Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Kỷ niệm 25 năm Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời
Thứ Hai, ngày 05/9 kỷ niệm 25 năm ngày mất của Mẹ Têrêsa Calcutta (1910-1997), đấng sáng lập Dòng Thừa sai Bác ái, một biểu tượng của một cuộc đời hiến dâng hoàn toàn vì Tin Mừng để phục vụ những người nghèo nhất trong số những người nghèo ở Ấn Độ. Mẹ Têrêsa là một phụ nữ, với lòng bác ái, đã vượt qua những biên giới bất khả thi. Mẹ đã được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong chân phước vào năm 2003 và Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên thánh vào năm 2016.
Trong thư ngỏ nhân dịp này, Dòng Thừa sai Bác ái cho biết, ngày nay qua các hoạt động âm thầm của các nữ tu trong chiếc áo sari trắng viền xanh, chứng tá của Mẹ vẫn còn sống động ở những vùng ngoại vi bị lãng quên nhất của mọi lục địa.
Trong thư, sơ Mary Joseph, bề trên Dòng Thừa sai Bác ái cho biết, Hội dòng kỷ niệm ngày quan trọng này theo cách mà có lẽ chính Mẹ Têrêsa cũng muốn. Đó là ở khắp thế giới, các nữ tu của Mẹ vẫn tiếp tục tìm kiếm những người nghèo nhất trong số những người nghèo trên đường phố, trong nhà ga… bất cứ nơi nào họ cô đơn và bị bỏ rơi.
Sơ Mary giải thích thêm, cụ thể ở Calcutta, Dòng có hai cộng đoàn, mỗi cộng đoàn gồm bốn nữ tu. Mỗi ngày, với thức ăn và các gói quần áo, các nữ tu đi ra các đường phố để gặp gỡ người nghèo. Những người bị bệnh nặng được đưa đến cộng đoàn để được chăm sóc những nhu cầu thiết yếu, như tắm rửa, thay quần áo, một bữa ăn ngon hoặc nếu cần cho họ nhập viện.
Vào ngày 05/9/2022, một trung tâm đặc biệt dành cho các trẻ em đường phố được khai trương trên phố Park ở Calcutta. Khi đến đây, các em bị lãng quên này sẽ được chăm sóc, ăn uống và học đọc viết.
Trong thư, sơ Mary giải thích: “Người nghèo luôn ở bên cạnh để chúng ta yêu thương và phục vụ họ. Dù ở Ấn Độ hay nước ngoài, chị em chúng tôi thường xuyên đến thăm các gia đình, đặc biệt là những người già và tù nhân, những người bị bỏ rơi và cô đơn nhất, mang lại hy vọng mới cho cuộc sống của họ. Viện trợ khẩn cấp cho các nạn nhân của các thảm họa thiên nhiên luôn là ưu tiên hàng đầu của chúng tôi”.
Kết thúc thư, sơ bề trên cho biết: “Mẹ Têrêsa thường nhắc nhở chúng tôi rằng chúng ta không thể làm những điều lớn lao mà chỉ làm những điều nhỏ bé với tình yêu lớn. Xin mọi người cầu nguyện cho chúng tôi để chúng tôi tiếp tục di sản của Mẹ đáng kính: Làm tất cả những gì tốt nhất có thể cho tình yêu Thiên Chúa và anh chị em chúng ta, không quan tâm đến đẳng cấp hay tín ngưỡng, tận tâm phục vụ vô điều kiện”.
Ngọc Yến - Vatican News
ĐTC với Caritas Tây Ban Nha: Không chỉ “cho” mà còn “cho chính mình
Theo Đức Thánh Cha, điều thúc đẩy sự dấn thân của Caritas không phải là đạt được chỉ tiêu đã được đề ra, nhưng là đặt mình trước những người tan vỡ và chào đón họ, mở cho họ một con đường để phục hồi, bất chấp những giới hạn của họ và của cả những thành viên Caritas. Điều quan trọng là mở lòng mình ra với Chúa và với người khác.
Về công việc dấn thân cụ thể của Caritas, Đức Thánh Cha nhắc lại sứ điệp của Chúa Giêsu, ngang qua cuộc sống và công việc của Người, rằng “cho” thôi thì chưa đủ, mà còn phải “cho đi chính mình”. Điều này có nghĩa là ngoài hành động cụ thể để giúp đỡ một người, nó còn mở ra cho họ một cánh cửa để có được cuộc sống mới.
Đức Thánh Cha trích dẫn câu chuyện của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan, khi người ta muốn tôn Người làm vua chỉ vì Người cho họ ăn bánh no nê. Chúa đề nghị chúng ta một con đường khác, là trở nên men cho vương quốc tình yêu, công lý và hoà bình. Người mời gọi chúng ta trở nên những người cung cấp cho dân chúng tấm bánh bẻ ra là chính mình, và dạy chúng ta rằng ai muốn làm lớn thì phải trở nên tôi tớ phục vụ mọi người.
Thêm vào đó, những thành viên Caritas cũng cần sống căn tính của mình là “trở nên một kênh hành động của cộng đoàn Giáo hội”. Giáo hội, với tư cách là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, kéo dài hoạt động của mình trong lịch sử. Do đó, Caritas trở nên bàn tay nối dài của Chúa Kitô khi trao ban cho những người cần đến, và đồng thời nhìn thấy Chúa Kitô nơi những đau khổ của họ. Với kênh này, nó không chỉ đơn giản là quản lý có trật tự các nguồn lực hoặc một không gian để thực hiện một trách nhiệm đòi hỏi sự nhạy bén của sứ mạng Giáo hội, nhưng trên hết, kênh này phải là một cơ hội để mọi người sống kinh nghiệm lời mời gọi của Chúa dành cho chúng ta: “Ai là người thân cận của anh? Hãy đi và làm như vậy.”
Văn Yên, SJ - Vatican News
Bài giảng đầu tiên của Đức Gioan-Phaolô I có gì đặc biệt
fr.aleteia.org, Philip Kosloski, 2022-09-03
Ngày chúa nhật 4 tháng 9, Đức Gioan-Phaolô I được phong chân phước, trong nhiệm kỳ ngắn ngủi của ngài, ngài chỉ giảng có hai lần. Và bài giảng đầu tiên của ngài bắt đầu… bằng tiếng la-tinh. Chỉ vì chỉ tại chức 33 ngày nên chắc chắn ngài ít được biết đến trong tư cách là giáo hoàng của Giáo hội công giáo. Ngài chỉ giảng hai lần, một trong lễ nhậm chức và lần thứ nhì là khi ngài ở ghế Thánh Phêrô ở Rôma. Và thật lạ lùng, ngài bắt đầu bài giảng đầu tiên của mình bằng tiếng la-tinh.
Sau vài phút, ngài chuyển sang tiếng Ý và nói: “Chúng tôi bắt đầu bài giảng này bằng tiếng la-tinh vì như chúng ta đã biết, la-tinh là ngôn ngữ chính thức của Giáo hội và là cách hiển nhiên và hiệu quả để thể hiện tính phổ quát và thống nhất của Giáo hội”. Những lời ngài nói dường như lặp lại tài liệu của Công đồng Vatican II, Sacrosanctum concilium, trong đó nêu rõ: “Luật đặc biệt vẫn còn hiệu lực, việc sử dụng ngôn ngữ la-tinh phải được duy trì trong các nghi thức la-tinh”.
Các tài liệu chính thức của Giáo hoàng thường được viết hoặc dịch sang tiếng la-tinh, nhưng các bài giảng thường dịch sang tiếng Ý hoặc tiếng địa phương (nếu giáo hoàng đang đi nước ngoài). Đó là lý do thật ngạc nhiên khi ngài giảng một đoạn bằng tiếng la-tinh trong bài giảng đầu tiên của ngài với tư cách là giáo hoàng. Tiếng la-tinh được tiếp tục dùng ở Vatican và vẫn là ngôn ngữ chính thức của Nghi thức Rôma của Giáo hội công giáo.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
“Gioan-Phaolô I”, một lựa chọn tên táo bạo
Ngày 26 tháng 8 năm 1978: hồng y Albino Luciani được bầu giáo hoàng với tên Gioan-Phaolô I
fr.aleteia.org, Mathilde de Robien, 2022-09-03
Sáng chúa nhật 4 tháng 9, Đức Phanxicô cử hành thánh lễ phong chân phước cho Đức Gioan-Phaolô I tại Quảng trường Thánh Phêrô. Ngài đã lựa tên cách táo bạo nhất: chọn một tên ghép chưa có giáo hoàng nào dùng.
“Quo nomine vis vocari?” (“Ngài muốn được gọi bằng tên gì?”). đó là câu hỏi hồng y niên trưởng Hồng y đoàn đặt ra cho tân giáo hoàng vừa được mật nghị bầu. Sau đó từ ban công vương cung thánh đường Thánh Phêrô, tên của tân giáo hoàng sẽ được công bố cho giáo dân theo công thức la-tinh nổi tiếng “Habemus papam”, Chúng ta có giáo hoàng.
Ngày 26 tháng 8 năm 1978, Đức Gioan-Phaolô I người gốc Veneto, được bầu làm giáo hoàng khi ngài 65 tuổi, ngài đã làm đảo lộn phần nào truyền thống. Kể từ giáo hoàng Landon năm 913, các giáo hoàng thường lấy tên của một trong các vị tiền nhiệm của họ. Và cũng như Đức Phanxicô năm 2013, Đức Gioan-Phaolô I đã đổi mới, ngài triệt để hơn vì ngài chọn tên ghép, lần đầu tiên trong lịch sử của Giáo hội. Một cái tên không được chọn ngẫu nhiên. Theo Đức Gioan-Phaolô I, đó là cách ngài bày tỏ lòng kính trọng với hai giáo hoàng tiền nhiệm, các Đấng của Công đồng Vatican II: Thánh Gioan XXIII và Thánh Phaolô VI.
Một ngày sau ngày bầu chọn, trong giờ Kinh Truyền Tin, Đức Gioan-Phaolô I giải thích lựa chọn bất thường này: “Kế đó là vấn đề chọn tên. Chúng tôi được yêu cầu đưa tên do chúng tôi chọn! Tôi, tôi đã nghĩ quá ít về chuyện này! Tôi có lập luận này: Giáo hoàng Gioan đã thánh hiến tôi bằng chính bàn tay của ngài tại Đền thờ Thánh Phêrô, sau đó, dù không xứng đáng, tôi kế vị ngài ở Venice trên ngôi Thánh Máccô. Sau đó, giáo hoàng Phaolô không chỉ phong tôi làm hồng y, mà vài tháng trước, trên cây cầu bắt ngang Quảng trường Thánh Máccô, ngài đã làm tôi đỏ mặt trước 20.000 người, vì ngài đã lấy dây các phép của ngài đặt lên vai tôi, chưa bao giờ tôi đỏ mặt như vậy! Thêm nữa, trong 15 năm giáo hoàng của ngài, ngài không chỉ hướng dẫn cho tôi mà cho cả thế giới thấy cách yêu thương, phục vụ, cách làm việc và đau khổ vì Giáo hội Chúa Kitô. Vì điều này, tôi đã chọn: “Tên tôi là Gioan-Phaolô”. Với đức khiêm tốn, một đức tính mà ngài lấy làm phương châm giám mục của mình, Đức Gioan-Phaolô I tiếp tục: “Tôi không có khôn ngoan từ trái tim của giáo hoàng Gioan, cũng không có sự chuẩn bị và văn hóa của giáo hoàng Phaolô. Nhưng tôi lại ở vị trí của các ngài, tôi phải cố gắng phục vụ Giáo hội”.
Một số chuyên gia thấy trong lựa chọn nháy mắt này là ở đền thánh các Thánh Gioan-Phaolô (được gọi là San Zanipolo, thu nhỏ ở Venetian của Thánh Gioan và Phaolô) nơi thống lĩnh Venice nghỉ ngơi và nơi bà Bortola Tancon, mẹ của ngài làm việc.
33 ngày triều giáo hoàng
Qua đời vì một cơn đau tim đêm 28 tháng 9 năm 1978, Đức Gioan-Phaolô I chỉ tại chức 33 ngày. Đức Gioan-Phaolô II lên kế vị tháng 10 cùng năm và dùng lại tên của vị tiền nhiệm. Ngài giải thích lựa chọn của mình trong thông điệp đầu tiên Redemptor hominis, Đấng Cứu Chuộc con người, ngày 4 tháng 3 năm 1979: “Tôi muốn mang những tên mà người tiền nhiệm Gioan-Phaolô I rất yêu quý của tôi đã chọn. Thật ra ngày 26 tháng 8 năm 1978, khi ngài tuyên bố tại Hồng y đoàn ngài muốn được gọi là Gioan-Phaolô – một tên kép chưa từng có trong lịch sử của các giáo hoàng – tôi đã thấy có lời kêu gọi hùng hồn về ân sủng trên tân giáo hoàng. Triều của ngài chỉ chưa đầy 33 ngày, tôi không chỉ tiếp tục, mà theo một cách nào đó, tôi nối tiếp ở cùng một điểm xuất phát.”
Tuy nhiên, triều giáo hoàng ngắn ngủi của giáo hoàng Gioan-Phaolô I là dịp để có những tiến triển đáng kể: từ bỏ “chúng ta” danh từ uy nghiêm được dùng cho đến lúc đó; từ bỏ mũ miện giáo hoàng, ngài đã từ chối khi lên ngôi. Chi tiết nổi bật nhất là nụ cười của ngài, làm ngài có biệt danh “giáo hoàng mỉm cười”.
Ngày 13 tháng 10 năm 2021, Đức Phanxicô đã phê chuẩn một sắc lệnh của Bộ Phong thánh công nhận phép lạ xảy ra ngày 23 tháng 7 năm 2011 tại Buenos Aires, Argentina, em Candela 11 tuổi được cho là đã bình phục một cách khó hiểu sau khi bị đau “viêm não cấp tính, động kinh ác tính và sốc nhiễm trùng không chữa được”, sau vài tháng điều tra tại bệnh viện và khi bác sĩ cho biết em khó qua khỏi.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Bác sĩ “cấm” Đức Thánh cha đi Kiev hoặc Mascơva
Trong cuộc phỏng vấn độc quyền dành cho Đài truyền hình CNN Bồ Đào Nha, Đức Thánh cha Phanxicô cho biết hiện thời bác sĩ “cấm” ngài đi Kiev hoặc Mascơva, nhưng ngài cam kết làm tất cả những gì có thể để giúp chấm dứt chiến tranh tại Ucraina, và giữ liên lạc với cả Tổng thống Zelensky lẫn Putin.
Trọn cuộc phỏng vấn được phát tối thứ Hai, ngày 05 tháng Chín, nhưng một vài đoạn được phổ biến trước cho giới báo chí. Ngài nói: “Cuộc viếng thăm đã được nói tới và tôi cũng mong muốn, nhưng tôi không biết được khi nào. Tôi sẽ nói chuyện với hai vị tổng thống. Ngày mai, tôi sẽ nói chuyện với Tổng thống Zelensky. Chúng ta hãy chờ đợi xem!”
Đức Giáo hoàng nhìn nhận con đường đối thoại “thật là khó khăn” về cuộc chiến tranh hiện nay, nhưng ngài cho biết chắc sẽ không thực hiện cuộc viếng thăm nào khác cho đến chuyến đi Kazakhstan, dự kiến từ ngày 13 đến 15 tháng Chín tới đây. Đức Thánh cha nói: “Bây giờ tôi không thể đi vì sau chuyến viếng thăm Canada, việc phục hồi đầu gối của tôi bị ảnh hưởng một chút và bác sĩ cấm tôi: “Đức Thánh cha không thể đi Kazakhstan”. Nhưng tôi đang giữ liên lạc bằng điện thoại, và tôi đang làm những gì tôi có thể. Tôi xin mỗi người hãy làm những gì họ có thể. Tôi đồng hành với sự đau đớn của tôi cùng với kinh nguyện của tôi trong mọi sự. Tình trạng thực là bi thảm”.
Đức Thánh cha cũng nhắc lại rằng nhiều đại diện của Vatican cũng đã đến Kiev từ đầu chiến tranh đến giờ. “Sự hiện diện của tôi thật là mạnh”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Tổ chức Renovabis kêu gọi cải tiến công nhân di dân
Đại hội thường niên của tổ chức bác ái Renovabis thuộc Hội đồng Giám mục Đức, kêu gọi cải tiến điều kiện làm việc của các công nhân di dân.
Renovabis là cơ quan do Hội đồng Giám mục Đức thiết lập, sau khi bức màn sắt chia cách Đông và Tây Âu bị sụp đổ. Tổ chức này tài trợ nhiều dự án phát triển và tái thiết tại các nước Đông Âu hậu cộng sản.
Khóa họp thường niên thứ 26 của Renovabis đã kết thúc hôm 01 tháng Chín vừa qua, sau hai ngày tiến hành tại thành phố Munich, nam Đức, với chủ đề: “Phải chăng là một chuyến đi để đạt tới cuộc sống tốt đẹp hơn? Những thách đố đối với việc cải tiến điều kiện làm việc của các công nhân di dân”. Tham dự khóa họp có hơn 200 chuyên gia từ 20 quốc gia.
Các tham dự viên đã bàn về các vấn đề và những cơ may do việc di cư kinh tế. Ví dụ, nếu không có các công nhân đến từ các nước Đông Âu thì các dịch vụ công cộng và kinh tế tại Đức đã bị sụp từ lâu, đặc biệt trong lĩnh vực thực phẩm, nhà hàng và điều dưỡng.
Trong một sứ điệp Video gửi các tham dự viên, Đức Tổng giám mục Heiner Koch, của giáo phận Berlin, Chủ tịch tổ chức Renovabis nhấn mạnh rằng trong vấn đề điều kiện làm việc tốt cho các công nhân di dân, các tổ chức của Giáo hội, như Caritas, có thể nêu gương. Điều này được áp dụng cho cả nước Đức lẫn các nước Đông và Trung Âu.
Linh mục Thomas Schwart, Giám đốc điều hành tổ chức Renovabis, trong diễn văn khai mạc đại hội, đã mời gọi mọi người dành một phút thinh lặng để tưởng niệm cố chủ tịch Mikhail Gorbaciov, qua đời ngày 31 tháng Tám, thọ 91 tuổi. Theo diễn giả, ông là một trong những người cha của nền hòa bình mới ở Âu châu. Ông đã muốn hoạt động cho hòa bình, nhớ đến đau khổ của vô số người trong Thế chiến thứ hai.
Cha Schwartz cũng nhắc đến cuộc viếng thăm cha thực hiện tại Ucraina hồi tháng Bảy năm nay và có ấn tượng rất mạnh vì mặc dù bị mất mát rất nhiều, nhưng họ vẫn sẵn sàng giúp đỡ các đồng bào của họ. Ngoài ra, trong thời đại dịch, phần lớn dân Đức lần đầu tiên đã ý thức rằng bao nhiêu người Đông Âu đang làm việc tại Đức trong các ngành nông nghiệp, hậu cầu, săn sóc xã hội và nhà hàng. Giả sử không có các công nhân viên ấy thì toàn bộ công nghệ của Đức đã bị sụp. Trong khi đó nhiều công dân ấy không được trả lương xứng đáng và nhiều khi bị bóc lột.
Trong bối cảnh đó, cha Schwart kêu gọi sửa chữa tình trạng bất công trên đây: trả lương xứng đáng và đối xử công bằng đối với các công nhân di dân. Theo cha, chính phủ Đức cần tài trợ cho các nước nguyên quán của các công nhân ấy và bù đắp phí tổn giáo dục cho họ. Vì dụ, nhà nghiên cứu Tado Juríc, cho biết Croát đã đầu tư 18 tỷ Euro trong việc giáo dục các công nhân, những người này sau đó đã di cư sang Đức và làm việc tại đây. Ông Juric đặt câu hỏi: tại sao nước Đức không tài trợ các trường y tá tại Croát? Lẽ ra các y tá Croát ấy phải làm việc 5 năm tại Croát trước khi di cư sang Đức làm việc.
Những yêu cầu trên đây đã được đề ra trong tuyên ngôn chung kết của Đại hội, gọi là “Lời kêu gọi từ Munich”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Công giáo Ethiopia tái kêu gọi chấm dứt chiến tranh tại Tigray
Giáo hội Công giáo tại Ethiopia tái kêu gọi chấm dứt chiến tranh tại miền Tigray, đã kéo dài từ gần hai năm nay, gây ra chết chóc và tàn phá cho đất nước.
Trong thông cáo của các giám mục Ethiopia, được Văn phòng Tổng thư ký Hội đồng Giám mục gửi cho hãng tin Fides của Bộ Truyền giảng Tin mừng để phổ biến hôm 03 tháng Chín vừa qua, các giám mục Ethiopia khẳng định rằng:
“Chúng tôi hết sức đau buồn nhận thấy chiến tranh tái bộc phát tại miền Tigray. Cho đến nay đã có quá nhiều sinh mạng và tài sản bị phá hủy. Đặc biệt những vết thương lớn nhất là của các trẻ em, phụ nữ và người già.”
Các giám mục Ethiopia cũng nhấn mạnh rằng các giám mục, riêng hoặc trong tư cách Hội đồng, cùng với các dòng tu, góp phần vào tiến trình đối thoại để mang lại hòa bình. “Chúng tôi tái tha thiết kêu gọi mọi phe, hãy từ bỏ khí giới và trở lại với giải pháp ôn hòa, dành ưu tiên cho đối thoại và chấm dứt đau khổ các công dân chúng ta”.
“Thật là điều không thể chấp nhận được nếu cứ tiếp tục cuộc chiến hiện nay, tiếp tục gây ra đói khổ, bệnh tật, những thiệt hại tâm lý, những người vô tội phải di tản, và toàn thể đất nước đang chiến đấu dưới sức ép của đời sống đắt đỏ”.
Các giám mục Công giáo Ethiopia chia sẻ lời kêu gọi hòa bình của Hội đồng liên tôn Ethiopia, đồng thời khuyến khích mọi người, Công giáo cũng như không Công giáo, hiệp nhau cầu nguyện trong năm ngày vào tháng tới đây, tháng 13, gọi là tháng Pagumen theo lịch mới của Ethiopia, cho hòa bình và sự ổn định của đất nước.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Hội nghị quốc tế kỳ III các giáo lý viên
Hội nghị quốc tế kỳ III các giáo lý viên sẽ tiến hành tại Roma, từ ngày 08 đến ngày 10 tháng Chín tới đây, về chủ đề: “Giáo lý viên, chứng nhân về đời sống mới trong Chúa Kitô”.
Hội nghị do Bộ Truyền giảng Tin mừng của Tòa Thánh tổ chức và sẽ kết thúc với buổi tiếp kiến của Đức Thánh cha.
Hội nghị sẽ bắt đầu lúc 4 giờ chiều, ngày 08 tháng Chín với bài thuyết trình khai mạc của Đức Tổng giám mục Rino Fisichella, cho đến nay là Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin mừng. Ngài cũng là vị đặc trách chuẩn bị Năm Thánh 2025 ở Roma.
Hội đồng do Đức Tổng giám mục Fisichella phụ trách đã được sáp nhập vào Bộ Truyền giảng Tin mừng, theo Tông hiến mới “Các con hãy loan báo Tin mừng” (Praedicate Evangelium), về Giáo triều Roma. Bộ này do chính Đức Thánh cha làm Tổng trưởng và có hai phân bộ: một phụ trách các xứ truyền giáo, và một lo về việc loan báo Tin mừng tại các nước Kitô lâu đời. Cho đến nay, chưa thấy Đức Thánh cha bổ nhiệm các chức sắc cho Bộ này.
Trong chương trình đại hội về giáo lý viên sắp tới, trong ba ngày họp, ngoài các bài thuyết trình còn có các cuộc thảo luận nhóm theo các ngôn ngữ về những khía cạnh khác nhau của việc huấn giáo. Trong bối cảnh thừa tác vụ giáo lý viên mới được Đức Thánh cha Phanxicô thiết lập chính thức, hồi năm 2019, Hội nghị này sẽ giúp đào sâu hơn thừa tác vụ này trong Giáo hội ngày nay.
Hãng tin Ecclesia của Công giáo Bồ Đào Nha cho biết Phân bộ huấn giáo thuộc Hội đồng Giám mục Bồ sẽ gửi một phái đoàn đến tham dự Đại hội giáo lý viên ở Roma. Hội nghị này nối tiếp hai hội nghị trước đây tại Vatican hồi năm 2013 và 2018, về phần thứ I và phần thứ II trong Sách Giáo Lý của Giáo hội Công giáo.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
80 giám mục xứ truyền giáo dự khóa huấn luyện tại Roma
Khoảng 80 giám mục tại các xứ truyền giáo, được bổ nhiệm trong những năm gần đây, sẽ tham dự khóa bồi dưỡng, tại Roma, do Bộ Loan báo Tin mừng tổ chức, từ ngày 05 đến ngày 17 tháng Chín tới đây, tại Học viện thánh Phaolô Tông Đồ.
Học viện này bình thường có khoảng 190 linh mục tại các miền truyền giáo trên thế giới.
Đức Hồng y Bộ trưởng Luis Antonio Tagle sẽ chủ sự thánh lễ đồng tế khai mạc, và thánh lễ kết thúc sẽ diễn ra ngày 17 tháng Chín tại Đền thờ thánh Phêrô, sau đó sẽ có buổi tiếp kiến của Đức Thánh cha.
Thói quen tổ chức các khóa bồi dưỡng này bắt đầu từ năm 1994, với mục đích giúp các giám mục mới được bổ nhiệm coi sóc các giáo phận ở các xứ truyền giáo suy tư, đào sâu cuộc sống và sứ vụ giám mục, đối thoại và cầu nguyện.
Thuyết trình viên trong khóa bồi dưỡng thường là các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh và các chuyên gia.
Chương trình mỗi ngày gồm có ba bài thuyết trình, kèm theo phần trao đổi và trao đổi trong các nhóm nhỏ, không kể thánh lễ và kinh nguyện chung. Có tám đề tài cơ bản trong khóa bồi dưỡng như:
Tương quan giữa giám mục giáo phận và Bộ Loan báo Tin mừng: có hai ngày học hỏi, mở đầu với bài của Đức Tổng giám mục Protase Rugambwa, Tổng thư ký Bộ Loan báo Tin mừng, về việc phục vụ của Bộ đối với các giáo phận mới”. Tiếp đến là bài của Đức Tổng giám mục Giampietro Dal Toso, Đồng Tổng thư ký của Bộ, kiêm Chủ tịch các Hội Giáo hoàng truyền giáo, trình bày về các hội này, cơ cấu, thẩm quyền và hoạt động.
Đề tài thứ hai là “Giáo triều Roma”, sẽ được Đức cha Marco Mellino, trình bày ngày 07 tháng Chín. Ngài là Tổng thư ký Hội đồng Hồng y Cố vấn của Đức Thánh cha, đã góp phần vào việc soạn thảo Tông hiến “Các con hãy loan báo Tin mừng” về Giáo triều Roma. Tiếp đến, Đức Tổng giám mục Paul Gallagher, Ngoại trưởng Tòa Thánh nói về mối quan hệ với các chính phủ địa phương.
Có hai ngày được dành để đào sâu việc loan báo Tin mừng, mùng 08 và 09 tháng Chín, bàn đến việc loan truyền đức tin, sử dụng các phương tiện truyền thông, đối thoại đại kết và liên tôn, các tổ chức giáo dục, hoạt động từ thiện bác ái, Giám mục đoàn. Thuyết trình về các vấn đề này, có Đức Tổng giám mục Rino Fisichella, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin mừng, Đức Tổng giám mục Angelo Zani, Tổng thư ký Bộ Giáo dục Công giáo, và Đức Hồng y Luis Ladaria Ferrer, Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin.
Đề tài phụng vụ sẽ được Đức Hồng y Arthur Roche, Tổng trưởng Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích trình bày, ngày 10 tháng Chín. Chúa nhật, 11 tháng Chín, các giám mục sẽ có một ngày tĩnh tâm ở Castel Gandolfo, do Đức Hồng y Raniero Cantalamessa giảng thuyết.
Những ngày sau đó sẽ đề cập đến vấn đề giáo sĩ, trong đó có việc bài trừ nạn lạm dụng trẻ vị thành niên. Vấn đề các cơ cấu của giáo phận, chủng viện, đời sống thánh hiến, và giáo dân với các chuyên gia và các vị hữu trách của các bộ liên hệ.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Giám mục Coira cho mở cuộc điều tra về một phụ nữ đồng tế thánh lễ
Đức cha Joseph Maria Bonnemain, Giám mục giáo phận Coira bên Thụy Sĩ, đã cho mở cuộc điều tra sơ khởi theo giáo luật, về một nữ tín hữu “đồng tế thánh lễ” và cũng đọc các phần Kinh nguyện Thánh Thể.
Bà Monica Schmid, 65 tuổi, cho đến thời gian gần đây đã đảm trách cộng đoàn giáo xứ St. Martin ở Illnau-Effretikon, gần thành phố Zurich. Ngày 28 tháng Tám vừa qua, trong thánh lễ từ biệt nhiệm vụ, trước khi về hưu, bà đã đồng tế thánh lễ, mặc áo đời, đứng tại bàn thờ cạnh linh mục chủ tế và cũng hành động như một linh mục đồng tế, đọc chung Kinh nguyện Thánh Thể, với lời truyền phép.
Video về vụ này được phổ biến rộng rãi trong dư luận. Có những người ca ngợi sự “can đảm” của bà Monica, nhưng cũng có người phản đối và kêu gọi các vị lãnh đạo xử lý.
Trong thông cáo công bố hôm 02 tháng Chín, Đức cha Bonnemain, Giám mục giáo phận Coira sở tại, nói rằng: “Do tầm quan trọng của những vụ này, tôi ý thức và không có biện pháp này. Trong trường hợp như thế, cần phải áp dụng cẩn thận các thủ tục thẩm đỉnh. Sự phức tạp của những vụ lạm dụng phụng vụ đòi phải có cuộc điều tra sơ khởi theo giáo luật.”
Kết quả cuộc điều tra này sẽ được dùng làm nền tảng cho những hành động kế tiếp. Nếu được xác định đó là tội nặng thì vụ này sẽ được gửi về Bộ Giáo lý đức tin để xét xử.
Tội này có thể xếp vào tội nặng, như trường hợp những người không có thánh chức cử hành thánh lễ, như Giáo luật số 1378, triệt 2, số 1. Việc xét xử tội này thuộc thẩm quyền của Bộ Giáo lý đức tin.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu