọi Giáo Hội Công Giáo có nghĩa là "Giáo Hội phổ quát".
Có một ít sự bất đồng về cách dùng từ không thật sự rõ nghĩa giữa "Giáo Hội Công Giáo Rôma" và "Giáo Hội Công Giáo". Nguyên nhân là do một vài nhánh kitô giáo khác cũng tuyên bố họ là "Công Giáo" (nghĩa là phổ quát). Đặc biệt, Chính Thống Giáo Đông Phương thích áp dụng thuật ngữ "Giáo Hội Công Giáo Rôma" để chỉ rõ trung tâm giáo hội này ở Rôma, nhằm phân biệt với các giáo hội đông phương có trung tâm ở Constantinopolia (nay là Istanbul).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp cho các giáo hội kitô giáo được hiệp nhất nên một để làm sáng tỏ tính phổ quát của một giáo hội duy nhất.
Suy niệm 2 Địa phương
Giáo Hội thì phổ quát, nhưng dáng vẻ bên ngoài thì luôn luôn bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa địa phương--dù tốt hay xấu.
Hiến Chế Tín lý về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, số 62 ghi nhận: "Dù Giáo Hội đã góp phần rất nhiều trong việc phát triển văn hóa, kinh nghiệm cho thấy, vì hoàn cảnh, đôi khi thật khó để hài hòa văn hóa với giáo huấn của Giáo Hội...
Những khó khăn này không nhất thiết gây thiệt hại cho đời sống đức tin. Thật vậy, chúng có thể khích lệ tâm trí để thấu hiểu đức tin cách chính xác hơn. Vì các cuộc nghiên cứu và khám phá mới đây của khoa học, lịch sử và triết học đã nêu lên các vấn đề mới có ảnh hưởng đến đời sống và đòi hỏi phải có các cuộc nghiên cứu mới về thần học".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn quan tâm đến tinh thần hội nhập văn hóa của Công Đồng Vaticăn II để thực thi.
Suy niệm 3 Anh hùng dân tộc
Thánh Stêphanô, vị anh hùng dân tộc và quan thầy của nước Hung Gia Lợi.
Anh hùng dân tộc là người có công kiệt xuất trong cuộc đấu tranh cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc, được nhân dân suy tôn và lịch sử dân tộc ghi nhận. Anh hùng dân tộc thường xuất hiện ở bước ngoặt lịch sử của dân tộc (thời đại), trở thành biểu tượng và niềm tự hào của dân tộc. Thánh Stêphanô là vị anh hùng dân tộc của nước Hung Gia Lợi.
Mahatan Gandhi là anh hùng dân tộc Ấn Độ, đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế Quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ, với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người dân. Trong suốt cuộc đời, ông phản đối tất cả các hình thức khủng bố bạo lực và thay vào đó, thay vào đó, chỉ áp dụng nhũng tiêu chuẩn đạo đức tối cao. Nguyên lý bất bạo lực được ông đề xướng với tên Chấp Trì Chân Lý đã ảnh hưởng đến các phong trào đấu tranh bất bạo động trong và ngoài nước cho đến ngày nay, bao gồm phong trào vận động Quyền Công Dân tại Hoa Kỳ được dẫn đầu bởi Martin Luther King.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quyết sống như một anh hùng của Nước Chúa.
Suy niệm 4 Quan thầy
Thánh Stêphanô, vị anh hùng dân tộc và quan thầy của nước Hung Gia Lợi.
Quan thầy còn được gọi là bổn mạng, là một nhân vật được chọn, được tôn vinh như một người bảo hộ ở trên trời cho một quốc gia, một địa điểm, một nhà thờ, một hội dòng, một gia đình, một cá nhân hay một tổ chức hoặc một giới, bởi vì họ được tin là có thể can thiệp cách hiệu lực cho các nhu cầu của thế giới đang còn sống.
Thánh Phanxicô Xavie cũng như Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu là bổn mạng của các xứ truyền giáo, Thánh Gioan Boscô là bổn mạng của giới trẻ, Thánh Phanxicô Átxidi là bổn mạng của thú vật, Thánh Gioan của Thiên Chúa là bổn mạng của bệnh viện, Thánh Đa Minh Saviô là bổn mạng của các chú hội hát, Đấng Đáng Kính Matt Talbot là bổn mạng của những người đang chiến đấu với sự nghiện rượu...
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ kêu xin sự cầu bầu của các thánh bổn mạng mà nhất sống theo gương các ngài.
Suy niệm 5 Triệt hạ
Stêphanô triệt hạ được các cuộc nổi loạn của giới quý tộc ngoại giáo và thống nhất người Magyar thành một tổ chức lớn mạnh trong nước.
Được trở nên thánh thiện là có được lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân giống như Đức Kitô. Đức ái nhiều khi phải mang bộ mặt lạnh lùng nghiêm khắc vì lợi ích của sự thiện. Đức Kitô đã lên án sự giả hình của người Pharisêu, nhưng khi từ trần, Người đã tha thứ cho họ. Thánh Phaolô ra vạ tuyệt thông người loạn luân ở Côrintô "để có thể cứu rỗi linh hồn" ông ta. Một số Kitô Hữu đã chiến đấu trong các cuộc Thập Tự Chinh với một tinh thần cao thượng, bất kể các động lực bất chính của người khác.
Ngày nay, sau các cuộc chiến tranh vô nghĩa, và với những hiểu biết sâu xa hơn về sự phức tạp của các động lực con người, chúng ta chùn bước trước bất cứ bạo lực nào, về hành động hay "im lặng" đồng lõa. Sự phát triển tốt đẹp này vẫn còn được tiếp tục khi người ta tranh luận rằng có thể nào một Kitô Hữu trở nên người yêu hòa bình tuyệt đối hay đôi khi sự dữ phải bị tiêu diệt bằng vũ lực.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhân từ với người dữ nhưng cương quyết triệt hạ sự dữ.
Suy niệm 6 Thuế thập phân
Stêphanô đã thiết lập một hệ thống thuế thập phân để hỗ trợ các nhà thờ và cha xứ, cũng như giúp đỡ người nghèo.
Thuế thập phân theo Kinh Thánh là thuế 10% trên các sản phẫm từ đất đai hoặc từ công việc lao động dùng để cấp dưỡng cho các tư tế. Dựa vào truyền thống ấy, ngài dùng để hỗ trợ các nhà thờ và cha xứ, cũng như giúp đỡ người nghèo.
Tại Hoa Kỳ, suốt thập niên 60, một ủy ban đặc biệt của các giám mục nghiên cứu vấn đề thuế thập phân trong Giáo Hội Công Giáo. Họ kết luận rằng: Cho dù đó là một lý tưởng thích đáng, nhưng về mặt pháp lý, vẫn không buộc đối với người Công giáo; việc chia thuế thập phân hiện nay thành hai phần: một nửa cho giáo xứ và một nửa cho tất cả việc bác ái khác, là có thể chấp nhận được.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khi tuân thủ quy chế này, đừng rơi vào thái độ kiêu ngạo đến mức khinh khiệt người khác trong dụ ngôn người Pharisêu bị Chúa quở trách (Lc 18,9-14).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 15/8 Lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
Ở trần thế, Ðức Maria được gần gũi với Chúa Giêsu như thế nào thì ở trên trời ngài cũng phải được ở với Chúa cả hồn lẫn xác.
Lược sử
Vào ngày 1 tháng Mười Một 1950, Đức Giáo Hoàng Piô XII xác định sự Thăng Thiên của Đức Maria là một tín điều: Chúng tôi tuyên bố, bày tỏ và xác định đó là một tín điều được Thiên Chúa mặc khải, là đức vô nhiễm nguyên tội Mẹ Thiên Chúa, Đức Trinh Nữ Maria, sau khi hoàn tất chu trình cuộc đời trần thế, đã được lên trời cả hồn và xác để hưởng vinh phúc trên thiên đàng. Đức giáo hoàng tuyên bố tín điều này sau khi hội ý các giám mục, các thần học gia cũng như giáo dân. Rất ít người chống đối. Điều mà đức giáo hoàng long trọng tuyên bố thì đã có từ lâu trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo.
Ngay từ thế kỷ thứ sáu, đã có các bài giảng về sự Thăng Thiên của Đức Maria. Trong các thế kỷ tiếp đó, các Giáo Hội Đông Phương kiên trì tin tưởng vào học thuyết này, trong khi một số học giả Tây Phương vẫn còn do dự. Tuy nhiên, vào thế kỷ 13 sự tin tưởng này đã trở thành phổ quát.
Kinh Thánh không nói gì về sự Thăng Thiên của Đức Maria. Tuy nhiên, trong Khải Huyền chương 12, có nói về một người nữ bị vây hãm trong cuộc chiến giữa sự thiện và sự dữ. Ngoài ra, trong thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Côrintô 15: 20, ngài nói về sự phục sinh của Đức Kitô như hoa quả đầu mùa của những kẻ còn mê ngủ. Vì Đức Maria liên hệ rất mật thiết với các mầu nhiệm cuộc đời Đức Giêsu, nên không ngạc nhiên khi thấy Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn Giáo Hội để tin tưởng rằng Đức Maria cũng được chia sẻ sự vinh hiển với Chúa Giêsu. Ở trần thế, Đức Maria được gần gũi với Chúa Giêsu như thế nào thì ở trên trời ngài cũng phải được ở với Chúa cả hồn lẫn xác.
Suy niệm 1 Tín điều
Đức Giáo Hoàng Piô XII xác định sự Thăng Thiên của Đức Maria là một tín điều.
Tín điều của Giáo Hội Công Giáo hiểu nôm na là "điều phải tin". Tất cả những tín điều chính yếu mà người kytô hữu phải tin được cô đọng trong Kinh Tin Kính. Tuy nhiên cần phải hiểu rộng ra nữa: các tín điều là tất cả những điều Chúa Giêsu dạy và những gì Giáo Hội chính thức dạy phải tin. Các tín điều không chỉ là những điều Giáo Hội đã định tín. Sở dĩ Giáo Hội đưa ra những định tín trong lịch sử, là vì có một người hoặc một lạc giáo nào đó đưa ra những chủ trương sai lệch, hay gây ra quá nhiều bàn cãi tranh luận mà không đi đến đâu. Điều phải tin nào không gây ra vấn đề thì Giáo Hội không cần phải định tín.
Nếu hiểu như thế thì không thể kể ra hết tất cả các tín điều. Cũng nói thêm có người thì cho rằng Giáo Hôi Công Giáo có 418 tín điều như trong cuốn "Fundamentals of Catholic Dogma" của Dr Ludwig Ott; Tan Books and Publishers, Inc. 1974 (đã bị nhiều người phê bình). Hay có người khác cho rằng có 358 tín điều, hay 255 tín điều, tất cả đều không đúng,. Vì chính Giáo Hội cũng chưa bao giờ đưa ra một thống kê cụ thể.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn đón nhận các tín điều, chứ đừng bàn cãi lệch lạc với truyền thống chung của Giáo Hội.
Suy niệm 2 Nguyên tội
Đó là một tín điều được Thiên Chúa mặc khải, là đức vô nhiễm nguyên tội Mẹ Thiên Chúa.
Sách Giáo Lý Công Giáo số 404 định nghĩa: Tội Tổ Tông là "môt tội được lưu truyền cho toàn thể nhân loại qua việc sinh sản, nghĩa là qua việc lưu truyền một bản tính nhân loại đã mất đi sự thánh thiện và sự công chính nguyên thủy. Đó là một tội mà chúng ta "vướng mắc", chứ không phải là một tội mà chúng ta phạm; đó là tình trạng lúc chào đời chứ không phải là một hành vi cá nhân. Do sự thống nhất của toàn thể loài người, tội này được truyền lại cho con cháu của Ađam trong bản tính loài người.
Tội Tổ Tông mặc dầu truyền đến mỗi người, nhưng không hề mang tính cách tội của bản thân nơi bất kỳ ai nơi con cháu ông Ađam (số 405). Do đó Tội Tổ Tông được gọi là "tội" theo nghĩa loại suy; đó là một thứ tội con người "bị nhiễm" chứ không phải "đã phạm"; một tình trạng chứ không phải một hành vi, không phải do bắt chước nhưng là qua truyền sinh". Việc truyền đạt này là một mầu nhiệm mà chúng ta không thể hiểu được một cách trọn vẹn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hằng quan tâm và nỗ lực hơn đến việc chừa bỏ các thứ tội do chính mình làm và phạm.
Suy niệm 4 Lịch sử
Điều mà đức giáo hoàng long trọng tuyên bố thì đã có từ lâu trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo.
Ngay từ thế kỷ thứ năm, người ta đã mừng kính lễ này ở Syria. Sang thế kỷ thứ sáu, cộng đoàn Giêrusalem cũng mừng lễ này, cũng như đã có các bài giảng về sự Thăng Thiên của Đức Maria. Trong các thế kỷ tiếp đó, các Giáo Hội Đông Phương kiên trì tin tưởng vào học thuyết này, trong khi một số học giả Tây Phương vẫn còn do dự. Tuy nhiên, vào thế kỷ 13 sự tin tưởng này đã trở thành phổ quát.
Đây là một đặc ân vô song Chúa ban cho Đức Maria, nhưng cũng thật xứng đáng và hợp lý nên rất dễ được đón nhận. Theo giáo lý, một người có một tâm hồn trong sạch thì khi chết sẽ được về trời, thậm chí có mắc tội phải vào luyện ngục thì sau thời gian thanh luyện để sạch hết tội thì cũng được về thiên đàng. Với Đức Maria, chẳng những tâm hồn không vương tỳ ố kể cả tội nguyên tổ để rồi thể xác cũng vô nhiễm tội thì dĩ nhiên cũng được xứng đáng để cả hồn và xác về trời.
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã thương ban cho chúng con nguồn mặc khải là Thánh Kinh và Thánh Truyền.
Suy niệm 5 Khải Huyền chương 12
Kinh Thánh không nói gì về sự Thăng Thiên của Đức Maria. Tuy nhiên, trong Khải Huyền chương 12, có nói về một người nữ bị vây hãm trong cuộc chiến giữa sự thiện và sự dữ.
Nhiều người coi phụ nữ này tượng trưng cho dân Chúa. Vì Đức Maria là hiện thân của cộng đồng Dân Chúa vừa trong Cựu Ước và Tân Ước, sự Thăng Thiên của ngài có thể coi như một thí dụ điển hình cho sự chiến thắng của người nữ.
Sách Khải Huyền là cuốn sách cuối cùng của Tân Ước. Từ "Khải Huyền" do từ ghép Hy Lạp apokalupsis. "Apo" nghĩa là lấy đi, cất đi. "Kalupsis" nghĩa là tấm màn che.. Vậy Khải Huyền có nghĩa là vén màn cho thấy điều bí mật che khuất bên trong. Căn cứ vào các sự kiện lịch sử, nhiều nhà nghiên cứu Kinh Thánh cho rằng Khải Huyền được ghi chép vào khoảng năm 95 đến 96 trong bối cảnh kitô giáo đang bị bách hại dữ dội dưới triều đại của hoàng đế La Mã Domitian.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn liên kết với Đức Maria để có thể lướt thắng được các chước ma quỷ cám dỗ.
Suy niệm 6 Côrintô 15,20
Trong thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Côrintô 15,20, ngài nói về sự phục sinh của Đức Kitô như hoa quả đầu mùa của những kẻ còn mê ngủ.
Vì Đức Maria liên hệ rất mật thiết với các mầu nhiệm cuộc đời Đức Giêsu, nên không ngạc nhiên khi thấy Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn Giáo Hội để tin tưởng rằng Đức Maria cũng được chia sẻ sự vinh hiển với Chúa Giêsu. Ở trần thế, Đức Maria được gần gũi với Chúa Giêsu như thế nào thì ở trên trời ngài cũng phải được ở với Chúa cả hồn lẫn xác.
Thư thứ nhất gửi cho các tín hữu Côrintô là một sách trong Tân Ước. Thư này là lá thư mà sứ đồ Phaolô và Sosthenes gởi cho các Cơ Đốc nhân tại thành Côrinth, Hy Lạp. Thư này được viết tại Ephesus (16,8). Theo sách Công vụ tông đồ, Phaolô thành lập hội thánh tại Côrinth (18,10-17) và ở tại Ephesus khoảng ba năm (Cv 19,8.10;20,31). Bức thư này được viết trong thời gian ông ở tại Ephesus, khoảng năm 53 đến 67.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống gần gũi với Chúa để sau này cũng được về với Chúa như Đức Maria.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 14/8 Thánh Maximilian Mary Kolbe (1894-1941)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Maximilian Mary Kolbe (1894-1941)
Ðức Mẹ đã hiện ra, tay cầm hai triều thiên, một mầu trắng, một mầu đỏ. Ðức Mẹ hỏi con có muốn nhận các triều thiên ấy không -- mầu trắng là sự thanh khiết, mầu đỏ là sự tử đạo. Con trả lời, 'Con muốn cả hai.' Ðức Mẹ mỉm cười và biến mất."
Lược sử
Không hiểu tương lai của con sẽ ra sao!
Ngài gia nhập tiểu chủng viện của các cha Phanxicô ở Lwow, Ba Lan, gần nơi sinh trưởng, và lúc ấy mới 16 tuổi. Mặc dù sau này ngài đậu bằng tiến sĩ về triết học và thần học, nhưng ngài rất yêu thích khoa học, có lần ngài phác họa cả một phi thuyền không gian.
Sau khi thụ phong linh mục lúc 24 tuổi, ngài nhận thấy sự thờ ơ tôn giáo là căn bệnh nguy hiểm vào thời ấy. Nhiệm vụ của ngài là phải chiến đấu chống với căn bệnh này. Tình yêu Thiên Chúa của ngài được thể hiện hằng ngày qua sự sùng kính Đức Maria.
Năm 1939, Đức Quốc Xã xâm lăng Ba Lan. Thành phố Niepolalanow bị dội bom. Cha Kolbe và các tu sĩ Phanxicô bị bắt, nhưng sau đó chưa đầy ba tháng, tất cả được trả tự do, vào đúng ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Vào năm 1941, ngài bị bắt một lần nữa. Mục đích của Đức Quốc Xã là thanh lọc những phần tử tuyển chọn, là các vị lãnh đạo. Cuộc đời Cha Kolbe kết thúc trong trại tập trung Auschwitz.
Vào ngày 31 tháng Bảy 1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt 10 người khác phải chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn như tiếng gọi của tử thần. Tên này. Tên kia Có những tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng.
Trong khi 10 người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi hàng.
Tôi muốn thế chỗ cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con. Cả một sự im lặng nặng nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải đối diện với một sự can đảm khôn cùng. "Mày là ai?" Là một linh mục. Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng. Và Cha Kolbe được thế chỗ cho Trung Sĩ Francis Gajowniczek.
Cha được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên thánh năm 1981.
Suy niệm 1: Tương lai
Không hiểu tương lai của con sẽ ra sao!
Đó là câu mà dịp đặt tên cho Gioan Tiền Hô, nhiều nhiều đã đặt ra (Lc 1,66). Và nhiều cha mẹ cũng từng than thở với đứa con hay đau yếu. Nhưng với Thánh Maximilian Mary Kolbe thì khác.
Ngay từ nhỏ, khi được cha mẹ hỏi, ngài trả lời: Con tha thiết cầu xin với Đức Mẹ để biết tương lai của con. Và Đức Mẹ đã hiện ra, tay cầm hai triều thiên, một mầu trắng, một mầu đỏ. Đức Mẹ hỏi con có muốn nhận các triều thiên ấy không? mầu trắng là sự thanh khiết, mầu đỏ là sự tử đạo. Con trả lời: Con muốn cả hai. Đức Mẹ mỉm cười và biến mất. Sau biến cố đó, cuộc đời của Maximilian Kolbe không còn giống như trước.
* Lạy Chúa Giêsu, cả Thánh Gioan Tiền Hô và Thánh Maximilian Mary Kolbe đều đã có câu trả lời: các ngài là thánh nhân. Xin giúp chúng con cũng có được câu trả lời giống như thế.
Suy niệm 2: Phi thuyền không gian
Kolbe phác họa cả một phi thuyền không gian.
Tàu vũ trụ còn có tên gọi là phi thuyền không gian, là một phương tiện vận chuyển các thiết bị có người hay không người lái vào các khoảng không ở bên ngoài tầng khí quyển trái đất. Là một linh mục có năng khiếu về khoa học, Kolbe cũng phác họa một phi thuyền không gian, nhưng nhằm mở hướng bay về quê trời thiên quốc.
Theo hoạt động có thể phân loại: Trạm vệ tinh và Tàu thám hiểm. Trạm vệ tinh là các loại tàu vũ trụ chỉ được phóng và trở thành một vệ tinh nhân tạo của trái đất nhằm làm một trạm có khả năng kết nối với các tàu vũ trụ khác, thực hiện các thí nghiệm không gian, và có thể dùng làm trạm trung chuyển cho các chuyến phi hành có người lái vào khoảng không xa hơn của vũ trụ. Còn Tàu thám hiểm là loại tàu vũ trụ có khả năng bay theo một quỷ đạo nào đó hoặc vượt ra khỏi tầm hút của trái đất.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà khoa học càng có phát minh nhằm khám phá vũ trụ thì càng đến gần với Đấng tạo thành vũ trụ hơn.
Suy niệm 3: Thờ ơ tôn giáo
Kolbe nhận thấy sự thờ ơ tôn giáo là căn bệnh nguy hiểm vào thời ấy.
Vào thời nay, bài suy niệm ngày 17/7/2012 của Năm Phút Lời Chúa trình bày: Thư chung Hậu Đại Hội Dân Chúa năm 2010, phần "Hiện trạng xã hội Việt Nam dưới ánh sáng đức tin" nói đến chủ nghĩa hưởng thụ như một thách đố đối với người Công Giáo. Với người thấm nhiễm chủ nghĩa này, điều họ quan tâm số một là tiện nghi vật chất, tiền bạc của cải, để có điều kiện hưởng thụ tối đa; niềm tin tôn giáo bị xem là thứ yếu. Họ thờ ơ lãnh đạm trước những sinh hoạt tôn giáo. Thái độ thờ ơ ấy không tiêu diệt, nhưng làm tê liệt sự sống của tôn giáo.
Các thành quanh bờ hồ Galilê ngày xưa bị Chúa quở trách cũng vì sự thờ ơ lãnh đạm này. Chứng kiến phép lạ Chúa làm, nghe lời Người giảng, nhưng họ không quan tâm đến Người. Người có đó, ở giữa họ, nhưng như không hiện hữu với họ, không ảnh hưởng gì đến họ.
* Lạy Chúa Giêsu, Chúa quở trách các thành không phải bị coi thường, nhưng vì thương xót khi thấy người ta đi theo con đường tự hủy diệt. Xin giúp chúng con đừng bao giờ thơ ơ lãnh đạm với Lời Chúa dạy.
Suy niệm 4: Sùng kính Đức Maria
Tình yêu Thiên Chúa của Cha Kolbe được thể hiện hằng ngày qua sự sùng kính Đức Maria.
Để chiến đấu chống với căn bệnh thơ ơ tôn giáo, được hướng dẫn bởi lòng sùng kính Đức Maria, ngài sáng lập tổ chức Đạo Binh của Đức Vô Nhiễm mà mục đích là chống lại sự dữ qua đời sống tốt lành, siêng năng cầu nguyện, làm việc và chịu đau khổ.
Ngài phát hành tờ Hiệp Sĩ của Đức Vô Nhiễm, được đặt dưới sự phù hộ của Đức Maria để rao giảng Phúc Âm cho mọi dân tộc. Để thực hiện công việc ấn loát, ngài thành lập Thành Phố của Đức Vô Nhiễm – Niepolalanow mà trong đó có đến 700 tu sĩ Phanxicô làm việc. Sau này, ngài thành lập một thành phố khác ở Nagasaki, Nhật Bản. Cả tổ chức Đạo Binh và tờ nguyệt san có đến 1 triệu hội viên cũng như độc giả.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con gia tăng lòng sùng kính Đức Maria để thấy được những phương cách chống lại sự thờ ơ tôn giáo.
Suy niệm 5: Bị bắt
Cha Kolbe và các tu sĩ Phanxicô bị bắt.
Vào năm 1939, Đức Quốc Xã xâm lăng Ba Lan. Thành phố Niepolalanow bị dội bom. Ngài và các tu sĩ Phanxicô bị bắt, nhưng sau đó chưa đầy ba tháng, tất cả được trả tự do, vào đúng ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Đây là lần bị bắt đầu tiên, dầu đã sớm được trả tự do, nhưng dịp này ngài cũng tâm tình: Hãy can đảm lên các con. Các con không thấy chúng ta đang trên đường thi hành sứ vụ hay sao? Chúng ta phải trả một giá quá rẻ. Thật may mắn biết chừng nào! Điều bây giờ chúng ta phải làm là chú tâm cầu nguyện để chiếm đoạt càng nhiều linh hồn càng tốt. Và sau đó, chúng ta sẽ thưa với Đức Trinh Nữ là chúng ta rất mãn nguyện để ngài muốn làm gì với chúng ta tùy ý.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có tâm tình phó thác cho Đức Maria đến mức Mẹ muốn làm gì tùy ý để an toàn vượt qua các nghịch cảnh.
Suy niệm 6: Chết
Cha Kolbe được chết thế chỗ cho Trung Sĩ Francis Gajowniczek.
Trong hầm tử thần tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15 tháng Tám) chỉ còn bốn tù nhân sống sót. Tên cai tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của ngài bị thiêu đốt cũng như bao người khác.
Cái chết của Cha Kolbe không phải là một hành động anh hùng bất chợt, bốc đồng vào giây phút cuối. Cả cuộc đời ngài đã chuẩn bị cho giây phút đó. Sự thánh thiện của ngài được thể hiện qua niềm khát khao muốn hoán cải cả thế giới mà động lực là tình yêu của ngài dành cho Đức Mẹ Vô Nhiễm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết dành cả cuộc đời để chuẩn bị cho một cái chết lành thánh.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 13/8 Thánh Pontian và Thánh Hippolytus (k. 235)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Pontian và Thánh Hippolytus (k. 235)
Ðức giáo hoàng Pontian gặp gỡ với Hippolytus trong hoàn cảnh lưu đầy và vị linh mục tài giỏi này đã cảm hóa trước sự khiêm tốn của vị giáo hoàng... Cả hai được phúc tử đạo và mãi mãi là nhân chứng cho sự tha thứ và niềm hy vọng Kitô giáo.
Lược sử
Vào năm 235, Maximinus làm hoàng đế Rôma và hầu như ngay sau khi lên ngôi, ông bắt đầu bách hại người Kitô Giáo. Một trong những hình phạt thông thường đối với các giám mục và linh mục là các ngài bị lưu đầy đến những quặng mỏ nguy hiểm ở Sardinia, nước Ý. Chính vì sự bách hại này mà ngày nay chúng ta mừng kính hai thánh tử đạo. Thánh Pontian lên ngôi giáo hoàng sau khi Đức Urban I từ trần năm 230. Khi Maximinus lên ngôi hoàng đế, Đức Pontian cùng chung số phận với các Kitô Hữu khác và ngài phục vụ Giáo Hội trong sự đau khổ ở Sardinia.
Hippolytus là một linh mục và là học giả ở Rôma. Ngài có nhiều sáng tác về thần học và là bậc thầy tài giỏi. Hippolytus thất vọng với Đức Giáo Hoàng Zephyrinus (được tử đạo năm 217) vì đức giáo hoàng không mau mắn ngăn chặn những người giảng dạy cách lầm lạc. Khi Đức Callistus I được bầu làm giáo hoàng kế vị Đức Zephyrinus, Hippolytus cũng không hài lòng. Lúc bấy giờ, rất đông người theo Hyppolytus và họ đồng lòng bầu Hippolytus lên làm giáo hoàng. Vị thần học gia tài giỏi này đã không chế ngự được tính kiêu ngạo và đã chấp nhận. Khi cuộc bách hại bùng nổ, Hyppolytus bị bắt và cũng bị lưu đầy đến Sardinia.
Trong hoàn cảnh đáng thương ấy, môt phép lạ hòa giải đã xảy ra giữa sự cười nhạo của kẻ thù. Đức giáo hoàng Pontian gặp gỡ với Hippolytus trong hoàn cảnh lưu đầy và vị linh mục tài giỏi này đã cảm hóa trước sự khiêm tốn của vị giáo hoàng. Hippolytus trở về với Giáo Hội và mọi tức giận đều tiêu tan. Đức giáo hoàng Pontian thông cảm với vị linh mục. Ngài nhận ra nhu cầu của mỗi người là phải giúp đỡ và khuyến khích lẫn nhau trong tình bác ái của Đức Giêsu Kitô. Cả hai đã được phúc tử đạo và mãi mãi trở nên nhân chứng cho sự tha thứ và niềm hy vọng Kitô Giáo.
Suy niệm 1: Bách hại
Ông bắt đầu bách hại người Kitô Giáo.
Tác giả Herbertworkman rất có lý khi phát biểu trong cuốn sách nhan đề The Persecution in the Early Church: "Giáo Hội có lẽ sẽ không bị bách hại, nếu như Giáo Hội đã không quá hăng hái tích cực vâng theo mệnh lệnh của Thầy Chí Thánh rao giảng Tin Mừng khắp nơi! Nhưng khi ngưng rao giảng Tin Mừng nhanh chóng, thì không còn là kitô giáo nữa".
Căn cứ vào sự kiện kim cổ, chúng ta có thể khẳng định không sai lầm rằng: Vào bất cứ thời điểm nào trên giòng sinh mệnh của nhân loại, và dưới dạng thức của bất cứ nền văn hóa nào, sự xuất hiện của Đạo Chúa Kitô luôn luôn bị các chính quyền đương thời nghi kỵ, cấm đoán, thù ghét và bách hại! Hình thức, phương pháp, chiêu bài tuy có thay đổi, nhưng nội dung vẫn là sự thù nghịch với "Nước Chúa" với "Cơ Cấu Mới" của "Nước Trời".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cảm nghiệm được mối phúc thật khi bị người đời bách hại (Mt 5,10-12).
Suy niệm 2: Lưu đầy
Một trong những hình phạt thông thường đối với các giám mục và linh mục là các ngài bị lưu đầy.
Lưu đày là một cách hành xử những người vi phạm pháp luật đến một nơi khác trong một thời gian nhất định để cải tạo. Tuy nhiên trong kế hoạch của Thiên Chúa, thì cuộc lưu đày không phải là "viên thuốc độc" mà là "viên thuốc đắng" mà Thiên Chúa phải dùng đến để chữa trị "chứng bệnh nan y" của dân Chúa. Như thời các Thủ Lãnh, khi lâm cảnh đau khổ và tai họa, người ta mới nhận ra hậu quả ghê tởm do tội lỗi của họ đã gây ra. Nhờ sống ở chốn lưu đày mà dân Chúa đã học biết đổi mới đời sống và quay về với Chúa.
Riêng trong trường hợp này, Thiên Ý đã dùng bàn tay của hoàng đế Rôma là Maximinus với cuộc bách hại đạo Chúa để lưu đày Đức Pontian và Đức Hippolytus đến cùng một địa điểm là Sardinia, nước Ý. Nhờ vậy hai vị có cơ hội gặp nhau và Chúa đã thực hiện một phép lạ là làm cho hai vị được hòa giải và cùng chịu tử đạo với nhau.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có một đức tin mạnh mẽ để đọc ra được Thiên Ý trong các nghịch cảnh của cuộc đời.
Suy niệm 3: Phục vụ
Đức Pontian phục vụ Giáo Hội trong sự đau khổ ở Sardinia.
Phục vụ luôn đòi hỏi phải hy sinh, phải đau khổ. Nhưng nét đặc trưng của Đức Pontian trong việc phục vụ, đó là gánh chịu hoàn cảnh khổ đau của sự lưu đày.
Về mặt thể xác, ngài phải đón nhận một cuộc sống thiếu thốn cũng như các công việc cực nhọc. Về mặt tinh thần, ngài luôn ray rắc và nỗ lực thể hiện sự hòa giải với Hippolytus.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết quên mình để dễ dàng sống tinh thần phục vụ.
Suy niệm 4: Không hài lòng
Hippolytus cũng không hài lòng.
Tâm trạng không hài lòng của ngài có lẽ xuất phát từ việc ngài là một học giả tài giỏi có trình độ kiến thức trổi vượt các vị bề trên, nhất là khi thấy các vị lãnh đạo không mau mắn ngăn chặn những người giảng dạy cách lầm lạc gây tác hại cho Giáo Hội.
Tâm trạng không hài lòng này cọng thêm tính kiêu ngạo đã dẫn ngài đến chỗ sai lầm trầm trọng là chấp nhận cách bất hợp pháp chức vị giáo hoàng do một số người ủng hộ bầu lên. Nhưng may thay cuộc lưu đày đã giúp ngài đủ khiêm tốn để tỉnh ngộ và quay về nẻo chính cũng như được phúc tử đạo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn để tránh được những sai lầm đáng tiếc.
Suy niệm 5: Hòa giải
Môt phép lạ hòa giải đã xảy ra giữa sự cười nhạo của kẻ thù.
Việc hòa giải này được đánh giá cao như một phép lạ, vì đây là sự kiện xảy ra giữa hai vị có chức bậc trong Giáo Hội chứ không phải giữa hai giáo dân bình thường. Điều này cho hay giữa các chức sắc vẫn còn tồn tại sự bất hòa, vốn rất khó chấm dứt do tính tự ái không bao giờ muốn mình chịu thua ai với những lý luận rất sắc bén do có trình độ rất cao.
Để có thể giải hòa, Đức Pontian đã để lại một chìa khóa rút từ kinh nghiệm bản thân ngài, đó là lòng khiêm tốn. Đồng thời hãy nhìn vào thái độ của kẻ thù, đó là họ cười nhạo với những tràng pháo tay inh ỏi, vì họ chẳng phải mất công dùng đến bất cứ thứ vũ khí gì chiến đấu mà vẫn chiến thắng vẻ vang do đối thủ tự hủy diệt mình vì mối bất hòa nhau.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ coi thường bài học trường đời: đoàn kết là sống mà chia rẽ là chết.
Suy niệm 6: Thông cảm
Đức giáo hoàng Pontian thông cảm với vị linh mục.
Ngoài bài học khiêm tốn của Đấng bề trên, ngài còn nêu bật bài học thông cảm và tha thứ. Có khiêm tốn và thông cảm thì mới nhận ra người thuộc quyền cũng như mình đều là tội nhân. Chắc hẳn họ không muốn sai lỗi, nhưng bản tính mỏng giòn và yếu đuối của con người đưa đẩy họ như thế (Rm 7,19-20), cũng như tình cảnh của người phụ nữ ngoại tình (Ga 8,4).
Có khiêm tốn thông cảm thì mới nhận ra thân phận tội lỗi của mình, có thể không phải tội này hoặc nặng như thế này nhưng thiếu gì tội khác, để rồi kết án người nhằm che đậy tội lỗi của mình, điều mà Đức Giêsu đã vạch ra cho mỗi người thấy (Ga 8,6-9). Có khiêm tốn thông cảm thì mới dễ tha thứ và giúp vực họ dậy (Ga 8,11), chứ không lánh xa (Cv 10,28) hoặc giết chết (Ga 8,5).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn mặc lấy tâm tình của Chúa đối với các tội nhân.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 11/8 Thánh Clara (1194-1253)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Clara (1194-1253)
"Họ nói chúng tôi quá nghèo khổ, nhưng một tâm hồn có được Thiên Chúa vĩnh cửu thì có thực sự nghèo hay không?" (Clara)
Lược sử
Thánh Clara là thiếu nữ xinh đẹp của một gia đình giầu có ở Assisi. Khi mười tám tuổi, được khích động bởi một bài giảng của Thánh Phanxicô Assisi, ngài cương quyết noi gương các tu sĩ Phanxicô, thề sống khó nghèo, tận hiến cho Thiên Chúa.
Gia đình ngài hoảng sợ, dùng võ lực ép buộc ngài phải trở về nhà; nhưng một đêm kia, trong một hành động vừa có tính cách khôn khéo và vừa có ý nghĩa, ngài lẻn ra khỏi nhà qua "cánh cửa người chết" (cánh cửa nhỏ để khiêng người chết ra ngoài), và đến với các tu sĩ Phanxicô. Trong một nhà nguyện nhỏ bé ở ngoại ô, Thánh Phanxicô đã cắt mái tóc của Clara và trao cho thánh nữ chiếc áo nâu thô kệch làm chiếc áo dòng. Sau đó, thánh nữ sống với các nữ tu dòng Bênêđíctô cho đến khi có thêm sự gia nhập của các phụ nữ khác, trong đó có cả người mẹ góa bụa của ngài và các phụ nữ thuộc gia đình quý tộc ở Florence. Cộng đoàn nhỏ bé ấy dần dà được biết đến dưới tên Các Chị Em Hèn Mọn (các tu sĩ Phanxicô là Anh Em Hèn Mọn). Khi tu hội được thành lập, Thánh Phanxicô đề nghị Clara làm bề trên, nhưng ngài từ chối cho đến khi được hai mươi mốt tuổi. Bất kể sự khắc khổ của đời sống, những người theo Thánh Clara lại là những thiếu nữ xinh đẹp nhất Assisi và lúc nào họ cũng có niềm vui vì được sống gần Thiên Chúa. Thật vậy, Thiên Chúa đã gìn giữ họ khỏi sự nguy hiểm.
Thánh Clara làm bề trên tu viện trong bốn mươi năm mà hai mươi chín năm ngài luôn đau yếu. Nhưng lúc nào ngài cũng vui vẻ vì cho rằng đó là sự phục vụ Thiên Chúa.
Thánh Clara từ trần ngày 11 tháng Tám 1253. Chỉ hai năm sau, ngài đã được Đức Giáo Hoàng Alexander IV phong thánh.
Suy niệm 1 Xinh đẹp
Thánh Clara là thiếu nữ xinh đẹp của một gia đình giầu có ở Assisi.
Bài học Thánh Kinh về trường hợp của hai anh em Aben và Cain chắc hẳn đã được ngài biết đến và thấu hiểu. Lễ vật tạ ơn cuối mùa của Cain đã không được Chúa đoái nhìn, chỉ vì tính kém cỏi và hư hỏng của nó, ngược lại lễ vật của Aben thì được đón nhận, vì phẩm chất tốt lành, xinh đẹp và tuyệt hảo của nó (St 4,3-5).
Ý thức sắc đẹp mình có là ân huệ do Chúa đặc ban, ngài đã đáp trả bằng việc dâng hiến sự xinh đẹp của mình như lễ vật đẹp lòng Chúa trong đời tận hiến hoàn toàn cho Chúa. Theo gương đó, những thiếu nữ xinh đẹp nhất Assisi cũng tự nguyện gia nhập vào cộng đoàn tu trì này.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sẵn lòng dâng lên Chúa tất cả những gì tốt đẹp nhất của đời mình cho Chúa.
Suy niệm 2 Giầu có
Thánh Clara là thiếu nữ xinh đẹp của một gia đình giầu có ở Assisi.
Dầu xuất thân từ một gia đình giầu có, ngài theo gương Đức Kitô vốn giàu sang tuyệt đối nhưng đã tự ý trở nên nghèo (2Cr 8,9). Ngài thề sống khó nghèo. Ngài chấp nhận cắt mái tóc và mặc chiếc áo nâu thô kệch làm chiếc áo dòng.
Ngài sống nghèo và cũng mời gọi chị em theo ngài sống như thế. Nhiều người cho rằng các nữ tu đau yếu là vì quá khắc khổ. Ngài nói: "Họ nói chúng tôi quá nghèo khổ, nhưng một tâm hồn có được Thiên Chúa vĩnh cửu thì có thực sự nghèo hay không?"
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chấp nhận nghèo vật chất để được giàu có Chúa.
Suy niệm 3 Bài giảng
Được khích động bởi một bài giảng của Thánh Phanxicô Assisi, Clara thề sống khó nghèo, tận hiến cho Thiên Chúa.
Nguyên văn và nội dung bài giảng như thế nào, cũng như cách trình bày của Thánh Phanxicô Assisi làm sao? Điều đó không đáng quan tâm cho bằng hiệu lực của bài giảng đã khiến một thiếu nữ xinh đẹp và giàu có thay đổi cuộc đời. Điểm mà chắc người giảng không ngờ trước được.
Điều này cho thấy vai trò của Chúa thật tối ưu. Cũng như tài giảng thuyết lừng danh của Thánh Đa Minh không có tác dụng bằng chuỗi Mân Côi trong việc đánh tan bè rối Albigeos. Hiểu thế nên trước khi lên bục giảng, các vị hữu trách hãy cầu nguyện, dọn kỹ lưỡng và nhất là không giảng về mình và cho mình, mà về Chúa và cho Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị hữu trách trung thành với bản chất của bài giảng, cũng như giúp các thính giả đón nhận không với tâm tình bình phẩm mà tìm ra lời mời gọi của Chúa cho mình.
Suy niệm 4 Cánh cửa người chết
Clara lẻn ra khỏi nhà qua "cánh cửa người chết".
Đây là cánh cửa nhỏ để khiêng người chết ra ngoài theo kiến trúc xây dựng thời đó và vùng đó. Với cách thế này, ngài đã trốn thoát an toàn khỏi sự kềm kẹp của gia đình để đến được với với các tu sĩ Phanxicô và theo đuổi chí nguyện tận hiến cho Chúa của mình.
Hành động khôn khéo này cũng mang một ý nghĩa. Gia đình hãy xem như ngài đã chết vì ngài đã đi qua lối dành cho người chết. Và thật sự về mặt tinh thần, ngài đã chết cho trần thế này rồi. Giờ đây sự sống của ngài là hoàn toàn cho Chúa, cho Nước Trời.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết chết đi cho con người cũ để sống theo con người mới đã được cứu chuộc (Ep 4,22-24).
Suy niệm 5 Tu hội
Cộng đoàn nhỏ bé ấy được biết đến dưới tên Các Chị Em Hèn Mọn.
Với sự gia nhập của các phụ nữ khác, trong đó có cả người mẹ góa bụa của ngài và các phụ nữ thuộc gia đình quý tộc ở Florence, một tu hội được thành lập dưới tên Các Chị Em Hèn Mọn.
Các nữ tu trong dòng tận tụy trong việc cầu nguyện, chăm sóc bệnh nhân và thi hành việc bác ái cho người nghèo và người bị ruồng bỏ. Họ sống theo một quy luật khắc khổ hơn bất cứ nữ tu hội nào khác trong thời ấy, và tuyệt đối khó nghèo, cả về phương diện cá nhân cũng như cộng đoàn. Họ đi chân đất, không có giường, mà nằm trên các khúc gỗ được kết lại và chăn mền là vỏ cây gai dệt thành. Gió mưa tha hồ lọt qua các vết nứt ở mái nhà cũng như vách gỗ. Họ ăn rất ít và không bao giờ ăn thịt. Thực phẩm của họ là tất cả những gì xin được.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho Giáo Hội có được nhiều tâm hồn thánh thiện để thánh hóa thế gian.
Suy niệm 6 Gìn giữ
Thiên Chúa đã gìn giữ họ khỏi sự nguy hiểm.
Khi bọn lính hung dữ đến tấn công Assisi và dự định bố ráp tu viện này trước hết. Lúc ấy, dù đang đau nặng, Thánh Clara đã gắng gượng quỳ xuống trước cổng, tay nâng Mình Thánh trong mặt nhật và ngài cầu xin: "Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ các nữ tu mà con không thể nào bảo vệ nổi." Sau đó, dường như có tiếng trả lời: "Ta sẽ luôn gìn giữ họ" và đồng thời ngay lúc ấy, quân lính cảm thấy vô cùng sợ hãi và họ chạy tán loạn.
Bằng lời cầu nguyện chân thành trước giờ động phòng, hai vợ chồng Tôbia và Xara đã được Thiên Chúa giữ gìn mạng sống an toàn cho đến tuổi già (Tb 8). Điều gây ngạc nhiên và tạo niềm hân hoan cho cả gia đình ông Raguên, vì trước đó đã có bảy người đã chết sau đêm tân hôn (Tb 7,11).
* Lạy Chúa Giêsu, xin thương tiếp tục cầu cùng Chúa Cha gìn giữ chúng con khỏi mọi ác thần (Ga 17,15) cũng như khỏi sa ngã (Gđ 24).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 10/8 Thánh Lôrensô (thế kỷ thứ ba)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Lôrensô (thế kỷ thứ ba)
Quan Tổng Trấn Rôma ra lệnh cho Lôrensô phải đem hết tài sản của Giáo Hội cho ông. Lôrensô đi khắp thành phố, quy tụ mọi người nghèo khổ, đau yếu được Giáo Hội giúp đỡ. Khi trình diện họ trước mặt quan, ngài nói: "Ðây là tài sản của Giáo Hội!"
Thánh Lôrensô là một trong bảy nô bộc (phó tế) của giáo hội chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và ngài được giao cho trách nhiệm "quản lý tài sản của giáo hội". Khi sự cấm đạo dưới thời hoàng đế Valerian bùng nổ, Thánh Giáo Hoàng Sixtus bị kết án tử hình cùng với sáu phó tế khác. Khi đức giáo hoàng bị điệu ra pháp trường, Lôrensô đi theo khóc lóc nức nở, ngài hỏi, "Cha ơi, cha đi đâu mà không cho nô bộc này theo?" Ðức giáo hoàng trả lời, "Con ơi, ta không bỏ con đâu. Trong ba ngày nữa, con sẽ theo ta." Nghe thấy thế, Lôrensô thật vui mừng, ngài về phân phát hết tiền của trong kho cho người nghèo, và còn bán cả các phẩm phục đắt tiền để có thêm của cải mà phân phát.
Quan Tổng Trấn Rôma, một người tham lam, nghĩ rằng Giáo Hội có giấu giếm nhiều của cải. Do đó, ông ra lệnh cho Lôrensô phải đem hết tài sản của Giáo Hội cho ông. Vị thánh trả lời, xin cho ba ngày. Thế là ngài đi khắp thành phố, quy tụ mọi người nghèo khổ, đau yếu được Giáo Hội giúp đỡ. Khi trình diện họ trước mặt quan, ngài nói: "Ðây là tài sản của Giáo Hội!"
Giận điên người, quan tổng trấn xử phạt Lôrensô phải chết cách thê thảm và chết dần mòn. Vị thánh bị cột trên một vỉ sắt lớn với lửa riu riu để từ từ thiêu đốt da thịt của ngài, nhưng thánh nhân đang bừng cháy với tình yêu Thiên Chúa nên hầu như ngài không cảm thấy gì. Thật vậy, Thiên Chúa còn ban cho ngài sức mạnh đến độ có thể đùa bỡn. Ngài nói với quan tòa, "Lật tôi đi chứ. Phía bên này chín rồi!" Và trước khi trút hơi thở cuối cùng, ngài nói, "Bây giờ thì đã chín hết rồi." Sau đó ngài cầu xin cho thành phố Rôma được trở lại với Ðức Kitô và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới. Và ngài tiến lên lãnh nhận triều thiên tử đạo.
Suy niệm hạnh thánh Lôrensô
Lược sử
Thánh Lôrensô là một trong bảy nô bộc (phó tế) của giáo hội chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và ngài được giao cho trách nhiệm "quản lý tài sản của giáo hội".
Khi sự cấm đạo dưới thời hoàng đế Valerian bùng nổ, Thánh Giáo Hoàng Sixtus bị kết án tử hình cùng với sáu phó tế khác. Khi đức giáo hoàng bị điệu ra pháp trường, Lôrensô đi theo khóc lóc nức nở, ngài hỏi: "Cha ơi, cha đi đâu mà không cho nô bộc này theo?" Đức giáo hoàng trả lời: "Con ơi, ta không bỏ con đâu. Trong ba ngày nữa, con sẽ theo ta." Nghe thấy thế, Lôrensô thật vui mừng, ngài về phân phát hết tiền của trong kho cho người nghèo, và còn bán cả các phẩm phục đắt tiền để có thêm của cải mà phân phát. Quan Tổng Trấn Rôma, một người tham lam, nghĩ rằng Giáo Hội có giấu giếm nhiều của cải. Do đó, ông ra lệnh cho Lôrensô phải đem hết tài sản của Giáo Hội cho ông. Vị thánh trả lời, xin cho ba ngày. Thế là ngài đi khắp thành phố, quy tụ mọi người nghèo khổ, đau yếu được Giáo Hội giúp đỡ. Khi trình diện họ trước mặt quan, ngài nói: "Đây là tài sản của Giáo Hội!"
Giận điên người, quan tổng trấn xử phạt Lôrensô phải chết cách thê thảm và chết dần mòn. Vị thánh bị cột trên một vỉ sắt lớn với lửa riu riu để từ từ thiêu đốt da thịt của ngài, nhưng thánh nhân đang bừng cháy với tình yêu Thiên Chúa nên hầu như ngài không cảm thấy gì. Thật vậy, Thiên Chúa còn ban cho ngài sức mạnh đến độ có thể đùa bỡn. Ngài nói với quan tòa, "Lật tôi đi chứ. Phía bên này chín rồi!" Và trước khi trút hơi thở cuối cùng, ngài nói, "Bây giờ thì đã chín hết rồi." Sau đó ngài cầu xin cho thành phố Rôma được trở lại với Đức Kitô và cho Đức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới. Và ngài tiến lên lãnh nhận triều thiên tử đạo.
Suy niệm 1 Phó tế
Thánh Lôrensô là một trong bảy nô bộc (phó tế) của giáo hội chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và ngài được giao cho trách nhiệm "quản lý tài sản của giáo hội".
Phó tế là một chức vụ giáo sĩ trong các giáo hội kitô giáo, nhưng có sự khác biệt giữa họ về thần học và trách nhiệm trong từng giáo hội đó. Theo Giáo Hội Công Giáo Rôma, phó tế được xem là một chức thánh sau chức Linh Mục và Giám Mục; các giáo hội Kháng Cách gọi là chấp sự. Cả hai cách gọi đều có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là "diakonos" mang nghĩa là "người đang chờ đợi một chức vụ" nhằm ám chỉ họ sẽ được nâng lên chức vụ cao hơn về sau.
Truyền thống kitô giáo tin rằng: chức phó tế bắt nguồn từ việc giáo hội sơ khai tuyển chọn ra bảy người đàn ông để trợ giúp quản lý các công việc từ thiện của giáo hội (Cv 6). Các vị ấy là "ông Têphanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Philípphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, một người ngoại quê Antiôkhia đã theo đạo Do-thái (Cv 6,5).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các phó tế chu toàn chức vụ theo đấng bậc của mình.
Suy niệm 2 Nghèo túng
Thánh Lôrensô là một trong bảy nô bộc (phó tế) của giáo hội chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và ngài được giao cho trách nhiệm "quản lý tài sản của giáo hội".
Duy trì truyền thống căn bản của chức phó tế thời các tông đồ, Giáo Hội trong các thế kỷ tiếp theo vẫn cắt đặt các phó tế trong trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng.
Trước khi ra đi chịu chết, với chức vụ phó tế, Thánh Lôrensô phân phát hết tiền của trong kho cho người nghèo, và còn bán cả các phẩm phục đắt tiền để có thêm của cải mà phân phát, nhằm đối phó với tính tham lam của quan Tổng Trấn Rôma.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết quan tâm giúp đỡ người nghèo túng theo đường hướng của một Giáo Hội luôn được mệnh danh là Giáo Hội của người nghèo và cho người nghèo.
Suy niệm 3 Quản lý
Thánh Lôrensô là một trong bảy nô bộc (phó tế) của giáo hội chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và ngài được giao cho trách nhiệm "quản lý tài sản của giáo hội".
Vai trò của người quản lý không chỉ bảo quản tài sản như một thủ kho cũng như không chỉ kinh doanh làm sinh lợi tức, mà còn biết tính toán khéo léo để không làm phương hại đến tài sản đó.
Hiểu thế nên một khi đọc được ý đồ đen tối của quan tổng trấn vốn tham lam muốn hành quyết Đức Giáo Hoàng cũng như ngài để chiếm đoạt tài sản của Giáo Hội, Thánh Lôrensô đã linh động phân phát tất cả cho người nghèo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà lãnh đạo thần quyền cũng như thế quyền chú tâm phục vụ phúc lợi cho người chứ không dùng quyền để mưu cầu tư lợi.
Suy niệm 4 Vui mừng
Nghe thấy thế, Lôrensô thật vui mừng.
Mẫu chuyện chú chó có nghĩa với chủ vẫn luôn được người đời nhắc nhở và ca tụng: Sau khi người chủ bị tử trận và được chôn cất, chú chó ngày ngày không ở trong nhà mà ra ngoài mộ nằm phủ phục cho đến chết.
Đó cũng là nỗi buồn của thầy phó tế Lôrensô đến mức phải khóc lên, khi không được đi theo Thánh Giáo Hoàng Sixtus ra pháp trường. Nhưng nỗi buồn đã biến thành niềm vui khôn tả, khi được tiên báo trong ba ngày nữa ngài cũng sẽ được đi theo chủ mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng làm tôi hai chủ, nhưng mãi trung kiên theo Chúa đến cùng.
Suy niệm 5 Tài sản
Đây là tài sản của Giáo Hội!
Tài sản vẫn thường được hiểu theo nghĩa đen là của cải vật chất. Nhưng với thánh phó tế Lôrensô, ngài có một cái nhìn khác cao quý hơn, đó là con người.
Quả đây là một tài sản vô giá, vì đã được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26). Do đó chính Thiên Chúa cũng không muốn một ai phải hư mất (Mt 19,14). Hơn nữa tài sản này đã được Đức Kitô đánh đổi bằng cả giá máu của Ngài (Mt 27,6) và Ngài đã hết mình bảo vệ đến cùng (Ga 17,12).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng làm nô lệ cho lối sống dẫn đến hư vong (2Pr 2,19), cũng như chớ làm hư hỏng tha nhân (Dt 12,15).
Suy niệm 6 Đùa bỡn
Thiên Chúa còn ban cho Lôrensô sức mạnh đến độ có thể đùa bỡn.
Tính đùa bỡn là một đặc ân Chúa ban vừa giúp tinh thần lẫn thể xác. Để chịu đựng được nỗi đau thân xác, thánh Lôrensô đã vận dụng tính hài hước này để vượt qua được cảnh da thịt đang bị thiêu đốt từ từ với câu nói: "Lật tôi đi chứ. Phía bên này chín rồi!" Và trước khi trút hơi thở cuối cùng, ngài nói: "Bây giờ thì đã chín hết rồi."
Thánh Clêmentê Hofbauer lại dùng tính đùa bỡn để chiến thắng chính mình và chinh phục lòng người. Một hôm cô nhi viện không còn lương thực. Là bề trên, ngài phải đích thân đi xin ăn. Ngài vào nhà một người giàu có đang tổ chức sòng bạc. Người chủ nhà vừa gặp cơn đen lại vừa bị người hành khất quấy rầy. Ông không kiềm nổi cơn bực bội nên đã nhổ tung nước bọt vào mặt ngài. Vốn có tình hài hước, ngài vui vẻ nói với người đã phỉ nhổ mình: Đó là quà ông dành cho tôi, xin cám ơn ông. Thế còn quà của các em mồ côi đâu? Bị đánh động bởi cử chỉ điềm nhiên vui vẻ của ngài, ông chủ nhà đành phải lấy tiền trao cho ngài để giúp các em mồ côi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban tính đùa bỡn cho chúng con để làm lợi khí chế ngự tinh thần lẫn thể xác.
(Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)
Ngày 09/8 Thánh Edith Stein (1891-1942)
Thánh Edith Stein (1891-1942)
Edith Stein, một nữ tu Camêlô thánh thiện, một triết gia uyên thâm và một văn sĩ sáng giá, là nguồn cảm hứng cho tất cả những ai coi Thánh Giá là di sản, và cuộc đời ngài được dâng hiến cho sự đau khổ và bách hại của dân tộc Do Thái.
Lược sử
Edith Stein, một nữ tu Camêlô thánh thiện, một triết gia uyên thâm và một văn sĩ sáng giá. Ngài là nguồn cảm hứng cho tất cả những ai coi Thánh Giá là di sản, và cuộc đời ngài được dâng hiến cho sự đau khổ và bách hại của dân tộc Do Thái.
Sinh ngày 12 tháng Mười 1891 trong một gia đình Do Thái ở Breslau, nước Đức.
Trong tất cả các ngành học hỏi, Edith Stein không chỉ tìm kiếm chân lý mà còn đi tìm chính Chân Lý và ngài đã tìm thấy ở Giáo Hội Công Giáo sau khi đọc tự truyện của Thánh Têrêsa Avila. Edith Stein được rửa tội vào ngày đầu năm 1922.
Sau khi trở lại đạo, Edith dùng toàn thời giờ để dạy học, diễn thuyết, viết lách và dịch sách, và không bao lâu ngài trở nên một triết gia và tác giả nổi tiếng, nhưng điều ngài khao khát là cuộc sống cô độc và tịnh niệm của dòng Camêlô, là nơi ngài tận hiến cho Thiên Chúa và người dân của ngài. Trước khi Đức Quốc Xã bách hại người Do Thái khiến ngài phải ngưng mọi hoạt động thì cha linh hướng đã đồng ý để ngài gia nhập dòng Camêlô Hèn Mọn ở Cologne-Lindenthal vào tháng Mười năm 1933. Vào Chúa Nhật Phục Sinh năm 1935, ngài khấn trọn.
Ngài đã xin phép bề trên để di chuyển đến một tu viện ở ngoại quốc.
Thế nhưng tại đây, Đức Quốc Xã ra lệnh bắt giữ mọi người Công Giáo thuộc gốc Do Thái ở Hòa Lan. Sơ Têrêsa Bênêđícta bị bắt vào ngày 2 tháng Tám 1942, và được chở đến trại tử thần Auschwitz. Ngài chết trong phòng hơi ngạt ở Auschwitz ngày 9 tháng Tám 1942.
Vào ngày 1 tháng Năm 1987, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước cho Sơ Têrêsa Bênêđícta, và sau cùng sơ được phong thánh ngày 11 tháng Mười 1998.
Suy niệm 1 Triết gia
Edith Stein, một nữ tu Camêlô thánh thiện, một triết gia uyên thâm và một văn sĩ sáng giá.
Một triết gia thuộc giới nữ thật họa hiếm, và càng ít thấy hơn khi sự uyên thâm và sáng giá của ngài không những có ảnh hưởng lớn ở thời ấy mà ngày nay, ảnh hưởng ấy đang lan tràn trong giới triết gia và trí thức ở Đức cũng như trên toàn thế giới.
Ngay từ nhỏ ngài đã chứng tỏ năng lực học hỏi lạ thường, và vào lúc bắt đầu Thế Chiến I, ngài đã học xong triết và ngữ văn tại đại học Breslau và Goettingen. Sau cuộc chiến, ngài tiếp tục cao học tại Đại Học Freiburg và lấy bằng tiến sĩ ưu hạng về triết. Sau đó ngài là giáo sư phụ tá và là cộng tác viên của Giáo Sư Husserl, cha đẻ của hiện tượng học và cũng là người có ảnh hưởng lớn đến tư duy của thánh nữ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp giới nữ đừng tự ti mặc cảm về giới tính của mình, để luôn phát huy năng lực Chúa ban, nhất là trong thời đại đang chủ trương nam nữ bình quyền này.
Suy niệm 2 Thánh Giá
Ngài là nguồn cảm hứng cho tất cả những ai coi Thánh Giá là di sản.
Nếu thời thế tạo anh hùng, thì phải nói rằng chính hoàn cảnh sống của ngài trong bối cảnh Đức Quốc Xã bách hại người Do Thái mà ngài là một nạn nhân đã khiến ngài gần gũi và thiết tha với Thánh Giá Chúa. Nhất là sau khi trở lại và gia nhập dòng Camêlô, vào tháng Tư năm 1934, ngài được mặc áo dòng và lấy tên là "Têrêsa Bênêđícta của Thánh Giá." Vào Chúa Nhật Phục Sinh năm 1935, ngài khấn trọn. Danh xưng này càng giúp ngài sống sít sao hơn nữa, với những suy tư độc đáo để sáng tác một văn bản sau cùng nhưng tuyệt tác là Thánh Giá Học ở Echt, Hòa Lan.
Chính Thánh Giá của ngài thì ngay ở trước mặt, vì lúc ấy Đức Quốc Xã đã xâm lăng Hòa Lan, và khi các giám mục Hòa Lan công bố lá thư mục vụ phản đối việc trục xuất người Do Thái và đuổi các học sinh Do Thái ra khỏi trường Công Giáo, thì Đức Quốc Xã ra lệnh bắt giữ mọi người Công Giáo thuộc gốc Do Thái ở Hòa Lan. Sơ Têrêsa Bênêđícta bị bắt vào ngày 2 tháng Tám 1942, và được chở đến trại tử thần Auschwitz.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng chịu khuất phục nghịch cảnh, nhưng biết vận dụng nó để biến thành tương lai sáng chói.
Suy niệm 3 Dâng hiến
Cuộc đời Stein được dâng hiến cho sự đau khổ và bách hại của dân tộc Do Thái.
Dầu là một triết gia và tác giả nổi tiếng trong thời gian dạy học, diễn thuyết, viết lách và dịch sách, nhưng điều ngài khao khát là cuộc sống cô độc và tịnh niệm của dòng Camêlô, là nơi ngài tận hiến cho Thiên Chúa và người dân của ngài.
Niềm vui đời tận hiến được sánh ví như cánh hồng xinh đẹp ẩn chứa nhiều gai nhọn làm buốt tay người chạm vào, nhất là đối với sơ Têrêsa Bênêđícta của Thánh Giá, vốn mang lại quang vinh. Bằng việc đau xót hy sinh tương lai sáng lạn của một triết gia, ngài nhận được vinh dự làm nguồn cảm hứng cho tất cả những ai coi Thánh Giá là di sản. Bằng nỗi cay đắng phải rời bỏ nhà dòng Camêlô ở Cologne di chuyển đến một tu viện ở ngoại quốc ở Echt thuộc Hòa Lan để rồi cũng lìa xa chốn này qua cái chết, ngài lại tận hưởng được niềm vui thiên đàng với tước vị tánh nhân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đón nhận đau khổ tạm thời và nhỏ bé bây giờ để mua lấy vinh quang vĩnh cửu và không tài sánh được ở đời sau (Rm 8,18).
Suy niệm 4 Trở lại
Sau khi trở lại đạo... Stein gia nhập dòng Camêlô Hèn Mọn.
Là một nữ triết gia lỗi lạc, sao Stein trở lại đạo? Câu trả lời nằm ở mấu chốt này: Trong tất cả các ngành học hỏi, Edith Stein không chỉ tìm kiếm chân lý mà còn đi tìm chính Chân Lý và ngài đã tìm thấy ở Giáo Hội Công Giáo sau khi đọc tự truyện của Thánh Têrêsa Avila. Edith Stein được rửa tội vào ngày đầu năm 1922.
Albert Einstein, một nhà trí thức chân chính, một nhà bác học kỳ tài, cũng đã hãnh diện tuyên bố mình là một người có tôn giáo, trong tác phẫm "Qui était Albert Einstein?": Tôi hiểu được rằng, sau cái thế giới mà chúng ta biết được, còn ẩn giấu một cái gì vượt khỏi trí thức của chúng ta. Một cái gì đó mà vẻ đẹp và sự vượt trội chỉ đến với chúng ta một cách phảng phất, như một ánh sáng hiu hắt. Trong ý nghĩa đó, tôi là một người có tôn giáo. Tôi cố mường tượng những bí ẩn mà tôi chiêm ngưỡng và bằng trí thức hạn hẹp, tôi cố thu nạp và tìm hiểu chút ánh sáng phản chiếu từ sự cấu tạo tuyệt vời của cái Hiện Thể".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các người thành tâm thiện chí đi tìm chân lý thì gặp được Chân Lý đích thực là chính Chúa.
Suy niệm 5 Di chuyển
Sơ Têrêsa Bênêđícta xin phép bề trên để di chuyển đến một tu viện ở ngoại quốc.
Sao có sự kiện này? Khi sự bách hại người Do Thái gia tăng mãnh liệt và điên cuồng, ngài nhận thấy sự nguy hiểm khi có mặt tại nhà dòng Camêlô ở Cologne, và ngài đã xin phép bề trên để di chuyển đến một tu viện ở ngoại quốc. Vào đêm 31 tháng Mười Hai 1938, ngài bí mật vượt biên giới đến Hòa Lan là nơi ngài được tiếp đón một cách nồng nhiệt vào dòng Camêlô ở Echt.
Là một triết gia lỗi lạc nhưng cũng là một nữ tu thuộc nhà dòng, ngài khiêm tốn đệ trình bề trên ý định muốn di chuyển đến một nơi an toàn hơn. Sau khi được chấp thuận, ngài mới lên đường bằng cách mạo hiểm vượt biên giới. Chắc hẳn đây là điều Chúa muốn, nên ngài đã thoát nạn an bình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mạnh dạn trao đổi sở nguyện và chấp hành Thiên Ý qua Đấng bản quyền.
Suy niệm 6 Trại tử thần Auschwitz
Sơ Têrêsa Bênêđícta bị bắt vào ngày 2 tháng Tám 1942, và được chở đến trại tử thần Auschwitz.
Trại tử thần Auschwitz là trại lớn nhất trong các trại tập trung của Đức quốc Xã. Trại này nằm ở Ba Lan và được đặt tên theo thành phố Oswiecim gần đó, cách Krakow 50 cây số về phía Tây, cách thủ đô Warzawa 286 cây số. Trong thời kỳ Đức Quốc Xã chiếm đóng Ba Lan năm 1939, Oswiecim sát nhập vào Đức và đổi tên thành Auschwitz.
Số người bị giết chết tại đây chưa được biết chính xác. Tại tòa án Numberg, chỉ huy trại Rudolf Hoss đã khẳng định con số này là ba triệu người. Năm 1990, viện bảo tành quốc gia Auschwitz-Birkenau xét lại số liệu này. Các tính toán mới đã cho ra kết quả trong khoảng 1,1-1,6 triệu, khoảng 90% số người Do Thái của gần như tất cả các nước tại Châu Âu.
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con kinh hoàng trước thảm cảnh bao thân xác người bị giết chết, xin giúp chúng con đừng manh tâm giết hại tinh thần tha nhân bằng việc nói hành nói xấu một ai.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 08/8 Thánh Ða Minh (1170-1221)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Ða Minh (1170-1221)
Dòng Thánh Ða Minh thành công trong việc hoán cải khi áp dụng quan niệm của thánh nhân là hài hòa giữa đời sống trí thức với nhu cầu của quần chúng.
Lược sử
Sinh trong một gia đình quyền quý và đạo hạnh ở Tây Ban Nha, ngay từ nhỏ Thánh Đa Minh đã có chí hướng đi tu. Ngài theo học ở Palencia, và có lẽ được thụ phong linh mục trong khi còn đi học, và được bổ nhiệm là kinh sĩ ở Osma năm 1199. Ở đây ngài làm bề trên của một tu nghị, nổi tiếng là theo sát quy luật của Thánh Bênêđíctô.
Năm 1203, ngài tháp tùng Đức Giám Mục của Osma đến Languedoc, là nơi Thánh Đa Minh rao giảng chống với lạc thuyết Albigensian, và giúp cải tổ dòng Xitô. Vào năm 1214, Bá Tước Simon tặng cho Thánh Đa Minh một lâu đài ở Casseneuil, và cùng với sáu môn đệ, thánh nhân đã thành lập một tu hội tận tụy cho việc hoán cải người lạc giáo Albigensian.
Trong Công Đồng Latêranô lần thứ tư năm 1215, Thánh Đa Minh thất bại trong việc xin phê chuẩn tu hội, nhưng được Đức Giáo Hoàng Honorius III chuẩn y vào năm tiếp đó, và Dòng Thuyết Giảng (các tu sĩ dòng Đa Minh) được thành lập.
Thánh Đa Minh dùng quãng đời còn lại để tổ chức dòng, đi khắp nước Ý, Tây Ban Nha và Pháp để rao giảng và thu hút các thành viên mới, cũng như thiết lập các trung tâm của dòng. Dòng Thánh Đa Minh thành công trong việc hoán cải khi áp dụng quan niệm của thánh nhân là hài hòa giữa đời sống trí thức với nhu cầu của quần chúng.
Ngài được phong thánh năm 1234.
Suy niệm 1 Nổi tiếng
Đa Minh nổi tiếng là theo sát quy luật của Thánh Bênêđíctô.
Ngài sớm thành danh khi còn đi học mà đã được thụ phong linh mục và được bổ nhiệm là kinh sĩ ở Osma, cũng như tại đây ngài được làm bề trên của một tu nghị.
Nhưng điểm nổi bật là tinh thần sống sát quy luật của Thánh Bênêđíctô, vốn có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các đan viện ở Tây Phương trong thời Trung Cổ. Có thể do một điểm tương đồng là ngay từ nhỏ ngài cũng có chí hướng tu trì như Thánh Bênêđíctô, nhưng chắc chắn vì Quy Luật này vừa giữ được bản chất của luật là sự nghiêm nhặt vừa có sự chừng mực trong vấn đề khổ hạnh, rất phù hợp với tính khí hài hòa của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không sống nhằm tìm vinh danh mình nhưng chủ yếu làm sáng danh Chúa.
Suy niệm 2 Chống với lạc thuyết Albigensian
Thánh Đa Minh rao giảng chống với lạc thuyết Albigensian.
Kết hợp với việc rao giảng, ngài nỗ lực chống đối bằng việc thành lập một tổ chức dành cho phụ nữ ở Prouille trong thuộc địa của phe Albigensian và giao cho một vài nữ tu trông coi với quy luật do chính ngài viết ra, cũng như một tu hội tận tụy cho việc hoán cải người lạc giáo Albigensian.
Hơn thế, khi vị đại diện đức giáo hoàng bị bè phái Albigensian sát hại năm 1208, Đức Giáo Hoàng Innôxentê III đã phát động một cuộc thập tự chinh do Bá Tước Simon IV cầm đầu để chống với bè rối này. Thánh Đa Minh đích thân đi theo đạo quân để rao giảng cho những người lạc giáo, nhưng không thành công lắm.
Với tài hùng biện, với trí tuệ sáng ngời, thánh Đaminh cũng đành thua cuộc trước sự tung hoành của bè rối Albigensian. Nhưng nhờ tràng chuỗi Mân Côi, ngài đã gặt hái thành công: bè rối Albigensian tan rã và có hơn 100.000 người trở lại đạo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con siêng năng lần chuỗi Mân Côi, để nhờ đó chúng con lướt thắng được các mưu chước ma quỷ cám dỗ.
Suy niệm 3 Lạc thuyết Albigensian
Thánh Đa Minh rao giảng chống với lạc thuyết Albigensian.
Cũng nên biết từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV, nhóm Albigensian vốn mang danh xưng này vì khởi nguồn từ một thành phố miền nam nước Pháp tên là Albi. Nhóm này đã rất thành công trong việc thuyết phục người khác theo họ. Vào thời đại mà giáo hội miền nam nước Pháp bị tục hóa. Trong khi các giám mục địa phương xa lánh quần chúng, ăn mặc sang trọng, đi xe tứ mã, sống đời xa hoa, thì giáo sĩ nhóm Albigensian ăn vận đơn sơ, đi chân không, mặc quần áo đơn giản. Do đó họ có một bề ngoài gần gũi với đức khó nghèo của Thánh Kinh hơn. Miền nam nước Pháp, Ý và Tây Ban Nha bị ảnh hưởng rất mạnh của nhóm này.
Thuyết Albigensian dựa trên thuyết nhị nguyên về hai nguyên tắc đối nghịch nhau, sự thiện và sự dữ, mà mọi vật chất được coi là xấu xa và người tạo nên thế giới vật chất được coi là ma quỷ. Do đó, học thuyết Nhập Thể bị khước từ, và Cựu Ước cũng như các Bí Tích bị tẩy chay. Để trở nên tuyệt hảo hay "tinh tuyền", người theo thuyết này phải tránh tình dục và cực kỳ kiêng cữ ăn uống. Nhịn đói đến chết được coi là một hành động cao quý. Với hình thức thái quá này, thuyết Albigensian được coi là nguy hiểm cho xã hội và cả Giáo Hội nữa. Vì thế Đức Giáo Hoàng Alexandrô III đã triệu tập công đồng Latêranô III vào năm 1719 với sự tham dự của 300 giám mục và 400 giáo sĩ, và đã lên án lạc giáo này.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn khiêm tốn tự dấm ngực mình: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng, vì do gương xấu của mình mà gây cớ vấp phạm cho nhiều người khác.
Suy niệm 4 Tu hội
Thánh Đa Minh đã thành lập một tu hội.
Tu hội này nhằm tận tụy cho việc hoán cải người lạc giáo Albigensian. Trong Công Đồng Latêranô lần thứ tư năm 1215, Thánh Đa Minh thất bại trong việc xin phê chuẩn tu hội, nhưng được Đức Giáo Hoàng Honorius III chuẩn y vào năm tiếp đó, và Dòng Thuyết Giảng (các tu sĩ dòng Đa Minh) được thành lập.
Hiện nay dòng có mặt trên 62 quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam nhờ các bước chân thừa sai đầu tiên tức năm 1550. Châm ngôn là chiêm niệm và truyền thông chân lý. Mục đích là rao giảng Tin Mừng khắp thế giới. Linh đạo là nói với Chúa và nói về Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ân thưởng bội hậu cho các thành viên dòng Đa Minh đang còn sống cũng như đã qua đời.
Suy niệm 5 Thành lập
Dòng Thuyết Giảng (các tu sĩ dòng Đa Minh) được thành lập.
Thánh Đa Minh chẳng những thành lập mà ngài còn dùng quãng đời còn lại để tổ chức dòng, đi khắp nước Ý, Tây Ban Nha và Pháp để rao giảng và thu hút các thành viên mới, cũng như thiết lập các trung tâm của dòng.
Đặc biệt ngài triệu tập hội đồng chung trong dòng vào năm 1220 ở Bologna và từ trần ở đây vào năm tiếp đó, sau khi bị lâm bệnh và buộc phải trở về trong chuyến rao giảng ở Hung Gia Lợi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương thánh nhân đã sinh thì phải dưỡng, vì việc sau còn khó gấp bội lần việc trước.
Suy niệm 6 Hài hòa
Dòng Thánh Đa Minh thành công trong việc hoán cải khi áp dụng quan niệm của thánh nhân là hài hòa giữa đời sống trí thức với nhu cầu của quần chúng.
Một thức ăn quá cay dầu ngon mấy đi nữa, thì người dị ứng với tiêu hoặc ớt cũng không tài nào thưởng thức được. Một chiếc áo da thú dầu sang trọng và đắt giá bao nhiêu cũng không thể mặc vào, nếu người ấy đang đi dưới sức nóng mặt trời như thiêu như đốt. Thật đúng như lời cổ nhân dạy: tức nước thì vỡ bờ; hoặc câu chuyện ngụ ngôn: con nhái muốn phình lớn cho bằng con bò thì chỉ đành chịu tan xác thôi.
Chìa khóa mang lại thành quả cho dòng trong việc hoán cải các tội nhân, đó tinh thần hài hòa học được từ Đấng sáng lập giữa đời sống trí thức với nhu cầu của quần chúng. Chính Thiên Chúa thượng trí và siêu việt cũng nêu gương qua việc nhập thế làm người và dùng ngôn ngữ của loài người để tiếp cận với con người.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sống hài hòa với mọi người trong mọi vấn để để dễ lôi kéo họ về với Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 06/8 Lễ Hiển Dung
- Ngày 05/8 Lễ Cung Hiến Ðền Ðức Bà Cả
- Ngày 04/8 Thánh Gioan Baotixita Vianney (1786-1859)
- Ngày 03/8 Vị Ðáng Kính Antôn Margil (1657-1726)
- Ngày 02/8 Thánh Eusebius ở Vercelli (283?-371)
- Ngày 01/8 Thánh Anphong Liguori (1696-1787)
- Ngày 31/7 Thánh I-nha-xiô ở Loyola (Y Nhã) (1491-1556)
- Ngày 30/7 Thánh Phêrô Chrysologus (406-450?)
- Ngày 29/7 Thánh Mácta
- Ngày 28/7 Thánh Leopold Mandic (1887-1942)