Tin nổi bật
Cách nghệ sĩ Inès Rheins mang Chúa vào gia đình cho các con
Bà Inès Rheins, người tạo thương hiệu Những điều vô giá, Les Inestimables.
fr.aleteia.org, Mathilde de Robien, 2023-06-01
Bà Inès Rheins, 36 tuổi, vừa ra mắt thương hiệu đồ trang trí trong một lãnh vực đặc biệt: các loại dụng cụ treo cho phòng trẻ em. Những dụng cụ kỳ diệu nhỏ trong các đồ trang hoàng của bà: các ‘nhà nguyện’ nhỏ treo tường. Một cách tuyệt vời để khuyến khích trẻ em cầu nguyện.
Bà là cựu giám đốc của một công ty trang trí nhỏ, bà có bằng thạc sĩ nghiên cứu thị trường, đã lập gia đình và là mẹ của ba đứa con trai, bà khám phá ra bà có đam mê với những loại trang trí treo tường. Giấy, lông vũ, len… bà dùng tất cả để biến chúng thành vật dụng trang trí cho phòng trẻ em. Tháng 3 vừa qua, bà ra mắt thương hiệu Những điều vô giá và trang web của bà. Là người công giáo giữ đạo, bà dùng tài năng nghệ sĩ của mình để phục vụ đức tin, bà làm các phòng nguyện nhỏ treo tường để khuyến khích trẻ em cầu nguyện. Ước mơ của bà không kém phần quan trọng: mang đến cho trẻ em ước muốn cầu nguyện và trở thành bạn của Chúa Giêsu.
Năm năm trước, vợ chồng bà và ba người con rời Paris để về Burgundy, vùng Mellecey định cư, bà nói: “Tôi muốn làm một công việc thủ công để nói lên đức tin của tôi.” Một nhu cầu gần đây để làm chứng cho đức tin của bà. Bà giải thích: “Khi chúng tôi còn ở Paris, tôi không thoải mái lắm khi nói về Chúa. Nhưng khi các con ra đời, chúng đã khơi dậy một đức tin mạnh mẽ hơn cho đời sống gia đình của tôi, dù chúng tôi đã được cộng đồng giáo xứ rất linh hoạt của chúng tôi nâng đỡ nhưng tôi muốn làm chứng cho tất cả những điều này qua công việc của tôi.” Đó là lý do vì sao giữa các vật dụng treo tường, vòng hoa và mũ juju bằng lông vũ truyền thống của người Cameroon là những phòng cầu nguyện nhỏ treo tường.
Phát triển sự thân tình với Chúa
Những góc cầu nguyện được cá nhân hóa, gồm thánh giá, hoa nến, hình ảnh Đức Mẹ, chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần, thiên thần tượng trưng cho thiên thần hộ mệnh, một em bé cầu nguyện, một giá vẽ nhỏ mà em bé có thể đặt ‘các thẻ cầu nguyện’ vào. Bà nói: “Tôi thích ý tưởng có một góc cầu nguyện trong phòng trẻ em. Chúa Giêsu có toàn chỗ của Ngài ở đó. Ngài dự phần trong đời sống của trẻ em, và đứa trẻ nói chuyện với Ngài như nói với một người bạn, dễ thân tình hơn là khi cầu nguyện ở phòng khách. Ước mong của tôi là giây phút cầu nguyện này giúp cho đứa bé thân tình hơn với Chúa và buổi cầu nguyện thành một giây phút tốt đẹp.”
Một trực giác mà bà đã có thể “chứng nghiệm” với chính các con của bà từ 5 đến 8 tuổi, đặc biệt để cho chúng làm nhân vật chính khi cầu nguyện. Nhà nguyện gồm bảy “thẻ cầu nguyện”, một thẻ cho mỗi ngày trong tuần, giúp các em bắt đầu giờ cầu nguyện. Bà giải thích: “Thật khó cho một em bé bắt đầu cầu nguyện. Việc chọn một từ, đặt nó lên giá và bắt đầu cầu nguyện với từ đó làm cho lời cầu nguyện trôi chảy hơn và làm dễ dàng cho việc suy niệm.”
Ở gia đình bà Inès, phản xạ được thực hiện ngay! Bây giờ các con của bà xin bà thêm ‘thẻ cầu nguyện’ và ngay cả còn gợi ý cho bà các ý tưởng về những câu trích dẫn mà chúng chọn trong những lời cầu nguyện hoặc trong các câu Thánh Kinh chúng nghe được. Ngoài những câu của bà như “Khiêm nhường trong im lặng trái tim tôi”, “Tôi chúc tụng Thiên Chúa của tôi vì tôi là điều kỳ diệu”, xin “Chúa tạo dựng trong con một trái tim tinh tuyền”… bây giờ có thêm câu của các con xin: “Lạy Chúa, xin làm cho con là người kiến tạo hòa bình”.
Một ý tưởng quà tặng tốt đẹp cho các lễ rửa tội, rước lễ lần đầu hoặc thêm sức!
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Henri, anh hùng của vụ tấn công Annecy mong muốn khơi dậy nơi mọi người những gì cao cả và đẹp đẽ
Bài phỏng vấn trên trang Aleteia và Gia đình công giáo. fr.aleteia.org và famillechretienne.fr, 2023-06-13
Chỉ trong vài giờ Henri d’Amselme trở thành “anh hùng ba-lô” khi anh đi dạo ở công viên Annecy và đã can đảm can thiệp kịp thời vào người tấn công bằng dao để không gây thêm thiệt hại.
Anh nói: “Những gì xảy ra mang một ý nghĩa.”
Khi vừa đi thăm nhà thờ chính tòa tráng lệ Annecy trong chương trình đi thăm các nhà thờ chính tòa ở Pháp và chuẩn bị lên đường đi thăm một nhà thờ chính tòa khác, anh Henri, 24 tuổi, bị cuốn vào nỗi kinh hoàng lạnh người của một cuộc tấn công bằng dao. Thứ năm, ngày 8 tháng 6, cuộc đời của anh đã thay đổi: tại đây anh phải đối diện với ông Abdalmasih H, người đã cầm dao đâm bốn em bé. Không lùi bước, chỉ né tránh những cú đánh mà kẻ tấn công muốn giáng vào anh, anh chặn đường ông ta, sau đó cùng với một giáo viên dạy toán trẻ truy đuổi ông.
Ngay lập tức, hành động dũng cảm của anh được cả nước Pháp ca ngợi và anh trở thành “anh hùng ba-lô”. Tiếp theo là tốc độ nhanh chóng của làn sóng ca ngợi, biết ơn trên mạng xã hội, đài phát thanh, đài truyền hình và cuối cùng là gặp Tổng thống Pháp… Vài ngày sau thảm kịch, luôn bình thản, anh làm chứng cho lý do anh hành động và đức tin sống động đã nuôi dưỡng anh.
Khi can thiệp để chống lại Abdalmasih H., anh nói anh không suy nghĩ, chỉ hành động “theo bản năng”, như có một cái gì đó thúc đẩy. Theo anh, đó là gì?
Henri d’Anselme. Khi tôi biết đây không phải là cướp giựt mà tấn công bằng dao, não của tôi như bị khóa lại. Đó là lý do vì sao tôi nói đây là bản năng, vì thực sự, trước hết, đó chính là bản năng. Nói theo ngôn ngữ con người, đó là bản năng động vật. Nhưng nếu chúng ta nghĩ xa hơn, tôi tin chắc bản năng này có một động lực thúc đẩy. Đó là phần thiêng liêng: thực sự có một loại nội lực thôi thúc chúng ta làm điều gì đó mà chúng ta không nghĩ mình có thể làm được.
Khi đối diện với kẻ tấn công, nỗi sợ hãi chắc chắn bao trùm lấy chúng ta. Nhất là khi thấy ai đó có vẻ điên rồ. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng người đó bị một cái gì đó xấu xa xâm chiếm.
Đúng, vì đó là như vậy. Tôi không thể dò tâm hồn hay trí óc, thật khó để chẩn đoán hoặc đưa ra ý kiến về những chuyện như vậy, nhưng tôi thấy có một cái gì cực kỳ không lành mạnh, trong mắt ông đó, trong những gì ông ấy lộ ra. Thêm nữa trước khi hành động, ông kêu tên Chúa Giêsu Kitô, tôi nhớ tôi đã nói với ông: “Đừng kêu tên Chúa Giêsu Kitô, Ngài không mắc mớ gì đến ông.” Tôi rất sợ, nhưng lúc đó tôi không nhận ra tôi có thể chết.
Hình ảnh của đại tá Arnaud Beltrame hiện lên trong đầu tôi khá nhanh, giống như một ý tưởng cố định.
Anh đã nhiều lần nhắc đến cố đại tá Arnaud Beltrame, ông đã truyền cảm hứng đặc biệt nào cho anh?
Có, ngay cả trước vụ này, tôi đã rất ngưỡng mộ đại tá. Câu chuyện cá nhân và hành trình thiêng liêng của cố đại tá đã truyền cảm hứng cho tôi, tôi kính trọng cố đại tá vô cùng. Là người, tôi cảm thấy gần gũi với ông, là tín hữu kitô, ông là tấm gương của tôi. Con đường hoán cải của ông kết thúc bằng việc hiến mạng sống mình cho người khác. Hình ảnh của Arnaud Beltrame hiện lên trong đầu tôi khá nhanh, giống như một ý tưởng cố định. Khi chúng tôi ra khỏi công viên để đuổi theo kẻ tấn công, tôi để túi xách to của tôi xuống đất, tôi nghĩ: cố đại tá làm thì tôi cũng làm.
Arnaud Beltrame, một quân nhân theo bước chân Thánh Maximilien Kolbe
Chúa Kitô mời gọi chúng ta hãy tha thứ cho kẻ thù của mình, hãy giơ má bên kia… Anh có cầu nguyện cho kẻ tấn công mình không?
Tất nhiên, chúng ta thực sự phải cầu nguyện cho thủ phạm! Tôi thấy ngay người đàn ông đáng thương này không còn chính là ông nữa, ông không còn chút gì là con người trong ông. Ông hành động theo sự thúc đẩy của một cái gì hoàn toàn đen tối, một cái gì ở ngoài con người ông. Còn tôi, tôi hành động theo sự thúc đẩy của một điều gì đó tốt đẹp tiên nghiệm… Nói một cách phức tạp hơn, đó là một hình thức đấu tranh của cánh chung.
Anh đã cầu nguyện khi bị tấn công? Và sau?
Thực sự không thể, khi hành động, trái tim thốt ra một lời cầu nguyện bằng lý trí. Bộ não của tôi gần như bị khóa. Nếu phải có một lời cầu nguyện, thì chính hành động là lời cầu nguyện. Đó là lý do vì sao tôi nói, một nội lực rất lớn đã giúp tôi hành động. Tuy nhiên, khi ông ấy đã được chế ngự, tôi gặp những em bé bị thương và việc đầu tiên là tôi đọc Kinh Kính Mừng trong lòng.
Vài tháng trước anh lên chương trình đi thăm các nhà thờ chính tòa, việc anh có mặt ở Annecy có gì khác ngoài sự trùng hợp không?
Tôi không muốn đẩy tôn giáo đến mức cực đoan, tôi không nghĩ tôi là con chiên ngoan đạo, tôi là người công giáo giữ đạo nên tôi tin vào Chúa Quan phòng. Tôi nghĩ tôi khẳng định những gì xảy ra đều mang một ý nghĩa, Chúa luôn ở đó, dù Ngài không hiện diện.
Anh nói: “Tôi đã không tình cờ ở đó?” Có phải Chúa Quan phòng dẫn anh đến đây?
Đúng, khi chúng ta tin vào Chúa thì ngay cả câu hỏi này cũng không được đặt ra. Dĩ nhiên Chúa muốn tôi dừng lại ngồi trên chiếc ghế dọc theo bờ Pâquier trong nửa giờ để trả lời tin nhắn, ngắm phong cảnh, rồi lại đi bộ tiếp theo con đường đó, có nhiều con đường, lẽ ra tôi có thể chọn con đường ngắn hơn… Khi chúng ta nhìn cuộc sống bằng con mắt đức tin, chúng ta nhận ra Chúa Quan Phòng can thiệp mỗi ngày, và không chỉ trong những thời điểm quan trọng!
Henri d’Anselme, anh hùng của thảm kịch ở Annecy: “Tôi đã không tình cờ ở đó”
Có phải đức tin đã “điều kiện hóa” để anh làm như thế không?
Tôi may mắn, vì tôi được rơi vào “lọ thần” ngay từ khi còn nhỏ. Tôi được nuôi dạy trong một gia đình còn giữ đức tin và truyền thống qua gương của cha mẹ, của ông bà và tổ tiên, điều này làm cho các ước muốn lớn lao được lớn lên. Gia đình là nơi đầu tiên tôi học sống như một cộng đồng, quan tâm đến người khác trước khi sinh hoạt qua các lãnh vực rộng lớn như trường học, hướng đạo, nghiên cứu…
Sinh hoạt hướng đạo đã giúp tôi rất nhiều, được thể hiện qua điều 3 của Luật Hướng đạo: “Hướng đạo sinh phục vụ và cứu người anh em mình.” Hướng đạo giúp tôi nuôi dưỡng lý tưởng và nội lực bên trong để hành động như một tín hữu kitô. Đó là lý do tôi không thích được khen tặng “anh hùng quốc gia”, tôi chỉ hành động như một tín hữu kitô bình thường cố gắng áp dụng Tin Mừng.
Mối quan hệ của tôi với Chúa đã trưởng thành trong 24 năm. Tôi không thể nói đây là chuyện hiển nhiên, tất cả tín hữu kitô đều có những nghi ngờ, những trở ngại trong đời sống đức tin của họ, nhưng vào những thời điểm quan trọng trong đời tôi, tôi cảm thấy sự hiện diện đầy yêu thương này muốn cùng tôi làm một điều gì đó lớn lao. Việc lãnh nhận các bí tích, sinh hoạt hướng đạo đã tạo thành các dấu mốc giúp tôi trưởng thành và đặt nền móng vững chắc để tôi cố gắng hành động theo đúng thông điệp của Chúa Kitô. Chúng ta được yêu cầu gieo hạt, phần còn lại, chuyện gì đến sẽ đến.
Henri d’Anselme, người hướng đạo sinh đã can thiệp vào thảm kịch Annecy
Nhanh chóng anh được đưa ra ánh sáng. Trong vòng 24 giờ, anh là người hành hương vô danh bỗng thành anh hùng. Anh được kêu gọi để công khai làm chứng cho đức tin, dù đôi khi anh cũng bị chỉ trích. Anh rút ra bài học nào ở đây?
Chuyện này không dễ chịu chút nào, lại thêm không thoải mái để thoát khỏi ẩn danh. Nhưng tôi vẫn nghĩ, chuyện xảy ra đã mang một ý nghĩa nào đó, buộc tôi phải nhìn tất cả những điều này bằng con mắt mới nhưng vẫn giữ một khoảng cách cần thiết. Tôi cầu nhầu một chút vì tôi vẫn còn đau khi sống với nó, nhưng tôi vẫn vui vì có thể làm chứng cho chuyện này. Đối với tôi, không có gì là mãi mãi mất đi. Tôi phải có nghĩa vụ hành động, phải nói. Tuy nhiên hoa quả tự nó sẽ đi ra, nó không của tôi, nó không phụ thuộc vào tôi. Chúng ta được mời gọi để gieo hạt, phần còn lại, chuyện gì đến sẽ đến. Tôi nói những gì tôi nghĩ, tôi khẳng định những gì tôi tin. Nếu để phục vụ Chúa Kitô, thì không có gì xấu có thể xảy ra.
Anh có một thánh đặc biệt nào để noi gương không?
Tôi gắn bó chặt chẽ với Đức Trinh Nữ, Đấng tôi vô cùng yêu mến. Lòng sùng kính Đức Mẹ này đến với tôi từ các đan sĩ Lagrasse. Cùng với Đức Mẹ, tôi có bốn thánh hiệp sĩ vĩ đại của Thiên đàng: Thánh Henri, Thánh Lu-i, Thánh Giăng Đắc, Tổng lãnh thiên thần Micae.
Đoạn Tin Mừng nào anh thích nhất?
“Mỗi lần anh chị em làm điều này cho một trong những người bé nhỏ nhất, là anh chị em đã làm cho Ta.”
Anh đã xin tổng thống Macron để được dự lễ khánh thành Nhà thờ Đức Bà. Vì sao điều này lại quan trọng với anh?
Tôi sẽ rất vui khi được dự lễ khánh thành Nhà thờ Đức Bà vì nó mang tính biểu tượng. Đó là cách để tôi tập trung lại sự chú ý vào những gì thực sự quan trọng, khi mọi máy quay hướng về chúng ta. Tôi muốn nói với Tổng thống, vấn đề không phải là ngụy anh hùng, nhưng là thông điệp được truyền tải. Trong trường hợp này, tôi muốn khơi dậy mọi người nên nhìn vào những gì cao cả và đẹp đẽ, qua các thánh đường, di sản, phong cảnh của chúng ta. Một điều gì đó cực kỳ đau đớn và cực mạnh đã xảy ra ngày thứ năm 8 tháng 6, tôi cầu nguyện để các chính trị gia rút ra được các bài học đúng đắn. Nhưng với tư cách cá nhân, mỗi người ở cấp độ và trong cuộc sống của chúng ta, với tư cách là người Pháp, là tín hữu kitô: chúng ta hãy nuôi dưỡng mình bằng những gì đẹp đẽ chung quanh chúng ta và ngẩng cao đầu.
Henri và Lilian, những người đã cố gắng đuổi kẻ tấn công ở Annecy gặp tổng thống Emmanuel Macron chiều thứ sáu 9 tháng 6.
Henri d’Anselme: tôi sẽ rất vinh dự được dự lễ khánh thành Nhà thờ Đức Bà Paris
Anh sẽ đi tiếp?
Tôi sẽ đi tiếp, nhưng tôi không biết khi nào và bằng cách nào. Sau tu viện Hautecombe, tôi sẽ đi Jura, Burgundy, Alsace, và kết thúc ở vùng Paris.
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Henri d’Anselme, anh hùng của thảm kịch ở Annecy: “Tôi đã không tình cờ ở đó”
Ngày thứ sáu 9 tháng 6, tổng thống Pháp Emmanuel Macron tiếp anh Henri d’Anselme, 24 tuổi, người đã cùng với những người khác đã giúp vô hiệu hóa kẻ đã làm sáu người bị thương nặng ở Annecy vùng Haute-Savoie, nước Pháp. Anh đã kể trên CNews về sự việc xảy ra ở công viên bên bờ hồ Annecy.
la-croix.com, Clemence Houdaille, 2023-06-09
Hoa và thú nhồi bông đặt ở địa điểm xảy ra vụ tấn công bằng dao ở Annecy ngày thứ năm 8 tháng 6 làm cho sáu người bị thương, trong đó có bốn trẻ em. Gilles Bader/LA PROVENCE/MAXPPP
“Những gì tôi biết là tôi không tình cờ ở đó trên con đường dẫn đến các thánh đường. Tôi gặp người đàn ông này trên đường đi và tôi hành động đúng theo bản năng.” Đó là lời anh Henri, 24 tuổi, người công giáo giữ đạo, anh có biệt danh “anh hùng ba lô”, anh giải thích trên CNews hành động của anh ngày thứ năm 8 tháng 6.
Khi xảy ra cuộc tấn công ngày thứ năm 8 tháng 6 trên lối đi dạo Pâquier ở Annecy, trong nhiều phút anh Henri đã chận ông Abdalmasith H., 31 tuổi, người đã dùng dao đâm trọng thương 4 em bé nhỏ. Bằng tay không, anh chỉ dùng chiếc ba lô, anh đã né được những cú mà kẻ tấn công muốn nhắm vào anh và đuổi theo người này cho đến khi cảnh sát đến vô hiệu hóa.
Anh nói với hãng tin CNews: “Tôi không phải là người duy nhất đuổi theo ông này. Có những người trẻ tuổi khác. Chúng tôi đã dọa ông và cho ông biết, ông không thể hành động như ông muốn.” Anh Henri công nhận anh đã lo sợ cho tính mạng của mình, anh nói: “Nhưng trên hết, tôi lo sợ cho tính mạng của người khác, tôi không muốn ông ấy làm tổn thương đến người khác.” Anh ca ngợi những người đi đường đã ngay lập tức cố gắng giúp cho các em bé bị thương đang ở trong tay họ.
Hình ảnh sĩ quan Arnaud Beltrame ở trong đầu
Anh nói: “Tôi không suy nghĩ. Với tôi, không làm gì là không thể được. Tôi hành động như một người Pháp phải hành động, có nghĩa tôi làm theo bản năng và làm tất cả để bảo vệ những người yếu thế nhất.” Anh giải thích trên kênh tin tức LCI: “Tôi nghĩ đến hình ảnh của Arnaud Beltrame, đại tá hiến binh đã bị một kẻ khủng bố ở Trèbes (Aude) giết sau khi ông xin thế chỗ một con tin ngày 23 tháng 3 năm 2018.” Anh nói: “Xin đừng đối xử với tôi như một anh hùng quốc gia, vì tôi hành động như tất cả người công dân Pháp nên hành động.”
Quay trở lại câu chuyện của anh ở Annecy ngày hôm đó, đó là con đường đến các nhà thờ chính tòa Pháp mà anh đi bộ từ chín tháng nay, sau khi anh đã học xong triết học và quản lý, anh giải thích trên CNews: “Một thúc đẩy trong tâm hồn, tôi phản ứng và hành động để bảo vệ người hoàn toàn vô tội, một em bé đang bị tấn công và những gì tôi làm, mọi người đều có thể làm, mọi người Pháp nên làm điều này. Tôi xin mời tất cả những ai đang nghe chúng tôi, xin tập trung lại vào những điều cốt yếu để ghi nhớ những gì đẹp nhất và vĩ đại nhất.”
Anh đi theo con đường khám phá các nhà thờ chính tòa là vì để “làm cho càng có nhiều người càng tốt, những người nhạy cảm với nét thẩm mỹ của các thánh đường, chính xác là đưa chúng ta gần lại nhau chung quanh các thánh đường tráng lệ này, di tích của những kiến trúc được tổ tiên chúng ta xây dựng, những người tràn đầy tinh thần cao thượng và chúng ta nên được cảm hứng từ đó. Khi hành động ở công viên, điều thúc đẩy tôi, chính là tinh thần cao cả tôi được nuôi dưỡng này”, anh thấy có một liên hệ giữa hành động và cuộc phiêu lưu của anh hiện nay. Anh nói thêm: “Tôi cảm thấy trong tôi có một sức mạnh lớn lao. Thật không thể chấp nhận khi thấy các em bé bị tấn công như vậy. Tôi nghĩ tôi đã không tình cờ ở đó.”
“Thông điệp đích thực của Chúa Kitô là thông điệp của tình yêu”
Hôm nay, Henri nghĩ đến các nạn nhân, gia đình của họ, anh hy vọng họ sẽ thoát được. Nếu còn một cái gì để nhớ về những giây phút chớp nhoáng, về những hình ảnh đau đớn vừa qua, nhưng anh biết, anh muốn tiếp tục con đường của anh để đi đến các thánh đường.
Khi được hỏi về việc kẻ tấn công tự cho mình là người tín hữu kitô, anh khẳng định: “Chúng ta không thể giết các em bé vô tội nhân danh Chúa Kitô, đó là chống Chúa. Thông điệp đích thực của Chúa Kitô là thông điệp của tình yêu, thông điệp bảo vệ những người yếu đuối nhất, và chính trên thông điệp này mà nước Pháp đã được xây dựng. (…) Vì thế một người, dù họ tự cho mình là tín hữu kitô hay không, là người Syria hay không, mà nhân danh Chúa Kitô để tấn công người yếu đuối nhất thì họ không phải là người của Chúa Kitô.”
Chiều thứ sáu 9 tháng 6, tổng thống Pháp Emmanuel Macron sẽ gặp Henri. Sau đó, anh Henri sẽ dành thời gian để nghỉ ngơi, để câu chuyện này lắng xuống trước khi tiếp tục lên đường khám phá các nhà thờ chính tòa.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Bà Marie-France và hiệp hội “Vì nụ cười trẻ thơ” ở Campuchia
Mọi chuyện bắt đầu vào năm 1995, khi ông Christian, giám đốc điều hành IBM được tuyển dụng vào vị trí đứng đầu văn phòng địa phương của một tổ chức phi chính phủ của Pháp tại Phnom Penh, Campuchia. Khi làm việc ở đây, ông Christian và bà Marie-France, vợ ông, thấy rõ sự nghèo khổ của các trẻ em đường phố, với sinh hoạt hàng ngày chủ yếu trên bãi rác khổng lồ ở ngoại ô Phnom Penh. Đối với ông bà, đây là “cú sốc”, và với tâm hồn Kitô hữu, hai người nhận ra rằng mình cần phải làm điều gì đó cho các em, cho thế hệ tương lai của đất nước châu Á này.
Trước khi đến Campuchia, hai ông bà đã đi nhiều nơi trên thế giới, nhưng khi đến đây, hai người muốn lấy nơi này làm nơi nghỉ hưu của mình. Một thời gian nghỉ hưu không theo nghĩa thông thường nhưng là nghỉ những công việc kiếm ra tiền, dành thời gian cho hoạt động bác ái.
Ông bà có 6 người con, 4 con ruột và 2 con nuôi với 16 cháu. Tất cả theo gương sống của hai ông bà sống rất đầm ấm thương yêu nhau, và biết quan tâm phục vụ người khác.
Với sự ủng hộ của những người con đã trưởng thành, ông Christian và bà Marie-France định cư ở Phnom Penh trong một túp lều gần bãi rác. Sau đó, ông bà bắt đầu các hoạt động chăm sóc các em, như cung cấp thức ăn, nơi tắm rửa. Tiếp đến, họ mở một trường học nhằm đưa các em ra khỏi bãi rác. Để đổi lấy gạo, cha mẹ của các em sinh sống trên bãi rác phải cho con cái của họ đến trường. Từng bước hai ông bà thành lập hiệp hội “Pour un Sourire d'Enfant-Vì nụ cười trẻ thơ”.
Sau nhiều năm, hoạt động bác ái của hai ông bà ngày càng phát triển, ổn định mang lại nhiều điều ích lợi cho hàng ngàn trẻ em. Các em coi hai người như ông bà trong đại gia đình.
Muốn gắn bó lâu dài với các trẻ em đường phố, hai ông bà quyết định trở thành công dân Campuchia. Nhờ hoạt động này, vào năm 2000, bà Marie-France và ông Christian đã được trao giải thưởng nhân quyền. Năm 2016, đạo diễn Xavier de Lauzanne đã thực hiện một bộ phim nói về câu chuyện giúp các trẻ em ở Campuchia của hai ông bà. Phim Les pépites thành công rực rỡ. Sau vài tuần phim được công chiếu, ông Christian qua đời ở tuổi 82. Mặc dù buồn vì sự ra đi của người bạn đời, bà Marie-France vẫn tiếp tục hoạt động trợ giúp các em, và mỗi năm đều trở về Pháp để gây quỹ cho hiệp hội.
Chia sẻ về đời sống tôn giáo trong hiệp hội, bà Marie-France cho biết bà và các cộng tác viên không bao giờ áp đặt tôn giáo của mình lên các em. Nhưng bà cầu nguyện hàng ngày, đặc biệt các giờ kinh Phụng Vụ và tham dự Thánh lễ. Hai ông bà rất yêu mến thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, và nhận thánh nữ là đấng bảo bảo trợ cho trung tâm của hai người.
Bà còn cho biết, cũng giống như mọi người, cuộc đời bà không phải lúc nào cũng thuận lợi, không có sóng gió. Bà cũng đã trải qua những khó khăn thất bại. Bà giãi bày, sau khi ông Christian qua đời, bà rất buồn và cảm thấy khó vượt qua. Đôi lúc bà phân vân có nên tiếp tục hoạt động ở hiệp hội không khi không còn ông bên cạnh. Nhưng bà đã vượt qua như bà khẳng định đó là nhờ cầu nguyện và tình thương dành cho các trẻ thơ. Bà tin rằng, ông Christian đang ở trên trời, và từ nơi đó đang giúp bà. Bà nói: “Chúng tôi đã sống vì nụ cười trẻ thơ, vì thế tôi tiếp tục thực hiện vì món quà này dành cho các em. Tôi tiếp tục hiện diện ở đây, và giống như người bạn đời của tôi, tôi muốn được yên nghỉ nơi này”.
Khi được hỏi về lời khuyên dành cho những ai muốn dấn thân phục vụ các trẻ thơ, những người nghèo khổ trong xã hội, bà Marie-France nói đừng đưa ra quá nhiều câu hỏi, hãy đi theo con đường của mình đã chọn và không cần nghe người khác quá nhiều. Ai cũng có thể giúp người khác, chỉ cần phải bắt đầu ngay, đừng ngần ngại.
Về tương lai của trung tâm “Vì nụ cười trẻ thơ”, bà không quá lo lắng vì con gái bà đã sẵn sàng công việc quản lý hiệp hội. Đối với bà đây là niềm vui lớn. Ngoài ra, bà tin tưởng các em đã được trung tâm giúp đỡ sẽ lớn lên, và tới lượt mình các em sẽ giúp đỡ các em khác và như thế trung tâm tiếp tục tồn tại. Bà khẳng định: “Ý thức phục vụ và tình yêu được chia sẻ này, đây là một thông điệp phổ quát, chạm đến nhân loại của chúng ta với tất cả mọi người. Tương lai đó là niềm hy vọng”.
Ngọc Yến - Vatican News
Ông Ugo Bressanello và trung tâm dành cho người trẻ gặp khó khăn ở Ý
Khi rời vị trí phó chủ tịch của một công ty viễn thông quan trọng ở Ý, ông Ugo Bressanello nghĩ rằng sau khi đã cống hiến hết mình cho công ty, giờ đây ông sẽ dành thời gian cho bản thân, cho gia đình. Nhưng rồi với thời gian, ông suy nghĩ lại và nhận ra rằng cuộc đời ông đã có quá nhiều phúc lành, quá nhiều may mắn, đã nhận được nhiều giờ đây ông cần phải chia sẻ cho người khác.
Nghĩ là làm, ông Bressanello thiết lập tổ chức Domus de Luna ở Cagliari, với mục đích mang lại cơ hội cho những người kém may mắn, đặc biệt là những người trẻ. Hoạt động bác ái của ông với các cộng tác viên từng bước phát triển vượt xa những dự tính ban đầu của ông. Các cơ cấu ngày càng phát triển để phục vụ trẻ vị thành niên cùng với các dự án xã hội tạo cơ hội và tương lai cho giới trẻ, phụ nữ, những người yếu thế trong xã hội.
Ông Bressanello nói: “Tôi đã sử dụng khả năng kinh doanh rất tốt trong lĩnh vực xã hội, đó là lý do tại sao sự chuyển đổi giữa cuộc sống của tôi trước và sau đó không quá khác biệt, không quyết liệt, nhưng ngọt ngào. Tôi có nhiều cộng tác viên, và tôi phải nói rằng nếu không có họ, những gì đã được xây dựng hôm nay sẽ không tồn tại. Chúng tôi có thể làm được điều này, tất cả bắt đầu từ kinh nghiệm cá nhân. Vợ tôi và tôi đã trải nghiệm việc nhận con nuôi, vì thế chúng tôi muốn làm một điều gì đó đem lại ích lợi cho những trẻ em, thanh thiếu niên gặp những hoàn cảnh khó khăn, giống con chúng tôi có cơ hội được phát triển, hoà nhập vào xã hội”.
Ông Bressanello, hiện nay là chủ tịch và đại diện pháp lý của tổ chức Domus de Luna, tiếp tục chia sẻ: “Có nhiều người muốn giúp đỡ, họ đã giúp, và họ đang hỗ trợ chúng tôi. Hiện tại, ở khu vực này, chúng tôi có bốn ngôi nhà dành cho trẻ vị thành niên và các bà mẹ có con nhỏ; những người đến đây được hưởng các loại dịch vụ và chăm sóc; một ngôi nhà dành cho hoạt động chăm sóc các mối quan hệ gia đình; một ngôi nhà khác cho các trẻ em khuyết tật, giúp các em có khả năng tự quản; và cuối cùng, một trung tâm ban ngày giúp củng cố tương quan giữa các thành viên gia đình. Qua các nhân viên và các chuyên gia, chúng tôi cố gắng giúp hàn gắn các mối quan hệ gia đình. Còn các trường hợp không thể, chúng tôi tổ chức nhận con nuôi, với mục đích cuối cùng là giúp những người yếu thế, những người bé nhỏ có được các quyền cơ bản”.
Nhưng chưa dừng lại ở đó, thực tế ông Ugo Bressanello bắt đầu nghĩ về “ngày mai” của những người trẻ, một khi họ rời khỏi các cơ sở của tổ chức Domus de Luna. Chính vì thế một cơ sở khác đã ra đời, trong đó gồm có câu lạc bộ thể thao, các dịch vụ ăn uống và nhiều hoạt động khác. Ngày nay tham gia vào các sinh hoạt này có tổng cộng 70 bạn trẻ gặp khó khăn, thuộc mọi thành phần: khuyết tật, bị bỏ rơi, nhập cư.
Cho tới nay đã có khoảng 500 bạn trẻ đã làm việc trong các hoạt động này hoặc nhờ nơi đây, sau đó đã tìm được việc làm ở nơi khác; 300 trẻ vị thành niên được chào đón trong gia đình hoặc nhà đón tiếp; 1000 người tham gia vào các hoạt động văn hóa.
Ông Bressanello cho biết trẻ em, thanh thiếu niên và các bà mẹ phần lớn là người địa phương, nhưng cũng có những người đến từ các khu vực của Ý và thế giới. Và chẳng mấy chốc họ sẽ trở thành nhân vật chính của một giấc mơ khác. Ông giải thích: “Trong số các dự án tương lai chúng tôi mong muốn mang lại sức sống cho trang trại, không chỉ tự canh tác các sản phẩm được phục vụ trên bàn của các thành viên của trung tâm, nhưng còn và trên hết là liên quan đến trẻ em với bệnh trí não. Qua các hoạt động tiếp xúc với đất và thiên nhiên, các em có thể mau được phục hồi”.
Những con số đã làm chứng cho hoạt động bác ái của ông Bressanello. Một công việc được thực hiện giữa mọi người, trên đường phố. Một hoạt động thực sự dấn thân chứ không chỉ dừng lại trên bàn giấy. Chính những hoạt động này mà ông đã được ông Sergio Mattarella, tổng thống Ý, ca ngợi và vinh danh trong một dịp gần đây. Khi nhận được vinh dự này, ông Bressanello rất bất ngờ, vì không nghĩ một hoạt động theo ông chỉ là một việc bày tỏ lòng biết ơn vì những gì đã nhận được lại được tổng thống nhìn nhận. Ông không tin vào điều này. Nhưng theo những người làm việc với ông, ông xứng đáng được vinh dự này, vì những hoạt động bác ái hướng đến những người kém may mắn trong xã hội cần được nhiều người biết đến, để lòng nhân ái ngày càng được nhân rộng giữa mọi người.
Ngọc Yến - Vatican News
Ông Ernest, người vô gia cư hàng đêm chăm sóc người vô gia cư khác
aleteia.org, Cerith Gardiner, 2-23-03-15
Sau khi được “thiên thần hộ mệnh” cứu, ông Ernest McPherson quyết định đến lượt ông, ông trông chừng những người vô gia cư khác.
Ông Ernest McPherson, 54 tuổi ở Meadow Lake, Canada đã suýt chết trong trận bão tuyết năm ngoái, khi nhiệt độ xuống -38 độ âm, ông mất ý thức về thời gian và ngủ quên trong giá lạnh. Ông được một người cứu bằng cách đá vào ông. Bây giờ mỗi đêm ông canh gác để giúp những người vô gia cư khác trong cộng đồng của ông có thể sống sót qua mùa đông lạnh giá. Vào những giờ đầu ngày, ông đi quanh thị trấn nhỏ Meadow Lake để thăm khoảng 20 người vô gia cư ngủ trong xe hoặc trong những tòa nhà đổ nát.
Meadow Lake không có nơi trú ẩn cho những người vô gia cư nên họ không có nơi nào để sưởi ấm ban đêm. Ông Ernest McPherson cố gắng giúp họ bằng cách cho họ quần áo ấm và đưa họ vào những nơi để họ có thế tránh lạnh.
Ngủ ở nhiệt độ -38 độ âm
Ông nói với hãng tin CBC: “Như thử không còn chỗ nào cho họ và cũng không ai muốn chứa chấp họ. Họ rất vui khi thấy tôi đến. Và tôi rất vui khi gặp họ vì họ có thể bị chết cóng ở đây.”
Ông Ernest McPherson cũng đã suýt chết trong hoàn cảnh này năm ngoái, nên kể từ đó, ông muốn giúp người khác sống sót: “Chừng nào họ không có nơi ẩn náu, tôi sẽ ở lại đây trông chừng mỗi đêm cho họ.”
Bà Natanis Bundschuh, phụ trách tổ chức bếp tập thể giải thích: “Những người vô gia cư ở thị trấn nhỏ này nhận được sự giúp đỡ của tổ chức kitô giáo – Meadow Lake Outreach Ministries – nhưng tổ chức này chỉ mở cửa vài ngày một tuần.”
Phần thưởng cho sự cống hiến của ông
Vì những nỗ lực của ông giúp những người vô gia cư khác, ông đã nhận Huân chương bạch kim của Nữ hoàng Elizabeth II. Bà Natanis Bundschuh nói: “Chúng tôi hãnh diện khi thấy có người trong cộng đồng chúng tôi được khen thưởng vì đã quan tâm đến những người không ai quan tâm.”
Ông Ernest McPherson nhận Huân chương bạch kim của Nữ hoàng Elizabeth I
Theo ông Ernest McPherson, giải thưởng này rất quan trọng với tất cả những người vô gia cư: “Thật vinh dự khi được công nhận vì tất cả những gì tôi làm để giúp đỡ người vô gia cư ở Meadow Lake. Tôi rất vui khi có mặt ở đây hôm nay để thay mặt các bạn vô gia cư của tôi phát biểu.”
Nhờ tấm gương của ông, thị trấn nhỏ Meadow Lake đã can thiệp để giúp đỡ người vô gia cư trong những tình huống bấp bênh. Các công ty đã quyên góp và một trung tâm tiếp nhận sẽ được mở, tạo cơ hội cho những người vô gia cư được sưởi ấm 20 giờ một ngày.
Ông Ernest tiếp tục giúp đỡ những người gặp khó khăn. Câu chuyện của ông nhắc chúng ta tầm quan trọng của việc luôn tìm cách giúp đỡ người khác, ngay cả khi chúng ta đối diện với những khó khăn của chính mình.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Tương trợ với người cha nắm tay con gái đã chết
Bức hình ông Mesut Hancer nắm tay người con bị mắc kẹt dưới đống đổ nát đã lan truyền khắp thế giới. Nhờ bức hình này, ông Hancer đã được cấp nhà và có việc làm.
Trong nhiều giờ, ông Hancer không buông tay người con gái 15 tuổi Irmak bị chôn vùi dưới đống đổ nát của tòa nhà 8 tầng. Một hình ảnh đã trở thành biểu tượng. AFP
lematin.ch, 2023-02-27
Bức ảnh người cha này nắm tay người con bị chết sau trận động đất ngày 6 tháng 2 ở Thổ Nhĩ Kỳ, đã làm cho cả thế giới xúc động, khơi dậy tình tương trợ với người đàn ông đau thương này.
Gần ba tuần sau thảm họa thiên nhiên giết chết hơn 44.000 người ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhiếp ảnh gia AFP Adem Altan chụp bức hình này đã tìm lại được ông Mesut Hancer. Ông Hancer là người cha của 4 người con, trong đó Irmak, 15 tuổi, đã chết vì bị chôn vùi dưới đống đổ nát của một tòa nhà 8 tầng, gần đây gia đình ông đã rời thị trấn Kahramanmaras, phía đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, để đến định cư ở Ankara.
Một nỗi đau không thể nói lên lời
Ông nói: “Tôi cũng mất mẹ, mất các anh, các cháu trong trận động đất. Nhưng chôn con thì không có gì sánh được. Đó là nỗi đau không nói nên lời.” Hiện nay gia đình ông đang cố gắng xây dựng lại cuộc sống cách xa Kahramanmaras, thành phố gần tâm chấn của trận động đất mạnh 7,8 độ Richter.
Ông Mesut Hancer bên cạnh bức tranh của một nghệ sĩ tặng ông. Ông đứng bên cạnh con gái được vẽ qua hình ảnh của một thiên thần. Bức tranh hiện được treo ở phòng khách gia đình. AFP
Biểu tượng của thảm họa
Hình ảnh ông Mesut Hancer sững sờ, không còn cảm thấy mưa lạnh xung quanh, ông mặc chiếc áo màu cam và không buông tay đứa con đã chết trở thành biểu tượng của thảm họa cướp đi sinh mạng của hàng chục ngàn người. Trên trang nhất của nhiều báo trên khắp thế giới, được đăng lại hàng triệu lần trên internet, bức ảnh đã khơi dậy sự tương trợ với người cha và gia đình ông.
Một thương gia ở Ankara đã cho gia đình ông chỗ ở và cho ông Hancer làm nhân viên hành chính trong đài truyền hình tư nhân của thương gia. Bức tranh của một nghệ sĩ vẽ Irmak như một thiên thần bên cạnh người cha được treo trong phòng khách của gia đình.
Ông nói: “Tôi không thể buông tay con. Con tôi ngủ như một thiên thần trên giường.” Lúc động đất xảy ra vào 4:17 sáng, ông Hancer đang làm việc trong tiệm bánh của ông. Ông lập tức gọi điện thoại cho gia đình để biết tin tức. Ngôi nhà một tầng của họ, mặc dù bị hư hại nhưng vẫn đứng vững và vợ cùng ba người con lớn của ông được an toàn.
Chết vì ngủ ở nhà bà nội
Nhưng gia đình không thể liên lạc được với đứa con út Irmak, cô qua nhà bà nội ngủ tối hôm đó. Irmak muốn có nhiều thì giờ ở với các chị em họ từ Istanbul và Hatay về thăm. Quá lo lắng, ông vội vã chạy về nhà mẹ ông.
Ở đó, ông thấy tòa nhà tám tầng đã sụp đổ, chỉ còn là một ngọn núi đổ nát với những gì còn lại của cuộc sống hàng ngày tung tóe, chẳng còn lại gì. Và giữa đống đổ nát là con gái ông. Không có đội cứu cấp nào đến cho đến ngày hôm sau, để lại ông Hancer và những cư dân khác một mình trong cố gắng tuyệt vọng để tìm người thân yêu của họ dưới đống đổ nát.
“Hãy chụp ảnh con tôi,” ông thì thầm
Ông đã cố gắng kéo cơ thể con ra khỏi đống đổ nát, ông dùng tay không để dọn các khối bê tông. Không được. Vậy là ông nằm bất động, đau lòng vời nỗi đau vô hạn, ông ngồi bên đứa con đã khuất. Ông nói: “Tôi nắm tay con, vuốt tóc con, hôn má con.” Sau đó, ông thấy nhiếp ảnh gia Adem Altan đang chụp hình. Ông thì thầm: “Xin ông chụp cho con tôi,” giọng ông vỡ ra và run rẩy.
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Hai sinh viên trẻ Anthony và Marta xin hồng y Joseph Ratzinger làm lễ cưới cho họ và được ngài nhận lời!
fr.aleteia.org, Mathilde de Robien, Kathleen Hattrup, 2023-02-27
Hình ông Anthony Valle cung cấp
Gần 20 năm trước, hai sinh viên trẻ dạn dĩ đến gặp hồng y Joseph Ratzinger sau thánh lễ để xin ngài cử hành hôn lễ cho họ. Không phụ lòng mong đợi, hồng y nhận lời.
Không có dấu hiệu nào cho thấy lễ cưới của hai sinh viên trẻ Anthony và Marta Valle sẽ được một hồng y lỗi lạc sắp là giáo hoàng năm sau cử hành… Hai cặp vợ chồng trẻ đính hôn không phải là gia đình cũng không phải bạn của Đức Joseph Ratzinger, nhưng ngài sẽ làm đám cưới cho họ ngày 24 tháng 6 năm 2004 tại Đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma.
Khi đó, họ là sinh viên ở Học viện Giáo hoàng Regina Apostolorum (Nữ vương các Thánh Tông đồ), ở Rôma. Cô Marta là người Đức, đang là nghiên cứu sinh đạo đức sinh học và Anthony, từ New York, học thần học. Họ đã đọc một số bài viết của hồng y Ratzinger và dự một số thánh lễ của ngài, thì đó là mối liên hệ duy nhất gắn kết họ với hồng y người Đức. Nói cách khác, họ không biết ngài. Nhưng họ rất quý trọng ngài. Sau một thánh lễ, anh Anthony đã dám xin ngài làm phép chiếc nhẫn đính hôn anh sắp trao cho người vợ tương lai. Hồng y Ratzinger làm phép nhẫn và trao đổi với họ vài lời ngắn gọn.
Sau khi đính hôn, Anthony và Marta có thói quen dự thánh lễ hàng tuần của hồng y cử hành lúc 7 giờ sáng thứ năm hàng tuần mở ra cho công chúng. Một ngày nọ, sau thánh lễ, hai người gặp ngài trong giây lát, cũng như nhiều tín hữu đến dự thánh lễ hôm đó. Khi đó họ nghĩ, “sẽ thật tuyệt nếu ngài làm đám cưới cho mình?!”, họ cười vang khi ra về. Nhưng ý tưởng này tiếp tục theo đuổi họ, thánh lễ sau đó họ dám đến gần ngài:
– Thưa cha, cha còn nhớ chúng con không?
– Cha còn nhớ chứ.
– Chúng con có một việc xin cha, xin cha làm hôn lễ cho chúng con được không?
– Để cha xem chúng ta có thể làm được gì. Cách tốt nhất là các con viết thơ xin và cho biết ngày và địa điểm cụ thể.
Thật ra chúng tôi đã chuẩn bị sẵn một bức thư với nhiều khả năng, hai người đã nghĩ trước, họ đưa cho ngài bức thư được viết vào tối hôm trước.
Một tuần sau, Marta nhận được thư của bộ Giáo lý Đức tin. Khi mở ra, họ ngạc nhiên thấy ngài thuận làm đám cưới cho họ. Ông Anthony nói với trang Aleteia tiếng Anh: “Câu trả lời của ngài nói lên nhiều điều về ngài hơn bất kỳ bài phát biểu nào! Nó cho thấy con người thật của ngài: một mục tử của các linh hồn, một người thợ khiêm tốn trong vườn nho của Chúa. Một hành động như vậy, như nhiều người khác đã làm chứng, tóm tắt ơn gọi chính của ngài: là linh mục.”
Một đám cưới đơn sơ và trang trọng
Trước đám cưới, theo yêu cầu của ngài, hai người đến gặp hồng y Ratzinger để tìm hiểu và đào sâu ý nghĩa của bí tích hôn nhân. Một cuộc họp kéo dài khoảng 45 phút dù ngài luôn có lịch làm việc bận rộn. Ông Anthony nhớ lại: “Chúng tôi có một cuộc trò chuyện lý thú với ngài về nhiều chủ đề khác nhau, về gia đình chúng tôi, về việc học và kế hoạch cho đời sống gia đình của chúng tôi, thần học và tâm linh, phụng vụ và thánh nhạc nhưng chính yếu là bí tích hôn nhân.”
Sau đó qua giám mục Ganswein thư ký của ngài, hai người nhận một bức thư để hoàn thành các chi tiết buổi lễ.
Sáng 24 tháng 6 năm 2004, ngày lễ Thánh Gioan Tẩy Giả, Anthony và Marta trao nhau lời thề ở Đền thờ Thánh Phêrô uy nghiêm, trước mặt họ là giáo hoàng Bênêđictô XVI năm sau. Ngài giảng bằng tiếng Đức, tiếng mẹ đẻ của ngài và của cô dâu Marta. Hồng y giảng về chương 5 của thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Êphêsô do hai người chọn, nhấn mạnh đến việc vợ chồng cần bắt chước Chúa Kitô qua những hành động rất cụ thể như phục vụ và hy sinh.
Ngài còn nghĩ đến tặng quà!
Sau đám cưới, một cử chỉ của hồng y cho thấy ngài tế nhị như thế nào. Một gói quà từ Vatican và được chính Đức Joseph Ratzinger gởi đến cho họ như quà cưới. Đó là ấn bản đặc biệt, số in có giới hạn của một trong những quyển sách mới nhất của ngài, có chữ ký ngài viết tặng họ. Một món quà cưới tuyệt vời!
Vài năm sau, Marta và Anthony trao đổi thư từ và cùng với các con, họ có một vài buổi tiếp kiến riêng với ngài. Hiện nay họ sống ở Hoa Kỳ. Anthony Valle nhận Giải thưởng Joseph Ratzinger-Benedict XVI của Hiệp hội Vatican Foundation, ông là thành viên của Neuer Schülerkreis, một hiệp hội các nhà thần học nghiên cứu công việc của Đức Bênêđictô XVI.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Afraa, em bé Syria sinh ra dưới đống đổ nát được người thân nhận về
Afraa trong vòng tay của người chú Khalil al-Suwadi ngày 21/2. © AFP
parismatch.com, AFP, 2023-02-21
Em bé Syria Afraa sinh ra dưới đống đổ nát của một tòa nhà bị phá hủy bởi trận động đất sẽ rời bệnh viện và về sống với người thân yêu gần Jandairis, phía tây bắc Syria.
Em bé là người duy nhất sống sót trong gia đình, cha, mẹ, anh chị em của em đều chết trong tòa nhà bốn tầng sau trận động đất ngày thứ hai 6 tháng 2 tại Thổ Nhĩ Kỳ và Syria. Trận động đất đã làm thiệt mạng gần 46.000 người.
Những người thân đã cứu em bé sinh ra dưới đống đổ nát, dây rốn còn nối liền với người mẹ đã chết của em trong đống đổ nát.
Phép lạ ở Jandairis, một em bé sinh ra dưới đống đổ nát trong trận động đất ở Syria
Người chú của em là Khalil Sawali nói với hãng tin AFP: “Em bé là linh hồn, là cuộc sống và là cả thế giới của tôi”, ông bế em trong chiếc lều tạm, quấn em trong chăn, em đội mũ đỏ thắt nơ đen.
Người thân đặt cho em tên Afraa, theo tên người mẹ quá cố của em.
Đoạn video về cuộc giải cứu của em Afraa đã lan truyền trên mạng xã hội và Afraa đã gây chú ý trên toàn thế giới, em là em bé phép lạ đã thoát khỏi trận động đất.
Sau mười ngày nằm viện ở một địa phương gần Jandairis, em Afraa đã được xét nghiệm DNA để đảm bảo mối quan hệ gia đình của em với Khalil Sawadi, là người anh họ của cha của em.
Ông Sawadi nói: “Em là ký ức sống của cha mẹ, anh chị em của em. Ngày tôi được biết chúng tôi có thể giữ được em, niềm vui của tôi là vô song, không thể diễn tả được.” Ông hứa, một ngày khi em bé lớn lên, ông sẽ kể cho em nghe câu chuyện ngày em sinh ra đời.
Ông đặt Afraa bé nhỏ xuống một tấm nệm trên sàn và các con gái của anh vây quanh em bé để bế em và hôn em.
Ông cho biết vợ ông vừa sinh con cách đây vài ngày, nhưng ông dành toàn thời gian cho Afraa: “Bây giờ Afraa là con của chúng tôi.”
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Bắt nghi phạm giết Đức giám mục Phụ tá Los Angeles
Hôm thứ Hai, ngày 20 tháng Hai, cảnh sát tại thành phố Los Angeles, bang California ở Mỹ cho biết đã bắt giữ một người bị tình nghi ám sát Đức cha David O’Connell, Giám mục Phụ tá Tổng giáo phận địa phương.
Đức cha O’Connell năm nay 69 tuổi, gốc người Ailen, phụ trách mục vụ cho những người di dân, người nghèo, nạn nhân của các băng đảng bạo lực từ 45 năm nay, ở khu vực nam Los Angeles. Đức cha rất được dân chúng và tín hữu địa phương quý mến. Ngài được Đức Thánh cha Phanxicô bổ nhiệm làm giám mục cách đây bảy năm.
Theo báo chí, Đức cha O’Connell đã bị bắn chết trên giường tại tư gia của ngài ở khu vực Hacienda Heights, lúc 1 giờ trưa, ngày thứ Bảy 18 tháng Hai vừa qua. Tờ Los Angeles Thời Báo cũng nói rằng không có dấu hiệu thủ phạm đã phá cửa để vào nhà của Đức cha.
Trong cuộc họp báo lúc 3 giờ chiều, ngày 20 tháng Hai, Cảnh sát trưởng ở Los Angeles, ông Robert Luna cho biết nghi phạm tên là Carlos Medina 65 tuổi, chồng của bà quản gia của Đức cha O’Connell. Một video canh chừng cho thấy chiếc xe màu sậm của ông Medina đậu ở nhà Đức cha lúc xảy ra án mạng. Người ta cũng thấy vũ khí tại nhà ông Medina. Hiện nay, cảnh sát chưa xác định được nguyên do vụ sát nhân này.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA- Nỗi đau không thể chịu nổi, nhiếp ảnh gia AFP chụp bức ảnh làm thế giới xúc động
- Mariam, 7 tuổi, bảo vệ em dưới đống đổ nát trong khi chờ được cứu
- Phép lạ ở Jandairis, một em bé sinh ra dưới đống đổ nát trong trận động đất ở Syria
- Ông Gian Piero không phát điên nhờ lòng nhân hậu
- Một người Công giáo làm Thủ tướng Đài Loan
- Cụ già Hàn Quốc 90 tuổi viết Kinh Thánh trên giấy truyền thống của Hàn Quốc
- Người cao niên nhất thế giới qua đời: Nữ tu André Randon, gần 119 tuổi
- Các nhân vật nhận giải Nobel Hòa bình tố cáo cuộc chiến ‘điên rồ’ của Putin
- Tòa đại sứ Nga chặn một đoạn đường dẫn đến Vatican
- Ông bà Eugène và Odile để lại di sản cho Hiệp hội Anh em hèn mọn của Người nghèo