Đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam đã chu toàn nghĩa vụ bề tôi trung thành với Trung Cộng sau 40 năm chiến tranh biên giới 1979-2019.
Bằng chứng này được thể hiện qua 3 hành động :
Thứ nhất, Tuyên giáo của đảng không lên lịch, ra đề cương tuyên truyền và chỉ thị tổ chức kỷ niệm cấp nhà nước như đã làm đối với “kỷ niệm 40 năm Ngày Chiến thắng chiến tranh, bảo vệ biên giới Tây Nam và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng Pol Pot (7/01/1979 - 7/01/2019).”
Cũng không thấy có các bài viết nghiên cứu của giới học giả Cộng sản, hay bình luận trên các kênh báo chí-truyền thông chính thức như Nhân Dân, Quân đội Nhân Dân, Đài Tiếng nói Việt Nam và Việt Nam Thông tấn xã về cuộc chiến 1979 như họ đã làm đối với cuộc chiến biên giới Tây nam và ở Campuchia (1975-1989).
Hơn nữa, khi kỷ niệm 40 năm chiến tranh Campuchia, báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng CSVN đã có bài Xã Luận ngày 07/01/2019 gọi là:”Biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết quốc tế thủy chung giữa hai dân tộc Việt Nam - Cam-pu-chia.”
Bài viết tự khen chiến thuật đánh bại quân Pol Pot-Khmer đỏ:”Thắng lợi to lớn đó là sự tổng hòa của nhiều nhân tố, trước hết là sự lãnh đạo nhạy bén, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự chỉ đạo tập trung, kiên quyết và chính xác của Quân ủy T.Ư và Bộ Quốc phòng. Đó còn là thắng lợi của nghệ thuật huy động sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh yêu chuộng hòa bình và công lý của nhân dân thế giới, trước hết là của nhân dân và các lực lượng vũ trang yêu nước Cam-pu-chia.”
Ngược lại, trong lần kỷ niệm 40 năm chiến tranh chống Tầu xâm lược năm 1979, báo-đài Việt Nam đã im hơi lặng tiếng không dám hé răng, dù công khai ca tụng dân-quân Việt Nam đã đánh bại cuộc tấn công hoàn toàn bất ngờ của 600,000 quân Trung Cộng.
TÊN HÚY TRUNG QUỐC
Thứ hai, trong khi sách Sử mới của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Cộng sản Việt Nam phát hành ngày 18/8 (2017) và nhiều báo, từ năm 2918 đã được Ban Tuyên giáo cho phép viết về cuộc chiến và gọi cuộc tấn công của quân Tầu vào 6 Tỉnh biên giới 1979gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai và Yên Bái) và Lai Châu là “cuộc chiến tranh xâm lược” thì trong chính thức, nhà nước CSVN vẫn chỉ dám gọi đó là “cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc.”
Tuy vậy Trung Quốc, thủ phạm đã xâm lược Việt Nam từ ngày 17/02 đến 05/03/1979, sau đó tiếp tục bắn phá lẻ tẻ và nã pháo mở đường cho cuộc tấn côngchiếm đất lần 2 từ năm 1984 đến 1989 nhắm thẳng vào Vị Xuyên (Hà Giang), đã không hề được nói tới trong buổi lễ gọi là “cuộc gặp mặt đại biểu là thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sỹ tiêu biểu nhân kỷ niệm 40 năm cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc.”
Bài tường thuật ngày 23/01/2019của báo Đại Đoàn Kết, Cơ quan thông tin của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) cho biết Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Báo Nhân dân, Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam và Ủy ban Nhân dân TP Hà Nội tổ chức buổi lễ nhỏ này tại Hà Nội.
Cuộc lễ được tổ chức trong phạm vị bộ, ngành và ít được quan tâm trong dư luận, nhưng đây là lần đầu tiên trong 40 năm, đảng và nhà nước CSVN mới dám làm việc này. Liệu từ nay, việc làm tương tự có lan ra trong cả nước và được tiếp tục hay không thì chưa biết.
Chỉ thấy trong phát biểu tại buổi gặp mặt, Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam Trần Thanh Mẫn đã không nhắc đến Trung Quốc là nước đã chủ động đem quân tấn công Việt Nam trước. Ngược lại, ông Mẫn đã:”Bày tỏ lòng tri ân các anh hùng, liệt sỹ đã ngã xuống để bảo vệ biên cương Tổ quốc và khẳng định: Đảng, Nhà nước, nhân dân không bao giờ quên công lao của đồng bào, cán bộ, chiến sỹ đã chiến đấu, hy sinh để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc. Sự hy sinh, cống hiến to lớn của các anh hùng liệt sỹ, thương binh, gia đình liệt sỹ mãi mãi khắc ghi trong trái tim mỗi người Việt Nam.”
Nếu không phải là người Việt Nam, không ai biết ông Mẫn muốn nói đến “cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc” đã chống lại quân thù nào ?
Việc ông Trần Thanh Mẫn cố ý tránh né không lên án Trung Cộng đã xâm lăng, không chỉ đích danh nước láng giềng là thủ phạm gây chiến và đã để lại thảm họa cho hàng trăm ngàn dân Việt Nam của 6 Tỉnh biên giới, thực ra không mới mà chỉ nhắc lại cho mọi người thấy dù nay hòa bình biên giới Việt-Trung đã vãn hồi, nhưng phía Cộng sản Việt Nam rất sợ bị Trung Cộng lên án chỉ biết nuôi hận thù mỗi khi nhắc đến cuộc chiến đẫm náu biên giới 40 năm về trước.
Vậy tại sao phía CSVN lo bị Trung Cộng lên án, đổ tội trong khi Việt Nam là nạn nhân của Đặng Tiểu Bình, lãnh tụ chủ chiến hận thù Việt Nam đã đem quân đánh Pol Pot-Khmer đỏ, đàn em của Trung Hoa thời bấy giờ ?
Việt Nam sợ vì Tầu là nước lớn, đông người và nhiều quân, vũ khí đạn dược hơn Việt Nam. Trung Cộng cũng từng là ân nhân của đảng CSVN trong 30 năm chiến tranh chống Pháp giành độc lập và xâm lăng Việt Nam Cộng hòa, nhưng gọi là “chống Mỹ cứu nước” !
MẬT ƯỚC THÀNH ĐÔ
Thứ ba, quan trọng hơn, vì tại Hội nghị nối lại bang giao Việt-Trung tại Thành Đô (Tứ Xuyên) năm 1990, theo các tin loan truyền trên Internet chưa bị bên nào cải chính, thì Việt Nam đã phải chấp nhận yêu cầu của Trung Cộng không được khơi lại cuộc chiến biên giới 1979 để ổn định bang giao.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ CSVN tại Trung Hoa, đã có lần tiết lộ điều cam kết này của Phái đoàn Việt Nam.
Tuy vậy Bách khoa Toàn thư mở không viết gì về thỏa hiệp này mà chỉ cho biết:”Hội nghị Thành Đô (hay gọi là Mật ước Thành Đô) là cuộc hội nghị thượng đỉnh Việt-Trung trong hai ngày 3-4 tháng 9 năm 1990, tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) giữa lãnh đạo cao cấp nhất hai Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam - Trung Quốc. Cuộc họp mặt này nhằm mục đích bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và hai Đảng. Cho đến nay, nội dung và các thỏa thuận trong cuộc họp của đôi bên vẫn chưa được công bố.
Thành phần tham dự:
• Phía Việt Nam gồm có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, và Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Phạm Văn Đồng,
• Phía Trung Quốc có Giang Trạch Dân, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc.”
Vậy liệu phía Cộng sản Việt Nam còn có những thỏa hiệp bí mật bất lợi nào với Trung Cộng tại Thành Đô mà người dân chưa biết ? Chỉ thấy rõ một điều là từ năm 1999lãnh đạo CSVN đã nhượng bộ Trung Cộng nhiều về biên giới, lãnh thổ và ở Biển Đông đã khiến người ta tin vào lời của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, 103 tuổi, vẫn thường cảnh giác âm mưu thôn tính Việt Nam của Bắc Kinh.
Bẳng chứng trong suốt 40 năm qua, những việc tổ chức kỷ niệm Cuộc chiến chống Tầu xâm lược biên giới tháng 2/1979, hay các lần kỷ niệm quân Tầu chiếm Hoàng Sa của Việt Nam ngày 19/01/1974 và đánh chiếm Gạc Ma và 6 Bãi, Đá khác của Việt Nam ở Trường Sa tháng 3/1988, đã không được nhà nước khuyến khích và thường bị ngăn chặn hay phá đám ở Hà Nội và Sài Gòn.
Thay vào đó, chỉ có các cuộc thăm viếng lẻ tẻ của thân nhân, của các cựu chiến binh hay đồng đội cũ tại các địa phương dành cho người quá cố và các chiến sỹ vô danh đã bỏ mình vì Tổ quốc.
Đặc biệt, trong khi cho phép một số báo-đài viết về trận chiến Gạc Ma (Trường Sa) chống quân Tầu đánh chiếm và ca tụng hy sinh của 64 tử sỹ của Quân đội Nhân dân thì đảng và nhà nước đã lạnh nhạt với cuộc chiến đấu chống xâm lược Tầu đẫm máu và can trường của Hải quân Việt Nam Cộng hòa tại Hoàng Sa năm 1974. Hy sinh của 74 Quân nhân VNCH cũng đã bị Đảng lãng quên hèn hạ.
QUỐC SỬ CỦA AI ?
Giờ đây, sau 44 năm đảng Cộng sản cai trị cả nước, nhà nước khoe sẽ tập hợp các nhà khoa học để hoàn thành năm đề án gồm: Bộ Lịch sử Việt Nam; Bách khoa toàn thư; Địa chí quốc gia; Hệ tri thức Việt số hoá; Dịch thuật và phát huy giá trị tinh hoa các tác phẩm kinh điển phương Đông.
Bộ Lịch sử Việt Nam, hay Quốc sử sẽ có hơn “300 nhà sử học đầu ngành trong cả nước cùng tham gia biên soạn” , theo báo Vietnam Express, ngày 12/02/2019.
Báo này viết tiếp:”Thông báo về tiến độ triển khai bộ quốc sử, PGS Trần Đức Cường, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cho biết, đề án này gồm 25 tập thông sử; 5 tập biên niên sự kiện; cơ sở dữ liệu lịch sử Việt Nam.
Đề án có sự tham gia của khoảng 300 nhà khoa học, trong đó có chuyên gia đầu ngành về lịch sử dân tộc từ cổ đại đến hiện đại; lịch sử Đảng, cách mạng, quân sự, an ninh, văn hóa, khảo cổ học...
Theo ông Cường, bộ quốc sử nhằm xây dựng nhận thức mới về lịch sử Việt Nam toàn bộ, toàn diện; được lãnh đạo Đảng, Nhà nước đồng ý từ năm 2014. Cố GS Phan Huy Lê (tổng chủ biên bộ quốc sử) từng nhấn mạnh phải viết toàn bộ, toàn diện, khách quan. Vì vậy, đây là bộ quốc sử đồ sộ nhất từ trước đến nay, lần đầu tiên đề cập đến nhiều "khoảng trống lịch sử" vốn được coi là "nhạy cảm" như cải cách ruộng đất, Nhân văn - Giai phẩm, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Bắc, cải tạo tư sản ở miền Nam sau 1975, nạn thuyền nhân...” (theo VNEXPRESS, ngày 12/02/2019)
Tuy nhiên, nếu viết lại lịch sử mà chỉ dựa trên tư duy, quan điểm, tài liệu và phân tích của một bên, nhất là “bên thắng cuộc” thì “Quốc sử” chỉ còn là “Cuốc sử”.
Và liệu cuộc chiến mà người Cộng sản đặt tên là “chống Mỹ cứu nước”, hay “giải phóng miền Nam” có cần được minh bạch với cuộc xâm lăng miền Nam của bộ đội miền Bắc, cũng như Cuộc thảm sát đồng bào Huế của quân Cộng sản trong vụ Tết Mậu Thân 1968 sẽ có chỗ đứng nào trong lịch sử hay không ?
Cũng như nếu chỉ nghe ông Hồ Chí Minh nói: "Mối tình thắm thiết Việt – Hoa -- Vừa là đồng chí, vừa là anh em" mà quên đi tính chính danh và sự thật của cuộc chiến chống Tầu xâm lược đẫm máu tháng 2/1979 và sau đó thì vết nhơ Quốc sử sẽ tồn tại muôn đời.
Bởi vì, như Thiếu tướng Lê Mã Lương (anh hùng Lực lượng võ tranh nhân dân) đã nói :”Sẽ là có tội nếu lãng quên một cuộc chiến mà chúng ta đã huy động hàng vạn chiến sĩ xả thân trong các trận đánh ác liệt bảo vệ tổ quốc như hồi năm 1979-1988. Đã có cả chục ngàn người lính và thường dân ngã xuống và chừng đó người khác bỏ lại một phần thân thể mình suốt dọc biên giới phía Bắc hồi năm 1979-1988. Khi nói về lịch sử dân tộc, chúng ta phải công bằng, không ai được phép lãng quên, không ai được cố tình lãng quên sự thật này.” (báo Tuần Việt Nam, ngày 27/07/2017)
Cũng y như thế, nếu ta suy rộng ra Cuộc chiến huynh đệ tương tàn do đảng CSVN chủ động và lãnh đạo trong 30 năm sẽ có chân nào trong Quốc sử ? -/-
Chưa bao giờ mà cả Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và một số lãnh đạo chủ chốt Bộ Chính trị đã phải cùng lượt lên tiếngbáo độngvề nguy cơ suy thoái trong nội bộ , đồng thời khuyến cáophải phòng ngừa “bị tác động, hướng lái chính sách theo giá trị “tự do, dân chủ” của các thế lực thù địch.”
Hiện tượng này xuất phát từ các diễn văn, phát biểu và bài viết cuối năm 2018về công tác xây dựng đảng và Tuyên giáo-báo chí.
Nội dung bao gồm nhiều lĩnh vực, nhưng vẫn tồn tại đứng đầu là tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên, kể cả những người đã nghỉ hưu và cựu chiến binh. Do đó cách dùng chữ trong diễn văn hay cách trình bày lần này gay gắt hơn.
Những câu chữ thường được sử dụng gồm:“không cho phép ai làm trái quan điểm, Cương lĩnh, đường lối của Đảng”; “cần kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; không để suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; tuyệt đối không được chủ quan và để bị động bất ngờ, đặc biệt đối với các địa bàn chiến lược, trọng điểm cũng như trong lĩnh vực diễn biến hòa bình…”
NỘI CHÍNH-NGOẠI NHẬP
Đứng đầu và nói nhiều vẫn chỉ một mình ông Trọng. Ông khuyến cáo cán bộ ngành Nội chính phải :”Tham mưu kiểm tra, giám sát việc xây dựng, ban hành, thực thi pháp luật có đúng đường lối, quan điểm của Đảng không? Có bị tác động, hướng lái chính sách theo giá trị “tự do, dân chủ” của các thế lực thù địch, chống đối không?… Các đồng chí phải “gác gôn” cho Đảng trên lĩnh vực này, không cho phép ai làm trái Cương lĩnh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng.”(Diễn văn tại Hội nghị ngành Nội chính Đảng, ngày 22/01/2019, tại Hà Nội)
Theo phân công thì Ban Nội Chínhlà cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực nội chính và phòng, chống tham nhũng.
Do đó, nếu Nội chính mà để cho đảng viên bị nhiễm trùng phản đảng từ bên ngoài, nhất là của “các thế lực thù địch” mà chính đảng cũng không biết từ đâu tới, hay do ai chủ động thì nguy to.
Do đó, ông Trọng đã yêu cầu Nội chính phải:”Nắm chắc tình hình, phối hợp tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết kịp thời các vấn đề nổi lên về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, nhất là về an ninh biên giới, an ninh trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, an ninh tôn giáo, an ninh nông thôn; hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; hoạt động của các loại tội phạm nguy hiểm; những bức xúc, khiếu kiện đông người kéo dài, phức tạp…. không để phát sinh “điểm nóng”, bị động, bất ngờ.”
Nhưng khi nói đến an ninh trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số là ông Trọng muốn ám chỉ đến những liên hệ không tốt với đảng của một số sắc tộc trên Tây Nguyên có gốc Lực lượng Fulro và vùng Tây bắc lãnh thổ Việt-Lào. Tại hai vùng lãnh thổ nhạy cảm này, người dân tộc Tây Nguyên vẫn thường là nạn nhân của kế hoạch chiếm đất có hệ thống của cán bộ, đảng viên người Kinh (thuần Việt). Trong khi người Dân tộc sống giáp ranh với Lào, đặc biệt Dân tộc H’Mông lại là nạn nhân của kỳ thị tôn giáo và tập quán nên hay xẩy ra những xung đột với chính quyền.
Về điều được gọi là “an ninh tôn giáo” và “điểm nóng” thì, tuy ông Trọng không nói ra nhưng ai cũng biết đảng luôn luôn muốn coi chừng để biết những người có đạo, hay công nhân lao động có trung thành với đảng không ?
Do đó, công tác gọi là “tôn giáo vận” và “công tác công đoàn” đã được giao cho Bộ Công an quản lý theo dõi chặt chẽ. Những người theo đạo Công Giáo, đặc biệt tại hai Giáo phận Vinh và Hà Tĩnh(mới thành lập ngày 22/12/2018) ở miền Trung đã bị đặt vào khung “an ninh tôn giáo” để theo dõi, sau khi các tín đồ và một số Linh mục lãnh đạođã xuống đường chống Formosa trong vụ Công ty này xả thải làm chết cá và hủy hoại môi trường biển trong khu vục 4 Tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế hồi tháng 04 năm 2016.
Ngoài ra quan hệ giữa chính quyền Cộng sản với Giáo Hội Công Giáo không tốt đẹp trong các vụ nhà nước chiếm đất Nhà Thờ đã xẩy ra tại Hà Nội (điển hình làvụ Thái Hà-đất Tòa Khâm Sứ), Sài Gòn (vụ Thủ Thiêm, Nhà dòng Chúa Cứu Thế) Vĩnh Long (dòng Thánh Phao Lô), Tu viện Thiên An (Huế) vẫn chưa được giải quyết ổn thỏa.
Đã có nhiều vụ Tu sỹ Công Giáo và Phật giáo ngoài quốc doanh xuống đường đòi đất, chống thu hồi bất hợp pháp nhưng nhà nước vẫn chiếm và coi hành động hợp pháp của Tu sỹ có động lức liên quan đến “an ninh tôn giáo” cần phải theo dõi.
QUÂN ĐỘI-CÔNG AN
Đó là lý do tại sao trong vài năm vừa qua, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã bám sát Quân đội và Công an để bảo vệ chế độ.
Phát biểu tại Hội nghị Quân chính toàn quân ngày 10/1/2019, ông Trọng hô hào :”Tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân. Chủ động, nhạy bén, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; các biểu hiện cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, giảm sút niềm tin, mơ hồ, mất cảnh giác; không để suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tiếp tục đổi mới, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác dân vận, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thắt chặt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Quân đội với Nhân dân, củng cố vững chắc thế trận lòng dân, tăng thêm niềm tin yêu của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội.”
Ông Trọng nói đến “quan hệ máu thịt” giữa dân, quân và đảng, nhưng ông là người phải biết rõ dân đã chán đảng đến tận mang tai sau 44 năm thống nhất đất nước. Câu tuyên truyền ngày xưa “cán bộ đi trước, làng nước theo sau” đã bị nhân gian đổi thành “cán bộ ăn trước, làng nước trơ ra.”
Trước đó, ngày 07/01/2019, ông Nguyễn Phú Trọng, trong tư cách Bí thư Quân ủy Trung ương đã nói với Lãnh đạo Quân đội:”Trên nền tảng tư tưởng chiến lược, quân đội tiếp tục tập trung nghiên cứu, nắm chắc, đánh giá chính xác, dự báo đúng và sớm tình hình để chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ quân sự quốc phòng, tuyệt đối không được chủ quan và để bị động bất ngờ, đặc biệt đối với các địa bàn chiến lược, trọng điểm cũng như trong lĩnh vực diễn biến hòa bình.”
Nhưng “cácđịa bàn chiến lược, trọng điểm” là ở đâu ? Tại sao đã từ lâu không thấy ông Trọng nói gì đến tình hình Biển Đông, nơi Trung Cộng đang củng cố các vị trí quân sự tại 7 đảo nhân tạo ở Trường Sa mà trước đây là các bãi và đá của Việt Nam bị Trung Cộng đánh chiếm từ ngày 14/03/1988. Đó là : Vành Khăn, Tư Nghĩa, Subi, Gaven, Chữ Thập, Gạc Ma và Châu Viên.
Về lĩnh vực được gọi rất mơ hồ là “diễn biến hòa bình”, ông Trọng vẫn lửng lơ không minh bạch định hình như bấy lâu nay, nhưng Hội đồng lý luận Trung ương và Ban Tuyên giáo đảng đã nhiều lần lấy bài học khối Liên Xô tan rã năm 1991 là hệ qủa của “ chiến lược chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa chống lại chủ nghĩa xã hội” . Chiến lược này, theo phía Việt Nam, không bằng tiếng súng mà qua đấu tranh không đổ máu của quần chúng, hay còn gọi là “cuộc cách mạng nhung” do khối các nước Tư bản, đứng đầu là Hoa Kỳ, bảo trợ.
Đó là lý do tại sao Hội đồng Lý luận Trung ương, Ban Tuyên giáo của đảng CSVN và Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phòng đã từ lâu đề cao chủ trương của Bộ Chính trị, cơ quan kiểm soát và lãnh đạo toàn diện đảng và nhà nước, buộc cán bộ, đảng viên phải kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh, và phải tuyệt đối trung thành với Đảng để chống lại “diễn biến hòa bình”.
Theo quan điểm của lãnh đạo đảng CSVN, thì “diễn biến hòa bình” có mục đích tối hậu là loại đảng ra khỏi vai trò lãnh đạo với những kế hoạch :
-Đòi đa nguyên, đa đảng chính trị.
-Đòi phi chính trị hóa Quân đội.
-Phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin ngoại lai.
-Xét lại con người và tư tưởng của Hồ Chí Minh.
-Duyệt xét vai trò lịch sử đích thực của đảng CSVN.
-Đòi cho tư nhân ra báo để cạnh tranh, thao túng dư luận.
-Đòi lập hội, công khai hoạt động của các Tổ chức xã hội dân sự.
-Đòi quyền tự do biểu tình để gây bất ổn xã hội
Vì vậy , dù 2 quyền “lập hội” và “biểu tình” có ghi trong Điều 25 Hiến pháp năm 2013 (Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.) nhưng, Chính phủ và Quốc hội đã cố tình trì hoãn không đem ra thảo luận từ nhiều năm qua.
Cả hai dự Luật này đều có bàn tay soạn chung của các Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội Vụ, Bộ Lao Động, Liên đoàn Lao động Việt Nam v.v…
Nên biết, Hội đồng Lý luận Trung ương, theo Bách khoa toàn thư mở là “cơ quan tham mưu cho Đảng CSVN về các vấn đề lý luận chính trị, chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Xã hội, định hướng và hoạch định các chính sách, chuẩn bị văn kiện cho Đại hội Đảng Toàn quốc”.
Trong khi Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, người có bằng Tiến sỹ Xây dựng đảng đã từng giữ chức Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa Trung Ương (Tuyên giáo sau này) và Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương nên ông được coi là người cực kỳ bảo thủ và là đệ tử trung thành của Chú nghĩa Cộng sản.
Đó là lý do tại sao ông đã nói với các Tướng lãnh tại Hội nghị Quân ủy Trung ương ngày 07/01/2019 rằng:” Lực lượng quân đội phải đi đầu trong công tác đấu tranh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, kiên quyết đập tan mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch và các phần tử xấu.”
Sau Quân đội, ông Trọngcòn nằm chức quantrọng khác là Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương. Tại Hội nghị của Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương ngày 28/11/2018 tại Hà Nội, ông Trọng đã ra lệnh Công an phải :” Triển khai quyết liệt, giữ vững an ninh chính trị, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nội địa.”
Ông cảnh giác mọi người rằng:”Vẫn còn tiềm ẩn không ít nguy cơ, tuyệt nhiên không được chủ quan, không được ngủ quên trên vòng nguyệt quế, âm mưu chống phá của các thế lực thù địch còn lâu dài, suy thoái trong nội bộ còn âm ỉ, rồi tình trạng khiếu kiện đông người, vấn đề an ninh mạng… Cho nên, phải khẳng định rõ thành tựu to lớn, sự vững vàng, kiên định của lực lượng công an, vị trí, vai trò quan trọng của lực lượng công an; đồng thời đấu tranh phản bác lại những tư tưởng, luận điệu xuyên tạc, hạ thấp uy tín của lực lượng công an.”
TUYÊN TRUYỀN AI NGHE ?
Bằng chứng khác của tình trạng rối ren tư tưởng loạn cào cào đang làm đảng hoang mang tột độ đến từ Hội nghị Tuyên giáo toàn quốc ngày 29/12/2018.
Chỉ đạo Hội nghị là ông Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư. Nhưng ông Vượng cũng chỉ biết kêu gọi “đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ…”
Đến phiên người đứng đầu ngành Tuyên giáo, Ủy viên Bộ Chính trị Võ Văn Thưởng lại hát theo để yêu cầu cán bộ Tuyên giáo phải: ” Tuyên truyền, kịp thời định hướng tư tưởng chính trị, dư luận xã hội, mở đường cho chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Thông tin kịp thời, có định hướng là điều kiện quan trọng để định hướng tư tưởng và dư luận, chủ động ngăn chặn và đấu tranh với những luồng thông tin, quan điểm sai trái, các luận điệu xuyên tạc, phản động; thống nhất quan điểm về tầm quan trọng của cuộc đấu tranh trên không gian mạng hiện nay, từ đó xây dựng và phát triển mạnh mẽ lực lượng đấu tranh trên mặt trận này, ngăn chặn và triệt phá kịp thời mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch; chủ động, kịp thời định hướng thông tin chính thống đến người dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị.”
Trước đó, chiều ngày 28/12/2018, báo chí Việt Nam cho biết :”Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông và Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức hội nghị báo chí toàn quốc tổng kết công tác năm 2018, triển khai nhiệm vụ năm 2019.”
Tại đây, ông Thưởng nói:”Thách thức từ mạng xã hội đối với báo chí là rất lớn, nhưng thách thức lớn hơn chính là tư tưởng, tâm thế thất bại, thua cuộc của người làm báo… Bên cạnh đó, thách thức lớn nhất đối với hoạt động báo chí hiện nay là có nguy cơ bị truyền thông xã hội “vượt mặt”, mất vị trí độc quyền cũng như qua mặt về tốc độ trong việc cung cấp thông tin đến độc giả.”
Cuối cùng, người cầm đầu ngành tuyên truyền lại vẫn như con gà chạy quẩn cối xay khi kêu gọi :”Ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.”
Ông Thưởng còn khuyến cáo cần:” Nắm chắc tư tưởng, tình trạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trước những biến động khó lường của xã hội.”
Cuối cùng, hãy nghe Thượng tướng Lương Cường, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương (QUTƯ), Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị (TCCT) nói trước Hội nghị cán bộ chính trị toàn quân ngày 11/01/2019 về nhiệm vụ :”Xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, kịp thời quán triệt quan điểm, tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc; chủ động thông tin, tuyên truyền, định hướng tư tưởng, dư luận cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trước những vấn đề mới, phức tạp, nhạy cảm; tích cực đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa và uy tín của Quân đội.”
Tướng Cường yêu cầu các Chính ủy phải:“Chủ động thông tin, tuyên truyền nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, đối ngoại quốc phòng, kịp thời định hướng tư tưởng, dư luận trong cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trước những sự kiện chính trị quan trọng; tích cực đổi mới nội dung, hình thức đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.”
Như vậy, từ Đảng đến Quân đội, Công an và hai ngành tuyên truyền hàng đầu của đảng là Ban Tuyên giáo và Tổng cục Chính trị đều kêu gọi cán bộ đảng viên phải kiên định tư tưởng để giữ cho đảng không tan. Trong khi lãnh đạo Đảng lại nhìn đâu cũng chỉ thấy “các thế lực thù địch” thì tư tưởng đảng viên đang đi về đâu ? -/-
Năm hết Tết đến! Lại một mùa Xuân ở xứ người! Có gì vui mà ăn với mừng!
Thế nhưng…Cứ như thông lệ, mỗi năm một chuyện, năm Hợi dĩ nhiên nói chuyện Heo. Chắc có người sẽ thắc mắc sao tôi lại kể chuyện của bác Thỉ. Thật ra, tôi định gọi bác là Trư cho thêm phần hài hước, nhưng chợt nhớ, tên này lại lấy từ truyện „Tây Du Ký“ của „người anh em Trung Quốc“ (gọi theo bác và đảng), đang lâm le thôn tính quê hương mình, nên tôi vội bỏ vào sọt rác. Một người sinh sau đẻ muộn như tôi, hoàn toàn mù chữ Nôm, phải lật đi lật lại bao nhiêu trang sách mới vớ được tên Thỉ, trong chuyện „Lục Súc tranh công“ (tácgiả khuyết danh, viết bằng chữ Nôm, do học giả Trương Vĩnh Ký dịch ra chữ Quốc Ngữ lần đầu tiên năm 1887), thế là xử dụng ngay. [Tiếp Theo]
Các hộ dân bị cưỡng chế nhà ở giáo xứ Cồn Dầu ở Đà Nẵng và vườn rau Lộc Hưng ở Sài Gòn chia sẻ với VOA rằng họ “ăn cái Tết hết sức đau đớn và bi thảm, xuân về nhòa trong nước mắt và sự cam chịu.”
Ông Huỳnh Ngọc Trương, người dân tại giáo xứ Cồn Dầu, mô tả nỗi khó khăn của người dân bị cưỡng chế. Ông nói rằng họ từng có nhà cửa khang trang nhưng đã trở nên vô gia cư.
“Tết đến xuân về mà họ không có nhà, họ phải trọ ở các nhà khác trong giáo xứ Cồn Dầu. Hai ba gia đình gom về ở chung với nhau. Các gia đình còn nhà thì chia sẻ với gia đình mất nhà; vài lon gạo, chai nước mắm, hay đòn bánh tét. Đó là tình cảm của bà con dành cho những người mất nhà. Họ sống rất vất vả, khó khăn. Một cái Tết rất là buồn!”
Chính quyền thành phố Đà Nẵng loan báo họ đã thực hiện cưỡng chế hôm 15/11/2018 đối với 7 trường hợp có nhà đất tại tổ 85, phường Hòa Xuân “nằm trong diện giải tỏa, nhưng không chịu bàn giao mặt bằng để triển khai dự án Khu đô thị sinh thái Hòa Xuân.”
Mất nhà khi đang ở Mỹ
Ông Trường nói thêm rằng chính quyền thực hiện cưỡng chế nhà và đất của bà Nguyễn Thị Hải trong ngày hôm ấy ngay khi bà đang thăm con ở Mỹ.
“Sau khi bà Nguyễn Thị Hải đi vắng thì chính quyền thành phố đã cưỡng chế nhà bà. Khi bà quay về thì nhà đã tan hoang. Bà lăn lộn thảm thiết khi nhìn thấy ngôi nhà của mình không còn nữa. Bà có dựng căn lều nhưng chưa đến 2 tiếng sau thì chính quyền huy động lực lượng giống như hôm cưỡng chế xông vào và xô ngã lều chở về phường.”
Bà Nguyễn Thị Hải, cũng là một giáo dân ở giáo xứ Cồn Dầu, nói với VOA rằng chính quyền có “âm mưu cưỡng chế” khi bà vắng nhà.
“Tôi đi khỏi thì họ có âm mưu cưỡng chế nhà. Tôi cứ nghĩ rằng họ sẽ không cưỡng chế vì tôi không có ở nhà. Nhưng họ làm thật, con tôi có chứng kiến và bị ngất xỉu, họ lôi cổ con tôi đưa về phường. Họ hốt hết tài sản, của cải, và tiền bạc.”
Bà Nguyễn Thị Hải chia sẻ thêm rằng trong chuyến đi đến thủ đô Washington vào đầu tháng 11/2018 bà đã trao đổi với Bộ Ngoại giao Mỹ và Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ về nguy cơ nhà bà bị cưỡng chế.
“Tôi đã nhờ Bộ Ngoại giao Mỹ can thiệp, cứu giúp tôi. Nhưng sau đó thì chính quyền vẫn cưỡng chế vào ngày 15/11.”
Người già vô cư
Bà Nguyễn Thị Mộng Hoàng, một nạn nhân khác có nhà bị cưỡng chế, thuật lại sự việc diễn ra hôm 15/11:
“Người ta cắt điện, cắt nước vào sáng ngày 14, lực lượng an ninh bao quanh nhà, khuya ngày 14 thì họ đi quanh cả đêm. Đến sáng ngày 15 thì lực lượng công an, an ninh tổng cộng cả ngàn người cùng xe cứu thương, xe cứu hỏa, xe phá sóng, ….có cả những người bịt khẩu trang đến cưỡng chế. Nhà tôi bị bắt giam lỏng cả thảy 8 người ở trên phường.”
Đang cùng cha mẹ già tá túc tại nhà người thân trước thềm xuân Kỷ Hợi, bà Hoàng không cầm được nước mắt, nói:
“Bây giờ nhà mất, trời mưa rét nhưng cha mẹ không có chốn nương thân, phải ở nhờ nhà người khác. Cha mẹ tôi lớn tuổi muốn tái định cư tại chỗ, gần nhà thờ để đi lễ sớm hôm, nhưng họ không cho.”
Báo Đà Nẵng nói đã được triển khai hơn 10 năm nhưng Dự án Hòa Xuân vẫn chưa về đích. Tình hình ở Cồn Dầu “nóng” lên khi một số ít hộ dân ở đây tiếp tục gửi đơn khiếu kiện về thu hồi đất.
Chính quyền thành phố nói đã xem xét, giải quyết những kiến nghị của người dân, “nhưng một số hộ chưa chấp nhận nên tiếp tục khiếu kiện lên trung ương.”
Tết nương náu ở công viên
Trong khi đó, Tết đến với các cư dân có nhà bị cưỡng chế tại vườn rau Lộc Hưng, Quận Tân Bình ở Thành phố Hồ Chí Minh, lại còn bi đát hơn, khi hơn 100 hộ nơi đây vất vả đi tìm nơi lưu trú sau hai đợt cưỡng chế vào ngày 4 và 8 tháng 1/2019.
Bà Trần Minh Thi, một cư dân Lộc Hưng, chia sẻ với VOA về cuộc sống hậu cưỡng chế:
“Chúng tôi không còn nhà cửa để đón Tết. Chúng tôi tứ tán mỗi người mỗi nơi. Tinh thần hoảng loạn. Chúng tôi không có không khí gì gọi là Tết cả. Chúng tôi phải tìm nơi khác thuê nhà. Không còn cái gì cả. Thôi thì chúng tôi đành phải chấp nhận.”
Bà Thi nói thêm:
“Ai chui rút được với cha mẹ thì chui rút. Một số thì đi thuê mướn nhà ở xa như Bình Chánh, Hốc Môn, Nhà Bè có giá rẻ hơn một chút để có nơi sinh hoạt hằng ngày. Một số người khó khăn thì phải sống ở công viên, vào nhà sách, siêu thị…để tắm rửa, còn ăn uống, ngủ nghỉ… thì thật khó khăn.”
Ông Trường chia sẻ rằng ông sẽ cùng người dân giáo xứ Cồn Dầu sau Tết sẽ ra thủ đô Hà Nội khiếu kiện và có kế hoạch lưu ở đó dài hạn, trong khi đó hơn 160 hộ dân Lộc Hưng cùng với sự trợ giúp của 17 luật sư đã lập hồ sơ khởi kiện chính quyền.
Người Việt ngày nay sinh sống trên khắp thế giới, dù ở quốc gia nào ngày Tết theo Âm lịch mọi gia đình Việt Nam đều lo cúng rước ông bà, tổ tiên về vui Tết. Cúng Tết để nhớ về quê hương, cội nguồn theo truyền thống dân tộc. Những người đi lao động cũng dành thời gian nầy về đoàn tụ với gia đinh vui chơi ngày Tết.
Mỗi năm cầm tinh một tên khác theo Thập-điạ, Can-Chi năm 2019 là năm Kỷ Hợi, mùng một Tết là ngày 5/2/2019 dương lịch. Người Việt gọi hợi là heo hay lợn. Quan niệm của người Việt, người Hoa, Đại hàn... người sinh ra năm nào thì lấy tên con giáp đó như: Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu.
Ngày nay người Trung Hoa thảo luận nhiều về vấn đề 12 con giáp và có người đề nghị thay các con “chuột, rắn, gà, heo” bằng những con vật khác là “sư tử, cá, phượng hoàng và chim hạc”. Lý do trong dân gian người Hoa luôn có một số quan niệm không tốt về những con vật trên. 12 con vật trong lịch của VN không giống với 12 con vật trong lịch của Trung Hoa (thử, ngưu, hổ, miêu, long, xà, mã, dương, hầu, kê, khuyển, trư). Ví dụ như chuột thì hay ăn vụng, gặm nhấm đồ vật, còn rắn thường có tâm địa xấu xa, heo thì tạp ăn biếng làm, gà kém may mắn hay đói như năm Ất Dậu 1945, ngoài Bắc xảy ra nạn đói chết người? Năm nào mang tên 4 con giáp trên là kém may mắn. Trong khi đó sư tử oai phong chúa tể của loài thú; chim phượng hoàng biểu tượng may mắn, còn chim hạc có đời sống trường thọ, ….
Nếu người Hoa hay Việt Nam thay đổi tên con giáp không quan trọng, nhưng thay đổi lịch là một vấn đề cần phải nghiên cứu lại. Mỗi quốc gia ảnh hưởng tùy theo thời tiết, phong tục, bản sắc văn hóa riêng. Tết dương lịch bắt đầu sau lễ Giáng Sinh từ ngày 31/12, các nước Tây phương áp dụng sớm nhất vào đầu thế kỷ thứ 16 và các thế kỷ tiếp theo, nước Ý năm 1522, Đức 1544, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha 1566, Tô Cách Lan 1600, Anh Quốc 1752, Nga 1918, Nam Tư và Rumani 1919. (theo Calendopaedia - Bách khoa chuyên lịch)
Nhật Bản từ cuối thế kỷ XIX năm 1873 thời Minh Trị Thiên Hoàng (明治天皇 Meiji-tennō) ăn Tết theo dương lịch, để công việc sản xuất, các ngành kỹ nghệ phù hợp theo nhu cầu với các nước Tây phương. Các nước Thái Lan, Lào, Ấn Độ… ăn Tết theo Phật lịch (ngày Phật Đản). Người Việt Nam, Trung Hoa phần lớn sống nghề nông nghiệp, ảnh hưởng theo quy luật thời tiết thiên nhiên từng mùa trăng, mùa nước... Kinh nghiệm năm Ất Sửu 1985 Việt Nam từng đổi lịch ăn Tết sớm hơn một tháng, đã làm xáo trộn đời sống nông nghiệp.
Dòng họ nhà heo theo khoa học
Về nguồn gốc của heo, theo tự điển các động vật (Das grosse Tier Lexikon nhà xuất bản Dorling Kindersly). Thời tiền sử, heo rừng bị con người bắt về nuôi thuần hóa tên khoa học (Sus scrofa domesticus hay sus domesticus). Năm 1830 lần đầu tiên ở tiểu bang Ohio nhờ khí hậu ấm, phôi giống loại heo Yorshi từ Anh quốc và Landrassen ra loại heo lớn trung bình, lông dài và da đều trắng lấy tên US Yorshire. Đến năm 1895 cũng tại Hoa Kỳ, phôi giống heo Đan Mạch thành công ra loại heo màu trắng, thân hình dài, tai lớn, thịt có phẩm chất ngon.
Heo US Yorshire.
Ở Đức, giữa thế kỷ thứ 19 vùng bắc Đức đã tạo được loại heo lông đen trắng có chấm đỏ Baldinger Tigerschwein. Năm 1926 vùng Angeln tiểu bang Schleswig-Holstein lai giống loại heo Angler Sattelschwein. Việt Nam đồng bằng sông Cửu Long có loại Ba Xuyên thân, chân ngắn lông đen trắng nặng khoảng 100 kilo. Trung Hoa có loại heo đen Beijing Black. Các quốc gia khác tìm được các giống như: Bantu, Banza Pig, Arawpawa Pig, Auckland Pigs, Black Salaonian, British Landrace, British Lop, British Saddleback, Belarus Black Pied, Belgian Landrace, Berkshire Pig, Bindenschwein Sus scrofa Vittatus… Đáp ứng nhu cầu cung cấp thực phẩm, heo được nuôi ở các trang trại lớn trên khắp thế giới (ngoại trừ khối Hồi Giáo), thức ăn được biến chế theo công nghiệp, người nuôi heo không cần phải nấu cám, hái rau vớt bèo, heo nuôi rất mau lớn, trọng lượng từ 180 đến 250 kilo. Được chuyên viên Thú y chăm sóc sức khỏe nên tránh được những bệnh dịch gây thiệt hại về kinh tế.
Tại Ðài Loan, họ gây giống được ba con heo, phát ra ánh sáng màu xanh lá cây từ đầu đến đuôi. Các con heo phát ra ánh sáng này được tạo ra từ một phôi thai heo bình thường và được cấy thêm gene từ một loài động vật khác. Tại Nhật cũng công báo thành công gây giống heo từ trong ống nghiệm. Các loại heo rừng sống ở Á Châu, Âu Châu và Bắc Mỹ. Họ của heo danh từ khoa học là Suidae là một họ sinh học, được các nhà khoa học chia làm nhiều loại khác nhau. Vì ảnh hưởng khí hậu nên loài heo có sự khác nhau về hình dáng và sức nặng. Loài heo không có tuyến bài tiết mồ hôi nên heo thường thích sống nơi ẩm ướt, đặc tính dùng mõm ủi đất tìm kiếm thức ăn và khứu giác rất nhạy cảm, nhiệt độ cơ thể của heo từ 38 đến 39,5 độ C. Các loại heo rừng thuộc loại heo hưu/ Babyrousa babyrussa và heo Phi châu/ Phacochoerus aethiopicus. Loại heo hưu sống trên các đảo của Indonesia, sống dưới các bụi rậm rừng nhiệt đới trong các bụi lau sậy bên bờ sông hồ nước, lớp da lốm đốm màu nâu và xám lông thưa, hai cặp răng nanh trên và dưới đều khác nhau, cong ngược và uốn về phiá sau rồi uốn ngược lại phiá trước. Heo rừng Phi châu/ Hylochoerus chia nhiều loại như Hylochoerus meinertzhageni sống khu vực xích đạo, loại u mắt / Phacohoeurs africanus hay Phacochoerus aethiopicus.
Heo lông rậm Potamochoerus larvatus, heo lông đỏ Potamochoerus porcus ở sa mạc Sahara… heo tai chổi / Potamochoerus. Heo Giant Forest Hog là loại heo lớn nhất trong dòng họ gia đình heo, con đực dài 2m, cao 110cm, nặng 250 kg, được bao phủ lớp lông màu đen, lớp lông sát da là màu cam đậm, tai lớn và răng nanh nhỏ hơn loại warthog &bushpig, giống heo này tìm thấy ở vùng rừng mưa nhiệt đới West & Trung tâm Africa Kenya và cao nguyên Ethiopian. Giant Forest Hog chỉ ăn cỏ và những cây trên mặt đất, không dùng mõm đào đất tìm thức ăn như các heo khác
(Red River Hog Heo đỏ)
Babirusa hay pig-deer xuất hiện lâu đời nhất trong họ nhà heo, thường sinh sống ở vùng nhiệt đới dọc theo bờ sông và hồ. Giống heo này hiện nay nằm trên danh sách có nguy cơ tuyệt chủng. Bearded Pig Sus barbatus ở vùng Đông Nam Á -Sumatra, Borneo, và Đông Phi luật Tân. Red River Hog sống ở rừng mưa và vùng núi Africa, Heo cân nặng từ 55-80 kg, lông nâu, chân đen, mõm đen trắng, chúng sống từng đàn từ 6-20 con.
Các loại heo ở Việt nam có tên khoa học Sus bucculentus, bao gồm nhiều giống heo bản địa, giống heo nhập cảng và các giống lai. Nhưng có nhiều tên gọi bình dân: heo nái, heo sữa, heo hạch (heo đực đã thiến), heo nọc (heo đực không thiến), heo lang (lông đốm đen trắng), heo mọi, heo cỏ…Mỗi vùng có nuôi giống heo, thích hợp với khi hậu thức ăn…các giống heo ngoại nhập đa dạng được nuôi tại Việt Nam là: Yorkshire, Landrace, Pietrain, Duroc và các loại heo lai giống. Tuổi trưởng thành của heo cái từ 9 tháng, Một con heo nái có thể đẻ từ 10 đến 12 heo con/lứa sau khoảng thời gian có chữa là 114 ngày và trong điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng tốt thì heo nái một năm sinh hai lần, heo con mới sinh nặng khoảng 1,5 kilo bú sữa mẹ, heo nái thường có 14 đầu vú hai bên (7 x2) heo mẹ uống mỗi ngày 10 lít nước, heo con uống 1,5 lít. Tất cả các giống heo đều ăn rất tạp đủ thứ động vật, thực vật, rau cám, cỏ vv... Heo là loài gia súc dạ dày đơn, cấu tạo bộ máy tiêu hoá của heo bao gồm miệng, thục quản. Dạ dày của heo trưởng thành có dung tích khoảng 8 lít, ruột non có độ dài khoảng 18-20 mét, ruột già và cuối cùng là hậu môn. Tùy theo giống heo, nuôi trên 6 tháng con đực nặng 300 - 370 kg, con cái nặng 250 - 280 kg.
Heo trong đời sống và văn học
Người đời thường chê heo là lười, ngu, bẩn thỉu, lôi thôi lếch thếch, cái gì xấu đều ám chỉ con heo! Nhưng trong các việc tế lễ, hôn nhân đều có cả con heo quay hay đầu heo làm lễ vật. Trong ngôn ngữ Đức có những câu chưởi như “diese Sau hat wieder alles voll gekleckert/con heo ấy đã bôi bẩn khắp nơi, hay diese verdammte Sau hat mich betrogen/ con heo ấy đã lừa tôi rồi! “to make a pig of oneself”. Ngược lại nói “có con heo/ Schweinegehabt/ that’s a bit of luck, có nghĩa là may mắn. “to buy a pig in a poke” giống như “mua trâu vẽ bóng”
Đời sống của heo cũng thông minh, dễ dạy, khứu giác rất nhạy bén. Ở Nga, người ta cũng tổ chức” piglets seek Moscow Omlypic glory “cho heo chạy đua, bơi trong những hồ nhỏ hay chơi banh, heo dùng mõm đẩy banh. Các loại heo choai choai được ưa thích từ các nơi: Mykola của Ukraine, Nelson của Nam Phi châu và Kostik của Nga”. Ở Việt Nam, ngoài trường đua chó lớn ở Vũng Tàu, cũng có trường đua heo ở một vài nơi?
Phim con heo, người ta thường liên tưởng đến các loại “phim cochon “khiêu dâm, nhưng có loại phim con heo hoạt hoạ: Pig is pigs, Porky Pig, Petunia pig, Looney Tunes được nhiều người hâm mộ, hiện nay các rạp đang chiếu phim Schweinchen Wilbur und seine Freunde/ “heo con Wilbur và người bạn”. Âm nhạc có nhiều nhạc phẩm như: Pigs on the Wing của Pink Floyd năm 1977, War Pigs của Black Sabbath năm 1970.
Tác phẩm Animal Farm là một tiểu thuyết trào phúng chỉ trích sự tha hóa của giới lãnh đạo chính trị của nhà văn Anh sinh tại Ấn Độ tên là George Orwell (1903-1950). Ông viết: “Tôi học được điều này đã từ lâu, không bao giờ vật lộn với con heo. Bạn sẽ làm bẩn mình, ngoài ra, lại còn làm con heo thích thú/ I learned long ago, never to werestle with a pig. you get dirty and besides, the big likes it”. Đó là một bài học về xử thế, cũng tựa như ta có câu “Thà làm đầy tớ người khôn còn hơn làm thầy thằng dại”! Tiểu thuyết không chỉ đề cập tới sự tham nhũng bởi các lãnh đạo bị tha hóa mà còn cả việc làm sao sự đồi bại, dửng dưng, lãnh đạm, ham danh lợi và thiển cận có thể tiêu diệt bất kỳ khả năng nào của một xã hội mới tốt đẹp và bình đẳng hơn. Tuy tiểu thuyết này thể hiện giới lãnh đạo tham nhũng như là sai lầm của cách mạng, nó cũng cho thấy nguy cơ để sự dửng dưng và lãnh đạm, dân trí thấp kém của những người dân bên trong một cuộc cách mạng có thể dẫn tới sự thất bại của nhà nước mới nếu sự chuyển tiếp êm đẹp sang một chính phủ với những người xứng đáng không được diễn ra. Lãnh tụ là chú heo đực già tại trại Manor kêu gọi các loài vật khác trong trại tới một cuộc họp, tại đó nó so sánh con người với những kẻ ăn bám và dạy các con vật một bài hát cách mạng, (Beasts of England/ những súc vật của nước Anh). Khi chú heo già chết ba ngày sau đó, hai con heo trẻ, Snowball và Napoleon, nắm quyền chỉ huy và biến giấc mơ của lãnh tụ thành một triết lý đầy đủ…
Loại cá thông minh được Hải quân huấn luyện để chống đặc công là loại cá heo, quốc gia Cuba có vịnh Con Heo năm 1962 sắp xảy ra chiến tranh Nga-Mỹ dưới thời tổng thống J. F. Kennedy và chủ tịch N.S Chruschtschow. Lịch sử Hoa Kỳ năm 1859 xảy ra vụ tranh chấp các vùng biên giới giữa Anh (Canada) Mỹ. Heo từ vùng nầy chạy sang ăn khoai tây vùng khác bị bắn chết gây tranh cãi “keep your pigs out of my potatoes!” hãy giữ heo các anh ngoài ruộng khoai chúng tôi “keep your potatoes out of my pigs” hãy giữ khoai các anh đừng đụng tới heo chúng tôi… Nếu không được dàn xếp thì hai bên đánh nhau tơi bời cũng tại vì heo! Hiện nay một số trường học, Đại học Arkansas lấy logo là con heo rừng Razorbacks…. (Sus scrofa) cho đội thể thao của trường. Ở Đức nhiều nơi chọn hình heo con quảng cáo, biểu tượng cho sự may mắn và phát tài. Đức, Việt Nam và có thể nhiều quốc gia khác cũng có loại heo đất bỏ tiền tiết kiệm,
Trong truyện Tây Du Ký của Trung Hoa có nhân vật Trư Bát Giới, đệ tử của thầy Huyền Trang có hình dạng nửa người nửa heo, Người Hoa cũng với tục lệ trong lễ cưới, có con heo quay đầy đủ đầu đuôi, sau đêm động phòng hoa chúc, nếu người con dâu không còn trinh trắng trước khi về nhà chồng, nhà trai cắt lỗ tai con heo quay đó trả lại cho nhà gái. Tục lệ đó, không biết ngày nay có còn tồn tại hay không? Với xã hội ngày nay Đông cũng như Tây phương tự do luyến ái, giới trẻ không còn quan trọng về trinh tiết.
Heo lành ai nỡ cắt tai
Gái ngu chồng bỏ, khoe tài nỗi chi? “
Trong thiên tình sử Odysseus của Homer thủy thủ đoàn bị nữ thần Circe biến thành heo. Thời xa xưa, Hy Lạp dùng heo để tế nữ thần Demeter. Tại Việt Nam nếu ai ở gần lò thịt, buổi sáng sớm nghe tiếng eng éc của heo bị chọc tiết, nhưng ở Đức các lò thịt dùng điện châm vào tai heo điện giật heo bất tỉnh bị chọc tiết… có chuyên viên khám gan và thịt trước khi đóng dấu cho bán ra chợ, không ai được phép tự giết heo bò ở nhà.
Do Thái giáo và các quốc gia theo Hồi giáo kiêng ăn thịt heo, lý do ngày xưa chiến tranh ở các nước Á Rập, nhiều người chết, xác chết không được chôn cất bị heo ăn sinh bệnh dịch, người ăn thịt heo bị truyền bệnh không có thuốc chữa trị, nên Giáo chủ Mohamed kêu gọi đừng ăn thịt heo vì heo là con vật dơ bẩn…, từ đó trở thành thói quen. Dù ngày nay người ta nuôi heo ở các trại chăn nuôi, đầy đủ tiêu chuẩn, có thức ăn biến chế, nếu phát hiện các bệnh dịch như long móng lở mồm... thì đàn heo đó bị đốt để tránh bệnh truyền nhiễm. Thiểu số người Thổ theo đạo Hồi, sống ở vùng ngoại ô Munich lén mua cừu hay bê làm thịt lậu, họ ăn thịt phải giết con vật theo nghi thức Hồi giáo, họ phải tự chặt đầu con vật sống… ngược lại Phật Giáo thì cấm sát sanh.
Ở thôn quê ngoài việc canh tác, ruộng vườn để thu hoạch ngũ cốc, người ta thường nuôi heo quanh năm, trong chuồng hay thả ngoài vườn, không tốn kém nhờ rau cám, chuối cây… phân heo dùng để bón ruộng lúa. Tháng chạp người ta bán heo để có tiền chuẩn bị ăn Tết, mua sắm quần áo mới cho con cháu. Có nhiều nơi những ngày cuối năm, vài gia đình, cùng làm thịt một con heo để chia nhau, ngoại trừ cái đầu heo dành cho gia chủ. Đầu heo giá trị của nó như một con heo trong việc cúng kiếng hay đi biếu người nào đó đã mang ơn.
Hơn ba thập niên trước ở Đức, vào tiệm thịt khó có thể tìm được đầu hay chân heo. Người Việt thích bao tử làm phá lấu, chân, đuôi để nấu bún bò Huế, đầu heo để cúng, làm giò thủ, muốn có phải vào lò thịt họ cho không lấy tiền. Thời nay kinh tế khó khăn nên các siêu thị ở Đức đều có bán: đầu, đuôi, chân heo cả móng, bao tử và ruột heo, có thể đặt con heo quay cở 5-10 kilo, gia vị do họ ướp, không được phép bôi màu đỏ ngoài da như heo quay bên quê nhà. Bởi vậy lễ cưới người Việt ở Đức còn nhiều gia đình theo phong tục Việt Nam đều có heo quay. Tuy nhiên các vùng biên giới Đức-Tiệp hay Ba Lan có người Việt phần lớn gốc Bắc, đi lao động trước kia, được phép ở lại sau khi chế độ CS Đông Âu sụp đổ. Họ buôn bán chợ trời, mùa hạ nắng ấm thì họ trồng rau muống, rau thơm, làm lậu thịt dê, gà, heo, bê, có đủ bộ lòng… Người Á Châu thích ăn các bộ lòng heo, bò… Nhưng người Tây phương họ không thích ăn, người nào bệnh gout ăn bộ lòng sẽ bị đau nhức sưng ở các khớp ngón chân cái vì quá nhiều Acid Uric/ Harnsäure trong máu…
Đề cập đến thịt heo, những người lớn tuổi đều ngại thịt heo vì nhiều mỡ, nhưng không thể quên, xứ Quảng Nam ngoài đặc sản mì Quảng còn món thịt heo ba rọi luộc quấn bánh tráng rau sống, chấm nước mắm ngon không chê vào đâu được, giống heo cỏ loại nhỏ nuôi ở quê ăn cám, chuối cây, rau thức ăn thiên nhiên nên thịt ít mỡ thơm ngon. Trong Nam vùng Trảng Bàng cũng có món thịt heo luộc, quấn bánh tráng phơi sương với bún, đủ loại rau thơm và những đọt lá non như trâm bầu, xoài, cốc… thêm món bánh canh giò heo cũng nổi tiếng. Riêng ở Munich du khách vào nhà hàng Đức, gọi cái đùi heo nướng “Schweine haxe”, với cục bột “Knödel” hay rau cải trắng chua uống ly bia, ăn một bữa no cả ngày.
Ở Viêt Nam sống tại thành phố, nếu nhà có vườn rộng, người ta cũng làm chuồng nuôi heo, “chuồng heo ở dưới, chuồng gà ở trên”, nhưng sau năm 1975 đất nước thống nhất một thời heo về thành phố, ngồi ở phòng khách, nằm ở cầu thang, cũng ăn hạt bo bo giống người…Heo không ngu; trái lại, heo rất thông minh, dễ dạy, và thân thiện. Chúng ta cảm thấy con heo gần gũi mà hình ảnh của nó đã đi vào thi ca dân gian và là biểu tượng văn hóa. Trong thi ca bình dân, heo được nhắc đến qua câu hò tiếng hát, mà chúng ta đã nghe dưới ánh trăng thanh, bên lũy tre xanh con đường làng bé nhỏ.
Em về thưa với mẹ cha
bắt heo đi cưới, bắt gà đi cheo
Đầu heo lớn hơn đầu mèo
Làng ăn không hết, làng treo đầu đình
Ông xã đánh trống thình thình
Quan viên níu áo ra đình ăn cheo
Để diễn tả sự chênh lệch của hai giai cấp này, trong đó người ta lấy con "heo" hay "lợn" làm biểu tượng cho sự giàu có sung túc qua các lễ hội, đám đình vì thế dân gian Việt đã đặt ra bài ca dao sau đây:
Anh là con trai nhà nghèo
Nàng mà thách thế anh liều anh lo
Cưới em anh nghĩ cũng lo
Con lợn chẳng có, con bò thì không
Tiền gạo chẳng có một đồng
Thiên hạ hàng xứ cũng không đỡ đần
Sớm mai sang hiệu cầm khăn
Cầm được đồng bạc để dành cưới em...
Cuộc sống hôn nhân ở thôn quê không kiêu sa đài các, chỉ có uớc mơ bé nhỏ trở thành vợ chồng thật đơn giản, lễ cưới không cần đầu heo mâm thịt, hay vàng bạc châu báu. Con heo đôi khi là một tài sản lớn của nhà nông nghèo! Họ chỉ cần một cặp vịt đôi bông làm sánh lễ. Tình yêu không đến với con người bằng ý nghĩ lý luận mà bằng sự giao cảm giữa 2 con tim, đem lại nguồn sống thanh bần và chung thủy.
Người ta giàu thì đầu heo mâm thịt
Hai đứa mình nghèo thì cặp vịt đôi bông
Người ta thách lợn, thách gà
em thách cưới, một nhà khoai lang
Quanh năm trên đồng ruộng vườn rau, nên quan niệm về hôn nhân của giới bình dân đơn sơ, mộc mạc làm sao đủ tiền để nợp cheo cho làng khi «rước nàng về dinh ». vấn đề hôn nhân theo quan niệm xưa phải “môn đăng hộ đối”, chọn một người vợ phải xem dòng họ đó ra sao?
Nuôi heo thì phải vớt bèo
Lấy vợ thì phải nợp cheo cho làng
Lựa được một con dâu sâu con mắt
Mua heo chọn nái, lấy gái chọn dòng
Phản ảnh một phần nào sinh hoạt của xã hội bình dân, thi ca trào phúng đưa giá trị con heo lên để so sánh.
Mẹ tôi tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh hưng
Ai đã bảo mẹ rằng: «đừng»
Mẹ hầm, mẹ hứ mẹ bưng ngay vào.
Nước chảy dưới đèo
Bà già lật đật mua heo cưới chồng
Cưới về chồng bỏ chồng dông
Bà già mới tiếc ba mươi đồng mua heo
Còn duyên anh cưới ba heo
hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi
Đang khi, lửa cháy, cơm sôi
Lợn kêu con khóc, chồng đòi tòm ten
Bây giờ lửa đã cháy rồi
Lợn no, con nín, tòm tem thì tòm
Dưới chế độ phong kiến, cảnh đàn ông năm thê bảy thiếp, cho nên tâm tư của người đàn bà bình dân lúc nào cũng phảng phất chống đối hờn dỗi ghen tương…
Một vợ nằm giường lèo
Hai vợ nằm chèo queo
Ba vợ ra chuồng heo mà nằm
Hoặc than thân trách phận vì không cưới được người yêu giống như cảnh con heo bị chủ bỏ đói để rồi mừng rỡ khi ước mơ thành sự thật:
Yêu nhau chả lấy được nhau
Con lợn bỏ đói buồng cau bỏ già
Bao giờ sum họp một nhà
Con lợn lại béo cau già lại non.
Người bình dân quanh năm sống với ruộng đồng, gieo mạ, trồng rau, họ đã từng trải cách ăn uống ở miền quê hay thiên tai bão lụt, theo kinh nghiệm họ có thể đoán trước thời tiết sẽ xảy ra:
Con gà tục tác lá chanh
Con heo ủn ỉn mua cho đồng hanh
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng
Trông mặt mà bắt hình dong
Con lợn có béo thì lòng mới ngon
Theo kinh nghiệm người nhà nông có thể đoán trước thời tiết sẽ xảy ra:
Gió heo may chẳng mưa dai thì bảo giật
Gió heo may, Chuồn chuồn bay thì bảo
Gió heo may mía bay lên ngọn
Gió heo lành lạnh thổi về
Thương người quan ải lòng tê tái sầu
Theo tục lệ, hằng năm ở Hà Tây vào ngày mùng 7 tháng Giêng tổ chức lễ Hội “chạy lợn” nhắc lại sự tích vào đời Hùng Vương thứ 18, có một vị tướng tên húy là Nguyễn Hiển, hành quân qua đây để đánh đuổi giặc. Các bô lão trong làng xin làm cỗ khao quân, vị tướng yêu cầu phải làm nhanh để binh sĩ lên đường hành quân đánh giặc. Vào ngày lễ hội trên, con lợn được đem ra lễ hội "chạy lợn" phải được nuôi hết sức cẩn thận. Trước lễ hội 10 ngày, chỉ cho ăn cháo gạo nếp, tắm rửa bằng nước lá thơm sạch sẽ mỗi ngày. Dân làng mở hội "chạy lợn" để nhớ về một truyền thống có ý nghĩa về tình quân dân cá nước thời xa xưa. Nhóm nào làm thịt nhanh mâm cỗ đầy đủ đầu, đuôi, bộ lòng sẽ được thưởng.
Sự tích cây huyết dụ, theo truyền thuyết ngày xưa ở gần Chùa, có người chuyên làm thịt heo buổi sáng đem ra chợ bán, thời đó chưa có đồng hồ báo thức, buổi sáng Chùa thường đánh chuông, tiếng Đại hồng chung ngân xa. Người làm thịt heo nghe tiếng chuông thức dậy giết heo, nhưng đêm đó thầy Trù Trì nằm chiêm bao thấy con heo nái tới vang xin ngài đừng đánh chuông buổi sáng, để người giết heo ngủ quên, heo sắp đẻ một đàn con, nếu giết mẹ thì chết cả con… Thức giấc thầy Trù Trì không đánh chuông sáng, người chuyên làm thịt heo ngủ trễ, không thể thịt con heo đã nhốt trong chuồng để bán buổi chợ sáng, người đó đến Chùa la lối tại sao Thầy không đánh chuông sáng? Thầy kể lại cho người đó nghe giấc mơ đêm qua, ông ta về nhà thấy con heo nái mình định làm thịt đẻ được chục heo con. Ông ta ân hận, bởi con vật đều có sự sống, ông mang con dao sử dụng hàng ngày tới cắm ở sân Chùa, thề không sát sanh nữa, từ chỗ con dao mọc lên cây huyết dụ. Trong Tam Quốc Chí, cũng có câu chuyện liên hệ tới Lợn (một con lợn đổi 8 mạng người). Đó là chuyện Tào Tháo giết cả nhà Lữ Bá Xa, Ông Lữ đi mua rượu, người nhà mài dao chuẩn bị giết heo đãi Tào Tháo, Tháo là người da nghi tưởng lầm họ đang tìm cách giết mình. Nên Tháo giết hết và xuống bếp thấy con heo bị cột nằm chuẩn bị làm thịt, biết mình giết lầm bỏ đi ra đường gặp Lữ cưỡi lừa màng vò rượu về…Tháo giết luôn để tránh thù sau! thật là con người quá khốn nạn.
Trong dân gian còn có chuyện cổ tích Trạng lợn. Trạng Lợn xuất hiện như một nhân vật trào phúng, đời vua Lê Thánh Tông đả kích những thói hư tật xấu của bọn quan lại…Ngược lại quan thiến heo, người Bắc gọi là quan hoạn lợn(1) năm 1977 ông ta làm Phó Thủ tướng kiêm nhiệm Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp tại miền Nam. Theo ký số X1, X2 và X3. Ngày 23-3-1978 tất cả các cơ sở kinh doanh, buôn bán, nhà hàng, cửa hàng, kho tàng, trung tâm dịch vụ bị niêm phong. Nhà cầm quyền CS đánh tư sản tịch thu nhà cửa, đuổi người ta đi kinh tế mới là một hình thức ăn cướp tài sản của người dân miền Nam. Cả năm hàng đoàn xe tải bịt bùng, nối tiếp nhau chở hàng về miền Bắc, làm cho người dân miền Nam đến tận cùng khổ đau, nghèo đói… Sau chiến dịch X3, hang chục ngàn gia đình cán bộ CS miền Bắc vào Sài gòn sinh sống trong những ngôi nhà được tịch thu để rồi cả heo và người sống chung trong phòng. Những ngôi nhà ấy bây giờ giá trị hàng triệu đô, từ bần cố nông bây giờ họ là “đại gia”. Chúng tôi đi qua đường Kỳ Đồng, gần Dòng Chúa Cứu Thế, nhìn lại nhà xưa gợi lại kỷ niệm một thời đã bị cướp mất!
Tổng bí thư CS Nga Nikita Khrushchev từng hãnh diện về nguồn gốc chăn heo của mình, kể chuyện thuở ấy đi chăn heo tiền lương rất rẻ. Làm nghề thiến heo, phu đồn điền cao su, y tá… không ai chê trách, nhưng chỉ chê thành phần học vấn ít, và cuồng tín lãnh đạo đất nước để rồi bán nước cầu vinh.
Những câu chuyện cổ tích hay huyền thoại trong dân gian, đều nhắc nhở con người sống phải có đạo đức và đức tin. Nếu sống theo chủ nghiã vô thần, họ không tránh được những hình phạt, không đời nầy thì cũng tới đời con cháu. Nhìn lại lịch sử Việt Nam trong 43 năm qua biết bao nhiêu đổi thay tình người bị đánh mất, đạo đức suy đồi…giặc ngọai xâm chiếm đất đai, biển đảo của Tổ Tiên chúng ta bỏ xương máu dựng nước. Bọn “lợi dụng chức quyền, nhóm lợi ích” cậy quyền, tham lam tranh giành quyền lực đấu đá, thanh trừng phe nhóm, phá nát đất nước…Nhiều người đã qua đời nhưng vẫn bị người đời nguyền rủa, đúng như tục ngữ:
Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ
Đời người vô thường và mong manh, sống phải có đức cho con cháu được nhờ theo luật nhân qủa thì „ai gieo gió thì giặt bảo“.
TT Donald Trump nói trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 25/9/2018 kêu gọi các nước trên thế giới “chống lại chủ nghĩa xã hội và những đau khổ mà nó đã gây ra cho mọi người”.
Báo cáo Chỉ số Dân chủ 2018 của tạp chí The Economist công bố ngày 8/1 xếp Việt Nam vào trong số những nước độc tài với điểm số là 3.08 trong thang điểm từ 0 đến 10, trong đó 0 là thấp nhất và 10 là cao nhất. Điểm số này cũng tương đương như năm 2017. Tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế (HRW) ngày 10/1 kêu gọi Liên minh châu Âu hoãn phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam, cho tới khi chính phủ Việt Nam có các biện pháp cụ thể để cải thiện hồ sơ nhân quyền ngày càng tệ hại của mình.
Dân tộc Việt phải noi gương tiền nhân chống lại giặc ngoại xâm để bảo vệ biển đảo. Năm con heo đến mọi người mơ uớc nước Việt chúng ta có “ngọn gió đổi thay”, để Việt Nam có Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền là cơ hội làm nên những trang sử oai hùng cho dân tộc Việt.
Nguyễn Quý Ðại
Tài liệu tham khảo
1/ Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên viết: Đỗ Mười làm nghề hoạn lợn
Bách khoa toàn thư Wikipedia
Tiere und Lebensräume của wissensbibliothek
Tuyển tập tục ngữ ca dao Việt nam nhà Xb văn học
(Thành thật cảm ơn các tác giả, và tôi xin mạn phép copy hình tài liệu các loại heo rừng được phổ biến trong tự điển)
Tết Nguyên Ðán là những ngày lễ lớn nhất đầu năm của người Việt Nam. Trong ít nhất là ba ngày vui chơi, mọi công việc đều được tạm ngưng để mọi người, dù giàu hay nghèo, tưởng nhớ Tổ tiên, Ông bà, tiếp đãi Cha mẹ, thân nhân, bạn bè,… bởi chủ nhà, do đó chúng ta luôn nói là ‘ăn Tết’. Thời gian Tết này có thể nói bắt đầu từ ngày Tiển Ông Táo về trời và, từ ngày này, người Việt thường nói với nhau bằng ngày âm lịch như từ trưa 30 tháng chạp, người ta nghỉ việc để đón mừng Ông bà về ăn Tết với con cháu. Bởi thế, xin mời tìm hiểu về Niên Lịch này.
I.- SỰ HÌNH THÀNH ÂM LỊCH.
Âm lịch xuất hiện từ năm 2637 trước Ðức Kitô, được xây dựng theo đường đi của Mặt trăng quanh Trái đất, đúng vào ngày 15 mỗi tháng, hay chính xác hơn lúc đêm 15 âm lịch, phải trùng với Trăng tròn, trong sự lộng lẫy và sự sung mãn của nó. Mặt Trăng là một vệ tinh của Trái đất và phản chiếu như một tấm gương của ánh sáng từ Mặt trời khi đêm đến, và hợp thành 24 giờ (ngày và đêm), trong một động tác xoay liên tục đồng thời quanh Mặt trời, trong một khoảng thời gian dài 365,25 ngày và, cuối cùng, chính Mặt trời xác định bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu và Ðông với những đặc điểm riêng từng mùa.
Cần phải có sự hài hòa trong chuyển động đồng thời của Mặt trăng, Trái đất và Mặt trời, trong một hệ thống sức thu hút và sự hấp dẫn, được gọi là hệ Mặt trời. Do Mặt trăng không quay quanh bởi Trái đất và xét thấy chu kỳ hàng tháng của Mặt trăng (chỉ dưới 29 ngày rưỡi) không đồng nhất với thời gian 28, 29 và 30 ngày. Năm được chia thành các giai đoạn 12 tháng, tạo thành một năm có 355 ngày. Do đó, sau một vài năm, Mặt trăng bị trễ một tháng và sẽ được tính thêm tháng nhuận thứ 13 vào năm thâm hụt, để biến nó thành một năm nhuận. Ví dụ: năm Đinh Dậu (2017) bao gồm 13 tháng (với 2 tháng Sáu) là Năm Nhuận.
Năm 2019 thuộc chu kỳ (thế kỷ âm lịch, 60 năm) thứ 78 từ năm 1984 đến 2044. Trong chu kỳ này, có 5 loạt :
- 10 Thiên thể : Giáp (nước thiên nhiên) , Ất (nước đang sử dụng), Bính (lửa thắp), Đinh (lửa tiềm ẩn), Mậu (gỗ), Kỷ (gỗ cháy), Canh (kim loại nói chung), Tân (kim loại), Nhâm (đất chưa khai thác) và Quý (đất canh tác) ;
- 12 nhánh trên đất với 12 con vật (Giáp) : Tý (chuột), Sửu (trâu), Dần (hổ) , Mẹo hoặc Mão (mèo), Thìn (rồng), Tỵ (rắn), Ngọ (ngựa), Mùi (dê), Thân (khỉ), ớ (gà), Tuất (chó), Hợi (lợn hay heo).
Để chỉ định một năm bằng tên đầy đủ phải gồm hai từ : tên Thiên thể đi trước và tên Giáp đi sau. Thí dụ : 2016 (Bính Thân), 2017 (Đinh Dậu), 2018 (Mậu Tuất), 2019 (Kỷ Hợi), 2020 (Canh Tý). Sự kết hợp lần lượt này theo thứ tự liên tiếp của hai chuỗi song song tượng trưng cho Trời và Ðất sẽ cho phép hình thành một Thế kỷ âm lịch với 60 năm.
Ba ngày đầu tiên của tháng đầu tiên của năm mới được gọi là TẾT, hay ' ‘TẾT nguyên đàn'. Tết KỶ HỢI năm nay rơi vào ngày 05.02.2019.
Người Công Giáo, vào ngày đầu tiên (mùng 1) Năm Mới, cám ơn Thiên Chúa những Ơn Lành được hưởng trong Năm qua và cầu nguyện Người ban Bình An cho Năm mới; Ngày thứ 2 tưởng nhớ Tổ tiên và Phụ huynh; Ngày thứ 3 cầu nguyện cho Mùa màng và Việc làm.
II.- TIỂN ÔNG TÁO VỀ TRỜI.
Sự Tích Táo Quân được lưu truyền như sau: Trọng Cao và vợ là Thị Nhi cưới nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra hay cãi cọ nhau. Một hôm, anh Cao giận và đánh vợ. Chị Nhi bỏ nhà ra đi, gặp và nhận Phạm Lang làm chồng. Sau khi Cao hết giận, anh hối hận và đi tìm vợ. Khi tiêu hết tiền bạc đem theo, anh đành phải đi ăn xin. Khi Cao đến xin ăn tại nhà chị Nhi, hai người nhận ra nhau. Chị rước anh vào nhà, đôi bên kể chuyện cho nhau và Nhi ân hận đã sống với Lang.
Khi Lang về nhà, sợ chồng bắt gặp anh Cao ở đây, khó giải thích, nên Nhi bảo Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Sau khi về, Lang vô tình đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Nhi trong nhà đi ra thấy Cao đã chết do sự sắp đặt của mình nên nhào vào đống rơm đỏ lửa để chết theo. Lang gặp tình cảnh éo le, thấy vợ chết nên rối trí, nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ.
Ngọc Hoàng trên Thiên đình cảm động về mối chân tình của cả ba (2 ông, 1 bà) chết trong lửa nóng, Ngài cho phép họ được ở bên nhau và hóa thành ‘chiếc kiềng 3 chân’ ở nhà bếp ngày xưa và được phong chức Táo Quân, trông coi và giữ lửa cho gia đình đó. Ngoài ra, họ có nhiệm vụ trông nom mọi việc lành dữ và phẩm hạnh những người trong nhà đó. Do thường được thờ ở nhà bếp, nên còn được gọi là Vua Bếp.
Người Việt ngưỡng mộ sự chung thủy của Ông Táo nên thờ cúng Ông với hy vọng Táo sẽ giữ ‘bếp lửa’ trong gia đình luôn nồng ấm và hạnh phúc. Theo tục lệ cổ truyền, họ tin rằng, hàng năm, cứ đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch (Năm nay, rơi vào ngày 28.01.2019), Táo Quân lại cưỡi cá chép bay về Thiên đình để dâng Sớ báo cáo mọi việc xảy ra trong gia đình với Ngọc Hoàng. Ðến lúc Giao thừa, Táo Quân mới trở lại nhiệm sở trần gian để tiếp tục công việc coi sóc bếp lửa.
Lễ tiễn đưa Ông Táo về chầu Ngọc Hoàng được tổ chức rất trọng thể. Gia chủ mua hai mũ Ông Táo với hai cánh chuồn và một mũ dành cho Táo Bà không cánh chuồn, ba cái áo bằng giấy và một con cá chép vàng mã để làm phương tiện cho Vua Bếp về chầu Ngọc Hoàng.
III.- CHUẨN BỊ NGÀY TẾT.
Thời gian này có thể coi như bắt đầu từ sau ngày Tiển đưa Ông Táo về Trời. Tại Miền Nam Việt Nam, vào cuối thập niên 1940, khi Quê hương còn sung túc như bài thơ sau đây mà cá nhân tôi có dịp học biết ở Tiểu học :
Tháng Giêng là tháng ăn chơi Tháng Hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà Tháng Ba thì đậu đã già Ta đi ta hái về nhà phơi khô Tháng Tư đi tậu trâu bò Để ta sắm sửa làm mùa tháng Năm Sáng ngày đêm lúa ra ngâm Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra Gánh đi ta ném ruộng ta, Đến khi lên mạ thì ta nhổ về Sắp tiền mượn kẻ cấy thuê, Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi Cỏ lúa dọn đã sạch rồi Nước ruộng vơi mười còn độ một, hai Ruộng thấp đóng một gàu giai, Ruộng cao thì phải đóng hai gàu sòng Chờ cho lúa có đòng đòng Bây giờ ta sẽ trả công cho người Bao giờ cho đến tháng mười Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta Gặt hái ta đem về nhà Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.
Ngoài ra, cũng trong thời gian này, ngoài các chợ ban ngày tràn đầy các thực phẩm đặc biệt cho những ngày Tết, còn có những chợ Tết về đêm cung cấp các loại bánh, mứt… cùng các nơi bán bông hoa.
Một vài đặc điểm ngày Tết :
A./ Mâm ngũ quả đặt trên bàn thờ Tổ tiên vào những ngày Ðầu Xuân mang năm màu sắc màu tượng trưng niềm mong ước được ngũ phúc: giàu có, sang trọng, sống lâu, khỏe mạnh, bình yên. Theo thuyết ngũ hành: Kim màu trắng, Mộc màu xanh, Thủy màu đen, Hỏa màu đỏ, Thổ màu vàng. Mâm ngũ quả thường theo 5 sắc màu đó để phối trí.
Người Miền Bắc bày năm loại quả với ngũ sắc như: chuối hay táo màu xanh; bưởi, cam hay quýt màu vàng; hồng, táo tây hoặc ớt màu đỏ; roi, mận, đào hay lê màu trắng; hồng xiêm (sapôchê), nho đen, măng cụt hoặc mận màu đen. Tại Miền Nam, mâm ngũ quả thường gồm các loại trái mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, đọc chệch nghe như ‘cầu vừa đủ xài’ hoặc dưa hấu, thơm…
B./ Bánh chưng, bánh tét : món ăn truyền thống dân tộc.
Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi dẹp xong giặc Ân, muốn truyền ngôi cho con, nên mở cuộc thi tài để chọn người lên làm vua bằng làm món ăn. Nhân dịp đầu Xuân, vua mở hội các con mà tuyên bố: « Con nào tìm được thức ăn ngon lành để bày cỗ và có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho ». Các Lang (danh xưng các Thái tử, con vua Hùng) đã đua nhau làm ra những món lạ từ những vật liệu sơn hào hải vị quý hiếm tìm từ khắp nơi.
Người con trai thứ 18 là Lang Liêu tính tình thuần hậu, chí hiếu, làm ra bánh chưng, bánh dầy. Kết quả được vua cha chọn nhường ngôi. Tài giỏi và tấm lòng của Lang Liêu là biết sử dụng những vật liệu thông thường có sẵn nơi quê nhà như: lá, gạo nếp, đậu xanh, thịt heo… để làm thành món ăn, bao gồm cả một nền văn minh nông nghiệp đất nước, thật ý nghĩa sâu xa để làm vật phẩm cúng tế Tổ Tiên, đất trời.
Vào các dịp Lễ Tết, ở Miền Bắc Quê hương, thịnh hành nhất là bánh chưng và bánh dầy. Người ta cho rằng bánh chưng hình vuông tượng trưng cho đất, là âm, dành cho mẹ. Bánh dầy hình tròn tượng trưng cho trời, là dương, dành cho cha.
Ở Miền Nam, bánh tét được chọn thay thế bánh chưng. Ðó là do sự kết hợp nhiều nền văn hoá khác nhau, như là văn hoá Chăm với tín ngưỡng ‘Phồn Thực’, khiến bánh tét có hình tượng Linga biểu tượng sức sống, sự trường tồn, hùng mạnh… Nhưng có quan niệm khác cho rằng bánh tét thực ra là cái bánh chưng nguyên thủy của người Việt xưa, được bảo lưu tại miền này. Nó không chỉ là món ăn ngày Tết mà còn chứa đựng cả thuyết âm dương, tam tài, ngũ hành với năm màu sắc: màu xanh lá gói bánh (lá dứa, lá dong hoặc lá chuối), của nếp được bỏ màu khi gói, màu vàng đậu xanh nhân bánh, hai màu đỏ, trắng của thịt ba chỉ làm nhân và màu đen của tiêu trộn vào nhân đậu xanh hoặc ướp thịt nhân bánh. Đó là năm màu của ngũ hành trong triết học phương Đông: hỏa (màu đỏ), thủy (màu đen), mộc (màu xanh), kim (màu trắng), thổ (màu vàng).
Ngoài những trái cây và những thức ăn đặc biệt đó, các gia đình còn phải nấu những món khác để cúng tiền nhân đã qua đời được đón về vào ngày áp Tết và tiển đưa ngày mùng bốn. Những bửa ăn cao lương mỹ vị cũng được làm để đãi khách và thưởng thức trong đại gia đình với con cháu. Những món như thịt kho, dưa giá, thịt đông, củ kiệu, củ hành ngâm, v.v. đều không thiếu.
IV.- GIAO THỪA.
Ðó là thời khắc đúng không giờ lúc chuyển giao năm cũ sang năm mới. Một thời điểm quan trọng, trời đất giao hòa, âm dương hòa quyện để vạn vật bừng lên sức sống mới. Ðây là lúc hai con vật cầm tinh hai năm, cũ và mới, bàn giao thời gian cho nhau.
Theo phong tục dân tộc Việt Nam, giao thừa là lúc cúng gia tiên và chuẩn bị chu đáo để đón người đến xông đất, mang tài thần vào nhà. Ðối với nhiều người Việt, người đầu tiên đặt gót vào nhà mình sau khi giao thừa được gọi là người xông đất, vô cùng quan trọng. Người này sẽ ảnh hưởng đến vận may rủi cho gia đình hay nơi kinh doanh của người chủ suốt cả năm âm lịch.
V.- BA NGÀY TẾT.
A. Ngày Mùng Một.
Trong những năm từ 1954 đến 1967, ngày này thật linh thiêng. Ngay từ sáng sớm, khi còn là con trong gia đình. Sáng sớm, phụ huynh cúng bánh mứt và nước trà cho ông bà. Trong khi đó, các con quần áo mới chỉnh tề, chờ khi cha mẹ cúng xong, mừng tuổi, lạy song thân và nhận bao đỏ lì xì. Sau đó, cả gia đình đến chúc Tết ông bà nội ngoại. Buổi chiều, ở nhà đón bà con, thân nhân đến thăm viếng gia đình.
B. Các Ngày Mùng Hai và Ba.
Chương trình rỗi rãnh hơn để có thể đi thăm bè bạn, chơi bài xì hay đánh bầu cua cá cọp… và thưởng thức bánh chưng, bánh tét, mứt và hột dưa.
Trong ba ngày Tết, người ta tránh quét rác ra khỏi nhà vì, làm như thế, tiền bạc cũng ra khỏi nhà.
VI.- NĂM HỢI NÓI CHUYỆN HEO.
Không còn mấy ngày nữa, người dân Việt sẽ tiển đưa con Chó và đón tiếp con Heo ngự trị toàn quốc, với nhiệm kỳ một năm. Lang thang trên Xa lộ Thông tin tìm đọc một vài câu chuyện về Heo để trình lại cho quý bạn đọc.
Heo là một loài vật có thân hình tròn trịa mũm mỉm, béo mập và hiền từ, không dữ như các loài thú khác rắn, cọp, chuột… hại người, giết thú vật khác. Bởi thế, khi Ngọc Hoàng triệu tập 12 con giáp đến để xếp hạng theo thứ tự, Heo cứ từ từ để Chuột phóng về hạng nhất và 10 con khác xếp lần lượt sau đó, để nhường chổ chót cho Heo.
Heo là con vật mà chỉ nói đến tên, ai cũng có thể cảm thấy gần gũi. Tên nó đã đi vào thơ ca, hội họa dân gian và là một biểu tượng văn hóa. Trong tiếng Việt thường nhật, heo cũng luôn được nhắc đến, nào là ‘mập như heo’, ‘ngu như heo’, ‘lười như heo’, ‘ăn như heo’, ‘sướng như heo’, và ‘dơ như heo’... Về phương diện sinh học, heo không ngu, nhưng khá thông minh, dễ dạy, ngoan hiền và thân thiện.
Người ta còn so sánh miệng lưỡi ‘trơn như mỡ heo’, ‘đẻ như heo’, ‘mập như heo’, ‘nói toạc móng heo’ hay chê trách người gian dối ‘mượn đầu heo nấu cháo’. Để cảnh cáo các ông muốn nhiều vợ, người ta nhắc ‘Hai vợ nằm chèo queo, ba vợ ra chuồng heo mà nằm!’ khá đúng với thực tế. Thời xưa, heo được vẽ trên các bức tranh dân gian Đông Hồ, trên tấm lịch treo tường của gia đình là để thể hiện sự sung mãn, hạnh phúc.
Ca dao Việt Nam từ ngàn xưa đã có những câu rất dí dỏm, rất tình tứ, đầy nhân bản về việc cưới gả. Trong đó, Heo giữ vai trò quan trọng. Thí dụ, một chàng trai đã ‘phải lòng’ một thiếu nữ, nhưng lại vờ vĩnh hứa giúp ‘đằng ấy’ khi ‘đằng ấy’ lấy chồng: Giúp em một thúng xôi vò, Một con lợn béo một vò rượu tăm.
Nghe vậy, nàng cũng bắt thóp được ý chàng, tuy tim nàng nhảy tưng tưng muốn rời khỏi lồng ngực, nhưng đã trấn tĩnh, ỏn ẻn, khẽ trả lời: Anh về thưa với mẹ cha, Bắt lợn đi cưới, bắt gà đi cheo.
Nói bắt gà đi cheo, chứ thật ra chàng trai phải nộp cheo cho làng bằng thủ lợn đấy. Bởi vì: Sỏ lợn lớn hơn đầu mèo, Làng ăn không hết làng treo cột đình.
Tục lệ ở Việt Nam xưa là như thế. Nạp cheo để chứng minh cho cả làng biết là chúng tôi thành vợ thành chồng đàng hoàng. Biên nhận nạp cheo là một thứ giấy giá thú. Nếu không có nó thì: Có cưới mà chẳng có cheo, Dẫu rằng có giết mười heo cũng hoài.
Tết Nguyên Đán sắp đến. Lợn (Kỷ Hợi) sẽ được cậu Chó (Mậu Tuất) bàn giao công việc dân gian trong 12 tháng năm mới.
Tản mạn đôi nét về chú lợn, con vật rất gần gũi được nuôi trong nhiều gia đình thôn quê và các trang trại.
1. Lợn và Heo
Người miền Bắc kêu là “con lợn”, còn miền Nam gọi là “con heo”. Có người giải thích đơn giản là: Lợn ăn ngô, heo ăn bắp.
Paulus Huỳnh Tịnh Của là một học giả người miền Nam, trong “Đại Nam Quốc Âm Tự Vị”, ông đã giải nghĩa Lợn là con Heo. Theo ông: người miền Nam phần lớn là những di dân từ miền Trung, tiếng nói của họ nặng, khi phải bẩm trình với quan lớn, họ lại phát âm thành “quan lợn”. Chẳng hạn như họ phát âm: trò chơi lợn (lớn), ăn quỵt (quýt), ông Giacọp (Giacóp). Quan cho là vô phép nên sai lính lấy hèo phạt, ai bẩm “quan lợn” là phải đòn 10 hèo. Nhiều người bị phạt hèo như vậy, nên khi thấy con lợn họ hình dung ngay ra những cây hèo vút vào mông họ, họ bèn mỉa mai gọi con lợn là “con hèo”. Rồi để khỏi lầm lẫn con lợn với cây gậy quái ác ấy, họ bớt đi dấu huyền, còn lại là con heo. Con lợn từ miền Bắc đi xuống miền Nam thành con heo là như thế.
Lợn, heo là một loại gia súc được nuôi bằng thức ăn tạp, nó cung cấp thịt cho người dùng. Có nhiều loại lợn: lợn sề, lợn nái, lợn giống, lợn cấn, lợn sữa, lợn choai, lợn tháu, lợn ỷ… Heo thì có heo nhà, heo ruộng, heo bông, heo lang, heo cỏ, heo bò, heo đen, heo nọc, heo nái, heo nưa, heo lứa, heo mọi… Đó là các loại heo nuôi trong nhà, còn loại heo hoang dã như heo lăn chai, heo rừng hay lợn lòi… là loài hung dữ, nhanh nhẹn.
Ngành chăn nuôi heo ngày nay đã công nghiệp hóa trong các trang trại quy mô hiện đại. Nhiều giống thuần chủng nhập khẩu như: heoYorshire, heo Landrace, heo Chester White, heo Duroc, heo Hampshire…
2. Hình ảnh con lợn trong văn hóa dân gian
Con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi, con chó khóc đứng khóc ngồi, mẹ ơi đi chợ mua con đồng riềng. Vì sao chó phải có riềng, lợn có hành?
Triết lý Việt nam theo triết lý Trung hoa, chủ trương âm dương hoà hợp. Quan niệm đó được thể hiện trong lãnh vực ăn uống. Thịt gì món gì phải ăn với rau thơm hay gia vị nào đều có quy định cả. Người Việt ăn nhiều thứ rau mà các nước khác không có: rau mùi, rau răm, lá sung, lá xoài, củi tỏi, gừng riềng…Gà luộc cần có lá chanh, thịt lợn cần có củ hành, chó phải có củ riềng lá mơ.
Ba con vật này đứng chót trong thứ tự 12 con giáp. Gà lợn và chó là ba con vật nuôi rất thông dụng trong hầu hết các gia đình nông thôn Việt nam.
Theo cổ tích Việt Nam, tiền thân của lợn là một vị tiên trên trời, vì ham ăn, lại lười biếng chẳng chịu làm việc gì, nên Ngọc Hoàng đày xuống dương gian làm kiếp gà, bắt phải bới rác kiếm ăn. Vị tiên ấy chê giống gà nhỏ bé, đến con mèo con chó cũng bắt nạt được. Trời thương tình, cho làm kiếp bò. “Bò tuy lớn, nhưng chỉ được ăn cỏ mà còn phải vất vả kéo xe, kéo cày…”, nghĩ thế, nên vị tiên ấy lại năn nỉ:
- Xin Ngọc Hoàng cho con cái chức gì không phải làm lụng, mà được cơm bưng nước rót đến tận miệng…
- Vậy Ta cho người làm kiếp Lợn, người ta sẽ đem thức ăn đến tận mõm, chỉ việc ăn no ngủ kỹ, càng ăn lắm ngủ nhiều người ta càng thích, để thân xác béo mẫm ra cho người ta nhờ.
Thế là vị tiên đó hí hửng lạy tạ, xuống trần làm thân con lợn, không để ý đến hậu quả. Tới lúc lợn béo nùng nục, bị người ta lôi ra làm thịt, mới té ngửa ra, đòi xin hoá kiếp. Một tiên ông đến mách bảo “xin người ta thêm hành vào xào nấu với thịt thì ngươi được hoá kiếp”. Từ đó “con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi” là đề mong được hoá thân kiếp khác vậy.
Sống chung với loài người ở khắp nơi, đặc biệt thịt lợn có mặt trên các mâm cỗ, bàn tiệc và là thức ăn ít nhiều đều có trong bữa ăn gia đình ở thành thị cũng như thôn quê, từ đó hình ảnh con lợn đã đi vào nếp sống dân dã trên nhiều lãnh vực qua các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ tiếng Việt cũng thường nhắc đến động vật hữu ích này.
Ca dao Việt Nam từ rất xa xưa đã có những câu dí dỏm, tình tứ, nhân bản về việc cưới gả. Trong đó con heo cũng đóng vai trò quan trọng. Chẳng hạn một chàng trai đã “phải lòng” một cô thiếu nữ, nhưng lại vờ vĩnh hứa giúp “đằng ấy” khi “đằng ấy” lấy chồng:
Giúp em một thúng xôi vò,
Một con lợn béo một vò rượu tăm.
Nghe vậy, nàng cũng bắt được ý chàng, tuy tim nàng rung động nhưng cũng trấn tĩnh, ngúng nguẩy trả lời:
Anh về thưa với mẹ cha,
Bắt lợn đi cưới, bắt gà đi cheo.
Nói gà bắt gà đi cheo, chứ thật ra chàng trai phải nộp cheo cho làng bằng thủ lợn. Bởi vì:
Sọ lợn lớn hơn đầu mèo,
Làng ăn không hết làng treo cột đình.
Tục lệ ở Việt Nam xưa là như thế. Nạp cheo để chứng minh cho cả làng biết là chúng tôi thành vợ thành chồng đàng hoàng. Biên nhận nạp cheo là một thứ giấy giá thú. Nếu không có nó thì:
Có cưới mà chẳng có cheo,
Dẫu rằng có giết mười heo cũng hoài.
Cưới mà giết mười heo thì chỉ có con nhà phú hộ, còn nhà bình dân thì làm mâm cơm cúng ông bà cũng đủ:
Nhà họ giàu thì đầu heo nọng thịt,
Đôi mình nghèo thì cặp vịt với bông tai.
Số phận người con gái thời phong kiến xưa, chưa hẳn đã tự chọn cho mình được người bạn đời như ý. Vì chưng:
Mẹ em tham thúng xôi dền,
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.
Em đả bảo mẹ rằng đừng…
Mẹ em tham thúng bánh chưng,
Tham con lợn nái, em lưng chịu đòn.
Người Việt hay dùng hình ảnh ví von: Ngu như lợn. Bẩn như heo. Chỉ biết ăn no lại nằm như heo. Nói toạc móng heo. Mượn đầu heo nấu cháo. Cám treo heo nhịn đói. Gió heo may đã về?
3. Hình ảnh con lợn trong Thánh Kinh
Trong lịch sử niềm tin đạo giáo, hình ảnh loài heo được nhìn theo nhiều khía cạnh gần như trái ngược khác nhau.Thời xa xưa thượng cổ, người Ai Cập nhìn con heo là hình ảnh biểu tượng của mặt trăng. Vì thế, họ giết heo vào những ngày có trăng. Ở bên Syria con heo là con vật thánh, dùng để tế nữ Thần sinh sôi nẩy nở Astarte.
Do thái giáo và Hồi giáo cấm các tín hữu của họ đụng đến bất cứ món gì có liên quan đến con heo. Họ thà chết chứ nhất định không bao giờ đụng đến những món ăn có thịt heo. Có lối giải thích là hai tôn giáo này ghét con heo là vì vào thời Hy Lạp cổ đại, heo là con vật mà dân ngoại dùng để hiến tế cho nữ thần Demeter, nữ thần này yêu heo cho nên phần mở đầu của các lễ hiến tế Eleusis bao giờ cũng được bắt đầu bằng việc hiến tế một con heo to béo.
Người Do thái liệt heo vào loài thú vật dơ không thanh sạch. Ăn thịt heo đối với người Do thái là một tội vì như thế là phản đạo. Bởi vậy người Do thái cấm nuôi heo.
Trong Kinh Thánh Cựu ước, con heo cũng là con vật dơ bẩn: “Con heo, vì nó có chân chẻ làm hai móng, nhưng không nhai lại: các ngươi phải coi nó là loài ô uế. Thịt của chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi không được đụng đến; các ngươi phải coi chúng là loài ô uế” ( Lv11,7; Ds 14,8).
Trong các dịp cúng thần, dân Israel bị Vua Hylạp là Antiôkhô ép buộc phải ăn thịt heo. Cụ Êlêasa, tuy đã 90 tuổi nhưng phương phi đẹp lão. Cụ bị bắt phải há hàm để nhét thịt heo vào miệng, nhưng cụ thà chết vinh hơn sống nhục, đã khạc nhổ hết thịt heo ra khỏi miệng, rồi tự nguyện tiến ra nơi hành hình. Những người chủ tiệc kính thần vì quen cụ đã lâu nên đã kéo cụ ra riêng một chỗ, khuyên cụ ăn một miếng thịt khác không phải là thịt heo rồi giả vờ như đang ăn thịt heo tuân lệnh nhà vua. Làm như vậy cụ sẽ thoát chết. Nhưng cụ trả lời họ: “Ở tuổi chúng ta, giả vờ là điều bất xứng, e rằng làm gương mù cho lớp trẻ, họ sẽ bảo là ông già Êlêasa đã 90 tuổi mà còn theo dân ngoại ăn thịt heo, và họ bị lầm lạc vì tôi đã giả vờ…”. Cụ đã bị hành hình, lúc sắp lìa đời, cụ thì thào nói: “Đức Chúa là Đấng thông biết mọi sự, hẳn Người biết là dù có thể thoát chết, nhưng tôi vẫn cam chịu những cực hình nơi thân xác, mà tâm hồn tôi vui vẻ vì tuân giữ luật Chúa”. Cụ đã từ giã cuộc đời. Cái chết của cụ thật là tấm gương cao thượng chói sáng, không những cho các thiếu niên, mà còn cho phần lớn dân tộc.(x. 2 Mcb 6,18-31).
Trong sách Macacbê chương 7 kể chuyện về bữa tiệc cúng thần, có 8 mẹ con vì không chịu ăn thịt heo mà phải chịu các hình khổ tàn bạo cho đến chết.
Thánh vịnh 79 ví dân Israel như vườn nho Chúa đã vun trồng, đang xum xuê hoa trái mà sao Chúa bỏ cho hoang tàn:
Làm sao Người nỡ triệt hạ tường giậu nó
Mặc cho khách qua đường bứt quả
Mặc cho heo rừng phá phách tan hoang. (Tv 79, 13-14)
Sách Huấn ca đã phải than thở: “Với người dại chớ có nhiều lời, đừng đồng hành với con lợn”(Hc 22,13).
Sách Cách ngôn cho rằng người dại khờ khó có thể hiểu được những lời khôn ngoan hướng dẫn, họ giống như: “Đàn bà nhan sắc mà đần, khác nào vòng xuyến đeo nhầm mõm heo” (Cn 11,22)
Phúc âm Thánh Matthêu viết: “Ngọc trai chớ quăng trước bầy heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé anh em” (Mt 7,6).
Câu chuyện đứa con hoang đàng. Người con thứ đòi cha chia gia tài. Anh ta đem tiền của đó đi ăn chơi phung phí, đàng điếm. Lúc hết tiền, bạn bè ăn nhậu đều xa lánh. Miền đó lại gặp nạn đói, anh ta phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng, ông chủ bắt anh ta ra đồng trông coi đàn heo. Anh ta ước gì có thể lấy những thứ heo ăn mà thốn cho đầy bụng mà cũng chẳng có ai cho. Lúc ấy anh ta mới ăn năn hối hận trở về nhà và được người cha nhân hậu tiếp đón niềm nở, mở tiệc ăn mừng, vì: “con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy” (x.Lc 15).
Đến thời Hy lạp La mã thống trị Israel, chuyện nuôi heo trở nên phổ biến.
Chúa Giêsu đã phá bỏ sự phân biệt vật dơ và thánh. Đối với Người cái gì dơ là từ bên trong mà ra. Vì thế không có loài vật nào là dơ cả. Thánh Phêrô thấy thị kiến và Lời Chúa phán với ông: “Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi chớ gọi là ô uế” (Cv 10,9-16).
4. Năm Hợi hứa hẹn ấm no, hạnh phúc
Loại cá thông minh được Hải quân huấn luyện để chống đặc công là loại cá heo. Nước Cuba có vịnh Con Heo. Ở Đức nhiều nơi chọn hình heo con quảng cáo, như một sự may mắn phát tài. Bữa ăn tối ngày đầu năm của người Áo bao giờ cũng có món heo sữa quay, con vật tượng trưng cho mọi điều tốt lành. Con heo có một vị trí quan trọng trong ngày đầu năm ở Áo, vì họ tin rằng con heo lầm lũi bước đi với cái mũi hít đất là biểu tượng hoàn hảo nhất của sự may mắn và “sự chuyển động về phía trước” trong năm mới. Ở một số nước như Cuba, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hungragy, con heo biểu trưng cho sự phát triển, tiến bộ. Người ta đều nghĩ như vậy là vì con heo không biết đi lùi. Papua New Guinea là đảo quốc ở phía tây Thái Bình Dương, đa số thổ dân ở đây đều xem heo như một bái vật giáo. Có bộ tộc lấy mỡ heo trộn với tro bếp xoa lên mặt để biểu thị sự dũng mãnh. Có một số tộc trưởng còn xâu một lỗ trên mũi mình rồi cắm chiếc răng heo rừng vào đó để tượng trưng cho uy quyền. Heo là một trong những đồ lễ quan trọng trên cỗ xin đính hôn của các đôi nam nữ. Ở đất nước này có tờ tiền thật với hình con heo mệnh giá 20 Kina do chính phủ in ấn và phát hành từ năm 1999 cho nhu cầu lưu thông tiêu dùng hàng ngày. Tờ tiền con heo Papua New Guinea được ưa chuộng làm tiền mừng tuổi tết cho năm Kỷ Hợi 2019 này, đặc biệt với người Châu Á.
Người Việt và có thể nhiều quốc gia khác cũng có loại heo đất bỏ tiền tiết kiệm.
Con heo tạo nhiều cảm hứng cho hội họa và tranh dân gian mỗi dịp Xuân sang Tết về. Làng Đông Hồ nổi tiếng về vẽ tranh dân gian con heo.
Lợn được coi như là tiêu biểu cho sự may mắn, giàu sang.
Năm Tuất đã qua, năm Hợi lại đến với mọi người qua hình ảnh tượng trưng cho sự an nhàn của chú lợn nên tục ngữ có câu: “Tuổi Hợi nằm đợi mà ăn”, nói đến số phận sung sướng, an nhàn của những người sinh vào năm Hợi, hình như người tuổi Hợi ít ai vất vả cho lắm thì phải!?.
Con heo được người đời nuôi dưỡng, sống nhàn hạ, sung sướng, có lẽ để trả ơn con heo đã đem lại niềm vui, hạnh phúc trong đời sống thường nhật của con người. Năm Kỷ Hợi hy vọng sẽ no đủ, đầm ấm, hạnh phúc đến với mọi nhà.
Bà Dương Thị Bạch Diệp bị bắt hôm 25/1/2019 kéo theo vài “quan chức CS” bị tạm giam, có vẻ làm cho “công cuộc” gọi là “đốt lò” của ông Nguyễn Phú Trọng càng rừng rực lửa.
Thật khó tin việc “chống tham nhũng” để “lấy lại lòng tin dân chúng” do ông Nguyễn Phú Trọng khởi xướng có thể thành công, dù không khí hả hê trên mạng xã hội thật rõ,
Người dân vui mừng theo cách “chết thêm” người CS nào cũng “vui thêm một chút!”.
Ở tù dưới chế độ XHCN tại Việt Nam
Ở tù dưới chế độ XHCN tại Việt Nam cũng có nhiều “kiểu ở tù”.
Những người CS “sa cơ lỡ vận” như Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, Phan Văn Vĩnh, Nguyễn Thanh Hóa v.v… dù mang tiếng “ở tù”, họ vẫn sống sung sướng với “nhà lô” đầy đủ tiện nghi, với người phục dịch hầu hạ (tức là những “tù mồ côi” không có hoặc bị thân nhân bỏ rơi) nhằm đổi lại việc được “nuôi ăn”. Thân nhân và bạn bè [*] có thể lên thăm bất kỳ lúc nào và nhiều ưu đãi khác.
Không chỉ riêng người cộng sản “cao cấp – trung cấp”, ngay cả người CS “cấp thấp” cũng vậy. Hoặc giả, chỉ cần bất kỳ người tù nào có… tiền, đều đồng nghĩa, cuộc đời “tù đày” của họ không hề có chút trải nghiệm nào, để có thể tạm gọi là “sám hối” tội ác và sai lầm đã gây ra cho xã hội.
“Tiền là tất cả” trong nhà tù trên toàn cõi nước CHXHCNVN hiện nay.
“Khổ nhì” là những người “tù nghèo”. “Khổ nhất” là những người tù bị kết án các loại “tội xâm phạm an ninh quốc gia” (“XPANQG”).
Khổ đủ kiểu. Vật chất luôn thiếu thốn, tinh thần luôn bị dày vò, bị cô lập và bị hăm dọa “biệt giam” cũng như “đi cùm” thường trực, người tù “XPANQG” còn phải đối phó với sự đầu độc luôn chực chờ [**]
Một trong những lý do chủ yếu, các nhà tù tại nước CHXHCNVN luôn nhốt cách ly những người “XPANQG” [***] bởi vì các cai ngục không muốn những “ưu đãi” mà tù thường phạm “được hưởng” bị những người tù “XPANQG” nhìn thấy (!). Người CS cũng coi những người “XPANQG” thuộc “tội phạm đặc biệt nguy hiểm” cần phải cách ly – được nhốt theo kiểu “nhà tù trong nhà tù” như nhà báo Điếu Cày đã gọi, dù hầu hết những tù nhân này chỉ thực hiện quyền tự do ngôn luận theo Công ước quốc tế về quyền dân sự & chính trị ( ICPPR).
Tù dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa
Ba tôi – một người mê muội đi theo cộng sản và bị nhà nước VNCH bắt vào đầu năm 1972.
Tối hôm giao thừa, thật bất ngờ, ba tôi được về ăn tết trong vài giờ đồng hồ trước khi ra xe về lại trại giam (lúc chưa bị kêu án chính thức). Ngày ba tôi ra tù, ông vẫn mạnh khỏe. Về đến nhà chỉ một tuần sau là ông có thể bắt tay trở lại công việc làm ăn.
Hình minh hoạ. Hình chụp hôm 30/4/1975: xe tăng quân đội Bắc Việt tiến vào dinh Độc lập ở Sài Gòn AFP
Anh tôi – một người cộng sản thuộc “cánh” Trần Hải Phụng (thiếu tướng cộng sản, “binh chủng” biệt động thành Sài Gòn – Gia Định) – được cài vào QLVNCH với lớp áo sĩ quan Hải Quân – ở tù Côn Đảo với mức án 20 năm khổ sai. Ngày trở về đất liền vẫn mạnh khỏe, dù ốm o đen đúa, nhưng không hề mang thương tật gì cả.
Lúc sinh thời, ông Lê Hiếu Đằng đã từng công khai cho dư luận biết, khi ông ở tù dưới chế độ VNCH, ông vẫn được cho đi thi tú tài II (tức là tốt nghiệp PTTH bây giờ) trong bài viết “Suy Nghĩ Trong Những Ngày Nằm Bịnh” [1]
Anh rể tôi – sĩ quan QLVNCH thuộc binh chủng Không Quân – phải đi “học tập cải tạo” gần 3 năm. Lúc đó, nếu ba tôi không bảo lãnh ra, chắc chắn người anh này sẽ chết!
Tôi từng đặt câu hỏi với ba tôi về “danh dự” của “bên thắng cuộc”, sau khi anh rể tôi cùng các người anh em bà con bên ngoại bị lừa đưa vào “trại cải tạo” và đã “học tập” xong (!). Ba tôi im lặng trong bất lực và tê tái!
Sau này, khi “lớn hơn” một chút, tôi tự chiêm nghiệm ra một chân lý:
Những người phải đi tù dưới chế độ VNCH, dù đúng nghĩa họ là những người đang chống phá quê Cha đất Tổ và giết hại dân lành, nhưng họ vẫn được nhà nước VNCH nhìn nhận là… “Đồng Bào” – điều không bao giờ có trong nhà tù của nhà nước CHXHCNVN!!!
Nguyễn Ngọc Già
_______________
[*] Nếu người CS thật sự có bạn bè.
[**] Cho đến khi bài viết này kết thúc, Trần Huỳnh Duy Thức vẫn “miệt mài” ăn mì gói nhiều ngày qua, mặc dù cai ngục khuyên ông ấy ăn cơm trở lại.
Một trong những “tội” lớn nhất của người dân Lộc Hưng (Tân Bình, TP. HCM) là nghèo! Quá nghèo! “Nghèo thấy thảm!” – như người ta thường nói. Khu đất của họ sẽ được tránh xa nếu họ là thành phần “cán bộ” hoặc những kẻ đủ giàu để “chạy thuốc” nhằm biến những căn biệt thự xây trái phép thành hợp pháp. Người nghèo là vấn đề xã hội không quốc gia nào không đối diện nhưng người nghèo Việt Nam không chỉ là những thân phận thiếu ăn thiếu mặc. Họ còn là tấm thảm để những bàn chân XHCN chùi xuống không thương tiếc cùng với vẻ mặt dối trá ma mãnh hất lên: “Đảng và Nhà nước luôn chăm lo cho người nghèo”!
Chưa bao giờ người dân bị lừa bịp công khai bằng những “thống kê” cho thấy xã hội ngày càng ít người nghèo bằng lúc này. Tại phiên họp thứ 27 ngày 17-9-2018, dưới sự điều hành của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, báo cáo kết quả hai năm thực hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện “mục tiêu giảm nghèo bền vững” đến năm 2020 đã được công bố, như một bằng chứng xác nhận thành tích của nhà cầm quyền: tính đến cuối năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn dưới 6%. Cụ thể, từ 2015-2017, tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm 1,59%/năm, đạt vượt so với mục tiêu đề ra là từ 1-1,5%/năm. Thời điểm hiện tại, theo Tạp chí Đảng Cộng sản (14-11-2018), hiện cả nước có hơn 1,9 triệu hộ nghèo (chiếm 8.23% tổng hộ dân toàn quốc) và hơn 1,3 triệu hộ cận nghèo (5.41%)…
Những con số tỷ lệ “thoát nghèo” không nói lên hết thực trạng. Các báo cáo, trung thực hay không, không cho thấy thực tế rằng, khái niệm “nghèo” ở đây đã vượt qua những định nghĩa thông thường về nghèo. Nó không chỉ liên quan cái ăn cái mặc hay những điều kiện cần có để được cơm no áo ấm. Chẳng “hội thảo” về “chiến lược” xóa nghèo “bền vững” nào đề cập đến tình trạng người nghèo đang bị tống dạt tàn nhẫn ra bên lề phát triển, và đặc biệt, người nghèo đang trở thành nhóm đối tượng được nhắm đến để hy sinh cho cái gọi là phát triển.
Chính quyền khoan vội tự hào thành tích xóa đói giảm nghèo, vì chính quyền, trong không ít trường hợp, là thủ phạm tạo ra nghèo đói. Một ví dụ: nhân danh “phát triển”, người ta đã giải tỏa vô số đất đai và cho rằng đó là điều không thể tránh đối với bất kỳ quốc gia nào trên con đường xây dựng đất nước. Điều này được thực hiện không chỉ từ “chủ trương chính sách” mà còn từ sự tùy tiện cùng sự ăn chia của các chính quyền địa phương với lớp nhà giàu mới nổi được hình thành thông qua các quan hệ. Điều đáng ghi nhận là người ta luôn “né” các khu đất nằm dưới “sở hữu” “cán bộ” hoặc thành phần lắm tiền nhiều của, dù “phạm luật” lấn chiếm trái phép hay không. Chẳng cần đi đâu xa, thử đến khu vực quanh sân bay Tân Sơn Nhất, ai cũng có thể thấy điều sờ sờ này. Hơn ai hết, những gia đình nạn nhân bị giải tỏa oan ở Thủ Thiêm có thể kể ra tại sao và từ đâu mà họ trở thành nghèo khổ vô gia cư.
Người nghèo Việt Nam ngày nay không chỉ là những gương mặt khổ cực lam lũ. Hình ảnh đó có thể thấy ở tất cả bức tranh xã hội thế giới. Ở bất kỳ giai đoạn nào Việt Nam cũng có những “chị Dậu”, tuy nhiên, “kiếp nghèo” của “chị Dậu” ngày xưa khác với thân phận của “chị Dậu XHCN” trong thời đại “rực rỡ”. Nếu cảnh nghèo trước khi “cách mạng về” và “đời ta có Đảng” là hình ảnh một xã hội chưa phát triển thì cảnh nghèo ngày nay còn được chồng lên ngổn ngang những dối trá ngụy biện để che đậy và lấp liếm các khiếm khuyết của vô số chính sách bất công biến người nghèo thành nạn nhân trực tiếp và hứng chịu thê thảm nhất trong tất cả các nhóm đối tượng-tầng lớp xã hội. “Trẻ nguy kịch, vẫn phải đóng tiền mới được cấp cứu” (Tuổi Trẻ 29-7-2016) – đó là tựa một bài báo nói lên sự bi đát cùng cực của thân phận người nghèo thời nay.
Chết-không-có-hòm-chôn là một hình ảnh nghèo khổ khốn khó tận cùng. Nhưng sống-không-có-nhà-ở không chỉ là bức tranh của những mảnh đời rách rưới. Nó tố cáo rất rõ những “sai lầm” được thực thi một cách cố tình của các “chính sách phát triển” nói chung. Phát triển gần như luôn đi đôi với sự xuất hiện những nghịch lý nhưng nghịch lý nào mỉa mai cho bằng hình ảnh: từ “tâm thế” những kẻ không có “miếng đất cắm dùi”, như thời “tiền cách mạng”, những ông chủ XHCN ngày nay hăm hở lao vào giành đất “cắm dùi” của những người nghèo “tận cùng bằng số”, và liền ngay sau đó dựng lên tấm băng rôn đỏ chói: “Đảng và Nhà nước luôn chăm lo cho người nghèo”!
Những con số thống kê, những phát biểu “xúc động” và những chiến dịch “nhắn tin ủng hộ người nghèo”, ngoài việc để mị dân, sẽ không mang lại giải pháp nào để xóa bỏ nghịch lý và bất công, nếu không đề cập và không giải đáp được những câu hỏi mà người nghèo nào cũng thấy: nhờ đâu mà “đám chính quyền” trở nên giàu có khủng khiếp đến vậy! Rất khó có thể thuyết phục được rằng chính quyền đang thành công trong các chính sách xóa đói giảm nghèo, một khi quan chức địa phương vẫn đua nhau ăn chặn ngân sách dành cho người nghèo. Càng khó có thể tin “Đảng và Nhà nước” chia sẻ khó khăn với người nghèo trong khi “người” của “Đảng và Nhà nước” là những trường hợp “mẫu mực” của việc làm giàu bằng “buôn chổi đót”.
Người nghèo không chỉ túng thiếu khổ cực. Họ là nạn nhân đầu tiên và trực tiếp của tất cả “cặn bã” lắng xuống của những hào nhoáng giả tạo sinh ra từ một mô hình phát triển, mỉa mai thay, dựa trên lý thuyết “xóa bỏ bất bình đẳng”. “Bắt cả trẻ đang bú đóng tiền xây dựng nông thôn mới” (Zing 1-7-2018) – đây không phải là câu chuyện giới hạn trong phạm vi đói nghèo. Nó là vấn đề liên quan đến thể chế và các chính sách tạo ra những người nghèo theo cách chưa từng có trong lịch sử phát triển xã hội Việt Nam. Người nghèo đang “lãnh đủ” mọi thứ tệ hại nhất và họ hoàn toàn không có “quyền” để chọn lựa. Ai đó có thể chọn siêu thị mua thực phẩm an toàn, chọn trường học tốt cho con, chọn bệnh viện “xịn” thậm chí ở nước ngoài… Trong khi đó, người nghèo chỉ có thể uống ly trà đá mà họ đủ tiền mua; chỉ có thể gửi trẻ vào trường mẫu giáo nơi có thể có cô giáo trấn nước con họ; chỉ có thể vào bệnh viện công nhếch nhác nằm vật vờ trên những hành lang bẩn thỉu. Cầm chén cơm, họ đủ “kiến thức tổng quát” để nói với nhau về nguồn thức ăn nhiễm độc. Họ sợ lắm. Họ không muốn chết sớm vì ung thư trước khi lo cho con vào đại học hoặc trước khi gửi tiền về quê cho bố mẹ sửa nhà. Tuy nhiên, họ vẫn phải nuốt. Họ không có chọn lựa nào khác.
Khoảng cách giàu-nghèo ngày càng giãn rộng đang trở thành vấn đề rất lớn. Dù vậy, những đứa trẻ nằm co quắp ở mái hiên các cao ốc lộng lẫy chưa đủ để nói hết thảm cảnh của khoảng cách giàu nghèo. Bằng thế nào một chữ ký nhoáy trong vài giây có thể mang lại những khoản tiền kếch sù, mà người ta làm cả đời không tích cóp nổi, mới là “nghịch lý giàu nghèo” đang diễn ra trên khắp đất nước này. Người ta đang tung hô những tỷ phú như Phạm Nhật Vượng. Người nghèo không thể so với tỷ phú. Tất nhiên. Người nghèo thậm chí cũng không thể so nổi với tầng lớp thấp hơn “đẳng cấp tỷ phú” nhiều lần. Thật không bình thường khi có những viên chức tép riêu vẫn dư tiền cho con đi du học Mỹ (như một tay Phó Công an phường ở một quận ở TP. HCM mà tôi biết). Có chính sách “xóa đói giảm nghèo” nào có thể giúp người nghèo có nhiều chọn lựa hơn, như tay công an kia?
Có quá nhiều đường nét không bình thường trên bức tranh giàu nghèo hiện nay. Tỷ lệ nghèo đói, được công bố, “đang giảm” nhưng người nghèo có thể thấy mọi nơi, ngày càng nhiều. Người nghèo ở mọi miền, mọi đô thị, mọi tỉnh thành… nhưng họ “ở đâu” trên bản đồ phát triển của đất nước? Họ đang bị hất dạt ra bên lề. Họ là cái bóng đen lặng lẽ bên cạnh những tòa nhà sáng rực. Họ là viên đá lót đường cho những chiếc xe siêu sang của đại gia tư bản Đỏ. Họ là nạn nhân của những chữ ký nguệch ngoạc “chứng nhận” họ bị mất đất và mất nhà. Họ là tấm thảm chùi chân của những ông chủ XHCN, trong lịch sử, vốn xuất thân từ nghèo khổ bần cùng. Trong tất cả những điều không bình thường khi nói về bức tranh giàu nghèo của xã hội ngày nay thì đây là điều không bình thường và mỉa mai bậc nhất!
#GNsP (16.01.2019) – Bắt đầu từ năm 2000, để thực hiện dã tâm cướp đất của bà con Vườn Rau Lộc Hưng, nhà cầm quyền địa phương thực hiện “thủ tục” không cấp QSD đất cho bà con đang sử dụng ổn định đất và công bố đất bà con đang sử dụng từ năm 1954 đến nay là “đất công”.
Và sau khi xảy ra vụ cưỡng chế đất bà con dân oan Vườn Rau Lộc Hưng kinh hoàng, tàn sát ngay giữa lòng thành phố mang tên Hồ Chí Minh vào ngày 04 và 08.01.2019, dưới sự đinh hướng của tuyên giáo cộng sản, đồng loạt các loa “nhà”, loa công cộng lu loa lên rằng “nhà nước đập phá nhà vì bà con xây dựng trên đất công”. Có cả những “nhà” tự nhận “am hiểu” pháp luật, tình hình thực tế cũng đồng tình “áp đặt” khu đất Vườn Rau là “đất công”, “thuộc quản lý của Tổng nha Bưu điện VNCH (khu Nhà dây thép gió Chí Hòa). Sau 1975, nó thuộc quyền quản lý của Bưu điện TP. HCM”… Chỉ dựa vào cơ sở “có một vài cột ăng ten của bưu điện trên khu đất” mà không đưa ra được bất cứ bằng chứng, căn cứ pháp lý nào.
– Thế nhưng, ngay từ năm 2007, khi mà nhà cầm quyền liên tục gây sức ép, buộc bà con Vườn Rau phải giao đất để họ giao cho các doanh nghiệp thực hiện các “dự án” kinh doanh thương mại, Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn – chủ đất Vườn Rau Lộc Hưng – đã quả quyết bằng Văn bản khoảng 5 ha đất Vườn Rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình “thuộc quyền sở hữu của Giáo Hội” trước 30/04/1975. Và từ năm 1954, bà con đã liên tục sử dụng ổn định trên khu đất này cho đến nay. Hoàn toàn “không hề có cơ sở pháp lý nào cho phép xác định khu Vườn Rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình là thuộc diện chính quyền cách mạng tiếp quản sau 1975 và cũng không hề có một cơ sở pháp lý nào cho phép xác định rằng trong thực tế, khu đất trên đã được Trung tâm viễn thông 3 tiếp quản cùng lúc với các cột anten và khu nhà điều hành của Trạm phát sóng”. Từ đó xác định “Một lần nữa Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn có cơ sở vững chắc để khẳng định rằng bà con canh tác tại khu Vườn Rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình có đầy đủ cơ sở pháp lý để được công nhận QSD của mình và được quyền hưởng chính sách đền bù mà pháp luật quy định cho người có QSD, khi đất của họ bị thu hồi. Do đó bà con có quyền khiếu nại cho đến khi nào quyền lợi hợp pháp của họ chưa được công nhận và giải quyết thỏa đáng.”
1/ Không phải “đất công”
Trong văn bản số: I.83.2007.285 đề ngày 21 tháng 8 năm 2007, Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn đã nêu rõ “Quan điểm của Tòa Tổng Giám Mục về quyền lợi và nghĩa vụ của các hộ dân canh tác tại khu “Vườn rau”, phường 6, quận Tân Bình” với nội dung tóm lược:
– “Khu Vườn rau khoảng 5 ha, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình, trước 30/04/1975, hoàn toàn không phải đất của nhà nước cũ sở hữu. Nhà nước cũ chỉ sở hữu 1 phần nhỏ (1,5 ha), diện tích còn lại thuộc quyền sở hữu của Giáo hội (3 ha) và một số sở hữu chủ khác.”
– “Trên khu vườn rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình có một ít cột ăng ten (chứ không phải 1 bãi ăng ten, như các công văn chính thức của các cơ quan hữu trách thường ghi và làm cho người ngoài cuộc ngộ nhận tai hại) thuộc trạm phát sóng hay phát tín của quân đội Pháp, sau đó của chính quyền Sài Gòn. Trạm này tọa lạc ở đường Lê Văn Duyệt, nay là Cách mạng tháng 8, cách khu vườn rau cả trăm mét, chứ hoàn toàn không phải “thuộc khuôn viên Đài phát tín vô tuyến điện quốc tế Chí hòa-Phú thọ Sài Gòn”, do đó khu vườn rau cũng không hề mang tên “Vườn rau Bưu Điện Chí hòa” (Bưu Điện chí hòa chỉ được thành lập vào ngày 23/05/1987…)”
– “Quân đội Pháp có đặt 1 ít cột ăng ten trên khu vườn rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình, mà Giáo hội sở hữu một phần lớn, nhưng chính quyền Pháp không hề tịch thu, hay truất hữu phần đất này của Giáo hội. Chính công văn S.P.55.011, ngày 17/02/1955 của Trưởng trạm phát tín là Đại úy Moinard xác nhận một cách vô tình khi ông viết “những người dân ở dọc theo hàng rào phía tây được phép trồng trọt trên khoản đất do antenne chiếm, với điều kiện thỏa thuận trước với Hội Công giáo Truyền giáo là “chủ sở hữu đất…” Theo văn mạch, ông đại úy ghi chú mấy chữ này chỉ là để giải thích tại sao người dân đã được phép của ông rồi, mà còn phải được Giáo hội chấp thuận: trách nhiệm của ông chỉ thi hành trong lãnh vực an ninh của khu vực, chứ không phải với cương vị chủ đất; nếu ông cho phép đi lại vào ban ngày, song chủ đất không chấp thuận cho trồng trọt trên đất, thì người dân chỉ được đi lại chứ không được canh tác trên đất.”
– “Ngoài ra, Trung tâm thông tin lưu trữ tư liệu địa chính nhà đất xác nhận rằng đến 30/04/1975, Hội đồng quản trị địa phận Công giáo Sài Gòn, (nay là Tòa Tổng Giám mục Tp.HCM), vẫn là chủ sở hữu của khu đất 184.360 m2 tọa lạc tại xã Phú thọ Hòa, số địa bộ 6, số bản đồ 126/5, tờ bản đồ thứ 2, trong đó có phần đất khoảng 30.000 m2 tại vườn rau.
– “Những thực tế trên đây cũng chứng minh hùng hồn rằng các cột ăng ten không quan trọng đến mức phải trưng thu, tịch thu toàn bộ khu đất và cũng không cần không hề có căn cứ gì để nói “chính quyền Pháp sử dụng với mục đích chính là làm bãi anten cho đài phát tín…”
– “Sau 30/04/1975, thực tế không hề có cơ quan, đơn vị nào của chính quyền cách mạng tiếp quản khu Vườn Rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình.”
– “Sau 1975, Trạm phát sóng hay phát tín đã được Trung tâm viễn thông 3 tiếp quản. Các cột anten thuộc Trạm thì đương nhiên cũng được tiếp quản, nhưng khu vườn rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình không thuộc trạm, thì đâu có lý do gì để tiếp quản! và thực tế cơ quan tiếp quản là Trung tâm viễn thông 3 không hề đá động gì đến khu Vườn Rau cũng như những bà con canh tác tại đó, (bằng chứng là bà con vẫn tiếp tục canh tác trên khu đất mà chẳng thấy ai có ý kiến gì cho đến năm 2000, khi bà con làm thủ tục kê khai đất sử dụng để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND quận Tân Bình mới có văn bản bác đơn của bà con với lý do “trước và sau ngày giải phóng 30/04/1975, phần đất chuyên dùng trên bị các hộ chiếm dụng trồng hoa màu… UBND quận không thể cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho các hộ được.”
Tại Văn bản này, Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn khẳng định:
– “Toàn bộ 5 ha khu vườn rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình không hề được chính quyền cũ (Pháp và Việt) “sử dụng với mục đích chính là làm bãi anten cho đài phát tín”.
– “Do đó, phần đất 3 ha thuộc sở hữu của Giáo hội tại khu vườn rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình không hề bị chính quyền cũ tịch thu, truất hữu hay trưng dụng;”
– “Ngay cả phần đất 1,5 ha thuộc sở hữu Quốc gia tại khu Vườn Rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình cũng không hề được sử dụng chính yếu làm bãi anten, bằng chứng là người dân chung quanh vẫn được phép đi lại ban ngày để canh tác; đó là vì không hề có 1 “bãi đất” được sử dụng cho các cột anten, cũng không hề có bãi anten nào (chỉ có dăm ba cột thì làm sao gọi là bãi được!); trong khu đất 5 ha có 1,5 ha là đất công, dù vậy chính quyền cũ cũng không biến thành “đất chuyên dùng” dành riêng cho các cột anten, cũng không hề làm khuôn viên Trạm phát sóng, bởi vì điều đó không cần thiết.”
– “Sau Pháp, đến VNCH, cũng không ai đặt vấn đề gì đối với việc bà con chung quanh canh tác tại khu vườn rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình: điều này chứng tỏ một lần nữa khu đất này không thuộc quyền quản lý của Trạm phát sóng, tuy dù trên khu đất có một số cột anten của Trạm.”
– “Thực tế sau 30/04/1975, khi tiếp quản Trạm phát sóng cùng với các cột anten, Trung tâm viễn thông 3 không hề tiếp quản khu đất trên đó có các cột anten… Trong cuộc họp vào ngày 15/08/2007 tại trụ sở Ban Tôn giáo và Dân tộc, những người có trách nhiệm công nhận thực tế là sau 30/04/1975, không có cơ quan, đơn vị cách mạng nào đã tiếp quản khu vườn rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình, bởi lẽ và sau 1975, bà con giáo dân vẫn canh tác trên khu đất 5 ha một cách liên tục và ổn định cho đến khi bà con làm thủ tục kê khai đất để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 18/10/1999…”
– “Nhưng điều cốt yếu ở đây là bà con có quá trình canh tác tại khu vườn rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình liên tục và ổn định từ lâu trước năm 1975 mãi cho đến ngày 18/02/2000, bà con mới được UBND quận Tân Bình chính thức thông báo rằng bà con là người chiếm dụng đất của Nhà nước trực tiếp quản lý, chiếm dụng từ thời nhà nước cũ (Pháp rồi đến Việt) đến thời Nhà nước cách mạng.”
– “Theo quan điểm của Tòa Tổng Giám mục Tp.HCM, không hề có cơ sở pháp lý nào cho phép xác định khu vườn rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình là thuộc diện chính quyền cách mạng tiếp quản sau 1975 và cũng không hề có một cơ sở pháp lý nào cho phép xác định rằng trong thực tế, khu đất trên đã được Trung tâm viễn thông 3 tiếp quản cùng lúc với các cột anten và khu nhà điều hành của Trạm phát sóng. Nếu trung tâm viễn thông 3 không tiếp quản khu đất vườn rau, thì dựa vào đâu để năm 1987 Bưu điện thành phố tiếp nhận khu đất khi Tổng cục Bưu điện ký quyết định số 578/QĐ-TCCB ngày 23/05/1987 để giao cơ sở Trạm phát sóng do Trung tâm viễn thông 3 tiếp quản và quản lý từ năm 1975 đến lúc bấy giờ?”.
2/ Quyền lợi của bà con Vườn Rau
Chính vì lẽ vậy, tại Văn bản này, Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn sau khi đưa ra quan điểm và lập trường của mình, cũng đã đặt ra những câu hỏi “hóc búa” cho nhà cầm quyền địa phương khi âm mưu chiếm đoạt đất của bà con giao cho doanh nghiệp.
– Về cái gọi là “xin phép giải tỏa số vườn rau màu của nhân dân xung quanh khu đất bãi anten ra khỏi khu đất đó và tiến hành xây dựng tường rào bảo vệ quanh khu bãi anten” do nhiều văn bản của Bưu điện đưa ra, Tòa Tổng Giám mục đã hỏi Bộ Tài nguyên và Môi trường “dựa vào cơ sở pháp lý nào?” “Tại sao suốt hơn nửa thế kỷ không có tường rào, dưới chế độ thực dân Pháp, rồi dưới chế độ “ngụy quân ngụy quyền” và cuối cùng dưới chế độ cách mạng, nhân dân làm chủ hơn 13 năm, không hề cần có tường bảo vệ dăm ba cột anten, bây giờ đột nhiên lại cần thiết phải xây tường rào bảo vệ? Có lý do nào khác tiềm ẩn không trong thời buổi đất đai bắt đầu có giá? Có thể đó là suy nghĩ của bà con canh tác tại khu đất, nên bà con đã kiên quyết chống lại việc giải tỏa Vườn Rau của bà con.”
– Sau khi nhiều lần nêu rõ hàng loạt các căn cứ pháp lý khẳng định QSH-QSD hợp pháp khu đất Vườn Rau thuộc về bà con, nhà cầm quyền không đưa ra được bất kỳ chứng cứ, cơ sở pháp lý nào khẳng định đây là đất công. Cuối cùng, Văn bản của Tòa Giám mục kể lại “Khi được tôi (Linh Mục Huỳnh Công Minh- Tổng Đại diện) được chứng minh rằng khu Vườn Rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình không hề có Nhà nước nào trực tiếp quản lý, Nhà nước cũ cũng như mới, bởi vì bà con đã sử dụng liên tục và ổn định suốt hơn nửa thế kỷ qua, thì một vài vị tham dự cuộc họp ngày 15/08/2007 mới ung dung pháp biểu rằng theo chủ trương chính sách thì khu Vườn Rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình thuộc diện phải được chính quyền cách mạng tiếp quản và sử dụng từ sau 30/04/1975 dù trong thực tế khu đất không được cơ quan nào tiếp quản, đó là sơ hở của các cơ quan hữu trách.”
– Linh Mục Huỳnh Công Minh đã kết luận “Tôi cũng vẫn không hiểu được trên cơ sở pháp lý nào để xếp khu Vườn Rau, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình thuộc diện tiếp quản của Nhà nước cách mạng sau 1975.”
3/ “Ai” gây mất an ninh, trật tự, bị kích động?
Điều đáng lưu ý là trong vụ việc cưỡng chiếm đất, tàn phá tài sản người dân Vườn Rau, định hướng của nhà cầm quyền được nhiều dư luận viên tung hô rằng do khu đất có nhiều thành phần phức tạp, nghiện ngập, thậm chí có kẻ còn sử dụng từ ngữ nặng nề là “đầu trộm đuôi cướp”… nên buộc phải tàn phá để đảm bảo an ninh, trật tự… Và rằng nhiều thế lực thù địch lợi dụng kích động.
Đây không phải là lập luận mới, mà ngay từ khi âm mưu chiếm đoạt tài sản của bà con nhằm bán cho các doanh nghiệp (sau này, khi gặp phản ứng dữ dội, nhà cầm quyền địa phương mới “học tập” gương “đạo đức” của các vụ việc đi trước như Tòa Khâm sứ, Nhà thờ Thái Hà để sửa đổi thành dự án “trường đạt chuẩn quốc gia”), vào những năm 2000, nhà cầm quyền lúc bấy giờ cũng đã rêu rao cái gọi là “an ninh, trật tự”, xúi giục, kích động…
Tuy nhiên, luận điệu này cũng đã được Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn chỉ rõ là: “Tại cuộc họp, Tòa TGM Sài Gòn được ông Chủ tịch UBND phường 6 cho biết thời gian gần đây tại khu vực có một số bà con giáo dân gây mất trật tự nghiêm trọng. Tòa TGM Sài Gòn xin xác định quan điểm của mình về việc này như sau:
Gây mất trật tự công cộng là điều sai trái, không thể chấp nhận được. Nhưng Tòa TGM Sài Gòn có thể khẳng định rằng: Những bà con giáo dân này là những công dân lương thiện, luôn luôn trọng chính quyền mọi cấp, sẵn sàng chấp hành mọi chủ trương, chính sách, quy định của luật pháp. Việc gây mất trật tự của bà con hoàn toàn không có động cơ xấu, cũng không do kẻ xấu lôi kéo, xúi giục, mà chỉ vì quá bức xúc trước việc khiếu nại chính đáng của bà con chậm được giải quyết. Đề nghị chính quyền lưu ý tình tiết đặc biệt này khi xử lý.”
Tự tiện đập phá, xong chiếm đoạt tài sản hợp pháp của người khác, mà không có căn cứ pháp lý, hành vi này của nhà cầm quyền quận Tân Bình đều được xác định là “cướp”, và phải chịu sự trừng phạt.