Dân Chúa Âu Châu

T7 T 12 TN BDMẫu mực trong đời sống đức tin.

Thứ Bảy tuần 12 thường niên – Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Lễ nhớ.

"Cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".

 

Lời Chúa: Lc 2, 41-52

Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrsalem để tìm Người.

Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói, đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".

Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà.

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

1. Trái tim người Mẹ--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Suy niệm:

Nếu ai hỏi Mẹ Maria điều gì quý nhất trong đời Mẹ,

hẳn Mẹ sẽ trả lời đó là Giêsu, con của Mẹ.

Người con này Mẹ đã cưu mang, dưỡng dục, và bảo vệ giữ gìn.

Người con này đã đem lại cho Mẹ biết bao niềm vui và hãnh diện.

Nhưng Mẹ cũng chịu nhiều đau khổ vì người con ấy.

Bài Tin Mừng hôm nay vén mở một chút nỗi đau của Mẹ,

cho thấy một chút trái tim của Mẹ khi sống bên Giêsu.

Cậu Giêsu, mười hai tuổi, cùng với cha mẹ lên Đền thờ mừng lễ Vượt qua.

Kể cũng lạ khi cậu ở lại Giêrusalem mà không báo cho cha mẹ biết.

Hai ông bà đi một ngày đường mới nhận ra mình mất con,

vội vã đi tìm trong đám bà con thân thuộc,

nhưng không thấy, nên trở lại Giêrusalem mà tìm.

Phải qua ba ngày đầy lo âu và nước mắt mới tìm thấy con trong Đền thờ.

Kinh nghiệm mất- tìm kiếm- tìm thấy này thật đau đớn đối với người mẹ.

Mẹ Maria sợ mất con, mất điều rất quý đã được Thiên Chúa trao cho mình.

Nhưng khi thấy con mình ngồi giữa các vị thầy, rất bình an trò chuyện với họ,

thì Mẹ lại sửng sốt, ngỡ ngàng, thay vì vui sướng.

Như vậy là con không bị lạc, nhưng đã cố ý ở lại Đền thờ mà không báo.

Mẹ không nén được một lời trách móc: “Tại sao con làm thế với cha mẹ?

Cha con và mẹ đã khắc khoải tìm con” (c. 48).

Chuyện không ngờ là cậu Giêsu đã đáp lại câu hỏi của Mẹ bằng hai câu hỏi,

đầy vẻ sửng sốt và cũng là một lời trách: “Tại sao cha mẹ lại tìm con?

Cha mẹ không biết là con phải ở nhà của Cha con sao?” (c.49).

Cũng có thể hiểu là: cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con sao?

Đức Giêsu, khi lên mười hai tuổi, đã bắt đầu có ý thức mình thuộc về Cha.

Người Cha trên trời này khác với người cha mà Ngài đang chung sống.

Ngài phải ở với và lo việc cho người Cha này, lẽ ra cha mẹ phải biết chuyện đó.

Dĩ nhiên hai ông bà chưng hửng, không hiểu được câu nói của cậu Giêsu (c.50).

Riêng Mẹ Maria có thói quen nghiền ngẫm về các biến cố khó hiểu.

Mẹ giữ kỹ trong trái tim mình những chuyện xảy ra (Lc 2, 19. 51b).

Chúng ta tưởng Mẹ Maria luôn luôn hiểu Con mình, hiểu ngay, hiểu trọn vẹn.

Chúng ta tưởng ai sống thánh thiện thì lúc nào cũng vui, chẳng bao giờ lo sợ.

Nhìn Mẹ Maria, chúng ta hiểu theo Chúa là bước vào một cuộc hành trình.

Có những lúc như đang chơi ú tim với Chúa, mất rồi lại tìm, tìm thấy rồi lại mất.

Chúng ta chẳng bao giờ nắm được Chúa, giữ chặt Chúa trong tay.

Chúa vẫn là Đấng không thể thấu hiểu được, và vẫn làm chúng ta sững sờ.

Mẹ Maria đã chứng kiến Đức Giêsu lớn dần về mọi mặt (Lc 2, 40),

từ khi sinh ra đến khi mười hai tuổi,

và từ mười hai tuổi đến lúc trưởng thành (Lc 2, 52).

Ngài càng lúc càng ý thức mình thuộc về Cha và ý thức về sứ mạng.

Con của Mẹ là một mầu nhiệm khôn dò mà Mẹ phải tìm hiểu mỗi ngày.

Mẹ để cho Con tự do sống theo Ý Cha, dù điều đó đem lại nhiều đau khổ.

Chuyện mất Con hôm nay chuẩn bị cho việc Con sẽ chia tay Mẹ đi sứ vụ,

và chuẩn bị cho cuộc chia tay kinh hoàng trên thập giá.

Chúng ta cầu cho các bà mẹ đang đau khổ vì con.

Mong sự vâng phục của con cái làm tươi trái tim người mẹ.

 

Cầu nguyện:

Lạy Mẹ Maria,

khi đọc Phúc Âm,

lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.

Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.

Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.

Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.

Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.

Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi

âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,

từ con người hay từ Thiên Chúa.

Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu

trong mọi bước đường của cuộc sống.

Chẳng phải con đường nào cũng là thảm họa.

Có những con đường đầy máu và nước mắt.

Xin Mẹ dạy chúng con

đừng sợ lên đường mỗi ngày,

đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa

dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.

Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu

để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ

đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.

 

2. Trái tim Xin Vâng của Mẹ Maria--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Chúa Giêsu theo Đức Mẹ và thánh Giuse trở về Nagiaret và Người hằng vâng phục hai ông bà. Lòng vâng phục của Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế, là nguồn sự vâng phục của Mẹ Maria đối với Thiên Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trái tim Mẹ Maria là một trái tim biết yêu thương. Từ lúc nói lên lời “xin vâng” với sứ thần Gabriel, Mẹ đã từ bỏ tất cả ý riêng, và trọn đời tín thác vào Chúa. Bằng đủ mọi cách, Mẹ luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Trái tim của Mẹ luôn cùng một nhịp đập với trái tim Chúa: vui với niềm vui của Chúa, và đau khổ với nỗi đau của Chúa. Loại trừ tất cả những gì không cần thiết, trái tim vô nhiễm của Mẹ luôn đập lên nhịp đập của tình yêu.

Lạy Chúa, hôm nay, cùng với Mẹ, con cần sống cuộc đời yêu thương. Trái tim vô nhiễm của Mẹ vẫn đang thổn thức vì yêu thương nhân loại.

Vì là Mẹ của Chúa, nên Mẹ Maria đã có nhiều kinh nghiệm của tình mẫu tử, nên Mẹ cũng đang đau khổ vì mỗi người chúng con như những đứa con vô tâm, bội nghĩa trước tình thương của Chúa. Mẹ muốn chúng con cùng Mẹ lặp lại lời “xin vâng “mỗi ngày: xin vâng trong mọi nơi mọi lúc, xin vâng để luôn lắng nghe Lời Chúa, xin vâng để biết quên mình và sống yêu thương người khác.

Lạy Chúa, khi làm những việc nhỏ mọn, tầm thường và rất âm thầm, là con đang đặt một viên gạch nền móng cho chương trình cứu độ của Chúa, và con tin rằng: lúc ấy, Thánh ý Chúa được thể hiện nơi con. Amen.

Ghi nhớ: “Cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con”.

 

3. Sống trong trái tim Mẹ Maria--GM GB. Bùi Tuần

Ảnh Đức Mẹ càng ngày càng xuất hiện dưới nhiều hình thức. Hình thức nào cũng đẹp. Nhưng nói về mặt hấp dẫn, thì ảnh Đức Mẹ Trái Tim xem ra được người công giáo Việt Nam yêu mến hơn. Người ngoài công giáo cũng vậy. Tôi cũng thế.

Lý do đơn giản nhất là vì trực giác của người Việt Nam. Theo trực giác Việt Nam, người mẹ vốn được cảm nhận là tình thương. Phương chi một người mẹ lại giới thiệu trái tim mình. Chẳng cần cắt nghĩa gì, trực giác con người bình thường vừa thoáng nhìn, là cảm được một cái gì cao đẹp, linh thiêng, gần gũi.

Với trực giác đó, khi nghe sứ điệp Đức Mẹ ở Fatima về việc tôn sùng Trái Tim Mẹ, tự nhiên tôi vui như được một ơn tái sinh nhiệm mầu.

Tôi dâng mình cho Trái Tim Mẹ. Coi Trái Tim Mẹ như nguồn hy vọng của mình. Đơn sơ vậy thôi. Tôi ở lại trong đó. Tình Mẹ dạy dỗ uốn nắn và dưỡng dục tôi. Mẹ tái sinh tôi.

Ở đây, tôi chỉ xin được chia sẻ mấy điều. Xưa thánh Phaolô đã nói về mấy điều ấy trên đường Ngài phục vụ (x. Cl 1,24-29). Nay tôi cũng nói về mấy điều ấy trên đường tôi phục vụ, nhưng được Trái Tim Mẹ cùng chia sẻ với tôi.

1/ Chịu đau khổ.

Thánh Phaolô viết: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, thì tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24).

 

Thánh Phaolô đã nói rất thực. Những đau khổ Ngài phải chịu cũng rất thực.

Hôm nay, sau những năm dài phục vụ trong những hoàn cảnh rất khó khăn, tôi thấy các môn đệ Đức Kitô tại Việt Nam cũng hơn kém cảm thấy những lời thánh Phaolô tâm sự xưa đã như nói thay cho mình.

Có nhiều thứ đau khổ. Của riêng mình. Của người khác. Của cộng đoàn mình.

Đau cái đau của Hội Thánh.

Khổ cái khổ của Quê Hương.

Buồn cái buồn của người nghèo.

Lo cái lo của người bệnh.

Có những thân phận bị nhận chìm, không ngóc đầu lên được. Có những trái tim tan vỡ, không sao gắn lành lại được. Có những cuộc đời bị trói lại, bị kéo đi trên những nẻo đường tăm tối, không bao giờ thoát ra được.

Bao thứ khổ đau như thế bước vào tâm hồn tôi, thân mật như những người bạn tìm nơi trú ngụ.

Tôi đón nhận, như một phần sứ vụ Chúa Giêsu dành cho tôi. Thú thực, đau khổ vẫn là đau khổ. Chẳng sung sướng gì. Nhưng khi tôi ẩn mình trong Trái Tim Mẹ, tôi được Mẹ chia sẻ, ủi an, nâng đỡ. Tôi được Mẹ cho nhìn thấy, một cách nào đó, ý nghĩa của những đau khổ, kể cả những đau khổ vô danh, không chân dung, lặng lẽ trong tôi.

2/ Rao giảng Lời Chúa cho trọn vẹn.

Thánh Phaolô viết: “Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: Đó là tôi phải rao giảng Lời Chúa cho trọn vẹn” (Cl 1,25).

Thánh Phaolô xác tín việc rao giảng Lời Chúa cách trọn vẹn là một sứ vụ quan trọng Chúa uỷ thác cho Ngài.

Các môn đệ Chúa tại Việt Nam xưa rày cũng xác tín như vậy. Nhưng cách rao giảng có khác nhau, tuỳ theo hoàn cảnh.

Tôi đã trải qua nhiều chặng đường rất khác nhau của lịch sử Quê Hương và Hội Thánh Việt Nam. Cùng với việc phục vụ trong nhiều thời gian khác nhau và ở nhiều địa phương khác nhau, tôi học hỏi nơi Trái Tim Mẹ cách rao giảng Lời Chúa sao cho thích hợp.

Mẹ cho biết: Nói chung, cách thích hợp nhất là Lời Chúa trước tiên phải thấm nhập vào chính bản thân người rao giảng. Khi diễn tả ra, nó phải ngấm đậm ơn Chúa Thánh Thần qua việc cầu nguyện, gẫm suy và hy sinh.

Chính Mẹ đã là người rao giảng Lời Chúa một cách thích hợp.

Giảng qua cuộc sống “xin vâng” thánh ý Chúa.

Giảng qua cuộc đời biết sống với những người xung quanh một cách tế nhị.

Giảng qua một hiện diện âm thầm, mang ấn tín mọn hèn của người nữ tỳ của Chúa.

Giảng qua một nếp sống bén nhạy toả ánh sáng và tình thương của trái tim người Mẹ coi nỗi khổ của đàn con như chính nỗi đau của chính mình.

Giảng qua những tu đức coi tội lỗi như cực hình xúc phạm nặng nề sự trong trắng của Trái Tim Mẹ và sự cực thánh của Thiên Chúa.

Giảng qua một cuộc đời tu thân có chiêm niệm và dấn thân.

Nhất là giảng qua một cuộc đời luôn tập trung vào Đức Kitô. Như thánh Phaolô quả quyết: “Chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1,27).

3/ Vất vả phấn đấu.

Thánh Phaolô viết thêm: “Chính vì mục đích ấy, mà tôi phải vất vả và chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi” (Cl 1,29).

Vất vả và phấn đấu trên đường phục vụ, đó là cảm nghiệm sâu sắc của các môn đệ Chúa tại Việt Nam.

Riêng tôi, sự vất vả và phấn đấu nặng nề nhất là đối với chính bản thân tôi. Tôi phải phấn đấu không ngừng với chính mình tôi. Tôi phải vất vả cảnh giác không ngơi với những cái xấu trong tôi.

Tôi thấy vất vả và phấn đấu như thế luôn rất cần để đón nhận được ơn Chúa.

Nhưng những vất vả và phấn đấu của tôi luôn được Trái Tim Đức Mẹ chia sẻ. Hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp qua những trung gian Mẹ gởi tới.

Phải nói thực rằng: Từ bỏ mình, vác thánh giá mình và theo chân Chúa Giêsu là điều không dễ chút nào.

Nhất là khi Chúa Giêsu bảo tôi theo Người vào tâm trạng cô đơn, xao xuyến, hãi hùng, tăm tối mà Người đã trải qua ở vườn Cây Dầu.

Nhưng, rất may, là trong chính những trường hợp bi đát như thế, Trái Tim Đức Mẹ lại cầu bầu tha thiết cho tôi. Hơn nữa, tôi có cảm tưởng là chính Đức Mẹ cũng cùng khóc với tôi. Người lau nước mặt tôi bằng hơi ấm của tình Mẹ.

Chia sẻ vắn tắt trên đây là một sự kể lại chân thành. Hy vọng nó sẽ góp được phần nào nhỏ bé vào việc cổ động cho việc thi hành sứ mạng Fatima: “Hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ”.

Hoàn cảnh hiện nay đang xuất hiện nhiều dấu chỉ về một tương lai ảm đạm cho đức tin. Nên sự tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ phải được coi là một thuốc mầu. Đức Mẹ đã dạy như thế. Nhiều người đã cảm nghiệm rõ, Chính tôi là một chứng nhân.

 

4. Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Trong các lễ nhớ dành riêng cho Mẹ Maria liên quan tới lễ Đức Mẹ Lộ Đức, có lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Kiểu nói “trái tim vô nhiễm” mới có sau này, và trở thành thông dụng sau khi Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố tín lý Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854. Trước đó có các kiểu nói thông dụng như “trái tim rất thanh sạch”, hay “trái tim rất vẹn tuyền”, hoặc “trái tim rất thánh” Đức Mẹ Maria...

Việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ được dựa trên nền tảng Phúc Âm: “Maria ghi nhớ những điều này và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19), và “Còn Mẹ Ngài thì ghi nhớ những điều này trong lòng” (Lc 2, 51). Trong Cựu Ước, trái tim được xem là biểu tượng thẳm sâu trong tâm lòng con người, là trung tâm của mọi chọn lựa và cam kết. Còn đối với nhân loại thì đó là biểu tượng của tình yêu. Trong sách Đệ Nhị Luật ta đã nghe rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết tâm lòng, hết sức lực và trí khôn ngươi.” (Đnl 6, 5). Trong Tin Mừng theo thánh Máccô thì khi các biệt phái chất vấn Đức Kitô về giới răn nào là trọng nhất, Ngài đã nhắc lại đoạn Kinh Thánh này để trả lời cho họ (Mc 12, 29-33).

Chính Trái Tim Mẹ đã đáp trả bằng tiếng “Xin vâng” với Thiên Chúa khi được sứ thần Gabrien truyền tin. Do sự ưng thuận vì tình yêu, Mẹ Maria trước hết đã cưu mang Đức Giêsu trong trái tim mình và rồi cũng cưu mang trong cung lòng của Mẹ.

Theo lịch sử, việc tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ được tìm thấy đầu tiên vào thế kỷ 12 với nhiều sử gia như Thánh Anselm (1109) và Thánh Bernard thành Clairvaux (1153) là thánh viết rất tài tình về việc tôn sùng thánh thiện này. Thánh Bernadine thành Siena (1380-1444) đã được gọi là Tiến Sĩ về lòng sùng kính Trái Tim Mẹ vì những trước tác về Trái Tim Mẹ. Ngài viết, “từ trái tim Mẹ, như lò lửa của Tình Yêu Rất Thánh, Đức Trinh Nữ Maria đã nói lên ngôn ngữ tuyệt vời nhất của một tình yêu mãnh liệt.” Thánh John Eudes (1601-1680) qua các bài viết của Ngài đã giúp khơi lại lòng sùng kính này. Đức Thánh cha Lêô XIII và Piô X gọi ngài là “cha, thầy dạy và là tông đồ phụng vụ lòng sùng mến Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria”. Thánh John Eudes và những người theo ngài đã dành ngày 8 tháng 2 trong khoảng năm 1643 để kính nhớ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Về sau, Đức Piô VII cho mở rộng ngày mừng kính này để các Giáo xứ hoặc hội đoàn nào muốn tôn sùng thì cũng được phép.

Việc tôn sùng Trái Tim Mẹ Maria có một truyền thống đẹp đẽ hơn nữa qua tấm ảnh đeo của Thánh Catarina Laboure năm 1830 và việc hiện ra của Đức Mẹ tại Fatima từ ngày 13 tháng 5 đến 13 tháng 10 năm 1917. Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ là Jacinta, Phanxicô và Luica tại Fatima, Bồ Đào Nha. Trong ngày 13 tháng 7, Mẹ đã cho các trẻ này biết rằng ‘‘để cứu những người tôi lỗi, Thiên Chúa đã ước ao thiết lập việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ’’. Toàn bộ lời nhắn nhủ của Mẹ là một lời cầu nguyện, thống hối và bằng những việc hy sinh, đền bù phạt tạ Thiên Chúa về những xúc phạm đến Ngài.

Vào năm 1942, kỷ niệm 25 năm biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Đức Thánh cha Piô XII đã dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Cũng vào năm ấy, ngài đã chọn mừng lễ này vào ngày 22 tháng 8, một tuần sau lễ Đức Mẹ Hồn Xác Về Trời. Ngày 4 tháng 5 năm 1944, ngài loan báo mở rộng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm cho Giáo Hội hoàn vũ. Với những cải cách về phụng vụ trong Công Đồng Vatican II, lễ kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ được dời về một ngày ngay sau Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, chính là ngày thứ bảy sau chúa nhật thứ hai sau Lễ Hiện Xuống.

Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria để cưu mang Đấng Cứu Thế, để cộng tác cho công trình cứu chuộc của Người. Công trình này xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa. Đức Maria đã cộng tác với Thiên Chúa để mang tình yêu của Người cho nhân loại. Chúa cũng mời gọi sự cộng tác của mỗi người chúng ta. Mỗi người đều có một vai trò và vị trí đặc biệt trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Điều Thiên Chúa cần nơi mỗi người chúng ta là noi gương Mẹ Maria, luôn sẵn sàng vâng phục thánh ý của Chúa

 

5. Trái Tim của Đức Mẹ--Lm Giuse Đinh Tất Quý

Ngày thứ Bảy tuần thứ hai sau lễ Hiện Xuống. Giáo Hội cho chúng ta mửng lễ Trái Tim của Đức Mẹ ngay sau khi chúng ta mừng lễ Trái tim Chúa Giêsu.

I. NGUỒN GỐC LÒNG TÔN SÙNG TRÁI TIM VÔ NHIỄM ĐỨC MẸ.

Lễ Trái Tim Vô nhiễm Mẹ Maria bắt nguồn từ Thánh kinh, Lời các Thánh và Mạc khải tư.

A. THÁNH KINH

* Phúc âm Thánh Luca ba lần trực tiếp nói về Trái Tim Mẹ là nền tảng chính yếu lòng tôn sùng Trái Tim Mẹ:

“Maria giữ kỹ mọi điều ấy và hằng ngày suy nghĩ trong lòng” (Lc 2, 19).

“Mẹ Ngài giữ kỹ hết các điều ấy trong lòng ”(Lc 2, 51) .

“Một mũi gươm sẽ đâm thâu qua lòng Bà ”(Lc 2, 35).

Câu Phúc âm này là nền tảng chính yếu của lòng tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ.

* Theo Đức Piô XII, các Giáo phụ giải thích lòng tôn sùng Trái Tim Mẹ, căn cứ vào hai câu Diệu ca:

“Tôi như vườn khoá chặt, là suối niêm phong ”(Dc 4, 12).

“Tôi ngủ mà lòng tôi thức” (Dc 5, 12).

B. LỜI CÁC THÁNH

- Thánh Giêrônimô: Không trí khôn thụ tạo nào, không trái tim thụ tạo nào, không sức lực nhân loại nào có thể biết được Trái Tim Mẹ Maria yêu mến Chúa chúng ta đến mức nào.

- Thánh Bênađô: Tình Chúa yêu thương chiếm trọn Trái Tim Mẹ Maria, đến nỗi Trái Tim Mẹ dầy tràn tình yêu, vì Thiên Chúa không làm bùng lên tình yêu trong trái tim nào khác như trong Trái Tim Rất Thánh Nữ Trinh. Và vì Mẹ thoát khỏi mọi dính bén thế tục để Mẹ lãnh nhận được ngọn lửa thánh này.

- Thánh Bênađino: Đức Nữ Trinh hiển vinh không lặp lại những tác động yêu mến như các thánh, vì trọn cuộc đời Mẹ là một tác động yêu mến liên lỉ do một đặc ân Mẹ luôn luôn yêu mến Thiên Chúa.

- Thánh Phanxicô Salêsiô: Mẹ Maria trung thành yêu mến Thiên Chúa trong những giờ phút đen tối nhất và tuyệt vọng nhất, đặc biệt trên đồi Canvê. Mẹ tới một mức độ yêu mến hoàn hảo nhất, cao cả nhất. Điểm căn bản là tâm hồn Mẹ tan hòa kết hợp với Chúa và chỉ yêu mến duy một Thiên Chúa trong mọi sự và mọi nơi.

- Thánh Tôma Kempi: Chúng ta có thể tìm một nơi náu ẩn nào có bảo đảm hơn Trái Tim từ bi Mẹ Maria? Người khốn khó tìm được sự cứu giúp, kẻ ốm liệt tìm được thuốc thang, người sầu khổ tìm được sự ủi an, người xao xuyến tìm được lời khuyên răn, kẻ thất vọng tìm được sự trợ phù.

- Thánh Gioan Maria Vianney, Chúa Con có đức công bình của Người, Mẹ không có gì, chỉ có tình yêu là Trái tim của Người. Không có ơn nào từ trời xuống mà không qua tay Mẹ.

- Thánh Eymard: Ai muốn hiểu biết những bí nhiệm thẳm sâu tình yêu Thiên Chúa, và những nhân đức kín nhiệm Thiên tính Chúa Giêsu, thì phải học trong bức gương trong suốt Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria.

C. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI

Đức Piô XII, Tình Hiền Mẫu của Trái Tim Mẹ Maria gần như vô biên. Tâm hồn Mẹ đầy tình hiền ái nồng nàn nhất. Trong giờ phút bi thảm của lịch sử loài người này, chúng con phó thác và hiến dâng chúng con cho Trái Tim Vô nhiễm Mẹ.

- Đức Phaolô VI: Một lễ rất được người đạo đức thời nay yêu quí theo chiều hướng mới lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Đó là lễ Trái tim Đức Mẹ.

- Đức Gioan Phaolô II: Trái tim Mẹ Maria đã luôn luôn theo sát sự nghiệp Con mình, và cũng đập cùng một nhịp thương mến đối với tất cả những ai mà Đức Ki tô đã và đang ấp ủ trong tình thương mến vô biên của Ngài.

- Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria đã mở ra khi Chúa nói, 'Hỡi Bà, này là con Bà'. Một cách thiêng liêng, Trái tim Mẹ đi gặp gỡ Trái tim Con Mẹ đã mở ra khi bị lưỡi đòng của người lính đâm thâu. Trái tim Mẹ mở ra vì cùng một tình yêu thương người ta và thế giới mà Chúa Ki tô đã yêu thương, đã tự hiến trên cây Thánh giá.

D. MẠC KHẢI TƯ

Mẹ Maria đã tỏ ra Trái tim Mẹ cho Thánh nữ Mechtilđê năm 1298, cho Thánh nữ Giêtruđê năm 1302, cho Thánh nữ Brigitta năm 1395, và sau đây cho Thánh Catarina Labouré năm 1830, cho cha Carôlô des Genettes năm 1836, cho nữ tu Justina Bisqueyburu năm 1840, và đặc biệt cho ba trẻ Fatima năm 1917.

1. Sứ điệp đầu tiên của Mẹ

Năm 1830, Đức Mẹ hiện ra với chị Catarina Labouré, thỉnh sinh dòng Nữ Tử Bác ái tại Paris nước Pháp để dạy làm mẫu ảnh lạ (Miraculous Médal). Một mặt có ảnh Trái tim Chúa Giêsu và Trái Tim Đức Mẹ. Cha linh hướng của chị Catarina bảo chị hỏi Đức Mẹ có chữ gì bên trên hai Trái tim. Đức Mẹ trả lời rằng không cần thiết có chữ gì, vì hai Trái tim kết hợp với nhau nói lên đầy đủ ý nghĩa. Đức Mẹ cũng hứa với chị Catarina, “Tất cả những ai đeo ảnh lạ đã làm phép sẽ được nhiều ơn lành, nhất là nếu họ đeo ở cổ xuống ngực'.

2. Chúa Giêsu và Mẹ Maria muốn lập lòng sùng kính Trái tim Mẹ trên khắp thế giới

Hiện ra lần thứ hai ngày 13-6-1917, Mẹ nói với Lucia: “Chúa Giêsu muốn thiết lập lòng sùng kính Trái tim vô nhiễm Mẹ trên khắp thế giới. Mẹ hứa ơn phần rỗi cho những ai có lòng sùng kính đó. Linh hồn họ sẽ được Thiên Chúa yêu thương như những bông hoa Mẹ trang hoàng ngai toà Chúa... Không bao giờ Mẹ bỏ con. Trái tim Vô nhiễm Mẹ sẽ là nơi con nương ẩn và là đường dẫn đưa con đến cùng Thiên Chúa

Hiện ra lần thứ ba ngày 13-7-1917, Mẹ khuyên Lucia khi hy sinh thì đọc, “Lạy Chúa Giêsu, con xin hy sinh vì lòng yêu mến Chúa cho các tội nhân trở lại và để đền tạ tội lỗi xúc phạm tới Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria. Con đã xem thấy hoả ngục. nhiều linh hồn tội nhân khốn nạn sa xuống đó. Để cứu họ, Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới lòng sùng kính Trái tim Vô nhiễm Mẹ... Mẹ sẽ đến xin dâng nước Nga cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ và rước lễ đền tạ các ngày thứ Bảy đầu tháng”

Mẹ lại hiện ra cùng với Chúa Hài Đồng ngày 10-12-1925 với Lucia trong phòng riêng của chị tại tu viện các nữ tu Thánh Dorothy. Một tay Mẹ đặt trên vai Lucia, tay kia Mẹ cầm một quả tim quấn đầy gai. Chúa Hài Đồng nói: “Con hãy thương Trái tim Mẹ rất Thánh của con bị gai quấn quanh do những người bội bạc đâm vào mọi lúc. Và không có ai rút gai ra bằng một việc đền tạ!” Rồi Đức Mẹ nói: “Ái nữ của Mẹ! Con hãy nhìn xem Trái tim Mẹ quấn đầy gai mà những người vô ơn hằng đâm vào bằng những sự xỉ nhục và những sự tệ bạc. Ít là con, con hãy an ủi Mẹ. Nhân danh Mẹ, con hãy loan truyền rằng Mẹ hứa sẽ đến hộ giúp trong giờ chết với những ơn cần thiết tất cảù những ai trong năm thứ Bảy đầu tháng liên tiếp, xưng tội, rước lễ, đọc kinh Mân côi và cùng với Mẹ suy niệm những mầu nhiệm Mân côi có ý đền tạ Mẹ ' .

Ngày 15-12-1926, Chúa Hài Đồng lại hiện đến với Lucia hỏi xem Lucia đã truyền bá việc đền tạ Trái tim Vô nhiễm của Mẹ Chúa.

Năm 1929, Lucia đang cầu nguyện trong nhà nguyện tại tu viện Tuy, Mẹ lại hiện đến với Lucia và nhắc lại: “Mẹ sẽ đến xin dâng nước Nga cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ... Nếu họ nghe lời Mẹ, nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hoà bình '!”

5. Đức Mẹ tỏ ra Trái tim vàng của Mẹ

Năm 1932, tại Beauraing phía nam nước Bỉ, Đức Mẹ hiện ra với năm trẻ em, một em trai là Albertô 11 tuổi, và bốn em gái là Fernanda 15 tuổi, Andrea 14 tuổi, và hai chị em Gilberta V 13 tuổi, Gilberta D 9 tuổi. Các em đến học trường các Sơ dòng “Christian Doctrine ', nên các em được thấy Đức Mẹ hiện ra tại vườn tu viện các Sơ gần cây táo gai.

Ngày 17 tháng 12, Đức Mẹ xin xây một nhà thờ tại đây để dân chúng tới hành hương. Sau bốn ngày, Đức Mẹ nói, “Ta là Đức Nữ Trinh Vô nhiễm'.

Ngày 29 tháng 12, Đức Mẹ cho các em xem thấy Trái tim Vô nhiễm của Mẹ mầu vàng sáng óng.

Ngày hôm sau, Đức Mẹ cũng tỏ ra Trái tim vàng của Mẹ và nói: “Hãy cầu nguyện. Hãy cầu nguyện nhiều”. Riêng với Andrea, Mẹ nói: “Ta là Mẹ Thiên Chúa, là Nữ Vương thiên đàng. Hãy cầu nguyện luôn luôn” Riêng với Fernanda, Đức Mẹ mở hai cánh tay tỏ ra Trái tim Mẹ chói chang và nói: “Con có yêu mến Con Ta không? Con có yêu mến Ta không?” Femanda thưa “có”. Đức Mẹ nói tiếp: “Con hãy hy sinh cho Ta”'. Đức Mẹ hiện ra với năm em tất cả 33 lần.

Lạy Mẹ Maria, xin uốn lòng chúng con nên giống Trái tim Mẹ. Amen.

 

6. Lễ kính Trái Tim vẹn sạch Đức Maria--Lm HKT

Hôm nay Giáo Hội mừng kính Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria. Lễ này được Giáo Hội mừng kính ngay sau lễ tôn kính Thánh tâm Chúa Giêsu. Điều đó giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa ngày lễ của Mẹ Maria hôm nay.

Thật vậy, nếu như Thánh tâm Chúa Giêsu là dấu chỉ tình thương vô hạn mà Thiên Chúa dành cho con người, thì Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria cũng thế, cũng là dấu chỉ của tình yêu, nhưng là tình yêu của Mẹ đối với Thiên Chúa và đối với Đức Giêsu Kitô, con yêu dấu của Mẹ. Tuy nhiên, một cách đặc biệt, khi tôn kính Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria, Giáo Hội cũng tôn kính tình yêu hiền mẫu của Mẹ đối với toàn thể nhân loại.

Thế nhưng, tình thương của Mẹ Maria đối với con người không ngừng bị xúc phạm. Hình ảnh trái tim của Mẹ bị lưỡi gươm đâm thấu mà cụ già Simêon đã cho thấy điều đó. Và trong sứ điệp Fatima, Mẹ Maria đã tỏ cho chúng ta thấy tình yêu của Mẹ đã bị tội lỗi của thế gian gây nên biết bao thương tích. Bởi đó, một trong ba mệnh lệnh Fatima là “Hãy đền tạ trái tim vô nhiễm nguyên tội của Mẹ Maria”.

Cũng như tình yêu của Thiên Chúa, con người cũng không thể hiểu thấu được tình yêu của Mẹ Maria đối với chúng ta. Thật thế, khi trao ban thánh Gioan cho Mẹ Maria, Đức Giêsu cũng trao ban mỗi người chúng ta cho Mẹ Maria. Bởi đó, dù thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, thông minh hay đần độn, khoẻ mạnh hay bệnh tật, mỗi người chúng ta đều được Mẹ Maria đón nhận như người con trọn vẹn của Mẹ. Mỗi người chúng ta đều được Mẹ Maria dành cho tất cả tâm tình và tình thương mà Mẹ đã dành cho Đức Giêsu. Mỗi người chúng ta đều được Mẹ Ma-ri-a dành cho một chỗ đặc biệt trong trái tim Mẹ.

Là con cái của Mẹ Maria, chúng ta hãy siêng năng chạy đến với Mẹ để được Mẹ ủi an nâng đỡ và nhất là chúng ta hãy thi hành những lời căn dặn của Mẹ:

- Cải thiện đời sống,

- Siêng năng lần hạt mân côi,

- Tôn sùng Trái tim Mẹ – Amen.

 

7. Trái tim Vô nhiễm Đức mẹ Lc 2, 41-51--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

“Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” Lc 1, 49) “Lạy Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng. Con sẽ hát bài ca dâng Chúa vì phúc lộc Ngài ban" (Tv 12, 6). Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh của Người (St 1, 26 - 27 ). Mẹ Maria vốn được Thiên Chúa yêu thương tuyển lựa giữa muôn vàn người nữ, Mẹ đã trở nên đồng hình đồng dạng với Thiên Chúa, nghĩa là Mẹ đã nên hình ảnh của Thiên Chúa về lòng trung tín, nhân từ và lòng xót thương vô biên đối với mọi người. Vì thế, Thiên Chúa đã làm cho Trái Tim Mẹ Maria trở thành cung điện xứng đáng cho Chúa Thánh Thần, cho Con Một Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô ngự trị.

TRÁI TIM CỦA MẸ MARIA: TRÁI TIM TÌNH YÊU:

Mẹ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ của Chúa Giêsu vì thế trái tim của Mẹ đã hoàn toàn hiến tế, thuộc trọn về Chúa, Mẹ đã để cho Thiên Chúa hoàn toàn sử dụng Mẹ cho tình yêu của Người và để cứu rỗi nhân loại. Thánh Công Đồng Vaticanô II viết: “Đức Nữ Trinh Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian, lúc Thiên Thần Gabrien truyền tin cho Mẹ” (LG 53). Trong tông thư Đấng Cứu Độ con người, số 22, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhận định: “Chúng ta có thể nói mầu nhiệm cứu độ đã thành hình nhờ Trái Tim Đức Trinh Nữ thành Na-gia-rét khi Maria thưa lời xin vâng. Từ giây phút đó, Trái Tim Trinh Khiết Từ Mẫu ấy luôn luôn theo sát công cuộc của Con Mẹ và vươn đến với tất cả những ai được Chúa Kitô ôm ấp và tiếp tục ôm ấp trong tình yêu vô cùng của Người”. Như Chúa Giêsu trên thập giá, Mẹ Maria đã hiến tế con tim tình yêu vẹn toàn của mình cho Thiên Chúa, trái tim của Mẹ đã rộng mở để đón nhận mọi người. Người lính đâm cạnh sườn của Chúa Giêsu khi Người bị treo trên thập giá, tức thì nước và máu chảy ra, từ nơi đó phát sinh các bí tích. Trái tim hiền mẫu của Mẹ Maria cũng luôn mở rộng để cùng với Chúa Giêsu qui tụ mọi người, để ơn cứu độ của Chúa đến với mọi người. Mẹ Maria với trái tim vẹn toàn, trinh trong đã cống hiến cho công tình cứu rỗi của Chúa và góp phần xây dựng Hội Thánh trần thế. Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng của thánh Gioan: “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13) đã minh chứng tình yêu của Chúa là tình yêu vĩnh cửu, vô vị lợi, xả kỷ. Mẹ Maria với trái tim vẹn toàn là dấu chỉ tuyệt vời và cao đẹp nhất dẫn nhân loại và từng người đến tình yêu của Thiên Chúa Cha. Trái tim của Mẹ Maria là trái tim tình yêu vì Mẹ đã sống trọn tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, Con của Mẹ.

MARIA ĐÃ LUÔN TUÂN THEO Ý THIÊN CHÚA:

Thiên Chúa qua sứ thần Gabrien đã gọi đích danh Maria: Mẹ đã thưa xin vâng không chút đắn đo, không chút do dự khi được sứ giả của Thiên Chúa giải thích. Maria đã nói lời xin vâng tuân theo ý Chúa. Suốt cuộc đời của Mẹ là lời thưa vâng, đáp trả tình yêu của Thiên Chúa. Đời của Mẹ là bài ca cảm tạ, tri ân không ngừng. Mẹ đã giữ kỹ những điều Mẹ đã cảm nghiệm và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2, 51). Cuộc đời của Mẹ là hồng ân quí giá nhất Chúa trao cho nhân loại. Qua tác động của Chúa Thánh Thần, cuộc đời của Mẹ trở nên kiệt tác tình yêu và khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì Mẹ luôn làm theo ý Thiên Chúa, nên nhân loại muôn đời sẽ khen Mẹ là người đầy ân sủng: Mẹ đã để Thiên Chúa hoàn toàn sử dụng cho tình yêu của Ngài và để góp công vào công trình cứu rỗi nhân loại. Tình yêu tự hiến của Mẹ chìm sâu trong mầu nhiệm cứu độ và làm cho cuộc sống Giáo Hội được triển nở phong phú.

Đức Thánh Cha Piô XII vào ngày 31 tháng 10 năm 1942, nhân kỷ niệm 25 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, đã dâng hiến nhân loại và toàn thể gia đình Kitô giáo khắp thế giới cho Trái Tim Đức Mẹ và ngày 04 tháng 5 năm 1944, Ngài truyền cho Giáo Hội mừng lễ kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.

“Lạy Thiên Chúa chí thánh, Chúa đã làm cho Trái Tim Đức Trinh Nữ Maria nên cung điện xứng đáng của Chúa Thánh Thần; vì lời Đức Trinh Nữ chuyển cầu, xin thương giúp chúng con cũng trở nên đền thờ Chúa ngự” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ)

 

8. Mẫu mực trong đời sống đức tin

Một người đàn bà Nigiêria bị tòa án Hồi Giáo kết án tử hình bằng cách ném đá về tội ngoại hôn đã được hoãn hành quyết hai năm để bà có thể cai sữa cho đứa con.

Hôm thứ Hai ngày 17/6/2002, tòa phá án thành phố Pontuar ở miền tây bắc Nigiêria vẫn duy trì cuộc hành quyết này sau khi xét đơn kháng cáo của bà Amila Nawanrami. Người phụ nữ này bị kết án tử hình hồi tháng 3/2002, sau khi bị tố cáo có thai với một người đàn ông không chính thức là chồng của chị. Kurami là người đàn bà thứ hai bị kết án tử hình vì có con ngoại hôn tại Nigiêria. Án tử hình của chị sẽ được thi hành vào năm 2004 sau khi đứa con của chị dứt sữa mẹ. Bản án thật bất công, nó ngược lại với mọi chuẩn mực văn minh của loài người. Tuy nhiên, vẫn còn thấy ở đây một giá trị mà cho dù có độc ác tới đâu loài người vẫn còn trân quí, đó là tình mẫu tử. Người mẹ Nawanrami sẽ chết đi nhưng ít ra đứa con của chị vẫn còn có được những giọt sữa mẹ nuôi dưỡng cho đến khi thôi bú.

Cho con bú mớm, đó là hình ảnh đẹp nhất mà người ta có thể nhìn thấy nơi bất cứ người mẹ nào. Hôm nay Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, có lẽ chúng ta cũng được mời gọi để suy niệm về tình mẫu tử của Mẹ. Mẹ đã sinh dưỡng Chúa Giêsu, Mẹ đã từng cho Ngài bú mớm. Một hôm, vào giữa lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy, có một người trong đám đông đã lên tiếng ca ngợi Mẹ: "Phúc cho kẻ đã cho Ngài bú mớm". Quả thật, cũng như bất cứ bà mẹ nào, Mẹ đã cho Chúa Giêsu bú mớm, Mẹ đã nhìn Ngài lớn lên từng ngày, Mẹ theo dõi và hân hoan với từng bước chân chập chững của Ngài, Mẹ vui với sự khôn lớn của Ngài, Mẹ buồn lo vì sự bất chấp xảy ra cho Ngài.

Câu chuyện Chúa Giêsu lạc mất trong đền thờ được thánh sử Luca ghi lại trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy được trái tim hiền mẫu của Mẹ: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con?" Lời trách móc này bộc lộ tất cả trái tim con người của Mẹ. Mẹ đối xử với Chúa Giêsu với tất cả tình cảm của một con người và chính vì là một con người cho nên Mẹ trở thành mẫu mực cho chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin. Nơi Mẹ, chúng ta nhận ra được một người tín hữu tiến bước trong mò mẫm, trong chiến đấu, trong tin yêu và vâng phục. Nhưng Mẹ không chỉ là mẫu mực cho chúng ta trong đời sống đức tin. Mẹ là Mẹ của chúng ta. Mẹ đã yêu thương Chúa Giêsu với tất cả trái tim nhân loại của Mẹ. Ngày nay, Mẹ cũng tiếp tục dõi theo mỗi người chúng ta với trái tim hiền mẫu ấy. Mẹ đã trải qua thử thách, Mẹ hiểu được thế nào là khổ đau. Hơn ai hết, Mẹ đồng cảm với bao nỗi lo lắng và khổ đau của chúng ta. Mẹ hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Mẹ đã từng dõi theo từng bước trong tiến trình trưởng thành của Chúa Giêsu Con Mẹ. Mẹ suy niệm từng biến cố của cuộc sống.

Ngày nay cũng thế, không có giây phút nào trong cuộc sống của mỗi người chúng ta mà không được Mẹ ôm ấp trong lòng. Với niềm tin tưởng ấy, chúng ta phó thác cuộc sống cho Mẹ.

 

9. Lễ Trái Tim Đức Mẹ

Có thứ nghệ thuật cho rằng đặt trái tim bốc lửa ra ngoài ngực của Đức Giê-su và Đức Ma-ri-a là một gương mù. Thế mà chiêm ngưỡng lối cách mạng này là trình bày cho chúng ta thấy hai Đấng thương yêu chúng ta đậm đà nồng ấm biết chừng nào, và chúng ta thấy hai Đấng đáng mến vô cùng. Người ta cho đó là thứ đạo đức thời trang; lấy lý do đạo đức trong sáng, người ta chê thiếu sự liêm chính tri thức và tinh thần thối thiểu trong đức tin; Nhưng người ta không thấy chướng tai gai mắt của lối thương mại in đúc những trái tim to bự bằng nhiều kiểu để trao tặng cho nhau trong ngày lễ Va-lăng-tin;

Như thế người ta nghĩ sao?

Thói chỉ trích đó do thứ thông minh đáng nghi ngờ cho rằng lối nghệ thuật cơ bắp đó chỉ lôi cuốn sự sùng kính cảm tình. Tuy nhiên, nghệ thuật tạo hình để bày tỏ sự thực của Thiên Chúa, nó nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.

Đừng cười chê quá lố; chúng ta thích biểu lộ tình yêu của chúng ta thế nào: bằng phá bỏ tưởng tượng này chăng? Phải, nếu muốn làm cho lòng yêu mến biến mất và không còn gì để kính tôn nữa. Cần phải đến những nhà thờ để chiêm ngưỡng; tôi đã đến và thấy rằng: “Những tượng ảnh xưa đầy gợi cảm đang sống động tốt”. Chúng có giá trị kích thích lòng đạo đức, chúng không thể là thứ danh từ tân thời như ngày nay.

Đức Ma-ri-a yêu thương chúng ta

Trái tim cực sạch Đức Ma-ri-a thế nào? Ngài yêu thương chúng ta. Trái tim cực sạch của Ngài đồng nghĩa với tình yêu chân thật, giống như tình yêu Con Ngài đối với chúng ta. Dù cho chúng ta tan tành cũ rách, và chẳng đáng để ý chút gì.

Thi hào Claudel nói:”Lạy Mẹ Đức Giê-su Ki-tô, con không đến cầu xin, con đến chỉ để nhìn ngắm Mẹ thôi. Nhìn ngắm Mẹ không chỉ để một lát, mà suốt mọi lúc...

Vì Mẹ là bà Mẹ sáng ngời vinh quang nguyên tuyền...chỉ vì mẹ là Ma-ri-a, Mẹ Đức Giê-su Ki-tô, Xin đoái thương chúng con”.

 

10. Tôi biết chạy đến với ai?--Trích sách ‘Lẽ Sống’

Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuda cảm thấy thất vọng đến độ không còn nghĩ rằng mình có thể được tha thứ nữa. Ông cầm 30 đồng bạc là giá của sự phản bội và đi vào Ðền thờ để trả lại cho các thượng tế và kỳ lão. Sau đó, ông ra ngoài lấy dây thắt cổ tự vận.

Câu chuyện ấy đã được xen vào vở tuồng thương khó nổi tiếng của dân làng Oberammergau bên Ðức. Cứ 10 năm một lần, theo một lời thề hứa mà ông cha đã để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng diễn ra cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Vở kịch thu hút khán giả từ khắp nơi trên thế giới.

Người ta kể lại rằng lần kia, một em bé gái 7 tuổi ngồi cạnh mẹ để xem vở tuồng. Người đóng vai Giuda, trong cơn thất vọng não nề đã thốt lên: "Tôi biết đi đến với ai bây giờ? Tôi đã phản bội Thầy tôi. Thế là hết; Tô không biết phải chạy đến với ai nữa".

Em bé ngồi bên cạnh mẹ cảm thông cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng. Em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em bèn quay sang mẹ và nói lớn đến độ tất cả mọi khán thính giả có mặt trong hội trường đều nghe được: "Má ơi, sao ông ta không chạy đến với Mẹ Maria?".

Chúa Giêsu cũng có một người Mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối Mẹ, những lần sà vào lòng Mẹ, những lần mếu máo khi lạc mất Mẹ, hay những lần vòi vĩnh Mẹ... hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm của bản thân ấy đã trở thành bài học về hồn nhiên trong trắng, tin tưởng, phó thác của tuổi thơ mà Chúa Giêsu luôn đề ra cho chúng ta khi Ngài nói: "Nếu các ngươi không nên giống như trẻ nhỏ, các ngươi không được vào nước Trời".

Tuổi thơ thường gắn liền với mẹ. Còn âm thanh nào bộc phát, tự nhiên, quen thuộc và êm dịu trên môi của trẻ thơ cho bằng tiếng "Mẹ". Khi vui, trẻ thơ kêu mẹ, lúc đói, trẻ thơ cũng kêu mẹ. Khi tỉnh thức, trẻ thơ cũng kêu mẹ, lúc ngái ngủ, trẻ thơ cũng kêu mẹ... Mẹ là tất cả của trẻ thơ.

Mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ để được vào nước Trời, hẳn Chúa Giêsu cũng muốn nhắn gửi chúng ta cho Mẹ của Ngài. Trở nên trẻ thơ trong nước Trời cũng có nghĩa là biết chạy đến với Mẹ Ngài. Trở nên trẻ thơ trong nước Trời cũng có nghĩa là mặc lấy tâm tình của chính Mẹ Ngài, bởi vì còn ai trong trắng, tin tưởng, phó thác cho bằng Mẹ.

 

11. Nên giống Trái Tim Đức Mẹ--Thomas Nguyễn Văn Hiệp

Khi nói đến trái tim thì mọi người không chỉ nghĩ đấy là một cơ phận của thể xác con người, nhưng còn nghĩ ngay đến chiều sâu bên trong là ý hướng, tình cảm, tâm trạng, nỗi niềm .... Triết Đông còn dùng chữ "tâm" (心:trái tim)để chỉ thế giới tinh thần (tâm linh) của con người. Có thể nói "trái tim" là biểu tượng nói lên cái cốt yếu của con người đích thực. Chính vì thế mà Đại Thi hào Nguyễn Du từng bảo:

"Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" (Truyện Kiều).

Cũng vì ý nghĩa và tầm quan trọng của biểu tượng trái tim mà chúng ta có lễ trọng "Thánh Tâm Chúa Giêsu" và lễ "Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ" liền kề nhau.

Câu chuyện có thật về người đàn bà "hủi", mẹ thằng Chiền (Tú Anh) trong phim "Chuyện Tử Tế" của đạo diễn Trần Văn Thủy cũng để lại cho ta nhiều suy nghĩ. Trong phim chỉ cho biết mẹ thằng Chiền bị hủi, bị xua đuổi khỏi làng, bị chồng bỏ, đi xin ăn, đêm đêm lén về nhào đất đúc được 18 vạn (180.000) với ước mơ con có một mái nhà ... đã làm cho khán giả xúc động. Nhưng khi đọc những bài báo viết sau đó mười mấy hay hai chục năm, nhất là bài "Chuyện cổ tích về số phận kỳ lạ của một người đàn bà" của tác giả Phùng Nguyên (2005) cho ta biết thêm nhiều thông tin hơn về người đàn bà "hủi" có tên Trần Thị Hằng, mẹ thằng Chiền. Bài báo đã tạo một cơn sốt ngưỡng mộ nơi độc giả. Chị Hằng đã từng nung dao nóng đỏ để chặt lần lượt mười ngón tay bị cho là "hủi' của mình, phải làm bè sống trên ao, ban ngày đi gánh nước hoặc cát thuê, đêm về gánh đất lấp ao để có một nền nhà .... Chị còn thảm thương hơn cả chị Dậu trong "Tắt Đèn" của Ngô Tất Tố, vì Chị Dậu còn có bầy chó để bán.

Chính trái tim thương con của người mẹ đã giúp chị Hằng vượt qua tất cả. Từ đôi bàn tay bị cho là "hủi" phải chặt cụt từng ngón cùng với trái tim người mẹ luôn yêu thương thao thức vì con, sau mười mấy năm lăn lộn với khổ đau cùng tận, chị Hằng đã thành công trong cuộc sống, đã trở thành triệu phú, có ngôi biệt thự lớn nhất xã Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình (năm 2005).

Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay đều mời gọi chúng ta có trái tim vâng phục Thiên Chúa như Đức Maria.

Bài đọc 1, sách 2Sm mời gọi mọi người sống tâm tình của người con luôn tùng phục Thiên Chúa: "Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao ? ... Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con."

Bài đọc 2, thánh Phao lô xác tín với giáo đoàn Rôma: "Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí".

Bài Tin Mừng, bằng vài nét chấm phá, thánh sử Luca phác họa chân dung Đức Maria: là người thôn nữ bình thường như mọi thôn nữ khác (c 27), là người nữ "đầy ơn sủng" và được "Đức Chúa ở cùng" (c 28), là người được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đấng Messia Con Thiên Chúa (c 30-33)... Tuy nhiên câu kết của Tin Mừng đã làm bừng sáng cả bức chân dung Đức Mẹ là một con người bình thường nhưng thật vĩ đại vì trái tim đã vâng phục Thiên Chúa cách triệt để: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."

Chiêm ngắm cuộc đời Đức Mẹ, chúng ta không chỉ thấy Trái tim Đức Mẹ thốt lên hai tiếng "xin vâng" trong biến cố Truyền tin, khi chứng diện trước Sứ thần của Thiên Chúa; mà cả cuộc đời Đức Mẹ, trái tim vẫn luôn rung nhịp vâng theo thánh ý Thiên Chúa giữa bao nghịch cảnh. Mẹ vâng phục Thiên Chúa trong mọi nơi, mọi lúc, mọi biến cố, mọi phút giây. Trong biến cố hạ sinh con nơi hang bò lừa giữa cánh đồng hoang vu đêm khuya gió rét, biến cố trốn sang Ai Cập, dâng con trong Đền thờ, ẩn cư tại Nazareth ... ở mọi thời khắc Đức Mẹ đều thinh lặng, nhưng con tim ghi nhớ và suy niệm (x. Lc 2,19). Cả biến cố dưới chân thánh giá, Mẹ chứng diện trước cái chết của người con dấu yêu. Có nỗi đau nào sánh ví! Thế mà Mẹ vẫn thinh lặng, vâng phục và phó thác, trao phó con tim mình cho Thiên Chúa.

Ngay từ thời xa xưa, các Giáo phụ và những vị đại thánh đã ca ngợi Trái Tim Đức Mẹ:

Thánh Giêrônimô: Không trí khôn thụ tạo nào, không trái tim thụ tạo nào, không sức lực nhân loại nào có thể biết được Trái Tim Mẹ Maria yêu mến Chúa chúng ta đến mức nào.

Thánh Bênađô: Tình Chúa yêu thương chiếm trọn Trái Tim Mẹ Maria, đến nỗi Trái Tim Mẹ đầy tràn tình yêu, vì Thiên Chúa không làm bùng lên tình yêu trong trái tim nào khác như trong Trái Tim Rất Thánh Nữ Trinh. Và vì Mẹ thoát khỏi mọi dính bén thế tục để Mẹ lãnh nhận được ngọn lửa thánh này.

Thánh Bênađinô: Đức Nữ Trinh hiển vinh không lặp lại những tác động yêu mến như các thánh, vì trọn cuộc đời Mẹ là một tác động yêu mến liên lỉ do một đặc ân Mẹ luôn luôn yêu mến Thiên Chúa.

Thánh Phanxicô Salêsiô: Mẹ Maria trung thành yêu mến Thiên Chúa trong những giờ phút đen tối nhất và tuyệt vọng nhất, đặc biệt trên đồi Canvê. Mẹ tới một mức độ yêu mến hoàn hảo nhất, cao cả nhất. Điểm căn bản là tâm hồn Mẹ tan hòa kết hợp với Chúa và chỉ yêu mến duy một Thiên Chúa trong mọi sự và mọi nơi.

Thánh Gioan Maria Vianney: Chúa Con có đức công bình của Người, Mẹ không có gì, chỉ có tình yêu là Trái tim của Người. Không có ơn nào từ trời xuống mà không qua tay Mẹ.

Thánh Eymard: Ai muốn hiểu biết những bí nhiệm thẳm sâu tình yêu Thiên Chúa, và những nhân đức kín nhiệm Thiên tính Chúa Giêsu, thì phải học trong tấm gương trong suốt Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.

Lời mời gọi của thánh Eymard, cũng là lời mời gọi của Lời Chúa hôm nay: Hãy nên giống trái tim Đức Mẹ.

Có lẽ chúng ta sẽ bảo rằng: thật khó để thanh luyện trái tim mình nên giống Trái tim Đức Mẹ. Quả là khó chứ không phải là điều không thể. Điều quan trọng là tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa có tinh tuyền và mãnh liệt như Đức Mẹ hay không. Nếu có tình yêu thì chúng ta sẽ làm được tất cả, vượt qua tất cả mọi gian nan hay đam mê lôi cuốn. Cha ông ta đã từng bảo: "yêu nhau mấy núi cũng trèo" mà! Mẹ thằng Chiền chẳng phải đã thắng vượt tất cả vì yêu con sao?

Chính trái tim yêu mến Thiên Chúa cách trọn vẹn và mãnh liệt đã làm nên một Maria vâng phục thánh ý Thiên Chúa suốt cả đời. Cũng thế, nếu trái tim chúng ta luôn thao thức qui hướng về Thiên Chúa, rung nhịp với Tin Mừng tình yêu vĩnh cửu của Ngài thì mỗi người chúng ta cũng có thể vượt qua tất cả mọi trở ngại để vâng phục Thiên Chúa cách hoàn toàn và suốt cả đời như Đức Mẹ. Các Vịnh gia từng thốt lên: "Tim thét gào thì miệng phải rống lên" (Tv 38,9) (xem bài diễn giải rất hay của thánh Augustinô về câu Thánh vịnh này ở Bài đọc 2 Kinh Sách, thứ 6 tuần 3 mùa vọng).

Nếu chúng ta không thanh luyện trái tim mình nên giống trái tim Đức Mẹ, tức để cho tim mình rung nhịp theo những xúc cảm tầm thường, nhất thời, thì trái tim chúng ta không chóng thì chày cũng dễ bị lạc nhịp theo những xu hướng của thế tục, của sự ích kỷ vụ lợi cá nhân.

Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn, mỗi người chúng ta thanh luyện chính mình để trái tim chúng ta trở nên máng cỏ yêu thương nơi Hài Nhi Giêsu ngự trị và để chúng ta có thể mang Chúa đến cho tha nhân.

 

12. Suy niệm trong lòng--‘nguoitinhuu.com’

Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. (Lc 2,51)

Suy niệm: Nhiều lần Chúa Giêsu đã gián tiếp ca ngợi Mẹ: “Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời tôi và đem ra thực hành” (Mc 3,35; Lc 8,21) và “Phúc thay ai lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11,28). Các Phúc Âm đã thuật lại những biến cố trong cuộc đời của Người Con, nhất là những biến cố trong thời thơ ấu, đã đi vào cuộc đời của Mẹ và cho biết Mẹ “hằng ghi nhớ những kỷ niệm đó và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19.51). Hẳn đối với Mẹ, Lời Chúa không chỉ được nghe tại các hội đường mà còn vang lên nơi các biến cố đời thường và nhất là nhập thể nơi Người Con duy nhất mà Mẹ được diễm phúc sinh ra. Mẹ đã thường xuyên “đọc” Lời Chúa và suy niệm trong lòng như thế nên những phản ứng của Mẹ luôn biểu lộ thái độ của một người có lòng tin sâu xa, thấm nhuần Lời Chúa.

Mời Bạn: Mẹ Maria là người đã trải qua nhiều “đêm tối đức tin” hơn ai hết, nhưng nhờ Mẹ năng lắng nghe và suy niệm Lời Chúa nên Mẹ có sức mạnh nội tâm vượt qua tất cả. Làm sao Mẹ có thể tin nổi lời sứ thần Gabriel, làm sao Mẹ có thể can đảm đi theo Chúa trọn con đường Thập giá nếu Mẹ không nhận ra và tin vào Lời Chúa? Giờ đây Mẹ vẫn chuyển cầu và dẫn chúng ta đến với Chúa mỗi khi chúng ta gặp khó khăn thử thách: “Người bảo gì thì hãy làm theo” (Ga 2,3). Nhưng liệu tôi có nghe và làm theo không?

Sống Lời Chúa: Mỗi ngày chọn một câu Lời Chúa để suy đi gẫm lại như Mẹ.

Cầu nguyện: Lạy Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã vâng phục Mẹ vì Mẹ đã thấm nhuần Lời Chúa. Xin giúp con biết để Lời Chúa hướng dẫn bước đường con đi trong suốt cuộc lữ hành trần thế này.

 

13. Lễ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ--JM Lam Thy ĐVD

Để nói lên vai trò quan trọng bậc nhất của người mẹ, tục ngữ Việt Nam có câu: “Mồ côi cha ăn cơm với cá; Mồ côi mẹ liếm lá đầu đình”. Ấy cũng bởi vì tình cảm mẹ con vô cùng thắm thiết. Ngôn ngữ loài người đã dùng 2 tiếng Mẹ và Con để tôn vinh tình cảm bất khả thay thế đó, đồng thời cũng dùng 2 tiếng ấy trong cách xưng hô giữa 2 ngôi vị đó trong gia đình. Đối chiếu tình cảm đó với Thánh Kinh, khi nhìn vào mầu nhiệm Cứu Chuộc thì Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể), khi nhìn vào mầu nhiệm Hội Thánh thì Đức Maria là Mẹ Giáo Hội (vì Người Con của Mẹ đã nhận Giáo Hội làm Hiền Thê và chính thức trao phó cho Mẹ trước khi sinh thì trên Thánh Giá). Quả thật tình Mẫu Tử giữa Mẹ Thiên Chúa và Người Con là cao vời tuyệt đỉnh, muôn vật thụ tạo khôn sánh bằng.

Tuy nhiên, khi suy niệm Thánh Kinh thì lại nảy sinh thắc mắc: Tại sao Người Con Chí Thánh Giê-su lại gọi Mẹ mình bằng tiếng Bà nghe có vẻ xa lạ như vậy (như trong tiệc cưới Ca-na, khi thấy thiếu rượu, Đức Maria nói với Đức Giê-su: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giê-su đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” – Ga 2, 4); thậm chí cả khi trối trăng dưới chân thập tự: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ Gio-an: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.” – Ga 19, 26-27). Phải chăng vì Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên Người không muốn gọi người sinh ra mình nơi trần gian là Mẹ? Thắc mắc thật khó lý giải, đành phải nhờ vào việc tìm hiểu danh thánh Maria qua cách giải thích của các Giáo phụ, mới hiểu rõ được vấn đề:

Qua hàng bao thế kỷ, nhờ lòng tôn sùng tuyệt đối Đức Maria, các thánh Giáo phụ đã đề nghị nhiều cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của danh xưng “Maria”. Tựu trung, người ta đã có được một giàn ý nghĩa kỳ thú sau đây: Maria nghĩa là “Người Soi Sáng” bởi vì Người đã đem Ánh Sáng (Đức Giê-su Thiên Chúa – Nguồn Ánh Sáng Cứu Độ) đến cho thế gian; Maria nghĩa là “Sao Biển” vì những người đi biển được Sao Biển hướng dẫn về bến bờ như thế nào, thì Ki-tô hữu trong biển đời giông tố cũng đạt đến vinh quang nhờ sự soi đường chỉ lối của Đức Từ Mẫu Maria như vậy; Maria còn có nghĩa là “Lệnh Bà” (là Đức Bà của nhân loại). Trước đây ở Việt Nam, trong các kinh nguyện về Đức Maria đều gọi là Đức Bà. Điều đó cho thấy khi Đức Giê-su gọi Đức Maria là Bà, là Người tôn vinh Người Mẹ chí ái của minh vậy.

Còn về ngày lễ “Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ”, thì Lịch sử Phụng Vụ của Giáo Hội cho biết: Năm 1787, Đức Giáo hoàng Pi-ô VI ban phép các nữ tu dòng Đức Mẹ Gabriel mừng lễ “Rất Thánh Trái Tim Mẹ Maria” vào ngày 22/8. Năm 1799, tất cả các nhà thờ giáo phận Palermô nước Ý được mừng lễ này. Năm 1805, tất cả các giáo phận và các dòng tu muốn mừng lễ này đều được Đức Pi-ô VII ban phép. Năm 1855, dưới triều đại Đức Pi-ô IX, giờ kinh và Thánh lễ đã được Thánh bộ Lễ nghi chấp thuận (1).

Từ sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại Fatima năm 1917 ban hành mệnh lệnh “Tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ”, vào ngày mồng 8/12/1942, Đức Thánh Cha Pi-ô XII long trọng dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ. Tới tháng 5/1943, Đức Thánh Cha khuyến khích tín hữu Công Giáo kêu cầu sự bầu cử của Đức Trinh Nữ Rất Thánh, nhất là bằng cách đọc kinh Mân Côi cầu cho thế giới được hoà bình đích thực. Ngài cũng kêu mời mọi người dâng mình cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Năm 1945, ngài chính thức thành lập lễ “Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ” vào ngày 22/8. Theo chiều hướng canh tân Phụng vụ, năm 1969, Đức Phao-lô VI đổi lễ này vào ngày thứ Bảy sau lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su (cuối tuần Chúa nhật II sau lễ Hiện Xuống) (2).

Thật vô cùng ý nghĩa khi ngày lễ kính Trái Tim Người Mẹ đi liền với ngày lễ kính Thánh Tâm Người Con. Ấy cũng bởi vì 2 Trái Tim ấy luôn gắn liền với nhau, ở trong nhau trong suốt thời Cứu Độ và mãi mãi cho đến vô cùng. Để được hòa chung Máu của Mẹ với Máu của Con làm của dưỡng nuôi những tín hữu, cùng đồng công cứu chuộc nhân loại thoát khỏi sự chết đời đời, hẳn nhiên Đức Mẹ phải có đầy đủ trong lòng (trong trái tim) nguồn ân sủng chan chứa làm nên những hình ảnh Trái Tim Từ Mẫu tuyệt vời: Trái Tim Tinh Tuyền, Trái Tim Tín Thác, Trái Tim Cay Đắng, Trái Tim Nhân Hậu.

Trái Tim Tinh Tuyền: Mẹ đã được tuyển chọn ngay từ khi Nguyên tổ phạm tội. Thiên Chúa đã tiền định một E-và Mới sẽ “đạp nát đầu con rắn (Xa-tan) đã cám dỗ E-và” (St 3, 1-15). E-và Mới đó chính là Đức Maria được hồng ân vô nhiễm nguyên tội ngay từ khi đầu thai trong lòng bà Anna. Đồng thời, trong suốt cuộc đời trần thế, Mẹ cộng tác mật thiết với Người Con (A-đam Mới) đồng công cứu chuộc loài người, gặp biết bao nghịch cảnh và cám dỗ của ba thù, Mẹ vẫn giữ nguyên tuyền vẻ đẹp trinh trong một Trái Tim Vẹn Sạch, không chút bợn nhơ trần thế.

Trái Tim Tín Thác: Sau khi nghe sứ thần truyền tin, Mẹ chẳng so đo ngần ngại, mà dứt khoát:”Xin Vâng”. Mẹ hoàn toàn vâng phục, phó thác vào Thiên Chúa Quan Phòng với tất cả tấm lòng tin, cậy, mến. Qua bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat), Mẹ cảm tạ, ca ngợi và tri ân Thiên Chúa đã đoái thương đến Mẹ và dân Chúa chọn. Vì nay lời Giao ước đã được thưc hiện, Mẹ phó thác vào Thiên Chúa, tuân phục theo những dấu chỉ, những mệnh lệnh của Người cách trực tiếp, hay gián tiếp qua người bạn trăm năm là Thánh Cả Giu-se. Dù bụng mang dạ chửa nặng nề, Mẹ vẫn vui lòng lên đường trở về Bê Lem cùng với Thánh Cả Giu-se, theo lệnh kiểm tra dân số của hoàng đế Augusto. Sau khi sinh hạ Hài Nhi Giê-su nơi hang bò lừa Bê-lem lạnh lẽo, Mẹ lại tiếp tục vâng theo Thánh ý, đem Con sang Ai-cập lánh nạn Hê-rô-đê lung giết các hài nhi.

Trái Tim Cay Đắng: Ngày 13/6/1917, một trong ba thiếu nhi Fatima (Lucia, Jacinta và Francisco) là Lucia (được “Chúa Giê-su dùng để làm cho Mẹ được mọi người nhận biết và yêu mến”) đã trực tiếp nghe lời Đức Mẹ phán hứa: “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Chúa”. Thế rồi, trước khi biến đi, Đức Maria đã dùng tay phải chỉ vào ngực, cho 3 trẻ thấy một Trái Tim bị gai nhọn từ chung quanh đâm vào (3). Điều này cho thấy những gai nhọn, đinh sắc (tội lỗi loài người) không chỉ đâm vào Thánh Tâm Người Con mà còn đâm cả vào Trái Tim Mẹ. Trái Tim Mẹ khi còn tại thế đã đau đớn đúng như lời ngôn sứ Si-mê-on tiên báo (“Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” – Lc 2, 35). Thật không ngờ cho đến 20 thế kỷ sau, khi Đức Mẹ hiện ra tại Fatima (năm 1917), Trái Tim Mẹ vẫn tiếp tục bị gai nhọn, đinh sắc tội lỗi loài người đâm thâu. Danh thánh Maria với nghĩa là “Biển Đắng Cay” quả thật không sai.

Trái Tim Nhân Hậu: Nói về nhân hậu là nói về Đức Mến nền tảng của Ki-tô giáo. Đó chính là điều răn trọng nhất: “Mến Chúa yêu người”. Với Đức Maria thì Trái Tim Mẹ đã vượt trên tất cả phàm nhân về đức tính nhân hậu. Vì “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, Đức Maria đã dâng hiến toàn thân cho Thiên Chúa (khấn giữ đồng trinh). Cũng vì yêu Chúa, nên Mẹ đã “xin vâng như lời sứ thần truyền” dù cho Mẹ “không hề biết đến người nam”. Cũng vì yêu Chúa, nên Mẹ chấp nhận mọi gian nan vất vả khi sinh con tại hang bò lửa Bê-lem, khi mang Con lánh nạn sang Ai-cập. Từ khi hạ sinh Trưởng Tử Giê-su, Mẹ hết lòng yêu thương, chăm sóc Con, không những thế, Mẹ còn dạy mọi người đức mến yêu, vâng phục tuyệt đối Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ: “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” (Ga 2, 5). Cho đến khi Con tử nạn trên Gôn-gô-tha thì Trái Tim tan nát của Mẹ vẫn mở ra đón nhận đàn con cái trần gian do Người Con trao phó. Trái Tim của Mẹ vì khiêm cung nhân hậu đã xin vâng nhận làm Mẹ Thiên Chúa, nay lại mở rộng lòng nhận hậu, nhận làm Mẹ Giáo Hội lữ hành.

Suy niệm về Trái Tim Từ Mẫu Maria thì vô cùng, không bút mực nào có thể diễn tả cho hết được về kỳ công Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một Evà Mới Maria, hạ sinh một Trưởng Tử Ađam Mới, cùng hiệp thông thi hành sứ vụ Cứu Độ nhân loại. Người Ki-tô hữu hãy chạy đến với Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ, để được “Nhờ Mẹ, đến với Chúa – Ad Jesum per Mariam”, cầu xin Người ban cho một tâm hồn trong sạch, một trái tim tinh tuyền như Mẹ và như vua Đa-vit thủa xưa. Hãy tha thiết thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ” (Tv 51, 12). Ôi! “Lay Chúa, xin ban cho con trái tim tinh tuyền. Để con luôn luôn cao dâng tâm tình kính mến. Lay Chúa, xin ban cho con trái tim tinh tuyền. Để con luôn luôn trung kiên vững một niềm tin.” (TCCĐ “Trái Tim Tinh Tuyền”).

 

14. Đức Maria vô nhiễm, vì được Chúa ở cùng--LM. Giuse Đinh Quang Thịnh

Khi ta nhìn Đức Ma-ri-a trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, thì Đức Ma-ri-a là Mẹ của Thiên Chúa (Hội Thánh kính ngày 1.1)

Khi ta nhìn Đức Ma-ri-a trong mầu nhiệm Hội Thánh, thì Đức Ma-ri-a là đấng Vô Nhiễm, vì là Hiền Thê của Tân Lang Giêsu mà Hội Thánh kính hôm nay.

Chính Đức Giê-su đã gọi Mẹ mình bằng danh hiệu Bà lúc khởi đầu và lúc kết thúc cuộc đời công khai của Ngài.

- Khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su, Ngài “thai nghén” Hội Thánh qua tiệc cưới Cana là dấu chỉ. Nơi đây Đức Giê-su nói với Mẹ: “Này Bà, giữa tôi và Bà nào có việc gì” (Ga 2,4a). Đức Giê-su gọi Mẹ mình là Bà,Ngài có ý xác nhận Đức Ma-ri-a là Eva mới, sẽ làm ứng nghiệm lời hứa tiền Tin Mừng Thiên Chúa cứu độ loài người: “Người phụ nữ sẽ đạp nát đầu rắn” (St 3,15 – Theo bản dịch Phổ Thông). Bà Eva mới này mới làm ứng nghiệm lời ông Adam nói với vợ: “Bà là mẹ các sinh linh” (St 3,20), nghĩa là mẹ của những người được Thiên Chúa cứu độ.

- Kết thúc đời công khai của Đức Giê-su, khi Ngài bị treo trên thập giá là thời điểm Ngài sinh ra Hội Thánh, là con của Bà Maria, Eva mới, như Lời Đức Giê-su nói về sự liên hệ giữa môn đệ của Ngài với Đức Ma-ri-a: “Hỡi Bà, này là con Bà”, đoạn Ngài nói với môn đệ: “Này là Mẹ con”, và từ giờ đó môn đệ đã lĩnh lấy bà về nhà mình” (Ga 19,26-27).

Như thế hai lần Đức Giê-su gọi Mẹ bằng danh hiệu Bà mở đầu và kết thúc cuộc đời công khai của Ngài, là Ngài có ý nhấn mạnh: Từ khởi sự cho đến hoàn tất, những công việc tôi đều có sự tham dự tích cực của bà Maria. Vì thế, thánh Phao-lô nói: “Cũng chỉ vì một người mà sự tội đã đột nhập vào thế gian, và vì tội, thì sự chết nữa và như vậy sự chết đã lan qua hết mọi người, một khi mọi người đều đã phạm tội… Ấy thế, mà sự chết đã ngự trị từ Adam cho đến ông Mô-sê, trên những kẻ không phạm tội (vì lúc đó chưa có Luật) bằng cách vi phạm giống như Adam phản ảnh của Đấng sẽ đến. Nhưng không phải sa ngã sao ơn huệ cũng vậy. Vì nếu bởi sự sa ngã của một người, nhiều người đã chết, thì còn dãy tràn hơn biết bao trên nhiều người, ơn của Thiên Chúa, lộc trong ơn của một người, Đức Giê-su Ki-tô”(Rm 5,12.14-15).

Bởi đó, Đức Ma-ri-a là tiền thân của các Ki-tô hữu, vì qua Bí tích Thánh Tẩy, người Ki-tô hữu cũng là một trinh nữ thanh khiết, như Maria, Mẹ của mình, được đính hôn với Tân Lang Giêsu, (x 2Cr 11,2). Chính vì vậy mà Hội Thánh tuyên xưng Đức Ma-ri-a là một Trinh Nữ Vô Nhiễm Chúa chọn từ muôn thuở, để cùng với Adam cuối cùng (x 1Cr 15,45b) sinh ra dòng giống nhân loại mới là Hội Thánh. Do đó giáo huấn của Công Đồng Vat.II, trong Hiến Chế Hội Thánh số 56: “Vì Eva không vâng Lời Chúa, nên đã sinh ra nhân loại phải chết; nhưng nhờ Đức Ma-ri-a, Eva mới cùng với Adam cuối cùng, sinh ra dòng giống nhân loại mới được sống muôn đời hạnh phúc dồi dào”, và như thế Đức Ma-ri-a đã làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói về thời đại Thiên Chúa ra tay cứu độ: “Dòng giống chúng sẽ được biết đến trong các nước, và miêu duệ chúng lừng danh giữa muôn dân; ai thấy chúng đều nhận biết đích thị là dòng giống được Thiên Chúa chúc lành” (Is 61,9: Bài đọc). Bởi đó, khi Đức Ma-ri-a vừa nghe bà Elizabeth người chị họ chúc tụng: “Trong nữ giới có người là diễm phúc! Vì đáng chúc tụng thay quả lòng Bà! Và bởi đâu tôi được thế này là Mẹ Chúa đến với tôi” (Lc 1,42-43). Vừa nghe lời chúc tụng ấy, Đức Ma-ri-a cất tiếng ca ngợi Chúa: “Tâm hồn con nhảy mừng trong Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,47: Đáp ca). Tâm tình ca tụng Chúa của Đức Ma-ri-a đã nối dài lời chúc tụng của bà Anna, dù hiếm hoi mà được Chúa cho sinh con trong tuổi già: “Tâm hồn con hỷ hoan vì Chúa, nhờ Chúa con ngẩng đầu hiên ngang, con mở miệng nhạo báng quân thù. Vâng con vui sướng vì được Ngài cứu độ” (1Sm 2,1). Và như thế, lời tạ ơn trên của Đức Ma-ri-a lại làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói về thời Thiên Chúa ra tay cứu loài người khỏi án tử vì tội: “Tâm hồn con vui sướng trong Chúa, mạng con nhảy mừng trong Thiên Chúa con thờ, vì Người đã mặc cho con áo cứu độ. Chiến bào công chính, Người phủ lên con, như tân lang chỉnh tề đai mão và tân nương điểm trang phục sức” (Is 61,10: Bài đọc). Và như thế Đức Ma-ri-a đã xác nhận mình là Tân Nương đã được Chúa điểm trang phục sức đứng kề bên Adam cuối cùng chỉnh tề đai mão, vì Ngài là Vua.

Ơn huệ quý báu Chúa ban cho Đức Ma-ri-a chỉ có thể tồn tại nhờ Mẹ đến Nhà Chúa gặp thấy Con đang giảng dạy giáo lý. Quả thật, mầu nhiệm này Đức Giê-su hữu ý bắt cha mẹ Ngài phải đến Nhà Thờ, mới được bình an. Đó là lý do Ngài trốn cha mẹ ở lại Nhà Thờ, để từ đó Con Thiên Chúa đồng hành với cha mẹ trở về quê Nazareth (x Lc 2, 41-51: Tin Mừng). Sau này từ Nazareth Đức Giê-su bắt đầu đời sống công khai, đem Tin Mừng cứu độ cho muôn dân (x Lc 4,14t).

Vậy ta hãy bắt chước “Đức Trinh Nữ Ma-ri-a ghi nhớ Lời Chúa và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19: Tung Hô Tin Mừng), để qua Phụng Vụ Thánh Lễ Trái Tim Vô Nhiễm của Đức Ma-ri-a, Hội Thánh muốn nhắc nhở con cái mình: Người Công Giáo đã được trở nên con cái Mẹ, thì phải nên giống Mẹ năng đến Nhà Thờ gặp Chúa, vì mỗi khi phạm tội là ta lạc mất Chúa, hãy trở lại Đền Thờ để tham dự Thánh Lễ, nhờ Chúa ta được thanh tẩy, và cho ta tham dự vào ơn Vô Nhiễm của Mẹ. Như lời thánh Gioan nói: “Mầm giống của Đức Ki-tô lưu lại trong kẻ ấy, và kẻ ấy không thể phạm tội, bởi chưng đã được sinh bởi Thiên Chúa” (1Ga 3,9). Đó là hiệu quả chính của Bí tích Thánh Thể mà sách Giáo Lý Roma đã xác quyết:

- Việc rước lễ giúp ta xa lánh tội lỗi, khi chúng ta rước Mình Chúa Ki-tô “đã phó nộp vì ta” và Máu “đã đổ ra cho mọi người được tha tội”. Vì thế Bí tích Thánh Thể không thể kết hợp chúng ta với Chúa Ki-tô, nếu Chúa Ki-tô không thanh tẩy chúng ta khỏi tội đã phạm và giúp chúng ta xa lánh tội lỗi (số 1393).

- Nhờ tình yêu mà Bí tích Thánh Thể khơi dậy trong tâm hồn, chúng ta được gìn giữ khỏi phạm tội trọng, càng tham dự vào sự sống Chúa Ki-tô, chúng ta càng sống mật thiết với Người; nhờ đó giảm bớt nguy cơ phạm tội trọng lìa xa Chúa (số 1395).

- Nhờ tham dự Thánh Thể, ta được gắn bó với Chúa Giê-su Phục Sinh chặt chẽ hơn, vì Ngài đã tha các tội nhẹ của ta, và bảo vệ ta khỏi phạm tội trọng (số 1416).

THUỘC LÒNG: Tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết (2Cr 11,2).

 

15. Lễ Trái tim vô nhiễm Đức Mẹ--Lm. Giuse Nguyễn Đức Ngọc

Xâm mình (xâm những hình ảnh trên thân thể) đang là mốt thời thượng của giới trẻ. Họ xâm trên mình nhiều hình ảnh hết sức lạ mắt và cho rằng xâm mình như vậy mới là “dân chơi”, mới là “sành điệu”. Có bạn trẻ xâm trên ngực hình trái tim bị một mũi tên xuyên qua đang rỉ máu với hàng chữ minh họa “hận tình đen bạc” hoặc “hận đời”…..

Khi nhìn trái tim rỉ máu ấy tôi liên tưởng đến 2 trái tim cũng bị đâm thâu: Một trái tim mà chúng ta mới mừng lễ hôm qua bị xé rách do lưỡi đòng của quân lính – Thánh Tâm CGS - và một trái tim bị đâm thâu do lưỡi gươm ác nghiệt mà Ông già Simêon đã tiên báo (Lc 2, 35b) – trái tim vô nhiễm Đức Mẹ mà chúng ta mừng lễ hôm nay.

Điểm khác biệt của 2 trái tim này với trái tim trên ở chỗ: 2 trái tim này bị đâm thâu và loang máu không phải vì “hận tình” và “hận đời” mà là vì “yêu Trời, yêu đời và yêu người”.

Sau khi Nguyên Tổ sa ngã, dù con người đã phạm tội chống lại Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương Ađam và Evà. Người muốn họ và tất cả loài người phát xuất từ hai ông bà được sống trong tình nghĩa với Người nên đã sai Đấng Cứu Chuộc đến để giao hòa con người với Thiên Chúa (St 3,15) và phục hồi tình trạng ơn thánh cho chúng ta (Sách GL của HTCG).

Thế là trái tim thứ I có sứ mạng tuân hành thánh ý Thiên Chúa Cha, nhập thể và nhập thế để trở nên của lễ đền tội cho nhân loại: “Này con đây, con đến để thực thi ý ngài” (Dt 10, 8-9). Nhưng để có thể xuất hiện trong cuộc đời này, trái tim thứ I rất cần có sự cộng tác của trái tim thứ II để cho thánh ý được nên trọn. Thiên Chúa không phải chờ lâu, trái tim thứ II đã mau mắn đáp lại tiếng mời gọi của Sứ Thần Gabriel: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền” (Lc 1, 38).

Và bắt đầu từ đó, hai trái tim hòa quyện với nhau, trở nên một tâm tình, một ý chí và một lòng mến: yêu Trời (Chúa Cha), yêu đời (chấp nhận và thực thi sứ mạng của mình) và yêu người (vì yêu thương nhân loại), đến nỗi ta không bao giờ có thể tách biệt 2 trái tim ấy ra.

Có lẽ chính vì ý thức như vậy nên liền sau lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, Giáo Hội mừng lễ trái tim vô nhiễm Mẹ Maria để muốn nói lên rằng Mẹ và Con Yêu Dấu của Mẹ đã liên kết với nhau chặt chẽ, đã đồng tâm nhất trí với nhau, đã một lòng một ý vâng lời Thánh ý Thiên Chúa Cha và hoàn toàn dâng hiến cho nhân loại. Có lẽ không có hình ảnh nào cao cả cho bằng hình ảnh Mẹ Maria đứng dưới chân Thánh Giá. Chính lúc lưỡi đòng đâm thâu trái tim Con của Mẹ thì cũng là lúc trái tim Mẹ nát tan. Có lẽ để chứng thực điều đó nên vào ngày 13/6/1929, khi hiện ra với Chị Lucia, Mẹ đã cho Chị nhìn thấy trái tim của Mẹ bốc lửa và bị vòng gai quấn chung quanh, bên cạnh là Thánh Giá Chúa Giêsu lơ lửng trên trần nhà nguyện.

Bạn thân mến, Mẹ Maria đang mời gọi mỗi người chúng ta cũng hãy gắn chặt và liên kết trái tim chúng ta với Thánh Tâm Chúa qua trung gian trái tim vẹn sạch của Mẹ. Điều kiện để được liên kết đó là hãy yêu như Chúa và Mẹ yêu, hãy sống như Chúa và Mẹ sống, hãy hy sinh, dâng hiến trọn vẹn cho tha nhân như Chúa và Mẹ đã làm. Amen.

 

16. Lễ Trái tim vô nhiễm Đức Mẹ--Phêrô Dương Hải Văn SDB

Trong các lễ nhớ dành riêng cho Mẹ Maria liên quan tới lễ Đức Mẹ Lộ Đức, có lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Kiểu nói ”trái tim vô nhiễm” mới có sau này, và trở thành thông dụng sau khi Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố tín lý Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854. Trước đó có các kiểu nói thông dụng như ”trái tim rất thanh sạch”, hay ”trái tim rất vẹn tuyền”, hoặc ”trái tim rất thánh” Đức Mẹ Maria...

Việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ được dựa trên nền tảng Phúc Âm: “Maria ghi nhớ những điều này và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19), và “Còn Mẹ Ngài thì ghi nhớ những điều này trong lòng” (Lc 2, 51). Trong Cựu Ước, trái tim được xem là biểu tượng thẳm sâu trong tâm lòng con người, là trung tâm của mọi chọn lựa và cam kết. Còn đối với nhân loại thì đó là biểu tượng của tình yêu. Trong sách Đệ Nhị Luật ta đã nghe rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết tâm lòng, hết sức lực và trí khôn ngươi.” (Đnl 6,5). Trong Tin Mừng theo thánh Máccô thì khi các biệt phái chất vấn Đức Kitô về giới răn nào là trọng nhất, Ngài đã nhắc lại đoạn Kinh Thánh này để trả lời cho họ (Mc 12, 29-33).

Chính Trái Tim Mẹ đã đáp trả bằng tiếng “Xin vâng” với Thiên Chúa khi được sứ thần Gabrien truyền tin. Do sự ưng thuận vì tình yêu, Mẹ Maria trước hết đã cưu mang Đức Giêsu trong trái tim mình và rồi cũng cưu mang trong cung lòng của Mẹ.

Theo lịch sử, việc tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ được tìm thấy đầu tiên vào thế kỷ 12 với nhiều sử gia như Thánh Anselm (1109) và Thánh Bernard thành Clairvaux (1153) là thánh viết rất tài tình về việc tôn sùng thánh thiện này. Thánh Bernadine thành Siena (1380-1444) đã được gọi là Tiến Sĩ về lòng sùng kính Trái Tim Mẹ vì những trước tác về Trái Tim Mẹ. Ngài viết, “từ trái tim Mẹ, như lò lửa của Tình Yêu Rất Thánh, Đức Trinh Nữ Maria đã nói lên ngôn ngữ tuyệt vời nhất của một tình yêu mãnh liệt.” Thánh John Eudes (1601-1680) qua các bài viết của Ngài đã giúp khơi lại lòng sùng kính này. Đức Thánh Cha Lêô XIII và Piô X gọi ngài là “cha, thầy dạy và là tông đồ phụng vụ lòng sùng mến Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria”. Thánh John Eudes và những người theo ngài đã dành ngày 8 tháng 2 trong khoảng năm 1643 để kính nhớ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Về sau, Đức Piô VII cho mở rộng ngày mừng kính này để các giáo xứ hoặc hội đoàn nào muốn tôn sùng thì cũng được phép.

Việc tôn sùng Trái Tim Mẹ Maria có một truyền thống đẹp đẽ hơn nữa qua tấm ảnh đeo của Thánh Catarina Laboure năm 1830 và việc hiện ra của Đức Mẹ tại Fatima từ ngày 13 tháng 5 đến 13 tháng 10 năm 1917. Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ là Jacinta, Phanxicô và Luica tại Fatima, Bồ Đào Nha. Trong ngày 13 tháng 7, Mẹ đã cho các trẻ này biết rằng ''để cứu những người tôi lỗi, Thiên Chúa đã ước ao thiết lập việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ''. Toàn bộ lời nhắn nhủ của Mẹ là một lời cầu nguyện, thống hối và bằng những việc hy sinh, đền bù phạt tạ Thiên Chúa về những xúc phạm đến Ngài.

Vào năm 1942, kỷ niệm 25 năm biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Đức Thánh Cha Piô XII đã dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Cũng vào năm ấy, ngài đã chọn mừng lễ này vào ngày 22 tháng 8, một tuần sau lễ Đức Mẹ Hồn Xác Về Trời. Ngày 4 tháng 5 năm 1944, ngài loan báo mở rộng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm cho Giáo Hội hoàn vũ. Với những cải cách về phụng vụ trong Công Đồng Vatican II, lễ kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ được dời về một ngày ngay sau Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, chính là ngày thứ bảy sau chúa nhật thứ hai sau Lễ Hiện Xuống.

Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria để cưu mang Đấng Cứu Thế, để cộng tác cho công trình cứu chuộc của Người. Công trình này xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa. Đức Maria đã cộng tác với Thiên Chúa để mang tình yêu của Người cho nhân loại. Chúa cũng mời gọi sự cộng tác của mỗi người chúng ta. Mỗi người đều có một vai trò và vị trí đặc biệt trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Điều Thiên Chúa cần nơi mỗi người chúng ta là noi gương Mẹ Maria, luôn sẵn sàng vâng phục thánh ý của Chúa.

 

17. Lễ Trái tim Vô nhiễm Đức Mẹ Lc 1, 41 – 51--Nt. Têrêsa Ngọc Lễ

Phụng vụ Giáo hội đọc Tin Mừng thánh Luca 1, 41- 51 trong ngày Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ với trình thuật cuộc viếng thăm, gặp gỡ giữa Đức Mẹ và người chị họ Ê-li-sa-bet. Bản văn Tin Mừng đọc trong thánh lễ hôm nay được bắt đầu ngay bằng lời ca của người chị họ Ê-li-sa-bet ( c 41), chứ không phải từ câu 39 của chương 1 cho trọn vẹn bài đọc. Tuy thế, chúng ta vẫn có một sự xuyên suốt của bản văn khi suy niệm Tin Mừng.

Đức Mẹ đã rời Nazaret để đi thăm bà Ê-li-sa-bet, chắc chắn , đây phải là cuộc gặp gỡ của niềm vui và hạnh phúc. Mẹ đến để chia sẻ với niềm vui của người chị họ đang mang thai, nhưng đồng thời, Mẹ cũng đến để chia sẻ niềm vui của chính mình cho người chị họ, sau khi lãnh nhận sứ điệp của Thiên Chúa uỷ thác. Mẹ đến gặp, hàn huyên chuyện trò, giúp đỡ chị Ê-li-sa-bet bằng một tình yêu từ trong trái tim mình. Tình yêu nơi Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ gợi đến cho chúng ta sứ điệp của tình yêu. Trái tim, biểu tượng của tình yêu, mà nơi Mẹ, đó là một tình yêu thanh khiết và hoàn toàn tự hiến, trao ban cho Thiên Chúa và cho mọi người, tình yêu của sự rao loan tin mừng cho người khác. Đó cũng là tình yêu của sự sẵn sàng chia sẻ buồn vui, gánh lấy những vất vả, lo lắng của người khác, để rồi, tình yêu nơi trái tim Mẹ cũng là tình yêu của chấp nhận mọi đau khổ trong cuộc đời của chính Mẹ. Chính tình yêu đó đã khai mở, dẫn đưa Mẹ đến gặp chị họ Ê-li-sa-bet.

Sự hiện diện của Mẹ đã không chỉ làm chị Ê-li-sa-bet hạnh phúc, nhưng còn cho bào thai trong lòng người chị họ cũng sung sướng nhảy mừng ( c.41 ). Lẽ ra, đây là một hiện tượng bình thường khi bào thai ở độ tháng thứ sáu thường ngọ nguậy trong lòng người mẹ. Nhưng với Ê-li-sa-bet, bà đã giải thích và mặc cho hiện tượng này bằng một sự diễn giải hoàn toàn khác thường. Đó là niềm vui và sự đầy tràn Thánh Thần (c 42), một sự diễn giải thường tìm thấy trong Kinh Thánh. (Xh 31,3; Ds 11,17-29; 24,2; Tl 3,10; 6,34; 14,6; 1 Sm 10,6; 10,10; 11,6). Sự đầy tràn Thánh Thần được miêu tả như một sự kiện đặc biệt và khác thường mà chỉ người tin mới mô tả được tâm trạng hạnh phúc ấy. Và với sự đầy tràn Thánh Thần ấy, nhìn từ bên ngoài, Thánh Thần sẽ đến trên những người tin để họ thực hiện nhiệm vụ cụ thể nào đó. Đây là thời điểm đặc biệt của bà Ê-li-sa-bet khi được đầy tràn Thánh Thần để bà Ê-li-sa-bet thực hiện nhiệm vu đặc biệt của mình: soạn ra một bài ca ngợi Thiên Chúa qua Đức Ma-ri-a( c. 42 -45).

Bài hát mà Ê-li-sa-bet soạn và cất lên là sự ngợi ca Thiên Chúa. Trong thi ca Do Thái, bài ca ngợi này chứa đựng một lối song song ba yếu tố:

“Được chúc phúc giữa muôn người phụ nữ” (c. 42)

“Người con em cưu mang cũng được chúc phúc” ( c. 42)

“Em được chúc phúc vì đã tin” ( c. 45).

Đức Ma-ri-a được chúc phúc giữa muôn người phụ nữ, có lẽ, không vì những gì Mẹ đã làm nhưng Mẹ có phúc vì tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ. Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn và được trao sứ mạng đặc biệt trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Ngài đã làm cho Trái tim Mẹ trở nên cung điện xứng đáng của Chúa Thánh Thần, để chương trình cứu chuộc loài người được thực hiện. Trong tư cách thụ tạo của Thiên Chúa, Mẹ được ân ban đặc biệt để nhận lãnh sứ mạng của tình yêu, của sự cứu độ. Sự tin yêu, vâng phục, và phó thác vào Thiên Chúa của Mẹ là nền tảng của tình yêu nơi trái tim Mẹ. Mẹ được Thiên Chúa sủng ái, được toàn vẹn hoá phẩm giá người nữ nơi Mẹ cưu mang. Chính sự diễm phúc này, Mẹ đã đồng hành cùng Con Mẹ và đồng hành với nhân loại trên đường về Nước Trời.

“Mẹ của Đấng Cứu Thế” ( c 43). Ê-li-sa-bet đã nhìn Đức Ma-ri-a với một cái nhìn vượt trên những gì hữu hình nơi thân xác Mẹ, để nhận ra người em họ của mình sẽ là Mẹ Đấng Cứu Thế. Điều này gợi nhớ lại lời nói của Vua Đavit khi ông nói về Chúa của mình “Sấm ngôn của Đức Chúa, ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: “Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con” (Tv 110,1). Ê-li-sa-bet dường như đã nhận ra người con mà người em Ma-ri-a sẽ sinh ra chính là Đấng Cứu Thế. Trong cuộc sống đức tin người Kitô hữu hôm nay, giữa những khó khăn, buồn vui của cuộc sống, Mẹ Ma-ri-a luôn là nơi để mọi người chạy đến khẩn cầu. Mẹ chuyển trao và cầu bầu cho chúng ta trước toà Chúa. Mẹ yêu chúng ta, một tình yêu của người Mẹ trọn vẹn nhất, hy sinh, trao ban và làm tất cả vì con cái Mẹ. Trái tim Vô Nhiễm Mẹ thanh khiết, ôm lấy tất cả những đau khổ, tội lỗi của con cái Mẹ, để từ đó, xin Chúa ân ban và giải thoát chúng ta khỏi những nước mắt và than khóc, những chán chường và thất vọng, những bế tắc và nghi nan. Mẹ ở đó với mỗi người chúng ta, sẵn sàng chờ đợi lời cầu xin của chúng ta trong mỗi giây phút cuộc đời. Vì, Mẹ là Mẹ Đấng Cứu Thế và cũng là Mẹ của chúng ta.

“Mẹ có phúc bởi vì Mẹ đã tin” (c 45). Được chúc phúc cũng đồng nghĩa với hạnh phúc mà Mẹ được Thiên Chúa ân thưởng. Mẹ có phúc bởi vì Mẹ đã tin. Chúng ta có thể nhận ra được quy trình đó: đầu tiên, Thiên Chúa ban cho Mẹ ân sủng của Ngài, sau đó, Mẹ đã tin và cuối cùng Mẹ đã có được sự hạnh phúc bên trong tâm hồn. Và, ở đây, chúng ta có thể có được công thức: Ân sủng + Niềm tin = Hạnh phúc nội tại. Niềm tin như là chìa khoá để mở kho tàng quà tặng của Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta.

Lời ca ngợi Mẹ của người chị họ Ê-li-sa-bet được Mẹ đáp trả bằng bài ca tạ ơn Thiên Chúa. Mẹ đã hát, ngợi ca sự vĩ đại và vinh quang của Thiên Chúa bởi Mẹ nhận ra lòng thương xót và ân sủng của Thiên Chúa dành cho Mẹ. Mẹ cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã đổ tràn tình yêu, bình an, niềm vui và sự công chính của Ngài trên Mẹ. Mẹ đã sống sự thanh khiết, để làm đẹp đền thờ Thiên Chúa nơi Mẹ. Trái tim thanh khiết của Mẹ đã được Chúa chúc phúc và ngự đến.

Còn chúng ta, phải chăng tâm hồn chúng ta vẫn chưa thực sự là cung điện để Thiên Chúa ngự đến? Những bất trung, tội lụy, những yếu đuối và đam mê, những hận thù và chia rẽ… đã khiến chúng ta không thể sống thánh trong mỗi phút giây đời mình? Đã làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ uế? Đã làm cho chúng ta không nhận ra tình yêu không bờ bến của Thiên Chúa trong cuộc đời của mỗi người? Chúng ta có theo Mẹ để đón nhận sứ vụ của mình bằng một niềm tin và thái độ vâng phục tuyệt đối hay không? Mẹ đã tin cậy vững vàng và phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời Mẹ. Còn chúng ta, phải chăng chúng ta chỉ sống bằng niềm tin nửa vời, một sự phó thác nửa vời nơi cuộc đời Kitô hữu của mình?

Lạy Thiên Chúa chí thánh,

Chúa đã làm cho Đức Trinha Nữ Ma-ri-a nên cung điện xứng đáng của Chúa Thánh Thần.

Vì lời Đức Trinh Nữ chuyển cầu, xin thương giúp chúng con cũng trở nên đền thờ Chúa ngự. Amen.

 

18. Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria-- Linh Tiến Khải

Trong các lễ nhớ dành riêng cho Mẹ Maria liên quan tới lễ Đức Mẹ Lộ Đức, có lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.

Kiểu nói ”trái tim vô nhiễm” mới có sau này, và trở thành thông dụng sau khi Đức Giáo Hoàng Pio IX công bố tín lý Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854. Trước đó có các kiểu nói thông dụng như ”trái tim rất thanh sạch”, hay ”trái tim rất vẹn tuyền”, hoặc ”trái tim rất thánh” Đức Mẹ Maria, hoặc các kiểu nói tương tự.

Nhưng nhầt là sau khi Đức Mẹ hiện ra tại Fatima bên Bồ Đào Nha năm 1917 với ba trẻ mục đồng Lucia, Phanxicô và Giacinta, và viêc phát hành các bút tích của chị Lucia, kiểu nói ”trái tim vô nhiễm nguyên tội” Mẹ Maria chiếm ưu thế trong thói quen của Giáo Hội và trong phụng vụ. Nó đạt tột đỉnh giữa các năm 1942-1952, vì ảnh hưởng của các biến cố tại Fatima đã xác định việc thánh hiến thế giới cho Trái tim vô nhiễm nguyên tội Đức Mẹ và nhiều cuộc thánh hiến từ phía các cơ cấu giáo hội, và đôi khi cả từ các tổ chức dân sự. Phong trào tôn sùng Trái Tim vô nhiễm nguyên tội Đức Mẹ đạt tột đỉnh vào năm 1944 với việc cử hành lễ kính trong toàn Giáo Hội Latinh. Các năm đó cũng là thời điểm lòng sùng kính Đức Mẹ nở hoa, và việc tôn sùng Trái Tim vô nhiễm Mẹ Maria đạt cường độ mạnh mẽ chưa từng thấy.

Tuy nhiên, rất tiếc các năm trước khi Công Đồng Chung Vaticăng II khai mạc, và nhất là thời gian hậu Công Đồng, lòng tôn sùng Trái Tim vô nhiễm nguyên tội Mẹ Maria gặp khủng hoảng, cũng giống như lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Trong Thông điệp ”Haurietis aquas” ”Các con sẽ kín múc nước” về lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, công bố ngày 15 tháng 5 năm 1956, Đức Giáo Hoàng Pio XII đã viết rằng: ”Thật đáng than phiền rằng trong qúa khứ cũng như trong ngày nay, việc phụng tự rất cao qúy này đã không có được vinh dự và sự trân trọng nơi một số Kitô hữu, và đôi khi cả nơi một số người nói rẳng họ được linh hoạt bởi sự nồng nhiệt chân thành đối với các lợi ích của đạo công giáo và việc thánh hóa chính mình”.

Ngay trong năm 1956 Thông điệp đã duyệt xét các lý do qua đó, theo ý kiến của vài tác giả, việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu đã gặp khủng hoảng. Đối với họ việc tôn sùng Thánh Tâm là điều không thời sự và không thích hợp, là ”ít đáp ứng, nếu không nói là làm hại cho các nhu cầu tinh thần cấp thiết nhất của Giáo Hội và của nhân loại trong giờ phút hiện tại này”; là ”siêu tưới gội, vô ích và nguy hại” đặc biệt đối với những chiến sĩ của Nước Thiên Chúa, lo lắng thánh hiến điều tốt nhất trong các năng lực tinh thần của họ để gia tăng các thực hành và các việc đạo đức, mà họ coi là cần thiết hơn cho thời đại ngày nay”; là ”suy tàn và tình cảm”, nghĩa là ”một hình thức tôn sùng thấm nhuần tình cảm hơn là các tư tưởng cao qúy và các trìu mến, và vì thế phù hợp với phái nữ hơn là với các người có học thức”; là có dấu vết ”yếu đuối thụ động”, bởi vì họ cho rằng ”việc tôn sùng này qúa bị cột buộc vào các hành động hãm mình, đền tội và các nhân đức mang dấu vết thụ động, vì thiếu các hoa trái rõ ràng bề ngoài, và do đó ít thích hợp với việc củng cố tinh thần tu đức tân tiến, mà bổn phận hoạt động công khai phải có”.

Đây là các thành kiến đích thật được nuôi dưỡng bởi chủ thuyết duy tự nhiên và khuynh hướng tình cảm gia tăng. Để giải thích chúng một vài tác giả đã đưa ra các lý do sau đây. Chẳng hạn như sự không chính xác của nền thần học liên quan tới việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu; việc ”đền bù” bị hiểu sai và thực hành lại còn sai hơn nữa; tinh thần tu đức suy đồi được khích lệ trong một vài hiệp hội đạo đức; biểu tượng bị áp dụng lệch lạc và được giới thiệu như là một bức màn chắn giữa Chúa Kitô và tín hữu; một vài sự không hài hòa giữa các hình thái việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và các hình thức sâu xa hơn của lòng đạo đức trong thời đại chúng ta; các hình thức được gợi hứng bởi giáo hội học, bởi giáo thuyết về thân mình mầu nhiệm, kinh nghiệm về cuộc sống của Thiên Thúa Ba Ngôi. Thế rồi còn có sự vỡ mộng và cụt hứng không thể biệm minh, nhưng thực sự đối với vài ”lời hứa” vén mở cho thấy chúng vô ích, khi nhằm bảo đảm cho các cá nhân và xã hội chống lại các tai ương: thí dụ như ”Ta sẽ thống trị bên Tây Ban Nha với nhiều tôn sùng hơn các nơi khác”; khuynh hướng tôn sùng ích kỷ và duy lợi ích xem ra xúi dục sự tôn sùng này, trong khi nó bị hiểu sai; nghệ thuật các ảnh tượng chưa gặp được các hình thái diễn tả giá trị, vì nó đã không thành công trong việc cống hiến nhiều hơn là vài kiểu mẫu gợi hứng mòn mỏi hay một sở thích gây chán nản. Và những nhận xét đại loại kéo dài vô tận, trong các nguyệt san đạo đức, trong các sách báo tôn giáo, các bài giảng vô vị và tuyệt đối, trái nghịch với các khuynh hướng tân tiến ngày càng đòi hỏi sự đơn sơ và chân thật.

Ở đây không phải là chỗ để bênh vực lòng sùng kính Trái Tim Đức Mẹ, cũng đã chịu cuộc khủng hoảng như lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, tuy trong các tỷ lệ ít hơn. Các phương thức giúp ra khỏi cuộc khủng hoảng này trước hết thuộc trật tự tổng quát, và cũng là những phương thức cho phép thoát khỏi cuộc khủng hoảng gọi là ”cuộc khủng hoảng thời hậu công đồng”. Tuy nhiên, không thể coi Công Đồng Chung Vaticăng II là nguyên do của cuộc khủng hoảng này. Nó đã chỉ là dịp, vì các văn bản giáo huấn tuyệt hảo của Công Đồng đã chỉ được đọc và áp dụng bởi một vài lãnh vực trong Giáo Hội. Nói cách khác, chính sự kiện đại đa số Kitô hữu đã không đọc, không hiểu biết, thấm nhuần, áp dụng và sống các giáo huấn của Công Đồng nên mới có các lệch lạc gây ra cuộc khủng hoảng đó.

Bởi vì, nếu thực sự Công Đồng Chung Vaticăng II đã hướng lòng đạo đức của tín hữu tới việc thờ phượng có tính cách phụng vụ, thì Công Đồng đã không hề lơ là trong việc nhắn nhủ họ về các cung cách sống đạo bình dân chân thực. Bằng chứng là số 67 Hiến chế về Giáo Hội viết rõ ràng như sau: ”Giáo Hội khuyến khích hết mọi con cái hãy nhiệt tâm phát huy lòng sùng kính Đức Nữ Trinh, nhất là trong phụng vụ, hãy coi trọng những việc thực hành và việc đạo đức nhằm suy tôn Mẹ và đã được Huấn Quyền Giáo Hội cổ võ qua các thế kỷ, cũng như hãy kính cẩn tuân giữ những quyết định của các thời đại trước liên quan đến việc tôn kính ảnh tượng Chúa Kitô, Đức Nữ Trinh và các Thánh.

Công Đồng cũng hết lòng khuyến khích các nhà thần học và những người rao giảng lời Chúa, khi xét đến phẩm giá phi thường của Mẹ Thiên Chúa, hãy cẩn thận tránh mọi tư tưởng phóng đại sai lầm, cũng như mọi tư tưởng hẹp hòi qúa đáng... nhưng hãy làm sáng tỏ đúng mức những vai trò và đặc ân của Đức Trinh Nữ; những chức vụ và đặc ân này luôn luôn quy hướng về Chúa Kitô là nguồn mạch toàn thể chân lý, thánh thiện và đạo đức. Họ phải cẩn thận tránh xa mọi lời nói hay việc làm có thể làm cho các anh em ly khai hay bất cứ ai khác hiểu sai giáo lý đích thực của Giáo Hội. Phần các tín hữu, hãy nhớ rằng, lòng tôn sùng chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự đễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).

Như thế, chúng ta phải công nhận rằng cần canh tân việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim Đức Mẹ theo các tiêu chuẩn sau đây.

Thứ nhất, trở về với các nguồn mạch đích thật của việc tôn sùng là Thánh Kinh, Truyền Thống, Huấn Quyền và suy tư thần học được cập nhật. Dĩ nhiên, không thể bỏ qua vài ”nguồn mạch” có tính cách thần bí và đặc sủng, khi chúng chân thực như các mạc khải trong các lần Đức Mẹ hiện ra ở Helfta, Paray-le-Monial, Fatima vv... Tuy nhiên, các nguồn mạch có tính cách đặc sủng này phải được minh giải và đặt để dưới các nguồn mạch chính của lòng đạo đức Kitô.

Thứ hai, canh tân các thực hành ”cổ điển” sùng kính Trái Tim Mẹ Maria và các cơ cấu đã mất tính thời sự. Điều này đòi hỏi phải duyệt xét nền tảng phê bình lịch sử các ”lời hứa”, bằng cách nhận ra nơi chúng ý nghĩa sâu xa, mà chúng có trong lãnh vực thần học về ơn thánh, và tránh đừng để bị lôi kéo bởi cơ chế của các công thức.

Thứ ba, cần có giải thích thần học ý niệm nền tảng về việc đền tạ để thiết lập một mối dây sâu xa giữa các việc sùng kính này và các mầu nhiệm cao cả nhập thể và cứu chuộc như lời thánh Jean Eudes đã nói: ”Tôi muốn cho thấy một cách rõ ràng rằng việc tôn sùng này không phải là không có nền tảng cũng như lý do, mà nó dựa trên các nền tảng vững vàng và chắc chắn đến độ tất cả mọi quyền lực của trái đất và của hỏa ngục cũng không có khả năng phá hủy... và điều này để khơi dậy một sự trân qúy khác đối với việc tôn sùng Trái Tim rất thánh của Mẹ Thiên Chúa, như là việc tôn sùng rất vững chắc và rất có nền tảng...” (x. S. De Fiores, Maria presenza viva nel popolo di Dio, Roma 1980, 86-88).

Tóm lại, có thể nói lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và lòng sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ Maria luôn đi song song với nhau. Bởi vì trong gia đình nhân loại đã không hề có hai trái tim nào và sẽ không bao giờ có hai trái tim nào khác đập cùng nhịp yêu thương cứu chuộc như Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim vô nhiễm nguyên tội Mẹ Maria. Phúc cho các Kitô hữu nào có lòng yêu mến và tôn sùng Hai Trái Tim Cực Thánh ấy, vì Chúa Giêsu Kitô và Mẹ Maria sẽ đặc biệt che chở và không bao giờ để cho họ bị hư mất đời đời.