Dân Chúa Âu Châu

BLent5V 1Chúa Nhật Tuần V Mùa Chay Năm B

Hạt lúa gieo vào lòng đất

"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt".

Lời Chúa: Ga 12, 20-33

Khi ấy, trong số những người lên dự lễ, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa, và nói với ông rằng: "Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức Giêsu". Philip-phê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đáp: "Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha". Lúc đó có tiếng từ trời phán: "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa". Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: "Một thiên thần nói với Ngài". Chúa Giêsu đáp: "Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta". Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.

Suy Niệm 1: Giờ của Chúa.

Từ đầu mùa Chay cho đến giờ, chúng ta đã chuẩn bị tham dự vào biến cố quan trọng nhất của lịch sử nhân loại. Hôm nay chúng ta nghe Chúa Giêsu loan báo về những gì sắp xảy đến, nhưng thay vì mở ra một cảnh tượng hùng vĩ thì Ngài lại tỏ lộ chính những tâm tình thầm kín nhất của Ngài.
Thực vậy sau khi Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào thành Giêrusalem, thì có mấy người Hy Lạp đến tìm Philipphê và nhờ ông giới thiệu mình với Chúa Giêsu. Lúc đầu có lẽ Philipphê cảm thấy hơi ngại ngùng, nhưng sau đó cũng đã dẫn họ đến với Chúa Giêsu. Lạ thay, Ngài không tỏ ra chấp nhận hay từ chối họ, nhưng lại mạc khải cho họ một điều khác. Và chính trong sự mạc khải này, Ngài đã cho biết những tâm tình thầm kín của Ngài. Ngài nói: Đã đến giờ Con Người được vinh quang.

Giờ mà Ngài đã tiên báo lần đầu tiên, khi xuất hiện trước quần chúng tại tiệc cưới Cana. Giờ mà Ngài vẫn mong chờ trong suốt ba năm giảng dạy. Chính vì thế, bây giờ không còn phải là lúc tiếp nhận hay từ chối những người Hy Lạp, nhưng là lúc phải hoàn thành sứ mạng cao cả và phổ quát của Ngài.
Tuy là giờ vinh quang, là giờ Ngài hằng mong đợi, nhưng điều lạ là Chúa Giêsu nói tới giờ đó không phải với một giọng điệu nao nức, nhưng trái lại, hình như đượm vẻ lo âu. Ngài biết rõ con đường nào mình sẽ phải đi qua đến tiến tới vinh quang. Như hạt lúa phải mục nát đi, thì mới trổ sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình, thì sẽ được sống đời đời. Qua đó, Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Điều kiện để tiến tới vinh quang là phải chấp nhận thập giá.

Thế nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy, thập giá không phải là một cái gì thơ mộng, ngọt ngào, nhưng là một cái gì cay đắng ê chề. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng hoang mang và run sợ, nên Ngài đã lên tiếng cầu nguyện: Lạy Cha xin cất chén đắng này cho con. Đồng thời Ngài còn thêm: Nhưng không theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi. Nơi khác Ngài cũng đã thốt lên: Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này, nhưng cũng chính vì giờ này mà Con đã đến.
Đó là một sự chấp nhận thật can đảm. Lời cầu nguyện của Ngài vừa là một tiếng xin vâng, vừa là một tâm tình phó thác cho Chúa Cha, Đấng sẽ biến cái chết của Ngài thành sự phục sinh vinh quang. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có biết bước vào con đường mà Chúa đã đi qua hay không? Bởi vì có trải qua đau khồ thập giá thì chúng ta mới tiến đến vinh quang phục sinh.

Suy Niệm 2: Giờ Chúa đến.

Đọc lại Phúc âm chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu không bước vào cuộc khổ nạn như bước lên sân khấu để trình diễn một vở kịch, trong đó cái chết sẽ chỉ là cái chết giả vờ. Trái lại, Ngài đã từng băn khoăn lo lắng khi giờ phút trọng đại ấy đến gần.
Mặc dù luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn quí trọng sự sống, Ngài vẫn muốn được sống, vẫn muốn thoát khỏi những khổ đau và cái chết, bởi vì Ngài cũng là một người như mọi người.
Đức Hồng y Veuillet, Tổng giám mục Paris, khi biết mình bị ung thư và sắp chết, đã nhắn nhủ các linh mục của ngài như sau: “Chúng ta nói rất hay về sự đau khổ. Bản thân tôi cũng đã làm như vậy. Thế nhưng, giờ đây tôi xin các linh mục đừng nói gì về vấn đề ấy nữa, bởi vì chúng ta không hề biết đau khổ là gì. Tôi đã phải khóc lên vì nó”.
Có thể người ta sẽ chê Đức Hồng y chưa hiểu biết ý nghĩa của sự đau khổ, chưa sẵn sàng chịu đau khổ, nên mới buồn, mới khóc và không dám nói tới nó nữa. Nhưng Đức Hồng y đã chân thật với chính mình. Không nói hay ít nói về sự đau khổ không có nghĩa là không sẵn sàng chấp nhận, không yêu mến đón nhận nó như chén đắng Thiên Chúa trao cho. Chén đắng vẫn là chén đắng, chúng ta vui nhận, nhưng không thể vui sướng coi đó như là một chén nước ngọt. Chúng ta chấp nhận đau khổ vì yêu mến chứ không vì thích chịu khổ đau.
Chúa Giêsu yêu mến sự sống bởi vì chính Ngài đã tạo dựng ra sự sống, Chính Ngài là sự sống nhưng lại sẵn sàng dâng hiến nó như một tặng vật cao quí nhất, hầu đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Ngài ví mạng sống ấy như hạt lúa vàng gieo vào lòng đất, để làm nẩy sinh trăm hạt lúa mới. Ngài biết rằng hạt lúa ấy sẽ phải chết sẽ phải mất đi, nhưng Ngài chấp nhận sự mất mát đó, chấp nhận cái chết đó để rồi tìm lại sự sống của mình trong trăm ngàn hạt lúa mới khác được sinh ra từ cái chết của Ngài.

Đức Kitô mong muốn không phải là được chết nhưng là thực hiện thánh ý Chúa Cha. Cái chết không phải là cứu cánh nhưng chính là vinh quang Thiên Chúa và ơn cứu độ cho nhân loại, mới là cái đích mà Ngài nhắm tới. Giờ mà Ngài mong đợi không phải là giờ chết, nhưng là giờ hoàn tất sứ mạng Chúa Cha đã trao phó, đó là làm cho mọi người được sống nhờ cái chết của Ngài và làm cho toàn thể nhân loại được yêu thương hợp nhất với nhau khi cùng hướng nhìn về cây thập giá. Bởi đó Ngài nói: Phần Ta, khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta (Ga 12,32). Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và hiến mạng sống mình vì chúng ta, giờ đây Ngài mời gọi chúng ta cũng hãy yêu thương và hiến dâng cuộc đời chúng ta cho anh em, để nhờ đó mọi người đều được hiểu biết, đều được yêu thương và đều được chia sẻ phần hạnh phúc của gia đình những người con cái Chúa.

Suy Niệm 3: Hạt lúa gieo vào lòng đất

(‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Nếu chúng ta có một lượng vàng trong tủ, làm sao để nó hoá thành năm? Nếu có trăm triệu, làm sao cho số vốn đó đẻ ra gấp mười? Hầu như đó là chuyện không thể làm được bằng những phương cách hợp pháp.
Giá như có bí thuật nào làm được điều đó, thì ai cũng muốn thủ đắc cho bằng được với bất cứ giá nào.
Vậy mà hôm nay, Chúa Giêsu tặng không cho ta một bí quyết làm gia tăng một giá trị không chỉ gấp năm, gấp mười, mà là đến gấp trăm!
Thật khó tin! Làm gì có chuyện thần kỳ như thế trên cõi đời nầy?
Thưa, dù điều nầy rất khó tin, nhưng hoàn toàn có thật. Bí quyết nầy rút ra từ hạt lúa.
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.

Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy phận mình thật là diễm phúc, so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp, ngụp lặn dưới bùn. Chúng tỏ lòng thương hại các hạt thóc bạn dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Thật đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi được ở nơi khô ráo, thì các anh lại phải ngụp lặn trong sình. Đang khi chúng tôi được ngước mắt nhìn ánh dương rực rỡ, được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường, được ngắm nhìn người qua kẻ lại nói cười vui vẻ, thì chung quanh các anh chỉ là tăm tối và tanh hôi. Cuộc đời chúng tôi đang lên hương, còn cuộc sống các anh đang lụi tàn! Thật bất hạnh thay cho các anh!"
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân người dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy thành ba. Sau đó, mấy chiếc xe ào đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác thành bụi tro. Những hạt lúa may mắn còn sót lại thì hoá thành mồi ngon cho chim chóc và các loại côn trùng!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh đang ngụp lặn trong bùn, thì qua vài ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống, rồi thành những cây lúa xanh tươi cứng cáp. Cây lúa lớn dần, nở bụi sum suê. Không đầy ba tháng sau, nó trổ thành những bông lúa, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng, đem lại sức sống cho bao người.
Từ một hạt lúa đơn độc, nó đã được chuyển hoá thành trăm! Thật nhiệm mầu!
Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cùng với Ngài chuyển hoá đời mình như thế.

"Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
Rồi Ngài nói rõ hơn: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời."
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận mang thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Ngài chấp nhận khổ hình, chấp nhận vác thập giá, chấp nhận chết treo trên thập giá như một tên tử tội khốn nạn nhất. Người đời tưởng rằng đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu... nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt, họ đã giúp Ngài chiến thắng. Qua thập giá, Chúa Giêsu đạt đến vinh quang, được phục sinh vinh hiển và được hiển trị đời đời! Giờ tử nạn cũng chính là giờ Ngài được tôn vinh.
Chúa Giêsu không muốn chúng ta sống như hạt lúa đơn độc trên vệ đường, chỉ biết sống cho mình rồi rốt cuộc phải tiêu vong. Ngài muốn chúng ta bước theo Ngài để chuyển hoá gấp trăm.
Để được như thế, chúng ta hãy nên như hạt lúa bị chôn vùi, nghĩa là hãy chấp nhận hy sinh quên mình vì hạnh phúc người khác; hãy cùng chịu đau khổ với Chúa Giêsu, cùng vác thập giá hằng ngày với Chúa Giêsu, chấp nhận cống hiến tài sức để phụng sự Chúa và phục vụ muôn người.
Nhưng sự việc đâu có giản đơn. Xác thịt con người vẫn nặng nề và không dễ dàng chịu khuất phục. Phải có rất nhiều can đảm mới có thể đáp lời Chúa mời gọi. Ôi, lạy Chúa, xin giúp sức cho con!

Suy Niệm 4: Cho đi thì còn, giữ lại thì mất

(‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu ra một nghịch lý gay gắt người đời khó hiểu được: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời." (Ga 12,25)
Ai nâng niu sự sống mình thì sẽ đánh mất nó.
Người đời cho rằng muốn bảo tồn được mạng sống thì phải nâng niu cưng chiều nó tối đa, phải dành ưu tiên cho mình trong tất cả mọi sự. Còn Chúa Giêsu thì chủ trương ngược lại: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất!" (Ga 12, 25).
Làm sao hiểu được chân lý nầy?
Nếu tim chỉ sống cho riêng mình mà không bơm máu nuôi toàn thân thì tim sẽ bị ứ đầy máu và ngừng đập.
Nếu phổi chỉ phục vụ bản thân, không đưa dưỡng khí nuôi toàn cơ thể, thì phổi chết.
Nếu bao tử và ruột chỉ chăm lo cho mình, giữ lại tất cả dinh dưỡng cho mình mà không chuyển đi nuôi những bộ phận khác, bao tử và ruột tự kết án tử cho mình.
Ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được nó.
Người đời cho rằng: "mạng sống hơn đống vàng" nên người ta chăm sóc, bảo bọc, che chở nó bằng mọi giá. Trong khi đó, Chúa Giêsu dạy, muốn bảo tồn mạng sống thì hãy hy sinh nó đi: "ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy" ( Mc 8,35).
Đây là chân lý hết sức hệ trọng nên được các tác giả Tin Mừng nhắc lại nhiều lần: Gioan 12, 25b / Matthêu 10,39/ Matthêu 16, 25/ Luca 9,24/ Luca 17,33.
Làm sao hiểu cho được những nghịch lý nầy?
Sở dĩ tim sống khoẻ vì tim rất quảng đại và hy sinh, luôn luôn bơm hết dòng máu quý báu của mình để cống hiến cho toàn thân được sống. Lẽ sống của tim là liên tục cho đi những gì đã lãnh nhận.

Sở dĩ hai buồng phổi sống trong tình trạng sức khoẻ sung mãn vì phổi vị tha, không tìm ích riêng cho mình, nhưng luôn luôn chuyển đi dưỡng khí trong lành cho những phần chi thể khác.
Sở dĩ bao tử và ruột hoạt động tốt là vì chúng luôn trao ban và dâng hiến: một khi tiếp nhận được thức ăn, bao tử và ruột chuyển hoá thành chất dinh dưỡng và chuyển hết cho những bộ phận chung quanh, không giữ lại gì cho riêng mình.
Nói chung, lẽ sống của từng cơ quan là hy sinh, là quên mình, là dâng hiến tất cả cho những cơ quan khác cũng như cho toàn thân.
Ở Israen có hai biển hồ: một là biển hồ Galilê, hai là biển chết.
Biển hồ Galilê tiếp nhận nước từ sông Jordano rồi xả xuống phía hạ lưu, luôn trao ban những gì vừa nhận được. Nhờ đó, nước hồ lúc nào cũng trong lành, trở nên môi trường thích hợp cho tôm cá sinh sôi nẩy nở, cung cấp nước uống cho cư dân quanh vùng, tưới xanh những cánh đồng và vườn cây ăn trái, đem lại phì nhiêu và sức sống cho đất cằn, đem lại sung túc cho bao triệu người qua các thời đại. Vì thế, nó đáng được gọi là biển sống.

Xuôi về phía nam chừng 200 km dọc theo sông Jordano, người ta gặp thấy một biển hồ khác rộng lớn hơn biển hồ Galilê gần năm lần nhưng bị gọi tên là biển chết; vì tuy cùng nhận nước từ sông Jordanô như biển hồ Galilê, nhưng nó giữ lại tất cả cho mình, không cho chảy đi đâu cả. Vì thế, nước của nó trở thành nước ao tù, mặn đến độ không sinh vật nào sống được. Chung quanh biển nầy, không nhà cửa, không cây cối, không sinh vật nào có thể lập cư...
Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa được giữ nguyên trong kho, được bảo quản kỹ càng, thì nó chỉ là hạt lúa trơ trọi, một hạt lúa cô đơn, một hạt lúa chết dần mòn. Còn hạt lúa nào chịu huỷ mình đi trong ruộng sình sẽ vươn lên phơi phới và sinh được gấp trăm.
Cuộc đời của Đức Giêsu cũng là một minh chứng hùng hồn cho chân lý Người dạy. Chúa đã chịu gieo mình xuống cõi đời ô trọc, chịu hy sinh, chịu đủ thứ khổ nhục, cuối cùng chịu chết trên thập giá và mai táng trong mồ. Trước mắt người đời, Chúa Giêsu đánh mất tất cả và thất bại hoàn toàn!
Thế nhưng qua khổ nạn và sự chết, Người đã phục sinh, lên trời vinh hiển. Nhờ gieo mình xuống và tự hủy đi như một hạt lúa gieo vào bùn đất, Chúa Giêsu đã sống lại khải hoàn đem lại ơn cứu độ cho muôn người và cho họ được hưởng phúc trường sinh.

Quy luật sinh tồn là thế: chỉ khi cho đi, mới là lúc được nhận lại dồi dào; chính khi hiến mình là lúc nhận lại bản thân. Vì thế, khi sắp chịu huỷ mình trên thập giá và chịu mai táng trong mộ, Chúa Giêsu gọi đó là giờ Người được tôn vinh: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!" (Ga 12, 23).
Thế là nghịch lý trên đây giờ đã được sáng tỏ và trở thành chân lý soi dẫn cho cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con sẵn sàng hiến thân để phụng sự Chúa và nhân loại, như hạt lúa bị chôn vùi cho nhiều hạt khác được phát sinh, để trở thành "biển sống Galilê" và không bao giờ là "biển chết".

Suy Niệm 5: Sống đẹp giữa đời

(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Người xưa thường đề cao lối sống của người quân tử. Người quân tử thấy chuyện bất bình thường ra tay cứu giúp. Người quân tử luôn sống hào hiệp, sống vì đại nghĩa nên hy sinh bản thân. Thế nhưng, con người ngày nay lại an phận thủ thường. Người ta ngại hy sinh cho người khác. Người ta sợ "mang hoạ vào thân". Người ta tìm an nhàn cho bản thân nên chẳng dại gì "ăn cơm nhà đi vác tù và hàng tổng". Xem ra lối sống của người quân tử thấy chuyện bất bình ra tay giúp đỡ chỉ còn trên trang giấy học trò. Lối sống ấy đã mất dần trong thời đại hôm nay.
Người ta kể rằng: Ở bên Trung Quốc, có một chiếc xe bus chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba thằng du côn có vũ khí để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Chúng bắt cô dừng xe và muốn "vui vẻ" với cô. Tất nhiên là cô tài xế kêu cứu, nhưng tất cả hành khách trên xe chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Lúc ấy một người đàn ông trung niên nom yếu ớt tiến lên yêu cầu ba tên du côn dừng tay, nhưng ông đã bị chúng đánh đập. Ông rất giận dữ và lớn tiếng kêu gọi các hành khách khác ngăn hành động man rợ kia lại nhưng chẳng ai hưởng ứng. Và cô lái xe bị ba tên côn đồ lôi vào bụi rậm bên đường.
Một giờ sau, ba tên du côn và cô tài xế tơi tả trở về xe để tiếp tục lên đường...
"Này ông kia, ông xuống xe đi!" cô tài xế la lên với người đàn ông vừa tìm cách giúp mình.
Người đàn ông sững sờ, nói:
"Cô làm sao thế? Tôi mới vừa tìm cách cứu cô, tôi làm thế là sai à?"
Cô gái nhăn mặt nói: "Nếu ông không xuống, xe sẽ không chạy."
Điều bất ngờ là hành khách, vốn lờ lảng hành động man rợ mới đây của bọn du côn, bỗng nhao nhao đồng lòng yêu cầu người đàn ông xuống xe. Thậm chí một vài hành khách khỏe hơn đã lôi người đàn ông xuống xe.
Chiếc xe bus lại khởi tiếp hành trình. Cô lái xe vuốt lại tóc tai và vặn radio lên hết cỡ. Xe lên đến đỉnh đồi và ngoặt một cái chuẩn bị xuống đồi. Phía tay phải xe là một vực thẳm sâu hun hút.
Tốc độ của xe bus tăng dần. Gương mặt cô lái xe bình thản, hai bàn tay giữ chặt vô lăng. Nước mắt trào ra trong hai mắt cô.
Một tên du côn nhận thấy có gì không ổn, hắn nói với cô tài xế:
"Chạy chậm thôi, cô định làm gì thế hả?"
Cô tài xế không nói tiếng nào nhưng xe chạy ngày càng nhanh hơn. Tên du côn tìm cách giằng lấy vô lăng, nhưng chiếc xe bus lao ra ngoài, rơi xuống vực như mũi tên bật khỏi cây cung.
Hôm sau, báo địa phương loan tin một tai nạn bi thảm xảy ra ở vùng "Phục Hổ Sơn". Một chiếc xe cỡ trung rơi xuống vực, tài xế và 13 hành khách đều thiệt mạng.
Trong thành phố, có một người đàn ông đọc bản tin trên báo đã khóc!
Quả thực, con người ngày xưa khi thấy chuyện bất bình, người ta thường lăn xả để hoà giải cho nhau, nhưng xem ra hôm nay, ít ai dám can thiệp vào chuyện người khác. Ít ai dám xông pha để bảo vệ kẻ yếu đang bị ức hiếp. Người ta ngại dấn thân vào chuyện của người khác. Xem ra con người ngày nay thường có xu hướng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình nhiều hơn là cho đồng loại. Con người ngày nay thích an nhàn nên ngại hy sinh".

Thế mà, hôm nay Chúa Giêsu lại bảo: "kẻ nào giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai chịu chịu từ bỏ cuối cùng sẽ được lại". Đó là chân lý, là định luật tất yếu của cuộc đời. Nếu thế giới này không có những con người dám quên đi bản thân thì làm sao có những phát minh khoa học, làm sao có những kỳ quan để lại cho đời sau? Có lẽ thế giới hôm nay sẽ thiệt hại biết bao, nếu không có những người dám quên đi sự an nhàn cá nhân, sự yên vui vị kỷ, những lợi lộc cá nhân để sống vỉ lợi ích tha nhân! Thế giới này đang mắc nợ những con người đã tận tuỵ làm việc quên mình để xây dựng thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Thế giới hôm nay rất cần những con người quân tử để cuộc đời được phong phú và yên vui hơn.
Chính Chúa Giêsu, Ngài đã sống điều đó. Ngài đã đi qua đau khổ để tiến tới vinh quang. Ngài đã trở nên bất diệt khi Ngài trở thành hạt lúa chịu nghiền nát để trổ sinh muôn vàn bông lúa. Ngài đã trở nên vĩ đại khi Ngài dám chết vì bạn hữu. Thực vậy, người vĩ đại trong cuộc đời chúng ta không phải là những người nổi tiếng, không phải là các ngôi sao điện ảnh hay ca nhạc mà là chính những người đang hy sinh vì chúng ta. Họ là những người cha "chân lấm tay bùn" đang đổ mồ hôi nơi nương đồng, đang miệt mài nơi công trường. Họ là những người mẹ đang lặn lội ngược xuôi nơi bến chợ, đang hao gầy vì đàn con. Họ là những người anh, người chị đang bôn ba đó đây để bòn nhặt từng đồng tiền để phụ giúp gia đình. Đó là những con người cao cả, là những hạt lúa miến đang chịu nghiền nát vì tha nhân để trở thành tấm bánh cho anh em. Đó là những con người dám quên đi niềm vui riêng của bản thân để lo cái lo của đồng loại, để sống có ích cho tha nhân.
Nhưng thật đáng tiếc! Ý niệm phục vụ tha nhân. Ý niệm sống vì người khác đang mất dần trong thế giới hôm nay. Người ta đang lo cho bản thân. Người ta đang chạy theo danh lợi thú để thoả mãn nhu cầu của chính mình. Có mấy ai dám quên mình để sống cho thân nhân? Có mấy ai chịu nghiền nát đời mình để đem lại niềm vui cho tha nhân?
Thiết tưởng, mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống cao đẹp hơn. Hãy hy sinh niềm vui của mình, những đam mê sở thích của mình để đem lại niềm vui cho những người chúng ta yêu mến. Thiết tưởng mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống đúng với phẩm giá làm người của mình là biết sống vì hạnh phúc tha nhân. Chúa đã tạo dựng Eva vì niềm vui của Adam. Chúa cũng tạo dựng chúng ta vì niềm vui của thân nhân. Xin Chúa là Đấng đã chết cho người mình yêu, giúp chúng ta biết quảng đại hy sinh để kiến tạo niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Amen.

Suy Niệm 6: Bây giờ tâm hồn Ta xao xuyến

(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Đức Giêsu là một người hoàn toàn như tất cả mọi người. Trong cuộc sống trần thế, Ngài cũng sợ hãi, bồi hồi xao xuyến, khóc lóc cầu xin Thiên Chúa giải phóng Ngài khỏi chết. Tuy nhiên, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa; nơi Ngài, con người nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng.
I. Tâm hồn Ta bồi hồi xao xuyến
Đức Giêsu biết những gì đang chờ đợi Ngài. Cái chết đang đến gần khi Ngài quyết định lên Yêrusalem dự lễ Vượt Qua. Là người Do Thái, theo luật phải lên Yêrusalem dự lễ Vượt Qua; nhưng nếu lên, chắc sẽ chết vì những người lãnh đạo tôn giáo đang ghét, nên sẽ giết Ngài. Đức Giêsu phải chọn lựa. Các tông đồ cũng ý thức điều này. Theo các ông thì không nên lên Yêrusalem dịp này: “Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?” (Ga. 11,8). Nhưng nếu Thầy quyết định đi, thì các tông đồ cư xử làm sao? Thomas khuyến khích các bạn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga. 11,16). Có những người trong chúng ta có kinh nghiệm chọn lựa trong những tình huống tương tự, và đã chọn điều phải chọn cho dù nguy hiểm đến cả tính mạng.
Một vài người Hylạp gốc Do Thái về dự lễ muốn gặp Đức Giêsu. Họ cậy nhờ Philíp để được gặp Đức Giêsu. Philíp đã nói với Anrê; và cả hai đã đến nói với Đức Giêsu. Trong hoàn cảnh bình thường, có lẽ cứ dẫn họ đến gặp Đức Giêsu, tuy nhiên trong hoàn cảnh này, hai môn đệ ý thức cần phải hỏi ý kiến Đức Giêsu, vì có thể có những hậu quả xấu không lường được. “Giờ đã đến”. Giờ mà làm Đức Giêsu lo sợ, bối rối xao xuyến. Đồng ý cho họ gặp, là dường như “chọn chấp nhận cái chết”. Có nên xuất hiện như Đấng người ta chờ đợi không? Có nên cho họ gặp không? Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết. Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt” (Ga. 12, 24). Ngài chọn điều sinh lợi cho nhiều người, cho dù phải chết.

Ông già Aleazar không muốn giả bộ ăn thịt heo để khỏi chết, vì nếu sống mà làm gương xấu thì sống làm gì (2Mac. 6, 18-31)? Yoan Tẩy Giả phản đối Hêrôđê khi ông lấy vợ của anh; dĩ nhiên khi phản đối những người có quyền hành như vậy, ông biết điều gì có thể xảy tới cho mình; tuy vậy, ông đã phản đối Hêrôđê. Yoan Tẩy Giả đã chọn nói điều phải nói, cho dù phải chết. Hôm nay Đức Giêsu cũng đã chọn lựa điều tương tự. Đứng trước chọn lựa này, Đức Giêsu bồi hồi xao xuyến như bao người khác.
II. Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc
Đức Giêsu là người như mọi người. Ngài đã làm nghề để kiếm sống, nuôi mình và nuôi mẹ. Ngài cũng bị cái đói hành hạ như bất cứ ai bị đói (Mt. 21, 18). Ngài bị đói khủng khiếp đến độ muốn biến đá thành bánh. Chỉ khi bị đói cùng cực, người ta mới bị cám dỗ mơ tưởng như vậy. Đức Giêsu cũng bị cám dỗ “nổi tiếng”, vì vậy cám dỗ nhẩy từ trên đỉnh đền thờ đã đến trong đầu Đức Giêsu. Đức Giêsu cũng bị cám dỗ có quyền hành để bắt mọi sự phải theo ý mình. Chỉ satan mới có cách hành xử không tôn trọng tự do của con người; còn Thiên Chúa, Ngài luôn tôn trọng tự do của con người, ngay cả khi con người dùng tự do để chống đối Ngài.

Đức Giêsu đã phải chọn lựa liên lỉ trong cuộc sống. Ngài đã chống lại cám dỗ, trong hoang địa (Mt. 4, 1-11) và trong cuộc sống thường ngày, cả qua những người theo Ngài (Mt.16, 22-23; Ga.11, 8). Ngài cũng sợ toát mồ hôi, và sợ đến độ toát mồ hôi máu: “Ngài lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc. 22,44). Thư gởi tín hữu Do Thái nói Đức Giêsu không chỉ sợ toát mồ hôi máu, mà còn khóc lóc rơi lệ cầu xin Thiên Chúa cứu Ngài khỏi chết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết” (Dt. 5,7).
Đức Giêsu thật sự là người như mỗi người chúng ta. Không có cám dỗ nào con người bị mà Ngài không bị. Không có ai bị cám dỗ mãnh liệt như Ngài. Ngài cũng học vâng phục, và chấp nhận vâng phục ngay cả phải chết. Ngài bị cám dỗ cả về đức tin: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc. 15,34). Khi bị cám dỗ về đức tin, Ngài đã phó thác cho Thiên Chúa tương lai và vận mạng của Ngài. Đức Giêsu gần và giống mỗi người hơn người ta tưởng.

III. Ta viết luật của Ta trong tim chúng

Thiên Chúa đã ký giao ước với con người, để bảo vệ con người. Qua dấu chỉ cầu vồng, Thiên Chúa giao ước với Noe và tất cả tạo vật, để không bao giờ dùng lụt hồng thủy tiêu diệt con người nữa; qua thập giới tại núi Sinai, Thiên Chúa giao ước với dân Do Thái, để làm dân Do Thái thành dân tư tế, thành dân riêng của Thiên Chúa. Thiên Chúa loan báo qua tiên tri Giêrêmia, Ngài sẽ ký kết với dân một giao ước mới, và Ngài sẽ khắc ghi luật Ngài trong tim con người, để không ai phải dạy ai về Thiên Chúa nữa. Đức Giêsu chính là giao ước mới: “Rồi cùng một thể thức ấy, Ngài cầm lấy chén đầy rượu, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: tất cả các con cầm lấy mà uống, này là chén máu Thầy, máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”.
Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa giao ước ở với và yêu thương con người mãi mãi. Đức Giêsu vừa là dấu chỉ giao ước, vừa là diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, vừa là bảo đảm Thánh Thần hiện diện nơi con người. “Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao” (1Cor.3, 16)? Thánh Thần Tình Yêu đang ngự trong tâm hồn, trong tim mỗi người.
Nhờ Đức Giêsu và Thánh Thần, con người nhận ra Thiên Chúa là tình yêu. Con người được gọi để sống yêu thương. Chính khi yêu thương, con người trở nên giống Thiên Chúa, và được chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, cho dù người đó ở bất cứ đâu. Chính khi yêu thương, con người gặp gỡ Thiên Chúa, và cảm nghiệm hạnh phúc. Đây là điều có vẻ mâu thuẫn, nhưng đó là sự thật, và được biểu lộ qua cái chết của các anh hùng tử đạo và cái chết của Đức Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, Đức Giêsu giống bạn ở điểm nào, và khác bạn ở điểm nào?
2. Bạn có cảm nghiệm Thiên Chúa ở với bạn không? Nếu được xin chia sẻ.

Suy Niệm 7: Thuốc bất tử

(Lm. Trịnh Ngọc Danh)

Thời Chiến quốc, có một người đem dâng cho vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, đi ngang qua một viên quan canh cửa. Viên quan này hỏi:
- Vị thuốc này có ăn được không?
Người kia đáp:
- Ăn được.
Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn. Chuyện đến tai vua. Vua truyền bắt viên quan đem giết.
Viên quan kêu:
- Thần đã hỏi người đem dâng thuốc là có ăn được không. Người ấy bảo: “ăn được”, nên thần mới dám ăn. Như thế là thần vô tội mà lỗi là ở người dâng thuốc. Hơn nữa, người đem dâng thuốc nói là thuốc “ bất tử”, nghĩa là thuốc ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới vừa ăn xong, lại sắp phải chết; vậy là thuốc “tử” chứ đâu phải thuốc “bất tử”? Nhà vua giết thần, thực là oan uổng cho một người vô tội; điều đó có nghĩa là thiên hạ dối lừa nhà vua mà nhà vua vẫn tin.
Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha chết cho viên quan.
Một khát vọng
Chẳng ai muốn chết, và ai cũng muốn sống lâu, sống trường thọ; nhưng oái ăm thay! chết lại là số kiếp của con người, ai cũng phải một lần đi qua kết cuộc ấy.
Sống được trên trăm tuổi đã là tuổi hiếm thấy trên thế gian; vì thế người ta mới ghi vào sổ kỷ lục những ai sống trên trăm tuổi: cụ già sống được 110 tuổi một tháng, đạt kỷ lục trường thọ hơn cụ già sống 110 tuổi 20 ngày! Càng về cuối đời, người ta không tính sống được bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng nhưng tính hơn nhau từng ngày. Sống lâu trường thọ đến thế là một điều khâm phục, một niềm tự hào. Thọ là một trong ba nguyện ước con người thường cầu chúc cho nhau: Phúc- Lộc- Thọ.
Những mỹ phẩm mà người ta rao bán: làm trẻ mãi không già, thực ra chỉ có thể che lấp đi được những nếp nhăn nheo cằn cỗi trên thân xác, nhưng không thể níu kéo hay xoá đi tuổi già của thời gian. Và giả như ai đó phát minh ra được một thứ thuốc kéo dài tuổi thọ đến 100 hay 200 năm, chắc chắn người ấy sẽ trở thành nhà tỷ tỷ phú, và nếu chế được một thứ thuốc trường sinh bất tử thì chắc người ấy sẽ là người giàu nhất thế giới.
Thế mới biết: làm sao cho được “trẻ mãi không già”, được “sống lâu, bất tử” là khát vọng, nhưng đồng thời cũng là tuyệt vọng của con người.
Muốn sống, phải chết
Người đời bảo: chết là hết; thế mà có một người dám quả quyết: muốn sống, phải chết đi để được sống mà không phải sống trường thọ 2,3 trăm năm mà sống bất tử, sống đời đời: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”. Người ấy là Chúa Giêsu.

Nhưng chết bằng cách nào? Là tự tử? Là hủy hại thân thể? Không. Chết là “thối đi”, là “ghét sự sống ở đời này”; đó là cái chết cho những tiêu cực nơi tâm hồn.
Như thế, chết là hãm mình trước những cám dỗ của dục vọng, của ý riêng, là vượt thắng 7 mối tội đầu, là hy sinh vì 10 điều răn Chúa dạy, là từ bỏ những gì không thuộc ý muốn của Thiên Chúa; vì “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái nghịch với Thần Khí; còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái nghịch với xác thịt… Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ; đó là dâm bôn, ô uế, phóng đảng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những việc khác giống như vậy… Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ”. ( Gl 5, 17.19-20.22-23)
Chết là canh tân đổi mới, là cải thiện tâm hồn, là thay đổi não trạng, thay đổi cách suy nghĩ sao cho hợp với thánh ý của Thiên Chúa: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng các đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” ( Rm. 12,2)
Chết là chấp nhận hy sinh, chịu “thối đi” nơi con người thể xác để cho hạt giống đức tin và Tin Mừng có điều kiện nẩy sinh và mang lại nhiều hoa trái cho người và cho đời.
Người không chịu “thối đi”, không dám “ghét sự sống của mình ờ đời này”, là người gạt bỏ sự siêu nhiên ra khỏi cuộc đời của người Kitô hữu, không còn tìm thánh ý Chúa, không còn hành động cho sáng danh Chúa; là cho rằng hy sinh, khiêm nhường, nhịn nhục là dại dột, chỉ vâng phục khi nào mình thấy hợp lý, có lợi cho bản thân.

Người không chịu “thối đi”, không dám “ghét sự sống của mình ở đời này” là người chỉ xem hạnh phúc trần thế là cứu cánh của cuộc sống; là người vẫn dự lễ, đọc kinh tối sáng, vẫn làm những công việc bác ái, nhưng cuộc sống của họ lại xa lạ với Tin Mừng. Trọng tâm của cuộc đời của họ là quyền hành, lạc thú, tiền của. Bạn hữu của họ là những người giàu sang quyền thế, ngay cả những kẻ bóc lột, tham nhũng… Họ không nghĩ đến đời sau, bình thản như thể họ sẽ sống muôn đời trên cõi đời này và thiên đàng đối với họ là trần gian.
Đó là những hạt giống không chịu “thối đi”, không chịu mục nát, những hạt giống “sống trơ trọi một mình”, nên không “sinh nhiều bông trái” cho đời, cho người, không manh ích lợi gì cho ai và như thế, cuộc sống của họ “sẽ mất”.
Thuốc bất tử
Phương thuốc bất tử mà Chúa Giêsu muốn mang đến cho con người là: sám hối và tin vào Tin Mừng (Mc 1,15).
Trước tiên, phải sám hối, chịu “thối đi”, chịu “mất mạng sống mình” mới chỉ là những thứ chúng ta phải kiêng khem, phải hy sinh, phải hãm mình như người mắc bệnh tiểu đường phải kiêng ăn ngọt, người cao máu phải kiêng ăn mặn.
Kế tiếp, là tin vào Tin Mừng như lời Chúa đã phán: “Ai nghe lời Ta và tin Đấng đã sai Ta, thì được từ cõi chết mà qua cõi sống”. (Ga. 5,24); hay “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời”. (Ga. 6,55)
Tóm lại, bài thuốc bất tử mà Chúa muốn ban cho chúng ta là Thập gía. Chúa Giêsu đã chấp nhận chết đi để trở thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại được nhìn lên Ngài và được sống.
Hạt lúa phải chịu nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc tư nạn đau thương để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ, đồng thời trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.
Thập giá đã trở thành ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự sống. Ngài chết để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống đời đời cho chúng ta.
Cách thức để đi đến chiến thắng vinh quang lại là cách thức đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian.
Đáp lời kêu gọi của Thầy Chí Thánh: “Hãy đến mà xem”, “Hãy theo Ta”, chúng ta đã “đến mà xem”, đã “theo Thầy”, nhưng còn một điều kiện nữa để được sống bất tử là “vác thánh gía mình mà theo Thầy”, không biết chúng ta đã thực hiện điều kiện ấy chưa! đã chịu “thối đi” , đã “ghét mạng sống mình” được bao nhiêu!

Suy Niệm 8: Hạt giống nảy mầm.

Vào một đêm giông bão có một người đàn ông đứng tuổi cùng bà vợ ghé vô một khách sạn nhỏ và hỏi viên thư ký: Xin anh làm ơn cho chúng tôi một phòng. Viên thư ký trả lời: Thưa ông, tất cả mọi phòng đều có người thuê, nhưng tôi không nỡ để ông bà phải ra đi vào lúc một giờ sáng như thế này. Người chồng hỏi lại: Anh nói chi? Ông bà có thể ngủ tại phòng tôi. Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu? Tôi sẽ tìm được, xin đừng lo lắng cho tôi. Sáng hôm sau, ông khách trả tiền phòng và nói với viên thư ký: Anh là một người quản lý có tài, khả dĩ có thể làm chủ một khách sạn lớn. Rất có thể một ngày nào đó, tôi sẽ xây cho anh một cái.
Hai năm sau, viên thứ ký nhận được một bức thư, kèm theo vé máy bay khứ hồi đi Nữu Ước và tấm danh thiếp của người khách trong đêm giông bão. Người khách dẫn viên thư ký tới một đại lộ, chỉ vào một ngôi nhà cao tầng và nói: Đây là khách sạn tôi đã xây để cho anh quản lý. Không nói nên lời, người thanh niên rất đỗi ngạc nhiên, ấp úng cám ơn. Mạnh thường quân của anh là Astoria, chủ nhân của một mạng lưới khách sạn tại Mỹ. Và khách sạn ông dành cho anh ta là một khách sạn tiện nghi nhất thời bấy giờ.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào Lời Chúa phán với chúng ta qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Hạt lúa rơi xuống đất, có mục nát, thì mới sinh nhiều hoa trái. Anh chàng thư ký đã chôn vùi những tiện nghi của mình, bằng cách nhường lại căn phòng ấm cúng cho hai vợ chồng người khách lạ. Và sự hy sinh ấy đã đem lại phần thưởng cho anh. Anh được quản lý một khách sạn sang trọng và nổi tiếng trên thế giới.
Hạt giống phải chết đi, phải mục nát trước khi nẩy mầm, đâm bông và kết trái. Điều đó cũng đúng cho bình diện thiêng liêng. Bởi vì, chúng ta, những người tin theo Chúa đều biết rằng mọi cố gắng, mọi hy sinh, mọi gian khổ của chúng ta rồi sẽ sinh hoa kết trái, nhất là khi những cố gắng, những hy sinh và gian khổ ấy được thi hành vì lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương đối với anh em đồng loại. Chính Chúa Giêsu cũng đã chấp nhận những hy sinh gian khổ vì chúng ta, bằng cách chịu chết trên thập giá, để rồi từ đó Ngài đã có được hoa trái của sự phục sinh vinh quang.
Mùa chay sắp kết thúc, những cũng chưa quá muộn để chúng ta chôn vùi bản thân, từ bỏ chính mình vì Đức Kitô và vì anh em, bởi vì có cùng chết với Đức Kitô, thì rồi chúng ta mới sẽ được sống lại trong vinh quang với Ngài.

Suy Niệm 9: Hạt lúa mục nát

(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng với đời sống cây cỏ.Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.

Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.

Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người. Những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được” vĩnh cửu.
Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.

“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả.
2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây có?
3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?
4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào?

Suy Niệm 10: Hạt lúa trơ trọi

(‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)

"Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất, mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt"
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên khi nghe câu trên.
Đó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ, nhưng lắm khi tôi thấy khó áp dụng cho mình.
Tại sao tôi phải chết để người khác được sống? Chết để sinh nhiều bông hạt ư? Nhưng nhiều bông hạt có ích gì, khi chính tôi bị tan vỡ? Chính vì thế tôi không muốn chết như hạt lúa.
Tôi chấp nhận trơ trọi một mình. Tôi cô đơn với tôi, để được yên ổn. Tôi sợ mất mát, vì mất mát đem lại đớn đau, nên tôi tìm đủ cách để giữ lại những gì tôi có, những gì tôi là.
Tiếc thay, lúc giữ được tất cả tôi lại thấy mình mất tất cả, vì mất ý nghĩa của cuộc sống. Tôi như con thú chỉ biết chăm lo cho bộ lông của mình.
Dần dần qua những kinh nghiệm đau thương, tôi mới nhận ra rằng: chỉ có một cách giữ chặt, đó là buông ra và trao hiến. Tôi bắt đầu được khi chấp nhận mất.
Sự sống đời đời đã bắt đầu, hạnh phúc đã hé nụ ngay lúc này, ngay ở đây, cho tôi.
Như con ốc sên, chỉ bò được khi chui ra khỏi vỏ, tôi chỉ giàu có và triển nở mọi mặt khi quảng đại ra khỏi lớp vỏ của mình, ra khỏi những bận tâm, tính toán, xây đắp cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Lời kinh Hòa Bình lại vang vọng trong tôi: "Vì chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân..."
Nhưng hiến thân, quên mình, hy sinh, từ bỏ, đón lấy cái chết như hạt lúa vùi sâu, những điều đó đã làm chính Đức Giêsu dao động.
"Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này chăng? Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến." (c. 27)
Đã có những giây phút giằng co, ngần ngại, đã có những cuộc chiến Vườn Dầu ở trong tôi. Nếu tôi kiên trì tỉnh thức và cầu nguyện, tôi sẽ thắng được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát. Sau nhiều lần dám liều mất tất cả để rồi ngỡ ngàng thấy mình được lại quá nhiều, tôi sẽ dễ dàng chọn cái mất trước mắt như con đường dẫn đến cái được vĩnh hằng.
Xin Đức Giêsu bị đóng đinh kéo tôi lên với Ngài, kéo tôi lên khỏi đất, kéo tôi ra khỏi tôi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào là khó hơn cả?
Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại được. Bạn có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng chúng con ít khi nghĩ đến những hại giống đã âm thầm chịu nát tan để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người, chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen.

Suy Niệm 11: Quy luật sự sống.

(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Cái chết của ông Y Rabin, Thủ Tướng Israel ngày 3/11/1995 đã làm cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích giết ông, vì họ không chấp nhận công trình hòa bình ông đang kiến tạo với Palestine và các nước vùng Trung Đông. Cái chết của ông Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của Mahatma Gandhi 50 năm trước đây: một người thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị Cha già của dân tộc Ấn, vì anh không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy tha thứ cho người Hồi Giáo. Người ta cũng không thể quên cái chết của Mục sư Martin Luther King năm 1968, vì đã tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo động. Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Liệu người ta có thể xếp cái chết của Chúa Giêsu vào hạng những cái chết vì hòa bình không? Đâu là lý do khiến Chúa Giêsu phải chết, một cái chết cũng mang tính cách mạng như chính cuộc sống và sự điệp của Ngài?
Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá giữa hai tên trộm cướp. Thời Đế quốc Rôma cai trị Palestine có biết bao người đã chết như thế, nhưng cái chết của Chúa Giêsu có lý do sâu xa hơn bất cứ một cái chết nào. Chúa Giêsu đã có thể lẩn tránh được một cái chết như thế: Ngài đã làm cho kẻ chết sống lại được, thì việc thoát tay kẻ thù đối với Ngài không phải là chuyện khó. Ngài cũng có thể tránh được một cái chết như thế bằng cách thay đổi thái độ đối với những kẻ đang tìm cách hãm hại Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã không hành động như thế. Các sách Tin Mừng thuật lại rằng Ngài đã tự nộp mình cho kẻ thù. Ngài chết để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết. Một cuộc giải phóng vượt lên trên và bao trùm mọi thứ giải phóng khác. Từ nay, với cái chết của Chúa Giêsu, sự chết không còn là một thực tại đáng sợ nữa, nhưng nó là cửa ngõ dẫn vào cuộc sống vĩnh cửu.

Thánh Gioan hôm nay đã dùng hình ảnh quen thuộc để diễn tả ý nghĩa đích thực của cái chết của Chúa Giêsu: hình ảnh của một hạt giống bị mục thối đi trong lòng đất để dẫn đến một mùa gặt phong phú. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác”. Cũng vậy, những đau thương Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ không kết thúc ở một cái chết cằn cỗi mà sẽ dẫn đến sự phì nhiêu sung mãn của sự sống lại, một sự sống có khả năng tập họp mọi dân nước trong Nước Trời.
Tuy nhiên, là Thiên Chúa nhưng cũng là con người và như mọi con người, Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua những giờ phút xao xuyến trong tâm hồn khi phải đương đầu với kẻ thù và cái chết nhuốc hổ trên thập giá: “Bây giờ tâm hồn Con xao xuyến, Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này…” Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ xin Cha Ngài giải thoát Ngài khỏi “Giờ” đen tối hay khỏi “uống chén đắng” này. Trong bài đọc 2, chúng ta còn được Thánh Phaolô cho thấy tâm trạng của Chúa Giêsu khi đứng trước “Giờ” của thập giá: “Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Ngài khỏi chết…” Cuối cùng, Chúa Giêsu đã không xin Cha cứu Ngài khỏi chết mà xin cho Danh của Cha được tôn vình. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn cầu xin Thiên Chúa hãy tỏ ra Ngài là một người Cha, bằng cách hoàn tất công trình yêu thương của Ngài đối với con người, ngang qua cái chết và sống lại của Con của Ngài. Qua lời cầu xin này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã gián tiếp đón nhận “Giờ” của sự phục vụ cho tới hơi thở cuối cùng trên thập giá, nhưng đồng thời cũng là “Giờ” Con Người bước vào vinh quang. Có điều “vinh quang” ở đây không theo ý nghĩa thường tình của chúng ta. Vinh quang ở đây đòi phải trải qua khổ nhục. Vinh quang của hạt lúa đã trổ bông, nặng trĩu và chín vàng, nhưng là sau khi bị chôn vùi dưới bùn rồi nứt nẻ, bứt phá khỏi hình thức hẹp hòi của vỏ trấu, để giờ này mới trở thành nguồn sống, và lại sẵn sàng nẩy mầm, phát triển, tăng gấp mãi.
Thánh Gioan đã diễn tả chân lý này như một quy luật tất yếu cho sự sống phát sinh và đạt tới ý nghĩa cuối cùng: Hạt lúa và bất cứ thứ hạt giống thực vật nào, đều mang ý nghĩa và sứ mạng truyền sinh, tăng gấp nguồn sống ẩn chứa trong bản thân. Thế nhưng, muốn thể hiện ý nghĩa và sứ mạng này, nó phải qua tiến trình biến dạng hoàn toàn, phải chết đi. Chúa Giêsu đã chấp nhận quy luật này, và vẫn đang “lôi kéo mọi người theo Ngài”.

Thưa anh chị em,
Là quy luật, là chân lý Chúa Kitô mạc khải, làm sao con người chúng ta có thể tránh né? Mặc dầu biết rõ mình phải nứt nẻ, bứt phá, lột xác, phải chết đi, mới góp phần làm phát sinh sự sống. Thế nhưng chúng ta vẫn thường coi trọng và bảo vệ cái cũ, những gì là quen thuộc, dễ dãi, dễ chịu hơn là đổi mới. Sống giữa một xã hội đang chủ trương đổi mới, thế mà chỉ mới đặt lại vấn đề đổi mới một số tư tưởng, cách làm ăn, tổ chức đời sống xã hội… cũng đủ làm chúng ta e ngại, lo âu. Nói chi đến thay đổi cả nếp sống trước đây vẫn được tôn trọng. Định luật của sự sống là đổi mới. “Hat lúa phải mục nát đi trong lòng đất mới nảy sinh nhiều bông hạt”. Chúa Giêsu đã nói đến cái chết của Ngài như một điều kiện cần thiết để đem lại sự sống mới cho mọi người. Ngài phải chết đi để các Kitô hữu được sống, để muôn dân trở thành tín hữu và tất cả đều được cứu chuộc.

Còn chúng ta, được mời gọi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng đừng quên định luật căn bản của sự sống, đó là: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời” (Ga 12,25). Đi theo Chúa Giêsu đòi hỏi người môn đệ của Ngài phải chia sẻ cuộc sống và cả cái chết của Ngài. Bài học của thập giá đó là đã có những cái chết không uổng công mà trái lại còn nảy sinh nhiều hoa trái, đó là cái chết vì tình thương, vì hạnh phúc, vì sự cứu độ của kẻ khác, vì sự giải phóng con người đồng loại, vì những cái gì còn đáng quý hơn cả chính mạng sống của mình, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin…
Ở đây, Chúa Giêsu đặt chúng ta trước một thang giá trị. Chính khi con người biết vượt ra khỏi cái vỏ ích kỷ để sống một cuộc sống quảng đại, vì người khác, dù có phải vì thế mà hy sinh cả mạng sống của mình, con người đã thực sự bước vào cuộc sống mới. Điều Chúa đòi hỏi nơi những kẻ muốn đi theo Ngài thì Ngài thực hiện nơi chính bản thân Ngài.
Anh chị em thân mến,
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta. “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài. Nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (x. Tin Mừng 2,8-12). Ai ham sống, sợ chết, sẽ đánh mất tất cả. Người dám theo Chúa Giêsu mà đánh đổi cuộc sống hiện tại, sẽ được cuộc sống muôn đời.

Suy Niệm 12: Giờ phút cao quí

Stephen Roche là một trong những tay đua xe đạp vĩ đại nhất của Ailen. Giây phút tuyệt vời nhất của anh là trong ngày anh chiến thắng giải đua vòng quanh nước Pháp vào năm 1980. Tuy nhiên, khi suy nghĩ về giây phút tuyệt vời nhất của một người, chúng ta nghĩ gì về giây phút đó trong những điều kiện rất phổ biến. Chúng ta nhận thấy đó là giây phút chiến thắng và vinh quang. Và chúng ta có khuynh hướng nói về điều đó một cách khá thoải mái. Chúng ta chỉ tập trung vào giây phút vinh quang, mà quên đi nhiều giây phút khác đưa đến giây phút vinh quang này, đó là những giây phút của mồ hôi, máu và nước mắt. Vinh quang không thể tách rời khỏi lao nhọc. Vậy thì lao nhọc là một phần của vinh quang.
Đức Giêsu cũng nói về “Giờ của Người”. Người nói về giờ này đến mấy lần, trong suốt sứ vụ công khai của Người. Nhưng Người luôn luôn nói như thể giờ đó chưa xảy đến. Tuy nhiên, trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Người lại nói rằng cuối cùng, giờ đó sắp diễn ra. Ý Người muốn đề cập đến loại giờ gì vậy? Đó là giờ chết của Người. Đó là giờ mà Người tự trao ban chính bản thân Người, như một sự hy sinh trọn vẹn thân mình Người vì chúng ta. Theo quan điểm trần thế, thì đó là một giờ phút của thất bại. Tệ hại hơn, người ta còn coi như đó là giây phút của ô nhục và đáng khinh miệt. Nhưng bằng cách cho Người sống lại từ cõi chết, Thiên Chúa đã biến chuyển thành giây phút của chiến thắng đối với Đức Giêsu, và một giây phút của ân sủng đối với chúng ta. Đây là giây phút cao quí nhất của Đức Giêsu. Đây là giây phút mà tất cả những gì Người đã thực hiện trên trần thế đều được hoàn tất. Tất cả cuộc đời của Người đều đưa dẫn và chuẩn bị cho Người đến với giây phút này.

Thời điểm xuống thấp nhất lại chứng tỏ rằng đó là một thời điểm biến chuyển. Đây là một nghịch lý lớn lao. Giây phút chết đi là giây phút xuống đến tận cùng, tối tăm nhất và đau đớn nhất trong cuộc sống của một hạt giống. Tuy nhiên, đây chính là giây phút sự sống mới được nảy sinh.
Đối với chúng ta, cũng tương tự như vậy. Những khi tinh thần của chúng ta xuống đến mức thấp nhất, vẫn có thể chứng tỏ rằng đó là những thời điểm biến chuyển. Những giây phút thành công vĩ đại sẽ sớm phai tàn, và thường để lại nỗi trống trải trong tâm hồn con người. Trái lại, những giây phút tối tăm, yếu đuối và thất bại lại có thể chứng tỏ rằng đó là những giây phút của sự thay đổi và phát triển lớn lao – chẳng hạn như một người nghiện rượu bị sa đọa đến tận cùng rồi, nhờ ơn Chúa đã được biến đổi cuộc đời.
Khi suy niệm về giây phút tuyệt vời nhất đối với Đức Giêsu, sẽ giúp chúng ta biết đánh giá cuộc sống của mình một cách khác hẳn. Nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta sẽ nhận thấy rằng những sự kiện dường như thất bại lớn, lại đều là những lúc hình thành nên cuộc sống mà chúng ta có hiện nay. Chúng ta không thể tách rời những điều đụng chạm đến chúng ta với những điều giúp ích cho chúng ta.

Để có thể tồn tại được trong lúc tinh thần bị sa sút, đòi hỏi chúng ta phải có nhiều lòng tin. Lòng tin bao hàm việc gieo trong nước mắt. Chúng ta sẽ không thể chịu đựng nổi, trừ phi có một niềm hy vọng âm thầm pha lẫn trong nỗi buồn của chúng ta: đó là niềm hy vọng rằng sau những năm tháng phấn đấu, mùa gặt sẽ đến. Vào một lúc nào đó, chúng ta không thể nhận thấy được điều này. Chúng ta chỉ có thể thấy được khi hồi tưởng lại mà thôi.
Van Gogh nói “Việc hội họa đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì ngay từ lúc đầu, người ta không thể biết được rằng công việc đó sẽ thành công. Trong những năm đầu phấn đấu đầy gian khổ, công việc này thậm chí còn có thể là một việc gieo trong nước mắt. Nhưng chúng tôi sẽ kềm chế những giọt nước mắt đó, bởi vì chúng tôi có một niềm hy vọng âm thầm về một mùa gặt trong một tương lai xa xôi”.
Không chỉ công việc hội họa mới đòi hỏi người ta phải có nhiều lòng tin; cuộc sống cũng đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì cuộc sống thường bao hàm việc gieo trong u sầu, trong cảnh tối tăm, và đôi khi, hầu như trong thất vọng nữa. Nhưng nếu biết gieo vãi điều thiện hảo, thì chúng ta sẽ được hưởng một mùa gặt, và được gặt hái trong niềm vui, một niềm vui khiến cho tất cả nỗi đau biến thành ngọt ngào, giúp chúng ta chịu đựng được trong suốt thời gian gieo vãi. Tác giả Thánh Vịnh nói “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126, 5-6).
Cuối cùng, điều tốt sẽ chiến thắng. Sự sống sẽ chiến thắng. Thiên Chúa có tiếng nói sau cùng.

Suy Niệm 13: Con đường hạt lúa

(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Con đường Chúa Giêsu đã đi qua là con đường hạt lúa: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Thật, Thầy bảo anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hoa trái" (Ga 12,23-24).
Hạt lúa được gieo trên ruộng đồng. Hạt lúa mục nát rồi mới nẩy mầm, đâm bông và kết hạt. Không mục nát, hạt lúa chỉ trơ trọi một mình. Sự mục nát làm trổ sinh sự sống mới, hứa hẹn mùa gặt tương lai.
Nhìn một cánh đồng lúa xanh tươi, uốn lượn theo gió, trải dài trong nắng, căng tròn sức sống, ta nghĩ đến muôn vàn hạt lúa đã mục nát để lên xanh đồng lúa bát ngát.
1. Con đường hạt lúa Giêsu.
Từ khi nhập thể, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa gieo vào lòng đất nhân loại. Thánh Phaolô trình bày mầu nhiệm tự huỷ: "Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế". Như hạt lúa bị mục nát: "Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự". Như hạt lúa nẩy mầm, lớn lên, đơm bông sinh hạt: "Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa" (Pl 2,6-11).

Phúc Âm Marcô viết: "Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại" (Mc 8,31). Chúa Giêsu nói, Người phải chịu nhiều đau khổ. Phải có nghĩa là bắt buộc. Những kẻ gây đau khổ cho Chúa là những người có địa vị trong tôn giáo và xã hội, những người được coi là thuộc loại trí thức, chức cao, quyền trọng, gây nhiều ảnh hưởng trong dân.
Con đường Chúa đi, quá nhục nhã ê chề nên các môn đệ không thể chấp nhận. "Phêrô liền kéo riêng Chúa Giêsu ra và bắt đầu can trách Người. Nhưng khi Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền mắng ông Phêrô: Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Chúa, mà là của loài người" (Mc 8,32-33). Chính bản thân Chúa sẽ như hạt lúa chịu nhiều đau thương tơi tả. Mục nát là chặng đường phải đi qua để có mùa gặt trù phú.
Con đường Chúa đi thật quá hãi hùng: "Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường đi Giêrusalem...Người lại kéo riêng nhóm mười hai ra và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy ra cho mình: Này, chúng ta lên Giêrusalem, và ở đó con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại" (Mc 10,32-34). Con đường mở mang Nước Trời sao quá khổ đau, bị nhạo báng, bị khạc nhổ, bị đánh đập. Hạt lúa Giêsu đã đi hết chặng đường đau khổ, mục nát trong cõi chết để đạt tới sự sống vinh quang.

2. Con đường hạt lúa các môn đệ.
Các môn đệ theo Chúa nên cùng đi trên con đường Chúa đã đi "Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta" (Mc 8,34). Thánh Phaolô kể về con đường đi của người môn đệ: "Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem. Không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin mừng và ân sủng của Thiên Chúa" (CV 20,22-24). Người môn đệ của Chúa coi vinh dự là "đựơc thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết" (Pl 3,10-11). Thánh Phaolô trở thành hạt lúa Tin mừng. Trải qua tiến trình đau khổ mục nát, thánh nhân đã đứng ở vị trí đầu sóng ngọn gió trên cánh đồng truyền giáo mênh mông.
Xuyên suốt dòng lịch sử Giáo hội, biết bao hạt lúa môn đệ đã chịu mục nát để Giáo hội lớn mạnh không ngừng "Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu". Từng thế hệ chứng nhân như những hạt giống tốt, chết đi trong lòng đất các nền văn hoá, và đã trổ sinh rất nhiều hạt lúa mới. Tất cả làm nên cánh đồng lúa thiêng liêng, mùa màng tươi tốt trong cuộc sống đạo và truyền giáo.
3. Con đường hạt lúa chúng ta hôm nay.
Con đường hạt lúa như Chúa Giêsu hay như thánh Phaolô và các tông đồ là những con đường kiễu mẫu cho chúng ta đi theo.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Muốn sống một cách trọn vẹn, trổ sinh hoa trái tốt lành, ta phải chết đi cho bản thân mình. Chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, giả dối hận thù ghen ghét. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những gì đưa đến sa ngã.
Định luật căn bản của sự sống là: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời" (Ga 12,25). Chết vì tình thương, vì hạnh phúc đồng loại, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin là những cái chết làm trổ sinh muôn ngàn nét đẹp cho đời.
4. Hạt lúa âm thầm và hạt lúa mục nát
Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Chúa Giêsu đã nên lời yêu thương con người mọi nơi và mọi thời. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Chúa trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Chúa Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: "Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này" (Ga.12,27).
Nếu "Hạt lúa âm thầm mọc lên" (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh của Tin mừng chan hoà trong một nền văn hoá, thì "Hạt lúa phải mục nát đi" (x. Ga 12,24) là con đường gian truân vất vả để làm nên một mùa gặt phong nhiêu.

Nguồn: Giáo Phận Long Xuyên