Dân Chúa Âu Châu

Lc 2446 53Chúa Giêsu lên trời.

CHÚA NHẬT 7 PHỤC SINH Năm C. – CHÚA THĂNG THIÊN.

"Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".

 

Lời Chúa: Lc 24, 46-53

Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống".

Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông.

Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng.

Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Amen.

 

CHÚA NHẬT 7 PHỤC SINH Năm C

PHÚC ÂM: Ga 17, 20-26

"Ðể chúng được hoàn toàn nên một".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chí thánh, Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một, và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con."

"Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng: Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

Suy niệm LỄ THĂNG THIÊN và CN 7 PS năm C – Năm C

* Lễ TT: Cv. 1, 1-11; Dt. 9, 24-28; 10, 19-23; Lc. 24, 46-53

* CN7 PS năm C: Cv 7,55-60; Kh 22,12-14,16-17.20; Ga 17, 20-26

NGÀY QUỐC TẾ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI

 

* LỄ THĂNG THIÊN

1. Sức mạnh từ trời cao--‘Manna’

Đức Giêsu được đưa về trời khiến cả nhân loại hoan hỷ.

Con Thiên Chúa làm người, long đong với phận người,

nếm cái nghèo đói, nhọc nhằn, nếm nỗi khổ đau, cay đắng.

Cuộc đời Ngài tưởng như là một thất bại ê chề.

Nhưng rồi Ngài đã được phục sinh, đã hiện ra,

và được khải hoàn đưa vào thế giới của Thiên Chúa.

Ngài từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.

Sứ mạng Cha giao, tuy khó khăn, nhưng Ngài đã hoàn tất.

Ta cần chiêm ngắm giây phút Ngài được siêu thăng.

Ngài giơ tay chúc lành cho các môn đệ như vị thượng tế.

Ngài về trời trong tư thế đang chúc lành.

Chúc lành cho trái đất mà Ngài đã sống.

Chúc lành cho mọi người là người như Ngài.

Hôm nay chúng ta vui vì biết mình có người Anh trưởng

đã được nâng lên đến tột đỉnh vinh quang thần linh.

Con người đầu tiên với tất cả nhân tính như ta

đã được siêu tôn trên trời, dưới đất và nơi âm phủ.

Sự thành công của Đức Giêsu là niềm hy vọng cho ta.

Cùng đi với Ngài trên con đường cheo leo ấy,

chúng ta tin mình sẽ đến nơi mà Ngài đã đến.

Đức Giêsu về trời sau khi hoàn thành sứ vụ dưới đất.

Ngài muốn ta trưởng thành và gánh lấy trách nhiệm.

Bước chân Ngài mới chỉ đi hết xứ Palestina bé nhỏ.

Còn cả một thế giới mênh mông ngút ngàn.

Còn bao dân tộc xa gần chưa hề nghe rao giảng.

Ngài muốn ta làm chứng nhân của Ngài đến tận thế.

Thiên thần bảo chúng ta không được khoanh tay nhìn trời,

vì còn quá nhiều việc phải làm trước mắt.

Chúng ta phải nhiệt tình xây dựng quê hương này

huynh đệ hơn, công bằng hơn, bác ái hơn, văn minh hơn,

để nó xứng đáng đón ngày Ngài trở lại.

Chúng ta không được khoanh tay nhìn trời,

nhưng lòng chúng ta lại phải thường xuyên hướng lên trời.

Xây dựng trái đất mà không hướng lòng về trời,

thì sẽ không tìm được câu trả lời tối ưu.

Chúng ta cần sức mạnh từ trên cao của Thánh Thần

để giải quyết những vấn đề chằng chịt của trái đất:

ma túy, trụy lạc, tham nhũng, ô nhiễm, nghèo đói

và nhất là vấn đề xây dựng con người.

Khoa học kỹ thuật tiến bộ làm cuộc sống nhẹ nhàng

nhưng cũng thường làm con người thêm nặng nề.

Con người như bị dính vào những sản phẩm mình tạo ra,

bị nô lệ cho những nhu cầu không có thực.

Trái đất này vẫn có sức thu hút ghê gớm

khiến ta muốn chọn nó làm quê hương vĩnh hằng,

và quên rằng quê thật của ta ở trên trời cao (Pl 3,20).

‘‘Hãy tìm kiếm những điều trên cao” (Cl 3,1).

Đừng dập tắt nỗi khát khao những điều cao cả.

Ước gì Chúa Giêsu, Đấng được đưa lên cao,

kéo ta lên khỏi cái tầm thường ô trọc mỗi ngày.

Gợi Ý Chia Sẻ

Tiền bạc, tiếng tăm, khoái lạc làm người ta nặng nề. Còn bạn, bạn thấy mình nặng nề vì điều gì? Có cách nào thoát được không?

Đời sống là một nỗ lực “bay lên cao” khỏi sức kéo xuống của vật chất và của cái tôi trì trệ. Có khi nào bạn được nhẹ nhàng mà bay lên khỏi sức kéo đó không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này,

và đã sống trọn phận người ở đó.

Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc,

sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời,

nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,

chúng con thấy mình được thêm sức mạnh

để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,

xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời

không làm chúng con quên trời cao;

và những vẻ đẹp của trần gian

không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,

mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

 

2. Niềm hy vọng Nước Trời--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.

Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.

Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.

Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.

Chúa Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.

Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.

Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hy vọng đến cho kiếp người.

Với niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.

Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?

2. Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?

3. Đời sống là một bổn phạn phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này?

 

3. Chuyển sang một giai đoạn mới--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái

"Hãy nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân"

(Lc 24,47)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Việc Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Chúa Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Chúa Giêsu đã trao sứ mạng "Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần".

Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa trao.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta có lỗi vì hay quên rằng Chúa Giêsu là Đấng đang sống và đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền. Do lỗi này nên chúng ta dễ chán nản và không cậy dựa vào Ngài.

Chúng ta có lỗi vì chỉ hướng về trời mà quên trách nhiệm xây dựng thế giới của mình.

Chúng ta có lỗi vì ít quan tâm loan báo Tin Mừng.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I: Cv 1,1-11

Những lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi thăng thiên:

Chúa Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn đang sống.

Ngài căn dặn họ chờ điều Thiên Chúa hứa ban, tức là ban Chúa Thánh Thần.

Trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Ngài trên khắp thế giới.

2. Đáp ca: Tv 46

Thánh vịnh này ca tụng vương quyền của Giavê Thiên Chúa. Phụng vụ hôm nay áp dụng Thánh vịnh này cho Chúa Giêsu, Đấng được Thiên Chúa tôn lên làm vua và trao cho mọi quyền hành trên trời dưới đất.

3. Bài đọc II: Êp 1,17-23

Thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.

4. Bài Tin Mừng: Lc 24,46-53

Bài Tin Mừng này có hai phần:

1. Những lời căn dặn cuối cùng của Chúa Giêsu (cc 46-49):

Sự cần thiết của Thập giá: đã có chép từ lâu trong Sách Thánh rằng Đấng cứu thế phải qua chịu nạn rồi mới tới phục sinh.

Môn đệ Chúa phải rao giảng và làm chứng về việc Ngài chết và sống lại.

Chúa Giêsu sẽ ban Thánh Linh cho môn đệ.

2. Chúa Giêsu lên trời (cc 50-53): Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Chúa Giêsu siêu thăng. Ngài siêu thăng không có nghĩa là Ngài rời bỏ một nơi (trái đất) để đến một nơi khác (trời), mà là

Ngài thay đổi tình trạng: không còn ở tình trạng loài người hèn hạ nữa, mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa.

Ngài cũng thay đổi cách hiện diện: từ nay Ngài không thường xuyên hiện diện giữa chúng ta bằng thân xác hữu hình của Ngài nữa, nhưng vẫn hiện diện một cách vô hình dù chúng ta không thấy.

IV. Gợi ý giảng

1. Thời kỳ sứ mạng của Giáo Hội

Thánh Lễ hôm nay có 2 bài đọc của cùng một tác giả là Thánh Luca: Bài đọc 3 trích phần cuối của quyển Tin Mừng Luca, và bài đọc 2 trích phần đầu của sách Công vụ. Mà chúng ta biết thánh Luca viết một tác phẩm gồm 2 tập: tập I là sách Tin Mừng viết về sứ mạng của Chúa Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, tập II là sách Công vụ viết về sứ mạng của Giáo Hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới. Vậy nếu đặt 2 bài đọc của Thánh lễ này vào toàn bộ tác phẩm của thánh Luca thì chúng ta sẽ hiểu rằng tác giả muốn nói: việc Chúa Giêsu thăng thiên là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó, hay nói cách khác, lúc Chúa Giêsu thăng thiên là lúc Chúa Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo Hội. Bây giờ chúng ta hãy dựa vào một số chi tiết trong hai bài đọc ấy để tìm hiểu sứ mạng của Giáo Hội và cũng là của chúng ta.

Trước hết, sứ mạng ấy là gì? Thưa là sứ mạng "làm chứng", như lời Chúa Giêsu nói "Chúng con sẽ là chứng nhân của Thầy". Chứng nhân, hay người làm chứng, là kẻ nghe gì nói y lại như vậy, thấy sao thuật y lại như vậy, rất đúng, rất trung thực.

Chúng ta làm chứng cho ai? Thưa cho Chúa Giêsu. Mà theo cách mô tả của thánh Luca, Chúa Giêsu nay đã lên trời, có một đám mây che khuất Ngài. Không biết có thực ngày xưa đã có một đám mây từ trời đáp xuống như một chiếc dĩa bay, rồi hai thiên thần mời Chúa Giêsu bước lên đứng trên chiếc dĩa bay đó, rồi sau đó chiếc dĩa bay bằng mây từ từ cất lên cao hay không. Điều này không chắc, vì 3 thánh sử kia, tức Matthêu, Máccô và Gioan đều không hề nói về đám mây đó. Thực ra, qua hình ảnh đám mây che khuất, thánh Luca muốn nói rằng Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mắt người phàm không còn trông thấy được Ngài nữa. Nhưng những kẻ làm chứng cho Ngài phải làm chứng thế nào để người ta như là thấy được Ngài thực sự.

Chúng ta làm chứng thế nào? Sách Công vụ có ghi một chi tiết: Đang lúc các tông đồ cứ dõi mắt đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy thì hai thiên thần nói với họ: "Hỡi người Galilê, sao còn mãi đứng nhìn trời". Câu nói bỏ lửng nhưng có nhiều ngụ ý. Chúng ta có thể đoán ra được những ngụ ý sau:

Đừng luyến tiếc nữa cái thời các ông có Chúa Giêsu ở bên cạnh một cách hữu hình và mọi sự đều do Chúa Giêsu làm hết. Bây giờ đã tới phiên các ông hoạt động, hãy tự mình hoạt động, dĩ nhiên là cũng có sự trợ giúp của Chúa Giêsu vẫn còn hiện diện cách vô hình bên cạnh các ông, nhưng chính các ông phải hoạt động.

Ngụ ý thứ hai là đừng chỉ mãi mê mơ tới ngày được lên hưởng thiên đàng với Chúa Giêsu, điều quan trọng trước mắt là phải quay về với thế giới hiện tại. Hạnh phúc thiên đàng phải được xây dựng ngay từ trần thế này.

Và chúng ta sẽ làm chứng cho Chúa Giêsu ở đâu? Chúa Giêsu đã nói rõ: "Chúng con sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, Giuđê, Samari và cho đến tận cùng thế giới". Giêrusalem là nơi lúc ấy các tông đồ đang ở, Giuđê xa hơn một chút nhưng cũng quen thuộc vì có nhiều người đã tin Chúa, Samari tuy gần mà xa vì dân miền đó tuy biết Chúa Giêsu nhưng không có cảm tình với Ngài, đến tận cùng thế giới là mục tiêu xa nhất và bao quát nhất. Khi vẽ một bản đồ hành trình làm chứng như thế, ý Chúa Giêsu là hãy bắt đầu làm chứng cho Ngài ngay từ trong nội bộ của mình, rồi từ từ mới lan dần ra. Chúng ta thấy các tông đồ đã thực hiện đúng như thế: nhờ cộng đoàn Giêrusalem sống đoàn kết hiệp nhất, tương thân tương trợ mà người ngoài nhìn vào đã mến phục và xin gia nhập Giáo Hội, thế rồi từ Giêrusalem Giáo Hội lan sang Giuđê, lan sang Samari, lan sang Antiôkia và dần dần tỏa ra khắp thế giới.

Các chi tiết trong hai bài đọc Tin Mừng và sách Công vụ giúp chúng ta thấy được sứ điệp Lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay:

Chúng ta đã quen dự Thánh Lễ, đọc kinh cầu nguyện và làm một số việc đạo đức khác. Tuy nhiên chúng ta đừng chỉ mãi mê lo xây dựng hạnh phúc thiên đàng cho riêng mình, mà hãy biết lo xây dựng hạnh phúc thiên đàng cho người khác nữa.

Nói là xây dựng hạnh phúc thiên đàng, nhưng không phải bằng cách chỉ lo đến những việc đời sau, hạnh phúc thiên đàng phải được xây dựng ngay tại cuộc sống trần thế này.

Và ở trần thế này, nơi chúng ta phải ưu tiên xây dựng hạnh phúc là chính trong nội bộ của mình. Cộng đoàn chúng ta có hạnh phúc thì mới là một hình ảnh đẹp khuyến khích người ngoài đến chia xẻ niềm tin, chia xẻ cuộc sống và chia xẻ hạnh phúc của chúng ta.

Đó chính là cách chúng ta làm chứng cho Chúa, làm cho người ta tuy bị một áng mây chia cách giữa hữu hình với vô hình nhưng cảm thấy như thực sự nhìn thấy Chúa. Thấy Chúa ở trong chúng ta, ở trong cộng đoàn chúng ta và Giáo Hội chúng ta.

2. Hiện diện và vắng mặt

Kể từ khi Chúa Giêsu Thăng thiên, Ngài không còn hiện diện cách hữu hình giữa các môn đệ nữa. Nhưng sự vắng mặt thể lý không có nghĩa là không còn hiện diện nữa.

Thực ra nhiều khi sự hiện diện thế lý chẳng là gì cả. Hai người sống chung một nhà, ăn chung một bàn, và thậm chí ngủ chung một giường nhưng vẫn cảm thấy xa nhau vạn dậm, bởi vì lòng và trí họ quá xa nhau. Như người ta nói "đồng sàng, dị mộng" (chung giường nhưng giấc mộng khác nhau).

Trái lại dù thể xác xa cách nhau vạn dậm nhưng người ta vẫn có thể cảm thấy rất gần nhau, miễn là người ta thương nhau và hiểu nhau. Có khi nhờ xa nhau một thời gian mà người ta lại thương nhau hơn và hiểu nhau hơn.

Hơn nữa, trong thời gian ta hiện diện bên cạnh một người thân, nếu đó là một sự hiện diện trọn vẹn thì khi xa nhau, chính sự vắng mặt ấy lại sinh nhiều hoa trái, bởi vì những kỷ niệm lúc gần nhau và tình nghĩa thắm thiết lúc sống bên nhau sẽ còn tiếp tục nuôi dưỡng người thân ấy. Như thế, đối với những người thân nhau thì cả sự hiện diện lẫn sự vắng mặt đều là những món quà.

Từ khi thăng thiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không còn bị hạn chế về không gian và thời gian nữa, nhưng nhờ đó mà Ngài có thể hiện diện ở khắp nơi và trong mọi lúc.

Các kitô hữu đầu tiên đã hiểu rất rõ điều này. Họ biết Chúa Giêsu vẫn ở bên họ, tuy không cùng một cách như trước nữa. Họ tin rằng Ngài đang chia xẻ cuộc sống của họ; họ còn tin rằng cái chết sẽ giúp họ được hợp nhất mãi mãi với Ngài trong vinh quang.

Có lẽ nhiều người cho rằng các tông đồ ngày xưa hạnh phúc hơn mình bây giờ, bởi vì các vị ấy đã được nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng các sách Tin Mừng viết rằng dù mắt họ nhìn thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn chưa hiểu Ngài là ai. Họ chỉ hiểu được Ngài khi đọc sách Thánh và khi dự lễ bẻ bánh.

Đọc sách Thánh và dự lễ Bẻ bánh, đó là những phương tiện giúp nhận ra Chúa Giêsu. Mà những phương tiện này chúng ta ngày nay cũng có. Cho nên, xét về vấn đề nhận ra Chúa Giêsu bằng đức tin thì chúng ta ngày nay cũng chẳng thua thiệt gì hơn so với các tông đồ ngày xưa.

Ngày xưa Chúa Giêsu đã trông cậy vào các tông đồ để Tin Mừng được rao giảng khắp nơi và được mọi người sống theo Tin Mừng ấy. Ngày nay Chúa Giêsu cũng trông cậy nơi chúng ta như thế. Chúng ta phải làm chứng về Ngài cho mọi người trong thế giới hôm nay. (FM)

3. Loan Tin Mừng và học Tin Mừng

Thông thường, những lời cuối cùng của một người trước khi người ấy từ giã cõi đời, là những điều hết sức quan trọng mà người ấy muốn những người thân yêu ở lại thực hiện. Và những người ở lại thường coi những lời người sắp từ giã thế gian trăn trối như một điều linh thiêng cần thực hiện cho bằng được.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặc các tông đồ: "Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem..." Như vậy, sứ điệp quan trọng nhất mà Đức Kitô muốn trao gửi lại cho các môn đệ, và cho mọi Kitô hữu là: hãy tiếp tục sứ mạng loan báo và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài trước mọi người, mọi dân tộc trên thế giới.

Thế nhưng thế nào là loan Tin Mừng?

Nhiều người nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là tỏ cho người khác biết mình là Kitô hữu, là làm dấu thánh giá nơi quán ăn, là can đảm xưng mình là người Thiên Chúa giáo trong các tờ lý lịch bất chấp những bất lợi sẽ xảy ra. Kẻ khác nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là cố gắng sống cho thật đạo đức, năng đi lễ, năng chịu các bí tích, với mục đích làm gương sáng cho người chung quanh, đồng thời khuyên mọi người làm như vậy. Người khác nữa thì gặp những người ngoại đạo mình quen biết, liền tìm cách gạ gẫm, thuyết phục họ vào đạo, bằng cách nói cho họ biết vào đạo thì được Chúa ban ơn này ơn kia, v.v...

Kết quả của những việc đó có thể là chúng ta lôi kéo được một số người vào đạo, hoặc làm cho nhiều người khô khan năng đi lễ, năng đến nhà thờ, năng chịu các bí tích hơn, hoặc làm cho đời sống gia đình của họ trở nên đầm ấm hơn, hạnh phúc hơn, v.v

Tất cả những điều đó là những điều nên làm, cần làm, nhưng chưa phải là loan báo Tin Mừng đúng nghĩa. Muốn loan báo Tin Mừng cho đúng nghĩa, chính người loan báo phải biết Tin Mừng là gì, phải cảm thấy Tin mình loan báo là điều đã làm mình hạnh phúc, vui tươi, làm cho đời sống mình trở nên có ý nghĩa. Nếu không như thế, thì mình chỉ làm công việc “mù mà lại dắt mù», và kết quả là “cả hai sẽ lăn cù xuống hố» (Mt 15,14; Lc 6,39).

Thật vậy, nếu chính mình chưa cảm thấy Tin Mừng đã ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống mình, chưa thật sự thay đổi đời sống mình, mà mình lại đi rao giảng Tin Mừng, muốn Tin Mừng ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống người khác, thì có khác gì “cho đi cái mình chẳng có»? Như thế thì người nhận sẽ nhận được gì?

Vì thế, chúng ta cần phải năng học hỏi về Tin Mừng, nhất là suy gẫm Tin Mừng, để Tin Mừng thấm sâu vào tư tưởng, lời nói, việc làm và đời sống của ta. Có như thế, việc loan báo Tin Mừng của ta mới có sức thuyết phục.

4. Cuộc sống chứng nhân (Lc 24,46-53)

Báo "Le Figaro" mới đăng trả lời phỏng vấn của Tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:

Hỏi - Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng Ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?

Trả lời - Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.

Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?

***

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các Tông đồ sứ mạng cao cả: "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân" (Lc 24,47). Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.

Tổng thống Nga Putin quả tà một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo và sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: "Tôi tự hào là một người tín hữu... Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn".

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đă chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.

Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.

Đã qua 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Đức Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: "Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người!"

Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: "Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người".

***

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen. (Thiên Phúc, năm C)

5. Sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội

Đức Kitô phục sinh đã ở lại với các môn đệ của Ngài 40 ngày sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Việc Chúa phục sinh sống với các môn đệ 40 ngày là để Ngài có thời gian dậy bảo, động viên, an ủi và chỉ vẽ thêm cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi về cùng Cha của Ngài (Cv 1, 3).Lần cuối cùng trước khi rời các ông, Chúa Giêsu đang lúc đồng bàn với các ông, đã truyền cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần trước khi chia tay nhau đi khắp nơi giảng Tin Mừng cứu độ (Cv 1, 8).

Rồi hôm nay, Chúa phục sinh dẫn các môn đệ lên núi cây Dầu, trao sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho các ông và một cách nào đó cho toàn thể Giáo Hội (Mt 28, 16-20). Để ban ủi an, khích lệ các ông, Chúa phục sinh giơ tay chúc lành tức đổ ơn huệ xuống trên các ông, và Chúa cất mình lên trời trước mặt các ông (Cv 1, 9-12).

1. Tại sao các ngươi cứ đứng đó mà nhìn lên trời:

Sự kiện Chúa về trời làm cho các môn đệ bỡ ngỡ, các Ngài không khỏi bàng hoàng dù rằng Chúa đã nói trước với các ông, đã căn dặn các ông, Ngài về với Chúa Cha, Ngài ra đi thì ích lợi hơn cho các ông.: “...Thầy ra đi thì Đấng bầu chữa mới đến với các con" (Ga 16, 6-7).Vì sứ mệnh của Chúa Thánh Thần là dậy dỗ, an ủi các tông đồ, soi sáng và thêm sức mạnh cho các ông để các ông có sức mạnh, lòng đại độ, sự quả cảm mà ra đi rao giảng Tin Mừng (Ga 14, 26; 15, 26-27).

Nhưng trước khi chia tay đi rao giảng, Chúa phục sinh đã căn dặn các tông đồ hết sức cẩn thận: "Đừng rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy ở tại đó cùng với Mẹ Maria để đón nhận Chúa Thánh Thần ".

Việc Chúa Lên trời hay nói một cách cụ thể hơn là Ngài ra đi, trở về, kết hiệp với Chúa Cha để thực hiện lời hứa ban Đấng phù trợ tới cho các môn đệ và cho toàn Giáo Hội là một mầu nhiệm của lòng tin vì hôm nay chấm dứt một giai đoạn Chúa phục sinh hiện diện, chứng minh cho các môn đệ thấy rằng mình vẫn sống giữa các ông (Cv 1, 3).

Thời gian 40 ngày là giai đoạn Chúa minh chứng cho các tông đồ, Ngài đang sống cách hữu hình, đang làm những việc cụ thể, cùng trao đổi, bàn bạc, cùng ăn, cùng sinh hoạt với các môn đệ. Giờ đây, Chúa về trời là để ban Thánh Thần cho các môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội. Đây không phải là lúc các môn đệ tiếc nuối cái mơ ước ám ảnh, Chúa của các ông sẽ khôi phục lại vương quốc Israen, để các ông ăn trên ngồi trước các người khác (Cv 1,6).

Cái thực tế mà các môn đệ phải thuộc nằm làu là "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Ai tin, anh em hãy làm phép rửa cho Họ nhân danh Chúa cha, Chúa Con và Chúa thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ những Điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28, 16-20). Chúa về trời, các môn đệ vẫn còn bỡ ngỡ cùng với mọi người ở Galilêa. Nhưng, Chúa về trời là một mối phúc cho các Môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội vì Chúa có về trời Thánh Thần mới được ban xuống. Chúa về trời, nhưng dứt khoát các môn đệ sẽ không bơ vơ vì Chúa hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho tới tận thế

2. Chúa về trời là một mối phúc lớn lao:

Thật ra, Chúa về trời mang lại cho nhân loại, cho Giáo Hội và cho các tông đồ một mối Phúc lớn lao vì nếu Chúa không ra đi thì Đấng bàu chữa không đến. Chúa về trời, Ngài đã làm tròn lời hứa ban Thánh Thần và trao quyền năng cho các tông đồ, cho Giáo Hội: “ Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân...Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế " (Mt 28, 17-20).

Lệnh truyền của Chúa phục sinh đã được thể hiện ngay nơi con người của Chúa, Chúa đã ban quyền năng cho các tông đồ, qua đó các Ngài có đủ mọi uy quyền thiêng liêng phục vụ mọi người. Chúa ban Thánh Thần để giúp các môn đệ kiên cường làm chứng cho Chúa phục sinh và loan báo Tin Mừng. Chúa ban Thánh Thần để Giáo Hội luôn bền vững, trung kiên làm tròn sứ mạng truyền giáo.

Dầu con người không thể nhìn thấy Chúa bằng xương bằng thịt, nhìn thấy Chúa cách hữu hình, nhưng Chúa vẫn có mặt với Giáo Hội ở khắp mọi nơi cho tới ngày cùng tận. Lời hứa của Chúa ở cùng môn đệ và nhân loại cho đến ngày tận thế là lời bảo đảm vững chắc nhất về sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội muôn muôn đời. Chúa Giêsu Phục sinh luôn đồng hành với Giáo Hội, với nhân loại, với các tông đồ trên vạn nẻo đường truyền giáo. Sứ mạng truyền giáo, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô Phục sinh cho nhân loại là lệnh truyền khẩn thiết nhất và quyết liệt nhất Chúa trao cho các môn đệ và cho Giáo Hội. Chúa đang trao, Chúa đang chuyền một cây gậy, một ngọn lửa đức tin để các tông đồ và Giáo Hội thay nhau liên tục chuyền gậy và đốt lên ngọn lửa tình yêu cho mọi người để mọi người nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa cứu thế.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lời Chúa: “ Các con là muối ướp cho mọi người...Các con là ánh sáng cho toàn nhân loại, là thành phố xây trên ngọn đồi không thể giấu được... ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen cha các con ở trên trời " (Mt 5,13-16)

Lạy Chúa Giêsu, công việc cứu thế của Chúa được tượng trưng như một chiếc gậy, Chúa đã chuyền cho các môn đệ cách đây 2002 năm để các môn đệ tiếp tục chuyền đi. Và cứ như thế, chiếc gậy được chuyền đi cho tới ngày tận thế. (Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT, Vietcatholic)

6. Sứ mệnh của người Kitô hữu

Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành nghĩa vụ linh mục, cha Vania đã ngã gục dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng ngài viết cho cha mẹ già có những dòng sau đây:

"Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với họ là con sẽ không sợ rao giảng Tin Mừng và tình yêu của Chúa Kitô. Đây là một sứ mệnh cao cả và con hãnh diện được tiến bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con không xấu hổ rao giảng về Chúa Kitô. Các phép lạ Chúa Kitô làm đều minh chứng rằng có Thiên Chúa, do đó con sẽ mạnh dạn tiếp tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì đó là điều Chúa Thánh Thần phán bảo con."

Rao giảng Tin Mừng là sứ vụ Chúa Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi Ngài xa cách con cái Ngài, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các tông đồ: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dậy bảo họ luôn giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.

Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mệnh đó. Mặc dù Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách; nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin Mừng, vì Nước Trời. Lòng can đảm, chí trung thành đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mỗi người như lời Ngài đã phán: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho tới tận thế. Chính tên Ngài cũng đã minh chứng điều đó, Em-ma-nu-en = Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Lạy Chúa, Lời Chúa đã nhắc nhở cho mỗi người chúng con ý thức về sứ mệnh Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết hăng say thi hành mệnh lệnh đó trong cuộc sống hằng ngày để ánh sáng Tin Mừng được chiếu tỏa khắp nơi. (Sr Margareta Maria Hiền, Vietcatholic)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô đã phải trải qua con đường thập giá rồi mới bước vào vinh quang phục sinh. Với ước mong sống trọn vẹn vai trò chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:

1. Chúa Giêsu hứa ban Thánh thần cho các tông đồ / để các ngài làm chứng cho Chúa đến tận cùng trái đất / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cũng ban Thánh thần / giúp chúng ta trở nên những chứng nhân can trường cho Thiên Chúa là tình yêu.

2. Rao giảng Chúa Giêsu Kitô cho hết thảy mọi nước mọi dân / đặc biệt cho các dân tộc tại lục địa châu Á mênh mông / là một việc khẩn cấp trong thiên niên kỷ thứ ba này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều người / dám xả thân cho công cuộc rao giảng Tin mừng cứu độ.

3. Đức tin Kitô giáo hội nhập vào văn hóa Châu Á / là một việc làm hết sức quan trọng trong việc giới thiệu Đức Kitô cho một châu Á đa chủng tộc / đa tôn giáo và đa văn hóa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà truyền giáo / luôn quan tâm đặc biệt đến công việc hệ trọng này.

4. Học hỏi Tông huấn Giáo hội tại Châu Á là bổn phận quan trọng của người Kitô hữu Á Châu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tận dụng mọi cơ hội thuận tiện để học hỏi sâu rộng Tông huấn này / nhờ đó có thể tham gia tích cực vào công cuộc rao giảng Tin mừng.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, trước khi được rước lên trời, Chúa đã dạy chúng con phải rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể thực hiện đến nơi đến chốn lệnh truyền quan trọng này. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu phục sinh đang ở bên cạnh Chúa Cha để làm trung gian cho chúng ta. Chúng ta hãy nhờ Ngài và với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.

VII. Giải tán

Hôm nay Chúa Giêsu lặp lại với anh chị em lời Ngài đã bảo các môn đệ ngày xưa: "Anh em hãy đi đến với muôn dân", "Anh em hãy làm chứng cho Thầy". Chúc anh chị em bình an.

 

4. Đức Giêsu Phục Sinh lên trời—Lm Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

Bốn mươi ngày sau khi Đức Giêsu sống lại, Giáo Hội mừng lễ Đức Giêsu lên trời. Sách công vụ tông đồ (Cv.1, 9), tin mừng theo thánh Luca (Lc.24, 51), tin mừng theo thánh Máccô (Mc.16, 19) nói đức Giêsu lên trời. Sách công vụ tông đồ cho thấy Đức Giêsu dẫn các môn đệ ra núi cây dầu, rồi Ngài lên trời trước mắt các ông, và có đám mây che Ngài khiến các ông không còn thấy được Ngài nữa.

Tin mừng theo thánh Matthêu (Mt.28, 20) không nói Đức Giêsu lên trời, nhưng nói Ngài ở cùng con người cho đến tận thế. Liệu có mâu thuẫn không, khi một tin mừng nói Ngài lên trời, còn tin mừng khác nói Ngài ở lại? Lên trời, là một từ ngữ khá hàm hồ và rất là chủ quan. Trời chỉ khoảng không phía trên đầu tôi, nhưng nếu một người ở bên kia trái cầu, nghĩa là người đó ở cách tôi 12 tiếng đồng hồ, thì trời của họ lại là phía dưới chân tôi. Như vậy, lên trời là lên phía trên đầu một người hay xuống phía chân của người đó? Khi nhìn vấn đề như vậy, dường như người ta thấy không được hiểu “lên trời” theo nghĩa đen của từ ngữ.

Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, là một cụm từ dùng để chỉ việc Đức Giêsu được siêu tôn ngang bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, đâu có tay phải tay trái như con người. Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, là cách diễn tả nhân hình về thực tại siêu hình. Đức Giêsu là Thiên Chúa. Ngài và Cha là một. Chỉ khi người ta nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, người ta mới thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người như thế nào! Khi nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, các Kitô hữu mới kinh ngạc và thán phục trước tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đối với con người khi biết Đức Giêsu đã được sinh hạ trong chuồng chiên cừu ở Bêlem và đã phải chết ô nhục trên thập giá.

Giữa hai cụm từ “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” và “Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa,” người ta thấy cụm từ “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” được hiểu theo nghĩa thông thường hơn. Nếu Đức Giêsu Phục Sinh luôn ở với con người, vậy trong khoảng thời gian ông Thomas không tin Ngài phục sinh, thì Đức Giêsu Phục Sinh ở đâu? Đức Giêsu Phục Sinh vẫn ở đó với các tông đồ, vẫn ở đó với ông Thomas nhưng Ngài không cho ông Thomas thấy Ngài thôi. Cũng tương tự vậy, Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang ở với chúng ta dù chúng ta không thấy Ngài.

Khi chúng ta mừng lễ Chúa Phục Sinh lên trời, thì đúng ra chúng ta phải ý thức và mừng Đức Giêsu Phục Sinh đang hiện diện với chúng ta. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời thầy, Cha thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy” (Ga.14, 23). Thiên Chúa ở với con người, đây là tin vui tin mừng, vì đó cũng là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người. Vì những người yêu thương nhau thì muốn ở gần nhau, Thiên Chúa muốn ở với con người, nghĩa là, Ngài yêu thương con người. Thiên Chúa hạnh phúc khi ở với con người.

“Thầy đi thì ích lợi hơn cho anh em, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng an ủi sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Ngài đến với anh em” (Ga.16, 7). Thánh Thần sẽ được Thiên Chúa Cha sai đến (Ga.14, 16) và cũng được Đức Giêsu sai đến (Ga.15, 26; 16, 7) với con người. Thánh Thần sẽ trợ giúp con người trong mọi chuyện, mọi nơi và mọi lúc. Thánh Thần sẽ dạy chúng ta biết sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa. Cũng chính Thánh Thần sẽ ban ơn trợ sức cho con người, để họ vượt thắng được ma quỷ, thế gian và xác thịt. Thánh Thần là lửa mến thiêu đốt mọi dơ bẩn, đốt nóng tâm hồn nguội lạnh; Thánh Thần là nước mát làm dịu các đam mê, tẩy sạch tâm hồn dơ bẩn. Thánh Thần đưa dẫn người ta tới gặp gỡ Thiên Chúa, làm người ta cảm nghiệm hạnh phúc khi sống với Ngài.

Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Đức Giêsu luôn hướng về Cha cho dù Ngài sống giữa trần gian. Đức Giêsu luôn tùy thuộc Thiên Chúa, đến độ “của ăn của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy” (Ga.4, 34). Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha luôn là một với nhau trong mọi sự (Ga.10, 30; 16, 15; 17, 10.22). Con người là một trong Thiên Chúa, nhưng khác với Đức Giêsu và Cha là một; cũng tương tự mỗi người chúng ta là con Thiên Chúa, nhưng khác với Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga.14, 28).

Chúa Cha cao trọng hơn Đức Giêsu, vì Thiên Chúa đã nhập thể, Ngài đang trong tình trạng tự hủy, Ngài nên giống con người mọi đàng trừ tội, chính vì vậy “Cha cao trọng hơn Thầy.” Còn tự nguyên thủy, Cha và Con đều là một. Cha chỉ là Cha nếu có Con, và không có Con thì cũng chẳng có Cha. Có Cha có Con thì có Thánh Thần. Cả ba đều là một trong Thiên Chúa, cả ba đều là một Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng duy nhất từ ngàn xưa cho đến bây giờ.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Lên trời, nghĩa là sao?

2. Theo bạn, có gì mâu thuẫn không khi trong sách Công Vụ Tông Đồ (Cv.1, 9), tin mừng theo thánh Luca (Lc.24, 51), và Maccô (Mc.16, 19) nói Chúa lên trời, còn tin mừng theo thánh Matthêu (Mt.28, 20) nói Đức Giêsu ở lại với con người cho đến tận thế?

3. Bạn hiểu “Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc.16, 19) như thế nào?

 

5. Chúa lên trời--Lm Giuse Phạm Thanh Liêm

Đức Giêsu lên trời, nhưng Ngài vẫn ở với con người cho đến tận thế. Xin cho ki-tô hữu được nên giống Đức Giêsu mỗi ngày một hơn.

Đức Giêsu lên trời

Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy Đức Giêsu đã hiện ra với các tông đồ suốt bốn mươi ngày sau khi Ngài sống lại. Trong thời gian này Người đã ăn uống với các ngài, dạy dỗ các ngài nhiều điều; rồi đến thời đã định, Người đã lên trời trước mắt các ông.

Phải hiểu điều này như thế nào, khi người thời nay biết trái đất tròn; như vậy, trời phía trên đầu của người ở Việt Nam, lại là hướng dưới chân của người ở Mỹ, và ngược lại. Một phi hành gia bay lên vũ trụ, trời là khoảng không đối với họ! Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Matthêu cho thấy Đức Giêsu không lên trời, nhưng ở lại với con người cho đến ngày tận thế: “Này đây Thầy ở cùng anh em cho đến ngày tận thế” (Mt.28, 20). Làm sao trả lời cho con người ngày nay về việc hai trình thuật dường như trái ngược nhau?

“Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”, là một cách nói dùng để chỉ Đức Giêsu được siêu tôn ngang bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, làm gì có tay phải tay trái như con người. Đây là cách nói nhân hình, nghĩa là, nói về Thiên Chúa theo kiểu con người. Để hiểu đúng, không được hiểu theo nghĩa đen. Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, nghĩa là, Đức Giêsu là Thiên Chúa.

Các ngươi là chứng nhân về những điều này

Không phải tất cả mọi người đều được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Chỉ có một số người được chọn, mới được diễm phúc này, và họ trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh. Các tông đồ là những người được thấy Chúa, và các Ngài đã là những chứng nhân anh dũng của Đấng Phục Sinh qua việc dùng chính mạng sống mình để làm chứng. “Ngu gì” để chết cho điều không thật hoặc không quan trọng! Sẵn sàng chết để làm chứng Đức Giêsu đã phục sinh, làm cho điều các tông đồ rao giảng “đáng tin”.

Các tông đồ đã chết. Các ki-tô hữu là những môn đệ của Đức Giêsu, đến lượt mình, các ki-tô hữu được mời gọi trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh cho con người thời đại hôm nay.

Các tông đồ đã chết để làm chứng cho Chúa Phục Sinh. Ki-tô hữu hôm nay được mời gọi để sống yêu thương, như dấu chứng Thiên Chúa đang hiện diện và hành động nơi ki-tô hữu trong thế giới này. Yêu, đòi phải hy sinh, và cũng là một cách “chết” cho người yêu.

Nên giống Đức Giêsu

Đức Giêsu là thượng tế, là của lễ và bàn thờ. Lời Thiên Chúa nhập thể vì yêu con người, Ngài đã chết để đền tội con người, để con người không phải chết vì tội mình nữa nhưng được sống, vì có người đã chết thế cho mình.

Đức Giêsu dùng chính máu Ngài để thanh tẩy tội lỗi con người. Ngài thương cảm con người với những yếu đuối và giới hạn của họ. Ngài đã trải qua tất cả những gian nan thử thách, để con người có can đảm tới với Ngài.

Là người, anh chị em với nhau. Mỗi người phải trở nên một “Giêsu khác” để thông cảm và nâng đỡ anh chị em mình. Mỗi người được mời trở nên giống Đức Giêsu, bằng “yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Theo bạn, Đức Giêsu Phục Sinh bây giờ đang ở đâu? Xin giải thích.

2. Trong đời tu hoặc đời sống ki-tô hữu, người ta thường nói tới “cái chết không đổ máu”, bạn hiểu điều này như thế nào? Cho thí dụ.

3. Người nên giống Đức Giêsu nhất, là người có những đức tính nào?

 

6. Quê hương chúng ta là quê trời--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay, Chúa chúng ta lên Trời, chúng ta không làm trái đất rung động, nhưng hướng tâm hồn lên Đức Kitô và trông đợi Ngài đến như lời Ngài đã hứa trước khi về Trời, để Ngài ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta hãy nuôi dưỡng lòng ái mộ những sự trên Trời, để cũng được cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Tuy nhiên, cần phải biết rõ rằng lòng tự cao, tự đại, hà tiện, dâm ô là những thói hư tật xấu, tội lỗi lôi kéo, giam hãm chúng ta trong tội lỗi... Hãy hướng về Trời, hướng lòng lên thật cao, kết hợp với Chúa. Sự Phục sinh của Chúa là chính niềm hy vọng của chúng ta, sự kiện Chúa lên Trời là vinh quang của chúng ta. Vậy nếu chúng ta cử hành lễ Chúa về Trời với lòng trung thành và sùng kính, thánh thiện và đạo đức, chúng ta về Trời với Chúa và vươn tâm hồn lên tới Chúa.

* Phụng vụ Lời Chúa

- Tđcv 1, 1-11: Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta lên Trời

- Tv 47, 2: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng

- Êph 1, 17-23: Đức Kitô thống trị địa cầu

Hoặc - Êph 4, 1-13: (trừ Năm B)

Hoặc – Dt 9, 24-28 ou 10, 19-23: (trừ Năm C)

- NĂM A - Mt 28, 16-20: Hãy đi giảng dạy muôn dân

- NĂM B - Mc 16, 15-20: Chúa Giêsu ban những lời cuối cùng cho các Tông Đồ

- NĂM C - Lc 24, 46-53: Những lời sau hết và sự lên Trời của Đức Giêsu

"Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Allelui! Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời", Alleluia! Alleluia! Alleluia! "(Ca nhập Lễ trong ngày)

Hôm nay, Đức Kitô Phục sinh vinh quang và yêu dấu, Đấng sống lại từ trong cõi chết bởi quyền năng Thiên Chúa, sau khi đã được an táng trong mồ, tức là Đền thờ người Do thái phá hủy, kết thúc bốn mươi ngày thánh và trước sự kinh ngạc của các Tông Đồ, "đã được cất nhắc lên cao trước mắt các ông và một đám mây che khuất Ngài khỏi tầm nhìn các Tông Đồ" (Tđcv 1,9).

Hành động cuối cùng này của Chúa Giêsu có hai ý nghĩa. Trước hết, khi lên trời, Ngài mạc khải cách rõ ràng thần tính của Ngài: sau khi đã chu toàn sứ mạng của mình trên trần gian, nay Chúa trở về nơi mà từ đó Ngài đã đến trong thế gian, nơi đó là cung lòng Thiên Chúa Cha. Hơn nữa, Đức Giêsu về Trời cùng với nhân tính mà Ngài đã lãnh nhận và đã làm cho sống lại từ cỏi chết. Nhân tính đó là nhân tính của chúng ta, được thanh luyện, thần thiêng hoá, và được trở nên đời đời. Chúa về Trời mạc khải "ơn gọi cao cả nhất" của mỗi người: con người được gọi đến hưởng sự sống đời đời trong Nước Chúa, nước của tình thương, của ánh sáng và hòa bình.

Đức Kitô Phục sinh, với thời gian, bằng sự hiện diện của mình và các chứng từ cần thiết đã gia tăng niềm tin nơi con người vào Đấng sống lại. Cái chết của Chúa Kitô, trong thực tế, đã làm cho lòng trí các môn đệ rối bời. Tâm trí các ông nặng trĩu với nỗi buồn da diết khi chứng kiến Thầy bị đóng đinh, thở ngắn thờ dài và sau cùng là trút hơi thở cuối cùng, thân xác bất tỉnh, chết và mai táng trong mồ. Một sự thẫn thờ sinh ra từ sự thiếu lòng tin đã gieo vào tâm trí các các môn đệ. Cái chết đau thương trên thập giá đã làm các thánh Tông Đồ, các môn đệ Chúa và nhiều người khác run sợ khi tin vào Chúa phục sinh. Đức Kitô Phục sinh lên trời cao là chân lý hiển nhiên đã củng cổ niềm tin của các ông do nỗi buồn sâu thẳm và làm cho tâm hồn các ông tràn ngập niềm vui.

Thật tuyệt vời và khôn tả được nguyên nhân niềm vui của họ! Đức Giêsu về Trời ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang, báo trước quê hương chúng ta đích thực là quê Trời. Chúng ta là chi thể của Ngài, Đầu đã về Trời, đây là niềm hy vọng lớn lao cho cả thân xác. Khi lên trời, Đức Giêsu đã mở ra lại con đường dẫn về quê hương thật của chúng ta, là thiên đàng. Giờ đây, với sức mạnh Thánh Thần của Ngài, Ngài nâng đỡ chúng ta trong cuộc lữ hành hằng ngày trên trần gian.

Tất cả chúng ta cùng vui mừng với niềm vui thánh thiện và tạ ơn Ngài. Hôm nay, chúng ta không chỉ vững tin và nắm chắc thiêng đàng, mà còn cùng với Chúa Kitô tiến vào chốn Trời cao nhờ ơn khôn tả của Chúa Kitô, chúng ta có được hơn là chúng ta mất do sự thù ghét của ma quỷ.

Sau khi Chúa đã được cất nhắc lên Trời, các đồ đệ quy tụ lại với nhau trong lời cầu nguyện, ở phòng Tiệc Ly, cùng với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu. (x. Tđcv 1,14), vừa cùng nhau khẩn xin Chúa Thánh Thần, Đấng có thể ban cho họ quyền năng để làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh (x. Lc 24,49; Tđcv 1,8). Ngày này, chúng ta hướng về Mẹ Maria là "Nữ Vương Thiên Đàng", xin Mẹ bảo vệ gìn giữ Hội Thánh, cách riêng mỗi người chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền ban, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Đức Giêsu và với Mẹ vui hưởng tôn nhan Chúa muôn đời. Amen.

 

7. Chúa lên Trời, ta hãy mến yêu những sự trên Trời--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay mừng Chúa lên Trời, vâng, toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả và nội dung gồm tóm trong những lời sau: "Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong... ". Và sau đó " Người lên Trời " (x. Cvtđ 1, 1- 11).

Các Tông đồ tận mắt chứng kiến cảnh Chúa lên Trời, lòng các ông ngây ngất dõi theo đến nỗi cần phải "có hai người mặt áo trắng đứng gần" (Cvtđ 1, 10) và nhắc nhở: "Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời?" (Cvtđ 1, 11). Sự kiện ấy cũng lôi kéo tâm hồn chúng ta lên với Chúa, làm chúng ta nhớ lại lời Chúa hứa trước khi về Trời, để Người ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta nuôi dưỡng lòng ái mộ những sự trên Trời và mong cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Đây là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng khi chúng ta hướng về tương lai trên hành trình dương thế.

"Đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha". Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, Chúa Giêsu từ giã Đức Maria Mẹ Người và nhất là tâm sự với các môn đệ nhiều điều. Hôm nay Người bảo các ông: "Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất" (Cvtđ 1, 8 ). Từ đây nhiệm vụ được ủy thác, đến lượt mình các Tông đồ phải thi hành cách trung thành.

Đang lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần, Món Quà do Chúa Cha tặng ban, Ngài là sức mạnh của các Tông đồ. Chính Ngài hướng dẫn Giáo hội đi trên đường chân lý, Tin Mừng phải được rao truyền bởi quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải do sức mạnh hay khôn ngoan của người đời. Trước khi về Trời, Chúa Giêsu " đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa " (Cvtđ 1, 4). Người nói với các ông: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật " (Mc 16, 15). Dựa trên lời Thầy, các Tông đồ có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng cho thế giới, làm phép cho họ, nói cho họ biết về Thiên Chúa để họ tin mà được cứu độ, nhất là phải làm chứng về Chúa Kitô "cho đến tận cùng trái đất" (Cvtđ 1, 8). Giáo Hội sơ khai thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, nên đã khai mở thời kỳ truyền giáo, dẫu biết rằng thời kỳ này chỉ kết thúc vào ngày Chúa lên Trời, và trở lại.

Những lời Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội là kho tàng vô giá. Giáo hội không những phải gìn giữ, loan báo, suy niệm mà còn sống nữa. Chúa Thánh Thần sẽ làm bén rễ sâu trong lòng Giáo hội ơn đặc sủng được sai đi. Vì thế, Giáo hội nhận ra sự cần thiết phải trung thành với kho tàng đức tin và những lời Chúa truyền dạy, đồng thời thông truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, tới chúng ta ngày hôm nay. Lời Chúa và chỉ có Lời Chúa là nền tảng cho mọi sứ vụ, cũng như tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo hội. Thẩm quyền của Lời Chúa là nền tảng mà Công Đồng Vatican II và Thánh Gioan XXIII đã nhấn mạnh trong bài phát biểu khai mạc: "Mối quan tâm chính của Công đồng Đại kết, là kho tàng thiêng liêng Kitô giáo phải luôn được giữ gìn và giảng dạy" (Bài phát biểu của ngày 11 tháng 10 1962). Thách thức lớn nhất của chúng ta là trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu.

Suy tư thứ hai về ý nghĩa Chúa Giêsu lên trời dựa trên cụm từ: "Chúa Giêsu lên Trời và ngự bên hữu Thiên Chúa" (Mc 16, 19).

Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa đến muốn đời. Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, "vinh quang của Đầu" đã trở thành "niềm hy vọng cho thân xác" (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, " Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc" (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha ( x. Dt 7, 25). Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.

Nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha, chúng ta có hy vọng đạt tới sự công chính và sống thánh thiện nơi Người. Giáo hội có thể gặp phải những khó khăn, việc loan báo Tin Mừng có thể bị thất bại, nhưng vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa, Giáo hội sẽ không bao giờ bị đánh bại. Sức mạnh của Chúa Kitô vinh hiển, Con yêu dấu của Chúa Cha hằng gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta tận tụy và trung thành với Nước Thiên Chúa một cách quảng đại. Sự kiện lên Trời của Chúa Kitô ảnh hưởng cụ thể đến đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì mầu nhiệm này, toàn thể Giáo hội có ơn gọi đợi chờ trong niềm hân hoan hy vọng ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến.

Chúa Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời.

Hướng về Mẹ Maria "Nữ Vương Thiên Ðàng", chúng ta xin Mẹ bảo vệ gìn giữ chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền dạy, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các thánh vui hưởng tôn nhan Chúa Ba Ngôi đến muôn thủa muôn đời. Amen.

 

8. Nhìn theo hướng Người đi--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Thánh Luca tường thuật cuộc Thăng thiên của Đức Giêsu trong hai quyển sách: Quyển thứ nhất là Tin Mừng, quyển thứ hai là Công Vụ Tông Đồ.

Trong Tin Mừng, Ngài kể biến cố Thăng thiên như xẩy ra ngay trong ngày Đức Giêsu sống lại. Sau khi Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường về Em-mau, rồi với các tông đồ ở Giêrusalem, Người dậy bảo và sai các ông đi rao giảng cho muôn dân. Nói xong, Người chúc lành cho các ông và Người lên trời ngay trước mắt các ông.

Trong công vụ, Thánh Luca thêm một số chi tiết khi Chúa lên trời: Về thời gian là sau 40 ngày (Cv. 1, 3; 13,31), về không gian là núi Ôliu (núi cây Dầu) (Cv. 1,12), và có đám mây rước Người lên (Cv.1, 9). Những chi tiết này vừa nói lên tính chất lịch sử vừa tôn vinh Đức Giêsu là Thiên Chúa.

Bốn mươi ngày là thời gian Đức Giêsu còn ở dưới thế, hiện ra dậy dỗ các tông đồ, ăn uống, an ủi, chúc phúc cho các ông và các ông đã thấy Người bằng tai, mắt, đụng chạm, gần gũi Người. Những việc đó nói lên tính cách cụ thể về lịch sử. Bốn mươi ngày còn tượng trưng cho thời gian được đặc ân mặc khải của Thiên Chúa, như ông Môsê ở trên núi Sinai bốn mươi ngày đêm đã được Thiên Chúa mặc khải cho mười điều răn (Xh. 24,18; 34, 28).

Đám mây vừc có tính chất vật lý cụ thể, vừa nói lên vinh quang của Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa hiện ra, như Thiên Chúa đã giao ước với ông Noe bằng đặt cầu vòng trên đám mây là dấu chỉ “nước sẽ không dâng lên thành đại hồng thủy để tiêu diệt loài người nữa” (St. 9, 13-15). Đám mây cũng là nơi Đức Giêsu ngự giá để chứng tỏ Người là Thiên Chúa như khi Người biến hình trên núi có “đám mây đến bao phủ các ông tông đồ và từ đám mây có tiếng phán rằng: Đây là con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mc. 9, 7). Đặc biệt trong ngày quang lâm: “Các ông sẽ thấy Người ngự bên hữu Đấng toàn năng và ngự trên mây trời mà đến” (Mc. 14, 62; Mt. 26,64).

Núi Ôliu: (Núi cây Dầu) ở phía đông thành Giêrusalem. Đi từ núi vào thành phải vượt qua thung lũng Kê-rôn (Cedron) mênh mông, nơi có những vườn cây xanh tươi, vườn Giêtsêmani cũng nằm ở đây. Betania cũng nằm ở phía đông sườn núi, nơi Đức Giêsu đã cho Lazarô chết bốn ngày sống lại (Mc. 11, 18), cũng ở phía đông núi Ôliu có ngọn núi Beth-pha-giê, nơi khởi điểm cuộc rước Đức Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem trong ngày lễ lá. Chính trên ngọn núi này, Người đã tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá không còn hòn đá nào trên hòn đá nào và ngày tận thế của loài người (Mc. 11,1 và 13,3). Trong những ngày tuần thánh, trước khi bị bắt, Đức Giêsu thường xuyên đến miền núi này để cầu nguyện trong những đêm thanh vắng. Thánh Luca kể Đức Giêsu lên trời ở núi Ôliu, vừa nhắc lại những biến cố lịch sử, vừa tôn vinh Đức Giêsu là Thiên Chúa vì “tất cả cánh đồng thây ma, tro tàn, tất cả các nương rẫy cho đến khe suối Kê drôn … hết thảy đều là của thánh dâng kính Thiên Chúa” (Gr. 31, 40), trong thị kiến của ngôn sứ Êgiêkiel đã thấy: “Vinh quang Thiên Chúa từ giữa thành đi lên và dừng lại trên núi phía đông của thành”. Nơi đây đã thành nơi tôn thờ Thiên Chúa. Đức Giêsu lên trời ở đấy và “Các ông sụp lạy Người… Lòng đầy hoan hỷ mà chúc tụng Thiên Chúa”, bây giờ các ông hoàn toàn nhận ra Người là Thiên Chúa, sụp lạy và chúc tụng Người với tâm tình thờ lạy Thiên Chúa, và lòng các ông đầy hoan hỷ.

Lòng đầy hoan hỷ bởi vì Thầy mình thật là Thiên Chúa hằng sống, không còn phải chết nữa.

Các ông hoan hỷ vì Thầy đầy quyền năng Thánh Thần để dậy các ông hiểu lời Kinh thánh, và Thầy về trời ngự bên hữu Thiên Chúa để ban sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các ông.

Các ông hoan hỷ vì Thầy đã tín nhiệm trao cho các ông tiếp tục công cuộc rao giảng công cuộc cứu độ của Thầy và làm chứng về Thầy đã chịu khổ hình, và ngày thứ ba Ngài đã sống lại từ cõi chết. Bây giờ Người ngự trên trời, nhưng vẫn ở lại với các ông mọi ngày cho đến tận thế. Với lòng đầy hoan hỷ ấy, các ông hăng hái trở lại Giêrusalem, vào đền thờ cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa, chờ đợi ngày Thánh Thần hiện xuống để cùng các ông làm chứng về Thầy tại Giêrusalem, khắp xứ Giuda, Samaria và cho đến tận cùng trái đất.

Đầu đội trời, chân đạp đất: “Các ông đăm đăm nhìn trời hướng Người đi” (Cv, 1,10).

Nhìn theo hướng Thầy đi: Thầy đã từ trời xuống đất, Thầy đã dốc hết tâm sức ra phụng sự Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em. Thầy đã không ngại phục vụ cho đến cùng, hiến toàn thân chịu chết và chết trên thập giá, để xây dựng một vương quốc bao la hoà giải, hòa thuận, hòa bình, một vương quốc công bình, hiệp thông và bác ái.

Các ông đăm đăm nhìn theo hướng Người đi: Thầy từ trời xuống, rồi về trời. Các ông cũng phải nhận sức mạnh Thánh Thần từ trời xuống để các ông đi khắp mặt đất rao giảng Tin Mừng của Thầy từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất để xây dựng vương quốc của Thầy đã thiết lập, rồi các ông mới được về trời hưởng vinh quang của Thầy.

Đến lượt mỗi người chúng ta cũng phải đăm đăm nhìn trời “Cầu xin Chúa Cha vinh hiển, là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho chúng ta thần khí khôn ngoan, để mặc khải cho chúng ta nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho chúng ta thấy rõ: Đâu là niềm hy vọng chúng ta đã được” (Bài đọc II) đâu là con đường hy sinh phục vụ quên mình, hết mình và bỏ mình của Đức Giêsu Kitô, để chúng ta đi theo con đường đó mà xây dựng một thế giới mới. Lúc đó, chúng ta mới được đi theo Người về trời hưởng gia nghiệp vinh quang phong phú của Người. Amen.

 

9. Chúa Nhật Chúa Lên Trời

Hôm nay chúng ta long trọng mừng Chúa về Trời. Trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, là nơi chúng ta sẽ về nên Trời còn là quê hương vĩnh cửu của chúng ta. Lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay một lần nữa cho thấy rõ hơn, Chúa lên trời là vì chúng ta, cũng như tất cả những việc người làm là vì loài người chúng ta, như lời kinh tin kính chúng ta đọc: "vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, người đã từ trời xuống thế..." rồi Chúa lên trời là vì loài người chúng ta như lời Chúa nói: "Con muốn Con ở đâu thì họ cũng ở đó với Con". Cũng từ đó mà chúng ta nhận ra được một sự thật căn bản là quê hương chúng ta ở trên Trời. Mà nếu quê hương chúng ta ở trên trời thì hiện giờ chúng ta đang trên đường đi về quê hương đó. Đường về trời còn dài và lắm khó khăn vậy mà chúng ta lại mang quá nhiều hành lý. Những hành lý nào không nhãn hiệu đời đời, sẽ làm cho bước chân chúng ta chùn lại, khó đi. Biết bao nhiêu thứ hành lý chúng ta không thể mang vào Nước Trời được vậy mà chúng ta cứ cố tranh dành với người này, người nọ. Thật uổng công.

Nhiều người cho rằng chết là hết. Nhưng với người kitô hữu thì khác, cái chết chỉ là một khởi điểm cho một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Cái chết chính là khung cửa hẹp dẫn chúng ta vào quê hương nước trời. Tin vào Nước Trời là một thách đố lớn đối với chúng ta. Bởi vì ở nơi đó, chúng ta chưa từng có kinh nghiệm, chưa từng sống. Vì thế, Thánh Phaolô nói về Nước Trời như sau: "Tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy và trái tim chưa một lần cảm nhận được những gì Thiên Chúa dành cho những kẻ yêu mến Ngài. Tất cả những khổ đau trong cuộc sống hiện tại sẽ chẳng là gì cả, nếu đem so với hạnh phúc nước trời. Đó là nơi vinh quang, đó là nơi ánh sáng, đó là nơi ân thưởng cho những người đã trung thành phụng sự Chúa." Muốn vào Nước Trời, chúng ta phải cố gắng, phải chiến đấu thì mới đạt tới. Niềm tin của người Kiô hữu được Chúa Giêsu mời gọi và hứa ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ và khi chúc lành thì người rời khỏi các ông. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới giúp các tông đồ hiểu được lời Chúa và làm cho các ông dám sống chứng nhân.

Chúa về trời còn cho chúng ta biết Chúa hoàn thành sứ mạng của mình và giờ đây, Người trao lại sứ mệnh đó cho chúng ta. Liệu chúng ta có ý thức được điều đó không? Chúng ta có làm cho người quanh ta hiểu rằng: Chúa Giêsu phải chịu đau khổ, chịu chết rồi mới được tôn vinh. Vậy, vai trò của chúng ta giờ dây là sống chứng nhân cho Chúa Giêsu. Trong Tông Huấn Evangelii Nuntiadi đoạn 41, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói lên vai trò của chứng nhân trong cuộc sống như sau: "Do đó, chính với phẩm cách và đời sống mình, mà Giáo Hội sẽ Phúc Âm hoá thế giới, nói cách khác, bằng sự chứng tá sống động về lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu - chứng tá về sự khó nghèo và siêu thoát, vể sự tự do khi đối đầu với các quyền lực trần gian - nói tóm lại, là chứng tá của sự thánh thiện.

Chúng ta hãy làm cho người quanh ta hiểu rằng quê thật của con người là Trời chứ không phải trần gian. Thiên Chúa trên trời, Ngài muốn chúng ta yêu thương giúp đỡ nhau tiến về quê Trời. Đó là chúng ta đã làm chứng cho Chúa Giêsu.

Xin Chúa chúng con ý thức rằng: Chúa về trời nhưng vẫn hiện diện vô hình với chúng con. Chúa về Trời để dọn chỗ cho chúng con, xin cho chúng con biết quý trọng những sự cao siêu trên Trời, là quê hương đích thật của chúng con mong tới, để từ nay chúng con chỉ sống cho Chúa mà thôi. Amen.

 

10. Sự hiện diện của Chúa

Trong phần chia sẻ sáng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu đâu là ý nghĩa của biến cố Chúa về trời.

Biến cố Chúa về trời không có nghĩa là Chúa di chuyển hộ khẩu, Chúa thay đổi nơi cư trú, từ mặt đất này tới một nơi nào đó, nhưng có nghĩa như là một sự tôn vinh, như lời thánh Phaolô đã viết: Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá, cho nên Thiên Chúa đã tôn vinh Người. Các tín hữu tiên khởi đã tin rằng: Đức Kitô được tôn vinh tiếp tục hiện diện giữa trần gian. Người hiện diện không phải chỉ ở Giuđêa, mà còn khắp cùng bờ cõi trái đất. Ngài hiện diện trong chính sự rao giảng của Giáo Hội. Phần cuối của đoạn Tin Mừng cho thấy ngay cả sau khi Ngài đã lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa, các tông đồ vẫn tin tưởng rằng có Chúa cùng hoạt động với các ông khi các ông rao giảng và Ngài củng cố lời giảng của các ông bằng những phép lạ kèm theo. Thực vậy, thánh Matthêu đã lặp lại lời Chúa: Này Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Còn thánh Luca thì đã ghi nhận: Sau khi Chúa lên trời, các tông đồ trở lại Giê rusalem, lòng tràn ngập niềm vui. Tại sao lại như thế? Chẳng lẽ các ông vui mừng vì Người đã rời xa họ hay sao? Phải chăng đây là một thoáng mặc khải, hé mở cho chúng ta thấy sự vắng mặt của Người đã trở thành một sự hiện diện thất gắn bó và mật thiết. Người tuy xa mà lại gần, tuy vắng mặt mà vẫn luôn hiện diện.

Thực vậy, phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy việc Giáo Hội nối tiếp sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô, nối tiếp những công việc Người đã làm, kể cả những công viêc lạ lùng như trừ quỷ, chữa lành các bệnh nhân. Giáo Hội thể hiện sự hiện diện của Đức Kitô giữa trần gian. Sự hiện diện này không còn bị đóng khung trong thời gian và không gian. Nhưng đã được mở ra để có thể đến với mọi người.

Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta không phải chỉ biết ngước mắt nhìn lên cao, mà điều quan trọng đó chính là chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà bằng cả việc làm và đời sống, nhất là bằng sự dấn thân, để thực hiện một sự lựa chọn rõ rệt. Con Thiên Chúa khi làm người và ở giữa chúng ta, đã thể hiện một sự lựa chọn rõ rệt, Ngài không hiện diện một cách chung chung, và vô thưởng vô phạt, nhưng đã hiện diện như một Tin Mừng cứu độ cho nhiều người, đồng thời như một hòn đá vấp ngã đối với một số người khác.

Và khi Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội sứ mạng tiếp nối sự hiện diện của Người, Người cũng đòi chúng ta phải có một sự chọn lựa dứt khoá như Người. Chính vì thế, rất có thể đã xảy ra là tại một nơi nào đó, có sự hiện diện của người Kitô hữu, của Giáo Hội, nhưng lại không có sự hiện diện đích thực của Đức Kitô. Sở dĩ như vậy là vì sự chọn lựa của chúng ta đã đi ngược lại với sự chọn lựa của Chúa Giêsu. Chẳng hạn như khi chúng ta có những hành động bất công, bóc lột kẻ khác, thì chính bản thân chúng ta đã bôi nhọ và xoá bỏ sự hiện diện của Đức Kitô.

Chính vì thế mà mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lại đời sống xem lời nói và việc làm của chúng ta, có là một chứng tá trung thực cho sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa trần gian này hay không.

 

11. Cùng ở lại trong thành--Alphonse Marie Trần Bình An

Khi ngôn sứ Êlia sắp được về trời, thì môn đệ Êlisa không muốn xa thầy. Ông Êlia nói với ông Êlisa: “Xin anh ở lại đây, vì Đức Chúa sai thầy đến Bết Ên.” Nhưng ông Êlisa thưa: “Có Đức Chúa hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy.” Rồi các ông đi xuống Bết Ên. Các anh em ngôn sứ ở Bết Ên ra gặp ông Êlisa và nói: “Ông có biết không, hôm nay Đức Chúa sẽ đem thầy của ông lên cao ngay trên đầu ông?” Ông nói: “Tôi cũng biết chứ, im đi!”

Hành trình của hai ông Êlia và Êlisa tiếp tục đến Giêricô, rồi Giôđan, sự kiện lập lại y như ở Bêt Ên. Ông Êlia bảo ông Êlisa ở lại, nhưng môn đệ Êlisa vẫn không chấp nhận, kể cả các anh em ngôn sứ sở tại cũng khuyên nhủ ông Êlisa hãy thuận theo.

Sau khi dẫn ông Êlisa qua sông Giođan, ông Êlia nói với ông Êlisa: “Anh cứ xin đi: thầy có thể làm gì cho anh, trước khi thầy được đem đi, rời xa anh?” Ông Êlisa nói: ”Xin cho con được hai phần thần khí của thầy!” Ông Êlia đáp: “Anh xin một điều khó đấy! Nếu anh thấy thầy khi thầy được đem đi, rời xa anh, thì sẽ được như thế; bằng không, thì không được.” Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai ông ra. Và ông Êlia lên trời trong cơn gió lốc. Thấy thế, ông Êlisa kêu lên: “Cha ơi! Cha ơi! Hỡi chiến xa và chiến mã của Israel!” Rồi ông không thấy thầy mình nữa. Ông túm lấy áo mình và xé ra làm hai mảnh. Ông lượm lấy áo choàng của ông Êlia rơi xuống. Ông trở về và đứng bên bờ sông Giôđan. (2V 2, 1-13)

Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại Chúa Giêsu thăng thiên. “Chúa Giêsu được cất lên trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.” (Cv 1, 9)

Còn trong trình thuật Tin Mừng thánh Luca, Chúa Giêsu lên trời trước mặt các môn đệ một cách đơn sơ. Không cầu kỳ và bi thảm chia ly như ngôn sứ Êlia với đệ tử Êlisa. Tuy nhiên, cả hai cuộc về trời đều có nhiều điểm tương đồng và dị biệt đầy ý nghĩa.

Sau đó, Người dẫn các ông đến gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. (Lc 24, 50-53)

Chứng nhân & Đi gieo

Không âu sầu, đau đớn như ngôn sứ Êlisa tiễn biệt tiên tri Êlia, các tông đồ đã canh tân, lột xác thật sự, không còn u buồn, sầu não trước cảnh biệt ly, mà thật sự bình an, khi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu thăng thiên.

Không hoành tráng cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa đón ngôn sứ Êlia, mà chỉ có một đám mây mỏng manh, tựa như làn hương thơm quyện lấy Chúa Giêsu, cất Người lên trước mặt các tông đồ.

Ngày xưa, khi ra đi, Ngôn sứ Êlia thả lại tấm áo choàng, mà trước kia Êlia đã ném lên người Êlisa, để trao ơn gọi và sứ vụ, (1V 19, 19), thì nay Êlia muốn trao lại Êlisa sức mạnh và quyền năng của ngôn sứ.

Bây giờ, Chúa Giêsu chính thức ngỏ lời trao sứ vụ cụ thể cho các tông đồ, cũng như tín hữu Kitô hai nhiệm vụ chính yếu: Chứng nhân và Đi gieo Tin Mừng. Để trở thành chứng nhân đích thực phải dứt khoát canh tân, lột xác, thay đổi, chuyển hóa, để có thể sống đúng theo Lời Chúa, phản ảnh chính xác chân dung Người, hầu không làm méo mó, sai lệch hình ảnh của Người.

Trong Thư gửi tín hữu Êphêxô, Thánh Phaolô nhắc nhủ canh tân bản thân: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4, 22-24)

Khi Kitô hữu đổi mới, trở về nguyên bản được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, sống công chính và thánh thiện, thì mới xứng đáng trở nên chứng nhân Đức Kitô, mới có thể nhân danh Người, đi rao giảng cho muôn dân. Nếu bản thân không canh tân, đổi mới, thì chẳng có thể thuyết phục được ai để kêu gọi sám hối, hầu được ơn tha tội. Như thế canh tân là điều kiện tiên quyết và thiết yếu của sứ vụ Đi gieo Tin Mừng.

Do vậy, tín hữu Kitô không chỉ canh tân bản thân để được hưởng ơn Cứu Độ, mà còn có bổn phận và nghĩa vụ với tha nhân, quen biết, xa lạ, hay thù địch, cùng đưa họ về với Lòng Thương Xót của Chúa. Đó chính là mệnh lệnh của Thiên Chúa Tình Yêu.

Bình an & Vui mừng

Thay vì lo lắng trốn tránh sự khó, thử thách gian nan, các tông đồ can đảm và vui vẻ trở vào Giêrusalem, nơi mới diễn ra cuộc khổ nạn thảm khốc của Chúa Giêsu, vị Thầy chí ái. Các đấng không còn mãi đứng nhìn trời, mà nhìn vào, tìm đến với đàn chiên đang bơ vơ lạc lõng, thiếu người chăn dắt.

Nhờ vào Thần Khí Chúa Thánh Thần, các tông đồ bình tâm, lòng đầy hoan hỷ, chuyên cần giảng dạy dân chúng ngay trong thành Giêrusalem, không hề sợ sệt đối đầu với hiểm nguy, với những kẻ mới cuổng nộ kết án và đóng đinh Chúa Giêsu.

Khi các tông đồ hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa, đã kết hợp nhuần nhuyễn việc cầu nguyện với hoạt động rao giảng, như trước đây Chúa Giêsu luôn nhắc nhở và làm gương sáng. Các ngài đã tuân thủ theo Thánh Ý nhiệm mầu, nên niềm vui và sự bình an tràn đầy trong lòng các ngài.

Ngày hôm nay, tôi và những người Công Giáo Ngày Chúa Nhật, như nhận xét xót xa của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, làm sao vinh danh Thiên Chúa cả sáng, Nước Chúa trị đến, khi không dám can đảm đứng lên làm chứng nhân cho Chúa Giêsu,, ngay trong môi trường xã hội nhiễu nhương, phức tạp, phản Kitô, không dám canh tân từ tâm tư, lời nói và hành động như các thánh tông đồ nhiệt thành theo Chúa.

Làm sao tôi có được ơn bình an và niềm vui trọn vẹn, khi không đồng hành với Chúa Giêsu, không tuân giữ Lời Chúa, không nghe theo những di ngôn cuối cùng của Người?

Con phải trở nên “chính con” theo ý Chúa, bằng cách giải tỏa hình ảnh Chúa khỏi những bụi bậm bao phủ, che đậy nhơ bẩn. Như điêu khắc gia đục dũa tảng đá, để nét mặt kính ái của Chúa tỏ hiện dần dần. (Đường Hy Vọng, số 607)

Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi kẻ khác dâng hiến. Đó là cách con phục vụ tốt đẹp hơn cả; con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô. (Đường Hy Vọng, số 611)

Lạy Chúa Giêsu, xin nhắc nhủ con luôn đâu là quê thật, để con canh tân, thánh hóa cuộc sống, xứng đáng trở nên chứng nhân của Chúa, và đem Tin Mừng đến cho mọi người.

Lạy Mẹ Maria đầy nhơn đức, xin giúp con sống theo Thánh Ý mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh khó khăn, để con được bình an và hạnh phúc. Amen.

 

12. Ấn tín-- Lm Vũ Đình Tường

Sản phẩm hàng hoá thường ghi chi tiết nơi sản xuất đồng thời đóng dấu hiệu cầu chứng. Thí dụ như ghi sản xuất tại Việtnam, hay Nhật Bản. Có những loại hàng sản xuất một nơi, đóng thùng một nẻo nên ghi thêm chi tiết hàng được công ti A nhập cảng và công ti B đóng thùng. Mục đích việc làm này mong giúp giới tiêu thụ không rơi vào trường hợp con buôn vì ham lợi đánh lận con đen, mua hàng giả dán nhãn thiệt thu lợi nhiều.

Kitô hữu cũng có nhãn hiệu không phải nhãn hiệu cầu chứng mà là ấn tín chứng thực. Mỗi người trong chúng ta là sản phẩm của Thiên Chúa, được Thiên Chúa sáng tạo, đóng ấn tín cho từng người. Đây không phải là điều bịa đặt mà là một thực tại có từ thời sáng tạo vũ trụ. Sách Sáng Thế Kí chương đầu 1, câu 27 trong phần lịch sử sáng tạo ghi rõ. Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh Người. Như thế chúng ta vào đời là thành quả yêu quí của Thiên Chúa yêu thương.

Trước khi cho ngươi thành hình người trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi. Trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi. Jer 1,4

Hãy xem Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta Is 49,6

Dấu Ấn

Sản phẩm thường mang dấu hiệu cầu chứng thương mại, ghi rõ mã số cầu chứng. Kitô hữu không mang dấu hiệu cầu chứng thương mại mà là ấn tín đức tin. Ấn tín đức tin đó được ghi nhận trong ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy với dấu thánh giá trên trán con người và được xức dầu thánh hiến để trở thành hàng thật, Kitô hữu thật trong Đức Kitô. Ấn tín thập giá là nhãn hiệu của mỗi Kitô hữu dưới danh hiệu chúng ta là con cái Thiên Chúa. Kitô hữu sống làm vinh danh thập giá là Kitô hữu chính hiệu. Đó là tiếp tục sứ mạng Đức Kitô đã bắt đầu như lời tiên báo của tiên tri Is 61,1-2

Thần Khí Chúa ngự trên tôi và đã xức dầu sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó tấm lòng tan nát, công bố ân xá cho kẻ giam cầm, phóng thích tù nhân và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.

Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma 8,17 còn cho biết là con cái Thiên Chúa nên được trở thành kẻ thừa tự, thừa hưởng tình yêu viên mãn và cuộc sống đời đời của Thiên Chúa.

Nhập cảng và đóng dấu

Chúng ta chính thức gia nhập Giáo Hội trong ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy nơi xứ tạo ta đang cư trú. Xứ đạo địa phương là nơi chúng ta được đóng gói, được đúc khuôn để trở thành người Kitô hữu tương lai. Xứ đạo địa phương dẫn dắt chúng ta trên con đường học đạo và hành đạo. Xứ đạo địa phương là nơi chúng ta cùng hội họp, cầu nguyện, lãnh nhận bí tích, cùng chia sẻ và nhận những đóng góp, hỗ trợ trong tinh thần Kitô hữu. Xứ đạo địa phương là nơi chúng ta kết hợp trong Chúa qua các buổi cùng cầu nguyện, cùng sinh hoạt. Vì thế có thể coi xứ đạo địa phương đóng góp rất lớn vào việc giúp thành hình và phát triển đức tin. Điều này ít nhiều gây hiểu lầm trong việc hành đạo. Kitô hữu quá cứng ngắc gắn bó với xứ đạo, nhà thờ, trung tâm gây nên chia rẽ trong cộng đoàn giáo xứ. Lí do chính là sống trong sợ hãi. Sợ hãi làm tâm hồn mất tự do. Có thể họ là người đạo đức, siêng năng, cần mẫn nhưng căn bản là đức tin chưa trưởng thành. Địa điểm thờ phượng là phương tiện cho chúng ta gặp gỡ, cầu nguyện. Viện ra đủ lí lẽ tranh đấu biến địa điểm thờ phượng thành nơi đấu lí có khác chi mượn chính đạo làm việc tà đạo. Tình trạng ngấm ngầm cạnh tranh về mọi phương diện giữa họ lẻ với giáo xứ không thể biện minh là làm việc đạo đức.

Đức Kitô về trời cho xác tín một điều quê hương chúng ta ở trên trời. Là công dân nước trời cần có tinh thần, coi trọng việc hướng về thiên quốc, luôn nhớ mọi sự trần gian đều qua đi. Vật thể cần cho cuộc sống, cần cho việc giữ đạo, Kitô hữu khôn ngoan dứt khoát từ bỏ bất cứ điều gì khi chúng trở thành vật cản bước tiến về thiên quốc, chắn tầm nhìn nước trời.

 

13. Khai mở một trang sử mới--Keith Witfield--Lm GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ

Khai mở trang sử mới của Giáo hội

“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (Mc 16,20)

Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi sự sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể Hội Thánh. Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.

Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng sâu xa nơi các môn đệ. Đối diện trước biến cố này, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó, các ông đã hiểu. Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn dặn. Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người. Các ông trở về Giêrusalem lòng đầy hân hoan và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa. (Lc 24,52-53).

Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi vấn. Đức Giêsu vừa “rời bỏ” các ông. Sự ra đi nào cũng để lại biết bao sầu thương và nỗi nhớ. Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại “ngập tràn niềm vui”. Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế? Chúng ta nhớ lại trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến. Nhưng sau đó Ngài trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý chữa trị những sầu buồn và tuyệt vọng (Ga 14-17). Ngài nói với các học trò của mình đừng lo lắng, các ông sẽ không mất Ngài, những Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.

Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui. Các tông đồ sớm nhận ra rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc. Trước hết, đó là quà tặng Thánh Thần. Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực hiện tròn đầy. Các tông đồ nhìn xem Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về “ Đấng sẽ đến”. Những nghi ngại và sợ hãi dần tan biến. Các tông đồ thâm tín rằng Ngài đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn đang sống. Qua sự phục sinh của Đức Kitô, các tông đồ trải nghiệm niềm vui và hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực tử thần. Họ tín thác vào Chúa. Vì thế, sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha đem lại cho họ niềm vui. Niềm vui đó được cắt nghĩa với những lý do sau:

1. Đức Giêsu lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Do Thái 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.

2. Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa con người với Chúa Cha. Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế giới thần linh cùng Chúa Cha (1Ga 2,1).

3. Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai mở. Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần. Thánh Phêrô đã viết: “ Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).

4. Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó. Khi nói về việc Đức Giêsu sống lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết: “ Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn thể hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn (Eph 1,22-23).

Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.

Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ ngập tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các tông đồ một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.

Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.

 

14. Hạnh phúc lớn lao--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Phi hành gia Yuri Gagarine của Liên Xô sau khi đã bay nhiều vòng trong vũ tru,ï khi trở về trái đất đã tuyên bố: “Tôi chẳng thấy Thiên Chúa đâu cả!” Thế nhưng, nhà bác học Isaac Newton khi quan sát vũ trụ bằng kính viễn vọng thì lại thốt lên: “Tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa qua kính viễn vọng của tôi”.

Chúng ta là những người tin Chúa Giê-su Phục Sinh và lên Trời cả hồn lẫn xác. Vậy chúng ta trả lời cho vấn nạn đó như thế nào? Chúa Giê-su lên Trời nghĩa là gì? Nay người ở đâu? Việc Chúa Giê-su lên trời có liên hệ gì tới cuộc sống hiện tại của chúng ta hay không?

Theo quan niệm của người Do-thái cách đây hơn 2000 năm, vũ trụ này chia ra làm ba phần. Phần dưới mặt đất là âm phủ dành cho người chết; phần trên mặt đất dành cho loài người đang sống và trời là thế giới của Thiên Chúa và các Thánh. Để thích ứng với quan niệm bình dân ấy, các Giáo Lý Viên ngày xưa đã trình bày mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su làm hai. Giai đoạn đầu, sống lại, Đức Giê-su đi từ âm phủ lên mặt đất. Giai đoạn kế đó, lên Trời, Đức Giê-su bay từ mặt đất lên thế giới của Thiên Chúa.

Trình bày như vậy thì dễ hiểu nhưng không hoàn toàn đúng với thực tế. Hậu quả tai hại là người ta dễ hiểu lầm rằng: khi lên trời như thế Chúa Giê-su sẽ đi xa trái đất và cuộc sống của loài người, vì trời thì ở trên cao xa tắp, đâu có liên hệ gì tới trái đất! Những chữ “lên Trời” bị chi phối bởi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta. Theo cách suy nghĩ đó, các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên Trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì Trời hay Thiên Đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh Kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Ki-tô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi, đã thấm nhuần tinh thần.

Thực ra khi Chúa Giê-su sống lại, Người đã lên Trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Ngươì đã bước vào cõi vinh quang của Thiên Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha. Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giê-su hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và củng cố Đức Tin của các Tông Đồ. Giáo Hội đã được thiết lập nay được củng cố để được sai đi.

Như vậy sự kiện lên Trời mà Phụng Vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của Lịch Sử Cứu Độ là Đức Ki-tô ban những giáo huấn cuối cùng, trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo Hội, chuẩn bị cho các Tông Đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng Phục Sinh trong thế giới. Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình, với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Đức Giê-su đã được Thần Khí Hóa và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giê-su chỉ ở bên cạnh chúng ta thôi, bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: “Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi”. Nnững người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Đức Giê-su một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).

Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho: “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: “Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật, đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học”.

Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên. Chúa về Trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào.

Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc Phúc Âm Luca nhưng thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở, đó là khai trương công cuộc Truyền Giáo toàn cầu. Hình thức của việc Truyền Giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành Môn Đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em” (Mt 28,19). Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông Đồ, qua các Tông Đồ rồi đến các Môn Đệ, Đức Giê-su trở thành người sống đương thời với chúng ta: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc Cứu Rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo hội mà Chúa Giê-su tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống, dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu. Mỗi Ki-tô hữu là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Mỗi Ki-tô hữu cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Ki-tô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người.

 

15. Suy niệm của Lm Anthony Trung Thành

Con người qua mọi thời đại vẫn có những người không tin có đời sau, không tin có Thiên Đàng. Nhưng với chúng ta là những người Kitô hữu, chúng ta tin có sự sống đời sau, tin có Thiên Đàng. Chúng ta tuyên xưng niềm tin đó qua Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy”. Vậy, Thiên Đàng là gì? Ai nói với chúng ta về Thiên Đàng? Làm thế nào để được lên Thiên Đàng?

1. Thiên Đàng là gì?

Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, và đã hoàn toàn được thanh tẩy, sẽ sống muôn đời với Chúa Kitô. Họ sẽ mãi mãi giống như Thiên Chúa, vì họ thấy Ngài “Đúng như Ngài là” (1Ga 3,2), “Mặt giáp mặt”, không qua trung gian của một tạo vật nào hết. Sự sống hoàn hảo như thế với Ba Ngôi cực thánh, sự hiệp thông về sự sống và tình yêu với Chúa Ba Ngôi, với Trinh Nữ Maria, các Thiên thần và tất cả các Thánh, được gọi là “Thiên Đàng”. Như vậy, Thiên Đàng là cùng đích tối hậu và là sự thực hiện những khát vọng sâu xa nhất của con người, đó là tình trạng hạnh phúc cao nhất và vĩnh viễn (x. GLHTCG số 1023-1024).

2. Ai nói với chúng ta về Thiên Đàng?

“Kinh Thánh nói về Thiên Đàng qua những hình ảnh: sự sống, ánh sáng, bình an, bữa tiệc cưới, rượu của Nước Trời, nhà Cha, thành Giêrusalem trên trời, Thiên Đàng: Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe thấy, lòng trí con người chưa từng nghĩ tới, đó là tất cả những gì Thiên Chúa đã dành sẵn cho những ai yêu mến Ngài” (x. GLHTCG số 1027). Trong ba năm sống công khai, Chúa Giêsu bằng cách này hay cách khác đã nói với nhân loại về Thiên Đàng. Xin được đơn cử một số dẫn chứng sau đây: Ngài khẳng định: "Tôi tự trời mà xuống" (Ga 6,38); Ngài còn nói với người Do-Thái rằng: "Các ông bởi hạ giới; còn Tôi, Tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn Tôi, Tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 8,23); Khi đưa các Tông đồ lên núi Taborê, Ngài đã hé mở vinh quang Thiên Đàng cho các Tông đồ thấy; Ngài kể dụ ngôn người phú hộ và ông Lazarô để nói lên số phận khác biệt giữa hai người là Thiên Đàng và Hoả Ngục (x. Lc 16, 19-31); Ngài còn nói: “Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở”(Ga 14,2); Đặc biệt, trên Thánh giá, Ngài nói với kẻ trộm lành rằng: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43)…

Thánh Phaolô thì khẳng định: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta, nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21). Sách Khải Huyền cũng diễn tả về hạnh phúc Thiên Đàng như sau: “Bấy giờ Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4). Chính bài đọc I và bài Tin mừng hôm nay, cũng cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu rời các Tông đồ mà lên trời (x. Cv 1,11; Lc 24, 51). Như vậy, chính những lời của Chúa Giêsu và các Tông đồ làm chứng cho chúng ta có Thiên Đàng.

3. Làm thế nào để được lên Thiên Đàng?

Có nhiều cách để lên Thiên Đàng, xin được gợi ý một số cách thế sau đây:

Thứ nhất, xa tránh tội lỗi. Có những vị thánh sống trên đời này không hề phạm bất cứ một tội trọng nào, chẳng hạn: Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu; Thánh Louis Gonzaga, Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse…Đúng như thánh vịnh 15 diễn tả: Đó là những “Kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã. Coi khinh phường gian ác, trọng ai kính CHÚA TRỜI, lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời, cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay. Phàm ai làm những điều này không hề nao núng chuyển lay bao giờ” (Tv 15, 2-5).

Thứ hai, thống hối ăn năn tội. Bản chất của con người là yếu đuối, hay nghiêng chiều về sự dữ, nên con người thường sa ngã phạm tội. Vì thế, tội lỗi như là rào cản lớn nhất làm cho con người không đến được với Thiên Chúa. Đó cũng là rào cản không cho phép con người lên Thiên Đàng. Chính vì vậy, để đến với Chúa, để được lên Thiên Đàng, con người cần phải cố gắng xa tránh tội lỗi. Thánh Gioan khuyên dạy chúng ta “Đừng phạm tội nữa"(x. 1Ga 2,1). Bởi vì: "Ai phạm tội thì là người của ma quỷ, vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu. Sỡ dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá công việc của ma quỷ"(1 Ga 3,8). Nhưng Ngài vẫn biết, con người không dễ gì mà làm được điều đó, vì bản tính con người yếu đuối dễ sa ngã phạm tội, nên Ngài khuyên chúng ta hãy đến với Bí tích Giao hoà để được khỏi tội: "Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng bảo trợ trước mặt Chúa Cha, đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính. Chính Đức Kitô là của lễ đền tội cho chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta, mà còn vì tội lỗi cả thế gian nữa"( 1 Ga 2,1).

Thực tế cho chúng thấy có rất nhiều tội nhân, nhờ thống hối ăn năn trở về với Thiên Chúa nên đã được lên Thiên Đàng, các Ngài trở thành thánh, nghĩa là trở nên gương mẫu cho mọi người chúng ta noi theo, ví dụ: Kẻ trộm lành, Thánh Maria Mađalêna, Thánh Augustinô, thánh Phêrô...

Thứ ba, yêu thương anh em. Yêu thương là chu toàn lề luật. Yêu thương nhau là thực hiện lệnh truyền của Chúa Giêsu. Trong ngày phán xét chung, Chúa Giêsu, vị thẩm phán chí công sẽ dựa vào điều này như là tiêu chuẩn, là giấy thông hành để nhận hay không nhận chúng ta vào Thiên Đàng (x. Mt 25, 31- 46).

Bởi vì: Ai yêu thương thì đi trong ánh sáng (x. 1Ga 2,9), đi trong ánh sáng thì chắc chắn sẽ đến cùng Thiên Chúa là nguồn gốc của ánh sáng. Ánh sáng đó chính là Thiên Đàng. Còn ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối (x. 1Ga 2,9-10), đi trong bóng tối là đi theo đường lối của ma quỷ và chắc chắn sẽ không thể tìm thấy ánh sáng vĩnh cửu trên Thiên Đàng.

Yêu thương là dấu chỉ của sự sống thiêng liêng. "Chúng ta biết rằng: Chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương nhau" (1 Ga 3,14).

Yêu thương là dấu chỉ của người môn đệ Chúa, chính Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó, Ngài nói: "Cứ dấu này mà mọi người nhận ra anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau" (Ga 13,35).

Như vậy, ở đâu có tình yêu thì ở đó có Thiên Chúa, và ở đâu có Thiên Chúa thì ở đó có Thiên Đàng. Trên Thiên Đàng người ta sống bằng Tình Yêu.

Khi nói về sự khác nhau ở Thiên Đàng và Hoả Ngục, người ta tưởng tượng câu chuyện sau đây: Cả Thiên Đàng và Hỏa Ngục đều dùng bữa với thức ăn như nhau trong một khung cảnh giống hệt nhau, trong đó mỗi người phải dùng một đôi đũa dài cả thước để ăn. Trên Thiên Đàng mọi người không tự gắp thức ăn cho mình, mà lại gắp thức ăn cho người khác. Vì thế, ai cũng ăn được no. Còn những người trong hỏa ngục thì chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ biết gắp thức ăn đút vào miệng mình, mà đũa thì dài nên chẳng ai có thể đút được thứ gì vào miệng mình. Thế nên ai cũng đói, đến khi hết giờ ăn mà họ vẫn cứ đói, vì thế nên họ chỉ biết gây gỗ và căm thù nhau.

Thứ tư, chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Chúa Giêsu đã lên trời sau khi chu toàn bổn phận Chúa Cha trao phó. Mỗi người kitô hữu chúng ta muốn được lên Thiên Đàng cũng phải chu toàn bổn phận Chúa Giêsu trao phó. Đó chính là bổn phận loan báo Tin mừng. Trước khi về trời Chúa Giêsu nói với các Tông đồ rằng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,17). Như vậy, loan báo Tin Mừng là lệnh truyền. Lệnh truyền thì bắt buộc người thừa lệnh phải tuân giữ. Công đồng Vatican II khẳng định: “Loan báo Tin mừng là bản chất của Giáo hội Chúa Kitô” (x. Sắc lệnh Ad Gentes, số 4;16) và đó cũng là bản chất của mỗi người kitô hữu chúng ta. Chúng ta hãy chu toàn bổn phận đó trong gia đình và nơi mọi môi trường chúng ta sống: Vợ chồng loan báo Tin mừng bằng cách hãy Phúc Âm hoá đời sống gia đình bằng cách chu toàn bổn phận yêu thương, chung thuỷ, sinh sản và giáo dục con cái. Giáo viên, học sinh, sinh viên loan báo Tin mừng bằng cách hãy Phúc Âm hoá trường học. Công nhân viên chức, bác sỹ, y tá loan báo Tin mừng bằng cách hãy Phúc Âm hoá công sở, bệnh viện…Tóm lại, dù ở đâu, trong cương vị nào chúng ta hãy trở thành những cuốn Tin Mừng sống để qua chúng ta mọi người nhận biết Chúa và được lãnh nhận ơn cứu độ. Bởi vì, Thiên Chúa “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4).

Chúa Giêsu đã từng nói: “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được” (Mt 11,12). Đó chính là sức mạnh của sự gìn giữ mình vô tội. Đó là sức mạnh của sự hy sinh từ bỏ tính mê nết xấu tội lỗi. Đó là sức mạnh của yêu thương tha thứ. Đó là sức mạnh của việc chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Xin cho mỗi người chúng ta biết cố gắng gìn giữ mình khỏi mắc tội, nhưng nếu sa ngã phạm tội thì hãy cố gắng thống hối ăn năn, đồng thời biết sống yêu thương tha thứ và chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng để ngày sau được lên Thiên Đàng. Amen.

 

16. Có những trang mạng mở lối vào đức tin--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Vào đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu có nạn giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền hịch đi khắp nơi để tìm người tài giỏi giúp nước diệt giặc.

Bấy giờ ở làng Phù Đổng có một cậu bé đã 3 tuổi mà chỉ nằm ngửa không nói được một lời nào. Nghe sứ giả nhà vua rao hịch tìm người tài diệt giặc, cậu liền nhờ sứ giả xin với Vua, đúc cho cậu một cây roi sắt và cấp cho cậu một con ngựa bằng sắt, để cậu đi đánh đuổi ngoại xâm. Nghe lời người hiền tài nhắn gởi, Vua thuận ý. Cậu bé liền vươn vai thành người to lớn, khỏe mạnh. Cậu đứng dậy, cầm roi sắt, nhảy lên yên ngựa, oai phong đi đánh giặc Ân. Dẹp xong giặc, cậu phóng ngựa lên núi Sóc Sơn rồi về trời. Vua nghĩ là thiên thần của trời cao xuống trần cứu giúp nên liền xây một đền thờ gọi là đền Phù Đổng Thiên Vương để tạ ơn và tưởng nhớ.

Câu chuyện huyền sử nói lên khát vọng của một dân tộc nhỏ bé luôn bị ngoại bang quấy nhiễu. Một tiểu quốc hiền hòa trước một đại hán bá quyền bành trướng. Vì thế mà ước mơ có được sứ thần từ trời cao đến cứu giúp. Một khát vọng ngàn đời, được tự do và độc lập, được công lý và dân chủ.

Con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng.

Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.

Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và “được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19).

Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận.

Trên trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: “Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.

Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời đông vô kể, các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính…đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham, Giacop, Môisê, thánh Giop, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.

Trên núi Cây Dầu cả cộng đoàn môn đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: “Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả” (Tv 47, 2-3, 6-9).

Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống” (Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.

Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.

Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.

Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Vì thế, Ngày Thế Giới Truyền Thông gắn liền với sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng.

Trong Sứ điệp truyền thông 2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khuyến khích những ai làm công tác truyền thông hãy xây dựng những trang web và mạng xã hội: “Có thể giúp con người ngày nay tìm được thời giờ suy tư và tìm hiểu những vấn đề thiết yếu, cũng như tạo khoảng trống cho thinh lặng và cơ hội cầu nguyện, suy niệm, chia sẻ Lời Chúa”. Giáo Hội tìm cách hội nhập sứ điệp Tin Mừng vào trong “nền văn hoá mới này” do những những phương tiện truyền thông xã hội tạo nên với những ngôn ngữ mới, những kỹ thuật mới và với những cách cư xử mới.

Tiếp nối định hướng đó, Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 47 năm nay, ĐGH Bênêđictô viết sứ điệp truyền thông với chủ đề “Mạng lưới xã hội: Chân lý và Đức Tin; không gian mới cho việc Truyền bá Tin Mừng”. Lời mở đầu, ngài viết: “Tôi muốn xem xét việc phát triển các mạng xã hội kỹ thuật số đang góp phần rõ ràng tạo nên một “agora” (quảng trường) mới, một không gian công cộng mở, nơi đó con người chia sẻ các ý tưởng, thông tin, ý kiến, và cũng là nơi phát sinh những mối tương quan và hình thái cộng đồng mới”. Đức Thánh Cha nhận định tính tích cực của các trang mạng xã hội: “Các mạng xã hội, ngoài việc là một phương tiện loan báo Tin Mừng, còn có thể là một yếu tố phát triển con người. Chẳng hạn, trong một số bối cảnh địa lý và văn hóa mà các Kitô hữu cảm thấy bị cô lập, các mạng xã hội có thể giúp họ cảm thấy vẫn hiệp nhất thực sự với cộng đoàn Kitô hữu khắp thế giới. Những trang mạng tạo thuận lợi cho việc chia sẻ các nguồn tài liệu đạo đức và phụng vụ, giúp con người có thể cầu nguyện với cảm giác thấy mình gần gũi với những người cùng một niềm Tin”.

Có nhiều trang mạng dẫn lối vào Đức Tin: “Trong thế giới kỹ thuật số, có những trang mạng xã hội mang lại cho con người ngày nay những dịp để cầu nguyện, suy niệm và chia sẻ Lời Chúa. Những trang mạng này cũng có thể mở những cánh cửa dẫn vào những chiều kích khác của đức Tin. Quả thật, nhờ gặp gỡ trước trên mạng, nhiều người đã khám phá tầm quan trọng của việc gặp gỡ trực tiếp, những kinh nghiệm của cộng đoàn, và cả việc hành hương, là những yếu tố luôn luôn quan trọng trong hành trình đức Tin. Bằng cách cố gắng đưa Phúc âm hiện diện trong thế giới kỹ thuật số, chúng ta có thể mời gọi mọi người cùng cầu nguyện hoặc cử hành phụng vụ tại những nơi chốn cụ thể như nhà thờ, nhà nguyện. Trong bất cứ hiện thực nào của cuộc sống mà chúng ta được mời gọi tham dự, dù đó là không gian vật lý hữu hình hay trong thế giới kỹ thuật số, không được thiếu đi sự gắn bó và hiệp nhất khi diễn tả đức Tin và làm chứng cho Tin Mừng. Khi gặp gỡ tha nhân, chúng ta đều được kêu gọi bằng mọi cách phải làm cho tình yêu Thiên Chúa được nhận biết đến tận cùng trái đất”.

Đứng trước một lục địa mênh mông như Châu Á, làm sao có đủ nhân lực và phương tiện để đưa Tin Mừng đến từng nhà? Đây là câu trả lời đích xác: “Giáo Hội cần khám phá những cách thế để tận dụng mọi phương tiện truyền thông đại chúng vào kế hoạch mục vụ và hoạt động mục vụ, nhờ biết sử dụng cách hữu hiệu mà sức mạnh của Tin Mừng có thể đến và tiếp xúc một cách rộng rãi với từng cá nhân cũng như với toàn cả các dân tộc, đưa các giá trị của Nước Trời thâm nhập vào các nền văn hóa của Châu Á”. (x.Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 48).

Cho dù phương tiện truyền thông hiện đại tới mấy, nhân lực vẫn là yếu tố quan trọng. Sức mạnh của truyền thông cũng phải phát xuất từ đức tin, chứ không từ những kỹ thuật. Đức tin mạnh mẽ là nhờ chiêm niệm: “Trong thinh lặng, tư tưởng phát sinh và có được chiều sâu. Trong thinh lặng, chúng ta hiểu rõ hơn điều mình muốn nói và muốn người khác đón nhận. Trong thinh lặng, chúng ta tìm cách diễn tả chính mình tốt hơn”. (Sứ điệp Truyền Thông 2012).Giữa những ồn ào của truyền thông hôm nay, lời rao giảng Tin Mừng qua phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet muốn đạt mục đích và kết quả như mong muốn cần có tĩnh lặng: “Trong thinh lặng của chiêm niệm, Lời hằng hữu hiện diện cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và chúng ta khám phá ra kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện trong suốt lịch sử bằng lời nói cũng như hành động” (Sứ điệp Truyền Thông 2012). Mỗi người Kitô hữu, nhờ thinh lặng, lắng nghe được tiếng Chúa và đi vào cuộc giao tiếp với Chúa, chúng ta mới có thể truyền thông Lời Chúa cho người khác. Chỉ có những người tin thực sự và mãnh liệt mới có thể làm cho Tin Mừng đến với mọi người.

Mỗi Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội,thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Mỗi người chúng ta cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Chúa về trời, chúng ta vào đời làm chứng nhân của Tin mừng cứu độ và loan báo tin vui, mai này chúng ta cũng sẽ về nhà Cha trên trời.

 

17. Bàn tay Chúa.

Người ta kể rằng: sau thế chiến thứ hai, một toán lính đồng minh đi giúp các người dân xây dựng lại cuộc sống trên đống gạch hoang tàn đổ nát. Họ làm lại nhà cửa, sửa chữa ngôi nhà thờ trong làng. Nhưng đến khi dựng tượng Chúa, thì toán lính không tìm đâu ra hai bàn tay của pho tượng đã bị bọm đạn cắt cụt. Tìm kiếm suốt ngày trong đám xà bần mà cũng chẳng thấy. Toán lính bèn chịu thua. Viên sĩ quan viết vào pho tượng câu này: Dân làng sẽ thay Chúa làm những công việc mà đáng lẽ hai bàn tay Chúa sẽ làm.

Một người khốn khổ nằm chờ chết bên vệ đường. Chúa xót thương người ấy, nhưng Chúa lại không thể gởi chén cơm manh áo cho người ấy. Nhưng may quá, tôi không phải là Chúa, tôi có thể đem cho người ấy một ly nước, một chén cơm. Đó là chỗ duy nhất tôi hơn Chúa.

Trong Phúc Âm chính Chúa cũng đã phán: Ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, Ta bị đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm. Chúa có thể làm nên cơm gạo cho người nghèo nhưng Chúa lại không thể đưa cơm gạo ấy cho họ được. Ngài phải nhờ đến đôi bàn tay của chúng ta.

Đó là những suy tư tôi đọc thấy trong một cuốn sách. Nghe qua thì rất táo bạo, nhưng đã nói lên một sự thật rất sâu xa, đó là Chúa dùng bàn tay chúng ta để ban phát những quà tặng, để xoa dịu những nỗi khổ đau cũng như để nâng đỡ và khích lệ cho những người chung quanh.

Trong chương trình cứu độ của Chúa, phần đóng góp của con người cũng thật là quan trọng như lời thánh Augustinô đã nói: Chúa sẽ không thế nào cứu chuộc được chúng ta nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn. Chúa đã chịu chết một lần trên cây thập giá và đã làm nên kho tàng ơn cứu độ. Thế nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài, để phân phát nguồn ơn sủng ấy cho anh em đồng loại. Hay nói một cách khác cuộc sống của người Kitô hữu, phải là một sự nối tiếp công trình cứu độ của Đức Kitô. Bản thân chúng ta phải kéo dài sự hiện diện của Chúa cho đến tận cùng thời gian.

Cũng chính vì thế, trước khi về trời, Chúa đã truyền cho các môn đệ: Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê rusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Và như vậy, Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài đễ đem Tin Mừng cứu độ đến cho mọi người. Bởi đó, chúng ta phải sống thế nào để người khác khi nhìn vào chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa.

 

18. Chúa lên trời

Chiều thứ năm tuần thánh, sau khi rời phòng tiệc ly, Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ theo con đường Bêtania để lên núi Cây Dầu. Và tại đây, Ngài đã phải trải qua một cơn hấp hối đầy cay đắng, đến nỗi mồ hôi máu chảy xuống…

Rồi ngày hôm nay, Ngài đã đi lại con đường ấy, cũng để tiến đến núi Cây Dầu. Và tại đây, Ngài đã gặp gỡ, đã vĩnh biệt các môn đệ, trước khi Ngài được đưa lên trời dưới mắt các ông.

Từ đó, chúng ta nhận thấy: Cùng một địa điểm, nhưng có những khác biệt và tương phản. Thực vậy, lần trước Ngài đến để thực hiện thánh ý Chúa Cha, đó là chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Lần sau Ngài đến trong vinh quang như một Đấng đã chiến thắng.

Tôi nghĩ rằng đó chính là hình ảnh, là con đường, mà mỗi cá nhân chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội, sẽ phải dấn thân vào trong thời điểm hiện nay.

Đúng thế, có những lúc Giáo Hội phải lên núi Cây Dầu để làm quen với thập giá, nếu muốn được chiêm ngưỡng vinh quang phục sinh. Đọc lại Phúc Âm chúng ta sẽ thấy rõ được điều ấy.

Thực vậy, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ điều gì trước khi vĩnh biệt họ? Tôi xin thưa: Ngài đã nhắc tới cái chết và sự sống lại của Ngài nhằm tha thứ tội lỗi. Rồi Ngài phán: Từ nay họ sẽ là chứng nhân của mầu nhiệm vượt qua, bằng các loan báo Tin mừng hoán cải ở mọi nơi, trong mọi lúc và trên mọi nẻo đường trần gian. Và một điều quan trọng khác nữa, đó là họ sẽ phải sống mầu nhiệm thập giá để làm chứng cho Đức Kitô.

Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy thiên thần đã nhắc khéo các môn đệ:

- Này các bạn xứ Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời làm chi.

Hay nói cách khác:

- Các bạn hãy về đi. Về với sứ mạng vừa mới được trao phó.

Đúng thế, con người chúng ta tiến bước, đôi mắt ngước nhìn trời, nhưng bàn chân thì lại đạp đất. Đó là một hình ảnh trung thực nhất về Giáo Hội nói chung và về mỗi người chúng ta nói riêng. Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta lại có khuynh hướng ly khai, tách biệt hai yếu tố căn bản ấy và chúng ta đã tạo nên một nếp sống chông chênh, không vui lòng Chúa, mà cũng chẳng đem lại lợi ích gì cụ thể cho bản thân mình.

Nếu ngày xưa Đức Kitô đã phải vác thập giá để tiến tới Phục sinh, thì hôm nay cá nhân chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội cũng phải bước đi trên con đường ấy, bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đương về vinh quan và thập giá là đương dẫn tới phục sinh.

Vì thế, hãy chập nhận thập giá đời thường là những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống, để rồi trong ngày sau hết, chúng ta cũng sẽ được Chúa đưa lên quê hương Nước trời, chia sẻ niềm hạnh phúc vinh quang với Ngài.

 

19. Lễ Chúa Thăng Thiên

Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Việc Chúa Giêsu về trời đem lại cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao, đó là chúng ta sẽ được về trời với Chúa sau khi hoàn tất cuộc đời trần gian này. Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy biết chuẩn bị cho cuộc sống mai sau trong giây phút hiện tại hôm nay.

Có một sự thật mà con người thường không muốn nhắc tới hay không muốn bàn luận nhiều về nó. Tuy nhiên, cho dù con người muốn trốn tránh nhưng nó vẫn xảy ra đó là cái chết. Rất nhiều người muốn biết chết rồi sẽ đi đâu, sau cái chết sẽ như thế nào? Và không ai có thể trả lời được câu hỏi này ngoài một mình Chúa Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi chết. Trước sự bất lực của cái chết, và để cứu con người khỏi hư mất vì tội lỗi, Chúa Giêsu đã xuống thế làm người, Ngài sống trọn kiếp người như chúng ta. Ngài cũng đã trải qua mọi vui buồn, đau khổ như chúng ta. Ngài cũng đã trải qua cái chết nhưng Ngài đã sống lại.

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra với các môn đệ, để dạy dỗ, an ủi, và chuẩn bị cho các ông tiếp tục công việc của Ngài là làm cho mọi người nhận biết rằng: ngoài cuộc sống ở trần gian này họ còn có một quê hương vĩnh cữu trên trời. Biến cố Chúa Giêsu lên trời, giúp cho chúng ta phần nào hiểu được chết không phải là hết nhưng là sẽ bước vào cuộc sống bất diệt với Chúa, vì Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời. Ngài đi để chuẩn bị chỗ cho chúng ta, và chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc với Ngài sau khi cuộc đời trần thế chấm dứt.

Trong bài đọc 1, Sách Tông Đồ Công Vụ cho thấy, khi Chúa Giêsu lên trời các môn đệ cứ mãi mê ngắm nhìn vinh quang của Thầy, cho nên thiên thần đã nhắc nhở các ông "Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời?". Hãy xuống núi và trở về với cuộc sống hiện tại. Hãy ra đi làm chứng cho những gì các ông vừa nhìn thấy. Chúa về trời không có nghĩa là Ngài bỏ con người mồ côi nhưng Ngài sẽ hiện diện với con người bằng cách khác. Ngài hiện diện qua các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, Ngài hiện diện qua lời dạy bảo của Hội Thánh và Ngài hiện diện qua cuộc sống của mỗi người chúng ta. Giờ đây Ngài không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian cho nên Ngài có thể hiện diện với chúng ta mọi nơi mọi lúc.

Việc Chúa Giêsu lên trời chứng tỏ công trình cứu chuộc nhân loại đã hoàn tất. Từ nay Giáo Hội hay nói cách khác là mỗi người chúng ta phải tiếp tục công việc của Chúa đó là "hãy nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân". Có nhiều cách thế để chúng ta làm chứng cho Chúa, nhưng cách làm chứng hữu hiệu nhất là cách sống tốt đẹp của chúng ta. Làm chứng cho Chúa bằng một cuộc sống biết yêu thương, giúp đỡ, phục vụ người khác ngay trong chính gia đình, xóm làng của chúng ta. Cuộc sống của chúng ta cũng phải lo làm ăn, sinh sống. Chúng ta cũng gặp đau khổ, thử thách như bao người. Tuy nhiên, điều đó không làm chúng ta mất đi niềm vui và hy vọng. Vì chúng ta biết được cùng đích của đời mình là hạnh phúc quê trời.

Người công giáo tuy sống dưới đất nhưng có bổn phận làm chứng cho những sự trên trời. Chúng ta cũng sống, cũng làm ăn, cũng vui chơi như bao người nhưng trong khi người khác họ sống, làm tất cả như chỉ có đời nay thôi thì chúng ta lại tận dụng đời này để hướng về đời sau. Cuộc sống đời này là quãng đường để đi vào đời sau. Chúng ta không thể về trời với Chúa khi vẫn mang trong mình những hận thù, đố kỵ, ghen ghét, chia rẽ. Hành trang bước vào đời sau không phải là tiền của, tài sản, mà đó là sự phục vụ, yêu thương, tha thứ mà chúng ta đã làm cho anh chị em mình.

Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay, mỗi người chúng ta hãy luôn nhớ rằng chúng ta có một quê hương vĩnh cửu trên trời. Nơi đó sẽ không còn đau khổ và sự chết. Nơi đó chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa. Nhưng để đạt được điều đó ngay từ hôm nay, chúng ta phải ra sức làm cho cuộc sống hiện tại thấm đượm yêu thương. Cuộc sống cho dù có gặp khó khăn thử thách cũng không làm chúng ta thất vọng. Vì chúng ta tin rằng Chúa luôn hiện diện và đồng hành với chúng ta.

 

20. Đường lên Trời--Dã Quỳ

Xuyên suốt bài đọc Tin Mừng hôm nay, chúng ta cảm nhận một tình yêu chan chứa của Chúa Giêsu dành cho môn sinh. Những lời nhắn nhủ như càng tha thiết hơn! Chúa mong muốn môn đệ hiểu và xác tín thâm sâu trong trái tim những Lời Kinh Thánh nói về Thầy mình,về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà Người đã trải qua. Và giờ đây, sắp đến lúc Chúa rời các ông. Mong ước cuối cùng của Chúa trước khi về trời là các môn đệ trở thành chứng nhân cho Chúa. Con đường làm nhân chứng cũng là con đường dẫn về trời cao của môn đệ và của mỗi Kitô hữu.

- Chúa Giêsu lên trời, đánh dấu cuộc ra đi và vắng mặt của Chúa. Từ nay, môn đệ không còn thấy Chúa cách cụ thể, không đụng chạm, không nghe và cũng không đồng hành bên cạnh như trước đây Người đã sống cùng. Chúa ra đi và vắng mặt, nhưng Người sẽ hiện diện với môn đệ, với Giáo Hội và với mỗi người chúng ta bằng cách thế mới. Người không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian nữa.

- Chúa Giêsu lên trời, kết thúc sứ mạng của Người nơi trần gian. Nhưng lại là lúc khởi đầu sứ mạng của môn đệ, sứ mạng loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Chúa.

Chúa cho các môn đệ hiểu vinh quang của Chúa đòi phải hy sinh. Muốn có phục sinh, phải chết. Hy sinh là biểu hiện của tình yêu, như hạt lúa gieo vào lòng đất phải thối và chết đi mới sinh bông hạt (x. Ga 12,24). Với Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa, chết là một bước trong quá trình biến đổi để đi tới Phục sinh. Chính vì thế, Chúa muốn môn đệ xác tín vững vàng để rồi: "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân."(Lc 24,47), lời rao giảng Nhân Danh Người không ngoài lời rao giảng về Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa. Các Tông đồ và môn đệ sau này đã nằm lòng mỗi khi rao giảng cho dân chúng vì các ông là chứng nhân những gì các ông giảng. (x.CVTĐ 2, 22-24)

Trọng tâm của sứ vụ rao giảng là tác động của Chúa Thánh Thần. Người ban quyền năng và cho môn đệ hiểu tất cả Lời của Chúa Giêsu, sẽ hướng dẫn môn đệ biết phải làm gì, nên "Hãy ở lại trong thành cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống."(Lc 24,49) Vì thế, để ra đi thi hành sứ mạng, người môn đệ cần phải lắng nghe Lời Chúa để có thể hợp nhất trọn vẹn trong từng lời nói, hành động của ta với Chúa Cha và Chúa Giêsu, như chính Chúa Giêsu đã sống hiệp nhất với Cha "Lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra..."(Ga 14,10). Vậy sứ mạng chứng nhân luôn được Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hành và trợ giúp, vì đó là công việc của Thiên Chúa sai chúng ta làm. Chúng ta là khí cụ trong bàn tay Chúa nên hãy can đảm và tin tưởng ra đi vì có Chúa luôn gìn giữ vững bước chân của ta.

- Đường lên trời của người Kitô hữu chúng ta đó là con đường làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh bằng chính đời sống phục vụ, yêu thương, tha thứ, vui tươi.... Tiếp nối sứ mạng của các môn đệ, mỗi Kitô hữu cũng được Chúa sai vào trong thế gian. Dù sống giữa trần gian, nhưng chúng ta không thuộc về trần gian này. Chính Chúa Giêsu đã đến trần gian và sống trọn phận người, Chúa thấu hiểu những khổ đau, bi đát hay niềm vui, hạnh phúc của cuộc đời.

Có những khi chúng ta phải đối diện với bao nặng nề, gian khó của cuộc sống vì miếng cơm manh áo, đôi lúc làm chúng ta mệt mỏi, chán chường. Nhưng Lời Chúa và sức mạnh của Chúa đã giúp chúng ta tin tưởng nhận ra thánh ý Chúa và ơn gọi của mình giữa cuộc đời.

Sống sứ mạng chứng nhân của Kitô hữu, nhiều lúc chúng ta gặp phải bao sự chống đối, thù nghịch, chê bai... cũng làm chúng ta ngại ngùng, sợ hãi. Thế nhưng bàn tay quan phòng yêu thương của Chúa luôn che chở, phù giúp chúng ta vượt thắng vững vàng.

Giữa thế gian luôn đầy dẫy những cám dỗ về quyền lực, tiền của, danh vọng...Có nhiều lần chúng ta cũng đã xao xuyến, lo âu, xem nhẹ hạnh phúc Nước Trời. Như các môn đệ xưa, chỉ nghĩ theo kiểu con người, mong có một vương quốc chính trị và chức vụ cao sang (x. CVTĐ 1,6) Nhưng rồi quyền năng và lòng thương xót Chúa đã dẫn chúng ta về với Người, để ta nhớ lại và ghi tâm "Quê hương chúng ta ở trên trời" và ta biết ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu để được thêm sức mạnh nâng đỡ.

Dẫu cuộc sống có vất vả nhọc nhằn nhưng không làm chúng ta quên trời cao, và vinh hoa của thế gian quyễn rũ không làm chân ta lạc lối về Quê Trời. Nhưng ta luôn biết tìm kiếm những gì thuộc thượng giới là bác ái, chia sẻ; là yêu thương, khiêm nhường; là công lý và hòa bình,...là sống tinh thần Nước Trời ngay tại thế... tất cả là thực thi Lời Chúa và Giới răn của Người, đó mới là những gì tồn tại và vĩnh cửu đưa chúng ta vào hưởng vinh quang bên Chúa.

- Đường lên trời là hành trình xa xôi, vất vả. Theo Chúa và làm chứng cho Chúa là sứ mạng khó khăn không đơn giản. Chúng ta còn đang loay hoay giữa biển đời. Nhưng niềm tin tưởng của ta đặt nơi chính Chúa. Chúa đã lên trời, Chúa là đầu, chúng ta là thân thể của Người (x.1Cr 12,27). Chỉ một mình Chúa đã từ trời xuống thế vì lòng thương xót nhân loại, nay Chúa lên trời thì chắc chắn khi chúng ta sống hợp nhất với Chúa và hoàn thành sứ mạng Chúa trao, chúng ta cũng sẽ có ngày đoàn tụ bên Chúa bởi Người đã hứa "Thầy đi dọn chỗ cho các con." (x. Ga 14,2-3) vì trong nhà Cha có nhiều chỗ ở và đầu ở đâu thì thân thể cũng sẽ ở đó.

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết đường lên trời và trung thành thực thi sứ mạng chứng nhân cho Chúa tại trần gian này. Nguyện Thánh Thần Chúa cùng đồng hành để chúng con có thể lên đường trong tin tưởng và an vui. Amen.

 

21. Rao giảng với Chúa Thánh Thần

Có lẽ trong thời đại hôm nay, khi nói đến Nước Trời, đến kẻ chết sống lại thì người ta đã cho là chuyện phù phiếm hay hoang đường. Vậy làm sao người ta có thể chấp nhận khi nói đến hai chữ Thăng Thiên, Chúa về trời họ lại càng cho đó là chuyện phù phiếm giả tạo, khó tin. Nguyên do chính là con người thời nay có khuynh hướng tục hóa, quan niệm về thế giới tự nó có thể giải thích được, mà không cần tới Thiên Chúa. Vì thế Thiên Chúa đã trở nên thừa thải và choán chỗ vô ích. Quan niệm đó đưa con người tới chỗ bỏ qua Thiên Chúa, không đếm xỉa gì đến Thiên Chúa thậm chí còn chối bỏ Thiên Chúa, để nhìn nhận khả năng của con người. Đối với nhiều người thời này không phải là sự lựa chọn giữa Thiên Chúa và Satan, mà là giữa Thiên Chúa và cái không, rồi người ta đã chọn lấy cái không đó. Điều đáng nói là cái không đối lại với Thiên Chúa không phải là cái không trống rỗng, mà nó chứa tất cả các nguồn lợi phong phú của Thế giới vật chất, tiến bộ, phát triển và hưởng thụ. Vì thế, hơn hai ngàn năn trước, khi về trời Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ công việc "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội, chính anh em là chứng nhân về những điều này". Thật ra sứ điệp Kitô giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo, một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới, cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Kitô đã chết, vá đã sống lại. Kitô giáo trước hết là một biến cố rồi biến cố ấy thành lịch sử, rồi lịch sử ấy không tường thuật lại những hoạt động của loài người nhưng tường thuật lại những hoạt động của Thiên Chúa, nhất là sự hy sinh của một vi Thiên Chúa nhập thể, đem ơn cứu chuộc đến cho mọi dân tộc. Loan truyền sứ điệp ấy chính là chứng thực biến cố ấy, vững lập trường về biến cố ấy. Đó là làm chứng về lời nói, bằng đời sống, và có khi phải bằng máu nữa. Chính điều đó đã chỉ cho họ thấy chính Đức Giêsu Phục Sinh đã từ Thiên chúa mà đến bây giờ lại về với Thiên Chúa. Chúng ta không còn mặt gặp mặt nữa. Biến cố thăng thiên cũng nhằm ý nghĩa chỉ rõ đích điểm của đời người là sinh ra trong Thiên Chúa, và chúng ta cũng sẽ được trở về với Người.

Hơn nữa, để việc loan báo nên sống động và có kết quả tốt đẹp, con người phải biết đón nhận sức mạnh của Thánh Thần chúa "Phần Thầy, Thầy sẽ gởi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa", chính Chúa Thánh Linh là chứng ta đích thực. Ngài sẽ làm chứng trong các tâm hồn bằng đức tin bên trong, còn con người làm chứng bên ngoài bằng việc rao giảng. Trước khi loan báo Tin Mừng cho người khác chúng ta phải để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn từ bên trong con người của mình, để mỗi ngày mình càng trở nên giống Chúa Kitô hơn. Vì chúng ta không thể rao giảng và làm chứng về Đức Kitô nếu bản thân mình không phản ánh trung thực hình ảnh của Đức Kitô, gương mặt của Đức Kitô chỉ có thể trở nên sống động trong ta nhờ ân sủng và hoạt động của Chúa Thánh Thần.

Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong công cuộc loan báo Tin Mừng: "sẽ không bao giờ có phúc âm hóa được, nếu không có tác động của Thánh Thần"(LBTM số 75). Thật vậy chính Thánh Thần đã khiến Phêrô Phaolô và các tông đồ của Đức Giêsu mạnh dan rao giảng Tin Mừng Phục Sinh, cũng chính Ngài biến đổi và soi sáng cho các Kitô hữu hiểu được ý nghĩa thâm sâu của lời Đức Giêsu giảng dạy và hiểu được mầu nhiệm con người Đức Giêsu. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta có chịu đón nhận và để cho Ngài hoạt động trong mình không? Cho dù ngày nay với những phương tiện hiện đại người ta cũng đã biết tận dụng và đưa vào việc truyền giáo những kỹ thuật rất hữu ích. Tuy nhiên những kỹ thuật dù hoàn hảo đến đâu, cũng không thể thay thế được tác động âm thầm nhưng vô cùng hữu hiệu của Thần Khí, vì không có Ngài chúng ta không thể làm gì được.

Lạy Chúa, xưa cũng như nay, công việc truyền giáo luôn gặp nhiều trở ngại, nhiều khó khăn, nhiều phức tạp. Xin cho con biết chấp nhận những khó khăn đó cùng với Chúa Thánh Thần để công việc loan báo ngày càng tốt đẹp hơn. Amen.

 

22. Chúa lên trời

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặn những lời cuối cùng như một di chúc để lại cho các môn đệ thân thương, Người muốn các môn đệ của mình xác tín một điều: muốn được thông phần vinh quang với Người, họ phải chấp nhận đi vào con đường hẹp, con đường của từ bỏ, của thập giá. Chính Người đã đi trên con đường ấy trước và mời gọi họ bước theo: "Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại"(Lc 24, 46). Thập giá là nơi duy nhất cho chúng ta thấy tình yêu vĩnh cữu của Thiên Chúa. Qua thập giá, Chúa Giêsu mở ra một con đường hạnh phúc thật, hạnh phúc bất diệt cho chúng ta. Và Người muốn những ai theo Người cũng được hưởng niềm hạnh phúc ấy.

"Chính anh em là chứng nhân về những điều này" (Lc 24, 49). Các tông đồ phải là chứng nhân về tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Là nhân chứng, các tông đồ không thể ngồi yên một chỗ mà phải ra đi, phải thắng vượt tính nhút nhát, phải hy sinh và can đảm hoàn thành sứ mạng làm chứng của mình, phải tuyên xưng niềm tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Các ông thi hành sứ mạng chứng nhân cho Đấng phục sinh là xây dựng thế giới yêu thương, công bằng xứng với trời mới đất mới mà Chúa Giêsu đã cứu chuộc. Các ông làm chứng về Người bằng một đời sống yêu thương phục vụ, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá như Người đã làm.

Như thế, Chúa Giêsu muốn các ông là cánh tay nối dài sứ mạng cứu độ của Người trong thế giới. Về trời không phải là Người không còn hiện diện nhưng Người vẫn hiện diện qua các tông đồ, qua Giáo Hội. Và sứ điệp ngày xưa Người trao cho các tông đồ thì ngày nay vẫn đang được thực hiện qua mỗi người chúng ta. Về trời nhưng chương trình cứu độ của Người vẫn phải được tiếp tục nơi thế gian này, qua Hội thánh, và qua mỗi người chúng ta. Sứ mạng cứu độ này cần phải được thực hiện bằng lời nói và bằng những hành động cụ thể bên ngoài.

Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện sống động giữa chúng ta. Bổn phận của chúng ta là phải làm sao cho mọi người sống chung quanh chúng ta và thế giới này nhận ra được sự hiện diện đó. Do đó, đối với chúng ta, sứ mạng rao giảng về Chúa Giêsu mang một ý nghĩa căn bản trong cuộc sống Kitô hữu. Đó chính là làm chứng cho Người bằng đời sống Kitô hữu của mình. Để rao giảng Chúa Giêsu cho thế giới, chúng ta phải bắt đầu bằng "cái có" của bản thân mình. Chúng ta phải có Người trong cuộc sống của mình, có kinh nghiệm và cảm nghiệm thực tế về Người trong đời sống mình, có đi lễ có đọc kinh, có rước lễ và nói chuyện thân tình với Chúa Giêsu Thánh Thể, có kinh nghiệm suy niệm Lời Chúa và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống. Hơn nữa, chúng ta phải có tình yêu Chúa trong cuộc sống được thể hiện qua những cử chỉ yêu thương, giúp đỡ, quan tâm đến tha nhân, chúng ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, kinh nghiệm về bí tích hoà giải, kinh nghiệm cần lòng thương xót của Chúa,...Khi có Chúa trong lòng, khi chúng ta đã cảm nghiệm về Chúa, chúng ta dễ dàng đem Chúa đến cho thế giới, chia sẻ kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ thân mật và chân tình với Người cho thế giới, cho anh chị em chung quanh chúng ta. Đồng thời, chúng ta là muối, là men, là ánh sáng cho đời (Mt 5,13-16) nghĩa là cuộc sống Kitô hữu phải tốt, phải ướp mặn chất Tin Mừng, phải phản chiếu khuôn mặt Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một tấm gương phản chiếu được tình thương của Thiên Chúa đến với mọi người xung quanh. Mỗi người chúng ta phải là một dấu chỉ cho người khác. Chúng ta dù bé nhỏ nhưng sức mạnh đức tin của chúng ta là Chúa Thánh Thần sẽ bù lại cho tình trạnh mong manh của chúng ta. Được như thế, chúng ta đang làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh.

Sống mầu nhiệm Chúa lên trời hôm nay, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng là ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em chung quang mình. Sống chứng nhân là xây dựng nước trời ngay trong cuộc sống này, trong gia đình, trong họ đạo của chúng ta. Chúa Kitô đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về trời với Chúa của mình.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con dám bước theo Chúa, can đảm sống đức tin, chấp nhận hy sinh, dám sống yêu thương để làm chứng cho Chúa giữa mọi người để mai sau chúng con cũng được vào Nước Trời hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa. Amen.

 

23. Cuộc sống chứng nhân – Thiên Phúc—‘Như Thầy Đã Yêu’

Báo ‘Le Figaro’ đăng trả lời phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:

Hỏi: Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?

Trả lời: Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.

Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?

***

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng cao cả: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.

Tổng thống Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo, sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.

Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.

Đã qua hơn 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Chúa Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người”.

Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen.

 

24. Chứng nhân--Lm Giuse Trần Việt Hùng

Truyện kể: Thấy một thổ dân Phi Châu đang đọc sách. Một nhà buôn Âu Châu đi ngang qua, hỏi xem anh đọc gì? Anh đáp: Đọc Kinh Thánh. Nhà buôn cười cười nói: Thứ đó, ở xứ tôi đã lỗi thời rồi! Người Phi Châu đáp: Nếu ở đây mà Kinh Thánh lỗi thời, thì ông đã bị ăn thịt từ lâu rồi.

Kinh Thánh là lời mạc khải của Thiên Chúa ban cho con người. Đọc Kinh Thánh giúp cho chúng ta nhận biết về chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dân tộc Do-thái được Thiên Chúa chọn lựa, cưu mang và phát triển là để đón nhận Đấng Cứu Thế. Sự hình thành của Kinh Thánh Cựu Ước kéo dài cả mấy ngàn năm đón chờ. Tuy dù dân tộc Do-thái được chuẩn bị cách rất cẩn thận qua Kinh Thánh mạc khải, qua các dấu chỉ và qua các lời tiên tri loan báo, nhưng nhiều người đã bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ Đấng mà cha ông bao năm mong chờ. Bởi lẽ các vị lãnh đạo tôn giáo như các Thượng tế, Thầy cả, Tư tế, Luật sĩ, Biệt phái, Nhóm Sađucêô và các Đầu mục, Kỳ lão đã dẫn dân đi lạc vào ngõ khác. Chúa Giêsu đã đến hoàn tất mọi lời Kinh Thánh loan báo về Ngài. Chúa đến không phải để hủy phá lề luật, nhưng làm cho nên trọn. Chúa Giêsu là phiến đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường. Ngài chính là cột trụ trung tâm duy nhất của mọi niềm tin.

Cuộc lữ hành trần thế của dân Do-thái tiến bước dần đến ơn cứu độ. Suy tư và não trạng chung của nhiều người vẫn còn bám víu vào những truyền thống và tục lệ cha ông. Vì thế, họ không dễ dàng mở cửa đón nhận những làn gió mới. Đạo Do-thái với những sinh hoạt tôn giáo, những hệ thống thần học, những luật lệ và những thực hành sống đạo đã ăn rễ sâu trong niềm tin. Một hệ thống tôn giáo quá nặng về phần tổ chức, sống vị luật và chú tâm hình thức. Tâm hồn họ dần rời xa cốt lõi của niềm tin là đời sống nội tâm. Nhiều người chỉ còn tôn thờ Thiên Chúa ngoài môi miệng nhưng lòng họ lại rời xa. Chúa Giêsu xuất hiện như cai gai trước mắt nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo đương thời. Chúa công khai giảng dạy tại trung tâm tôn giáo ở Giêrusalem. Chúa đã gặp gỡ mọi thành phần trong dân và đối diện với các nhóm lãnh đạo chuyên biệt. Chúa Giêsu tìm đưa dẫn họ về với căn cốt của đạo. Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Sống đạo nội tâm. Sống đạo trong yêu thương, bác ái và vâng phục.

Chúa Giêsu đến để rao giảng tin mừng cứu độ. Chúa mời gọi mọi người sám hối vì Nước Trời đã gần kề. Thời gian đã viên mãn. Chúa thực hiện một cuộc vượt qua mới trong tinh thần mới. Chiếc xe thời gian đã đến, ai không bước lên, sẽ bị tụt lại sau. Mặc dầu có nhiều sự chống đối và chối từ, Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh hy sinh cứu độ. Chúa hiến thân chịu chết và đã sống lại. Chúa Phục Sinh đã trở thành niềm hy vọng tuyệt đối cho nhiều người. Có rất nhiều người cùng đồng hành chia sẻ với cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa. Chúa không dấu diếm hay lừa dối những người tin theo Chúa, nhưng Chúa đã báo trước những sự khó khăn, sự bách hại, xua đuổi và chịu hy sinh đau khổ. Qua thánh giá khổ đau mới có thể bước vào vinh quang sự sống. Stêphanô là hoa qủa đầu mùa của niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh đã lãnh nhận triều thiên tử đạo.

Người ta thù ghét cả những người tin vào Chúa Kitô sống lại. Các nhà lãnh đạo tôn giáo là những người đầu tiên lên tiếng phủ nhận, phản đối và bách hại. Tác giả sách Tông Đồ công Vụ kể rằng trước khi bị ném đá cho chết, Stêphanô được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Ông nói: "Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa."(Tđcv 7, 56). Stêphanô đã tuyên xưng đức tin một cách can đảm, dầu phải đối diện với sự đau khổ và sự chết kề bên. Ông đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Stêphano hiểu ý nghĩa lời dạy: Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính vì Nước trời là của họ. Nhưng những người đồng hương không thể chấp nhận một giáo lý mới của một người đã bị kết án tử hình: Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Sao-lô (Tđcv 7, 57-58).

Stêphanô thấm nhuần Tin Mừng của Chúa: Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này." Nói thế rồi, ông an nghỉ (Tđcv 7, 60). Chúng ta biết máu của các vị thánh tử đạo là hạt giống ươm mầm đức tin. Thật vậy, sau cái chết của Stêphanô, ông Saolô đã được ơn trở lại. Saolô cùng đồng cảnh, đồng thuyền với nhóm đồng hương nhân danh đạo giáo để kết án ném đá Stêphanô. Chúa Giêsu phục sinh đã mở đường đưa dẫn ông Saulô trở về làm nhân chứng cho Ngài. Ông Saulô đã đổi đời và đổi tên thành tông đồ Phaolô. Phaolô trở thành một nhân chứng nhiệt thành. Không sợ gian nan, đau khổ và bách hại, ông đã sống chết cho niềm tin. Cả cuộc đời còn lại Phaolô đã không ngừng rao giảng Chúa Kitô phục sinh cho nhiều người. Ngài cũng đã chịu tử vì đạo và lấy máu đào chứng minh cho niềm tin sắt son.

Chúa Giêsu là kiên thuẫn, là đá tảng và là nơi nương náu cho những tâm hồn tìm kiếm Chúa. Chúa mời gọi mọi người lắng nghe và thực hành lời Chúa, họ sẽ được chia phần vinh quang hạnh phúc: Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một (Ga 17, 22). Chúa Giêsu yêu mến những người Chúa đã chọn và tất cả những ai thuộc về Chúa. Ngài muốn ấp ủ chúng ta như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh. Chúa đã tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha: Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành (Ga 17, 24).

Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được tẩy sách tội xưa và cùng được tham dự vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và tất cả chúng ta là chỉ thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa trong một đoàn chiên theo một Chúa Chiên. Chúa cầu nguyện để mọi người nên một trong Chúa. Trở nên một trong ý nghĩa phổ quát. Không phải nên một với người này, người kia hay nhóm này, nhóm nọ. Chúng ta nên một với Chúa Kitô để cùng tôn thờ Thiên Chúa Cha. Chúng ta cùng chia sẻ một niềm cậy trông và một niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu ngày sau. Chúng ta tuyên xưng chỉ có một Chúa, một đức tin và một phép rửa. Chúng ta tin nhận Chúa Kitô: Là An-pha và Ômêga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 22, 13).

Trong cuộc sống, chúng ta nhận biết rằng có rất nhiều tổ chức các tôn giáo khác nhau. Tuy các tôn giáo có khác nhau về cơ cấu, tổ chức và thực hành sống đạo nhưng cùng quy hướng về sự tôn thờ một Thiên Chúa và hy vọng cuộc sống vĩnh cửu ngày sau. Chúa Kitô là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Con đường dẫn lối vào Nước Trời tuy hẹp nhưng Chúa Giêsu đã đi trước và mở lối đưa đường. Chúa Giêsu phán: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Chúa Kitô là trung tâm điểm qui tụ mọi niềm tin về một mối để tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.

Lạy Chúa, chúng con đã lãnh nhận hạt giống đức tin qua Bí tích Rửa Tội, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết can đảm sống niềm tin và hăng say làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Amen.

 

25. Chúa Giêsu lên trời – R. Veritas--‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’

Một thi sĩ người Đức có viết vần thơ sau đây: "Bên trên thế giới này là mây trời, mây trời thuộc về thế giới. Bên trên trời là hư vô". Vần thơ này được hàng triệu người trên thế giới chứng thực mỗi ngày khi ngồi trong các máy bay khổng lồ, mà mỗi chuyến bay chở được mấy trăm hành khách. Các loại máy bay này thường bay trên độ cao hơn 10,000 mét, nghĩa là trên các tầng mây. Và quả thật, trên độ cao ấy, du khách chỉ thấy bên dưới là mây, trước mắt và chung quanh là chân trời xanh dài vô tận và bên trên chỉ là khí, không có gì khác.

Tuy nhiên, qua khẳng định trên đây, thi sĩ người Đức ám chỉ một sự kiện khoa học, ông muốn diễn tả xác tín vô thần của ông là không tin có Thiên Chúa, không tin có quê trời, không tin có thiên đàng và cuộc sống mai sau. Cuộc đời con người kết thúc với cái chết và bên kia cái chết chỉ là hư vô. Nghĩa là thi sĩ gián tiếp khẳng định rằng, cuộc đời con người vô nghĩa, do đó cũng không cần phải sống tốt với tha nhân hoặc ăn ngay ở lành hay sống đạo đức luân lý làm gì, cứ việc tham ô, gian ác, bóc lột người khác, cũng không cần phải cầu nguyện làm gì, bởi vì nó chỉ là đối thoại với hư vô, và thế giới này chỉ là hư vô bởi vì không có tương lai.

Nhưng xác tín như vậy là thi sĩ đã rơi vào sự lầm lẫn lớn nhất. Bởi vì trong ngày lễ Thăng Thiên, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng sau cái chết cuộc sống mới thực sự bắt đầu và bên trên tầng mây là tất cả.

So sánh trình thuật biến cố Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh lên trời trong các bản văn Tin Mừng, chúng ta hiểu ra ngay một sự khác biệt trong Phúc Âm thánh Gioan: cuộc đời Chúa Giêsu tập trung vào ngày sau thứ bảy là ngày lễ Vượt Qua, ngày Chúa Giêsu sống lại, lên trời và trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Đối với thánh Gioan, Thiên Chúa tự tỏ lộ mình cho nhân loại trong con người và trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và Giáo Hội hay cộng đoàn các môn đệ là hoa trái của sự mạc khải ấy.

Phúc Âm thánh Matthêu trái lại, là Emmanuel: "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", nghĩa là theo thánh nhân, Chúa Giêsu luôn luôn sống hiện diện và hoạt động sâu thẳm giữa cộng đoàn Giáo Hội. Ngài tự đồng hóa mình với mọi người. Do đó, mỗi việc làm cho một trong các thành phần của cộng đoàn Giáo Hội là làm cho chính Chúa Giêsu. Nói cách khác, theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh luôn hiện diện trong cộng đoàn thân mình mầu nhiệm của Ngài, cho dù cộng đoàn đó có bé nhỏ và có sống tại nơi hẻo lánh xa xôi ở tận chân trời góc biển nào trên thế giới này đi chăng nữa thì vẫn có Chúa hiện diện luôn luôn: "Ở đâu có hai, ba người tụ họp lại nhân danh Thầy thì Thầy ngự giữa họ". Chủ đích thần học này giải thích tại sao thánh Matthêu đã không kết thúc Phúc Âm với trình thuật Chúa Giêsu rời bỏ cộng đoàn môn đệ về trời như hai thánh sử Marcô và Luca. Phúc Âm thánh Matthêu kết thúc Phúc Âm với lời Chúa Giêsu trang trọng khẳng định với các môn đệ rằng: "Ngài sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".

Thánh sử Luca thì có một quan niệm thần học khác, đối với thánh nhân thì thời gian sau khi Chúa Giêsu về trời là thời gian của Giáo Hội. Thánh Luca coi việc cộng đoàn Giáo Hội tiếp nối sự loan truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu như giai đoạn cuối cùng trong lịch sử cứu độ.

Nếu Kinh Thánh Cựu Ước đã tập trung lịch sử cứu độ vào dân Israel và vào lời hứa của Thiên Chúa, thì Kinh Thánh Tân Ước tập trung lịch sử cứu độ vào Chúa Giêsu và vào ngày hôm nay của Chúa Giêsu như thời điểm thành toàn lời Thiên Chúa đã hứa với dân Israel xưa kia. Lời Thiên Chúa thực hiện trong cộng đoàn Giáo Hội giờ đây phải được tiếp tục thành toàn và ơn cứu độ phải được mọi thành phần Giáo Hội tiếp tục loan truyền cho mọi dân tộc khác. Đó là nội dung của sách Tông Đồ Công Vụ, trong đó thánh Luca tường thuật công tác truyền giảng mà Chúa Giêsu là trung tâm điểm và là người khởi xướng và giờ đây cộng đoàn Giáo Hội tiếp tục đẩy mạnh dưới sự thúc đẩy, dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.

Trong một nghĩa nào đó, biến cố Chúa Giêsu lên trời cần thiết cho việc khai mạc sứ mệnh của Giáo Hội. Chúa Giêsu Phục Sinh lên trời nhưng giờ đây là thời gian Ngài hoạt động qua và trong cộng đoàn Giáo Hội. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không hiện diện trong thế giới này, nhưng Ngài sẽ trở lại trần gian. Nhưng trong thời gian giữa hai khoảng cách đó, Ngài sống ngoài lịch sử, nhưng hiện diện trong lịch sử qua cộng đoàn Giáo Hội. Nước Thiên Chúa thực tại cuộc sống siêu việt vĩnh cửu, vẹn toàn mai sau tỏ hiện dần trong Giáo Hội. Trong nỗ lực, Giáo Hội làm chứng cho Chúa Giêsu và rao truyền Tin Mừng của Chúa.

Thánh sử Luca đã thật khéo léo khi nối liền thời gian hoạt động của Giáo Hội với ngày hôm nay của Chúa Giêsu và giải thích nó như là thời gian của ơn thánh cứu độ. Biến cố Chúa Giêsu lên trời như ghi trong sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm phải được hiểu dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ: mầu nhiệm lên trời giải thích tại sao lại có Giáo Hội. Giáo Hội hiện diện giữa lòng xã hội và loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người.

Nói cách khác, qua sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm, thánh sử Luca muốn chứng minh cho chúng ta thấy chương trình Thiên Chúa đối với loài người và thế giới đã được Chúa Giêsu thực hiện và thành toàn, và giờ đây được tỏ hiện từng bước và kéo dài trong cuộc sống của Giáo Hội.

Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời, thánh sử Luca là người duy nhất có can đảm dùng động từ ám chỉ sự chia lìa khi biết Chúa Giêsu Kitô tách rời khỏi đoàn môn đệ, và chương 24 mở đầu trình thuật một ngày sống của Chúa Giêsu cũng như của cộng đoàn các môn đệ bằng cách ghi nhận sự vắng mặt của Chúa Giêsu. Nhưng tiếp sau đó Chúa Giêsu lại hiện diện giữa cộng đoàn, Ngài đồng hành, đàm đạo và dùng bữa tối với hai môn đệ trên đường Emmau, và giờ đây trình thuật kết thúc với Chúa Giêsu lại tự tỏ hiện ra.

Tuy nhiên, sự chia tay này tại Bethania không khiến cho các môn đệ buồn sầu hay chán nản. Trái lại họ cùng nhau trở về Giêrusalem lòng tràn đầy vui sướng. Thánh sử Luca không giải thích tại sao đoàn môn đệ giờ đây phải xa Thầy mình mà lại sướng vui như vậy, nhưng chắc chắn các môn đệ đã khám phá ra hay ít nhất đã trực giác được chuyện gì đó, nghĩa là các vị đã hiểu rằng, Chúa Giêsu tuy đã tách rời khỏi họ, nhưng vẫn luôn hiện diện bên họ.

Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời còn có một điểm đặc biệt khác nữa, đó là các môn đệ đang phủ phục xuống thờ lạy Ngài thì Chúa Giêsu đã rời khỏi họ lên trời, đồng thời Ngài giơ tay ban phép lành cho họ. Cử chỉ này của Chúa Giêsu cho thấy, Ngài hành động như là Thầy của các môn đệ. Chúa của các tông đồ là thủ lãnh của cộng đoàn dân riêng mới của Thiên Chúa, giã từ cộng đoàn nhưng đồng thời Ngài mời gọi mọi người ra đi chu toàn sứ mệnh mà họ đã được ủy thác. Phép lành của Chúa Giêsu bảo đảm cho cộng đoàn Giáo Hội mọi ơn cần thiết trong cuộc sống và sự tăng trưởng của mình trong sứ mệnh loan truyền lịch sử cứu độ.

Đặc điểm thứ ba trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời đó là thay vì ra đi khắp nơi loan truyền Tin Mừng thì đoàn môn đệ vào đền thờ Giêrusalem cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa. Phúc Âm thánh Luca mở đầu với cảnh Thầy Zacharia dâng hương cho Chúa trong đền thờ, giờ đây kết thúc với lời chúc tụng của đoàn tông đồ. Giêrusalem là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, là nơi lịch sử cứu độ thành toàn, đồng thời là nơi phát xuất sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.

Hình ảnh Giáo Hội truyền giáo quanh quẩn trong đền thờ, trong lời cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa xem ra hơi lạ, nhưng thật ra sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội sẽ đem lại nhiều hoa trái khi cộng đoàn biết bám chặt vào Chúa, dán mắt nhìn lên Chúa, thân tình thưa chuyện với Chúa để kín múc mọi ơn thánh và nghị lực cần thiết cho sứ mệnh loan báo lời Ngài để kéo đổi phúc lành của Thiên Chúa xuống trên mọi tâm hồn và phản ảnh gương mặt cũng như giáo huấn của Chúa một cách tinh tuyền, trung thực và sâu thẳm hơn.

Bởi vì nếu không có phúc lành và ơn thánh Chúa trợ lực sẽ không có sự sống, sẽ không có ơn hoán cải và biến đổi con tim và công tác truyền giáo của Giáo Hội không sinh hoa trái phong phú. Càng hoạt động nhiều, Giáo Hội càng phải sống chiều kích chiêm niệm và đối thoại thân tình với Chúa nhiều hơn.

Đây cũng là lý do giải thích tại sao trước khi về trời, Chúa Giêsu đã dạy dỗ các môn đệ nhiều điều để giúp họ được sứ mệnh loan báo Tin Mừng, và từ nay họ phải đảm trách thay Ngài. Lời các thiên thần nhắc nhớ có các ông biết sứ mệnh rao truyền Lời Chúa không cho phép các vị đứng nhìn trời, nhìn đất mơ mộng nuối tiếc hay chỉ lo lắng cho các dịch vụ phụng tự quanh quẩn trong bốn bức tường nhà thờ hoặc đáp ứng nhu cầu của linh hồn mà thôi, mà phải xuống núi, nhập thể, đem Chúa vào đời loan truyền ơn cứu độ và hoạt động thăng tiến con gnười toàn diện như Chúa Giêsu đã làm xưa kia.

 

26. Ra khơi – R. Veritas--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

Dịp Lễ Thăng Thiên năm 2001 Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ:

"Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được Lời Chúa: "Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất".

Từ hai ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con người. Những lời này làm cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá trên thế giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa "Hãy ra khơi", mệnh lệnh mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây là mệnh lệnh mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng Thiên. "Hãy ra khơi" ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải chỉ là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm. Như những tông đồ, những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn rằng nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Âm hôm nay nói rằng: "Tại sao các ông còn nhìn trời?"

Việc cầu nguyện chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi việc dấn thân vào trong lịch sử. "Trời", nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là một sự xa vắng nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện. Đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang. Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi. Đòi hỏi chúng ta phải làm chứng bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước. Và chính để làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập hội nghị Hồng Y đặc biệt được bế mạc hôm nay (thứ Năm 24/05/2001). Các vị Hồng Y, từ các nơi trên thế giới mà tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về một vài đề tài trong số những đề tài nổi bật nhất của công việc rao giảng Phúc Âm và làm chứng Kitô trong thế giới hôm nay, vào khởi đầu Ngàn Năm Mới. Đây, đối với chúng tôi, là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui đã tràn ngập tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài để lên trời. Thật vậy, thánh Luca đã ghi lại rằng: "Sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa."

Và tiếp sau trong bài giảng, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội, và cuộc hội Hồng Y cũng được Đức cố Giáo Hoàng đặt trong viễn tượng này: "Thực hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội, để Giáo Hội có thể rao giảng Phúc Âm Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em."

Trong thánh lễ Chúa Thăng Thiên và trong giây phút này, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cho chúng ta biết ý nghĩa của biến cố quan trọng này: Không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, mà Ngài bước sang một sự hiện diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài luôn ở cùng chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng. Và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi trường chúng ta sinh sống.

Từ Chúa Nhật này cho tới Chúa Nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình, mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi. "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận cùng và các con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này".

Xin Chúa gìn giữ chúng ta vững mạnh trong đức tin để chúng ta có thể làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.

 

27. Không giải thích được - Achille Degeest--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’

Đức Giêsu đã thuyết phục các tông đồ tin rằng Người đã sống lại. Chúa mở tâm trí cho các ông hiểu ý nghĩa Kinh Thánh và thấy mình đang đi vào kế hoạch liên tục của Thiên Chúa. Các ông sắp làm chứng cho Đấng được loan báo trong Kinh Thánh, Người đã thật sự sống với các ông cuộc đời dưới thế của Người và sắp tiếp tục công cuộc cứu độ qua Giáo Hội, đem lợi ích cho khắp thế giới. Các ông sẽ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần đến hoàn tất sự hiểu biết của mình, như Đức Giêsu đã hứa. Lúc đó sẽ thấu hiểu ý nghĩa khổ nạn và Phục Sinh, hơn nữa sẽ khám phá Phúc Âm được dùng vào một công cuộc có tầm mức bao la đến chừng nào. Các ông sẽ không choáng váng tê liệt, sẽ thật sự trở nên tông đồ vì mặc lấy sức mạnh từ Trên ban cho. Chúng ta không ngạc nhiên đọc câu: Họ trở lại Giêrusalem, lòng mừng khôn xiết. Như vậy, chứng kiến Chúa lên trời, các môn đệ tuyệt nhiên không kinh ngạc, trái lại vui mừng vô hạn. Tại sao? Ví các ông chắc hẳn bắt đầu hiểu rõ bí nhiệm về sự hiện diện vô hình của Thày. Chúng ta dừng lại để suy niệm về việc Chúa chúc lành và niềm hân hoan không giải thích được của các môn đệ.

1) Giơ tay, Chúa chúc lành cho họ.

Các môn đệ lãnh nhận chúc lành của Thày, coi đó là cử chỉ của Thiên Chúa kết thúc một sự hoàn tất và mở màn cho một sự bắt đầu. Hoàn tất, vì thời gian Chúa sống giữa thế gian đã chấm dứt. Chúa vào vinh quang của Chúa Cha. Tác động của Đức Giêsu hiện diện hữu hình không còn nữa, sắp chuyển sang một thể thức tác động khác, đồng thời các môn đệ bắt đầu một cuộc trông đợi. Chúc lành của Chúa làm dậy lên trong các môn đệ một nghị lực sắp lớn mạnh nảy nở. Cử chỉ Chúa giơ tay ban phép lành biểu hiện sức mạnh của sự sống, của lòng bác ái và một nghị lực tràn ngập tâm hồn các ông, sắp biến đổi và hướng dẫn các ông thành toàn bản ngã và sứ mạng. Một ví dụ thực tế: Chúng ta nhắc lại rằng chúc lành nhân danh Đức Kitô của linh mục chủ tế lúc Thánh Lễ hoàn tất, biểu hiện sự hoàn tất và sự phái đi. Chúng ta có nhiệm vụ hoàn tất trong đời sống thực tế ơn lành nhận được trong Thánh Lễ, và chúng ta được phái đi vào thế giới làm chứng cho Đức Kitô.

2) Các môn đệ vui mừng mặc dầu Đức Giêsu vừa biến đi trước mắt các ông.

Chúng ta chúng ta nghĩ rằng các ông được sinh ra trong tình yêu đích thật của Thày, các ông không hề nghĩ về thân phận mình theo tính ích kỷ thường tình, trái lại được vui mừng nhìn Thày đi vào vinh quang của Chúa Cha. Tuy nhiên cho dầu tình yêu đầy vị tha tới đâu thì cũng phải có sự hiện diện của Thày. Có thể các môn đệ làm một cuộc thí nghiệm mới về sự hiện diện vô hình của Thày. Chúa về trời trở nên gần gụi các ông hơn trước. Chúa biểu lộ sự hiện diện trong quyền năng thần thánh của Người, Chúa đem Thần Khí vào tâm hồn các ông. Tới đây chúng ta thấy vai trò đức tin là cần thiết. Điều tốt là các môn đệ nay trở thành chứng nhân cho Chúa phải tham dự vào kinh nghiệm đức tin mà tất cả chúng ta đều phải có, một niềm tin trong hân hoan không giải thích được, trải qua mọi gian nan thử thách. Niềm tin ấy sinh ra một niềm trông cậy hân hoan hơn nữa, vì lẽ ngày Chúa lên trời sẽ đưa tới ngày chúng ta sẽ vô cùng hân hoan, Chúa ở đâu, chúng ta cũng sẽ ở đó.

 

28. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện

Chúa Thăng Thiên: Mầu Nhiệm và Sự Kiện

Hôm nay chúng ta đọc hai trình thuật của Thánh Luca diễn tả cùng một thực tại: Chúa Giêsu Thăng Thiên.

Tuy nhiên, hai trình thuật này lại có nhiều điểm xem ra không dễ dung hòa với nhau, nhất là về phương diện lịch sử. Trong Tin Mừng (Lc 24,50-51), tác giả Luca giới thiệu biến cố Thăng Thiên ngay buổi chiều ngày Phục Sinh. Nhưng trong Công Vụ Tông Đồ, ông lại xác định biến cố Thăng Thiên vào thời điểm kết thúc “40 ngày” (Cv 1,3). Tại sao lại có sự khác biệt đó?

Trong Tin Mừng Lc, biến cố Thăng Thiên là biến cố kết thúc sách Tin Mừng. Tác giả không cung cấp những yếu tố thời gian rõ ràng, nên nhiều người hiểu rằng ông kể lại biến cố đó như thể đã xảy ra ngay chiều ngày Phục Sinh và diễn ra trong một cách thức long trọng: Chúa Giêsu giơ tay chúc lành cho các đồ đệ, “và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời” (Lc 24,51).

Trong Cv, điều Thánh Luca bận tâm và cố ý nhấn mạnh là công trình của Hội Thánh không được khởi sự chỉ với các đồ đệ của Chúa, mà là với chính Chúa Giêsu Phục Sinh. Chính Người hiện ra với họ, đồng hành với họ, thăm viếng họ suốt 40 ngày. Do đó, công trình loan báo Tin Mừng của Hội Thánh không phải là công trình của nhân loại, mà là công trình do chính Chúa Phục Sinh ấn định, khởi xướng, dẫn dắt. Vì thế, biến cố Thăng Thiên được đặt ở lúc kết thúc “40 ngày”.

Trình thuật trong sách Cv dài hơn và có nhiều chi tiết hơn trình thuật trong Lc: “Trong bốn mươi ngày, Đức Giêsu đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Người truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần. Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không? " Người đáp: "Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất." Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: "Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,3b-11).

Điểm đặc biệt đáng chú ý nhất trong trình thuật này là tác giả đã không sử dụng bất cứ một chi tiết ly kỳ nào để miêu tả chính biến cố Thăng Thiên, cũng không nói gì về tâm tình hay cảm xúc của những người chứng kiến. Trình thuật chỉ kể đơn giản rằng: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv 1,9). Đám mây quyên lấy Người, khiến cho không ai có thể kể lại là Người đã đi vào cõi Trời như thế nào. Rõ ràng tác giả cố tránh những chi tiết ly kỳ.

Điều này làm cho trình thuật khác hẳn tất cả những câu chuyện truyền kỳ và hoang đường đương thời. Tác giả không mô tả chính việc Đức Giêsu lên trời, cho bằng trách cứ thái độ của các đồ đệ cứ đăm đăm nhìn lên trời, phía Đức Giêsu đã đi. Đó là thái độ đặc trưng của những người mong cuộc tận thế sẽ mau xảy đến. Thánh Luca là một người công bố Tin Mừng. Điều ông quan tâm là giúp các tín hữu thời đại ông sống sứ mạng của họ theo thánh ý Thiên Chúa. Ông không bận tâm đến thái độ và phản ứng của các đồ đệ chứng kiến cuộc Thăng Thiên, mà chú ý đến việc Hội Thánh phải lấy lập trường đức tin như thế nào đối với mầu nhiệm Thăng Thiên và mầu nhiệm Cánh Chung. Điều chính yếu là lập trường căn bản mà Hội Thánh phải có đối với mầu nhiệm Cánh Chung. Vì thế, ông nhấn mạnh rằng Hội Thánh phải từ bỏ những sự tính toán ngày tháng (Cv 1,7), và phải tin rằng chính Đức Chúa, trong hiện tại của Hội Thánh, đang điều khiển lịch sử của thế giới và công trình loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.

Liên quan đến mầu nhiệm Thăng Thiên mà chúng ta cử hành hôm nay, cứ theo những gì Kinh Thánh trình bày, chúng ta có thể nói: đây là một thực tại có hai khía cạnh. Một bên là mầu nhiệm Đức Giêsu Phục Sinh vào trong cõi của Thiên Chúa một cách vô hình, còn bên kia là biến cố Người từ giã thế gian này một cách hữu hình. Khía cạnh thứ nhất trình bày cuộc tôn vinh Chúa Phục Sinh trên cõi trời, mang đậm chiều kích thần học, vượt quá giác quan và chỉ có thể chấp nhận nhờ lòng tin và nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Khía cạnh thứ hai là một sự kiện xảy ra trong lịch sử, thuộc phạm vi của những thực tại có thể kinh nghiệm được.

Khía cạnh thứ nhất, khía cạnh mầu nhiệm, là điều chính yếu và thuộc về nội dung căn bản của lòng tin. Còn việc Đức Giêsu chia tay các đồ đệ sau 40 ngày là một biến cố xảy đến như một ân huệ Thiên Chúa thương ban cho chúng ta vì bản tính yếu đuối của con người có giác quan. Vậy sự kiện xảy ra vào lúc kết thúc “40 ngày” không thể diễn tả trọn vẹn, đầy đủ và tương xứng chính mầu nhiệm đức tin thâm sâu vượt quá giác quan con người.

Chính vì thế, khi mô tả biến cố Thăng Thiên, cả trong Tin Mừng lẫn trong Cv, ta thấy Thánh Luca luôn cố ý giữ gìn một tâm tình kính cẩn trước mầu nhiệm. Ngài tránh mọi chi tiết mang tính huyền thoại, chỉ giữ lại ở mức tối thiểu những hình ảnh văn chương không thể không dùng để diễn tả mầu nhiệm. Để trình bày ý tưởng Đức Chúa Phục Sinh đã siêu vượt thế giới hư nát này và đi vào vinh quang Thiên Chúa, Kinh Thánh buộc phải dùng lối nói “lên trời”. Đó là hình ảnh có giá trị tượng trưng mà chúng ta buộc phải chấp nhận để diễn tả mầu nhiệm.

Vậy khi chúng ta nói Đức Giêsu lên trời, điểm cốt yếu phải tin là Chúa Kitô đã sống lại và siêu vượt khỏi cái thế giới tù túng, tội lụy, hay thay đổi và đầy đau thương này. Với thân xác phục sinh, Người đã đi vào một thế giới mới, thế giới của Thiên Chúa. Thế giới đó là thế giới xác thực, thiêng liêng, mới mẻ và siêu việt. Chỉ trong thế giới đó mới có sự sống đích thực. Thế giới đó siêu việt (chứ không xa cách) thế giới chúng ta đang sống. Đó là một thế giới khác biệt hẳn về phương diện thực hữu, chứ không phải về phương diện không gian xa gần hay rộng hẹp. Chúng ta có thể “sờ đụng” vào thế giới đó trong lòng tin và nơi các bí tích cứu độ. Đó là một sự “tiếp cận” một thực tại mầu nhiệm nhưng đồng thời rất thật, rất gần, thật và gần hơn cả cái thế giới phàm tục mà ta đang sống đây.

Vì thế, nói theo một nghĩa nào đó, mầu nhiệm Thăng Thiên cũng chính là mầu nhiệm mà Hội Thánh đang mời gọi chúng ta sống hằng ngày, ngay trong cái hôm nay của cuộc đời chúng ta.

 

29. Hướng lòng về thượng giới--Lm Ignatio Trần Ngà--‘Cùng Đọc Tin Mừng’

Khi con người chỉ biết nhìn xuống...

Người đàn bà có biệt danh là "bà lom khom" đã trở thành hình ảnh quá quen thuộc đối với những ai hay lui tới những công viên của thành phố nầy. Đã lâu lắm rồi, từ sáng tới chiều, ngày nầy qua ngày khác, người ta thấy bà lầm lũi cúi mặt xuống đất để tìm nhặt những đồng tiền xu mà khách nhàn du đánh rơi đâu đó trong các công viên. Người dân trong khu vực gọi bà là "bà-lom-khom" vì hình như mắt bà rất kém, phải khom gập người xuống mới có thể thấy được những đồng tiền rơi rớt đâu đó trong công viên. Hình như nghề nầy đem lại cho bà nguồn thu nhập khá lớn, nên ngày nào bà cũng khom người đi nhặt như con kiến cần cù, như con ong kiên nhẫn nhất.

Vì lúc nào bà cũng cúi gằm xuống đất, đôi mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn xuống để tìm những đồng xu lẻ, dần hồi cần cổ của bà cụp xuống, lưng còng hẳn đi đến nỗi bà không còn ngửng lên nhìn trời được nữa.

Thế là mặc dù kiếm được khá tiền, nhưng bà đã đánh mất cuộc sống. Bà chỉ biết có mặt đất mà không biết có bầu trời. Bà chỉ biết ky cóp những đồng tiền xu mà chẳng biết gì đến thế giới chung quanh!

* * *

Hình ảnh người đàn bà còng lưng trên đây là biểu tượng cho những người chỉ biết có thế giới vật chất mà đánh mất thế giới thiêng liêng.

Với tầm nhìn hạn chế, con người chỉ thấy gần mà không thể thấy xa, chỉ biết chú mục vào cuộc sống đời nầy mà lãng quên cuộc sống đời sau, chỉ biết vun quén của cải vật chất mà không lo làm giàu của cải thiêng liêng; chỉ biết kiếm tìm lạc thú trần gian mà lãng quên hạnh phúc đời đời... Họ chối bỏ Trời, quay lưng lại với Thiên Chúa, khước từ thế giới thiêng liêng!

Họ xem mặt đất nầy là quê hương duy nhất, họ xem nấm mồ như điểm đến cuối cùng của kiếp người. Cuộc đời của họ được thi hào Nguyễn Du diễn tả cách bi thương:

"Trăm năm còn có gì đâu

Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì".

Như thế, đối với người không tin thì sống là hành trình tiến về ngôi mộ; còn đối với chúng ta, sống là hành trình tiến về thiên quốc.

Viễn tượng mới

Sự kiện Chúa Giêsu lên trời mở ra cho loài người một viễn tượng mới: Thế giới loài người không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ vật chất nhưng còn mở vào cõi vô biên. Cuộc đời con người không chấm dứt trong nấm mồ hoang nhưng vượt qua đó để tiến vào vĩnh cửu.

Như con ve chui lên khỏi đất, lột bỏ chiếc vỏ chật hẹp để đón chào thế giới mới, cất cao tiếng hát dưới ánh nắng mặt trời, con người cũng được mời gọi hãy vượt lên trên thế giới vật chất, đập bỏ lớp vỏ vật chất bó chặt đời mình để vươn vai trở thành tạo vật mới, sống đời sống mới.

Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta hướng về đích xa:

"Quê hương chúng ta ở trên trời" (Philip 3, 20)

Thế nên: "Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới" (Col 3, 1-4)

Vậy chúng ta đừng chỉ lo phần xác mà quên mất phần hồn. Phải dành ưu tiên cho linh hồn chúng ta, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa. Chỉ dán mặt xuống đất mà không biết ngẩng lên nhìn trời thì vô cùng tai hại.

 

30. Chúa Nhật Thăng Thiên

Hôm nay, Giáo hội mừng cách trọng thể lễ Thăng Thiên. Chúa Giêsu về trời vinh quang sau khi chịu khổ hình đau đớn theo ý Chúa Cha. Còn phần chúng ta, trước những khó khăn hiện tại trong bổn phận của mình, chúng ta phải làm gì để mai này về trời hưởng vinh quang với Chúa?

Trong đoạn Phúc Âm mà chúng ta vừa nghe, thánh sử Lc kể lại một lần hiện ra của Chúa Giêsu sau khi Người từ cỏi chết sống lại. Lần này, Chúa Giêsu ăn uống trước mặt các môn đệ và giải thích Kinh Thánh cho các ông hiểu. Đoạn Kinh Thánh Chúa Giêsu đang giải thích nhắc lại mệnh lệnh loan truyền Tin Mừng Chúa Phục Sinh. Trong mệnh lệnh này, chúng ta thấy có một điểm rất đặc biệt, đó là những đòi hỏi về phương cách rao giảng: không những chỉ bằng lời mà chính các tông đồ phải là chứng nhân về những điều rao giảng. Nghĩa là đời sống của các tông đồ phải giống như Chúa Giêsu: biết chấp nhận những khó khăn trong hành trình tông đồ trong sự gắn bó với Thiên Chúa. Những mong muốn của Chúa Giêsu đối với các tông đồ xưa cũng là lời dạy dành cho chúng ta hôm nay: muốn được về trời hưởng phúc thiên đàng với Chúa thì trong đời sống đạo của mình, chúng ta phải chấp nhận những khó khăn trong bổn phận hằng ngày với niềm tin tưởng gắn bó vào Thiên Chúa.

Có những khó khăn, đau khổ xảy đến người ta không chấp nhận nổi: Năm 2004, lúc đó, con còn đang ở thành phố học, ở trọ nhà chị bà con xa. Chị sinh được hai con. Con gái lớn tên là Trang. Cả gia đình chị lên thành phố gần được chục năm, lúc đó, Trang mới học lớp 5. Bây giờ, Trang đã hai mươi tuổi. Nó đẹp gái lắm, quen và lấy một anh tài xế đã có vợ rồi nhưng ly dị. Anh này tướng tá cũng lịch sự. Không hiểu vì lý do gì, vợ chồng lục đục, rồi chia tay. Hiện tại, Trang bắt đầu kiếm công việc làm, đi làm, quen nhiều bạn, anh kia ghen. Một đêm nọ, trên đường đi làm về, anh chồng cũ chờ sẵn, tạt một ca axít loãng lên người Trang. Người ta đưa em đi chợ rẫy. Kết quả thẩm định của bác sĩ, mù hai mắt, mặt mày trở nên dị dạng khác thường. Cha mẹ Trang ngày đêm túc trực trong bệnh viện, thay phiên nhau về nhà nghĩ ngơi. Lúc chị về với vẻ mặt buồn bẻ, bơ phờ, Con hỏi thăm, chị mới tâm sự: bây giờ, chị khổ quá em ơi, chị không còn biết cầu nguyện thế nào nữa, chị muốn buông xuôi tất cả.

Đau khổ như chị trong câu chuyện chắc ít người gặp qua nhưng khó khăn trong đời sống gia đình, thì chúng ta đã từng cảm nếm. Đối với mấy ông, khó khăn hệ tại ở việc tìm chén cơm cho gia đình, thời buổi này làm ăn đâu phải dễ, phải buôn ba vất vả, phải tính toán chi li, phải đổ mồ hôi, chịu nắng noi cả ngày. Lại thêm khó khăn đến từ phía gia đình, có ông than sau cái số mình hẩm hiu, đi làm quần quật cả ngày mệt thở không ra hơi, vậy mà về nhà cơm nước đâu hỏng thấy, nhà cửa thì dơ bẩn, con cái thì hôi hám, hỏng biết ở nhà bả làm cái gì? Mới quen, bả cũng ít nói, trông vẻ thuỳ mị lắm vậy mà bây giờ lúc đọc báo, bả cũng cằn nhằn, lúc coi ty vy, xem đá bóng, bả cũng nói, nói toàn những chuyện nhậu nhẹt, lương bổng của mình, nghe nhức đầu quá. Thêm vào đó, con cái không hiểu nổi khổ tâm lao nhọc của cha, chỉ có cái chuyện học mà cũng chẳng nên thân, tháng nào kết quả học tập cũng kém. Trong khi đó, các bà thì lại than các ông, lúc mới quen, ổng hiền lành, còn bây giờ, mới nói có mấy câu là nổi nóng, lớn tiếng. Vợ chồng mà la mắng như con ở làm sao chịu nổi. Hồi xưa mới yêu nhau, ho một tiếng là ảnh lấy dầu cho xức, mua thuốc cho uống còn bây giờ ho muốn bể phổi luôn mà ảnh cứ tỉnh bơ đọc báo. Nhà cửa, con cái, ăn uống, bao nhiêu việc phải chi tiêu, vậy mà đưa lương tuần nào cũng thiếu, làm sao xoay sở, như vậy mà sao không cằn nhằn được. Có chị khác thì bảo: ảnh cũng đi làm, tôi cũng đi làm, vậy thì việc cơm nước, con cái phải cưa đôi, để một mình tôi gánh, sức nào chịu nổi, vô tâm vô tình với tôi rồi có ngày sẽ phải hối hận đó nhe. Chưa kể những gánh nặng chất lên vai chị lúc con bệnh, con đau, khi gặp phải anh chồng không biết lo, tối ngày cứ rượu chè, cờ bạc, gặp phải bà mẹ chồng không biết cảm thông, suốt ngày cứ tìm những chuyện nhỏ để bắt lỗi, chì chiết làm khổ con dâu của mình.

Trong những khổ đau của cuộc khổ nạn, CG chấp nhận theo ý Chúa Cha, luôn gắn kết với Chúa Cha qua cầu nguyện. Thiên Chúa muốn chúng ta trong những khó khăn của cuộc sống cơm áo gạo tiền, khó khăn trong bổn phận làm chồng, làm vợ, hãy biết chấp nhận và giữ vững đức tin, đừng bỏ Chúa giữa đường. Càng đau khổ, anh chị hãy càng đến với Chúa nhiều hơn. Chồng là chỗ dựa đức tin của gia đình, khi bản thân anh gặp khó gia đình gặp chuyện buồn phiền, thì chính anh phải là người đầu tiên chạy đến với Chúa. Chạy đến với Chúa để nâng đỡ đức tin của vợ và làm gương sáng dạy con sống đạo. Còn các bà, Chúa cho sở trường nói gì thì chồng nghe nấy: khi khó khăn, đêm về, ở bên chồng, chị hãy thủ thỉ vào tai chồng, dù gia đình mình gặp khó khăn thế nào cũng đừng bỏ Chúa nhe anh! Trực giác người phụ nữ rất nhạy, khi thấy chồng buồn phiền do công việc, hoặc đang buồn chị, chị hãy chạy đến với Chúa để cầu nguyện cho chồng. Người phụ nữ được ví là trái tim, là hơi ấm của gia đình. Chị chỉ có thể là trái tim, là hơi ấm cho gia đình nếu đời chị biết gắn kết mật thiết với trái tim tình yêu của Thiên Chúa trong cầu nguyện, với trái tim dịu dàng của người nữ nơi chuỗi mân côi. Khi lấy nhau, anh chị nên nhớ mình không chỉ có trách nhiệm dắt dìu nhau trong cuộc sống trần thế mà quan trọng hơn, vợ chồng phải có trách nhiệm dắt dìu nhau tiến về quê trời vĩnh cửu.

Thay cho lời kết, cầu chúc cho mỗi người chúng ta trước những khó khăn của cuộc sống gia đình, biết giúp nhau vững tin vào Chúa, để dìu nhau về đến quê trời bình an. Amen.

 

31. Chúa tin tưởng chúng ta--‘Niềm Vui Chia Sẻ’

Có một truyền thuyết xưa kia kể lại rằng: Khi Đức Giêsu hoàn thành sứ mạng dưới thế, Ngài trở về trời và được Thiên thần Gabriel đón tiếp. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay:

- Xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế?

Chúa Giêsu trả lời:

- Ta đã chọn 12 Tông đồ, một nhòm môn đệ và một vài phụ nữ. Ta đã giao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất.

Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thỏa mãn nên hỏi tiếp:

- Nhưng số môn đệ ít ỏi đó thất bại thì Chúa có dự trù nào khác không?

- Chúa Giêsu mỉm cười và dường như muốn biểu đồng tình là thiên thần Gabriel đã có lý khi nghi ngờ, tuy nhiên Ngài vẫn quả quyết:

- Đó là kế hoạch duy nhất Ta chọn. Ta không dự trù một kế hoạch nào khác cả. Ta tin tưởng vào họ.

Vâng, thưa anh chị em, mãi đến 20 thế kỷ sau, Chúa Giêsu vẫn không thay đổi kế hoạch Ngài đã chọn. Các Tông đồ đã không làm Ngài thất vọng và cả đám dân được họ rao giảng Tin Mừng cũng đã không phụ lòng Ngài. Và hiện giờ Ngài đang tin tưởng vào chúng ta.

Thật vậy, trước khi từ giã các môn đệ ngài để trở về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các ông trọng trách rao giảng Tin Mừng của Ngài và đã hứa ban cho các ông được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thân: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

Vì thế, các môn đệ đã trở về, lòng tràn ngập hân hoan. Đây chính là lúc phải bắt tay vào việc. Chính nhờ vào niềm tin và nỗi vui mừng nầy, các môn đệ đã hăng hái ra đi rao giảng Tin Mừng sau khi được lãnh nhận Thánh Thần. Các ông không còn sợ hãi của những ngày Chúa chịu chết, nhưng đầy sức mạnh để dám đương đầu với tất cả những khổ đau, những thương tích mà chính các ông không thể trốn tránh được. Quả thật, các môn đệ của Chúa Giêsu đã không phụ lòng Ngài.

Cha Mark Link, S.J đã sánh ví ngày lễ Thăng Thiên như một cuộc chuyền cây gậy từ vận động viên nầy sang vận động viên khác trong một cuộc chạy tiếp sức. Cách đây hơn 2000 năm, vào ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã chuyền cây gậy sứ mạng của Ngài cho Phêrô, Giacôbê và Gioan… đến lượt họ, họ đã chuyền cho những người tiếp theo sau, rồi những người nầy lại chuyền cây gậy ấy đến chúng ta. Và giờ đây đến lượt chúng ta lại phải chuyền gậy cho những người kế tiếp.

Thực tế mà nói, điều nấy có nghĩa gì? Sứ mạng ra đi rao giảng Tin Mừng về Chúa Giêsu như các Tông đồ đã làm mang ý nghĩa gì? Đối với chúng ta, sứ mạng rao giảng về Chúa Giêsu mang một ý nghĩa căn bản trong cuộc sống Kitô hữu. Đó chính là làm chứng cho Chúa Giêsu bằng đời sống Kitô hữu của mình. Đó chính là sống Lời Chúa Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi người. Để rao giảng Chúa Giêsu cho thế giới, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp thế giới. Nếu có đủ số người Kitô hữu biết đưa Chúa Giêsu vào cuộc đời mình thì họ sẽ thay đổi được bộ mặt trái đất nầy thành tuyệt vời đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.

Anh chị em thân mến, Sứ điệp của ngày lễ Thăng Thiên hôm nay đưa ra cho chúng ta sự thách thức trước trước niềm tin tưởng mà Chúa Giêsu đã đặt nơi mỗi người chúng ta:

“Anh em là muối đất… anh em là anh sáng trần gian…” (Mt 5, 13 -16). Là men, là muối, là ánh sáng cho đời, cuộc sống Kitô hữu phải tốt, phải ướp mặn chất Tin Mừng, phải phản chiếu khuôn mặt Chúa Giêsu. Được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ không làm cho Chúa Giêsu phải thất vọng.

Mừng lễ Chúa lên trời hôm nay, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng là ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống, để làm chứng cho Chúa, để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em chung quanh mình. Chúa Kitô đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về Trời với Chúa của mình.

 

32. Hãy mang Chúa đến cho nhân trần--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm Jos. Tạ Duy Tuyền

Hôm nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Kitô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không còn làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang phục sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho cuộc đời chúng ta.

Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: "Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đó đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Nhưng, nếu là thập giá có Đức Kitô sẽ là một hiến tế thánh thiện, một của lễ hy sinh mang lại ơn ích cho chính mình và cho tha nhân. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang u sầu vì lầm than cơ cực. Bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.

Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Nếu cuộc đời không có Đức Kitô thì những hy sinh, những đau khổ, những gánh nặng trong cuộc đời này sẽ là một mất mát, một nỗi đau của kiếp người. Đây cũng là tin mừng mà Đức Kitô đang trao phó cho Giáo hội, cho mỗi người chúng ta: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo". Hãy loan tin vui đến cho những ai đang gặp u sầu, đang thất vọng, đang trải qua những ngày tháng bất hạnh, khổ đau. Hãy nói cho họ biết sau đêm dài là ánh bình minh. Cuộc đời này là một hành trình đi về thiên quốc. Một con đường có thập giá. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những tham sân si của dòng đời. Thập giá trong những dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân. Đó chính là thập giá mà chúng ta đón nhận vì Đức Kitô sẽ biến thành thánh giá của hồng ân cứu độ. Thập giá làm chúng ta không vui. Thập giá làm chúng ta đau khổ. Nhưng chính nhờ những thập giá trong cuộc đời sẽ là nhịp cầu đưa tới tới bề bờ hạnh phúc vô biên.

Người nông dân đang cố gắng mang Chúa đến cho những mảnh đời bất hạnh, là sứ vụ mà Chúa đã trao cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau mang Đức Kitô đến muôn nẻo đường đời. Hãy mang Đức Kitô đến cho những ai đang thất vọng u sầu, đang nặng trĩu những buồn đau. Hãy nói cho họ biết đón nhận mọi biến cố đang diễn ra trong cuộc đời mình vì Đức Kitô và trong Đức Kitô.

Hôm nay, Chúa về trời. Chúa vẫn mang theo những dấu vết của thương tích trong cuộc khổ nạn. Không có vết thương nào đắt giá cho bằng sự chết. Như thể, Chúa về trời với những chứng tích đau thương, với những chống đối mà Ngài phải gánh chịu trong cuộc sống, với cơn hấp hối nơi vườn cây dầu, với những đau đớn của roi đòn, lỗ đinh. Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn vâng theo thánh ý Chúa. Và hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng như những ai muốn đi theo Ngài phải đi con đường này để lên trời. "Anh em hãy làm chứng cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới". Làm chứng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống theo gương Chúa Giêsu. Một cuộc sống luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc sống hằng ngày. Một cuộc sống phục vụ tha nhân để qua đó muôn dân sẽ ngợi ca Thiên Chúa. Một cuộc sống làm chứng không nhất thiết phải đổ máu, nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm: luôn bao dung, kính trọng lẫn nhau, luôn bác ái và sống công bình với nhau. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người đời khinh chê, ghét bỏ, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Hôm nay nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giêsu: "Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới". Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan, ngõ hầu "Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo - Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Amen.

 

33. Lễ Thăng Thiên--Lm Nguyễn Đức Trung

Con người ngày nay dù đã có thể dùng phi thuyền để bay vào không gian, có thể đi bộ ra ngoài vũ trụ bằng những trang thiết bị cao, nhưng bầu trời vẫn là huyền bí, giới hạn vẫn còn đó cho nên đã biết bao lần bay lên rồi lại phải vội vàng bay về, trời cao vẫn là sự xa xôi, khó hiểu, không như ở dưới đất.

Trong cuộc sống của quảng đại quần chúng, thì khái niệm về trời đất khá thân thiện, gần gũi và dễ thương, vưa coi Ông như người nhà vừa là Đấng phải tôn thờ, thể hiện qua các sinh hoạt. Ở các vùng quê nhà nào mà chẳng có bàn Thiên để cúng với Trời đất; đi xa đi gần, làm ăn ruộng rẫy ai mà chả cầu Trời; Trời rất gần vì Ông Trời biết đến con người và vạn vật: "Trời cao có mắt” “Lạy trời mưa xuống”. Bình thường con người cảm thấy Ông trời rất là dễ thương, chẳng hạn như trai gái yêu nhau họ nói duyên trời se định, may mắn điều gì đó thì nói trời cho, ý trời, và khi hoạn nạn gian truân thì chẳng biết đổ đâu thôi đổ vạ cho trời, khi mưa gió lụt lội gọi là thiên tai, lâu lâu buồn thì cũng trách trời chút ít. Nói chung khái niệm về ông trời nơi chúng ta rất bộc bạch, chân chất, mang tính yên ủi và pha lẫn sự sợ sệt.

Chúa Giêsu khi đến trong thế gian, luôn luôn chỉ vẽ cho con người con đường về Trời, đó là con đường nhận ra Thiên Chúa là Cha, và mọi người là anh em. Hôm nay khi hoàn tất sứ vụ ở trần gian Ngài giã biệt mọi người để về Trời là nơi Ngài đã từ đó mà đến với chúng ta. Giáo lý mà Dức Giêsu dạy dỗ không mông lung khó hiểu, cõi trời không xa xăm, nước Trời ở trong lòng các ngươi. Chúa cũng chả dạy chúng ta phải đi bằng phương tiện khoa học như: Phi thuyền, hay một lực đẩy mạnh nào đó để đưa chúng ta ra khỏi trái đất này, cũng không cỡi cá chép như ông táo để về trời, mà bằng sự nhận ra Chúa và thi hành mệnh lệnh Chúa. Hôm nay trước lúc chia tay Chúa lại xác định thêm một lần nữa với nhóm tông đồ: “Hãy nhân danh Thầy mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân…” Thì ra Đấng từ trời cao đến không muốn gì khác hơn là làm cho mọi người dưới thế này có cơ hội để về nơi mà chính họ đã được hứa ban, Ngài chết cho họ là nhằm xoá bỏ những trắc trở trên đường đi. Ngài đã đổ máu cứu chuộc duy nhất một lần và có giá trị vĩnh hằng. Tuy nhiên bước đường này sẽ được các tông đồ và chúng ta tiếp nối, kéo dài cho đến khi Ngài quang lâm, cho nên Chúa đi nơi xa xét theo phương diện con người cảm thấy nhưng Chúa luôn mãi ở gần “Này Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Cái quan trọng của chúng ta hôm nay là đừng sao nhãng lời nhắn nhủ của Chúa, bởi vì con đường đi lên trời của Chúa vẽ cho chúng ta không phải là một đường thẳng băng, chính Chúa Giêsu là Thiên Chúa cũng đã phải cố gắng mới hoàn tất, huống chi chúng ta là con người đầy trì trệ, nhiều khi chúng ta cũng cố gắng chấp cánh bay nhưng tội lỗi lại lôi chúng ta xuống, có khi đã chạm đến trời cao nhưng vì kiêu căng lại té xuống.

Cuộc chia tay Thầy trò không phải đã chấm dứt bằng sự kiện người về trời cao, người ở lại dưới thế, mà này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Rõ ràng cõi trời mà Chúa trình bày chẳng xa xôi mà rất gần gũi, gần gũi đến độ thân tình tin tưởng nên Chúa mời gọi cộng tác qua việc làm cho nhiều người biết Chúa, hãy đi rao giảng cho muôn dân luôn là mệnh lệnh lên đường cho các môn đệ và cũng là mệnh lệnh cho chúng ta hôm nay. Và hơn thế nữa trong một xã hội tục hoá và kém tin, mệnh lệnh này vẫn mang tính thời sự. Ngày nay người ta ngại lên đường khi mà các phương tiện, tiện ích không đáp ứng nhu cầu, và người ta cũng ngại đối diện với sự thực, đó chẳng qua là sự ru ngủ và yên nghỉ với những cái đã đạt được và cũng là sự ươn lười, cái sức ỳ đó sẽ không là lực đẩy để chúng ta vươn lên cõi trời cao đâu.

Lúc còn nhỏ khi nhìn lên bầu trời quả là một cõi xa vời và thi vị và ước vọng đi lên cõi trời luôn là những khát khao rất trẻ con là để được thấy tất cả mọi người phía dưới. Ước vọng vươn đến trời cao cũng là ước mơ của nhân loại vì cõi trần quá phức tạp và đã bị xấu đi, người ta mơ tưởng đến một cõi khác có sự công bằng hơn. Nhưng cõi trời vẫn là cái gì đó xa xôi huyền bí, nhân loại chưa thể khám phá và chẳng biết gì hơn. Sự kiện Thăng Thiên của Chúa không phải là cú ngoạn mục để lòe các môn đệ, mà là chân lý của tình yêu: Thầy đi có lợi cho anh em. Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Thầy đi để Đấng an ủi sẽ đến. Chúa về trời là nhằm thiết lập vĩnh viễn cho chúng ta một đường đi lên.

 

34. Sống Mầu Nhiệm Lên Trời--Lm Thiện Duy

Kinh Nghĩa Đức Tin mà chúng ta đọc mỗi ngày Chúa Nhật, là tóm kết tất cả những điều chúng ta phải tin và những việc chúng ta phải làm để thể hiện đức tin của chúng ta. Trong niềm tin đó có việc Chúa Giêsu chịu chết, sống lại, khỏi 40 ngày lên trời. Còn trong Kinh Tin Kính cũng có đoạn nói về sự việc này là Chúa Giêsu sống lại, lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Trong những tuần vừa qua, nếu có đi lễ ngày thường chúng ta sẽ được nghe diễn từ giã biệt của Chúa Giêsu, có nghĩa là những lời từ biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài. Ngài cho các môn đệ biết là Ngài sẽ trở về với Chúa Cha. Cụ thể trong những bài đọc hôm nay cũng có nhắc đến việc Chúa Giêsu lên trời: “Nói xong Người được cất lên ngay trước mắt các ông”. Còn Tin Mừng Maccô trong Chúa Nhật năm B thì sẽ có tường thuật giống như sách Tông Đồ Công Vụ: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”. Vì thế việc Chúa Giêsu “lên trời” là một sự thật. Tuy nhiên Chúa Giêsu lên trời có phải là Ngài không còn ở với chúng ta nữa hay không? Chúng ta phải hiểu “lên trời” nghĩa là gì? Việc “lên trời” của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì trong cuộc sống chúng ta? Và cuối cùng là chúng ta phải làm gì khi nghe những lời sau cùng của Chúa Giêsu trước khi lên trời?

I/ BIẾN CỐ LÊN TRỜI CỦA CHÚA GIÊSU

1/ Lên trời nghĩa là gì?

Đức Kitô Phục Sinh đã vào trong vinh quang, đó là một tín điều. Nhưng đó còn là một mầu nhiệm vượt quá kinh nghiệm giác quan, và có lẽ không chỉ hạn hẹp nơi ngọn núi ở Galilê mà Chúa Giêsu hẹn gặp các môn đệ hôm nay. Lên trời là giải thích theo ngôn ngữ của con người cho dễ hiểu. Theo quan niệm phổ biến của Thánh Kinh, trời là chỗ ở của thần minh, do đó cũng được dùng một cách tượng trưng để chỉ Thiên Chúa. Còn đất là nơi loài người cư ngụ. Tình trạng tốt đẹp, khá hơn thì gọi là “lên” (gặp một người làm ăn khá giả mình nói: “lúc này lên hương rồi hé!”). Tình trạng lùi lại, xấu hơn thì gọi là “xuống” (Lâu ngày gặp lại một người bạn ốm nhom, hốc hác, mình nói: “sao lúc này xuống dữ vậy!”). Ngày xưa khi Ngài nhập thế thì gọi là “xuống trần”. Hôm nay Ngài trở lại với tình trạng vinh quang thì gọi là “lên trời”. Vì vậy “lên trời” đối với Chúa Giêsu không phải là một hành động bay đến một nơi, nhưng đó là tình trạng Ngài đã lấy lại vinh quang. Ngài vẫn còn ở bên cạnh chúng ta, vì Ngài đã nói: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Hiểu như vậy để chúng ta đừng nghĩ rằng Chúa Giêsu lên trời là Ngài rời bỏ chúng ta, không còn ở với chúng ta. Nhưng mừng lễ Chúa Giêsu lên trời là chúng ta mừng vinh quang của Chúa, mừng Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Tuy nhiên Ngài không còn hiện diện một cách hữu hình với con người nữa, hay nói cách khác: xác phàm của con người không thể thấy được vinh quang của Đức Kitô Phục Sinh.

2/ Biến cố “lên trời” trong đời sống kitô hữu

Khi lần chuỗi với mầu nhiệm năm sự mừng, chúng ta đọc: “Thứ hai ĐGS lên trời. Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”. Thánh Phêrô thì khuyên các tín hữu của mình: “Nếu anh em sống lại làm một với Đức Kitô, thì anh em cũng phải tìm kiếm những thực tại cao siêu ở trên trời”. Còn trong Hiến Chế về Giáo Hội của Công Đồng Vatican II thì xác quyết: “Giáo Hội trần thế là một cuộc lữ hành về quê hương trên trời”. Vì thế, tuy sống ở đời này, nhưng chúng ta phải lo vun đắp cho hạnh phúc mai sau. Thánh tử đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh đã nói trước khi bị hành hình: “Thân xác tôi đây các ông muốn làm gì thì làm đi, nó sẽ chết nhưng mai này sẽ sống lại vinh quang”. Không cần ở đâu xa, ngay tại họ đạo Tắc Sậy của Giáo Phận Cần Thơ cũng có một con người biết qu#ý trọng thực tại cao siêu ở trên trời nên đã sẵn sàng từ bỏ những thứ chóng qua ở đời này để đổi lấy hạnh phúc đời sau. Người đó không ai khác hơn là cha Px. Trương Bửu Diệp.

3/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu

Điểm thứ 3 mà chúng ta cần lưu ý qua biến cố Chúa Giêsu lên trời là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đây là mệnh lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không chọn Giêrusalem vừa là thủ đô, vừa là cái nôi của Kitô giáo để gặp gỡ các môn đệ, nhưng Ngài chọn Galilê là vùng đất bị người Dothái loại trừ, là biểu tượng của dân ngoại. Ngài không chọn vùng đồng bằng để tâm sự với các ông, nhưng lại chọn ngọn núi cao vốn là nơi mặc khải của Thiên Chúa, để từ nơi cao đó các ông sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh phải tỏa rạng vinh quang của Thiên Chúa. Vì vậy những lời sau cùng của Chúa Giêsu, cách thức gặp gỡ của Ngài muốn nhắc nhở các môn đệ sứ mạng truyền giáo, bằng cuộc sống tỏa sáng cho mọi người noi theo.

II/ CUỘC SỐNG NGƯỜI KITÔ HỮU

Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời với 3 sự thật về ý nghĩa của việc lên trời, về việc Chúa lên trời trong đời sống của người kitô hữu và mệnh lệnh truyền giáo của Chúa, chúng ta phải sống những điều đó như thế nào đây?

1/ Chúa lên trời nhưng vẫn ở với con người

Trước hết chúng ta đã biết lên trời là tình trạng vinh quang của Chúa Giêsu. Vì vậy nhờ vinh quang mà Ngài càng có thể ở cạnh con người, càng giúp đỡ con người một cách đắc lực hơn. Cho nên chúng ta hãy nhớ rằng Chúa sẽ ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, để chúng ta sống là sống cho Chúa, sống trong Chúa và sống với Chúa. Mọi sự bất toàn nơi con người chúng ta là do không y thức sự hiện diện của Chúa. Nếu chúng ta biết và nhớ rằng Chúa luôn ở bên cạnh tôi thì làm sao chúng ta có thể làm những điều xấu được. Vì vậy làm sao để chúng ta ý thưc sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta đây? Chúng ta hãy dựa vào những phương thế siêu nhiên mà Chúa và Giáo Hội đã dạy chúng ta. Đó là năng đọc và suy niệm lời Chúa; lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Giải Tội; siêng năng lần chuỗi mân côi; đọc lời nguyện tắt, có nghĩa là chọn một câu nào đó mình thích để lặp đi lặp lại suốt ngày trong đời sống chúng ta. Ví dụ: “Lạy Chúa Giêsu xin thương xót con”, hay: “Lạy Chúa Giêsu con yêu mến Chúa”. Chúng ta hãy nhớ rằng tự sức chúng ta và những phương thế tự nhiên không thể nào thắng được ba thù: thế gian, ma quỷ và xác thịt đâu; chỉ có ơn Chúa và phương thế siêu nhiên mới có thể giúp sức cho chúng ta mà thôi.

2/ Hướng lòng lên trời

Từ việc Chúa lên trời cho chúng ta một niềm tin chắc chắn rằng một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được về trời với Chúa. Vì vậy ngay từ bây giờ chúng ta phải chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Chuẩn bị cho cuộc sống mai sau có nghĩa là chúng ta phải biết rằng cuộc sống này chỉ là tạm bợ, chóng qua, để chúng ta không bám víu vào mà chỉ lo tìm kiếm những thứ thuộc về đời này, những thứ mà Chúa Giêsu gọi là thuộc về thế gian. Đồng thời chúng ta phải sống thực tại Nước Trời ngay tại trần gian này. Mà thực tại Nước Trời là gì nếu không phải là tình yêu thương. Do đó dấu hiệu để chúng ta biết mình sống ở đời này mà có lo vun đắp cho hạnh phúc mai sau hay không chính là việc chúng ta có thể hiện tình yêu thương trong cuộc sống hay không.

3/ Thực hiện lệnh truyền giáo

Cuối cùng, chúng ta phải thực hiện di chúc của Chúa Giêsu, đó là “anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Đó cũng là ước nguyện cuối cùng của Chúa Giêsu, muốn cho mọi người được vào Nước Trời với Chúa. Vì vậy bổn phận của chúng ta là phải đem Chúa đến cho những người chưa biết Chúa, hay còn gọi là truyền giáo. Truyền giáo là làm sao? Chúng ta khoan hãy nghĩ đến chuyện lôi kéo nhiều người vô đạo, làm sao cho càng có nhiều người được rửa tội càng tốt… đó là cách thức của việc truyền giáo. Nhưng trước hết chúng ta hãy nghĩ đến nội dung truyền giáo, có nghĩa là Tin Mừng mà chúng ta muốn truyền đạt là như thế nào; có hấp dẫn người ta mới theo, có đáng tin người ta mới vào. Điều đó đòi hỏi bản thân chúng ta trước hết phải cảm nhận được điều mình muốn truyền đạt. Mình phải cảm thấy niềm vui, hạnh phúc trong đời sống đạo thì mình nói người ta mới tin. Khi đã có nội dung của Tin Mừng rồi thì phần còn lại là cách chúng ta trình bày cho người khác bằng lời rao giảng, bằng cách sống đạo, bằng lời cầu nguyện… Lúc đó người ta tin chúng ta không phải vì lời rao giảng, không phải vì những việc chúng ta làm, nhưng vì hạnh phúc chúng ta đang cảm nhận, niềm vui chúng ta đang có, và hy vọng chúng ta đang mong chờ.

Tóm lại, Phụng Vụ Lời Chúa trong lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay cho chúng ta biết rằng việc lên trời của Ngài là trở lại tình trạng vinh quang thuở ban đầu, nên Ngài vẫn hiện diện và càng ở bên cạnh để ban ơn giúp sức cho chúng ta. Nhờ Chúa Giêsu lên trời mà chúng ta tuy sống ở đời này nhưng vẫn hướng lòng về trời cao để sống giá trị của Nước Trời ngay tại thế này để hy vọng một ngày nào đó cũng được về trời với Chúa. Cuối cùng vì niềm tin vào việc chúng ta cũng sẽ được về trời với Chúa nên chúng ta có bổn phận làm cho người khác cũng được vào Nước Trời, bằng cách phải cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì tôi là người kitô hữu, từ đó lời rao giảng của chúng ta mới có sức mạnh lôi kéo người khác. Lạy Chúa, xin cho con lòng ái mộ những sự cao siêu ở trên trời.

 

35. Chúa Thăng Thiên

Ngày 12.8.1985, tai nạn máy bay Boeing 747 của hãng hàng không Nhật làm cho 520 người thiệt mạng. Thật là một tai nạn khủng khiếp!... Lúc máy bay sắp rớt, mọi người trên đó đều biết chắc mình phải chết, nên vội vàng ghi lại lời trối cuối cùng của mình, để từ biệt mọi người thân yêu.

Ông Kawaguchi viết cho vợ:

- Vĩnh biệt em! Nhớ chăm sóc các con!

Với ba đứa con, ông trối:

- Các con hãy sống thương yêu hoà thuận nhau. Cố gắng làm việc và giúp đỡ mẹ. (Theo "Chuyện hay ý đẹp").

Người sắp chết bao giờ cũng trối trăn lại với những người thân yêu, căn dặn họ mọi điều, nhất là uỷ thác cho họ những việc làm còn dang dở... để họ ở lại thực hiện cho hoàn tất.

Khi Đức Giêsu chấm dứt giai đoạn hiện diện hữu hình nơi trần gian, chương trình cứu độ chưa hoàn thành, thế giới còn rất nhiều người chưa biết Chúa, chưa biết ơn cứu độ. Chúa Giêsu biết rõ là loài người rất cần ơn cứu độ, cần được hạnh phúc nên Ngài đã uỷ thác sứ mạng cứu thế này cho các môn đệ của mình: "anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em..." (x. Mt 28, 18; Lc 24,46)

Tuy nhiên, bản chất con người là yếu đuối, không thể tự mình đảm đương được công việc lớn lao như vậy. Vì thế, Chúa Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho Hội Thánh để Ngài dẫn dắt, an ủi và đồng hành với các môn đệ trong việc rao giảng và làm chứng cho Sự Thật, cho Tin mừng Chúa Phục sinh.

Bổn phận của chúng ta, những người môn đệ Chúa là làm chứng cho Chúa bằng cả cuộc sống của mình. Như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và sẵn sàng thí mạng để cứu chúng ta, thì đến lượt chúng ta cũng sẵn sàng làm chứng cho Chúa. Tất cả mọi lời nói, công việc chúng ta làm thì hãy làm vì yêu mến Chúa, vì muốn đáp trả tình thương của Chúa, muốn làm đẹp lòng Chúa. Muốn vậy, chúng ta phải theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta không thể tách lìa việc sống đạo với cuộc sống hàng ngày. Có nhiều người chỉ giữ đạo trong nhà thờ, chỉ theo Chúa trong nhà thờ, còn những lúc khác thì họ không nhớ tới Chúa! Có người nói rằng: những lúc khác họ chạy theo tiền bạc, danh, tước.

Vì vậy, Chúa Giêsu có lần nhắc bảo các môn đệ: "Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được."(Lc 16, 13). Nếu chúng ta là môn đệ của Chúa thì chỉ tôn thờ Chúa mà thôi. Còn tiền, chức, danh chỉ là phương tiện. Nếu chúng ta sử dụng phương tiện đúng mục đích thì có công, còn sử dụng sai thì có lỗi với Chúa. Chúa ban cho các phương tiện để chúng ta làm chứng cho chân lý, cho sự thật về hạnh phúc đời sau. Chúng ta sử dụng các phương tiện đó để làm tròn bổn phận của mình được giao phó, nhưng chúng ta không quá lo tìm kiếm chúng mà xao lãng bổn phận với Chúa và tha nhân.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết hướng lòng về Chúa trong khi chu toàn các bổn phận nơi trần gian để mai sau được triều thiên vinh quang bất diệt trên quê Trời.

 

36. Chuyến đi về trời--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Có lẽ ai trong chúng ta cũng từng nghe đến tác phẩm "Hồn Trương Ba da hàng thịt". Đây là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984.

Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần 60, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan.

Để sửa sai, Nam Tào đã cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba vào một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ thân xác người khác, nhưng đáng tiếc, lại là một anh hàng thịt bặm trợn nên dần dần Trương Ba cũng mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Trương Ba đã đau xót thốt lên:

"Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát."

Đôi khi chúng ta cũng từng có những trăn trở và giằng xé như Trương Ba, con người ta thực sự nằm ở đâu? Ý nghĩa cuộc sống của ta là gì? Ta là ai, một tâm hồn nho nhã của ông lão Trương Ba hay một ông Trương Ba thô lỗ ở hàng thịt?

Thực ra, cuộc sống là một hành trình. Một hành trình phải đi tới. Một hành trình đòi hỏi con người mình phải lột xác mỗi ngày nên hoàn thiện hơn. Có ai đó từng nói: "Khi con sâu bướm đến tuổi, nó bắt buộc phải lột xác, hình thành kén và hóa bướm, nếu không nó sẽ chết. Khi đại bàng 40 tuổi, nó bắt buộc phải chịu những đau đớn tột cùng của việc nhổ lông, cạy mỏ để bước sang tuổi mới, nếu không nó sẽ chết."

Cuộc sống con người cũng phải luôn thay đổi, luôn thích nghi để mình nên hoàn thiện hơn. Con người luôn phải đấu tranh với cái thiện, cái ác để bảo vệ chân thiện mỹ trong cuộc đời của mình. Không ai sinh ra là đã hoàn thiện, mà phải nỗ lực vượt qua mọi cám dỗ, mọi thử thách để hoàn thiện chính mình.

Thay đổi là điều không thể tránh được trong đời - có khi đó là một việc bình thường nhưng cũng có lúc là sự mất mát. Có những thay đổi là chuyện tự nhiên, như sinh - lão - bệnh - tử của con người, nhưng cũng có những đổi thay gây ra nhiều thảm kịch như bệnh tật, tai nạn hay phá sản... Nhưng cũng giống như sự thay đổi suốt quá trình chuyển hoá diệu kỳ của loài sâu buớm trong lớp vỏ kén để trở thành một cánh bướm rực rỡ sắc màu, sự thay đổi chính là cơ hội để ta thoát khỏi giới hạn của kiếp người để hướng tới một đời sống siêu nhiên cao quý hơn.

Điều này đã xảy ra nơi Chúa Giêsu. Ngài sinh ra trong thân phận con người. Ngài cũng nỗ lực vượt lên trên mọi khó khăn, mọi gian khổ, kể cả cái chết để hoàn thành đời mình. Ngài đã hoàn thành kiếp người trong vâng phục thánh ý Chúa Cha để ngày nay Ngài được đổi mới hoàn toàn qua sự phục sinh vinh quang. Ngài đã chấp nhận đi qua cái đau của con kén để trở thành cánh bướm rạng rỡ trong vinh quang. Sự phục sinh của Ngài là phần thưởng cho những đau khổ thập giá mà Ngài trải qua.

Lễ Chúa về trời còn là lời khẳng định cho chúng ta về chuyến đi cuộc đời của Ngài. Ngài đã đi qua kiếp người. Ngài đã đi qua những bể dâu của cuộc đời để tiến vào quê trời, là nơi không còn khóc lóc, than van và đau khổ. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời không ngừng chọn theo thánh ý Chúa để từ khước những lời mời mọc của ma quỷ thật ngọt ngào, thật quyến rũ về danh lợi thú trần gian. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời dâng hiến để phục vụ tha nhân và phục vụ tin mừng Nước Trời. Ngài đã sống một cuộc đời như hạt lúa gieo vào lòng đất, chịu mục nát để trổ sinh bông lúa vàng. Ngài đã đi đến cùng của việc xin vâng theo thánh ý Chúa, cho dẫu lời xin vâng cần phải thể hiện bằng chén đắng cuộc đời. Thế nên, Ngài đã được Chúa Cha ân thưởng và siêu thăng lên cõi trời. Ngài đã hoàn thành sứ mạng của mình tốt đẹp và nay về trời chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa Cha.

Đó cũng là con đường mà Chúa luôn mời gọi chúng ta bước theo. Đường thập giá tới vinh quang. Đường hẹp đưa ta vào cõi sống trường sinh. Đường tử bỏ những tham sân si để sống cao thượng và thanh thoát hơn. Đừng đam mê xác thịt. Đừng nuông chiều xác thịt. Hãy sống tiết độ. Hãy vác thập giá của bổn phận, của hy sinh phục vụ anh em để nhờ đó mà ta được đổi mới nên tốt hơn, nhất là được lột bỏ con người cũ để sống sự sống con người mới, con người của con cái sự sáng, ngõ hầu mai sau cũng được phục sinh với Chúa.

Cuộc đời là một hành trình. Hành trình tiến về Thiên quốc. Hành trình này không thể đạt được bằng sự dễ dãi, nuông chiều xác thịt. Hành trình này đòi phải hy sinh, phải phấn đấu mới mong đạt được. Xin Chúa giúp chúng ta luôn nhìn lên trời cao là đích điểm của mình để can đảm từ bỏ những đam mê tội lỗi trần gian. Xin Chúa giúp chúng ta biết lột bỏ con người cũ cùng những tính hư nết xấu của mình để hoàn thiện mình mỗi ngày nên giống Chúa hơn, ngõ hầu mai sau cũng được về quê trời hưởng phúc vinh quang với Chúa. Amen.

 

37. Hãy là chứng nhân của Thầy--Giuse Vinc. Ngọc Biển

Toàn Giáo Hội hân hoan mừng lễ Chúa Thăng Thiên, tức là lên trời. Việc Chúa lên trời, Ngài đã chấm dứt cuộc đời trần thế theo ý muốn của Chúa Cha.

Vậy, đâu là ý nghĩa của việc Chúa lên trời? Ngài lên trời có chấm dứt sự hiện diện trong Giáo Hội hay không? Trước khi lên trời, Chúa đã để lại cho Giáo Hội sứ mạng gì? Và, mỗi người Kitô hữu chúng ta sống niềm hy vọng Thiên Quốc ra sao?

1. Ý nghĩa của việc Chúa lên trời

Sự kiện Chúa Giêsu về trời cho chúng ta thấy: Ngài đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha. Đã chu toàn sứ mạng cứu độ con người qua cái chết trên thập giá. Ngài đã sống lại để làm chứng những lời Ngài đã loan báo. Và, hôm nay, Ngài lên trời để đem lại cho chúng ta niềm hy vọng mai ngày cũng được về trời với Ngài như lời Ngài đã nói: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó" (Ga 12,26).

Việc Chúa Giêsu lên trời cũng là lúc kết thúc những cuộc gặp gỡ bằng xương bằng thịt và mở ra một cuộc gặp gỡ thiêng liêng, vượt lên trên không gian và thời gian. Sự kiện này không chấm dứt mọi hoạt động của Ngài trên trần gian. Nhưng qua đó, Chúa Giêsu hiện diện cách phổ quát: "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20). Ngài hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, qua Giáo Hội, trong con người của các chứng nhân. Vì thế, Chúa Giêsu trở về với Chúa Cha, nhưng Ngài lại khai mở ra cho các Tông đồ và Giáo hội một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của việc loan báo và làm chứng về Đấng Phục Sinh.

2. Sứ mạng của các Tông đồ sau khi Chúa Giêsu lên trời

Chúa Giêsu về trời, Ngài trao ban sứ mạng truyền giáo cho Giáo hội, khởi đi từ các Tông đồ. Lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15), để "muôn dân trở thành môn đệ"(Mt 28,19) phải là lời mời gọi, một lệnh truyền cấp thiết hơn bao giờ hết.

Trước khi Chúa Giêsu về trời, về với Đấng là Cha đã sai mình đến trần gian, Ngài đã truyền lệnh cho các tông đồ: "Như Cha đã sai Thầy vào thế gian, Thầy cũng sai anh em vào thế gian" (Ga 17,18; x. 20,21). Anh em hãy ra đi và loan báo về: "Đức Mêsia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem" (Lc 24,46-47).

Khi Chúa đã lên trời, thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi, phải ra đi để đến với muôn dân như lời Ngài đã truyền. Các ông ra đi để tuyên xưng niềm tin của mình vào Đấng đã chết và đã phục sinh. Vào Đấng là đường, là sự thật và là sự sống. Vào Đấng đã yêu thương con người, đã chết và đã sống lại vì hạnh phúc và phần rỗi của con người. Đấng ấy đã lên trời để đem lại niềm hy vọng cho những ai tin vào Ngài cũng được lên trời như các ông đã thấy Ngài lên trời.

Chính trong giây phút này, các ông nhận lãnh sứ mạng xây dựng Giáo Hội, một Giáo Hội có Thiên Chúa là Chủ và có nhau là anh em. Một Giáo Hội yêu thương, hiệp nhất. Một Giáo Hội công bằng văn minh.

Khi Ngài lên trời, Ngài đã giơ tay chúc lành cho các Tông đồ. Hành vi giơ tay được hiểu như là cử chỉ của sự trao ban bình an và đồng thời cũng là biểu hiện sự tin tưởng và trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng cho các Tông đồ.

Sứ mạng mà các ông lãnh nhận và tiếp nối nơi Thầy của mình không phải là một công việc dễ dàng. Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: "Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói" (Lc 10,3). Vì thế, "anh em hãy ở khôn như rắn và đơn sơ như chim bồ câu" (Mc 10,16b).

Khó khăn! Đúng vậy. Chẳng bao lâu, các ông đã bị vua Chúa, quan quyền truy nã vì loan báo về danh Chúa Giêsu... Vì thế, các Tông đồ phải chạy trốn hết thành này sang thành nọ. Hơn bao giờ hết, các ông thấm thía chân lý của hạt lúa gieo vào lòng đất. Chân lý ấy đã được Thầy của mình sống cách triệt để và mời gọi mình bước theo: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt" (Ga 12,24). Hiểu được điều đó, các ông đã không sợ bất cứ ai hay một thế lực nào làm cản trở công cuộc loan báo Tin Mừng. Quả thế, Thánh Phaolô đã nói: "Về bất cứ điều gì, đừng sợ những kẻ chống đối anh em: đó là dấu chỉ cho thấy họ sẽ bị hư vong, còn đối với anh em, thì lại là dấu chỉ ơn cứu độ. Điều ấy là ân huệ Thiên Chúa ban. Quả thế, nhờ Đức Kitô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. Nhờ vậy, anh em được tham dự cùng một cuộc chiến mà anh em đã thấy tôi phải đương đầu trước kia, và nay anh em nghe biết là tôi vẫn còn tiếp tục" (Pl 1,28-30). Cuối cùng, các ông đã không thể ngồi yên khi biết bao con người chưa nhận biết Chúa, nên lại một lần nữa, Phaolô diễn tả tâm trạng đó như sau: "Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng" (1 Cr 9,16).

3. Sứ mạng loan báo Tin Mừng của mỗi chúng ta

Tiếp nối các Tông đồ, có biết bao nhiêu người đã lên đường, đến những nơi heo hút treo leo. Đã biết bao vị thừa sai bỏ lại mạng sống nơi rừng thiêng nước độc. Miễn sao Tin mừng được loan báo. Quả thật: việc truyền giáo hay loan báo Tin mừng là bản chất của Giáo hội Chúa Kitô (x. Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes, số 4;16). Sứ mạng ấy bắt nguồn từ việc Chúa Cha đã trao cho Con của Ngài là Chúa Giêsu, và chính Ngài cũng trao phó cho các Tông đồ và cho mỗi chúng ta: "Như Cha đã sai Thầy vào thế gian, Thầy cũng sai anh em vào thế gian" (Ga 17,18; x. 20,21).

Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về Chúa Kitô và nhận lãnh sứ mạng ngôn sứ từ nơi Ngài. Vì thế, mỗi người chúng ta hãy ra khỏi sự ổn định, an toàn của bản thân và hãy lên đường loan báo Tin Mừng, dẫu biết rằng, công cuộc ấy chẳng mấy tốt đẹp theo kiểu con người suy nghĩ. Vì thế, Chúa Giêsu đã tiên báo: "Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét" (Lc 21,17). Và "hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em" (Ga 15,29). Nhưng hãy học nơi các Tông đồ: càng bị sỉ nhục, bắt bớ và tù đày, các ông lại càng "hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5,41). Bởi xác tín rằng "... trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16, 33; x. Rm 8,35-37).

Lời loan báo của chúng ta vào Đức Giêsu phục sinh quả là một hành trình, đòi hỏi chúng ta phải là những người đã cảm nghiệm được về Đấng mà chúng ta loan báo: "Chính anh em là chứng nhân về những điều này" (Lc 24,48). Không ai lại đi loan báo về một người mà chúng ta không biết và không tin; hay loan báo vào những thời điểm hay một nhóm người nhất định trong một không gian cụ thể, mà là: "Anh em hãy là nhân chứng cho Thầy đến tận cùng trái đất" (x. Cv 1,8). Trong hành trình loan báo đó, dù gặp phải muôn vàn khó khăn, nhưng chúng ta tin tưởng vào sự bảo trở của Đấng mà Chúa Giêsu đã ban xuống trên các Tông đồ khi xưa: "Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem và khắp cùng thế giới" (x. Cv 1,8).

Chúng ta mừng lễ Chúa lên trời, cũng là lúc một lần nữa chúng ta xác định về vai trò ngôn sứ và chứng nhân của mỗi chúng ta. Mong thay lời bài hát "Đẹp Thay" của Linh mục Nhạc sĩ Mi Trầm lại một lần nữa được vang lên trên môi miệng những ngôn sứ của Lời trong xã hội hôm nay: Đẹp thay những bước chân gieo mầm cứu rỗi. Đẹp thay những bước chân rảo khắp nẻo đường. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong vui sướng. Ai gieo trong nước mắt, sẽ về trong tiếng cười. Ôi đẹp thay những bước chân tiến vào giữa lòng thế giới, loan tình thương Chúa Trời, loan niềm vuii cứu đời, cho mọi người và mọi nơi.

Để kết thúc, xin cũng mượn lời của Đức cố Hồng y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận trong tác phẩm Đường Hy Vọng của ngài, khi nói về những khó khăn mà người môn đệ của Chúa Giêsu sẽ phải chịu trên con đường loan báo Tin Mừng; đồng thời cũng xác tín mạnh mẽ những ân ban cho những ai trung thành đến cùng trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Ngài nói: "Con run sợ: vấp ngã, khó khăn, hiểu lầm, công kích, sỉ nhục, tử hình... Con quên Phúc Âm sao? Chúa Giêsu đã chịu tất cả. Cứ theo Ngài con sẽ Phục Sinh" (ĐHV số 44).

Lạy Chúa, hôm nay Chúa về trời, Chúa đã chúc lành cho các Tông đồ và cũng cho tất cả mỗi người chúng con là những người tin Chúa; đồng thời Chúa cũng trao phó cho các ngài và Giáo Hội phải loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin Chúa cho mỗi chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi làm chứng cho Chúa trong lòng xã hội hôm nay dầu có phải chịu đau khổ, thử thách. Amen.

 

38. Thời kỳ của Giáo Hội-– Flor McCarthy--‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’

Suy Niệm 1. HIỆN DIỆN VÀ VẮNG MẶT

Vào ngày Lễ Thăng Thiên, Đức Giêsu đã rút lại sự hiện diện thể lý của Người đối với các môn đệ. Nhưng sự vắng mặt thể lý ấy không có nghĩa là chấm dứt sự hiện diện. Sự thăng thiên của Đức Giêsu là sự giải phóng của Người khỏi mọi giới hạn của thời gian và không gian. Nó không thể hiện vận động của Người trên mặt đất, nhưng sự hiện diện thường xuyên của Người ở mọi nơi trên trái đất.

Sự hiện diện thể chất không phải là tất cả. Thật vậy, một đôi khi, sự hiện diện có thể đạt được bằng con đường hiệp thông mật thiết. Trong đời sống chúng ta gặp nhiều nỗi thất vọng bởi sự kiện, sự gặp gỡ và tiếp xúc không phải lúc nào cũng tạo ra sự thân mật, gần gũi mà chúng ta tìm kiếm. Hai người có gần gũi nhau về mặt thể chất thế nhưng cuộc sống vẫn xa cách, cô đơn. Bởi lẽ không có sự gặp gỡ trong trí óc và tâm hồn. Họ giống như những vỏ sò trên bãi biển.

Mặt khác, người ta có thể rất gần nhau dù xa cách nhau hàng ngàn dặm. Đối với những người cùng nhau lớn lên, trưởng thành phải có những thời kỳ vắng mặt và hiện diện. Khi vắng mặt, chúng ta nhìn nhau bằng một phương thế mới mẻ. Chúng ta bớt bực bội nhau vì những cung cách bên ngoài, và có thể thừa nhận giá trị thật của nhau tốt hơn.

Nếu chúng ta có thể hiện diện trọn vẹn với bạn hữu khi chúng ta ở với họ thì sự vắng mặt của chúng ta cũng sẽ mang lại kết quả. Khi hồi tưởng sự hiện diện nồng nàn ấy hơi ấm của nó sẽ tiếp tục nuôi dưỡng người kia. Vì thế, không chỉ sự hiện diện của chúng ta mà cả sự vắng mặt của chúng ta cũng đem lại nhiều ơn ích.

Khi chúng ta nghĩ đến nhau trong sự yêu thương, một dây liên kết tinh thần hình thành ở giữa chúng ta và chúng ta bước vào một sự thân mật mới. Đối với những người yêu thương nhau, không có chỗ dành cho sự “xa cách”.

Đức Giêsu lên trời không phải là một cuộc hành trình ra ngoài không gian, nhưng là một cuộc hành trình về nhà, chúng ta không nên nghĩ rằng trước đó Người sống trên mặt đất, còn giờ đây Người lại trở lại nơi thật sự thuộc về Người. Nếu như thế thì Kitô giáo không hơn một tôn giáo của sự hoài niệm, hồi tưởng. Đức Giêsu đã về với Chúa Cha. Trong suốt sứ vụ ở trần gian, Người chỉ có thể ở một nơi và trong một thời gian. Nhưng giờ đây, Người đã hiệp nhất với Thiên Chúa, Người hiện diện bất cứ nơi nào Thiên Chúa hiện diện, có nghĩa là ở khắp mọi nơi.

Các Kitô hữu tiên khởi đã hiểu điều ấy rất rõ. Họ biết rằng Đức Giêsu vẫn ở với họ, cho dù không cùng một cách thức như trước đây. Họ tin rằng Người vẫn chia sẻ đời sống với họ, và cái chết có nghĩa là được hiệp nhất với Người trong vinh quang mãi mãi.

Tuy nhiên khi nhìn lại, chúng ta cũng thèm muốn được như những người có may mắn nhìn thấy Chúa Phục Sinh bằng chính mắt mình. Nhưng Tin Mừng cho biết những người ở trong tình huống đáng ao ước ấy đã không thật sự nhận ra Đức Giêsu cho tới lúc Người dẫn giải Kinh Thánh và bẻ bánh.

Là những Kitô hữu hôm nay, chúng ta cũng có những phương tiện như thế để nhận ra Chúa: Kinh Thánh và việc bẻ bánh. Về vấn đề gặp gỡ Đức Giêsu bằng đức tin, thế hệ đã qua không có nhiều đặc quyền hơn thế hệ hiện tại.

Đức Giêsu đã tín nhiệm các Tông đồ (và giờ đây tín nhiệm chúng ta) để Tin Mừng bảo đảm được rao giảng và được sống. Người cần chúng ta làm chứng cho sự hiện diện của Người trong thế gian.

Suy Niệm 2. NHÂN CHỨNG CHO ĐỨC KITÔ

Trước khi rời xa các tông đồ, Đức Giêsu đã uỷ thác cho họ việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới. Để giúp họ thi hành sứ vụ ấy. Người hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần đến cùng họ. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Người đã hoàn thành lời hứa ấy.

Nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho thế giới hiện nay tuỳ thuộc vào chúng ta. Chúng ta là những nhân chứng của Đức Kitô. Đó là một đặc ân to lớn nhưng là một nhiệm vụ luôn làm người ta chán nản. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể cậy đến sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần. Nhưng chúng ta phải làm chứng như thế nào?

Có sự làm chứng bằng lời nói. Chúng ta làm chứng bằng việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Điều này có thể bao gồm việc giải thích đức tin và bảo vệ đức tin.

Có sự làm chứng bằng việc làm. Một cây táo không bao giờ cho trái táo sẽ là một chứng tá nghèo nàn đối với vườn cây ăn trái. Dù chỉ trái táo ngon cũng nói lên được một điều gì đó. “Chớ vao giờ khuyên bảo một điều gì mà bạn không thể làm gương về điều đó” (Thoreau).

Rồi có sự làm chứng bằng đời sống của mình. Cây cối làm chứng cho sự sống bằng chính sự hiện hữu của nó. Cao, thẳng, bất độn, chúng là những chứng tá im lặng nhưng hùng hồn của đời sống. Bông hoa làm chứng về cái đẹp đơn giản bởi vẻ đẹp phong phú của chúng. Và những Kitô hữu làm chứng bằng đời sống của họ. Bài giảng thuyết hùng hồn nhất là bài giảng thuyết thinh lặng bằng gương sáng. Ngày nay, người ta không còn muốn nghe những bài giảng về đức tin. Họ muốn nhìn thấy Tin Mừng trong hành động.

Sự làm chứng bằng đời sống của một Kitô hữu còn mạnh mẽ hơn bất cứ lý luận nào. Có những người mà đời sống của họ toả sáng chứng cứ về quyền năng biến đổi của đức tin. Trong đời sống của họ, đức tin là một ngọn lửa sáng, giữa đời sống của những người khác, đức tin là một ánh sáng lờ mờ hoặc một tia lửa bất chợt. Dù có mọi giới hạn và khuyết điểm của con người, nếu một người sống đơn sơ, lấy Đức Kitô làm mẫu mực thì người ấy là dấu chỉ về Thiên Chúa và về những thực tại siêu việt.

Chứng tá của Tin Mừng mà thế giới cho rằng có thể kêu gọi người ta nhiều nhất là sự quan tâm đến con người, là việc làm bác ái hướng về người nghèo, người yếu đuối và người chịu đau khổ. Sự quảng đại được nhấn mạnh trong thái độ và các hành động đó nổi lên sự tương phản với tình vị kỷ của con người. Nó đưa ra những vấn đề chính xác dẫn đưa người ta đến với Thiên Chúa và đến với Tin Mừng. Một cam kết với hoà bình, công lý, nhân quyền là một sự làm chứng cho Tin Mừng.

Có một cấp độ thứ tư của việc làm chứng, đó là làm chứng với cái chết của mình. Nhưng điều này không đòi hỏi mọi người hoặc ban cho mọi người. Đây không phải là con đường êm ái và dễ dàng, nhưng là một con đường đòi hỏi một tính kiên trì, sức mạnh và lòng can đảm đặc biệt.

Thế giới ngày nay có một sự khao khát mãnh liệt Đức Kitô của Tin Mừng. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: “Anh em hãy ở lại thành đô, cho đến lúc mặc lấy quyền năng từ trên cao”. Quyền năng nói ở đây là quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần có chính quyền năng này, nếu chúng ta làm chứng cho Đức Giêsu. Và ai làm chứng sẽ chia sẻ vinh quang của Người.

CÂU CHUYỆN KHÁC.

Ngày xưa, có một người cha có mười hai người con. Dù ông đều yêu thương các con, ông vẫn có một tình thương dịu dàng với đứa con áp út tên Giuse. Những người con khác ganh tỵ với Giuse và quyết định giết anh. Tuy nhiên, vào giây phút cuối cùng, họ đổi ý. Thay vì giết em, họ bán em cho những thương gia đi ngang qua đó, họ nói với cha họ rằng người em đã bị thú giết chết.

Giuse bị xích lại và đưa sang Ai Cập, ở đó ông được bán như một người nô lệ. Ông có một đời sống cùng cực, hèn kém. Dsư5 việc còn tệ hơn, khi ông bị vu khống và bị giam vào ngục tối. Dù xung quanh là những tội phạm cứng lòng, ông vẫn tiếp tục tín nhiệm vào Thiên Chúa và sống một đời sống tốt. Ông cũng làm bạn với các tội phạm. Cuối cùng ông làm rạng danh ông và được tha.

Lúc đó, như thấy trước nạn đói khủng khiếp sẽ đến, ông đã cảnh báo nhà vua phải truyền lệnh cho dân tiết kiệm ngũ cốc. Nhà vua không chỉ theo lời khuyên của ông mà còn đặt ông làm quản lý công việc. Giuse đã hoàn thành công việc một cách xuất sắc.

Nạn đói đã xảy ra như dự kiến và dân chúng có thể lấy lúa gạo tích trữ ra dùng. Nhưng trong các nước láng giềng, tình trạng trở nên tồi tệ. Dân chúng các nước kéo nhau về Ai Cập để tìm mua ngũ cốc. Và nhà vua nói với họ: “Hãy đến gặp Giuse”.

Một ngày kia, anh em của Giuse đã đến Ai Cập để mua ngũ cốc. Khi họ nhận ra ông họ run sợ. Nhưng thay vì trả thù, Giuse đã tiếp đãi tử tế, và cho họ đầy đủ ngũ cốc mà họ cần. Ông nói với họ hãy trở về nhà và đưa cha họ đi theo họ trở lại Ai Cập cho ông gặp.

Người cha già rất đỗi vui mừng khi nghe nói rằng đứa con trai thân yêu của ông vẫn còn sống. Các anh của Giuse đã phạm phải một hành động ác độc chống lại ông. Nhưng qua đó, điều tốt lành đã đến với ông. Ông có thể cứu các anh mình khỏi nạn đói và làm cho cho cả nhà được đoàn tụ.

Câu chuyện của Giuse là một trong những câu chuyện cao cả nhất của Kinh Thánh. Ông Giuse là hình ảnh của Đức Giêsu, Chúa Con yêu dấu của Chúa Cha, đã bị anh em Người bán đi, bị giết chết, nhưng giờ đây đã được Chúa Cha cho sống lại và đặt Người ở bên hữu Chúa Cha trong vinh quang. Từ vị trí cao trọng ấy, Người cứu chuộc chúng ta, anh chị em của Người khỏi tội lỗi và cái chết đời đời. Và Người tìm kiếm để quy tụ mọi thành phần còn tản lạc của gia đình Thiên Chúa.

Ngày hôm nay chúng ta cử hành sự thăng thiên của Đức Giêsu. Người lên trờ ngự bên hữu Chúa Cha. Đây là một ngày vui vẻ. Nhưng Người đã cho chúng ta một nhiệm vụ phải hoàn thành. Không phải là phân phát ngũ cốc, nhưng là rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới.

 

39. Chuyển giao sứ mạng

Trong điền kinh có môn chạy tiếp sức. Người thứ nhất cầm gậy chạy một đoạn quy định, chạy đến người đồng đội của mình trao cây gậy đó cho đồng đội của mình để chạy tiếp và cứ như thế cho đến hết số người quy định.

Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thăng Thiên. Chúa Thăng Thiên là làm sao? Có phải Chúa bay về vùng trời cao xa, Chúa bay về thiên quốc... Không phải như thế đâu. Chúa Thăng Thiên tức là Chúa chấm dứt sự hiện diện hữu hình tại thế của Người. Chúa Thăng Thiên nhưng Chúa không bỏ mặc các môn đệ mồ côi nhưng Ngài hứa "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế". Đoạn Tin Mừng theo thánh Luca mà chúng ta được đọc hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra và minh chứng chính Ngài là chứng mà Kinh Thánh đã tiên báo và kêu gọi các môn đệ hãy làm chứng về những điều đó. Muốn làm chứng điều đòi hỏi đầu tiên là người đó phải là người chứng kiến, phải cảm nhận tức là họ phải tin chắc chắn đó là thật thì mới dám làm chứng. Nhưng ở đây làm chứng cho Chúa Phục Sinh còn đòi hỏi một yếu tố quan trọng hơn đó chính là sức mạnh, quyền năng từ trời cao ban xuống.

Sau khi Chúa Giêsu sống lại nhiều lần Chúa đã hiện ra với các môn đệ để minh chứng rằng chính Ngài là Đấng đã chịu đau khổ, đã chịu chết, và nay đã sống lại. Các môn đệ đã tận mắt chứng kiến và hôm nay các ông được mời gọi làm chứng cho điều đó. Chúa Giêsu đã làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại và hôm nay trọng trách đó, "cây gậy tình yêu" đó được chuyển giao lại cho các môn đệ để các ông làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa cho con người được thể hiện qua tình yêu tự hiến, qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.

Chúa Thăng Thiên, Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mạng của Ngài và Ngài chuyển giao sứ mạng đó cho mỗi người chúng ta. Đối với chúng ta niềm vui Chúa Phục Sinh của Chúa Giêsu có là một niềm vui trọng đại nào không? Sự phục sinh của Chúa Giêsu có mang lại cho chúng ta chút ý nghĩa nào không? Sự phục sinh của Chúa Giêsu là một niềm vui lớn lao cho cả nhân loại, không riêng gì chúng ta. Chúa phục sinh tức Chúa đã chiến thắng cái chết với thân xác phải chết của chúng ta qua sự vâng phục trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Qua cái chết của Chúa Giêsu còn thể hiện một tình yêu bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, ngay Con Một mà Chúa cũng chẳng từ mà ban cho chúng ta thì thử hỏi Chúa còn tiếc gì đối với chúng ta nữa, thánh Phaolô đã nói "Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân", chúng ta không đáng yêu chút nào nhưng tình yêu của Thiên Chúa bao trùm lấy chúng ta. Qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, Chúa đã biểu lộ tình yêu của Chúa cho chúng ta bây giờ chỉ còn việc ta sẽ đáp lại tình yêu đó như thế nào, và sẽ loan báo tin vui đó ra sao. Nếu chúng ta tin rằng Chúa đã chết và sống lại vì chúng ta thì sao chúng ta chưa biết tạ ơn Chúa, chúng ta chưa cảm tạ Chúa trong từng ngày sống của chúng ta, chúng ta chưa phó thác mọi sự cho Chúa. Phó thác không phải là buông xuôi nhưng là thực hiện hết khả năng của mình trong sự tin tưởng vào Thiên Chúa. Chúa Giêsu chiến thắng khi Ngài hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, vậy chúng ta hãy vâng nghe lời Chúa để cũng được chiến thắng như Chúa Giêsu. Nghe tiếng Chúa qua việc siêng năng cầu nguyện, qua việc học hỏi thánh Kinh, qua việc tham dự Thánh Lễ, lãnh nhận các bí tích nhất là Bí Tích Thánh Thể... nghe tiếng Chúa để thi hành ý Chúa.

Chúa Thăng Thiên nhưng các môn đệ không buồn sầu thảm não như hôm Thầy bị bắt nhưng lòng các ông đầy hân hoan vì các ông biết rằng từ nay không được thấy Thầy mình hiện diện khả giác nữa nhưng các ông cảm nhận được sự hiện diện ấy bằng niềm tin. Trong niềm tin các ông cùng nhau hiệp nhất, cầu nguyện, chính trong niềm tin Chúa Phục sinh mà các ông gắn bó hơn với Chúa và gắn bó hơn với nhau. Mọi người Kitô hữu chúng ta cũng hãy biết gắn bó với nhau, hiệp nhất nhau trong lời cầu nguyện, hiệp nhất nhau trong Thánh Lễ, và chắc chắn khi đó sẽ cảm nhận được sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô.

Hôm nay Chúa Thăng Thiên mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của Giáo hội, kỷ nguyên của chính chúng ta. Chúng ta hãy làm chứng cho tình yêu thương của Thiên Chúa đã cho chúng ta tất cả kể cả Con yêu Dấu của Ngài bằng một đời sống vui tươi, cảm tạ, một mối tương quan bác ái, huynh đệ đối với mọi người chung quanh để làm sao thể hiện một con người được cứu độ, được Thiên Chúa yêu thương và loan báo tình yêu thương đó cho mọi người.

Người ta nói khi yêu không thể giấu được: một anh chàng hay một cô nàng đột nhiên ca hát, hớn hở, rất linh hoạt, rất cởi mở, vui tươi, yêu đời... thì người ta có thể đoán anh chàng hay cô nàng đó đang yêu.

Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta sẽ tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu trao phó là loan báo tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta bằng một đời sống như thế.

 

40. Suy niệm của R. Gutzwiller

Ý nghĩa Phục sinh

“Đức Kitô phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba sống lại từ cõi chết, rồi phải nhân danh Ngài rao giảng cho mọi dân tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi –khởi từ Giêrusalem’. Đấng chịu đóng đinh và Phục sinh sẽ là Đấng mà lề luật, các tiên tri và thánh vịnh đã hứa. Biến cố daỳ vò các tông đồ không phải là cái gì khác hơn là sự thực hiện chương trình vĩ đại về việc cứu độ của Thiên Chúa. Được phác hoạ trong Cựu ước và hoàn thành trong Tân ước. Đường dây nối mọi sách thánh lại là Đấng Messia đến, hành động, hy sinh. Và kết quả riêng tức ý nghĩa sâu xa nhất là sự thứ tha tội lỗi cho mọi dân moị nước. Phổ quát tính của ơn cứu độ, ý nghĩa bao quát của hy sinh thập giá được diễn tả qua những lời đó. Hy sinh thập giá là hy tế đem lại ơn cứu chuộc. Và Đấng Thiên Sai khi hoàn tất hy tế ấy đã trở nên ơn cứu độ cho Israel cũng như cho cả nhân loại.

Loan báo Phục sinh

‘Các anh em là những chứng nhân về điều đó’. Sứ điệp Kitô giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới, cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Kitô đã chết và đã sống lại. Kitô giáo trước hết là một biến cố, rồi từ biến cố ấy thành lịch sử. Và lịch sử đó không tường thuật lại những hoạt động của loài người nhưng là những hoạt động của Thiên Chúa, nhất là sự hy sinh, của một vị Thiên Chúa nhập thể, đem ơn cứu chuộc đến cho mọi dân tộc. Loan truyền sứ điệp ấy có nghĩa là chứng thực biến cố ấy, vững lập trường về sự kiện ấy. Đó là làm chứng bằng lời nói, bằng đời sống và có khi phải bằng máu nữa. Đã làm chứng được như vậy, con người phải đón nhận sức mạnh Thánh Thần Thiên Chúa ‘Ta sắp sai đến trên anh em, điều Cha Ta đã hứa’. Chính Chúa Thánh Linh là chứng tá đích thực. Ngài sẽ làm chứng trong các tâm hồn bằng đức tin bên trong, còn con người làm chứng bên ngoài bằng việc rao giảng. Bởi thế, sự Phục sinh của Chúa Kitô là nội dung chính cốt của sứ điệp Kitô giáo qua các lời giảng dạy của các tông đồ cũng như qua sách công vụ và các thơ, đứng trước biến cố trọng đại ấy, tất cả đều phai nhoà đi hết. Việc rao giảng Kitô giáo không phải là trình bày các qui luật luân lý, giảng giải các chân lý giáo điều hoặc trình bày cuộc đời Chúa Giêsu, nhưng sự rao giảng ấy trước hết là một khẳng định rõ về cái chết và sự Phục sinh của Chúa, vì đó là những yếu tố trung tâm của lịch sử ơn cứu độ.

TỪ BIỆT

Đây là lần cuối cùng Chúa Giêsu ở giữa các tông đồ. Ngài ở giữa họ để nói lên lời từ biệt. Sự việc xảy ra gần Bêtania ở cửa thành thánh. Thánh Luca trình bày sự kiện này hết sức ngắn gọn, nhưng Ngài sẽ trở lại vấn đề trong chương Tin mừng sách Công Vụ với nhiều chi tiết hơn là ở đây, khi nói đến việc Chúa về Trời. Theo Tin mừng ta thâý việc kết thúc sứ vụ loan báo Tin mừng

1. Đức Kitô

Chúng ta được biết Đức Kitô từ biệt các tông đồ đang khi các Ngài chúc lành cho họ. Ngài không còn giảng dạy và ra lệnh gì nữa. Mọi cái mờ ám đều biến dạng. Cho dầu cuộc khổ nạn, việc Phêrô chối Chúa, sự nghi ngờ Chúa sống lại và sự phập phồng sau lần hiện ra cuối cùng. Mọi sự đều được sáng tỏ. Tất cả đều kết thúc tốt đẹp bằng phúc lành của Chúa, Đấng sẽ ban cho họ sinh lực để sống dù Ngài không còn hiện diện trước mắt nữa, và để họ hành động và tiếp tục sự nghiệp, họ sẽ giữ kỷ niệm sống động, việc Thày chúc lành.

Chúa lên trời chẳng qua là sự Người trở về cùng Chúa Cha và được biến hình cả thể xác lẫn tình thần, việc Chúa lên trời đó đối với các môn đệ cũng là một dấu chỉ tối cao về việc Ngài trở lại và nhờ đó, các ông cũng được lên trời. Từ giờ đó, họ biết rằng đời họ là một cuộc hành trình tiến về ánh sáng và bất chấp mọi trở ngại của cuộc sống trần gian cũng như quân thù bách hại, mọi chuyện sẽ hoàn tất trong ánh sáng của sự biến hình.

2. Các tông đồ

Họ quì gối xuống và thờ lạy. Họ không còn u tối, sợ sệt, phập phồng, hồ nghi gì nữa. Vì thế họ tin kính thờ lạy. Việc Ngài Phục sinh và lên trời chứng minh rõ ràng cho họ biết nguồn gốc cũng như bản tính Thiên Chúa của Ngài và Ngài được cất nhắc lên ngự bên hữu Chúa Cha. Thờ lạy, thán phục chỉ là cách thức nói lên sự hân hoan của họ. ‘Rồi họ trở lại Giêrusalem, vui mừng khôn xiết, và hằng ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa’. Tin mừng kết thúc trong niềm hoan lạc, việc Chúa trở lại ‘uy nghi’ cho các tông đồ có cơ hội tôn vinh Ngài. Khi nhìn lại, khi nhớ đến lời truyền tin cho Giacaria và Đức Maria, khi nhớ lại các sứ điệp các thiên thần gởi cho các mục tử, nhớ đến việc dâng Chúa trong Đền thờ, rồi ơn kêu gọi riêng họ, việc họ thông dự vào quyền giảng dạy và làm các phép lạ của Chúa, từ đây họ hiểu rằng mọi sức đối kháng của thù địch đều không làm gì được và qua cuộc khổ nạn và thập giá Chúa, sự đối kháng ấy cũng góp phần vào việc đặt nền cho hoạt động cứu thế đúng nghĩa, cho hy tế cứu chuộc để cứu rỗi thế giới, sau cùng họ thấy rằng Chúa biến hình, từ đây không còn khổ đau nữa, thì họ chỉ còn biết tạ ơn Thiên Chúa với lòng thành tín khôn tả. Kế hoạch Ngài đã thực hiện, sự nghiệp Ngài đã hoàn thành, vinh quang Ngài đã tỏ hiện cho loài người. chính Thánh Luca đã kết thúc Tin mừng của ông bằng thánh thi ngợi khen vậy.

 

41. Mở đường

"Đang khi Chúa chúc lành cho các ông, Người được rước về trời" (Lc 24, 51)

Tập truyện Tây Du ký rất hấp dẫn, không những cho người Tàu, người Việt chúng ta, mà còn cho một số người ngoại quốc nữa. Người ta nói rằng: nhiều người mê chuyện Tây Du ký không phải vì chuyện đánh đấm, vì quyền phép của Tề Thiên mà thôi; cái chính là ở chỗ chuyện Tây Du ký đem lại sự kích thích tính tò mò hiếu kỳ của con người. Đó là chuyện trên trời, chuyện của thần tiên. Nhân loại vì tò mò, vì không ai biết trên trời ra sao, có gì trên đó, và cõi trời ở đâu, vì chưa có ai lên đó kể lại.... Thật ra, tính tò mò đó không phải là điều không chính đáng. Hôm nay mừng lễ Chúa lên trời, Hội thánh không phải để thỏa mãn tính tò mò của con người; cái chính Hội thánh muốn nói: đây là một sự thật chính Chúa từ trên trời xuống nói cho ta biết về trời, nhất là hôm nay, người về trời đi trước dọn chỗ cho ta, để mai sau ta cùng được lên đó với Chúa.

a. Thiên đàng là gì, ở đâu và ra sao? Có phải thiên đang là giấc mơ của tuổi thơ? Hay thiên đàng là thế giới đại đồng của người CS như Max hay Engels nói? Hay thiên đàng là cõi trời của Tây Du Ký?

Chúng ta thử nhìn lại: Cõi trời hay thiên đàng của Tây Du Ký, thực ra không khác gì ở trần gian, vì nơi đó còn đầy gian tham, hối lộ, còn đầy cái ác trên đó...Thực ra cõi trời của Tây Du Ký, theo Ngô Thừa Ân, đó chỉ là hiện thân của cõi lòng con người còn đầy lục dục, thất tình, và cõi lòng đó có khao khát muốn thóat ra cái không tốt đó. Tóm lại cõi trời đó chính là cái tâm của con người không hơn không kém.

Bây giờ ta lại nói đến cõi trời hay thiên đàng của trẻ thơ: thiên đàng của trẻ thơ thực ra chỉ là giấc mơ, nghĩa là không có thật; vì khi lớn lên ta mới hiểu, giấc mơ đó đẹp lắm, nhưng vì là giấc mơ, nên nó không phải là thực tại, không phải là sự thật. Ngày nay người thanh niên gọi thiên đàng của tuổi thơ: đó là thế giới mộng, hoặc thế giới ảo....

Theo triết lý của Max Engels mơ ước thiết lập cho người một thiên đàng thật lý tưởng, một thế giới đại đồng ở đó không có cảnh người bóc lột người, ở đó mọi của cải là của chung, và người ta sử dụng công bằng theo nhu cầu của mình. Thế giới đại đồng này đẹp quá, lý tưởng quá, đẹp và lý tưởng hơn cả thiên đàng của người Công giáo nữa; nhưng chừng nào thì ta đi tới đó?

Sau cùng, cũng phải nói đến thiên đàng của Chúa Giêsu; dĩ nhiên đây là sự thật chính Chúa nói cho ta biết, cũng vì chính Chúa đã từ trời mà xuống, nói lại cho nhân loại hiểu. Cũng chính Chúa Giêsu đã sẵn sàng chết để minh chứng cho lời nói của Chúa là sự thật. Sau này, qua lịch sử của Hội thánh, các thánh hàng hàng lớp lớp đã đứng lên làm chứng cho ta về sự thật này... Có người sẽ nói vì là người Công giáo, nên mình bênh vực cho Chúa, cho các thánh, đó là điều dĩ nhiên... Nói thế cũng không phải sai, nhưng có một điều này, nếu bênh vực một điều không đúng, không phải là sự thật, tại sao qua hai mươi thế kỷ, hàng tỉ con người luôn nghe theo, và sẵn sàng dám sống chết cho Chúa, cho hội thánh? Chẳng lẻ họ là những người dốt nát cả sao? Chính lý lẽ này phải làm cho ta suy nghĩ....

b. Gợi ý sống và chia sẻ:

Thật ra Hội thánh, mẹ chúng ta chẳng cần phải làm chứng cho chúng ta về sự thật này, về hạnh phúc thiên đàng, vì có Chúa Thánh Thần luôn làm chứng cho Hội thánh. Dù vậy Chúa Kitô đã chết để trở thành chứng nhân sống động cho ta tin nơi thiên đàng. Phần ta, ta có sẵn sàng tin vào Chúa và vào Hội thánh của Chúa không?

 

42. Chúa lên trời

Cách đây mấy ngàn năm, khi khoa học về vũ trụ chưa được phát triển, dân Do Thái cũng như những dân tộc vùng cận đông thường có một cái nhìn đơn sơ về vũ trụ. Họ coi trái đất là như một chiếc mâm, chung quanh đất là biển, dưới lòng đất là âm phủ, nơi ở của những người đã khuất. Còn bầu trời là như cái lồng bàn úp lên trên đất và biển. Trên chiếc lồng bàn này có nhiều thứ kho: kho nước, kho mây, kho gió, kho tuyết, kho sương mù. Mỗi khi Thiên Chúa mở cửa những kho này là chúng ta lập tức sẽ có những hiện tượng thiên nhiên tương ứng.

Vòm trời cũng là nơi Ngài treo các vì tinh tú để soi sáng cho mặt đất. Thiên Chúa ngự trên chốn trời cao cùng với các thiên thần. Vậy khi nói Chúa Giêsu được đưa lên trời, thì có nghiã là Ngài được đưa vào thế giới của Thiên Chúa. Ngài được tôn vinh bên Chúa Cha, sau khi đã hoàn tất công trình cứu độ nhân loại.

Đối với chúng ta thì hơi khác một chút. Điều cốt lõi của biến cố Chúa về trời không phải là chuyện Chúa đã bay lên, thoát khỏi sức hút của trái đất, mà là mầu nhiệm Ngài được Chúa Cha nâng dậy từ cõi chết và đưa vào chung hưởng vinh quang bên Chúa Cha. Nơi ở của Thiên Chúa là thiên đàng. Nhưng thiên đàng ở đây, chúng ta không được rõ. Toan tính đi tìm thiên đàng bằng một con tàu vũ trụ điều đó chỉ đưa đến thất vọng và chứng tỏ một thái độ ấu trĩ, vì thiên đàng nằm ngoài khả năng cảm nhận của giác quan, như lời thánh Phaolô: Tai chưa hề nghe, mũi chưa hề ngửi và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những điều Thiên Chúa dành cho những người trung thành phụng sự Ngài. Chúng ta không thấy thiên đàng nhưng thiên đàng còn có thực hơn cả vũ trụ hữu hình này, bởi vì thế giới của con người sống nhờ vào thế giới của Thiên Chúa.

Mặc dù Chúa đã về trời nhưng Ngài vẫn còn ở lại với chúng ta luôn mãi; bởi vì lên trời không phải là đi vào một thế giới xa lạ với thế giới loài người và cắt đứt mọi liên hệ với trần thế… Tuy chúng ta không còn thấy Ngài một cách hữu hình nhưng Ngài vẫn tiếp tục hiện diện giữa chúng ta dưới những hình thức khác.

Chúng ta có thể gặp Ngài qua những kỳ công trong vũ trụ. Chúng ta có thể gặp Ngài qua những lời giảng dạy. Chúng ta có thể gặp Ngài qua Bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thể gặp Ngài qua Giáo Hội. Chúng ta có thể gặp Ngài nơi những người anh em, nhất là những kẻ khổ đau và bất hạnh. Như thế Ngài được tôn vinh lên trời không phải là làm một cuộc đi xa, nhưng trái lại là một cuộc đến gần. Phục sinh và Lên Trời là để làm tròn sứ vụ giữa lòng thế giới. Chính vì thế mà Ngài đã truyền cho các môn đệ cũng như cho chúng ta phải tiếp tay với Ngài: Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Bởi đó, hãy chu toàn bổn phận của chúng ta, bằng cách sống đức tin và đem đức tin đến cho những người chung quanh, để rồi trong ngày sau hết, chúng ta sẽ được chia sẻ niềm hạnh phúc thiên đàng với Ngài.

 

43. Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên

Anh chị em thân mến.

Chúng ta thường nghe câu nói: Chiến đấu có gian nan thì chiến thắng mới vinh quang.

Nước Việt Nam chúng ta đã trải qua 4000 năm văn hiến. Cha ông đã khổ công gây dựng nên. Biết bao người đã hy sinh. Đọc lại những trang sử hào hùng của dân tộc, chúng ta nhìn thấy sự thăng trầm của đất nước, nhìn thấy những nỗi khổ nhọc của tiền nhân. Giờ đây tất cả mọi điều đã qua đi, chúng ta chỉ còn truyền lại cho nhau nghe qua những phương tiện của thời đại. Những người đang sống, đang tận hưởng những gì mà người xưa đã để lại, họ có bổn phận gìn giữ, bảo vệ và cũng làm cho đất nước mỗi ngày tốt đẹp hơn, vì họ đang tận hưởng sự bình an, hạnh phúc của người xưa.

Nếu họ không biết cách bảo vệ, nếu họ làm cho đất nước bị suy đồi thì họ sẽ mang tội với người xưa và cả với thế hệ mai sau. Họ đã sống không xứng đáng là một chứng nhân sống động của thời đại, không xứng đáng là người VN. Nếu họ biết gìn giữ, đóng góp tích cực cho đất nước mỗi ngày được tốt đẹp. Đó là những chứng nhân xứng đáng, những người biết tận hưởng hạnh phúc và cũng biết để hạnh phúc cho người khác. Đó là những người sống không hổ thẹn với lịch sử.

Chúa Giêsu kêu gọi các Tông đồ làm chứng nhân, kêu gọi các ông rao giảng. Không phải rao giảng cho một dân tộc, một đất nước nhỏ bé trên trần gian. Cũng không phải rao giảng cho những con người không còn hiện hữu, cũng không phải rao giảng cho một hành động của quá khứ, một việc làm mà giờ đây không còn tồn tại nữa. Nhưng rao giảng và làm chứng cho Nước Trời, cho Dân Thiên Chúa. Rao giảng và làm chứng cho một việc làm của quá khứ, nhưng vẫn còn hiện diện hữu hiệu trong hiện tại,cho từng con người.

Rao giảng và làm chứng cho Thiên Chúa, cho Tình yêu bao la mà Ngài đã hành động cho con người. Các Tông đồ ngày xưa đã làm tròn bổn phận của một công dân nước trời. Các ông đã tận hưởng được sự bình an, hạnh phúc, nên các ông biết làm chứng cho hạnh phúc đó và truyền lại cho thế hệ mai sau. Chính vì các ông biết vâng lời và cũng vì các ông cảm nhận được một điều quang trọng là: Chúa Giêsu rời xa các ông qua thể xác, qua những gì là của trần gian tạm bợ nầy, nhưng Ngài vẫn ở bên cạnh các ông, vì các ông là công dân nước trời. Nhờ đó chúng ta cũng làcông dân nước trời, chúng ta cũng có bổn phận rao giảng, làm chứng và bảo vệ những gì mình đã tận hưởng.

Trong thánh lễ hôm nay, nhắc cho mỗi người nhớ lại mình đã là công dân nước trời. Mỗi người cũng đã nhận được lệnh truyền như các Tông Đồ khi xưa là rao giảng và làm chứng. Với những gì mình đang có trong hiện tại, với những việc làm đã qua trong cuộc sống, mỗi người trong chúng ta đã để lại những trang sử đời mình như thế nào cho thế hệ mai sau? Nếu trung thực mà viết lại tất cả những gì chúng ta đã làm, những gì đã suy tư toan tính, những điều ngoài ánh sáng cũng như những gì trong bóng tối không ai nhìn thấy, chúng ta có dám để lại những trang sử đó cho thế hệ mai sau học hỏi hay không? Nếu không dám để lại thì một cách nào đó, chúng ta đã làm ô danh nước trời, ô danh quê hương của chúng ta. Vậy thì Nước Trời sẽ đối xử với những người con đó như thế nào?

Còn nếu chúng ta dám để lại những trang sử tốt đẹp của đời mình cho thế hệ mai sau, mà không hổ thẹn. Đó là chúng ta đã biết nghe lời Chúa Giêsu: biết rao giảng, biết làm chứng bằng cuộc sống của mình. Đó là chúng ta biết mình đang tận hưởng sự bình an, biết đem bình an, hạnh phúc đến cho mọi người.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết sống tốt đẹp, để dùng đời sống của mình rao giảng nước Thiên Chúa, và xứng đáng là Công Dân Nước Trời.

 

44. Chứng nhân

Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Trước khi từ từ lên cao, Ngài đã ban huấn lệnh: “Các con sẽ là chứng nhân cho Ta tại Giêrusalem, trong toàn cõi Giuđêa, Samaria, và cho đến tận cùng cõi đất”.

Các môn đệ đã chứng kiến cuộc khải hoàn vinh hiển của Chúa, họ không thể nào im tiếng được. Họ đã mạnh mẽ xác quyết: “Thiên Chúa đã phục sinh Chúa Kitô mà anh em đã giết rồi treo lên cây gỗ… và tôn Ngài làm thủ lãnh và Đấng cứu độ để đem lại cho Israel ơn tha thứ và hoán cải. Về những sự việc đó chúng tôi đây là những chứng nhân cùng với Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng phục Người”, “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại để chúng ta được nên công chính”…

Tất cả các môn đệ đều bị bách hại đến đổ máu ra vì chứng cớ đức tin và lời rao giảng của mình. Và sau họ, từng lớp lớp người cũng đã ngã gục chỉ vì tin vào Đấng Phục Sinh.

Đối với chúng ta là những kẻ đã tin, đến lượt chúng ta cũng phải làm chứng về Ngài, không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng chính đời sống chúng ta nữa. Chúng ta hãy chứng tỏ cho thế giới biết rằng cuộc sống thường ngày là những bước tiến lên với Chúa Kitô, và những thử thách, hy sinh là cần thiết để thanh luyện và làm sáng tỏ đức tin của chúng ta.

Chúng ta tiến lên trời với Chúa Kitô bằng kiên nhẫn, hy sinh… hầu biểu lộ đức ái, bởi vì đức ái là khát vọng Thiên Chúa và làm điều lành cho tha nhân. Điều đó có nghĩa là chúng ta chờ đợi thời giờ của Thiên Chúa và giúp mọi người phương tiện tiến lên với Thiên Chúa. Đức ái là thái độ phản ánh trung thực nhất niềm khát vọng nội tâm của chúng ta.

Đời sống tu trì là một minh chứng cho niềm khát vọng lên trời trong chờ đợi nhẫn nại và hy sinh. Quả vậy, vì tin ở lời hứa của Chúa sẽ ban gấp trăm ở đời này và đời sau được sống muôn đời mà chúng ta đã từ bỏ tất cả để theo Ngài. Điều Chúa Kitô hứa, Ngài đã đang và sẽ còn thực hiện. Hạnh phúc mà Ngài ban cho những ai theo Ngài chính là niềm hoan lạc trong tâm hồn, hoan lạc của những ai có Chúa làm tất cả. Niềm hoan lạc đó là hiệu quả tất nhiên của sự bình an, bình an của những kẻ ẩn náu trong tình thương Chúa. Và những gì do tình thương Chúa gửi đến đều tốt lành. Ngay cả cái chết cũng là dịp để chúng ta vui mừng, vì chết là cánh cửa cuối cùng được mở ra cho chúng ta gặp Chúa Kitô Phục Sinh - Thăng Thiên mà chúng ta yêu mến kiếm tìm.

Hỡi những ai tìm Chúa, tâm lòng hãy vui sống và chúc tụng Thiên Chúa là Cha Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã tái sinh chúng ta cho hy vọng sống động, nhờ sự phục sinh - thăng thiên của Ngài.

 

45. Chúa lên trời

Khi còn ở với các môn đệ, đã nhiều lần Chúa Giêsu nói trước là Ngài sẽ về trời, giờ đây là lúc Ngài thực hiện điều đó. Việc Chúa Giêsu lên trời mãi mãi là một huyền nhiệm. Dùng ngôn ngữ loài người để tả một huyền nhiệm của Trời thì thật khó biết bao. Nhưng điều quan trọng là biến cố đã xảy ra. Thật khó mà tưởng tượng rằng sự xuất hiện của Chúa Giêsu cứ thưa dần, thưa dần cho tới khi tắt hẳn. Nếu thế đức tin con người sẽ tàn lụi. Nếu như Chúa Giêsu biến thành Đấng Kitô của cõi trời và không còn liên hệ gì với cõi trần này, lúc đó chúng ta sẽ rơi vào khủng hoảng.

Đối với các Kitô hữu, sự thăng thiên của Chúa Giêsu có ba ý nghĩa:

1) Đó là sự kết thúc. Một giai đoạn đã qua và một giai đoạn khác bắt đầu.

Ý nghĩa trọng đại của việc Chúa thăng thiên là sự cứu chuộc mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái chết đền tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn cho tới đời đời. Tác giả thư Do thái viết: “Ngài là phản ảnh của vinh quang, là ấn tượng của bản lĩnh Người, và cầm giữ vạn vật bằng lời quyền năng của Ngài; sau khi đã thi hành việc thanh tẩy tội lỗi. Ngài đã lên ngự bên hữu Đấng oai nghi chốn cửu trùng” (Dt 1,3). “Không phải nhờ máu dê hay máu bê, nhưng là nhờ chính Máu của Ngài, Ngài đã vào thánh điện -- duy chỉ một lần -- sau khi đã thành đạt việc cứu chuộc muôn đời” (Dt 9,12). Chúa Giêsu đã làm xong công tác cứu chuộc, đã hoàn thành sứ mạng Cha Ngài đã trao phó là cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền tội trên thập giá và đã sống lại để ban cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời. Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy đủ cho đến muôn đời. Và như vậy đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin của các môn đệ đặt vào một vị Thầy bằng xương bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ nay các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng đời đời vượt khỏi thời gian và không gian.

2) Và như vậy đây là một khởi đầu

Các môn đệ ra về trong sự vui mừng chứ không phải với tấm lòng sầu muộn, vì họ biết rằng từ nay không gì có thể ngăn cách mình với Thầy của mình. Thánh Phaolô đã phát biểu: “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Đức Kitô?” (Rm 8,35) và ông khẳng định: “Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù là hiện tại hay tương lai, hay quyền năng, dù là chiều cao hay chiều sâu, hay bất cứ tạo vật nào khác, không gì sẽ có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu Chúa chúng ta!” (Rm 8,38-39)

3) Hơn thế nữa, sự thăng thiên của Chúa quyết chắc với các môn đệ rằng họ chẳng những có một người Thầy ở thế gian mà còn có một người Thầy ở trên trời nữa.

Thánh Phaolô thách thức: “Ai sẽ cáo tội những kẻ Thiên Chúa đã chọn -- Thiên Chúa đã giải án tuyên công, ai sẽ là người lên án? -- Phải chăng là Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa, và là Đấng đang chuyển cầu cho ta” (Rm 8,33-34)

Chẳng hề có ai, vì Chúa đã chết đền tội chúng ta, đã sống lại làm Cứu Chúa của chúng ta và hiện đang ngồi bên hữu cầu thay cho chúng ta như một trạng sư. Bên hữu Cha là chỗ có thế lực, có uy quyền nên sự cầu thay của Chúa Giêsu rất linh nghiệm.

Còn một điều quan trọng hơn nữa, sự thăng thiên của Chúa Giêsu là điều kiện để Ngài sai Chúa Thánh Thần xuống, mà chúng ta sẽ mừng mầu nhiệm này vào Chúa nhật tới.

Nếu chúng ta biết Chúa Giêsu của chúng ta đang ở trên trời thì lòng chúng ta phải hướng về đó. Không có nơi nào đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các thánh đã yêu mến, đã yêu mến một quê hương tốt hơn -quê hương trần gian- mà các ngài gọi là quê hương trên trời. Thánh Phaolô khuyên chúng ta là những người cùng chết, cùng sống lại với Chúa Giêsu cũng sẽ được cùng cất lên trời để gặp Ngài: “Vậy đã cùng sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm kiếm những điều trên cao, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Lòng trí hãy hướng về những điều trên cao, đừng (hướng) về những điều dưới đất. (Cl 3,1-2)

Chúng ta phải cẩn thận về điều thánh Phaolô muốn nói ở đây, chắc chắn Ngài không hề biện hộ cho việc mơ tưởng tới một thế giới khác khiến những người tin Chúa tự rút mình ra khỏi các công tác, các hoạt động thuộc về đời này, chẳng làm gì ngoài việc chiêm ngưỡng cõi đời đời mà thôi. Vì ngay sau đó, thánh Phaolô tiếp tục quy định một loạt các nguyên tắc đạo đức vạch rõ rằng người Kitô hữu cứ tiếp tục công việc ở đời này và duy trì mọi mối liên hệ bình thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt là từ nay trở đi, Kitô hữu phải nhìn mọi sự trong ánh sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời. Người ấy sẽ không sống dường như đời này là tất cả những gì mình phải quan tâm đến, nhưng phải đặt thế gian này trong bối cảnh của cõi đời đời. Rõ ràng điều ấy sẽ đem đến cho người Kitô hữu một loạt các giá trị mới. Kitô hữu sẽ không còn bận tâm đến những điều mà người thế gian xem là quan trọng nữa. Các tham vọng đang ngự trị thế gian sẽ bất lực và không thể làm cho người ấy vướng bận nữa. Người ấy sẽ tiếp tục sử dụng những điều thuộc về thế gian này nhưng trong một cách thức mới. Người ấy sẽ đặt việc ‘cho đi’ lên trên việc ‘thu góp’, phục vụ trên cai trị, tha thứ ở trên báo thù. Tiêu chuẩn về giá trị của người ấy sẽ là tiên chuẩn của cõi trời chứ không phải cõi đời.

Khi người thanh niên giàu có đến xin Chúa Giêsu chỉ cho anh phương cách để được sống vĩnh cửu. Chúa bảo anh về đem tài sản phân phát cho kẻ nghèo để được của cải trên trời. Điều gì đã làm vì tình yêu sẽ bền vững muôn đời.

Thật an ủi khi biết rằng Đấng chờ đợi ta ở trên trời cũng là Đấng đã, đang bao bọc ta ở dưới đất.

 

46. Lên trời

Qua Phúc Âm, chúng ta biết: sau khi sống lại, Chúa Giêsu còn ở trần gian bốn mươi ngày. Trong suốt quãng thời gian này, Ngài đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Các ông có diễm phúc được nhìn thấy Ngài, được ăn uống với Ngài. Tất cả những sự việc ấy đã tạo nên cho các ông một niềm xác tín: Ngài đã phục sinh.

Cũng trong thời gian ấy, Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho cuộc ra đi của mình. Ngài nói với các ông:

- Ta sẽ trở về với Cha Ta, cũng là Cha của các con, về với Thiên Chúa của Ta, cũng là Thiên Chúa của các con.

Thế nhưng, các ông đã không hiểu được lời nói mầu nhiệm này. Sau cùng, Ngài đã gặp các ông trong phòng tiệc ly, tâm sự với các ông và khi bữa ăn kết thúc, theo thông lệ, Ngài dẫn các ông lên núi Cây Dầu.

Các ông đi qua đường phố Giêrusalem, xuống thung lũng Cêdron, theo con đường Ngài đã bước đi trong cuộc tử nạn. Chắc hẳn khi đi lại con đường ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đã nói chuyện, đã hàn huyên với nhau rất nhiều.

Khi tới núi Cây Dầu, Chúa Giêsu và các môn đệ đã đưa mắt nhìn chung quanh và đã thấy được toàn cảnh thành phố Giêrulem với miền đất hứa. Chúng ta hãy cùng các tông đồ đứng trên đỉnh núi Cây Dầu và đưa mắt nhìn: Gần đấy là Bêtania, nơi ba chị em Martha, Maria và Lagiarô sinh sống. Họ là những người được Chúa yêu và cũng là những người yêu Chúa.

Về phía bên trái là Bêlem, nơi Ngài mở mắt chào đời. Rồi sau đó là những vệt trắng. Đó là những con đường từ Giêrusalem đi tới những thôn làng, những thị trấn của xứ Giuđêa. Hẳn rằng các tông đồ đã nhớ tới biết bao nhiêu kỷ niệm trên những nẻo đường quen thuộc này: nào là những việc kỳ diệu Chúa đã làm, nào là những lời lẽ khôn ngoan Chúa đã dạy. Xa hơn một chút là dòng sông Giócđan, nơi các tông đồ sống lại những kỷ niệm đầu tiên, khi gặp Chúa và được Ngài kêu gọi.

Còn về phía bên phải: xa xa là biển cả. Những con tàu nhổ nheo đi về Rôma, cũng như đi về những miền khác nhau của dân ngoại. Có lẽ chính trong bối cảnh này mà Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ:

- Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Trong thâm tâm, Ngài muốn bảo các ông rằng:

- Hy lễ của Ta đã hoàn tất. Công việc của Ta đã kết thúc. Bây giờ đến lượt các con. Vậy các con hãy đi loan truyền Tin mừng cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Có lẽ các tông đồ đã trả lời:

- Vì tình yêu và vinh quang của Chúa, chúng con sẽ làm tất cả.

Sau đó, Chúa Giêsu đã lên trời. Còn các tông đồ thì ngạc nhiên nhìn theo cho đến khi thiên thần hiện ra và bảo:

- Các ngươi đứng nhìn làm chi. Đức Kitô đã về trời thế nào thì Ngài cũng sẽ trở lại như vậy.

Hẳn chúng ta đã biết: Ngài sẽ trở lại vào ngày tận thế. Rồi sau đó lại sẽ về trời. Nhưng về trời lần này, thì cùng với Ngài còn có tất cả những người đã tin theo và yêu mến Ngài.

Chính vì thế, các tông đồ không hề buồn phiền, vì các ông biết rằng đây chỉ là một cuộc tạm biết, chứ không phải là một cuộc ly biệt, vĩnh viễn chia cắt đôi ngả. Ngài sẽ trở lại và các ông sẽ lại được xem thấy Ngài. Trong lúc chờ đợi, các ông ra sức chu toàn sứ mạng Ngài đã trao phó, đó là rao giảng Tin mừng, làm chứng về Ngài.

Với chúng ta cũng vậy. Mổi khi tham dự thánh lễ, chúng ta có diễm phúc được ở gần Chúa, được lắng nghe lời Ngài. Thế nhưng, trước khi thánh lễ kết thúc, qua môi miệng của vị linh mục, Chúa cũng nói với chúng ta:

- Lễ xong, chúc anh chị em ra về bình an.

Điều đó có nghĩa là: hãy ra về để chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Hãy ra về để rao giảng Tin mừng. Hãy ra về để làm chứng cho Chúa giữa lòng cuộc đời.

 

47. Hạnh phúc đích thực

Đã là người chắc hẳn ai trong chúng ta cũng có nhiều khao khát tự trong cõi lòng. Khao khát có được ngôi nhà đầy đủ tiện nghi, khao khát có được vợ đẹp con ngoan, khao khát được yêu thương... Nhưng có một khao khát lớn hơn, nó bao trùm tất cả. Đó là khao khát được sống hạnh phúc. Quả thật, khao khát ấy hết sức chính đáng. Cách riêng với niềm tin kitô giáo, hạnh phúc đích thực là khi con người có được sự liên hệ thân thiết với Thiên Chúa. Từ thuở ban đầu, con người đã được Thiên Chúa ban cho điều ấy. Tiếc thay, do sự bất tuân mà tổ tông ta đã đánh mất. Dù vậy, do tình thương nên Thiên Chúa đã tìm nhiều cách để cho chúng ta tìm lại được tình trạng ấy.

Hôm nay, toàn thể Giáo hội Công giáo mừng lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên. Đây là ngày Chúa Giêsu được trở về ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Đấy là hạnh phúc tuyệt vời và cao đẹp. Đoạn Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta suy niệm hôm nay cho thấy khi Chúa Giêsu chia tay các Tông đồ để về trời thì các ông: "Trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa" (Lc 24, 52b - 53).

Có thể, chúng ta sẽ lấy làm lạ vì thông thường khi chia tay người ta hay khóc lóc, buồn bã. Còn ở đây các ông lại vui mừng. Không vui sao được vì các ông tin rằng: "Thầy đi dọn chỗ cho anh em" (Ga 14, 1), "Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20), "Thầy sẽ không để anh em mồ côi" (Ga 14, 18) và "Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi" (Ga 14, 16)... Như vậy, qua lời Chúa Giêsu hứa các ông tin rằng Người vẫn luôn hiện diện bên họ. Mặc dù với cặp mắt bình thường các ông không thấy được. Vì thân xác Người lúc bấy giờ đã trở nên vinh hiển và không còn bị lệ thuộc vào không gian và thời gian.

Do đâu mà Chúa Giêsu đã được Chúa Cha ban cho hạnh phúc đích thực như thế? Về bản tính Thiên Chúa thì Chúa Giêsu đương nhiên phải được. Còn về bản tính con người thì Chúa Giêsu đã đi con đường mà Chúa Cha đã vạch sẵn cho Người. Đó là con đường thập giá. Và Người đã đi trọn vẹn con đường ấy trong vâng phục và yêu mến. Chúa Giêsu cũng đã mời gọi chúng ta hãy đi theo Người bằng con đường ấy (Mt 16, 24). Khi chúng ta biết chấp nhận đi con đường thập giá, chắc chắn Người sẽ cùng đồng hành với chúng ta. Người đồng hành với chúng ta qua Giáo hội. Người đồng hành và ban sức cho qua Lời cũng như Mình Máu Người...

Đường thập giá không giống với những suy nghĩ và cách sống ích kỷ của con người. Những suy nghĩ và cách sống ấy chắc chắn không phải là điều Thiên Chúa muốn. Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới mà người người chạy theo những hạnh phúc ảo mà họ chẳng hay biết. Hạnh phúc ảo ấy là tiền bạc, danh vọng, quyền lực, địa vị, danh vọng, thỏa mãn xác thịt... Càng lún sâu vào những hạnh phúc ảo ấy, nó sẽ đưa con người chúng ta tới sự mất bình an và tâm hồn trống rỗng, mất phương hướng.

Mừng lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên hôm nay, mỗi người chúng ta hãy xin Chúa Giêsu Phục sinh cho ta biết cùng đi như Người để có được hạnh phúc đích thực.

 

48. Nhân danh Thầy mà rao giảng

1. Đức Giêsu có thể thực hiện bất cứ điều gì nếu Người muốn, thế nhưng Người vẫn luôn tôn trọng quy luật tự nhiên do Thiên Chúa thiết lập. Khi còn ở trần gian Người đã vất vả rao giảng Tin Mừng. Sau khi hoàn thành sứ vụ, Người trở về cùng Thiên Chúa Cha, việc loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh được trao bancho các môn đệ, cũng là trao ban cho mỗi người chúng ta. Chúng ta đã làm gì để góp phần mở rộng Nước Chúa, làm chứng cho Đức Giêsu?

2. Trước hết, chúng ta nên hiểu như thế nào về việc Chúa lên trời? Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thánh Luca ghi rằng sau khi hiện ra với các môn đệ, Người có những lời dạy bảo sau cùng, sau đó đang khi chúc lành cho các ông, thì Người được đem lên trời.

- Ở đây thánh sử Luca đã dùng cách thông thường của loài người để diễn tả việc Chúa Giêsu siêu thăng. Người "lên trời", chúng ta thường hiểu là Người bỏ một nơi trên trái đất nầy để đến một nơi khác là "trời", mà nên hiểu là:

- Người thay đổi tình trạng, không còn ở tình trạng mang thân phận loài người hèn hạ nữa, mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa cùng Thiên Chúa Cha trước khi Người nhập thế.

- Người cũng thay đổi cách hiện diện, từ nay Người không hiện diện giữa chúng ta bằng thân xác hữu hình nữa, nhưng vẫn hiện diện bằng thiên tính của Người cho dù mắt chúng ta không thấy. Người hiện diện khi Lời Người được công bố, các bí tích được cử hành... Hay Người xin Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần đến để dạy dỗ chúng ta, đó cũng là một cánh hiện diện.

- Và khi nói về việc Chúa lên trời, các sách Tin Mừng chỉ ghi lại rất vắn tắt 'Chúa lên trời' vậy thôi, chứ không nói rõ Người lên trời sau khi sống lại bao lâu. Nhưng theo sách Công Vụ Tông Đồ, mà Luca ghi lại, Đức Giêsu 'lên trời' sau khi sống lại được 40 ngày. Vậy Chúa 'lên trời' chính xác là thời gian nào?

Có thể trả lời tóm gọn là Chúa 'lên trời' ngay khi Người phục sinh. Nhưng sau đó Chúa còn hiện ra với các tông đồ, môn đệ nhiều lần để củng cố lòng tin của họ, trong một khoảng thời gian mà sách Công Vụ Tông Đồ cho rằng là 40 ngày. Sau cùng, Người chấm dứt việc hiện ra, bằng cách công khai về cùng Chúa Cha trước mặt các ông như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe.

Đức Giêsu về trời đó là một điều chắc chắn, đó cũng là niềm phấn khởi cho chúng ta, vì chính Người nói Người đi để dọn chỗ cho chúng ta, nếu chúng ta trung thành tin giữ những điều Người dạy, chúng ta cũng sẽ được hưởng vinh quang trong nhà Cha Người.

3. Kế đến, làm sao loài người có thế biết Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu đã phục sinh? Chính vì ưu tư này, mà trước khi về trời, Đức Giêsu đã ra chỉ thị cho các môn đệ: “ Phải nhân danh Thầy mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội..." (Lc 24,47).

"Phải nhân danh Thầy mà rao giảng": Thực hiện lệnh truyền của Thầy Chí Thánh, các thế hệ Kitô hữu kế tiếp nhau không ngừng rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Giáo hội như đôi tay nối dài của Chúa để đem ơn cứu rỗi con người.

Nhìn lại toàn cầu, sau 2000 năm Tin Mừng được rao giảng, hơn 2 tỉ người tin vào Đức Giêsu, trong đó có hơn 1 tỉ người Công giáo, con số này làm cho chúng ta vui mừng, nhưng còn hơn 4 tỉ người chưa biết Chúa, thì sao? Tại Việt Nam, sau hơn 470 năm hạt giống Tin Mừng được gieo vãi, Giáo Hội Việt Nam khá vững mạnh. Thế nhưng 470 năm trước, cánh đồng truyền giáo thật bao la, 470 năm sau, thời chúng ta đang sống đây, cánh đồng truyền giáo cũng còn rộng khắp! Rồi nhiều người, ngay cả chúng ta nữa mang danh là Kitô hữu mà đời sống còn nhiều bất xứng, cho nên không những truyền giáo mà còn phải tái truyền giáo nữa. Thật là điều đáng làm cho chúng ta suy nghĩ và cấp bách thực hiện.

Rao giảng Tin Mừng muốn có hiệu quả phải đi đôi với việc làm cụ thể, quả đúng như thánh Giacôbê đã viết: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết"(Gc 2,17). Đức Phaolô VI, cũng như Đức Gioan Phaolô II thường dạy với ý tưởng rằng: Thời nay người ta tin chứng nhân hơn thầy dạy, nếu người ta có tin ở thầy dạy bởi chính người đó là chứng nhân. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư mục vụ 2006 cũng chỉ rõ: “Đời sống đạo vừa cần gắn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em, như Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể và nhập thế đã nêu gương cho chúng ta" (TMV 2006,1). Trong phần hướng dẫn, các ngài cũng đã nêu những việc làm cụ thể như: Quan tâm giúp đỡ người thiếu thốn, bệnh tật, nạn nhân bão lụt; tôn trọng luật giao thông, giữ môi trường sạch đẹp; nhịn nhục, tha thứ, không báo thù, không gian tham, trộm cắp lỗi đức công bằng... Vậy mọi Kitô hữu hãy nhìn lại chúng ta đã là chứng nhân cho Đức Kitô Phục Sinh như thế nào? Hay là những phản chứng khi đời sống ta còn quá lôi thôi thiếu sót!

4. Như một cuộc chạy tiếp sức, Đức Giêsu đã hoàn thành phận vụ của mình và trở về cùng Cha hưởng vinh quang thiên quốc, như kết thúc vai trò của Người ở trần gian. Giờ đây đến vai trò của Giáo Hội, của mỗi người chúng ta tiếp tục làm chứng cho sự hiện diện, tình yêu của Thiên Chúa. Sứ mệnh nầy mang tính cấp bách, liên lỉ và đòi hỏi chúng ta phải thật nhiều cố gắng để cộng tác với Thần Khí của Đức Kitô Phục Sinh mà Thiên Chúa Cha trao ban. Chắc chắn phần thưởng Nước Trời cách xứng hợp cho những ai không quản ngại nhân danh Đức Giêsu Kitô mà rao giảng.

 

49. Làm chứng

Chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu Lên Trời kết thúc một cách chính thức cuộc đời nhập thể của Chúa Giêsu trên trần gian, kể từ giây phút thụ thai, tức là khi Thiên Thần Truyền tin cho Đức Maria cho đến giây phút Chúa Giêsu từ giã các Tông đồ sau khi phục sinh và về trời để trở về cùng Thiên Chúa Cha.

Cuộc đời của Chúa Giêsu và những lời giảng dạy của Ngài Luôn thách thức, luôn mời gọi con người phải có một trong hai thái độ tin yêu chấp nhận hay kiêu ngạo chối từ. Xưa cũng như nay và qua mọi thời đại, con người phải chọn lựa một trong hai thái độ này. Đối với những ai kiêu ngạo chối từ Thiên Chúa và Chúa Kiô thì việc Chúa Lên Trời đối với họ có thể được so sánh như là việc Chúa rút lui, biến mất khỏi cuộc sống con người, không còn ý nghĩa gì nữa.

Con người được tự do quyết định về cuộc sống của mình theo những tiêu chuẩn riêng và thuận hoặc nghịch lại Lời Chúa. Họ không còn màng chi đến sự thật đã được Chúa mạc khải. Nếu không lên án kết tội Chúa thì họ cũng quên hẳn mất Chúa. Nhưng đối với những ai tin yêu chấp nhận Chúa, chẳng hạn như các Tông đồ và những đồ đệ của Chúa lúc đó và ngày hôm nay thì biến cố Chúa Giêsu Lên Trời khai mào cho một thời kỳ mới, thời kỳ trách nhiệm của các ngài là làm chứng cho Chúa, chia sẻ với anh chị em xung quanh về tình thương và sự thật của Chúa. Đây cũng chính là thời kỳ dấn thân cho sứ mạng làm chứng cho Chúa Kitô. Mặt khác, Chúa biết rõ sự yếu đuối của những đồ đệ thân yêu của Ngài, nên trước khi từ biệt các Tông đồ Chúa hứa ban một Đấng soi sáng đến an ủi là Chúa Thánh Thần để các ngài đủ sức mạnh cho toàn sứ mệnh đã lãnh nhận.

Mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay hãy xét lại thái độ sống của mình như thế nào? tốt hoặc xấu, hay tệ hơn chúng ta đã chối bỏ Chúa, sống nghịch lại với những lời dạy của Chúa, làm cớ cho anh chị em xung quanh xa lìa Chúa, hoặc là chúng ta đang cố gắng hết sức mình cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Ngài.

Trong suốt tuần lễ tới này, chúng ta hãy luôn cầu nguyện để xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trong tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta sống dấn thân cho Chúa và làm chứng cho Chúa ở mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.

 

50. Chứng nhân

Dù chỉ là một nữ tu sáng lập đơn côi ban đầu, mẹ Têrêsa đã làm nên phép lạ cho dòng Thừa Sai Bác Ai của mẹ lên đến 4000 nữ tu, 450 sư huynh và hàng ngàn người ngoại giáo ngày đêm xuôi ngược tiếp tục công việc nhân ái của mẹ, với 600 cơ sở và 126 quốc gia trên thế giới. Từ ngày thành lập từ năm 1950 đến nay mỗi năm nhà dòng của mẹ đã giúp nuôi 50.000 gia đình nghèo, dạy dỗ cho 20.000 trẻ em và săn sóc cho 90.000 người mắc bệnh phong cùi trong các bệnh viện riêng ở 10 quốc gia. Các trẻ em mồ côi mà mẹ đã nuôi dạy từ hơn nửa thế kỷ nay nhiều không kể xiết.

Ngày mẹ qua đời, tổng thống pháp Jacques Chirac đã gởi một bức điện với lời lẽ đau buồn như sau: “Buổi tối hôm nay đã có ít Tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn hơn và ít ánh sáng hơn trên thế giới này”.

Mẹ Têrêsa quả là một chứng nhân anh dũng. Mẹ không chỉ tin đạo mà còn sống đạo để làm chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa cho thời đại hôm nay.

Bài tin Mừng hôm nay kết thúc Tin Mừng thánh Luca, kể lại việc Chúa Giêsu dạy dỗ các tông đồ lần cuối cùng, sai các ông đi rao giảng và làm chứng cho Ngài rồi Ngài lên Trời.

Sách Công vụ tông đồ trình bày cho chúng ta biết biến cố lên trời là một sự hoàn tất gắn với một khởi đầu. Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng cứu độ trần gian và khởi đầu cho sứ mạng làm chứng nhân của Giáo Hội.

Điều mà bài tin Mừng hôm nay muốn nhấn mạnh, không phải là việc Chúa Giêsu được đem lên trời cách kỳ diệu mà là việc các tông đồ được sai đi để loan báo một Tin Mừng mới lạ, một Tin Mừng cho muôn dân. Đó là Tin Mừng về việc cứu độ.

Các Tông đồ đón nhận lời mời của Chúa Giêsu trong niềm tin tưởng và hân hoan. Tin vào Chúa Giêsu đã phục sinh và lên trời. Tin Ngài sẽ ban Thánh Thần để giúp các ông thi hành sứ mạng mới. Hân hoan vì mỗi người đều được Chúa Giêsu tin tưởng và sai đi.

Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ, những chứng nhân tích cực sẽ không ngừng làm chứng cho các giá trị Tin Mừng, cho đến tận thôn cùng xóm vắng.

Đức Giêsu đã lên trời, nhưng bằng ngày vẫn có muôn vàn chứng nhân tiếp bước Ngài, đón nhận, sáng tạo và đi xây dựng cho thế giới ngày một tốt đẹp hơn.

Họ cũng là những người gây phiền nhiễu như Chúa Giêsu. Họ không chấp nhận một trật tự bất công, một thế giới thiếu vắng tình thương trong đó một số người giàu có dư dật trong khi hàng vạn người phải lang thang đói rách. Họ là những kẻ gây phiền nhiễu như Chúa Giêsu, vì họ làm hết cách để người ta tin rằng, nhân loại có thể ngày một tiến gần hơn đến công bình, tha thứ và tình thương.

Để làm những việc ấy chính các Tông đồ và những chứng nhân tiếp nối các Tông đồ trong Giáo hội chấp nhận sự hiểu lầm, chống đối, đau khổ, tù đày và cả cái chết. Bởi họ luôn có sức mạnh của Chúa Thánh Thần và xác tín vào niềm tin Chúa Giêsu phục sinh.

Chính anh em là chứng nhân.

Hôm nay cũng như bao lần khác, chúng ta cùng nhau mừng lễ Chúa Giêsu lên trời và cũng đã nghe nhiều lần lời mời gọi của Chúa Giêsu “phải rao giảng cho muôn dân… chính anh em là chứng nhân”. nhưng chúng ta có đáp lại lời mời gọi đó với niềm tin tưởng và hân hoan không? hay chúng ta nghĩ đó là công việc của các linh mục, của tu sĩ nam nữ.

Hơn bao giờ hết cuộc sống của hôm nay đã có không ít những khó khăn đang đặt ra cho mỗi gia đình và cho mỗi người chúng ta. Những khó khăn đó đã làm cho chúng ta quên đi đời sống chứng nhân của mình. Tuy nhiên cũng có những người trong chúng ta sống dửng dưng, không quan tâm đến ai khác ngoài cái tôi của mình ngoài tiền bạc và tham vọng cá nhân.

Lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay một lần nữa Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân cho Ngài. Ngài không đòi hỏi chúng ta phải lập nhà dòng hay xây dựng những cơ sở để làm việc từ thiện như Mẹ Têrêsa, điều Ngài chờ đợi nơi mỗi người chúng ta là hãy bỏ đi tính ích kỷ xâm chiếm cuộc sống của chúng ta để mở tâm hồn mở con tim mở miệng ra để sống cho Ngài và cho tha nhân.

Mở tâm hồn để lắng nghe, suy niệm và chiêm ngắm Chúa trong Thánh Kinh đó là cách thức để Lời Chúa trở thành ánh sáng và sức mạnh cho những lựa chọn và quyết định trong cuộc sống hằng ngày.

Mở con tim ra với tha nhân giúp nhau phát huy những tương đồng, chấp nhận dị đồng, vượt qua những bất đồng. Đặc biệt là biết người đau khổ… để mỗi người có thể nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu và là người xây dựng hòa bình.

Cuối cùng chúng ta hãy biết nói về Chúa Giêsu cho người khác khi có điều kiện.

Con người thời nay thường nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ đã xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ thích chúng ta làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương.

 

51. Bài giảng của Lm GB. Hiếu

NHẬP LỄ

Chúa Giêsu về trời không có nghĩa là Chúa định vị vào một nơi nào trên không trung, lệ thuộc thời gian như con người chúng ta thường nghĩ, nhưng đúng hơn là chấm dứt một giai đoạn hiện diện hữu hình, để khởi đầu hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh và để các tín hữu Chúa nhiệt thành nên chứng tá cho Chúa trong cuộc sống này. Xin cho mỗi người chúng ta nên chứng nhân tích cực hoạt động cho Chúa hằng sống.

- Lạy Chúa, lòng Chúa yêu thương chẳng khi nào lìa bỏ chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.

- Lạy Chúa Kitô, Chúa là Đầu của toàn thể Hội Thánh, là niềm hy vọng của chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót …

- Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con nên chứng tá cho Chúa, kêu gọi mọi người sám hối để được ơn tha tội. Xin Chúa …

GIẢNG

Cũng như biến cố Chúa Giêsu phục sinh là sự kiện quan trọng cho nền tảng đức tin của Kitô giáo, lẽ ra phải được thuật lại hoặc tuyên truyền cách nào thật long trọng, rầm rộ để mọi người nhận ra, thế nhưng trong Thánh Ý Thiên Chúa, chúng ta thấy Chúa Giêsu phục sinh rất âm thầm, không ai biết; tác giả các sách Phúc Âm chỉ thuật lại những sự kiện hậu phục sinh rất bình thường: các bà đạo đức ra phần mộ Chúa, thấy ngôi mộ trống, người chạy về báo tin, kẻ chạy ra kiểm chứng, cùng lắm là toán binh lính lo âu về thông tin cho các thượng tế Do-thái giáo để nhận được những đồng tiền hối lộ với lời chứng gian: “Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác” (Mt 28,13).

Sự kiện Chúa thăng thiên cũng vậy, rất đơn giản: Sau khi căn dặn các Tông Đồ trong Nhóm Mười Một (Mc 16,14) cần đi rao giảng Phúc Âm đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Thánh Máccô nhẹ nhàng tuyên cáo: “Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (c.19).

Ý Chúa muốn gì qua những sự kiện đơn giản mà lẽ ra phải được tổ chức long trọng cho những biến cố quan trọng trong nền tảng niềm tin Kitô giáo như thế? Phải chăng Chúa muốn:

+ Niềm tin mang tính chất tự do, cần được đón nhận bằng cả tấm lòng yêu mến của mình, không mang tính chất bó buộc thúc ép? Tuy nhiên, vì yêu mến đón nhận sự kiện ngoài tầm hiểu biết, thì niềm tin đó sẽ đưa dẫn chúng ta vào nơi hạnh phúc của Thiên Chúa, bởi như Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13), thì người đón nhận tin Chúa, không phải là đã liều mất mạng sống vì Lời Chúa hay sao?

+ Phục sinh chỉ là bước ngoặt cho một đoạn đường mới trong hành trình đi theo Chúa, để cuộc sống trong niềm tin Chúa mãi mãi là sức sống cho người tín hữu, thì việc Chúa thăng thiên cũng không phải là cắt đứt liên hệ với cuộc sống con người tại trần gian này; trái lại, về trời nhưng Chúa vẫn tiếp tục hiện diện cùng các môn đệ như Chúa đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20b). Chính vì thế Chúa ban huấn lệnh cho các môn đệ “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân… kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” và mời gọi các ngài làm “chứng nhân” cho những việc Chúa thực hiện này (x.Lc 24,47-48), không phải chỉ đứng đó “nhìn trời” (Cv 1,11).

Chúa về trời để khởi đầu một giai đoạn mới cho Hội Thánh, từ nay chính các tín hữu Chúa sẽ hoạt động, có Chúa hỗ trợ qua tác động của Chúa Thánh Thần: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa” (Lc 24,49). Chúa không hiện diện hữu hình, nhưng hằng “ở cùng” chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế”.

Tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, chúng ta cần sống làm chứng cho Chúa, để những người nhìn vào nếp sống của chúng ta, có thể nhận ra Chúa đang hiện diện trong cuộc sống nhân loại, chờ đợi con người đón nhận Chúa để được hưởng hạnh phúc với Chúa. Chúng ta có mạnh mẽ tuyên xưng niềm tin là con cái Chúa, quyết tâm sống theo Lời Chúa, cho dẫu có bị người đời thù ghét hay làm thiệt hại vật chất hoặc tinh thần chăng?

Xin Chúa Giêsu Phục Sinh hằng ở cùng chúng ta và giúp chúng ta chiến thắng mọi thử thách, để ngày kia cùng được chia sẻ hạnh phúc trên trời với Chúa. Amen.

 

52. Nước trời

Nhìn vào thực tế, chúng ta phải nhìn nhận rằng: chúng ta đã quá bén rễ sâu vào cuộc sống trần gian, đã quá quyến luyến những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu và sẵn sàng bán rẻ linh hồn mình lấy một nắm tro bụi. Dân Do thái ngày xưa đã thờ lạy con bò vàng thế nào thì hôm nay con người cũng đang đi vào con đường ấy. Họ tôn thờ những thần tượng nhảm nhí thay cho Thiên Chúa, như một lời phát biểu đầy châm biếm: hiện giờ tôn giáo lớn nhất trên hoàn cầu là tôn giáo … bóng đá.

Bởi đó ngày hôm nay, sau khi hoàn tất sứ mạng ở trần gian, Chúa Giêsu đã về trời để nói với chúng ta rằng: cuộc sống trần gian chỉ là như một chiếc thang dẫn chúng ta tới quê trời. Hay nói cách khác, trần gian là quán trọ, nước trời mới chính là quê hương đích thực của chúng ta. Khốn cho tôi nếu tôi quên đi chân lý ấy. Khốn cho tôi nếu tôi ra sức biến đổi trái đất thành một thiên đàng vĩnh cửu. Khốn cho tôi nếu tôi không biết dùng cuộc sống này để chuẩn bị những hành trang cần thiết cho tương lai mai hậu… Nhưng dựa vào đâu chúng ta xác quyết rằng: còn một cuộc sống khác, một thế giới khác?

Chúng ta không chụp được hình, cũng không bắt được làn sóng của thế giới ấy, không một ai đã nhìn thấy hay có kinh nghiệm, nhưng sở dĩ chúng ta tin là bởi vì Thiên Chúa đã mạc khải, đã tỏ lộ cho chúng ta. Thực vậy, chúng ta không thể biết nếu Đức Kitô đã không nói đến nước trời bằng những từ ngữ khác nhau. Chúng ta không thể biết nếu thánh Phaolô đã không viết: “Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những gì Thiên Chúa dành cho kẻ yêu mến Ngài”. Chúng ta không thể biết nếu thánh Gioan đã không mô tả: “Ở đó sẽ không còn thời gian và không gian, buổi sáng và buổi chiều, tội lỗi và sự chết. Ở đó, Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt của chúng ta”. Chúng ta không thể biết nếu hôm nay Đức Kitô đã không về trời để củng cố niềm tin của mọi tín hữu suốt dòng thời gian, giúp họ hăng say rao giảng Tin Mừng, chấp nhận mọi khổ đau, chịu đựng mọi thử thách. Thế giới ấy sẽ to lớn gấp ngàn vạn lần thế giới chúng ta đang sống. Vậy thế giới ấy ở đâu? Có phải là lơ lửng giữa các vì sao, trên không trung bao la? Có phải là ở dưới lòng đại dương thăm thẳm? Không, tất cả đều không đúng. Vậy thế giới ấy ở đâu?

Thưa: ở bất kỳ nơi nào chúng ta được nhìn ngắm Thiên Chúa, ở bất kỳ nơi nào có Ngài thì đó là nước trời, thì đó là hạnh phúc vĩnh cửu. Trái lại, bất kỳ nơi nào không có Thiên Chúa, bất kỳ nơi nào chúng ta không được nhìn ngắm Ngài, thì đó là hỏa ngục, thì đó là chốn đọa đầy. Xưa kia thánh Tôma tông đồ nói: “Nào chúng ta cùng đi để được chết với Ngài”. Còn hôm nay, chúng ta có thể đổi lại câu nói ấy: “Nào chúng ta cùng đi để được sống với Ngài”. Phải, sống với Ngài trong một cuộc sống vĩnh cửu. Niềm tin ấy đã thiêu đốt biết bao nhiêu con tim suốt 20 thế kỷ. Chúng ta cần đến khoa học và kỹ thuật, nhưng chúng ta phải luôn nhớ: khoa học và kỹ thuật không thể giúp chúng ta tránh khỏi cái chết. Và sau cái chết sẽ còn lại một cuộc sống khác, trải dài đến muôn ngàn đời. Nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như ngày mai sẽ là thứ hai không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như mặt trời mọc vào ban sáng và lặn vào ban chiều hay không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. Nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như mùa xuân sẽ trở lại khi mùa đông qua đi hay không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. Phải, vì có thể có một ngày Chúa nhật mà sau đó không còn ngày thứ hai; có thể có mặt trời mọc vào ban sáng mà không còn ban chiều để lặn; có thể có một mùa đông mà sau đó mùa xuân sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng sẽ không bao giờ xảy ra rằng lời Chúa sẽ chẳng được thực hiện: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời”.

 

53. Những chứng nhân mới--Lm Trần Thanh Sơn

Khởi từ cuộc Phục Sinh của mình, Đức Giêsu đã đổi mới mọi sự. Ngài đã vượt qua sự chết để khai mở sự sống. Từ đây, lịch sử nhân loại bước sang một giai đoạn mới. Các thế lực sự dữ như: đau khổ, gian nan, vất vả, và nhất là cái chết vẫn còn đó, nhưng không còn được sức mạnh. Tất cả đã bị Đấng Phục Sinh khuất phục. Nhờ sự Phục Sinh của Đức Giêsu thế giới cũ đã qua đi và một thế giới mới đã bắt đầu xuất hiện (x.Kh 21, 1-5).

Ngay trong Chúa Nhật Phục Sinh, ngang qua hình ảnh ngôi mộ trống, phụng vụ lời Chúa cho thấy bởi sự sống lại của mình, Đức Giêsu đã tạo dựng nên một thế giới mới. Và rồi không chỉ lập nên một thế giới mới, Đấng Phục Sinh còn lập nên một dân mới khi Ngài thổi hơi ban Thánh Thần để biến đổi các tông đồ từ những kẻ nhát đảm ở trong những căn phòng đóng kín cửa, thành những con người can đảm dám mở bung cửa, ra đi loan báo Tin mừng cho muôn dân. Từ đây, bước đi giữa biển đời tăm tối, dân mới do Đấng Phục Sinh thiết lập không còn bơ vơ, nhưng họ có Lời Chúa làm kim chỉ nam, định hướng cho cả cuộc đời của họ. Họ chỉ cần để tâm lắng nghe và khiêm tốn thực hành lời dạy của Đấng Phục Sinh, chắc chắn họ sẽ thu được kết quả, như mẻ cá lạ mà các tông đồ đã kéo được trên bờ biển Tibêria năm xưa. Hơn thế nữa, dân mới là Giáo Hội do Đấng Phục Sinh thiết lập còn được chính Ngài làm Thủ Lãnh. Ngài chính là vị Mục Tử Nhân Lành biết rõ từng người trong dân mới. Ngài hằng chăm sóc và ban cho họ được sống và sống dồi dào. Đồng thời, trong tư cách là vị Mục Tử nhân lành, Đấng Phục Sinh cũng mời gọi mỗi người chúng ta là thành phần trong dân mới hãy sống yêu thương nhau như Ngài đã hằng yêu thương chúng ta. Mặt khác, đối với Đấng Phục Sinh, việc chúng ta tuân giữ lời dạy yêu thương không những là một dấu chỉ để mọi người nhận ra chúng ta là môn đệ của Ngài, nhưng còn là một biểu hiệu cụ thể chứng tỏ lòng yêu mến của chúng ta đối với Ngài, như lời Ngài tuyên bố: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14, 23).

Và hôm nay, trước khi chấm dứt sự hiện diện hữu hình của mình giữa nhân loại, Đấng Phục Sinh đã mời gọi các tông đồ và cả từng người chúng ta lên đường ra đi loan báo cho muôn dân biết về Tin Mừng Phục Sinh mà chúng ta đã lãnh nhận. Chính vì thế, theo truyền thống của Giáo Hội, Chúa Nhật lễ Thăng Thiên hôm nay đã được chọn làm ngày “Thế giới truyền thông”.

1. GIÁ TRỊ CỦA ĐAU KHỔ:

Trở lại với bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy sứ điệp đầu tiên mà mỗi người chúng ta cần loan báo cho mọi người đó là cuộc khổ nạn của Đức Kitô, như lời Ngài phán với các môn đệ trước lúc về trời: “Như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình”. Khi nhắn gởi với các tông đồ sứ điệp này, một lần nữa, Đức Giêsu khẳng định với chúng ta rằng: không thể có cuộc Phục Sinh và Thăng Thiên vinh hiển hôm nay, nếu trước đó, Ngài đã không đi đến tận cùng con đường thập giá. Hay nói cách khác, Kitô giáo không hứa hẹn một con đường dễ dãi, hấp dẫn, nhưng để đạt đến một đời sống vĩnh cửu, mỗi người cần phải đi theo con đường Đức Giêsu đã đi, con đường thập giá, con đường của đau khổ. Kitô giáo không tôn sùng đau khổ và cũng không chạy trốn đau khổ, nhưng mời gọi chúng ta sẵn sàng đối diện và đón nhận mọi biến cố vui buồn trong cuộc sống hàng ngày, và biến chúng trở thành phương thế dẫn đưa chúng ta đến với cuộc sống vĩnh cửu.

Nói đến việc đón nhận đau khổ, trái ý… vào giờ này, ở nơi đây, trong ngôi Thánh Đường này thì dễ, nhưng để đón nhận những đau khổ và thử thách ngay trong cuộc sống thực tế hàng ngày, thì quả thật không dễ chút nào. Đối mặt với đau khổ, khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là tìm cách trốn chạy đau khổ. Thế nhưng, có một thực tế mà nhiều khi chúng ta không muốn nhận, đó là tự sức mình, chúng ta không thể nào loại trừ hết mọi đau khổ. Đau khổ vẫn còn đó vì trong từng người chúng ta vẫn còn dục vọng, vẫn còn “Tham, Sân, Si”. Càng chạy trốn, càng vùng vẫy đau khổ như càng thắt chặt cuộc đời của chúng ta. Chính vì chỉ cậy vào sức mình như thế, nên cuối cùng có nhiều người đã đi vào con đường tuyệt vọng.

Biết rõ sự yếu đuối và giới hạn của con người chúng ta, nên trước khi về Trời, Đức Giêsu đã hứa với các tông đồ và với từng người chúng ta: “Thầy sẽ sai đến với các con Đấng Cha Thầy đã hứa”. Chính vì ý thức được sự mỏng dòn của mình, và trong tâm tình tin tưởng vào lời hứa của Đấng Phục Sinh, thánh Phaolô đã lên tiếng cầu xin cho chúng ta: “Xin Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, dể nhận biết Người, xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi”. Thánh nhân, xin Thiên Chúa ban Thần trí của Ngài cho chúng ta, để nhờ ánh sáng của Ngài soi dẫn, chúng ta biết vững lòng trông cậy vào ơn Chúa. Nhờ đó, chúng ta đủ can đảm đón nhận những gì Chúa gởi đến trong cuộc sống mỗi ngày.

2. TIN MỪNG PHỤC SINH:

Tuy nhiên, chúng ta đón nhận đau khổ không phải vì đau khổ, nhưng chúng ta đón nhận nó như một phương tiện để giúp chúng ta đến với cuộc sống vĩnh cửu. Đau khổ, chỉ là một bước thanh luyện cần thiết để giúp chúng ta đạt đến vinh quang Phục Sinh. Chính Đức Giêsu, mặc dù đã đi con đường thập giá, nhưng Ngài không dừng lại ở cái chết khổ nhục trên thập giá. Đàng sau cái chết, đó là cuộc Phục Sinh vinh hiển. Chính sự sống lại của Đức Giêsu đã làm cho con đường thập giá trở nên có giá trị. Sau này trong thư gởi tín hữu Corinhtô, thánh Phaolô đã tuyên bố: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15, 14). Ý thức điều đó, sau những lời nói về cuộc thương khó của Đức Giêsu, thánh sử Luca liền cho chúng ta biết về sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: “Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng; Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày”. Tin Mừng Phục Sinh phải là điều mà mỗi người chúng ta cần xác tín và là mục tiêu cuối cùng của cuộc sống mỗi người chúng ta.

Như thế, vững lòng đón nhận mọi biến cố vui buồn sướng khổ trong cuộc sống hiện tại, và luôn hướng lòng về đời sống vĩnh cửu là hai mặt gắn liền không thể tách rời của mỗi người kitô hữu. Đồng thời, đó cũng là sứ điệp mà mỗi người chúng ta cần loan truyền cho mọi người trong thế giới hôm nay. Chúng ta phải dùng chính đời sống của mình để loan báo cho mọi người về giá trị của con đường thập giá và niềm vui Phục Sinh, như lời dặn của Đấng Phục Sinh: “Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa, và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Hơn nữa, rao giảng bằng cuộc sống, cũng chính là cách thức truyền giáo thích hợp nhất trong thế giới hôm nay.

Chớ gì nhờ sức mạnh của Đấng Phục Sinh nâng đỡ, mỗi người chúng ta không tuyệt vọng khi gặp thử thách gian nan, nhưng luôn bình an trong mọi sự. Nhờ đó, chúng ta trở nên những chứng nhân mới cho Đấng Phục Sinh trong thời đại hôm nay. Amen.

 

54. Suy niệm của Giuse Trần Xuân Chiêu

Sau khi sống lại 40 ngày, và sau những lần gặp gỡ với các môn đệ, Đức Giêsu đã thực hiện lời Người đã nói trước, người đã từ biệt các ông và lên Trời.

Nhưng tại sao Đức Giêsu dạy các môn đệ làm phép Rửa đã, sau đó mới giảng dạy cho họ? Tại sao không nói Chúa về Thiên đàng mà lại lên Trời, dễ làm người ta hiểu lầm ở một điểm nào trên không gian? Tại sao cho đến lúc này vẫn có những môn đệ còn hoài nghi? Theo Matthêu thì Đức Giêsu lên Trời tại Galilêa, vậy tại sao thánh Luca (Lc 24,50-53) lại nói Chúa lên Trời ở Bêtania?

1. Galilêa

Matthêu không có ý nhấn mạnh tới địa danh nơi Chúa lên Trời, nhưng tác giả muốn nhấn những sự kiện có liên quan tới công trình cứu thế của Đức Giêsu tại Galilêa:

Galilêa là một địa danh rộng lớn thuộc phía bắc It-ra-en, nơi có đủ các thứ dân sinh sống. Đây là khu vực mà người It-ra-en ở Giê-ru-sa-lem coi khinh, cho là vùng đất của dân ngoại. Nơi đây được coi như trung tâm của các giao tiếp, sắc tộc, ngôn ngữ, thương mại, hoà trộn tín ngưỡng và vô tín ngưỡng.

Galilêa được coi là điểm hẹn lí tưởng giữa Thiên Chúa và con người: Trên núi Sinai, nơi Môi-sen đã ở trên đó 40 ngày đêm và được Thiên Chúa mạc khải cho 10 điều răn. Ngôn sứ Isaia và sau này là thánh Matthêu nhắc tới địa danh Galilêa như một điểm sáng: “Hỡi Galilêa miền đất của dân ngoại, những dân đang ngồi trong bóng tối tử thần được nhìn thấy ánh sáng” (Is.9,1).

Galilêa gắn liền với sứ vụ của Đức Giêsu: Na-da-ret nằm trong vùng đất Galilêa, nơi gia đình Đức Giêsu sinh sống, lớn lên và làm việc. Trên núi Ô-liu, nằm phía đông Giê-ru-sa-lem, là nơi Đức Giêsu thường xuyên đến để cầu nguyện. Tại đây còn có vườn Giêt-si-ma-ni, có làng Bêtania, nơi Người đã cho La-da-rô chết bốn ngày sống lại, có ngọn núi Bet-pha-giê nơi khởi điểm cuộc rước Đức Giêsu long trọng vào thành Giê-ru-sa-lem và tiên báo thành này bị tàn phá không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào.

Galilêa còn là dấu chỉ hẹn cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ: Cũng có mây mù che phủ, như đã từng che phủ Môi-sen trên núi Si-nai, cũng như Đức Giêsu với ba môn đệ yêu dấu ở Ta-bo-rê; cũng con số 40 kì diệu: 40 ngày trên núi Si-nai của Môi-sen hay 40 ngày chay tịnh của Chúa; 40 ngày sau khi Đức Giêsu sống lại, Người đã gặp gỡ lần cuối với các môn đệ như đã chỉ định trước: “Các bà hãy mau về nói với các môn đệ rằng người đi Galilêa trước các ông” (Mt.28,7).

Như vậy Galilêa là nơi Chúa Giêsu đã sống gương mẫu, rao giảng chân lí, thành lập Giáo Hội và tuyển môn đệ. Đức Giêsu đã làm xong nhiệm vụ và đi trước để dọn chỗ cho những ai tiếp tục sứ mệnh Người giao phó.

2. Cõi Trời

Chúa Giêsu về Trời, là về nơi Người phát xuất: Ngài đã hoàn thành nhiệm vụ của Người ở trần gian, Người cần được hưởng vinh quang với Ba Ngôi Thiên Chúa. Mười một Tông đồ đã đến điểm hẹn, có một số còn hoài nghi. Thực ra tất cả các môn đệ đều khởi đầu từ chỗ hoài nghi rồi đến tin tưởng, và dám đổ máu mình ra để chứng tỏ niềm tin đó. Các ngài vẫn còn những hạn chế của con người, như Phê-rô, Tô-ma, hay hai môn đệ Emmau; các ngài còn phải được học hỏi các màu nhiệm mặc khải, các ngài phải được thử thách đủ, trước khi làm nhiệm vụ. Các Tông đồ còn được chứng kiến Thầy mình về Trời để các ông hi vọng. Chỉ có sự thật mới thuyết phục được các ngài theo Chúa; tất cả nói lên rằng, Đức tin là một hành động hoàn toàn tự do dành cho con người.

Chúa lên Trời là đi từ chỗ hữu hình vào nơi vô hình: Nói Chúa lên Trời, là nói theo kiểu thế gian. Người ta thường quan niệm trời là tất cả không gian ngoài trái đất, trời là nơi Đấng Tạo Hoá ngự trị và điều khiển muôn loài. Tuy nhiên, Trời đây không phải là một điểm nào, không phụ thuộc chiều cao của không gian vật lý, không phụ thuộc vào quy luật của vũ trụ, thời gian, có thể cân đong đo đếm. Chúa lên Trời không phải là lánh xa trái đất, đến ngự trị trong một vì tinh tú hào quang, Chúa lên Trời là thay đổi từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái siêu nhiên. Trời hay Thiên đàng là một, Người hiện diện khắp mọi nơi.

Đức Giêsu về Trời để nhận nhiệm vụ mới: Người duy trì sự hiện diện của Người nơi nhân loại: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế"(Mt 28,20). Đức Giêsu được trao toàn quyền trên trời, dưới đất, vũ trụ hữu hình và vô hình. Người đánh bại cái chết, Người làm Vua vũ trụ, Đấng sáng tạo và bảo tồn vũ trụ, không có gì nằm ngoài quyền của Người.

3. Thế gian

Đức Giêsu đã về Trời và trao lại nhiệm vụ cho Giáo Hội. Người đã lệnh cho mọi người trên trái đất phải thi hành chỉ thị của Người:

Vậy anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân và làm cho họ trở thành môn đệ Thầy. Môn đệ đây được hiểu là các Kitô hữu. Đức Giêsu gọi các môn đệ và muốn họ nhân rộng ra, tăng mạnh lên. Chúa tạo dựng con người và muốn cho họ hưởng hạnh phúc. Các Tông đồ được coi là người kế nghiệp Chúa Ki-tô, là những thợ gặt lành nghề. Họ phải biết đưa mọi người vào Nước Chúa. Chúa từ chối Sa-tan với tất cả vinh hoa của nó, Người muốn các Tông đồ tiếp tục chinh phục toàn thể vũ trụ để đưa mọi người vào Nước Trời hạnh phúc mà Người đi trước dọn chỗ, để mọi người có thể tận hưởng muôn đời.

Hãy làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Đức Giêsu muốn thâu nạp nhiều môn đệ qua phép Thanh Tẩy. Người đã thánh hoá nước, để nước có sức thánh hoá nhờ Thánh Linh. Người muốn họ nối kết với nhau trong một tập thể, mà Ba ngôi Thiên Chúa là mối dây, là tình yêu liên đới, là sức sống sung mãn dồi dào trong toàn thể, cũng như từng cá nhân. Không thể nhân danh cá nhân nào, không nhân danh thụ tạo nào, thần thánh nào, mà là nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa, để họ được gia nhập vào gia đình thánh thiện của Chúa.

Hãy dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Việc Đức Giêsu đặt nhiệm vụ này cuối cùng, không phải là Người dạy họ phải làm theo thứ tự như vậy, đó chỉ là câu nói nhằm mục đích kêu gọi môn đồ. Người muốn họ phải hiểu biết đầy đủ, để chia sẻ Lời dạy của Chúa, phải biết được giá trị của việc làm, để thực thi nhiệm vụ của một môn đệ.

Nhiệm vụ Chúa giao phó cho các Tông đồ cũng là nhiệm vụ của chúng ta. Chúa không muốn riêng ai quản lí màu nhiệm Mạc khải, Chúa ra lệnh mỗi người phải mạnh dạn ra đi rao giảng và làm chứng về Người, hầu được hưởng phúc Nước Trời với Thiên Chúa Ba Ngôi.

***

Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con tin bằng trái tim, tuyên xưng bằng miệng và bày tỏ bằng việc làm, rằng Chúa ngự trong chúng con ngõ hầu nhân loại thấy rõ những việc lành chúng con làm mà tôn vinh chúc tụng Cha chúng con trên trời. Vì Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con, Đấng muôn đời vinh hiển. Amen! (Origênê)

 

55. Bàn tay giơ ra để chúc lành--Lm Giuse Phạm Ngọc Ngôn

Hôm nay, toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Kytô vinh hiển về trời. Có thể nói biến cố Thăng Thiên là một biến cố đặc biệt, vì đó không chỉ là một mạc khải biểu lộ vinh quang khải hoàn của Chúa Kytô nhằm đóng dấu ấn kết thúc cuộc đời cũng như sự kiện Phục sinh của Người; Đó cũng không chỉ là biến cố cuối cùng của lịch sử cứu độ mà đây chính là thời kỳ khai mở cho một biến cố mới: Chúa Thánh Thần sẽ đến hướng dẫn và dạy dỗ các môn đệ như Chúa Giêsu đã hứa.

Khi đối chiếu hai bản văn Tin mừng thứ ba và sách Công vụ Tông đồ của cùng một tác giả là thánh sử Luca, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì cùng một biến cố Thăng Thiên nhưng lại có sự mâu thuẫn rõ ràng về mặt thời gian: một đàng là biến cố Thăng Thiên xảy ra ngay sau khi Chúa Phục sinh, chỉ trong một ngày và một đàng là 40 ngày sau (x. Lc 24; Cv 1, 3). Lý giải sao về điều này?

Chúng ta có thể thấy dụng ý thần học của Luca trong đoạn Tin mừng trên, vì sự thực thì Phục sinh và Thăng Thiên là một thực thể thống nhất không thể tách rời nhằm biểu lộ vinh quang của Đấng Phục sinh và quyền thống trị của Người. Như thế, ngay sau khi Phục sinh, Chúa Kytô đã đi vào vinh quang thiên quốc chứ không phải chờ đợi gì nữa. Tuy thế, thỉnh thoảng Chúa Kytô xuất hiện cách hữu hình với các môn đệ nhằm củng cố đức tin và dạy dỗ các ông. Có thể thấy 40 ngày là quãng thời gian tượng trưng đầy đủ và sung mãn để các ông tiếp nhận những giáo huấn và hiểu rõ hơn sứ mệnh của Người. Thật vậy, đây chính là quãng thời gian mà Chúa Kytô tỏ mình cho các môn đệ nhận biết Người (Lc 24, 39). Người mở tâm hồn cho các ông hiểu rõ ý nghĩa của biến cố Phục sinh (24, 44). Để rồi những gì các ông vừa trải nghiệm với Người, tất cả sẽ trở thành những chủ đề cho lời rao giảng cốt yếu sau này- những gì đã được Kinh thánh loan báo đều được thực hiện trọn vẹn trong mầu nhiệm Vượt qua. Chính các ông sẽ là những chứng nhân cho những gì các ông từng trải nghiệm mà Công vụ Tông đồ đã ghi. Sau quãng thời gian này, Chúa Kytô không còn hiện diện cách hữu hình, cách thể lý bằng xương bằng thịt nữa và tác giả Công vụ Tông đồ nói rằng Chúa Kytô lên trời.

Thánh sử Luca ghi lại sự kiện Chúa lên trời thật giản dị: “Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời” (24, 50). Hình ảnh cuối cùng của Chúa Kytô ở trần gian chính là bàn tay giơ ra để chúc lành. Đây chính là hình ảnh tuyệt vời bởi nó không chỉ là dấu chỉ từ biệt và chúc lành mà chúng ta thường thấy nơi các thánh tổ phụ chúc lành cho các con, cho những người thừa kế vào lúc lìa cõi thế, mà còn là dấu chỉ nhằm cho thấy Chúa Giêsu mãi mãi sẽ ở cùng và ban ơn cho các môn đệ của Người ở trần gian này. Cuộc chia ly này không giống cuộc chia ly trong vườn Ôliu, các môn đệ lòng đây hoan hỷ và không ngớt tụng ca Thiên Chúa: cuộc chia ly trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa Kytô bên cạnh các môn đệ.

Biến cố Thăng Thiên không chỉ cho thấy công trình cứu chuộc như lời Kinh thánh loan báo đã hoàn thành mà còn là thời điểm làm cho tất cả mọi người nhận ra những lầm lỗi của mình, ăn năn sám hối để hưởng nhờ ơn tha thứ của Thiên Chúa; biến cố Thăng Thiên không chỉ là lúc Chúa Kytô Phục sinh trao trách nhiệm rao giảng cho các môn đệ mà còn là thời điểm đ¨¢nh dấu những hoạt động truyền giáo cho muôn dân của các ông sau này; biến cố Thăng Thiên không chỉ là một lời hứa, một lời chúc phúc nhưng còn là một sự hiện diện, một sức mạnh của Chúa Kytô làm cho các môn đệ hoan hỷ, không ngớt lời tụng ca Thiên Chúa và giúp các ông trở nên can đảm và nhiệt huyết hơn trong sứ vụ chứng nhân Tin mừng.

Ước gì tâm tình của ngày lễ Thăng Thiên giúp mỗi người chúng ta thêm lòng tin tưởng vào sự hiện diện cách vô hình của Đấng Phục sinh để rồi như các môn đệ xưa, cuộc sống của chúng ta là những chuỗi ngày đầy ắp niềm vui trong Chúa, lời cầu nguyện và tạ ơn của chúng ta sẽ hoà nhập với lời cầu nguyện và tạ ơn của các môn đệ để rồi theo chân các ngài, chúng ta ra đi dấn thân cho công cuộc truyền giáo như lòng Chúa hằng ước mong.

 

56. Chứng nhân Nước Trời--Lm Bùi Quang Tuấn

Có rất nhiều người lầm tưởng thiên đàng là một khoảng không gian nào đó trên cao kia. Sự lầm tưởng này đã làm phát sinh nhiều hậu quả không hay: người có đạo thì bị lung lay bối rối khi có một vài khoa học gia nói rằng: Chẳng thấy Chúa đâu trên kia cả; người không có đạo thì nghĩ: Có lẽ nước trời là một thế giới nằm đâu đó trong không gian, với những sinh hoạt na ná giống như trần gian này. Thế nên đã có câu chuyện khôi hài do một cha thừa sai kể lại: Sau một tuần giảng đại phúc thật sốt sắng tại một vùng đất nọ, các cha khuyên nhủ được một ông cụ ngoại đạo gia nhập đoàn chiên Chúa. Thấy cụ bà chưa có dấu hiệu nào khả quan, nên các cha tích cực khuyên bảo: “Ông đã theo đạo rồi, bà cũng nên theo đi thôi, để sau khi chết còn lên thiên đàng gặp lại nhau nữa chứ.” Nghe thế cụ bà hốt hoảng trả lời, “Không được đâu, suốt đời ổng đã hành hạ tui đủ thứ. Mai mốt trên thiên đàng còn phải gặp lại mặt ổng nữa thì tui chết mất.”

Thiên đàng sẽ chỉ là một con số “không”, chẳng có chút gì hấp dẫn nếu như nơi đó không có hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc chính là hoa trái của yêu thương, mà yêu thương thì phát xuất từ con tim, nghĩa là từ bên trong. Bên trong chứ không phải bên ngoài hay bên trên kia.

Nước trời không ở bên ngoài hay bên trên, cũng không phải là một nơi nào đó trong không gian. Nước trời phải được hiểu như là một thực tại phía trong: trong lòng tôi, trong nơi tôi đang cư ngụ hay làm việc, và trong tầm với của gia đình.

Cho nên nói Chúa Giêsu lên trời cũng chính là nói Chúa Giêsu đi vào trong đời ta, nhà ta, lòng ta, gia đình ta. Có như thế thì lời “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” mới đong đầy ý nghĩa của nó. Chứ nếu như Ngài lên trời cao xanh hay Ngài ở nơi thế giới ngoài kia thì làm sao hiểu là Ngài đang ở cùng chúng ta được. Và vì Chúa Giêsu đã đi sâu vào đời ta, nhà ta, nên Ngài đã truyền cho chúng ta phải làm chứng cho sự hiện diện của Ngài: “Các ngươi phải là nhân chứng của Ta.”

Chứng tá cho Đức Giêsu là làm sao vẽ được dung mạo của Ngài ngay trên cuộc sống của mình, làm sao cho người khác cảm nhận được sự hiện diện của Ngài ngay trong môi trường mình đang sinh hoạt, diễn tả được hình ảnh của Nước Trời đang ở giữa và ở trong chúng ta.

Có nhà hoạ sĩ kia cứ mãi mơ ước trong đời mình sẽ vẽ được một bức tranh đẹp nhất thế giới. Nhưng anh ta không biết phải vẽ thứ gì để bức tranh sẽ có được hình ảnh, màu sắc, và nội dung sâu đậm đáng trở thành bức tranh tuyệt vời nhất trần gian.

Chàng đã tìm hỏi với một linh mục về điều gì đẹp và ý nghĩa nhất. Vị linh mục trả lời ngay: “Niềm tin. Niềm tin là số một, niềm tin sẽ nâng cao giá trị con người. Niềm tin sẽ chữa lành và biến đổi mọi sự nên tuyệt vời.”

Chàng hoạ sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô gái đang bước lên xe hoa về nhà chồng. Cô gái trả lời: “Trên thế gian này không có gì đẹp bằng tình yêu. Tình yêu là hơi thở, là sức sống, là hạnh phúc, là tất cả. Tình yêu biến cay đắng thành ngọt ngào, đưa tiếng cười vào nơi than khóc, đổi nghèo hèn tầm thường thành phú quí cao sang. Tình yêu thật tuyệt vời.”

Cuối cùng người hoạ sĩ gặp một anh thương binh vừa trở về từ tiền phương. Anh lính đã trả lời: “Hoà bình là điều đẹp nhất trần gian. Ở đâu có chiến tranh, ở đó có đổ nát, bất hạnh, khổ đau. Ở đâu có hoà bình, ở đó có cái đẹp.”

Ba câu nói của ba con người-- vị linh mục, cô gái sắp lấy chồng và anh thương binh trẻ-- đã làm cho người hoạ sĩ phân vân: không biết phải làm thế nào để trên bức tranh của mình có thể diễn tả cùng một lúc niềm tin, tình yêu, và hoà bình.

Đang suy nghĩ anh về đến nhà lúc nào không hay. Mấy đứa con anh ùa ra đón bố. Anh nhận thấy niềm tin trong ánh mắt của các con. Anh cũng cảm được tình yêu trong chiếc hôn chân thành của người vợ. Niềm tin của con cái và tình yêu của người vợ làm cho tâm hồn anh ta ấm áp và an bình lạ thường. Thế rồi một ý tưởng chợt loé lên trong đầu. Anh vội ngồi xuống khởi công vẽ tranh, và sau khi hoàn thành tác phẩm đẹp nhất thế gian, anh đã đặt tên cho nó: “Mái Ấm Gia Đình.”

Mái ấm gia đình chính là hình ảnh xinh đẹp và sống động nhất mà người ta có thể vẽ được về Nước Trời hay Thiên đàng ngay trên thế gian này. Mái ấm gia đình cũng sẽ là lời chứng tá hùng hồn nhất cho sự hiện diện của Đức Giêsu giữa dương gian.

Bạn chưa cần phải đi đâu xa để làm chứng tá về niềm tin; bạn cũng chưa thể đi đến mút cùng trái đất để giảng về tình yêu và an bình của trời cao. Nhưng bạn có thể làm chứng tá cho Đức Giêsu ngay trong gia đình của mình.

Trước mỗi hành động, lời nói, giao tế, cư xử, hãy tự hỏi: tôi có làm mất niềm tin nơi người bạn đời hay nơi con cái của tôi không? Tôi đang xây dựng tình thương và an bình hay đang sống phản chứng trước mặt con cái và bạn đời? Tôi có đang cố gắng vẽ lên chân dung của Thiên Chúa qua việc hy sinh để kiến tạo một mái ấm gia đình không?

Những dòng chữ sau đây rất đáng cho bạn và tôi tâm niệm để ý thức hơn khi vẽ lên cho đời những “mái ấm”:

“Mái ấm là môi trường và là thánh đường đầu tiên cho tuổi thơ học thế nào là điều ngay, thế nào là điều thiện, thế nào là lòng tử tế.

Đó là nơi tuổi thơ tìm về để được an ủi vỗ về mỗi khi đau khổ, bệnh tật.

Đó là nơi chia sẻ niềm vui và xoa dịu buồn phiền.

Đó là nơi cha mẹ được kính trọng và yêu thương...

Đó là nơi mà những món ăn đơn sơ cũng trở thành cao lương mỹ vị, bởi vì là giá của mồ hôi nước mắt.

Đó là nơi mà tiền bạc không quí bằng tình yêu.

Và đó là nơi mà ngay cả nước sôi cũng reo lên niềm hạnh phúc.

Mái ấm gia đình. Đó là nơi được Thiên Chúa chúc phúc.”

Ước gì Lễ Chúa Giêsu Lên Trời nhắc chúng ta về một Nước Trời tại thế--mái ấm gia đình--để sau Lễ Lên Trời này, bạn và tôi cũng sẽ theo bước chân của các môn đệ, lên đường làm chứng tá cho Đức Kitô, chứng tá ngay trong gia đình, chứng tá bằng việc xây dựng một mái ấm. Dù rằng cuộc đời của chứng nhân nào cũng không tránh khỏi đổ mồ hôi hay đổ máu, không tránh khỏi những hiểm nguy như chiên đi giữa sói rừng, không tránh khỏi khốn khổ như một người tôi tớ, nhưng đó là giá cần trả để có được một bức tranh tuyệt đẹp của niềm tin, yêu thương, và an bình hạnh phúc.

 

57. Ra khơi

Tại Rôma, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II luôn luôn cử hành lễ Chúa Thăng thiên vào đúng ngày, tức là vào ngày thứ Năm, trong khi đó thì tại các Giáo Hội địa phương, như tại Việt Nam, Giáo hội cử hành vào ngày Chúa Nhật tiếp sau. Như thế, hôm nay chúng ta được dịp may để nghe lại đây một vài đoạn trích từ chính bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ Kính Chúa Thăng Thiên. Đức Thánh Cha đã chia sẽ như sau: Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa Lên Trời, chúng ta đã nghe được Lời Chúa: “chúng con sẽ nhận lấy sức mạnh Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên chúng con và chúng con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất.”

Từ hơn 2000 năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử con người. Những lời này làm cho Giáo hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo hội trở nên như men làm dậy lên mọi nền văn hóa trên thế giới.

Hôm nay trong lễ kính Chúa Thăng Thiên, chúng ta muốn nghe lại những lời trên để với sức mạnh đã được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa: “Hãy ra khơi”, mệnh lệnh và Chúa Giêsu đã nói với Phêrô. Đây là một mệnh lệnh mà tôi muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Năm Mới”, và đây là mệnh lệnh với một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng ngày lễ Chúa Thăng Thiên.

“Hãy ra khơi”. Ra nơi mà Giáo hội cần tiến đến không phải là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ, nhưng còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm như những tông đồ, như những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa Lên Trời. Chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang của Thiên Chúa Cha. Chắc chắn nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này, và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Am hôm nay nói rằng: “Tại sao các ông còn nhìn trời?”.

Việc cầu nguyện và chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi dấn thân vào trong lịch sử. Trời nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là một sự xa vắng, nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện, đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang.

Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi, đỏi hỏi chúng ta phải làm chứng. Bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước, và chính để làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập đại hội Hồng Y đặc biệt bế mạc hôm nay.

Các vị Hồng Y từ khắp nơi trên thế giới và tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về công việc rao giảng Phúc Am và làm chứng Kitô trong thế giới ngày nay vào “Khởi Đầu Ngàn Năm Mới”. Đây, đối với chúng tôi là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui giống như của các tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài để lên trời.

Thật vậy, Thánh Luca đã ghi lại rằng, sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Và tiếp sau trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo hội, và cuộc Hội Hồng Y cũng được Đức Thánh Cha đặt nằm trong viễn tượng này. Thực hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo hội đễ Giáo hội có thể rao giảng Phúc Am Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em.

Trong Thánh Lễ hôm nay và trong giây phút này, chúng ta được Đức Thánh Cha nhắc lại một ý nghĩa quan trọng của biến cố Chúa Lên Trời, không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, nhưng Ngài còn bước sang một sự hiện diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài ở cùng chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi trường chúng ta sinh sống.

Từ Chúa Nhật hôm nay đến tuần tới lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình xem chúng ta đã mở rộng tâm hồn mình đón nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế, và chúng con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này”.

 

58. Chúa lên trời--Fr Thomas Tuý

Một tín hữu đi ngang qua một quán rượu, anh nghe trong quán có tiếng cười nói ầm ĩ. Anh dừng lại lắng nghe, thì ra nhóm đàn ông vừa uống rượu vừa chế giễu tôn giáo và những kẻ có đạo. Anh nói với họ rằng: “Đúng đó, tôi chẳng hiểu các màu nhiệm trong đạo, nhất là kẻ chết có thể sống lại. Nhưng tôi biết rõ một điều ở trong thành phố này, Thiên Chúa đã cúi xuống một nắm đất sét hôi hám, bẩn thỉu vô cùng, Ngài thổi hơi vào nó. Nó liền biến đổi từ gã đâm thuê, chém mướn, sike, trộm cướp, cờ bạc, rượu chè, thành một thanh niên kiến tạo hòa bình, thương yêu giúp đỡ láng giềng. Người đó chính là tôi, đang đứng trước qúi vị đây”. Cả đám đông ồ lên một tiếng. Thì ra họ đã nghe đồn về “anh trưởng” của một mái ấm thành phố mà báo chí thường nhắc đến.

Nếu suy nghĩ một chút, quí vị ngộ ra lời người thanh niên còn đi xa hơn sự thật về anh rất nhiều. Thiên Chúa đã thổi Thần Khí vào nắm đất trong vườn Eđen và nhân lọai thành hình. Ngài lại rợp bóng trên nhân lọai và nhân lọai ấy trở thành Con của Ngài trong lòng trinh nữ Maria. Nhân lọai mới này chịu khổ nạn trên thập giá để đền bù tội lỗi, nhưng ngày thứ ba sống lại. Hôm nay được đón về trời ngồi tòa vinh hiển, có các thiên thần hầu cận.

Lên trời có ý nghĩa thế nào đối với đức Kitô, thì cũng vậy đối với mỗi tín hữu, thí dụ người thanh niên hư hỏng vừa nói ở trên. Vậy lên trời đối với Chúa Giêsu ra sao? Và chúng ta thế nào? Có được quyền lên trời không? Phải sống ra sao để theo Chúa? Trước hết, lên trời đối với Chúa Giêsu là sự nghiệp và đau khổ của một con người đã chấm dứt. Ngài lên cùng Thiên Chúa Cha với thân xác và linh hồn mà Ngài đảm nhận ở dương gian. Ngài và Thiên Chúa Cha kết hợp mật thiết trong tình yêu chân thật là Chúa Thánh Thần. Đấng sẽ đổ ơn lành xuống cho nhân lọai, khởi sự từ biến cố lễ 50. như vậy sự hiện diện của Thiên Chúa trên Giáo Hội không khi nào chấm dứt, đúng như lời Chúa Giêsu tuyên bố: “Thày sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20). Điều Thiên Chúa bắt đầu ở vườn Eden, nay hòan tất nơi đức Kitô, bất chấp tội lỗi. Chương trình của Thiên Chúa không bao giờ thất bại. Chúa Giêsu là con của lòai người, nay là con của Thiên Chúa xét theo nhân tính. Ngài là tạo vật mới vượt qua không gian, thời gian, đau khổ và cái chết. Như vậy nhân tính đã được dự phần vào thiên tính thực thụ và có chứng cớ rõ ràng. Đúng là hy vọng lớn lao cho lòai người? Chúng ta không được phép thất vọng vì bất cứ lý do nào. Đức Giêsu đã tòan thắng sự dữ và tội lỗi, chúng ta cũng có hy vọng tương tự.

Con đường lên thiên đàng đã được họach định cho nhân lọai. Nhân tính Đức Giêsu vui hưởng hạnh phúc, mà tai chưa hề được nghe, mắt chưa hề được xem, trí tuệ chưa hề tưởng tượng. Ngài uống tận nguồn nước vĩnh cửu của đời sống Ba Ngôi Ngài cử hành muôn thuở chiến thắng thế gian, satan, xác thịt cùng với Đức Mẹ, các thánh và các thiên thần trong vinh quanh. Nhưng xin nhớ trên dương gian Ngài không hề ích kỷ, trên thiên đàng càng xả kỷ hơn nữa. Trên dương gian Ngài chữa lành bệnh tật, cho kẻ què đi được, kẻ điếc được nghe, câm nói được, chết sống lại thì bây giờ chẳng lẽ Ngài không làm được nữa sao? Ngài đã thí mạng sống vì chúng ta, chẳng lẽ Ngài thôi thực hiện? Vì thế thơ Do Thái viết: “Ngài hằng đứng trước tòa Thiên Chúa để cầu bầu cho nhân lọai”. Nếu bà thánh Thérésa Hài Đồng Giêsu trước khi qua đời hứa mưa hoa hồng ân phúc xuống chị em trong dòng, chẳng lẽ Đức Giêsu không làm được cho chúng ta?

Cho nên chúng ta phải tin rằng Ngài đang hiện diện trong Hội thánh, tưới gội ơn cứu rỗi cho nhân lọai. Các bí tích là một bảo đảm. Ngài ở với lòai người trong bí tích Thánh Thể y như ở trên trời vinh hiển, yêu thương, quyền năng. Xin đừng đùa cợt với các bí tích đó là công việc Thiên Chúa tiếp tục nơi dương gian. Ngài hòan tòan là con người mới với thân thể thiêng liêng, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Ngài hiện diện cho những ai có đôi mắt đức tin, như các tông đồ xưa, nhất là nơi nhà tạm với ngọn đèn leo lét.

Chúng ta phải làm chi lúc này? Đừng đứng đó mà ngó lên trời, như hai thiên thần cảnh cáo các môn đệ? Sự thật một số tín hữu tiên khởi đã lầm tưởng Chúa sắp xuất hiện, nên cứ ngồi đó mà chờ đợi, đến nỗi Thánh Phaolô phải nói thẳng thừng: “Ai không chịu làm thì đừng ăn.” Tín hữu không phải là kẻ mộng du, nhưng là người thức tỉnh, chia sẻ cuộc sống của Ngài, chúng ta phải lao động và làm việc như Chúa. Các người làng Nazareth ngày xưa đã ngạc nhiên: “Anh ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?” Câu nói này chẳng là trò đùa, mà là sự thật. Suy ra, Chúa lao động với đôi tay và khối óc suốt 30 năm. Còn ngài đi đây đó rao giảng sứ mệnh thì quá hiển nhiên. Bốn phúc âm đều thuật lại, không cần biện minh. Vậy mà, hỡi ôi, các tu sĩ linh mục ngày nay cư sử ra sao trong cuộc sống? Họ dùng thời gian, tài sức ra sao cũng hiển nhiên không kém! Chia sẻ cuộc sống với Chúa là điều kiện cần thiết để nên giống Ngài và đọat giải cứu rỗi. Các môn đệ tiên khởi đã nêu gương cho chúng ta hôm nay! Bao lâu nữa Ngài sẽ trở lại? Chẳng ai được biết. Nhưng mọi người đều biết rằng, trừ thân xác, còn linh hồn mỗi người trở về cùng Thiên Chúa thì không phải đợi. Cho nên lao động để nâng đỡ gia đình, con cái, xã hội là cần thiết và như vậy chúng ta tích cực chuẩn bị cho ngày Ngài trở lại.

Hiện thời trên dương gian Tin mừng của Chúa Kitô là Tin mừng thánh giá. Qua tin mừng ấy, nhất là qua những thương tích, Ngài tưới gội sức sống và ơn thánh xuống cho thế giới. Màu nhiệm cứu độ của Ngài còn tiếp tục qua con đường đó, chứ không phải an nhàn, thư thái. Ngài mời gọi chúng ta cộng tác: “Ai muốn theo Tôi, hãy để kẻ ấy vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” Vậy mà một tu sĩ trẻ vừa nói với tôi: “Đi tu chỉ mong được có thế!” Ý ông là được ăn sung, mặc sướng, tận hưởng các tiện nghi thế gian. Chẳng hiểu thần khí nào thúc đẩy ông như vậy. Chắc chắn không phải Thần Khí Đức Kitô. Vì hôm nay Ngài về trời để lại cho chúng ta con đường thập giá để noi theo mà tiến bước về trời. Chẳng còn con đường nào khác. Amen. Alleluia.

 

59. Những giáo huấn cuối cùng và lên trời--Lm PX. Vũ Phan Long

“Khi đi về trời, Đức Giêsu cũng chỉ cho chúng ta biết mục tiêu của đời sống chúng ta.”

1.- Ngữ cảnh

Chương 24 của TM Lc được xây dựng thành 3 đoạn và một kết luận (xem bài trước). Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay lấy một vài câu của phần ba và đoạn kết luận.

Khi hiện ra với các môn đệ, Đức Giêsu cho thấy Người chính là Đức Kitô đã chịu đóng đinh, Người cũng không được gìn giữ khỏi đau khổ và thiếu thốn, khỏi bị từ khước và thù ghét, khỏi những đau đớn và cái chết. Nhưng cũng chính Đấng chịu đóng đinh là Đấng Phục Sinh. Người đã bị điệu đi đến cái chết trong tình trạng thê thảm và tàn bạo, nay Người đang đứng trước mặt các ông như là Đấng đang sống đã thắng vượt cái chết và không thể chết nữa. Rồi Người cho các môn đệ hiểu rằng các ông chẳng những không phải sợ là bị hủy diệt hoàn toàn, mà còn có thể và phải đi làm chứng về biến cố trọng đại này. Đức Giêsu đã dựa vào Kinh Thánh để trình bày cuộc Thương Khó – Phục Sinh, rồi xác định sứ mạng của các môn đệ.

2.- Bố cục

Bản văn này có thể chia thành hai phần:

1) Đức Giêsu Phục Sinh ban sứ điệp (24,46-49);

2) Đức Giêsu lên trời (24,50-53).

3.- Vài điểm chú giải

- bắt đầu từ Giêrusalem (47): Câu này là câu chuyển tiếp đưa sang tập thứ hai của tác phẩm Lc (= Sách Cv).

- Chứng nhân (48): Tại đây, tác giả Lc đã nói trước điều ngài sẽ triển khai trong sách Cv, bắt đầu ở Cv 1,21-22. Ngoài TM IV, sách Cv là quyển sách thuộc Tân Ước trong đó từ này và các từ phái sinh (làm chứng, chứng tá, chứng từ) được sử dụng nhiều nhất: 29 lần. Lý do là vì quyển sách này là sách về chuyên việc làm chứng. Như thế, từ martys, “chứng nhân”, cũng có một tầm quan trọng đặc biệt. Đặc biệt không được lẫn lộn từ này với tư cách “mục chứng”: Hy ngữ cổ điển, và chính Lc (Lc 1,2) dùng từ autopês, “người chứng mắt thấy”. Vai trò của một autopçs khá thụ động, và tư cách này thực ra chỉ là một tình trạng thực tế: autopês là người có cơ hội chứng kiến một biến cố nào đó; do đó, nếu cần phải làm chứng hoặc toà án buộc làm chứng, người ấy có thể trình bày những gì mình đã thấy, như mình đã thấy. Còn chứng nhân (martys) có một vai trò tích cực hơn nhiều, có một sứ mạng phải hoàn tất: đó là không những công khai công bố những gì mình đã chứng kiến, mà còn xác định ý nghĩa, tầm mức của biến cố ấy nữa. Là người đi qua biến cố, “chứng nhân” trở thành người tuyên cáo (trong bối cảnh tôn giáo, thần học) sứ điệp đã được hàm chứa trong biến cố ấy. Câu truyện tuyển chọn ông Mátthia thay thế cho Giuđa minh hoạ điểm phân biệt này (Cv 1,15-26). Bởi vì trong thực tế, ta khó mà hiểu được vì sao lại phải đi tới một tuyển chọn, thậm chí một sự chuẩn nhận để cắt đặt một chứng nhân nếu người này chỉ cần có một điều kiện là hiện diện thể lý trong một biến cố thuộc quá khứ. Trái lại, ta hiểu là cần có một cuộc tuyển chọn (rút thăm) nếu vai trò người được chọn vượt quá khung cảnh chật hẹp này, nếu cùng với việc công bố biến cố, người ấy còn phải biết minh giải đúng đắn biến cố ấy. Vậy các chứng nhân mà Cv sẽ nói tới trong cả sách, là những nhà thần học về các hoạt động cứu độ của Chúa.

Muốn làm chứng về sự sống lại của Đức Chúa (Cv 4,33), thì phải công bố chân tính và toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu. Công viẹc làm chứng này của các tông đồ được mô tỏ rõ ràng trong các bài diễn từ (Cv 2,22-36; 3,12-16; 4,8-12; 5,29-32; 10,34-43; 13,26-41; 17,30-31).

- điều Cha Thầy đã hứa (49): dịch sát là “lời hứa của Cha Thầy”, là Thánh Thần, như Cv1,4b.5b sẽ diễn tả rõ. Thánh Thần sẽ là nguồn của “quyền năng” trong câu tiếp theo.

- giơ tay (50): Đây là cách chúc lành của tư tế (xem Aharon trong Lv 9,22), hoặc của vị thượng tế (xem Simôn II trong Hc 50,20-21). Điều mà Dacaria (Lc 1,21-22) đã không thể làm được, thì Đức Giêsu đang làm cho người đang đi theo Người. Mặc dù tác giả Lc mô tả Đức Giêsu thực hiện một hành vi tư tế, nền thần học của ngài không hề đề cập đến Đức Giêsu như là tư tế.

- được đem lên trời (50): Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa (x. Cv 1,9.11.22). Các câu 50-53 dường như mâu thuẫn với Cv 1,3-11. Theo Cv, Đức Giêsu “còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” (Cv 1,3). Trong khi đó, bản văn TM dường như lại bảo rằng tất cả những gì tác giả Lc kể trong ch. 24 đã xảy ra trong ngày Phục Sinh, rằng di chúc của Đức Chúa đang rời xa thế gian này (cc. 41-49) và cuộc Lên trời của Người (cc. 50-53) theo liền ngay sau cuộc hiện ra vào chiều ngày Phục Sinh.

Dường như Lc đã có những ý hướng Phụng vụ khi trình bày các biến cố: mỗi ngày chúa nhật của cộng đoàn Kitô hữu là một lễ Phục Sinh, một ngày Phục Sinh.

- các ông bái lạy Người (52): Các môn đệ làm một cử chỉ nhận biết Đức Kitô. Họ thinh lặng bái lạy để thờ phượng Người, như người Do-thái đã làm trước mặt thượng tế Simôn (Hc50,22) để nhận phúc lành của ông.

- trở lại Giêrusalem (52): Như vậy, TM Lc kết thúc tại nơi nó đã bắt đầu (1,5). Giêrusalem đã là mục tiêu của hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu (23,5); bây giờ Giêrusalem lại được nêu ra như điểm nhắm. Nhưng rồi, điểm nhắm lại trở thành khởi điểm khi “lời” lan tỏa đến tận cùng trái đất (Cv 1,8).

- lòng đầy hoan hỷ (52): dịch sát là “với niềm vui lớn lao”. Đây là niềm vui của những người không những đã được thấy Đấng Phục Sinh, mà còn đã đặt sự Phục Sinh của Người liên hệ với cuộc ra đi của Người và đặt cuộc ra đi này liên hệ với lời hứa Thánh Thần. Lời nhắc đến “niềm vui lớn lao” khiến ta hiểu rằng biến cố Lên Trời chấm dứt thời gian Đức Giêsu ở tại trần thế, mà cũng là hoàn tất cuộc Phục Sinh của Người, là khởi đầu của thời gian Giáo Hội. Niềm vui này của những người chứng kiến cuộc Lên Trời là tiếng vọng và sự hoàn tất của niềm vui mà sứ thần hứa cho tư tế Dacaria và cho một số đông vào ngày Gioan Tẩy Giả chào đời (Lc 1,14). Nhưng nhất là niềm vui này thể hiện trọn vẹn niềm vui lớn lao mà sứ thần hứa cho các mục đồng, “một niềm vui cho toàn dân” (2,10). Ở đây cũng vậy, khởi đầu và kết thúc gặp nhau.

- hằng ở trong Đền Thờ (53): Như vậy, tác giả Lc bắt đầu mô tả đời sống cộng đoàn của Hội Thánh phôi thai (x. Cv 2,46; 3,1; 5,42). Ở đây lại nổi bật tầm quan trọng của Đền Thờ theo hướng nhìn của Lc.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Đức Giêsu Phục Sinh ban sứ điệp (46-49)

Trong tư cách Đấng Phục sinh, Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng toàn thể định mệnh của Người đã được Thiên Chúa muốn như thế, và Người giúp các ông hiểu ý nghĩa của Kinh Thánh, như Người đã làm cho hai môn đệ Emmau. Cái chết của Người trên thập giá và cuộc Phục Sinh của Người cũng đã làm trọn nội dung sau này phải được loan báo cho mọi dân tộc. Nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là trong chứng từ về Người, khởi đi từ tất cả những gì đã được biểu lộ xuyên qua công trình và toàn thể cuộc tiến bước của Người cho đến thập giá và sự sống lại, muôn dân sẽ được loan báo sự hoán cải và sự tha thứ tội lỗi. Mọi người phải quay trở lại với Thiên Chúa, Đấng đã nhờ cuộc sống, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu mà chứng tỏ tình yêu và quyền lực của Người. Rồi Đấng Phục Sinh biến các môn đệ trở thành chứng nhân của Người. Họ sẽ phải làm chứng về các biến cố trong cuộc đời của Người cũng như cuộc gặp gỡ với Người đây và việc Người trở về trời (x.Cv 1,21t). Mỗi lời loan báo đều phải phát xuất từ các chứng nhân này, nghĩa là không dựa trên những suy diễn, những ý tưởng hoặc ý kiến cá nhân, nhưng trên các biến cố lịch sử và trên những giáo huấn do Đức Giêsu ban cho. Do đó, lời loan báo chỉ có thể phát xuất từ những người đã tháp tùng và lắng nghe Đức Giêsu, đã hiểu ý nghĩa của cuộc đời Người nhờ được Người giải thích.

Các môn đệ không thể hiểu nhiệm vụ bao la này bằng sức riêng. Do đó, Đức Giêsu báo cho các ông là Người sẽ gửi cho các ông điều Chúa Cha đã hứa, tức là Thánh Thần. Chính Thánh Thần, là quyền lực của Thiên Chúa, sẽ giúp cho các ông có khả năng loan báo với xác tín và can đảm công trình và sự Phục Sinh của Đức Giêsu (x. Cv 2,22-36).

* Đức Giêsu lên trời (50-53)

Sau khi đã dùng nhiều cách để làm cho các môn đệ tin chắc vào sự sống lại của Người và sau khi đã chuẩn bị các ông đi vào nhiệm vụ, Đức Giêsu từ biệt các ông. Người sẽ không hiện diện bên các ông theo kiểu hữu hình nữa. Nhưng Người sẽ cùng đi với các ông trên mọi nẻo đường. Người giơ tay lên để từ biệt các ông. Trong khi Người đi xa dần khỏi mắt các ông, Người chúc lành cho các ông. Người gửi đến cho các ông sức mạnh của hành vi chúc lành của Người, để sức mạnh này ở lại với các ông và nâng đỡ các ông suốt đời trong mọi hoạt động.

Chỉ đến lúc này, tác giả mới nhắc đến niềm vui của các môn đệ và việc các ông chúc tụng Thiên Chúa. Dacaria (Lc 1,64.68-79) và ông Simêôn (2,28-32) đã chúc tụng Thiên Chúa. Lời chúc tụng Thiên Chúa liên tục vang lên khi dân chúng chứng kiến những hành vi quyền lực của Đức Giêsu (7,16; 13,13; 17,15; 18,43). Sau khi đã trải nghiệm qua Đấng Phục Sinh hành vi quyền lực lớn lao nhất của Thiên Chúa, nghĩa là sự Phục Sinh của Đức Giêsu, các môn đệ chỉ có một câu trả lời đúng đắn: ca ngợi trong niềm hoan hỷ và chan hòa tâm tình biết ơn đối với Thiên Chúa.

+ Kết luận

Tác giả Lc đã bắt đầu tác phẩm với việc Dacaria dâng hương và dân chúng cầu nguyện trong Đền Thờ (Lc 1,8-10), để xin Thiên Chúa nhớ lại dân Ngài và tỏ lòng nhân ái. Bây giờ tác giả kết thúc Tin Mừng với việc các môn đệ của Đức Giêsu chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Các ông đã cùng đi với Đức Giêsu cho đến khi Người lên trời, các ông đã biết hơn bất cứ ai rằng Thiên Chúa đã nhớ đến dân Ngài thế nào. Và tất cả những ai nhờ chứng tá của các môn đệ và qua tác phẩm Lc mà trải nghiệm lòng từ bi cao cả của Thiên Chúa, thì không thể làm gì hơn là tham gia vào việc ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Hôm nay là Chua Giêsu lên trời. Khi mừng đại lễ này, chúng ta tưởng niệm lần cuối cùng Đức Giêsu tỏ mình ra hữu hình với các môn đệ. Người chọn một cách thức hiện diện khác để hỗ trợ các môn đệ trong hoạt động truyền giáo. Từ nay, Người sẽ đồng hành với họ, sẽ hiệp thông với họ khi chia sẻ bữa ăn, sẽ sống động khi họ giải thích Sách Thánh và khi họ ý thức rằng họ đang được đón nhận sự sống viên mãn của Người. Người bỏ cách hiện diện trước đây bằng thân xác, để từ nay hiện diện mãi mãi với mỗi môn đệ.

2. Khi đi về trời, Đức Giêsu cũng chỉ cho chúng ta biết mục tiêu của đời sống chúng ta. Nếu chúng ta xác tín rằng chúng ta thuộc về “trên cao”, thì chúng ta sẽ phải quy hướng trọn cuộc sống chúng ta về đó. Chúng ta vẫn sống giữa các thực tại trần gian, chúng ta vẫn phải sử dụng các yếu tố trần gian, nhưng không bám víu vào các phương tiện ấy, trái lại, biết dùng chúng cách tích cực mà chuẩn bị cho mình và người khác đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Trước ngày đi chịu chết, Đức Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm nhưỡng vinh quang của con” (Ga 17,24).

3. Thánh Thần, là quyền năng của Chúa Cha và của Đức Giêsu, luôn ở với Hội Thánh để hỗ trợ Hội Thánh trong sứ mạng đã nhận từ Đức Giêsu. Đọc sách Cv, chúng ta nhận ra được sức năng động của Thánh Thần.

4. Nếu các tín hữu gắn bó mật thiết với Đức Giêsu, họ nhận ra quyền lực vô song của Thiên Chúa trong viẹc cho Đức Giêsu sống lại. Khi đó, họ chỉ có thể cảm thấy tưng bừng hoan hỷ và lời chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa sẽ hồn nhiên từ đáy lòng trào dâng lên môi miệng họ. Và trọn cuộc sống của họ là một chứng từ về quyền lực cứu độ của Thiên Chúa mà họ đã trải nghiệm.

 

60. Chú giải của Noel Quesson

Cũng như đối với trình thuật về cuộc Thương khó và Phục sinh, ta nên suy niệm những trình thuật khác nhau về biến cố Thăng Thiên được ghi lại cho ta: suy niệm tận nguồn gốc đặc biệt của chúng, để khỏi lẫn lộn Người với một thứ hình tượng -người máy.

Năm nay, chúng ta có may mắn được nghe hai trình thuật diễn tả cùng một biến cố do cùng một tác giả thuật lại đó là Luca. Thật rõ ràng, nếu Luca không nỗ lực dung hòa toàn diện hai đoạn văn mô tả của ông, là vì theo ông, chính những khác biệt đó có một ý nghĩa... vượt qua tính lịch sử được hiểu theo nghĩa hẹp.

Trong Tin Mừng, Luca giới thiệu biến cố Thăng Thiên ngay chiều hôm Phục sinh, và chác chắn ngay trong đêm tiếp theo ngày thứ nhất trong tuần (Lc 24, 1. 24, 13. 24, 36. 24, 50), nếu ta nhớ lại khi các môn đệ làng Em-mau vào bàn ăn, thì “trời đã muộn“ (Lc 24, 29), và các ông phải đi bộ khoảng 12 cây số trong “hai tiếng đồng hồ“ (Lc 24, 13) để trở lại Giêsusalem. Còn Đức Giêsu đã mất giờ giải thích Lề luật, các ngôn sứ và Thánh Vịnh liên hệ đến Người, với các môn đệ (Lc 24, 44) ngay chiều Phục sinh...

Trước khi dẫn họ đến Bê-tha-ni-a, ở đó Người được đem về trời (Lc 24, 50). Trái lại, trong Công vụ Tông đồ, cũng chính Luca xác định biến cố Thăng Thiên vào lúc kết thúc “bốn mươi ngày” (Cv 1,3). Ngoài những tưởng tượng có tính cách ấu trĩ mà ta cần phải từ bỏ, hiển nhiên là giữa những lần “hiện ra” khác nhau của Người, Đức Giêsu không lánh ẩn trong một khu phố tại Giêrusalem, trong một nơi bí mật, để chờ đợi “ên” trời về cùng Chúa Cha! Thực sự, Phục sinh, Thăng Thiên và Hiện xuống, là ba khuôn mặt của cùng một “mầu nhiệm” duy nhất: bởi vì vừa sống lại, thì Đức Giêsu đã bước vào vinh quang của Chúa Cha và ngự bên hữu Người “theo kiểu nói của khải huyền. Đặc biệt, Luca nhấn mạnh đến sự kiện Đức Giêsu “rời bỏ“ những kẻ mà Ngài đã cho họ được gặp mặt... Người biến mất trước cái nhìn của họ (Lc 24, 31 - 24, 51).

Như thế, Thăng thiên vào chiều tối Phục sinh xảy ra để gắn liền cuộc sống nhân loại của Đức Giêsu với việc tôn vinh quyền năng Thiên Chúa của Người…và đó là trang cuối cùng của Tin Mùng!

Trong khi biến cố Thăng Thiên vào “ngày thứ bốn mươi” để bắt đầu cuộc sống mới của Đức Giêsu vượt qua không gian và thời gian... thì cũng là lúc khởi sự trang đầu tiên của Công vụ Tông đồ! Kết thúc thời gian của Đức Giêsu Nadarét...là bắt đầu thời kỳ của Giáo hội.

Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”.

Đức Giêsu nói: “Khi Thầy còn ở với anh em”. Điều đó chứng tỏ rằng Người không còn ở trái đất như trước nữa. Thăng thiên sắp tới chỉ lặp lại những gì đã diễn ra do biến cố Phục sinh: từ đây trở đi, sự hiện diện của Chúa Phục sinh, dù có thực sự đi nữa, thì cùng ở trong một trạng thái khác... Người đã bước vào thế giới của Thiên Chúa rồi.

“Việc ứng nghiệm... và hiểu biết Kinh Thánh!”. Đức tin là phương thế duy nhất để đạt được “thế giới của 'Thiên Chúa” mà Đức Giêsu đang hiện diện, vì giờ đây Người “không còn ở với chúng ta theo cùng một cách thức như trước nữa”. Ngay trên bước đường đi đến Em-mau, Đức Giêsu đã khiển trách hai người đồng hành với Người là những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin” (Lc 24, 25).

“Như sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy”. Chỉ khi sống lại, Người mới giải thích Kinh thánh: thực vậy, cần phải “chết đi sống lại”, để khi người ta đọc lại Kinh Thánh, mới có thể nhận ra điều đó đã được loan báo. Do đó, trong đời sống của chúng ta, có một số những biến cố đột nhiên xảy đến, soi sáng trở lại những sự việc, những lời nói mà trước đó chúng ta chưa hiểu được cách sâu xa.

“Các Thánh Vịnh”: Đức Giêsu đã thuộc lòng và hằng ngày dùng Thánh vịnh để cầu nguyện. Còn tôi thì sao? Liệu tôi có đủ độ nhớ chỉ một Thánh Vịnh để cầu nguyện, nhất là một trong những Thánh Vịnh nói về Đức Giêsu không?

Có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này”.

Luca nhấn mạnh đến sự kiện: chỉ nhờ biến cố Phục sinh, các môn đệ mới hiểu được “những lời Kinh Thánh chép”. Như thế, đời sống của riêng ta, đời sống của mọi người, đời sống của những kẻ mà ta vẫn tưởng rằng mình có tương quan thân mật nhất... chỉ sáng tỏ trong ngày của Chúa. Đúng vậy, những biến cố liên hệ đến cuộc đời của Đức Giêsu, trước ngày đó, vẫn làm cho các môn đệ hoang mang, khó hiểu! “Đau khổ” của Đức Giêsu trên thập giá, có vẻ như một sự ngẫu nhiên, một tai nạn, một thất bại. Nhưng giờ đây họ mới khám phá ra, đó là sự ứng nghiệm chương trình mầu nhiệm của Chúa Cha: “Cần phải ứng nghiệm không gì đã được Kinh Thánh báo trước... “. Đó không phải là một định mệnh, cũng không phải là một số mệnh nghiệt ngã và khắt khe... mà là một chương trình yêu thương! Nhưng cho tới ngày đó, họ chưa nhận ra. Giờ đây, họ sắp trở nên chứng nhân cho những điều đó. “Ngày Phục sinh ngày dài nhất của thời gian... “Ngày thứ nhất” đó sẽ kéo dài, tới vô tận! Không có ngày nào khác như thế nửa. Ta hiểu ra rằng, Luca đã muốn gom cách tiêu biểu để cả trong ngày duy nhất đó, và ngày này sẽ được kéo dài qua đời sống chứng tá của Giáo hội suốt dòng lịch sử. Hiện nay, chúng ta có luôn là “nhân chứng” cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa không? Đức Giêsu, trước thái độ kịch liệt công phẫn của những người được coi là “sạch” đã nghiêng về phứa những người Samari ngoại giáo... những kẻ lạc đường, đĩ điếm, ngoại tình... những kẻ dốt nát, bị nhóm Pharisêu và thông giỏi khinh bỉ... những kẻ thông đồng với dân ngoại, những người thu thuế cộng tác với đế quốc Rôma... mọi người nghèo khổ bị xã hội ruồng bỏ, những kẻ thấp kém, bệnh tật, phong cùi. Thay vì ra hình phạt của Thiên Chúa mà lề luật đòi buộc, Đức Giêsu lại loan báo “ơn tha thứ” không giới hạn, không loại trừ một người nào khỏi ơn cứu độ phổ quát được cống hiến cho mọi người, bắt đầu từ Giêrusalem”. Đúng vậy, Thiên Chúa là Cha những người tội lỗi. Người tha thứ cho mọi người. Và noi gương Thiên Chúa, ta cũng phải tha thứ cho mọi người, ngay cả những kẻ thù của mình! Vì đã rao giảng những điều như thế nên Đức Giêsu đã bị kết án và bị đóng đinh như kẻ “phạm thượng”. Nhưng rõ ràng việc sống lại minh chứng rằng, Ngài đã có lý. Những người đại diện cho lề luật bị lên án. Đấng chịu đóng đinh luôn sống động. Mọi điều Đức Giêsu đã giảng dạy và hành động... sẽ tiếp tục và được chính Thiên Chúa minh chính hóa.. “Anh ern sẽ là chứng nhân!”.

Lạy Chúa, Chúa đòi chúng con phải thay đổi trở về thế nào đây? Thực sự, chúng con chưa làm chứng đầy đủ cho tình yêu cứu độ phổ quát!

Và đây chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.

Họ rất cần điều đó. Chúng ta cũng rất cần điều đó, cần “quyền năng” không do ta, chứng từ trời cao ban xuống! Bởi vì các môn đệ sắp phải sống và rao giảng trong một thế giới, bề ngoài chưa có gì thay đổi cả: sự dữ bạo lực, hận thù, chết chóc... độc ác, tà thuyết, sai lầm, dốt nát, áp lực đủ thứ... vẫn còn tiếp diễn.

Đấng sẽ trao ban quyền năng đó... ở đây không nêu tên... bởi vì, cũng như Chúa Cha “không ai trông thấy bao giờ.. và khác với Đức Giêsu, Đấng là khuôn mặt hữu hình của Thiên Chúa... Thần Khí không có dạng hình. Hay, đúng hơn Ngài mang bộ mặt của ta, theo cách nói của Thánh Phaolô: “Anh em là thân thể của Đức Kitô. Khi cây nến Phục sinh được tắt đi vào Lễ Thăng Thiên, thì độ là lúc các ngọn lửa được thắp sáng:để xâm chiếm mỗi người môn đệ vào Lễ Hiện Xuống.

Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được lên trời.

Đó là sự “rời khỏi”. Chỉ mình Luca sử dụng từ ngữ đây ý nghĩa đó.

So sánh với cùng một trình thuật trong Công vụ Tông chúng ta nhận thấy có nét giản dị hơn. Ở đây, không có yếu tố mô tả nào, không có “đám mây” cũng không có hai Người mặt áo trắng”. Không phải là Luca không hay biết tới ngôn ngữ khải huyền. Trong một trình thuật khác, ông sẽ sử dụng thứ ngôn ngữ này. Nhưng trong đoạn văn trên, ông muốn tương đối hóa, đơn giản hóa nó.

Tất cả đều rất bí mật, và chúng ta thử dõi theo Đức Giêsu xem sao: “Người dẫn các ông...”, “Người giơ tay chúc lành cho các ông”. “Người rời khỏi các ông để trở về với Chúa Cha trên trời”.

Chưa bao giờ Đức Giêsu đã “chúc lành” cho các tông đồ. Nhưng đây là một cảnh từ biệt. Luca có ý nối kết lại một truyền thống Kinh Thánh phong phú. Các nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh thường kết thúc đời mình bằng một cử chỉ chúc lành cho những kẻ tiếp sau: Giacóp (St 49), Môsê (Đnl 33), Đavit (1Sb 28-29). “Phép lành” của Đức Giêsu là cử chỉ cuối cùng của Người. Một cử chỉ mà Người sẽ không ngừng thể hiện, nhờ mỗi linh mục, đại diện của Người, làm lại trên chúng ta vào lúc chào tạm biệt trong Thánh lễ, bằng cách “giơ tay lên” để chúc lành cho chúng ta nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa.

Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giênlsalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.

Thật là nghịch lý! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn, lại vui tươi. Cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu đã trở thành nhóm người “tôn thờ” Đức Giêsu và cùng nhau “ca tụng Thiên Chúa”. Đức Giêsu ở “trên trời”. Các môn đệ của Người ở “trong Đền Thánh'. Đó chỉ là một biểu tượng... một sự đối xứng. Một phụng tự mới.

 

61. Các con là chứng nhân-- Lm Giuse Đinh Lập Liễm

A. DẪN NHẬP

Hôm nay lễ Chúa Giêsu lên trời kết thúc cuộc đời ở trần gian theo như những gì Kinh Thánh đã tiên báo. Theo cái nhìn của Luca, thì “Thời kỳ Israel” đã nhường chỗ cho “Thời kỳ Đức Kitô”. Giờ đây, “Thời kỳ của Đức Kitô”â lại nhưỡng chỗ cho “Thời kỳ của Giáo hội”.

Bài đọc Tin mừng trích trong tác phẩm cuối của Tin mừng Luca, chứa đựng trình thuật đầu tiên của Luca về biến cố lên trời. Ở đây Thăng thiên được trình bầy như được xẩy ra vào Chúa nhật Phục sinh. Đức Chúa Phục sinh cho các Tông đồ thấy Kinh thánh đã tiên báo về Đức Kitô phải chịu đau khổ và sống lại như thế nào (Lc 24,48).

Khi hiện ra với các Tông đồ, Đức Giêsu đã trao cho các ông sứ vụ rao giảng Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất (Lc 24,47) và phải làm chứng cho Ngài nơi muôn dân nước (Lc 24,48). Đồng thời Ngài cũng hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần đến cùng họ (Lc 24,49). Sau khi đã căn dặn các môn đệ nhiều điều, Đức Giêsu lên trời trước mặt các ông. Họ vui mừng trở về Giêrusalem để chờ đợi Chúa Thánh Thần.

Lễ Thăng thiên được xem như đỉnh điểm của đời sống Đức Giêsu và là khởi điểm sứ vụ của Giáo hội. Do đó, mọi thành viên trong Giáo hội phải tích cực thi hành sứ vụ này bằng đời sống chứng nhân trước mặt mọi người.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Cv 1,1-11

Khởi đầu sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết: sau khi sống lại Đức Giêsu tiếp tục hiện ra với các môn đệ trong 40 ngày và trước khi về trời, Ngài còn ban các ông những lời dạy cuối cùng

- Đức Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn còn sống.

- Ngài khuyên các ông hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã hứa ban.

- Ngài còn trao cho các ông sứ mạng rao giảng Tin mừng để làm chứng cho Ngài trên khắp cùng thế giới.

+ Bài đọc 2: Ep 1,17-23

Trong thư gửi cho tín hữu Eâphêsô, thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.

Ngài còn cho biết: Chính Chúa Cha đã cho Đức Giêsu sống lại; chính Chúa Cha đã tôn vinh Đức Giêsu; cũng vẫn Chúa Cha đã đặt Đức Giêsu làm Chúa tể muôn loài, làm đầu Hội thánh. Chúng ta có thể đặt trọn niềm tin cậy ở Ngài.

+ Bài Tin mừng: Lc 24,46-53

Trong sách Công vụ Tông đồ, thánh Phaolô đã nói và trong Tin mừng hôm nay còn nói lại:

- Những lời căn dặn cuối cùng: theo Sách Thánh, Đức Kitô phải qua chịu nạn rồi mới tới Phục sinh. Các môn đệ phải rao giảng và làm chứng cho Đức Giêsu dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ ban cho.

- Đức Giêsu về trời: Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Đức Giêsu thăng thiên. Ngài về trời có nghĩa là Ngài rời bỏ tình trạng hèn hạ của loài người mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa, nghĩa là Ngài chỉ thay đổi cách hiện diện.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Chứng nhân của Đức Kitô

I. ĐỨC GIÊSU VỀ CÕI TRỜI.

1. Theo sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ.

Thánh Luca là tác giả sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ. Theo sách Công vụ Tông đồ, chúng ta đọc thấy biến cố lên trời xẩy ra vào ngày thứ 40 sau Phục sinh. Trái lại, trong sách Tin mừng, Luca lại đặt biến cố này vào ngay chiều ngày Phục sinh. Thực ra, sách Tin mừng có ý viết về sứ mạng của Đức Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, và sách Công vụ Tông đồ viết về sứ mạng của Giáo hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới. Việc Đức Giêsu lên trời là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó; hay nói cách khác, lúc Đức Giêsu lên trời là lúc Đức Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo hội để tiếp tục công trình của Ngài.

2.Ý nghĩa việc lên trời.

Việc lên trời của Đức Giêsu có hai ý nghĩa, đó là giai đoạn rao giảng của Đức Giêsu đã qua, đã chấm dứt và mở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo hội.

a) Một giai đoạn đã qua.

Ý nghĩa trọng đại của việc Đức Giêsu lên trời là sự cứu chuộc mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái chết đền tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn cho đến đời đời.

Đức Giêsu đã làm xong công việc cứu chuộc, đã hoàn thành sứ mạng Cha Ngài đã trao phó là cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền tội trên thập giá và đã sống lại để cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời. Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy đủ cho đến muôn đời. Và như vậy, đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin của các môn đệ đặt vào một Thầy bằng xương bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ nay, các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng Thầy đời đời vượt thời gian và không gian.

b) Khởi đầu một kỷ nguyên mới.

Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Sách Thánh không chấm hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Đức Giêsu, mà còn tiếp tục trong Hội thánh. Sứ điệp Tin mừng được hoạch định “cho muôn dân”, được rao giảng bắt đầu từ Giêrusalem.

Một giai đoạn lịch sử cứu độ được hoàn tất. Mới kỷ nguyên mới được chuẩn bị, kỷ nguyên đi gieo rắc Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất.

Thật là nghịch lý! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn phiền. Các môn đệ ra về trong sự vui mừng chứ không phải tấm lòng sầu muộn vì họ biết rằng từ nay không có gì có thể ngăn cách mình với người Thầy của mình. Thánh Phaolô đã phát biểu: “Ai có thể phân cách chúng ta với tình yêu thương của Chúa Cứu thế”? Và Ngài khẳng định: “Tôi biết chắc chắn rằng bất kỳ sự sống, sự chết… chẳng có thể phân rẽ chúng ta ra khỏi sự yêu thương mà Thiên Chúa đã thể hiện nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta”(Rm 8,35-38).

II. TRAO SỨ MẠNG RAO GIẢNG TIN MỪNG.

1.Sứ vụ rao giảng Tin mừng.

Đức Giêsu về trời vẫn giao sứ mạng cho các môn đệ và Giáo hội phải rao giang Tin mừng: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đức Messia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem”(Lc 24,46-47).

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới dất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.

Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Ngài. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin mừng.

Truyện: Hoàn thành tác phẩm

Nhạc sư sáng tác người Ý, Giacomo Puccini, để lại cho đời một số những tác phẩm ca nhạc kịch – opera – rất nổi tiếng, chẳng hạn như La Bohême và Madame Butterly. Năm 1922, lúc 64 tuổi, ông bị ung thư ác tính. Mặc dù cơn bệnh hành hạ thân thể, Puccini vẫn nhất định phải hoàn tất vở ca kịch Turandot mà bây giờ nhiều người đánh giá là vở ca kịch hay nhất của ông.

Ông làm việc ngày đêm. Nhiều người khuyên can ông phải nghỉ ngơi vì nghĩ rằng ông không thể nào hoàn tất vở ca kịch này được. Khi con bệnh trở nên trầm trọng, Puccini đã viết cho học trò của mình: “Nếu thầy không hoàn tất vở ca kịch Turandot được, thầy muốn các con tiếp tục công việc ấy cho thầy”.

Năm 1924, ngày số phận đã tới, khi Puccini sang Bỉ giải phẫu, ông qua đời hai ngày sau đó. Trở về Ý, các học trò của ông qui tụ nhau lại, mỗi người một tài năng khác nhau tiếp tục sáng tác vở ca kịch Turandot của thầy để lại. Sau khi nghiên cứu và làm việc với tất cả tâm hồn, họ đã hoàn tất vở ca kịch này.

Năm 1926, lần đầu tiên trên thế giới, vở ca kịch đã được trình diễn tại nhà hát ca kịch La Scala ở Milan. Vở này đã được điều khiển bởi người nhạc trưởng môn sinh rất được Puccini ưa thích, Arturo Toscanini. Tất cả mọi sự diễn tiến tốt đẹp cho đến khi dàn hòa tấu trình diễn tới khúc nhạc mà Puccini đã sáng tác dang dở. Những giọt nước mắt đã rơi xuống trên khuôn mặt của người điều khiển. Ông ngưng dàn nhạc lại, buông cây đũa điều khiển xuốâng, quay ra khán giả và nói lớn: “Nhạc sư đã viết đến đây, rồi ông qua đời”. Cả nhà hát im lặng một hồi lâu. Không ai nhúc nhích! Không một tiếng động! Hoàn toàn thinh lặng!

Sau vài phút, người nhạc trưởng cầm cây đũa điều khiển lên, quay ra khán giả, mỉm cười qua những giọt lệ rơi và nói lớn: “Nhưng các môn sinh của ông đã hoàn tất tác phẩm này”. Khi vở ca kịch Turandot kết thúc, cả nhà hát bùng lên tràng pháo tay như sấm nổ vang trời. Trong rạp hát không còn một con mắt nào khô ráo. Ai cũng rơi lệ và không ai có thể quên được giây phút ấy (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 190).

Rao giảng Tin mừng là sứ vụ Đức Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi xa cách con cái, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các Tông đồ: “Vậy các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”.

Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mạng đó. Mặc dầu Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách, nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin mừng. Lòng can đảm, chí trung kiên đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mọi người như lời Ngài đã phán: “Thầy ở cùng các con mọi ngày đến tận thế”.

2. Rao giảng bằng cuộc sống.

Có nhiều cách rao giảng Tin mừng, có người phải từ bỏ gia đình đi đến những miền xa, phải trèo non lặn suối, có khi phải liều mạng để rao giảng Tin mừng. Đây là những người có ơn kêu gọi đặc biệt, còn phần đông chúng ta chỉ có thể rao giảng trong môi trường cụ thể của mình, đó là rao giảng bằng đời sống. Đó chính là sống Lời Chúa Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi ngưởi, Để rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng Ngài cho chính chúng ta trước. Có câu ngạn ngữ Trung hoa như sau:

“Tiên chánh kỳ tâm hậu tu kỳ thân,

Tiên tu kỳ thân hậu tề kỳ gia,

Tiên tề kỳ gia hậu trị kỳ quốc

Tiên trị kỳ quốc hậu bình thiên hạ”.

Tâm hồn có chân chính thì bản thân mới tốt đẹp,

Bản thân có tốt đẹp thì gia đình mới thuận hòa,

Gia đình có thuận hòa thì quốc gia mới thịnh trị,

Quốc gia có thịnh trị thì thế giới mới hòa bình.

Cũng thế, muốn rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải đưa Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp cùng thế giới. Nếu có đủ số người Kitô hữu biết đưa Đức Giêsu vào cuộc đời mình thì gợn sóng ấy sẽ biến thành cơn sóng thủy triềâu, rồi cơn thủy triều sẽ thay đổi bộ mặt trái đất thành tuyệt vời đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.

III. SỨ MẠNG LÀM CHỨNG CHO CHÚA.

Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Các con làm chứng về những điều ấy”(Lc 24,48) tức là làm chứng cho chính Thầy.

Vậy làm chứng là gì? Làm chứng là nhận thức một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã trải qua.

Còn chứng nhân hay người làm chứng, là kẻ nghe gì thì nói lại y như vậy, thấy sao thì thuật lại như vậy, rất đúng, rất trung thực. Ngược lại thì người ta gọi là phản chứng. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.

Triết học dạy rằng: “Nhất chứng phi chứng, nhị chứng chứng quả”.

Tất cả những điều kể trên đã có quá hai người làm chứng, cách riêng là mười một môn đệ, cách chung là toàn dân đồng thời với Chúa, sau đó là chúng ta qua các môn đệ Ngài.

Hiểu như vậy, các Tông đồ là những chứng nhân đầu tiên về cuộc đời của Đức Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa.

Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Đức Giêsu đếu bắt đầu và kết thúc ở mầu nhiệm Phục sinh: phục sinh của Chúa Kitô và phục sinh của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có Phục sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những điều đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chúa có thực. Do đó, làm chứng về sự sống lại của Chúa có nghĩa là làm chứng cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người.

Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói: “Mỗi ngưởi giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, nhất là phép Thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Ngài. Và tất cả chúng ta đã biết: cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta.

Truyện: Những gì tôi biết về Chúa Kitô.

Sau đây là một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng Công giáo và một người vô thần:

- Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?

- Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Kitô.

- Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào?

- Rất tiếc là tôi đã có học những chi tiết này trong một khóa giáo lý, nhưng tôi lại quên mất.

- Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi?

- Tôi không nhớ rõ lắm nên cũng không dám nói.

- Vậy anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông ta?

- Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thực sự đi theo ông Kitô.

- Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết qúa ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối khi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng chờ đợi tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác hơn, chính Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Ngài… (Theo Parole de vie).

Trong tông huấn Evangelii nuntiandi, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói lên vai trò của chứng nhân trong cuộc sống như sau: “Do đó, chính với phẩm cách và đời sống mình, mà Giáo hội sẽ phúc âm hóa thế giới; nói cách khác, bằng sự “chứng tá” sống động về lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu – chứng tá về sự khó nghèo và siêu thoát, về sự tự do khi đối đầu với các quyền lực trần gian – nói tóm lại, là chứng tá của sự thánh thiện” (Evangelii nuntiandi, đoạn 41),

IV. HÃY THEO CHÚA VỀ TRỜI.

1. Quê hương chúng ta ở trên trời.

Trước khi ra đi vào cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã khích lệ các Tông đồ: “Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với các con rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho các con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”(Ga 14, 1-3).

Tin tưởng như thế, thánh Phaolô cũng nói rằng: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trờ đến cứu chúng ta”(Pl 320).

Nếu chúng ta biết Đức Giêsu của chúng ta đang ở trên trời thì lòng chúng ta phải hướng về đó. Không có nơi nào đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các bậc thánh đã yêu mến một quê hương tốt hơn – quê hương ở trần gian – mà các ngài gọi là quê hương trên trời.

Nhưng nhìn vào thực tế, chúng ta phải nhìn nhận rằng: chúng ta đã quá bén rễ sâu vào cuộc sống trần gian, đã quá quyến luyến những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu và sẵn sàng bán rẻ linh hồn mình lấy một nắm tro bụi. Dân Do thái ngày xưa đã thờ lạy con bò vang thế nào thì hôm nay con người cũng đang đi vào con đường ấy.

2. Điều kiện để về trời.

Đức Giêsu phán: “Không phải những ai cứ kêu Lạy Chúa! Lạy Chúa! mà được vào Nước Trời, mà chỉ những ai làm theo thánh ý của Cha Ta”(Mt 7,21-23; Lc 6,46; 13,26-27).

Nước Trời hay thiên đàng là phần thưởng cho những ai đã cố gắng thi hành theo thánh ý Chúa. Như thế, Chúa không cho phép chúng ta tự rút mình ra khỏi các công tác, các hoạt động thuộc về đời này, chẳng làm gì ngoài việc chiêm ngắm cõi đời mà thôi!

Thánh Phaolô đã vạch ra một loạt các nguyên tắc để giúp người Kitô hữu tiếp tục công việc ở đời này và duy trì một mối liên hệ bình thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt là từ nay trở đi, Kitô hữu phải nhìn nhận mọi sự trong ánh sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời. Nghĩa là người ấy sẽ không sống dường như đời này là tất cả những gì mình quan tâm, nhưng phải đặt thế gian này trong bối cảnh của cõi sống đời đời.

Vậy những ai xác tín rằng quê hương đích thực của đời mình là ở trên trời cao thì trước hết và trên hết hãy qui hướng tất cả mọi sự trong cuộc sống, vận dụng mọi hoàn cảnh về nơi đó để cố gắng chiếm đoạt cho bằng được dù phải trả bất cứ giá nào. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là phải chạy trốn khỏi cuộc sống khốn khổ này, trái lại phải vui tươi, can đảm chu toàn mọi trách nhiệm, bổn phận mà Chúa đã giao phó cho mỗi ngưởi với điều kiện đừng để cho bản thân, gia đình, của cải, danh lợi làm chủ, điều khiển đến độ quên hết đời sau.

Chúng ta hãy bắt chước các Tông đồ khi chia ly với Thầy mình thay vì buồn sầu, chán nản, các ngài hớn hở vào đời làm nhiệm vụ được giao phó vì các ngài thâm tín rằng phải sống ở trần gian một ít lâu, nhưng hy vọng chắc chắn đợi ngày tái ngộ với Thầy mình trên quê trời.

 

62. Hướng về trời--TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Từ nhiều năm trở lại đây, để thuận lợi cho giáo dân tham dự lễ trọng, đa số các Giáo phận chuyển dịch ngày lễ Thăng Thiên vào Chúa nhật thứ VII Phục Sinh. Tổng Giáo phận Hà Nội vẫn cử hành long trọng lễ Thăng Thiên vào thứ Năm sau Chúa nhật VI Phục sinh, vì theo truyền thống của Giáo Tỉnh miền Bắc, lễ này thuộc “Tứ Quý”: lễ Giáng Sinh, lễ Chúa Thăng Thiên, lễ Đức Mẹ Lên Trời và lễ các Thánh Nam Nữ. Trong bốn ngày lễ này, người tín hữu phải kiêng việc xác và tham dự thánh lễ.

Dù mừng lễ Thăng Thiên vào ngày nào, thì Phụng vụ vẫn nhắc người tín hữu hướng về Quê Trời, đồng thời cố gắng chu toàn bổn phận dưới đất. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nhập thể. Người về trời sau khi đã hoàn tất chương trình cứu độ. Người về với Chúa Cha, vì Người đã từ Chúa Cha mà đến. Dưới ánh sáng phục sinh, một nhãn quan mới về nhân sinh Kitô giáo đã mở ra: con người không đơn giản chỉ là “đầu đội trời, chân đạp đất”, mà họ đã thuộc về trời ngay khi họ đang sống nơi trần gian. Nói cách khác, Kitô hữu luôn hướng về trời, và đối với những người đạo đức thánh thiện, họ được nếm trước vinh quang Nước Trời ngay ở đời này. Khi suy niệm Kinh Mân côi, ở mầu nhiệm thứ hai Mùa Mừng, chúng ta xin cho được yêu mến (ái mộ) những sự trên trời, để dầu còn sống trên trần gian, một cách nào đó, chúng ta đã hưởng hạnh phúc như các thánh trên trời.

Hướng về trời không phải là một ảo tưởng hão huyền hay là một thứ “thuốc phiện mê dân”, nhưng là niềm hy vọng và niềm xác tín của Kitô hữu. Chúng ta dựa vào lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha trong Tin Mừng Thánh Gioan chương 17. Qua lời cầu nguyện này, Chúa Giêsu vừa thân thưa với Chúa Cha, vừa thể hiện tâm tình thương mến đặc biệt đối với các môn đệ. Người xin Chúa Cha cho các môn đệ được ở với Người, vì các môn đệ – và những người kế tiếp các ngài là chính chúng ta hôm nay – là những quà tặng mà Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu. Như thế, những ai tin vào Chúa Giêsu, sẽ được ở với Người và cùng Người chiêm ngưỡng vinh quang vĩnh cửu. Vinh quang này đến từ nơi Chúa Cha. Chính Chúa Giêsu cũng được đón nhận vinh quang ấy, rồi Người lại chia sẻ cho chúng ta.

Hướng về trời mở ra cho người tín hữu một chân trời hy vọng. Hy vọng là chờ đợi những điều tốt đẹp ở phía trước. Người tin Chúa biết rõ tương lai hậu vận đời mình, đó là được sống với Chúa, được chia sẻ vinh quang hạnh phúc với Ngài. Nhờ có niềm hy vọng, chúng ta vững tin ngay cả khi gặp những gian nan thử thách, với xác tín rằng, người yêu mến Chúa sẽ vượt thắng tất cả. Trong lời cầu nguyện vừa nêu ở trên, Chúa Giêsu khẳng định những ai tin vào Người sẽ được Chúa Cha yêu thương. Ở một nơi khác trong Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói đến sự hiện diện của Chúa Cha và Chúa Con trong tâm hồn những ai yêu mến và thực thi giáo huấn của Chúa Con “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Đây là hạnh phúc kỳ diệu. Chúa Ba Ngôi sẽ ở trong tâm hồn người công chính.

Hướng về trời cũng giúp cho người tín hữu có được những nghị lực siêu nhiên. Thế gian là bãi chiến trường, là thung lũng nước mắt, là bể khổ. Đức tin khẳng định với chúng ta: Thiên Chúa hiện diện giữa bãi chiến trường ấy, vì Ngài là Cha giàu lòng thương xót. Ngài luôn nâng đỡ trợ lực chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Tác giả sách Công vụ Tông đồ đã kể lại chứng từ của thánh Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Kitô giáo: trong lúc sắp tắt thở vì bị ném đá, ông đã nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người ngự bên hữu Thiên Chúa”. Đức tin vào đời sống vĩnh cửu đã ban cho vị tử đạo của chúng ta sức mạnh và niềm xác tín phi thường, với niềm xác tín: chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

“Hỡi những người Galilêa, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,11). Lời của hai sứ thần mặc áo trắng nói với các môn đệ năm xưa lúc thày trò chia tay, cũng là lời ngỏ với chúng ta hôm nay. Mừng Chúa lên trời hướng chúng ta về quê hương vĩnh cửu, đồng thời nhắc chúng ta về bổn phận đối với quê hương trần thế. Kitô hữu không phải là người bị “bứng” khỏi cuộc sống đời này, nhưng là những người dấn thân trong mọi môi trường cuộc sống, để làm chứng cho niềm vui của Đức tin, nhất là làm chứng cho Chúa Giêsu trong khi mong đợi Người lại đến.

“Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến! Đời sống Kitô hữu là sự chờ đợi liên lỉ, với tâm tình cầu nguyện và phó thác cậy trông. Đấng Phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta. Người sẽ đến trong vinh quang vào ngày tận thế. Chúa đã hứa với chúng ta như vậy.

 

63. Một Cuộc Đời Luôn Hướng Về Trời--Lm. Giuse Lê Danh Tường

Ngày thứ 40 sau Đại Lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Giêsu lên Trời. Lên trời là lên đâu? Phải chăng là bầu trời cao xanh mà chúng ta nhìn thấy mỗi sớm mai thức dậy? Người ta bảo rằng, khi nhà du hành vũ trụ đầu tiên người Nga tên là Gagarin từ ngoài không gian vũ trụ trở lại trái đất, ông đã phát biểu: Tôi đã nhìn và tìm kiếm nhưng chẳng thấy Chúa Trời đâu cả. Một phi hành gia khác người Mỹ tên là Aldrin đã cùng Armstrong đặt chân xuống mặt trăng đầu tiên. Trước vũ trụ bao la, Aldrin đã đọc to: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến”.

Trời, nơi gặp gỡ Thiên Chúa

Nếu Trời mà Chúa Giêsu đi lên là bầu trời trong không gian vũ trụ thì thật buồn cười và phi nghĩa. Nhưng Trời mà Chúa Giêsu đi lên là Ông Trời, là Đức Chúa Trời, là Nước Trời, là Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ. Nơi ấy vượt ra ngoài không gian và thời gian của vũ trụ này. Nơi bình an và hạnh phúc tràn đầy và hoàn hảo trong tình yêu của Thiên Chúa.

Nhân loại, đặc biệt là Á Đông, cũng cố gắng hình dung ra nước trời. Quang cảnh của thiên đình được mô tả có ngọc hoàng, có các vị thần tiên. Nhưng đó là cái nhìn phóng chiếu từ cuộc sống của con người. Chính Đức Giêsu đã khẳng định “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Đấng từ Trời mà đến nên chỉ có Ngài biết rõ Trời là thế nào.

Đức Giêsu luôn hướng về Trời

Đức Giêsu trong thân phận là người, Ngài đã luôn luôn hướng về Trời. Và sau khi chiến thắng tử thần, Ngài đã sống lại từ cõi chết và trở về Trời, trở về với Chúa Cha.

Trong những năm tháng Đức Giêsu đi rao giảng, Ngài luôn luôn cầu nguyện trước mỗi công việc. Ngài cầu nguyện một mình nơi hoang vắng. Đó là giờ phút Ngài gặp gỡ Thiên Chúa, tìm thánh ý Chúa. Ngài luôn thi hành công việc của mình theo ý Trời chứ không theo ý riêng của mình. Chỉ có một tâm hồn luôn hướng về Trời mới có tâm tình như Ngài đã nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34).

Mọi lời rao giảng của Đức Giêsu là rao giảng về Trời. Lời rao giảng đầu tiên của Ngài là: “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến bên; Hãy hối cải vào tin mừng” (Mc 1,14). Chỉ có Ngài là Đấng từ Trời mà đến nên mới có thể nói một cách chính xác Nước Thiên Chúa ấy là thế nào. Nhưng bởi trí khôn loài người có hạn nên Ngài luôn phải dùng những biểu tượng có tính tượng trưng để nói về Nước Trời: giống như hạt cải (Mt 13, 31-32), như nắm men (Mt 13,33)….

Ngài chữa lành các bệnh tật cho nhiều người. Nhưng sau khi chữa lành Ngài mời gọi họ hãy đi tạ ơn, hãy đi dâng lễ tế, hãy đi theo Ngài. Ngài mời gọi họ bước ra khỏi cuộc sống tầm thường này, Ngài đẩy họ đến với Trời.

Cả cuộc đời của Ngài luôn hướng về Trời cao. Ngay cả đến những giờ phút quyết liệt trước cuộc thương khó hay trên thập giá Ngài vẫn hướng về Trời mà thốt lên: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga 12,27); “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).

Không chỉ thế mà Ngài còn mong muốn kéo chúng ta lên Trời với Ngài: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Trước khi về Trời, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy ra đi rao giảng và làm cho mọi người trở thành môn đệ của Ngài. Trở thành môn đệ của Ngài là đi theo Ngài. Đi theo Ngài để về Trời. Cuộc đời của người môn đệ, của những người đi theo Đức Giêsu có đời sống luôn thuận theo Ý Trời, luôn hướng về Trời cao, luôn ước ao được trở về với Trời.

Theo Đức Giêsu, chúng ta hướng về Trời

Tôi có thể là người đang điền viên với tuổi già, có thể là nhà khoa học trong những lãnh vực khác nhau, là sinh viên hay học sinh, là công nhân hay là nông dân, là người thành thị hay thôn quê. Nhưng dù là ai thì cùng đích đời tôi phải hướng về Trời. Công việc mà mỗi người đang đảm nhiệm chỉ là công cụ để giúp mình tiến về Trời. Mỗi nghề, mỗi lãnh vực đều có luật riêng của nó. Người bước theo Giêsu không hướng về những của cải vật chất mau qua, không hướng về quyền lực hay danh vọng, nhưng luôn sống trọn vẹn trong cương vị của mình với tâm hồn luôn hướng về Trời. Trời là đích điểm, là mục tiêu cuối cùng mà ta nhắm tới.

Trên hành trình tiến về Trời, ta không cô đơn. Chúa Giêsu đã hứa với nhân loại: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Chúa Giêsu luôn đồng hành với ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Lời Chúa Giêsu hứa ban Nước Trời cho những ai theo Ngài là bảo đảm chắc chắn. Bởi chính Ngài đã vượt qua cuộc sống khó khăn này và đã về Trời.

Đức Maria là người môn đệ đầu tiên bước theo Giêsu. Cả cuộc đời Mẹ đã luôn hướng về Trời. Những lúc khó hiểu, Mẹ vẫn tâm niệm một niềm tìm thánh ý Trời cao. Và Mẹ là người đã được về Trời cả hồn lẫn xác.

Có tình yêu của Chúa Giêsu ở với ta. Có Mẹ Maria đồng hành, ủi an, nâng đỡ ta. Trong niềm tin vào Chúa Giêsu và lòng yêu mến Mẹ Maria, chắc chắn ta đi đến được cùng đích của đời mình, sẽ được về Trời cùng với Giêsu.

Lạy Chúa, xin kéo tâm hồn con luôn hướng về Ngài. Xin Ngài đừng để con lạc hướng giữa dòng đời xô đẩy. Chỉ nơi Ngài con mới được an vui.

 

64. Lễ Chúa lên trời, lễ của niềm hy vọng--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa Giêsu sau khi đã từ cung lòng Chúa Cha, từ Trời thân hành xuống thế nhập thể làm người, đi vào lịch sử loài người, sống kiếp phận con người, bước vào trong bóng sự chết, đã phục sinh và trở về Trời trong vinh quang mà từ thuở đời đời Người đã có với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh mô tả và nội dung gồm tóm trong những lời sau: “Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong…”. Và sau đó “Người lên Trời” (x. Cvtđ 1, 1- 11).

Chúa Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, vinh hiển về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời, như thế chúng ta hy vọng sẽ được về Trời với Chúa. Theo lời thánh Lêo Cả, Chúa Giêsu Kitô, Vị Thủ Lãnh của chúng ta vinh hiển bước vào thiên đàng ngự bên hữu Đức Chúa và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. LEO CẢ, Bài giảng lễ Chúa lên Trời). “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7, 25). Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.

Lễ Chúa Giêsu lên Trời là lễ của niềm hy vọng, vì lễ này báo trước cảnh ngọt ngào của Thiên Đàng. Chúa Giêsu là Đầu, chúng ta là chi thể, Người đi trước để chúng ta được tiếp bước theo sau vào Thiên Đàng. Vẫn theo lời Thánh Leo Cả: “Trong Đức Kitô chịu đóng đinh mà chúng ta chết cho tội, và trong Đức Kitô phục sinh chúng ta sống lại với Người trong đời sống mới đầy ân sủng, chúng ta cũng đạt tới Trời nhờ sự lên Trời của Người. Việc tham dự vào mầu nhiệm của Đức Kitô với tư cách là thành viên của Người, hoàn toàn phụ thuộc vào Người và gắn bó mật thiết với vận mệnh của Người” (x. LEO CẢ, Bài giảng lễ Chúa lên Trời).

Quả thật, nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được tháp nhập vào sự sống của Chúa Kitô, nghĩa là chúng ta hy vọng phục sinh và được chia sẻ vinh quang của Người. Chúng ta cũng sẽ theo Người đến cùng Chúa Cha khi kết thúc cuộc sống trần gian này. Lễ Chúa lên Trời là sự kiện phản ánh rõ nhất về niềm hy vọng của chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.

Là những người sống niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi không ngừng tin vào Chúa Kitô và sống khác với những người chưa biết đến Chúa Kitô. Chúa Giêsu Kitô ở cùng chúng ta và Người đang dẫn chúng ta đến cuộc sống đời đời. Người chỉ cho chúng ta đường lên Trời của Người, bởi chính Người là Đường. Chúng ta phải tránh những cám dỗ, sợ hãi, hoảng loạn và tuyệt vọng. Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng”(1 Tx 4,13). Ở đây chúng ta cũng thấy một dấu hiệu riêng biệt của các Kitô hữu là họ có tương lai. Đức nguyên Giáo hoàng Bênêdicto XVI viết: “Không phải là họ biết chi tiết về những gì đang chờ đợi họ, nhưng họ biết một cách chung chung rằng cuộc sống của họ sẽ KHÔNG KẾT THÚC trong sự trống rỗng. Chỉ khi tương lai chắc chắn là một thực tế tích cực thì mới có thể sống tốt trong hiện tại” (x. BENEDICTO XVI, Spe Salvi, số 2).

Chính khi tin vào Chúa Kitô mà chúng ta có thể sống trong an bình và hy vọng trong mọi hoàn cảnh, vì sự chết không có tiếng nói cuối cùng. Ngay cả khi cái chết đến với chúng ta, chúng ta vẫn thanh thản trong niềm hy vọng cuối cùng là được lên Trời sống đời đời với Chúa. Đó là ý nghĩa của cuộc sống người tín hữu chúng ta.

Là Kitô hữu, chúng ta biết rằng chúng ta sẽ không thoát khỏi đau khổ trong cuộc sống này. Cái chết đã bị đánh bại nhờ sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và con đường dẫn đến sự sống đời mở ra cho chúng ta qua sự lên Trời của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đức Benedict XVI nói: “Đối với tương lai, cửa thời gian tối tăm đã bị mở tung. Người hy vọng sống khác người đã được ban tặng sự sống mới”. Chúng ta đã được ban sự sống mới trong Chúa Kitô và đó là niềm hy vọng cuối cùng của chúng ta trong tất cả các cơn bão đang hoành hành xung quanh chúng ta.

Các Tông đồ tận mắt chứng kiến cảnh Chúa lên Trời, lòng các ông ngây ngất dõi theo đến nỗi cần phải “có hai người mặt áo trắng đứng gần” (Cvtđ 1, 10) và nhắc nhở: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời?” (Cv 1, 11). Hãy ngước mắt lên trời và chăm chú nhìn vào Chúa Kitô, Đấng đã về trời với Chúa Cha, để chuẩn bị chỗ vĩnh cư cho mỗi người chúng ta.

 

65. Dặn dò cuối cùng cho môn đệ – Về trời--Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt

1. Đầu bản văn này, Lc cẩn thận xác định: việc rao giảng Tin Mừng phải “khởi từ Giêrusalem”. Điều đó làm cho ta gặp lại một viễn ảnh vĩ đại và mỹ quan và thần học của ông mà nhiều lần ta đã nhắc tới (x. những bài chú giải về Lc trong tập này). Là một nghệ sĩ, Lc biết truyền vào toàn bộ tác phẩm của mình một chuyển động đánh vào mắt chúng ta. Trong phúc âm của ông, phần lớn đời sống công khai của Chúa Giêsu được trình bày dưới hình thức một cuộc đăng trình chậm rãi nhưng vĩ đại tiến về Giêrusalem. Chính tại nơi đây mà Chúa Giêsu phải đến để được “siêu thăng” (9,51). Ngay cả sau khi phục sinh, Chúa Giêsu tự thấy mình bị bắt buộc không được rời khỏi Giêrusalem, nếu có thể nói được như vậy. Ngài chỉ hiện ra trong thành hay trong các vùng phụ cận. Và để duy nhất hơn nữa các cuộc hiện ra của Ngài đều xảy ra trong cùng ngày Phục sinh. Đến các tông đồ cũng không được bỏ Gierusalem trước khi lãnh nhận thánh thần (24,49). Chỉ lúc bấy giờ mới bắt đầu rao giảng tin mừng và bành trướng Giáo hội “khởi từ Gierusalem” ra toàn cõi Giuđê, Samari, cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8), như Cv đã ghi lại. Chắc hẳn viễn tượng này phần nào có tính cách văn chương, nhưng phải nhận là Lc nhờ đó đã khéo léo trình bày ơn cứu rỗi đã xuất phát thế nào từ công cuộc duy nhất mà Thiên Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô tử nạn và vinh hiển.

2. Như vậy, chính tại Giêrusalem mà Chúa Giêsu đã hoàn thành công trình cứu rỗi của Ngài, cũng như tại đó mà các tông đồ đã được mặc lấy “mãnh lực từ trên ban xuống” để phổ biến ơn cứu độ cho hết mọi người. “Mãnh lực từ trên ban xuống” đó là Thánh Thần. Quả vậy, sức mạnh và Thánh Thần luôn luôn đi đôi với nhau. Sau khi thắng cám dỗ của satan, Chúa Giêsu đã trở về Galilê trong quyền năng của Thánh Thần để khởi sự công việc loan báo “năm hồng ân của Chúa” (4,14). Quyền năng của Thánh Thần lại được trao ban cho các môn đệ sau khi Chúa Giêsu một lần nữa toàn thắng Tên Cám Dỗ trong cuộc tử nạn và sau khi Ngài đã được cất về trời. Họ tiếp tục công việc của Chúa Giêsu giữa mọi dân tộc trong quyền năng của Chúa Thánh Thần “Với một quyền năng lớn lao, các tông đồ làm chứng về sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô (Cv 4,33). Không phải nhờ quyền năng riêng mình mà họ làm được những phép lạ (Cv 3,16) song là nhờ quyền năng và danh Chúa Giêsu Kitô (Cv 4,7.10). Thời gian của Chúa Giêsu khai mạc với việc “Thái dương từ cao xanh khấn đến viếng thăm” (1,78). Thời gian của Giáo hội bắt đầu với “quyền năng từ trên ban xuống”. Các tông đồ được mặc lấy mãnh lực ấy cũng như Chúa Giêsu đã được xức dầu nhờ Thánh thần và quyền năng (Cv 10,38) “Khả năng nghề nghiệp” (tenue professionnelle) của các tông đồ, chính là mãnh lực trên ban này. Sức mạnh ấy cho các Ngài được mọi quyền năng thần linh như Chúa Giêsu đã được. “Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động và củng cố lời bằng phép lạ kèm theo” (Mc 16,20). Vào đầu thời gian của Đức Kitô, đã vang lên sứ điệp hồng ân cứu rỗi này: “Thánh Thần sẽ đến trên bà và quyền năng Đấng tối cao sẽ trên bà rợp bóng” (1,35). Vào đầu thời gian Giáo hội đã hoàn thành lời hứa của Chúa Giêsu Kitô, lời hứa sai đến trên các tông đồ và mọi tín hữu quanh họ điều Chúa Cha đã hứa: mãnh lực từ trên cao. Chính Thánh Thần làm dấy lên trong cung lòng Đức Maria Đấng Thánh tuyệt vời Con Thiên Chúa (1,35); chính Thánh Thần, qua Giáo hội, tạo ra “các thánh”, các “con cái của Thiên Chúa” (tên gọi dành riêng cho các Kitô hữu đầu tiên). Sức sinh nở của Giáo hội cũng như của Đức Maria là do mãnh lực từ trên tác động. Đức Maria là tiền ảnh của Giáo hội vậy.

3. Các câu 50 đến 53, nơi Lc kể lại việc Chúa lên trời, xem ra mâu thuẫn với Cv 1,3-11. Theo bản văn Cv: “Sau cuộc tử nạn, Chúa Giêsu đã cho thấy mình vẫn sống với nhiều tang chứng rành rành. Suốt 40 ngày, Ngài đã hiện ra cho họ…” (Cv 1,3). Bản văn phúc âm hình như cho thấy tất cả những gì Lc thuật lại trong chương 24 đã xảy ra trong ngày phục sinh” lời chối trăn của Chúa trước khi từ giã cõi trần (cc.41-49) và tiếp ngay sau khi hiện ra chiều ngày phục sinh.

Xem ra Lc đã theo những ý hướng phụng vụ trong việc trình bày các biến cố trên: ông muốn nói mỗi chúa nhật của cộng đoàn kitô hữu là một lễ Phục sinh, một ngày vượt qua. Chính theo những quan niệm vừa có tính cách văn chương vừa có tính cách thần học mà Lc đã đặt trỉnh thuật tử đạo của Gioan tẩy giả trước thời gian vị tiền hô thực sự đi vào chuỗi lịch sử các biến cố được tường thuật. Cũng trong viễn tượng này mà Lc nói Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng tại Nazareth (4,14-30)(như thể theo một chương trình toàn bộ nào đó) mặc dầu đáng lý ra ông phải đặt về sau thì mới đúng lịch sử hơn. Có nhiều dấu hiện trong phúc âm thứ ba mà công vụ cho thấy Lc đã hình thành một quan niệm về sách Cv khi ông bắt đầu viết phúc âm (x.H.J.Cadbury, The Making of Luke-Acts) Cho nên giả thiết rằng một cách nào đó, ông đã muốn dùng Cv “sửa sai” phúc âm thì không đúng lắm. Chỉ cần biết rằng ông không theo những ý hướng thuần túy lịch sử.

4. Trước khi từ giã các môn đệ, Chúa Giêsu “giơ tay” chúc lành cho họ (c.50). Đấng chưa bao giờ chúc lành cho môn đệ của mình, giờ đây chúc lành cách trọng thể. Việc giơ hai tay để chúc lành là một chỉ không gặp thấy chỗ nào khác trong phúc âm Lc cũng như trong Tân ước. Cử chỉ này muốn nói Chúa Giêsu như là vị tư tế đang chúc lành. Quang cảnh này nhắc nhở cho độc giả một cảnh tương tự trong sách Huấn đạo. Trong đoạn cuối sách này nói về thày cả thượng phẩm Simon như sau: “Bấy giờ người bước xuống và giơ tay lên trên cộng đoàn Israel đang tụ họp. Người thốt lên lời chúc lành của Chúa và hãnh diện nói ra thánh danh Giavê. Và họ phục lạy một lần nữa để lãnh nhận phúc lành của Người” (Hđ 50,20-21).

Đối với Lc, Đức Kitô qua việc chúc lành, mạc khải ra phúc lành mà Thiên Chúa đã ban trong chính con người của Ngài và đã hứa từ xưa cho Abraham: “Mọi thế hệ trên mặt đất sẽ được chúc phúc trong giòng giống của ngươi” (Cv 3,25-26). Có lẽ chúng ta được phép coi Lc đã có ý hướng đó trong việc ông mở đầu phúc âm với câu chuyện một vị tư tế, sau khi dâng của lễ, đã không thể chúc lành cho dân vì sự cứng tin của mình (Lc 1,22). Thừa tác vụ của Giacaria là một phụng vụ chưa hoàn tất. Nhưng vào cuối phúc âm, người ta thấy một tư tế đã kết thúc hy lễ của mình bằng một phúc lành đích thực. Ở đây phụng vụ đã đi đến chỗ hoàn thành.

5. Chúng ta nhận thấy Lc đã khách quan, vắn gọn và kín đáo, thuật lại các công việc của cộng đoàn tông đồ sau khi Chúa Giêsu về trời. Họ trở lại Giêrusalem theo mệnh lệnh của Chúa phục sinh (c.49). Nhưng bản văn nói tiếp: “Họ trở lại…trong niềm hân hoan”. Người theo sát mặt chữ sẽ tự hỏi như nhiều nhà chú giải: Chúa Giêsu từ giã họ mà lại vui được sao? Thật ra Lc muốn nhấn mạnh rằng cộng đoàn tông đồ đã xem biến cố này không phải là một cuộc ra đi cho bằng là việc Chúa Giêsu khuất mắt họ để ở gần họ hơn. Lc nơi đây đã tỏ ra giống Gioan một cách kín đáo.

Niềm vui bây giờ là niềm vui của những người không những đã được thấy Đấng sống lại mà còn thấy sự phục sinh của Ngài liên hệ với sự ra đi, và sự ra đi liên hệ với lời hứa ban Thánh Thần của Ngài. “Niềm vui vĩ đại” này chứng tỏ việc Thăng thiên để chấm dứt cuộc đời trần gian của Chúa Giêsu là một sự hoàn thành việc phục sinh, là khởi điểm cho thời gian thánh của Giáo hội. Niềm vui vĩ đại này là dấu hiệu đầu tiên của “thời buổi thanh nhàn Chúa gởi tới” trong đó “mọi sự đã được thực hiện” và Thiên Chúa “sẽ sai Đấng Messia Người đã tiền định” (Cv 3,20-21). “Nỗi vui lớn lao” của các nhân chứng Thăng thiên là việc đi vào “niềm hân hoan”, niềm hân hoan từ nay không hề chấm dứt, mà còn bùng vỡ ra nơi nào có Kitô hữu, “và ông hân hoan với cả nhà vì đã được tin vào Thiên Chúa” (Cv 16,34); niềm vui ấy tái diễn mỗi lần cộng đoàn Kitô hữu tụ họp bẻ bánh: “Họ cùng nhau dùng bữa, lòng hân hoan, dạ đơn thành” (Cv 2,46). Và có lẽ nơi đây Lc cũng có một chủ ý rõ rệt: “Niềm vui vĩ đại” của các nhân chứng Thăng thiên là âm vang và kết thúc của niềm vui mà thiên sứ hứa cho thày cả Giacaria và cho một số người sau khi Gioan tẩy giả sinh ra: “Ngươi sẽ mừng vui hoan hỉ; và lắm người sẽ được vui mừng vì việc nó sinh ra” (Lc 1,14). Nhưng đặc biệt đó là sự thể hiện trọn vẹn niềm vui mà thiên sứ hứa ban cho các mục đồng, “một niềm vui vĩ đại cho cả toàn dân” (Lc 2,10). Ở đây, khởi đầu và kết thúc của Phúc âm Lc đã liên kết với nhau.

6. Ý nghĩa, trong chương trình cứu rỗi, của việc Đấng phục sinh từ giã môn đệ và thế gian còn được kín đáo diễn tả trong câu sau cùng của Phúc âm Lc. Sau khi các môn đệ trở lại Giêrusalem “họ hằng ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa”. Đối với Lc, Đền thờ là mục đích thực sự của Chúa Giêsu, là nơi sau cùng Ngài cư trú và giảng dạy (Lc 19,45tt; 21,37-38; 22,53). Bây giờ đền thờ trở thành nơi cư trú của cộng đoàn chứng nhân thăng thiên, và còn là nơi tập trung sau này cho cộng đoàn chứng nhân hiện xuống (Cv 2,46; 3,1tt; 5,12.20-21; 5,42…) Trong đền thờ, từ nay sẽ vang lên lời ngợi khen Thiên Chúa do Giáo hội của các chứng nhân thăng thiên, sẽ vang lên lời chúc tụng (c.53: eulogein) phát xuất từ lời chúc lành (c.50: êulôgêsein) của Đấng đã lên trời. Ở đây cũng như trong Cựu ước, eulogein ám chỉ lời cảm tạ và chúc tụng Thiên Chúa qua kinh nguyện và thánh ca. Và một lần nữa, có lẽ trong ý của tác giả phúc âm, khởi điểm và cùng điểm đã liên kết chặt chẽ với nhau. Vì ngay từ Lc 1 và 2, Đền thờ đã đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt là như chỗ của những người “ngóng đợi phúc cứu chuộc của Israel” (Lc 2,38; 1,8tt; 2,27.37.46). Khi Gioan tẩy giả sinh ra, Giacaria đã cất lời khen ngợi: “Chúc tụng Chúa, Thiên Chúa của Israel” (1,64.68). Simêon cũng ẵm lấy con trẻ Giêsu trên tay mà ca ngợi rằng: “Mắt tôi đã thấy ơn cứu độ Người đã dọn sẵn trước mặt muôn dân” (2,28.30). Và hôm nay bắt đầu thực hiện những gì đã được đoan hứa và diễn tả ra trong lời ngợi khen chúc tụng ấy. Ơn cứu độ đã dọn sẵn và đã được ban tặng cho muôn dân trong lời chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, một phụng vụ chẳng bao giờ cùng.

KẾT LUẬN

Trình thuật Thăng thiên được trình bày như sự khai mào cho cảnh hiện xuống vĩ đại và cho lịch sử của một Giáo hội từ nay vắng bóng Đức Giêsu. Cuối phúc âm, có lẽ chúng ta có một dấu hiệu tiên báo sự bành trướng của Giáo hội trong việc Chúa Giêsu đem các môn đệ ra ngoài thành Giêrusalem; nhưng đó chưa phải là điều cốt yếu. Trong đoạn kết phúc âm này, Chúa Giêsu vẫn còn là mục tiêu. Và chủ ý của Lc ở đây còn lộ rõ hơn nữa khi ông cố ý tìm cho cử chỉ cuối cùng của Đấng hiển vinh một hình ảnh vĩ đại trong Cựu ước: hình ảnh vị thượng tế giơ tay chúc lành cho dân chúng đang phủ phục dưới chân mình.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Hôm nay chúng ta mừng lễ Thăng thiên, mừng ngày Chúa Giêsu trở về với Cha Ngài và lãnh nhận vinh quang đã hứa ban cho Con Người. Thực ra, mầu nhiệm thăng thiên còn phong phú hơn thế. Chúa Giêsu đã trở về với Chúa Cha từ lâu; ngay từ ngày phục sinh, Ngài đã được tôn vinh rồi, như nhiều đoạn trong kinh thánh đã minh chứng. Hôm nay đúng ra chúng ta mừng việc Ngài tỏ mình một cách khả giác sau cùng cho các môn đệ trước khi trở lại vào ngày cánh chung. Các bài đọc cho chúng ta thấy việc thăng thiên thực ra là việc biến đổi cách thức hiện diện của Chúa Kitô trên trần gian này. Thật vậy, nếu Chúa Giêsu trở về với Chúa Cha luôn mãi, điều đó không có nghĩa là Ngài từ bỏ loài người, nhưng chỉ muốn đổi cách thức hiện diện với họ. Vì nếu phúc âm phải được rao giảng cho mọi người ở mọi thời và ở mọi nơi, thì Chúa Giêsu phải hiện diện cho họ một cách thích ứng. Để được như vậy, Ngài đã chọn nhiều cách hiện diện khác nhau: qua những chứng nhân được Chúa Thánh Thần tác động, qua bí tích Thánh thể, qua tiếng nói của Giáo hội trong tâm hồn người tín hữu. Bằng những cách thức khác nhau đó, Chúa Giêsu có thể hiện diện trong mỗi người chúng ta và trong mọi thế hệ nhân loại. Nhưng nếu Chúa Giêsu tiếp tục mang một thể xác trên trần gian này, sự hiện diện của Ngài sẽ bị giới hạn vào một nơi, một thời. Với việc Thăng thiên, Chúa Giêsu đã bỏ cách hiện diện hạn hẹp bằng thể xác, để từ nay hiện diện luôn mãi cho mỗi người chúng ta.

2. Cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu cũng là cuộc khải hoàn của các tín hữu. Như việc tử nạn, Ngài lên trời là vì chúng ta. Cả hai biến cố đều nhằm cứu rỗi chúng ta. Ngài đã nói cùng các môn đệ: “Ta đi dọn chỗ cho các con”. Khi từ giã họ, Ngài đã dâng lên Thiên Chúa một lời cầu nguyện mà cũng là một lời hứa: “Lạy Cha, những kẻ Cha đã ban cho con, con muốn là con ở đâu họ cũng được ở đó để họ chiêm ngắm vinh quang của Con” (Ga 17,24) Chúa Giêsu lên trời để lãnh lấy vinh quang cho các tín hữu kết hợp với Ngài.

3. Khi về trời dưới mắt các môn đệ, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một cách hết sức cụ thể đây là mục đích của đời sống. “Đô thành chúng ta là ở trên trời” (Ph 3,20), kinh thánh đã nói. Chỗ khác kinh thánh cũng rút từ việc thăng thiên một kết luận áp dụng cho các môn đệ: “Anh em hãy tìm kiếm những điều trên cao, nơi Đức Kitô đang ngự” (Col 3,1). Vậy nếu chúng ta xác tín rằng mình phải ở “trên cao”, thì trước hết hãy qui hướng đời sống chúng ta về đó để bảo đảm hạnh phúc vĩnh cửu cho mình. Dĩ nhiên điều đó không có nghĩa là phải xuất thế, xa lánh trần gian. Trái lại, phải nỗ lực làm việc để chu toàn phận sự Thiên Chúa giao phó cho mỗi người trong hoàn cảnh Ngài đã đặt định. Nhưng đừng để mình bị nô lệ bởi những vật trần gian này: của cải, gia đình, việc làm, thành công đến độ bỏ quên thiên đàng. Hạnh phúc cho ai trải qua cuộc đời trong việc tuân theo “Đấng đã lên ngự bên hữu ngai uy nghi trên các tầng trời” (Dt 8,1). Chúa Giêsu cũng đã nói với Thánh Gioan trong một thị kiến: “Ai thắng, ta sẽ cho ngự với Ta trên ngai của ta” (Kh 3,21)

 

66. Sứ điệp ngày lễ Chúa Giêsu lên trời-- Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

Chúa Giêsu trở về trời, nơi là quê hương nguồn gốc của Ngài, sau 33 năm sống trên trần gian.

Nhưng không vì thế mà Ngài bỏ rơi trần gian. Trái lại, Ngài đoan hứa hằng cùng đồng hành với trần gian trong mọi ngày.

Chúa Giêsu trở về với Thiên Chúa Cha của Ngài sau khi đã hoàn thành thánh ý của Thiên Chúa trên trần gian: dấn thân hy sinh mang ơn đức cứu độ cho con người.

Nhưng không vì thế mà sứ mạng của Ngài đến đó là hết. Trái lại, Ngài thành lập Giáo Hội để tiếp tục công việc Ngài đã thực hiện trên trần gian.

Chúa Giêsu trở về nơi là nguồn mạch của đời sống, sau khi Ngài đã rao truyền cho trần gian giá trị sự sống bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa.

Nhưng không vì thế mà trần gian bị cắt đứt xa lìa nguồn mạch sự sống. Trái lại, qua Giáo Hội Ngài để lại nguồn mạch ơn đức sự sống của Thiên Chúa nơi các Bí tích.

Những gì ta xem thấy hay đọc được qua biến cố Chúa Giêsu trở về trời?

1. Vầng mây bao phủ

Theo khía cạnh kỹ thuật chuyên chở ngày nay nay, biến cố Chúa Giêsu trở về trời được thuật lại trong Kinh Thánh: “Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông” (Cv 1,9).

Đọc những lời ngắn gọn này, ta có thể tưởng tượng như một chiếc máy bay cất cánh bay lao thẳng vào không trung xuyên lớp tầng mây.

Lẽ dĩ nhiên Chúa Giêsu không dùng máy bay như bây giờ di chuyển từ nơi này đi sang khác. Nhưng vầng mây diễn tả điều gì huyền bí nhiệm mầu, nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa, của Thần Thánh.

Thiên Chúa hiện ra thiết lập giao ước với ông Noe sau trận lụt đại hồng thủy trong vầng mây (St 9, 12-13).

Trên đường trở về quê hương đất hứa, Thiên Chúa hiện ra dẫn đường cho dân Israel trong cột mây dẫn đầu chỉ đường đi (Xh 13, 21-22).

Trên đỉnh núi Sinai, Thiên Chúa hiện ra với Thánh Tiên tri Môsê trong vầng mây trao cho ông 10 điều răn của Chúa (Xh 24, 12-18).

Vầng mây bao phủ nói lều nhà tạm lên sự hiện diện vinh quang của Thiên Chúa ( Xh 40, 34-38).

Trên đỉnh núi Tabor, khi Chúa Giêsu biến hình, từ trong vầng mây có tiếng của Thiên Chúa Cha phán vọng ra (Mt 17,5).

Trong vầng mây bao phủ Chúa Giêsu trở về trời cao ( CV 1,9).

Thánh Gioan trong sách Khải huyền thuật lại thấy Chúa Giêsu hiện ra trong vầng mây (Kh 1,7; 14, 14-16).

Như thế, có thể nói vầng mây là dấu hiệu sự thánh thiện huyền bí về hiện diện của Thiên Chúa, và cũng sát gần gũi với con người.

Chúa Giêsu trở về trời quyện trong vầng mây cao trên nền trời, nhưng Ngài không rời xa trần thế con người. Người muốn Giáo Hội tiếp tục rao giảng làm chứng cho Ngài giữa trần gian.

2. Anh em là nhân chứng của Thầy

Khi người cha hay người mẹ đi xa vắng nhà. họ thường nói với các con mình: cha mẹ không quên, không bỏ các con một mình đâu. Cha mẹ luôn hằng nhớ đến các con. Các con nhớ giữ những lời cha mẹ đã dạy bảo căn dặn mà sống yêu thương đùm bọc nhau!

Cũng vậy, trở về trời Chúa Giêsu không bỏ rơi các học trò Tông đồ, những người tin theo Chúa. Người căn dặn họ: Anh em tiếp tục sống như Thầy đã dạy nhắn nhủ. Hãy tiếp tục rao truyền cùng làm nhân chứng cho Thầy, cho những lời giáo lý của Thầy giữa lòng xã hội trần gian (Mt 28,20).

Trung thành với lời Chúa Giêsu truyền lại cho, từ ngày đó hơn hai ngàn năm nay Giáo Hội không ngừng thi hành sứ vụ truyền giáo cho mọi người trải qua mọi thời đại, trong mọi hòan cảnh đời sống xã hội.

Và Giáo Hội đã trải qua thời kỳ hưng thịnh phát triển về nhiều mặt rất khả quan tốt đẹp. Nhưng cũng có những thời kỳ Giáo Hội gặp khó khăn bị nghi kỵ, bị theo dõi bắt bớ, bị cấm cách, gặp khủng hoảng từ trong lòng nội bộ.

Nhưng nhiệm vụ rao giảng làm chứng của Giáo Hội luôn trên căn bản làm sao những giá trị theo tinh thần Phúc âm của Chúa được loan truyền thể hiện trong đời sống xã hội về sự sống, về công bình bác ái, về tình liên đới giữa con người với nhau.

Trong dòng thời gian Giáo Hội đã luôn cố gắng rao giảng làm chứng cho Chúa:

– Xuyên suốt trải qua mọi thời gian ngày tháng, năm, thế kỷ.

– Tới cùng mọi biên giới hình thể địa lý trái đất.

– Nơi mọi con người trong các giai tầng hoàn cảnh thân phận đời sống về thể lý cũng như về tâm lý. Mang niềm vui cũng như sự an ủi giúp đỡ cảm thông đến cho con người.

– Gìn giữ bảo vệ ngôi nhà thiên nhiên là vũ trụ mà Thiên Chúa đã tạo dựng cho con người. Và cùng với con người phát triển văn hóa, văn minh cho đời sống

– Củng cố các gía trị đạo đức tinh thần trong lòng đời sống xã hội của con người, nhất là cho mọi người biết Chúa, Đấng là nguồn tình yêu, nguồn hy vọng và ơn tha thứ cho con người.

**************

Vầng mây trên trời đã bao phủ đưa Chúa Giêsu trở về trời. Nhưng vầng mây cũng là dấu hiệu sự hiện diện, sự gần gũi của Chúa nơi con người.

Trở về trời Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội qua các Tông đồ nhiệm vụ rao giảng làm chứng cho Chúa giữa trần gian. Sự hiện diện sát gần của Chúa giúp Giáo Hội vững tâm làm nhiệm vụ này, cùng giúp lòng con người sống niếm hy vọng. Vì có Chúa hằng cùng đồng hành bên cạnh trong mọi hoàn cảnh.

 

67. Ái mộ những sự trên trời--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người thân cận đến và nói:Ta phải chọn một người kế tục.Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.

Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về một viên ngọc quý. Người thứ ba trở về tay không.

Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi: món quà quý giá của ngươi đâu?

Anh điềm tỉnh trả lời: khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể có một cuộc sống sung túc tốt đẹp.

Thủ lãnh nói: Ngươi sẽ nối nghiệp ta vì ngươi đã mang về món quà quý gía nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp.

Chúa Giêsu về trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp là hạnh phúc thiên đàng. Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người.

Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Marcô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyền: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Còn theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây Dầu. Thực ra sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha. Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.

Chúa Giêsu lên trời. Những chữ lên trời bị chi phối bơi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta. Theo cách suy nghĩ đó,các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới,trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi,đã thấm nhuần tinh thần.

Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người. Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với loài vật. Loài vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.

Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại. Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ. Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời. Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.

Người môn đệ của Chúa sống giữa trần gian, yêu mến trần gian, xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.Tuy nhiên ta làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời. Sống giữa thế gian, chúng ta “ái mộ những sự trên trời” như lời kinh hạt: “Thứ năm thì ngắm, Ðức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”. Nhưng vẻ đẹp trên trời là vẻ đẹp của tâm hồn, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, vẻ đẹp nghèo khó Phúc Âm, khiêm nhường, đơn sơ, thanh tịnh. Đây là vẻ đẹp và sự quyến rũ của nhân đức, một vẻ đẹp hoàn toàn khác với những vẻ đẹp và sự quyến rũ thuộc trái đất. Nhiều người đã bỏ ra hằng trăm, hàng ngàn, hàng vạn Mỹ kim để làm đẹp, để khoa trương sự giàu có và để được người khác ca tụng. Nhiều người không sợ trải qua những cuộc giải phẫu nguy hiểm, đau đớn cốt sao để thấy mình đẹp hơn, để thấy mình hơn người khác. Nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận những thách đố lớn lao để chạy đua vào những chiếc ghế quyền lực. Nhưng ít ai bỏ ra một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, hoặc một năm để lo tu sửa và chỉnh trang lại vẻ đẹp của tâm hồn.

Trên thực tế, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, đức nghèo khó, đức đơn sơ, và đức trong sạch là những đòi hỏi rất cần thiết để đem lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi dân nước. Ðó là những gì cụ thể có thể giúp con người chiếm hữu được vĩnh hằng. Rất tiếc, đó cũng là những gì mà nhiều người từ khước, bởi vì chúng không phù hợp với nhãn quan và suy tư của con người.

Giáo Hội đã thôi thúc và khuyến khích mỗi Kitô hữu hãy tìm kiếm và yêu mến những sự trên trời. Cầu xin cho được ơn ái mộ là cầu xin Thánh Linh khai mở tâm hồn và trí tuệ để chúng ta có thể nhìn, và có thể hiểu được vẻ cao quí của những giá trị tinh thần ấy. Nhận thức về thế giới tâm linh là một nhận thức ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ tự nhiên con người. Những gì thuộc về thần linh là thần linh. Con người cần được soi dọi và khai mở bởi sức mạnh huyền nhiệm của Thánh Thần. Chỉ khi nào trí óc ta, trái tim ta được Ngài khai mở, lúc ấy ta mới nhận ra, mới hiểu thấu thế nào là sự cao xa, dài rộng của vẻ đẹp tinh thần, của những giá trị đạo đức.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa về trời, không chỉ để dọn chỗ mà còn là mở ra một viễn tượng hạnh phúc của trời cao.

“Xin cho chúng con ái mộ những sự trên trời”, để chúng con không bị chôn bám vào thế gian chóng qua và phù du này. Và để chúng con biết tìm kiếm những giá trị cao quí của tinh thần, và để chúng con yêu mến và sống với cuộc sống ấy. Vì đó là những gì mà chúng con có thể tìm kiếm, mua sắm và đem vào được nơi vĩnh hằng. Nơi mà chúng con sẽ gặp được Chúa là nguồn mạch sự sống, hoan lạc, và hạnh phúc viên mãn của chúng con. Amen

 

 

 

 

 

* CHÚA NHẬT 7 PHỤC SINH

68. Để họ được nên một--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu

Bài Tin Mừng hôm nay là phần cuối của Lời Nguyện sau Tiệc Ly.

Đức Giêsu cầu nguyện, không phải cho các môn đệ đang hiện diện, nhưng cho các môn đệ tương lai, là chính chúng ta, những người tin nhờ nghe lời giảng của các môn đệ đi trước (c.20).

Hôm nay Đức Giêsu là Thượng Tế trên trời, là Đấng Trung Gian duy nhất, vẫn dâng lên Chúa Cha lời nguyện tương tự.

Ngài nhìn thấy một phần ba dân số thế giới là Kitô hữu, hơn hai tỷ người. Ngài nhìn thấy những người theo Công Giáo gồm hơn một tỷ, theo Chính Thống giáo, Tin Lành, Anh giáo và bao giáo phái khác. Ngài xin Cha cho họ nên một, như Cha và Con là một (c. 22).

Đức Giêsu đã xin cho các môn đệ đang hiện diện bên Ngài được nên một “như chúng ta” (Ga 17, 11b).

Bây giờ Ngài xin cho các môn đệ tương lai cũng được nên một.

Sự hiệp nhất nên một giữa Cha và Con vừa là khuôn mẫu, vừa là nguồn mạch cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. “Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (c. 21). Cha và Con ở trong nhau, đó là mẫu mực cho sự hiệp nhất.

Chúng ta được mời gọi ở trong nhau khắng khít như Cha và Con.

Điều này không thể thực hiện được, nếu chúng ta không được đưa vào trong mối tương quan thân thiết giữa Cha và Con: “để họ cũng ở trong Chúng Ta” (c. 21).

Các Kitô hữu chỉ hiệp nhất khi họ được sống trong nguồn hiệp nhất là sự ở trong nhau giữa Cha và Con.

Trong Lời Nguyện của Đức Giêsu, ta thấy có một tương quan ba chiều giữa Cha, Con và các môn đệ.

“Con ở trong họ và Cha ở trong Con…

Cha đã yêu thương họ như đã yêu thương Con” (c. 23).

“Tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa” (c.26).

Tương quan này sâu lắng đến mức có sự ở lại trong nhau thật sự giữa Cha, Con và các môn đệ là chính chúng ta.

Tuy vậy ít khi chúng ta dám nghĩ mình có tương quan gần gũi đến thế với thế giới siêu việt của Cha và Con.

Nhưng Đức Giêsu còn nói đến tương quan giữa các môn đệ với thế gian.

Chỉ khi có sự hiệp nhất giữa các môn đệ, lúc đó mới hy vọng “Thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (c. 21), “Thế gian sẽ nhận biết rằng Cha đã sai Con (c. 23).

Chúng ta cầu cho sự hiệp nhất yêu thương giữa các Kitô hữu trên thế giới.

Nếu một phần ba dân số thế giới sống nên một trong yêu thương, hai phần ba còn lại sẽ sống trong hạnh phúc bình an.

Cầu nguyện:

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,

xin giúp con quên mình hoàn toàn

để ở lại trong Chúa.

lặng lẽ và an bình

như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.

Lạy Đấng thường hằng bất biến,

mong sao không gì có thể khuấy động

sự bình an của con,

hay làm cho con ra khỏi Chúa;

nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con

tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!

Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,

xin biến hồn con thành chốn trời cao,

thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,

nơi Chúa nghỉ ngơi.

Ước chi

con không bao giờ để Chúa ở đó một mình

nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,

với thái độ nhạy bén trong đức tin,

cung kính tôn thờ

và phó mình cho Chúa sáng tạo.

(Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité)

 

69. Trong cung lòng Thiên Chúa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong lịch sử Việt Nam, tôi thích nhất tướng Trần Hưng Đạo. Trần Hưng Đạo không những có tài thao lược mà lại có đức độ hơn người. Người ta gọi ngài là Đức Thánh Trần thật xứng đáng. Thời nhà Trần có hai tướng tài: Trần Hưng Đạo và Trần Quang Khải. Nhưng hai gia đình lại có mối thù không đội trời chung. Cha của Trần Hưng Đạo trước khi tắt thở còn dặn Trần Hưng Đạo phải thay cha trả thù. Nhưng giặc Nguyên sang xâm lăng nước ta. Trần Hưng Đạo suy nghĩ: Giặc ngoại xâm đang đe doạ. Nếu trong nước các tướng tá không đoàn kết thì không phá nổi thế giặc đang rất mạnh. Nghĩ thế, Trần Hưng Đạo gạt bỏ mối thù nhà, đến làm hoà với Trần Quang Khải. Một hôm, Trần Hưng Đạo sang thăm Trần Quang Khải, tự tay nấu nước tắm cho Trần Quang Khải và nói: “Hôm nay được hân hạnh tắm cho Ngài quốc công”. Trần Quang Khải vui vẻ trả lời: “Hôm nay hân hạnh được tướng công tắm cho”. Từ đó hai người hoà thuận. Cùng chung vai sát cánh phục vụ đất nước. Nhờ sự đoàn kết của hai tướng tài, quân ta đã đánh thắng giặc Nguyên.

Sự đoàn kết của Trần Hưng Đạo và Trần Quang Khải rất phù hợp với bài Tin Mừng của Chúa Nhật 7 Phục Sinh. Hôm nay, Chúa tha thiết cầu nguyện cho cái Chúa hiệp nhất.

Chúa tha thiết với sự hiệp nhất vì Chúa biết rằng: Có hiệp nhất mới xây dựng được cộng đoàn vững mạnh. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn”. Có đoàn kết làm việc gì cũng xong. Chia rẽ làm suy yếu cộng đoàn. Làm cho công việc trì trệ. Và có khi làm tan rã cộng đoàn.

Chúa tha thiết với sự hiệp nhất vì Chúa biết rằng có hiệp nhất trong nội bộ mới có thể truyền giáo thành công. Hiệp nhất chính là dấu chỉ của môn đệ Chúa như Lời Chúa đã dạy: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con thương yêu nhau”. Qua dấu chỉ hiệp nhất, người ngoài mới nhận biết Chúa. Thời sơ khai, khi nhìn thấy các tín hữu đầu tiên sống đoàn kết yêu thương, người ngoại đạo đã bảo nhau: “Kìa xem họ yêu thương nhau biết bao”. Từ đó có nhiều người xin vào đạo để được sống trong cộng đoàn hiệp nhất yêu thương.

Sau cùng, Chúa tha thiết với sự hiệp nhất, vì Chúa muốn ta được hạnh phúc. Có hiệp nhất mới có hạnh phúc. Hạnh phúc của ta là được sống sự sống của Thiên Chúa. Sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi hiệp nhất với nhau đến nỗi trở thành một. Như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy. Thầy và Cha Thầy là một”. Cho đến độ: “Ai thấy Thầy là thấy Cha”.

Sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi là nguồn mạch sự sống, nguồn mạch hạnh phúc của ta. Tuy nhiên để được thông phần vào sự sống hạnh phúc đó, ta phải hiệp nhất yêu thương nhau. Thiên Chúa là Tình Yêu, là sự Hiệp Nhất. Muốn được hoà nhập vào nguồn mạch hạnh phúc đó, ta cũng phải đoàn kết yêu thương nhau. Chỉ những ai có tinh thần hiệp nhất yêu thương mới có thể gia nhập cộng đoàn hiệp nhất yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Hiệp nhất yêu thương không là một món hàng làm sẵn, nhưng là một tiến trình xây dựng dài lâu. Xây dựng bằng từ bỏ ý riêng. Xây dựng bằng nhịn nhục tha thứ. Xây dựng bằng hy sinh quên mình. Vì thế để đạt đến yêu thương đòi hỏi phải rất nhiều phấn đấu. Phấn đấu của bản thân. Phấn đấu của cả tập thể.

Nếu biết phấn đấu để hiệp nhất, ta sẽ xây dựng được cộng đoàn vững mạnh, ta sẽ truyền giáo thành công và nhất là ta sẽ được tham dự vào sự sống và hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin thương hiệp nhất chúng con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Tại sao người ta luôn chia rẽ. Chia rẽ đem đến những thiệt hại nào?

2. Tại sao Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp nhất?

3. Ba Ngôi Thiên Chúa đã thể hiện sự hiệp nhất thế nào?

4. Bạn phải làm gì để xây dựng sự hiệp nhất?

 

70. Để chúng được hiệp nhất nên một như Chúng Ta--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa nhật thứ VII Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội chuẩn bị tâm hồn chúng ta mừng Đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ trong bữa tiệc ly là không bỏ chúng ta mồ côi, Ngài sẽ gửi Chúa Thánh Thần là Đấng Bầu Chữa đến, để trong mọi sự con người tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô. Các thánh Tông Đồ đã qui tụ bên Đức Maria để cầu nguyện, noi gương các ngài, chúng ta cũng hãy hăng hái chuẩn bị sẵn sàng, cầu nguyện và thực hành đức bác ái, đón Chúa Thánh Thần, Đấng từ Chúa Cha hiện xuống trên chúng ta, và thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con kêu lên cùng Chúa, xin Ngài lắng nghe, alléluia; hồn con thưa cùng Chúa: mắt con tìm kiếm thánh nhan Ngài, lạy Chúa, con tìm kiếm Chúa, xin đừng ẩn mặt, alléluia, alléluia.

* Bài đọc Phụng vụ năm A

- Tđcv 1, 12-14: Sau khi Chúa lên Trời, các môn đệ họp nhau cầu nguyện

- Tv 27, 1: Vâng, chúng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh

- 1 Pr 4, 13-16: Nếu bị sỉ nhục vì Đức Kitô thì thật phúc cho anh em

- Ga 17, 1-11a: Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: "Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển Con Cha "

* Bài đọc Phụng vụ năm B

- Tđcv 1, 15-17; 20-26: Matthia được chọn là Tông Đồ thay thế Giuđa

- Tv 103, 1: Chúa ngự bên hưu Đức Chúa Cha, vinh danh Ngài, lạy Chúa

- 1 Ga 4, 11-16: Ai ở trong Tình Yêu, thì ở trong Thiên Chúa

- Ga 17, 11-19: Lời cầu nguyện của Đức Giêsu: "Xin Cha hãy thánh hiến họ trong Sự Thật "

* Bài đọc Phụng vụ năm C

- Tđcv 7, 55-60: Têphanô, trong lúc chụi tử đạo, ông đã thấy Chúa Giêsu

- Tv 97, 1: Đức Kitô là Chúa, được đưa lên Trời trong vinh quang!

- Kh 22, 12-14; 16-17; 20: "Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến "

- Ga 17, 20-26: "Để chúng nên một như Chúng Ta là một"

Toàn bộ Phúc Âm thánh Gioan chương 17 là diễn từ ly biệt, được kết thúc bằng kinh nguyện vô cùng cảm động của Chúa Giêsu dâng lên Cha. Kinh nguyện mở đầu bằng lời khẩn cầu danh Cha, ca tụng Ngôi Cha và Ngôi Con (câu 1-5). Chúa Giêsu xin " Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha" (Ga 17, 1).

Tiếp theo là những lời Đức Giêsu xin cho các môn đệ: "Lạy Cha... xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con". Và đây, Đức Giêsu cầu xin Cha cho chúng ta là những kẻ nhờ các Tông Đồ mà tin vào Ngài và xin cho chúng ta được hiệp nhất: "Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ chúng mà tin vào con, để mọi người nên một cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con"(Ga 17, 26)

Nhân dịp kỷ niệm 50 khai mạc Công Đồng Vaticanô II trong bối cảnh của năm Đức Tin, chúng ta cũng nên nhắc lại tư tưởng của Công Đồng, muốn thi hành ý muốn của Đức Giêsu khi nhấn mạnh đến việc phải làm để hiệp nhất: "Vì ngày nay ở nhiều nơi trên thế giới, nhờ ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, rất nhiều cố gắng nhằm tiến tới hiệp nhất đầy đủ theo ý muốn của Chúa Giêsu Kitô đang được thực hiện bằng kinh nguyện, lời nói, việc làm, nên Thánh Công Ðồng này khuyến khích tất cả mọi người công giáo hãy nhận ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia vào công cuộc hiệp nhất.

Phải hiểu danh từ "phong trào hiệp nhất" là những hoạt động và sáng kiên được phát động và tổ chức nhằm cổ võ sự hiệp nhất các Kitô hữu, tùy theo những nhu cầu khác nhau của Giáo Hội và những thời cơ thuận tiện. Trước hết như là mọi cố gắng loại bỏ những lời nói, phán đoàn và việc làm không đúng với hoàn cảnh của các anh em ly khai xét theo công bình và chân lý, vì nếu không sẽ gây thêm khó khăn trong việc giao tiếp với họ. Thứ đến là trong các buổi hội thảo với tinh thần tôn giáo giữa các Kitô hữu thuộc nhiều Giáo Hội hay Cộng Ðoàn khác nhau, có sự "đối thoại" giữa các nhà chuyên môn thấu triệt vấn đề, và mỗi người sẽ giải thích cặn kẽ giáo lý của Cộng Ðoàn mình và trình bày minh bạch những nét độc đáo của giáo lý ấy. Có đối thoại như thế mọi người mới hiểu biết đúng hơn và tôn trọng đúng mức giáo lý cũng như đời sống của mỗi Cộng Ðoàn; cũng nhờ đó mà các Cộng Ðoàn dần dần hợp tác được với nhau rộng rãi hơn trong mọi công cuộc mưu ích chung mà lương tâm Kitô hữu nào cũng đòi hỏi; lại cũng nhờ đó, họ hợp nhau cầu nguyện chung mỗi khi có cơ hội thuận tiện. Sau cùng mọi người hãy kiểm điểm coi mình có trung thành với ý muốn của Chúa Kitô về Giáo Hội không, để rồi hăng hái tiến hành việc canh tân và cải tổ đúng như bổn phận đòi hỏi.

Khi các tín hữu của Giáo Hội Công Giáo khôn ngoan và kiên nhẫn thực hiện tất cả các điều ấy dưới sự giám sát của các chủ chăn tức là họ đã đóng góp cho việc thực hiện công bình và chân lý, sự hòa thuận và hợp tác, tình huynh đệ và đoàn kết. Với đường hướng này, khi đã vượt được mọi trở ngại ngăn cản sự hiệp thông hoàn toàn của Giáo Hội, dần dần mọi Kitô hữu sẽ đoàn tụ qua việc cử hành Phép Thánh Thể duy nhất, hiệp nhất trong một Giáo Hội độc nhất; sự hiệp nhất mà Chúa Kitô từ ban đầu đã rộng ban cho Giáo Hội của Người. Chúng tôi tin rằng sự hiệp nhất ấy tồn tại mãi trong Giáo Hội Công Giáo và hy vọng rằng mỗi ngày sẽ bành trướng thêm cho đến tận thế". (Công Đồng Vaticanô II Sắc Lệnh về Hiệp Nhất, "Unitatis redintegratio" số 4)

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cầu xin cho chúng con được hiệp nhất. Xin cho chúng con biết thể hiện tinh thần hiệp nhất giữa chúng con bằng sự biết cộng tác với nhau trong những việc làm chung, để xây dựng nhiệm thể cộng đoàn nhỏ bé, trong tình huynh đệ tương thân tương ái. Chúng con tin tưởng vào lời Chúa hứa mà chúng con đã đọc trước bài Tin Mừng, đó là được ở với Chúa đến muôn đời. Amen.

 

71. Chúa Giêsu hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ

Toàn bộ Phúc Âm thánh Gioan chương 17 là diễn từ ly biệt, được kết thúc bằng kinh nguyện vô cùng cảm động của Chúa Giêsu dâng lên Cha. Kinh nguyện mở đầu bằng lời khẩn cầu danh Cha, ca tụng Ngôi Cha và Ngôi Con (câu 1-5). Chúa Giêsu xin "Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha" (Ga 17, 1).

Tiếp theo là những lời Đức Giêsu xin cho các môn đệ: "Lạy Cha… xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con" (Ga 17, 11). Thứ đến là những kẻ nhờ các Tông đồ mà tin vào Chúa là chúng ta, được Chúa lưu tâm đặc biệt trong lời nguyện hiến tế hôm nay: "Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ chúng mà tin vào con, để mọi người nên một cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con" (Ga 17, 20-26).

Chúng ta là đối tượng trong "lời nguyện hiến tế của Chúa Giêsu". Người đặc biệt quan tâm đến sự hiệp nhất của chúng ta, vì hiệp nhất làm cho chúng ta nên "một": "Để cả chúng cũng nên một trong Ta" (Ga 17,22). Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng nói: "Vậy làm thế nào chúng ta có thể, nếu, không làm cho thế giới biết được Thiên Chúa là Tình Yêu? Chúng ta chia rẽ, thì làm sao chúng ta có thể là người đáng tin cậy được?" Lời chứng về Tình Yêu là một bằng chứng mạnh mẽ hùng hồn nhất để thuyết phục thế giới. Chia rẽ giữa các cộng đoàn kitô là gương mù gương xấu cần vượt thắng. Vì chia rẽ làm suy yếu sự đáng tin, và hiệu lực dấn thân rao giảng Tin Mừng của chúng ta và có nguy cơ làm trống rỗng quyền năng của Thập Giá Chúa.

Chúa Giêsu xin cùng Chúa Cha cho tất cả mọi người đã được rửa tội hiệp nhất theo ý muốn: "Xin Cha cho chúng nên một" (Ga 17,21). Thánh Phaolô đã từng cật vấn các tín hữu ở Corintô: "Thế ra Đức Ki-tô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư?" (1Cr 1,13). Đức Thánh Cha Phanxicô nói: "Chắc chắn Chúa Kitô không bị chia năm xẻ bảy. Nhưng với đau khổ, chúng ta phải thừa nhận cách thành thật rằng cộng đoàn của chúng ta đang tiếp tục sống chia rẽ, đó là những gương xấu".

Thiền Chúa là Tình Yêu. Tình yêu thì luôn luôn hiệp nhất, do đó, chia rẽ không phải là dấu chỉ của Tình Yêu. Trong hiên Chúa, nơi Ngài không có sự chia rẽ. Chúng ta chiêm ngắm thái độ của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: Ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, "Hết thảy họ đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, và Maria, mẹ Ðức Yêsu và các anh em Người" (Cv 1,14). Đó là bầu khí của Thánh Thần đã vang lên một tiếng động lớn và toàn thế giới đã kinh ngạc (x.Cv 2,6).

Trong lời nguyện hiến tế, Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ còn xin cùng Chúa Cha cho chúng ta nên một để Người ở đâu thì chúng ta cũng ở đó với Người hầu chiêm ngưỡng vinh quang của Người (Ga 17,24). Người yêu mến chúng ta như Chúa Cha đã yêu mến Người và Người muốn ban cho chúng ta tất cả những gì Chúa Cha đã ban cho Người. Vinh quang Người có được từ nơi Cha, đến lượt Người, Người muốn ban cho chúng ta, và làm cho chúng ta nên một. Người muốn rằng, chúng ta không phải là nhiều nhưng làm thành một, hiệp nhất với thần tính của Người trong vinh quang Nước Trời, không phải sát nhập thành một bản thể duy nhất, nhưng trong sự hoàn hảo, tột đỉnh của nhân Đức Tin, Cậy, Mến. Đây là những gì Chúa Kitô đã tuyên bố khi Người nói: "Để chúng được hoàn toàn nên một!" (Ga 17,22).

 

Theo cách này mà tất cả chúng ta sẽ trở nên một với Chúa Cha và Chúa Con. Vì Chúa Giêsu nói: "Ta và Cha, Chúng Ta là một" (Ga 10,30). Giống như Người cầu nguyện cho những ai bắt chước mình, chúng ta tham dự vào chính sự hiệp nhất… Không phải sự hiệp nhất về bản tính tự nhiên mà Người có với Chúa Cha, nhưng điều này: như Cha đã làm cho Người tham dự vào vinh quang của riêng mình, Người cũng vậy, theo gương Chúa Cha, sẽ hiệp nhất vinh quang của Người với những kẻ mà Người thương mến.

Sau khi Chúa Giêsu về Trời, Các thánh Tông Đồ đã qui tụ bên Đức Maria để cầu nguyện, noi gương các ngài, chúng ta cũng hãy hăng hái chuẩn bị sẵn sàng, cầu nguyện và thực hành đức bác ái, đón Chúa Thánh Thần, Đấng từ Chúa Cha hiện xuống trên chúng ta, và thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con kêu lên cùng Chúa, xin Ngài lắng nghe, Alléluia; hồn con thưa cùng Chúa: mắt con tìm kiếm thánh nhan Ngài, lạy Chúa, con tìm kiếm Chúa, xin đừng ẩn mặt, alléluia, alléluia.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cầu xin cho chúng con được hiệp nhất. Xin cho chúng con biết thể hiện tinh thần hiệp nhất giữa chúng con bằng sự biết cộng tác với nhau trong những việc làm chung, để xây dựng nhiệm thể cộng đoàn nhỏ bé, trong tình huynh đệ tương thân tương ái. Chúng con tin tưởng vào lời Chúa hứa mà chúng con đã đọc trước bài Tin Mừng, đó là được ở với Chúa đến muôn đời. Amen.

 

72. Xin cho chúng nên một--Lm Giuse Vũ Thái Hòa

‘‘Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.” Sự mong ước của Chúa Giêsu đối với Giáo Hội của Ngài, đó là sự hiệp nhất. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trên đây cho chúng ta thấy sự sáng suốt tuyệt vời của Ngài. Ngài đã biết trước sẽ có hàng triệu người tin vào Ngài, cũng biết trước rằng thảm họa lớn của các môn đệ Ngài, chính là sự chia rẽ. Phải, sự chia rẽ là một đề tài thời sự đau thương. Trên thế giới hôm nay, có biết bao sự đối nghịch, chia rẽ và hận thù! Giáo Hội cũng không tránh khỏi những đau thương đó, ngay cả các cộng đoàn công giáo Việt Nam...

Một linh mục Ấn Độ tên là Anthony De Mello đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: Chúa Giêsu than phiền với chúng tôi là Ngài chưa bao giờ được đi xem một trận bóng đá nào cả. Chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin lành và một đội Công giáo. Đội Công giáo làm bàn trước, một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, tới phiên đội Tin lành làm bàn. Lần này, Chúa Giêsu cũng vỗ tay reo hò và cũng tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm ngạc nhiên và khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu. Ông ta lấy tay đập lên vai Ngài rồi hỏi: “Ê ông bạn, ông bạn ủng hộ bên nào vậy?”. Xem chừng như vẫn còn bị khích động bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời: “Tôi hả? tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu mà thôi”. Người khán giả đã khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, bây giờ lại càng bực bội hơn. Ông ta quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: “Hắn này là một tên vô thần!”

Trên đường trở về nhà, chúng tôi bàn luận với Chúa Giêsu về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài: “Thưa Chúa, những người có tôn giáo thật là buồn cười. Họ tưởng rằng Thiên Chúa chỉ đứng về phía của họ và nghịch lại với những người thuộc tôn giáo khác”. Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài nói: “Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ tôn giáo mà chỉ ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabbat. Các con nên biết là chính những người có tôn giáo đã treo Ta trên thập giá.”

Khi nói đến hiệp nhất, chúng ta thường mơ một sự hiệp nhất mà trong đó những ai nghĩ khác chúng ta, phải về phía chúng ta! Sự hiệp nhất theo ý muốn của Chúa không phải ở sự xóa bỏ những sự phong phú riêng biệt của mỗi người hoặc của mỗi nhóm. Giáo Hội phải xây dựng sự hiệp nhất trong sự tôn trọng những sự khác biệt chính đáng. Chỉ có một Chúa, một phép rửa tội, một đức tin, nhưng có nhiều cách khác nhau để diễn tả đức tin. Để nói về một Chúa Giêsu, chúng ta có tới bốn cuốn Phúc Âm, tại sao chúng ta không chấp nhận có nhiều cách diễn tả, có nhiều cách sống Tin Mừng, sống đạo khác nhau trong Giáo Hội và trong thế giới?

Trong lá thư gửi tín hữu Côrintô (1 Cr 12, 12-30), thánh Phaolô dùng hình ảnh các chi thể của một thân xác để nói về sự hiệp nhất của Giáo Hội trong sự đa dạng, trong sự bổ túc và liên đới của các phần tử. Thân xác có nhiều chi thể khác nhau. Chân, tay, mắt, mũi, tai và các chi thể khác đều phải cộng tác chặt chẽ với nhau để làm cho thân xác nên mạnh mẽ, và cùng liên đới chịu trách nhiệm với nhau về sự lớn mạnh của thân xác. Cũng thế, mỗi người chúng ta là một chi thể của Giáo Hội. Tuy trình độ khác nhau, nhân sinh quan khác nhau, mỗi người đều phải cộng tác với nhau để Giáo Hội được phát triển và liên đới chịu trách nhiệm về sự phát triển ấy.

Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo Hội chúng ta, cho mọi phần tử biết sống hiệp nhất trong sự tôn trọng lẫn nhau. Hiệp nhất nhưng không đơn điệu, đa dạng nhưng trong hiệp nhất và hiệp thông. Lúc đó, Giáo Hội được ví như một vườn hoa lớn, và mỗi thành viên là một loài hoa khác nhau, một hương thơm khác nhau. Ôi đẹp thay, phong phú thay, Giáo Hội của Chúa Kitô!

 

73. Hiệp nhất

Là người Việt Nam, hẳn ai trong chúng ta cũng đều biết câu chuyện cổ tích về những bó đũa. Câu chuyện ấy như sau:

Người cha trong cơn hấp hối, biết mình chẳng còn sống được bao lâu, ông đã gọi các con đến bên giường bệnh và trao cho mỗi người một chiếc đũa và bảo:

- Các con hãy thử bẻ xem sao?

Với một chiếc đũa trong tay, ai cũng bẻ được một cách dễ dàng.

Sau đó, ông trao cho mỗi người một bó đũa và cũng bảo:

- Các con thử bẻ xem sao?

Với cả một bó đũa trong tay, không ai có thể bẻ nổi, dù đã cố gắng hết sức mình. Dựa vào đó, ông đã trăn trối và khuyên bảo:

- Nếu các con biết hiệp nhất và đoàn kết với nhau, thì chẳng ai có thể làm hại các con được.

Từ câu chuyện này, chúng ta thấy sự hiệp nhất và đoàn kết là điều rất cần thiết để đem lại lợi ích cho cá nhân và xã hội.

Thực vậy, trên bình diện cá nhân, nhiều lúc gặp phải những hoàn cảnh khó khăn, tự sức riêng chúng ta không thể giải quyết nổi, thế nhưng nếu có người khác trợ giúp, chúng ta sẽ đón nhận được những ý kiến khách quan và sáng suốt, cũng như đón nhận được những nâng đờ cần thiết dể vượt qua những khó khăn ấy một cách dễ dàng, như tục ngữ đã bảo:

- Việc người thì sáng, việc mình thì quáng.

Hay như người Tây phương vốn thường nói:

- Hai cái đầu thì bao giờ cũng hơn một cái đầu.

Tiếp đến, trên bình diện xã hội, sự hiệp nhất và đoàn kết sẽ tạo dựng được những công trình lớn và sẽ đem lại những thành quả tốt đẹp, mà bình thường một người sẽ không thể nào thực hiện.

Chính vì thế, tục ngữ cũng đã nói:

- Một cây làm chẳng nên non,

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.

- Hợp quần gây sức mạnh.

Hay như người Tây phương cũng thường nói:

- Sự hiệp nhất chính là một pháo đài kiên vững.

- Nếu những con cừu biết đoàn kết, thì sư tử cũng sẽ phải ra về bụng đói.

- Nếu biết đoàn kết, thì đàn kiến cũng có thể thắng nổi sư tử.

Khi quân thù tấn công, nếu mọi người biết hiệp nhất và đoàn kết, chắc hẳn chiến thắng đã nằm trong tầm tay của mình. Đây cũng là một kinh nghiệm quí giá đã từng xảy ra trong lịch sử dân tộc. Hẳn chúng ta còn nhớ vào năm 1284, trước sự đe dọa của quân Nguyên, do thái tử Thoát hoan dẫn sang xâm chiếm nước ta, vua Trần Nhân Tông đã triệu tập đại hội các bô lão tại điện Diên Hồng. Với sự nhất trí của các bô lão, quân ta dù yếu kém, cũng đã chiến thắng vẻ vang.

Hơn thế nữa, ngày nay với xu hướng toàn cầu hóa, để nền kinh tế được phán triển thì mỗi cá nhân riêng biệt sẽ không thể làm gì được. Trái lại, nếu biết đoàn kết, tập trung mọi khả năng về nhân sự, về tài chánh, về chuyên môn…thì mới xây dựng được những công ty, những xí nghiệp lớn có một tầm hoạt động rộng, ảnh hưởng trên nhiều quốc gia.

Từ những sự việc kể trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay với bình diện thiêng liêng.

Thực vậy, trước khi ra đi chịu chết, chắc hẳn Chúa Giêsu đã nhìn thấy một tương lai đen tối đang chớ đón các môn đệ và những người tin theo Ngài. Chắc hẳn Ngài cũng biết rằng thế gian sẽ ghét bỏ và quyền lực sự dữ sẽ tấn công họ. Nếu chiến đấu một cách đơn độc, thì họ sẽ thất bại. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã đặc biệt cầu xin Chúa Cha ban cho họ ơn hiệp nhất:

- …Để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một.

Trước hết, về phương diện cá nhân, sự hiệp nhất sẽ đem lại cho bản thân chúng ta những lơi ích thiêng liêng to lớn.

Thực vậy, sự hiệp nhất sẽ làm cho lời cầu nguyện của chúng ta có được một giá trị trước mặt Chúa, như lời Ngài đã phán:

- Nếu ở đâu có hai hay ba người hợp lời cầu xin, thì Ta sẽ ở giữa họ.

Hơn thế nữa, nhờ sự hiệp nhất với nhau và với Giáo Hội, chúng ta sẽ được hưởng nhờ những ơn ích và sự giúp đỡ của toàn thể cộng đoàn dân Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng vượt thắng những cám dỗ và hiểm nguy trên đường đời. Đây cũng chính là điểm tín điều các thánh thông công đã dạy.

Tiếp đến, về phương diện Giáo Hội, sự hiệp nhất sẽ làm cho việc truyền bá Tin mừng của Giáo Hội gặt hái được những thành quả tốt đẹp, bởi vì sự hiệp nhất và đoàn kết sẽ biểu lộ cho người khác thấy một tình yêu thương chân thành, như lời thánh Gioan đã viết:

- Nếu ai nói mình kính mến Thiên Chúa mà lại ghét bỏ anh em, thì người ấy chỉ là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương anh em là người họ trông tháy, thì chẳng thể kính mến Thiên Chúa là Đấng họ không trông thấy.

Đồng thời sự hiệp nhất và đoàn kết còn chứng tỏ chúng ta là người môn đệ đích thực của Đức Kitô và có được một đức tin trưởng thành, nhờ đó dễ lôi cuốn người khác để họ tin vào lời chứng của chúng ta như Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết:

- Lời di chúc thiêng liêng của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng sự hiệp nhất giữa các môn đệ không những là bằng chứng chúng ta là môn đệ Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của chính Đức Kitô.

 

74. Hiệp nhất

Một linh mục dòng Tên làm việc tại Ấn độ, đó là cha Anthony de Mello, đã kể lại một câu chuyện tưởng tượng như sau:

Ngày kia, Chúa Giêsu than phiền là Ngài chưa bao giờ được đi xem một trận bóng đá nào cả. Và thế là chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin Lành và một đội Công giáo.

Đội Công Giáo làm bàn trước. Một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung cả mũ lên trời.

Vài phút sau, tới phiên đội Tin Lành làm bàn. Một đều. Lần này, Chúa Giêsu cũng vỗ tay reo hò và tung cả mũ lên trời.

Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm ngạc nhiên và khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu. Ông ta lấy tay đập lên vai Ngài và hỏi:

- Này ông bạn, ông bạn ủng hộ đội nào vậy?

Xem chừng như còn bị kích thích bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời:

- Tôi hả? Tôi không ủng hộ đội nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu mà thôi.

Người khán giả đã khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, bây giờ lại càng bực bội hơn nữa. Ông ta quay sang người bên cạnh và nói nhỏ:

- Gã này quả là một tên vô thần.

Trên đường về nhà, chúng tôi bàn luận với Ngài về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài:

- Lạy Chúa, những người có tôn giáo thật buồn cười, Họ tưởng rằng Thiên Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại với kẻ thuộc tôn giáo khác.

Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài nói:

- Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ tôn giáo, mà chỉ ủng hộ con người mà thôi. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabbat. Các con nên biết là chính những người có đạo đã treo Ta trên thập giá.

Khi nói đến hiệp nhất, chúng ta thường mơ tưởng đến một sự hiệp nhất, trong đó những ai nghĩ khác chúng ta, đều phải qui phục và đứng về phía chúng ta. Thế nhưng, sự hiệp nhất theo ý muốn của Chúa thì khác. Sự hiệp nhất này không xóa bỏ những sự phong phú riêng biệt của mỗi người, hay mỗi nhóm. Giáo hội phải xây dựng sự hiệp nhất trong sự tôn trọng những khác biệt chính đáng.

Chỉ có một Chúa, một phép rửa, một đức tin, nhưng có nhiều cách diẽn tả khác nhau. Để nói về Chúa Giêsu, chúng ta có tới bốn cuốn phúc âm. Vậy tại sao lại không chấp nhận có nhiều có nhiều cách sống đạo, sống Tin mừng khác nhau trong Giáo hội và trong thế giới?

Qua thư gửi tín hữu Corintô, thánh Phaolô đã dùng hình ảnh các chi thể của một thân xác để nói về sự hiệp nhất của Giáo hội trong sự đa dạng, bổ túc và liên đới với nhau. Thân xác có nhiều chi thể. Chân tay, mắt mũi, môi miệng…tất cả đều phải cộng tác chặt chẽ với nhau để làm cho thân xác được lớn mạnh, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm về sự lớn mạnh ấy.

Cũng thế, mỗi người chúng ta là một chi thể của Giáo hội. Tuy trình độ khác nhau, ý nghĩ khác nhau và việc làm khác nhau, nhưng mỗi người đều phải cộng tác với nhau để Giáo hội được phát triển, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm về sự phát triển ấy.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo hội, để mọi phần tử biết sống hiệp nhất trong tôn trọng lẫn nhau. Hiệp nhất nhưng không đơn điệu. Đa dạng nhưng luôn hiệp nhất và hiệp thông cùng nhau.

Lúc đó, Giáo hội được sánh ví như một vườn hoa, và mỗi thành viên là một loài hoa khác nhau, một hương thơm khác nhau.

Ôi xinh đẹp thay, phong phú thay Giáo hội Đức Kitô!!!

 

75. Dấu ấn của Thiên Chúa--Achille Degeest

Người ta nói đến Phúc Âm về nhân tính, tức là ba Phúc Âm nhất lãm của các thánh chép sử Matthêu, Marcô và Luca, trong đó mô tả, với một số chi tiết nhân tính, lịch sử Đức Giêsu trong hoàn cảnh sinh hoạt, giao tế, lao động, rao giảng của Người. Chúa được trình bày như một người rất cụ thể, rất “thực”, nhưng cũng là một Đấng Mêsia. Các thư thánh Phaolô và Phúc Âm theo thánh Gioan được xem như Phúc Âm về thần trí, vì hai ông nhấn mạnh vào những viễn ảnh vĩnh cửu do thân thế Đức Giêsu mở ra cho chúng ta. Tất cả những văn bản trên hợp thành một bức hoạ song bản, một bộ Phúc Âm duy nhất. Sự suy niệm của chúng ta không được tách rời hai tấm hoạ nhân tính và thần trí, tuy nhiên chúng ta có thể theo khuynh hướng của mình hoặc chỉ dẫn của phụng vụ mà tuỳ thích đọc Phúc Âm nhất lãm hoặc Phúc Âm về thần trí. Hôm nay phụng vụ mời gọi suy niệm về một trong những đoạn cao đẹp nhất trích Phúc Âm theo thánh Gioan. Chúng ta có thể nêu ra một trong những chức năng cơ bản của Giáo Hội, đó là chức năng trung gian và sự đòi hỏi hợp nhất do chức năng ấy.

1) Giáo Hội đóng vai trò trung gian của Đức Kitô bên cạnh thế gian.

Chúa Giêsu cầu nguyện cho các tông đồ của Người và cho tất cả những ai sau này nhờ hoạt động tông đồ sẽ tin vào Người. Chúa biết rằng các tông đồ thật sự thuộc về thế gian, Người cầu xin cho các ông cũng thuộc về Thiên Chúa. Làm trung gian là đứng giữa, được thiện cảm của cả hai bên, đóng vai gạch nối, tiếp xúc, hoà giải, giao liên. Các tông đồ tượng trưng cho Giáo Hội. Chúa cầu xin cho Giáo Hội của Người được thật sự thuộc về thế gian, đồng thời triệt để thuộc về Thiên Chúa. Thành phần Giáo Hội là những con người, cho nên Giáo Hội tham gia vào thực thể nhân loại, một hỗn hợp bí ẩn trong đó vụng về chậm chạp xen lẫn linh hoạt cao quý. Giáo Hội cần phải tham dự vào đời sống Thiên Chúa, mà bản chất là hợp nhất trong tình yêu. Sự tham dự ấy là đối tượng lời cầu nguyện của Đức Giêsu. Chúa muốn rằng phong trào đại kết (là nét độc đáo của sự tương giao giữa Ba Ngôi Thiên Chúa) phải tiếp nối trong Giáo Hội và trở nên dấu ấn sự hiện diện sống động của Thiên Chúa giữa nhân loại.

2) Vai trò trung gian của Giáo Hội phải mang dấu ấn đại kết.

Thiên Chúa không chia rẽ với chính Thiên Chúa. Khi những Kitô hữu chia rẽ với nhau, họ đi ngược yêu cầu chính của ơn gọi Kitô giáo. Bất hạnh lớn nhất của Giáo Hội là trong phạm vi yêu thương mà không vượt khỏi hạn chế của tâm trí và yếu hèn của tội lỗi. Ở điểm này, mỗi người chúng ta phải tự đặt những câu hỏi rất thực tiễn. Thật vậy, một Kitô hữu tất nhiên có thể nói rằng sự chia rẽ giữa những “Giáo Hội” (sự phân hoá này giống như một vết thương trong trái tim Chúa), là một vấn đề vượt quá sức mình, những dẫu sao phải ý thức về mức độ trách nhiệm của mình. Bằng cách nào? Bằng cách chiến đấu chống sự tội trong con người mình, vì chính sự tội gây chia rẽ –cầu nguyện cho phong trào đại kết- trong khung cảnh sinh hoạt của mình trở nên một cực đại kết chứ không đối đầu –và sau hết, noi gương Chúa, ăn ở hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Mỗi Kitô hữu phải lãnh trách nhiệm mang trong não trạng, trong ngôn ngữ, trong cách cư xử của mình dấu ấn của tình yêu hợp nhất và biểu hiện của Thiên Chúa.

 

76. Chờ mong Thần Khí

Suy Niệm 1. BÀI HỌC TỪ TÊPHANÔ

Thánh Têphanô là người môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu chết vì đức tin. Têphanô là một thanh niên quảng đại và can đảm. Ông đã làm chứng cho Đức Giêsu bằng lời nói và việc làm, và đã trả bằng cái giá của sự chết.

Đặc tính nổi bật của cái chết ấy là nó giống với cái chết của Đức Giêsu. Giống như Đức Giêsu, Têphanô vô tội. Giống như Đức Giêsu, ông bị buộc tội phạm thượng, và bị xét xử trước Thượng Hội Đồng của người Do Thái. Giống như Đức Giêsu, ông chết chỉ vì một hành vi bạo lực bên ngoài thành, (trong cách này, cả hai bị đối xử như những người bị loại bỏ trong cái chết).

Giống như Đức Giêsu, Têphanô cũng đã cầu nguyện cho những người đã giết ông: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Sau cùng, như Đức Giêsu đã trao linh hồn của Người vào tay Thiên Chúa với lời cầu nguyện. “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”. Têphanô cũng thế, khi chết, ông đã phó linh hồn ông trong tay Đức Giêsu với lời này: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con”. Trong tất cả những sự kiện, Luca có một ý định rõ ràng. Cái chết của vị tử đạo phản chiếu cái chết của Đức Giêsu.

Sự tàn ác trong việc ném đá Têphanô khiến người ta phải suy nghĩ. Những người giết ông cởi hết quần áo của ông ra và đặt dưới chân thủ lãnh Sao lô là một người Pharisêu cuồng tín. Ông này nghĩ rằng mình đã làm sáng danh Thiên Chúa khi giết chết những người như Têphanô. Ngày nay, một số người cũng nhân danh Thiên Chúa giết người. Giết người khác để tôn vinh Thiên Chúa là một điều ghê tởm.

Sao lô như chúng ta biết không lâu sau đã hoán cải trong đức tin và trở thành một chiến sĩ vĩ đại nhất của đức tin. Chắc chắn, ông đã bị xúc động trước lòng can đảm và sự tha thứ mà Têphanô đã biểu lộ khi ông này chết. Sự hoán cải của Sao lô chứng tỏ rằng một người có thể thay đổi, và Thiên Chúa không bao giờ gạt bỏ một ai.

Nhưng Têphanô không chỉ bày tỏ những phẩm chất ấy lúc chết. Một người không trở thành một anh hùng lúc chết nếu người ấy không là một anh hùng khi sống. Thánh Têphanô đã chứng tỏ sự cam kết theo Đức Giêsu trong đời sống. Ông là một trong những Phó tế đầu tiên được các tông đồ chỉ định để phân phát lương thực cho các quả phụ. Nhưng ông cũng đã rao giảng Lời Chúa. Và chính sự rao giảng không chút sợ hãi của ông về Đức Giêsu đã làm cho các thủ lãnh đạo Do Thái nổi giận.

Têphanô đã đem lại loại làm chứng cao nhất cho Đức Kitô; ông làm chứng với cái chết của mình. Mức độ làm chứng này không được ban cho hoặc đòi buộc mọi người. Điều được đòi buộc nơi mỗi người chúng ta là phải làm chứng với đời sống của chúng ta. Đây không phải là một cách làm chứng êm ái mà là một cách thế gay go và đòi hỏi nhiều sức mạnh với lòng can đảm. Thế giới ngày nay đang kêu gọi sự làm chứng của những người không sợ trở nên một Kitô hữu chân chính.

Ngoài việc chỉ cho chúng ta phải làm chứng như thế nào, Têphanô còn chỉ cho chúng ta cách chết thế nào mà mỗi Kitô hữu phải ao ước đó là chết với lòng tha thứ mọi kẻ thù và trao phó mình cho lòng nhân hậu và thương xót của Chúa.

Suy Niệm 2. BÀI HỌC TỪ PHAOLÔ

Có một hậu cảnh, nhưng đóng vai trò quan trọng trong công việc ghê tởm ném đá Têphanô đó là Sao lô. Ông giữ áo cho những người ném đá và là một thủ lãnh trong việc bách hại các Kitô hữu. Dù vậy, cũng chính ông ít lâu sau đã được đức tin hoán cải và trở thành một chiến sĩ vĩ đại nhất của đức tin. Khó mà tin được điều đó nơi cùng một con người.

Sự kiện Phaolô tham gia vào việc giết Têphanô không có nghĩa ông là một người hoàn toàn xấu xa. Đúng hơn đó là một sự mù quáng. Thái độ cuồng tín tôn giáo đã làm ông mù quáng. Tuy nhiên, có một khía cạnh khác tốt hơn nơi ông. Rõ ràng ông là một người có cam kết cao độ, có khả năng làm việc gian khổ và chịu hy sinh to lớn.

Khi một người trải qua một cuộc hoán cải, chúng ta thường nói: “Anh/chị ấy đã trở thành một con người hoàn toàn mới”. Nhưng đó không phải là toàn bộ sự thật. Trong mỗi cuộc hoán cải, vừa có sự liên tục và sự gián đoạn. Những yếu tố tiêu cực đã bị vượt qua, và những mục tiêu mới đã được thiết lập. Tài năng và thiên hướng của một người không bị chối bỏ, càng không bị mất đi; đúng hơn, chúng được định hướng lại.

Nếu chúng ta có mặt lúc Têphanô bị giết và thấy được vai trò của Phaolô trong vụ việc, hẳn là chúng ta đã loại bỏ ông mãi mãi. Chúng ta có xu hướng làm “đông cứng” người khác trong một giai đoạn đặc biệt của đời sống họ. Chúng ta mãi mãi xét đoán họ trên nền tảng của một kinh nghiệm xấu. Chúng ta có khuynh hướng chia người ta thành hai loại: thánh nhân và tội nhân.

Nhưng con người không dễ phân loại như thế vì con người vốn phức tạp. Một số người dường như không biết gì về bản tính chia cắt của mỗi con người. Ngay khi họ khám phá một sự yếu đuối nơi một người nào, họ liền loại bỏ người ấy mãi mãi. Đối với họ, cái chai luôn có mùi của chất lỏng mà chai đã chứa đựng. Nhưng điều đó có đúng đắn và khôn ngoan không? Chúng ta có nên cấm người ta thay đổi không?

Một nền văn hoá không không ích lợi gì cho chúng ta. Thái độ đối với tội phạm là giam chúng lại và vất chìa khoá phòng giam đi. Một nền văn hoá không tin vào sự tiến bộ hoặc cứu chuộc là một nền văn hoá không hy vọng. Phải chăng đức tin chúng ta quá nhỏ bé đến nỗi chúng ta không thể chấp nhận sự thay đổi và trưởng thành? Như thể ai giết người là đến từ một hành tinh khác, và không đáng có cơ may trở thành người, để sửa chữa và chuộc lại lỗi lầm.

Chúng ta phải học tập sự nhẫn nại và khoan dung mà trước tiên là với chính mình. Chúng ta phải biết rằng chiến đấu để dẹp bỏ. Và chúng ta cũng phải khoan dung đối với người khác. Một con người sẽ được xét xử, không phải bởi chỉ một hành động hoặc bởi chỉ một giai đoạn nào đó của đời mình mà là bởi toàn bộ cuộc đời của người ấy.

Câu chuyện của Phaolô cho thấy rằng một người có thể thay đổi, và Thiên Chúa không bao giờ gạt bỏ một ai ra ngoài ơn cứu chuộc. Một người có thể gây ra một lỗi lầm lớn, nhưng sẽ được cứu chuộc bởi ân sủng của Thiên Chúa như trường hợp của Phaolô. Đó là một bài học to lớn trong đời ông. Chắc chắn, một trong những yếu tố khiên Phaolô hoán cải là gương sáng của Têphanô, Têphanô là một Kitô hữu chân chính. Phaolô đã xúc động bởi lòng can đảm và sự tha thứ mà Têphanô đã bày tỏ khi ông chết.

TIẾP CẬN KHÁC: Hội đoàn của người yếu.

Làm một tín hữu trong thế giới ngày nay có thể là một công việc lẻ loi. Nhưng chính ở chỗ này mà cộng đoàn xuất hiện. Chúng ta cần có cộng đoàn để nâng đỡ đức tin của chúng ta. Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất của các môn đệ người: “Lạy Cha, xin cho họ được nên một như chúng ta là một”. Nhưng có phải đây là một lý tưởng không thể có sao? Phải chăng người ta không cần trở nên hoàn thiện và thuộc về một cộng đoàn như thế?

Ngày xưa, một thanh niên có lý tưởng được một cộng đoàn các thầy tu lôi cuốn. Ước muốn gia nhập cộng đoàn ấy là một điều không tránh khỏi đối với anh. Và khi gia nhập, anh trở thành một tập sinh. Ban đầu anh được huấn luyện để trở thành một thành viên của một cộng đoàn những người thánh thiện. Nhưng anh không ở lại đó lâu khi anh có một sự thức tỉnh đột ngột. Anh khám phá rằng những người mà anh xem như hoàn hảo cũng có đầy những thiếu sót và bất toàn. Thật vậy, họ cũng mỏng dòn, tội lỗi và vị kỷ như anh. Anh ta hoàn toàn vỡ mộng đến nỗi anh đã rời bỏ tu viện.

Một cộng đoàn Kitô hữu không gồm những người hoàn hảo. Cộng đoàn nhỏ các Tông đồ mà Đức Giêsu cầu nguyện cho họ gồm những người nhút nhát, yếu đuối và sợ hãi. Jean Vanier nói về “Hội đoàn của những người yếu” và nói rằng sự đoàn kết lớnhơn có thể là kết quả của việc chia sẻ sự yếu đuối so với việc chia sẻ sức mạnh.

Điều này xem ra mâu thuẫn. Nhưng hãy lấy một bó sậy làm ví dụ. Từng cây sậy thì yếu ớt và dễ bị bẻ gãy. Nhưng khi cột chung thành bó, chúng hầu như không thể bẻ gẫy được. Với con người cũng thế, sức mạnh to lớn là kết quả của việc quy tụ, đặc biệt quy tụ những người yếu đuối. Cộng đoàn dường như được liên kết với sự yếu đuối và dễ bị tổn thương. Khi người ta đang vui hưởng sự thành công, người ta tìm kiếm sự thán phục, nhưng khi người ta yếu đuối, người ta tìm kiếm sự hiệp thông. Nếu người ta tìm thấy sự hiệp thông, người ta biết rằng họ được yêu thương không phải vì những thành tựu của họ, nhưng vì họ là ai. Kết quả là họ đạt được sự tín nhiệm lẫn nhau.

Và tâm hồn của một người có khả năng và mạnh mẽ luôn mở ra và tiếp xúc với lời kêu gọi yêu thương đến từ một người yếu đuối hơn mình. Khi một người nào đó nói với bạn về sự thành công và năng lực khác thường của người ấy, bạn thán phục người ấy. Nhưng khi người ấy chia sẻ những thất bại và yếu đuối của người ấy với bạn, người ấy gợi lên lòng thương cảm. Sự thương cảm dẫn đưa và tạo ra sự hiệp thông.

Sức mạnh được giấu kín trong sự yếu đuối và cộng đoàn chân thật gồm những bạn bè yếu đuối. Hội những người Nghiện rượu Vô Danh là một ví dụ cho điều này. Điều kéo các thành viên đến với nhau không phải để được chia sẻ sức mạnh mà là chia sẻ sự yếu đuối là thừa nhận một cách trung thực sự yếu đuối và tính chất dễ tổn thương mà người nào cũng có. Không ai là một mối đe doạ cho người khác, và điều này làm họ sẵn sàng chia sẻ và đón nhận lẫn nhau. Không phải là người hoàn hảo mới được chia sẻ đời sống cộng đoàn.

Các Kitô hữu tiên khởi chịu đựng lẫn nhau bằng việc cầu nguyện và cùng nhau thờ phượng Thiên Chúa cũng như yêu thương phục vụ lẫn nhau. Chúng ta có thể làm được điều tương tự. Chúng ta có thể cùng nhau tiến bước, lắng nghe và học hỏi lẫn nhau. Chúng ta phải mở rộng sang những thành viên khác của cộng đoàn cùng loại hiểu biết và thương cảm mà chính chúng ta mong ước nhận được từ họ.

“Mầu nhiệm cứu độ của tình yêu Thiên Chúa được nhìn thấy không phải trong một cộng đoàn của các anh hùng tâm linh mà của anh chị em khuyến khích nhau trong cuộc hành trình về Vương quốc của niềm hy vọng và thương xót” (Timothy Radeliffe).

 

77. Hiệp nhất

Mỗi người Kitô hữu chúng ta vì đã được rửa tội, nên ai cũng có trách nhiệm phải truyền giáo, nghĩa là có bổn phận phải rao giảng về Thiên Chúa, về Chúa Kitô và nước trời cho những người khác. Trong việc thực thi bổn phận ấy, sống hiệp nhất có một sức mạnh rất đặc biệt. Vậy sự hiệp nhất đó, là sự hiệp nhất nào? Sự hiệp nhất ấy có giá trị đặc biệt như thế nào trong việc truyền giáo? Và người Kitô hữu chúng ta phải sống sự hiệp nhất ra sao, để góp phần vào công việc truyền giáo của Giáo Hội? Phụng vụ lời Chúa qua bài Tin Mừng hôm nay sẽ trả lời cho chúng ta những câu hỏi đó.

Trước khi từ biệt trần gian, Chúa Giêsu đã cầu nguyện một cách tha thiết với Chúa Cha cho các tông đồ và tất cả những ai nhờ lời họ mà tin vào Chúa Kitô, trong đó có chúng ta được ơn hiệp nhất: “Con không chỉ cầu xin cho những người này nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con để tất cả nên một”.

Sự hiệp nhất ở đây là một ân huệ của Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin với Cha Ngài cho chúng ta. Do đó hiệp nhất ở đây không thể là giả tạo như sự hiệp nhất của hai cây gậy buộc lại với nhau thành một; cũng không như hai người bạn đi đường cùng nhau, cùng mục đích, cùng mối lợi, nhưng là nhắm lợi ích riêng của mình; càng không phải là sự hiệp nhất rẻ tiền: cố nhịn nói, cố tránh va chạm để người ngoài nhìn vào không biết chúng ta đang chia rẽ. Trái lại, đây là sự hiệp nhất trong tình yêu thương của Thiên Chúa. Sự hiệp nhất đó phải được như là sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa Ba Ngôi: “Như Cha ở trong Con, như Con ở trong Cha”.

Như vậy, sự hiệp nhất ở đây không phải là bất cứ sự hiệp nhất nào, mà là sự hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Cha trong Thánh Thần. Căn bản của sự hiệp nhất này là tình yêu phát xuất từ Cha và chính trong sự hiệp nhất này là sức mạnh có tính thuyết phục thế gian tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và nhận ra tình yêu thương của Chúa Cha đối với nhân loại.

Chắc hẳn, Chúa Giêsu biết rất rõ sự hiệp nhất mà Ngài mong ước thiết tha cho chúng ta (như đã trình bày ở trên) có một sức mạnh truyền giáo rất đặc biệt. Sở dĩ như vậy, vì Thiên Chúa và nước trời là những mầu nhiệm, những thực tại vô hình không dễ gì tin, bởi mắt phàm không thấy. Trái lại, khi nhìn thấy đời sống yêu thương hiệp nhất của các tín hữu, người ta sẽ nhận ra có sự hiện diện của Thiên Chúa và nước trời.

Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI cũng đã diễn tả sâu sắc về giá trị tông đồ của sự hiệp nhất, ngài nói: “Lời di chúc thiêng liêng của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng, sự hiệp nhất giữa chúng ta không những là bằng chứng chúng ta là môn đệ Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của Chúa Kitô”.

Quả vậy, có hiệp nhất với nhau, các kẻ tin mới tỏ ra mình không phải là những con người bị chia rẽ bởi những tranh chấp, nhưng là những con người có đức tin trưởng thành, có khả năng đối thoại, gặp gỡ nhau nhờ việc cùng tìm kiếm chân lý cách chân thành vô vị lợi. Như vậy sự hiệp nhất minh chứng chúng ta là môn đệ Đức Kitô, là những con người có đức tin vững mạnh và đó là lý do hấp dẫn người ngoài để họ dễ tin vào lời chứng của chúng ta. Hơn nữa, một sự hiệp nhất đến từ Thiên Chúa liên kết chúng ta lại với nhau là biểu hiện sự hiện diện của Thiên Chúa và nước trời ở giữa thế gian, như lời Chúa Giêsu thân thưa cùng Chúa Cha: “Xin cho họ nên một, như vậy, thế gian có thể nhận biết rằng chính Cha đã sai Con và đã yêu thương họ như đã yêu thương Con”.

Sống hiệp nhất nên một cách thân mật như “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” có một sức mạnh rất đặc biệt cho việc loan báo Tin Mừng. Thế nhưng làm sao chúng ta có thể hiệp nhất nên một cách thân mật như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha được? Quả thật, một sự hiệp nhất như thế nằm ngoài tầm tay của chúng ta và sự hiệp nhất này chỉ có thể thực hiện nơi chúng ta nếu chính Thiên Chúa thực hiện trong ta. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã nói: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên một như Chúng Ta là một…” Vinh quang ở đây, chính là sự sống của Thiên Chúa. Việc chúng ta hiệp nhất vào chính sự sống của Thiên Chúa là cơ sở cho việc chúng ta hiệp nhất với nhau, cho nên phương thế hay nhất để thực hiện sự hiệp nhất giữa chúng ta là mức độ chúng ta thông hiệp vào vinh quang của Chúa Giêsu, vào cuộc sống Thần Linh của Ngài, nhờ việc kết hiệp với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, qua rước lễ, viếng Chúa Giêsu Thánh Thể; nhờ việc lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc sống; nhờ việc chân thành cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong Giáo Hội, giữa các Kitô hữu với nhau và cho một thế giới tốt đẹp hơn. Một khi hiệp nhất với Chúa Giêsu như thế, chúng ta sẽ dễ dàng hiệp nhất và yêu thương nhau, tránh được mọi hận thù, chia rẽ, ghét ghen… Có như thế, chúng ta mới thực sự là dấu hiệu để người ngoại nhận ra Thiên Chúa là tình yêu và nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế được Chúa Cha sai đến để thực hiện chương trình yêu thương của Người, và lúc đó chúng ta sẽ thấy rằng sống hiệp nhất có một sức mạnh rất đặc biệt trong việc truyền giáo.

Ước chi phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta ý thức được sống hiệp nhất có một sức mạnh truyền giáo; ý thức rằng Chúa Giêsu đã tha thiết cầu nguyện cho chúng ta được hiệp nhất với nhau như Ngài trong Cha và Cha trong Ngài; ý thức rằng Chúa Giêsu đang cần đến sự cộng tác của chúng ta với ơn Chúa để làm triển nở sự hiệp nhất trong cộng đoàn xứ đạo, gia đình của chúng ta. Nhờ đó chúng ta sống gắn bó với Chúa Giêsu hơn qua việc năng dâng lễ, hiệp lễ, lãnh nhận các bí tích, lắng nghe lời Chúa, cầu nguyện cho sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình cũng như trong xứ đạo của chúng ta. Hơn nữa, có Chúa Giêsu là giềng mối sự hiệp nhất trong chúng ta, chúng ta sẽ dễ dàng sống hiệp nhất yêu thương đối với anh chị em của chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu tiếp tục tác tạo sự hiệp nhất nơi chúng ta.

 

78. Nên một

Khi cầu nguyện cho các môn đệ tương lai điều quan tâm chính của Người là sự hiệp nhất giữa họ. Người cầu xin Chúa Cha: “Để họ được nên một như chúng ta là một”.

Sự hiệp nhất không giống như sự đồng phục. Đức Giêsu chọn lựa các môn đệ với đủ loại tính khí, phân cách, phong cách và tầng lớp xã hội để gợi ý rằng Người đã tìm trong tính đa dạng một sức sống lành mạnh.

Sự nên một không thể được thực hiện trong một cộng đoàn từ chối sự khác nhau. Sự nên một được hoàn thành khi mọi thành viên khác nhau và góp phần bằng những ơn gọi khác nhau, nhưng tất cả đều được hiệp nhất xung quanh một mục đích chung bởi sự yêu thương nhau. Mỗi người chúng ta phải được thanh luyện khỏi nhu cầu chứng tỏ mình là tốt nhất. Chúng ta phải mở rộng lòng mình với những người khác và vui mừng tiếp đón những ơn gọi của họ.

Chúng ta được kêu gọi từ nhiều tình trạng khác nhau để tạo thành một thân thể trong Đức Kitô. Bằng sự vượt lên trên những sự khác nhau đó, chúng ta trở thành nhân chứng của Thiên Chúa, Đấng cho ánh sáng chiếu soi trên những đường lối khác nhau.

Người ta kể lại một câu chuyện rằng ngày thứ ba của công cuộc sáng thế, sau khi đã tạo ra cây cối, Thiên Chúa đụng phải một vấn đề bất ngờ. Những cây tuyết tùng ở xứ Libăng dường như quá cao đến nỗi chúng bị cám dỗ sinh ra lòng kiêu ngạo. Và thế là Thiên Chúa quyết định tạo ra chất sắt.

Các cây ấy lập tức biết rằng đã có mối đe dọa và bắt đầu khóc, vừa khóc chúng vừa nói: “Oi khổ thân chúng tôi, một ngày nào đó, chúng tôi sẽ bị lưỡi rìu đốn ngã”. Nhưng Thiên Chúa đã trấn an chúng; Người nói với chúng: “Nếu không có cái cán, cây rìu chỉ là một cục sắt. Mà cái cán rìu lại làm bằng gỗ, các ngươi hãy cố sống trong bình an và không phản bội nhau. Hãy sống hiệp nhất và cái rìu sẽ không có quyền lực gì để chống lại các ngươi”.

Đức Giêsu biết rằng sự nên một hay hiệp nhất là sự sống của cộng đoàn non trẻ (các môn đệ). Nhưng phải có sự nên một trên nền tảng yêu thương, và là kết quả của lòng trung thành với giới răn yêu thương: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Cộng đoàn là một thách đố lớn. Tình huynh đệ còn đi xa hơn sự tha thứ cho nhau. Nó bao hàm sự liên đới, chia sẻ, tùy thuộc, nhân hậu và niềm vui mừng trong hạnh phúc của những người khác. Tính vị kỷ là một tai họa đối với một cộng đoàn: mỗi người yêu cầu cộng đoàn quan tâm đến mình, nhưng không một ai muốn quan tâm đến những người khác.

Đáng buồn là qua bao thời đại, sự hiệp nhất mà Đức Giêsu mong ước cho Giáo Hội của Người đã bị rạn nứt nhiều lần. Kết quả là ngày nay chúng ta không phải chỉ có một mà có nhiều Giáo Hội Kitô giáo. Những chia rẽ giữa các Kitô hữu là một cớ gây vấp ngã cho người ngoại giáo. Tuy nhiên, điều thật sự gây vấp ngã không phải là có nhiều tín ngưỡng và sự hành đạo khác nhau của các Kitô hữu thuộc các giáo phái khác nhau, nhưng là giữa họ, có sự thù địch nhau. Chúng ta thấy sự thù địch được đẩy nén cực độ trong bài đọc sách Công vụ Tông đồ liên quan đến việc giết chết Têphanô. Ở đây chúng ta có những người trung kiên của một tôn giáo (Do thái giáo) giết những người của một tôn giáo khác nhau. Chúng ta không nên ngồi chờ điều đó. Nhưng phải chuẩn bị sẵn sàng cho sự qui tụ sắp tới của mọi Kitô hữu.

 

79. Người yếu

Làm một tín hữu trong thế giới ngày nay có thể là một công việc lẻ loi. Nhưng chính ở chỗ này mà cộng đoàn xuất hiện. Chúng ta cần có cộng đoàn để nâng đỡ đức tin của chúng ta. Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất của các môn đệ Người: “Lạy Cha, xin cho họ được nên một như chúng ta là một”. Nhưng có phải đây là một lý tưởng không thể có sao? Phải chăng người ta không cần trở nên hoàn thiện và thuộc về một cộng đoàn như thế?

Ngày xưa, một thanh niên có lý tưởng được một cộng đoàn các thầy tu lôi cuốn. Ước muốn gia nhập cộng đoàn ấy là một điều không tránh khỏi đối với anh. Và khi gia nhập, anh trở thành một tập sinh. Ban đầu anh được huấn luyện để trở thành một thành viên của một cộng đoàn những người thánh thiện. Nhưng anh không ở lại đó lâu khi anh có một sự thức tỉnh đột ngột. Anh khám phá rằng những người mà anh xem như hoàn hảo cũng có đầy những thiếu sót và bất toàn. Thật vậy, họ cũng mỏng giòn, tội lỗi và vị kỷ như anh. Anh ta hoàn toàn vỡ mộng đến nỗi anh đã rời bỏ tu viện.

Một cộng đoàn Kitô hữu không gồm những người hoàn hảo. Cộng đoàn nhỏ các tông đồ mà Đức Giêsu cầu nguyện cho họ gồm những người nhút nhát, yếu đuối và sợ hãi. Jean Vanier nói về “Hội đoàn của những người yếu” và nói rằng sự đoàn kết lớn hơn có thể là kết quả của việc chia sẻ sự yếu đuối so với việc chia sẻ sức mạnh.

Điều này xem ra mâu thuẫn. Nhưng hãy lấy một bó đũa làm ví dụ. Từng chiếc đũa thì yếu ớt và dễ bị bẻ gãy. Nhưng khi cột chung thành bó, chúng hầu như không thể bẻ gãy được. Với con người cũng thế, sức mạnh to lớn là kết quả của việc qui tụ, đặc biệt qui tụ những người yếu đuối. Cộng đoàn dường như được liên kết với sự yếu đuối và dễ bị tổn thương. Khi người ta đang vui hưởng sự thành công, người ta tìm kiếm sự thán phục, nhưng khi người ta yếu đuối, người ta tìm kiếm sự hiệp thông. Nếu người ta tìm thấy sự hiệp thông, người ta biết rằng họ được yêu thương không phải vì những thành tựu của họ, nhưng vì họ là ai. Kết quả là họ đạt được sự tín nhiệm lẫn nhau.

Và tâm hồn của một người có khả năng và mạnh mẽ luôn mở ra và tiếp xúc với lời kêu gọi yêu thương đến từ một người yếu đuối hơn mình. Khi một người nào đó nói với bạn về sự thành công và năng lực khác thường của người ấy, bạn thán phục người ấy. Nhưng khi người ấy chia sẻ những thất bại và yếu đuối của người ấy với bạn, người ấy gợi lên lòng thương cảm. Sự thương cảm dẫn đưa và tạo ra sự hiệp thông.

Sức mạnh được giấu kín trong sự yếu đuối và cộng đoàn chân thật gồm những bạn bè yếu đuối. Hội những người nghiện rượu vô danh là một ví dụ cho điều này. Điều kéo các thành viên đến với nhau là không để được chia sẻ sức mạnh mà là chia sẻ sự yếu đuối là thừa nhận một cách trung thực sự yếu đuối và tính chất dễ tổn thương mà người nào cũng có. Không ai là một mối đe dọa cho người khác, và điều này làm họ sẵn sàng chia sẻ và đón nhận lẫn nhau. Không phải là người hoàn hảo mới được chia sẻ đời sống cộng đoàn.

Các Kitô hữu tiên khởi chịu đựng lẫn nhau bằng việc cầu nguyện và cùng nhau thờ phượng Thiên Chúa cũng như yêu thương phục vụ lẫn nhau. Chúng ta có thể làm được điều tương tự. Chúng ta có thể cùng nhau tiến bước, lắng nghe và học hỏi lẫn nhau. Chúng ta phải mở rộng sang những thành viên khác của cộng đoàn cùng loại hiểu biết và thương cảm mà chính chúng ta mong ước nhận được từ họ.

“Mầu nhiệm cứu độ của tình yêu Thiên Chúa được nhìn thấy “không phải trong một cộng đoàn của các anh hùng tâm linh mà của anh chị em khuyến khích nhau trong cuộc hành trình về vương quốc của niềm hy vọng và thương xót” (Timothy Radcliffe)

 

80. Cái giá phải trả cho cuộc sống

Kitô hữu chúng ta thường bị tố giác là những người bị ám ảnh với sự sống đời sau mà lãng quên mất cuộc sống hiện tại. Nhưng Kitô giáo không phải là một tôn giáo nghi kỵ cuộc sống cho dù là bên ngoài có vẻ đối ngược với cách sống của một số người. Chúa Giêsu đã không đến trần gian để cướp đi niềm vui của cuộc sống. Chúa Giêsu đến mang cho nhân loại Tin Mừng: cuộc sống này là món quà Thiên Chúa ban cho chúng ta bởi vì Ngài yêu thương chúng ta và lo lắng cho chúng ta! Có lẽ bởi vì chúng ta còn chưa hiểu rõ được sứ điệp Tin Mừng mà Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta tại thế gian cho nên chúng ta mới lo sợ đến sự sống đời sau. Thật ra sự sống đó đã bắt đầu ngay từ ở đời này. Sự sống đó đến với chúng ta, và nếu chúng ta còn không biết sống ở đời này ngay bây giờ thì việc lo sợ đến sự sống đời sau thật là vô ích.

Có một câu truyện kể về một chàng thanh niên trẻ xích lại gần, ôm người bạn gái và nói, “Em ơi, anh rất yêu em, anh rất cần em, anh không thể nào sống nếu thiếu em.” Người con gái nhẹ nhàng đẩy người bạn ra và bảo, “Làm ơn đi anh Gioan, đừng nói như vậy. Đừng có làm như thiệt vậy.” Và anh Gioan liền hỏi lại, “Như thiệt vậy?” Thật ra đó là cách thức mà nhiều người chúng ta thường nói và bày tỏ trong cuộc sống mà trong tâm tư không có ý gì cả. Chúng ta chỉ nói chơi thôi.

Chúa Giêsu không bao giờ chơi chữ với chúng ta như thế. Chúng ta còn nhớ câu truyện người thanh niên giàu có đi tìm sự an ủi cho sự trống rỗng trong tâm hồn của anh. Anh có tất cả những gì cần thiết trong cuộc sống, thế nhưng anh vẫn cảm thấy một sự trống rỗng. Anh đã tuân giữ Thập Giới từ khi còn bé. Đối với tiêu chuẩn của cuộc sống, anh là người gương mẫu và lý tưởng, thế nhưng anh lại là một người xa lạ đối với cuộc sống của chính mình. “Lạy Thầy nhân lành, con phải làm gì để tìm kiếm được sự sống đời đời?” (Lc 18:18). Chúa Giêsu đã trả lời với anh một cách thành thật và đứng đắn rằng anh cần phải làm thêm một điều nữa là hãy về bán hết của cải và bố thí cho người nghèo khổ và đến theo Ngài (Lc 18:22).

Có một câu truyện khôi hài như vầy. Một người đàn ông nọ có một sáng kiến muốn đi trên một sợi dây thừng bắt ngang qua Thác Niagara. Sáng kiến này đã được nhiều người thực hành, thế nhưng người đàn ông này còn táo bạo hơn nữa là ông định tâm sẽ vừa đi trên dây vừa đẩy một chiếc xe cút-kít và chở một người ở trên đó. Ông đã không ngừng luyện tập đi trên dây và đẩy chiếc xe cút-kít chở đầy đá. Một ngày nọ, có một người đến nói với ông rằng anh rất tin tưởng ông ta có thể làm được chuyện đó. Người đi trên dây hỏi lại, “Có phải anh rất tin tưởng tôi có thể làm được chuyện này không?” Người kia liền trả lời, “Tôi tin như thế!” Người đi trên dây liền bảo anh ta, “Vậy thì anh hãy lên ngồi trên chiếc xe cút-kít này để tôi đẩy anh đi trên dây.”

Đó là điều mà Chúa Giêsu đã làm đối với những ai muốn đi theo Ngài. Ngài hỏi họ có tin vào Ngài không, nếu có thì, “Hãy ngồi vào chiếc xe cút-kít! Hãy chứng minh! Hãy từ bỏ những chiếc thuyền đánh cá! Hãy từ bỏ gia đình! Hãy theo ta!” Việc này thường được gọi là vâng lời một cách tuyệt đối mà không ngoại lệ. Đó là điều làm cho nhiều người phải điêu đứng ngập ngừng khi phải đối diện. Cái lý do tại sao là bởi vì chúng ta coi thường sự việc, chúng ta lơ là không nghiêm túc. Chúng ta không hoàn toàn tín thác vào Chúa Giêsu khi Ngài nói với chúng ta phải trả cái giá để đạt được sự viên mãn của mình.

Nếu các bạn là những người đang đi tìm những câu trả lời cho những thắc mắc của cuộc sống thì bạn nhớ hai điều: hãy nghiêm túc và hãy chuẩn bị để trả cái giá mà nó đòi hỏi. Các bạn phải sẵn sàng như Thánh Stêphanô trong thời Giáo Hội tiên khởi. Bởi vì vâng lời Chúa Kitô một cách tuyệt đối, ngài đã phải chịu sỉ nhục và ném đá do những người chống đối. Tại chỗ bị ném đá, thánh nhân đã quì gối và cầu rằng, “Lạy Chúa, xin nhận lấy linh hồn con... Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7:59). Những lời cuối cùng này chứng tỏ rằng Thánh Stêphanô đã nắm chắc được điều ông tin và hiểu được ý nghĩa của cuộc sống, và ông sẽ đi đâu. Thánh Stêphanô không phải là người xa lạ với sự sống đời sau, và cũng không phải là người xa lạ với sự sống đời này. Thánh Stêphênô đã không do dự để trả lời lời kêu gọi của Chúa Giêsu để bước vào chiếc xe cút-kít bởi vì thánh nhân đã quá quen với sự việc đó nhiều lần trước khi ngài trả lời để đi theo cuộc sống làm chứng nhân. Thánh nhân đã tin vào lời hứa của Đức Kitô rằng khi cuộc sống này kết thúc thì phần thưởng sẽ là hân hoan và vui mừng. Nhiều người trong chúng ta, có lẽ tất cả chúng ta, sẽ được hỏi để mà trả cái giá dưới một hình thức nào đó.

Chúng ta đi tham dự Thánh Lễ và chẳng có chút gì biến đổi cả. Chúng ta cần phải làm gì để chúng ta được biến đổi. Chúng ta có tin rằng Chúa Giêsu có thể đem tình yêu của Thiên Chúa vào trong cuộc sống của chúng ta, canh tân cuộc sống của chúng ta! Vậy, chúng ta hãy nhảy vô chiếc xe cút-kít, hãy đặt sự sống của chúng ta trong tay Ngài, và hãy hoàn toàn tín thác vào Ngài.

 

81. Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy

TẤT CẢ HÃY HIỆP NHẤT NÊN MỘT

Qua bài Tin Mừng của chúa nhật hôm nay, chúng ta đã nghe lời cầu nguyện của Đức Giêsu: “Lạy Cha, xin cho tất cả họ trở nên một; như Cha ở trong con và con ở trong Cha, tất cả họ cũng phải trở nên một!” Tiếp đến, Đức Giêsu cũng đã nêu lên lý do tại sao Người đã xin cùng Chúa Cha cho các môn đệ của Người biết hiệp nhất với nhau: “...để qua đó, thế gian tin rằng Cha đã sai con!”

Chúng ta biết rằng Đức Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa những kẻ tin nhận Người như thế vào chính lúc Người và các môn đệ cử hành Bữa Tiệc Ly, bữa ăn sau cùng giữa Thầy trò, vào những giây phút cuối trước khi Người bước vào cuộc khổ nạn. Vâng, đó là những lời trăn trối cuối cùng, là bản di chúc, mà Đức Giêsu để lại cho các môn đệ của Người, những Kitô hữu chúng ta. Và bản di chúc của một người đã ra đi vào chốn thiên thu thì bao giờ cũng linh thiêng và có tính cách bó buộc, khiến những người còn sống bao giờ cũng phải kính trọng, bảo tồn và thực thi một cách nghiêm chỉnh. Nhưng nếu đó lại là bản di chúc của một Thiên Chúa làm người, thì giá trị của nó hoàn toàn mang tính cách tuyệt đối, và các môn đệ của Người cũng hoàn toàn bất khả lựa chọn một giải thích khác ngoài việc thực thi trọn vẹn nó, và theo đúng từng chấm phẩy!

Nhưng liệu những người kitô hữu chúng ta đã có được thái độ trân trọng như thế đối với bản di chúc, đối với những lời trăn trối đầy tâm huyết của Đức Giêsu, Đấng từng yêu thương và đã chịu chết để chúng ta được hưởng ơn cứu độ?

Những ai đã một lần kính viếng nhà thờ được xây dựng trên chính mộ Đức Giêsu ở Giê-ru-sa-lem và quan sát cảnh các kitô hữu thuộc các giáo phái luôn khích bác và tranh dành cãi vã lẫn nhau, sẽ không khỏi ngậm ngùi đau xót tự hỏi: Tại sao các môn đệ Đức Giêsu, lại khinh thường lời di chúc của Người như thế?

Dĩ nhiên, sự hiệp nhất ở đây không chỉ muốn nói đến sự hiệp nhất giữa các giáo phái thuộc Kitô giáo, nhưng còn là sự hiệp nhất giữa tất cả mọi kitô hữu nói chung và sự hiệp nhất giữa các kitô hữu trong một cộng đoàn. Mọi cãi cọ, tranh dành, hận thù, ghen ghét và kỳ thị, phải được loại bỏ hoàn toàn khỏi các cộng đoàn Kitô giáo, vì nó phản tinh thần và ý muốn của Đức Kitô!

Nếu ngày nay và khắp nơi, mọi thứ đều phải được thử, đều phải được trắc nghiệm trước, thí dụ: Đường hướng chính trị, hàng hóa, xe cộ, v.v..., thì phải chăng lời cầu nguyện của Đức Giêsu trước khi chết không phải là một trắc nghiệm về đời sống Kitô giáo của chúng ta, về thái độ đồng cảm và đồng tâm của chúng ta với Đức Kitô? Trước lời cầu nguyện tha thiết như thế của Đức Giêsu: Chúng ta vẫn dửng dưng coi thường hay chúng ta đã quan tâm lắng nghe? Chúng ta có cảm thấy đau xót là từ hằng bao thế kỷ qua và cả đến hôm nay nữa, chính những kitô hữu chúng ta vẫn khép cửa lòng mình lại trước lời cầu xin đó của Chúa Cứu Thế? Chúng ta có đau khổ trước cảnh chính những người kitô hữu chúng ta lại nhẫn tâm chống lại ý muốn của Vị Cha Chung của mình để xâu xé và chia rẽ nhau? Chúng ta không cảm nhận được vết thương đang hằn sâu lên thân mình Đức Kitô sao? Chỉ những người bất tỉnh và mất hết mọi cảm giác mới không cảm nhận được sự đau đớn đó!

Hoặc người ta có thể trắc nghiệm một cách khác, tức: Chúng ta có vui mừng là ngày nay, những người kitô hữu chúng ta đã thức tỉnh và thoát khỏi tình trạng bất cảm và đã biết đau đớn trước những vết thương nơi thân mình Đức Kitô? Chúng ta có vui mừng, là trước lời cầu xin của Đức Giêsu “Lạy Cha, xin cho tất cả nên một”, chúng ta đã biết cảm thấy đau xót và khao khát? Chúng ta có vui mừng là các kitô hữu khắp nơi trên thế giới đã biết nỗ lực vượt lên trên những chia rẽ và cùng quay trở về hiệp nhất với nhau như Đức Giêsu muốn không?

Trong tám ngày nữa, chúng ta sẽ mừng đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Đấng mà theo thánh Phaolô là Thần Khí của sự hiệp nhất (x. 1Cr 12,13). Dấu chỉ cho sự hiệp nhất đó, là vào ngày lễ Chúa Thánh Thần đầu tiên của Giáo Hội, mọi dân tộc đã họp nhau trước nhà các Tông đồ và tất cả đã nghe và đã hiểu được sứ điệp thánh Phêrô công bố, bởi vì đó lá sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng trước ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, “tất cả các Tông đồ đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với Đức Maria thân mẫu Đức Giêsu, và mấy người anh em của Người” (Cv 1,14).

Đúng vậy, chúng ta không thể áp đặt hay ép buộc được phép lạ hiệp nhất được, nhưng chỉ cầu xin như Đức Giêsu đã cầu xin vậy. Vâng, phép lạ hiệp nhất chỉ có thể xảy ra nơi những cộng đoàn Kitô giáo có tinh thần cầu nguyện, biết mở rộng tâm hồn đón nhận sự hướng dẫn của Thiên Chúa và sống theo tinh thần Đức Giêsu.

Max Metzger, vị anh hùng tử đạo thời danh dưới chế độ độc tài Đức Quốc Xã, và là một trong những vị sáng lập phong trào Una-Sancta-Bewegung, bị xử tử 1944, đã viết trong cuốn Nhật ký của ngài trước khi chết: “Tâm hồn tôi hoàn toàn an bình. Tôi đã cống hiến đời tôi cho sự hiệp nhất của Giáo Hội. Và lòng tôi sẽ tràn đầy hoan lạc, nếu Thiên Chúa chấp nhận!” Những kitô hữu can trường và xác tín như thế đã khích lệ, đã động viên chúng ta, cùng hiệp nhất với nhau và hiệp nhất với Mẹ Giáo Hội! Nhưng nhất là lời cầu nguyện mà trước khi chết Đức Giêsu đã dâng lên Chúa Cha, đã động viên chúng ta một cách mạnh mẽ: “Lạy Cha, con đã ban cho họ sự vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một, như chúng ta là một. Vậy, họ phải hoàn toàn nên một; hầu qua đó, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con!” (Ga 17,22-23). Amen.

 

82. Xin cho tất cả nên một--Jos. Vinc. Ngọc Biển

Chuyện xưa kể rằng: có một ông bố muốn giáo dục con cái về sự hiệp nhất, vì thế, ông đưa cho các con một bó đũa đã cột lại làm một và bảo các con bẻ thử, mấy người con cố gắng cũng không thể nào bẻ gẫy bó đũa... Sau đó, ông lại bảo: hãy tháo bó đũa ra và bẻ từng cái và thế là bó đũa bị bẻ gẫy dễ dàng. Lúc đó, người cha liền bảo: "Như thế là các con đều thấy rằng chia lẻ ra thì yếu, hợp lại thì mạnh. Vậy các con phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Có đoàn kết thì mới có sức mạnh; đoàn kết thì sống, chia rẽ là chết".

Tin mừng hôm nay thuật lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho các môn đệ. Ngài cầu nguyện cho các ông được hiệp nhất và yêu thương nhau. Bởi vì nếu họ biết hiệp nhất, yêu thương thì sẽ cùng nhau vượt qua khó khăn, thử thách cách dễ dàng. Cùng chung tay xây dựng Giáo hội và cùng nhau làm chứng cho Chúa.

1. Hiệp nhất để xây dựng Giáo hội

Đức Giêsu là người hiểu tâm lý của các môn đệ hơn ai hết. Ngài đã đích thân gọi và chọn các ông làm môn đệ cho mình, là những người Ngài sẽ trao phó cách hữu hình công việc xây dựng Giáo hội mà Ngài thiết lập dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúa biết rõ sự xuất thân của các ông. Ngài thấu hiểu hoàn cảnh, tâm lý của từng người. Vì thế, lời cầu nguyện cho các môn đệ được hợp nhất là điều rất quan trọng và thực tế. Sự hiệp nhất là yếu tố quyết định sự hưng thịnh hay suy vong của công việc.

Quả thật, nếu không có sự hiệp nhất, thì việc xây dựng Giáo hội trở nên ảo tưởng và vô lý. Và, những lời rao giảng của các ông không ăn nhập gì với mục đích của lời rao giảng. Sự hiệp nhất đó được khởi đi từ khuôn mẫu Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha và Chúa Con nên một nhờ Thần Khí (x. Ga, 15,26). Cũng nhờ Thần Khí ấy ngự trên các môn đệ và làm cho họ hiệp nhất với nhau. Các môn đệ phải là những người đi tiên phong trong sự hiệp nhất này. Trong lịch sử Cứu độ, chúng ta đã thấy rất rõ hậu quả của sự chia rẽ: A đam và E và đã không nghe lời Thiên Chúa nên đã tự mâu thuẫn nội tại khi giơ tay hái và ăn trái cấm. Cain giết Abel vì không hiểu và không thương yêu nhau. Tháp Babel xây không thành vì bất đồng về ngôn ngữ... Chúa Giêsu cầu nguyện cho các ông được hiệp nhất vì: có hiệp nhất, thì mới có mối tương quan, sự cảm thông; mới xây dựng được đời sống cộng đoàn; có sự hiệp nhất thì mới cùng nhau làm chứng về Chúa cách hùng hồn. Nếu không có sự hiệp nhất, thì lẽ tất nhiên, cộng đoàn tan rã và sứ mạng Chúa trao phó không thể chu toàn.

2. Hiệp nhất để truyền giáo

Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và cho cả những ai tin vào lời các ông rao giảng cũng được hiệp nhất với nhau. Đây quả là yêu tố quan trọng trong khi loan báo Tin mừng. Bởi lẽ, nếu không có sự hiệp nhất, lời rao giảng của các môn đệ trở nên phản chứng hơn bao giờ hết; và những ai đi theo lời các ông loan báo thì thật tệ hại cho cả một đời của họ.

Chúa sắp sửa trao cho các ông sứ mạng truyền giáo đến tận chân trời góc biển. Sứ mạng ấy là quy tụ muôn dân trên khắp mặt đất về một mối. Chỉ có một Chủ chiên và một đoàn chiên duy nhất. Chính vì điều đó, nên Chúa Giêsu khao khát cho các môn đệ phải là những người sống kiểu mẫu về sự hiệp nhất; đồng thời, những ai thuộc về Giáo hội mà các ngài rao giảng cũng đều có một mẫu số chung như các ngài.

Sứ mạng loan báo Tin Mừng ấy luôn đòi hỏi tinh thần hy sinh và từ bỏ của người môn đệ rất cao. Khó khăn ấy là: ốm đau, bệnh tật, cô đơn, hiểu lầm, bắt bớ và chịu chết để làm chứng cho lời rao giảng của mình... Nhưng nếu có sự hiệp nhất, yêu thương thì dù trong hoàn cảnh nào, các ông cũng đều làm chứng cho mọi người về một thực tại siêu việt vượt lên trên những thực tại chóng qua và vô bổ ở đời. Nếu người môn đệ Chúa Kitô rao giảng về một Tin mừng giải thoát, yêu thương mà chính bản thân các ngài lại không có những yếu tố hiệp nhất để chứng minh về lời rao giảng đó thì quả là một điều vô lý. Vì thế, trước khi truyền giáo, người môn đệ phải biết "yêu". Yêu thương là đoàn kết. Yêu thương là sống mầu nhiệm tự hủy để chỉ còn sống cho người khác. Yêu thương là muốn cho người khác cũng được yêu thương như mình. Yêu thương chính là điểm hội tụ của những tấm lòng khao khát tìm chân lý. Có yêu thương như Thầy, thì những lời chứng của người môn đệ mới đủ khả tín. Được như thế, người môn đệ của Chúa Giêsu có quyền hy vọng về một tương lai của Giáo hội mà trong đó người muôn nước sẽ về phủ phục trước Tôn Nhan và muôn dân sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.

3. Người Kitô hữu sống hiệp nhất theo tinh thần của Đức Giêsu

"Lạy Cha, xin cho mọi người nên một" (Ga 17,21) là lời cầu nguyện thể hiện mối ưu tư của Chúa Giêsu rất lớn. Lời cầu nguyện này phát xuất từ nỗi lòng của Ngài trong bữa tiệc ly trước khi chia tay các môn đệ.

Hôm nay, Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta biết cùng nhau chung tay xây dựng tình hiệp nhất nơi môi trường, nơi hội đoàn của mình. Biết bỏ đi những kiêu ngạo, ích kỷ, tư lợi cá nhân để xây dựng công ích. Vợ chồng biết nhường nhịn nhau, con cái biết ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ. Anh chị em biết đoàn kết với nhau, yêu thương và đùm bọc nhau. Biết ý thức được giới hạn của mình để cần đến người khác.

Tuy nhiên, không ai cho cái mình không có. Phải có mới cho. Vì thế, sự hiệp nhất phải bắt nguồn từ Chúa Giêsu. Hiệp nhất với Chúa Giêsu như ngành nho với thân nho; như cây cối cần ánh sáng của mặt trời; như cá trong nước... Có hiệp nhất với Chúa Giêsu và nên một với Ngài thì mới phát sinh sự hiệp nhất với nhau. Đây cũng chính là điều kiện để trổ sinh hoa trái. Hiệp nhất mang tính truyền giáo và truyền giáo nhằm mục đích hiệp nhất. Nếu ai hiệp nhất với Thiên Chúa thì phải sinh hoa kết trái dồi dào. Còn những ai không sinh hoa kết trái thì chính người ấy đã không sống trong sự hiệp nhất với Thiên Chúa.

Ước mong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu khi xưa, nay được hiện tại hóa và sinh hoa kết trái dồi dào nơi những môn đệ của Ngài trong thế giới hôm nay.

Lạy Chúa, xin Chúa ban cho chúng con luôn được hiệp nhất với nhau, nhờ biết loại bỏ hận thù, kỳ thị, tranh chấp, kết án lẫn nhau... Xin cho chúng con luôn khiêm tốn trong lời nói và hành động, để không làm thương tổn đến sự hiệp nhất trong Giáo hội, trong xã hội và nơi gia đình. Amen.

 

83. Chú giải của Noel Quesson

Hôm nay, chúng ta đọc phần cuối “Lời cầu nguyện cho linh mục” của Đức Giêsu.

Đức Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện rằng

Tôi thử mường tượng ra quang cảnh trên. Lúc đó là vào chiều thứ năm, Đức Giêsu sắp sửa ra đi chịu chết. Sau khi đã bầy tỏ những tâm sự cuối cùng khá lâu vó các bạn hữu mà Ngài sắp rời bỏ, Đức Giêsu bắt đầu ngỏ lời với Chúa Cha: Ngài cầu nguyện. Đây là lời cầu nguyện dài nhất của Đức Giêsu trong các Tin Mừng.

Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con.

Một lần nữa, chúng ta được mời gọi tìm hiểu xem Đức Giêsu đã ý thức thế nào về Người. Người khoảng ba mươi tuổi sắp phải chết, chỉ dùng ba năm để đề xuất một công trình cần thực hiện. Một trong số mười hai môn đệ mà Người đã tuyển chọn, vừa mới ra ngoài để phản nộp Người Đức Giêsu còn biết rằng, mười một ông khác cũng sẽ bỏ Người. Trong tình huống đó, Đức Giêsu “cầu nguyện” cho những kẻ nhờ lời họ mà tin vào Người trong tương lai. Vâng, Đức Giêsu đã nhìn thấy trước toàn bộ công việc phát triển rộng lớn của công trình Người thực hiện. Người nhìn thấy từng đoàn lũ người sẽ tin vào Người. Người đã thấy trước Giáo hội.

Đức Giêsu đã cầu nguyện cho mọi người, trong những thời đại tiếp sau, sẽ tin vào Người: Người cầu nguyện cho tôi, ngay chiều hôm đó.

Đó là lời cầu nguyện được thực hiện vào một buổi chiều, lời cầu nguyện của một con người cụ thể. Thánh Phaolô quả quyết, lời cầu nguyện đó sẽ không khi nào chấm dứt, bởi vì giờ đây Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa để cầu nguyện giúp cho chúng ta (Rm 8,34). “Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ”. (Dt 7,25).

Vậy nội dung của lời cầu nguyện đó là gì? Đức Giêsu có cầu xin Chúa Cha cho các tín hữu không?

Xin cho tất cả nên một...

Lời nguyện chúc cơ bản mà Đức Giêsu muốn dành cho Giáo hội của Người: đó là sự Hiệp nhất!

Một lần nữa, qua lời cầu nguyện này, Đức Giêsu xuất hiện trước chúng ta như một người sáng suốt phi thường. Người đã cảm thấy trước biết bao đám đông dân chúng, từng tỷ con người sẽ tin vào Người (điều đó đã trở nên hiện thực)! Người dũng cảm thấy rằng, thảm kịch to lớn của các tín hữu là sự “chia rẽ” (điều đó cúng đã xảy ra)!. Tư tưởng tôn giáo đúng nghĩa, vẫn thường mang trong mình nguy cơ ly giáo, vì những điều tuyệt đối mà nó chuyển tải, vì những thái độ cao thượng mà nó gợi lên: đáng buồn thay, các bè phái lại rất gần với sở thích kiếm tìm chân lý. Các ý thức hệ hiện đại, với đặc tính thường quá triệt để của chúng, luôn dẫn đến sự cuồng tín, và do đó đến những ly cách và sai lầm.

Vâng, sự hiệp nhất là một trong những đề tài bi thiết hiện đại. Biết bao sự hiệp nhất đã bị gẫy đổ, biết bao thái độ chống đối, biết bao mối hận thù trong thế giới, cũng như trong Giáo hội.

Lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha

Đó không chỉ là một sự thông cảm bình thường giữa hai người bạn. Còn có một điều gì khác hơn là một sự khoan nhượng chân thành với nhau. Đó không chỉ là “sự đồng hiện hữu,bình ổn” của các khối, mà trên thực tế họ tìm hết cách để kịch hệt tiêu diệt lẫn nhau.

Mô hình tiêu biểu được Đức Giêsu đưa ra cho các Kitô hữu, đó là Chúa Ba Ngôi. Dù là nhiều nhưng chỉ làm nên một. Thực sự, chúng ta luôn nghĩ đến một thứ hiệp nhất quá dễ dãi, đó là những người không suy tư như chúng ta; con phải liên kết lại với chúng ta! Khi hai người chia rẽ nhau vì sở thích, chọn lựa, tập quán, thì không phải là sự hiệp nhất đích thực. Khi đơn thuần, ta triệt hạ một trong hai người tương quan: lúc đó, sự hiệp nhất chỉ là loại bỏ một trong hai; một thứ đồng hóa mà thôi! Trái lại trong Thiên Chúa, các ngôi vị hoàn toàn tách biệt nhau, nhưng lại tôn trọng nhau, luôn sống trong mối hiệp thông trọn vẹn mà không lẫn lộn; đó là sự hiệp nhất của nhiều ngôi vị. Theo Thiên Chúa, sự hiệp nhất không ở chỗ chỉ nhằm tẩy xóa những tiềm năng khác nhau của mỗi nhóm người, mỗi cá nhân trong một thứ phối hợp mà không để ý đến nét nổi bật và thi vị. Giáo hội cần phải xây dựng một sự hiệp nhất trong thái độ tôn trọng những khác biệt chính đáng.

Tại sao mọi chủng tộc, mọi nền văn hóa lại phải làm mất đi nét độc sáng, đã được Thiên Chúa trao ban cho họ như một yếu tố của sự hòa hợp phổ quát? Tại sao một kiểu đạo đức lại có thể buộc những người cầu nguyện cách khác phải tuân theo? Cần phải chân thành thú nhận rằng, Giáo hội Công giáo từ lâu vẫn lẫn lộn “sự hiệp nhất” với “Âu Châu” hay “La tinh” của mình. Những nhà thần học có tầm cỡ của các xứ truyền giáo thường nghĩ rằng, những mầu nhiệm quan trọng của Kitô giáo (Chúa Ba Ngôi, Nhập thể, Cứu chuộc...) chỉ thực sự bày tỏ tất cả sự phong phú thần học, khi chúng được chuyển dịch lại nhờ các bộ óc của những người An Độ, những người Châu Phi, chịu ảnh hưởng của Phật giáo hay thuyết Vật Linh; cũng như các mầu nhiệm đó đã bắt đầu bày tỏ ánh sáng đầu tiên qua tư tưởng Hi Lạp của Platon và Aristote.

Nhưng chúng ta sẵn sàng sống “sự hiệp nhất” thâm sâu đó giữa những “người khác biệt” không?

Ngày nay, mọi Người đều nói đến “tính đa dạng” và hiệp nhất”. Thực sự, chúng ta có hướng tới một thái độ chân thành lắng nghe những khác biệt, một trao đổi những khả năng riêng tư một chia sẻ văn hóa, “những hệ kín”, một sự tôn trọng kẻ khác không?

Để họ được hoàn toàn nên một, như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con.

Đức Giêsu đã nói với chúng ta hãy “yêu thương như Người”. Ở đây, Người nói hãy trở nên “một” như Ba Ngôi Thiên Chúa! Nhưng trong câu này, Người còn thêm rằng, chính sự giống nhau đó làm nên Giáo hội mang tính “thừa sai”. Công đồng Vatican II, Công đồng đầu tiên trong lịch sử đề cập tín điều về Giáo hội một cách trực diện, trong Hiến chế tín lý quan trọng “Lumen Gentium” (Anh sáng muôn dân), đã đặt trọn vẹn suy tư'của mình trên một kiểu nói của thánh Xy-pri-anô, giám mục thành Các-ta-gô vào khoảng năm 250: “Giáo hội là một dân tộc rút ra sự hiệp nhất cho mình, từ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần”. Giáo hội là sự mở rộng cho nhân loại, kiểu tương quan liên vị hoạt động trong Thiên Chúa Giáo hội là “bí tích hữu hình” của Thiên Chúa, là “dấu chỉ” của Người: “Giáo hội, ở trong Đức Kitô, như là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và phương tiện để kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, và để hiệp nhất với toàn thể nhân loại” (LG số 1).

Thỉnh thoảng ta tiếp tục tìm kiếm xem đâu là những kỹ thuật những cách thức làm tông đồ tốt hơn, những công trình cần phải thiết lập hay nuôi dưỡng, để “Phúc âm hóa” thế giới, để thế gian tin; để trao lại đức tin cho người trẻ, những người trưởng thành đã đánh mất nó. Từ lâu, Đức Giêsu đã trả lời, đã đưa ra quan điểm của Người: chính sự “hiệp nhất” có sức loan báo Tin Mừng! “Hãy nhìn xem, họ yêu thương biết bao”, hẳn là người ta có thể nói về các Kitô hữu như thế, về những con người sống đức tin thế nào để đức tin có sức hấp dẫn kẻ khác. Lạy Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, xin làm cho chúng con nên một như Chúa.

“Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một, như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con”.

Đó là lời cầu nguyện của Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha, dành cho chúng ta. Đó là cách Đức Giêsu thông truyền tất cả những gì Người đã sống trọn vẹn nhất. Người chia sẻ cho ta “bí quyết riêng” của Người, bí quyết giúp Người thành công vô song, giúp Người được vinh quang, phấn khởi, tươi vui: đó là sự kết hiệp mật thiết của Người với Chúa Cha, được bày tỏ trong hình ảnh thân mật “cư ngụ trong nhau”: Cha ở trong con. Đức Giêsu là con người hoàn toàn thoát khỏi cái tôi, để trọn vẹn “ở trong Chúa Cha”.

Lời nói của Người ư? Đó là những lời của Chúa Cha (Ga 3,2; 7,16; 8,26.38.40...): Yêu thương.

Ý muốn của Người ư? Đó là ý muốn của Chúa Cha (Ga 4, 34; 5,30; 6,38...): Yêu thương.

Hành động của Người ư? Đó là hành động của Chúa Cha (Ga 5,17. 20.30.36; 8,28...): Yêu thương.

Con người của Người ư? Đó là con người của Chúa Cha (Ga 10,30) “Cha và con, chúng ta là một”: yêu thương.

Hình tượng của Chúa Ba Ngôi đó là “mô hình” cho chúng ta, là chương trình hành động của chúng ta trong phạm vi gia đình, thành phố, nghề nghiệp, đoàn nhóm, Giáo hội và mọi tương quan yêu thương!

Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cứng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.

Lời nói “Con muốn” trên đây của Đức Giêsu là lời nói duy nhất trong toàn bộ Tin Mừng: một kiểu nói đòi hỏi ít gặp thấy trên môi miệng rất “tùng phục” của Người đối với Chúa Cha; thế nhưng lại mang đầy ý nghĩa. Vậy ý muốn duy nhất của Đức Giêsu là gì, khiến Người đã mạnh dạn nài xin Chúa Cha như thế? Biết bao người đã chia sẻ “số phận diệu kỳ của Người con yêu dấu, là thứ hạnh phúc mà chính Người đã cảm mến trước khi thế gian được tạo thành. Chúng ta không nên lướt nhanh trên những kiểu nói thực sự đã làm ta choáng váng: Thực sự đó là “bản tính Thiên Chúa”, hiện hữu trước khi thế giới lộ hình, mà Đức Giêsu muốn khai mở cho chúng ta thấy.

Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con, Con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai Con. Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa.

Đó là thảm kịch của Đức Giêsu. Là cuộc thương khó là nỗi đau khổ luôn ám ảnh suốt đời Ngài. Đó là từ chối của con người trước “đề nghị” của Thiên Chúa. Là sự khước từ tình yêu Khước từ giao ước. “Bạn có muốn chung sống” với tôi không? - Không. Chúng ta có thuộc vào số những người mà Đức Giêsu nói đến, những người “nhận biết” món quà tặng phi thường được trao hiến cho họ không? Chúng ta có trở nên “Hiền thê” của sách Khải huyền hoàn toàn sung sướng không?

Để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa.

Lời nguyện của Đức Giêsu đã kết thúc bằng những lời trên đây. Sang câu kế tiếp, ta sẽ bước vào vườn Ôliu, để chứng kiến cuộc nộp bắt do Giuđa dẫn đầu.

Ta có thể nghĩ rằng, Đức Giêsu vẫn tiếp tục những tư tưởng cầu nguyện như thế, trong những giờ phút cuối cùng của đời Người. Ta cũng có thể nghĩ rằng, ở trên trời, Người vẫn tiếp tục chuyển cầu như trên. Chóp đỉnh thực sự quan trọng của Tin Mừng, “Tin vui” lớn lao: đó là chính Tình yêu của Thiên Chúa, Tình yêu Ba Ngôi, Tình yêu Chúa Cha đã yêu Chúa con, Tình yêu tuyệt đối và vô biên của Thiên Chúa, được chia sẻ cho mọi người muốn đón nhận.

Điều đang hoạt động giữa lòng nhân loại, trong những toan tính yêu thương bé nhỏ đáng thương của ta, cho dù có bất toàn đi nữa, thì thực sự đó là “mối tương quan hoàn hảo, kết hợp các ngôi vị trong Thiên Chúa Ba Ngôi tình yêu” mà một ngày nào đó, chúng ta sẽ được nối lại!

 

84. Chú giải của Fiches Dominicales

LỜI CẦU NGUYỆN TRỌNG ĐẠI CỦA ĐỨC GIÊSU XIN CHO HỌ NÊN MỘT

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Tiếp theo diễn từ giã biệt

Xưa kia, trước khi ông Môsê lìa xa các môn đệ, thì ở phần cuối những lời từ biệt, ông đã cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho các chi tộc Israel (Đnl 33). Cũng thế, trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu, Môsê mới, trước khi lìa xa các môn đệ cũng ngước mắt lên trời đàm thoại với Cha Người. Người thâu tóm một trật trong lời cầu của mình, cả quá khứ những ngày sống ở trần gian, cả tương lai đang chờ đón Người và các môn đệ.

– Trước hết Người cầu cho chính mình (c. 1-5).

Rồi nhắc đến tình thế do cuộc ra đi của Người gây nên, Người cầu cho các môn đệ (c.6-19).

– Và sau cùng Người cầu cho các tín hữu tương lai (c.20- 26). Sách Bài đọc đã trích đoạn sau cùng này để đọc trong Chúa nhật VII Phục sinh.

2. …là lời cầu nguyện trọng đại của Đức Giêsu.

Đức Giêsu cầu xin: “Xin cho họ nên một” bằng hai vế (c 20-21 và 22-23), được kết cấu theo kiểu song hành.

Từ ngữ “nên một” không phải được sử dụng lần đầu nơi Gioan. Đức Giêsu dùng từ ngữ đó để chỉ sự liên kết giữa Người với Cha (10.30) và Người cũng đã áp dụng cho các tín hữu: “Sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (10, 16). Còn trong lời cầu nguyện cho các môn đệ lúc này, từ ngữ đó còn vượt xa mối liên hệ tình cảm giữa các tín hữu, nó chỉ sự hiệp nhất thuộc hữu thể và xuất phát từ sự hiệp thông của Thiên Chúa. X. Léon-Dufour giải thích: “Thật vậy, đọc mấy câu trước và câu sau này thì ta hiểu: sự hiệp nhất nên một của các “tín hữu bắt nguồn từ sự hiệp nhất của Chúa Cha và Chúa Con”

Chính nhờ sự hiệp nhất của các môn đệ mà người đời sẽ nhận biết rằng Đức Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến: “Như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai Con”

– “Con ở đâu thì họ cũng ở đó với Con”. Ở với Đức Giêsu bên cạnh Chúa Cha chính là “chiêm ngưỡng vinh quang của Người” – tác giả giải thích tiếp – là được thấy người mặt đối mặt, “Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3,2).

– Nhưng việc các tín hữu được dự phần vào vinh quang của Người Con duy nhất, phát xuất từ việc cũng ở lại với nhau, vốn sẽ là đặc điểm của đời sống đức tin. Bởi vậy, lời nguyện kết thúc bằng câu: “Để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa”. Sự chiêm ngưỡng cuối cùng chỉ có thể xảy ra, nếu nó đã được khởi đầu trong cuộc đời người Kitô hữu.

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Dấu chỉ của Thiên Chúa nơi trần gian

Đức Giêsu đã sống những giờ phút sau hết của cuộc đời trần thế của mình với nhóm nhỏ môn đệ. Người sắp bị nộp vào tay những kẻ toan giết Người.

Đó là “giờ của Người”. Tuy nhiên ánh mắt của Người không bị lu mờ vì những lo âu của giờ phút ấy. Anh mắt ấy mở rộng tầm nhìn hướng về đám đông những người sẽ tin theo Người cho đến ngày tận thế. Chúng ta cũng nằm trong số những kẻ được Chúa cầu nguyện cho, cùng với các môn đệ Chúa thuộc mọi thế hệ. “Con không chỉ cầu cho những người này nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con”.

Chúng ta được lời cầu nguyện của Chúa nâng đỡ. Đó không phải là nơi nương tựa của ta đó sao? Người cầu xin điều gì cho các kẻ tin Người chỉ xin có một điều duy nhất: “Cho họ được nên một, như Cha ở trong Con là như Con ở trong Cha, cho họ cũng ở trong chúng ta”.

Ta luôn bị cám dỗ hiểu sai những lời này, không dám bạo dạn và hiểu đúng tầm mức. Có khi chúng ta hiểu những lời đó như một bổn phận Đức Giêsu trao cho ta, để cổ võ sự hiệp nhất và xóa bỏ những chia rẽ. Sự hiệp nhất nên một mà Đức Giêsu nói ở đây không phải là một bổn phận Chúa trao cho ta đâu. Nó là một ân huệ của Chúa Cha, một ân huệ mà Đức Giêsu cầu xin cho ta. Nó chỉ là một nhiệm vụ phải chu toàn, bởi vì trước hết nó là một ân huệ. Hơn nữa, sự hiệp nhất mà Đức Giêsu xin cho ta nằm ngoài tầm tay của sức lực loài người: làm sao ta có thể hiệp nhất nên một cách thân mật như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha? Sự hiệp nhất thần linh này chỉ có thể thực hiện nơi chúng ta, nếu chính Thiên Chúa thực hiện trong ta. Đó chính là điều Đức Giêsu nói: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên một, như chúng ta là một…” ước vọng của Đức Giêsu là các môn đệ đi vào sự hiệp thông đời sống, là chính sự sống của Thiên Chúa. Chính vì thế, Ngươi mới tỏ cho họ biết danh Chúa Cha và thông truyền cho họ tình yêu duy nhất phát xuất từ Chúa Cha: “để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa”.

Bởi vậy, cộng đoàn các môn đệ có thể trở thành dấu chỉ của chính Thiên Chúa giữa trần gian, dấu chỉ của Thiên Chúa là Tình yêu. Bởi vì họ ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa sống trong họ, chính nhờ họ mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho thế gian. Tình yêu nối kết họ là tình yêu của chính Thiên Chúa, là chính tình yêu nối kết Chúa Cha với Chúa Con. Cũng bởi vậy, cộng đoàn các môn đệ có thể khơi dậy đức tin: “Như vậy để thế gian tin rằng Cha đã sai Con”. Đức Giêsu hướng về một mình Thiên Chúa. Sự hiệp nhất toàn bích đến từ Thiên Chúa và liên kết các môn đệ lại với nhau, là biểu hiệp sự hiện diện của Thiên Chúa, giữa thế gian. “Như vậy, thế gian có thể nhận biết rằng chính Cha đã sai Con vì đã yêu thương họ như Cha đã yêu thương Con”. Ơn gọi của chúng ta vĩ đại dương nào Này đây chúng ta được gọi để trở nên địa điểm cho Thiên Chúa tỏ mình cho thế gian? Chỉ có sức mạnh lời cầu nguyện của Đức Giêsu mọi có thể thực hiện được điều đó trong chúng ta.

2. Hội Thánh là hiệp thông

(HĐGM Pháp: “Giáo lý cho người lớn”, trg 187-188).

“Tôi tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Khi các tín hữu tuyên xưng đức tin trong kinh Tin Kính, họ xác quyết rằng Hội Thánh được nhận biết nhờ những đặc điểm đó. Đó là những “điểm son” của Hội Thánh. Vì không chỉ mô tả mặt ngoài của Hội Thánh, mà còn nói lên chân lý sâu xa về mầu nhiệm Hội Thánh. Xác quyết những điều đó thuộc lãnh vực đức tin, chứ không phải chỉ nguyên nhờ nhìn bề ngoài mà biết được.

“Hội Thánh toàn cầu xuất hiện như một dân tộc mà hiệp nhất do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”

Nguồn phát sinh sự hiệp nhất của Hội Thánh được nói đến trong thư thánh Phaolô gởi tín hữu Êphêsô: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người” (Ep 4,4-6).

Bởi vậy, Hội Thánh quả quyết rằng sự hiệp nhất Hội Thánh có được không do chính mình, mà là hồng ân của Chúa Thánh Thần.

Sự hiệp nhất này có thể nhìn thấy được, và theo lời Đức Kitô hứa, sẽ không bao giờ mất đi. Nó biểu hiện trong việc tuyên xưng cùng một đức tin, được định thức trong cùng một kinh Tin Kính. Sự hiệp nhất ấy có nền tảng là một phép Rửa duy nhất, làm cho mọi môn đệ Đức Kitô nên một dân tộc duy nhất.

Bí tích Thánh Thể, bí tích của sự hiệp nhất, củng cố, xây dựng và không ngừng canh tân sự hiệp thông giữa các tín hữu, liên kết họ lại với nhau bằng dây đức ái. Tác vụ tông đồ, tác vụ các Giám Mục, linh mục, phó tế là phục vụ cho sự hiệp thông của Hội Thánh.

Bởi vì sự hiệp nhất của Hội Thánh không chỉ do cơ cấu tổ chức tốt đẹp hay do kỷ luật chặt chẽ, mà do sự hiệp thông. Coi Hội Thánh như hiệp thông đó là “một khái niệm trung tâm và nền tảng” (Thượng HĐGM đặc biệt năm 1985). Khái niệm này được triển khai trong các lài liệu của Công Đồng Vatican II. Sự hiệp thông này là hiệp thông giữa Chúa Cha, với Con của Người, Đức Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần (xem 1 Ga l,3) và là sự hiệp thông giữa các môn đệ trong tình bác ái.

Sự hiệp nhất còn là một yếu tố căn bản và cần thiết cho việc làm chứng của các tín hữu sống trong thế gian và cho sự khả tín của việc truyền giáo.