Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tổng giám mục Pierre d’Ornellas: “Tôi mơ Đức Phanxicô sẽ mời Tổng thống Macron đến thăm một đơn vị chăm sóc xoa dịu”
Tổng thống Emmanuel Macron sẽ đến Rôma ngày 23 và 24 tháng 10, tổng giám mục giáo phận Rennes, người đứng đầu Ủy ban đạo đức sinh học của Hội đồng Giám mục Pháp, hy vọng chủ đề về cuối đời sẽ thảo luận khi Đức Phanxicô tiếp tổng thống Emmanuel Macron.
lavie.fr, Marie-Lucile Kubacki, Rôma, 2022-10-21
Tổng giám mục D’Ornellas
Trong chuyến hành hương Rôma với phái đoàn giáo phận từ ngày 17 đến ngày 22 tháng 10, tổng giám mục Pierre d’Ornellas, giáo phận Rennes, người đứng đầu Ủy ban đạo đức sinh học của Hội đồng Giám mục Pháp (CEF) đã có vài lời với Đức Phanxicô cuối buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư 19 tháng 10 về đại hội công dân và cuộc tranh luận về giai đoạn cuối đời ở Pháp. Ngài nhìn lại cuộc gặp ngắn này và báo động về các vấn đề và nguy cơ thay đổi luật pháp.
Cha đã chào giáo hoàng sau buổi tiếp kiến ngày 19 tháng 10: cha có thể nói với ngài về mối quan tâm của cha về cuộc tranh luận về cuối đời sẽ mở ra ở Pháp không?
Tổng giám mục Pierre d’Ornellas: Đó là cuối buổi tiếp kiến chung khi hàng chục người sắp hàng tiếp nhau để chào ngài, vì vậy thời gian trao đổi rất ngắn. Tôi chỉ có thể nói được một câu: “Thưa Đức Thánh Cha, ở Pháp chúng tôi đang tranh luận về cuối đời, chúng tôi phải tôn trọng sự sống của mỗi người. Ngài gật đầu đồng ý và vẫy tay khích lệ. Theo tôi, ngài đã được thông báo về những gì đang xảy ra.” (Thật ra vào ngày thứ sáu 21 tháng 10, trước một nhóm dân biểu miền Bắc nước Pháp đến gặp ngài, ngài cũng đã đề cập đến việc chăm sóc xoa dịu và cảnh báo chống lại một đạo luật hợp pháp hóa an tử).
Tự tử nhờ hỗ trợ, bước ngoặt chiến lược của Vatican với đạo đức sinh học
Ngày thứ hai tổng thống sẽ gặp giáo hoàng. Cha mơ họ sẽ nói gì với nhau?
Tôi mơ thấy Đức Phanxicô và tổng thống Emmanuel Macron dành thì giờ để thảo luận về chủ đề này. Tôi mơ giáo hoàng sẽ mời tổng thống ở lại phòng chăm sóc xoa dịu, để ông có thời gian lắng nghe nhóm chăm sóc và nắm tay từng người đang ở giai đoạn cuối đời. Ông sẽ khám phá sự phong phú của nhân loại, không phải là một loại start-up khởi xướng một công trình, nhưng là một kho tàng của trí tuệ. Các nhóm chăm sóc này không có lý thuyết cao siêu nhưng trong thực tế, họ có một khôn ngoan phi thường, dù họ cũng mang trong lòng khía cạnh dễ tổn thương của mình.
Không phải dễ để tháp tùng người nào đó trong vài ngày cho đến khi họ qua đời. Nhóm chăm sóc không che giấu cảm xúc của họ, họ đón nhận, họ chấp nhận và họ cố gắng hiểu cảm xúc của chính mình, của bệnh nhân và của gia đình. Có một phẩm chất của con người nơi những chi tiết nhỏ nhất mới là quan trọng. Đó luôn là đồng hành cho cả một đời, dù đoạn đường này ngắn và khiêm hèn. Một nguyên tắc chú ý cao cả: “Tôi sẽ không bao giờ bỏ bạn.” Một ngày nọ, tôi nói câu này với một người lớn tuổi, họ nắm tay tôi, trong ánh mắt sâu thẳm, họ hỏi tôi: “Có thật không?” Khi đó tôi mời một cô trợ tá chăm sóc đến, cô lặp lại câu này với bà. Sau đó bà yên lòng, thoải mái, rất tự tin như thể cuối cùng bà hiểu mình có thể tin tưởng. Đó không phải cuộc gặp giữa một người am hiểu và người yếu đuối, nhưng giữa hai người cùng mong manh trong nét đẹp của một tình người đầy nhân ái và có ý nghĩa.
Với việc chăm sóc xoa dịu, chúng ta chạm đến nét đẹp của con người. Liệu Nhà nước có nâng đỡ nét đẹp này để tháp tùng đến cùng không? Tôi hy vọng như vậy và tôi hy vọng Đức Phanxicô, người rất nhạy cảm với văn hóa gặp gỡ, sẽ tìm ra lời để nói điều này với tổng thống Macron.
Cha nghĩ gì về cách tranh luận sẽ được tiến hành ở Pháp?
Tôi đã gặp bà Agnès Firmin Le Bodo, Bộ trưởng Y tế, và tôi nói với bà, cuộc tranh luận này nên làm theo tinh thần dân chủ, đặc biệt là khi nền dân chủ không được thực hiện tốt ở Pháp. Tuy nhiên, để cuộc tranh luận này thực sự mang tính dân chủ, những người phụ trách nó phải tính đến tất cả các khía cạnh của vấn đề, và họ không được chỉ là những người hay những thể chế (kinh tế, xã hội và môi trường…), những người làm tất cả để người khác biết mình ủng hộ an tử. Và đã làm dấy lên một mối nghi ngờ rất chính đáng.
Tôi hy vọng tất cả không phải là điều đã tính trước. Ước mong của tôi là chúng ta không chỉ có thể lắng nghe tranh luận và lý luận mà còn có thể đồng ý với nhau. Tôi nói về “đối thoại” với bà Bộ trưởng, không phải thảo luận vì nó bao gồm việc lắng nghe lẫn nhau, không tuyên bố nắm giữ sự thật, nhưng cùng nhau tiến lên phía trước để tìm ra những gì tốt nhất cho lợi ích chung của mọi người, không chỉ dành cho một nhóm nhỏ.
Và cha có cảm thấy cha được… nghe không?
Bộ trưởng nêu ra ba chủ đề. Bà nói rất nhiều về phát triển chăm sóc xoa dịu, về khủng hoảng Covid-19, và khắc phục tình trạng của những người chết một mình, không có người đi cùng. Nhưng có một điều làm tôi ngạc nhiên, bà giữ im lặng ở câu hỏi về quyền tự do cá nhân của những người yêu cầu an tử. Như thể còn điều gì đó không nói lên được, một nỗi khó chịu. Tôi rút ra kết luận, đặc biệt chúng ta phải dám nói về chủ đề này, bằng cách xem xét vấn đề đạo đức một cách sâu đậm, không chỉ theo chủ nghĩa thực dụng, cảm tính cá nhân hoặc các trường hợp cụ thể.
Những người ủng hộ an tử và tự tử nhờ hỗ trợ thường trích dẫn các trường hợp cụ thể về tình huống đau khổ tột cùng để ủng hộ lập trường của họ…
Đúng vậy. Họ tạo ảnh hưởng trên cảm xúc tập thể, điều mà cựu bộ trưởng Tư pháp Robert Badinter tố cáo. Tôi cũng biết về những trường hợp cụ thể do những người chăm sóc kể lại, họ nêu lên ví dụ của những người đến để xin được chết, họ nghe lý do xin chết, sau đó người này yên tâm khi biết mình sẽ kết thúc cuộc đời cách bình yên và mong muốn được sống trọn vẹn thời gian còn lại của mình. Chúng tôi cũng đã nghe những tình huống cụ thể này! Tôi muốn nói thêm một điểm: trong số các ví dụ thường được trích dẫn để biện minh cho an tử, nhiều người quan tâm đến những người, như bà Chantal Sébire (bị một khối u không thể chữa khỏi và phản đối việc tự tử, bà đã xin Nhà nước cho an tử năm 2008), bà từ chối chăm sóc xoa dịu.
Đức Phanxicô: “Không thể yêu cầu người chăm sóc giết bệnh nhân của họ”
Triết lý của luật chăm sóc trong xã hội chúng ta là gì?
Luật ngày 4 tháng 3 năm 2002 quy định, chính bệnh nhân là người quyết định “với” các chuyên gia y tế về việc chăm sóc. Điều này đánh dấu một bước ngoặt, theo nghĩa là sự cân bằng được tìm thấy trong mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân.
Vì “với” có nghĩa là “hợp tác trị liệu” theo công thức cao cả của triết gia Paul Ricoeur. Và sau đó là thực hành tính tập thể. Bác sĩ không còn bị cô lập, ông cùng với người khác đưa ra quyết định, không phải để áp dụng đúng quy trình pháp lý, nhưng để cùng nhau phân biệt điều gì là tốt nhất cho bệnh nhân, cho sức khỏe của họ. Đây là trách nhiệm lớn lao của những người chăm sóc.
Tôi tham dự các cuộc họp nhóm, với bác sĩ, với y tá, với ban điều hành, với người chăm sóc, đôi khi với các tuyên úy, nhà trị liệu nghệ thuật, người cắt tóc, v.v. Và cùng nhau, nhóm những người chăm sóc này tìm cách hiểu các triệu chứng, tìm những gì tốt nhất để giúp bệnh nhân cách tốt nhất. Sự phân biệt mang tính tập thể này thật đáng khâm phục! Theo tôi, qua cơ quan trung gian của những người chăm sóc, họ lần với người bệnh để người bệnh cảm thấy bình an hơn, không loại khả năng phải dùng thuốc an thần, vì đó cũng là chăm sóc. Nó có thể không liên tục và có thể đảo ngược nhưng ít khi dùng liên tục và nhiều cho đến chết.
Y học còn có nhiệm vụ hỗ trợ gia đình, giải thích và giúp đỡ. Triết lý chăm sóc này rất đáng quý trong xã hội và sẽ rất tốt cho cuộc tranh luận để xem xét tất cả những điều này, khuyến khích, bắt buộc chính phủ phải hướng tới chất lượng này, y học tập thể, với sự cộng tác của bệnh nhân. Hơn nữa, một khuyến nghị từ Hội đồng Châu Âu nói rằng chăm sóc xoa dịu là “điều cần thiết đối với y học”.
Cha nghĩ sự nguy hiểm của luật hỗ trợ tự tử là gì?
Điều này sẽ làm hỏng sự chăm sóc như tôi vừa phác thảo. Thật vậy, một trong những mối nguy hiểm lớn là dựa vào một ý tưởng sai lầm về quyền tự chủ, được cho là tuyệt đối, sẽ làm cho bác sĩ bị cho là người cung cấp dịch vụ, dù họ được đào tạo, nhưng lại là người thừa hành khi đối diện với tự do. Chúng ta đi ra khỏi “với” của luật năm 2002. Chúng ta sẽ rời triết lý đề cập ở trên, khi một cơ quan trung gian thực hiện trách nhiệm của họ theo cách tập thể, để bước vào quy trình giải trách nhiệm khi đối diện với tự do cá nhân bị bỏ lại vì quyền tự chủ của họ bị xem là vô hình.
Triết lý này là sai lầm vì con người là một thực thể quan hệ. Ngay khi chúng ta tồn tại là chúng ta đặt mình trong mối quan hệ. Nhu cầu quan hệ không phải là điểm yếu hay sự tấn công vào quyền tự chủ của chúng ta, mà ngược lại, nó đảm bảo chất lượng của chính sự tự chủ chúng ta, chúng ta sống trong sự tùy thuộc vào nhau, nơi chúng ta tôn trọng nhau để có thể lắng nghe nhau trong sự thật, trong việc thể hiện các quyền tự do của chúng ta. Tóm lại, tôi có thể thực hiện quyền tự do của mình nhiều hơn vì tôi biết tôi được nhiều người hỗ trợ. Một người yếu đuối và đặt mình vào nhóm chăm sóc sẽ không thiếu quyền tự chủ, nhưng họ đã tự do quyết định rằng sự phụ thuộc lẫn nhau là tốt cho họ. Họ đảm nhận họ cần người khác, và qua đó là sự hữu hạn của họ, là người phải chết như mọi người. Đảm nhận thực tế này là điều kiện của tự do thực sự. Nếu tôi muốn kiểm soát mọi thứ, làm chủ mọi thứ, tôi không đảm nhận thực tại người phàm của tôi và liên hệ với người khác. Tôi ở trong ảo tưởng. Chúng ta không đưa ra luật cho những chuyện viển vông!
Nhưng theo thăm dò, phần lớn người Pháp dường như ủng hộ…
Các thăm dò! Chúng ta để họ nói những gì chúng ta muốn nói. Mọi người đều rộng lượng và bao dung, và không ai thích đau khổ. Và khi hỏi họ có muốn ngừng đau khổ hay không, họ đồng ý, và điều đó đúng. Giáo hội, từ Đức Piô XII, và vào năm 1980 trong một chỉ thị của Bộ Tín Lý, quy định rằng cần phải chấm dứt việc trị liệu không ngừng và tránh đau đớn bằng thuốc giảm đau. Đó là điều hiển nhiên. Nhưng nếu người ta nói cách duy nhất để xóa đau đớn là triệt đi người bị đau, thì các cuộc thăm dò đều đồng ý. Mặt khác, nếu chúng ta nói chúng ta có khả năng xoa dịu đau khổ bằng cách đồng hành, bao bọc qua chăm sóc xoa dịu, thì mọi người sẽ ủng hộ chăm sóc xoa dịu. Câu hỏi nào người dân được hỏi trong các cuộc thăm dò này?
Tôi cũng sợ lập luận tài chính đè nặng, nó thiếu trung thực và thậm chí là phiến diện. Tại sao chúng ta không phát triển dịch vụ chăm sóc xoa dịu để mỗi khoa đều có ít nhất một đơn vị, và tất cả các viện dưỡng lão đều liên kết với một phòng khám hoặc y tá có bằng về chăm sóc xoa dịu? Khi đó chúng ta mới có thể nói đến việc chết yên lành ở Pháp, theo luật ngày 9 tháng 6 năm 1999 quy định tất cả người dân Pháp có quyền được chăm sóc xoa dịu, kể cả những người mắc các bệnh kinh niên mà sinh mạng không bị nguy hiểm. Đây là chỉ thị của báo cáo Sicard năm 2012 ghi rõ chăm sóc xoa dịu phải bắt đầu khi chăm sóc trị bệnh bắt đầu. Và đó là lỗ hổng trong Thông báo 139 của CCNE, cho rằng trong “ngắn hạn” thì chăm sóc xoa dịu là phù hợp, nhưng trong “trung hạn” thì phải an tử hay trợ tử bằng tự tử là cần thiết. Thật là vô lý!
Thường thường người công giáo bị chỉ trích vì chống an tử do “xác tín tôn giáo”…
“Chớ giết người” có trước luật tôn giáo. Đó là luật đã được viết trong lương tâm con người. Chúng ta có một ví dụ đương đại với cựu bộ trưởng Tư pháp Robert Badinter. Ông phản đối án tử hình, khi đa số người dân Pháp còn ủng hộ, và ông không ngừng bày tỏ sự phản đối của mình với an tử. Triết gia Paul Ricoeur đã dành thời gian suy ngẫm để cuối cùng nhận ra, từ quan điểm đạo đức, chúng ta không thể thực hành an tử. Ông hiểu con đường đạo đức xứng đáng với lý trí: “Sống cho đến chết” không phải bằng cách bất chấp tất cả để sống sót, nhưng qua một dự án cuộc đời, dù ngắn ngủi và nhờ vào mối quan hệ.
Chúng ta không thể ép đồng loại của mình thực hiện một hành động chết với mình. Một tổ chức con người không thể tổ chức việc viết toa chết cho người đang sống. Đó là một vấn đề của lý trí. Triết gia Emmanuel Levinas giới thiệu quyển sách của Renée Sebag-Lanoë về chăm sóc xoa dịu. “Khuôn mặt” của người khác, qua tính khác biệt và tính siêu việt của nó, thể hiện “chớ giết người” trước mọi luật lệ tôn giáo nào. Qua nhiều thế kỷ, chúng ta đã có được những tiến bộ đáng kể trong việc đi đến kết luận, mỗi con người đều có phẩm giá bất khả xâm phạm, nhưng nếu bỏ phiếu an tử hoặc tự tử được hỗ trợ, đó sẽ là bước đi lùi. Tệ hơn nữa, đó là thất bại của xã hội chúng ta. Vì như thế có nghĩa là chúng ta không thể đồng hành cùng anh chị em mong manh của mình. Tất cả chúng ta, mỗi người ở cấp của mình, ngay cả ở cấp cao nhất của Nhà nước, chúng ta phải làm nổi bật một dự án xã hội dựa trên tình huynh đệ.
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Trong giờ Kinh Truyền Tin, Đức Phanxicô cảnh báo thói kiêu ngạo thiêng liêng
cath.ch, I.Media, 2022-10-23
Đức Phanxicô giảng trong giờ Kinh Truyền Tin ngày chúa nhật 23 tháng 10-2022: “Chúng ta càng hạ mình trong khiêm hèn thì Chúa càng nâng chúng ta lên.”
Trước Quảng trường Thánh Phêrô chật cứng, đặc biệt có sự hiện diện của một số đông người hành hương Pêru, Đức Phanxicô cảnh báo về thói kiêu ngạo thiêng liêng làm chúng ta nghĩ mình tốt và hay phán xét người khác.
Trong bài giảng trong giờ Kinh Truyền Tin, Đức Phanxicô nhắc lại câu chuyện của người pharisêu và người thu thuế, một giáo sĩ và một người có tội. Đức Phanxicô tập trung vào hai động từ: nâng lên và hạ mình, ngài mời gọi chúng ta biết hạ mình trong lời cầu nguyện để được Chúa nâng lên.
“Chúa hạ những ai quyền thế, Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”
Đức Phanxicô nhấn mạnh: Cầu nguyện không phải là ca ngợi bản thân, liệt kê “việc tốt” mình làm và coi thường người khác. Vì thế nếu chúng ta không nhận ra điều này, chúng ta đang tôn thờ cái tôi của mình và xóa bỏ Chúa.
Ngài cũng cảnh báo chứng “tự mê” và “thói phô trương” làm cho các giám mục, linh mục, giáo dân “luôn có chữ tôi trên đầu môi”. Ngài nói ngoài văn bản: “Ở đâu có nhiều tôi, ở đó có ít Chúa.”
Ngài kể câu chuyện một linh mục tự cho mình là trung tâm, ông đã xông hương lộn ngược. Ngài nhắc lại, “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”, vì thế Đức Phanxicô mời gọi chúng ta tách mình ra khỏi ngã của mình, nhưng vun trồng lòng chân thành và khiêm tốn trong lòng, những phẩm chất mang lại “cái nhìn trung thực” về sự yếu đuối và nghèo khó của mỗi người. Ngài xin chúng ta cầu xin lòng thương xót Chúa “để chữa lành và nâng chúng ta lên”.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Hội đồng các Giáo hội và các tổ chức Tôn giáo Ucraina cầu cứu
Trong thư, Hội đồng các Giáo hội và các Tổ chức tôn giáo Ucraina kêu gọi Hội đồng Giáo hội Thế giới giúp đỡ bằng mọi cách có thể để Liên bang Nga thực hiện các yêu cầu của luật nhân đạo quốc tế. Thư viết: “Trong những ngày gần đây, quân đội Nga đã xâm phạm tàn bạo quyền được sống của thường dân Ucraina bằng cách thực hiện các hành động vũ trang tội phạm chống lại dân thường… khủng bố và diệt chủng đối với dân thường Ucraina.”
Hội đồng các Giáo hội Ucraina mô tả đây là hành động man rợ và rùng rợn, đã giết chết hàng chục thường dân và nhiều người bị thương, phá huỷ một số cơ sở hạ tầng xã hội (cơ sở y tế và giáo dục, nhà trẻ) và cơ sở hạ tầng quan trọng, chủ yếu là ngành năng lượng. Ngoài ra, hàng ngàn dân quân và thường thân Ucraina bị quân đội Nga giam giữ trong những điều kiện vô nhân đạo.
Do đó, Hội đồng các Giáo hội và các tổ chức Tôn giáo Ucraina kêu gọi Hội đồng Giáo hội Thế giới hỗ trợ để tất cả những người Ucraina li tán được trở về quê hương. Đồng thời, Hội đồng các Giáo hội Ucraina cũng xin Hội đồng Giáo hội thế giới kêu gọi các quan chức của Liên bang Nga tuân thủ các yêu cầu của luật nhân đạo quốc tế liên quan đến công dân Ucraina.
Văn Yên, SJ - Vatican News
Liên HĐGM Á châu trình bày ấn bản Kinh Thánh mới cho giới trẻ
Cuốn sách, tựa đề “Identity: Identified, Navigating the Challenges of Life” – “Căn tính: Được nhận biết, Băng qua những thách thức trong cuộc sống”, có mã QR. Khi được quét, mã này sẽ đưa người đọc đến các video clip có người nói về các đoạn Kinh Thánh.
Theo Đức cha Pallippararons, điều làm cho cuốn sách trở nên độc đáo là nó bao gồm 24 bài giảng Công giáo về những vấn đề lớn trong cuộc sống mà những người trẻ tuổi phải đối mặt. Những vấn đề như sự cô đơn, bị từ chối, tự tử, đưa ra lựa chọn tốt, sống trong một thế giới bị tình dục hóa, Thiên Chúa ở đâu trong đau khổ, tại sao tôi lại ở đây? Những vấn đề này đã được xác định trong Thượng Hội đồng năm 2018 về Người trẻ.
Đức cha Chủ tịch Ủy ban Loan báo Tin Mừng của Malaysia tin rằng nỗ lực nhỏ này sẽ mang lại kết quả dồi dào vì nó sẽ giúp mọi người áp dụng Lời Chúa vào đời sống của chính mình.
Về phần Đức Tổng Giám mục Poh, ngài nhận định rằng cuốn sách sẽ là một tài sản to lớn trong tay giới trẻ châu Á Thái Bình dương.
Thực hiện dự án
Dự án được thực hiện nhờ sự cộng tác của Đức Hồng Y John Dew của Wellington, New Zealand, John Bergin, người đóng vai trò là liên lạc viên và cố vấn của Hiệp hội Kinh Thánh ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, và Văn phòng Truyền giáo của Liên Hội đồng Giám mục Á châu.
Trong số các giám mục và các nhà thần học từ khắp khu vực đã đóng góp cho kết quả này có Đức Tổng Giám mục Simon Peter Poh Hoon Seng của Kuching, Malaysia, Đức cha Broderick Pabillo của Taytay ở Philippines và Đức cố Hồng y Cornelius Sim của Brunei.
Ấn bản Kinh Thánh mới hiện đã có ở cả hai phiên bản in và kỹ thuật số với thông điệp giới thiệu của Đức Thánh Cha Phanxicô. (LICAS 24/10/2022)
Hồng Thủy - Vatican News
Lễ phong chân phước cho 12 vị tử đạo dòng Chúa Cứu Thế người Tây Ban Nha
12 tu sĩ dòng Dòng Chúa Cứu Thế gồm 6 linh mục và 6 tu huynh, bị sát hại trong khoảng thời gian từ ngày 20/7 đến 7/11/1936. Đứng đầu danh sách các tân Chân phước là Cha Vicente Renuncio Toribio. Cha là quản đốc Đền thánh Đức Mẹ Hằng cứu giúp ở Madrid và bị bắt năm 1936. Cha bị giam trong tù từ ngày 17/9 và đến ngày 7/11/1936 thì bị sát hại . Trước khi bị đưa đi hành quyết, cha nói: “Tôi hiến dâng mạng sống tôi cho các anh em dòng tại Tây Ban Nha, cho toàn dòng, và cho nước Tây Ban Nha bất hạnh.”
Tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa
Trong bài giảng, Đức Hồng y Semeraro nhấn mạnh rằng việc tuyên phong chân phước cho 12 vị tử đạo trình bày cho chúng ta “thông điệp về sự tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa. Tin tưởng vào tình yêu của Chúa Cha, tin tưởng vào sự gần gũi của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và sống lại với chúng ta”. Chính lòng tin tưởng này đã thêm sức mạnh cho 12 tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế: “Lạy Chúa Giêsu, con không sợ điều ác hại nào, vì Chúa ở cùng con”.
Chính lòng tin tưởng này là điều duy nhất có thể hướng dẫn chúng ta, ngay cả khi chúng ta ở giữa nỗi sợ hãi và mưu mô của con người. Đức Hồng y Semeraro nói rằng cùng với 12 linh mục và tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế được tuyên phong, chúng ta có thể nói: “Lạy Chúa Giêsu, con không sợ điều ác nào, vì Chúa ở cùng con”. Giống như tu huynh José Erviti Insausti, người trước khi chết đã nói: “Họ không thể làm gì được chúng ta nếu chúng ta trung thành với Chúa ...”.
Sức mạnh của sự sống của Chúa Kitô trong chúng ta
Nhắc lại câu chuyện của các vị tử đạo, bị sát hại trong cuộc bách hại chống Kitô giáo tại Tây Ban Nha trong những năm Nội chiến, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh nói rằng các vị tử đạo là những người như chúng ta, mỏng manh “như chiếc bình sành”, nhưng điều này cho thấy bí mật của chứng tá Kitô giáo, vì thánh Phêrô nói rằng “chiếc bình mỏng manh đó chứa một kho báu, tức là sức mạnh của sự sống của Chúa Kitô, ở trong chúng ta. Sự sống của Đấng chịu đóng đinh-Phục sinh ở nơi người Kitô hữu. Và sự sống đó được tìm thấy trong sức mạnh nội tâm nơi chứng tá của các vị Chân phước.
Giải thích đoạn Tin Mừng thánh Mátthêu thuật lại sự sợ hãi của các tông đồ khi gặp sóng lớn ở hồ Galilê, với lời Chúa Giêsu, “Tại sao các con sợ hãi, hỡi những người kém tin?”, Đức Hồng y nói rằng chúng ta không được sợ, “vì chúng ta muốn trở thành những môn đệ trung thành của Chúa Giêsu”. Bởi vì như Người, chúng ta sẽ chiến thắng sự chết.
Hồng Thủy - Vatican News
ĐTC gặp cộng đoàn học thuật thánh Gioan Phaolô II
Trong diễn văn trước những người hiện diện, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến việc phát triển một tầm nhìn Kitô giáo về gia đình, trong đó bao gồm cả tình phụ tử, lòng hiếu thảo và tình huynh đệ - chứ không chỉ mối liên kết vợ chồng. Ngài thúc giục các thành viên của cộng đoàn học thuật hội nhập thần học về mối dây liên kết vợ chồng với một nền thần học cụ thể hơn về các tình trạng của gia đình.
Ngài nói: “Sự chao đảo chưa từng có, vốn thử thách tất cả các mối quan hệ gia đình ngày nay, đòi hỏi sự phân định cẩn thận để nắm bắt các dấu chỉ của sự khôn ngoan và lòng thương xót của Thiên Chúa. Do đó, khi xem xét các lý do khủng hoảng, chúng ta không bao giờ được để mất những dấu chỉ an ủi, đôi khi cảm động về những khả năng liên kết gia đình vẫn tiếp tục được thể hiện, như ủng hộ cộng đồng đức tin, xã hội dân sự, vì sự chung sống của con người.”
Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Gia đình vẫn là một ‘ngữ pháp nhân học’ không thể thay thế cho những tình cảm cơ bản của con người.” Do đó, cả Nhà nước và Giáo hội đều có trách nhiệm lắng nghe các gia đình, dưới góc độ gần gũi tình cảm, tương trợ và hiệu quả. Đồng thời, “chúng ta không cần phải đợi gia đình trở nên hoàn hảo, để chăm sóc ơn gọi và khuyến khích sứ mạng của gia đình.” Đức Thánh Cha khẳng định: “Hôn nhân và gia đình sẽ luôn không hoàn hảo và dở dang cho đến khi chúng ta ở trên Thiên đàng. Tuy nhiên, chúng ta tín thác sự bất toàn của mình cho Chúa, bởi vì chính ân sủng của bí tích làm cho việc truyền đạt ý nghĩa của sự sống - chứ không chỉ là sự sống thể xác – trở nên điều có thể”. (CSR_4492_2022)
Văn Yên, SJ - Vatican News
Ủy ban Kinh Thánh và bản dịch Kinh Thánh
WHĐ (23.10.2022) - Đáp ứng nhu cầu của Giáo hội Việt Nam là cần có một bản dịch Kinh Thánh chính thức để dùng trong phụng vụ và cho các nhu cầu khác nhau của người tín hữu, toàn thể các thành viên trong Ủy ban Kinh Thánh (UBKT), bao gồm các chuyên viên Kinh Thánh và ngôn ngữ học, dưới sự dẫn dắt của Đức cha Vincent Nguyễn Văn Bản, Chủ tịch UBKT, cùng với sự đồng hành của Đức cha Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn, Chủ tịch Ủy Ban Phụng Tự (UBPT), đã khởi sự tiến trình hiệu đính và phiên dịch Kinh Thánh cho Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) trong kế hoạch 5 năm, từ 2020-2025, với ba tiêu chí cơ bản:
(1) Gần với bản gốc tiếng Hy lạp và Hibri
(2) Tương thích với bản Latinh Nova Vulgata
(3) Ngôn ngữ và văn phong tiếng Việt phù hợp, có khả năng giao tiếp tốt với con người thời đại hôm nay.
Hoa trái đầu tiên sau bao nhiêu năm tháng làm việc của các thành viên UBKT là bản văn bốn Tin Mừng đã được HĐGMVN phê chuẩn trong Hội nghị Thường niên diễn ra từ ngày 25-29/4/2022 tại Tòa Giám mục Giáo phận Thái Bình. Và mới đây, trong Đại hội lần thứ XV từ ngày 3-7/10/2022 tại Tòa Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Hà Nội, HĐGMVN cũng đã chính thức phê chuẩn bản dịch trọn bộ Kinh Thánh Tân Ước của UBKT.
Với thành quả này, ngày 22/10/2022, các thành viên Ban Thường vụ UBKT đã quy tụ về Trụ sở Văn Phòng HĐGMVN để tiếp tục bàn thảo và lên kế hoạch cho công việc phiên dịch Kinh Thánh. Hiện diện trong buổi họp, Đức cha Vincent, Đức cha Emmanuel cùng với các thành viên UBKT đã hân hoan vui mừng vì những cố gắng và nỗ lực của các thành viên trong thời gian qua đã đem lại kết quả tốt đẹp cho Giáo hội Việt Nam, đồng thời quyết tâm thực hiện kế hoạch tiếp theo, là tiếp tục hoàn thành bản dịch Cựu Ước trong thời hạn 2022-2025.
Đây là một công trình chung trong danh nghĩa chính thức của HĐGMVN. Vì thế, chúng ta cùng cầu chúc cho công việc phiên dịch Kinh Thánh của UBKT được tiến triển tốt đẹp trong thánh ý Thiên Chúa, để Giáo hội Việt Nam chúng ta sớm có một bản dịch Kinh Thánh phục vụ cho các nhu cầu của người tín hữu.
Lm. Giuse Ngô Đức Tài, MF
Thư ký Ủy ban Kinh Thánh / HĐGMVN
Các nữ tu Dòng Cát Minh giúp chấm dứt Triều đại Kinh hoàng của cuộc Cách mạng Pháp
Mở lại các sự kiện lịch sử, có những khoảnh khắc khi các nữ tu bước vào dòng lịch sử của cuộc sống nhân loại. Một trong những trường hợp đó là Các Thánh Tử Đạo dòng Cát Minh ở Compiègne. Nhiều người đã nghe nói về họ, nhưng có thể không biết rằng sự hy sinh của họ có thể đã giúp kết thúc Triều đại Kinh hoàng, một giai đoạn của cuộc Cách mạng Pháp, khi mà, sau khi nền Đệ nhất Cộng hòa thành lập, hàng loạt vụ thảm sát và nhiều vụ hành quyết công khai đã diễn ra để đáp lại lòng nhiệt thành cách mạng, sự chống đối giáo sĩ và các cáo buộc phản quốc.
Tất cả bắt đầu từ một giấc mơ. Năm 1693, một nữ giáo dân khuyết tật 29 tuổi sống tại dòng Cát Minh ở Compiègne đã mơ thấy Chúa Giêsu; cùng với Chúa có Mẹ Maria, Thánh Têrêsa Avila, và hai tu sĩ khác dòng Cát Minh, có liên hệ với đan viện. Sau khi nhận được những hướng dẫn cá nhân về ơn gọi, chị nhìn thấy một thị kiến trong đó một số tu sĩ dòng Cát Minh đang được chọn “để đi theo Chiên Con”.
Đến năm 1786, Mẹ Têrêsa Augustinô, Mẹ bề trên mới đắc cử của đan viện đó đã tìm thấy lời tường thuật về thị kiến mà Sơ Elisabeth Tẩy Giả đã nhận được trước khi tuyên khấn trở thành tu sĩ dòng Cát Minh. Mẹ Têrêsa cảm thấy giấc mơ là một lời tiên tri liên quan đến cộng đoàn của Mẹ.
Một vài năm sau, nước Pháp chìm trong cuộc Cách mạng Pháp, sau đó là Triều đại Kinh hoàng. Vào tháng 2 năm 1790, lệnh đình chỉ tạm thời các dòng tu đã được phê chuẩn dứt khoát. Vào ngày 4 tháng 8, tài sản của cộng đoàn Cát Minh đã bị kiểm kê. Một ngày sau, từng nữ tu đã bị tra hỏi và được cho cơ hội từ bỏ lời khấn của mình. Trước sự kinh ngạc của các lãnh đạo Cách mạng thi hành nhiệm vụ, mỗi nữ tu đều bày tỏ niềm tin chắc chắn rằng sẽ trung thành với lời khấn của mình cho đến chết.
Vào ngày 6 tháng 4 năm 1792, việc mặc tu phục bị xem là bất hợp pháp. Vào lễ Phục sinh, hai ngày sau đó, giấc mơ của Sơ Elisabeth Tẩy Giả đã được chia sẻ với các thành viên khác trong cộng đoàn. Mọi thứ sau đó bắt đầu thay đổi nhanh chóng. Đến tháng 8, tất cả các đan viện nữ được ra lệnh phải đóng cửa và sơ tán; ngay sau đó tài sản của họ đã bị tịch thu.
Vào ngày 14 tháng 9, Lễ Suy Tôn Thánh Giá, 20 tu sĩ của Dòng Cát Minh ở Compiègne đã di tản khỏi tu viện. Nhờ sự giúp đỡ của bạn bè, họ tìm thấy nơi trú ẩn ở bốn địa điểm khác nhau và có thể mua được bộ quần áo dân sự. Họ không đủ khả năng để mua thường phục để thay đổi; họ đã yêu cầu chính phủ tài trợ nhưng không được trả lời.
Không lâu sau, Mẹ Têrêsa Augustinô đã chia sẻ một đề xuất với bốn nữ tu lớn tuổi nhất mà Mẹ đã sống cùng. Đề xuất đó mời gọi toàn thể cộng đoàn dâng hiến mạng sống của họ vì sự cứu độ của nước Pháp, noi gương Thánh Têrêsa Avila, người đã cải tổ dòng Cát Minh theo ý nguyện đó. Có thể hiểu được khi Mẹ gặp phải sự phản kháng ngay lập tức. Cuối cùng, ai là người sẽ sẵn lòng tự nguyện nộp mình chịu chặt đầu ngay lập tức bởi chiếc máy chém mới được khánh thành?
Tuy nhiên, đáng chú ý là trong khoảng thời gian vài giờ, hai nữ tu cao tuổi đã xin Mẹ bề trên của họ tha thứ cho sự thiếu can đảm của họ. Điều này đã mở đường cho Mẹ Têrêsa đề xuất với các thành viên khác của cộng đoàn một hành động tự hy sinh. Kể từ ngày 27 tháng 11, hàng ngày mỗi nữ tu nhắc lại một hành động tự hiến vì sự cứu rỗi của nước Pháp, được Mẹ Bề trên viết. Cuối cùng, một ý chỉ được thêm vào, đó là xin ơn được trả tự do cho những người đã bị bắt và sẽ có ít người bị chém hơn.
Vào ngày 21 tháng 6 năm 1794, binh lính lục soát nơi ở của các nữ tu. Ngày hôm sau, các nữ tu bị bắt vì bằng chứng thu được trong quá trình khám xét cho thấy họ tiếp tục sống đời dâng hiến, và có thiện cảm với chế độ quân chủ. 16 thành viên của cộng đoàn Cát Minh khi đó bị giam cầm cùng với 17 nữ tu dòng Biển Đức người Anh trong một tu viện cũ của dòng Thăm viếng. Vào ngày 12 tháng 7, khi bộ quần áo thường dân duy nhất của họ đang ướt sũng, thị trưởng của Compiègne, cùng với những người lính, xông vào tu viện, và rất ngạc nhiên khi thấy các nữ tu đang mặc tu phục của họ. Nhưng chuyến đi của họ đến Paris để chịu xử án không thể bị trì hoãn.
Vào ngày 17 tháng 7, 16 nữ tu Dòng Cát Minh, cùng với 24 tù nhân khác, bị kết tội là “kẻ thù của Nhân dân”, cùng với các tội danh khác, và bị kết án tử hình. Giờ đây, mỗi nữ tu đã chuẩn bị tinh thần để thực hiện giấc mơ tiên tri. Họ sẽ sớm đi theo Chiên Con.
Vào chiều tối hôm đó, tiếng các nữ tu hát Kinh Phụng vụ vang lên khắp các đường phố của Paris, những nơi mà họ bị đưa đi ngang qua. Kẻ hành quyết cũng cho phép các nữ tu đọc xong kinh nguyện cho những người sắp chết, bao gồm cả hát Kinh Te Deum. Sau khi hát tiếp bài hát Veni Creator Spiritus - Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến - và lặp lại lời khấn, các nữ tu lần lượt đi lên đoạn đầu đài, nhận phép lành cuối cùng từ Mẹ bề trên của họ, hôn một tượng Đức Mẹ, và đi theo Con Chiên hiến tế.
Mười ngày sau, Robespierre bị bắt và bị xử tử vào ngày hôm sau, khiến không ít người nghĩ rằng Chúa đã chấp nhận hành động hiến tế mạng sống của các nữ tu. Các Thánh Tử Đạo của Compiègne đã được Đức Giáo Hoàng Piô X phong chân phước vào năm 1909. Hiện nay một quá trình phong thánh tương đương cho các nữ tu đang được tiến hành.
Sr. Bernadette Mary Reis, fsp
Nguồn: Vatican News
Các nữ đan sĩ dòng Thánh Augustinô lan truyền niềm vui trên các mạng xã hội
Các nữ tu, đặc biệt là Sơ Aurora, người đã vào tu viện từ năm 17 tuổi và hôm nay đã bước sang tuổi 64, đã thành công làm điều mà chỉ vài năm trước đây là điều không thể tưởng tượng được: chiếu toả linh đạo của đời tu chiêm niệm trong các ngôi nhà và cuộc sống của hàng ngàn người.
Sơ Aurora đã chia sẻ với trang mạng Aleteia về trải nghiệm khiến đan viện này tạo ra bước nhảy vọt lên mạng xã hội. Sơ giải thích: "Lý do chúng tôi tham gia mạng xã hội là mong muốn giới thiệu cho người dân biết đến chúng tôi." "Đó cũng là một cách để kết nối với thế giới bên ngoài, và thể hiện thế giới nội tâm và cách chúng tôi sống."
Đặc biệt, trên mạng, đan viện có thể truyền đạt ý nghĩa của cuộc sống của một nữ tu chiêm niệm: cầu nguyện trước Chúa cho tất cả mọi người, dâng hiến cuộc sống của mình cho tất cả mọi người.
Trong một video giới thiệu trên YouTube, Sơ Aurora giải thích: "Chúng tôi là những nữ đan sĩ sống đời chiêm niệm. Có lẽ các bạn không biết chúng tôi là ai và chúng tôi làm gì. Chắc chắn các bạn xem chúng tôi là những người vô dụng hoặc được trợ giúp, nhưng không phải như thế. Cuộc sống của chúng tôi là sự dâng hiến hoàn toàn cho tình yêu, và các bạn cũng ở trong trái tim chúng tôi, bởi vì Thiên Chúa ngự trong trái tim của các bạn."
Được hỏi làm sao các sơ có ý tưởng dành thời gian và nỗ lực cho mạng xã hội trong khi là các nữ đan sĩ, Sơ Aurora trả lời rằng công việc này có thể khơi dậy ơn gọi mới ở các thiếu nữ được Chúa kêu gọi sống đời thánh hiến.
Sơ giải thích: "Ơn gọi là do Chúa ban, nhưng đây là những phương tiện mà chúng tôi dựa vào để làm cho cuộc đời mình được biết đến”. "Và nếu chúng tôi đánh thức sự quan tâm nơi một thiếu nữ nào đó, thì nỗ lực đó là xứng đáng. Máy tính và những công việc chân tay đối với tôi giống như một chiếc van xả, và vì vậy nó không đè nặng lên tôi”.
Giống như các dòng chiêm niệm khác, cộng đoàn này đang phải đối mặt với tình trạng thiếu ơn gọi và khó khăn về kinh tế. Tuy nhiên, xem video của các sơ và đọc các bài họ đăng, chúng ta sẽ thấy rằng các nữ tu không gửi cho thế giới một thông điệp nản lòng, bởi vì họ là những phụ nữ hạnh phúc và viên mãn trong ơn gọi của họ, và họ muốn truyền tải niềm vui và sự bình an khi phụng sự Chúa trong suốt cuộc sống của họ.
Các nữ tu giải thích trên mạng xã hội rằng họ không có của cải vật chất gì của riêng mình, nhưng chia sẻ cuộc sống hàng ngày của họ trong tu viện với thế giới, đưa ra một ví dụ về tình yêu thương mà họ dành cho nhau như chị em. Đặc biệt là những khoảnh khắc họ thể hiện sự quan tâm của mình đối với những người chị lớn tuổi.
Kinh nghiệm về sự hiện diện của họ trên mạng đang dần đơm hoa kết trái. Một thiếu nữ người Kenya đã xem video của họ trên YouTube và hiện đang làm các thủ tục giấy tờ để vào tu viện.
Các nữ tu không đơn độc khi bước vào thế giới kỹ thuật số. Một chủng sinh từ Chủng viện Valencia giúp các sơ thêm sức sống cho tài khoản của họ, thể hiện sự đánh giá cao mà tổng giáo phận dành cho họ và giá trị của đặc sủng của họ. Theo người sáng lập là thánh Gioan Ribera (1532-1611), đặc sủng của họ là chầu Thánh Thể và đền bù tội lỗi cho thế giới.
Theo Sơ Aurora, “Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể lấp đầy cuộc sống. Người khiến chúng tôi ngập tràn hạnh phúc, và đây là điều chúng tôi muốn thế giới nhìn thấy”.
Cầu nguyện cá nhân và cộng đoàn là trung tâm của cuộc sống hàng ngày của các nữ đan sĩ thánh Augustinô Nhặt Phép. Sau khi cử hành Thánh Thể, lúc 9 giờ, các chị đặt Mình Thánh Chúa, và thay nhau chầu Mình Thánh Chúa nửa giờ suốt buổi sáng. Sau đó, mỗi người đều cống hiến hết mình cho nhiệm vụ của mình, hiện nay chủ yếu là hỗ trợ các chị em cao tuổi.
Ban chiều, sau khi ăn trưa và nghỉ ngơi, các sơ lại đặt Mình Thánh Chúa và tiếp tục các ca cầu nguyện và làm việc.
Trong ngày, các sơ tụ họp nhiều lần để tham gia các Giờ Kinh Phụng Vụ, và chỉ sau bữa tối, họ mới có giờ giải trí, trong đó cộng đoàn nói chuyện, bình luận về các sự kiện, chia sẻ và vui cười với nhau.
Tren mạng LinkedIn, Sơ Aurora đã tóm tắt ngắn gọn những gì có lẽ là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử của dòng của Sơ: việc các nữ tu dòng thánh Augustinô Nhặt Phép từ Alcoy, Alicante, đến hợp nhất với những nữ tu cùng dòng của họ ở Benigànim, Valencia, để lại sau lưng tu viện mà dòng họ đã sinh sống trong 419 năm.
Sơ chia sẻ: "Một quyết định khó khăn, bởi vì nó có nghĩa là từ bỏ ngôi nhà mẹ đẻ, một tu viện có lịch sử rất quan trọng. Hàng năm, nơi đây kỷ niệm phép lạ về vụ trộm và tìm lại được Thánh Thể, vào năm 1568. Chúng tôi rời khỏi một nơi mà chúng tôi đã đâm rễ sâu ở cấp độ gia đình và xã hội. Tuy nhiên, ở đây, lòng bác ái phải được thể hiện. Các nữ tu ở Benigànim đã không ngừng kêu gọi chúng tôi giúp đỡ vì họ đã rất già. Cuối cùng, việc thiếu các ơn gọi buộc chúng tôi phải di chuyển".
Chăm sóc các chị em cùng dòng cao tuổi hơn và lo các công việc khác khiến các sơ không có nhiều thời gian cho Internet, nhưng các nữ tu sẽ tiếp tục kênh YouTube và các mạng xã hội để cho chúng ta biết vẻ đẹp của ơn gọi và niềm hạnh phúc mà với chúng họ sống trong đan viện của họ. (Aleteia 20/05/2022)
Hồng Thủy - Vatican News
Nhân Ngày Thế giới truyền giáo lần thứ 96
Cách đây 96 năm, Hội Truyền Bá Đức Tin, do sự gợi ý của Nhóm truyền giáo thuộc chủng viện Sassari trên đảo Sardegna bên Ý, đã thỉnh cầu Đức Giáo Hoàng Piô 11 ấn định một ngày trong năm để cổ võ hoạt động truyền giáo của Giáo Hội và ngài đã chấp thuận ngay trong năm đó, và ấn định Ngày này được cử hành hằng năm vào Chúa Nhật áp chót của tháng 10. Trong ngày này, các tín hữu 5 châu được mời gọi mở lòng đối với công cuộc truyền giáo và dấn thân cụ thể để nâng đỡ các Giáo Hội trẻ tại các xứ truyền giáo. Các ngân khoản lạc quyên trong ngày này được dùng để hỗ trợ các giáo lý viên và các nhân viên mục vụ, cũng như đáp ứng các nhu cầu khác của các Giáo Hội địa phương.
Để chuẩn bị giúp các tín hữu cử hành Ngày Thế giới truyền giáo, hằng năm các vị Giáo Hoàng vẫn công bố một sứ điệp. Năm nay, Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô được công bố rất sớm, vào ngày 6/1, lễ Hiển Linh, qua đó ngài mời gọi các tín hữu toàn Giáo Hội cùng nhau trở nên chứng nhân về Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Linh.
3 kỷ niệm quan trọng
Nhưng trước khi đi vào nội dung lời nhắn nhủ trên đây của Chúa Kitô với các môn đệ, được thuật lại trong sách Tông đồ công vụ, Đức Thánh Cha nhắc đến 3 kỷ niệm quan trọng trong năm 2022 này, đó là kỷ niệm 400 năm thành lập Bộ Truyền Giáo, nay là Bộ Loan Báo Tin Mừng, kỷ niệm 200 năm thành lập Hội Truyền Bá đức tin, rồi tiếp theo đó có Hội Nhi Đồng truyền giáo và Hội Thánh Phêrô Tông Đồ, sau cùng là kỷ niệm 100 năm 3 hội này được nâng lên hàng Hội "Giáo Hoàng".
Làm chứng nhân
Trong số những điều được Đức Thánh Cha nhấn mạnh trong sứ điệp, đặc biệt là sứ mạng của các môn đệ: "Các con sẽ là chứng nhân về Thầy... cho đến tận bờ cõi trái đất". Ngài viết:
"Các con sẽ là chứng nhân về Thầy", đây là điểm chủ yếu, là trung tâm giáo huấn của Chúa Giêsu cho các môn đệ đứng trước sứ mạng của họ trên thế giới. Tất cả các môn đệ sẽ là chứng nhân của Chúa Giêsu, nhờ Chúa Thánh Linh mà họ sẽ nhận lãnh, dù họ đi đâu hay ở đâu.
"Cũng như Chúa Kitô là vị đầu tiên được sai đi, nghĩa là thừa sai của Chúa Cha (Xc Ga 20,21), và với tư cách đó Người là 'chứng nhân trung thành' (x.
Kh 1,5), cũng vậy mỗi tín hữu Kitô được kêu gọi trở thành thừa sai và chứng nhân của Chúa Kitô. Giáo Hội, cộng đồng các môn đệ của Chúa Kitô, không có sứ mạng nào khác ngoài việc loan báo Tin Mừng cho thế giới, làm chứng về Chúa Kitô” (...)
Đức Thánh Cha cũng khẳng định rằng "Chính Chúa Kitô và Chúa Kitô Phục sinh là Đấng chúng ta phải làm chứng và chia sẻ cuộc sống của Người. Các thừa sai được sai đi không phải để loan báo bản thân, chứng tỏ các đức tính và khả năng thuyết phục của mình hoặc khả năng quản trị của họ. Trái lại họ có vinh dự rất cao trọng là, bằng lời nói và việc làm, cống hiến Chúa Kitô, loan báo cho mọi người Tin Mừng cứu độ của Chúa trong niềm vui và thẳng thắn như các tông đồ tiên khởi".
Cho đến tận bờ cõi trái đất
- Điểm thứ II là "Cho đến tận cùng trái đất", nói lên tính thời sự ngàn đời của sứ mạng loan báo Tin Mừng hoàn vũ: "từ trung tâm Giêrusalem, vốn được truyền thống Do thái coi như trung tâm của thế giới, cho đến miền Giuđêa, Samaria và tới tận cùng trái đất". Họ không được sai đi để chiêu dụ tín đồ (proselitismo)...
Đức Thánh Cha nhận xét rằng thành ngữ "cho đến tận cùng trái đất” phải đặt câu hỏi cho các môn đệ của Chúa Giêsu mọi thời và thúc đẩy họ ngày càng đi ra ngoài những nơi quen thuộc đệ làm chứng về Chúa. Mặc dù có tất cả những dễ dàng do những tiến bộ thời nay, vẫn còn những vùng địa lý trong đó các thừa sai chứng nhân của Chúa chưa đi tới cùng với Tin Mừng tình thương của Chúa... Giáo Hội đã, đang và sẽ luôn luôn "đi ra ngoài", hướng tới những chân trời mới về mặt địa lý, xã hội, cuộc nhân sinh, hướng về những nơi chốn và hoàn cảnh của con người ở "biên cương" để làm chứng về Chúa Kitô và về tình thương của Người đối với mọi người nam nữ thuộc mọi dân tộc, văn hóa và giai tầng xã hội.
Nhận lãnh sức mạnh của Chúa Thánh Linh
Điểm thứ III: "Các con sẽ nhận lãnh sức mạnh của chúa Thánh Linh" - luôn để cho mình được Chúa Thánh Linh củng cố và hướng dẫn.
Theo trình thuật của sách Tông đồ công vụ, sau khi Chúa Thánh Linh hiện xuống trên các môn đệ của Chúa Giêsu, đã diễn ra hoạt động đầu tiên làm chứng về Chúa Kitô, Đấng đã chết và sống lại, với lời loan báo ơn cứu độ nhờ Chúa Kitô, gọi là diễn văn truyền giáo của thánh Phêrô cho dân chúng ở Giêrusalem".
Khía cạnh cụ thể
Trong phần cuối của sứ điệp, Đức Thánh Cha đề cao hoạt động và sự nghiệp của Bộ truyền giáo, Hội Giáo Hoàng Truyền Bá đức tin, Hội Thánh Nhi, hay nhi đồng truyền giáo, và Hội Thánh Phêrô, sau cùng là Liên hiệp Truyền giáo, dưới ánh sáng tác động của Chúa Thánh Linh. Trong năm qua (2021), tuy ở trong hoàn cảnh đại địch, Hội Truyền Bá đức tin đã quyên góp và tài trợ hơn 110 triệu mỹ kim cho các hoạt động tại các xứ truyền giáo với 1.118 giáo phận, từ việc nâng đỡ các giáo lý viên, các hoạt động xã hội, Hội thánh Phêrô Tông Đồ đã hỗ trợ việc đào tạo các chủng sinh: cụ thể là tài trợ cho 431 tiểu chủng viện với hơn 45 ngàn 800 tiểu chủng sinh, 120 chủng viện dự bị với gần 5.600 ứng viên, 220 đại chủng viện với tổng cộng hơn 23 ngàn đại chủng sinh. Hội này cũng giữ liên lạc với 800 chủng viện với 80 ngàn chủng sinh. Ngoài ra, Hội cũng trợ giúp 978 tập viện dòng nam và dòng nữ.
Hội Giáo Hoàng Nhi Đồng truyền giáo đã trợ giúp hơn 15 triệu mỹ kim cho các giáo phận ở Á, Phi, Mỹ và châu đại dương với mục đích giúp các thầy cô khơi lên và phát triển nơi các trẻ em và thiếu niên ý thức về sứ vụ truyền giáo, ngay từ nhỏ.
Tin tưởng
Cứ nhìn tình hình Giáo Hội tại một số nước Âu Mỹ, có thể người ta sẽ rơi vào tình trạng bi quan về tương lai. Nhưng nhìn rộng hơn tới các nơi khác, chúng ta thấy không thiếu những chứng tá và hoạt động tông đồ âm thầm của các tín hữu Công Giáo trong sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa. Như trong lịch sử của Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc, không thiếu những chứng tá theo chiều hướng này. Ví dụ trong vòng 4 năm, từ 1989 đến 1993, số tín hữu công giáo tại huyện Thanh Thần (Qingshen), thuộc giáo phận Lạc Sơn (Leshan) tỉnh Tứ Xuyên bên Trung Quốc, đã tăng gấp 36 lần, từ 55 người lên 2.000 người, nhờ lòng nhiệt thành truyền giáo của một nữ giáo lý viên, là bà Lôi Tố Phương (Lei Sufang).
Từ năm 1989, Bà Lôi Tố Phương cùng với 3 người chị viếng thăm các làng lân cận để nói về Chúa với những người mà họ gặp. Bà nói: "Khi dân làng có vấn đề gì, chúng tôi thường an ủi và bày tỏ tình thương với họ. Chúng tôi cố gắng giúp đỡ họ bao nhiêu có thể và hướng dẫn họ cầu nguyện với Chúa. Ban đầu họ xua đuổi chúng tôi và coi chúng tôi như những người điên. Nhưng rồi với sự kiên trì, dần dần người ta chấp nhận chúng tôi và nghe những gì chúng tôi nói. Sau đó một thời gian, nhiều dân làng xin lãnh nhận bí tích rửa tội. Tiếp đến, những người ấy lại chia sẻ đức tin với họ hàng bạn hữu của họ, vì thế số tín hữu gia tăng thêm”.
Bà Lôi Tố Phương nói: "Tôi thiết nghĩ chính Chúa đã mang Tin Mừng đến cho họ. Chúng tôi chỉ là những dụng cụ của Chúa mà thôi". Bà là con út trong một gia đình Công giáo có 4 người con. Bà vẫn quen đi nhà thờ với gia đình khi còn nhỏ, nhưng sau khi lấy chồng thì bà không đi nhà thờ nữa. Bà Phương sinh được 3 người con và năm 54 tuổi, bà về hưu. Năm 1989, nhờ đọc được một bài báo, bà Lôi Tố Phương đã quyết định trở về với Giáo hội. Bài báo đó nói rằng: Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho những ai đã phạm tội, nếu họ đáp lại tiếng gọi của Người. Lúc đó, bà Phương cảm thấy như có người nào đó đập mạnh vào đầu bà và bà nghe tiếng nói trong nội tâm thúc đẩy bà hãy trở về với Giáo hội. Rồi từ đó bà đã quyết tâm làm tông đồ, dẫn đưa những người khác về với Chúa và làm cho số tín hữu Công giáo tăng từ 55 người lên 2.000 người như thế. (UCAN 22/12/93)
Giuse Trần Đức Anh O.P.
Nguồn: Vatican News