Tin Giáo Hội Việt Nam
Sống tâm tình tháng 11 cầu nguyện cho các linh hồn, tối 12 và sáng 13/11/2014, khách hành hương từ muôn nơi tìm về hiệp cùng với Đức Giám Mục GP Phan Thiết tham dự ngày hành hương kính viếng Đức Mẹ tại Trung Tâm Thánh Mẫu Tàpao. Cả không gian ngập tràn trong lời kinh tiếng hát chúc tụng, ngợi ca Thiên Chúa, tạ ơn Mẹ và khẩn cầu cho các linh hồn.
Đến Tàpao tháng này, khách hành hương nhìn thấy Lễ đài tại quảng trường Tàpao đang được mở rộng và nâng cao để phục vụ cho việc cử hành thánh lễ. Một con kênh đang thi công ngang qua đường rước kiệu nay mai sẽ là dòng nước trong xanh mang lại một nét thi vị mới cho nơi hành hương này.
Trong sự yên bình của màn đêm, tối ngày 12 muôn con tim với nhịp đập rộn ràng hướng về Thánh Thể Chúa ngự trên bàn thờ vừa linh thiêng vừa gần gũi. Cùng với Mẹ Maria, cộng đoàn thờ lạy Chúa Giêsu và cùng nhau suy ngắm mầu nhiệm Mân Côi. Tràng kinh Kính mừng dâng lên Mẹ với tâm tình hướng về những người thân yêu đã ra đi trước trong tháng cầu các linh hồn xin Mẹ ra tay bênh đỡ. Đức Cha Giuse kiệu Mình Thánh Chúa đi xung quanh quảng trưởng để cộng đoàn thờ lạy.
Thánh lễ Mừng Kính Mẹ Dâng Mình Vào Đền Thánh sáng 13 do Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống, Giám Mục GP. Phan thiết chủ tế. Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, Giám mục GP. Lạng Sơn – Cao Bằng, cùng quý cha trong ngoài Giáo phận Phan Thiết đồng tế. Cùng với nhiều niềm vui tạ ơn Thiên Chúa, Đức Giám Mục chủ tế mời gọi cộng đoàn cùng với Mẹ Maria tham dự thánh lễ sốt sắng cầu nguyện cho các người sống đời thánh hiến, cầu nguyện cho các gia đình và bản thân từng người hiện diện. Cách đặc biệt hiệp thông nhớ đến các linh hồn trong luyện tội.
Chia sẻ trong bài giảng lễ, Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân mời cộng đoàn hướng đến tâm tình Lễ Mẹ Dâng Mình vào đền Thánh ngày 21/11 là ngày cầu nguyện cho ơn gọi tu trì, ơn gọi thánh hiến cho Thiên Chúa qua lời cầu nguyện liên lỉ, niềm tin, tình yêu và sự phó thác. Biến cố Mẹ dâng mình được Đức Cha minh họa sống động trong suốt cuộc đời Đức Maria từ khi được song thân là Thánh Gioankim và thánh Anna dâng vào đền thánh và suốt hành trình theo Chúa. Việc “dâng mình” của Mẹ Maria chính là sự vâng phục để Tin – để Yêu mến và chu toàn ý Chúa. Là con cái Đức Mẹ chúng ta cũng phải noi gương Mẹ sống gắn bó kết hiệp với Chúa Giêsu. Đức Cha cũng nhắc lại lời của các Đức Giám Mục nghị phụ trong dịp Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới họp tại Rôma về chủ đề gia đình đầu tháng 10 vừa qua đã gởi đến mọi gia đình khắp các châu lục, và đặc biệt, đến mọi người theo Chúa Kitô rằng: “các ngài bày tỏ niềm ngưỡng mộ và tri ân tất cả quý ông bà anh chị em đã mang lại cho Giáo Hội và thế giới chứng từ về lòng trung tín, niềm tin, niềm hy vọng và tình yêu”.
Về bên Mẹ Tàpao hôm nay, Đức Cha mời cộng đoàn suy niệm lại ơn gọi của mình trong tâm tình năm Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình và năm tới là Năm Phúc Âm Hóa Đời Sống Thánh Hiến. Qua câu chuyện về tình thương của người mẹ với đứa con nhỏ với lời thân thương ”Hãy nắm chặt tay mẹ, mẹ sẽ nói với con là mẹ yêu con”, Ngài nhắn nhủ: là con cái của Đức Mẹ chúng ta hãy nắm chặt tay Đức Mẹ để lắng nghe tình thương của Mẹ dành cho chúng ta, để Đức Mẹ luôn cầu bầu cùng Thiên Chúa luôn ban cho mỗi người chúng ta Ơn Thánh để góp phần cộng tác trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa nơi trần gian, cùng “thi hành thánh ý Chúa, Đấng ngự trên trời” và luôn trở nên “anh chị em, và là mẹ của Đức Giêsu Kitô như lời mời gọi của Người”.
Kết thúc thánh lễ, Ban điều hành Trung Tâm Thánh Mẫu Tàpao thông báo hướng về sự kiện mừng Đại lễ Kỷ Niệm 55 năm, ngày làm phép Tượng Đài & Thánh Tượng Đức Mẹ Tà-Pao (08/12/1959 – 08/12/2014), và 15 năm Phong trào Hành Hương đến với Mẹ Tà-Pao: tại quảng trường Tàpao, vào lúc 19g30, tối Chúa Nhật, ngày 07.12.2014, TTTM TàPao phối hợp với Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Giáo phận Phan Thiết tổ chức đêm “Ca hát và ngân thơ về Mẹ Tàpao”, và sáng ngày 8.12.2014 là Thánh lễ trọng thể mừng Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Ngày hành hương thường kỳ, vào tối 12.12.2014 sẽ có diễn nguyện mừng mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh và thánh lễ trọng thể sáng 13.12.2014 do Đức Giám Mục Phan Phiết chủ sự.
Lạy Mẹ Tàpao, xin Mẹ giúp chúng con hôm nay cũng vận dụng hết tâm tình, biết sống đức tin Công Giáo cách trọn vẹn, để được trở nên những "tín hữu" gương mẫu giữa lòng xã hội địa phương. Biết gia tăng việc hy sinh – bác ái – kinh nguyện để chuyển cầu cho các linh hồn. Amen.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam: Trung thành với Đức Tin
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19.6.1988 tại Rôma, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.Đây là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại.
Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn 100 ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong đó, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân. Đó là chưa kể con số rất đông các tín hữu bị chết mất tích trong các đợt bắt Đạo vì lưu đày, vì phải trốn tránh vào những nơi hẻo lánh.Đó là chưa kể rất nhiều tín hữu phải chết do cuộc Phân Sáp 400 ngàn người Công Giáo dưới triều Vua Tự Đức.Đó còn là chưa kể con số hơn mười mấy vạn người Công Giáo bị chết khi có Phong trào Văn Thân nổi lên tàn sát người Công Giáo...Như thế, con số Tử Đạo phải tính lên đến 300 ngàn người trong vòng 300 năm. Nếu tính theo tỷ lệ, 100 năm thì có 100 ngàn Vị Tử Đạo. Và theo tỷ lệ này, cứ một năm, có một ngàn Vị Tử Đạo; và đổ đồng, cứ một ngày, có hơn hai Vị Tử Đạo!
Đọc lại hạnh các Thánh Tử Đạo Việt Nam, tôi nhận thấy, các ngài can đảm phi thường, vì yêu mến Chúa Kitô nên coi nhẹ mọi cực hình đau đớn, một lòng trung thành giữ vững đức tin. Dòng máu tử đạo ấy đã trở thành những hạt giống Tin mừng, đem lại cho Giáo Hội Việt Nam những mùa gặt bội thu.
1.Trung thành với đức tin.
Đối với các Thánh Tử Đạo, Thiên Chúa là trên hết. Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: “Thà chết chứ không thà bỏ đạo, bỏ Chúa”. Các ngài đã trung thành giữ vững đức tin trước mọi thử thách gian lao. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Xin kể ra đây một vài chứng từ về lòng trung thành (x.Thiên Hùng Sử).
- Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 đứa con. Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng: “Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con : Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên Đàng”. Lời sau cùng của bà là: “Giêsu Maria Giuse, con phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa.”
- Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết khi bị bắt bước qua thánh giá: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.
- Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: “Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của con”.
- Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giàu có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng vẫn luôn bình tĩnh vui tươi. Ngài nói: “Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.
- Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả lời khi các quan bắt ngài bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”.
- Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con mình rằng: “Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được vận hội may mắn”.
- Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên ngang phát biểu: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu”.
- Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô”.
- Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ảnh này quí giá hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”.
2. Can đảm phi thường.
Vì đức tin, các ngài đã phải chịu đủ mọi thứ cực hình dã man. Bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng,bị chặt đầu, bị thắt cổ, bị thiêu sống, bị phân thây ra từng mảnh… Có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo (bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.
-Lòng lang dạ sói của con người nghĩ ra mọi thứ hình phạt tàn ác, thật kinh hoàng sởn tóc gáy khi nghe kể về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao: “Ngày 30.11.1835, họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử ngài.Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ. Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết. Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa. Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất, một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông, rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi lấy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30.11.1835. Cha Du chết rồi bọn lính còn chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích".
-Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lệnh quan án sát. Vừa nghe lệnh, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
-Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.
-Sáng ngày 5.6.1862, trước sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu sinh. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ngài cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ngài.
-Sau ba tháng tù tại Bình Định, ông Anrê Nguyễn Kim Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi, ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông. Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh ăn năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.
3. Coi thường sự đau đớn.
Là con người, ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ai mà không tham sống sợ chết! Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng vượt những khổ hình dã man. Lòng yêu mến Chúa đã giúp các ngài vượt thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình. Vì thế các ngài xem nhẹ khổ hình, vui mừng và hãnh diện vì được chết cho đức tin.
-Trước khi bị chém, Thánh Giám mục An nói với viên quan chỉ hay:“Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh trên trời”.
-Năm vị: Đaminh Nhi, Đaminh Mạo, Đaminh Nguyên, Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đaminh Nhi, còn bốn vị đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.
-Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao:“Thằng theo tà đạo, đứa ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?”.
-Sau một năm tù giam, Anrê Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28.11.1835. Sáng hôm đó, ngài gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn gì không? Anrê Trọng trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc mẹ mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết.”. Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ của Anrê Trọng đã đến đón con và theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ bị xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù, con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con”. Khi được con cho biết là không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn: “Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm.”. Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, bà nhận lấy kỷ vật đó và chưa cho là đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ huy trao thủ cấp con trai cho bà. Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại:“Ôi con trai yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.”. Rồi bà đem về an táng trong nhà.
Các Thánh Tử Đạo coi thường đau đớn với lòng can đảm lạ lùng là vì các ngài trung thành với đức tin. Do đó, các ngài vui mừng được chết vì Chúa Kitô. Các ngài đã chết dưới ngọn đao phủ là chết cho Chúa Kitô như chính Chúa Kitô đã chết cho các ngài. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang vì đã đáng được chịu đau khổ cho Chúa Kitô. Các ngài chẳng màng chi đến việc nhân loại trao tặng huy chương, huân chương, chiến công. Các ngài chết tử đạo là chết vì Chúa Kitô, đơn thuần và tinh khiết, trong sáng và huyền diệu, can trường và khiêm nhu (x.Thiên Hùng Sử, trang 4). Chết vì Chúa Kitô là niềm hạnh phúc “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao” (Mt 5,10-12; x.Lc 6,22). Chính trong ánh sáng của Chúa Kitô, Vị Tử Đạo tiên khởi mà chúng ta có thể nói về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam bằng câu Phúc âm : “Đầy tớ không lớn hơn chủ” (Ga 15,20); “Nếu chúng đã bách hại Thầy, chúng sẽ bách hại các con...Đây Thầy sai các con như con chiên đi vào giữa sói rừng… Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các con nơi toà án. Khi họ bắt bớ, các con đừng lo phải nói thế nào, vì không phải các con, nhưng Thánh Linh của Thầy sẽ nói trong các con… Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ.” (Mt 10,16-25). Các Thánh Tử Đạo không tìm đến cái chết mà chỉ trung thành với đức tin cho dù phải chịu muôn vàn gian truân đau đớn. Các ngài tìm cách nên giống đời sống của Thầy Giêsu, nhất là giống cử chỉ yêu thương tột cùng đã đưa Thầy đến cái chết.
Chân dung Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được tô điểm bằng muôn ngàn vạn nét. Nét căn bản nhất chính là Niềm Tin Phục Sinh. Tin vào Chúa Kitô đã chết và đã sống lại nên các ngài đã chấp nhận tất cả mọi cực hình, vượt thắng mọi truân chuyên. Yêu mến Chúa Kitô và bước theo Người nên các ngài luôn sống niềm tín thác, lạc quan. Trong nhà tù vẫn cầu nguyện và hát thánh ca, thánh vịnh. Ra pháp trường vẫn cầu nguyện và hát khúc khải hoàn Alleluia, luôn hướng về trời cao với niềm Hy Vọng Phục Sinh và cất cao hát mãi cho đến khi đầu rơi khỏi cổ. Cái chết chẳng có giá trị gì, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền diệu. Sự sống đó chính là tình yêu với tất cả những gì cao thượng và chân thật. Tình yêu đó bừng lên mãnh liệt trong mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng. Chết là mất tất cả, nhưng 117 hiến tế tình yêu cũng là 117 chứng từ niềm tin của những con người xác tín rằng: chết vì Đức Kitô, chết đi là sống lại trong cuộc sống muôn đời; chết là chiến thắng; chết là để đi về sự sống vĩnh cửu; chết là cánh cửa im lìm được mở ra để về với Đấng là Sự Sống vĩnh hằng.
4. Kế thừa dòng máu hào hùng để tiếp nối sứ vụ loan Tin mừng.
Hạt giống Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô đã đến với quê hương Việt Nam gần năm thế kỷ.Trước đó cả ngàn năm đã có ba tôn giáo lớn là Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và Tín Ngưỡng dân gian ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Phong tục tập quán, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam, đã được nhào luyện bởi tất cả những mầm sống cũng như giới hạn các tín ngưỡng đó.
Trên nền tảng một đời sống tâm linh phong phú mà Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và nhất là Ðạo Ông Bà đã xây dựng từ hơn một ngàn năm, hạt giống Tin Mừng đã nẩy mầm và trổ sinh nhiều hoa trái. Tinh thần hiếu khách, lòng bao dung làm cho người Việt Nam sẵn sàng tiếp xúc với những người tỏ ra có thiện cảm với mình, cho dù họ từ xa đến. Với những đức tính như lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, kính trên nhường dưới trong gia đình, với một tâm hồn yêu thích tĩnh mịch và chiêm niệm, người Việt Nam là một mãnh đất tốt để đón nhận những giá trị thiêng liêng hàm chứa trong Tin Mừng.
Nhờ các nhà truyền giáo, từ các thế hệ tiền nhân, người Việt đã nhận lãnh nhiều điều tốt lành: những thường thức về vệ sinh, khoa học, những hiểu biết mới, những đồ vật quý hiếm cũng như những trợ giúp vật chất dù rất khiêm tốn, những nhân vật thánh thiêng đầy nhân ái... khiến họ, nhất là những người thuộc lớp bình dân, sẵn sàng đón nhận giáo lý mà những người tốt lành như vậy mang đến cho họ. Nhờ đó, những tập tục phi lý và phi nhân (bùa mê, sát tế) như một gánh nặng đè lên cuộc đời của họ nay được cởi bỏ. Khi đã tìm gặp một vị thần đầy yêu thương, họ liền cảm thấy được giải thoát và tin theo.
Rao giảng Tin Mừng cho họ cần gắn liền với phát triển cuộc sống, quan tâm săn sóc sức khỏe, nâng cao văn hóa giáo dục. Người Kitô hữu sống giữa lòng đời và chia sẽ đời sống của anh chị em chung quanh mình. Loan báo Tin Mừng là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng. (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu. (x. Ga 15,13).
Các Thánh Tử Đạo là những chứng nhân can trường dám chết cho niềm tin, sống cho tình yêu, và loan báo chân lý Tin Mừng. Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu thì cũng phải chấp nhận mất mát thiệt thòi. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin.
Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng bằng cái chết. Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống. Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay. Làm chứng chính là “làm muối,” “làm men,” “làm ánh sáng”... như những hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng khi trao sứ mạng cho các môn đệ. Muối, men, ánh sáng thì không ồn ào áp chế, công việc của nó là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện diện đúng như bản chất của mình, tự khắc môi trường xung quanh nó sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh sáng. Sống đạo như thế, chúng ta góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã can đảm phi thường làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
Chương trình Phối hợp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động “chức sắc, tu sĩ, tín đồ Công giáo tham gia bảo đảm trật tự, an toàn giao thông”
WHĐ (10.11.2014) – Chiều Chúa nhật 9-11-2014, tại Toà Tổng giám mục Tổng giáo phận Tp.HCM đã diễn ra buổi gặp gỡ và ký kết Chương trình Phối hợp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động “chức sắc, tu sĩ, tín đồ Công giáo tham gia bảo đảm trật tự, an toàn giao thông” giữa Uỷ ban An toàn giao thông Quốc gia và Hội đồng Giám mục Việt Nam. Thay mặt cho Hội đồng Giám mục Việt Nam là Đức Tổng giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ tịch Hội đồng Giám mục; phía Uỷ ban An toàn giao thông Quốc gia có ông Đinh La Thăng, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia.
Sau đây là nội dung Chương trình này:
Lá thư TGM Xuân Lộc kêu gọi: An toàn giao thông và Môi trường sống sạch sẽ
Long Khánh, ngày 07 tháng 11 năm 2014
Kính gửi : Quý Cha, quý Tu sĩ nam nữ,
Các chủng sinh, anh chị em Giáo dân Giáo phận Xuân Lộc,
Anh chị em rất thân mến,
Ngày 11 tháng 11 năm 2014 sắp tới là ngày kỷ niệm 10 năm sứ vụ Giám mục của Đức Cha Chính Đaminh. Trong 10 năm sứ vụ Giám mục, Đức Cha đã dâng hiến cuộc đời phụng sự Chúa và với ơn Chúa trợ giúp, ngài đã thực hiện nhiều công trình lớn lao cho Giáo phận. Trong niềm hân hoan và vui mừng, toàn thể Giáo phận chúng ta, cùng hiệp ý với Đức Cha Chính Đaminh dâng lời tạ ơn Thiên Chúa và xin Thiên Chúa tiếp tục tràn đổ muôn ơn lành trên Đức Cha Chính Đaminh để ngài tiếp tục hướng dẫn đoàn Dân Thánh mà Chúa đã trao phó cho ngài.
Như một món quà kính dâng Đức Cha Chính Đaminh kính mến của chúng ta, nhân dịp kỷ niệm Hồng ân 10 năm Giám Mục của ngài, tôi mời gọi gia đình Giáo phận nhiệt tâm đón nhận và thực hiện Chương trình Mục vụ Năm Kim Khánh sẽ được Linh mục đoàn Giáo phận triển khai dịp Thường Huấn sắp tới. Hôm nay, tôi xin mời gọi mọi thành phần Dân Chúa Giáo phận cùng nhau thực hiện hai công tác, vừa đáp lại lòng thao thức của Đức Cha Chính Đaminh, vừa ích lợi cho chúng ta và góp phần làm cho môi trường sống chung quanh chúng ta được an vui và tươi đẹp hơn, nhưng nhất là làm cho chúng ta thực sự trở nên muối - men của Tin Mừng trong xã hội như Chúa mời gọi.
1. An toàn giao thông
Ít lâu nay, an toàn giao thông đã trở thành vấn đề lớn trong xã hội. Biết bao tai nạn giao thông đã gây ra đau thương cho nhiều gia đình. Vấn đề có thể phát sinh từ nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính yếu vẫn là tinh thần trách nhiệm của người đi đường. Nếu mọi người biết tuân thủ luật giao thông, nhường nhịn nhau, kính trọng sự sống của mình và của người khác, chắc chắn giao thông sẽ trật tự và các tai nạn giao thông sẽ giảm bớt rất nhiều. Đối với người Công Giáo chúng ta, đây không những là vấn đề của tinh thần trách nhiệm, mà còn là đòi hỏi của Đức Ái đối với tha nhân và lòng tôn kính đối với chính Thiên Chúa, là nguồn gốc của sự sống và là Đấng đã tạo dựng nên muôn loài.
Xin quý Cha, quý Tu sĩ nam nữ, quí Phụ huynh và quí Thầy Cô Công Giáo tìm phương cách để thức tỉnh lương tâm của mọi người, đặc biệt giới trẻ, về trách nhiệm an toàn giao thông. Giáo phận chúng ta thường hãnh diện về những công tác từ thiện, bác ái qua việc quyên góp giúp đỡ anh chị em kém may mắn. Với việc tích cực góp phần gìn giữ trật tự, an toàn giao thông, chúng ta sẽ vui mừng và hãnh diện vì Giáo phận Xuân Lộc là môi trường an lành trên các đường phố, ngõ hẻm. Đây cũng là một chứng tá để anh chị em lương dân nhận ra là người Công Giáo tôn trọng sự sống của mình và của tha nhân, vì Chúa chúng ta là Thiên Chúa tình yêu, là Đấng dựng nên sự sống và bảo vệ sự sống.
2. Môi trường sống sạch sẽ
Nhu cầu thứ hai là gìn giữ cho môi trường sống được sạch sẽ. Đây là nhu cầu tối quan trọng cho sức khỏe và tình nghĩa giữa con người, nhưng trong xã hội hôm nay, nhu cầu này đang bị đe dọa trầm trọng, đặc biệt vì vấn đề rác và nguồn nước. Ở nhiều nơi, người ta phải sống bên cạnh những đống rác, vừa bẩn thỉu, vừa hôi thối; còn cống rãnh thì bị ứ đọng, nước sông ngòi và rạch suối thì đen và dơ bẩn vì nhiều người xả rác và các thứ cặn bã ra những nơi công cộng. Vấn đề trở nên trầm trọng hơn vì nhiều khi còn gây bất hòa giữa hàng xóm, láng giềng và có khi ngay cả giữa những người thân. Như vậy, môi trường dơ bẩn không những gây ô nhiễm cho sức khỏe thể lý, mà còn làm ô nhiễm tinh thần, gây chia rẽ, bất hòa và làm tổn thương tình làng nghĩa xóm. Đối với người Công Giáo chúng ta, đây còn là vấn đề bác ái và đức tin. Sau khi đã tạo dựng nên vũ trụ, vạn vật và con người, Thiên Chúa mời gọi con người cộng tác vào công trình tạo dựng, làm cho trái đất đẹp đẽ hơn và sử dụng vạn vật làm của ăn nuôi sống, tạo tình thương yêu với nhau và tôn vinh Thiên Chúa (St 1,1-25).
Một lần nữa, xin quý Cha, quý Tu sĩ nam nữ, quí Phụ huynh và quí Thầy Cô Công Giáo hãy làm gương và tìm phương cách thức tỉnh lương tâm của mọi người. Xin Anh chị em giáo hữu mau mắn và quảng đại góp tay trong các sáng kiến gìn giữ môi trường trong sạch. Chỉ khi mọi người cùng chung tay, không những không làm bẩn môi trường, mà còn cộng tác gìn giữ thì môi trường mới trong sạch. Nhà thờ và sân Nhà thờ của chúng ta, dù lớn cũng vẫn sạch sẽ vì mọi giáo hữu, với lòng tôn kính Chúa, không xả rác và còn có những người tình nguyện quét dọn.
Trong khi dấn thân thực hiện hai việc trên đây, chúng ta hiệp ý cầu nguyện để Ngày lễ ký niệm 10 năm sứ vụ Giám mục của Đức Cha Chính Đaminh sẽ là cơ hội thúc đẩy chúng ta dấn thân sống tinh thần năm Kim Khánh Giáo phận, phát huy sâu đậm hơn tình yêu thương và hiệp nhất của Gia đình Giáo phận và khích lệ nhau Nên Thánh. Xin Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội khơi lên trong lòng chúng ta tâm tình của Chúa Giêsu Thánh Thể, để Gia đình Giáo phận chúng ta trở thành Cộng Đoàn yêu thương và thánh thiện.
Thân mến chào anh chị em,
+ Giuse Đinh Đức Đạo
Giám mục Phụ tá Gp. Xuân Lộc
Hội nghị Thường niên 2014 Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam K’Long – Đà Lạt 04-05-06/11/2014
Hội nghị thường niên Liên hiệp Bề Trên Thượng cấp Việt Nam (LHBTTCVN) năm 2014 được tổ chức tại Trung tâm Don Bosco K’Long, thuộc giáo phận Đà Lạt từ ngày 04 đến ngày 06 tháng 11 năm 2014, với chủ đề: “Được Thánh hiến để thi hành Sứ vụ”.
1. Có 147 đại biểu tham dự là các Bề trên và đại diện Bề trên thuộc các đơn vị Dòng tu, Tu hội, Tu đoàn Tông đồ trong toàn quốc.
2. Hội nghị thường niên LHBTTCVN năm 2014 vui mừng chào đón Đức cha Antôn Vũ Huy Chương giám mục giáo phận Đà Lạt đến chủ sự Thánh lễ Khai mạc và các thuyết trình viên là Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, Giám mục giáo phận Thái Bình, Chủ tịch Uỷ ban Tu sĩ / HĐGMVN; Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo, Giám mục phụ tá giáo phận Xuân Lộc, Chủ tịch Uỷ ban Giáo dục Công giáo / HĐGMVN; Linh mục Vinh Sơn Phạm Xuân Hưng, OP; Linh mục Vinh Sơn Phạm Đình Khoan, SJ; Linh mục Giuse Nguyễn Thịnh Phước, SBD và Sr. Thecla Trần Thị Giồng, Dòng Đức Bà.
3. Trong suốt thời gian diễn ra Hội nghị, các Bề trên đã lắng nghe những đề tài chia sẻ và thuyết trình về một số vấn đề liên quan đến đời sống và sứ vụ của đời sống thánh hiến:
– Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ chia sẻ với Hội nghị về “Hiện trạng đời sống Tu trì tại Việt Nam”, giải đáp thắc mắc về cách thức tổ chức “Năm Đời sống Thánh hiến”, gợi ý các sinh hoạt trong Năm Đời sống Thánh hiến và trình bày về nội quy của Uỷ ban Tu sĩ đã được HĐGMVN phê chuẩn.
– Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo đã trình bày đề tài: “Giáo huấn của Giáo hội về thánh hiến và sứ vụ”
– Linh mục Vinh sơn Phạm Xuân Hưng, OP đã trình bày đề tài: “Nhận định về thánh hiến và sứ vụ của tu sĩ”
– Linh mục Vinh sơn Phạm Đình Khoan, SJ đã trình bày đề tài: “Cộng đoàn tu sĩ thi hành sứ vụ”
– Linh mục Giuse Nguyễn Thịnh Phước, SDB đã trình bày đề tài: “ Đào tạo người tu sĩ để thi hành sứ vụ”
– Linh mục Giuse Giuse Trần Hòa Hưng, Giám tỉnh Dòng Don Bosco, Chủ tịch LHBTTCVN chia sẻ về đề tài: “Quyền bính và sứ mạng”
– Nữ tu Thecla Trần Thị Giồng, Dòng Đức Bà đã trình bày đề tài: “Hướng dẫn cộng đoàn để thi hành sứ vụ”
4. Hội nghị cũng đã nghe Ban Điều Hành LHBTTCVN báo cáo Tổng kết hoạt động và về Quỹ tài chánh của Liên hiệp trong năm 2014.
5. Hội nghị đã dành nhiều thời gian để các Bề trên thảo luận với các đề tài được gợi ý từ các bài chia sẻ và thuyết trình của quý Đức cha, quý cha và quý soeur.
6. Sau khi thảo luận và trao đổi chung tại Hội trường với sự chủ sự và hướng dẫn của cha Chủ tịch LHBTTCVN, Hội nghị đã đúc kết một số vấn đề liên quan đến hoạt động của Liên hiệp trong thời gian tới; những vấn đề đào tạo và huấn luyện giới tu sĩ, đặc biệt là đối với các tu sĩ trẻ; đồng thời đề ra các sinh hoạt cụ thể trong Năm Đời sống Thánh hiến, cũng như thảo luận về việc chuẩn bị tổ chức Đại hội LHBTTCVN nhiệm kỳ V vào năm 2015 và giao trách nhiệm cho Ban Điều hành đưa ra chương trình và kế hoạch thực hiện.
Hội nghị thường niên LHBTTCVN năm 2014 đã khép lại, nhưng những thành quả và bầu khí hiệp thông huynh đệ đầy tình thân ái của Hội nghị chắc chắn sẽ đem lại cho các thành viên của Liên hiệp một niềm vui và một sự hứng khởi mới trong sứ vụ phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Giáo hội và phục vụ tha nhân, đồng thời sẽ góp phần thúc đẩy những người sống đời thánh hiến tại Việt Nam, càng ngày càng trở nên những chứng nhân loan báo Tin Mừng giữa thời đại hôm nay.
Thế là em đã ra đi được gần trăm ngày! Theo phong tục Việt Nam, người ta tin rằng linh hồn người chết còn quyến luyến người thân, "hồn vía còn nặng" chưa thể siêu thoát được, vẫn còn luẩn quẩn xung quanh nhà. Nước mắt đã lăn dài, lời kinh nấc nghẹn khi hồi tưởng lại, mới gần trăm ngày thôi mà đã như ngàn thu sâu thẳm! Một trăm ngày để những nỗi đau mất mát tạm thời lắng xuống, để hình ảnh người thân dần dần mờ nhạt trong tâm tưởng những người còn sống và người chết hòa dần vào cõi thinh không, hư ảo.
Những lời kinh nguyện tắt dần trong lời thầm thĩ kêu xin: “Giêsu-Maria-Giuse xin cứu rỗi linh hồn Maria. Giêsu … Maria… Giêsu … Maria…”. Chiều nghĩa trang trở lại vẻ yên ắng, tịch mịch thường ngày. Chỉ có những làn hương khói lan tỏa nhẹ nhàng trên mộ em và những ngôi mộ “hàng xóm” trong ngày đầu tháng các linh hồn - tháng cuối năm phụng vụ Giáo Hội dành để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời.
Như một cơn mê, em đã cố không nhắm mắt sợ rằng mình sẽ ngủ một giấc thật dài trong khi ngày mai còn bết bao nhiêu chuyện phải lo toan như đã từng lo toan kể từ khi khôn lớn. Mệt lắm, nhưng em chỉ an tâm nhắm mắt khi còn thấy khuôn mặt những đứa em đã gắn bó với những hỉ, nộ, ái, ố một thời trong cuộc sống và an tâm sẽ được gọi dậy để tiếp tục những công việc trần ai còn dang dở.
Sự sống này chỉ thay đổi mà không mất đi.
Lúc con người nằm yên giấc ngủ,
mắt nhắm lại rồi là thấy tương lai.
Trọn kiếp người nay không còn nước mắt, nụ cười.
Nhưng con tin rằng ngày mai trong Chúa
Chẳng có chia lìa, chẳng có hợp tan.
(Sự sống thay đổi – Phanxicô - TCCĐ)
Không còn được nghe em kể về hai thiên thần áo trắng giúp em trong cơn đau vật vã khi xét nghiệm cô đơn trên giường bệnh. Không còn nghe tiếng em trong phone mỗi khi có việc cần chia sẻ… Suốt đời tảo tần như một “chị hai” trong nhà, lúc lấy chồng lại lo cho chồng con. Ngày ngày đi về như con thoi giữa gia đình chung và gia đình riêng trong việc mưu sinh cơm áo. Những ngày cuối đời tưởng như đã nắm được chút hạnh phúc khi trong tay đã có tấm hộ chiếu thì căn bệnh quái ác đã cướp đi tất cả. Thôi thì tấm hộ chiếu theo em như một nỗi hạnh phúc mang theo những ước mơ của một kiếp người!
Nhưng quý giá hơn cả là tấm ”hộ chiếu nước Trời” mà em đã được lãnh nhận từ tay vị Linh mục đại diện Chúa Kitô và Hội Thánh trong nghi thức xức dầu và rước Mình Thánh Chúa vào lòng: ‘‘Chúng ta cùng nhau đến đây vì danh Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã cho người đau yếu được lành mạnh. Chính Ngài đã chịu đau khổ vì phần rỗi chúng ta. Ngài đang ở giữa chúng ta lúc chúng ta nhắc lại lời Thánh Giacôbê tông đồ: ‘Ai trong anh em phải yếu liệt, hãy mời các vị thay mặt Hội Thánh đến, họ hãy cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha.’ (Gc 5,14-15). Chúng ta hãy phó thác người chị em của chúng ta nơi ơn lành và quyền năng Chúa Giêsu Kitô, xin Chúa làm cho bớt đau đớn, ban cho được lành mạnh và được cứu rỗi.’’
Bóng hoàng hôn đang bảng lảng trên những đôi vai thập giá, nơi đây sao cô tịch, sao thinh lặng quá! Không còn những tất bật ngược xuôi trên những dặm đường đời mưu cầu áo cơm hạnh phúc. Không còn những hạnh phúc ấm êm đầy ắp những tiếng cười, không còn lo toan, không còn hưởng thụ … Chết là bắt đầu cuộc sống mới. Ở đây ai cũng như ai, ai cũng yên nghỉ bình đẳng chờ đợi sự thay đổi cuộc sống. “Thác là thể phách, còn là tinh anh”, thể phách ngày xưa do Chúa tạo dựng đẹp đẽ nhường nào giờ đây đã và đang trong tiến trình phân hủy để trở về kiếp tro bụi.
Khi còn sống, thân xác được dành nhiều ưu tiên: nào là ăn ngon, mặc đẹp, nào là địa vị, tiền tài, danh vọng … Trên dương thế hồn nhờ xác rất nhiều. Các việc lành thân xác làm đều mang lại lợi ich cho linh hồn, việc dữ thân xác làm gây họa cho sự sống trường sinh. Còn hơi thở, xác hồn gắn bó. Hết hơi rồi, hồn xác tạm chia lìa. Đâu còn thân xác để “Lạy Chúa Trời xin mở miệng con, cho con vang tiếng ngợi khen Ngài”, đâu còn thân xác để làm những việc lành thu công, tích đức! Bấy giờ hồn không thể tự giúp mình đền tội được vì “đêm đến, không ai có thể làm việc được” (Ga 9,4) và chỉ trông chờ vào những việc lành phúc đức, những lời kinh nguyện cầu của những người còn sống để giúp hồn đền bồi những khinh tội chưa được tha và các tội khác đã được tha nhưng chưa đền tội đủ vì “nhân vô thập toàn” trong cuộc sống lữ hành.
Vậy là ngày lễ các linh hồn năm nay, không còn thấy bóng dáng em lúp xúp cắm những nén nhang trên mộ Cậu, em Hiển và những người thân quen tại nghĩa trang Giáo xứ. Không còn cùng gia đình bên những phần mộ dâng lên những lời kinh nguyện cầu cho những người thân và những người đã qua đời. Em đã về với chồng nơi nghĩa trang của những người đồng hương cho vẹn tình phu thê, dâu thảo. An táng là chờ ngày sống lại vinh quang. Nghĩa trang nào cũng là nơi an nghỉ, chờ đợi ngày phục sinh. Nơi an nghỉ chỉ là cửa ngõ để bước vào sự sống vĩnh cửu vì chúng ta đã và đang sống trong niềm tin vào Đấng đã phục sinh từ cõi chết là Đức Kitô.
Xin tạm biệt em yêu, tạm biệt những người thân và những người chưa quen chốn này. Xin mọi người hãy nghỉ ngơi thanh thản trong Chúa như Lời Ngài đã phán: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 28). Chúa là cùng đích và là niềm hoan lạc đời đời của con người. Chúng ta đã được Chúa tạo dựng theo hình ảnh của Ngài và chúng ta phải trở về với Ngài. Ngoài Chúa ra, không có gì tồn tại mãi mãi. Có Chúa mới có hạnh phúc thật. Chính Thiên Chúa đã phán: “Đích thân Ta sẽ đi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi.” (Xh 33, 14). Hẹn gặp nhau trong những lời kinh nguyện hiệp thông và ngày cánh chung sum họp chắc chắn sẽ đầy ắp những nụ cười thay cho những giọt nước mắt ngày chia xa tiễn biệt.
Jos. Hoàng Mạnh Hùng
Tháng Các Linh Hồn 2014
Hội nghị Ban Vận động Quỹ kiến thiết Trung tâm Hành hương Đức Mẹ La Vang
THANH HOÁ (10.10.2014) – Tại Toà Giám mục Thanh Hoá, từ ngày 8 đến ngày 10-10-2014, Ban vận động Quỹ kiến thiết Trung tâm Hành hương Đức Mẹ La Vang đã tổ chức Hội nghị, với nội dung thảo luận và tìm phương hướng cho chương trình gây quỹ kiến thiết. Hiện diện trong cuộc họp này, có Đức Tổng giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, Tổng Giám mục Huế, Trưởng Ban Kiến thiết Trung tâm Hành hương Đức Mẹ La Vang; Đức cha Mátthêu Nguyễn Văn Khôi, Giám mục Qui Nhơn, phó Ban Kiến thiết, đặc trách kiến trúc; Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Giám mục Thanh Hoá, phó Ban Kiến thiết, đặc trách tài chánh; Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên, Giám mục Hải Phòng, phụ tá ban tài chánh. Cùng với Quý Đức cha, còn có sự hiện diện của cha Vicentê Phạm Trung Thành, Giám tỉnh dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, và các linh mục đặc trách vận động gây Quỹ kiến thiết Trung tâm Hành hương Đức Mẹ La Vang của 24/26 giáo phận.
Hội nghị đã diễn ra trong bầu khí mát mẻ của mùa thu, cộng với sự mến khách vốn có của Đức giám mục và quý cha Toà Giám mục Thanh Hoá theo phương châm “mỗi vị khách là một hồng ân”. Được thúc đẩy do lòng yêu mến đối với Đức Mẹ La Vang và với Giáo hội Việt Nam, mọi tham dự viên đều ý thức đây là công trình chung của Giáo hội Công giáo Việt Nam, là niềm tự hào và là nghĩa cử hiếu thảo đối với Đức Mẹ. Trong tinh thần trách nhiệm chung cùng cộng tác để hoàn thành công trình Trung tâm Hành hương Đức Mẹ La Vang, nhiều vấn đề nêu ra được các tham dự viên góp ý thảo luận sôi nổi và chân thành.
Hội nghị đã bắt đầu bằng việc giới thiệu tổng quát về mặt bằng, cấu trúc công trình, và tiến độ thi công trong thời điểm hiện tại. Những thông tin về từng giai đoạn xây dựng và mức kinh phí dự tính cũng được trình bày chi tiết, với mục đích giúp các linh mục đặc trách gây quỹ hiểu rõ những chi tiết liên quan đến công trình để việc gây quỹ có hiệu quả thiết thực.
Nội dung chính của Hội nghị là phương pháp vận động gây quỹ. Quý Đức cha và các tham dự viên đều mong muốn có sự cộng tác đồng bộ của mọi thành phần Dân Chúa, dưới sự hướng dẫn và khích lệ của các Đức Giám mục địa phương. Nhiều hình thức gây quỹ được đề nghị như: Hộp gây quỹ, tổ chức bữa tiệc gây quỹ, các buổi trình diễn thánh ca, các buổi diễn giảng, thùng gây quỹ đặt tại các nhà thờ… Một phương pháp được coi là thực tế và hiệu quả hơn, là hình thức gửi phong thư đến từng gia đình trong các cộng đoàn giáo xứ, kèm theo thư kêu gọi của Đức Giám mục. Những phong thư này sẽ được gửi về các cha xứ để chuyển về Toà Giám mục. Các tham dự viên cũng mong ước Hội đồng Giám mục Việt Nam chấp thuậ
n hằng năm có một ngày gây quỹ trong tất cả các giáo phận cho công trình này.
Hội nghị được đánh dấu bằng thánh lễ trọng thể tại nhà thờ Chính toà Thanh Hoá lúc 5 giờ sáng thứ sáu 10-10, để tôn vinh Đức Mẹ Mân Côi và cầu nguyện cho công trình xây dựng Trung tâm Hành hương Đức Mẹ La Vang sớm được hoàn thành.
Sau hai ngày làm việc nghiêm túc, Hội nghị đã kết thúc trong niềm vui và hy vọng của các tham dự viên. Sau bữa ăn huynh đệ, mọi người chia tay trong tâm tình cảm tạ Thiên Chúa, tạ ơn Đức Mẹ La Vang, với niềm mong ước những điều thao thức của các tham dự viên sớm được thực hiện.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên ghi chép
Ngày 13-10-1991 kỷ niệm kết thúc các cuộc hiện ra của Đức Mẹ MARIA trước đó đúng 74 năm tại Fatima bên Bồ Đào Nha. Nhân dịp này, Đức Tổng Giám Mục Tadeusz Kondrusiewicz, lúc bấy giờ là giám quản tông tòa giáo phận Minsk, thủ đô Cộng Hòa Bạch Nga, đã hướng dẫn một đoàn tín hữu Công Giáo Bạch Nga, chính thức hành hương kính Đức Mẹ Fatima.
Cuộc hành hương đã đánh dấu một biến chuyển quan trọng trong lịch sử nhân loại, kể từ giây phút ý-thức-hệ cộng sản vô thần đã lần lượt cáo chung tại các nước Đông Âu và Liên Xô vĩ đại. Cuộc hành hương cũng nhằm mục đích nối kết sự lật đổ chế độ cộng sản vô thần với những lời nhắn nhủ của Đức Mẹ MARIA khi hiện ra với ba trẻ mục đồng là Lucia dos Santos (1907-2005), Phanxicô Marto (1908-1919) và Giaxinta Marto (1910-1920). Hai trẻ Phanxicô và Giaxinta được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1920-2005) tôn phong chân phước ngày 13-5-2000 tại đền thánh Đức Mẹ Fatima ở Bồ Đào Nha.
Sau đây là chứng từ của Chị Lucia - một trong ba trẻ mục đồng - lúc Chị là Nữ Tu Maria Lucia Chúa Giêsu và Khiết Tâm sống tại dòng Kín Cát-Minh ở Coimbra bên nước Bồ Đào Nha. Chị Lucia viết.
Sáng ngày 13 tháng 10 năm 1917, chúng con rời nhà thật sớm, vì biết rằng chặng đường đi đến nơi Đức Mẹ hiện ra sẽ thật dài. Từng đoàn người đông đảo cũng lũ lượt kéo đến nơi hẹn. Trời mưa như trút nước. Mẹ con vì nghĩ rằng có lẽ giờ cuối cùng của con đã điểm, nên lòng đầy lo âu, bà nhất định đưa con đến nơi hẹn. Trên đường đi, diễn ra nhiều quang cảnh thật cảm động. Mặc dầu đường xá lầy lội bùn nhơ, mọi người vẫn kính cẩn quỳ gối đọc kinh, trong một thái độ khiêm tốn và thành khẩn nguyện xin.
Khi đến đồi Cova da Iria, gần cây Sồi Xanh, bị một sức mạnh bên trong thúc đẩy, con liền lớn tiếng xin đám đông xếp dù lại để lần hạt Mân Côi. Chỉ một lát sau thì chúng con thấy một luồng ánh sáng, rồi tiếp theo đó là Đức Mẹ đứng trên cây sồi. Con liền thưa với Đức Mẹ:
- Mẹ muốn con làm gì?
Đức Mẹ trả lời:
- Mẹ muốn nói với con là người ta phải xây nơi đây một nhà nguyện dâng kính Mẹ. Mẹ là Đức Bà Mân Côi. Mẹ muốn mọi người tiếp tục lần hạt Mân Côi mỗi ngày. Chiến tranh sắp kết thúc và các binh lính sẽ trở về gia đình.
Con thưa với Đức Mẹ:
- Con có nhiều điều muốn cầu xin cùng Mẹ: xin Mẹ chữa lành các bệnh nhân và cho các người tội lỗi được ăn năn trở lại, v.v..
Đức Mẹ trả lời:
- Mẹ sẽ chữa lành các bệnh nhân, còn các người tội lỗi thì Mẹ không ban ơn hoán cải, bởi vì chính họ phải sửa mình, phải ăn năn thống hối và xin tha thứ các tội lỗi của họ.
Nói xong, Đức Mẹ tỏ dấu thật buồn bã và nói:
- Họ không được xúc phạm đến THIÊN CHÚA, Chúa chúng ta nữa, bởi vì Ngài đã bị xúc phạm quá nhiều rồi!
Tiếp đó Đức Mẹ mở rộng đôi tay, phản chiếu lên mặt trời. Và trong khi Đức Mẹ cất mình lên, luồng sáng phản ảnh tia sáng của Đức Mẹ tiếp tục chiếu dọi trên mặt trời. Đó là lý do tại sao con kêu mọi người hãy hướng nhìn về phía mặt trời, nhờ thế mọi người đã chứng kiến phép lạ ”mặt trời múa”.
Sau khi Đức Mẹ biến mất trong khoảng trống bao la của bầu trời thì chúng con trông thấy xuất hiện bên cạnh mặt trời, Thánh Cả GIUSE với Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng và Đức Mẹ MARIA mặc áo trắng với áo choàng màu xanh. Thánh Cả GIUSE và Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng làm dấu hiệu như chúc lành cho thế giới, với cánh tay giơ lên và vẽ hình Thánh Giá. Một ít lâu sau thì các hình ảnh này biến mất và con lại thấy Đức Chúa GIÊSU và Đức Mẹ hiện ra dưới hình ảnh khiến con nghĩ đó là Đức Bà Bảy Sự Thương Khó. Đức Chúa GIÊSU cũng giơ tay như chúc lành cho thế giới, làm giống cử điệu mà Thánh Cả GIUSE đã làm. Sau đó Đức Chúa GIÊSU và Đức Mẹ biến đi. Và rồi con lại thấy Đức Mẹ xuất hiện dưới hình dáng Đức Bà núi Carmêlô.
Sau khi kể xong 6 lần hiện ra của Đức Mẹ tại Fatima, theo lệnh truyền của Đức Cha José Alves Correia da Silva (1872-1957), Giám Mục giáo phận Leiria, Bồ Đào Nha, Chị Lucia viết cho Đức Cha:
- Mỗi lần có dịp bắt buộc con phải nói đến các lần hiện ra này, con thường nói rất vắn tắt, kể lại những chi tiết nào cần thiết nhất, với mục đích giữ lại riêng cho con những điều kín ẩn, khiến con cảm thấy ngại ngùng mỗi khi phải thổ lộ cho mọi người biết. Nhưng vì các điều kín ẩn này thuộc về THIÊN CHÚA, và hôm nay, qua lệnh của Đức Cha là người đại diện THIÊN CHÚA muốn biết, nên con xin thuật lại. Con trả lại cho Chúa những gì thuộc về Chúa, chứ không phải thuộc về riêng con.
... KINH THÁNH MẪU LA VANG
Lạy Mẹ Maria Thánh Mẫu La Vang,
đầy muôn ơn phước, ngời chói vạn hào quang,
muôn vàn Thần Thánh không ai sánh bằng.
Đức Chúa Trời đã đoái thương chọn Mẹ,
tinh tuyền thánh thiện, sinh Đấng Cứu Độ muôn loài.
Mẹ đã chọn La Vang mà hiện đến,
cứu giúp hộ phù tổ tiên chúng con lương giáo,
giữa thời ly loạn cấm cách, khốn khổ trăm bề.
Từ ấy gót chân Mẹ bước đến,
vẫn mãi đầy ơn thiêng.
Ơn phần hồn, ơn phần xác,
người bệnh tật, kẻ ưu phiền,
nào ai cầu khẩn mà Mẹ không nhậm lời.
Lạy Mẹ Maria, Thánh Mẫu La Vang,
Mẹ là Thánh Mẫu Chúa Trời,
cũng là Thánh Mẫu loài người chúng con.
Cúi xin xuống phước hải hà,
đoái thương con cái thiết tha van nài.
Xin cho chúng con tấm lòng từ bi nhân hậu,
đại lượng bao dung,
cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống.
Xin Mẹ phù hộ chúng con
luôn sống đức hạnh, đầy lòng cậy trông.
Và sau cuộc đời này,
xin cho chúng con được về sống bên Mẹ,
hưởng vinh phúc trong Chúa Ba Ngôi muôn đời. AMEN.
(”LUCIE RACONTE FATIMA”, Fatima-Editions, 1976, trang 183-186)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
VATICAN. Trưa thứ bẩy, 18-10-2014, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam.
Toàn văn Thông cáo báo chí của Tòa Thánh nói rằng:
”Hôm nay ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến Thủ Tướng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng. Sau đó Thủ tướng đã gặp ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, có Đức TGM ngoại trưởng Dominique Mamberti tháp tùng.
”Trong các cuộc hội kiến thân mật, các vị bày tỏ sự hài lòng về cuộc gặp gỡ hôm nay, đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong tiến trình củng cố những quan hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam, vì đây là lần thứ hai, Thủ Tướng Dũng thực hiện cuộc viếng thăm tại Vatican sau cuộc viếng thăm hồi năm 2007. Trong cuộc hội kiến có nêu bật sự dấn thân của Giáo Hội đóng góp vào việc phát triển đất nước, nhờ sự hiện diện của Giáo Hội trong nhiều lãnh vực để mưu ích cho toàn thể xã hội. Trong bối cảnh đó có tái khẳng định sự đánh giá cao đối với sự nâng đỡ của Chính Quyền dành cho Cộng đồng Công Giáo trong khuôn khổ những phát triển được Hiến Pháp năm 2013 khẳng định liên quan đến chính sách tôn giáo, cũng như về sự trợ giúp cho Vị Đại Diện Tòa Thánh không thường trú ở Việt Nam trong việc thi hành sứ mạng của Ngài, nhắm thăng tiến quan hệ giữa Giáo Hội và Nhà Nước, hướng tới mục tiêu chung là các quan hệ ngoại giao. Rồi cũng đề cập tới một vài vấn đề mà hai bên cầu mong sẽ được đào sâu và giải quyết qua các kênh đối thoại hiện có.
Sau cùng, hai bên trao đổi ý kiến về một vài đề tài thời sự trong miền và quốc tế, đặc biệt là những sáng kiến nhắm thăng tiến hòa bình và sự ổn định tại Á châu”. (SD 18-10-2014)
G. Trần Đức Anh OP