la-croix.com, Isabelle de Gaulmyn, 2025-04-22
Đức Phanxicô chào giáo dân trong chuyến đi Philadelphia, nước Mỹ ngày 26 tháng 9 năm 2015.
Nhà báo Isabelle de Gaulmyn, phóng viên thường trú tại Vatican của báo La Croix từ năm 2005 đến năm 2009 nhìn lại 12 năm triều Đức Phanxicô. Ngài không chỉ làm mới cách thức điều hành Giáo hội mà còn mở rộng Giáo hội ra với thế giới bên ngoài. Ngài khởi xướng một phong trào sâu sắc, dù căng thẳng nhưng tương lai sẽ cho chúng ta thấy kết quả.
Đức Phanxicô để lại dấu ấn gì trong Giáo hội?
Mười hai năm (2013–2025) ở ngai Thánh Phêrô, một thời gian dài. Nhưng so với triều 26 năm của Đức Gioan-Phaolô II hay 20 năm của Đức Piô XII thì triều của Đức Phanxicô lại ngắn.
Nhìn lại các hình ảnh đầu tiên của ngài với nụ cười tươi sáng, tôi nhận ra việc đánh giá một giáo hoàng luôn khó khăn, đặc biệt khi chúng ta thiếu cái nhìn lịch sử cần thiết.
Tuy nhiên, tôi biết Đức Phanxicô đã làm thay đổi Giáo hội. Có thể nói là chưa từng có, hoặc ít nhất là rất hiếm. Trí nhớ của chúng ta thường ngắn hạn. Vì với những ai như tôi, đã từng làm việc ở Vatican trước khi có Đức Phanxicô thì thật khó hình dung có một giáo hoàng có thể thay đổi cách thức điều hành và mang lại một động lực mới cho Giáo hội như vậy.
Đó là những thay đổi nào?
Tôi nhớ buổi tối tháng 3 năm 2013 tại Quảng trường Thánh Phêrô. Chúng tôi chờ bóng dáng của tân giáo hoàng. Khói trắng bay lên, trong vài phút chúng tôi sẽ biết ai là giáo hoàng. Hồng y Jorge Mario Bergoglio, Tổng giám mục Argentina xuất hiện trên ban công. Ít người biết ngài là ai. Càng ít người biết tên ngài. Vatican là một thế giới tương đối điệu.
Tôi quen thuộc với thế giới này, tôi đã làm phóng viên ở Vatican trong 4 năm dưới triều Đức Bênêđíctô XVI, giáo hoàng tôi học được nhiều điều về trí tuệ và chiều sâu tâm linh. Vatican là thế giới đầy nghi thức và truyền thống, bị chi phối bởi một lịch sử dường như ngừng lại sau bức tường của quốc gia nhỏ bé này. Một thế giới không mấy thay đổi. Câu nói: “Chúng tôi đã ở đây 2.000 năm rồi, nên…” có lẽ là câu tôi nghe nhiều nhất khi đi tìm thông tin trong các hành lang yên tĩnh này.
Đó là thế giới dường như chẳng tiến triển, với những quy tắc được thiết lập chính xác như bản phối nhạc. Một thế giới nơi không ai nói trước micro và nơi mà thế giới “bên ngoài”, tất cả những gì ở ngoài bức tường Vatican bị cho là nguồn gốc của tai họa. Một thế giới của các giáo sĩ, nuôi dưỡng một thái độ xem thường những gì mới mẻ, bị gán nhãn hiệu chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa cá nhân. Một loạt các “chủ nghĩa” để định nghĩa hiện đại. Thế giới đó, tôi đã học cách để hiểu, và đôi khi còn yêu mến, vì sau bề ngoài nhiêm khắc là những con người đáng mến. Nhưng khi đó tất cả dường như quá cũ kỹ, quá cứng nhắc…
Tôi đã có mặt ở đó, đúng vậy, vào lúc Đức Phanxicô được bầu chọn. Ngay từ đầu, nguồn gốc của ngài (ngài đến từ tận cùng thế giới, như chính ngài đã cười khi nói), cách hành xử khác biệt của ngài: cúi mình trước đám đông để giáo dân chúc lành cho ngài, cử chỉ này đã làm mọi người chú ý đến ngài. Xin được chúc lành, điều đó hoàn toàn không bình thường. Thường thì chính giáo hoàng mới là người ban phép lành cho giáo dân! Và rồi, chúng tôi vẫn chưa hết ngạc nhiên. Trở về Paris, tôi tiếp tục theo dõi ngài từ xa. Mỗi lần, lại cùng một cảm xúc: những hành động, những lời nói của ngài thật lạ lẫm. Có điều gì đó đang thay đổi…
Nhưng phải mất một thời gian tôi mới thật sự nhận ra. Thực ra, tôi chỉ cảm nhận được hết mức độ thay đổi khi quay lại Rôma, sau hơn 10 năm vắng bóng. Cũng chính vì không có mặt thường xuyên tại Vatican trong suốt thời gian này nên tôi có một độ lùi để thấy rõ: ai sống ở đó mỗi ngày sẽ khó nhận ra hoặc nhận ra ít hơn các chuyển biến đang diễn ra. Và những chuyển biến này thực sự rất lớn. Đúng là, trong những tháng cuối cùng trước khi ngài qua đời, nhiều lời chỉ trích đã được đưa ra: cách điều hành có phần độc đoán, phong cách gây chia rẽ trong nội bộ công giáo, hay một số vụng về trong phát ngôn và hành động.
Một số người thất vọng vì ngài chưa tiến xa hơn: đạo lý công giáo vẫn chưa thay đổi nhiều, phụ nữ vẫn không thể làm linh mục, quyền lực vẫn chưa được chia sẻ nhiều hơn ở cấp giáo phận. Tôi đã nghe hết những lời đó. Nhưng nếu chỉ nhìn vào những gì chưa làm được, chúng ta sẽ bỏ qua điều cốt lõi: triều của ngài đã thay đổi sâu sắc, cách điều hành hoàn toàn khác biệt: ngài tự mang khay cơm ở nhà ăn, ngài không sống ở các căn phòng của Dinh Tông tòa sang trọng. Trong 12 năm, ngài đã kéo Giáo hội hoàn vũ đi với một tốc độ chưa từng có. Và khi cả Vatican đang khoác áo tang, một điều đã trở nên rõ ràng: không thể nào làm giáo hoàng như trước được nữa.
Giày mộc và giản dị
Trước hết, điều còn lại của Đức Phanxicô sẽ là phong cách của ngài. Một cựu bộ trưởng một thánh bộ đã thở dài nói, vừa dè dặt, vừa ngưỡng mộ: “Ngài điều hành Giáo hội với một nhịp độ hối hả. Ngài đá tung cả tổ kiến Vatican. Ngài thay đổi cả văn hóa giáo triều của chúng tôi…” Nhắc đến cú đá, có lẽ chúng ta nên để ý đến giày của ngài. Ít nhất đó là suy nghĩ của một chuyên gia giáo luật khả kính, người đã ngồi với tôi ở một quán cà phê trong khu Trastevere và thì thầm một điều nghe tưởng như đùa: “Tất cả bắt đầu từ đôi giày.”
Một chuyên gia giáo luật
Còn đôi giày của giáo hoàng? Chúng ta cần nói về đôi giày. Đức Bênêđíctô XVI tiền nhiệm cũng như các giáo hoàng trước đều đóng giày riêng. Chúng ta đang ở nước Ý, nước của những đôi giày da tuyệt đẹp, báo chí luôn để ý từng chi tiết đôi giày của giáo hoàng: loại da nào, giống bò và màu đỏ nào vì có nhiều loại màu đỏ…
Nhưng Đức Phanxicô không quan tâm đến những chuyện này, ngài giữ đôi giày da cũ mòn cho đến hết đời, có khi ngài còn không đánh bóng. Nhà vatican học mỉm cười trìu mến nói: “Phải nhìn ngài bước ra khỏi chiếc Fiat 500 chật hẹp, mang đôi giày to nặng, tay xách chiếc cặp cũ, đi họp ở Rôma. Một chiếc Fiat 500 cho một giáo hoàng! Như thể bước ra từ phim của đạo diễn Fellini vậy.”
Giày không làm nên giáo hoàng. Nhưng nó nói lên nơi ngài muốn đến. Với Đức Phanxicô, đôi giày nói lên tất cả: một hình ảnh ngược hẳn với thói quen truyền thống. Một giản dị bề ngoài, báo hiệu một thay đổi từ cốt lõi. Một đoạn tuyệt dứt khoát: Đức Phanxicô hiện thân của một con người gần gũi, đơn giản, từ chối mọi đặc quyền và những nghi lễ vương giả như thể thời gian vẫn đứng yên từ thế kỷ XIX.
Ngày 19 tháng 6 năm 2013, tại Rôma. Trong khi các vị tiền nhiệm vẫn mang đôi giày đỏ truyền thống, Đức Phanxicô chọn đôi giày bình thường, giản dị: một quyết định đã gây nhiều chú ý. Ảnh: Alessia GIULIANI / CPP / CIRIC
Trước đây chúng ta chưa bao giờ thấy một giáo hoàng từ chối các căn hộ giáo hoàng sang trọng để sống tại nhà dành cho các linh mục vãng lai ở Nhà Thánh Marta. Một giáo hoàng liên tục tiếp khách từ khắp nơi trên thế giới, đủ mọi tầng lớp, thường là ngoài giới công giáo và không qua bất kỳ quy trình lễ nghi nào. Một giáo hoàng thản nhiên giải thích điệu nhảy tango và công khai xin lỗi vì đã nổi nóng ngày hôm trước với một phụ nữ. Một giáo hoàng tiếp đón các giám mục và kể cho họ nghe những “chuyện cười thú vị”, như một số giám mục Đông Âu kể lại, họ ngạc nhiên sau buổi tiếp kiến với ngài, ai cũng góp vui một câu chuyện nhỏ của mình. Viễn cảnh đó thật khác xa với Đức Bênêđíctô XVI, người luôn cẩn trọng gìn giữ truyền thống đã có hàng ngàn năm. Đức Phanxicô bước xuống ngai tòa…
Dù vậy, ở Rôma, vẫn không thiếu người bi quan. Họ phàn nàn sự giản dị này làm mất đi tính thiêng liêng, thiếu lễ nghi sẽ làm suy yếu vai trò giáo hoàng. Rằng mọi thứ sẽ sụp đổ. Nhưng Rôma không sụp đổ. Rôma không biến mất. Chỉ là, Rôma đã thay đổi.
Tử Cấm Thành của Vatican
Vì mọi chuyện không chỉ xoay quanh giáo hoàng. Ba năm trước, khi tôi trở lại các hành lang Vatican, điều làm tôi ngạc nhiên là đã có phụ nữ làm việc ở đây. Phụ nữ đứng sau các bàn làm việc… Tôi vẫn nhớ rõ. Mười năm trước, với tư cách nhà báo, điều làm tôi sốc là không có phụ nữ làm việc ở đây. Ngoại trừ vài nữ tu giúp các hồng y và dọn dẹp phòng cho họ!
Vatican là lãnh địa của nam giới, chính xác hơn là nam giới mặc phẩm phục: các linh mục mặc áo dòng, mang cổ cứng, các giám mục, hồng y, vệ binh Thụy Sĩ, những người lo việc lễ nghi. Một kiểu “Tử Cấm Thành” thu nhỏ dành riêng cho nam giới, nơi tôi luôn có cảm giác mình lén lút bước vào. Giờ đây, trong cơ cấu hành chính của Giáo triều, đã có nhiều phụ nữ giữ các vị trí trách nhiệm.
Vatican mà Đức Phanxicô để lại có phụ nữ. Thực tế, hiến pháp mới quy định cách điều hành quyền lực ở Giáo triều Rôma minh chứng rõ rệt cho sự thay đổi. Đức Phanxicô đã mất hơn chín năm để soạn thảo, và văn bản cuối cùng được công bố vào tháng 3 năm 2022. Trước đó là cả một quá trình thử nghiệm, sửa đổi, thay đổi sơ đồ tổ chức.
Cải tổ Giáo triều, với một số người là rối rắm; với một số khác là tiến trình từ tốn. Nhưng điều đó không quan trọng bằng nội dung “mang tính cách mạng” của bản hiến pháp: lần đầu tiên, các vị trí lãnh đạo các thánh bộ tương đương bộ trưởng có thể được trao cho người không phải giám mục, không phải linh mục, và thậm chí là phụ nữ, miễn là họ có đủ năng lực. Điều này từng là không tưởng dưới thời các giáo hoàng trước, nhưng nay lại được chấp nhận một cách tự nhiên.
Một Giáo hội “hòa nhập” hơn? Tôi nhớ Giáo hội Rôma khi Đức Phanxicô được bầu năm 2013. Khi đó tinh thần ở Vatican xuống thấp, bộ máy công giáo dường như rạn nứt ở nhiều nơi: các bê bối tài chính liên tục nổ ra với vụ VatiLeaks, các vụ lạm dụng tình dục bị phanh phui, việc quản lý Giáo triều hỗn loạn. Một hồng y cử tri kể cho tôi nghe bài phát biểu của Đức Bergoglio ở Nhà nguyện Sistine trước mật nghị. Ngài thẳng thắn mô tả tình hình Giáo hội, ngài kêu gọi phải chấm dứt “tự tham chiếu”, nghĩa là Giáo hội tự vận hành cho chính mình, chỉ phục vụ cho nội bộ, chứ không vì thế giới.
Đức Phanxicô, người đứng đầu Giáo hội không ngần ngại phê phán các linh mục của ngài. Chủ đề xuyên suốt triều của ngài là đấu tranh chống giáo sĩ trị, phản đối các linh mục độc quyền điều hành. Người ta thường nói vũ khí chính của giáo hoàng là lời của ngài. Đúng vậy, giáo hoàng không thể làm gì nếu không có 5.000 giám mục và 1,2 tỷ tín hữu cùng đồng hành. Vì thế, Đức Phanxicô đã lên tiếng rất nhiều. Ngài chỉ trích các linh mục “tự mãn”, không quan tâm đến người khác, những giám mục thời thượng, suốt ngày bay từ phi trường này đến phi trường khác… Ngài chỉ trích đôi khi có phần dân túy, ngài không ngần ngại phóng đại và biếm họa những người cùng hàng ngũ với ngài.
Vậy có đủ để “giải giáo sĩ trị” Giáo hội không? Không. Vì không thể xóa bỏ hàng thế kỷ tư tưởng đặt linh mục lên trên giáo dân, là trung gian giữa Thiên Chúa và con người chỉ trong vòng 10 năm. Nhiều người cho rằng vẫn thiếu những thay đổi thực chất: ngài không cho phép phong chức cho các ông đã lập gia đình và cũng không cho phép phụ nữ làm phó tế. Đó là hai điểm dường như ngài do dự, như thể bàn tay ngài chùn lại trước sức ép phản đối. Liệu giáo hoàng kế tiếp có dám tiến thêm bước nữa không?
Một thần học của Dân Chúa
Giáo hội mà Đức Phanxicô mơ ước không phải là kim tự tháp. Đó là một thân thể sống động được tôn trọng, không chỉ có các linh mục mà còn có giáo dân đã được rửa tội, với tư cách là người đã được rửa tội, họ có thể đảm nhận trách nhiệm trong Giáo hội. Một lần nữa, đây là sự đứt gãy với truyền thống! Công đồng Vatican I, diễn ra năm 1870 trong một châu Âu đầy biến động bởi cuộc nổi dậy của các dân tộc, đã củng cố quyền lực của giáo hoàng, đặc biệt bằng cách tuyên bố tín điều “bất khả ngộ”. Công đồng Vatican II, sau Thế chiến II, khi công giáo trở thành một tôn giáo toàn cầu, đã đề cao quyền của các giám mục và nguyên tắc đồng nghị với giáo hoàng.
Và Đức Phanxicô mở ra một chu kỳ thứ ba: trách nhiệm thuộc về dân Chúa. Ngài mời gọi giáo dân cùng chia sẻ việc điều hành Giáo hội. Sau khi ngài được bầu chọn, tôi bắt đầu đọc các tài liệu và sách về Châu Mỹ Latinh quê hương của ngài, dần dần tôi hiểu rõ hơn. Ngài đến từ một nền công giáo xa trung tâm Rôma, nơi từ những năm 1960, các thần học gia Brazil, Argentina đã bắt đầu suy tư về vai trò của “dân Chúa”.
Từ đó hình thành “thần học giải phóng” nổi tiếng, từng bị Hồng y Ratzinger (sau này là Giáo hoàng Bênêđictô XVI) phản đối mạnh mẽ vì đã đưa đấu tranh giai cấp vào Giáo hội. Nhưng cũng từ suy tư đó, một hướng tiếp cận mềm hơn ra đời gọi là “thần học giáo dân”, công nhận nơi con người bình thường một sức sống nội tại, sự khôn ngoan và nguồn cảm hứng. Một cách làm mới khái niệm “cảm thức đức tin, sensus fidei fidelium” được truyền thống công giáo ghi nhận như một trực giác chung của toàn thể Dân Chúa, bắt nguồn từ thời Tân Ước.
Nhưng, để điều đó thành hiện thực, dân Chúa cần có cơ hội lên tiếng. Vì vậy, Đức Phanxicô đã quay về với tinh thần Giáo hội sơ khai, khơi dậy một truyền thống bị lãng quên: Thượng Hội đồng như một hình thức tham gia chung của cộng đoàn tín hữu. Nhờ Đức Phanxicô, người công giáo trên khắp thế giới mới thật sự hiểu synode là gì: một cuộc triệu tập rộng rãi để cùng bàn bạc, thảo luận về những vấn đề thời sự.
Giáo hội công giáo vốn có cấu trúc hình tháp, truyền thống gần như đã mất sức sống qua nhiều thế kỷ dù Công đồng Vatican II sau năm 1965 đã cố gắng phục hồi. Dưới thời Đức Gioan Phaolô II rồi Đức Bênêđíctô XVI, tôi theo dõi các Thượng Hội đồng tổ chức tại Rôma, nơi triệu tập các giám mục từ khắp nơi trên thế giới. Phải thú thật là tẻ nhạt! Những cuộc họp uể oải, nơi không có gì quan trọng được nói ra, báo chí không được phép dự, các giám mục thì chỉ im lặng chờ xem giáo hoàng phát biểu gì. Cảm giác chẳng khác nào xem phiên họp của Xô Viết Tối Cao ngày xưa, chứ không phải một hội nghị sinh động, xây dựng!
Đức Phanxicô đã tung thêm một “cú đá” nữa: ngài tạo ra tranh luận, mở cửa cho báo chí, mời gọi mọi giáo dân tham gia và cho ý kiến. Ngài đưa ra các chủ đề nhạy cảm, dễ gây tranh cãi: ly dị tái hôn, đồng tính, việc kết hôn của linh mục…
Cuộc tranh luận không hồi kết?
Thượng Hội đồng đã trở thành công cụ chính để mở ra các cuộc tranh luận trong Giáo hội, một không gian để Dân Chúa lên tiếng. Nhưng kết quả thì sao? Phần lớn các Thượng Hội đồng (về gia đình, Amazon, giới trẻ…) đều mở ra những cánh cửa. Nhưng lại không đưa ra giải pháp cụ thể nào. Dù vậy, nếu để tranh luận thì đã có tranh luận thật! Một hồng y kể lại, không gì làm Đức Phanxicô hứng thú hơn là những cuộc thảo luận sôi nổi. Trong một kỳ Thượng Hội đồng, khi tranh luận xoay quanh hôn nhân và ly dị, ngài đã cúi mình, chỉ vào tim rồi cười: “Nó đập mạnh đấy chứ, giống hệt nhịp tim này!” Đúng là mọi thứ chuyển động, nhưng không phải lúc nào cũng có hướng đi rõ ràng. Thậm chí, nhiều khi còn để lại mơ hồ.
“Nghịch lý thay, tự do ngôn luận mà Đức Phanxicô khuyến khích lại mang lợi thế cho… những người chống ngài!” Isabelle de Gaulmyn
Truyền thống của Giáo hội là khi Rôma lên tiếng, cuộc tranh luận kết thúc: “Roma locuta, causa finita. Rôma đã nói, là xong chuyện”. Nhưng dưới thời Đức Phanxicô, mọi thứ đảo ngược: Rôma lên tiếng, nhưng tranh cãi càng sôi sục. Rôma khơi mào đối thoại, rồi không kết lại điều gì… Ví dụ điển hình là chuyện đồng tính. Những phát biểu mập mờ của ngài thường xuyên mâu thuẫn với các tuyên bố cứng rắn của một số nhân vật trong Giáo triều. Vậy rốt cuộc, ngài nghĩ gì về đồng tính? Đến hôm nay, vẫn khó nói chắc, vì ngài luôn tránh đưa ra quan điểm dứt khoát về chủ đề nhạy cảm này.
Trớ trêu thay, chính sự cởi mở trong phát ngôn lại thành cơ hội cho các đối thủ công kích ngài. Như thể nắp nồi áp suất bất ngờ bật tung! Trước đây, Giáo hội luôn tìm mọi cách giữ hình ảnh thống nhất. Dù nội bộ có bất đồng, tất cả đều được giữ kín. Các nhà báo như tôi đi tìm tin tức, tìm những lời tâm sự ẩn danh của các giám mục hay hồng y. Phản đối công khai gần như không tồn tại. Nhưng từ khi Đức Phanxicô lên ngôi, mọi đòn công kích đều diễn ra công khai! Ngài mở toang cánh cửa tranh luận, và cũng trở thành mục tiêu yêu thích của cả phe bảo thủ lẫn cấp tiến.
Năm 2016, một nhóm bốn hồng y danh tiếng công khai chất vấn ngài qua văn bản dubia (“những nghi vấn”), liên quan đến tông huấn Amoris laetitia, trong đó có đề xuất những người ly dị tái hôn có thể được rước lễ sau một thời gian phân định cá nhân. Nhóm hồng y cho rằng đề xuất này “gây hoang mang, mơ hồ và làm nhiều tín hữu mất phương hướng”.
Một số giám mục Hoa Kỳ còn bị cáo buộc lên kế hoạch lật đổ giáo hoàng như nhà báo Nicolas Senèze đã tiết lộ trong quyển sách Nước Mỹ muốn thay đổi giáo hoàng như thế nào (Comment l’Amérique veut changer de pape, nxb. Bayard, 2019). Nếu vai trò giáo hoàng là gìn giữ sự hiệp nhất, thì rõ ràng dưới thời Đức Phanxicô, điều đó đã bị thử thách nghiêm trọng…
Nhưng cũng phải thừa nhận: trước ngài, vì né tránh các chủ đề nhạy cảm nên Giáo hội gần như giậm chân tại chỗ hoặc đi lui. Đức Phanxicô đã mở ra nhiều hướng đi mới. Vấn đề là ngài không để lại bản hướng dẫn sử dụng.
Cách làm này càng gây hoang mang khi giáo hoàng đề cao tính tập thể và tinh thần đồng nghị lại hành động mang tính cá nhân trong quản trị. Có lẽ vì ngài hiểu ngài sẽ không thể nào thắng được một Giáo triều vốn cứng nhắc và gần như bản chất đã chống lại thay đổi nên phải hành động dứt khoát. Cũng có thể đó là bản tính: một người quyết đoán, ít khi nhượng bộ hay lắng nghe ý kiến trái chiều. Kết quả cách ngài điều hành vừa rối rắm, đôi khi mâu thuẫn, vừa làm cho các cộng sự viên kiệt sức.
Yêu thế giới
Rõ ràng, Giáo triều Rôma không phải là điều quan trọng nhất dưới mắt ngài. Điều cốt lõi không nằm ở việc tái tổ chức Giáo hội, nhưng mở rộng cánh cửa Giáo hội ra với thế giới. Đó chính là trái tim của cuộc cách mạng mang tên Phanxicô. Với ngài, Giáo hội tồn tại là vì thế giới chứ không phải ngược lại. Nếu Giáo hội cần tiến lên, cần thay đổi, thì cũng là để sống trọn tinh thần Tin Mừng.
Văn kiện nổi bật nhất Đức Phanxicô ban hành cũng đảo ngược trật tự ưu tiên: rao giảng Tin Mừng được đặt trước giáo lý. Là kitô hữu, là sống Tin Mừng giữa đời, là chứng nhân qua hành động, chứ không phải người áp đặt quy tắc. Đó là cuộc cách mạng mang tính triệt để “Copernic” – đảo chiều hoàn toàn cách nhìn.
Từ thời Đức Phaolô VI trở đi, các giáo hoàng trước thường giữ thái độ dè chừng với thế giới. Đức Gioan Phaolô II lên án “Văn hóa sự chết”, ngài chỉ trích tự do tình dục. Đức Bênêđictô XVI nói đến “Chế độ độc tài của thuyết tương đối”. Trong quan điểm này, chỉ có Giáo hội nắm giữ chân lý, và có nhiệm vụ áp đặt chân lý đó lên thế giới.
Khi đọc các văn bản và phát biểu của Đức Phanxicô, tôi nhận ra: ngài đã “lật ngược bàn cờ”. Không còn là giáo lý soi sáng cho thế giới, mà là thế giới giúp giáo dân hiểu rõ hơn tinh thần Tin Mừng. Đức Phanxicô yêu thế giới này, theo nghĩa: thế giới càng lệch lạc, càng rối ren, thì Thiên Chúa càng yêu thương. Đó chính là “lòng thương xót của Thiên Chúa” mà ngài không ngừng nhắc đến.
Với cái nhìn này, Đức Phanxicô đã giúp Giáo hội thoát ra khỏi bế tắc của những thập kỷ trước, khi chúng ta thường xuyên tách biệt giáo lý với mục vụ, rao giảng một loạt nguyên tắc mà không quan tâm đến hoàn cảnh thực tế hay con người cụ thể. Khi tôi còn làm phóng viên tại Rôma, tôi cảm thấy Giáo hội đang trượt dần thành một hệ thống luật lệ khắt khe, đặt ranh giới rạch ròi giữa điều cấm và điều cho phép bất kể hoàn cảnh hay thời đại.
Dưới thời Đức Gioan Phaolô II và Đức Bênêđictô XVI, các bộ của Giáo triều thi nhau ban hành các văn kiện, chủ yếu xoay quanh các việc cấm đoán, đặc biệt là trong đời sống tính dục và hôn nhân. Giáo hội ngày càng giống như “trạm kiểm soát”, như chính Đức Phanxicô từng ví von: “Nơi người tín hữu phải trình đủ điều kiện mới được bước vào. Một Giáo hội của ‘những người sạch’ giữa một thế giới nhơ bẩn.”
Nhưng Đức Phanxicô chấp nhận sự phức tạp của con người và của cuộc sống. Ngài đặt Giáo hội cùng ngồi trên con thuyền thế giới với cả những lỗi lầm, những giới hạn, nhưng cũng với biết bao vẻ đẹp và tiềm năng. Ngài không tách rời giáo lý khỏi đời sống. Và chính điều đó đã giúp Giáo hội thoát ra khỏi lối mòn bế tắc.
Tin Mừng là để giúp con người sống tốt hơn, không phải để xét đoán. Đó là ý nghĩa thực sự của câu nói đã đi vào lịch sử: “Tôi là ai mà dám phán xét?”, câu trả lời của Đức Phanxicô trên máy bay khi ngài trả lời câu hỏi về người đồng tính.
Cái thiêng liêng trong một mảnh gỗ
Liệu Đức Phanxicô thực sự có lựa chọn nào khác không? Câu trả lời là: không. Vì những vụ lạm dụng tình dục và tội ác nhắm vào trẻ em đã làm thay đổi tất cả. Việc phát hiện ra thảm kịch đó, những vụ hiếp dâm trẻ em, những người yếu thế nhất, quý giá nhất do chính những người trong Giáo hội gây ra, đã làm cho Giáo hội không thể nào còn đứng trên con người và tự cho mình có quyền định đoạt cách sống của giáo dân.
Đức Bênêđictô XVI từng lo sợ về sự kết thúc của tôn giáo, về một thế giới không còn Thiên Chúa. Tại Paris, ở Viện Bernardins ngày 12 tháng 9 năm 2008, ngài đã lo âu: “Liệu con người có thể sống như thể Thiên Chúa không hiện diện không?” Nhưng với Đức Phanxicô, Thiên Chúa có mặt ngay trong thế giới này, và còn hiện diện trước cả Giáo hội.
Muốn gặp Thiên Chúa ư? Chúng ta đi về phía người nghèo, người bị gạt ra bên lề, người khốn khổ, yếu đuối, người sống ở vùng “ngoại vi” của xã hội. Những người di cư chính là dụ ngôn sống động của triều của ngài, bắt đầu từ chuyến đi thăm đảo Lampedusa tháng 7 năm 2013. Khi thấy ngài dâng lễ trên bàn thờ làm từ các mảnh gỗ vớt lên từ xác tàu đắm ở Địa Trung Hải, cách biệt quá xa với Đền thờ Thánh Phêrô, tôi hiểu thông điệp: cái thiêng liêng nằm trong những mảnh gỗ kia, chứ không nơi nào khác. Chính những người lang bạt, không nhà, không quốc tịch, không tiền bạc mới là những người đầu tiên được đón vào Nước Thiên Chúa.
Giáo hội của Đức Phanxicô là Giáo hội trong một thế giới đã thế tục hóa. Đức Phaolô VI đã rất lo lắng khi thấy xã hội đặt lại các nền tảng kitô giáo, và tìm cách khôi phục lại học thuyết “luật tự nhiên”, luật được cho là có giá trị phổ quát, áp dụng với mọi người. Đức Bênêđictô XVI thì bi quan về thế giới, ngài tìm cách xây dựng một cộng đồng kitô giáo thiểu số, nơi Giáo hội có lối sống và chân lý riêng của mình. Còn Đức Phanxicô thì xem việc thế tục hóa là cơ hội để làm chứng cho Tin Mừng một cách tự do hơn.
“Dĩ nhiên, chúng ta không cần chờ đến Đức Phanxicô mới nhận ra thế giới đã đổi khác. Vì chính ngài đã bắt tay vào thay đổi Giáo hội để thích nghi với thực tế mới ấy.” Isabelle de Gaulmyn
Lễ Giáng Sinh năm 2019, ngài đã nói với các hồng y: “Chúng ta đến từ một thời đại mà ranh giới rất rõ ràng một bên là thế giới kitô giáo, một bên là thế giới chưa được loan báo Tin Mừng. Nhưng bây giờ, điều đó không còn tồn tại. Ngài lưu ý: những người chưa từng nghe đến Tin Mừng không chỉ còn ở các châu lục xa xôi, mà có mặt khắp nơi nhất là trong những đô thị khổng lồ trên khắp thế giới.”
Ngài kết thúc bằng lời cầu nguyện: “Anh chị em thân mến, chúng ta không còn sống trong một kitô giáo thống trị nữa, chúng ta không còn như thế nữa! Ngày nay, chúng ta không còn là những người duy nhất tạo ra văn hóa, cũng không phải là những người đi đầu, hay được lắng nghe nhiều nhất…”
Một Giáo hội mới cho một thế kỷ mới
Đức Phanxicô vị giáo hoàng của thời thế tục? Dù sao đi nữa, Giáo hội của ngài phải cùng bước đi với con người, Giáo hội không dựng lên một pháo đài khép kín và được bảo vệ cẩn thận. Dĩ nhiên, chúng ta không cần đợi đến ngài mới nhận ra quá trình thế tục hóa và sự thay đổi hoàn toàn trong mô hình xã hội. Nhưng chính Đức Phanxicô là người đã bắt tay vào việc chuyển mình để Giáo hội đối diện với thực tế mới này.
Với tôi, Đức Phanxicô là giáo hoàng đã đưa Giáo hội ra khỏi thế kỷ 19, thời mà Giáo hội còn gắn bó sâu sắc với một văn minh châu Âu mang đậm văn hóa kitô giáo. Ngài đã đưa Giáo hội bước vào thời toàn cầu hóa. Việc ngài đến từ Nam Mỹ đã giúp ngài tránh rơi vào lối mòn tư duy của Cựu Lục địa.
Một lần nữa, không chỉ Đức Phanxicô thay đổi mà cả thế giới thay đổi theo. Cán cân dân số toàn cầu đã thay đổi. Trọng tâm của kitô giáo giờ đây không còn nằm ở châu Âu, mà đã chuyển xuống Nam bán cầu.
Trọng tâm của thế giới cũng vậy. Tại Vatican, một giám mục từng nói với tôi, Đức Phanxicô có cái nhìn “Magellan” về Giáo hội, nghĩa là cái nhìn toàn cầu, khởi đi từ Nam bán cầu. Với ngài, châu Âu không còn là nơi có thể làm hồi sinh công giáo.
Giống như với người di cư, vùng Amazon là một “dẫn chứng” khác mà Đức Phanxicô muốn đặt ở trọng tâm các quan tâm của Giáo hội. Tháng 10 năm 2019, ngài triệu tập Thượng Hội đồng Giám mục về Amazon một vùng đất rộng lớn, hội đủ mọi thách thức của thế giới ngày nay: bất bình đẳng, nghèo đói cùng cực, tài nguyên thiên nhiên bị đe dọa, bạo lực, văn hóa đa dạng. Một vị tiên tri lạ lùng, ngài đã đặt tương lai Giáo hội vào tay những miền đất xa xôi và mong manh như khu rừng khổng lồ này!
Hành trình này đầy hiểm nguy và gian nan. Nó đòi hỏi phải từ bỏ rất nhiều thứ. Giờ đây, khi Đức Phanxicô đã không còn, tôi không khỏi nghĩ: Liệu Giáo hội có đủ sức để thực hiện cú nhảy vĩ đại ấy không? Là người của thế kỷ 20, ngài vẫn giữ được cái nhìn rất lạc quan và khả năng đổi mới của kitô giáo. Nhưng ít nhất tại châu Âu, thông điệp của ngài có phần lạc lõng giữa một thể chế đang co mình lại, một cộng đồng công giáo khủng hoảng căn tính, hoang mang và mất phương hướng giữa một xã hội đã rời xa kitô giáo. Tín hữu có xu hướng bám víu vào truyền thống hơn là mở ra điều mới.
Linh mục Lombardi, cựu phát ngôn viên của Đức Bênêđíctô XVI kể với tôi: “Có một lời trách móc Đức Phanxicô thường nghe ở Vatican,” đó là ngài đã không tham dự buổi hòa nhạc long trọng do đài RAI tổ chức trong những tháng đầu triều của ngài, một buổi tối nghiêm túc, các nghệ sĩ hàng đầu trình diễn các tác phẩm kinh điển của âm nhạc châu Âu. Tối hôm đó, ai cũng có mặt, trừ ngài, ngài cho biết ngài có việc quan trọng hơn. Chiếc ghế dành cho ngài bị để trống suốt buổi trình diễn, vô tình hay có chủ đích, không ai rõ. Nhưng hình ảnh ấy đã để lại cảm giác hụt hẫng. Với một số người, đó là dấu hiệu của sự thờ ơ với văn hóa kitô giáo châu Âu, một lạnh nhạt làm họ bị sốc và mãi không quên.
Dù sao, điều đó cũng thể hiện rõ: kitô giáo nhất là tại châu Âu cần một cuộc hoán cải tận gốc, một hành trình đầy thử thách đang chờ đợi phía trước ở thế kỷ 21. Một thách thức khổng lồ nhưng Đức Phanxicô đã phác họa được những đường nét đầu tiên. Một giáo hoàng của lịch sử? Chắc chắn là vậy. Nhưng trước thách thức đó, một lần nữa, ngài không chỉ ra con đường cụ thể. Ngài chỉ mời gọi chúng ta: tiếp tục bước đi.
Têrêxa Trần Tuyết Hiền dịch
Nguồn: phanxico.vn