Tin Việt Nam
Chẳng Còn Được Bên Nhau – Đi Nốt Cuộc Đời
- Viết bởi Lm. Giuse Ngô Văn Kha, DCCT
Từ một sáng kiến, tổ chức thành một chương trình, “Bên Nhau Đi Nốt Cuộc Đời” đã cuốn hút những người trong cuộc, những người đã trải qua một giai đoạn lịch sử cực kỳ nghiệt ngã, giữa ranh giới sống – chết, hội tụ lại trong một cách thức đơn sơ cụ thể, để bày tỏ sự tri ân, tưởng nhớ anh linh những người đã góp công và hy sinh cả sinh mạng mình cho quê hương, cho tự do và quyền làm người của người dân Việt.
Bên Nhau Đi Nốt Cuộc Đời như một lời tri ân ngập tràn nghĩa tình “huynh đệ chi binh”, như bổn phận phải có của những người may mắn còn sống, và sống lằn lặn sau cuộc chiến; như một bổn phận của những người được thụ hưởng sự tự do, là phải trả cái nghĩa nặng với tình sâu cho những người đã góp một phần thân thể, trở nên “tàn và phế” vì phụng sự quê hương và dân tộc, thì mới hợp với đạo lý làm người.
Quê hương mang nặng nghĩa tình, không chạy theo quan niệm, xu thế của bọn cơ hộ điếm đàng vắt chanh bỏ vỏ, nhưng luôn trân trọng sự hy sinh cao cả và thấy đấy là chiến tích của khí phách hào hùng, của những người con dân dâng hiến mình cho vinh quang Đất Việt.
Bao lớp những Anh Hùng “vô danh” đã hy sinh tuổi xuân vì lý tưởng dân chủ, tự do và công bằng, lấy thân xác mình để chứng minh giá trị Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm, với bầu nhiệt huyết sùng sục, sẵn sàng hoà mình vào lòng Đất Mẹ Quê Hương như một sự trả ơn trả nghĩa trọn vẹn nhất, cho niềm tự hào được làm người Việt Nam, cho tương lai của đất nước. Những Thương Phế Binh còn tồn tại hôm nay, chỉ là bề nổi của hàng hàng lớp lớp những thanh niên Đất Việt, mang trong mình khí phách hào hùng ấy.
Bị thanh lọc, bị phân biệt đối xử, bị đầy đọạ và nhục mạ trong muôn vàn nỗi khổ nhục suốt gần nửa thế kỷ. Cố sống để mà sống, không hề oán trách, chẳng than thân trách phận, e rằng xúc phạm đến anh linh những đồng đội đã hy sinh nằm xuống.
Lây lất sống qua ngày, nghĩ tưởng những mái nhà ở Vườn Rau Lộc Hưng sẽ là chốn dung thân cùng nhau cho đến hết đời, lúc sức cùng lực kiệt; nghĩ rằng dẫu “bên thắng cuộc” có hắt hủi, kỳ thị và ghét bỏ đến đâu, vẫn còn đó tình người như tia hy vọng cuối cùng, nhưng thói đời hèn hạ… Thế là tan tác những mảnh đời, chằng còn được bên nhau đi nốt cuộc đời.
Người chiến sĩ ấy – Những Thương Phế Binh, ai cũng mang trong mình thời trai trẻ oanh liệt, với những ước mơ và lý tưởng cho riêng mình, với những cống hiến và hy sinh, can đảm sống cuộc sống với những giá trị mình theo đuổi, đã từng sống và bảo vệ những giá trị của tự do và độc lập, của văn minh và tiến bộ, đã góp phần làm nên lịch sử của dân tộc, nay phải cố vượt trên nỗi mặc cảm của “bên thua cuộc”, và sự nhục nhằn của “người bị bỏ rơi”
Chẳng Còn Được Bên Nhau – Đi Nốt Cuộc Đời, nhưng vẫn còn đấy những sự cảm thông và yêu mến, sự đồng hành và trợ giúp những kiếp sống bị đọa đày với nỗi đau bị ruồng bỏ và sự liên đới luôn dành cho những người nghèo không thể khốn cùng hơn. Tình tương thân tương ái của những người con dân đất Việt cùng chia sẻ những thăng trầm của vận mệnh tổ quốc, sẽ giúp nhau vượt qua khó khăn này để hướng về một tương lai, nhất định sẽ tươi sáng hơn.
Dẫu chẳng còn được Bên Nhau Đi Nốt Cuộc Đời, nhưng bây giờ chính là lúc phải xác tín và chứng tỏ rằng, chúng ta cần có nhau, như lịch sử luôn phải tôn trọng sự thật về sự đóng góp cao cả của những người đã từng bảo vệ những giá trị làm người, chiến đấu cho tổ quốc hy sinh cho quê hương, và luôn hiên ngang là con dân Đất Việt.
Xin tri ân các anh, những anh hùng Đất Việt – Những Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hoà.
Lm. Giuse Ngô Văn Kha, DCCT
Kền kền rỉa thịt Vườn Rau
- Viết bởi Lm. Giuse Ngô Văn Kha, DCCT
Nhiều người nghĩ đơn giản rằng cứu cánh sẽ biện minh cho phương tiện, cho dù phương tiện đó có xấu. Nhưng xét trên phương diện luật pháp và luân lý thì, mục đích tối hậu (cứu cánh) muốn đạt được, dù có tốt đẹp đến đâu cũng không thể biện minh cho những phương tiện mà bản chất, là những hành vi xấu về mặt luân lý và pháp luật.
Nếu cứu cánh đó xấu, thì dù có dùng những phương tiện tốt, cũng không thể được biện minh về mặt đạo đức. Đó chính là những gì nhà cầm quyền cộng sản đang làm, hòng chiếm đoạt Mảnh Đất Vườn Rau khỏi tay những cư dân ở đây.
Trên trang fb của Lê Công Định, vị luật sư này đã chỉ cho thấy những bất cập của kỳ họp thứ 14, Hội đồng Nhân dân TP.HCM khóa IX đã thông qua nghị quyết điều chỉnh chủ trương đầu tư đối với dự án đầu tư trên khu đất Vườn Rau Lộc Hưng, phường 6, quận Tân Bình.
Trong nghị quyết, có đoạn cần lưu ý: “Mặt khác, trong quá trình rà soát pháp lý khu đất nói trên, UBND quận Tân Bình và các sở, ngành nhận thấy đây là khu đất do nhà nước quản lý, không thực hiện bồi thường về đất mà chỉ giải quyết hỗ trợ cho các hộ dân di dời. Vì thế họ đã điều chỉnh tên từ “Dự án bồi thường giải phóng mặt bằng khu đất công trình công cộng phường 6, quận Tân Bình” thành “Dự án hỗ trợ để thu hồi đất thực hiện đầu tư xây dựng cụm trường học công lập” theo tiêu chuẩn quốc gia tại khu đất công trình công cộng phường 6, quận Tân Bình.”
Như vậy, cho đến trước kỳ họp này của Hội đồng Nhân dân TP HCM, nhà nước vẫn xem đây là đất mà người dân có quyền sử dụng, nên khi thu hồi phải thực hiện thủ tục bồi thường theo Luật Đất Đai 2013. Do đó, họ đã lập ra “Ban bồi thường giải phóng mặt bằng quận Tân Bình”.
Nay trước sự phản ứng của dư luận trong và ngoài nước, nhà cầm quyền tìm cách thay đổi thực trạng pháp lý của khu đất Vườn Rau Lộc hưng bằng cách điều chỉnh thuật ngữ “bồi thường” thành thuật ngữ “hỗ trợ”, nhằm hợp thức hóa hành động tước đoạt đất của người dân Lộc Hưng một cách trái pháp luật. Sự việc này một lần nữa cho thấy cho đến nay người dân Lộc Hưng hoàn toàn có quyền sử dụng đất hợp pháp theo luật hiện hành, và dù nhà cầm quyền tìm cách đổi trắng thành đen cũng không thể phủ nhận quyền lợi hợp pháp đó của người dân.
Một câu hỏi cần đặt ra là Hội đồng Nhân dân TP HCM làm sao có quyền hiến định để thay đổi cơ sở pháp lý của quyền sử dụng đất hợp pháp theo Hiến pháp và Luật Đất Đai, mà chính nhà nước đã mặc nhiên thừa nhận bấy lâu nay chỉ đơn giản bằng một nghị quyết điều chỉnh tên gọi dự án?
Như vậy, nghị quyết nhằm tước đoạt đất hợp pháp của người dân Lộc Hưng hoàn toàn vô giá trị về mặt pháp lý.” (fb Lê Công Định) Luật sư Lê Công Đinh đã cho thấy ý chí của nhà cầm quyền là phải chiếm cho bằng được mảnh đất Vườn Rau Lộc Hưng.
Cho dù có “ăn không nói có”, bảo rằng “khu đất do nhà nước quản lý” mà không đưa ra được một chứng cứ pháp lý nào để cố tình không thực hiện bồi thường, vì nếu thực hiện việc bồi thường, phải có sự hiện diện của các bên trao đổi, thương lượng và thoả thuận mức giá đền bù, cho nên chỉ “giải quyết hỗ trợ” cho các hộ dân di dời.
Nếu một hành vi tự thân nó xấu về mặt đạo đức và vi phạm pháp luật trắng trợn như thế, nó không thể phục vụ cho một cứu cánh tốt. Nhà cầm quyền luôn tìm cách đánh tráo khái niệm, che dấu sự thật bằng những phương thế gian dối, giảm khinh cho việc sử dụng bạo lực, bảo vệ sự gian trá bằng cách biện minh rằng, sự bất công của họ đối với cá nhân hoặc một tập thể nào đó, là vì sự nghiệp chung của toàn dân, sự tốt đẹp – phát triển – phồn vinh của xã hội và do đó, họ được quyền sử dụng “quyền” để khống chế và cưỡng chế “hợp pháp” những nơi mà họ bảo là phục vụ cho công ích.
Một xã hội tốt đẹp sẽ phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật, nhưng trước tiên, nhà cầm quyền phải thượng tôn pháp luật, phải thực thi công bằng cho tất cả. Nếu một chính quyền hành xử với dân bằng những phương tiện bất công và bạo lực, chính quyền ấy không thể do dân và vì dân qua những hành động vô pháp, chà đạp phẩm giá, duy trì bất công và sử dụng bạo lực.
Chạm vào nỗi khổ đau của cư dân Vườn Rau và nỗi oan khiên của họ, chúng ta mới hiểu sự mị dân của chính quyền khi cho rằng, cứu cánh biện minh cho phương tiện. Chạm vào nỗi khổ đau của cư dân Vườn Rau và nỗi oan khiên của họ, chúng ta tự vấn, mục đích mà nhà cầm quyền đưa ra có thực sự tốt như thế không, và phương tiện họ dùng có chính đáng không, hay đó chỉ là sự phơi bày lòng tham vô độ của một chính thể “ngáo đất?”
Lm. Giuse Ngô Văn Kha, DCCT
Đảng bối rối về sức khoẻ Nguyễn Phú Trọng
- Viết bởi Phạm Trần
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đang rất ồn ào kỷ niệm 50 năm thi hành Di chúc Hồ Chí Minh (1969-2019), nhưng Lãnh đạo đảng lại bối rối trước sự bất động quá lâu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng.
Kể từ trưa ngày 14/04/2019 là khi có tin ông bị đột quỵ (stroke) trong chuyến thăm Tỉnh Kiên Giang, ông Trọng đã không có bất cứ hoạt động nào, dù trong cương vị Tổng Bí thư hay Chủ trịch nước.
Sự vắng mặt quan trọng nhất trong thời gian này là ông đã không xuất hiện tại đám tang nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh hôm 03/05 (2019) tại Hà Nội mặc dù ông là Trưởng ban Tang lễ.
Tuy nhiên, khi tường thuật lễ tang, báo chí của đảng không dám đề cập đến biến cố quan trọng này nhưng lại thông tin rộng rãi ông Trọng đã gửi vòng hoa phúng điếu khiền dư luận thắc mắc.
Vậy tình trạng sức khỏe của người Lãnh đạo 75 tuổi Nguyễn Phú Trọng thực, hư ra sao mà phải giấu kín, theo quy định của Luật Bảo vệ Bí mật Nhà nước (Luật số 29/2018/QH14) , ban hành ngay 15/11/2018, trong đó có khoản cấm ghi tại Điều 7 đối với “Thông tin bảo vệ sức khỏa lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước.”
ỔN ĐỊNH HAY KHÔNG ?
Cho đến nay, báo chí nhà nước chỉ được phép đăng nội dung xuất xứ từ một nguồn của Ban Tuyên giáo đảng, theo đó, viết rằng :”Ngày 13 và 14/4, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng có chuyến công tác tới Kiên Giang, trao đổi với lãnh đạo địa phương về tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng.
Xuống máy bay tại Cần Thơ, ông đi ngay về Kiên Giang, rồi di chuyển tiếp hơn 80 km về huyện Kiên Lương. Sau khi thăm cơ sở tôm đông lạnh, Tổng bí thư ra ngoài trời dưới nắng nóng 38 độ, do thời tiết thay đổi, sức khỏe của ông bị ảnh hưởng.”
Ngày 26/04 (2019), Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân nói với cử tri Cần Thơ:” Thời điểm Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng vào Kiên Giang công tác thì thời tiết ngoài Bắc còn hơi lạnh, khi vào Nam thì thời tiết rất nóng và phải di chuyển rất nhiều, cường độ làm việc cao, có ảnh hưởng đến sức khỏe.
“Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã được các bác sĩ chăm sóc kịp thời nên sức khỏe đã ổn định và sẽ sớm trở lại công việc để cho nhân dân yên tâm.”
Trước đó vào ngày 25/04 (2019), trả lời câu hỏi của Thông tín viên AFP (Agence France-Press) người phát ngôn Bộ Ngoại giao, Lê Thị Thu Hằng nói:” Do cường độ làm việc cao, thời tiết thay đổi đã ảnh hưởng đến sức khỏe của đồng chí Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Đồng chí Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ sớm trở lại làm việc bình thường”.
Bệnh “thời tiết nóng, lạnh” gì ở Việt Nam mà độc địa thế ? Nếu chỉ vì ra nắng, vào lạnh và phải di chuyển bằng xe 80 cây số nên bị mệt mà cảm cúm, hay hắt xì sổ mũi thì có nhằm nhò gì so với sự chịu đựng của người dân lao động, hay nhà nông chân lấm tay bùn chưa ăn bữa sáng đã lo bữa tối ?
Hơn nữa, trước “biến cố Kiên Giang” ngày 14/04 (2019), ông Nguyễn Phú Trọng là người năng động. Ông đã tiếp khách nước ngoài và đi đó, đi đây chỉ đạo rất hăng, nhất là trong lịnh vực xây dựng đảng, chọn lựa nhân sự cho Đảng khóa XIII và chống tham nhũng “đốt lò”.
Vì vậy, sau gần một tháng mà chưa thấy ông Trọng xuất hiện, hay không có động tĩnh gì, nhất là chưa nhìn thấy ông nói năng bình thường tại các buổi làm việc hay tiếp khách như trước thì những lời trấn an dư luận của bà Ngân cho rằng “sức khỏe đã ổn định”, hay của Bộ Ngoại giao hứa ông Trọng “sẽ sớm trở lại làm việc bình thường” phải “có vấn đề”.
GIẤU MÀ HỞ ?
Nhưng truyện dài đau ốm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng không chỉ có nhiêu đó mà còn nhiêu khê lắm. Chẳng hạn như ông đã vắng mặt trong đoàn đại biểu quốc hội (ĐBQH) thành phố Hà Nội thuộc đơn vị bầu cử số 1 trong cuộc tiếp xúc với cử tri ngày 04/05 (2019), trước kỳ họp thứ 7 của Quốc Hội, dự trù khai mạc ngày 20/05 (2019).
Đơn vị I gồm hai quận Ba Đình, Hoàn Kiếm và Tây Hồ có 3 Đại biểu. Ông Trọng là người đứng đầu, nhưng chí có 2 Đại biểu Trần Thị Phương Hoa, Bí thư Quận ủy Cầu Giấy và Thiếu tướng Nguyễn Hồng Thái, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thủ đô gặp cử tri cùng với đại biểu Bùi Huyền Mai, Phó Trưởng đoàn ĐBQH Hà Nội đến dự cho nổi đình đám.
Sau đó, vào chiều ngày 07/05 (2019) báo chí trong nước lại đưa tin Bí thư thành ủy, Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thiện Nhân cũng phải trấn an cử tri (quân 3) Đơn vị I về tình trạng sức khỏa của ông Trọng.
Cử tri Lê Thanh Tùng nói với ông Nhân:"Bà con đề nghị nói rõ bệnh tình của đồng chí Nguyễn Phú Trọng như thế nào. Đó là lòng mong mỏi của người dân. Chứ để trên mạng nói lung tung thì không hay đâu, mà họ nói thì không cấm được."
Ông Nhân cho biết “Tổng bí thư, Chủ tịch nước bị mệt nhưng sức khỏe đang tiến triển ngày càng tốt lên.”
Rồi ông nói như phân bua: "Chúng ta cũng biết là, liên quan đến sức khỏe mỗi người có một tốc độ, mức độ hoàn thiện khác nhau nên chúng ta chưa thể tự đưa ra thời hạn được. Tôi tin là các đồng chí sẽ sớm thấy Tổng bí thư, Chủ tịch nước xuất hiện và làm việc." (theo VTCNews –Đài truyền hình KTS-VTC)
Lạ chưa ? Có ai, kể cả cử tri Tùng, muốn biết ngày nào ông Trọng có thể trở lại làm việc bình thường đâu ? Nhưng khi ông Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thiện Nhân lại hớ hênh nói “chưa thể tự đưa ra thời hạn” bình phục sức khỏe của ông Trọng , vì “mỗi người có một tốc độ, mức độ hoàn thiện khác nhau.”
Ai mà chả biết vậy. Nhưng với đội ngũ Bác sỹ thượng thặng nhất của Việt Nam gồm cả Bác sỹ Đông y của Ban Bảo vệ sức khỏe cán bộ lãnh đạo thì hiển nhiên ông Trọng phải được chăm sóc trăm ngàn lần hơn bà con lao động.
Như thế mà ông Nhân lại bảo “chưa thể tự đưa ra thời hạn” thì có phải ông không biết nên nói mò , hay ông biết mà đã lỡ mồm lỡ miệng “tiết lộ bí mật quốc gia” ?
THÁCH ĐỐ CỦA ÔNG TRỌNG
Với những “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo” như thế thì hẳn ông Nguyễn Phú Trọng phải bực mình khôn tả, hay ông đã phải gượng cười bỏ qua ?
Nhưng trước mắt, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ phải tự mình trả lời 3 câu hỏi , 2 gần và 1 xa, đó là :
1.-Liệu ông có thể xuất hiện tại Hội nghị Trung ương 10/Khóa đảng XII, dự trù diễn ra trong tháng 5/2019.
Theo ông Lê Mạnh Hùng, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương nói tại Hội nghị trực tuyến Báo cáo viên các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương ngày 8/5 (2019) thì :”Tại Hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương sẽ bàn, quyết định nhiều vấn đề quan trọng.” (Tài liệu Ban Tuyên giáo).
2.- Ông Trọng cũng phải chuẩn bị thể diện, áo mũ để tham dự hay khiếm diện tại buổi khai mạc Kỳ họp Quốc hội lần thứ 7, khai mạc vào ngày 20/05 (2019).
3) Sau cùng, ông cũng cần phải trả lời cho Tòa Bạch Ốc biết là liệu ông có đủ sức khỏe thăm Hoa Kỳ trong năm 2019 như đã hứa với Tổng thống Donald Trump hay không ?
Trước đây vì lý do sức khỏe mà ông Trọng đã phải hủy 2 việc đã có trong chương trình làm việc của ông gồm:
Thứ nhất, hủy bỏ cuộc tiếp Phái đoàn 9 Thượng nghị sỹ lưỡng đảng Hoa Kỳ, ấn định vào ngày 18/4 (2019) tại Hà Nội. Đoàn do Nghị sỹ Dân chủ Patrick Leahy (Tiểu bang Vermont), Phó Chủ tịch Ủy ban chuẩn chi Thượng viện cầm đầu thăm Việt Nam để thẩm định công tác tẩy xóa chất độc Da Cam và công tác giúp người khuyết tật.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Bí thư Trần Quốc Vượng, người đứng hàng thứ hai sau ông Trọng đã thay ông Trọng tiếp phái đoàn Leahy.
Thứ hai, ông Trọng không cầm đầu phái đoàn đi Trung Cộng họp Hội nghị thượng đỉnh “Vành đai-Con đường” lần 2 ở Bắc Kinh từ ngày 25 đến 27/04/2019, theo lời mời của Lãnh đạo đảng, nhà nước Trung Cộng Tập Cận Bình.
Bộ Ngoại giao Việt Nam ra thông báo chính thức ngày 22/4 (2019) cho biết Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sẽ cầm đầu phái đoàn Việt Nam. Cũng giống như nguyên Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã thay mặt Việt Nam đọc diễn văn tại Hội nghị này hồi tháng 5/2017, ông Nguyễn Xuân Phúc sẽ trình bày quan điểm của Việt Nam vào ngày 26/04 (2019). Sau đó, ông Phúc sẽ có các cuộc họp với Lãnh đạo cao nhất của Trung Cộng.
Đó là những diễn tiến quanh chuyện ông Nguyễn Phú Trọng có bị bệnh nặng phải chữa bằng nhiều phương pháp y học Đông-Tây dài hạn hay chỉ là bệnh gìa khi trái gió trở chiều như nhà nước nói ?
Hy vọng ông đã “ổn định” như bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nói với cử tri, nhưng nếu người dân mà chưa sớm thấy ông trở lại làm việc như lời tiên đoán của “thầy bói” Bí thư thành Ủy Nguyễn Thiện Nhân thì ông có bỏ họ vào lò không ? -/-
Phạm Trần
(05/019)
Đổi Đời Và Đổi Tiền
- Viết bởi Hà Minh Thảo
I.- ĐỔI ĐỜI.
Cách đây 44 năm… 10 giờ 45 ngày 30.04.1975, hai chiến xa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam húc tung cổng vào Dinh Độc Lập và một việt cộng cầm cờ đỏ, xanh có sao vàng ở giữa chạy bộ vào trong Dinh. Lối 11 giờ 30, hắn hạ cờ Việt Nam Cộng hòa trên nóc Dinh xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên.
Sau đó, nhiều việt cộng khác đi vào dinh Độc Lập bắt Tổng thống Dương Văn Minh cùng các thành viên chủ chốt nội các. Ông nói: « Tôi chờ các ông tới để bàn giao chính quyền », việt cộng chỉ huy trả lời: « Các ông đã không còn gì để bàn giao. Thay mặt Cách mạng, tôi đề nghị ông ra lệnh đầu hàng vô điều kiện để tránh đổ máu không cần thiết ». Dương Văn Minh đồng ý.
Khoảng 12 giờ, chúng đưa ông Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu bằng xe Jeep đến đài phát thanh. Tại đây, Tổng thống cuối cùng Dương Văn Minh đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với quân đội cách mạng. Thay mặt các đơn vị Quân giải phóng đánh chiếm dinh Độc Lập, một trung tá đọc lời tiếp nhận đầu hàng. Chiến tranh kết thúc… Cuộc đổi đời bắt đầu.
Quốc danh ‘Việt Nam Cộng hòa’, sau gần 20 năm phục vụ Tổ Quốc, đã biến khỏi bản đồ thế giới và Thủ đô Sài Gòn, từng được mệnh danh ‘Hòn ngọc Viễn Ðông’, từ đó, mang tên người chết chưa chôn. Do có sự đổi tên các đường, chúng tôi có vài ghi nhận ‘Ðồng Khởi cướp Tự Do’ hay ‘Nam Kỳ Khởi Nghĩa diệt Công Lý’. Thật ý nghĩa !
Cuộc đổi đời đã thể hiện tức thì vào ngày 02.05.1975, sau ngày Lễ Lao động, nhiều đôàng nghiệp nữ tại ngân hàng tôi đang làm việc đã bắt đầu thay những áo dài vàng tha thước bằng những áo ngắn đủ màu ‘cách mạng’. Các nam nhân viên, như tôi, bắt đầu bỏ giày chỉ mang dép… để rồi cuối tháng 05/1975, mỗi người, từ Tổng Giám đốc đến các lao công, đều được lãnh 10.000 đồng (để so sánh, một tô phở trung bình lúc đó là 15 đồng). Một Giám đốc chi nhánh ngân hàng Pháp (nhân viên các chi nhánh ngân hàng Mỹ đã di tản toàn thể và từ lâu) trước đó lương hơn 300 ngàn, nay chỉ còn chừng đó, ông bảo tài xế hãy cầm giữ. Sự san bằng lương giàu nghèo kiểu cộng sản không dụ được người lao công ngân hàng vì lương tháng của họ, trước đây, tối thiểu cũng ở mức đó.
Cuộc đổi đời gây khủng hoảng tình đồng nghiệp bởi ‘đám cách mạng ba mươi’ (tức là những kẻ theo cộng sản từ ngày 30.04.1975). Một vài anh thư ký đánh máy có thái độ đáng khinh khi lên án các nữ nhân viên đã di tản đi Mỹ là sang bên đó chỉ làm những nghề tồi bại hay tuyên truyền khuyên tôi nên chấp nhận ‘kẻ vô thần’. Tôi chỉ cười trừ thôi, nhất là khi mình là cựu sĩ quan Quân lực Cộng hòa, trước sau gì cũng bị ‘cám ơn’ và ‘được hay bị’ khuyến khích đi vùng ‘kinh tế mới’. Sau ba lần vắng mặt có lý do các kỳ học tập ngày Chúa Nhật, tôi được mời rời vĩnh viễn khỏi ngân hàng cộng sản.
Từ khi được thành lập, Ngân Hàng mang ý nghĩa là Ngân là tiền bạc, Hàng là cửa hàng. Ngân hàng là nơi giao dịch tiền tệ. Nhờ đổi đời, một hôm, đại đồng chí chủ quản thanh lý ngân hàng Ðại Á lớn tiếng tuyên bố : « Ngân hàng là Tiền và Hàng là hàng hóa ». Nói thế vì anh ta muốn nhắc nhân viên tín dụng trước kia, khi trao tiền cho vay phải đem hàng hóa cất kỹ vào kho.
Một lần kia, một nhóm chúng tôi được cử đi kiểm kho hàng cho vay. Ðến chiều ra về, trưởng nhóm trình sự vụ lịnh cho anh gác cửa. Chẳng may, anh này cầm giấy ngược để đọc, một chị trong đoàn không nín được cười. Anh ta bỏ đi không mở cửa, cả đoàn ngồi trong xe chờ. Hơn nửa giờ sau, một xe khác cần ra, anh mới phải mở cửa để cho chúng tôi ra trước. Hú hồn.
Một lần khác, sau vụ đổi tiền ngày 22.09.1975, số tiền Việt Nam Cộng hòa thu đổi được chở về lưu trử tại hầm bạc Ngân hàng Việt Nam Thương tín cũ trên đại lộ Hàm Nghi. Một hôm, trời mưa tầm tã, nước mưa cuốn tất cả rác Chợ Cũ dọc đại lộ này chảy qua cửa song sắt ngân hàng này và tràn xuống hầm chứa bạc đã xài. Sau khi phát hiện hầm bạc bị ngập, bốc mùi và đã có giòi. Bị hỏi tại sao không lên báo động cấp trên để có biện pháp, người bảo vệ hôm đó trả lời là lịnh cấm không cho người vào, chứ không chỉ thị gì về nước tràn vào cả.
II.- ÐỔI TIỀN.
Nhân khi đọc Việt Báo ngày 04.10.2006, chúng ta được biết : « Ngay sau khi Cộng quân tiến chiếm Sài gòn trưa ngày 30.04.1975, Ban Quân quản các ngân hàng đã tiếp thu Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và các ngân hàng khác ‘với tiền, vàng còn nguyên vẹn là một chuyện ngoạn mục. Việc xử lý sau đó còn ngoạn mục hơn’. Đó là lời ông Lữ Minh Châu, Trưởng ban Quân quản các ngân hàng Sài gòn – Gia định, người tổ chức tiếp quản toàn bộ tiền, vàng của chế độ cũ. Ngoài ra, ông Châu còn xác nhận : Về … 16 tấn vàng vẫn còn nguyên vẹn trong kho của ngân hàng ».
Về tiền, ông cho biết : « Toàn bộ tiền và vàng dự trữ trong ngân hàng chúng ta tiếp quản nguyên vẹn cùng với đầy đủ hồ sơ sổ sách. Theo thống kê thì khối lượng tiền trong lưu thông thời điểm đó là 615 tỉ, gồm tiền mặt trong lưu thông 440 tỉ, còn lại nằm trong tài khoản tiền gửi. Sau khi tiếp quản, tài sản thuộc Ngân hàng Quốc gia được bàn giao toàn bộ cho Ngân hàng Trung ương Chính phủ Cách mạng lâm thời, mang tên Ngân hàng quốc gia miền Nam, do ông Trần Dương làm Thống đốc ». Theo Wikipedia, khi kiểm kê tiếp thu, trong kho hầm sắt Ngân hàng Quốc gia Việt Nam có 1.234 thỏi vàng và một số tiền cổ bằng vàng, tức hơn 16 tấn. Đó là tài sản quý kim và tiền tệ của nước Việt Nam Cộng hoà. Sau đó, đến phiên tiền tệ của người dân được cướp đi bởi các cuộc Đổi tiền.
Tuy nhiên, khi ông cho biết ‘Trong kho dự trữ còn có 125 tỉ tiền in theo kiểu mới chưa phát hành, riêng số giấy bạc này được lệnh phải thiêu hủy, vì đó là số giấy bạc mà chính quyền Sài Gòn chuẩn bị để đổi tiền’. Chữ ‘đổi tiền’ mà ông nói ở đây không đúng nghĩa vì đó là những tờ giấy bạc có mệnh giá lớn được in chờ ngày phát hành. Ngày phát hành được cơ quan thẩm quyền loan báo trước và, đến ngày đó, Viện phát hành giao lượng giấy bạc này cho các ngân hàng hay những ngân khố để chi trả cho người thụ hưởng hợp pháp đúng định giá tiền giấy đã thu. Đồng thời, Viện này cũng có quyền ra lịnh thu hồi các loại tiền cũ khác để tiêu hủy.
Ngày 06.06.1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam (tức Việt cộng, bức tử ngày 02.07.1967) ban hành Nghị định số 04/PCT-75 để thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam do ông Trần Dương làm Thống đốc.
A.- Cuộc Đổi tiền ngày 22.9.1975.
Hôm đó, dưới sự lãnh đạo của Bộ chính trị và Trung Ương đảng lao động Việt Nam, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã tổ chức cuộc đổi tiền trên qui mô toàn Miền Nam để đưa đồng tiền mới có tên là ‘Tiền Ngân hàng Việt Nam’ hay ‘tiền giải phóng’ vào lưu thông với tỷ lệ 1 đồng NHVN bằng 500 đồng tiền Việt Nam Cộng hòa, đưọc in trên những tờ bạc có hình các danh nhân (Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Huệ, Lê Văn Duyêät), trụ sở Ngân hàng Quốc gia hay các thú vật.
Ngày 20.09.1975, bỗng nhiên có tin từ Ban Điều hành ngân hàng Đại Á cho nhân viên biết là không nên về sớm (lúc đó, tại ngân hàng thương mại, chúng tôi không còn bao nhiêu việc để làm) hầu chờ lệnh Ngân hàng Quốc gia… Quá 12 giờ, các nhân viên kế toán được yêu cầu có mặt tại chi nhánh Việt Nam Thương tín Đa kao lúc 12 giờ hôm 21.09.1975 để đi nhận việc mới. Nhận việc ngày Chúa Nhật là một điều lạ ? Nhưng chúng tôi tự vấn an nhau ‘Thời cách mạng mà!’.
Đúng giờ định, chúng tôi có mặt đầy đủ nhưng chỉ gặp nhân viên bảo vệ chi nhánh. Ông cho biết chỉ nhận lịnh đón chúng tôi vào chờ mà thôi… Chờ mãi đến gần 15 giờ, đề tài để trò chuyện cũng đã cạn, chúng tôi kéo nhau đi ăn ‘bánh cuốn Tây Hồ’… Từ khoảng 17 giờ, có thể người dân ngửi được mùi ‘biến cố tiền tệ’ sắp bùng nổ : người ta ăn uống tới tấp, nhiều người sẵn sàng trả giá để mua hàng với giá cao khó tưởng tượng. Một chiếc xe đạp đang đi, người ta chặn lại, trả giá một triệu đồng, chủ xe thắc mắc ‘biến cố gì ?’ và đạp xe nhanh đi.
Tiếp theo, đài phát thanh yêu cầu người dân phải về nhà trước 23 giờ để đợi thông báo quan trọng. Lúc 2 giờ ngày 22.09.1975, đài loan tin về quy định đổi tiền và kéo dài thời gian giới nghiêm đến 11 giờ sáng. Thời gian đổi tiền sẽ bắt đầu vào lúc 11 cho đến 23 giờ cùng ngày, tức chỉ có 12 giờ đồng hồ để hoàn thành việc thu và đổi tiền.
Thể thức :
– Hối suất : 500 đồng Việt Nam Cộng hòa = 1 đồng Cộng hòa Miền Nam Việt Nam;
– Mỗi gia đình chỉ được đổi 100.000 đồng cũ ra thành 200 đồng mới để tiêu dùng thường nhật. Phần còn lại, Nhà nước giữ lại…
Lúc 6 giờ ngày Đổi tiền, chiến dịch bắt đầu : một xe nhà binh GMC, tiếp thu của Quân đội Việt Nam Cộng hòa đến đón chúng tôi có ‘đồng chí’ Phường ủy Phường Trần Quang Khải, Quận nhất, đi kèm. Nói chuyện với chúng tôi, ông kể lể công thống nhất đất nước của Đảng và hứa hẹn một tương lai tốt đẹp cho toàn dân. Thấy tôi mỉm cười, ông đưa ‘thẻ vàng’ cảnh cáo cho là tôi: không tin Đảng.
Sau đó, nhóm ‘kế toán viên ngân hàng’ chúng tôi bị chia mỗi người đến một Bàn (đơn vị phụ trách Đổi tiền) để nhận nhiệm vụ Kế toán. Bàn, nơi tôi đến đặt tại một nhà mà chủ đã vượt biên ở đường Nguyễn Văn Thạch. Sau đó, một đồng chí mặc kaki, mang dép râu với nón cối tới và tự giới thiệu là y sĩ bộ đội, Bàn trưởng. Tiếp đến, hai công chức Ngân khố để làm Thủ quỹ : một tiền cũ và một tiền mới. Bàn trưởng, tính tình hiền hậu, mở lời nhờ chúng tôi giúp anh hoàn thành công tác và, vì anh không rõ qui định về Tờ khai gia đình ở Sài gòn thế nào, nên nhờ chúng tôi xem dùm. Anh ‘cử’ tôi kiêm Thư ký giữ và phát đơn.
Cuối cùng, những ấn phẩm và tiền mới có những trị giá khác nhau cũng được chở tới. Đúng 11 giờ, Bàn Đổi tiền mở cửa tiếp các khách hàng ‘miễn cưỡng’, tôi cảm thấy mình cũng bị cưỡng bách phải nhận Tờ khai gia đình, xem, trả lại kèm hai mẫu đơn và xin nộp lại sau khi đã khai xong với số tiền mặt cũ.
Trong số những đồng bào đến đây, tôi tiếp Giáo sư H.T.S, Thầy cũ đã dạy ở Đại học Luật khoa Sài gòn. Ông giải thích nhà ông ở Làng Đại học bị ‘lấy’ và đưa Tờ khai gia đình cho tôi. Không thể để người bị ‘cướp nhà’ lại bị ‘cướp tiền’, tôi nhận văn kiện và nói : ‘Thầy để tôi lo’. Bao nhiêu đó đủ để nhận biết nhau. Tôi trả hồ sơ cho ông và nói đủ lớn để Bàn trưởng nghe : « Tờ khai gia đình của Thầy có ghi ‘Tạm trú’. Như vậy, được rồi và sau khi khai xong, Thầy sớm nộp lại. Chào Thầy ». Cười và bắt tay nhau. Trong số khách đó, có những người đến xin đơn về khai và, sau khi, nghe theo bàn tán thế nào, trở lại xin đơn khác… Thôi thì tiền của người ta (họ không phải là kẻ ‘chấp hữu vô căn’… mà chỉ là nạn nhân chế độ) nên tôi cứ để cho chủ gia đình tự quyết định theo ý họ. Mình muốn vô can.
Khi đồng bào trở lại nộp đơn, tôi đọc xét và ghi sổ kế toán, tiền cũ được Thủ quỹ tiền cũ nhận, đếm đúng với số khai, cắt góc tờ giấy bạc và lưu lại. Nhìn sự việc đó, tôi mang một nỗi buồn mất mát ‘Đồng tiền Việt Nam Cộng hòa đang đi vào dĩ vãng…’ Sau đó, Thủ quỹ tiền mới giao những tờ giấy bạc mới cho khách và Bàn trưởng ký chung cuộc và trao một bản đơn cho đương sự. Bản kia trao cho tôi để lưu. Xong việc đổi tiền cho một gia đình. Có vài gia trưởng chỉ mang đến ít hơn 100.000 đồng tiền cũ thắc mắc, vì nghe các du kích tuyên truyền dạy bảo ‘cộng sản sẽ san bằng giàu nghèo’, sao không được lãnh 200 đồng tiền mới như nhà trước. Tôi chỉ trả lời : không có chỉ thị. Thật nghèo mà ham. Đi tin cộng sản !
Các ‘đỉnh cao trí tuệ’ lãnh đạo, tại Hà nội, hình như đã không đủ khả năng để thẩm lượng số tiền đang lưu hành tại Việt Nam Cộng hòa, nơi nền kinh tế phồn thịnh hơn Miền Bắc cộng sản nhiều vì, sau ngày 30.04.1975, hàng loạt hàng hóa và vàng bạc từ Sài Gòn đã được chở về Hà Nội, kể cả 16 tấn vàng mà ‘người cộng sản’ phao tin ông Nguyễn Văn Thiệu đã chở đi khỏi nước. Cuộc đổi tiền đã kéo dài ba ngày và chỉ mới thanh toán cho mỗi gia đình 200 đồng tiền mới mà thôi.
Ngày 25.09.1975, nhân viên tất cả các Bàn đổi tiền Quận 1 Thành phố được tập họp về vũ trường Maxime cũ để tổng kết. Nhân dịp này, Bí thư Thành ủy khen chiến dịch ‘Đổi tiền’ đã đạt thành quả tốt đẹp hơn cả chiến dịch Hồ Chí Minh (chiếm Miền Nam) vì khi thảo luận chiến dịch này, Bộ Chính trị nắm vững quân số và mọi phương tiện, nhưng khi ‘Đổi Tiền’ thì họ không biết có đủ số nhân sự động viên cũng như số lượng tiền cũ và công việc sẽ diễn tiến ra sao.
Cuối cùng, trở về Phường, chúng tôi đã làm công tác thống kê. Các ‘đỉnh cao trí tuệ’ muốn có những số liệu tiền mặt của những gia đình mà gia trưởng là các sĩ quan hay công chức đang ‘đi cải tạo’, nhưng khi lập bảng Thống kê, vì các ông đang vắng mặt, nên các bà đã đứng đơn xin đổi tiền và chỉ ghi nghề nghiệp mình đang làm hay nội trợ. Nhờ đó, tôi cảm thấy nhẹ nhàng… Sau đó, theo Wikipedia, từ đầu năm 1976, các gia đình có tiền đổi được phép rút 30 đồng mới mỗi tháng, nhưng đến tháng 12/1976 thì trương mục được khóa lại. Đúng là ăn cướp hợp luật cộng nô.
B.- Cuộc Đổi tiền ngày 03.05.1978.
Sau khi thống nhất Việt Nam năm 1976, Cộng đảng Việt quyết định xã hội chủ nghĩa hóa nền kinh tế thị trường, theo nghị quyết khóa III, xóa bỏ tư sản thương mại và dân tộc, xây dựng hợp tác xã,… Kỳ Đổi tiền này được quyết định bởi Thủ tướng do sắc lệnh số 88 CP ngày 25.04.1978 và khai triển ngày 03.05.1978. Theo đó tiền tệ hiện lưu hành tại hai miền Nam Bắc hết giá trị giao hoán và những ai đang sở hữu tiền cũ này phải đem đổi lấy tiền mới.
1 - Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam công bố đổi tiền trên phạm vi toàn quốc, thống nhất tiền tệ cả nước với tỷ lệ 1 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước cũ ở miền Bắc hoặc 0,80 đồng tiền Giải phóng ở miền Nam bằng 1 đồng Ngân hàng Nhà nước mới.
2- Thể thức :
a. Dân thị thành được đổi tối đa:
– 100 đồng cho mỗi hộ 1 người;
– 200 đồng cho mỗi hộ 2 người;
– Hộ trên 2 người thì người thứ 3 trở đi được đổi 50 đồng/người;
– Tối đa cho mọi hộ thành phố bất kể số người là 500 đồng.
b. Dân quê được phép đổi theo định mức sau:
– 100 đồng cho mỗi hộ 2 người ;
– Hộ trên 2 người thì người thứ 3 trở đi được đổi 30 đồng/người;
– Tối đa cho mọi hộ dưới quê bất kể số người là 300 đồng.
Số tiền đang có trên mức tối đa phải khai nộp và ký thác vào ngân hàng. Khi cần dùng có lý do chính đáng thì tiền đó có thể rút ra. Một điều buộc nữa là trương chủ phải chứng minh số tiền này là tiền kiếm được bằng sức lao động chân chính. Lại thêm một lần cướp hợp pháp, tức ‘chấp hữu vô căn’.
Do sợ sự bí mật đổi tiền bị ‘bật mí’, nên nhà nước dùng các sinh viên phụ trách các bàn đổi tiền và, khác với lần trước, kỳ này, ngoài các loại tiền giấy phải cắt góc, còn có tiền nhôm 1 đồng. Ðể hủy tiền này, cuối cùng, nhà nước mới chỉ thị dùng búa đóng đinh xuyên thủng những đồng tiền nhôm này.
Ðang làm việc tại Phòng Tiền tệ Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh, tôi tham gia Kiểm tra Tồn quỹ các cơ quan nhà nước tại Thành Hồ, đặt tại lầu 10 Ngân hàng Thành phố. Tổ (đơn vị kiểm tra) gồm một Tổ trưởng (tại Tổ chúng tôi: một lãnh đạo Ngân hàng Kiến thiết, vui tính và biết điều), một công an cấp tá lú và giáo điều cùng chúng tôi hai kế toán.
Cơ quan đầu tiên mà Tổ kiểm tra tiếp là Trường đại học Y khoa. Sổ sách kế toán phù hợp qui định Ngân hàng Thành phố, nhưng tồn quỹ hơi cao. Lý do mà mọi người điều biết : Tiền mặt không được giữ tại cơ quan quá định mức, nhưng khi cần thì Ngân hàng không có đủ để cung ứng, nên các cơ quan đều vi phạm mức tồn quỹ này. Ðó là lỗi Ngân hàng Thành phố và Ngân hàng các quận không ‘tóm’ được tiền mặt từ các cửa hàng hay quán ăn uống quốc doanh.
Sau đó, khi làm việc với một đơn vị quân báo và tìm thấy những số tiền mặt được dùng để chi trả cho việc may quân phục đen. Tổ trưởng đặt câu hỏi và được trả lời là để giả lính Khmer đỏ xâm nhập vào Cam bốt. Lúc đó, Khmer đỏ thỉnh thoảng tấn công Việt Nam và giết người Việt và Việt Nam chuẩn bị đánh vào Cam bốt năm 1979.
Cơ quan mà việc kiểm tra kéo dài và khó khăn nhứt là Trường Đảng, đặt tại Trường Bộ binh Thủ đức cũ. Khi tiến hành kiểm tra, vài thành viên Trường Đảng mặc áo ngắn tay bỏ ngoài đã đưa cao tay để cho thấy họ có súng… Sau ba ngày làm việc không kết quả, hôm sau, trước khi bắt đầu, Trưởng đoàn cho biết : tối hôm qua, Đảng ủy Trường đã họp và quyết định nói thật… Khi kiểm tra sổ kế toán, tôi thấy ngay có nhiều trang không có số cộng từ trên xuống, nhưng có số mang sang trang sau. Tôi hỏi tại sao như vậy ? Trong khi cô kế toán ‘sếp’ đang cố gắng giải thích thì cô kế toán kia nhỏ nhẹ ‘ba em đi học tập’ khiến tôi nghĩ đến tình chiến hữu (dù là quân nhân, cảnh sát hay công chức cũng phụng sự Tổ Quốc Việt Nam Cộng hòa). Do đó, tôi khuyên hai cô phải làm thế nào để đúng, rồi xếp sổ lại, không ghi biên bản. Không gian dối không đáng là cộng sản.
Cơ quan ‘Khám Chí hoà’ cũng ‘là vua’ với nhiều vi phạm, nên giờ cơm trưa, Tổ trưởng và Trung tá công an được mời về ‘nhà tù’ ăn nhậu. Buổi chiều, sau khi làm Biên bản kiểm tra tồn quỹ, trong khi tôi đánh máy năm bản (đồng chí Tổ trưởng rất khoái thấy biên bản được đánh máy), Trưởng đoàn khám đường mời các thành viên Tổ uống bia. Tôi từ chối vì đang bận đánh máy. Mang bia đến, nhưng không có ly, nên phải đến nhà bếp mượn chén để uống khiến thành viên các Tổ khác biết. Rồi vì ghen ghét không được uống bia, nên họ đã họp toàn thể các Tổ để tố quê nhau…
C.- Cuộc Đổi tiền ngày 14.09.1985.
Ngày 12.09.1985, báo Tuổi Trẻ đăng tại trang nhất: ‘Bẻ gãy thủ đoạn tung tin đổi tiền của gian thương’và đã viết: ‘Với sự tăng cường hiệu lực của bộ máy chuyên chính vô sản mọi hậu quả tin đồn phải được thanh toán triệt để’. Thế rồi, sáng 14.09.1985, hệ thống loa phóng thanh đường phố loan tin Đổi Tiền. Đó là sự khác biệt giữa biện pháp do cộng sản chủ trương và những sự Đổi Tiền ở những nước dân chủ mà chúng ta đã xem khi bắt đầu bài này. Trước cuộc cướp đó, Phan Văn Khải, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh viết báo biện luận ‘Đổi tiền là vì lợi ích của nhân dân lao động’.
Vì đang hành nghề cho doanh nghiệp tư nhân, nên tôi không bị buộc phải tham gia Đổi tiền lần này. Tuy nhiên, chúng tôi đã tìm được những tin tức liên quan để cung cấp.
Trước tình hình diễn biến phức tạp của lưu thông hàng - tiền và nạn khan hiếm tiền mặt nghiêm trọng trong thanh toán, ngày 14.09.1985, nhà nước phải công bố đổi tiền theo tỷ lệ 10 đồng tiền Ngân hành Nhà nước cũ ăn 1 đồng tiền NHNN mới phục vụ cuộc cách mạng về giá và lương. Nhà nước đã cho phát hành thêm vào lưu thông một khối lượng lớn tiền tương đương với 1,38 lần khối lượng tiền mới đã phát hành trong đợt đổi tiền trước đó để phục vụ công cuộc cải cách lương và giá.
Ðây là cuộc đổi tiền do Phát hành tiền mới :
- Thu đổi tiền: 1đ tiền mới bằng 10đ tiền cũ
Có một điều lạ là ngay sau khi thu đổi xong, Chính phủ quyết định nâng giá lên trở lại 10 lần. Cuộc cải cách giá-lương-tiền đã bị thất bại.
Hà Minh Thảo
Tương Lai Nguyễn Phú Trọng Mập Mờ
- Viết bởi Phạm Trần
Bằng chứng ông Trọng, người đứng đầu đảng duy nhất cầm quyền của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã không xuất hiện trước đám đông, dù trong đảng hay ngoài xã hội, kể từ trưa ngày 14/04/2019 là khi có tin ông bị “đột quỵ” (stroke) trong lúc đang chỉ đạo các cấp lãnh đạo đảng bộ Tỉnh Kiên Giang.
Ban Tuyên giáo đảng, được nói, đã ra lệnh cho báo đài nhà nước phải tuyệt đối không loan tin về ông Trọng sau khi rời Kiên Giang nhưng cũng không lên tiếng cải chính tin của các mạng xã hội nói ông Trọng đã được cứu sống ở Bệnh viện Chợ Rẫy (Sài Gòn) để đưa về Hà Nội chữa tiếp từ chiều ngày 16/04/2019.
Tuy nhiên Ban Bảo vệ sức khỏa lãnh đạo chủ chốt của đảng và chính phủ đã không đưa ra bất cứ thông tin nào về tình trạng sức khỏe của ông Trọng.
Lý do Ban Tuyên giáo che kín thông tin sức khỏe của ông Trọng vì Luật Bảo vệ Bí mật Nhà nước (Luật số 29/2018/QH14) , ban hành ngay 15/11/2018, có khoản cấm ghi tại Điều 7 đối với “Thông tin bảo vệ sức khỏa lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước.”
BẰNG CHỨNG VẮNG MẶT
Bằng chứng ông Nguyễn Phú Trọng, 75 tuổi đã không làm 2 vệc từng được lên kế hoạch từ trước:
Thứ nhất, hủy bỏ cuộc tiếp Phái đoàn 9 Thượng nghị sỹ lưỡng đảng Hoa Kỳ, ấn định vào ngày 18/4 (2019) tại Hà Nội. Đoàn do Nghị sỹ Dân chủ Patrick Leahy (Tiểu bang Vermont), Phó Chủ tịch Ủy ban chuẩn chi Thượng viện cầm đầu thăm Việt Nam để thẩm định công tác tẩy xóa chất độc Da Cam và công tác giúp người khuyết tật.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Bí thư Trần Quốc Vượng, người đứng hàng thứ hai sau ông Trọng đã thay ông Trọng tiếp phái đoàn Leahy.
Thứ hai, ông Trọng không cầm đầu phái đoàn đi Trung Cộng họp Hội nghị thượng đỉnh “Vành đai-Con đường” lần 2 ở Bắc Kinh từ ngày 25 đến 27/04/2019, theo lời mời của Lãnh đạo đảng, nhà nước Trung Cộng Tập Cận Bình.
Bộ Ngoại giao Việt Nam ra thông báo chính thức ngày 22/4 (2019) cho biết Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sẽ cầm đầu phái đoàn Việt Nam. Cũng giống như nguyên Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã thay mặt Việt Nam đọc diễn văn tại Hội nghị này hồi tháng 5/2017, ông Nguyễn Xuân Phúc sẽ trình bày quan điểm của Việt Nam vào ngày 26/04 (2019). Sau đó, ông Phúc sẽ có các cuộc họp với Lãnh đạo cao nhất của Trung Cộng.
Trước khi ngả bệnh bất ngờ, ông Nguyễn Phú Trọng đã chuẩn bị trong chuyến đi sẽ có cuộc gặp riêng với ông Tập để trao đổi về tình hình hai nước ; tình hình Biển Đông ; triển vọng hợp tác song phương giữa sáng kiến “Hai hành lang, một vành đai” của Việt Nam với sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc. Cũng qua lần họp này, nếu thuận lợi, ông Trọng sẽ đề cập đến chuyến đi thăm Mỹ sắp tới của ông theo lời mời của Tổng thống Donald Trump.
Thứ ba, ông Nguyễn Phú Trọng cũng vắng mặt ở một số Hội nghị của Tổ chức và Đảng địa phương như ông đã làm tại Kiên Giang trong hai ngày 13 Và 14/04/2019.
Trong số này có Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác Hội Nhà báo năm 2018, tổ chức tại TP Cần Thơ Ngày 19-4-2019. Ông Trần Thanh Mẫn, Bí thư Trung ương đảng, Chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc đã thay ông Trọng chỉ đạo Hội nghị.
Ông Trọng cũng không thể đi dự Hội nghị kiểm điểm nhiệm kỳ 2015-2020 của đảng bộ Tỉnh Quảng Ninh ngày 24/04/2019. Đây là công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, nằm trong khuôn khổ chọn nhân sự cho các đoàn Đại biểu tham dự Đại hội đảng thứ XIII, dự trù diễn ra đầu tháng 01/2021.
Thứ bốn, trong Lịch tiếp xúc Cử tri Hà Nội trước Kỳ họp 7 của Quốc hội, dự trù khai mạc ngày 20/05/2019, không thấy ghi buổi gặp cử tri của Đoàn đơn vị I, gồm Ba Đình, Hoàn Kiếm và Tây Hồ do ông Nguyễn Phú Trọng đứng đầu.
Không có lý do được đưa ra, nhưng theo thông báo phổ biến ngày 02/04/2019 của Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội thì “ Lịch TXCT tại đơn vị số 01, số 02 sẽ có thông báo sau.”
Tuy nhiên cho tới ngày 24/04 (2019), vẫn chưa có Thông báo mới.
Những chỉ dấu trên cho thấy chưa bao giờ ông Trọng đã vắng mặt, hay không có việc gì làm trong thời gian dài như thế. Ít nhất là trên 10 ngày, kể từ khi có tin ông bị “đột qụy” (stroke) ở Kiên Giang trưa 14/04 (2019), không có bất cứ tin nào về ông Trọng được lộ ra khỏi Hà Nội.
VIỄN ẢNH KHÔNG CÓ TRỌNG
Với tình trạng sức khỏe tương đối ổn định, kể từ khi ông được bầu làm Tổng Bí thư đảng khóa XI năm 2011, sau đó kiêm luôn chức Chủ tịch nước từ ngày 23/10/2018, ông Trọng là người năng động và rất tích cực trong chiến dịch chống tham nhũng; chống chạy chức, chạy quyền và từng hô hào “chống “tham nhũng quyền lực” trong đảng.
Đã có lần ông nói:”Khi lò đã nóng, không ai có thể đứng ngoài cuộc….Chúng tôi nhiều lần nói không thể không làm. Muốn thế thì lòng dân phải thuận, tất cả đồng lòng, lò nóng lên thì tất cả phải vào cuộc".
Đề cập đến vai trò của luật pháp, ông Trọng văn hoa : ” Đây là công cụ bảo đảm để làm tốt công tác phòng, chống tham nhũng. Không thể kêu gọi suông, giáo dục suông mà phải bằng luật pháp, phải nhốt quyền lực vào trong lồng pháp luật, phải có đòn roi để làm sao cho anh không dám làm, không muốn làm, nhúng tay vào rồi thì phải sửa.”
(Theo Pháp Luật. Net, Tiếp xúc cử trị Dơn vị I, ngày 29/11/2917)
Tuy nhiên, ông lại là người nắm giữ nhiều chức hơn bất cứ Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tiền nhiệm nào. Ngoài hai chức đầu đảng, đầu nước, ông Trọng còn là Bí thư Quân ủy Trung ương; Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh Việt Nam; Trường Ban chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương đảng CSVN.
Riêng trong công tác chuẩn bị cho Đại hội đảng XIII, tổ chức vào tháng Giêng năm 2021, ông Nguyễn Phú Trọng đã một mình nắm 2 chức quan trọng nhất là Trưởng Tiểu ban Văn kiện đảng, và Trưởng Tiểu ban Nhân sự. Tiếng nói của ông sẽ ảnh hưởng rất “nặng ký” đến đường đi nước bước của đảng CSVN trong nhiều năm tới.
Đồng thời, với chức Trưởng Tiểu ban nhân sự, ông cũng có quyền sinh sát đối với việc chọn các Ủy viên Trung ương đảng, và đặc biệt là Bộ Chính trị, trong đó có hai chức Tổng Bí thư và Chủ tịch nước dành cho một người như ông bây giờ.
Một danh sách 200 ứng viên cho các “cán bộ cấp chiến lược” đang nằm trong tay ông Nguyễn Phú Trọng, nhưng ông vẫn nói trước khi lâm bệnh là “chưa chốt” mà còn phài xét thêm các trường hợp khác để gạn lọc.
Nhưng tước khi bị đột quỵ, ông Trọng từng tự cao “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế như ngày nay”. Ông cũng nói trực tuyến vào sáng ngày 28/12/2018 tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương rằng:”2019 là năm chuẩn bị kết thúc của nhiệm kỳ 5 năm, năm khởi đầu của quá trình chuẩn bị tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, vì vậy có ý nghĩa rất quan trọng.”
Ông Trọng kêu gọi:” Kiên quyết đấu tranh loại bỏ những người tham nhũng, hư hỏng; chống mọi biểu hiện chạy chức, chạy quyền, ưu ái tuyển dụng người thân không đủ tiêu chuẩn… Cũng dè chừng dần những tiêu cực chạy chức, chạy quyền, chạy phiếu bầu. Chuẩn bị Đại hội lại vận động, tìm mọi cách.”
Ông nói:”Phải cảnh báo vấn đề này. Đó chính là xây dựng Đảng, liên quan đến vấn đề con người. Cần gì phải "chạy", Tôi đã nói rồi, "chạy" là không dùng, cái gì đến tự sẽ đến, “hữu xạ tự nhiên hương”.
(Trích VOV (Voice of Vietnam), phát biểu ngày 21/3-2019, tại trụ sở Trung ương Đảng)
AI CÓ CƠ MAY KỆ VỊ ?
Vậy bây giờ, sau khi ngã bệnh có dấu hiệu không nhẹ thì viễn ảnh một Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú trọng đang mờ nhạt dần sẽ tạo cơ hội cho ai trong số 15 Ủy viên Bộ Chính trị còn lại có cơ hội thay ông ?
Nếu căn cứ vào “thâm niên đảng viên” và vị trí trong Bộ Chính trị khóa đảng XII thì người ấy có thể là ông Trần Quốc Vượng, hiện giữ chức Thường trực Bí thư, đứng hàng thứ hai sau ông Nguyễn Phú Trọng.
Ưu điểm của ông Vượng, sinh ngày 05/02/1953 tại Tỉnh Thái Bình, miền bắc là ông được nhận vào đảng ngày 10/08/1979. Trong khi ông Phạm Minh Chính, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, sinh ngày 10/12/1958 tại Thanh Hóa, Trung tướng Công an 61 tuổi, mãi đến ngày 25/12/1986 mới được vào đảng.
Ngoải ra, ông Chính còn bị “dính liền” với sự án Đặc khu Kinh tế Vân Đồn khi ông giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Qủang Ninh từ 08/08/2011 đến 01/04/2015. Tuy nhiên cuộc “biểu tình nổi loạn” của hàng trăm ngàn người dân ngày 10/06/2018 trên khắp Việt Nam đã dập tan kế hoạch biến Vân Đồn, Bắc Vân Phong (Khánh Hòa” và Phú Quốc thành các “trung tâm Kinh tế của Trung Cộng”.
Vì vậy, mỗi khi tên ông Chính xuất hiện là người ta lại nghĩ ngay đến “vấn nạn” Vân Đồn.
Người thứ 3, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, sinh ngày 20/07/1954 tại Quảng Nam, tới ngày 12/05/1982 mới được nhận vào đảng. Tuy ông Phúc là Ủy viên Bộ Chính trị từ khóa đảng XI, trước hai ông Vượng và Chính đến 5 năm, nhưng ông lại bị eo xèo là có nhiều “tham vọng quyền lực” và “lợi ích nhóm” địa phương.
Ủy viên Bộ chính trị khác là ông Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư Thành ủy Thành phố p Hồ Chí Minh, sinh ngày 12/06/1953 tại Cà Mau, nhưng quê gốc là Trà Vinh. Ông được nhận vào đảng năm 1980, leo lên Ủy viên Bộ Chính trị từ ngày 11/05/2013 nhưng ông là một chuyên gia Giáo dục hơn là một chính trị gia.
Người cuối cùng, ông Hoàng Trung Hải, Bí thư Thành ủy Hà Nội sinh ngày 27/09/1959 tại Thái Bình, lại chỉ mới vào đảng từ ngày 20/11/1990. Việc ông được cất nhắc vào Ban Chấp hành Trung ương khóa đảng XI và và sau đó vào Bộ Chính trị năm 2016 cũng bị eo xèo vì có tin ông có gốc gác người Hoa và nói tiếng Hoa như tiếng Việt.
Nhiều mạng xã hội nói ông Hoàng Trung Hải cũng là một trong số Ủy viên Bộ Chính trị ủng hộ nhiệt thành kế hoạch “đặc khu”.
TRẦN QUỐC VƯỢNG-TẬP CẬN BÌNH
Như vậy, sau bóng mờ Nguyễn Phú Trọng sẽ là ai, hay chẳng có ai được nổi lên cho đền khi cuộc cờ phải phân thắng bại giữa Hà Nội và Bắc Kinh ?
Có điều đáng quan tâm là trong cuộc họp được gọi là “‘vun đắp’ cho mối quan hệ Hà Nội – Bắc Kinh” ngày 21/08/2018 tại Bắc Kinh giữa ông Trần Quốc Vượng và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình, lãnh đạo họ Tập đã cho ông Vượng biết rằng “hiện đang diễn ra những thay đổi phức tạp và sâu sắc liên quan đến tình hình quốc tế và khu vực.” (VOA Tiếng Việt, 21/08/2018)
VOA viết tiếp:”Ngoài ra, cũng theo Tân Hoa Xã, ông Tập còn phát biểu rằng giữa ông và Tổng Bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã “đạt được một loạt sự đồng thuận quan trọng về việc tăng cường quan hệ giữa hai bên và hai nước.”
“Ông Tập còn nói thêm rằng Bắc Kinh sẵn sàng làm việc với Hà Nội về các cuộc hội thoại chuyên sâu bàn về các vấn đề tổng thể và chiến lược, cũng như “tăng cường các hướng dẫn chính trị về quan hệ song phương” để thúc đẩy hơn nữa quan hệ hai bên.
Tuy nhiên, truyền thông Trung Quốc không nêu rõ các “hướng dẫn chính trị” mà hai bên có kế hoạch bàn thảo là gì.”
Vế phần mình, VOA đưa tin tiếp theo rằng :”Ông Vượng đề nghị hai bên “tăng cường và nâng cao hiệu quả các cơ chế hợp tác giữa hai Đảng, hai nước; thúc đẩy hiệu quả các lĩnh vực hợp tác, giải quyết thỏa đáng các vấn đề trên biển, giữ vững đà phát triển của quan hệ hai nước.”
Trước việc đảng và nhà nước CSVN tiếp tục giấu tin ông Trọng thì liệu chuyến đi Trung Cộng của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dự Hội nghị thượng đỉnh “Vành đai-Con dường” lần 2 từ ngày 25 đến 27/04 (2019) có cơ may mở ra đường thoát Trung nào cho Việt Nam hay sẽ chỉ bóp lại bé hơn qua hình ảnh của cuộc họp bất ngờ năm 2018 giữa Tập Cận Bình và Trần Quốc Vượng ? -/-
Phạm Trần
(04/019)
Thu phí người nuôi bệnh: Vô cảm và vô lý
- Viết bởi nguồn: rfa.org
Bệnh viện Đa khoa khu vực Thủ Đức (TP.HCM) vào ngày 10 tháng 4 buộc phải dừng thu khoản phí 30.000 đồng/ngày cho người nuôi bệnh chỉ sau một ngày thực hiện do phản ứng của người nhà bệnh nhân.
Bệnh viện Từ Dũ cũng thu 100.000 đồng từ người nuôi bệnh thứ hai trở đi từ nhiều năm nay ở một số khu dịch vụ cao, hậu sản, hậu phẫu…
Ông Long, một giáo viên ở Thủ Đức cho RFA biết suy nghĩ của ông về việc bệnh viện thu phí người nuôi bệnh:
“Không hợp lý và vô cảm. Bệnh viện có trách nhiệm chăm sóc cho bệnh nhân. Bệnh viện không làm tròn trách nhiệm nên người nhà phải vô chăm sóc. Người nhà đâu có chuyên môn, đâu có nghiệp vụ.
Về mặt nguyên tắc thu tiền khám chữa bệnh thì phải chăm sóc cho người bệnh. Bây giờ thành cái lệ là bác sĩ, y tá chỉ khám qua rồi người nhà bệnh nhân phải lo hết, từ chạy đi mua thuốc, chăm sóc …
Bây giờ ‘đẻ’ thêm chuyện thu phí người nuôi bệnh thì phải nói là tận thu của người nghèo.”
Anh Hùng, một chủ dịch vụ giúp việc chuyên cho thuê người chăm sóc người bệnh từ Bắc tới Nam thì cho biết anh có nghe thông tin này và anh nghĩ Bộ Y tế phải bỏ quy định này đi vì có thu cách gì thì cũng là tiền của dân vào túi nhà nước:
“Chủ trương bệnh viện sẽ thu tiền người nuôi bệnh tôi nghe cách đây vài ba hôm. Tôi nghĩ chủ trương này sẽ phải bỏ thôi vì chi phí nằm hết trong viện phí rồi. Với một bệnh nhân nặng thì lương người nuôi bệnh là bảy triệu một tháng, một ngày hơn hai trăm. Bây giờ đóng thêm 30.000 đồng một ngày thì thu nhập của họ lại bị giảm sút. Nếu bắt người bệnh trả thì chi phí của họ lại tăng lên. Đằng nào thì tiền của người dân cũng vô túi nhà nước hết.”
Các bệnh viện muốn thu phí người nuôi bệnh và được Bộ Y tế khẳng định việc thu phí này là hợp lý trong khi người dân cho rằng như thế là vô lý, là tận thu người nghèo.
Ông Nguyễn Viết Tiến, Thứ trưởng thường trực Bộ Y tế lên tiếng với báo Thanh Niên trong một video clip hôm 15/4/2019 rằng “những cái gì thu hợp pháp thì vẫn là tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích miễn là không sai luật. Ví dụ những người vào ở trong bệnh viện người ta sử dụng điện, nước, vệ sinh… ảnh hưởng đến môi trường thì phải có nhân viên của bệnh viện hoặc phải thuê người đến xử lý thì phải trả lương cho người ta. Trả lương cho người sử dụng dịch vụ thì nguyên tắc phải trả tiền. Nhưng vấn đề là bao nhiêu một ngày cho phù hợp.”
Theo phản ánh của người dân trên báo chí cũng như trên mạng xã hội thì giá phòng trong bệnh viện bị coi là quá mắc so với những khách sạn quanh đó đầy đủ tiện nghi. Không thể nói giá phòng trong bệnh viện mắc vì có bác sĩ, y tá chăm sóc được, bởi tiền khám chữa bệnh tính riêng, chi phí phòng riêng. Một phòng có ba, bốn giường lên đến hơn một triệu đồng một ngày. Bây giờ tính thêm tiền chi phí điện nước cho người nuôi bệnh thì quá vô lý.
Cô Tuyết ở quận Bình Thạnh, hiện đang chăm sóc mẹ trong bệnh viện Từ Dũ thì cho rằng thu như vậy là ăn tiền của dân nghèo bởi đa số những người vô bệnh viện nuôi người nhà là người nghèo, là những người từ dưới quê lên phải sống vật vạ trong bệnh viện với đủ thứ chi phí. Cô nói:
“Chuyện thu phí này là hết sức vô lý vì người bệnh phải đóng tiền chữa bệnh, tiền viện phí, tiền phòng, mà phòng thì rất mắc, tiền điện nước cũng rất mắc. Lấy thêm tiền người nuôi bệnh thì phải nói là ăn tiền của người ta.”
Theo bảng giá phòng của bệnh viện Từ Dũ thì giá một phòng điều trị dịch vụ là từ 1.200.000 đồng (1 giường) đến 3.500.000 đồng (7 giường).
Trong bài viết về thu phí dịch vụ đối với người nuôi bệnh trên facebook cá nhân của mình, tiến sĩ Chu Mộng Long cho biết ông chỉ đồng tình với điều kiện phải cổ phần hóa 100% các bệnh viện có thu viện phí người bệnh lẫn người nuôi…; Phải đăng ký các loại dịch vụ khám chữa bệnh, trong đó có cả dịch vụ cho người nuôi bệnh đảm bảo các tiêu chuẩn và giá cả do nhà nước quản lý…; Các bệnh viện tự chi trả tiền quản lý và tiền lương cho bác sĩ mà không phải ăn lương, phụ cấp của nhà nước.
Ông kết luận dịch vụ là kinh doanh. Kinh doanh thì phải tự bỏ vốn ra. Không bỏ vốn đồng nào hoặc lấy vốn của nhân dân để kinh doanh là ăn đến tận con giun con sán của nhân dân chứ không phải ăn lãi!
Như vậy muốn thu tiền của người nuôi bệnh thì phải tư nhân hóa bệnh viện. Tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, y tế tư nhân được huy động tham gia cung cấp dịch vụ y tế do y tế nhà nước không đáp ứng đủ nhu cầu của người dân về khám chữa bệnh.
Thống kê của Hiệp hội bệnh viện Hoa kỳ (American Hospital Association) thì tại Mỹ có 6,210 bệnh viện nhưng chỉ có 208 bệnh viện của nhà nước.
Còn theo số liệu thống kê của Bộ Y tế thì Việt Nam chỉ có 219 bệnh viện tư với 15.781 giường bệnh, tức chỉ chiếm 16% tổng số bệnh viện trong cả nước. Mặc dù Nhà nước đã có những chính sách để thu hút vốn tư nhân đầu tư vào y tế, nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều ‘vật cản’ khiến y tế tư nhân trì trệ.
Theo Hiệp hội Bệnh viện tư nhân thì hiện vẫn còn sự bất bình đẳng giữa y tế công và tư khi cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước được đầu tư về đất đai, cơ sở vật chất, trang bị nhân lực, trả lương, cấp kinh phí nghiên cứu khoa học, máy móc, thiết bị y tế…, thì cơ sở khám chữa bệnh tư nhân phải tự trang trải kinh phí cho tất cả các lĩnh vực trên. Bên cạnh đó, bệnh viện tư nhân không được thanh toán phí điều trị nội trú bảo hiểm y tế. Những điều này là lực cản kìm hãm sự phát triển của y tế tư nhân.
Một vài bệnh viện công tại Việt Nam thay đổi hình thức thu bằng cách xây những khu nhà nghỉ cho người nhà bệnh nhân rồi cho thuê.
Ví dụ tại Bệnh viện Chợ Rẫy, từ đầu năm 2019, khu nhà nghỉ cho người nuôi bệnh có quy mô 5 tầng với giá giường tầng là 30.000 và 50.000 đồng, giường đơn giá từ 250.000 đồng đến 400.000 đồng.
Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TP HCM 2 năm qua cũng xây dựng một khu riêng cho thân nhân nuôi bệnh nhân nằm hồi sức cấp cứu với 70 giường, có nhà vệ sinh, nơi giặt phơi, wifi miễn phí. Bệnh viện thu 10.000 đồng mỗi người, tính vào giá viện phí.
nguồn: rfa.org
Khủng hoảng lãnh đạo ở Việt Nam
- Viết bởi Phạm Trần
Cuộc khủng hoảng lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam đã bắt đầu từ khi có tin Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng bị tai biến mạch máu não, tuy nhẹ, nhưng phải cấp cứu tại bệnh viện trong chuyến thăm Kiên Giang trong hai ngày 13 và 14/04/2019.
Đảng và chính phủ Việt Nam không chính thức xác nhận mà cũng không phủ nhận tin ông Trọng bất ngờ ngả bệnh lúc đang chỉ đạo các lãnh đạo và cán bộ Tỉnh Kiên Giang, nhưng các mạng Xã hội ở Việt Nam đã mau chóng vào cuộc đưa tin chi tiết chưa bao giờ nhanh như thế.
Các Nhà báo tự do đã kể chuyện các Bác sỹ chuyên khoa của bệnh viện Chợ Rẫy ở Sài Gòn được triệu hồi khẩn cấp xuống Kiên Giang chẩn bệnh, trước khi đồng ý để chiêc Trực thăng đặc biệt chở ông về bệnh viện Chỡ Rẫy chữa tiếp qua đêm 15/04 (2019). Sau đó, với sự đồng ý của đội Bác sỹ của Ban Bảo vệ sức khỏe lãnh đạo từ Hà Nội vào chăm sóc, ông Trọng đã được máy bay chở về Hà Nội ngày 16/4 (2019) để các Bác sỹ theo dõi tiếp.
Lý do tin lớn này bị Ban Tuyên giáo che kín vì Luật Bảo vệ Bí mật Nhà nước (Luật số 29/2018/QH14) , ban hành ngay 15/11/2018, có khoản cấm ghi tại Điều 7 đối với “Thông tin bảo vệ sức khỏa lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước.”
Vì vậy, nhiều người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài đã đổ xô đi tìm “tin ông Trọng bệnh thật hay không bệnh” trên các báo “lề Dân” nên không khí hoang mang đã lên cao trong dự luận.
Tuy nhiên, đứng trước “tin sét đánh” này, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Võ Văn Thưởng (người con cưng ngoại vi của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt), có tin nói, đã khẩn cấp bay vào Sài Gòn thăm sức khỏe ông Trọng, đồng thời chỉ thị kiểm soát thông tin để không bị lộ ra ngoài.
GIẤU MÀ HỞ
Tuy nhiên, trong khi ông Trọng đã kết thúc bất ngờ chuyến thăm và làm việc tại Kiên Giang, và đang nằm ở Bệnh viện Chợ Rẫy ngày 15/4 (2019) thì báo-đài nhà nước, quan trọng nhất là báo điện tử của Trung ương đảng, báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, VietNamNet , VNExpress, TTXVN (Thông tấn xã Việt Nam), Đài Tiếng nói Việt Nam, VOV (Voice of Vietnam), Thanh Niên v.v… tiếp tục đăng lại bản tin của các phóng viên tường thuật các hoạt động trong hai ngày (13 và 14/04/2019) của ông Trọng tai Kiên Giang.
Tỷ dụ như TTXVN viết:”Trong hai ngày (13-14/4), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã thăm, làm việc tại tỉnh Kiên Giang, về tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại, công tác xây dựng Đảng từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh đến nay, trọng tâm là năm 2018 và ba tháng đầu năm 2019; phương hướng nhiệm vụ từ nay đến hết nhiệm kỳ.
Sáng 14/4, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã làm việc với cán bộ chủ chốt tỉnh Kiên Giang; nghe Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang Nguyễn Thanh Nghị báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, nhiệm kỳ 2015-2020 đến nay….”
Thống tấn xã của Chính phủ viết tiếp:” Trước đó, chiều 13/4, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm, làm việc tại một số cơ sở sản xuất công nghiệp, nông nghiệp của tỉnh Kiên Giang như Công ty cổ phần gỗ MDF VRG Kiên Giang (thuộc Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam) tại Khu công nghiệp Thạnh Lộc, huyện Châu Thành; Công ty Trung Sơn (thuộc Công ty cổ phần thực phẩm Trung Sơn), tại xã Trung Hóa, huyện Kiên Lương.
Tiếp đó, sau khi thăm thực địa khu nuôi tôm công nghiệp quy mô lớn, thăm nhà máy chế biến thực phẩm của Công ty Trung Sơn tại xã Trung Hóa, huyện Kiên Lượng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã làm việc với ban lãnh đạo, nghe báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty.
(Tường thuật của Nguyễn Sự-Huy Hải (TTXVN/Vietnam)
Như vậy là đã có một “khoảng trống thông tin” giữa cuộc họp “làm việc với cán bộ chủ chốt tỉnh Kiên Giang” của ông Trọng vào buổi sáng ngày 14/04 cho đến sáng ngày 16/04 (2019) là khi chuyên cơ chở ông Trọng, được nói rời Sài Gòn về Hà Nội.
Điều này cho thấy, nếu ông Trọng vẫn mạnh khỏe sau buổi làm việc với cán bộ Tỉnh Kiên Giang thì ông đã về Hà Nội từ chiều 14/4 (2019), hay thăm đâu đó chứ không có chuyện báo chí nhà nước lại im hơi lặng tiếng như thế.
Ngoài ra, cũng ngạc nhiên như “đổ thêm dầu vào lửa” cho truyện ông Nguyễn Phú Trọng cháy to lên khi báo đài nhà nước được lệnh, từ ngày 15/4 (2019) đồng loạt đăng toàn bộ chùm ảnh “Tổng bí thư, Chủ tịch nước làm việc tại Kiên Giang” .
Càng thấy lạ khi việc đăng ảnh này kéo dài cho đến ít nhất ngày 16/04 trên một số báo, hai ngày sau khi ông Trọng đã rời khỏi Kiên Giang. Đây là một việc làm “rất không bình thường”, so với các chuyến đi thăm các cơ sở và địa phương của người đứng đầu đảng và nhà nước.
Vì vậy việc làm này không ngoài mục đích “cải chính” tin của “báo lề dân” nói rằng ông Trọng ngã bệnh bất ngờ khi thăm Kiên Giang, nhưng ngược lại cũng không khỏi gây nghi ngờ “nếu không có lửa thì làm sao có khói” ?
CHUYỆN TRƯỚC MẮT
Dù đúng hay chưa được xác nhận sức khỏe ông Trọng 75 tuổi có vấn đề, nhưng nó xẩy ra vào lúc ông tập trung trí tuệ làm hai việc quan trọng nhất trong sự nghiệp chính trị cuối đời của ông.
Đó là: chuẩn bị cho chuyến thăm Hoa Kỳ lịch sử của ông đã được dự trù trong năm nay, theo lời mời của Tổng thống Donald Trump.
Có nhiều đồn đoán ông Trọng muốn hoàn tất 3 việc với ông Trump:
- Đạt thỏa thuận “Hợp tác chiến lược” với Mỹ để bảo đảm an ninh và sự thịnh vượng bền vững cho Việt Nam, tăng lên từ “Hợp tác toán diện”, phần lớn đặt trọng tâm vào hợp tác kinh tế-thương mại.
-Muốn Mỹ nhìn nhận Việt Nam có “nền kinh tế thị trường” để được hưởng ưu tiên thuế nhẹ cho các mặt hàng Việt Nam xuất cảng sang Mỹ.
-Mua vũ khí, máy bay và tầu chiến của Mỹ với những ưu đãi đặc biệt đối với vị trí chiến lược ở Biển Đông của Việt Nam và bàn cờ chiến lược Quốc phòng của Mỹ ở Á Châu và Ấn Độ Dương.
Nhưng quan trọng hơn, đối với ông Trọng là làm sao tổ chức thành công Đại hội đảng XIII, dự trù tháng 01/2021, trong đó có việc tìm người kế nhiệm, nếu thật sự ông không muốn thay Điều lệ đảng để được ứng cử nhiệm kỳ thứ 3 như đang có tin truyền miệng trong đảng.
Sở dĩ có lời đồn đoán này vì Điều lệ đảng không cho phép một Tổng Bí thư giữ ghế hơn hai nhiệm kỳ (10 năm), nhưng lại rục rịch có chuyện sửa đổi Điều lệ đảng được bàn tán nơi này nơi kia từ một năm qua.
CÓ AI KHÁC SÁNG GIÁ ?
Nhưng liệu với số tuổi 75 và mới có “tin đồn bị tai biến mạch máu não” ở Kiên Giang ngày 14/04/2019, ông Trọng có khả năng hồi phục để ra ứng cử hay nhận đề cử ?
Vì theo Quy định 89-QĐ/TW ngày 04/08/2017 thì ông Trọng phải có “đủ sức khỏe”.
Như vậy, sau ông Trọng có ai sáng giá để thay ông, khi ông quyết định nghỉ hưu ?
Sau khi Chủ tịch nước Trần Đại Quang qua đời và ông Đinh La Thăng vào tù, Bộ Chính trị khóa XII còn lại 17 người, nhưng lại có thêm ông Đinh Thế Huynh, Thường trực Ban Bí thư bị ốm dài hạn, dù vẫn giữ ghế nhưng đã thôi làm việc từ vài năm qua, nên chỉ còn lại 16 người.
Trong số này, nổi trội nhất có 3 Ủy viên gồm:
- Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng, sinh ngày 20/07/1954 tại Quảng Nam.
-Phạm Minh Chính, sinh ngày 10/02/1958 tại Thanh Hóa, Trung tướng Công an, Trưởng ban Tổ chức Trung ương.
-Trần Quốc Vượng, sinh ngày 05/02/1953 tại Thái Bình, Thường trực Ban Bí thư (người thay Đinh Thế Huynh)
Người thứ tư, ông Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư thành Ủy Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), sinh ngày 12/06/1953 tại Trà Vinh, là người ôn hòa, được nói là hiền lành nhưng thiếu cương quyết và được coi như thân Tây phương, và là người “của mọi người” nên khó được chọn.
Vậy liệu thành phần nhận sự 4 người đang được xầm xì to nhỏ, sau tin ông Trọng lâm bệnh, có cơ may gỡ rối cho bàn cờ chính trị khỏi bị rơi vào khủng hoảng hay không thì còn phải chờ, vì Ủy ban Văn kiện Đảng khóa XIII vẫn chưa hoàn tất nhiệm vụ lấy ý kiến các địa phương.
Dù sao thì gánh nặng lo cho Đại hội đảng XIII vẫn thuộc về ông Trọng, dù ông có muốn hay không. Nhưng tương Việt Nam lại không thuộc về ông mà của người dân đang muốn thoát ra khỏi gông kìm Cộng sản.
Vì vậy, căn bệnh hiểm nghèo nếu có của ông Trọng mà gây ra cuộc khủng hoảng chính trị để làm lợi cho âm mưu đánh chiếm Việt Nam của Trung Quốc thì ông sẽ là người bị lên án trước toàn dân. -/-
Phạm Trần
(04/019)
Nói dối như Vẹm
- Viết bởi Phạm Trần
Ở thôn quê miền Bắc Việt Nam thời Việt Minh Cộng sản trước 1954, những người nói một đường làm một nẻo hay nói những điều không thật đều bị chế diễu “nói dối như Vẹm”.
Nhưng tại sao lại là “Vẹm”, tên con Trùng Trục (có nơi gọi là Trục) hình bầu dục, tiếng Anh gọi là Mussel, sống dưới bùn ở sông ngòi Việt Nam ? Nông dân và ngư phủ thường bắt đem về luộc lấy nước và thịt nấu canh hay xào ăn, giống như con hến, con sò v.v…, hoặc đem bán.
Tìm hiểu mới biết tội nghiệp cho con Trùng Trục. Nó không họ hàng hang hốc gì với “Vẹm” cán bộ nói một đàng làm một nẻo của thời Cộng sản mà chỉ trùng tên nên bị vạ lây. Các bô lão từng trải trong làng kể rằng sở dĩ con Vẹm được dùng vì khi sống dưới bùn, nó phải xoay theo dòng nước để sống nên không đứng nguyên một chỗ. Con người mà tiền hậu bất nhất là thiếu thành thật, tâm địa khó lường nên không ai tin. Nhưng chữ “vẹm” còn được hiểu là cách gọi ngắn của chữ Việt Minh.
Thì ra là như vậy. Nếu so sánh giữa thực tế với những lời tuyên truyền của cán bộ Cộng sản nói chung và Tuyên Giáo nói riêng, kể cả của Hội đồng Lý luân Trung ương và Tổng cục Chính trị Quân đội thì sẽ nhìn ra ngay những điều không thật, đổi trắng thay đen xoay quanh như con Vẹm.
QUYỀN DÂN VÀ QUYỀN ĐẢNG
Tỷ dụ như khi nói về “quyền con người”, hay “nhân quyền” ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng của đảng Cộng sản Việt Nam (khi chưa kiêm chức Chủ tịch nước) đã nói tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) tại Washington DC, trong chuyến thăm Mỹ, ngày 8/7/2015 :” Người dân Việt Nam chưa bao giờ được sống trong bầu không khí dân chủ như hiện nay. Hiến pháp Việt Nam có chương riêng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, và đang dần được luật hóa.” (theo báo VietNamNet, ngày 09/07/2015)
Ông Trọng nói thế nhưng không phải vậy, vì giữa “bầu không khí dân chủ” và có dân chủ thật xa nhau một trời một vực.
Không thể có dân chủ khi dân không có các quyền tự do ứng cử; tự do ngôn luận, ra báo; tự do lập hội; tự do hội họp ; và tự do biểu tình như quy định trong Hiến pháp năm 2013.
Ông Trọng đã mánh lới khi nói các quyền con người ghi trong Chương II Hiến Pháp “đang dần được luật hóa” , nhưng sau 6 năm, kể từ khi có Hiến pháp mới năm 2013, chính phủ đã cố tình trì hoãn trình Quốc hội hai dự luật Biểu tình và Lập hội, hoặc chưa minh thị những câu chữ mập mờ cho phép nhà nước tùy tiện giải quyết theo ý muốn.
Tỷ dụ như trong Điều 14 (HP) viết:”Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”
Nói thế nhưng Hiến pháp đã bị Bộ Luật hình sự năm 2015 chi phối, hay vô hiệu hóa.
Bằng chứng như khoản 2, Điều 14 (HP) viết rằng:”Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”
Nhưng các lý do để hạn chế lại mơ hồ và dễ bị lạm dụng như “quốc phòng, an ninh quốc gia” nên khi chưa được luật hóa thì người dân là nạn nhân của Hiến pháp.
Khi nói về “tự do tín ngưỡng, tôn giáo”, Điều 24 (HP) viết:
1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Nhưng Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (TNTG --02/2016/QH14), ban hành ngày 18/11/2016 lại dành nhiều quyền kiểm soát các Tôn giáo cho nhà nước.
PHỦ NHẬN
Vì vậy, trong Kháng thư đề ngày 20/10/2016 Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam, quy tụ nhiều chức sắc của 5 Tôn giáo lớn (Cao Đài, Công Giáo, Phật giáo, Phật giáo Hòa Hảo) và Tin Lành) đã “hoàn toàn bác bỏ Luật Tín ngưỡng Tôn giáo”.
Kháng thư viết:”Chế độ cai trị hiện thời tại Việt Nam là chế độ cộng sản với hai tính chất nổi bật: vô thần và toàn trị. Vô thần cộng sản là vô thần tranh đấu, quyết tâm xóa bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của Tôn giáo trên xã hội khi hoàn toàn bất lực xóa bỏ sự hiện hữu của Tôn giáo trong quốc gia. Toàn trị là kiểm soát, lũng đoạn để công cụ hóa mọi cá nhân và tập thể, mọi tổ chức và định chế, mọi thế lực và ảnh hưởng, mà đặc biệt là thế lực tôn giáo và ảnh hưởng tâm linh, để đảng cộng sản muôn năm lãnh đạo và nhà nước cộng sản muôn năm cai trị.”
Do đó, Hội đồng kết luận:”Mọi luật lệ xuất phát từ chế độ độc tài toàn trị cộng sản đều không ngoài mục đích kiểm soát, lũng đoạn và công cụ hóa nói trên. Nên cho dù có đưa ra cho toàn thể nhân dân, mọi giai tầng xã hội đóng góp ý kiến cho có vẻ dân chủ, rốt cuộc đảng và nhà cầm quyền cộng sản vẫn biên soạn các luật lệ (từ cao xuống thấp) hoàn toàn theo ý muốn độc đoán của họ và hoàn toàn nhằm mục đích tối hậu của họ: củng cố chế độ độc tài đảng trị. Hiến pháp 2013 là ví dụ rõ nhất. Luật Tín ngưỡng Tôn giáo cũng không nằm ngoài ý đồ thâm độc này.”
Bằng chứng này được Hội đồng vạch ra:” Mọi văn kiện pháp lý của nhà cầm quyền CSVN từ xưa tới nay về Tôn giáo, kể từ Sắc lệnh Tôn giáo năm 1955, Nghị quyết 297 năm 1997, Pháp lệnh về Tín ngưỡng Tôn giáo năm 2004 tới Luật Tín ngưỡng Tôn giáo sắp ban hành, tất cả đều không ngoài mục đích dùng bạo lực hành chánh -kết hợp với bạo lực vũ khí- để cướp đoạt mọi tài sản tinh thần (các quyền tự do) và tài sản vật chất (đất đai, cơ sở) của các Giáo hội, để sách nhiễu, bắt bớ, cầm tù, thậm chí thủ tiêu nhiều chức sắc và tín đồ can đảm (mãi cho tới hôm nay), nhằm làm cho các Thực thể Tinh thần vô cùng cần thiết và cực kỳ hữu ích cho xã hội này bị tê liệt hoạt động, bị cản trở sứ mạng, thậm chí bị biến đổi bản chất. Hậu quả là xã hội Việt Nam ngày càng tràn ngập bạo hành và gian dối, ngày càng suy đồi về văn hóa và đạo đức, kéo theo suy đồi các lãnh vực khác nữa.”
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
Đến ngày 01/06/2017, Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN), đại diện cho trên 7 triệu người Công Giáo đã lên tiếng chỉ trích Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo , có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018. Theo Hội đồng GMVN thì Luật mới đã “có những bước lùi” so với hai bản Dự thảo Luật số 4 và số 5 mà nhà nước đã gửi ra để tham khảo ý kiến.
Hội đồng GMVN viết:”Theo Dự thảo 5 ngày 17-08-2016, các tổ chức tôn giáo “được thành lập cơ sở giáo dục theo hệ thống giáo dục quốc dân” (Điều 53), và “được thành lập cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội (Điều 54). Nhưng trong Luật Tín ngường, Tôn giáo, vấn đề này được gói gọn trong điều 55 với những từ ngữ tổng quát và mơ hồ:”Được tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội và từ thiện, nhân đạo, theo quy định của pháp luật có liên quan.” Tham gia thế nào ? Tham gia mức nào ? Tham gia có đồng nghĩa với việc thành lập cơ sở không ? Như vậy, nếu so sánh với các bàn Dự thảo 4 và Dự thảo 5, thì Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo có những bước lùi.”
KIỀM CHẾ ĐỂ KIỂM SOÁT
Hội đồng GMVN còn vạch ra rằng:”Ngoài ra, Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo tiếp tục củng cố cơ chế xin-cho. Bộ Luật này không dung từ “xin phép” và “cho phép”, thay vào đó là các từ “đăng ký, thông báo, đề nghị”. Việc thay đổi từ ngữ như trên tạo cảm giác có sự cởi mở hơn, nhưng vì các tổ chức tôn giáo vẫn phải thông báo với chính quyền và chính quyền có thể chấp thuận hoặc không chấp thuận, nên rốt cuộc vẫn là cơ chế xin-cho. Cơ chế này cho thấy tự do ín ngưỡng tôn giáo không thật sự được coi là quyền của con người nhưng chỉ là ân huệ cần phải xin và được ban phát. Chính cơ chế đó hợp pháp hóa sự can thiệp của chính quyền vào sinh hoạt nội bộ và kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động tôn giáo.”
Thật vậy, nếu ai có thời giờ đọc hết 68 Điều trong 9 Chương của Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (TNTG) của nhà nước CSVN sẽ tìm ra vô số những hàng rào cản ẩn hiện trong ngôn ngữ của Bộ Công an và Ban Tuyên giáo với mục đích duy nhất là kiểm soát nghiêm ngặt người theo đạo, các chức sắc lãnh đạo, tài sản của các tôn giáo và những hoạt động thuộc lĩnh vực linh thiêng.
Ngoài những quy định trong Luật TNTG như việc gì cũng phải đăng ký, thông báo để được các cấp chính quyền cứu xét, các tổ chức tôn giáo và người theo đạo còn phải tuân theo những quy định của nhiều Luật khác của nhà nước.
Những nhóm chữ ràng buộc mơ hồ như : “theo quy định của pháp luật; theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự; theo quy định của pháp luật có liên quan v.v...” đang nhảy múa loạn lên trong tòan bộ Luật.
Nhà nước còn thọc tay vào tất cả mọi việc của Tôn giáo chỉ để kiểm soát chặt chẽ. Tỷ dụ như Khoản 5, Điều 66 quy định các cấp lãnh đạo trách nhiệm của tôn giáo phải :”Thông báo danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hằng năm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”
Rồi Điều 12 còn viết về “đăng ký” như sau :
1. Hoạt động tín ngưỡng của cơ sở tín ngưỡng phải được đăng ký, trừ cơ sở tín ngưỡng là nhà thờ dòng họ.
2. Người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm gửi văn bản đăng ký đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tín ngưỡng chậm nhất là 30 ngày trước ngày cơ sở tín ngưỡng bắt đầu hoạt động tín ngưỡng…”
CẤM ĐỂ DIỆT
Bấy nhiêu chưa đủ, Luật TNTG còn có những ngăn cấm rất mơ hồ cho phép nhà nước tòan quyền “tự biên tự diễn” để đàn áp các Tôn giáo. Quốc hội đã ghi trong Điều 5 những cấm đóan này như sau:
1. Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
2. Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo.
4. Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo:
a) Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường;
b) Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;
c) Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân;
d) Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
5. Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi.
Luật không giải thích rành mạch các khỏan (a,b, c và d) nên nhà nước sẽ tha hồ và tùy tiện để vẽ rắn thêm chân , vẽ rồng thêm cánh và tung ra mưu chước gài bẫy người phải thi hành Luật. Bởi vì trong chế độ nhà nước độc tài và tòan trị Cộng sản Việt Nam, chả có việc gì hay hành động nào mà tránh khỏi bị mấy anh công an chụp cho chiếc mũ “Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường”, hay “an ninh trật tự”, “chống phá nhà nước”, “phản động” v.v….
Đó là lý do tại sao Hội đồng GMVN đã chỉ trích:” Cùng với những nhận định trên, chúng tôi muốn nêu lên một vài suy nghĩ. Ẩn sâu bên trong những bất cập đã trình bày là cách nhìn của chính quyền về tôn giáo và các tổ chức tôn giáo. Chính quyền nhìn các tổ chức tôn giáo thuần túy trên bình diện chính trị, xem các tổ chức tôn giáo như những lực lượng đối kháng.”
BÁO CHÍ – BIỂU TÌNH
Cũng nên biết thêm Điều 25 (HP) cũng quy định:”Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”
Nhưng căn cứ vào luật nào mà đảng CSVN đã cấm tư nhân ra báo để độc quyền kiểm soát dư luận trên 800 cơ quan báo in với 18,000 người làm báo ngoài đảng và trong đảng ? Ngoài ra đảng còn lấy tiền đóng thuế của dân để độc diễn trên hàng trăm Đài phát thanh và Truyền hình rải ra khắp nước.
Do đó câu nói “Người dân Việt Nam chưa bao giờ được sống trong bầu không khí dân chủ như hiện nay” của ông Trọng ở Hoa Thịnh Đốn ngày 08/07/2015 là tuyên truyền có đặc tính “Vẹm” vì sai sự thật.
Không đúng vì Luật Báo chí (103/2016/QH13), ban hành ngày 05 tháng 4 năm 2016, có hiệu lực ngày 01/01/2017, là bằng chứng độc tài toàn diện, phản dân chủ, chống tự do báo chí của đảng CSVN.
Hành động này được quy định trong Điều 4 nói về “Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí”, theo đó:” Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của Nhân dân.”
Nên biết tất cả các Tổ chức chính trị, xã hội và nghề nghiệp đều của đảng, do đàng và hoạt động phục vụ đảng. Do đó, Luật Báo chí quy định nhiệm vụ hàng đầu của báo chí là phải :” Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước… góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của Nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”
Ông Trọng cũng đã bịa đặt cái “bầu không khí dân chủ” khi Chính phủ, với sự tiếp tay của Ban Thường vụ Quốc hội, đã tiếp tục trì hoãn thảo luận các Luật lập hội và Luật biểu tình. Cả hai Dự Luật đã được trình ra Quốc hội, ít nhất vài lần nhưng giờ chót bị rút lại để gọi là bổ sung đến nay chưa biết số phận ra sao. Đáng chú ý là Bộ Công An đã đóng vai chính soạn thảo cả hai Dự Luật.
Như vậy, cũng là “nói dối như Vẹm” khi báo Quân đội Nhân dân rêu rao rằng:”Quyền tự do hội họp là một trong những quyền cơ bản của con người, được ghi trong Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và được bảo đảm thực hiện trong thực tế.”(QĐND ngày 08-04-019)
Nhưng nếu đã là “quyền cơ bản” rồi thì tại sao lại ngăn chặn, phá đám những cuộc họp tự phát của nhân dân muốn tưởng nhớ và ghi ơn 74 chiến sỹ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ mình trong cuộc chiến chống quân Tầu xâm lăng chiếm Quần đảo Hoàng Sa năm 1974 ? Càng nhục nhã và hổ thẹn với Tiền nhân hơn khi ông Nguyễn Phú Trọng và Chính phủ CSVN đã cúi đầu tuân lệnh Bắc Kinh không cho tổ chức tưởng niệm trên 40,000 quân và dân đã hy sinh trong cuộc chiến 10 năm (1979-1989) chống quân phương Bắc xâm lược 6 Tỉnh biên giới phía bắc vào mỗi Tháng Hai hàng năm.
Cuối cùng, “quyền tự do hội họp” của nhân dân cũng đã bị canh chừng, chận đường bắt về đồn Công an hay ngăn chặn, và vô luân hơn, cho tổ chức nhảy đầm trước Tượng đài Lý Thài Tổ (Hà Nội) sáng ngày 14/03 (2019), dúng dịp kỷ niệm năm thứ 31 ngày 64 chiến sỷ Quân đội Nhân dân đã nằm xuống trong cuộc chiến chống Trung Cộng xâm lược chiếm Gạc Ma và 6 Bãi khác gồm Vành Khăn, Tư Nghĩa, Subi, Gaven, Chữ Thập và Châu Viên ở Trường Sa.
Như vậy, nếu không muốn mấy chữ “nói dối như Vẹm” lảng vảng trong đầu, Tuyên giáo đảng thử làm cuộc tổng kết xem Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã nói thật được bao nhiêu lần kể từ sau ngày 30/04/1975 ? -/-
Phạm Trần
(04/019)
Chia rẽ - Hận thù tại ai ?
- Viết bởi Phạm Trần
Rất chán và nhạt nhẽo để bàn tiếp thất bại của hòa hợp, hòa giải dân tộc sau 44 năm chiến tranh đã kết thúc trên quê hương Việt Nam. Nhưng sẽ hữu ích nếu những người Cộng sản cầm quyền ở Việt Nam có can đảm giải thích vì sao sau bằng đó năm mà “dân tộc ta vẫn chưa hòa giải được với nhau“ ?
Đó không phải là câu hỏi của riêng trên 4 triệu người Việt Nam, đa phần tị nạn Cộng sản ở nước ngoài và của hàng triệu người trong nước mà là nỗi ray rứt của ông Nguyễn Đình Bin, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài (VNVNONN).
Ông Bin đã giải bầy tâm tư của mình trong bài viết kỷ niệm 15 năm ra đời Nghị quyết 36 NQ/TW (26/03/2004 – 26/03/2019) do ông đóng vai chính hình thành.
Ông viết:”Sau 15 năm đi vào cuộc sống, Nghị quyết 36 NQ/TW đã được thực thi phần nào, được cộng đồng hoan nghênh, tạo ra khá nhiều đổi thay. Nhưng tôi vẫn buồn: vết thương dân tộc thực sự vẫn chưa lành!!! Với các nước ngoài đã từng đô hộ, xâm lược nước ta, gây ra biết bao tội ác tầy trời, biết bao đau thương, mất mát, hậu quả khủng khiếp, nặng nề… mà nhân dân ta vẫn còn phải gánh chịu, với truyền thống khoan dung, hòa hiếu, chúng ta đã gác lại quá khứ, bình thường hóa quan hệ và kết bạn, trở thành những đối tác chiến lược, hợp tác toàn diện… vì tương lai của mỗi quốc gia, vì hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới. Vậy mà, vì sao, cuộc chiến ác liệt nhất đã kết thúc và đất nước đã thu về một mối hơn 4 thập kỷ mà dân tộc ta, nói cho cùng đều là nạn nhân của sự đô hộ và xâm lược của nước ngoài nói trên, vẫn chưa hòa giải được với nhau? Cũng chính sự đô hộ và xâm lược của nước ngoài đó đã chia ly bao gia đình Việt và cả dân tộc Việt, gây ra cảnh huynh đệ tương tàn trên đất nước ta. Thế mà ta đã hòa giải được với họ, còn chúng ta, anh em một nhà “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”, thì lại chưa hòa giải được với nhau?”
Tại sao “chưa lành” và “chưa hòa giải được với nhau” ? Vì Lãnh đạo đảng cầm quyền độc tài, độc quyền và tham nhũng quyền lực Cộng sản ngày nay vẫn chưa biết “tránh xa sự tự mãn, tránh xa bệnh say sưa thành tích”, như nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói trong cuộc phỏng vấn của báo Quốc Tế, ra ngày 31/03/2005.
Vi trùng ung thư di tính“kiêu ngạo Cộng sản” và “ngủ say trên vòng nguyệt quế” vẫn sinh sôi nẩy nở và sống mạnh trong cơ thể nhiều Lãnh đạo đảng nên không ít người đã coi đất nước là của riêng mình và phe nhóm để chia phần và dành quyền được quay lưng ngược đãi những người cô thân, yếu thế, bất đồng chính kiến với mình và những người chẳng may thất trận.
Do đó, vào mỗi dịp 30 tháng Tư về, họ vẫn ngênh ngang tổ chức ăn mừng và vênh vang trên đau buồn của người khác mà không biết rằng:”Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu.” (Võ Văn Kiệt, báo Quốc Tế, 31/03/2005)
TIỀN TUYẾN CỦA XÂM LĂNG
Bằng chứng như trong “Hướng dẫn tuyên truyền, kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng trong năm 2019” của Ban Tuyên giáo, phần gọi là “Kỷ niệm 44 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2019)” đã ra lệnh phải:” Nêu bật sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần chủ động, sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường của quân và dân ta; sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam” đến “những nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam, đỉnh cao là Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước…”
Ở đây cần minh bạch tại sao đã có “tiền tuyến lớn miền Nam”, nếu không có cuộc xua quân xăm lăng miền Nam Việt Nam Cộng hòa, của miền Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ? Lịch sử cũng sẽ trả lời “có” hay “không” cuộc “nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam” , hay hàng triệu người miền Nam đã tán gia bại sản, gia đình tan nát, chia lìa và bỏ của chạy lấy người vì cuộc xâm lược của bộ đội miền Bắc đội lốt quân “giải phóng” Cộng sản miền Nam ?
Và trước sau gì sau hai chữ “Giải phóng” giả tạo, nhân loại cũng sẽ được trả lời vì sao đã có danh từ “Thuyền nhân”, hay “Boat people” trong Từ điển Thế giới sau ngày Việt Nam thống nhất dưới quyền cai trị của đảng CSVN từ năm 1976.
Lịch sử Thế giới về Việt Nam cũng sẽ không bỏ sót nỗi bi thảm của hàng chục ngàn người Việt Nam, đa số ra đi từ miền Nam Việt Nam Cộng hòa (VNCH), đã chết trên Biển Đông, hay bằng đường bộ Việt Nam-Campuchea-Thái Lan trên đường tìm tự do từ sau 1975.
Do đó, một câu hỏi khác cũng cần được đặt ra với đảng CSVN : Nếu VNCH không mất vào tay Quân Cộng sản Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tay sai Mặt trận Giải phóng bù nhìn trong Nam thì có Danh từ “Thuyền nhân” không ?
Vì vậy, mỗi khi đảng và nhà nước CSVN nhắc đến hay tổ chức kỷ niệm 30 Tháng Tư như dịp để vui chơi kênh kiệu, hay kên kên ngạo mạn là họ đã mở ra vết thương chưa lành, vì tính “kỳ thị Cộng sản” vẫn còn đè nặng lên nhân dân miền Nam. Hiện tượng “đồng ý nhưng không đồng lòng”, hay dân coi cán bộ như của nợ không còn là chuyện năm thì mười họa xẩy ra trong xã hội mà là chuyện thường ngày dân phải gánh chịu.
Do đó, không ai ngạc nhiên khi thấy ông Nguyễn Đình Bin đã viết tiếp trong bài 15 năm một nghị quyết - vết thương dân tộc vẫn chưa lành !:”Tôi trộm nghĩ: Tất cả mọi con dân Việt chúng ta, dù đang ở bất cứ nơi đâu, đều phải cùng nhau suy ngẫm, tìm ra nguyên nhân vì sao, và cùng nhau khắc phục! “
Chả cần phải “tất cả con dân Việt” vì trách nhiệm đã rõ sau 15 năm thi hành Nghị quết 36 đều quy vào Lãnh đạo đảng và nhà nước phải chịu trách nhiệm thất bại.
Sau đây là những lý do:
Thứ nhất, hãy đọc lại câu hỏi của báo Quốc Tế và câu trả lời của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt năm 2005:
(H) Thưa ông, để lành được vết thương này phải có sự tham gia của mọi người Việt?
(Đ) :”Đấy là một vấn đề lớn. Chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo đất nước, muốn để mọi người Việt cùng chung tay hàn gắn, chung tay tạo dựng thì chúng ta phải thực tâm khoan dung và hòa hợp. Sau 30-4-1975, khi đồng chí Lê Duẩn vào Sài Gòn, vừa xuống thang máy bay đồng chí nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc, nói: "Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai". Sau 30 năm, tôi thấy không phải dễ dàng làm cho mọi người VN cảm nhận được điều đó.”
Vậy tại sao, sau chuyến vào Nam, Bộ Chính trị do ông Lê Duẩn cầm đầu đã ra lệnh “đánh lừa” quân-dân-cán chính VNCH khăn gói đi gọi là “học tập cải tạo 15 ngày”, mà sau đó có nhiều người phải ở tù lao động ngót 20 năm, hoặc bỏ xác ở rừng sâu ?
Thứ hai, trả lời ông Nguyễn Đình Bin của Giáo sư, Tiến sỹ ngành Xây dựng Nguyễn Đình Cống :”Ông đề nghị tìm ra nguyên nhân và cùng nhau khắc phục. Cùng nhau khắc phục phải chăng có ngầm ý cho rằng mọi người đều có lỗi và phải có trách nhiệm trong việc này, không nhiều thì ít, không trực tiếp thì gián tiếp. Mới nghe thì có vẻ có lý, nhưng liệu ở đấy có cố tình che giấu thủ phạm chính hay không.
Theo tôi thủ phạm chính trong việc dân tộc chưa hòa giải được thật sự với nhau là một số lãnh đạo và đảng viên cộng sản. Họ được gieo rắc đến mức khắc cốt ghi tâm lòng thù hận giai cấp, họ được khuyến khích lòng kiêu ngạo cộng sản, họ tự cho mình là những người chiến thắng đầy vinh quang. Họ muốn hòa hợp trong sự sỉ nhục người chiến bại.”
NGUYỄN CAO KỲ-PHẠM DUY
Thứ ba, hãy đọc những câu trả lời phỏng vấn của nguyên Phó Tổng thống, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, với báo Tuần Việ Nam năm 2010, vào dịp 30 tháng Tư:
Phóng viên (PV): Đã 35 năm sau sự kiện 30 tháng Tư, những người ở lại và cả những người ra đi đã nói nhiều, làm nhiều việc cho mục tiêu hòa hợp dân tộc, hàn gắn lòng người. Ông đánh giá thế nào những nỗ lực chúng ta đã làm?
Ông Nguyễn Cao Kỳ (NCK): Tôi nghe dư luận và có cảm tưởng vẫn còn có khoảng cách giữa nói và làm. Cuối năm vừa rồi, Hội nghị Việt kiều đã thu hút mấy ngàn người về dự. Trả lời phỏng vấn báo chí, nhiều vị đều bày tỏ mong muốn sớm hòa hợp. Điều đó có nghĩa mặc dù chính quyền đã cố gắng, nhưng ở đâu đó vẫn chưa thực sự tích cực.
PV: Việc tích cực hàn gắn như ông vừa đề cập, cần được hiểu thế nào?
NCK: Phải từ hai phía, nhưng cái chính vẫn phải từ phía những người trong nước. Chúng ta có thực sự muốn làm và tích cực làm hay không …
Nói về đoàn kết toàn dân tộc tôi có cảm giác dân tộc mình mỗi lần bị đe dọa đến vận mệnh thì lại đoàn kết. Thời xưa, chống giặc ngoại xâm phương Bắc thời nay đánh Tây, đánh Mỹ là tự khắc cả dân tộc đoàn kết và chiến thắng. Nhưng khi thắng rồi không hiểu làm sao mà tình cảm lại không được như trước.
PV: Chẳng phải Nhà nước đã có rất nhiều những động thái tích cực đó sao? Quyết định dân sự hóa Nghĩa trang quân đội Biên Hòa cũ là một minh chứng rõ rệt cho thấy thiện chí của những người trong nước. Và còn có chính sách cho bà con Việt kiều về nước mua nhà hay chương trình gặp gỡ Việt kiều hàng năm…?
NCK: Tôi cho rằng đó là những động thái tích cực. Chẳng hạn như để có được quyết định dân sự hóa nghĩa trang cũng phải mất nhiều năm trời. Ngay khi trở về quê hương tôi cũng đã đề cập chuyện ứng xử với nghĩa trang quân đội Biên Hòa cũ với các vị lãnh đạo của Việt Nam…
Tôi còn nêu ý tưởng tổ chức đại lễ cầu siêu chung cho những người tử trận không phân biệt bên này hay bên kia, làm thật trang trọng mỗi năm và thông báo rộng rãi cho bà con đang sống trong cũng như ngoài nước biết. Nếu trong số những người về dự, có cả một số cựu chiến binh từng ở bên kia chiến tuyến thì không gì hay bằng.
Thử hỏi có người dân Việt Nam yêu nước nào muốn chia rẽ đất nước không? Có ai muốn rằng người Việt giữ mãi hận thù với nhau không?
Theo tôi chỉ khi nào vượt qua được suy nghĩ hẹp hòi thì chúng ta sẽ làm được. Khi ấy vị thế của Việt Nam được nâng lên tầm cao khác. Tự khắc lòng người xích lại với nhau và sẽ không còn phải mất nhiều thời gian bàn chuyện hàn gắn hay hòa giải nữa.
PV: Ông suy nghĩ như thế nào về việc Nhà nước quyết định dân sự hóa nghĩa trang quân đội cũ?
NCK: Tôi đã ghé thăm nghĩa trang này trước đây còn hoang vắng nhưng giờ đây đã sạch sẽ quang đãng rồi, mọi người được ra vào tự do. Ở đó vẫn còn giữ được 16 ngàn ngôi mộ tử sĩ.
Lịch sử là lịch sử, ngày 30/4 giờ là một sự kiện lịch sử. Việc ứng xử không còn hận thù với những người từng đứng phía bên kia chiến tuyến như thế nào được bên ngoài quan sát để đánh giá cách hành xử văn minh hay không. Cho dù bên này hay bên kia, chết là hết, còn hận thù chi nữa, họ cần được coi sóc chu đáo.
PV: Ông có thừa nhận một thực tế là chúng ta có thể xóa bỏ hận thù để bắt tay làm bạn với những nước đã từng xâm chiếm chúng ta, vậy mà việc hàn gắn người Việt với người Việt với nhau xem ra lại mất nhiều thời gian hơn thế?
NCK: Theo tôi, cả hai phía vẫn có thiểu số còn quá nặng về dĩ vãng, chưa có tầm nhìn về tương lai. Một người không biết nhìn về tương lai, thì họ chỉ còn sống và ôm dĩ vãng. Mà như vậy thì tư duy của họ vẫn mãi bị ám ảnh bởi những chuyện hận thù, chủ nghĩa hay phe phái. Chúng ta phải thực tế nhìn vào điều này: muốn hòa hợp thì rất không nên nói nhiều mà phải làm.
PV: Liệu có cách gì để chúng ta không còn phải mất thêm thời gian cho việc hòa hợp, hàn gắn với đa số những người Việt ở bên ngoài đất nước?
NCK: Chuyện quốc gia cũng giống như trong một gia đình. Những việc chung thì cần đánh tiếng để mọi người xúm tay vào làm. Tôi nghĩ đối với đa số người Việt ở bên ngoài thì sẵn lòng góp sức cùng trong nước. Với đất nước có gì phải ngại ngần. Vấn đề là họ cần được thông tin đầy đủ về tình hình và những nhu cầu thực sự mà nhà nước đang cần sự góp sức của họ.
Hòa hợp dân tộc sẽ tập hợp được sức mạnh. Cứ đặt lợi ích dân tộc lên trên thì chúng ta tự khắc biết phải ứng xử thế nào cho hợp lẽ.
Nhưng khi đã kêu gọi thì cũng phải tạo điều kiện thoải mái cho người ta về. Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau.
Nên biết ông Nguyễn Cao Kỳ từng là Thủ tướng và Phó Tổng thống VNCH và Nhạc sỹ Phạm Duy là hai người nổi tiếng đã được ông Nguyễn Đình Bin móc nối về Việt Nam trong nỗ lực biểu hiện một thiện chí hòa giải của đảng CSVN.
Ông Kỳ về Việt Nam năm 2004, nhưng sau ít năm không thành công trong tiến trình “hòa giải” với đảng CSVN, ông sang sống ở Ma Lai Á là nơi ông được Chính phủ nước này coi như bạn thân và được ưu đãi mọi phương tiện. Ông qua đời năm 2011, hưởng thọ 81 tuổi.
Riêng Nhạc sỹ Phạm Duy, trở về Việt Nam năm 2005, không tham gia các hoạt động chính trị ngoài âm nhạc và đã qua đời tại Sài Gòn năm 2013, hưởng thộ 92 tuổi.
Tuy nhiên, Nhạc sỹ nổi tiếng Phạm Duy từng đi kháng chiến trong hàng ngũ Việt Minh rồi bỏ hàng ngũ, quay về sinh sống và hoạt đồng âm nhạc với phía chính quyền quốc gia.
Trước ngày Sài Gòn rơi vào tay quân Cộng sản tháng Tư năm 1975, ông được Chính phủ Mỹ giúp di tản ngày 28/04/1975.
Nhạc sỹ Phạm Duy từng nói về việc quay về Việt Nam của ông là “Lá rụng về cội”.
Với tâm tư của ông Nguyễn Đình Bin, của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt và nhận xét về sự thật lòng hay không muốn hòa giải dân tộc của đảng CSVN của hai ông Gs Nguyễn Đình Cống và nguyên Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ, thiết tưởng vấn đề đã rõ ràng : Qủa bóng đang ở bên sân đội bóng đảng CSVN.
Câu chuyện chỉ ngã ngũ khi nào đảng CSVN thật sự muốn vào cuộc chơi -/-
Phạm Trần
(04/019)
Quyền Tự Do Ngôn Luận Là Của … Chính Quyền!
- Viết bởi Manh Dang VRLH
Sự kiện chính quyền Phường 6, Quận Tân Bình tổ chức cưỡng chế giải tỏa khoảng 500 căn nhà và thu hồi đất của người dân Vườn rau Lộc Hưng vào các ngày 04 và 08/01/2019, đẩy hàng trăm hộ gia đình ra đường ngay trước tết nguyên đán cổ truyền của dân tộc chỉ đôi mươi ngày gây bức xúc trong công chúng.
Sau khi sự kiện xảy ra, người dân đã tố cáo một loạt hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Đồng thời, yêu cầu lãnh đạo UBND TP.HCM và Giám đốc Công an TP.HCM đối thoại. Nhưng tất cả đều rơi vào sự im lặng đáng ngờ. Kể cả, sự thúc bách bằng văn bản chính thức của Thanh Tra Chính phủ.
Bên cạnh đó, phía chính quyền vẫn tiếp tục sử dụng các phương tiện truyền thông chính thức để tự bào chữa, bảo vệ cho các hành động của mình một cách đơn phương. Không chỉ vậy, mà còn thông tin sai lệch vấn đề, sai đối tượng và dùng nhiều lời lẽ phỉ báng người dân, vốn là những nạn nhân đau khổ của việc tổ chức giải tỏa nhà đất trái pháp luật.
Đối diện trước thực tế : Chính quyền không giải quyết sự việc, mặc nhiên từ chối đối thoại … Buộc lòng, người dân phải dùng quyền tự do ngôn luận của mình bằng giải pháp tổ chức họp báo để lên tiếng về những đau thương, mất mát, bất công mà họ đang phải gánh chịu. Điều này giúp công chúng có cái nhìn đa chiều, khách quan về sự việc hơn là chỉ nghe thông tin một chiều.
Theo đó, sáng ngày 11/03/2019, người dân Vườn rau Lộc Hưng đã đến Sở Thông tin và Truyền thông TP.HCM để nộp bản Thông báo tổ chức họp báo theo quy định.
Theo kế hoạch, buổi họp báo sẽ thực hiện vào 14h30’ chiều thứ tư, ngày 13/03/2019, tại sảnh họp thuộc Nhà hàng Đoàn Viên, số 06 Huyền Trân Công Chúa, P.Bến Thành, Q.1. TP.HCM. Thành phần khách mời khá rộng rãi, không chỉ giới hạn trong phạm vi các báo, đài có quan tâm đến sự kiện chính quyền giải tỏa nhà đất tại Vườn rau Lộc Hưng. Mà đồng thời, khách mời dự bao gồm cả các cơ quan chính quyền từ UBND TP.HCM, UBND Q.Tân Bình và UBND P.6, Công an TP.HCM, Thanh tra …
Trước đó, ngày 09/03/2019, Nhà hàng Đoàn Viên đã nhận khoản tiền đặt cọc giữ chỗ để cho thuê sảnh họp thực hiện sự kiện họp báo này. Khi đặt cọc, phía bên thuê đã nhấn mạnh về mục đích thuê để nhờ sắp xếp bàn ghế phù hợp.
Tuy vậy, trong cùng ngày người dân đến Sở TT và TT để nộp bản thông báo tổ chức họp báo, thì ngay cuối buổi chiều, quản lý Nhà hàng đã hộc tốc điện thoại và nhắn tin ngay cho người đặt chỗ rằng (trích nguyên văn) : “Là do từ ngày 13 trở về sau nhà hàng con sửa chữa các phòng nên tạm ngưng phục vụ các phòng … mong chú thông cảm” !?
Thật ra, việc nhà hàng hủy hợp đồng cho thuê sảnh họp không nằm ngoài dự kiến của người dân và các luật sư hỗ trợ pháp lý. Việc tổ chức tại nhà hàng chỉ là phép thử và đã sớm cho ngay kết quả như dự đoán.
Không hề gì, việc họp báo sẽ vẫn được thực hiện với địa điểm khác. Có thể, báo chí chính thống sẽ không tham dự và chúng ta có thể hiểu việc đó. Vấn đề là không chỉ báo chí chính thống quan tâm đến sự việc …
Qua việc này cho thấy, quy định về quyền tự do ngôn luận của người dân có thể đã là một sự nhầm lẫn của hiến pháp. Bởi lẽ, sau khi chính quyền sử dụng toàn bộ cơ quan ngôn luận chính thức để tự do ngôn luận bào chữa, bảo vệ cho hành vi phá hủy nhà cửa và thu hồi đất đai, thì bây giờ, tiếp tục sử dụng “biện pháp nghiệp vụ” để ngăn cản sự ngôn luận của dân. Rất rõ, quyền tự do ngôn luận là của chính quyền chứ không phải của người dân. Hiến pháp đã nhầm và người dân cũng nhầm !
Manh Dang
———————
#VRLH