Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Các linh mục và tu viện tại Zimbabwe bị nạn đói đe dọa
Tổ chức bác ái Trợ giúp các Giáo hội đau khổ ở thành phố Munich, nam Đức, báo động rằng cả các linh mục và các tu sĩ trong các tu viện ở nước Zimbabwe, miền nam Phi châu, cũng đang bị nạn đói đe dọa vì đại dịch Covid-19.
Trong thông cáo công bố hôm 12/7/2021 vừa qua, Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội đau khổ cho biết trước làn sóng lây nhiễm Coronavirus hiện nay, các cộng tác viên của Giáo hội không thể canh tác và tùy thuộc những gì mà các giáo dân trong xứ chia sẻ với họ. Các giáo sĩ và các cộng đoàn dòng tu, trong hoàn cảnh hiện nay, cũng khó có thể lui tới được.
Từ đầu năm nay, đại dịch Covid-19 gia tăng hoành hành tại Zimbabwe, làm tăng thêm số người chết, trong đó có nhiều cộng tác viên của các giáo xứ: họ bị lây nhiễm khi đi săn sóc giúp đỡ những người bị lây Coronavirus. Để các nhân viên ấy có thể tiếp tục công tác, họ cần phải được trang bị các thiết bị y tế bảo hộ chống lây nhiễm.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Tổng giáo phận Tokyo đóng cửa nhà thờ vì đại dịch
Từ ngày 12/7/2021 vừa qua, vùng thủ đô Tokyo của Nhật Bản lại bị đặt trong tình trạng khẩn trương để ngăn chặn làn sóng mới của đại dịch Covid-19. Tổng giáo phận địa phương cũng quyết định tuân hành các biện pháp nghiêm ngặt để tránh lây nhiễm Coronavirus.
Thế vận Olympic sẽ tiến hành từ ngày 23/7 tới đây, tại Tokyo: các khán giả không được tham dự trực diện các cuộc tranh tài. Tổng giáo phận thủ đô Nhật Bản cũng thích ứng với tình trạng này và Đức cha Isao Kikuchi, Tổng giám mục Tokyo, đã gửi thư cho các tín hữu để thông báo: tại các thánh đường Công giáo vẫn phải tuân hành các qui định được đề ra ngày 20/6 vừa qua, theo đó, chỉ có một số hạn chế các tín hữu được tham dự các buổi lễ, phải giữ sự giãn cách, và phải đăng ký tại giáo xứ. Những người già và bệnh nhân được chuẩn chước nghĩa vụ tham dự thánh lễ Chúa nhật và cầu nguyện, cũng như tham dự các thánh lễ trực tuyến và các sinh hoạt khác của giáo xứ. Khi xưng tội và giải tội, cần có kính chắn giữa linh mục và hối nhân.
Đức Tổng giám mục Kikuchi cũng mời gọi các vận động viên và nhân viên khi đến Nhật Bản để tham dự thế vận, hãy ngưng viếng các thánh đường, với ý thức rằng nguyên tắc mà Giáo phận Tokyo tuân theo trong kỳ đại dịch này, vẫn luôn là: “đừng để mình bị lây nhiễm để khỏi làm cho người khác bị lây nhiễm”.
Chính phủ Nhật Bản đã ban hành lần thứ tư tình trạng khẩn trương cho vùng thủ đô Tokyo, từ ngày 12 tháng Bảy đến ngày 22 tháng Tám tới đây.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
22 nhà xuất bản Kitô giáo tham gia Hội chợ Sách Quốc tế ở Cairo
Trong số các gian hàng của các nhà triển lãm Kitô giáo, nổi bật là gian hàng của Đan viện Chính thống giáo Copte ở San Macario và của Trung tâm Văn hóa Phanxicô của Giáo hội Công giáo Ai Cập, giới thiệu 18 ấn phẩm mới tại Hội chợ, trong đó có một số ấn phẩm về Đức Trinh nữ Maria và các truyền thống tu đức của các Giáo hội Copte.
Sức sinh động của các Giáo hội Ai Cập trong lĩnh vực xuất bản và truyền thông
Sự sống động của các Giáo hội và các cộng đồng Giáo hội hiện diện ở Ai Cập từ lâu đã được thể hiện qua chất lượng và số lượng các sáng kiến được cổ võ bởi các tổ chức Giáo hội khác nhau trong các lĩnh vực xuất bản và truyền thông. Sự hiện diện của một số lượng đáng kể các nhà xuất bản Kitô giáo tại Hội chợ Sách Quốc tế được tổ chức ở Ai Cập khẳng định một cách hùng hồn sự sẵn sàng hành động của các nhà điều hành trong lĩnh vực này và không khuất phục trước cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực xuất bản, đang trầm trọng hơn trong những năm gần đây bởi đại dịch.
Trước đây, không gian triển lãm của Giáo hội Chính thống Copte ở Cairo đã nhiều lần tổ chức “Hội chợ sách Copte”, một sự kiện văn hóa đôi khi có sự tham gia của khoảng bốn mươi nhà xuất bản trực thuộc cộng đoàn Giáo hội bản địa.
Hội chợ được tổ chức tại Cairo đại diện cho hội chợ sách quốc tế lớn nhất và lâu đời nhất được tổ chức trong thế giới Ả-Rập. Hội chợ thường được tổ chức trong tháng 1. Năm nay, do đại dịch nên việc khánh thành trung tâm triển lãm bị hoãn lại đến ngày 30/6. (Fides 13/07/2021)
Hồng Thủy - Vatican News
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II và sự sụp đổ của Liên bang Xô
Chiều ngày 18/6/2021, tại một hội thảo trực tuyến tại Đại học Giáo hoàng Gregoriana ở Roma, đã có buổi giới thiệu cuốn sách “Gioan Phaolô II và Giáo hội Công giáo ở Liên bang Xô Viết và các nước ra đời sau sự tan rã của Liên bang Xô Viết”, được biên tập bởi nhà thần học và sử học Jan Mikrut, giáo sư tại Đại học Gregoriana, và được xuất bản bởi nhà xuất bản Gabrielli. Cuốn sách kể về câu chuyện của những năm đó, từ khi tổng bí thư Michail Gorbachev lên nắm quyền ở Mátxcơva cho đến các chuyến tông du của Đức Gioan Phaolô II tới các nước cộng hòa hậu Xô Viết. Giáo sư Mikrut đã có cuộc trò chuyện với Vatican News về đề tài này.
Tình hình của Giáo hội Công giáo ở Liên Xô
Trước hết về tình hình của người tín hữu Công giáo ở Liên Xô vào thời điểm chế độ cộng sản Xô Viết sụp đổ, giáo sư Mikrut cho biết: Tình hình của Giáo hội Công giáo ở Liên Xô mỗi nơi rất khác nhau và khó khăn nhất là sau năm 1945, khi các nước như Latvia, Lithuania, Estonia, Belarus và Ucraina được sáp nhập vào Liên bang Xô viết. Những lãnh thổ này có liên hệ lịch sử với Giáo hội Công giáo ở Ba Lan và văn hóa Ba Lan, và có một đời sống tôn giáo rất mãnh liệt, nhưng dần dần bị chính quyền Xô Viết bóp nghẹt.
Có thể nói, lãnh thổ của Liên Xô được chia thành ba dải tự do tôn giáo theo số lượng người Công giáo. Dải đầu tiên thuộc về các nước cộng hòa vùng Baltic - Lithuania, Latvia và Estonia - nơi Giáo hội có quyền tự do nhiều hơn so với phần còn lại của Liên Xô. Đặc biệt ở Lithuania có một cộng đồng Công giáo đông đảo và sống động. Ví dụ, ở Kaunas, vào thời điểm đó có một đại chủng viện được mở cửa. Một chủng viện khác ở Riga, thuộc Latvia, để đào tạo các linh mục tương lai trên khắp Liên Xô. Nhưng chúng ta đừng bị lừa dối vì điều này. Trước đây ở Kaunas có một số chủng viện với hàng trăm chủng sinh, nhưng vào thời Liên Xô chỉ còn từ 25-30. Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở Riga, nơi rất khó để có một chỗ trong chủng viện bởi vì chính quyền Xô Viết quyết định ai sẽ được nhận vào chủng viện.
Trong dải tự do tôn giáo thứ hai có các cộng đồng Công giáo mạnh mẽ như ở Belarus, Ucraina hoặc phần châu Âu của Nga. Ở đây, sau chiến tranh, ngay lập tức chủ nghĩa cộng sản gây nên những khó khăn và vào năm 1945, vị giám mục cuối cùng vẫn còn hiện diện trong các lãnh thổ này đã bị trục xuất. Những người Công giáo sau đó được chăm sóc bởi những nhóm nhỏ các linh mục; các ngài làm việc trong điều kiện rất khó khăn, vì để thực hiện bất kỳ công việc mục vụ nào họ cần có phép đặc biệt của chính quyền Xô Viết.
Phần còn lại của lãnh thổ Liên Xô thuộc về dải thứ ba, nơi các nhà thờ không được mở cửa và không có linh mục được chính thức cho phép, mặc dù có một vài vị đã thực hiện sứ mệnh của các ngài hết mức có thể và một cách âm thầm nhưng anh hùng.
Nối lại cuộc đối thoại với Nga
Với sự sụp đổ của Liên Xô và với các cuộc gặp gỡ giữa Đức Gioan-Phaolô II và tổng bí thư Mikhail Gorbachev, cuộc đối thoại với Nga được nối lại. Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã hành động để tái thiết Giáo hội trong thời hậu Xô Viết. Theo giáo sư Mikrut, tầm quan trọng của Đức Gioan-Phaolô II đối với Giáo hội ở Liên Xô được thể hiện qua các sáng kiến, tài liệu, thông điệp của ngài, nhưng cũng được thể hiện bằng các sự kiện với việc nối lại quan hệ ngoại giao giữa Vatican, Liên Xô và các nước.
Những hành động đầu tiên để tiến lại gần nhau là vào năm 1988, khi Giáo hội Chính Thống long trọng tổ chức lễ kỷ niệm một ngàn năm ngày rửa tội của vương quốc Kiev, một phái đoàn chính thức của Vatican cũng tham dự. Cùng năm, tổng bí thư Mikhail Gorbachev công bố cải cách trong đường hướng chính trị của ông. Một sự thay đổi mang tính lịch sử có liên quan đến chuyến thăm của Gorbachev tới Vatican vào ngày 1/12/1989. Đức Gioan Phaolô II đã rất xúc động trước chuyến viếng thăm này; ngài nhận thức rằng đây là một đại diện cấp cao của hệ thống Xô Viết, trong nhiều thập kỷ, theo một cách tinh tế, đã tổ chức bách hại Giáo và đời sống tôn giáo của tín hữu Công giáo trên lãnh thổ.
Trong dịp đó, ông Gorbachev tỏ ra sẵn sàng mở ra con đường cộng tác và vì vậy vào ngày 29/1/1990, một Sứ thần Tòa thánh đã được bổ nhiệm làm nhiệm vụ đặc biệt cạnh chính phủ Liên Xô. Đức tổng giám mục Francesco Colasuonno đã đến Mátxcơva vào ngày 6/5/1990. Ngài đã thăm Belarus, Ucraina, Lithuani, Latvia, các nước cộng hòa Trung Á và được đón tiếp cách hân hoan như là đại diện của Đức Giáo hoàng, và như thể Đức Giáo hoàng đang hiện diện. Đức Sứ thần cũng gặp một số giám mục vẫn còn ở Lithuani và Latvia, các linh mục hoạt động bí mật và bắt đầu đối thoại với Chính Thống giáo và sớm chuẩn bị việc bổ nhiệm các giám mục ở Lithuani, Latvia, Ucraina và các nước cộng hòa Xô Viết khác. Và sau đó là thảo luận về việc có thể thành lập hai giáo phận ở Nga - ở Mátxcơva và ở Novosibirsk - và cuối cùng vào ngày 10/5/1990, đại diện của Liên Xô tại Tòa thánh, Yury Karlov, đã được bổ nhiệm. Vào tháng 10, luật về tự do lương tâm và các tổ chức tôn giáo đã được thông qua ở Liên Xô; luật này cũng công nhận các tổ chức tôn giáo Công giáo.
Giấc mơ viếng thăm Nga
Giáo sư Mikrut cho biết, giấc mơ của Đức Gioan Phaolô II và các Giáo hoàng khác là và vẫn là, là có thể viếng thăm Nga. Đức Gioan Phaolô II đã không thể đến thăm Nga, nhưng ngài đã có thể đến thăm một số quốc gia trước đây thuộc Liên Xô. Ngài đã đến thăm Lithuani, Latvia và Estonia vào tháng 9/1993. Ngài đã đến Georgia vào năm 1999, thăm Ucraina vào năm 2001, Kazakhstan và Armenia cũng vào năm 2001, và sau đó là Azerbaijan vào năm 2002. Việc viếng thăm của Đức Giáo hoàng rất có ý nghĩa đối với những dân tộc này, sau nhiều thập kỷ bị đàn áp bởi chế độ Xô Viết, một hình thức có thể thể hiện tự do lương tâm và phẩm giá con người, bởi vì các dân tộc này theo truyền thống có liên hệ với đời sống tôn giáo. Trong số họ, những Ki-tô hữu cuối cùng đã có thể chứng tỏ đức tin của mình trước sự hiện diện của người kế vị thánh Phê-rô đã đến thăm họ. Đương nhiên, người ta cảm động trước phong cách của Đức Gioan Phaolô II, một người cầu nguyện, một người có "sự thu hút thiêng liêng" cả đối với nền văn hóa này, khác với văn hóa phương Tây nơi có sự hiện diện của chủ nghĩa duy vật. Thay vào đó, những dân tộc này, bị ngược đãi trong nhiều thập kỷ bởi các chương trình "vô thần hóa" khác nhau, đã có thể thể hiện niềm vui lớn khi trung thành với Phúc Âm và các nguyên tắc của Ki-tô giáo.
Vị Giáo hoàng hoạt động không mệt mỏi cho đại kết các Kitô hữu
Đức Gioan-Phaolô II đã thường xuyên nhắc lại, không chỉ trong những chuyến đi này, về các dân tộc đóng vai trò “cầu nối” giữa Đông và Tây. Ngài tiếp tục chính sách đại kết được các vị tiền nhiệm, đặc biệt là Đức Giáo hoàng Phaolô VI, thúc đẩy và cống hiến hết mình cho sự hiệp nhất của các Kitô hữu. Ví dụ với thông điệp Slavorum Apostoli năm 1985, hoặc tông thư Orientale lumen năm 1995 và sau đó, một cách cụ thể, vào ngày 25/5/1995, với việc ban hành thông điệp Ut Unum Sint, đặc biệt đề cập đến mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo và các Giáo hội Chính thống. Ngài đã chứng minh rằng Giáo Hội, với tư cách là một cộng đồng đức tin và một cộng đồng những người theo gương Chúa Giê-su, đang đi trên con đường đúng đắn hướng tới sự hiệp nhất của Kitô giáo.
Một dịp khác là Năm Thánh 2000, khi Đức Giáo hoàng mời các dân tộc châu Âu tham gia vào sự kiện này, không chỉ người Công giáo, mà còn cả các cộng đồng tôn giáo khác. Tại đền thờ thánh Phaolô ngoại thành và sau đó tại lễ tưởng niệm các nhân chứng đức tin của thế kỷ XX tại Đấu trường Colosseo, cũng có các đại diện của Giáo hội Chính Thống. Sau đó, có những cơ hội tái hợp khác. Chẳng hạn như chuyến viếng thăm của Đức Gioan Phaolô II khi bắt đầu triều đại giáo hoàng năm 1979 với thượng phụ Constantinople Dimitrios, hay các cuộc gặp gỡ với Giáo hội Chính Thống tại Vatican năm 1987, năm 1991 tại Thượng hội đồng giám mục châu Âu. Và sau đó, vào năm 1994, Đức Thượng phụ giáo chủ của Constantinople Bartholomew I cũng có mặt trong nghi lễ ngắm Đàng Thánh giá. Năm 1999, Đức Gioan Phaolô II viếng thăm Rumani, một quốc gia có đa số Chính thống giáo. Ngài đã đi vào lịch sử Giáo hội với tư cách là một vị Giáo hoàng hoạt động không mệt mỏi cho việc phát triển đại kết giữa các Kitô hữu.
Đau khổ của tín hữu Kazakhstan
Trong số các chuyến viếng thăm của Đức Gioan Phaolô II đến các nước hậu Xô Viết, chuyến thăm Kazakhstan năm 2001 là nổi bật nhất, cũng vì những đau khổ mà các Kitô hữu đã phải chịu đựng trong khu vực này. Tình hình ở Kazakhstan khác với các cộng đồng khác ở Trung Á. Ở Kazakhstan, tình hình có liên quan chặt chẽ với Chiến tranh thế giới thứ hai và cuộc tấn công vào Ba Lan của Đức và Liên Xô gia tăng quyền lực của Liên Xô đối với lãnh thổ Ba Lan, khiến người dân phải di dời từ các lãnh thổ giáp biên giới sang Lãnh thổ Liên Xô. Người Liên Xô không muốn những khu vực này có dân cư của các nhóm bản địa và đã di dời hàng ngàn người đến Kazakhstan và Siberia. Họ không chỉ là người Ba Lan, mà còn là người Latvia, người Lithuani, người Belarus, người Ucraina và người Đức, từ nhiều thế kỷ đã sống trên lãnh thổ Nga, được nữ hoàng Catarina II mời đến làm việc trên những vùng đất được cung cấp cho họ để canh tác. Vì lý do này, đặc biệt là ở Kazakhstan, các Kitô hữu này đã bị trục xuất. Họ không có cơ hội sống sót vì những chuyến tàu chở họ dừng lại ở thảo nguyên và buộc họ phải xuống xe ở đó, mà không có bất kỳ hình thức hỗ trợ nào. Họ đã cố gắng xây dựng những ngôi làng đầu tiên và nhiều người chết vì đói và bệnh tật.
Đức Gioan Phaolô II biết rất rõ điều này, vì ngài có một số liên hệ với các linh mục làm việc trong các lãnh thổ này. Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết và sự hình thành của các quốc gia mới cũng mang lại cho các Kitô hữu Công giáo cơ hội quay trở lại đất nước của họ. Vì lý do này, ngày 25/9/2001, ngày Đức Giáo Hoàng đến thăm đất nước, là một ngày rất quan trọng đối với những dân tộc này, những đã xa cội nguồn và lịch sử của họ. Đức Giáo hoàng biết rất rõ thảm kịch của hàng ngàn người Công giáo Ba Lan, Đức, Lithuani, Belarus, Latvia và ở Astana, ngài đã bày tỏ lòng tôn kính đặc biệt đối với hàng triệu nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản bằng cách cầu nguyện tại tượng đài tưởng nhớ những người từ các vùng khác nhau của Châu Âu đã bị trục xuất khỏi nơi này. Trong chuyến đi này, Đức Giáo hoàng muốn nhắc nhở cả thế giới về thảm kịch này của những người Công giáo châu Âu được đưa đến đây và những nạn nhân của cuộc đàn áp tôn giáo. Ngài muốn tôn vinh những người này và nhờ các phương tiện truyền thông và các nhà báo, những vấn đề này đã được thế giới biết đến và hữu ích cho cộng đồng địa phương.
Hồng Thủy - Vatican News
Đức Thánh Cha xuất viện trở về Vatican
Sau 10 ngày vào bệnh viện Gemelli để phẫu thuật đại tràng và điều trị hậu phẫu, sáng ngày 14/7 Đức Thánh Cha đã xuất viện và trở vể Vatican.
Hồng Thủy - Vatican News
Giám đốc Phòng Báo chí Toà Thánh Matteo Bruni đã xác nhận với giới báo chí tin Đức Thánh Cha xuất viện.
Ông Bruni cho biết, vào khoảng 10:30 sáng, Đức Thánh Cha đã xuất viện. “Trước khi trở về nhà trọ thánh Marta, Đức Thánh Cha đã đến đền thờ Đức Bà Cả cầu nguyện trước ảnh Đức Trinh nữ là Phần rỗi của Dân thành Roma. Ngài cảm tạ về kết quả phẫu thuật tốt đẹp và cầu nguyện cho tất cả các bệnh nhân, đặc biệt là những người ngài đã gặp trong những ngày nằm ở bệnh viện. Gần giữa trưa ngài đã về đến nhà trọ thánh Marta.
Nguồn: Vatican News tiếng Việt
ĐTC chúc mừng tân tổng quyền dòng Phanxicô
Ngày 13/7/2021 Đức Thánh Cha đã gửi điện thư chúc mừng cha Massimo Fusarelli, mới được tổng tu nghị của Dòng bầu làm Tổng Phục vụ thứ 121 của dòng Anh em Hèn mọn, quen được gọi là dòng Phanxicô. Cha Fusarelli sẽ giữ chức vụ Tổng phục vụ của Dòng đến năm 2027.
Hồng Thủy - Vatican News
Đức Thánh Cha chúc mừng và bảo đảm cầu nguyện và chúc lành cho cha tân Tổng Phục vụ, xin Chúa trợ giúp và gìn giữ cha trong khi thi hành sứ vụ. Đức Thánh Cha cũng xin thánh Phanxicô nâng đỡ, củng cố cha trong việc hướng dẫn các tu sĩ của Dòng.
Tiểu sử sơ lược
Cha Massimo Fusarelli người Ý, 58 tuổi, hiện đang là bề trên giám tỉnh tỉnh dòng Lazio và Abruzzo, và cũng là cha sở giáo xứ thánh Phanxicô ở khu vực Ripa của Roma. Cha Fusarelli nhận tu phục dòng Phanxicô ngày 28/7/1982, khấn tạm ngày 30/7/1983 và khấn trọng ngày 8/1/1989. Ngày 30/9/1089 cha được thụ phong linh mục.
Sau khi học thần học tại Đại học Giáo hoàng Antonianum ở Roma, cha học chuyên về giáo phụ tại Học viện Augustianum ở Roma. Cha đã giữ các trách vụ như linh hoạt viên mục vụ ơn gọi, đào tạo thường huấn, tổng thư ký đào tạo và học vấn từ năm 2003-2009, tổng thanh tra của tỉnh dòng Napoli và của tiến trình thống nhất các tỉnh dòng Bắc Ý.
Các tu sĩ của Dòng đã cầu nguyện cho cha tân Tổng Phục vụ và chúc cha phục vụ tốt cho Dòng và Giáo hội. Các tu sĩ cũng cảm ơn cha Michael Perry sắp mãn nhiệm, người đã lãnh đạo Dòng trong 6 năm qua với tình thân ái tuyệt vời và sự gần gũi huynh đệ.
Tổng tu nghị
Tổng tu nghị dòng Phanxicô bắt đầu từ ngày 3/7/2021 tại Học viện quốc tế thánh Lorenzo da Brindisi, với sự tham dự của 118 đại biểu đến từ các nơi trên thế giới, trong đó có cha Francesco Patton, bề trên dòng Phanxicô tại Thánh Địa và cũng là giám tỉnh dòng Phanxicô tại Trung Đông.
Chủ đề của Tổng tu nghị là “Canh tân tầm nhìn của chúng ta. Hãy đón nhận tương lai của chúng ta”, được gợi hứng từ câu Kinh Thánh “Tỉnh giấc đi… và Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi” (Ep 5,14).
Tổng tu nghị sẽ tiếp tục cho đến ngày 18/7/2021, nhằm mục đích “thăng tiến sự phong phú và đời sống của Hội Dòng, cũng như nhận biết những cách thức mà Chúa kêu gọi đổi mới và tăng trưởng trong việc phục vụ Phúc Âm”. (CSR_4993_2021)
Nguồn: Vatican News tiếng Việt
Giáo hội Cuba đồng hành với người dân trong cuộc biểu tình đòi tự do
Trước sự đàn áp bạo lực của chính phủ đối với các cuộc biểu tình ôn hoà đòi tự do của người dân, Giáo hội Cuba đã đồng hành và lên tiếng bênh vực quyền của những người biểu tình.
Ngọc Yến - Vatican News
Nguyên nhân của các cuộc biểu tình đang diễn ra khắp nơi ở Cuba, điều chưa từng có trước đây kể từ năm 1994 về mức độ và sự tham gia, là do khủng hoảng sức khoẻ và kinh tế, chính phủ không chịu nhận viện trợ từ nước ngoài.
Giáo hội Công giáo cũng đã tham gia vào các cuộc biểu tình chính đáng này. Từ Camagüey, cha Ronaldo Montes de Oca, phụ trách mục vụ về truyền thông, cho biết: cha Castor José Álvarez Defesa đã tham gia cuộc biểu tình cùng với các tín hữu và bị bắt hôm Chúa nhật vừa qua và được tự do vào ngày 12/7, với một vết thương ở đầu. Trong số những người bị bắt còn có hai nhà báo Công giáo, thành viên của hiệp hội truyền thông Signis, Manuel Rodríguez và Leonardo Manuel.
Cha Ronaldo nói: “Họ đã trả tự do cho cha Castor, nhưng nhiều người vẫn còn bị giam giữ, trong số đó có một chủng sinh ở Matanzas, và nhiều nhóm biểu tình khác. Các cuộc biểu tình diễn ra ôn hoà, trong khi đó lực lượng của chính phủ đã đàn áp bạo lực đối với đám đông”.
Cha bày tỏ: “Trong lúc này, là một linh mục, tôi có nhiệm vụ cầu nguyện nhiều, an ủi, đồng hành với những người là nạn nhân của đàn áp, họ bị tấn công, bị sách nhiễu. Nhiều người đang lo sợ, nhưng nỗi sợ hãi không thể là câu trả lời cho tình hình Cuba. Khả năng lắng nghe là cần thiết, cùng với một con đường hòa bình”.
Trong một tuyên bố, Hội đồng Giám mục Cuba viết: “Chúng tôi không thể nhắm mắt làm ngơ, như thể không có chuyện gì xảy ra, liên quan đến những sự kiện mà người dân chúng tôi đã trải qua trong những ngày gần đây”. Các Giám mục nói các ngài biết chính phủ đã cố gắng thực hiện các biện pháp để giảm bớt những khó khăn này, nhưng mọi người có quyền bày tỏ nhu cầu, mong muốn và hy vọng. Các Giám mục khẳng định rằng, điều cần thiết là mỗi người đóng góp bằng sự sáng tạo và chủ động của chính mình.
Trích lời của Đức Thánh Cha, các Giám mục nhắc lại “các cuộc khủng hoảng không thể vượt qua bằng cách đối đầu nhưng bằng sự hiểu biết lẫn nhau. Bạo lực sinh ra bạo lực, tạo ra vết thương và nuôi lòng hận thù trong tương lai mà sẽ mất nhiều thời gian để vượt qua”. Vì vậy, các vị mục tử mời gọi mọi người không lợi dụng hoàn cảnh khủng hoảng, nhưng với tinh thần thanh thản và thiện chí để lắng nghe, thấu hiểu, có thái độ khoan dung và tôn trọng, cùng nhau tìm kiếm các giải pháp công bằng và thỏa đáng.
Nguồn: Vatican News tiếng Việt
Thiên Chúa mạc khải
𝗧𝗵𝘂̛́ 𝗧𝘂̛ 𝘁𝘂𝗮̂̀𝗻 𝗫𝗩 𝗧𝗡 - 𝗡𝗮̆𝗺 𝗹𝗲̉
𝗕𝗮̀𝗶 đ𝗼̣𝗰: 𝗫𝗵 𝟯, 𝟭-𝟲. 𝟵-𝟭𝟮; 𝗠𝘁 𝟭𝟭, 𝟮𝟱-𝟮𝟳.
Đã có một thời, người ta tin rằng khi khoa học tiến bộ vượt bậc, niềm tin vào một Thiên Chúa sẽ không còn, vì khoa học chính là chỗ dựa chắc chắn cho con người. Ngẫm lại ta thấy gì? Khoa học chẳng qua khám phá những định luật đã có sẵn mà Thiên Chúa đã đặt sẵn trong lúc tạo dựng rồi. Chẳng hạn, định luật rơi trong không gian của Newton. Ông chỉ là người khám phá và áp dụng giúp ích cho nhân loại. Vì vậy, Thiên Chúa vẫn luôn muốn mạc khải cho con người, nhất là những người bé mọn. Trong bài đọc 1, Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho Mô-sê và trao cho ông sứ vụ giải phóng dân Israel ra khỏi Ai-cập, mặc dù ông thú nhận là ông chỉ là một người hèn hạ và bất tài. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu ngợi khen Cha Ngài là Chúa Tể trời đất, vì Cha Ngài đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều bí nhiệm, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.
𝟭. 𝗫𝗲𝗺
Khi ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói : “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha ; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”
𝟮. 𝗫𝗲́𝘁
Bài Tin Mừng hôm qua (Mt 11, 20-24), Đức Giê-su quở trách dân 3 thành phố ven biển hố Ga-li-lê (Kho-ra-din, Bết-xai-đa, Ca-phác-na-um), họ đã được nghe giảng dạy và chứng kiến bao phép lạ Ngài làm, thế mà lòng vẫn dững dưng không tỏ lòng sám hối. Tại sao họ không sám hối? Hôm nay, Đức Giê-su cho chúng ta biết đó là vì họ không trở thành những kẻ bé mọn.
Lời nguyện của Đức Giê-su hôm nay dâng lên Chúa Cha mạc khải cho chúng ta biết điều đó: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” Chỉ vì những dân ở 3 thành phố đó không trở thành bé mọn mà Chúa Cha ‘giấu không cho họ biết Nước Trời’. Có 2 vấn đề ta cần tìm hiểu:
+ Trước tiên, trả lời câu hỏi những người bé mọn là ai? Tiêu chuẩn nào mới gọi là kẻ bé mọn? Thưa, đó là những người mà Đức Giê-su nói đến trong 8 mối phúc: người nghèo hèn chỉ biết bám chặt vào Chúa; người hiền lành ngoan ngoãn, không chống chọi ai, biết nhịn nhục; người cam chịu đau khổ; người khao khát sống đẹp lòng Chúa; người biết thương xót người khác; người sống trong sạch trước mặt Chúa; người luôn biết giải hòa cho tha nhân; người chấp nhận chết vì đức tin. Người không là bé mọn luôn tự kiêu, ỷ vào sức mạnh chính mình, luôn cho mình là đúng…vì thế, họ dửng dưng trước lời mạc khải của Chúa.
+ Thứ đến, Lời cầu nguyện của Đức Giê-su: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời” Từ ‘giấu’ ở đây, ta không thể hiểu giấu giếm một món đồ được. Nếu hiểu đúng như thế, phần lỗi không phải của các bậc khôn ngoan, thông thái vì Chúa ‘giấu’ đi rồi các ông sao hiểu? MỘt khi Chúa cố tình ‘giấu’, đố ai mà tìm ra và hiểu được. Như thế, từ “GIẤU”, có một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là đặt những thực tại siêu hình, nằm ẩn phía sau những gì hữu hình. “Thực tại siêu hình” là những gì có thật nhưng vì siêu hình nên ta không thể thấy, nhưng nó ẩn giấu dưới những cái hữu hình, thấy được. Thiên Chúa luôn hành xử như vậy, Ngài thích dùng cái hữu hình để che lấp cái vô hình, mà con người phải cố gắng nhìn vào cái hữu hình để khám phá ra cái vô hình đang ẩn nấp bên dưới, chỉ có ai có tâm hồn bé mọn mới khám phá ra điều ấy.
𝟯. 𝗟𝗮̀𝗺
Những bậc khôn ngoan, thông thái nếu biết mặc lấy con người ‘bé mọn’ như Đức Giê-su đã nói, họ cũng nhận ra và thán phục Thiên Chúa không ngừng.
+ Isaac Newton (1643–1727), nhà sáng lập vật lý lý thuyết cổ điển: "Điều ta biết được chỉ là một giọt nước, điều ta chưa biết là cả một đại dương bao la. Những xếp đặt và hài hòa của vũ trụ chỉ có thể xuất phát từ bản vẽ của một Đấng toàn năng và toàn tri”
+ Andre-Marie Ampere (1775–1836), người khám phá ra các định luật cơ bản về điện: "Thiên Chúa vĩ đại biết bao và khoa học của chúng ta chỉ là chuyện vặt vãnh!”
+ Justus von Liebig (1803–1873), nhà hóa học lừng danh:
"Sự vĩ đại và trí khôn vô tận của Đấng Tạo Hóa sẽ chỉ được nhận thấy bởi những người cố công rút ra những ý tưởng của mình từ cuốn sách vĩ đại mà chúng ta gọi là thiên nhiên”
+ Robert Mayer (1814–1878), nhà khoa học tự nhiên (Định luật bảo tồn năng lượng): "Tôi đang dần kết thúc cuộc đời mình với sự quả quyết rằng: khoa học thật sự và triết học thật sự không là gì khác ngoài là môn dẫn nhập cho Kitô giáo”
+ Thomas A. Edison (1847–1931), nhà sáng chế nắm giữ 1200 bằng sáng chế: "Tôi tôn trọng và ngưỡng mộ tất cả các kỹ sư, đặc biệt là người kỹ sư vĩ đại nhất: Thiên Chúa”
+ Albert Einstein (1879–1955), người đặt nền cho vật lý hiện đại (Thuyết tương đối), giải Nobel 1921: "Những ai nghiêm túc nghiên cứu khoa học đều chắc một điều là trong tất cả những định luật của vũ trụ đều có bóng dáng của một thần linh siêu vượt lên trên con người và chúng ta phải cảm thấy mình thật thấp kém”.
Thiên Chúa ban cho chúng ta trí não để luôn hướng về Chân Thiên Mỹ tuyệt đối là chính Ngài, hòng hưởng phúc hoan lạc vĩnh cửu. Xin Chúa mở mắt đức tin cho chúng ta, để luôn khám phá những gì Ngài mạc khải từ cái hữu hình bên ngoài, nắm bắt và ca tụng Chúa những điều Ngài muốn nói bên trong. Sống với Chúa và cho Chúa, mang yêu thương phục vụ cho tha nhân.
@ 𝗟𝗼̛̀𝗶 𝗻𝗴𝘂𝘆𝗲̣̂𝗻:
𝙇𝙖̣𝙮 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝘾𝙝𝙪́𝙖 đ𝙖̃ 𝙙𝙪̀𝙣𝙜 𝙩𝙝𝙪̛𝙤̛̣𝙣𝙜 𝙩𝙧𝙞́ 𝙢𝙖̀ 𝙙𝙪̛̣𝙣𝙜 𝙣𝙚̂𝙣 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣, 𝙫𝙖̀ 𝙝𝙖̆̀𝙣𝙜 𝙡𝙖̂́𝙮 𝙩𝙞̀𝙣𝙝 𝙩𝙝𝙪̛𝙤̛𝙣𝙜 𝙢𝙖̀ 𝙝𝙪̛𝙤̛́𝙣𝙜 𝙙𝙖̂̃𝙣, 𝙭𝙞𝙣 𝙘𝙝𝙞𝙚̂́𝙪 𝙩𝙤𝙖̉ 𝙖́𝙣𝙝 𝙨𝙖́𝙣𝙜 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙫𝙖̀𝙤 𝙩𝙖̂𝙢 𝙝𝙤̂̀𝙣 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣, đ𝙚̂̉ 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙡𝙪𝙤̂𝙣 𝙩𝙧𝙪𝙣𝙜 𝙩𝙝𝙖̀𝙣𝙝 𝙥𝙝𝙪̣𝙣𝙜 𝙨𝙪̛̣ 𝘾𝙝𝙪́𝙖. 𝘾𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙘𝙖̂̀𝙪 𝙭𝙞𝙣 𝙣𝙝𝙤̛̀ Đ𝙪̛́𝙘 𝙂𝙞𝙚̂-𝙨𝙪 𝙆𝙞-𝙩𝙤̂, 𝘾𝙤𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙡𝙖̀ 𝙏𝙝𝙞𝙚̂𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙫𝙖̀ 𝙡𝙖̀ 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣, 𝙉𝙜𝙪̛𝙤̛̀𝙞 𝙝𝙖̆̀𝙣𝙜 𝙨𝙤̂́𝙣𝙜 𝙫𝙖̀ 𝙝𝙞𝙚̂̉𝙣 𝙩𝙧𝙞̣ 𝙘𝙪̀𝙣𝙜 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙩𝙧𝙤𝙣𝙜 𝙨𝙪̛̣ 𝙝𝙞𝙚̣̂𝙥 𝙣𝙝𝙖̂́𝙩 𝙘𝙪̉𝙖 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙏𝙝𝙖́𝙣𝙝 𝙏𝙝𝙖̂̀𝙣 đ𝙚̂́𝙣 𝙢𝙪𝙤̂𝙣 đ𝙤̛̀𝙞. 𝘼𝙢𝙚𝙣. 𝗧𝗵𝘂̛́ 𝗧𝘂̛ 𝘁𝘂𝗮̂̀𝗻 𝗫𝗩 𝗧𝗡 - 𝗡𝗮̆𝗺 𝗹𝗲̉
𝗕𝗮̀𝗶 đ𝗼̣𝗰: 𝗫𝗵 𝟯, 𝟭-𝟲. 𝟵-𝟭𝟮; 𝗠𝘁 𝟭𝟭, 𝟮𝟱-𝟮𝟳.
𝗧𝗛𝗜𝗘̂𝗡 𝗖𝗛𝗨́𝗔 𝗠𝗔̣𝗖 𝗞𝗛𝗔̉𝗜
Đã có một thời, người ta tin rằng khi khoa học tiến bộ vượt bậc, niềm tin vào một Thiên Chúa sẽ không còn, vì khoa học chính là chỗ dựa chắc chắn cho con người. Ngẫm lại ta thấy gì? Khoa học chẳng qua khám phá những định luật đã có sẵn mà Thiên Chúa đã đặt sẵn trong lúc tạo dựng rồi. Chẳng hạn, định luật rơi trong không gian của Newton. Ông chỉ là người khám phá và áp dụng giúp ích cho nhân loại. Vì vậy, Thiên Chúa vẫn luôn muốn mạc khải cho con người, nhất là những người bé mọn. Trong bài đọc 1, Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho Mô-sê và trao cho ông sứ vụ giải phóng dân Israel ra khỏi Ai-cập, mặc dù ông thú nhận là ông chỉ là một người hèn hạ và bất tài. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu ngợi khen Cha Ngài là Chúa Tể trời đất, vì Cha Ngài đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều bí nhiệm, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.
𝟭. 𝗫𝗲𝗺
Khi ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói : “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha ; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”
𝟮. 𝗫𝗲́𝘁
Bài Tin Mừng hôm qua (Mt 11, 20-24), Đức Giê-su quở trách dân 3 thành phố ven biển hố Ga-li-lê (Kho-ra-din, Bết-xai-đa, Ca-phác-na-um), họ đã được nghe giảng dạy và chứng kiến bao phép lạ Ngài làm, thế mà lòng vẫn dững dưng không tỏ lòng sám hối. Tại sao họ không sám hối? Hôm nay, Đức Giê-su cho chúng ta biết đó là vì họ không trở thành những kẻ bé mọn.
Lời nguyện của Đức Giê-su hôm nay dâng lên Chúa Cha mạc khải cho chúng ta biết điều đó: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” Chỉ vì những dân ở 3 thành phố đó không trở thành bé mọn mà Chúa Cha ‘giấu không cho họ biết Nước Trời’. Có 2 vấn đề ta cần tìm hiểu:
+ Trước tiên, trả lời câu hỏi những người bé mọn là ai? Tiêu chuẩn nào mới gọi là kẻ bé mọn? Thưa, đó là những người mà Đức Giê-su nói đến trong 8 mối phúc: người nghèo hèn chỉ biết bám chặt vào Chúa; người hiền lành ngoan ngoãn, không chống chọi ai, biết nhịn nhục; người cam chịu đau khổ; người khao khát sống đẹp lòng Chúa; người biết thương xót người khác; người sống trong sạch trước mặt Chúa; người luôn biết giải hòa cho tha nhân; người chấp nhận chết vì đức tin. Người không là bé mọn luôn tự kiêu, ỷ vào sức mạnh chính mình, luôn cho mình là đúng…vì thế, họ dửng dưng trước lời mạc khải của Chúa.
+ Thứ đến, Lời cầu nguyện của Đức Giê-su: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời” Từ ‘giấu’ ở đây, ta không thể hiểu giấu giếm một món đồ được. Nếu hiểu đúng như thế, phần lỗi không phải của các bậc khôn ngoan, thông thái vì Chúa ‘giấu’ đi rồi các ông sao hiểu? MỘt khi Chúa cố tình ‘giấu’, đố ai mà tìm ra và hiểu được. Như thế, từ “GIẤU”, có một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là đặt những thực tại siêu hình, nằm ẩn phía sau những gì hữu hình. “Thực tại siêu hình” là những gì có thật nhưng vì siêu hình nên ta không thể thấy, nhưng nó ẩn giấu dưới những cái hữu hình, thấy được. Thiên Chúa luôn hành xử như vậy, Ngài thích dùng cái hữu hình để che lấp cái vô hình, mà con người phải cố gắng nhìn vào cái hữu hình để khám phá ra cái vô hình đang ẩn nấp bên dưới, chỉ có ai có tâm hồn bé mọn mới khám phá ra điều ấy.
𝟯. 𝗟𝗮̀𝗺
Những bậc khôn ngoan, thông thái nếu biết mặc lấy con người ‘bé mọn’ như Đức Giê-su đã nói, họ cũng nhận ra và thán phục Thiên Chúa không ngừng.
+ Isaac Newton (1643–1727), nhà sáng lập vật lý lý thuyết cổ điển: "Điều ta biết được chỉ là một giọt nước, điều ta chưa biết là cả một đại dương bao la. Những xếp đặt và hài hòa của vũ trụ chỉ có thể xuất phát từ bản vẽ của một Đấng toàn năng và toàn tri”
+ Andre-Marie Ampere (1775–1836), người khám phá ra các định luật cơ bản về điện: "Thiên Chúa vĩ đại biết bao và khoa học của chúng ta chỉ là chuyện vặt vãnh!”
+ Justus von Liebig (1803–1873), nhà hóa học lừng danh:
"Sự vĩ đại và trí khôn vô tận của Đấng Tạo Hóa sẽ chỉ được nhận thấy bởi những người cố công rút ra những ý tưởng của mình từ cuốn sách vĩ đại mà chúng ta gọi là thiên nhiên”
+ Robert Mayer (1814–1878), nhà khoa học tự nhiên (Định luật bảo tồn năng lượng): "Tôi đang dần kết thúc cuộc đời mình với sự quả quyết rằng: khoa học thật sự và triết học thật sự không là gì khác ngoài là môn dẫn nhập cho Kitô giáo”
+ Thomas A. Edison (1847–1931), nhà sáng chế nắm giữ 1200 bằng sáng chế: "Tôi tôn trọng và ngưỡng mộ tất cả các kỹ sư, đặc biệt là người kỹ sư vĩ đại nhất: Thiên Chúa”
+ Albert Einstein (1879–1955), người đặt nền cho vật lý hiện đại (Thuyết tương đối), giải Nobel 1921: "Những ai nghiêm túc nghiên cứu khoa học đều chắc một điều là trong tất cả những định luật của vũ trụ đều có bóng dáng của một thần linh siêu vượt lên trên con người và chúng ta phải cảm thấy mình thật thấp kém”.
Thiên Chúa ban cho chúng ta trí não để luôn hướng về Chân Thiên Mỹ tuyệt đối là chính Ngài, hòng hưởng phúc hoan lạc vĩnh cửu. Xin Chúa mở mắt đức tin cho chúng ta, để luôn khám phá những gì Ngài mạc khải từ cái hữu hình bên ngoài, nắm bắt và ca tụng Chúa những điều Ngài muốn nói bên trong. Sống với Chúa và cho Chúa, mang yêu thương phục vụ cho tha nhân.
@ 𝗟𝗼̛̀𝗶 𝗻𝗴𝘂𝘆𝗲̣̂𝗻:
𝙇𝙖̣𝙮 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝘾𝙝𝙪́𝙖 đ𝙖̃ 𝙙𝙪̀𝙣𝙜 𝙩𝙝𝙪̛𝙤̛̣𝙣𝙜 𝙩𝙧𝙞́ 𝙢𝙖̀ 𝙙𝙪̛̣𝙣𝙜 𝙣𝙚̂𝙣 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣, 𝙫𝙖̀ 𝙝𝙖̆̀𝙣𝙜 𝙡𝙖̂́𝙮 𝙩𝙞̀𝙣𝙝 𝙩𝙝𝙪̛𝙤̛𝙣𝙜 𝙢𝙖̀ 𝙝𝙪̛𝙤̛́𝙣𝙜 𝙙𝙖̂̃𝙣, 𝙭𝙞𝙣 𝙘𝙝𝙞𝙚̂́𝙪 𝙩𝙤𝙖̉ 𝙖́𝙣𝙝 𝙨𝙖́𝙣𝙜 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙫𝙖̀𝙤 𝙩𝙖̂𝙢 𝙝𝙤̂̀𝙣 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣, đ𝙚̂̉ 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙡𝙪𝙤̂𝙣 𝙩𝙧𝙪𝙣𝙜 𝙩𝙝𝙖̀𝙣𝙝 𝙥𝙝𝙪̣𝙣𝙜 𝙨𝙪̛̣ 𝘾𝙝𝙪́𝙖. 𝘾𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙘𝙖̂̀𝙪 𝙭𝙞𝙣 𝙣𝙝𝙤̛̀ Đ𝙪̛́𝙘 𝙂𝙞𝙚̂-𝙨𝙪 𝙆𝙞-𝙩𝙤̂, 𝘾𝙤𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙡𝙖̀ 𝙏𝙝𝙞𝙚̂𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙫𝙖̀ 𝙡𝙖̀ 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣, 𝙉𝙜𝙪̛𝙤̛̀𝙞 𝙝𝙖̆̀𝙣𝙜 𝙨𝙤̂́𝙣𝙜 𝙫𝙖̀ 𝙝𝙞𝙚̂̉𝙣 𝙩𝙧𝙞̣ 𝙘𝙪̀𝙣𝙜 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙩𝙧𝙤𝙣𝙜 𝙨𝙪̛̣ 𝙝𝙞𝙚̣̂𝙥 𝙣𝙝𝙖̂́𝙩 𝙘𝙪̉𝙖 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙏𝙝𝙖́𝙣𝙝 𝙏𝙝𝙖̂̀𝙣 đ𝙚̂́𝙣 𝙢𝙪𝙤̂𝙣 đ𝙤̛̀𝙞. 𝘼𝙢𝙚𝙣.
Lm. Nhan Quang
Ngoại trưởng Tòa Thánh viếng thăm Bồ Đào Nha
Tuần qua, từ ngày 6 đến 8/7/2021, Ngoại trưởng Tòa Thánh, Đức Tổng giám mục Paul Gallagher, người Anh, đã viếng thăm Bồ Đào Nha, theo lời mời của Ngoại trưởng nước này, giáo sư Augusto Santos Silva.
Sau khi đến Lisboa vào ban sáng, chiều ngày 6/7, Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng đã viếng thăm nhà thờ thánh Antôn, nhà thờ chính tòa Lisboa và Đan viện Jeronimos. Ban tối ngài đã gặp Đức Hồng y Manuel do Nascimento Clemente, Thượng phụ thành Lisboa, cùng với Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Bồ Đào Nha José Ornelas Carvalho, các linh mục dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu, và Đức cha Chủ tịch Ủy Ban Công lý và Hòa bình của Giáo hội địa phương. Cuộc thảo luận xoay quanh tình trạng pháp lý và mục vụ của Giáo hội Bồ cũng như tình hình đất nước này.
Thứ Tư, 7/7 được dành cho các cuộc tiếp xúc với Ngoại trưởng Bồ Đào Nha, và đặc biệt thảo luận về tương quan giữa Giáo hội Công giáo và Nhà nước Bồ, sự cộng tác với nhiều thành quả giữa hai bên trong lãnh vực xã hội, đặc biệt trong cuộc khủng hoảng y tế vì đại dịch hiện nay, và sự cộng tác trong lãnh vực đại học. Các vị cũng đặc biệt bàn tới Ngày Quốc tế Giới trẻ cấp hoàn vũ sẽ diễn ra tại Lisboa, vào năm 2023 tới đây.
Trong số các vấn đề chính trị được đề cập đến trong cuộc gặp gỡ, có những biến cố quan trọng trong sáu tháng vừa qua, khi Bồ Đào Nha làm Chủ tịch Hội đồng Liên hiệp Âu châu, cũng như vấn đề di dân. Thêm vào đó là tình trạng tại nhiều nước Phi châu, Mỹ Latinh và Á châu.
Ban chiều ngày 7/7, Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng Tòa Thánh đã viếng thăm Trung tâm Thánh Mẫu Bồ Đào Nha để tôn kính Đức Mẹ và đọc kinh Mân côi. Ngài được Đức Hồng y António dos Santos Marto, Giám mục giáo phận Leiria-Fatima sở tại, đón tiếp và hướng dẫn viếng thăm toàn bộ Trung tâm Thánh Mẫu.
Thứ Năm 8/7, Đức Tổng giám mục Gallagher đã trở về Vatican.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Cha Di Noto phê bình luật yếu ớt của Âu châu chống nạn dâm ô trẻ em
Linh mục Fortunato Di Noto phê bình qui luật yếu ớt và thiếu can đảm, mới được Nghị viện Âu châu thông qua trong việc bảo vệ trẻ em chống nạn dâm ô và lạm dụng trên mạng.
Hôm 5/7/2021 vừa qua, với 537 phiếu thuận, 133 phiếu chống và 24 phiếu trắng, Nghị viện Âu châu đã thông qua qui luật mới bảo vệ các trẻ vị thành niên chống lại nạn khai thác tình dục, khi người ta sử dụng các dịch vụ Webmail, chat và gửi sứ điệp ngắn.
Tệ nạn này càng lan tràn trong 18 tháng đại dịch: mức độ các tội ác lạm dụng trẻ em trên mạng gia tăng lên 77%, như phúc trình mới nhất của tổ chức “Internet Watch”, theo dõi 132.730 trang mạng có những hình ảnh lạm dụng tính dục trẻ em.
Cha Di Noto là tiếng nói duy nhất lên tiếng phê bình qui luật mới của Nghị viện Âu châu, theo đó nghị viện này đã dành ưu tiên cho việc bảo vệ quyền có đời sống riêng tư của người sử dụng mạng hơn là bảo vệ các trẻ em.
Cha Fortunato Di Noto, năm nay 58 tuổi (1963), cha sở giáo xứ Đức Mẹ Camêlô ở thành phố Ávola, giáo phận Siracusa trên đảo Sicilia, nam Italia. Cách đây 32 năm (1989), cha đã sáng lập và làm chủ tịch Hiệp hội Meter, chuyên bài trừ nạn loạn dục trẻ em và bảo vệ trẻ thơ tại Italia cũng như tại các nơi trên thế giới. Đức Thánh cha Phanxicô nhiều lần lên tiếng cám ơn và khích lệ cha Di Noto trong công tác này.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, truyền đi hôm 10/7 vừa qua, cha Di Noto gọi luật mới của Nghị viện Âu châu là “Một sự bỏ lỡ cơ hội. Một sự chế giễu các nạn nhân. Luật mới cho phép những người cung cấp các dịch vụ internet, theo tiêu chuẩn tự nguyện, chống lại sự hiện diện của các hình ảnh, tài liệu dâm ô trẻ em trên mạng, gỡ bỏ và tố giác với nhà chức trách có thẩm quyền sự hiện diện của các tài liệu ấy, nhưng phải hết sức tôn trọng quyền có đời sống riêng tư (privacy) của những người xử dụng mạng”. Cha Di Noto nói: “với qui luật như thế, rốt cuộc người ta ngăn chặn một phần quan trọng trong cuộc điều tra và các hoạt động truy nã những người phạm tội ác trên mạng”.
Cha Di Noto gọi luật mới của Nghị viện Âu châu về vấn đề này là “một quyết định thiếu can đảm, một sự thỏa hiệp không thể chấp nhận được, yếu ớt và mờ ảo, thiếu sự táo bạo”.
Cha nhận xét rằng những hình ảnh dâm ô, lạm dụng tính dục trẻ em, từ 40 đến 44% là do chính những kẻ trực tiếp lạm dụng tính dục các em, rồi thương mại hóa các hình ảnh ấy. Vì thế, qui luật mới của Nghị viện Âu châu không để ý tới sự trầm trọng của vấn đề. Đây là “một tai ương hoàn cầu”, như Đức Thánh cha Phanxicô đã tố giác trong buổi tiếp kiến các thành viên hội Meter, hôm 15/5 vừa qua, tại Vatican.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu