Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Trong hai năm, số chủng sinh tại Giáo phận Columbus tăng gần gấp đôi
Trong gần hai năm qua, số chủng sinh của Giáo phận Columbus, bang Ohio ở Mỹ, tăng gần gấp đôi. Năm ngoái, có 16 chủng sinh mới gia nhập chủng viện.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức cha Earl Fernandes, Giám mục Giáo phận sở tại, nói với Đài Vatican rằng: “Khi tôi nhận chức giám mục tại giáo phận này cách đây gần hai năm, không có cuộc truyền chức nào trong giáo phận Columbus chúng tôi. Cuối lễ truyền chức, tôi nói đùa với cộng đoàn rằng năm nay số giám mục được thụ phong nhiều hơn là linh mục!”
Trong gần hai năm qua, tình trạng hoàn toàn thay đổi hẳn: nhờ những cố gắng mục vụ và lời cầu nguyện, năm ngoái đã có 16 người trẻ xin vào chủng viện và năm nay chúng tôi chờ đợi ít nhất là 12 chủng sinh mới. Giáo phận cũng hài lòng vì số tín hữu gia tăng.
Đức cha Fernandes nói thêm rằng: “Chúng tôi đã chọn các linh mục để gặp gỡ mỗi tháng những người trẻ trong vùng liên hệ để phân định với họ đề ơn gọi linh mục và đời sống tu trì, để đọc cuốn sách của cha Brett Brannan tựa đề “Để cứu một ngàn linh hồn: một chỉ nam để phân định ơn gọi giáo phận” (To Save a Thousand Souls: a Guide for Discerning to Diocesan Priesthood).
Ngoài ra, cũng có những cuộc tĩnh tâm với chủ đề “Quo vadis?”, Thầy đi đâu? dành cho các học sinh các trường trung học cấp III: “Những người trẻ trải qua ba ngày cầu nguyện, lắng nghe các chứng từ, nói với các linh mục hiểu thế nào là đào tạo linh mục và cũng là dịp để những người trẻ được hưởng tình huynh đệ, hầu cảm nghiệm rằng tình huynh đệ này bao gồm nhiều hơn kinh nguyện, việc học hành và công việc làm. Cả những hoạt động này đã mang lại nhiều thành quả”.
Đức giám mục Giáo phận Columbus tái khẳng định tầm quan trọng của kinh nguyện của các giáo dân và tu sĩ trong giáo phận. Ngài nói: “Tôi liên lỉ khuyên mọi người hãy cầu nguyện ăn chay cho ơn gọi”.
Trong cuộc phỏng vấn, Đức cha Fernandes cũng đề cập đến Sứ điệp của Đức Thánh cha Phanxicô, nhân Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi lần thứ 61, công bố hôm 19 tháng Ba vừa qua, nhân Đại lễ thánh Giuse, và nói rằng: “Thánh Giuse là một người đơn sơ, một người chồng và người cha nuôi, đã đáp lại tiếng Chúa gọi. Cả chúng tôi cũng có bao nhiêu linh mục thưa “xin vâng” đối với Chúa, dâng cuộc đời để phục vụ, tận tụy hiến thân, mang lại hy vọng cho con người, niềm hy vọng đến từ Thánh Thể, từ sự tha thứ đã nhận lãnh”.
Và Đức giám mục Giáo phận Columbus kết luận rằng: “Ý tưởng ở đây là các linh mục, giống như các tông đồ phải công bố niềm vui của Tin mừng. Chúng tôi thành thực hy vọng rằng các chủng sinh của chúng tôi có một động lực thừa sai đích thực, để có thể là Giáo hội mà Đức Thánh cha kêu gọi trở thành: một Giáo hội đi ra ngoài”.
(Vatican News 21-3-2024)
Đức Hồng y Pizzaballa: Thảm trạng tại Gaza có khả thể cho ngưng chiến
Đức Hồng y Pierbattista Pizzaballa, Thượng phụ Công giáo Latinh Jerusalem, tái kêu gọi chấm dứt thảm họa tại Gaza và hy vọng có thể đạt tới ngưng chiến tạm thời giữa Israel và Gaza.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Hồng y đưa ra lời kêu gọi trên đây, trong cuộc phỏng vấn dành cho báo La Stampa, xuất bản tại Ý, hôm 22 tháng Ba vừa qua, Đức Thượng phụ nói: “Cần phải chấm dứt những thảm họa hằng ngày hiện nay. Tại Gaza, dân chúng đã kiệt quệ. Người Palestine đang bị xâu xé vì căng thẳng do cuộc xung đột và sống cơ cực trong một bối cảnh tạm thời. Tây phương và Mỹ cần kiên trì tạo sức ép trên các phe tham chiến, một cách có sức thuyết phục họ để đi tới một thỏa hiệp cho công ích”.
Bom tiếp tục được Israel dội xuống miền Gaza sáng sớm ngày thứ Sáu, 22 tháng Ba, rơi trúng một nhà ở thành phố Al-Nasr, mạn tây bắc thành Rafah, làm cho ít nhất tám người chết và nhiều người bị thương. Trong số các nạn nhân cũng có ba trẻ em và ba phụ nữ. Các cuộc tấn công cũng xảy ra tại Deir El-Balah, nơi trung tâm khu vực của người Palestine. Tính từ ngày 07 tháng Mười năm ngoái đến nay, đã có khoảng 32.000 người Palestine bị giết và hơn 74.000 người bị thương, theo Bộ y tế của Hamas.
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Thượng phụ cũng nói đến vai trò của Giáo hội trong cuộc xung đột này, đó là giúp đối thoại và kiến tạo cơ hội.
Trong khi đó, Ngoại trưởng Mỹ, ông Antony Blinken trở lại Israel để yêu cầu một cuộc đình chiến tạm thời tại Gaza. Đây là chuyến đi thứ sáu của ông trên lãnh thổ của Israel từ khi bắt đầu cuộc chiến với Hamas. Ông tuyên bố: “Các cuộc thương thuyết đang được tiếp tục. Khoảng cách giữa hai bên đang thu hẹp và chúng tôi tiếp tục thúc đẩy tiến tới một thỏa hiệp. Vẫn còn một công việc khó khăn để đạt tới đình chiến, nhưng tôi tiếp tục tin rằng đó là điều có thể”.
Đức Hồng y Pizzaballa kêu gọi các tín hữu hành hương trở lại Thánh địa
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Trung tâm thông tin Kitô (Christian Media Center, Cmc) ở Roma, hôm 22 tháng Ba vừa qua, Đức Thượng phụ Pizzaballa, Thượng phụ Công giáo Latinh Jerusalem, tuyên bố rằng: “Nay cũng đã đến lúc mời các tín hữu trở lại hành hương tại Thánh địa. Tôi hiểu rất rõ rằng có nhiều lo sợ. Tôi hiểu rằng từ các phương tiện truyền thông những hình ảnh làm kinh hãi, nhưng tôi thiết nghĩ hành hương là điều có thể tiến hành ngày nay. Hành hương là điều chắc chắn, dù không hoàn toàn như trong quá khứ, nhưng đó sẽ là một hình thức rất đẹp, rất cụ thể để nâng đỡ cộng đoàn nhỏ bé ở Bethlehem”.
Nói về dịp lễ Phục sinh sắp tới, Đức Hồng y tái khẳng định rằng: “Kinh nguyện trước hết là một trợ lực lớn, nhất là vào dịp Phục sinh. Vì hai thời điểm chính của năm phụng vụ: Giáng sinh và Phục sinh, không thể cử hành mà không nhắc đến tên Jerusalem. Vì thế và đặc biệt vào dịp Phục sinh, đó là một vòng tay ôm mà toàn thể Giáo hội trên thế giới, trong kinh nguyện, dành cho Giáo hội tại Jerusalem, nơi mà lễ Vượt Qua đã được cử hành và ngày nay còn được cử hành tại cùng những nơi như xưa kia. Và đó cũng là lúc, trong đó có cuộc lạc quyên Thứ Sáu Tuần Thánh, để giúp Thánh địa, một phương thế quan trọng. Kinh nguyện phải biến thành hành động, thành một cử chỉ, một sự quan tâm cụ thể nhất là đối với Giáo hội nhỏ bé này”.
Đức Hồng y Thượng phụ kết luận rằng: “Không thể tưởng tượng Jerusalem và Thánh địa không còn tín hữu Kitô. Ngay từ đầu, thời Chúa Giêsu, các tín hữu vẫn luôn tựu về những nơi này để tưởng niệm chính cuộc đời của Chúa Giêsu, chứng từ của Ngài, đặc biệt trong tư cách là Giáo hội. Vì thế, điều quan trọng là chứng tá này, cũng là ơn gọi của Giáo hội, tiếp tục tại Thánh địa này, với một cộng đoàn, tuy bé nhỏ, nhưng vẫn giữ sinh động ký ức cụ thể và những gì Chúa Giêsu đã làm tại đây”.
(Sir 22-3-2024; Vatican News 22-3-2024)
Đức Thánh cha chủ sự Lễ Lá khai mạc Tuần thánh (2024)
Lúc 10 giờ sáng, Chúa nhật ngày 24 tháng Ba năm 2024, Đức Thánh cha Phanxicô đã chủ sự Lễ Lá, tại Quảng trường thánh Phêrô. Tham dự thánh lễ, có hàng chục ngàn tín hữu đứng đầy Quảng trường và tràn ra đường Hòa Giải ở phía cuối.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Thánh cha ngồi cạnh bàn thờ, trên thềm Đền thờ thánh Phêrô và từ đó ngài chủ sự nghi thức làm phép lá, diễn ra tại trung tâm Quảng trường, cạnh cây Tháp Bút.
Sau khi Đức Thánh cha làm phép lá, đoàn rước đã tiến lên bàn thờ ở thềm Đền thờ: dẫn đầu đoàn rước là các em giúp lễ, rồi tới các giáo dân và tu sĩ, tiếp đến là các kinh sĩ Đền thờ thánh Phêrô, với khoảng ba mươi giám mục và ba mươi hồng y.
Các tín hữu tại buổi lễ đều cầm các cành lá dừa, với nhiều hình dạng khác nhau. Riêng các giám mục và hồng y và một số người khác cầm các cành lá dừa màu vàng, được kết bện rất nghệ thuật, công phu do các chính quyền ở thành phố San Remo trao tặng, theo một truyền thống từ thế kỷ XVI.
Bên phải bàn thờ, đứng sau các hồng y và giám mục còn có khoảng một trăm linh mục đồng tế, không kể một trăm năm mươi vị khác cùng với các phó tế đảm nhận phần trao ban Mình Thánh Chúa sau đó.
Trong phần bài giảng lễ, Đức Thánh cha bất ngờ không giảng, mặc dù trước đó Phòng Báo chí Tòa Thánh đã cho các ký giả bài giảng của Đức Thánh cha đã chuẩn bị cho buổi lễ. Từ gần một tháng nay, Đức Giáo hoàng có vấn đề về phổi hoặc tiếng nói, nên các bài diễn văn và bài giảng của ngài thường được một linh mục đọc thay. Giọng của ngài còn mệt.
Sau bài Thương khó và một lát thinh lặng mặc niệm, kinh Tin kính đã được xướng lên.
Trong phần kế tiếp của thánh lễ, Đức Thánh cha ngồi tại chỗ để dự, và Đức Hồng y Claudio Gugerotti, Tổng trưởng Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích thay thế Đức Thánh cha chủ sự các nghi thức tại bàn thờ.
Kinh Truyền tin
Cuối thánh lễ, lúc gần 11 giờ 30, Đức Thánh cha đã chủ sự kinh Truyền tin ngay tại bàn thờ, thay vì tại lầu ba Dinh Tông tòa để đọc kinh từ cửa sổ phòng làm việc ở căn hộ Giáo hoàng.
Ngỏ lời với các tín hữu trước khi đọc kinh, Đức Thánh cha nói: “Tôi bày tỏ sự gần gũi với cộng đoàn San José de Apartado, bên Colombia, nơi mà cách đây vài ngày một thiếu nữ và một thanh niên bị sát hại. Cộng đoàn này đã được giải thưởng năm 2018 vì dấn thân thực hiện nền kinh tế liên đới, hòa bình và các quyền con người.
“Tôi bày tỏ tâm tình chia sẻ và cầu nguyện cho các nạn nhân vụ khủng bố hèn nhát vừa qua, tại Mascơva. Xin Chúa đón nhận các nạn nhân vào trong an bình và an ủi gia đình họ. Và xin Chúa hoán tại tâm hồn những ai tổ chức và thực hiện những hành động vô nhân đạo ấy, xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng đã truyền dạy “Đừng giết người”.
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Chúa Giêsu vào thành Jerusalem như một vị Vua khiêm tốn và hòa bình; Chúng ta hãy cởi mở tâm hồn cho Chúa! Chỉ có Chúa mới có thể giải thoát chúng ta khỏi thù hận, oán ghét, bạo lực, vì Ngài là lòng thương xót và ơn tha thứ tội lỗi. Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả những anh chị em đang đau khổ vì chiến tranh, đặc biệt cho Ucraina đau thương, nơi mà bao nhiêu người không có điện vì các cuộc tấn công ồ ạt chống lại các cơ cấu hạ tầng, không những gây chết chóc và đau khổ, nhưng còn có nguy cơ gây ra một thảm họa về nhân đạo càng rộng lớn hơn nữa. Xin anh chị em đừng quên Ucraina đau thương”.
Đức Thánh cha cũng cám ơn chính quyền và nhân dân thành phố San Remo, theo một truyền thống từ bốn thế kỷ nay, vẫn tặng các cành lá dừa được bện kết rất nghệ thuật và được dùng trong Lễ Lá hằng năm.
Rồi, Đức Thánh cha chào thăm các tín hữu Roma và nhiều phái đoàn tín hữu hành hương hiện diện tại buổi lễ.
Tiếp đến, Đức Thánh cha còn bắt tay chào thăm các hồng y hiện diện và ngài đi xe mui trần tiến qua các lối đi ở Quảng trường để chào thăm các tín hữu.
Gặp gỡ giữa các giám mục Đức và lãnh đạo tại Tòa Thánh
Các giám mục Đức và các đại diện của Tòa Thánh đồng ý tiếp tục đối thoại với nhau về những vấn đề liên quan đến Con đường Công nghị của Giáo hội Công giáo tại Đức.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Quyết định này được thỏa thuận giữa hai bên, trong phiên họp trọn ngày 22 tháng Ba vừa qua, tại Vatican giữa Tòa Thánh và phái đoàn Hội đồng Giám mục Đức, do Đức cha Chủ tịch Georg Bätzing làm trưởng đoàn và gồm có các giám mục: Phó Chủ tịch, Chủ tịch các Ủy ban Giám mục Đức về phụng vụ, ơn thiên triệu, Mục vụ, Giáo hội hoàn vũ và Giáo lý đức tin, cùng với bà Tổng thư ký Hội đồng Giám mục.
Về phía Tòa Thánh, có Đức Hồng y Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, bốn hồng y Bộ trưởng: Bộ Giáo lý đức tin, Bộ Giám mục, Bộ Hiệp nhất Kitô, Phụng vụ, và Đức Tổng giám mục Bộ trưởng Bộ giáo luật.
Đây là cuộc đối thoại thứ hai, sau cuộc trao đổi ngày 26 tháng Bảy năm ngoái, nhân dịp các giám mục Đức về Roma viếng mộ hai thánh tông đồ và thăm Tòa Thánh.
Sau cuộc gặp gỡ ấy, mặc dù có thư cảnh giác của Tòa Thánh (đề ngày 16 tháng Giêng năm 2024), Hội đồng Giám mục Đức vẫn tiến hành việc thực thi nghị quyết của Con đường Công nghị, cụ thể là dự định bỏ phiếu trong Đại hội mùa xuân, từ ngày 19 đến ngày 22 tháng Hai, tại thành phố Augsburg, nam Đức về quy chế Ủy ban Con đường Công nghị. Ủy ban này gồm 27 đại biểu của Ủy ban trung ương giáo dân Công giáo Đức, gọi tắt là ZDK, và trên nguyên tắc gồm 27 giám mục của 27 giáo phận tại Đức, cùng với 20 người do Con đường Công nghị bầu lên. Ủy ban có nhiệm vụ chuẩn bị cho Hội đồng Công nghị, một cơ quan có tính cách trường kỳ, gồm cả giám mục và giáo dân cùng cai quản và điều hành Giáo hội Công giáo tại Đức, bắt đầu từ năm 2026 tới đây. Đây là điều trái ngược với cơ cấu bí tích và cả đạo lý của Giáo hội.
Theo ủy nhiệm và sự phê chuẩn của Đức Thánh cha, Đức Hồng y Parolin Quốc vụ khanh đã viết thư cấp tốc, ngày 16 tháng Hai vừa qua, yêu cầu các giám mục ngưng việc bỏ phiếu quy chế và đừng đặt Tòa Thánh trước tình trạng “sự đã rồi”. Việc làm như thế cũng làm thương tổn con đường đối thoại hai bên đã thỏa thuận.
Trong cuộc họp vừa qua, các giám mục Đức và Tòa Thánh đã đồng ý với nhau thiết lập một cơ quan tư vấn cho Giáo hội Công giáo tại Đức để phối hợp chặt chẽ hơn việc đối thoại trong tương lai. Sẽ có những cuộc trao đổi thường xuyên hơn giữa các đại diện của Hội đồng Giám mục Đức và Tòa Thánh, về hoạt động tiếp theo của Con đường Công nghị và Ủy ban Con đường Công nghị. Các giám mục Đức hứa rằng hoạt động này nhắm phát triển những hình thức cụ thể về tính đồng hành trong Giáo hội tại Đức, sao cho phù hợp với Giáo hội học của Công đồng chung Vatican II, những đòi hỏi của Giáo luật và kết quả của Thượng Hội đồng Giám mục thế giới. Các giám mục sẽ đệ trình “những hình thức đồng hành” này cho Tòa Thánh để phê chuẩn.
Với lập trường trên đây, trong thực tế các giám mục Đức cam kết không kiến tạo những cơ cấu lãnh đạo mới cho Giáo hội Công giáo tại Đức, trái với Tòa Thánh.
(KNA 22-3-2024)
Tầm nhìn của Đức giáo hoàng Phanxicô về một Giáo hội hiệp hành
Lm. Eamonn Conway[1]
WHĐ (22.03.2024) – Với Đức giáo hoàng Phanxicô, “Thượng Hội đồng” (Synod) và “hiệp hành” (synodality) đã trở thành đồng nghĩa. Kể từ khi Đức giáo hoàng Phaolô VI thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục như một cơ quan thường trực vào năm 1965, chưa có triều đại giáo hoàng nào dành nhiều quan tâm và chú ý đến những vấn đề này như Đức giáo hoàng Phanxicô. Tại sao lại như vậy, và tầm nhìn của Đức Phanxicô đối với một Giáo hội hiệp hành là gì? Cơ bản hơn, theo truyền thống của Giáo hội và Đức Phanxicô thì hiệp hành là gì? Vài năm sau các tiến trình và các cuộc họp đào tạo theo kiểu hiệp hành địa phương và hoàn vũ, dường như nhiều người, ngay cả những vị lãnh đạo nổi tiếng của Giáo hội, sẵn sàng thừa nhận rằng họ vẫn chưa hiểu đầy đủ về tính hiệp hành. Vì lý do này, bài viết nhằm cung cấp một cái nhìn tổng quan và giới thiệu về hiệp hành.
Tôi sẽ bắt đầu bằng cách giải thích rằng ý định của Đức giáo hoàng Phanxicô là đưa Thượng Hội đồng Giám mục vào trong một nền văn hóa hiệp hành hoạt động trong Giáo hội Công giáo. Sau đó, tôi sẽ tiếp tục đề xuất tầm nhìn của Đức Phanxicô về một tiến trình cải cách Thượng Hội đồng là cần thiết, dựa trên kinh nghiệm cá nhân của tôi khi tham gia Đại hội Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XIII vào năm 2012, là Thượng Hội đồng cuối cùng diễn ra dưới thời Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI. Cuối cùng, bài viết sẽ lập luận rằng Đức giáo hoàng Phanxicô đang thực hiện tầm nhìn cải cách Giáo hội của Công đồng Vatican II, và do đó, tầm nhìn của ngài về một Giáo hội hiệp hành về cơ bản là một giai đoạn mới trong việc tiếp nhận Công đồng Vatican II.
Thượng Hội đồng Giám mục là cơ quan cố vấn cho Giáo hoàng tồn tại bên ngoài, độc lập với các cơ cấu quản trị giáo triều; và không phải là một cơ quan của giáo triều Rôma. Thượng Hội đồng chỉ mang tính tư vấn, hỗ trợ Giáo hoàng trong việc điều hành, trong khi luôn tuân theo thẩm quyền của ngài. Trong những thập niên gần đây, kể từ khi được Đức giáo hoàng Phaolô VI thành lập vào năm 1965, để bảo đảm rằng không chỉ các tài liệu của Công đồng sẽ được truyền đi, mà quan trọng không kém, là trải nghiệm công đồng về tính hiệp đoàn phổ quát, đã có 15 kỳ họp thường lệ của Thượng Hội đồng Giám mục cũng như nhiều Đại hội đặc biệt và ngoại thường. Thượng Hội đồng Giám mục XVI hiện đang được tiến hành (2021-2024), mà chúng ta sẽ thảo luận thêm.
Đức giáo hoàng Phanxicô đã gọi Thượng Hội đồng Giám mục là “một trong những thành quả quý giá nhất của Công đồng Vatican II”.[2] Theo đó, ngài đã mở rộng đáng kể ban Tổng Thư ký và giúp Thượng Hội đồng ngày càng nổi bật và có tầm vóc. Vì vậy, về tầm nhìn của Đức giáo hoàng Phanxicô đối với một Giáo hội hiệp hành, chúng ta có thể nói ngay rằng, ngài dự tính Thượng Hội đồng Giám mục sẽ “được tăng cường” trong những năm tới; ngày càng có ảnh hưởng hơn trong việc thi hành thừa tác vụ Phêrô so với trước đây. Động lực của Đức Phanxicô khi làm điều này là nhằm tạo điều kiện cho toàn thể Dân Chúa trên khắp thế giới, trong đó có các Giám mục, Linh mục và Phó tế, trong việc thực thi các đặc sủng và trách nhiệm đặc biệt của mình vì thiện ích của Giáo hội. Tất nhiên, điều này sẽ xảy ra, dưới quyền Phêrô và với Phêrô (sub Petro et cum Petro), dưới thẩm quyền của các Giám mục giáo phận, là những người tham gia vào thừa tác vụ Phêrô và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Quan điểm của riêng tôi, như sẽ được trình bày rõ ở phần tiếp theo, đó là tầm nhìn của Đức Phanxicô về một Giáo hội hiệp hành cần phải trở thành hiện thực để thừa tác vụ Phêrô được thực thi một cách hiệu quả trong một Giáo hội thực sự mang tính hoàn vũ và phổ quát.
Có những lập luận thuyết phục giải thích tại sao phong cách hiệp hành trong Giáo hội, như Đức giáo hoàng Phanxicô ủng hộ, lại là phương tiện tốt nhất để giải quyết nhiều cuộc khủng hoảng mà Giáo hội phải đối diện, cả trong nội bộ lẫn bên ngoài. Về phương diện nội bộ, tính hiệp hành đề xuất một lộ trình hướng tới việc thanh lọc Giáo hội khỏi những trở ngại hiện tại đối với sứ mạng của mình, chẳng hạn như giáo sĩ trị và sự mất uy tín. Về khía cạnh đối ngoại, tính hiệp hành đưa ra lộ trình tốt nhất hướng tới việc sắp xếp và chuyển tải nhiều hồng ân và đặc sủng của Dân Chúa hướng tới việc giải quyết cuộc khủng hoảng sinh thái mà chúng ta đang phải đối diện như là một hành tinh, cũng như những thách đố đối với hệ sinh thái nhân bản đích thực và sự rạn nứt của chủ nghĩa nhân văn huynh đệ toàn cầu, một thực tại đang trở nên quá rõ ràng khi chiến tranh, nạn đói và tình trạng di cư gia tăng.
Từ “synod” (thượng hội đồng) xuất phát từ tiếng Hy Lạp và dùng để chỉ một cuộc họp hoặc một cuộc gặp gỡ, hay sát nghĩa đen hơn, là hành trình dọc theo một lộ trình chung. Từ này tương tự với thuật ngữ “council” (công đồng), là từ tương đương trong tiếng Latin. Trong Giáo hội Công giáo, ít là cho đến nay, Thượng Hội đồng biểu thị một Đại hội của các giám mục cùng với các chuyên gia và cố vấn gặp nhau để tư vấn cho giáo hoàng, hoặc một sự kiện tương tự ở cấp giáo phận hoặc khu vực được thành lập để tư vấn cho các giám mục địa phương. Nếu hiểu như vậy, Thượng Hội đồng chủ yếu phục vụ việc biểu lộ và cổ võ tính hiệp đoàn giám mục, nghĩa là việc thực thi quyền quản trị chung của các giám mục. Tuy nhiên, dưới thời Đức Phanxicô, chúng ta có thể quan sát thấy trong suốt thập niên vừa qua, một sự thay đổi từ tính hiệp hành được thực hiện một cách đơn độc hoặc chủ yếu nhằm phục vụ tính hiệp đoàn giám mục sang tính hiệp hành mang tính giáo hội đúng nghĩa, điều này có nghĩa là việc áp dụng một phong cách hiệp hành trong việc tham gia vào việc đưa ra quyết định của toàn thể Dân Chúa theo cách thức phù hợp với các hồng ân và đặc sủng tương ứng của họ. Chẳng hạn, điều này được thể hiện rõ qua quyết định của Đức Phanxicô dành 70 chỗ cho những người không phải là giám mục tham gia, với quyền biểu quyết, trong hai phiên họp chung vốn là những thời điểm quan trọng của Khoá họp thứ nhất Thượng Hội đồng 2021–2024, diễn ra vào tháng 10.2023.
Kể từ khi nhậm chức vào năm 2013, Đức giáo hoàng Phanxicô đã tổ chức hai Đại hội chung thường lệ của Thượng Hội đồng Giám mục, một Đại hội chung ngoại thường và một Đại hội đặc biệt. Đại hội thứ nhất do ngài triệu tập diễn ra vào năm 2014, một năm sau khi ngài được bầu chọn, và là một Đại hội Thượng Hội đồng ngoại thường về “Các thách đố mục vụ về Gia đình trong bối cảnh của công cuộc loan báo Tin Mừng”. Các Đại hội Thượng Hội đồng ngoại thường là những công việc tương đối nhỏ và ngắn gọn; nói chung, ngoài các chuyên gia và cố vấn, chỉ có một giám mục từ mỗi Hội đồng giám mục tham dự. Trái lại, các Thượng Hội đồng thường lệ có thể có hàng trăm người tham gia và là những sự kiện kéo dài hàng tháng. Thượng Hội đồng thường lệ thứ nhất dưới thời Đức Phanxicô diễn ra vào năm 2015 với chủ đề “Ơn gọi và sứ mạng của Gia đình trong Giáo hội và trong Thế giới ngày nay”. Chủ đề này được chú tâm liên kết với chủ đề của Đại hội Thượng Hội đồng ngoại thường diễn ra trước đó, và khoảng thời gian một năm xen kẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc tham vấn rộng rãi nhất về các vấn đề mục vụ cấp bách mà Giáo hội Công giáo toàn cầu đã chứng kiến kể từ Công đồng Vatican II. Tiếp theo hai Đại hội Thượng Hội đồng về gia đình này là Đại hội thường lệ năm 2018 về “Giới trẻ, Đức tin và Phân định Ơn gọi”, và vào năm 2019 là Đại hội Đặc biệt về Khu vực Amazon.
Thượng Hội đồng Giám mục XVI 2021–2024
Kể từ Công đồng Vatican II, mỗi Thượng Hội đồng đều có một trọng tâm hoặc chủ đề cụ thể. Thượng Hội đồng Giám mục XVI có chủ đề “Vì một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ”. Nói cách khác, đây là một Thượng Hội đồng về chủ đề hiệp hành. Một số nhà bình luận vẫn nói như thể Thượng Hội đồng này sẽ chỉ thực sự bắt đầu khi Đại hội triệu tập vào tháng 10.2023. Họ nói như thể các cuộc thỉnh vấn và thảo luận đã diễn ra cho đến nay chỉ là một giai đoạn “khởi động” cho Thượng Hội đồng, một giai đoạn tạo điều kiện cho việc thỉnh vấn rộng rãi trước và điều này, tuy có giá trị, vẫn chỉ là khúc dạo đầu cho “sự kiện lớn”. Không phải thế. Thượng Hội đồng Giám mục XVI đã được triệu tập long trọng vào ngày 10.10.2021 trong Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô và một tuần sau (ngày 17.10.2021), tại mỗi giáo phận trong Giáo hội hoàn vũ. Thật vậy, mỗi yếu tố tạo thành một phần của tiến trình Thượng Hội đồng, từ thỉnh vấn đến thực hiện, đều nhằm mục đích trở thành những cuộc gặp gỡ cầu nguyện, trong đó, một đàng qua lời nói trung thực và can đảm, đàng khác qua sự lắng nghe cởi mở và đích thực, ý muốn của Chúa Thánh Thần được biểu lộ. Theo Tông hiến Communio episcopalis (2018), việc thỉnh vấn hiện nay là bản chất của tính hiệp hành. Điều này tôn trọng và thừa nhận vai trò không thể thiếu của cảm thức đức tin nơi mọi tín hữu (sensus fidelium) trong việc xác định Giáo hội đáp ứng với các dấu chỉ của thời đại như thế nào. Là một phần của Thượng Hội đồng 2021–2024, hơn một trăm cuộc thỉnh vấn tổng hợp diễn ra ở mọi nơi trên thế giới đã được soạn thảo thành một tài liệu. Tài liệu này sau đó đã được cân nhắc tại 7 Đại hội khu vực trong giai đoạn được gọi là giai đoạn Châu lục. Kết quả của 7 Đại hội này trở thành cơ sở cho một tài liệu làm việc (Instrumentum laboris), được phát hành vào tháng 6/2023, hình thành chương trình nghị sự cho Đại hội Thượng Hội đồng vào tháng 10/2023.
Theo Austen Ivereigh, giai đoạn đầu tiên của tiến trình thỉnh vấn này kết thúc vào tháng 8.2022, là tiến trình tham gia và thỉnh vấn rộng rãi nhất từ trước đến nay trong lịch sử thế giới. Ngoài việc ảnh hưởng đến chương trình nghị sự của Đại hội vào tháng 10.2023, bản thân tiến trình thỉnh vấn còn nhằm mục đích trở thành một trải nghiệm sống động và năng động về hiệp hành trong thực tế. Nói cách khác, tiến trình thỉnh vấn, được hiểu là một tiến trình phân định cầu nguyện của và trong các cộng đoàn Giáo hội, không chỉ nhằm mục đích cung cấp cho một tiến trình Thượng Hội đồng diễn ra sau đó ở Roma mà đúng hơn là ngay trong hiện tại, tự nó, là một sự kiện mang tính hiệp hành trong đời sống của Giáo hội địa phương nơi tiến trình thỉnh vấn diễn ra, mặc dù nó cũng có ý nghĩa phổ quát. Vì vậy, đây là một điểm quan trọng cần xem xét: Liệu các Giáo hội địa phương có tích cực gặt hái và đánh giá dữ liệu mà họ thu thập được trong giai đoạn thỉnh vấn chăng? Liệu các Giáo hội địa phương có sử dụng các dữ liệu này trong việc phân định các chiến lược mục vụ chăng? Liệu các Giáo hội địa phương có chia sẻ dữ liệu này với các cơ quan mục tử khác nhau tại địa phương cũng như với các chuyên gia và cố vấn có liên quan để mọi thứ có thể học được từ dữ liệu sẽ được nghiên cứu từ đó chăng? Như Đức giáo hoàng Phanxicô đã viết trong Tông huấn Evangelii Gaudium,
Giáo hoàng không nên thay thế các giám mục trong việc phân định những vấn đề phát sinh trong địa hạt của họ. Về phương diện này, tôi ý thức được nhu cầu cổ xuý một sự “tản quyền” thích hợp” (số 16).
Do đó, sẽ là một sai lầm, cả về mặt lý thuyết lẫn thực hành, nếu dựa vào hoặc kỳ vọng một trong các Đại hội diễn ra trong Thượng Hội đồng 2021–2024 sẽ đưa ra tất cả các câu trả lời cần thiết cho việc canh tân đức tin Kitô giáo trong các cộng đoàn địa phương. Trong giai đoạn giữa hai Thượng Hội đồng về gia đình (2014–2015), một tiến trình thỉnh vấn có quy mô nhỏ hơn nhiều nhưng vẫn có ý nghĩa đã diễn ra tại các Giáo hội địa phương, nhưng các Hội đồng giám mục không phải lúc nào cũng phân định đầy đủ dữ liệu này để có thể cung cấp thông tin cho việc lập kế hoạch mục vụ và ảnh hưởng đến các chiến lược loan báo Tin Mừng và giáo lý trong khu vực của họ. Nếu làm vậy, một số vấn đề nảy sinh trong tiến trình thỉnh vấn của Thượng Hội đồng hiện tại, chẳng hạn như những vấn đề bị tổn thương và bị loại trừ, có thể đã được giải quyết rồi. Tốt nhất là đừng lặp lại sai lầm tương tự nữa.
Vì vậy, trong tầm nhìn của Đức giáo hoàng Phanxicô về Giáo hội hiệp hành, các Đại hội Thượng Hội đồng Giáo hội chỉ là một thời điểm, chắc chắn là một thời điểm quan trọng, nhưng dù sao cũng chỉ là một thời điểm, trong hoạt động của Thượng Hội đồng Giám mục. Đức giáo hoàng Phanxicô hiện đã chính thức thể chế hóa tiến trình thỉnh vấn vốn diễn ra trước tất cả các Đại hội của Thượng Hội đồng Giám mục trong tương lai. Những cuộc thỉnh vấn này không còn là “các phần bổ sung tùy chọn” nữa. Chúng là phần không thể thiếu trong hoạt động của Thượng Hội đồng Giám mục.[3]
Đức giáo hoàng Phanxicô cũng đã quy định một giai đoạn thực hiện là một phần không thể thiếu trong tiến trình Thượng Hội đồng. Đối với Thượng Hội đồng Giám mục XVI hiện đang diễn ra, việc này sẽ bắt đầu ngay sau khi Đại hội đồng Giám mục kết thúc vào cuối tháng 10.2024.[4] Trước đây, tác động của các Thượng Hội đồng chỉ có thời gian tiến hành ngắn và có xu hướng kết thúc bằng việc ban hành một Tông huấn hậu Thượng Hội đồng, thường là sau một thời gian đủ để mọi người quên đi những gì đã được thảo luận. Rất ít Tông huấn hậu Thượng Hội đồng có nhiều tác động thực sự hoặc có tác động đến cuộc sống hằng ngày của các tín hữu. Tuy nhiên, hiện nay, với việc thực hiện được dự kiến ngay từ đầu như một thời điểm quan trọng trong tiến trình Thượng Hội đồng, việc giảm thiểu tác động của Thượng Hội đồng khó có thể xảy ra trong tương lai.
Chúng ta có thể thấy tại Thượng Hội đồng 2021–2024 một loạt các thời điểm quan trọng khởi đầu bằng việc thỉnh vấn ở cấp Giáo hội địa phương, hướng về Giáo hội hoàn vũ và sau đó quay trở lại thực hiện với các Giáo hội địa phương một lần nữa. Cơ cấu này làm sống động mối tương quan phong phú và hỗ tương giữa các Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ được trình bày rất đẹp trong Hiến chế Lumen gentium (số 23).
Đối với tất cả những điều này, cần phải nhớ rằng toàn bộ tiến trình Thượng Hội đồng chỉ mang tính tham vấn và cố vấn mà thôi. Do đó, các tiến trình và Đại hội Thượng Hội đồng, dù ở cấp khu vực hay hoàn vũ, dẫu có những yếu tố chung với các tiến trình dân chủ, đều không phải là nghị viện, như Đức giáo hoàng Phanxicô đã nhiều lần minh định. Được đặt nền tảng trên sự phân định trong cầu nguyện, tiến trình Thượng Hội đồng thực sự không có ý nghĩa tương đương với nghị viện thế tục.[5] Điều này làm cho khái niệm độc đáo về tính hiệp hành trong Giáo hội Công giáo dễ bị hiểu lầm.
Bây giờ tôi sẽ tiếp tục giải thích tại sao Thượng Hội đồng Giám mục trước đây không “phù hợp với mục đích” và cần được cải cách. Sau đó, tôi sẽ trình bày chi tiết một số yếu tố chính trong tầm nhìn của Đức giáo hoàng Phanxicô về một Thượng Hội đồng Giám mục được đổi mới, được lồng ghép, như ngài mong muốn, trong một Giáo hội hiệp hành. Cuối cùng, tôi muốn gợi ý rằng tầm nhìn của Đức Phanxicô về một Giáo hội hiệp hành về cơ bản là tầm nhìn của Công đồng Vatican II.
Liệu có cần thiết phải cải tổ Thượng Hội đồng Giám mục chăng?
Tôi có thể trình bày vấn đề tại sao Thượng Hội đồng Giám mục lại không phù hợp với mục đích từ trải nghiệm trực tiếp. Mười năm trước (2012), tôi tham dự Đại hội Thường lệ lần thứ XIII của Thượng Hội đồng Giám mục ở Roma có chủ đề “Tân Phúc âm hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo” với tư cách là cố vấn chuyên môn. Vào thời điểm đó, chúng tôi không biết nhưng đây đã được Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI dự định là Đại hội Thượng Hội đồng cuối cùng của ngài, và vì vậy, ngài bảo đảm rằng nó tập trung vào mối quan tâm hàng đầu trong triều đại giáo hoàng của ngài, đó là việc tái Phúc âm hoá ở châu Âu. Đối với Đức Bênêđictô XVI, như đã thấy rõ trong Diễn văn Regensburg nổi tiếng của ngài (2006), tình trạng lành mạnh của Kitô giáo trên toàn cầu phụ thuộc vào sự thịnh vượng của Kitô giáo ở Châu Âu. Sở dĩ như thế là vì theo cách nhìn của ngài về “sự gần gũi nội tại” giữa đức tin trong Kinh thánh và triết học Hy Lạp, và sự gần gũi này mang tính quyết định, không thể thay thế. Tuy nhiên, Châu Âu hiện đang bị tàn phá bởi chủ nghĩa thế tục, dẫn đến sự “sa mạc hóa” di sản Kitô giáo phong phú, sự suy giảm nghiêm trọng trong việc thực hành tôn giáo và thuyết tương đối về giáo lý lan rộng. Thập niên Phúc âm hoá của Đức Gioan Phaolô II dẫn đến thiên niên kỷ mới đã không dẫn đến sự hồi sinh của đức tin ở Châu Âu như triều đại giáo hoàng của ngài đã hy vọng. Cần phải có một sáng kiến mới.
Với tư cách là cố vấn, chúng tôi ngồi gần phía sau hội trường Thượng Hội đồng và nhiệm vụ của chúng tôi là ghi nhận những đóng góp khác nhau từ các Nghị phụ Thượng Hội đồng, tất cả là các giám mục, ngoại trừ một số ít các Bề trên nam tu sĩ. Các nữ tu không có đại diện. Chúng tôi được yêu cầu xác định những điểm tương đồng và khác biệt trong các bài thuyết trình của các giám mục, báo cáo về các chủ đề mới nổi và các chủ đề được quan tâm, đồng thời để ý đến bất kỳ điểm bất thường nào về thần học. Vì tất cả các đóng góp đều đã được viết sẵn và trên thực tế đã được hiệu đính trước, nó chủ yếu là một bài tập trên giấy. Giả định là có thời gian dành cho “những phát biểu tự do”, nhưng những điều này không xảy ra như vậy, vì người ta đã rất cẩn trọng trong việc ai được mời phát biểu. Một tu sĩ dòng Bênêđictô người Mỹ ngồi cạnh tôi đã tóm tắt lại trải nghiệm rất hay: nó giống như “ngày nào cũng ở trên chuyến bay xuyên Đại Tây Dương và bạn thậm chí không được chọn phim để xem”. Ngay từ đầu, trong Đại hội Thượng Hội đồng, các quan chức đã lo ngại về việc các giám mục đăng bài lên mạng xã hội từ bên trong hội trường Thượng Hội đồng, và do đó internet đã bị tắt, gây ra hàng dài khách xếp hàng ở các cửa hàng điện thoại gần đó khi những tham dự viên Thượng Hội đồng đổ xô đi mua thẻ SIM cho iPad của họ để có thể tiếp tục đăng bài lên mạng xã hội.
Chỉ có 3 quan điểm khác biệt đáng kể được đưa ra trong phiên họp Thượng Hội đồng. Vấn đề khác biệt đầu tiên liên quan đến việc sắp xếp thứ tự các Bí tích Khai tâm. Đức hồng y Ouellet, người được nhiều người cho là đại diện cho lập trường của Đức giáo hoàng Bênêđictô, ủng hộ việc quay trở lại với thứ tự truyền thống là chịu phép Thêm Sức trước khi được rước lễ lần đầu. Về vấn đề này, Đức hồng y Ouellet đã bị chất vấn bởi Đức hồng y Wuerl, lúc bấy giờ là Tổng Giám mục của Washington, Hoa Kỳ, và Tường trình viên của Thượng Hội đồng, ngài không phủ nhận sự chặt chẽ về mặt thần học trong quan điểm của Đức hồng y Ouellet, nhưng đã khéo léo bảo vệ sự hữu ích về mặt mục vụ của việc có bí tích khai tâm để cử hành đối với các nhóm tuổi lớn hơn. Sự khác biệt về quan điểm thứ hai nghiêm trọng hơn vì nó liên quan đến quyền lực và thẩm quyền, và vấn đề này dẫn đến một bản văn thỏa hiệp vào phút cuối được đưa vào tài liệu tổng kết của Đại hội Thượng Hội đồng nhằm xoa dịu một thiểu số có ảnh hưởng. Vấn đề là vai trò của các phong trào giáo hội mới và mức độ giám sát liên quan đến các phong trào này lẽ ra phải được trao cho các giám mục giáo phận.
Sự khác biệt thứ ba về quan điểm liên quan đến giáo lý viên. Trong Đại hội đã có một số lời kêu gọi, chủ yếu từ Châu Mỹ Latinh nhưng cũng từ các khu vực khác, về việc thiết lập vị trí của giáo lý viên như một tác vụ bền vững trong Giáo hội. Tuy nhiên, những điều này đã bị các giám mục phản đối vì lo ngại rằng việc thành lập các tác vụ giáo dân bền vững có thể làm giảm đi tính đặc thù của chức linh mục, và do đó, một đề xuất chắc chắn về vấn đề này đã không được đưa vào các đề xuất cuối cùng. Gần một thập niên sau, vào tháng 05.2021, Đức giáo hoàng Phanxicô chính thức thiết lập thừa tác vụ Giáo lý viên.
Các nhóm thảo luận nhỏ (circuli minores) diễn ra vào nửa sau của Đại hội sôi nổi hơn so với các thảo luận trong phòng họp Thượng Hội đồng mặc dù các nhóm thảo luận này cũng được quản lý cẩn thận. Khi quay trở lại Đại hội, không có gì mới ngoại trừ những gì đối với nhiều người trong chúng tôi là tương đối vô hại và điều đó phản ánh những quan điểm đã được định trước. Các nhóm có xu hướng “bầu chọn” người đứng đầu là giáo sĩ cao cấp nhất làm chủ tịch, và nói chung, các thành viên đều cẩn trọng trong những gì họ nói. Một số ít giáo dân tham gia đã được lựa chọn cẩn thận và, nếu có bất cứ chuyện gì, thì các giám mục nhận thấy mình đang xoa dịu những quan điểm cực đoan hơn của giáo dân hiện diện. Chẳng hạn, trong nhóm mà tôi tham gia, một thành viên giáo dân đã nhiều lần vận động Thượng Hội đồng về Tân Phúc âm hóa đưa ra một tuyên bố tiêu đề rõ ràng nhắc lại giáo huấn của Giáo hội về ngừa thai nhân tạo. Các Đức hồng y Dolan và Pell, cả hai đều là thành viên của nhóm, đã bảo đảm với thành viên giáo dân ấy rằng họ hoàn toàn chấp nhận giáo huấn của Giáo hội về vấn đề này nhưng cũng nói rõ, một cách khéo léo nhất có thể, rằng việc nhắc lại giáo huấn của Giáo hội về ngừa thai nhân tạo không thể là một trong những kết quả chính của Thượng Hội đồng về Phúc âm hóa.
Có một số đóng góp thực sự đáng nhớ. Như báo trước cung giọng khiêm tốn hơn của huấn quyền vốn sẽ được chấp nhận sau này dưới thời Đức giáo hoàng Phanxicô, Tổng giám mục Manila lúc bấy giờ là Luis Antonio Tagle đã thúc giục Giáo hội “… học hỏi sức mạnh của sự im lặng. Đối diện với những nỗi buồn, sự nghi ngờ và bấp bênh của mọi người, chúng ta không thể làm như thể có những giải pháp dễ dàng”. Trước sự ngạc nhiên của Đức cha Tagle, vào ngày cuối cùng của Thượng Hội đồng, Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã phong ngài làm Hồng y và sau đó bổ nhiệm ngài vào vị trí cao cấp trong giáo triều. Cùng quan điểm tương tự, người đồng hương Philippines, Đức Tổng giám mục Villegas, nói rằng “Tin Mừng có thể được rao giảng cho những người bụng đói, nhưng chỉ khi cái bụng của nhà giảng thuyết cũng trống rỗng như giáo dân của ông ấy”. Đức Tổng giám mục Canterbury lúc bấy giờ là Rowan Williams đã nói rằng việc loan báo Tin Mừng trong nền văn hóa ngày nay, vốn được đánh dấu bằng những hiểu biết vụn vặt về ý nghĩa của cuộc sống con người, thì chỉ đơn giản là để khôi phục lại niềm tin của mọi người rằng có thể trở thành con người đúng nghĩa. Ngài nói: “Việc nhân hóa sẽ trống rỗng nếu không có định nghĩa về nhân loại được đưa ra trong Ađam thứ hai”. Tương đương với Williams về sự sâu sắc và trí năng, Đức giáo hoàng Bênêđictô chỉ thực hiện một sự can thiệp ngắn gọn nhưng sâu sắc trong Thượng Hội đồng, một bài suy niệm mà ngài hướng dẫn trong giờ Kinh sáng đề cập đến vẻ đẹp của Tin Mừng và sự khao khát khôn nguôi trong trái tim mỗi con người đối với sứ điệp Tin Mừng.[6] Ngài cật vấn:
… nỗi đau khổ lớn lao của con người – trước đây cũng như hiện nay – là thế này: đằng sau sự thinh lặng của vũ trụ, đằng sau những đám mây lịch sử, có hay không có Thiên Chúa? Và, nếu vị Thiên Chúa này ở đó, Ngài có biết chúng ta không, Ngài có liên quan gì đến chúng ta không?
Trong suốt Thượng Hội đồng, hầu như không có cách trình bày nào hay hơn hoặc sâu sắc hơn về nhiệm vụ mà các Nghị phụ Thượng Hội đồng phải đối diện – giải quyết những vấn nạn này của một nhân loại đang đau khổ – hơn những lời hay ý đẹp của Đức giáo hoàng Bênêđictô. Tuy nhiên, thật không may, cách tiến hành Đại hội đã ngăn cản mọi khả năng về một phản ứng giàu trí tưởng tượng và sáng tạo đối với những vấn nạn mà ngài đã đặt ra một cách rõ ràng.
Trong khi đó, khi hàng trăm giám mục từ khắp nơi trên thế giới đang cân nhắc về các chiến lược mới cho việc loan báo Tin Mừng, thì cách hội trường Thượng Hội đồng vài trăm mét, một thảm họa về quản trị có quy mô chưa từng có trong lịch sử Giáo hội gần đây đang diễn ra trong các căn hộ của giáo hoàng và Phủ Quốc vụ khanh. Đầu năm đó, quản gia của Đức Bênêđictô đã bị bắt vì lấy cắp tài liệu mật, nhưng đây chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Nóng lòng muốn đưa ra ánh sáng toàn bộ hành vi sai trái, Đức Bênêđictô XVI đã ủy thác một cuộc điều tra do Đức hồng y Julian Herranz người Tây Ban Nha, đứng đầu, bản văn của cuộc điều tra này sẽ được đưa đến bàn làm việc của Đức Bênêđictô vài tuần sau khi Đại hội Thượng Hội đồng Giám mục thường lệ lần thứ XVI kết thúc vào tháng 12/2012. Mặc dù chưa bao giờ được công bố, nhưng những phát hiện của cuộc điều tra đã chi phối các cuộc thảo luận trước mật nghị giữa các Hồng y sẽ diễn ra vài tháng sau đó và khiến các Hồng y phải kiếm một vị Giáo hoàng mà các ngài cảm thấy có đủ khả năng thực hiện những cải cách hết sức cần thiết trong việc quản trị trong Giáo hội ở mọi cấp độ.
Rõ ràng, vào thời điểm thất thế trong lịch sử Giáo hội hậu Vatican II, Thượng Hội đồng Giám mục, do Đức giáo hoàng Phaolô VI thành lập với mục đích hỗ trợ Giáo hoàng trong việc cai quản Giáo hội và chia sẻ gánh nặng trách nhiệm này với các giám mục với tư cách là một cơ quan hoàn vũ, trên thực tế, đã phải tham gia vào các vấn đề khác xa với những vấn đề cấp bách và nghiêm trọng ảnh hưởng trực tiếp đến Giáo hội là không quan trọng
Đức giáo hoàng Phanxicô tiếp quản
Đức giáo hoàng Phanxicô không tham dự Thượng Hội đồng 2012. Mặc dù đã đến độ tuổi mà một giám mục phải nộp đơn từ chức, nhưng Đức hồng y Bergoglio lúc bấy giờ vẫn còn là Tổng giám mục của Buenos Aires, vì vậy ngài có thể tham dự. Chúng ta có lý do chính đáng để cho rằng Thượng Hội đồng Giám mục khi đó không cuốn hút ngài. Lúc đó, đã quen với các cuộc tranh luận công khai, những can thiệp trung thực và khiêm tốn từ những tiếng nói và quan điểm khác nhau, và sự tin tưởng sâu xa vào sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần vốn là đặc điểm của các cuộc họp theo phong cách hiệp hành của các giám mục thuộc các Hội đồng giám mục Châu Mỹ Latinh (CELAM), rất có thể các Thượng Hội đồng Roma được xếp đặt cẩn thận có lẽ đã làm cho Hồng y Bergoglio khó chịu. Ngoài ra, có thể ngài không mấy quan tâm đến chương trình nghị sự của Thượng Hội đồng mà ngài cho là chủ yếu lấy Châu Âu làm trung tâm. Thực ra, Đức Phanxicô có một quan điểm hoàn toàn đối lập với Đức Bênêđictô XVI về tầm quan trọng của Châu Âu đối với Giáo hội hoàn vũ qua việc bác bỏ một cách minh nhiên kỳ vọng rằng “các dân tộc ở mọi Châu lục, khi bày tỏ đức tin Kitô giáo của họ (sẽ) bắt chước các phương thức diễn đạt mà các quốc gia Châu Âu đã phát triển tại một thời điểm cụ thể trong lịch sử của họ”.[7]
Như chúng ta biết, trong vòng vài tháng sau khi kết thúc Thượng Hội đồng năm 2012, Đức Bênêđictô XVI đã từ nhiệm và Đức Phanxicô trở thành giáo hoàng. Đại hội lần thứ XIII của Thượng Hội đồng Giám mục là Thượng Hội đồng duy nhất kể từ Công đồng Vatican II không có Tông huấn hậu Thượng Hội đồng. Khi Đức Phanxicô tiếp quản, rõ ràng việc chuẩn bị một Tông huấn được Ủy ban Giám mục mà Thượng Hội đồng bổ nhiệm cho mục đích đó soạn thảo cẩn thận đã rất tiến bộ, nhưng Đức Phanxicô đã loại bỏ phần lớn và thay thế bằng bản văn của chính mình, Tông huấn Evangelii gaudium (2013), thực ra, là hiến chương cho triều đại giáo hoàng của ngài. Và với tông huấn đó, tiền tố “tân” (new) trước “phúc âm hóa” (evangelization), có nguồn gốc từ Đức Gioan Phaolô II, ít nhiều đã được đưa vào các sách lịch sử mang tính giáo hội.
Trái lại, Đức giáo hoàng Phanxicô đã hướng Giáo hội quay trở lại Tông huấn Evangelii Nuntiandi (1976) của Đức Phaolô VI, mà ngài đã đề cập đến 3 lần riêng biệt trong những tháng đầu của triều giáo hoàng của mình, mô tả Tông huấn này “chứa đựng những lời hợp thời như thể chúng mới được viết ngày hôm qua; một bản văn rất trọn vẹn nhưng không hề mất đi tính hợp thời của nó; điểm tham chiếu cơ bản vẫn còn phù hợp”; và, “theo thiển ý của tôi, đây là tài liệu mục vụ vĩ đại nhất từng được viết cho đến nay”.[8] Các định nghĩa đơn giản và dễ hiểu về việc Phúc âm hoá đã xuất hiện sớm trên tài khoản twitter @pontifex như, ‘‘Phúc âm hoá nghĩa là gì? Là làm chứng với niềm vui và sự đơn giản về những gì chúng ta là và những gì chúng ta tin tưởng”. Phản ứng của Mỹ Latinh đối với chủ nghĩa thế tục được đặc trưng bởi lời kêu gọi làm chứng vui tươi hơn là than phiền về tình trạng sa mạc hóa. Trong Thượng Hội đồng Giám mục năm 2012, một số giám mục Châu Mỹ Latinh đã bình luận về việc các giám mục Châu Âu nhìn chung có vẻ chán nản và thất vọng ra sao khi bị so sánh với Châu Mỹ Latinh. Nhìn lại quá khứ, chúng ta biết rằng điều này là do Giáo hội Châu Mỹ Latinh khi đó đã đặt ra một lộ trình mới và đầy sinh lực cho mình tại Aparecida vào năm 2007, vốn là một lộ trình đã mang lại hoa trái.
Việc lồng các Thượng Hội đồng trong một Giáo hội hiệp hành
Rõ ràng là thể chế Thượng Hội đồng Giám mục cần được khôi phục và Đức Phanxicô đã nhắm đến điều đó ngay từ những ngày đầu trong triều đại giáo hoàng của ngài. Trong Phần kết của cuốn The Great Reformer (2014) Ivereigh trích dẫn một cuộc phỏng vấn của Đức Phanxicô vào cuối năm 2013. Trong đó, Đức Phanxicô nhắc lại ước muốn của Đức hồng y Martini trong việc cải tổ tiến trình của các Công nghị và Thượng Hội đồng trong Giáo hội và lưu ý rằng Đức hồng y Martini biết rằng đây sẽ là một tiến trình lâu dài và khó khăn, nhưng Đức giáo hoàng Phanxicô đã quyết tâm kiên trì đi theo lộ trình đó “một cách nhẹ nhàng, nhưng chắc chắn và cương quyết”.[9] Đây là điều ngài đã thực hiện. Khi hồi tưởng lại, tôi tin rằng mọi người sẽ nhìn lại triều đại giáo hoàng của Đức Phanxicô và sẽ nhận ra rằng nó có kế hoạch hơn nhiều so với những gì nó thể hiện vào thời điểm đó.
Đức giáo hoàng Phanxicô đang cố gắng khôi phục Thượng Hội đồng Giám mục bằng cách lồng ghép các Đại hội Thượng Hội đồng vào trong một nền văn hóa hoạt động có tính hiệp hành vốn đặc trưng cho chính cách sống và hoạt động của Giáo hội (modus vivendi et operandi).[10] Tính hiệp đoàn giữa các giám mục, tức là tinh thần hiệp thông được chia sẻ và sự cộng tác được thể hiện trong các Đại hội Thượng Hội đồng, đang được neo giữ trong một tính hiệp hành mang tính giáo hội sâu sắc hơn và cơ bản hơn, tức là hành trình hiệp hành của người lữ hành của Thiên Chúa khi họ thực hiện cuộc hành trình đi qua lịch sử.[11]
Đối với Đức giáo hoàng Phanxicô, hiệp hành mô tả một phong cách được bày tỏ qua việc Giáo hội tiến hành nhiệm vụ và công việc hằng ngày của mình như thế nào, “việc thể hiện bản chất của mình là Dân Chúa cùng nhau thực hiện hành trình và được quy tụ lại trong cộng đoàn, được Chúa Giêsu triệu tập trong quyền năng của Chúa Thánh Thần để loan báo Tin Mừng”[12] Nói cách khác, tính hiệp hành, nếu thực sự có tác dụng, sẽ thể hiện trong cách Giáo hội cử hành phụng vụ, điều hành trường học, quản lý tài chính, chuẩn bị cho mọi người lãnh các bí tích, tạo điều kiện và trao quyền cho các hội đồng mục vụ và tài chính, v.v… Thời đại của chủ nghĩa độc tài giáo sĩ đã đến hồi kết. Chỉ bằng việc cầu nguyện và làm việc cùng nhau trong sự tôn trọng lẫn nhau với tư cách là Dân Chúa, người có chức thánh cũng như giáo dân, và dựa trên những ân sủng và đặc sủng đáng khen ngợi của mình, chúng ta mới có thể sống sứ vụ của mình với tư cách là Kitô hữu trong thế giới ngày nay. Tính hiệp hành có tác dụng khi thành quả lao động của chúng ta với tư cách là dân Chúa đang được thu hoạch, khi trải nghiệm hiệp đoàn của chúng ta trong việc phục vụ nhau và cộng đoàn của chúng ta đang được khai thác và hướng dẫn lộ trình xuyên suốt lịch sử mà Giáo hội đi theo.
Đức giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng hiệp hành là tính cấu thành của Giáo hội. Hiệp hành không phải là một tiện ích bổ sung để giáo dân có thể được tuyển mộ vào để củng cố một giai cấp giáo sĩ đang suy sụp. Hiệp hành xuất phát từ sự nhìn nhận rằng mỗi thành viên của Giáo hội đều có một vai trò duy nhất và quan trọng trong sứ mạng của mình, những hồng ân độc đáo được Chúa Thánh Thần ban qua Phép Rửa để phục vụ Vương quốc của Thiên Chúa. Để hoàn thành trách nhiệm của mình như là Kitô hữu, Dân Chúa phải được lên tiếng, được lắng nghe và được nghe. Đối với Đức Phanxicô, hiệp hành bắt đầu bằng việc lắng nghe Dân Chúa. Giáo Hội phải lắng nghe trước khi giáo huấn.
Đức Phanxicô tin chắc rằng cách tiếp cận quản trị này là điều thiết yếu đối với Giáo hội, và đó chính là điều mà Thiên Chúa đang kêu gọi Giáo hội trong thế kỷ XXI. Niềm tin của Đức Phanxicô dựa trên trải nghiệm sống của chính ngài. Tại Châu Âu, chúng ta đang cố gắng bắt kịp các khu vực khác trên thế giới đã đạt được tiến độ tốt hơn trong việc chuyển sang phong cách quản trị hiệp hành, nhất là Châu Mỹ Latinh bản địa của Đức Phanxicô. Sau nhiều thế kỷ là một Giáo hội “sai đi”, xét về mặt các nhà thừa sai, kiểu mẫu và tư duy, Châu Âu hiện đang trải qua một sứ mạng ngược lại, mà Châu Mỹ Latinh, dưới ảnh hưởng của Đức Phanxicô, là nguồn gốc. Chúng tôi không có đủ chỗ ở đây để trình bày chi tiết tầm nhìn của Đức Phanxicô về một Giáo hội hiệp hành có nguồn gốc từ hoạt động của CELAM trong vài thập niên qua và đặc biệt là từ Aparecida (2007), mà chúng tôi đã đề cập đến.
Là một Giáo hội hoàn vũ, có thể nói rằng có lẽ đây là lần đầu tiên kể từ những thập niên đầu của Giáo hội, chúng ta đang được mời khám phá ý nghĩa của việc “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung” (Cv 2,44). Đức Phanxicô không áp đặt cho Giáo hội một số hiểu biết mới mà ngài phát minh ra, nhưng thay vào đó, là loại bỏ những sự lớn dần lên hàng thế kỷ đang cản trở việc loan báo Tin Mừng, để thể hiện bản chất nguyên thủy của Giáo hội về cơ bản là có tính hiệp hành. Ngài mời gọi chúng ta từ bỏ các phong tục, cơ cấu và thực hành mang tính giáo sĩ liên quan đến sự lãnh đạo và quản trị Giáo hội mà chúng ta có xu hướng coi là đương nhiên về cách mọi thứ phải diễn ra nhưng trên thực tế không có sự biện minh hay mệnh lệnh nào của Phúc âm và chưa bao giờ làm như vậy. Điều ngài muốn chúng ta tái khám phá và đặt niềm tin tưởng vào, đó là “hoạt động của Chúa Thánh Thần trong sự hiệp thông với Thân Mình Chúa Kitô và trong hành trình sứ vụ của Dân Chúa”.[13]
Đức giáo hoàng Phanxicô đã mô tả sự biến đổi cần thiết khi chuyển từ một Giáo hội kim tự tháp sang một Giáo hội hiệp hành:
Có một Giáo hội kim tự tháp, trong đó những gì Phêrô nói phải được thực hiện, hoặc có một Giáo hội hiệp hành, trong đó Phêrô là Phêrô nhưng ngài đồng hành với Giáo hội, ngài để Giáo hội lớn lên, ngài lắng nghe Giáo hội, ngài học hỏi từ thực tế này và bắt đầu làm cho nó hài hòa, phân định những gì đến từ Giáo hội và khôi phục nó cho Giáo hội.[14]
Một Giáo hội hiệp hành chỉ có thể tồn tại nếu được lãnh đạo bởi các giám mục, linh mục và phó tế có khả năng đưa ra một phong cách lãnh đạo hiệp hành theo những đường lối mà Đức Phanxicô đã mô tả ở đây.
Bây giờ chúng ta chú ý đến lý do tại sao tầm nhìn của Đức Phanxicô về một Giáo hội hiệp hành về cơ bản lại là tầm nhìn của Công đồng Vatican II.
Tầm nhìn của Đức giáo hoàng Phanxicô là tầm nhìn của Công đồng Vatican II
Đức Phanxicô là vị giáo hoàng đầu tiên kể từ Công đồng Vatican II không tham gia bất kỳ phiên họp nào của Công đồng. Có thể cho rằng, điều này đã mang lại cho ngài một quan điểm mới mẻ khi xác định di sản của Công đồng. Như Massimo Faggioli đã lưu ý, triều đại giáo hoàng của Đức Phanxicô đánh dấu “sự tiếp nhận thứ hai… dưới khuôn đúc của lòng thương xót” và sự tái hội nhập văn hóa của triều giáo hoàng vào Giáo hội toàn cầu.[15] Tính chính thống của lộ trình hiệp hành mà Đức Phanxicô đang thúc giục chúng ta thực hiện trước hết được tìm thấy trong Hiến chế Lumen gentium của Công đồng Vatican II, cụ thể là trong Chương 2 về “Dân Chúa”, và thực ra là chương này đi trước việc bàn đến cơ cấu phẩm trật của Giáo hội và vai trò của hàng giám mục. Cụ thể hơn nữa, Đức Phanxicô chỉ ra một câu chứa đựng một khái niệm khá quan trọng mặc dù không hiển nhiên để hiểu được. Trong diễn văn dành cho các giám mục Ý năm 2021, ngài giải thích rằng,
Thượng Hội đồng không gì khác hơn là làm rõ những gì Hiến chế Lumen Gentium nói: Toàn thể dân Chúa, từ giám mục trở xuống, đều “infallibile in credendo” (bất khả ngộ trong đức tin), tức là không thể sai.[16]
Đức Phanxicô là vị Giáo hoàng đầu tiên kể từ Công đồng Vatican II đã yêu cầu Giáo hội phải nghiêm túc xem xét khía cạnh then chốt này của giáo huấn công đồng, và mặc dù vẫn cần nhiều nghiên cứu thần học hơn để giải thích chính xác “tính bất khả ngộ trong đức tin” của Dân Chúa nghĩa là gì, nhiều học giả đã nhìn thấy trong tầm nhìn của Đức Phanxicô về một Giáo hội hiệp hành là nỗ lực lần đầu tiên để thực hiện giáo huấn trọng tâm này của Công đồng Vatican II.[17]
Tính chính thống đối với cách tiếp cận của Đức giáo hoàng Phanxicô cũng được tìm thấy trong Hiến chế Dei Verbum của Công đồng, vốn chuyển cách hiểu của chúng ta về mạc khải ra khỏi cách hiểu chủ yếu về một tập hợp các giáo lý tĩnh tại ít nhiều được truyền lại từ Đức Kitô cho Phêrô và các tông đồ và tới những người “bé mọn nhất” trong các tín hữu, đến lời mời gọi bước vào mối tương quan giữa các cá nhân với Thiên Chúa Cha qua Đức Kitô, Đấng nói với chúng ta như những người bạn và mời gọi chúng ta hiệp thông với chính Thiên Chúa:
Do đó, qua sự mạc khải này, Thiên Chúa vô hình (x. Cl 1,15; 1 Tm 1,17) do tình yêu dồi dào của Ngài nói với loài người như những người bạn (x. Xh 33,11; Gn 15,14-15) và sống giữa họ (x. Br 3,38), để Ngài có thể mời gọi và đưa họ vào mối hiệp thông với chính Ngài.
Cách hiểu trước, việc truyền lại một hệ thống giáo lý tĩnh tại, không có nhiều chỗ cho Chúa Thánh Thần. Cách hiểu này cũng dẫn đến quan điểm sai lầm rằng huấn quyền là nguồn mạc khải. Trái lại, Hiến chế Dei Verbum dạy rằng huấn quyền là một biện pháp bảo vệ cho mạc khải nhưng không phải là nguồn của mạc khải. Nguồn của mạc khải là Lời Chúa được viết ra, tức là Kinh Thánh, và Lời Chúa được lưu truyền, tức là Thánh Truyền; trong cả hai trường hợp đều được truyền lại cho toàn thể Giáo hội với tư cách là Dân Chúa dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nếu mạc khải chủ yếu là một tiến trình đối thoại giữa Thiên Chúa và nhân loại (xem thêm Dei Verbum các số 21, 25) thì cả hai đối tác trong cuộc đối thoại phải được lắng nghe với lòng thành kính, tức là lời Chúa và dân Chúa. Do đó, cần phải có một Giáo hội hiệp hành, là Giáo hội lắng nghe trước khi giảng dạy. Không phải ngẫu nhiên mà những lời đầu tiên của Hiến chế Dei Verbum là “Lắng nghe Lời Chúa với lòng thành kính…”).
Còn một điểm nữa cần được đưa ra về cách Công đồng Vatican II cung cấp nền tảng và biện minh cho tầm nhìn của Đức Phanxicô về một Giáo hội hiệp hành. Chúng ta cần xem xét không chỉ các bản văn của Công đồng mà còn cả diễn trình của Công đồng. Đối với Đức Phanxicô, việc tiếp nhận Công đồng không chỉ bao gồm việc đọc các bản văn Công đồng dưới ánh sáng của những hoàn cảnh đang thay đổi. Sự tiếp nhận cũng bao gồm việc khôi phục phong cách thảo luận mà Công đồng đã thông qua; cách thức cởi mở và tự tin để giải quyết những vấn đề cấp bách của thời đại dưới ánh sáng của Truyền thống. Do đó, Đức Phanxicô đang thực thi Công đồng Vatican II khi ngài kêu gọi chúng ta đưa tính hiệp hành vào đời sống hằng ngày của Giáo hội. Ngài coi cách thức hiệp hành mà Công đồng Vatican II tiếp cận những thách đố Giáo hội đang đối diện vào thời điểm đó cũng quan trọng như một di sản trong việc vạch ra con đường phía trước như chính các bản văn Công đồng. Mặc dù các văn kiện của Công đồng vẫn mang tính quy phạm, nhưng chúng nhất thiết bị hạn chế ở chỗ chúng không thể lường trước được sự biến chuyển sâu sắc, sự thay đổi của kỷ nguyên và thời đại như Đức Phanxicô đã gọi, ảnh hưởng đến cả con người lẫn hành tinh ngày nay. Vì thế, ngoài các bản văn Công đồng, người ta cũng tìm thấy một di sản bền vững của Công đồng trong cách thức Công đồng là khuôn mẫu cho Giáo hội hoàn vũ về việc chăm chú lắng nghe Chúa Thánh Thần. Công đồng tái khám phá rằng việc lắng nghe Chúa Thánh Thần như vậy là yếu tố cấu thành bản chất của Giáo hội và dự định yếu tố này sẽ tồn tại sau Công đồng qua việc Đức Phaolô VI thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục vào năm 1965.
Chúng ta không nên đánh giá thấp sự chuyển đổi tư duy và trí lực sẽ là cần thiết nếu chúng ta chấp nhận tầm nhìn của Đức giáo hoàng Phanxicô về một Giáo hội hiệp hành. Sẽ có cám dỗ chỉ chấp nhận tính hiệp hành một cách nửa vời, tỏ ra đồng tình với mọi việc với hy vọng rằng một triều đại giáo hoàng mới sẽ quan tâm đến những ưu tiên khác nhau. Một số người sẽ chỉ ra thực tế rằng trước đây chúng ta đã thử các tiến trình theo phong cách hiệp hành trong Giáo hội và những tiến trình đó đã thất bại, gây ra sự vỡ mộng sâu sắc cho nhiều người. Tuy nhiên, cần phải xem xét liệu nỗ lực mới nhất này có nhiều khả năng thành công hơn hay không vì nền tảng đang được chuẩn bị tốt hơn. Các sự kiện Thượng Hội đồng sẽ không còn được chấp nhận như những sự kiện biệt lập trong một nền văn hóa Giáo hội rộng lớn hơn vốn vẫn tiếp tục hoạt động theo phẩm trật và cách độc đoán.
Sẽ có những người khác trong Giáo hội khá thoải mái và đầu tư một cách cá nhân vào cách thức trở thành Giáo hội phẩm trật và độc đoán. Họ có thể có quan điểm rằng cá nhân họ có nhiều thứ để mất. Tuy nhiên, điều này không phải như vậy, bởi vì một Giáo hội theo chủ nghĩa phẩm trật và giáo sĩ trị đơn giản là không có tương lai. Nó không có gì để cống hiến cho Giáo hội, dù là ad intra hay ad extra.
Trái lại, đây là thời điểm để tin tưởng, hy vọng và ước mơ, hay như Đức Phanxicô thường kêu gọi chúng ta là hãy nhìn, đánh giá, và hành động. Hành tinh của chúng ta đang phải đối diện với một cuộc khủng hoảng sinh thái chưa từng có, cần có tiếng nói của một Giáo hội mạnh mẽ và sống động để bảo vệ nó. Giáo hội của chúng ta, đang phải đối diện với tình trạng gần như mất hoàn toàn uy tín tại một số nơi trên thế giới, cần một hình thức quản trị lành mạnh, trưởng thành và tôn trọng tất cả mọi người. Như Đức Phanxicô nói: “Chính con đường hiệp hành này là điều Thiên Chúa mong đợi nơi Giáo hội của thiên niên kỷ thứ ba”.[18]
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: onlinelibrary.wiley.com
[1] Linh mục Eamonn Conway thuộc Tổng giáo phận Tuam, Ireland. Cha là Chủ tịch đầu tiên của Ban Phát triển Con người Toàn diện tại Trường Triết học và Thần học, Đại học Notre Dame Australia. Cha tham gia Thượng hội đồng Giám mục lần thứ XIII vào năm 2012 với tư cách là cố vấn chuyên môn do Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đề cử. Vào tháng 7.2022, Đức giáo hoàng Phanxicô đã chọn cha làm cố vấn chuyên môn cho Đại hội Thượng hội đồng Giám mục XVI, tháng 10.2023.
[2] Phanxicô, Tông hiến Episcopalis communio, (2018), số 1.
[3] Phanxicô, Tông hiến Episcopalis communio, (2018), số 7.
[4] Phanxicô, Tông hiến Episcopalis communio, (2018), các số 21-23.
[5] Gửi tới các nhà lãnh đạo phong trào Công giáo Tiến hành ở Pháp (13.01.2022). Xem https://www.thetablet.co.uk/news/14893/synod-not-aiming-for-parliament-style-consensus-says-pope.
[6] https://www.vatican.va/content/benedict-xvi/en/speeches/2012/october/documents/hf_ben-xvi_spe_20121008_meditazione-sinodo.html
[7] Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, (2013), số 118. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-niem-vui-cua-tin-mung-evangelii-gaudium-46656
[8] https://www.catholicworldreport.com/2013/12/12/the-greatest-pastoral-document-that-has-ever-been-written/
[9] Austen Ivereigh, The Great Reformer, (New York: Henry Holt, 2014), tr. 372 (trích dẫn bài phỏng vấn trên La Repubblica, tháng 10.2013).
[10] Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám mục 2021-2023.
[11] X. Sự đóng góp của Luciani và Nocetti cho tập sách này về sự chuyển đổi từ tính hiệp đoàn Giám mục sang hiệp hành mang tính hiệp đoàn đến tính hiệp hành mang tính giáo hội.
[12] Xem Cẩm nang cho Thượng Hội đồng Giám mục, 1.2. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cam-nang-cho-thuong-hoi-dong-giam-muc-ve-tinh-hiep-hanh-42941
[13] Xem “Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Giáo hội”, Bộ Giáo lý Đức tin, 2018.
[14] Xem Cuộc phỏng vấn với Đức Thánh Cha Phanxicô, ngày 07.12.2016. https://press.vatican.va/content/salastampa/en/bollettino/pubblico/2016/12/07/161207a.html
[15] Bottigheimer, Christoph; Dausner, René (Eds.), VATICANUM 21, Die bleibenden Aufgaben des Zweiten Vatikanischen Konzils im 21. Jahrhundert. (Freiburg: Herder, 2016), p. 29, p. 31.
[16] X. Đức giáo hoàng Phanxicô, Diễn văn tại Đại hội lần thứ 74 của Hội đồng Giám mục Công giáo Ý, ngày 24/05/2021.
[17] Ví dụ, xem Miryam Wijlens, “The Church of God is convoked in Synod: Theological and Canonical Challenges Concerning the 2021-2023 Synod” (bài viết chưa xuất bản được trình bày tại Centro pro Unione, Roma, ngày 14.10.2021).
[18] Ủy ban Thần học Quốc tế, “Tính Hiệp hành trong Đời sống và Sứ vụ của Giáo hội”, số 1. https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/cti_documents/rc_cti_20180302_sinodalita_en.html
Ra mắt game Công giáo mới “MetaSaint” dành cho “Thế hệ Alpha”
Vatican News
Tác giả của game “MetaSaint” là cha Rob Galea, một nghệ sĩ Úc gốc Malta. Thường xuyên làm việc với giới trẻ, việc mục vụ của cha (ICON Ministry) mỗi năm tiếp cận khoảng từ 1,7 đến 2 triệu người, qua các buổi nói chuyện trực tiếp, video và phụng vụ trực tuyến.
Gần đây, cha nhận thấy có một thành phần cha chưa tiếp cận được đó là các em ở độ tuổi từ 0 đến 13, được gọi là “Thế hệ Alpha”. Trong một cuộc phỏng vấn với Vatican News, cha Rob Galea giải thích thế hệ này không có trên phương tiện truyền thông xã hội và ít tham gia các sự kiện trực tiếp so với thế hệ lớn hơn, đó là “thế hệ COVID”.
Tuy nhiên theo cha, Thế hệ Alpha có trên Roblox, một nền tảng chơi game trực tuyến với hơn 70 triệu người dùng hàng ngày. Điều này đã truyền cảm hứng cho cha Galea ra mắt MetaSaint, một trải nghiệm tương tác mới dựa trên vũ trụ Roblox.
Được thiết kế cùng với Dubbit, một studio trò chơi hàng đầu, MetaSaint có một Nhà thờ ảo với không gian để cầu nguyện, suy ngẫm và đọc Kinh thánh. Người dùng cũng có thể chơi trò chơi và thu thập kho báu cũng như tham quan các cảnh trong Kinh thánh.
Vào cuối trải nghiệm, mọi người có thể quyết định xem mình có muốn trở thành MetaSaint không bằng cách thắng một ngọn nến ảo và nhận một đôi cánh thiên thần.
Trong cuộc phỏng vấn, cha Galea cũng trình bày chi tiết về những nỗ lực đã thực hiện nhằm đảm bảo trẻ em được an toàn trong suốt thời gian sử dụng MetaSaint.
Cha Galea cho biết, trò chơi dự kiến ra mắt vào thứ Năm Tuần Thánh tới, ngay trước Lễ Phục sinh. Cha nói: “Thực tế là trong số 70 triệu người trẻ sử dụng nền tảng Roblox có nhiều người sẽ không đến Nhà thờ dịp lễ Phục sinh. Và như thế họ sẽ không được nghe Tin Mừng. Vì vậy, chúng tôi nghĩ rằng đây là thời điểm thích hợp nhất để mang Giáo hội đến với họ, mang Tin Mừng đến với họ”.
Cha xin mọi người cầu chuyện cho hoạt động tông đồ của cha và các cộng tác viên. Cha nói: “Chúng tôi gieo hạt và sau đó Chúa làm cho sinh hoa trái. Xin cầu nguyện cho chúng tôi và cho những người trẻ có cơ hội tương tác với trò chơi này”.
Đức Thánh Cha tiếp kiến nhân viên đài phát thanh và truyền hình RAI
Vatican News
Trước hết về phục vụ, Đức Thánh Cha nói trong lĩnh vực thông tin, phục vụ chủ yếu có nghĩa là tìm kiếm và thăng tiến sự thật, ví dụ chống lan truyền tin giả. Phục vụ cũng có nghĩa là phục vụ quyền của công dân có được thông tin đúng, được truyền tải một cách không thành kiến, không đưa ra kết luận vội vàng nhưng dành thời gian cần thiết để hiểu và suy tư, chống ô nhiễm nhận thức, bởi vì thông tin cũng phải là “sinh thái”, nghĩa là con người. Cuối cùng, phục vụ còn có nghĩa là bảo đảm tính đa nguyên tôn trọng các ý kiến và nguồn khác nhau, bởi vì như Thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định sự thật không bao giờ được áp đặt.
Tuy nhiên, theo Đức Thánh Cha công việc của các nhân viên đài truyền hình không chỉ giới hạn trong lĩnh vực thông tin, nhưng còn liên quan đến phim truyền hình, các chương trình văn hoá giải trí, thể thao, thiếu nhi. Về điều này Đức Thánh Cha nói: “Trong thời đại giàu kỹ thuật của chúng ta, nhưng đôi khi thiếu lòng nhân đạo, điều quan trọng là phải thúc đẩy việc tìm kiếm cái đẹp, khởi động sự năng động của tình liên đới, gìn giữ tự do, làm việc để mọi biểu hiện nghệ thuật giúp tất cả vươn lên, suy tư, biểu cảm, mỉm cười và thậm chí khóc vì xúc động, để tìm được ý nghĩa cuộc sống, một viễn cảnh tốt đẹp, một ý nghĩa không khuất phục trước điều xấu”.
Liên quan đến kỹ thuật và công nghệ, Đức Thánh Cha cho rằng cần phải hành động phòng ngừa, đề xuất các mô hình điều hướng đạo đức để ngăn chặn những tác động có hại và phân biệt đối xử, bất công xã hội của các hệ thống trí tuệ nhân tạo và đấu tranh chống lại việc sử dụng chúng trong việc giảm tính đa nguyên, trong sự phân cực của dư luận hoặc trong việc xây dựng một tư tưởng duy nhất.
Về điểm thứ hai, công chúng, theo Đức Thánh Cha, điều này muốn nhấn mạnh rằng công việc của các nhân viên đài truyền hình Rai kết nối với công ích, dành cho tất cả mọi người chứ không chỉ một số người. Vì thế cần phải cam kết xem xét và đặc biệt cho những người rốt cùng, người nghèo, những người không có tiếng nói, những người bị gạt ra bên lề có tiếng nói.
Tính công chúng cũng bao hàm ơn gọi trở thành một công cụ phát triển kiến thức, giúp mọi người suy tư, mở ra những cái nhìn mới về thực tế và không nuôi dưỡng sự thờ ơ, và giáo dục người trẻ có những ước mơ lớn, với tâm trí và đôi mắt mở ra với thế giới.
Theo nghĩa này, toàn bộ hệ thống truyền thông ở cấp độ toàn cầu cần phải được khuyến khích thoát ra khỏi chính mình và tham gia thảo luận để nhìn xa hơn, vượt ra ngoài. Và theo Đức Thánh Cha, đây là trách nhiệm không thể từ chối của các nhân viên đài truyền hình nếu họ muốn có được mức độ truyền thông cao. Họ không cần phải theo đuổi việc đánh giá xếp hạng mà giảm giá trị nội dung. Hơn nữa, truyền thông chính khi là việc đối thoại vì thiện ích của tất cả mọi người, có thể đóng một vai trò cơ bản trong thời nay cũng như trong việc dệt lại các giá trị xã hội sống động như quyền công dân và sự tham gia.
Hàng ngàn bạn trẻ đến Rôma tìm hiểu sâu hơn về ý nghĩa Tuần Thánh
Hồng Thủy - Vatican News
Truyền thống này bắt đầu từ năm 1968, khi Thánh Josemaría Escrivá đã truyền cảm hứng và thúc đẩy một cuộc gặp gỡ quốc tế của các sinh viên đại học đang tìm cách đào sâu đức tin của mình. Kể từ đó, hàng năm, hàng ngàn sinh viên đến Roma vào dịp Tuần Thánh.
Bên cạnh đó, các tham dự viên sẽ có cơ hội tham gia các cuộc gặp gỡ của các đại học để nghiên cứu và thảo luận sâu về chủ đề "Yếu tố con người" đối với Trí tuệ nhân tạo.
Mục đích của các cuộc thảo luận là tạo ra một không gian suy tư để những người trẻ, khi đối thoại với các chuyên gia từ các lĩnh vực khác nhau, có thể nghiên cứu sâu hơn về cách đóng góp vào việc nhân bản hóa các môi trường xã hội và nghề nghiệp khác nhau.
Quy tụ tại Roma là cơ hội để các bạn trẻ sống Tuần Thánh với đời sống cầu nguyện mãnh liệt hơn, tìm hiểu thành phố Roma, tham gia các chuyến tham quan có hướng dẫn viên đến các viện bảo tàng, triển lãm nghệ thuật, cũng như tham quan những nơi mà họ có thể đi theo bước chân lịch sử của Giáo Hội từ những thế kỷ đầu tiên. (ACI Prensa 22/04/2024)
Truyền hình trực tiếp Thánh Lễ Lá do Đức Thánh Cha chủ sự
Truyền hình trực tiếp Thánh Lễ Lá do Đức Thánh Cha chủ sự
Vatican News Tiếng Việt truyền hình trực tiếp với thuyết minh tiếng Việt
Thánh Lễ Chúa Nhật Lễ Lá do Đức Thánh Cha chủ sự tại Quảng trường thánh Phêrô
Múi giờ:
- Giờ Roma: 10:00
- Giờ Việt Nam: 16:00
Nguồn: VATICAN NEWS TIẾNG VIỆT
Tiếp kiến chung của Đức Thánh cha: Đức khôn ngoan hướng dẫn chúng ta nên thánh
Sáng thứ Tư, ngày 20 tháng Ba vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô đã tiếp kiến chung hơn 15.000 tín hữu hành hương, tại Quảng trường thánh Phêrô.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Như thường lệ, Đức Thánh cha đi xe mui trần tiến ra quảng trường, gần 15 phút trước khi bắt đầu tiếp kiến, để chào thăm các tín hữu hành hương, giữa tiếng nhạc của một ban nhạc.
Lên tới lễ đài, trên thềm Đền thờ, Đức Thánh cha chào thăm tám giáo dân nam nữ làm thông dịch viên trong buổi tiếp kiến này. Họ đọc đoạn ngắn, trích từ sách Châm Ngôn, đoạn thứ 15 (15,14.21-22.33):
“Trí người minh mẫn kiếm tìm tri thức, miệng kẻ ngu si ham thích chuyện điên rồ. Kẻ ngu si lấy điều dại làm vui, người hiểu biết cứ thẳng đường mà tiến... Thiếu tiền bạc, chương trình đổ vỡ, nhiều cố vấn, ắt sẽ thành công. Lòng kính sợ Chúa là trường dạy khôn ngoan, khiêm nhu là đường dẫn đến vinh dự”.
Bài giáo lý
Trong bài giáo lý tiếp đó, Đức Thánh cha tiếp tục loạt bài về các nết xấu và các nhân đức. Bài thứ mười hai này có tựa đề: “Đức khôn ngoan”.
Vì giọng của Đức Thánh cha vẫn chưa được tốt, nên ngài chỉ giới thiệu và sau đó để một linh mục thuộc Phủ Quốc vụ khanh đã đọc thay ngài bài giáo lý sau đây.
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Chúng ta dành bài giáo lý hôm nay để nói về đức khôn ngoan. Nhân đức này hiệp với đức công bình, can đảm và tiết độ, họp thành những nhân đức trụ. Đây không phải là đặc quyền của các tín hữu Kitô, nhưng thuộc về gia sản khôn ngoan xưa kia, đặc biệt của các hiền triết Hy Lạp. Vì thế, một trong những đề tài liên hệ trong cuộc gặp gỡ và hội nhập văn hóa chính là các nhân đức.
Trong các tác phẩm thời Trung cổ, việc trình bày các nhân đức không phải chỉ là liệt kê các đức tính tích cực của tâm hồn. Lấy lại các tác giả cổ điển dưới ánh sáng mạc khải Kitô, các nhà thần học đã nghĩ ra một bộ bảy nhân đức: ba nhân đức hướng thần và bốn nhân đức trụ - như một thứ cơ quan sinh động, trong đó mỗi nhân đức có một chỗ đứng hòa hợp. Có những nhân đức chính và nhân đức phụ, như những trụ chính, các cột tròn và các cột vuông, các đầu cột. Vì thế, không kém kiến trúc của một nhà thờ chính tòa thời Trung cổ, có thể biểu lộ một ý tưởng về sự hòa hợp ở trong con người và liên tục hướng về điều thiện.
Khôn ngoan là gì?
Vì vậy, chúng ta hãy bắt đầu từ đức khôn ngoan. Nó không phải là nhân đức của người nhút nhát sợ hãi, luôn do dự về hành động cần thực hiện. Không phải vậy! Đó là một sự giải thích sai lầm. Đó cũng chẳng phải là sự thận trọng. Dành chỗ đứng hàng đầu cho sự khôn ngoan có nghĩa là hành động của con người ở trong tay trí tuệ và tự do của họ. Người khôn ngoan có tinh thần sáng tạo: lý luận, lượng định, tìm cách hiểu sự phúc tạp của thực tại và không để cho mình bị đảo lộn vì cảm xúc, lười biếng, áp lực của những ảo tưởng.
Bài học của người xưa
Trong một thế giới bị thống trị do cái vẻ bề ngoài, những tư tưởng hời hợt, sự tầm thường của điều thiện cũng như điều ác, bài học của người xưa về sự khôn ngoan đáng được phục hồi.
Thánh Tôma Aquinô, theo vết của Aristote, gọi sự khôn ngoan là “lý trí ngay thẳng trong hành động”, recta ratio agibilium. Đó là khả năng điều khiển các hành động để hướng chúng về điều thiện; vì lý do đó, lý trí được gọi là “người dẫn đưa các nhân đức”. Người khôn ngoan là người có khả năng chọn lựa: bao lâu còn ở trong sách vở, đời sống luôn dễ dàng, nhưng khi ở giữa các cơn sóng gió của đời sống thường nhật thì lại hoàn toàn khác, nhiều khi chúng ta không chắc chắn và không biết phải đi về phía nào. Người khôn ngoan thì không chọn lựa tình cờ: Trước tiên, họ biết mình muốn gì, vì thế cân nhắc các tình trạng, tham khảo ý kiến, với cái nhìn bao quát và tự do nội tâm, chọn lựa con đường nào phải theo. Nói như thế không có nghĩa là họ không thể sai lầm. Xét cho cùng, chúng ta vẫn luôn là con người; nhưng ít là sẽ tránh được những lầm lẫn lớn. Đáng tiếc là trong mỗi môi trường đều có người có xu hướng giải quyết các vấn đề bằng những quyết định hời hợt hoặc luôn tạo nên những bút chiến, tranh luận. Trái lại, đức khôn ngoan là đặc tính của người được kêu gọi cai quản. Họ biết rằng quản trị là khó khăn, những quan điểm thì có nhiều và cần phải tìm cách hòa hợp chúng, và không phải mưu ích cho người nào đó nhưng cho tất cả mọi người.
Cách hành xử khôn Ngoan
Đức khôn ngoan cũng dạy - như tục ngữ vẫn nói “điều tốt nhất là kẻ thù của điều thiện”. Thực vậy, quá nhiệt thành, trong một số hoàn cảnh có thể tạo nên thảm họa. Nó có thể làm hỏng việc xây dựng lẽ ra phải đi từ từ; nó có thể tạo nên những xung đột và hiểu lầm; thậm chí có thể làm bùng lên bạo lực.
Người khôn ngoan biết nhớ quá khứ, không phải vì sợ tương lai, nhưng vì biết rằng truyền thống là một gia sản khôn ngoan. Đời sống là một sự tích lũy liên tục nhưng điều cũ và mới, và thật là điều không tốt khi nghĩ rằng thế giới bắt đầu từ chúng ta, các vấn đề chúng ta phải đương đầu bằng cách đi từ con số không. Và người khôn ngoan cũng là người nhìn xa trông rộng. Một khi đã quyết định về mục tiêu phải hướng tới, thì cần phải lo liệu mọi phương thế để đạt tới đích.
Giáo huấn của Tin mừng
Bao nhiêu đoạn trong Tin mừng giúp chúng ta giáo dục về khôn ngoan. Ví dụ: người khôn ngoan là người xây nhà trên đá tảng và người thiếu khôn ngoan xây nhà trên cát (Xc Mt 7,24-27). Người khôn ngoan là những trinh nữ mang dầu theo với đèn của mình và những trinh nữ khờ dại là những người không làm như vậy (Xc. Mt 25,1-13). Đời sống Kitô là một sự liên kết giữa đơn sơ và táo bạo. Khi chuẩn bị các môn đệ để sai đi truyền giáo, Chúa Giêsu dặn dò họ: “Này đây, Thầy sai các con như chiên con giữa sói; vì thế các con hãy khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu” (Mt 10,16). Giống như nói rằng Thiên Chúa không chỉ muốn chúng ta là thánh. Ngài muốn chúng ta nên thánh khôn ngoan, vì nếu không khôn ngoan thì rất dễ lạc đường!
Chào thăm và kêu gọi
Sau bài giáo lý trên đây là phần tóm tắt và chào thăm các tín hữu bằng các ngôn ngữ khác nhau, kèm theo những lời nhắn nhủ của Đức Thánh cha.
Đặc biệt, khi chào bằng tiếng Ba Lan, Đức Thánh cha nhận xét rằng: “Mỗi năm, vào ngày 24 tháng Ba, tại Ba Lan có cử hành Ngày toàn quốc về Sự sống. Khi nghĩ đến tổ quốc của anh chị em, tôi muốn kể với anh chị em ước mơ của tôi, mà tôi đã bày tỏ cách đây vài năm, khi viết về Âu châu. Đó là Ba Lan là một lãnh thổ bảo vệ sự sống con người trong mọi lúc, từ khi nảy sinh trong lòng mẹ cho đến lúc chết tự nhiên. Anh chị em đừng quên rằng không ai là chúa tể sự sống, sự sống của mình cũng như sự sống của những người khác.”
Tại Ba Lan, chính phủ mới đang chủ trương mở cửa cho việc phá thai và các giám mục đã lên tiếng cảnh giác về vấn đề này.
Bằng tiếng Ý, Đức Thánh cha đích thân chào thăm liên minh cách thành thị có liên hệ tới việc tôn kính thánh Oronzo, giám mục tử đạo và nói rằng: “Anh chị em thân mến, ước gì chứng tá của vị bổn mạng của anh chị em trên thiên quốc mà tôi vui mừng làm phép ảnh của người, khơi lên nơi mỗi người trong anh chị em ước muốn ngày càng gắn bó với Chúa Kitô và Tin mừng.”
Đức Thánh cha nghĩ đến những người trẻ, các bệnh nhân, người cao tuổi và các đôi tân hôn, đồng thời nhắn nhủ rằng: “Chúng ta mới mừng lễ trọng kính thánh Giuse, bổn mạng Giáo hội hoàn vũ. Cùng với anh chị em, tôi muốn phó thác cho sự phù trợ của thánh nhân toàn thể Giáo hội và thế giới, nhất là những người cha tìm thấy nơi thánh Giuse mẫu gương đặc biệt cần noi theo.
Chúng ta cũng phó thác cho thánh Giuse các dân tộc Ucraina và Thánh địa đang chịu đau khổ rất nhiều vì chiến tranh. Chúng ta hãy nhớ rằng chiến tranh luôn là một thất bại. Cần thương thuyết để chấm dứt chiến tranh.
Buổi Tiếp kiến chung được kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh cha.